VI N H N L M KHOA HỌC XÃ HỘI VI T NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRỊNH HỮU TUẤN
TRẠNG NGỮ TRONG TIẾNG ANH ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI, 2020
VI N H N L M KHOA HỌC XÃ HỘI VI T NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRỊNH HỮU TUẤN
TRẠNG NGỮ TRONG TIẾNG ANH ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT
Ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu
Mã số: 9 22 20 24
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN VĂN HIỆP
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa
được công bố trong bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trịnh Hữu Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
THUYẾT CỦA LUẬN ÁN ............................................................................. 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................ 7
1.1.1. Sơ lược nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Anh ............................ 7
1.1.2. Sơ lược nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Việt.......................... 12
1.2. Cơ sở lí thuyết liên quan đến luận án ................................................... 16
1.2.1. Khái quát về trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt ................... 16
1.2.2. Khái quát về lí thuyết ba bình diện của câu .................................... 31
1.2.3. Khái quát về ngôn ngữ học so sánh đối chiếu (SSĐC) ................... 35
1.3. Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................... 38
Chƣơng 2: KẾT HỌC CỦA TRẠNG NGỮ TIẾNG ANH ĐỐI CHIẾU
VỚI TIẾNG VIỆT ......................................................................................... 39
2.1. Dẫn nhập ................................................................................................. 39
2.2. Cấu tạo và vị trí của trạng ngữ tiếng Anh ........................................... 40
2.2.1. Cấu tạo của trạng ngữ tiếng Anh .................................................... 40
2.2.2. Vị trí của trạng ngữ tiếng Anh ........................................................ 42
2.2.3. Dấu hiệu nhận biết trạng ngữ trong tiếng Anh ............................... 55
2.3. Cấu tạo và vị trí của trạng ngữ tiếng Việt ........................................... 57
2.3.1. Cấu tạo của trạng ngữ tiếng Việt .................................................... 57
2.3.2. Vị trí của trạng ngữ tiếng Việt ........................................................ 62
2.3.3. Dấu hiệu nhận biết trạng ngữ trong tiếng Việt ............................... 66
2.4. Đối chiếu đặc điểm kết học của trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ
tiếng Việt ........................................................................................................ 67
2.4.1. Những điểm giống nhau .................................................................. 67
2.4.2. Những điểm khác nhau ................................................................... 68
2.5. Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................... 69
Chƣơng 3: NGHĨA HỌC CỦA TRẠNG NGỮ TIẾNG ANH ĐỐI
CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT .......................................................................... 71
3.1. Dẫn nhập ................................................................................................. 71
3.2. Nghĩa học của trạng ngữ trong tiếng Anh ........................................... 73
3.2.1. Trạng ngữ chỉ thời gian ................................................................... 73
3.2.2. Trạng ngữ chỉ địa điểm ................................................................... 78
3.2.3. Trạng ngữ chỉ cách thức .................................................................. 81
3.2.4. Trạng ngữ chỉ điều kiện .................................................................. 84
3.2.5. Trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ ........................................................... 88
3.2.6.Trạng ngữ chỉ mục đích ................................................................... 91
3.2.7. Trạng ngữ chỉ nguyên nhân ............................................................ 93
3.2.8.Trạng ngữ chỉ kết quả ...................................................................... 95
3.2.9. Trạng ngữ chỉ sự so sánh ................................................................ 97
3.2.10. Sự kết hợp các vai trạng ngữ trong câu tiếng Anh ..................... 100
3.3. Nghĩa học của trạng ngữ trong tiếng Việt ......................................... 102
3.3.1. Trạng ngữ chỉ thời gian ................................................................. 104
3.3.2. Trạng ngữ chỉ không gian ............................................................. 106
3.3.3. Trạng ngữ chỉ tình huống .............................................................. 108
3.3.4. Trạng ngữ chỉ cách thức, phương tiện .......................................... 109
3.3.5. Trạng ngữ chỉ nguyên nhân .......................................................... 110
3.3.6. Trạng ngữ chỉ mục đích ................................................................ 111
3.3.7. Trạng ngữ điều kiện ...................................................................... 111
3.3.8. Trạng ngữ nhượng bộ .................................................................... 112
3.3.9. Sự kết hợp các vai trạng ngữ trong câu tiếng Việt ....................... 112
3.4. Đối chiếu đặc điểm nghĩa học của trạng ngữ tiếng Anh và trạng
ngữ tiếng Việt ............................................................................................... 113
3.4.1. Những điểm giống nhau ................................................................ 113
3.4.2. Những điểm khác nhau ................................................................. 115
3.5. Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................. 115
Chƣơng 4: DỤNG HỌC CỦA TRẠNG NGỮ TIẾNG ANH ĐỐI
CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT ........................................................................ 117
4.1. Dẫn nhập ............................................................................................... 117
4.2. Bình diện ngữ dụng của trạng ngữ tiếng Anh ................................... 117
4.2.1. Chức năng thông tin của trạng ngữ trong tiếng Anh .................... 117
4.2.2. Trạng ngữ trong cấu trúc đề - thuyết của câu ............................... 125
4.2.3. Vai trò của trạng ngữ đối với tính liên kết và mạch lạc của văn
bản ........................................................................................................... 129
4.3. Bình diện ngữ dụng của trạng ngữ tiếng Việt ................................... 132
4.3.1. Chức năng thông tin của trạng ngữ ............................................... 132
4.3.2. Trạng ngữ trong cấu trúc đề - thuyết của câu ............................... 136
4.3.3.Vai trò của trạng ngữ đối với tính liên kết và mạch lạc của văn bản... 138
4.4. Đối chiếu ngữ dụng trạng ngữ tiếng Anh và tiếng Việt .................... 142
4.5. Tiểu kết chƣơng 4 ................................................................................. 144
KẾT LUẬN .................................................................................................. 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 151
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phần câu là một phần quan trọng không thể thiếu trong miêu tả kết
học của ngôn ngữ. Trong nghiên cứu ngôn ngữ, việc xác định thành phần câu
và miêu tả thành phần câu là một nhiệm vụ quan trọng. Việc xác định và miêu
tả tốt thành phần câu sẽ góp phần quan trọng trong việc giao tiếp hiệu quả và
là điều kiện cần cho việc dạy học ngữ pháp, cho người bản ngữ và cho người
nước ngoài. Bởi vì, việc xác định đúng thành phần câu giúp người giao tiếp,
người học nắm được đặc điểm ngữ pháp của câu, qua đó biết cách sử dụng câu
đúng trong giao tiếp, để có được hiệu quả giao tiếp tốt nhất.
Trong hệ thống thành phần câu, cùng với thành phần vị ngữ, chủ ngữ
(thường được xem là thuộc nòng cốt câu) thì thành phần trạng ngữ là thành
phần rất quan trọng, bởi thành phần này biểu thị rất nhiều thông tin làm nền
cho sự tình được nói đến trong câu. Trong cả tiếng Anh và tiếng Việt, thành
phần trạng ngữ đóng vai trò lớn trong việc hiểu một câu/ một phát ngôn. Tuy
nhiên người Việt học tiếng Anh thường lúng túng khi sử dụng trạng ngữ tiếng
Anh vì trong tiếng Việt phạm trù này và biểu đạt tương đương đôi khi không
rõ nét. Thêm vào đó, việc khảo sát cách biểu đạt tương đương trong tiếng Việt
của trạng ngữ tiếng Anh cũng chưa được nghiên cứu thực sự thấu đáo. Có một
thực tế là khi nghiên cứu về thành phần câu, các thành phần chủ ngữ, vị
ngữ… thường được quan tâm nhiều vì chúng đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong câu (nòng cốt). Trong khi đó, trạng ngữ tuy là thành phần cú pháp
thường xuyên xuất hiện trong câu nhưng do thường bị coi là thành phần phụ
hoặc thành phần thứ yếu của câu nên vẫn chưa thực sự có được nhiều sự quan
tâm của nhà nghiên cứu, bên cạnh những vấn đề đã được nghiên cứu vẫn còn
1
nhiều vấn đề gây tranh cãi.
Là một người làm việc với tiếng Anh, chúng tôi thấy những người học
tiếng Anh nói chung rất lúng túng về thành phần trạng ngữ. Họ thường mắc
những lỗi sai về cách sử dụng, đó là những lỗi sai về cấu tạo (nhận diện trạng
ngữ), về vị trí (đặt trạng ngữ không đúng chỗ), về chức năng (hiểu sai về sự
hành chức của trạng ngữ)… Trong tiếng Việt, người sử dụng lại gặp khó khăn
trong việc phân biệt trạng ngữ với một số thành phần ngữ pháp khác.
Từ những lý do trên, chúng tôi thấy việc tìm hiểu, so sánh đối chiếu trạng
ngữ giữa hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt trên cả ba bình diện kết học,
nghĩa học, dụng học là cần thiết. Đó là lí do chúng tôi chọn Trạng ngữ trong
tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt làm đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Đối tƣợng, phạm vi và tƣ liệu nghiên cứu của luận án
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là trạng ngữ trong tiếng Anh và
tiếng Việt.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận án chúng tôi tập trung nghiên cứu các trạng ngữ trong câu
tiếng Anh và tiếng Việt về mặt kết học, nghĩa học và dụng học.
Do nội hàm khái niệm trạng ngữ trong tiếng Anh có nhiều loại khác
nhau. Vì vậy, trong phạm vi luận án này, để tiện so sánh với trạng ngữ
trong tiếng Việt, chúng tôi chỉ bàn đến tiểu loại gia ngữ (adjuncts, bổ sung
thông tin về chu cảnh của sự tình biểu thị trong nòng cốt câu), các tiểu loại
khác của trạng ngữ tiếng Anh (vẫn đang bàn cãi) không được bàn đến trong
luận án này.
2.3. Tư liệu nghiên cứu
Tư liệu của luận án được thu thập từ 6 tác phẩm văn học (truyện, tiểu
thuyết) bằng tiếng Anh và 10 tác phẩm văn học (truyện, tiểu thuyết) bằng
2
tiếng Việt. Các tác phẩm tiếng Anh được khảo sát bao gồm: The Da Vinci
Code (Dan Brown) bản dịch tiếng Việt của Đỗ Thu Hà; Harry Potter and
the Philosopher‘s Stone (J. K. Rowling), bản dịch tiếng Việt của Ly Lan;
Harry Potter and the Chamber of Secrets (J. K. Rowling) bản dịch tiếng
Việt của Ly Lan; Harry Potter and the Prisoner of Azkaban (J. K.
Rowling) bản dịch tiếng Việt của Ly Lan; Gone with the wind (Margaret
Mitchell) bản dịch của Dương Tường và If Tomorrow Comes (Sidney
Sheldon) bản dịch của Nguyễn Bá Long. Tư liệu tiếng Việt được chúng tôi
thu thập từ các tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Cô gái đến từ hôm
qua (Nguyễn Nhật Ánh); Tuyển tập Nam Cao; Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan; Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai); Cuộc đời ngoài cửa
(Nguyễn Danh Lam); Con hoang (Lê Hồng Nguyên), Tuyển tập truyện
ngắn Vũ Trọng Phụng; Đời callboy (Nguyễn Ngọc Thạch); Vang bóng một
thời (Nguyễn Tuân).
Sự lựa chọn này có lí do ở sự tương đương về độ dài văn bản. Với sự
tương đương về độ dài văn bản, chúng tôi thu thập được 1500 câu tiếng
Anh có trạng ngữ và 1500 câu tiếng Việt có trạng ngữ làm ngữ liệu nghiên
cứu cho luận án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là vận dụng lí thuyết ngữ pháp hiện
đại để làm sáng rõ đặc điểm của trạng ngữ tiếng Anh, đối chiếu để tìm ra đặc
điểm tương đồng và khác biệt so với trạng ngữ tiếng Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập cơ sở lí thuyết về trạng ngữ, lí thuyết 3 bình diện nghiên cứu
câu, lí thuyết so sánh đối chiếu.
- Thống kê, phân loại các loại trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt
3
trong một số tác phẩm văn học.
- Chỉ ra đặc điểm kết học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt.
- Chỉ ra đặc điểm nghĩa học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt.
- Chỉ ra đặc điểm dụng học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đã tiến hành các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp so sánh đối chiếu sẽ được sử dụng để so sánh các loại
trạng ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, tìm ra các điểm tương đồng và khác
biệt của trạng ngữ trong hai ngôn ngữ này.
- Phương pháp miêu tả được sử dụng để xác định vị trí của trạng
ngữ trong câu tiếng Anh từ đó sẽ so sánh đối chiếu với những yếu tố
trong tiếng Anh dễ nhầm lẫn với trạng ngữ và những yếu tố tương đương
với nó trong tiếng Việt. Trong phương pháp này chúng tôi sử dụng các thủ
pháp sau:
+ Thủ pháp khảo sát - thống kê – phân loại được sử dụng để liệt kê,
khảo sát, thống kê các trạng ngữ tiếng Anh và tiếng Việt trong tác phẩm
được chọn.
+ Ngoài ra luận án còn sử dụng một số thủ pháp khác là: thủ
pháp cải biến, thủ pháp lập biểu đồ, thủ pháp mô hình hóa, thủ pháp
phân tích và thủ pháp tổng hợp, Những thủ pháp này thường được sử
dụng trong nghiên cứu ngữ pháp nói chung.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở xác lập một khung lí thuyết đủ hiệu lực, sử dụng các
phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp miêu tả và các thủ pháp quan
trọng của cú pháp, luận án nghiên cứu trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt
và chỉ ra đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của trạng ngữ trong hai
4
ngôn ngữ này. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ làm rõ các điểm tương đồng
và dị biệt của trạng ngữ ở hai ngôn ngữ Anh và Việt, trên các bình diện kết
học, nghĩa học và dụng học, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy và
học tập môn ngữ pháp tiếng anh và ngữ pháp tiếng Việt.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
Nghiên cứu trạng ngữ tiếng Anh, đối chiếu với tiếng Việt sẽ góp phần
giải quyết những vấn đề lí luận của ngôn ngữ học nói chung và ngữ pháp học
nói riêng. Cụ thể là chỉ ra được:
a) Những đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng của trạng ngữ tiếng
Anh và tiếng Việt.
b) Những nét giống và khác giữa trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án góp phần đề xuất cách phân tích và giảng dạy trạng ngữ nói
riêng, ngữ pháp nói chung trong tiếng Anh và tiếng Việt.
- Luận án góp phần giúp người học hiểu và sử dụng có hiệu quả các
loại trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt, qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả giảng dạy và học tập môn ngữ pháp tiếng Anh và tiếng Việt
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của luận án
Trong chương này, chúng tôi trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu
trong nước và ngoài nước của trạng ngữ.
Cơ sở lí thuyết liên quan đến luận án gồm: 1/Trạng ngữ với tư cách là
một nhãn hiệu thuộc bình diện kết học của câu; 2/Các bình diện nghĩa học và
dụng học của trạng ngữ; 3/Vấn đề xác định trạng ngữ trong tiếng Anh. 4/Vấn
5
đề xác định trạng ngữ trong tiếng Việt; 5/Quan điểm của luận án về trạng ngữ.
Chương 2: Kết học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt
Trong chương này, chúng tôi trình bày những đặc điểm về mặt kết học
của trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt chủ yếu ở vị trí và cấu tạo.
Chương 3: Nghĩa học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt
Trong chương này, chúng tôi nghiên cứu nghĩa biểu hiện của trạng ngữ
trong cấu trúc nghĩa sự tình của câu. Cụ thể, chương này sẽ khảo sát ý nghĩa
của trạng ngữ và phân loại chúng vào theo các tiêu chí về nghĩa học.
Chương 4: Dụng học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt
Trong chương này, chúng tôi theo lí thuyết về phân đoạn thông tin
(thông tin cũ/thông tin mới, cấu trúc đề- thuyết), lí thuyết về liên kết và mạch
lạc của diễn ngôn để khảo sát đặc điểm dụng học của trạng ngữ trong tiếng
6
Anh và tiếng Việt.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Sơ lược nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Anh
Nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Anh được bàn đến trong rất nhiều
công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Anh nói chung, các sách dạy tiếng Anh
cho người nước ngoài và đặc biệt các chuyên khảo của các tác giả có uy tín
như R. Quirk, Martin Hewings, L.G. Alexander, Michael Swan, Jack C.
Richards, John Lyons. Các tác giả đã quan tâm đến các vấn đề chức năng, vị
trí và cấu tạo của trạng ngữ trong tiếng Anh. Chẳng hạn, cuốn A student‘s
Grammar of the English Language của Sidney Greenbaum & Randolph Quirk
đã cung cấp cho sinh viên nói riêng, người đọc nói chung những nội dung
quan trọng của ngữ pháp tiếng Anh, trong đó có vấn đề về trạng ngữ. Nghiên
cứu về vấn đề này còn kể đến công trình quen thuộc đối với nhiều người học
tiếng Anh là English Grammar in Use của Raymond Murphy. Trong công
trình này, tác giả đã chỉ ra đặc điểm chung của ngữ pháp tiếng Anh trong đó
có vấn đề trạng ngữ tiếng Anh.
Trạng ngữ tiếng Anh mặc dù là thành phần phụ, nhưng vẫn được nhắc
đến trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Anh nói chung, như
Practical English Usage của Michael Swan (2005), The Essential English
Grammar của Alexander (1993), Current English Grammar của Chalker, S.
(1992), chúng tôi nghĩ đó là do tầm quan trọng về mặt ngữ nghĩa và ngữ dụng
của thành phần câu này.
Theo khung ngữ pháp truyền thống, nghiên cứu trạng ngữ trong tiếng
Anh được bàn đến ở các nội dung như khái niệm trạng ngữ, cách phân loại
7
trạng ngữ và phân biệt trạng ngữ với các thành phần dễ nhầm lẫn khác, hoặc ở
một bình diện khác, như phân biệt trạng ngữ và bổ ngữ, phân biệt trạng ngữ
và trạng từ.
Về khái niệm trạng ngữ trong tiếng Anh; các nhà nghiên cứu, dù có
cách định nghĩa khác nhau, nhưng tựu trung lại cũng đã có những thống nhất
nhất định về phạm vi khái niệm. Trong tiếng Anh, ―trạng ngữ‖ được gọi là
―adverbials‖,―adverbial modifier‖ hoặc ―adverbial adjunct‖. Tác giả
Hadumod Bussmann trong cuốn thuật ngữ từ điển ngôn ngữ học có tên
Routledge dictionary of language and linguistics đã định nghĩa ―trạng ngữ‖
như sau: "Collective term for several syntactic functions with various
semantic realizations; an adverbial characterizes a verbal action, process, or
state of affairs with respect to time, place, kind, manner, etc.‖ [8,9] (Thuật
ngữ dùng chung cho một số chức năng cú pháp, hiện thực hóa những nội dung
ngữ nghĩa khác nhau; trạng ngữ cho biết thời gian, nơi chốn, kiểu loại, cách
thức v.v của hành động, quá trình hoặc trạng thái sự tình được nói đến trong
câu). Theo tác giả cuốn ―Oxford Advanced Learner's Encyclopedia
Dictionary‖ thì trạng ngữ là thành phần cung cấp (bổ sung) thêm thông tin về
địa điểm, thời gian, hoàn cảnh, phương cách, nguyên nhân, mức độ…. Đồng
quan điểm này, các tác giả cuốn Từ điển "Webster's New World College
Dictionary" cũng cho rằng những thành phần nào dùng để diễn tả thời gian,
địa điểm, cách thức, mức độ, nguyên nhân,... được gọi là trạng ngữ. Có thể
thấy, mặc dù được diễn đạt khác nhau, nhưng các tác giả đã đồng nhất trong
việc chỉ ra thế nào là trạng ngữ trong tiếng Anh. Từ điển "Dictionary of
Language Teaching and Applied Linguistics" (nhà xuất bản Longman) định
nghĩa: "Trạng ngữ là thành phần dùng để … trả lời những câu hỏi như thế
nào?, ở đâu?, khi nào? Một đoạn ngữ hay một mệnh đề đảm nhiệm chức năng
của một trạng từ được gọi là một trạng ngữ hay mệnh đề trạng ngữ." [101, 9]
L.G. Alexander, tác giả cuốn ―Longman English Grammar‖ diễn giải ―Trạng
8
ngữ (…) cho chúng ta biết hành động sự việc xảy ra như thế nào (How?) khi
nào (When?), ở đâu (Where?).‖ [51, 122] Tuy nhiên, theo tác giả thì trạng
ngữ còn có thể bổ nghĩa cho tính từ, trạng từ khác, cụm giới từ, câu.
Tác giả này còn đưa ra cách xác định trạng ngữ và cho nhiều ví dụ rất
cụ thể để người đọc phân biệt sự khác nhau giữa trạng từ (nhãn hiệu từ loại)
và trạng ngữ (nhãn hiệu thành phần câu).
Về phân loại trạng ngữ tiếng Anh
Việc phân loại trạng ngữ tiếng Anh được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm như Laen-zlinger, Cinque (1999:106), Ernst (2002:9), Frey and Pittner
(1998) Trạng ngữ được các nhà ngôn ngữ học phân loại thành các loại khác
nhau. Theo W. McGregor trong Semiotic Grammar thì ―Sự phân loại trạng
ngữ bao gồm trạng ngữ chỉ thể cách và mức độ (ví dụ: happily, clumsily,
quickly, very), trạng ngữ chỉ thời gian (ví dụ: now, when, today), trạng ngữ chỉ
không gian (ví dụ: here, north, up, across), trạng ngữ chỉ thái độ (ví dụ:
certainly, hopefully), trạng ngữ tình thái (modal adverbials) (not, no,
probably, etc.), trạng ngữ chỉ dự định (ví dụ: only, even, again), và trạng ngữ
chỉ trình tự (ví dụ: firstly, finally)."
Các nhà nghiên cứu nói về phân loại trạng ngữ như là trên cơ sở sự phân
loại những đặc tính cú pháp, mang nhãn hiệu mà qua đó cho thấy nền tảng
ngữ nghĩa của sự phân loại. Lấy ngẫu nhiên từ những sự phân loại khác nhau
và sắp xếp ngẫu nhiên từ trạng ngữ mang tính cú pháp cao đến cú pháp thấp,
có trạng ngữ hành vi lời nói hướng người nói (frankly) và trạng ngữ đánh giá
hướng người nói (fortunately), bằng chứng (evidently), trạng ngữ tri thức
(probably), trạng ngữ phạm vi (linguistically), trạng ngữ hướng chủ thể và
hướng khách thể (deliberately), trạng ngữ cách vị trí (here), trạng ngữ xác
định số lượng (frequently), trạng ngữ chỉ cách thức (slowly), trạng ngữ chỉ
mức độ (very)...‖
Các tác giả cuốn Longman grammar of spoken and written English cho
rằng trạng ngữ có 3 chức năng chính là bổ sung thông tin về tình huống cho
9
sự tình được nêu trong câu, biểu đạt phương thức của người nói/ người viết
trong câu, hoặc nối kết câu hoặc bộ phận câu với các thành phần câu khác
trong văn bản. Với ba chức năng chính đó, theo các tác giả, trạng ngữ có 3
loại lớn là trạng ngữ tình huống (circumstance adverbials), trạng ngữ phương
thức (stance adverbials) và trạng ngữ liên hệ (linking adverbials).
Trong cuốn "Longman English Grammar", tác giả L.G. Alexander cho
rằng trạng ngữ có 9 loại sau:1/ Adverbial clauses of time (Trạng ngữ thời
gian); 2/ Adverbial clauses of place (Trạng ngữ nơi chốn); Adverbial clauses
of manner (Trạng ngữ cách thức); A dverbial clauses of reason (Trạng ngữ
nguyên nhân); Adverbial clauses of condition (Trạng ngữ điều kiện);
Adverbial clauses of concession (Trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ); Adverbial
clauses of purpose (Trạng ngữ mục đích); Adverbial clauses of result (Trạng
ngữ kết quả); [51, 265]
Đồng quan điểm với nhau về mệnh đề trạng ngữ, các tác giả Bùi Ý - Vũ
Thanh Phương (trong cuốn "Ngữ Pháp tiếng Anh") và Lê Dũng (trong cuốn
"Ngữ pháp tiếng Anh nâng cao") cho rằng ―Mệnh đề trạng ngữ (Adverb
clause) có giá trị như một trạng ngữ‖ và chức năng của mệnh đề trạng ngữ là
bổ nghĩa cho động từ hay cho cả câu để nói rõ thêm cách thức, thời gian, nơi
chốn ... của hành động hay sự việc. Xuất phát từ chức năng của trạng ngữ
trong câu, các tác giả này cũng đã chia mệnh đề trạng ngữ thành 9 loại sau
[50, 190-197]:
Mệnh đề trạng ngữ thời gian (Adverb clauses of time), Mệnh đề trạng
ngữ nơi chốn (Adverb clauses of place), Mệnh đề trạng ngữ cách thức
(Adverb clauses of manner), Mệnh đề trạng ngữ nguyên nhân (Adverb
clauses of cause), Mệnh đề trạng ngữ mục đích (Adverb clauses of purpose),
Mệnh đề trạng ngữ kết quả (Adverb clauses of result), Mệnh đề trạng ngữ so
sánh (Adverb clauses of comparison), Mệnh đề trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ
(Adverb clauses of concession), Mệnh đề trạng ngữ điều kiện (Adverb clauses
10
of condition).
Như vậy ba tác giả trên đều có đồng quan điểm phân chia mệnh đề
trạng ngữ ra làm 9 loại. Tuy nhiên, theo quan điểm của mình, Marcella Frank,
tác giả cuốn "Modern English - A Practical Reference Guide" lại chia trạng
ngữ thành 11 loại sau [110, 234-275] : Clauses of time (mệnh đề thời gian),
Clauses of place (mệnh đề nơi chốn) Clauses of Contrast (mệnh đề tương
phản), Clauses of Cause (mệnh đề nguyên nhân), Clauses of Result (mệnh đề
kết quả), Clauses of Purpose (mệnh đề mục đích), Clauses of Condition
(mệnh đề điều kiện), Clauses of Exception (mệnh đề ngoại lệ), Clauses of
Manner (mệnh đề phương thức), Clauses of Comparison (mệnh đề so sánh),
Proportion or Extent (mệnh đề tỉ lệ hoặc tầm mở rộng).
Về vị trí của trạng ngữ trong câu.
Vị trí của trạng ngữ trong câu cũng là vấn đề được các nhà nghiên cứu
quan tâm. Phần lớn các ý kiến cho rằng trạng ngữ có thể đứng trước, đứng
giữa và đứng sau thành phần nòng cốt và ở vị trí khác nhau trạng ngữ có
những giá trị khác nhau.
Như vậy, nhìn vào những công trình nghiên cứu về trạng ngữ có thể nhận
thấy trạng ngữ là thành phần câu còn có nhiều tranh luận. Những tranh luận
này gợi mở cho chúng tôi về việc cần phải xác định vai trò của trạng ngữ đối
với cấu trúc câu; xác định các vai trạng ngữ một cách phù hợp trên cơ sở
phân biệt trạng ngữ với những thành phần câu dễ gây nhầm lẫn; tìm hiểu về
trạng ngữ ở những vị trí khác nhau trong câu.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Anh của các
nhà nghiên cứu còn chú trọng đến vấn đề phân biệt trạng ngữ với trạng từ. Về
vấn đề này có thể kể đến một số nhà nghiên cứu như M. Strumpf and A.
Douglas, Martin J. Endley. Theo M. Strumpf and A. Douglas (2004) thì
―Trạng từ và trạng ngữ là tương đồng nhưng không phải là một. Mặc dù
chúng có cùng chức năng mở rộng nghĩa, đặc tính của chúng khác nhau. Một
trạng ngữ là một thành phần của câu. Nó là một phần của câu và mang một
11
chức năng nào đấy. Một trạng từ, mặt khác là một từ loại. Chúng ta có thể
nói rằng một trạng từ có thể đóng vai trò là một trạng ngữ, nhưng một
trạng ngữ không cần một trạng từ‖ (108, tr.2004). Theo Martin J. Endley
thì ― Tôi muốn nêu sự khác biệt giữa hai khái niệm: Trạng từ và trạng
ngữ: Trạng từ là một nhãn hiệu cho phạm trù ngữ pháp, là các từ đơn
quen thuộc như quickly, happily, and spontaneously…. Trạng ngữ đề cập
đến chức năng. Những yếu tố ngôn ngữ có chức năng này bao gồm cả
trạng từ thêm vào những yếu tố ngôn ngữ khác chẳng hạn cụm từ (on the
table, at the bookstore next week, last year, etc.) và mệnh đề (ví dụ: after
he saw the movie)‖ (114, tr. 2010)
Như vậy, có thể thấy, trạng ngữ và trạng từ dù có những đặc điểm tương
đồng nhưng không đồng nhất với nhau. Trạng từ là xét về mặt từ loại, còn
trạng ngữ là xét về mặt ngữ pháp, về cương vị thành phần câu.
Tóm lại, sự khác nhau giữa trạng từ và trạng ngữ nằm ở chỗ trạng từ
thuộc về từ loại (part of speech), còn trạng ngữ thuộc về thành phần câu
(sentence part).
Theo cách phân loại truyền thống, có 8 từ loại trong tiếng Anh, trong
đó có trạng từ, đó là: danh từ (noun), động từ (verb), tính từ (adjective), trạng
từ (adverb), giới từ (preposition), đại từ (pronoun), liên từ (conjunction) và
thán từ (interjection).
1.1.2. Sơ lược nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Việt
Thành phần trạng ngữ trong tiếng Việt bắt đầu được nghiên cứu từ
những năm trước năm 1945. Nghiên cứu trạng ngữ tiếng Việt đã được bàn
đến trong những nội dung sau:
Về khái niệm trạng ngữ. Trước năm 1945, do cái nhìn Dĩ u vi trung,
các tác giả cho rằng trong tiếng Việt có trạng từ và đồng nhất trạng từ với
trạng ngữ. Theo đó, các nhà nghiên cứu như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ,
Phạm Duy Khiêm… cho rằng ―trạng từ là tiếng để phụ thêm nghĩa một
tiếng động từ, một tiếng tĩnh từ, một tiếng trạng từ khác hay cả một mệnh
12
đề.‖ [25, 106]. Sau năm 1945, các nhà ngôn ngữ học tiếp tục nghiên cứu
trạng ngữ nói riêng và thành phần câu nói chung. Trạng ngữ được nhiều nhà
ngữ pháp học quan tâm nghiên cứu và đưa ra các quan niệm khác nhau. Theo
Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963) [10, 554], thì ―trạng ngữ đặt
sau là bổ từ của tiếng (tức là từ), trạng ngữ đặt trước là bổ từ của câu.‖ Theo
Nguyễn Kim Thản (1964) [37, 212], trạng ngữ là thành phần thứ yếu của
câu, biểu thị các ý nghĩa thời điểm, địa điểm, nguyên nhân, mục đích,
phương tiện hay tình thái.
Doãn Quốc Sỹ, Đoàn Viết Bửu (1970) [36, tr. 143], Lược khảo về
ngữ pháp Việt Nam dùng thuật ngữ bổ từ của câu thay cho thuật ngữ
trạng ngữ.
Trần Thái Hồng, Võ Thị Cưu (1975) cho rằng trạng từ là từ chỉ
trạng thái của tuyên từ (động từ hay tính từ), hay một trạng từ khác.
Theo Hoàng Trọng Phiến thì trạng ngữ là thành phần thứ yếu của
câu, nó có ý nghĩa địa điểm, không gian, thời gian, nguyên nhân, mục đích
Theo Cao Xuân Hạo (1991) trong Tiếng Việt -Sơ thảo ngữ pháp chức
năng (2004) [18, 162] thì trạng ngữ là thành phần phụ của câu, bổ sung cho
cấu trúc Đề - Thuyết một ý phụ. Trạng ngữ thường có vị trí ở đầu hoặc cuối
câu. Về vị trí, trạng ngữ có thể chen vào giữa Đề và Thuyết.
Về các loại trạng ngữ. Trước năm 1945, các nhà ngôn ngữ học nhấn
mạnh vai trò của trạng ngữ đối với tiếng Việt. Khi đó, các nhà ngôn ngữ học
đang đồng nhất khái niệm trạng từ và trạng ngữ. Theo đó, các tác giả chia
trạng từ thành các loại như 1) trạng từ chỉ thể, cách; 2) trạng từ chỉ số
lượng; 3) trạng từ chỉ thời gian; 4) trạng từ chỉ nơi chốn; 4) trạng từ
chỉ sự nghi vấn; 5) trạng từ chỉ ý kiến.
Theo Nguyễn Kim Thản (1964) các loại trạng ngữ gồm: 1) trạng
ngữ thời gian; 2) trạng ngữ địa điểm; 3) trạng ngữ nguyên nhân (―Cách
mạng đã do Việt Bắc mà thành công‖); 4) trạng ngữ mục đích; 5) trạng
ngữ phương tiện (―Khách toàn đến bằng xe hơi‖); 6) trạng ngữ tình thái.
13
Doãn Quốc Sỹ, Đoàn Viết Bửu (1970) trong Lược khảo về ngữ pháp
Việt Nam chia thành: 1) bổ từ thời và không gian, 2) bổ từ nguyên nhân -
bổ từ nguyên lai - bổ từ mục đích, 3) bổ từ giả thiết.
Trần Thái Hồng, Võ Thị Cưu (1975) cũng chia trạng từ thành
các loại sau: 1) trạng từ chỉ thể cách; 2) trạng từ chỉ số lượng; 3) trạng
từ chỉ thời gian; 4) trạng từ chỉ nơi chốn; 5) trạng từ chỉ sự nghi vấn; 6)
trạng từ chỉ sự quyết chắc; 7) trạng từ chỉ sự hoài nghi; 8) trạng từ chỉ sự
phủ định
Đái Xuân Ninh (1978) [32, 303], trong Hoạt động của từ tiếng Việt
cho rằng, bổ ngữ, quen gọi là trạng ngữ, bao gồm: ) Bổ ngữ đặt trước gồm 1)
bổ ngữ nơi chốn; 2) bổ ngữ thời gian; 3) bổ ngữ trạng thái (cách thức); 4) bổ
ngữ mục đích; 5) bổ ngữ nguyên nhân; 6) bổ ngữ phương tiện; 7) bổ ngữ nội
dung, b) Bổ ngữ đặt sau, tác giả chia thành: 1) bổ ngữ thời gian; 2) bổ ngữ
nơi chốn; 3) bổ ngữ nguyên nhân; 4) bổ ngữ mục đích; 5) bổ ngữ phương
tiện; 6) bổ ngữ nội dung; 7) bổ ngữ trạng thái. Đồng quan điểm này, Diệp
Quang Ban (1984) [1, tr. 171 -187] trong Cấu tạo của câu đơn trong tiếng
Việt thì dùng thuật ngữ bổ ngữ để chỉ trạng ngữ. Theo tác giả thì có các loại
bổ ngữ sau: a) bổ ngữ của câu chỉ thời gian; b) bổ ngữ của câu chỉ không
gian, bổ ngữ của câu chỉ nguyên nhân; bổ ngữ của câu chỉ mục đích; bổ
ngữ của câu chỉ điều kiện, bổ ngữ của câu chỉ tình hình và bổ ngữ của câu
chỉ tình huống.
Về phạm vi ý nghĩa của trạng ngữ các ý kiến của các nhà ngôn ngữ bộc
lộ nhiều sự khác biệt:
Các tác giả của ―Giáo trình Việt ngữ‖ (1962) xếp vào trạng ngữ những
ngữ đoạn biểu thị ý nghĩa về thời gian, không gian, cách thức. Đây là cách
xác định phạm vi ý nghĩa của trạng ngữ tương đối đơn giản.
Tác giả Nguyễn Kim Thản đưa ra một danh sách trạng ngữ gồm nhiều
loại hơn: trạng ngữ thời gian, trạng ngữ địa điểm, trạng ngữ nguyên nhân,
14
trạng ngữ mục đích, trạng ngữ phương tiện, trạng ngữ tình thái [39, 212]. Về
sau trong cuốn ―Cơ sở cú pháp tiếng Việt‖ (2008) tác giả có bổ sung thêm loại
trạng ngữ chuyển tiếp có nhiệm vụ chuyển tiếp từ câu nọ sang câu kia.
Dùng tên gọi thành phần tình huống thay cho trạng ngữ, nhóm tác giả
thuộc Ủy ban cho rằng thành phần này có chức năng ―bổ sung ý nghĩa về thời
gian, nơi chốn, hay về phương tiện, mục đích, về cách thức, trạng thái… nói
chung là nghĩa tình huống‖. [47, 224]
Tác giả Diệp Quang Ban đã gọi thành phần trạng ngữ là thành phần bổ
ngữ của câu và phân chia thành các loại bổ ngữ khác nhau như: bổ ngữ chỉ
thời gian, bổ ngữ chỉ không gian, bổ ngữ chỉ mục đích, bổ ngữ chỉ nguyên
nhân, bổ ngữ chỉ điều kiện, bổ ngữ chỉ tình hình, và bổ ngữ chi tình huống.
Theo tác giả Nguyễn Văn Hiệp (2009), dựa trên tiêu chí ngữ nghĩa có
thể phân loại trạng ngữ thành: trạng ngữ chỉ thời gian, trạng ngữ chỉ không
gian, nơi chốn, trạng ngữ chỉ nguyên nhân, trạng ngữ chỉ mục đích, trạng ngữ
hạn định, trạng ngữ điều kiện, trạng ngữ phương thức, trạng ngữ nhượng bộ,
trạng ngữ chỉ tác thể của hành động, kẻ tạo tác hay hủy diệt. Tám loại trạng
ngữ này được trình bày rõ trong ―Cú pháp tiếng Việt‖ (2009). Với cách phân
loại này, tác giả đã coi vị ngữ phụ là một loại trạng ngữ, đồng thời tác giả đã
tách một số trạng ngữ vốn được xác định là trạng ngữ chỉ nguyên nhân và xếp
vào trạng ngữ chỉ tác thể của hành động, kẻ tạo tác hay hủy diệt.
Với một cách phân loại trạng ngữ cũng khá chi tiết, tác giả của ―Câu
tiếng Việt‖ - Nguyễn Thị Lương cho rằng trạng ngữ thường đảm nhận các vai
nghĩa như chỉ thời gian, chỉ không gian, chỉ cách thức, chỉ phương tiện, chỉ
nguyên nhân, chỉ mục đích, chỉ điều kiện, chỉ nhượng bộ. Chúng tôi cho rằng
đây là một cách phân loại trạng ngữ thuyết phục và có sự phân biệt giữa trạng
ngữ và vị ngữ phụ.
Liên quan đến sự phân biệt giữa trạng ngữ và vị ngữ phụ (còn gọi là vị
ngữ thứ yếu), chúng tôi nhận thấy sự tranh luận tập trung vào trường hợp
trường hợp các cụm động từ, cụm tính từ ở đầu câu, đứng trước chủ ngữ. Tác
15
giả Nguyễn Kim Thản trong ―Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt‖, Hoàng Trọng
Phiến trong ―Ngữ pháp tiếng Việt‖, Diệp Quang Ban trong ―Ngữ pháp tiếng
Việt‖, tập 2… đều thống nhất xếp các trường hợp này vào loại trạng ngữ bổ
sung ý nghĩa về tình hình, trạng thái, tính cách, hay trạng ngữ biểu thị tình
thái. Trong khi đó các tác giả Hoàng Tuệ, Lê Cận, Cù Đình Tú trong ―Giáo
trình Việt ngữ‖, Phan Thiều trong ―Rèn luyện ngôn ngữ‖, tập 2, Nguyễn Thị
Lương trong ―Câu tiếng Việt‖, lại xếp những trường hợp trên vào thành phần
vị ngữ phụ.
1.2. Cơ sở lí thuyết liên quan đến luận án
1.2.1. Khái quát về trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt
1.2.1.1. Trạng ngữ trong tiếng Anh
Như phần 1.1.1 đã tổng kết, trạng ngữ trong tiếng Anh đã được quan
tâm nghiên cứu ở nhiều vấn đề, trước hết là ở phạm vi khái niệm. Có thể thấy,
cho dù có những khía cạnh nào đó vẫn còn thảo luận, trạng ngữ trong tiếng
Anh được hiểu tương đối thống nhất, mặc dù cách diễn đạt có thể hơi khác,
như có thể thấy qua những cách diễn đạt sau:
- Trạng ngữ là thành phần phụ của câu. Trạng ngữ góp phần xác định
thời gian, nơi chốn, nguyên nhân, mục đích, …của sự việc nêu trong câu và
trả lời cho các câu hỏi như: Ở đâu? Khi nào? Vì sao? Để làm gì?
- Trạng ngữ là loại thành phần phụ bổ sung ý nghĩa về thời gian, địa
điểm, cách thức, phương tiện, nguyên nhân, phương diện, tình hình, mục đích,
…cho sự tình được đề cập trong câu.
- Trạng ngữ là từ hoặc cụm từ chỉ thời gian, địa điểm hoặc cách thức
của hành động. Trạng ngữ thường được cấu tạo là các cụm giới từ
(prepositional phrase), trạng từ (adverb) hoặc một cụm trạng từ (adverbial
phrase). Về vị trí, trạng ngữ có thể có nhiều vị trí khác nhau nhưng thường đi
sau vị ngữ. Tuy nhiên trạng ngữ là cụm giới từ không được nằm giữa động từ
và vị ngữ.
She drove on the street her new car. (Sai)
16
She drove her new car on the street. (Đúng)
Các phân tích trên cho thấy trạng ngữ (adverbial modifier) đã có sự thống
nhất trong các nhà nghiên cứu Anh ngữ. Theo đó, trạng ngữ có thể là từ, trạng từ,
một cụm giới từ hay một cụm danh từ dùng để bổ nghĩa cho động từ hoặc bổ
nghĩa cho cả câu và thường bắt đầu bằng một liên từ. Trạng ngữ cũng có thể là
một mệnh đề để làm rõ thời gian, địa điểm, mục đích ... của sự việc.
1.1.2.2. Từ loại và những dạng cấu trúc thực hiện chức năng trạng ngữ trong
câu tiếng Anh
1/ Trạng từ
Theo định nghĩa của từ điển bách khoa toàn thư về ngôn ngữ và ngôn
ngữ học thì trạng từ (adverb) của tiếng Anh bắt nguồn từ adverbium của
những nhà ngữ pháp người Rome, sau đó được dịch sang tiếng Hi Lạp là
epirrhema. Từ này có nghĩa: trạng từ là một từ đi kèm với động từ, hay
nói theo ngữ nghĩa học thì nó bổ nghĩa cho động từ. Cho dù người ta bây
giờ nhận thấy rằng mối liên kết giữa trạng từ và động từ không chặt như
người ta vẫn tưởng, nhưng trạng từ nói chung vẫn được sử dụng và đã tạo ra
thuật ngữ ―adverbial‖, là một danh từ dùng để chỉ những trạng từ
(adverbs) cũng như là những cụm từ (phrases) hay những mệnh đề (clauses)
mà có cùng chức năng như những trạng từ (95, tr39). Theo từ điển bách khoa
toàn thư này thì trạng từ có những đặc điểm sau: thứ nhất, trạng từ là một từ
loại; thứ hai, trạng từ là bất biến (invariable) về hình thức, thứ ba trạng từ bổ
nghĩa cho một động từ (verb), thứ tư, trạng từ mang tính tùy nghi, không bắt
buộc (optional), thứ năm về vị trí trạng từ (trong tiếng Anh vị trí giữa câu là
vị trí của trạng từ. Khu vực của trạng từ là giữa động từ nguyên mẫu và
động từ được chia, hay còn gọi là động từ biến ngôi), thứ sáu là sự đồng
thuận khi xét các đặc tính của trạng từ. Không có đặc tính nào được đề cập
bên trên vừa thỏa mãn điều kiện cần và điều kiện đủ để đáp ứng các tiêu
chí của trạng từ. Tuy nhiên một vài trường hợp được nói đến bên trên có thể
đáp ứng tính điển hình của trạng từ, thứ bảy là tính phổ quát (universality)
17
hay tính phổ biến về trạng từ.
2/ Cụm giới từ (prepositional phase)
Cụm giới từ trong tiếng Anh là một nhóm từ thường bắt đầu bằng một
giới từ kết hợp với một cụm danh từ, đại từ, cụm trạng từ (địa điểm hoặc thời
gian). Ngoài ra, cụm giới từ còn được bắt đầu bằng một giới từ kết hợp với
một danh động từ, hoặc mệnh đề bắt đầu bằng câu hỏi wh. Ví dụ:
- Giới từ và cụm danh từ:
I came here by bus. (Tôi đến đây bằng xe buýt.)
- Giới từ và trạng từ
From there, it‘ll take you about 1 hours to the school. (Từ đó, bạn sẽ
mất khoảng 1 tiếng để đi tới trường)
- Giới từ và cụm trạng từ
Until quite recently, no one knew about his news. (Cho đến gần đây,
không ai biết gì về tin tức của anh ấy)
Cụm giới từ thường đóng vai trạng ngữ trong câu, như có thể thấy
qua các ví dụ trên.
3/Mệnh đề trạng ngữ
Mệnh đề trạng ngữ là mệnh đề có chức năng làm trạng ngữ trong câu.
Trong tiếng Anh, có các loại mệnh đề trạng ngữ như: mệnh đề trạng ngữ chỉ
thời gian, mệnh đề trạng ngữ chỉ nơi chốn, mệnh đề trạng ngữ chỉ cách thức,
mệnh đề trạng ngữ chỉ nguyên nhân, mệnh đề trạng ngữ chỉ kết quả…..
a) Mềnh đề trạng ngữ chỉ thời gian
Mệnh đề trạng ngữ chỉ thời gian trong tiếng Anh thường được bắt đầu
bằng các từ sau:
+ When (khi mà), While (trong khi), Before (trước khi), After (sau khi),
Since (từ khi), As (Khi mà), Till/ until (cho đến khi), As soon as (ngay khi
18
mà), Just as (ngay khi), Whenever (bất cứ khi nào)….
b) Mệnh đề trạng ngữ chỉ nơi chốn
Mệnh đề trạng ngữ chỉ nơi chốn là loại mệnh đề có vai trò làm trạng
ngữ chỉ nơi chốn trong câu. Mệnh đề này trong tiếng Anh được bắt đầu bằng
where (nơi mà) và wherever (bất cứ nơi nào)
b) Mệnh đề trạng ngữ chỉ nguyên nhân
Mệnh đề trạng ngữ chỉ nguyên nhân là loại mệnh đề có vai trò nêu
nguyên nhân của sự vật, hiện tượng trong câu. Mệnh đề này trong tiếng Anh
thường được bắt đầu bằng because, since, as, seeing that….(đều có nghĩa là
bởi vì.)
c) Mệnh đề trạng ngữ chỉ cách thức
Mệnh đề trạng ngữ chỉ cách thức là loại mệnh đề có vai trò làm trạng
ngữ chỉ cách thức trong câu. Mệnh đề này trong tiếng Anh thường bắt đầu
bằng as hay as if, đều có nghĩa là : Như là, như.
d) Mệnh đề trạng ngữ chỉ mục đích
Mệnh đề trạng ngữ chỉ mục đích là loại mệnh đề có vai trò làm trạng
ngữ chỉ mục đích trong câu. Mệnh đề này trong tiếng Anh thường bắt đầu
bằng so that, in order that, đều có nghĩa là ―để mà‖.
e) Mệnh đề trạng ngữ chỉ sự tương phản
Mệnh đề trạng ngữ chỉ sự tương phản là loại mệnh đề có vai trò làm
trạng ngữ chỉ sự tương phản trong câu. Mệnh đề này trong tiếng Anh thường
bắt đầu bằng các từ như : although, though, even though (mặc dù), but/ yet
(nhưng), while/ whereas (trong khi/ trái lại), ….
1.2.1.2. Trạng ngữ trong tiếng Việt
Trạng ngữ là một thuật ngữ rất quen thuộc trong ngữ pháp tiếng Việt
Các tác giả Hoàng Tuệ, Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban, Lưu Vân Lăng,
Nguyễn Tài Cẩn, đều cho rằng trạng ngữ là một thành phần phụ của câu
(Hoàng Tuệ….1962, Nguyễn Kim Thản 1964, Lưu Vân Lăng 1970, Nguyễn
19
Tài Cẩn…1975, Diệp Quang Ban 1985….). Tuy nhiên, tư cách thành phần
phụ của trạng ngữ trong tổ chức cấu trúc của câu vẫn chưa thống nhất. Ví dụ,
Hồng Dân đã đưa ra ý kiến nên xếp các câu như sau:
Vì anh nên việc ấy hỏng
Vì anh làm ẩu nên việc ấy hỏng
Vì không cẩn thận nên việc ấy hỏng
Trong lúc mọi người ngủ, anh ta lại thức dậy đọc sách
Lúc anh ta bước vào (thì) phòng họp đã đông đủ
Về một kiểu câu duy nhất, có cấu tạo là X-Y, tác giả cho rằng đây là
một kiểu câu ghép, giữa hai vế X và Y có quan hệ tương liên. Theo tác giả thì
quan hệ tương liên là quan hệ giữa hai thành tố có quan hệ qua lại lẫn nhau,
hô ứng với nhau, bổ sung cho nhau, dựa vào nhau mà tồn tại, một thành tố
biểu thị sự việc hay quá trình, một thành tố biểu thị hoàn cảnh.
Trong quan điểm phủ nhận cấu trúc Chủ-Vị với tư cách là cấu trúc cú
pháp cơ bản của câu, Cao Xuân Hạo cho rằng tổ chức cú pháp hình thức của
tiếng Việt chỉ có một mô hình duy nhất là Đề-Thuyết với các biến thể của nó.
Đề có hai loại Chủ Đề và Khung Đề. Theo tác giả, xét về chức năng ngữ
nghĩa, hiểu theo nghĩa hẹp thì Khung Đề cũng có khi giống như chủ ngữ (hay
―bổ ngữ chu cảnh‖- complement circonstanciel), tương đương với trạng ngữ
theo ngữ pháp truyền thống. Về hình thức, Khung Đề có thể là một từ (Tối/
anh đến), một ngữ (Mấy hôm nay/tôi mệt) hay một mệnh đề (Anh nói/thì nó
nghe).
Về sự phân loại trạng ngữ, trong công trình ―Nghiên cứu về ngữ pháp
tiếng Việt‖ (tập 2) Nguyễn Kim Thản (1964) liệt kê các loại trạng ngữ gồm:
1) Trạng ngữ thời gian; 2)Trạng ngữ địa điểm; 3) Trạng ngữ nguyên nhân; 4)
Trạng ngữ mục đích; 5) Trạng ngữ phương tiện; 6) Trạng ngữ tình thái. Sau
đó, tác giả bổ sung thêm khái niệm trạng ngữ chuyển tiếp (làm nhiệm vụ
chuyển tiếp từ câu này sang câu khác).
Các tác giả sách ―Ngữ pháp tiếng Việt‖ của Ủy ban khoa học xã hội
20
Việt Nam (1981) dùng tên gọi ―thành phần tình huống‖ thay cho ―trạng ngữ‖.
Theo các tác giả thì: ―thành phần tình huống có thể bổ sung ý nghĩa về thời
gian, nơi chốn, hay về phương tiện, mục đích, hay về cách thức, trạng
thái….nói chung là nghĩa ―tình huống‖ [47, 193].
Như vậy bức tranh về trạng ngữ trong tiếng Việt rất đa dạng nhưng
cũng thiếu nhất quán, các khái niệm được mỗi tác giả hiểu một cách khác
nhau nên nhiều hiện tượng khác nhau đã được xếp vào phạm vi trạng ngữ.
Thêm vào đó là tình trạng thiếu hẳn những tiêu chí hình thức để nhận diện
trạng ngữ, phân biệt nó với các thành phần khác trong câu. Vì lí do này mà
tuy nhiều tác giả đã có ý thức phân biệt trạng ngữ của câu với trạng từ (Hoàng
Trọng Phiến (1980); Bổ ngữ của câu với bổ ngữ của từ (Diệp Quang Ban
(2000)); trạng ngữ của câu với trạng ngữ của từ…nhưng tựu chung vấn đề
vẫn chưa được giải quyết đủ sức thuyết phục.
Xét về vị trí của trạng ngữ trong câu, đa số các tác giả cho rằng trạng
ngữ có thể chiếm 3 vị trí khác nhau trong mô hình cấu trúc câu là:
+ Trạng ngữ đứng đầu câu
+ Trạng ngữ đứng ở cuối câu
+ Trạng ngữ đứng ở giữa câu.
Các tác giả Hoàng Tuệ; Lê Cận & Cù Đình Tú (1962) trong ―Giáo trình
về Việt ngữ‖ khi khảo sát vị trí của trạng ngữ đã nhận xét: ―Cần phải làm một
sự thống kê đầy đủ và cũng cần có cái nhìn vào trong quá khứ của ngữ ngôn,
mới thấy rõ vị trí nào là vị trí cơ bản của đơn vị ấy. Nhưng có thể thấy rằng
cả ba vị trí ấy đều được dùng.‖ (46, tr 370). Hoàng Trọng Phiến thì khẳng
định: ―Trạng ngữ (TR) có khả năng ở đầu, ở giữa và ở cuối, nhưng vị trí phổ
biến nhất là ở đầu câu‖ (34, tr 156). Riêng Nguyễn Kim Thản thì cho rằng hai
vị trí thường thấy của trạng ngữ là đầu câu và cuối câu, ông khẳng định ―Điều
đáng chú ý là nếu đã có khởi ngữ ở đầu câu thì ở đó không có trạng ngữ
nữa…Hoặc cũng có khi trạng ngữ xen vào chủ ngữ và vị ngữ‖ (38, tr 212).
21
Tuy nhiên tác giả này cho rằng cách đặt trạng ngữ giữa chủ ngữ và vị ngữ
―làm cho mạch câu đứt ra, ý câu thiếu liên tục. Vì vậy, khuôn mẫu này chỉ
dùng một cách hạn chế.‖ (38, tr 182).
Theo Nguyễn Văn Hiệp (1998) thì phần lớn các tác giả ―khi bàn đến
các khả năng, vị trí của trạng ngữ trong câu đã chưa có ý thức luận giải những
khác biệt vị trí đó ở độ sâu nội dung thông báo. Chẳng hạn, có thể lí giải vị trí
của trạng ngữ trong câu gắn với khả năng chúng tham gia vào cấu trúc phân
đoạn thực tại câu‖. (20, tr 297) Ông cũng nhấn mạnh ―trong khuôn khổ những
miêu tả truyền thống, vấn đề này chỉ mới được để cập ở hai tài liệu nghiên cứu
về ngữ pháp tiếng Việt và ý kiến cũng rất khác nhau‖ (20, tr 299).
"Vị trí trạng ngữ trong câu còn liên quan đến một số vấn đề về liên kết
và mạch lạc của văn bản. Khi bàn đến liên kết chủ đề trong một đoạn văn hay
một đoạn hội thoại, các nhà nghiên cứu đã dựa trên cấu trúc thông báo Đề-
Thuyết của các câu để nêu ra ba trường hợp cơ bản: a) Câu đi sau trùng chủ
đề với chủ đề của câu đi trước (liên kết đồng chiếu: Đề 2= Đề 1); b) Câu đi
sau dùng Thuyết của câu đi trước hoặc một phần Thuyết của câu đi trước làm
chủ đề (liên kết móc xích (Đề 2 = Thuyết 1); c) Chủ đề của câu đi sau với chủ
đề của câu đi trước có những mối liên hệ từ vựng nào đó, ví dụ quan hệ toàn
thể/ bộ phận, cùng chung phạm trù phân loại….(liên kết liên tưởng(1): Đề 2
<->Đề 1." (20, tr 299).
Gần đây, một số nhà nghiên cứu đã áp dụng ngữ pháp chức năng hệ
thống của Halliday để miêu tả cú pháp tiếng Việt, đáng chú ý nhất là hai tác
giả Hoàng Văn Vân (2005) và Diệp Quang Ban (2000). Theo lí thuyết ngữ
pháp chức năng hệ thống, trong một cú (clause) có đến 3 hình thể
(configuration) hay cấu trúc, lần lượt dùng để miêu tả siêu chức năng kinh
nghiệm, siêu chức năng liên nhân và siêu chức năng văn bản. Thành phần
trạng ngữ của ngữ pháp truyền thống tương ứng với thành tố ―chu cảnh‖
(circumstance), một nhãn hiệu thuộc về cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu (các
kiểu quá trình khác nhau sẽ có sự khác biệt về tham thể và chu cảnh tham gia
22
vào quá trình).
1.2.1.3.Trạng ngữ trong hệ thống thành phần phụ của câu tiếng Việt
Trong luận án, chúng tôi theo quan điểm của tác giả Nguyễn Minh
Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (1998). Các tác giả cho rằng trạng ngữ là thành
phần phụ của câu có khả năng tham gia các cải biến vị trí: đứng trước, đứng
sau nòng cốt hoặc chen vào giữa chủ ngữ và vị ngữ. Trạng ngữ biểu thị những
ý nghĩa về không gian, thời gian,mục đích, nguyên nhân, phương tiện…cho
sự tình được biểu đạt trong câu.
Có thể thấy khả năng thay đổi vị trí của trạng ngữ qua ví dụ sau đây:
- Tôi đã rất xúc động khi nhận bó hoa từ tay cô ấy.
- Khi nhận bó hoa từ tay cô ấy tôi đã rất xúc động.
- Tôi, khi nhận bó hoa từ tay cô ấy, đã rất xúc động.
Sự thay đổi vị trí của trạng ngữ trong câu liên quan đến vai trò của nó
trong cấu trúc phân đoạn thực tại câu. Khi trạng ngữ đứng sau nòng cốt hoặc
chen vào giữa chủ ngữ và vị ngữ, nó có khả năng tham gia vào phần thuật đề
hoặc tự mình làm phần thuật đề. Chẳng hạn:
+ Trạng ngữ tham gia vào phần thuật đề:
- Nó cứ ư ử nhìn tôi như muốn nói ―a, lão già tệ thật‖. (Nam Cao)
+ Trạng ngữ tự mình làm phần thuật đề:
- Làm cho khốn đốn chẳng qua vì tiền (Nguyễn Du)
Đối với trường hợp trạng ngữ đứng ở đầu câu, có ý kiến cho rằng nó
có thể làm phần chủ đề. Tuy nhiên nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hiệp nghiêng
về cách luận giải của V.S Panfilov, cho rằng trạng ngữ không thể làm phần
chủ đề được (Panfilov V.S 1980).
Khi đứng ở đầu phát ngôn, trạng ngữ sẽ:
+ Hoặc là đứng ngoài phân đoạn thực tại, ví dụ:
- Dù đau khổ, anh cũng sẽ rời xa chị
―chủ đề‖ ―thuật đề‖
+ Hoặc đứng ngoài phân đoạn thực tại và báo hiệu câu có thông báo
23
gộp, ví dụ:
- ― Bao giờ anh ăn no là anh cũng đâm ra sung sướng‖ (Nhất Linh)
―thuật đề‖
+ Hoặc sẽ làm phần thuật đề, nếu được đọc với ngữ điệu đặc biệt hay
có những chỉ tố chuyên đánh dấu phần thuật đề đi trước (chính, chỉ, ngay,
đã….), ví dụ:
- ― Đã‖ ít lâu nay, cả thầy lẫn u đều có vẻ không vui‖ (Nam Cao)
―thuật đề‖ ―chủ đề‖
―Chính vì thế mà tôi ngại‖ (Nam Cao)
―thuật đề‖ ―chủ đề‖
- ― Thực chẳng phải vì bóng hoàng hôn u uất mùa đông mà nàng nhìn ra‖
―thuật đề‖ ―chủ đề‖
-― Chính qua tâm hồn ta, ta hiểu được tâm hồn mọi người.
―thuật đề‖ ―chủ đề‖
(Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp, 1998)
1.2.1.4. Phân biệt trạng ngữ với các thành phần khác trong câu
a)Phân biệt trạng ngữ với các yếu tố có tác dụng liên kết văn bản,
thuộc cấu trúc bậc trên câu
Hoàng Trọng Phiến khi phân loại các thành phần thứ của câu đã phân
biệt trạng ngữ với ―thành phần chuyển tiếp‖ là thành phần được tác giả định
nghĩa một cách khái quát là ―có tác dụng chuyển ý, chuyển đoạn, làm cầu nối
giữa các ý, các đoạn‖ (34, tr 151). Sách ― Ngữ pháp tiếng Việt‖ của Ủy ban
khoa học xã hội cũng phân biệt ―thành phần tình huống‖ với ― thành phần
chuyển tiếp‖, là thành phần ― nêu ý chuyển tiếp giữa một câu với một đoạn
trước đó‖ (47, tr 191). Diệp Quang Ban, khi nêu danh sách các thành phần
phụ của câu cũng phân biệt ―bổ ngữ của câu‖ với ― liên ngữ‖, là ― thành
phần câu được dùng để nối ý của câu chứa nó với câu đi trước hoặc đi sau,
của toàn đoạn văn đi trước hoặc đi sau‖ (1, tr 201).
Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng các tác giả này không hề đưa ra những
24
tiêu chí hình thức có thể giúp ta phân biệt được chúng với trạng ngữ. Theo tác
giả Nguyễn Văn Hiệp, ―có thể phân biệt các yếu tố này với trạng ngữ dựa vào
các tiêu chí sau: Khả năng cải biến vị trí; Ý nghĩa biểu hiện; Khả năng tham
gia phân đoạn thực tại.
Về mặt ngữ nghĩa, trạng ngữ bổ sung cho câu những thông tin về tình
huống (thời gian, nơi chốn, nguyên nhân, cách thức, mục đích, phương
tiện…..) tức nó thuộc vai chu tố của sự tình được biểu thị trong câu; còn các
yếu tố liên kết văn bản chỉ biểu thị mối quan hệ ngữ nghĩa giữa câu chứa nó
với các câu khác trong văn bản. Cũng chính vì lí do này mà trạng ngữ có thể
tham gia vào cấu trúc phân đoạn thực tại, còn các yếu tố liên kết văn bản này
chỉ có thể có tác dụng đánh dấu câu có thông báo ―gộp‖ hoặc đánh dấu cho
phần thuật đề.
Khi đứng ở đầu câu, trạng ngữ không tham gia vào cấu trúc phân đoạn
thực tại, nhưng nếu được đọc với ngữ điệu đặc biệt hoặc thêm vào trước đó
những trợ từ nhấn mạnh như chỉ, chính, ngay, cả...thì nó sẽ là phần thuật đề.
b) Phân biệt trạng ngữ với các thành tố chỉ phụ thuộc vào một thành tố
cú pháp trong câu
Về bản chất, đây là phân biệt thành phần phụ của câu và thành phần
phụ của từ tổ (cụm từ). Ngữ pháp truyền thống, dựa chủ yếu trên ngữ liệu các
ngôn ngữ châu u, đã căn cứ vào hình thái của từ mà phân định thành phần
câu, do đó coi mỗi thực từ trong câu là một thành phần câu, không xét đến các
cấu trúc trung gian giữa từ và câu. S.E Jakhontov cũng tuân thủ nguyên lí này
khi phân tích thành phần câu tiếng Hán: ―Xét theo khả năng, mỗi thực từ
trong câu cần phải được xác định như một thành phần câu nào đó‖
(Jakhontov S.E 1971, tr 244). Trên cứ liệu tiếng Việt và chịu ảnh hưởng của lí
thuyết từ tổ, Nguyễn Kim Thản đã phân tích câu thành những bậc từ tổ khác
nhau, do đó, đi đến sự phân biệt thành phần của câu với thành phần của từ tổ.
Quan điểm này, tiếp tục được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ sau này thừa
25
nhận, khẳng định. Chẳng hạn Diệp Quang Ban chủ trương ―phân biệt thành
phần phụ của câu với thành phần của từ‖ mặc dù cho rằng sự phân biệt này
trong nhiều trường hợp ―không phải thật rạch ròi được‖ (1, tr 170).
Theo Nguyễn Văn Hiệp thì ―vấn đề khó khăn nhất chính là phân biệt
trạng ngữ của câu với các thành tố phụ của các từ tổ động, tính từ làm vị ngữ
trong câu (nhiều tác giả thường gọi tên các thành tố này là ―trạng tố‖, ―bổ
tố‖…..)‖. Theo đó, ông áp dụng nguyên tắc phân tích cấu trúc câu theo từng
thành tố trực tiếp. Theo nguyên tắc này, trạng ngữ và các thành phần phụ của
câu thường được tách ra từ những bước phân tích đầu tiên, còn các thành tố
phụ của từ tổ vị ngữ chỉ được tách ra sau khi đã tách được bộ phận vị ngữ.
Nguyễn Văn Hiệp đưa ra khái niệm ―các bổ tố không bắt buộc‖ để chỉ
thành tố phụ thuộc cấu trúc bậc dưới câu của các từ tổ động, tính từ, ông cũng
đưa ra các tiêu chí phân biệt với trạng ngữ, là: 1/Quan hệ phụ thuộc với nòng
cốt câu; 2/ Khả năng cải biến vị trí mà không làm thay đổi quan hệ giữa các
thành tố còn lại trong câu. (Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp,
1998).
Cũng theo Nguyễn Văn Hiệp, chúng ta có thể dùng thủ pháp chen một
thành phần đồng vị (tức có quan hệ đẳng lập) đã xác định chức năng để thấy
được quan hệ phụ thuộc vào nòng cốt câu của ngữ đoạn ―để mở rộng hiểu
biết‖, chẳng hạn so sánh:
Chúng tôi học tiếng Anh (là) vì mong muốn của cha mẹ và để mở rộng
hiểu biết.
Chúng tôi học tiếng Anh (là) vì mong muốn của cha mẹ và rất chăm chỉ.
Các thao tác cải biến vị trí cũng cho thấy sự khác biệt giữa trạng ngữ và
các thành tố phụ thuộc cấu trúc bậc dưới câu của các từ tổ tính, động từ làm vị
ngữ. So sánh:
+ Đối với trạng ngữ:
Chúng tôi học ngoại ngữ (là) để có thêm nhiều kiến thức.
-> Chúng tôi, để có thêm nhiều kiến thức, học ngoại ngữ .
26
-> có thêm nhiều kiến thức, chúng tôi học ngoại ngữ .
+ Đối với các thành tố phụ thuộc cấu trúc bậc dưới câu của các từ tổ
tính, động từ làm vị ngữ:
- Ronaldo ghi bàn thắng rất đẹp mắt.
-> Rất đẹp mắt, Ronaldo ghi bàn thắng.
-> Ronaldo, rất đẹp mắt, ghi bàn thắng.
Trong cải biến vị trí cuối cùng, quan hệ ngữ pháp của các thành tố
trong câu đã bị thay đổi, không còn như ở câu xuất phát.
c)Phân biệt trạng ngữ với vị ngữ thứ yếu
Vị ngữ thứ yếu (vị ngữ phụ), và trạng ngữ có những điểm giống nhau
sau đây:
+ Có thể bị lược bỏ mà không ảnh hưởng đến tính trọn vẹn của câu
+ Trong một số trường hợp có chiếm ba vị trí trong mô hình câu như
trạng ngữ.
Theo Nguyễn Kim Thản thì vị ngữ thứ yếu có thể là ―trạng ngữ tình
thái‖ và nhận xét rằng: ―Loại trạng ngữ này là kết quả của sự phát triển mới
của tiếng Việt. Có lẽ tiếng Việt đã chịu ảnh hưởng của những kết cấu của
động từ trong các tiếng Ấn Âu‖ (38, tr 219-221)
Theo Nguyễn Văn Hiệp, ―trên bình diện cú pháp hình thức, vị ngữ thứ
yếu và trạng ngữ là hai thành tố cần được phân biệt với nhau. Sự phân biệt
này, thực ra đã được nêu ra từ lâu‖ (19, tr. 314)
Các tác giả ―Ngữ pháp tiếng Việt‖ (1999) cũng phân biệt trạng ngữ và
vị ngữ thứ yếu, như trong hai câu sau đây:
- Bất thình lình trời tối hẳn.
- Đùm đùm bom nổ ở xa.
―Ở hai câu này, có thể thay đổi trật tự các từ. Tuy nhiên, trong ví dụ
thứ hai, sau khi cải biến vị trí, vị ngữ ―nổ‖ có thể bị lược bớt đi mà phần câu
còn lại vẫn có tư cách là một câu, như vậy đùm đùm ở vị trí sau chủ ngữ đã
đóng vai trò là một trong số các vị ngữ (Bom đùm đùm ở xa). Trong ví dụ thứ
27
nhất thì không thể lược bỏ được ― tối‖ bởi vị thành phần còn lại không đủ tư
cách là câu nữa (và nói chung là vô nghĩa). Do đó ―bất thình lình‖ ở đây
không phải là vị ngữ‖ (7, tr 179-180)
Nguyễn Văn Hiệp có cùng quan điểm với các tác giả ―Ngữ Pháp tiếng
Việt‖ khi cho rằng có thể dùng tiêu chí về khả năng kết hợp với chủ ngữ tạo
nên câu trọn vẹn để phân biệt trạng ngữ với vị ngữ thứ yếu. So sánh:
+ Vị ngữ thứ yếu
- ― Đến bãi cỏ trên mô đất cao, chúng tôi lăn ra đánh giấc say sưa.‖
(Tô Hoài)
- Chúng tôi đến bãi cỏ trên mô đất cao.
- ― Hốt hoảng, bà lão Vối xách cái chày đi không ra vườn.‖ (Tô Hoài)
- Bà lão Vối hốt hoảng.
+ Trạng ngữ:
-― Vì muốn yên ủi Từ và cứu lấy danh dự của Từ, hộ đã chính thức
nhận Từ làm vợ‖ (Nam Cao)
-> Hộ vì muốn yên ủi Từ.
Như vậy, mặc dù trạng ngữ và vị ngữ có thể giống nhau nhưng cũng có
thể phân biệt được khi dựa vào khả năng kết hợp với chủ ngữ để phân biệt.
Tuy nhiên, để tiện cho việc nghiên cứu, trong luận án này, cụ thể là để so sánh
với trạng ngữ trong tiếng Anh, chúng tôi cho rằng, thành phần được coi là vị
ngữ thứ yếu cũng chính là thành phần trạng ngữ trong câu.
d)Phân biệt trạng ngữ với chủ ngữ
Vấn đề phân biệt trạng ngữ đứng đầu câu với chủ ngữ được đặt ra từ
lâu trong các ngôn ngữ đơn lập. Tuy nhiên cho đến nay, trong khuôn khổ
miêu tả của ngữ pháp truyền thống, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt
để. Trong các ngôn ngữ đơn lập như tiếng Hán, tiếng Việt….có những thành
tố chỉ thời gian, nơi chốn rất khó xác định rõ là chủ ngữ hay trạng ngữ. Có khi
về nghĩa thì giống trạng ngữ, nhưng vì về hình thức lại không có giới từ đứng
trước nên có thể coi là chủ ngữ hay một cái gì khác, chẳng hạn ví dụ của
28
Solntxeva N.V:
―Miếu bão liễu hòa thượng‖ (Từ miếu chạy ra một ông sư) (Solntxeva
N.V 1957, tr 37)
- Ngược lại, có khi về hình thức thì giống trạng ngữ (có giới từ đứng
trước) mà nội dung lại biểu thị ―chủ thể‖ của hành động hay trạng thái, một
vài nghĩa thường gặp ở chủ ngữ, ví dụ: ― Trên đồn im như tờ‖. ― Trong nhà ra
mở cửa". Theo Nguyễn Văn Hiệp, đối với vấn đề này có hai trường hợp cần
giải quyết sau đây:
- ―Xác định chủ ngữ hay trạng ngữ trong các câu kiểu ―Trên đồn im như
tờ.‖
- Xác định chủ ngữ hay trạng ngữ trong câu tồn tại.‖
e)Phân biệt trạng ngữ với một vế của câu có nòng cốt kép
Do những khác biệt về thuật ngữ, sự phân biệt này liên quan đến nhiều
hiện tượng khác nhau. Diệp Quang Ban coi những ngữ đoạn đứng đầu các câu
sau đây là thành phần phụ của câu (tác giả gọi là bổ ngữ chỉ tình huống-sự
kiện):
- "Đến trụ sở thì một cán bộ ra tiếp.
- Tới cổng phủ, các quần áo ướt vừa khô"[1, tr 186]
Nguyễn Văn Hiệp cho rằng nên coi các câu trên là câu kép có một vế bị
tỉnh lược thành phần. Các ngữ đoạn đứng đầu câu trên đây không thể xem là
trạng ngữ được bởi những nguyên do sau:
- Không thể cải biến vị trí
- Biểu thị những hành động, trạng thái, đặc điểm….có chủ thể khác với
chủ thể của vế câu còn lại, tuy chủ thể ấy bị tỉnh lược nhưng căn cứ vào
văn cảnh , hoàn toàn có thể khôi phục lại được. Đó là ― chúng tôi‖
(người thuật chuyện), là nhân vật đi đến cổng phủ…Khi được khôi
phục thành phần bị tỉnh lược, vế câu đang xét hóa ra có quan hệ bình
đẳng với vế câu còn lại, thể hiện ở chỗ chúng có thể độc lập thành câu.
29
Chẳng hạn:
- Anh Pha tới cổng phủ, các quần áo ướt vừa khô.
Anh Pha tới cổng phủ
Các quần áo vừa khô.‖
1.2.1.5 Phân loại trạng ngữ tiếng Việt
a)Phân loại theo đặc điểm cấu tạo: Trạng ngữ trong tiếng Việt có cấu
tạo rất đa dạng về mặt hình thức, đảm nhiệm vai trò trạng ngữ có thể là ngữ
đoạn có quan hệ tường thuật, chi phối hay tiếp liên, tùy trường hợp cụ thể mà
có giới từ hay không có giới từ. Xét cấu tạo hình thức của trạng ngữ có trạng
ngữ có hai loại: trạng ngữ được đánh dấu bằng giới từ và trạng ngữ không
được đánh dấu bằng giới từ. Thông thường, các trạng ngữ được đánh dấu
bằng giới từ giúp chúng ta dễ dàng nhận ra hơn là các trạng ngữ không
được đánh dấu. Xét cấu tạo bên trong của trạng ngữ có trạng ngữ là một
danh từ/ cụm danh từ; trạng ngữ là một động từ/ cụm động từ; trạng ngữ là
một kết cấu chủ vị. Trong luận án này, chúng tôi phân trạng ngữ theo cấu
tạo thành: trạng ngữ cấu tạo là từ, trạng ngữ cấu tạo là cụm từ, trạng ngữ
được cấu tạo là mệnh đề.
b) Phân loại trạng ngữ xét trên bình diện nghĩa học: Theo Nguyễn Văn
Hiệp thì ―trong nghiên cứu cú pháp, bình diện nghĩa học thường được hiểu là
bình diện của những: sự tình‖ (State of affairs) với một vị từ trung tâm và
những ―vai nghĩa‖ tham gia vào sự tình ấy. Những vai nghĩa này là những
tham tố của sự tình, gồm có các diễn tố (actants) và các chu tố
(circumstants). Các diễn tố là những vai nghĩa tất yếu, được giải định trong
khung ý nghĩa từ vựng – ngữ pháp của vị từ làm vị ngữ.
- Còn các chu tố chỉ đóng vai cảnh trí chung quanh, không được giả định một
cách tất nhiên trong khung vị ngữ‖ [20, 1998]. Cần thấy được rằng trạng ngữ,
trên bình diện cú pháp hình thức là thành phần phụ của câu, còn trên bình
diện nghĩa học thường thuộc vai chu tố. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp,
chúng ta có thể bắt gặp các trạng ngữ biểu thị vai chủ thể của hành động, tức
30
thuộc vai diễn tố của sự tình được biểu đạt.
Trên bình diện nghĩa học, chúng ta có thể phân loại các loại trạng ngữ
như sau: Trạng ngữ chỉ thời gian: Định vị sự tình ở một thời điểm hay trong
một phiến đoạn thời gian nào đó. (Ngày xưa ai lá ngọc cành vàng. Trạng ngữ
chỉ không gian, nơi chốn: Biểu thị không gian hiện thực hoặc không gian
tưởng tượng, với tư cách là nơi diễn ra sự tình (Vầng thái dương đã ngã về
Đoài.). Trạng ngữ chỉ nguyên nhân: Biểu thị nguyên nhân, nguyên cớ của sự
tình (Anh ấy trở thành triệu phú bởi anh ấy thông minh và biết đứng trên vai
người khổng lồ.) Trạng ngữ chỉ mục đích: Biểu thị mục đích mà hành động
thể hiện ở vị ngữ hướng tới hay trạng thái mà chủ thể của hành động mong
muốn đạt đến. (Nó ngày đêm miệt mài trên thư viện để hoàn thành luận án)
Trạng ngữ hạn định: Theo một nghĩa nào đó, biểu thị phạm vi, giới hạn mà sự
tình của câu có hiệu lực, biểu thị điều kiện để hành động mà vị ngữ biểu thị có
thể diễn ra. (Nếu em đồng ý theo anh, tất cả tài sản này sẽ thuộc về em).Trạng
ngữ phương thức: Biểu thị cách thức, cũng cách diễn biến của sự tình hoặc
phương tiện mà chủ thể dùng để thực hiện hành động. (Bất thình lình, Hitle ra
lệnh tấn công Liên Xô.)
1.2.2. Khái quát về lí thuyết ba bình diện của câu
Mô hình lí thuyết ba bình diện của câu có nguồn gốc từ lý thuyết tín
hiệu học của Ch.W.Morris (1938). Theo lí thuyết này, một hệ thống tín hiệu
cần phân biệt ba lĩnh vực là syntactics (kết học), semantics (nghĩa học) và
pragmatics (dụng học). Vận dụng lí thuyết này, các nhà ngữ pháp chức năng
đã phân biệt ba bình diện khác nhau của ngôn ngữ là bình diện kết học, nghĩa
học và dụng học.
Trong một quan niệm hơi khác, cũng là tam phân nhưng không phải
là kết học-nghĩa học-dụng học mà là theo 3 siêu chức năng
(metafunctions), M.A.K.Halliday (1970,1985) cho rằng ―câu là sản phẩm
của ba quá trình biểu nghĩa diễn ra đồng thời. Nó vừa là sự biểu hiện của
kinh nghiệm vừa là một sự trao đổi có tính chất tác động lẫn nhau, vừa là
31
một thông điệp‖. [90, 10].
Có thể thấy rằng, đã có nhiều cách gọi khác nhau về ba bình diện của
câu. Trong luận án này, chúng tôi đi theo hướng quan niệm ba bình diện của
câu với sự thống nhất tên gọi là: kết học, nghĩa học, dụng học.
Bình diện kết học của câu nghiên cứu mối quan hệ bên trong câu, bao
gồm những vấn đề như: thành phần ngữ pháp của câu, các kiểu cấu tạo và các
quan hệ ngữ pháp của câu. Có thể dựa vào chức năng ngữ pháp của mỗi thành
phần câu để phân biệt thành phần chính và thành phần phụ cửa câu.
Bình diện ngữ nghĩa của câu chỉ ra các mối quan hệ giữa câu, các bộ
phận của câu với hiện thực được nói đến trong câu. Bình diện ngữ nghĩa trong
câu bao gồm: nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái. Xem xét bình diện nghĩa miêu
tả của câu là xem xét bình diện về mối quan hệ giữa vị từ và các tham tố của
nó. Trong cấu trúc vị từ - tham tố, các tham tố đối thể, tham tố người hưởng
lợi, tham tố công cụ, tham tố địa điểm, tham tố thời gian, … Các tham tố do
loại hình sự thể qui định gọi là diễn tố, các tham tố không do loại hình sự thể
qui định gọi là chu tố. Do đó, thành phần trạng ngữ thuộc vai chu tố của sự
tình được biểu đạt trong câu.
Bình diện ngữ dụng của câu được hiểu chung nhất là sự hành chức của
câu trong ngữ cảnh và trong tổ chức diễn ngôn, trong đó có vấn đề liên quan
đến cấu trúc thông tin. Cấu trúc thông tin (information structure) được hiểu
như một cấp độ khác để miêu tả cấu trúc câu. Cấu trúc thông tin còn có nhiều
tên gọi khác nhau như: đề (theme) – Thuyết (rheme), tiêu điểm (focus) – nền
(background), chủ đề (toppic) – chú giải (comment), cái cho sẵn (given) – cái
mới (new)…
Cấu trúc thông tin của câu là vấn đề được quan tâm nghiên cứu từ nửa
cuối thế kỷ XIX. Những người nghiên cứu về cấu trúc thông tin đầu tiên
thuộc về hai nhà nghiên cứu Von der Gabelentz và Paul Herman. Gabelentz
(1869) đã so sánh trình tự ý nghĩ với trình tự các biểu ngữ ngôn ngữ trong
một câu. Từ đó, tác giả đã phân biệt hai mức độ kết cấu là mức độ ngữ pháp
32
(grammar) và mức độ tâm lí (psychology). Từ kết quả nghiên cứu đó,
Gabelentz đưa ra thuật ngữ chủ ngữ tâm lí (psychological subject) và vị ngữ
tâm lí (psychological predicate). Paul Herman (1880) định nghĩa câu như là
biểu ngữ ngôn ngữ nối một số hoặc một nhóm khái niệm trong trí óc của
người nói. Theo ông, mỗi câu gồm ít nhất hai thành tố là chủ ngữ (subject) và
vị ngữ (predicate).
Việc nghiên cứu cấu trúc thông tin còn bị ảnh hưởng bởi líthuyết
Gestalt (lí thuyết về cấu trúc hình thức). Người khởi xướng thuyết là Christian
von Ehrenfels (vào năm 1886) và tiếp tục được phát triển bởi
Maxwerthermer. Theo lí thuyết này, sự nhận thức không phải được cấu tạo từ
những đơn vị nhỏ hơn mà là cả một cấu trúc hình thức. Sự nhận thức cấu trúc
hình thức gồm hai phần là hình ảnh (figure) và nền tảng (ground).
Sang đầu thế kỷ 20, vấn đề được quan tâm nghiên cứu là chức năng
giao tiếp của ngôn ngữvới tác giả tiêu biểu là Ammann. Ammann đã đưa ra
khái niệm đề - thuyết nhằm phân biệt cấu trúc ngữ pháp của câu và cấu trúc
tâm lí của khái niệm.
Tiếp đó, ở nửa đầu thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đã
quan tâm nghiên cứu nhiều hơn các vấn đề liên quan đến cấu trúc thông tin
của câu. Nhìn chung, các tác giả đều cho rằng cấu trúc thông tin của một câu
gồm hai thành phần, một thành phần có tính cung cấp thông tin nhiều và một
phần có tính cung cấp thông tin ít hơn.
Theo trường phái Prague: Các tác giả chủ yếu nghiên cứu mặt chức
năng của câu, đại diện tiêu biểu là Vilém Mathesius, R.Jacobson,
N.Trubetskoy.... Đặc điểm của trường phái Prague là quan điểm ngữ pháp
mang tính chức năng. Theo các tác giả, ngôn ngữ là một công cụ giao tiếp và
cấu trúc thông tin là quan trọng đối với hệ thống ngôn ngữ và giao tiếp. Theo
Mathesius thì ―các yếu tố cơ bản của phân đoạn thực tại là: điểm xuất phát/
hay là cơ sở của câu nói và hạt nhân của câu nói. Điểm xuất phát được hiểu
là cái đã được biết trong tình huống đó hoặc chí ít cũng có thể dễ dàng hiểu
33
ra và người nói lấy nó làm điểm xuất phát. Hạt nhân của câu là cái mà người
nói thông báo về điểm xuất phát của câu nói‖ (Dẫn theo Diệp Quang Ban).
Cũng theo Mathesius thì ―Cái gì đang được đề cập đến‖ gọi là đề (điểm xuất
phát), và ―những điều gì được nói về nó‖ là thuyếtMathesius coi trật tự đề -
thuyết là mang tính khách quan và trật tự thuyết – đề là mang tính chủ quan.
Đồng quan điểm với Mathesius, Firbas đưa ra sự phân chia câu thành ba
phần: đề - chuyển tiếp – thuyết. Theo ông thì cùng với trật tự từ và ngữ cảnh cùng
ngữ điệu, thì ngữ nghĩa – đóng vai trò quan trọng trong phối cảnh chức năng.
M.A.K. Halliday
Trong quá trình nghiên cứu ngữ cảnh văn bản, Halliday đã chỉ ra sự tồn
tại song song của hai hệ thống - cấu trúc: đề - thuyết và cho sẵn – mới. Theo
Halliday, phần thông tin cho sẵn là ―thông tin được người nói thể hiện như là
có thể phục hồi được (…) nó đã được nói đến trước đó‖; ―nó có thể là một cái
gì đó không hoàn toàn ở quanh đó mà là một cái gì đó người nói muốn thể
hiện như là thông tin cũ để phục vụ cho mục đích tu từ; ý nghĩa ở đây là: nó
không phải là thông tin mới‖. Và ―thông tin được người nói thể hiện như là
không thể phục hồi được là thông tin mới (…) có thể là một cái gì đó chưa
được nói đến trước đó nhưng cũng có thể là một cái gì đó ngoài dự kiến, cho
dù trước đó có được nói đến hay không; ý nghĩa của nó là: quan tâm đến
thông tin này, nó là thông tin mới‖ (2004). Halliday cũng cho rằng: ―trong
hình thức lí tưởng, mỗi đơn vị thông tin bao gồm một thành phần thông tin
CHO SẴN được kèm theo bằng một thành phần thông tin MỚI. Tất nhiên là
không phải trong trường hợp nào đơn vị thông tin chúng ta đang xét cũng có
cấu trúc lí tưởng như vậy" (2004). Halliday tiếp tục khẳng định ―một đơn vị
thông tin bao gồm một thành phần thông tin mới bắt buộc và một thành phần
thông tin cũ tuỳ thuộc‖ (2004)
Wallace L.Chafe (1976) trước đó cũng đã đề cập thông tin ―mới‖ và
thông tin ―cho sẵn‖ trong mô hình tâm lí về ý thức của người nói và người
nghe. Dùng thuật ngữ ―đóng gói thông tin‖, Chafe (1976) giải thích về thuật
34
ngữ này như sau: ―Tôi dùng thuật ngữ đóng gói để chỉ một hiện tượng đưa ra
ở đây, là việc nó chủ yếu liên quan đến cách mà thông điệp được đưa ra và
sau đó mới chính là thông điệp; cũng giống như việc đóng gói một hộp kem
đánh răng có thể ảnh hưởng tới sản lượng bán của cái chất lượng kem đánh
răng vốn có một phần độc lập bên trong‖.
Đối với ngữ dụng học, câu là một thông điệp được đặt trong một diễn
ngôn có liên kết, mạch lạc. Với tư cách là một thông điệp, cấu trúc thông tin
(hay thông báo) của câu là vấn đề được quan tâm hàng đầu với các nội dung
như: cấu trúc đề – thuyết, tin cũ – tin mới, tiêu điểm. Vì vậy tìm hiểu về bình
diện ngữ dụng học của thành phần trạng ngữ, chúng tôi quan tâm chức năng
thông tin của trạng ngữ và đặt trạng ngữ trong cấu trúc đề - thuyết của câu. Để
xét được những phương diện này không thể không quan tâm đến ngữ cảnh mà
câu đó xuất hiện. Chúng tôi cũng sẽ áp dụng lí thuyết văn bản đặc biệt là lí
thuyết về liên kết và mạch lạc để tìm hiểu về khả năng tạo liên kết và mạch
lạc của trạng ngữ.
Như vậy, theo quan điểm của ngữ pháp chức năng, ba bình diện kết học
- nghĩa học - dụng học có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, khi nghiên
cứu ngôn ngữ theo hướng ngữ pháp chức năng, chúng ta phải xem xét trên tất
cả các phương diện này.
Trong luận án này, với lí thuyết ba bình diện của câu, chúng tôi đã vận
dụng để giải quyết các vấn đề sau: Bình diện kết học được dùng để xem xét vị trí,
cấu tạo của trạng ngữ trong câu. Bình diện nghĩa học được dùng để xem xét nghĩa
biểu hiện và cấu trúc biểu hiện của trạng ngữ. Bình diện dụng học được dùng để
chỉ ra vai trò trong cấu trúc thông tin của câu mà trạng ngữ đảm nhận.
1.2.3. Khái quát về ngôn ngữ học so sánh đối chiếu (SSĐC)
1.2.3.1. Khái niệm
Nghiên cứu đối chiếu có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng những năm 40
và 50 của thế kỉ XX, mới được quan tâm nghiên cứu nhiều, tiêu biểu là ―Ngôn
ngữ học đại cương và một số vấn đề tiếng Pháp‖ của tác giả Ch. Bally (1932).
35
Sau đó, có rất nhiều các công trình nghiên cứu nổi bật ứng dụng phương pháp
so sánh đối chiếu trong nghiên cứu khoa học như R.P. Stockwell (1997), J.B.
Carrol, F. Capell (Mỹ).
Ở Việt Nam, nghiên cứu đối chiếu được bắt đầu từ những năm 1980. Lê
Quang Thiêm là tác giả đầu tiên sử dụng phương pháp SSĐC với công trình
―Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ‖ (Nxb ĐH và Giáo dục chuyên nghiệp,
1989). Ông đã nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt của phương pháp so sánh đối
chiếu trong thời đại của cuộc cách mạng KHKT. Nguyễn Văn Chiến cũng đã
ứng dụng phương pháp so sánh đối chiếu trong tác phẩm ―Ngôn ngữ học đối
chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á‖ (Nxb Đại học Quốc gia,
1992).. Có thể nói, đây là những công trình khoa học đầu tiên cung cấp cơ sở
lý luận và phương pháp cho phân ngành ngôn ngữ học đối chiếu phát triển ở
Việt Nam. Gần đây, nhiều luận văn, luận án được thực hiện khi đối chiếu các
ngoại ngữ khác với tiếng Việt đã góp phần khẳng định vai trò của đối chiếu
ngôn ngữ ở Việt Nam.
Theo Burgaski thì ngôn ngữ học đối chiếu là: ―việc nghiên cứu một cách có
hệ thống và đồng đại những điểm tương đồng cũng như khác biệt trong cấu trúc
và cách sử dụng của hai hoặc nhiều hơn hai ngôn ngữ nào đó phục vụ các mục
đích về mặt lý thuyết hoặc thực tiễn.‖ [dẫn theo 102, tr.394]
Bùi Mạnh Hùng cũng cho rằng ―ngôn ngữ học đối chiếu nghiên cứu so
sánh hai hay nhiều hơn hai ngôn ngữ để xác định điểm giống và khác nhau giữa
các ngôn ngữ đó không tính đến việc các ngôn ngữ được so sánh có quan hệ cội
nguồn hay thuộc cùng loại hình hay không. Nguyên tắc nghiên cứu chủ yếu của
ngôn ngữ học đối chiếu là nghiên cứu đồng đại‖. [19, tr.9].
1.2.3.2. Phạm vi đối chiếu
Theo Lê Quang Thiêm (2004) thì phạm vi đối chiếu gồm: đối chiếu
phạm trù, đối chiếu cấu trúc hệ thống, đối chiếu chức năng và hoạt động, đối
chiếu phong cách, và đối chiếu lịch sử - phát triển.
Theo tác giả Bùi Mạnh Hùng (2014) thì ngôn ngữ học đối chiếu giúp
36
mở rộng phạm vi bao quát của lí luận và khẳng định sức mạnh của lí luận. Để
đối chiếu, theo Bùi Mạnh Hùng chỉ ra năm nguyên tắc cần được tuân thủ là:
1/ Miêu tả các phương tiện trong hai ngôn ngữ chính xác; 2/ Đối chiếu các
phương tiện ngôn ngữ trong hệ thống; 3/ Xem xét các phương tiện ngôn ngữ
trong hoạt động giao tiếp; 4/ Bảo đảm tính nhất quán trong việc vận dụng các
khái niệm và mô hình lí thuyết để miêu tả các ngôn ngữ; 5/ Mức độ gần gũi
về loại hình của các ngôn ngữ được đối chiếu.
Việc sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu giúp chúng ta nhìn nhận
được sự đa dạng của các ngôn ngữ trên thế giới. Qua đó cũng nhìn nhận được
những hiện tượng mà các ngôn ngữ trên thế giới có thể có hoặc không có.
Từ đó, ngôn ngữ học so sánh đối chiếu giúp chúng ta hiểu rõ ngôn ngữ
của mình hơn.
Ngoài ra, ngôn ngữ học so sánh đối chiếu đã miêu tả và giải thích
được các hiện tượng giống và khác nhau trong các ngôn ngữ, qua đó giúp
cho việc nhận diện, xác định loại hình ngôn ngữ; từ đó phát triển được các
định hướng cho việc nghiên cứu ngôn ngữ tiếp theo.
So sánh đối chiếu cũng giúp làm sáng tỏ được những đặc điểm quan
trọng của ngôn ngữ cần nghiên cứu; đặc biệt là những điểm khác biệt.
Nhờ vậy, mà chỉ ra được những nét đặc trưng riêng của ngôn ngữ đó.
Nhờ tính ứng dụng cao mà ngôn ngữ học so sánh đối chiếu đã phát
triển trở thành một bộ phận quan trọng trong ngành ngôn ngữ học hiện đại.
Phương pháp này đáp ứng được những đòi hỏi của lý luận ngôn ngữ học
trong thời kỳ mới và cho phép sử dụng tri thức ngôn ngữ học vào những ứng
dụng trong thực tiễn. Hiện nay ngôn ngữ học so sánh đối chiếu được hình
thành và tồn tại như một tất yếu do nhu cầu của xã hội trong thời đại hội
nhập hiện nay đặt ra và nó góp phần không nhỏ trong việc giải quyết những
nhu cầu đó.
Như vậy, việc vận dụng lí thuyết so sánh đối chiếu trong nghiên cứu
trạng ngữ trong tiếng Anh và trạng ngữ trong tiếng Việt sẽ giúp tìm ra được
37
những điểm tương đồng và khác biệt về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, và ngữ
dụng trong nghiên cứu thành phần này trong hai ngôn ngữ. Qua đó, việc học
ngoại ngữ, học ngữ pháp và tìm hiểu văn hóa của hai nền văn hóa Anh, Việt sẽ
được nâng cao, hiệu quả hơn.
1.3. Tiểu kết chƣơng 1
Để phục vụ cho việc nghiên cứu trạng ngữ trong tiếng Anh, đối chiếu
với tiếng Việt, trong chương này, luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu
trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt. Chúng tôi nhận thấy, trạng ngữ
tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt đã được nhiều tác giả bàn đến nhưng còn
nhiều vấn đề còn đang được tranh luận ở nhiều góc độ khác nhau. Các vấn đề
được tranh luận bao gồm khái niệm, vị trí, chức năng, cấu tạo của trạng ngữ.
Đây là những cơ sở quan trọng để chúng tôi tìm hướng đi cho đề tài của mình.
Chúng tôi cho rằng sự khác nhau trong quan niệm, phạm vi giữa trạng ngữ
tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt đã khiến cho việc dịch thành phần câu này
trong hai ngôn ngữ trở nên khó khăn.
Trong chương này, chúng tôi cũng trình bày những cơ sở lí luận liên
quan đến đề tài xoay quanh các vấn đề về trạng ngữ trong hai ngôn ngữ tiếng
Anh và tiếng Việt. Ngoài ra chúng tôi cũng trình bày những vấn đề về lý
thuyết ba bình diện của câu nhằm có cái nhìn mới về ngữ pháp nói chung và
những nghiên cứu về trạng ngữ nói riêng. Qua đó chúng tôi cũng đưa ra quan
điểm của mình về trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt. Để phục vụ cho
đối chiếu trạng ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi cũng đã chỉ ra một số
vấn đề về ngôn ngữ học đối chiếu nhằm tạo cơ sở lí thuyết cho các nhiệm vụ
nghiên cứu của luận án. Trong luận án này, chúng tôi xác định, trạng ngữ là
thành phần phụ của câu, phụ bổ sung ý nghĩa về thời gian, địa điểm, cách
thức, phương tiện, nguyên nhân, phương diện, tình hình, mục đích, …cho sự
38
tình được đề cập trong câu.
Chƣơng 2
KẾT HỌC CỦA TRẠNG NGỮ TIẾNG ANH
ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT
2.1. Dẫn nhập
Theo lí thuyết tín hiệu học của Morris, nghiên cứu bình diện kết học
của tín hiệu là nghiên cứu quan hệ giữa tín hiệu với tín hiệu, tức nghiên cứu
tín hiệu về mặt tổ chức. Trong luận án này, chúng tôi sẽ khảo sát trạng ngữ
trong tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt từ góc độ kết học, theo đó nội dung
chính là nghiên cứu cấu tạo của trạng ngữ và vị trí của nó khi xuất hiện trong
mô hình cấu trúc câu trong hai ngôn ngữ. Sự mô tả này sẽ là cơ sở để chúng
tôi tiến hành đối chiếu để tìm ra những tương đồng và khác biệt về mặt kết
học của trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt. Do trạng ngữ trong cả hai
ngôn ngữ là một đối tượng phức tạp, gây tranh cãi nên chúng tôi buộc phải
điểm lại những quan điểm khác nhau về thành phần câu này trong Anh ngữ
học và Việt ngữ học.
Về cấu tạo của trạng ngữ, trong luận án này, chúng tôi tạm chia trạng
ngữ theo cấu tạo là trạng ngữ có cấu tạo là từ, cụm từ và mệnh đề. Về vị trí,
chúng tôi chia thành vị trí đầu, giữa và cuối câu. Kết quả khảo sát, thống kê,
phân loại 1500 trạng ngữ trong tiếng Anh như sau:
Bảng 2.1: Cấu tạo, vị trí của trạng ngữ tiếng Anh
Phân loại trạng ngữ về Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Cấu tạo
Vị trí
39
Từ Cụm từ Mệnh đề Đầu câu Giữa câu Cuối câu 242 499 759 1037 316 147 16.1 33.3 50.6 69.1 21.1 9.8
Như vậy, về cấu tạo của trạng ngữ tiếng Anh, chiếm tỉ lệ nhiều nhất lần
lượt là mệnh đề (50.6%), cụm từ (33.3%), từ (16.1%). Về vị trí của trạng ngữ,
chiếm tỉ lệ nhiều nhất lần lượt là đầu câu (69.1%), giữa câu (21.1%), cuối câu
(9.8%).
Đối với tiếng Việt, kết quả khảo sát, thống kê, phân loại 1500 trạng ngữ
như sau:
Bảng 2.2: Cấu tạo, vị trí của trạng ngữ tiếng Việt
Phân loại trạng ngữ về Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Cấu tạo Từ 278 18,5
Cụm từ 804 53,6
Mệnh đề 418 28,9
Đầu câu 1315 87,6 Vị trí
Giữa câu 166 11,1
Cuối câu 19 1,3
Như vậy, về cấu tạo của trạng ngữ tiếng Việt, chiếm tỉ lệ nhiều nhất lần lượt
là cụm từ (53,6%), mệnh đề (28,9%), từ (18,5%). Về vị trí của trạng ngữ, chiếm tỉ lệ
nhiều nhất lần lượt là đầu câu (87,6%), giữa câu (11,1%), cuối câu (1,3%).
2.2. Cấu tạo và vị trí của trạng ngữ tiếng Anh
2.2.1. Cấu tạo của trạng ngữ tiếng Anh
2.2.1.1. Trạng ngữ có cấu tạo là từ (danh từ, trạng từ)
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 242/1500 trạng ngữ có cấu tạo
là từ (chiếm 16.1%). Ví dụ:
"A precious little you knew about babies yesterday." (Gone with the
wind, 355) "Nội chuyện đỡ đẻ hôm qua cũng đủ biết rồi."
"He‘ll be back at work tomorrow." (Gone with the wind, 663) "Mai,
40
hắn sẽ trở lại làm việc."
Trong các ví dụ trên, các từ yesterday và tomorrow là trạng từ làm
trạng ngữ.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy, trong tiếng Anh, các trạng ngữ có cấu tạo
là từ có trạng ngữ chỉ thời gian; trạng ngữ chỉ địa điểm; trạng ngữ chỉ cách
thức; trạng ngữ chỉ lý do, trạng ngữ chỉ sự ưu tiên. Ví dụ:
"Yesterday Amy ran over and put her arms around Tracy, and Tracy
pushed her away." (If Tomorrow Comes, 103) (trạng ngữ chỉ thời gian) "Hôm
qua Amy chạy tới ôm Tracy, và Tracy đẩy con bé ra."
"Cooper was carefully studying the photograph." (If Tomorrow Comes,
417) (trạng ngữ chỉ cách thức) ―Cooper thận trọng xem xét các bức ảnh.‖
Trạng ngữ không có dạng cấu tạo là từ bao gồm: trạng ngữ chỉ mục
đích, trạng ngữ chỉ nguyên nhân-kết quả, trạng ngữ chỉ sự so sánh, trạng ngữ
chỉ sự tương quan, trạng ngữ diễn giải, trạng ngữ chỉ quan hệ câu.
2.2.1.2. Trạng ngữ có cấu tạo là cụm từ
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 499/1500 trạng ngữ là cụm từ
(chiếm 33.3%), trong đó có trạng ngữ được cấu tạo là cụm danh từ, cụm giới từ.
Trạng ngữ có cấu tạo là cụm danh từ
"Last year Langdon's visibility had increased a hundredfold after his
involvement in a widely publicized incident at the Vatican." (The Da Vinci
Code,6) "Năm ngoái danh tiếng của Langdon đã tăng lên gấp trăm lần sau
khi ông tham gia vào một sự kiện được công chúng biết đến rộng rãi ở
Vatican."
Trong ví dụ trên, cụm danh từ last year là trạng ngữ.
Trạng ngữ có cấu tạo là cụm giới từ
Trạng ngữ được cấu tạo là cụm giới từ. Ví dụ:
"Her face was beautiful in the moonlight" (The Da Vinci Code,379)
41
"Dưới ánh trăng, mặt cô thật đẹp."
Trong ví dụ trên, cụm giới từ in the moonlight là trạng ngữ.
2.2.1.3. Trạng ngữ là mệnh đề
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 759/1500 trạng ngữ là mệnh đề
(chiếm 50.6%).
Khi mệnh đề trạng ngữ đứng ở vị trí đầu câu, thường có dấu phẩy (,) để
ngăn cách nó với mệnh đề phía sau. Ví dụ:
"Since the return of her wedding ring, Melanie had felt that Rhett was
a gentleman of rare refinement and delicacy and she was shocked at this
remark." (Gone with the wind, 183) "Từ ngày được chuộc giùm nhẫn cưới,
Melanie cho rằng Rhett Butler là một nhà quí phái tinh tế, khéo léo nên không
khỏi tức vì nhận xét như thế."
"After he‘d worked all day with the wounded, he came and sat with
them." (Gone with the wind, 342) "Sau khi bận rộn cả ngày với thương binh,
y quay lại đây và ngồi cạnh giường bệnh."
Khi mệnh đề trạng ngữ đứng phía sau mệnh đề chính, không cần sử
dụng dấu phẩy (,) để ngăn cách 2 mệnh đề.
"She made a cup of coffee and let it grow cold while she sat in the
dark". (If Tomorrow Comes, 47) "Nàng pha một tách cà phê và rồi để đó
lạnh ngắt, ngồi thừ trong bóng tối."
"He leaned down across the counter until his mouth was near her ear
and hissed " (Gone with the wind,149) "Hắn nghiêng mình qua quầy hàng
cho đến khi miệng kề sát bên tai nàng và thì thầm, với giọng mô phỏng các
kép hát trên sân khấu"
2.2.2. Vị trí của trạng ngữ tiếng Anh
2.2.2.1. Trạng ngữ đứng ở vị trí đầu câu
Kết quả khảo sát cho thấy, có 1037/1500 (chiếm 69.1%) thành phần
42
trạng ngữ đứng đầu câu. Trạng ngữ đứng ở vị trí đầu câu thường có chức năng
mở đầu câu hoặc nhằm mục đích nhấn mạnh, theo nghĩa biểu thị chủ đề của
câu nói. Thông thường, trạng ngữ được phân biệt với các thành phần câu khác
bằng dấu phẩy. Ví dụ:
"Just below Saunière's breastbone, a bloody smear marked the spot where
the bullet had pierced his flesh." (The Da Vinci Code, 29) "Ngay bên dưới
xương ức của Saunière, một vết máu đánh dấu nơi viên đạn găm vào thịt ông."
"Once in the house, Scarlett stumbled up the stairs to her bedroom and,
clutching her Rosary from the table, dropped to her knees and tried to pray".
(Gone with the wind, 251) "Về đến nhà, Scarlett gắng gượng leo lên lầu vào
phòng riêng và nắm chặt chuỗi hạt, quỳ xuống và cố gắng cầu nguyện."
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thành phần trạng ngữ không có
dấu phẩy để ngăn cách với các thành phần câu khác. Ví dụ:
"If there was less symphathy in the world there would be less trouble in
the world." (The call of the wild,176) "Trên thế giới này bớt sự thông cảm thì
cũng bớt sự hỗn loạn."
Trạng ngữ chứa trạng từ cung cấp chính xác số lần ( một lần, hai lần..)
thường xuất hiện gần cuối câu nhưng nó cũng có thể đứng ở đầu câu:
"Cryptanalysts call it the fold-over. Half as complicated. Twice as
clean." (The Da Vinci Code, 270) "Người giải mật mã gọi nó là fold-over.
Giảm nửa phần phức tạp. Nhưng lại rõ ràng gấp đôi."
"Twice her long skirt took fire and she slapped it out with her hands."
(Gone with the wind,424) "Hai lần váy dài của cô ấy bốc cháy và cô ấy
dùng tay dập nó."
Các trạng ngữ: sometimes, usually; eventually, finally có thể đứng đầu
câu. Ví dụ:
Sometimes, but not often, you did let him kiss you. (Gone with the wind,
43
153) "Đôi khi chớ không được thường lắm, mình cứ để họ hôn"
Finally the call connected. (The Da Vinci Code,45) "Cuối cùng cuộc
gọi được kết nối."
"Usually Orsatti enjoyed the free midnight snack, but this evening he
was impatient to get back to the table." (If Tomorrow Comes, 146) "Thường
thường thì Orsatti rất khoái bữa ăn này, song đêm nay lão chị ngong ngóng
trở lại canh bạc."
Các trạng ngữ được cấu tạo bởi các từ/cụm từ như above, here, there, at
home, upstairs, in January, last year; as a rule, from time to time, once,
maybe, perhaps có thể đứng ở đầu hoặc cuối câu.
"Turning toward the window, Sophie gazed through the alarm mesh
embedded in the plate glass, down the dizzying forty feet to the pavement
below". (The Da Vinci Code, 68) "Quay về phía cửa sổ, Sophie phóng mắt
qua mạng lưới báo động gắn trên những tấm kính dầy nhìn xuống đường từ
độ cao chóng mặt khoảng mười hai mét"
"Our cryptographers are already working on it. We believe these numbers
may be the key to who killed him. Maybe a telephone exchange or some kind
of social identification. Do the numbers have any symbolic meaning to you?"
(The Da Vinci Code,37) "Nhân viên mật mã của chúng tôi đang giải mã nó.
Chúng tôi tin rằng những con số này có thể là chìa khóa dẫn đến kẻ sát nhân.
Có thể là một tổng đài điện thoại hoặc một thứ thẻ căn cước nào đó. Liệu
những con số này có ý nghĩa biểu tượng nào với ông không?"
Đối với ―maybe‖ và ―perhaps‖ vị trí đầu câu được dùng phổ biến hơn. Ví
dụ, bởi đây là những trạng ngữ chỉ tình thái, có tầm tác động (scope) đến toàn
bộ mệnh đề:
"Perhaps there was something to what Mammy said." (Gone with the
44
wind, 972) "Có lẽ có điều gì đó mà Mammy nói."
"Maybe, by imitating a famous Da Vinci drawing, Saunière was simply
echoing some of their shared frustrations with the modern Church's
demonization of the goddess" (The Da Vinci Code, 40) "Có thể, bằng việc bắt
chước một bức vẽ nổi tiếng của Da Vinci, Saunière chỉ đơn thuần phản ánh
một vài điều thất vọng chung của họ đối với việc Giáo hội hiện đại quỷ hóa
nữ thần"
Các trạng ngữ được cấu tạo bởi các trạng từ briefly, carefully, easily,
quickly, slowly, now, soon, immediately, suddenly; occasionally,
economically, financially, logically, scientifically, technically, apparently,
certainly, clearly, evidently, obviously có thể được dùng ở nhiều vị trí khác
nhau, trong đó có vị trí đầu câu. Ví dụ:
"Immediately the fires which smoldered beneath tight basques flamed
wildly and the two organizations split up and glared hostilely." (Gone with
the wind, 677) "Lập tức những ngọn lửa âm ỉ trong những lồng ngực bùng lên
dữ dội và hai tổ chức liền phân biệt gườm gườm nhìn nhau."
- "Suddenly, he saw why Sophie was afraid." (The Da Vinci Code, 341)
"Ông chợt nhận ra tại sao Sophie lại sợ hãi."
Ở trong các ví dụ trên, Immediately và Suddenly là các trạng ngữ được
đứng ở đầu câu.
2.2.2.2. Trạng ngữ đứng ở vị trí giữa câu
Trong tiếng Anh, trạng ngữ được đặt ở vị trí giữa câu chiếm tỉ lệ cao
(21.1%). Ở vị trí này, đối với các trạng ngữ mệnh đề thì thường được ngăn
cách bởi dấu phẩy. Ví dụ:
"Jeff, when you deal with friends, you don't get hurt." (If
Tomorrow Comes, 214) "Jeff, khi cậu làm ăn với bạn bè, cậu sẽ không bị thua
45
thiệt"
"My God, if you needed money that badly, you should have discussed
it with me" (If Tomorrow Comes, 41) "Lạy Chúa, nếu cần tiền đến thế thì em
phải nói với tôi chứ."
Đối với các trạng ngữ được cấu tạo bởi các trạng từ always, ever, hardly
ever, never, often, rarely, seldom, almost, hardly, nearly, quite, scarcely,
certainly, defitely, probably, just chúng thường đứng giữa câu. Ví dụ:
"Although she recognized her boss's voice, in fifteen years she had never
been awoken by him." (The Da Vinci Code, 935) "Bà nhận ra giọng bề trên của
mình mặc dù trong mười lăm năm qua, bà chưa bao giờ bị ông đánh thức."
"She's outsmarted half the police forces in Europe…And she'll
probably do the same to you." (If Tomorrow Comes, 339) "Cô ta đã qua mặt
tới một nửa lực lượng cảnh sát châu Âu và có thể với cả các ông nữa"
"She would take Ashley in hand and then he would certainly learn".
(Gone with the wind, 684) "Nàng sẽ phụ trách Ashley và nhất định chàng sẽ
thạo dần."
Đối với các trạng ngữ được cấu tạo bởi sometimes, usually; eventually,
finally ngoài vị trí đầu câu, chúng còn có thể đứng ở giữa câu. Ví dụ:
"The brain does it sometimes with powerful symbols." (The Da Vinci
Code, 206) "Tiên kiến hình thành sẵn trong ta về cảnh này mạnh đến mức trí
óc ta loại trừ điều lạc lõng đó và bất chấp con mắt ta"
―Well,‖ she said finally, ―doesn‘t it occur to you that we‘ll have to get the
money somewhere. (Gone with the wind, 440) "Tốt, cuối cùng cô nói, hình
như anh có vẻ chẳng biết tìm số tiền đó ở đâu?"
"Ernestine usually returned from the visitors' room smiling and
cheerful" (If Tomorrow Comes, 88) "Ernestine thường từ nhà khách trở về
46
với vẻ mặt tươi cười."
Đối với các trạng ngữ được cấu tạo bởi constantly, continuously,
regularly, completely, entirely, greatly already, lately, recently ngoài vị trí
cuối câu, chúng còn đứng giữa câu. Ví dụ:
"Love letters were constantly flying around the prison, delivered by the
garbage rats." (If Tomorrow Comes, 82) "Những lá thư tình được trao quanh
nhà tù thông qua đám tù tự giác - được gọi là chuột cống"
"Her heart acted very queerly, beating regularly for several minutes and
then thumping so loudly and swiftly it almost made her sick at her stomach."
(Gone with the wind, 312) "Trái tim quả là kỳ quái, trong một lúc nó đập thật
bình thường, rồi đột ngột đập thật mau và thật mạnh làm nàng buồn nôn"
Các trạng ngữ được cấu tạo bởi các briefly, carefully, easily, quickly,
slowly, now, soon, immediately, suddenly; occasionally, economically,
financially, logically, scientifically, technically, apparently, certainly, clearly,
evidently, obviously có thể được dùng ở cả ba vị trí, trong đó có vị trí giữa
câu. Ví dụ:
"Langdon suddenly sensed that he needed a lawyer." (The Da Vinci Code,
59) "Langdon chợt cảm thấy mình cần một luật sư."
"Rémy felt himself sweating suddenly." (The Da Vinci Code, 326) "Đột
nhiên Rémy thấy toát mồ hôi."
"At first Scarlett was shocked and disappointed that Ashley did not
immediately take hold and make the mill pay double what it had paid under
her management." (Gone with the wind, 684) "Thoạt đầu, Xcarlett bất bình
và thất vọng vì Ashley không nắm được ngay và làm cho xưởng máy sinh lợi
gấp đôi thời kỳ nàng quản lý"
2.2.2.3. Trạng ngữ đứng ở vị trí cuối câu
Trạng ngữ xuất hiện ở vị trí này trong tiếng Anh chiếm số lượng là
9.8% Đối với mệnh đề trạng ngữ ở vị trí này thường không cần dấu phẩy để
47
ngăn cách với thành phần khác trước nó. Ví dụ:
"I love you - love you as I have never loved any living thing. "(The call
of the wild, 354) "Tôi yêu em, yêu em hơn bất cứ điều gì trên đời này."
Trạng ngữ chứa trạng từ cung cấp chính xác số lần (một lần, hai lần..)
thường xuất hiện cuối câu. Ví dụ:
"Struggling with the gear shift, Langdon managed to maneuver the
hijacked taxi to the far side of the Bois de Boulogne while stalling only twice.
"(The Da Vinci Code, 141) "Vật lộn với cần số, Langdon vất vả lắm mới điều
khiển được chiếc xe tắc xi cưỡng đoạt ra xa khỏi Rừng Boulogne mà chỉ bị
chết máy có hai lần."
Trạng ngữ chỉ thời gian có thể đứng rất nhiều vị trí trong câu. Khi là
cụm giới từ nó thường đứng ở cuối câu:
"She's being released in the morning" (The Da Vinci Code, 91) "Sáng
mai Judy sẽ được trả tự do"
"Please see that Miss Whitney gets this first thing in the morning" (The
Da Vinci Code, 234) "Làm ơn chuyển giúp tôi cho cô Wihitney ngay khi vừa
sáng"
Các trạng ngữ just, still, và already thường đứng sau trợ động từ thứ
nhất hoặc trước động từ chính và dạng phủ định Yet và anymore thường đứng
cuối câu:
"We've already spoken to the conductor," Trevor said. (If Tomorrow
Comes, 186) ""Chúng tôi đã nói chuyện với nhạc trưởng," Trevor nói."
"Rhett, if Frank would just collect the money people owe him, I
wouldn‘t be worried about anything." (Gone with the wind, 528) "Lần nghe
Frank bảo có cho một số nhà thiếu nợ, nàng tưởng đó chỉ là một số tiền nhỏ."
"The man was a complete stranger, and she still had no idea what he
wanted from her." (If Tomorrow Comes, 248) "Người đàn ông này hoàn toàn
48
xa lạ, và vẫn chưa hề biết là ông ta muốn gì ở nàng"
"I never saw a lazy Irishman yet." (Gone with the wind, 693)
"Tôi chưa bao giờ thấy một người Ailen lười biếng nào."
"I'm not that woman anymore." (Gone with the wind, 274)
"Tôi không còn là người phụ nữ đó nữa."
Các trạng ngữ above, here, there, at home, upstairs, in January, last
year; as a rule, from time to time, once, maybe, perhaps có thể đứng nhiều vị
trí đặc biệt là cuối câu.
Đối với trạng ngữ chỉ nơi chốn, thời gian và tần suất vị trí ở cuối câu
thường phổ biến hơn. Vị trí đầu câu được sử dụng để cung cấp thông tin quan
trọng hay nhấn mạnh trạng ngữ:
"They both moved down it onto the grass below." (If Tomorrow
Comes, 302) "Hai người theo thang tụt xuống bãi cỏ dưới chân tường."
"Below the screen was a triangular hole." (The Da Vinci Code, 149)
"Bên dưới màn hình là một ổ có hình tam giác."
"Once he heard his mother groan and he burst into sobbing
hiccoughs." (If Tomorrow Comes, 829) "Một lần nó nghe thấy tiếng mẹ rên
và nó òa khóc nấc lên từng hồi."
"I don‘t want to hear any more foolishness out of you, and if you dare
try to--Scarlett, I saw a girl die that way once" (Gone with the wind, 827)
"Tôi không muốn nghe cô xổ ra những điều rồ dại nữa và nếu cô cả gan thử...
Xcarlett, tôi đã có lần thấy một cô gái chết như thế nào."
"Because he saw Langdon on television at the Vatican last year." (The
Da Vinci Code, 302) "Bởi vì nó nhìn thấy Langdon trên ti vi ở toà thánh
Vatican năm ngoái."
Các trạng ngữ được cấu tạo bởi các trạng từ như briefly, carefully, easily,
quickly, slowly, now, soon, immediately, suddenly; occasionally,
49
economically, financially, logically, scientifically, technically, apparently,
certainly, clearly, evidently, obviously có thể được dùng ở cả ba vị trí, trong
đó có vị trí cuối câu. Ví dụ:
"But they can‘t make us pay more taxes when we‘ve already paid them
once." (Gone with the wind, 470) "Nhưng họ có thể khiến chúng tôi phải trả
nhiều thuế hơn khi chúng tôi đã trả tiền cho họ một lần."
"But it does seem to me that after you broke your knee last year." (Gone
with the wind, 29) "Nhưng có vẻ như với tôi rằng sau khi bạn bị gãy đầu gối
vào năm ngoái."
"Armand Grangier had intended to turn the woman over to Bruno
Vicente immediately"(If Tomorrow Comes, 324) "Armand Grangier đã định
giao người đàn bà này cho Brune Vieente ngay"
"Now that I think of it, ‗tis strange you‘ve been recently" (Gone with the
wind, 31) "Bây giờ ba nhớ ra rồi, mấy lúc gần đây coi bộ con hơi khác."
Như vậy, trong tiếng Anh, trạng ngữ có thể đứng ở 3 vị trí trong câu, đầu
câu, giữa câu và cuối câu. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến vị trí của trạng
ngữ trong câu, Vấn đề này, chúng tôi sẽ bàn trong phần dụng học của trạng
ngữ.
2.2.2.4. Vị trí và vai trò của nhiều trạng ngữ trong câu
Đối với câu có nhiều trạng ngữ, vị trí các trạng ngữ được sắp xếp như sau:
Trạng ngữ chỉ nơi chốn thường đứng sau động từ và bổ ngữ của nó và
đứng trước trạng ngữ chỉ thời gian. Ví dụ:
"But she is lying down now, Captain Butler, and won‘t see anyone." (Gone
with the wind, 770) "Nhưng bây giờ cháu nó đã đi nằm và không muốn gặp
ai, thuyền trưởng Butler ạ."
Trong ví dụ trên, down là trạng ngữ chỉ nơi chốn đứng sau động từ lying
50
và đứng trước now là trạng ngữ chỉ thời gian.
"I want you all back here in five minutes, ready to leave" (Harry Potter and
the Philosopher‘s Stone, 77) "Tôi muốn tất cả các em quay lại đây sau năm
phút, sẵn sàng rời đi"
Trong ví dụ trên, here là trạng ngữ chỉ nơi chốn đứng sau động từ back và
đứng trước in five minutes là trạng ngữ chỉ thời gian.
Trạng ngữ chỉ thể cách đứng trước hoặc sau động từ nó mở rộng nghĩa
nhưng không bao giờ đứng giữa động từ và tân ngữ. Ví dụ:
Correct: Gettum sensed an urgency in the eyes of this famed American
scholar, almost as if his finding this tomb quickly were a matter of critical
importance. (The Da Vinci Code, 320) (câu đúng) "Gettum cảm nhận thấy
một vẻ rốt ráo trong mắt vị học giả Mỹ nổi tiếng này, như thể việc nhanh
chóng tìm ra ngôi mộ là một vấn đề có tầm quan trọng sống còn đối với ông"
Incorrect: Gettum sensed an urgency in the eyes of this famed
American scholar, almost as if his finding this tomb were quickly a matter of
critical importance. (câu sai)
Đối với loại trạng ngữ này, cần lưu ý khi hai giới từ chỉ thời gian xuất
hiện trong câu, đơn vị chỉ thời gian nhỏ hơn thường đứng trước. Ví dụ:
"At 5:00 in the morning a male guard, accompanied by a matron,
entered Tracy's cell "(If Tomorrow Comes, 43) "Lúc năm giờ sáng, một người
gác, cùng đi có một nữ giám thị, bước vào phòng giam gọi Tracy"
"At 3:30 in the morning Tracy quietly left her compartment." (If
Tomorrow Comes, 279) "Vào lúc 3 giờ 30 sáng, Tracy lặng lẽ rời khỏi cabin
của mình"
"At noon on Monday Tracy, in her Lureen Hartford persona, returned
to the First Merchants Bank of New Orleans" (If Tomorrow Comes, 125),
"Buổi trưa ngày thứ hai đã hẹn, Tracy trong hình dáng của Lureen Hartford
51
quay lại ngân hàng First Merchants New Orleans."
Trong các ví dụ trên, trạng ngữ chỉ thời gian nhỏ 5h, 3h đứng trước
trạng ngữ chỉ thời gian lớn hơn là buổi sáng; khoảng thời gian buổi trưa đứng
trước khoảng thời gian lớn hơn là thứ hai.
Trạng ngữ chỉ thời gian cũng có thể đứng đầu câu, đặc biệt khi có nhiều
loại trạng ngữ khác, nó có thể đứng ở cuối câu (để chỉ phần thông tin làm
phần thuyết, được nhấn mạnh).
"In the morning I'll ask to see the warden." (If Tomorrow Comes, 61)
"Sáng mai mình sẽ yêu cầu gặp ông tổng giám thị"
"You can prepare breakfast for her and play with her in the morning."
(If Tomorrow Comes, 98) "Cô có thể chuẩn bị bữa sáng cho nó và chơi buổi
sáng"
Trong hai ví dụ trên, trạng ngữ chỉ thời gian có thể đứng ở vị trí đầu
câu trong câu đầu, hoặc có thể đứng ở vị trí cuối câu ở câu sau.
Trạng ngữ ngắn, trạng ngữ chỉ tần suất, trạng ngữ chỉ quan điểm của
người nói thường đứng giữa chủ ngữ và động từ chính.
Ví dụ: "She quickly told Vernet who Langdon was and what had
happened inside the Louvre tonight". (The Da Vinci Code, 155) (quickly chỉ
tần suất đứng giữa động từ told và chủ ngữ she) "Cô nhanh chóng nói với
Vernet rằng Langdon là ai và chuyện gì đã xảy ra bên trong bảo tàng
Louvre tối nay."
"She carefully smoothed out the letter." (Gone with the wind, 188)
(carefully chỉ quan điểm đứng giữa chủ ngữ she và động từ smoothed) "Cô
cẩn thận làm phẳng bức thư."
- Trạng ngữ miêu tả cách thức hành động, thể cách thường đứng trước.
Ví dụ: "Unanalytical, she struggled with the complex thought." (Gone
with the wind, 192) (chỉ cách thức hành động) "Không thể tin được, cô vật lộn
52
với suy nghĩ phức tạp."
"Certainly, monsieur, considering the circumstances, you can help us."
(The Da Vinci Code, 156) (chỉ thể cách) "Xét hoàn cảnh đặc biệt, chắc chắn
ngài có thể giúp đỡ chúng tôi"
- Trạng ngữ chỉ nơi chốn đứng sau trạng ngữ chỉ thể cách.
Ví dụ: "And lots of times, after one kiss they fell completely in love with
a girl and made most entertaining spectacles of themselves, provided the girl
was clever and withheld her kisses after the first one" (Gone with the wind,
219) (in chỉ nơi chốn đứng sau completely) "Nhiều khi, sau một cái hôn, họ
hoàn toàn mê người đàn bà, nếu người đàn bà tỏ ra khéo léo và biết gìn giữ
sau nụ hôn đầu"
"The gold is still safely in the bank." (If Tomorrow Comes, 431) (in
chỉ nơi chốn đứng sau safely chỉ thể cách) "Vàng vẫn an toàn trong ngân
hàng."
Trạng ngữ chỉ tần suất cụ thể đứng trước các trạng ngữ chứa trạng từ
chỉ thời gian khác.
Ví dụ: "That the countries that attack America for being too money-
oriented are always the first to beg us for loans." (If Tomorrow Comes,
6) (always chỉ tần suất cụ thể đứng trước the first chỉ thời gian) "Chính các
nước chỉ trích Mỹ quá đề cao đồng tiền lại là những kẻ đầu tiên yêu cầu
chúng ta tài trợ"
"As always when he spoke, he sounded so plausible" (Gone with the
wind, 213) (always chỉ tần suất cụ thể đứng trước when chỉ thời gian) "Như
mọi khi anh nói, anh nghe có vẻ rất hợp lý."
- Trạng ngữ chỉ nguyên nhân đứng sau các trạng ngữ khác.
Ví dụ: "Why should I marry a boring fool, simply because an accident
53
prevented me from getting her home before dark?" (Gone with the wind, 213)
"Tại sao tôi phải lấy một con nhỏ khùng khịu, chỉ vì một tai nạn xảy ra khiến tôi
không đưa nó về tới nhà trước khi trời tối ?"
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân because an accident prevented me from
getting her home before dark? đứng sau trạng ngữ simply
Trạng ngữ chỉ tần suất thường được đặt ở giữa những vị trí ở giữa đặc
biệt: giữa chủ ngữ và động từ chính như sau động từ ―be‖. Khi có nhiều trợ
động từ trong cụm động từ, trạng ngữ thường đứng trước trợ động từ thứ nhất.
Ví dụ:
"The ever-present menace of lawless negroes and Yankee soldiers
preyed on her mind, the danger of confiscation was constantly with her,
even in her dreams, and she dreaded worse terrors to come." (Gone with
the wind, 600)
(constantly chỉ tần suất ở vị trí giữa đặc biệt: sau động từ ―be‖ là was )
"She loved horses and talked horses constantly." (Gone with the
wind, 76) (chỉ tần suất đứng cuối câu) "Cô ấy yêu ngựa và nói chuyện ngựa
liên tục."
"The dim room with towering walls completely filled with dark books
depressed her." (Gone with the wind, 104) (chỉ tần suất đứng giữa chủ ngữ
walls và động từ filled) "Căn phòng tối mờ với những bức tường cao chót vót
đầy những cuốn sách đen tối làm cô chán nản."
"Ellen ignored these matters completely." (Gone with the wind, 78)
(chỉ tần suất đứng cuối câu) "Ellen bỏ qua hoàn toàn những vấn đề này."
Như vậy, đối với câu có nhiều trạng ngữ, có thể thấy về đại thể, tùy vào
vai nghĩa của từng loại trạng ngữ mà chúng có vị trí khác nhau trong câu. Tuy
nhiên, chúng tôi cho rằng vấn đề này chưa được nghiên cứu đầy đủ, cả trong
tiếng Anh lẫn tiếng Việt, khác với trường hợp danh từ có nhiều định ngữ, có
54
thể xác định công thức chung có các định ngữ đó.
2.2.3. Dấu hiệu nhận biết trạng ngữ trong tiếng Anh
Qua khảo sát, chúng tôi thấy, tùy thuộc vào các loại trạng ngữ khác
nhau mà tồn tại mối quan hệ với liên từ khác nhau. Hay nói cách khác, các
liên từ khác nhau có thể xem là chỉ tố cho các loại trạng ngữ khác nhau.
Trạng ngữ thời gian trong tiếng Anh có thể được bắt đầu bằng các liên
từ như when (khi), after (sau khi), as (khi), as long as (chừng nào), as soon as
(ngay sau khi), before (trước khi), since (từ khi), until/till (cho đến khi),
whenever (bất cứ khi nào), và while (trong khi).
"When the Pope visited Paris a few years back, Fache had used all his
muscle to obtain the honor of an audience". (The Da Vinci Code, tr.42) "Khi
Giáo hoàng thăm Paris vài năm trước, Fache đã dùng mọi khả năng để được
vinh dự là khán giả."
"After a long moment, he slid the ring from his finger and placed it
gently on the instrument panel." (The Da Vinci Code, tr.266) "Sau một lúc
lâu, anh tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay và đặt nó nhẹ nhàng lên bảng
điều khiển."
Trạng ngữ nơi chốn trong tiếng Anh thường được bắt đầu bằng các
liên từ: where (nơi mà), wherever (bất cứ nơi đâu), anywhere (bất kỳ nơi
nào), everywhere (khắp mọi nơi). Trạng ngữ nơi chốn thường đứng sau
mệnh đề chính.
"Everywhere Tracy and Jeff went, they were followed by the
Gemeetepolitie, and each evening Daniel Cooper studied the written reports
submitted to Inspector van Duren." (If Tomorrow Comes, tr.403) "Tracy và
Jeff đi tới bất kỳ đâu cũng bị cảnh sát bám theo và tối tối, Danlel Cooper lại
xem xét tỷ mỉ các bản báo cáo được đệ trình cho thanh tra Duren"
Trạng ngữ cách thức trong tiếng Anh thường được bắt đầu bằng các
55
liên từ: as (như là), in the way (theo cách), in the same way (cũng cách thức
như), as if (như thể), as though (làm như). Trạng ngữ cách thức thường đứng
sau mệnh đề chính.
"You acted instinctively in the way any decent citizen would have
acted" (If Tomorrow Comes, tr. 122) "Bạn đã hành động theo bản năng theo
cách mà bất kỳ công dân tử tế nào cũng sẽ hành động"
Trạng ngữ nguyên nhân trong tiếng Anh thường được bắt đầu bằng liên
từ như because (vì), as (bởi vì), seeing that (thấy rằng) and since (vì).
"Because Da Vinci was a big fan of feminine principles, he made Mona
Lisa look more majestic from the left than the right" (The Da Vinci Code,
101) "Bởi vì Da Vinci là một fan hâm mộ lớn của các nguyên tắc nữ tính, anh
ta đã khiến Mona Lisa trông hùng vĩ hơn từ bên trái hơn bên phải"
Trạng ngữ điều kiện trong tiếng Anh thường được bắt đầu bằng liên
từ như assuming that (giả sử là), if (nếu), on condition that (nếu như, với
điều kiện là), provided that (với điều kiện là), providing that (với điều kiện
là), so/as long as (với điều kiện là, miễn là), and unless (nếu không, trừ
phi, trừ khi)
"As long as the microphone was positioned such that it received a few
hours of sunlight per day, the photo cells would keep recharging the system."
(The Da Vinci Code, tr.309) "Miễn là chiếc micro được định vị thì nó sẽ nhận
được năng lượng ánh sáng mặt trời trong vài tiếng một ngày, tế bào quang
điện sẽ nạp điện cho hệ thống"
Trạng ngữ nhượng bộ trong tiếng Anh thuờng bắt đầu bằng những liên
từ như although/ though (mặc dù), considering that (xét thấy rằng), even
though (dù là), even if (dù cho), much as (tuy rằng), while (trong khi đó),
whereas (nhưng ngược lại, trong khi), however much/ badly/ good (tuy vậy,
56
song), no matter how much (thế nào đi nữa)…
"Even if one could manage to take a painting off the wall, Tracy
thought, there's no way to smuggle it out." (If Tomorrow Comes, tr.352)
"Ngay cả khi gỡ được bức tranh xuống khỏi tường, Tracy nghĩ, cũng không có
cách nào mang ra ngoài được"
Trạng ngữ mục đích trong tiếng Anh thường được bắt đầu bằng các liên
từ như so that (để mà), in order that (cốt để, mục đích để), in case (trong
trường hợp), lest (vì sợ rằng), for fear that (e rằng, sợ rằng)…
"She clenched her jaw shut so that no sound would come out." (If
Tomorrow Comes, tr.58) "Cô nghiến chặt răng để không có âm thanh nào
phát ra"
Trạng ngữ so sánh trong tiếng Anh thường đi cùng với liên từ như than,
as. Ví dụ:
"Her sixty-year-old body did not awake as fast as it used to, although
tonight's phone call had certainly roused her senses." (The Da Vinci Code,
tr.36) "Cơ thể sáu mươi tuổi của bà không tỉnh giấc nhanh như trước đây
được nữa, mặc dù cuộc điện thoại đêm nay chắc chắn đã đánh thức các giác
quan của bà."
Việc các liên từ khác nhau chỉ báo cho các loại trạng ngữ khác nhau là
điều dễ hiểu, bởi lẽ các liên từ đều có nội dung ngữ nghĩa và nội dung ngữ
nghĩa ấy tương thích với nội dung của trạng ngữ.
2.3. Cấu tạo và vị trí của trạng ngữ tiếng Việt
2.3.1. Cấu tạo của trạng ngữ tiếng Việt
2.3.1.1. Trạng ngữ có cấu tạo là từ
Về mặt cấu tạo, trạng ngữ tiếng Việt có thể được cấu tạo bởi từ, cụm từ
57
hoặc mệnh đề
Theo thống kê của chúng tôi, thành phần trạng ngữ được cấu tạo từ là
278/1500 chiếm tỉ lệ 18,5%. Trạng ngữ được cấu tạo bởi từ có thể là danh từ,
tính từ, đại từ.
Trạng ngữ có cấu tạo bởi danh từ
Trạng ngữ có cấu tạo bởi danh từ thường là các danh từ chỉ thời gian.
Ví dụ:
"Hôm nay, anh đã là cha một đứa trẻ con!" (Tuyển tập truyện ngắn Vũ
Trọng Phụng, 100)
"Buổi trưa, vừa về đến nhà, ăn qua loa vài chén cơm, tôi chạy qua
thăm Tiểu Li" (Cô gái đến từ hôm qua, 73)
Trong các ví dụ trên, hôm nay, hôm đó, buổi trưa… là các danh từ làm
trạng ngữ. Thật ra, về mặt ngôn ngữ học đại cương, việc phân biệt từ ghép với
cụm từ tự do trong tiếng Việt là rât khó, hầu như không giải quyết được về
mặt lí thuyết.Trong luận án này, tạm tránh những tranh cãi không có hồi kết
về sự phân biệt giữa từ ghép và cụm từ tự do trong tiếng Việt, chúng tôi cho
rằng hôm nay, hôm đó, buổi trưa… là các danh từ nhằm dễ dàng cho việc đối
chiếu, bởi một số tác giả có thể xem chúng là các cụm danh từ.
Trạng ngữ có cấu tạo bởi tính từ
Ví dụ: "Thi thoảng một chuyến xe tải lớn lắc lư lao qua, tung vào tận
miệng thực khách những đám bụi lạo xạo." (Cuộc đời ngoài cửa, 67)
Từ thi thoảng trong ví dụ trên là các tính từ được dùng làm trạng ngữ.
Trạng ngữ có cấu tạo từ một tính từ thường là trạng ngữ chỉ thời gian, không
gian hoặc trạng ngữ chỉ cách thức phương tiện.
Trong tiếng Việt có quan điểm cho rằng động từ có khả năng làm trạng
ngữ trong câu. Ví dụ:
58
"Cho, thì một đồng cũng là nhiều".
Tuy nhiên, theo chúng tôi, động từ là những từ biểu thị hành động,
trạng thái hay quá trình, do đó động từ là hạt nhân để biểu thị một sự tình nào
đó. Ngược lại, trạng ngữ chỉ bổ sung ý nghĩa cho sự tình nêu lên ở nòng cốt
câu mà thôi. Bởi vậy, nếu đứng độc lập, động từ không thể cấu tạo nên thành
phần trạng ngữ. Theo chúng tôi đây là trường hợp động từ đứng đầu câu làm
khởi ngữ (xin xem Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp 1998), không
phải là thành phần trạng ngữ của câu.
Tương tự như vậy, số từ biểu thị ý nghĩa về số và không có khả năng
cấu tạo thành phần trạng ngữ. Số từ chỉ có thể kết hợp với danh từ làm thành
cụm danh từ cấu tạo nên trạng ngữ.
2.3.1.2. Trạng ngữ có cấu tạo từ một cụm từ
Theo thống kê của chúng tôi, thành phần trạng ngữ được cấu tạo cụm
từ là 804/1500 chiếm tỉ lệ 53,6%.
Trạng ngữ có cấu tạo từ một cụm danh từ
Cụm danh từ là loại tổ hợp từ do danh từ với một số từ ngữ phụ thuộc
nó tạo thành. Cụm danh từ có cấu tạo phức tạp hơn, nhưng chức năng hoạt
động trong câu giống như danh từ. Cũng như danh từ, cụm danh từ cũng có
khả năng cấu tạo nên thành phần trạng ngữ trong câu.
Ví dụ: "Mấy hôm sau, tôi lại nhắn cho con Tủn một tin nhắn mới."
(Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, 31)
"Sáng hôm sau, tôi không dám vô lớp sớm." (Cô gái đến từ hôm qua, 12)
"Cả buổi sáng, tôi ngồi xụi lơ." (Cô gái đến từ hôm qua, 10)
"Suốt buổi tối, tôi nằm loay hoay nghĩ ngợi, xem thử ngoài chuyện "dụ
ăn" tôi còn có thể bắt nạt Tiểu Li chuyện gì nữa." (Cô gái đến từ hôm qua, 6)
Trong số những câu được khảo sát, số lượng câu có thành phần trạng
59
ngữ được cấu tạo từ một cụm danh từ chiếm tỉ lệ lớn, trong đó phần lớn là các
trạng ngữ chỉ không gian, thời gian và thường xuất hiện ở vị trí trước thành
phần nòng cốt của câu.
Trạng ngữ có cấu tạo từ một cụm động từ
Nếu động từ không có vai trò cấu tạo trạng ngữ thì cụm động từ lại đảm
nhận được vai trò này. Cũng như cụm danh từ, cụm tính từ, cụm động từ là
cụm từ chính phụ được tạo thành bởi động từ và một số từ ngữ khác phụ
thuộc nó tạo thành. Cụm động từ có cấu tạo phức tạp hơn động từ nhưng có
chức năng ngữ pháp giống như một động từ.
Ví dụ: "Đi học đến ngày thứ ba, tôi đánh rơi mất lọ mực." (Cô gái đến
từ hôm qua, 49)
"Chẳng biết nói gì nữa, tôi đứng lớ ngớ một hồi rồi tặc lưỡi bỏ đi." (Cô
gái đến từ hôm qua, 11)
"Đứng một hồi, tôi hắng giọng: Ê!" (Cô gái đến từ hôm qua, 3)
"Bàn tới bàn lui một hồi, chúng tôi đành phải chấp nhận giải pháp
dung hòa: "Việt An thân thương"!" (Cô gái đến từ hôm qua, 78)
"Đi vào phần nội dung, chúng tôi càng cãi nhau kịch liệt." (Cô gái đến
từ hôm qua, 78)
Những trạng ngữ được cấu tạo từ một cụm động từ là những trạng ngữ
chỉ tình huống, điều kiện, nguyên nhân, mục đích...
Trạng ngữ có cấu tạo bởi cụm giới từ
Trạng ngữ có cấu tạo bởi cụm giới từ thường là giới từ + các đại từ chỉ
trỏ (trỏ nơi chốn hoặc thời điểm xác định) mới có khả năng cấu tạo nên trạng
ngữ. Như vậy, trạng ngữ được cấu tạo bằng cụm giới từ thường là trạng ngữ
chỉ thời gian, trạng ngữ chỉ không gian.
Ví dụ: "Ở đấy, đã có một cái hố mới đào." (Tuyển tập truyện ngắn Vũ
60
Trọng Phụng, 1037)
Ở đấy là cụm giới từ gồm giới từ+ đại từ‖, vì thế nếu trong tiếng Anh
có đại từ làm trạng ngữ thì trong tiếng Việt chỉ có trường hợp giới từ+ đại từ‖
làm trạng ngữ
Trạng ngữ có cấu tạo từ một kết cấu song hành
Các kết cấu song hành này mang ý nghĩa về khoảng cách thời gian –
không gian. Vị trí thường thấy nhất của trạng ngữ có cấu tạo từ một kết cấu
song hành là ở trước nòng cốt câu:
Ví dụ:
"Từ đây đến đó, tao không nhìn vô trán mày nữa." (Cô gái đến từ hôm
qua, 80)
"Từ nãy đến giờ em làm gì mà không chép bài?" (Cô gái đến từ hôm
qua, 50)
"Từ bữa đó đến nay, Việt An chẳng hề nhúc nhích mảy may." (Cô gái
đến từ hôm qua, 66)
"Từ trước đến giờ, tôi luôn luôn giành ăn với nó." (Cô gái đến từ hôm
qua, 82)
Các kết cấu Từ đây đến đó, Từ nãy đến giờ, Từ bữa đó đến nay, Từ
trước đến giờ là các kết câu song hành làm trạng ngữ trong câu.
2.3.1.3. Trạng ngữ có cấu tạo là mệnh đề
Trong số các tư liệu được khảo sát, có 418/1500 trạng ngữ được cấu tạo
từ một mệnh đề (chiếm 28,9%). Đó là những trường hợp như:
"Khi đưa cuốn sách mới mua cho Việt An, tôi không dám nhìn thẳng
vào mặt nó: Đền cho Việt An nè!" (Cô gái đến từ hôm qua, 13)
Trạng ngữ "Khi đưa cuốn sách mới mua cho Việt An" có kết cấu mệnh
đề (dĩ nhiên, có thể có ý kiến cho rằng trạng ngữ này là một danh ngữ, với khi
là danh từ rỗng nghĩa đóng vai trò trung tâm, phần còn lại ở dạng mệnh đề là
61
thành tố phụ đứng sau, trong trường hơp này, theo một giải pháp tiện cho việc
đối chiếu chúng tôi cho rằng đây là trạng ngữ có cấu tạo là mệnh đề) và ý
nghĩa bổ sung những thông tin về cảnh huống cho sự việc được nói đến ở
nòng cốt câu. Dĩ nhiên đây là mệnh đề ẩn chủ ngữ (tôi). Đây là những trường
hợp không gây tranh luận. Bên cạnh những trường hợp như vậy, xuất hiện
những trường hợp các thành phần câu có quan hệ nghĩa giống ví dụ trên,
trong đó có một thành phần có vị trí khá linh hoạt như trạng ngữ, song câu lại
mang kết cấu của một câu ghép.
Ví dụ:
(95) "Quý Anh từ từ quỳ xuống, hai tay chắp trước ngực." (Cô gái đến
từ hôm qua, 15)
Có ý kiến cho rằng những trường hợp như ví dụ trên là trường hợp câu
ghép có hai vế đầy đủ, lại có ý kiến cho rằng hai tay chắp trước ngực chỉ là
thành phần trạng ngữ chỉ cách thức, tư thế. Theo chúng tôi, những trường hợp
trên là câu có thành phần trạng ngữ được cấu tạo từ một mệnh đề.
2.3.2. Vị trí của trạng ngữ tiếng Việt
2.3.2.1. Trường hợp câu có một trạng ngữ
Trạng ngữ đứng đầu câu
Khảo sát của chúng tôi cho thấy, thành phần trạng ngữ đứng đầu câu
chiếm tỉ lệ lớn nhất (87,6%). Đó có thể là trạng ngữ chỉ thời gian, trạng ngữ
chỉ không gian, trạng ngữ chỉ cách thức phương tiện, trạng ngữ chỉ nguyên
nhân, trạng ngữ chỉ tình huống… có thể nói tất cả các loại trạng ngữ đều có
thể được xắp xếp ở vị trí đầu câu.
Ví dụ trường hợp trạng ngữ chỉ thời gian đứng đầu câu:
"Buổi chiều, sau khi lên hết con đèo, ông dừng nơi thị trấn gần đó mua
hai ổ bánh mì, định bụng khi tới nơi sẽ ăn bữa chính." (Cuộc đời ngoài cửa, 63)
"Hôm nay, nàng là kẻ thù." (Con hoang, 261)
62
"Sáng hôm sau, tôi không dám vô lớp sớm." (Cô gái đến từ hôm qua, 12)
Ví dụ trường hợp trạng ngữ chỉ không gian đứng đầu câu:
"Ở trong lớp, tôi ngồi ở đầu bàn thứ hai, sát trong tường". (Cô gái đến
từ hôm qua, 49)
"Ngồi trong lớp, tôi luôn luôn nhìn lên bảng hệt như một học sinh mẫu
mực không tha thiết đến chuyện gì ngoài chuyện học." (Cô gái đến từ hôm
qua, 64)
"Ngồi học trong lớp, tôi chỉ trò chuyện với Hải gầy." (Cô gái đến từ
hôm qua, 98)
Dĩ nhiên, trong những trường hợp này, tri thức bách khoa giúp người
đọc hiểu Ở trong lớp, ngồi trong lớp, ngồi học trong lớp chính là lúc/thời
điểm Ở trong lớp, ngồi trong lớp, ngồi học trong lớp, vì thế chúng được coi là
trạng ngữ chỉ thời gian.
Ví dụ trường hợp trạng ngữ chỉ tình huống đứng đầu câu:
"Khi thấy không còn gì để dụ dỗ nữa, tôi đưa tay quẹt mép, tuyên bố: -
Bây giờ chơi trò chơi được rồi!" (Cô gái đến từ hôm qua, 29)
"Khi đi vào rạp, tôi cố tình đi ngay trước Việt An." (Cô gái
đến từ hôm qua, 55)
"Khi ra về, thấy Tiểu Li đi thơ thẩn một mình, lòng tôi bỗng nao nao."
(Cô gái đến từ hôm qua, 59)
Ví dụ trường hợp trạng ngữ chỉ cách thức, phương tiện đứng đầu câu:
"Bằng trí tưởng tượng và thể trạng đã phục hồi sau giấc ngủ, ông thử
tìm lại cảm giác đêm qua." (Cuộc đời ngoài cửa, 55)
"Với đầu óc một thằng dạy văn suốt mấy chục năm như mày, tao có
nhét vô đó đôi ba ý nhỏ, nó cũng sẽ dội ra thôi." (Cuộc đời ngoài cửa, 7)
Ví dụ trường hợp trạng ngữ chỉ nguyên nhân đứng đầu câu:
"Vì nó, anh nó đã sinh chuyện với bố mẹ rồi" (Tuyển tập truyện ngắn
63
Vũ Trọng Phụng, 9)
Ví dụ trường hợp trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ đứng đầu câu:
"Tuy ban ngày chỉ đi gạ đánh cờ không tiền hay chầu rìa ván tài bàn,
nhưng mà, tối đến, từ 9 giờ đến 11 giờ thì anh lại căn phòng nhỏ với
người yêu." (Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, 102)
Trạng ngữ đứng giữa câu
Theo khảo sát của chúng tôi, có 166/1500 (chiếm 11,1%) trạng ngữ
đứng giữa câu. Trạng ngữ đứng giữa câu đa số là trạng ngữ chỉ thời gian,
không gian. Ví dụ:
"Thấy Việt An đứng nói chuyện với tôi trong giờ chơi, Hải gầy lên
giọng hách dịch: Mày thấy chưa?" (Cô gái đến từ hôm qua, 21)
"Con không học được, từ khi lên lớp, chương trình thay đổi quá
nhanh." (Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, 14)
"Em biết không, hôm trước, anh được cử đi trinh sát cùng mấy cô giao
liên đường Trường Sơn." (Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, 247)
Trạng ngữ đứng cuối câu
Xuất hiện trong những câu tiếng Việt, trạng ngữ không chỉ có vị trí
đứng trước, đứng giữa mà còn có vị trí đứng cuối câu. Theo tư liệu khảo sát
của chúng tôi, có 19/1500 (chiếm 1,3%) trạng ngữ đứng cuối câu.
Ví dụ:
"Hải gầy đã ngồi đợi sẵn trong phòng học của tôi." (Cô gái đến từ hôm
qua, 90)
"Nó chẳng thèm giữ dép giùm tôi trong những giờ chơi." (Cô gái đến từ
hôm qua, 106)
"Nó nhìn tôi bằng đôi mắt ướt" (Cô gái đến từ hôm qua, 108)
Như vậy, vị trí đứng cuối câu thường là những trạng ngữ chỉ không
gian, cách thức phương tiện, nguyên nhân, mục đích, trạng ngữ chỉ thời gian
64
ít xuất hiện ở vị trí cuối câu.
2.3.2.2 Vị trí và vai trò của nhiều trạng ngữ trong câu
Đối với câu có nhiều trạng ngữ các trạng ngữ này có thể được sắp xếp
gần nhau cũng có thể được sắp xếp không liền nhau.
Trạng ngữ có thể được sắp xếp liên tiếp nhau như trong các ví dụ sau:
"Sáng hôm sau, trên đường tới trường, tôi vừa đi vừa ôn lại cho thật
nhuyễn, không phải ôn bài mà ôn lại ... sáu kiểu cười." (Cô gái đến từ hôm
qua, 9)
"Cho tới một hôm, trong giờ ra chơi, tôi đánh bạo lại gần nó." (Cô gái
đến từ hôm qua, 11)
"Đêm hôm ấy, đợi mẹ ngủ say, Thắm rón rén vào buồng, khe khẽ chốt
chặt cửa." (Con hoang, 46)
"Thường, những buổi chiều tà, khi bức màn đen lóng lánh kim cương
rủ xuồng để che kín vũ trụ, trong vườn hoa, trước tư thất quan ông quan bà
nhỏ to trò chuyện như một cặp nhân tình." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, tr. 184)
Trạng ngữ có thể không sắp xếp liên tiếp nhau như trong các ví dụ sau:
"Xưa kia tôi đã thấy cái thú vị trong sự nâng niu đàn bà thì, bây
giờ, được đàn bà nâng niu, tôi càng thấy nhiều thú vị hơn nữa." (Tuyển tập
truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, 97)
"Một hôm đi học về, tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy Tiểu Li đang ngồi
chơi ô quan một mình trước sân nhà tôi." (Cô gái đến từ hôm qua, 102)
"Cứ thế, những cảnh nồng nàn yêu dấu của hai linh hồn sắp nguội, mỗi
buổi chiều lại diễn ra, đến nỗi mấy con thạch sùng cũng phải đánh ghen mà
tặc lưỡi." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, tr. 185)
Như vậy khi xem xét vị trí của trạng ngữ trong câu không thể phủ định
tính linh hoạt nhất định của trạng ngữ, tuy nhiên cũng cần khẳng định rằng
65
không phải trong bất cứ trường hợp nào vị trí của trạng ngữ cũng có thể thay
đổi. Bởi lẽ có những trường hợp sự thay đổi vị trí của trạng ngữ sẽ phá vỡ tính
lôgic của câu hoặc khiến thành phần câu mất đi một số điều kiện tác dụng của
nó, hoặc mất đi sự hài hòa trong nhịp điệu của câu, chẳng hạn những trạng
ngữ ngắn rất khó đứng ở vị trí cuối câu (xin xem lý giải của Nguyễn Minh
Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp 1998).
2.3.3. Dấu hiệu nhận biết trạng ngữ trong tiếng Việt
Trạng ngữ trong tiếng Việt thường đi cùng với kết từ. Kết từ trong tiếng
Việt gồm hai tiểu loại nhỏ là giới từ (nối kết quan hệ chính phụ) và liên từ
(nối kết quan hệ đẳng lập)
Trạng ngữ chỉ không gian, trạng ngữ chỉ tình huống trong tiếng Việt,
thường được dẫn nhập bằng các giới từ như ở, tại, trong, ngoài, trên, dưới,
giữa…
Ví dụ: "Ở nhà quê, nếu chết vì tai nạn, người khôn ngoan bao giờ cũng
tránh ngày chủ nhật hoặc ngày lễ, thì sự khám xét, tống táng mới mong chóng
được." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, tr. 95)
"Trong gian nhà lụp xụp, thằng cu lớn, cái đĩ con ngồi mã la mã lệnh
với thằng cu mới đẻ, cuộn tròn trong cái tã nâu, nằm ngay cùng giường cái
xác mẹ nó." (Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, tr.23)
Trạng ngữ chỉ phương tiện trong tiếng Việt thường được dẫn nhập bằng
các giới từ như bằng, nhờ…
Ví dụ: "Bằng ngòi bút tài hoa, sắc sảo, tác giả lên án mạnh mẽ thói vô
luân trong xã hội Việt Nam thuở còn bị thực dân phong kiến cai trị và để cho
người đọc hôm nay những điều cần phải suy nghĩ về đạo lý làm người"
(Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, tr.69)
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân, mục đích thường được dẫn nhập bằng các
66
giới từ như vì, do, bởi, để, nhằm, tại…
Ví dụ: "Vì nhằm vào ba tháng hè nên tôi thường ở bên giường chị ta."
(Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, tr.83)
Trạng ngữ chỉ điều kiện trong tiếng Việt thường được dẫn nhập bởi liên
từ như nếu, giá như…
"Nếu có điều gì ám muội ở trong, tất ông không tha, thế nào cũng trình
quan về bắt" (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, tr.191)
Trạng ngữ chỉ nhượng bộ trong tiếng Việt được dẫn nhập bởi liên từ
như dù, tuy…
"Tuy lần này về Bản Sing, ông chỉ có mục đích xem hội, nhưng ông
cũng định tối đến, theo tục lệ, ông sẽ nô đùa với bọn con gái dậy thì lũ lượt
kéo nhau ra đường giỡn hát bên ngọn đuốc" (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, tr.103)
Như vậy, kết từ đi kèm với trạng ngữ phần nhiều là các giới từ. Vị trí
thường thấy nhất của các hư từ này là trước thành phần trạng ngữ của câu.
Các hư từ này có vai trò quan trọng trong việc xác định các loại trạng ngữ.
Chẳng hạn, xuất hiện cùng giới từ ở, tại, là trạng ngữ chỉ không gian, xuất
hiện cùng các liên từ dù, tuy là trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ; xuất hiện cùng
các giới từ vì, do, bởi thường là trạng ngữ chỉ nguyên nhân...
2.4. Đối chiếu đặc điểm kết học của trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ
tiếng Việt
2.4.1. Những điểm giống nhau
Qua miêu tả về cấu tạo, vị trí, quan hệ với quan hệ từ hoặc liên từ, có
thể thấy trạng ngữ tiếng Anh và tiếng Việt có những đặc điểm giống nhau sau:
Về cấu tạo, trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt đều có thể được cấu
tạo là từ, ngữ hoặc mệnh đề. Trong đó, trạng ngữ tiếng Anh, mệnh đề chiếm
50.6%, cụm từ chiếm 33.3%, từ chiếm 16.1%. Trạng ngữ tiếng Việt, chiếm tỉ lệ
67
nhiều nhất lần lượt là cụm từ (53,6%), mệnh đề (28,9%), từ (18,5%).
Về vị trí, trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt đều có thể đứng ở các
vị trí khác nhau trong câu (đầu câu, giữa câu và cuối câu). Trong tiếng Anh,
vị trí đầu câu chiếm 69.1%, vị trí giữa câu chiếm 33.3%, vị trí cuối câu chiếm
16.1%. Trong tiếng Việt, vị trí đầu câu chiếm 87,6%, vị trí giữa câu chiếm
11,1%%, vị trí cuối câu chiếm 1,3%.
Về khả năng liên kết với quan hệ từ hoặc liên từ: Trang ngữ tiếng Anh
và tiếng Việt đều có khả năng liên kết phong phú với các từ này. Trạng ngữ
trong tiếng Anh có thể được bắt đầu bằng các liên từ như when (khi), after
(sau khi), as (khi), as long as (chừng nào), as soon as (ngay sau khi), before
(trước khi), since (từ khi), until/till (cho đến khi), whenever (bất cứ khi nào),
và while (trong khi), although/ though (mặc dù), considering that (xét thấy
rằng), even though (dù là), even if (dù cho), much as (tuy rằng), while (trong
khi đó), whereas (nhưng ngược lại, trong khi), however much/ badly/ good
(tuy vậy, song), no matter how much (thế nào đi nữa), assuming that (giả sử
là), if (nếu), on condition that (nếu như, với điều kiện là), provided that (với
điều kiện là), providing that (với điều kiện là), so/as long as (với điều kiện là,
miễn là), and unless (nếu không, trừ phi, trừ khi), because (vì), as (bởi vì),
seeing that (thấy rằng) and since (vì), in the way (theo cách), in the same way
(cũng cách thức như), as if (như thể), as though (làm như), where (nơi mà),
wherever (bất cứ nơi đâu), anywhere (bất kỳ nơi nào), everywhere (khắp mọi
nơi), so that (để mà), in order that (cốt để, mục đích để), in case (trong trường
hợp), lest (vì sợ rằng), for fear that (e rằng, sợ rằng)… Trạng ngữ trong tiếng
Việt, thường được dẫn nhập bằng các giới từ như ở, tại, trong, ngoài, trên,
dưới, giữa, lúc, khi, vào, vì, do, bởi, để, nhằm, tại…
2.4.2. Những điểm khác nhau
Hầu hết trạng ngữ trong tiếng Việt đều không phải là một từ đơn lẻ.
Chúng hầu hết là một cụm từ. Ngược lại, trong tiếng Anh trạng ngữ có cấu tạo
68
rất đa dạng, có thể là một từ, cụm từ hoặc mệnh đề.
Về cấu tạo của trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt: Mặc dù đều
có thể được cấu tạo là từ hoặc ngữ, mệnh đề nhưng tỉ lệ của từng loại trong trạng
ngữ tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt không giống nhau. Trong trạng ngữ tiếng
Anh mệnh đề chiếm tỉ lệ nhiều nhất (50.6%), tiếp đó là cụm từ (33.3%), cuối
cùng là từ (16.1%). Ngược lại, về cấu tạo của trạng ngữ tiếng Việt, chiếm tỉ lệ
nhiều nhất lần lượt là cụm từ (53.6%), mệnh đề (28.9%), từ (18.5%).
Về vị trí của trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt: Mặc dù đều
có thể đứng ở các vị trí khác nhau trong câu nhưng tỉ lệ của từng vị trí trong
trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt không giống nhau. Vị trí đầu câu
trạng ngữ tiếng Anh chiếm tỉ lệ ít hơn so với trong tiếng Việt (tiếng Anh
chiếm tỉ lệ 69.1%, tiếng Việt chiếm tỉ lệ 87.6%). Vị trí giữa câu, tỉ lệ tiếng
Anh chiếm nhiều hơn so với trong tiếng Việt (tiếng Anh chiếm tỉ lệ 21.1%,
tiếng Việt chiếm tỉ lệ 11.1%). Tương tự, vị trí cuối câu, tỉ lệ tiếng Anh chiếm
nhiều hơn so với tỉ lệ trong tiếng Việt (tiếng Anh chiếm tỉ lệ 9.8%, tiếng Việt
chiếm tỉ lệ 1.3%).
Như vậy, mặc dù trạng ngữ trong tiếng Anh và trạng ngữ trong tiếng
Việt có thể đứng ở đầu, giữa hoặc cuối câu nhưng vị trí đầu câu trong tiếng
Anh chiếm tỉ lệ ít hơn so với vị trí đầu câu trong tiếng Việt. Ngược lại, trạng
ngữ ở vị trí giữa và cuối câu trong tiếng Anh lại chiếm tỉ lệ cao hơn so với vị
trí tương đồng trong tiếng Việt.
2.5. Tiểu kết chƣơng 2
Qua thống kê, khảo sát, tìm hiểu cấu tạo của trạng ngữ và vị trí của
trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt, có thể thấy:
Trạng ngữ có 3 loại cấu tạo chính đó là: trạng ngữ là một danh từ/ cụm
danh từ; trạng ngữ là một động từ/ cụm động từ; trạng ngữ là một mệnh đề.
Hầu hết trạng ngữ trong tiếng Việt đều không phải là một từ đơn lẻ. Chúng
69
hầu hết là một cụm từ. Ngược lại, trong tiếng Anh trạng ngữ có cầu tạo rất đa
dạng, có thể là một từ, cụm từ hoặc mệnh đề trong đó mệnh đề chiếm tỉ lệ
nhiều nhất.
Có nhiều quan điểm khác nhau về vị trí của trạng ngữ trong câu nhưng
đa số các nhà nghiên cứu Việt ngữ học và Anh ngữ đều cho rằng, trạng ngữ
có thể đứng ở cả 3 vị trí trong câu: trạng ngữ đứng đầu câu, cuối câu và xen
vào giữa nòng cốt câu.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy, trong tiếng Anh, vị trí giữa câu và
cuối câu chiếm nhiều hơn so với cùng vị trí trong tiếng Việt. Ngược lại, vị trí
trạng ngữ tiếng Việt đứng ở đầu câu lại chiếm tỉ lệ nhiều hơn so với vị trí
70
tương đồng trong tiếng Anh.
Chƣơng 3
NGHĨA HỌC CỦA TRẠNG NGỮ TIẾNG ANH
ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT
3.1. Dẫn nhập
Theo lí thuyết tín hiệu học của Morris, nghiên cứu bình diện nghĩa học
của tín hiệu là nghiên cứu quan hệ giữa tín hiệu với hiện thực bên ngoài tín
hiệu.Trong chương này, chúng tôi sẽ khảo sát trạng ngữ trong tiếng Anh đối
chiếu với tiếng Việt từ góc độ nghĩa học, mà nội dung chính là nghiên cứu
nghĩa biểu hiện của trạng ngữ trong cấu trúc nghĩa sự tình của câu. Cụ thể,
chương này sẽ khảo sát ý nghĩa của trạng ngữ và phân loại chúng vào theo các
tiêu chí về nghĩa học. Sự mô tả này sẽ là cơ sở để chúng tôi tiến hành đối
chiếu để tìm ra những tương đồng và khác biệt về mặt nghĩa học của trạng
ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Trong phạm vi luận án này, chúng tôi tạm thời tán đồng quan điểm của
các tác giả L.G. Alexander (trong cuốn Longman English Grammar), Bùi Ý -
Vũ Thanh Phương (trong cuốn "Ngữ pháp tiếng Anh") và Lê Dũng (trong
cuốn "Ngữ pháp tiếng Anh nâng cao"), chia trạng ngữ trong tiếng Anh về mặt
ngữ nghĩa thành 9 loại sau: trạng ngữ chỉ thời gian, trạng ngữ chỉ địa điểm,
trạng ngữ chỉ cách thức, trạng ngữ nguyên nhân, trạng ngữ chỉ mục đích,
trạng ngữ chỉ kết quả, trạng ngữ so sánh, trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ, trạng
ngữ điều kiện.
Qua khảo sát, thống kê, phân loại 1500 trạng ngữ, chúng tôi thu được
71
kết quả như sau:
Bảng 3.1: Các loại trạng ngữ tiếng Anh
Số lƣợng Tỉ lệ (%) Các loại trạng ngữ
Trạng ngữ chỉ thời gian 323 21.5
Trạng ngữ chỉ địa điểm 311 20.7
Trạng ngữ chỉ cách thức 145 9.6
Trạng ngữ chỉ điều kiện 112 7.4
Trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ 101 6.7
Trạng ngữ chỉ mục đích 125 8.3
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân 122 8.1
Trạng ngữ chỉ kết quả 122 8.1
Trạng ngữ chỉ so sánh 139 9.6
Tổng số 1500 100.0
9.6
21.5
8.1
8.1
8.3
20.7
6.7
7.4
9.6
Trạng ngữ chỉ thời gian
Trạng ngữ chỉ địa điểm
Trạng ngữ chỉ cách thức
Trạng ngữ chỉ điều kiện
Trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ Trạng ngữ chỉ mục đích
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân
Trạng ngữ chỉ kết quả
Trạng ngữ chỉ so sánh
72
Các loại trạng ngữ trong tiếng Anh
Như vậy, có sự khác biệt về tỉ lệ của các loại trạng ngữ trong tiếng
Anh. Loại trạng ngữ chiếm tỉ lệ nhiều nhất là các loại trạng ngữ chỉ thời gian
(21.5%); địa điểm (20.7%). Loại trạng ngữ tiếng Anh chiếm tỉ lệ ít nhất là
trạng ngữ chỉ điều kiện (7.4%) và trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ (6.7%).
3.2. Nghĩa học của trạng ngữ trong tiếng Anh
3.2.1. Trạng ngữ chỉ thời gian
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 323/1500 trạng ngữ chỉ thời
gian (chiếm 21.5%). Trong đó, có trạng ngữ chỉ thời gian là mệnh đề, trạng
ngữ chỉ thời gian là cụm giới từ, trạng ngữ chỉ thời gian là từ.
Trạng ngữ chỉ thời gian có thể là thời gian được xác định cụ thể (quá
khứ, hiện tại, hoặc tương lai) và có thể là thời gian không xác định (thời gian
không cụ thể)
Thời gian xác định trong tiếng Anh là thời gian có thể trả lời được câu
hỏi when? Và xác định được các thì của nó. Ví dụ:
Trạng ngữ chỉ thời gian quá khứ. Ví dụ
"Yesterday Amy ran over and put her arms around Tracy, and
Tracy pushed her away." (If Tomorrow Comes, 103) "Hôm qua Amy chạy
tới ôm Tracy, và Tracy đẩy con bé ra."
Trong ví dụ trên, trạng ngữ yesterday là trạng ngữ thời gian chỉ quá
khứ (hôm qua), bổ sung nghĩa cho động từ chạy.
Trạng ngữ chỉ thời gian hiện tại. Ví dụ:
"I'm busy at the moment," Fache radioed back, leaving no doubt in his
tone that a line had been crossed" (The Da Vinci Code, 43)
Trong ví dụ trên, at the moment là trạng ngữ thời gian có ý nghĩa chỉ
thời gian hiện tại (bây giờ, ngay bây giờ) của nhân vật.
73
Trạng ngữ chỉ thời gian tương lai. Ví dụ:
"Tomorrow night I'm meeting Charles's parents" (If Tomorrow
Comes, tr. 2) "Tối mai, con sẽ gặp cha mẹ Charles."
Trong ví dụ trên, tomorrow night là trạng ngữ thời gian có ý nghĩa chỉ
thời gian tương lai (tối mai) và thông báo hoạt động của nhân vật (sẽ gặp
Charles).
Trạng ngữ chỉ thời quan không xác định. Trong tiếng Anh loại trạng
ngữ này thường được cấu tạo là các trạng từ chỉ thời gian không xác định
như: afterward (sau đó, về sau, sau này), early (sớm), alreadly (đã, vừa... rồi),
just (vừa, vừa mới), once (một lần), presently (hiện thời, bây giờ), soon
(chẳng bao lâu, sớm), still (vẫn còn), eventually (cuối cùng, kết quả là)...
Ví dụ:
"Afterward, they lay on their sides, facing each other." (If
Tomorrow Comes, 203) "Sau đó, họ nằm nghiêng, đối mặt nhau."
"They would eventually find her and bring her back" (If Tomorrow
Comes, 106) "Cuối cùng họ sẽ tìm thấy cô ấy và mang cô ấy trở lại"
Các trạng ngữ ở các ví dụ trên, đều chỉ ra khoảng thời gian không xác
định (sau đó, cuối cùng).
Những trạng ngữ có trạng từ thời gian không xác định thường theo sau
động từ to be
"The tour he was presently on seemed to be mainly for that purpose.
"(If Tomorrow Comes, 150) "Chuyến lưu diễn mà anh ấy đang tham gia
dường như chủ yếu cho mục đích đó."
Trạng từ chỉ thời gian không xác định early/late thường đứng sau mệnh
đề hoặc cuối câu. Ví dụ:
"Miss Whitney checked out early this afternoon." (If Tomorrow
74
Comes, 246) "Chiều nay, cô Whitney đã trả phòng sớm."
Qua khảo sát cho thấy, trạng ngữ chỉ thời gian có thể kết hợp với vị tố
thuộc các từ loại khác nhau như danh từ, động từ, tính từ... Quan hệ giữa
trạng ngữ và vị tố thường là quan hệ hoạt động (đặc điểm) - thời gian diễn ra
hoạt động. Ví dụ:
Trạng ngữ thời gian kết hợp với vị tố là động từ.
"And as the Christmas season approached, Ashley came home on
furlough." (Gone with the wind, 217) "Và khi mùa Giáng sinh đến gần,
Ashley trở về nhà vào mùa đông."
Trạng ngữ chỉ thời gian And as the Christmas season approached có
kết hợp với vị tố là động từ come.
Như đã nói ở mục 2.2.3, trạng ngữ chỉ thời gian trong tiếng Anh
thường được bắt đầu bằng các liên từ như when (khi), after (sau khi), as (khi),
as long as (chừng nào), as soon as (ngay sau khi), before (trước khi), since (từ
khi), until/till (cho đến khi), whenever (bất cứ khi nào), và while (trong khi).
Ví dụ:
"When the last sound of carriage wheels had died away and she knew
the family was safely out of sight, she slipped quietly into Melanie‘s room and
turned the key in the lock." (Gone with the wind, 173) "Khi tiếng bánh xe
chìm khuất và biết rõ không còn ai trong nhà có thể bắt gặp, nàng lẻn vào
phòng Melanie và khóa trái cửa lại."
" And as the Christmas season approached, Ashley came home on
furlough." (Gone with the wind, 217) "Và khi mùa Giáng sinh đến gần,
Ashley trở về nhà vào mùa đông."
"If you'll give me your number, I'm sure he'll telephone you as soon as
he can." (If Tomorrow Comes, 36) "Nếu bạn cho tôi số điện thoại của bạn, tôi
75
chắc chắn anh ấy sẽ gọi điện cho bạn ngay khi có thể."
"Of course, he was the only boy his mother had and, after all,
somebody had to be in the militia to protect the state." (If Tomorrow Comes,
189) "Dĩ nhiên cậu ta là con trai duy nhứt và dầu sao cũng cần có người ở lại
để bảo vệ tiểu bang."
Mệnh đề trạng ngữ có vị từ dạng -ed có các thành phần phụ sau: as
soon as, once, till, until, when, whenever, while, and whilst. Ví dụ:
"Once enclosed by King Henry VIII and stocked with deer for the hunt,
St. James's Park is now open to the public" (The Da Vinci Code, 324) "Trước
kia, vua Henry VIII cho rào kín công viên này, thả nai rừng để săn bắn, đến
nay, công viên Thánh James mở cửa thường xuyên cho công chúng."
Mệnh đề trạng ngữ chỉ thời gian liên kết thời gian của tình huống xảy
ra trong mệnh đề với thời gian của tình huống trong mệnh đề phức hợp.
• Thời gian của mệnh đề phức hợp xảy ra trước mệnh đề trạng ngữ:
until (cho đến khi), đồng thời xảy ra cùng một lúc: while (trong khi), xảy ra
sau đó (sau đó).
• Mối quan hệ thời gian cũng có thể truyền đạt về khoảng thời gian: as
long as (miễn là), tái diễn: whenever (bất cứ khi nào), tương đối gần nhau:
just after (ngay sau …).
Các thành phần phụ có thể được diễn tả bằng các cụm giới từ như in
case when (đề phòng khi) hay in circumstances where (trong hoàn cảnh nào).
"Whenever groups of men from the fighting were in town for the night,
dinners were given for them and afterwards there was dancing and the girls,
outnumbering the men ten to one, made much of them and fought to dance
with them." (Gone with the wind, 258) "Mỗi khi có lính từ trên trận tuyến
xuống và ở lại đêm trong thành phố, người ta lại mở những bữa tiệc vinh dự
đón tiếp họ kèm theo là khiêu vũ thường, và những cô gái, đông hơn họ gấp
76
mười lần, tranh cãi nhau để được nhảy với họ."
"When the computer pinged again, though, the offering was
unexpected." (The Da Vinci Code, 328) "Tuy nhiên, khi máy tính ping lại, kết
quả cung cấp thật bất ngờ"
"The matrons stood watching while the prisoners dressed." (If
Tomorrow Comes, 49) "Những nữ giám thị đứng coi trong khi các nữ tù mặc
váy áo."
- "When I leave here, the two people I'll miss will be a black, bald-
headed bull-dyke and a young girl." (If Tomorrow Comes, 110)
"Khi rời khỏi chốn này, mình sẽ nhớ hai người - người đàn bà da đen
tốt bụng và con bé này đây."
―And while I‘m not trying to lessen Old Beau‘s reputation, my first
son is going to be named ‗Bob Lee Wellburn.‘‖ (Gone with the wind, 509)
"Tại sao tôi không bắt chước cái lối đặt tên như vậy kìa, đứa con đầu
lòng của tôi sẽ tên là Bob Lee Wellburn."
"After a while, Langdon looked over at Sophie." (The Da Vinci Code, 379)
"Một lúc sau, Langdon nhìn qua Sophie."
- "As soon as the police learn of the robbery, they'll close up the city
tight." (If Tomorrow Comes, 384) "Ngay khi cảnh sát biết vụ trộm, họ sẽ
đóng cửa thành phố."
Ngoài mệnh đề, trạng ngữ chỉ thời gian còn được cấu tạo là cụm giới
từ. Ví dụ:
"During the next five days Tracy and Jeff kept Inspector van
Duren's men busy, and Daniel Cooper carefully examined all the daily
reports" (If Tomorrow Comes, 412) "Trong năm ngày tiếp theo đó, Tracy và
Jeff đã làm cho thanh tra Duren bận bịu suốt, còn Daniel Cooper thì thận
77
trọng xem xét tất cả các báo cáo hàng ngày."
"In the afternoon Jeff brought back two suitcases filled with robes and
nightgowns, underwear, dresses, and shoes, and a makeup kit and a comb
and brush and hair dryer, toothbrushes and toothpaste." (If Tomorrow
Comes, 391) "Buổi chiều, Jeff mang về hai vali đầy chặt váy ngắn, váy ngủ,
đồ lót, váy liền áo, giày dép và một hộp son phấn cùng với lược, bàn chải và
kem đánh răng."
"You leave for Paris in the morning" (If Tomorrow Comes, 270)
"Ngày mai bạn phải đi Paris."
Các cụm giới từ During the next five days ,
Ngoài mệnh đề, cụm giới từ, trạng ngữ chỉ thời gian còn được cấu tạo
là trạng từ, cụm trạng từ. Ví dụ:
Ví dụ:
"He‘ll be back at work tomorrow." (Gone with the wind, 663)
"Ngày mai, anh ta sẽ trở lại làm việc."
"Yesterday afternoon, Silas had phoned the curator and posed as a
distraught priest." (The Da Vinci Code, 354)
"Chiều hôm qua, Silas đã gọi điện cho người phụ trách và sắm vai một
linh mục quẫn trí."
3.2.2. Trạng ngữ chỉ địa điểm
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 311/1500 trạng ngữ chỉ địa điểm
(chiếm 20.7%). Trong đó, có trạng ngữ chỉ địa điểm là mệnh đề, trạng ngữ chỉ
thời gian là cụm giới từ, trạng ngữ chỉ thời gian là từ.
Trạng ngữ chỉ địa điểm cụ thể là những trạng ngữ xác định địa điểm cụ
thể, mang tính trực chỉ (deixis) như here (ở đây), there (ở đó), hoặc những từ
ngữ chỉ địa điểm cụ thể. Ví dụ:
"I'll make arrangements for them to stay here at the house" (If
78
Tomorrow Comes, 15) "Tôi sẽ sắp xếp cho cô ấy ở lại ngay tại nhà này"
Trạng ngữ chỉ địa điểm chưa cụ thể là những trạng ngữ chưa xác định
địa điểm cụ thể như far ahead (xa phía trước), far away (ra xa nữa)…Ví dụ:
"Looking up to see where the stone had come from, he saw a hole in the
trembling wall, and beyond it, a vision he had not seen in over ten years"
(The Da Vinci Code, 48) "Ngước lên để xem hòn đá rơi từ đâu, hắn nhìn thấy
một lỗ hổng trên bức tường đang rung động, và bên ngoài, một hình ảnh mà
suốt hơn mười năm qua hắn không được thấy."
Trạng ngữ chỉ địa điểm, hiểu theo nghĩa rộng hơn, có thể chỉ cả vị trí và
phương hướng. Trạng ngữ địa điểm dùng để chỉ vị trí là những trạng ngữ trả
lời cho câu hỏi ở đâu và thường đi cùng với các động từ định vị như live
(sống), stay (ở lại), work … Ví dụ:
"Harry Potter come and live here?" (Harry Potter and the Philosopher‘s
Stone, 15) "Harry Potter mà phải đến sống ở đây sao?"
Trạng ngữ địa điểm chỉ phương hướng là những trạng ngữ trả lời câu
hỏi ―đến đâu‖, ―từ đâu đến‖ và thường đi sau những động từ phương hướng
như come (đến), drive (lái xe), go (đi).
"He had wrapped her in blankets and carried her out to the car, where
she had remained unconscious during the drive to Alkmaar" (Gone with the
wind, 387) "Anh đã cuốn nàng trong một tấm mền, ẵm ra ô tô, và suốt quãng
đường tới Alkmaar nàng vẫn không hề một lần tỉnh lại."
Qua khảo sát cho thấy, trạng ngữ chỉ địa điểm có thể kết hợp với vị tố
(predicator) được biểu thị bằng các danh từ chỉ địa điểm. Quan hệ giữa trạng
ngữ và vị tố thường là quan hệ hoạt động (đặc điểm) - địa điểm diễn ra hoạt
động. (xem các ví dụ ở trên).
Như đã nói ở mục 2.2.3, trong tiếng Anh, trạng ngữ chỉ địa điểm
thường được bắt đầu bằng các liên từ: where (nơi mà), wherever (bất cứ nơi
79
đâu), anywhere (bất kỳ nơi nào), everywhere (khắp mọi nơi).
Trạng ngữ chỉ địa điểm có thành phần phụ là where (cụ thể), wherever
(không cụ thể).
• Mệnh đề chỉ vị trí
" I'm serious, my dear. You would travel to Amsterdam, which is only
an hour from where you are now" (If Tomorrow Comes, 398) "Tôi nghiêm
túc đấy, em yêu. Em sẽ đi du lịch đến Amsterdam, nơi chỉ cách em bây giờ
một giờ."
• Mệnh đề chỉ phương hướng (phương hướng của chuyển động hoặc
phương hướng của mắt nhìn)
"High up on the plateau at the foot of the Blue Ridge Mountains, she
saw rolling red hills wherever she looked, with huge outcroppings of the
underlying granite and gaunt pines towering somberly everywhere." (Gone
with the wind, 46) "Trên đỉnh cao nguyên nằm dưới chân rặng núi Blue
Ridge, Ellen có thể thấy những ngọn đồi tròn đất đỏ, với những hiện tượng
đột khởi của đá hoa cương và những hàng thông cao vút, khắp nơi."
Một số thành phần phụ có ý nghĩa nhất định trong việc diễn tả ngữ
cảnh, khi ngữ cảnh được tả động về sự di chyển từ nơi này sang nơi khác:
"He made the mistake of showing his ID when he entered the abbey."
(The Da Vinci Code, 359) "Việc để lộ ID cá nhân là một sai lầm khi anh ta
vào tu viện."
Không có giới hạn về thời (của động từ) trong mệnh đề trạng ngữ chỉ
địa điểm.Ví dụ:
"Just think, there‘s not a home in Charleston where I am received."
(Gone with the wind, 158) "Đây nầy, chẳng một gia đình ở Charleston thừa
nhận tôi."
"Wherever it was, two important facts remained" (Gone with the wind,
80
142) "Bất kể nó ở đâu, thì vẫn tồn tại hai thực tế quan trọng."
Trạng ngữ chỉ địa điểm ngoài cấu tạo là mệnh đề còn được cấu tạo là
cụm giới từ. Ví dụ:
"Tracy sat up in her bunk, instantly on guard." (If Tomorrow Comes, 105)
"Tracy ngồi dậy trong chiếc giường của mình, ngay lập tức cảnh giác."
Trong ví dụ trên, in her bunk là cụm giới từ chỉ địa điểm dùng làm
trạng ngữ.
Ngoài ra, trạng ngữ chỉ địa điểm còn được cấu tạo là trạng từ
"I've already been there, Sophie thought, picturing the ritual in the
basement." (The Da Vinci Code, 144) "Tôi đã ở đó rồi, Sophie nghĩ, hình
dung ra nghi thức dưới tầng hầm."
"I must speak to George about it when he comes home for lunch,
Sue Ellen decided." (If Tomorrow Comes, 110) "Tôi phải nói chuyện với
George về điều đó khi anh ấy về nhà ăn trưa, Sue Ellen quyết định"
3.2.3. Trạng ngữ chỉ cách thức
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 145/1500 trạng ngữ chỉ cách
thức (chiếm 9.6%). Trong đó, có trạng ngữ chỉ cách thức là mệnh đề, trạng
ngữ chỉ thời gian là cụm giới từ, trạng ngữ chỉ thời gian là từ.
Trong tiếng Anh, trạng ngữ chỉ cách thức dùng để nói lên tính cách hay
hoàn cảnh của một sự kiện hoặc của một tình huống, cung cấp thêm thông tin
về cách thức mà một sự kiện hay tình huống đã xảy ra. Trạng ngữ chỉ cách
thức trả lời câu hỏi How?
Trạng ngữ chỉ cách thức miêu tả cách thức mà một sự việc nào đó thực
hiện. Ví dụ: "Tracy chose her words carefully". (If Tomorrow Comes, 89)
"Tracy lựa lời một cách thận trọng"
"She had dressed carefully" (If Tomorrow Comes, 341)
"Cô ấy đã ăn mặc cẩn thận"
81
"It will be quicker this way." (Harry Potter and the Philosopher‘s Stone, 187)
"Nó sẽ nhanh hơn theo cách này."
Các trạng ngữ chỉ cách thức còn biểu thị cách thức mà một sự việc
được thực hiện và cả cảm xúc của người thực hiện sự việc ấy.
Ví dụ: "Ron sighed happily" (Harry Potter and the Philosopher‘s Stone, 192)
"Ron sung sướng thở phào."
Có nghĩa là Ron sighed in a happy way and Ron was feeling happy.
Các trạng ngữ chỉ cách thức cũng có thể cho biết hoàn cảnh mà các sự
việc được thực hiện. Chẳng hạn trong câu "It's not strictly ethical, but I'm going to
speak to him privately (If Tomorrow Comes, 36) ( Kể ra là trái quy định, song tôi
có thể nói chuyện riêng với ông ấy) thì "privately" ở đây có nghĩa là "không có sự
hiện diện của ai khác để có thể nói chuyện riêng với nhau"
Trạng ngữ chỉ cách thức nói về lối cư xử của ai đó hay cách thức để
thực hiện một việc gì đó. Ví dụ:
"You acted instinctively in the way any decent citizen would have
acted." (If Tomorrow Comes, 122)
"Bạn đã hành động theo bản năng theo cách mà bất kỳ công dân tử tế
nào cũng sẽ hành động."
Qua khảo sát cho thấy, trạng ngữ chỉ cách thức có thể kết hợp với vị tố
được biểu thị bằng các động từ và tính từ. Quan hệ giữa trạng ngữ và vị tố
thường là quan hệ hoạt động (đặc điểm) - cách thức diễn ra hoạt động.
Như mục 2.2.3 thì trạng ngữ cách thức trong tiếng Anh thường được
bắt đầu bằng các liên từ: as (như là), in the way (theo cách), in the same way
(cũng cách thức như), as if (như thể), as though (làm như).
Đối với mệnh đề trạng ngữ chỉ cách thức có vai trò làm trạng ngữ chỉ
cách thức trong câu. Mệnh đề này thường bắt đầu bằng as hay as if, đều có
nghĩa là: Như là, như. Không có giới hạn về thời (của động từ) trong mệnh đề
82
trạng ngữ chỉ cách thức.
Ví dụ:
"She whispered, as a sweet madness swept over her." (Gone with the wind,
156) "Nàng lẩm bẩm trong khi ngọn lửa cuồng dại êm ả nung nấu cả hồn nàng."
+ As: Như là
Ví dụ: "No one would ever have the temerity to think of Gerald O‘Hara
as a ridiculous little figure." (Gone with the wind, 25) "Không một ai dám táo
bạo coi Gerald O'Hara như là một kẻ thấp bé buồn cười"
+ As if: như thể là.
Mệnh đề bắt đầu với as if thường là mệnh đề giả định, diễn tả sự việc
không có thật.
Ví dụ: "A hat, gloves, and purse appeared, as if by magic." (The Da
Vinci Code, 104). "Và cứ như có phép lạ, một cái mũ, một đôi găng tay và
một cái bóp lần lượt hiện ra."
"It was almost as if he were trying to believe there wasn‘t any war".
(Gone with the wind, 176) "Nó gần như là anh ta đang cố gắng tin rằng
không có bất kỳ cuộc chiến nào."
Trạng ngữ chỉ cách thức là cụm giới từ
Ví dụ: "He cursed, gave some quick directions in French, and said he
would be up to the lobby in a minute." (The Da Vinci Code, 157) "Ông ta chửi
thề, chỉ dẫn ngắn gọn vài lời bằng tiếng Pháp, và nói ông sẽ có mặt ở sảnh
sau một phút nữa."
Trong ví dụ trên ―in French‖ (bằng tiếng Pháp) được hiểu là trạng ngữ
cách thức, theo một cách hiểu rộng, chỉ ra loại ngôn ngữ được dùng để thực
hiện lời nói.
"For their generous assistance in the research of the book." (The Da
Vinci Code, 1) "Đối với sự giúp đỡ hào phóng của họ trong nghiên cứu của
83
cuốn sách."
"But there were two difficulties in the way of marriage into the County
families." (Gone with the wind, 122) "Nhưng có hai khó khăn trong cách kết
hôn với các gia đình Quận."
Trạng ngữ chỉ cách thức là trạng từ
"The curator spoke his next words carefully." (The Da Vinci Code, 3)
"Người phụ trách nói những lời tiếp theo của mình một cách cẩn thận."
"She had already won their sympathy by the fact that she had to work
because her husband couldn‘t or wouldn‘t support her properly." (Gone with
the wind, 691) "Nàng đã chiếm được thiện cảm của họ do việc nàng phải làm
ăn sinh sống vì chồng nàng không đủ khả năng hoặc không muốn chu cấp cho
thỏa đáng."
3.2.4. Trạng ngữ chỉ điều kiện
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 112/1500 trạng ngữ chỉ điều
kiện (chiếm 7.4%). Phạm vi, ranh giới giữa trạng ngữ điều kiện và nhượng bộ
chưa rõ. Sự chồng chéo của chúng được thể hiện qua việc sử dụng chồng chéo
các thành phần phụ. Hơn nữa, chúng còn nhấn mạnh sự phụ thuộc bất kì của tình
huống này đối với tình huống khác và tính chất bất ngờ của sự phụ thuộc này.
"Maybelle looked so very pregnant it was a disgrace for her to be out
in public, even if she did have her shawl carefully draped over her." (Gone
with the wind, 211) "Maybelle đã gần ngày sanh và dù đã được che khăn cẩn
thận, cô ta cũng không khỏi xấu hổ khi phải ra ngoài trong tình trạng đó"
Hai trạng ngữ này có hướng nằm ở đầu cầu trong mệnh đề chính chi
phối. Nói chung, mệnh đề có điều kiện truyền đạt điều kiện trực tiếp của tình
huống trong mệnh đề phức hợp phụ thuộc vào mệnh đề điều kiện.
"If a rising Priory sénéchal can open it, he proves himself worthy of the
84
information it holds." (The Da Vinci Code, 174)
"Nếu pháp quan kế nhiệm trong Tu viện Sion có thể mở được nó, ông ta
sẽ chứng tỏ mình xứng đáng được nắm thông tin mà nó tàng chứa."
Việc dự đoán ―he proves himself worthy of the information it holds..‖
(xứng đáng được nắm thông tin) phụ thuộc vào việc thực hiện điều kiện ―can
open it‖ (mở được nó).
Các thành phần phụ hay được sử dụng trong mệnh đề trạng ngữ là if
(nếu) và unless (trừ phi). Chúng cũng được sử dụng trong mệnh đề giản lược
động từ và mệnh đề không biến vị. Các thành phần phụ trong mệnh đề điều
kiện khác không được sử dụng trong mệnh đề biến vị: given (that) (được đưa
ra) (trang trọng), on condition (that) (trong điều kiện), provided (that) (đưa
ra) providing (that) (đưa ra), supposing (that) (cho rằng).
"Unless you have a submarine or a helicopter in your pocket, I don't
think you'll get away with robbing anyone on this ship" (If Tomorrow Comes,
230) "Trừ khi ông có một chiếc tàu ngầm hoặc một máy bay lên thẳng, còn thì
tôi cho rằng ông sẽ không thể trốn đi đâu được với những thứ ông cướp của
bất kỳ ai đó trên con tàu này"
"He went into Jonesboro with me, in case Wilkerson got me first." (Gone
with the wind, 544) "Anh theo tôi tới Jonesboro, đề phòng trường hợp thằng
kia ra tay sớm hơn."
"If not the possessor of the keystone, then who?" (The Da Vinci Code, 250)
"Nếu không phải là người sở hữu viên đá đỉnh vòm thì còn là ai?"
Một số mệnh đề điều kiện thể hiện điều kiện trực tiếp mà không liên quan
đến tình huống xảy ra trong mệnh đề phức hợp. Ví dụ:
"if Langdon's instincts were correct, the Grand Master of the Priory of
Sion had just transferred the brotherhood's legendary keystone to his
granddaughter and simultaneously commanded her to find Robert Langdon."
85
(The Da Vinci Code, 175) "Nếu linh cảm của Langdon là đúng, thì Đại Sư
của Tu viện Sion vừa chuyển giao viên đá đỉnh vòm huyền thoại của tổ chức
này cho cô cháu gái và lệnh cho cô tìm gặp Langdon."
"If you will forgive the cliché, I will be wearing a red carnation." (The
Da Vinci Code, 274) "Mong cô thứ lỗi vì sự đường đột, tôi sẽ cài một bống
cẩm chướng đỏ trên ve áo"
Mệnh đề giản lược động từ và mệnh đề không biến vị với thành phần phụ
with hoặc without thể hiện mối quan hệ điều kiện.
"Without slacking, she looked trembling over her shoulder and saw Big
Sam racing down the road behind her, his long legs working like hard-driven
pistons." (Gone with the wind, 667)
"Không lỏng tay cương, nàng run rẩy ngoái lại nhìn và thấy Xam Lớn
chạy theo, đôi cẳng dài guồng như máy."
"With the help of Jesus' trusted uncle, Joseph of Arimathea, Mary
Magdalene secretly traveled to France, then known as Gaul." (The Da Vinci
Code, 216) "Với sự giúp đỡ của người bác đáng tin cậy của Jesus, Joseph,
Joseph xứ Arimathea, Mary Magdalene đã bí mật tới Pháp, rồi lấy tên Gaul."
Điều kiện giả thiết và điều kiện mở:
- Điều kiện trực tiếp có thể là:
+ Điều kiện mở là trung lập, chúng đề lại câu hỏi chưa được giải quyết của
việc thực hiên hay không thực hiện điều kiện, vì thế sự thật của mệnh đề
nghĩa được thể hiện qua mệnh đề phức hợp
"You will call me if you change your mind?" (The Da Vinci Code,
251) "Bạn sẽ gọi cho tôi nếu bạn đổi ý?"
Mặt khác, điều kiện giả thiết truyền đạt tới làm cho người nghe tin rằng
điều kiện sẽ không được thực hiện (điều kiện ở thì tương lai), không thực hiện
86
được (điều kiện ở thì hiện tại), đã không thực hiện được (điều kiện ở thì quá
khứ) vì thế sai lầm có thể có hoặc nhất định có của mệnh đề nghĩa được thể
hiện qua mệnh đề phức hợp.
"If something with claws and horns came and sat on your chest, you‘d
tell it to get the hell off you, wouldn‘t you?" (Gone with the wind, 777) "Nếu
một cái gì đó có móng vuốt và sừng đến và ngồi trên ngực của bạn, bạn sẽ
cầu xin với nó để thoát khỏi địa ngục chứ?"
"I would be remiss if I did not mention the two extraordinary women
who have touched my life." (The Da Vinci Code, 1) "Tôi sẽ hối hận nếu tôi
không nhắc đến hai người phụ nữ phi thường đã chạm vào cuộc đời tôi."
"If I told you how much fuckin' tax-free money we was pullin'
down, you wouldn't believe me." (If Tomorrow Comes, 79)
"Nếu tôi nói với bạn số tiền miễn thuế mà chúng tôi đã rút xuống, bạn
sẽ không tin tôi."
Mệnh đề điều kiện giống như câu hỏi mà trong đó chúng trung lập về
việc mong đợi một câu trả lời hay thiên về một trả lời phủ định, vì thế chúng
có xu hướng chấp nhận những điều thiếu quả quyết
"I shall certainly sit up all night and shoot him if he comes back."
(Gone with the wind, 776) "Tôi chắc chắn sẽ ngồi dậy cả đêm và bắn anh ta
nếu anh ta quay lại"
"If I die, the truth will be lost forever." (The Da Vinci Code, 3)
"Nếu tôi chết, sự thật sẽ mất mãi mãi."
- Mệnh đề điều kiện có phép tu từ
Mệnh đề điều kiện có phép tu từ cho phép xuất hiện điều kiện mở, nhưng
(giống với câu hỏi tu từ) chúng đưa ra các các quyết định một cách quyết đoán.
Có hai loại:
• Nếu mệnh đề nghĩa trong mệnh đề phức hợp rõ ràng là vô lí, mệnh đề
87
nghĩa trong mệnh đề điều kiện được chỉ ra là đúng.
"Oh, India would glory in telling her, not caring if she blackened Ashley‘s
name, not caring if she hurt Melanie, if by so doing she could injure Scarlett!"
(Gone with the wind, 178) "Inđiơ ắt sẽ đắc ý mà mách nàng, bất kể việc đó có
thể bôi nhọ thanh danh Ashley, hoặc làm Melanie đau đớn, miễn là có thể làm
hại được Scarlett"
• Nếu mệnh đề nghĩa trong mệnh đề điều kiện (mệnh đề bao gồm các biểu
thức tính toán) rõ ràng là đúng thì mệnh đề nghĩa trong mệnh đề phức hợp
được chỉ ra là đúng.
"Charles doesn't mind if I keep working after we're married" (If
Tomorrow Comes, 3)
"Charles sẽ không phản đối việc con tiếp tục đi làm sau khi cưới."
Như mục 2.2.3, trạng ngữ điều kiện trong tiếng Anh thường kết hợp với
các liên từ như assuming that (giả sử là), if (nếu), on condition that (nếu như,
với điều kiện là), provided that (với điều kiện là), providing that (với điều
kiện là), so/as long as (với điều kiện là, miễn là), and unless (nếu không, trừ
phi, trừ khi).
3.2.5. Trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ
Mệnh đề chỉ sự nhượng bộ có các thành phần phụ là although hoặc
thông thường hơn là though. Một số thành phần phụ khác while, whereas
(trang trọng), and even if:
"Her heart always ached with pity for him, although she was almost too
tired and sleepy to feel anything." (Gone with the wind, 818) "Tim nàng luôn
luôn nhói vì thương Rhett, mặc dù nàng đã mệt và buồn ngủ tới mức gần như
không còn cảm thấy gì."
"Sophie Neveu's odd interruption, though unfortunate, had been only a
minor wrinkle." (The Da Vinci Code, 62) "Sự cắt ngang của Sophie Neveu, dù
88
không may, chỉ là một gợn sóng nhỏ."
Ngoài trừ whereas (trong khi) ra thì tất cả các thành phần phụ có thể
được sử dụng trong mệnh đề giản lược động từ, mệnh đề -ing, mệnh đề -ed.
―Can this wanness mean that you‘ve been missing me?‖ he questioned
and though his lips smiled, his eyes did not. (Gone with the wind, 816) "Liệu
có thể do nhớ tôi mà bà xanh xao đến như thế không? chàng hỏi, miệng mỉm
cười, nhưng mắt vẫn nghiêm."
Mệnh đề chỉ sự nhượng bộ chỉ rõ sự đối lập của tình huống xảy ra trong
mệnh đề phức hợp so với mong đợi của ai đó trong mệnh đề chỉ sự nhượng
bộ. Có thể xem xét từng tình huống xảy ra không như mong đợi theo mức độ
của từng người để chọn thành phần phụ hợp lí.
"Although his female colleagues insisted the gray only accentuated his
bookish appeal, Langdon knew better." (The Da Vinci Code, 6) "Mặc dù các
đồng nghiệp nữ một mực nói rằng tóc bạc chỉ làm tôn thêm sức quyến rũ bác
học của ông, nhưng Langdon thừa biết là đâu phải thế."
Thì hiện tại đơn và quá khứ đơn trong chỉ định thức (indicative mood)
được sử dụng trong mệnh đề.
Ví dụ:
"Although it no longer spoke to him, he felt a comforting aura in its
presence." (The Da Vinci Code, 50) "Mặc dù nó không nói gì với hắn, hắn
vẫn cảm thấy một vầng sáng an ủi trong sự hiện diện của nó."
"He was staunchly Presbyterian, even though his family were Catholic,
and the thought of his daughter becoming a nun was even worse than that of
her marrying Gerald O‘Hara." (Gone with the wind, 45) "Ông theo phái
Trưởng Lão giáo trong khi nhà ông theo Công giáo và ý nghĩ con gái sẽ trở
thành một nữ tu sẽ làm ông khó chịu hơn là lấy Gerald O'Hara."
"I want to punish whoever did this to you, but I'll need your testimony."
(If Tomorrow Comes, 68) "Tôi muốn trừng phạt những kẻ đã làm chuyện này
89
đối với cô song tôi cần lời chứng của cô."
- Mệnh đề chỉ sự nhượng bộ - điều kiện thay thế
Thứ tự tương ứng whether ….or (whether) kết hợp với nghĩa điều kiện của
if với nghĩa biệt ngữ either …or
"Whether or not you are guilty, you most certainly will be held by
DCPJ until they can figure out what really happened." (The Da Vinci Code,
59) "Dù ông có tội hay không, chắc chắn ông cũng sẽ bị DCPJ giữ cho đến
khi họ khám phá ra điều đã thực sự xảy ra."
"Except on rare occasions she always wore her riding habit, for
whether she rode or not she always expected to ride and in that expectation
put on her habit upon arising". (Gone with the wind, 71) "Trừ những dịp
hiếm có, lúc nào bà cũng mặc đồ kỵ mã dù có cỡi ngựa hay không vì bà luôn
luôn sẵn sàng lên yên, bởi thế bà có thói quen nai nịt gọn gàng từ sáng sớm."
Nghĩa nhượng bộ xuất hiện khi ai đó không mong đợi một tình huống
xảy ra dưới hai điều kiện tương phản, tức từ điều kiện A bình thường dẫn đến
hệ quả B, nhưng trong trường hợp này, từ điều kiện A lại dẫn đến thực tế
không B.
- Mệnh đề chỉ sự nhượng bộ - điều kiện phổ niệm
Mệnh đề đưa ra lựa chon tự do từ bất kì số lượng điều kiện nào. Chúng
bao gồm các thành phần phụ: Wh- kết hợp với đuôi –ever
"They do whatever you tell them to do." (If Tomorrow Comes, 89)
"Họ làm bất cứ điều gì bạn bảo họ làm."
Như mục 2.2.3, trạng ngữ nhượng bộ trong tiếng Anh thuờng đi cùng
các liên từ như although/ though (mặc dù), considering that (xét thấy rằng),
even though (dù là), even if (dù cho), much as (tuy rằng), while (trong khi đó),
whereas (nhưng ngược lại, trong khi), however much/ badly/ good (tuy vậy,
90
song), no matter how much (thế nào đi nữa)…
3.2.6.Trạng ngữ chỉ mục đích
Trạng ngữ chỉ mục đích thường được dùng để chỉ ra mục đích của hành
động. Trạng ngữ này hầu như chỉ xuất hiện trong những câu có vị tố là động
từ, thường chỉ là động từ chủ ý (+control), câu có động từ không chủ ý (-
control) không xuất hiện loại trạng ngữ này.
Ví dụ: "They had offered Doris Whitney enough money so that she
could have lived well for the rest of her life" (If Tomorrow Comes, 17) "Họ
đã cung cấp cho Doris Whitney đủ tiền để cô có thể sống tốt đến hết đời."
Trong trường hợp trên, mục đích của họ được thể hiện qua động từ chủ
ý cung cấp.
Trạng ngữ mục đích trong tiếng Anh thường kết hợp với các liên từ như
so that (để mà), in order that (cốt để, mục đích để), in case (trong trường
hợp), lest (vì sợ rằng), for fear that (e rằng, sợ rằng)…
Mệnh đề trạng ngữ chỉ mục đích là mệnh đề có vai trò làm trạng ngữ
chỉ mục đích trong câu. Mệnh đề trạng ngữ chỉ mục đích trả lời câu hỏi
"Why?, What for? hoặc For what purpose" (để làm gì)… Mệnh đề này thường
bắt đầu bằng so that, in order that, in case/ for fear that đều có nghĩa là để
mà, trong trường hợp, phòng khi.
Ví dụ:
"The Priory, in order to keep their powerful documents safe, had been
forced to move them many times in the early centuries." (If Tomorrow Comes,
142) "Tu viện, để giữ cho các tài liệu quan trọng của họ được an toàn, đã
buộc phải di chuyển chúng nhiều lần trong những thế kỷ đầu tiên."
Mệnh đề chỉ mục đích luôn luôn vị biến cách và có các từ/cụm từ như in
order to (trang trọng)/so as to.
"Johnston was forced to abandon the heights he had held so well, in order
to protect his rear." (Gone with the wind, 280) "Johnston đã buộc phải từ bỏ
91
những đỉnh cao mà anh đã nắm giữ rất tốt, để bảo vệ hậu phương của anh."
Mệnh đề biến vị chỉ mục đích thường có các từ/cụm từ so that hay ít
thông dụng hơn so và dùng trong trường hợp trang trọng hơn in order that.
"He lowered his voice so that those in the near-by carriages could not
hear." (Gone with the wind, 232) "Ông đã hạ giọng để những người trong xe
gần không thể nghe thấy."
Thể phủ định chỉ mục đích trong mệnh đề nguyên thể biểu thị thông
qua các từ so as not to và in order not to và trong mệnh đề biến vị là in order
that...not, for fear (that), in case or lest (từ cổ và trang trọng) truyền đạt thể
phủ định chỉ mục đích.
"And those who were so traitorous as not to believe should, at least,
have the decency to keep their mouths shut." (Gone with the wind, 260) "Và
những kẻ có tinh thần phản bội đến không tin tưởng như thế phải câm
miệng lại."
"Leave her car where it is and put plainclothes on watch in case they
try to come back to it." (The Da Vinci Code, 131) "Hãy để xe của cô ta
nguyên chỗ cũ và cử các nhân viên mặc thường phục giám sát nó phòng
trường hợp bọn họ cô gắng lấy lại chiếc xe đó."
Cũng như các loại trạng ngữ khác, trạng ngữ chỉ mục đích có thể được
cấu tạo là các cụm giới từ. Ví dụ:
"Why did he always notice women‘s clothing and why was he so rude
as to remark upon her present untidiness?" (Gone with the wind, 266) "Tại
sao hắn cứ luôn luôn chú ý đến lối ăn mặc xuềnh xoàng của nàng như vậy?"
"How could Melly be so stupid as not to guess the secret of her love of
Ashley?" (Gone with the wind, 286) "Làm sao mà Mélanie lại có thể đần độn
đến độ không thấy được mối tình bí mật của cô đối với Ashley?"
Trạng ngữ chỉ mục đích trong tiếng Anh được cấu tạo là một mệnh đề
92
hoặc cụm giới từ, nó không có dạng là từ.
3.2.7. Trạng ngữ chỉ nguyên nhân
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 122/1500 trạng ngữ chỉ nguyên
nhân (chiếm 8.1%). Quan hệ giữa trạng ngữ với vị tố chính của vị ngữ là quan
hệ hoạt động (đặc điểm) - nguyên nhân dẫn đến hoạt động.
Ví dụ: "As he probed, he asked, "Do you have a venereal disease?‘‘ (If
Tomorrow Comes, 47) "Vì đã từng thăm dò, anh ta hỏi: "Bạn có bị bệnh hoa
liễu không?""
Trong ví dụ trên, nguyên nhân dẫn đến hoạt động là "As he probed" và
hoạt động của anh ta là asked.Trạng ngữ nguyên nhân trong tiếng Anh thường
kết hợp với các liên từ như because (vì), as (bởi vì), seeing that (thấy rằng)
and since (vì).
Mệnh đề chỉ nguyên nhân truyền đạt mối quan hệ trực tiếp với mệnh đề
phức hợp. Mối quan hệ có thể thể hiện qua: nguyên nhân và kết quả, lý do và
kết quả, động lực và kết quả, hoàn cảnh và kết quả.
Nguyên nhân và kết quả (nhận thức về mối liên kết chủ đích vốn có)
"Because Constantine upgraded Jesus' status almost four centuries
after Jesus' death, thousands of documents already existed chronicling His
life as a mortal man. (The Da Vinci Code, 198) "Bởi vì Constantine nâng vị
thế của Jesus sau khi Jesus qua đời gần bốn thế kỉ, nên đã có hàng ngàn tài
liệu ghi chép lại cuộc đời của Jesus như là một con người trần tục"
• Lý do và kết quả (suy luận của người nói về một mối liên kết)
"They tagged you with GPS because they thought you might run" (The Da
Vinci Code, 57) "Họ gắn thẻ GPS vào người ông vì họ nghĩ ông có thể chạy"
"The only reason Fache left you alone is because he can monitor where
you are" (The Da Vinci Code, 57) "Lý do duy nhất Fache để bạn một mình là
93
vì anh ta có thể theo dõi bạn đang ở đâu"
"She must stay with her till the baby came and be strong because Melly
needed her strength." (If Tomorrow Comes, 818)
• Động lực và kết quả (mục đích tạo ra hiệu ứng cho ra kết quả)
"Quite simply, the Mona Lisa was famous because Leonardo da Vinci
claimed she was his finest accomplishment" (The Da Vinci Code, 100) "Rất
đơn giản, Mona Lisa nối tiếng bởi vì Leonardo Da Vinci đã tuyên bố nàng là
thành tựu hoàn mỹ nhất của ông."
"The document survived only because none of the sailors on the pirate
ship could read or write." (If Tomorrow Comes, 310) "Duy nhất tài liệu đó tồn
tại vì không ai trong số các thủy thủ trên tàu cướp biển có thể đọc hoặc viết."
• Hoàn cảnh và kết quả (kết hợp các lí do với một điều kiện đã được giả
định là được thực hiện hay không được thực hiện)
"Since the painting is well known, I would expect it to turn up in
Switzerland, which has a good-faith purchase and protection law." (If
Tomorrow Comes, 76) "Vì bức tranh được nhiều người biết đến, tôi hy vọng
nó sẽ xuất hiện ở Thụy Sĩ, nơi có luật mua bán và bảo vệ thiện chí."
Mệnh đề chỉ lý do thường có thành phần phụ là because và since. Các
thành phần phụ khác là as, for (trang trọng).
"The French government taxes him at absurd rates because he bought
a historic landmark." (The Da Vinci Code, 185) "Chính phủ Pháp đã đánh
thuế ông đến mức phi lý bởi vì ông đã mua một điểm mốc lịch sử."
"As always when she heard the truth spoken, no matter how
unpalatable it was, basic honesty forced her to acknowledge it as truth."
(Gone with the wind, 584)
"Như mọi khi cô nghe thấy sự thật được nói, bất kể nó khó chịu đến
94
mức nào, sự trung thực cơ bản buộc cô phải thừa nhận đó là sự thật."
"Since she had access, there was no limit to the amount the now
subservient computer would give her." (If Tomorrow Comes, 165)
"Vì cô ta đã từng truy cập, nên không có giới hạn về số tiền mà máy
tính hiện tại sẽ cung cấp cho cô."
Mệnh đề chỉ nguyên nhân còn thể hiện lí do trực tiếp. Lí do này không
liên quan đến tình huống xảy ra trong mệnh đề phức hợp nhưng là động lực
hành vi ngôn ngầm của lời nói.
"As he probed, he asked, "Do you have a venereal disease?‘‘ (If
Tomorrow Comes, 47)
"Vì đã từng thăm dò, anh ta hỏi: "Bạn có bị bệnh hoa liễu không?""
"Since she came home she had wondered despairingly a thousand
times: ―Are we the only folks left in the County?" (Gone with the wind, 371)
"Kể từ khi về đến nhà, cô đã tự hỏi một cách tuyệt vọng cả ngàn lần:
Có phải chúng ta là những người duy nhất còn lại trong Quận?"
Trong tiếng Anh để cấu tạo trạng ngữ chỉ nguyên nhân, chúng ta
thường kết hợp các trạng từ chỉ nguyên nhân là ―because, since, as, …‖ (đứng
trước) với một mệnh đề hoặc cụm từ để tạo thành cụm trạng ngữ hoặc mệnh
đề trạng ngữ chỉ nguyên nhân. Do đó, trạng ngữ chỉ lý do không phải là một
trạng từ đơn.
Ví dụ: "Their eyes wide with fright as they stared at his white skin"
(The Da Vinci Code, 48) "Đôi mắt mở to đầy sợ hãi khi họ nhìn chằm chằm
vào làn da trắng của anh ta"
3.2.8.Trạng ngữ chỉ kết quả
Mệnh đề trạng ngữ chỉ kết quả thường đi cùng với mệnh đề chỉ nguyên
nhân. Mệnh đề chỉ nguyên nhân (như đã nêu ở mục 3.2.7) thường được bắt
đầu bằng because, since, as, seeing that….(đều có nghĩa là bởi vì). Không có
95
giới hạn về thời (của động từ) trong mệnh đề trạng ngữ chỉ nguyên nhân.
Mệnh đề trạng ngữ chỉ nguyên nhân kết quả được bắt đầu bằng
because, since, as, seeing that….Ví dụ:
"Seeing that he was employing familiar maneuvers to extricate himself
from unpleasant conversation, she slipped her arm through his..." (Gone with
the wind, 26) "Thấy anh ta đang sử dụng những thao tác quen thuộc để giải
thoát mình khỏi cuộc trò chuyện khó chịu, cô trượt tay qua anh."
Because Da Vinci was a big fan of feminine principles, he made Mona
Lisa look more majestic from the left than the right. (The Da Vinci Code, 101)
"Bởi vì Da Vinci là một fan hâm mộ lớn của các nguyên tắc nữ tính, anh ta đã
khiến Mona Lisa trông hùng vĩ hơn từ bên trái hơn bên phải."
"Since the other inmates had decided that Ernestine had become
Tracy's protector, she was left strictly alone." (If Tomorrow Comes, 80) "Vì
các tù nhân khác đã quyết định rằng Ernestine đã trở thành người bảo vệ của
Tracy, cô bị bỏ mặc một mình."
Không có giới hạn về thời (của động từ) trong mệnh đề trạng ngữ chỉ
kết quả. Ví dụ:
"Gerald knew that northward beyond that stream the land was still
held by the Cherokees, so it was with amazement that he heard the stranger
jeer at suggestions of trouble with the Indians and narrate how thriving
towns were growing up and plantations prospering in the new country."
(Gone with the wind, 39) "Gerald biết rằng về phía bắc ngoài dòng suối đó,
vùng đất vẫn còn do người Cherokees nắm giữ, vì vậy thật ngạc nhiên khi
anh nghe thấy người lạ mặt nói về những rắc rối với người Ấn Độ và thuật
lại những thị trấn thịnh vượng đang phát triển và đồn điền thịnh vượng ở
96
đất nước mới."
Mệnh đề chỉ kết quả có các từ/cụm từ so that và so.
"She turned away so that her next words were almost inaudible."
(If Tomorrow Comes, 89) "Chị ta quay đi nên những lời tiếp theo gần như
không nghe được."
"So we have the male god, Amon." (The Da Vinci Code, 102) "Vì vậy,
chúng ta có nam thần, Amon."
Các từ/cụm từ trên cũng được dùng trong mệnh đề chỉ mục đích nhưng
vì chúng là giả định chứ không phải thực tế, câu mệnh lệnh chỉ mục đích yêu
cầu phụ trợ phương thức.
"Pork brought forth his favorite ruffled shirt, so inexpertly mended by
the chambermaid as to be unwearable by anyone except his valet." (Gone
with the wind, 43) "Pork mang vào cho ông một chiếc sơ mi xếp nếp thành
hình tổ ong nhưng con nữ tì lại vá quá vụng về đến nỗi không ai dám mặc
ra ngoài, ngoại trừ gã hần cận"
Ngoài cấu tạo là mệnh đề, trạng ngữ chỉ nguyên nhân-kết quả còn được
cấu tạo là cụm từ. Ví dụ:
"Their square configurations make them impractical for use in
crucifixion, and their balanced vertical and horizontal elements convey a
natural union of male and female, making them symbolically consistent with
Priory philosophy" (The Da Vinci Code, 123) "Hình dạng bình phương của
nó khiến nó không sử dụng được vào việc đóng đinh câu rút, và các yếu tố
dọc – ngang cân bằng của nó thể hiện sự kết hợp tự nhiên giữa nam và nữ,
khiến nó trở thành biểu tượng phù hợp với triết lý của Tu viện Sion"
3.2.9. Trạng ngữ chỉ sự so sánh
Qua khảo sát cho thấy, trạng ngữ so sánh trong tiếng Anh thường kết hợp
97
với liên từ như than, as.
Đối với mệnh đề chỉ sự so sánh, có sự trộn lẫn về ngữ nghĩa với cách
thức nếu đối với động từ động.
Mệnh đề chỉ sự giống nhau sử dụng các từ như as và like và chúng
thường đứng sau just và exactly. Ví dụ:
"Jesus passed a single chalice of wine, just as modern Christians do at
communion" (The Da Vinci Code, 200) "Jesu chỉ truyền tay với họ một cốc
rượu vang thôi giống như những người Thiên chúa giáo hiện đại làm trong lễ
Thánh Thể"
"Dilcey turned to Scarlett and something like a smile wrinkled the
corners of her eyes." (Gone with the wind, 52) "Dilcey quay sang phía
Scarlett và có một cái gì ở khóe mắt mụ giống như một nụ cười"
Mệnh đề chỉ sự so sánh sử dụng các từ như as if, as though, like
"A hat, gloves, and purse appeared, as if by magic." (If Tomorrow
Comes, 104) "Và cứ như có phép lạ, một cái mũ, một đôi găng tay và một cái
bóp lần lượt hiện ra."
"All morning she had kept looking at her watch, as though expecting
someone, and her mind was obviously not on Amy." (If Tomorrow Comes,
110) "Suốt buổi sáng, cô ấy cứ nhìn đồng hồ, như đang đợi ai đó, và đầu óc
rõ là không chú ý gì đến Amy"
Các từ/cụm từ as, as if, as though có thể được dùng trong mệnh đề giản
lược động từ và không biến vị.
"But the South was aflame with war, events roared along as swiftly as if
carried by a mighty wind and the slow tempo of the old days was gone."
(Gone with the wind, 108) "Nhưng miền Nam đã bốc lửa chiến tranh, biến cố
đã kéo đến mau lẹ như có mang theo một trận cuồng phong, thổi tung hết
98
những nhịp điệu êm đềm ngày cũ."
"Then, as if too tired to stand another moment, he flopped in a chair
and stared out the window." (Gone with the wind, 225) "Rồi, như thể quá
mệt mỏi để đứng lâu hơn nữa, ông buông mình trên chiếc ghế, nhìn chằm
chằm ra ngoài cửa sổ"
Không có giới hạn về thời (của động từ) trong mệnh đề trạng ngữ so sánh
"If the warden only knew the truth: that if the accident had not happeped,
the warden's men would have been out hunting her as a fugitive." (If
Tomorrow Comes, 123) "Giá mà ông tổng giám thị biết được sự thật rằng nếu
cái tai nạn đó không xảy ra chăng nữa, thì nhân viên của ông cũng sẽ phải
mở cuộc truy lùng cô - một kẻ chạy trốn"
"It‘s written as plainly on your face as hard work is written on your
hands." (Gone with the wind, 486) "Nét mặt cô đã chứng tỏ rõ ràng điều đó
cũng như những dấu vết lao lực hằn rõ trên tay cô."
Cấu trúc: thì tương lại ở mệnh đề chính + thì hiện tại đơn ở mệnh đề
trạng ngữ so sánh. Ví dụ:
"They will reach the Grail before we do!" (The Da Vinci Code, 244) "Họ
sẽ tìm được Chén Thánh trước chúng ta!"
"Do as I say, and everything will be fine" (The Da Vinci Code, 318) "Hãy
làm như ta dặn và mọi việc sẽ tốt đẹp"
(Cấu trúc: thì quá khứ đơn trong mệnh đề chính + thì quá khứ đơn trog
mệnh đề trạng ngữ so sánh)
Các thể giả định cũng được sử dụng trong mệnh đề trạng ngữ so sánh:
"There was a diabolic gleam in his eyes as if something amused him
greatly". (Gone with the wind, 490) "Mắt hắn long lanh những tia sáng ác
hiểm, hình như hắn khoan khoái lắm." (Hắn làm như thấy vui vẻ nhưng sự
99
thật không phải vậy)
"Tracy fell backward, as if pushed, bumping the artist and sending her,
the easel, canvas, and paints flying to the ground" (If Tomorrow Comes, 358)
"Tracy ngả người ra sau, dường như là bị đẩy vậy, đè vào người nữ họa sĩ
kia, xô chị ta cùng giá vẽ, bức tranh và màu vẽ xuống sàn." (Tracy làm như
bị đẩy ngã, nhưng sự thật là cô cố tình làm vậy)
Trạng ngữ chỉ sự so sánh là cụm từ
"All the men cheated on taxes, had insurance scams, falsified
expense accounts, and put their current mistresses on their payrolls as
secretaries or assistants." (If Tomorrow Comes, 208) "Tất cả bọn họ đều trốn
thuế, gian dối trong lĩnh vực bảo hiểm, đưa ra những báo cáo chi phí láo toét,
và đưa tình nhân của mình vào danh sách trả lương dưới danh nghĩa thư ký
hoặc trợ lý gì đó"
"As secretaries or assistants" trong ví dụ trên là cụm từ chỉ những người
như thư kí hoặc trợ lí.
"Sophie heard what sounded like drilling or machinery in the
background." (The Da Vinci Code, 313) "Sophie nghe thấy cái gì tựa như
tiếng khoan hay tiếng máy móc là âm thanh nền ở đầu dây đằng kia."
Trạng ngữ chỉ sự so sánh giống nhau không có dạng là trạng từ đơn.
3.2.10. Sự kết hợp các vai trạng ngữ trong câu tiếng Anh
Khảo sát tư liệu cho thấy, trong một sự tình phát ngôn, có thể có một
hoặc hơn một trạng ngữ trong câu. Trường hợp xuất hiện từ hai trạng ngữ của
câu thường xảy ra hai khả năng:
Khả năng 1: Các trạng ngữ có thể được hiện thực hoá bởi các vai nghĩa
khác nhau. Ví dụ:
"Sometimes in the afternoons he took Scarlett riding with him in his
100
buggy when he went out on business" (Gone with the wind, 517) "Thỉnh
thoảng vào buổi chiều, nhân có vài việc giao dịch về chuyện làm ăn, y đánh
xe đưa Scarlett cùng đi."
Trong ví dụ trên, sometimes là trạng ngữ chỉ tần suất có thể đi cùng với
trạng ngữ chỉ thời gian in the afternoons.
"Look, Scarlett, sit with us at the barbecue in the morning" (Gone with
the wind, 8) "Nầy, Scarlett, ngồi với tụi nầy luôn bữa dã yến sáng nữa nghe."
"In the mornings, after all-night sessions at births and deaths, when old
Dr. Fontaine and young Dr. Fontaine were both out on calls and could not be
found to help her, Ellen presided at the breakfast table as usual." (Gone with
the wind, 35) "Lại có những buổi sáng, sau khi trọn đêm săn sóc những người
sanh nở hoặc cứu chữa những kẻ sắp chết trong khi chẳng một ai tìm được
hai bác sĩ Phontaine - một già, một trẻ - đến để tiếp tay, Ellen vẫn chủ toạ
bữa điểm tâm như thường lệ, đôi mắt huyền nổi quầng thâm vì mệt mỏi"
Trong ví dụ trên, In the mornings là trạng ngữ chỉ thời gian có thể đi
cùng với trạng ngữ chỉ tình huống after all-night sessions at births and
deaths, when old Dr. Fontaine and young Dr. Fontaine were both out on calls
and could not be found to help her.
"Each morning, rain or shine, Nellie was saddled and walked up and
down in front of the house, waiting for the time when Mrs. Tarleton could
spare an hour away from her duties" (The Da Vinci Code, 71) "Cứ mỗi sáng,
dầu mưa hay nắng, Nellie đều sẵn sàng yên cương và quần tới quần lui trước
cửa nhà, chờ đợi lúc bà Tarleton rỗi rảnh cỡi chạy một vòng."
Trong ví dụ trên, Each morning là trạng ngữ chỉ thời gian có thể đi
cùng với trạng ngữ chỉ nguyên nhân rain or shine.
"Harry, who happened to be in the room at the time, froze as he heard
101
Ron‘s voice answer." (Harry Potter and the Prisoner of Azkaban, 9) "Lúc đó,
Harry đang ở trong phòng, nghe tiếng Ron vang oang oang ra từ ống nghe
mà hoảng kinh hồn vía".
Trong ví dụ trên, in the room là trạng ngữ chỉ địa điểm có thể đi cùng
với trạng ngữ chỉ thời gian at the time.
Như vậy, trong cùng một câu có thể có hai trạng ngữ trở lên, các trạng
ngữ có thể mang các loại nghĩa khác nhau.
Khả năng 2: Các trạng ngữ có thể được hiện thực hoá với các vai nghĩa
giống nhau. Ví dụ:
"At 3:30 in the morning Tracy quietly left her compartment. The timing was
critical." (If Tomorrow Comes, 279) "Vào lúc 3 giờ 30 sáng, Tracy lặng lẽ rời
khỏi cabin của mình. Thời điểm là vấn đề có tính quyết định."
"One night at a time, she promised herself. I can stand one night at a
time." (If Tomorrow Comes, 100) "Một đêm thôi mà, nàng tự hứa với mình.
Ta có thể chịu được một đêm."
"At 6:30 in the morning she had found the solution" (If Tomorrow
Comes, 307) "Vào lúc 6 giờ 30 sáng, Tracy đã tìm ra giải pháp."
Các từ ngữ được gạch chân ở trên đều là các trạng ngữ chỉ thời gian.
3.3. Nghĩa học của trạng ngữ trong tiếng Việt
Khi tham gia vào cấu trúc nghĩa biểu hiện, trạng ngữ thường đảm nhận
các vai nghĩa: thời gian, không gian, mục đích, nguyên nhân, nhượng bộ, cách
thức phương tiện, điều kiện. Nhìn chung, đó là những vai nghĩa không bắt
buộc, có vai trò bổ sung một phương diện nào đó cho sự việc được nói đến
trong câu.
Qua khảo sát, thống kê, phân loại 1500 trạng ngữ, chúng tôi thu được
102
kết quả như sau:
Bảng 3.3: Các loại trạng ngữ trong tiếng Việt
Các loại trạng ngữ Số lƣợng Tỉ lệ (%)
Trạng ngữ chỉ thời gian 849 56.6
Trạng ngữ chỉ không gian 310 20.6
Trạng ngữ chỉ tình huống 65 4.3
Trạng ngữ chỉ cách thức, phương tiện 96 6.4
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân 49 3.2
Trạng ngữ chỉ mục đích 72 4.8
Trạng ngữ chỉ điều kiện 21 1.4
Trạng ngữ chỉ nhượng bộ 38 2.7
Tổng số 1500 100.0
1.4
2.7
4.8
3.2
6.4
4.3
56.6
20.6
Trạng ngữ chỉ thời gian
Trạng ngữ chỉ không gian
Trạng ngữ chỉ tình huống
Trạng ngữ chỉ cách thức, phương tiện
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân
Trạng ngữ chỉ mục đích
Trạng ngữ chỉ điều kiện
Trạng ngữ chỉ nhượng bộ
103
Sales
Như vậy, có sự khác biệt về tỉ lệ của các loại trạng ngữ trong tiếng
Việt. Trong đó, trạng ngữ chỉ thời gian chiếm tỉ lệ nhiều nhất (56,6%), tiếp đó
là trạng ngữ không gian (20,6%); cách thức, phương tiện (6,4%). Loại trạng
ngữ tiếng Việt chiếm tỉ lệ ít nhất là trạng ngữ chỉ điều kiện (1,4%), trạng ngữ
chỉ nguyên nhân (3,2%) và trạng ngữ nhượng bộ (2,7%).
3.3.1. Trạng ngữ chỉ thời gian
Theo tư liệu thống kê, trong số 1500 câu có thành phần trạng ngữ, có
tới 849 câu có trạng ngữ do vai nghĩa thời gian đảm nhiệm, chiếm tỉ lệ cao
nhất 56,6%.
Thời gian được biểu thị trong câu có thể là thời gian được xác định cụ
thể như thời gian ở quá khứ, hiện tại, tương lai.
Trạng ngữ chỉ thời gian tương lai trong tiếng Việt được thể hiện bằng
các từ ngữ chỉ tương lai như mai (sáng mai, trưa mai, chiều mai, tối mai,
ngày mai...) sau (tuần sau, tháng sau, năm sau)... Ví dụ:
" Ngày mai, một ngày… xa xăm…"( Đời callboy, 228)
"Từ hôm sau trở đi, chiều nào cũng vậy, cỡ độ năm giờ, bọn đào kép
ban An Lạc lại mũ mãng, phấn sáp, râu ria, ngồi trơ tráo trên xe cao su,
đi diễu qua các phố để phơi nắng cái đời hát tuồng còn ngắc ngoải." (Tuyển
tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 242)
Trạng ngữ chỉ thời gian hiện tại trong tiếng Việt được thể hiện bằng
các từ ngữ chỉ hiện tại như sáng nay, trưa nay, chiều nay, hôm nay, bây
giờ...Ví dụ:
"Sáng nay trời hơi lạnh, đổi mùa đó anh, em thấy có hai mẹ con kia, mẹ
dắt con đi học". (Đời callboy, 31)
"Hôm nay cậu có đi chào Tết hay không?" (Tuyển tập truyện ngắn
104
Vũ Trọng Phụng, 340)
Dĩ nhiên, hiện tại phải được hiểu một cách tương đối, chẳng hạn ―năm
nay‖ cũng là hiện tại, cùng một khuôn hình cấu tạo với ―ngày nay‖, ―hôm nay‖.
Trạng ngữ chỉ thời gian quá khứ trong tiếng Việt được thể hiện bằng
các từ ngữ chỉ quá khứ như hôm trước, tháng trước, năm trước... Ví dụ:
"Đêm hôm trước, bác ngồi nghĩ mà rớt nước mắt." (Tuyển tập truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan, 252)
"Sáu tháng về trước, luôn một dạo, những lúc đêm khuya, tĩnh mịch,
không có trăng, ít người dám đưa mắt ra ngoài sân tối mịt." (Tuyển tập
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 263)
Bên cạnh việc biểu thị thời gian có ý nghĩa xác định cụ thể, vai nghĩa
thời gian của trạng ngữ còn biểu thị thời gian không xác định. Ví dụ:
"Ngày trước, nói đến cô ấy, cậu con vẫn gọi là nó, và dặn con nên
trông nom cửa nhà cẩn thận, kẻo cậu con không tin cô ấy đâu." (Tuyển tập
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 285)
"Ngày trước, cháu đã được lên tỉnh một lần." (Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, 323)
"Xưa nay họ đã giúp ông rất đắc lực." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, 30)
"Xưa nay, chưa ai hề thấy ông thua bạc mà phát bẳn bao giờ."
(Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 80)
"Thỉnh thoảng, những chiếc xe cao-su kín mít như bưng, lép nhép
chạy uể oải tia ra hai bên cánh gà hai dòng khói thuốc lá." (Tuyển tập
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 17)
"Thỉnh thoảng, gặp ở đường cái chiếc ô-tô nào đương chạy, bác
nhác trông lên, thấy anh tài xế, thì bác phải xấu hổ." (Tuyển tập truyện
105
ngắn Nguyễn Công Hoan, 64)
"Thỉnh thoảng, chiếc lá tre vàng vằn vèo từ trên đâm bổ xuống, làm
động cuộc kiếm ăn đang bình yên, thì vò một tiếng, lũ ruồi nhặng bay tản
đi." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 98)
Vai nghĩa thời gian trong trạng ngữ còn biểu thị thời gian lặp đi lặp lại
có tính quy luật. Ví dụ:
"Cái đầm này mỗi năm anh kiếm lợi cả cá lẫn hoa có được đến
dăm trăm không?" (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 99)
"Hàng ngày, đi làm, cô đạp xe đạp mất chừng mười lăm phút." (Tuyển
tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 75)
"Các bà đàn bà trong làng, ngày nào cũng vậy, dậy từ lúc tinh
sương." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 34)
Vai nghĩa thời gian trong trạng ngữ còn là thời gian có tính thời điểm,
tính thời đoạn. Ví dụ:
"Tối hôm ấy, tôi về trường sớm." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, 44)
"Chiều hôm ấy, anh Xích đã đánh chén ở đình, say bí tỉ." (Tuyển tập
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan,95)
"Đã ba tháng nay, tôi mới lại gặp anh Trinh." (Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, 46)
Qua các ví dụ trên, có thể thấy, trạng ngữ chỉ thời gian trong tiếng Việt
có thể kết hợp với vị tố thuộc các từ loại khác nhau như danh từ, động từ, tính
từ... Quan hệ giữa trạng ngữ và vị tố thường là quan hệ hoạt động (đặc điểm)
- thời gian diễn ra hoạt động.
3.3.2. Trạng ngữ chỉ không gian
Trong số 1500 câu có thành phần trạng ngữ, có 310 câu trạng ngữ mang
nghĩa không gian. Chiếm tỉ lệ 20,6%. Như vậy, vai không gian cũng là vai nghĩa
106
có tần số xuất hiện cao trong vai trò trạng ngữ (chỉ sau vai nghĩa thời gian)
Vai nghĩa không gian trong trạng ngữ có thể là vai nghĩa không gian
mang nét nghĩa cụ thể cũng có thể là không gian phiếm chỉ.
Vai không gian mang nét nghĩa cụ thể thường chỉ ra địa điểm cụ thể
trong văn bản. Ví dụ:
"Từ trong nhà thờ, thỉnh thoảng đưa ra những tiếng gỗ kêu; ai đã ở lâu
ngày một nơi tĩnh mịch đều nhận rằng những cái kèo, cái cột, một đôi khi vô
cớ kêu rền rĩ, hình như chúng tê mỏi mà vươn mình hay sốt ruột mà rên lên."
(Tuyển tập Nam Cao, 275)
"Trong nhà, đèn lửa sáng choang, kẻ hầu người hạ tha hồ mà bận
rộn" (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 23)
"Trong nhà, bà Phán ngồi dưới quạt trần, đương loay hoay với nước
bài tổ tôm khó đánh." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 160)
Vai không gian mang nét nghĩa phiếm chỉ thường không chỉ ra địa
điểm cụ thể trong văn bản. Ví dụ:
"Và xa xa, tiếng tí tách của một dòng nước uể oải chảy từ kẽ đá rạ
ông Châu, một tay nắm cương, một tay víu yên, gò người về đằng trước và
nhấp nhổm theo nhịp kiệu." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 104)
"Đi đến gần nhà Lộc, Hiền nghe thấy tiếng Lộc đang cười cười nói nói.
"(Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 385)
Vai nghĩa biểu thị trong trạng ngữ có thể là không gian rộng nhưng
cũng có thể là không gian hẹp. Ví dụ:
"Ở nhà quê, có việc gì cỏn con xảy ra mà người ta không biết ngay
tức khắc?" (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 225)
"Trong nhà, lỡ ra có người chết, đố ai không mở sách ra tra, hoặc
hỏi han người quen việc, xem phải làm những gì." (Tuyển tập truyện ngắn
107
Nguyễn Công Hoan, 226) (không gian hẹp)
Không gian được biểu thị ở trạng ngữ có khi tồn tại ở thế giới tự nhiên,
ở các vật thể nhưng trong nhiều trường hợp lại tồn tại ở chính bản thân con
người. Ví dụ:
"Ở nhà quê, vợ chồng chưa có con, khó có tiếng mà gọi nhau lắm nhé."
(Tuyển tập Nam Cao, 219) (không gian thuộc thế giới tự nhiên)
"Trong lòng Nguyễn, tình vui cho nổi lên một cơn cuồng." (Đời callboy,
329) (không gian tồn tại ở bản thân con người)
3.3.3. Trạng ngữ chỉ tình huống
Theo tư liệu thống kê, vai tình huống của trạng ngữ chiếm một tỉ lệ
không nhiều là 65/1500 (chiếm 4,3%).
Trong mối quan hệ với sự tình, vai nghĩa tình huống có chức năng
nghĩa biểu thị tình huống diễn ra sự tình. Đó có thể là tình huống cụ thể, có
thể hiểu nội dung trong câu, cũng có thể là tình huống chưa cụ thể, hiểu nội
dung tình huống dựa vào ngữ cảnh.
Nghĩa tình huống cụ thể. Ví dụ:
"Trong khi chờ đợi (ôi, lâu quá!), tôi, Hải cò, con Tủn và con Tí sún
buộc phải đồng ý trong đớn đau rằng 2 lần 4 là 8, cũng như 3 lần 5 là 15."
(Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, 18)
"Sau khi quan sát vết thương, cô vội vã kêu hai đứa con gái dìu Tiểu Li
lên phòng y tế." (Cô gái đến từ hôm qua, 12)
"Sau khi chửi tôi ngốc, Việt An đứng dậy cáo từ". (Cô gái đến từ hôm
qua, 101)
Nghĩa tình huống chưa cụ thể, cần phải dựa vào ngữ cảnh để hiểu trạng
ngữ. Ví dụ:
"Suốt một tuần lễ tiếp theo, công tác huấn luyện chó của chúng tôi
không tiến triển thêm được bước nào. Trong khi đó, những lời ca than của
108
các bậc phụ huynh ngày một nhiều." (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, 81)
Giữa trạng ngữ tình huống và vị ngữ phụ còn nhiều tranh luận. Ví dụ:
"Ăn xong, hắn tiễn xe cho cô về nhà." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, 177)
Ăn xong trong ví dụ trên có quan điểm cho là vị ngữ phụ (Nguyễn Minh
Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp 1998) và có quan điểm cho là trạng ngữ chỉ tình
huống. Vị ngữ phụ và trạng ngữ trong câu có những điểm giống nhau đều là
thành phần phụ, bổ sung ý nghĩa cho nòng cốt câu, có thể lược bỏ. Tuy nhiên,
vị ngữ phụ là những vị từ, cụm vị từ còn trạng ngữ tình huống thường là danh
từ, cụm danh từ, giới ngữ. Trạng ngữ có thể được dẫn nhập bằng quan hệ từ
còn vị ngữ phụ thì không cần. Về ý nghĩa, trạng ngữ tình huống không biểu
thị sự tình mà chỉ nêu tình huống còn vị ngữ phụ nêu tình huống xảy ra đồng
thời hoặc liên tiếp (ăn xong rồi tiễn xe cho cô về). Về chức năng ngữ pháp, vị
ngữ phụ có thể kết hợp với chủ ngữ để tạo thành câu (hắn ăn xong) còn trạng
ngữ thì không.
3.3.4. Trạng ngữ chỉ cách thức, phương tiện
Trong số những câu chứa thành phần trạng ngữ được thống kê, chúng
tôi nhận thấy, những câu có trạng ngữ đảm nhận vai nghĩa cách thức, phương
tiện là 96/1500 chiếm khoảng 6,4 %
Vai nghĩa cách thức phương tiện của trạng ngữ thường nêu lên cách
thức thực hiện hành động hay phương tiện để chủ thể thực hiện một hành
động nào đó.
Ví dụ: "Sung sướng vì nhờ vậy mà tôi được đi chung với Việt An và trò
chuyện với nó một cách "hợp pháp"." (Cô gái đến từ hôm qua, 9)
"Chưa thoát ra khỏi trạng thái bàng hoàng, tôi gật đầu một cách máy
móc: Điên chứ!" (Cô gái đến từ hôm qua, 35)
"Quan quay lại, nhìn ông Cứu bằng đôi mắt dịu dàng của một người
có trái tim dễ cảm." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 10)
"Người ấy không dừng lại, chỉ cau mặt để đáp bằng hai tiếng vùng
109
vằng, cộc lốc" (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 135)
"Bà nhìn sang hai bên hàng phố bằng con mắt của người rất tự kính
trọng" (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 159)
3.3.5. Trạng ngữ chỉ nguyên nhân
Trong số 1500 câu được khảo sát, có 49 câu có trạng ngữ đảm nhận vai
nghĩa nguyên nhân, chiếm tỉ lệ 3,2%.
Trong mối quan hệ với sự tình, vai nguyên nhân của trạng ngữ có chức
năng nghĩa biểu thị nguyên nhân, lí do dẫn đến sự việc được nói đến trong
câu. Nguyên nhân đó có thể là nguyên nhân khách quan cũng có thể là nguyên
nhân chủ quan.
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân khách quan. Ví dụ:
"Vì ngoài ngày rằm, mồng một, bà đi lễ, đố ai còn gặp mặt bà ở
đường." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 21)
"Vì không được phỏng vấn bà, bọn ấy đành chịu điều tra, cóp nhặt
đó đây một vài tin tức." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 22)
"Vì mồng năm, tao phải cuốn gói lên đường." (Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, 74)
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân chủ quan. Ví dụ:
"Vì chắc rằng trước khi đi vắng, ông chủ cần dặn dò tôi điều nọ điều
kia, hoặc giao công việc cho tôi." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan, 135)
Trong phần trạng ngữ chỉ nguyên nhân, có thể còn một số tranh luận.
Ví dụ:
"Vì giận Tiểu Li tôi phải chơi với nó chứ thú thật đi chung với nó chán
ơi là chán." (Cô gái đến từ hôm qua, 60)
Trong ví dụ trên, vì giận Tiểu Li có người cho là thành phần trạng ngữ,
có người cho là thành phần câu ghép có chủ ngữ bị tỉnh lược, dạng câu ghép
110
vì nên. Theo chúng tôi, đó là dạng câu ghép. Bởi vì: Về mặt nghĩa, câu trên
biểu hiện hai sự tình. Sự tình thứ nhất được biểu thị bằng động từ ―giận Tiểu
Li‖. Sự tình thứ hai được biểu thị bằng ―phải chơi với nó‖. Hai sự tình đó đều
có chung chủ thể là tôi (vì tôi giận Tiểu Li nên tôi phải chơi với nó). Về mặt
ngữ pháp, nếu cùng chung chủ thể thì có thể tỉnh lược chủ ngữ ở một trong
hai vế của câu ghép.
3.3.6. Trạng ngữ chỉ mục đích
Trong số các câu được khảo sát, chỉ có 72/1500 (chiếm 4,8%) số câu có
trạng ngữ đảm nhận vai nghĩa mục đích.
Vai nghĩa mục đích của trạng ngữ có chức năng nghĩa biểu thị mục
tiêu, đích đến mà chủ thể cần đạt được khi thực hiện một sự việc nào đó.
Ví dụ: "Tôi phóng xe đi lùng hết hiệu sách này đến hiệu sách khác,
quyết mua bằng được cuốn "Giamilia chết tiệt kia để "ném vô mặt" Việt An."
(Cô gái đến từ hôm qua, 13)
"Nhưng nếu bỏ đi thì biết đào đâu ra tiền mua sắm "lễ vật" để cống nộp
cho Việt An." (Cô gái đến từ hôm qua, 23)
"Chị muốn khóc cho hết nước mắt, gào cho hết hơi, để được chôn
theo chồng." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 216)
3.3.7. Trạng ngữ điều kiện
Trạng ngữ đảm nhận vai điều kiện chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong số các
tư liệu được khảo sát là 21/1500 (chiếm 1,4%).
Vai nghĩa điều kiện của trạng ngữ xuất hiện trong câu với chức năng
biểu thị một điều kiện để chủ thể thực hiện hành động hay bộc lộ trạng thái .
Ví dụ:
"Nếu không có giày cho cụ, thì cụ đánh đòn về tội kiệt." (Tuyển tập
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 231)
"Nếu thành công, ta không phải vất vả như thế này nữa." (Tuyển tập
111
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 264)
"Nếu được thưởng, chị dùng món tiền để sinh lợi, thì chắc được đủ ăn
suốt đời." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 265)
"Nếu muốn thay đổi chúng tôi đành phải chờ đến lúc thành tài, tức là
lúc đã trở thành những nhà toán học nổi tiếng thế giới, lúc đó chúng tôi sẽ
soạn một bản cửu chương theo ý mình." (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, 18)
3.3.8. Trạng ngữ nhượng bộ
Trạng ngữ đảm nhận vai nghĩa nhượng bộ chiếm một tỉ lệ không cao là
38/1500 (2,7%) trong số các tư liệu được khảo sát.
Vai nhượng bộ của trạng ngữ xuất hiện trong câu tiếng Việt với chức
năng nghĩa biểu thị một sự ngăn cản hay đối lập nào đó mà sự tồn tại của nó
không thay đổi được việc chủ thể thực hiện hành động hay quan hệ, trạng thái
được nêu lên ở vị tố. Ví dụ:
"Lần sau con sẽ không nghe theo bất cứ ai nữa, dù đó là bản cửu
chương hay thầy cô giáo." (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, 16)
"Dù giàu tưởng tượng đến mấy, bạn cũng không tài nào hình dung
được chúng tôi có thể nói đi chợ thay cho đi ngủ, cũng như chiếc cặp bỗng
nhiên biến thành cái giếng một cách hồn nhiên." (Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ, 21)
"Tuy đất hẹp, nhưng mùa nào thức ấy, thu hoạch quanh năm cũng có
đồng ra đồng vào." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 123)
"Tuy đường hẹp, nhưng lối đi cao dần." (Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, 216)
3.3.9. Sự kết hợp các vai trạng ngữ trong câu tiếng Việt
Khảo sát tư liệu cho thấy có nhiều câu tiếng Việt chỉ có một vai nghĩa
trong vai trò trạng ngữ. Tuy nhiên cũng có một số lượng không nhỏ các câu
có từ hai vai nghĩa của trạng ngữ trở lên. Trường hợp xuất hiện từ hai vai
112
nghĩa trở lên ở trạng ngữ của câu thường xảy ra hai khả năng:
Các trạng ngữ khác nhau có thể biểu thị nhiều vai nghĩa khác nhau. Ví dụ:
"Cả làng, từ ông già bà cả cho chí trẻ con, ai cũng tấp nập rủ nhau
đến nhà ông Trưởng để đưa bạc đi đẻ." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, 200)
"Vừa xẩm tối, mọi người đã chen chân nhau vào nhà ông Trưởng
để được xem phép lạ." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 201)
"Sáng nay, vay mãi mới được đống hai bạc, để đi trình quan, cậu làm
ơn thương hộ cho." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 244)
"Năm 1977, sau khi ông mất, cuốn sách này đành dở dang." (Tuyển
tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 5)
"Ngày chủ nhật, sau khi Nguyệt đẻ, có mấy bọn người ở Hà nội sang,
vào nhà thương thăm." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 294)
"Trước khi vào hầu cụ thượng, dù súng lục kề mang tai, ngài cũng
hãy làm một hai chục điếu cái đã." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan, 131)
Các ví dụ trên cho thấy, tromg một câu có thể có hơn hai trạng ngữ với
các vai nghĩa khác nhau.
Cũng có trường hợp có nhiều trạng ngữ khác nhau, nhưng chỉ biểu thị
một loại vai nghĩa đảm nhiệm. Ví dụ:
"Hôm qua thầy hiệu trưởng đánh nhau với em, sáng nay còn
nằm rên hừ hừ ở nhà ạ." (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, 22)
Trong ví dụ trên, chỉ có một vai nghĩa chỉ thời gian (hôm qua, sáng nay).
3.4. Đối chiếu đặc điểm nghĩa học của trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ
tiếng Việt
3.4.1. Những điểm giống nhau
Qua miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa của trạng ngữ tiếng Anh, có thể thấy
113
trạng ngữ tiếng Anh và tiếng Việt có những đặc điểm giống nhau sau:
Trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt dù chưa thống nhất về các
loại và phạm vi nghĩa, nhưng về cơ bản, trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ
tiếng Việt đều có thể chia thành các loại cơ bản như vai nghĩa thời gian, vai
nghĩa không gian, vai nghĩa cách thức, vai nghĩa nguyên nhân, vai nghĩa điều
kiện, vai nghĩa nhượng bộ...
Mặc dù có sự khác biệt về tỉ lệ giữa các vai nghĩa trạng ngữ trong trạng ngữ
tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt nhưng nhìn chung ở cả hai ngôn ngữ thì trạng
ngữ chỉ thời gian và trạng ngữ chỉ địa điểm vẫn chiếm tỉ lệ lớn nhất; trạng ngữ chỉ
sự nhượng bộ và điều kiện là những trạng ngữ chiếm tỉ lệ ít nhất.
Trong từng loại vai nghĩa khác nhau của trạng ngữ, cũng có những điểm
tương đồng nhất định, như: Trạng ngữ chỉ thời gian trong tiếng Anh và tiếng Việt
đều được dùng để xác định khoảng thời gian, có thể là thời gian cụ thể, cũng có
thể là thời gian không cụ thể. Trạng ngữ chỉ địa điểm trong tiếng Anh và tiếng
Việt được dùng để xác định địa điểm cụ thể và địa điểm chưa cụ thể. Ngoài ra,
trạng ngữ địa điểm trong cả hai ngôn ngữ còn có thể chỉ vị trí và phương hướng.
Trạng ngữ chỉ cách thức trong tiếng Anh và tiếng Việt dùng để nói lên tính cách
hay hoàn cảnh của một sự kiện hoặc của một tình huống, cung cấp thêm thông tin
về cách thức mà một sự kiện hay tình huống đã xảy ra. Trạng ngữ chỉ mục đích
thường được dùng để chỉ ra mục đích của hành động.
Đối với sự kết hợp với các tham thể và vị tố trong câu, có thể thấy các
trạng ngữ vì là tham thể không bắt buộc nên có thể kết hợp với nhiều loại vị
tố, tuy nhiên vẫn có những mối tương liên nhất định. Chẳng hạn, trạng ngữ
chỉ thời gian có thể kết hợp với vị tố thuộc nhiều từ loại khác nhau như danh
từ, động từ, tính từ. Trạng ngữ chỉ mục đích hầu như chỉ xuất hiện trong
những câu có vị tố là động từ, thường chỉ là động từ chủ ý (+control), ở câu
114
có động từ không chủ ý (-control) không xuất hiện loại trạng ngữ này.
3.4.2. Những điểm khác nhau
Vì khác nhau về loại hình, nên sự phân loại trạng ngữ trong tiếng Anh
và tiếng Việt không thể đồng nhất. Trong cố gắng để có sự đồng nhất nhiều
nhất trong phân loại nghĩa, chúng tôi đã tạm phân trạng ngữ tiếng Anh thành
9 loại, trạng ngữ tiếng Việt thành 8 loại. Trong phạm vi mỗi loại trạng ngữ
tiếng Anh và tiếng Việt, ở nhiều trường hợp cũng phải chấp nhận sự thiếu
nhất quán nhất định.
Mặc dù trạng ngữ thời gian và trạng ngữ chỉ địa điểm đều chiếm tỉ lệ lớn
trong cả hai ngôn ngữ nhưng trong tiếng Anh trạng ngữ chỉ thời gian chỉ chiếm
21.5% trong khi đó trạng ngữ này trong tiếng Việt chiếm số lượng rất lớn là
56,6%. Trạng ngữ chỉ địa điểm trong tiếng Anh chiếm 20.7%, trạng ngữ chỉ địa
điểm trong tiếng Việt chiếm 20,6%. Đối với loại trạng ngữ chiếm tỉ lệ ít trong hai
ngôn ngữ cũng có sự khác biệt. Trạng ngữ chỉ điều kiện trong tiếng Việt chiếm
1,4% trong khi đó trạng ngữ này trong tiếng Anh chiếm 7.4%. Trạng ngữ chỉ sự
nhượng bộ trong tiếng Anh chiếm 6.7% thì trong tiếng Việt chiếm 2,7%.
Trạng ngữ chỉ thời gian trong tiếng Anh bên cạnh các nghĩa chỉ thời
gian xác định và thời gian không xác định còn có thể xác định được các thì
của nó. Các loại trạng ngữ khác trong tiếng Anh cũng có đặc điểm này. Tuy
nhiên, do đặc điểm loại hình, trạng ngữ trong tiếng Việt không có đặc điểm sử
dụng theo các thì như trong tiếng Anh.
3.5. Tiểu kết chƣơng 3
Xét về mặt nghĩa học, trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt đều thể
hiện những thông tin về tình huống, chu cảnh, bổ sung cho thông tin cốt lõi
của sự tình vốn đã được biểu thị ở nòng cốt câu. Tuy nhiên, trạng ngữ trong
tiếng Anh có phạm vi bao quát rộng hơn so với tiếng Việt.
Theo chúng tôi, trạng ngữ rất phong phú, đa dạng. Ranh giới giữa trạng
115
ngữ với các thành phần khác trong câu và ranh giới giữa các loại trạng ngữ
đôi lúc còn khó phân biệt và có nhiều quan điểm khác nhau Vì thế, trong
phạm vi luận án này, chúng tôi tạm thời chia trạng ngữ tiếng Anh thành 9
loại, trạng ngữ tiếng Việt thành 8 loại. Qua thống kê, khảo sát cho thấy, trong
tiếng Việt, trạng ngữ chỉ thời gian chiếm đa số. Tuy nhiên trong tiếng Anh,
chiếm tỉ lệ lớn là các trạng ngữ chỉ thời gian, địa điểm, cách thức. Do biểu thị
những vai nghĩa là tham thể không bắt buộc nên trạng ngữ có thẻ kết hợp
khác tự do với nhiều loại vị tố khác nhau, tuy nhiên, trong một số trường hợp,
đòi hỏi có những tương liên nhất định, chẳng hạn các trạng ngữ chỉ mục đích
không thể xuất hiện trong câu có vị tố (hay vị ngữ, theo ngữ pháp truyền
116
thống) là một vị từ không chủ ý (-control).
Chƣơng 4
DỤNG HỌC CỦA TRẠNG NGỮ TIẾNG ANH
ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT
4.1. Dẫn nhập
Theo Nguyễn Thiện Giáp thì ―Ngữ dụng học là bộ môn nghiên cứu về
cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, tức là cách sử dụng ngôn ngữ trong
những ngữ cảnh cụ thể để đạt được những mục đích cụ thể‖ [16, tr 11]. Như
vậy, đối tượng của ngữ dụng học là ngôn ngữ sử dụng trong giao tiếp hàng
ngày của con người.
Câu từ góc nhìn của dụng học, trước hết là một thông điệp. Vì vậy, với
dụng học, cấu trúc thông tin (hay thông báo) của câu là vấn đề được quan tâm
hàng đầu, trong đó bao gồm các nội dung như: cấu trúc đề – thuyết, tin cũ –
tin mới, tiêu điểm. Tìm hiểu thành phần trạng ngữ từ góc nhìn dụng học,
chúng tôi quan tâm chức năng thông tin của trạng ngữ và đặt trạng ngữ trong
cấu trúc đề - thuyết của câu. Sau nữa, để xem xét được những phương diện
này một cách thấu đáo, cần phải quan tâm đến vấn đề ngữ cảnh của câu. Vì
vậy, chúng tôi áp dụng lí thuyết văn bản và diễn ngôn, đặc biệt là lí thuyết về
liên kết và mạch lạc, để tìm hiểu về khả năng tạo liên kết và mạch lạc của
trạng ngữ.
4.2. Bình diện ngữ dụng của trạng ngữ tiếng Anh
4.2.1. Chức năng thông tin của trạng ngữ trong tiếng Anh
4.2.1.1. Trạng ngữ thể hiện một tin cũ
Tin cũ là phần tin đã biết, tin cho sẵn mà ở thời điểm trước khi nói ra
câu đó, người nói và cả người nghe đã biết hoặc có thể liên tưởng và suy ra.
Vì vậy, nó không cung cấp thêm thông tin mới và cũng không phải là trọng
117
tâm thông tin.
Kết quả khảo sát cho thấy: Khi trạng ngữ mang các vai thời gian, không
gian, mục đích, nhượng bộ, nguyên nhân và được sắp xếp ở đầu câu văn, làm
Đề, thông thường các trạng ngữ đó cũng mang một thông tin cũ.
Khi cung cấp một thông tin cũ, trạng ngữ thường là thành phần có vị trí
là đứng đầu câu văn hoặc đoạn văn, về ý nghĩa thường là chỉ khoảng cách thời
gian, về cấu tạo thường là kết cấu song hành.
Ví dụ: "She had smiled with timid liking when she greeted Scarlett and
told her how pretty her green dress was, and Scarlett had been hard put to be
even civil in reply, so violently did she want to speak alone with Ashley. Since
then, Ashley had sat on a stool at Melanie‘s feet, apart from the other guests,
and talked quietly with her, smiling the slow drowsy smile that Scarlett loved.
What made matters worse was that under his smile a little sparkle had come
into Melanie‘s eyes, so that even Scarlett had to admit that she looked almost
pretty. As Melanie looked at Ashley, her plain face lit up as with an inner fire,
for if ever a loving heart showed itself upon a face, it was showing now on
Melanie Hamilton‘s" (Gone with the wind, 92)
"Cô rụt rè cười khi chào Scarlett và khen nàng thật đẹp trong bộ áo
màu xanh, nhưng Scarlett khó khăn lắm mới trả lời lịch sự lại được vì nàng
rất mong mỏi được nói chuyện riêng với Ashley. Từ lúc đó, Ashley ở gốc cây
ngay dưới chân Melanie, rời hẳn khách khứa, nói chuyện với cô một cách êm
đềm, thỉnh thoảng lại mỉm cười, nụ cười mơ màng mà Scarlett yêu thích nhứt.
Điều tồi tệ hơn là sau mỗi cái cười của Ashley, mặt Melanie lại như có một
ánh lửa nhỏ bùng lên, khiến Scarlett phải nhìn nhận cô ta hầu như đẹp hoàn
toàn trong lúc đó. Và khi Melanie nhìn Ashley, khuôn mặt tầm thường của cô
sáng lên như lửa cháy bên trong. Chưa bao giờ trái tim đa tình của Melanie
118
Hamilton hiện rõ trên mặt bằng lúc nầy"
Ở ví dụ trên, quãng thời gian Since then (từ lúc đó) được biểu hiện ở
trạng ngữ là một thông tin đã biết. Đó chính là quãng thời gian bắt đầu từ lúc
Melanie Hamilton khen Scarlett đẹp và ngồi nói chuyện riêng với Ashley.
Thông tin này được trình bày ở câu trước và được nối với các câu sau bởi
thành phần trạng ngữ since then.
"First, she would be prideful, as Gerald had commanded. From the
moment she arrived at Twelve Oaks, she would be her gayest, most spirited
self. No one would suspect that she had ever been downhearted because of
Ashley and Melanie. And she would flirt with every man there. That would be
cruel to Ashley, but it would make him yearn for her all the more. She
wouldn‘t overlook a man of marriageable age, from ginger-whiskered old
Frank Kennedy, who was Suellen‘s beau, on down to shy, quiet, blushing
Charles Hamilton, Melanie‘s brother. They would swarm around her like
bees around a hive, and certainly Ashley would be drawn from Melanie to
join the circle of her admirers. Then somehow she would maneuver to get a
few minutes alone with him, away from the crowd. She hoped everything
would work out that way, because it would be more difficult otherwise. But if
Ashley didn‘t make the first move, she would simply have to do it herself."
(Gone with the wind, 65)
"Trước tiên, nàng sẽ làm bộ rất kiêu hãnh như Gerald đã dạy. Ngay lúc
đến Twelve Oaks nàng sẽ làm như tươi vui nhứt, không ai có thể ngờ là nàng
đang đau xót về chuyện Ashley với Melanie. Nàng sẽ làm dáng với tất cả mọi
người. Điều đó hơi tàn nhẫn đối với Ashley, nhưng nó sẽ làm cho chàng khao
khát nàng hơn, nàng sẽ không bỏ qua một người đàn ông nào còn trong tuổi
kén vợ. Từ Frank Kennedy râu đỏ, già xọm - kẻ trồng cây si Suellen - cho tới
Charles Hamilton rụt rè mắc cở và trầm lặng, em của Melanie. Họ sẽ vây
119
quanh nàng như con ong vầy quanh tổ, và Ashley sẽ rời Melanie để nhập bọn
với những kẻ ái mộ nàng. Rồi nàng sẽ tìm cách nói chuyện riêng với Ashley
vài phút, xa đám đông. Nàng hy vọng mọi việc sẽ xảy ra êm thấm và nếu
không có thể sẽ khó khăn hơn. Và nếu Ashley không ngỏ lời trước thì chính
nàng sẽ làm điều đó."
Quãng thời gian kể từ giây phút đó cũng là một quãng thời gian đã
được xác định nhờ vào ngữ cảnh phía trước. Đó là quãng thời gian bắt đầu từ
lúc cô sẽ là người kiêu hãnh. Vì vậy đây cũng là một thông tin cũ.
Khi cung cấp một thông tin cũ, trạng ngữ có vị trí là đứng đầu câu văn
hoặc đoạn văn, về ý nghĩa thường là chỉ khoảng cách thời gian. Ví dụ:
"The past year had taken a heavy toll on him, but he didn't appreciate
seeing proof in the mirror. His usually sharp blue eyes looked hazy and
drawn tonight. A dark stubble was shrouding his strong jaw and dimpled
chin. Around his temples, the gray highlights were advancing, making their
way deeper into his thicket of coarse black hair." (The Da Vinci Code, 6)
"Năm làm việc vừa qua đã làm ông tiêu hao sức lực nặng nề, nhưng
ông không khoái nhìn thấy bằng chứng của điều đó trong gương. Đôi mắt
màu xanh thường ngày sắc sảo đêm nay có vẻ lờ đờ và mệt mỏi. Một lớp râu
đen lởm chởm phủ kín quai hàm khỏe và cái cằm chẻ. Quanh thái dương,
những sợi hoa râm đang tăng lên, thâm nhập sâu hơn vào mái tóc đen dày."
Trạng ngữ The past year ở ví dụ là thông tin cũ. Đó là năm ông bị tổn
hao nhiều sức lực. Thông tin cũ này tạo liên kết giữa đoạn văn trước đó và
đoạn văn chứa nó.
Vai không gian được sắp xếp ở đầu câu văn mang tin cũ. Ví dụ:
"As she walked down Washington Street, the landscape was as dreary
as her own heart. Here there was none of the bustle and cheerfulness which
she had noted on Peachtree Street. Here many handsome homes had once
120
stood, but few of them had been rebuilt. Smoked foundations and the lonesone
blackened chimneys, now known as Sherman‘s Sentinels appeared with
disheartening frequency. Overgrown paths led to what had been houses--old
lawns thick with dead weeds, carriage blocks bearing names she knew so
well, hitching posts which would never again know the knot of reins. Cold
wind and rain, mud and bare trees, silence and desolation. How wet her feet
were and how long the journey home!" (Gone with the wind, 539)
"Đường Washington, quang cảnh phố xá cũng thê lương như tâm trạng
của nàng, không còn những tiếng ồn ào phấn khởi như ở đường Cây Đào.
Ngày trước đây là nơi có nhiều biệt thự tráng lệ bây giờ chỉ có vài căn vừa
được xây lên. Cột ống khói đứng đừng sững trên những nền nhà nam khói
ngày nay được mệnh danh là lính canh của Sherman, còn quá nhiều tại khu
phố này. Gió lạnh và mưa, bùn lầy và cây trụi lá, im lặng và hoang vắng,
chân lạnh ngắt mà đường về nhà cô Pitty hãy quá xa!"
Đọc đoạn văn phía trước câu văn, có thể nhận thấy không gian (Here) ở
đây là mang một thông tin cũ. Không gian đó đã được xác định là phố
Washington ngày xưa.
Vai mục đích được xắp xếp ở đầu câu văn mang tin cũ. Ví dụ:
"Johnston was forced to abandon the heights he had held so well, in
order to protect his rear." (Gone with the wind, 280)
"Johnstone sẽ bố phòng trên phía bờ sông bên kia để chống lại sức tiến
quân của quân Yankees."
Trong ví dụ trên, để chống lại sức tiến quân của quân Yankees là mục
đích của hành động bố phòng trên phía bờ sông bên kia mà nhân vật Johnston
tiến hành. Việc nhớ lại chuyện xưa ấy đã được biểu thị ở câu văn phía trước.
Vì thế trạng ngữ chỉ mục đích để chống lại sức tiến quân của quân Yankees là
121
thành phần mang thông tin đã biết từ ngữ cảnh.
Ví dụ về trường hợp vai nhượng bộ được sắp xếp ở đầu câu văn mang
tin cũ:
"When the news came, it was a shock, even though Tracy had expected
it". (If Tomorrow Comes,101)
"Thật choáng váng khi biết cái tin đó, dù rằng Tracy đã chờ đợi nó."
Sự thật là even though Tracy had expected it (dù rằng Tracy đã chờ đợi
nó) không thay đổi được việc Tracy thực tế vẫn bị shok (choáng váng) khi
nhận được tin tức. Sự không mong muốn này không phải thông tin lần đầu
tiên người đọc bắt gặp khi tiếp xúc với câu. Bởi lẽ, trước đó, người viết đã
cắt nghĩa nguyên nhân của việc bị sốc (Ernestine – bạn tù thân thiết của Tracy
được ra tù sau 1 tuần nữa). Như vậy mặc dù Tracy đã mong đợi nó là một
thông tin cũ.
Vai nguyên nhân được sắp xếp ở đầu câu văn mang tin cũ. Ví dụ:
"Jeems did not like to jump fences, but he had jumped higher ones than
this in order to keep up with his masters." (Gone with the wind,20) "Jeems
không thích nhảy rào, nhưng nó buộc lòng phải phóng qua những bức rào
cao hơn để luôn luôn theo sát chủ."
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân để luôn theo sát chủ, được xác định là
thành phần mang tin cũ. Bởi lẽ, Jeems đã được người viết nhắc đến ở phần
văn bản phía trước cùng với việc đã nhảy những cái cao hơn thế này.
Ngoài ra, trạng ngữ biểu đạt thông tin cũ cũng xuất hiện sau thành phần
nòng cốt câu và thường mang các vai nghĩa không gian, tình huống, nguyên nhân.
Ví dụ trạng ngữ tình huống được sắp xếp ở cuối câu văn mang tin cũ:
"Each afternoon after supper, the inmates were allowed to spend one
hour in the recreation room, where they could watch television or talk or
122
read the latest magazines and newspapers." (If Tomorrow Comes, 88)
"Mỗi buổi chiều, sau bữa ăn, tù nhân dược phép có một giờ ở phòng giải
trí, nơi họ có thể coi ti vi, trò chuyện hoặc xem các báo và tạp chí mới nhất."
Trước ngữ đoạn ở phòng giải trí, nơi họ có thể ... là những câu viết về
các nhân vật tù nhân. Vì vậy tình huống nơi họ có thể coi ti vi, trò chuyện
hoặc xem các báo và tạp chí mới nhất... mang thông tin đã biết từ ngữ cảnh.
Ví dụ trạng ngữ nguyên nhân được sắp xếp ở cuối câu văn mang tin cũ:
"They were certain they had stumbled across God's building block for
the world, and they worshipped Nature because of that." (The Da Vinci Code,
81) "Họ chắc chắn rằng họ đã tình cờ tìm thấy yếu tố cơ bản mà Chúa Trới
dùng để tạo nên thế giới này, và họ tôn thờ tự nhiên vì lí do đó."
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân vì lí do đó được xác định là trạng ngữ mang
tin cũ. Bởi lẽ, trong những đoạn văn trước, người đọc đã biết về sự việc họ
chắc chắn rằng Họ chắc chắn rằng họ đã tình cờ tìm thấy yếu tố cơ bản mà
Chúa Trới dùng để tạo nên thế giới này.
4.2.1.2. Trạng ngữ thể hiện một tin mới
Khác với tin cũ là tin đã được người nói, người nghe biết trước; tin
mới là thông tin tại thời điểm nói, lần đầu tiên được đưa vào văn bản và người
nghe/người đọc lần đầu tiên biết. Tuy nhiên, do trạng ngữ là thành phần phụ,
bổ sung cho nòng cốt câu nên thông tin được nêu lên ở trạng ngữ cũng thường
là thông tin nền, thông tin về chu cảnh hay tình huống. Dĩ nhiên, cần phân
biệt hai sự việc khác nhau, đó là cương vị trong tổ chức cú pháp của câu
(trạng ngữ thuộc thành phần phụ của câu) và cương vị trong cấu trúc thông tin
của câu (trạng ngữ có thể đóng vai trò quan trọng, là điểm nhấn trong cấu trúc
thông tin của câu). Qua khảo sát, chúng tôi thấy, trạng ngữ đóng vai cái mới,
tức cung cấp thông tin mới thường xuất hiện ở các trường hợp sau:
123
Trạng ngữ xuất hiện ở câu văn mở đầu một tác phẩm sẽ mang thông tin mới.
Ví dụ: "In English we call that kind of flower a lily." (The Da Vinci
Code, 95)
"Trong tiếng Anh, chúng tôi gọi loại hoa đó là hoa huệ."
"In the seventh week, there came a telegram from Colonel Hampton
himself, and then a letter, a kind, dignified letter of condolence." (Gone with
the wind, 120)
"Trong tuần thứ bảy, đã có một bức điện từ chính Đại tá Hampton, và
sau đó là một lá thư, một lá thư chia buồn, trang nghiêm."
Đây là những trạng ngữ mang thông tin về không gian, thời gian lần
đầu được đề cập nên đó là những tin mới.
Ngoài ra, trạng ngữ chỉ phương tiện đứng ở đầu hoặc cuối câu cũng
thường mang thông tin mới.
Ví dụ:
"By contrast with his own miserable existence, they were well-fed, well-
clothed and looked after in sickness and old age." (Gone with the wind, 45)
"Trái ngược với sự tồn tại khốn khổ của chính mình, họ được nuôi
dưỡng tốt, mặc quần áo tốt và được chăm sóc trong bệnh tật và tuổi già."
Trong ví dụ trên, thành phần trạng ngữ chỉ cách thức phương tiện: Trái
ngược với sự tồn tại khốn khổ của chính mình. Sự tồn tại khốn khổ được đề
cập ở đầu câu này sẽ được bàn tới trong những câu sau. Vì vậy, nghĩa thông
tin được nêu lên trong trạng ngữ ở câu văn trên là một tin mới.
Như vậy, thành phần trạng ngữ có thể mang một thông tin đã biết trước
từ ngữ cảnh hoặc có thể mang một thông tin lần đầu tiên được đề cập. Việc
mang thông tin cũ hay thông tin mới phụ thuộc nhiều vào vị trí xuất hiện của
trạng ngữ trong văn bản, trong đoạn văn, trong câu văn và vai nghĩa mà trạng
124
ngữ đó đảm nhận.
Quan sát văn liệu ngôn ngữ học, chúng tôi thấy rằng có một mối quan
hệ giữa cấu trúc thống tin cũ-thông tin mới và cấu trúc đề-thuyết, và giữa hai
cấu trúc này không phải bao giờ cũng rõ ràng. Gần đây, những người theo
ngữ pháp chức năng hệ thống cho rằng sự khác biệt chủ yếu là ở góc nhìn:
cấu trúc thông tin cũ-thông tin mới được nhìn nhận từ góc độ người tiếp nhận
văn bản; còn cấu trúc đề-thuyết được nhìn từ góc độ người tạo lập văn bản.
(129) Chúng tôi cho rằng đây là quan điểm có thể chấp nhận được.
4.2.2. Trạng ngữ trong cấu trúc đề - thuyết của câu
4.2.2.1. Trạng ngữ thuộc phần đề trong cấu trúc đề - thuyết của câu
Qua khảo sát, chúng tôi thấy, hầu hết những câu có trạng ngữ thuộc
phần đề là những câu trần thuật, trình bày sự tình. Tuy nhiên, chức năng đề
tiêu biểu trong câu thuộc về chủ ngữ nên trạng ngữ trong những câu như vậy
là đề đánh dấu (Halliday 1985, Halliday 2004). Những trạng ngữ thuộc phần
đề của câu thường là những trạng ngữ có vị trí đứng đầu câu.
Ví dụ:
"In the old movies the butler always came to the rescue with a tray of
drinks."(If Tomorrow Comes,13)
"Trong những bộ phim cũ, người quản gia luôn đến giải cứu với một
khay đồ uống."
In the old the butler always came to the rescue
movies with a tray of drinks
Cấu trúc Đề - thuyết Đề đánh dấu Thuyết
Phần lớn những câu có trạng ngữ thuộc phần đề thường được xắp xếp
ngay ở đầu câu văn. Tuy nhiên cũng có một số trường hợp trước trạng ngữ
còn xuất hiện loại đề văn bản, dùng để nối kết quan hệ nghĩa – logic của câu
125
chứa nó với câu có quan hệ nghĩa với câu đó.
Ví dụ về trường hợp trước trạng ngữ xuất hiện loại đề văn bản:
"And now, she thought, it's going to be a part of my life." (If Tomorrow
Comes, 11)
"Và bây giờ, nàng nghĩ, nó sắp sửa là một phần nào cuộc sống của
mình!"
And now she thought, it's going to be a part of my life
Cấu trúc Đề văn bản Đề đề tài
đề -thuyết
Bội đề Thuyết
Như đã có dịp nói trên đây, cấu trúc đề - thuyết có liên quan mật thiết
đến cấu trúc tin, chỉ khác biệt ở góc nhìn (point of view): nhìn từ góc độ
người tạo lập (đề-thuyết) hay góc độ người tiếp nhận (thông tin cũ-thông tin
mới). Qua khảo sát, có thể thấy: Trạng ngữ thuộc phần đề biểu đạt một thông
tin đã biết từ ngữ cảnh (tin cũ) chiếm số lượng ít hơn phần đề biểu đạt một
thông tin lần đầu tiên xuất hiện trong văn bản (tin mới).
Ví dụ về trường hợp trạng ngữ thuộc phần đề biểu đạt tin cũ:
"The safe was filled with thick envelopes and papers, but Tracy
ignored them. At the back, resting on a small shelf, was a chamois jewelry
bag." (If Tomorrow Comes, 181)
"Két sắt chứa đầy phong bì và giấy tờ dày, nhưng Tracy đã phớt lờ
chúng. Ở phía sau, nằm trên một cái kệ nhỏ, là một túi trang sức sơn dương."
Ví dụ về trường hợp trạng ngữ thuộc phần đề biểu đạt tin mới:
"In that instant, Sophie felt the ghost of her grandfather whispering in
her ear." (The Da Vinci Code, 112)
"Ngay lúc đó, Sophie cảm thấy hồn ma của ông cô thì thầm bên tai cô."
Như vậy, có thể thấy, trạng ngữ thuộc phần đề biểu đạt thông tin cũ
126
thường là những trạng ngữ được cấu tạo bởi một kết cấu song hành. Đây
thường là các trạng ngữ chỉ thời gian, trạng ngữ chỉ không gian, trạng ngữ chỉ
mục đích, trạng ngữ chỉ nguyên nhân. Đối với các trạng ngữ thuộc phần đề
biểu đạt tin mới, thì trạng ngữ thường xuất hiện ở câu văn mở đầu một tác
phẩm và thường là những trạng ngữ chỉ cách thức, phương tiện. Ở một số
trường hợp khác của trạng ngữ, mối quan hệ giữa phần đề do trạng ngữ đảm
nhận và cấu trúc tin là khá linh hoạt, có khi vai nghĩa của trạng ngữ biểu đạt
thông tin mới, có khi lại biểu đạt thông tin cũ.
Vai nghĩa thời gian thuộc phần đề biểu đạt thông tin mới. Ví dụ:
"Their host swept an arm across the luxurious salon. "This is your
private viewing room. Once I leave the room, you may spend all the time you
need in here to review and modify the contents of your safe-deposit box,
which arrives... over here." (The Da Vinci Code, 152)
"Vị chủ nhân khoát tay về phía phòng khách sang trọng: "Đây là phòng
kiểm tra riêng của quý khách. Một khi tôi rời khỏi căn phòng này, quý khách
có thể sử dụng toàn bộ thời gian cần thiết để kiểm tra cũng như thay đổi nội
dung hộp ký thác an toàn của mình, nó sẽ đến… qua đây."
Vai nghĩa thời gian thuộc phần đề biểu đạt thông tin cũ. Ví dụ:
"Pushing Sophie from his mind, Fache stared for a moment at the
miniature knight standing on Saunière's desk. Then he turned back to
Collet." "Do you have him?" (The Da Vinci Code, 55)
"Đẩy Sophie ra khỏi tâm trí anh, Fache nhìn chằm chằm một lúc vào
hiệp sĩ thu nhỏ đang đứng trên bàn của Saunière. Rồi anh quay lại với
Collet". "Bạn có anh ta?""
4.2.2.2. Trạng ngữ thuộc phần thuyết trong cấu trúc đề - thuyết của câu
Như đã có dịp khẳng định, trong phiên bản mới nhất của ngữ pháp chức
năng hệ thống, có sự phân biệt giữa các cặp khái niệm thông tin cũ
127
(given)/thông tin mới (new) và Đề (Theme)/Thuyết (Rheme). Sự khác biệt
chủ yếu ở góc nhìn: góc nhìn của người tiếp nhận câu (thông tin cũ/thông tin
mới) hay góc nhìn của người tạo câu (Đề-Thuyết). Phần dụng học của trạng
ngữ được chúng tôi triển khai trên cơ sở sự phân biệt này.
Những trạng ngữ thuộc phần thuyết trong câu thường là những trạng ngữ
có vị trí giữa câu và cuối câu. Trạng ngữ thuộc phần thuyết của câu có thể
biểu đạt một thông tin cũ cũng có thể biểu đạt một thông tin mới. Biểu đạt
thông tin cũ trong phần thuyết theo tư liệu khảo sát của chúng tôi thường là
những trường hợp trạng ngữ mang các vai nghĩa không gian, tình huống,
nguyên nhân. Biểu đạt thông tin mới trong phần thuyết là những trường hợp
trạng ngữ mang các vai nghĩa cách thức, phương tiện. Vai nghĩa thời gian khi
tham gia phần thuyết rất linh hoạt về cấu trúc tin, có khi thể hiện một thông
tin mới, có trường hợp lại thể hiện một thông tin cũ.
Trạng ngữ chỉ thời gian thuộc phần thuyết trong cấu trúc đề thuyết của
câu, biểu đạt thông tin mới. Ví dụ:
―Oh, don‘t laugh. It isn‘t funny. It seems that Miss--this woman, wanted
to do something for the hospital--can you imagine it? She offered to nurse
every morning and, of course, Mrs. Elsing must have nearly died at the idea
and ordered her out of the hospital." (Gone with the wind, 222)
"Ôi, xin đừng cười. Thật là vui. Có vẻ như Hoa hậu - người phụ nữ này,
muốn làm một cái gì đó cho bệnh viện - bạn có thể tưởng tượng nó không? Cô
đề nghị với y tá mỗi sáng và dĩ nhiên, bà Elsing đã suýt chết vì ý tưởng và ra
lệnh cho cô ra khỏi bệnh viện."
Trạng ngữ chỉ thời gian thuộc phần thuyết trong cấu trúc đề thuyết của
câu, biểu đạt thông tin cũ. Ví dụ:
"He had arranged for a massage in one hour, but he planned to finish
128
this game before then." (If Tomorrow Comes, 240)
"Anh ấy đã sắp xếp một buổi mát xa trong một giờ, nhưng anh ấy đã
lên kế hoạch hoàn thành trò chơi này trước đó."
Như vậy, qua tìm hiểu có thể thấy, trong câu, trạng ngữ có thể thuộc
phần đề hoặc phần thuyết của câu. Trạng ngữ trong cấu trúc đề - thuyết của
câu có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng thông tin của trạng ngữ.
4.2.3. Vai trò của trạng ngữ đối với tính liên kết và mạch lạc của văn bản
Liên kết về hình thức (cohesion) là liên kết được thực hiện bằng các
phương tiện, dấu hiện ngôn ngữ. Đây là các phương thức liên kết, các phép
liên kết nằm trong các câu văn, các đoạn văn, giúp chúng có sự thống nhất với
nhau về ý nghĩa. Trong khi đó, mạch lạc (coherence) là liên kết nội dung. Đó
là sự liên kết xét về mặt tổ chức bên trong của văn bản đặc biệt là sự liên kết
về nghĩa, theo cách hiểu rộng nhất về nghĩa. Theo cách hiểu chung nhất, liên
kết nội dung bao gồm liên kết lôgic và liên kết chủ đề. Một văn bản cần đảm
bảo cả tính liên kết và tính mạch lạc, nghĩa là cần có sự liên kết ở cả mặt nội
dung và hình thức.
Trạng ngữ là yếu tố đi kèm, bổ sung phương diện nghĩa nào đó (về thời
gian, không gian, tình huống, cách thức phương tiện, nguyên nhân...) cho cả
sự việc được nói đến trong câu. Tuy nhiên, xem xét trong một văn bản, có thể
nhận thấy trạng ngữ còn có vai trò quan trọng đối với sự liên kết và mạch lạc
của văn bản. Vai trò tạo liên kết và mạch lạc cho văn bản thể hiện rõ ở việc có
sự lặp lại trạng ngữ trong câu văn trước hoặc sau đó. Ngoài ra, còn biểu hiện
ở trường hợp trạng ngữ có từ hoặc cụm từ lặp lại câu văn đi trước.
4.2.3.1. Trạng ngữ lặp lại trạng ngữ trong câu văn trước đó
Ngoài việc lặp lại thành phấn chính, để tạo mối liên kết cho văn bản,
các tác giả còn lặp lại bộ phận trạng ngữ. Trạng ngữ có thể có sự lặp lại trạng
129
ngữ trong câu văn trước đó. Ví dụ:
"The easy days away from the routine of the prison somehow made the
nights worse. Tracy loathed returning to her cell, hated being caged in like an
animal. She was still unable to get used to the screams that came from nearby
cells in the uncaring darkness. She would grit her teeth until her jaws ached.
One night at a time, she promised herself. I can stand one night at a time." (If
Tomorrow Comes, 100)
"Sự thoải mái ban ngày ngoài nhà tù đã làm cho các buổi đêm trở nên
khó chịu hơn. Tracy căm ghét việc phải trở lại buồng giam. Căm ghét việc bị
nhất như một con thú, và không thể nào quen được với những tiếng thét vọng
đến từ các buồng giam gần đấy trong bóng tối hờ hững. Nàng thường nghiến
răng đến mức phát đau lên. Một đêm thôi mà, nàng tự hứa với mình. Ta có
thể chịu được một đêm"
Trạng ngữ One night at a time trong câu (One night at a time, she
promised herself) được lặp lại hoàn toàn trạng ngữ One night at a time trong câu
văn tiếp theo. Sự lặp lại này, có tác dụng tạo liên kết, mạch lạc cho đoạn văn.
Bên cạnh việc lặp lại hoàn toàn trạng ngữ trong những câu văn trước,
còn có trường hợp trạng ngữ không lặp lại hoàn toàn mà chỉ lặp lại một phần.
Ví dụ:
"Wait here for me, Harry," he said. "Our examination of the grounds
will not take long."
"They trooped out in silence past him, and closed the door. After a
minute or so, Harry heard the clunks of Moody‘s wooden leg growing fainter
in the corridor below." (Harry Potter and the Prisoner of Azkaban, tr.506)
"Cụ nói: ―Con chờ thầy ở đây nghe, Harry. Các thầy đi kiểm tra sân
trường không lâu đâu.‖ Ba người lớn im lặng đi ngang qua Harry để ra
130
ngoài và đóng cánh cửa lại.
Sau chừng một phút hay cỡ đó, Harry nghe tiếng lộc cộc cái chân gỗ
của thầy Moody nhỏ dần phía hành lang bên dưới."
Trạng ngữ After a minute or so (Sau chừng một phút hay cỡ đó) có mối
liên hệ với will not take long (sẽ không lâu) trong câu văn trước. Sự lặp lại
này có tác dụng tạo liên kết, mạch lạc cho các câu văn và đoạn văn.
4.2.3.2. Trạng ngữ có sự liên hệ với trạng ngữ trong những câu văn trước
Ngoài lặp lại trạng ngữ của câu văn trước, còn lặp lại trạng ngữ của
những câu văn trước đó nữa, ví dụ:
"As a boy, Langdon had fallen down an abandoned well shaft and
almost died treading water in the narrow space for hours before being
rescued. Since then, he'd suffered a haunting phobia of enclosed spaces—
elevators, subways, squash courts." (The Da Vinci Code, 20)
"Khi còn là một cậu bé, Langdon đã rơi xuống một cái giếng bị bỏ
hoang và gần như chết vì nước trong không gian hẹp trong nhiều giờ trước
khi được giải cứu. Kể từ đó, anh phải chịu một nỗi ám ảnh ám ảnh về không
gian kín của thang máy, tàu điện ngầm, sân bóng quần."
Trạng ngữ thời gian Since then trong câu Since then, he'd suffered a
haunting phobia of enclosed spaces—elevators, subways, squash courts tuy
không phải là sự lặp lại trạng ngữ As a boy trong As a boy, Langdon had
fallen down an abandoned well shaft and almost died treading water in the
narrow space for hours before being rescued nhưng sự xuất hiện của trạng
ngữ Since then đã gợi liên tưởng về As a boy. Chính điều này khiến văn bản
giữ được tính mạch lạc trong việc triển khai ý nghĩa.
Như vậy chính việc sử dụng những trạng ngữ mà những trạng ngữ đó là
sự lặp lại trạng ngữ trong câu văn trước hoặc có sự liên hệ mật thiết với trạng
ngữ ở những câu văn trước đó đã góp phần tạo nên tính liên kết và mạch lạc
131
cho văn bản. Sự lặp lại ấy có thể là sự lặp lại hoàn toàn có thể là sự lặp lại
không hoàn toàn; có thể là sự lặp lại ở những câu văn đứng liên kề nhau, cũng có
thể là sự lặp lại ở những câu văn có khoảng cách (gián cách) trong văn bản.
4.3. Bình diện ngữ dụng của trạng ngữ tiếng Việt
4.3.1. Chức năng thông tin của trạng ngữ
4.3.1.1. Trạng ngữ thể hiện một tin cũ
Giống như trạng ngữ trong tiếng Anh, thành phần trạng ngữ thể hiện
loại thông tin cũ thường là trạng ngữ mang các vai thời gian, không gian, mục
đích, nhượng bộ, nguyên nhân và được sắp xếp ở đầu câu văn.
Trạng ngữ chỉ thời gian đứng đầu câu thể hiện thông tin cũ. Ví dụ:
"Nhờ được cái nó nhanh nhẩu, láu lỉnh, liều lĩnh, mà chẳng biết nó làm
ăn ra sao, nó có được ít vốn, rồi lấy được ở đâu một con vợ giầu. Từ đó,
thằng ấy một ngày một khá, buôn bán phát tài." (Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, 203)
"Anh Phong, thế anh định bỏ chết tôi à? Không trách người ta bảo đàn
ông bạc tình, có oan tí nào đâu! Tôi vì nghe anh dỗ ngon dỗ ngọt, nào những
là lấy nhau, nào những là ăn đời ở kiếp cùng nhau... Từ đó đến nay, tôi dốc
một lòng chờ đợi, ai đến dạm hỏi, tôi cũng kiếm cớ thoái thác." (Tuyển tập
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 289)
Ở ví dụ trên, quãng thời gian từ đó được biểu hiện ở trạng ngữ là một
thông tin đã biết. Đó chính là quãng thời gian ‗nó có được ít vốn, rồi lấy được
ở đâu một con vợ giầu‖. Quãng thời gian từ đó đến nay chính là quãng thời
gian đã biết trước đó, thời gian "Tôi vì nghe anh dỗ ngon dỗ ngọt, nào những
là lấy nhau, nào những là ăn đời ở kiếp cùng nhau nên tôi dốc một lòng chờ
đợi, ai đến dạm hỏi, tôi cũng kiếm cớ thoái thác"
Trạng ngữ chỉ địa điểm được xắp xếp ở đầu câu văn mang tin cũ:
Ví dụ: "Tôi đến một làng Mán bám cheo leo vào lưng chừng một quả
132
núi cao. Cả làng vẻn vẹn có ba nhà, xếp bậc lên nhau. Cột kèo ở trong nhà là
những cây gỗ để nguyên cả vỏ. Không có một cái lỗ đục, một con xỏ vì dụng
cụ độc nhất của người Mán là con dao rừng mà đi đâu anh ta cũng đeo lủng
lẳng ở sau lưng. Tre gỗ buộc vào với nhau bằng những sợi dây leo. Cái lò bếp
nấu ―ruốc mu‖ (thức ăn của lợn) với cái chảo to tướng ở trên lù lù ngay ở
giữa nhà. Ở đây người ta vẫn sống gần gũi và bình đẳng lắm." (Tuyển tập
Nam Cao, 721)
Địa điểm Ở đây, người ta vẫn sống gần gũi và bình đẳng lắm, là địa
điểm đã được biết từ trước đó là làng Mán.
Trạng ngữ chỉ nhượng bộ được sắp xếp ở đầu câu văn mang tin cũ. Ví dụ:
"Này, năm nay tôi mới mười tám tuổi đầu, sao anh đã đổ bậy, đổ bạ
cho tôi cái tiếng khỉ gió ấy! Anh hỏi tôi chửa với ai à? Rồi nó giống ai, nó
máu mủ ai, thì anh biết. Tôi con nhà trâm anh, anh cũng con nhà thế phiệt, vì
một lời giao ước, nên tôi mới quá chiều anh. Tuy chưa là vợ anh, nhưng cũng
như là vợ, nên tôi dốc một lòng chung thủy, thì chữ trinh tôi giữ nguyên cho
anh. Nếu bây giờ tôi loan chung phượng chạ thì đây này, tôi sẽ chết như thế
này này!" (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 28)
Thông tin về chưa là vợ anh là thông tin cũ đã được bạn đọc biết đến trước
đó bởi họ tuy đã có lời giao ước với nhau nhưng chưa có cưới xin chính thức.
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân được sắp xếp ở đầu câu văn mang tin cũ.
Ví dụ:
"Vui vẻ gì! Ông cụ uống rượu vào, nói nhảm, tôi bực lắm. Chính vì thế
mà tôi không mua nhiều cho ông cụ uống, chứ có phải tôi tiếc tiền đâu? Bận
sau đừng mua nữa mà tôi giận" (Tuyển tập Nam Cao, 391)
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân chính vì thế, được xác định là thành phần
mang tin cũ. Bởi lẽ, nguyên nhân đã được nhắc tới trước đó là "Ông cụ uống
133
rượu vào, nói nhảm, tôi bực lắm."
Như vậy, trạng ngữ biểu đạt thông tin cũ cũng thường là các trạng ngữ
thời gian, địa điểm, tình huống, nguyên nhân và được đặt trước thành phần
nòng cốt câu
Ví dụ về trường hợp vai không gian được sắp xếp ở cuối câu văn mang
tin cũ:
"Tiếng chủ tôi vẫn một giong gắt gỏng ở trên gác."
(Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 137)
Trạng ngữ, ở trên gác mang thông tin đã biết từ ngữ cảnh cho trước nơi ở
của bà chủ đã được tác giả nhắc đến trong các đoạn văn trước "Tôi vừa tính lên
gác để thăm nó", và "tôi trỏ tay lên gác để làm hiệu"
Ví dụ về trường hợp vai nguyên nhân được sắp xếp ở cuối câu văn
mang tin cũ:
"Nhà Lộc khuất sau cái nhà ông Ấm. Vả không khuất thì cũng không
trông thấy, bởi vì trời tối." (Tuyển tập Nam Cao, 319)
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân bởi vì trời tối được xác định là trạng ngữ
mang tin cũ. Bởi lẽ, trong những đoạn văn trước, người đọc đã biết về thông
in nhân vật chính mới dậy, trời còn chưa sáng rõ. "Nó mở cửa ra. Bên ngoài
tờ mờ sáng. Trời lấm tấm những vì sao. Từ trong căn nhà ở mé bên kia, từng
vệt ánh sáng len ra ngoài sân tối màu tro."
4.3.1.2. Trạng ngữ thể hiện một tin mới
Khi xuất hiện ở câu văn mở đầu một tác phẩm, trạng ngữ thường mang
một thông tin mới. Bởi vì là những câu văn mở đầu nên không có ngữ cảnh
chứa những thông tin về điều được nhắc đến trong trạng ngữ.
Ví dụ: "Chiếc đèn pin
Lần sau, có việc lên tỉnh, ông Huyện Văn Giang vẫn vào trọ nhà Giốc
134
như thường. Thế là bác thông phiên đã đoán sải. Bác tưởng hôm nọ xảy ra,
nó động tới chỗ liêm sỉ của ông Huyện, bác sẽ mất đứt mồi." (Tuyển tập
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 129)
Mở đầu tác phẩm Chiếc đèn pin, Nguyễn Công Hoan đã cung cấp một
trạng ngữ ―Lần sau‖, đây là thông tin mở đầu tác phẩm nên hoàn toàn là thông
tin mới.
Khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy, trạng ngữ chỉ cách thức phương
tiện phần lớn mang thông tin mới, dù xuất hiện đầu hay cuối câu.
Trạng ngữ chỉ cách thức phương tiện đứng đầu câu mang thông tin
mới. Ví dụ:
"Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình theo ý hắn, hắn
bảo thị: - Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui". (Tuyển tập Nam
Cao, tr. 42)
Trạng ngữ cách thức đứng đầu câu trên, cung cấp một thông tin mới, vì
trước đó, chưa có thông tin gì về giọng nói và vẻ mặt phong tình của Chí Phèo
đối với Thị Nở.
Trạng ngữ chỉ cách thức phương tiện đứng cuối câu mang thông tin
mới. Ví dụ:
"Ông hắt tay bà ra, quoắt mắt nhìn bà một cách tức tối và khinh bỉ."
(Tuyển tập Nam Cao, tr.217)
Trạng ngữ cách thức đứng cuối câu trên, cung cấp một thông tin mới, vì
trước đó, chưa có thông tin gì về vẻ mặt, thái độ của ông đố với bà.
Trong luận án này, chúng tôi chưa có dịp bàn về những chỉ báo cho
thông tin cũ/thông tin mới, mặc dù đã có một số tác giả chỉ ra những dấu hiệu
như trật tự, các chỉ tố đánh dấu (chính, ngay, cả, thì, là...), trọng âm câu
(Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp 1998). Tuy nhiên, trong nhiều
135
trường hợp, sự phân đoạn thông tin cũ/mới này chỉ có thể dựa vào ngữ cảnh,
căn cứ vào những câu đi trước và đi sau, đây là điều mà chúng tôi đã cố gắng
thực hiện trong những phân tích và diễn giải trên đây.
4.3.2. Trạng ngữ trong cấu trúc đề - thuyết của câu
4.3.2.1. Trạng ngữ thuộc phần đề trong cấu trúc đề - thuyết của câu
Những trạng ngữ thuộc phần đề trong cấu trúc đề - thuyết của câu là
những trạng ngữ có vị trí trí đứng đầu câu.Ví dụ:
"Trong nhà trong, thằng bếp thì thào hỏi con vú." (Tuyển tập truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan, 211)
Trong nhà trong thằng bếp thì thào hỏi con vú
Cấu trúc Đề - thuyết Đề đánh dấu Thuyết
Phần lớn trạng ngữ thuộc phần đề trong cấu trúc đề thuyết của câu là
thành phần được xắp xếp ngay ở đầu câu văn. Tuy nhiên có một số trường
hợp trước trạng ngữ còn xuất hiện loại đề văn bản, hoặc trước trạng ngữ xuất
hiện đề tình thái diễn đạt quan hệ liên nhân.
Đề văn bản xuất hiện trước trạng ngữ. Ví dụ:
"Và năm 1996, nhà văn Nguyễn Công Hoan được Nhà nước tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, 4)
Và nhà văn Nguyễn Công Hoan được Nhà năm
1996 nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về
văn học nghệ thuật
CT ĐT Đề văn bản Đề đề tài
136
Bội đề Thuyết
Đề tình thái xuất hiện trước trạng ngữ. Ví dụ:
"Thì ra bấy giờ tôi mới trông thấy mắt giang bị khâu bằng chì thâm
thật!" (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 122)
Thì ra bấy giờ tôi mới trông thấy mắt giang bị khâu
bằng chì thâm thật!
CT ĐT Đề tình thái Đề đề tài
Bội đề Thuyết
Cấu trúc đề - thuyết của câu có liên quan mật thiết đến cấu trúc tin, có
thể biểu đạt tin cũ, cũng có thể biểu đạt tin mới.
Trạng ngữ thuộc phần đề biểu đạt tin cũ. Ví dụ:
"Ở hý viện ra, Lựu, Hoàng, Nguyễn vẫn đi bộ. Cảnh đêm không có một
tí gì là đáng sợ. Đêm lành và hiền từ. Đêm lại còn đẹp nữa (...) Trong đêm
vắng, sắt đường tàu điện sáng như vừa mài vào đá màu." (Tuyển tập Nam
Cao, 328)
Trạng ngữ thuộc phần đề biểu đạt tin mới. Ví dụ:
―Đùng xoẹt…, ngùng ngoằng, ngùng ngằng ngoặc, đòm… đòm… đòm!‖
"Nghe những tiếng ấy, hai tên cảnh sát ngoảnh lại, hai bạn nhỏ thụt
vào hiệu cho thuê xe đạp. Trước cổng chợ Sắt, Trạch giơ tay rạch trời làm
điệu bộ"
- "Đùng xoẹt! Ngùng ngoằng, ngùng, ngằng ngoặc, đòm, đòm, đòm!
"(Tuyển tập Nam Cao, 261)
Trạng ngữ thời gian thuộc phần đề biểu đạt thông tin mới. Ví dụ:
"Ông lang rón hai ngón trên cổ tay bà, trầm ngâm. Ông lim dim đôi
mắt. Rồi lúc tóm trúng bệnh, ông lấy bút giấy kê đơn lập tức. Ông hẹn uống
137
một chén, bà sẽ thấy khác ngay. Uống đến ba chén, bà không còn một tí gì
khó chịu trong người nữa. Lúc đó, chỉ cần dăm thang thuốc bổ, là bà lại khỏe
mạnh như thường." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 249)
Trạng ngữ chỉ thời gian thuộc phần đề biểu đạt thông tin cũ. Ví dụ:
"Ông ta vắt hai tay ra sau, lặng ngắm Sáng. Lúc bấy giờ, ông ta có thể
làm gì Sáng cũng được. Song, ông ta đứng yên". (Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, 313)
4.3.2.2. Trạng ngữ thuộc phần thuyết trong cấu trúc đề - thuyết của câu
Trạng ngữ chỉ thời gian khi tham gia phần thuyết của câu rất linh hoạt
về cấu trúc tin. Trạng ngữ chỉ thời gian thuộc phần thuyết có thể thể hiện một
thông tin mới, có trường hợp nó lại thể hiện một thông tin cũ.
Trạng ngữ chỉ thời gian thuộc phần thuyết, biểu đạt thông tin mới. Ví dụ:
"Nhân dân cả một vùng gần đó, hàng ngày đến họp chợ, đều phải qua làng
Cao Hạ mới đi tới được." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 33)
Trạng ngữ chỉ thời gian thuộc phần thuyết, biểu đạt thông tin cũ. Ví dụ:
"Cái anh ngồi bên này bây giờ vận mũ khác áo khác và vẽ mặt khác. Vả
được độ một vài thằng kép khổ hoặc con đào ươn, mà đã nhặng lên là mới, là
chấn chỉnh, thì chúng mình chỉ mắc một lần là cùng!" (Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, 241)
4.3.3.Vai trò của trạng ngữ đối với tính liên kết và mạch lạc của văn bản
4.3.3.1. Trạng ngữ lặp lại trạng ngữ trong câu văn trước đó
Sự lặp lại trạng ngữ trong câu văn trước đó có thể là lặp lại hoàn toàn
trạng ngữ hoặc có thể lặp lại một phần trạng ngữ.
"Nghe thấy chiếc đồng hồ treo thong thả điểm mười tiếng, bà uể oải sờ
trên đầu giường, ấn ngón tay cái vào núm quả lê bấm chuông, rồi lại uể oải
đặt phịch cánh tay xuống. Trời oi bức làm cho người ta mệt nhọc, chán nản
138
và lười biếng."
"Mấy hôm nay, nhờ trời, dân Việt Nam ta không phải phàn nàn rằng
nước ta kém nực. Gớm ghiếc! Nóng đâu lại có nóng thế! Suốt ngày, ánh nắng
rọi xuống, làm cho đất trắng xóa, nẻ kẽ, lá cây gục lả như sắp chết khát.
Thỉnh thoảng, trận gió Tây nổi lên, hắt hơi lửa vào mặt. Buổi tối thì im gió,
nên khí nóng cứ lẩn quất một nơi. Quạt đến rã cánh tay, chẳng qua chỉ đổi
hơi bức chỗ này lấy hơi bức chỗ khác." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan, 298)
Mấy hôm nay là thời điểm thời tiết nóng nực khiến cho tất cả mọi người
đểu cảm thấy khó chịu. Chính thời tiết nóng bức là mạch liên kết toàn bộ câu
chuyện. Vì mấy ngày hôm nay thời tiết nóng nực nên bà cảm thấy mệt mỏi và
lười biếng, bà cần con Đỏ quạt cho bà ngủ. Để bà ngủ được thì con Đỏ phải
quạt cả đêm đến mỏi cả tay.
"Huệ hôm nay không phải là Huệ hai tháng về trước. Huệ hôm nay
hoàn toàn là một thiếu phụ tân thời, vợ ông phán trẻ." (Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, tr.284)
Trạng ngữ hôm nay trong câu văn sau được lặp lại hoàn toàn ở câu văn trước.
Cũng lặp lại trạng ngữ trong câu văn thuộc đoạn văn trước, nhưng ví dụ
sau lại không phải sự lặp lại hoàn toàn:
"Nó chửi ông là làm phản. Nó sai đầy tớ đóng bốn cái cọc ở cạnh gốc
mít, buộc bốn chân tay ông vào, rồi cắm cây chuối vào lỗ đít, và đánh. Ông
như con ếch bị căng, giẫy giụa. Một lát, máu đít vọt ra.
(…) Sau trận đòn, mình mẩy ông Lũng sưng vù, bốn năm hôm mới
khỏi." (Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, 127)
Trạng ngữ sau trận đòn chính là sự tái hiện lại trận đòn trước đấy mà
ông Lũng phải chịu đựng. Sự lặp lại này, có tác dụng tạo liên kết, mạch lạc
139
cho các đoạn văn.
Như vậy, lặp lại trạng ngữ trong cùng đoạn văn hoặc khác đoạn văn,
góp phần tạo tính liên kết và mạch lạc cho văn bản.
4.3.3.2. Trạng ngữ trong câu văn được xét có sự liên hệ với trạng ngữ những
câu văn trước
Bên cạnh trường hợp trạng ngữ có sự liên hệ với trạng ngữ của câu văn
trước, còn có những trạng ngữ có mối liên hệ với nhiều câu văn trước. Ví dụ:
"Mỗi buổi tối thả thơ, cô Tú đều ngồi bên cạnh cha. Cô bận tay đỡ cái
túi thơ của cụ Nghè Móm mở lấy ra từng lá thơ đặt vào lòng chiếu cho làng
chọn chữ đặt tiền. Đôi khi có kẻ chọn phải một chữ rất quê kệch mà lại trúng
vào chữ ăn tiền, cô Tú tủm tỉm nhìn mãi nhà con đang vơ tiền, chừng như
muốn bảo thầm người được tiếng bạc đố chữ đó: "Đấy ông xem, ở đời ăn
nhau ở may rủi, chứ chữ nghĩa tài hoa mà đã làm gì, phải không ông?"."
"Tháng lại tháng, cụ Nghè Móm thả thơ trên mặt sông đã là một
chuyện mà một vùng đấy nhắc nhỏm đến luôn luôn. Nhưng có kẻ ác miệng đã
phao lên cái tin cụ Nghè Móm định mượn cuộc thả thơ để cho con gái lớn gần
quá lứa kén chồng."
"Từ đấy không thấy cô Tú theo kèm cha xuống bè nữa. Cụ Nghè Móm
không cho cô Tú theo mình đi thả thơ. Từ đấy, không rõ tại đâu, cụ Nghè
Móm hay thua luôn. Và bọn đánh thơ thì uể oải vơ tiền được, và buồn nhớ
đến một cái bóng người đã mượn ít nhiều tiếng tơ mà tô vẽ nhiều cho lắm
buổi đố chữ lấy tiền." (Vang bóng một thời, 44)
Trạng ngữ thời gian từ đấy trong câu văn "Từ đấy, không rõ tại đâu, cụ
Nghè Móm hay thua luôn" là sự lặp lại trạng ngữ từ đấy trong câu "Từ đấy
không thấy cô Tú theo kèm cha xuống bè nữa." Từ đấy trong đoạn sau là kết
nối của tháng lại tháng trong đoạn trước. Tháng lại tháng trong đoạn giữa là
sự kết nối của mỗi buổi tối thả thơ của đoạn đầu tiên. Chính những sự kết nối
140
này khiến tác phẩm giữ được tính mạch lạc trong việc triển khai cốt truyện.
Ngoài việc liên kết giữa các đoạn văn với nhau, còn có sự liên kết giữa
các trạng ngữ trong cùng một đoạn một câu. Ví dụ:
"Giời chiều, đứng nắn bầu nậm cho cụ Hồ, cậu Chiêu thấy có hứng
thú. Vì cậu đã bắt đầu mến được ông già Hồ. Trước kia cưỡi ngựa, cầm cờ,
đánh Tây, bắn súng; bây giờ đi phân phát hạnh phúc bằng cách tìm đất để mả
cho những kẻ thất thế, và lúc nhàn rỗi thì uống một đôi rượu của những người
biết nhớ ơn mình." (Vang bóng một thời, 65)
Đoạn văn trên có nhiều yếu tố liên kết với nhau, trong đó có 2 trạng
ngữ chỉ thời gian có sự kết nối với nhau là trước kia, bây giờ. Các trạng ngữ
này cùng chỉ về các thời điểm trong đời của nhân vật tôi. Thời điểm "trước
kia cưỡi ngựa, cầm cờ, đánh Tây, bắn súng." Thời điểm "bây giờ đi phân
phát hạnh phúc bằng cách tìm đất để mả cho những kẻ thất thế, và lúc nhàn
rỗi thì uống một đôi rượu của những người biết nhớ ơn mình."
4.3.3.3 Trạng ngữ trong câu văn được xét có từ hoặc cụm từ lặp lại từ hoặc
cụm từ của câu văn đi trước
Qua khảo sát có thể thấy có nhiều trường hợp từ, cụm từ của trạng ngữ
trong câu văn được xét có sự lặp lại từ hoặc cụm từ của câu văn đi trước. Điều
này tạo nên tính liên kết cho đoạn văn, văn bản.
Ví dụ: ―Hồi nhỏ tôi khác xa bây giờ.
Nói một cách khác, hồi nhỏ tôi ngon lành hơn bây giờ nhiều.
Hồi đó, muốn chơi với đứa con gái nào, tôi làm quen một cái rụp, gọn
ơ. Chỉ có sau này, khi lớn lên, tôi mới mắc cái tật lóng nga lóng ngóng trước
phụ nữ.‖ (Cô gái đến từ hôm qua, 3)
Các đoạn văn trên được kết nối với nhau bằng các từ chỉ thời gian như
hồi nhỏ, bây giờ, hồi đó, sau này, khi lớn lên và bằng các từ ngữ khác như con
141
gái, phụ nữ. Nhờ các từ ngữ này, mà các đoạn văn có sự liên kết với nhau.
Hoặc:
"Bây giờ tôi còn nhớ rõ mồn một cái cái ngày tôi cùng gia đình dọn đến
chỗ ở mới. Lúc đó tôi còn bé tẹo, khoảng bảy, tám tuổi gì đó. Căn nhà mới
nhiều phòng và xinh xắn hơn căn nhà cũ nhiều. Ngày mới dọn đến, tôi khoái
chí chạy nhong nhong khắp chỗ. Lúc này mẹ tôi chưa sinh nhỏ Phương, em kế
tôi, nên căn nhà trông thật rộng rãi và vắng vẻ." (Cô gái đến từ hôm qua, 3)
Trạng ngữ ngày mới dọn đến có quan hệ với chỗ ở mới và căn nhà mới.
Nhờ sự liên kết này mà các câu văn trong đoạn văn trên có sự liên kết với nhau.
Như vậy để tạo nên tính mạch lạc cho các câu văn, đoạn văn, có thể sử
dụng những trạng ngữ lặp lại trạng ngữ trong câu văn trước hoặc có sự liên hệ
mật thiết với trạng ngữ ở những câu văn trước đó. Ngoài việc lặp lại trạng ngữ
ở câu văn, đoạn văn trước, có thể lặp lại từ hoặc cụm từ của câu văn trước
cũng góp phần tạo nên tính liên kết và mạch lạc cho văn bản.
4.4. Đối chiếu ngữ dụng trạng ngữ tiếng Anh và tiếng Việt
Qua miêu tả phần 4.2 và 4.3, có thể thấy: Xét về ngữ dụng, trạng ngữ
trong tiếng Anh và trạng ngữ trong tiếng Việt không có sự khác nhau, nghĩa là
trong tiếng Anh và tiếng Việt, trạng ngữ đều có vai trò giống nhau. Cụ thể
như sau:
Về chức năng thông tin của trạng ngữ: Trạng ngữ trong tiếng Anh và
trạng ngữ trong tiếng Việt đều có thể cung cấp những thông tin cũ hoặc thông
tin mới. Các thông tin cũ mới này được xác nhận qua ngữ cảnh xuất hiện của
trạng ngữ và qua vị trí của trạng ngữ trong văn bản. Khi cung cấp một thông
tin cũ, trạng ngữ thường là thành phần có vị trí là đứng đầu câu văn hoặc đoạn
văn, về ý nghĩa thường là chỉ khoảng cách thời gian, về cấu tạo thường là kết
cấu song hành. Ngoài ra, khi trạng ngữ mang các vai thời gian, không gian,
mục đích, nhượng bộ, nguyên nhân và được sắp xếp ở đầu câu văn, làm đề,
142
thông thường các trạng ngữ đó cũng mang một thông tin cũ. Khi trạng ngữ
cung cấp một thông tin cũ, ngoài vị trí đứng trước thành phần nòng cốt câu,
còn có vị trí sau thành phần nòng cốt câu và thường mang các vai nghĩa
không gian, tình huống, nguyên nhân. Khác với tin cũ; tin mới là thông tin tại
thời điểm nói, lần đầu tiên được đưa vào văn bản và người nghe/người đọc
lần đầu tiên biết. Trong tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi thấy, trạng ngữ
đóng vai cái mới, tức cung cấp thông tin mới thường xuất hiện ở câu văn mở
đầu một tác phẩm .
Về trạng ngữ trong cấu trúc đề - thuyết của câu, có thể thấy, cả trạng
ngữ tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt tuy là thành phần phụ nhưng đều có thể
xuất trong phần đề và trong phần thuyết của câu. Trong tiếng Anh và tiếng
Việt, hầu hết những câu có trạng ngữ thuộc phần đề là những câu trần thuật,
trình bày sự tình, thường đứng vị trí đầu câu. Tuy nhiên cũng có một số
trường hợp có loại đề văn bản xuất hiện trước trạng ngữ để nối kết quan hệ
nghĩa – logic của câu chứa nó với câu có quan hệ nghĩa với câu đó. Trong cả
tiếng Anh và tiếng Việt, trạng ngữ thuộc phần đề biểu đạt một thông tin đã
biết từ ngữ cảnh chiếm số lượng ít hơn phần đề biểu đạt một thông tin lần đầu
tiên xuất hiện trong văn bản. Những trạng ngữ thuộc phần thuyết trong câu
thường là những trạng ngữ có vị trí giữa câu và cuối câu. Trạng ngữ thuộc
phần thuyết của câu có thể biểu đạt một thông tin cũ cũng có thể biểu đạt một
thông tin mới. Khi trạng ngữ mang các vai nghĩa không gian, tình huống,
nguyên nhân thì trạng ngữ thường biểu đạt một thông tin cũ. Trong phần
thuyết, khi trạng ngữ mang các vai nghĩa cách thức, phương tiện thì thường là
các thông tin mới. Khi mang vai nghĩa thời gian trong phần thuyết thì có thể
thể hiện một thông tin mới, có trường hợp lại thể hiện một thông tin cũ.
Đối với tính liên kết và mạch lạc trong văn bản, có thể thấy, trạng ngữ
góp phần tạo nên sự liên kết và mạch lạc cho đoạn văn, cho văn bản. Sự liên
143
kết này được tạo dựng khi trạng ngữ trong câu văn được xét có sự lặp lại
trạng ngữ trong câu văn trước đó. Hoặc trong trường hợp trạng ngữ có sự liên
hệ với trạng ngữ những câu văn trước. Hoặc trạng ngữ lặp lại từ hoặc cụm từ
của câu văn, đoạn văn trước. Mặc dù chỉ là thành phần phụ, bổ sung phương
diện nghĩa nào đó như bổ sung nghĩa thời gian, nghĩa không gian, nghĩa tình
huống, nghĩa cách thức phương tiện, nghĩa nguyên nhân... cho cả sự việc
được nói đến trong câu nhưng thành phần trạng ngữ trong cả tiếng Anh và
tiếng Việt đều có vai trò nhất định trong việc tạo liên kết hình thức và nội
dung đối với một văn bản. Để thực hiện được vai trò liên kết và mạch lạc
trong văn bản, người viết thường dùng phương thức lặp, phương thức liên
tưởng với ngữ cảnh được nêu ở tiền ngôn.
4.5. Tiểu kết chƣơng 4
Nghiên cứu trạng ngữ ở bình diện ngữ dụng, chúng tôi quan tâm đến
những vấn đề là: 1/Khả năng chuyển tải thông tin của trạng ngữ; 2/Trạng ngữ
trong cấu trúc đề thuyết của câu; 3/Vai trò của trạng ngữ đối với tính liên kết
và mạch lạc của văn bản.
Về khả năng chuyển tải thông tin của trạng ngữ, qua khảo sát cho thấy
thành phần trạng ngữ có thể mang một thông tin đã biết trước từ ngữ cảnh hoặc
có thể mang một thông tin lần đầu tiên được đề cập. Việc mang thông tin cũ hay
thông tin mới phụ thuộc nhiều vào vị trí xuất hiện của trạng ngữ trong văn bản,
trong đoạn văn, trong câu văn và vai nghĩa mà trạng ngữ đó đảm nhận.
Khả năng thông tin của trạng ngữ có sự liên hệ mật thiết với cấu trúc đề
- thuyết của câu. Qua khảo sát cho thấy có một số vai trạng ngữ thường xuất
hiện ở phần đề, một số vai trạng ngữ lại chỉ thường xuất hiện ở phần thuyết
của câu. Vai trạng ngữ thời gian khá linh hoạt về vị trí, nó có thể đứng ở phần
đề hoặc phần thuyết của câu, biểu đạt một tin cũ hoặc biểu đạt một tin mới
144
trong cấu trúc câu.
Trạng ngữ trong câu tuy là thành phần phụ, nếu không có nó thì ―tính
trọn vẹn‖ của câu vẫn không bị ảnh hưởng. Nhưng tìm hiểu có thể thấy, thành
phần trạng ngữ góp phần có vai trò quan trọng trong phân đoạn thông tin
(thông tin cũ/thông tin mới), cấu trúc thông điệp (đề-thuyết), tạo mối liên kết
145
và mạch lạc cho văn bản.
KẾT LUẬN
Khảo sát, phân tích và miêu tả trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ tiếng
Việt, xuất phát từ lí thuyết về ba bình diện của câu, lí thuyết về thành phần
câu, lí thuyết về liên kết mạch lạc văn bản, luận án đã tìm hiểu về thành phần
trạng ngữ ở cả ba bình diện: Bình diện ngữ nghĩa, bình diện ngữ pháp và bình
diện ngữ dụng. Qua tìm hiểu, chúng tôi rút ra những kết luận sau:
1.Về cấu tạo của trạng ngữ tiếng Anh chiếm tỉ lệ nhiều nhất lần lượt là
mệnh đề (50.6%), cụm từ (33.3%) và từ (16.1%). Trong tiếng Anh, các trạng
ngữ có cấu tạo là từ có trạng ngữ chỉ thời gian; trạng ngữ chỉ địa điểm; trạng
ngữ chỉ cách thức; trạng ngữ chỉ lý do, trạng ngữ chỉ sự ưu tiên. Trạng ngữ
không có dạng cấu tạo là từ bao gồm: trạng ngữ chỉ mục đích, trạng ngữ chỉ
nguyên nhân-kết quả, trạng ngữ chỉ sự so sánh, trạng ngữ chỉ sự tương quan,
trạng ngữ diễn giải, trạng ngữ chỉ quan hệ câu. Trạng ngữ trong tiếng Anh
được cấu tạo là cụm từ thường là cụm danh từ và cụm giới từ. Khi được cấu
tạo là mệnh đề thì trạng ngữ trong tiếng Anh nếu đứng ở đầu câu cần có dấu
phẩy để ngăn cách với các mệnh đề phía sau; còn nếu đứng ở vị trí sau mệnh
đề chính thì không cần dấu phẩy. Tương tự như vậy, trong tiếng Việt, trạng
ngữ có thể cấu tạo từ một từ (danh từ, tính từ, đại từ), cũng có thể cấu tạo từ
một cụm từ (cụm chính phụ, cụm chủ vị, cụm đẳng lập, kết cấu song hành).
Trong đó những câu có trạng ngữ cấu tạo từ một danh từ chiếm tỉ lệ cao hơn
cả trong số tư liệu thống kê.Về vị trí của trạng ngữ, chiếm tỉ lệ nhiều nhất lần
lượt là đầu câu (69.1%), giữa câu (21.1%) và cuối câu (9.8%) . Trong tiếng
Việt, trạng ngữ tiếng Việt đứng ở đầu câu chiếm phần lớn. Các trạng ngữ
đứng phía sau và đặc biệt là trạng ngữ có vị trí giữa câu chiếm ít hơn. Trong
một số trường hợp, có thể đảo vị trí của trạng ngữ để nhấn mạnh ý của tác giả.
Trạng ngữ đứng ở vị trí đầu câu thường có chức năng mở đầu câu hoặc nhằm
146
mục đích nhấn mạnh, theo nghĩa biểu thị chủ đề của câu nói. Thông thường,
trạng ngữ được phân biệt với các thành phần câu khác bằng dấu phẩy. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, thành phần trạng ngữ không có dấu phẩy để
ngăn cách với các thành phần câu khác. Trong tiếng Anh, các trạng ngữ:
sometimes, usually; eventually, finally có thể đứng đầu câu. Các trạng ngữ
được cấu tạo bởi các từ/cụm từ như above, here, there, at home, upstairs, in
January, last year; as a rule, from time to time, once, maybe, perhaps có thể
đứng ở đầu hoặc cuối câu. Các trạng ngữ được cấu tạo bởi các trạng từ
briefly, carefully, easily, quickly, slowly, now, soon, immediately, suddenly;
occasionally, economically, financially, logically, scientifically, technically,
apparently, certainly, clearly, evidently, obviously có thể được dùng ở nhiều
vị trí khác nhau. Đối với các trạng ngữ được cấu tạo bởi các trạng từ always,
ever, hardly ever, never, often, rarely, seldom, almost, hardly, nearly, quite,
scarcely, certainly, defitely, probably, just chúng thường đứng giữa câu. Đối
với các trạng ngữ được cấu tạo bởi constantly, continuously, regularly,
completely, entirely, greatly already, lately, recently thường đứng giữa câu
hoặc cuối câu. Các trạng ngữ just, still, và already thường đứng sau trợ động
từ thứ nhất hoặc trước động từ chính và dạng phủ định Yet và anymore
thường đứng cuối câu. Đối với câu có nhiều trạng ngữ thì trạng ngữ chỉ nơi
chốn thường đứng sau động từ và bổ ngữ của nó và đứng trước trạng ngữ chỉ
thời gian. Trạng ngữ chỉ thể cách đứng trước hoặc sau động từ nó mở rộng
nghĩa nhưng không bao giờ đứng giữa động từ và tân ngữ. Đối với câu có
nhiều trạng ngữ chỉ thời gian thì đơn vị chỉ thời gian nhỏ hơn thường đứng
trước. Trạng ngữ ngắn, trạng ngữ chỉ tần suất, trạng ngữ chỉ quan điểm của
người nói thường đứng giữa chủ ngữ và động từ chính. Trạng ngữ miêu tả
cách thức hành động, thể cách thường đứng trước. Trạng ngữ chỉ nơi chốn
đứng sau trạng ngữ chỉ thể cách. Trạng ngữ chỉ tần suất cụ thể đứng trước các
147
trạng ngữ chứa trạng từ chỉ thời gian khác. Trạng ngữ chỉ nguyên nhân đứng
sau các trạng ngữ khác. Trạng ngữ chỉ tần suất thường được đặt ở giữa những
vị trí ở giữa đặc biệt: giữa chủ ngữ và động từ chính như sau động từ ―be‖.
Khi có nhiều trợ động từ trong cụm động từ, trạng ngữ thường đứng trước trợ
động từ thứ nhất. Trong tiếng Việt, trường hợp câu có nhiều trạng ngữ thì các
trạng ngữ này có thể linh hoạt xuất hiện trong câu. Tuy nhiên không phải
trong bất cứ trường hợp nào vị trí của trạng ngữ cũng có thể thay đổi. Bởi sự
thay đổi vị trí của trạng ngữ sẽ phá vỡ tính lôgic của câu hoặc khiến thành
phần câu mất đi một số điều kiện tác dụng của nó, hoặc mất đi sự hài hòa
trong nhịp điệu của câu.
2. Xét về mặt nghĩa học, trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt đều thể hiện
những thông tin về tình huống, chu cảnh, bổ sung cho thông tin cốt lõi của sự
tình vốn đã được biểu thị ở nòng cốt câu. Tuy nhiên, trạng ngữ trong tiếng
Anh có phạm vi bao quát rộng hơn so với tiếng Việt.
Trong phạm vi luận án này, chúng tôi chia trạng ngữ tiếng Anh thành 9
loại, trạng ngữ tiếng Việt thành 8 loại. Đối với trạng ngữ tiếng Anh thì loại
trạng ngữ chiếm tỉ lệ nhiều nhất là các loại trạng ngữ chỉ thời gian; trạng ngữ
chỉ địa điểm. Loại trạng ngữ tiếng Anh chiếm tỉ lệ ít nhất là trạng ngữ nhượng
bộ và trạng ngữ điều kiện. Đối với trạng ngữ tiếng Việt thì trạng ngữ chỉ thời
gian chiếm tỉ lệ nhiều nhất. Sau trạng ngữ thời gian là trạng ngữ không gian
và trạng ngữ chỉ cách thức, phương tiện. Loại trạng ngữ tiếng Việt chiếm tỉ lệ
ít nhất là trạng ngữ chỉ điều kiện, trạng ngữ chỉ nguyên nhân và trạng ngữ
nhượng bộ. Mặc dù trạng ngữ thời gian và trạng ngữ chỉ địa điểm đều chiếm
tỉ lệ lớn trong cả hai ngôn ngữ nhưng trong tiếng Anh trạng ngữ chỉ thời gian
chiếm tỉ lệ ít hơn trạng ngữ này trong tiếng Việt.
Đối với mỗi loại trạng ngữ khác nhau, có những vai nghĩa khác nhau.
Trạng ngữ chỉ thời gian được dùng để xác định khoảng thời gian, có thể là
148
thời gian cụ thể (quá khứ, hiện tại, tương lai), cũng có thể là thời gian không
cụ thể. Trạng ngữ chỉ địa điểm được dùng để xác định địa điểm cụ thể và địa
điểm chưa cụ thể nơi xảy ra các hoạt động hoặc chỉ vị trí và phương hướng.
Trạng ngữ chỉ cách thức dùng để nói lên tính cách hay hoàn cảnh của một sự
kiện hoặc của một tình huống, cung cấp thêm thông tin về cách thức mà một
sự kiện hay tình huống đã xảy ra. Trạng ngữ chỉ mục đích thường được dùng
để chỉ ra mục đích của hành động. Trạng ngữ nguyên nhân chỉ ra các nguyên
nhân khách quan hoặc chủ quan của sự tình.
Ngoài ra, trạng ngữ tuy là thành phần chu cảnh/ tham thể mở rộng,
nhưng lại có sự kết hợp với các tham thể và vị tố trong câu (tương đương với
vị ngữ theo ngữ pháp truyền thống). Tùy vào các vai nghĩa khác nhau mà
trạng ngữ có sự kết hợp với các loại vị tố khác nhau. Trạng ngữ chỉ thời gian
có thể kết hợp với vị tố thuộc danh từ, động từ, tính từ. Trạng ngữ chỉ địa
điểm có thể kết hợp với vị tố được biểu thị bằng các danh từ chỉ địa điểm.
Trạng ngữ chỉ mục đích hầu như chỉ xuất hiện trong những câu có vị tố là
động từ, thường chỉ là động từ chủ ý, ở câu có động từ không chủ ý không
xuất hiện loại trạng ngữ này.
Tuy có sự khác nhau về tỉ lệ giữa các loại trạng ngữ trong tiếng Anh và
tiếng Việt nhưng giữa tiếng Anh và tiếng Việt có sự giống nhau ở chức năng
ngữ nghĩa. Khi có nhiều vai nghĩa của trạng ngữ cùng xuất hiện trong câu,
mỗi vai nghĩa có một giá trị riêng, góp phần bổ sung thông tin cho cốt lõi sự
tình đã được nêu ở nòng cốt câu.
3.3. Về đặc điểm ngữ dụng của trạng ngữ. Qua tìm hiểu có thể thấy, về
vai trò của trạng ngữ trong cấu trúc tin, trạng ngữ có thể mang một thông tin
đã biết trước (thống tin cũ) từ ngữ cảnh hoặc có thể mang một thông tin lần
đầu tiên được đề cập (thông tin mới). Thông tin cũ hay thông tin mới phụ
thuộc nhiều vào vị trí xuất hiện và vai nghĩa của trạng ngữ trong văn bản,
149
trong đoạn văn, trong câu, cũng như phụ thuộc vào ngữ cảnh.
Khả năng thông tin của trạng ngữ có sự liên hệ mật thiết với cấu trúc đề
- thuyết của câu. Qua khảo sát cho thấy, trạng ngữ có thể thuộc phần đề cũng
thể thuộc phần thuyết của câu, có một số vai trạng ngữ thường xuất hiện ở
phần đề, một số vai trạng ngữ lại chỉ thường xuất hiện ở phần thuyết của câu.
Trạng ngữ trong câu tuy là thành phần phụ nhưng kết quả khảo sát của
luận án cho thấy, thành phần trạng ngữ góp phần tạo mối liên kết và mạch lạc
cho văn bản. Mối liên kết này được xét với những câu văn phía trước trong
những trường hợp có sự lặp lại trạng ngữ trong câu văn trước đó, trạng ngữ
trong câu văn được xét có sự liên hệ với trạng ngữ những câu đi trước, trạng
ngữ trong câu văn được xét có từ hoặc cụm từ lặp lại từ hoặc cụm từ của câu
150
văn đi trước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Diệp Quang Ban (1984), Cấu tạo của câu đơn trong tiếng Việt, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
3. Diệp Quang Ban (2003), Chức năng văn bản, chức năng giao tiếp (liên
nhân), chức năng biểu hiện trong câu, Tạp chí khoa học ĐHQG ĐHNN.
4. Diệp Quang Ban (2012), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
5. Lê Biên (1998), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục.
6. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt: tiếng, từ ghép, đoản
ngữ, Nxb Đại học và Trung học Chuyên nghiệp
7. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia.
8. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ pháp Việt
Nam, Huế
11. Nguyễn Văn Chiến (1992), Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn
ngữ Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
12. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2001), Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Lê Dũng (2002), Ngữ Pháp tiếng Anh nâng cao, Nxb Giáo Dục.
15. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ Pháp tiếng Việt, Từ loại, Nxb ĐHQG Hà Nội.
16. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học việt ngữ, Nxb ĐHQG Hà Nội.
17. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, Quyển 1,
151
Nxb Khoa học xã hội.
18. Cao Xuân Hạo (2004), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb Giáo
dục.
19. Bùi Mạnh Hùng (2014), Ngôn ngữ học đối chiếu, Nxb KHXH, Hà Nội.
20. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (1998), Thành phần câu tiếng
Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Hiệp, (2009), Cú pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Nguyễn Chí Hòa (2006), Ngữ pháp tiếng Việt thực hành, Nxb ĐHQGHN.
23. Trần Thái Hồng, Võ Thị Cưu (1975), Văn pháp Việt Nam, Nxb Thời gian.
24. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản,
Nxb Khoa học xã hội.
25. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1940), Việt Nam văn phạm, Nxb
Tân Việt.
26. Nguyễn Lai (1996), Những bài giảng về ngôn ngữ học đại cương, tập 1.
Nxb ĐGQG Hà Nội.
27. Nguyễn Văn Lai (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ (dịch từ: Bản
dịch tiếng Nga có tham khảo tiếng Anh, W. L Chafe), Nxb Giáo dục.
28. Đào Thanh Lan (2009), Ngữ nghĩa ngữ pháp của lời cầu khiến tiếng Việt,
Nxb KHXH, Hà Nội.
29. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình ngữ dụng học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Lương (2009), Câu tiếng Việt, Nxb Đại học Sư phạm.
31. Trần Hữu Mạnh (2007), Ngôn ngữ học đối chiêu: Cú pháp tiếng Anh –
tiếng Việt, Nxb ĐHQGHN.
32. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã
hội
152
33. Hoàng Phê (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
34. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt - Câu, Nxb ĐH & THCN
Hà Nội.
35. Nguyễn Quang (2000), Giao thoa văn hóa nhìn từ góc độ hoạt động giao
tiếp lời nói, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
36. Doãn Quốc Sỹ, Đoàn Viết Bửu (1970), Lược khảo về ngữ pháp Việt Nam,
Nxb Trường Sư phạm Sài Gòn.
37. Lê Xuân Thại (1999), Tiếng Việt trong trường học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
38. Nguyễn Kim Thản (1964), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, Nxb
Khoa học.
39. Nguyễn Kim Thản (2008), Cơ sở cú pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã
hội.
40. Nguyễn Văn Thành (2003), Tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội.
41. Lê Quang Thiêm (1989), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb ĐH và
Giáo dục chuyên nghiệp.
42. Lê Quang Thiêm (2004), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội
43. Nguyễn Minh Thuyết (cb.) và Nguyễn Văn Hiệp (1999), Tiếng Việt thực
hành, Nxb ĐHQG Hà Nội.
44. Nguyễn Minh Thuyết (cb.) và Nguyễn Văn Hiệp (2004), Thành phần câu
tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
45. Bùi Minh Toán (2012), Câu trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb
giáo dục Việt Nam.
46. Hoàng Tuệ; Lê Cận & Cù Đình Tú (1962), Giáo trình về Việt ngữ, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
47. Ủy ban Khoa học Xã hội (1981), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã
153
hội.
48. Hoàng Văn Vân (2001), Dẫn luận ngữ pháp chức năng (dịch từ: M.A.K
Halliday (1998), An Introduction to Functional Grammar), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
49. Hoàng Văn Vân (2005), Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt, mô tả
theo quan điểm chức năng hệ thống, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
50. Bùi Ý, Vũ Thanh Phương (2003), Ngữ pháp tiếng Anh, Nxb Đại học Quốc
Gia, Hà Nội.
TIẾNG ANH
51. Alexander, L. G. (1992), Longman English grammar, Longman.
52. Alexander L.G. (1993), Longman Advanced Grammar - Reference
and Practice, Longman.
53. Alwyn Cox, Neville Grant, Helen O'Neill, (1976), English Examined,
Butler & Tanner Ltd. in Great Britain.
54. Alice Caffarel, (2006), A Systemic Functional Grammar of French:
From Grammar to Discourse, Continuum
55. Austin (1962), How to do things with words.At the clarendon Press. 56. Azar, B. S. (1989), Understanding and using English grammar, (2nd ed.)
Prentice Hall Regents.
57. Bach, K., Harnish, R.M. (1979), Linguistics communication & speech
acts, MIT Press, Cambridge, MA.
58. Barabash, T.A. (1975), A Guide to Better Grammar, Moscow.
59. Beverly Derewianka, (2012), A new grammar companion for teachers - 2nd ed. National Library of Australia Cataloguing-in-Publication entry.
60. Beverly Derewianka. (2012), A new grammar companion for teachers.
2nd ed. National Library of Australia Cataloguing-in-Publication.
61. Bloor, T & Bloor, M. (1995), The Functional Analysis of English.
154
London: Arnold.
62. Bloor, T. and Bloor, M. (1985), The Functional Analysis of English: A
Hallidayan Approach. London: Arnold.
63. Butler, Christopher, S. (2003), Structure and Function: A Guide to Three
Major Structural Functional Theories, Part 1: Approaches to the Simplex
Clause. Amsterdam: John Benjamins.
64. Cartford, J.C. (1965), A Linguistic Theory of Translation, Oxford
University Press.
65. Chafe, W. L. (1970), Meaning and the Structure of Language,
University of Chicago Press,
66. Charles L.N and Sandra A Thomson (1981), Mandarin Chinese: A
functional Reference Grammar, University of California Press.
67. Chomsky, N. (1957), Syntactic Structure, Mouton, Paris.
68. Cobuild, C. (1990), English grammar, Collins publishers, London.
69. Deborah Schiffrin, Deborah Tannen, and Heidi E. Hamilton (2001) The
Handbook of Discourse Analysis, Black Well Publisher.
70. Dik, S. C. (1983), Advances in Functional Grammar, Foris Publication –
Dordrecht.
71. Dik, S. C. (1989), The theory of functional grammar, Part I: The
structure of the clause, Foris Publications Dordrecht.
72. Dik, S. C. (1997), The theory of Functional Grammar. 2 Vols. Berlin:
Mouton de Gruyter.
73. Dik, S.C. (1981), Functional Grammar, 3rd ed., Foris Publication,
Dordrecht.
74. Dixon, R.M.W. (1991), A new approach to English grammar on semantic
principles, Clarendon press, Oxford.
75. Downing, A & P. Locke (1992), A University Course in English
155
grammar, Prentice Hall.
76. Eastwood, J. (1994), Oxford guide to English grammar, Oxford
University Press.
77. Eggins, S. (1994), An Introduction to Systemic Functional Linguistics.
London: Pinter.
78. Farzaneh Haratyan (2011), Halliday‘s SFL and Social Meaning,
University Malaya - Islamic Azad University, 2nd International
Conference on Humanities, Historical and Social Sciences IPEDR vol.17
(2011), IACSIT Press, Singapore.
79. Fillmore, C.J, (1968), The case for case, In: E. Bach & R. Harms,
Universal in Linguistic theory, New York Holt.
80. Geoff Thomson (1996), Introducing Functional Grammar, Edward
Arnold.
81. Geoff Thomson (2014), Introducing Functional Grammar, Edward
Arnold.
82. George Yule (1996), Pracmatics, Oxford University Press.
83. Givón, T (1993), English Grammar – A function – based introduction,
John Benjamins publishing company, Amsterdam/ Philadelphia.
84. Givón, T. (1993), English grammar,Vol.1, John Benjamins publishing
company, Amsterdam/ Philadelphia.
85. Givón,T. (1984), Syntax – A functional-typological introduction, Vol.1,
John Benjamins publishing Co., Amsterdam/ Philadelphia.
86. Givón,T. (1990), Syntax – A functional-typological introduction, Vol.2,
John Benjamins publishing Co., Amsterdam/ Philadelphia.
87. Gordon E.M., Krylova I.P.(1974), A Grammar of Present-day English,
Higher School Publishing House, Moscow.
88. Graham Lock (1996), Functional English Grammar – An Introduction
156
for second language teachers, Cambridge University Press.
89. Graham Lock, (1996), Functional English Grammar – An Introduction
for Second Language Teachers, Cambridge University Press, 1996.
90. Halliday, M.A.K. (1970), Language Structure and Language Function.
(In) New Horizon in Linguistics. Lyons, J. (Ed.). Hamondsworth:
Penguin.
91. Halliday, M.A.K, (1973), Explorations in Functions of Language.
London (John Benjamins publishing company, Amsterdam/
Philadelphia).
92. Halliday, M.A.K. (1978), Language as Social Semiotic. London and
Baltimore: Edward Arnold.
93. Halliday, M.A.K & Hasan, R. (1985), Language, Text and Context: a
social semiotic perspective. Vic. Gleelong: Deakin University Press.
94. Halliday, M.A.K (1985), An introduction to functional grammar, Edward
Arnold.
95. Halliday, M.A.K (1994), An introduction to functional grammar, 2nd ed.
Edward Arnold.
96. Halliday, M.A.K and Matthiessen, C. (1997), Systemic Functional
Grammar: A First Step into the Theory. Sydney: Macquarie University.
97. Halliday, M. A. K. (2003), On Language and Linguistics, Continuum,
New York.
(2004), An
98. Halliday, M.A.K and Christian M.I.M Matthiessen introduction to functional grammar, 3rd ed. Edward Arnold.
99. Hengeveld, K.; Mackenzie, J. L. (2006), Functional Discourse
Grammar. In: Brown, K. (Ed.) Encyclopedia of Language and
Linguistics, 2.ed., v.4. Oxford: Elsevier, p.668-676.
100. Hollmann, Willem B. & Anna Siewierska (2007), A construction
157
grammar account of possessive constructions in Lancashire dialect:
some advantages and challenges. English Language and Linguistics 11:
P. 407-424.
101. Huddleston, R. & G. K. Pullum (2002), The Cambridge grammar of the
English language, Cambridge University press.
102. Richards, J. C; Platt, John; Platt, Heidi. (1993), Longman Dictionary
of Language Teaching and Applied Linguistics, Longman.
103. Jake Allsop (1992), Students' English Grammar, Prentice Hall
International (UK) Limited.
104. James, W. (2005), The Teacher's Grammar Book. Lawrence Erlbaum.
105. John Lyons (1995), Linguistic Semantics: An Introduction, Cambridge
University Press.
106. John R. Searle (1981), Expression and meaning. Cambridge University
Press.
107. Lesley Jeffries (1998), Meaning in English: An Introduction to
Language Study, Palgrave Macmillan Press Ltd.
108. Strumpf, M. and Douglas, A. (2004), The Grammar Bible. Owl.
109. Mackenzie, J. Lachlan, and Maria L. A. Gomez-Gonzalez, eds (2004),
A New Architecture for Functional Grammar. Functional Grammar
Series 24. Berlin: Mouton de Gruyter.
110. Frank, M. (1998), Modern English - A Practical reference guide.
Prentice Hall, INC, Englewood Cliffs, New Jewsey.
111. Martin, J.R, Matthiessen, C. & Painter, C (1997), Working with
Functional Grammar. London: Arnold.
112. Martin, J.R. & et al. (1997), Working with Functional Grammar.
158
London: Arnold.
113. Martin, J.R. (1985), Systemic Functional Linguistics and an
Understanding of written texts. Department of Linguistics, University of
Sydney.
114. Martin, J.R. (2010), Linguistic Perspectives on English Grammar,
Information Age
115. Muhammad Rayhan Bustam, S.S (2011), Analyzing Clause by
Halliday‘s Transivity System, Jurnal Ilmu Sastra Vol. 6 No.1, Mei 2011.
Hal 22-34
116. Oxford (1992), Oxford advanced learner‘s encyclopedic dictionary,
Oxford University press.
117. Palmer, F. R. (1971), Grammar, Penguin books.
118. Quirk, R. & S. Greenbaum(1974), A university grammar of English,
Workbookk. Longman.
119. Quirk, R. & et al (1985), A comprehensive grammar of the English
language, Longman.
120. Quirk, R. & et al(1972), A grammar of contemporary English,
Longman.
121. Rodney H. Jones and Graham Lock (2011), Functional Grammar in
the ESL Classroom, Palgrave Macmillan.
122. Siewierska, A. (1991), Functional grammar, London and New York.
123. Stockwell, R. P. (1977), Foundations of syntactic theory, Prentice
Hall.
124. Suzanne Eggins (2004), An Introduction to Systemic Functional
Linguistics, Continuum international Publishing Group.
125. Thompson, G (1996), Introducing Functional Grammar. London:
159
Arnold.
126. Thomson, A. J & A. V. Martinet (1998), A Practical English Grammar,
4th ed., Danang Publishing House, Danang.
127. W. McGregor (1997), Semiotic Grammar, Oxford University Press.
128. http: dictionary.cambridge.org
129. http: slideplayer.com
NGỮ LIỆU KHẢO SÁT
TIẾNG ANH
130. Dan Brown (2003), The Da Vinci Code, Doubleday Fiction.
131. J. K. Rowling (1997), Harry Potter and the Philosopher‘s Stone,
Bloomsbury Publishing.
132. J. K. Rowling (1998), Harry Potter and the Chamber of Secrets,
Bloomsbury Publishing.
133. J. K. Rowling (1999), Harry Potter and the Prisoner of Azkaban,
Bloomsbury Publishing.
134. Margaret Mitchell (1936), Gone with the wind, Macmillan Publishers
135. Sidney Sheldon (1985), If Tomorrow Comes, Warner Books Publishers
TIẾNG VIỆT
136. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Nxb Trẻ.
137. Nguyễn Nhật Ánh (2017), Cô gái đến từ hôm qua, Nxb Trẻ.
138. Nam Cao (2002), Tuyển tập Nam Cao, Nxb Văn học.
139. Nguyễn Công Hoan, Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nxb
Văn học. http: sachvui.com
140. Chu Lai (2004), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội nhà văn
141. Nguyễn Danh Lam (2014), Cuộc đời ngoài cửa, Nxb Hội nhà văn.
160
142. Lê Hồng Nguyên, Con hoang, http: sachvui.com
143. Vũ Trọng Phụng, Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, Nxb Văn học.
http: sachvui.com
144. Nguyễn Ngọc Thạch (2012), Đời callboy, Nxb Văn học.
161
145. Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, http: sachvui.com.
PHỤ LỤC
STT
Trang
Nội dung
TƢ LIỆU TIẾNG VIỆT
Ăn mày dĩ vãng
1.
22
Từ ngày giải phóng đến nay, các cô gái Nam Bộ bắt đầu nói năng cứng ngắc như một cán bộ đoàn chuyên trách mất rồi!
2. Đêm nay mình muốn thả bộ một chút. 3. Mày xưa nay có hút thuốc hồi nào đâu? 4. 5.
23 28 31 54
6.
55
Từ nay, mày thay nó giữ cây hoả lực B41. Tối nay cánh du kích của tôi sẽ đến, cánh của Tám Tính cũng tập kết ở đây, huyện đội nhờ đồng chí lo cho anh em chỗ ngủ an toàn. Tự dưng anh tin rằng, đêm nay, cùng cư trú trong một vạt rừng mỏng tang lảng vảng đầy bóng dáng tử thần, hai tính cách đó nhất định sẽ bùng nổ trong một cú va chạm dữ dội thật ngẫu hứng.
Lâu nay tao vẫn có ý hỏi thăm, đi tìm nhưng không thấy.
59 62 95 96 101 104 109 124
7. Dòng sông đêm nay sao đẹp quá! 8. Hình như đêm nay chị đã tìm được, đã có nhưng… em chỉ sợ không bền. 9. 10. Nhưng hôm nay, nhân có mày nhắc, tới đây tao cũng đi tìm gặp hắn thử coi. 11. Đã hai ngày hai đêm nay, anh chưa chợp mắt chút nào rồi. 12. Ngay đêm nay, chúng ta sẽ đột kích vào đầu não của chiến đoàn Mỹ 52. 13. Ngày hôm nay cô có biết ở đây đã xảy ra cái gì không? 14.
Chiều nay, thể theo yêu cầu khẩn thiết của tôi, Thành đã lóc cóc đạp xe lên phòng thương binh xã hội. Tối nay anh còn phải... đi.
18.
188
19. 20. 21.
197 216 238
22. 23.
239 248
15. 171 16. Đêm nay anh đi rồi, em sợ... sợ lỡ xảy ra chuyện gì, mình em ở lại, tội nghiệp! 174 17. 178 Tiếng xoè đột ngột ắng lại như từ nãy đến giờ, từ ngàn xưa đến nay, chưa hề có thứ tiếng động nào như thế. Song, cũng mong bà hiểu cho rằng, hôm nay tôi đến đây thực lòng không phải để tâm sự. Tối nay anh Hai tính nghỉ đâu? Bữa nay mày tính đãi bọn tao món rau lang luộc chấm muối này đó hả? Lâu nay gã đã nhằng nhẵng theo đuổi cô bằng tất cả những trò gì gã có thể có được Tối nay anh quay trở lại đây. Lâu nay ông thường có thói quen nằm kiểu này, nằm rất lâu, có khi qua đêm để đầu óc tan toả ra với thiên nhiên rộng lớn, để đầu óc không phải suy nghĩ gì cả.
24. Vậy mà đêm nay, giữa thiên nhiên bao la hơn mọi đêm, mọi bộn bề cứ ồn ã dội
248
về, càng nằm lâu, càng cố thư giãn, bên trái đầu càng ong ong nhức.
25. Đêm nay tôi muốn đi dạo đến sáng, một mình. 26. Ông hiểu rằng đêm nay, mình sẽ không còn lòng dạ nào dùng đến tiền. 27.
Chị Ba bữa nay nhìn khác quá, tôi nhận không ra
251 251 252
Pl.1
Bữa nay mình là chủ xị phải không? sớm mai chú chờ tôi tại đây, tôi sẽ mang ra cho.
28. Mấy bữa nay anh có thấy một người khách lạ nào đến tìm anh không? 29. Đêm nay đài báo có thể có bão 30. 31. 32. Ngày xưa mai phục trong đêm tối, trong muỗi mòng, trong chết chóc hàng
253 256 267 48 70
Sớm mai tao sẽ đưa mày tới nó, nhậu nữa, bia lon đàng hoàng…
tuần hằng tháng còn như không nữa là bây giờ. 33. Đêm nay uống tới sáng luôn, ngày mai chết cũng được. 34. 35. Nếu mai mốt còn sống, anh và Sương sẽ kết hợp làm một luận chứng khoa
87 90 137
học nhằm đả phá tan tành bọn duy tâm bói toán mà bằng chứng hùng hồn là sự tồn tại nghiễm nhiên của cả anh và em đây.
168 161 240
36. Mai mốt anh lên an toàn khu, chắc sống rồi, chẳng còn sợ nữa nên em... 37. Sáng mai tôi sẽ quay lại và khi đó, tin rằng bà sẽ tỉnh táo, biết điều hơn. 38. Có thể ngày mai mỗi người mỗi ngả, có thể hổng bao giờ gặp nhau nữa, em cho anh được hưởng lại tất cả những gì còn có ở em. Anh nằm xuống đi.
39. Ngày mai tôi sẽ đưa em về 40. 41.
261 14 19
Sau này em có ốm đau què cụt anh vẫn thương. Sau một thoáng rùng mình ớn lạnh, bà ta cười, lắc đầu, vẻ mệt mỏi: - Thanh tra bộ à?
42. Ngay sau tiếng nổ đầu tiên, đội hình đã thật sự rối loạn. 43.
29 31
Lần sau nếu bộ đội của tôi ngã xuống, ông ta hay bất cứ ai khác như ông ta bỏ chạy nữa thì tôi sẽ bắn bỏ, kể cả lính của tôi. Sau cái đêm chết tiệt đó, con người tôi bỗng trở thành bị ám ảnh.
44. 45. Ngay sau đó, người ta thấy cô nhìn đám con trai bằng tia mắt vừa cồn cào vừa
39 53
mờ mịt.
46. Những ngày sau đó, tự dưng xe không thấy, người cũng không thấy nốt. 47. Và trên cao, khuôn cửa sổ chỉ còn là một khoảng trống hoác, bẽ bàng. 48. Nói đùa, đúng ra sau trận này, nó đáng phong anh hùng hay chí ít cũng làm
71 71 75
49.
86
50.
116
51.
120
52.
129
53. 54. 55.
130 130 136
56.
136
mấy cái huân chương quân công hay chiến công gì đó. Sau phút ồn ào ban đầu, hai thằng lính cựu ôm nhau đứng lặng, cùng gắng gượng giấu đi những giọt nước mắt xúc động rất có thể chảy ra. Sau dông bão, em càng bé nhỏ, đôi mắt đã to lại dường như mênh mông hơn, ngổn ngang, xao động chất chứa đủ điều. Sau mười lăm năm, người lính gần như còn sống sót duy nhất lặn lội trở lại địa bàn xưa mà sao lắm cho nên, lắm xa lạ đến thế? Cách đây hai mươi năm, tôi đã đào mồ chôn em xuống, và giờ đây, sau hai mươi năm, tôi lại nảy ý định đào mồ moi em lên để phân rõ thực hư ư? Sáng hôm sau , tôi từ biệt Ba Thành nhảy xe đò trở lại miền Tây. Sau đêm hôm qua tao càng không thể không đi, thế thôi. Sau khi Hai Hợi chiêu hồi, Sương rơi người vào một khoảng lắng chìm khá lâu. Sau hiệp định Pa ri, thực sự những kẻ cầm súng trực tiếp như chúng tôi sống trong một màn bi hài kịch đẫm máu. 57. Sau đợt pháo kéo dài gần một giờ đồng hồ, trời lại bắt đầu hửng sáng. 58. Nếu sau đây có gì rầy rà, tôi sẽ trả lời rằng, đây hoàn toàn là hành động đơn
141 143
phương mặc dù đồng chí đại diện địa phương đã khăng khăng phản đối. -
Pl.2
Không... Không phải thế! Anh không...
59. Mười ngày sau cái đêm ho hen ấy, cậu bé giao liên nhanh nhẹn và sống dai
151
60.
151
61.
152
62.
155
nhất trong màng lưới giao liên toàn địa bàn đã làm một cú cắt rừng tuyệt vời để đến được nơi tôi với cái lệnh triệu tập khẩn không mấy tuyệt vời trên tay. Sau lần này, Quân được trên cho đi học văn hoá ở đâu không biết, tôi không có dịp gặp lại nữa. Sau khi đã kiểm kỹ lại toàn bộ số tiền chẵn, tiền lẻ còn lại trong túi, tôi khoan thai ghé vào một cửa hàng quần áo cũ bày bán ngay vỉa hè để chọn một bộ cánh kiểu ký giả màu cà phê sữa đặng hợp với thời trang quan dạng bây giờ. Buổi chiều, sau ly cà phê thứ năm, tôi lại tự thưởng cho mình thêm một đĩa sườn nữa.
63. Ở trong kia, sau cái cánh cửa quyền uy ảm đạm này, em đang làm gì? 64. Dường như đi sau tôi, Sương chỉ cúi đầu im lặng đếm bước chân. 65. Và đi trước tôi, cậu giao liên tên Quân cũng chẳng hề răng nói một lời, chỉ
158 166 166
thỉnh thoảng khẽ liếc nhìn tôi ái ngại.
66. Đến một cái muội nước nằm xa toạ độ pháo, Quân cho đoàn tạm dừng lại
167
nghỉ.
67. Một lát nữa đây chúng sẽ xộc vào, sau vài giờ lùng sục, sau mấy câu tra hỏi
171
68.
171
69.
185
bà con gọi là, không thấy gì, chúng sẽ tiếc ngẩn người cho rằng Việt Cộng đã tìm được đường riêng thoát hiểm và đành hậm hực bỏ đi. Lúc đó, chao ôi, tôi sẽ có một ngày hay ít nhất là một buổi với em trong lòng đất êm đềm, sẽ nói với em tất cả những gì đáng nói để rồi khi màn đêm buông trùm, tất cả sẽ trở lên mặt dất, ra khỏi ấp, thong thả về rừng tiếp tục cuộc chia tay chưa biết bao giờ gặp lại vừa bị kẻ thù làm gián đoạn. Sau một tiếng soạt não nùng, thân thể em đang bay là là đến cõi sống bỗng đập mạnh người xuống đất, khẩu súng văng bắn sang bên... 70. Sau một ngày làm việc mệt nhọc, lúc này tôi đang cần nghỉ ngơi. 71. Nhưng bây giờ, sau khi biết được mọi sự thật, tôi lại tiếc rằng tại sao em
190 195
72. 73. 74.
218 218 218
75. 76.
220 222
không chết đi, chết hẳn đi trong cái buổi sáng ma quái ấy Sau ly thứ nhất, hắn bắt đầu cười. Sau ly thứ hai, hắn bắt đầu nói. Sau ly thứ ba, hắn trẻ lại mười tuổi và sau ly thứ tư thì hắn đã hiện nguyên hình phần nào cái dáng bộ thằng Tám cọp đánh giặc khét tiếng ngày xưa. Sau này dù ở đâu, làm gì, tôi cũng xin phép được kêu đồng chí là mẹ đỡ đầu... Lát sau Tám Tính trở ra, mặt tỉnh như không, có pha thêm một chút phiền muộn nơi khoé mắt. 77. Sau khi thoát chết, tao được người ta điều về phòng hậu cần Quân khu. 78. Nhưng sau năm 73, hổng biết các cha ở trên ký kết trật giuộc thế nào mà các
224 225
79. 80. 81. 82.
225 225 230 230
địa bàn nơi ấy bị đánh tróc gần hết. Sớm hôm sau Hợi đi luôn, đi một mạch. Sau 75, tao có đi hỏi thăm nhiều nơi nhưng không một ai biết gì hơn. Sau hơn chục năm đi cải tạo về, tôi còn gì nữa đâu để chạy. Còn tôi, lúc ấy, trước đây và mãi mãi sau này, tôi chưa bao giờ được họ tin dùng để một lần cầm gậy chỉ huy trong khi phía các ông lại luôn luôn ấn tượng rằng thành phần cố vấn bao giờ cũng nguy hiểm hơn thành phần trực tiếp giết chóc,
Pl.3
83. 84.
235 236
85.
245
86. 87.
245 246
88.
7
nên cần phải cải tạo kỹ càng hơn. Rồi một thời gian khá lâu sau đó, tôi bị bắt và may mắn được gặp ông. Sau Paris, có lẽ cả hai bên đều đã thấm mệt nên mọi nguyên tắc sắt thép có phần phi nhân được áp dụng trước đây bỗng trây ra, mềm èo trở lại. Sau cả nửa năm chạy chữa ở Sài Gòn với những phương pháp tân kỳ nhất, Sương đã gượng dậy được, duy vết thương nơi đỉnh đầu là vẫn còn nguy hiểm. Động mạnh một chút hoặc trái gió trở trời, bị xúc động mạnh một chút là có Thời gian qua, tôi chỉ được gặp cô ấy có hai lần. Trước khi về, cô ấy còn hứa mỗi quý sẽ gửi cho tôi một số tiền cố định khoảng năm, sáu trăm ngàn gì đó gọi là tri ân nghĩa cũ tình xưa. Trước lúc gặp cô ấy, tôi đã gặp một cô gái khác trẻ hơn, trẻ chỉ bằng phân nửa tuổi tôi và lại đẹp nữa, rất đẹp Trong một giây, hai ánh mắt va nhau cái rầm!
19 27
91. 92.
33 34
93. 94. 95.
61 67 113
89. 90. Hồi chiều, trước lúc chuẩn bị xuất phát ra khỏi cửa rừng, nhác thấy cậu liên lạc của mình bị bỏ cơm, tìm ra mép sông ngồi, mắt nhìn hút xuống dòng nước buồn rười rượi, Hùng đã có chiều chột dạ. Trước khi chết, Viên nó có nhắc đến Sương. Trước mắt anh, ánh mắt cô gái đang hun hút toả ra những làn ánh sáng dịu dàng và hết sức thơ trẻ. Trong thoáng chốc, cô xã đội đã chuyển thế dựng đứng trước mặt con đực. Trước mặt đồng đội đang đứng lặng, Hùng quỳ xuống mép hố, nói lầm rầm Trước khi vào trận, chúng cũng đòi hỏi được sống tận cùng cuộc sống để biết đâu không trở về nữa?
96. Nếu đêm ấy, trước khi đi, tôi được gặp vợ tôi, hoặc bất kỳ một người đàn bà nào
126
97.
143
đó thì chắc tôi đã không nhét cái đồ giết người vào ngay túi áo ngực như thế. Trước kia, thường những lúc tôi cố ý lái sang những vấn đề, những thuật ngữ quân sự rắc rối thì bao giờ em cũng im lặng.
162
99.
195
100.
195
101.
222
102.
253
103.
255
104.
258
105.
264
98. Khi ấy, trước mặt tôi mọi cảnh vật đều biến đi, chỉ còn dáng hình kia trẻ trở lại mười sáu năm về trước, vận bà ba đen, khăn rằn, đôi vai chim sẻ, nón tai bèo, thân thể mỏng mảnh đi giữa những cánh rừng dông gió... Trước đây mới chừng vài phút, tôi cầu mong em còn sống để gạt bỏ được mọi giày vò khổ sở đeo đuổi tôi bao năm nay và cũng bởi vì tôi còn... còn... Nhưng bây giờ, sau khi biết được mọi sự thật, tôi lại tiếc rằng tại sao em không chết đi, chết hẳn đi trong cái buổi sáng ma quái ấy Trước khi khuất sau vòm lá, cô bé còn ngoắt đầu nhìn chúng tôi một cái vừa nghi ngại, vừa thăm dò lại vừa thách thức. Trong nhà, tiếng nói ông Tường vang ra đều đều, vẫn phảng phất một nét bình thản cố hữu Gần hai mươi năm qua, tôi biết ảnh vẫn nghĩ về tôi, vẫn thỉnh thoảng hỏi tin tôi ở chỗ này, chỗ kia, thậm chí ảnh còn ghé thăm mộ... tôi nữa. Còn lúc ấy, để có cơ hội thực hiện được ý định đau đáu của mình, tôi buộc phải nói hết với người bà con duy nhất còn lại là ông bác ruột, vốn là bí thư khu uỷ đã về nghỉ mất sức. Trước mắt ông, hắn loà nhoà trở lại nguyên hình là tên trung uý năm xưa đang lấy đầu gậy hất hất cánh tay bị gẫy quẹo của Sương ra khỏi lưng...
Pl.4
106.
70
107.
246
108.
254
109.
265
110.
8
111.
20
112. 113.
114. 115. 116. 117.
136 211 224 263
118.
266
119.
7
120.
51
121. 122.
73 80
123.
150
124.
176
125.
179
126.
179
127.
Mỗi ngày lót lòng một đĩa cơm bụi ngàn rưỡi, toàn bộ thời gian còn lại, tôi dành cho sự lảng vảng quanh nó. Trước khi về, cô ấy còn hứa mỗi quý sẽ gửi cho tôi một số tiền cố định khoảng năm, sáu trăm ngàn gì đó gọi là tri ân nghĩa cũ tình xưa. Trong nhà, để cho câu hỏi lắng đi một lúc, ông Tường mới nhìn sâu vào đôi mắt mở to chờ đợi của người đàn bà, chậm rãi gật đầu. Trong cánh tay ghì chặt của hắn, Sương bỗng thốt lên một tiếng đau đớn, cổ ngoẹo xuống, mắt trợn lên, bộ ngực thở giật giật... Trong cả cuộc đời nhọc mệt, tôi nào đã có bao giờ được nghe một giọng hỏi dịu mềm đến thế, nhõng nhẽo đến thế, giọng hỏi đàn bà vừa là của mẹ, vừa là vợ, vừa là con. Trong chớp mắt, chưa kịp nói, chưa kịp nghĩ gì hết, cái thể xác suy nhược trầm trọng của tôi đã được gần như ủi bắn ra ngoài… Trong thoáng chốc, một luồng điện cao thế xốc mạnh lên óc tôi choáng váng… 24 162 Trong giây lát đó, tôi thấy rõ con ngươi trong mắt bà ta co thắt lại, bợt bạt đi rồi nở phình ra chứa đựng tất cả những ánh sáng đèn rọi tới. Sau khi Hai Hợi chiêu hồi, Sương rơi người vào một khoảng lắng chìm khá lâu. Năm ấy, sau khi anh đi rồi, tụi em ở lại còn mấy người, buồn thối ruột Sau khi thoát chết, tao được người ta điều về phòng hậu cần Quân khu. Bằng đôi mắt bắt ánh đèn sắc lẻm, hắn nhìn lướt qua mặt tất cả mọi người rồi dừng lại ở khuôn mặt Ba Sương sau khi buông ra một tiếng cười nhạt Bằng sức vóc bò mộng, hắn đẩy mạnh Sương về phía hai người rồi lao văng vào bóng đêm... Bằng những động tác duyên dáng, uyển chuyển như sương khói, cô mở bia, rót bia, gắp mồi, bỏ đá, hỏi nhỏ, cười nhẹ, đặt vào tay, đưa lên miệng, nghiêng khẽ, châm thuốc, trao đũa, đổi thìa, ứ hự… Bằng đôi mắt hững hờ và u tối, cô ta đăm đắm nhìn vào thân thể, vào bộ ngực, bộ đùi nở nang của Hùng như cái kiểu người ta nhìn vào gốc cây, tảng đá. Bằng câu nói ấy, ông đã khuyến khích tôi cứ quả quyết đi tìm, chớ nản lòng. Bằng sự tuyệt vọng xen lẫn cả niềm hy vọng điên rồ, Hùng rút dao găm vận sức tìm lỗ cửa. Nếu không, bằng cái nhìn nhức nhối không thể hiểu nổi của em, bằng sự mệt mỏi, chán ngán đến tận kẽ răng và bằng cái nỗi đau hai sinh mạng đi tong không nguyên cớ, tôi dám quay lại xách cổ ông ta dậy quẳng mạnh về phía trước lắm. Đoán chừng mệt quá em đã thiếp đi, bằng những động tác hết sức gượng nhẹ, tôi chống tay rón rén ngồi dậy. Lặng lẽ và mềm mại, bằng một cử chỉ vị tha khắc khoải, em hơi rướn người lên, thẳng căng cái độ căng của dây cung sắp cho mũi tên rời khỏi ná rồi liền ngay đó lại chùng xuống... chùng xuống nữa, chìm nghỉm, vô hình... Buổi sáng hôm đó, với tất cả sức lực của tuổi trẻ, của mười năm dồn nén, của hết thảy những khổ đau, mất mát và dịu ngọt đã trải qua, sắp trải qua hay không bao giờ còn dịp được trải qua nữa, chúng tôi, hai sinh vật của thời loạn đi vào nhau trọn vẹn, đam mê tột cùng và cũng ngậm ngùi tột độ.. Bằng đôi mắt của kẻ sắp uống máu người, nó nhìn xoáy vào tôi rồi nhìn sang bà
192
Pl.5
128.
124
129.
174
130.
16
131.
18
132.
26
133. 134.
23 68
135.
152
136.
21
137.
54
138. 139.
240 252
140. 141.
261 265
142.
247
chủ của nó... Vì một lý do chính trị hay xã hội bức bách nào đó, không loại trừ cả lý do nghĩa tình sâu xa, người ta vội vàng thu gom về đây những mảnh hài cốt vương vãi ở khắp các chân bãi, xô rừng, có cái có, có cái chi hàm nghĩa tượng trưng rồi xây trát, rồi cắt băng khánh thành, làm lễ truy điệu, đọc đôi lời ai điếu ròn rảng hoặc mùi mẫn và sau đó là hết. Vì em, vì những kỷ niệm ngọt ngào và cả cay đắng đã có với em, vì những ngày xa cách mịt mùng trước mắt, tôi buộc phải nén đi cái phần thật nhất đang sôi réo trong con người mình. Nếu không vì sức quyến rũ của giọng nói ma quỷ kia thì từ lâu, tôi đã không chịu nổi cái mùi này Nếu trôi chảy, báo cáo anh Chín và các anh, ta có thể bắt tay vào khởi công ngay đầu năm tới. Nếu cách đây hai mươi năm, một ai đó đã có dịp được gặp anh thì thật khó hình dung ra con người anh bây giờ Nếu cần một phiếu đưa bả lên chủ tịch hay bí thư, bọn mình có ngay. Nếu không vục toàn thân xuống nước lạnh ngay bây giờ, có thể anh sẽ tru lên từng chập như chó sói mất. Nếu có thể được, cô cho phép tôi hỏi bà giám đốc đây đi họp ở Hà Nội về chưa? Dù lòng dạ đang còn nhiều ngổn ngang, theo đúng thói quen của cả một đời khắc kỷ và tằn tiện, nhìn đám giấy bạc đó tôi không thể không hít hà. Dù không muốn nhưng đôi chân Hùng cũng chụm lại thẳng đơ như đứng trước người chỉ huy trực tiếp của mình. Tôi gật đầu mặc dù chưa biết cứu cách nào? Tất cả những người thoát chết đi ra từ cuộc chiến tranh đều nghèo, dù bên này hay bên kia Tôi sẽ thú nhận tất cả, dù vô tình hay cố ý làm sai. Thiên hạ có thể cho ta là bạc nhược, suốt đời bạc nhược nhưng ít nhất, dù chỉ một lần, ta sẽ không bạc nhược với ngươi. Thời gian qua lâu rồi, tuy gã có béo tốt, bộ điệu quý tộc hơn nhưng tôi vẫn nhận ra gã qua bộ ria mép cứng quèo để theo kiểu người hùng và cặp mắt cô hồn đang trờn trợn nhìn về phía trước
Cuộc đời ngoài cửa
143.
67
144.
63
145.
55
146.
7
147.
5
Thi thoảng một chuyến xe tải lớn lắc lư lao qua, tung vào tận miệng thực khách những đám bụi lạo xạo. Buổi chiều, sau khi lên hết con đèo, ông dừng nơi thị trấn gần đó mua hai ổ bánh mì, định bụng khi tới nơi sẽ ăn bữa chính. Bằng trí tưởng tượng và thể trạng đã phục hồi sau giấc ngủ, ông thử tìm lại cảm giác đêm qua. Với đầu óc một thằng dạy văn suốt mấy chục năm như mày, tao có nhét vô đó đôi ba ý nhỏ, nó cũng sẽ dội ra thôi. Mấy năm nay tao toàn chạy quanh trong phố, cái xe việt dã bảy chỗ chẳng hạp chút nào. Thôi, bữa nay uống bấy nhiêu được rồi. Mấy tháng nay nó cứ như vậy rồi.
148. 149.
7 7
Pl.6
150.
14
151. 152. 153. 154. 155. 156.
Còn con gái ông hôm nay có đủ tất cả những gì thuộc về vật chất, sau khi ông bán căn nhà. Cả ngày nay con lang thang, hết quán này qua quán khác. Đã nhiều năm nay ba không gặp chú ấy Đêm nay chắc mình ngủ lại thành phố biển. Trưa nay mình ăn sớm. Sáng nay ba làm sao vậy? Tối nay con dám ở lại đây không?
15 22 37 45 58 61
157. 158. 159. 160. 161. 162. 163. 164. 165. 166. 167. 168.
61 68 69 70 72 73 8 52 63 4 6 11
169. 170. 171. 172.
13 17 17 19
173.
20
174. 175. 176. 177. 178.
20 23 23 23 25
179. 180.
38 41
181. 182.
42 48
183.
63
184.
64
185.
Hồi sáng nay con gặp một vụ... ớn lạnh. Đêm nay chắc chắn có thịt rừng cho anh em mình nhậu. Thế tối nay chúng tôi ngủ ở đâu? Hôm nay trưởng làng đãi món gì đây? Đêm nay con sẽ ở đây. Đêm nay tao sẽ qua đọc thơ. Mai em vẫn đứng chỗ này. Chén đũa sáng mai có người làm tới rửa. Mai tao đến kiếm sớm. Gã bạn nâng ly sau khi ông chủ đi khuất. Sau vụ ấy, cùng vài việc khác, tôi nghỉ vì sốc nặng. Sau mấy chai bia như thường lệ, tay lái dẫn ông qua những nẻo đường xưa cũ Khi ấy, khu vực ngoại ô còn chưa mở đường lớn Ông gọi hai tô bún, sau khi hỏi ý con. Nó ăn vội vã, không cần ý tứ, sau cả ngày đói lả Con ông đã chuyển tới ở hẳn phòng trọ, sau khi dọn qua mỗi ngày một ít đồ đạc. Sau khi ghé trả bà chủ chìa khóa phòng, hai cha con ăn sáng trong tâm trạng bổi hổi. Gần mười giờ, ông nhắm thẳng hướng bắc. Sau vài giờ, xe tách khỏi lộ chính, nhằm hướng biển. Sau mấy ngày mưa, cây cỏ đẫm mình trong sắc lá xanh rười rượi. Sau vài chi tiết được ông đưa ra, người đàn bà đã nhoẻn cười. Sau khi quen mắt, ông nhận thấy trong nhà chỉ có chiếc sạp tre duy nhất, không hề có bóng dáng bàn ghế. Sau cả nửa giờ, các món mới lần lượt được bưng lên. Đôi giày mượn khá chật, sau một ngày khập khễnh, gót chân ông bị mép giày phía sau cứa đứt, bước đi như cực hình. Suốt bữa ăn tối và cả đêm ấy, ông như người lẩn thẩn. Bằng trí tưởng tượng và thể trạng đã phục hồi sau giấc ngủ, ông thử tìm lại cảm giác đêm qua. Buổi chiều, sau khi lên hết con đèo, ông dừng nơi thị trấn gần đó mua hai ổ bánh mì, định bụng khi tới nơi sẽ ăn bữa chính. Sau nguyên một ngày ôm vô lăng qua những cung đường đèo dốc, ông ngủ vùi cho tới khi điện thoại đầu giường réo từng hồi. Trước khi rút lui, ông thấy gã vòng ra sau bếp, dặn dò điều gì đó với vợ
71
Pl.7
186.
9
187.
16
188. 189.
22 41
190. 191. 192.
50 62 63
193. 194. 195. 196.
67 69 69 71
197. 198.
73 64
199. 200.
66 67
201. 202. 203.
3 3 3
204.
3
205. 206.
4 45
207. 208.
72 12
209.
28
210. 211. 212. 213. 214. 215. 216.
28 35 49 49 62 63 66
trưởng làng. Mấy đêm trước, nghe chuyện tình dục của đám trai trẻ khát khao, ông chỉ nhếch cười một mình, tự dưng đêm nay, nó khiến ông chao chát. Trước đề nghị quá đột ngột của con, ông thực sự bối rối - Ừ, mà... không được, con còn phải học hành. Trước ngày đi, ba đã liên lạc với ba mẹ chú ấy. Ông còn nhớ, trước chuyến đi, hai vợ chồng phải chạy mượn mãi mới ra được một đôi giày tây cho ông. Trước kia em cũng làm ở trỏng cho ông bả, sau được đưa ra ngoài này. Khi ba còn ngủ, con dạo lòng vòng ra biển chơi trước khi ăn sáng. Trước đó nửa giờ, gã lí nhí qua máy: Mày thông cảm, giờ này tao không đi được, cứ vào cái khách sạn này, nói tên tao. Cái làng này trước kia nằm dưới lũng. Lần trước tôi vào, họ đón tiếp hoành tráng lắm cơ mà? Trong khi chờ trưởng làng, hai anh vào phòng em uống miếng nước. Trước khi rút lui, ông thấy gã vòng ra sau bếp, dặn dò điều gì đó với vợ trưởng làng. Lần trước tao đã nhắm nó rồi. Thuở xa xưa, ông nhớ, sự khu biệt khá rõ ràng, bởi những cách ngăn về giao thông, hành chính. Ngày xưa chúng nó làm nghề thồ hàng, bán cho mấy buôn làng trong này. Thi thoảng một chuyến xe tải lớn lắc lư lao qua, tung vào tận miệng thực khách những đám bụi lạo xạo. Cách đây mươi năm, bia hơi, bia chai, lai rai chiếm chỗ mỗi buổi chiều. Thuở túng thiếu, ông thường ký sổ bà chủ vài gói thuốc, có lương trả. Khi quán nâng tầm bia bọt, rảnh rang ông vẫn cùng đồng nghiệp ghé lại cụng ly mỗi chiều Thêm nửa ngày vần vô lăng, hòa vào dòng xe trên phố, qua mấy cái bùng binh nghẹt người, tay lái ông có vẻ đã ổn. Chín tháng mỗi năm, cắm mặt vào giáo án, bục giảng, lo dạy thêm dạy bớt. Suốt hành trình này, mỗi giờ qua đi, sẽ là mỗi giờ mãi mất, bởi nó không thể lặp lại như nhịp sống thường ngày. Hồi nãy con thấy cô ngáp hoài. Bao năm, hàng ngàn trang giáo án, hàng trăm bài thơ ông đã viết trên vuông bàn cũ kỹ ấy. Trong khi con gái vào phòng tắm, ông đứng bám lan can, nhìn hút nẻo phố dài vàng vọt. Khi ông trở ra, con gái đã nằm lơ mơ trên chiếc giường lớn kê gần cửa sổ. Trong giấc chập chờn, ông thấy cổ họng mình khô khốc. Trong khoảnh khắc ấy, đám trai liếc sang ông. Khi ông quay ra từ nhà vệ sinh, nhóm thanh niên bàn bên như thể đã bốc hơi. Trong ánh chiều, những ngôi nhà sàn loi lẻ vụt qua bên cửa xe. Trong khoảnh khắc, ông thấy gã thần người khi chạm mặt con gái ông. Trong khi ông còn đang đánh vật với tô bún đầy ắp, gã đã xong bữa, lấy tăm xỉa răng và gọi cô phục vụ bàn tính tiền. Trong khi chờ trưởng làng, hai anh vào phòng em uống miếng nước.
217.
69
Pl.8
218.
8
219. 220.
20 24
221. 222.
4 11
223.
11
224.
63
225.
55
226. 227. 228. 229.
6 11 5 8
230.
16
231.
18
232.
20
233. 234. 235. 236.
34 43 72 27
237. 238.
Trong vệt sáng nhòe lên run rẩy, ông thấy một lớp son đỏ bệt, chu tròn quanh cái đầu lọc, hàng mi chải mascara rợp xuống. Trong khi nó chải răng, ông ra hẻm ngửa mặt nhìn sắc trời. Trong ánh lửa bập bùng, một cái bóng lúi húi, có lẽ đang chuẩn bị cho bữa cơm chiều đơn độc. Khi trở về, tao nghĩ mày sẽ ngộ ra nhiều thứ, để có một tương lai khác. Qua cửa kính xe, ông tránh nhìn thẳng những gương mặt bên đường phút tan tầm. Sau mấy chai bia như thường lệ, tay lái dẫn ông qua những nẻo đường xưa cũ. Buổi chiều, sau khi lên hết con đèo, ông dừng nơi thị trấn gần đó mua hai ổ bánh mì, định bụng khi tới nơi sẽ ăn bữa chính. Bằng trí tưởng tượng và thể trạng đã phục hồi sau giấc ngủ, ông thử tìm lại cảm giác đêm qua. Sau vụ ấy, cùng vài việc khác, tôi nghỉ vì sốc nặng. Một lần nữa, ông lại lạc hồn theo cái quỹ đạo đã bao năm trời quen thuộc. Nếu dọc đường có gì khó khăn, mày cứ gọi, tao sẽ làm hậu phương cho mày. Cái bóp mỏng dính, vài mẩu giấy tờ đủ để người ta báo lại vợ con, nếu chẳng may gục giữa đường giữa chợ. Nếu cần, ba sẽ thuê một cái phòng trọ khác, rộng rãi, đàng hoàng hơn, để con về ở với ba. Nếu giữa đường, con không chịu nổi, ông hoàn toàn có thể mua vé máy bay để nó quay về thành phố. Nhưng quả thực, nếu kéo thêm một ngày trong phòng trọ, hai cha con ngồi nhìn nhau, nhắc chuyện cũ, chờ tới bữa đi ăn, lựa chọn lên đường vẫn hợp lý hơn Nếu trời còn cho duyên, anh em mình sẽ còn gặp lại nhau ở một nơi nào đó. những ngày mới đột nhiên nóng hập, dù theo lịch đã vào mùa đông. Dù lạnh, con cũng hé cửa xe tí xíu, coi chừng ngạt. Qua khỏi một cây cầu khá dài, quang cảnh hai bên đã mang vóc dáng phố xá, tuy vẫn đầy heo hút. Dân ở đây, tuy khá rồi, nhưng họ cũng còn định kiến lắm. Nhà cửa tuy xây gạch, nhưng đã xuống cấp từ lâu.
51 67
Cho tôi xin 1 vé đi tuổi thơ
239. 240.
3 3
241. 242.
3 4
243.
6
244.
Hôm đó lớp tôi làm bài tập làm văn. Mỗi đêm, trước khi đi ngủ, tôi đã biết tỏng ngày mai những sự kiện gì sẽ diễn ra trong cuộc đời tôi. Sáng, tôi phải cố hết sức để thức dậy trong khi tôi vẫn còn muốn ngủ tiếp. Khi tôi trưởng thành, có nhà báo phỏng vấn tôi, rằng giữa sức khoẻ, tình yêu và tiền bạc, ông quan tâm điều gì nhất? Suốt những năm đi học, tôi và lũ bạn đã sử dụng những khoảng khắc tự do hiếm hoi đó vào việc đá bóng, bắn bi, nhưng thường xuyên nhất và hăng hái nhấ là những trò rượt đuổi, đánh nhau hay vật nhau xuống đất cho đến khi không đứa nào còn ra hình thù một học sinh ngoan ngoãn nữa mới thôi, tức là lúc khuỷu tay đã trầy xước, mắt đã bầm tím, chân đi cà nhắc và áo quần thì trông còn tệ hơn mớ giẻ lau nhà Sau đó, không nói thì ai cũng biết là tôi bị mẹ tôi tống vào nhà tắm
6
Pl.9
245.
8
246.
8
247. 248. 249. 250.
10 14 14 16
251.
19
252.
19
253.
21
254.
24
255. 256.
25 26
257.
26
258.
26
259.
28
260.
28
261.
31
262. 263. 264.
31 31 18
265.
81
Một lát, ba tôi hỏi: - Con ngủ rồi phải không? Thỉnh thoảng tôi cũng đựoc phép chạo ra đằng trước nhà chơi với lũ trẻ hàng xóm nhưng trước ánh mắt giám sát của mẹ tôi Mãi về sau này, tôi mới khám phá ra còn có cách nhìn khác về sự lặp đi lặp lại. Tối hôm trước Hải cò chắc thao thức suốt đêm, chờ trời sáng. Sáng ra tôi thấy mắt nó đỏ kè. Trong bọn, con Tí sún là đứa hiền lành và chậm chạp nhất nhưng qua đến ngày thứ 3, nó cũng kịp thích ứng với hoàn cảnh bằng cách chỉnh thẳng Hải cò ra trận khi tới lượt nó làm mẹ. Năm đó, tức vào năm tám tuổi, tôi chưa biết rằng trong công thức 5W mà người phương Tây dùng như một công cụ để khám phá sự thật, gồm ―What - Who - Where - When - Why‖ mà người Việt chúng ta vẫn dịch là ―Cái gì - Ai - Ở đâu - Khi nào - Tại sao‖ thì câu hỏi ―Tại sao‖ bao giờ cũng là câu hỏi sâu sắc nhất, có tính bản chất nhất, và dĩ nhiên là khó trả lời nhất. Hồi bé, hẳn là bạn cũng có hằng hà những câu hỏi ―tại sao‖ khiến ba mẹ bạn vô cùng bối rối. Lúc đó, tôi cứ nghĩ đó là trò chơi trẻ con và chỉ trẻ con mới nghĩ ra những trò kỳ thú như vậy. Sau này, khi đã biết đến mối tình đầu thứ tám thì tôi mới hiểu rằng cắt nghĩa tại sao ta không yêu một người nào đó dễ dàng hơn rất nhiều so với việc giải thích tại sao ta yêu họ. Hồi đó, tôi chỉ thích có ba món: mì gói, mì gói và dĩ nhiên mì gói. Vì tất cả những lẽ đó, tôi chỉ cho phép con Tí sún nấu mì giùm tôi tổng cộng ba lần. Tất nhiên vào lúc tám tuổi, tôi chưa có em gái và mẹ tôi chưa có dịp thốt ra những lời vàng ngọc như vậy. Nhưng ngay lúc đó, tôi đã cương quyết sẽ không lấy con Tí sún làm vợ, cho dù hai đứa chắc chắn sẽ cùng lớn lên cạnh nhau từ tuổi ấu thơ đến lúc mỗi đứa phải lập gia đình. Vào một ngày có lẽ là không xa lắm, chàng đau khổ nhận ra chàng phải đối diện với cái bàn ăn trong nhà mỗi ngày tới những ba lần. Một thời gian sau nữa, tức là vào lúc tôi viết cuốn sách này, tôi trưởng thành thêm một bậc khi phát hiện ra những gì tôi nói huyên thuyên nãy giờ về mối quan hệ keo sơn giữa nấu nướng và hạnh phúc, giữa phòng ăn và phòng ngủ thực ra chẳng có gì nghiêm trọng hết. Hôm đó, trước khi làm cái chuyện chán ngắt là ngủ trưa, tôi kịp mượn điện thoại của chú Nhiên gửi mẩu tin đó vào điện thoại của con Tủn (đúng ra là của mẹ con Tủn). Chiều, tôi học bài qua quít rồi lén ba mẹ vù ra cổng, đứng ngó qua nhà nó. Mấy hôm sau, tôi lại nhắn cho con Tủn một tin nhắn mới. Trong khi chờ đợi (ôi, lâu quá!), tôi, Hải cò, con Tủn và con Tí sún buộc phải đồng ý trong đớn đau rằng 2 lần 4 là 8, cũng như 3 lần 5 là 15. Suốt một tuần lễ tiếp theo, công tác huấn luyện chó của chúng tôi không tiến triển thêm được bước nào. Trong khi đó, những lời ca than của các bậc phụ huynh ngày một nhiều.
Pl.10
266.
18
267.
16
268.
21
269.
22
270. 271.
73 18
272.
22
273. 274.
22 27
275. 276. 277. 278. 279.
27 30 31 31 32
280. 281. 282. 283. 284.
32 32 33 39 39
285. 286. 287.
67 72 35
288.
38
289. 290. 291. 292.
38 38 39 39
293.
41
294.
45
Nếu muốn thay đổi chúng tôi đành phải chờ đến lúc thành tài, tức là lúc đã trở thành những nhà toán học nổi tiếng thế giới, lúc đó chúng tôi sẽ soạn một bản cửu chương theo ý mình. Lần sau con sẽ không nghe theo bất cứ ai nữa, dù đó là bản cửu chương hay thầy cô giáo Dù giàu tưởng tượng đến mấy, bạn cũng không tài nào hình dung được chúng tôi có thể nói đi chợ thay cho đi ngủ, cũng như chiếc cặp bỗng nhiên biến thành cái giếng một cách hồn nhiên Hôm qua thầy hiệu trưởng đánh nhau với em, sáng nay còn nằm rên hừ hừ ở nhà ạ. Ngày mai nếu nỗi buồn tìm đến Kể từ hôm nay, tụi mình không gọi con gà là con gà, con chim là con chim, cuốn tập là cuốn tập, cây viết là cây viết nữa... Hôm qua thầy hiệu trưởng đánh nhau với em, sáng nay còn nằm rên hừ hừ ở nhà ạ. Thầy hiệu trưởng, hôm nay tôi làm mẹ, thầy hiệu trưởng làm con nhé? Từ trước đến nay, có hàng ngàn cuốn tiểu thuyết Đông Tây kim cổ viết về đề tài tình yêu, nhưng chẳng có cuốn nào đề cập đến một mối tình trong đó chàng yêu nàng vì tài làm bếp hoặc chàng bỏ rơi nàng vì món súp nàng nấu quá mặn cả. Hôm nay anh bận việc cơ quan Chiều nay chúng ta đi dạo một chút chăng? Buồn ơi là sầu Con Tủn khoái lắm. Xưa nay chưa có ai nhắn tin cho nó bao giờ. ―Chiều nay chúng ta lai rai một chút chăng? Buồn ơi là sầu!‖ Chiều, tôi lại ra đứng trước cổng ngó mông qua nhà con Tủn thấp thỏm chờ đợi theo thói quen. Một lát, trong nhà nó có người đi ra. Chiều nay chúng ta lên giường một chút chăng? Buồn ơi là sầu!‖ Bây giờ, đúng ra tôi phải gọi Hải cò là ông Hải cò. Xưa nay nhà Hải cò không bao giờ uống các loại nước ngọt đóng chai. Tới bữa ăn, trước ánh mắt sửng sốt của ba mẹ tôi, tôi đổ cơm và thức ăn vào chiếc thau nhôm, trộn lên như một món thập cẩm. Từ nay trở đi, mẹ thích gì mẹ cứ làm, đừng bao giờ hỏi con nữa. Chiều nay chúng ta chia tay một chút chăng? Buồn ơi là sầu Thỉnh thoảng nó lại giật nảy trên chỗ ngồi: - Chà chà, đánh lộn đánh lạo! Không ổn rồi! Sau vụ tin nhắn, tôi ngoắt nó ra ngoài hè, chửi té tát: - Mày đưa cho mẹ mày đọc mẩu tin đó chi vậy? Kể từ hôm tôi lỡ lầm một chút đó, đời tôi mất đi bao nhiêu thứ một chút khác. Khi khát nước, tôi không thèm rót nước vô ly nữa. Hôm sau, Hải cò cầm chai nước chạy qua nhà tôi, mặt hiu hiu tự đắc Hôm sau, Hải cò lại háo hức đi tìm tôi, chỉ để khoe: - Tao vừa ăn cơm trong thau. Sau này, khi đã là một ông bố hẳn hoi thì tôi phát hiện ra trẻ con trở chứng là thứ đầy rẫy trên trái đất này. Ở làng quê, người dân thường sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, chài lưới và các nghề thủ công, xung quanh nhà thường có vườn cây, chuồng trại, đường làng
Pl.11
295.
45
296.
45
297.
47
298. 299. 300.
48 50 50
301.
50
302. 303. 304. 305. 306.
51 53 57 63 65
307.
65
308.
65
309.
65
310.
65
311. 312.
65 66
313.
67
314. 315.
67 67
316.
68
317.
68
nhỏ, ít người và sẽ cộ qua lại. Ở đô thị, người dân thường đi làm trong các công sở, cửa hàng, nhà máy, nhà ở tập trung san sát, đường phố có nhiều người và xe cộ đi lại Bao giờ ngồi học, tâm trí tôi cũng bị lãng đi bởi một chuyện gì đó, bất cứ là chuyện gì. Nhiều năm về sau, tôi tình cờ đọc được bài thơ Những nguyên âm của Rimbaud mới biết ông cũng từng bị óc tưởng tượng của mình cầm tù: A đen, E trắng, I đỏ, O xanh - những nguyên âm. Ở lớp, tới lượt cô giáo bắt đầu xoa nắn vỏ não tôi. Thực lòng mà nói, tôi thích con Tủn hơn con Dung điệu. Gần đây, nhờ chiếc điện thoại di động của chú Nhiên, tôi rủ con Tủn đi chơi được hai lần. Bây giờ, sau nhiều lần yêu, tôi nhận ra rằng không phải một cô Dung nào đó thay thế một cô Tủn nào đó trong trái tim một chàng cu Mùi nào đó sẽ làm hỏng định nghĩa về tình yêu mà vấn đề là khi một cuộc tình vừa đổ vỡ thì ngay sau đó người ta không thể nào hào hứng bắt đầu một cuộc tình mới nếu vết thương lòng chưa kịp lành miệng. Hồi tám tuổi, tình yêu là một cái gì xa lạ với tôi. Ở đời, lắm kẻ thông minh, cũng lắm người thật thà. Một lần nữa, con Tí sún lại là người phát ngôn của chân lý. Thông thường, nguời lớn không phủ nhận niềm tin đó của trẻ con. Về tâm lý, người lớn luôn cho mình đứng về phía chân lý, nếu xảy ra một sai lầm nào đó thì phần nỗi đương nhiên thuộc về trẻ con. Tôi đã cảm nhận được sự bất công đó, ngay vào năm tám tuổi, lúc tôi tiếp tục mân mê đôi gò má rát bỏng. Những ngày hôm trước, nếu bốn đứa tôi hăng hái giành nhau làm ba mẹ thì bây giờ lại tranh nhau đến khô cả cổ để được làm con cái. Rốt cuộc, sau một hồi giằng co, Hải cò và con Tủn giật được chiếc ghế quan tòa. Tuần trước ba thằng Hải cò có say rượu ủi vô gốc cây và tỉnh dậy ở bệnh viện với cái đầu băng trắng thiệt. Bữa đó ai cũng tưởng ba nó tiêu rồi. Trước ánh mắt ngơ ngác của con Tí sún, con Tủn ấm ức dằn từng tiếng: - Thương là khác. Còn tôn trọng là khác. Hôm trước đi mua áo, mẹ hỏi con thích chiếc áo màu xanh hay chiếc áo màu vàng. Năm ngoái con lỡ làm mất chiếc xe đạp, thế mà mẹ cứ lôi chuyện đó ra nói hoài. Hôm qua mẹ vẫn còn nhắc trong bữa ăn, cứ như thể con làm mất cả trăm chiếc xe ấy… Hôm đó, chúng tôi sống như trong mơ – một giấc mơ có lẽ mọi trẻ con trên trái đất đều ao ước. Từ phiên tòa trở về, tôi vừa đun đầu vô nhà, ba tôi đã đón bằng một tiếng quát: - Con đi đâu mà giờ này mới về? Con có biết bây giờ là mấy giờ rồi không? Sau này, khi đã là một người lớn hẳn hoi, tôi luôn cảm thấy chột dạ khi có một
318.
69
Pl.12
319.
71
320. 321. 322. 323. 324.
71 72 73 74 74
325.
74
326.
74
327.
74
328. 329.
76 77
330.
78
331. 332.
78 81
333. 334.
81 83
335.
83
336.
84
337.
85
338.
85
339.
87
340.
87
341.
88
đứa bé nhìn tôi chằm chằm, cái cảm giác của tôi lúc đó là cảm giác nhột nhạt của người bước ra phố mà quên cái nút áo hay nút quần. Sau này, khi đã là người lớn thì tôi thất vọng khi thấy người lớn không có được thái độ trong sang như lúc họ còn trẻ con. Bây giờ con tôi cũng hay hỏi tôi về tình yêu. Trước khi cưới nhau, con người ta chỉ tập yêu nhưng chưa thực sự biết yêu. Mười năm sau, tôi gặp lại con Tủn khi tôi lên thành phố học đại học Năm sau tới lượt tôi và con Tí sún Trong nhiều năm liền, bốn đứa tôi đã cặp kè với nhau vui vẻ như những ngày thơ ấu. Mười năm sau nữa, tức là vào lúc hai đứa tôi đã hai mươi tám tuổi và con Tủn chuẩn bị lên xe hoa, tôi mới thú thật với nó những gì tôi nghĩ về nó hai chục năm trước. Lúc hai mươi tám tuổi, tôi cứ nghĩ mãi về chuyện này và tìm ra cả chục lý do, lý do nào cũng chí lý. Bây giờ, lúc ngồi viết cuốn sách này tôi đủ từng trải để không thắc mắc nữa, đơn giản vì bản thân phụ nữ đôi khi họ còn không hiểu họ và phản ứng của họ nói chung rất khó lường. Như vậy, cuối cùng cuốn sách này đã được viết ra. Kể từ hôm đó, chúng tôi thi nhau giữ lại bất cứ con chó hoang nào lạc vào nhà hoặc đi ngang qua trước cửa. Năm phút sau, nó lại một tay ôm cổ con Hoàng tử bé, tay kia lăm lăm chiếc dép. Bữa đó, huấn luyện viên Hải cò dạy chó đến mệt nhoài. Suốt một tuần lễ tiếp theo, công tác huấn luyện chó của chúng tôi không tiến triển thêm được bước nào. Trong khi đó, những lời ca than của các bậc phụ huynh ngày một nhiều. Trước khi heo, bò, gà trở thành gia súc, chắc chắn loài người đã có hàng ngàn năm dùng răng và lưỡi sang lọc các loại thịt trên trái đất . Từ phán quyết đó, heo rừng, bò rừng, gà rừng đã được nuôi dưỡng và thuần hóa để trở thành nguồn cung cấp thực phẩm vĩnh viễn cho con người. Cuối cùng, tôi, thằng Hải cò và con Tí sún mỗi đứa ẵm một con trên tay, chạy rã cả chân để đến một nơi xa nhất có thể, thận trọng đặt chúng xuống để rồi ngán ngẩm nhận ra khi tụi tôi quay về thì bọn chó vẫn lẽo đẽo sau lưng. Khi cuốn sách này phát hành được hai ngày, tôi chết điếng người khi nhác thấy chiếc xe hơi quen thuộc của Hải cò đỗ xịch trước cửa. Trái với sự mong đợi của tôi, Hải cò toét miệng cười: - Tụi này đến chúc mừng cậu đây. Suốt hai tiếng đồng hồ, tôi như bị nhấn chìm dưới một cơn bão những lời có cánh. Ngày hôm sau con Tí sún tới và tôi hết sức ngạc nhiên thấy nó chẳng hề ngạc nhiên khi tôi kể cho nó nghe về cuộc viếng thăm của Hải cò và con Tủn. Khi đọc đến những câu đối thoại ngớ ngẩn này, giả định là bạn đang cầm cuốn sách của tôi trên tay, tôi tin rằng bạn đang nhìn thấy tôi, Hải cò, con Tủn và con
Pl.13
342.
88
343.
88
Tí sún – những nhân vật chính của câu truyện lan man này. Nhưng bây giờ, đã lớn, nếu một ngày bạn cảm thấy sự bế tắc của cuộc sống gieo vào đầu bạn ý nghĩ ảm đạm đó thì rất có thể đó là khởi đầu cho một câu chuyện tệ hại và chân trời có khả năng khép lại trước mắt bạn. Vì vậy, để sống tốt hơn đôi khi chúng ta phải học làm trẻ con trước khi học làm người lớn, tôi đã nghĩ như vậy khi ngồi cặm cụi gõ cuốn sách này…
Con hoang 344.
99
345. 346.
101 165
347.
165
348. 349.
6 6
350.
95
351.
95
352.
95
353. 354.
122 132
355.
146
356. 357. 358.
146 146 152
359. 360.
158 158
361. 362.
182 185
363. 364.
206 219
365.
225
366.
229
Ngày mai trời sáng, mặt mũi nào bà dám nhìn cậu ta, quyền lực nào, tư cách nào bà sai khiến cậu ta? Sự thật sáng mai không bi đát như bà nghĩ Ngày mai, anh ta ra chiến trường, cái chết cận kề trong gang tấc vậy mà cô vẫn cố tình tiếc cái tiết trinh! Mai sau, không những các thế hệ con em làng mình mà cả các xã lân cận đều mang ơn anh, mãi mãi nhớ công lao của anh. Và sau này, tôi có thêm em gái, nó tên là Quận. Nên sau này, khi Đội rút khỏi làng, dân gian mới có câu ―Đội về Đội dựa vào mông. Đội đi đội để trống đồng ai mang‖. Sau một ngày lao động vất vả, no cơm, rượu say, dưới ánh sáng ngọn đèn, chàng trai lực điền có tên Mã đặt lưng xuống giường là chìm vào giấc ngủ. Từ ngày có Mã, đêm đêm tiếng thở, tiếng trở mình, tiếng ngáy hồn nhiên của Mã đã xóa đi sự âm u cô tịch của ngôi nhà, chồng đi vắng mãi, bây giờ ngôi nhà mới có được cái hạnh phúc ấm áp đó. Giờ đây, ngoài đứa con bi bô đang tập đi tập nói, ngoại đã có Mã để nói để gọi để chuyện trò. Sau này, Hạnh có thể quên, vì anh bị bệnh Thế mà đến sớm hôm sau, cô dâu rửa bát cầu ao, trẻ con chăn trâu đã có bài đồng thanh: ―Hải cọm kiết sỉ kiệt keo. Lấy phải cô vợ bị khèo một tay‖. Trưa hôm sau, Hạnh làm thám tử đột nhập vào ―lãnh địa ma‖ bắt chim sâu mang về nuôi trong lồng. Trưa hôm sau nữa, Hạnh lại rủ Thắm đi. Một lần, giữa trưa vắng, hai đứa chui vào vườn nhà chị Hải. Ít ngày sau, một con trâu nhà khác chui vào vườn nhà chị Hải bứt nõn chuối ăn, quần nát những khóm dong riềng đang mơn mởn. Và sau này, mẹ vẫn kể. Mai sau, không những các thế hệ con em làng mình mà cả các xã lân cận đều mang ơn anh, mãi mãi nhớ công lao của anh. Mãi sau, anh mới cúi xuống, dùng hai tay kỳ cọ sạch sẽ cái thứ ấy của mình. Sau một lúc chợp mắt trên chòi chỉ huy, Mã rón rén lách bước chân qua từng người từng người thật nhẹ Lần sau không được tắm đêm sương lạnh, chìm dưới đấy, khổ tôi. Sau này, mẹ tôi đổi tên tôi là Hoàng với cái nghĩa ―mẹ đẻ ra ông Hoàng, ngồi trên cả làng‖. Sau đó, mẹ lấy mỡ gà xoa một lớp mỏng lên bàn chân bàn tay, lên má hai mẹ con. Sau ngày giải phóng miền Nam ít năm, Bệnh viện Điều dưỡng thương binh tâm thần của tỉnh được xây dựng trên địa bàn xã mình.
Pl.14
367. 368. 369. 370. 371. 372.
229 229 246 262 128 158
373. 374. 375. 376. 377. 378.
175 180 242 260 6 95
379. 380.
256 260
381.
24
382.
235
383.
237
384.
246
385. 386. 387. 388. 389.
263 263 263 263 116
390.
252
391. 392. 393. 394. 395. 396.
6 6 221 221 262 248
397. 398. 399.
46 118 120
400.
136
Sau, nghe nhiều thành quen, thành thuộc những bài hát của các anh. Sáng hôm sau, mẹ một mình xuống viện Điều dưỡng thăm ông Hạnh. Sáng hôm sau người ta thấy xác ông khô cứng bên mép ao. Sau này mẹ cũng nằm cạnh đó luôn. Từ nay tao cấm mày chơi với con tao. Ông dự định nội đêm nay sẽ phải đưa tiểu thư đi gửi nhà người họ hàng trên miền ngược. Hôm nay có nhiều việc đại sự lắm. Sáng nay các vị có nghe đài không? Hôm nay, nàng là kẻ thù. Đêm nay bệnh tật đau đớn lại hoành hành anh, chết mất Mẹ tôi thương em, đến bây giờ, mỗi bận nhắc đến, mẹ vẫn đau. Giờ đây, ngoài đứa con bi bô đang tập đi tập nói, ngoại đã có Mã để nói để gọi để chuyện trò. Bây giờ ông ấy là bố của con em, anh tha cho ông ấy. Ông Hạnh đứng lên, trước khi đi, ông vét thêm một nắm cơm nguội nắm nắm trong tay vừa nói vừa ăn Đêm đầu tiên bần nông tố khổ, trước đông đủ người làng, già trẻ, gái trai, Mỵ dám đứng lên cất giọng thẽ thọt khiến mọi người phải chăm chú lắng nghe Mấy ngày trước, thấy mấy cái ô tô bịt kín chở thương binh về bệnh viện tâm thần. Em biết không, hôm trước, anh được cử đi trinh sát cùng mấy cô giao liên đường Trường Sơn Trước khi bước vào phòng giám đốc hội ý, bác sĩ dẫn mẹ ra phòng khách ngồi đợi. Trước giây phút cuối của cuộc đời, bố tôi tỉnh táo lạ thường. Hôm phát tang, con trai cô Tỏi cũng đến nhưng cô Tỏi thì không. Khi cha còn sống, con trai cô Tỏi căm ghét bố. Vì bố, anh ta phải chịu biết bao điều tiếng, cơ cực. Thỉnh thoảng ông rung rung đùi, cái đùi gầy không bắp như thể cái phao câu nằm ngang trên mặt nước bị con cá nhằn nhằn đớp đớp mồi. Đêm không ngủ, mẹ tức giận, băm bổ ra sân hùng hục kéo dây thừng cho cái cối đá treo trên cây nhãn trong cái vỏ thùng lương khô kêu choang Và sau này, tôi có thêm em gái, nó tên là Quận Mẹ tôi thương em, đến bây giờ, mỗi bận nhắc đến, mẹ vẫn đau. Thế là từ đó, mỗi khi có dịp về quê, ngày, ông là của mẹ cả. Khi tôi năm tuổi, mẹ sinh thêm em bé, tên nó là Quận. Hằng năm chúng tôi làm mâm cơm cúng giỗ ông Hạnh. Hằng ngày, Hạnh bình thường như người khỏe mạnh, không có chút gì biểu hiện của bệnh. Đêm hôm ấy, đợi mẹ ngủ say, Thắm rón rén vào buồng, khe khẽ chốt chặt cửa Thằng bé ngủ say trong nhà. Trong đám xe ấy, có cái xe nào từng là xe hoa rước cô dâu Thắm chú rể Hạnh, để lũ trẻ con trong làng lũ lượt chạy theo sau, chơi trò đám cưới của trẻ con? Và từ đó, vợ chồng anh Hải chẳng ai nói với ai một lời, âm thầm như những thân cây, lẳng lặng như những người câm điếc.
Pl.15
401.
138
402.
138
403. 404.
138 140
405. 406. 407.
144 144 147
408. 409. 410.
411. 412.
150 150
413.
150
414.
152
415.
158
416. 417.
158 178
418.
195
419.
219
420.
219
421. 422.
219 222
423. 424. 425. 426.
231 231 248 248
427.
250
428.
Và một đêm như thế, anh Hải bỏ nhà ra đi trong khi ngàn ngàn những mắt đang mộng du cùng chị. Trời sáng, tỉnh mơ, chị Hải hái lá pha ấm trà đặt lên bàn, không thấy cái mũ, cái túi của anh treo trên cột. Một buổi chiều, chị Hải cảm thấy tức ngực, khó thở. Bất chợt, một luồng gió mạnh từ đâu thổi tới, xống áo chị phồng lên như cánh diều no gió. Ban ngày, ma trèo trên cây, ma lang thang dưới gốc nhãn. Ban đêm, ma lên giường, ngủ chung với chị. Ngoài vườn, thỉnh thoảng vọng vào nhà tiếng quả chín rụng xuống tàu lá, xuống đất xuống ao, xào xạc, bịch, bộp. Dưới cuối giường, mẹ đang đứng mắc màn, Thắm giang tay ôm mẹ: ―Mẹ ơi!‖. 148 Từ ngày anh Hải bỏ đi, chị treo mãi nó ở đó. Thắm hoảng sợ ngã lăn ra giường. T 148 148 Một buổi chiều hôm khác, nhớ vườn xưa, hai đứa mom men bên bờ ao muốn lẻn vào vườn nhà chị Hải. Vào nhà, chị Hải không mời nước. Những hôm trời mưa, mấy chị em ngồi trong nhà tách cùi nhãn mọng nước ra khỏi hạt, nghe Hạnh đọc truyện cổ tích từ trong sách giáo khoa. Nhưng rồi một hôm, con chó Vện nhà chị Hải bỗng dưng tìm đến được nhà Hạnh. Ít ngày sau, một con trâu nhà khác chui vào vườn nhà chị Hải bứt nõn chuối ăn, quần nát những khóm dong riềng đang mơn mởn. Một hôm, có người bẩm báo với Cai Lọong, họ nhìn thấy thằng tây đang đi đến đầu làng, chắc là vào nhà ông. Thằng tây hôm ấy đến nhà ông cai Loọng thật. Trong gầm Tam Bảo, Mã nheo mắt nhìn ra: - Trông em khổ sở tội chưa kìa! Trong màn đêm, giữa đêm, chồm hỗm trên cành những con dái cá gật gù ngủ, nhìn như những bông hoa gạo. Vậy mà, trong phút chốc, ông trở thành tội phạm, người ta khinh bỉ ông, người ta báng bổ ông, người ta kỷ luật ông, người ta đua nhau phát đơn kiện ông những chuyện từ xửa từ xưa đời nảo đời nào ông không còn nhớ. Trong cơn đau đớn, mẹ tôi cáu giận: - Chửa với cả làng! Một lần, kỳ nghỉ phép, ông vào nhà, trốn trong buồng tối của mẹ tôi. Trong không khí như ngày hội, những con mắt muốn xem phim chưởng, những cái tai muốn nghe ca nhạc. Trong cơn bão, gió thổi ào từng cơn dào dạt, cây cối ngả nghiêng cành lá. Trong làng, những mái nhà có người vẫn ngủ say có người bị thức dậy. Trong cơn hoang tưởng, ông không còn là con người nữa, mà là một con thú. Trong tình trạng đó, nếu chúng ta không biết cách làm dịu thì rất có thể không lường trước được điều gì sẽ xảy ra với những người có mặt lúc ấy. Bác sĩ còn nói rằng, ngay từ những ngày đầu chuyển về đây, trong một lần trốn viện, trên đường đi bộ về nhà, ông Hạnh gặp một người làng, họ đi qua và nhận ra ông ấy. Hôm nay, nàng là kẻ thù.
250
Pl.16
429. 430. 431. 432.
256 265 54 62
433. 434.
105 105
435.
227
436.
195
437. 438.
209 16
439.
101
440.
201
441.
209
442.
256
443.
263
444.
Bây giờ ông ấy là bố của con em, anh tha cho ông ấy Vào trong này, chứ tối lắm tôi làm sao mà ra ngoài đó với ông được. Để kiểm tra, Thắm lẳng lặng lội vào ruộng ngô thật xa, nơi em cảm thấy an toàn. Để có được giây phút giao hoan hạnh phúc tuyệt trần như bao người con gái đêm đầu tiên chồng vợ, bà ngoại phải dùng mọi mưu mô, thủ đoạn, điên cuồng, gian dâm, phù thủy. Để thay đổi cuộc đời, để cuộc sống bớt tẻ nhạt cô đơn, bà gia nhập đội du kích. Thắm quờ tay tìm mẹ để được mẹ yêu, để được ấp ủ, để được gối đầu tay, để được vỗ về. Cả ba chúng tôi đều nỗ lực một cách vô thức để không cho ai thấy tâm trạng yếu đuối nơi tận cùng trái tim mình. Nếu có thể lũ lớn tràn về, ngay lúc này, tất cả, cả chị nữa, sẽ bị cuốn trôi, sẽ vĩnh viễn để lại trần gian những oan hồn. Nếu biết ông Mã ở trong nhà em, đội dân phòng cũng không ai dám xông tới. Lòng an ủi lòng vậy thôi, chứ, dù chỉ là một cô gái mười sáu tuổi nhưng mẹ cũng đủ hiểu đủ biết chứ Thế mà nhiều khi, ông tự trách mình cổ hủ khi gặp bất cứ người đàn bà nào, dù đẹp đến mấy, đức hạnh bao nhiêu ông cũng thấy không bằng bà cả. Cho dù Hạnh của tao trở về với cái nạng trên tay thay đôi chân không còn, cho dù Hạnh của tao tàn phế, chúng tao vẫn lấy nhau, ở bên nhau, hạnh phúc hết đời. Dù có yêu em, thương em, bảo vệ em, bác em cũng không thể nào chịu nổi tên Mã. Nói được đôi lời với nhau, dù chẳng đâu vào đâu, mẹ cũng thấy lòng dịu nhẹ. Tôi, chính tôi, dù được sống cùng bố cùng mẹ nhưng tôi cũng chỉ là một nhận vật phụ. Đêm hôm ấy, đợi mẹ ngủ say, Thắm rón rén vào buồng, khe khẽ chốt chặt cửa.
46
Cô gái đến từ hôm qua
445. 446. 447. 448. 449.
73 12 10 49 6
450. 451. 452. 453. 454.
56 49 11 3 78
455. 456.
78 47
457.
13
458.
Buổi trưa, vừa về đến nhà, ăn qua loa vài chén cơm, tôi chạy qua thăm Tiểu Li Sáng hôm sau, tôi không dám vô lớp sớm. Cả buổi sáng, tôi ngồi xụi lơ Ở trong lớp, tôi ngồi ở đầu bàn thứ hai, sát trong tường Suốt buổi tối, tôi nằm loay hoay nghĩ ngợi, xem thử ngoài chuyện "dụ ăn" tôi còn có thể bắt nạt Tiểu Li chuyện gì nữa. Tôi sẽ trói gô cả năm đứa một cách bất ngờ Đi học đến ngày thứ ba, tôi đánh rơi mất lọ mực Chẳng biết nói gì nữa, tôi đứng lớ ngớ một hồi rồi tặc lưỡi bỏ đi Đứng một hồi, tôi hắng giọng: Ê! Bàn tới bàn lui một hồi, chúng tôi đành phải chấp nhận giải pháp dung hòa: "Việt An thân thương"! Đi vào phần nội dung, chúng tôi càng cãi nhau kịch liệt Từ lúc đó cho đến khi tiếng trống hết giờ vang lên, tôi ngồi học mà không dám nhìn ai, kể cả Hải gầy Khi đưa cuốn sách mới mua cho Việt An, tôi không dám nhìn thẳng vào mặt nó: Đền cho Việt An nè Quý Anh từ từ quỳ xuống, hai tay chắp trước ngực
15
Pl.17
459. 460. 461. 462. 463. 464. 465.
80 50 66 82 12 49 64
466. 467.
98 29
468. 469. 470.
55 59 21
471. 472. 473. 474. 475. 476.
76 90 106 108 97 9
477. 478.
11 102
479. 480. 481. 482.
1 1 1 1
483.
1
484.
1
485. 486.
1 1
487. 488. 489.
1 6 6
490.
6
491.
6
Từ đây đến đó, tao không nhìn vô trán mày nữa Từ nãy đến giờ em làm gì mà không chép bài? Từ bữa đó đến nay, Việt An chẳng hề nhúc nhích mảy may Từ trước đến giờ, tôi luôn luôn giành ăn với nó Sáng hôm sau, tôi không dám vô lớp sớm Ở trong lớp, tôi ngồi ở đầu bàn thứ hai, sát trong tường Ngồi trong lớp, tôi luôn luôn nhìn lên bảng hệt như một học sinh mẫu mực không tha thiết đến chuyện gì ngoài chuyện học Ngồi học trong lớp, tôi chỉ trò chuyện với Hải gầy Khi thấy không còn gì để dụ dỗ nữa, tôi đưa tay quẹt mép, tuyên bố: - Bây giờ chơi trò chơi được rồi! Khi đi vào rạp, tôi cố tình đi ngay trước Việt An. Khi ra về, thấy Tiểu Li đi thơ thẩn một mình, lòng tôi bỗng nao nao Thấy Việt An đứng nói chuyện với tôi trong giờ chơi, Hải gầy lên giọng hách dịch: Mày thấy chưa? Việt An yêu dấu, anh viết cho em những dòng này trong một chiều mưa tầm tã... Hải gầy đã ngồi đợi sẵn trong phòng học của tôi. Nó chẳng thèm giữ dép giùm tôi trong những giờ chơi Nó nhìn tôi bằng đôi mắt ướt Tôi thở một hơi dài não ruột và nói bằng một giọng thất vọng không giấu giếm Sáng hôm sau, trên đường tới trường, tôi vừa đi vừa ôn lại cho thật nhuyễn, không phải ôn bài mà ôn lại ... sáu kiểu cười Cho tới một hôm, trong giờ ra chơi, tôi đánh bạo lại gần nó Một hôm đi học về, tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy Tiểu Li đang ngồi chơi ô quan một mình trước sân nhà tôi Hồi nhỏ tôi khác xa bây giờ. Nói một cách khác, hồi nhỏ tôi ngon lành hơn bây giờ nhiều. Hồi đó, muốn chơi với đứa con gái nào, tôi làm quen một cái "rụp", gọn ơ. Chỉ có sau này, khi lớn lên, tôi mới mắc cái tật lóng nga lóng ngóng trước phụ nữ. Bây giờ tôi còn nhớ rõ mồn một cái cái ngày tôi cùng gia đình dọn đến chỗ ở mới. Lúc đó tôi còn bé tẹo, khoảng bảy, tám tuổi gì đó. Căn nhà mới nhiều phòng và xinh xắn hơn căn nhà cũ nhiều. Ngày mới dọn đến, tôi khoái chí chạy nhong nhong khắp chỗ. Lúc này mẹ tôi chưa sinh nhỏ Phương, em kế tôi, nên căn nhà trông thật rộng rãi và vắng vẻ Đứng một hồi, tôi hắng giọng: ê Bữa đó, tôi về nhà với một tâm trạng đầy phấn khởi. Suốt buổi tối, tôi nằm loay hoay nghĩ ngợi, xem thử ngoài chuyện "dụ ăn" tôi còn có thể bắt nạt Tiểu Li chuyện gì nữa. Bây giờ tôi rút ra một kết luận khác, kém phấn khởi hơn: con gái càng lớn càng khôn, con trai càng lớn càng ngu! Suốt ngày, tụi nó chỉ chụm đầu vào với nhau trò chuyện thì thầm rồi cười rúc ra rúc rích, chả thèm để ý đến bọn con trai chúng tôi lấy một chút. Trong số tụi nó, con nhỏ Việt An là "làm cao" nhất.
Pl.18
492. 493. 494. 495.
6 7 7 7
496. 497. 498. 499. 500. 501.
7 7 7 8 8 9
502.
9
503.
9
504. 505. 506. 507.
9 10 10 10
508. 509. 510. 511. 512.
10 11 11 11 11
513. 514.
11 12
515. 516.
12 12
517.
12
518.
13
519.
14
520.
15
521. 522. 523. 524. 525.
Khách quan mà nói, thái độ kiêu kỳ của Việt An trông thật dễ ghét! Mấy năm trước, nó học đâu ở tận Nha Trang. Năm nay, nó theo gia đình chuyển về đây. Ngay từ đầu năm học, Việt An bất thình lình xuất hiện trong lớp tôi và từ đó "quấy nhiễu" cuộc sống yên tĩnh của bọn con trai chúng tôi. Hôm đó lớp tôi làm bài tập làm văn. Khi còn mười lăm phút nữa hết giờ, tụi bạn trong lớp lần lượt đem bài lên nộp. Lúc này, lớp học chỉ còn lèo tèo dăm ba đứa. Trong nháy mắt, vạt áo phía sau của Việt An dính đầy những vết mực lốm đốm. Nửa đường, tôi đuổi kịp Việt An. Sau đó, hai đứa tôi sẽ trò chuyện với nhau ríu rít, say sưa, không làm sao rời ra được, trước những ánh mắt ghen tị và thán phục của tụi bạn. Đang nghĩ tới đó, tôi giật mình ngồi dậy chạy đi bật đèn. Rồi tôi đứng uốn éo trước gương luyện... cười. Sáng hôm sau, trên đường tới trường, tôi vừa đi vừa ôn lại cho thật nhuyễn, không phải ôn bài mà ôn lại ... sáu kiểu cười. Vừa ló đầu vô lớp, tôi gặp ngay Hồng Hoa. Hôm qua hình như nó là một trong những đứa ngồi lại sau cùng. Bên kia, Hồng Hoa nhìn sang, nguýt tôi một cái dài cả cây số. Bây giờ tự dưng tôi muốn nghe Việt An trách móc, thậm chí chửi thật nặng cũng được hoặc ít ra là nguýt tôi một cái dài dằng dặc như Hồng Hoa. Cả buổi sáng, tôi ngồi xụi lơ. Bữa nay mày làm gì mà thân ái với tao quá vậy! Suốt một tháng trời sau đó, tôi không dám giáp mặt với Việt An. Cho tới một hôm, trong giờ ra chơi, tôi đánh bạo lại gần nó Lúc này tụi bạn đã ùa cả ra ngoài, chỉ còn mỗi Việt An ngồi tại chỗ cắm cúi đọc sách. Hai ngày sau, Việt An đưa tôi mượn cuốn sách. Suốt ngày hôm đó, tôi sống trong tâm trạng thấp thỏm của cậu học trò đi thi chờ kết quả Sáng hôm sau, tôi không dám vô lớp sớm. Ngồi trong lớp, chốc chốc tôi lại liếc qua chỗ Việt An, xem thử nó có thái độ gì khác lạ hay không. Giờ ra chơi, tôi cố ý nán lại trong lớp chờ coi Việt An "giải đáp tâm tình" cho tôi như thế nào Chiều hôm đó, tôi phóng xe đi lùng hết hiệu sách này đến hiệu sách khác, quyết mua bằng được cuốn "Giamilia chết tiệt kia để "ném vô mặt" Việt An. Hôm trước tôi mới dặn Tiểu Li có trò gì hay hay nhớ rủ tôi chơi với thì ngay hôm sau nó rủ liền. Lần này Tiểu Li không dám lấy tay quẹt qua quẹt lại, nó thấm dầu lên chỗ sưng của tôi một cách nhẹ nhàng, êm ái Ngày hôm sau, Tiểu Li cầm sợi dây thun đến khoe tôi Trên đường về, Tiểu Li hỏi tôi: Không bắn chim nữa thì mình chơi trò gì Lớn lên, mọi chuyện đâm ra khác hẳn Tối đó tôi không ngủ thật. Sáng dậy, mặt tôi khờ câm
16 18 18 18 18
Pl.19
526. 527.
18 21
528. 529. 530. 531. 532.
21 21 22 26 27
533. 534. 535. 536. 537. 538.
27 28 28 29 30 32
539. 540.
32 33
541. 542.
34 34
543. 544. 545. 546.
36 38 38 39
547. 548. 549. 550. 551.
39 42 44 45 45
552.
45
553. 554. 555. 556. 557.
47 47 47 47 47
558. 559. 560. 561.
49 51 53 56
Tối hôm qua tôi đọc sách đến ba giờ sáng Trước vẻ mặt bối rối của tôi, nó thản nhiên nói tiếp: Tôi còn biết tại sao anh định mua kẹo cho tôi nữa kìa! Tôi hỏi với giọng hoang mang: Tại sao? Kể từ hôm đó, ngày nào trong túi tôi cũng đầy kẹo Hải gầy nhìn tôi với vẻ nghi ngờ: Xạo đi mày Hồi nhỏ tôi đâu có đến nỗi ngu ngốc như vậy . Trên bàn ăn, mẹ tôi đã để sẵn cho tôi một tô cơm chiên và một chén nước mắm đậy dưới lòng bàn. Hồi sáng em uống sữa Hình như tao có nói bánh mì nữ chứ! Lát sau, nó cầm ổ bánh mì qua đưa tôi: Anh lấy dao cắt đôi ra đi Hồi sáng mày uống sữa rồi, giờ ăn khúc nho nhỏ thôi Từ trước đến nay, tôi chẳng hề quan tâm đến chuyện này. Hai hôm sau, bỏ trong túi tấm giấy mời Hải gầy đưa, tôi đến gặp Việt An, rủ: Việt An đi xem phim không Tối đó, tôi ngồi học bài mà như ngồi trên đống lửa Về thất bại này, sau khi nghe tôi buồn rầu tường thuật lại, Hải gầy kết luận ngắn gọn: Vậy là tiêu Bốn hôm sau, cũng với tấm vé mời trong túi, tôi lại đến gặp Việt An. Nhưng lần này, tôi đi bằng những bước chân đàng hoàng, vững chải và trang bị trong lồng ngực trái tim quả cảm của Spartacus. Lúc này, tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Sau đó, tôi lùi ra xa và rút dép cầm tay Lần này, chiếc lon bị bắn tung đi và lăn lông lốc. Lúc này, nó không còn đứng ngay trước cửa mà men ra ngoài mé hiên, sát về phía nhà tôi Chiều hôm đó, tôi thơ thẩn ngoài sân cả buổi, chẳng thấy Tiểu Li đâu. Lần này, tôi ngồi im không nói Chiều hôm đó, tôi theo Hồng Hoa đến nhà Việt An Lúc này, tôi chỉ tiếc là không có "chuyên gia" Hải gầy ở đây Bữa đó, tôi ôm chồng tập của Việt An về nhà như ôm "chiến lợi phẩm", mặt mày hí ha hí hửng. Kể từ giây phút đó, như một con ong thợ chăm chỉ, tôi lao vào chép bài đến rả cả tay. Năm đó, tôi xin vào trường Sao Mai, học chung lớp với Tiểu Li. Ngày khai giảng, mẹ tôi dẫn tôi đến trường. Dọc đường, nó cứ liếc trộm tôi và cười khúc khích. Đến trường, sau khi trao đổi với cô giáo, mẹ tôi quay lại dặn dò tôi đủ thứ. Trước khi ra về, mẹ tôi còn kêu Tiểu Li lại nói: Cháu học ở đây lâu rồi, có gì cháu giúp đỡ bạn Thư với nghen Ở trong lớp, tôi ngồi ở đầu bàn thứ hai, sát trong tường Lúc này, hai viên bi của Việt An đang nhìn tôi với vẻ trách móc Bên kia, Hải gầy đã tháo cặp kiếng "điệp viên" ra khỏi mắt. Một lần nữa, bằng một cú "direct" cực mạnh và đầy bất ngờ, Việt An đã cho tôi đo ván thảm hại, hệt như Myke Tyson đã kết liễu Micheal Spinks sau một loạt
Pl.20
562.
59
563. 564. 565. 566. 567. 568. 569. 570. 571. 572. 573.
59 59 59 59 60 60 60 60 60 60 63
574. 575.
64 64
576. 577.
66 67
578.
69
579.
69
580. 581. 582. 583. 584. 585. 586.
70 70 72 72 72 73 73
587.
73
588. 589. 590. 591. 592. 593.
78 78 79 81 81 82
động tác giả hư hư ảo ảo Nhưng sáng hôm sau, tôi đợi hoài vẫn không thấy Tiểu Li qua rủ tôi đi học như thường lệ Từ lúc đó, tôi "liên minh" với Lợi sứt, cho Tiểu Li ra rìa. Suốt cả buổi học, tôi và Tiểu Li không hề nói chuyện với nhau. Có lần, đang mải mê chép bài, cùi tay Tiểu Li vô tình chạm phải tay tôi. Khi ra về, thấy Tiểu Li đi thơ thẩn một mình, lòng tôi bỗng nao nao. Lúc nào nó cũng nghĩ đến chuyện "thu vén cá thân". Trưa đó, tôi ăn cơm một cách uể oải. Một lát, tôi lại chạy ra. Lần này, tôi thấy Tiểu Li ngồi trước hiên. Lát sau, Tiểu Li lại dòm qua. Lần này nó không quay mặt đi mà lại nhe răng cười. Tôi nhìn Hải gầy bằng ánh mắt hoang mang và hỏi bằng chính câu hỏi của nó: Giờ sao mày? Nghe lời Hải gầy, kể từ bữa đó, tôi bắt đầu "nghỉ chơi" với Việt An. Ngồi trong lớp, tôi luôn luôn nhìn lên bảng hệt như một học sinh mẫu mực không tha thiết đến chuyện gì ngoài chuyện học. Từ bữa đó đến nay, Việt An chẳng hề nhúc nhích mảy may. Định bụng như vậy, hôm sau vô lớp, tôi chẳng màng đóng vai người hùng mặt lạnh nữa. Sáng hôm sau, thấy Việt An đứng nói chuyện với tôi trong giờ chơi, Hải gầy lên giọng hách dịch: Mày thấy chưa Sau khi la trời, nó nhìn tôi bằng ánh mắt như muốn ăn tươi nuốt sống kẻ đối diện: - Mày mò tới nhà nó chi vậy? Sáng hôm sau, tôi vừa ló mặt vô lớp, Lợi sứt đã hỏi: Hai viên mực đâu? Hôm qua mày đã chấm rồi. Một lát sau, Tiểu Li xuất hiện. Trên đường về, tôi dặn Tiểu Li: Mẹ mày hỏi, mày đừng nói là tại tao nghen Sáng hôm sau, nó phải nghỉ học. Buổi trưa, vừa về đến nhà, ăn qua loa vài chén cơm, tôi chạy qua thăm Tiểu Li. Hồi sáng, khi nghe nó sốt, tôi cũng sờ trán nó, nhưng lúc đó tôi chẳng hề thấy mắc cỡ Lúc này, chỉ mới nghĩ tới thôi, tôi đã thấy bối rối và tôi không thể nào cắt nghĩa được điều đó. Suốt ngày hôm đó, tôi và Hải gầy hè nhau "soạn thảo" lá thư tình của tôi. Ngay câu đầu tiên, hai đứa đã hục hặc nhau. Ngày hôm đó, những câu thơ của Xuân Diệu cứ phảng phất trong đầu tôi. Hôm qua, mẹ cho em hai cây Hôm qua, em ăn rồi! Bây giờ tôi chỉ muốn đem lại cho Tiểu Li những niềm vui bất ngờ, nho nhỏ, tôi muốn thấy nó vui vẻ suốt ngày như một con chim sâu lách chách, không bị té chảy máu, không bị ốm liệt giường, không những giọt nước mắt... Giờ ra chơi, nó không thèm giữ dép cho tôi nữa. Giờ ra chơi, nó vẫn tót ra ngoài chơi nhảy dây, đánh chuyền với tụi con gái
594. 595.
82 82
Pl.21
596. 597. 598. 599. 600. 601. 602. 603. 604. 605. 606. 607. 608.
83 83 83 83 84 84 84 84 84 85 86 86 87
609. 610. 611.
87 87 88
612. 613.
88 89
614.
95
615. 616. 617.
95 95 95
618. 619. 620. 621. 622. 623. 624. 625.
95 95 98 98 98 100 100 101
626.
101
627. 628.
101 102
629. 630. 631. 632.
Lát sau, Tiểu Li đi tới. Từ đó đến khi về tới nhà, tôi chỉ nói với Tiểu Li được mấy câu Lần này tao sẽ đánh Vào lớp, tôi không dám gây sự với nó, sợ bị phạt. Giờ ra về, nó lẩn nhanh như chạch. Tới một hôm, trên đường về, Tiểu Li lại rảo lên trước. Một lát sau, Tiểu Li mới phát hiện ra sự mất tích của tôi. Từ trong bụi cây, tôi nhìn rõ vẻ ngơ ngác và hoảng hốt của Tiểu Li . Đúng như tôi nghĩ, chừng mười phút sau, Lợi sứt lù lù dẫn xác đến. Lần này, tôi ngồi lên bụng, Tiểu Li ngồi lên chân, Lợi sứt hết đường cựa quậy. Sau trận hỗn chiến, quần áo của tôi nhầu nát, lấm lem. Sáng sớm, tôi và Hải gầy đã đến ngồi uống cà phê tại một quán gần đó. Lát nữa, khi Việt An đi học ngang qua, Hải gầy sẽ nhào ra đi chung với Việt An theo một cung cách... hoàn toàn ngẫu nhiên. Lúc ấy, hẳn đôi mắt của Việt An sẽ ánh lên vẻ thẹn thùng bối rối thật đáng yêu! Từ trên thùng xe, tôi nhìn thấy ngã ba rõ mồn một. Đã mấy lần, tôi thấy Hải gầy đưa tay lên túi áo nhưng chẳng hiểu sao nó lại ngập ngừng bỏ tay xuống. Sau đó, nó chạy lui ra đường trước khi bẻ lái về hướng ngã ba. Lúc đó, chẳng còn đầu óc đâu mà suy nghĩ đến chuyện lá thư, tôi chỉ lo làm sao dán mình xuống sàn xe thật sát, thật mỏng, mỏng như tờ giấy pơ-luya càng tốt, mặc kệ quần áo lấm lem và đủ thứ mùi hôi hám xộc vào mũi. Mãi một lúc, tôi mới mở miệng được, lòng cố bám víu một hy vọng cuối cùng: Ngày mai mẹ em lên trường xin cho em nghỉ học. Tối đó, tôi trằn trọc hoài không sao ngủ được. Bây giờ tôi khác hồi nhỏ là tôi không khóc dù lòng tôi cũng đang trĩu nặng những đau buồn. Đối với tôi, Việt An trước sau vẫn chập chờn như một cái bóng, hư hư ảo ảo. Nhưng lần này, Hải gầy không buồn mắng tôi là con lừa nữa. Chứ bây giờ mày tính sao? Kể từ hôm đó, coi như tôi đã tình nguyện rút lui khỏi... chiến trường thầm lặng. Ngồi học trong lớp, tôi chỉ trò chuyện với Hải gầy. Lát nữa nó sẽ "làm khổ" tôi về chuyện lá thư. Lúc đó, tôi sẽ cứng họng và đực mặt ra như phỗng. Trước khi ra về, Việt An nhìn thẳng vào mắt tôi, nói: Ngày mai anh đừng giở bộ mặt đưa đám ra nữa! Trông xấu lắm Nhưng lần này, "chửi" xong, nó hấp tấp bước đi, không thèm chào tôi, cũng không thèm ngó tôi lấy một cái. Từ khi Tiểu Li ra đi, người tôi đâm ra ngơ ngơ ngẩn ngẩn Một hôm đi học về, tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy Tiểu Li đang ngồi chơi ô quan một mình trước sân nhà tôi. Rồi khi nào đến mùa hè, tao sẽ hái hoa phượng cho mày ép vào tập. Bây giờ đến hè, thế nào tóc mày cũng dài ra. Lúc đó, chẳng ai nhìn thấy vết sẹo trên trán mày đâu! Lần này, Lợi sứt không bỏ chạy.
104 104 104 104
Pl.22
633.
106
634.
106
635.
107
636.
107
637. 638.
107 109
639. 640. 641. 642.
109 109 110 110
Trong rất nhiều ngày, tôi vẫn không tin Tiểu Li đã ra đi mà không kịp đợi cây phượng trước sân trường trổ hoa và không kịp chờ những ngọn tóc ngày nào dài xuống trán! Và trong nỗi trống vắng mênh mông đó, tôi thường bâng khuâng tự hỏi không biết đến bao giờ tôi mới gặp lại Tiểu Li. Cứ mỗi lần nhớ đến Tiểu Li, tôi như chìm vào một lớp khói sương lãng đãng giữa mộng và thực, giữa nhớ và quên, giữa ký ức và tưởng tượng và trong mớ hỗn độn mơ hồ đó bao giờ cũng hiện lên lung linh những sắc màu, những cảnh vật của một tuổi thơ đong đầy kỷ niệm, một tuổi thơ đã ra đi và không ngừng quay trở lại. Vì vậy đối với tôi, Tiểu Li vừa xa vời như những câu chuyện cổ lại vừa gần kề như những sớm mai. Trong một thoáng, tôi bỗng hiểu ra và cảm thấy ân hận về sự lố bịch của mình. Trong một thoáng, tôi lặng người đi và cảm thấy thời gian như ngừng lại, những tia nắng thôi nhảy múa, những làn gió thôi đuổi bắt nhau trên những tàng cây và dãy ráng đỏ phía chân trời thôi bốc cháy, chúng như lịm đi, nhạt dần và bỗng chốc ngả sang màu tím thẫm, lặng lẽ và huyền hoặc như một bước thủy họa giấu đằng sau nó những điều không thể giãi bày. Phải một lúc lâu, tôi mới thoát ra khỏi nỗi sững sờ tê dại. Có lẽ trong mười năm qua, hai đứa tôi đã thay đổi đi nhiều. Bây giờ, tôi chẳng cần tới đống cát nữa Đã mười năm qua, nó vẫn thế, không đậm hơn, không nhạt đi, vẫn là một vệt thẫm nhờ nhờ nằm lặng lẽ và bình yên sau mái tóc, cái mái tóc ngày xưa Tiểu Li vẫn mong ngóng từng ngày.
Đời callboy 643.
13
644. 645.
228 31
646. 647. 648.
329 31 47
649.
48
650.
48
651.
48
652.
52
653. 654.
53 53
Những ngày sau đó, hình ảnh của anh Phi cứ lảng vảng trong tâm trí tôi mỗi khi rỗi rãi Ngày mai, một ngày… xa xăm…. Sáng nay trời hơi lạnh, đổi mùa đó anh, em thấy có hai mẹ con kia, mẹ dắt con đi học. Trong lòng Nguyễn, tình vui cho nổi lên một cơn cuồng. Sau khi rời môi nhau ra, Tâm tiếp tục lăn ra ngủ. Vài ngày sau đó, Tâm chở tôi tới một quán café khá đẹp ngay gần trung tâm Sài Gòn. Hai ngày sau đó, Tâm có việc nên cũng đi suốt, còn lại tôi ở nhà một mình, loanh quanh đọc mấy cuốn truyện của nó. Ngày thứ ba sau khi gặp ông Tư, Tâm về nhà và bảo chiều mai sẽ qua chỗ ông Tư để lấy tiền. 7 giờ tối, tôi và Tâm tới nhà ông Tư, căn nhà hai lầu, nằm trong một con hẻm nhỏ, khá tách biệt với những nhà xung quanh bởi cánh cửa sắt cao và kín mít. Sau vài giây chớp tắt, tivi hiện ra hình ảnh trần trụi của ba người đang quấn vào nhau trong cuộc truy hoan, mà diễn viên chính không ai khác hơn là tôi, tên Sơn và lão Tư. Ba ngày sau lão tới kiếm tao rồi hỏi tao có từng ngủ với con trai chưa. Lần đó, lão Tư đi nhậu ở quán của tao, lúc lấy xe, lão nhìn tao, rồi hỏi tao làm nhiêu một tháng, có muốn đổi nghề không?
Pl.23
655.
53
656.
57
657. 658. 659. 660. 661.
57 57 57 75 83
662.
94
663.
94
664.
103
665.
104
666.
114
667.
127
668.
149
669.
149
670. 671.
149 149
672.
154
673. 674.
173 184
675. 676. 677. 678. 679.
186 186 187 188 188
680. 681.
Ban đầu, tao cũng ngủ với thằng Sơn và lão Tư nhưng tao tự nguyện, chứ không phải như mày Dù nhiều năm sau nhớ lại, tôi vẫn không thể gọi cảm giác mình có với Tâm là yêu, chúng tôi đơn thuần chỉ là hai người bạn và chúng tôi làm tình cùng nhau. Đêm hôm sau, Tâm lại chủ động quan hệ với tôi. Đêm hôm sau nữa, Tâm vẫn chủ động… Nhưng đêm sau đó, tôi là người chủ động. Sau khi xong việc, mặc lại quần áo, ông ta nhìn tôi mỉm cười và nói lời cảm ơn Hai tuần sau đó, thằng con trai bữa đó tôi gặp cũng ngồi chung trong đám callboy chúng tôi. Nhiều năm sau khi sống một thân một mình tại đất Sài Gòn, đôi lần tôi nghĩ mình phải cảm ơn Tâm vì những gì nó đã làm với tôi. Ngày còn bé, trong những buổi chiều chạng vạng ánh hoàng hôn, mẹ hay dắt tay tôi và hai đứa em nhỏ ra bờ biển, và cứ thế, người đứng đọc kinh Phật với hy vọng rằng một đấng tối cao nào đó sẽ chấp nhận lời thỉnh cầu của người mà trả cha về cho chúng tôi. Sau lần đó, một thời gian dài tôi cũng không gặp lại Tâm, cũng không thấy nó xuất hiện chỗ lão Tư, nghe loáng thoáng từ đám callboy, nó đang chuẩn bị để dọn nhà sống chung với người đàn ông kia. Một buổi sáng đang ngồi trong phòng trọ, chuẩn bị sang chỗ lão Tư, tôi thấy số điện thoại của Tâm gọi mình. Sau khi lên xe về khách sạn, tôi và tên Tây bắt đầu cuộc "mua bán", nhưng chưa bao lâu, tôi nhận thấy tay mình bị trói lại trên hai góc giường, rồi tới lượt hai chân. Sau một thời gian dưỡng bệnh, vết thương đã lành, tôi trở lại với việc làm của mình Sau khi đi chơi về, cũng đã hơn 1h sáng, tôi nằm, suy nghĩ miên mang và chuẩn bị đi ngủ thì ĐT tôi reng lên… Giọng anh… 30 phút sau, anh xuất hiện trước cửa nhà tôi, cầm cho tôi một gói xôi… anh ngồi nhìn tôi ăn… hôn nhẹ vào trán tôi rồi chạy về… Bây giờ anh về ngủ mới ngon nè Lúc đó, tôi mới thấy là mình đã yêu Tuyên, yêu rất nhiều và yêu bằng tình yêu thật sự… 3h, sau khi xong xông việc, tôi tới quán Mưa, gọi điện thoại và đi vào bàn mà bà Kiều đặt trước. Những ngày sau, tôi vẫn tiếp tục cuộc sống của mình… một cách bình thừơng. Ngày hôm sau, chừng 8h tối, tôi nhận được ĐT của Hùng, ngồi sau xe anh, tôi cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra… Sau đó, người kia cũng lủi thủi ra về… Chút sau, tôi gặp lại anh Hùng… Mấy ngày sau đó, tôi cũng có suy nghĩ về lời đề nghị từ Hùng, tôi cứ thấy sợ sợ. 2 ngày sau đó, tôi bắt đầu bước chân vào thế giới lừa đảo và móc túi… Sau đó, khi Hùng đủôi ngừơi ta về xong, anh sẽ liên lạc với tôi, hẹn chỗ để đi bán ĐT và chia tiền. Đi làm 1 thời gian, tôi cũng biết thêm chút chuyện… 4 tháng tiếp theo, tôi theo làm "cái nghề" này và kiếm cũng không ít tiền…
190 190
Pl.24
682. 683.
209 40
684. 685.
61 61
686.
92
687.
116
688.
124
689. 690.
181 91
691. 692.
39 59
693. 694.
59 79
695.
91
696.
122
697. 698.
222 5
699.
7
700.
9
701. 702.
40 40
703.
112
704.
Sau một thoáng ngập ngừng, bà ta quay vào nhà… Trước đây ở quê, nghèo chỉ có nghĩa là đói, còn ở Sài Gòn, nghèo còn có nghĩa là nhục. Trước đây, mày có bị lão Tư quay phim và chụp hình lại không? Có rồi, cách đây vài ba tháng, có một thằng callboy quê ở Vũng Tàu, cũng thiếu tiền rồi không chịu làm callboy, lão kêu thằng Sơn về xóm nó ở, rải hình như rải truyền đơn, cả xóm nhà nó xì xào bàn tán, chỉ trỏ. Trước khi dọn đi, tôi đưa Tâm 2 triệu, bảo là cảm ơn vì thời gian qua đã cho tôi nương nhờ. Một lần nữa tôi sốc vì nhóc, từ trước tới giờ, trong mắt tôi, nhóc là một thằng nhóc vô tư lự, lúc nào cũng nói cười vui vẽ, có bao giờ tôi nghĩ nhóc lại có suy nghĩ mà… nhiều người lớn cũng không có được như vậy… Trước khi họ đi, ngài còn hỏi họ có muốn thay đổi hình dạng thành 1 nam 1 nữ như bình thường không Trước khi ra về, anh đưa tôi 200 ngàn… Thỉnh thoảng tôi vẫn gọi điện về nói chuyện với mẹ, báo cho mẹ biết công việc của tôi giờ đã ổn định và làm ra tiền, bảo mẹ cứ an tâm, tôi không còn là đứa con nít để mẹ phải lo lắng nữa đâu. Mỗi khi đi ngang qua đâu, vài ba người lại khịt mũi, lấy tay che ngang miệng. Mấy ngày gần đây, mỗi khi Tâm đi qua chỗ lão Tư, tôi bỗng dưng nhớ nó và thèm cái cảm giác được hôn nó, cũng như những cảm giác thỏa mãn xác thịt mà nó mang lại cho mình. Có lần, Tâm vừa về nhà, tôi ôm chầm lấy Tâm và hôn. Mỗi lần đi khách như vậy, lão Tư đưa tôi 100 ngàn, tôi không biết chính xác là khách phải trả bao nhiêu tiền vì cũng không có gan để hỏi. Mỗi tháng, tôi gởi về cho mẹ 1 triệu để lo cho nhà, dù số tiền kiếm ra không sạch sẽ gì nhưng tôi vẫn luôn hy vọng rằng có thể dùng số tiền đó để giúp cho nhà mình có cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngày xửa ngày xưa, có hai ngừơi yêu nhau, chàng là một anh học trò nghèo, còn nàng là một tiểu thư cao sang, cảm phục trước văn chương và tấm lòng của chàng, nàng yêu chàng say đắm… nhưng gia đình nàng không cho phép, bắt nàng phải lấy một người môn đăng hộ đối. Hôm nay, em ghé lại, mua hết tất cả số hàng mà ông đang bán, phụ ông dọn dẹp Những lúc ấy, tôi tự hỏi mình rằng, nếu sống gian dối, bẩn thỉu mà bụng được no, nhà cao cửa rộng vậy thì ―sạch‖ làm gì, ―thơm‖ làm chi? Và từ cái đêm mưa gió ấy, gương mặt anh hằn lên sự khắc khổ của người làm chủ gia đình như cha ngày trước Lúc ấy, tôi chỉ đơn giản nghĩ rằng mình đang ghen tỵ và muốn có cơ thể hoàn thiện hơn thôi chứ không hề biết rằng đó là những nhen nhúm cho sự khác biệt về giới tính của mình. Đêm hôm ấy, tôi không tài nào ngủ được. Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi cảm nhận được lằn ranh giữa giàu và nghèo rõ rệt như vậy. Hôm ấy, khuya lắm rồi, hình như là gần 3h sáng, DT tôi reng lên vì ở một mình nên tôi không tắt DT vào buổi tối, phòng khi có khách cần tôi lúc ấy. Những lúc ấy, nhóc lại hay quàng tay vào tay tôi, đi sát hơn, tỏ vẻ rất thân mật…
118
Pl.25
705. 706. 707. 708. 709. 710.
207 207 207 207 207 9
711.
43
712. 713. 714. 715. 716.
141 141 141 145 163
717. 718. 719.
163 173 179
720. 721.
181 183
722. 723. 724.
178 221
725.
223
726.
11
727.
45
728.
79
729.
117
730.
9
731.
41
732.
12
Ngày hôm ấy, tôi đã không lên Sài Gòn. Ngày hôm ấy, tôi đã không đi chuyến xe ôm đó. Ngày hôm ấy, tôi đã không ra Hồ Con Rùa ngồi. Ngày hôm ấy, tôi đã không theo Lão Tư về nhà. Ngày hôm ấy, tôi đã không là Callboy… Mấy năm nay, đúng là tôi đã có rất nhiều những thay đổi về ngoại hình, giọng nói, cũng như tính cách. Hôm nay đám thanh niên hay chọc tôi cũng tới, trước khi vào cũng không quên trêu tôi vài câu, một người trong nhóm đứng gần, kề mặt vào sát người tôi, hít một hơi rồi nói. Tối nay em rãnh không? Tối nay em có hẹn rồi Vậy tối nay… 7h anh đón em ha… … 3 ngày sau, 17-2, Tuyên nhắn tin cho tôi, hẹn tôi tối nay đi chơi… Nhưng hôm đó, anh mở điện thoại em ra, thấy trong đó toàn số điện thoại lạ, lưu với những cái tên cũng rất rất lạ… làm sao anh không nghi ngờ. Lúc đó, trong đầu tôi chỉ còn 1 suy nghĩ duy nhất chiều nay con gặp cô. 30 phút sau, tôi và người mới quen ngồi trong một quán càfê không ngủ của Sài Gòn. Trước khi ra về, anh đưa tôi 200 ngàn… Sau đó, tôi cũng vài lần gặp Hùng, uống nước cùng anh, tôi cũng kể cho anh nghe về chuyện tình cảm của mình… Khi tôi gặp Tuyên, chúng tôi yêu nhau, chúng tôi mất nhau… Anh cần người để ngủ với anh đêm nay. Sáng nay trời hơi lạnh, đổi mùa đó anh, em thấy có hai mẹ con kia, mẹ dắt con đi học Hôm nay, em ghé lại, mua hết tất cả số hàng mà ông đang bán, phụ ông dọn dẹp… không quên đưa dư một chút tiền so với những gì em mua… Trong tâm thức lúc đấy, bêđê là dạng người đàn ông không phải mà đàn bà cũng không xong, rất kinh tởm, rất đáng sợ. Trong những ngày đói chạy cơm từng bữa, tôi như mang trên mình thêm cái gông xích của nợ nần Trong một thời gian ngắn, từ một đứa đang còn phân vân, phải đau khổ để chọn con đường trở thành callboy, tôi nhanh chóng trở thành món hàng đắt giá nhất mà lão Tư sở hữu. Trong những lần vào thăm tôi ở bệnh viện, hay những buổi cà-fê có hai anh em, chúng tôi chia xẻ với nhau rất nhiều những suy nghĩ, những hiểu biết về giới Đồng Tính, thế giới những người đeo khuyên phải, thế giới mà hai anh em chúng tôi đang sống trong đó… Những lần tắm chung với anh sau khi đi biển về, lúc nào tôi cũng len lén nhìn anh hai. Sau khi tiếp xúc với nhiều người nhìn tôi như một thằng ăn mày thì những người này lại cho tôi cảm giác vui vì được trân trọng. Vì tò mò, vì ngưỡng mộ, vì muốn có một thân hình như anh, vì những thay đổi của một thằng con trai đang lớn… tôi cố gắng tìm kiếm một lý do để biện hộ cho
Pl.26
733. 734. 735.
195 209 21
736.
29
737.
29
738.
43
739. 740. 741.
742.
29
743.
90
744.
98
745.
207
sở thích khác lạ Tôi leo lên xe, để cho ông Hùng kết thúc màn lừa đảo của chúng tôi… Em nhớ anh lắm và...em muốn được gặp anh để nói chuyện với anh. Hôm sau, tôi quyết định sẽ đi ngay vì sợ nếu như để thêm vài ngày nữa thì tình cảm quyến luyến với gia đình sẽ làm chùn bước tôi. Nếu giờ này ở nhà, tôi đã yên giấc trong chăn ấm nệm êm, đâu phải vất vưởng giữa đường thế này. Bữa tối đầu tiên tại Sài Gòn, cả đời tôi không bao giờ quên món ăn này, bánh mỳ có vị mặn của nước mắt. Nếu một lần có dịp, bạn hãy đến một con hẻm nhỏ hay một quán nhậu lề đường và lắng nghe những âm thanh thực ấy của cuộc sống, bạn sẽ hiểu thêm về những đứa con của Sài Gòn đang sống ra sao, đang náo nhiệt thế nào. Nếu không đồng ý, tao nghĩ mày phải tự xoay sở thôi, tao hết cách giúp mày rồi. 55 65 Hôm sau, tôi đem những điều lo sợ đó nói cùng Tâm. 21 Hôm sau, tôi quyết định sẽ đi ngay vì sợ nếu như để thêm vài ngày nữa thì tình cảm quyến luyến với gia đình sẽ làm chùn bước tôi. Nếu giờ này ở nhà, tôi đã yên giấc trong chăn ấm nệm êm, đâu phải vất vưởng giữa đường thế này. Nếu không may, tôi nhanh chóng trở thành món hàng đã hết hạn sử dụng của một thằng đàn ông nào đó, số phận tôi rồi lại bị đẩy lăn lốc ra đường ư… Duy nhất có một thứ tôi dám chắc chắn, dù là trong suy nghĩ, nếu muốn bỏ đi thì phải lấy theo những thứ đáng lý thuộc về mình. Cảm ơn anh cho em cảm giác yêu thương và được yêu thương 1 cách trọn vẹn, cái cảm giác mà chưa bao giờ em dám nghĩ tới, dù chỉ là trong giấc mơ.
Vang bóng một thời
746. 747.
44 44
748.
44
749.
44
750.
65
751.
19
752. 753. 754. 755.
57 68 68 71
756. 757. 758.
Mỗi buổi tối thả thơ, cô Tú đều ngồi bên cạnh cha. Tháng lại tháng, cụ Nghè Móm thả thơ trên mặt sông đã là một chuyện mà một vùng đấy nhắc nhỏm đến luôn luôn Từ đấy không thấy cô Tú theo kèm cha xuống bè nữa. Cụ Nghè Móm không cho cô Tú theo mình đi thả thơ. Từ đấy không thấy cô Tú theo kèm cha xuống bè nữa. Cụ Nghè Móm không cho cô Tú theo mình đi thả thơ. Trước kia cưỡi ngựa, cầm cờ, đánh Tây, bắn súng; bây giờ đi phân phát hạnh phúc bằng cách tìm đất để mả cho những kẻ thất thế, và lúc nhàn rỗi thì uống một đôi rượu của những người biết nhớ ơn mình. Ngày mai, tôi xuống thăm lại cái kiểu đất ở Đồng Cồn. Xong rồi tôi xuôi luôn Hà Nội. Chiều mai, mùng một Tết, hoa Mặc lan mãn khai đầy vườn. Ngày mai, tôi xuống thăm lại cái kiểu đất ở Đồng Cồn. Tháng sau, tôi sẽ về qua đây, để chỉ bảo cách xoay lại ngôi mộ... Mai, chúng ta phải dậy sớm để cho có mặt ở cửa trại trước khi lính tỉnh trao tù cho mình lĩnh nhận Ðêm nay, thầy bắt đầu lấy thêm lính canh. Mỗi chòi canh, đều đặt hai lính. Ngày mai, tinh mơ, sẽ có người đến giải tù đi. Độ chiều mai tôi lại sang chơi.
71 75 80
Pl.27
759.
10
760.
13
761.
13
762.
13
763.
24
764.
24
765.
36
766.
25
767.
27
768.
28
769.
28
770. 771.
30 30
772. 773.
31 32
774. 775.
33 34
776.
34
777. 778.
35 35
779.
35
Hôm sau, phó Kinh tay phóng bút chì có tiếng lại tìm Lý Văn, cả bọn Tam Tổng và Kim Sơn cùng kéo tới nhà Lý Văn, họ cùng đánh chén rượu thịt. Từ Mậu Ngọ trở về sau, sẽ mở một thời khác, chữ Hán chỉ còn là một thứ xa xỉ phẩm trong cõi học vấn của một lớp người. Ở vào buổi giao thời, nếu người ta còn cái lòng công danh, thì khoa thi Mậu Ngọ là một cơ hội cuối cùng. Từ sau khoa này, cái lều, cái chõng chỉ còn là những vật cổ tích mỗi khi nhắc nhỏm tới lại gợi lại một chút nhớ tiếc trong lòng một đám người mệt mỏi còn sống thêm một ngày là càng chỉ thêm một ngày bỡ ngỡ với phong hội mới. Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mấy con chim không tổ mỏi cánh định tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ. Cùng một buổi chiều ấy, mấy người vợ lính cơ đứng trong luống bãi dâu trồng ở dưới chân thành, sát ngay với bờ hào được nghe tiếng người hát trên ngọn thành, ở trên đầu họ, đúng ngay chỗ vườn chuối im lìm của mọi ngày. Buổi sáng hôm sau, bọn vợ lính cơ, thêm được ít người tò mò nữa kéo đến vườn dâu ngoài thành, vẫn nghe rõ người ta chặt chuối trên mặt thành, với những câu hát rõ mồn một: Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mấy con chim không tổ mỏi cánh định tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ. Giá như ngày trước, có khi nào con dám đi xa, sớm tối lúc nào cũng phải ở trong nội thành, phòng những lúc Ông Lớn bất thần gọi đến. Trước khi hoa thanh quất trong mấy hàng chuối được chọn lựa kỹ càng kia, Bát Lê đã múa đao chém lia lịa vào thân mọi cây chuối khác, chém không tiếc tay, chém như một người hết sức tự vệ trong một cuộc huyết chiến để mở lấy một con đường máu lúc phá vòng vây. Một buổi sớm, y nhảy nhót trong vườn chuối, đưa lưỡi gươm qua bên phải lại múa lưỡi gươm qua bên trái, thanh gươm hai lưỡi gọn gàng, nhanh nhẹn phạt qua thân mấy trăm cây tươi còn nặng trĩu lớp sương đêm. Bây giờ ở đấy, người dựng lên một cái nhà rạp cỏ tàn, cỏ quạt, cỏ cờ ngũ hành. Không biết từ đâu ra, ông Bát Lê đứng sẵn chỗ cọc tre và trong một lát đã buộc xong bọn người đợi chết vào cọc. Trong nhà rạp, các quan an vị. Lúc quan Công sứ ra về, khi lướt qua mười hai cái đầu lâu còn dính vào cổ người chết quỳ kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán, nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Trên khuôn mặt khô xác, nụ cười không có gì là ấm áp thiết tha. Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành theo bước chân mau của người đầy tớ già đánh rỏ xuống mặt đường những hình ngôi sao ướt và thẫm màu. Đứng trong cổng chùa từ bề cao nhìn xuống cái thấp dưới chân mình, nhà sư già nheo nheo cặp mắt, nhìn cái nắng sáng lòa. Thỉnh thoảng trong bọn khách đến chơi, ông cụ Sáu được sư cụ biệt đãi nhất. Tháng một lần, nhà sư già lại giữ ông cụ Sáu lại ăn một bữa cơm chay và lần nào từ biệt, nhà sư cũng chân thành tặng khách một rò lan Chu Mặc. Theo một ước lệ rất đáng yêu đặt ra từ ngày mới làm quen với nhau, đã mươi năm nay, bao giờ uống nước trà của nhà chùa, ông cụ Sáu cũng được cái vinh dự pha trà và chuyên trà thay nhà chùa.
Pl.28
780.
35
781.
14
782.
27
783. 784. 785.
27 36 53
786.
53
787. 788.
57 57
789. 790. 791. 792.
55 58 58 58
793.
58
794. 795. 796. 797. 798.
58 58 58 59 60
799.
60
800. 801. 802.
60 71 75
803. 804. 805.
77 79 79
806. 807. 808.
88 88 88
809.
88
Dạo này, chắc ông cụ Sáu bận việc nhiều nên đã mấy tuần trăng rồi mà không thấy vãn cảnh chùa uống nước thăm hoa, để cho sư cụ cứ nhìn mấy chậu Mặc lan rò trổ hoa mà tặc lưỡi. Năm nay cụ Tú Kép cùng bốn cụ bạn uống rượu với kẹo tẩm mạch nha ngày mồng một Tết, các cụ nhận xét phê bình về kẹo, tiệc rượu rồi bàn chuyện văn thơ. Lâu nay ông Bát không phải khai đao vì Ông Lớn thấy già yếu muốn cho nghỉ tay. bữa nay, chú đi đâu? Ông cụ Sáu, hôm nay lấy làm thích cái người khách lạ đó lắm. Buổi chiều ba mươi Tết năm nay, cả một cái gia đình cũ kỹ nhà cụ Kép đang tới tấp dọn dẹp để ăn tết. Chốc chốc, lũ trẻ lại mỉm cười, nghển những đầu thưa thớt ít sợi tóc tơ, nhìn vào phía trong nhà cầu, hỏi mẹ chúng Chiều hôm nay, hoa Mặc lan chớm nở. Đêm giao thừa, bên cạnh nồi bánh chưng sôi sình sịch, bõ già đang chăm chú canh nồi kẹo mạch nha. Ở đây, không ai nỡ nói nặng bõ Năm nay, trời giao thừa lành. Cả một buổi sớm, cụ Kép phải bận ở đình làng. Trước khi ra đình cụ đã dặn bõ già ở nhà phải sửa soạn cho đủ để đến quá trưa, cụ và vài cụ nữa đi việc đình làng về sẽ cùng uống rượu thưởng hoa. Trong mấy năm nay, đầu mùa xuân nào bõ già cũng phải ít ra là một lần, bày biện bàn tiệc rượu Thạch lan hương như thế. Bõ già hôm nay lẩm bẩm phàn nàn với ông ấm hai: Năm nay cụ nhà uống rượu sớm quá và lại uống ban ngày. Mọi năm, cứ đúng rằm tháng giêng mới uống. Sớm nay, đệ đã khai bút rồi. Trong cái êm ấm của buổi chiều xuân sớm, tiếng ngâm thơ quyến rũ cả đến tâm hồn một người lão bộc. Trong lòng đĩa sứ đựng nhân đá, hòn cuội cao dần lên, bõ già đưa thêm mãi những đĩa sứ vào bàn rượu. Từ phía đầu làng, dội về mấy tiếng pháo lẻ loi. Ðêm nay, thầy bắt đầu lấy thêm lính canh Về bảo chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ Ít bữa nay, Lý Văn buồn bực hiện ra mặt, bỏ nhà ra đi đến hai ba hôm. Hôm nay, cùng một vài bạn lợi hại đến thăm Lý Văn mà không được gặp. Vào buổi sớm ngày thứ hai, một thôi tiếng chó sủa vang ngoài cổng, mở đầu cho cái ồn ào hàng ngày trong gia đình nhà Lý Văn. Sớm nay, cụ Äm cũng ngâm thơ. Trong nhà cụ Äm, người ta đã ồn ào thức dậy. Chừng như hồi nãy, cụ đã tự nén hơi thởkhông dám ho, sợ làm đục mất cái phút bình lặng huyền bí của lúcđêm và ngày giao nhau. Sớm nay,cũng như lúc thỉnh thoảng của mọi ngày, cụ Äm lại bắt ngườitrưởng nam giở tập Cổ Văn ra bình lại cả bài "Trà Ca" củaLư Ðồng.
Pl.29
810. 811.
89 89
812. 813. 814. 815. 816.
89 90 90 90 91
817.
91
818.
93
819.
93
820.
95
821.
95
822.
95
823. 824.
100 101
825.
101
826.
101
827.
101
828.
101
829.
101
830.
102
831.
27
832.
27
833.
47
834.
101
Trong gia đình cụ Äm, hồi gần đây đã lập lại cái phong tục uống trà. Có một hồi bần bách quá, cụ Äm đã cất hẳnbộ đồ trà vào tủ, tưởng không bao giờ được bày nó ra hằng ngàynữa. Năm nay ta ướp thêm vài chục chai để dành. Năm nay anh Cử có định bày cổ cho các cháu chơi tết Trung Thu không ? Giữa lúc ấy,dươi nhà có tiếng trẻ khóc bú và tiếng đàn bà ru con:" ơi... Đã đến mấy năm nay ,nhà ta bỏ mất cái tục lệ ấy . Lần sau,anh được lúc việc quan thanh thản,có ra chơi ngoài phố này với thầy,đừng có nên đem lính ra nhé Mấy lần sau ra thăm cha,ông huyện THọ Xương không dám đem mấy tên lính ậm oẹ ra theo nữa,nhưng đã động đến việc cũ,thì chỉ thấy cụ THượng trả lời: Gần ngày tết nhất,người trưởng tràng lúc thu xong sổ đồng môn,chỉ khổ lên vì đi tìm thầy Từ ngày cụ Thượng nghiêm phụ về trí sĩ ở Hàng Gai Hà Nội,ông Cử Hai không tha phương làm ăn nữa . Mấy hôm nay ông Cử Hai lo chạy lăng quăng suốt ngày như một người bận rộn nhiều lắm . Mấy ngày liền liền,ông Cử Hai nghĩ mãi để tìm một cái đầu đề mới lạ cho đèn xẻ rãnh . Mấy hôm nay ông nghĩ đầu đề làm đèn xẻ rãnh cho thằng Ngộ Lang,thực khó hơn là tìm vận thơ gieo cho một bài bát cú phú đắc . Năm nay nhà nước mở khoa thi, một khoa thi cuối cùng. Khoa Mậu Ngọ này, ông Ðầu Xứ Anh nhất định không đi nữa, mặc dầu khoa này là khoa cuối cùng, sau này bãi hẳn sự thi cử. Ở vào buổi giao thời, nếu người ta còn cái lòng công danh, thi khoa thi Mậu Ngọ là một cơ hội cuối cùng. Từ Mậu Ngọ trở về sau, sẽ mở một thời khác, chữ Hán chỉ còn là một thứ xa xỉ phẩm trong cõi học vấn của một lớp người. Từ sau khoa này, cái lều, cái chõng chỉ còn là những vật cổ tích, mỗi khi nhắc nhỏm tới lại gợi lại một chút nhớ tiếc trong lòng một đám người mệt mỏi còn sống thêm một ngày là càng chỉ thêm một ngày bỡ ngỡ với phong hội mới. Từ trước tới nay, có bao giờ như thế. Bề trên đãi đám sĩ phu trong nước thật không ra cái gì Hôm người em là ông Đầu Xứ Em xuôi tỉnh để sửa soạn đi thi, ông Đầu Xứ Anh đưa ra khỏi cái dốc đầu làng và lúc ông Đầu Xứ Em đã ngồi gọn trong con đò, ông dặn Từ hôm có gió vàng pha mùi cơn bấc đến nay, người ta chưa bao giờ thấy cái âm u tẻ lạnh đến nhường ấy. Giá như ngày trước, có khi nào con dám đi xa, sớm tối lúc nào cũng phải ở trong nội thành, phòng những lúc Ông Lớn bất thần gọi đến. Nhưng từ hồi gần đây. Ông Lớn thương phận già nua cho con được nghỉ tay đao, con có mạn phép về thăm nhà. Kỳ tháng trước, quan Kinh phải đi khám án mạng ở vùng quê thành ra bỏ lỡ mất buổi thả thơ mà tôi rất lấy làm hứng thú. Khoa Ất Mão trước, ông Ðầu Xứ Anh bị loại ngay vòng đầu, bay kì kinh nghĩa.
Pl.30
835.
103
836. 837.
120 121
838.
121
839. 840.
121 121
841.
122
842.
122
843.
45
Ba năm trước, cũng ngày tế tiền trường năm Mão, cảnh trời đất cúng âm thầm gần bằng ngày này Bởi vì, mấy năm trước, họ cũng đã phi hành như thế này rồi. Chuyến trước, họ cũng đã thấy phong cảnh trên đầu non, nhưng từ khi hạ sơn, ăn phải lại cái cơm hạ giới, họ chỉ còn phảng phất mà thôi. Sau một lúc đi khuất vào nẻo đá, người con gái lại từ nẻo đá hiện ra, truyền ra cho hiệp thợ những lời của Chủ Non Xanh: Trong khu vực suối, các bác được phép bắn chim bắt cá và hái quả. Ngoài chỗ suối Tịch Mịch, các bác nhớ rằng không được đụng chạm đến từ một tấc cỏ, một cái lá. Phía dưới lều cỏ, khe Tịch Mịch xoáy sâu vào chân đá thành một cái hầm nước rộng. Trong khi ấy, ông cụ Sần xách cung sừng và hai cái tên vàng bạc lần xuống chỗ Bạch Đàn đàm, bắn được sáu con cá ngư hương. Bằng cái sắc, bằng tiếng ca, bằng cái tiểu xảo, bằng cái duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba người đàn bà đẹp ấy đã thừa tô điểm cho xứ Huế trong một thời
844. 845.
72 11
846.
69
847. 848.
55 93
849. 850.
96 102
Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ. Để hôm nào rảnh, anh sẽ dậy cho các chú tập đánh cái lối đón bơi chèo bằng gỗ cau. Để tới vụ xuân sang năm, tôi sẽ rủ cậu lên Hưng Hóa đấu cờ với một người bạn gái bằng trạc tuổi cậu. - Nếu không có nồm, thì hoa trong vườn ông còn lâu mới nỏ. Gần tết Nguyên đán,nếu chưa về nhà,thì ông ẩn ở trong một mái đình vắng nào để gọt cho hết một lắp thủy tiên . Nếu dùng nhiều quân sứ quá, máy gạt ngang sẽ yếu đi nhiều . Ông Đầu Xứ Anh nhất định không nộp quyển khoa này, tuy bao nhiêu người, từ Quan Đốc tỉnh cho đến anh em đồng song, thảy đều gởi hy vọng vào ông.
Tuyển tập Nam Cao
851.
16
852.
17
853. 854.
18 19
855.
20
856.
21
857.
28
858. 859. 860.
29 31 31
Thường thường năm nào cũng vậy, mấy tháng nắng chúng tôi vẫn dọn ra ―Ô Cấp‖ ở. Ngay chiều hôm ấy, tôi thu xếp sang Thị - Nghè: tôi cần ở cái xóm làm nơi trú ngụ cho một phần đông dân lao động ấy ít lâu để thu cóp tài liệu cần đến trong cuốn tiểu thuyết tôi đang viết, với cái giá tiền năm đồng một tháng. Ba hôm sau tôi đi Cấp, dù cuốn tiểu thuyết chưa xong một nửa. Và sau cùng, tôi muốn biết: Và tôi đã biết! Chiều hôm qua con người phóng đãng ấy đã khệ nệ xách cái vali rất nặng bước vào sân, miệng mỉm cười và mặt đỏ. Sáng hôm sau lúc ăn cơm chàng thoáng thấy nó đi qua, đầu cúi mắt nhìn nghiêng như những người giả trá. Hồi ấy, bá Kiến mới ra làm lý trưởng, nó hình như kình nhau với lão ra mặt; lý Kiến muốn trị nhưng chưa có dịp. Rồi ít lâu sau, có trát về làng bắt tróc nã và áp giải tên Trần Văn Chức. Vì thế, đêm hôm ấy, ở nhà lý Kiến ra về, Chí Phèo vô cùng hả hê! Lúc ngồi tù, hắn có học mót được mấy bài thuốc giấu: chỉ vài nắm lá, là mặt hắn lại đâu vào đấy ngay.
Pl.31
861. 862. 863. 864.
31 31 33 34
865. 866.
34 36
867. 868.
37 37
869. 870.
37
871.
38
872.
39
873. 874. 875. 876. 877. 878. 879. 880. 881. 882.
39 40 41 41 42 43 44 49 49 51
883. 884. 885. 886. 887. 888. 889. 890.
51 52 52 52 52 54 54 54
891. 892. 893. 894. 895.
54 54 56 58 58
896.
Hôm nay ông không có tiền; nhà mày bán chịu cho ông một chai. Tối ông mang tiền đến trả. Bây giờ cụ mới lại gặp được Chí Phèo, có thể thay cho binh Chức. Mấy hôm sau, cụ bá bảo lý Cường cho hắn năm sào vườn ở bãi sông cắm thuế của một người làng hôm nọ. Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Những đêm trăng như đêm nay, cái vườn phẳng ngổn ngang những bóng chuối đen đen như những cái áo nhuộm vắt tung trên bãi. Ngoài ba mươi tuổi, thị vẫn chưa có chồng. Ngày nào thị Nở cũng phải qua vườn nhà hắn hai ba lần, là vì qua vườn nhà hắn có một lối đi nhỏ ra sông; trước kia, cả xóm vẫn dùng cái ngõ ấy để ra sông tắm, giặt hay kín nước. Chiều hôm ấy thị Nở cũng ra sông kín nước như mọi chiều. Nhưng chiều hôm ấy, trăng lại sáng hơn mọi chiều, trăng tỏa trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng. Thoạt tiên, hắn hãy xách cái lọ để xa xa, rồi hắn lẳng lặng ngồi xuống bên sườn thị.... Nhưng gần đến sáng, bỗng nhiên Chí Phèo chống một tay xuống đất, ngồi lên một nửa. Mỗi lần gió, hắn rươn rướn người. Ở đây người ta thấy chiếu lúc xế trưa và gặp đêm thì bên ngoài vẫn sáng. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hồi ấy hắn hai mươi. Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và dọa nạt. Ðến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Thoáng một cái, hắn lại như hít hít thấy nồi cháo hành. Hồi còn nhỏ tôi phải xa nhà từ khi mới bảy tám tuổi đầu. Sáng hôm sau chúng tôi dồn sách vở của cả hai vào một cái cặp. Trước kia những ngày nghỉ Nhung vẫn thương hay sang nhà dì tôi đánh rải gianh với Đức. Bây giờ Nhung cũng nhớn vọt lên Năm sau tôi đỗ bằng tốt nghiệp thành chung. Một hôm tôi xách một va ly nhỏ và cũ kỹ đáp xe lửa một mình vào Nam. Tối đến tôi dạy mấy người thợ học để kiếm thêm một tháng vài chục bạc. Hồi ấy tiền tôi không thiếu thốn quá như trước nữa, nhưng mà tình… Một buổi trưa tôi nghĩ thế. Ngay chiều hôm ấy tôi đến nằm nhà một người bạn. Mười giờ khuya hôm ấy tôi về thu xếp quần áo và xin với chủ cho tôi không làm nữa. Sáng sớm hôm sau tôi khuân hòm ra đi. Một hôm tôi thấy y nhìn tôi mỉm cười. Nhờ họ, cái tiệm ăn thưa khách này có vẻ đông người. Hồi ấy tôi còn ở Sài-Gòn. Một hôm, tìm mãi không còn một quyển mới xuất bản nào tôi chưa có, tôi nhặt một quyển thơ Baudelaire in trong loại rẻ tiền….. Trong lúc tôi thay quần áo, anh Thụ vẫn ngủ cùng màn với tôi, cầm lấy cuốn
58
Pl.32
897.
59
898. 899. 900. 901. 902.
60 60 64 64 66
903. 904.
67 67
905.
906. 907. 908.
219 721 391
909.
219
910.
42
911. 912.
217 328
913. 914. 915.
261 71 71
916. 917.
71 71
918.
72
919. 920. 921.
72 74 77
thơ xem, kêu lên: - Anh mua làm gì, cái thứ đồ cổ này? Tôi thấy nhà có Fleurs du Mal rồi kia mà? Sáng hôm sau, việc thứ nhất của tôi sau khi tắm rửa, mặc quần áo, chải đầu xong là đến cái hàng sách vô lương tâm đã bịp mình bốn xu. Cái ngày ấy, tôi còn trọ ở nhà bà bạn mẹ tôi ở trên Yên-Phụ. Chiều hôm ấy, nàng buồn bã bảo tôi: ―Em đánh mất cả hai đồng rồi‖. Lúc ấy chú mèo mới ở đâu lò dò đến Trong nhà nực quá, chị ẵm nó ra ngoài hè. Từ sáng đến giờ, tao ngồi trầy trầy trên khung cửi, mới được chừng một đồng hào, mà mày phá tao một lúc một cái niêu, bốn năm cái bát… Đêm hôm ấy, trời nổi gió, rồi nổi mưa. …Sáng hôm sau, tiếng người láo quáo bên hàng xóm, làm chị cu giật mình, mở mắt ra Từ trong nhà thờ, thỉnh thoảng đưa ra những tiếng gỗ kêu; ai đã ở lâu ngày một nơi tĩnh mịch đều nhận rằng những cái kèo, cái cột, một đôi khi vô cớ kêu rền rĩ, hình như chúng tê mỏi mà vươn mình hay sốt ruột mà rên lên. (Tuyển tập Nam Cao, 275) Ở nhà quê, vợ chồng chưa có con, khó có tiếng mà gọi nhau lắm nhé. Ở đây người ta vẫn sống gần gũi và bình đẳng lắm. Vui vẻ gì! Ông cụ uống rượu vào, nói nhảm, tôi bực lắm. Chính vì thế mà tôi không mua nhiều cho ông cụ uống, chứ có phải tôi tiếc tiền đâu? Bận sau đừng mua nữa mà tôi giận Nhà Lộc khuất sau cái nhà ông Ấm. Vả không khuất thì cũng không trông thấy, bởi vì trời tối. Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình theo ý hắn, hắn bảo thị: - Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. Ông hắt tay bà ra, quoắt mắt nhìn bà một cách tức tối và khinh bỉ. Ở hý viện ra, Lựu, Hoàng, Nguyễn vẫn đi bộ. Cảnh đêm không có một tí gì là đáng sợ. Đêm lành và hiền từ. Đêm lại còn đẹp nữa (...) Trong đêm vắng, sắt đường tàu điện sáng như vừa mài vào đá màu. - Đùng xoẹt! Ngùng ngoằng, ngùng, ngằng ngoặc, đòm, đòm, đòm! Bảy giờ chiều, tôi đến. Còn bây giờ, thì cái việc cần là đưa nhau xuống Khâm Thiên để nói chuyện văn chương cho thỏa lòng. Tối hôm ấy, anh Sen rất ngây thơ của tôi và tôi đã được lạc vào động tiên. Bởi thế, khi bắt đầu tiệc rượu, chúng tôi đứng lên xin kiếu và anh em dắt nhau ra về. Cả năm ngoái, mình không có vé sợi, khung cửi để mốc meo cũng không chết mà…. Từ giờ đến lúc được ăn cơm, may ra được vài, ba chục đồng… Ở Hà Nội, Trinh bán hàng cho một hiệu thuốc tây. Đến năm hăm mốt tuổi, sau năm lần toan nhảy xuống sông, người thiếu phụ khốn nạn sinh được một đứa con: vừa ốm yếu, vừa con dữ không làm gì được nữa, nên được mẹ chồng buông tha cho đi làm ăn riêng với chồng. Bây giờ mới đến lượt chồng hành hạ.
922.
77
Pl.33
923.
78
924.
78
925. 926.
84 85
927. 928.
85 85
929. 930. 931. 932.
933. 934. 935. 936. 937. 938. 939.
88 89 94 94 94 97 100
940.
941. 942. 943. 944. 945. 946. 947. 948. 949. 950. 951. 952.
101 101 101 110 111 112 112 116 116 116 116 116
953.
116
954. 955. 956. 957.
118 118 118 118
958.
Lúc nào bà y cũng còn nghĩ đến người chồng bạc bẽo và lấy làm đau xót vì có những người chồng không bạc bẽo bằng chồng bà. Câu chuyện đổi chiều, bà cụ đã được khỏe và được Ngạn kiếm lời an ủi nên lòng đã nhẹ. Bấy giờ hắn mới thôi Từ ngày ra ở riêng đến giờ, Ðiền mới mua có một lần: ấy là một cái giường bằng gỗ bưởi của một người cô nghèo khó. Năm chừng mười họa, Ðiền cũng còn nghĩ rằng: nên theo phép vệ sinh. Năm ngoái đây, cái trường vẫn thuê Ðiền dạy lớp nhất, lấy hai chục bạc lương một tháng, đột nhiên phải dẹp. Hôm nọ, chỉ căng mây lại cho hai cái cũng đã mất một đồng. 85 Lúc ấy, Ðiền phải cố giữ, cái mặt mới không xị xuống. Thật ra thì Ðiền chán lắm. 85 86 Bây giờ, mỗi chiếc có khi tới ba bốn đồng. 88 Và ngay lúc này đây, lúc ngồi ngắm trăng để tạm quên những cái lo nhỏ nhen của kiếp người, Ðiền cũng còn tính vẩn vơ. Nhưng viết luôn mấy năm trời, Ðiền chẳng kiếm được đồng nào. ... Trên kia, giăng nhởn nhơ như một cô gái non vừa mới có nhân tình. Năm ngoái làng vào đám. Hôm giã đám, có mổ một con lợn tế thần rồi đồng dân hội ẩm Lúc tế, ông Cửu Đoành còn ngủ ở nhà. Thế mà hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào, nó lại kêu. Vào một buổi sáng mát mẻ như buổi sáng hôm nay, tự nhiên nó hết ươn ao, và thấy cần phải ầm ĩ thì mới khoái. Hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào, thị đã mua cho chúng những bốn cây mía lách. Và trên đường về, thị còn luẩn quẩn nghĩ đến xu rưỡi mãi. Về đến nhà, thị cảm động quá, hơi run. Một lúc thật lâu, anh chồng về. Nửa giờ sau, y xộc vào hàng Na. Chiều hôm ấy, Sinh ra hơi muộn nên không vào hàng nhà bà đồ Cảnh nữa. Đêm hôm ấy, vợ chồng ông đồ Cảnh rò rầm bàn tán rất khuya. Vả lại, bây giờ những hạng thông, ký, phán lấy vợ nhà quê kể cũng thường. Buổi tối hôm ấy, sau khi đưa các anh ra thuyền trở về Nam, tôi bực tức vô cùng. Đến nhà anh Đề, chúng ta ngồi trên những chiếc ghế tàu nạm đá vân. Đến nhà anh Phùng, chúng ta có những bàn ghế bằng gụ khảm xà cừ. Đến nhà anh Minh, chúng ta nằm nghỉ ngơi trên những chiếc giường tây. Cùng đến nhà bác Lý, chúng ta cũng còn có thể trải chiếu hoa trên hè gạch để trông trăng. Nhưng đến nhà tôi, các anh đã phải cúi khom người để chui vào một cái lều tối om om. Sáng hôm sau, gió ngớt. Gửi hai cháu lại, vợ chồng tôi về nhà. Cái nhà bị ụp rồi. Sau mấy ngày ngao ngán, tôi lại phải an ủi tôi như vậy. Một lúc sau, chẳng biết đã gửi em cho ai được, đứa con gái lân la gần tôi, xem dỡ nhà. Từ sáng đến giờ, em đã có cái gì ăn chưa?
121
Pl.34
959. 960.
121 122
961. 962. 963. 964.
122 122 122 122
965. 966. 967. 968. 969. 970. 971. 972. 973. 974. 975.
123 127 128 130 131 134 135 138 138 140 140
976. 977. 978. 979.
141 142 142 144
Hình như nó đang bận nghĩ ngợi điều gì. Trưa đến, quẩy lúa về, chủ nhà mời quan viên thợ gặt ngồi lên cái giường giữa trước bàn thờ để nghỉ ngơi cho nó mát rồi xơi cơm. Quan viên khấp khởi mừng thầm Một bữa ăn, cô phải lấy thêm cà năm, sáu lượt. Cứ vừa đem một đĩa lên, đã lại thấy họ gào đem đĩa nữa. Sau cùng, thấy đĩa thì không xuể, cô xúc luôn cho họ một bát tàu to thật đầy. Chiều hôm ấy, thấy cô con dâu ra đồng đội lúa, ông nhiêu Tiêm hỏi: ―Cô ơi cô! Tôi hỏi thế này khí không phải. Cô đã lấy nước cho các cụ chưa?‖. Thường thường ở nhà họ cũng không thiếu việc làm. Ở một đầu nhà, một lá màn buông sẵn. Chừng một giờ sau, người đàn bà bưng về một mâm cơm. Về mùa rét, cậu Đật ta đêm nằm cứ tuồn hai chân vào lòng mẹ. Xưa kia, những ngày bu đi chợ tỉnh, độ gần tối chưa về Ninh đã thấy mong. Một lát sau, Ninh nghĩ thương em quá, Ninh lại đi tìm dong, nhưng hết. Hôm nay, tiện ra mạn này lấy thuốc, bà tạt vào chơi với cháu. Ngày xưa, thời nào tiết ấy rất phân minh, mưa gió thuận hòa. Ngay trong những căn nhà vững chãi, người ta cũng thức. Mấy năm sau, ông lý Biên từ lý trưởng. Hồi tháng năm vừa rồi, thấy hắn phải chạy tiền nộp thuế, có anh cay mua quá, trả luôn trăm sáu. Sau trận bão, nhà nào cũng phải dọn vườn, phải chữa nhà. Chiều hôm ấy, Thai đi tìm vợ. Ngày hôm sau, cái chương trình ấy được đem ra thi hành. Nhưng mấy hôm sau, khi cái nhà được lợp rồi, hắn lại giở giọng bảo thị như thế này: - Tôi quên đi mất. Còn trúc buộc dừng chưa có. Nhà bỏ ra vài, ba hào đi mua…
Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
980.
95
981.
191
982.
103
983.
242
984. 985.
252 263
986.
285
987.
17
Ở nhà quê, nếu chết vì tai nạn, người khôn ngoan bao giờ cũng tránh ngày chủ nhật hoặc ngày lễ, thì sự khám xét, tống táng mới mong chóng được. Nếu có điều gì ám muội ở trong, tất ông không tha, thế nào cũng trình quan về bắt Tuy lần này về Bản Sing, ông chỉ có mục đích xem hội, nhưng ông cũng định tối đến, theo tục lệ, ông sẽ nô đùa với bọn con gái dậy thì lũ lượt kéo nhau ra đường giỡn hát bên ngọn đuốc Từ hôm sau trở đi, chiều nào cũng vậy, cỡ độ năm giờ, bọn đào kép ban An Lạc lại mũ mãng, phấn sáp, râu ria, ngồi trơ tráo trên xe cao su, đi diễu qua các phố để phơi nắng cái đời hát tuồng còn ngắc ngoải. Đêm hôm trước, bác ngồi nghĩ mà rớt nước mắt. Sáu tháng về trước, luôn một dạo, những lúc đêm khuya, tĩnh mịch, không có trăng, ít người dám đưa mắt ra ngoài sân tối mịt. Ngày trước, nói đến cô ấy, cậu con vẫn gọi là nó, và dặn con nên trông nom cửa nhà cẩn thận, kẻo cậu con không tin cô ấy đâu. Thỉnh thoảng, những chiếc xe cao-su kín mít như bưng, lép nhép chạy uể oải tia ra hai bên cánh gà hai dòng khói thuốc lá.
Pl.35
988.
98
989.
64
990. 991. 992. 993.
80 30 323 99
994. 995. 996. 997. 998. 999. 1000.
75 34 44 46 95 23 160
1001.
104
1002. 1003.
385 17
1004.
17
1005.
22
1006. 1007.
27 27
1008. 1009.
29 29
1010. 1011. 1012.
30 31 33
1013. 1014. 1015. 1016. 1017.
34 34 34 34 34
1018.
37
Thỉnh thoảng, chiếc lá tre vàng vằn vèo từ trên đâm bổ xuống, làm động cuộc kiếm ăn đang bình yên, thì vò một tiếng, lũ ruồi nhặng bay tản đi. Thỉnh thoảng, gặp ở đường cái chiếc ô-tô nào đương chạy, bác nhác trông lên, thấy anh tài xế, thì bác phải xấu hổ. Xưa nay, chưa ai hề thấy ông thua bạc mà phát bẳn bao giờ. Xưa nay họ đã giúp ông rất đắc lực. Ngày trước, cháu đã được lên tỉnh một lần. Cái đầm này mỗi năm anh kiếm lợi cả cá lẫn hoa có được đến dăm trăm không? Hàng ngày, đi làm, cô đạp xe đạp mất chừng mười lăm phút. Các bà đàn bà trong làng, ngày nào cũng vậy, dậy từ lúc tinh sương. Tối hôm ấy, tôi về trường sớm. Đã ba tháng nay, tôi mới lại gặp anh Trinh. Chiều hôm ấy, anh Xích đã đánh chén ở đình, say bí tỉ. Trong nhà, đèn lửa sáng choang, kẻ hầu người hạ tha hồ mà bận rộn Trong nhà, bà Phán ngồi dưới quạt trần, đương loay hoay với nước bài tổ tôm khó đánh. Và xa xa, tiếng tí tách của một dòng nước uể oải chảy từ kẽ đá rạ ông Châu, một tay nắm cương, một tay víu yên, gò người về đằng trước và nhấp nhổm theo nhịp kiệu. Đi đến gần nhà Lộc, Hiền nghe thấy tiếng Lộc đang cười cười nói nói. Thỉnh thoảng, những chiếc xe cao-su kín mít như bưng, lép nhép chạy uể oải tia ra hai bên cánh gà hai dòng khói thuốc lá. Dưới mái hàng nước đầu ngã ba, một anh xẩm đương lắc lư, nghêu cổ lên mà hát. Vì thế, đến buổi trưa, mấy chức vụ đến xích tay một xốc người An-nam: Thằng ở, con đòi. Và sau hết, bà ta cũng được dìu vào bờ. Chừng nửa giờ sau, bà lái đò mới mở đôi mắt mệt nhọc nhìn chúng tôi, thở dài, nhắm mắt lại. Bữa sáng nay, ông chỉ ăn có mỗi một bát cơm. Ba giờ chiều nay, dân làng Cao Hạ làm biểu tình, ông phải lên ngay tỉnh trình quan sứ. Chiều hôm nay, tôi bận tuyển lính mới, chắc rằng không có thì giờ đi được. Từ lúc ấy, ông Huyện mới được yên tâm. Con đường ấy, cả ngày tấp nập kẻ qua người lại, vì nó lại ăn thông với một bên chợ Đống Đa và một bên là chợ Mối. Các bà đàn bà trong làng, ngày nào cũng vậy, dậy từ lúc tinh sương. Từ lúc ấy, trong làng Cao Hạ, sự hoạt động mới trở về cùng với người. Từ hai ba giờ chiều trở đi, đường làng Cao Hạ đã đông lại càng đông. Và độ bốn năm giờ, người ta ra sân đình, ngồi chơi mát. Cả một làng, từ người lớn đến trẻ con, từ đàn ông đến đàn bà, quanh năm chỉ biết một việc mưu sống, thì bỗng nay đến tai quan trên có một cuộc tụ họp lớn, dân làm biểu tình, có cả khí giới. Trước sân đình, trong bóng râm sáu bẩy ngườỉ đương mắt chăm chắm nhìn đôi gà trụi lông, da đỏ hỏn, hăng hái mổ và đạp nhau.
Pl.36
1019.
37
1020. 1021. 1022.
1023.
39
1024.
42
1025. 1026. 1027. 1028. 1029.
44 46 49 49 49
1030.
55
1031. 1032.
55 56
1033.
58
1034.
59
1035. 1036. 1037.
60 64 64
1038.
65
1039. 1040. 1041.
71 72 75
1042.
76
1043. 1044.
80 88
1045. 1046.
91 91
Chẳng mấy chốc, làng Cao Hạ chỉ có thu người vào mà không có chi ra thành thử suốt dọc đường làng, người cứ ùn lại. Cho mãi đến năm giờ, bọn đàn anh trong làng khăn áo ra nghe quan Sứ hiểu dụ. 38 39 Ngày ấy tôi học năm thứ tư trường Sư phạm. 39 Ở trường Sư phạm, không biết bây giờ còn được thế nữa không, chứ mà mấy năm về trớc thì khiếp quá? Cạnh chuồng tiêu, ba bốn anh còn quây xung quanh anh Đoan ―Bà một‖ để chờ anh đánh diêm ―khao‖ nốt mẩu thuốc lá ban chiều. Sáng sớm hôm chủ nhật, trước khi tôi ra phố, anh em lại dặn tôi rằng: - Anh phải giục thợ làm ngay câu đối mới kịp. Tối hôm ấy, tôi về trường sớm. Xưa nay, chỉ có khi người ta ăn cơm, mới phải ―vô phép‖ nhau. Đã ba tháng nay, tôi mới lại gặp anh Trinh. Một buổi tối, gặp tôi ở phố, anh nhìn tôi mãi cho đến khi tôi trông thấy anh. Chẳng mấy chốc, chúng tôi tới một đường vắng, chỉ còn vài nhà nữa thì hết thành phố. Đến trước cửa nhà người ban nãy, Trinh dừng lại, nhìn nhận hồi lâu, rồi quả quyết: - Không phải nhà nó. Đây chẳng qua nó ra vào để che mắt các nhà trinh thám... Đảng nó to... Tổ chức theo khoa học... Phải có súng lục... Phải có mặt nạ... Phải có... Được! Luôn hai hôm sau, chúng tôi cùng đi thám. Đến ngày thứ ba, mới chập tối, Trinh đến rủ tôi, quả quyết nói: - Tôi cần bắt quả tang nó, lúc nó giương súng bắn ông ta. Độ mười phút sau, có ba người cầm gậy đến gần chúng tôi, nói: - Nào, các ông đưa tôi đi. Hôm qua, tôi tính đi, có ra Hà nội thuê xe, nhưng tôi đã định không đi từ buổi sáng. Quanh tôi, chẳng có một tiếng động. Bây giờ bác đã có tiền nào đâu? Thỉnh thoảng, gặp ở đường cái chiếc ô-tô nào đương chạy, bác nhác trông lên, thấy anh tài xế, thì bác phải xấu hổ. Một hôm, ngài truyền bác vào nhà tư, và hỏi khẽ, giọng thân mật: - Tôi hỏi thực anh, thế anh có muốn dùng cái xe này không? Lúc ấy, xe đã chật như nêm cối. Lúc ấy, Nguyễn đang ngồi xổm trên hè. Từ mờ sáng đến lúc tám chín giờ dần dần, nhà nào cũng lẹt đẹt một bánh pháo ngắn để đón xuân. Ngoài đường làng, người thì mặc quần áo mời, đội khăn mới, đi giày mới, người thì nhai trầu bỏm bẻm, thuốc lá phì phèo, sột soạt đi lễ Tết nhà nhau. Xưa nay, chưa ai hề thấy ông thua bạc mà phát bẳn bao giờ. Sáng hôm sau, thằng xe phải một trận đòn thừa sống thiếu chết, nhưng nhất định nó không nhận. Rồi sau, nó tìm đến phố Nối là chỗ có thể dễ kiếm ăn. Thực vậy, suốt ngày, ô-tô Hà nội Hải phòng hay Hưng yên, mấy chục chuyến đi chuyến về, cái nào cũng om ở đấy ít ra là mười phút.
Pl.37
1047. 1048.
92 94
1049. 1050. 1051. 1052. 1053. 1054.
95 95 96 97 97 97
1055.
98
1056.
98
1057.
104
1058. 1059.
104 104
1060. 1061.
104 106
1062. 1063.
106 106
1064.
108
1065. 1066. 1067.
118 118 119
1068. 1069. 1070. 1071.
124 124 125
1072. 1073.
126 126
1074. 1075. 1076. 1077.
Lúc ấy, xung quanh chiếc xe, một lũ ăn mày cũng đương làm việc. Nửa tháng sau, nó lại đội nón rách cũ, lại khoác cái khố tải cũ xơ xác như tố đỉa, lại ra phố Nối dể xin ăn. Chiều hôm ấy, anh Xích đã đánh chén ở đình, say bí tỉ. Ðến xẩm tối, anh vừa về đến nhà, đã bị ông Cứu giục mang điếu và gối ra chòi. Và đến độ tám giờ, xác anh đã nổi lên, trôi lềnh bềnh vào gần bờ. Từ lúc ấy, người thân thích đến thăm thưa dần Rồi sau hết, không ai dám lại gần đấy nữa Và đến chiều, cổng Huyện đóng, vì là ngày nghỉ, thì ở nhà ông Cứu trợn mắt, kêu rú một tiếng, và ở cạnh lũy tre, bà Cứu ngã vật xuống đất, ngất đi đến năm phút đồng hồ. Rồi buổi chiều, một mùi nồng nặc, hăng hăng đã bay thoang thoảng đến được chỗ xa xa. Trên ngọn tre, xào xạc tiếng cánh bay, con quạ đen cố quặp hai chân vào một cành ẻo lả, vẫy đuôi để giữ thăng bằng cho vững chãi, rồi chao mắt thèm thuồng xuống mồi. Lúc bấy giờ, độ mười giờ đêm, ba thầy trò đã bắt đầu phải chui qua cánh rừng rậm. Thỉnh thoảng//, một chiếc lá khô rơi, xào xạc, đụng bốn năm bận vào cành. Và xa xa, tiếng tí tách của một dòng nước uể oải chảy từ kẽ đá rạ ông Châu, một tay nắm cương, một tay víu yên, gò người về đằng trước và nhấp nhổm theo nhịp kiệu. Lúc bấy giờ, ông mới có thể nghĩ đến chuyện làm giàu và sung sướng được. Ngay lúc ấy, một tiếng súng lại nổ to, vang động cả bốn phía Rồi tiếng reo: - Ngã rồi. Trời tối quá, nên cuộc săn người rất gian nan. Bởi vậy, trong sáu kẻ gian, bốn người chẳng may bị đạn thì chịu gục xuống, còn hai người lẩn lút được. Và như thế, ông yên trí rằng về công trạng trị an oanh liệt này, ông sẽ được đặc cách thăng tri phủ hạng nhì... Kỳ tình, đêm hôm ấy, tôi lo mê. Hôm sau, không thể lấy cớ nhức đầu sổ mũi để trốn thi. Ngày xưa, người ta mới kén rể bằng cách bắn sẻ, chứ ông Quýnh có thách như thế đâu? Đến chợ, tôi mặc cả giang và chọn bốn con to béo nhất. Sau khi mẹ ông khỏi bệnh, thằng Tồn đến đòi mật và gạo. Nửa tháng sau, nó lại đến đòi nợ. Năm sau, theo lệ năm trước, bố ông không nói với thằng Tồn, trảy một quả mít chín, định để cúng ông cụ. Năm năm sau, bố mẹ ông qua đời. Mỗi năm mùa mít đến, bà nhìn những quả xanh nhu nhú như cái nắm tay ở thân cây bà tính lấy gậy nhọn chọc cho thối mẹ tất cả đi cho đỡ ngứa mắt. Một hôm, nghe con ông khóc, đòi ăn mít, ông không thể nhịn được. Sau trận đòn, mình mẩy ông Lũng sưng vù, bốn năm hôm mới khỏi. Hiện nay, đi đâu bà cũng phải chống nạng. Cho tới năm nay, vừa đúng bốn mươi mốt năm, thì đội phát động về.
127 127 127 127
Pl.38
1078. 1079.
129 130
1080.
131
1081.
134
1082.
134
1083.
135
1084. 1085.
143 143
1086. 1087. 1088. 1089. 1090. 1091.
146 146 146 147 150 150
1092. 1093. 1094. 1095.
150 151 156 158
1096.
159
1097.
159
1098.
160
1099.
161
1100. 1101. 1102.
161 161 162
1103.
164
1104. 1105.
165 165
1106.
169
Lần sau, tao chắc ông ta không còn mặt mũi nào vào trọ đây nữa. Chiều hôm ấy, về tới nhà, một mặt ông Huyện bảo Cai việc cho người đến Rồng thăm xem nhà Lý Trung có phải mới có cháu gái đến thực hay không, một mặt ông sai làm mâm cơm, và tiêm chong chóng hút cho đủ bữa thuốc. Rồi xẩm tối, anh lính phụ khỏe nhất đã đội khăn, mặc áo the dài chỉnh tề, kéo xe ông về làng Rồng. Sáng hôm nay, Lý trưởng làng Rồng đang ngủ ngon giấc, thì có người đánh thức dậy, ký nhận tờ sức của quan Huyện. Tối hôm qua, bản chức đi tuần lại xã thầy và có mang theo chiếc đèn bấm năm pin, mọi nhẽ. Bốn năm nay, làm ở đây, tôi chưa hề thấy có việc khác thường như lần này. Tôi bình tĩnh sao được. Lần này, bà ứa nước mắt thật. Đến thềm nhà tư, bà Chánh chùi chân vào chiếc thảm rất kỹ lưỡng, rồi mới dám bước lên gạch hoa. Ba tháng sau, trời làm lụt lội và đói kém. Từ nọ đến nay, bao nhiêu người xin đong mà bà không dám bán. Một hôm, có người lính tuần về Đồng Quân, đưa bà Chánh phong thư. Suốt mấy ngày, bà lo lắm. Vài hôm sau, tôi đến thử quần áo. Lần này cũng như lần trước, bông hồng chẳng thấy ở trước mặt, mà tiếng lễ phép suông cứ làm ngượng hai tai. Một lần nữa, tôi cần sắm cái mũ, tôi cũng lại đâm đầu vào đó. Một hôm, vào ngày Hội Chợ. Sáng hôm sau, quan dậy sớm, khăn áo chỉnh tề, đi bộ đến nhà tang. Bây giờ, ở vùng ông cai trị, người ta còn đợi mua vui bằng nhiều tác phẩm sống của ông. Bây giờ, ở vùng ông cai trị, người ta còn đợi mua vui bằng nhiều tác phẩm sống của ông. Đến một chiếc nhà lộng lẫy, có hàng rào sắt, có chuông điện bấm, anh xe ngửa người ghì đà xe lại để đỗ. Buổi trưa, Đồ Sơn chỉ còn là một con đường nhựa nát nhẽo, bên cạnh một làn nước phẳng lặng. Từ lúc đó, bà Phán ít nói chuyện bông đùa, mà cô An thỉnh thoảng lại cọ quậy không yên trên ghế vải. Một năm về trước, một hôm ông Phán Tuyên đi làm không thấy về nữa. Sau ba tháng nằm ở trại ―Ký giám‖, ông Phán ra tòa lĩnh mười tám tháng tù. Bắt đầu hôm sau, ông lại nghiễm nhiên ngồi biên chác, làm cái nghề cũ của mình. Tuy việc xảy ra đã mười năm nay, nhưng bây giờ tôi nghĩ lại, vẫn còn thấy bật buồn cười và rợn tóc gáy! Hôm ấy cha tôi có việc phải đi vắng hai ngày. Trong làng săn, ai gặp người chúc thế, y như hôm ấy vác súng về không có khi lại bị rủi ro nữa. Một lúc tôi thấy con bé con ở dưới bếp mang nước sôi lên rồi bưng bộ ấm chén chè tầu ra nói:
Pl.39
1107.
170
1108.
171
1109. 1110.
172 174
1111.
174
1112. 1113.
174 175
1114.
175
1115. 1116. 1117. 1118.
175 175 175 176
1119. 1120. 1121. 1122.
176 176 176 176
1123. 1124.
176 177
1125. 1126.
177 177
1127. 1128. 1129.
177 178 181
1130. 1131.
181 181
1132.
182
1133.
184
1134. 1135.
184 184
- Thầy cháu mời các ông xơi nước. Đến hai giờ chiều, tôi thấy tiếng đàn bà nói léo nhéo ở ngoài sân, về việc con chó. Trong khi ngủ, tôi chiêm bao thấy bao nhiêu phen kinh hồn, và giữa lúc đương nằm mê thấy họ đem mình ra bỏ rọ, thì có người lay vai tôi đánh thức. Trong đám đánh chén, tôi để ý nhất vào anh chàng láo xược. Cô ấy ở đó được chừng ba tháng, thì một buổi sáng, vào sở thấy trên bàn làm việc có một phong thư ngoài bì đề tên mình. Nhưng sáng hôm sau, là ngày 19 tháng 4, cô lại thấy chiếc phong bì trên bàn làm việc. Cũng như hôm trước, cô lại gấp tiền với thư vào phong bì, để lại ở bàn giấy. Lại cũng như hôm trước, buổi chiều cô không trông thấy chiếc phong bì ở trên bàn. Nhưng rồi đến sáng ngày 21, cô lại thấy chiếc phong bì đặt ở trước mặt. Cũng đô-la và bức thư, nhưng đổi ngày hẹn là ngày 22 Hàng ngày, đi làm, cô đạp xe đạp mất chừng mười lăm phút. Chiều ngày thứ ba, biết là được hẹn, người Mỹ đợi cô ở cửa sở. Trong khi đi các đường, hắn nói chuyện. Việc này bẵng đi, đến mười hôm sau, cô ấy lại được tên Mỹ ấy mời đi chơi trong nửa giờ. Năm hôm sau, cô lại nhận thư và tiền của người bạn Mỹ mời cô đi chơi. Rồi đến nửa tháng, cô không thấy hắn mời. Thì một hôm, cô nhận được phong thư. Nhưng rồi buổi chiều, chiếc phong bì thư mời ăn biến đi để rồi sáng hôm sau lại xuất hiện ở trước mặt cô. Bốn hôm sau, cô lại được mời, và cô không chối từ Mười hôm sau nữa, cô ấy nhận được thư của người bạn mời ăn, nhưng lần này ăn ở nhà hắn. Lần thứ ba, hắn mời cô đến nhà để ăn cơm. Lần này, hắn khoe rằng mẹ hắn vừa gửi cho hắn một thứ nước ở bên Mỹ mới chế ra Đêm hôm ấy, khi về nằm cạnh chồng, cô ân hận, cô xấu hổ, cô nhục nhã. Một tháng sau, cô nhận được thư của nó. Một hôm, cô rình lúc bà mẹ ngủ, mới khẽ lấy hộp phấn Cô-ty mà cô nhờ người mua hộ, vẫn cất kỹ ở trong hòm. Năm nọ, cô có giấu mẹ, may ngầm một cái áo lam. Thỉnh thoảng, cô ngồi trông hàng, ló mắt ngắm các tiểu thư đi ngang qua nhà mà đâm ghen. Rồi từ đó, mỗi buổi chiều, cô thu thu hộp phấn vào bọc, cô đến chơi nhà cô Bích Ngọc. Một hôm, trong rạp hát, giữa chốn tối tăm, nó đã mỉm cười, đem quả tim quý hóa đó, nùng nịu đặt vào lòng một quan phu góa vợ, mà một bước lên chức bà lớn nghênh ngang. Hình như trời đã đặt một cái khuôn riêng để đúc nặn các người làm bà lớn. Nên chăng mấy chốc, bà phủ đã được đúng kiểu mẫu, chỉ riêng bộ mặt cũng đã long trọng.
Pl.40
1136.
184
1137. 1138.
184 185
1139.
185
1140.
185
1141. 1142.
187 187
1143.
191
1144.
193
1145.
194
1146.
194
1147.
194
1148.
194
1149.
195
1150.
19sa
1151.
198
1152.
198
1153.
198
1154. 1155.
198 199
1156.
199
1157.
201
Thường, những buổi chiều tà, khi bức màn đen lóng lánh kim cương rủ xuồng để che kín vũ trụ, trong vườn hoa, trước tư thất quan ông quan bà nhỏ to trò chuyện như một cặp nhân tình. Đã hơn nửa tháng nay, vợ Lý trưởng sở tại đã cho gọi nhà phó Bái thay rồi. Năm phút sau, dưới ánh đền treo trong phòng, hiện nguyên hình bộ phận một người như hồi sơ sinh của các bà mụ nặn. Cứ thế, những cảnh nồng nàn yêu dấu của hai linh hồn sắp nguội, mỗi buổi chiều lại diễn ra, đến nỗi mấy con thạch sùng cũng phải đánh ghen mà tặc lưỡi. Cứ thế, ngày giờ trôi qua đi, quan phủ say tít, không còn nghĩ lại quãng đời dĩ vãng vấy bùn của vợ nữa. Ở đời này, ai không thừa cơ lợi dụng là khờ. Này, ngay bây giờ, tôi chạy ra trại cơ, trại lệ, ngoài phố, gõ cửa nhà từng đứa mà bảo: Dậy mà xem, bà phủ ngủ với trai ngay bên cạnh mũi quan phủ. Một hôm ông Trưởng Sắc đương ngồi dưới giàn thiên lý để lau từng cái lá lan một, thì có người em họ ông là Ba Tuần buôn bán ở tận ngoài Cẩm Phả về chơi. Một hôm, trong lúc say sưa, ông Cửu nghiêng ngả nói: - Chẳng giấu gì ông. Tôi thì tiền bạc chẳng thiếu, duy chỉ thèm thuồng... Rồi tối hôm ấy, ông Trưởng luẩn quẩn cả đêm, đâm lo, không biết người này là mật thám thực hay chính là tay hội kín. Một hôm, lẳng lặng, ông thân hành đi theo ông Cửu, thì quả nhiên ông thấy ông ta xuống dưới cuối tổng vào hàng nước nhà bà Tổng ích ngồi từ sáng đến trưa, rồi đứng ở gốc đa đầu làng vơ vẩn đến tối mịt thì về. Hôm sau, lúc đương uống rượu với chả cá, ông Trưởng đánh liều, hỏi: - Thế nào? Việc ông làm sắp có hiệu quả chưa? Tối hôm ấy, ông Cửu ấu bảo thằng người nhà lấy cho mượn cái thau đồng, rồi ông đóng chặt cửa buồng lại. Ngay lúc ấy, ngọn đèn tắt phụt, trong buồng tối um, ông Trưởng không thể nhận rõ được ông Cửu làm những gì cả. Lần vừa rồi, tôi thấy bạc không đẻ, tôi biết ngay bị lộ, tất thế nào cũng có hơi người lạ mó đến nó. Trong khi vắng ông Cửu, ông Trưởng thấp thỏm không sao ngủ yên, trong bụng khấp khởi mong cho chóng đến sáng Rồi vừa tảng sáng, ông đã ngồi nhổm dậy, tỉnh như con sáo, tay xách cái đồng hồ, ra cổng đứng ngóng, nhìn theo từng phút. Ðến năm giờ hai mươi thì, đúng hẹn quá, ông Cửu đã ở đằng đầu làng đi lại, đến cổng nhà thì vừa năm giờ hai mươi chín. Bây giờ ông có quẳng ra đường, cũng không mất. Từ hôm sau, không những ông Trưởng Sắc và ông Cửu ấu phải tiếp khách ăn ghẹ, mà bọn nhà giàu, ngốc, cũng kéo nhau đến chơi rất đông. Nhưng được độ mươi hôm, ông Cửu tuyên bố một tin, làm cho dân làng đều ngao ngán: - Tôi không ở đây nữa. Tôi lấy làm nhớ các ngài lắm. Vừa xẩm tối, mọi người đã chen chân nhau vào nhà ông Trưởng để được xem phép lạ.
Pl.41
1158.
201
1159. 1160.
201 201
1161.
204
1162.
205
1163. 1164. 1165. 1166. 1167.
205 206 207 208 208
1168. 1169. 1170.
208 208 211
1171.
213
1172.
215
1173. 1174. 1175. 1176. 1177.
215 216 220 222 222
1178. 1179. 1180. 1181.
222 222 222 223
1182.
224
1183.
224
1184.
224
1185. 1186.
225 226
Hàng năm sáu giờ đồng hồ sau, bỗng ông Trưởng, vẻ mặt quan trọng như ông tướng chạy ra hè hô lớn: Bây giờ ai phải về nhà nấy để bạc dưỡng thai. Ðộ năm phút sau, sân nhà vắng vẻ, ông Cửu bèn đi dò la chung quanh hàng rào, rồi một mình, khênh bạc ra vườn, lúi húi làm nốt công việc. Trong buồng ăn, tiệc đã dọn trên bàn, cái bàn chữ nhật, giải trên một tấm khăn trắng nuột. Ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này, có một người đàn bà, lưng khoác áo tơi lá, đầu đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ. Hàng mười lăm phút, bà ta loanh quanh, đi lại đến năm sáu lượt. Cho nên, một lát sau, trông thấy người ấy về, bà lão đứng ngay dậy, toan hỏi. Độ mười lăm phút sau, có người đập tay vào lưng. Độ mươi phút, quả nhiên có tiếng gót giày lộp cộp nện trên sân gạch. Qua mấy năm khó nhọc, khi sài, khi đẹn, suýt chết mấy lần, thì đứa bé đến tuổi đi học. Rồi vì nghèo khổ quá, nó phải ra tỉnh kiếm ăn theo anh em. Từ đó, thằng ấy một ngày một khá, buôn bán phát tài. Sáng hôm sau, ở cửa nhà ông chủ xe cao su kiêm chủ hãng ô tô ―Con Cọp‖, người ta trông thấy căng cái màn đen diềm trắng. Thỉnh thoảng, để trả lời tiếng phèng rè, một hồi phách nổi lên, lách cách như tiếng nhái kêu Gần đó, một thằng bé con, chỉ mặc một manh áo rách, thò cái gậy tre vừa đẵn, nghịch với những tăm bọt sủi trên mặt lượt bùn. Xung quanh, làn nước đỏ mênh mông, từ sáng đến bây giờ, mỗi lúc lên một cao. Quả nhiên, mới từ nãy đến giờ, nước đã láng gần khắp vườn nhà ông Lý. Hồi ấy, tôi mới độ chín mười tuổi. Một đêm, ông Huyện cưỡi nó đi tuần. Lại một lần nữa, trong mùa nước to, Lý trưởng làng Lực Điền phi báo ông Huyện khúc đê sạt bốn mươi trượng, ông Huyện cưỡi con ngựa ô đến chỗ xung yếu thì được độ năm phút, ôtô ông sứ đến. Nhưng mấy năm nay, con ngựa ấy già, sức lực nó yếu đi. Thế rồi một hôm, tôi thấy đồn con ngựa ô ốm. Vài hôm sau, một ông thú y người An Nam ở tỉnh về Huyện. Sáng hôm sau, khi ông thú y về, bỗng tôi thấy ở cổng Huyện một lũ người lôi một cái gì nặng nề, có lũ trẻ phố đứng xem xúm xít. Chắc lúc ấy, con ngựa tưởng có thể chạy trốn sự đau đớn, nên nó dùng hết sức tàn để băm bằng bốn cẳng cụt. Mãi đến một giờ sau, khi trò ấy nhắc đi nhắc lại đến năm sáu lượt, không được người ta hoan nghênh nhiệt liệt nữa, bọn lính mới quẳng bốn đẫn chân xuống hố, và bắt đầu lấp đất lên. Lúc ấy, mắt con ngựa vẫn còn mở trừng trừng, và bụng nó vẫn còn phập phồng thở... Ở nhà quê, có việc gì cỏn con xảy ra mà người ta không biết ngay tức khắc? Ngày xưa, ông ấy (tức là chồng người chết) có phúng ông tôi ba hào thật, nhưng lúc ông ấy chết, bà tôi đã phúng lại những ba hào với một cành cau, cau dạo ấy đắt.
Pl.42
1187. 1188. 1189. 1190. 1191.
227 228 230 230 231
1192. 1193.
232 232
1194. 1195. 1196.
232 232 234
1197.
235
1198.
235
1199. 1200. 1201. 1202.
235 238 238 238
1203. 1204.
238 238
1205.
238
1206. 1207.
238 241
1208.
242
1209. 1210. 1211.
243 243 244
1212.
244
1213.
249
1214. 1215. 1216. 1217.
Mọi ngày, cụ vẫn xơi thuốc vào lúc cơm xong. Nhưng hôm nay, cụ cần hút ngay buổi sáng. Xưa nay cụ chúa ghét những thói gian giảo. Độ một tháng nay, cụ Chánh Bá bực mình vì đôi giày của cụ nó móm quá. Cho nên chiều hôm ấy, trước khi đi ăn cỗ, cụ đội khăn, mặc áo chỉnh tề, mà cụ ngắm đến đôi giày, thì cụ phát khùng lên Đến nơi, nhà chủ đón chào rất trân trọng. Lúc chập tối, trong khi có hai thầy trò cụ Chánh Bá ở nhà trên, thì cụ khẽ gật tên đầy tớ, và liếc mắt một cái. Lúc cụ xơi cơm xong, nhà chủ mới lên mời cụ đánh tổ tôm. Và trong khi hầu chuyện, anh ta vớ lấy cái điếu để hút Rồi đến hai giờ sáng, xong ba hội tổ tôm, mọi người mời cụ Chánh Bá nghỉ, kẻo mệt. Thỉnh thoảng, thằng bé con vừa nện tùng tùng, vừa uể oải giục: - Các ông các bà, lấy vé vào mà xem, gần đến giờ rồi. Trong rạp, từ bảy giờ rưỡi trở đi, ba chiếc quạt Tây, buộc díu vào một dây kéo, đã bắt đầu hoạt động. Trong khi chờ, khán giả cười to, nói lớn, nhổ bậy, hoặc cãi nhau. ở ngoài đường, bọn tìm cuộc vui buổi tối vẫn đi lại rầm rập. Mấy năm nay, ít người thích nghe hát tuồng cổ. Ngay từ buổi sáng, ở cửa rạp, người qua đường vô ý đến đâu cũng phải trông thấy một cái cổng kết bằng lá dừa, gài thêm những cành nhãn cài hoa râm bụt. Trên cổng, hàng chục chiếc cờ Pháp, Nam bay tíu tít. Trên tường, một miếng vải trắng căng thẳng, có dán một dòng chữ trang kim: Đào kép mới! Bản rạp chấn chỉnh! Đào kép mới! Rồi đến năm giờ chiều, lúc mặt trời đã xế, trước nhà hát, bảy chiếc xe cao su đã chực sẵn cả ở vệ đường. Một lát, bảy chiếc xe thong thả bước một tiến đi. Tối hôm ấy, cũng mới độ bảy giờ, sáu ngọn đèn điện làm sáng trưng cả cửa rạp An Lạc. Từ hôm sau trở đi, chiều nào cũng vậy, cỡ độ năm giờ, bọn đào kép ban An Lạc lại mũ mãng, phấn sáp, râu ria, ngồi trơ tráo trên xe cao su, đi diễu qua các phố để phơi nắng cái đời hát tuồng còn ngắc ngoải. năm nay, ông đã ngoại tứ tuần. Trên mép ông, ông đã bao công trình mới cấy được từng ấy râu. Và như hiểu rõ phép vào quan, nó giúi đưa cậu lệ hai hào đã cầm sẵn ở trong tay, rồi nói nhỏ: - Nhờ cậu bẩm quan cho tôi vào hầu. Sáng nay, vay mãi mới được đống hai bạc, để đi trình quan, cậu làm ơn thương hộ cho. Lúc đó, chỉ cần dăm thang thuốc bổ, là bà lại khỏe mạnh như thường. Năm 1926, nước to, đê vỡ tứ tung, nhân dân bêu rếch, khổ sở. Đêm hôm trước, bác ngồi nghĩ mà rớt nước mắt. Sáng sớm, gánh thằng bé con đi. Trên cái thúng, tùm hum manh chiếu rách che hàng cho đỡ nắng.
252 252 252 252
Pl.43
1218. 1219. 1220. 1221. 1222.
252 256 256 256 256
1223. 1224.
256 256
1225.
257
1226. 1227.
257 257
1228. 1229.
257 258
1230.
259
1231.
259
1232.
259
1233.
263
1234. 1235. 1236. 1237. 1238. 1239. 1240. 1241. 1242. 1243.
265 265 265 266 266 277 277 278 278 281
1244. 1245.
Đi đường, bác gặp toàn bọn khóc dở mếu dở như bác cả. Anh ta ở Sài Gòn ra hát ở Hà nội đã ba năm nay. Nhưng đã hơn một tháng nay, anh không diễn ở đâu cả. Vì đã hơn một tháng nay, cha anh ta ốm. Đã hơn một tháng nay, lúc nào trong cái gác tối om ở gian nhà ngay đầu ngõ Sầm Công, cái tiếng rền rĩ của ông cụ cũng hòa lẫn với tiếng rầu rĩ của siêu thuốc mà làm anh Tư Bền phải rầu gan nát ruột, chẳng thiết đến sự làm ăn. Một hôm, ông chủ rạp Kịch trường đến nhà anh ta chơi. Sau một vài câu hỏi thăm chiếu lệ, ông ta nghiêm sắc mặt, nhắc đến món nợ: - Sao? Cái số tiền đó, cậu đã có để trả tôi chưa? Trong nửa tháng, trong mười lăm hôm trời, mỗi ngày anh phải xa cách cha mấy tiếng đồng hồ để đi học diễn. Trong khi anh vắng nhà, ai trông nom săn sóc thay anh? Lúc ấy, ở trên giường bệnh, ông cụ ho sù sụ, rồi thò tay ra cái ghế đẩu kê cạnh, để với lấy cái ống nhổ. Lúc ấy, trong màn có tiếng keng keng của chiếc đũa đập vào bát sứ. Nhân muốn gây cảm tình, ông chủ rạp Kịch trường lại gần giường, mở màn, rồi hỏi: - Chào cụ, cụ có biết tôi là ai không. Đến hôm diễn, mà cha anh Tư Bền có làm sao, anh cứ vắng mặt ở rạp hát, thì lỡ bét. Tối đến, cửa rạp Kịch trường đèn thắp sáng trưng như ban ngày, chiếu rõ cái cảnh người đứng lô nhô như luống hoa trăm hồng ngàn tía, bướm ong chờn vờn. Trên thềm, dưới bậc, giữa đường, non nghìn thiếu niên nam nữ túm tụm lại, tìm chỗ để đứng ngắm nhau cho đỡ nóng ruột lúc chờ đợi. Sáu tháng về trước, luôn một dạo, những lúc đêm khuya, tĩnh mịch, không có trăng, ít người dám đưa mắt ra ngoài sân tối mịt. Đến đầu làng, anh rỉ tai nói với khán thủ kéo chị Cu trở lại. Đêm hôm đó, nhờ anh can đảm, quân cướp lũ lượt bị giải lên Huyện. Từ bấy giờ, trên đầu chị một tấm khăn tang, kẽ nách chị ba mụn con mọn. Ở ngoài, họ đồn chán lên đấy. Một hôm, chị Cu Bản hăm hở chạy sang nhà tôi. Do sự công phẫn, các bà xui chồng đến nhà chị cu, mỗi người giúp một tay. Bởi thế, chẳng mấy chốc, mẹ chồng chị được hoàn toàn là người chết hợp pháp. Nhiệm vụ của ông quản lộ là phải coi đường làng, từ ngày xây gạch. Trong phút chuyển cữu, chị Cu Sứt đứt ruột đứt gan. Cái lần tôi đến thăm anh Quý ở Bắc Ninh, vào hồi sáu tháng trước đây, là lần tôi thấy anh ấy đối với tôi nhạt nhẽo và ngượng nghịu nhất. Hồi ấy, anh có cho tôi biết. Và trong thư, anh gọi Huệ là "Trống cà rùng".
1246. 1247. 1248.
281 281 282 282 283
1249.
Từ ngày nó có mang, tôi vẫn phải cấp tiền. Qua sân xong, chúng tôi cúi đầu cho khỏi đụng mái bếp. Vừa lúc ấy, người bếp dọn cơm lên bàn, Quý cười, chỉ vào hắn và nói: - Chẳng tin, anh cứ hỏi nó mà xem. Bữa ăn ấy, Huệ không dám ngồi với chúng tôi.
284
Pl.44
1250. 1251. 1252.
284 284 285
1253.
285
1254. 1255. 1256. 1257.
285 285 285 286
1258.
286
1259.
289
1260.
289
1261. 1262.
292 294
1263.
294
1264. 1265.
295 295
1266.
298
1267.
298
1268. 1269. 1270. 1271. 1272. 1273.
298 298 298 298 299 300
1274.
302
Cách đó hai tháng, một hôm tôi có việc phải qua Bắc Ninh. Nhưng lúc ấy, cả Quý lẫn Huệ và người bếp cùng không có nhà. Hôm ấy, thật tôi rất ngạc nhiên về sự thay đổi từ cử chỉ cho đến cách ăn nói của Huệ. Ngày trước, nói đến cô ấy, cậu con vẫn gọi là nó, và dặn con nên trông nom cửa nhà cẩn thận, kẻo cậu con không tin cô ấy đâu. Từ ngày cô ấy về, cậu con không tin cậy con như trước nữa Nhưng độ một tuần, cô ấy đã mon men hay lên nhà trên. Bữa cơm hôm ấy, Huệ cùng ngồi ăn với chúng tôi. Hôm nay, vì anh Quý viết giấy mời tôi về Bắc Ninh để anh hỏi ý kiến về chuyện gia đình, nên tôi đến thăm anh. Lúc ấy, Huệ ở nhà trong, chạy ra, nói xen vào: - Vâng, nó lấy của nhà tôi hai chục, giấu trong hòm. Thì ra trước kia, giá nhà tôi có bị nó rút ruột rút gan bao nhiêu cũng không biết. Từ đó đến nay, tôi dốc một lòng chờ đợi, ai đến dạm hỏi, tôi cũng kiếm cớ thoái thác. Lúc bấy giờ, ở bờ hồ Hoàn Kiếm, mảnh trăng ngọn gió như khơi động tâm tình gió trăng. Bây giờ, chỉ cần mợ giữ cái bụng cho kín đáo. Mợ đẻ xong, tôi nuôi lấy con. Ngày chủ nhật, sau khi Nguyệt đẻ, có mấy bọn người ở Hà nội sang, vào nhà thương thăm. Bọn trước, hai công tử ăn mặc Tây, đúng mốt quần thụng đỏ, áo cộc xanh, ở trong gian Nguyệt nằm bước ra, bưng miệng, rúc rích nhìn nhau cười, thì thào: - Hú vía! Tao tưởng con Nguyệt nó chửa với tao, tao sợ quá! Lúc bấy giờ, Bắc ôm một bọc to tướng đến nhà thương. Nhưng khi ở ngoài cửa kính, Bắc thấy có người đến thăm Nguyệt, thì ngờ là họ hàng, không dám vào vội. Mấy hôm nay, nhờ trời, dân Việt Nam ta không phải phàn nàn rằng nước ta kém nực. Suốt ngày, ánh nắng rọi xuống, làm cho đất trắng xóa, nẻ kẽ, lá cây gục lả như sắp chết khát. Buổi tối, bà không thích đi đến những nơi thoáng khí để hóng mát. Mấy hôm nay, bà lủng củng suốt đêm. Mùa hè, ai trông thấy bà mà không phát ngấy thì tôi không phải là người. Quả nhiên, con Đỏ con chưa dám ngủ Lúc ấy, bà cũng đã thiu thiu. Lúc ấy, đang được thiu thiu, bỗng bà thấy mồ hôi chảy ra, bà biết con ranh con đã ngủ. Trên chiếc ghế thứ tư, con chó nhảy tót lên, ngồi chồm chỗm, thè lưỡi, nhìn hết người nọ đến người kia
Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng
1275. 1276.
100 223
1277.
Hôm nay, anh đã là cha một đứa trẻ con! Ở đấy, đã có một cái hố mới đào. (Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, 223) Vì nó, anh nó đã sinh chuyện với bố mẹ rồi
9
Pl.45
1278.
102
1279. 1280.
14 247
1281.
97
1282.
23
1283.
69
1284. 1285. 1286. 1287.
83 340 3 3
1288. 1289.
3 4
1290.
7
1291.
25
1292.
25
1293. 1294. 1295. 1296. 1297. 1298. 1299. 1300. 1301.
25 62 62 62 64 106 165 9 17
1302.
Tuy ban ngày chỉ đi gạ đánh cờ không tiền hay chầu rìa ván tài bàn, nhưng mà, tối đến, từ 9 giờ đến 11 giờ thì anh lại căn phòng nhỏ với người yêu. Con không học được, từ khi lên lớp, chương trình thay đổi quá nhanh. Em biết không, hôm trước, anh được cử đi trinh sát cùng mấy cô giao liên đường Trường Sơn. Xưa kia tôi đã thấy cái thú vị trong sự nâng niu đàn bà thì, bây giờ, được đàn bà nâng niu, tôi càng thấy nhiều thú vị hơn nữa. Trong gian nhà lụp xụp, thằng cu lớn, cái đĩ con ngồi mã la mã lệnh với thằng cu mới đẻ, cuộn tròn trong cái tã nâu, nằm ngay cùng giường cái xác mẹ nó. Bằng ngòi bút tài hoa, sắc sảo, tác giả lên án mạnh mẽ thói vô luân trong xã hội Việt Nam thuở còn bị thực dân phong kiến cai trị và để cho người đọc hôm nay những điều cần phải suy nghĩ về đạo lý làm người Vì nhằm vào ba tháng hè nên tôi thường ở bên giường chị ta. Hôm nay cậu có đi chào Tết hay không? Mấy hôm nay,thằng Hai Xuân xem ra có ý lo buồn lắm. Vào những buổi chiều mùa hạ sáo diều vo vo réo rắt hay buổi chiều mùa thu gió vàng; hắt hiu,trong những cảnh hoàng hôn của tiết xuân mát mẻ hay của trời đông lạnh lùng;mỗi khi hình thằng Hai tay vòng càng đi trước cái xe,vẽ cái bóng thật dài trên giải đường trắng xoá,thì tận trong làng xa lắc xa lơ cũng có người nghe thấy nó cất giọng ồ ồ,nghêu ngao hát cái bài ―xẩm‖ của nó tuy cụt đầu cụt đuôi thật,nhưng nghe nó cũng hay hay: ...Còn trời (mà) còn nước,còn non Bay giờ nó đành phải ăn nhờ vào anh Một buổi chiều hè kia,sau khi chống nạn lang thang đi khắp đó đây - từ độ nó què,không có việc gì nó vẫn lang thang như thế - thằng Hai lên cầu ngồi hóng mát. Thỉnh thoảng,một cặp trai gái lướt qua mặt nó, để lại cho nó một ít hương thơm thoang thoảng. Rồi từ mai trở đi, để thằng cháu nó giắt bà ra đầu đê, bà ngả nón dưới bóng cây gạo mà ngồi, thấy tiếng người chợ búa qua lại thì bà chìa rá ra xin, nếu có được mỗi ngày một vài xu cũng là đỡ được cái mồm bà rồi đấỵ.. Đã được nửa tháng nay, sáng nào cũng thấy thằng cu lớn dắt bà ra ngồi đầu đê rồi chiều đến lại dắt về. T Hôm nay chẳng ai thí cho bà đồng nàọ Mai người ta vác cành đào nghễu nghện qua đường. Ngày kia, người ta vênh váo ngồi xe với những chậu cúc tướng. Ngày kía, người ta rao lá giong gói bánh chưng. Nay mai anh xuống hát cho một chầu tất niên để em kiếm cái tết nhé! Mai thì nó đến khám két của anh. Mai ta lại chạy vậy Sau một lát,anh nó lại xấn xổ nói Sau những trận đau lòng ấy, chẳng biết trông cậy vào ai, thằng Hợi chỉ còn ôm đầu lủi thủi lại cầm tay tôi, ngước mắt nhìn lên tỏ ý kêu van, dưới ánh sáng mặt trời xiên qua bóng mấy cây bàng, tôi còn thoảng nhớ cái nét mặt ủ rũ của thằng Hợi, hai hàng nước mắt chạy quanh rơm rớm. Sau khi khám xét, thấy không có điều gì khả nghi, quan huyện đã cho phép mai 41
Pl.46
1303.
54
1304.
56
1305. 1306. 1307. 1308.
64 64 63 72
1309. 1310.
78 78
1311.
94
1312.
97
1313. 1314. 1315. 1316.
100 103 103 105
1317.
111
1318. 1319.
111 113
1320.
114
1321.
114
1322. 1323.
115 116
1324. 1325.
116 119
1326. 1327.
119 122
1328.
122
táng. Sau khi được mặc áo lam quần trắng, vào lúc chiều, đèn máy vừa mới bật, Liên được cậu dắt đi chơi phố để mua búp-bê và nhân thể xem rước đèn. Sau cùng, bà ẵm Liên lên lòng và khẽ hỏi: -Thế sao con không kêu ngay lên cho cậu con biết? Ngày xưa quan viên tìm cô đầu Bây giờ cô đầu hạ mình quá với quan viên. Năm phút sau bà chủ kêu: Đồ chó! Sau khi có nó ba bốn ngày, chưa cho cụ được dịp phát tài đâu, nó đã vồ lấy ống chân cụ Bá bà mà ngoạm luôn cho một ngoạm. Sau ngày cưới được năm hôm, chị Hiển đã đến chơi với tôi. Mấy hôm sau nữa, khi lại thăm bạn vào lúc anh Hiển vắng nhà, tôi thấy chị ấy có cái vẻ mặt của người hối hận vì đã trót làm điều gì tai hại mà không còn phương gì cứu chữa nổi nữa. Sau khi kéo ghế ngồi rồi, vợ anh Doãn gọi ngay một ấm chè Long Tỉnh, thạo đời như một người đàn ông "cơm hàng cháo chợ, vợ cô đầu". Sau nửa tiếng đồng hồ, tôi được biết rằng đó là con gái một nhà buôn bán khá giầu ở Lào Cai. Năm tháng sau, một hôm tôi nhận được một phong thư như thế này Sau khi lý luận ngây thơ như thế, anh gõ cửa nhà hộ sinh. Khi cô khán hộ ra khỏi phòng, anh mới hỏi người yêu: Lúc ấy, ở sân nhà hộ sinh thấy có một người béo lùn - chính người anh đã gặp - hai tay ôm lễ mễ hai đống tướng những: hộp sữa, rượu bổ, lê, táo, khăn mặt bông, bí tất mới. Hôm sau, lúc ông thanh tra khám két, Thụy vẫn là một viên chức đúng luật lắm. Buổi trưa, lúc tan sở, Chung lại tìm Thuỵ. Sau khi đi quanh các hàng rào tre của làng đã hai lần, không gặp một con chim gáy, một con cò, một con quạ, chúng tôi đành vác súng về không. Về nhà, cả ngày hôm ấy, tôi dùng thời giờ để cãi nhau với bạn rằng lỗi là ở hòn đạn. Cách đây hai tháng, vào lúc tôi nghỉ dưỡng bệnh đau phổi ở Bắc Cạn thì cuộc săn khỉ đã xảy ra ở Khao Kỳ. Nửa giờ sau, chiếc xe đế vương ấy đến động Khao Kỳ Một giờ sau, chúng tôi ra khỏi động, xuống cái am mà người ta gọi là "đền ngoài". Chẳng nói gì đến săn nữa, bạn hữu tôi lấy các thức ăn đem ra, chén phè phỡn! Sáng sớm hôm sau, khi thằng xe một tay vác cuốc, một tay xách cái kéo khổng lồ ra vườn, thì nó gặp cô Thư đã vác chiếc ghế con ra định cùng ngồi dưới gốc cam. Lúc ấy, ông chủ và bà chủ đều chưa dậy. Sau khi biết thật là không có cách nào, hai con bố mẹ mới lại bay lên đậu ở cành cao. Một lát sau nó đem vào một cái tổ chim, với một chú chim non lại còn non hơn con trước, bé hơn, chưa biết kêu. Hai con chim, trên cây, lại vụt bay đi kiếm mồi
1329.
124
Pl.47
1330. 1331.
124 124
1332. 1333. 1334.
124 124 125
1335.
125
1336. 1337.
125 125
1338. 1339. 1340.
3 4 10
1341. 1342. 1343.
16 22 25
1344. 1345.
1346. 1347. 1348.
62 78 78
1349.
96
1350. 1351.
100 139
1352.
155
1353. 1354.
99 30
1355.
90
1356. 1357. 1358.
Năm phút sau, cả hai cùng về, có mỗi con một con sâu ở mỏ. Đến lúc trời tối sậm, hai con bố mẹ đậu yên một chỗ cao chót vót ở ngọn cây xoan, giữa vườn hoa. Sáng sớm hôm sau, thằng xe lại buộc cái tổ chim ra cành cây ổi. Lúc ấy, hai con chim bố mẹ lại bay đến tổ, lần lượt mớm mồi cho con. Tuy Giữa lúc ấy, tiếng chim kêu bỗng líu la líu tíu khiến cho mọi người vội quay nhìn ra. Trên cây ổi, đó là hai chấm đỏ, lập lòe đâm bông như hoa lựu về mùa hạ của Nguyễn Du. Mấy hôm sau, con chim non vô phúc kia bị nhốt vào một cái lồng son. Sau ba ngày, nó cũng đã nghiễm nhiên trông ra mẽ lắm, đã đến cái thời kỳ "kiếm lấy mà ăn" vậy. Mấy hôm nay,thằng Hai Xuân xem ra có ý lo buồn lắm. Thằng Xuân mấy hôm nay xem ra có ý lo buồn lắm Năm nay tôi ngót ba mươi tuổi đầu rồi mà chưa có vợ con gì cả,vẫn cô độc cô quả thế này là vì những ai?... Bạn tôi xưa nay vẫn hay giảng đạo đức, thuyết luân lý. - Bố nó hôm nay kiếm được bao nhiêu tất cả...? Đã được nửa tháng nay, sáng nào cũng thấy thằng cu lớn dắt bà ra ngồi đầu đê rồi chiều đến lại dắt về. Hôm nay, một tiểu thư thấy, nhà trước cửa, cô kia mới may một bộ áo tân thời. 60 60 Ba hôm sau, cô này cũng phải may một bộ áo tân thời lại tân thời hơn cả của cô kia. Hôm nay người ta rao cá ông Táo. Có lẽ từ nay mà đi, tôi đành cam phận là người đàn bà khổ sở nhất đời rồi! Từ nay mà đi, tôi không còn dám màng tưởng đến những ngày mà tôi đã thấy cuộc đời là có nghĩa lý là đáng sống như những ngày mới bước chân về nhà chồng nữa. Xưa nay ta yêu người đẹp đã nhiều để mà nhận thấy rằng sự yêu đương của họ cũng nhiều khi vô vị lắm. Hôm nay, anh đã là cha một đứa trẻ con Ngày nay, nhờ nạn nhân mãn, những thuế thổ trạch quá nặng, bọn người ít tiền chúng ta đã không còn biết cái tình liên lạc của "láng giềng", để mà hiểu rõ cái gì là cái hệ trọng của người "ở chung" đối với ta, lại thân mật hơn ông láng giềng thuở trước. Bữa nay cụ Phán Uyên, đã được hiểu rõ cái gì là cái vinh quang, những đồ mừng quý giá, những tấm câu đối đỏ treo la liệt khắp tường, đã đủ an ủi về số tiền bỏ ra. Bây giờ, có con với nhau rồi, vợ tôi chẳng cần gì nữa. Thế là đến tận bây giờ, cái tiểu sử đau đớn của nàng tôi mới được nàng kể rõ cho nghe. Cho mãi đến bây giờ, tôi cũng chưa hiểu vì lẽ gì xưa kia Oanh lại từ chối lời cầu hôn của tôi! Ngay bây giờ, chúng tôi rất cần đi ăn, đi chơi! Bây giờ, đời anh quả thật đã là đời bỏ đi! Hai mươi năm về trước, bà lão lòa này còn là người có của trong làng.
144 162 22
Pl.48
1359. 1360.
60 60
1361.
80
1362.
83
1363.
90
1364.
97
1365. 1366.
104 7
1367.
12
1368.
102
1369.
129
1370. 1371.
5 83
1372. 1373.
87 50
1374.
50
1375.
74
1376.
82
1377. 1378. 1379.
162 164 25
1380.
55
1381. 1382.
Hôm nay, một tiểu thư thấy, nhà trước cửa, cô kia mới may một bộ áo tân thời. Ba hôm sau, cô này cũng phải may một bộ áo tân thời lại tân thời hơn cả của cô kia. Trước những lý luận đanh thép của một người có khối óc tỉ mỉ sáng suốt như thế, tôi biết là chối cãi thì không được, biết chối cãi thế nào? Trước mặt tôi, chị Hiển kéo hai bàn tay của chồng về lòng, run rẩy nói bằng một thứ giọng kỳ lạ: Trước khi đáp, người vợ còn cúi đầu ngẫm nghĩ, ý chừng để giãi bày cho khôn khéo. Cho nên, trước khi chia tay nhau, tôi hỏi: "Này em, nếu rồi em... Có mang thì làm thế nào?" Trước một lý luận cứng như thế, anh ta ngồi im như một con cóc. Thỉnh thoảng,một cặp trai gái lướt qua mặt nó, để lại cho nó một ít hương thơm thoang thoảng. Thỉnh thoảng,một vài giọt nước rơi vào mặt,vào đầu,vào gáy,vào lưng nó,làm nó rét run lên cầm cập mà dưới đất,những hạt mưa lăn tăn bắn lên chân nó làm nó thấy ngứa ngáy khó chịu vô cùng. Trong những lúc ái ân, anh đã hứa: - Mình cứ an tâm. Rồi tiện dịp, tôi nói với bà lão nhà tôi thì mình cũng được về nhà tử tế. Rồi chúng ta xin bà lão trăm bạc làm cái vốn riêng. Trong một buổi chắn cạ có sự thân mật, có sự kề đùi kề vế, anh ta vô tình mà cảm được một người đàn bà góa chồng có trong lòng bao nhiêu giây đàn mà đã từ lâu không có tay tiên nào gảy đến. Thằng Hai trông đám người ấy chẳng bằng con mắt ác cảm. Trước mặt tôi, chị Hiển kéo hai bàn tay của chồng về lòng, run rẩy nói bằng một thứ giọng kỳ lạ: Tôi tưởng khuây khỏa được bạn bằng cách vỗ vai bạn mà rằng: Cách đấy chỉ vài phút, Vện lại chui qua lỗ hổng ở rậu mà vào, đôi con ngươi lấ m lét nhìn trộm chủ ra vẻ lo nghĩ không hiểu đương đêm soi đèn tìm mình làm gì thế kia. Đêm ấy, một đêm giăng thanh gió mát, nhân khi cao hứng, Vện phá rào chui ra ngoài đi với "tình nhân". Thật cũng chẳng may cho Vện quá, vì ngày hôm ấy cụ Bá có giỗ tổ, giữa lúc ấy lại nhằm lúc cụ bà đương xới cơm cúng, và cụ ông đương kính cẩn khấn khứa trước bàn thờ. Năm sau, vì có giấy bổ tôi đi Thái Nguyên, tôi không được cùng anh giáo Hiển dạy một trường, và do thế, phải cách biệt chị Hiển. Bây giờ bạn tôi cần độ ba trăm bạc để tính đường buôn bán, mong bà giúp cho. Bây giờ tôi mới đưa mình, để mình hưởng riêng mà thôi. Chẳng may, nếu hôm nào về tay không thì vợ bác đánh giậm - cháu bà - lại nghiến răng xỉa xói thậm tệ: Nếu Liên kêu lên, người ấy không thể chạy thoát, sau lưng anh ta còn những bức tường người. Nếu được tha thứ, chúng tăng xin ăn năn. Nếu biết nói như người, hẳn nó đã nói: "Em ơi, anh chết vì em đấy! Thôi cũng là
58 75
Pl.49
91 152 67
1383. 1384. 1385.
dịp cho anh tỏ dạ hy sinh tính mệnh để phụng sự ái tình!". Nếu chẳng may thế, tôi sẽ ấp mồ Oanh mà khóc! Nếu không có gì khuyết điểm, vợ nó đã phải trung thành với mình chứ? Là ông bố gật đầu ngay, móc ví lấy tiền ngay, dù gạo ngày mai chưa trông được vào đâu cũng mặc!... Dù sao mặc lòng, xưa kia tôi đã chung tình thì nay Oanh phải hối hận! Dù khuya, tôi cũng xin đi đấm cửa.
90 165
1386. 1387.
Pl.50
TƢ LIỆU TIẾNG ANH
STT
Nội dung
Trang
The Da Vinci Code
1. Last year Langdon's visibility had increased a hundredfold after his involvement
6
in a widely publicized incident at the Vatican. Năm ngoái danh tiếng của Langdon đã tăng lên gấp trăm lần sau khi ông tham gia vào một sự kiện được công chúng biết đến rộng rãi ở Vatican.
379
3.
29
2. Her face was beautiful in the moonlight Dưới ánh trăng, mặt cô thật đẹp. Just below Saunière's breastbone, a bloody smear marked the spot where the bullet had pierced his flesh. Ngay bên dưới xương ức của Saunière, một vết máu đánh dấu nơi viên đạn găm vào thịt ông.
4. Finally the call connected.
45
Cuối cùng cuộc gọi được kết nối.
68
5. Turning toward the window, Sophie gazed through the alarm mesh embedded in the plate glass, down the dizzying forty feet to the pavement below. Quay về phía cửa sổ, Sophie phóng mắt qua mạng lưới báo động gắn trên những tấm kính dầy nhìn xuống đường từ độ cao chóng mặt khoảng mười hai mét
37
6. Our cryptographers are already working on it. We believe these numbers may be the key to who killed him. Maybe a telephone exchange or some kind of social identification. Do the numbers have any symbolic meaning to you?Nhân viên mật mã của chúng tôi đang giải mã nó. Chúng tôi tin rằng những con số này có thể là chìa khóa dẫn đến kẻ sát nhân. Có thể là một tổng đài điện thoại hoặc một thứ thẻ căn cước nào đó. Liệu những con số này có ý nghĩa biểu tượng nào với ông không?
40
7. Maybe, by imitating a famous Da Vinci drawing, Saunière was simply echoing some of their shared frustrations with the modern Church's demonization of the goddess Có thể, bằng việc bắt chước một bức vẽ nổi tiếng của Da Vinci, Saunière chỉ đơn thuần phản ánh một vài điều thất vọng chung của họ đối với việc Giáo hội hiện đại quỷ hóa nữ thần
81
185
8. Tomorrow, I'll show you his fresco The Last Supper, which is one of the most astonishing tributes to the sacred feminine you will ever see. Ngày mai tôi sẽ cho các bạn xem bức bích hoạ của ông, đó là một trong những biểu hiện kỳ diệu nhất sự tôn kính dối với tính nữ thiêng liêng mà các bạn sẽ có dịp được chiêm ngưỡng 9. Shortly afterward, Langdon received a postcard from an old friend—the Catholic Bishop of Philadelphia. The card simply read: Et tu, Robert?Ngay sau đó, Langdon nhận được một tấm bưu thiếp từ một người bạn cũ là Giám mục Philadelphia.
4 349
10. My work here is done. Công việc của tôi đã hoàn thành 11. Lifting a weary arm, he mopped his eyes and saw the man holding him was Silas. Nhấc cánh tay rã rời lên, Aringarosa rụi mắt và thấy người đàn ông đang ôm mình chính là Silas.
349
12. Cradled in the arms of the man he had taken in all those years ago, Bishop Aringarosa felt himself reel back in time. Được ẵm trong vòng tay của người mà nhiều năm trước đây ông đã cưu mang, giám mục Aringarosa cảm thấy mình như quay trở ngược lại thời gian
Pl.51
349
13. To his modest beginnings, building a small Catholic church in Oviedo with Silas. Về những khởi đầu khiêm nhường của mình, xây dựng một nhà thờ Ki tô giáo nhỏ ở Oviedo cùng Silas
349
14. And later, to New York City, where he had proclaimed the glory of God with the towering Opus Dei Center on Lexington Avenue.Và rồi đến New York – nơi ông đã sáng danh Chúa với Trung tâm Opus Dei cao ngất trên đại lộ Lexington. 15. Five months ago, Aringarosa had received devastating news Năm tháng trước
349
đây, Aringarosa đã nhận được những tin choáng váng.
350
350 350
351
20.
351
352
16. Plainly stated, six months from today, Opus Dei will no longer be considered a prelature of the Vatican. Nói thẳng ra, sáu tháng nữa kể từ ngày hôm nay, Opus Dei sẽ không còn được xem là một giáo phận của Vatican nữa. 17. On the contrary, it is quite possible. Trái lại, điều đó hoàn toàn có thể. 18. Quite frankly, Opus Dei has become a liability and an embarrassment. Nói một cách rất thẳng thắn, Opus Dei đã trở thành một thứ gây bất lợi và phiền hà 19. Returning to New York, he stared out at the skyline in disillusionment for days, overwhelmed with sadness for the future of Christianity. trở lại New York, suốt bao ngày, ông cứ thao láo nhìn ra đường chân trời, vỡ mộng, lòng nặng trĩu nỗi buồn cho tương lai của Thiên Chúa giáo. It was several weeks later that he received the phone call that changed all that. Chính vài tuần sau đó, Aringarosa nhận được cú điện thoại đã làm thay đổi tất cả 21. Bishop Aringarosa was unconscious when the doors of St. Mary's Hospital hissed open. Giám mục Aringarosa đã bất tỉnh khi những cánh cửa của bệnh viện St. Mary kẹt mở
352
22. Father, if it takes my lifetime, I will find the one who deceived us, and I will kill him Cha ơi, dù có phải mất cả cuộc đời, con cũng sẽ tìm ra kẻ đã lừa gạt chúng ta và con sẽ giết hắn
353
23. Without ever lifting his eyes, he stepped backward, out into the room's vast empty spaces. Không hề ngước mắt lên, Langdon lùi lại, đi vào khoảng trống rộng của căn phòng.
353
24. With Sophie at gunpoint across the room, Langdon feared that discovering the cryptex's elusive password would be his only remaining hope of bartering her releaseVới Sophie bị đe dọa trước mũi súng ở đầu phòng đằng kia, Langdon sợ rằng việc tìm ra cái mật khẩu khó bề nắm bắt của hộp mật mã sẽ là hy vọng duy nhất còn lại ngõ hầu giải thoát Sophie.
353
25. Forcing his mind to this critical task, Langdon moved slowly toward the far windows... allowing his mind to fill with the numerous astronomical images on Newton's tomb Vắt óc để làm nhiệm vụ cấp bách này, Langdon chậm rãi tiến về những cửa sổ phía xa... để tâm trí tràn đầy những hình ảnh chiêm tinh về ngôi mộ của Newton.
353
26. Turning his back to the others, he walked toward the towering windows, searching for any inspiration in their stained-glass mosaics. Quay lưng lại với những người khác, ông bước về phía những khung của sổ cao vút, tìm cảm hứng trong trang trí môzaic trên những ô kính màu.
354
27. Gazing out at the rustling trees of College Garden, Langdon sensed her playful presence Nhìn ra hàng cây xào xạc trong Vườn Đại học, Langdon cảm thấy sự hiện diện đùa bỡn của Chén Thánh
28. Like a taunting silhouette emerging from the fog, the branches of Britain's oldest
354
Pl.52
apple tree burgeoned with five-petaled blossoms, all glistening like Venus. Như một bóng dáng trêu ngươi đột nhiên từ sương mù, những cành của cây táo già nhất nước Anh bỗng nở ra những bông hoa năm cánh, tất cả sáng long lanh như sao Kim
354
29. Across the room, Sir Leigh Teabing watched with confidence as Langdon gazed out the window as if under a spell.Đầu phòng đằng kia, ngài Leigh Teabing theo dõi với lòng tự tin khi Langdon nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ như bị bùa mê.
354
30. For some time now, Teabing had suspected Langdon might hold the key to the Grail Từ ít lâu nay, Teabing đã ngờ ngợ rằng có thể Langdon đang nắm chiếc chìa khoá dẫn đến Chén Thánh.
354
31. Listening in on the curator, Teabing was certain the man's eagerness to meet privately with Langdon could mean only one thing. Nghe trộm ông phụ trách bảo tàng, Teabing biết chắc việc ông này tha thiết muốn gặp riêng Langdon chỉ có một ý nghĩa duy nhất
354
32. Yesterday afternoon, Silas had phoned the curator and posed as a distraught priest.Chiều hôm qua, Silas đã gọi cho người phụ trách bảo tàng và sắm vai một linh mục quẫn trí
355
33. Now, with Langdon separated from Sophie on the far side of the room, Teabing sensed he had successfully alienated the two companions from one another.Giờ đây, với Langdon cách xa Sophie cả chiều dài của căn phòng, Teabing cảm thấy rằng lão ta đã thành công, tách rời được hai người bạn đồng hành.
34. At that moment, Langdon turned from the windowĐúng lúc đó, Langdon từ cửa
355
sổ quay lại
357
35. Langdon and Neveu were nothing but a threat to Teabing now... and to the Grail. Giờ đây Langdon và Neveu chẳng là gì khác ngoài một mối đe doạ đối với Teabing... và đối với Chén Thánh.
357
36. As painful as the solution was going to be, he knew he could carry it out with a clean conscience. Dù giải pháp này sẽ rất đau đớn, Teabing cũng biết là mình sẽ tiến hành nó với một lương tâm trong sạch
37. When I set this down, he will kill us both.Khi mình đặt viên đá đỉnh vòm này
357
xuống, hắn sẽ giết cả hai chúng ta.
357
38. Even without looking at Sophie, he could hear her heart beseeching him in silent desperation.Không cần nhìn Sophie, ông vẫn nghe thấy trái tim cô cầu khẩn ông trong nỗi tuyệt vọng câm lặng.
39. Langdon had already made his decision several minutes ago, while standing
357
alone at the window overlooking College Garden. Langdon đã có quyết định riêng vài phút trước đó, trong khi đứng một mình tại cửa sổ nhìn ra Vườn Đại học.
40. Now, bowing down like a subject several yards in front of Leigh Teabing,
357
Langdon lowered the cryptex to within inches of the stone floor.Lúc này, cúi đầu như một thần dân tái mét trước mặt Leigh Teabing, Langdon hạ thấp viên đá đỉnh vòm chỉ cách nền đá dăm phân.
357
42.
357
41. Crouching lower, Langdon lowered his gaze to Teabing's gun, aimed directly at him. Cúi thấp hơn nữa, Langdon hạ tia nhìn ngang tầm khẩu súng của Teabing đang chĩa thẳng vào ông. In one fluid motion, Langdon leapt up, swinging his arm skyward, launching the cryptex straight up toward the dome above. Bằng một động tác uyển chuyển,
Pl.53
Langdon nhảy vọt lên, vung tay lên trời, ném thẳng chiếc hộp mật mã về phía mái vòm
43. For a full second, Teabing did not breathe. Trong cả một giây, Teabing không
358
thở được.
358
44. Lying there outstretched on the cold floor, staring the length of his outstretched arms at the marble cylinder in his bare palms, he implored the glass vial inside to hold.ằm sóng xoài trên sàn nhà lạnh giá, nhìn trân trân dọc theo hai cánh tay duỗi thẳng tới hình trụ cẩm thạch trong lòng bàn tay, lão cầu sao chiếc lọ nhỏ bằng thuỷ tinh bên trong đừng vỡ.
358
45. To his shock, as he pulled the ends of the keystone, the cylinder separated.Trước sự bàng hoàng của Teabing, khi lão kéo mạnh hai đầu viên đá đỉnh vòm, hình trụ bỗng tách rời ra.
46. Bewildered, Teabing looked back at the keystone and saw it. Hoang mang,
359
Teabing nhìn lại viên đá đỉnh vòm và hiểu ra.
359
359
47. Without blinking, Langdon reached into the breast pocket of his tweed coat and carefully extracted a delicate rolled papyrus.Không chớp mắt, Langdon thò tay vào túi ngực chiếc áo vải tuýt và cẩn thận lôi ra một cuộn giấy papyrus mỏng 48. Only a few yards from where Teabing lay, Langdon unrolled the scroll and looked at it. Langdon trải cuộn giấy ra chỉ cách chỗ Teabing nằm vài mét, và xem xét.
49. After a long moment, a knowing smile crossed Langdon's face. Sau một lúc lâu,
359
một nụ cười thông tỏ nớ trên mặt Langdon.
359
50. When the doors burst open, Bezu Fache entered like a bull into a ring, his feral eyes scanning, finding his target—Leigh Teabing—helpless on the floor. Khi những cánh cửa mở tung ra, Bezu Fache bước vào như một con bò tót vào vòng đấu, cặp mắt hung dữ lia khắp rồi tìm thấy mục tiêu – Leigh Teabing – nằm trơ trên sàn nhà.
359
51. Exhaling in relief, Fache holstered his Manurhin sidearm and turned to Sophie. Thở hắt ra nhẹ nhõm, Fache tra khẩu Manurhin vào vỏ và quay sang Sophie 52. As they hoisted Teabing and carried him out, he threw back his head and howled.
359
Khi họ nhấc Teabing khiêng ra ngoài, lão vẫn ngoái đầu lại và gào lên
53. As Teabing passed, Langdon looked him in the eye. Khi Teabing đi ngang qua,
359
Langdon nhìn vào mắt lão
360
54. The mist had settled low on Kensington Gardens as Silas limped into a quiet hollow out of sight. Sương mù giăng thấp trên Vườn Kensington, Silas tập tễnh lê bước vào một chỗ trũng yên tĩnh khuất tầm nhìn.
55. Kneeling on the wet grass, he could feel a warm stream of blood flowing from
360
the bullet wound below his ribs. Quỳ gối trên bãi cỏ đẫm sương, hắn cảm thấy dòng máu ấm chảy tràn ra từ vết đạn dưới xương sườn.
56. Still, he stared straight ahead. Tuy nhiên, hắn vẫn chằm chằm nhìn thẳng ra phía
360
trước.
360
360
57. Raising his bloody hands to pray, he watched the raindrops caress his fingers, turning them white again. Giơ hai bàn tay vấy máu lên cầu nguyện, hắn nhìn những hạt mưa mơn man những ngón tay mình, trả lại màu trắng cho chúng. 58. As the droplets fell harder across his back and shoulders, he could feel his body disappearing bit by bit into the mist.Khi mưa rơi nặng hạt hơn trên lưng và vai
Pl.54
hắn cảm thấy như cơ thể mình đang từng chút một tan biến vào trong sương mù.
59. With every living cell in his broken body, Silas prayed. Silas cầu nguyện bằng tất
360
cả những tế bào sống trong cơ thể kiệt quệ của mình
60. Now, sitting in the back of the cab, Fache closed his eyes. Bây giờ, ngồi ở ghế
361
sau của taxi, Fache nhắm mắt lại
61. Last night, however, Aringarosa had received a call from Bezu Fache,
362
questioning the bishop about his apparent connection to a nun who had been murdered in Saint-Sulpice. Tuy nhiên, đêm qua, Aringarosa đã nhận được một cuộc gọi của Bezu Fache, cật vấn ông về mối quan hệ rõ ràng là có giữa ông với một nữ tu sĩ bị giết ở Saint-Sulpice.
362
62. Feeling bone weary, Aringarosa closed his eyes and listened to the television coverage of the arrest of a prominent British knight, Sir Leigh Teabing. Cảm thấy xương cốt rã rời, Aringarosa nhắm mắt lại và nghe tivi đưa tin về việc bắt giữ một Hiệp sĩ người Anh nối tiếng, Ngài Leigh Teabing.
363
63. On the television, a lean French police officer was giving a press conference in front of a sprawling mansion. Trên tivi, một sĩ quan cảnh sát Pháp gày mảnh đang họp báo ngay trước tòa nhà dài rộng
64. Last night, your captain publicly charged two innocent people with murder. đêm
qua, đại uý của các ông đã công khai khép hai người vô can vào tội giết người
363
65. When he turned, there was an uncertainty about him. "My Lord, where do you go from here?" Khi quay lại, ông ta có một vẻ gì phân vân: "Thưa Đức Cha, rồi đây cha sẽ đi đâu?"
364
66. Their short flight from London to Edinburgh had been restful, although neither of them had slept for the anticipation of what lay ahead.Chuyến bay ngắn của họ từ London đến Edinburgh rất thoải mái, mặc dù không ai ngủ được do nghĩ đến những gì đang chờ đợi ở phía trước.
364
67. Gazing up at the stark edifice framed against a cloud-swept sky, Langdon felt like Alice falling headlong into the rabbit hole. Nhìn lên toà nhà ảm đạm in bóng trên nền trời đầy mây, Langdon cảm thấy mình như Alice rơi cắm đầu xương hang thỏ.
365
68. Although Langdon had never been to Rosslyn before now, he always chuckled when he heard the chapel described as the current home of the Holy Grail Mặc dù trước nay, Langdon chưa tửng tới Rosslyn, ông vẫn luôn cười tủm khi nghe người ta mô tả nhà thờ này như là nơi hiện đặt Chén Thánh
365
69. Admittedly, Rosslyn once might have been home to the Grail, long ago... but certainly no longer. Phải thừa nhận, Rosslyn có thể đã từng là nơi đặt Chén Thánh, lâu lắm rồi... nhưng chắc chắn nay không còn nữa. NB
365
71.
365
70. Tonight, however, with the Priory's keystone offering a verse that pointed directly to this spot, Langdon no longer felt so smug Tuy nhiên, tối nay, với viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion cùng bài thơ chỉ thẳng đến nơi này, Langdon không còn cảm thấy quá tự mãn nữa. . Inside, both cryptexes had been reassembled and nested as they had been found.Bên trong, cả hai hộp mật mã đã được lắp ráp lại và nằm gọn như khi chúng được tìm thấy.
365
72. Making their way up the long gravel path, Langdon and Sophie passed the famous west wall of the chapel. Đi lên con đường dài rải sỏi, Langdon và Sophie qua bức tường nồi tiếng phía tây của nhà thờ.
Pl.55
73. The truth, Langdon recalled, was far more intriguing. Sự thực, Langdon nhớ lại,
365
nó còn gây tò mò hơn thế.
366
74. Entering with Sophie, Langdon felt his eyes reaching across the famous sanctuary and taking it all in. Bước vào cùng Sophie, Langdon phóng mắt qua khắp điện thờ nổi tiếng và thấy được toàn cảnh
366
75. Although he had read accounts of Rosslyn's arrestingly intricate stonework, seeing it in person was an overwhelming encounter. Mặc dù ông đã đọc nhiều bài mô tả công trình chạm đá phức tạp một cách quyến rũ của Rosslyn, nhưng việc trực tiếp mục kích vẫn là một cuộc hội ngộ choáng ngợp.
76. The docent had seen Langdon and Sophie enter, and although it was
366
closing time, offered a pleasant smile and motioned for them to feel free to look around. Người hướng dẫn nhìn thấy Langdon và Sophie bước vào, và mặc dù đã đến giờ đóng của, anh vẫn mỉm cười hòa nhã và ra hiệu cho họ cứ xem thoải mái. 77. My grandfather must have brought me here when I was very young Ông tôi hẳn
366
đã đưa tôi đến đây khi tôi còn rất nhỏ
78. As her eyes scanned the room, she began nodding with more certainty. Khi cô
366
nhìn khắp lượt căn phòng, cô bắt đầu gật gù với vẻ chắc chắn hơn
368
368
79. Having handed the rosewood box to Langdon, she could feel herself momentarily forgetting all about the Holy Grail, the Priory of Sion, and all the mysteries of the past day.Chiếc hộp hồng mộc đã giao cho Langdon, cô cảm thấy có thể tạm thời quên hết về Chén Thánh, Tu viện Sion cùng tất cả những bí ẩn của ngày vừa qua. 80. When she arrived beneath the encoded ceiling and saw the symbols above her, the memories came flooding back. Khi cô đến phía dưới trần nhà có khắc mật mã và thấy những biểu tượng trên đầu, ký ức tràn về như dòng lũ.
81. After a few minutes, the symbols got fuzzy Sau vài phút, các biểu tượng mờ dần. 82. When Sophie awoke, the floor felt cold. Khi Sophie tỉnh dậy, sàn nhà lạnh cóng. 83. Oh, Sophie, you and I have said good-bye to a lot of people this year,.Ôi, Sophie,
369 369 369
năm nay ông cháu mình phải từ biệt biết bao người.
370
84. Standing with the docent, Langdon had been scanning the chapel walls and feeling a rising wariness that a dead end might be looming. Đứng bên người hướng dẫn viên, Langdon rà soát toàn bộ các bức tường của nhà thờ và cảm thấy mỗi lúc một thêm cảnh giác với một ngõ cụt có thể lù lù trước mặt.
370
370
85. Although Saunière's poem clearly indicated Rosslyn, Langdon was not sure what to do now that they had arrived. ặc dù bài thơ của Saunière chỉ rõ Rosslyn, Langdon vẫn không chắc bây giờ phải làm gì khi mà họ đã tới đúng chỗ. 86. Một lần nữa, Langdon cảm thấy một khía cạnh nào đó của điều bí ẩn này vẫn chưa hé lộ. Again Langdon sensed there remained some facet of this mystery yet to reveal itself.
87. Concerned for Sophie, Langdon moved across the chapel toward the door to call
370
out to her. Lo lắng cho Sophie, Langdon đi về phía cửa để gọi cô.
88. He was only halfway there when he stopped short. Đi được nửa chừng, ông chợt
370
dừng lại.
89. Something the young man said just registered. Lúc này, ông mới kịp ghi nhận
371
một điều gì đó trong những lời của chàng trai trẻ.
90. Out on the bluff, the fieldstone house was exactly as Sophie remembered it Bên
371
Pl.56
ngoài, trên con đường dốc, ngôi nhà đá đúng hệt như trong trí nhớ Sophie. 91. Night was falling now, and the house exuded a warm and inviting aura. Đêm
371
đang xuống, ngôi nhà toả ra một thứ hào quang ấm và mời gọi
92. As Sophie approached, she could hear the quiet sounds of sobbing from within.
371
Khi Sophie lại gần, cô có thể nghe thấy những tiếng thổn thức từ bên trong. 93. Through the screened door, Sophie saw an elderly woman in the hallway. Qua
372
cánh cửa che mành, Sophie nhìn thấy một bà già trong nhà.
94. Feeling herself drawn closer, Sophie stepped onto the porch stairs Cảm thấy bị
372
lôi cuốn tới gần hơn, Sophie bước lên những bậc thềm.
372
95. Throwing open the door, she came out, reaching with soft hands, cradling Sophie's thunderstruck face. Qua cánh cửa mở, bà bước ra, vươn đôi bàn tay mềm mại, ấp lấy khuôn mặt còn sững sờ của Sophie
96. Through her tears, Sophie nodded, standing. Qua làn nước mắt, Sophie gật đầu
373
và đứng lên.
97. When Langdon walked across the lawn to join them, Sophie could not imagine
373
that only yesterday she had felt so alone in the world. And now, somehow, in this foreign place, in the company of three people she barely knew, she felt at last that she was home. Khi Langdon băng qua bãi cỏ để nhập bọn với họ, Sophie không thể tưởng tượng được chỉ mởi hôm qua cô còn cảm thấy thật cô đơn trên đời, thế mà giờ đây, cách nào đó, ở nơi xa lạ này, bên cạnh ba con người cô mới chỉ biết sơ sơ, cô bỗng cảm thấy, cuối cùng, mình đã trở về nhà.
98. Through the window, he could see Sophie talking with her brother.Qua khung
373
cửa sổ, ông có thể thấy Sophie đang nói chuyện với em trai.
373
100.
373
101.
374
102.
374
103.
104.
105.
99. Seeing her standing in my doorway tonight was the greatest relief of my life. Tối nay, thấy nó đứng trong khung cửa nhà tôi đó là nỗi nguôi dịu lớn nhất của đời tôi. When Sophie's parents were killed in a car accident whose cause could not be determined, the Priory feared the identity of the royal line had been discovered. Khi bố mẹ Sophie bị giết trong một tai nạn ô tô không xác định được nguyên nhân, Tu viện Sion sợ rằng nhân thân của dòng dõi hoàng gia đã bị phát hiện. Hearing of the accident, Jacques and I had no way to know what had really happened... or if this was truly an accident Khi nghe tin về tai nạn đó, ông bà chẳng có cách nào để biết được điều gì đã thực sự xảy ra... liệu đây có phải là một tai nạn thực sự hay không Then your brother and I went underground with the Priory Sau đó, hai bà cháu phải lặn vào bí mật với Tu viện Now, gazing up at the spires of Rosslyn, Langdon could not escape the hollow gnaw of Rosslyn's unsolved mystery.Giờ đây nhìn lên những ngọn tháp của Rosslyn, Langdon không sao thoát khỏi nỗi nhay nhứt khoan sâu của điều bí ẩn chưa giải được của Rosslyn. Before Langdon could answer, Marie Chauvel had stepped off the porch and was heading toward the chapel. Trước khi Langdon kịp trả lời, Marie Chauvel đã bước ra khỏi cổng và hướng về phía nhà thờ nhỏ. Entering the ancient building, Marie turned on the lights and pointed to the center of the sanctuary floor. Bước vào tòa nhà cổ, Marie bật đèn và chỉ vào trung tâm của sàn chính điện
Pl.57
106.
8
107.
10
108. 109.
11 27
110.
27
111.
27
112. 113.
27 27
114.
31
115.
35
116. 117.
35 36
118.
36
119.
36
120. 121.
36 37
I'm here tonight to talk about the power of symbols. tôi ở đây tối nay để nói về sức mạnh của các biểu tượng He was a visitor here this week, and yet for many years he had been blessed with a similar sanctuary in New York City. Hắn là khách ở đây trong tuần này, nhưng nhiều năm nay, hắn có ân phước được ở một thánh đường tương tự ở New York City. The keystone is here in Paris. Viên đá đỉnh vòm đó ở đây, tại Paris này Having squeezed beneath the security gate, Robert Langdon now stood just inside the entrance to the Grand Gallery. Sau khi khép mình chui dưới hàng rào bảo vệ, Robert Langdon giờ đây đứng bên trong lối vào Hành Lang Lớn. Although the Grand Gallery housed the Louvre's most famous Italian art, many visitors felt the wing's most stunning offering was actually its famous parquet floor. Mặc dù Hành Lang Lớn cất giữ nghệ thuật Ý nổi tiếng nhất của Louvre, nhiều khách du lịch lại cảm thấy món quà gây ấn tượng nhất của cánh này, trên thực tế, lại là cái sàn gỗ nổi tiếng của nó As Langdon's gaze began to trace the inlay, his eyes stopped short on an unexpected object lying on the floor just a few yards to his left, surrounded by police tape. Khi cái nhìn của Langdon bắt đầu dõi theo đường ván lát, mắt ông bỗng dừng phắt trên một vật bất ngờ nằm trên sàn chỉ cách ông vài mét về bên trái, khoanh giữa dải băng đinh dấu của cảnh sát. Saunière died in here alone. Saunière đã chết một mình trong này I was sent here to build a church for the Obra de Dios. Tôi được phái đến đây để xây một nhà thờ cho dòng tu Obra de Dios Fache looked more troubled now, as if he somehow preferred the idea of devil worship. Fache bây giờ trông bối rối hơn, như thể bằng cách nào đó anh ta thích ý tưởng thờ quỷ The nearby convent was her formal residence, if anyone asked, but she preferred the quiet of the church and had made herself quite comfortable upstairs with a bed, phone, and hot plate.Tu viện gần ngay cạnh là chỗ ở trước đây của bà, nhưng bà thích sự yên tĩnh của nhà thờ và tự trang bị thêm cho mình một cái giường, điện thoại và một lò sưởi nhỏ I apologize if I have awoken you, Sister. Ta xin lỗi nếu ta đánh thức Xơ One of his numeraries is in Paris tonight. Một trong số những môn đồ của ông ấy đang ở Paris tối nay Sister, I agree, and yet I would consider it a personal favor if you could let him in tonight. Xơ, ta đồng ý với Xơ, nhưng nếu Xơ để cho anh ta vào tối nay, ta sẽ coi đó là một ân huệ cá nhân đối với ta Sadly, while most of the Catholic Church was gradually moving in the right direction with respect to women's rights, Opus Dei threatened to reverse the progress. Thật đáng buồn, trong khi hầu hết các nhà thờ Thiên Chúa giáo đang dần dần đi theo con đường đúng đắn với sự tôn trọng phụ nữ, thì Opus Dei lại đe dọa đảo ngược tiến trình Even so, Sister Sandrine had her orders Mặc dù vậy, Xơ Sandrine đã nhận lệnh. Swinging her legs off the bed, she stood slowly, chilled by the cold stone on the soles of her bare feet. Ra khỏi giường, bà từ từ đứng dậy, ớn lạnh vì sàn đá dưới
Pl.58
122.
37
123.
37
124.
37
đôi chân trần As the chill rose through her flesh, she felt an unexpected apprehension. Khi cảm giác ớn lạnh ngấm vào da thịt, bà cảm thấy một nỗi lo sợ bất ngờ. Tonight, however, those voices were as silent as the empty church around her. Tuy nhiên, tối nay, những tiếng nói ấy cũng im lặng như nhà thờ trống. A follower of God, Sister Sandrine had learned to find peace in the calming voices of her own soul Là con chiên của Chúa, Xơ Sandrine biết là phải tìm sự yên bình trong tiếng nói xoa dịu của linh hồn bà.
125.
- Suddenly, he saw why Sophie was afraid.
341
126.
249
127.
249
128.
249
129. 130.
250 251
131.
132.
251
133.
252
134.
252
135.
252
Ông chợt nhận ra tại sao Sophie lại sợ hãi. Your grandfather and three others died tonight Ông cô và ba người khác đã chết tối nay Opus Dei came within inches tonight of possessing it. Đêm nay, chút xíu nữa thì Opus Dei đã chiếm được nó. In that moment, you will be in possession of a truth capable of altering history forever. Lúc đó, bạn sẽ sở hữu một sự thật có khả năng thay đổi lịch sử mãi mãi. The brotherhood was shattered tonight. Đêm nay, cái hội kín đó đã tan tành. Standing in the drawing room of Château Villette, Lieutenant Collet watched the dying fire and felt despondent. Đứng trong phòng tranh của Château Villette, trung uý Collet nhìn ngọn lửa đang tàn và cảm thấy rất nản Having disobeyed Fache's direct orders and lost Langdon for a second time, Collet was grateful that PTS had located a bullet hole in the floor, which at least corroborated Collet's claims that a shot had been fired. Sau khi làm trái mệnh lệnh trực tiếp của Fache và để tuột Langdon lần thứ hai, Collet thấy biết ơn bộ phận giám định đã xác định được vị trí lỗ đạn trên sàn nhà, ít nhất nó có thể chứng minh lời khẳng định của Collet rằng đã nghe thấy tiếng súng nổ. Still, Fache's mood was sour, and Collet sensed there would be dire repercussions when the dust settled. Tuy nhiên, Fache rất tức tối và Collet cảm thấy sẽ có hậu quả khốc hại khi tình hình lắng xuống. Thirty seconds later, Fache was packing up and preparing to leave Château Villette. Ba mươi giây sau, Fache đã gói ghém và chuẩn bị rời khỏi Château Villette. irty seconds later, Fache was packing up and preparing to leave Château Villette. From the kitchen, another agent yelled to Fache. "Captain? I'm going through Mr. Teabing's speed dial numbers, and I'm on the phone with Le Bourget Airfield. I've got some bad news." Từ bếp, một nhân viên khác gọi Fache: "Đại uý? Tôi đang rà soát những số mà ông Teabing đã gọi, và đang nói chuyện với sân bay Le Bourget. Tôi có vài tin xấu đây". As the Hawker leveled off, with its nose aimed for England, Langdon carefully lifted the rosewood box from his lap, where he had been protecting it during takeoff.
Pl.59
136.
252
137.
252
138.
256
139.
257
140.
257
141.
313
142. 143.
313 313
144.
315
145.
315
146.
315
Khi chiếc Hawker bay ở tầm trung, nhằm hướng nước Anh, Langdon thận trọng nhấc chiếc hộp bằng gỗ hồng mộc lên từ trong lòng – nơi ông bảo vệ nó trong suốt thời gian cất cánh của máy bay. Now, as he set the box on the table, he could sense Sophie and Teabing leaning forward with anticipation.Trong khi đặt nó lên bàn, ông cảm thấy Sophie và Teabing cũng cúi về phía trước, đón đợi. Unlatching the lid and opening the box, Langdon turned his attention not to the lettered dials of the cryptex, but rather to the tiny hole on the underside of the box lid. Tháo chốt nắp và mở hộp, Langdon không hướng sự chú ý tới những cái đĩa có kí tự mà tới cái lỗ nhỏ xíu ở mặt dưới nắp hộp Fifteen thousand feet in the air, Robert Langdon felt the physical world fade away as all of his thoughts converged on Saunière's mirror-image poem, which was illuminated through the lid of the box. Ở độ cao năm nghìn mét trên bầu trời, Robert Langdon cảm thấy thế giới vật chất như mờ dần khi tất cả suy nghĩ của Ông đều tập trung vào bài thơ chiếu-gương của Saunière, hiện sáng qua nắp hộp. Before Langdon could even ponder what ancient password the verse was trying to reveal, he felt something far more fundamental resonate within him—the meter of the poem. Trước khi Langdon kịp ngẫm nghĩ xem mật khẩu cổ xưa mà đoạn thơ cố gắng tiết lộ là gì, ông đã cảm thấy một cái gì đó còn cơ bản hơn vang vọng trong lòng mình For centuries, iambic pentameter had been a preferred poetic meter of outspoken literati across the globe, from the ancient Greek writer Archilochus to Shakespeare, Milton, Chaucer, and Voltaire—bold souls who chose to write their social commentaries in a meter that many of the day believed had mystical properties. The roots of iambic pentameter were deeply pagan.Suốt hàng thế kỷ nay, thể thơ ngũ bộ mười âm tiết theo nhịp iambic đã trở thành thể thơ ưa thích của các văn nhân bộc trực ở khắp hành tinh, từ nhà văn thời cổ Hy Lạp Archilochus tới Shakespeare, Milton, Chaucer và Voltaire – những tâm hồn quả cảm, những người chọn viết những bình luận xã hội của mình bằng một thể thơ mà nhiều người cùng thời tin là có những thuộc tính huyền bí. Running his finger across the inlaid Rose, he lifted the ornate lid. Inside he found a stone cylinder with lettered dials. Xoa ngón tay trên hình khảm Hoa Hồng, ông ta nhấc chiếc nắp được trang trí tỉ mỉ lên. They murdered people tonight. Đêm nay chúng đã giết nhiều người High in the hayloft at Château Villette, Collet stared at the computer monitor in amazement. Trên chiếc gác xép ở Château Villette, Collet kinh ngạc nhìn trân trân vào màn hình máy vi tính Finally, Rémy climbed out of the rear of the limo, walked around, and slid into the driver's seat beside Silas. Cuối cùng, Rémy ra khỏi khoang sau xe, đi vòng quanh rồi vào ghế ngồi lái bên cạnh Silas. Reaching to a control panel on the elaborate dash, Rémy pressed a button. Với tay sang bảng điều khiển, Rémy ấn một nút nhỏ. Minutes later, as the Jaguar stretch limo powered through the streets, Silas's cell phone rang. Vài phút sau khi chiếc limousine Jaguar lao nhanh trên đường
Pl.60
147.
316
148.
316
149.
317
150.
318
151.
318
152.
318
153.
319
154.
319
155.
319
156.
319
157.
319
158.
320
phố thì điện thoại của Silas reo It had been hours, and the operation had veered wildly off course. Suốt nhiều giờ qua, kế hoạch hành động đã bị đối hướng xoay chiều xoành xoạch. Now, at last, it seemed to be back on track. Cuốì cùng, giờ đây dường như đâu lại vào đấy As Rémy took the phone, he knew this poor, twisted monk had no idea what fate awaited him now that he had served his purpose. Khi Rémy cầm lấy điện thoại, y biết tên thầy tu tội nghiệp dị hợm này không hề biết số phận nào đang đợi hắn sau khi hắn đã hết phận sự On the far side of the room, a reference librarian was just pouring a pot of tea and settling in for her day of work.Ở đầu đằng kia căn phòng, một nữ thủ thư giữ sách tham khảo đang rót một bình trà và bắt đầu ngày làm việc. For an instant, he feared Fache had put him on English television as well, but the librarian's smile suggested otherwise. Trong phút chốc, Langdon bỗng sợ là Fache đã đưa hình ông lên kênh truyền hình Anh, nhưng nụ cười của cô thủ thư gợi lên một điều khác hẳn Then again, if anyone on earth were going to recognize his face, it would be a librarian in a Religious Studies reference facility.Lại nữa, trên đời có người nhận ra khuôn mặt ông, thì lại là một cô thủ thư ở bộ phận sách tham khảo về nghiên cứu tôn giáo! Hesitant to show the entire poem to an outsider, Langdon and Sophie had decided to share just the first two lines, those that identified the knight. Không muốn đưa toàn bộ bài thơ cho một người ngoài cuộc, Langdon và Sophie quyết định chỉ dưa ra hai câu đầu, những câu xác định nhân thân chàng. When an intelligence agency intercepted a code containing sensitive data, cryptographers each worked on a discrete section of the code. Khi một cơ quan tình báo bắt được một mã số chứa những dữ liệu nhạy cảm, mỗi nhân viên mật mã sẽ làm việc trên một phân đoạn riêng rẽ. This way, when they broke it, no single cryptographer possessed the entire deciphered message. Theo cách này, không một người giải mật mã nào có thể độc chiếm được trọn thông điệp đã giải mã. In this case, the precaution was probably excessive; even if this librarian saw the entire poem, identified the knight's tomb, and knew what orb was missing, the information was useless without the cryptex.Trong trường hợp này, sự phòng xa có lẽ là thái quá; ngay cả nếu người thủ thư này xem được toàn bộ bài thơ, xác định được ngôi mộ của người hiệp sĩ và biết được quả cầu bị mất tích là cái gì, thì thông tin cũng sẽ vô dụng vì không có hộp mật mã. Puzzled, Gettum put on her glasses and examined the paper they had just handed her. Bối rối, Gettum đeo kính lên và xem kỹ mảnh giấy họ vừa đưa cho cô. Over the past two decades, King's College Research Institute in Systematic Theology had used optical character recognition software in unison with linguistic translation devices to digitize and catalog an enormous collection of texts. Trong hai thập kỉ qua, Viện nghiên cứu về Thần học Hệ thống của Đại học Hoàng gia đã sử dụng phần mềm nhận mặt chữ bằng quang học với các thiết bị dịch ngôn ngữ để số hoá và lập danh mục một bộ sưu tập văn bản
Pl.61
159.
320
160.
248
161.
320
162.
322
163.
323
164.
323
165.
248
166.
935
167.
206
168.
59
169.
326
170.
323
171.
323
172.
323
khổng lồ Settling into one of the workstations, Gettum eyed the slip of paper and began typing. Ngồi vào một dàn vận hành máy vi tính, Gettum nhìn mẩu giấy và bắt đầu đánh chữ Outside the window, Le Bourget Airfield dropped away with startling speed. Bên ngoài cửa sổ sân bay Le Bourget rớt xuống nhanh lạ lùng. As she clicked the SEARCH button, she could feel the hum of the massive mainframe downstairs scanning data at a rate of 500 MB/sec. Khi ấn vào nút SEARCH (tìm), cô có thể cảm thấy tiếng ro ro của máy vi tính lớn ở tầng dưới đang quét hình dữ liệu với tốc độ 500MB/giây In the silence, Gettum sensed her guests' desire for discretion was quickly being outweighed by their eagerness for a fast result.Trong yên lặng, Gettum cảm thấy ý muốn giữ bí mật của hai vị khách đang nhanh chóng bị lấn át bởi nỗi háo hức sớm có được kết quả Despite the rain, Rémy had dropped him off a short distance away in order to keep the limousine off the main streets. Mặc dù trời mưa, Rémy vẫn thả hắn xuống cách đó một đoạn ngắn để giữ cho chiếc limousine tránh khỏi những phố chính. At Rémy's suggestion, Silas had wiped down his gun and disposed of it through a sewer grate. Theo gợi ý của Rémy, Silas đã chùi sạch dấu tay trên khẩu súng của mình và vứt nó qua một cửa cống. Until this moment, she had believed her game of cat and mouse with Fache would be somehow justifiable to the Ministry of Defense. Cho đến trước giờ phút này, cô vẫn tin rằng trò chơi mèo vờn chuột của mình với Fache có thể biện hộ được cách này hay cách khác trước Bộ quốc phòng. Although she recognized her boss's voice, in fifteen years she had never been awoken by him. Bà nhận ra giọng bề trên của mình mặc dù trong mười lăm năm qua, bà chưa bao giờ bị ông đánh thức. The brain does it sometimes with powerful symbols. Tiên kiến hình thành sẵn trong ta về cảnh này mạnh đến mức trí óc ta loại trừ điều lạc lõng đó và bất chấp con mắt ta Langdon suddenly sensed that he needed a lawyer. Langdon chợt cảm thấy mình cần một luật sư. Rémy felt himself sweating suddenly. Đột nhiên Rémy thấy toát mồ hôi. The Briton certainly had to be feeling the pain by now. Giờ đây, chắc chắc lão già người Anh hắn đang phải cảm thấy đau đớn lắm. Now, as Silas approached the Opus Dei building, the rain began to fall harder, soaking his heavy robe, stinging the wounds of the day before. Lúc này, khi Silas gần đến tòa nhà Opus Dei, mưa bắt đầu nặng hạt hơn, thấm đẫm chiếc áo choàng to của hắn, làm nhói đau vết thương của ngày hôm trước Moving across a small courtyard to the front door, Silas was not surprised to find the door unlocked. Đi qua một cái sân nhỏ tới cửa trước, Silas không ngạc nhiên khi thấy cánh cửa không khóa. On sunny afternoons, Londoners picnic beneath the willows and feed the pond's
173.
324
Pl.62
174.
324
175.
324
176.
325
177.
325
178.
326
179. 180.
326 326
181.
326
182.
326
183.
326
184.
326
185.
327
186.
327
187.
327
188.
327
189.
332
resident pelicans, whose ancestors were a gift to Charles II from the Russian ambassador.Vào những buổi chiều đầy ánh nắng, những người dân London pích- ních dưới những gốc liễu và cho đàn bồ nông cư ngụ trong hồ ăn, tổ tiên của chúng là món quà do đại sứ Nga tặng vua Charles II. As the Teacher approached the front passenger door of the parked limousine, Rémy leaned across and opened the door. Khi Thầy Giáo lại gần cửa trước bên phía ghế hành khách của chiếc limousine đang đỗ, Rémy nhoài người sang mở cửa Then, dabbing his mouth, he slid in beside Rémy and closed the door.Rồi lau miệng, ông ta ngồi xuống bên cạnh Rémy và đóng cửa lại. For an instant, Rémy felt a surge of fear, but the Teacher simply slipped it in his trousers pocket.Trong khoảnh khắc, Rémy cảm thấy nỗi sợ dâng trào, nhưng Thầy Giáo chỉ đơn giản bỏ tọt nó vào túi quần mình. Incredulous, Rémy turned to see the Teacher sitting calmly beside him, staring straight ahead out the windshield. Bán tín bán nghi, Rémy quay sang Thầy Giáo đang thản nhiên ngồi bên cạnh mình, mắt nhìn thẳng về phía trước bên ngoài kính che gió Terror and rage coursed through him now Lúc này đây, kinh hoàng và cuồng nộ đang lồng lên trong y. The rain fell harder now. Bây giờ mưa đã rơi nặng hạt hơn. As his world slowly went black, Rémy Legaludec could have sworn he heard the sounds of the soft Riviera surf. Khi thế giới của y từ từ tối đen lại, Rémy Legeludes có thể thề rằng hắn đã nghe thấy tiếng sóng Riviera êm dịu vỗ bờ. Minutes later, the Teacher was crossing St. James's Park. Vài phút sau đó, Thầy Giáo băng qua công viên Thánh James. Gazing triumphantly across the park, he could see his destination. Đắc ý nhìn qua công viên, ông ta có thể thấy đích đến của mình As soon as the Teacher had heard the poem, he had known the answer.Ngay sau khi Thầy Giáo nghe được bài thơ, ông ta đã biết câu trả lời Even so, that the others had not figured it out was not surprising. Dù vậy, không lấy gì làm lạ là những người kia không đoán ra. The rain was getting heavier now, and he tucked the cryptex deep in his right- hand pocket to protect it from the dampness.Mưa trở nên nặng hạt hơn, Thầy Giáo đút viên đá đỉnh vòm sâu vào trong túi áo bên phải của mình dể tránh cho nó khỏi bị ướt. Within minutes, he was stepping into the quiet sanctuary of London's grandest nine-hundred-year-old building.Vài phút, ông ta bước vào nơi tôn nghiêm yên tĩnh của tòa nhà chín trăm năm tuổi nguy nga nhất London. On the rainy tarmac at Biggin Hill Executive Airport, Aringarosa emerged from his cramped plane, bundling his cassock against the cold damp.Trên đường băng ướt mưa ở phi trường Biggin Hill Excutive, Arigarosa chui ra từ chiếc máy bay chật hẹp, khép chặt chiếc áo thầy tu để tránh ướt lạnh. Minutes later, the police scanner crackled with the answer.Vài phút sau đó, máy quét hình của cảnh sát lạo xạo cho câu trả lời Standing, wearing only his undergarments, Silas walked to the window.Đứng dậy, chỉ mặc nguyên đồ lót, Silas bước tới cửa sổ.
Pl.63
190.
332
191.
332
192.
332
193.
332
194.
332
195.
332
196.
332
197.
332
198.
333
199.
333
200.
333
201.
Peering out the window, he now saw the faint outline of a car through the hedge.Ngó ra cửa sổ, giờ hắn nhìn thấy lờ mờ dáng nét của một chiếc xe hơi qua hàng rào. Before he realized where Silas was, Silas had thrown his shoulder into the door, crushing a second officer as he came through. Trước khi anh ta nhận ra Silas đang đứng đâu, Silas đã dùng vai xô cánh cửa rập mạnh vào viên cảnh sát thứ hai đang lao vào. As the first officer wheeled to shoot, Silas dove for his legs.Khi viên sĩ quan thứ nhất quay lại để bắn, Silas nhào người túm lấy chân anh ta Almost naked, Silas hurled his pale body down the staircase. Gần như trần truồng, Silas lao cái thân hình trắng trợt xuống cầu thang. Running full speed through the door out into the rain, Silas leapt off the low landing, not seeing the officer coming the other way until it was too late. Chạy hết tốc độ qua cửa ra ngoài trời mưa, Silas nhảy khỏi thềm nghỉ thấp, không nhìn thấy người cảnh sát từ đằng kia chạy tới, khi nhận ra thì đã quá muộn. Designed in the style of the great cathedrals of Amiens, Chartres, and Canterbury, Westminster Abbey is considered neither cathedral nor parish church.Thiết kế theo kiểu các nhà thờ lớn của vùng Amiens, Chartres, và Canterbury, Tu viện Westminster không được coi là nhà thờ lớn, cũng chẳng phải nhà thờ xứ. Since hosting the coronation of William the Conqueror on Christmas Day in 1066, the dazzling sanctuary has witnessed an endless procession of royal ceremonies and affairs of state—from the canonization of Edward the Confessor, to the marriage of Prince Andrew and Sarah Ferguson, to the funerals of Henry V, Queen Elizabeth I, and Lady Diana.Từ khi lễ phong vương của William Người Chinh Phục được tổ chức tại đây vào dịp Giáng sinh năm 1066, thánh đường rực rỡ này đã chứng kiến một loạt bất tận các nghi lễ hoàng gia và các sự kiện quốc gia – từ việc phong thánh cho Edward Cha Rửa Tội, đến hôn lễ của Hoàng tử Andrew và nàng Sarah Ferguson, tới những đám tang của vua Henry V, Nữ hoàng Elizabeth I và Diana, Công chúa xứ Wales. Even so, Robert Langdon currently felt no interest in any of the abbey's ancient history, save one event—the funeral of the British knight Sir Isaac Newton.Mặc dù vậy, lúc này Robert Langdon cảm thấy không quan tâm gì tới lịch sử cổ xưa nào của tu viện – ngoại trừ một sự kiện – đám tang của hiệp sĩ người Anh Ngài Isaac Newton. Hurrying through the grand portico on the north transept, Langdon and Sophie were met by guards who politely ushered them through the abbey's newest addition Hối hả đi qua cổng lớn cánh phía bắc của tu viện, Langdon và Sophie được những người gác lịch sự dẫn qua thiết bị mới nhất của tu việ Stepping across the threshold into Westminster Abbey, Langdon felt the outside world evaporate with a sudden hush.Bước qua ngưỡng cửa Tu viện Westminster, Langdon cảm thấy thế giới bên ngoài tan biến trong một im lặng đột ngột. On sunny days, the abbey floor was a prismatic patchwork of light. Trong những ngày trời nắng, nền nhà tu viện giống như một tấm khăn kết nối những mảng ánh sáng đủ các màu sắc cầu vồng. Today, the rain and darkness gave this massive hollow a wraithlike aura... more
333
Pl.64
202.
337
203.
338
204.
338
205.
339
206.
339
207.
340
208.
340
209.
340
210.
341
211.
341
212.
341
213.
341
214.
342
215.
141
like that of the crypt it truly was.Hôm nay, mưa và bóng tối trùm lên khoảng trũng lớn này một quầng sáng ma quái... ma quái hơn cả cái hầm mộ mà nó thật sự là thế. Despite having traveled more than halfway down the nave, they still had no clear view of Newton's tomb. Mặc dù đã đi được hơn nửa gian giữa nhưng họ vẫn chưa nhìn thấy thật rõ phần mộ của Newton As they approached the niche, Langdon felt a slow sinking sensation.Khi họ lại gần hốc mộ, Langdon có cảm giác như đang chìm dần. He had not considered the line that way before. Trước đó, ông đã không xem xét dòng thơ này theo cách như vậy. Despite the pall of trepidation that settled over him upon seeing the words, Langdon told himself this was good newsMặc dù cảm thấy toàn thân run lên khi nhìn thấy những dòng chữ đó, Langdon tự nhủ đây chính là tin tốt lành. Boasting the oldest living fruit trees in Great Britain, College Garden was a popular spot for tourists to visit without having to enter the abbey. Với những cây ăn quả sống lâu nhất ở nước Anh, Khu Vườn của trường Đại học là một địa điểm nổi tiếng cho du khách tới thăm mà không phải vào trong tu viện. Above them, the wind howled across the opening with a low drone, like someone blowing over the mouth of a bottle. Phía trên họ, gió hú lên từng hồi qua khoảng mở ở mái như ai đó đang thổi qua miệng một cái chai. Entering the narrow, low-hanging walkways that bordered the courtyard perimeter, Langdon felt the familiar uneasiness he always felt in enclosed spaces. Đi vào con đường đi bộ hẹp thấp men theo chu vi cáỉ sân, Langdon cảm thấy nỗi bất an quen thuộc luôn luôn xâm chiếm ông trong những không gian bị bao kín. Focusing his mind straight ahead toward the end of the tunnel, Langdon followed the signs for the Chapter House. Tập trung tâm trí tiến thẳng về phía cuối đường hầm, Langdon theo những biển chỉ dẫn để tới Nhà Nguyện. Immediately beyond the swag, Langdon could see the entrances to the Pyx Chamber and St. Faith's Chapel on the right and left. Ngay bên kia dây chắn, Langdon có thể nhìn thấy lối vào phòng Chén Bánh Thánh và Nhà Thờ Thánh Faith ở bên phải và bên trái. As they hurried down the dark corridor, the sounds of the wind and rain from the open cloister faded behind them.Khi họ rảo bước đi xuôi theo hành lang tối om, tiếng mưa gió tử hàng hiên trống nhỏ dần sau họ Crossing the threshold, both Langdon and Sophie found themselves having to squint Bước qua ngưỡng cửa, cả Langdon và Sophie phải nheo mắt lại After the gloomy cloisters, the Chapter House felt like a solarium Sau những hàng hiên tăm tối, Nhà Nguyện tựa như một nhà dưỡng bệnh bằng ánh sáng mặt trời. For a moment Langdon thought he must be dreaming. Trong giây phút, Langdon nghĩ hẳn là mình đang mơ. Struggling with the gear shift, Langdon managed to maneuver the hijacked taxi to the far side of the Bois de Boulogne while stalling only twice. Vật lộn với cần số, Langdon vất vả lắm mới điều khiển được chiếc xe tắc xi cưỡng đoạt ra xa khỏi Rừng Boulogne mà chỉ bị chết máy có hai lần. She's being released in the morning Sáng mai Judy sẽ được trả tự do
216.
91
Pl.65
217.
234
218.
149
219.
320
220.
155
221.
156
222.
42
223.
266
224.
101
225.
309
226.
36
227.
43
228.
328
229.
379
230.
354
231.
48
Please see that Miss Whitney gets this first thing in the morning Làm ơn chuyển giúp tôi cho cô Wihitney ngay khi vừa sáng Below the screen was a triangular hole. Bên dưới màn hình là một ổ có hình tam giác. Gettum sensed an urgency in the eyes of this famed American scholar, almost as if his finding this tomb quickly were a matter of critical importance. She quickly told Vernet who Langdon was and what had happened inside the Louvre tonight. Cô nhanh chóng nói với Vernet rằng Langdon là ai và chuyện gì đã xảy ra bên trong bảo tàng Louvre tối nay. Certainly, monsieur, considering the circumstances, you can help us. Xét hoàn cảnh đặc biệt, chắc chắn ngài có thể giúp đỡ chúng tôi When the Pope visited Paris a few years back, Fache had used all his muscle to obtain the honor of an audience. Khi Giáo hoàng thăm Paris vài năm trước, Fache đã dùng mọi khả năng để được vinh dự là khán giả After a long moment, he slid the ring from his finger and placed it gently on the instrument panel. Sau một lúc lâu, anh tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay và đặt nó nhẹ nhàng lên bảng điều khiển. Because Da Vinci was a big fan of feminine principles, he made Mona Lisa look more majestic from the left than the right Bởi vì Da Vinci là một fan hâm mộ lớn của các nguyên tắc nữ tính, anh ta đã khiến Mona Lisa trông hùng vĩ hơn từ bên trái hơn bên phải As long as the microphone was positioned such that it received a few hours of sunlight per day, the photo cells would keep recharging the system. Miễn là chiếc micro được định vị thì nó sẽ nhận được năng lượng ánh sáng mặt trời trong vài tiếng một ngày, tế bào quang điện sẽ nạp điện cho hệ thống Her sixty-year-old body did not awake as fast as it used to, although tonight's phone call had certainly roused her senses. Cơ thể sáu mươi tuổi của bà không tỉnh giấc nhanh như trước đây được nữa, mặc dù cuộc điện thoại đêm nay chắc chắn đã đánh thức các giác quan của bà. "I'm busy at the moment," Fache radioed back, leaving no doubt in his tone that a line had been crossed When the computer pinged again, though, the offering was unexpected. Tuy nhiên, khi máy tính ping lại, kết quả cung cấp thật bất ngờ After a while, Langdon looked over at Sophie. Một lúc sau, Langdon nhìn qua Sophie. Yesterday afternoon, Silas had phoned the curator and posed as a distraught priest. Chiều hôm qua, Silas đã gọi điện cho người phụ trách và sắm vai một linh mục quẫn trí. Looking up to see where the stone had come from, he saw a hole in the trembling wall, and beyond it, a vision he had not seen in over ten years Ngước lên để xem hòn đá rơi từ đâu, hắn nhìn thấy một lỗ hổng trên bức tường đang rung động, và bên ngoài, một hình ảnh mà suốt hơn mười năm qua hắn
Pl.66
232.
359
233.
144
234.
258
235.
259
236.
259
237.
259
238.
266
239.
266
240.
266
241.
266
242.
267
243.
267
244.
267
245.
267
246.
267
không được thấy. He made the mistake of showing his ID when he entered the abbey. Việc để lộ ID cá nhân là một sai lầm khi anh ta vào tu viện. I've already been there, Sophie thought, picturing the ritual in the basement. Tôi đã ở đó rồi, Sophie nghĩ, hình dung ra nghi thức dưới tầng hầm In Atbash, the first letter was substituted by the last letter, the second letter by the next to last letter, and so on. Trong mật mã Atbash, chữ cái đầu tiên được thay thế bằng chữ cái cuối cùng, chữ cái thứ hai được thay thế bằng chữ cái kế tiếp chữ cái cuối cùng và cứ như vậy. It was three minutes later that Teabing heaved a frustrated sigh and shook his head. "My friends, I'm stymied. Sau ba phút, Teabing thốt ra một tiếng thở dài thất vọng và lắc đầu: "Các bạn của tôi, tôi hoàn toàn bế tắc. Outside the window, the blackness of the predawn was absolute. Bên ngoài cửa sổ máy bay, bóng tối trước bình minh vẫn ngự trị. Having grown up solving her grandfather's riddles, she had the uneasy sense right now that this poem before them contained information they still had not seen.Vốn từ bé đến lớn đã quen giải những câu đố của ông mình, cô cảm thấy khó chịu khi mà ngay lúc này đây, bài thơ chứa đựng thông tin nằm trước mắt họ mà họ không nhìn ra. After a long moment, he slid the ring from his finger and placed it gently on the instrument panel.Sau một lúc lâu, ông tháo chiếc nhẫn khỏi ngón tay và đặt nó nhẹ nhàng lên bảng điều khiển. Fifteen seconds later, he could feel the pilot banking a few more degrees to the north.Mười lăm giây sau, ông cảm thấy người phi công điều chỉnh thêm vài độ bay về hướng bắc. Even so, Aringarosa's moment of glory was in shambles. Dù vậy, giây phút vinh quang của Aringonosa vẫn cứ là tan vỡ. Now, like a house of cards, it was collapsing in on itself... and the end was nowhere in sight.Bây giờ, thì giống như ngôi nhà bằng quân bài, nó đang tự sụp đổ... và đoạn kết còn mù mịt chưa thấy đâu cả. For his part, Langdon was amazed to have heard it. Về phần ông, Langdon cũng ngạc nhiên về những gì nghe được Langdon now recognized the emotion that had been growing in her eyes as they spoke. Bây giờ Langdon mới nhận ra nỗi xúc động trào dâng trong đôi mắt cô trong khi họ nói chuyện. Outside, the dawn was coming fast, its crimson aura gathering off the starboard. Bên ngoài, bình minh đang lên nhanh, quầng sáng đỏ thắm tập trung bên mạn phải máy bay While Teabing again dug into the verse, Langdon popped a Coke and turned to the window, his thoughts awash with images of secret rituals and unbroken codes. Trong khi Teabing lại chúi vào bài thơ, Langdon bật nắp một lon Coca và quay mặt về phía cửa sổ suy nghĩ của ông miên man với những hình ảnh về nghi thức bí ẩn và mật mã chưa được giải đáp The dissolving veil of night seemed to evaporate quickly, and as Langdon watched the transformation, he saw a shimmering ocean stretch out beneath
Pl.67
247.
269
248.
104
249.
269
250.
269
251.
269
252.
270
253.
270
254.
270
255.
270
256. 257.
271 271
258.
272
259.
272
them. Màn đêm dường như tan biến nhanh chóng và khi quan sát sự thay đổi đó, Langdon thấy đại dương lung linh trải rộng bên dưới họ Granted, he'd used Roman equivalents rather than Hebrew characters, but even so, he was now reading through them with flawless pronunciation.Đành rằng ông đã dùng kí tự La Mã tương đương thay vì chính chữ cái Hebrew, tuy nhiên, giờ đây ông đọc qua chúng với cách phát âm không chút sai sót. A hat, gloves, and purse appeared, as if by magic. Và cứ như có phép lạ, một cái mũ, một đôi găng tay và một cái bóp lần lượt hiện ra. In formal Hebrew spelling, the vowel sounds are not written. Trong chính tả Hebrew chính thức, nguyên âm không được viết ra. Therefore, when we write the word Baphomet using the Hebrew alphabet, it will lose its three vowels in translation, leaving us. Do đó, khi chúng ta dùng chữ cái Hebrew để viết từ Bahome, nó sẽ mất đi ba nguyên âm và chúng ta còn lại.. Next, all we have to do is create our substitution scheme by rewriting the entire alphabet in reverse order opposite the original alphabet. Bước tiếp theo, tất cả những gì chúng ta phải làm là tạo ra cách sắp xếp thay thế bằng cách viết lại toàn bộ bảng chữ cái theo trật tự đảo ngược với bảng chữ cái ban đầu. Looking at Sophie's substitution matrix, Langdon felt a rising thrill that he imagined must have rivaled the thrill felt by early scholars when they first used the Atbash Cipher to decrypt the now famous Mystery of Sheshach. Nhìn vào ma trận thay thế của Sophie, Langdon cảm thấy một nỗi rộn ràng mỗi lúc một tăng mà ông nghĩ có thể sánh với nỗi rộn ràng của các nhà học giả khi lần đầu tiên họ đùng mật mã Atbash để giải mã Bí mật Sheshach, một bí mật giờ đây đã trở nên nổi tiếng. For years, religious scholars had been baffled by biblical references to a city called Sheshach. Suốt nhiều năm, các học giả về tôn giáo đã bối rối khó hiểu những chỗ trong Kinh Thánh quy chiếu đến một thành phố mang tên Sheshach Within weeks, several more Atbash code words were uncovered in the Old Testament, unveiling myriad hidden meanings that scholars had no idea were there.Trong vòng nhiều tuần, nhiều từ mật mã Atbash đã được phát hiện trong Kinh Cựu ước, phơi bày vô số ý nghĩa ẩn giấu mà các học giả cũng không biết là có ở đó. Now we simply apply your Atbash substitution matrix to translate the letters into our five-letter password. Bây giờ chúng ta chỉ cần đối chiếu với ma trận thay thế Atbash để dịch những bí từ này sang mật khẩu năm chữ của chúng ta An instant later he got it. Lát sau, ông hiểu ra Immediately she realized Langdon and Teabing had failed to see a serious glitch. Ngay lập tức, cô nhận ra là Langdon và Teabing đã không thấy một trục trặc nghiêm trọng In the excitement of deciphering the code word, Sophie had almost forgotten what they expected to find inside. trong niềm hứng khởi vì đã giải được từ mật mã, Sophie hầu như quên mất cái mà họ mong tìm thấy bên trong. According to Teabing, it contained a map to the Holy Grail, unveiling the tomb of Mary Magdalene and the Sangreal treasure... the ultimate treasure trove of secret truth.Theo Teabing, nó chứa đựng một bản đồ chỉ dẫn tới Chén Thánh, tiết lộ ngôi mộ của Mary Maygdalene và kho báu Sangreal... kho báu tối hậu của sự
Pl.68
260.
273
261.
273
262.
273
263.
274
264.
275
265.
275
266.
276
267.
278
268.
278
269.
278
270.
285
271.
285
272.
285
thật bí mật. Now gripping the stone tube, Sophie double-checked that all of the letters were properly aligned with the indicator. Lúc này, tay nắm chặt ống trụ đá, Sophie kiểm tra lại để đảm bảo tất cả các chữ cái đều đã thẳng hàng với con trỏ. Peering down the hollow of the rolled paper, Sophie could see it had been wrapped around a cylindrical object—the vial of vinegar, she assumed. Nhòm vào trong cuộn giấy, Sophie thấy nó được quấn quanh vật hình trụ – cái lọ dấm, cô đoán. Strangely, though, the paper around the vinegar was not the customary delicate papyrus but rather, vellum. Tuy nhiên, lạ thay, tờ giấy bọc xung quanh lọ dấm không phải là thứ giấy mỏng thông thường – papyus mà là giấy da. Reaching over, Langdon lifted the smaller cryptex. Với lấy cái hộp mật mã nhỏ hơn, Langdon nâng nó lên. Moving down a lavish hallway, Collet entered the vast ballroom study, where the chief PTS examiner was busy dusting for fingerprints.Đi theo hành lang sang trọng, Collet bước vào phòng khiêu vũ rất rộng, nơi người kiểm tra chính của PTS đang bận rộn thu thập dấu vân tay On the back, Collet found notations scrawled in English, describing a cathedral's long hollow nave as a secret pagan tribute to a woman's womb. Ở mặt sau tấm ảnh, Collet thấy những ghi chú nguệch ngoạc bằng tiếng Anh, mô tả gian giữa trống và dài của một nhà thờ lớn như là một sự bí mật bày tỏ lòng tôn kính đối với tử cung người đàn bà. Through the plastic, he could see a large glossy photograph of what appeared to be an old document Qua lớp nhựa, anh có thể nhìn thấy một tấm ảnh lớn có vẻ như là tài liệu cổ. This morning, the damp, spring green of his homeland looked particularly welcoming. Sáng nay, màu xanh đẫm mưa sương của mùa xuân quê hương như đặc biệt chào đón ông. As Langdon and Sophie looked on, Teabing got up and went to the far side of the cabin, then slid aside a wall panel to reveal a discreetly hidden wall safe. Trong khi Langdon và Sophie nhìn theo, Teabing đứng dậy, đi sang mé bên kia cabin, rồi kéo một tấm ván tường sang bên để lộ một chiếc két được giấu kín sau tường. Rémy approached up the aisle now, the Heckler Koch pistol cradled in his hand. Lúc này, Rémy theo lối đi giữa các hàng ghế tiến lại gần, khẩu Heckler & Koch trong tay: "Thưa ngài, nhiệm vụ của tôi là gì?". So far, Leigh was being playfully cagey about where he thought they would find the "knight's tomb," which, according to the poem, would provide the password for opening the smaller cryptex.Cho đến giờ, Leigh vẫn chơi trò kín kín hở hở về nơi mà ông nghĩ là họ có thể tìm thấy "mộ của người hiệp sĩ", mà theo bài thơ, sẽ cung cấp mật khẩu cho việc mở cái hộp mật mã nhỏ hơn. Although Langdon had read the poem several times onboard the jet, he had been unable to extract any specific location Mặc dù Langdon đã đọc bài thơ đó vài lần trên máy bay rồi nhưng ông cũng không thể suy ra được một địa điểm cụ thể nào. Now, as he read the words again, he processed them slowly and carefully, hoping the pentametric rhythms would reveal a clearer meaning now that he was on the ground Giờ đây, khi đọc lại những từ trong bài thơ, ông từ từ nghiền ngẫm thật
Pl.69
273.
286
274.
286
275.
287
276.
287
277.
287
278.
157
279.
295
280.
295
281.
295
282.
295
283.
295
284.
295
cẩn thận, hy vọng giờ đây, ở trên mặt đất, tiết tấu ngũ bộ sẽ hé lộ ý nghĩa rõ ràng hơn. Despite the apparent straightforwardness of the verse, Langdon still had no idea who this knight was or where he was buried. Mặc dù bài thơ có vẻ dễ hiểu, Langdon vẫn không sao biết được hiệp sĩ đó là ai hoặc được chôn ở đâu. Moreover, once they located the tomb, it sounded as if they would be searching for something that was absent. Hơn nữa, một khi đã xác định được vị trí ngôi mộ, xem ra còn phải tìm một cái gì đó bị thiếu Langdon had never actually visited the Temple Church, although he'd come across numerous references in his Priory research. Langdon chưa từng đến Nhà thờ Temple, mặc dù ông đã đọc rất nhiều giới thlệu chiếu về nó trong quá trình nghiên cứu về Tu viện Sion. Once the epicenter of all Templar/Priory activities in the United Kingdom, the Temple Church had been so named in honor of Solomon's Temple, from which the Knights Templar had extracted their own title, as well as the Sangreal documents that gave them all their influence in Rome. Đã từng một thời là trung tâm cho mọi hoạt động của các Hiệp sĩ Templar và Tu viện Sion ở nước Anh, Nhà thờ Temple được đặt tên như thế để tôn vinh Solomon s Temple (Đền thờ Solomon) mà từ đó các Hiệp sĩ Templar rút ra danh hiệu của mình cũng như những tài liệu Sangreal đã mang lại cho họ ảnh hưởng to lớn ở Roma. Actually, it's just off Fleet Street on Inner Temple Lane. Thực tế, nó ở ngõ Inner Temple ngay sát phố Fleet He cursed, gave some quick directions in French, and said he would be up to the lobby in a minute. Ông ta chửi thề, chỉ dẫn ngắn gọn vài lời bằng tiếng Pháp, và nói ông sẽ có mặt ở sảnh sau một phút nữa. Killing the engine, he checked the area. Deserted. Tắt máy, ông ta kiểm tra xung quanh. In a rubbish-strewn alley very close to Temple Church, Rémy Legaludec pulled the Jaguar limousine to a stop behind a row of industrial waste bins. Trong một con hẻm đầy rác rưới rất gần Nhà thờ Temple, Rémy Legaludec lái chiếc limousine hiệu Jaguar tới đậu sau một dãy thùng đựng rác thải công nghiệp. Sensing Rémy's presence, the monk in the back emerged from a prayer-like trance, his red eyes looking more curious than fearful. Cảm thấy sự có mặt của Rémy, gã thầy tu ở phía sau dứt ra khỏi trạng thái nửa như cầu nguyện nửa như mê, đôi mắt đỏ của hắn trông có vẻ tò mò hơn là sợ hãi. All evening Rémy had been impressed with this trussed man's ability to stay calm. Suốt buổi tối, Rémy đã rất phục khả năng giữ bình tĩnh của con người đang bị trói gô này. After some initial struggles in the Range Rover, the monk seemed to have accepted his plight and given over his fate to a higher power. Sau đôi chút kháng cự ban đầu trong chiếc xe Range Rover, gã tu sĩ có vẻ như chấp nhận cảnh ngộ và phó mặc sốphận cho quyền lực tối cao. He went to the limousine's wet bar, where he poured himself a Smirnoff vodka. Đi tới quầy rượu của chiếc limousine, ông ta tự rót cho mình một ly vodka Smirnoff, ông ta tợp luôn một hơi, và rót tiếp ly thứ hai. Loosening his bow tie, Rémy unbuttoned his high, starched, wing-tipped collar
285.
295
Pl.70
286.
295
287.
296
288.
297
289.
297
290.
298
291.
298
292.
298
293.
298
294.
298
295.
299
296.
299
297.
299
and felt as if he could breathe for the first time in years. Nới lỏng nơ đeo cổ, Rémy mở khuy chiếc áo cổ cao, hồ bột xòe sang hai bên của mình và cảm thấy như lần đầu tiên được thở sau nhiều năm Searching the bar, Rémy found a standard service wine-opener and flicked open the sharp blade. Lục trong quầy rượu, Rémy tìm thấy một cái mở rượu tiêu chuẩn và bật mở lưỡi dao sắc nhọn As the biting heat tore through all of his muscles now, Silas clenched his eyes tighter, determined that the final image of his life would not be of his own killer. Khi cơn đau rát xé dọc các cơ bắp, hắn nhắm mắt chặt hơn, quyết định rằng hình ảnh cuối cùng của cuộc đời hắn sẽ không phải kẻ giết mình. Arriving at the hangar, Fache needed only sixty seconds to locate an anomalous smear of blood on the pavement near where the limousine had been parked Khi tới hăng-ga, Fache chỉ cần sáu mươi giây để phát hiện ra một vết máu bất thường trên sàn lát gần chỗ chiếc limousine vừa đỗ. Three minutes later, with the help of his sidearm, he had a full confession, including a description of the bound albino monk. Ba phút sau, với sự trợ giúp của khẩu súng, ông ta đã có được đầy đủ lời thú nhận, kể cả sự mô tả gã tu sĩ bạch tạng. In addition, he learned that the pilot saw Langdon and Sophie leave something behind in Teabing's safe, a wooden box of some sort. Thêm vào đó, ông ta còn biết rằng viên phi công đã thấy Langdon và Sophie để lại vật gì trong két an toàn của Teabing, một thứ hộp gỗ gì đó. Although the pilot denied knowing what was in the box, he admitted it had been the focus of Langdon's full attention during the flight to London. Mặc dù viên phi công phủ nhận không biết có gì trong hộp, anh ta thừa nhận là Langdon chỉ tập trung chú ý vào nó trong suốt chuyến bay tới London. It was early, but he had not yet slept, so this hardly counted as drinking before noon. Lúc này vẫn sớm, nhưng vì ông ta chưa được chợp mắt nên đây không kể là uống rượu trước buổi trưa. Sitting in a plush bucket seat, he closed his eyes, trying to sort out what was going on. Ngồi xuống chiếc ghế bọc vải nhung, ông ta nhắm mắt lại, cố gắng phân tích những gì đang diễn ra. Everyone was now on the lookout for a black Jaguar limousine. Giờ đây, mọi người đang dồn sức tìm kiếm chiếc limousine Jaguar màu đen. Forcing the image from her mind, she advanced with Langdon and Teabing toward the first group of knights. Gắng xua đuổi hình ảnh đó ra khỏi tâm trí, cô tiến lên cùng với Langdon và Teabing đến chỗ nhóm hiệp sĩ đầu tiên. Despite Teabing's insistence that their investigation should be conducted meticulously, Sophie felt eager and pushed ahead of them, making a cursory walk-through of the five knights on the left. Mặc dù Teabing nhấn mạnh là phải xem xét thật tỉ mỉ, Sophie cảm thấy nôn nóng và dấn lên trước, lướt nhanh qua năm hiệp sĩ ở bên trái. Scrutinizing these first tombs, Sophie noted the similarities and differences between them. Quan sát cẩn thận những ngôi mộ đầu tiên, Sophie ghi nhận những nét giống và khác nhau giữa chúng Examining their clothing, Sophie noted that two of the knights wore tunics over
298.
299
Pl.71
299. 300.
299 299
301.
300
302.
300
303.
302
304.
303
305.
303
306.
304
307.
304
308.
303
309.
1
310.
174
311.
250
312.
175
313.
274
their armor, while the other three wore ankle-length robes.Xem xét y phục, Sophie nhận thấy hai hiệp sĩ mặc áo dài ra ngoài áo giáp, trong khi ba người còn lại mặc áo chùng đến mắt cá chân Again, utterly unhelpful. Một lần nữa, những điều này chẳng giúp ích được gì. After a long moment looking at the hands, Sophie shrugged, having seen no hint anywhere of a conspicuously absent orb.Sau một lúc lâu ngắm nhìn những cánh tay, Sophie nhún vai, chẳng thấy chỗ nào hé lộ dấu vết của quả cầu khuyết diện As she crossed the open space, she quietly recited the poem she had read so many times now that it was committed to memory. Khi đi ngang qua khoảng trống, cô nhẩm lại bài thơ mà cô đã đọc thuộc lòng đến mức như khắc cào tâm khảm. When Sophie arrived at the second group of knights, she found that this second group was similar to the first. Khi Sophie đi đến chỗ nhóm hiệp sĩ thứ hai, cô thấy nhóm thứ hai cũng tương tự như nhóm thứ nhất. Entering the annex, the altar boy was surprised to find it deserted.Bước vào khu nhà phụ, cậu lễ sinh rất ngạc nhiên khi thấy chẳng có ai. Like a ghost, Silas drifted silently behind his target. Như một bóng ma, Silas lặng lẽ dượt sau mục tỉêu của mình. Before she could turn, Silas pressed the gun barrel into her spine and wrapped a powerful arm across her chest, pulling her back against his hulking body.Trước khi cô kịp quay lại, Silas đã gí nòng súng vào xương sống và vòng cánh tay cường tráng qua ngực cô, kéo lưng cô áp vào thân hình hộ pháp của hắn. Forty feet away, peering out from the annex pews near the archway, Rémy Legaludec felt a rising alarm Cách đó hơn mười mét, nhòm ra từ hàng ghế phụ gần cửa tò vò Rémy Legaludec cảm thấy một nỗi hoảng sợ dâng lên. At the Teacher's orders, Rémy had forbidden Silas to fire his gun.Theo lệnh của Thầy Giáo, Rémy đã cấm Silas nổ súng. Holding Sophie firm, Silas dropped his hand from her chest, down to her waist, slipping it inside her deep sweater pockets, searching. Vẫn giữ chặt Sophie, Silas hạ tay khỏi ngực cô, lần xuống cổ tay của cô và thọc sâu vào túi chiếc áo len chui đầu, lục lọi. For their generous assistance in the research of the book. Đối với sự giúp đỡ hào phóng của họ trong nghiên cứu của cuốn sách If a rising Priory sénéchal can open it, he proves himself worthy of the information it holds. Nếu pháp quan kế nhiệm trong Tu viện Sion có thể mở được nó, ông ta sẽ chứng tỏ mình xứng đáng được nắm thông tin mà nó tàng chứa. If not the possessor of the keystone, then who?" Nếu không phải là người sở hữu viên đá đỉnh vòm thì còn là ai? if Langdon's instincts were correct, the Grand Master of the Priory of Sion had just transferred the brotherhood's legendary keystone to his granddaughter and simultaneously commanded her to find Robert Langdon. Nếu linh cảm của Langdon là đúng, thì Đại Sư của Tu viện Sion vừa chuyển giao viên đá đỉnh vòm huyền thoại của tổ chức này cho cô cháu gái và lệnh cho cô tìm gặp Langdon. If you will forgive the cliché, I will be wearing a red carnation. Mong cô thứ lỗi vì sự đường đột, tôi sẽ cài một bống cẩm chướng đỏ trên ve áo
Pl.72
314.
216
315.
251
316.
1
317.
3
318.
227
319. 320.
230 230
321.
230
322.
62
323.
232
324.
232
325.
232
326.
233
327.
233
328.
233
329.
233
With the help of Jesus' trusted uncle, Joseph of Arimathea, Mary Magdalene secretly traveled to France, then known as Gaul. Với sự giúp đỡ của người bác đáng tin cậy của Jesus, Joseph, Joseph xứ Arimathea, Mary Magdalene đã bí mật tới Pháp, rồi lấy tên Gaul. You will call me if you change your mind? Bạn sẽ gọi cho tôi nếu bạn đổi ý? I would be remiss if I did not mention the two extraordinary women who have touched my life. Tôi sẽ hối hận nếu tôi không nhắc đến hai người phụ nữ phi thường đã chạm vào cuộc đời tôi. If I die, the truth will be lost forever. Nếu tôi chết, sự thật sẽ mất mãi mãi. And believe me, if the Church finds the Holy Grail, they will destroy it. The documents and the relics of the blessed Mary Magdalene as well Và tin tôi đi, nếu Giáo hội tìm thấy Chén Thánh, họ sẽ phá hủy nó. Captain, what if Langdon has a hostage in there If Fache now realized he'd made a mistake, then it made perfect sense that he would tell Collet not to make a move. Saunière, if he had suspected this, might have left the police the message P.S. Find Robert Langdon. Sophie Neveu's odd interruption, though unfortunate, had been only a minor wrinkle. Sự cắt ngang của Sophie Neveu, dù không may, chỉ là một gợn sóng nhỏ. In moments of failure, Teabing had questioned whether his life's quest would ever be rewarded. Trong những khoảng khắc thất bại, Teabing đ~ từng tự hỏi liệu công sức tìm kiếm của cả đời mình có bao giờ được đền đ|p. And tonight, incredibly, the key to finding the Holy Grail had walked right through his front door.Và tối nay, thật khó tin, chìa kho| để tìm ra Chén Th|nh đ~ đi thẳng vào nhà ông qua cửa trước While Sophie and Teabing sat with the cryptex and talked about the vinegar, the dials, and what the password might be, Langdon carried the rosewood box across the room to a well-lit table to get a better look at it. Trong lúc Sophie và Teabing ngồi với cái hộp mật mã và trò chuyện về dấm, đĩa chữ v{ đo|n mật khẩu thì Langdon mang chiếc hộp gỗ hồng mộc tới một c|i b{n s|ng đèn ở đầu kia phòng để xem cho rõ hơn. Opening the box, he examined the inside of the lid. Mờ chiếc hộp ra, ông xem xét bên trong nắp. As he shifted its position, though, the light caught what appeared to be a small hole on the underside of the lid, positioned in the exact center. Khi ông xoay nó đi một chút, ánh sáng làm xuất hiện một lỗ nhỏ ở mặt dưới của chiếc nắp, ngay chính giữa. Setting the box on the table, he looked around the room and spied a stack of papers with a paper clip on it. Đặt cái hộp lên trên bàn, ông nhìn quanh phòng và thấy một chồng giấy với một cái kẹp giấy trên đó. Borrowing the clip, he returned to the box, opened it, and studied the hole again. Carefully, he unbent the paper clip and inserted one end into the hole. Mượn chiếc kẹp, ông quay trở lại chiếc hộp mở ra, và xem kĩ lại cái lỗ. Rất cẩn trọng,
Pl.73
330.
233
331.
233
332.
233
333.
237
334.
237
335.
238
336.
238
337.
238
338.
238
339.
240
340.
232
341.
132
342.
6
343.
50
344.
59
ông uốn thẳng chiếc kẹp giấy và luồn một đầu vào trong lỗ. Speechless, Langdon stared at the bare spot on the lid where the Rose had been. Không một lời, Langdon nhìn chằm chằm vào chỗ trống do bông Hoa Hồng để lại trên nắp. Out of nowhere, a crushing blow to the head knocked Langdon to his knees. Từ đau chẳng rõ, một cú phang mạnh v{o đầu làm Langdon quỵ gối. As he fell, he thought for a moment he saw a pale ghost hovering over him, clutching a gun. Khi ngã, trong một khoảng khắc, ông nghĩ mình nhìn thấy một bóng ma tái nhợt lơ lửng bên trên ông, với một khẩu súng trong tay. Fanning out, they began searching all the rooms on the first level. Tỏa ra, họ bắt đầu lục soát tất cả các phòng ở tầng một. Just as Collet was about to divide his men to search the basement and grounds behind the house, he heard voices on the level above them. Đúng vào khi Collet định chia quân ra để lục soát tầng hầm và các khu đất đằng sau ngôi nhà, anh bỗng nghe thấy tiếng người ở tầng trên. Rushing up the wide staircase, Collet and his men moved room by room through the huge home, securing darkened bedrooms and hallways as they closed in on the sounds of voices. Lao lên chiếc cầu thang rộng, Collet cùng quân của mình đi từ phòng này sang phòng khác của ngôi nhà lớn, những phòng ngủ và hành lang tối đen khi họ lại gần hơn những tiếng nói. As they neared the final bedroom, Collet could see the door was wide open. Khi lại gần căn phòng cuối cùng, Collet thấy cánh cửa mở rộng. Reaching silently around the door frame, he found the light switch and flicked it on. Lặng lẽ tiến tới cánh cửa, anh thấy công tắc đèn và bật lên Spinning into the room with men pouring in after him, Collet shouted and aimed his weapon at... nothing.. Lao vào phòng với đám quân ùa theo sau, Collet quit và chĩa súng vào... trống không. Beside her, Teabing glanced over his shoulder at the bound and gagged monk lying in the cramped luggage area behind the back seat. Bên cạnh cô, Teabing đưa mắt qua vai nhìn gã thầy tu bị bịt miệng đang nằm trên khoang hành lý chất đống đằng sau hàng ghế dưới. Now those doubts were gone forever. Giờ đây những nghi ngờ này đã vĩnh viễn tan biến As his eyes finally gazed upon the contents, he knew in an instant it could only be the keystone. Cuối cùng khi mắt ông dõi vào vật đựng bên trong, ông biết ngay nó chỉ có thể là viên đá đỉnh vòm Although his female colleagues insisted the gray only accentuated his bookish appeal, Langdon knew better. Mặc dù các đồng nghiệp nữ một mực nói rằng tóc bạc chỉ làm tôn thêm sức quyến rũ bác học của ông, nhưng Langdon thừa biết là đâu phải thế. Although it no longer spoke to him, he felt a comforting aura in its presence. Mặc dù nó không nói gì với hắn, hắn vẫn cảm thấy một vầng sáng an ủi trong sự hiện diện của nó. Whether or not you are guilty, you most certainly will be held by DCPJ until they can figure out what really happened. Dù ông có tội hay không, chắc chắn
Pl.74
345.
131
346.
57
347.
57
348.
100
349.
185
350.
48
351.
101
352. 353.
102 123
354.
200
355.
244
356.
318
357.
313
358.
71
359.
95
ông cũng sẽ bị DCPJ giữ cho đến khi họ khám phá ra điều đã thực sự xảy ra. Leave her car where it is and put plainclothes on watch in case they try to come back to it. Hãy để xe của cô ta nguyên chỗ cũ và cử các nhân viên mặc thường phục giám sát nó phòng trường hợp bọn họ cô gắng lấy lại chiếc xe đó. They tagged you with GPS because they thought you might run Họ gắn thẻ GPS vào người ông vì họ nghĩ ông có thể chạy The only reason Fache left you alone is because he can monitor where you are Lý do duy nhất Fache để bạn một mình là vì anh ta có thể theo dõi bạn đang ở đâu Quite simply, the Mona Lisa was famous because Leonardo da Vinci claimed she was his finest accomplishment Rất đơn giản, Mona Lisa nối tiếng bởi vì Leonardo Da Vinci đã tuyên bố nàng là thành tựu hoàn mỹ nhất của ông. The French government taxes him at absurd rates because he bought a historic landmark. Chính phủ Pháp đã đánh thuế ông đến mức phi lý bởi vì ông đã mua một điểm mốc lịch sử. Their eyes wide with fright as they stared at his white skin đôi mắt mở to đầy sợ hãi khi họ nhìn chằm chằm vào làn da trắng của anh ta Because Da Vinci was a big fan of feminine principles, he made Mona Lisa look more majestic from the left than the right. Bởi vì Da Vinci là một fan hâm mộ lớn của các nguyên tắc nữ tính, anh ta đã khiến Mona Lisa trông hùng vĩ hơn từ bên trái hơn bên phải. So we have the male god, Amon. Vì vậy, chúng ta có nam thần, Amon. Their square configurations make them impractical for use in crucifixion, and their balanced vertical and horizontal elements convey a natural union of male and female, making them symbolically consistent with Priory philosophy Hình dạng bình phương của nó khiến nó không sử dụng được vào việc đóng đinh câu rút, và các yếu tố dọc – ngang cân bằng của nó thể hiện sự kết hợp tự nhiên giữa nam và nữ, khiến nó trở thành biểu tượng phù hợp với triết lý của Tu viện Sion Jesus passed a single chalice of wine, just as modern Christians do at communion Jesu chỉ truyền tay với họ một cốc rượu vang thôi giống như những người Thiên chúa giáo hiện đại làm trong lễ Thánh Thể They will reach the Grail before we do! Họ sẽ tìm được Chén Thánh trước chúng ta! Do as I say, and everything will be fine Hãy làm như ta dặn và mọi việc sẽ tốt đẹp Sophie heard what sounded like drilling or machinery in the background. Sophie nghe thấy cái gì tựa như tiếng khoan hay tiếng máy móc là âm thanh nền ở đầu dây đằng kia. Each morning, rain or shine, Nellie was saddled and walked up and down in front of the house, waiting for the time when Mrs. Tarleton could spare an hour away from her duties Cứ mỗi sáng, dầu mưa hay nắng, Nellie đều sẵn sàng yên cương và quần tới quần lui trước cửa nhà, chờ đợi lúc bà Tarleton rỗi rảnh cỡi chạy một vòng. In English we call that kind of flower a lily." Trong tiếng Anh, chúng tôi gọi loại hoa đó là hoa huệ.
Pl.75
360.
112
361.
55
362.
20
363.
3
364.
198
365.
6
In that instant, Sophie felt the ghost of her grandfather whispering in her ear. Ngay lúc đó, Sophie cảm thấy hồn ma của ông cô thì thầm bên tai cô. Pushing Sophie from his mind, Fache stared for a moment at the miniature knight standing on Saunière's desk. Then he turned back to Collet. "Do you have him?" Đẩy Sophie ra khỏi tâm trí anh, Fache nhìn chằm chằm một lúc vào hiệp sĩ thu nhỏ đang đứng trên bàn của Saunière. Rồi anh quay lại với Collet. "Bạn có anh ta?" As a boy, Langdon had fallen down an abandoned well shaft and almost died treading water in the narrow space for hours before being rescued. Since then, he'd suffered a haunting phobia of enclosed spaces—elevators, subways, squash courts. Khi còn là một cậu bé, Langdon đã rơi xuống một cái giếng bị bỏ hoang và gần như chết vì nước trong không gian hẹp trong nhiều giờ trước khi được giải cứu. Kể từ đó, anh phải chịu một nỗi ám ảnh ám ảnh về không gian kín của thang máy, tàu điện ngầm, sân bóng quần. the curator spoke his next words carefully. Người phụ trách nói những lời tiếp theo của mình một cách cẩn thận "Because Constantine upgraded Jesus' status almost four centuries after Jesus' death, thousands of documents already existed chronicling His life as a mortal man. Bởi vì Constantine nâng vị thế của Jesus sau khi Jesus qua đời gần bốn thế kỉ, nên đã có hàng ngàn tài liệu ghi chép lại cuộc đời của Jesus như là một con người trần tục The past year had taken a heavy toll on him, but he didn't appreciate seeing proof in the mirror. His usually sharp blue eyes looked hazy and drawn tonight. A dark stubble was shrouding his strong jaw and dimpled chin. Around his temples, the gray highlights were advancing, making their way deeper into his thicket of coarse black hair. Năm làm việc vừa qua đã làm ông tiêu hao sức lực nặng nề, nhưng ông không khoái nhìn thấy bằng chứng của điều đó trong gương. Đôi mắt màu xanh thường ngày sắc sảo đêm nay có vẻ lờ đờ và mệt mỏi. Một lớp râu đen lởm chởm phủ kín quai hàm khỏe và cái cằm chẻ. Quanh thái dương, những sợi hoa râm đang tăng lên, thâm nhập sâu hơn vào mái tóc đen dày.
366.
77
367.
187
368.
192
369.
15
370.
7
Harry Potter and the Philosopher‘s Stone I want you all back here in five minutes, ready to leave Tôi muốn tất cả các em quay lại đây sau năm phút, sẵn sàng rời đi It will be quicker this way. Nó sẽ nhanh hơn theo cách này. Ron sighed happily Ron sung sướng thở phào. Harry Potter come and live here? Harry Potter mà phải đến sống ở đây sao? When Mr and Mrs Dursley woke up on the dull, grey Tuesday our story starts, there was nothing about the cloudy sky outside to suggest that strange and mysterious things would soon be hap-pening all over the country. Vào một buổi sáng thứ ba xám xịt âm u, ông bà Dursley thức dậy, chẳng hề cảm thấy chút gì rằng bầu trời
Pl.76
371.
8
372.
8
373.
8
374.
8
375.
9
376.
9
377.
9
378.
9
379.
9
380.
10
381.
11
đầy mây kia đang báo hiệu những điều lạ lùng bí ẩn sắp xảy ra trên cả nước Anh. At half past eight, Mr Dursley picked up his briefcase, pecked Mrs Dursley on the cheek and tried to kiss Dudley goodbye but missed, because Dudley was now having a tantrum and throwing his cereal at the walls. Tám giờ rưỡi, ông Dursley sách cặp, hửi cồ bà Dursley một cái và cố hôn cậu quý tử trước khi đi làm. Nhưng cậu Dudley đang chơi trò đánh trống thổi kèn, phun phèo phèo thức ăn và vun vãi mọi thứ tứ tung, kể cả cái hôn của cha. It was on the corner of the street that he noticed the first sign of something peculiar – a cat reading a map. Chính ở ngay góc đường, ông nhận thấy dấu hiệu đầu tiên của chuyện lạ: Một con mèo xem bản đồ For a second, Mr Dursley didn‘t realise what he had seen – then he jerked his head around to look again. There was a tabby cat standing on the corner of Privet Drive, but there wasn‘t a map in sight. Thoạt tiên, ông Dursley không nhận ra đó là chuyện kỳ quái. Thế rồi ông giật mình quay lại nhìn lần nữa. Có một con mèo hoang đứng ở góc đường Privet Drive, nhưng bây giờ lại chẳng có tấm bản đồ nào cả! As he drove towards town he thought of nothing except a large order of drills he was hoping to get that day. Khi lái xe vào thành phố, ông không muốn nghĩ đến cái gì khác hơn là những đơn đắt hàng máy khoan mà ông mong có được nhiều thật nhiều trong ngày hôm đó. But on the edge of town, drills were driven out of his mind by something else. Nhưng sắp vào tới thành phố, chợt có một việc khiến ông không còn tâm trí nghĩ đến những chiếc máy khoan nữa. The traffic moved on, and a few minutes later, Mr Dursley arrived in the Grunnings car park, his mind back on drills. Trong văn phòng ở lầu chín, ông Dursley thường vẫn hay ngồi quay lưng lại cửa sổ. He found it a lot harder to concentrate on drills that afternoon, and when he left the building at five o‘clock, he was still so worried that he walked straight into someone just outside the door. Buổi trưa đó, ông bỗng thấy khó mà tập trung vô mấy cái máy khoan, và khi rời sở làm lúc năm giờ chiều thì ông trở nên lo âu và căng thẳng đến nỗi đâm sầm vào một người ở ngoài cửa. It was a few seconds before Mr Dursley realised that the man was wearing a violet cloak. Nhưng chỉ vài giây sau, ông Dursley chợt nhận ra là gã đàn ông đó cũng khoác áo trùm màu tím. On the contrary, his face split into a wide smile and he said in a squeaky voice that made passers-by stareNgược lại, mặt gã giãn ra một nụ cười toe toét, và gã nói với một giọng mơ hồ khiến mọi người đi ngang phải ngoái nhìn. Don‘t be sorry, my dear sir, for nothing could upset me today Đừng lo, thưa ngài, hôm nay không có gì có thể làm tôi nổi cáu được đâu As he pulled into the driveway of number four, the first thing he saw – and it didn‘t improve his mood – was the tabby cat he‘d spotted that morning. Khi cho xe vào ngõ nhà số 4, cái trước tiên mà ông nhìn thấy - và cũng chẳng làm cho ông dễ thở hơn chút nào - là con mèo hoang to tướng mà ông đã thấy hồi sáng. She told him over din-ner all about Mrs Next Door‘s problems with her daughter
382.
11
Pl.77
383.
11
384.
13
385.
20
386.
22
387.
22
388.
23
389.
23
390.
23
391.
23
392.
23
393.
24
394.
25
395.
27
and how Dudley had learnt a new word ‗Shan‘t!‘. Trong bữa ăn tối, bà kể cho chồng nghe chuyện rắc rối của nhà hàng xóm và con gái của họ, cùng chuyện hôm nay Dudley học nói được thêm hai từ mới ―hổng thèm‖ While Mrs Dursley was in the bathroom, Mr Dursley crept to the bedroom window and peered down into the front garden. Trong khi bà Dursley vào buồn tắm, ông Dursley đứng bên cửa sổ nhìn ra vườn. I must have passed a dozen feasts and parties on my way here. Trên đường đến đây, tôi đã gặp ít nhất cả chục đám tiệc tùng linh đình rồi. About once a week, Uncle Vernon looked over the top of his newspaper and shouted that Harry needed a haircut. Khoảng một tuần một lần, dượng Vernon lại ngước mắt ra khỏi tờ báo dượng đang đọc để quát Harry rằng cần phải cắt tóc. Every year, Harry was left behind with Mrs Figg, a mad old lady who lived two streets away. Hằng năm vào dịp sinh nhật của Dudley, ba má nó dắt nó và bạn nó đi chơi cả ngày, nào là tới khu vui chơi giải trí, vô nhà hàng hay đi coi hát He shot Harry a nasty grin through the gap in his mother‘s arms.Qua khoảng trống giữa hai cánh tay của mẹ, Dudley nhe răng cười nhạo Harry. and a moment later, Dudley‘s best friend, Piers Polkiss, walked in with his mother. Chỉ một lát sau, thằng bạn thân của Dudley là Piers Polkiss bước vào cùng với mẹ nó. Half an hour later, Harry, who couldn‘t believe his luck, was sitting in the back of the Dursleys‘ car with Piers and Dudley, on the way to the zoo for the first time in his life. Nữa giờ sau, Harry không thể tin được vận may lại đến với mình như thế: nó đang được ngồi trên xe hơi chung với gia đình Dursley trên đường đến sở thú lần đầu tiên trong đời. Once, Aunt Petunia, tired of Harry coming back from the bar-ber‘s looking as though he hadn‘t been at all, had taken a pair of kitchen scissors and cut his hair so short he was almost bald except for his fringe, which she left ‗to hide that horrible scar‘. Thí dụ một lần, dì Petunia lấy cái kéo nhà bếp cắt trụi lủi mớ tóc trên đầu Harry, khiến cho cái đầu nó trọc lóc.Dì chỉ để chừa lại một chỏm trên trán, theo dì nói là để che cái thẹo kinh khủng kia đi. Chẳng là gì đã cáu tiết khi thấy Harry đi tiệm hớt tóc về mà đầu vẫn cứ bờm xờm như không hề được cắt tỉa. Another time, Aunt Petunia had been trying to force him into a revolting old jumper of Dudley‘s brown with orange bobbles. Rồi một lần khác, dì Petunia bắt Harry mặc chiếc áo len của Dudley đã bỏ đi. On the other hand, he‘d got into terrible trouble for being found on the roof of the school kitchens.Nhưng đổi lại nó bị rắc rối to khi một lần người ta thấy nó đang ngồi chong chóc trên mái nhà bếp của trường. This morning, it was motorbikes.Còn sáng nay, đề tài phàn nàn của ông là về xe gắn máy After lunch they went to the reptile house. Sau bữa ăn trưa, họ đến khu chuồn nuôi các loài bò sát When he had been younger, Harry had dreamed and dreamed of some unknown relation coming to take him away, but it had never happened; the Dursleys were his only family. Hồi Harry còn nhỏ hơn nữa, nó từng mơ đi mơ lại một giấc mơ được một người bà con khác đến nhận, đem nó đi khỏi nhà Dursley. At school, Harry had no one. Ở trường Harry không có bạn bè
396.
27
Pl.78
397.
28
398.
29
399.
29
400.
32
401.
32
402.
33
403.
33
404.
33
405.
34
406.
34
407.
34
408.
35
409.
36
410.
36
411.
39
412. 413.
49 49
One day in July, Aunt Petunia took Dudley to London to buy his Smeltings uniform, leaving Harry at Mrs Figg‘s. Một ngày vào tháng bảy, bà Dursley dắt Dudley đi Luân Đôn mua đồng phục của trường Smelting cho nó. That evening, Dudley paraded around the living-room for the family in his brand-new uniform. Buổi tối hôm đó, Dudley trong bộ đồng phục mới toanh oai vễ đi diễu quanh phòng khách cho cha mẹ nó ngắm There was a horrible smell in the kitchen next morning when Harry went in for breakfast. Sáng hôm sau, Harry vừa bước vô bếp thì ngửi thấy ngay một mùi khủng khiếp. That evening when he got back from work, Uncle Vernon did something he‘d never done before; he visited Harry in his cupboard.Chiều hôm đó, ông Dursley đã làm môt việc mà từ hồi nào giờ đố ông thèm làm: ông chui xuống gầm cầu thang gặp Harry. Next morning at breakfast, everyone was rather quiet. Vào bữa ăn sáng hôm sau, mọi người hơi yên lặng. When the post arrived, Uncle Vernon, who seemed to be trying to be nice to Harry, made Dudley go and get it. Lại có thư đến, ông Dursley bảo Dudley ra lấy. Ông đang cố tỏ ra tử tế với Harry. With a strangled cry, Uncle Vernon leapt from his seat and ran down the hall, Harry right behind him. Ông Dursley thốt kêu một tiếng uất nghẹn, nhảy ra khỏi ghế, chạy ra hành lang, có Harry bám sát gót. After a minute of confused fighting, in which everyone got hit a lot by the Smeltings stick, Uncle Vernon straightened up, gasping for breath, with Harry‘s letter clutched in his hand. . Sau một phút vật lộn tay ba, nó cũng bị chọc cho vài gậy Smelting, ông Dursley cuối cùng đứng thẳng lên được, hớp lấy không khi mà thở, tay nắm chặt lá thư của Harry. On Friday, no fewer than twelve letters arrived for Harry. Vào ngày thứ sáu, có tới một lá thư được gửi đến cho Harry. On Saturday, things began to get out of hand. Đến thứ bảy thì sự việc bắt đầu vụt ra ngoài tầm tay của22 ông. On Sunday morning, Uncle Vernon sat down at the breakfast table looking tired and rather ill, but happy Sáng chủ nhật, ông Dursley ngồi vô bàn ăn sáng, trông mỏi mệt và hơi bệnh, nhưng lại vui mừng. Ten minutes later they had wrenched their way through the boarded-up doors and were in the car, speeding towards the motorway. Mười phút sau, họ lách qua cánh cửa đã bị đóng nẹp để chui vào trong xe hơi, lái thật nhanh ra xa lộ. Aunt Petunia sug- gested timidly, hours later, but Uncle Vernon didn‘t seem to hear her. Nhiều giờ sau, bà Dursley khép nép thỏ thẽ với chồng Dudley asked Aunt Petunia dully late that afternoon Xế trưa hôm đó, Dudley hỏi má nó A giant of a man was standing in the doorway. Trên ngưỡng cửa, một người khổn lồ đã đứng sẵn. Harry woke early the next morning. Sáng hôm sau Harry thức dậy sớm. Although he could tell it was daylight, he kept his eyes shut tight.Mặc dù biết là trời sáng rồi, nó vẫn nhắm tít mắt lại.
Pl.79
414.
52
415.
53
416.
53
417.
85
418.
85
419.
86
420.
86
421.
88
422.
90
423.
95
424.
107
425.
108
426.
108
427.
109
People stared more than ever on the train. Trên xe lửa, người ta còn ngó lão Hagrid dữ hơn Harry had never been to London before.Từ trước đến giờ, Harry chưa từng được đi Luân – Đôn Although Hagrid seemed to know where he was going, he was obviously not used to getting there in an ordinary way. Còn lão Hagrid, tuy có vẻ biết rõ mình đang đi đâu, nhưng rõ ràng là không quen với cái cách tới được chỗ đó bằng phương tiện giao thông thường trong thế giới phàm nhân. While you are at Hogwarts, your triumphs will earn your house points, while any rule-breaking will lose house points. Trong thời gian các con học ở Hogwarts thì thành tích các con đạt được sẽ được cộng vào điểm chung cho nhà mình ở. At the end of the year, the house with the most points is awarded the House Cup, a great honour. Cuối năm, nhà nào có được nhiều điểm nhất sẽ được nhận cúp nhà – một vinh dự cao cả. He hadn‘t expected something like this the moment they arrived. Khi đặt chân đến trường, Harry đâu ngờ sẽ phải qua một cộc kiểm tra như thế này. Any second now, Professor McGonagall would come back and lead him to his doom. Chỉ vài giây nũa thôi, giáo sư McGonagall sẽ trở lại và số nó tới đây chắc là tàn. For a few seconds, there was complete silence. rong vài giây, không gian im lặng phăng phắc. As Harry stepped forward, whispers suddenly broke out like little hissing fires all over the hall. Khi Harry bước tới, nó nghe tiếng xì xầm nổi lên khắp bốn phía. Dumbledore conducted their last few lines with his wand, and when they had finished, he was one of those who clapped loudest. Khi hai đứa hát xong, cụ Dumbledore giơ cây đũa thần lên thu hồi các lời ca và vỗ tay, cụ vỗ tay to nhất. Still, first-year Gryffindors only had Potions with the Slytherins, so they didn‘t have to put up with Malfoy much. Or at least, they didn‘t until they spotted a notice pinned up in the Gryffindor common room which made them all groan. Tuy nhiên lúc đầu, học sinh năm thứ nhất của nhà Gryffindor chỉ phải học chung với học sinh nhà Slytherin mỗi môn Độc Dược, nên Harry cũng không đụng chạm nhiều với Malfoy. At breakfast on Thursday she bored them all stupid with flying tips she‘d got out of a library book called Quidditch through the Ages. Vào bữa điểm tâm ngày thứ năm, con bé làm mọi người ngấy lên khi trích dẫn ra đủ mẹo vặt về thuật bay mà nó đọc được từ một cuốn sách mượn ở thư viện có tựa là ―Quidditch qua các thời đại‖. At three-thirty that afternoon, Harry, Ron and the other Gryffindors hurried down the front steps into the grounds for their first flying lesson. Trưa hôm đó, vào khoảng ba giờ rưỡi, Harry, Ron và những đứa khác trong nhà Gryffindor vội vã chạy xuống sân để học bài đầu tiên của lớp Bay. It was a clear, breezy day and the grass rippled under their feet as they marched down the sloping lawns towards a smooth lawn on the opposite side of the grounds to the Forbidden Forest, whose trees were swaying darkly in the distance.Trời hôm
Pl.80
428.
109
429.
121
430.
121
431.
123
432.
123
433.
132
434.
158
435.
158
mình,
Ron
436.
158
437.
158
438.
159
439.
162
ấy, trong xanh, gió nhẹ, cỏ dợn dưới chân khi bọn trẻ bước qua sân đến bãi cỏ đối diện khu rừng cấm. Bóng cây đu đưa trong khu rừng âm u ẩn hiện phía xa xa. Now, when I blow my whistle, you kick off from the ground, hard. Bây giờ, khi tôi thổi còi, các trò đạp mạnh chân xuống mặt đất. Indeed, by next morning Harry and Ron thought that meeting the three-headed dog had been an excellent adventure and they were quite keen to have another one. Thật lòng, buổi sáng, khi thức giấc, cả Harry và Ron đều cho là cuộc chạm trán với con quái vật ba đầu đêm qua là một cuộc phiêu lưu cực kỳ lý thú, đến nỗi hai đứa thiết tha lao ngay vào một cuộc phiêu lưu khác. In the meantime, Harry filled Ron in about the package that seemed to have been moved from Gringotts to Hogwarts, and they spent a lot of time wonder-ing what could possibly need such heavy protection Harry cũng đã kể cho Ron nghe về cái gói hình như được mang từ Gringotts về Hogwarts. Cả hai đứa tốn bao nhiêu thì giờ chỉ để thắc mắc là tại sao cái gói ấy lại cần được bảo vệ cẩn thận đến thế. Too eager to fly again to wait for Wood, Harry mounted his broomstick and kicked off from the ground. Trong khi chờ đợi Wood, Harry nôn nóng muốn bay quá nên nó trèo lên cây chổi và đạp mạnh một cái xuống đất. What a feeling – he swooped in and out of the goalposts and then sped up and down the pitch. Véo một cái, nó bay tuốt lên không. But from that moment on, Hermione Granger became their friend. Kể từ đó, Hermione trở thành bạn của Ron và Harry. Hermione, who came back the day before term started, took a different view of things. Trước ngày bắt đầu học kỳ hai, Hermione trở lại trường và nhìn mọi thứ bằng con mắt khác. ‗You see, Dumbledore was right, that mirror could drive you mad,‘ said Ron, when Harry told him about these dreams. Khi Harry kể cho Ron nghe về giấc mơ của bảo: - Bồ thấy chưa? Thầy Dumbledore nói đúng quá: tấm gương đó có thể làm cho bồ phát điên. Harry had even less time than the other two, because Quidditch practice had started again. Harry còn có ít thời gian hơn hai bạn, bởi vì các buổi tập Quidditch cũng đã bắt đầu. Then, during one particularly wet and muddy practice session, Wood gave the team a bit of bad news. Thế rồi, trong một buổi luyện tập mà ai cũng ướt lướt thướt và bê bết bùn sình, Wood thông báo cho cả đội biết một hung tin. Don‘t talk to me for a moment,‘ said Ron when Harry sat down next to him Harry vừa ngồi xuống bên cạnh, Ron nói ngay: - Lúc này đừng có nói chuyện với mình nha, mình đang tập trung… Next morning in Defence Against the Dark Arts, while copying down different ways of treating werewolf bites, Harry and Ron were still discussing what they‘d do with a Philosopher‘s Stone if they had one. Sáng hôm sau, trong lớp học Phòng chống nghệ thuật Hắc ám, Harry và Ron vừa chép lại những cách chữa trị khác nhau khi bị ma sói cắn, vừa tán hươu tán vượn về những chuyện chúng sẽ làm
Pl.81
440.
162
441.
162
442.
162
443.
163
444.
165
445.
166
446.
167
447.
167
448.
167
449.
168
450.
191
451.
7
nếu chúng có Hòn đá Phù thủy trong tay. It wasn‘t until Ron said he‘d buy his own Quidditch team that Harry remembered about Snape and the coming match. Khi Ron nói là nó sẽ sắm riêng một đội Quidditch, thì Harry sực nhớ ra trận bóng sắp tới và, dĩ nhiên, cả thầy Snape nữa. As the match drew nearer, however, Harry became more and more nervous, whatever he told Ron and Hermione. Nhưng dù Harry nói cứng như thế nào với Ron và Hermione, nó vẫn cảm thấy càng lúc càng lo âu khi càng gần đến ngày thi đấu. Harry knew, when they wished him good luck outside the chang- ing rooms next afternoon, that Ron and Hermione were wonder-ing whether they‘d ever see him alive again. Chiều hôm sau, trước khi Harry bước vào phòng thay đồ dành cho các cầu thủ, Ron và Hermione chúc Harry may mắn. Back in the changing room, Wood had taken Harry aside. Trong phòng thay đồ, Wood kéo Harry ra nói riêng Harry left the changing room alone some time later, to take his Nimbus Two Thousand back to the broomshed. Một lát sau, Harry rời khỏi phòng thay đồ một mình, đem chiếc Nimbus 2000 của mình cất vào nhà để chổi. It was almost dark now, but Harry could see Quirrell, standing quite still as though he was petrified Trời bây giờ gần tối hẳn, nhưng Harry vẫn còn có thể nhìn thấy thầy Quirrell đứng chết lặng hồi lâu tại chỗ, như thể đã hoá đá rồi vậy. In the weeks that followed he did seem to be getting paler and thin-ner, but it didn‘t look as though he‘d cracked yet. Trong những tuần lễ sau, thầy có vẻ xanh hơn và gầy hơn, nhưng không có vẻ gì là đã bị đánh gục. Every time they passed the third-floor corridor, Harry, Ron and Hermione would press their ears to the door to check that Fluffy was still growling inside.Mỗi lần đi ngang hành lang tuần thứ ba, bọn Ron, Harry và Hermione đều ép tai mình sát cánh cửa để kiểm tra xem con Fluffy vẫn còn gầm gừ bên trong không. Hermione, however, had more on her mind than the Philosopher‘s Stone. Tuy nhiên, Hermione lại hkông dành hết tâm trí cho Hòn đá Phù thủy. He came back a minute later with a pile of books in his arms and slammed them down on the table.Chỉ vài phút sau, nó trở lại với một đống sách trên tay. Thảy đống sách lên bàn, nó thì thầm: In years to come, Harry would never quite remember how he had managed to get through his exams when he half expected Voldemort to come bursting through the door at any moment. Có lẽ mãi đến sau này, Harry vẫn không thể nào nhớ lại được nó đã làm sao mà thi cử và rốt cuộc vẫn thi đậu nổi, khi cứ phập phồng lo là Voldemort sẽ xông vô phòng nó bất cứ lúc nào. When Mr and Mrs Dursley woke up on the dull, grey Tuesday our story starts, there was nothing about the cloudy sky outside to suggest that strange and mysterious things would soon be hap-pening all over the country. Vào một buổi sáng thứ ba xám xịt âm u, ông bà Dursley thức dậy, chẳng hề cảm thấy chút gì rằng bầu trời đầy mây kia đang báo hiệu những điều lạ lùng bí ẩn sắp xảy ra trên cả nước Anh. Harry Potter Chamber of and the Secrets
Pl.82
452.
7
453.
7
454.
8
455.
9
456.
11
457.
11
458.
11
459.
12
460.
13
461.
14
462.
25
463.
25
Not for the first time, an argument had broken out over breakfast at number four, Privet Drive. Đây không phải là vụ cãi vã đầu tiên nổ ra trong buổi điểm tâm ở nhà số 4 đường Privet Drive Harry tried, yet again, to explain. Một lần nữa, Harry lại phải cố gắng giải thích Ever since Harry had come home for the summer holidays, Uncle Vernon had been treating him like a bomb that might go off at any moment, because Harry wasn‘t a normal boy. Kể từ hồi Harry về nhà nghỉ hè, dượng Vernon đẽ đối xử với nó như một trái bom có thể nổ bất cứ lúc nào, bởi vì Harry không phải là một đứa trẻ bình thường And then, exactly a year ago, Hogwarts had written to Harry, and the whole story had come out. Thế rồi, cách đây đúng một năm, trường Hogwarts gởi thư cho Harry, khiến cho toàn bộ câu chuyện này được phơi bày. When dinner‘s over, you take Mrs Mason back to the lounge for coffee, Petunia, and I‘ll bring the subject round to drills. Khi bữa tiệc kết thúc, anh sẽ đưa bà Mason trở lại phòng khách uống cà phê, Petunia à, và anh sẽ dẫn dắt đề tài câu chuyện đến những cái máy khoan. Countless times, Harry had been on the point of unlocking Hedwig‘s cage by magic and sending her to Ron and Hermione with a letter, but it wasn‘t worth the risk. Đã biết bao nhiêu lần, Harry toan dùng phép thuật tháo cũi sổ lồng cho con Hedwig để nó đem thư đến cho Hermione và Ron. For the first couple of weeks back, Harry had enjoyed muttering nonsense words under his breath and watching Dudley tearing out of the room as fast as his fat legs would carry him. Trong mấy tuần lễ đầu khi Harry mới về nhà, nó khoái giả bộ lẩm nhẩm những câu nhảm nhí vô nghĩa để thấy thằng Dudley, với thân hình phì nhiêu, phóng ra khỏi phòng với tốc độ tối đa. At the very end of last term, Harry had come face to face with none other than Lord Voldemort himself. Cả niên học qua của nó ở Hogwarts không hẳn toàn chuyện vui. Vào những ngày cuối cùng của niên học, Harry đã phải trực diện chiến đấu với chính Ngài Voldermort chứ không ai khác. It was half past seven in the evening when at last, exhausted, he heard Aunt Petunia calling him. ‗Get in here! And walk on the newspaper!‘ Cuối cùng, lúc bảy giờ ba mươi, khi nó đã kiệt sức thì nghe có tiếng dì Petunia kêu: – Vô đây! Bước trên giấy báo lót sàn nghe không! As he passed the door to the living room, Harry caught a glimpse of Uncle Vernon and Dudley in bow-ties and dinner jackets. Khi đi ngang qua phòng khách, Harry kịp thoáng thấy dượng Vernon và Dudley trong bộ áo khoác dạ tiệc, cổ đeo nơ. When the bars were safely in the back seat with Ron, Fred reversed as close as possible to Harry‘s window. Khi Ron đã chất xong mấy thanh gỗ lên sau xe, Fred lui xe lại sát bên cửa sổ phòng ngủ Harry. At last, panting, they reached the landing, then carried the trunk through Harry‘s room to the open window. Cuối cùng, thở hổn hển, họ khiêng đực cái hòm rồi mang đến cửa sổ mở trong phòng.
Pl.83
464.
27
465.
27
466. 467.
29 29
468.
32
469.
33
470.
33
471. 472.
33 35
473. 474.
35 37
475.
37
476.
38
477.
38
478.
39
479.
40
There was a long shocked silence when he had finished. Khi nó kể xong, mọi người im lặng một hồi lâu trong nỗi kinh hoàng. Harry had heard these rumours about Malfoy‘s family before, and they didn‘t surprise him at all. Trước đây Harry đã từng nghe đồn về gia đình Malfoy, nên những điều ấy không làm nó ngạc nhiên lắm Now, we‘ll go upstairs really quietly. Bây giờ tụi mình lên lầu, hết sức êm nhé Then Ron, you come bounding downstairs going. Lúc đó, Ron, em mới phóng xuống cầu thang Now, let‘s see what Lockhart‘s got to say on the subject Để coi, Lockhart nói gì về đề tài này Soon, the crowd of gnomes in the field started walking away in a straggling line, their little shoulders hunched. Chẳng mấy chốc, bầu trời dày nghịt những con ma lùm bị quăng vun vút. ‗They‘ll be back,‘ said Ron, as they watched the gnomes disap-pear into the hedge on the other side of the field Khi nhìn theo chúng biến mất sau hàng giậu bên kia cánh đồng, Ron nói: Tụi nó sẽ trở lạ Just then, the front door slammed. Đúng lúc đó, cửa cái đóng sầm. ‗Let‘s leave them to it,‘ Ron muttered to Harry, as Mrs Weasley swelled like a bullfrog. ‗Come on, I‘ll show you my bedroom.‘ Trong khi bà Weasley giận cành hông, Ron thì thầm với Harry: Cứ để hai ông bà giải quyết chuyện đó. Đi, mình chỉ cho bồ coi phòng ngủ của mình. On the third landing, a door stood ajar . Trên tầng thứ ba, một cánh cửa hé mở. Harry heard from Hogwarts one sunny morning about a week after he had arrived at The Burrow. Một tuần lễ sau khi nó đến trang trại Burrow, Harry nhận được thư từ Hogwarts. Pretending he hadn‘t noticed this, Harry sat down and took the toast Mrs Weasley offered him Giả đò như không để ý chuyện đó, Harry ngồi xuống và nhận miếng bánh mì nướng từ tay bà Weasley You two‘ve got them, too,‘ he added, as Fred and George ambled in, still in their pyjamas. Khi Fred và George thong thả bước vào, vẫn còn mặc bộ đồ ngủ, ông Weasley nói thêm: – Hai đứa con cũng có thư. At this point, Fred caught his mother‘s eye and quickly busied himself with the marmalade. Nói tới đó, Fred bắt gặp ánh mắt má nó, nó lập tức cúi xuống cái dĩa của mình và cặm cụi ăn món mứt. Five minutes later they were marching up the hill, broomsticks over their shoulders. Năm phút sau bữa điểm tâm, cả bọn vác chổi trên vai leo lên đồi. His exam results came the day before you did; twelve O.W.Ls and he hardly gloated at all Trước bữa Harry đến, thì ảnh nhận được kết quả bài thi của ảnh, mười hai P.T.T.D, mà ảnh cũng chẳng hả hê gì cả Mrs Weasley woke them all early the following Wednesday.Vào sáng ngày thứ tư đó,
480.
40
Pl.84
481.
40
482.
41
483.
42
484.
43
485.
53
486.
53
487.
54
488.
54
489.
54
490.
68
491.
68
492.
74
493.
74
494.
74
bà Weasley đánh thức bọn trẻ dậy sớm. After a quick half-a-dozen bacon sandwiches each, they pulled on their coats and Mrs Weasley took a flowerpot off the kitchen mantel-piece and peered inside.Sau khi mỗi đứa ngốn nhanh sáu lát bánh mì thịt nguội, tất cả khoác áo vào, và bà Weasley lấy một cái chậu hoa từ trên mặt lò sưởi trong nhà bếp xuống, bà dòm vô chậu, thở dài Now, when you get into the fire, say where you‘re going – Như vầy, khi con bước vào khối lửa, con nói nơi con muốn đến… Seconds later, a bell clanged, and Malfoy stepped into the shop. Vài giây sau, chuông cửa kêu leng keng và Malfoy bước vô tiệm. Harry Potter got a Nimbus Two Thousand last year. Năm ngoái Harry Potter có một chiếc Nimbus 2000. On their last evening, Mrs Weasley conjured up a sumptuous dinner which included all of Harry‘s favourite things, ending with a mouthwatering treacle pudding. Đêm cuối cùng Harry còn lưu lại nhà Ron, bà Weasley đã dọn lên một bữa tiệc thịnh soạn gồm tất cả những món mà Harry khoái nhất, xong tráng miệng bằng món bánh mật ứa nước miếng. It took a long while to get started next morning. Sáng hôm sau, phải mất một hồi lâu mới khởi hành được. When at last they were all in the car, Mrs Weasley glanced into the back seat, where Harry, Ron, Fred, George and Percy were all sitting comfortably side by side, and said, ‗Muggles do know more than we give them credit for, don‘t they? Cuối cùng, khi tất cả mọi người đã ngồi vào xe, bà Weasley liếc ra băng ghế sau, nơi Harry, Ron, George và Percy ngồi thoải mái bên nhau, bà nói: - Dân Muggle hóa ra biết làm nhiều thứ hơn là chúng ta tưởng, đúng không? Five minutes after that, they skidded to a halt in the yard so that Fred could run in for his broomstick. Rồi năm phút sau nữa, xe lại đỗ xịch thêm một lần trong sân để Fred chạy vô lấy cây đũa phép. By the time she had clambered back into the car, they were running very late, and tempers were running high. Đến khi cô bé leo trở lại lên xe, thì chiếc phóng đi trong trễ tràng còn mọi người thì sốt ruột phát điên lên được. The next day, however, Harry barely grinned once. Nhưng ngày hôm sau, Harry không thể nào cười nổi tới một lần. Things started to go downhill from breakfast in the Great Hall.Từ bữa điểm tâm trong Đại Sảnh đường trở đi, mọi việc cứ tuột dốc không phanh. After that they didn‘t have much chance to talk. Sau mấy lời huyên thuyên này, bốn đứa không có mấy cơ hội để nói năng gì nữa. By the end of the class, Harry, like everyone else, was sweaty, aching and covered in earth. Cuối buổi học, Harry cũng giống như những đứa khác: mồ hôi đầm đìa, mình mẩy ê ẩm, và khắp người dính bết sình đất Harry was relieved to hear the lunch bell Khi chuông tan học reo, Harry thở phảo nhẹ nhõm What‘ve we got this afternoon Trưa nay tụi mình có môn gì? They finished lunch and went outside into the overcast court-yard. ăn xong bữa trưa,
495. 496.
74 75
Pl.85
497.
77
498.
77
499.
78
500.
78
501.
78
502.
78
503.
81
504.
81
505.
81
506.
82
507.
84
508.
94
tụi nó đi ra chơi ngoài khoảnh sân đầy bóng râm When the whole class was seated, Lockhart cleared his throat loudly and silence fell. Khi cả lớp đã ngồi xuống, thầy Lockhart tằng hắng rất to, tất cả im lặng ngay. When he had handed out the test papers he returned to the front of the class and said, ‗You have thirty minutes. Start – now!‘ Khi thầy phát giấy kiểm tra xong và quay trở lại bục giảng, thầy nói: - Các con có ba mươi phút để làm bài… Bắt đầu! Làm đi! Half an hour later, Lockhart collected in the papers and rifled through them in front of the class. Nửa giờ sau, thầy Lockhart đi thu bài làm của học trò và đọc lên ngay trước lớp In spite of himself, Harry leaned around his pile of books for a better look at the cage. Đã cố kềm nén hết sức rồi cuối cùng vẫn không nhịn được, Harry chồm qua đống sách để nhìn cái lồng cho rõ hơn. As the whole class held its breath, Lockhart whipped off the cover. Khi cả lớp đã nín thở vì hồi hộp, thầy Lockhart giở tấm che vải ra The moment the cover had been removed, they had started jabbering and rocketing around, rattling the bars and pulling bizarre faces at the people nearest them Ngay khi cái nắp lồng mới được hé ra, chúng đã hè nhau kêu la í ới, chạy lung tung trong lồng, rung lắc mấy chấn song ầm ĩ, làm mặt chằng dọa mấy đứa ngồi gần đấy. He, Ron and Hermione were planning to visit Hagrid on Saturday morning Nó, Ron và Hermione dự định đến thăm lão Hagrid vào sáng thứ bảy Harry, however, was shaken awake several hours earlier than he would have liked by Oliver Wood, captain of the Gryffindor Quidditch team. Nhưng mà buổi sáng đó, trong lúc đó còn có thể ngủ ngon lành thêm nhiều tiếng đồng hồ nữa, thì nó bị Oliver Wood đánh thức dậy. Now he was awake, he couldn‘t understand how he could have slept through the racket the birds were making. Bây giờ thức giấc rồi, Harry không hiểu làm sao lúc nãy mình có thể ngủ được trong sự huyên náo chí choa chí choét của lũ chim chóc ngoài kia. When he‘d found his scarlet team robes and pulled on his cloak for warmth, Harry scribbled a note to Ron explaining where he‘d gone and went down the spiral staircase to the common room, his Nimbus Two Thousand on his shoulder. Khi đã tìm ra bộ đồ mặc chơi Quidditch màu tía và trùm lên tấm áo choàng cho ấm, Harry viết nguệch ngoạc một bức thư ngắn, giải thích cho Ron biết nó đi đâu. Rồi nó đi xuống cái cầu thang xoắn ốc, vào phòng sinh hoạt chung, với cây chổi Nimbus 2000 vác trên vai. ‗What‘s that funny clicking noise?‘ called Fred, as they hurtled around the corner. Khi chúng vòng qua một góc sân vận động, Fred kêu lên: - Tiếng gì tách tách nghe mắc cười quá vậy? Even aside from the rain and wind it hadn‘t been a happy prac-tice session. Buổi tập hôm đó, cho dù không bị mưa gió đi nữa, cũng không ra một buổi tập vui vẻ cho lắm. As Harry squelched along the deserted corridor he came across somebody who
509.
94
Pl.86
510.
98
511.
100
512.
100
513. 514.
103 104
515.
106
516.
106
517.
107
518. 519.
108 111
520.
111
521.
111
522.
114
523.
114
looked just as preoccupied as he was. Khi Harry dò dẫm đi dọc hành lang vắng vẻ, nó bất ngờ gặp một kẻ cũng đang nặng trĩu ưu tư như nó. Amazed at his luck, Harry sped out of the office, up the corri-dor and back upstairs. Quá kinh ngạc về sự may mắn này, Harry vội vàng lỉnh ra khỏi văn phòng thầy Filch, đi ngược hành lang để lên cầu thang. By the time Hallowe‘en arrived, Harry was regretting his rash promise to go to the Deathday Party. Khi lễ Hội Ma đến, Harry đâm hối tiếc là mình đã lỡ hứa đi dự tiệc Tử nhật của con ma Nick Suýt Mất Đầu So, at seven o‘clock, Harry, Ron and Hermione walked straight past the doorway to the packed Great Hall, which was glittering invitingly with gold plates and candles, and directed their steps instead towards the dungeons.Thành ra, lúc mười một giờ đêm, cả bọn Harry, Ron, và Hermione đành phớt lờ đi ngang qua lối dẫn vào Đại Sảnh đường đông ken người. Bên trong Sảnh đường, dĩa vàng, cốc vàng, nến bạc, đèn chùm sáng lóng lánh ra sức mời gọi. Nhưng chúng đành ngoảnh mặt, ép chân mình đi thẳng xuống hầm ngục. how nice you look tonight. tối nay trông chị xinh lắm Harry was very cold by now, not to mention hungry. Lúc này Harry cảm thấy lạnh quá rồi, không kể tới chuyện đói meo đói mốc. As they edged nearer, Harry almost slipped over: there was a large puddle of water on the floor. Khi chúng nhích từng bước tới gần, Harry suýt trượt ngã – trên sàn có một vũng nước lớn. The chatter, the bustle, the noise died suddenly as the people in front spotted the hanging cat. Tiếng nói cười rộn ràng chợt lắng xuống khi những người đi đầu nhìn thấy hình ảnh con mèo bị treo ngược In seconds, he had swept past Harry, Ron and Hermione and detached Mrs Norris from the torch bracket. Chỉ trong tích tắc, cụ Dumbledore đã lướt ngang qua mặt Harry, Ron và Hermione, đến bên bức tường, gỡ Bà Noris ra khỏi cán đuốc At last Dumbledore straightened up. Cuối cùng cụ Dumbledore đứng thẳng lên. For a few days, the school could talk of little but the attack on Mrs Norris. Suốt mấy ngày sau, cả trường không bàn tán cái gì khác hơn ngoài vụ Bà Noris bị ếm bùa. Harry had been held back in Potions, where Snape had made him stay behind to scrape tubeworms off the desks. Hôm đó, Harry bị giữ lại sau lớp học về Độc dược. Thầy Snape bắt nó ở lại đặng cạo sạch mấy con giun ống cố lỳ bám trên mấy cái mặt bàn After a hur-ried lunch, he went upstairs to meet Ron in the library, and saw Justin Finch-Fletchley, the Hufflepuff boy from Herbology, coming towards himThành ra nó ăn trưa trễ. Vội vã ăn xong, nó chạy lên lầu kiếm Ron trong thư viện. For a few years, the founders worked in harmony together, seek-ing out youngsters who showed signs of magic and bringing them to the castle to be educated. Trong vài năm đầu, các nhà sáng lập cùng làm việc với nhau rất hòa thuận, cùng tìm kiếm những người trẻ tuổi có năng lực pháp thuật để đưa về lâu đài đào tạo After a while, there was a serious argument on the subject between Slytherin and Gryffindor, and Slytherin left the school. Một thời gian sau, lại xảy ra một cuộc tranh luận gay gắt về đề tài đó giữa Slytherin và Gryffindor, cuối cùng Slytherin bỏ trường ra đi
Pl.87
524.
114
525.
114
526.
115
527.
122
528.
122
529.
122
530.
122
531.
123
532.
123
533.
123
534.
124
535.
124
There was silence as he finished telling the story, but it wasn‘t the usual, sleepy silence that filled Professor Binns‘s classes. Khi câu chuyện chấm dứt, lớp học im lặng như tờ; nhưng không phải sự im lặng ngái ngủ như ngày thương trong các buổi học của giáo sư Binns. Naturally, the school has been searched for evidence of such a chamber, many times, by the most learned witches and wizards. Thực tế là nhà trường đã nhiều lần cử những phù thủy thông thái nhất tiến hành tìm kiếm chứng cứ về một căn phòng bí mật như thế. Nhưng căn phòng đó không hề có. And within five minutes, the class had sunk back into its usual torpor.Thế là trong vòng năm phút sau, cả lớp lại chìm đắm vào trạng thái mê ngủ lờ đờ y như từ xưa tới nay. Since the disastrous episode of the pixies, Professor Lockhart had not brought live creatures to class. Từ sau vụ xảy ra tai họa với mấy con yêu nhí, giáo sư Lockhart thôi không đem các con vật sống vào lớp nữa. Instead, he read passages from his books to them, and sometimes re-enacted some of the more dramatic bits. Thay vào đó, thầy giảng chay bằng cách đọc những đoạn văn trong sách của thầy cho lũ học trò nghe, thỉnh thoảng diễn xuất minh họa một tý cho thêm ấn tượng. Harry was hauled to the front of the class during their very next Defence Against the Dark Arts lesson, this time acting a werewolf.Trong buổi học Nghệ thuật Phòng chống Hắc ám hôm đó, Harry đã bị lôi ra trước lớp diễn kịch, lần này nó bị đóng vai người sói. If he hadn‘t had a very good reason for keeping Lockhart in a good mood, he would have refused to do it.Nếu hôm ấy Harry không chủ tâm làm vui lòng thầy Lockhart, thì nó đã tứ chối cái trò này. ‗So, Harry,‘ said Lockhart, while Hermione folded the note with fumbling fingers and slipped it into her bag, ‗tomorrow‘s the first Quidditch match of the season, I believe?Trong khi Hermione xếp lại tờ giấy bằng mấy ngón tay run run rồi nhét ngay vào cặp, thầy Lockhart quay qua Harry: - Sao, Harry? Ngày mai là trận Quidditch đầu tiên của mùa bóng này, đúng không? Still, if ever you feel the need for a little private training, don‘t hesitate to ask. Dù vậy, bất cứ lúc nào trò cảm thấy cần thầy huấn luyện riêng, cứ nói với thầy, đừng có ngại ngùng nhé. ‗I don‘t believe it,‘ he said, as the three of them examined the signature on the note, ‗He didn‘t even look at the book we wanted.‘ Khi cả ba đứa chụm đầu xem xét tờ giấy phép, Harry nói: - Thật không tin nổi! Thầy thậm chí không thèm ngó cái tựa của cuốn sách mà tụi mình muốn mượn. Five minutes later, they were barricaded in Moaning Myrtle‘s out-of-order bathroom once again. Năm phút sau, chúng đã cố thủ trong cái phòng vệ sinh hư của con ma khóc nhè Myrtle. ‗Here it is,‘ said Hermione excitedly, as she found the page headed The Polyjuice Potion. Khi chúng giở đến trang có tựa đề là Thuốc Đa dịch, Hermione reo lên: - Nó đây rồi!
Pl.88
536.
125
537.
125
538.
126
539.
126
540.
126
541.
128
542.
128
543.
128
544.
129
545.
137
546.
139
547.
139
Harry woke early on Saturday morning and lay for a while think- ing about the coming Quidditch match. Sáng thứ bảy, Harry thức dậy sớm nhưng nằm nướng một lát để suy nghĩ về trận đấu Quidditch sắp tới. After half an hour of lying there with his insides churning, he got up, dressed, and went down to breakfast early, where he found the rest of the Gryffindor team huddled at the long, empty table, all looking uptight and not speaking much. Sau nửa giờ nằm đó nghe bên trong ruột gan cồn cào, Harry ngồi dậy, thay quần áo, đi xuống ăn điểm tâm sớm.Ơû Đại Sảnh đường, nó gặp toàn đội Gryffindor đang túm tụm ngồi bên cái bàn dài trống trải, người nào trông cũng căng thẳng và không ai nói năng nhiều. As eleven o‘clock approached, the whole school started to make its way down to the Quidditch stadium. Gần mười một giờ, cả trường bắt đầu kéo ra sân Quidditch. As they walked out onto the pitch, a roar of noise greeted them; mainly cheers, because Ravenclaw and Hufflepuff were anxious to see Slytherin beaten, but the Slytherins in the crowd made their boos and hisses heard too. Khi cả đội bước ra, âm thanh nổi lên ầm ầm để chào chúng: chủ yếu là tiếng hoan hô, bởi vì cả hai nhà Ravenclaw lẫn Hufflepuff đều háo hức mong cho đội Slytherin thua. Nhưng đám Slytherin trên khán đài cũng la rộ, huýt sáo để dập tinh thần đội Gryffindor At that very moment, a heavy black Bludger came pelting towards him; he avoided it so narrowly that he felt it ruffle his hair as it passed. Đúng lúc đó, một trái Bludger đen nặng nề lao về phía Harry; nó tránh được trong đường tơ kẽ tóc, trái banh bay sát đến nỗi nó cảm thấy tóc tai dựng đứng lên khi trái banh bay sợt qua. Over her shoulder, Harry could see the Slytherin team jeering and pointing in his direction. Qua vai bà, Harry có thể nhìn thấy bọn Slytherin đang la ó và chỉ trỏ về phía nó The rain was falling more heavily now. Mưa vẫn rơi, bây giờ lại còn nặng hạt hơn nữa. On Madam Hooch‘s whistle, Harry kicked hard into the air and heard the tell-tale whoosh of the Bludger behind him. Tiếng còi của bà Hooch vang lên, Harry phóng vọt lên không trung, nghe tiếng hú vun vút của trái Bludger điên đuổi sát phía sau. For an agonising moment, Harry hung in mid-air, not daring to speed towards Malfoy in case he looked up and saw the Snitch.Trong một khoảnh khắc sững sờ, Harry đứng khựng giữa trời, không dám lao về phía Malfoy, chỉ sợ thằng ấy mà ngẩng đầu lên là nhìn thấy trái Snitch vàng. Harry woke up on Sunday morning to find the dormitory blazing with winter sunlight and his arm re-boned but very stiff. S áng chủ nhật, Harr y th ức dậ y, nhận t hấ y k ý túc xá tràn ng ập ti a n ắng rạng rỡ của một ngà y chớm đông, và ta y nó thì đã m ọc đủ xương nhưng vẫn cứng đ ờ. Meanwhile, hidden from the teachers, a roaring trade in talis-mans, amulets and other protective devices was sweeping the school. Trong lúc đó, một phong trào bí mật tràn lan khắp trường: bọn học trò lén lút đổi chác, mua bán những lá bùa hộ mạng, những bửu bối, và các loại bùa phép phòng thân, mà không để cho thầy cô hay biết. In the second week of December Professor McGonagall came around as usual, collecting names of those who would be staying at school for Christmas.Vào tuần lễ thứ hai của tháng 12, giáo sư McGonagall lại đi một vòng các
Pl.89
548.
140
549.
140
550.
141
551.
141
552.
141
ký túc xá để ghi danh những học sinh sẽ ở lại trường trong dịp lễ Giáng Sinh. Unfortunately, the potion was only half-finished. Không may là món thuốc ấy chỉ mới đang ở giai đoạn bào chế lưng chừng. Through the confusion, Harry saw Hermione slip quietly out of the door.Trong cảnh lộn xộn đó, Harry thấy Hermione lặng lẽ lỉnh vào văn phòng của thầy. When everyone had taken a swig of antidote and the various swellings had subsided, Snape swept over to Goyle‘s cauldron and scooped out the twisted black remains of the firework. khi mỗi học sinh bị sưng tấy đã làm xong một ngụm thuốc giải độc và những nốt phồng to nhỏ các cỡ đã xẹp xuống, thầy Snape vét cái vạc của Goyle, hớt ra một chút tàn dư đen sì của cái pháo bông. ‗He knew it was me,‘ Harry told Ron and Hermione, as they hurried back to Moaning Myrtle‘s bathroom. ‗I could tell.‘Khi ba đứa hối hả chạy đến buồng tắm của con ma khóc nhè Myrtle, Harry nói: - Tôi dám cá thầy biết thủ phạm chính là tôi. A week later, Harry, Ron and Hermione were walking across the Entrance Hall when they saw a small knot of people gathered around the noticeboard, reading a piece of parchment that had just been pinned up. Một tuần sau, khi Harry, Ron và Hermione đang băng qua tiền sảnh thì thấy một đám đông bu quanh một thông báo, đọc một mẩu giấy da đính trên bảng.
553.
506
554.
7
555.
7
556.
7
557.
7
Harry Potter and the Prisoner of Azkaban "Wait here for me, Harry," he said. "Our examination of the grounds will not take long." They trooped out in silence past him, and closed the door. After a minute or so, Harry heard the clunks of Moody‘s wooden leg growing fainter in the corridor below Cụ nói: ―Con chờ thầy ở đây nghe, Harry. Các thầy đi kiểm tra sân trường không lâu đâu.‖ Ba người lớn im lặng đi ngang qua Harry để ra ngoài và đóng cánh cửa lại. Sau chừng một phút hay cỡ đó, Harry nghe tiếng lộc cộc cái chân gỗ của thầy Moody nhỏ dần phía hành lang bên dưới. It was nearly midnight, and he was lying on his front in bed, the blankets drawn right over his head like a tent, a torch in one hand and a large leather-bound book A History of Magic, by Bathilda Bagshot propped open against the pillow. Lúc này đã gần nửa đêm. Harry đang nằm sấp trên giường, tấm chăn trùm phía trên đầu như một cái lều con, tay cầm đèn pin, một quyển sách bìa da bự Một Trang sử Pháp thuật, của Adabert Waffling để mở, tựa trên cái gối . Non-magic people more commonly known as Muggles were particularly afraid of magic in medieval times, but not very good at recognising it. Vào thời Trung cổ, những người không có phép thuật thường được gọi là Muggles rất sợ những gì huyền bí, nhưng thực ra họ không biết phân biệt đâu là phù thuỷ thật, đâu là giả . Indeed, Wendelin the Weird enjoyed being burnt so much that she allowed herself to be caught no fewer than forty-seven times in various disguises.Trong thực tế, mụ phù thuỷ Wendelin khoái bị thiêu sống đến nỗi mụ đã tự để cho mình bị bắt không dưới bốn mươi bảy lần dưới những hình thức cải trang khác nhau. For years, Aunt Petunia and Uncle Vernon had hoped that if they kept Harry as downtrodden as possible, they would be able to squash the magic out of him.
Pl.90
558.
8
559.
8
560.
8
561.
8
562.
8
563.
9
564.
12
565.
16
566.
16
567.
568.
19
569.
19
Trong nhiều năm trời, dì Petunia và dượng Vernon đã hy vọng rằng, nếu họ ra sức trấn áp kềm chế Harry, thì họ có thể trục xuất năng lực huyền bí ra khỏi thằng nhỏ This separation from his spellbooks had been a real problem for Harry, because his teachers at Hogwarts had given him a lot of holiday work. Đối với Harry, việc bị tước mất những quyển sách bùa chú quả là một nỗi khổ tâm thật sự, bởi vì thầy cô giáo ở trường Hogwarts đã giao cho nó cả đống bài làm trong kỳ nghỉ . One of the essays, a particularly nasty one about Shrinking Potions, was for Harry‘s least favourite teacher, Professor Snape, who would be delighted to have an excuse to give Harry detention for a month. Một trong những bài luận văn mà Harry phải viết là một bài cực kỳ khó về những Độc dược Co rút, do ông thầy khó ưa nhứt ở trường Hogwarts - thầy Snape - ra đề . Ông này mà kiếm được một cái cớ để phạt cấm túc Harry chừng một tháng là ổng rất ư khoái tỷ . Harry had therefore seized his chance in the first week of the holidays. Vì vậy, ngay trong tuần lễ đầu tiên của kỳ nghỉ hè, Harry đã tranh thủ được một cơ hội . While Uncle Vernon, Aunt Petunia and Dudley had gone out into the front garden to admire Uncle Vernon‘s new company car in very loud voices, so that the rest of the street would notice it too, Harry had crept downstairs, picked the lock on the cupboard under the stairs, grabbed some of his books and hidden them in his bedroom. Lúc ấy, dượng Vernon, dì Petunia, và Dudley đều còn đang mải quanh quẩn trong sân trước để trầm trồ chiếc xe hơi mới toanh của dượng Vernon. Tiếng xe nổ to phải biết, có thể suốt cả dãy phố mới chú ý. Harry thừa cơ hội ấy len lén bò xuống nhà, nạy ổ khóa của gian phòng xép dưới gầm cầu thang, chụp vội mấy quyển sách giáo khoa của nó, đem về giấu trong phòng ngủ . As long as he didn‘t leave spots of ink on the sheets, the Dursleys need never know that he was studying magic by night. Chừng nào mà nó còn giữ được khăn trải giường sạch bong, không một dấu giây mực, thì gia đình Dursley còn lâu mới biết được nó vẫn ôn bài pháp thuật vào ban đêm. Harry, who happened to be in the room at the time, froze as he heard Ron‘s voice answer.Lúc đó, Harry đang ở trong phòng, nghe tiếng Ron vang oang oang ra từ ống nghe mà hoảng kinh hồn vía . Fingers trembling slightly, he opened the envelope. Bằng mấy ngón tay run run, Harry mở phong bì . Uncle Vernon gave a loud, sleepy grunt in the room next door. Ở phòng bên, dượng Vernon ngáy lên một tiếng vang như sấm . Think you might find this useful for next year. Bác nghĩ cuốn sách này sẽ hữu ích cho cháu khi vào niên học tới Harry went down to breakfast next morning to find the three Dursleys already sitting around the kitchen table. Sáng hôm sau, khi Harry đi xuống nhà để ăn điểm tâm, thì nó thấy cả ba người của nhà Dursley đã ngồi đâu vô đó quanh cái bàn ăn trong nhà bếp rồi. Even though she was not a blood relative of Harry‘s whose mother had been Aunt Petunia‘s sister, he had been forced to call her ‗Aunt‘ all his life. Mặc dù cô ấy không có dây mơ rễ má huyết thống gì với Harry, nhưng Harry vẫn buộc phải gọi cô Marge là cô suốt đời . At Dudley‘s fifth birthday party, Aunt Marge had whacked Harry around the shins with her walking stick to stop him beating Dudley at musical statues. Nhớ
Pl.91
570.
19
571.
19
572. 573.
19 19
574.
22
575.
22
576.
22
577.
22
578.
23
579.
23
580.
24
581.
25
582.
25
hồi sinh nhật thứ năm của Dudley, cô Marge đã quất bầm giập hai ống quyển của Harry để cấm không cho nó đụng tới cái tượng phát ra tiếng nhạc của Dudley. A few years later, she had turned up at Christmas with a computerised robot for Dudley and a box of dog biscuits for Harry.Vài năm sau, cô Marge lại xuất hiện vào dịp lễ Giáng sinh, tặng cho Dudley một người máy được vi tính hóa, còn Harry thì được cô tặng cho một hộp bánh qui dành cho chó . On her last visit, the year before Harry had started at Hogwarts, Harry had accidentally trodden on the paw of her favourite dog.Trong chuyến viếng thăm gần đây nhứt của cô Marge, khoảng một năm trước khi Harry nhập học trường Hogwarts, Harry xui xẻo vô tình dẫm phải chân của con chó mà cô Marge cưng nhứt . Marge‘ll be here for a week. Cô Marge sẽ ở lại đây một tuần lễ . Abandoning his toast, he got quickly to his feet and followed Uncle Vernon to the front door.Buông miếng bánh mì nướng của nó xuống, Harry vội vàng đứng lên đi theo dượng Vernon ra đến cửa chính Ten minutes later, Errol and Hedwig who had a note to Ron bound to her leg soared out of the window and out of sight. Mười phút sau, Errol và Hedwig đeo bức thư của Harry dưới chân, cùng lao qua khung cửa sổ và biến mất tăm. Harry, now feeling thoroughly miserable, put the empty cage away inside the wardrobe.Bấy giờ Harry, với cõi lòng nặng trĩu khổ sở và cô đơn, mới đem cất cái lồng trống không vô trong tủ quần áo . In next to no time, Aunt Petunia was shrieking up the stairs for Harry to come down and get ready to welcome their guest.Chưa kịp làm gì hết thì đã nghe tiếng ré the thé của dì Petunia đang gọi vọng lên cầu thang, kêu Harry trở xuống để chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp vị khách sắp đến . All too soon, there was a crunch of gravel outside as Uncle Vernon‘s car pulled back into the driveway, then the clunk of the car doors, and footsteps on the garden path. Vừa lúc đó, bên ngoài vang lên tiếng lạo xạo của bánh xe nghiến trên sỏi khi dượng Vernon thắng xe trên lối đậu xe. Rồi tiếng mở tung cánh cửa xe ra, tiếp đến tiếng chân bước trên lối đi qua vườn Uncle Vernon now came in, smiling jovially as he shut the door. Lúc này dượng Vernon đã bước vào, mỉm cười hớn hở khi đóng cánh cửa lại . By the time he got back to the kitchen, Aunt Marge had been supplied with tea and fruitcake and Ripper was lapping noisily in the corner. Khi phải trở vô lại nhà bếp thì nó thấy cô Marge đã được dùng trà và bánh trái cây, còn con Ripper thì đã yên vị ở góc phòng, tợp lia tớp lịa khẩu phần của nó . You mustn‘t blame yourself for the way the boy‘s turned out, Vernon,‘ she said over lunch on the third day "If there‘s something rotten on the inside, there‘s nothing anyone can do about it.‘Vào bữa ăn trưa của ngày thứ ba, cô Marge nói: "Anh Vernon à, thằng bé trở nên bất trị như vầy thì anh cũng không nên tự trách mình . Khi mà cái gì thối từ trong ruột thối ra, thì không ai có thể làm gì được cả ." At that moment, the wine glass Aunt Marge was holding exploded in her hand. Đúng lúc đó, ly rượu trong tay cô Marge bỗng nổ bùm, vỡ tan. Did the same thing at Colonel Fubster‘s the other day. Hôm nọ ở nhà Đại Tá Fubster cũng xảy ra y như vậy .
Pl.92
583.
25
584.
25
585.
25
586.
25
587.
27
588.
27
589.
27
590.
28
591.
29
592.
30
593.
30
594.
42
595.
43
Outside in the hall, he leant against the wall, breathing deeply. Ra tới hành lang, Harry đứng dựa vào tường hít thở sâu. Only last summer he‘d got an official warning which had stated quite clearly that if the Ministry got wind of any more magic in Privet Drive, Harry would face expulsion from Hogwarts.Mới hồi hè năm ngoái, Harry đã nhận được cảnh cáo nói rất rõ rằng nếu Bộ Pháp thuật mà nghe phong thanh có vụ xài phép thuật nào nữa ở đường Privet Drive, thì chắc chắn Harry sẽ bị đuổi khỏi trường Hogwarts. Harry got through the next three days by forcing himself to think about his Handbook of Do-it-Yourself Broomcare whenever Aunt Marge started on him. Ba ngày tiếp theo sau, Harry sống qua trót lọt nhờ tự buộc mình chỉ suy nghĩ về cuốn Cẩm Nang Tự- Bảo-Quản Chổi Thần mỗi khi cô Marge bắt đầu tra tấn nó . At last, at long last, the final evening of Marge‘s stay arrived. Cuối cùng, mãi rồi cuối cùng cũng đến buổi tối kết thúc chuyến viếng thăm gia đình Dursley của cô Marge. He had never felt so angry in his life. Trong đời nó, nó chưa bao giờ giận dữ đến như vậy . She was entirely round, now, like a vast life buoy with piggy eyes, and her hands and feet stuck out weirdly as she drifted up into the air, making apoplectic popping noises. . Lúc này, cô Marge đã tròn quay, giống y hệt cái phao cứu cấp khổng lồ có đôi mắt heo. Tay chân cô dang ra một cách quái dị trong lúc thân thể cô bốc lên lơ lửng trong không trung, tạo ra những âm thanh nổ lụp bụp hết sức hỗn loạn . In seconds, he had heaved his trunk to the front door. Trong vài giây, nó đã kéo được cái rương của mình ra tới cửa trước . And next moment, he was out in the dark, quiet street, heaving his heavy trunk behind him, Hedwig‘s cage under his arm. Trong chớp mắt sau đó, Harry đã ra tới ngoài đường vắng vẻ tối thui, hì hục kéo lên cái rương nặng nề đằng sau lưng, và cái lồng của con Hedwig thì cặp dưới nách But after ten minutes alone in the dark street, a new emotion overtook him: panic. Nhưng sau 10 phút ngồi một mình trên đường khuya vắng lặng tối đen, một cảm xúc mới xâm chiếm Harry, đó là: hoảng loạn . A second later, a gigantic pair of wheels and headlights had screeched to a halt exactly where Harry had just been lying. Chỉ một giây sau đó, một luồng sáng đèn pha và một cặp bánh xe bành ki tô lăn sát tới và thắng rít lại, đúng ngay tại chỗ mà nó vừa nằm tức thì For a split second, Harry wondered if he had been knocked silly by his fall. Trong tích tắc, Harry tự hỏi không lẽ mình bị mụ người đi vì té đau quá? After breakfast Harry would go out into the back yard, take out his wand, tap the third brick from the left above the dustbin, and stand back as the archway into Diagon Alley opened in the wall. Cứ sau bữa điểm tâm là Harry lại đi ra sân sau của quán, rút cây đũa phép của mình ra, gõ lên viên gạch thứ ba tính từ bên trái phía trên thùng rác, rồi đứng lùi lại khi vòm cổng của Hẻm Xéo xịch mở ra từ trong bức tường . Once Harry had refilled his money bag with gold Galleons, silver Sickles and bronze Knuts from his vault at Gringotts, he needed to exercise a lot of self- control not to spend the whole lot at once. Giờ thì nó có thể ngồi trong ánh nắng rạng rỡ ấm áp ngoài sân của tiệm kem Florean Fortescue mà làm hết các bài luận
Pl.93
596.
44
597.
44
598.
45
599.
46
600.
46
601.
47
602.
47
603.
75
604.
75
605.
75
606.
76
607.
76
608.
76
văn của nó, đôi khi còn được chính Florean Fortescue mách nước cho nữa chứ . There were, however, things that Harry needed to buy.Tuy nhiên cũng có nhiều thứ mà Harry cần phải mua. As Harry entered Flourish and Blotts, the manager came hurry-ing towards him. Khi Harry bước vào tiệm sách Phú quí và Cơ hàn, ông quản lý tiệm sách bước về phía Harry. Harry emerged from Flourish and Blotts ten minutes later with his new books under his arms, and made his way back to the Leaky Cauldron, hardly noticing where he was going and bump-ing into several people.Mười phút sau, Harry ra khỏi tiệm sách với đống sách mới trong tay, tìm đường về quán Cái Vạc Lủng . Nó đi lơ ngơ, và đụng vô nhiều người mà không để ý As the days slipped by, Harry started looking wherever he went for a sign of Ron or Hermione. Những ngày cuối hè trôi nhanh, Harry bắt đầu tìm kiếm Ron và Hermione khắp nơi. Giờ thì đã có nhiều học trò trường Hogwarts kéo đến Hẻm Xéo để sắm sửa cho niên học mới chẳng bao lâu nữa sẽ bắt đầu Harry woke on the last day of the holidays, thinking that he would at least meet Ron and Hermione tomorrow, on the Hogwarts Express. Vào ngày cuối cùng của kỳ nghỉ, Harry thức dậy, nghĩ là nếu hôm nay mà nó không gặp được hai người bạn thân thiết Ron và Hermione trong Hẻm Xéo, thì thôi, nó cũng sẽ gặp lại hai đứa trên chuyến tàu Tốc Hành Hogwarts vào ngày mai. Mum and Dad dropped me off this morning with all my Hogwarts things. Hồi sáng này ba má mình đã thả mình xuống đây, với tất cả đồ đạc của mình Are you planning to eat or sleep at all this year, Hermione?‘ asked Harry, while Ron sniggered. Trong khi Ron cười khẩy, thì Harry hỏi: "Chứ bộ bồ không định ăn hay ngủ gì hết suốt niên học này sao, Hermione?" When Harry, Ron and Hermione entered the Great Hall for break-fast next day, the first thing they saw was Draco Malfoy, who seemed to be entertaining a large group of Slytherins with a very funny story. Khi Harry, Ron và Hermione bước vào Đại Sảnh đường để ăn điểm tâm vào sáng hôm sau, thì người đầu tiên mà tụi nó thấy là Draco Malfoy. Có vẻ như Malfoy đang mua vui cho một nhóm học sinh nhà Slytherin bằng một câu chuyện chọc cười As they passed, Malfoy did a ridiculous impression of a swooning fit and there was a roar of laughter. Lúc Harry, Ron và Hermione đi ngang qua, Malfoy đang nhại một vẻ mặt đau đớn đến bất tỉnh khá khôi hài, thế là quanh nó nổ ra một tràng cười . Most of the prison-ers go mad in there. Ở trong đó, hầu như tất cả các tù nhân ngục Azkaban đều phát điên lên hết Ooh, good, we‘re starting some new subjects today. Ôi, hay quá! Tụi mình bắt đầu học mấy môn mới ngay hôm nay Just then, Hagrid entered the Great Hall. Vừa lúc đó, lão Hagrid bước vào Đại Sảnh đường All righ‘?‘ he said eagerly, pausing on the way to the staff table. ‗Yer in my firs‘ ever lesson! Right after lunch! Bin up since five get-tin‘ everythin‘ ready ... hope it‘s OK ... me, a teacher ... hones‘ly Trên đường đi tới bàn giáo viên, lão dừng bước nói với bọn trẻ: "Ổn cả chứ hả ? Các cháu là những học trò trong lớp học đầu tiên mà bác được dạy đó nghe! Lớp bắt đầu ngay sau bữa ăn trưa! Bác phải thức dậy từ lúc năm
Pl.94
609.
77
610.
77
611.
86
612.
86
613. 614.
86 86
615.
86
616.
94
617.
94
618.
95
619.
95
620.
96
621.
107
622.
108
623.
giờ sáng để chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng ... Hy vọng đâu đã vô đó rồi ... bác đây, một thầy giáo ... thiệt tình ..." As they passed the Slytherin table, Malfoy did yet another impression of a fainting fit. Khi tụi nó đi ngang bàn ăn của nhà Slytherin, Malfoy lại biểu diễn trò nhái một cơn xỉu nữa . A moment later, a short, squat knight in a suit of armour had clanked into the picture after his pony. Một lát sau, một hiệp sĩ lùn bè bè mặc bộ áo giáp cứ kêu xủng xoẻng khi ông bước vào bức tranh, theo sau là con ngựa lùn. Harry was pleased to get out of the castle after lunch. Sau bữa ăn trưa, Harry mừng là được ra khỏi tòa lâu đài . It was only when he spotted three only-too-familiar backs ahead of them that he realised they must be having these lessons with the Slytherins. Đến khi nhìn thấy ba cái lưng quá ư quen thuộc ở đằng trước tụi nó, Harry mới nhận ra rằng tụi nó sẽ phải học môn này chung với bọn học sinh bên nhà Slytherin. Got a real treat for yeh today. Bữa nay, tôi đãi các trò một bữa ra hồn For one nasty moment, Harry thought that Hagrid was going to lead them into the Forest; Harry had had enough unpleasant experiences in there to last him a lifetime. Trong một thoáng khó chịu, Harry nghĩ không chừng lão Hagrid đang dắt cả bọn vô rừng . Những kinh nghiệm khốn khổ mà Harry đã từng nếm trải ở trong khu rừng đó kể như đủ để nó nhớ suốt đời rồi . Now, firs‘ thing yeh‘ll want ter do is open yer books. Bây giờ, việc đầu tiên tất cả các trò cần làm là mở sách ra... Malfoy didn‘t reappear in classes until late on Thursday morning, when the Slytherins and Gryffindors were halfway through double Potions.Malfoy không thèm đến lớp mấy ngày; mãi đến xế ngày thứ năm, khi học sinh nhà Slytherin và Gryffindor đang học chung hai tiết môn Độc dược, nó mới xuất hiện . They were making a new potion today, a Shrinking Solution. Hôm nay, bọn trẻ bào chế một món thuốc mới: Dung dịch Co rút A few cauldrons away, Neville was in trouble. Cách đó vài cái vạc, Neville cũng đang gặp rắc rối . Longbottom, at the end of this lesson we will feed a few drops of this potion to your toad and see what happens.Longbottom, cuối buổi học này, chúng ta sẽ cho con cóc của trò nếm vài giọt thuốc này để xem chuyện gì xảy ra. On the other side of the table, Malfoy looked up, listening closely. Bên kia bàn, Malfoy cũng dỏng tai lên nghe lóm . In no time at all, Defence Against the Dark Arts had become most people‘s favourite class. c hẳng mấy chốc, lớp Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám đã trở thành lớp học mà bọn trẻ khoái nhứt . Why would anyone bother looking after them?‘ said Ron, after yet another hour of poking shredded lettuce down the Flobberworms‘ slimy throats.Sau một tiếng đồng hồ dài lê thê phải ngồi đút rau sà lách xắt vụn vô mấy cái cổ họng nhơn nhớt của lũ Nhuyễn trùng, Ron cảm thán: "Mắc mớ gì mà người ta phải mất công chăm sóc lũ trùng này chứ ?" At the start of October, however, Harry had something else to occupy him, something so enjoyable it made up for his unsatisfac-tory classes. Tuy nhiên vào đầu tháng mười, có một chuyện khác khiến Harry quan tâm hơn, một chuyện thú vị đến nỗi Harry cảm thấy được đền bù phần nào cho những lớp học chẳng mấy
Pl.95
624. 625.
108 109
626.
110
627.
111
628.
111
629.
111
630.
111
631. 632.
112 112
633.
114
634.
635.
10
636.
47
637.
47
638.
47
vui vẻ gì ấy . ‗I‘ll be leaving at the end of this year.Tôi sẽ ra trường vào cuối niên học này Harry returned to the Gryffindor common room one evening after training, cold and stiff but pleased with the way practice had gone, to find the room buzzing excitedly.Một buổi tối sau khi luyện tập Quidditch xong, Harry trở về phòng sinh hoạt chung của nhà Gryffindor, vừa lạnh cóng vừa tê cứng, nhưng rất hài lòng với diễn biến buổi tập, nó bỗng nhận thấy không khí trong phòng sinh hoạt chung chộn rộn háo hức khác thường . Harry, I‘m sure you‘ll be able to go next time Harry à, mình chắc là lần sau bồ có thể đi được mà Ron was still in a bad mood with Hermione next day. Hôm sau Ron vẫn còn giận Hermione. He barely talked to her all through Herbology, even though he, Harry and Hermione were working together on the same Puffapod. Nó hầu như không thèm nói chuyện với Hermione trong suốt buổi học Dược thảo, mặc dù nó, Harry và Hermione cùng làm chung bài làm về Đậu Phình. ‗How‘s Scabbers?‘ Hermione asked timidly, as they stripped fat pink pods from the plants and emptied the shining beans into a wooden pail. Khi tụi nó lặt những trái đậu mập mạp hồng hồng trên cây xuống, tách vỏ và bỏ những hột đậu bóng lưỡng vô một cái xô gỗ, Hermione rụt rè hỏi: "Scrabbers ra sao rồi?" ‗Careful, Weasley, careful!‘ cried Professor Sprout, as the beans burst into bloom before their very eyes.Lúc đó đám bông đậu bắt đầu nở tóe ra trước mắt bọn trẻ, giáo sư Sprout kêu to: "Cẩn thận, Ron, cẩn thận chứ!" They had Transfiguration next. Tiếp sau đó, tụi nó học môn Biến She got a letter from home this morning. Bạn ấy vừa nhận được thư nhà hồi sáng này On Hallowe‘en morning, Harry awoke with the rest and went down to breakfast feeling thoroughly depressed, though doing his best to act normally. Vào buổi sáng ngày Hội Ma, Harry cùng thức dậy và cùng xuống lầu với tất cả những học sinh khác để ăn điểm tâm. Lòng nó buồn rười rượi mặc dù nó đã ráng hết sức tỏ ra bình thường. ‗The teachers and I need to conduct a thorough search of the castle,‘ Professor Dumbledore told them as Professors McGonagall and Flitwick closed all doors into the Hall. Khi giáo sư McGonagall và thầy Flitwick đóng tất cả cửa vào Sảnh đường, giáo sư Dumbledore nói với học sinh: "Các thầy cô và tôi cần hướng dẫn một cuộc kiểm tra khắp lâu đài Perhaps he‘d finish this essay tomorrow night ...Có lẽ nên để đến tối mai hãy viết nốt bài luận văn này thôi, nó nghĩ ... Anyway, you can ask Dad yourself this evening. Dù sao thì tối nay bồ cứ hỏi thử ba mình xem. We‘re staying at the Leaky Cauldron tonight, too! Tối nay gia đình mình cũng trọ lại quán Cái Vạc Lủng So you can come to King‘s Cross with us tomorrow. sáng mai bồ có thể cùng đi với gia đình mình ra nhà ga Ngã Tư Vua, đặng còn đáp tàu Tốc Hành Hogwarts! There‘s no point moving them all now. Bây giờ thì không cần dời tất cả mọi người
639.
124
Pl.96
640.
124
641.
đi. You‘ll be able to move them back in tomorrow. Ngày mai thì con con có thể đưa tất cả trở về tháp Marge‘ll be here for a week. Cô Marge sẽ ở lại đây một tuần lễ .
19
642.
270
643.
424
644.
2
645.
3
646.
3
647.
3
648.
4
649.
4
650.
5
651. 652.
5 5
653.
5
Gone with the wind Cryptanalysts call it the fold-over. Half as complicated. Twice as clean." 270 Người giải mật mã gọi nó là fold-over. Giảm nửa phần phức tạp. Nhưng lại rõ ràng gấp đôi. Twice her long skirt took fire and she slapped it out with her hands. Gone with the wind,424 Hai lần váy dài của cô ấy bốc cháy và cô ấy dùng tay dập nó. Seated with Stuart and Brent Tarleton in the cool shade of the porch of Tara, her father‘s plantation, that bright April afternoon of 1861, she made a pretty picture. Ngồi với Stuart và Brent Tarleton dưới bóng mát của mái hiên Tara, đồn điền của cha nàng, giữa một chiều nắng tháng Tư năm 1861, Scarlett là hiện thân của hình ảnh yêu kiều Outside, the late afternoon sun slanted down in the yard, throwing into gleaming brightness the dogwood trees that were solid masses of white blossoms against the background of new green. Bên ngoài, nắng chiều chiếu nghiêng xuống khoảnh sân, ném những tia sáng chói chang lên hàng cây dương đào với từng chùm hoa trắng trên bối cảnh xanh um A little aloof, as became an aristocrat, lay a black-spotted carriage dog, muzzle on paws, patiently waiting for the boys to go home to supper. Xa hơn 1 chút, dường như để ra điều quý phái, một con chó lông lốm đố đen nằm gác mõm lên hai chân trước, nhẫn nại đợi chủ trở về dùng bữa tối. Although born to the ease of plantation life, waited on hand and foot since infancy, the faces of the three on the porch were neither slack nor soft. Mặc dầu đuợc sinh trưởng giữa cuộc sống dễ dãi ở đồn điền, được săn sóc hầu hạ từ lúc bé nhưng cả 3 khuôn mặt duới mái hiên không có gì uể oải hay mềm yếu. Pa talks war morning, noon and night, and all the gentlemen who come to see him shout about Fort Sumter and States‘ Rights and Abe Lincoln till I get so bored I could scream! And that‘s all the boys talk about, too, that and their old Troop. Hết sáng tới trưa và tối, ba không ngớt nói chuyện chiến tranh, và bao nhiêu khách tới nhà cũng bô bô nói về chuyện căn cứ Sumter, về quyền lợi của các Tiểu bang và ông Abe Lincoln đến nổi tôi chán ngấy muốn hét lên Having maneuvered them away from the boring subject of war, she went back with interest to their immediate situation. Sau khi đưa hai người bạn trai ra khỏi câu chuyện nhàm chán về chiến tranh, Scarlett kéo vấn đề trở lại hiện tình của họ. Didn‘t she say anything when you got home last night?Đêm qua, lúc mấy anh về tới, bác cũng không nói gì sao? We were in luck last night. Đêm qua, tụi nầy gặp vận may. And just before we got home, he‘d about kicked the stable down and half-killed Strawberry, Ma‘s old stallion. Và ngay trước khi bọn nầy về tới, nó đã phá tan hoang tàu ngựa và suýt giết chết con Straquberry, con ngựa nòi già của má. When we got home, Ma was out in the stable with a sackful of sugar smoothing him down and doing it mighty well, too. Lúc tụi nầy về tới, má đang ở ngoài tàu
Pl.97
654.
355
655.
663
Mai, hắn sẽ trở lại làm việc.
656. 657.
5 5
658.
5
659.
5
660.
8
661.
11
662.
8
663.
12
664.
183
665.
342
666.
251
667.
153
ngựa với cả một bịch đường để nhử nó và đã thành công không mấy khó. A precious little you knew about babies yesterday. Nội chuyện đỡ đẻ hôm qua cũng đủ biết rồi. He‘ll be back at work tomorrow. I‘ll tend to you four in the morning! Sáng mai tao sẽ hỏi tội cả lũ Scarlett, like the rest of the County, could never get used to the way small Mrs. Tarleton bullied her grown sons and laid her riding crop on their backs if the occasion seemed to warrant it. Cũng như tất cả những người khác trong hạt, Scarlett không lạ gì chuyện bà Tarleton nhỏ thó thường trừng trị các con bà bằng cách dùng roi ngựa quất tưới vào lưng họ mỗi khi nhận thấy đó là điều hữu hiệu nhứt. Will your mother ride the new horse to the Wilkes barbecue tomorrow?‖Ngày mai bác gái có cỡi con ngựa mới đi dự dã yến bên gia đình Quilkes không? It‘s rained nearly every day for a week . Suốt cả tuần, gần như ngày nào cũng có mưa. Filled with new enthusiasm by their success, they lingered on, talking about the barbecue and the ball and Ashley Wilkes and Melanie Hamilton, interrupting each other, making jokes and laughing at them, hinting broadly for invitations to supper. Với sự thành công bất ngờ, cả hai phấn khởi thêm, họ tiếp tục lân la, bàn đến chuyện dã yến và buổi dạ vũ, nói về Ashley Quilkes và Melanie Hamilton, thỉnh thoảng ngắt lời nhau, bông đùa và cười cợt với nhau nhưng cũng không quên nói gần nói xa một cách lộ liễu về ước vọng được mời ở lại ăn tối. Until the previous summer, Stuart had courted India Wilkes with the approbation of both families and the entire County Hè năm rồi, Stuart vẫn theo tán tỉnh India Quilkes với sự đồng ý của gia đình hai bên và của cả toàn hạt Some time had passed before they realized that Scarlett was having very little to say. Cứ thế mãi một lúc khá lâu, họ mới nhận ra là Scarlett gần như chẳng nói năng gì cả . Since the day of the speaking, Stuart had been uncomfortable in India‘s presence. Từ sau ngày dự cuộc hội thảo, Stuart đâm ra ngượng ngùng mỗi khi đối diện với India. Since the return of her wedding ring, Melanie had felt that Rhett was a gentleman of rare refinement and delicacy and she was shocked at this remark. Từ ngày được chuộc giùm nhẫn cưới, Melanie cho rằng Rhett Butler là một nhà quí phái tinh tế, khéo léo nên không khỏi tức vì nhận xét như thế. After he‘d worked all day with the wounded, he came and sat with them. Sau khi bận rộn cả ngày với thương binh, y quay lại đây và ngồi cạnh giường bệnh. Once in the house, Scarlett stumbled up the stairs to her bedroom and, clutching her Rosary from the table, dropped to her knees and tried to pray.Về đến nhà, Scarlett gắng gượng leo lên lầu vào phòng riêng và nắm chặt chuỗi hạt, quỳ xuống và cố gắng cầu nguyện Sometimes, but not often, you did let him kiss you. Đôi khi chớ không được thường lắm, mình cứ để họ hôn Perhaps there was something to what Mammy said. Có lẽ có điều gì đó mà
668.
972
Pl.98
669.
677
670.
684
671.
440
672.
312
673.
684
674.
528
675.
693
676. 677.
274 827
678.
470
679.
29
680.
31
681.
770
682. 683.
188 192
684.
219
Mammy nói. Immediately the fires which smoldered beneath tight basques flamed wildly and the two organizations split up and glared hostilely. Lập tức những ngọn lửa âm ỉ trong những lồng ngực bùng lên dữ dội và hai tổ chức liền phân biệt gườm gườm nhìn nhau. She would take Ashley in hand and then he would certainly learn. Nàng sẽ phụ trách Ashley và nhất định chàng sẽ thạo dần. ―Well,‖ she said finally, ―doesn‘t it occur to you that we‘ll have to get the money somewhere. Tốt, cuối cùng cô nói, hình như anh có vẻ chẳng biết tìm số tiền đó ở đâu? Her heart acted very queerly, beating regularly for several minutes and then thumping so loudly and swiftly it almost made her sick at her stomach. Trái tim quả là kỳ quái, trong một lúc nó đập thật bình thường, rồi đột ngột đập thật mau và thật mạnh làm nàng buồn nôn At first Scarlett was shocked and disappointed that Ashley did not immediately take hold and make the mill pay double what it had paid under her management. Thoạt đầu, Xcarlett bất bình và thất vọng vì Ashley không nắm được ngay và làm cho xưởng máy sinh lợi gấp đôi thời kỳ nàng quản lý Rhett, if Frank would just collect the money people owe him, I wouldn‘t be worried about anything. Lần nghe Frank bảo có cho một số nhà thiếu nợ, nàng tưởng đó chỉ là một số tiền nhỏ. I never saw a lazy Irishman yet. Tôi chưa bao giờ thấy một người Ailen lười biếng nào. I'm not that woman anymore. Tôi không còn là người phụ nữ đó nữa. I don‘t want to hear any more foolishness out of you, and if you dare try to-- Scarlett, I saw a girl die that way once Tôi không muốn nghe cô xổ ra những điều rồ dại nữa và nếu cô cả gan thử... Xcarlett, tôi đã có lần thấy một cô gái chết như thế nào. But they can‘t make us pay more taxes when we‘ve already paid them once. Nhưng họ có thể khiến chúng tôi phải trả nhiều thuế hơn khi chúng tôi đã trả tiền cho họ một lần. But it does seem to me that after you broke your knee last year. Nhưng có vẻ như với tôi rằng sau khi bạn bị gãy đầu gối vào năm ngoái. Now that I think of it, ‗tis strange you‘ve been recently. Bây giờ ba nhớ ra rồi, mấy lúc gần đây coi bộ con hơi khác. But she is lying down now, Captain Butler, and won‘t see anyone. Nhưng bây giờ cháu nó đã đi nằm và không muốn gặp ai, thuyền trưởng Butler ạ. She carefully smoothed out the letter. Cô cẩn thận làm phẳng bức thư. Unanalytical, she struggled with the complex thought. Không thể tin được, cô vật lộn với suy nghĩ phức tạp. And lots of times, after one kiss they fell completely in love with a girl and made most entertaining spectacles of themselves, provided the girl was clever and withheld her kisses after the first one Nhiều khi, sau một cái hôn, họ hoàn toàn mê người đàn bà, nếu người đàn bà tỏ ra khéo léo và biết gìn giữ sau nụ hôn đầu
Pl.99
685.
213
686.
213
687.
76
688.
78
689.
217
690.
173
Khi tiếng bánh xe chìm khuất và biết rõ không còn ai trong nhà có thể bắt
691.
217
692.
258
693.
509
694.
663
Ngày mai, anh ta sẽ trở lại làm việc.
695.
387
696.
46
697.
As always when he spoke, he sounded so plausible always Như mọi khi anh nói, anh nghe có vẻ rất hợp lý. Why should I marry a boring fool, simply because an accident prevented me from getting her home before dark? Tại sao tôi phải lấy một con nhỏ khùng khịu, chỉ vì một tai nạn xảy ra khiến tôi không đưa nó về tới nhà trước khi trời tối ? She loved horses and talked horses constantly. Cô ấy yêu ngựa và nói chuyện ngựa liên tục. Ellen ignored these matters completely. Ellen bỏ qua hoàn toàn những vấn đề này. And as the Christmas season approached, Ashley came home on furlough. Và khi mùa Giáng sinh đến gần, Ashley trở về nhà vào mùa đông. When the last sound of carriage wheels had died away and she knew the family was safely out of sight, she slipped quietly into Melanie‘s room and turned the key in the lock. gặp, nàng lẻn vào phòng Melanie và khóa trái cửa And as the Christmas season approached, Ashley came home on furlough. Và khi mùa Giáng sinh đến gần, Ashley trở về nhà vào mùa đông. Whenever groups of men from the fighting were in town for the night, dinners were given for them and afterwards there was dancing and the girls, outnumbering the men ten to one, made much of them and fought to dance with them. Mỗi khi có lính từ trên trận tuyến xuống và ở lại đêm trong thành phố, người ta lại mở những bữa tiệc vinh dự đón tiếp họ kèm theo là khiêu vũ thường, và những cô gái, đông hơn họ gấp mười lần, tranh cãi nhau để được nhảy với họ. ―And while I‘m not trying to lessen Old Beau‘s reputation, my first son is going to be named ‗Bob Lee Wellburn.‘‖ Tại sao tôi không bắt chước cái lối đặt tên như vậy kìa, đứa con đầu lòng của tôi sẽ tên là Bob Lee Wellburn. He‘ll be back at work tomorrow. He had wrapped her in blankets and carried her out to the car, where she had remained unconscious during the drive to Alkmaar Anh đã cuốn nàng trong một tấm mền, ẵm ra ô tô, và suốt quãng đường tới Alkmaar nàng vẫn không hề một lần tỉnh lại. High up on the plateau at the foot of the Blue Ridge Mountains, she saw rolling red hills wherever she looked, with huge outcroppings of the underlying granite and gaunt pines towering somberly everywhere. Trên đỉnh cao nguyên nằm dưới chân rặng núi Blue Ridge, Ellen có thể thấy những ngọn đồi tròn đất đỏ, với những hiện tượng đột khởi của đá hoa cương và những hàng thông cao vút, khắp nơi. Just think, there‘s not a home in Charleston where I am received.
158
Pl.100
Đây nầy, chẳng một gia đình ở Charleston thừa nhận tôi.
698.
142
699.
156
700.
25
701.
176
Nó gần như là anh ta đang cố gắng tin rằng không có bất kỳ cuộc chiến
702.
122
703.
691
704.
211
705.
544
706.
667
707.
777
708.
776
709.
178
Wherever it was, two important facts remained Bất kể nó ở đâu, thì vẫn tồn tại hai thực tế quan trọng. She whispered, as a sweet madness swept over her. Nàng lẩm bẩm trong khi ngọn lửa cuồng dại êm ả nung nấu cả hồn nàng. No one would ever have the temerity to think of Gerald O‘Hara as a ridiculous little figure. Không một ai dám táo bạo coi Gerald O'Hara như là một kẻ thấp bé buồn cười It was almost as if he were trying to believe there wasn‘t any war. nào. But there were two difficulties in the way of marriage into the County families. Nhưng có hai khó khăn trong cách kết hôn với các gia đình Quận. She had already won their sympathy by the fact that she had to work because her husband couldn‘t or wouldn‘t support her properly. Nàng đã chiếm được thiện cảm của họ do việc nàng phải làm ăn sinh sống vì chồng nàng không đủ khả năng hoặc không muốn chu cấp cho thỏa đáng. Maybelle looked so very pregnant it was a disgrace for her to be out in public, even if she did have her shawl carefully draped over her. Maybelle đã gần ngày sanh và dù đã được che khăn cẩn thận, cô ta cũng không khỏi xấu hổ khi phải ra ngoài trong tình trạng đó He went into Jonesboro with me, in case Wilkerson got me first. Anh theo tôi tới Jonesboro, đề phòng trường hợp thằng kia ra tay sớm hơn. Without slacking, she looked trembling over her shoulder and saw Big Sam racing down the road behind her, his long legs working like hard-driven pistons. Không lỏng tay cương, nàng run rẩy ngoái lại nhìn và thấy Xam Lớn chạy theo, đôi cẳng dài guồng như máy. If something with claws and horns came and sat on your chest, you‘d tell it to get the hell off you, wouldn‘t you? Nếu một cái gì đó có móng vuốt và sừng đến và ngồi trên ngực của bạn, bạn sẽ cầu xin với nó để thoát khỏi địa ngục chứ ? I shall certainly sit up all night and shoot him if he comes back. Tôi chắc chắn sẽ ngồi dậy cả đêm và bắn anh ta nếu anh ta quay lại Oh, India would glory in telling her, not caring if she blackened Ashley‘s name, not caring if she hurt Melanie, if by so doing she could injure Scarlett! Inđiơ ắt sẽ đắc ý mà mách nàng, bất kể việc đó có thể bôi nhọ thanh danh Ashley, hoặc
Pl.101
710.
818
711.
816
712.
45
713.
280
714.
232
715.
260
716.
266
717.
286
718.
584
làm Melanie đau đớn, miễn là có thể làm hại được Scarlett Her heart always ached with pity for him, although she was almost too tired and sleepy to feel anything. Tim nàng luôn luôn nhói vì thương Rhett, mặc dù nàng đã mệt và buồn ngủ tới mức gần như không còn cảm thấy gì.. ―Can this wanness mean that you‘ve been missing me?‖ he questioned and though his lips smiled, his eyes did not. Liệu có thể do nhớ tôi mà bà xanh xao đến như thế không? chàng hỏi, miệng mỉm cười, nhưng mắt vẫn nghiêm. He was staunchly Presbyterian, even though his family were Catholic, and the thought of his daughter becoming a nun was even worse than that of her marrying Gerald O‘Hara. Ông theo phái Trưởng Lão giáo trong khi nhà ông theo Công giáo và ý nghĩ con gái sẽ trở thành một nữ tu sẽ làm ông khó chịu hơn là lấy Gerald O'Hara. Johnston was forced to abandon the heights he had held so well, in order to protect his rear. Johnston đã buộc phải từ bỏ những đỉnh cao mà anh đã nắm giữ rất tốt, để bảo vệ hậu phương của anh He lowered his voice so that those in the near-by carriages could not hear. Ông đã hạ giọng để những người trong xe gần không thể nghe thấy. And those who were so traitorous as not to believe should, at least, have the decency to keep their mouths shut. Và những kẻ có tinh thần phản bội đến không tin tưởng như thế phải câm miệng lại. Why did he always notice women‘s clothing and why was he so rude as to remark upon her present untidiness? Tại sao hắn cứ luôn luôn chú ý đến lối ăn mặc xuềnh xoàng của nàng như vậy? How could Melly be so stupid as not to guess the secret of her love of Ashley? Làm sao mà Mélanie lại có thể đần độn đến độ không thấy được mối tình bí mật của cô đối với Ashley? As always when she heard the truth spoken, no matter how unpalatable it was, basic honesty forced her to acknowledge it as truth. Như mọi khi cô nghe thấy sự thật được nói, bất kể nó khó chịu đến mức nào, sự trung thực cơ bản buộc cô phải thừa nhận đó là sự thật.
719.
371
720.
Since she came home she had wondered despairingly a thousand times: ―Are we the only folks left in the County? Kể từ khi về đến nhà, cô đã tự hỏi một cách tuyệt vọng cả ngàn lần: Có phải chúng ta là những người duy nhất còn lại trong Quận? Seeing that he was employing familiar maneuvers to extricate himself from
26
Pl.102
721.
39
722.
43
723.
52
724.
108
725.
225
726.
486
727.
490
728.
517
729.
8
730.
35
unpleasant conversation, she slipped her arm through his... Thấy anh ta đang sử dụng những thao tác quen thuộc để giải thoát mình khỏi cuộc trò chuyện khó chịu, cô trượt tay qua anh. Gerald knew that northward beyond that stream the land was still held by the Cherokees, so it was with amazement that he heard the stranger jeer at suggestions of trouble with the Indians and narrate how thriving towns were growing up and plantations prospering in the new country. Gerald biết rằng về phía bắc ngoài dòng suối đó, vùng đất vẫn còn do người Cherokees nắm giữ, vì vậy thật ngạc nhiên khi anh nghe thấy người lạ mặt nói về những rắc rối với người Ấn Độ và thuật lại những thị trấn thịnh vượng đang phát triển và đồn điền thịnh vượng ở đất nước mới. Pork brought forth his favorite ruffled shirt, so inexpertly mended by the chambermaid as to be unwearable by anyone except his valet. Pork mang vào cho ông một chiếc sơ mi xếp nếp thành hình tổ ong nhưng con nữ tì lại vá quá vụng về đến nỗi không ai dám mặc ra ngoài, ngoại trừ gã hần cận Dilcey turned to Scarlett and something like a smile wrinkled the corners of her eyes. Dilcey quay sang phía Scarlett và có một cái gì ở khóe mắt mụ giống như một nụ cười But the South was aflame with war, events roared along as swiftly as if carried by a mighty wind and the slow tempo of the old days was gone. Nhưng miền Nam đã bốc lửa chiến tranh, biến cố đã kéo đến mau lẹ như có mang theo một trận cuồng phong, thổi tung hết những nhịp điệu êm đềm ngày cũ. Then, as if too tired to stand another moment, he flopped in a chair and stared out the window. Rồi, như thể quá mệt mỏi để đứng lâu hơn nữa, ông buông mình trên chiếc ghế, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ It‘s written as plainly on your face as hard work is written on your hands. Nét mặt cô đã chứng tỏ rõ ràng điều đó cũng như những dấu vết lao lực hằn rõ trên tay cô. There was a diabolic gleam in his eyes as if something amused him greatly. Mắt hắn long lanh những tia sáng ác hiểm, hình như hắn khoan khoái lắm. Hắn làm như thấy vui vẻ nhưng sự thật không phải vậy Sometimes in the afternoons he took Scarlett riding with him in his buggy when he went out on business Thỉnh thoảng vào buổi chiều, nhân có vài việc giao dịch về chuyện làm ăn, y đánh xe đưa Scarlett cùng đi. Look, Scarlett, sit with us at the barbecue in the morning Nầy, Scarlett, ngồi với tụi nầy luôn bữa dã yến sáng nữa nghe. In the mornings, after all-night sessions at births and deaths, when old Dr. Fontaine and young Dr. Fontaine were both out on calls and could not be found to help her, Ellen presided at the breakfast table as usual. Lại có những buổi sáng, sau khi trọn đêm săn sóc những người sanh nở hoặc cứu chữa những kẻ sắp chết trong khi chẳng một ai tìm được hai bác sĩ Phontaine - một già, một trẻ - đến
Pl.103
731.
92
732.
65
để tiếp tay, Ellen vẫn chủ toạ bữa điểm tâm như thường lệ, đôi mắt huyền nổi quầng thâm vì mệt mỏi She had smiled with timid liking when she greeted Scarlett and told her how pretty her green dress was, and Scarlett had been hard put to be even civil in reply, so violently did she want to speak alone with Ashley. Since then, Ashley had sat on a stool at Melanie‘s feet, apart from the other guests, and talked quietly with her, smiling the slow drowsy smile that Scarlett loved. What made matters worse was that under his smile a little sparkle had come into Melanie‘s eyes, so that even Scarlett had to admit that she looked almost pretty. As Melanie looked at Ashley, her plain face lit up as with an inner fire, for if ever a loving heart showed itself upon a face, it was showing now on Melanie Hamilton‘s Cô rụt rè cười khi chào Scarlett và khen nàng thật đẹp trong bộ áo màu xanh, nhưng Scarlett khó khăn lắm mới trả lời lịch sự lại được vì nàng rất mong mỏi được nói chuyện riêng với Ashley. Từ lúc đó, Ashley ở gốc cây ngay dưới chân Melanie, rời hẳn khách khứa, nói chuyện với cô một cách êm đềm, thỉnh thoảng lại mỉm cười, nụ cười mơ màng mà Scarlett yêu thích nhứt. Điều tồi tệ hơn là sau mỗi cái cười của Ashley, mặt Melanie lại như có một ánh lửa nhỏ bùng lên, khiến Scarlett phải nhìn nhận cô ta hầu như đẹp hoàn toàn trong lúc đó. Và khi Melanie nhìn Ashley, khuôn mặt tầm thường của cô sáng lên như lửa cháy bên trong. Chưa bao giờ trái tim đa tình của Melanie Hamilton hiện rõ trên mặt bằng lúc nầy First, she would be ―prideful,‖ as Gerald had commanded. From the moment she arrived at Twelve Oaks, she would be her gayest, most spirited self. No one would suspect that she had ever been downhearted because of Ashley and Melanie. And she would flirt with every man there. That would be cruel to Ashley, but it would make him yearn for her all the more. She wouldn‘t overlook a man of marriageable age, from ginger-whiskered old Frank Kennedy, who was Suellen‘s beau, on down to shy, quiet, blushing Charles Hamilton, Melanie‘s brother. They would swarm around her like bees around a hive, and certainly Ashley would be drawn from Melanie to join the circle of her admirers. Then somehow she would maneuver to get a few minutes alone with him, away from the crowd. She hoped everything would work out that way, because it would be more difficult otherwise. But if Ashley didn‘t make the first move, she would simply have to do it herself. Trước tiên, nàng sẽ làm bộ "rất kiêu hãnh" như Gerald đã dạy. Ngay lúc đến Twelve Oaks nàng sẽ làm như tươi vui nhứt, không ai có thể ngờ là nàng đang đau xót về chuyện Ashley với Melanie. Nàng sẽ làm dáng với tất cả mọi người. Điều đó hơi tàn nhẫn đối với Ashley, nhưng nó sẽ làm cho chàng khao khát nàng hơn, nàng sẽ không bỏ qua một người đàn ông nào còn trong tuổi kén vợ. Từ Frank Kennedy râu đỏ, già xọm - kẻ trồng cây si Suellen - cho tới Charles Hamilton rụt rè mắc cở và trầm lặng, em của Melanie. Họ sẽ vây quanh nàng như con ong vầy quanh tổ, và Ashley sẽ rời Melanie để nhập bọn với những kẻ ái mộ nàng. Rồi nàng sẽ tìm cách nói chuyện riêng với Ashley vài phút, xa đám đông. Nàng hy vọng mọi việc sẽ xảy ra êm thấm và nếu không có thể sẽ khó khăn hơn. Và nếu Ashley không ngỏ lời trước thì chính nàng sẽ làm điều đó Jeems did not like to jump fences, but he had jumped higher ones than this in
733.
Pl.104
734.
21
735.
222
736.
45
737.
120
738.
539
739.
280
740.
47
order to keep up with his masters. Jeems không thích nhảy rào, nhưng nó buộc lòng phải phóng qua những bức rào cao hơn để luôn luôn theo sát chủ. "He has an estate near Jackson Square, but it won't help to go there, Tracy, believe me." "Hắn có một dinh thự kế bên quảng trường Jacksón, song tới Đó cũng chẳng ích gì đâu, cô Tracy, hãy tin tôi." ―Oh, don‘t laugh. It isn‘t funny. It seems that Miss--this woman, wanted to do something for the hospital--can you imagine it? She offered to nurse every morning and, of course, Mrs. Elsing must have nearly died at the idea and ordered her out of the hospital. Ôi, xin đừng cười. Thật là vui. Có vẻ như Hoa hậu - người phụ nữ này, muốn làm một cái gì đó cho bệnh viện - bạn có thể tưởng tượng nó không? Cô đề nghị với y tá mỗi sáng và dĩ nhiên, bà Elsing đã suýt chết vì ý tưởng và ra lệnh cho cô ra khỏi bệnh viện. By contrast with his own miserable existence, they were well-fed, well-clothed and looked after in sickness and old age. Trái ngược với sự tồn tại khốn khổ của chính mình, họ được nuôi dưỡng tốt, mặc quần áo tốt và được chăm sóc trong bệnh tật và tuổi già. In the seventh week, there came a telegram from Colonel Hampton himself, and then a letter, a kind, dignified letter of condolence. Trong tuần thứ bảy, đã có một bức điện từ chính Đại tá Hampton, và sau đó là một lá thư, một lá thư chia buồn, trang nghiêm. As she walked down Washington Street, the landscape was as dreary as her own heart. Here there was none of the bustle and cheerfulness which she had noted on Peachtree Street. Here many handsome homes had once stood, but few of them had been rebuilt. Smoked foundations and the lonesone blackened chimneys, now known as ―Sherman‘s Sentinels appeared with disheartening frequency. Overgrown paths led to what had been houses--old lawns thick with dead weeds, carriage blocks bearing names she knew so well, hitching posts which would never again know the knot of reins. Cold wind and rain, mud and bare trees, silence and desolation. How wet her feet were and how long the journey home! Đường Washington, quang cảnh phố xá cũng thê lương như tâm trạng của nàng, không còn những tiếng ồn ào phấn khởi như ở đường Cây Đào. Ngày trước đây là nơi có nhiều biệt thự tráng lệ bây giờ chỉ có vài căn vừa được xây lên. Cột ống khói đứng đừng sững trên những nền nhà nam khói ngày nay được mệnh danh là "lính canh của Sherman", còn quá nhiều tại khu phố này. Gió lạnh và mưa, bùn lầy và cây trụi lá, im lặng và hoang vắng, chân lạnh ngắt mà đường về nhà cô Pitty hãy quá xa! Johnston was forced to abandon the heights he had held so well, in order to protect his rear. Johnstone sẽ bố phòng trên phía bờ sông bên kia để chống lại sức tiến quân của quân Yankees. She made a cup of coffee and let it grow cold while she sat in the dark. Nàng pha một tách cà phê và rồi để đó lạnh ngắt, ngồi thừ trong bóng tối. He leaned down across the counter until his mouth was near her ear and hissed
741.
7
Pl.105
742.
104
743.
71
Hắn nghiêng mình qua quầy hàng cho đến khi miệng kề sát bên tai nàng và thì thầm, với giọng mô phỏng các kép hát trên sân khấu The dim room with towering walls completely filled with dark books depressed her. Căn phòng tối mờ với những bức tường cao chót vót đầy những cuốn sách đen tối làm cô chán nản. Except on rare occasions she always wore her riding habit, for whether she rode or not she always expected to ride and in that expectation put on her habit upon arising. Trừ những dịp hiếm có, lúc nào bà cũng mặc đồ kỵ mã dù có cỡi ngựa hay không vì bà luôn luôn sẵn sàng lên yên, bởi thế bà có thói quen nai nịt gọn gàng từ sáng sớm.
744.
103
745. 746.
417 176
747.
146
748.
214
749.
41
750.
339
751.
88
752.
82
753.
354
754.
186
755.
248
756.
302
757.
829
If Tomorrow Comes Yesterday Amy ran over and put her arms around Tracy, and Tracy pushed her away. Cooper was carefully studying the photograph. If there was less symphathy in the world there would be less trouble in the world. Trên thế giới này bớt sự thông cảm thì cũng bớt sự hỗn loạn. Usually Orsatti enjoyed the free midnight snack, but this evening he was impatient to get back to the table. Thường thường thì Orsatti rất khoái bữa ăn này, song đêm nay lão chị ngong ngóng trở lại canh bạc. Jeff, when you deal with friends, you don't get hurt. Jeff, khi cậu làm ăn với bạn bè, cậu sẽ không bị thua thiệt My God, if you needed money that badly, you should have discussed it with me Lạy Chúa, nếu cần tiền đến thế thì em phải nói với tôi chứ. She's outsmarted half the police forces in Europe…And she'll probably do the same to you. Cô ta đã qua mặt tới một nửa lực lượng cảnh sát châu Âu và có thể với cả các ông nữa Ernestine usually returned from the visitors' room smiling and cheerful Ernestine thường từ nhà khách trở về với vẻ mặt tươi cười. Love letters were constantly flying around the prison, delivered by the garbage rats. Những lá thư tình được trao quanh nhà tù thông qua đám tù tự giác - được gọi là chuột cống I love you - love you as I have never loved any living thing. Tôi yêu em, yêu em hơn bất cứ điều gì trên đời này. "We've already spoken to the conductor," Trevor said. "Chúng tôi đã nói chuyện với nhạc trưởng," Trevor nói. The man was a complete stranger, and she still had no idea what he wanted from her. Người đàn ông này hoàn toàn xa lạ, và vẫn chưa hề biết là ông ta muốn gì ở nàng They both moved down it onto the grass below. Hai người theo thang tụt xuống bãi cỏ dưới chân tường Once he heard his mother groan and he burst into sobbing hiccoughs. Một lần nó nghe thấy tiếng mẹ rên và nó òa khóc nấc lên từng hồi.
Pl.106
758.
324
759.
43
760.
279
761.
125
762.
61
763.
98
764.
431
765.
6
766.
403
767.
122
768.
352
769.
58
770.
103
Hôm qua Amy chạy tới ôm Tracy, và Tracy đẩy con bé ra.
771.
2
772.
203
Sau đó, họ nằm nghiêng, đối mặt nhau.
773.
106
Cuối cùng họ sẽ tìm thấy cô ấy và mang cô ấy trở lại
774.
150
Armand Grangier had intended to turn the woman over to Bruno Vicente immediately, Armand Grangier đã định giao người đàn bà này cho Brune Vieente ngay At 5:00 in the morning a male guard, accompanied by a matron, entered Tracy's cell Lúc năm giờ sáng, một người gác, cùng đi có một nữ giám thị, bước vào phòng giam gọi Tracy At 3:30 in the morning Tracy quietly left her compartment. Vào lúc 3 giờ 30 sáng, Tracy lặng lẽ rời khỏi cabin của mình At noon on Monday Tracy, in her Lureen Hartford persona, returned to the First Merchants Bank of New Orleans , Buổi trưa ngày thứ hai đã hẹn, Tracy trong hình dáng của Lureen Hartford quay lại ngân hàng First Merchants New Orleans. In the morning I'll ask to see the warden. Sáng mai mình sẽ yêu cầu gặp ông tổng giám thị You can prepare breakfast for her and play with her in the morning. Cô có thể chuẩn bị bữa sáng cho nó và chơi buổi sáng The gold is still safely in the bank. in chỉ nơi chốn đứng sau safely chỉ thể cách Vàng vẫn an toàn trong ngân hàng. that the countries that attack America for being too money-oriented are always the first to beg us for loans.always chỉ tần suất cụ thể đứng trước the first chỉ thời gian Chính các nước chỉ trích Mỹ quá đề cao đồng tiền lại là những kẻ đầu tiên yêu cầu chúng ta tài trợ Everywhere Tracy and Jeff went, they were followed by the Gemeetepolitie, and each evening Daniel Cooper studied the written reports submitted to Inspector van Duren. Tracy và Jeff đi tới bất kỳ đâu cũng bị cảnh sát bám theo và tối tối, Danlel Cooper lại xem xét tỷ mỉ các bản báo cáo được đệ trình cho thanh tra Duren You acted instinctively in the way any decent citizen would have acted Bạn đã hành động theo bản năng theo cách mà bất kỳ công dân tử tế nào cũng sẽ hành động Even if one could manage to take a painting off the wall, Tracy thought, there's no way to smuggle it out. Ngay cả khi gỡ được bức tranh xuống khỏi tường, Tracy nghĩ, cũng không có cách nào mang ra ngoài được She clenched her jaw shut so that no sound would come out. nếu, Cô nghiến chặt răng để không có âm thanh nào phát ra Yesterday Amy ran over and put her arms around Tracy, and Tracy pushed her away. Tomorrow night I'm meeting Charles's parents Tối mai, con sẽ gặp cha mẹ Charles. Afterward, they lay on their sides, facing each other. They would eventually find her and bring her back The tour he was presently on seemed to be mainly for that purpose.
Chuyến lưu diễn mà anh ấy đang tham gia dường như chủ yếu cho mục
Pl.107
775.
246
776.
36
Nếu bạn cho tôi số điện thoại của bạn, tôi chắc chắn anh ấy sẽ gọi điện
777.
189
Dĩ nhiên cậu ta là con trai duy nhứt và dầu sao cũng cần có người ở lại để
778.
49
đích đó. Miss Whitney checked out early this afternoon. Chiều nay, cô Whitney đã trả phòng sớm. If you'll give me your number, I'm sure he'll telephone you as soon as he can. cho bạn ngay khi có thể. Of course, he was the only boy his mother had and, after all, somebody had to be in the militia to protect the state. bảo vệ tiểu bang. The matrons stood watching while the prisoners dressed. Những nữ giám thị đứng coi trong khi các nữ tù mặc váy áo.
779.
- When I leave here, the two people I'll miss will be a black, bald-
110
headed bull-dyke and a young girl.
Khi rời khỏi chốn này, mình sẽ nhớ hai người - người đàn bà da đen tốt bụng và con bé này đây.
780.
- As soon as the police learn of the robbery, they'll close up the city tight.
384
781.
412
782.
391
783.
270
784.
15
785.
58
786.
398
787.
105
788.
110
789.
89
Ngay khi cảnh sát biết vụ trộm, họ sẽ đóng cửa thành phố. During the next five days Tracy and Jeff kept Inspector van Duren's men busy, and Daniel Cooper carefully examined all the daily reports Trong năm ngày tiếp theo đó, Tracy và Jeff đã làm cho thanh tra Duren bận bịu suốt, còn Daniel Cooper thì thận trọng xem xét tất cả các báo cáo hàng ngày. In the afternoon Jeff brought back two suitcases filled with robes and nightgowns, underwear, dresses, and shoes, and a makeup kit and a comb and brush and hair dryer, toothbrushes and toothpaste. Buổi chiều, Jeff mang về hai vali đầy chặt váy ngắn, váy ngủ, đồ lót, váy liền áo, giày dép và một hộp son phấn cùng với lược, bàn chải và kem đánh răng. You leave for Paris in the morning Ngày mai bạn phải đi Paris. I'll make arrangements for them to stay here at the house tôi sẽ sắp xếp cho cô ấy ở lại ngay tại nhà này She clenched her jaw shut so that no sound would come out. Cô nghiến chặt răng để không có âm thanh nào phát ra I'm serious, my dear. You would travel to Amsterdam, which is only an hour from where you are now Tôi nghiêm túc đấy, em yêu. Em sẽ đi du lịch đến Amsterdam, nơi chỉ cách em bây giờ một giờ. Tracy sat up in her bunk, instantly on guard. Tracy ngồi dậy trong chiếc giường của mình, ngay lập tức cảnh giác. I must speak to George about it when he comes home for lunch, Sue Ellen decided. Tôi phải nói chuyện với George về điều đó khi anh ấy về nhà ăn trưa, Sue Ellen quyết định Tracy chose her words carefully. Tracy lựa lời một cách thận trọng
Pl.108
790.
341
791.
36
792.
122
793.
230
794.
79
795.
3
796.
68
797.
89
798.
17
799.
142
800.
47
801.
818
802.
310
803.
76
804.
165
She had dressed carefully Cô ấy đã ăn mặc cẩn thận "It's not strictly ethical, but I'm going to speak to him privately Kể ra là trái quy định, song tôi có thể nói chuyện riêng với ông ấy thì "privately" ở đây có nghĩa là "không có sự hiện diện của ai khác để có thể nói chuyện riêng với nhau" You acted instinctively in the way any decent citizen would have acted. Bạn đã hành động theo bản năng theo cách mà bất kỳ công dân tử tế nào cũng sẽ hành động. Unless you have a submarine or a helicopter in your pocket, I don't think you'll get away with robbing anyone on this ship Trừ khi ông có một chiếc tàu ngầm hoặc một máy bay lên thẳng, còn thì tôi cho rằng ông sẽ không thể trốn đi đâu được với những thứ ông cướp của bất kỳ ai đó trên con tàu này If I told you how much fuckin' tax-free money we was pullin' down, you wouldn't believe me. Nếu tôi nói với bạn số tiền miễn thuế mà chúng tôi đã rút xuống, bạn sẽ không tin tôi. Charles doesn't mind if I keep working after we're married Charles sẽ không phản đối việc con tiếp tục đi làm sau khi cưới I want to punish whoever did this to you, but I'll need your testimony. Tôi muốn trừng phạt những kẻ đã làm chuyện này đối với cô song tôi cần lời chứng của cô. They do whatever you tell them to do. Họ làm bất cứ điều gì bạn bảo họ làm. They had offered Doris Whitney enough money so that she could have lived well for the rest of her life Họ đã cung cấp cho Doris Whitney đủ tiền để cô có thể sống tốt đến hết đời. The Priory, in order to keep their powerful documents safe, had been forced to move them many times in the early centuries. Tu viện, để giữ cho các tài liệu quan trọng của họ được an toàn, đã buộc phải di chuyển chúng nhiều lần trong những thế kỷ đầu tiên. As he probed, he asked, "Do you have a venereal disease?‘‘ Vì đã từng thăm dò, anh ta hỏi: "Bạn có bị bệnh hoa liễu không?" She must stay with her till the baby came and be strong because Melly needed her strength. The document survived only because none of the sailors on the pirate ship could read or write. Duy nhất tài liệu đó tồn tại vì không ai trong số các thủy thủ trên tàu cướp biển có thể đọc hoặc viết. Since the painting is well known, I would expect it to turn up in Switzerland, which has a good-faith purchase and protection law. Vì bức tranh được nhiều người biết đến, tôi hy vọng nó sẽ xuất hiện ở Thụy Sĩ, nơi có luật mua bán và bảo vệ thiện chí. Since she had access, there was no limit to the amount the now subservient computer would give her. Vì cô ta đã từng truy cập, nên không có giới hạn về số tiền mà máy tính hiện tại
Pl.109
805.
47
806.
80
807.
89
808.
104
809.
110
810.
123
811.
358
812.
208
813.
279
814.
100
815.
307
816.
101
sẽ cung cấp cho cô. As he probed, he asked, "Do you have a venereal disease?‘‘ Vì đã từng thăm dò, anh ta hỏi: "Bạn có bị bệnh hoa liễu không?" Since the other inmates had decided that Ernestine had become Tracy's protector, she was left strictly alone. Vì các tù nhân khác đã quyết định rằng Ernestine đã trở thành người bảo vệ của Tracy, cô bị bỏ mặc một mình. She turned away so that her next words were almost inaudible. Chị ta quay đi nên những lời tiếp theo gần như không nghe được. A hat, gloves, and purse appeared, as if by magic. Và cứ như có phép lạ, một cái mũ, một đôi găng tay và một cái bóp lần lượt hiện ra. All morning she had kept looking at her watch, as though expecting someone, and her mind was obviously not on Amy. Suốt buổi sáng, cô ấy cứ nhìn đồng hồ, như đang đợi ai đó, và đầu óc rõ là không chú ý gì đến Amy If the warden only knew the truth: that if the accident had not happeped, the warden's men would have been out hunting her as a fugitive.Giá mà ông tổng giám thị biết được sự thật rằng nếu cái tai nạn đó không xảy ra chăng nữa, thì nhân viên của ông cũng sẽ phải mở cuộc truy lùng cô - một kẻ chạy trốn Tracy fell backward, as if pushed, bumping the artist and sending her, the easel, canvas, and paints flying to the ground Tracy ngả người ra sau, dường như là bị đẩy vậy, đè vào người nữ họa sĩ kia, xô chị ta cùng giá vẽ, bức tranh và màu vẽ xuống sàn. Tracy làm như bị đẩy ngã, nhưng sự thật là cô cố tình làm vậy All the men cheated on taxes, had insurance scams, falsified expense accounts, and put their current mistresses on their payrolls as secretaries or assistants. Tất cả bọn họ đều trốn thuế, gian dối trong lĩnh vực bảo hiểm, đưa ra những báo cáo chi phí láo toét, và đưa tình nhân của mình vào danh sách trả lương dưới danh nghĩa thư ký hoặc trợ lý gì đó At 3:30 in the morning Tracy quietly left her compartment. The timing was critical. Vào lúc 3 giờ 30 sáng, Tracy lặng lẽ rời khỏi cabin của mình. Thời điểm là vấn đề có tính quyết định. One night at a time, she promised herself. I can stand one night at a time. Một đêm thôi mà, nàng tự hứa với mình. Ta có thể chịu được một đêm. At 6:30 in the morning she had found the solution Vào lúc 6 giờ 30 sáng, Tracy đã tìm ra giải pháp. When the news came, it was a shock, even though Tracy had expected it. Thật choáng váng khi biết cái tin đó, dù rằng Tracy đã chờ đợi nó.
Pl.110
817.
105
818.
88
819.
13
820.
11
821.
181
822.
240
823.
100
Tracy sat up in her bunk, instantly on guard. Tracy ngồi dậy trong chiếc giường của mình, ngay lập tức cảnh giác. Each afternoon after supper, the inmates were allowed to spend one hour in the recreation room, where they could watch television or talk or read the latest magazines and newspapers. Mỗi buổi chiều, sau bữa ăn, tù nhân dược phép có một giờ ở phòng giải trí, họ có thể coi ti vi, trò chuyện hoặc xem các báo và tạp chí mới nhất. In the old movies the butler always came to the rescue with a tray of drinks. Trong những bộ phim cũ, người quản gia luôn đến giải cứu với một khay đồ uống. And now, she thought, it's going to be a part of my life. Và bây giờ, nàng nghĩ, nó sắp sửa là một phần nào cuộc sống của mình The safe was filled with thick envelopes and papers, but Tracy ignored them. At the back, resting on a small shelf, was a chamois jewelry bag. Két sắt chứa đầy phong bì và giấy tờ dày, nhưng Tracy đã phớt lờ chúng. Ở phía sau, nằm trên một cái kệ nhỏ, là một túi trang sức sơn dương He had arranged for a massage in one hour, but he planned to finish this game before then. Anh ấy đã sắp xếp một buổi mát xa trong một giờ, nhưng anh ấy đã lên kế hoạch hoàn thành trò chơi này trước đó. The easy days away from the routine of the prison somehow made the nights worse. Tracy loathed returning to her cell, hated being caged in like an animal. She was still unable to get used to the screams that came from nearby cells in the uncaring darkness. She would grit her teeth until her jaws ached. One night at a time, she promised herself. I can stand one night at a time. Sự thoải mái ban ngày ngoài nhà tù đã làm cho các buổi đêm trở nên khó chịu hơn. Tracy căm ghét việc phải trở lại buồng giam. Căm ghét việc bị nhất như một con thú, và không thể nào quen được với những tiếng thét vọng đến từ các buồng giam gần đấy trong bóng tối hờ hững. Nàng thường nghiến răng đến mức phát đau lên. Một đêm thôi mà, nàng tự hứa với mình. Ta có thể chịu được một đêm
824.
3
825.
4
Since Tracy's father had died five years earlier, Doris Whitney had not even considered going out with another man, despite Tracy's encouragement. Từ khi cha Tracy chết cách đây năm năm, Doris Whitney thậm chí chưa bao giờ có ý với đâu với một người đàn ông khác, bất chấp sự khuyến khích của Tracy. Now, as Tracy walked down the street, people turned to smile, envying the happiness that shone on her face. She smiled back at them Lúc này, khi Tracy đang đi dọc phố, người đi đường ngoái nhìn mỉm cười, ghen ty với vẻ hạnh phúc rạng rỡ trên gương mặt nàng, và nàng mỉm cười đáp lại.
Pl.111
826.
4
827.
5
828.
5
829.
5
could be
amounts of money
830.
through Tracy's
5
831.
5
832.
6
833.
intrigued by
then
6
834.
6
835.
7
836.
837.
As Tracy approached the bank, she glanced at her watch. Khi tới nhà băng, nàng liếc đồng hồ. Promptly at 8:30, Tracy Whitney entered the ornate lobby with her fellow workers, took off her raincoat, hat, and boots, and listened with secret amusement to the others complaining about the rainy weather. Đúng 8 giờ 30, Tracy Whitney đi vào hành lang sang trọng cùng với các đồng nghiệp. Nàng cởi áo mưa, mũ, ủng và lắng nghe những lời phàn nàn về thời tiết. Until recently, the transfer of money from one bank to another and from one country to another had been a slow, laborious process, requiring multiple forms to be filled out and dependent on national and international postal services. Chỉ gần đây thôi, việc chuyển tiền từ nhà băng này qua nhà băng khác và từ nước này qua nước khác còn là một công việc chậm chạp, mệt mỏi, đòi hỏi biết bao mẫu giấy tờ và lệ thuộc vào dịch vụ bưu điện cả trong lẫn ngoài nước. With the advent of computers, the situation had changed dramatically, and enormous transferred instantaneously. Với sự ra đời của máy tính, mọi thứ thay đổi thật nhanh chóng, và những khoản tiền khổng lồ có thể được chuyển tức thời. Each day, millions of electronic dollars passed hands. Mỗi ngày, hàng triệu đồng đô la điện tử chuyển qua tay Tracy. The Philadelphia Trust and Fidelity Bank had a large international division, and at lunch Tracy and her fellow workers would discuss each morning's activities. Ngân hàng Ủy thác và Bảo đảm Philadelphia có những chi nhánh quốc tế đồ sộ, và vào bữa ăn trưa, Tracy cùng các đồng nghiệp thường bàn tán về các hoạt động diễn ra trong mỗi buổi sáng. After Charles's lecture, Tracy had gone up to disagree with his analysis of the ability of third-world nations to repay the staggering sums of money they had borrowed from commercial banks worldwide and western governments. . Sau phát biểu của Charles, Tracy đã tỏ ra bất đồng với phân tích của anh về khả năng của các nước thế giới thứ ba trong việc trả nợ các khoản tiền khủng khiếp mà họ đã vay từ các ngân hàng thương mại trên thế giới và từ các chính phủ phương Tây Charles at first had been amused, the impassioned arguments of the beautiful young woman before him. Thoạt tiên, Challes thấy buồn cười, sau thì bị hấp dẫn bởi những lập luận hăng hái của người phụ nữ trẻ đẹp In the beginning, Tracy had not been impressed with Charles Stanhope III, even though she was aware that he was considered Philadelphia's prize catch. Ban đầu, Tracy không thấy có ấn tượng gì về Challes, thậm chí cả khi đã biết anh chàng được coi là người đàn ông độc thân có giá nhất Philadelphia. I hope you're free for dinner tomorrow...?" Tôi hy vọng là cô có thể rảnh vào chiều mai ...?". On Saturday nights Tracy and Charles went to the ballet or watched Riccardo Muti conduct the Philadelphia Orchestra. Vào các tối thứ bảy, Tracy và Charles đi xem ba lê hoặc nghe dàn nhạc giao hưởng Philadelphia chơi dưới sự chỉ huy của Rlcardo Muti. Once, Tracy had decided to be daring and unconventional in bed, and had so
8
Pl.112
838.
839.
9
840.
9
841.
9
842.
9
843.
9
844.
9
845.
9
846.
10
847.
11
848.
18
849.
66
850.
66
851.
66
shocked Charles that she began secretly to wonder if she were some kind of sex maniac. Có lần, Tracy quyết định bạo dạn và bất thường trên giường ngủ khiến Charles sững sờ đến mức nàng thầm băn khoăn liệu mình có thuộc loại đàn bà cuồng dâm loan không. She decided to break the news to Charles after dinner one evening. Cuối cùng, Tracy quyết định báo tin cho Charles. Đó là một buổi tối sau bữa ăn chiều. We'll have dinner with Mother and Father next Friday. Ta sẽ ăn chiều với cha mẹ vào thứ sáu tới At five minutes to 9:00 Tracy became aware of a difference in the noise level in the bank. Chín giờ kém 5 phút, tiếng ồn ào trong nhà băng có vẻ tăng lên. The bank doors would open in five minutes and everything had to be in readiness. Sau năm phút nữa, nhà băng sẽ mở cửa và tất cả đã phải sẵn sàng. Through the front window, Tracy could see customers lined up on the sidewalk outside, waiting in the cold rain. Qua cửa sổ trước mặt, Tracy thấy khách hàng đang đứng chờ trên hè, dưới làn mưa lạnh. The guard glanced up at the clock on the wall, and as the hour hand moved to 9:00, he walked over to the door and ceremoniously unlocked it. Người bảo vệ nhìn lên đồng hồ treo trên tường, và Đúng 9 giờ 30, trịnh trọng mở khóa cửa. For the next few hours Tracy was too busy at the computer to think about anything else Trong thời gian tiếp đó, Tracy quá bận rộn trước chiếc máy tính, chẳng thể nghĩ tới chuyện gì khác When an account was to be debited, she entered the account number, the amount, and the bank to which the money was to be transferred. Khi một tài khoản nào Đó phải được ghi nợ, nàng đưa vào máy số tài khoản, số tiền và tên nhà băng mà khoản tiền phải được chuyển tới. into her raincoat, Clarence Desmond At 1:00, as Tracy was getting summoned her to his office. Mười ba giờ, khi Tracy đang khoác chiếc áo mưa lên người thì Clarence Desmond gọi nàng tới văn phòng ông ta. And now, she thought, it's going to be a part of my life. Và bây giờ, nàng nghĩ, nó sắp sửa là một phần nào cuộc sống của mình! When Tracy finally retrieved her suitcase, she got into a taxi and repeated the address the lieutenant had given her: "Seven fifteen South Broad Street, please." Sau cùng, khi đã nhận lại va ly, Tracy lên một chiếc tắc xi và nhắc lại địa chỉ mà viên Trung úy đã bảo: "715 đường South Broad". She went through the ritual each morning and afternoon until her body began to respond and grow strong. Ngày hai lần, sáng và chiều Tracy tập luyện đều đặn và dần dần cơ thể trở nên linh hoạt và mạnh mẽ. When she was not exercising her body, Tracy exercised her mind. Khi không tập luyện thể lực, Tracy rèn luyện trí não. There were doors in her mind that had to remain closed for now. Giờ đây, trong đầu óc nàng có những cánh cửa phải được đóng chặt.
Pl.113
852.
67
853.
68
854.
68
855.
69
856.
69
857.
69
858.
70
859.
80
860.
861.
81
862.
81
863.
82
864.
82
865.
On the seventh day, when the cell door opened, Tracy was blinded by the sudden light that flooded the cell. Tới ngày thứ bẩy, cửa căn hầm giam bật mở và ánh sáng đột ngột tràn vào làm Tracy tối sầm mắt mũi The last time Tracy had heard those words, she had believed it meant her freedom. Lần trước khi nghe câu này, nàng đã tin răng nó mang đến cho mình tự do. Now, I want you to tell me exactly what happened and who was responsible Bây giờ, tôi muốn cô kể lại thật đúng sự việc xảy ra và ai là kẻ phải chịu trách nhiệm When the 11:00 A.M. lunch bell rang, Tracy was the first to line up in the corridor. Sau cùng, nàng với xuống gầm giường và nạy ra một thanh sắt, giấu nó xuống dưới đệm giường mình 11 giờ, chuông báo giờ ăn trưa và Tracy là người đầu tiên đứng vào hàng. In the mess hall, Paulita and Lola were seated at a table near the entrance. Trong phòng ăn, Paulita và Lola ngồi ở cái bàn kề bên lối ra vào. At 2:45 her three cell mates returned. 2 giờ 45, ba người kia mới bước vào. That night, when the fifteen-minute warning bell sounded for lights out, Tracy rose from her bunk and began to undress. Đêm tới, khi hồi chuông réo vang báo hiệu còn mười lăm phút là tới giờ tắt đèn đi ngủ, Tracy nhổm dậy và bắt đầu cởi váy áo Lần này thì không việc gì phải dè dặt vô ích nữa. Nàng trút bỏ đồ và người đàn bà Not more than one prisoner shall be permitted to be on a bunk at one time Vào một thời điểm bất kỳ, không được phép có hơn một tù nhân nằm trên một chiếc giường. As the weeks went by, Tracy watched new prisoners--- fish--- enter the prison every day, and the pattern was always the same. Từng tuần lễ trôi qua, ngày ngày Tracy lại thấy những tù nhân mới - đám tù nhân ở đây gọi là cá - được đưa tới, và khung cảnh mọi thứ không có gì thay đổi. Love affairs within the prison walls flourished, and the protocol between lovers was even more strictly enforced than on the outside. Sau những bức tường nhà giam, các trò tình ái vẫn diễn ra ở mọi nơi, và sự thỏa thuận giữa những người tình thì thậm chí còn có hiệu lực hơn cả ở ngoài đời. In an unnatural world, the artificial roles of studs and wives were created and played out. Trong một thế giới phi tự nhiên, các nữ tù nhân tự quy định và thực hiện các vai trò giả định cho những người làm chồng, những người làm vợ. After lights out, Tracy would lie in her bunk and put her hands over her ears to shut out the sounds. Sau khi đèn tắt, Tracy thường nằm trên giường và dùng tay bịt hai tai lại để khỏi nghe thấy những tiếng rên rỉ, gào thét dâm đãng. A few minutes later there was a terrified scream from a nearby cell, where a new prisoner had just arrived Ít phút sau, một tiếng la khủng khiếp vang lên từ - buồng giam gần đó, nơi có một nữ tù nhân mới. In the recreation yard one morning, Tracy listened to an older inmate give a
83
Pl.114
866.
83
867.
86
868.
88
869.
88
870.
89
Đêm đó, sau khi tắt đèn, Tracy thì thầm trong bóng tối. "Erme, tôi phải
871.
158
872.
158
873. 874.
158 159
875.
159
that morning, she the reassuring atmosphere of soft lights, elegant surroundings,
876.
159
seminar on pickpocketing to a fascinated young group. Một buổi sáng, trong sân chơi, Tracy đã nghe một nữ tù lớn tuổi giảng giải trò móc túi cho đám trẻ hơn. In the yard another afternoon, two inmates convicted of prostitution and possession of cocaine were talking to a new arrival, a pretty young girl who looked no more than seventeen. Một bữa khác, ở ngoài sân, hai tù nhân bị kết tội đĩ điếm và tàng trữ ma túy đang nói chuyện với tù nhân mới, một cô gái xinh xắn không quá mười bảy tuổi. The inmates were allowed in the yard for thirty minutes each morning. Mỗi sáng, tù nhân được phép ra sân tập trong vòng ba mươi phút. That night, lying in her bunk, Tracy thought about Ernestine. Đêm đó, nằm trên giường, Tracy nghĩ mãi về Emestme. Each afternoon after supper, the inmates were allowed to spend one hour in the recreation room, where they could watch television or talk or read the latest magazines and newspapers. Mỗi buổi chiều, sau bữa ăn, tù nhân dược phép có một giờ ở phòng giải trí, họ có thể coi ti vi, trò chuyện hoặc xem các báo và tạp chí mới nhất. That night, after lights out, Tracy whispered in the dark, "Ernie, I've go to escape. Help me. Please." trốn. Xln chị hãy giúp tôi". Thirty minutes later Tracy had been in the air, bound for Philadelphia. Ba mươi phút sau, Tracy đã ở trên bầu trời. Máy bay đang hướng về Philadelphia. At 11:00 the following morning she walked into the bank and approached Clarence Desmond's secretary. Hôm sau, lúc 11 giờ, nàng tới nhà băng và gặp thư ký của Claremce Desmond. She came out a few moments later. Mấy giây sau, cô ta trở ra. That evening, Tracy treated herself to dinner at the Café Royal Chiều tối hôm đó, Tracy đến ăn tại nhà hàng cà phê Hoàng Gia. After the sordid meeting with Clarence Desmond needed and soothing music.Sau buổi gặp đầy khó chịu với Claremce Desmond vào buổi sáng, nàng thấy cần có bầu không khí thoải mái của ánh sáng dịu, khung cảnh tươi vui, và âm nhạc êm ả. Seated in a booth across the room were Charles and his wife. Phía bên kia căn phòng, Charles và vợ anh ta đang ngồi trong một cái ghế đôi kín đáo It was not until Tracy returned to her hotel room that evening that she
877.
160
Pl.115
878.
169
879.
172
880.
173
881.
174
882.
174
883.
174
884.
175
885.
226
886.
226
887. 888.
229 230
889.
231
890.
231
891.
232
892.
234
remembered she was owed money from the bank's employees' fund. Cho mãi tới khi đã trở về khách sạn, tối hôm đó, Tracy mới nhớ ra rằng nàng còn một khoản tiền lương ở quỹ lương của nhà băng. At 6:00 she found herself back on Fifth Avenue, in front of Conrad Morgan et Cie Jewelers Vào lúc 6 giờ, Tracy tự thấy mình đứng trước ngôi nhà của Conrad Morgan và công ty trên đại lộ số 5 On her way to the market to shop, Tracy was accosted three times--- twice by men and once by a woman. Trên đường đi mua đồ ăn, Tracy đã ba lần bị quấy rầy, hai lần bởi.hai người đàn ông và một lần là đàn bà. At noon on the second day, as Tracy was serving a table filled with salesmen, one of the men ran his hand up her skirt, and Tracy dropped a bowl of chili on his head. Vào buổi trưa ngày hôm sau, khi Tracy đang phục vụ một bàn ăn cho gã bán hàng thì một trong số họ đưa tay luồn vào trong váy, thế là nàng đánh rơi chiếc chén đựng hạt tiêu xay lên đầu anh ta. A week after she started, Tracy was summoned to the housekeeper's office. Sau một tuần lễ, Tracy được gọi tới văn phòng của người quản lý. At three o'clock Miss Marlowe returned and discovered that a valuable diamond ring was missing Lúc 15 giờ, cô Malowe trở về và phát hiện rằng mất một chiếc nhẫn kim cương đắt tiền When you were in the bedroom, did you see any jewelry lying around Khi ở trong phòng ngủ, cô có thấy thứ nữ trang nào ở đâu đồ không Thirty minutes later the assistant manager walked into the office, smiling. "Well!" he said. "Miss Marlowe found her ring. She had misplaced it, after all. It was just a little mistake." Ba mươi phút sau, viên trợ lý giám đốc bước vào, mỉm cười "Cô Malowe đã tìm thấy cái nhẫn. Hóa ra là đã để nó lẫn vào đâu đó. Một sự nhầm lẫn nhỏ Early the following morning Tracy stopped at a travel agency and reserved a suite on the Signal Deck of the Queen Elizabeth 2 Sáng hôm sau, Tracy dừng lại trước quầy vé và đặt một phòng hạng nhất trên con tàu Elizabeth II. On the morning of the sailing Tracy hired a limousine to drive her to the pier. Buổi sáng hôm ra khơi, Tracy thuê một chiếc xe hơi sang trọng đưa nàng ra cảng. After dinner Tracy went up on deck. Sau bữa ăn chiều, Tracy đi lên trên boong. The following morning Tracy literally bumped into Boris Melnikov. Sáng hôm sau, trời đất run rủi thế nào mà Tracy thực sự đã va chạm với Milnikov When Tracy returned to her cabin, there were six messages to call Mr. Jeff Stevens. Khi trở lại ca bin, có sáu lời nhắn là hãy gọi cho ông Jeff Stevens. Nàng lờ chúng đi. In the afternoon she swam and read and had a massage, and by the time she went into the bar that evening to have a cocktail before dinner, she was feeling wonderful. Her euphoria was short-lived. Buổi chiều, nàng đi bơi, rồi đọc sách, và cho tới tối khi nàng đi tới một quầy nhỏ để làm một ly trước bữa ăn tối, hoàn toàn thấy khoan khoái, dễ chịu. A moment later Jeff was at her side. Một giây sau, Jeffđã ở bên cạnh. The following morning Jeff was talking to Pietr Negulesco in the gymnasium, where the two men were working out Sáng hôm sau, Jeff nói chuyện với
Pl.116
893.
238
894.
239
895.
240
896.
241
897.
241
898.
247
the Savoy and moved
899.
247
900.
250
901.
250
902. 903.
251 25
904.
Later, when Tracy and Gunther were alone, he asked, "How would you
252
Nugulesco trong phòng tập thể dục. By 9:00 Friday evening the Queen's Room was packed with passengers from first class, those who had sneaked in from second and third class, and the ship's officers and members of the crew who were off duty. Vào lúc 21 giờ tối thứ Sáu phòng Nữ hoàng đã đông nghẹt hành khách đi vé hạng nhất và cả các hành khách đi vé hạng hai, hạng ba, cùng các sĩ quan và thủy thủ đang không phải làm nhiệm vụ. It was 10:00 Jeff looked around and saw that both salons had filled up with spectators."It's time for the match to start." Vào lúc 22 giờ, Jeff nhìn quanh và thấy cả hai phòng đã đông chật người xem. Anh nói lớn, "Đã đến lúc trận đấu bắt đầu". While the audience stood hushed, Boris Melnikov reached across the board and played the queen's gambit decline opening, moving his queen pawn two squares. Lúc này, khi đám khán giả đứng im phăng phắc theo dõi cuộc đấu, Boris Melinikov đi nước mở đầu, đưa quân tốt trước mặt quân hậu tiến lên hai ô. Without hesitation, Boris Melnikov moved his white queen's bishop pawn two squares. Không một giây lưỡng lự, Boris Melinikov tiến quân tốt đứng trước quân tượng hậu lên hai ô. Two minutes later, at Negulesco's table, Tracy moved her white queen's bishop two squares. Hai phút sau đó, tại bàn của Nugulesco, Tracy tiến quân tốt đứng trước quân tượng hậu lên hai ô. AAfter, collecting her share of the money from Jeff Stevens, Tracy into 47 Park Street, a checked out of quiet, semiresidential hotel with large, pleasant rooms and superb service. Sau khí lấy ở Jeff phần tiền của mình, Tracy trả buồng, rời khỏi khách sạn Savoy và chuyển tới số 47 đường Công Viên - một khách sạn yên tĩnh với các phòng rộng rãi, dễ chịu và sự phục vụ thượng hạng. On her second day in London the invitation was delivered to her suite by the hall porter. Vào ngày thứ hai ở London, tấm thiếp mời được người hầu phòng chuyển tới nàng On Sunday afternoon, shortly before Tracy was to return to London, Gunther invited her into his study. Chiều chủ nhật trước hôm Tracy phải trở về London Gunther mời nàng vào phòng làm việc của ông ta "I'm pleased, Tracy." Then, after a moment, he continued. "I've been observing you." "Tôi rất hài lông, cơ Tracy". Thế rồi ngừng một lát ông ta nối tiếp. "Tôi đã để ý quan sát cô". Late that afternoon Tracy returned to London. One Sunday evening at dinner a member of Parliament turned to Tracy and said, "I've never met a real Texan, Miss Whitney. What are they like?" Một tối chủ nhật, trong bữa ăn, một nghị sĩ quốc hội quay sang hỏi Tracy. "Cô Wihitney, tôi chưa bao giờ gặp một người Texas chính cống cả. Họ thế nào nhỉ?" like to make a small fortune doing that imitation?" Sau đó, khi chỉ có riêng Tracy và Gunther, ông ta hỏi.
Pl.117
905.
257
906.
257
907.
257
908.
257
909.
telephoned. Vào thứ tư, bà Benecke gọi
260
910. 911.
260 272
to
red
roll a
rug up
912.
273
913.
278
914.
279
915.
279
916.
279
917.
282
"Cô có muốn giả bộ như thế để kiếm được một khoản nhỏ không? I'll have the emerald delivered to you personally tomorrow morning Tôi sẽ chuyển viên ngọc tới tận tay bà vào sáng mai You gotta come up and have tea with us some afternoon Một chiều nào đó, anh phải tới uống trà với chúng tôi nhé The check cleared the following morning, and the Colombian emerald was delivered by bonded messenger to Mrs. P.J. Benecke at the Dorchester Hotel Sáng hôm sau, tấm séc được thanh toán và chiếc cặp gắn viên ngọc Colombia được một người giao hàng chuyển lại cho bà P.J Benecke tại khách sạn Dorchester. That afternoon, shortly before closing time, Gregory Halston's secretary said, "A Mrs. Benecke is here to see you, Mr. Halston." Buổi chiều, khi gần tới giờ đóng cửa, thư ký của Gregory Halston bước vào nói. "Có một bà Benecker đến gặp ông, thưa ông Halston On Wednesday Mrs. Benecke điện đến. On Friday she telephoned again. Vào ngày thứ sáu, Tracy lại gọi điện tới nhắc. Thirty minutes before departure a portable check-in counter is set up at the entrance to the boarding platform in the terminal, and two burly the counter, elbowing aside uniformed men eagerly waiting passengers.b a mươi phút trước giờ khởi hành, một bàn kiểm soát được đặt ngay lối cửa ra vào để lên tàu, và hai nhân viên lực lưỡng mặc đồng phục trải một tấm thảm đỏ trước chiếc bàn rồi đứng sang hai bên đón khách. At 1:15 that afternoon the train arrived at the port of Folkestone, where the passengers transferred to the Sealink ferry, which would take them across the channel to Boulogne, where they would board another Orient Express heading south. giờ 15 hôm đó, đoàn tàu tới cảng Folkestone nơi hành khách xuống phà để vượt eo biển sang Boulogne thuộc Pháp, và từ đây, họ lên một đoàn tàu tốc hành Phương Đông khác chạy tiếp về phía Nam. Half an hour later Tracy was back in her cabin. Nửa giờ sau, Tracy đã trở về cabin của mình. At 3:30 in the morning Tracy quietly left her compartment. Vào lúc 3 giờ 30 sáng, Tracy lặng lẽ rời khỏi cabin của mình. Ten minutes later she was back in her cabin, and thirty minutes after that she was asleep, with the trace of a smile on her freshly scrubbed face. Mười phút sau nàng đã trở lại cabin của mình và ba mươi phút sau đó, đã ngủ say với nụ cười còn đọng lại trên khuôn mặt mới được rửa ráy sạch sẽ, thơm tho. At 7:00 A.M., two hours before the Orient Express was due to arrive in Milan, a series of piercing screams rang out. Vào lúc 7 giờ sáng, khoảng hai giờ đồng hồ trước lúc đoàn tàu đến Milan, có những tiếng kêu rầm rĩ vọng ra từ cabin E70 đã làm hành khách thức giấc. WWhen Tracy stepped out of her compartment, two detectives moved in, opened her suitcases, and began carefully sifting through the contents. Khi Tracy bước ra khỏi cabin của mình họ ập vào mở các vali và khám xét kỹ
Pl.118
918.
282
919.
285
920.
286
921. 922.
286 289
923.
289
924.
290
925.
292
926.
292
927.
296
928.
296
929.
296
lưỡng từng thứ đồ bên trong. At the end of four hours the search had turned up several packets of marijuana, five ounces of cocaine, a knife, and an illegal gun. Sau bốn giờ đồng hồ, kết quả của cuộc khám xét là dăm gói thuốc phiện, vài gam cocain, một con dao và một khẩu súng bất hợp pháp. On an early May morning a conference was under way in the office of Inspector André Trignant, in charge of Interpol headquarters. Buổi sáng đầu tháng Năm, một cuộc họp đã diễn ra trong phòng làm việc của thanh tra Andre Trignant người chịu trách nhiệm về các hoạt động tại trụ sở INTERPOL. WWhen Daniel Cooper's plane landed in Paris, he was met at Roissy- Charles de Gaulle Airport by one of Inspector Trignant's assistants, and driven to the Prince de Galles, next door to its more illustrious sister hotel, the George V. Khi máy bay của Daniel Cooper hạ xuống Paris, ông ta được đón bởi một số những phụ tá của thanh tra Trigllant và được đưa về khách sạn Hoàng đế George để Ngũ nổi tiếng. I will pick you up at eight-fifteen Tôi sẽ đón ông lúc 8 giờ 15 Thirty minutes later, Inspector Trignant was speaking to Alberto Fornati in Venice. a mươi phút sau, thanh tra Trignant đã đang nói chuyện qua điện thoại với Alberto Fornati ở Venice. When he completed the telephone call, he sat back in his chair thinking, This Daniel Cooper is très formidable. Very formidable, indeed. au khi gác máy, ông ngồi xuống và ngẫm nghĩ thằng cha Daniel Cooper này thật kinh khủng. She was giving a cocktail party the following evening, the first since her return from Venice. Chiều tối hôm sau, nàng mở tiệc, bữa tiệc đầu tiên kể từ khi từ Venice trở về. The following morning Tracy ran into Jeff in an elevator at Harrods sáng hôm sau, Tracy chạm trán với Jeff trong buồng thang máy của cửa hiệu Harlods, lúc đó đang Đông khách. Tracy lay in bed that night thinking about Jeff, and she had to laugh. Đêm đó, Tracy nằm nghĩ tới Jeff, và bật cười. Every year, on the first Saturday in June, the Count de Matigny sponsored a charity ball for the benefit of the Children's Hospital in Paris. Hàng năm, vào ngày thứ bảy đầu tiên của tháng Sáu, nam tước De Matiglly đều tổ chức một bữa tiệc để quyên tiền cho bệnh viện nhi đồng ở Paris. On the evening of the fete, the grand ballroom and the petit ballroom were filled with beautifully dressed guests and smartly liveried servants offering endless glasses of champagne.Buổi chiều hôm đó, cả phòng khách lớn và phòng khách nhỏ đều chật những vị khách sang trọng, đẹp đẽ và những người hầu mặc phẩm phục chỉnh tề không ngớt mời mọc những ly sâm banh lớn. During the previous two weeks Tracy had meticulously planned two burglaries. t rong hai tuần qua Tracy đã dày công mưu tính hai vụ trộm
Pl.119
930.
300
931. 932.
302 302
933.
302
934.
303
935.
303
936.
304
937.
304
938.
304
939.
304
940.
307
941.
307
942.
309
943.
324
944.
326
945.
327
946.
328
After dinner, the Count de Matigny turned to. Tracy Sau bữa ăn, nam tước De Matiglly quay sang Tracy. After that all was quiet. Sau đó tất cả trở nên yên lặng. Tracy had casually tested the ivy the evening before. t ối hôm trước, Tracy đã thận trọng thử kéo các thân leo này. Now, as she put her weight on a vine, it held. Và bây giờ, khi đu người lên một đây nhỏ thì thấy nó cũng đủ cứng cáp. Wwhen Tracy reached the roof, she signaled to Jean Louis and waited until he climbed up beside her. Khi đã lên tới mái, nàng ra hiệu gọi Jean Louis và đợi cho gã leo lên tới bên. And there, Tracy had decided, was the weakness in the system. v à chính chỗ này, Tracy quả quyết, là điểm yếu của hệ thống. At 6:30 in the morning she had found the solution. ào lúc 6 giờ 30 sáng, Tracy đã tìm ra giải pháp Now, she slipped the infrared goggles on, and instantly everything in the room took on an eerie red glow. Lúc này, nàng đeo cặp kính giúp nhìn thấy các bức xạ hồng ngoại và ngay lập tức, tất cả cảnh vật trong phòng đều mang một màu đỏ kỳ quái. Through the infrared goggles, Tracy saw another light beam, this one low across the threshold of the bedroom door. Nhờ cặp kính, Tracy thấy một luồng tia khác thấp, quét ngang ngưỡng cửa phòng nghỉ. All that remained now was to get into the safe, which stood in a curtained alcove at the far end of the bedroom. Bây giờ, tốt cả việc còn lại là với cái két sắt trong góc tường thụt sâu vào cuối căn phòng. Still, in high season, from July to September, the wealthy and titled of Europe continue to flock to Biarritz to enjoy the gambling and the sun and their memories. uy vậy, vào mùa đi nghỉ, khoảng từ tháng Bảy đến tháng Chín, những người giàu có, vương giả của châu Âu vẫn kéo tới đây để chơi bạc, tắm nắng và ôn lại dĩ vãng. On an afternoon in late August the French Baroness Marguerite de Chantilly swept into the lobby of the Hôtel du Palais. ột buổi chiều cuối tháng Tám, nữ bá tước người Pháp Marguerite de Chantilly bước vào gian tiền sảnh của khách sạn Palais. At 8:00 that evening the Baroness Marguerite de Chantilly was seated in the hotel's bar when the man who had collided with her earlier approached her table. Tối đó, nữ bá tước Marguerite de Chantiliy đang ngồi trong tiệm rượu của khách sạn thì người đàn ông hồi chiều tiến lại bàn nàng. Fifteen minutes later Zuckerman returned to the office. Mười lăm phút sau Zuckeman quay lại Now, tell me where you got your printing press Bây giờ, cho tôi biết cô đã kiếm được cái máy in kia từ đâu vậy After that, he would tell Bruno Vicente to handle the woman. Sau đó, hắn sẽ bảo Brune Vicente xử lý người đàn bà này. Two hours later the money arrived in a large sack. Hai giờ sau, một túi tiền lớn được chuyển tới. Grangier nói với Tracy.
Pl.120
947.
328
948.
328
949.
329
950.
329
951.
330
952.
333
953.
333
954.
336
955.
337
956.
337
957.
338
958.
338
959.
338
960.
338
in Madrid,
commandant
informing
police
him
Armand Grangier was in a euphoric mood that evening. Tối hôm đó, Armand Grangier ở trong một tâm trạng hết sức phấn chấn. By now, the large printing press would have been arranged for. Vào giờ này, chuyện mua chiếc máy in lớn kia hẳn đã được dàn xếp xong. At precisely 8:00, Grangier's limousine pulled into the sweeping curve of the driveway of the Hôtel du Palais, and Grangier stepped out of the car. Đúng 20 giờ, chiếc xe sang trọng của Grangier trườn vào con đường cong lên cửa khách sạn Palais, và Grangier bước ra khỏi xe. As he walked into the lobby, he noticed with satisfaction that Zuckerman was seated near the entrance, keeping a watchful eye on the doors. Trong lúc đi vào tiền sảnh khách sạn, hắn hài lòng nhận thấy Zuckeman ngồi gần đó, chăm chú để mắt tới cửa ra vào. Fifteen minutes later his friend the inspector arrived, accompanied by a man with an epicene figure and one of the most unattractive faces Grangier had ever seen. Mười lăm phút sau, bạn của hắn thanh tra Dumont đã đến, cùng đi có một người đàn ông với dáng người và vẻ mặt xấu xí nhất mà Grangier từng thấy. The following morning Tracy flew to Palma, Majorca's capital. Sáng hôm sau, Tracy bay tới Pạlma, thủ phủ của đảo Maiorca. Because of Interpol's red circulation on Tracy, her departure from Biarritz and her arrival in Majorca were reported to the local authorities. Do bức thông điệp đỏ của Interpol về Tracy, nên việc nàng rời Biamtz đến Maiorca đã được thông báo cho giới chức địa phương. An organist was in the boat, filling the air with a melodic serenade that echoed across the water. Trên thuyền, một nghệ sĩ đang chơi Organ, bản Senẹnaà" vọng qua mặt hồ, và ánh đèn màu tỏa sáng như một chiếc cầu vồng trong bóng tối. Standing at the exit to the caves, Daniel Cooper watt Tracy Whitney come out. Đứng ở cổng ra vào hang, Daniel Cooper thấy Tracy Whitney bước ra. Directly below, across the street, was the Prado Museum. Ngay phía dưới, bên kia đường, là bảo tàng Prado. ưWhen she got into the bed, she decided that trying to sleep in it had to be a modern form of medieval torture. Khi lên giường, nàng có cảm nghĩ phải nằm ngủ trên chiếc giương này quả là một dạng của lối tra tấn thời Trung cổ. At midnight a detective stationed in the lobby was relieved by a colleague. úc nửa đêm, một thám tử chết giữ dưới tiền sảnh khách sạn bàn giao lại cho một đồng nghiệp tới thay phiên. In Madrid, Dirección General de Seguridad, police headquarters, is located in the Puerto del Sol and takes up an entire city block. Tại Madrid, Tổng nha cảnh sát nằm ở đại lộ số một và chiếm cả một dãy phố. On the previous day an X-D Urgent cable had come in for Santiago Ramiro, the of Tracy Whitney's impending arrival. Ngày hôm trước, một bức điện khẩn mang lý hiệu X - D đã được gửi tới Santiago Ramiro, cảnh sát trưởng Madrid, thông báo cho ông ta về chuyến đi của Tracy Whitney.
Pl.121
961.
339
962. 963.
341 342
964.
343
965.
344
966.
lunch
344
967.
348
968.
348
969.
349
970.
349
971.
350
972.
350
973.
351
follow around
974.
She has not dealt with the Spanish police before. Trước đây, cô ta chưa hề đụng phải cảnh sát Tây Ban Nha He dreamed about Tracy at night Ông ta đã từng mơ thấy Tracy In the days that followed, Jeff and Tracy explored Madrid.Trong mấy ngày tiếp theo, Jeffvà Tracy đi thăm khắp Madrid Watching them from a careful distance, Daniel Cooper was puzzled by Jeff Stevens's role in the drama that was being played out. ữ một khoảng cách đầy thận trọng, Daniel Cooper suy nghĩ về vai trò của Jeff trong màn kịch đang diễn ra. A few minutes later he telephoned her from his room. Ít phút sau, tới phòng mình, anh gọi điện cho Tracy. the medieval city and visited the After they wandered around the Renaissance town hall, and then old Cathedral of Santa Maria and drove up to the Alcázar, the old Roman fortress perched on a rocky spur high over the city. Sau bữa ăn, họ lang thang khắp khu thành cổ, ghé thăm nhà thờ Đức bà Maria cổ kính và tòa"thị chính với kiến trúc Phục Hưng, rồi tiếp tục lên xe chạy tới Aleazar, một pháo đài La Mã cổ nằm trên một mỏm núi đá nhô ra phía trên thành phố. They said very little during the ride back to the hotel. Trên đường trở về, họ nói với nhau rất ít At the door to Tracy's room, she turned and said, "It's been---" Tại cửa phòng mình, Tracy quay lại nói. "Thật là cả một ...". At 10:40 the following morning Tracy was standing in the long line at the entrance to the Prado Museum. Sáng hôm sau, lúc 10 giờ, Tracy đã đang đứng trong hàng người trước cửa ra vào bảo tàng Prado. As the doors opened, a uniformed guard operated a turnstile that admitted one visitor at a time. Tracy purchased a ticket and moved with the crowd going into the large rotunda. Nàng mua một vé vào cửa ra vào cùng với dòng người đi vào một phòng lớn thênh thang có mái vòm. In a dozen different rooms artists had set up their easels and were assiduously at work copying paintings of the masters. Ở nhiều phòng tranh, các họa sĩ dựng lên giá vẽ của họ và miệt mài vẽ lại tranh của các danh họa. And there, next to The Witches' Sabbath, was the Puerto. Và đây, cạnh bức Ngày nghỉ của các mụ phù thủy là bức Puerto. It was bad enough that he had had to put up with this rude, unattractive American for the past week, and that he had wasted valuable manpower having Tracy Whitney the clock, when his Policía already working under an austerity budget; but now, Nacional was confronted by pito, telling him how to run his police department, he could stand no more. Suốt tuần qua, phải làm việc với gã người Mỹ thô bạo, xấu xí này đã là quá đủ và lại đã phải phung phí nhân lực quý giá để theo sát Tracy Whitney 24 trên 24 giờ trong khi lực lượng cảnh sát quốc gia của ông ta thì vốn đã phải làm việc dưới một ngân quỹ eo hẹp, bởi vậy lúc này, khi nghe thằng cha xấu xí kia" chỉ bảo cách điều khiển cơ quan cảnh sát của mình thì ông ta không còn chịu đựng được nữa. She returned to the Prado the next morning. Sáng hôm sau, Tracy trở lại bảo tàng
352
Pl.122
975.
353
976.
354
977.
355
left
following morning when Tracy
978.
355
979.
356
980.
356
981.
356
982.
358
telephoned Cooper. Tối hôm
983.
360
984. 985.
367 367
986.
368
987.
368
988.
374
Prado Two days later, at 9:00 A.M., Tracy was seated on a bench in the gardens of the Retiro, the beautiful park running through the center of Madrid, feeding the pigeons. hai ngày sau, vào lúc 9 giờ sáng, Tracy ngồi trên chiếc ghế băng trong vườn Retiro một công viên xinh đẹp nằm giữa thủ đô Madrid - và đang cho những con chim bồ câu ăn. While Tracy was in the park meeting with Cesar Porretta, Daniel Cooper was searching her hotel roomTrong lúc đó, Daniel Cooper đang lục soát căn phòng khách sạn của nàng. A few minutes later he left, as quietly as he had arrived, and headed directly for a nearby church. Ít phút sau ông ta bỏ ra ngoài, cũng nhanh như khi đến, và cắm đầu cắm cổ đi tới một ngôi nhà thờ gần đấy. The the Ritz Hotel, Daniel Cooper followed her. Sáng hôm sau Tracy rời khách sạn Ritz, Daniel Cooper bám theo. Tomorrow the Prince, of Luxembourg arrives on a state visit, and the newspapers say he will be taken on a tour of the Prado Ngày mai, Thái tử Lucxembourg sẽ đến đây trong một chuyến thăm cấp nhà nước, và báo chí đưa tin rằng ông ta sẽ được đưa tới thăm bảo tàng Prado. At the entrance, the director of the museum, Christian Machada, nervously awaited the arrival of His Highness. Tại cổng vào, giám đốc Christian Machada nóng lòng chờ đợi khách quý. Machada had made a careful morning inspection to be sure everything was in order, and the guards had been forewarned to be especially alert. t rong buổi sáng, Machada đã kiểm tra cấn thận để bảo đảm rằng mọi thứ đều chu đáo, còn những người gác đều đã được nhắc nhở phải đặc biệt cảnh giác. Two minutes later Christian Machada was at the scene of the disaster Hai phút sau, Christian Machada đã có mặt tại hiện trường. At 7:00 that evening Christian Machada đó, Christian Machada gọi điện lại cho Cooper That afternoon a deal was struck. Chiều hôm đó, vụ mua bán đã được thực hiện. When Henri Rendell left the museum, he took a taxi to a residential area in the northern end of Madrid, carried the canvas up some stairs to a third-floor apartment, and knocked on the door. Sau khi ra khỏi bảo tàng, Henri Rendeii đi một chuyến tắc xi tới khu dân cư ở rìa phía Bắc của Madriđ, mang bức tranh lên một căn phòng ở tầng ba và gõ cửa. On her way back to the Ritz, Tracy was filled with a sense of exhilaration. Trên đường trở về khách sạn, Tracy tràn ngập niềm phấn chấn. She waited in her hotel suite for the messenger, and when he arrived, Tracy telephoned Cesar Porretta Tại phòng khách sạn, Tracy chờ đợi người giao hàng kia, và khi ông ta đến, nàng gọi điện cho Cesar Porretta. In Paris, Tracy stayed at the classic Plaza Athénée, in a lovely old suite that overlooked the garden restaurant. Tại Paris, Tracy đặt buồng tại khách sạn Plaza Athenee, một căn phòng đáng yêu nhìn xuống khu vườn khách sạn ở đây có một phòng ăn sang trọng . Tracy lay in bed that night, reviewing the next day's plan. Đêm đó, nằm trên
989.
375
Pl.123
990.
6
991.
6
992.
6
993.
6
994.
7
995.
8
996.
9
997.
9
998.
9
999.
9
1000.
9
1001.
10
1002.
10
giường, Tracy cân nhắc lại kế hoạch. Sitting up now, Langdon frowned at his bedside Guest Relations Handbook, whose cover boasted: SLEEP LIKE A BABY IN THE CITY OF LIGHTS. Lúc này Langdon đã ngồi dậy, ông cau mày nhìn cuốn Sổ tay liên hệ với khách có bìa ghi những lới huênh hoang: "Hãy ngủ như một hài nhi ở Kinh đô ánh sáng. The past year had taken a heavy toll on him, but he didn't appreciate seeing proof in the mirror. His usually sharp blue eyes looked hazy and drawn tonight. Năm làm việc vừa qua đã làm ông tiêu hao sức lực nặng nề, nhưng ông không khoái nhìn thấy bằng chứng của điều đó trong gương. Last month, much to Langdon's embarrassment, Boston Magazine had listed him as one of that city's top ten most intriguing people—a dubious honor that made him the brunt of endless ribbing by his Harvard colleagues. Tháng trước, Langdon rất bối rối khi tờ BostonMagazine xếp ông vào danh sách mười người đàn ông hấp dẫn nhất thành phố – một vinh dự đáng ngờ khiến ông trở thành mục tiêu trêu chọc không dứt của các đồng nghiệp ở trường Harvard. Tonight, three thousand miles from home, the accolade had resurfaced to haunt him at the lecture he had given. Tối nay, ở cách xa đất nước ba ngàn dặm, sự đề cao đó vẫn trở lại ám ảnh ông ngay trong buổi thuyết giảng ông vừa thực hiện. Thirty seconds later, the crowd was grinning, and the woman showed no signs of letting up. Ba mươi giây sau, đám đông nhăn nhở cười và người phụ nữ kia không hề tỏ dấu hiệu muốn dừng lại Uncertain, Langdon slid off the bed, feeling his toes sink deep into the savonniere carpet. Phân vân, Langdon tụt khỏi giường, cảm thấy những ngón chân nhấn sâu trên tấm thảm. As Langdon stared at the bizarre image, his initial revulsion and shock gave way to a sudden upwelling of anger. "Who would do this!" Khi Langdon nhìn kỹ hình ảnh kì quái đó, sự ghê tởm và choáng váng ban đầu nhường chỗ cho một cơn giận trào lên đột ngột: "Ai có thể làm chuyện này?". A little over a year ago, Langdon had received a photograph of a corpse and a similar request for help. Hơn một năm trước, Langdon nhận được tấm ảnh một xác chết và một lời đề nghị giúp đỡ tương tự Twenty-four hours later, he had almost lost his life inside Vatican City. Hai mươi tư giờ sau, ông suýt mất mạng trong thành phố Vatican. This photo was entirely different, and yet something about the scenario felt disquietingly familiar. Bức ảnh này hoàn toàn khác, tuy nhiên có một cái gì quen thuộc trong kịch bản khiến ông lo lo. One mile away, the hulking albino named Silas limped through the front gate of the luxurious brownstone residence on Rue La Bruyère. Cách có một dặm, tên bạch tạng to con có tên Silas tập tễnh qua cổng trước của tòa nhà bằng đá xám sang trọng ở phố La Bruyère. Tonight, at last, Silas felt he had begun to repay his debt. cuối cùng, tối nay, Silas cũng cảm thấy bắt đầu đễn đáp được món nợ đó. According to lore, the brotherhood had created a map of stone—a clef de voûte... or keystone—an engraved tablet that revealed the final resting place of the brotherhood's greatest secret...Theo truyền thuyết, hội kín này đã tạo ra một bản
Pl.124
1003.
12
1004.
12
1005.
14
1006.
14
1007.
14
1008.
14
1009.
14
1010.
17
1011.
17
1012.
20
1013.
20
1014.
20
đồ bằng đá – một viên đá đỉnh vòm – và khắc vào đó bảng chỉ dẫn tới vị trí cuối cùng của bí mật lớn nhất của tổ chức... In the passenger seat, Robert Langdon felt the city tear past him as he tried to clear his thoughts. Ngồi ở ghế cạnh ghế tài xế, Langdon cảm thấy thành phố vùn vụt qua trong khi ông cố soạn lại ý nghĩ của mình cho rành rọt tỏ tường. Outside, the city was just now winding down—street vendors wheeling carts of candied amandes, waiters carrying bags of garbage to the curb, a pair of late night lovers cuddling to stay warm breeze scented with jasmine blossom. Bên ngoài, thành phố đang ngơi nghỉ – những người bán hàng rong đang đẩy những chiếc xe chở hạnh đào ướp đường, các bồi bàn mang bao rác ra vỉa hè, một đôi tình nhân ấp ủ nhau để giữ ấm trong gió nhẹ hòa quyện với hương hoa nhài. Tonight, however, this place held a strange aura of foreboding.Tối nay, tuy nhiên, chỗ này lại mang một hào quang khác thường của điềm gở. Out the right-hand window, south across the Seine and Quai Voltaire, Langdon could see the dramatically lit facade of the old train station—now the esteemed Musée d'Orsay. Nhìn ra ngoài cửa xe bên phải, theo hướng nam bên kia sông Seine và Bến Voltaire, Langdon có thể thấy mặt ngoài sáng trưng của nhà ga xe lửa cũ – nay là Bảo tàng Orsay sang quý. Glancing left, he could make out the top of the ultramodern Pompidou Center, which housed the Museum of Modern Art. Đưa mắt sang trái, Langdon có thể thấy đỉnh của Trung tâm Pompidou tối tân, là nơi đặt Bảo tàng nghệ thuật hiện đại Behind him to the west, Langdon knew the ancient obelisk of Ramses rose above the trees, marking the Musée du Jeu de Paume. Đằng sau ông về phía tây, Langdon biết đó là đài tưởng niệm cổ xưa của Ramses vươn lên trên cây cối, đánh dấu chỗ của Bảo tàng Jeu de Paume. But it was straight ahead, to the east, through the archway, that Langdon could now see the monolithic Renaissance palace that had become the most famous art museum in the world Thẳng trước mặt, về hướng Đông, qua cái cổng tò vò, Langdon có thể nhìn thấy tòa lâu đài kiểu Phục Hưng làm bằng đá nguyên khối giờ đây đã trở thành một trong những lâu đài nghệ thuật nổi tiếng nhất trên thế giới. As they descended, they passed between two armed Judicial Police guards with machine guns. Trên đường đi xuống, họ qua giữa hai vệ binh của Cục Cảnh sát tư pháp lăm lăm súng máy. Descending below ground level, Langdon fought a rising trepidation. Xuống dưới sâu hơn mặt đất, Langdon phải cố dẹp một cơn run đang dâng lên. Now, as Langdon approached the stationary escalators, he paused, realizing Fache was no longer beside him. Khi Langdon đi gần đến chiếc cầu thang cuốn vẫn đứng im, ông dừng lại, nhận thấy Fache không còn ở bên cạnh mình. Turning, Langdon saw Fache standing several yards back at a service elevator. Quay lại, Langdon nhìn thấy Fache đang đứng cách đó vài mét về phía sau ở chỗ thang máy dành cho người phục vụ. As a boy, Langdon had fallen down an abandoned well shaft and almost died treading water in the narrow space for hours before being rescued. hồi bé,
Pl.125
1015.
20
1016.
20
1017.
23
1018.
23
1019.
23
1020.
24
1021.
24
1022.
25
1023.
25
1024.
26
1025.
26
1026.
35
1027. 1028.
35 42
Langdon đã ngã xuống một cái giếng bỏ đi và suýt chết vì ngâm nước trong cái khoảng hẹp đó nhiều giờ trước khi có người đến cứu. Since then, he'd suffered a haunting phobia of enclosed spaces—elevators, subways, squash courts. Kể từ đó, ông bị ám ảnh bởi chứng sợ những khoảng khép kín - thang máy, đường điện ngầm, sân chơi bóng quần. Tonight, the museum possessed an almost oppressive quality. Tối nay, bảo tàng có vẻ gần như ngột ngạt. Even in the darkness, the barricade looked like it could have restrained a tank. Ngay cả trong bóng tối, hàng rào chắn vẫn có vẻ như có thể chặn được cả xe tăng. Arriving outside, Langdon peered through the bars into the dimly lit caverns of the Grand Gallery. Từ bên ngoài, Langdon nhìn qua song sắt vào các hốc lờ mờ sáng của Hành Lang Lớn. With a price tag of just over $47 million, the 133,000-square-foot tower is clad in red brick and Indiana limestone. Với giá hơn bốn mươi bảy triệu đôla, nó là một tòa tháp rộng gần 15.000 mét vuông được ốp gạch đỏ và đá vôi vùng Indiana. Earlier this evening, within the sanctuary of his penthouse apartment, Bishop Manuel Aringarosa had packed a small travel bag and dressed in a traditional black cassock. Từ chiều nay, trong căn phòng tôn nghiêm ở tầng trên cùng của mình, Giám mục Manuel Aringarosa đã đóng một túi đồ du lịch nhỏ và mặc chiếc áo thày tu truyễn thống màu đen. Normally, he would have wrapped a purple cincture around his waist, but tonight he would be traveling among the public, and he preferred not to draw attention to his high office. Bình thường, ông quấn dây lưng màu tía quanh hông, nhưng tối nay ông sẽ ra nơi công cộng, và ông không muốn gây ra sự chú ý tới chức vụ cao của mình. Two months ago, an Opus Dei group at a midwestern university had been caught drugging new recruits with mescaline in an effort to induce a euphoric state that neophytes would perceive as a religious experience. Hai tháng trước, một nhóm Opus Dei ở một trường đại học miền Trung Tây nước Mỹ bị bắt quả tang cho những hội viên mới dùng mescaline gây ảo giác nhằm tạo trạng thái khinh khoái mà các tân tín đồ sẽ cảm nhận như là một trải nghiệm tôn giáo Five months ago, the kaleidoscope of power had been shaken, and Aringarosa was still reeling from the blow. Năm tháng trước, sự biến ảo của quyền lực đã bị lung lay, và Aringarosa vẫn còn đang lảo đảo vì cú đòn đó. For two millennia, Christian soldiers had defended their faith against those who tried to displace it. Trong hai thiên niên kỷ, những người lính của Chúa đã bảo vệ đức tin của họ chống lại những kẻ định gạt bỏ nó. Tonight, Silas had been called to battle. Tối nay, Silas đã được gọi tham gia trận chiến. Tonight, asleep in her small bed, she awoke to the shrill of her telephone. Đêm nay, đang ngủ trên chiếc giường nhỏ, bà bị tiếng điện thoại kêu lanh lảnh đánh thức. Tiredly, she lifted the receiver.Mệt mỏi, bà nhấc ống nghe nhận điện. To ensure his conversation with Mr. Langdon would not be interrupted, Bezu Fache had turned off his cellular phone. Để đảm bảo cuộc trò chuyện của mình với Langdon không bị ngắt quãng, Bazu Fache đã tắt máy di động.
Pl.126
1029.
43
1030.
43
1031.
44
1032.
47
1033.
47
1034.
47
1035. 1036.
47 47
1037.
48
1038.
48
1039. 1040.
48 48
1041.
48
1042.
48
1043.
48
1044.
50
1045.
50
At thirty-two years old, she had a dogged determination that bordered on obstinate. Ở tuổi ba mươi hai, cô có một quyết tâm bướng bỉnh gần đến mức ngoan cố. For a moment, Robert Langdon thought Bezu Fache was suffering a stroke. Trong chốc lát, Robert Langdon nghĩ Bezu Fache đang bị choáng. To Langdon's surprise, the woman walked directly up to him and extended a polite hand. Trước sự ngạc nhiên của Langdon, người phụ nữ đi thắng đến chỗ ông và chìa tay ra một cách lịch sự. One night, there was a horrific fight, and his mother never got up. Một đêm, cuộc ẩu đả đến hồi khủng khỉếp và mẹ nó không trở dậy nữa As if some kind of demon were controlling his body, the boy walked to the kitchen and grasped a butcher knife. Như thể ma quỷ đang điều khiển thân xác nó, đứa bé đi vào bếp và chụp lấy con dao thái thịt Hypnotically, he moved to the bedroom where his father lay on the bed in a drunken stupor. Như bị thôi miên, nó đi vào phòng ngủ nơi bố nó nằm trên giường trong trạng thái say xỉn. Over time, he grew strong. Thời gian trôi đi, nó lớn lên khỏe mạnh. When he was twelve, another drifter—a girl twice his age—mocked him on the streets and attempted to steal his food. Khi nó mười hai tuổi, một kẻ lang bạt khác - một cô gái gấp đôi tuổi nó - đã chế nhạo nó trên đường phố và định ăn cắp đồ ăn của nó. Over time, the looks of pity on the streets turned to looks of fear. Cùng với thời gian, những ánh mắt thương hại trên đường phố chuyển thành những cái nhìn sợ hãi. At eighteen, in a port town, while attempting to steal a case of cured ham from a cargo ship, he was caught by a pair of crewmen. Ở tuổi mười tám, tại một thị trấn cảng, trong khi tìm cách lấy trộm một hòm thịt muối từ một tàu chở hàng, hắn đã bị hai thủy thủ bắt. Two months later, in shackles, he arrived at a prison in Andorra Over the course of twelve years, his flesh and soul withered until he knew he had become transparent. Qua hai mươi năm, thân xác và linh hồn hắn héo hon đến mức hắn biết rằng hắn đã trở nên trong suốt. One night the ghost awoke to the screams of other inmates. Một tối, con ma tỉnh dậy bởi tiếng la hét của những người bạn tù. Even while the earth still shook, the ghost found himself scrambling through a narrow tunnel, staggering out into an expansive vista, and tumbling down a barren mountainside into the woods. Trong khi mặt đất vẫn còn rung chuyển, con ma thấy mình đang bò qua một đường hầm hẹp, lảo đảo bước ra một không gian rộng lớn và bổ nhao bổ nhào xuống một sườn núi khô cằn lao vào rừng. Skirting the edges of consciousness, he found himself at dawn in a clearing where train tracks cut a swath across the forest. Lúc bình minh, gần tỉnh trí lại, hắn thấy mình đang ở một khoảng rừng phát quang nơi đường xe lửa cắt một vệt xuyên qua khu rừng. When the ghost awoke in the morning, his world felt clearer. hức giấc vào buổi sáng, con ma thấy thế giới của mình sáng rõ hơn. From now on, my friend, if you have no other name, I shall call you Silas từ giờ trở đi, anh bạn, nếu anh không có một cái tên nào khác tôi sẽ gọi anh là Silas
Pl.127
1046.
51
1047.
55
1048.
56
1049.
56
1050.
56
1051.
56
1052.
56
1053.
58
1054.
58
1055. 1056.
60 60
1057. 1058.
60 60
1059.
62
1060. 1061.
62 63
Twenty thousand feet above the Mediterranean, Alitalia flight 1618 bounced in turbulence, causing passengers to shift nervously. Ở độ cao hơn sáu nghìn mét bên trên biển Địa Trung Hải, chuyến bay Aitalia 1618 rung lên, làm cho các hành khách dao động. At the end of the corridor, illuminated signs bearing the international stick-figure symbols for rest rooms guided him through a maze-like series of dividers displaying Italian drawings and hiding the rest rooms from sight. Ở cuối hành lang, các bảng phản quang với hình vẽ tượng trưng chỉ phòng vệ sinh đã dẫn ông đi qua hàng loạt nhằng nhịt những tấm ngăn đôi hành lang theo chiều dọc, phô những ký họa Ý và che phòng vệ sinh khỏi tầm nhìn. Only minutes ago, Langdon had listened to her phone message, thinking the newly arrived cryptographer must be insane. Chỉ một phút trước, Langdon đã nghe tin nhắn điện thoại của cô, nghĩ rằng nữ nhân viên mật mã mới đến này chắc là bị mất trí. illed with uncertainty, Langdon had decided to do exactly as Sophie advised.Dù còn hoài nghi, Langdon đã quyết định làm đúng theo lời Sophie khuyên. Then he had asked to use the rest room at the end of the Grand Gallery.sau đó ông hỏi dùng nhà vệ sinh ở cuối Hành Lang Lớn sophie stood before him now, still catching her breath after doubling back to the rest room. Bây giờ Sophie đã đứng trước mặt ông, vẫn còn hổn hển lấy lại hơi sau khi vòng lại phòng vệ sinh In the fluorescent lights, Langdon was surprised to see that her strong air actually radiated from unexpectedly soft features. Trong ánh đèn huỳnh quang, Langdon ngạc nhiên nhìn thấy vẻ mạnh mẽ thực sự tỏa ra từ nét mặt dịu dàng đến bất ngờ. For several seconds, Langdon stared in wonder at the photograph of Saunière's postscript. P.S. Find Robert Langdon. Trong vài giây, Langdon nhìn vào dòng tái bút của Saunière. Tái bút. Tìm Robert Langdon. Trong những giấc mơ cuồng dại nhất, Langdon cũng không thể tìm ra lý do tại sao. In his wildest dreams, Langdon could not fathom why. Tonight he used it to catch my attention .t ối nay ông ấy đã dùng nó để lưu ý tôi We had a falling-out ten years ago Mười năm trước chúng tôi đã có một mối bất hòa We've barely spoken since. từ đó, chúng tôi hầu như không nói với nhau Tonight, when Crypto got the call that he had been murdered, and I saw the images of his body and text on the floor, I realized he was trying to send me a message. êm nay, khi phòng Mật Mã nhận được cú điện thoại báo là ông ấy đã bị sát hại, và khi tôi nhìn thấy những hình ảnh của thi thể và những dòng chữ trên sàn của ông, tôi hiểu ra rằng ông đang cố gửi cho tôi một tin nhắn Tonight, a high-tech, high-profile arrest of an American would go a long way to silence Fache's critics, helping him secure the job a few more years until he could retire with the lucrative pension. Đêm nay cuộc vây bắt một người Mỹ với công nghệ cao sẽ khiến Fache đi được một quãng đường dài tỉến tới dập tẩt những lời chỉ trích, giúp ông ta giữ cương vị này thêm vài năm nữa cho đến khi có thể về hưu với một khoản lương hưu hậu hĩnh. Tonight, there was still plenty of time. Đêm nay, vẫn còn nhiều thời gian. For ten years now, Silas had faithfully denied himself all sexual indulgence, even self-administered. It was The Way. Trong mười năm qua, Silas một lòng một dạ
Pl.128
1062.
63
1063.
63
1064.
63
1065. 1066.
64 65
1067.
65
1068.
68
1069.
69
1070.
70
1071.
70
1072.
72
1073.
72
1074.
73
1075.
73
khước từ mọi phóng túng tình dục, thậm chí kể cả thủ dâm. Now, having returned to France for the first time since being arrested and shipped to prison in Andorra, Silas could feel his homeland testing him, dragging violent memories from his redeemed soul. Giờ đây, trở về Pháp lần đầu tiên kể tử khi bị bắt và đưa đến nhà tù ở Andorra, Silas có thể nhận thấy quê hương đang thử thách hắn, đang gợi lại những ký ức đầy bạo lực từ linh hồn đã được cứu rỗi của hắn. His service to God today had required the sin of murder, and it was a sacrifice Silas knew he would have to hold silently in his heart for all eternity. Hôm nay, việc phụng sự Chúa buộc phải phạm vào tội lỗi giết người, và nó là một sự hy sinh mà Silas biết sẽ phải lặng lẽ chôn chặt trong tim mình suốt đời. There was a time when he had meant the world to her, yet tonight, Sophie was surprised to feel almost no sadness for the man. Mười năm trước. Sophie về nhà sớm vài ngày sau khi tốt nghiệp đại học ở Anh và đã vô tình chứng kiến ông ngoại làm một việc mà hiển nhiên Sophie không có phận sự gì để thấy. Now you must know the truth. Bây giờ, cháu phải biết sự thật. In the silence, Sophie stood trembling for what felt like minutes. Trong yên lặng, Sophie đứng run hồi lâu, có dễ đến mấy phút. Now, standing in the darkness of the Louvre men's room, Sophie could hear the echoes of this afternoon's phone message. Giờ đây, đứng trong bóng tối của nhà vệ sinh nam trong bảo tàng Louvre, Sophie có thể nghe thấy tiếng vọng của tin nhắn điện thoại lúc chiều. After hanging up, he had marched over to Collet and demanded he get Agent Neveu on the line. sau khi gác máy, ông ta đi đến chỗ Conet và yêu cầu anh liên lạc với Sophie Neveu. When Agent Neveu arrived, she took one look at the photos of Saunière and the code and left the office without a word. Khi nhân viên Neveu đến, cô nhìn những tấm ảnh chụp Saunière và mật mã rồi rời văn phòng mà không nói một lời nào. Furthermore, there were no trees or grass on the western end of the Denon Wing to cushion a fall. Hơn nữa, không có cây cối hay thảm cỏ ở phía tây của Cánh Denon để làm đệm cho người ngã. As he sprinted past Saunière's body, he set his sights on the partitions at the far end of the Denon Wing. Khi chạy qua thi thể Saunière, ông ta nhìn về phía những vách ngăn ở phía cuối của Cánh Denon. Only fifteen yards from the rest room, Langdon and Sophie stood in the darkness of the Grand Gallery, their backs pressed to one of the large partitions that hid the bathrooms from the gallery. Chỉ cách phòng vệ sinh mười lăm mét, Langdon và Sophie đứng trong bóng tối của Hành Lang Lớn, lưng áp chặt vào một trong những vách ngăn che khuất phòng vệ sinh khỏi hành lang. Up the street, an enormous twin-bed eighteen-wheeler was headed for the stoplight beneath the window. Trên phố, một chiếc xe khổng lồ mười tám bánh hai thùng đang chạy về phía trụ đèn giao thông ngay dưới cửa sổ. Now, with the fire alarm silenced, Langdon could hear the sounds of DCPJ sirens tearing away from the Louvre. Bây giờ, còi báo động đã tắt, Langdon có thể nghe thấy tiếng còi xe của DCPJ đang rời khỏi Louvre. Now that the guards are leaving the perimeter, we can get out of here . Bây giờ lính gác đã đi khỏi tòa nhà, chúng ta có thể ra khỏi đây
Pl.129
1076.
74
1077.
74
1078.
74
1079.
76
1080.
75
1081.
77
1082.
81
1083.
81
1084.
81
Tonight, the cavernous nave of Saint-Sulpice was as silent as a tomb, the only hint of life the faint smell of incense from mass earlier that evening. Đêm nay, gian chính thăm thầm của nhà thờ Saint-Sulpice yên ắng như một hầm mộ, dấu hiệu duy nhấl của sự sống là mùi thoang thoảng của hưưng trầm từ buổi lễ trước đó. Nonetheless, I am grateful that you would provide me this opportunity tonight. Dù sao, con vẫn đội ơn Xơ đã cho con cơ hội đêm nay As he followed Sister Sandrine down the main aisle, Silas was surprised by the austerity of the sanctuary. Trong khi theo Xơ Sandrine đi dọc lối đi chỉnh, Silas ngạc nhiên trước sự khắc khổ của thánh đường này. Crouching in the shadows of the choir balcony high above the altar, Sister Sandrine peered silently through the balustrade at the cloaked monk kneeling alone. The sudden dread in her soul made it hard to stay still. For a fleeting instant, she wondered if this mysterious visitor could be the enemy they had warned her about, and if tonight she would have to carry out the orders she had been holding all these years. She decided to stay there in the darkness and watch his every move. Trong giây phút thoáng qua, bà tự hỏi liệu vị khách bí ẩn này có thể là kẻ thù mà họ đã cảnh báo bà không, và liệu đêm nay bà có phải chấp hành những mệnh lệnh mà bà vẫn ghi nhớ suốt những năm qua không. Bà quyết định ở lại trong bóng tối và theo dõi mọi cử động của hắn. Emerging from the shadows, Langdon and Sophie moved stealthily up the deserted Grand Gallery corridor toward the emergency exit stairwell. Ra khỏi bóng tối, Langdon và Sophie len lén đi ngược hành lang vắng lặng, tiến về phía cầu thang thoát hiểm. Now, Tarot's mystical qualities were passed on by modern fortune-tellers. Ngày nay, bí ẩn trên những quân bài Taro dược những bà thầy bói thời hiện đại lưu truyền Over the next half hour, Langdon showed them slides of artwork by Michelangelo, Albrecht Dürer, Da Vinci, and many others, demonstrating each artist's intentional and rigorous adherence to the Divine Proportion in the layout of his compositions. Hơn một nửa giờ nữa trôi qua, Langdon cho đám sinh viên xem những slide về các tác phẩm nghệ thuật của Michelangelo, Albrecht, Dyrer, Da Vinci và nhiều người khác, để minh chứng sự áp dụng triệt để và đầy chủ ý của mỗi nghệ sĩ đối với Tỷ lệ thần thánh trong bố cục mỗi tác phẩm của mình. Yes, the ratios of line segments in a pentacle all equal PHI, making this symbol the ultimate expression of the Divine Proportion. For this reason, the five-pointed star has always been the symbol for beauty and perfection associated with the goddess and the sacred feminine. Đúng thế, tỉ lệ giữa các đoạn thẳng trong hình sao năm cánh, tât cả đều bằng PHI, khiến cho biểu tượng này trở thành biểu hiện rối hậu của Tỷ lệ thần thánh. Vì lí do này, hình sao năm cánh luôn luôn là biểu tượng của vẻ đẹp và sự hoàn hảo gắn với các nữ thần và tính nữ linh thiêng. Tomorrow, I'll show you his fresco The Last Supper, which is one of the most astonishing tributes to the sacred feminine you will ever see. Ngày mai tôi sẽ cho các bạn xem bức bích hoạ Bữa ăn tối cuối cùng của ông, đó là một trong những biểu hiện kỳ diệu nhất sự tôn kính dối với tính nữ thiêng liêng mà các bạn sẽ có dịp được chiêm ngưỡng
Pl.130
1085.
83
1086.
83
1087.
83
1088.
89
1089.
90
1090.
90
1091.
90
1092.
90
1093.
90
1094.
90
1095.
91
1096. 1097.
91 91
1098.
91
1099.
91
For an instant, standing in the exit stairwell, Sophie forgot all about trying to leave the Louvre. trong khoảnh khắc, đứng ở lối cầu thang thoát hiểm, Sophie quên hẳn họ đang tìm cách rời khỏi Bảo tàng Louvre. After all, she was no stranger to anagrams—especially in English. Nói cho cùng, cô đâu có lạ gì anagram - nhất là anagram bằng tiếng Anh. When she was young, often her grandfather would use anagram games to hone her English spelling. Khi cô còn nhỏ, ông cô thường dùng nanagram để luyện chính tả tiếng Anh cho cô Here, the glistening Rose Line took a ninety-degree vertical turn and continued directly up the face of the obelisk itself, ascending thirty-three feet to the very tip of the pyramidical apex, where it finally ceased. Tại đây, Đường Hoa Hồng lấp lánh quặt một góc thẳng đứng chín mươi độ và tiếp tục ngay trên mặt bia tưởng niệm, lên cao thêm khoảng mươi mét tới chót đỉnh của cái kiến trúc hình tháp đó để cuối cùng chấm dứt ở đó. Earlier tonight, when Silas told the Teacher that the Priory keystone was hidden inside Saint-Sulpice, the Teacher had sounded doubtful. Chập tối, khi Silas nói với Thầy Giáo rằng viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion được cất giấu bên trong nhà thờ Saint-Sulpice, thầy đã tỏ ý nghi ngờ . For centuries, the symbol of the Rose had been associated with maps and guiding souls in the proper direction. Trải qua hàng thế kỷ, kí hiệu Rose Hồng đã gắn liền với những tấm bản đồ và với việc dẫn đúng đường, chỉ đúng hướng. On a globe, a Rose Line—also called a meridian or longitude—was any imaginary line drawn from the North Pole to the South Pole. Trên quá địa cầu, một Đường Hoa Hồng cũng được gọi là kinh tuyến là bất kỳ một đường thẳng tưởng tượng nào nối cực bắc với cực nam. Today that line was in Greenwich, England. Ngày nay, đường đó nằm ở Greenwich, Anh. Now, still on his knees in a pew, Silas glanced around the church and listened to make sure no one was there. Lúc này, vẫn quỳ trên một chiếc ghế, Silas liếc quanh nhà thờ và lắng tai nghe để chắc chắn rằng không còn ai ở đây. For a moment, he thought he heard a rustling in the choir balcony. Trong một thoáng, hắn nghĩ là nghe thấy tiếng xột xoạt trên ban công hợp xướng At that moment, at Leonardo da Vinci International Airport in Rome, the jolt of tires hitting the runway startled Bishop Aringarosa from his slumber. Cùng lúc đó, tại Sân bay quốc tế Leonardo da Vinci ở Roma, lốp xe xóc nẩy mặt đường băng làm giám mục Aringarosa tỉnh giấc. Tonight, however, the rules had changed. Nhưng đêm nay, quy tắc đã thay đổi. Only five months ago, Aringarosa had feared for the future of the Faith. Chỉ năm tháng trước đây thôi, Aringarosa còn lo sợ tương lai của giáo phái này. Now, as if by the will of God, the solution had presented itself. Còn bây giờ, cứ như là ý Chúa, giải pháp cho vấn đề đã tự hiện ra. Before entering, she gazed reluctantly farther down the hall, twenty yards or so, to the spot where her grandfather's body still lay under the spotlight. Trước khi bước vào, cô bịn rịn nhìn xuôi theo hành lang, cách đó khoảng hai mươi mét, nơi thi thể ông cô vẫn đang nằm dưới ánh đèn.
Pl.131
1100.
91
1101.
98
1102.
98
1103.
98
1104.
98
1105.
99
1106.
100
1107.
100
1108.
104
1109.
105
1110.
107
1111.
107
1112.
107
1113. 1114.
108 108
1115.
108
1116.
108
1117.
108
1118.
Now her grandfather was dead, and he was talking to her from the grave. Bây giờ, ông cô đã chết, và ông đang nói chuyện với cô từ dưới mồ On his knees now, Silas ran his hands across the stone floor. Lúc này, vừa quì, Silas vừa đưa tay sờ mặt sàn đá. Finally, one of them echoed strangely. Cuối cùng, một trong những viên gạch ấy phát ra một âm thanh lạ. High above Silas, in the balcony, Sister Sandrine stifled a gasp. Phía trên Silas, trên ban công, Xơ Sandrine nén một tiếng hức. And tonight, the ancient wheels had been set in motion. Và đêm nay, những bánh xe cổ xưa đã bắt đầu chuyển động. Unfortunately, I have forgotten my three-digit access code. Hơn nữa, tất cả các mã đăng nhập đó đều có năm chữ số. Since taking up residence in the Louvre, the Mona Lisa—or La Jaconde as they call her in France—had been stolen twice, most recently in 1911, when she disappeared from the Louvre's "satte impénétrable"—Le Salon Carre. Từ khi được đặt ở bảo tàng Louvre, Mona Lisa – hay La Joconde như người Pháp vẫn gọi đã bị đánh cắp hai lần, làn gần đây nhất vào năm 1911 khi nó biến mất khỏi salle impénétrable1 của bảo tàng Louvre Le Salon Carré. Two years later, the Mona Lisa was discovered hidden in the false bottom of a trunk in a Florence hotel room. Hai năm sau, Mona Lisa được phát hiện bị giấu dưới đáy giả của một chiếc hòm trong một phòng khách sạn ở Florence. As the Trailor truck drove off, Captain Fache rounded up his men khi chiếc xe tải Trailor chuyển bánh đi khỏi, Đại uý Fache tập hợp quân. Inside the Salle des Etats, Langdon stared in astonishment at the six words glowing on the Plexiglas. rong Sall des Etats, Langdon kinh ngạc nhìn chằm chằm vào dòng chữ1 phát sáng trên mặt kính Plexiglas. For an instant he felt totally blind. Trong một khoảnh khắc, ông hoàn toàn không thấy gì Langdon was face first on the floor in a matter of seconds. Trong vài giây, Langdon đã úp xấp mặt xuống sàn Inside Saint-Sulpice, Silas carried the heavy iron votive candle holder from the altar back toward the obelisk.Bên trong nhà thờ Sant-Sulpice, Pilas lấy một cái chân nến thờ bằng sắt, khá nặng từ trên ban thờ, rồi quay về chỗ đài tưởng niệm. At first he felt nothing. Thoạt đầu, hắn chẳng sờ thấy gì cả. There atop the main altar, propped open on a gilded book stand, sat an enormous leather-bound Bible.rên bàn thờ chính, dựa vào một giá sách mạ vàng, là một cuốn Kinh Thánh to tướng đóng bìa da để mở. Up in the balcony, Sister Sandrine was shaking. Đứng trên ban công, Xơ Sandnne run lên. Moments ago, she had been about to flee and carry out her orders, when the man below suddenly removed his cloak. Vài phút trước đó, bà đã toan chạy đi và thi hành lệnh thì gã đàn ông dưới kia đột nhiên cởi chiếc áo chùng. When she saw his alabaster-white flesh, she was overcome with a horrified bewilderment. Nhìn thấy da thịt trắng bệch như thạch cao của gã, bà bỗng bị ngợp trong một cảm giác hoang mang kinh hãi. Even from here she could see the wounds were fresh. Ngay cả từ đây, bà cũng có
108
Pl.132
1119.
109
1120.
109
1121.
109
1122.
110
1123.
110
1124.
110
1125.
110
1126.
110
1127.
111
1128.
112
1129.
114
1130.
115
1131.
115
1132.
116
thể thấy là những vết thương đó còn mới. The bloody monk was now quietly donning his cloak again, clutching his prize as he moved toward the altar, toward the Bible. Lúc này, gã thầy tu người đầy máu lặng lẽ khoác áo chùng trở lại, nắm chặt vật báu vừa lấy được, hắn tiến về phía bàn thờ, phía cuốn Kinh Thánh. In breathless silence, Sister Sandrine left the balcony and raced down the hall to her quarters. Trong sự im lặng đến nghẹt thở, Xơ Sandrine rới ban công và chạy nhanh xuôi hành lang về phòng mình. Downstairs, Silas laid the stone tablet on the altar and turned his eager hands to the leather Bible. Ở dưới nhà, Silas đặt tấm đá lên bàn thờ và hướng những ngón tay hăm hở của hắn ta về phía cuốn Kinh Thánh bìa da. As senior warden, Grouard was one of the few guards who actually carried a loaded weapon. Với tư cách là đội trưởng đội bảo vệ, Grouard là một trong số ít những bảo vệ thực sự được trang bị vũ khí. He reminded himself, however, that killing Langdon would be a generous fate compared to the misery about to be communicated by Bezu Fache and the French prison system. Tuy nhiên, Grouard tự nhắc mình rằng giết Langdon sẽ là một ân huệ lớn của số phận so với sự khốn khổ mà Bezu Fache và hệ thống nhà tù Pháp ban tặng cho hắn ta. Still aiming his weapon at Langdon, Grouard began backing slowly toward the entrance. Vẫn chĩa súng về phía Langdon, Grouard bắt đầu lùi chầm chậm về phía lối ra. On his third step, he spied something that made him stop short.Lùi đến bước thứ ba, anh chợt thấy một cái gì khiến anh dừng phắt lại. He now recognized the purple light as ultraviolet, consistent with a PTS team, and yet he could not understand why DCPJ would be looking for evidence in here. Lúc này, anh nhận ra ánh sáng màu tía kia là tia cực tím, gắn liền với đội PTS, nhưng anh không hiểu tại sao DCPJ lại tìm chứng cứ ở đây. Across the room, Sophie Neveu felt a cold sweat breaking across her forehead. Ở đầu kia phòng, Sophie Neveu cảm thấy những giọt mồ hôi lạnh ròng ròng trên trán Sophie now realized that the entire purpose of tonight's word game had been this key. Giờ đây, Sophie đã nhận ra rằng toàn bộ mục đích của trò đố chứ tối nay chính là chiếc chìa khoá này. Tonight, however, it seemed that more than one had been compromised. Tuy nhiên đêm nay, hình như có hơn một người bị hại. As they ran across the plaza to Sophie's car, Langdon could hear police sirens wailing in the distance. Khi họ chạy qua quảng trường đến chỗ ôtô của Sophie, Langdon có thể nghe thấy còi xe cảnh sát rú ở đằng xa. For an instant, Sophie seemed to consider taking the shortcut across the rotary by plowing straight ahead, through the median's perimeter hedge, and bisecting the large circle of grass in the center. Trong khoảnh khắc, Sophie dường như định đi tắt, cắt ngang bùng binh bằng cách phi thẳng xe qua hàng rào quanh bùng binh trung tâm, rồi cắt ngang thảm cỏ lớn ờ giữa. As they straightened out, Langdon turned in his seat, craning his neck to look out the rear window toward the Louvre. Khi xe chạy thẳng rồi, Langdon mới xoay
Pl.133
1133.
119
1134.
121
1135.
125
1136.
126
1137.
127
1138.
128
1139.
129
1140.
131
1141.
133
1142.
133
1143.
133
1144.
133
người trên ghế, nghển cổ nhìn qua cửa sau về phía bảo tàng Louvre. In the silence of the woods, Sophie hurried to the side of the house and clambered up on a woodpile, pressing her face to the living room window. Trong im lặng của khu rừng, Sophie vội vàng chạy sang bên sườn nhà, leo lên một đống củi, áp sát vào cửa sổ phòng khách Down the street, the two DCPJ officers who stood beside their cars were now staring in their direction, apparently curious about the headlights that had halted so abruptly up the street from them. Phía cuối phố, hai nhân viên DCPJ đứng cạnh xe của mình đang nhìn chằm chằm về phía hai người, rõ ràng là rất tò mò về ánh đèn pha vừa đột ngột dừng ở đầu phố. Five months ago, the Vatican had phoned to request Aringarosa's immediate presence in Rome Năm tháng trước đây, Vatican đã gọi điện yêu cầu Aringarosa có mặt ngay tại Rôma. On that night, months ago, as the Fiat had left the airport, Aringarosa was surprised to find himself heading not toward Vatican City but rather eastward up a sinuous mountain road. Tối hôm đó, cách đây mấy tháng, khi chiếc Fiat rời sân bay Aringarosa đã ngạc nhiên khi thấy xe không đi về phía Toà Thánh Vatican mà về phía đông, lên một dốc núi ngoằn ngoèo. Even in silhouette, Gandolfo was a sight to behold—an impressive example of tiered, defensive architecture, echoing the potency of this dramatic cliffside setting. Ngay cả ở dạng bóng in trên nền trời, lâu đài Gandolfo cũng là một cảnh tượng đáng ngắm nhìn một điển hình đầy ấn tượng của kiến trúc phòng thủ nhiều tầng, phản ánh sự đắc dụng của khung cảnh bên vách đá cheo leo này. When the update was finished, Langdon eyed the offerings. Khi quá trình cập nhật kết thúc, Langdon nhìn lên chuỗi thông báo. As the taxi pulled away from station, Sophie took out their newly purchased train tickets and tore them up. Khi chiếc tắc xi rời khỏi ga, Sophie lấy những chiếc vé tàu mới mua ra, xé nát. Outside the Salle des Etats, Bezu Fache was fuming as Louvre warden Grouard explained how Sophie and Langdon had disarmed him. Bên ngoài Salle de Etats, Bezu Fache đang nổi trận lôi đình khi nhân viên bảo vệ bảo tàng Louvre Grouard phân trần việc Sophie và Langdon đã tước vũ khí của anh ta như thế nào. Ahead, two topless teenage girls shot smoldering gazes into the taxi. Phía trước họ, hai thiếu nữ mặc áo hở ngực phóng những tia nhìn mời chào vào trong chiếc taxi. . Beyond them, a well-oiled black man in a G-string turned and flexed his buttocks. Cách đó một quãng, một gã da đen mình bôi dầu bóng nhãy với độc một mảnh vải che chỗ kín, quay người và uốn éo mông Beside him, a gorgeous blond woman lifted her miniskirt to reveal that she was not, in fact, a woman. Bên cạnh họ, một phụ nữ tóc vàng loè loẹt kéo cao chiếc váy mini lên để tiết lộ rằng kì thực ả không phải là một phụ nữ. During their years in Jerusalem, the Priory learned of a stash of hidden documents buried beneath the ruins of Herod's temple, which had been built atop the earlier ruins of Solomon's Temple. Trong những năm ở Jerusalem, Tu viện Sion đã biết một chỗ cất giấu những tài liệu được chôn dưới đống đổ nát của ngôi đền Herod; bản thân ngôi đền này lại được xây dựng trên hoang tàn của ngôi đền
Pl.134
1145.
135
1146.
135
1147.
141
1148.
141
1149.
141
1150.
141
1151.
145
1152.
145
1153.
145
1154.
149
1155.
149
1156.
150
1157.
150
1158.
151
1159.
154
thờ Solomon trước đó. At dawn on the thirteenth, the documents were unsealed and their appalling contents revealed. Rạng đông ngày mười ba, niêm phong được mở và nội dung kinh hoàng của sắc thư được tiết lộ. On that day, countless Knights were captured, tortured mercilessly, and finally burned at the stake as heretics. Vào ngày hôm đó, không thể đếm xuể những Hiệp sĩ Templar đã bị bắt giam, tra tấn một cách tàn nhẫn và cuối cùng bị thiêu trên cọc gỗ như những kẻ dị giáo. Over time, Silas learned to see himself in a new light. Qua thời gian, Silas học cách tự nhìn nhận mình dưới một ánh sáng mới. At the moment, though, in his room at the residence hall, it was his father's disappointed voice that whispered to him from the past. Tuy nhiên, lúc này đây, trong căn phòng của hắn tại tu viện, chính là cái giọng thất vọng của cha hắn đang thì thầm với hắn từ quá khứ. Struggling with the gear shift, Langdon managed to maneuver the hijacked taxi to the far side of the Bois de Boulogne while stalling only twice. Vật lộn với cần số, Langdon vất vả lắm mới điều khiển được chiếc xe tắc xi cưỡng đoạt ra xa khỏi Rừng Boulogne mà chỉ bị chết máy có hai lần. Within seconds she had the car humming smoothly westward along Allée de Longchamp, leaving the Garden of Earthly Delights behind.Trong vòng vài giây, cô đã điều khiển được chiếc xe chạy êm ru về phía Tây, dọc theo con đường Allée de Longchamp, bỏ Vườn lạc thú trần thế lại đằng sau. Outside Castel Gandolfo, an updraft of mountain air gushed over the top of the cliff and across the high bluff, sending a chill through Bishop Aringarosa as he stepped from the Fiat. Bên ngoài Castel Gandolfo, một luồng gió núi thổi thốc lên, tràn qua đỉnh vách đá làm giám mục Anngarosa rùng mình ớn lạnh khi ông bước ra từ chiếc Fiat. On all sides, towering bookcases burgeoned with volumes. Ở mọi phía, những giá cao ngất chất đầy sách. Tonight, these men sat in the shadows, as if they were somehow ashamed of what was about to transpire. Còn đêm nay, những người này ngồi trong bóng tối, như thể cách nào đó, họ cảm thấy xấu hổ vì những điều sắp sửa lộ ra. Moments later they were winding down the ramp into the belly of the structure. Vài phút sau, xe ngoằn ngoèo xuống nốt đoạn dốc, chui vào trong bụng toà nhà. At the far end, Langdon spied the building's main entrance. Ở đầu đằng kia, Langdon phát hiện thấy lối chính vào toà nhà. Instead, the guard was calling the bank's night manager Thay vào đó, người bảo vệ gọi cho người quản trị trực đêm As the line rang, the guard switched the television back on and stared at it. Khi chuông điện thoại rung lên, người bảo vệ lại tiếp tục bật màn hình lên rồi nhìn chằm chằm vào đó. The French police are tracking two fugitives tonight. Đêm nay, cảnh sát Pháp đang truy tìm hai kẻ đào tẩu Tonight, Vernet had been awake only six and a half minutes. Đêm nay, Vernet mới chỉ thức giấc được có sáu phút rưỡi. Even so, as he hurried through the bank's underground corridor, he looked as if
1160.
154
Pl.135
1161.
158
1162.
158
1163.
160
1164.
160
1165.
161
1166.
161
1167.
161
1168. 1169.
161 161
1170.
161
1171. 1172.
161
1173.
162
1174.
163
1175.
165
1176.
165
his personal tailor and hairdresser had polished him to a fine sheen. Mặc dù vậy, khi ông hối hả đi qua hành lang ngầm của ngân hàng, trông ông như vừa được người thợ may và húi tóc riêng điểm tô cho một mẽ ngoài bóng bẩy. Later, she realized the numbers were also a clue as to how to decipher the other lines—a sequence out of order... a numeric anagram. Now, utterly amazed, she saw the numbers had a more important meaning still. Giờ đây Sophie ngạc nhiên tột độ nhận ra rằng những con số đó còn mang một ý nghĩa quan trọng hơn nhiều. At that moment, beneath them, in the bank's cavernous subterranean vault, a robotic claw sprang to life. Cùng lúc đó, ở bên dưới họ, trong hầm ngầm sâu thăm thẳm của ngân hàng, một chiếc càng máy bỗng nhiên khởi động. On the cement floor below, hundreds of identical plastic crates lay aligned on an enormous grid... like rows of small coffins in an underground crypt. Trên sàn ximăng phía dưới, hàng trăm hòm plastic giống hệt nhau nằm thành hàng trên một tấm lưới sắt khổng lồ... tựa những dãy quan tài nằm trong một khu hầm mộ dưới lòng đất. Gently now, the retrieval arm set down the crate and retracted. Lúc này, cánh tay càng nhẹ nhàng đặt chiếc hòm xuống và rút về. 161 Upstairs, Sophie and Langdon exhaled in relief to see the conveyor belt move. Ở tầng trên, Sophie và Langdon thở phào nhẹ nhõm khi trông thấy chiếc băng chuyền khởi động. Wasting no time, Sophie unhooked the two buckles facing her. Không để tốn thời gian, Sophie tháo hai chiếc móc cài trước mặt cô. Then she glanced over at Langdon Rồi cô đưa mắt ra hiệu cho Langdon. Together, they raised the heavy lid and let it fall back. Họ cùng nhấc nắp hòm, lật ra phía sau. At first glance, Sophie thought the crate was empty. Thoạt nhìn, Sophie tưởng hòm rỗng không. Then she saw something Rồi, cô nhìn thấy cái gì đó. . One thing was immediately clear to both of them, however. This was definitely not the Cup of Christ.Tuy nhiên, với cả hai người, một điều đã sáng tỏ ngay tức khắc: Rõ ràng đây không phải là Chén Thánh. As he closed the door behind him, Vernet saw the heavy-duty plastic case on the conveyor belt and halted in his tracks. Khi đóng cửa lại sau lưng, Vernet nhìn thấy chiếc hòm plastic trên băng chuyền, ông dừng sững lại. When they reached the rear loading dock, Vernet could see the flash of police lights filtering through the underground garage. Khi tới bãi đỗ xe ở phía sau, Vernet có thể thấy ánh đèn pha của cảnh sát rọi xuyên xuống cả gara dưới đất. Five months ago, the bishop had returned from a meeting at the Vatican Observatory, where he had learned something that left him deeply changed. ăm tháng trước đây, giám mục trở về từ một cuộc gặp mặt tại Đài thiên văn Vatican, ông biết được điều gì đó khiến ông thay đổi sâu sắc. Depressed for weeks, Aringarosa had finally shared the news with Silas.Buồn rũ trong nhiều tuần liền, giám mục Aringrosa cuối cùng đã quyết định chia sẻ tin tức cho Silas.
Pl.136
1177.
166
1178.
166
1179.
166
1180.
173
1181.
175
1182.
175
1183.
179
1184.
179
1185.
179
1186.
190
1187.
190
1188.
191
It was only a month later that the clouds parted miraculously and the light of possibility shone through.Chỉ một tháng sau, mây mù bỗng tan một cách kì diệu và ánh sáng của khả năng thành công bừng lên chói lọi. The bishop had seemed hopeful for the first time. "Silas," he whispered, "God has bestowed upon us an opportunity to protect The Way. Our battle, like all battles, will take sacrifice. Will you be a soldier of God?" Lần đầu tiên, Giám mục lại có vẻ tràn trề hi vọng: "Silas này", ông thì thầm, "Chúa đã ban tặng cho chúng ta cơ hội để bảo vệ Đạo. Cuộc chiến của chúng ta, cũng như mọi cuộc chiến khác, sẽ đòi hỏi hi sinh. Con sẽ là một người lính của Chúa chứ?". When Aringarosa described the opportunity that had presented itself, Silas knew it could only be the hand of God at work. Khi Aringarosa mô tả cơ hội đã tự đến như thế nào, Silas biết rằng đó chỉ có thể là do bàn tay của Chúa. For the last decade, historians had been searching for the keystone in French churches. Trong suốt thập kỉ cuối cùng của thế kỉ này, các sử gia vẫn đang cố tìm kiếm viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion tại rất nhiều nhà thờ ở Pháp. When the truck came to a stop, the engine remained idling as the locks on the rear doors began to turn. Khi chiếc xe tải dừng lại, máy vẫn để chạy không trong khi khoá ở cửa sau xe bắt đầu xoay. When the doors swung open, Langdon was surprised to see they were parked in a wooded area, well off the road. hi cửa mở toang ra, Langdon ngạc nhiên thấy họ đang đậu xe ở một khu rừng cách xa đường quốc lộ. V As his car sped back toward Rome, Aringarosa again found himself wondering why the Teacher had not yet contacted him.Trong khi chiếc xe lao nhanh trên đường về Roma, Aringarosa lại một lần nữa nhận thấy mình đang băn khoăn tự hỏi tại sao Thầy Giáo vẫn chưa liên lạc với ông. Quickly, Aringarosa checked the phone's voice mail. Rất nhanh, Aringarosa kiểm tra hộp thư thoại. Then again, he realized, the Teacher never would have left a recorded message; he was a man who took enormous care with his communications. Rất nhanh, Aringarosa kiểm tra hộp thư thoại. Chẳng có gì hết. Rồi một lần nữa, ông nhận ra rằng Thầy Giáo ắt không bao giờ để lại một tin nhắn ghi âm, ông ta là một người cực kỳ cẩn trọng trong giao tiếp. Thirty seconds later, forty kilometers away, hidden in the undercarriage of the armored truck, a tiny transponder blinked to life. Ba mươi giây sau đó, cách ngân hàng bốn mươi cây số, một hệ thống báo động nhỏ xíu được giấu kín dưới gầm chiếc xe tải bọc thép bắt đầu khởi động nhấp nháy. As Langdon and Sophie drove the armored truck up the winding, poplar-lined driveway toward the house, Sophie could already feel her muscles relaxing. Khi Langdon và Sophie lái chiếc xe tải bọc thép trên đoạn đường ngoằn ngoèo giữa hai hàng cây dương về phía toà nhà, Sophie đã có thể cảm thấy cơ bắp mình thư giãn. Against the far wall, flanked between two glistening suits of chain mail armor, was a rough-hewn fireplace large enough to roast an ox. Trên nền bức tường phía xa, giữa hai bộ áo giáp sáng lấp lánh là một lò sưởi xù xì đủ lớn để nướng cả một con bò đực.
Pl.137
1189.
195
1190.
200
1191.
200
1192.
203
1193.
1194.
204
1195.
204
1196.
213
1197.
213
1198.
223
1199.
229
1200.
230
1201.
230
1202.
230
1203.
230
Seated on the divan beside Langdon, Sophie drank her tea and ate a scone, feeling the welcome effects of caffeine and food. Nằm trên chiếc đivăng bên cạnh Langdon, Sophie uống tách trà và ăn bánh nướng, cảm thấy tác động dễ chịu của chất cafein và đồ ăn. And after dinner, Jesus took the cup of wine, sharing it with His disciples au bữa tối, Jesus đã cầm chiếc cốc rượu của mình lên, uống cùng với các tông đồ Moreover, the cups were tiny, stemless, and made of glass. Hơn nữa, những chiếc ly này đều nhỏ, không có chân và bằng thuỷ tinh. Two rooms away, in the kitchen, manservant Rémy Legaludec stood in silence before a television. Cách đó hai phòng, trong nhà bếp, người hầu Rémy Lagadulec đứng lặng trước một cái tivi. Finally, Collet's cellular phone rang. Cuối cùng, điện thoại di động của anh cũng reo lên. As he peeled away from the bank, Collet realized he had forgotten to ask who had tipped DCPJ off to Langdon's location. khi rời khỏi ngân hàng, Collet chợt nhận ra anh đã quên không hỏi xem ai đã báo nơi lẩn trốn của Langdon cho DCPJ. Forty kilometers away, a black Audi pulled off a rural road and parked in the shadows on the edge of a field. Cách đó bốn mươi cây số, một chiếc Audi màu đen rời khỏi con đường quê và đỗ dưới bóng tối bên rìa một cánh đồng. As the receptionist hung up the receiver, he wondered why Aringarosa's phone connection sounded so crackly. Trong khi gác ống nghe, nhân viên lễ tân tự hỏi tại sao đường dây điện thoại của Aringarosa lại lạo xạo đến thế After a long wait, another man came on, his tone gruff and concerned. Sau hồi chờ đợi, một người đàn ông khác tiếp máy Now, as he huddled in the shadows, Silas peered through the glass Bây giờ, ngồi co ro trong bóng tối, Silas dòm qua cánh cửa. After putting the American's face all over the television, Fache wanted to be sure his own face got equal time. Sau khi đưa chân dung của người Mỹ đó lên truyền hình, Fache muốn chắc chắn khuôn mặt mình cũng xuất hiện với thời lượng tương đương. As he stood there, Collet flashed on a second possible explanation for this delay. Trong khi đứng ở đó, Collet bật nghĩ ra cách thứ hai khả dĩ giải thích cho sự trì hoãn này. In law enforcement, hesitating to arrest a fugitive only occurred when uncertainty had arisen regarding the suspect's guilt. Trong việc thực thi luật pháp, việc chần chừ bắt giữ kẻ bỏ trốn chỉ xảy ra khi không chắc chắn về tội lỗi của kẻ bị tình nghi. Captain Fache had gone out on a limb tonight to arrest Robert Langdon— surveillance cachée, Interpol, and now television. Đêm nay Đại uý Fache đã liều lĩnh dùng nhiều biện pháp nhằm bắt Robert Langdon – surveillance caché 1, Interpol, và bây giờ là truyền hình nữa. Moreover, Collet realized, if Langdon were innocent, it explained one of this case's strangest paradoxes: Why had Sophie Neveu, the granddaughter of the victim, helped the alleged killer escape? Hơn thế nữa, Collet nhận ra rằng, nếu Langdon vô tội, thì điều này sẽ giải thích cho một trong những nghịch lý lạ lùng nhất của vụ này: Tại sao Sophie Neveu, cháu gái của nạn nhân, lại giúp cho kẻ bị
Pl.138
1204.
230
1205.
231
1206.
231
1207.
231
1208.
231
1209.
231
1210.
231
1211.
232
1212.
232
1213.
238
1214. 1215.
238
1216.
nghi là hung thủ trốn thoát? . Fache had posited all kinds of explanations tonight to explain Sophie's odd behavior, including that Sophie, as Saunière's sole heir, had persuaded her secret lover Robert Langdon to kill off Saunière for the inheritance money. Saunière, if he had suspected this, might have left the police the message P.S. Find Robert Langdon Đêm nay Fache đã đưa ra mọi cách giải thích dể giải thích ứng xử kì lạ của Sophie, kể cả việc Sophie, với tư cách là người thừa kế duy nhất của Saunière, đã thuyết phục người tình bí mật của mình – Robert Langdon – giết phăng Saunière vì tiền thừa kế. Incredulous, Collet realized that someone in the bank had actually lied to DCPJ about Langdon and Sophie's whereabouts and then helped them escape. Hoài nghi, Collet nhận ra rằng ai đó trong nhà băng đã nói dối DCPJ về tung tích của Langdon và Sophie và sau đó giúp họ trốn thoát. Maybe Fache realized there were more people involved tonight than just Langdon and Sophie. Có lẽ Fache nhận ra rằng đêm nay có nhiều người dính líu tới việc này, ngoài Langdon và Sophie ra. And if Langdon and Neveu arrived in the armored truck, then who drove the Audi? Và nếu Langdon và Neveu đến bằng chiếc xe tải bọc thép này thì ai lái chiếc Audi? Hundreds of miles to the south, a chartered Beechcraft Baron 58 raced northward over the Tyrrhenian Sea. Cách vài trăm dặm về phía nam, một chiếc máy bay Beechcraft Baron 58 thuê riêng đang hướng về phía bắc qua biển Tyrrhenian. Despite calm skies, Bishop Aringarosa clutched an airsickness bag, certain he could be ill at any moment.Mặc dù bầu trời yên tĩnh, giám mục Aringarrosa vẫn nắm chặt chiếc túi nôn, tin chắc mình có thể ốm bất cứ lúc nào. Alone in the small cabin, Aringarosa twisted the gold ring on his finger and tried to ease his overwhelming sense of fear and desperation. Một mình trong cabin nhỏ, Aringarosa xoay xoay chiếc nhẫn vàng trên ngón tay và cố tìm cách làm dịu bớt cảm giác sợ hãi và tuyệt vọng choán ngợp. And tonight, incredibly, the key to finding the Holy Grail had walked right through his front door. Và tối nay, thật khó tin, chìa khoá để tìm ra Chén Thánh đã đi thẳng vào nhà ông qua cửa trước. While Sophie and Teabing sat with the cryptex and talked about the vinegar, the dials, and what the password might be, Langdon carried the rosewood box across the room to a well-lit table to get a better look at it. Trong lúc Sophie và Teabing ngồi với cái hộp mật mã và trò chuyện về dấm, đĩa chữ và đoán mật khẩu thì Langdon mang chiếc hộp gỗ hồng mộc tới một cái bàn sáng đèn ở đầu kia phòng để xem cho rõ hơn. As they neared the final bedroom, Collet could see the door was wide open. hi lại gần căn phòng cuối cùng, Collet thấy cánh cửa mở rộng. Sidearm raised, Collet gave the signal. Giơ súng lên, Collet ra hiệu lệnh. Reaching silently around the door frame, he found the light switch and flicked it on. Lặng lẽ tiến tới cánh cửa, anh thấy công tắc đèn và bật lên. Spinning into the room with men pouring in after him, Collet shouted and aimed his weapon at... nothing. Lao vào phòng với đám quân ùa theo sau, Collet quát và chĩa súng vào... trống không. . Even before they entered, Collet could hear the fading sounds of a car engine.
1217.
238
Pl.139
1218.
240
1219.
243
1220.
243
1221.
243
1222.
243
1223.
243
1224.
243
1225.
243
1226.
249
1227. 1228.
250 251
1229.
251
1230.
251
Ngay cả trước khi bước vào, Collet vẫn có thể nghe thấy tiếng động cơ xe tắt dần. Beside her, Teabing glanced over his shoulder at the bound and gagged monk lying in the cramped luggage area behind the back seat. Bên cạnh cô, Teabing đưa mắt qua vai nhìn gã thầy tu bị bịt miệng đang nằm trên khoang hành lý chất đống đằng sau hàng ghế dưới. Despite his troubles tonight, Langdon was thankful to have landed in such good company. bất chấp những rắc rối của ông tối nay, Langdon biết ơn hoàn cảnh đã run rủi cho ông có người bạn đồng hành tốt như vậy. After several minutes, as if suddenly sensing his eyes on her, Sophie leaned forward and put her hands on his shoulders, giving him a quick rub.Sau vài phút, như chợt cảm thấy tỉa nhìn của ông, Sophie cúi về phía trước, đặt tay lên vai ông, xoa nhẹ Wedged in the back of the Range Rover, Silas could barely breathe. Bị chẹn vào phía sau của chiếc Range Rover, Silas hầu như không thở được. Now, in the Range Rover, struggling against his bonds, Silas feared he had failed the Teacher and the bishop forever. Lúc này, trong chiếc xe Range Rover, vật lộn với những dây trói, Silas sợ mình đã vĩnh viễn không làm tròn bổn phận đối với Thầy Giáo và Giám mục. Inside the Range Rover, Leigh Teabing let out a guffaw. Trong chiếc Range Rover, Leigh Teabing bật cười ha hả When the Range Rover arrived at Le Bourget Airfield, Rémy drove to a small hangar at the far end of the airstrip. As they approached, a tousled man in wrinkled khakis hurried from the hangar, waved, and slid open the enormous corrugated metal door to reveal a sleek white jet within. Khi chiếc xe Range Rover đến phi trường Le Bourget, Rémy lái xe tới một nhà để máy bay ở cuối đường bay. Khi họ đến gần, một người đàn ông tóc tai bù xù trong bộ đồ kaki nhàu nát vội vàng bước ra, vẫy tay và kéo cánh cửa kim loại kếch sù mở ra, để lộ một chiếc máy bay phản lực trắng bóng bên trong. Opus Dei came within inches tonight of possessing it. Đêm nay, chút xíu nữa thì Opus Dei đã chiếm được nó. In that moment, you will be in possession of a truth capable of altering history forever. Lúc đó, bạn sẽ sở hữu một sự thật có khả năng thay đổi lịch sử mãi mãi. The brotherhood was shattered tonight. Đêm nay, cái hội kín đó đã tan tành. Standing in the drawing room of Château Villette, Lieutenant Collet watched the dying fire and felt despondent. Đứng trong phòng tranh của Château Villette, trung uý Collet nhìn ngọn lửa đang tàn và cảm thấy rất nản. Having disobeyed Fache's direct orders and lost Langdon for a second time, Collet was grateful that PTS had located a bullet hole in the floor, which at least corroborated Collet's claims that a shot had been fired. Sau khi làm trái mệnh lệnh trực tiếp của Fache và để tuột Langdon lần thứ hai, Collet thấy biết ơn bộ phận giám định đã xác định được vị trí lỗ đạn trên sàn nhà, ít nhất nó có thể chứng minh lời khẳng định của Collet rằng đã nghe thấy tiếng súng nổ. Still, Fache's mood was sour, and Collet sensed there would be dire repercussions when the dust settled. Tuy nhiên, Fache rất tức tối và Collet cảm thấy sẽ có hậu quả khốc hại khi tình hình lắng xuống.
Pl.140
1231.
251
1232.
252
1233.
252
1234.
252
1235.
252
1236.
252
1237.
253
1238.
253
1239.
253
1240.
253
1241.
254
1242.
254
1243. 1244.
254 255
1245.
255
1246.
255
1247.
256
Unfortunately, the clues they were turning up here seemed to shed no light at all on what was going on or who was involved. Rủi thay, những manh mối tìm ra được ở đây không rọi được chút ánh sáng nào vào sự việc đã diễn ra hoặc những người dính líu. As feasible as it was, Collet was having trouble believing Sophie Neveu could be involved in anything like that.Dù chuyện ấy là có thể, Collet vẫn khó tin rằng Sophie Neveu có thể dính líu vào những điều như thế này. From the kitchen, another agent yelled to Fache. Từ bếp, một nhân viên khác gọi Fache Thirty seconds later, Fache was packing up and preparing to leave Château Villette. Ba mươi giây sau, Fache đã gói ghém và chuẩn bị rời khỏi Château Villette. As the Hawker leveled off, with its nose aimed for England, Langdon carefully lifted the rosewood box from his lap, where he had been protecting it during takeoff. Khi chiếc Hawker bay ở tầm trung, nhằm hướng nước Anh, Langdon thận trọng nhấc chiếc hộp bằng gỗ hồng mộc lên từ trong lòng – nơi ông bảo vệ nó trong suốt thời gian cất cánh của máy bay. Now, as he set the box on the table, he could sense Sophie and Teabing leaning forward with anticipation. Trong khi đặt nó lên bàn, ông cảm thấy Sophie và Teabing cũng cúi về phía trước, đón đợi. After several seconds, he began to feel the initial frustration resurfacing. Sau vài giây xem xét, ông bắt đầu cảm thấy nỗi thất vọng như lần đầu From where Sophie was seated across the table, she could not yet see the text, but Langdon's inability to immediately identify the language surprised her. Từ chỗ Sophie ngồi mé bên kia bàn, cô không thể trông thấy đoạn văn tự, nhưng việc Langdon không thể nhận ra ngay ngôn ngữ đó làm cô ngạc nhiên. Opposite Sophie, Leigh Teabing felt ready to burst. Ngược lại với Sophie, Leigh Teabing cảm thấy mình sắp nổ tung. Historically speaking, nekkudot are a relatively modern addition to language. Nói theo quan điểm lịch sử, neckkudot là một bổ sung tương đối hiện đại cho ngôn ngữ Taking a deep breath, Teabing feasted his eyes upon the engraving. ít một hơi thật sâu, Teabing thích thú ngắm nhìn hình khắc. With each passing second, Teabing felt his confidence deflating. Mỗi giây qua đi, Teabing lại cảm thấy sự tự tin của mình càng xẹp xuống. In a flash, Langdon knew. Loáng một cái, Langdon hiểu ra. Several years ago, Langdon had attended an event at Harvard's Fogg Museum. Mấy năm trước, Langdon có dự một sự kiện ở bảo tàng Fogg của Harvard. At first Langdon thought he could not read them because Da Vinci wrote his notebooks in an archaic Italian. Thoạt đầu, Langdon tưởng có thể đọc được bởi vì Da Vinci thường ghi sổ bằng tiếng Ý cổ. But after studying them more closely, he realized he could not identify a single Italian word, or even one letter. Nhưng sau khi xem xét kĩ hơn, ông nhận ra mình không thể xác định được lấy một từ Ý nào, hoặc thậm chí một chữ cái. At the rear of the plane, Rémy Legaludec strained to hear beyond the rumbling engines, but the conversation up front was inaudible. Ở đằng sau máy bay, Rémy Legaludec cố sức để nghe qua tiếng động cơ đang rung ầm ầm, nhưng vẫn không
Pl.141
1248.
256
1249.
257
1250.
257
1251.
258
1252.
259
1253.
259
1254.
266
1255.
266
1256.
266
1257.
266
1258.
267
1259.
267
1260.
272
thể nghe thấy được đoạn đối thoại phía trước. Fifteen thousand feet in the air, Robert Langdon felt the physical world fade away as all of his thoughts converged on Saunière's mirror-image poem, which was illuminated through the lid of the box. Ở độ cao năm nghìn mét trên bầu trời, Robert Langdon cảm thấy thế giới vật chất như mờ dần khi tất cả suy nghĩ của Ông đều tập trung vào bài thơ chiếu-gương của Saunière, hiện sáng qua nắp hộp. When she was done, the three of them took turns reading the text. It was like some kind of archaeological crossword... a riddle that promised to reveal how to open the cryptex. Khi cô chép xong, ba người lần lượt đọc đoạn văn: Nó giống như một thứ ô chữ khảo cổ... Một câu đố hứa hẹn tiết lộ cách mở hộp mật mã. For centuries, iambic pentameter had been a preferred poetic meter of outspoken literati across the globe, from the ancient Greek writer Archilochus to Shakespeare, Milton, Chaucer, and Voltaire—bold souls who chose to write their social commentaries in a meter that many of the day believed had mystical properties. Suốt hàng thế kỷ nay, thể thơ ngũ bộ mười âm tiết theo nhịp iambic đã trở thành thể thơ ưa thích của các văn nhân bộc trực ở khắp hành tinh, từ nhà văn thời cổ Hy Lạp Archilochus tới Shakespeare, Milton, Chaucer và Voltaire – những tâm hồn quả cảm, những người chọn viết những bình luận xã hội của mình bằng một thể thơ mà nhiều người cùng thời tin là có những thuộc tính huyền bí. In Atbash, the first letter was substituted by the last letter, the second letter by the next to last letter, and so on.Trong mật mã Atbash, chữ cái đầu tiên được thay thế bằng chữ cái cuối cùng, chữ cái thứ hai được thay thế bằng chữ cái kế tiếp chữ cái cuối cùng và cứ như vậy. It was three minutes later that Teabing heaved a frustrated sigh and shook his head. Sau ba phút, Teabing thốt ra một tiếng thở dài thất vọng và lắc đầu Outside the window, the blackness of the predawn was absolute. Bên ngoài cửa sổ máy bay, bóng tối trước bình minh vẫn ngự trị. After a long moment, he slid the ring from his finger and placed it gently on the instrument panel. Sau một lúc lâu, ông tháo chiếc nhẫn khỏi ngón tay và đặt nó nhẹ nhàng lên bảng điều khiển. Fifteen seconds later, he could feel the pilot banking a few more degrees to the north. Mười lăm giây sau, ông cảm thấy người phi công điều chỉnh thêm vài độ bay về hướng bắc. Even so, Aringarosa's moment of glory was in shambles. Dù vậy, giây phút vinh quang của Aringonosa vẫn cứ là tan vỡ. Now, like a house of cards, it was collapsing in on itself... and the end was nowhere in sight. Bây giờ, thì giống như ngôi nhà bằng quân bài, nó đang tự sụp đổ... và đoạn kết còn mù mịt chưa thấy đâu cả. For his part, Langdon was amazed to have heard it. Về phần ông, Langdon cũng ngạc nhiên về những gì nghe được. Outside, the dawn was coming fast, its crimson aura gathering off the starboard. Bên ngoài, bình minh đang lên nhanh, quầng sáng đỏ thắm tập trung bên mạn phải máy bay. However, if the password they had entered were incorrect, Sophie's outward force on the ends would be transferred to a hinged lever inside, which would pivot downward into the cavity and apply pressure to the glass vial, eventually
Pl.142
1261.
273
1262.
273
1263.
274
1264.
274
1265.
274
1266.
275
1267.
275
1268.
277
1269.
277
1270.
278
1271.
278
1272.
281
1273.
281
shattering it if she pulled too hard. Tuy nhiên, nếu mật khẩu mà họ nhập không đúng, lực kéo ra của Sophie đối với hai đầu hình trụ sẽ truyền tới một đòn bẩy có lắp bản lề ở bên trong, đòn bẩy này sẽ xoay xuống lọt vào cái hốc và tạo áp lực trên chiếc lọ thủy tinh, cuối cùng làm nó vỡ tan nếu cô kéo quá mạnh. Now gripping the stone tube, Sophie double-checked that all of the letters were properly aligned with the indicator. Lúc này, tay nắm chặt ống trụ đá, Sophie kiểm tra lại để đảm bảo tất cả các chữ cái đều đã thẳng hàng với con trỏ. Then, slowly, she pulled. Nothing happened. She applied a little more force. Sau đó, chậm rãi, cô kéo. Không có gì xảy ra. Cô kéo mạnh hơn. Suddenly, the stone slid apart like a well-crafted telescope. Đột nhiên, hòn đá trượt ra giống như một ống kính viễn vọng tinh xảo. Reaching over, Langdon lifted the smaller cryptex. Với lấy cái hộp mật mã nhỏ hơn, Langdon nâng nó lên. At that moment, fifteen miles ahead of them, six Kent police cars streaked down rain-soaked streets toward Biggin Hill Executive Airport. Vào lúc đó cách mười lăm dặm, sáu chiếc xe cảnh sát ở Kent phóng rất nhanh trên những con phố ẩm ướt mưa, hướng về phía sân bay Biggin Hill Executive. Moving down a lavish hallway, Collet entered the vast ballroom study, where the chief PTS examiner was busy dusting for fingerprints. Đi theo hành lang sang trọng, Collet bước vào phòng khiêu vũ rất rộng, nơi người kiểm tra chính của PTS đang bận rộn thu thập dấu vân tay. On the back, Collet found notations scrawled in English, describing a cathedral's long hollow nave as a secret pagan tribute to a woman's womb.Ở mặt sau tấm ảnh, Collet thấy những ghi chú nguệch ngoạc bằng tiếng Anh, mô tả gian giữa trống và dài của một nhà thờ lớn như là một sự bí mật bày tỏ lòng tôn kính đối với tử cung người đàn bà. For a moment, Collet thought he recognized the timbre of the man's voice, but he couldn't quite place it. Trong khoảnh khắc, Collet nghĩ anh đã nghe thấy giọng nói của người đàn ông này ở đâu đó, nhưng không xác định được cụ thể. For several seconds, Collet held the receiver. Trong vài giây, Collet vẫn giữ ống nghe. As Langdon and Sophie looked on, Teabing got up and went to the far side of the cabin, then slid aside a wall panel to reveal a discreetly hidden wall safe. Trong khi Langdon và Sophie nhìn theo, Teabing đứng dậy, đi sang mé bên kia cabin, rồi kéo một tấm ván tường sang bên để lộ một chiếc két được giấu kín sau tường. Rémy approached up the aisle now, the Heckler Koch pistol cradled in his hand. "Sir, my agenda?" Lúc này, Rémy theo lối đi giữa các hàng ghế tiến lại gần, khẩu Heckler & Koch trong tay: "Thưa ngài, nhiệm vụ của tôi là gì?". Edwards's nerves felt frayed now as he watched the jet coming in. Lúc này, Edward cảm thấy thần kinh căng thẳng khi nhìn chiếc phản lực tiến vào. At the French authorities' request, Kent police had ordered the Biggin Hill air traffic controller to radio the Hawker's pilot and order him directly to the terminal rather than to the client's hangar. Theo yêu cầu của nhà chức trách Pháp, cảnh sát Kent ra lệnh cho nhân viên kiểm soát không lưu đánh điện bằng rađiô cho phi công của chiếc máy bay Hawker và yêu cầu anh ta đến thẳng ga hành khách thay
Pl.143
1274.
281
1275.
281
1276.
281
1277.
281
1278.
282
1279.
285
1280.
285
1281.
285
1282.
285
1283.
284
1284.
284
1285.
285
vì nhà chứa máy bay riêng của Teabing. Though the British police did not generally carry weapons, the gravity of the situation had brought out an armed response team. Cho dù cảnh sát Anh không thường mang vũ khí, nhưng do tính nghiêm trọng của tình hình nên vẫn xuất hiện một đội được trang bị vũ khí. Now, eight policemen with handguns stood just inside the terminal building, awaiting the moment when the plane's engines powered down. Tám cảnh sát với súng ngắn đứng ở bên trong ga hành khách, chờ lúc động cơ máy bay dừng hẳn. Then the police would step into view and hold the occupants at bay until the French police arrived to handle the situation. Sau đó cảnh sát xuất hiện và khống chế những người trên máy bay cho đến khi cảnh sát Pháp đến xử lý tình hình. Seconds later, Edwards found himself wedged in a police car racing across the tarmac toward the distant hangar. Lát sau, Edwards thấy mình ngồi kẹp trong chiếc xe cảnh sát phóng qua đường băng về phía hăng-ga ở đằng xa. As the plane completed its 180-degree turn and rolled toward the front of the hangar, Edwards could see the pilot's face, which understandably looked surprised and fearful to see the barricade of police cars. Khi chiếc máy bay hoàn thành động tác quay vòng 180o và chạy về phía trước hăng-ga, Edwards có thể nhìn thấy mặt viên phi công, có thể hiểu được anh ta kinh ngạc và sợ hãi như thế nào khi thấy cả một hàng rào xe cảnh sát. Now, as the limousine raced toward Kent, Langdon and Sophie clambered toward the rear of the limo's long interior, leaving the monk bound on the floor. Giờ đây, khi chiếc limousine phóng nhanh về phía Kent, Langdon và Sophie lồm cồm đứng dậy đi về phía cuối khoang trong dài rộng của chiếc xe thượng đẳng, để lại gã thầy tu bị trói trên sàn. Moments earlier, as the Hawker taxied into the deserted hangar, Rémy had popped the hatch as the plane jolted to a stop halfway through its turn Nhiều phút trước, lúc chiếc Hawker lăn bánh vào hăng-ga trống vắng, Rémy đã bật mở cửa sập dưới bụng của máy bay trong khi nó khấp khểnh dừng lại giữa chừng vòng của. With the police closing in fast, Langdon and Sophie dragged the monk down the gangway to ground level and out of sight behind the limousine. Trong khi cảnh sát cấp tốc áp sát hăng-ga, Langdon và Sophie kéo gã thầy tu xuống cầu thang rút đến ngang mặt đất và khuất tầm mắt sau chiếc limousine. Then the jet engines had roared again, rotating the plane and completing its turn as the police cars came skidding into the hangar. Sau đó, động cơ máy bay lại gầm lên, hoàn tất vòng của của nó khi đoàn xe cảnh sát tràn vào hăng-ga. With that, Teabing's manservant opened the door at the rear of the stretch limousine and helped his crippled master into the back seat. Với lời đe doạ đó, người giúp việc của Teabing mở cửa sau chiếc limousine và đỡ ông chủ tàn tật ngồi vào ghế sau. Then the servant walked the length of the car, climbed in behind the wheel, and gunned the engine. Rồi, đi theo chiều dài của xe, ngồi vào sau vô lăng và khởi động. So far, Leigh was being playfully cagey about where he thought they would find the "knight's tomb," which, according to the poem, would provide the password for opening the smaller cryptex. Cho đến giờ, Leigh vẫn chơi trò
Pl.144
1286.
285
1287.
286
1288.
286
1289.
287
1290.
287
1291.
288
1292.
288
1293.
288
1294.
288
1295.
289
1296.
289
1297.
291
kín kín hở hở về nơi mà ông nghĩ là họ có thể tìm thấy "mộ của người hiệp sĩ", mà theo bài thơ, sẽ cung cấp mật khẩu cho việc mở cái hộp mật mã nhỏ hơn. Now, as he read the words again, he processed them slowly and carefully, hoping the pentametric rhythms would reveal a clearer meaning now that he was on the ground. Giờ đây, khi đọc lại những từ trong bài thơ, ông từ từ nghiền ngẫm thật cẩn thận, hy vọng giờ đây, ở trên mặt đất, tiết tấu ngũ bộ sẽ hé lộ ý nghĩa rõ ràng hơn. Despite the apparent straightforwardness of the verse, Langdon still had no idea who this knight was or where he was buried. Mặc dù bài thơ có vẻ dễ hiểu, Langdon vẫn không sao biết được hiệp sĩ đó là ai hoặc được chôn ở đâu. Moreover, once they located the tomb, it sounded as if they would be searching for something that was absent. Hơn nữa, một khi đã xác định được vị trí ngôi mộ, xem ra còn phải tìm một cái gì đó bị thiếu. Actually, it's just off Fleet Street on Inner Temple Lane. Thực tế, nó ở ngõ Inner Temple ngay sát phố Fleet Sophie turned to Langdon now, her voice quiet. "Robert, nobody knows you and I are in England." Lúc này Sophie quay sang Langdon, giọng của cô êm ả: "Robert, không ai biết anh và tôi đang ở Anh". Although Langdon could not imagine the Judicial Police tangled up in the Holy Grail, he sensed too much coincidence tonight to disregard Fache as a possible accomplice.M ặc dù Langdon không thể tưởng tượng được là Cảnh sát tư pháp lại dây dưa vào chuyện Chén Thánh, ông vẫn cảm thấy đêm nay có quá nhiều trùng hợp ngẫu nhiên đến nỗi không thể bỏ qua khả năng Fache có thể là một tòng phạm. Then again, Sophie had argued that Fache might simply be overzealous to make the arrest. Lại nữa, Sophie thì cứ biện luận rằng Fache đơn giản chỉ quá sốt sắng thực hiện việc bắt giữ. After all, the evidence against Langdon was substantial. Xét cho cùng, bằng chứng chống lại Langdon là đáng kể.away. "Even so, I can't help but think you've done everything he would have wanted. Dù vậy, tôi vẫn không thể không nghĩ là anh đã làm mọi thứ ông tôi muốn In the distance, now, the skyline of London began to materialize through the dawn drizzle. Đằng xa, đường chân trời của London đã bắt đầu hiện ra qua làn mưa bụi lúc rạng đông. Once dominated by Big Ben and Tower Bridge, the horizon now bowed to the Millennium Eye—a colossal, ultramodern Ferris wheel that climbed five hundred feet and afforded breathtaking views of the city.Trước kia, thống ngự ở London là đồng hồ Big Bellvà cây cầu Tower Bridge, giờ đây, chân trời cúi chào Millennium Eye Con mắt Thiên niên kỷ – chiếc bánh xe quay Ferris khổng lồ cực kỳ hiện đại leo tớỉ độ cao một trăm năm mươi mét, từ đó ngắm quang cảnh thành phố thật ngây ngất. Consecrated on the tenth of February in 1185 by Heraclius, Patriarch of Jerusalem, the Temple Church survived eight centuries of political turmoil, the Great Fire of London, and the First World War, only to be heavily damaged by Luftwaffe incendiary bombs in 1940. ược Heraclius, giáo trưởng của Jerusalem,
Pl.145
1298.
291
1299.
291
1300.
291
1301.
291
1302.
292
1303.
293
1304.
293
1305.
293
1306.
293
1307.
293
1308.
293
1309.
293
1310.
293
1311.
293
làm phép vào ngày 10 tháng 2 năm 1185, nhà thờ đã tồn tại qua tám thế kỷ hỗn loạn về chính trị, cuộc đại hoả hoạn ở London, chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và chỉ bị hư hỏng nặng nề nhất trong lần bị không quân Đức ném bom cháy vào năm 1940. After the war, it was restored to its original, stark grandeur.Sau chiến tranh, nó đã được phục chế trở về dáng vẻ hùng vĩ hoang dại ban đầu. After a moment, he pulled back, a scheming look on his face as he pointed to the bulletin board. Sau một lát, ông lùi lại, vẻ mưu mô hiện trên nét mặt khi ông chỉ lên bảng thông báo. Inside the church, an altar boy was almost finished vacuuming the communion kneelers when he heard a knocking on the sanctuary door. Bên trong nhà thờ, một lễ sinh đang sắp hoàn thành việc hút bụi những gối quỳ làm lễ Thánh thể thì nghe thấy tiếng gõ cửa thánh đường. Suddenly, the knocking turned to a forceful banging, as if someone were hitting the door with a metal rod. Đột nhiên, tiếng gõ chuyển thành những cú đập rất mạnh như thể ai đó đang nện vào cửa bằng một thanh kim loại vậy. Every year Sir Christopher Wren's descendants bring a pinch of the old man's ashes to scatter in the Temple sanctuary. Hàng năm, hậu duệ của ngài Christopher Wren đều mang một nhúm tro của ngài để rải trong điện thờ linh thiêng này. The woman hesitated a moment and then, as if awaking from a trance, reached in her sweater pocket and pulled out a small cylinder wrapped in protective fabric. Người phụ nữ do dự trong giây lát rồi, như tỉnh sau cơn nhập đồng, thò tay vào túi áo len, lấy ra một vật hình trụ bọc trong một miếng vải. Maybe Father Knowles had simply forgotten these family members were coming. Có thể cha Knowles đã quên bẵng là những thành viên của gia đình này sẽ tới. If so, then there was far more risk in turning them away than in letting them in. Nếu vậy, để họ ra đi còn nguy hại hơn là cứ để họ vào. After all, they said it would only take a minute. What harm could it do? xét cho cùng, họ nói chỉ mất một phút thôi mà. Uncertain, the boy returned to his chores, watching them out of the corner of his eye. Even so, I never moved a muscle. Thậm chí, tôi không dám động đậy một cơ bắp nào. As the group moved through the rectangular annex toward the archway leading into the main church, Langdon was surprised by the barren austerity. Khi cả nhóm đi xuyên qua gian nhà phụ hình chữ nhật về phía cổng tò vò dẫn vào nhà thờ chính, Langdon rất ngạc nhiên về sự khắc khổ ở đây. Although the altar layout resembled that of a linear Christian chapel, the furnishings were stark and cold, bearing none of the traditional ornamentation. Mặc dù thiết kế của bàn thờ cũng giống như ở nhà thờ Cơ đốc, nhưng các đồ bày biện thật ảm đạm và lạnh lẽo, không chút trang trí truyền thống. Even from here, the walls looked unusually robust. Thậm chí từ đây, những bức tường trông hùng dũng lạ thường.
Pl.146
1312.
294
1313.
294
1314.
294
1315.
295
1316.
295
1317.
295
1318.
295
1319.
295
1320.
295
1321. 1322.
295 295
1323.
296
1324.
300
1325.
For European nobility, traveling with gold was perilous, so the Templars allowed nobles to deposit gold in their nearest Temple Church and then draw it from any other Temple Church across Europe. Đối với giới quý tộc châu Âu, mang vàng theo trong những chuyến đi là rất nguy hiểm, do đó các Hiệp sĩ Templar đã cho phép giới quý tộc gửi vàng vào Nhà thờ Temple gần nhất và sau đó rút vàng ra từ bất kỳ một nhà thờ nào khác của họ ở khắp châu Âu. As they arrived outside the circular chamber, Teabing shot a glance over his shoulder at the altar boy, who was vacuuming in the distance. Khi họ đến bên ngoài điện thờ hình tròn, Teabing liếc nhanh nhìn cậu lễ sinh đang hút bụi cách đó một quãng. All of the figures were deeply weathered, and yet each was clearly unique— different armory pieces, distinct leg and arm positions, facial features, and markings on their shields. Tất cả những hình người ở đây đã dầu dãi phong sương và mặc dù vậy mỗi hình đều rất riêng, độc đáo – các bộ phận áo giáp, tư thế tay chân rõ rành, nét mặt và dấu hiệu trên khiên, tất cả đều khác nhau. In a rubbish-strewn alley very close to Temple Church, Rémy Legaludec pulled the Jaguar limousine to a stop behind a row of industrial waste bins. Trong một con hẻm đầy rác rưới rất gần Nhà thờ Temple, Rémy Legaludec lái chiếc limousine hiệu Jaguar tới đậu sau một dãy thùng đựng rác thải công nghiệp. Sensing Rémy's presence, the monk in the back emerged from a prayer-like trance, his red eyes looking more curious than fearful. Cảm thấy sự có mặt của Rémy, gã thầy tu ở phía sau dứt ra khỏi trạng thái nửa như cầu nguyện nửa như mê, đôi mắt đỏ của hắn trông có vẻ tò mò hơn là sợ hãi. All evening Rémy had been impressed with this trussed man's ability to stay calm. Suốt buổi tối, Rémy đã rất phục khả năng giữ bình tĩnh của con người đang bị trói gô này. After some initial struggles in the Range Rover, the monk seemed to have accepted his plight and given over his fate to a higher power.Sau đôi chút kháng cự ban đầu trong chiếc xe Range Rover, gã tu sĩ có vẻ như chấp nhận cảnh ngộ và phó mặc sốphận cho quyền lực tối cao. Loosening his bow tie, Rémy unbuttoned his high, starched, wing-tipped collar and felt as if he could breathe for the first time in years. Nới lỏng nơ đeo cổ, Rémy mở khuy chiếc áo cổ cao, hồ bột xòe sang hai bên của mình và cảm thấy như lần đầu tiên được thở sau nhiều năm Searching the bar, Rémy found a standard service wine-opener and flicked open the sharp blade. Lục trong quầy rượu, Rémy tìm thấy một cái mở rượu tiêu chuẩn và bật mở lưỡi dao sắc nhọn. Now those red eyes flashed fear. Bây giờ đôi mắt đỏ ánh lên sự sợ hãi. Now, as the knife descended, Silas clenched his eyes shut. Giờ đây, khi con dao hạ xuống, Silas nhắm chặt mắt lại. As the biting heat tore through all of his muscles now, Silas clenched his eyes tighter, determined that the final image of his life would not be of his own killer Khi cơn đau rát xé dọc các cơ bắp, hắn nhắm mắt chặt hơn, quyết định rằng hình ảnh cuối cùng của cuộc đời hắn sẽ không phải kẻ giết mình. Arriving beside her both men gazed down in confusion at the tenth tomb. Tới bên cạnh cô, cả hai bối rối nhìn trân trân xuống ngôi mộ thứ mười. Rather than a knight lying in the open air, this tomb was a sealed stone casket.
300
Pl.147
1326.
303
1327.
303
1328.
304
1329.
304
1330.
304
1331.
304
1332.
304
1333.
304
1334. 1335.
305 305
1336.
305
1337.
305
1338.
305
1339. 1340.
307 310
Thay vì một hiệp sĩ nằm ở ngoài trời, ngôi mộ này là một quan tài đá đóng kín. Like a ghost, Silas drifted silently behind his target. Như một bóng ma, Silas lặng lẽ dượt sau mục tỉêu của mình Before she could turn, Silas pressed the gun barrel into her spine and wrapped a powerful arm across her chest, pulling her back against his hulking body. Trước khi cô kịp quay lại, Silas đã gí nòng súng vào xương sống và vòng cánh tay cường tráng qua ngực cô, kéo lưng cô áp vào thân hình hộ pháp của hắn. Forty feet away, peering out from the annex pews near the archway, Rémy Legaludec felt a rising alarm. Cách đó hơn mười mét, nhòm ra từ hàng ghế phụ gần cửa tò vò Rémy Legaludec cảm thấy một nỗi hoảng sợ dâng lên. The maneuver had not gone as planned, and even from here, he could see Silas was uncertain how to handle the situation. Kế hoạch đã không được tiến hành như dự kiến, và thậm chí từ chỗ này, ông ta cũng có thể thấy là Silas đang phân vân không biết xử lý tình huống như thế nào. At the Teacher's orders, Rémy had forbidden Silas to fire his gun. Theo lệnh của Thầy Giáo, Rémy đã cấm Silas nổ súng. Since then, every moment he had spent inside Château Villette had been leading him to this very instant. Từ đó, mỗi giây phút y sống trong Château Villette đều dẫn dắt y đến chính khoảnh khắc này đây If Langdon dropped it, all would be lost. Nếu Langdon thả nó xuống, tất cả sẽ tan biến. If others see you, they will need to be eliminated, and there has been enough killing already. Nếu để những người kia thấy anh, ta sẽ buộc phải khử họ, mà đến giờ đã quá đủ chuyện giết chóc rồi Later, I will tell you Ta sẽ nói với anh sau For the moment, you must act quickly. Lúc này, anh phải hành động nhanh chóng. If the others figure out the true location of the tomb and leave the church before you take the cryptex, we could lose the Grail forever. Nếu bọn kia tìm ra vị trí thật của ngôi mộ và ra khỏi nhà thờ trước khi anh lấy được hộp mật mã thì chúng ta sẽ mất Chén Thánh vĩnh viễn Now, however, here in the Temple Church, with Langdon threatening to break the keystone, Rémy's future was at risk. Tuy nhiên, giờ đây, trong Nhà thờ Temple này, với Langdon đang đe doạ sẽ đập nát viên đá đỉnh vòm, tương lai của Rémy đang lâm nguy. Stepping from the shadows, Rémy marched into the circular chamber and aimed the gun directly at Teabing's head.Bước ra từ bóng tối, Rémy tiến vào phòng thờ hình tròn và nhắm súng thắng vào đầu Teabing Besides, he still might prove useful.Ngoài ra, ông ta vẫn còn có thể hữu ích Throughout history, those who held knowledge of the Grail had always been magnets for thieves and scholars alike.Xuyên suốt lịch sử, những người biết tường tận về Chén Thánh bao giờ cũng là cục nam châm thu hút bọn trộm cắp cũng như các học giả. I made a terrible mistake tonight. đêm nay, tôi đã phạm sai lầm khủng khiếp Even so, both of you are in danger. Tuy vậy, cả hai người đang gặp nguy hiểm. At the moment, however, you and Langdon need to go to the nearest London
1341. 1342. 1343.
312 312 312
Pl.148
1344.
312
1345.
315
1346.
315
1347.
316
1348.
1349.
317
1350.
323
1351.
323
1352.
323
1353.
324
1354.
327
1355.
343
1356.
343
1357.
343
police headquarters for refuge Vào thời điểm này, tuy nhiên, cô và Langdon cần đến ngay sở chỉ huy cảnh sát London gần nhất để ẩn náu I've been trying to pull you back into safety for the last several hours Trong vài tiếng vừa qua, tôi đã cố gắng kéo hai người trở về nơi an toàn Finally, Rémy climbed out of the rear of the limo, walked around, and slid into the driver's seat beside Silas. Cuối cùng, Rémy ra khỏi khoang sau xe, đi vòng quanh rồi vào ghế ngồi lái bên cạnh Silas. Minutes later, as the Jaguar stretch limo powered through the streets, Silas's cell phone rang. Vài phút sau khi chiếc limousine Jaguar lao nhanh trên đường phố thì điện thoại của Silas reo. It had been hours, and the operation had veered wildly off course. Suốt nhiều giờ qua, kế hoạch hành động đã bị đối hướng xoay chiều xoành xoạch. Now, at last, it seemed to be back on track. "Cuốì cùng, giờ đây dường như đâu lại vào đấy As Rémy took the phone, he knew this poor, twisted monk had no idea what fate awaited him now that he had served his purpose. Khi Rémy cầm lấy điện thoại, y biết tên thầy tu tội nghiệp dị hợm này không hề biết số phận nào đang đợi hắn sau khi hắn đã hết phận sự. Despite the rain, Rémy had dropped him off a short distance away in order to keep the limousine off the main streets. Mặc dù trời mưa, Rémy vẫn thả hắn xuống cách đó một đoạn ngắn để giữ cho chiếc limousine tránh khỏi những phố chính. At Rémy's suggestion, Silas had wiped down his gun and disposed of it through a sewer grate. Theo gợi ý của Rémy, Silas đã chùi sạch dấu tay trên khẩu súng của mình và vứt nó qua một cửa cống. Now, as Silas approached the Opus Dei building, the rain began to fall harder, soaking his heavy robe, stinging the wounds of the day before. Lúc này, khi Silas gần đến tòa nhà Opus Dei, mưa bắt đầu nặng hạt hơn, thấm đẫm chiếc áo choàng to của hắn, làm nhói đau vết thương của ngày hôm trước. On sunny afternoons, Londoners picnic beneath the willows and feed the pond's resident pelicans, whose ancestors were a gift to Charles II from the Russian ambassador. Vào những buổi chiều đầy ánh nắng, những người dân London pích-ních dưới những gốc liễu và cho đàn bồ nông cư ngụ trong hồ ăn, tổ tiên của chúng là món quà do đại sứ Nga tặng vua Charles II. Minutes later, the police scanner crackled with the answeVài phút sau đó, máy quét hình của cảnh sát lạo xạo cho câu trả lời. For centuries, men like Da Vinci, Botticelli, and Newton risked everything to protect the documents and carry out that charge. trong nhiều thế kỉ, những người như Da Vinci, Botticelli và Newton, đã bất chấp tất cả để bảo vệ những tài liệu đó và thực hiện trọng trách đó. And now, at the ultimate moment of truth, Jacques Saunière changed his mind. Và giờ đây, vào thời điểm tối hậu của sự thật thì Jacques Saunière lại thay đổi ý định. Since the days of Constantine, the Church has successfully hidden the truth about Mary Magdalene and Jesus. Kể từ thời Constantine, Giáo hội đã thành công trong việc bưng bít sự thật về Mary Magdalene và Jesus. Five months ago, Aringarosa had received devastating news Năm tháng trước
1358.
349
Pl.149
1359.
354
1360.
354
1361.
354
1362.
355
1363.
355
1364.
361
1365.
361
1366.
363
1367.
363
1368.
363
1369.
364
1370.
364
1371.
367
1372.
368
1373. 1374.
369 370
đây, Aringarosa đã nhận được những tin choáng váng. Across the room, Sir Leigh Teabing watched with confidence as Langdon gazed out the window as if under a spell. Đầu phòng đằng kia, ngài Leigh Teabing theo dõi với lòng tự tin khi Langdon nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ như bị bùa mê. For some time now, Teabing had suspected Langdon might hold the key to the Grail.Từ ít lâu nay, Teabing đã ngờ ngợ rằng có thể Langdon đang nắm chiếc chìa khoá dẫn đến Chén Thánh. Yesterday afternoon, Silas had phoned the curator and posed as a distraught priest. Chiều hôm qua, Silas đã gọi cho người phụ trách bảo tàng và sắm vai một linh mục quẫn trí Now, with Langdon separated from Sophie on the far side of the room, Teabing sensed he had successfully alienated the two companions from one another. Giờ đây, với Langdon cách xa Sophie cả chiều dài của căn phòng, Teabing cảm thấy rằng lão ta đã thành công, tách rời được hai người bạn đồng hành. At that moment, Langdon turned from the window. Đúng lúc đó, Langdon từ cửa sổ quay lại Now, sitting in the back of the cab, Fache closed his eyes. Bây giờ, ngồi ở ghế sau của taxi, Fache nhắm mắt lại. Last night, however, Aringarosa had received a call from Bezu Fache, questioning the bishop about his apparent connection to a nun who had been murdered in Saint-Sulpice Tuy nhiên, đêm qua, Aringarosa đã nhận được một cuộc gọi của Bezu Fache, cật vấn ông về mối quan hệ rõ ràng là có giữa ông với một nữ tu sĩ bị giết ở Saint-Sulpice. On the television, a lean French police officer was giving a press conference in front of a sprawling mansion. Trên tivi, một sĩ quan cảnh sát Pháp gày mảnh đang họp báo ngay trước tòa nhà dài rộng. Last night, your captain publicly charged two innocent people with murder. đêm qua, đại uý của các ông đã công khai khép hai người vô can vào tội giết người. Finally, Fache ran his hand over his forehead, slicking back his hair as he gazed down at Aringarosa cuối cùng, Fache vuốt trán, vuốt tóc ra sau, nhìn xuống Aringarosa To him, Rosslyn Chapel seemed far too obvious a location. Với ông, nhà thờ Rosslyn dường như là một địa điểm quá hiển nhiên. For centuries, this stone chapel had echoed with whispers of the Holy Grail's presence. Trong nhiều thế kỉ, nhà thờ đá này đầy những lời xì xào về sự hiện diện của Chén Thánh. In fact, virtually every Masonic temple in the world has two pillars like these Trên thực tế, hầu như tất cả các ngôi đền Hội Tam điểm trên thế giới đều có hai cột như thế này To this day the Rosslyn Trust offered a generous reward to anyone who could unveil the secret meaning, but the code remained a mystery. Cho đến nay, Tập đoàn Rosslyn đã treo giải thưởng hào phóng cho ai có thể khám phá ra ý nghĩa bí hiểm, nhưng mật mã vẫn còn là một bí ẩn After a few minutes, the symbols got fuzzy Sau vài phút, các biểu tượng mờ dần Again Langdon sensed there remained some facet of this mystery yet to reveal itself. Một lần nữa, Langdon cảm thấy một khía cạnh nào đó của điều bí ẩn này vẫn chưa hé lộ.
Pl.150
371
1375.
371
1376.
372
1377.
372
1378.
372
1379.
373
1380.
373
1381.
373
1382.
373
1383.
384
1384.
Out on the bluff, the fieldstone house was exactly as Sophie remembered it. Bên ngoài, trên con đường dốc, ngôi nhà đá đúng hệt như trong trí nhớ Sophie. As Sophie approached, she could hear the quiet sounds of sobbing from within. Khi Sophie lại gần, cô có thể nghe thấy những tiếng thổn thức từ bên trong. Through the screened door, Sophie saw an elderly woman in the hallway. Qua cánh cửa che mành, Sophie nhìn thấy một bà già trong nhà. Throwing open the door, she came out, reaching with soft hands, cradling Sophie's thunderstruck face. Qua cánh cửa mở, bà bước ra, vươn đôi bàn tay mềm mại, ấp lấy khuôn mặt còn sững sờ của Sophie Although Sophie did not recognize her, she knew who this woman was. Mặc dù Sophie không nhận ra bà, nhưng cô biết người phụ nữ này là ai. Through her tears, Sophie nodded, standing. Qua làn nước mắt, Sophie gật đầu và đứng lên. When Langdon walked across the lawn to join them, Sophie could not imagine that only yesterday she had felt so alone in the world. And now, somehow, in this foreign place, in the company of three people she barely knew, she felt at last that she was home. Khi Langdon băng qua bãi cỏ để nhập bọn với họ, Sophie không thể tưởng tượng được chỉ mởi hôm qua cô còn cảm thấy thật cô đơn trên đời, thế mà giờ đây, cách nào đó, ở nơi xa lạ này, bên cạnh ba con người cô mới chỉ biết sơ sơ, cô bỗng cảm thấy, cuối cùng, mình đã trở về nhà. Through the window, he could see Sophie talking with her brother. Qua khung cửa sổ, ông có thể thấy Sophie đang nói chuyện với em trai. Seeing her standing in my doorway tonight was the greatest relief of my life. I cannot thank you enough Tối nay, thấy nó đứng trong khung cửa nhà tôi đó là nỗi nguôi dịu lớn nhất của đời tôi. Tôi khó có thể bày tỏ hết lòng biết ơn đối với ông For a moment, he thought he heard a woman's voice... the wisdom of the ages... whispering up from the chasms of the earth. Trong thoáng chốc, ông tưởng như nghe thấy giọng nói của một người phụ nữ... sự thông tuệ của bao thế kỉ... đang thì thầm cất lên từ những kẽ nứt dưới lòng đất.
Pl.151