VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HOÀN
VỀ HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HOÀN
VỀ HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 9 22 90 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Hồ Sĩ Quý
HÀ NỘI, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Hoàn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6
5. Đóng góp mới của luận án ............................................................................ 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .......................................................... 8
7. Kết cấu của luận án ....................................................................................... 8
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 9
1.1. Những nghiên cứu lý luận về giá trị, hệ giá trị, hội nhập quốc tế ..... 9
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến hệ giá trị con người Việt Nam .... 23
1.3. Những nghiên cứu về định hướng giá trị của con người Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế .................................................... 28
1.4. Giá trị của các công trình đã tổng quan và những vấn đề đặt ra
cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ ....................................................... 34
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ GIÁ TRỊ CON
NGƯỜI VIỆT NAM ...................................................................................... 38
2.1. Giá trị, phân loại giá trị .................................................................... 38
2.2. Hệ giá trị và hệ giá trị con người Việt Nam .................................... 46
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 59
Chương 3: HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ ...................................................................... 61
3.1. Hội nhập quốc tế của Việt Nam, những tác động và yêu cầu của
hội nhập quốc tế với với hệ giá trị con người Việt Nam ........................ 61
3.2. Thực trạng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay .............................................................................. 87
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 111
Chương 4: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM XÂY DỰNG HỆ GIÁ
TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
QUỐC TẾ ..................................................................................................... 113
4.1. Nhận diện hệ giá trị con người Việt Nam sau hơn 30 năm hội
nhập quốc tế .......................................................................................... 113
4.2. Đề xuất một số định hướng giá nhằm xây dựng hệ giá trị con
người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế ................................ 121
Tiểu kết chương 4 ........................................................................................ 143
KẾT LUẬN .................................................................................................. 144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..................................................... 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 150
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, mặc dù vẫn không tránh
khỏi còn bị hoài nghi, nhưng đã gần như là một xu thế khách quan mà các
quốc gia, dân tộc đều phải tham gia. Quá trình này, khi diễn ra trong các lĩnh
vực của đời sống vật chất, đã tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần của
các xã hội, tức là tác động đến đời sống giá trị. Hệ giá trị của phần lớn các
cộng đồng tại hầu hết các quốc gia trong những thập niên gần đây, đều đã ít
nhiều biến động dưới ảnh hưởng của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Với
các nước đi sau và đang phát triển năng động như Việt Nam, sự tác động của
toàn cầu hoá cùng đồng thời với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế dường
như còn mạnh mẽ hơn, làm cho đời sống giá trị, nhất là hệ giá trị con người
đứng trước những sự lựa chọn khắt khe, phức tạp và nan giải hơn nhiều, đặc
biệt giữa nội sinh và ngoại sinh, giữa truyền thống và hiện đại.
Kể từ khi chủ động hội nhập quốc tế với những chính sách rộng mở và
đi vào chiều sâu nhằm xây dựng quan hệ phát triển bền vững với cộng đồng
thế giới, Việt Nam đã vượt qua hàng loạt khó khăn, thách thức to lớn và đã
đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng và toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực
của đời sống kinh tế - xã hội. Mặc dù tốc độ và chất lượng của sự phát triển
cũng đặt ra nhiều vấn đề không kém phần gay gắt, song nhìn tổng quát, vị thế,
vai trò và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được
nâng cao. Đất nước đã đứng trước những vận hội đầy triển vọng. Đời sống vật
chất và tinh thần của người Việt Nam ngày càng được cải thiện và tiến bộ
trong so sánh với quá khứ và với bên ngoài. Niềm tin của người dân đối với
Đảng, Nhà nước và với chế độ ngày càng được củng cố và phát triển theo
chiều hướng tích cực.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội là sự phát triển con người. Theo
Báo cáo của UNDP năm 2020, sự phát triển con người Việt Nam tuy còn có
những hạn chế không nhỏ, nhưng cũng đã đạt được những thành tựu rất đáng
kể nhờ chủ trương “lấy con người làm trung tâm” và đảm bảo bình đẳng, công
1
bằng và tiến bộ xã hội trong các chiến lược, kế hoạch phát triển. Với chỉ số
HDI 0,704 Việt Nam lần đầu tiên đã được xếp trong nhóm nước có chỉ số
phát triển của con người cao, xếp thứ 117/189 quốc gia và thuộc nhóm đầu
trong số 5 nhóm quốc gia về bình đẳng giới [Xem: 114].
Những thay đổi tích cực đó, trên thực tế, là sự phản ánh sâu sắc bước
nhảy mạnh mẽ của Việt Nam chuyển sang một xã hội công nghiệp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với cách mạng công nghiệp
4.0 có hàm lượng tri thức cao, với nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc và với một “xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người”, như
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh trong bài viết kỷ niệm 131
năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5/2021. Ông viết: “Chúng ta cần
một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải
vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự
phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải
gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một
xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ,
nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích
vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm... Chúng ta cần một hệ thống
chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi
ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có” [96].
Như vậy, quá trình chuyển đổi và phát triển của đất nước cũng chính là
quá trình đấu tranh để giải quyết những mâu thuẫn không khoan nhượng giữa
các giá trị. Khẳng định của Tổng Bí thư cho thấy rất rõ khía cạnh giá trị của
vấn đề: vì con người, chứ không phải chà đạp lên phẩm giá con người. Vì tiến
bộ và công bằng, chứ không phải gia tăng giàu nghèo và bất bình đẳng. Vì
một xã hội nhân ái, nhân văn, chứ không phải vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá
nhân và phe nhóm. Hệ thống chính trị là của dân, do dân và vì dân, chứ không
phải chỉ phục vụ cho một thiểu số giàu có, bóc lột. Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng khẳng định, “đó chính là những giá trị đích thực” mà Đảng và nhân dân
ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi [96].
2
Vấn đề là ở chỗ, sự phát triển nhanh, sôi động của đời sống kinh tế - xã
hội đã tất yếu làm cho đời sống tinh thần thay đổi theo. Nhưng không phải chỉ
theo một chiều tích cực, mà đã thay đổi khá đa chiều, đa dạng và phức tạp.
Cái tích cực là phổ biến, là xu thế chủ yếu của sự thay đổi các giá trị. Nhưng
cái xấu, cái tiêu cực, cái ác… lại cũng chiếm “một bộ phận không nhỏ” và có
sức cản trở ghê gớm đối với sự đi lên của xã hội.
Theo quan điểm của triết học duy vật lịch sử, một xã hội khi có sự thay
đổi về điều kiện sinh hoạt, tức là về tồn tại xã hội, thì ý thức của con người
cũng sẽ thay đổi theo “ít nhiều nhanh chóng”. Xã hội nào cũng sẽ có sự biến
động về giá trị, khi tồn tại xã hội không còn như trước. C.Mác và Ph.Ăngghen
viết: “Liệu có cần phải sáng suốt lắm thì mới hiểu những tư tưởng, những
quan điểm và những khái niệm của con người, tóm lại là ý thức của con
người, đều thay đổi cùng với mọi sự thay đổi xảy ra trong điều kiện sinh hoạt,
trong quan hệ xã hội, trong đời sống xã hội của con người hay không?”[59,
tr.624].
Bài viết của Tổng Bí thư một lần nữa cho thấy ý nghĩa quan trọng và
tính cấp thiết của vấn đề giá trị: cùng với sự phát triển của đất nước trong điều
kiện hội nhập quốc tế, hệ giá trị con người Việt Nam đã có nhiều biến động,
thậm chí biến động dữ dội, trong đó có những biến động theo chiều hướng
xấu, cần được quan tâm, nghiên cứu sâu sắc để phát hiện những vấn đề và có
những quyết sách để giải quyết những vấn đề đó, làm cho sự phát triển đạt tới
bền vững hơn. Sự quan tâm đến biến động giá trị có ý nghĩa to lớn ở chỗ, giá
trị và hệ giá trị có thể thay đổi khi đời sống vật chất của xã hội đã hoặc đang
thay đổi, nhưng không phải mọi sự thay đổi đều nằm ngoài tầm kiểm soát của
con người. Triết học Mác cũng dạy con người ta, vấn đề là “cải tạo thế giới”
chứ không chỉ “giải thích thế giới”. Một khi các giá trị cũ và mới xung đột với
nhau, sẽ có những cái trước đây từng là giá trị nay có thể trở nên lỗi thời, cần
phải loại bỏ. Lại có những điều trước kia không được thừa nhận nay đang trở
thành giá trị buộc phải chấp nhận, không thể từ chối một cách duy ý chí.
Trong những xã hội đang chuyển đổi mạnh mẽ trong điều kiện hội nhập quốc
3
tế như Việt Nam hiện nay, cái tiến bộ đang đan xen với cái lạc hậu, lỗi thời;
cái tốt đang cùng tồn tại và đấu tranh với cái xấu, cái ác… Do vậy, việc chủ
động nhận thức, xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị chuẩn của con người, là
một chủ trương sáng suốt để việc chuyển đổi giá trị diễn ra một cách tích cực,
thúc đẩy sự phát triển đất nước theo chiều tiến bộ.
Với tinh thần ấy, từ những năm 90 của thế kỷ XX, ở Việt Nam, những
vấn đề lý luận và thực tiễn về giá trị, như giá trị truyền thống và giá trị hiện
đại, giá trị văn hóa và giá trị con người, giá trị nội sinh và giá trị ngoại nhập…
đã được đặt ra một cách chủ động. Nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc xác định hệ giá trị văn hóa Việt Nam
đã được Đảng ta quan tâm và định hướng giải quyết trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 khóa VIII năm 1998. Tại Ðại hội XII của Ðảng năm 2016
Đảng ta xác định “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở
thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Ðúc kết và xây dựng hệ giá trị
văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [22, tr.126]. Và mới đây, năm 2021
Ðại hội XIII của Đảng một lần nữa chỉ ra những nội dung về hệ giá trị cần
phải giải quyết cấp bách. Văn kiện viết: “Tập trung nghiên cứu, xác định và
triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con
người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ
mới... Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam đã
tồn tại trong lịch sử; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt
chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại” [23, tr.143].
Sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề giá trị như vừa nói trên, trước hết là
nhằm xây dựng một hệ giá trị nhân văn, có tầm nhìn, mở đường cho sự phát
triển của đất nước và con người. Nhưng đồng thời sự quan tâm sâu sắc đến
vấn đề giá trị còn vì thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam những năm vừa qua
đã ít nhiều rơi vào tình trạng xuống cấp về giá trị, khủng hoảng giá trị.
Có thể thấy những hiện tượng xã hội tiêu cực, những hành vi suy thoái
về đạo đức, xuống cấp về văn hóa, lệch lạc về giá trị, … những năm gần đây,
4
đã được phản ánh gần như liên tục trên báo chí và các phương tiện thông tin
đại chúng. Mức độ tha hóa về con người đã đến mức “rúng động” với những
vụ đại án tham nhũng. Không ít học giả, các nhà quản lý và các nhà hoạt động
xã hội đã lên tiếng báo động về tình trạng này. Từ năm 2018, văn kiện Hội
nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã khái quát và chỉ ra rất cụ thể 27
biểu hiện cụ thể của những hiện tượng “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống; hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Phần nhiều trong
số 27 biểu hiện đó đều liên quan trực tiếp đến giá trị con người. Tại các kỳ
họp lần thứ 8, 9, và 10 của Quốc hội khóa XIV, nhiều hiện tượng có vấn đề
trong số đó đã được chính các đại biểu Quốc hội nêu và thảo luận gây sự quan
tâm sâu sắc trong đời sống xã hội.
Thực chất của những hiện tượng đó chính là sự khủng hoảng về giá trị.
Trong giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị cộng đồng, giá trị xã hội, giá
trị cá nhân… hiện tượng “lệch chuẩn” đang khá phổ biến, không chỉ ở trong
giới trẻ. Nhiều hiện tượng “bất bình thường” đang lan rộng trở thành nỗi lo âu
chung của nhiều tầng lớp xã hội.
Việc nhận diện sự biến đổi các giá trị, đánh giá khách quan, khoa học
động thái của các giá trị, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận về những vấn đề
liên quan đến giá trị và hệ giá trị con người để có những lý giải và giải pháp
phát huy và phát triển hệ giá trị con người Việt Nam, từ những năm gần đây
đã trở thành một đòi hỏi quan trọng, cấp thiết, nóng bỏng của cuộc sống.
Như vậy, mức độ cấp thiết của vấn đề chẳng những đã được đặt ra, thảo
luận và gây nên sự quan tâm chú ý trong các tài liệu lý luận, trong các phương tiện
thông tin đại chúng, mà còn được trực tiếp xác nhận, chỉ ra phương hướng nghiên
cứu, giải quyết trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Những điều nói trên chính là căn cứ lý luận và thực tiễn trực tiếp để
nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Về hệ giá trị con người Việt Nam trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay” để thực hiện luận án này.
5
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu của luận án
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về giá trị và hệ giá trị, luận án
nghiên cứu hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
hiện nay, đề xuất một số định hướng chủ yếu nhằm xây dựng hệ giá trị con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.
- Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận án là:
+ Tổng quan các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án.
+ Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về giá trị và hệ giá trị nhằm
hình thành khung lý luận để nghiên cứu luận án.
+ Nghiên cứu khái quát những giá trị truyền thống tiêu biểu của con
người Việt Nam.
+ Phân tích những tác động và yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với sự
biến đổi hệ giá trị con người Việt Nam; nghiên cứu thực trạng hệ giá trị con
người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, đánh giá những
chuyển biến tích cực, những hạn chế và xác định một số vấn đề đặt ra đối với
hệ giá trị con người Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
+ Đề xuất một số định hướng nhằm xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ giá trị con người Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án là những giá trị truyền thống tiêu
biểu của con người Việt Nam và những chuyển biến về giá trị của con người
Việt Nam từ sau Đổi mới, đặc biệt từ cuối những năm 1990 đến nay khi Việt
Nam hội nhập quốc tế, tham gia sâu vào các định chế quốc tế.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận trực tiếp của luận án là triết học Mác - Lênin, tư tưởng
6
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là những
tư tưởng về giá trị truyền thống Việt Nam, về văn hóa và sự phát triển xã hội,
về tồn tại xã hội và ý thức xã hội và về con người và đời sống con người…
Cùng với những cơ sở lý luận cơ bản đó, luận án còn chú ý khai thác
chỉ dẫn lý luận của các công trình nghiên cứu trong và ngoài triết học của các
tác giả đi trước về văn hóa và con người Việt Nam, về đời sống tinh thần và
vật chất của xã hội, về giá trị và hệ giá trị Việt Nam truyền thống và hiện đại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với các phương pháp: phân tích và tổng hợp,
qui nạp và diễn dịch, đối chiếu, so sánh… để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ
mà đề tài đặt ra.
Trong chừng mực có liên quan, luận án có sử dụng các tài liệu lý luận,
các báo cáo chuyên môn của các tổ chức Đảng và Nhà nước, các tài liệu cung
cấp dữ liệu và số liệu… có liên quan đến vấn đề giá trị và hội nhập quốc tế.
5. Đóng góp mới của luận án
- Làm sáng tỏ lịch sử giá trị học, khía cạnh triết học và các nội hàm của
các khái niệm giá trị, hệ giá trị và hệ giá trị con người Việt Nam.
- Trên cơ sở khai thác những tư liệu của các học giả thế hệ đầu tiên đầu
thế kỷ XX về đặc điểm của văn hóa và con người Việt Nam, luận án đã phân
tích và hệ thống hóa được những giá trị truyền thống tiêu biểu của con người
Việt Nam được hình thành và phát triển từ trong lịch sử.
- Phân tích được nét đặc thù và tính đa diện của quá trình Việt Nam hội
nhập quốc tế, xác định được những yêu cầu cơ bản của hội nhập quốc tế đối
với việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam giai đoạn hiện nay.
- Phân tích và đánh giá được những chuyển biến tích cực của hệ giá trị
con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế; xác định được những
vấn đề cấp thiết đang đặt ra đối với việc xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam hiện nay.
7
- Xác định được những giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam trong
quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
- Đề xuất được 4 định hướng lớn nhằm xây dựng hệ giá trị con người
Việt Nam trong điều kiện chủ động hội nhập quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận, luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy triết học về giá trị và hệ giá trị con người Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
- Về mặt thực tiễn, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
các hoạt động quản lý và xây dựng chính sách có liên quan đến phát triển con
người, văn hóa và giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc
tế hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục các công trình đã công bố của
tác giả liên quan đến đề tài luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 10 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những nghiên cứu lý luận về giá trị, hệ giá trị, hội nhập quốc tế
1.1.1. Các công trình liên quan về giá trị, hệ giá trị
Đối với các nghiên cứu nước ngoài, ở mỗi một góc độ, quan niệm về giá
trị, hệ giá trị được tiếp cận ở nhiều chiều cạnh khác nhau từ tâm lý học, xã hội
học, kinh tế học, giáo dục học... Về cơ bản, những nghiên cứu về vấn đề giá trị,
hệ giá trị xuất hiện khá sớm trong lịch sử. Đến đầu thế kỷ 19, chuyên ngành
khoa học với tên gọi Giá trị học (Axiology) đã ra đời. Sau đó, những vấn đề
này trở thành một trong những hướng nghiên cứu chuyên sâu ở nhiều quốc
gia như: Đức, Ba Lan, Mỹ, Nga... Từ khi giá trị học được xem xét như là một
khoa học về giá trị ra đời, đã có nhiều học giả nghiên cứu, thảo luận về vấn đề
này nhưng nhìn chung, cho đến nay, những tranh luận về các vấn đề lý luận
như: quan niệm về giá trị, hệ giá trị, định hướng giá trị.... Bahm A.J trong
cuốn “The Science of Values” [104] đã nhấn mạnh điều này khi tác giả cho
rằng: “Việc tìm hiểu các giá trị rất phức tạp bởi có nhiều dạng giá trị khác
nhau và vô số những nhầm lẫn về giá trị, nhiều cái trong số đó xuất phát từ ý
tưởng sai lầm. Việc chọn lọc trong rất nhiều dạng giá trị nhằm tìm ra những
dạng cần thiết để hiểu sao cho đúng dường như là một nhiệm vụ vô vọng cho
những người mới bắt đầu” [trích theo 92, tr.29].
Theo Joe Bolger - Tư vấn của Cơ quan phát triển quốc tế Canada, trong bài
“Capacity Development: Why, What and How” [105] bàn sâu về phát triển
năng lực của con người trong bối cảnh hiện nay, trong đó phát triển các giá trị
được tác giả coi là yếu tố quan trọng hình thành năng lực con người. Theo tác
giả, phát triển năng lực bao gồm nhiều “phương pháp tiếp cận và chiến lược”
nhằm cải thiện khả năng ở các mức độ khác nhau, trong đó việc tăng cường sự
hiểu biết và mối quan hệ; định hướng các giá trị, thái độ, động cơ và điều kiện để
hỗ trợ phát triển bền vững.
9
David Potten trong bài viết “Learning By Doing: The Japanese PHRD
Fund and Capacity Development“ [111] tập trung luận bàn về các giá trị cá nhân.
Tác giả cho rằng phát triển giá trị cá nhân bao gồm tổ hợp các nhân tố như: Nâng
cao kiến thức cho con người, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành;
Tăng cường năng lực kỹ thuật, công nghệ; Nâng cao kỹ năng làm việc trong
những điều kiện làm việc khác nhau (năng lực làm việc nhóm, năng lực thích
ứng…) [111, p.p .7-8].
Amartya Sen là một trong số tác giả có nhiều công trình nghiên cứu về
con người, giá trị con người, trong đó những nghiên cứu tập trung bàn sâu hơn
về vấn đề phát triển con người. Trong cuốn “Development as Freedom” [112],
ông cho rằng: Con người càng có năng lực thì càng có cơ hội lựa chọn hơn. Phát
triển con người được coi là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn và năng lực cho
con người. Vì thế, theo tác giả, khi con người ngày càng phát triển năng lực của
mình thì càng làm tăng giá trị của họ trong đời sống cộng đồng. Trong một số
công trình nghiên cứu khác như: Equality of what? (1980), Commodities and
Capabilities (1985), The Standard of Living (1987) v.v.. Amartya Sen tập trung
đi phân tích các khía cạnh khác liên quan đến giá trị con người như: chất lượng
cuộc sống, trình độ hiểu biết, năng lực tư duy v.v.. Những đóng góp của
Amartya Sen về phát triển con người có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu về
con người nói chung và nghiên cứu giá trị con người nói riêng.
Thomas Loren Friedman trong nghiên cứu “Chiếc Lexus và cây Ôliu”
[25] đã phân tích rõ nét những xung đột giá trị mới và giá trị truyền thống qua
hình ảnh chiếc xe Lexus hiện đại và cây Ôliu cổ kính. Trong đó, tác giả đã chỉ
rõ những thách thức không nhỏ của các giá trị truyền thống trước những thay
đổi của bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra về giá trị mới khi thâm nhập, đan
xen vào đời sống xã hội. Tác giả đặt vấn đề về một phương án “thỏa thuận” để
giải quyết những “xung đột” giữa hai chiều giá trị này trong bối cảnh toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.
Ngoài ra, có thể kể đến các nghiên cứu khác như: “Capacity development
practice note”[113], “Measuring capacity, “Comparative performance
10
measurement in schools” [115] v.v... Có thể thấy, đã có rất nhiều nghiên cứu
của các học giả nước ngoài đề cập tới giá trị. Tuy nhiên, những nghiên cứu này
chủ yếu đề cập tới khía cạnh giá trị cá nhân, giá trị truyền thống, giá trị hiện đại,
các chỉ số phát triển con người v.v.. . Số công trình có nghiên cứu về hệ giá trị,
hệ giá trị con người trong điều kiện hội nhập quốc tế cũng không nhiều, nếu
không nói là khá khiêm tốn.
Đối với những nghiên cứu trong nước, giá trị và hệ giá trị cũng được xem
xét từ nhiều góc độ khác nhau với nhiều công trình nghiên cứu trên sách, tạp chí,
đề tài nghiên cứu, luận văn, luận án...
Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước trong Chương trình nghiên cứu về con
người đã đề cập đến giá trị và định hướng giá trị của con người Việt Nam
trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, đổi mới và mở cửa. Các
chương trình cụ thể của đề tài bao gồm: Chương trình thứ nhất, từ năm 1991
đến 1996: “Con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế- xã
hội” (KX-07); Chương trình thứ hai từ năm 1996 tới năm 2000: “Phát triển
văn hóa, xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
(KX-04); Chương trình thứ ba từ 2001 đến 2005: “Phát triển văn hóa, con
người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” (KX-05); Chương trình thứ tư từ năm 2006 tới 2010: “Xây dựng con
người và phát triển văn hóa Việt trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế”
(KX- 03/06-10); Chương trình thứ năm từ năm 2011 đến 2015: “Nghiên cứu
khoa học phát triển văn hóa, con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực” (KX-03/11-15). Từ những chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà
nước nói trên đã có nhiều công trình được xuất bản thành sách.
Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-07-04 với chủ đề
“Giá trị- định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” [97] là một trong
những công trình liên quan trực tiếp tới những vấn đề giá trị, hệ giá trị. Các
tác giả trong công trình này khẳng định, giá trị là “một vấn đề cơ bản và rất
thời sự” và “luôn mang tính khách quan” tức là sự xuất hiện và tồn tại hay
mất đi của giá trị không phụ thuộc vào ý thức con người mà nó phụ thuộc vào
11
sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi một nhu cầu nào đó của con người, không
phải do ý thức mà do yêu cầu của hoạt động, của thực tiễn trong đó con người
sống và hoạt động. Trong nghiên cứu, nhóm các tác giả đưa ra quan niệm về
hệ giá trị như sau: “Hệ giá trị hay còn gọi là hệ thống giá trị đó là một tổ hợp
giá trị khác nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định,
thành một tập hợp mang tính toàn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc
thù trong việc đánh giá của con người theo những phương thức vận hành nhất
định của giá trị” [97, tr.62]. Nhấn mạnh tính lịch sử, công trình khẳng định hệ
giá trị có “chứa đựng các nhân tố của quá khứ, của hiện tại và cả những nhân
tố có thể có trong tương lai”. Những nghiên cứu này cũng chỉ rõ, hệ giá trị là
tổng hợp các giá trị được sắp xếp theo một nguyên tắc và có ảnh hưởng rất
lớn bởi nhân tố lịch sử.
Tác giả Phạm Minh Hạc là người có nhiều nghiên cứu về giá trị, hệ giá
trị. Trong công trình “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công
nghiệp hóa hiện đại hóa [31]- Khi trình bày một số kết quả trong chương
trình nghiên cứu con người và nguồn lực con người tác giả đã phân biệt với
các khái niệm giá trị, hệ thống giá trị, thang giá trị, thước đo giá trị và định
hướng giá trị. Khái niệm giá trị theo ý kiến tác giả có ba nội dung: “1)Giá trị
là sản phẩm vật chất và tinh thần của con người, nhóm người, cộng đồng dân
tộc và loài người làm ra. 2) Giá trị là phẩm giá, phẩm chất của con người,
nhóm người, cộng đồng, dân tộc và loài người. 3) Giá trị là biểu hiện mối
quan hệ của con người dưới góc độ lợi ích, đánh giá đối với tồn tại xung
quanh [31, tr.133]. Về khái niệm hệ giá trị, tuy trong công trình này không đề
cập rõ nhưng trong một số tác phẩm khác, tiêu biểu là tác phẩm Giá trị học,
tác giả Phạm Minh Hạc đưa ra quan điểm “Hệ giá trị là các giá trị của một tập
hợp người như dân tộc, thế giới, vùng, gia đình, bản thân” [36, tr.30]. Công
trình này có thể xem như bước đi mới ở Việt Nam, gắn bó mật thiết với nhiều
khoa học khác như: Đạo đức học, Văn hóa chính trị học, Nghiên cứu con
người, Tâm lý học và Giáo dục học... Nội dung cuốn sách không chỉ đơn
thuần trình bày một số hiểu biết về Giá trị học mà chủ yếu nhằm mục đích
12
cung cấp cơ sở lý luận về hệ giá trị của người Việt Nam trong thời đại công
nghiệp hoá theo hướng hiện đại, mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới.
Trong công trình “Tìm hiểu giá trị truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” [6] các tác giả đã trình bày khá sâu sắc các vấn đề
lý luận như: Giá trị, giá trị truyền thống, giá trị văn hóa truyền thống. Trên cơ
sở đó lý luận đó, các tác giả đã luận giải sự biến đổi của giá trị văn hóa truyền
thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Cùng
với mạch nghiên cứu này có công trình “Giá trị truyền thống trước thách thức
của toàn cầu hóa” [7] đã phân tích sự biến đổi của những giá trị truyền thống
của Việt Nam trước thách thức của toàn cầu hóa.
Công trình nghiên cứu “Một số vấn đề về Triết học- con người- xã hội”
[8], tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn là cuốn sách tuyển tập những bài tiêu biểu
của tác giả đã đăng trên các tạp chí khoa học có uy tín ở nước ta như tạp chí
Triết học, tạp chí Cộng sản, tạp chí Khoa học xã hội... trong đó phần IV: Triết
học và công cuộc đổi mới đất nước có một số nội dung liên quan như: giá trị,
giá trị truyền thống trong giai đoạn đổi mới đất nước. Luận bàn về giá trị, tác
giả đặc biệt chú ý tới mặt xã hội và thực tiễn - lịch sử cụ thể, đến tính nhận
thức, noi theo và khả năng thúc đẩy con người nhằm duy trì, bảo vệ hoặc nỗ
lực đạt được của giá trị. Không đồng nhất với một số quan điểm thiên hướng
đạo đức hóa mọi giá trị nhưng tác giả cũng khẳng định khi nói tới giá trị tức là
“muốn khẳng định tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện,
nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái
hay, cái đẹp” [8, tr.745]. Xuất phát từ mặt xã hội và thực tiễn lịch sử của giá
trị, tác giả công trình cho rằng trên thực tế có những giá trị chung của nhân
loại, có những giá trị lâu bền được tôn trọng, được kế thừa qua nhiều thế hệ,
nhiều thời đại và được nâng cao lên, nhưng cũng có giá trị có phạm vi ảnh
hưởng và thời đại tồn tại ít hơn, có những giá trị sẽ mất đi hoặc mờ nhạt khi
hoàn cảnh lịch sử thay đổi và thế vào đó là những giá trị mới hình thành. Bàn
về thuộc tính của giá trị, tác giả cho rằng, giá trị là sự thống nhất giữa cái
khách quan và cái chủ quan chứ không phải là cái chủ quan thuần túy như
13
nhiều người ngộ nhận. Giải thích về sự thống nhất này, tác giả đưa ra lý do
như sau: chính những khách thể, những đối tượng, những quá trình, những
quan hệ mang trong mình chúng có khả năng thỏa mãn nhu cầu đa dạng của
con người, mang lại lợi ích nhiều mặt cho con người và chính con người, các
tập đoàn người biểu hiện thái độ, quan điểm và sự đánh giá của họ về các khả
năng đó cũng như mức độ mà họ có thể chấp nhận được.
Tác giả Hồ Sĩ Quý với công trình “Về giá trị và giá trị châu Á” [80] đã
phân tích chi tiết những vấn đề về giá trị và giá trị châu Á cũng như luận giải
một cách khoa học và có hệ thống thế giới các giá trị. Theo tác giả, sự biến
đổi của bối cảnh thế giới đương đại có ảnh hưởng lớn tới sự biến đổi các giá
trị truyền thống và có sự đối sánh với những hệ giá trị khác. Kết luận về thế
giới các giá trị, tác giả Hồ Sĩ Quý cho rằng, “chính là toàn bộ thế giới bên
trong và bên ngoài con người được hiện hình trong tư duy và tình cảm của
con người” [80, tr.41]. Theo tác giả, với tư cách là khuôn thước của sự đánh
giá, là một biểu hiện đặc trưng cho quan hệ chủ thể- khách thể trong đời sống
xã hội nên giá trị luôn đồng hành trong cuộc sống con người, kể cả con người
ở xã hội thời mông muội, dã man. Trong tác phẩm này, các quan điểm điển
hình của một số học giả có uy tín trong và ngoài nước về lĩnh vực này được
tác giả công trình tổng hợp khá công phu, từ đó, tác giả đi tới luận giải mối
tương quan giữa giá trị truyền thống châu Á và nền văn hóa Việt Nam. Trong
công trình này, tác giả cũng tập trung phân tích những biến động một số giá
trị ưu trội trong bảng giá trị châu Á tại Việt Nam như: Cần cù, hiếu học, gia
đình và cộng đồng... trước tác động của quá trình toàn cầu hóa.
Từ góc độ triết học, công trình “Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số
giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” [85],
tác giả Mai Thị Quý trình bày quan niệm về giá trị. Theo tác giả, giá trị là một
phạm trù triết học dùng để chỉ ý nghĩa tích cực của các sự vật, hiện tượng, quá
trình, quan hệ... (cả vật chất lẫn tinh thần) đối với một cá nhân, một cộng
đồng, một giai cấp, một xã hội hay toàn thể nhân loại trong một điều kiện lịch
sử cụ thể. Tác giả cho rằng, các sự vật, hiện tượng, các quá trình, quan hệ...
14
đều có thể được coi là giá trị khi chúng có khả năng thỏa mãn những nhu cầu
vật chất và tinh thần mang tính tích cực, lành mạnh của con người. Mai Thị
Quý nhấn mạnh khái niệm giá trị với tư cách là ý nghĩa của sự vật, hiện tượng
chứ không phải là bản thân của sự vật, hiện tượng.
Tiếp cận từ góc độ văn hóa học, tác giả Ngô Đức Thịnh trong “Những
giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam” [93] cho rằng, giá trị cũng như những
tập quán, chuẩn mực, tri thức... đều là sản phẩm của quá trình tư duy, sản xuất
tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn hóa. Khẳng định giá
trị là hình thái của ý thức, của tinh thần, tuy nhiên theo tác giả, không phải dạng
tinh thần thuần túy mà nó phản ánh và kết tinh những giá trị của cải đời sống
vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của con người. Từ những quan niệm
trên, tác giả đưa ra khái niệm về giá trị dưới góc độ văn hóa học như sau: Giá
trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về bất kỳ một
hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó là cần, là tốt, là
hay, là đẹp. Quan niệm trên của tác giả thiên về việc khẳng định thuộc tính chủ
quan của giá trị. Theo tác giả, giá trị mang tính lịch sử cụ thể, do đó đặt giá trị
vào trục tọa độ về mặt không gian, thời gian và chủ thể văn hóa chúng ta có thể
đánh giá tính giá trị hay phi giá trị, giá trị cao hay giá trị thấp...Về quan niệm hệ
giá trị, tác giả cho rằng, nói đến hệ giá trị (Value System) hay bảng giá trị,
thang giá trị của mỗi cộng đồng thì bao hàm hai ý nghĩa: 1) Các giá trị riêng lẻ
liên kết nhau thành một hệ thống hữu cơ các giá trị; 2) Có sự sắp đặt trước sau,
độ nhấn về tầm quan trọng của nhân tố giá trị trong một bảng (thang) giá trị.
Từ góc nhìn văn hóa học xã hội, tác giả Hoàng Vinh trong “Những vấn
đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay” [99] đưa ra cách hiểu về
hệ giá trị. Theo ông: “Nói đến hệ giá trị xã hội hay bảng giá trị xã hội là đề cập
tới vấn đề sắp xếp, phân loại giá trị xã hội” [99, tr.7]. Khi nhấn mạnh về vai trò
của hệ giá trị tới cộng đồng, tác giả cho rằng các hệ giá trị đó phải được chuyển
thành các hệ chuẩn mực xã hội, tức là thành phong tục, tập quán... tổng hợp lại
thành lối sống xã hội.
15
Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập
[35] là kết quả nhiều năm nghiên cứu về đề tài con người Việt Nam của tác
giả Phạm Minh Hạc và Thái Duy Tuyên. Đây là công trình đã đề cập đến
những vấn đề khá rộng và phức tạp về vấn đề giá trị và định hướng giá trị
thông qua các cuộc điều tra, khảo sát, từ đó tác giả đưa ra những kết luận về
vấn đề đồng tiền và sự làm giàu, tệ nạn xã hội và tình yêu, hôn nhân và gia
đình, khoa học, công nghệ và tài năng, nghề nghiệp việc làm... Trong chương
1, công trình dành nhiều luận bàn về khoa học giá trị, năng lực xác định giá
trị, cũng như quan điểm biến đổi giá trị. Theo các tác giả, giá trị là “cái quy
định mục đích của hoạt động”, do vậy giá trị nảy sinh từ những hoạt động
thực tiễn của con người trong xã hội.
Công trình “Một số vấn đề về giá trị và hệ giá trị Việt Nam” [91] là sản
phẩm của hai cuộc hội thảo khoa học do đề tài cấp Nhà nước KX 04.15/11-15
“Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế” thuộc chương trình KH & CN trọng điểm KX.04/11-15 “Nghiên cứu
khoa học chính trị giai đoạn 2011- 2015” do tác giả Trần Ngọc Thêm chủ trì.
Trong đó, đáng chú ý là các quan niệm về giá trị, Trần Ngọc Thêm quan
niệm: “Giá trị là phẩm chất của khách thể được bộc lộ trong một hệ tọa độ C-
K-T (Chủ thể- Không gian- Thời gian) cụ thể, trong đó phẩm chất của khách
thể (là sự vật/hiện tượng, v. v.) được khúc xạ qua sự đánh giá của chủ thể (là
con người) xét trong quan hệ giữa chủ thể với khách thể và giữa khách thể với
nhau” [91, tr.14]. Theo quan niệm này, giá trị mang thuộc tính khách quan.
Cùng trong công trình này, tác giả Dương Phú Hiệp trong bài viết “Quan
niệm về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền
thống Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” [91] nhấn mạnh tính
chủ quan của các giá trị. Ông quan niệm giá trị là các tư tưởng bao quát được
cùng nhau, tin tưởng mạnh mẽ ở một nhóm người, một giai tầng, một dân tộc
hoặc một thời đại về cái gì là đúng, sai, thiện, ác, xấu, tốt, hợp lý, không hợp
lý. Nhấn mạnh thuộc tính chủ quan của giá trị, ông khẳng định thêm ở Việt
Nam, thuật ngữ giá trị thường dùng để chỉ phẩm chất, phẩm giá, đức tính hay
16
tức là các giá trị đạo đức. Đồng quan điểm này, tác giả Nguyễn Duy Bắc, tác
giả Phan Thị Hà trong bài viết “Một số suy nghĩ về hệ giá trị của người Việt
Nam” [91] cho rằng, giá trị là ý nghĩa và thường là có ích đối với người thừa
nhận và theo nghĩa chung nhất, giá trị là “cái bộc lộ ra tường minh hay kín
đáo từ bản thân sự vật, hiện tượng đối với con người” [91, tr.333]. Công trình
này cũng tập hợp nhiều quan điểm về hệ giá trị. Tác giả Trần Ngọc Thêm cho
rằng hệ giá trị được tạo thành bởi toàn bộ các giá trị của các khách thể cùng
các quan hệ của chúng. Theo đó, các loại hình giá trị được phân loại thành giá
trị văn hóa, giá trị con người, giá trị thực tế, giá trị định hướng, giá trị cốt lõi.
Nhấn mạnh tới tính định hướng của hệ giá trị, tác giả Nguyễn Thị Bích
Phượng cho rằng, nếu như giá trị mang tính định hướng cho các thành viên
trong cộng đồng thì “hệ giá trị là toàn bộ giá trị của nền văn hóa”. Đáng lưu ý
là quan điểm của tác giả Hồ Sĩ Quý trong công trình này về giá trị và hê giá
trị. Ông cho rằng việc xác định hệ giá trị của quốc gia- dân tộc như Việt Nam
có thể hiểu theo ba nghĩa sau: 1) Chỉ bao gồm các giá trị đang tồn tại thực
trong thực tế. Việc xác định hệ giá trị trước hết là gọi tên cho chính xác các
giá trị thực đó. 2) Bao gồm các giá trị lý tưởng, kỳ vọng, có ý nghĩa định
hướng đối với hành vi của con người, đối với hoạt động của các thiết chế xã
hội và đối với chiều hướng phát triển của một dân tộc - quốc gia. 3) Bao gồm
các giá trị vừa tồn tại thực trong thực tế, vừa là thiêng liêng, lý tưởng để định
hướng hành động. Ngoài ra, có ý kiến của tác giả Dương Phú Hiệp trong cùng
công trình trên về hệ giá trị, theo ông: Hệ giá trị (hay bảng giá trị) là một tập
hợp các phạm trù giá trị khác nhau, được cấu trúc theo những thứ bậc khác
nhau, và có mối liên hệ có tính lịch sử cụ thể với nhau để thực hiện một hay
một số chức năng nhất định. Công trình “Một số vấn đề về giá trị và hệ giá trị
Việt Nam” của tác giả Trần Ngọc Thêm đã tập hợp nhiều bài viết giá trị khoa
học liên quan trực tiếp tới các vấn đề của luận án nghiên cứu sinh thực hiện.
Nghiên cứu “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con
đường tới tương lai” [91] tác giả Trần Ngọc Thêm là sự tiếp nối nghiên cứu
về hệ giá trị con người Việt Nam. Tác giả đã chỉ ra bốn xu hướng chính hiện
17
nay khi nghiên cứu về định nghĩa giá trị. Xu hướng thứ nhất thuộc nhóm tác
giả cho rằng giá trị là khách thể tức là giá trị thuộc về bản thân sự vật, hiện
tượng; Xu hướng thứ hai thuộc nhóm tác giả cho rằng giá trị thuộc về chủ thể
định giá; Xu hướng thứ ba thuộc nhóm tác giả quan niệm giá trị nằm trong
các mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng; Xu hướng thứ tư thuộc nhóm tác
giả nghiêng về ý kiến cho rằng giá trị tồn tại thế giới độc lập.
Tác giả Lương Đình Hải trong bài viết “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” [38] luận bàn nhiều vấn đề liên quan đến giá trị, hệ
giá trị. Tác giả cho rằng: Giá trị là những sự vật, hiện tượng, quá trình hay tất
cả những thứ được con người xem là có ý nghĩa nhất định với sự tồn tại, vận
động và phát triển của con người. Theo tác giả, giá trị mang cả thuộc tính
khách quan và thuộc tính chủ quan. Về quan niệm hệ giá trị, tác giả cho rằng:
“Hệ giá trị hay bảng giá trị của một cộng đồng được hình thành qua quá trình
lịch sử lâu dài, được sàng lọc, gạt bỏ, bổ sung, tiếp biến và phát triển phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau” [38, tr.10]. Theo đó, hệ giá trị dù có biến
đổi thường xuyên, liên tục, nhưng cũng có độ trễ so với những biến đổi của
các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có tính ổn định tương đối, có sự bền
vững, bất biến, “trường tồn” ở những mức độ và phạm vi nhất định. Hệ giá trị
được lưu giữ, truyền bá từ thế hệ này qua thế hệ khác, trở thành tài sản, hành
trang của các thế hệ mang suốt cuộc đời. Do đó, ông khẳng định, cần phải
phân định hệ giá trị con người và hệ giá trị xã hội. Điểm chung của chúng ở
chỗ: Hai hệ giá trị này có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau,
giao thoa với nhau, bởi vì, theo tác giả, những hệ giá trị cốt lõi trong hệ giá trị
xã hội cũng phải có và thể hiện trong hệ giá trị con người; và ngược lại,
những giá trị cốt lõi của hệ giá trị con người bao hàm và thể hiện một số
những giá trị xã hội. Ông chỉ ra điểm khác biệt của chúng ở chỗ: hệ giá trị xã
hội không thể là một tập hợp các giá trị con người. Luận án kế thừa các quan
niệm của tác giả về giá trị, hệ giá trị cũng như những phân tích của tác giả về
cấu tạo của hệ giá trị, ông cho rằng hệ giá trị có các giá trị văn hóa, truyền
18
thống, các giá trị đạo đức, giá trị chung, giá trị phổ quát của nhân loại, của
khu vực... nhưng giá trị đạo đức có “sức nặng riêng”, đặc biệt với các dân tộc
như Việt Nam.
Ngoài những công trình nghiên cứu trong chương trình cấp Nhà nước,
ấn phẩm sách tham khảo kể trên, về vấn đề giá trị, hệ giá trị còn có một số bài
viết đề cập tới như: Nguyễn Ngọc Vân (1996) với nghiên cứu “Về giá trị và
quan hệ hệ giá trị chủ- khách thể” in trong tạp chí Thông tin lý luận (Số 11);
Nguyễn Trọng Chuẩn (1998) trong nghiên cứu “Vấn đề khai thác các giá trị
truyền thống vì mục tiêu phát triển” in trong Tạp chí Triết học (Số 2)... Thời
gian gần đây, một số bài viết liên quan về vấn đề này như: tác giả Nguyễn
Thu Nghĩa với bài viết “Định hướng giá trị thẩm mĩ- một số vấn đề lý luận”
(2020) in trong tạp chí Triết học (Số 6); Nguyễn Phú Trọng với bài viết:
“Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước vào một
giai đoạn phát triển mới” in trong “Nhân dân điện tử” ngày 31 tháng 8 năm
2020... là những nghiên cứu này có giá trị khoa học cho một số vấn đề lý luận
và thực tiễn của luận án mà nghiên cứu sinh đang thực hiện.
Tổng quan các tài liệu liên quan tới vấn đề giá trị, hệ giá trị nghiên
cứu sinh đưa ra một số nhận xét như sau:
+ Các công trình nghiên cứu về giá trị, hệ giá trị trên thế giới phát triển
khá đa dạng, tại những nước phát triển đã hình thành các viện, trung tâm
chuyên nghiên cứu về giá trị đóng góp quan trọng trong việc định hướng
những giá trị mang bản sắc của quốc gia mình. Đây là những đóng góp cơ bản
và quan trọng cho lý luận về giá trị đều xuất phát từ đây.
+ Ở Việt Nam hiện có ba khuynh hướng chủ đạo nghiên cứu về giá trị:
khuynh hướng thứ nhất cho rằng giá trị mang tính khách quan; khuynh hướng
thứ hai khẳng định giá trị mang tính chủ quan; Khuynh hướng thứ ba quan
niệm cho rằng giá trị mang cả tính khách quan và tính chủ quan, khuynh
hướng này được nhiều tác giả đồng tình. Trong đó, trong những nghiên cứu
về hệ giá trị, giá trị đạo đức được các nhiều học giả luận bàn hơn.
19
1.1.2. Các công trình liên quan đến hội nhập quốc tế, tác động và yêu
cầu của hội nhập quốc tế đối với hệ giá trị con người Việt Nam
Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và kinh tế thị trường hiện đại đã và
đang là xu thế nổi bật của thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó, từ năm
1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội
nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ
đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam luôn thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc
tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và
khu vực. Trong những năm gần đây, nghiên cứu về vấn đề hội nhập quốc tế
của Việt Nam bước đầu được chú ý, thu hút sự quan tâm của các học giả, có
thể tổng quan một số công trình tiêu biểu như sau:
Công trình “Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa: Vấn
đề và giải pháp” [102], tác giả quan niệm hội nhập quốc tế là quá trình chủ
động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và
thế giới thông qua các nỗ lực tự do thương mại và mở cửa trên các cấp độ đơn
phương, song phương và đa phương. Trên phương diện này công trình đã
nhấn mạnh tới mức độ, nội dung và hình thức của hội nhập kinh tế quốc tế rất
đa dạng. Bên cạnh đó, luận án kế thừa từ công trình này một số vấn đề như:
quá trình phát triển toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam,
tác động và những phương hướng trong giai đoạn mới của toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
Toàn cầu hóa và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam [94] là
công trình bao gồm một số tham luận khoa học của các học giả Việt Nam và
Đức được trình bày tại hai cuộc Hội thảo tổ chức tại Hà Nội vào tháng
11/2002 và tháng 12/2003. Công trình tập trung vào ba nhóm vấn đề: Toàn
20
cầu hóa- những khái niệm chung; Toàn cầu hóa và những hệ quả; Toàn cầu
hóa kinh tế và sự hội nhập của Việt Nam. Mặc dù công trình không trực tiếp
đi sâu về vấn đề hội nhập quốc tế nhưng đã cũng cấp những cơ sở lý luận rất ý
nghĩa về những vấn đề của Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa, trong đó có
một số vấn đề liên quan tới sự hội nhập quốc tế của Việt Nam liên quan tới
vấn đề nghiên cứu của luận án. Luận án có kế thừa có chọn lọc một số bài viết
trong công trình này về những tác động hội nhập quốc tế của Việt Nam trong
xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Tô Xuân Dân với công trình “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
đến tư duy và đời sống kinh tế- xã hội ở Việt Nam” [11] là một trong những
công trình nghiên cứu sâu sắc những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
đến đời sống kinh tế- xã hội của Việt Nam trong những năm qua và dự báo xu
thế những năm tới. Luận án kế thừa những cơ sở lý luận chung về các khái niệm
như hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa, mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và
toàn cầu hóa. Đặc , đây cũng là một trong số ít công trình phân tích tác động của
hội nhập quốc tế đến tư duy và đời sống kinh tế- xã hội ở Việt Nam.
Bàn về vai trò của nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
có công trình tiêu biểu sau: Công trình “Vai trò của nhà nước đối với hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” [40] của Mai Lan Hương tập trung nghiên
cứu về vai trò của nhà nước với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, song công
trình đã cung cấp cho luận án những cơ sở lý luận và thực tiễn về hội nhập
quốc tế ở Việt Nam. Từ việc khẳng định toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế là một xu thế khách quan, theo tác giả, ở Việt Nam, thuật ngữ hội
nhập (được hiểu là hội nhập kinh tế quốc tế) mới chỉ được sử dụng rộng rãi từ
thập niên 1990 trở lại đây khi nước ta thực hiện chính sách đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ kinh tế khu vực và trên thế giới. Tác giả cho rằng, có thể
hiểu “hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia gắn kết nền kinh tế
của nước mình với kinh tế khu vực và thế giới bằng các nỗ lực thực hiện tự do
hóa kinh tế, mở cửa kinh tế trên các cấp độ đơn phương, song phương, đa
21
phương và giảm thiểu sự khác biệt để trở thành một bộ phận hợp thành của
chỉnh thể kinh tế toàn cầu” [40, tr.18].
Trong công trình “Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và hội
nhập quốc tế” của Hoàng Chí Bảo [2], tác giả đã phân tích sâu sắc văn hóa và
con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay ở nước ta cũng như về
phát triển văn hóa ở châu Á - Thái Bình Dương trong hai thập niên đầu thế kỷ
XXI. Từ những phân tích đó, tác giả chỉ ra sự phát triển nhu cầu tinh thần và tính
đa dạng của nhu cầu tinh thần, của đời sống tinh thần của con người trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Công trình đã cho thấy khái quát về vấn đề con
người và hệ giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Bên cạnh các công trình kể trên, còn có một số nghiên cứu tập trung tới
những vấn đề liên quan tới tác động của hội nhập quốc tế tới Việt Nam trên
cách khía cạnh khác như: Giá trị truyền thống trước những thách thức của
toàn cầu hóa (2002) của Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng
chủ biên); Toàn cầu hóa và sự tồn vong của nhà nước của tác giả Nguyễn
Vân Nam (2006); Vai trò, chức năng và hiệu lực của Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế của Bùi Xuân Đức; Toàn cầu hóa: Những biến đổi lớn trong đời sống
chính trị quốc tế và văn hóa của tác giả Phạm Thái Việt (2008); Nhà nước với
phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa của tác giả Nguyễn Thị
Luyến (chủ biên, 2005); Trần Minh Trưởng (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế, Nguyễn Ngọc Trân (2002), Một số vấn
đề kinh tế toàn cầu hiện nay; Tác giả Vũ Dương Ninh (2009), Việt Nam mở
cửa và hội nhập nhìn từ kinh nghiệm thế kỷ XX...
Như vậy, qua tổng qua các công trình nghiên cứu về vấn đề này, có thể
thấy, các công trình nghiên cứu đó đã cho thấy nhiều góc nhìn đa chiều về
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Về mặt định nghĩa có thể vẫn có
những ý kiến khác nhau, song về cơ bản, các tác giả tương đối nhất quán
trong quan niệm về các đặc trưng, nguồn gốc và nội dung của quá trình này.
Các tác giả đều thừa nhận toàn cầu hóa mà hạt nhân là toàn cầu hóa kinh tế và
22
hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là cơ bản nhất, đã trở
thành xu thế chung của thời đại, đang tác động mạnh mẽ và làm biến đổi căn
bản đời sống của các quốc gia. Ngoài ra, các tác giả đều nhất trí quan điểm về
nhập kinh tế quốc tế là quá trình phát triển với nhiều mâu thuẫn, đan xen giữa
thời cơ và thách thức; mặt phải và mặt trái; hợp tác và đấu tranh; vươn lên và
tụt hậu; tự chủ và phụ thuộc. Kết quả của hội nhập quốc tế trước hết và chủ
yếu phụ thuộc vào việc mỗi quốc gia dân tộc nhận thức và giải quyết những
mâu thuẫn đó như thế nào.
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến hệ giá trị con người Việt Nam
Ngay từ rất sớm người Việt đã luôn trăn trở với câu hỏi: Người Việt từ
đâu? Và người Việt có bản sắc gì đặc trưng để phân biệt với các dân tộc khác?
Theo tiến trình phát triển của đời sống xã hội, những câu hỏi đó được làm rõ
hơn trong những nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam. Sách “Đại
Việt sử ký toàn thư” đã có ghi chép về đặc điểm tính cách của người
Việt. Đến thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, các thương nhân phương Tây và
các nhà truyền đạo Công giáo đã bắt đầu ghi chép về tính cách con người
Việt. Trong số nghiên cứu đó có thể kể tới những ghi chép của tác giả người
Ý Cristoforo Borri khoảng năm 1621, ông đã có lời nhận xét và miêu tả về
tính khí con người xứ Đàng Trong. Tới thời nhà Nguyễn, các sách do triều
đình biên soạn trong “Đại Nam thực lục”, và “Việt sử thông giám cương
mục” cũng có ghi chép về đặc điểm tính cách của người Việt. Tuy nhiên, các
nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam truyền thống chỉ thực sự được
tính từ giai đoạn Pháp thuộc khi những trí thức Việt Nam lúc này được trang
bị những hành trang tri thức tương đối bài bản. Những tên tuổi tiêu biểu
nghiên cứu về giá trị con người Việt Nam như: Đào Duy Anh, Trần Trọng
Kim, Nguyễn Văn Huyên, Phan Ngọc…Bên cạnh đó còn có một số những
nghiên cứu của các học giả phương Tây về những đặc tính con người Việt
Nam truyền thống.
Đào Duy Anh là một trong số học giả đầu tiên nghiên cứu sâu về con
người, xã hội Việt Nam truyền thống. Trong nghiên cứu “Việt Nam văn hóa
23
sử cương” [1], ông chỉ ra 7 giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam bao gồm:
“1) “Sức ký ức” [trí nhớ] tốt, thiên về nghệ thuật và trực giác; 2) Ham học,
thích văn chương; 3) “Ít mộng tưởng” [thiết thực]; 4) “Sức làm việc khó
nhọc” [cần cù] ở mức độ “ít dân tộc bì kịp”; 5) “Giỏi chịu… khổ và hay nhẫn
nhục”; 6) “Chuộng hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hy sinh vì đại nghĩa”;
7) Khả năng “bắt chước, thích ứng và dung hóa rất tài” [Trích theo 91, tr.240-
241]. Trong công trình này, tác giả có nhiều đánh giá sâu sắc về tính cách,
phẩm chất của người Việt. Theo ông, về đại thể người Việt “đại khái thông
minh, nhưng xưa nay thấy ít có người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức
thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn lý
luận. Phần nhiều người ta có tính ham học, song thích văn chương phù hoa
hơn thực học, thích thành tích sáo và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động.
Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt, cho nên dân tộc Việt
Nam ít người mộng tưởng, mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm. Sức
làm việc khó nhọc, nhất là người ở miền Bắc thì ít dân tộc bì kịp. Cảm giác
hơi chậm chạp, song giỏi chịu đau đớn, cực khổ hay nhẫn nhục. Tính khí cũng
hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, khoe khoang trang hoàng bề
ngoài, ưa hư danh và thích chơi bời cờ bạc. Thường thì nhút nhát và chuộng
hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hy sinh về đại nghĩa. Não sáng tác thì ít
nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hòa thì rất tài. Người Việt Nam lại rất
trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo” [1, tr.25].
Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong công trình “Văn minh Việt Nam” [45]
là công trình nghiên cứu khá chi tiết về những phẩm chất, giá trị của người
Việt. Ông đặt vấn đề về xuất phát điểm người Việt từ nền học vấn cổ lỗ, chưa
bao giờ có phương pháp nên người Việt thường ít sáng tạo, có xu hướng “thuận
hết thảy và bắt chước hết thảy”. Khác với một số nhà nghiên cứu đi trước
nghiên cứu về hệ giá trị Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên không nói nhiều đến
giá trị yêu nước, tác giả luận bàn nhiều tới giá trị dũng cảm của người Việt.
Ông cho rằng: “Người Việt không thiếu dũng cảm… có khả năng kháng cự lâu
dài, trong những điều kiện thiếu thốn tệ hại nhất, chống lại những lực lượng
24
mạnh hơn về số lượng và chất lượng… người nông dân Việt Nam có thể trở
thành người lính dũng cảm và bền bỉ, có sức xông lên mạnh mẽ” [45, tr.361].
Trong công trình, tác giả cũng đi ra một số ý kiến luận bàn về một số đặc tính
hạn chế của người Việt như: lười biếng và cần cù, phóng túng và thực tế, thất
thường và kiên định, hay trộm cắp và hào hiệp, chất phác và khôn ngoan.
Nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam, có một số tác giả mà xưa
nay giới nghiên cứu ít đề cập tới như: Ngô Đức Kế, Lương Dũ Thúc, Nguyễn
Văn Vĩnh, Dương Bá Trạc, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Trọng
Thuật… một số tác phẩm tiêu biểu của họ thực ra rất có giá trị như: Cảm
tưởng trong lúc biên tập, báo Hữu thanh năm 1923, bài báo Nông cổ mín đàm
năm 1902, Đăng cổ tùng báo năm 1917, Tiếng gọi đàn năm 1925, Thư gửi
chính phủ Pháp năm 1906, Cao đẳng quốc dân năm 1925, Điều đình cái án
quốc học năm 1931… Những nghiên cứu này mặc dù không đi sâu về việc hệ
giá trị người Việt, song, với những phân tích chi tiết, đánh giá trên một số góc
độ về tính cách người Việt góp phần giúp nghiên cứu sinh có những nghiên
cứu khái quát về giá trị tiêu biểu người Việt truyền thống.
Từ những năm 80 của thế kỷ XX, tác giả Trần Văn Giàu trong nghiên
cứu “Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam” [29] đã đưa ra bảng giá trị
của dân tộc Việt Nam gồm 7 giá trị tiêu biểu: Yêu nước, cần cù, anh hùng,
sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Cùng thời gian này, học giả người
Ý là Claude Falazzoli ([Palazzoli Claude 1981) trong cuốn “Việt Nam giữa
hai huyền thoại” nêu 7 giá trị tiêu biểu của người Việt Nam: (1) Ý thức “giữ
phẩm giá, không chịu để mất nó trong bất cứ thử thách nào”; (2) “Nết cần cù
có thể lấp biển”; (3) “Lịch thiệp, tế nhị… khiến cho không khí ở đây không
thô lỗ và nặng nề”; (4) “Một sự tinh tế cố tình chẻ sợi tóc làm tư”; (5) “Tính
dè dặt, kéo dài sự cân nhắc, xét đoán, quyết định”; (6) “Tính thực dụng… khả
năng thích ứng khéo léo và sáng suốt với mọi tình huống”; (7) “Lãng mạn và
đa cảm”.
Nguyễn Duy Bắc trong nghiên cứu “Sự biến đổi các giá trị văn hóa
trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” [3] cho
25
rằng, trong hệ thống giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc ta, giá
trị đạo đức chiếm một vị trí nổi bật, chủ nghĩa yêu nước được khẳng định là
giá trị cốt lõi và các phẩm chất như lòng nhân ái, khoan dung, tính đoàn kết, ý
thức cần cù, tinh thần sáng tạo... được xem là những giá trị phổ biến. Tác giả
khẳng định: biểu hiện rõ nhất là giá trị yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, tạo
động lực thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa, thứ hai là biến đổi giá
trị về dân chủ nhân quyền và pháp quyền. Cùng với quan điểm trên, Mai Thị
Quý trong công trình “Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị truyền
thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” [85] đã chỉ ra thêm
một số giá trị truyền thống dân tộc cần được phát huy trong bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay bao gồm: Giá trị truyền thống yêu nước; Giá trị truyền thống gia
đình; Giá trị truyền thống nhân văn; Giá trị truyền thống đoàn kết; Giá trị
truyền thống hiếu học; Giá trị truyền thống cần cù, tiết kiệm.
Nguyễn Văn Huyên với hai bài viết: “Mấy suy nghĩ về hướng tiếp cận
con người trong chủ nghĩa xã hội” [43] và “Mấy vấn đề đặt ra đối với việc
nghiên cứu con người ở Việt Nam” [44] đã tập trung phân tích những vấn đề
về con người Việt Nam như: phương pháp tiếp cận, một vài thực trạng biến
đổi của con người Việt Nam hiện nay so với trước kia. Trong nghiên cứu của
mình, tác giả đã đưa ra nhiều quan điểm, những trăn trở về con người Việt
Nam trước những tác động của thời đại.
Trong công trình nghiên cứu “Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi
mới và hội nhập quốc tế” [2] của Hoàng Chí Bảo đã phân tích một cách sâu
sắc, thấu đáo văn hóa và văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
ở nước ta nói riêng và văn hóa châu Á, Thái Bình Dương nói chung trong hai
thập niên đầu thế kỷ XXI, qua thực tiễn Đông Nam Á. Qua đó, tác giả khẳng
định rõ, văn hóa dân tộc Việt Nam là cội nguồn, là nền tảng và là mục tiêu
của dân tộc ta trong xây dựng nền văn hóa mới, bảo đảm cho dân tộc ta có vị
thế xứng đáng trong cộng đồng nhân loại, nhằm thực hiện các mục tiêu phát
triển bền vững.
26
Trần Ngọc Thêm trong công trình “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt
Nam” [91], khi áp dụng phương pháp hệ thống- loại hình với thủ pháp “năm
định” đã xác định một hệ thống 5 giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam
bao gồm: (1) Tính cộng đồng (làng xã); (2) Tính ưa hài hòa; (3) Tính trọng
âm; (4) Tính tổng hợp; (5) Tính linh hoạt. Trong công trình này, tác giả cũng
chỉ ra một số tính cách xấu của người Việt như: Bệnh giả dối, nói không đi
đôi với làm, bệnh thành tích, bệnh thiếu ý thức pháp luật... Tác giả trình bày
thêm 15 phẩm chất tính cách cần bổ sung về giá trị người Việt như: Ý thức
pháp luật, tính trung thực thẳng thắn, bản lĩnh cá nhân, tính khoa học, lòng tự
trọng... Có thể nói, đây là công trình tác giả công phu trong việc trình bày các
giá trị của con người Việt Nam được tác giả khảo sát thông qua kết quả điều
tra khảo sát chi tiết. Kế tiếp công trình này, tác giả Trần Ngọc Thêm tiếp tục
luận giải các vấn đề liên quan đến hệ giá trị con người Việt Nam trong nghiên
cứu “Hệ giá trị con người Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con
đường tới tương lai” [92]. Liên quan tới vấn đề hệ giá trị con người Việt
Nam, tác giả của công trình này đã trình bày những giá trị tổng hợp và một số
vấn đề liên quan như: Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; Lòng nhân ái, thương
người; Huyền thoại về tính cần cù. Ông cũng bàn thêm về một số hạn chế của
người Việt truyền thống. Bên cạnh đó, tác giả của công trình đã có những
phân tích về những yếu tố về không gian, lịch sử và bối cảnh thời đại tác động
tới hệ giá trị Việt Nam truyền thống. Tác giả cũng đề xuất 35 giá trị cốt lõi
định hướng trong tương lai với hệ giá trị Việt Nam.
Trong bài viết “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay” [38] của Lương Đình Hải đề xuất 10 giá trị Việt trong xây dựng hệ giá
trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đó là: 1) Tinh thần yêu nước Việt
Nam; 2) Tinh thần nhân ái; 3) Anh hùng, dũng cảm; 4) Biết chấp nhận (nhẫn),
tiếp thu; 5) Hiếu học; 6) Sáng tạo; 7) Cần cù; 8) Lạc quan; 9) Trọng đạo lý;
10) Ưa ổn định. Tác giả cho rằng các giá trị này có những biến động nhưng
chúng không thể biến mất mà đang được tiếp tục củng cố, có những hình thức
biểu hiện mới với những mức độ khác nhau. Tác giả bài viết cũng khẳng định
27
tầm quan trọng của hệ giá trị con người Việt Nam trong sự tồn tại và phát
triển cộng đồng xã hội, song việc xác định các giá trị nào trong hệ giá trị, tác
giả cho rằng công việc đó không hề dễ dàng.
Ngoài các công trình kể trên còn một số công trình liên quan tới hệ giá
trị của con người Việt Nam như: Công trình “Giá trị- định hướng giá trị nhân
cách và giáo dục giá trị” [97] của các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn
Thạc, Mai Văn Trang; Đề tài KHXH 01-10 của Phan Huy Lê và các tác giả
khác nghiên cứu với chủ đề “Chủ nghĩa yêu nước truyền thống và hiện đại”,
Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo trong “Văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay-
vấn đề và giải pháp” [24] của Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo... Các công trình
này đã góp phần làm rõ thêm một số giá trị con người Việt Nam truyền thống
cũng như chỉ ra một số xu hướng biến đổi các giá trị con người Việt Nam
trong bối cảnh mới.
Những công trình nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam xuất
hiện khá sớm. Trong giai đoạn Pháp thuộc bao gồm các nghiên cứu về con
người Việt Nam của học giả người Việt và một số tác giả người Pháp trong
nghiên cứu về Đông Dương. Từ sau năm 1990 trở lại đây, do những tác động
của nhân tố thời đại và thực tiễn xây dựng Đất nước, các nghiên cứu về hệ giá
trị con người Việt Nam bước đầu đa dạng hơn, nhiều đề tài có giá trị, trong đó
có những đề tài đã đặt ra những vấn đề mới về con người Việt Nam, hệ giá trị
con người Việt Nam. Tuy vậy, nhìn lại tổng quan các công trình nghiên cứu
về hệ giá trị con người, về khách quan có thể thấy, các nghiên cứu về hệ giá
trị con người Việt Nam trong điều hiện hội nhập quốc tế hiện nay số lượng
còn còn khiêm tốn.
1.3. Những nghiên cứu về định hướng giá trị của con người Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
Quan niệm hệ giá trị con người Việt Nam thể hiện trong các văn kiện
chủ yếu của Đảng cộng sản Việt Nam như: “Văn kiện hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương khoá VIII (1998) của Đảng Cộng sản Việt Nam” [18]
28
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc nêu rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình
– làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức
tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong
lối sống...” [18, tr.73]. Theo đó, bốn giá trị mà Đảng ta đã xác định là “dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học”. Đây là bốn giá trị có ý nghĩa phổ quát, vừa kế
thừa và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn
hóa thời đại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong Nghị quyết
Trung ương 9 khóa XI [21], giá trị con người Việt Nam được xác định: Phát
triển văn hóa, vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng nền văn hóa,
quan trọng nhất là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt, với
các phẩm chất là yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù,
sáng tạo. Nhìn chung, quan điểm hệ giá trị con người Việt Nam trong các văn
kiện của Đảng cho thấy mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa và các giá trị con
người Việt Nam vừa có điểm tương đồng vừa có điểm khác biệt. Ví dụ như: giá
trị chung của nền văn hóa là nhân văn thì giá trị cốt lõi của người Việt Nam là
lòng yêu thương con người “lá lành đùm lá rách”, trọng đạo lý; giá trị cốt lõi
của người Việt là lòng yêu nước; giá trị chung của nền văn hóa là đề cao khoa
học thì giá trị của con người Việt Nam là đề cao sáng tạo và năng động. Thời
gian gần đây, các vấn đề về xây dựng con người, xây dựng hệ giá trị con
người Việt Nam trong bối cảnh mới ngày càng được quan tâm và đề cập nét
hơn trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Trong văn kiện Đại hội XIII,
Đảng ta đã nhấn mạnh: “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con
người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại” [23, tr.143]. Có thể khẳng định, sự quan tâm này,
29
như đã nói, đã góp phần quan trọng mở đường cho sự phát triển của việc xây
dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Bên cạnh các văn kiện, nghị quyết của Đảng cũng như các chủ trương của
Nhà nước về định hướng xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay, các
nghiên cứu chuyên sâu liên quan tới vấn đề này có thể kể tới như sau:
Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang trong Chương trình
KHCN cấp nhà nước KX-07: Đề tài KX- 07-04: Giá trị- định hướng giá trị
nhân cách và giáo dục giá trị [97], từ việc khái quát kết quả nghiên cứu thực
tiễn về những đặc trưng và xu thế định hướng giá trị của con người Việt Nam
các tác giả nêu những nguyên tắc, nội dung và con đường giáo dục giá trị ở
nước ta hiện nay. Đó là: Nguyên tắc lựa chọn giá trị yêu cầu cần quán triệt
mục đích giáo dục, coi trọng cả những giá trị kế thừa truyền thống lẫn giá trị
hiện đại và chú ý tính đặc thù, xem xét giá trị trong tổng thể hài hòa. Tác giả
nêu lên các giá trị chung cơ bản cần giáo dục cho thế hệ trẻ như: Hòa bình, ổn
định, an ninh đất nước; Độc lập và thống nhất tổ quốc; Tự do và dân chủ;
Lòng nhân đạo, sống có tình nghĩa; Truyền thống hiếu học tôn sư trọng đạo;
Giá trị nghề nghiệp; Tình yêu và cuộc sống... Đồng thời, trong công trình trên,
các tác giả cũng trình bày con đường thực hiện giá trị như: Gia đình, cá nhân
học tập rèn luyện, tác động của môi trường sư phạm; tác động của môi trường
văn hóa xã hội. Đây là công trình có một số vấn đề lý luận liên quan tới luận
án mà nghiên cứu sinh thực hiện.
Công trình “Một số vấn đề lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội”
[100] của tác giả Huỳnh Khái Vinh cũng là một nghiên cứu mang tính định
hướng đối với chương cuối luận án mà nghiên cứu sinh thực hiện. Trong công
trình này, trên cơ sở đề cập tới những vấn đề cơ bản của lối sống, đạo đức,
chuẩn giá trị xã hội, mối quan hệ giữa lối sống, đạo đức với phát triển văn hóa
và con người; sự tác động của nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội tới lối sống,
đạo đức và chuẩn giá trị xã hội... tác giả đã nêu ra thực trạng, phương hướng,
quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội trong
30
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ kinh nghiệm và bài học
thực tiễn ở các nước, tác giả trình bày một số nhóm giải pháp xây dựng lối
sống, đạo đức, chuẩn giá trị cho con người Việt Nam bao gồm: Nhóm giải
pháp về thể chế; Nhóm giải pháp về xã hội; Ngoài ra tác giả còn đề xuất
nhóm giải pháp về giáo dục, nhóm giải pháp đầu tư và hoạt động tổng kết
thực tiễn, khái quát nhận thức khoa học để tìm ra mối quan hệ tương tác nội
tại giữa lối sống đạo đức với tiến trình của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung
sâu vào luận bàn và đưa ra những phương hướng xây dựng lối sống đạo đức
con người Việt Nam, công trình đã giúp luận án các giải pháp bao quát trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội định hướng xây dựng hệ giá trị con người
Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới.
Võ Văn Thắng trong công trình “Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện
nay (từ góc độ văn hóa truyền thống dân tộc” [89] đã phân tích thực trạng và
những vấn đề đang đặt ra trong quá trình kế thừa và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống trong xây dựng lối sống ở Việt Nam, tác giả đề ra phương
hướng, giải pháp kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong
xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay bao gồm: Về phương hướng: Kế thừa
và phát huy các giá trị truyền thống dân tộc trong xây dựng lối sống gắn với
việc phát triển kinh tế- xã hội. Kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống
dân tộc trong xây dựng lối sống gắn với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Về giải pháp: Nâng cao nhận thức về vai trò
của các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc đối với việc xây dựng lối sống
mới; Tạo lập môi trường xã hội lành mạnh, đấu tranh chống nguy cơ làm xói
mòn các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, đồng thời phải hiện đại hóa các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; Xây
dựng và hoàn thiện các thể chế về hoạt động văn hóa nhằm kế thừa và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; Đẩy mạnh công tác bảo tồn, tôn
tạo và khai thác hợp lý các di sản văn hóa truyền thống.
31
Từ góc độ văn hóa, Nguyễn Duy Bắc với công trình “Sự biến đổi các
giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay” [3] đã trình bày một số giải pháp xây dựng những giá trị văn hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm 5 vấn đề
cơ bản: 1) Đẩy mạnh giáo dục giá trị văn hóa truyền thống và cách mạng với các
nội dung và hình thức phù hợp; 2) Kết hợp việc giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống với việc tiếp thu các giá trị khoa học, tiến bộ, nhân văn,
hợp lý của thời đại thông qua giao lưu hợp tác quốc tế; 3) Xây dựng các giá trị
văn hóa mới theo tư tưởng, đạo đức và triết lý phát triển của chủ tịch Hồ Chí
Minh; 4) Hình thành các giá trị văn hóa mới gắn liền với việc đẩy mạnh và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; 5) Đẩy mạnh xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong công trình “Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam” [93]
của Ngô Đức Thịnh đã đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập. Tác giả
đưa ra giải pháp tổng quát: Kiên trì bảo tồn, làm giàu phát huy các giá trị,
bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc, chủ động và tích cực hội nhập, giao
lưu quốc tế, làm cho nền văn hóa Việt Nam ngày càng thể hiện tính dân tộc
và tính hiện đại. Bên cạnh đó, tác giả cũng trình bày hệ thống các giải pháp
bao gồm: Giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức cán bộ và nhân dân về
bảo tồn, làm giàu phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và ý thức chủ
động trong tiếp thu các giá trị tinh hoa nhân loại; Các giải pháp về pháp
luật,chính sách sẽ tạo nên nền tảng pháp lý cho việc bảo tồn, làm giàu, phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống và hội nhập quốc tế; Phát huy giá trị văn
hóa truyền thống; Vai trò của người dân, cộng đồng với tư cách là người chủ
bảo tồn, làm giàu, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và hội nhập quốc
tế; Tạo môi trường lành mạnh, thuận lợi cho việc bảo tồn, làm giàu, phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống và hội nhập hiện đại...
32
Công trình “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam” [91] của Trần Ngọc
Thêm đã tập hợp nhiều quan điểm về định hướng xây dựng hệ giá trị con
người Việt Nam dưới các góc độ khác nhau. Từ góc nhìn văn hóa, Trần Ngọc
Thêm đã khái quát những kinh nghiệm nghiên cứu và xây dựng hệ giá trị của
nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc... Cũng trong công trình
này, Nguyễn Duy Bắc đưa ra 5 định hướng phát huy giá trị đạo đức truyền
thống trong xây dựng đạo đức cách mạng hiện nay: 1) Nâng cao nhận thức về
tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn và tính cấp thiết của việc giữ gìn và phát huy
các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong xây dựng đạo đức cách
mạng thời kỳ đổi mới. 2) Đẩy mạnh “Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những
đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại” như quan điểm của Đảng. 3) Đẩy
mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng văn hóa trong Đảng, nhằm xây
dựng và hoàn thiện đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên. 4) Kết hợp
đức trị và pháp trị trong xây dựng đạo đức cách mạng. 5) Đẩy mạnh phong trào
học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong công trình “Hệ giá trị con người Việt Nam từ truyền thống đến
hiện đại và con đường tới tương lai” [92], Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một
số”con đường” về hệ giá trị Việt Nam như: Vai trò của hệ thống chính trị và
bối cảnh, mục tiêu của hệ giá trị tương lai; Mô hình hệ giá trị định hướng cốt
lõi toàn diện đối chiếu với năm mục tiêu, bốn đặc trưng và bảy giá trị; Mô hình
hệ giá trị định hướng cốt lõi trọng điểm; Các giá trị xã hội trong mô hình hệ giá
trị định hướng cốt lõi trọng điểm. Về phần giải pháp thực hiện con đường xây
dựng hệ giá trị trong thời gian tới, Trần Ngọc Thêm đã đưa ra năm nhóm giải
pháp: về thể chế, về tổ chức, về giáo dục- tuyên truyền, về phát triển.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra những định
hướng và giải pháp quan trọng trong việc xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam trước và sau đổi mới. Tuy nhiên, khách quan có thể thấy các công trình
nghiên cứu trên phần lớn đưa ra những định hướng và giải pháp thiên về góc
độ văn hóa nhằm bảo tồn, xây dựng và phát huy giá trị truyền thống dân tộc,
33
một số công trình có thêm những giải pháp góp phần định hướng giá trị
truyền thống của con người Việt Nam trước thách thức của xu thế toàn cầu
hóa song những công trình này chưa nhiều. Đặc biệt, còn vắng bóng những
công trình nghiên cứu về định hướng giá trị hướng tới phát triển hệ giá trị con
người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
1.4. Giá trị của các công trình đã tổng quan và những vấn đề đặt ra
cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ
Giá trị của các công trình nghiên cứu đã tổng quan trong luận án:
Các công trình nghiên cứu nêu trên có những giá trị mà trong quá trình
nghiên cứu tác giả luận án có thể tham khảo và kế thừa, cụ thể:
Một là, các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ trên nhiều phương
diện khái niệm giá trị, hệ giá trị, hội nhập quốc tế. Trong các công trình này,
hầu hết các tác giả đã chỉ rõ vai trò của giá trị, hệ giá trị trong sự phát triển
của xã hội nói chung và sự phát triển con người nói riêng. Nhiều nghiên cứu
phân tích với những minh họa sinh động, công phu về các đặc tính, phẩm
chất, năng lực của con người Việt Nam trong truyền thống và một số những
thay đổi trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, các công trình nghiên cứu nói
trên cũng trình bày những cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế từ đó đặt
ra những yêu cầu mới của hội nhập quốc tế đối với Việt Nam hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu đó ít nhiều cung cấp cho tác giả những cơ sở lý
luận về giá trị, hệ giá trị, hệ giá trị con người Việt Nam và hội nhập quốc tế
của Việt Nam.
Hai là, trên cơ sở những nghiên cứu lý luận về giá trị, hệ giá trị, hệ giá
trị con người Việt Nam, các tác giả đã bước đầu trình bày những vấn đề thực
trạng trong nghiên cứu hệ giá trị con người Việt Nam. Trong đó các nghiên
cứu về thực trạng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế tuy không nhiều song bước đầu đã có một số nghiên cứu đặt ra những
vấn đề liên quan, gợi mở nhiều vấn đề cho nghiên cứu sinh thực hiện trong
nghiên cứu này.
34
Ba là, các công trình nghiên cứu cũng đã bước đầu làm rõ quan điểm
của Đảng, Nhà nước ta đối với việc xây dựng và phát triển con người cũng
như những định hướng về hệ giá trị con người Việt Nam. Trong đó có một số
quan điểm, Nghị quyết của Đảng đã chỉ ra những yêu cầu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó đề ra một số
định hướng đối với phát triển con người, hệ giá trị con người Việt Nam hiện
nay. Đây là những cơ sở giúp nghiên cứu sinh khái quát, tìm ra những định
hướng giá trị nhằm xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện
hội nhập quốc tế.
Những nội dung mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ
Bên cạnh những giá trị nhất định về mặt khoa học của các công trình
nghiên cứu đã tổng quan nêu trên đối với đề tài luận án, dưới góc độ nghiên
cứu của đề tài luận án, có một số vấn đề cần phải tiếp tục làm sáng tỏ thêm từ
các nghiên cứu như sau:
Một là, hiện nay hầu hết các công trình chưa thống nhất các giá trị cốt
lõi, đặc trưng của con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Hầu
hết các nghiên cứu từ xưa tới nay đồng nhất các giá trị con người với các giá
trị văn hóa. Điều này có cơ sở, bởi vì “nói đến văn hóa là nói đến con người,
không có thứ văn hóa nào không thuộc về con người, không liên hệ gì đến
con người” [85, tr.190]. Tuy vậy, việc nêu ra các giá trị đặc trưng, cốt lõi của
con người Việt Nam một cách thống nhất hiện nay vẫn cần thiết vì từ các giá
trị này chúng ta có những căn cứ về khả năng đáp ứng các yêu cầu hội nhập
quốc tế của con người Việt Nam hiện nay. Từ đó hình thành hệ giá trị con
người Việt Nam thống nhất.
Hai là, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về phát triển con
người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, tuy vậy những nghiên cứu về những giá trị tiêu biểu và một số vấn đề
đặt ra trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế
hầu như chưa được bàn tới. Trên thực tế, hiện nay ở Việt Nam cần có thêm
35
những nghiên cứu về vấn đề này bởi lẽ đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc.
Ba là, trong các nghiên cứu của tổng quan đã xuất hiện một số giải
pháp, định hướng về phát triển con người, về định hướng giá trị cho một số
đối tượng cụ thể như: Học sinh, sinh viên, công nhân... Một số các nghiên cứu
đưa ra giải pháp, định hướng về vấn đề bảo vệ các giá trị truyền thống trước
ảnh hưởng của toàn cầu hóa, quốc tế hóa. Tuy nhiên, nghiên cứu về định
hướng giá trị nhằm phát triển hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện
hội nhập quốc tế hầu như chưa được đề cập tới.
Có thể khẳng định, các công trình nghiên cứu đã nêu trong tổng quan
có giá trị khoa học rất lớn đối với luận án. Đó là những cơ sở lý luận quan
trọng gợi mở các vấn đề để tác giả tiếp tục nghiên cứu trong luận án này.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay có rất nhiều vấn đề đặt ra với các
quốc gia, trong đó những vấn đề về con người, hệ giá trị con người vẫn luôn
là một đề tài hấp dẫn, mới mẻ. Sau hơn 30 năm Đổi mới, con người Việt Nam
đã có những bước chuyển biến lớn lao, trong giai đoạn hội nhập quốc tế mạnh
mẽ như hiện nay, con người Việt Nam đứng trước hàng loạt những vấn đề
mới của thực tiễn. Việc nghiên cứu vấn đề xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam hiện nay để từ đó có những định hướng nhằm phát huy sức mạnh cũng
một số hạn chế trong thực trạng xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong
bối cảnh mới. Điều này thực sự là cần thiết. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa các kết
quả nghiên cứu của những người đi trước, tác giả luận án đã chọn vấn đề này
làm đề tài nghiên cứu. Hướng nghiên cứu của đề tài luận án sẽ tập trung giải
quyết một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, nghiên cứu làm rõ mặt lý luận về giá trị, hệ giá trị, hệ giá trị
con người Việt Nam và khái quát những giá trị tiêu biểu của con người Việt
Nam truyền thống.
36
Hai là, nghiên cứu làm rõ một số đặc thù của hội nhập quốc tế của Việt
Nam, một số tác động và yêu cầu của hội nhập quốc tế đến vấn đề xây dựng
hệ giá trị con người Việt Nam.
Ba là, phân tích những chuyển biến hệ giá trị con người Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra. Từ đó, khái quát các
giá trị con người Việt Nam phù hợp với thực tiễn hội nhập quốc tế.
Bốn là, đề xuất một số định hướng giá trị nhằm phát triển hệ giá trị con
người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
Nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay để phát huy sức
mạnh con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước,
hội nhập quốc tế là đòi hỏi cần thiết xuất phát từ thực tiễn hiện nay. Thực hiện
đề tài này nghiên cứu sinh mong muốn góp phần vào nhiệm vụ trên.
37
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ GIÁ TRỊ
CON NGƯỜI VIỆT NAM
2.1. Giá trị, phân loại giá trị
2.1.1. Giá trị
Quan niệm về giá trị ra đời sớm trong lịch sử. Ngay từ thời cổ đại, một
số triết gia ở phương Tây cũng như ở phương Đông bước đầu đã có những
tranh luận sôi nổi các vấn đề liên quan tới giá trị như: cái thiện- cái ác, cái
đẹp- cái xấu, chân lý- sai lầm… Trong đó trục ba giá trị Chân-Thiện- Mỹ luôn
được coi là giá trị tổng quát nhất. Đến thế kỷ XIX, những nghiên cứu về giá
trị tách riêng thành chuyên ngành độc lập với tên gọi là Giá trị học
(Axiology). Cùng với đó, thuật ngữ giá trị cũng chính thức được dùng để chỉ
một khoa học. Axiology hay là Giá trị học về thực chất là nghiên cứu triết học
về bản chất của Giá trị. Và sự xuất hiện của giá trị học trong triết học phương
Tây cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX được ví coi là sự cố gắng giải quyết các
vấn đề phức tạp của triết học - những vấn đề có liên quan đến vấn đề giá trị
nói chung. Trong vài chục năm trở lại đây, khái niệm giá trị được sử dụng
rộng hơn trong nhiều ngành khoa học, vì thế, hiện nay có nhiều cách tiếp cận
khác nhau.
Trong kinh tế học, phạm trù giá trị được dùng một cách đặc thù, gắn với
hàng hóa, giá trị được dùng để chỉ công năng, thuộc tính của vật phẩm khi sản
xuất ra và khi đem ra trao đổi. Và giá trị sử dụng trong kinh tế học phản ánh giá
cả ở nơi mua bán và giá thành ở nơi sản xuất, thể hiện ý nghĩa của quan hệ tiền-
hàng trên phương diện phù hợp với nhu cầu của con người. Trong kinh tế học,
khi nói đến giá trị kinh tế của sự vật thông thường có liên quan mật thiết đến ba
mặt chính yếu là: sản xuất, tiêu thụ, sở hữu của chủ thể kinh tế. Giá trị kinh tế
thể hiện sức mạnh của vật này so với vật khác khi đem ra trao đổi, mua bán. Vì
thế khi vật có giá trị hay vật mang giá trị tức là vật có khả năng đáp ứng được
38
những nhu cầu, lợi ích của người tiêu dùng. Tuy vậy, không nhất thiết vật có
giá trị bao giờ cũng có giá cả cao hơn trên thị trường.
Khi nghiên cứu về về hai thuộc tính của hàng hóa trong nền kinh tế
hàng hóa Tư bản chủ nghĩa, C.Mác sử dụng khái niệm giá trị để phân biệt với
giá trị sử dụng. Giá trị hàng hóa biểu hiện thông qua giá trị trao đổi. Nó biểu
hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì trao đổi hàng
hóa là so sánh lượng hao phí lao động giữa những người sản xuất hàng hóa.
Chất của giá trị là lao động, nên sản phẩm không chứa đựng lao động thì
không có giá trị. Sản phẩm chứa đựng nhiều lao động để tạo ra thì có giá trị
cao. Nhấn mạnh tới giá trị lao động, Mác cho rằng lao động có một sức sản
xuất đặc biệt, hoạt động là một lao động được nhân lên cấp số nhân, hay là
trong một khoảng thời gian như nhau, nó tạo ra một giá trị cao hơn so với một
lao động giá trị trung bình cùng loại. Tuy không đi sâu nghiên cứu về giá trị
và chỉ dùng khái niệm giá trị để phân biệt với giá trị sử dụng trong sản xuất
hàng hóa nhưng bước đầu C.Mác cũng đã đặt vấn đề trong kinh tế học về việc
xem xét giá trị trong mối tương quan giữa vật thể- hàng hóa (khách quan) với
nhu cầu (chủ quan) của con người.
Khuynh hướng phổ biến hơn cả là tiếp cận giá trị trong nghiên cứu Giá
trị học. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này trên thế giới có ba hình thái cơ
bản: Thứ nhất là học thuyết duy tâm - khách quan (Chủ nghĩa Kant mới, M.
Scheler và N. Hartmann, chủ nghĩa Thomas mới, Chủ nghĩa trực giác) kiến
giải giá trị như là bản chất nhiều mặt nằm ngoài không gian và thời gian.
Theo quan niệm của trường phái này thì các giá trị như chân, thiện, mỹ… tồn
tại trước, sẵn có và độc lập với chủ thể con người đánh giá, thực chất họ đã
coi giá trị là đặc tính riêng biệt của chính khách thể nhưng lại phủ nhận tính
tích cực của chủ thể trong việc đánh giá các giá trị. Thứ hai là những người
ủng hộ học thuyết duy tâm chủ quan về giá trị (Chủ nghĩa thực chứng logic,
Chủ nghĩa duy cảm, sự phân tích ngôn ngữ trong đạo đức học, lý thuyết kích
động - bóng chuyền…) thì lại xem xét giá trị chỉ như là những hiện tượng của
ý thức, nhìn nhận ở giá trị sự xuất hiện của các trạng thái tâm lý, các quan hệ
39
chủ quan giữa con người với khách thể được họ đánh giá. Khuynh hướng này
xem xét giá trị không phải từ hiện thực khách quan mà từ ý chí, từ đánh giá
hay nhận thức của chủ thể. Thứ ba là các học thuyết tự nhiên chủ nghĩa về giá
trị (lý thuyết về nhu cầu, đạo đức học tiến hóa, mục đích luận vũ trụ về đạo
đức) kiến giải giá trị như là sự biểu hiện của nhu cầu tự nhiên của con người
hay là các quy luật của tự nhiên nói chung. Xu hướng này được nhiều nhà
triết học nhị nguyên ủng hộ.
Nghiên cứu về bản chất của giá trị, các nhà triết học hậu mácxít xem xét
giá trị trong tính tổng thể của nó. Trong từ điển Triết học do M.Rôdentan và
P.Iudin [86], định nghĩa về giá trị được đưa ra như sau: “Những khẳng định xã
hội đặc biệt về những đối tượng của thế giới xung quanh, biểu hiện các ý nghĩa
tích cực hay tiêu cực của những đối tượng ấy đối với con người và xã hội (hạnh
phúc, lương thiện, cái ác, cái đẹp và cái xấu, thể hiện ra trong các hiện tượng
của đời sống xã hội hoặc của thiên nhiên)” [86, tr.463]. Định nghĩa này cho
thấy, giá trị được xem xét trong sự thống nhất giữa chủ thể và khách thể thông
qua việc đánh giá của chủ thể. Đồng thời cũng cho thấy việc nảy sinh giá trị bắt
nguồn từ chính nhu cầu của con người và đến lượt mình, giá trị góp phần vào
việc định hướng các hoạt động sống của con người.
Ở Việt Nam, trong mấy chục năm trở lại đây, nhiều tác giả đã nghiên
cứu giá trị theo quan điểm của giá trị học. Theo Phạm Minh Hạc: “1.Giá trị là
sản phẩm tinh thần của con người, nhóm người, cộng đồng dân tộc và loài
người làm ra; 2. Giá trị là phẩm giá, phẩm chất của con người, nhóm người,
cộng đồng, dân tộc và loài người; 3. Giá trị là biểu hiện mối quan hệ của con
người dưới góc độ lợi ích, đánh giá đối với tồn tại xung quanh” [36, tr.13].
Trong định nghĩa này, tác giả đã gắn việc nghiên cứu giá trị với hoạt động
tâm lý của con người, đặc biệt là “tính chủ thể”. Tính chủ thể thể hiện ở mục
đích của hoạt động bao giờ cũng hướng đến cái mà mình coi là có giá trị. Khi
đưa ra định nghĩa về giá trị, tác giả cũng đề cập đến thái độ giá trị bởi lẽ, theo
tác giả, giá trị thể hiện sự đánh giá, tìm ra ý nghĩa của sự vật này, sản phẩm kia
mà chủ thể quan tâm tới, có ước muốn đạt được một mục đích nào đấy, đồng
40
thời giá trị bộc lộ thái độ hay hệ thống thái độ của từng người đối với thế giới
xung quanh. Theo ông, cao hơn thái độ, giá trị còn bộc lộ nhân cách của chủ thể.
Tuy không phủ nhận thuộc tính khách quan của giá trị song khi đưa ra định
nghĩa về giá trị, tác giả Phạm Minh Hạc thiên về việc nhấn mạnh dấu ấn chủ thể
trong việc xem xét đánh giá và tìm ra ý nghĩa của sự vật.
Trong công trình “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và
con đường tới tương lai” [92], tác giả Trần Ngọc Thêm quan niệm về giá trị
như sau: “Giá trị là tính chất của khách thể, được chủ thể đánh giá là tính tích
cực xét trong so sánh với các khách thể khác cùng loại trong một bối cảnh
không gian- thời gian cụ thể” [92, tr.39]. Với định nghĩa này, tác giả Trần
Ngọc Thêm đã chỉ ra một số vấn đề khi xem xét giá trị: Thứ nhất, giá trị mang
tính khách quan, bởi vì nói đến giá trị là không thể bỏ qua những thuộc tính,
phẩm chất của bản thân đối tượng đó. Thứ hai, giá trị thể hiện đánh giá, nhận
thức, sở thích, thói quen… của chủ thể đánh giá nên giá trị mang tính chủ
quan. Thứ ba, xem xét giá trị phải đặt trong mối tương quan giữa đối tượng
(khách thể) với chủ thể và quan hệ giữa đối tượng đang được xem xét với các
đối tượng khác cùng loại. Khi đưa ra định nghĩa về giá trị, tác giả Trần Ngọc
Thêm cũng đặt ra yêu cầu không chỉ so sánh giữa các đối tượng được đánh
giá với các đối tượng khác cùng loại mà còn phải “định vị” nó trong tính lịch
sử cụ thể của nó (bối cảnh không gian- thời gian).
Một số các tác giả đồng nhất giá trị với các mặt tích cực, mặt ý nghĩa
của giá trị với sự vận động và phát triển của con người và xã hội. Tiêu biểu
cho hướng này có ý kiến của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn. Theo ông: “Nói
đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là bao
trùm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, hay
nói đến cái khả năng thôi thúc con người hành động nỗ lực vươn tới” [5,
tr.16]. Ông cũng nhấn mạnh khi nghiên cứu giá trị cần phải chú ý đến mặt xã
hội và thực tiễn- lịch sử cụ thể, đến tính nhận thức được noi theo và khả năng
của giá trị thúc đẩy con người hành động nhằm duy trì, bảo vệ hoặc nỗ lực đạt
được giá trị. Như vậy, xét ở một khía cạnh nào đó có thể quan niệm giá trị thể
41
hiện sự đánh giá tích cực của con người với các sự vật, hiện tượng, nó có vai
trò thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Trong thời gian gần đây, một định nghĩa về giá trị của từ điển Bách
khoa triết học Nga được nhiều học giả có sử dụng, nội dung này như
sau: “Giá trị là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu triết học và
xã hội học dùng để chỉ ý nghĩa văn hóa và xã hội của các hiện tượng. Về thực
chất, toàn bộ sự đa dạng của hoạt động người, của các quan hệ xã hội, bao
gồm cả những hiện tượng tự nhiên có liên quan, có thể được thể hiện là các
“giá trị khách quan” với tính cách là khách thể của quan hệ giá trị, nghĩa là,
được đánh giá trong khuôn thước của thiện và ác, chân lý và sai lầm, đẹp và
xấu, được phép và cấm kỵ, chính nghĩa và phi nghĩa, v.v.. Khi định hướng đối
với hoạt động của con người, phương thức và tiêu chuẩn được dùng làm thể
thức đánh giá sẽ định hình trong ý thức xã hội và trong văn hóa thành các “giá
trị chủ quan” (bảng đánh giá, mệnh lệnh và những điều cấm, mục đích và ý
đồ... được thể hiện dưới hình thức các chuẩn mực). Giá trị khách quan và giá
trị chủ quan là hai cực của quan hệ giá trị của con người với thế giới” [86,
tr.732-733]. Trong định nghĩa này, giá trị trước hết mang ý nghĩa văn hóa và
xã hội của các hiện tượng, nghĩa là giá trị không phải là cái gì cao lớn, vĩ đại
hay thấp bé, nó là cái mà con người tìm thấy ý nghĩa của nó trong đời sống
của con người và xã hội loài người. Giá trị là sản phẩm của hoạt động sáng
tạo của con người trong lịch sử, phản ánh trình độ phát triển của xã hội. Giá
trị được kết tinh trong những di sản văn hóa, tinh thần của cộng đồng, dân tộc,
tôn giáo… hình thành nên các chuẩn mực, khuôn mẫu, hành vi được cá nhân
và cộng đồng xã hội thừa nhận, tuân thủ tương đối lâu dài. Thêm nữa, định
nghĩa này cũng đặt ra vấn đề xem xét giá trị trong mối tương quan giữa chủ
thể và khách thể. Cụ thể, trong đời sống xã hội, giá trị khách quan được thể
hiện cụ thể ở các phương diện như thiện và ác, chân lý và sai lầm, đẹp và xấu,
được phép và cấm kỵ, chính nghĩa và phi nghĩa… Giá trị chủ quan được thể
hiện cụ thể qua các bảng đánh giá, mệnh lệnh và những điều cấm, mục đích
và ý đồ….
42
Như vậy, có thể thấy, giá trị là một khái niệm tương đối phức tạp, với
tư cách là một khái niệm khoa học đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau. Trên
cơ sở kế thừa các nghiên cứu đi trước, chúng tôi cho rằng về cơ bản giá trị có
những nội dung như sau:
Thứ nhất, giá trị bao hàm ý nghĩa của sự vật hiện tượng có khả năng
thỏa mãn những nhu cầu tích cực của con người và góp phần thúc đẩy sự phát
triển của xã hội. Sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính, phẩm chất khác nhau,
song khi nói tới giá trị thường bao hàm ý nghĩa tích cực với con người và xã
hội con người.
Thứ hai, giá trị tồn tại trong mối tương quan giữa chủ thể và khách thể.
Tính khách quan của giá trị thể hiện ở chỗ: giá trị nằm trong bản thân mỗi sự
vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Tính chủ quan thể hiện ở sự đánh
giá, xem xét, thừa nhận các giá trị của con người, hay nói cách khác, chính là
sự quan tâm của con người tới thế giới khách quan. Do vậy, không có giá trị
nào chung chung, trừu tượng nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng cũng như
tách rời khỏi những nhu cầu của con người.
Thứ ba, giá trị mang tính lịch sử khách quan nghĩa là sự tồn tại hay mất
đi của mỗi giá trị đều gắn liền với sự tồn tại xã hội sản sinh ra nó, đặc biệt là
hoạt động thực tiễn của con người. Mặc dù giá trị có tính ổn định nhất định,
song sự tồn tại của giá trị không phải là vĩnh viễn, bản thân mỗi giá trị luôn
gắn với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mỗi sự thay đổi của tồn tại
xã hội đều có ảnh hưởng tới thang bậc, vị trí hay sự tồn tại của giá trị. Trong
thực tế có những giá trị tồn tại tương đối ổn định, bền vững, song cũng có
những giá trị bị mất đi khi tồn tại xã hội thay đổi. Do đó, khi xem xét mỗi giá
trị hay các giá trị trong bảng giá trị cần chú ý tới nguyên tắc lịch sử cụ thể.
Thứ tư, giá trị là yếu tố cốt lõi của văn hóa con người, xã hội con
người. Bản thân mỗi giá trị luôn bao hàm những nhu cầu, mong muốn,
nguyện vọng của cá nhân hay nhóm người, cộng đồng người và những
nguyện vọng này có ảnh hưởng rất lớn tới phương thức tư duy của một cộng
đồng, dân tộc. Những đối tượng (nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng) khi
43
được con người lựa chọn thì chúng “không nằm yên, mà nó chỉ đạo con người
hoạt động và để lại những sản phẩm, những hậu quả, những dấu vết dưới dạng
vật chất hay tinh thần” [35, tr.77], tức là hình thành nên cấu trúc văn hóa.
Trên cơ sở các định nghĩa và các quan niệm đã trình bày ở trên, trong
trong luận án này, nghiên cứu sinh xin nêu định nghĩa của mình về khái niệm
giá trị để cấu tạo khung lý thuyết cho nghiên cứu của mình như sau: Giá trị là
một phạm trù triết học dùng để chỉ ý nghĩa của sự vật, hiện tượng, quá trình
của tự nhiên, xã hội và tư duy đối với con người và đời sống con người. Giá
trị chỉ xuất hiện và tồn tại trong mối quan hệ chủ - khách thể của đời sống xã
hội. Giá trị mang tính khách quan khi nó phản ánh hiện thực, tạo thành hệ
thống các giá trị khách quan và mang tính chủ quan, khi nó tồn tại dưới dạng
các giá trị chủ quan, đảm nhận chức năng là chuẩn mực đánh giá và định
hướng đối với hoạt động người.
2.1.2. Phân loại giá trị
Trong nghiên cứu giá trị, tùy theo đối tượng và phạm vi khác nhau mà
có nhiều cách phân loại giá trị khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu văn hóa học,
tác giả Ngô Đức Thịnh trong công trình “Những giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam” [93] phân chia giá trị thành hai loại: Giá trị cá nhân và giá trị xã
hội. Theo ông, giá trị cá nhân cũng là sự biểu hiện của giá trị xã hội vì thông
qua giá trị cá nhân có thể nhận biết được giá trị xã hội. Theo cách phân chia
này chúng ta có thể hiểu như sau: giá trị cá nhân là sự tự ý thức của cá nhân
về các giá trị xã hội. Đó là cách cá nhân xem xét, đánh giá các hiện tượng xã
hội và hình thành nên giá trị cho bản thân mình để phù hợp với xu hướng vận
động, phát triển của xã hội. Giá trị xã hội là những giá trị cơ bản trong xã hội,
nó là sự tổng hợp chọn lọc của nhiều giá trị cá nhân, nhóm người. Các giá trị
cá nhân thường không thể tách biệt hay xung đột với giá trị xã hội, bởi như
C.Mác nói, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội. Tác giả
Trần Ngọc Thêm trong công trình “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến
hiện đại và con đường tới tương lai” [93] cho rằng, hệ giá trị được tạo thành
bởi toàn bộ các giá trị của một khách thể cùng với quan hệ của chúng. Do đó,
44
theo ông, giá trị được phân chia thành các loại như sau: giá trị văn hóa, giá trị
con người, giá trị thực tế, giá trị định hướng và giá trị cốt lõi.
Trong thời gian gần đây, có một số ý kiến đưa ra phân loại giá trị thành
hai loại: các giá trị văn hóa và các giá trị chuẩn mực con người Việt Nam.
Giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa, được sáng tạo và kết tinh trong
quá trình lịch sử. Giá trị văn hóa hướng đến những nhu cầu và khát vọng của
cộng đồng về những điều tốt đẹp (chân, thiện, mỹ), từ đó bồi đắp và nâng cao
bản chất Người. Chính vì vậy mà văn hóa thông qua hệ giá trị góp phần điều
tiết sự phát triển của xã hội. Giá trị con người là những giá trị thể hiện phẩm
chất, đạo đức, năng lực con người; là những đánh giá về con người thông qua
các mối quan hệ với xã hội và với môi trường tự nhiên xung quanh. Trong giá
trị con người, những giá trị mang tính nguyên tắc, trở thành tiêu chuẩn, khuôn
mẫu, được các thành viên trong xã hội thừa nhận để hướng tới thì trở thành
giá trị con người chuẩn mực. Tuy vậy, chúng tôi cho rằng, khó có thể phân
định tách bạch “giá trị văn hóa” và “giá trị con người”, điều này do sự thống
nhất nội tại giữa văn hóa và con người quy định. Bởi lẽ, nói đến văn hóa là
nói đến con người, không có thứ văn hóa nào không thuộc về con người,
không liên hệ gì đến con người. Thêm nữa, giá trị con người không phải là
một thành tố độc lập bên cạnh giá trị văn hóa, ngang hàng với giá trị văn hóa
mà thực chất nó là một bộ phận (mang tính cốt lõi) của giá trị văn hóa, nằm
trong giá trị văn hóa. Do vậy, theo nghiên cứu sinh, không nên tách bạch giá
trị văn hóa và giá trị con người.
Qua tham khảo, tìm hiểu các công trình nghiên cứu và tình hình thực
tiễn ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam, theo chúng tôi, có thể chia giá trị
thành ba bộ phận: giá trị vật chất, giá trị tinh thần và giá trị con người. Trong
đó giá trị vật chất bao gồm sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con
người. Giá trị vật chất hay còn được gọi là giá trị tự nhiên bao gồm môi
trường, phong cảnh, nguồn tài nguyên… Giá trị tinh thần bao gồm những thỏa
mãn tinh thần của con người. Giá trị tinh thần được phân chia thành: giá trị
đạo đức, giá trị khoa học, giá trị thẩm mỹ, giá trị pháp luật, giá trị tôn giáo.
45
Giá trị con người được đánh giá là giá trị cao nhất trong các giá trị, bởi tất cả
giá trị đều do con người làm ra và đều là đối tượng hưởng thụ của con người.
Tuy nhiên, sự phân loại như trên chỉ có tính tương đối vì các giá trị đều có
liên hệ chặt chẽ với nhau, đều góp phần định hướng con người đến những
điều tốt đẹp. Thêm nữa, các giá trị tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với nhu
cầu của con người, nó là sự đánh giá xem xét của chủ thể nhận thức với
những sự vật, hiện tượng hay quá trình có ý nghĩa với sự tồn tại và phát triển
của con người.
2.2. Hệ giá trị và hệ giá trị con người Việt Nam
2.2.1. Hệ giá trị
Từ những năm 70 của thế kỷ XX Milton Rokeach (1918- 1988) đã định
nghĩa hệ giá trị như sau: “Hệ thống giá trị là một tổ chức thông thái (a
learning organization) của các nguyên tắc và quy tắc giúp một người lựa
chọn, giải quyết mâu thuẫn và đưa ra quyết định” [Trích theo 91, tr.49].
Những nghiên cứu về giá trị học của Milton Rokeach có ảnh hưởng tới khá
nhiều nhà nghiên cứu về giá trị trong thế kỷ XX. Quan điểm của ông thiên về
việc xem xét giá trị gắn với hành vi, thái độ của con người trong xã hội nên
khi định nghĩa về hệ giá trị ông chú ý tới nhiều tới mặt chức năng của hệ giá
trị. Chức năng này, theo ông, là giúp chủ thể giải quyết mâu thuẫn và đưa ra
quyết định với các vấn đề của xã hội.
Ở Việt Nam, người có công đề xướng nghiên cứu các vấn đề giá trị, hệ
giá trị là tác giả Phạm Minh Hạc. Ông xác định: “Hệ giá trị là các giá trị của
một tập hợp người như dân tộc, thế giới, vùng, gia đình, bản thân” [36, tr.30].
Bên cạnh định nghĩa trên về hệ giá trị, định nghĩa của tác giả Hồ Sĩ Quý cũng
được nhiều tác giả ở Việt Nam sử dụng. Theo ông, hệ giá trị “được hiểu là
thuật ngữ / khái niệm dùng để chỉ một tập hợp các giá trị, được thể hiện dưới
dạng các phẩm chất, các nguyên tắc, các lý tưởng, và cả các triết lý… định
hướng cho hoạt động của một công ty, một hãng, một doanh nghiệp, một viện
nghiên cứu, một trường đại học, một khách sạn, hay một ngành hoạt động…
thuộc các lĩnh vực thương mại, công nghiệp, dịch vụ, sản xuất và đôi khi cả
46
trong các lĩnh vực thuộc xã hội, giáo dục, quân sự, chính trị, tôn giáo…” [83,
tr.191]. Từ góc độ xem xét giá trị là tính chất của khách thể và sử dụng thuật
ngữ hệ giá trị với nghĩa coi trọng cách thức tổ chức, quan hệ giữa các giá trị
cũng như vị trí của từng giá trị, tác giả Trần Ngọc Thêm cũng đưa ra khái
niệm về hệ giá trị như sau: “Hệ giá trị là toàn bộ các giá trị của một khách thể
trong bối cảnh không gian- thời gian xác định cùng với mạng lưới các mối
quan hệ của chúng” [91, tr.51]. Định nghĩa này của tác giả Trần Ngọc Thêm đã
chỉ rõ một số vấn đề đặc trưng về hệ giá trị như: hệ giá trị phải gắn với một chủ
thể sở hữu cụ thể; Hệ giá trị phải thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu đối với một hệ
thống; hệ giá trị có các mối quan hệ giữa các giá trị; hệ giá trị luôn bị chi phối bởi
bối cảnh không gian- thời gian, chủ thể và thời gian…
Qua tham khảo, tìm hiểu các công trình nghiên cứu và tình hình thực
tiễn ở nước ngoài, có thể thấy một số cách xác định hệ giá trị như sau:
Một là, xác lập một hệ giá trị chung, mang tính phổ quát cao. Loại hệ
giá trị này thường được xem là hệ giá trị quốc gia, hay của liên minh quốc gia,
thậm chí của cả châu lục. Ví dụ, hệ giá trị phương Tây được xác định gồm 7
giá trị cốt lõi: Công bằng và chính nghĩa; Quyền/ Quyền lợi; Bình đẳng; Tự
do; Khoan dung; Tự trị/ Tự lập; Dân chủ. Hệ giá trị châu Âu có 5 giá trị được
coi trọng nhất là: Hòa Bình; Dân chủ; Nhân quyền; Tuân thủ pháp luật; Tinh
thần đoàn kết. Hệ giá trị truyền thống Nhật Bản gồm 8 giá trị: Đoàn kết; Kỷ
luật; Nhẫn nại; Trung thành; Trách nhiệm; Lịch sự; Tự chủ, Tránh làm phiền
người khác, v.v...
Hai là, chia thành 2 loại giá trị: giá trị cá nhân và giá trị xã hội. Theo
D.I.Hitchcock, 6 giá trị xã hội quan trọng nhất của người Mỹ là: Tự do ngôn
luận; Hòa hợp xã hội; Quyền cá nhân;Tự do tranh luận; Suy nghĩ về bản
thân; Quan chức có trách nhiệm và 5 giá trị cá nhân quan trọng nhất: Tự lực
cánh sinh; Thành đạt cá nhân; Cần cù; Thành công trong cuộc sống; Giúp đỡ
mọi người [Trích theo 80, tr.133].Tương tự thì châu Á cũng có các giá trị xã
hội và giá trị cá nhân của mình.
47
Ba là, đưa ra một hệ giá trị chung, nhưng phân thành 3 cấp độ: giá trị
quốc gia, giá trị xã hội và giá trị cá nhân. Năm 2013, Trung Quốc đã công bố
“Hệ giá trị cốt lõi xã hội chủ nghĩa mới” gồm 12 giá trị, nhóm lại theo 3 lĩnh vực:
Lĩnh vực quốc gia có 4 giá trị: thịnh vượng, dân chủ, văn minh, hài hòa; lĩnh vực
xã hội có 4 giá trị: tự do, bình đẳng, công bằng, pháp trị; lĩnh vực cá nhân có 4 giá
trị: yêu nước, trọng nghề, thành tín, thân thiện [Trích theo 105, tr.107].
Kế thừa những quan niệm về hệ giá trị nói trên, chúng tôi cho rằng: Hệ
giá trị là khái niệm dùng để chỉ tập hợp các giá trị của một chủ thể về các đối
tượng cần được nhận thức, đánh giá, sắp xếp, hệ thống hóa theo nguyên tắc
và trình tự nhất định đáp ứng nhu cầu nhận thức, hoạt động của chủ thể đó.
Hệ giá trị thực hiện chức năng thế giới quan và nhân sinh quan định hướng
chủ thể trong hoạt động sống của mình.
Từ cách hiểu này, theo chúng tôi hệ giá trị có một số đặc trưng cơ bản
như sau:
+ Hệ giá trị mang tính lịch sử- cụ thể: Mỗi một giá trị trong hệ thống
giá trị tồn tại, biến đổi luôn gắn với điều kiện lịch sử cụ thể. Do đó, khi đánh
giá, xem xét và nhận diện các hệ giá trị phải đặt chúng vào từng bối cảnh
không gian- thời gian xác định hoặc gắn với một chủ thể nhất định, không có
hệ giá trị chung chung trừu tượng mà hệ giá trị luôn gắn với đối tượng cụ thể,
ví như hệ giá trị Việt Nam, hệ giá trị Trung Quốc, hệ giá trị phương Tây…Và
tất nhiên, những biến đổi của các yếu tố lịch sử xã hội luôn làm cho các hệ giá
trị có những thay đổi nhất định, vì thế ngay trong hệ giá trị có giá trị biến đổi
mạnh, có giá trị biến đổi ít, có những giá trị trường tồn…
+ Hệ giá là tổ hợp các giá trị được sắp xếp một cách hệ thống theo trình
tự nhất định. Như cách của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, hệ giá trị không
phải là sự tập hợp các giá trị một cách “đơn giản và thô thiển”. Trên thực tế,
hệ giá trị của một dân tộc cũng như của mỗi người luôn chịu sự tác động, quy
định của tồn tại xã hội và mang tính lịch sử sâu sắc. Là một hình thái của ý
thức xã hội, bất cứ hệ giá trị nào đều gắn liền với cơ sở kinh tế- xã hội sản
sinh ra nó, có thể xem hệ giá trị như tấm gương phản chiếu xã hội qua các giai
48
đoạn lịch sử. So với các giá trị khác trong hệ giá trị của dân tộc thì giá trị văn
hóa được coi là phần quan trọng nhất, chính vì lẽ này một số người vẫn đồng
nhất hệ giá trị của dân tộc với hệ giá trị văn hóa của nó. Và, trong bản thân
mỗi cơ sở kinh tế- xã hội nhất định luôn diễn ra sự đấu tranh và thống nhất
các giá trị trong hệ giá trị giá. Quá trình này dẫn tới việc chuyển đổi các giá trị
trong hệ giá trị. Việc chuyển đổi các giá trị trong hệ giá trị có thể diễn ra
nhanh hoặc chậm, thông thường nó biến đổi chậm hơn so với sự thay đổi của
tồn tại xã hội. Bản thân các giá trị trong hệ giá trị không phải là sự cố định
vĩnh viễn, nó luôn bị chi phối bởi các bối cảnh không gian-thời gian, lịch sử
văn hóa, sự phát triển kinh tế- xã hội và các mối quan hệ của khách thể. Gắn
với cơ sở kinh tế- xã hội nhất định, song nhìn chung việc chuyển đổi các giá
trị trong hệ giá trị không chỉ được tạo ra do cách mạng xã hội, đôi khi trong
những điều kiện bình thường vẫn có thể dẫn đến sự ra đời những giá trị mới
hoặc thay đổi vị trí giá trị trong hệ giá trị. Bởi lẽ sự tồn tại của giá trị luôn gắn
với nhu cầu của con người, khi nhu cầu thay đổi thì dẫn đến sự chuyển đổi
các giá trị là tất yếu. Chính vì thế, đối chiếu các giá trị trong hệ giá trị qua
từng thời kỳ chúng ta thấy có những giá trị tồn tại lâu dài, có những giá trị
mất đi hoặc có những giá trị bị thay đổi vị trí trong thang bậc của hệ giá trị.
Thông thường sự tồn tại hay mất đi của các giá trị trong hệ giá trị do lợi ích
của các chủ thể xã hội quyết định. Khi những giá trị nào đó phù hợp với lợi
ích của chủ thể xã hội nó được giữ lại, phát triển; ngược lại nó sẽ bị loại bỏ
khi không phù hợp hoặc được điều chỉnh, bổ sung khi chưa phù hợp với lợi
ích của chủ thể xã hội. Do đó, có thể thấy rằng rất khó có thể đo giá trị về mặt
lượng trong từng hệ giá trị, sự đo lường này nếu có chỉ mang tính tương đối.
+ Trong sự phát triển của mỗi dân tộc, hệ giá trị luôn đóng vai trò đặc
biệt quan trọng. Trước hết, hệ giá trị đóng vai trò xác lập bản sắc văn hóa của
tồn tại người trong suốt lịch sử. Bởi lẽ, nhìn vào hệ giá trị, người ta có thể
phân biệt được đặc tính của con người ở mỗi dân tộc khác nhau. Chính bản
sắc văn hóa (bao gồm cả sự tồn tại vật chất và tinh thần) đã quy định đặc tính
nhận diện con người. Vì thế nên hệ giá trị của người Việt hoàn toàn khác với
49
hệ giá trị của người Mỹ, người Nga, người Trung Hoa…Trên thực tế, vai trò
xác lập bản sắc văn hóa của tồn tại người của hệ giá trị được thể hiện khá rõ ở
khía cạnh xác lập thế giới quan và nhân sinh quan của con người, góp phần
phát huy tính tích cực của cá nhân đối với xã hội, xây dựng đạo đức lối sống,
hình thành những phẩm chất tốt đẹp của con người. Về điều này đúng như
Tác giả Phạm Minh Hạc đã nói, “giá trị là cái quy định mục đích của hoạt
động và động cơ thúc đẩy hoạt động đạt được mục đích đó” [36, tr.46]. Nghĩa
là, trong mọi hoạt động của con người sống trong xã hội luôn bị chi phối bởi
các cam kết, quy định và các chuẩn mực giá trị của chính cộng đồng mình,
đồng thời thông qua những chuẩn mực đó, bản sắc riêng của mỗi dân tộc
được nhận diện. Điều này rất quan trọng, bởi lẽ việc giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc trước những thay đổi của tồn tại xã hội luôn là một thách thức không
nhỏ với nhiều quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Thêm
nữa, hệ giá trị đóng vai trò định hướng hướng sự phát triển của dân tộc, nó
quy định chiều hướng phát triển, những lý tưởng nhu cầu trong tương lai,
những khuôn thước chân- thiện- mỹ… quy định sự phát triển hành vi con
người và của toàn dân tộc. Hệ giá trị trở thành nền tảng tinh thần của mỗi
quốc gia và cao hơn nó là yếu tố cấu thành căn bản, then chốt của văn hóa dân
tộc. Hệ giá trị mang đậm dấu ấn dân tộc sâu sắc, nó được xem là phương thức
thống nhất, kết nối tinh thần đoàn kết, đồng thuận của cộng đồng. Điều này
được minh chứng rõ nhất trong những hoàn cảnh nguy nan, cấp bách hay thời
điểm có tính bước ngoặt của dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, nhiều
dân tộc coi hệ giá trị là “sức mạnh mềm” trong thiết chế xã hội. Vì thế, việc
xây dựng hệ giá trị đúng đắn, phù hợp có tác động thúc đẩy mạnh mẽ đến sự
phát triển không chỉ nhóm xã hội mà còn cả dân tộc, quốc gia đó. Ở những
thời điểm có tính chất bước ngoặt trong lịch sử, thông thường có ảnh hưởng
sâu sắc tới hành vi, thái độ của các thành viên trong cộng đồng. Điều này dẫn
đến có sự thay đổi về hệ giá trị dân tộc. Tuy nhiên, sự thay đổi này không
phải là do bản thân giá trị thay đổi mà do quan niệm về giá trị có sự thay đổi.
Trong nghiên cứu về giá trị học, nhiều học giả đồng thuận với quan điểm cho
rằng sự thay đổi giá trị trong hệ giá trị là do sự thay đổi trong giá trị quan. Giá
50
trị quan được hiểu là “hệ thống các giá trị cá nhân và giá trị xã hội đã định
hình và tạo thành quan điểm, quan niệm, tâm thế... có ý nghĩa nhìn nhận, đánh
giá và định hướng đối với con người và cộng đồng trong quá trình điều chỉnh
cách sống, lối sống và hành vi. Giá trị quan của mỗi cộng đồng được thể hiện
trong tương quan vị trí của từng giá trị trong bảng giá trị; tương quan đó
thường là sản phẩm lâu dài của lịch sử sinh tồn và phát triển của mỗi nền văn
hóa. Giá trị quan của mỗi cộng đồng tồn tại một cách tự nhiên trong mỗi
thành viên cộng đồng; nó chi phối việc xác định ý nghĩa của cuộc sống và ý
nghĩa của sự làm người đối với mỗi thành viên cộng đồng” [80, tr.161]. Khi
giá trị quan thay đổi kéo theo những tư tưởng, quan điểm, sự đánh giá của con
người hay cộng đồng người cũng bị biến đổi, do đó cùng một giá trị nhưng có
thể khác nhau giữa các cộng đồng xã hội trong một thời điểm lịch sử. Sự
chuyển đổi giá trị quan không đồng nghĩa với việc xóa bỏ sạch trơn những giá
trị cũ mà quá trình này diễn ra sự thay đổi trong vị trí sắp xếp các giá trị trong
hệ giá trị hoặc thay đổi trong quan niệm về giá trị hay sự du nhập những giá
trị mới. Trong một số trường hợp các giá trị cũ vẫn được bảo tồn nguyên vẹn
mặc dù có sự thay đổi tồn tại xã hội, ví dụ như giá trị tinh thần kỷ luật của
Nhật Bản hay giá trị yêu nước của Việt Nam.
Trên thực tế, sự vận động và phát triển của bất kỳ xã hội nào cũng luôn
có xu hướng tiến tới chiếm lĩnh các giá trị. Trong xã hội cụ thể với bối cảnh
lịch sử xác định những chuẩn mực xã hội luôn giữ vai trò quan trọng, nó là cơ
sở, “mẫu số chung” cho các hành vi hướng đích, là thước đo đánh giá của xã
hội. Hệ giá trị xã hội một mặt phản ánh trình độ phát triển của cộng đồng, mặt
khác nó phản ánh các mối quan hệ xã hội, nhất là mối quan hệ sản xuất.
Trong hệ giá trị xã hội thì lợi ích kinh tế luôn là giá trị có ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động của các thành viên, điều này có thể dẫn đến sự xung đột,
mâu thuẫn vì lợi ích (mâu thuẫn giai cấp). Vì thế, việc xây dựng hệ giá trị phù
hợp đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của cộng đồng xã hội, nếu hệ
giá trị ổn định thì xã hội sẽ phát triển, ngược lại khi hệ giá trị rối loạn thì xã
hội đương nhiên là bất ổn, rối ren.
51
2.2.2. Hệ giá trị con người Việt Nam
Trong quá trình hình thành và phát triển, hầu hết các dân tộc trên thế giới
đều xây dựng cho mình hệ những giá trị đặc trưng. Điều này không có nghĩa là
những giá trị đó chỉ bao hàm mặt tốt mà không có những hạn chế nếu nhìn từ
dân tộc khác nhau hoặc hệ quy chiếu khác. Hệ giá trị của một quốc gia càng
không phải là tập hợp ngẫu nhiên hay phép cộng các giá trị. Mỗi giá trị của dân
tộc là sự kết tinh năng lực, phẩm chất, tư duy mang đậm nét tính cách của cộng
đồng đó, thể hiện năng lực và tính cách của dân tộc.
Hiện nay, đang có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm hệ giá trị văn
hóa và hệ giá trị con người Việt Nam. Một số ý kiến cho rằng, hai hệ giá trị
này là một, còn một số ý kiến lại cho rằng hai hệ giá trị đó khác nhau nhưng
có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời. Về điều này chúng tôi đồng ý với
quan niệm của tác giả Trần Ngọc Thêm khi ông cho rằng, “giá trị con người
không phải là thành tố độc lập bên cạnh giá trị văn hóa, ngang hàng với giá trị
văn hóa. Nó chỉ là một bộ phận của giá trị văn hóa, nằm trong giá trị văn hóa,
được bao hàm trong nó” [92, tr.58]. Trong mối quan hệ giữa hệ giá trị văn hóa
và hệ giá trị con người về đại thể có thể phân biệt như sau: Giá trị văn hóa là
yếu tố cốt lõi của văn hóa, được sáng tạo và kết tinh trong quá trình lịch sử.
Giá trị văn hóa hướng đến những nhu cầu và khát vọng của cộng đồng về
những điều tốt đẹp (chân, thiện, mỹ), từ đó bồi đắp và nâng cao bản chất
Người. Trong giá trị con người, những giá trị mang tính nguyên tắc, trở thành
tiêu chuẩn, khuôn mẫu, được các thành viên trong xã hội thừa nhận để hướng
tới thì trở thành giá trị con người chuẩn mực.
Trong nghiên cứu về hệ giá trị nói chung, và hệ giá trị con người Việt
Nam nói riêng, có thể nói, cho đến nay, khái niệm hệ giá trị con người Việt
Nam cũng chưa có sự thống nhất với tính cách là khái niệm khoa học chặt
chẽ. Ngay cả việc sử dụng tên gọi cho khái niệm này cũng còn có sự khác
nhau nhất định giữa các tác giả. Ví như tác giả Trần Văn Giàu dùng tên gọi
“Các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam”, tác giả Phan Ngọc gọi tên
“Các giá trị cốt lõi tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam”, tác giả Trần
52
Ngọc thêm dùng “Hệ giá trị Việt Nam”, tác giả Lương Đình Hải dùng tên gọi
“Bảng giá trị Việt”.
Trong luận án này, trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu về hệ giá trị, hệ
giá trị con người Việt Nam của các học giả đi trước, chúng tôi cho rằng về cơ
bản có thể hiểu hệ giá trị con người Việt Nam là bảng tập hợp các giá trị sống
(tồn tại và phát triển) của con người Việt Nam gắn liền với lịch sử dài lâu của
sự tồn tại và phát triển quốc gia, dân tộc, đất nước. Với tính cách là hệ giá
trị, bảng tập hợp các giá trị người Việt, hệ giá trị con người Việt Nam (giá trị
hàng đầu, giá trị lý tưởng, giá trị sống còn…) đều là những giá trị tồn tại
xuyên qua các thế hệ, kế tiếp nhau hiện diện trong các thế hệ người Việt phản
ánh phương thức sống, ý thức và tâm lý cộng đồng, thái độ và trách nhiệm xã
hội của con người các thế hệ. Là bảng tổ hợp mọi giá trị sống của con người
Việt Nam, hệ giá trị con người Việt Nam đương nhiên cũng bao hàm trong nó
hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị đạo đức…
Hệ giá trị nói chung của bất cứ dân tộc nào đều có quá trình vận động
từ truyền thống tới hiện đại, hệ giá trị sau được kế thừa, bổ sung và hoàn thiện
từ hệ giá trị trước. Hệ giá trị người Việt cũng không phải là trường hợp ngoại
lệ. Trong đó, các giá trị truyền thống của người Việt chịu sự chi phối sân sắc
của tồn tại xã hội Việt Nam, các giá trị này được cũng bắt nguồn và kết tinh
từ lịch sử hàng nghìn năm chiến đấu chống lại các loại quân xâm lược cực kỳ
hung bạo và xây dựng đất nước trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc
nghiệt. Những nét đặc thù của xã hội Việt Nam truyền thống của nền sản xuất
nông nghiệp lúa nước, với sự phát triển văn hóa dân tộc và bề dày lịch sử có
ảnh hưởng sâu sắc tới hệ giá trị người Việt truyền thống. Về điều này, tác giả
Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang trong nghiên cứu về xã hội truyền thống Việt
Nam đã khẳng định rằng: “những căn tính nông dân, những đặc trưng của một
xã hội nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến tất cả mọi truyền thống Việt Nam”
[28, tr.12]. Nét đặc thù này đã tạo ra những nét đặc sắc, riêng biệt của hệ giá
trị người Việt truyền thống so với các giai đoạn về sau.
53
Trên cơ sở những nghiên cứu của các học giả đi trước, có thể khái quát
một số giá trị tiêu biểu của người Việt truyền thống bao gồm: Tinh thần yêu
nước, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, cần cù chịu đựng gian khổ, tinh thần
hiếu học.
Tinh thần yêu nước là tình cảm hết sức tự nhiên của mỗi con người,
mỗi thành viên trong bất kỳ một cộng đồng xã hội nào cũng có, song với
người Việt Nam, tinh thần yêu nước được xem là giá trị hàng đầu trong thang
bậc hệ giá trị. Giá trị này được nhắc tới trong hầu hết các nghiên cứu về con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Tác giả Trần Văn Giàu trong nghiên cứu
“Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” đã khẳng định, tinh
thần yêu nước là “tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, dân tộc Việt
Nam” [29, tr.100], nó chi phối suy nghĩ, cách ứng xử, hành động của con
người Việt Nam và sản sinh ra nhiều giá trị văn hóa Việt Nam. Chính vì lẽ đó,
tinh thần yêu nước luôn được xem là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt từ truyền thống
đến hiện đại trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Tình yêu đất nước của người
Việt truyền thống được bắt nguồn từ sự cố kết cộng đồng trong lao động sản
xuất, từ tình cảm gắn bó gia đình, làng xã, quê hương. Sự gắn bó này dần dần
trở thành nhu cầu sinh tồn trong đời sống người Việt, khi Tổ quốc bị xâm
lăng, tình yêu đất nước, dân tộc được chuyển hóa thành chủ nghĩa yêu nước.
Tinh thần yêu nước luôn được xem là giá trị cao nhất trong thang bậc các giá
trị truyền thống của dân tộc, là “tiêu điểm của giá trị” trong hệ giá trị người
Việt truyền thống. Sinh thời Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta có một
lòng nồng nàn yêu nước”, đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta.
Lòng nhân ái là một trong những giá trị truyền thống căn bản của người
Việt Nam. Chịu ảnh hưởng bởi triết lý nhân sinh của Phật giáo và quan niệm
“nhân” của Nho giáo khi du nhập vào Việt Nam, lòng nhân ái ngày càng trở
thành giá trị truyền thống đậm nét mang đặc trưng riêng của người Việt
truyền thống. Lòng nhân ái được thể hiện qua nếp nghĩ, hành động, lời răn
dạy rất đỗi tự nhiên trong ứng xử các mối quan hệ từ gia đình, dòng họ, làng
xóm. Những quan niệm như: “nhường cơm sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”,
54
“thương người như thể thương thân”... đã sớm in đậm trong đời sống cộng
đồng người Việt. Hiếm có dân tộc nào, lòng nhân ái đi liền với sự bao dung,
khoan hồng mở đường cho người lầm lạc như người Việt, bởi lẽ người Việt
vẫn luôn nhắc nhở nhau rằng: “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người
chạy lại”. Lòng nhân ái được xem là gốc rễ đạo đức căn bản trong việc đánh
giá, xem xét con người của người Việt truyền thống, từ đây khởi nguồn cho
tình yêu đất nước, sự cố kết gắn bó của cộng đồng người Việt.
Tinh thần đoàn kết của người Việt bắt nguồn từ đặc thù sản xuất nông
nghiệp, cải tạo thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Với đặc trưng cơ bản
của nền sản xuất nông nghiệp, đoàn kết, tương trợ giữa các cá nhân trong
cộng đồng là một điều tất yếu cho sự phát triển. Tác giả Vũ Minh Giang khi
nghiên cứu về xã hội Việt Nam truyền thống đã khẳng định: “Những đặc
điểm này của sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành
các truyền thống. Đoàn kết, tương trợ nhau và nguyên tắc cá nhân tồn tại trong
sự phụ thuộc vào cộng đồng dần trở thành một tập tục có cơ chế kinh tế- xã hội
đảm bảo” [28, tr.17]. Xuất phát từ những đặc trưng này, từ rất sớm người Việt đã
có quan niệm “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Tinh thần đoàn kết đã trở
thành giá trị đặc trưng cơ bản của người Việt, nó đi vào cuộc sống của người
Việt truyền thống như là một lẽ sống tự nhiên. Tinh thần đoàn kết trở thành
nguồn sức mạnh to lớn giúp người Việt vượt qua khó khăn về thiên tai, địch họa,
ổn định xã tắc. Tinh thần đoàn kết trở thành giá trị quý báu trong truyền thống
của dân tộc Việt Nam, là giá trị rất tiêu biểu của người Việt Nam.
Cần cù chịu đựng gian khổ là giá trị nổi trội của người Việt. Trong
nghiên cứu của mình, tác giả Trần Văn Giàu khẳng định: “Không ai chối cãi
rằng nhân dân Việt Nam rất cần cù. Có người quan sát nước ngoài đến Việt
Nam, chú ý mọi cơ năng của con người Việt Nam đều được dùng để làm việc:
đầu đội, vai gánh, lưng cõng, tay nhanh nhẹn và khéo léo, chân chạy như
bay…Người quan sát nước ngoài cũng thấy hàng ngàn cây số đê điều, các đê
cộng lại dài như vạn lý trường thành… Người quan sát nước ngoài lại thấy
ruộng nước như bàn cờ, cấy hái công phu kỹ lưỡng… mưa dầm, nắng cháy,
55
giá lạnh, lúc nào cũng thấy con người đội trời, chân trong nước ở đồng ruộng”
[29, tr.153]. Học giả Nguyễn Văn Huyên cũng từng nhận xét trong cuốn “Văn
minh Việt Nam” [45] rằng: Chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù
như vậy. Khả năng chịu đựng của họ rất cao, ít kêu ca về nỗi đau đớn của mình.
Nói về đức tính cần cù chịu đựng gian khổ của người Việt, sinh thời Hồ Chí
Minh đã viết: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời
chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh
qua nhiều năm chiến tranh” [62, tr.17]. Đây có thể coi là giá trị khá nổi trội của
người Việt truyền thống.
Tinh thần hiếu học cũng là một trong những giá trị tiêu biểu của con
người Việt Nam truyền thống. Ở người Việt, tinh thần hiếu học bắt nguồn từ
nhu cầu trau dồi tri thức, chinh phục tự nhiên. Về sau, khi tư tưởng giáo dục
Nho giáo du nhập vào Việt Nam càng làm củng cố và phát triển thêm lòng hiếu
học của người Việt truyền thống. Ngay từ rất sớm nhà nước phong kiến Việt
Nam đặc biệt coi trọng đề cao người có tri thức, với quan niệm “hiền tài là
nguyên khí của quốc gia”, hàng năm các khoa thi ngày càng được mở rộng.
Trong xã hội, người thầy là hình ảnh tiêu biểu cho người có tri thức luôn
được mọi người kính trọng bởi lẽ người Việt truyền thống quan niệm rằng:
“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Lòng hiếu học, chuộng người hiền tài của
người Việt truyền thống còn được thể hiện trong việc đánh giá thang bậc vị
trí xã hội, trong đó kẻ sĩ (người có học) được xếp đứng đầu: Sĩ, nông, công,
thương. Hiếm có một dân tộc nào coi giáo dục đóng vai trò quyết định vào
sự tiến bộ như người Việt, chính vì thế ngay từ truyền thống, người Việt đặc
biệt đề cao giá trị hiếu học và luôn có ý thức giữ gìn phát triển giá trị này cho
con cháu về sau.
Có thể thấy việc khái quát các giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam
truyền thống tùy theo góc độ xem xét mà có cách phân chia và hệ thống khác
nhau. Trong nghiên cứu trên, các giá trị được khái quát, lựa chọn trong tập hợp
các giá trị tiêu biểu về con người Việt Nam truyền thống dựa trên một số cơ sở,
nguyên tắc như sau: Thứ nhất, các giá trị được khái quát này đã phản ánh rõ nét
56
đặc thù về lịch sử, về xã hội, về con người Việt Nam truyền thống. Mỗi giá trị
tiêu biểu của con người Việt Nam truyền thống được lựa chọn là một thành tố
của ý thức xã hội, nó phản ảnh cái lôgíc khách quan của tồn tại xã hội Việt
Nam truyền thống: đó là một xã hội dựa trên nền sản xuất nông nghiệp lúa
nước với sự phát triển văn hóa dân tộc và bề dày lịch sử đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Thứ hai, các giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam truyền
thống được khái quát về cơ bản mang tính ổn định, bền vững theo tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc. Tính ổn định của các giá trị này không phải là
nhất thành, bất biến mà cũng vận động, biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch
sử. Thứ ba, các giá trị lựa chọn trong tập hợp các giá trị tiêu biểu này không
chỉ mang ý nghĩa trong xã hội truyền thống mà các giá trị này hiện nay nó vẫn
hiện diện và ảnh hưởng tích cực đối với con người Việt Nam, xã hội Việt
Nam. Có thể lấy hiếu học là một giá trị để ví dụ, từ trong truyền thống người
Việt rất hiếu học và luôn coi trọng giá trị này. Trên thực tế, giá trị này đã góp
phần khuyến khích, thôi thúc người Việt không ngừng học, phấn đấu từ trong
học tập đến lao động sản xuất và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Các
giá trị tiêu biểu khác được khái quát như: tinh thần yêu nước, lòng nhân ái,
tinh thần đoàn kết… đều mang lại ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay. Thứ tư,
các giá trị tiêu tiêu biểu được khái quát trong nghiên cứu của luận án dựa trên
cơ sở chọn lựa từ các nghiên cứu của các học giả uy tín, các nhà khoa học
chuyên sâu về vấn đề này. Trong đó, có thể kể tới các học giả tiền bối như
Đào Duy Anh, Trần Văn Giầu, Nguyễn Văn Huyên… cho tới các học giả về
sau như Ngô Đức Thịnh, Trần Ngọc Thêm… đều lựa chọn, xem xét các giá trị
như: tinh thần yêu nước, cần cù, hiếu học… trong tập hợp các giá trị người
Việt truyền thống. Các giá trị này tiếp tục được phản ánh, đánh giá trong các
văn kiện, chủ trương của Đảng và Nhà nước về con người Việt Nam và xem
xét trong quá trình xây dựng hệ giá trị chuẩn con người Việt Nam hiện nay.
Về khách quan, có thể thấy, các giá trị tiêu biểu của con người Việt
Nam truyền thống ở trên không phải tồn tại duy nhất tồn tại ở con người Việt
Nam, chúng ta có thể tìm thấy trong nhiều dân tộc khác như lời nhận xét của
57
tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn: “Điều đó cũng thật dễ hiểu. Bởi vì, trong cái
dân tộc bao giờ cũng có cái nhân loại và cái dân tộc không bao giờ nằm ngoài
cái nhân loại” [5, tr.11]. Song, nhìn chung có thể thấy khá rõ, xã hội Việt Nam
truyền thống với những nét riêng biệt về điều kiện tự nhiên, văn hóa, lịch sử là
những yếu tố làm nên những giá trị con người “rất Việt Nam”. Các giá trị con
người Việt Nam truyền thống được hình thành trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam qua hàng ngàn năm lịch sử, mang đậm nét đặc trưng của sự phát triển xã hội
Việt Nam. Chính vì thế theo dòng thời gian, các giá trị truyền thống ngày càng
được bổ sung hoàn thiện và lưu truyền cho các thế hệ về sau của dân tộc Việt, nó
góp phần tạo nên sức mạnh dân tộc và bản sắc con người Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu các giá trị tiêu biểu của người Việt truyền thống,
chúng ta có thể thấy một số điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất, các giá trị nêu trên của con người Việt Nam truyền thống hoàn
toàn có thể nhận thấy, bắt gặp ở dân tộc này hay dân tộc khác chứ không phải duy
nhất tồn tại ở Việt Nam. Tuy nhiên, với dân tộc Việt Nam, các giá trị này là những
giá trị tiêu biểu đứng đầu bảng giá trị. Trong đó các giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi
bật, giá trị tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc được khẳng định là giá trị cốt lõi,
là “tiêu điểm của giá trị” giữ vai trò định hướng các giá trị khác.
Thứ hai, các giá trị này trong hệ giá trị con người Việt Nam truyền
thống có mối quan hệ trong sự tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại
độc lập, riêng rẽ. Ví dụ, giá trị đoàn kết tạo thành sức mạnh cộng đồng trong
quá trình dựng nước và giữ nước, đó cũng là biểu hiện của lòng yêu nước,
tinh thần dân tộc. Hay lòng nhân ái, thương yêu con người cũng biểu hiện ở
tình đoàn kết cộng đồng tạo thành sức mạnh chống lại kẻ thù xâm lược...
Thứ ba, các giá trị con người Việt Nam truyền thống được hình thành
trong điều kiện cụ thể của Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử, mang đậm
nét đặc trưng của sự phát triển xã hội Việt Nam. Chính vì thế theo dòng thời
gian, các giá trị truyền thống ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và lưu
truyền cho các thế hệ về sau của dân tộc Việt, nó góp phần tạo nên sức mạnh
dân tộc và bản sắc con người Việt Nam.
58
Tiểu kết chương 2
Trong lịch sử, những nghiên cứu về giá trị ra đời khá sớm, tuy vậy, cho
đến nay quan niệm thống nhất với tính cách là một khái niệm khoa học chặt
chẽ, chính xác vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Trên cơ sở kế thừa các quan
niệm về giá trị từ các học giả đi trước, có thể hiểu giá trị là một phạm trù triết
học, dùng để chỉ ý nghĩa của sự vật, hiện tượng, quá trình của tự nhiên, xã
hội và tư duy đối với con người và đời sống con người. Giá trị trong mối quan
hệ chủ- khách thể, giá trị vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan,
tạo thành hệ thống các giá trị khách quan và các giá trị chủ quan, là kết quả
của hoạt động sống đồng thời cũng là phương thức định hướng cơ bản đối
với hoạt động của con người. Với cách hiểu như vậy, giá trị có một số nội
dung cơ bản như sau: 1/ Giá trị bao hàm ý nghĩa của sự vật, hiện tượng có khả
năng thỏa mãn những nhu cầu tích cực của con người và góp phần thúc đẩy
sự phát triển của xã hội. 2/ Giá trị tồn tại trong mối tương quan giữa chủ thể
và khách thể. 3/ Giá trị mang tính lịch sử khách quan. 4/ Giá trị là yếu tố cốt
lõi của văn hóa con người, xã hội con người.
Trong nghiên cứu về giá trị, tùy theo đối tượng và phạm vi nghiên cứu
khác nhau việc phân loại các giá trị hiện nay cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Qua tham khảo, tìm hiểu các công trình nghiên cứu và tình hình thực tiễn ở
nước ngoài cũng như ở Việt Nam, theo chúng tôi, có thể chia giá trị thành ba bộ
phận: giá trị vật chất, giá trị tinh thần và giá trị con người. Trong đó, giá trị con
người được đánh giá là giá trị cao nhất trong các giá trị, bởi tất cả giá trị đều do
con người làm ra và đều là đối tượng hưởng thụ của con người. Tuy nhiên, sự
phân loại như trên chỉ có tính tương đối vì các giá trị đều có liên hệ chặt chẽ với
nhau, đều góp phần định hướng con người đến những điều tốt đẹp.
Giá trị là một thuật ngữ có từ sớm nhưng đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ
20 mới được sử dụng với tính cách là phạm trù triết học thì dùng để chỉ ý
nghĩa của sự vật, hiện tượng, quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy đối với
con người và đời sống con người. Giá trị cũng mang tính khách quan vì nó
trước hết là phản ánh hiện thực, tạo thành hệ thống các giá trị khách quan.
59
Tuy nhiên giá trị lại chỉ là sản phẩm của đầu óc con người và luôn luôn đảm
nhận chức năng là chuẩn mực đánh giá và định hướng đối với hoạt động
người, nên mang đậm tính chất chủ quan, khi nó tồn tại dưới dạng các giá trị
chủ quan.
Với hệ giá trị con người Việt Nam, đó là bảng tập hợp các giá trị của
quá trình tồn tại và phát triển của con người Việt Nam gắn liền với lịch sử dài
lâu của sự tồn tại và phát triển quốc gia, dân tộc, đất nước. Với tính cách là hệ
giá trị, bảng tập hợp các giá trị hàng đầu, giá trị lý tưởng, giá trị sống còn…
của người Việt đều là những giá trị đã tồn tại xuyên qua các thế hệ kế tiếp
nhau phản ánh phương thức sống, ý thức và tâm lý cộng đồng, thái độ và
trách nhiệm xã hội của con người Việt Nam từ trong lịch sử đến tận ngày nay.
Hệ giá trị con người Việt Nam đương nhiên cũng bao hàm trong nó hệ giá trị
văn hóa, hệ giá trị đạo đức…
Về các giá trị truyền thống tiêu biểu của người Việt, lịch sử nghiên cứu
hơn 100 năm qua cho thấy hầu hết các học giả có sự tương đồng trong việc
khẳng định giá trị người Việt, bao gồm: Tinh thần yêu nước, lòng nhân ái,
tinh thần đoàn kết, cần cù yêu lao động, chịu đựng gian khổ, hiếu học... Các
giá trị này đứng hàng đầu trong bảng giá trị người Việt, thể hiện vị trí ưu tiên
phản ánh đậm nét đặc thù của tồn tại xã hội trong lịch sử Việt Nam. Không
duy nhất chỉ tồn tại ở xã hội Việt Nam, nhưng đối với Việt Nam, các giá trị
này là tiêu biểu, được các thế hệ người Việt ưu tiên lựa chọn để xếp vào vị trí
đầu bảng giá trị, đóng vai trò là cơ sở và là định hướng cho mọi hoạt động của
con người trong sự tồn tại, phát triển của xã hội Việt Nam trước đây cũng như
hiện nay. Trước bối cảnh mới của thời đại, đặc biệt trước những tác động
mạnh mẽ của hội nhập quốc tế, các giá trị truyền thống tiêu biểu của con
người Việt Nam đương nhiên cũng có những chuyển biến tương đối mạnh và
rõ. Trong sự tác động của hội nhập quốc tế, một số giá trị thể hiện được sức
sống mãnh liệt của chúng. Song thách thức đặt ra đối với hệ giá trị truyền
thống người Việt cũng không hề nhỏ và đơn giản.
60
Chương 3
HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.1. Hội nhập quốc tế của Việt Nam, những tác động và yêu cầu của
hội nhập quốc tế với với hệ giá trị con người Việt Nam
3.1.1. Hội nhập quốc tế
Hội nhập (Integration) là thuật ngữ được sử dụng nhiều ở nước ta từ
giữa thập niên 1990 trở lại đây trong bối cảnh nước ta thúc đẩy mạnh mẽ
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc
tế, mà đầu tiên là gia nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do
AFTAvà các thể chế kinh tế quốc tế khác.
Nội dung của “Hội nhập quốc tế” lúc đầu được sử dụng với hàm nghĩa
rộng hơn trong các thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế”, “liên kết kinh tế
quốc tế” và “nhất thể hóa kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra đều có
nội dung phái sinh từ “International Economic Integration” (hội nhập kinh tế
quốc tế). Chỉ sau một thời gian ngắn, nội dung kinh tế của hội nhập đã gắn rất
chặt với các nội dung chính trị, xã hội và liên kết khác. Từ đó “hội nhập quốc
tế ” được sử dụng phổ biến hơn. Thậm chí, đôi khi trong các diễn đàn, người
ta chỉ gọi ngắn gọn là “hội nhập”.
Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích: “hội nhập” là “sự liên kết các
nền kinh tế với nhau... Các nền kinh tế khác nhau thực hiện sự hội nhập thông
qua hoạt động mậu dịch và hợp tác chính sách và biện pháp kinh tế. Cách giải
thích này xem xét hội nhập từ góc độ kinh tế. Theo nhà nghiên cứu Ngô Đức
Thịnh, “hội nhập (integration) để chỉ một quá trình mà một thực thể riêng lẻ
nào đó tham gia, hòa nhập vào một thực thể hay một quá trình rộng lớn hơn.
Khái niệm này được dùng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như hội nhập kinh
tế, hội nhập chính trị, hội nhập văn hóa…” [93, tr.254].
Một cách giải thích khác trong từ điển tiếng Việt về hội nhập như sau:
Hội nhập là sự “tham gia vào một cộng đồng để cùng hoạt động và phát triển
61
với cộng đồng ấy (thường nói về quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia)” [72,
tr.711]. Có thể thấy, trong nghiên cứu học thuật cũng như trong thực tiễn đời
sống kinh tế- xã hội hiện nay thuật ngữ hội nhập được sử dụng khá phổ biến
và cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Về cơ bản có thể hiểu hội nhập là một
khái niệm chỉ sự tham gia vào nhóm, cộng đồng khác nhau trong quá trình tồn
tại và chung sống. Đây là một quá trình trong đó một quốc gia dù muốn hay
không muốn cũng phải tham gia vào trật tự toàn cầu của đời sống kinh tế - xã
hội thế giới. Trong quá trình này nhiều quốc gia chủ động hoặc bị động tham
gia hội nhập vào thể chế quốc tế.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, kỹ
thuật đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa
các quốc gia. Với sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng được quốc tế
hoá khiến cho sự liên kết giữa các dân tộc trên thế giới ngày càng được mở rộng
hơn. Quá trình hội nhập đang ngày càng diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội của các quốc gia- dân tộc, vì thế hội nhập trở thành một
xu thế tất yếu, phổ biến của thế giới đương đại.
Hội nhập quốc tế (international integration) là thuật ngữ ban đầu được
sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực chính trị và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng
giữa thế kỷ XX ở châu Âu. Tuy nhiên, ngày nay nó đang được sử dụng rộng
rãi hơn trên nhiều lĩnh vực, nhiều khách thể và đối tượng khác nhau.
Ở Việt Nam, trong học thuật cũng như trong thực tiễn đời sống xã hội
có nhiều cách hiểu và cách tiếp cận về hội nhập quốc tế. Về cơ bản, hiện nay
trong nghiên cứu ở nước ta đang tồn tại ba cách tiếp cận chủ yếu về khái niệm
“hội nhập quốc tế” có thể khái quát như sau: Cách tiếp cận thứ nhất cho rằng
hội nhập quốc tế là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản phẩm
đó là sự hình thành một nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ,
mục đích để đánh giá sự liên kết. Những người theo trường phái này quan tâm
chủ yếu tới các khía cạnh luật định và thể chế. Cách tiếp cận thứ hai, xem hội
nhập quốc tế trước hết là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các
luồng giao lưu như thương mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn
62
hóa…từ đó hình thành dần các cộng đồng an ninh (security community).
Theo cách tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập vừa là một quá trình vừa là
một sản phẩm cuối cùng. Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập quốc tế dưới
góc độ là hiện tượng/ hành vi các nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ
hợp tác với nhau trên cơ sở phân công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào
lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo đuổi. Mỗi cách tiếp cận có ưu điểm và
hạn chế riêng, tuy nhiên cách tiếp cận thứ hai xem xét hội nhập quốc tế với tư
cách vừa là sản phẩm vừa là quá trình hiện nay được nhiều nhà nghiên cứu
tán thành hơn cả.
Trên cơ sở kế thừa quan niệm của các học giả đi trước, có thể khái
quát, hội nhập quốc tế là quá trình tham gia một cách chủ động hoặc bị động
của các quốc gia - dân tộc vào đời sống quốc tế thời toàn cầu hóa. Thực chất
của quá trình hội nhập quốc tế là các quốc gia - dân tộc chấp nhận các tiêu
chuẩn, các định chế quốc tế mà trước hết là các định chế về kinh tế, về quan hệ
quốc tế và về các lĩnh vực khác có liên quan, kể cả chính trị. Khi chấp nhận hội
nhập quốc tế, các quốc gia - dân tộc tham gia cũng ít nhiều có quyền xây dựng
các chuẩn mực chung trong khuôn khổ các định chế quốc tế nhằm khai thác
hiệu quả những lợi thế quốc gia và lợi thế quốc tế cho sự phát triển của quốc
gia- dân tộc. Về cơ bản hội nhập quốc tế có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế là một tiến trình liên tục chịu sự ràng buộc
xuyên quốc gia trong quan hệ hợp tác giữa các nước. Đây là một quá trình có
tính chất và phạm vi vô cùng phức tạp, nó có thể diễn ra trên từng lĩnh vực
của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục,
y tế...), nhưng cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất
(tức là mức độ gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức
(song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau. Do
tính chất và phạm vi ngày càng có diễn biến phức tạp nên chưa có quốc gia
nào tuyên bố đã hoàn thành xong quá trình hội nhập quốc tế.
Thứ hai, hội nhập quốc tế là quá trình các quốc gia tham gia vào đời
sống quốc tế với việc chấp nhận các tiêu chuẩn và định chế quốc tế. Trên thực
63
tế có một số hoạt động hợp tác quốc tế như trao đổi, tham vấn, phối hợp, đầu
tư… cũng có mối giao thoa giữa các nước song bản chất của hội nhập quốc tế
không giống các hoạt động này. Bởi lẽ, với việc chấp nhận các tiêu chuẩn và
định chế quốc tế, các quốc gia tham gia hội nhập quốc tế thể hiện sự hội nhập
ở trình độ cao hơn. Quá trình này không giống với trào lưu quốc tế trước kia
mà khi tham gia các định chế quốc tế đòi hỏi các quốc gia phải tham gia tích
cực hơn, tham gia có trách nhiệm vào cộng đồng quốc tế.
Thứ ba, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan nhưng quyết định tham
gia hội nhập của các quốc gia lại mang tính chủ quan. Trong quá trình này có
những quốc gia tham gia tích cực, chủ động vào đời sống quốc tế song cũng
có quốc gia tham gia vào quá trình này một cách bị động. Tuy nhiên, dù tham
gia chủ động hay bị động vào hội nhập quốc tế thì mục đích các quốc gia
tham gia quá trình này chủ yếu nhằm phục vụ lợi ích quốc gia- dân tộc. Cùng
với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang trở thành xu thế khách quan với tất cả
các quốc gia trên thế giới hiện nay, song việc tận dụng các lợi thế của xu thế
này hay mức độ tham gia vào đời sống quốc tế lại tùy thuộc vào đường lối
chính sách của mỗi quốc gia tại mỗi thời điểm nhất định.
Thứ tư, hội nhập quốc tế luôn tồn tại đan xen những thời cơ và thách
thức với hầu hết các nước tham gia quá trình này. Trên thực tế, khi tham gia
quá trình này, các quốc gia- dân tộc có nhiều cơ hội học hỏi các nước khác
như: kinh nghiệm quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm khai thác
nguồn nhân lực... Một số các quốc gia đang phát triển nếu hội nhập hiệu quả
sẽ có cơ hội tốt để tiếp nhận và quản lý vốn, công nghệ hiệu quả, nhờ đó có
thể cải thiện được những khó khăn trước mắt, tạo động lực cho phát triển cao
hơn. Các quốc gia phát triển cũng có nhiều cơ hội quảng bá các sản phẩm và
thương hiệu của mình ra thế giới, mở rộng thị trường, thu hút nhiều nguồn
nhân lực chất lượng cao từ các quốc gia khác...Tuy nhiên, khi tham gia hội
nhập quốc tế, kể cả các quốc gia phát triển cũng như đang phát triển, đều
đứng trước không ít các thách thức như: chủ quyền dân tộc, bản sắc dân tộc,
lợi ích quốc gia, an ninh quốc gia... Những cơ hội và thách thức khi tham gia
64
hội nhập quốc tế với các quốc gia- dân tộc luôn đan xen lẫn nhau. Trong một
số trường hợp những thời cơ và thách thức này có thể chuyển hóa cho nhau
do có tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan.
3.1.2. Một số nét đặc thù hội nhập quốc tế của Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ “hội nhập” lần đầu tiên chính thức được sử
dụng trong Văn kiện đại hội VIII (1996) với chủ trương về đối ngoại của Việt
Nam: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và trên thế giới”.
Quan điểm về hội nhập quốc tế được nhất trí trên tinh thần “hợp tác nhiều mặt
song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết
các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng” [16, tr.365-366]. Tiếp
đó, quan điểm, đường lối hội nhập quốc tế trên được nâng lên khi Đảng chủ
trương phải chủ động hội nhập để có thể chủ động phát huy những thuận lợi,
nắm bắt thời cơ do hội nhập mang lại và chủ động khắc phục những hạn chế,
thách thức của hội nhập. Tinh thần “chủ động hội nhập” chính thức được đưa
ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) [19] và được hiện thực hóa
phổ biến trong các văn kiện, nghị quyết cũng như các văn bản pháp luật của
Nhà nước. Tới Đại hội X (2006), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, thêm nữa là đẩy mạnh các hoạt động kinh
tế đối ngoại, hội nhập sâu và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu và
“lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất”. Quan điểm về hội nhập
quốc tế trong Đại hội Đảng toàn quốc lần XI (2011) [21] được xác định với
chủ trương: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế. Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành một nghị quyết
riêng để thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân tiến hành chủ động hội nhập quốc tế
một cách tích cực và có hiệu quả, đó là Nghị quyết số 22- NQ/ TW ngày 10
tháng 4 năm 2013 về “Chủ động hội nhập quốc tế”. Nghị quyết 22 là văn kiện
65
có ý nghĩa chiến lược, thống nhất nhận thức về hội nhập quốc tế trong tình
hình mới, phân tích bối cảnh quốc tế và trong nước trên cơ sở đó xác định
mục tiêu của nước ta trong thời gian tới.
Để thực hiện thành công hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định một số
nguyên tắc chỉ đạo như sau: bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) khẳng định: “Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy cao độ nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc, bảo vệ môi trường” [19, tr.483]. Trong hợp tác liên kết và hội
nhập quốc tế Đảng ta khẳng định: cần giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa
đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để đạt tới mục tiêu, bảo vệ được lợi
ích chính đáng của đất nước; đồng thời phải luôn cảnh giác, không mơ hồ
trước những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng hợp tác quốc tế để can thiệp, áp đặt
về chính trị. Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta
còn nêu rõ bốn nguyên tắc cụ thể: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hai là,
không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực. Ba là, giải quyết các bất đồng và
tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình. Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình
đẳng và cùng có lợi. Đại hội XIII của Đảng đã cụ thể hóa hơn và xác định
những định hướng sâu hơn về hội nhập quốc tế. Văn kiện Đảng nêu rõ “Chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh
hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia- dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền
quốc gia. Gắn chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn
diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng
của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự
chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước” [23; tr.164]. So với các
kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh tới vấn đề chủ động,
66
tích cực đóng góp đối với các hoạt động quốc tế; nhấn mạnh lợi ích quốc gia
được xem là mục tiêu trọng yếu trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc
tế; Xác định rõ hơn vai trò của hoạt động đối ngoại…. Đây được xem là
những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng đối với hoạt động
hội nhập quốc tế ở Việt Nam trong thời gian hiện nay.
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc và
toàn diện hơn bao giờ hết. Đến nay, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với
hơn 200 quốc gia, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với hầu hết các quốc
gia và vùng lãnh thổ. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu vực
(ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) lên
đến cấp độ toàn cầu. Việt Nam đã đảm nhận thành công vị trí Ủy viên không
thường trực Hội đồng bảo an, cơ quan quyền lực hàng đầu của Liên hợp quốc,
nhiệm kỳ 2008 - 2009. Việt Nam cũng đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch
ASEAN trong năm ASEAN 2010. Chặng đường hơn 30 năm Đổi mới và hội
nhập quốc tế là một quá trình nỗ lực bền bỉ của đất nước. Từ thực tiễn phát
triển của đất nước trong những năm qua có thể thấy, tư duy, nhận thức của
Đảng, Nhà nước và toàn dân ta về hội nhập quốc tế có bước phát triển đáng
kể. Hội nhập quốc tế được nhìn nhận là một quá trình dài, được triển khai
thận trọng, bài bản theo tinh thần từ “tích cực hội nhập” đến “chủ động hội
nhập”. Cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định phương châm cơ
bản về hội nhập quốc tế đó là: Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập tự chủ,
hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá,
đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Đảng và Nhà nước
ta luôn khẳng định quan điểm xuyên suốt: Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực.
Quá trình hội nhập quốc tế với tính cách là bước chuyển mạnh mẽ trên tất
cả các mặt của đời sống xã hội Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ giữa thập niên
67
90 của thế kỉ XX đến nay. Trong gần ba thập kỷ qua, hội nhập quốc tế của Việt
Nam trên từng lĩnh vực cụ thể mang một số nét đặc thù cơ bản như sau:
+ Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực kinh tế: Việt Nam bắt đầu tham gia
hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh không mấy thuận lợi. Thứ nhất, xuất
phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp, về cơ bản trình độ sản xuất
còn thấp. Sau một thời gian dài đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, nền kinh tế
bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Thứ hai, trước giai đoạn đổi mới, mặc dù
đã có những nỗ lực trong chính sách khôi phục nền kinh tế nhưng tư duy có
phần nóng vội, chủ quan duy ý chí khiến cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng
toàn diện. Sau đại hội VI (tháng 12/1986), Đảng và Nhà nước thực hiện đổi
mới đất nước, bắt đầu những bước đi hội nhập đầu tiên. Sau hơn 30 năm Đổi
mới, cho tới nay nền kinh tế đất nước đã có những bước chuyển tích cực.
Hiện nay nước ta vẫn đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta đang đứng trước nhiều cơ hội mới của xu thế hội nhập quốc tế song
cũng không ít thách thức, khó khăn. Trong thời gian qua, ở nước ta, hội nhập
kinh tế quốc tế đã có nhiều bước chuyển quan trọng trên cả chiều rộng và
chiều sâu. Theo chiều rộng: hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện chỗ chúng ta đã
thiết lập được nhiều mối quan hệ song phương về thương mại, đầu tư, tài
chính quốc tế... Nước ta đã ở rộng được nhiều mối quan hệ kinh tế- thương
mại song phương và đa phương với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Theo chiều sâu: hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được thể hiện qua các
cấp độ liên kết khác nhau như: tham gia FTA, tham gia các thỏa thuận thương
mại ưu đãi, tham gia các liên minh thuế quan, tham gia liên minh kinh tế- tiền
tệ... Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm qua
cũng tạo ra nhiều cơ hội mới cho nền kinh tế nước ta:
Thứ nhất, hội nhập kinh quốc tế tạo cơ hội cho Việt Nam thu hút được
các nguồn lực từ bên ngoài trên cơ sở đó giải quyết các nguồn lực bên trong,
đặc biệt các nguồn vốn, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bước vào
hội nhập kinh tế quốc tế từ một nước có trình độ phát triển của lực lượng sản
68
xuất còn thấp kém, năng suất lao động chưa cao. Tính đến nay, hội nhập
kinh tế quốc tế những năm qua đã giúp Việt Nam thu hút hiệu quả cả ba
nguồn lực quốc tế lớn là: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA),
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn kiều hối. Trong thời gian
qua FDI vào Việt Nam liên tục tăng. Đáng chú ý là vốn FDI thực hiện giai
đoạn 1991- 2000 đạt 19,462 tỷ USD, tăng liên tục đến giai đoạn 2001- 2010
đạt 58,497 tỷ USD, bằng 3 lần thập niên trước đó. Và đến giai đoạn 2011-
2016 đạt 84 tỷ USD, bằng 4,55 lần giai đoạn 1991- 2000 và 1,43 lần 10 năm
trước đó [Trích theo http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/can-uu-tien-
thu-hut-fdi-mot-so-nganh-cong-nghe-cao-130469.html]. Nhờ có thu hút các
nguồn vốn đã giúp Việt Nam mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta không chỉ giải
quyết được bài toán lớn về vấn đề việc làm cho người lao động mà còn nâng
cao chất lượng nguồn lao động đáng kể của Việt Nam trong những năm qua.
Thứ hai, hội nhập quốc tế đã mở ra một không gian phát triển mới cho
nền kinh tế Việt Nam. Trong gần ba thập kỷ qua, nhờ tham gia hội nhập
quốc tế, nền kinh tế nước ta có thêm nhiều cơ hội để mở cửa, gắn nền kinh tế
và thị trường trong nước với nền kinh tế và thị trường thế giới, thiết lập các
mối quan hệ song phương về thương mại, đầu tư, tài chính và tham gia vào
thể chế đa phương kinh tế quốc tế. Trên thực tế hiện nay Việt Nam đã và
đang tích cực nỗ lực tham gia các cấp độ liên kết kinh tế khác nhau trong
khu vực và trên thế giới như: tham gia các FTA, tham gia các thỏa thuận
thương mại ưu đãi, tham gia liên minh kinh tế- tiền tệ… Nhờ việc tham gia
tích cực các cấp độ liên kết kinh tế này đã tạo cơ hội rất lớn cho các nhà đầu
tư nước ngoài hỗ trợ Việt Nam trong quá trình xây dựng kinh tế đất nước.
Hiện nay, nước ta có 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa
phương. Ngoài ra, Việt Nam còn nhận được vốn ODA từ 600 tổ chức phi
chính phủ quốc tế [Trích theo http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-
doi/can-uu-tien-thu-hut-fdi-mot-so-nganh-cong-nghe-cao-130469.html]. Quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra khả năng cho nước ta tham gia nhanh
69
chóng vào hệ thống phân công lao động quốc tế, nhờ đó hình thành cơ cấu
kinh tế hợp lý, hiệu quả. Nguồn lao động trong các ngành sản xuất ở nước ta
qua sự tiếp xúc, hợp tác với quy trình sản xuất hiện đại của các nước tiên
tiến có cơ hội rất lớn để nâng cao và khẳng định trình độ chuyên môn của
người lao động cũng như trình độ quản lý kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đã có
quan hệ kinh tế với hơn 230 thị trường nước ngoài, đây là kết quả bước đầu
nhưng rất đáng ghi nhận trong quá trình hội nhập quốc tế, đưa Việt Nam từ
một nước nghèo, lạc hậu trong khủng hoảng kinh tế - xã hội trở thành nước
có thu nhập trung bình thấp; từ một nước nhận viện trợ là chủ yếu thành đối
tác hợp tác phát triển.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế mở ra những cơ hội để Việt Nam được
học hỏi những kinh nghiệm của các nền kinh tế lớn trên thế giới trong việc sử
dụng các quy luật, chiều hướng của kinh tế thị trường như là một nhân tố bên
trong của quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến
nay đã có 64 quốc gia trên thế giới công nhận nền kinh tế thị trường của Việt
Nam. Với những kết quả nói trên, có thể thấy rất rõ hội nhập kinh tế quốc tế
đã mang lại cho Việt Nam rất nhiều những cơ hội mới trong giai đoạn hiện
nay. Những kết quả đáng ghi nhận về hội nhập kinh tế này là tiền đề rất quan
trọng để phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong nước, đa dạng
các thành phần kinh tế và các loại hình sở hữu, đồng thời góp phần đảm bảo
tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững và rút ngắn khoảng cách với các nước
trên thế giới. Chính những bước tiến trên con đường hội nhập về kinh tế này
có tác động rất lớn tới các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội… tạo ra những
thay đổi tích cực trong đời sống xã hội Việt Nam trong những năm qua.
Bên cạnh những thuận lợi nói trên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam trong thời gian qua cũng đứng trước một số thách thức, khó
khăn. Trước hết, khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nền kinh tế nước ta
phải đối mặt với những thách thức về cạnh tranh gay gắt có tính chất quốc tế.
Sự cạnh tranh trong hội nhập quốc tế là tất yếu với tất cả các nước tham gia
quá trình này. Song, đối với các nước đang phát triển như nước ta, thách thức
70
lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là một nước đang phát
triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập,
doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng
hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn
chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh. Do đó, trong
bối cảnh cạnh tranh chung của kinh tế toàn cầu, với các nước đang phát triển
có xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp như nước ta thì đây là cuộc cạnh
tranh không cân sức. Ngay chính thị trường trong nước, một số hàng hóa của
chúng ta cũng bị cạnh tranh gay gắt, một số doanh nghiệp lao đao trên chính
“sân nhà” như một số mặt hàng nông sản. Cạnh tranh là tất yếu trong quá
trình hội nhập. Một mặt, nó có tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhưng
mặt khác, việc gia tăng cạnh tranh gay gắt trong hội nhập kinh tế khiến nhiều
doanh nghiệp và ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây
nhiều hậu quả về mặt kinh tế- xã hội. Thêm nữa, tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế, nền kinh tế của nước ta không tránh khỏi tác động mạnh bởi những
chấn động kinh tế khu vực và thế giới trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, sự tác động này
gây ra sự “tổn thương” không hề nhỏ. Điều này có thể khiến cho thị trường
hàng hóa ở nước ta bị thu hẹp lại, ví dụ như một số mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam bị giảm mạnh về kim ngạch xuất khẩu như dầu thô, thủy
sản, gạo, than đá, cao su, cà phê, hồ tiêu,... do các thị trường nhập khẩu lớn
của Việt Nam như Mỹ, có thể thấy, mỗi chuyển động nhỏ của nền kinh tế khu
vực và thế giới đều có tác động tới nền kinh tế của Việt Nam, đây là một thực
tế không thể phủ nhận được. Rủi ro và bất ổn kinh tế vĩ mô gia tăng, nhiều dự
án đầu tư của nước ngoài có chất lượng thấp, chưa phù hợp với lợi thế và lợi
ích của nền kinh tế. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc tích cực
thay đổi các chính sách, thủ tục hành chính, hệ thống pháp luật để tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế song trong thực tiễn
chúng ta còn nhiều lúng túng trong việc ứng phó với các thách thức, nhất là
các cú sốc về giá và các chu chuyển vốn từ bên ngoài. Hệ quả của những điều
71
này gây ra một số tác động tiêu cực trong đời sống xã hội, biểu hiện rõ nhất là
gia tăng nguy cơ khoảng cách giàu-nghèo. Một số chuyên gia kinh tế nhận
định rằng, nếu hội nhập về thể chế Việt Nam đi khá nhanh và tích cực thì cơ
sở hạ tầng phục vụ cho hội nhập còn nhiều hạn chế, đặc biệt tại các vùng
nông thôn, miền núi. Hệ thống thông tin và hệ thống giao thông vận tải nhìn
chung còn nhiều yếu kém. Trong khi đó chất lượng nguồn nhân lực tương đối
thấp, chưa đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập. Những thách thức của lĩnh
vực kinh tế nói trên cũng đưa lại không ít khó khăn đối với Việt Nam trên con
đường hội nhập.
+ Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực chính trị: Trên lĩnh vực chính trị, Việt
Nam đã có những bước hội nhập tương đối nhanh và sâu rộng, trên cả kênh
song phương và đa phương, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Ở cấp độ song
phương, hội nhập chính trị của nước ta có bước chuyển căn bản từ chú trọng
mở rộng quan hệ với các nước sang mối quan hệ giữa nước ta với các nước
khác đi vào chiều sâu và ngày càng ổn định hơn. Trong các đối tác chiến lược,
một mặt, Việt Nam thúc đẩy hợp tác toàn diện; mặt khác, Việt Nam cũng ưu
tiên hợp tác trên các lĩnh vực thuộc thế mạnh của đối tác dựa trên các yêu cầu
của Việt Nam. Đồng thời, chúng ta cũng phân đối tác thành hai nhóm chính:
đối tác chiến lược như với Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc… và đối tác
chiến lược cấp thấp hơn như với Tây Ban Nha, Hà Lan, Úc… Ở cấp độ đa
phương, hội nhập chính trị của nước ta thể hiện theo cả chiều dọc và theo
chiều ngang, cả cấp độ khu vực và cấp độ toàn cầu. Ở cấp độ khu vực, là
thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam đã tham gia nhiều các cơ chế
do ASEAN làm trụ cột. Ở cấp độ toàn cầu, Việt Nam tham gia Hội đồng Bảo
an Liên Hợp Quốc với tư cách là thành viên không thường trực và được bầu
vào Hội đồng nhân quyền Liên Hợp quốc (2014-2016). Hiện nay, Việt Nam
đã tham gia khoảng hơn 70 thể chế quốc tế. Cho đến nay Việt Nam là thành
viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ
trên thế giới. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại
Liên hợp quốc (ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP,
72
UNFPA và UPU...), phát huy vai trò thành viên tích cực của phong trào
Không liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN… Như
vậy, có thể thấy, hội nhập chính trị đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, tiếng nói của Việt Nam trong các tổ chức ngày càng có
trọng lượng hơn. Hội nhập về chính trị đã tạo khuôn khổ ổn định và nền tảng
vững chắc cho hội nhập các lĩnh vực khác, đặc biệt là hội nhập về kinh tế.
Bên cạnh đó, cũng thông qua hội nhập chính trị mà các nguyên tắc hoạt động,
các trật tự chương trình cũng như các thiết chế nhà nước ngày càng gần với
cộng đồng quốc tế hơn. Hoạt động ngoại giao song phương đã tạo tiền đề để
Việt Nam phát huy vai trò trên các diễn đàn đa phương, qua đó đẩy mạnh quá
trình hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng hơn. Cộng đồng quốc
tế ngày càng đánh giá cao vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế. Từ
ban đầu có 11 nước đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1954, đến năm
2015 chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 nước, thúc đẩy quan hệ
kinh tế, thương mại, đầu tư với 224 thị trường tại tất cả châu lục; đã thiết lập
quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với nhiều quốc gia chủ chốt trên thế
giới. Nhìn vào kết quả ban đầu có thể thấy, ngoại giao đa phương là một điểm
sáng trong hoạt động ngoại giao thời đổi mới ở nước ta. Chính những thành
công bước đầu trong quá hội nhập về chính trị này đã củng cố và nâng cao vị
thế quốc tế của đất nước, tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế,
có lợi cho việc bảo vệ độc lập, tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây
dựng đất nước. Bên cạnh đó, thông qua hội nhập chính trị, chúng ta được bày
tỏ quan điểm lập trường chính trị công khai trên nghị trường quốc tế, giảm
thiểu những xung đột chính trị. Đồng thời, thông qua việc cam kết thực hiện
nguyên tắc công khai, minh bạch các cơ chế, chính sách, các văn bản pháp
luật mà chúng ta thực hiện, đó là lộ trình để chúng ta tạo điều kiện xây dựng
một xã hội dân chủ hơn.
+ Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh: So với hội
nhập về chính trị, mức độ hội nhập quốc phòng - an ninh của Việt Nam dường
như có phần hạn chế hơn, nhưng thực ra nhiều hoạt động của Việt Nam đã
73
được các chuyên gia quốc phòng - an ninh và các bên có liên quan đánh giá là
có bước chuyển không hề nhỏ. Việt Nam đã tham gia hầu hết các diễn đàn an
ninh khu vực như các hội nghị trong khuôn khổ ASEAN như Hội nghị Bộ
trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM); Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng
ASEAN mở rộng (ADMM+); Hội nghị Tư lệnh Hải quân, Không quân các
nước ASEAN; Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF); Cấp cao Đông Á; Diễn đàn
Hải quân Tây Thái Bình Dương (WPNS)…Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng,
về cơ bản mức độ tham gia tại các diễn đàn an ninh khu vực của Việt Nam
còn nhiều hạn chế, nhiều hoạt động còn dừng lại ở bề nổi. Các hoạt động hợp
tác thực địa như tuần tra giữa Việt Nam và một số nước trong khu vực còn
chưa thường xuyên, mang tính biểu tượng, chưa có tính hiệu quả cao. Bên
cạnh đó, so với nhiều nước trong khu vực, đội ngũ làm công tác trong lĩnh
vực an ninh- quốc phòng được đào tạo bài bản của nước ta còn thiếu và yếu,
cùng với đó là các trang thiết bị phục vụ cho công tác này chưa được nâng
cao. Mặc dù Đảng và Nhà nước luôn ý thức chú trọng vai trò của an ninh-
quốc phòng song nhìn chung sự đầu tư cho lĩnh vực này còn ở mức khiêm
tốn. Những hạn chế này và một số nhân tố khác khiến cho các hoạt động hội
nhập trong lĩnh vực an ninh quốc phòng trong những năm qua ở nước ta được
đánh giá vẫn dừng lại ở giai đoạn bước đầu, chúng ta chưa tranh thủ được
nhiều cơ hội trong hội nhập đem lại.
Trước những diễn biến của tình hình khu vực và quốc tế hiện nay, một
thực tế khách quan không thể phủ nhận rằng, càng hội nhập sâu vào đời sống
quốc tế thì những cơ hội và thách thức luôn tồn tại đan xen và chuyển hóa cho
nhau. Trong lĩnh vực an ninh- quốc phòng, khi tham gia hội nhập quốc tế
chúng ta vừa có thêm những cơ hội mới song cũng đứng trước nhiều nguy cơ
ngày càng phức tạp hơn. Hiện nay, ngoài các nguy cơ, thách thức từ an ninh
truyền thống, xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nguy cơ từ an ninh phi
truyền thống như các vấn đề liên quan tới môi trường, dịch bệnh, khủng bố...
Những nguy cơ, thách thức này đe dọa trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự phát
triển của đất nước. Đồng thời, trong quá trình hội nhập quốc tế cũng nảy sinh
74
không ít những vấn đề mới diễn biến phức tạp hơn như tội phạm quốc tế, chủ
nghĩa khủng bố, an ninh xã hội và an ninh con người… đang ngày một nóng
lên hiện nay. Trong đó những thách thức về chính trị như vấn đề chủ quyền
biển đảo, chủ quyền dân tộc đối với các quốc gia đang phát triển như Việt
Nam được xem là một trong những thách thức rất lớn với lĩnh vực an ninh-
quốc phòng. Bên cạnh đó, một số vấn đề khác như quan điểm về dân chủ,
nhân quyền… chúng ta vẫn còn có những điểm chưa thống nhất với các nước
phương Tây, đây cũng là một rào cản không nhỏ trong quá trình hội nhập của
nước ta. Âm mưu thực hiện diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch chống
phá nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn được Đảng ta xếp vào nguy cơ
lớn. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều hình thức
ngày càng tinh vi với những diễn biến phức tạp hơn.
+ Hội nhập văn hóa - xã hội: Việt Nam là một quốc gia mang đặc
trưng của một xã hội với nền văn hóa phương Đông. Thực tiễn phát triển đất
nước gần ba thập kỷ qua đã minh chứng quá trình mở cửa đất nước và hội
nhập quốc tế giúp Việt Nam mở rộng khả năng tiếp cận các nền văn hóa khác
nhau trên thế giới, tiếp nhận các giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại. Quá
trình giao lưu, chia sẻ các giá trị văn hóa với các nước trong quá trình hội
nhập là một cơ hội tốt giúp Việt Nam giới thiệu được nhiều hơn các giá trị
văn hóa dân tộc ra thế giới. Ở cấp độ khu vực, Việt Nam được đánh giá đã có
nhiều đóng góp tích cực vào việc xây dựng cộng đồng văn hóa- xã hội
ASEAN. Trong những năm gần đây, Việt Nam liên tục tham dự cũng như
đăng cai tổ chức nhiều sự kiện văn hóa trong khu vực như: Đại hội Thể thao
Đông Nam Á (SEA Games hay Southeast Asian Games), Đại hội do Liên
đoàn Thể thao Người khuyết tật ASEAN (ASEAN Para Games), các chương
trình giao lưu nghệ thuật... Đặc biệt, trong lĩnh vực văn hóa, chúng ta đã xây
dựng chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012-2013 và giai
đoạn 2012-2015, tiếp đến là xây dựng đề án phát triển ngành công nghiệp văn
hóa đến năm 2020 tầm nhìn 2030… trong đó lấy mục tiêu xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm. Những
75
hoạt động này đã góp phần rất lớn vào việc gắn kết nền văn hóa Việt Nam với
nền văn hóa khu vực, qua đó giúp Việt Nam xây dựng khối đoàn kết ASEAN
bền vững đồng thời tạo cơ hội rất lớn để người dân Việt Nam tiếp nhận các
giá trị tiên tiến của các quốc gia trong khu vực.
Trên phạm vi thế giới, Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào các
thể chế, diễn đàn đa phương về văn hóa như Tổ chức văn hóa, Khoa học và
Giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO), Ủy ban di sản văn hóa thế giới… Bên
cạnh đó, trong cương vị là thành viên của UNESCO, Việt Nam cũng tham gia
và thực hiện nhiều các Công ước quốc tế về văn hóa. Điều này không những
thể hiện nỗ lực của nước ta trong hội nhập về văn hóa mà thông qua việc tham
gia các diễn đàn và Công ước quốc tế này, chúng ta có điều kiện hoàn thiện thể
chế về văn hóa cũng như có thêm những cơ hội chia sẻ những giá trị văn hóa
chung với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, quá trình hợp
tác, giao lưu văn hóa này góp phần giúp Việt Nam tăng cường ý thức trách
nhiệm về việc bảo tồn các công trình, giá trị văn hóa với tư cách là tài sản
chung của nhân loại. Trên thực tế, những nỗ lực của Việt Nam trong hội nhập
văn hóa những năm qua đã đã góp phần rất lớn vào việc đưa văn hóa Việt Nam
gần hơn với các nền văn hóa khu vực và thế giới, góp phần nâng cao nhu cầu
hưởng thụ giá trị văn hóa nhân loại cho mỗi người dân.
Hội nhập quốc tế đã thực sự là một cơ hội tốt giúp Việt Nam nâng cao
ý thức trách nhiệm trong công tác bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc, đồng thời chia sẻ các giá trị văn hóa chung với các quốc gia trên
thế giới. Hiện nay, ở nước ta, do tác động mạnh mẽ, sâu rộng của quá trình
hội nhập quốc tế, nhiều giá trị văn hóa được chú ý phát hiện, bồi dưỡng và tạo
cơ hội phát triển. Trên thực tế, nhiều các giá trị truyền thống như các lễ hội,
các phong tục, các làng nghề và các hoạt động nghệ thuật truyền thống khác...
được “đánh thức” trong quá trình hội nhập. Hiện nay, Việt Nam được đánh
giá là quốc gia có nền văn hóa phong phú, thu hút nhiều sự quan tâm và chia
sẻ đến từ các chuyên gia quốc tế và tổ chức văn hóa có uy tín. Đây là một cơ
hội rất thuận lợi để chúng ta có thêm những kinh nghiệm quý báu trong việc
76
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc bối cảnh đương
đại. Nhờ những nhân tố tích cực từ hội nhập, các hoạt động văn hóa ở nước ta
được đánh giá có những thay đổi và bước đi hiệu quả hơn. Chính những thay
đổi này đã góp phần đưa nhân dân ta có thêm những điều kiện hưởng thụ và
chia sẻ các giá trị văn hóa với các nước trên thế giới.
Tuy nhiên, trong những năm qua trên lĩnh vực hội nhập văn hóa- xã
hội, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong hoạt động thực tiễn chúng ta
còn có một số hạn chế như sau: Các hoạt động hợp tác quốc tế về văn hóa
được đánh giá có những bước tiến tích cực về số lượng cũng như mức độ
tham dự song về chất lượng nhìn chung chưa cao. Hiện nay, các chương trình
văn hóa, nghệ thuật có uy tín ở nước ta còn chiếm tỷ lệ thấp. Hạn chế này do
nhiều nguyên nhân, trong đó sự đầu tư về nhân lực và vật lực cho lĩnh vực
này hiện nay ở nước ta còn nhiều khó khăn nên phần lớn các hoạt động văn
hóa có tính quy mô và chất lượng còn khá khiêm tốn. Trong những năm trở
lại đây, cùng với quá trình giao lưu, hợp tác về văn hóa ngày càng mạnh mẽ
cũng làm gia tăng nhiều ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài vào Việt Nam.
Trong đó phải kể tới sự gia tăng về tính thương mại không phù hợp với thuần
phong mỹ tục của Việt Nam trong một hoạt động văn hóa nghệ thuật. Một số
ảnh hưởng từ mặt trái của chủ nghĩa thực dụng đến từ phương Tây bắt đầu
thâm nhập nhiều hơn trong giới trẻ, một số chương trình thực tế trên truyền
hình theo phiên bản nước ngoài mang tính nghệ thuật thấp, không ít các trang
báo điện tử về văn hóa nghệ thuật chỉ thiên nhằm phục vụ cho mục đích giải
trí…Những mặt tiêu cực này có ảnh hưởng rất lớn tới việc nâng cao đời sống
tinh thần cho nhân dân ta, gây ra những rối loạn trong các thang bậc giá trị xã
hội nếu không có sự kiểm soát kịp thời trong thời gian tới. Nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế trên có nhiều, trong đó có nguyên nhân xuất phát từ công
tác quản lý về văn hóa ở nước ta còn kém hiệu quả, đặc biệt là khâu xử lý và
kiểm soát kịp thời, hiệu quả các thông tin còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ.
Đây cũng là nhân tố dẫn tới không ít các loại hình nghệ thuật truyền thống và
các di sản dân tộc không những không phát triển mà một số loại hình có nguy
77
cơ mai một trong quá trình hội nhập. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, nhìn
chung vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là bài toán khó với
tất cả quốc gia trong quá trình hội nhập, với các nước đang phát triển như Việt
Nam thì những thách thức này là vô cùng lớn, đòi hỏi chúng ta phải có chủ
trương, kế hoạch giải quyết đồng bộ, khắc phục kịp thời những hạn chế đang
tồn tại thì mới có thể phát huy các giá trị của dân tộc và tránh được nguy cơ
xói mòn về văn hóa.
Trên lĩnh vực giáo dục, ngay từ khi bắt đầu hội nhập, Đảng và Nhà
nước đã quan tâm và chú trọng tới hội nhập quốc tế trong công tác giáo dục
và đào tạo, bởi lẽ, sản phẩm của giáo dục thời kỳ hội nhập chính là nguồn lực
chất lượng cao, là nhân tố chủ chốt trong bối cảnh hội nhập. Ngày 04 tháng
11 năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-
NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng nhu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm của vấn
đề chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục,
đào tạo bao gồm các vấn đề sau: Một là, chủ động hội nhập quốc tế về giáo
dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại.
Hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương và đa phương, thực hiện các cam kết
quốc tế về giáo dục, đào tạo. Hai là, tăng quy mô đào tạo ở nước ngoài bằng
ngân sách nhà nước đối với giảng viên các ngành khoa học cơ bản và khoa
học mũi nhọn, đặc thù. Khuyến khích việc học tập và nghiên cứu ở nước
ngoài bằng các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Mở rộng liên kết
đào tạo với những cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín, chủ yếu trong giáo dục
đại học và giáo dục nghề nghiệp; đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào
tạo. Ba là, có cơ chế khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài,
người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng
78
dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ ở Việt Nam. Tăng cường giao lưu
văn hóa và học thuật quốc tế. Bốn là, có chính sách hỗ trợ, quản lý việc học
tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên Việt Nam đang học ở nước ngoài và
tại các cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục đào tạo hiện nay của Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập là đóng góp tích cực vào việc xây dựng con người
Việt Nam phù hợp với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Tiếp thu những giá trị văn hóa của nhân loại; bảo tồn, phát
huy và quảng bá các giá trị văn hóa của Việt Nam; nâng cao hình ảnh của đất
nước và con người Việt Nam, đến năm 2030 hình ảnh quốc gia Việt Nam
được giới thiệu rộng rãi trên toàn thế giới, văn hóa Việt Nam có những đóng
góp mới được ghi nhận trong đời sống văn hóa quốc tế; tranh thủ tối đa các
nguồn lực quốc tế nhằm thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược về lao
động, an sinh và xã hội, giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ; chú
trọng nâng cao nguồn nhân lực và năng lực khoa học-công nghệ; tạo công ăn
việc làm, bảo đảm quyền của người lao động và các nhóm yếu thế; thúc đẩy
công bằng xã hội, đảm bảo an sinh - xã hội và nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.
Ngoài những lĩnh vực tiêu biểu kể trên, các lĩnh vực như: khoa học và
công nghệ, y tế… cũng có những thay đổi và ảnh hưởng nhất định trong quá
trình chúng ta tham gia hội nhập quốc tế. Trong đó những thuận lợi và khó
khăn, cơ hội và thách thức luôn tồn tại đan xen, có sự chuyển hóa cho nhau ở
những điều kiện nhất định.
3.1.3. Một số tác động và yêu cầu của hội nhập quốc tế đến hệ giá trị
con người Việt Nam
3.1.3.1. Tác động của hội nhập quốc tế đến hệ giá trị con người Việt Nam
Không thể phủ nhận, hội nhập kinh tế đã và đang là xu thế khách quan
trong thế giới đương đại, nó có tác động đến tất cả các nước tham gia quá
trình đó. Một mặt xu thế này tạo cơ hội cho các quốc gia mở rộng thị trường,
tiếp cận với các nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại cũng như tri thức
79
quản lý tiên tiến, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Mặt
khác xu thế này còn có những tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa tinh
thần đến các thành phần xã hội, đến con người hay cộng đồng tham gia quá
trình đó. Dưới góc độ nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam, chúng tôi
cho rằng, tác động của hội nhập quốc tế tới hệ giá trị con người Việt Nam trên
một số phương diện sau:
Thứ nhất, dưới tác động của điều kiện hội nhập quốc tế, hệ giá trị con
người Việt Nam truyền thống đã buộc phải đối mặt với những thay đổi nhất
định. Hiện nay, về cơ bản, những giá trị cốt lõi của hệ giá trị con người Việt
Nam được xác định từ truyền thống như: Tinh thần yêu nước, hiếu học, yêu
thương con người… vẫn giữ được vị thế như những giá trị cơ bản, cốt lõi của
người Việt trong các văn kiện, nghị quyết, chủ trương của Đảng và nhà nước
cũng như trong các nghiên cứu khoa học. Song, vị trí giá trị trong thang hệ giá
trị con người Việt Nam có những thay đổi nhất định vì điều kiện mới. Điều
này được thể hiện khá rõ trong văn kiện XII của Đảng Cộng sản Việt Nam với
những định hướng cơ bản trong việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam
– đó là con người “đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; nâng cao trí tuệ, năng
lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ
công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật; phát huy tốt vai trò chủ thể
sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [22, tr.29]. So với các
chủ trương, đường lối của Đảng về con người, hệ giá trị con người, những chỉ
dẫn từ văn kiện của đại hội XII đã có những thay đổi nhất định về vị trí, thang
bậc các giá trị trong hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay so với truyền
thống để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn thời đại đặt ra, trong đó có yêu cầu
của xu thế hội nhập quốc tế.
Thứ hai, hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay dưới tác động của hội
nhập quốc tế đang diễn ra quá trình thu nhận và cải biến các giá trị tiến bộ,
phù hợp của hệ giá trị nhân loại. Về thực chất, hội nhập quốc tế là một quá
trình tham gia một cách chủ động của các quốc gia vào đời sống quốc tế nhằm
khai thác hiệu quả những lợi thế quốc gia và lợi thế quốc tế cho sự phát triển của
80
quốc gia, dân tộc. Trong sân chơi chung này, luôn xuất hiện các cơ hội, các thời
cơ mà nếu nắm bắt kịp thời sẽ tạo ra những bước ngoặt lớn. Thực tế khi tham gia
hội nhập sâu rộng trên các lĩnh vực, trong những năm gần đây, hệ giá trị con
người Việt Nam đã diễn ra mạnh mẽ sự ảnh hưởng các luồng văn hóa với những
giá trị mới của hệ giá trị nhân loại. Trong quá trình đó, hệ giá trị con người Việt
Nam có sự tiếp nhận, cải biến các giá trị tiến bộ để phù hợp với “màu sắc” Việt
Nam. Trong thực tiễn ở Việt Nam, có thể thấy khá rõ một số giá trị như: bình
đẳng, dân chủ, nhân quyền, tự do, sáng tạo… đã du nhập vào Việt Nam bằng
nhiều con đường khác nhau trong lịch sử. Song, cho đến hiện nay, các giá trị
đó ngày càng rõ nét hơn trên nhiều phương diện đời sống xã hội của Việt
Nam qua quá trình tiếp xúc, giao lưu, hợp tác một cách chủ động của Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong quá trình hội nhập quốc tế, các
giá trị tiến bộ của hệ giá trị nhân loại khi được tiếp biến vào Việt Nam cũng
tuân theo các quy luật của các yếu tố văn hóa trong sự phát triển, tức là, luôn
có sự điều chỉnh cho phù hợp với con người Việt Nam, thực tiễn phát triển
của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ ba, dưới tác động của hội nhập quốc tế, hệ giá trị con người Việt
Nam hiện nay cũng xuất hiện một số xung đột giữa các giá trị mới và các giá trị
cũ, giữa cái chung và cái riêng, giữa bản địa và du nhập. Sự xung đột này có thể
nhận rõ hơn sự biến mất một số giá trị con người Việt Nam truyền thống do
những thay đổi của điều kiện mới và một số tranh luận chưa thống nhất xung
quanh vấn đề các giá trị hiện nay của người Việt. Thực tế hiện nay, một số
các giá trị người Việt truyền thống bị biến mất như các giá trị: trung quân ái
quốc, tinh thần quốc tế vô sản... Sự biến mất này, trong bối cảnh mới hiện
nay, có thể coi là một tất yếu khách quan trong mối quan hệ giữa các yếu tố
của ý thức xã hội và tồn tại xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin. Có nghĩa là, khi
tồn tại xã hội hiện nay với sự đan xen của các tác động trên thế giới và yêu
cầu thực tiễn phát triển đất nước, một số giá trị truyền thống nếu bị lạc hậu,
lỗi thời sẽ không phù hợp và bị đào thải. Bên cạnh đó, một số giá trị trong hệ
giá trị con người Việt Nam truyền thống như: cần cù, đoàn kết, thông minh...
81
đang có những ý kiến tranh luận khác nhau trong các nghiên cứu khoa học
cũng như trong đời sống hàng ngày. Cụ thể như giá trị cần cù chăm chỉ, một
giá trị vốn được xem là cơ bản của người Việt truyền thống thì một số học giả
không tán thành đưa vào bảng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc thêm trong công trình “Hệ giá trị Việt
Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai” [105] cho rằng
giá trị cần cù, chăm chỉ là “huyền thoại”. Ông cũng khẳng định rõ quan điểm
không có câu trả lời tuyệt đối cho về câu hỏi cần cù chăm chỉ hay lười biếng,
do đó, theo ông, giá trị này không được xếp trong hệ giá trị con người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Những tiếp biến, giao thoa giữa hệ giá trị con
người Việt Nam và hệ giá trị nhân loại trong bối cảnh hội nhập xuất hiện
những xung đột nhất định là một tất yếu trong mối quan hệ giữa cái chung và
cái riêng, mối quan hệ dân tộc và nhân loại, mối quan hệ giữa giá trị cũ và giá
trị mới… để lựa chọn những giá trị phù hợp trong bảng giá trị con người Việt
Nam thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập quốc tế. Hơn nữa, đây cũng là quá trình
diễn ra cuộc “đấu tranh” không chỉ với các nhân tố bên ngoài, mà còn là cuộc
“đấu tranh” vô cùng khốc liệt giữa các yếu tố nội sinh trong quá trình phát
triển đất nước.
3.1.3.2. Một số yêu cầu của hội nhập quốc tế với vấn đề hệ giá trị con
người Việt Nam
Hiện nay, hội nhập quốc tế đang tác động tới đời sống xã hội Việt Nam
khá sâu sắc và đặt ra rất nhiều yêu cầu đối với Việt Nam khi tham quá trình
này. Trong phạm vi xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam, hội nhập quốc tế
đang đặt ra một số yêu cầu như sau:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu đối với hệ giá trị con người
Việt Nam cần tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, thực hiện đúng và đủ các cam
kết và những ký kết Việt Nam tham gia. Nói cách khác, khi tham gia hội nhập
quốc tế, các giá trị Việt Nam hướng tới xây dựng không chỉ đơn thuần mang
“màu sắc Việt Nam” mà hệ giá trị con người Việt Nam phải có sự “điều
chỉnh” theo những quy tắc, chuẩn mực chung của quốc tế. Điều này không
82
đồng nhất với cách hiểu “bắt buộc” theo những quy tắc một cách cứng nhắc
hay xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam theo một khuôn thước sẵn có hay
một mô hình chung nào đó. Thực tế, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, mỗi
dân tộc đều có “lối đi riêng” để tạo “mầu sắc riêng” của con người, của dân
tộc mình. Song, trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ như
hiện nay, thì việc các quốc gia phải “chấp nhận” các nguyên tắc, chuẩn mực
quốc tế là một tất yếu và hệ giá trị con người cũng không phải là một trường
hợp ngoại lệ. Thực tế theo kinh nghiệm của các quốc gia và vùng lãnh thổ có
quá trình xây dựng hệ giá trị con người trong bối cảnh hội nhập như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc… theo nghiên cứu của đề tài KX.04.15/11 với chủ đề
“Hệ giá trị con người- Hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới” có kết
quả như sau: Indonesia gồm 5 giá trị; Singapore gồm 5 giá trị; Malaysia 5 giá
trị; Phipippines gồm 9 giá trị; Thái Lan gồm 12 giá trị… Song, dù mang các giá
trị khác nhau hay giống nhau, số lượng nhiều hay ít các giá trị… thì việc các
giá trị hướng tới các giá trị chuẩn mực quốc tế đang trở thành xu thế chung của
hầu hết các quốc gia trong bối cảnh hiện nay. Điều này cũng đồng nghĩa với
việc khi gia nhập sân chơi quốc tế, con người Việt Nam phải chấp nhận những
khác biệt về giá trị, chấp nhận những xung đột nhất định về giá trị. Trong quá
trình xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
hiện nay, chúng ta buộc phải lựa chọn, phải điều chỉnh các giá trị dân tộc của
mình để hài hòa với hệ giá trị nhân loại. Tiêu chí của sự điều chỉnh, chấp nhận này
chính là dựa trên các tiêu chuẩn, nguyên tắc, các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam
đã tham gia ký kết.
Thứ hai, hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc
tế phải chú ý tới vấn đề bảo tồn các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu
các giá trị tinh hoa của nhân loại. Trước hết, có thể thấy rõ rằng, đối với hầu
hết các quốc gia trong bối cảnh hội nhập, việc giữ gìn và phát huy các giá trị
truyền thống là một điều tất yếu khác quan. Bởi lẽ, giá trị truyền thống là
những truyền thống có giá trị vững bền, những truyền thống tốt đẹp, tích cực
tiêu biểu cho bản sắc văn hoá dân tộc, có tác động tích cực thúc đẩy sự phát
83
triển của dân tộc đó trong suốt chiều dài lịch sử. Hoặc cũng có thể nói, giá
trị truyền thống là những giá trị nội sinh, cao đẹp và vững bền tiêu biểu cho
bản sắc văn hoá dân tộc, có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của dân
tộc đó trong suốt chiều dài lịch sử và được giữ gìn, kế thừa từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Giá trị truyền thống của một dân tộc là sự kết tinh toàn bộ
tinh hoa được chắt lọc, cô đúc nên từ tất cả di sản truyền thống trong suốt
quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc đó. Toàn bộ giá trị
truyền thống dân tộc là cái thể hiện cô đọng nhất, độc đáo nhất, rõ nét nhất
bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, không thể đồng nhất cũng như không thể tách
rời giá trị truyền thống với văn hoá dân tộc mà giá trị truyền thống là một bộ
phận của văn hoá, hơn thế là bộ phận cốt lõi nhất làm nên sức mạnh nội sinh
của một nền văn hoá.
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, văn hoá Việt Nam có cơ hội
hội nhập và giao lưu với các nền văn hoá khác của thế giới để làm giàu và
khẳng định bản sắc của mình. Song, hơn lúc nào hết, đây cũng là giai đoạn mà
các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc phải đối diện với những tác động
tiêu cực của toàn cầu hoá. Hội nhập quốc tế đang là một nhu cầu khách quan;
nó đòi hỏi chúng ta phải mở cửa, giao lưu với cộng đồng thế giới để đón nhận
và tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tuy nhiên, một dân tộc nào
đó sẽ không còn là chính mình nếu đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc, do đó
hội nhập nhưng không hòa tan đang là một yêu cầu cấp bách đặt ra. Trong tác
phẩm “Chiếc Lexus và cây Ô liu” [25], Thomas Loren Friedman đã đề cập
đến sự đụng độ giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại trong kỷ nguyên
toàn cầu hóa. Ông dùng biểu tượng cây Ô liu để chỉ những giá trị truyền
thống của các dân tộc và chiếc xe hơi sang trọng Lexus để chỉ những giá trị
hiện đại mang tính phổ quát của nhân loại. Và theo ông, cuộc đấu tranh giữa
chiếc Lexus và cây Ô liu là một cuộc “vật lộn triền miên”. Trong cuộc vật lộn
đó, “hiểm hoạ lớn nhất đối với cây Ôliu của bạn lại đến từ chiếc xe hơi
Lexus”, trong nhiều trường hợp, chiếc Lexus chế ngự, không đếm xỉa thậm
chí “chà đạp” những hàng cây Ô liu trên con đường mà nó đi qua. Đến lượt
84
nó, những hàng cây Ô liu bắt đầu kháng cự lại, chúng “bóc lột”, “khai thác”,
“vu cáo” chiếc Lexus. Nhưng vấn đề lớn nhất Thomas L.Friedman đề cập đến
ở tác phẩm là sự hòa hợp giữa các giá trị truyền thống và các giá trị mới trong
bối cảnh hiện đại đối với các dân tộc hiện nay như là một yêu cầu cấp bách.
Hiện nay, hệ giá trị con người Việt Nam có sự đan xen giữa những giá
trị mới được phát sinh từ kinh tế thị trường và hệ giá trị truyền thống của dân
tộc. Trong tình hình đó, khó tránh khỏi sự lấn át, xung đột giữa cái cũ và mới,
giữa truyền thống và hiện tại, cùng với những biến thái khó lường sẽ sản sinh
những phản giá trị xâm hại hệ giá trị của dân tộc. Vì thế, việc bảo tồn các giá
trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu các giá trị tinh hoa của nhân loại đang
được xem là một yêu cầu thiết thực đối với xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam hiện nay.
Ở Việt Nam, các giá trị truyền thống như tinh thần yêu nước, tinh thần
nhân văn nhân đạo, lạc quan, hiếu học… là những giá trị luôn được đề cao
trong tâm thức người Việt. Cho tới nay, các giá trị truyền thống này vẫn được
xem là nét đẹp đặc sắc của người Việt Nam. Vì vậy, xây dựng hệ giá trị con
người Việt Nam cũng có nhiệm vụ làm cho các giá trị truyền thống quý báu
đó ngày càng được phát huy hơn nữa trong những điều kiện mới và trở thành
động lực cho sự phát triển của dân tộc.
Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cùng với sự phát
triển mang tính cách mạng và đột biến của khoa học và công nghệ cao, dường
như ngày càng thu hẹp khoảng cách địa lý giữa các quốc gia, dân tộc; không
gian văn hóa các dân tộc đang xích lại gần nhau hơn; giao văn hóa giữa các
dân tộc ngày càng mở rộng. Trong các quá trình đó, các nước chậm phát triển
đứng trước cả vận hội và thách thức, thuận lợi và khó khăn; vừa tiếp nhận
được các giá trị văn minh, hiện đại của nhân loại, có điều kiện nâng cao hiểu
biết, học hỏi lẫn nhau, tiếp thu được những giá trị tốt đẹp của các dân tộc
khác, làm giàu thêm và chấn hưng hệ giá trị Việt Nam. Trên thực tế, các giá
trị tinh hoa của nhân loại sẽ góp phần làm giàu có, bồi đắp thêm cho con
người Việt Nam bên cạnh các giá trị truyền thống khi chúng được tiếp thu có
85
chọn lọc và cải biến phù hợp thực tiễn. Giải quyết bài toán về mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng này cũng là một yêu cầu quan trọng cho việc xây
dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập hiện nay.
Thứ ba, hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu với xây dựng hệ giá trị con
người Việt Nam phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước vì sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nói cách khác, hệ giá trị con
người Việt Nam hiện nay phải mang tính hiện thực, nó vừa phản ánh trình độ
phát triển thực tế của xã hội Việt Nam trong giai đoạn mới, vừa phản ứng
mục tiêu, lý tưởng của đất nước. Là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp
chung của dân tộc, hệ giá trị con người Việt Nam phải tham gia tích cực vào
công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, hướng đến mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam hiện nay không những phải lựa chọn các giá trị phù hợp với điều kiện
thực tiễn đất nước mà các giá trị đó phải tham gia tích cực vào việc định
hướng, đánh giá và điều chỉnh các hành vi xã hội. Hệ giá trị con người Việt
Nam phải là cơ sở gắn kết tinh thần đoàn kết, khơi dậy sức mạnh dân tộc
trong công cuộc kiến thiết đất nước. Hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay
không chỉ thể hiện mong muốn tốt đẹp mang tính lý tưởng, xa rời thực tiễn,
mà phải gắn với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển đất nước, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.
Thứ tư, hệ giá trị con người trong điều kiện hội hiện nay cần phải được
xây dựng và phát triển trong “chuỗi liên kết” giữa các chủ thể trong xã hội.
Tức là các chủ thể tham gia quá trình xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế bao gồm nhiều đối tượng tham gia. Trên góc
độ thượng tầng kiến trúc, Đảng và Nhà nước là chủ thể quan trọng trong việc
đề xuất các chủ trương, đường lối, các chính sách và kiểm soát các vấn đề liên
quan. Các cơ quan, đoàn thể xã hội có chức năng thực thi các vấn đề về con
người, các nhà khoa học có nhiệm vụ tích cực đưa các quan điểm của Đảng
và Nhà nước vào thực tiễn đời sống và bổ sung những vấn đề của thực tiễn về
con người, hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Quần chúng
86
nhân dân là chủ thể được hưởng các giá trị và là chủ thể tham gia vào quá
trình đó. Nói cách khác, để hiện thực hóa hệ giá trị con người Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay cần có sự chung tay của toàn xã hội, của
tất cả con người Việt Nam chứ không riêng chủ thể, cá nhân nào. Quả thực,
sức mạnh và động lực phát triển của dân tộc - đất nước sẽ được phát huy cao
nhất khi phát huy được giá trị tích cực, giá trị đích thực của mỗi chủ thể, đồng
thời phải tại được hợp lực các chủ thể khác trong quá trình xây dựng hệ giá trị
con người Việt Nam. Hiện nay, khi bối cảnh hội nhập quốc tế với các vấn đề
diễn ra ngày càng đa dạng, phức tạp, trong đó có những vấn đề nhạy cảm liên
quan trực tiếp tới vận mệnh, an ninh quốc gia, đến sự tồn tại và phát triển con
người… Điều này đặt ra những thách thức mới cho tất cả các dân tộc trên con
đường hội nhập. Ở Việt Nam, khi xuất phát điểm trước mắt còn nhiều khó
khăn, những cơ hội và thách thức đan xen, con người Việt Nam với những nét
đặc thù mang những đặc điểm tích cực xen lẫn những hạn chế trước yêu cầu
của thời đại… Vì thế, từ những vấn đề thực tiễn đặt ra với vấn đề xây dựng hệ
giá trị con người cần có sự hợp sức, chung tay của các chủ thể tích cực tạo
thành “chuỗi liên kết” vừa là một yêu cầu khách quan vừa là một nhiệm vụ
bức thiết và quan trọng.
3.2. Thực trạng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay
3.2.1. Những chuyển biến tích cực trong hệ giá trị của con người
Việt Nam hiện nay
3.2.1.1. Các giá trị của con người Việt Nam có xu hướng gần hơn với
các chuẩn mực quốc tế
Sau hơn 30 năm Đổi mới, sự nghiệp hợp tác giao lưu quốc tế về văn
hóa đã ở vào trình độ mới về chất, mở rộng về quy mô, đa dạng về hoạt động.
Việt Nam đã thực sự là đối tác tin cậy và đầy tiềm năng về chủ thể văn hóa.
Với quá trình đổi mới văn hóa Việt Nam đã được toàn thế giới biết đến và ghi
nhận ở nét đặc sắc của nó, từ văn hóa vật chất đến văn hóa tinh thần, từ văn
hóa vật thể đến văn hóa phi vật thể, từ văn hóa truyền thống đến văn hóa hiện
87
đại, từ văn hóa ẩm thực đến văn hóa chính trị, ngoại giao, thông tin… Hầu hết
các tổ chức quốc tế về hoạt động văn hóa đều có quan hệ với Việt Nam. Các
công ước, định ước quốc tế chủ yếu về hoạt động văn hóa, đều được Việt
Nam tham gia và tôn trọng thực hiện. Văn hóa Việt Nam trên thực tế đã trở
thành niềm tự hào của người Việt trong giao lưu với bên ngoài. Trên khía
cạnh hệ giá trị con người, có thể thấy những giá trị con người Việt Nam hiện
nay, về cơ bản, đã có những bước chuyển gần với các chuẩn mực quốc tế.
Trong những năm trở đây, đặc biệt khi Việt Nam tham gia sâu rộng trên
nhiều diễn đàn quốc tế, Việt Nam có thêm nhiều cơ hội mới tiếp cận với các
giá trị chuẩn mực quốc tế. Và, hội nhập quốc tế đã thực sự mang lại sự
chuyển biến về giá trị con người Việt Nam trước bối cảnh mới. Cụ thể, năm
1995, Việt Nam bắt đầu có mặt trong Báo cáo của UNDP về phát triển con
người. Năm 2001, Việt Nam công bố Báo cáo quốc gia về phát triển con
người. Xu hướng nghiên cứu định lượng về phát triển con người được chú ý
ngay cả ở phạm vi các địa phương (tỉnh, thành phố). Từ đây, quan niệm coi
con người chiếm vị trí trung tâm dần trở nên phổ biến trong đời sống xã hội
Việt Nam, nó có tác động tích cực trong việc xem xét con người, các giá trị
con người theo những nét mới, ngày càng phù hợp, gần gũi hơn với các chuẩn
mực giá trị quốc tế. Hơn nữa, tư tưởng coi con người chiếm vị trí trung tâm
của sự phát triển đã được đúc rút thành những phương pháp luận có ý nghĩa
rất tích cực đối với sự nghiệp đổi mới và cũng là với sự phát triển đất nước
mấy thập niên qua.
Về phát triển con người, quan điểm của UNDP đã được tiếp thu và chỉ số
phát triển con người cũng đã được ghi vào văn kiện Đại hội VIII như là một
mục tiêu cần đạt tới. Việc coi chỉ số phát triển con người (HDI) như một
thước đo về thành tựu phát triển và là một trong cơ sở để xây dựng chiến
lược, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, là một bước tiến bộ đã
được dư luận trong và ngoài nước ghi nhận. Phát triển con người đi liền với
mở rộng dân chủ, nâng cao cơ hội lựa chọn và hưởng thụ các thành quả phát
88
triển cho người dân. “Sống lâu, sống khỏe mạnh và sáng tạo” được coi là mục
tiêu của sự phát triển. Tăng trưởng kinh tế cùng với tất cả các tiến bộ khác đều
có mục tiêu là phát triển con người - mở rộng cơ hội lựa chọn, nâng cao năng
lực lựa chọn; tăng cường sự tham gia và trao quyền cho người dân; đảm bảo
bình đẳng trong tiếp cận cơ hội và công bằng trong chia sẻ thành quả phát
triển trong một thế hệ và giữa thế hệ, đảm bảo an ninh con người; mọi hoạt
động kinh tế xã hội phải tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển
phong phú, tự do, toàn diện của con người. Chúng ta đã tiếp nhận và đưa các
quan niệm mới mẻ của Liên Hiệp Quốc và các nước phát triển về phát triển
con người. Và trên thực tế, phát triển con người của Việt Nam trong những
năm qua đã có những bước thay đổi đáng kể. Sự thay đổi này góp phần tạo ra
những cơ hội cho con người Việt Nam, các giá trị con người Việt Nam ngày
càng tiếp cận, tiến gần hơn với các chuẩn mực giá trị nhân loại trong bối cảnh
hội nhập hiện nay. Thể lực của người Việt Nam hơn 30 năm qua cũng liên tục
được cải thiện. Tốc độ tăng chiều cao trung bình qua từng 10 năm được đảm
bảo liên tục. Tuổi thọ trung bình và các chỉ số sinh, tử của trẻ sơ sinh trong
nhiều năm qua cũng theo chiều hướng tốt hơn; Công tác giáo dục có nhiều
chuyển biến theo hướng hội nhập. Người Việt hiện nay có ý thức và thực tế là
thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn và các mặt
khác. Tinh thần hiếu học và việc đầu tư cho học tập ở người Việt hiện nay
là rất lớn. Đội ngũ trí thức đang gia tăng cả về số lượng lẫn chất lượng, số lao
động qua đào tạo không ngừng tăng lên trong 30 năm qua, đặc biệt là 10 năm
gần đây. Dân chủ hóa được thực hiện ngày một tốt hơn cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu. Quyền con người ở nước ta được tôn trọng, được đảm bảo và thực
thi ngày một tốt hơn. Hiến pháp sửa đổi 2013 đã ghi nhận bước tiến lớn cả về
phương diện pháp lý, chính trị lẫn thực tiễn của việc thực thi quyền con người
ở nước ta trong 10 năm gần đây và xu hướng những năm tiếp theo.
Ngoài ra, các giá trị con người Việt Nam đang diễn ra quá trình chuyển
đổi mạnh mẽ. Các giá trị con người Việt Nam mang tính lỗi thời, lạc hậu
89
không phù hợp với điều kiện mới dần bị loại bỏ, bên cạnh đó, các giá trị nhân
loại như: dân chủ, bình đẳng, tinh thần sáng tạo, kỷ luật, hợp tác... đang dần
được hiện thực hóa trong các chủ trương, văn kiện, chính sách của Đảng và
nhà nước. Các giá trị này về cơ bản phù hợp với điều kiện hiện nay của Việt
Nam và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế trong bối cảnh hội nhập. Ở một
khía cạnh khác về giá trị con người, các chuẩn mực của quốc tế mà Việt Nam
đang hướng tới đã tạo sự thay đổi trong lý luận cũng như thực tiễn xây dựng
hệ giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Nếu như trước hội nhập, các
giá trị con người ở Việt Nam thường được xem xét trên khía cạnh con người
xã hội; nghĩa là con người trong các quan hệ nhóm, tập thể, cộng đồng, giai
cấp, dân tộc, tổ quốc… Quyết định diện mạo con người, gần như không ai bàn
đến vai trò của nhân tố cá nhân, cá thể, huyết tộc, nòi giống... Vì thế, các giá
trị con người cá nhân như: tự do, dân chủ, bình đẳng... hầu như ít được nói
đến hoặc bàn tới. Hiện nay, dưới những tác động mạnh mẽ của thời đại, các
giá trị con người được quan tâm cả trên phương lý luận và phương diện thực
tiễn. Những nhu cầu của con người cá nhân như: được tôn trọng, được an
toàn, phát triển bản thân... qua quá trình giao lưu, hợp tác, tiếp biến văn hóa
đang dần trở thành các giá trị được quan tâm và thực tế hơn.
Đặt trong bối cảnh của một đất nước đến tận đầu những năm 90 (thế kỷ
XX) vẫn chìm trong tất cả các tiêu chuẩn của tình trạng đói nghèo và chậm
phát triển, rồi sau đó tăng trưởng liên tục với tốc độ ấn tượng và trở thành một
quốc gia phát triển sôi động trong con mắt khu vực và thế giới, thì không khó
để có thể thấy rằng, thực trạng xây dựng và phát triển con người Việt Nam
những thập niên qua, quả thực đã đạt tới những thành tựu khó phủ nhận. Dĩ
nhiên, phát triển con người ở Việt Nam vẫn chưa được như kỳ vọng, các giá
trị con người Việt Nam đang có những chuyển biến mạnh mẽ, trong đó vẫn có
cả những biến đổi theo chiều hướng tiêu cực, nhưng nhìn tổng thể, những
thay đổi của các giá trị con người Việt Nam trong thời gian qua đều ít nhiều
đã được kiểm chứng theo các chuẩn mực quốc tế.
90
3.2.1.2. Lối sống văn minh, năng động, thích ứng với hội nhập ngày càng
chiếm ưu thế trong đời sống xã hội
Như chúng ta đã biết, hội nhập quốc tế hiện nay diễn ra chủ yếu trong
lĩnh vực kinh tế. Kinh tế vốn là lĩnh vực thuộc hạ tầng cơ sở có khả năng chi
phối nhiều lĩnh vực khác nhau thuộc thượng tầng kiến trúc, trong đó có văn
hóa. Bởi thế, sự quốc tế hóa đời sống kinh tế cũng đem lại những tác động
không nhỏ làm thay đổi hệ giá trị, quan niệm, lối sống và những ứng xử trong
đời sống văn hóa. Sự thay đổi này là tất yếu bởi yêu cầu tương hợp giữa hạ
tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc. Là một xu thế tất yếu, hội nhập quốc tế
có sức cuốn hút mạnh mẽ, hàm chứa cả cơ hội lẫn thách thức đối với các quốc
gia trên con đường phát triển. Với quan điểm phát huy nội lực, tranh thủ các
điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam nhất quán đường lối chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc.
Đến nay, con người Việt Nam là con người của một quốc gia đã có quan hệ
ngoại giao với 188/193 nước thành viên Liên Hợp Quốc, là thành viên tích
cực của hơn 70 định chế quốc tế; có quan hệ Đối tác chiến lược với 16
nước, Đối tác toàn diện với 11 nước; được hơn 70 nước công nhận nền
kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường; tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao
và liên tục khoảng 5-7%/năm… Những tác động này có ảnh hưởng không
nhỏ đến lối sống, văn hóa của người Việt Nam, đặc biệt là một bộ phận
giới trẻ có cơ hội tiếp xúc nhanh chóng với đời sống quốc tế, từ đó các xu
hướng, lối sống lành mạnh dễ dàng thâm nhập vào đời sống cộng đồng với
sức lan tỏa dễ dàng hơn trước.
Quá trình chủ động hội nhập một cách tích cực đó đã giúp Việt Nam có
những bước chuyển quan trọng trên nhiều lĩnh vực, con người Việt Nam ngày
càng có thêm cơ hội học hỏi, giao lưu và trang bị thêm những hành trang mới.
Hiện nay, về cơ bản, lối sống lành mạnh, có văn hóa, hội nhập sâu vào xu
hướng tiến bộ của thế giới ngày càng phổ biến và chiếm ưu thế trong đời sống
xã hội Việt Nam. Biểu hiện dễ nhận thấy là con người Việt Nam ngày nay
91
năng động, sáng tạo hơn. Khả năng sáng tạo, hội nhập, thích nghi và nắm bắt
các phẩm chất tiên tiến của văn minh thế giới ở thế hệ trẻ phải nói là rất tích
cực. Trong xã hội xuất hiện ngày càng nhiều người trẻ thành đạt dựa trên
năng lực và trình độ chuyên môn của bản thân. Đó là những con người dám
nghĩ, dám làm, dám biến ước mơ thành hiện thực trong công việc, trong cuộc
sống. Họ luôn tranh thủ các điều kiện thuận mới như việc ứng dụng các thành
tựu khoa học kỹ thuật tiến bộ của nhân loại, hưởng thụ các giá trị tinh thần
phong phú từ các nền văn hóa tiến bộ trên thế giới..để làm giàu đời sống cá
nhân và lan tỏa trong cộng đồng. Ý chí làm người, tâm thế phát triển, khát
vọng xây dựng đất nước giàu mạnh… vẫn được thể hiện mạnh mẽ trong nhiều
tầng lớp cư dân. Hiện nay, con người Việt Nam đang dần khẳng định năng lực
của mình trên nhiều lĩnh vực như thể thao, giáo dục, y tế...không chỉ trong
phạm vi khu vực mà còn trên nhiều lĩnh vực của thế giới. Trong đời sống xã
hội, những lối sống lành mạnh, tiến bộ, văn minh ngày càng phổ biến và được
đón nhận, nó góp phần làm giảm, thậm chí làm biến mất nhiều tư tưởng bảo
thủ, lạc hậu, ấu trĩ vốn tồn tại trong xã hội Việt Nam trước hội nhập.
Về cơ bản, hiện nay, con người đã trở thành chủ thể năng động của mọi
quá trình phát triển, giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Con
người Việt Nam hiện nay với đại bộ phận có lối sống lành mạnh, nếp sống
vǎn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước,
quy ước của cộng đồng. Những phẩm chất này đang tồn tại thực, đang là nhân
tố tạo nên sự ổn định, phát triển của xã hội Việt Nam. Trong giáo dục gia
đình, các phẩm chất trung thực, cần kiệm, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương,
phép nước và quy ước của cộng đồng vẫn được tôn trọng và được chú ý thực
hiện. Một số địa phương, cộng đồng thậm chí có những quy ước rất chặt chẽ
để giáo dục sự làm người. Về trình độ kỹ thuật, năng suất lao động và tính
sáng tạo của các thế hệ người Việt Nam hiện nay có những thay đổi tích cực
hơn so với các thế hệ trước.
Dưới tác động của bối cảnh hội nhập quốc tế với sự đa dạng các làn
sóng văn hóa, con người Việt Nam hiện nay đang hướng tới lối sống lành
92
mạnh, có văn hóa, hội nhập sâu vào xu hướng tiến bộ của thế giới ngày càng
phổ biến và chiếm ưu thế trong đời sống xã hội. Điều này có thể coi là một
điểm chuyển biến tích cực đáng kể trong hệ giá trị con người Việt Nam trước
những thay đổi của thời đại, của những điều kiện mới.
3.2.1.3. Các giá trị con người truyền thống được đánh thức và phát huy
Trong cuộc sống của mỗi cá nhân và trong lịch sử của mỗi dân tộc qua
nhiều thế hệ có những giá trị mới hình thành, có những giá trị trở nên lỗi thời
nhưng cũng có rất nhiều giá trị không những không mất đi mà trái lại còn
được duy trì, được lưu giữ, được khuếch trương, được truyền bá rộng rãi,
được bồi đắp thêm và trở thành các giá trị truyền thống. Khi nói đến giá trị
truyền thống là nói đến những truyền thống nào đã được thẩm định nghiêm
ngặt bởi thời gian, đã có sự chọn lọc, sự phân định và khẳng định ý nghĩa tích
cực của chúng đối với xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Hội nhập quốc tế đã tác động mạnh mẽ tới đời sống xã hội Việt Nam,
tạo ra những chuyển biến tích cực đối với các giá trị con người truyền thống,
trong đó, nhiều giá trị người Việt truyền thống có cơ hội phát triển, được
“đánh thức”. Giá trị gia đình trong quan niệm của người Việt hiện nay là một
giá trị dễ thấy rõ. Với người Việt Nam, gia đình vẫn là thiết chế chứa đựng
nhiều phẩm chất tốt đẹp nhất, có giá trị giữ vững sự ổn định và bình thường
(không bất thường) của xã hội - là tế bào lành mạnh nhất của xã hội. Trong đó
các giá trị như hướng thiện và trách nhiệm vốn được coi là định hướng cơ bản
trong giáo dục gia đình truyền thống thì nay, giá trị này vẫn được đặc biệt
xem trọng trong gia đình người Việt hiện đại. Gia đình người Việt hiện nay
vẫn đặc biệt xem trong giá trị đạo hiếu- một giá trị đạo lý cơ bản vững chắc
trong gia đình Việt Nam truyền thống. Hiện nay, trong bối cảnh có sự tác
động mạnh mẽ của các xu hướng, giá trị mới tới gia đình, mặc dù không tránh
khỏi những biến động, song, nhìn chung các giá trị gia đình vẫn được bảo tồn,
lưu giữ trong tâm thức người Việt và chiếm số đông gia đình người Việt hiện
nay. Giá trị nhân văn, tiến bộ trong gia đình gồm: Giá trị tình nghĩa, thủy
chung, hòa thuận trong quan hệ vợ chồng, từ - hiếu trong quan hệ giữa cha mẹ
93
và con cái; tình cảm yêu thương gắn bó, kính trên nhường dưới trong các mối
quan hệ anh chị em. Việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức này góp phần
đảm bảo sự ổn định, hài hòa phát triển trong nội bộ gia đình và trong quan hệ
giữa gia đình với họ tộc, làng xóm, quê hương. Bên cạnh đó, cùng với sự phát
triển của xã hội, đời sống gia đình đã có những cải thiện đáng kể, cha mẹ có
điều kiện nhiều hơn trong việc chăm sóc và dạy dỗ con cái. Các giá trị truyền
thống dưới tác động của hội nhập quốc tế nhờ đó cũng đang có những biến
đổi trong điều kiện mới. Việc lựa chọn bạn đời có thể cần nhiều tiêu chí, song
nhất thiết phải được xây dựng trên quan hệ tình yêu. Quan hệ vợ chồng phải
xem trọng tình nghĩa, thủy chung, hòa thuận. Sự hòa thuận của vợ chồng là
yếu tố cơ bản, tạo ra sức mạnh phi thường khắc phục mọi khó khăn để xây
dựng gia đình hạnh phúc. Sự hòa thuận không thể xây dựng trên một cơ sở
nào khác ngoài tình yêu thương, chung thủy và sự hiểu biết lẫn nhau của hai
người. Trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái ở bối cảnh hiện tại, ngoài tình
thương và trách nhiệm còn cần phải tạo lập giá trị tự do, dân chủ. Thay bằng
việc áp đặt của cha mẹ với con cái trong gia đình truyền thống, hiện nay gia
đình người Việt hiện đại có xu hướng tôn trọng sở thích cá nhân, tính độc lập,
tự do, dân chủ của mỗi cá nhân. Con cái tự quyết định cuộc sống của họ, cha
mẹ đóng vai trò là người bầu bạn đồng hành cùng con, định hướng cho con
cái trong cuộc sống.
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, quan niệm về yêu nước- một giá trị
đứng đầu trong các giá trị truyền thống- cũng có sự thay đổi và ngày càng mở
rộng nội hàm giá trị hơn. Ngày nay, yêu nước không chỉ giới hạn khi tổ quốc
có nguy cơ đe dọa xâm lăng hay khi chiến tranh, yêu nước không chỉ giới hạn
ở những vấn đề lớn lao mà còn thể hiện cụ thể, thiết thực hơn trong đời sống
xã hội. Học tập, nâng cao trình độ chuyên môn để tạo ra năng suất lao động
cao hơn là biểu hiện của yêu nước. Sống tử tế, trách nhiệm, dám bảo vệ công
bằng, chống tham nhũng, cửa quyền hách dịch… cũng là biểu hiện của tinh
thần yêu nước. Yêu nước trong bối cảnh hội nhập còn là tinh thần mở rộng
giao lưu, học hỏi, đoàn kết quốc tế, chống lại tinh thần dân tộc cực đoan, ý
94
thức dân tộc hẹp hòi… Và rõ ràng, trước tác động của xu thế hội nhập, những
xu hướng tích cực đang diễn ra đa dạng, phong phú trong cộng đồng người
Việt hiện đại đã góp phần mở rộng ngoại diên trong quan niệm về giá trị yêu
nước so với trước kia.
Ngoài các biến đổi của giá trị nói trên, trong bối cảnh tác động của các
bối cảnh thời đại, các giá trị truyền thống như: Hiếu học, yêu lao động, cần
kiệm, trung thực, nhân nghĩa… trong đời sống xã hội Việt Nam cũng có
những thay đổi rõ nét. So với trước kia, nội hàm các giá trị này đang ngày
càng được mở rộng hơn nội hàm giá trị và tạo ra những biến đổi tích cực nhất
định trong hành vi, lối sống, quan niệm, trong giá trị của người Việt hiện nay.
Có thể thấy khá rõ, bối cảnh mới với những tác động mới, một mặt vừa đặt ra
những thách thức không nhỏ với các giá trị truyền thống, song mặt khác,
chính trong điều kiện này, các giá trị truyền thống người Việt cũng có cơ hội
được quan tâm, một lần nữa được “đánh thức” và ngày càng mở rộng nội
hàm. Ở khía cạnh về hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế, điều này có thể xem là những biến đổi tích cực.
3.2.2. Một số vấn đề đặt ra trong xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam thời kỳ hội nhập quốc tế
3.2.2.1. Sự mai một các giá trị truyền thống
Bàn về giá trị truyền thống, nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu cho rằng
“truyền thống thì có cái tốt cái xấu; nhưng khi chúng ta nói “giá trị truyền
thống” thì ở đây chỉ có cái tốt mà thôi, bởi vì chỉ có những cái gì tốt đều được
gọi là giá trị; thậm chí, không phải mỗi cái gì tốt thì mới được gọi là giá trị,
mà phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo
đức luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và hướng dẫn sự hành
động, thì mới được mang danh là giá trị truyền thống” [29, tr.50]. Trên thực
tế, giá trị truyền thống là một thành tố quan trọng hình thành bản sắc riêng
của mỗi dân tộc trong bối cảnh hội nhập. Hiện nay, hội nhập quốc tế không
chỉ đem lại cho các nước những cơ hội để phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá
làm giàu có thêm hệ giá trị của dân tộc mình, mà còn đặt các quốc gia trước
95
những thách thức không nhỏ, một trong những thách thức đáng lo ngại là sự
xem nhẹ các giá trị truyền thống trong hệ thống thang bậc giá trị, sự phá vỡ
những giá trị vốn có từ lâu đời của dân tộc mình, làm cho dân tộc mình bị hoà
tan hay trở thành cái bóng của dân tộc khác, tức là làm đánh mất bản thân
mình và đánh mất sức mạnh vốn có của chính dân tộc mình. Trong tác phẩm
“Chiếc Lexus và cây Ô liu” [25], tác giả Thomas Loren Friedman đã đề cập
đến sự đụng độ mà ông gọi là một “cuộc vật lộn triền miên”giữa giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Đây
thực sự là một “cuộc đụng độ” khốc liệt giữa cái cũ và cái mới, giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại. Hệ quả của các cuộc xung đột đó có thể là nhân tố
thúc đẩy quá trình giữ gìn bản sắc dân tộc với các giá trị truyền thống trước
thay đổi của thời đại, hoặc cũng có thể khiến các giá trị truyền thống đang bị
mai một, thậm chí một số giá trị bị biến mất trong bối cảnh hội nhập khi con
người hiện đại có xu hướng xem nhẹ chúng.
Việt Nam có một di sản những giá trị truyền thống vô cùng phong phú,
trong đó phải kể đến những giá trị điển hình như: Tinh thần yêu nước; ý thức
coi trọng gia đình; Ý chí tự lực, tự cường; tinh thần nhân văn, nhân ái; Chủ
nghĩa anh hùng cách mạng; tinh thần đoàn kết cộng đồng, tương thân, tương
ái... Trong đó, tinh thần yêu nước là một giá trị chủ đạo, xuyên suốt. Chính
những giá trị truyền thống trong con người Việt Nam là kết tinh và tiêu biểu
cho sức sống, bản lĩnh, bản sắc và những phẩm giá của cả dân tộc. Tuy nhiên,
trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, ở nước ta đã và đang xuất hiện xu
hướng xem nhẹ các giá trị truyền thống dân tộc. Đây là một trong những xu
hướng đáng lo ngại. Có thể nhận dạng một số những biểu hiện xem nhẹ các
giá trị truyền thống trong bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay trên một số
bình diện giá trị cơ bản như sau:
Giá trị truyền thống yêu nước- một giá trị truyền thống cao quý nhất, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam. Dưới tác động của toàn cầu
hoá cùng với xu thế hội nhập, giá trị yêu nước truyền thống đang có những
biến động theo những chiều hướng khác nhau. Nếu như trước kia, yêu nước
96
gắn liền với niềm tự hào về truyền thống dân tộc thì hiện nay, một bộ phận
người Việt Nam có xu hướng phủ nhận những giá trị đạo đức truyền thống,
đánh mất đi niềm tự hào dân tộc. Họ cho rằng những giá trị đạo đức ấy không
có gì đáng tự hào, thậm chí có người còn kết tội những truyền thống đó là
nguyên nhân của sự nghèo nàn lạc hậu và không muốn bảo vệ những giá trị
đạo đức đó nữa. Hiện nay, bên cạnh một bộ phận người Việt sống có hoài
bảo, lý tưởng, sẵn sàng góp sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc thì vẫn còn một
bộ phận không nhỏ sinh viên mơ hồ về lí tưởng phấn đấu, chưa xác định được
trách nhiệm của sinh viên nói chung và bản thân nói riêng, họ chạy theo chủ
nghĩa cá nhân xác định cho mình một lối sống thực dụng, họ dần quên đi
những truyền thống tốt đẹp tại chính nơi mình sinh ra, nơi mình lớn lên, học
tập. Vì trong tư tưởng và hành động của họ coi nhẹ và phủ nhận những giá trị
quý giá của truyền thống dân tộc - là những giá trị đã và đang là một trong
những động lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội nước ta. Đây thực sự
là một điều đáng lo lắng, bởi thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước,
nếu không có một lập trường chính trị vững vàng, một niềm tin vững chắc vào
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thì không chèo lái được con thuyền xã
hội chủ nghĩa, dễ rơi vào âm mưu cạm bẫy của kẻ thù quay lại phản bội tổ
quốc, phản bội nhân dân. Tinh thần sẵn sàng xả thân vì nước giờ đây cũng có
nguy cơ bị giảm sút. Nguyên nhân của những xu hướng biến đổi tiêu cực
trong quan niệm về yêu nước trong cộng đồng người Việt hiện nay do nhiều
nguyên nhân. Một trong số đó bắt nguồn từ nhận thức chưa đúng về giá trị
yêu nước trong bối cảnh hội nhập. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Ngọc
Thêm trong công trình “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và
con đường tới tương lại” [92], ông cho rằng, một bộ phận người Việt hiện nay
có hiểu chưa đúng về tinh thần yêu nước , nhận thức phần “hạn hẹp” về giá trị
yêu nước. Với họ, yêu nước là giá trị “chỉ thể hiện trong đấu tranh chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền đất nước” [92, tr.486]. Do xuất phát từ cách
hiểu này, theo ông, mỗi khi có nguy cơ đe dọa sự tồn vong qua đi, người Việt
lại có khuynh hướng “quay lưng” lại với nhau, không hợp tác với nhau được.
97
Vì thế, giá trị yêu nước gắn với niềm tự hào dân tộc trong chiến tranh bao
nhiêu thì trong hòa bình lại trở nên thiếu bản lĩnh, tự ti.
Có thể nhận thấy việc suy giảm tinh thần yêu nước trong người Việt
trong bối cảnh hội nhập hiện nay có nhiều nguyên nhân từ khách quan tới chủ
quan, từ tác động ngoại cảnh đến nhận thức của chủ thể con người… Song,
hiện nay, những biểu hiện theo chiều hướng tiêu cực nghiêm trọng về vấn đề
này đang gây ra những tổn thất không nhỏ tới sự tồn vong, vị thế của quốc gia
trên trường quốc tế. Trong đó, một số người Việt còn lợi dụng chính sách mở
cửa để kiếm lợi riêng cho bản thân mình, bất chấp cả lợi ích của quốc gia, dân
tộc. Xuất hiện tư tưởng sùng bái một cách tuyệt đối các giá trị phương Tây,
đánh mất lòng tự hào dân tộc, chỉ đòi hỏi về quyền lợi mà không chú trọng tới
nghĩa vụ của bản thân mình đối với Tổ quốc. Họ tuyên truyền văn hóa và lối
sống phương Tây và xem đó là “mô hình chuẩn” cần phải học tập, hướng
tới. Họ thích sống thực dụng hơn là sống lý tưởng và họ thích lối sống sòng
phẳng hơn là nghĩa tình. Họ chạy theo lối sống lai căng, thấp hèn. Biểu hiện
rõ nét nhất của lối sống đó là xu hướng coi thường các giá trị truyền thống,
phủ nhận truyền thống của dân tộc, đồng thời đề cao quá mức các giá trị mà
họ cho là “mới”, là “hiện đại”. Đây là một thách thức đối với những quốc gia
kém và đang phát triển như Việt Nam hiện nay.
Giá trị truyền thống nhân văn, hiểu theo nghĩa chung nhất, giá trị
truyền thống nhân văn là lòng yêu thương con người, sự khoan dung, độ
lượng, chống lại cái ác, hướng tới cái thiện vì quyền tự do và hạnh phúc cao
cả của con người. Tư tưởng nhân văn truyền thống Việt Nam là một trong
những giá trị đáng quý và đáng tự hào nhất trong bảng giá trị tinh thần của
người Việt. Hiện nay, do tác động của xu thế hội nhập quốc tế, giá trị nhân
văn của dân tộc ta nói riêng, cũng như của toàn nhân loại nói chung, đang có
nguy cơ bị đe doạ. Khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, một mặt đã
đem lại nhiều lợi ích lớn lao cho con người nhưng mặt khác cũng đặt con
người trước nguy cơ bị huỷ diệt của nạn ô nhiễm môi trường, của những cuộc
chạy đua vũ trang, chiến tranh sinh học... Hiện nay, do có sự xâm nhập ồ ạt
98
những giá trị ngoại lai và do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế thị trường, giá trị
nhân văn truyền thống đã có những dấu hiệu bị xâm phạm khiến cho tình yêu
thương đùm bọc giữa con người với con người dường như đang bị lấn át bởi
những quan hệ vật chất, tiền bạc. Nếu như trước kia, người Việt Nam rất coi
trọng tình làng nghĩa xóm, “bán anh em xa, mua láng giềng gần” để “tối lửa
tắt đèn có nhau” thì ngày nay con người sống theo lối “đèn nhà ai, nhà ấy
rạng” đặc biệt ở các thành thị. Theo kết quả điều tra của đề tài KX.07 – 02,
với câu hỏi “giả sử trên đường gặp người bị nạn (tai nạn, ốm đau đột xuất) thì
bản thân sẽ ứng xử như thế nào và quan niệm người khác sẽ ứng xử như thế
nào?”. Kết quả cho thấy đại bộ phận người được hỏi biểu thị thái độ nhân ái
“bản thân dừng lại hỏi han (29,48%), dừng lại giúp đỡ (50,48%), đưa đi bệnh
viện (26,79%) và quan niệm người khác cũng cần dừng lại hỏi han (26,4%),
dừng lại giúp đỡ (36,73%), đưa đi bệnh viện (21,9%)”. Tuy nhiên, cũng có
một bộ phận không trả lời hoặc thờ ơ đứng ngoài “bản thân không dừng lại
(5,12%), dừng lại rồi đi (5,18%) và quan niệm người khác cũng không cần
dừng lại (2,75%)” [Trích theo 28].
Trong khi đó số lượng tội phạm ngày càng tăng nhanh, trong đó mức
độ phi nhân tính là rất cao, tình yêu thương đùm bọc giữa con người với con
người dường như đang bị lấn át bởi những quan hệ vật chất, tiền bạc. Trong
lĩnh vực kinh doanh, vì tiền có những kẻ sẵn sàng dẫm đạp lên tính mạng của
người khác, của cả cộng đồng để buôn bán những chất cấm: như heroin, ma
túy, buôn bán hàng giả, hàng lậu... Nhiều công ty, nhà máy, xí nghiệp... đã vì
lợi nhuận mà sản xuất không đúng quy trình đặc biệt là hàng tiêu dùng thực
phẩm, thậm chí không chịu đầu tư cho việc xử lý các chất thải công nghiệp
làm cho nạn ô nhiễm môi trường trở nên trầm trọng đe doạ cuộc sống của
hàng triệu người. Có kẻ còn kiếm tiền trên thân xác của người khác, chẳng
hạn nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em, kinh doanh gái mại dâm... vượt qua cả biên
giới quốc gia.
Giá trị truyền thống gia đình vốn được coi là giá trị nền tảng trong đời
sống xã hội người Việt từ xưa tới nay. Lịch sử xa xưa, Việt Nam là một nước
99
nông nghiệp với truyền thống nhân nghĩa, thuỷ chung lại chịu nhiều ảnh
hưởng của tư tưởng Nho giáo, nên từ xưa đến nay, gia đình luôn có ý nghĩa
hết sức hệ trọng đối với mỗi con người. Đối với mỗi người dân Việt Nam, gia
đình luôn là một giá trị thiêng liêng, cao cả không gì có thể so sánh nổi. Từ
ngàn xưa con người Việt Nam đã coi trọng gia đình, huyết thống và dòng tộc
thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, sự gương mẫu của thế hệ trước; coi trọng
những hành động kính trên, nhường dưới, kính già, yêu trẻ; sự hiếu thảo của
con cháu với ông bà, cha mẹ; sự chung thuỷ của vợ chồng. Trải qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau, gia đình Việt Nam đã thực hiện tốt những chức năng
cơ bản của nó và đã có những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đã thực sự trở thành một giá trị
truyền thống bền vững. Hiện nay, dưới sự tác động của xu thế toàn cầu hóa và
tiến trình hội nhập quốc tế, nhiều giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình
Việt Nam đang có những vận động và biến đổi mạnh mẽ. Bên cạnh việc xuất
hiện nhiều giá trị mới của xã hội hiện đại thì nhiều giá trị truyền thống gia
đình Việt Nam đang có nguy cơ bị xâm hại và dần mai một đi. Nhiều nơi,
nhiều gia đình đã có những dấu hiệu của sự khủng hoảng, các mối quan hệ
truyền thống trong gia đình vốn tốt đẹp và bền vững ngày càng trở nên lỏng
lẻo, quan hệ tiền bạc, mua bán đang len lỏi vào các quan hệ gia đình, giữa
những người thân, chủ nghĩa thực dụng cá nhân, ích kỷ phát triển dẫn đến các
vụ kết hôn, ly hôn với những lý do không chính đáng. Phong cách ứng xử
giữa các thành viên trong gia đình trở nên thô kệch, thiếu văn minh, nhiều
quan điểm, cách sống, lối sống xa lạ, lệch chuẩn đang được manh nha dần,
đặc biệt là trong lớp trẻ, xu hướng chạy theo lối sống thực dụng, sùng bái
đồng tiền, đề cao lợi ích cá nhân vô tình đã quay lưng lại với các giá trị truyền
thống trong gia đình đó là lòng nhân ái, vị tha, sự đồng cảm, chia sẻ, quan tâm
lẫn nhau.
Lối sống tự do, buông thả, thích hưởng lạc và đề cao nhu cầu bản năng
theo kiểu phương Tây đang xuất hiện khá phổ biến dẫn tới tình trạng quan hệ
tình dục trước hôn nhân một cách bừa bãi ở không ít thanh niên. Những cặp
100
nam nữ chung sống với nhau một cách tự nguyện mà không cần kết hôn ngày
càng nhiều, khi chán nhau họ sẵn sàng chia tay. Nhiều người chỉ thích chơi
bời mà không muốn chịu sự ràng buộc của gia đình nên không muốn kết hôn,
dẫn đến tỷ lệ người sống độc thân ngày càng cao. Nhiều bậc cha mẹ cho rằng,
chỉ cần đáp ứng tất cả những nhu cầu của con cái là được mà không mấy để ý
xem những nhu cầu đó liệu có chính đáng hay không. Do đó, nạn trẻ em bị bỏ
rơi, trở nên hư hỏng, vì gia đình lục đục, cha mẹ bận làm ăn, công tác... khá
phổ biến. Nhiều trẻ em được gia đình chiều chuộng quá sinh hư hỏng, lười
nhác, mải chơi, kể cả sa vào nghiện hút. Chúng ít được giáo dục về lòng biết
ơn, đạo hiếu với cha mẹ, về cách cư xử lễ phép, tôn trọng người lớn, người
già. Chúng chỉ làm theo sở thích cá nhân và hỗn láo với cha mẹ, thầy cô. Tình
trạng con cháu ngược đãi ông bà, cha mẹ; vợ chồng lăng mạ, đánh đập nhau;
nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em; tình trạng trẻ hoá tuổi đời phạm tội và mắc phải
tệ nạn xã hội của các thành viên trong gia đình ngày một gia tăng, đã và đang là
một trong những biểu hiện xuống cấp của giá trị truyền thống gia đình.
Mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường cùng với những ảnh hưởng của
lối sống thực dụng phương Tây đang “gặm nhấm” những giá trị thiêng liêng
vốn có của gia đình truyền thống. Trong một số gia đình, cuộc sống tuy sung
túc, giàu sang, nhưng lại không có hạnh phúc, hoặc chứa đầy những sự kiện
đau lòng trong quan hệ nội bộ các thành viên. Có thể nói, trong số các nguyên
nhân dẫn đến thực trạng gia đình Việt Nam như đã đề cập trên đây thì tác
động của lối sống không lành mạnh từ bên ngoài tràn vào thông qua giao lưu,
hội nhập, thông qua các phương tiện truyền thông hiện đại là không nhỏ.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay nhiều giá trị truyền thống bị coi
thường, bị xói mòn, bị băng hoại, không ít người quá đề cao giá trị hiện đại,
sùng bái phương Tây, xuất hiện xu hướng quay lưng với truyền thống, coi
thường giá trị truyền thống, đua đòi theo lối sống bên ngoài, chạy theo đồng
tiền và lợi nhuận một cách vô điều kiện. Từ đó, xuất hiện tư tưởng phủ nhận
vai trò của các giá trị truyền thống dân tộc mà muốn thay vào đó một hệ giá
trị hoàn toàn mới, dẫn tới sự đảo lộn các thang, bậc, chuẩn mực giá trị xã hội.
101
Trước những ảnh hưởng của lối sống nhanh, chạy theo những giá trị vật chất
chớp nhoáng khiến cho không ít người, trong đó có nhiều người trẻ dần mất
đi cảm hứng cội nguồn, dân tộc. Họ coi đó là trào lưu, là văn minh thời
thượng còn việc trở lại những giá trị dân tộc là một bước thụt lùi, lạc hậu. Có
nhiều ý kiến gọi đây là một cách thể hiện “thái độ với lịch sử” đầy cực đoan.
Thái độ này xuất hiện ngay cả những người có tri thức, được nuôi dưỡng
chính dòng sữa dân tộc song khi được “bén rễ” trong mảnh đất mới ra sức kêu
gọi, cổ xúy theo lối sống bên ngoài đồng thời cũng sức bôi nhọ, chống đối,
quay lưng lại các giá trị truyền thống của dân tộc. Không ít thanh thiếu niên
thời công nghệ hiểu văn hóa, lịch sử nước ngoài song lại khá thờ ơ, thậm chí
không biết tới các sự kiện lịch sử dân tộc, điều này không phải hiếm trong bối
cảnh các luồng văn hóa nước ngoài xâm nhập dễ dàng nhưng chưa có cơ chế
quản lý chặt chẽ như hiện nay. Điều này rất nguy hại, bởi lẽ như ý kiến như
nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu đã chỉ ra: Mất giá trị truyền thống dân
tộc cũng chính là nguy cơ dẫn tới mất cơ sở để tự khẳng định mình, mất điều
kiện tự tin và sáng tạo. Trong bối cảnh hội nhập, khi điều kiện đất nước còn
nhiều khó khăn như hiện nay, lối sống sính ngoại trong bộ phận người Việt đã
gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển đất nước, không kích
thích sự phát triển nền kinh tế và gây ra những nguy cơ mai một các giá trị
truyền thống, bản sắc dân tộc. Nhận định về điều này, văn kiện Đảng lần thứ
XII đã nhấn mạnh: “tệ sùng bái nước ngoài, coi thường giá trị văn hóa dân
tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ… đang gây hại cho thuần
phong mỹ tục của dân tộc. [22, tr.46].
3.2.2.2. Sự lệch chuẩn về giá trị
Nếu chuẩn giá trị được hiểu là những giá trị đóng vai trò mẫu mực
chung cho nhiều người, chiếm vị trí then chốt, trong đó “chuẩn” là yêu cầu
hướng tới của một xã hội phát triển hài hòa, tốt đẹp các mối quan hệ giữa con
người với con người, con người với xã hội và con người với thiên nhiên theo
mục tiêu Chân, Thiện, Mỹ thì hiện nay trong đời sống xã hội xuất hiện nhiều
sự lệch chuẩn hay lệch lạc về giá trị.
102
Sự lệch chuẩn giá trị trong đời sống xã hội hiện nay có thể nhận thấy rõ
nhất qua thói giả dối, chuộng hình thức phổ biến ở một bộ phận xã hội và phổ
biến trong các lĩnh vực đời sống, đôi khi còn lấn át sự tử tế và chân thật. Sự
giả dối thì xã hội nào, giai đoạn nào cũng có nhưng có thể nói hiện nay nó
xuất hiện khắp mọi nơi, từ gia đình, trường học, cơ quan công quyền, cộng
đồng, xã hội, thậm chí cả những nơi vốn chỉ dành riêng cho sự trung thực, cao
quý. Sự giả dối xuất hiện phổ biến tới mức trở thành bình thường, hiển nhiên
trong nhiều ứng xử các quan hệ xã hội. Thoạt đầu thói giả dối chỉ là một kiểu
ứng xử đánh lừa người khác nhưng dần dần trở thành một thói quen ngấm sâu
vào tận bản chất sẽ xói mòn nhân cách người. Con người khi đã quen với sự
giả dối thì coi nó như một điều bình thường. Họ sẽ ứng xử phi nhân tính một
cách hết sức tự nhiên, làm điều ác mà không nghĩ mình làm điều ác. Điều này
rất nguy hiểm. Đặc biệt, khi sức mạnh điều tiết của dư luận xã hội yếu, sự giả
dối càng có những cơ hội nảy sinh và len lỏi vào tất cả các mối quan hệ ứng
xử giữa con người với con người. Đây chính là cơ hội cho cái xấu xuất hiện
và trong nhiều trường hợp lấn át cái đúng, cái thiện. Khoảng chục năm trở lại
đây, nhiều người đau xót khi cho rằng “người Việt đang đầu độc lẫn nhau”
bằng thực phẩm bẩn; gian lận trong học hành, thi cử, thăng tiến... Tư duy “hai
luống, hai chuồng” được nhắc tới nhiều hiện nay không chỉ để nói tới người
nông dân giữ an toàn hàng hóa cho mình mà còn nói tới nhiều ngành nghề,
nhiều lĩnh vực vì lợi ích của bản thân sẵn sàng dùng mọi chiêu trò dối trá để
lừa gạt những người khác, thậm chí lừa gạt cả anh em, bè bạn, họ hàng của
chính họ. Sự giả dối ngày nay được thể hiện qua nhiều chiêu thức, không chỉ
trong việc kiếm lợi nhuận về kinh tế mà còn được được ngụy trang qua các
ngôn từ, hành vi, thái độ… và càng khó nhận diện khi chúng hỗ trợ thêm bởi
các phương tiện hiện đại. Tình trạng “nói một đằng làm một ngả” diễn ra khá
nhiều trong thời gian qua và cũng không ít người thẳng thắn thật thà rơi vào
tình trạng “thua thiệt” còn kẻ lọc lừa, dối trá được “lên lương”. Điều đáng lo
ngại nhất hiện nay chính là sự giả dối không chỉ được thực hiện bởi một cá
nhân, một vài người mà trong một số trường hợp hiện nay có cả một tổ chức,
103
cơ chế hỗ trợ. Cái xấu, cái bất minh trắng trợn được bao bọc dẫn tới điều ác
đôi khi được thực hiện dễ dàng, những ứng xử phi nhân tính diễn ra một cách
khá tự nhiên. Hệ quả của việc gia tăng của sự giả dối thiếu trung thực này
không chỉ gây ra những thiệt hại về vật chất mà còn làm giảm sút lòng tin,
làm nản lòng sự tử tế, trung thực. Trước diễn biến gia tăng của những biểu
hiện về sự giả dối, thiếu trung thực những năm trở lại trong đời sống xã hội
nước ta nếu không có cơ chế, chế tài kìm hãm sẽ gây ra những hậu quả
nghiêm trọng đến sự phát triển của xã hội và lòng tin của bạn bè quốc tế về
hình ảnh con người Việt Nam.
Tiếp đến là sự gia tăng thói vụ lợi, mưu cầu lợi ích cá nhân. Hiện nay,
do ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường và các nhân tố khác đã khiến
cho thói vụ lợi và mưu cầu lợi ích cá nhân tăng lên trong xã hội Việt Nam.
Lối sống thực dụng, vị kỷ đang dẫn đến thái độ bàng quan, thờ ơ với công
việc của cộng đồng và với những người xung quanh. Điều đó làm cho mối
dây liên kết giữa cá nhân và cộng đồng, giữa người và người trở nên “lỏng
lẻo”. Đây thực sự là nguy cơ của việc đẩy xa nhau giữa con người với con
người, đi ngược lại với truyền thống “tương thân, tương ái” của dân tộc.
Trong thực tế hàng ngày ở nước ta hiện nay đang xuất hiện khuynh hướng
“thương mại hóa” trên nhiều lĩnh vực, thậm chí cả lĩnh vực “làm người” và
“dạy người” vốn trước kia hầu như không có.
Hội nhập quốc tế có tác động tích cực khiến cho các giá trị cá nhân, giá
trị xã hội ngày càng được hiện thực hóa, song mặt khác, nó cũng làm gia tăng
những biểu hiện mưu cầu lợi ích cá nhân vị kỷ. Biểu hiện rõ nhất trong xã hội
hiện nay là thái độ coi lợi ích của mình là trên hết và duy nhất, lợi ích tập thể
bị lấn át, thậm chí bị phế bỏ, từ đó gây ra các vấn đề kế tiếp như: tham nhũng,
lãng phí, cửa quyền, hách dịch…ngày càng gia tăng, làm cho cái xấu có cơ
hội lấn át cái đẹp. Thói vị kỷ cá nhân khi có quyền lực, chức tước hỗ trợ dễ
tạo thành các “nhóm lợi ích” gây ra hậu quả xấu tới xã hội. Nhìn chung, những
biểu hiện của thói vụ lợi, mưu cầu lợi ích cá nhân không chính đáng khá đa
104
dạng, nó không chỉ gây ra những thiệt hại vô cùng lớn về kinh tế của nhà nước
mà còn gây ra tâm lý hoang mang, lo lắng, mất lòng tin cho người dân.
Thêm nữa, hiện nay trong đời sống xã hội ngày càng gia tăng tệ sùng
bái vật chất, quay lưng lại các giá trị truyền thống dân tộc. Sau hơn ba mươi
năm Đổi mới đất nước, nhìn chung đời sống xã hội Việt Nam đã có nhiều
bước chuyển đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần ngày một nâng cao hơn.
Song, do ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập quốc tế, tệ sùng bái vật chất, quay
lưng lại các giá trị truyền thống dân tộc xuất hiện ngày càng nhiều trong xã
hội Việt Nam hiện nay. Biểu hiện ở thái độ coi trọng lối sống giàu có, chức
tước danh vọng, bằng cấp, nổi tiếng... thậm chí không ít người dùng mọi cách
để đạt được. Trong khi đó, những phẩm chất tốt đẹp bị biến thành lời sáo ngữ
vô hồn. Sự lên ngôi quá mức của các giá trị vật chất khiến cho nhiều người
sẵn sàng chà đạp lên để chiếm lĩnh nó, thậm chí cấu kết thành “lợi ích nhóm”
khai thác cạn kiệt tài sản quốc gia, của cải của nhân dân. Không ít trường hợp
vì đồng tiền và danh dự mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò,
đồng chí, đồng nghiệp. Nhiều ý kiến cho rằng chưa có bao giờ trong xã hội
đồng tiền lại có sức mạnh vạn năng tới vậy, đồng tiền có thể đổi trắng thay
đen các mối quan hệ, len lỏi khắp các ngành, các lĩnh vực, các tầng lớp xã
hội. Tệ sùng bái vật chất vô tình đã dẫn dắt một bộ phận thế hệ trẻ đi theo và
coi đó là giá trị đáng sống. Những giá trị thực để làm người như: giỏi chuyên
môn và cống hiến nhiều cho xã hội, thương người và khoan dung, khiêm tốn
và cầu thị, hy sinh cá nhân và mang lại hạnh phúc cho người khác… ngày
càng ít trở thành động lực để con người phấn đấu và phát triển. Cùng với đó,
những giá trị truyền thống của dân tộc cũng bị xem nhẹ khó phát triển trong
bối cảnh mới.
Những biểu hiện của sự lệch lạc giá trị trong đời sống xã hội nước ta
hiện nay đã hạn chế vai trò của văn hóa trong việc quảng bá các giá trị tốt
đẹp, nhân bản trong xã hội và chưa tạo điều kiện cho văn hóa phát huy được
vai trò trong việc xây dựng con người, xây dựng nguồn nhân lực cho đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
105
3.2.2.3. Hiện tượng xuống cấp về đạo đức, tha hóa về con người
Ngày nay, không thể phủ nhận rằng, quá trình giao lưu, trao đổi, chia sẻ
các giá trị giữa các quốc gia trong quá trình hội nhập là cơ hội thuận lợi cho
mỗi cộng đồng, cá nhân phát huy tiềm năng của mình. Tuy vậy, sự cạnh tranh
khốc liệt, những xung đột lợi ích và các luồng văn hóa khác nhau trong hội
nhập cũng gây ra không ít ảnh hưởng tiêu cực với những dân tộc tham gia.
Trên khía cạnh xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam, hiện tượng xuống
cấp về đạo đức, tha hóa về con người là một trong những vấn đề khá nhức
nhối trong đời sống xã hội Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.
Hiện tượng xuống cấp về đạo đức, tha hóa con người… có thể bắt gặp
ở khắp nơi. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức ở nhiều cấp, nhiều ngành tiếp
tục diễn biến phức tạp. Văn hóa làm người “ở một bộ phận không nhỏ” có
phần bị vấy bẩn trong nhiều quan hệ - con bệnh và thày thuốc, công dân và cơ
quan công quyền, công an và các bên đối tượng, thậm chí cả thày giáo và học
trò… Trên thực tế, tình trạng suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, tham
ô, tham nhũng, yếu kém năng lực, tham quyền cố vị đang cản trở sự phát
triển; tình trạng gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân của “một bộ phận không
nhỏ” cán bộ, đảng viên đang gây mất lòng tin nghiêm trọng vào Đảng, vào
chế độ.
Trong đời sống xã hội, tình trạng tham nhũng và làm ngơ trước tham
nhũng, mặc dù thời gian gần đây bị lên án kịch liệt nhưng dường như vẫn
chưa giảm bớt. Đặc biệt, tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu ngày càng lây lan
trong bộ máy của hệ thống chính trị đã gây tổn hại lớn đến uy tín của Đảng và
Nhà nước. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII phải thừa nhận: “Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo,
quản lý, kể cả một số cán bộ cấp cao, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống…, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa, địa vị, cục bộ, tham nhũng,
lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…” [22, tr.3]. Trong đời sống xã hội ngày
nay, trước lợi ích kinh tế và những cám dỗ của đồng tiền, không ít những mối
106
quan hệ bị tan vỡ, thậm chí là đánh đổi nhân phẩm, giá trị đạo đức để đạt
được mục đích. Mưu cầu lợi ích cá nhân, tham lam, thèm khát giàu có đến
mức chỉ quan tâm đến lợi ích nhóm, tham nhũng và làm ngơ trước tham
nhũng. Trong khi đó, các thiết chế đạo đức- văn hóa và cơ chế xã hội chưa đủ
mạnh để hướng sự vụ lợi, lòng tham lam, tính háo danh và nhu cầu thăng
tiến… đi đúng quỹ đạo văn hóa. Điều này thực sự là một nguy cơ suy thoái
đạo đức, tha hóa con người trong đời sống xã hội hiện nay.
Trong xã hội, hiện tượng tội phạm gia tăng và có những diễn biến phức
tạp thể hiện sự rối loạn của thang giá trị. Không chỉ có số lượng các vụ phạm
tội về kinh tế hay hình sự gia tăng mà điều đáng sợ là tính chất dã man của
các tội phạm hình sự, đối tượng phạm tội vừa trẻ, vừa có kiến thức lại có xu
hướng gia tăng. Tội phạm kinh tế lớn hầu hết đều là cán bộ có chức, có
quyền, có trình độ. Tình hình này đã được các phương tiện thông tin đại
chúng phản ánh tương đối rõ. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn khác có xu
hướng gia tăng. Tình trạng tội gia tăng gây nhức nhối dư luận xã hội. Thói
đạo đức giả với những biểu hiện của nó trong lối sống, nói không đi đôi với
làm ở người lớn, trong gia đình, nhà trường, công sở, xã hội gây ra những
phản cảm nặng nề cho giới trẻ làm cho họ mất niềm tin mất phương hướng
trong cuộc sống.
Hiện tượng vô cảm chưa có xu hướng giảm bớt. Tinh thần “thượng tôn
pháp luật” ngày càng kém; tâm lý lách luật kể cả ở các cơ quan có trách
nhiệm trở thành quen thuộc trong tư duy pháp luật. Tinh thần chia ngọt sẻ bùi,
lá lành đùm lá rách không làm giảm bớt được tâm lý vô cảm. Thực trạng này
phần nào cảnh báo những vấn đề đạo đức đang diễn biến vô cùng phức tạp
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Các thang bậc giá trị có nguy
cơ bị đảo lộn. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và lạc hậu, giữa lối sống trung
thực, lành mạnh, có lý tưởng với lối sống sa đọa, thực dụng, giữa cái thiện và
cái ác đang không ngừng diễn ra với tốc độ ngày càng gia tăng. Quá trình hội
nhập quốc tế vừa du nhập những cái tốt, giá trị tiến bộ vào đời sống xã hội
Việt Nam đồng thời cũng du nhập những cái xấu, cái tiêu cực, cái đáng lên án
107
đang thâm nhập vào mọi lĩnh vực, tầng lớp nhân dân. Những biểu hiện tiêu
cực xuống cấp đạo đức hiện nay không chỉ thu hút sự quan tâm của cá nhân,
nhóm người, bộ phận mà báo động toàn xã hội, nếu không được định hướng
và giải quyết kịp thời sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng tới sự phát triển
con người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Nhận thức về những vấn đề trong
xây dựng văn hóa, xây dựng hệ giá trị con người sau Nghị quyết trung ương 5
khóa VIII, Nghị quyết 33 của Hội nghị trung ương 9 khóa XI của Đảng ta đã
khẳng định khách quan rằng: Xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của đất nước, so với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh
tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương
xứng, chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn
hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng
3.2.2.4. Xuất hiện biểu hiện cực đoan, thiếu lành mạnh trong lối sống
Xu thế hội nhập quốc tế, trên một phương diện nhất định luôn gắn liền
với sự giao lưu, mở cửa quan hệ với các nước trên thế giới. Không thể phủ
nhận rằng, tham gia hội nhập quốc tế đã tạo ra những bước chuyển rất lớn đối
với xã hội Việt Nam, trong đó có những thay đổi về lối sống, cách sống của
con người Việt Nam. Song, bên cạnh những biến đổi tích cực, trong đời sống
xã hội Việt Nam giai đoạn hội nhập đang xuất hiện lối sống, cách sống mới đi
ngược lại thuần phong mĩ tục của dân tộc.
Hiện nay, trước tác động mạnh mẽ của hội nhập quốc tế, lối sống thực
dụng kiểu Mỹ đang có ảnh hưởng lớn đến một bộ phận người Việt, đặc biệt là
thế hệ trẻ. Lối sống này đề cao lợi ích cá nhân, tôn thờ vật chất và sức mạnh
của đồng tiền, mọi mối quan hệ đều dựa trên lợi nhuận. Và để đạt được mục
đích, người ta sẵn sàng chà đạp lên mọi thứ của người khác để giành ưu tiên
cho mình. Mặt trái của lối sống này khá nguy hiểm, nó khiến con người trở
nên ích kỷ chỉ quan tâm tới lợi ích bản thân ngay tại thời điểm hiện tại, họ
không quan tâm cái lợi ích đó có ảnh hưởng xấu tới tương lai hay không cũng
như có ảnh hưởng tới người khác và xã hội hay không. Điều này rất nguy hại,
108
bởi lẽ, ảnh hưởng của lối sống thực dụng dẫn đến quan niệm lệch lạc coi sự
thỏa mãn tiêu dùng là mục đích của cuộc sống, khiến con người dễ rơi vào
cạm bẫy hưởng thụ hơn là cống hiến. Trên các phương tiện truyền thông hàng
ngày, chúng ta dễ dàng bắt gặp những hình ảnh ăn chơi trác táng, trong đó có
cả thanh niên, sinh viên. Họ dễ dàng rơi vào “cạm bẫy” với các trào lưu “vớ
vẩn” mà họ tự cho là “mốt” của thế giới. Trong công việc, thường ít chịu khó
trau dồi kiến thức, lựa chọn nghề nghiệp theo tâm lý đám đông của xã hội, lựa
chọn một công việc kiếm ra nhiều tiền hơn là chú ý đến đam mê, sở trường
của bản thân. Đối với xã hội, họ thường thiếu nhiệt huyết, thiếu trách nhiệm
với các công việc chung hoặc nếu có thường toan tính phục vụ lợi ích bản
thân. Thông thường họ không coi trọng pháp luật, không coi trọng các giá trị
đạo đức nên dễ dàng có hành vi như bạo lực, cướp bóc ở lứa tuổi thanh thiếu
niên, hay dễ dàng sống thử trước hôn nhân. Cùng với sự phát triển của kinh tế
thị trường, lối sống này hướng đến sự tiêu dùng, đồng nhất mục đích cuộc
sống với sự hưởng thụ. Khi quá đề cao giá trị vật chất, lối sống thực dụng
thường dẫn tới thái độ đánh giá, xem xét mọi thứ, mọi mối quan hệ trên tiêu
chí vật chất, xem nhẹ các giá trị đạo đức, giá trị tinh thần. Có thể thấy, không
phải tới giai đoạn hội nhập lối sống thực dụng phương Tây mới ảnh hưởng
vào Việt Nam, tuy nhiên, khi tham gia hội nhập, đặc biệt với sự phát triển của
công nghệ, lối sống thực dụng ngày càng thâm nhập sâu hơn vào đời sống xã
hội Việt Nam, trong đó có một bộ phận không nhỏ là giới trẻ người Việt. Trên
phương diện hệ giá trị con người, những ảnh hưởng tiêu cực của lối sống thực
dụng gây ra những rối loạn nhất định đối với thang bậc giá trị con người Việt
Nam thời kỳ hội nhập. Những ảnh hưởng tiêu cực của lối sống này không chỉ
gây ra những ảnh hưởng nhất định trong một bộ phận người mà còn ảnh
hưởng tới sự phát triển của cộng đồng xã hội, tới sự phát triển đất nước. Bởi
lẽ, mặt trái của lối sống này khiến cho không ít lớp trẻ ngày nay sống hời hợt,
thiếu đam mê, niềm tin, phai nhạt lý tưởng, đi ngược với giá trị truyền thống
tương thân tương ái, đề cao trách nhiệm cộng đồng của người Việt.
109
Thêm nữa, xu thế hội nhập hiện nay, khi hàng hóa tràn ngập vào Việt
Nam đã tác động đến suy nghĩ, thói quen sinh hoạt của người dân, trong số đó
có một bộ phận người Việt đặc biệt có tâm lý sính ngoại. Tâm lý sính ngoại
này dựa trên sự đề cao quá mức các giá trị nước ngoài và xem thường các giá
trị Việt, nhất là các giá trị truyền thống. Trên các phương tiện đưa tin hàng
ngày, không khó nhận ra có không ít người Việt hiện nay cuồng nhiệt với các
sản phẩm vật chất và tinh thần đến từ nước ngoài, xem trọng các giá trị
phương Tây và quay lưng lại với các giá trị truyền thống. Ngày nay, hội nhập
quốc tế gắn với quá trình mở cửa, giao lưu, chia sẻ, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của công nghệ, vì thế, các luồng văn hóa khác nhau ngày càng có
điều kiện lan tỏa dễ dàng, tuy nhiên, dòng chảy đó luôn chứa đựng đan xem
các giá trị và phản giá trị. Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam,
những ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài tới đời sống xã hội, rõ nhất là quốc
gia phát triển là điều đương nhiên. Con người luôn có nhu cầu hướng tới cái
tân tiến, cái mới trong quá trình phát triển, tuy nhiên, điều này không đồng
nhất với việc quay lưng với cái cũ, đặc biệt là giá trị truyền thống dân tộc.
Trong bối cảnh hội nhập, nhiều người cho rằng với tâm lý sính ngoại quá mức
của một số người Việt hiện nay là nguy cơ dẫn đến những mai một các giá trị
truyền thống. Điều này không phải không có sở khi hiện nay chúng ta chứng
kiến thực trạng xã hội ngày càng nhiều người Việt có xu hướng chạy theo các
thị hiếu không lành mạnh, tôn sùng các giá trị bên ngoài nhưng lại coi nhẹ các
giá trị Việt. Trước những ảnh hưởng của lối sống nhanh, chạy theo những giá
trị vật chất chớp nhoáng khiến cho không ít người, trong đó có nhiều người
trẻ dần mất đi cảm hứng cội nguồn, dân tộc. Họ coi đó là trào lưu, là văn minh
thời thượng còn việc trở lại những giá trị dân tộc là một bước thụt lùi, lạc hậu.
110
Tiểu kết chương 3
Về cơ bản có thể hiểu hội nhập quốc tế là quá trình các quốc gia - dân
tộc, các cộng đồng, các chủ thể xã hội tham gia một cách chủ động hoặc bị
động của vào đời sống quốc tế thời toàn cầu hóa. Thực chất của quá trình hội
nhập quốc tế là các quốc gia - dân tộc, các chủ thể xã hội chấp nhận các tiêu
chuẩn, các định chế quốc tế mà trước hết là các định chế về kinh tế, chính trị và
các lĩnh vực khác, cũng như tham gia xây dựng các chuẩn mực chung trong
khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế nhằm khai thác hiệu quả những lợi
thế quốc gia và lợi thế quốc tế cho sự phát triển của quốc gia - dân tộc.
Trên bình diện chung, khi tham gia hội nhập quốc tế, một mặt, Việt
Nam đứng trước không ít thách thức về việc bảo vệ các giá trị truyền thống
lâu đời của dân tộc; song mặt khác, hội nhập quốc tế cũng mang lại nhiều cơ
hội để Việt Nam tiếp thu một cách chọn lọc các giá trị của nhân loại tiến bộ
nhằm bổ sung vào bảng giá trị của dân tộc những giá trị phù hợp phục vụ
công cuộc phát triển đất nước.
Hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế được
xây dựng trên nền tảng kinh tế xã hội Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới
và hội nhập với những đặc thù về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh
quốc phòng… Trong thời gian qua, đặc biệt khi tham gia hội nhập quốc tế sâu
rộng trên nhiều lĩnh vực, quá trình này đã và đang tác động mạnh mẽ, đồng
thời ngày càng đặt ra yêu cầu mới đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
giá trị con người Việt Nam hiện nay.
Trên thực tế, hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn là một quá trình bắt nguồn
từ truyền thống và tiếp tục được củng cố, bổ sung thêm các giá trị mới cho
phù hợp yêu cầu của thực tiễn. Tham gia hội nhập quốc tế, một mặt, đặt Việt
Nam trước không ít thách thức về việc bảo vệ các giá trị truyền thống lâu đời
của dân tộc. Tuy vậy, cũng phải khách quan thừa nhận rằng, quá trình hội
nhập quốc tế đã và đang mang lại nhiều cơ hội để Việt Nam tiếp thu chọn lọc
các giá trị của nhân loại nhằm bổ sung vào bảng giá trị của dân tộc những giá
111
trị phù hợp phục vụ công cuộc phát triển đất nước. Trong những trở lại đây,
hội nhập quốc tế thực sự đã tạo ra những chuyển biến tích cực đối với các giá
trị con người Việt Nam. Hiện nay, các giá trị con người Việt Nam có xu
hướng xích lại gần với các chuẩn mực quốc tế. Trong đời sống xã hội nước ta,
lối sống lành mạnh, có văn hóa, hội nhập sâu vào xu hướng tiến bộ của thế
giới ngày càng phổ biến và chiếm ưu thế. Dưới sự tác động tích cực của hội
nhập quốc tế, các giá trị truyền thống có cơ hội được đánh thức... Trên bình
diện hệ giá trị con người, quá trình này đã và đang đặt ra một số vấn đề đối
với con người Việt Nam như: Xu hướng coi nhẹ các giá trị truyền thống; Sự
lệch chuẩn giá trị; Hiện tượng xuống cấp về đạo đức, tha hóa con người; Xuất
hiện lối sống mới cực đoan, thiếu lành mạnh...
Việc giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực trạng hệ giá trị con người Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải đưa ra được những
định hướng cơ bản, đúng đắn, có tính khả thi, phù hợp thực tiễn phát triển hệ giá
trị con người Việt Nam trong thời gian tới.
112
Chương 4
MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM XÂY DỰNG HỆ GIÁ TRỊ CON
NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
4.1. Nhận diện hệ giá trị con người Việt Nam sau hơn 30 năm hội
nhập quốc tế
Trước hết cần lưu ý rằng, trong hệ giá trị của con người Việt Nam, nói
đến các giá trị truyền thống trước hết là nói đến sự tồn tại hôm nay, đương
đại, hiện thời của các giá trị truyền thống, chứ không phải chỉ là nói đến các
giá trị chỉ tồn tại trong quá khứ hay xa xưa trong lịch sử. Không nhất thiết
truyền thống phải là cái cũ, cái đã “chết”. Trên thực tế, không ít truyền thống
đang tồn tại trong cộng đồng con người hôm nay. Chẳng hạn, yêu nước, hiếu
học, cần cù, nhân ái, trách nhiệm cộng đồng… với tính cách là các giá trị
truyền thống đang tồn tại với ý nghĩa tích cực trong đời sống xã hội Việt Nam
hiện đại. Truyền thống trên bất kỳ phương diện nào cũng có nghĩa là cái đã
được hình thành và phát triển từ trong lịch sử qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau.
Và do đó, hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế là
sự kế thừa hệ giá trị truyền thống, bổ sung thêm các giá trị mới cho phù hợp
với thực tiễn. Nói theo cách của tác giả Hồ Sĩ Quý rằng: “Truyền thống, dù
được tiếp cận theo quan điểm nào, cũng đều được hiểu là những hiện tượng
văn hóa- xã hội (bao gồm các giá trị, các chuẩn mực giao tiếp, các khuôn mẫu
văn hóa, các tư tưởng xã hội, các phong tục, nghi thức xã hội, các thiết chế xã
hội, vv.) được bảo tồn qua năm tháng trong đời sống vật chất và tinh thần của
các cộng đồng xã hội khác nhau (nhân loại hoặc giai cấp, dân tộc hoặc liên
dân tộc, nhóm xã hội hoặc cá nhân, v.v.) và có thể chuyển giao từ thế hệ này
qua thế hệ khác” [80, tr.54].
Từ sau những năm 90 khi Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập sâu
trên nhiều lĩnh vực, xã hội Việt Nam bước đầu hình thành những giá trị hội
nhập mới. Các giá trị đó được phản ánh trên cả phương diện lý luận và bắt đầu
đi vào thực tiễn đời sống xã hội nước ta. Một số nghiên cứu của các học giả
113
như: Ngô Đức Thịnh, Phạm Minh Hạc, Trần Ngọc Thêm, Hồ Sĩ Quý… đã đề
cập đến nội dung này. Tác giả Ngô Đức Thịnh trong nghiên cứu “Một số vấn
đề về giá trị và hệ giá trị Việt Nam” [91] đã lựa chọn 5 giá trị của Việt Nam
cần bảo tồn, phát huy trong đổi mới và hội nhập là: Yêu nước; Đoàn kết; Cần
cù; Anh hùng; Yêu gia đình/làng xóm. Từ góc độ nghiên cứu về văn hóa, Trần
Ngọc Thêm xác định một hệ thống gồm 5 đặc trưng bản sắc của hệ giá trị Việt
Nam bao gồm: “1) Tính cộng đồng (làng xã); 2) Tính ưa hài hòa; 3) Tính trọng
âm; 4) Tính tổng hợp; 5) Tính linh hoạt” [91, tr.160-161]. Tác giả Lương Đình
Hải trong bài viết “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” [38]
đề xuất 10 giá trị con người Việt Nam hiện nay bao gồm: Tinh thần yêu nước
Việt Nam; Tinh thần nhân ái; Anh hùng, dũng cảm; Biết chấp nhận (nhẫn), tiếp
thu; Hiếu học; Sáng tạo; Cần cù; Lạc quan; Trọng đạo lý; Ưa ổn định...
Vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị con người Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập đã sớm được Đảng ta và Nhà nước quan tâm, điều này được thể
hiện qua nhiều văn kiện, nghị quyết quan trọng của Đảng, cũng như nhiều
chính sách của Nhà nước trong thời gian qua. Trong nghiên cứu “Một số văn
kiện của Đảng về công tác tư tưởng – văn hóa” của Ban tư tưởng- Văn hóa
Trung ương năm 2000 đã chỉ rõ mục tiêu hướng đến xây dựng con người Việt
Nam trong bối cảnh mới với những phẩm chất, giá trị như: Có trí tuệ, đạo
đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách cao đẹp, có bản lĩnh vững vàng
ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất nước, mau chóng bắt kịp xu thế phát triển
của thời đại. Tại Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ
năm khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra những giá trị tiêu biểu của
con người Việt Nam bao gồm:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
114
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức
bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (năm 2014) tiếp tục làm rõ và bổ
sung những vấn đề của Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII trên các phương
diện cụ thể. Về vấn đề con người, xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam
trong bối cảnh mới, tinh thần của Nghị quyết nhấn mạnh: Hoàn thiện các
chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều
kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất,
tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề
cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người
với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước… Phát triển
văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát
triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con
người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân
ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. So sánh với Nghị quyết
trung ương 5 khóa VIII, nghị quyết Trung ương 9 khóa XI thống nhất xây
dựng hệ giá trị con người Việt Nam ở một số điểm như: Yêu nước, ý chí tự
cường dân tộc; Nhân ái, nghĩa tình, khoan dung, đạo lý; Đoàn kết; Cần cù,
sáng tạo. Bên cạnh đó nghị quyết Trung ương 9 khóa XI bổ sung một số giá
trị mới như: Ý thức cộng đồng (cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc); Trung
thực; Tinh tế trong ứng xử; Giản dị trong lối sống. Đại hội XII của Đảng đã
nhấn mạnh các vấn đề con người, hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế trong đó
có 9 giá trị được hướng tới bao gồm: Nhân cách, Đạo đức, Trí tuệ, Năng lực
sáng tạo, Thể chất, Tâm hồn, Trách nhiệm xã hội, Nghĩa vụ công dân, Ý thức
tuân thủ pháp luật. Tiếp tục tinh thần của Đại hội XII về xây dựng hệ giá trị
115
con người Việt Nam, Đại hội XIII nhấn mạnh vấn đề “khơi dậy mạnh mẽ tinh
thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” [23; tr.34].
Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu của tác giả đi trước và các quan
điểm chỉ dẫn của Đảng về vấn đề hệ giá trị con người Việt Nam, chúng tôi
cho rằng những giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
bao gồm các giá trị tiêu biểu như sau: Yêu nước, trách nhiệm cộng đồng, yêu
lao động, hiếu học (tôn trọng giáo dục), trọng gia đình, chuộng hòa bình.
Giá trị yêu nước: Hiện nay, trong xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam, yêu nước vẫn được xem là giá trị hàng đầu trong thang bậc giá trị. Sinh
thời, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân
dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà
tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do,
tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta cách mạng thành công, giành được độc
lập” [63, tr.164-165]. Lịch sử dân tộc đã minh chứng rất rõ, nhân dân ta với
tinh thần yêu nước nồng nàn đã vượt qua nhiều khó khăn, nguy nan, chiến
thắng nhiều kẻ thù hùng mạnh hơn chúng ta gấp nhiều lần. Trên thực tế, tinh
thần yêu nước thì giá trị mà dân tộc nào cũng có, chúng ta không dám khẳng
định dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam yêu nước hơn dân tộc khác.
Song, ở con người Việt Nam, giá trị này bất luận trong hoàn cảnh nào luôn là
giá trị cốt lõi, tiêu biểu và quan trọng trong cuộc công dựng xây và bảo vệ tổ
quốc. Trong thời gian qua, mỗi khi có thiên tai, bệnh dịch, chủ quyền an ninh
dân tộc bị đe dọa... tinh thần yêu nước của nhân dân ta biểu hiện khá đậm nét.
Và thực sự, lòng yêu nước trở thành động lực lớn để dân tộc ta vượt qua
những khó khăn và làm nền tảng quan trọng cho những thành công bước đầu
của Việt Nam trên các lĩnh vực khi chúng ta bước vào con đường hội nhập.
Ngày nay, trong bối cảnh mới, mỗi dân tộc, mỗi con người trên thế giới đều
đứng trước nhiều cơ hội mới song cũng đan xen không ít khó khăn, thách thức
như: nguy cơ chia rẽ dân tộc, mất bản sắc dân tộc, sự xâm nhập văn hóa ngoại
lai… Trong bối cảnh đó, phát huy giá trị yêu nước trở thành sức mạnh đoàn
116
kết dân tộc có ý nghĩa to lớn, đúng như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết/ Thành công thành công đại thành công”.
Phát huy giá trị yêu nước trong điều kiện hội nhập quốc tế là yếu tố quan
trọng để hoàn thành mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, đưa vị thế của Việt Nam lên tầm cao mới trong so sánh tương quan
với các quốc gia khác. Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước cũng như các
yêu cầu của hội nhập quốc tế đặt ra, ngày nay, giá trị yêu nước không chỉ kế
thừa những nội dung từ truyền thống dân tộc mà còn cần bổ sung thêm nội
hàm mới. Trong bối cảnh hội nhập, yêu nước gắn liền với hành động luôn đặt
lợi ích quốc gia lên trên hàng đầu trong mọi lĩnh vực. Cụ thể, trong lĩnh vực
kinh tế, yêu nước chính là gia tăng hiệu quả kinh tế, tích cực áp dụng tiến bộ
thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trong lao động, tích cực giao lưu, hợp
tác với các đối tác nước ngoài nhằm nâng cao thương hiệu Việt lên tầm cao
mới. Trên khía cạnh văn hóa, con người Việt Nam yêu nước có ý thức kế
thừa, phát huy các giá trị truyền thống và tiếp thu chọn lọc các giá trị của tinh
hoa nhân loại, tích cực giao lưu, chia sẻ những giá trị văn hóa hướng tới xu
thế hòa bình, hữu nghị giữa các quốc gia. Khẳng định tầm quan trọng của giá
trị yêu nước trong thời đại hiện nay, tại đi hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam
chỉ rõ: “Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp
để đổi mới và hội nhập: kết hợp hài hòa các lợi ích; phát huy lòng yêu nước,
tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát
huy nhân tố con người; vai trò của khoa học - công nghệ;...” [22, tr.158-159].
Trách nhiệm cộng đồng là một giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam
trong hệ giá trị Việt Nam thời hội nhập. Thực tiễn lịch sử phát triển nhân loại
đã minh chứng, trong bất kỳ giai đoạn nào, xã hội muốn tồn tại và phát triển
đều cần sự đóng góp, vun đắp từ mỗi cá nhân.Từ xa xưa đến nay, đối với
người Việt, tinh thần cố kết cộng đồng, đoàn kết, trách nhiệm có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi lẽ, như lời Hồ
Chí Minh đã nói: “Mỗi người tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc là một vườn
hoa đẹp”. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, mỗi cá nhân có ý thức trách
117
nhiệm cộng đồng không những góp sức hoàn thành mục tiêu phát triển đất
nước mà còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong con đường hội
nhập. Trên thực tế, hội nhập quốc tế càng diễn ra sâu rộng bao nhiêu thì càng
đặt ra nhiều những thách thức, nguy cơ mới đối với các dân tộc như các vấn
đề: chủ quyền dân tộc, ô nhiễm môi trường, an ninh quốc gia, bản sắc dân
tộc… Do đó, nâng cao ý thức trách nhiệm cộng đồng của người Việt hiện nay
có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
Bởi lẽ, giá trị trách nhiệm cộng đồng định hướng người Việt có ý thức bảo vệ
các lợi ích dân tộc, ngăn ngừa các âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù
địch cũng như các nhóm lợi ích. Ngày nay, trách nhiệm xã hội cũng đòi hỏi
người Việt tham gia, chung tay đóng góp vào sự phát triển chung của cộng
đồng quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục… nhằm hướng đến
sự phát triển bền vững, hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc.
Yêu lao động là một giá trị cần xây dựng trong hệ giá trị con người Việt
Nam giai đoạn hội nhập quốc tế. Có thể thấy rất rõ, trong lịch sử phát triển
của loài người, lao động luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Lao động
giúp con người tạo ra của cải, đem lại đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Đối với con người, lao động thực sự là “nguồn sống, nguồn hạnh phúc” và lao
động được coi là “thước đo phẩm chất con người”. Ngày nay, tham gia hội
nhập quốc tế, người lao động Việt Nam vừa có thêm những cơ hội mới nhưng
cũng đứng trước nhiều thách thức. Để đáp ứng các yêu cầu của giai đoạn mới,
xây dựng giá trị yêu lao động cho con người Việt Nam là điều rất cần thiết.
Bởi lẽ, từ xưa tới nay, người Việt Nam luôn được biết tới với những đức tính
đáng quý như cần cù, chịu thương chịu khó. Tuy vậy, thiếu trình độ chuyên
môn và tính chuyên nghiệp trong lao động cũng là một trong những trở ngại
rất lớn với người lao động Việt Nam khi tham gia hội nhập. Xây dựng giá trị
yêu lao động đối với con người Việt Nam khuyến khích niềm đam mê, phát
huy những phẩm chất, đức tính đáng quý trong lao động. Hiện nay, tốc độ và
quy mô đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng lớn, người lao động Việt
Nam có thêm môi trường để lựa chọn công việc, phát triển sự nghiệp, từ tình
118
yêu và say mê lao động, con người Việt Nam sẽ phải tự bổ sung những kỹ
năng, phẩm chất mới để thích nghi với môi trường làm việc mới. Có khẳng
định rằng, xây dựng giá trị yêu lao động là một trong những điều kiện quan
trọng hướng tới sự phát triển chất lượng nguồn lực Việt Nam trong sự nghiệp
phát triển đất nước, đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế. Mỗi người Việt
Nam yêu lao động, hoàn thành có trách nhiệm với công việc của mình, nỗ lực
phát triển bản thân, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật sẽ góp phần
nâng cao năng suất lao động, hiệu quả trong sản xuất, đây là tiền đề quan
trọng để phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập.
Hiếu học là giá trị tiêu biểu trong xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam thời kỳ hội nhập quốc tế. Từ xưa cho tới nay, Việt Nam luôn được đánh
giá là một dân tộc có truyền thống hiếu học, người Việt Nam lấy sự học làm
điều căn bản để thực hiện đạo lý làm người. Về điều này, trong hồi ký "One
Man's View of the World" (tạm dịch: "Cái nhìn của một con người về thế
giới"), ông Lý Quang Diệu trong những nghiên cứu về Đông Nam Á và Việt
Nam đã đưa ra nhận xét như sau: Người Việt Nam là một trong những dân tộc
nghị lực và có khả năng nhất Đông Nam Á. Sinh viên của họ đến Singapore
theo diện học bổng ASEAN rất nghiêm túc với việc học hành và thường có
điểm số cao nhất. Quả thực, cho đến hiện nay, Việt Nam là một trong những
quốc gia đặc biệt đề cao vai trò của giáo dục đối với sự tiến bộ của xã hội.
Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
ngày nay đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của kinh tế tri thức, đồng thời tạo
cơ hội tốt cho các quốc gia đang phát triển có thể phát triển nhanh, mạnh, bền
vững. Nếu nhanh chóng nắm bắt được các thành tựu và vận dụng được chúng
vào đời sống kinh tế, xã hội, các quốc gia có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển
để đạt tới trình độ phát triển cao của thế giới. Đối với Việt Nam, hiện nay,
chưa phải là quốc gia có trình độ cao về khoa học và công nghệ, chúng ta
không có nhiều thành tựu về phát minh, sáng chế lớn thì việc trang bị tri hành
trang tri thức cho mỗi con người sẽ là điều kiện tiên quyết và quan trọng. Vì
vậy, củng cố và phát huy giá trị hiếu học trong điều kiện mới không những
119
góp phần gìn giữ bảo tồn giá trị truyền thống trong điều kiện mới mà còn góp
phần giải quyết được một số vấn đề thực tiễn đặt ra hiện nay.
Trọng gia đình được coi là một giá trị tiêu biểu của con người Việt
Nam trong hội nhập quốc tế. Giá trị này được hình thành từ con người Việt
Nam truyền thống và hiện nay vẫn đang là một giá trị cần được lưu giữ, phát
triển trong quá trình hoàn thiện hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ mới.
Sinh thời, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định vai trò quan trọng của
giá trị gia đình trong ý thức hệ con người Việt Nam: Ba trụ cột của ý thức
cộng đồng người Việt, đó là gia đình (nhà), làng và nước. Ngày nay, xây dựng
một xã hội công bằng, văn minh đòi hỏi chúng ta phải trở lại với những giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp từ gia đình. Người Việt Nam dù ở truyền thống
hay hiện đại luôn đặc biệt coi trọng gia đình. Gia đình không là nơi duy trì nòi
giống cho mỗi dòng họ mà gia đình còn góp phần xây dựng, tô thắm, làm
rạng rỡ thêm bản sắc văn hoá dân tộc; là nơi giữ gìn, vun đắp, phát huy những
giá trị truyền thống quý báu của người Việt được lưu truyền qua hàng ngàn
năm lịch sử. Ngày nay, trong một “thế giới phẳng”, dòng chảy văn hóa dễ
dàng lan tỏa đến mỗi quốc gia, tuy vậy, con người cũng luôn phải đối mặt với
những vấn đề trong quá trình hội nhập như: Căn bệnh vô cảm, xói mòn bản
sắc văn hóa dân tộc, sự xâm nhập văn hóa ngoại lai… Việc xây dựng và củng
cố giá trị gia đình trong hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay là hết sức cần
thiết trước sự tác động mạnh mẽ của bối cảnh thời đại cũng như sự biến đổi rõ
nét của con người Việt Nam, của gia đình Việt Nam. Nhấn mạnh về vai trò
xây dựng giá trị gia đình trong mối tương quan với vấn đề xây dựng hệ giá trị
con người Việt Nam hiện nay, Đại hội XIII đã chỉ rõ: “xây dựng hệ giá trị
quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát
triển giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới” [23, tr.143]. Sự quan tâm
này cho thấy vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng của giá trị gia đình với con
người Việt Nam trong hiện nay.
Chuộng hòa bình là giá trị tiêu biểu trong xây dựng hệ giá trị con người
Việt Nam thời kỳ hội nhập. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước,
dân tộc Việt Nam phải tiến hành nhiều cuộc kháng chiến chống lại các thế lực
120
ngoại xâm để giành và bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trải qua những
cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ, chịu đựng biết bao mất mát, hy sinh, hơn ai
hết, dân tộc ta nhận rõ giá trị của hòa bình, độc lập, tự do. Bởi vậy, yêu
chuộng hòa bình là một trong những truyền thống nổi bật, là nét đẹp văn hóa
tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới và
hội nhập, Việt Nam luôn nhất quán với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hợp tác. Hiện nay, hội nhập quốc tế đang diễn ra khá phức tạp, tuy
vậy, xu hướng hòa bình, hữu nghị, hợp tác bền vững vẫn là xu hướng chính
mà các nước theo đuổi. Chính vì những lý do đó, việc xây dựng và củng cố
giá trị yêu chuộng hòa bình trong hệ giá trị con người Việt Nam không những
thể hiện rõ nguyện vọng của nhân dân ta mà còn thể hiện sự phù hợp với xu
thế chung của thế giới trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Đề xuất một số định hướng giá nhằm xây dựng hệ giá trị con
người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
4.2.1. Chủ động kế thừa và phát huy giá trị truyền thống
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, việc giữ gìn, phát huy các giá trị
truyền thống được xem là vấn đề có ý nghĩa quan trọng với nhiều quốc gia
trên thế giới. Ở đây, các giá trị truyền thống bao gồm các đối tượng của di sản
xã hội như các giá trị vật chất và tinh thần, giá trị con người. Trong giá trị
truyền thống bao gồm các quy định, các tiêu chuẩn hành vi, các giá trị tư
tưởng, thói quen, tập tục... của cộng đồng xã hội nhất định. Chức năng của
truyền thống là chuyển tải các chuẩn mực, định hướng giá trị của hành vi và
hoạt động nhằm bảo tồn bản sắc dân tộc của một cộng đồng nhất định. Cũng
giống như bất kỳ nhân tố nào của ý thức xã hội, sự tồn tại của truyền thống
phụ thuộc vào tồn tại xã hội, đặc biệt là vai trò chủ thể con người và khả năng
chuyển tải các chuẩn mực định hướng giá trị. Do đó, trong thực tiễn, có
những yếu tố của truyền thống được bảo tồn, phát huy, có những yếu tố của
truyền thống trở nên lỗi thời, lạc hậu không phù hợp với các điều kiện mới.
Xung quanh vấn đề vai trò của giá trị truyền thống đối với giai đoạn hiện nay
đang có nhiều ý kiến khác nhau. Một số ý kiến phủ nhận sạch trơn truyền
121
thống vì cho rằng truyền thống gắn với cái cũ, cái lạc hậu nên không còn phù
hợp với điều kiện mới. Một số khác tỏ ra thận trọng đầy e ngại vì cho rằng giá
trị truyền thống luôn chứa đựng cả “sự thông minh” và “sự điên rồ” nên thế
hệ sau dễ trở thành “người thừa kế” luôn đối diện với nhiều rủi ro, nguy hiểm
khi kế thừa truyền thống. Song bên cạnh đó, một số ý kiến nhìn nhận các giá
truyền thống khá lạc quan, khẳng định sức sống vĩnh cửu của giá trị truyền
thống đối với hiện tại và tương lai.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, các dân tộc trên thế giới đều
đứng trước giải quyết về bài toán bản sắc dân tộc, trong đó có các vấn đề liên
quan tới các giá trị truyền thống. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau, song trên
bình diện chúng, có thể thấy, xu hướng bảo tồn, phát huy các giá trị truyền
thống hình thành bản sắc riêng của dân tộc vẫn được xem là xu hướng chủ
đạo. Tại một số quốc gia có nền kinh tế phát triển của châu Á như Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… các giá trị truyền thống dân tộc được
chú trọng quan tâm sớm. Trên thực tế, sự phát triển của nhiều quốc gia trong
hội nhập chỉ ra bài học kinh nghiệm rằng: sẽ là sai lầm nếu quốc gia nào chỉ
chú trọng phát triển kinh tế mà “bỏ rơi” hoặc “đánh mất” nền văn hóa dân tộc,
trong đó có bộ phận cốt lõi là các giá trị truyền thống. Hay nói cách khác,
bằng cách “không lãng quên truyền thống, khai thác các giá trị nhân bản của
truyền thống, làm cho các giá trị hiện đại ăn nhập hoặc không mâu thuẫn với
các giá trị truyền thống… đó là con đường tự nhiên và tất yếu mà các xã hội,
dù muốn hay không, dù nhận thức được hay chưa nhận thức được, cũng đều
phải thực hiện để đạt tới sự phát triển bền vững” [7, tr.60].
Ở nước ta, các giá trị truyền thống của dân tộc như: Tinh thần yêu
nước, tinh thần cố kết cộng đồng, lòng khoan dung, tinh thần hiếu học, cần cù
siêng năng, lạc quan, yêu lao động… là những giá trị tiêu biểu của hệ giá trị
con người Việt Nam giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế. Nhấn mạnh vai
trò của các giá trị truyền thống trong giai đoạn mới, Đảng ta đã khẳng định:
“Đi vào nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn coi trọng
122
những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không tự đánh mất mình,
trở thành cái bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác” [18, tr.30] và “phải
đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc; kế thừa và
phát triển truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc” [18,
tr.111]. Vì những lẽ đó, có thể thấy, hiện nay việc kế thừa và phát huy các giá
trị truyền thống của dân tộc đối với xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế có ý nghĩa không chỉ trên phương diện lý
luận mà cả trong hoạt động thực tiễn. Ngày nay, hội nhập quốc tế với những
tác động đa chiều và diễn biến ngày càng sôi động, một số ý kiến cho rằng các
giá trị truyền thống của Việt Nam đang đứng trước những nguy cơ mai một.
Điều này không phải không có cơ sở, nhất là hiện nay, sự xâm nhập của các
luồng văn hóa ngoại lai, sự xuất hiện lối sống, cách sống mới không phù hợp
với các giá trị truyền thống của dân tộc đang ngày càng gia tăng. Trên cơ sở
nghiên cứu về thực trạng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế, để định hướng giá trị nhằm kế thừa và phát huy các giá trị
truyền thống một cách hiệu quả cần chú ý một số nguyên tắc cơ bản như sau:
Trước hết, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống hiện nay gắn với
quá trình gìn giữ những “hạt nhân” của giá trị truyền thống và đổi mới các giá
trị truyền thống theo yêu cầu của thời đại. Nguyên lý của chủ nghĩa Mác-
Lênin đã chỉ ra rằng, quá trình vận động phát triển của mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan liên tục diễn ra những lần phủ định kế tiếp nhau,
song giữa cái cũ và cái mới bao giờ cũng có mối liên hệ tác động qua lại và
chuyển hóa lẫn nhau, trong đó cái cũ, sự vật cũ không mất đi hoàn toàn mà nó
được giữ lại những yếu tố hợp lý, tích cực làm nền tảng cho sự ra đời của cái
mới, cái tiến bộ. Đối với hệ giá trị truyền thống của người Việt, như đã nói,
cho tới nay có rất nhiều giá trị phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước
giai đoạn đổi mới và hội nhập. Hiện nay có rất nhiều giá trị độc đáo, đặc sắc
cần phải được giữ gìn, bảo tồn như lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta,
tinh thần đoàn kết, ý chí tự cường dân tộc, lòng nhân ái, đức tính cần cù, hiếu
học... Đồng thời, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống đi liền với quá
123
trình đổi mới các giá trị truyền thống theo yêu cầu của thời đại. Thực chất của
quá trình này chính là việc mở rộng nội hàm các giá trị truyền thống, làm cho
các giá trị truyền thống phù hợp với những thay đổi của tồn tại xã hội hiện
nay. Quá trình đổi mới này luôn phải gắn liền với các yêu cầu của thời đại và
điều kiện của Việt Nam hiện nay. Chẳng hạn như tinh thần yêu nước, sự cố
kết cộng đồng, ý chí kiên cường của dân tộc trước là nền tảng xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân chung tay xây dựng đất nước, hoàn thành mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và mở rộng hội nhập quốc tế. Hay giá trị
hiếu học, truyền thống tôn sự trọng đạo là cơ sở cho phát triển giáo dục- đào
tạo, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài trong thời kỳ mới. Vì thế, trong quá
trình xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay, kế thừa và phát huy
các giá trị truyền thống quý báu của dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Bởi lẽ, đây là những giá trị đã được chọn lọc, phù hợp với đặc điểm, tính cách
con người Việt Nam. Việc kế thừa có chọn lọc những giá trị quý báu đó sẽ tạo
ra những tiền đề, điều kiện để hoàn thiện hệ giá trị chuẩn mực của con người
Việt Nam trong giai đoạn mới.
Bên cạnh đó, để đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn phát triển đất nước
trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống của dân tộc cần gắn với việc mở rộng các nội hàm các giá trị
truyền thống để phù hợp với thực tiễn. Chẳng hạn, tinh thần yêu nước trong
thời kỳ hội nhập có phạm vi và mức độ rộng hơn trước kia và mang mầu sắc
hiện đại hơn, đó không chỉ là tình cảm của con người với quê hương, đất nước
mình mà còn thể hiện lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền dân tộc, ở ý thức giữ
gìn bản sắc truyền thống trước làn sóng xâm nhập của các văn hóa bên ngoài
trong hội nhập, ở thái độ học tập nâng cao trình độ, áp dụng các thành tựu
khoa học tiên tiến của nhân loại vào thực tiễn... Hay đối với giá trị cần cù,
siêng năng trong giai đoạn hội nhập hiện nay không chỉ bao hàm thái độ chịu
thương chịu khó lao động trên những tư liệu sẵn có mà còn phải đi liền với sự
sáng tạo trên cơ sở việc nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động nhằm
tạo ra năng suất, hiệu quả trong công việc…
124
Thêm nữa, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc
trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế cần
tránh những khuynh hướng sai lầm trong nhận thức và thực tiễn, tiêu biểu
nhất là hai khuynh hướng phủ định sạch trơn và khuynh hướng bảo thủ. Về
thực chất, khuynh hướng phủ định sạch trơn là phủ nhận vai trò của các giá trị
truyền thống đối với hiện thực, cổ xúy cho hành động xóa bỏ toàn bộ cái cũ
xây dựng cái mới. Ở nước ta, khuynh hướng này xuất hiện rõ nhất trong giai
đoạn cải cách tư tưởng, văn hóa giai đoạn trước dẫn tới hậu quả nhiều giá trị
truyền thống, phong tục phong tục tập quán tốt đẹp bị xóa bỏ hoặc lãng quên,
đồng thời gia tăng nhiều thói hư tật xấu không phù hợp xã hội, con người Việt
Nam. Khuynh hướng bảo thủ đối là việc đề cao tuyệt đối hóa vai trò của các
giá trị truyền thống dân tộc trước những thay đổi của tồn tại xã hội. Hậu quả
của khuynh hướng này dẫn đến nguy cơ lạc hậu và chủ nghĩa dân tộc cực
đoan trong xu thế hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, cũng giống như bất kỳ yếu tố nào
của ý thức xã hội, các giá trị không phải là bất biến, mỗi khi tồn tại xã hội
thay đổi thì bản thân các giá trị truyền thống dù ổn định tới mấy cũng cần phải
thay đổi để phù hợp với yêu cầu của điều kiện thực tiễn. Không chỉ có vậy,
các yếu tố truyền thống nói chung trong bối cảnh hội nhập bên cạnh những
yếu tố tích cực và những yếu tố tiêu cực, có những giá trị phù hợp, có những
giá trị đã lỗi thời, lạc hậu. Do đó, phủ nhận sạch trơn hay bảo thủ các giá trị
truyền thống đều dẫn tới sai lầm đối với xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng các giá trị truyền thống, trong tác phẩm Hội nhà năm 1985 có trích dẫn
lời của Người về điều này rằng: Những người cộng sản chúng ta rất quý trọng
cổ điển. Có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ ngọn nguồn cổ điển đó. Càng
thấm nhuần Chủ nghĩa Mác – Lênin, càng phải coi trọng những truyền thống
tốt đẹp của cha ông. Hồ Chủ tịch không quên nhấn mạnh lưu ý về các giá trị
truyền thống trong đời sống với, Người cho rằng: “Đời sống mới không phải
cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải
125
bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp
lý… Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm…” [62, tr.94-95].
Từ những kinh nghiệm thực tiễn, kế thừa và phát huy các giá trị truyền
thống trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ hội nhập đạt
được hiệu quả cần đẩy mạnh, lan tỏa của hệ giá trị con người Việt Nam ra thế
giới thông qua hoạt động ngoại giao văn hóa. Như chúng ta đều biết, trong
quá trình hội nhập, hoạt động ngoại giao văn hóa là cầu nối có vai trò quan
trọng trong sự kết nối giữa Việt Nam và thế giới. Thông qua hoạt động này
một mặt chúng ta có cơ hội tiếp xúc, chọn lọc nhiều hơn các giá trị tiến bộ của
thế giới; mặt khác, đây cũng là cơ hội để thế giới biết tới nhiều hơn các giá trị
Việt Nam, giá trị con người Việt Nam. Trước đây do nhiều nguyên nhân khác
nhau chúng ta chưa chú trọng tới hoạt động này nên kết quả không được như
mong đợi. Chúng tôi cho rằng hiện nay để quảng bá được các giá trị con
người Việt Nam cũng như tiếp thu các giá trị tiến bộ của các nước trên thế
giới thì trong quá trình hội nhập hiện nay nhất thiết phải chú ý tới hoạt động
ngoại giao văn hóa. Để hoạt động ngoại giao văn hóa hiệu quả, cần sự kết hợp
của nhiều nhân tố. Trong đó trước tiên là cần phải hoàn thiện thể chế, chính
sách văn hóa, gắn kết các hoạt động tuyên truyền quảng bá về giá trị con
người Việt Nam vào các hoạt động ngoại giao văn hóa. Tiếp đến là cần tạo ra
sự gắn kết mật thiết giữa hoạt động ngoại giao văn hóa với các hoạt động
ngoại giao khác (ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao giáo dục).
Mục đích của sự gắn kết các hoạt động ngoại giao này nhằm tạo ra nhiều hơn
những cơ hội để quảng bá các giá trị con người Việt Nam trên nhiều lĩnh vực
trong hội nhập. Trong hoạt động ngoại giao văn hóa, nhân tố con người đóng
vai trò đặc biệt quan trọng, do đó để hoạt động này hiệu quả cần có sự đầu tư,
bồi dưỡng nguồn nhân lực trong hoạt động ngoại giao văn hóa nhằm đáp ứng
được yêu cầu của thời kỳ hội nhập. Song hành với quá trình này cần có những
chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng với nguồn nhân lực làm công tác
ngoại giao văn hóa bởi lẽ đây có thể coi là những “sứ giả tuyệt vời” trong quá
trình giao lưu, hợp tác giữa văn hóa Việt Nam với thế giới. Khi chúng ta có
126
đội ngũ nhân lực trong hoạt động ngoại văn hóa có chất lượng sẽ góp phần
giới thiệu rộng rãi, hiệu quả các giá trị về đất nước Việt Nam, con người Việt
Nam với bạn bè thế giới. Ngoài ra, cần lựa chọn khoa học các giá trị truyền
thống mang tính đặc trưng về con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế hiện nay. Không thể phủ nhận vai trò đặc biệt của các giá trị truyền
thống đối với các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc, các giá trị truyền thống đều đóng
góp những vai trò nhất định vào sự phát triển của quốc gia, dân tộc, củng cố
hệ giá trị con người. Tuy nhiên, trước sự thay đổi mạnh mẽ của bối cảnh hội
nhập quốc tế như hiện nay thì bản thân các giá trị truyền thống cũng có những
biến đổi đáng kể. Do vậy việc lựa chọn, cân nhắc một cách khoa học các giá
trị truyền thống trong hệ giá trị con người Việt Nam phù hợp với những đặc
điểm và yêu cầu của thời đại và dân tộc, cần đánh thức các giá trị truyền
thống bằng môi trường lành mạnh và cơ chế chính sách phù hợp. Việc lựa
chọn, kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống của con người
Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc thường xuyên có thái độ và hành động
tích cực, chống lại tư tưởng lạc hậu, cổ hủ, không phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại hiện nay, cản trở tới sự phát triển con người và xã hội.
4.2.2. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại
Việt Nam được biết đến là một quốc gia giàu truyền thống văn hóa.
Nền văn hóa Việt Nam, trong tương quan so sánh với dân tộc khác, là nền văn
hóa mở, không cứng nhắc trong quá trình giao lưu, tiếp biến. Con người Việt
Nam từ xưa tới nay luôn được bạn bè quốc tế ca ngợi bởi sự thân thiện, hiếu
khách, không có tư tưởng kỳ thị các dân tộc khác, không có thái độ cực đoan
trong giao lưu, tiếp biến văn hóa với các dân tộc khác. Người Việt Nam đánh
giá của nhiều nhà nghiên cứu rằng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam
không sợ các giá trị ngoại lai, mà sợ nhất là sự áp đặt các giá trị, sự đảo lộn hệ
giá trị, đồng nhất hóa các giá trị. Nhấn mạnh tính tất yếu của sự giao lưu, tiếp
biến văn hóa đối với nền văn hóa Việt Nam, sinh thời Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Văn hoá Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá Đông phương
127
và Tây phương chung đúc lại”. Và Người đã nhắc nhở các nhà văn hoá Việt
Nam: “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một
nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hoá xưa và nay,
trau dồi cho văn hoá Việt Nam có tinh thần thuần tuý Việt Nam, để hợp với
tinh thần dân chủ” [62, tr.71].
Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, mở rộng giao lưu và tiếp biến
văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc với nhau là một vấn đề có tính quy luật của
mọi nền văn hóa, đồng thời cũng là một trong những động lực cơ bản thúc
đẩy sự phát triển văn hóa của mỗi dân tộc. Qua mỗi lần giao lưu, tiếp biến văn
hóa với các dân tộc khác, nền văn hóa của dân tộc có cơ hội truyền bá ra bên
ngoài, được tiếp xúc nhiều hơn với các nền văn hóa khác để làm phong phú
thêm truyền thống văn hóa của dân tộc. Bản chất nền văn hóa Việt Nam theo
tinh thần của văn kiện Đảng là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới
để không ngừng hoàn thiện mình. Vì vậy, xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay không thể không tiếp thu
những tinh hoa, văn hóa nhân loại. Hiện nay, trước sự gia tăng của tình trạng
gia tăng mức độ xuống cấp giá trị đạo đức từ khi thực hiện kinh tế thị trường,
hiện đại hóa xã hội và tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh
vực xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân bắt nguồn từ
những ảnh hưởng của các luồng văn hóa từ bên ngoài không được kiểm soát
chặt chẽ. Do vậy, việc tiếp thu những tinh hoa, văn hóa nhân loại đối với xây
dựng hê giá trị con người Việt Nam là điều tất yếu không thể tránh khỏi song
cũng cần phải dựa trên một số nguyên tắc phương pháp luận nhất định.
Mỗi tinh hoa văn hóa của nhân loại luôn gắn với tồn tại xã hội nhất
định, do đó, sẽ là sai lầm nếu áp dụng nguyên xi các giá trị của nhân loại nếu
không có sự chọn lọc và cải biến. Trên thực tế, đã có một số quốc gia dân tộc
rơi vào tình trạng “mất bản sắc dân tộc”, bị “hòa tan” bản sắc văn hóa dân tộc
trong hội nhập khi tiếp thu “trọn vẹn” các tinh hoa văn hóa của dân tộc khác.
128
Đồng thời, cũng không ít quốc gia phải nhận được sự “trả giá đau đớn” khi
lựa chọn không đúng đắn những tinh hoa, văn hóa nhân loại khi hội nhập. Hệ
quả của những lựa chọn chưa phù hợp các giá trị tiến bộ của nhân loại thường
gây ra những tổn thất và hệ lụy rất lớn cho sự phát triển bền vững của quốc
gia, dân tộc, đặc biệt là những vấn đề liên quan tới hệ giá trị con người. Ở các
quốc gia đang phát triển như nước ta, sự tính toán, cân nhắc một cách khoa
học với các giá tiến bộ của nhân loại trong quá trình hội nhập là rất quan
trọng. Bởi lẽ, từ thế kỷ XX đến nay tình hình chính trị quốc tế đã thay đổi
nhiều, các quan hệ quốc tế ngày càng phức tạp hơn. Để tránh các hiện tượng
du nhập thiếu cân nhắc hoặc chưa phù hợp các giá trị bên ngoài cần có những
chính sách hợp lý của Nhà nước với các nghiên cứu về con người, về hệ giá
trị con người và các giá trị tiến bộ của nhân loại. Thêm nữa, trong bối cảnh
hội nhập, khi tiếp thu các tinh hoa văn hóa của nhân loại vào điều kiện của
nước ta cần tiếp thu, ứng dụng có hiệu quả phương châm “tư duy toàn cầu
hành động địa phương”. Do đó, việc tiếp thu các tinh hoa, văn hóa nhân loại
đòi hỏi sự nghiên cứu và lựa chọn nghiêm túc. Chúng tôi cho rằng, các giá trị
tiến bộ của nhân loại hiện nay như: Tôn trọng, trung thực, trách nhiệm, bình
đẳng, dân chủ, sáng tạo, hòa bình, đó còn là những quy tắc ứng xử văn minh,
lối sống lành mạnh, tinh thần nhân văn nhân ái, thái độ tôn trọng pháp kỷ
cương pháp luật, ý thức bảo vệ môi trường tài nguyên thiên nhiên… Đây là
những giá trị tiến bộ hiện nay hầu hết quốc gia lựa chọn.
Thứ nữa, khi tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại trong xây dựng hệ
giá trị con người Việt Nam giai đoạn hội nhập quốc tế cần tránh các xung đột
với các giá trị truyền thống của dân tộc. Các giá trị truyền thống được hình
thành gắn với lịch sử lâu dài của dân tộc, nó được xem là nền tảng tinh thần
của dân tộc. Ở những thời điểm chuyển giao hay thời điểm có tính chất bước
ngoặt về lịch sử khi có sự xuất hiện của các giá trị mới dễ dẫn tới những đụng
độ nhất định với các giá trị truyền thống. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập
quốc tế đang diễn ra như một xu thế tất yếu hiện nay, quá trình giao thoa, va
chạm các giá trị là điều khó tránh khỏi, đây cũng là cơ hội để nền văn hóa dân
129
tộc có cơ hội thẩm định, thử nghiệm và lựa chọn các tinh hoa văn hóa của các
dân tộc. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại đối
với xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay cần tránh các xung đột
với các giá trị truyền thống dân tộc. Bởi lẽ, đối với con người Việt Nam, dân
tộc Việt Nam, các giá trị truyền thống luôn đóng vai trò quan trọng, khi xảy ra
những xung đột giá trị, dễ dẫn tới những khủng hoảng giá trị, rối loạn xã hội.
Về điều này, có ý kiến cho rằng: “Sự xung đột giữa các giá trị cũ sắp bị loại
bỏ hoặc loại bỏ từng phần với các giá trị mới khiến cho xã hội mất định
hướng giá trị; các hành vi, hoạt động của những con người, bộ phận dân cư
khác nhau sẽ được đánh giá khác nhau. Tình hình đó dẫn đến thậm chí sự
xung đột trong định hướng, đánh giá và niềm tin, tạo nên sự rối loạn của xã
hội. Những thang bậc đúng sai, tốt xấu, có lợi, có hại,…đối với cộng đồng, cá
nhân, có thể bị đảo lộn; xã hội hoặc bộ phận dân cư nào đó, trong những
trường hợp cụ thể, có thể bị mất phương hướng” [79, tr.239-240]. Từ những
bài học về thực tiễn cho thấy để giảm thiểu các xung đột giá trị trong việc tiếp
thu các tinh hoa văn hóa nhân loại với các giá trị truyền thống của dân tộc cần
sự giám sát, quản lý chặt chẽ của các cơ quan liên quan, đặc biệt trong lĩnh
vực văn hóa.
Hiện nay, kết hợp hài hòa giữa các giá trị truyền thống với tinh hoa văn
hóa nhân loại đang trở thành phương án được nhiều quốc gia lựa chọn trong
bối cảnh hội nhập, Nhật Bản là một ví dụ khá điển hình. Cũng giống như
nhiều quốc gia ở châu Á, nền văn hóa Nhật Bản tiếp xúc khá sớm với văn hóa
phương Tây. Trong qua trình giao thoa, những xung đột và khủng hoảng giá
trị đã từng là vấn đề nan giải ở không ít các quốc gia. Hiện nay, chủ trương
“Đạo lí Nhật Bản + Kỹ thuật phương Tây” của Nhật Bản được xem là một
trong những giải pháp được nhiều nhà nghiên cứu luận bàn trong bối cảnh hội
nhập. Ở Việt Nam, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc và chỉ
ra sự gắn bó mật thiết giữa dân tộc và quốc tế. Đó là sự gắn bó biện chứng
giữa yếu tố chủ quan (dân tộc) và yếu tố khách quan (quốc tế). Kết hợp sức
130
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trở thành nội dung quan trọng trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là quy luật, bài học kinh nghiệm lớn đối với
cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, trên cơ sở phát huy kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
lãnh đạo dân tộc Việt Nam giành thắng lợi trong suốt chiều dài lịch sử. Khẳng
định việc kế thừa các giá trị văn hóa của nhân loại để làm phong phú, đa dạng
văn hóa dân tộc, nhưng Hồ Chí Minh cũng phê phán, chống lại “cách mượn”
không phải lối, chối bỏ đi các giá trị vốn có của dân tộc, hay là sự tiếp thu xô
bồ mọi thứ của thiên hạ, đồng thời cho rằng cần tiếp thu có chọn lọc những
cái hay, cái tốt, cái đẹp để làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc. Đây thực sự là
“Việt Nam hóa” những cái từ ngoài đến, biến chúng thành những cái bên
trong, tự nhiên như những yếu tố nội sinh của văn hóa Việt Nam. Đứng vững
trên cái nền dân tộc để chiếm lĩnh, tiếp thu những giá trị văn hóa bên ngoài,
bản lĩnh đó của dân tộc Việt Nam đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch
sử mấy nghìn năm qua.
Ngoài ra, trong quá trình hội nhập, quá trình tiếp thu các tinh hoa văn
hóa nhân loại trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam cũng cần gắn liền
với việc chia sẻ các giá trị tốt đẹp của dân tộc. Nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại song Hồ Chí Minh cũng không quên
căn dặn những người làm công tác văn hóa về sự cần thiết chia sẻ các giá trị
trong quá trình giao lưu, tiếp biến. Hồ Chí Minh quan niệm, mình có thể bắt
trước cái hay của bất kỳ nước nào, nhưng điều cốt yếu là sáng tác. Mình đã
hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay để cho người ta hưởng. Mình
đừng chịu vay mà không trả "phát triển cái hay cái đẹp của dân tộc, tức là ta
cùng đi tới chỗ nhân loại". Đây chính là sự vận dụng phép biện chứng của
“nhận và cho”, “vay và trả” trong tiếp xúc, giao lưu, đối thoại giữa các nền
văn hóa. Trong văn hóa, nếu chỉ muốn “viện trợ không hoàn lại”, thì chính
điều đó không chỉ là một thái độ rất không văn hóa mà còn không thể phát
huy được bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Ngoài ra, trong quá trình tiếp thu,
131
học tập kinh nghiệm, phải chú ý đến đặc điểm của dân tộc mình, nếu không sẽ
phạm phải sai lầm, giáo điều. Ngày nay, hội nhập quốc tế trên tất cả lĩnh vực
chỉ đạt tới kết quả khi có sự chia sẻ, chung tay, góp sức của các cộng đồng
dân tộc. Do vậy, tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại trong xây dựng hệ giá
trị con người Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế cần thiết phải có sự chia sẻ
các giá trị con người Việt Nam với các cộng đồng dân tộc trên thế giới. Bởi
lẽ, hội nhập quốc tế không chỉ là cơ hội với các dân tộc mà còn thể hiện trách
nhiệm của các dân tộc trong sự phát triển chung của nhân loại.
4.2.3. Phát triển toàn diện con người Việt Nam nhằm đáp ứng yêu
cầu của hội nhập quốc tế
Trong bất kỳ sự phát triển nào của xã hội, con người luôn đóng vai trò
là chủ thể sáng tạo ra lịch sử- xã hội, là mục tiêu và động lực của sự phát
triển, là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành bại của xã hội. Ngày
nay, trước những tác động mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế, những vấn đề “xưa cũ” về con người được trở lại nhiều hơn. Trong đó, vấn
đề phát triển con người toàn diện đang trở thành mục tiêu trọng tâm trong
nhiều chiến lược phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay.
Ở nước ta, nhận thức về vai trò của con người và phát triển con người
luôn được Đảng và Nhà nước xác định là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng
nhất. Tiếp tục tinh thần này từ các Đại hội trước, Đại hội XIII nhấn mạnh:
“Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể,
nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa,
con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự
phát triển bền vững” [23; tr.215-216].
Trên thực tế, những chủ trương chính sách đúng đắn về con người ở
nước ta trong những năm qua đã mang lại hiệu quả thiết thực. Đời sống vật
chất và tinh thần của con người Việt Nam về cơ bản tăng hơn so với trước đây
Nhấn mạnh vai trò quan trọng của vấn đề phát triển toàn diện con người Việt
Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: “con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát
132
triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [22,
tr.78] và trở thành một nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-
2020. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã
tham gia và cam kết hầu hết các định chế quốc tế, trong đó có công ước quốc
tế về quyền con người. Điều này thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng và
Nhà nước với vấn đề phát triển con người Việt Nam toàn diện giai đoạn xây
dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Trên phương diện xây dựng và
hoàn thiện hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế,
phát triển con người Việt Nam hiện nay cần chú ý tới một số vấn đề như sau:
Một là, phát triển con người toàn diện phải đảm bảo nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân. Sự phát triển con người ở bất kỳ giai đoạn
nào, quốc gia nào chỉ thực sự bền vững khi đời sống vật chất và đời sống tinh
thần đầy đủ. Trong bối cảnh hội nhập, yêu cầu nâng cao đời sống vật chất
được thể hiện ở những phương diện cụ thể như sau: Giải quyết tốt công ăn
việc làm cho người dân, nâng cao mức thu nhập đầu người, cải tiến trang thiết
bị lao động và các phương tiện làm việc ngày càng hiện đại… Ngày nay, khoa
học kỹ thuật được xem là lực lượng sản xuất trực tiếp đóng vai trò quan trọng
quyết định năng suất lao động, do vậy muốn nâng cao đời sống vật chất cho
nhân dân, không bị thụt lùi so với các nước khác trong hội nhập thì ưu tiên
việc trang bị, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản
xuất là yếu tố quan trọng để phát triển con người. Trên cơ sở nâng cao đời
sống vật chất, phát triển con người toàn diện cũng song hành với việc nâng
cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Nâng cao đời sống tinh thần sẽ góp phần
tạo những tiền đề quan trọng trong xây dựng nền văn hóa, con người Việt
Nam. Trong bối cảnh hiện nay, sự giao lưu, hội nhập về văn hóa đang diễn ra
mạnh mẽ, nâng cao đời sống tinh thần được thể hiện ở một số khía cạnh như:
Đa dạng hóa các hoạt động văn - thể - mỹ, giữ gìn và phát huy những giá trị
truyền thống dân tộc, tạo điều kiện cho người dân được tham gia và hưởng
thụ các giá trị văn hóa, kết nối mở rộng rộng hợp tác với các nước trên lĩnh
vực văn hóa, quản lý và kiểm soát hiệu quả các hoạt động văn hóa… Sự phát
133
triển con người cần đảm bảo trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần cho
nhân dân, điều này sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển con người Việt
Nam toàn diện, góp phần thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Hai là, phát triển con người phải gắn với đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục- đào tạo. Có thể khẳng định rằng, giáo dục- đào tạo có vai trò quan
trọng với phát triển con người, nó luôn được xem là lĩnh vực đặc biệt bởi lẽ
sản phẩm của giáo dục- đào tạo chính là con người. Trong đó đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục- đào tạo là nhân tố quan trọng, quyết định vào sự thành
công trong xây dựng con người Việt Nam toàn diện. Không thể phủ nhận rằng
trong những năm qua giáo dục- đào tạo ở nước ta đã có những thay đổi đáng
kể tạo những nền tảng vững chắc cho sự phát triển con người Việt Nam. Sự
đa dạng hóa các loại hình giáo dục- đào tạo đã góp phần rất lớn vào việc nâng
cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay,
giáo dục- đào tạo Việt Nam vừa đứng trước nhiều cơ hội đồng thời đan xen
nhiều thách thức, trong đó yêu cầu về phát triển chất lượng con người Việt
Nam ngày càng cao hơn. Để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn, việc đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục- đào tạo ở nước ta là nhiệm vụ tiên quyết.
Trong đó có một số vấn đề liên quan trực tiếp như: Đổi mới chương trình dạy
và học, tổ chức hiệu quả công tác quản lý giáo dục, thực hiện xã hội hóa giáo
dục, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục- đào tạo…Việc đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục- đào tạo trong bối cảnh hội nhập ở nước ta phải được
tiến hành đồng bộ, có sự kết hợp nhiều cấp nhiều ngành, trong đó việc nâng
cao chất lượng giáo viên, trang thiết bị các phương tiện giảng dạy hiện đại,
học hỏi những mô hình giáo dục tiên tiến trên thế giới có vai trò đặc biệt quan
trọng. Giáo dục- đào tạo trong bối cảnh hội nhập quốc tế không chỉ giới hạn
trong phạm vi trường học bởi lẽ ngày nay với sự phát triển như vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ thông tin, lượng tri thức của nhân loại
ngày càng phong phú, người học có thể tiếp nhận bằng nhiều công cụ, phương
tiện, môi trường khác nhau. Do đó, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục -
134
đào tạo còn thể hiện ở việc gắn giáo dục với tự giáo dục, tức là biến quá trình
giáo dục - đào tạo trở thành tự giác với mọi người. Đây là công việc không hề
đơn giản trong điều kiện giáo dục - đào tạo còn đứng trước nhiều khó khăn
như nước ta hiện nay. Tuy nhiên điều này là cần thiết để mỗi cá nhân, mỗi
công dân nhận thức trách nhiệm tự phát triển năng lực của mình, tự hoàn thiện
những thiếu hụt của mình để đáp ứng những yêu cầu của điều kiện hội nhập
trên cơ sở hỗ trợ, giúp đỡ của các chính sách từ nhà nước, ban ngành liên
quan. Thêm nữa, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo trong bối
cảnh hội nhập còn cần chú ý tới việc tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng
cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu
niên. Sự phát triển toàn diện của con người trong xã hội hiện nay cần hội tụ
đầy đủ các yếu tố như tri thức, đạo đức, kỹ năng sống và thể chất. Do đó, giáo
dục- đào tạo không chỉ hướng tới mục đích trang bị tri thức để con người làm
việc mà còn phải phát huy vai trò của văn học nghệ thuật trong bồi dưỡng tâm
hồn, nâng cao năng lực thẩm mĩ để con người hướng tới những giá trị chân-
thiện- mỹ.
Ba là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức, phát triển khoa học - công nghệ làm tiền đề cho phát triển con
người toàn diện trong hội nhập. Ngày nay, sự phát triển của kinh tế tri thức và
khoa học- công nghệ đã và đang làm chuyển biến sâu sắc nền kinh tế thế giới,
chi phối đến mọi hoạt động xã hội, trong đó có quan hệ quốc tế. Nhiều ý kiến
cho rằng kinh tế tri thức và khoa học- công nghệ có thể xem là một trong
những nhân tố quyết định thành công của các quốc gia trong quá trình hội
nhập. Ở nước ta, phát triển kinh tế tri thức và khoa học- công nghệ giúp con
người Việt Nam có cơ hội tiếp cận với những tri thức tiên tiến của thế giới
vào sản xuất, thay đổi tư duy và phương pháp làm việc khoa học nhằm tạo ra
năng suất, hiệu quả trong công việc. Bước vào quá trình hội nhập từ xuất phát
điểm từ một nước nông nghiệp, điều kiện còn nhiều khó khăn như Việt Nam,
việc học hỏi những tri thức khoa học, tiếp cận những thành tựu khoa học tiến
135
bộ của nhân loại để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước là một tất yếu, phù hợp với điều kiện thực tiễn và yêu cầu của thời đại.
Trong những năm qua, nhiều văn bản quan trọng về định hướng chiến lược và
cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ đã được ban hành: Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (1996); Kết luận của Hội nghị Trung
ương 6 khoá IX (2002); Luật Khoa học và Công nghệ (2000); Chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 (2003); và nhiều chính
sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý khoa học và
công nghệ; Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-
2020;... Với sự quyết tâm của Nhà nước trong việc phát triển khoa học- công
nghệ, sự cố gắng của nhiều nhà khoa học và các ban ngành liên quan, có thể
thấy sau Đổi mới, khoa học- công nghệ của nước ta đã có những bước chuyển
lớn, góp phần phát triển đất nước, củng cố quốc phòng an ninh, ổn định xã
hội. Tuy nhiên khách quan cũng cần nhìn nhận rằng: Khoa học- công nghệ
của nước ta còn chưa đáp ứng được các yêu cầu cầu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. So với một số quốc gia tiên tiến của khu
vực và trên thế giới, chúng ta còn những hạn chế khá lớn về khoa học- công
nghệ trong giai đoạn hiện nay. Đây là trở ngại trong hội nhập, hạn chế này
cần khắc phục sớm nhằm thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển toàn diện con người Việt Nam. Hiện nay, trong điều
kiện của nước ta, một số ưu tiên trước mắt cho phát triển kinh tế tri thức, phát
triển khoa học- công nghệ đó là: Cần có sự đầu tư các trang thiết bị khoa học-
kỹ thuật hiện đại trong việc phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như chế
biến nông sản, luyện kim, hóa chất… Cần đẩy mạnh hợp tác về công nghệ cao
trong nhiều lĩnh vực, chuyển giao công nghệ, tiếp thu những thành tựu khoa
học - công nghệ, những tri thức mới nhất của nhân loại bằng nhiều hình thức
khác nhau. Bên cạnh đó cần có chính sách khuyến khích phát triển khoa học-
công nghệ trong nước như đầu tư các sáng chế, phát minh và các ứng dụng
khoa học…cũng như các chính sách đãi ngộ thích đáng với các nghiên cứu
136
khoa học. Trong phát triển con người toàn diện cần chú ý tới những cơ chế,
chính sách quản lý khoa học- công nghệ, đặc biệt là quản lý nhân lực và quản
lý tài chính hiệu quả tạo điều kiện để con người Việt Nam phát huy được khả
năng sáng tạo, nâng cao trình độ. Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập, cần có
những chính sách phát triển nhanh thị trường khoa học và công nghệ để bảo
đảm mọi tri thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận
lợi và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Tăng cường mở rộng hợp tác và
giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao, tạo điều
kiện cho con người Việt Nam được tiếp xúc, trao đổi và học hỏi những thành
tựu tiên tiến của thế giới.
Bốn là, mỗi chủ thể, mỗi cá nhân con người Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập cần nêu cao tinh thần tự học, tự rèn luyện, tự bồi dưỡng năng lực sống
của chính bản thân mình. Mỗi người phải là một chủ thể tích cực, năng động,
linh hoạt, nhạy bén trong tiếp nhận và xử lý những thông tin để hình thành cho
mình một năng lực sống phù hợp, lành mạnh, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế. Mỗi cá nhân, mỗi công dân trong xã hội cần phải có ý thức trong việc lựa
chọn, tìm tòi cái hay cái đẹp, cái tiến bộ và loại bỏ những cái xấu, cái không
phù hợp với cuộc sống của mình để phát triển năng lực tự bảo vệ, năng lực
chọn lọc, năng lực giao tiếp, ứng xử. Mỗi người phải biết cố gắng vươn lên
trong cuộc sống, thích nghi với thời cuộc, không ngừng lĩnh hội, tiếp thu những
giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, nâng cao ý thức cộng đồng, tinh
thần đoàn kết… để trở thành công dân ưu tú trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Trên thực tế, quá trình vận động mọi người tự mình điều chỉnh hành vi của
mình đấy mới là gốc rễ, nền tảng.
Giải quyết các vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện giai
đoạn hội nhập hiện nay như đã nói trên là vấn đề không hề đơn giản với bất
kỳ quốc gia nào, kể cả các quốc gia tiên tiến. Trong điều kiện đất nước ta
đang trong giai đoạn phát triển, trình độ con người còn nhiều hạn chế nhất
định khiến cho việc phát triển con người đứng trước nhiều khó khăn, thách
137
thức. Tuy vậy với bản lĩnh của con người Việt Nam, quyết tâm của Nhà nước
và những nhân tố tích cực của xu thế hội nhập quốc tế, việc tạo dựng những
cơ sở thuận lợi cho phát triển con người toàn diện sẽ góp phần quan trong
định hướng giá trị trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, như đã nói, xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam hiện nay được dựa trên tổng lực của nhiều nhân tố hợp thành, trong đó
nhân tố con người đóng vai trò trung tâm và quan trọng nhất. Hiện nay trong
xây dựng nền văn hóa Việt Nam, Đảng và Nhà nước chỉ rõ việc chăm lo xây
dựng con người Việt Nam đóng vai trò quan trọng, trong đó trọng tâm hướng
tới bồi dưỡng con người về các mặt: tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
đạo đức, lối sống và nhân cách. Từ những giá trị cơ bản trọng tâm này tạo
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người
Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
Chắc chắn khi giải quyết tốt vấn đề con người và những điều kiện cho phát
triển con người Việt Nam toàn diện sẽ tạo ra những nền tảng và những bước
chuyển lớn trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay.
4.2.4. Đẩy mạnh giáo dục tuyên truyền kết hợp với thực thi pháp luật
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hệ giá trị con người Việt Nam hiện
nay, về khách quan có thể thấy rất rõ, sự xuống cấp về giá trị, xuống cấp về
đạo đức, tha hóa về con người đã và đang trở thành một vấn đề cần sớm được
quan tâm và giải quyết. Do đó, kết hợp giáo dục tuyên truyền với việc thực thi
nghiêm pháp luật cần được xem là một định hướng giá trị nhằm góp phần xây
dựng và hoàn thiện hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế.
Một là, cần xây dựng môi trường xã hội lành mạnh. Như chúng ta đều
biết rằng, mặc dù là nhân tố khách quan song môi trường luôn có vai trò quan
trọng tới sự phát triển của con người và xã hội con người. Môi trường xã hội
lành mạnh hiện nay có thể hiểu là tập hợp các yếu tố có ảnh hưởng tới con
người, các giá trị người như: môi trường sản xuất kinh doanh, môi trường
138
giáo dục, môi trường gia đình, môi trường công cộng, môi trường quản lý nhà
nước… Những nhân tố này đóng góp phần bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển
các giá trị tốt đẹp đồng thời ngăn ngừa, đấu tranh, loại bỏ các giá trị tiêu cực
ảnh hưởng tới con người. Một môi trường xã hội lành mạnh được hiện thực
qua các chính sách phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo
dục… Trong điều kiện nước ta hiện nay, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn
việc làm đảm bảo những nền tảng vật chất tốt là cơ sở quan trọng cho công
bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội. Phát triển kinh tế cần đi đôi với ổn định xã
hội, trong đó đảm bảo sự bình đẳng, tự do và an toàn để người dân yên tâm
sinh sống. Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích, đãi ngộ người tài
giỏi để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động trước sự cạnh tranh
mạnh mẽ của xu thế hội nhập hiện nay. Đồng thời cần tạo dựng môi trường
đầu tư kinh doanh thuận lợi cho các nhà kinh doanh trong nước cũng như các
đối tác nước ngoài nhằm tạo ra hiệu quả trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ người khó khăn, yếu thế trong xã
hội cũng như sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, miền xuôi và miền
ngược, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận
các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, phát triển khoa học - công nghệ. Cùng với việc đẩy mạnh tăng
trưởng kinh tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn với
phát triển tri thức, Nhà nước cần có những chính sách pháp luật đúng đắn, đặc
biệt cần có các chính sách xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp
luật, vi phạm đạo đức xã hội để đảm bảo công bằng, an ninh trật tự cho xã
hội, công dân có thể yên tâm và phát huy sức sáng tạo của mình trong môi
trường sống ổn định. Bên cạnh đó, trong xây dựng hệ giá trị con người cần
định hướng những giá trị cốt lõi, trọng điểm để hướng dẫn người dân thực
hiện. Tạo dựng môi trường xã hội lành mạnh cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa
139
môi trường gia đình- nhà trường- xã hội trong việc giáo dục nhân cách cho
con người. Hơn nữa trong giai đoạn hiện nay cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa
xây dựng phát triển hệ giá trị con người với hệ giá trị văn hóa và xây dựng lối
sống mới hướng tới các giá trị tốt đẹp, lành mạnh, văn minh trên cơ sở phát
triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Khuyến khích lối sống có trách nhiệm theo tinh
thần “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, mọi công dân sống
và và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của nhà nước, kết hợp tính tích
cực của cá nhân và tính tích cực của xã hội, khẳng định và tôn vinh cái đúng,
cái tốt, cái nhân văn, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Hai là, cần xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo đức, quy tắc ứng
xử phù hợp hay nói cách khác cần pháp luật hóa về đạo đức. Trên thực tế,
trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã có những chính sách tích cực trong
xây dựng đời sống mới, cụ thể đã ban hành một số văn bản như: Chỉ thị số
11/CT-TTg ngày 29/3/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc “đẩy mạnh
giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình”; “Đề án tuyên truyền, giáo dục
đạo đức, lối sống trong gia đình Việt Nam đến 2020”; “Kế hoạch nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học
sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ VHTTDL giai đoạn 2016-
2020”; “Chương trình giáo dục đời sống gia đình đến năm 2020”; “Đề án
phát huy giá trị tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình và hỗ trợ xây dựng gia
đình hạnh phúc, bền vững đến năm 2020”.... Những văn bản pháp lý trên đã
phần nào cho thấy sự quan tâm của Nhà nước tới vấn đề xây dựng hệ giá trị
con người Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Tuy vậy, để các chính sách tích
cực này được triển khai hiệu quả trong đời sống thực tiễn, góp phần hạn chế,
ngăn ngừa sự xuống cấp về giá trị, xuống cấp về đạo đức, tha hóa về con
người thì cần xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo đức, quy tắc ứng xử
phù hợp với từng lĩnh vực cụ thể. Thực tế trong thời gian gần đây ở nước ta
đã có một số địa phương, thành phố đã đề xuất thực hiện những quy tắc ứng
xử, ví dụ như đầu năm 2018 Hà Nội có chủ trương bộ quy tắc ứng xử hướng
140
tới nét văn minh, thanh lịch đúng nghĩa cho người thủ đô. Phương án triển
khai mô hình từ cơ sở, trước mắt thí điểm tại quận Cầu Giấy, Tây Hồ và các
huyện ngoại thành như Sóc Sơn, Mỹ Đức, thực hiện trong các đơn vị, tổ dân
phố, sau đó Ban chỉ đạo sẽ rút kinh nghiệm để triển khai ra toàn thành phố,
cách làm này đang được kỳ vọng tạo chuyển biến tốt trong thực hiện các Bộ
Quy tắc trên. Sau một thời gian triển khai thực hiện bộ quy tắc ứng xử trong
nhiều sở, ngành, huyện của Hà Nội chưa có sự chuyển biến lớn, tuy vậy cũng
có thể nói đây là một cách làm sáng tạo, thể hiện quyết tâm ngăn ngừa, phòng
chống sự xuống cấp về giá trị, đạo đức, xây dựng nét ứng xử văn minh, hướng
tới những giá trị tốt đẹp. Về vấn đề xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo
đức, quy tắc ứng xử phù hợp với từng lĩnh vực là cần thiết trong thời gian
hiện nay. Tuy nhiên khi xây dựng và ban hành các bộ quy tắc ứng xử cần tính
đến khả năng hiện thực để đạt hiệu quả trong thực tiễn. Bởi lẽ những liên
quan tới đạo đức, ứng xử, giá trị… thường là những vấn đề không đơn giản,
đặc biệt khi xây dựng mới thường vấp phải sự xung đột, đấu tranh dữ dội với
phong tục, truyền thống vốn đã ăn sâu vào đời sống của người dân hàng ngàn
năm nay. Cộng thêm những tác động của các nhân tố và các thế lực chống phá
từ bên ngoài có thể gây cản trở trong quá trình thực hiện các quy tắc ứng xử.
Do đó khi xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo đức, quy tắc ứng xử cần
chú ý tới các vấn đề như: Việc lựa chọn các tiêu, quy tắc phải phù hợp với đối
tượng, khi áp dụng triển khai cần có thời gian áp dụng thử nghiệm và rút kinh
nghiệm, đa dạng hóa các phương pháp thực hiện…. Trong quá trình triển khai
các tiêu chí, quy tắc lựa chọn cần phải có những giải pháp tuyên truyền, vận
động, giáo dục người dân hiểu và thực hiện theo. Khi gặp những khác biệt,
xung đột cần có cách giải quyết phù hợp, tránh việc áp đặt, dập khuôn máy
móc và chạy theo thành tích trái với mục đích ban hành và xây dựng các bộ
tiêu chí và quy tắc ứng xử. Bản thân những cán bộ tham gia triển khai quá
trình này cũng đòi hỏi phải là những công dân tốt, có trách nhiệm và có đạo
đức. Thực hiện hiệu quả, thành công quá trình này sẽ góp phần xây dựng lối
141
sống mới văn minh rộng rãi trong tầng lớp nhân dân, đồng thời góp phần tích
cực trong việc hạn chế, phòng chống sự xuống cấp về giá trị, xuống cấp đạo
đức, tha hóa con người hiện nay.
Ba là, cần chú trọng công tác nêu gương có hiệu quả trong đời sống xã
hội. Trên thực tế, trong những năm qua, các phong trào thi đua yêu nước,
phong trào học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... đã ít nhiều tạo ra
những tác động không nhỏ tới nhận thức và hành động của người dân. Song,
trong thời gian tới, cần đẩy mạnh các phong trào trên đi vào chiều sâu hơn nữa.
Nhấn mạnh về vai trò của phương pháp nêu gương trong đời sống đạo đức xã
hội, phó thủ tướng Vũ Đức Đam tại phiên chất vấn Quốc hội vào ngày 9 tháng
11 năm 2020 đã chỉ rõ: Cần nêu gương từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài.
Người lớn nêu gương cho người trẻ, người cao hơn nêu gương cho cấp dưới.
Đảng viên đi trước “làng nước theo sau”.
Nhìn chung, có thể thấy, vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị con
người đáp ứng được những yêu cầu hội nhập quốc tế ở nước ta còn đứng trước
nhiều khó khăn, phức tạp và những thách thức to lớn của bối cảnh thời đại và
thực tiễn trong nước. Do đó, những định hướng giá trị trên góp phần vào giải
quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng và phát triển hệ giá trị con
người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.
142
Tiểu kết chương 4
Hiện nay, trước những đòi hỏi ngày càng khắt khe của hội nhập quốc
tế, quá trình xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam đang đứng trước nhiều
vấn đề cần phải giải quyết. Từ những nghiên cứu lý luận về hệ giá trị con
người Việt Nam và thực tiễn hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay, có thể
đưa ra một số giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
hướng tới như: Yêu nước, trách nhiệm cộng đồng, yêu lao động, hiếu học (tôn
trọng giáo dục), trọng gia đình, chuộng hòa bình. Các giá trị này một mặt góp
phần định hướng giá trị con người Việt Nam đáp ứng các yêu cầu thực tiễn
phát triển đất nước cũng như các yêu cầu của thời đại trong xu thế hội nhập
quốc tế hiện nay.
Trên thực tế, việc phát triển và hoàn thiện hệ giá trị con người Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế là một vấn đề to lớn và quan trọng đối
với sự phát triển của Đất nước hiện nay. Nhằm góp phần vào quá trình này,
luận án: Thứ nhất, cần phải chú ý tới vấn đề kế thừa và phát huy giá trị truyền
thống; Thứ hai, cần tiếp thu tinh hoa, văn minh nhân loại; Thứ ba, cần hướng
tới phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của hội nhập
quốc tế; Thứ tư, cần đẩy mạnh giáo dục tuyên truyền kết hợp với thực thi
pháp luật. Các định hướng giá trị này đều xuất phát từ thực tiễn phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước cũng như các yêu cầu đặt ra của hội nhập quốc tế
đối với quá trình xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam.
143
KẾT LUẬN
Với con người, thế giới xung quanh không chỉ là thế giới của các sự
vật, hiện tượng mà còn là thế giới của những giá trị. Giá trị, hệ giá trị được
tạo ra trong thế giới tinh thần của con người, nhưng lại nằm ở vị trí trung
gian, kết nối giữa con người với thế giới. Tức là giá trị không thuần túy chủ
quan, nhưng cũng không tuyệt đối khách quan. Xa hay gần, giá trị đều là sản
phẩm dựa trên những tồn tại xã hội, phản ánh sự đa dạng, phong phú, độc đáo
của các cộng đồng người, dân tộc, quốc gia. Giá trị, hệ giá trị một mặt thể
hiện nhu cầu, khát vọng của con người, nhưng mặt khác lại là mục tiêu, định
hướng mà mỗi cá nhân và cộng đồng nhằm tới. Vì vậy, trên phương diện lý
luận và thực tiễn, việc quan tâm đến giá trị con người trong sự biến đổi của
hoàn cảnh bao giờ cũng là công việc có tầm vóc và ý nghĩa quan trọng.
Trong thực tế, dù tuyên bố hay không tuyên bố, mỗi cộng đồng, dân
tộc, quốc gia đều có hệ giá trị của riêng mình. Đó là sản phẩm của sự lựa chọn
thường là gian nan từ trong lịch sử. Đến lượt mình, giá trị, hệ giá trị lại là
hành lang an toàn đối với hoạt động người, đảm nhận chức năng định hướng
vốn có của giá trị. Mặc dù không phải là yếu tố thường xuyên thay đổi, song
hệ giá trị cũng không bất biến. Những biến động của giá trị và hệ giá trị, tất
nhiên do tồn tại xã hội quy định và khi tác động trở lại tồn tại xã hội, động
thái của hệ giá trị bao giờ cũng ảnh hưởng, tác động tạo ra những biến đổi có
ý nghĩa trong đời sống con người.
Những năm qua, ở Việt Nam, nhờ triển khai, vận dụng đúng đắn những
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, chúng ta đã đạt được
những thành tựu nhất định trong việc xây dựng hệ giá trị con người trong điều
kiện hội nhập quốc tế. Nhìn khách quan, có thể thấy, các giá trị con người Việt
Nam có xu hướng xích lại gần với các chuẩn mực quốc tế. Hiện nay, lối sống
lành mạnh, có văn hóa, hội nhập sâu vào xu hướng tiến bộ của thế giới ngày
càng phổ biến và chiếm ưu thế trong đời sống xã hội ở nước ta. Dưới sự tác
động tích cực của hội nhập quốc tế, các giá trị người Việt truyền thống có cơ
144
hội được đánh thức... Thực tế không thể phủ nhận rằng, trong hơn 30 năm đổi
mới vừa qua, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu trên các mặt phát triển
kinh tế, nâng cao uy tín và vị thế của mình trên trường quốc tế, các giá trị con
người từng bước được cải thiện rõ rệt. Quá trình hội nhập quốc tế đã mang lại
nhiều cơ hội để chúng ta tiếp thu một cách chọn lọc các giá trị cả quá khứ lẫn
hiện tại của nhân loại nhằm bổ sung vào bảng giá trị của dân tộc những giá trị
phù hợp phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước nói chung và đối với sự
phát triển của từng con người nói riêng.
Tuy nhiên, trước những biến chuyển vô cùng nhanh chóng và mạnh mẽ
của điều kiện hội nhập quốc tế, trên phương diện hệ giá trị con người, chúng ta
cũng không tránh khỏi những hạn chế, bất cập nhất định. Hiện nay, xây dựng
hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế đang đứng
trước một số vấn đề đặt ra như: Xu hướng coi nhẹ các giá trị truyền thống, sự
lệch chuẩn giá trị diễn ra khá phổ biến; hiện tượng xuống cấp về đạo đức, tha
hóa con người; xuất hiện lối sống thiếu lành mạnh... đến mức đáng lo ngại.
Thực chất của những hiện tượng đó chính là sự khủng hoảng về giá trị. Xuất
hiện những biến đổi về hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay có nhiều
nguyên nhân: từ mặt trái của kinh tế thị trường, từ hội nhập quốc tế và có thể
đó có thể đó là cái giá phải trả, là một phí tổn cho sự phát triển. Và trong thực
tế, ý thức, hành vi, quan hệ đạo đức cá nhân và xã hội của người Việt Nam
hiện nay vừa là nguyên nhân, tác động trực tiếp đến sự biến đổi của hệ giá trị,
vừa là kết quả biểu hiện của sự định hướng lệch lạc đối với con người trước
bối cảnh mới.
Nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam cho thấy, những giá trị tốt
đẹp của người Việt được lưu truyền từ truyền thống có thể khái quát đó là tinh
thần yêu nước mãnh liệt nối tiếp nhau giữa các thế hệ. Đó là lòng nhân ái,
khoan dung… thể hiện giá trị nhân văn xuyên suốt từ trong lịch sử đến tận
ngày nay. Đó là tinh thần đoàn kết, cần cù yêu lao động, chịu đựng gian
khổ… với khát vọng xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, hùng cường.
145
Đó là tinh thần hiếu học, khát khao đạt tới những giới hạn mới về trí tuệ…
Các giá trị này đứng hàng đầu trong bảng giá trị người Việt truyền thống,
phản ánh đậm nét đặc thù của tồn tại xã hội trong lịch sử Việt Nam. Sự hiện
diện của các giá trị này góp phần định hướng những hoạt động của con người
Việt Nam trước đây cũng như hiện nay. Dưới tác động mạnh mẽ của xu thế
hội nhập quốc tế, các giá trị con người Việt đang diễn ra quá trình chuyển đổi
tương đối mạnh và rõ. Yêu cầu khách quan đặt ra đối với vấn đề hệ giá trị con
người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế là phải kết hợp đồng thời
quá trình kế thừa những giá trị cốt lõi, tiêu điểm của người Việt truyền thống
với việc bổ sung thêm các giá trị mới để phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu của tác giả đi trước và các quan
điểm chỉ dẫn của Đảng về vấn đề hệ giá trị con người Việt Nam, chúng tôi
cho rằng những giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
bao gồm các giá trị tiêu biểu như sau: Yêu nước, trách nhiệm cộng đồng, yêu
lao động, hiếu học (tôn trọng giáo dục), trọng gia đình, chuộng hòa bình. Các
giá trị này được đề xuất dựa trên tồn tại xã hội của Việt Nam trong điều kiện
hội nhập quốc tế và các yêu cầu của xu thế hội nhập đối với quá trình xây
dựng hệ giá trị con người hiện nay.
Từ những chuyển biến tích cực và một số vấn đề đặt ra về phương diện
hệ giá trị con người Việt Nam, để xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay và
đáp ứng các yêu cầu của thời đại đặt ra cần phải quán triệt một số định hướng
cơ bản như sau: Thứ nhất, định hướng giá trị nhằm kế thừa và phát huy giá trị
truyền thống; Thứ hai, định hướng giá trị nhằm tiếp thu tinh hoa, văn minh
nhân loại; Thứ ba, định hướng giá trị nhằm hướng tới phát triển toàn diện con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế; Thứ tư, định hướng
giá trị nhằm đẩy mạnh giáo dục tuyên truyền kết hợp với thực thi pháp luật.
Các định hướng này phải được tiến hành thực hiện đồng bộ mới mang lại hiệu
quả thiết thực. Tuy vậy, cũng cần nhận thức rất rõ rằng, các định hướng giá trị
146
trên chỉ thực sự thâm nhập vào đời sống xã hội Việt Nam một cách hiệu quả khi
có sự phối hợp các chủ trương, biện pháp, các chính sách cũng như các chủ thể
thực hiện, trong đó có vai trò đặc biệt của quá trình ý thức và tự ý thức tích cực
của mỗi cá nhân, trách nhiệm của các cơ quan, đoàn thể, Nhà nước.
147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Trần Văn Phòng, Nguyễn Thị Hoàn (2015), “Quan điểm của Đảng về con
người trong thời kỳ đổi mới”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm
85 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Lý luận Chính trị,
tr.531- 538.
2. Trần Văn Phòng, Nguyễn Thị Hoàn (2015), “Quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về con người với tư cách là đối tượng phục vụ của chính sách
xã hội trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 228 (tháng
4/2015), tr38-42.
3. Nguyễn Thị Hoàn (2016), “Tình hình nghiên cứu hệ giá trị con người Việt
Nam”, Tạp chí Thông tin- Viện Hàn lâm KHVN, số 407 (tháng 11 năm
2016), tr.10- 16.
4. Nguyễn Thị Hoàn (2016), “Chính sách xã hội vì quyền con người- Quan
điểm xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, in
trong sách Nghiên cứu và giảng dạy- NXB Đại học Huế, tr323-332.
5. Nguyễn Thị Hoàn (2017), “Một số tác động cơ bản của hội nhập quốc tế
đến xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo Khoa học
thường niên Đại học Thủy Lợi, NXB Xây Dựng (tháng 11 năm 2017),
tr.263-265.
6. Nguyễn Thị Hoàn (2018), “Ảnh hưởng tích cực của hội nhập quốc tế đến
xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Công đoàn,
số 637 (Xuân Mậu Tuất), tr.89-90.
7. Nguyễn Thị Hoàn (2018): “Nhận diện những biểu hiện lệch chuẩn giá trị
trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay”, Kỷ yếu hội thảo Khoa học
thường niên Đại học Thủy Lợi, NXB Xây Dựng, tr270-272.
148
8. Nguyễn Thị Hoàn (2019): “Vấn đề xác định hệ giá trị con người Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia,
NXB Lao động- Xã hội, tr.232-238.
9. Nguyễn Thị Hoàn, (tham gia đề tài cấp Bộ), (2019): “Phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay: Yêu cầu và giải pháp”. Số
đăng ký: 2019-62-1080/KQNC- Viện nghiên cứu Con người.
10. Nguyễn Thị Hoàn, (2019), “Một số nét đặc thù hội nhập quốc tế của Việt
Nam và yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với việc xây dựng hệ giá trị
con người Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo cán bộ trẻ và sau đại học, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.280-300.
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Tổng hợp Đồng
Tháp, Đồng Tháp.
2. Hoàng Chí Bảo (2010), Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và
hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Nguyễn Duy Bắc (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh
xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển Bách
khoa và Viện Văn hóa.
4. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Tổng cục thống kê (2017), Bản tin
Cập nhật thị trường lao động Việt Nam, (12), quý 4 năm 2016.
5. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì
mục tiêu phát triển”, Tạp chí Triết học, (2).
6. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý (2001) (đồng chủ biên),
Tìm hiểu giá trị truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
7. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2002), Giá trị truyền
thống trước thách thức của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
8. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề về Triết học- con người- xã
hội, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.
9. Nguyễn Trọng Chuẩn (2005), “Để phát triển con người một cách bền vững”,
Tạp chí Triết học, (1), tr.5-9.
10. Phạm Như Cương (chủ biên, 1978), Về vấn đề xây dựng con người mới,
Nxb. KHXH, Hà Nội.
11. Tô Xuân Dân (2006), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến tư duy và
đời sống kinh tế- xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
150
12. Phan Đại Doãn (2001), Làng xã Việt Nam- Một số vấn đề kinh tế- văn
hóa- xã hội, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
13. Đinh Xuân Dũng (2016), Văn hóa và con người Việt Nam hiện nay. Mấy
suy nghĩ từ thực tiễn, Nxb Thông tin và truyền thông.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khoá VIII. – H.: Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
21. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2014), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 BCH
Trung ương Đảng khóa XI (số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014) về Xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
23. Ðảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII. Tập I. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội.
24. Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo (2007), Văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay-
Vấn đề và giải pháp, Nxb Văn hóa- Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
151
25. Friedman, Thomas Loren (2005), Chiếc Lexus và cây Ôliu, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
26. Frolov I.T. (2002), Trở lại với con người, tạp chí Nghiên cứu con người,
(1).
27. Lê Trường Giang, Ngô Văn Nam và Đặng Thìn Hùng (2014), “Một số yêu
cầu đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập Asean 2015”, Bản tin Khoa học lao động và xã hội,
(41), tr.26-34.
28. Vũ Minh Giang (1996), Nội dung của truyền thống Việt Nam, in trong:
Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang: Các giá trị truyền thống con người Việt
Nam hiện nay, Nxb Hà Nội, tập 2.
29. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Nguyễn Ngọc Hà (chủ biên) (2011), Đặc điểm tư duy và lối sống của con
người Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
31. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
32. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), Về phát triển toàn diện con người thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
33. Phạm Minh Hạc (2006), “Tiềm năng - năng lực - nhân tài”, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, (6), tr.57-72.
34. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2007), Nghiên cứu giá trị nhân cách theo
phương pháp Neo Pi-R cải biên. – H.: Nxb Khoa học Xã hội.
35. Phạm Minh Hạc, Thái Duy Tuyên (2011), Định hướng giá trị con người Việt
Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
36. Phạm Minh Hạc (2012), Giá trị học- H: Nxb Dân trí.
152
37. Lương Đình Hải (2009), “Những tiêu chí cơ bản của con người Việt Nam
thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay”- Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội,
(10), (11).
38. Lương Đình Hải (2015), “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).
39. Hội đồng lý luận trung ương (2021), Những điểm mới trong các văn kiện
Đại hội XIII của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật.
40. Mai Lan Hương (2012), Vai trò của nhà nước đối với hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
41. Nguyễn Đắc Hưng (2009), Việt Nam- Văn hóa và con người, Nxb Chính
trị quốc gia Sự thật.
42. Nguyễn Đắc Hưng (2017), Văn hóa làng và nhân cách con người Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
43. Nguyễn Văn Huyên (1990), “Mấy suy nghĩ về hướng tiếp cận con người
trong chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Triết học, (1).
44. Nguyễn Văn Huyên (2001), “Mấy vấn đề đặt ra đối với việc nghiên cứu
con người ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (5).
45. Nguyễn Văn Huyên (2003), Văn minh Việt Nam, NXB Hội nhà Văn, Hà Nội.
46. Nguyễn Văn Huyên (2004), “Phẩm chất, năng lực người lãnh đạo theo yêu
cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Lý luận Chính trị, (8), tr.23-26.
47. Lê Thu Huyền, Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2015), “Một số giải pháp nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam nhằm đáp ứng tốt hơn với yêu cầu
của thị trường lao động khi hội nhập AEC”, Bản tin Khoa học lao động và
xã hội, (44), tr.24-30.
48. Đoàn Văn Khái (1995), “Nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Triết học, (4),
tr.20-23.
153
49. Nguyễn Thế Kiệt (2008), “Xây dựng và phát triển con người, nâng cao
chất lượng nguồn lực con người đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh
của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6).
50. Vũ Khiêu (chủ biên) (1974), Đạo đức mới. – H.: Nxb Khoa học xã hội
51. Đinh Xuân Lâm, Dương Lan Hải (1998), Nghiên cứu Việt Nam một số
vấn đề lịch sử kinh tế-xã hội- văn hóa, Nxb Thế giới.
52. Hoàng Thúc Lân (2014), Phát triển năng lực tư duy biện chứng cho sinh
viên Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
53. Loan Lê (2016), “Chương trình Sáng tạo Việt” giới thiệu 100 sáng chế
trong 2 năm”, tại trang http://khoahocphattrien.vn, [cập nhật ngày
20/05/2016].
54. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
55. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
56. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
57. Trần Hồng Lưu (2011), Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
58. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội.
59. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995). Toàn tập, t.4. Nxb Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội. tr. 624.
60. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t. 20. Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội.
61. C.Mác, Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, t.26 (Phần 2), Nxb Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
154
64. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
65. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
66. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội
67. Đỗ Hoài Nam, Võ Đại Lược (Chủ biên) (2005), Một số vấn đề phát triển
kinh tế của Việt Nam hiện nay, NxbThế giới, Hà Nội.
68. Phạm Xuân Nam (2008), Triết lý phát triển ở Việt Nam – mấy vấn đề cốt
yếu (in lần thứ 3). – Nxb Khoa học Xã hội.
69. Ngân hàng Thế giới (2013), Phát triển kỹ năng: Xây dựng lực lượng lao
động cho một nền kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam, Báo cáo phát triển
Việt Nam năm 2014.
70. Nguyễn Bá Ngọc, Đặng Đỗ Quyên (2015), “Chất lượng lao động trình độ
cao ở Việt Nam: những hạn chế cơ bản”, Bản tin Khoa học lao động và xã
hội - Viện Khoa học Lao động và Xã hội, (42), tr.8-15.
71. Hoàng Thị Kim Oanh (2016), Vai trò của nhà nước Việt Nam trong chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
72. Hoàng Phê (chủ biên) (2007), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học
Vietlex, Nxb Đà Nẵng.
73. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb Khoa học,
Hà Nội.
74. Phùng Hữu Phú, Lâm Bá Nam (1994), Con người Việt Nam hiện tại trong
mối quan hệ với các giá trị và phản giá trị truyền thống. – In trong: Phan
Huy Lê, Vũ Minh Giang (chủ biên) (1994): Các giá trị truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay. – H.: Đề tài KX07-02, Chương trình KHCN cấp
nhà nước KX07, tr. 245-288.
155
75. Trương Văn Phúc (2005),“Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây
dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (11).
76. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
77. Vũ Văn Phúc, Phạm Minh Chính (2015), Hội nhập kinh tế quốc tế: 30 năm
nhìn lại, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
78. Nguyễn Kim Phượng (2014), Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại
lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
79. Nguyễn Duy Quý (2004), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay- Vấn đề và
giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
80. Hồ Sĩ Quý (2005), Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật.
81. Hồ Sĩ Quý (2006), Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn
hóa, con người và nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn
cầu hoá và hội nhập quốc tế (Báo cáo tổng hợp đề tài KH-CN cấp Nhà
nước KX.05.01). – H.: Chương trình KH-CN cấp Nhà nước KX.05.
82. Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2007), Con người và phát triển con người (Giáo
trình dùng cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành
triết học), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
83. Hồ Sĩ Quý (2015), “Mấy vấn đề về hệ giá trị Việt Nam”, tạp chí KH&CN
Việt Nam. Số 1(5). tr. 42.
84. Hồ Sĩ Quý (2019), “Thực trạng phát triển con người ở Việt Nam hiện nay,
Tạp chí Nghiên cứu con người”, (4), tr. 34-47.
85. Mai Thị Quý (2009), Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị truyền
thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
156
86. M.Rôdentan và P.Iuđin (1955), Từ điển triết học, Nxb Ngoại văn,
Matxcova. Bản dịch và in lần thứ 3 (1978), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
87. Đặng Văn Thái (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
88. Trần Phúc Thăng (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc phát
huy nguồn lực con người thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế, Đề tài cơ sở, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
89. Võ Văn Thắng (2006), Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay (từ góc độ
văn hóa truyền thống dân tộc), Nxb VHTT và Viện Văn hóa, Hà Nội
90. Trần Ngọc Thêm (2006), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng
hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
91. Trần Ngọc Thêm (2015), Một số vấn đề về giá trị và hệ giá trị Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
92. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị con người Việt Nam hiện tại và con
đường tới tương lai, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
93. Ngô Đức Thịnh (2010), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia Sự thật Hà Nội.
94. Toàn cầu hóa và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam (2004), Đại
học Quốc gia Hà Nội, Nxb Thế giới.
95. Tổng cục Thống kê (2016), Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm
2014, 2015, quý 1 năm 2016, Hà Nội.
96. Nguyễn Phú Trọng (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-
ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-
646305/
157
97. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang, Chương trình khoa
học cấp nhà nước KX-07 đề tài KX- 07-04 (1995), Giá trị- định hướng
giá trị nhân cách và giáo dục giá trị.
98. UNDP (2011), Báo cáo phát triển con người năm 2011, công bố vào ngày
9 tháng 11 năm 2011 tại Copenhagen (Đan Mạch).
99. Hoàng Vinh (2006), Những vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt
Nam hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
100. Huỳnh Khái Vinh (chủ biên) (2001), Một số vấn đề lối sống, đạo đức,
chuẩn giá trị xã hội (2001), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
101. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2013), "Thông tin chuyên
đề: Vai trò của giáo dục và đào tạo trong xây dựng nguồn nhân lực và
đảm bảo công bằng xã hội", Trung tâm thông tin tư liệu, (4), tr.18.
102. Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa: Vấn đề và giải
pháp (2010), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội..
103. Vũ Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và xây dựng
con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
*Tài liệu nước ngoài
104. Bahm A.J.1993: The Science of Values- Amsterdam: Atlanta, GA, 134p.
105. Bolger J. (2000), Capacity Development: Why, What and How, CIDA,
Policy Branch, Vol. 1, No. 1, May 2000, pp.2.\
106. Ценности. Философский энциклопедический словарь. Изд (1989),
Советская Энциклопедия. Москва.
107. Committee of Experts on Public Administration- United Nations (2006),
“Definition of basic concepts and terminologies in governance and public
administration”, Economic and Social Council, New York, 27-31 March
2006, http://unpan1.un.org/, pp.7-8.
158
108. Lusthaus C., Adrien M., Perstinger M. (1999), Capacity development:
definitions, issues and implications for planning, monitoring and
evaluation, Universalia Occasional Paper No 35, pp.5.
109. Morgan P. (1998), Capacity and capacity development - some strategies,
Policy branch, CIDA, October, 1998.
110. Otoo S., Agapitova N. and Behrens J. (2009), The Capacity Development
Results Framework. A strategic and results-oriented approach to learning
for capacity development, World bank institute,
http://siteresources.worldbank.org, June 2009.
111. Potten D., (2008), “Learning By Doing: The Japanese PHRD Fund and
Capacity Development“, Capacity Development Resource Center - The World
Bank, June 2008, Issue No. 27, http://siteresources.worldbank.org.
112. Sen A., (1999), Development as Freedom, Oxford University Press,
Oxford.
113. United nations development programme - Capacity development (2010),
Measuring capacity, http://www.undp.org, [Published on 22 Jul 2010].
114. UNDP (2020), Human Development Report.
115. Weinert, F.E. (2001), Comparative performance measurement in schools,
Weinheim and Basejl: Beltz Verlag, pp.12.
159