VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HOÀN

VỀ HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM

TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2021

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HOÀN

VỀ HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM

TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

Ngành: CNDVBC & CNDVLS

Mã số: 9 22 90 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Hồ Sĩ Quý

HÀ NỘI, 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Nguyễn Thị Hoàn

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 6

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6

5. Đóng góp mới của luận án ............................................................................ 7

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .......................................................... 8

7. Kết cấu của luận án ....................................................................................... 8

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 9

1.1. Những nghiên cứu lý luận về giá trị, hệ giá trị, hội nhập quốc tế ..... 9

1.2. Những nghiên cứu liên quan đến hệ giá trị con người Việt Nam .... 23

1.3. Những nghiên cứu về định hướng giá trị của con người Việt

Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế .................................................... 28

1.4. Giá trị của các công trình đã tổng quan và những vấn đề đặt ra

cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ ....................................................... 34

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ GIÁ TRỊ CON

NGƯỜI VIỆT NAM ...................................................................................... 38

2.1. Giá trị, phân loại giá trị .................................................................... 38

2.2. Hệ giá trị và hệ giá trị con người Việt Nam .................................... 46

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 59

Chương 3: HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU

KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ ...................................................................... 61

3.1. Hội nhập quốc tế của Việt Nam, những tác động và yêu cầu của

hội nhập quốc tế với với hệ giá trị con người Việt Nam ........................ 61

3.2. Thực trạng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội

nhập quốc tế hiện nay .............................................................................. 87

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 111

Chương 4: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM XÂY DỰNG HỆ GIÁ

TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

QUỐC TẾ ..................................................................................................... 113

4.1. Nhận diện hệ giá trị con người Việt Nam sau hơn 30 năm hội

nhập quốc tế .......................................................................................... 113

4.2. Đề xuất một số định hướng giá nhằm xây dựng hệ giá trị con

người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế ................................ 121

Tiểu kết chương 4 ........................................................................................ 143

KẾT LUẬN .................................................................................................. 144

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..................................................... 148

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 150

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, mặc dù vẫn không tránh

khỏi còn bị hoài nghi, nhưng đã gần như là một xu thế khách quan mà các

quốc gia, dân tộc đều phải tham gia. Quá trình này, khi diễn ra trong các lĩnh

vực của đời sống vật chất, đã tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần của

các xã hội, tức là tác động đến đời sống giá trị. Hệ giá trị của phần lớn các

cộng đồng tại hầu hết các quốc gia trong những thập niên gần đây, đều đã ít

nhiều biến động dưới ảnh hưởng của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Với

các nước đi sau và đang phát triển năng động như Việt Nam, sự tác động của

toàn cầu hoá cùng đồng thời với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế dường

như còn mạnh mẽ hơn, làm cho đời sống giá trị, nhất là hệ giá trị con người

đứng trước những sự lựa chọn khắt khe, phức tạp và nan giải hơn nhiều, đặc

biệt giữa nội sinh và ngoại sinh, giữa truyền thống và hiện đại.

Kể từ khi chủ động hội nhập quốc tế với những chính sách rộng mở và

đi vào chiều sâu nhằm xây dựng quan hệ phát triển bền vững với cộng đồng

thế giới, Việt Nam đã vượt qua hàng loạt khó khăn, thách thức to lớn và đã

đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng và toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực

của đời sống kinh tế - xã hội. Mặc dù tốc độ và chất lượng của sự phát triển

cũng đặt ra nhiều vấn đề không kém phần gay gắt, song nhìn tổng quát, vị thế,

vai trò và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được

nâng cao. Đất nước đã đứng trước những vận hội đầy triển vọng. Đời sống vật

chất và tinh thần của người Việt Nam ngày càng được cải thiện và tiến bộ

trong so sánh với quá khứ và với bên ngoài. Niềm tin của người dân đối với

Đảng, Nhà nước và với chế độ ngày càng được củng cố và phát triển theo

chiều hướng tích cực.

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội là sự phát triển con người. Theo

Báo cáo của UNDP năm 2020, sự phát triển con người Việt Nam tuy còn có

những hạn chế không nhỏ, nhưng cũng đã đạt được những thành tựu rất đáng

kể nhờ chủ trương “lấy con người làm trung tâm” và đảm bảo bình đẳng, công

1

bằng và tiến bộ xã hội trong các chiến lược, kế hoạch phát triển. Với chỉ số

HDI 0,704 Việt Nam lần đầu tiên đã được xếp trong nhóm nước có chỉ số

phát triển của con người cao, xếp thứ 117/189 quốc gia và thuộc nhóm đầu

trong số 5 nhóm quốc gia về bình đẳng giới [Xem: 114].

Những thay đổi tích cực đó, trên thực tế, là sự phản ánh sâu sắc bước

nhảy mạnh mẽ của Việt Nam chuyển sang một xã hội công nghiệp với nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với cách mạng công nghiệp

4.0 có hàm lượng tri thức cao, với nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc và với một “xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người”, như

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh trong bài viết kỷ niệm 131

năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5/2021. Ông viết: “Chúng ta cần

một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải

vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự

phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải

gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một

xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ,

nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích

vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm... Chúng ta cần một hệ thống

chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi

ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có” [96].

Như vậy, quá trình chuyển đổi và phát triển của đất nước cũng chính là

quá trình đấu tranh để giải quyết những mâu thuẫn không khoan nhượng giữa

các giá trị. Khẳng định của Tổng Bí thư cho thấy rất rõ khía cạnh giá trị của

vấn đề: vì con người, chứ không phải chà đạp lên phẩm giá con người. Vì tiến

bộ và công bằng, chứ không phải gia tăng giàu nghèo và bất bình đẳng. Vì

một xã hội nhân ái, nhân văn, chứ không phải vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá

nhân và phe nhóm. Hệ thống chính trị là của dân, do dân và vì dân, chứ không

phải chỉ phục vụ cho một thiểu số giàu có, bóc lột. Tổng bí thư Nguyễn Phú

Trọng khẳng định, “đó chính là những giá trị đích thực” mà Đảng và nhân dân

ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi [96].

2

Vấn đề là ở chỗ, sự phát triển nhanh, sôi động của đời sống kinh tế - xã

hội đã tất yếu làm cho đời sống tinh thần thay đổi theo. Nhưng không phải chỉ

theo một chiều tích cực, mà đã thay đổi khá đa chiều, đa dạng và phức tạp.

Cái tích cực là phổ biến, là xu thế chủ yếu của sự thay đổi các giá trị. Nhưng

cái xấu, cái tiêu cực, cái ác… lại cũng chiếm “một bộ phận không nhỏ” và có

sức cản trở ghê gớm đối với sự đi lên của xã hội.

Theo quan điểm của triết học duy vật lịch sử, một xã hội khi có sự thay

đổi về điều kiện sinh hoạt, tức là về tồn tại xã hội, thì ý thức của con người

cũng sẽ thay đổi theo “ít nhiều nhanh chóng”. Xã hội nào cũng sẽ có sự biến

động về giá trị, khi tồn tại xã hội không còn như trước. C.Mác và Ph.Ăngghen

viết: “Liệu có cần phải sáng suốt lắm thì mới hiểu những tư tưởng, những

quan điểm và những khái niệm của con người, tóm lại là ý thức của con

người, đều thay đổi cùng với mọi sự thay đổi xảy ra trong điều kiện sinh hoạt,

trong quan hệ xã hội, trong đời sống xã hội của con người hay không?”[59,

tr.624].

Bài viết của Tổng Bí thư một lần nữa cho thấy ý nghĩa quan trọng và

tính cấp thiết của vấn đề giá trị: cùng với sự phát triển của đất nước trong điều

kiện hội nhập quốc tế, hệ giá trị con người Việt Nam đã có nhiều biến động,

thậm chí biến động dữ dội, trong đó có những biến động theo chiều hướng

xấu, cần được quan tâm, nghiên cứu sâu sắc để phát hiện những vấn đề và có

những quyết sách để giải quyết những vấn đề đó, làm cho sự phát triển đạt tới

bền vững hơn. Sự quan tâm đến biến động giá trị có ý nghĩa to lớn ở chỗ, giá

trị và hệ giá trị có thể thay đổi khi đời sống vật chất của xã hội đã hoặc đang

thay đổi, nhưng không phải mọi sự thay đổi đều nằm ngoài tầm kiểm soát của

con người. Triết học Mác cũng dạy con người ta, vấn đề là “cải tạo thế giới”

chứ không chỉ “giải thích thế giới”. Một khi các giá trị cũ và mới xung đột với

nhau, sẽ có những cái trước đây từng là giá trị nay có thể trở nên lỗi thời, cần

phải loại bỏ. Lại có những điều trước kia không được thừa nhận nay đang trở

thành giá trị buộc phải chấp nhận, không thể từ chối một cách duy ý chí.

Trong những xã hội đang chuyển đổi mạnh mẽ trong điều kiện hội nhập quốc

3

tế như Việt Nam hiện nay, cái tiến bộ đang đan xen với cái lạc hậu, lỗi thời;

cái tốt đang cùng tồn tại và đấu tranh với cái xấu, cái ác… Do vậy, việc chủ

động nhận thức, xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị chuẩn của con người, là

một chủ trương sáng suốt để việc chuyển đổi giá trị diễn ra một cách tích cực,

thúc đẩy sự phát triển đất nước theo chiều tiến bộ.

Với tinh thần ấy, từ những năm 90 của thế kỷ XX, ở Việt Nam, những

vấn đề lý luận và thực tiễn về giá trị, như giá trị truyền thống và giá trị hiện

đại, giá trị văn hóa và giá trị con người, giá trị nội sinh và giá trị ngoại nhập…

đã được đặt ra một cách chủ động. Nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc xác định hệ giá trị văn hóa Việt Nam

đã được Đảng ta quan tâm và định hướng giải quyết trong Nghị quyết Hội

nghị Trung ương 5 khóa VIII năm 1998. Tại Ðại hội XII của Ðảng năm 2016

Đảng ta xác định “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở

thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Ðúc kết và xây dựng hệ giá trị

văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [22, tr.126]. Và mới đây, năm 2021

Ðại hội XIII của Đảng một lần nữa chỉ ra những nội dung về hệ giá trị cần

phải giải quyết cấp bách. Văn kiện viết: “Tập trung nghiên cứu, xác định và

triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con

người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ

mới... Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam đã

tồn tại trong lịch sử; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt

chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại” [23, tr.143].

Sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề giá trị như vừa nói trên, trước hết là

nhằm xây dựng một hệ giá trị nhân văn, có tầm nhìn, mở đường cho sự phát

triển của đất nước và con người. Nhưng đồng thời sự quan tâm sâu sắc đến

vấn đề giá trị còn vì thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam những năm vừa qua

đã ít nhiều rơi vào tình trạng xuống cấp về giá trị, khủng hoảng giá trị.

Có thể thấy những hiện tượng xã hội tiêu cực, những hành vi suy thoái

về đạo đức, xuống cấp về văn hóa, lệch lạc về giá trị, … những năm gần đây,

4

đã được phản ánh gần như liên tục trên báo chí và các phương tiện thông tin

đại chúng. Mức độ tha hóa về con người đã đến mức “rúng động” với những

vụ đại án tham nhũng. Không ít học giả, các nhà quản lý và các nhà hoạt động

xã hội đã lên tiếng báo động về tình trạng này. Từ năm 2018, văn kiện Hội

nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã khái quát và chỉ ra rất cụ thể 27

biểu hiện cụ thể của những hiện tượng “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống; hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Phần nhiều trong

số 27 biểu hiện đó đều liên quan trực tiếp đến giá trị con người. Tại các kỳ

họp lần thứ 8, 9, và 10 của Quốc hội khóa XIV, nhiều hiện tượng có vấn đề

trong số đó đã được chính các đại biểu Quốc hội nêu và thảo luận gây sự quan

tâm sâu sắc trong đời sống xã hội.

Thực chất của những hiện tượng đó chính là sự khủng hoảng về giá trị.

Trong giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị cộng đồng, giá trị xã hội, giá

trị cá nhân… hiện tượng “lệch chuẩn” đang khá phổ biến, không chỉ ở trong

giới trẻ. Nhiều hiện tượng “bất bình thường” đang lan rộng trở thành nỗi lo âu

chung của nhiều tầng lớp xã hội.

Việc nhận diện sự biến đổi các giá trị, đánh giá khách quan, khoa học

động thái của các giá trị, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận về những vấn đề

liên quan đến giá trị và hệ giá trị con người để có những lý giải và giải pháp

phát huy và phát triển hệ giá trị con người Việt Nam, từ những năm gần đây

đã trở thành một đòi hỏi quan trọng, cấp thiết, nóng bỏng của cuộc sống.

Như vậy, mức độ cấp thiết của vấn đề chẳng những đã được đặt ra, thảo

luận và gây nên sự quan tâm chú ý trong các tài liệu lý luận, trong các phương tiện

thông tin đại chúng, mà còn được trực tiếp xác nhận, chỉ ra phương hướng nghiên

cứu, giải quyết trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước.

Những điều nói trên chính là căn cứ lý luận và thực tiễn trực tiếp để

nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Về hệ giá trị con người Việt Nam trong

điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay” để thực hiện luận án này.

5

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục tiêu của luận án

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về giá trị và hệ giá trị, luận án

nghiên cứu hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

hiện nay, đề xuất một số định hướng chủ yếu nhằm xây dựng hệ giá trị con

người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.

- Nhiệm vụ của luận án

Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận án là:

+ Tổng quan các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án.

+ Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về giá trị và hệ giá trị nhằm

hình thành khung lý luận để nghiên cứu luận án.

+ Nghiên cứu khái quát những giá trị truyền thống tiêu biểu của con

người Việt Nam.

+ Phân tích những tác động và yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với sự

biến đổi hệ giá trị con người Việt Nam; nghiên cứu thực trạng hệ giá trị con

người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, đánh giá những

chuyển biến tích cực, những hạn chế và xác định một số vấn đề đặt ra đối với

hệ giá trị con người Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.

+ Đề xuất một số định hướng nhằm xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ giá trị con người Việt Nam

trong điều kiện hội nhập quốc tế.

- Phạm vi nghiên cứu của luận án là những giá trị truyền thống tiêu

biểu của con người Việt Nam và những chuyển biến về giá trị của con người

Việt Nam từ sau Đổi mới, đặc biệt từ cuối những năm 1990 đến nay khi Việt

Nam hội nhập quốc tế, tham gia sâu vào các định chế quốc tế.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận trực tiếp của luận án là triết học Mác - Lênin, tư tưởng

6

Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là những

tư tưởng về giá trị truyền thống Việt Nam, về văn hóa và sự phát triển xã hội,

về tồn tại xã hội và ý thức xã hội và về con người và đời sống con người…

Cùng với những cơ sở lý luận cơ bản đó, luận án còn chú ý khai thác

chỉ dẫn lý luận của các công trình nghiên cứu trong và ngoài triết học của các

tác giả đi trước về văn hóa và con người Việt Nam, về đời sống tinh thần và

vật chất của xã hội, về giá trị và hệ giá trị Việt Nam truyền thống và hiện đại.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với các phương pháp: phân tích và tổng hợp,

qui nạp và diễn dịch, đối chiếu, so sánh… để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ

mà đề tài đặt ra.

Trong chừng mực có liên quan, luận án có sử dụng các tài liệu lý luận,

các báo cáo chuyên môn của các tổ chức Đảng và Nhà nước, các tài liệu cung

cấp dữ liệu và số liệu… có liên quan đến vấn đề giá trị và hội nhập quốc tế.

5. Đóng góp mới của luận án

- Làm sáng tỏ lịch sử giá trị học, khía cạnh triết học và các nội hàm của

các khái niệm giá trị, hệ giá trị và hệ giá trị con người Việt Nam.

- Trên cơ sở khai thác những tư liệu của các học giả thế hệ đầu tiên đầu

thế kỷ XX về đặc điểm của văn hóa và con người Việt Nam, luận án đã phân

tích và hệ thống hóa được những giá trị truyền thống tiêu biểu của con người

Việt Nam được hình thành và phát triển từ trong lịch sử.

- Phân tích được nét đặc thù và tính đa diện của quá trình Việt Nam hội

nhập quốc tế, xác định được những yêu cầu cơ bản của hội nhập quốc tế đối

với việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam giai đoạn hiện nay.

- Phân tích và đánh giá được những chuyển biến tích cực của hệ giá trị

con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế; xác định được những

vấn đề cấp thiết đang đặt ra đối với việc xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam hiện nay.

7

- Xác định được những giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam trong

quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.

- Đề xuất được 4 định hướng lớn nhằm xây dựng hệ giá trị con người

Việt Nam trong điều kiện chủ động hội nhập quốc tế.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

- Về mặt lý luận, luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên

cứu, giảng dạy triết học về giá trị và hệ giá trị con người Việt Nam trong điều

kiện hội nhập quốc tế hiện nay.

- Về mặt thực tiễn, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho

các hoạt động quản lý và xây dựng chính sách có liên quan đến phát triển con

người, văn hóa và giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc

tế hiện nay.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục các công trình đã công bố của

tác giả liên quan đến đề tài luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án

gồm 4 chương, 10 tiết.

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Những nghiên cứu lý luận về giá trị, hệ giá trị, hội nhập quốc tế

1.1.1. Các công trình liên quan về giá trị, hệ giá trị

Đối với các nghiên cứu nước ngoài, ở mỗi một góc độ, quan niệm về giá

trị, hệ giá trị được tiếp cận ở nhiều chiều cạnh khác nhau từ tâm lý học, xã hội

học, kinh tế học, giáo dục học... Về cơ bản, những nghiên cứu về vấn đề giá trị,

hệ giá trị xuất hiện khá sớm trong lịch sử. Đến đầu thế kỷ 19, chuyên ngành

khoa học với tên gọi Giá trị học (Axiology) đã ra đời. Sau đó, những vấn đề

này trở thành một trong những hướng nghiên cứu chuyên sâu ở nhiều quốc

gia như: Đức, Ba Lan, Mỹ, Nga... Từ khi giá trị học được xem xét như là một

khoa học về giá trị ra đời, đã có nhiều học giả nghiên cứu, thảo luận về vấn đề

này nhưng nhìn chung, cho đến nay, những tranh luận về các vấn đề lý luận

như: quan niệm về giá trị, hệ giá trị, định hướng giá trị.... Bahm A.J trong

cuốn “The Science of Values” [104] đã nhấn mạnh điều này khi tác giả cho

rằng: “Việc tìm hiểu các giá trị rất phức tạp bởi có nhiều dạng giá trị khác

nhau và vô số những nhầm lẫn về giá trị, nhiều cái trong số đó xuất phát từ ý

tưởng sai lầm. Việc chọn lọc trong rất nhiều dạng giá trị nhằm tìm ra những

dạng cần thiết để hiểu sao cho đúng dường như là một nhiệm vụ vô vọng cho

những người mới bắt đầu” [trích theo 92, tr.29].

Theo Joe Bolger - Tư vấn của Cơ quan phát triển quốc tế Canada, trong bài

“Capacity Development: Why, What and How” [105] bàn sâu về phát triển

năng lực của con người trong bối cảnh hiện nay, trong đó phát triển các giá trị

được tác giả coi là yếu tố quan trọng hình thành năng lực con người. Theo tác

giả, phát triển năng lực bao gồm nhiều “phương pháp tiếp cận và chiến lược”

nhằm cải thiện khả năng ở các mức độ khác nhau, trong đó việc tăng cường sự

hiểu biết và mối quan hệ; định hướng các giá trị, thái độ, động cơ và điều kiện để

hỗ trợ phát triển bền vững.

9

David Potten trong bài viết “Learning By Doing: The Japanese PHRD

Fund and Capacity Development“ [111] tập trung luận bàn về các giá trị cá nhân.

Tác giả cho rằng phát triển giá trị cá nhân bao gồm tổ hợp các nhân tố như: Nâng

cao kiến thức cho con người, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành;

Tăng cường năng lực kỹ thuật, công nghệ; Nâng cao kỹ năng làm việc trong

những điều kiện làm việc khác nhau (năng lực làm việc nhóm, năng lực thích

ứng…) [111, p.p .7-8].

Amartya Sen là một trong số tác giả có nhiều công trình nghiên cứu về

con người, giá trị con người, trong đó những nghiên cứu tập trung bàn sâu hơn

về vấn đề phát triển con người. Trong cuốn “Development as Freedom” [112],

ông cho rằng: Con người càng có năng lực thì càng có cơ hội lựa chọn hơn. Phát

triển con người được coi là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn và năng lực cho

con người. Vì thế, theo tác giả, khi con người ngày càng phát triển năng lực của

mình thì càng làm tăng giá trị của họ trong đời sống cộng đồng. Trong một số

công trình nghiên cứu khác như: Equality of what? (1980), Commodities and

Capabilities (1985), The Standard of Living (1987) v.v.. Amartya Sen tập trung

đi phân tích các khía cạnh khác liên quan đến giá trị con người như: chất lượng

cuộc sống, trình độ hiểu biết, năng lực tư duy v.v.. Những đóng góp của

Amartya Sen về phát triển con người có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu về

con người nói chung và nghiên cứu giá trị con người nói riêng.

Thomas Loren Friedman trong nghiên cứu “Chiếc Lexus và cây Ôliu”

[25] đã phân tích rõ nét những xung đột giá trị mới và giá trị truyền thống qua

hình ảnh chiếc xe Lexus hiện đại và cây Ôliu cổ kính. Trong đó, tác giả đã chỉ

rõ những thách thức không nhỏ của các giá trị truyền thống trước những thay

đổi của bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra về giá trị mới khi thâm nhập, đan

xen vào đời sống xã hội. Tác giả đặt vấn đề về một phương án “thỏa thuận” để

giải quyết những “xung đột” giữa hai chiều giá trị này trong bối cảnh toàn cầu

hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.

Ngoài ra, có thể kể đến các nghiên cứu khác như: “Capacity development

practice note”[113], “Measuring capacity, “Comparative performance

10

measurement in schools” [115] v.v... Có thể thấy, đã có rất nhiều nghiên cứu

của các học giả nước ngoài đề cập tới giá trị. Tuy nhiên, những nghiên cứu này

chủ yếu đề cập tới khía cạnh giá trị cá nhân, giá trị truyền thống, giá trị hiện đại,

các chỉ số phát triển con người v.v.. . Số công trình có nghiên cứu về hệ giá trị,

hệ giá trị con người trong điều kiện hội nhập quốc tế cũng không nhiều, nếu

không nói là khá khiêm tốn.

Đối với những nghiên cứu trong nước, giá trị và hệ giá trị cũng được xem

xét từ nhiều góc độ khác nhau với nhiều công trình nghiên cứu trên sách, tạp chí,

đề tài nghiên cứu, luận văn, luận án...

Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước trong Chương trình nghiên cứu về con

người đã đề cập đến giá trị và định hướng giá trị của con người Việt Nam

trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, đổi mới và mở cửa. Các

chương trình cụ thể của đề tài bao gồm: Chương trình thứ nhất, từ năm 1991

đến 1996: “Con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế- xã

hội” (KX-07); Chương trình thứ hai từ năm 1996 tới năm 2000: “Phát triển

văn hóa, xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”

(KX-04); Chương trình thứ ba từ 2001 đến 2005: “Phát triển văn hóa, con

người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước” (KX-05); Chương trình thứ tư từ năm 2006 tới 2010: “Xây dựng con

người và phát triển văn hóa Việt trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế”

(KX- 03/06-10); Chương trình thứ năm từ năm 2011 đến 2015: “Nghiên cứu

khoa học phát triển văn hóa, con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực” (KX-03/11-15). Từ những chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà

nước nói trên đã có nhiều công trình được xuất bản thành sách.

Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-07-04 với chủ đề

“Giá trị- định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” [97] là một trong

những công trình liên quan trực tiếp tới những vấn đề giá trị, hệ giá trị. Các

tác giả trong công trình này khẳng định, giá trị là “một vấn đề cơ bản và rất

thời sự” và “luôn mang tính khách quan” tức là sự xuất hiện và tồn tại hay

mất đi của giá trị không phụ thuộc vào ý thức con người mà nó phụ thuộc vào

11

sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi một nhu cầu nào đó của con người, không

phải do ý thức mà do yêu cầu của hoạt động, của thực tiễn trong đó con người

sống và hoạt động. Trong nghiên cứu, nhóm các tác giả đưa ra quan niệm về

hệ giá trị như sau: “Hệ giá trị hay còn gọi là hệ thống giá trị đó là một tổ hợp

giá trị khác nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định,

thành một tập hợp mang tính toàn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc

thù trong việc đánh giá của con người theo những phương thức vận hành nhất

định của giá trị” [97, tr.62]. Nhấn mạnh tính lịch sử, công trình khẳng định hệ

giá trị có “chứa đựng các nhân tố của quá khứ, của hiện tại và cả những nhân

tố có thể có trong tương lai”. Những nghiên cứu này cũng chỉ rõ, hệ giá trị là

tổng hợp các giá trị được sắp xếp theo một nguyên tắc và có ảnh hưởng rất

lớn bởi nhân tố lịch sử.

Tác giả Phạm Minh Hạc là người có nhiều nghiên cứu về giá trị, hệ giá

trị. Trong công trình “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công

nghiệp hóa hiện đại hóa [31]- Khi trình bày một số kết quả trong chương

trình nghiên cứu con người và nguồn lực con người tác giả đã phân biệt với

các khái niệm giá trị, hệ thống giá trị, thang giá trị, thước đo giá trị và định

hướng giá trị. Khái niệm giá trị theo ý kiến tác giả có ba nội dung: “1)Giá trị

là sản phẩm vật chất và tinh thần của con người, nhóm người, cộng đồng dân

tộc và loài người làm ra. 2) Giá trị là phẩm giá, phẩm chất của con người,

nhóm người, cộng đồng, dân tộc và loài người. 3) Giá trị là biểu hiện mối

quan hệ của con người dưới góc độ lợi ích, đánh giá đối với tồn tại xung

quanh [31, tr.133]. Về khái niệm hệ giá trị, tuy trong công trình này không đề

cập rõ nhưng trong một số tác phẩm khác, tiêu biểu là tác phẩm Giá trị học,

tác giả Phạm Minh Hạc đưa ra quan điểm “Hệ giá trị là các giá trị của một tập

hợp người như dân tộc, thế giới, vùng, gia đình, bản thân” [36, tr.30]. Công

trình này có thể xem như bước đi mới ở Việt Nam, gắn bó mật thiết với nhiều

khoa học khác như: Đạo đức học, Văn hóa chính trị học, Nghiên cứu con

người, Tâm lý học và Giáo dục học... Nội dung cuốn sách không chỉ đơn

thuần trình bày một số hiểu biết về Giá trị học mà chủ yếu nhằm mục đích

12

cung cấp cơ sở lý luận về hệ giá trị của người Việt Nam trong thời đại công

nghiệp hoá theo hướng hiện đại, mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới.

Trong công trình “Tìm hiểu giá trị truyền thống trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa” [6] các tác giả đã trình bày khá sâu sắc các vấn đề

lý luận như: Giá trị, giá trị truyền thống, giá trị văn hóa truyền thống. Trên cơ

sở đó lý luận đó, các tác giả đã luận giải sự biến đổi của giá trị văn hóa truyền

thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Cùng

với mạch nghiên cứu này có công trình “Giá trị truyền thống trước thách thức

của toàn cầu hóa” [7] đã phân tích sự biến đổi của những giá trị truyền thống

của Việt Nam trước thách thức của toàn cầu hóa.

Công trình nghiên cứu “Một số vấn đề về Triết học- con người- xã hội”

[8], tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn là cuốn sách tuyển tập những bài tiêu biểu

của tác giả đã đăng trên các tạp chí khoa học có uy tín ở nước ta như tạp chí

Triết học, tạp chí Cộng sản, tạp chí Khoa học xã hội... trong đó phần IV: Triết

học và công cuộc đổi mới đất nước có một số nội dung liên quan như: giá trị,

giá trị truyền thống trong giai đoạn đổi mới đất nước. Luận bàn về giá trị, tác

giả đặc biệt chú ý tới mặt xã hội và thực tiễn - lịch sử cụ thể, đến tính nhận

thức, noi theo và khả năng thúc đẩy con người nhằm duy trì, bảo vệ hoặc nỗ

lực đạt được của giá trị. Không đồng nhất với một số quan điểm thiên hướng

đạo đức hóa mọi giá trị nhưng tác giả cũng khẳng định khi nói tới giá trị tức là

“muốn khẳng định tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện,

nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái

hay, cái đẹp” [8, tr.745]. Xuất phát từ mặt xã hội và thực tiễn lịch sử của giá

trị, tác giả công trình cho rằng trên thực tế có những giá trị chung của nhân

loại, có những giá trị lâu bền được tôn trọng, được kế thừa qua nhiều thế hệ,

nhiều thời đại và được nâng cao lên, nhưng cũng có giá trị có phạm vi ảnh

hưởng và thời đại tồn tại ít hơn, có những giá trị sẽ mất đi hoặc mờ nhạt khi

hoàn cảnh lịch sử thay đổi và thế vào đó là những giá trị mới hình thành. Bàn

về thuộc tính của giá trị, tác giả cho rằng, giá trị là sự thống nhất giữa cái

khách quan và cái chủ quan chứ không phải là cái chủ quan thuần túy như

13

nhiều người ngộ nhận. Giải thích về sự thống nhất này, tác giả đưa ra lý do

như sau: chính những khách thể, những đối tượng, những quá trình, những

quan hệ mang trong mình chúng có khả năng thỏa mãn nhu cầu đa dạng của

con người, mang lại lợi ích nhiều mặt cho con người và chính con người, các

tập đoàn người biểu hiện thái độ, quan điểm và sự đánh giá của họ về các khả

năng đó cũng như mức độ mà họ có thể chấp nhận được.

Tác giả Hồ Sĩ Quý với công trình “Về giá trị và giá trị châu Á” [80] đã

phân tích chi tiết những vấn đề về giá trị và giá trị châu Á cũng như luận giải

một cách khoa học và có hệ thống thế giới các giá trị. Theo tác giả, sự biến

đổi của bối cảnh thế giới đương đại có ảnh hưởng lớn tới sự biến đổi các giá

trị truyền thống và có sự đối sánh với những hệ giá trị khác. Kết luận về thế

giới các giá trị, tác giả Hồ Sĩ Quý cho rằng, “chính là toàn bộ thế giới bên

trong và bên ngoài con người được hiện hình trong tư duy và tình cảm của

con người” [80, tr.41]. Theo tác giả, với tư cách là khuôn thước của sự đánh

giá, là một biểu hiện đặc trưng cho quan hệ chủ thể- khách thể trong đời sống

xã hội nên giá trị luôn đồng hành trong cuộc sống con người, kể cả con người

ở xã hội thời mông muội, dã man. Trong tác phẩm này, các quan điểm điển

hình của một số học giả có uy tín trong và ngoài nước về lĩnh vực này được

tác giả công trình tổng hợp khá công phu, từ đó, tác giả đi tới luận giải mối

tương quan giữa giá trị truyền thống châu Á và nền văn hóa Việt Nam. Trong

công trình này, tác giả cũng tập trung phân tích những biến động một số giá

trị ưu trội trong bảng giá trị châu Á tại Việt Nam như: Cần cù, hiếu học, gia

đình và cộng đồng... trước tác động của quá trình toàn cầu hóa.

Từ góc độ triết học, công trình “Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số

giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” [85],

tác giả Mai Thị Quý trình bày quan niệm về giá trị. Theo tác giả, giá trị là một

phạm trù triết học dùng để chỉ ý nghĩa tích cực của các sự vật, hiện tượng, quá

trình, quan hệ... (cả vật chất lẫn tinh thần) đối với một cá nhân, một cộng

đồng, một giai cấp, một xã hội hay toàn thể nhân loại trong một điều kiện lịch

sử cụ thể. Tác giả cho rằng, các sự vật, hiện tượng, các quá trình, quan hệ...

14

đều có thể được coi là giá trị khi chúng có khả năng thỏa mãn những nhu cầu

vật chất và tinh thần mang tính tích cực, lành mạnh của con người. Mai Thị

Quý nhấn mạnh khái niệm giá trị với tư cách là ý nghĩa của sự vật, hiện tượng

chứ không phải là bản thân của sự vật, hiện tượng.

Tiếp cận từ góc độ văn hóa học, tác giả Ngô Đức Thịnh trong “Những

giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam” [93] cho rằng, giá trị cũng như những

tập quán, chuẩn mực, tri thức... đều là sản phẩm của quá trình tư duy, sản xuất

tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn hóa. Khẳng định giá

trị là hình thái của ý thức, của tinh thần, tuy nhiên theo tác giả, không phải dạng

tinh thần thuần túy mà nó phản ánh và kết tinh những giá trị của cải đời sống

vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của con người. Từ những quan niệm

trên, tác giả đưa ra khái niệm về giá trị dưới góc độ văn hóa học như sau: Giá

trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về bất kỳ một

hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó là cần, là tốt, là

hay, là đẹp. Quan niệm trên của tác giả thiên về việc khẳng định thuộc tính chủ

quan của giá trị. Theo tác giả, giá trị mang tính lịch sử cụ thể, do đó đặt giá trị

vào trục tọa độ về mặt không gian, thời gian và chủ thể văn hóa chúng ta có thể

đánh giá tính giá trị hay phi giá trị, giá trị cao hay giá trị thấp...Về quan niệm hệ

giá trị, tác giả cho rằng, nói đến hệ giá trị (Value System) hay bảng giá trị,

thang giá trị của mỗi cộng đồng thì bao hàm hai ý nghĩa: 1) Các giá trị riêng lẻ

liên kết nhau thành một hệ thống hữu cơ các giá trị; 2) Có sự sắp đặt trước sau,

độ nhấn về tầm quan trọng của nhân tố giá trị trong một bảng (thang) giá trị.

Từ góc nhìn văn hóa học xã hội, tác giả Hoàng Vinh trong “Những vấn

đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay” [99] đưa ra cách hiểu về

hệ giá trị. Theo ông: “Nói đến hệ giá trị xã hội hay bảng giá trị xã hội là đề cập

tới vấn đề sắp xếp, phân loại giá trị xã hội” [99, tr.7]. Khi nhấn mạnh về vai trò

của hệ giá trị tới cộng đồng, tác giả cho rằng các hệ giá trị đó phải được chuyển

thành các hệ chuẩn mực xã hội, tức là thành phong tục, tập quán... tổng hợp lại

thành lối sống xã hội.

15

Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập

[35] là kết quả nhiều năm nghiên cứu về đề tài con người Việt Nam của tác

giả Phạm Minh Hạc và Thái Duy Tuyên. Đây là công trình đã đề cập đến

những vấn đề khá rộng và phức tạp về vấn đề giá trị và định hướng giá trị

thông qua các cuộc điều tra, khảo sát, từ đó tác giả đưa ra những kết luận về

vấn đề đồng tiền và sự làm giàu, tệ nạn xã hội và tình yêu, hôn nhân và gia

đình, khoa học, công nghệ và tài năng, nghề nghiệp việc làm... Trong chương

1, công trình dành nhiều luận bàn về khoa học giá trị, năng lực xác định giá

trị, cũng như quan điểm biến đổi giá trị. Theo các tác giả, giá trị là “cái quy

định mục đích của hoạt động”, do vậy giá trị nảy sinh từ những hoạt động

thực tiễn của con người trong xã hội.

Công trình “Một số vấn đề về giá trị và hệ giá trị Việt Nam” [91] là sản

phẩm của hai cuộc hội thảo khoa học do đề tài cấp Nhà nước KX 04.15/11-15

“Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập

quốc tế” thuộc chương trình KH & CN trọng điểm KX.04/11-15 “Nghiên cứu

khoa học chính trị giai đoạn 2011- 2015” do tác giả Trần Ngọc Thêm chủ trì.

Trong đó, đáng chú ý là các quan niệm về giá trị, Trần Ngọc Thêm quan

niệm: “Giá trị là phẩm chất của khách thể được bộc lộ trong một hệ tọa độ C-

K-T (Chủ thể- Không gian- Thời gian) cụ thể, trong đó phẩm chất của khách

thể (là sự vật/hiện tượng, v. v.) được khúc xạ qua sự đánh giá của chủ thể (là

con người) xét trong quan hệ giữa chủ thể với khách thể và giữa khách thể với

nhau” [91, tr.14]. Theo quan niệm này, giá trị mang thuộc tính khách quan.

Cùng trong công trình này, tác giả Dương Phú Hiệp trong bài viết “Quan

niệm về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền

thống Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” [91] nhấn mạnh tính

chủ quan của các giá trị. Ông quan niệm giá trị là các tư tưởng bao quát được

cùng nhau, tin tưởng mạnh mẽ ở một nhóm người, một giai tầng, một dân tộc

hoặc một thời đại về cái gì là đúng, sai, thiện, ác, xấu, tốt, hợp lý, không hợp

lý. Nhấn mạnh thuộc tính chủ quan của giá trị, ông khẳng định thêm ở Việt

Nam, thuật ngữ giá trị thường dùng để chỉ phẩm chất, phẩm giá, đức tính hay

16

tức là các giá trị đạo đức. Đồng quan điểm này, tác giả Nguyễn Duy Bắc, tác

giả Phan Thị Hà trong bài viết “Một số suy nghĩ về hệ giá trị của người Việt

Nam” [91] cho rằng, giá trị là ý nghĩa và thường là có ích đối với người thừa

nhận và theo nghĩa chung nhất, giá trị là “cái bộc lộ ra tường minh hay kín

đáo từ bản thân sự vật, hiện tượng đối với con người” [91, tr.333]. Công trình

này cũng tập hợp nhiều quan điểm về hệ giá trị. Tác giả Trần Ngọc Thêm cho

rằng hệ giá trị được tạo thành bởi toàn bộ các giá trị của các khách thể cùng

các quan hệ của chúng. Theo đó, các loại hình giá trị được phân loại thành giá

trị văn hóa, giá trị con người, giá trị thực tế, giá trị định hướng, giá trị cốt lõi.

Nhấn mạnh tới tính định hướng của hệ giá trị, tác giả Nguyễn Thị Bích

Phượng cho rằng, nếu như giá trị mang tính định hướng cho các thành viên

trong cộng đồng thì “hệ giá trị là toàn bộ giá trị của nền văn hóa”. Đáng lưu ý

là quan điểm của tác giả Hồ Sĩ Quý trong công trình này về giá trị và hê giá

trị. Ông cho rằng việc xác định hệ giá trị của quốc gia- dân tộc như Việt Nam

có thể hiểu theo ba nghĩa sau: 1) Chỉ bao gồm các giá trị đang tồn tại thực

trong thực tế. Việc xác định hệ giá trị trước hết là gọi tên cho chính xác các

giá trị thực đó. 2) Bao gồm các giá trị lý tưởng, kỳ vọng, có ý nghĩa định

hướng đối với hành vi của con người, đối với hoạt động của các thiết chế xã

hội và đối với chiều hướng phát triển của một dân tộc - quốc gia. 3) Bao gồm

các giá trị vừa tồn tại thực trong thực tế, vừa là thiêng liêng, lý tưởng để định

hướng hành động. Ngoài ra, có ý kiến của tác giả Dương Phú Hiệp trong cùng

công trình trên về hệ giá trị, theo ông: Hệ giá trị (hay bảng giá trị) là một tập

hợp các phạm trù giá trị khác nhau, được cấu trúc theo những thứ bậc khác

nhau, và có mối liên hệ có tính lịch sử cụ thể với nhau để thực hiện một hay

một số chức năng nhất định. Công trình “Một số vấn đề về giá trị và hệ giá trị

Việt Nam” của tác giả Trần Ngọc Thêm đã tập hợp nhiều bài viết giá trị khoa

học liên quan trực tiếp tới các vấn đề của luận án nghiên cứu sinh thực hiện.

Nghiên cứu “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con

đường tới tương lai” [91] tác giả Trần Ngọc Thêm là sự tiếp nối nghiên cứu

về hệ giá trị con người Việt Nam. Tác giả đã chỉ ra bốn xu hướng chính hiện

17

nay khi nghiên cứu về định nghĩa giá trị. Xu hướng thứ nhất thuộc nhóm tác

giả cho rằng giá trị là khách thể tức là giá trị thuộc về bản thân sự vật, hiện

tượng; Xu hướng thứ hai thuộc nhóm tác giả cho rằng giá trị thuộc về chủ thể

định giá; Xu hướng thứ ba thuộc nhóm tác giả quan niệm giá trị nằm trong

các mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng; Xu hướng thứ tư thuộc nhóm tác

giả nghiêng về ý kiến cho rằng giá trị tồn tại thế giới độc lập.

Tác giả Lương Đình Hải trong bài viết “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay” [38] luận bàn nhiều vấn đề liên quan đến giá trị, hệ

giá trị. Tác giả cho rằng: Giá trị là những sự vật, hiện tượng, quá trình hay tất

cả những thứ được con người xem là có ý nghĩa nhất định với sự tồn tại, vận

động và phát triển của con người. Theo tác giả, giá trị mang cả thuộc tính

khách quan và thuộc tính chủ quan. Về quan niệm hệ giá trị, tác giả cho rằng:

“Hệ giá trị hay bảng giá trị của một cộng đồng được hình thành qua quá trình

lịch sử lâu dài, được sàng lọc, gạt bỏ, bổ sung, tiếp biến và phát triển phụ

thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau” [38, tr.10]. Theo đó, hệ giá trị dù có biến

đổi thường xuyên, liên tục, nhưng cũng có độ trễ so với những biến đổi của

các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có tính ổn định tương đối, có sự bền

vững, bất biến, “trường tồn” ở những mức độ và phạm vi nhất định. Hệ giá trị

được lưu giữ, truyền bá từ thế hệ này qua thế hệ khác, trở thành tài sản, hành

trang của các thế hệ mang suốt cuộc đời. Do đó, ông khẳng định, cần phải

phân định hệ giá trị con người và hệ giá trị xã hội. Điểm chung của chúng ở

chỗ: Hai hệ giá trị này có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau,

giao thoa với nhau, bởi vì, theo tác giả, những hệ giá trị cốt lõi trong hệ giá trị

xã hội cũng phải có và thể hiện trong hệ giá trị con người; và ngược lại,

những giá trị cốt lõi của hệ giá trị con người bao hàm và thể hiện một số

những giá trị xã hội. Ông chỉ ra điểm khác biệt của chúng ở chỗ: hệ giá trị xã

hội không thể là một tập hợp các giá trị con người. Luận án kế thừa các quan

niệm của tác giả về giá trị, hệ giá trị cũng như những phân tích của tác giả về

cấu tạo của hệ giá trị, ông cho rằng hệ giá trị có các giá trị văn hóa, truyền

18

thống, các giá trị đạo đức, giá trị chung, giá trị phổ quát của nhân loại, của

khu vực... nhưng giá trị đạo đức có “sức nặng riêng”, đặc biệt với các dân tộc

như Việt Nam.

Ngoài những công trình nghiên cứu trong chương trình cấp Nhà nước,

ấn phẩm sách tham khảo kể trên, về vấn đề giá trị, hệ giá trị còn có một số bài

viết đề cập tới như: Nguyễn Ngọc Vân (1996) với nghiên cứu “Về giá trị và

quan hệ hệ giá trị chủ- khách thể” in trong tạp chí Thông tin lý luận (Số 11);

Nguyễn Trọng Chuẩn (1998) trong nghiên cứu “Vấn đề khai thác các giá trị

truyền thống vì mục tiêu phát triển” in trong Tạp chí Triết học (Số 2)... Thời

gian gần đây, một số bài viết liên quan về vấn đề này như: tác giả Nguyễn

Thu Nghĩa với bài viết “Định hướng giá trị thẩm mĩ- một số vấn đề lý luận”

(2020) in trong tạp chí Triết học (Số 6); Nguyễn Phú Trọng với bài viết:

“Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước vào một

giai đoạn phát triển mới” in trong “Nhân dân điện tử” ngày 31 tháng 8 năm

2020... là những nghiên cứu này có giá trị khoa học cho một số vấn đề lý luận

và thực tiễn của luận án mà nghiên cứu sinh đang thực hiện.

Tổng quan các tài liệu liên quan tới vấn đề giá trị, hệ giá trị nghiên

cứu sinh đưa ra một số nhận xét như sau:

+ Các công trình nghiên cứu về giá trị, hệ giá trị trên thế giới phát triển

khá đa dạng, tại những nước phát triển đã hình thành các viện, trung tâm

chuyên nghiên cứu về giá trị đóng góp quan trọng trong việc định hướng

những giá trị mang bản sắc của quốc gia mình. Đây là những đóng góp cơ bản

và quan trọng cho lý luận về giá trị đều xuất phát từ đây.

+ Ở Việt Nam hiện có ba khuynh hướng chủ đạo nghiên cứu về giá trị:

khuynh hướng thứ nhất cho rằng giá trị mang tính khách quan; khuynh hướng

thứ hai khẳng định giá trị mang tính chủ quan; Khuynh hướng thứ ba quan

niệm cho rằng giá trị mang cả tính khách quan và tính chủ quan, khuynh

hướng này được nhiều tác giả đồng tình. Trong đó, trong những nghiên cứu

về hệ giá trị, giá trị đạo đức được các nhiều học giả luận bàn hơn.

19

1.1.2. Các công trình liên quan đến hội nhập quốc tế, tác động và yêu

cầu của hội nhập quốc tế đối với hệ giá trị con người Việt Nam

Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và kinh tế thị trường hiện đại đã và

đang là xu thế nổi bật của thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó, từ năm

1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội

nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ

đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc

tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam luôn thực hiện nhất

quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển;

chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc

tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác

quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước

trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và

khu vực. Trong những năm gần đây, nghiên cứu về vấn đề hội nhập quốc tế

của Việt Nam bước đầu được chú ý, thu hút sự quan tâm của các học giả, có

thể tổng quan một số công trình tiêu biểu như sau:

Công trình “Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa: Vấn

đề và giải pháp” [102], tác giả quan niệm hội nhập quốc tế là quá trình chủ

động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và

thế giới thông qua các nỗ lực tự do thương mại và mở cửa trên các cấp độ đơn

phương, song phương và đa phương. Trên phương diện này công trình đã

nhấn mạnh tới mức độ, nội dung và hình thức của hội nhập kinh tế quốc tế rất

đa dạng. Bên cạnh đó, luận án kế thừa từ công trình này một số vấn đề như:

quá trình phát triển toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam,

tác động và những phương hướng trong giai đoạn mới của toàn cầu hóa và hội

nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.

Toàn cầu hóa và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam [94] là

công trình bao gồm một số tham luận khoa học của các học giả Việt Nam và

Đức được trình bày tại hai cuộc Hội thảo tổ chức tại Hà Nội vào tháng

11/2002 và tháng 12/2003. Công trình tập trung vào ba nhóm vấn đề: Toàn

20

cầu hóa- những khái niệm chung; Toàn cầu hóa và những hệ quả; Toàn cầu

hóa kinh tế và sự hội nhập của Việt Nam. Mặc dù công trình không trực tiếp

đi sâu về vấn đề hội nhập quốc tế nhưng đã cũng cấp những cơ sở lý luận rất ý

nghĩa về những vấn đề của Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa, trong đó có

một số vấn đề liên quan tới sự hội nhập quốc tế của Việt Nam liên quan tới

vấn đề nghiên cứu của luận án. Luận án có kế thừa có chọn lọc một số bài viết

trong công trình này về những tác động hội nhập quốc tế của Việt Nam trong

xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.

Tô Xuân Dân với công trình “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế

đến tư duy và đời sống kinh tế- xã hội ở Việt Nam” [11] là một trong những

công trình nghiên cứu sâu sắc những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế

đến đời sống kinh tế- xã hội của Việt Nam trong những năm qua và dự báo xu

thế những năm tới. Luận án kế thừa những cơ sở lý luận chung về các khái niệm

như hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa, mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và

toàn cầu hóa. Đặc , đây cũng là một trong số ít công trình phân tích tác động của

hội nhập quốc tế đến tư duy và đời sống kinh tế- xã hội ở Việt Nam.

Bàn về vai trò của nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay

có công trình tiêu biểu sau: Công trình “Vai trò của nhà nước đối với hội

nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” [40] của Mai Lan Hương tập trung nghiên

cứu về vai trò của nhà nước với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, song công

trình đã cung cấp cho luận án những cơ sở lý luận và thực tiễn về hội nhập

quốc tế ở Việt Nam. Từ việc khẳng định toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế

quốc tế là một xu thế khách quan, theo tác giả, ở Việt Nam, thuật ngữ hội

nhập (được hiểu là hội nhập kinh tế quốc tế) mới chỉ được sử dụng rộng rãi từ

thập niên 1990 trở lại đây khi nước ta thực hiện chính sách đa phương hóa, đa

dạng hóa quan hệ kinh tế khu vực và trên thế giới. Tác giả cho rằng, có thể

hiểu “hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia gắn kết nền kinh tế

của nước mình với kinh tế khu vực và thế giới bằng các nỗ lực thực hiện tự do

hóa kinh tế, mở cửa kinh tế trên các cấp độ đơn phương, song phương, đa

21

phương và giảm thiểu sự khác biệt để trở thành một bộ phận hợp thành của

chỉnh thể kinh tế toàn cầu” [40, tr.18].

Trong công trình “Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và hội

nhập quốc tế” của Hoàng Chí Bảo [2], tác giả đã phân tích sâu sắc văn hóa và

con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay ở nước ta cũng như về

phát triển văn hóa ở châu Á - Thái Bình Dương trong hai thập niên đầu thế kỷ

XXI. Từ những phân tích đó, tác giả chỉ ra sự phát triển nhu cầu tinh thần và tính

đa dạng của nhu cầu tinh thần, của đời sống tinh thần của con người trong thời

kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Công trình đã cho thấy khái quát về vấn đề con

người và hệ giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Bên cạnh các công trình kể trên, còn có một số nghiên cứu tập trung tới

những vấn đề liên quan tới tác động của hội nhập quốc tế tới Việt Nam trên

cách khía cạnh khác như: Giá trị truyền thống trước những thách thức của

toàn cầu hóa (2002) của Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng

chủ biên); Toàn cầu hóa và sự tồn vong của nhà nước của tác giả Nguyễn

Vân Nam (2006); Vai trò, chức năng và hiệu lực của Nhà nước cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế

quốc tế của Bùi Xuân Đức; Toàn cầu hóa: Những biến đổi lớn trong đời sống

chính trị quốc tế và văn hóa của tác giả Phạm Thái Việt (2008); Nhà nước với

phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa của tác giả Nguyễn Thị

Luyến (chủ biên, 2005); Trần Minh Trưởng (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về

quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế, Nguyễn Ngọc Trân (2002), Một số vấn

đề kinh tế toàn cầu hiện nay; Tác giả Vũ Dương Ninh (2009), Việt Nam mở

cửa và hội nhập nhìn từ kinh nghiệm thế kỷ XX...

Như vậy, qua tổng qua các công trình nghiên cứu về vấn đề này, có thể

thấy, các công trình nghiên cứu đó đã cho thấy nhiều góc nhìn đa chiều về

toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Về mặt định nghĩa có thể vẫn có

những ý kiến khác nhau, song về cơ bản, các tác giả tương đối nhất quán

trong quan niệm về các đặc trưng, nguồn gốc và nội dung của quá trình này.

Các tác giả đều thừa nhận toàn cầu hóa mà hạt nhân là toàn cầu hóa kinh tế và

22

hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là cơ bản nhất, đã trở

thành xu thế chung của thời đại, đang tác động mạnh mẽ và làm biến đổi căn

bản đời sống của các quốc gia. Ngoài ra, các tác giả đều nhất trí quan điểm về

nhập kinh tế quốc tế là quá trình phát triển với nhiều mâu thuẫn, đan xen giữa

thời cơ và thách thức; mặt phải và mặt trái; hợp tác và đấu tranh; vươn lên và

tụt hậu; tự chủ và phụ thuộc. Kết quả của hội nhập quốc tế trước hết và chủ

yếu phụ thuộc vào việc mỗi quốc gia dân tộc nhận thức và giải quyết những

mâu thuẫn đó như thế nào.

1.2. Những nghiên cứu liên quan đến hệ giá trị con người Việt Nam

Ngay từ rất sớm người Việt đã luôn trăn trở với câu hỏi: Người Việt từ

đâu? Và người Việt có bản sắc gì đặc trưng để phân biệt với các dân tộc khác?

Theo tiến trình phát triển của đời sống xã hội, những câu hỏi đó được làm rõ

hơn trong những nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam. Sách “Đại

Việt sử ký toàn thư” đã có ghi chép về đặc điểm tính cách của người

Việt. Đến thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, các thương nhân phương Tây và

các nhà truyền đạo Công giáo đã bắt đầu ghi chép về tính cách con người

Việt. Trong số nghiên cứu đó có thể kể tới những ghi chép của tác giả người

Ý Cristoforo Borri khoảng năm 1621, ông đã có lời nhận xét và miêu tả về

tính khí con người xứ Đàng Trong. Tới thời nhà Nguyễn, các sách do triều

đình biên soạn trong “Đại Nam thực lục”, và “Việt sử thông giám cương

mục” cũng có ghi chép về đặc điểm tính cách của người Việt. Tuy nhiên, các

nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam truyền thống chỉ thực sự được

tính từ giai đoạn Pháp thuộc khi những trí thức Việt Nam lúc này được trang

bị những hành trang tri thức tương đối bài bản. Những tên tuổi tiêu biểu

nghiên cứu về giá trị con người Việt Nam như: Đào Duy Anh, Trần Trọng

Kim, Nguyễn Văn Huyên, Phan Ngọc…Bên cạnh đó còn có một số những

nghiên cứu của các học giả phương Tây về những đặc tính con người Việt

Nam truyền thống.

Đào Duy Anh là một trong số học giả đầu tiên nghiên cứu sâu về con

người, xã hội Việt Nam truyền thống. Trong nghiên cứu “Việt Nam văn hóa

23

sử cương” [1], ông chỉ ra 7 giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam bao gồm:

“1) “Sức ký ức” [trí nhớ] tốt, thiên về nghệ thuật và trực giác; 2) Ham học,

thích văn chương; 3) “Ít mộng tưởng” [thiết thực]; 4) “Sức làm việc khó

nhọc” [cần cù] ở mức độ “ít dân tộc bì kịp”; 5) “Giỏi chịu… khổ và hay nhẫn

nhục”; 6) “Chuộng hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hy sinh vì đại nghĩa”;

7) Khả năng “bắt chước, thích ứng và dung hóa rất tài” [Trích theo 91, tr.240-

241]. Trong công trình này, tác giả có nhiều đánh giá sâu sắc về tính cách,

phẩm chất của người Việt. Theo ông, về đại thể người Việt “đại khái thông

minh, nhưng xưa nay thấy ít có người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức

thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn lý

luận. Phần nhiều người ta có tính ham học, song thích văn chương phù hoa

hơn thực học, thích thành tích sáo và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động.

Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt, cho nên dân tộc Việt

Nam ít người mộng tưởng, mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm. Sức

làm việc khó nhọc, nhất là người ở miền Bắc thì ít dân tộc bì kịp. Cảm giác

hơi chậm chạp, song giỏi chịu đau đớn, cực khổ hay nhẫn nhục. Tính khí cũng

hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, khoe khoang trang hoàng bề

ngoài, ưa hư danh và thích chơi bời cờ bạc. Thường thì nhút nhát và chuộng

hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hy sinh về đại nghĩa. Não sáng tác thì ít

nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hòa thì rất tài. Người Việt Nam lại rất

trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo” [1, tr.25].

Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong công trình “Văn minh Việt Nam” [45]

là công trình nghiên cứu khá chi tiết về những phẩm chất, giá trị của người

Việt. Ông đặt vấn đề về xuất phát điểm người Việt từ nền học vấn cổ lỗ, chưa

bao giờ có phương pháp nên người Việt thường ít sáng tạo, có xu hướng “thuận

hết thảy và bắt chước hết thảy”. Khác với một số nhà nghiên cứu đi trước

nghiên cứu về hệ giá trị Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên không nói nhiều đến

giá trị yêu nước, tác giả luận bàn nhiều tới giá trị dũng cảm của người Việt.

Ông cho rằng: “Người Việt không thiếu dũng cảm… có khả năng kháng cự lâu

dài, trong những điều kiện thiếu thốn tệ hại nhất, chống lại những lực lượng

24

mạnh hơn về số lượng và chất lượng… người nông dân Việt Nam có thể trở

thành người lính dũng cảm và bền bỉ, có sức xông lên mạnh mẽ” [45, tr.361].

Trong công trình, tác giả cũng đi ra một số ý kiến luận bàn về một số đặc tính

hạn chế của người Việt như: lười biếng và cần cù, phóng túng và thực tế, thất

thường và kiên định, hay trộm cắp và hào hiệp, chất phác và khôn ngoan.

Nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam, có một số tác giả mà xưa

nay giới nghiên cứu ít đề cập tới như: Ngô Đức Kế, Lương Dũ Thúc, Nguyễn

Văn Vĩnh, Dương Bá Trạc, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Trọng

Thuật… một số tác phẩm tiêu biểu của họ thực ra rất có giá trị như: Cảm

tưởng trong lúc biên tập, báo Hữu thanh năm 1923, bài báo Nông cổ mín đàm

năm 1902, Đăng cổ tùng báo năm 1917, Tiếng gọi đàn năm 1925, Thư gửi

chính phủ Pháp năm 1906, Cao đẳng quốc dân năm 1925, Điều đình cái án

quốc học năm 1931… Những nghiên cứu này mặc dù không đi sâu về việc hệ

giá trị người Việt, song, với những phân tích chi tiết, đánh giá trên một số góc

độ về tính cách người Việt góp phần giúp nghiên cứu sinh có những nghiên

cứu khái quát về giá trị tiêu biểu người Việt truyền thống.

Từ những năm 80 của thế kỷ XX, tác giả Trần Văn Giàu trong nghiên

cứu “Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam” [29] đã đưa ra bảng giá trị

của dân tộc Việt Nam gồm 7 giá trị tiêu biểu: Yêu nước, cần cù, anh hùng,

sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Cùng thời gian này, học giả người

Ý là Claude Falazzoli ([Palazzoli Claude 1981) trong cuốn “Việt Nam giữa

hai huyền thoại” nêu 7 giá trị tiêu biểu của người Việt Nam: (1) Ý thức “giữ

phẩm giá, không chịu để mất nó trong bất cứ thử thách nào”; (2) “Nết cần cù

có thể lấp biển”; (3) “Lịch thiệp, tế nhị… khiến cho không khí ở đây không

thô lỗ và nặng nề”; (4) “Một sự tinh tế cố tình chẻ sợi tóc làm tư”; (5) “Tính

dè dặt, kéo dài sự cân nhắc, xét đoán, quyết định”; (6) “Tính thực dụng… khả

năng thích ứng khéo léo và sáng suốt với mọi tình huống”; (7) “Lãng mạn và

đa cảm”.

Nguyễn Duy Bắc trong nghiên cứu “Sự biến đổi các giá trị văn hóa

trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” [3] cho

25

rằng, trong hệ thống giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc ta, giá

trị đạo đức chiếm một vị trí nổi bật, chủ nghĩa yêu nước được khẳng định là

giá trị cốt lõi và các phẩm chất như lòng nhân ái, khoan dung, tính đoàn kết, ý

thức cần cù, tinh thần sáng tạo... được xem là những giá trị phổ biến. Tác giả

khẳng định: biểu hiện rõ nhất là giá trị yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, tạo

động lực thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa, thứ hai là biến đổi giá

trị về dân chủ nhân quyền và pháp quyền. Cùng với quan điểm trên, Mai Thị

Quý trong công trình “Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị truyền

thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” [85] đã chỉ ra thêm

một số giá trị truyền thống dân tộc cần được phát huy trong bối cảnh toàn cầu

hóa hiện nay bao gồm: Giá trị truyền thống yêu nước; Giá trị truyền thống gia

đình; Giá trị truyền thống nhân văn; Giá trị truyền thống đoàn kết; Giá trị

truyền thống hiếu học; Giá trị truyền thống cần cù, tiết kiệm.

Nguyễn Văn Huyên với hai bài viết: “Mấy suy nghĩ về hướng tiếp cận

con người trong chủ nghĩa xã hội” [43] và “Mấy vấn đề đặt ra đối với việc

nghiên cứu con người ở Việt Nam” [44] đã tập trung phân tích những vấn đề

về con người Việt Nam như: phương pháp tiếp cận, một vài thực trạng biến

đổi của con người Việt Nam hiện nay so với trước kia. Trong nghiên cứu của

mình, tác giả đã đưa ra nhiều quan điểm, những trăn trở về con người Việt

Nam trước những tác động của thời đại.

Trong công trình nghiên cứu “Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi

mới và hội nhập quốc tế” [2] của Hoàng Chí Bảo đã phân tích một cách sâu

sắc, thấu đáo văn hóa và văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay

ở nước ta nói riêng và văn hóa châu Á, Thái Bình Dương nói chung trong hai

thập niên đầu thế kỷ XXI, qua thực tiễn Đông Nam Á. Qua đó, tác giả khẳng

định rõ, văn hóa dân tộc Việt Nam là cội nguồn, là nền tảng và là mục tiêu

của dân tộc ta trong xây dựng nền văn hóa mới, bảo đảm cho dân tộc ta có vị

thế xứng đáng trong cộng đồng nhân loại, nhằm thực hiện các mục tiêu phát

triển bền vững.

26

Trần Ngọc Thêm trong công trình “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt

Nam” [91], khi áp dụng phương pháp hệ thống- loại hình với thủ pháp “năm

định” đã xác định một hệ thống 5 giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam

bao gồm: (1) Tính cộng đồng (làng xã); (2) Tính ưa hài hòa; (3) Tính trọng

âm; (4) Tính tổng hợp; (5) Tính linh hoạt. Trong công trình này, tác giả cũng

chỉ ra một số tính cách xấu của người Việt như: Bệnh giả dối, nói không đi

đôi với làm, bệnh thành tích, bệnh thiếu ý thức pháp luật... Tác giả trình bày

thêm 15 phẩm chất tính cách cần bổ sung về giá trị người Việt như: Ý thức

pháp luật, tính trung thực thẳng thắn, bản lĩnh cá nhân, tính khoa học, lòng tự

trọng... Có thể nói, đây là công trình tác giả công phu trong việc trình bày các

giá trị của con người Việt Nam được tác giả khảo sát thông qua kết quả điều

tra khảo sát chi tiết. Kế tiếp công trình này, tác giả Trần Ngọc Thêm tiếp tục

luận giải các vấn đề liên quan đến hệ giá trị con người Việt Nam trong nghiên

cứu “Hệ giá trị con người Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con

đường tới tương lai” [92]. Liên quan tới vấn đề hệ giá trị con người Việt

Nam, tác giả của công trình này đã trình bày những giá trị tổng hợp và một số

vấn đề liên quan như: Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; Lòng nhân ái, thương

người; Huyền thoại về tính cần cù. Ông cũng bàn thêm về một số hạn chế của

người Việt truyền thống. Bên cạnh đó, tác giả của công trình đã có những

phân tích về những yếu tố về không gian, lịch sử và bối cảnh thời đại tác động

tới hệ giá trị Việt Nam truyền thống. Tác giả cũng đề xuất 35 giá trị cốt lõi

định hướng trong tương lai với hệ giá trị Việt Nam.

Trong bài viết “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện

nay” [38] của Lương Đình Hải đề xuất 10 giá trị Việt trong xây dựng hệ giá

trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đó là: 1) Tinh thần yêu nước Việt

Nam; 2) Tinh thần nhân ái; 3) Anh hùng, dũng cảm; 4) Biết chấp nhận (nhẫn),

tiếp thu; 5) Hiếu học; 6) Sáng tạo; 7) Cần cù; 8) Lạc quan; 9) Trọng đạo lý;

10) Ưa ổn định. Tác giả cho rằng các giá trị này có những biến động nhưng

chúng không thể biến mất mà đang được tiếp tục củng cố, có những hình thức

biểu hiện mới với những mức độ khác nhau. Tác giả bài viết cũng khẳng định

27

tầm quan trọng của hệ giá trị con người Việt Nam trong sự tồn tại và phát

triển cộng đồng xã hội, song việc xác định các giá trị nào trong hệ giá trị, tác

giả cho rằng công việc đó không hề dễ dàng.

Ngoài các công trình kể trên còn một số công trình liên quan tới hệ giá

trị của con người Việt Nam như: Công trình “Giá trị- định hướng giá trị nhân

cách và giáo dục giá trị” [97] của các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn

Thạc, Mai Văn Trang; Đề tài KHXH 01-10 của Phan Huy Lê và các tác giả

khác nghiên cứu với chủ đề “Chủ nghĩa yêu nước truyền thống và hiện đại”,

Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo trong “Văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay-

vấn đề và giải pháp” [24] của Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo... Các công trình

này đã góp phần làm rõ thêm một số giá trị con người Việt Nam truyền thống

cũng như chỉ ra một số xu hướng biến đổi các giá trị con người Việt Nam

trong bối cảnh mới.

Những công trình nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam xuất

hiện khá sớm. Trong giai đoạn Pháp thuộc bao gồm các nghiên cứu về con

người Việt Nam của học giả người Việt và một số tác giả người Pháp trong

nghiên cứu về Đông Dương. Từ sau năm 1990 trở lại đây, do những tác động

của nhân tố thời đại và thực tiễn xây dựng Đất nước, các nghiên cứu về hệ giá

trị con người Việt Nam bước đầu đa dạng hơn, nhiều đề tài có giá trị, trong đó

có những đề tài đã đặt ra những vấn đề mới về con người Việt Nam, hệ giá trị

con người Việt Nam. Tuy vậy, nhìn lại tổng quan các công trình nghiên cứu

về hệ giá trị con người, về khách quan có thể thấy, các nghiên cứu về hệ giá

trị con người Việt Nam trong điều hiện hội nhập quốc tế hiện nay số lượng

còn còn khiêm tốn.

1.3. Những nghiên cứu về định hướng giá trị của con người Việt

Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

Quan niệm hệ giá trị con người Việt Nam thể hiện trong các văn kiện

chủ yếu của Đảng cộng sản Việt Nam như: “Văn kiện hội nghị lần thứ 5 Ban

Chấp hành Trung ương khoá VIII (1998) của Đảng Cộng sản Việt Nam” [18]

28

về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc nêu rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa

của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn

năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự

cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình

– làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức

tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong

lối sống...” [18, tr.73]. Theo đó, bốn giá trị mà Đảng ta đã xác định là “dân tộc,

nhân văn, dân chủ và khoa học”. Đây là bốn giá trị có ý nghĩa phổ quát, vừa kế

thừa và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn

hóa thời đại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong Nghị quyết

Trung ương 9 khóa XI [21], giá trị con người Việt Nam được xác định: Phát

triển văn hóa, vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng nền văn hóa,

quan trọng nhất là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt, với

các phẩm chất là yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù,

sáng tạo. Nhìn chung, quan điểm hệ giá trị con người Việt Nam trong các văn

kiện của Đảng cho thấy mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa và các giá trị con

người Việt Nam vừa có điểm tương đồng vừa có điểm khác biệt. Ví dụ như: giá

trị chung của nền văn hóa là nhân văn thì giá trị cốt lõi của người Việt Nam là

lòng yêu thương con người “lá lành đùm lá rách”, trọng đạo lý; giá trị cốt lõi

của người Việt là lòng yêu nước; giá trị chung của nền văn hóa là đề cao khoa

học thì giá trị của con người Việt Nam là đề cao sáng tạo và năng động. Thời

gian gần đây, các vấn đề về xây dựng con người, xây dựng hệ giá trị con

người Việt Nam trong bối cảnh mới ngày càng được quan tâm và đề cập nét

hơn trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Trong văn kiện Đại hội XIII,

Đảng ta đã nhấn mạnh: “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con

người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền

thống và giá trị hiện đại” [23, tr.143]. Có thể khẳng định, sự quan tâm này,

29

như đã nói, đã góp phần quan trọng mở đường cho sự phát triển của việc xây

dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

Bên cạnh các văn kiện, nghị quyết của Đảng cũng như các chủ trương của

Nhà nước về định hướng xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay, các

nghiên cứu chuyên sâu liên quan tới vấn đề này có thể kể tới như sau:

Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang trong Chương trình

KHCN cấp nhà nước KX-07: Đề tài KX- 07-04: Giá trị- định hướng giá trị

nhân cách và giáo dục giá trị [97], từ việc khái quát kết quả nghiên cứu thực

tiễn về những đặc trưng và xu thế định hướng giá trị của con người Việt Nam

các tác giả nêu những nguyên tắc, nội dung và con đường giáo dục giá trị ở

nước ta hiện nay. Đó là: Nguyên tắc lựa chọn giá trị yêu cầu cần quán triệt

mục đích giáo dục, coi trọng cả những giá trị kế thừa truyền thống lẫn giá trị

hiện đại và chú ý tính đặc thù, xem xét giá trị trong tổng thể hài hòa. Tác giả

nêu lên các giá trị chung cơ bản cần giáo dục cho thế hệ trẻ như: Hòa bình, ổn

định, an ninh đất nước; Độc lập và thống nhất tổ quốc; Tự do và dân chủ;

Lòng nhân đạo, sống có tình nghĩa; Truyền thống hiếu học tôn sư trọng đạo;

Giá trị nghề nghiệp; Tình yêu và cuộc sống... Đồng thời, trong công trình trên,

các tác giả cũng trình bày con đường thực hiện giá trị như: Gia đình, cá nhân

học tập rèn luyện, tác động của môi trường sư phạm; tác động của môi trường

văn hóa xã hội. Đây là công trình có một số vấn đề lý luận liên quan tới luận

án mà nghiên cứu sinh thực hiện.

Công trình “Một số vấn đề lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội”

[100] của tác giả Huỳnh Khái Vinh cũng là một nghiên cứu mang tính định

hướng đối với chương cuối luận án mà nghiên cứu sinh thực hiện. Trong công

trình này, trên cơ sở đề cập tới những vấn đề cơ bản của lối sống, đạo đức,

chuẩn giá trị xã hội, mối quan hệ giữa lối sống, đạo đức với phát triển văn hóa

và con người; sự tác động của nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội tới lối sống,

đạo đức và chuẩn giá trị xã hội... tác giả đã nêu ra thực trạng, phương hướng,

quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội trong

30

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ kinh nghiệm và bài học

thực tiễn ở các nước, tác giả trình bày một số nhóm giải pháp xây dựng lối

sống, đạo đức, chuẩn giá trị cho con người Việt Nam bao gồm: Nhóm giải

pháp về thể chế; Nhóm giải pháp về xã hội; Ngoài ra tác giả còn đề xuất

nhóm giải pháp về giáo dục, nhóm giải pháp đầu tư và hoạt động tổng kết

thực tiễn, khái quát nhận thức khoa học để tìm ra mối quan hệ tương tác nội

tại giữa lối sống đạo đức với tiến trình của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung

sâu vào luận bàn và đưa ra những phương hướng xây dựng lối sống đạo đức

con người Việt Nam, công trình đã giúp luận án các giải pháp bao quát trên

nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội định hướng xây dựng hệ giá trị con người

Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới.

Võ Văn Thắng trong công trình “Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện

nay (từ góc độ văn hóa truyền thống dân tộc” [89] đã phân tích thực trạng và

những vấn đề đang đặt ra trong quá trình kế thừa và phát huy các giá trị văn

hóa truyền thống trong xây dựng lối sống ở Việt Nam, tác giả đề ra phương

hướng, giải pháp kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong

xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay bao gồm: Về phương hướng: Kế thừa

và phát huy các giá trị truyền thống dân tộc trong xây dựng lối sống gắn với

việc phát triển kinh tế- xã hội. Kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống

dân tộc trong xây dựng lối sống gắn với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Về giải pháp: Nâng cao nhận thức về vai trò

của các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc đối với việc xây dựng lối sống

mới; Tạo lập môi trường xã hội lành mạnh, đấu tranh chống nguy cơ làm xói

mòn các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân

loại, đồng thời phải hiện đại hóa các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; Xây

dựng và hoàn thiện các thể chế về hoạt động văn hóa nhằm kế thừa và phát

huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; Đẩy mạnh công tác bảo tồn, tôn

tạo và khai thác hợp lý các di sản văn hóa truyền thống.

31

Từ góc độ văn hóa, Nguyễn Duy Bắc với công trình “Sự biến đổi các

giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

hiện nay” [3] đã trình bày một số giải pháp xây dựng những giá trị văn hóa

trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm 5 vấn đề

cơ bản: 1) Đẩy mạnh giáo dục giá trị văn hóa truyền thống và cách mạng với các

nội dung và hình thức phù hợp; 2) Kết hợp việc giữ gìn và phát huy các giá trị

văn hóa truyền thống với việc tiếp thu các giá trị khoa học, tiến bộ, nhân văn,

hợp lý của thời đại thông qua giao lưu hợp tác quốc tế; 3) Xây dựng các giá trị

văn hóa mới theo tư tưởng, đạo đức và triết lý phát triển của chủ tịch Hồ Chí

Minh; 4) Hình thành các giá trị văn hóa mới gắn liền với việc đẩy mạnh và phát

triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; 5) Đẩy mạnh xây

dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong công trình “Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam” [93]

của Ngô Đức Thịnh đã đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm bảo tồn và

phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập. Tác giả

đưa ra giải pháp tổng quát: Kiên trì bảo tồn, làm giàu phát huy các giá trị,

bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc, chủ động và tích cực hội nhập, giao

lưu quốc tế, làm cho nền văn hóa Việt Nam ngày càng thể hiện tính dân tộc

và tính hiện đại. Bên cạnh đó, tác giả cũng trình bày hệ thống các giải pháp

bao gồm: Giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức cán bộ và nhân dân về

bảo tồn, làm giàu phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và ý thức chủ

động trong tiếp thu các giá trị tinh hoa nhân loại; Các giải pháp về pháp

luật,chính sách sẽ tạo nên nền tảng pháp lý cho việc bảo tồn, làm giàu, phát

huy các giá trị văn hóa truyền thống và hội nhập quốc tế; Phát huy giá trị văn

hóa truyền thống; Vai trò của người dân, cộng đồng với tư cách là người chủ

bảo tồn, làm giàu, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và hội nhập quốc

tế; Tạo môi trường lành mạnh, thuận lợi cho việc bảo tồn, làm giàu, phát huy

các giá trị văn hóa truyền thống và hội nhập hiện đại...

32

Công trình “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam” [91] của Trần Ngọc

Thêm đã tập hợp nhiều quan điểm về định hướng xây dựng hệ giá trị con

người Việt Nam dưới các góc độ khác nhau. Từ góc nhìn văn hóa, Trần Ngọc

Thêm đã khái quát những kinh nghiệm nghiên cứu và xây dựng hệ giá trị của

nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc... Cũng trong công trình

này, Nguyễn Duy Bắc đưa ra 5 định hướng phát huy giá trị đạo đức truyền

thống trong xây dựng đạo đức cách mạng hiện nay: 1) Nâng cao nhận thức về

tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn và tính cấp thiết của việc giữ gìn và phát huy

các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong xây dựng đạo đức cách

mạng thời kỳ đổi mới. 2) Đẩy mạnh “Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những

đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại” như quan điểm của Đảng. 3) Đẩy

mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng văn hóa trong Đảng, nhằm xây

dựng và hoàn thiện đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên. 4) Kết hợp

đức trị và pháp trị trong xây dựng đạo đức cách mạng. 5) Đẩy mạnh phong trào

học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong công trình “Hệ giá trị con người Việt Nam từ truyền thống đến

hiện đại và con đường tới tương lai” [92], Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một

số”con đường” về hệ giá trị Việt Nam như: Vai trò của hệ thống chính trị và

bối cảnh, mục tiêu của hệ giá trị tương lai; Mô hình hệ giá trị định hướng cốt

lõi toàn diện đối chiếu với năm mục tiêu, bốn đặc trưng và bảy giá trị; Mô hình

hệ giá trị định hướng cốt lõi trọng điểm; Các giá trị xã hội trong mô hình hệ giá

trị định hướng cốt lõi trọng điểm. Về phần giải pháp thực hiện con đường xây

dựng hệ giá trị trong thời gian tới, Trần Ngọc Thêm đã đưa ra năm nhóm giải

pháp: về thể chế, về tổ chức, về giáo dục- tuyên truyền, về phát triển.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra những định

hướng và giải pháp quan trọng trong việc xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam trước và sau đổi mới. Tuy nhiên, khách quan có thể thấy các công trình

nghiên cứu trên phần lớn đưa ra những định hướng và giải pháp thiên về góc

độ văn hóa nhằm bảo tồn, xây dựng và phát huy giá trị truyền thống dân tộc,

33

một số công trình có thêm những giải pháp góp phần định hướng giá trị

truyền thống của con người Việt Nam trước thách thức của xu thế toàn cầu

hóa song những công trình này chưa nhiều. Đặc biệt, còn vắng bóng những

công trình nghiên cứu về định hướng giá trị hướng tới phát triển hệ giá trị con

người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.

1.4. Giá trị của các công trình đã tổng quan và những vấn đề đặt ra

cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ

Giá trị của các công trình nghiên cứu đã tổng quan trong luận án:

Các công trình nghiên cứu nêu trên có những giá trị mà trong quá trình

nghiên cứu tác giả luận án có thể tham khảo và kế thừa, cụ thể:

Một là, các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ trên nhiều phương

diện khái niệm giá trị, hệ giá trị, hội nhập quốc tế. Trong các công trình này,

hầu hết các tác giả đã chỉ rõ vai trò của giá trị, hệ giá trị trong sự phát triển

của xã hội nói chung và sự phát triển con người nói riêng. Nhiều nghiên cứu

phân tích với những minh họa sinh động, công phu về các đặc tính, phẩm

chất, năng lực của con người Việt Nam trong truyền thống và một số những

thay đổi trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, các công trình nghiên cứu nói

trên cũng trình bày những cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế từ đó đặt

ra những yêu cầu mới của hội nhập quốc tế đối với Việt Nam hiện nay.

Những kết quả nghiên cứu đó ít nhiều cung cấp cho tác giả những cơ sở lý

luận về giá trị, hệ giá trị, hệ giá trị con người Việt Nam và hội nhập quốc tế

của Việt Nam.

Hai là, trên cơ sở những nghiên cứu lý luận về giá trị, hệ giá trị, hệ giá

trị con người Việt Nam, các tác giả đã bước đầu trình bày những vấn đề thực

trạng trong nghiên cứu hệ giá trị con người Việt Nam. Trong đó các nghiên

cứu về thực trạng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập

quốc tế tuy không nhiều song bước đầu đã có một số nghiên cứu đặt ra những

vấn đề liên quan, gợi mở nhiều vấn đề cho nghiên cứu sinh thực hiện trong

nghiên cứu này.

34

Ba là, các công trình nghiên cứu cũng đã bước đầu làm rõ quan điểm

của Đảng, Nhà nước ta đối với việc xây dựng và phát triển con người cũng

như những định hướng về hệ giá trị con người Việt Nam. Trong đó có một số

quan điểm, Nghị quyết của Đảng đã chỉ ra những yêu cầu của công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó đề ra một số

định hướng đối với phát triển con người, hệ giá trị con người Việt Nam hiện

nay. Đây là những cơ sở giúp nghiên cứu sinh khái quát, tìm ra những định

hướng giá trị nhằm xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện

hội nhập quốc tế.

Những nội dung mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ

Bên cạnh những giá trị nhất định về mặt khoa học của các công trình

nghiên cứu đã tổng quan nêu trên đối với đề tài luận án, dưới góc độ nghiên

cứu của đề tài luận án, có một số vấn đề cần phải tiếp tục làm sáng tỏ thêm từ

các nghiên cứu như sau:

Một là, hiện nay hầu hết các công trình chưa thống nhất các giá trị cốt

lõi, đặc trưng của con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Hầu

hết các nghiên cứu từ xưa tới nay đồng nhất các giá trị con người với các giá

trị văn hóa. Điều này có cơ sở, bởi vì “nói đến văn hóa là nói đến con người,

không có thứ văn hóa nào không thuộc về con người, không liên hệ gì đến

con người” [85, tr.190]. Tuy vậy, việc nêu ra các giá trị đặc trưng, cốt lõi của

con người Việt Nam một cách thống nhất hiện nay vẫn cần thiết vì từ các giá

trị này chúng ta có những căn cứ về khả năng đáp ứng các yêu cầu hội nhập

quốc tế của con người Việt Nam hiện nay. Từ đó hình thành hệ giá trị con

người Việt Nam thống nhất.

Hai là, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về phát triển con

người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập

quốc tế, tuy vậy những nghiên cứu về những giá trị tiêu biểu và một số vấn đề

đặt ra trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế

hầu như chưa được bàn tới. Trên thực tế, hiện nay ở Việt Nam cần có thêm

35

những nghiên cứu về vấn đề này bởi lẽ đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và

thực tiễn sâu sắc.

Ba là, trong các nghiên cứu của tổng quan đã xuất hiện một số giải

pháp, định hướng về phát triển con người, về định hướng giá trị cho một số

đối tượng cụ thể như: Học sinh, sinh viên, công nhân... Một số các nghiên cứu

đưa ra giải pháp, định hướng về vấn đề bảo vệ các giá trị truyền thống trước

ảnh hưởng của toàn cầu hóa, quốc tế hóa. Tuy nhiên, nghiên cứu về định

hướng giá trị nhằm phát triển hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện

hội nhập quốc tế hầu như chưa được đề cập tới.

Có thể khẳng định, các công trình nghiên cứu đã nêu trong tổng quan

có giá trị khoa học rất lớn đối với luận án. Đó là những cơ sở lý luận quan

trọng gợi mở các vấn đề để tác giả tiếp tục nghiên cứu trong luận án này.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay có rất nhiều vấn đề đặt ra với các

quốc gia, trong đó những vấn đề về con người, hệ giá trị con người vẫn luôn

là một đề tài hấp dẫn, mới mẻ. Sau hơn 30 năm Đổi mới, con người Việt Nam

đã có những bước chuyển biến lớn lao, trong giai đoạn hội nhập quốc tế mạnh

mẽ như hiện nay, con người Việt Nam đứng trước hàng loạt những vấn đề

mới của thực tiễn. Việc nghiên cứu vấn đề xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam hiện nay để từ đó có những định hướng nhằm phát huy sức mạnh cũng

một số hạn chế trong thực trạng xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong

bối cảnh mới. Điều này thực sự là cần thiết. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa các kết

quả nghiên cứu của những người đi trước, tác giả luận án đã chọn vấn đề này

làm đề tài nghiên cứu. Hướng nghiên cứu của đề tài luận án sẽ tập trung giải

quyết một số vấn đề cơ bản sau:

Một là, nghiên cứu làm rõ mặt lý luận về giá trị, hệ giá trị, hệ giá trị

con người Việt Nam và khái quát những giá trị tiêu biểu của con người Việt

Nam truyền thống.

36

Hai là, nghiên cứu làm rõ một số đặc thù của hội nhập quốc tế của Việt

Nam, một số tác động và yêu cầu của hội nhập quốc tế đến vấn đề xây dựng

hệ giá trị con người Việt Nam.

Ba là, phân tích những chuyển biến hệ giá trị con người Việt Nam

trong điều kiện hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra. Từ đó, khái quát các

giá trị con người Việt Nam phù hợp với thực tiễn hội nhập quốc tế.

Bốn là, đề xuất một số định hướng giá trị nhằm phát triển hệ giá trị con

người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.

Nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay để phát huy sức

mạnh con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước,

hội nhập quốc tế là đòi hỏi cần thiết xuất phát từ thực tiễn hiện nay. Thực hiện

đề tài này nghiên cứu sinh mong muốn góp phần vào nhiệm vụ trên.

37

Chương 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ GIÁ TRỊ

CON NGƯỜI VIỆT NAM

2.1. Giá trị, phân loại giá trị

2.1.1. Giá trị

Quan niệm về giá trị ra đời sớm trong lịch sử. Ngay từ thời cổ đại, một

số triết gia ở phương Tây cũng như ở phương Đông bước đầu đã có những

tranh luận sôi nổi các vấn đề liên quan tới giá trị như: cái thiện- cái ác, cái

đẹp- cái xấu, chân lý- sai lầm… Trong đó trục ba giá trị Chân-Thiện- Mỹ luôn

được coi là giá trị tổng quát nhất. Đến thế kỷ XIX, những nghiên cứu về giá

trị tách riêng thành chuyên ngành độc lập với tên gọi là Giá trị học

(Axiology). Cùng với đó, thuật ngữ giá trị cũng chính thức được dùng để chỉ

một khoa học. Axiology hay là Giá trị học về thực chất là nghiên cứu triết học

về bản chất của Giá trị. Và sự xuất hiện của giá trị học trong triết học phương

Tây cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX được ví coi là sự cố gắng giải quyết các

vấn đề phức tạp của triết học - những vấn đề có liên quan đến vấn đề giá trị

nói chung. Trong vài chục năm trở lại đây, khái niệm giá trị được sử dụng

rộng hơn trong nhiều ngành khoa học, vì thế, hiện nay có nhiều cách tiếp cận

khác nhau.

Trong kinh tế học, phạm trù giá trị được dùng một cách đặc thù, gắn với

hàng hóa, giá trị được dùng để chỉ công năng, thuộc tính của vật phẩm khi sản

xuất ra và khi đem ra trao đổi. Và giá trị sử dụng trong kinh tế học phản ánh giá

cả ở nơi mua bán và giá thành ở nơi sản xuất, thể hiện ý nghĩa của quan hệ tiền-

hàng trên phương diện phù hợp với nhu cầu của con người. Trong kinh tế học,

khi nói đến giá trị kinh tế của sự vật thông thường có liên quan mật thiết đến ba

mặt chính yếu là: sản xuất, tiêu thụ, sở hữu của chủ thể kinh tế. Giá trị kinh tế

thể hiện sức mạnh của vật này so với vật khác khi đem ra trao đổi, mua bán. Vì

thế khi vật có giá trị hay vật mang giá trị tức là vật có khả năng đáp ứng được

38

những nhu cầu, lợi ích của người tiêu dùng. Tuy vậy, không nhất thiết vật có

giá trị bao giờ cũng có giá cả cao hơn trên thị trường.

Khi nghiên cứu về về hai thuộc tính của hàng hóa trong nền kinh tế

hàng hóa Tư bản chủ nghĩa, C.Mác sử dụng khái niệm giá trị để phân biệt với

giá trị sử dụng. Giá trị hàng hóa biểu hiện thông qua giá trị trao đổi. Nó biểu

hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì trao đổi hàng

hóa là so sánh lượng hao phí lao động giữa những người sản xuất hàng hóa.

Chất của giá trị là lao động, nên sản phẩm không chứa đựng lao động thì

không có giá trị. Sản phẩm chứa đựng nhiều lao động để tạo ra thì có giá trị

cao. Nhấn mạnh tới giá trị lao động, Mác cho rằng lao động có một sức sản

xuất đặc biệt, hoạt động là một lao động được nhân lên cấp số nhân, hay là

trong một khoảng thời gian như nhau, nó tạo ra một giá trị cao hơn so với một

lao động giá trị trung bình cùng loại. Tuy không đi sâu nghiên cứu về giá trị

và chỉ dùng khái niệm giá trị để phân biệt với giá trị sử dụng trong sản xuất

hàng hóa nhưng bước đầu C.Mác cũng đã đặt vấn đề trong kinh tế học về việc

xem xét giá trị trong mối tương quan giữa vật thể- hàng hóa (khách quan) với

nhu cầu (chủ quan) của con người.

Khuynh hướng phổ biến hơn cả là tiếp cận giá trị trong nghiên cứu Giá

trị học. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này trên thế giới có ba hình thái cơ

bản: Thứ nhất là học thuyết duy tâm - khách quan (Chủ nghĩa Kant mới, M.

Scheler và N. Hartmann, chủ nghĩa Thomas mới, Chủ nghĩa trực giác) kiến

giải giá trị như là bản chất nhiều mặt nằm ngoài không gian và thời gian.

Theo quan niệm của trường phái này thì các giá trị như chân, thiện, mỹ… tồn

tại trước, sẵn có và độc lập với chủ thể con người đánh giá, thực chất họ đã

coi giá trị là đặc tính riêng biệt của chính khách thể nhưng lại phủ nhận tính

tích cực của chủ thể trong việc đánh giá các giá trị. Thứ hai là những người

ủng hộ học thuyết duy tâm chủ quan về giá trị (Chủ nghĩa thực chứng logic,

Chủ nghĩa duy cảm, sự phân tích ngôn ngữ trong đạo đức học, lý thuyết kích

động - bóng chuyền…) thì lại xem xét giá trị chỉ như là những hiện tượng của

ý thức, nhìn nhận ở giá trị sự xuất hiện của các trạng thái tâm lý, các quan hệ

39

chủ quan giữa con người với khách thể được họ đánh giá. Khuynh hướng này

xem xét giá trị không phải từ hiện thực khách quan mà từ ý chí, từ đánh giá

hay nhận thức của chủ thể. Thứ ba là các học thuyết tự nhiên chủ nghĩa về giá

trị (lý thuyết về nhu cầu, đạo đức học tiến hóa, mục đích luận vũ trụ về đạo

đức) kiến giải giá trị như là sự biểu hiện của nhu cầu tự nhiên của con người

hay là các quy luật của tự nhiên nói chung. Xu hướng này được nhiều nhà

triết học nhị nguyên ủng hộ.

Nghiên cứu về bản chất của giá trị, các nhà triết học hậu mácxít xem xét

giá trị trong tính tổng thể của nó. Trong từ điển Triết học do M.Rôdentan và

P.Iudin [86], định nghĩa về giá trị được đưa ra như sau: “Những khẳng định xã

hội đặc biệt về những đối tượng của thế giới xung quanh, biểu hiện các ý nghĩa

tích cực hay tiêu cực của những đối tượng ấy đối với con người và xã hội (hạnh

phúc, lương thiện, cái ác, cái đẹp và cái xấu, thể hiện ra trong các hiện tượng

của đời sống xã hội hoặc của thiên nhiên)” [86, tr.463]. Định nghĩa này cho

thấy, giá trị được xem xét trong sự thống nhất giữa chủ thể và khách thể thông

qua việc đánh giá của chủ thể. Đồng thời cũng cho thấy việc nảy sinh giá trị bắt

nguồn từ chính nhu cầu của con người và đến lượt mình, giá trị góp phần vào

việc định hướng các hoạt động sống của con người.

Ở Việt Nam, trong mấy chục năm trở lại đây, nhiều tác giả đã nghiên

cứu giá trị theo quan điểm của giá trị học. Theo Phạm Minh Hạc: “1.Giá trị là

sản phẩm tinh thần của con người, nhóm người, cộng đồng dân tộc và loài

người làm ra; 2. Giá trị là phẩm giá, phẩm chất của con người, nhóm người,

cộng đồng, dân tộc và loài người; 3. Giá trị là biểu hiện mối quan hệ của con

người dưới góc độ lợi ích, đánh giá đối với tồn tại xung quanh” [36, tr.13].

Trong định nghĩa này, tác giả đã gắn việc nghiên cứu giá trị với hoạt động

tâm lý của con người, đặc biệt là “tính chủ thể”. Tính chủ thể thể hiện ở mục

đích của hoạt động bao giờ cũng hướng đến cái mà mình coi là có giá trị. Khi

đưa ra định nghĩa về giá trị, tác giả cũng đề cập đến thái độ giá trị bởi lẽ, theo

tác giả, giá trị thể hiện sự đánh giá, tìm ra ý nghĩa của sự vật này, sản phẩm kia

mà chủ thể quan tâm tới, có ước muốn đạt được một mục đích nào đấy, đồng

40

thời giá trị bộc lộ thái độ hay hệ thống thái độ của từng người đối với thế giới

xung quanh. Theo ông, cao hơn thái độ, giá trị còn bộc lộ nhân cách của chủ thể.

Tuy không phủ nhận thuộc tính khách quan của giá trị song khi đưa ra định

nghĩa về giá trị, tác giả Phạm Minh Hạc thiên về việc nhấn mạnh dấu ấn chủ thể

trong việc xem xét đánh giá và tìm ra ý nghĩa của sự vật.

Trong công trình “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và

con đường tới tương lai” [92], tác giả Trần Ngọc Thêm quan niệm về giá trị

như sau: “Giá trị là tính chất của khách thể, được chủ thể đánh giá là tính tích

cực xét trong so sánh với các khách thể khác cùng loại trong một bối cảnh

không gian- thời gian cụ thể” [92, tr.39]. Với định nghĩa này, tác giả Trần

Ngọc Thêm đã chỉ ra một số vấn đề khi xem xét giá trị: Thứ nhất, giá trị mang

tính khách quan, bởi vì nói đến giá trị là không thể bỏ qua những thuộc tính,

phẩm chất của bản thân đối tượng đó. Thứ hai, giá trị thể hiện đánh giá, nhận

thức, sở thích, thói quen… của chủ thể đánh giá nên giá trị mang tính chủ

quan. Thứ ba, xem xét giá trị phải đặt trong mối tương quan giữa đối tượng

(khách thể) với chủ thể và quan hệ giữa đối tượng đang được xem xét với các

đối tượng khác cùng loại. Khi đưa ra định nghĩa về giá trị, tác giả Trần Ngọc

Thêm cũng đặt ra yêu cầu không chỉ so sánh giữa các đối tượng được đánh

giá với các đối tượng khác cùng loại mà còn phải “định vị” nó trong tính lịch

sử cụ thể của nó (bối cảnh không gian- thời gian).

Một số các tác giả đồng nhất giá trị với các mặt tích cực, mặt ý nghĩa

của giá trị với sự vận động và phát triển của con người và xã hội. Tiêu biểu

cho hướng này có ý kiến của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn. Theo ông: “Nói

đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là bao

trùm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, hay

nói đến cái khả năng thôi thúc con người hành động nỗ lực vươn tới” [5,

tr.16]. Ông cũng nhấn mạnh khi nghiên cứu giá trị cần phải chú ý đến mặt xã

hội và thực tiễn- lịch sử cụ thể, đến tính nhận thức được noi theo và khả năng

của giá trị thúc đẩy con người hành động nhằm duy trì, bảo vệ hoặc nỗ lực đạt

được giá trị. Như vậy, xét ở một khía cạnh nào đó có thể quan niệm giá trị thể

41

hiện sự đánh giá tích cực của con người với các sự vật, hiện tượng, nó có vai

trò thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Trong thời gian gần đây, một định nghĩa về giá trị của từ điển Bách

khoa triết học Nga được nhiều học giả có sử dụng, nội dung này như

sau: “Giá trị là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu triết học và

xã hội học dùng để chỉ ý nghĩa văn hóa và xã hội của các hiện tượng. Về thực

chất, toàn bộ sự đa dạng của hoạt động người, của các quan hệ xã hội, bao

gồm cả những hiện tượng tự nhiên có liên quan, có thể được thể hiện là các

“giá trị khách quan” với tính cách là khách thể của quan hệ giá trị, nghĩa là,

được đánh giá trong khuôn thước của thiện và ác, chân lý và sai lầm, đẹp và

xấu, được phép và cấm kỵ, chính nghĩa và phi nghĩa, v.v.. Khi định hướng đối

với hoạt động của con người, phương thức và tiêu chuẩn được dùng làm thể

thức đánh giá sẽ định hình trong ý thức xã hội và trong văn hóa thành các “giá

trị chủ quan” (bảng đánh giá, mệnh lệnh và những điều cấm, mục đích và ý

đồ... được thể hiện dưới hình thức các chuẩn mực). Giá trị khách quan và giá

trị chủ quan là hai cực của quan hệ giá trị của con người với thế giới” [86,

tr.732-733]. Trong định nghĩa này, giá trị trước hết mang ý nghĩa văn hóa và

xã hội của các hiện tượng, nghĩa là giá trị không phải là cái gì cao lớn, vĩ đại

hay thấp bé, nó là cái mà con người tìm thấy ý nghĩa của nó trong đời sống

của con người và xã hội loài người. Giá trị là sản phẩm của hoạt động sáng

tạo của con người trong lịch sử, phản ánh trình độ phát triển của xã hội. Giá

trị được kết tinh trong những di sản văn hóa, tinh thần của cộng đồng, dân tộc,

tôn giáo… hình thành nên các chuẩn mực, khuôn mẫu, hành vi được cá nhân

và cộng đồng xã hội thừa nhận, tuân thủ tương đối lâu dài. Thêm nữa, định

nghĩa này cũng đặt ra vấn đề xem xét giá trị trong mối tương quan giữa chủ

thể và khách thể. Cụ thể, trong đời sống xã hội, giá trị khách quan được thể

hiện cụ thể ở các phương diện như thiện và ác, chân lý và sai lầm, đẹp và xấu,

được phép và cấm kỵ, chính nghĩa và phi nghĩa… Giá trị chủ quan được thể

hiện cụ thể qua các bảng đánh giá, mệnh lệnh và những điều cấm, mục đích

và ý đồ….

42

Như vậy, có thể thấy, giá trị là một khái niệm tương đối phức tạp, với

tư cách là một khái niệm khoa học đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau. Trên

cơ sở kế thừa các nghiên cứu đi trước, chúng tôi cho rằng về cơ bản giá trị có

những nội dung như sau:

Thứ nhất, giá trị bao hàm ý nghĩa của sự vật hiện tượng có khả năng

thỏa mãn những nhu cầu tích cực của con người và góp phần thúc đẩy sự phát

triển của xã hội. Sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính, phẩm chất khác nhau,

song khi nói tới giá trị thường bao hàm ý nghĩa tích cực với con người và xã

hội con người.

Thứ hai, giá trị tồn tại trong mối tương quan giữa chủ thể và khách thể.

Tính khách quan của giá trị thể hiện ở chỗ: giá trị nằm trong bản thân mỗi sự

vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Tính chủ quan thể hiện ở sự đánh

giá, xem xét, thừa nhận các giá trị của con người, hay nói cách khác, chính là

sự quan tâm của con người tới thế giới khách quan. Do vậy, không có giá trị

nào chung chung, trừu tượng nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng cũng như

tách rời khỏi những nhu cầu của con người.

Thứ ba, giá trị mang tính lịch sử khách quan nghĩa là sự tồn tại hay mất

đi của mỗi giá trị đều gắn liền với sự tồn tại xã hội sản sinh ra nó, đặc biệt là

hoạt động thực tiễn của con người. Mặc dù giá trị có tính ổn định nhất định,

song sự tồn tại của giá trị không phải là vĩnh viễn, bản thân mỗi giá trị luôn

gắn với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mỗi sự thay đổi của tồn tại

xã hội đều có ảnh hưởng tới thang bậc, vị trí hay sự tồn tại của giá trị. Trong

thực tế có những giá trị tồn tại tương đối ổn định, bền vững, song cũng có

những giá trị bị mất đi khi tồn tại xã hội thay đổi. Do đó, khi xem xét mỗi giá

trị hay các giá trị trong bảng giá trị cần chú ý tới nguyên tắc lịch sử cụ thể.

Thứ tư, giá trị là yếu tố cốt lõi của văn hóa con người, xã hội con

người. Bản thân mỗi giá trị luôn bao hàm những nhu cầu, mong muốn,

nguyện vọng của cá nhân hay nhóm người, cộng đồng người và những

nguyện vọng này có ảnh hưởng rất lớn tới phương thức tư duy của một cộng

đồng, dân tộc. Những đối tượng (nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng) khi

43

được con người lựa chọn thì chúng “không nằm yên, mà nó chỉ đạo con người

hoạt động và để lại những sản phẩm, những hậu quả, những dấu vết dưới dạng

vật chất hay tinh thần” [35, tr.77], tức là hình thành nên cấu trúc văn hóa.

Trên cơ sở các định nghĩa và các quan niệm đã trình bày ở trên, trong

trong luận án này, nghiên cứu sinh xin nêu định nghĩa của mình về khái niệm

giá trị để cấu tạo khung lý thuyết cho nghiên cứu của mình như sau: Giá trị là

một phạm trù triết học dùng để chỉ ý nghĩa của sự vật, hiện tượng, quá trình

của tự nhiên, xã hội và tư duy đối với con người và đời sống con người. Giá

trị chỉ xuất hiện và tồn tại trong mối quan hệ chủ - khách thể của đời sống xã

hội. Giá trị mang tính khách quan khi nó phản ánh hiện thực, tạo thành hệ

thống các giá trị khách quan và mang tính chủ quan, khi nó tồn tại dưới dạng

các giá trị chủ quan, đảm nhận chức năng là chuẩn mực đánh giá và định

hướng đối với hoạt động người.

2.1.2. Phân loại giá trị

Trong nghiên cứu giá trị, tùy theo đối tượng và phạm vi khác nhau mà

có nhiều cách phân loại giá trị khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu văn hóa học,

tác giả Ngô Đức Thịnh trong công trình “Những giá trị văn hóa truyền thống

Việt Nam” [93] phân chia giá trị thành hai loại: Giá trị cá nhân và giá trị xã

hội. Theo ông, giá trị cá nhân cũng là sự biểu hiện của giá trị xã hội vì thông

qua giá trị cá nhân có thể nhận biết được giá trị xã hội. Theo cách phân chia

này chúng ta có thể hiểu như sau: giá trị cá nhân là sự tự ý thức của cá nhân

về các giá trị xã hội. Đó là cách cá nhân xem xét, đánh giá các hiện tượng xã

hội và hình thành nên giá trị cho bản thân mình để phù hợp với xu hướng vận

động, phát triển của xã hội. Giá trị xã hội là những giá trị cơ bản trong xã hội,

nó là sự tổng hợp chọn lọc của nhiều giá trị cá nhân, nhóm người. Các giá trị

cá nhân thường không thể tách biệt hay xung đột với giá trị xã hội, bởi như

C.Mác nói, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội. Tác giả

Trần Ngọc Thêm trong công trình “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến

hiện đại và con đường tới tương lai” [93] cho rằng, hệ giá trị được tạo thành

bởi toàn bộ các giá trị của một khách thể cùng với quan hệ của chúng. Do đó,

44

theo ông, giá trị được phân chia thành các loại như sau: giá trị văn hóa, giá trị

con người, giá trị thực tế, giá trị định hướng và giá trị cốt lõi.

Trong thời gian gần đây, có một số ý kiến đưa ra phân loại giá trị thành

hai loại: các giá trị văn hóa và các giá trị chuẩn mực con người Việt Nam.

Giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa, được sáng tạo và kết tinh trong

quá trình lịch sử. Giá trị văn hóa hướng đến những nhu cầu và khát vọng của

cộng đồng về những điều tốt đẹp (chân, thiện, mỹ), từ đó bồi đắp và nâng cao

bản chất Người. Chính vì vậy mà văn hóa thông qua hệ giá trị góp phần điều

tiết sự phát triển của xã hội. Giá trị con người là những giá trị thể hiện phẩm

chất, đạo đức, năng lực con người; là những đánh giá về con người thông qua

các mối quan hệ với xã hội và với môi trường tự nhiên xung quanh. Trong giá

trị con người, những giá trị mang tính nguyên tắc, trở thành tiêu chuẩn, khuôn

mẫu, được các thành viên trong xã hội thừa nhận để hướng tới thì trở thành

giá trị con người chuẩn mực. Tuy vậy, chúng tôi cho rằng, khó có thể phân

định tách bạch “giá trị văn hóa” và “giá trị con người”, điều này do sự thống

nhất nội tại giữa văn hóa và con người quy định. Bởi lẽ, nói đến văn hóa là

nói đến con người, không có thứ văn hóa nào không thuộc về con người,

không liên hệ gì đến con người. Thêm nữa, giá trị con người không phải là

một thành tố độc lập bên cạnh giá trị văn hóa, ngang hàng với giá trị văn hóa

mà thực chất nó là một bộ phận (mang tính cốt lõi) của giá trị văn hóa, nằm

trong giá trị văn hóa. Do vậy, theo nghiên cứu sinh, không nên tách bạch giá

trị văn hóa và giá trị con người.

Qua tham khảo, tìm hiểu các công trình nghiên cứu và tình hình thực

tiễn ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam, theo chúng tôi, có thể chia giá trị

thành ba bộ phận: giá trị vật chất, giá trị tinh thần và giá trị con người. Trong

đó giá trị vật chất bao gồm sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con

người. Giá trị vật chất hay còn được gọi là giá trị tự nhiên bao gồm môi

trường, phong cảnh, nguồn tài nguyên… Giá trị tinh thần bao gồm những thỏa

mãn tinh thần của con người. Giá trị tinh thần được phân chia thành: giá trị

đạo đức, giá trị khoa học, giá trị thẩm mỹ, giá trị pháp luật, giá trị tôn giáo.

45

Giá trị con người được đánh giá là giá trị cao nhất trong các giá trị, bởi tất cả

giá trị đều do con người làm ra và đều là đối tượng hưởng thụ của con người.

Tuy nhiên, sự phân loại như trên chỉ có tính tương đối vì các giá trị đều có

liên hệ chặt chẽ với nhau, đều góp phần định hướng con người đến những

điều tốt đẹp. Thêm nữa, các giá trị tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với nhu

cầu của con người, nó là sự đánh giá xem xét của chủ thể nhận thức với

những sự vật, hiện tượng hay quá trình có ý nghĩa với sự tồn tại và phát triển

của con người.

2.2. Hệ giá trị và hệ giá trị con người Việt Nam

2.2.1. Hệ giá trị

Từ những năm 70 của thế kỷ XX Milton Rokeach (1918- 1988) đã định

nghĩa hệ giá trị như sau: “Hệ thống giá trị là một tổ chức thông thái (a

learning organization) của các nguyên tắc và quy tắc giúp một người lựa

chọn, giải quyết mâu thuẫn và đưa ra quyết định” [Trích theo 91, tr.49].

Những nghiên cứu về giá trị học của Milton Rokeach có ảnh hưởng tới khá

nhiều nhà nghiên cứu về giá trị trong thế kỷ XX. Quan điểm của ông thiên về

việc xem xét giá trị gắn với hành vi, thái độ của con người trong xã hội nên

khi định nghĩa về hệ giá trị ông chú ý tới nhiều tới mặt chức năng của hệ giá

trị. Chức năng này, theo ông, là giúp chủ thể giải quyết mâu thuẫn và đưa ra

quyết định với các vấn đề của xã hội.

Ở Việt Nam, người có công đề xướng nghiên cứu các vấn đề giá trị, hệ

giá trị là tác giả Phạm Minh Hạc. Ông xác định: “Hệ giá trị là các giá trị của

một tập hợp người như dân tộc, thế giới, vùng, gia đình, bản thân” [36, tr.30].

Bên cạnh định nghĩa trên về hệ giá trị, định nghĩa của tác giả Hồ Sĩ Quý cũng

được nhiều tác giả ở Việt Nam sử dụng. Theo ông, hệ giá trị “được hiểu là

thuật ngữ / khái niệm dùng để chỉ một tập hợp các giá trị, được thể hiện dưới

dạng các phẩm chất, các nguyên tắc, các lý tưởng, và cả các triết lý… định

hướng cho hoạt động của một công ty, một hãng, một doanh nghiệp, một viện

nghiên cứu, một trường đại học, một khách sạn, hay một ngành hoạt động…

thuộc các lĩnh vực thương mại, công nghiệp, dịch vụ, sản xuất và đôi khi cả

46

trong các lĩnh vực thuộc xã hội, giáo dục, quân sự, chính trị, tôn giáo…” [83,

tr.191]. Từ góc độ xem xét giá trị là tính chất của khách thể và sử dụng thuật

ngữ hệ giá trị với nghĩa coi trọng cách thức tổ chức, quan hệ giữa các giá trị

cũng như vị trí của từng giá trị, tác giả Trần Ngọc Thêm cũng đưa ra khái

niệm về hệ giá trị như sau: “Hệ giá trị là toàn bộ các giá trị của một khách thể

trong bối cảnh không gian- thời gian xác định cùng với mạng lưới các mối

quan hệ của chúng” [91, tr.51]. Định nghĩa này của tác giả Trần Ngọc Thêm đã

chỉ rõ một số vấn đề đặc trưng về hệ giá trị như: hệ giá trị phải gắn với một chủ

thể sở hữu cụ thể; Hệ giá trị phải thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu đối với một hệ

thống; hệ giá trị có các mối quan hệ giữa các giá trị; hệ giá trị luôn bị chi phối bởi

bối cảnh không gian- thời gian, chủ thể và thời gian…

Qua tham khảo, tìm hiểu các công trình nghiên cứu và tình hình thực

tiễn ở nước ngoài, có thể thấy một số cách xác định hệ giá trị như sau:

Một là, xác lập một hệ giá trị chung, mang tính phổ quát cao. Loại hệ

giá trị này thường được xem là hệ giá trị quốc gia, hay của liên minh quốc gia,

thậm chí của cả châu lục. Ví dụ, hệ giá trị phương Tây được xác định gồm 7

giá trị cốt lõi: Công bằng và chính nghĩa; Quyền/ Quyền lợi; Bình đẳng; Tự

do; Khoan dung; Tự trị/ Tự lập; Dân chủ. Hệ giá trị châu Âu có 5 giá trị được

coi trọng nhất là: Hòa Bình; Dân chủ; Nhân quyền; Tuân thủ pháp luật; Tinh

thần đoàn kết. Hệ giá trị truyền thống Nhật Bản gồm 8 giá trị: Đoàn kết; Kỷ

luật; Nhẫn nại; Trung thành; Trách nhiệm; Lịch sự; Tự chủ, Tránh làm phiền

người khác, v.v...

Hai là, chia thành 2 loại giá trị: giá trị cá nhân và giá trị xã hội. Theo

D.I.Hitchcock, 6 giá trị xã hội quan trọng nhất của người Mỹ là: Tự do ngôn

luận; Hòa hợp xã hội; Quyền cá nhân;Tự do tranh luận; Suy nghĩ về bản

thân; Quan chức có trách nhiệm và 5 giá trị cá nhân quan trọng nhất: Tự lực

cánh sinh; Thành đạt cá nhân; Cần cù; Thành công trong cuộc sống; Giúp đỡ

mọi người [Trích theo 80, tr.133].Tương tự thì châu Á cũng có các giá trị xã

hội và giá trị cá nhân của mình.

47

Ba là, đưa ra một hệ giá trị chung, nhưng phân thành 3 cấp độ: giá trị

quốc gia, giá trị xã hội và giá trị cá nhân. Năm 2013, Trung Quốc đã công bố

“Hệ giá trị cốt lõi xã hội chủ nghĩa mới” gồm 12 giá trị, nhóm lại theo 3 lĩnh vực:

Lĩnh vực quốc gia có 4 giá trị: thịnh vượng, dân chủ, văn minh, hài hòa; lĩnh vực

xã hội có 4 giá trị: tự do, bình đẳng, công bằng, pháp trị; lĩnh vực cá nhân có 4 giá

trị: yêu nước, trọng nghề, thành tín, thân thiện [Trích theo 105, tr.107].

Kế thừa những quan niệm về hệ giá trị nói trên, chúng tôi cho rằng: Hệ

giá trị là khái niệm dùng để chỉ tập hợp các giá trị của một chủ thể về các đối

tượng cần được nhận thức, đánh giá, sắp xếp, hệ thống hóa theo nguyên tắc

và trình tự nhất định đáp ứng nhu cầu nhận thức, hoạt động của chủ thể đó.

Hệ giá trị thực hiện chức năng thế giới quan và nhân sinh quan định hướng

chủ thể trong hoạt động sống của mình.

Từ cách hiểu này, theo chúng tôi hệ giá trị có một số đặc trưng cơ bản

như sau:

+ Hệ giá trị mang tính lịch sử- cụ thể: Mỗi một giá trị trong hệ thống

giá trị tồn tại, biến đổi luôn gắn với điều kiện lịch sử cụ thể. Do đó, khi đánh

giá, xem xét và nhận diện các hệ giá trị phải đặt chúng vào từng bối cảnh

không gian- thời gian xác định hoặc gắn với một chủ thể nhất định, không có

hệ giá trị chung chung trừu tượng mà hệ giá trị luôn gắn với đối tượng cụ thể,

ví như hệ giá trị Việt Nam, hệ giá trị Trung Quốc, hệ giá trị phương Tây…Và

tất nhiên, những biến đổi của các yếu tố lịch sử xã hội luôn làm cho các hệ giá

trị có những thay đổi nhất định, vì thế ngay trong hệ giá trị có giá trị biến đổi

mạnh, có giá trị biến đổi ít, có những giá trị trường tồn…

+ Hệ giá là tổ hợp các giá trị được sắp xếp một cách hệ thống theo trình

tự nhất định. Như cách của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, hệ giá trị không

phải là sự tập hợp các giá trị một cách “đơn giản và thô thiển”. Trên thực tế,

hệ giá trị của một dân tộc cũng như của mỗi người luôn chịu sự tác động, quy

định của tồn tại xã hội và mang tính lịch sử sâu sắc. Là một hình thái của ý

thức xã hội, bất cứ hệ giá trị nào đều gắn liền với cơ sở kinh tế- xã hội sản

sinh ra nó, có thể xem hệ giá trị như tấm gương phản chiếu xã hội qua các giai

48

đoạn lịch sử. So với các giá trị khác trong hệ giá trị của dân tộc thì giá trị văn

hóa được coi là phần quan trọng nhất, chính vì lẽ này một số người vẫn đồng

nhất hệ giá trị của dân tộc với hệ giá trị văn hóa của nó. Và, trong bản thân

mỗi cơ sở kinh tế- xã hội nhất định luôn diễn ra sự đấu tranh và thống nhất

các giá trị trong hệ giá trị giá. Quá trình này dẫn tới việc chuyển đổi các giá trị

trong hệ giá trị. Việc chuyển đổi các giá trị trong hệ giá trị có thể diễn ra

nhanh hoặc chậm, thông thường nó biến đổi chậm hơn so với sự thay đổi của

tồn tại xã hội. Bản thân các giá trị trong hệ giá trị không phải là sự cố định

vĩnh viễn, nó luôn bị chi phối bởi các bối cảnh không gian-thời gian, lịch sử

văn hóa, sự phát triển kinh tế- xã hội và các mối quan hệ của khách thể. Gắn

với cơ sở kinh tế- xã hội nhất định, song nhìn chung việc chuyển đổi các giá

trị trong hệ giá trị không chỉ được tạo ra do cách mạng xã hội, đôi khi trong

những điều kiện bình thường vẫn có thể dẫn đến sự ra đời những giá trị mới

hoặc thay đổi vị trí giá trị trong hệ giá trị. Bởi lẽ sự tồn tại của giá trị luôn gắn

với nhu cầu của con người, khi nhu cầu thay đổi thì dẫn đến sự chuyển đổi

các giá trị là tất yếu. Chính vì thế, đối chiếu các giá trị trong hệ giá trị qua

từng thời kỳ chúng ta thấy có những giá trị tồn tại lâu dài, có những giá trị

mất đi hoặc có những giá trị bị thay đổi vị trí trong thang bậc của hệ giá trị.

Thông thường sự tồn tại hay mất đi của các giá trị trong hệ giá trị do lợi ích

của các chủ thể xã hội quyết định. Khi những giá trị nào đó phù hợp với lợi

ích của chủ thể xã hội nó được giữ lại, phát triển; ngược lại nó sẽ bị loại bỏ

khi không phù hợp hoặc được điều chỉnh, bổ sung khi chưa phù hợp với lợi

ích của chủ thể xã hội. Do đó, có thể thấy rằng rất khó có thể đo giá trị về mặt

lượng trong từng hệ giá trị, sự đo lường này nếu có chỉ mang tính tương đối.

+ Trong sự phát triển của mỗi dân tộc, hệ giá trị luôn đóng vai trò đặc

biệt quan trọng. Trước hết, hệ giá trị đóng vai trò xác lập bản sắc văn hóa của

tồn tại người trong suốt lịch sử. Bởi lẽ, nhìn vào hệ giá trị, người ta có thể

phân biệt được đặc tính của con người ở mỗi dân tộc khác nhau. Chính bản

sắc văn hóa (bao gồm cả sự tồn tại vật chất và tinh thần) đã quy định đặc tính

nhận diện con người. Vì thế nên hệ giá trị của người Việt hoàn toàn khác với

49

hệ giá trị của người Mỹ, người Nga, người Trung Hoa…Trên thực tế, vai trò

xác lập bản sắc văn hóa của tồn tại người của hệ giá trị được thể hiện khá rõ ở

khía cạnh xác lập thế giới quan và nhân sinh quan của con người, góp phần

phát huy tính tích cực của cá nhân đối với xã hội, xây dựng đạo đức lối sống,

hình thành những phẩm chất tốt đẹp của con người. Về điều này đúng như

Tác giả Phạm Minh Hạc đã nói, “giá trị là cái quy định mục đích của hoạt

động và động cơ thúc đẩy hoạt động đạt được mục đích đó” [36, tr.46]. Nghĩa

là, trong mọi hoạt động của con người sống trong xã hội luôn bị chi phối bởi

các cam kết, quy định và các chuẩn mực giá trị của chính cộng đồng mình,

đồng thời thông qua những chuẩn mực đó, bản sắc riêng của mỗi dân tộc

được nhận diện. Điều này rất quan trọng, bởi lẽ việc giữ gìn bản sắc văn hóa

dân tộc trước những thay đổi của tồn tại xã hội luôn là một thách thức không

nhỏ với nhiều quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Thêm

nữa, hệ giá trị đóng vai trò định hướng hướng sự phát triển của dân tộc, nó

quy định chiều hướng phát triển, những lý tưởng nhu cầu trong tương lai,

những khuôn thước chân- thiện- mỹ… quy định sự phát triển hành vi con

người và của toàn dân tộc. Hệ giá trị trở thành nền tảng tinh thần của mỗi

quốc gia và cao hơn nó là yếu tố cấu thành căn bản, then chốt của văn hóa dân

tộc. Hệ giá trị mang đậm dấu ấn dân tộc sâu sắc, nó được xem là phương thức

thống nhất, kết nối tinh thần đoàn kết, đồng thuận của cộng đồng. Điều này

được minh chứng rõ nhất trong những hoàn cảnh nguy nan, cấp bách hay thời

điểm có tính bước ngoặt của dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, nhiều

dân tộc coi hệ giá trị là “sức mạnh mềm” trong thiết chế xã hội. Vì thế, việc

xây dựng hệ giá trị đúng đắn, phù hợp có tác động thúc đẩy mạnh mẽ đến sự

phát triển không chỉ nhóm xã hội mà còn cả dân tộc, quốc gia đó. Ở những

thời điểm có tính chất bước ngoặt trong lịch sử, thông thường có ảnh hưởng

sâu sắc tới hành vi, thái độ của các thành viên trong cộng đồng. Điều này dẫn

đến có sự thay đổi về hệ giá trị dân tộc. Tuy nhiên, sự thay đổi này không

phải là do bản thân giá trị thay đổi mà do quan niệm về giá trị có sự thay đổi.

Trong nghiên cứu về giá trị học, nhiều học giả đồng thuận với quan điểm cho

rằng sự thay đổi giá trị trong hệ giá trị là do sự thay đổi trong giá trị quan. Giá

50

trị quan được hiểu là “hệ thống các giá trị cá nhân và giá trị xã hội đã định

hình và tạo thành quan điểm, quan niệm, tâm thế... có ý nghĩa nhìn nhận, đánh

giá và định hướng đối với con người và cộng đồng trong quá trình điều chỉnh

cách sống, lối sống và hành vi. Giá trị quan của mỗi cộng đồng được thể hiện

trong tương quan vị trí của từng giá trị trong bảng giá trị; tương quan đó

thường là sản phẩm lâu dài của lịch sử sinh tồn và phát triển của mỗi nền văn

hóa. Giá trị quan của mỗi cộng đồng tồn tại một cách tự nhiên trong mỗi

thành viên cộng đồng; nó chi phối việc xác định ý nghĩa của cuộc sống và ý

nghĩa của sự làm người đối với mỗi thành viên cộng đồng” [80, tr.161]. Khi

giá trị quan thay đổi kéo theo những tư tưởng, quan điểm, sự đánh giá của con

người hay cộng đồng người cũng bị biến đổi, do đó cùng một giá trị nhưng có

thể khác nhau giữa các cộng đồng xã hội trong một thời điểm lịch sử. Sự

chuyển đổi giá trị quan không đồng nghĩa với việc xóa bỏ sạch trơn những giá

trị cũ mà quá trình này diễn ra sự thay đổi trong vị trí sắp xếp các giá trị trong

hệ giá trị hoặc thay đổi trong quan niệm về giá trị hay sự du nhập những giá

trị mới. Trong một số trường hợp các giá trị cũ vẫn được bảo tồn nguyên vẹn

mặc dù có sự thay đổi tồn tại xã hội, ví dụ như giá trị tinh thần kỷ luật của

Nhật Bản hay giá trị yêu nước của Việt Nam.

Trên thực tế, sự vận động và phát triển của bất kỳ xã hội nào cũng luôn

có xu hướng tiến tới chiếm lĩnh các giá trị. Trong xã hội cụ thể với bối cảnh

lịch sử xác định những chuẩn mực xã hội luôn giữ vai trò quan trọng, nó là cơ

sở, “mẫu số chung” cho các hành vi hướng đích, là thước đo đánh giá của xã

hội. Hệ giá trị xã hội một mặt phản ánh trình độ phát triển của cộng đồng, mặt

khác nó phản ánh các mối quan hệ xã hội, nhất là mối quan hệ sản xuất.

Trong hệ giá trị xã hội thì lợi ích kinh tế luôn là giá trị có ảnh hưởng không

nhỏ đến hoạt động của các thành viên, điều này có thể dẫn đến sự xung đột,

mâu thuẫn vì lợi ích (mâu thuẫn giai cấp). Vì thế, việc xây dựng hệ giá trị phù

hợp đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của cộng đồng xã hội, nếu hệ

giá trị ổn định thì xã hội sẽ phát triển, ngược lại khi hệ giá trị rối loạn thì xã

hội đương nhiên là bất ổn, rối ren.

51

2.2.2. Hệ giá trị con người Việt Nam

Trong quá trình hình thành và phát triển, hầu hết các dân tộc trên thế giới

đều xây dựng cho mình hệ những giá trị đặc trưng. Điều này không có nghĩa là

những giá trị đó chỉ bao hàm mặt tốt mà không có những hạn chế nếu nhìn từ

dân tộc khác nhau hoặc hệ quy chiếu khác. Hệ giá trị của một quốc gia càng

không phải là tập hợp ngẫu nhiên hay phép cộng các giá trị. Mỗi giá trị của dân

tộc là sự kết tinh năng lực, phẩm chất, tư duy mang đậm nét tính cách của cộng

đồng đó, thể hiện năng lực và tính cách của dân tộc.

Hiện nay, đang có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm hệ giá trị văn

hóa và hệ giá trị con người Việt Nam. Một số ý kiến cho rằng, hai hệ giá trị

này là một, còn một số ý kiến lại cho rằng hai hệ giá trị đó khác nhau nhưng

có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời. Về điều này chúng tôi đồng ý với

quan niệm của tác giả Trần Ngọc Thêm khi ông cho rằng, “giá trị con người

không phải là thành tố độc lập bên cạnh giá trị văn hóa, ngang hàng với giá trị

văn hóa. Nó chỉ là một bộ phận của giá trị văn hóa, nằm trong giá trị văn hóa,

được bao hàm trong nó” [92, tr.58]. Trong mối quan hệ giữa hệ giá trị văn hóa

và hệ giá trị con người về đại thể có thể phân biệt như sau: Giá trị văn hóa là

yếu tố cốt lõi của văn hóa, được sáng tạo và kết tinh trong quá trình lịch sử.

Giá trị văn hóa hướng đến những nhu cầu và khát vọng của cộng đồng về

những điều tốt đẹp (chân, thiện, mỹ), từ đó bồi đắp và nâng cao bản chất

Người. Trong giá trị con người, những giá trị mang tính nguyên tắc, trở thành

tiêu chuẩn, khuôn mẫu, được các thành viên trong xã hội thừa nhận để hướng

tới thì trở thành giá trị con người chuẩn mực.

Trong nghiên cứu về hệ giá trị nói chung, và hệ giá trị con người Việt

Nam nói riêng, có thể nói, cho đến nay, khái niệm hệ giá trị con người Việt

Nam cũng chưa có sự thống nhất với tính cách là khái niệm khoa học chặt

chẽ. Ngay cả việc sử dụng tên gọi cho khái niệm này cũng còn có sự khác

nhau nhất định giữa các tác giả. Ví như tác giả Trần Văn Giàu dùng tên gọi

“Các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam”, tác giả Phan Ngọc gọi tên

“Các giá trị cốt lõi tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam”, tác giả Trần

52

Ngọc thêm dùng “Hệ giá trị Việt Nam”, tác giả Lương Đình Hải dùng tên gọi

“Bảng giá trị Việt”.

Trong luận án này, trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu về hệ giá trị, hệ

giá trị con người Việt Nam của các học giả đi trước, chúng tôi cho rằng về cơ

bản có thể hiểu hệ giá trị con người Việt Nam là bảng tập hợp các giá trị sống

(tồn tại và phát triển) của con người Việt Nam gắn liền với lịch sử dài lâu của

sự tồn tại và phát triển quốc gia, dân tộc, đất nước. Với tính cách là hệ giá

trị, bảng tập hợp các giá trị người Việt, hệ giá trị con người Việt Nam (giá trị

hàng đầu, giá trị lý tưởng, giá trị sống còn…) đều là những giá trị tồn tại

xuyên qua các thế hệ, kế tiếp nhau hiện diện trong các thế hệ người Việt phản

ánh phương thức sống, ý thức và tâm lý cộng đồng, thái độ và trách nhiệm xã

hội của con người các thế hệ. Là bảng tổ hợp mọi giá trị sống của con người

Việt Nam, hệ giá trị con người Việt Nam đương nhiên cũng bao hàm trong nó

hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị đạo đức…

Hệ giá trị nói chung của bất cứ dân tộc nào đều có quá trình vận động

từ truyền thống tới hiện đại, hệ giá trị sau được kế thừa, bổ sung và hoàn thiện

từ hệ giá trị trước. Hệ giá trị người Việt cũng không phải là trường hợp ngoại

lệ. Trong đó, các giá trị truyền thống của người Việt chịu sự chi phối sân sắc

của tồn tại xã hội Việt Nam, các giá trị này được cũng bắt nguồn và kết tinh

từ lịch sử hàng nghìn năm chiến đấu chống lại các loại quân xâm lược cực kỳ

hung bạo và xây dựng đất nước trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc

nghiệt. Những nét đặc thù của xã hội Việt Nam truyền thống của nền sản xuất

nông nghiệp lúa nước, với sự phát triển văn hóa dân tộc và bề dày lịch sử có

ảnh hưởng sâu sắc tới hệ giá trị người Việt truyền thống. Về điều này, tác giả

Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang trong nghiên cứu về xã hội truyền thống Việt

Nam đã khẳng định rằng: “những căn tính nông dân, những đặc trưng của một

xã hội nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến tất cả mọi truyền thống Việt Nam”

[28, tr.12]. Nét đặc thù này đã tạo ra những nét đặc sắc, riêng biệt của hệ giá

trị người Việt truyền thống so với các giai đoạn về sau.

53

Trên cơ sở những nghiên cứu của các học giả đi trước, có thể khái quát

một số giá trị tiêu biểu của người Việt truyền thống bao gồm: Tinh thần yêu

nước, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, cần cù chịu đựng gian khổ, tinh thần

hiếu học.

Tinh thần yêu nước là tình cảm hết sức tự nhiên của mỗi con người,

mỗi thành viên trong bất kỳ một cộng đồng xã hội nào cũng có, song với

người Việt Nam, tinh thần yêu nước được xem là giá trị hàng đầu trong thang

bậc hệ giá trị. Giá trị này được nhắc tới trong hầu hết các nghiên cứu về con

người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Tác giả Trần Văn Giàu trong nghiên cứu

“Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” đã khẳng định, tinh

thần yêu nước là “tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, dân tộc Việt

Nam” [29, tr.100], nó chi phối suy nghĩ, cách ứng xử, hành động của con

người Việt Nam và sản sinh ra nhiều giá trị văn hóa Việt Nam. Chính vì lẽ đó,

tinh thần yêu nước luôn được xem là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt từ truyền thống

đến hiện đại trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Tình yêu đất nước của người

Việt truyền thống được bắt nguồn từ sự cố kết cộng đồng trong lao động sản

xuất, từ tình cảm gắn bó gia đình, làng xã, quê hương. Sự gắn bó này dần dần

trở thành nhu cầu sinh tồn trong đời sống người Việt, khi Tổ quốc bị xâm

lăng, tình yêu đất nước, dân tộc được chuyển hóa thành chủ nghĩa yêu nước.

Tinh thần yêu nước luôn được xem là giá trị cao nhất trong thang bậc các giá

trị truyền thống của dân tộc, là “tiêu điểm của giá trị” trong hệ giá trị người

Việt truyền thống. Sinh thời Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta có một

lòng nồng nàn yêu nước”, đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta.

Lòng nhân ái là một trong những giá trị truyền thống căn bản của người

Việt Nam. Chịu ảnh hưởng bởi triết lý nhân sinh của Phật giáo và quan niệm

“nhân” của Nho giáo khi du nhập vào Việt Nam, lòng nhân ái ngày càng trở

thành giá trị truyền thống đậm nét mang đặc trưng riêng của người Việt

truyền thống. Lòng nhân ái được thể hiện qua nếp nghĩ, hành động, lời răn

dạy rất đỗi tự nhiên trong ứng xử các mối quan hệ từ gia đình, dòng họ, làng

xóm. Những quan niệm như: “nhường cơm sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”,

54

“thương người như thể thương thân”... đã sớm in đậm trong đời sống cộng

đồng người Việt. Hiếm có dân tộc nào, lòng nhân ái đi liền với sự bao dung,

khoan hồng mở đường cho người lầm lạc như người Việt, bởi lẽ người Việt

vẫn luôn nhắc nhở nhau rằng: “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người

chạy lại”. Lòng nhân ái được xem là gốc rễ đạo đức căn bản trong việc đánh

giá, xem xét con người của người Việt truyền thống, từ đây khởi nguồn cho

tình yêu đất nước, sự cố kết gắn bó của cộng đồng người Việt.

Tinh thần đoàn kết của người Việt bắt nguồn từ đặc thù sản xuất nông

nghiệp, cải tạo thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Với đặc trưng cơ bản

của nền sản xuất nông nghiệp, đoàn kết, tương trợ giữa các cá nhân trong

cộng đồng là một điều tất yếu cho sự phát triển. Tác giả Vũ Minh Giang khi

nghiên cứu về xã hội Việt Nam truyền thống đã khẳng định: “Những đặc

điểm này của sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành

các truyền thống. Đoàn kết, tương trợ nhau và nguyên tắc cá nhân tồn tại trong

sự phụ thuộc vào cộng đồng dần trở thành một tập tục có cơ chế kinh tế- xã hội

đảm bảo” [28, tr.17]. Xuất phát từ những đặc trưng này, từ rất sớm người Việt đã

có quan niệm “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Tinh thần đoàn kết đã trở

thành giá trị đặc trưng cơ bản của người Việt, nó đi vào cuộc sống của người

Việt truyền thống như là một lẽ sống tự nhiên. Tinh thần đoàn kết trở thành

nguồn sức mạnh to lớn giúp người Việt vượt qua khó khăn về thiên tai, địch họa,

ổn định xã tắc. Tinh thần đoàn kết trở thành giá trị quý báu trong truyền thống

của dân tộc Việt Nam, là giá trị rất tiêu biểu của người Việt Nam.

Cần cù chịu đựng gian khổ là giá trị nổi trội của người Việt. Trong

nghiên cứu của mình, tác giả Trần Văn Giàu khẳng định: “Không ai chối cãi

rằng nhân dân Việt Nam rất cần cù. Có người quan sát nước ngoài đến Việt

Nam, chú ý mọi cơ năng của con người Việt Nam đều được dùng để làm việc:

đầu đội, vai gánh, lưng cõng, tay nhanh nhẹn và khéo léo, chân chạy như

bay…Người quan sát nước ngoài cũng thấy hàng ngàn cây số đê điều, các đê

cộng lại dài như vạn lý trường thành… Người quan sát nước ngoài lại thấy

ruộng nước như bàn cờ, cấy hái công phu kỹ lưỡng… mưa dầm, nắng cháy,

55

giá lạnh, lúc nào cũng thấy con người đội trời, chân trong nước ở đồng ruộng”

[29, tr.153]. Học giả Nguyễn Văn Huyên cũng từng nhận xét trong cuốn “Văn

minh Việt Nam” [45] rằng: Chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù

như vậy. Khả năng chịu đựng của họ rất cao, ít kêu ca về nỗi đau đớn của mình.

Nói về đức tính cần cù chịu đựng gian khổ của người Việt, sinh thời Hồ Chí

Minh đã viết: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời

chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh

qua nhiều năm chiến tranh” [62, tr.17]. Đây có thể coi là giá trị khá nổi trội của

người Việt truyền thống.

Tinh thần hiếu học cũng là một trong những giá trị tiêu biểu của con

người Việt Nam truyền thống. Ở người Việt, tinh thần hiếu học bắt nguồn từ

nhu cầu trau dồi tri thức, chinh phục tự nhiên. Về sau, khi tư tưởng giáo dục

Nho giáo du nhập vào Việt Nam càng làm củng cố và phát triển thêm lòng hiếu

học của người Việt truyền thống. Ngay từ rất sớm nhà nước phong kiến Việt

Nam đặc biệt coi trọng đề cao người có tri thức, với quan niệm “hiền tài là

nguyên khí của quốc gia”, hàng năm các khoa thi ngày càng được mở rộng.

Trong xã hội, người thầy là hình ảnh tiêu biểu cho người có tri thức luôn

được mọi người kính trọng bởi lẽ người Việt truyền thống quan niệm rằng:

“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Lòng hiếu học, chuộng người hiền tài của

người Việt truyền thống còn được thể hiện trong việc đánh giá thang bậc vị

trí xã hội, trong đó kẻ sĩ (người có học) được xếp đứng đầu: Sĩ, nông, công,

thương. Hiếm có một dân tộc nào coi giáo dục đóng vai trò quyết định vào

sự tiến bộ như người Việt, chính vì thế ngay từ truyền thống, người Việt đặc

biệt đề cao giá trị hiếu học và luôn có ý thức giữ gìn phát triển giá trị này cho

con cháu về sau.

Có thể thấy việc khái quát các giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam

truyền thống tùy theo góc độ xem xét mà có cách phân chia và hệ thống khác

nhau. Trong nghiên cứu trên, các giá trị được khái quát, lựa chọn trong tập hợp

các giá trị tiêu biểu về con người Việt Nam truyền thống dựa trên một số cơ sở,

nguyên tắc như sau: Thứ nhất, các giá trị được khái quát này đã phản ánh rõ nét

56

đặc thù về lịch sử, về xã hội, về con người Việt Nam truyền thống. Mỗi giá trị

tiêu biểu của con người Việt Nam truyền thống được lựa chọn là một thành tố

của ý thức xã hội, nó phản ảnh cái lôgíc khách quan của tồn tại xã hội Việt

Nam truyền thống: đó là một xã hội dựa trên nền sản xuất nông nghiệp lúa

nước với sự phát triển văn hóa dân tộc và bề dày lịch sử đấu tranh dựng nước

và giữ nước. Thứ hai, các giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam truyền

thống được khái quát về cơ bản mang tính ổn định, bền vững theo tiến trình

phát triển của lịch sử dân tộc. Tính ổn định của các giá trị này không phải là

nhất thành, bất biến mà cũng vận động, biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch

sử. Thứ ba, các giá trị lựa chọn trong tập hợp các giá trị tiêu biểu này không

chỉ mang ý nghĩa trong xã hội truyền thống mà các giá trị này hiện nay nó vẫn

hiện diện và ảnh hưởng tích cực đối với con người Việt Nam, xã hội Việt

Nam. Có thể lấy hiếu học là một giá trị để ví dụ, từ trong truyền thống người

Việt rất hiếu học và luôn coi trọng giá trị này. Trên thực tế, giá trị này đã góp

phần khuyến khích, thôi thúc người Việt không ngừng học, phấn đấu từ trong

học tập đến lao động sản xuất và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Các

giá trị tiêu biểu khác được khái quát như: tinh thần yêu nước, lòng nhân ái,

tinh thần đoàn kết… đều mang lại ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay. Thứ tư,

các giá trị tiêu tiêu biểu được khái quát trong nghiên cứu của luận án dựa trên

cơ sở chọn lựa từ các nghiên cứu của các học giả uy tín, các nhà khoa học

chuyên sâu về vấn đề này. Trong đó, có thể kể tới các học giả tiền bối như

Đào Duy Anh, Trần Văn Giầu, Nguyễn Văn Huyên… cho tới các học giả về

sau như Ngô Đức Thịnh, Trần Ngọc Thêm… đều lựa chọn, xem xét các giá trị

như: tinh thần yêu nước, cần cù, hiếu học… trong tập hợp các giá trị người

Việt truyền thống. Các giá trị này tiếp tục được phản ánh, đánh giá trong các

văn kiện, chủ trương của Đảng và Nhà nước về con người Việt Nam và xem

xét trong quá trình xây dựng hệ giá trị chuẩn con người Việt Nam hiện nay.

Về khách quan, có thể thấy, các giá trị tiêu biểu của con người Việt

Nam truyền thống ở trên không phải tồn tại duy nhất tồn tại ở con người Việt

Nam, chúng ta có thể tìm thấy trong nhiều dân tộc khác như lời nhận xét của

57

tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn: “Điều đó cũng thật dễ hiểu. Bởi vì, trong cái

dân tộc bao giờ cũng có cái nhân loại và cái dân tộc không bao giờ nằm ngoài

cái nhân loại” [5, tr.11]. Song, nhìn chung có thể thấy khá rõ, xã hội Việt Nam

truyền thống với những nét riêng biệt về điều kiện tự nhiên, văn hóa, lịch sử là

những yếu tố làm nên những giá trị con người “rất Việt Nam”. Các giá trị con

người Việt Nam truyền thống được hình thành trong điều kiện cụ thể của Việt

Nam qua hàng ngàn năm lịch sử, mang đậm nét đặc trưng của sự phát triển xã hội

Việt Nam. Chính vì thế theo dòng thời gian, các giá trị truyền thống ngày càng

được bổ sung hoàn thiện và lưu truyền cho các thế hệ về sau của dân tộc Việt, nó

góp phần tạo nên sức mạnh dân tộc và bản sắc con người Việt Nam.

Trên cơ sở nghiên cứu các giá trị tiêu biểu của người Việt truyền thống,

chúng ta có thể thấy một số điểm nổi bật như sau:

Thứ nhất, các giá trị nêu trên của con người Việt Nam truyền thống hoàn

toàn có thể nhận thấy, bắt gặp ở dân tộc này hay dân tộc khác chứ không phải duy

nhất tồn tại ở Việt Nam. Tuy nhiên, với dân tộc Việt Nam, các giá trị này là những

giá trị tiêu biểu đứng đầu bảng giá trị. Trong đó các giá trị đạo đức chiếm vị trí nổi

bật, giá trị tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc được khẳng định là giá trị cốt lõi,

là “tiêu điểm của giá trị” giữ vai trò định hướng các giá trị khác.

Thứ hai, các giá trị này trong hệ giá trị con người Việt Nam truyền

thống có mối quan hệ trong sự tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại

độc lập, riêng rẽ. Ví dụ, giá trị đoàn kết tạo thành sức mạnh cộng đồng trong

quá trình dựng nước và giữ nước, đó cũng là biểu hiện của lòng yêu nước,

tinh thần dân tộc. Hay lòng nhân ái, thương yêu con người cũng biểu hiện ở

tình đoàn kết cộng đồng tạo thành sức mạnh chống lại kẻ thù xâm lược...

Thứ ba, các giá trị con người Việt Nam truyền thống được hình thành

trong điều kiện cụ thể của Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử, mang đậm

nét đặc trưng của sự phát triển xã hội Việt Nam. Chính vì thế theo dòng thời

gian, các giá trị truyền thống ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và lưu

truyền cho các thế hệ về sau của dân tộc Việt, nó góp phần tạo nên sức mạnh

dân tộc và bản sắc con người Việt Nam.

58

Tiểu kết chương 2

Trong lịch sử, những nghiên cứu về giá trị ra đời khá sớm, tuy vậy, cho

đến nay quan niệm thống nhất với tính cách là một khái niệm khoa học chặt

chẽ, chính xác vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Trên cơ sở kế thừa các quan

niệm về giá trị từ các học giả đi trước, có thể hiểu giá trị là một phạm trù triết

học, dùng để chỉ ý nghĩa của sự vật, hiện tượng, quá trình của tự nhiên, xã

hội và tư duy đối với con người và đời sống con người. Giá trị trong mối quan

hệ chủ- khách thể, giá trị vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan,

tạo thành hệ thống các giá trị khách quan và các giá trị chủ quan, là kết quả

của hoạt động sống đồng thời cũng là phương thức định hướng cơ bản đối

với hoạt động của con người. Với cách hiểu như vậy, giá trị có một số nội

dung cơ bản như sau: 1/ Giá trị bao hàm ý nghĩa của sự vật, hiện tượng có khả

năng thỏa mãn những nhu cầu tích cực của con người và góp phần thúc đẩy

sự phát triển của xã hội. 2/ Giá trị tồn tại trong mối tương quan giữa chủ thể

và khách thể. 3/ Giá trị mang tính lịch sử khách quan. 4/ Giá trị là yếu tố cốt

lõi của văn hóa con người, xã hội con người.

Trong nghiên cứu về giá trị, tùy theo đối tượng và phạm vi nghiên cứu

khác nhau việc phân loại các giá trị hiện nay cũng có nhiều ý kiến khác nhau.

Qua tham khảo, tìm hiểu các công trình nghiên cứu và tình hình thực tiễn ở

nước ngoài cũng như ở Việt Nam, theo chúng tôi, có thể chia giá trị thành ba bộ

phận: giá trị vật chất, giá trị tinh thần và giá trị con người. Trong đó, giá trị con

người được đánh giá là giá trị cao nhất trong các giá trị, bởi tất cả giá trị đều do

con người làm ra và đều là đối tượng hưởng thụ của con người. Tuy nhiên, sự

phân loại như trên chỉ có tính tương đối vì các giá trị đều có liên hệ chặt chẽ với

nhau, đều góp phần định hướng con người đến những điều tốt đẹp.

Giá trị là một thuật ngữ có từ sớm nhưng đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ

20 mới được sử dụng với tính cách là phạm trù triết học thì dùng để chỉ ý

nghĩa của sự vật, hiện tượng, quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy đối với

con người và đời sống con người. Giá trị cũng mang tính khách quan vì nó

trước hết là phản ánh hiện thực, tạo thành hệ thống các giá trị khách quan.

59

Tuy nhiên giá trị lại chỉ là sản phẩm của đầu óc con người và luôn luôn đảm

nhận chức năng là chuẩn mực đánh giá và định hướng đối với hoạt động

người, nên mang đậm tính chất chủ quan, khi nó tồn tại dưới dạng các giá trị

chủ quan.

Với hệ giá trị con người Việt Nam, đó là bảng tập hợp các giá trị của

quá trình tồn tại và phát triển của con người Việt Nam gắn liền với lịch sử dài

lâu của sự tồn tại và phát triển quốc gia, dân tộc, đất nước. Với tính cách là hệ

giá trị, bảng tập hợp các giá trị hàng đầu, giá trị lý tưởng, giá trị sống còn…

của người Việt đều là những giá trị đã tồn tại xuyên qua các thế hệ kế tiếp

nhau phản ánh phương thức sống, ý thức và tâm lý cộng đồng, thái độ và

trách nhiệm xã hội của con người Việt Nam từ trong lịch sử đến tận ngày nay.

Hệ giá trị con người Việt Nam đương nhiên cũng bao hàm trong nó hệ giá trị

văn hóa, hệ giá trị đạo đức…

Về các giá trị truyền thống tiêu biểu của người Việt, lịch sử nghiên cứu

hơn 100 năm qua cho thấy hầu hết các học giả có sự tương đồng trong việc

khẳng định giá trị người Việt, bao gồm: Tinh thần yêu nước, lòng nhân ái,

tinh thần đoàn kết, cần cù yêu lao động, chịu đựng gian khổ, hiếu học... Các

giá trị này đứng hàng đầu trong bảng giá trị người Việt, thể hiện vị trí ưu tiên

phản ánh đậm nét đặc thù của tồn tại xã hội trong lịch sử Việt Nam. Không

duy nhất chỉ tồn tại ở xã hội Việt Nam, nhưng đối với Việt Nam, các giá trị

này là tiêu biểu, được các thế hệ người Việt ưu tiên lựa chọn để xếp vào vị trí

đầu bảng giá trị, đóng vai trò là cơ sở và là định hướng cho mọi hoạt động của

con người trong sự tồn tại, phát triển của xã hội Việt Nam trước đây cũng như

hiện nay. Trước bối cảnh mới của thời đại, đặc biệt trước những tác động

mạnh mẽ của hội nhập quốc tế, các giá trị truyền thống tiêu biểu của con

người Việt Nam đương nhiên cũng có những chuyển biến tương đối mạnh và

rõ. Trong sự tác động của hội nhập quốc tế, một số giá trị thể hiện được sức

sống mãnh liệt của chúng. Song thách thức đặt ra đối với hệ giá trị truyền

thống người Việt cũng không hề nhỏ và đơn giản.

60

Chương 3

HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN

HỘI NHẬP QUỐC TẾ

3.1. Hội nhập quốc tế của Việt Nam, những tác động và yêu cầu của

hội nhập quốc tế với với hệ giá trị con người Việt Nam

3.1.1. Hội nhập quốc tế

Hội nhập (Integration) là thuật ngữ được sử dụng nhiều ở nước ta từ

giữa thập niên 1990 trở lại đây trong bối cảnh nước ta thúc đẩy mạnh mẽ

chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc

tế, mà đầu tiên là gia nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do

AFTAvà các thể chế kinh tế quốc tế khác.

Nội dung của “Hội nhập quốc tế” lúc đầu được sử dụng với hàm nghĩa

rộng hơn trong các thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế”, “liên kết kinh tế

quốc tế” và “nhất thể hóa kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra đều có

nội dung phái sinh từ “International Economic Integration” (hội nhập kinh tế

quốc tế). Chỉ sau một thời gian ngắn, nội dung kinh tế của hội nhập đã gắn rất

chặt với các nội dung chính trị, xã hội và liên kết khác. Từ đó “hội nhập quốc

tế ” được sử dụng phổ biến hơn. Thậm chí, đôi khi trong các diễn đàn, người

ta chỉ gọi ngắn gọn là “hội nhập”.

Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích: “hội nhập” là “sự liên kết các

nền kinh tế với nhau... Các nền kinh tế khác nhau thực hiện sự hội nhập thông

qua hoạt động mậu dịch và hợp tác chính sách và biện pháp kinh tế. Cách giải

thích này xem xét hội nhập từ góc độ kinh tế. Theo nhà nghiên cứu Ngô Đức

Thịnh, “hội nhập (integration) để chỉ một quá trình mà một thực thể riêng lẻ

nào đó tham gia, hòa nhập vào một thực thể hay một quá trình rộng lớn hơn.

Khái niệm này được dùng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như hội nhập kinh

tế, hội nhập chính trị, hội nhập văn hóa…” [93, tr.254].

Một cách giải thích khác trong từ điển tiếng Việt về hội nhập như sau:

Hội nhập là sự “tham gia vào một cộng đồng để cùng hoạt động và phát triển

61

với cộng đồng ấy (thường nói về quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia)” [72,

tr.711]. Có thể thấy, trong nghiên cứu học thuật cũng như trong thực tiễn đời

sống kinh tế- xã hội hiện nay thuật ngữ hội nhập được sử dụng khá phổ biến

và cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Về cơ bản có thể hiểu hội nhập là một

khái niệm chỉ sự tham gia vào nhóm, cộng đồng khác nhau trong quá trình tồn

tại và chung sống. Đây là một quá trình trong đó một quốc gia dù muốn hay

không muốn cũng phải tham gia vào trật tự toàn cầu của đời sống kinh tế - xã

hội thế giới. Trong quá trình này nhiều quốc gia chủ động hoặc bị động tham

gia hội nhập vào thể chế quốc tế.

Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, kỹ

thuật đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa

các quốc gia. Với sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng được quốc tế

hoá khiến cho sự liên kết giữa các dân tộc trên thế giới ngày càng được mở rộng

hơn. Quá trình hội nhập đang ngày càng diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ trong các lĩnh

vực của đời sống xã hội của các quốc gia- dân tộc, vì thế hội nhập trở thành một

xu thế tất yếu, phổ biến của thế giới đương đại.

Hội nhập quốc tế (international integration) là thuật ngữ ban đầu được

sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực chính trị và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng

giữa thế kỷ XX ở châu Âu. Tuy nhiên, ngày nay nó đang được sử dụng rộng

rãi hơn trên nhiều lĩnh vực, nhiều khách thể và đối tượng khác nhau.

Ở Việt Nam, trong học thuật cũng như trong thực tiễn đời sống xã hội

có nhiều cách hiểu và cách tiếp cận về hội nhập quốc tế. Về cơ bản, hiện nay

trong nghiên cứu ở nước ta đang tồn tại ba cách tiếp cận chủ yếu về khái niệm

“hội nhập quốc tế” có thể khái quát như sau: Cách tiếp cận thứ nhất cho rằng

hội nhập quốc tế là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản phẩm

đó là sự hình thành một nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ,

mục đích để đánh giá sự liên kết. Những người theo trường phái này quan tâm

chủ yếu tới các khía cạnh luật định và thể chế. Cách tiếp cận thứ hai, xem hội

nhập quốc tế trước hết là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các

luồng giao lưu như thương mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn

62

hóa…từ đó hình thành dần các cộng đồng an ninh (security community).

Theo cách tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập vừa là một quá trình vừa là

một sản phẩm cuối cùng. Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập quốc tế dưới

góc độ là hiện tượng/ hành vi các nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ

hợp tác với nhau trên cơ sở phân công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào

lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo đuổi. Mỗi cách tiếp cận có ưu điểm và

hạn chế riêng, tuy nhiên cách tiếp cận thứ hai xem xét hội nhập quốc tế với tư

cách vừa là sản phẩm vừa là quá trình hiện nay được nhiều nhà nghiên cứu

tán thành hơn cả.

Trên cơ sở kế thừa quan niệm của các học giả đi trước, có thể khái

quát, hội nhập quốc tế là quá trình tham gia một cách chủ động hoặc bị động

của các quốc gia - dân tộc vào đời sống quốc tế thời toàn cầu hóa. Thực chất

của quá trình hội nhập quốc tế là các quốc gia - dân tộc chấp nhận các tiêu

chuẩn, các định chế quốc tế mà trước hết là các định chế về kinh tế, về quan hệ

quốc tế và về các lĩnh vực khác có liên quan, kể cả chính trị. Khi chấp nhận hội

nhập quốc tế, các quốc gia - dân tộc tham gia cũng ít nhiều có quyền xây dựng

các chuẩn mực chung trong khuôn khổ các định chế quốc tế nhằm khai thác

hiệu quả những lợi thế quốc gia và lợi thế quốc tế cho sự phát triển của quốc

gia- dân tộc. Về cơ bản hội nhập quốc tế có những đặc điểm như sau:

Thứ nhất, hội nhập quốc tế là một tiến trình liên tục chịu sự ràng buộc

xuyên quốc gia trong quan hệ hợp tác giữa các nước. Đây là một quá trình có

tính chất và phạm vi vô cùng phức tạp, nó có thể diễn ra trên từng lĩnh vực

của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục,

y tế...), nhưng cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất

(tức là mức độ gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức

(song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau. Do

tính chất và phạm vi ngày càng có diễn biến phức tạp nên chưa có quốc gia

nào tuyên bố đã hoàn thành xong quá trình hội nhập quốc tế.

Thứ hai, hội nhập quốc tế là quá trình các quốc gia tham gia vào đời

sống quốc tế với việc chấp nhận các tiêu chuẩn và định chế quốc tế. Trên thực

63

tế có một số hoạt động hợp tác quốc tế như trao đổi, tham vấn, phối hợp, đầu

tư… cũng có mối giao thoa giữa các nước song bản chất của hội nhập quốc tế

không giống các hoạt động này. Bởi lẽ, với việc chấp nhận các tiêu chuẩn và

định chế quốc tế, các quốc gia tham gia hội nhập quốc tế thể hiện sự hội nhập

ở trình độ cao hơn. Quá trình này không giống với trào lưu quốc tế trước kia

mà khi tham gia các định chế quốc tế đòi hỏi các quốc gia phải tham gia tích

cực hơn, tham gia có trách nhiệm vào cộng đồng quốc tế.

Thứ ba, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan nhưng quyết định tham

gia hội nhập của các quốc gia lại mang tính chủ quan. Trong quá trình này có

những quốc gia tham gia tích cực, chủ động vào đời sống quốc tế song cũng

có quốc gia tham gia vào quá trình này một cách bị động. Tuy nhiên, dù tham

gia chủ động hay bị động vào hội nhập quốc tế thì mục đích các quốc gia

tham gia quá trình này chủ yếu nhằm phục vụ lợi ích quốc gia- dân tộc. Cùng

với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang trở thành xu thế khách quan với tất cả

các quốc gia trên thế giới hiện nay, song việc tận dụng các lợi thế của xu thế

này hay mức độ tham gia vào đời sống quốc tế lại tùy thuộc vào đường lối

chính sách của mỗi quốc gia tại mỗi thời điểm nhất định.

Thứ tư, hội nhập quốc tế luôn tồn tại đan xen những thời cơ và thách

thức với hầu hết các nước tham gia quá trình này. Trên thực tế, khi tham gia

quá trình này, các quốc gia- dân tộc có nhiều cơ hội học hỏi các nước khác

như: kinh nghiệm quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm khai thác

nguồn nhân lực... Một số các quốc gia đang phát triển nếu hội nhập hiệu quả

sẽ có cơ hội tốt để tiếp nhận và quản lý vốn, công nghệ hiệu quả, nhờ đó có

thể cải thiện được những khó khăn trước mắt, tạo động lực cho phát triển cao

hơn. Các quốc gia phát triển cũng có nhiều cơ hội quảng bá các sản phẩm và

thương hiệu của mình ra thế giới, mở rộng thị trường, thu hút nhiều nguồn

nhân lực chất lượng cao từ các quốc gia khác...Tuy nhiên, khi tham gia hội

nhập quốc tế, kể cả các quốc gia phát triển cũng như đang phát triển, đều

đứng trước không ít các thách thức như: chủ quyền dân tộc, bản sắc dân tộc,

lợi ích quốc gia, an ninh quốc gia... Những cơ hội và thách thức khi tham gia

64

hội nhập quốc tế với các quốc gia- dân tộc luôn đan xen lẫn nhau. Trong một

số trường hợp những thời cơ và thách thức này có thể chuyển hóa cho nhau

do có tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan.

3.1.2. Một số nét đặc thù hội nhập quốc tế của Việt Nam

Ở Việt Nam, thuật ngữ “hội nhập” lần đầu tiên chính thức được sử

dụng trong Văn kiện đại hội VIII (1996) với chủ trương về đối ngoại của Việt

Nam: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và trên thế giới”.

Quan điểm về hội nhập quốc tế được nhất trí trên tinh thần “hợp tác nhiều mặt

song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên

nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không

can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết

các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng” [16, tr.365-366]. Tiếp

đó, quan điểm, đường lối hội nhập quốc tế trên được nâng lên khi Đảng chủ

trương phải chủ động hội nhập để có thể chủ động phát huy những thuận lợi,

nắm bắt thời cơ do hội nhập mang lại và chủ động khắc phục những hạn chế,

thách thức của hội nhập. Tinh thần “chủ động hội nhập” chính thức được đưa

ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) [19] và được hiện thực hóa

phổ biến trong các văn kiện, nghị quyết cũng như các văn bản pháp luật của

Nhà nước. Tới Đại hội X (2006), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “chủ động và

tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, thêm nữa là đẩy mạnh các hoạt động kinh

tế đối ngoại, hội nhập sâu và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu và

“lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất”. Quan điểm về hội nhập

quốc tế trong Đại hội Đảng toàn quốc lần XI (2011) [21] được xác định với

chủ trương: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa

bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và

tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm

trong cộng đồng quốc tế. Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành một nghị quyết

riêng để thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân tiến hành chủ động hội nhập quốc tế

một cách tích cực và có hiệu quả, đó là Nghị quyết số 22- NQ/ TW ngày 10

tháng 4 năm 2013 về “Chủ động hội nhập quốc tế”. Nghị quyết 22 là văn kiện

65

có ý nghĩa chiến lược, thống nhất nhận thức về hội nhập quốc tế trong tình

hình mới, phân tích bối cảnh quốc tế và trong nước trên cơ sở đó xác định

mục tiêu của nước ta trong thời gian tới.

Để thực hiện thành công hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định một số

nguyên tắc chỉ đạo như sau: bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng

xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn

hoá dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) khẳng định: “Chủ

động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy cao độ nội

lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng

xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn

hóa dân tộc, bảo vệ môi trường” [19, tr.483]. Trong hợp tác liên kết và hội

nhập quốc tế Đảng ta khẳng định: cần giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa

đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để đạt tới mục tiêu, bảo vệ được lợi

ích chính đáng của đất nước; đồng thời phải luôn cảnh giác, không mơ hồ

trước những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng hợp tác quốc tế để can thiệp, áp đặt

về chính trị. Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta

còn nêu rõ bốn nguyên tắc cụ thể: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và

toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hai là,

không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực. Ba là, giải quyết các bất đồng và

tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình. Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình

đẳng và cùng có lợi. Đại hội XIII của Đảng đã cụ thể hóa hơn và xác định

những định hướng sâu hơn về hội nhập quốc tế. Văn kiện Đảng nêu rõ “Chủ

động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự

chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh

hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia- dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền

quốc gia. Gắn chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn

diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng

của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự

chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước” [23; tr.164]. So với các

kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh tới vấn đề chủ động,

66

tích cực đóng góp đối với các hoạt động quốc tế; nhấn mạnh lợi ích quốc gia

được xem là mục tiêu trọng yếu trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc

tế; Xác định rõ hơn vai trò của hoạt động đối ngoại…. Đây được xem là

những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng đối với hoạt động

hội nhập quốc tế ở Việt Nam trong thời gian hiện nay.

Việt Nam đang bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc và

toàn diện hơn bao giờ hết. Đến nay, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với

hơn 200 quốc gia, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với hầu hết các quốc

gia và vùng lãnh thổ. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới

(WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu vực

(ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) lên

đến cấp độ toàn cầu. Việt Nam đã đảm nhận thành công vị trí Ủy viên không

thường trực Hội đồng bảo an, cơ quan quyền lực hàng đầu của Liên hợp quốc,

nhiệm kỳ 2008 - 2009. Việt Nam cũng đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch

ASEAN trong năm ASEAN 2010. Chặng đường hơn 30 năm Đổi mới và hội

nhập quốc tế là một quá trình nỗ lực bền bỉ của đất nước. Từ thực tiễn phát

triển của đất nước trong những năm qua có thể thấy, tư duy, nhận thức của

Đảng, Nhà nước và toàn dân ta về hội nhập quốc tế có bước phát triển đáng

kể. Hội nhập quốc tế được nhìn nhận là một quá trình dài, được triển khai

thận trọng, bài bản theo tinh thần từ “tích cực hội nhập” đến “chủ động hội

nhập”. Cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định phương châm cơ

bản về hội nhập quốc tế đó là: Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập tự chủ,

hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá,

đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc

tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Đảng và Nhà nước

ta luôn khẳng định quan điểm xuyên suốt: Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy

của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác

quốc tế và khu vực.

Quá trình hội nhập quốc tế với tính cách là bước chuyển mạnh mẽ trên tất

cả các mặt của đời sống xã hội Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ giữa thập niên

67

90 của thế kỉ XX đến nay. Trong gần ba thập kỷ qua, hội nhập quốc tế của Việt

Nam trên từng lĩnh vực cụ thể mang một số nét đặc thù cơ bản như sau:

+ Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực kinh tế: Việt Nam bắt đầu tham gia

hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh không mấy thuận lợi. Thứ nhất, xuất

phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp, về cơ bản trình độ sản xuất

còn thấp. Sau một thời gian dài đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, nền kinh tế

bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Thứ hai, trước giai đoạn đổi mới, mặc dù

đã có những nỗ lực trong chính sách khôi phục nền kinh tế nhưng tư duy có

phần nóng vội, chủ quan duy ý chí khiến cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng

toàn diện. Sau đại hội VI (tháng 12/1986), Đảng và Nhà nước thực hiện đổi

mới đất nước, bắt đầu những bước đi hội nhập đầu tiên. Sau hơn 30 năm Đổi

mới, cho tới nay nền kinh tế đất nước đã có những bước chuyển tích cực.

Hiện nay nước ta vẫn đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung

quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

chúng ta đang đứng trước nhiều cơ hội mới của xu thế hội nhập quốc tế song

cũng không ít thách thức, khó khăn. Trong thời gian qua, ở nước ta, hội nhập

kinh tế quốc tế đã có nhiều bước chuyển quan trọng trên cả chiều rộng và

chiều sâu. Theo chiều rộng: hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện chỗ chúng ta đã

thiết lập được nhiều mối quan hệ song phương về thương mại, đầu tư, tài

chính quốc tế... Nước ta đã ở rộng được nhiều mối quan hệ kinh tế- thương

mại song phương và đa phương với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Theo chiều sâu: hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được thể hiện qua các

cấp độ liên kết khác nhau như: tham gia FTA, tham gia các thỏa thuận thương

mại ưu đãi, tham gia các liên minh thuế quan, tham gia liên minh kinh tế- tiền

tệ... Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm qua

cũng tạo ra nhiều cơ hội mới cho nền kinh tế nước ta:

Thứ nhất, hội nhập kinh quốc tế tạo cơ hội cho Việt Nam thu hút được

các nguồn lực từ bên ngoài trên cơ sở đó giải quyết các nguồn lực bên trong,

đặc biệt các nguồn vốn, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bước vào

hội nhập kinh tế quốc tế từ một nước có trình độ phát triển của lực lượng sản

68

xuất còn thấp kém, năng suất lao động chưa cao. Tính đến nay, hội nhập

kinh tế quốc tế những năm qua đã giúp Việt Nam thu hút hiệu quả cả ba

nguồn lực quốc tế lớn là: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA),

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn kiều hối. Trong thời gian

qua FDI vào Việt Nam liên tục tăng. Đáng chú ý là vốn FDI thực hiện giai

đoạn 1991- 2000 đạt 19,462 tỷ USD, tăng liên tục đến giai đoạn 2001- 2010

đạt 58,497 tỷ USD, bằng 3 lần thập niên trước đó. Và đến giai đoạn 2011-

2016 đạt 84 tỷ USD, bằng 4,55 lần giai đoạn 1991- 2000 và 1,43 lần 10 năm

trước đó [Trích theo http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/can-uu-tien-

thu-hut-fdi-mot-so-nganh-cong-nghe-cao-130469.html]. Nhờ có thu hút các

nguồn vốn đã giúp Việt Nam mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh

tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta không chỉ giải

quyết được bài toán lớn về vấn đề việc làm cho người lao động mà còn nâng

cao chất lượng nguồn lao động đáng kể của Việt Nam trong những năm qua.

Thứ hai, hội nhập quốc tế đã mở ra một không gian phát triển mới cho

nền kinh tế Việt Nam. Trong gần ba thập kỷ qua, nhờ tham gia hội nhập

quốc tế, nền kinh tế nước ta có thêm nhiều cơ hội để mở cửa, gắn nền kinh tế

và thị trường trong nước với nền kinh tế và thị trường thế giới, thiết lập các

mối quan hệ song phương về thương mại, đầu tư, tài chính và tham gia vào

thể chế đa phương kinh tế quốc tế. Trên thực tế hiện nay Việt Nam đã và

đang tích cực nỗ lực tham gia các cấp độ liên kết kinh tế khác nhau trong

khu vực và trên thế giới như: tham gia các FTA, tham gia các thỏa thuận

thương mại ưu đãi, tham gia liên minh kinh tế- tiền tệ… Nhờ việc tham gia

tích cực các cấp độ liên kết kinh tế này đã tạo cơ hội rất lớn cho các nhà đầu

tư nước ngoài hỗ trợ Việt Nam trong quá trình xây dựng kinh tế đất nước.

Hiện nay, nước ta có 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa

phương. Ngoài ra, Việt Nam còn nhận được vốn ODA từ 600 tổ chức phi

chính phủ quốc tế [Trích theo http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-

doi/can-uu-tien-thu-hut-fdi-mot-so-nganh-cong-nghe-cao-130469.html]. Quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra khả năng cho nước ta tham gia nhanh

69

chóng vào hệ thống phân công lao động quốc tế, nhờ đó hình thành cơ cấu

kinh tế hợp lý, hiệu quả. Nguồn lao động trong các ngành sản xuất ở nước ta

qua sự tiếp xúc, hợp tác với quy trình sản xuất hiện đại của các nước tiên

tiến có cơ hội rất lớn để nâng cao và khẳng định trình độ chuyên môn của

người lao động cũng như trình độ quản lý kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đã có

quan hệ kinh tế với hơn 230 thị trường nước ngoài, đây là kết quả bước đầu

nhưng rất đáng ghi nhận trong quá trình hội nhập quốc tế, đưa Việt Nam từ

một nước nghèo, lạc hậu trong khủng hoảng kinh tế - xã hội trở thành nước

có thu nhập trung bình thấp; từ một nước nhận viện trợ là chủ yếu thành đối

tác hợp tác phát triển.

Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế mở ra những cơ hội để Việt Nam được

học hỏi những kinh nghiệm của các nền kinh tế lớn trên thế giới trong việc sử

dụng các quy luật, chiều hướng của kinh tế thị trường như là một nhân tố bên

trong của quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến

nay đã có 64 quốc gia trên thế giới công nhận nền kinh tế thị trường của Việt

Nam. Với những kết quả nói trên, có thể thấy rất rõ hội nhập kinh tế quốc tế

đã mang lại cho Việt Nam rất nhiều những cơ hội mới trong giai đoạn hiện

nay. Những kết quả đáng ghi nhận về hội nhập kinh tế này là tiền đề rất quan

trọng để phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong nước, đa dạng

các thành phần kinh tế và các loại hình sở hữu, đồng thời góp phần đảm bảo

tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững và rút ngắn khoảng cách với các nước

trên thế giới. Chính những bước tiến trên con đường hội nhập về kinh tế này

có tác động rất lớn tới các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội… tạo ra những

thay đổi tích cực trong đời sống xã hội Việt Nam trong những năm qua.

Bên cạnh những thuận lợi nói trên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

của Việt Nam trong thời gian qua cũng đứng trước một số thách thức, khó

khăn. Trước hết, khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nền kinh tế nước ta

phải đối mặt với những thách thức về cạnh tranh gay gắt có tính chất quốc tế.

Sự cạnh tranh trong hội nhập quốc tế là tất yếu với tất cả các nước tham gia

quá trình này. Song, đối với các nước đang phát triển như nước ta, thách thức

70

lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là một nước đang phát

triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập,

doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng

hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn

chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh. Do đó, trong

bối cảnh cạnh tranh chung của kinh tế toàn cầu, với các nước đang phát triển

có xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp như nước ta thì đây là cuộc cạnh

tranh không cân sức. Ngay chính thị trường trong nước, một số hàng hóa của

chúng ta cũng bị cạnh tranh gay gắt, một số doanh nghiệp lao đao trên chính

“sân nhà” như một số mặt hàng nông sản. Cạnh tranh là tất yếu trong quá

trình hội nhập. Một mặt, nó có tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhưng

mặt khác, việc gia tăng cạnh tranh gay gắt trong hội nhập kinh tế khiến nhiều

doanh nghiệp và ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây

nhiều hậu quả về mặt kinh tế- xã hội. Thêm nữa, tham gia hội nhập kinh tế

quốc tế, nền kinh tế của nước ta không tránh khỏi tác động mạnh bởi những

chấn động kinh tế khu vực và thế giới trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập

quốc tế. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, sự tác động này

gây ra sự “tổn thương” không hề nhỏ. Điều này có thể khiến cho thị trường

hàng hóa ở nước ta bị thu hẹp lại, ví dụ như một số mặt hàng xuất khẩu chủ

lực của Việt Nam bị giảm mạnh về kim ngạch xuất khẩu như dầu thô, thủy

sản, gạo, than đá, cao su, cà phê, hồ tiêu,... do các thị trường nhập khẩu lớn

của Việt Nam như Mỹ, có thể thấy, mỗi chuyển động nhỏ của nền kinh tế khu

vực và thế giới đều có tác động tới nền kinh tế của Việt Nam, đây là một thực

tế không thể phủ nhận được. Rủi ro và bất ổn kinh tế vĩ mô gia tăng, nhiều dự

án đầu tư của nước ngoài có chất lượng thấp, chưa phù hợp với lợi thế và lợi

ích của nền kinh tế. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc tích cực

thay đổi các chính sách, thủ tục hành chính, hệ thống pháp luật để tạo điều

kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế song trong thực tiễn

chúng ta còn nhiều lúng túng trong việc ứng phó với các thách thức, nhất là

các cú sốc về giá và các chu chuyển vốn từ bên ngoài. Hệ quả của những điều

71

này gây ra một số tác động tiêu cực trong đời sống xã hội, biểu hiện rõ nhất là

gia tăng nguy cơ khoảng cách giàu-nghèo. Một số chuyên gia kinh tế nhận

định rằng, nếu hội nhập về thể chế Việt Nam đi khá nhanh và tích cực thì cơ

sở hạ tầng phục vụ cho hội nhập còn nhiều hạn chế, đặc biệt tại các vùng

nông thôn, miền núi. Hệ thống thông tin và hệ thống giao thông vận tải nhìn

chung còn nhiều yếu kém. Trong khi đó chất lượng nguồn nhân lực tương đối

thấp, chưa đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập. Những thách thức của lĩnh

vực kinh tế nói trên cũng đưa lại không ít khó khăn đối với Việt Nam trên con

đường hội nhập.

+ Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực chính trị: Trên lĩnh vực chính trị, Việt

Nam đã có những bước hội nhập tương đối nhanh và sâu rộng, trên cả kênh

song phương và đa phương, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Ở cấp độ song

phương, hội nhập chính trị của nước ta có bước chuyển căn bản từ chú trọng

mở rộng quan hệ với các nước sang mối quan hệ giữa nước ta với các nước

khác đi vào chiều sâu và ngày càng ổn định hơn. Trong các đối tác chiến lược,

một mặt, Việt Nam thúc đẩy hợp tác toàn diện; mặt khác, Việt Nam cũng ưu

tiên hợp tác trên các lĩnh vực thuộc thế mạnh của đối tác dựa trên các yêu cầu

của Việt Nam. Đồng thời, chúng ta cũng phân đối tác thành hai nhóm chính:

đối tác chiến lược như với Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc… và đối tác

chiến lược cấp thấp hơn như với Tây Ban Nha, Hà Lan, Úc… Ở cấp độ đa

phương, hội nhập chính trị của nước ta thể hiện theo cả chiều dọc và theo

chiều ngang, cả cấp độ khu vực và cấp độ toàn cầu. Ở cấp độ khu vực, là

thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam đã tham gia nhiều các cơ chế

do ASEAN làm trụ cột. Ở cấp độ toàn cầu, Việt Nam tham gia Hội đồng Bảo

an Liên Hợp Quốc với tư cách là thành viên không thường trực và được bầu

vào Hội đồng nhân quyền Liên Hợp quốc (2014-2016). Hiện nay, Việt Nam

đã tham gia khoảng hơn 70 thể chế quốc tế. Cho đến nay Việt Nam là thành

viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ

trên thế giới. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại

Liên hợp quốc (ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP,

72

UNFPA và UPU...), phát huy vai trò thành viên tích cực của phong trào

Không liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN… Như

vậy, có thể thấy, hội nhập chính trị đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam

trên trường quốc tế, tiếng nói của Việt Nam trong các tổ chức ngày càng có

trọng lượng hơn. Hội nhập về chính trị đã tạo khuôn khổ ổn định và nền tảng

vững chắc cho hội nhập các lĩnh vực khác, đặc biệt là hội nhập về kinh tế.

Bên cạnh đó, cũng thông qua hội nhập chính trị mà các nguyên tắc hoạt động,

các trật tự chương trình cũng như các thiết chế nhà nước ngày càng gần với

cộng đồng quốc tế hơn. Hoạt động ngoại giao song phương đã tạo tiền đề để

Việt Nam phát huy vai trò trên các diễn đàn đa phương, qua đó đẩy mạnh quá

trình hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng hơn. Cộng đồng quốc

tế ngày càng đánh giá cao vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế. Từ

ban đầu có 11 nước đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1954, đến năm

2015 chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 nước, thúc đẩy quan hệ

kinh tế, thương mại, đầu tư với 224 thị trường tại tất cả châu lục; đã thiết lập

quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với nhiều quốc gia chủ chốt trên thế

giới. Nhìn vào kết quả ban đầu có thể thấy, ngoại giao đa phương là một điểm

sáng trong hoạt động ngoại giao thời đổi mới ở nước ta. Chính những thành

công bước đầu trong quá hội nhập về chính trị này đã củng cố và nâng cao vị

thế quốc tế của đất nước, tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế,

có lợi cho việc bảo vệ độc lập, tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây

dựng đất nước. Bên cạnh đó, thông qua hội nhập chính trị, chúng ta được bày

tỏ quan điểm lập trường chính trị công khai trên nghị trường quốc tế, giảm

thiểu những xung đột chính trị. Đồng thời, thông qua việc cam kết thực hiện

nguyên tắc công khai, minh bạch các cơ chế, chính sách, các văn bản pháp

luật mà chúng ta thực hiện, đó là lộ trình để chúng ta tạo điều kiện xây dựng

một xã hội dân chủ hơn.

+ Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh: So với hội

nhập về chính trị, mức độ hội nhập quốc phòng - an ninh của Việt Nam dường

như có phần hạn chế hơn, nhưng thực ra nhiều hoạt động của Việt Nam đã

73

được các chuyên gia quốc phòng - an ninh và các bên có liên quan đánh giá là

có bước chuyển không hề nhỏ. Việt Nam đã tham gia hầu hết các diễn đàn an

ninh khu vực như các hội nghị trong khuôn khổ ASEAN như Hội nghị Bộ

trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM); Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng

ASEAN mở rộng (ADMM+); Hội nghị Tư lệnh Hải quân, Không quân các

nước ASEAN; Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF); Cấp cao Đông Á; Diễn đàn

Hải quân Tây Thái Bình Dương (WPNS)…Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng,

về cơ bản mức độ tham gia tại các diễn đàn an ninh khu vực của Việt Nam

còn nhiều hạn chế, nhiều hoạt động còn dừng lại ở bề nổi. Các hoạt động hợp

tác thực địa như tuần tra giữa Việt Nam và một số nước trong khu vực còn

chưa thường xuyên, mang tính biểu tượng, chưa có tính hiệu quả cao. Bên

cạnh đó, so với nhiều nước trong khu vực, đội ngũ làm công tác trong lĩnh

vực an ninh- quốc phòng được đào tạo bài bản của nước ta còn thiếu và yếu,

cùng với đó là các trang thiết bị phục vụ cho công tác này chưa được nâng

cao. Mặc dù Đảng và Nhà nước luôn ý thức chú trọng vai trò của an ninh-

quốc phòng song nhìn chung sự đầu tư cho lĩnh vực này còn ở mức khiêm

tốn. Những hạn chế này và một số nhân tố khác khiến cho các hoạt động hội

nhập trong lĩnh vực an ninh quốc phòng trong những năm qua ở nước ta được

đánh giá vẫn dừng lại ở giai đoạn bước đầu, chúng ta chưa tranh thủ được

nhiều cơ hội trong hội nhập đem lại.

Trước những diễn biến của tình hình khu vực và quốc tế hiện nay, một

thực tế khách quan không thể phủ nhận rằng, càng hội nhập sâu vào đời sống

quốc tế thì những cơ hội và thách thức luôn tồn tại đan xen và chuyển hóa cho

nhau. Trong lĩnh vực an ninh- quốc phòng, khi tham gia hội nhập quốc tế

chúng ta vừa có thêm những cơ hội mới song cũng đứng trước nhiều nguy cơ

ngày càng phức tạp hơn. Hiện nay, ngoài các nguy cơ, thách thức từ an ninh

truyền thống, xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nguy cơ từ an ninh phi

truyền thống như các vấn đề liên quan tới môi trường, dịch bệnh, khủng bố...

Những nguy cơ, thách thức này đe dọa trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự phát

triển của đất nước. Đồng thời, trong quá trình hội nhập quốc tế cũng nảy sinh

74

không ít những vấn đề mới diễn biến phức tạp hơn như tội phạm quốc tế, chủ

nghĩa khủng bố, an ninh xã hội và an ninh con người… đang ngày một nóng

lên hiện nay. Trong đó những thách thức về chính trị như vấn đề chủ quyền

biển đảo, chủ quyền dân tộc đối với các quốc gia đang phát triển như Việt

Nam được xem là một trong những thách thức rất lớn với lĩnh vực an ninh-

quốc phòng. Bên cạnh đó, một số vấn đề khác như quan điểm về dân chủ,

nhân quyền… chúng ta vẫn còn có những điểm chưa thống nhất với các nước

phương Tây, đây cũng là một rào cản không nhỏ trong quá trình hội nhập của

nước ta. Âm mưu thực hiện diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch chống

phá nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn được Đảng ta xếp vào nguy cơ

lớn. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều hình thức

ngày càng tinh vi với những diễn biến phức tạp hơn.

+ Hội nhập văn hóa - xã hội: Việt Nam là một quốc gia mang đặc

trưng của một xã hội với nền văn hóa phương Đông. Thực tiễn phát triển đất

nước gần ba thập kỷ qua đã minh chứng quá trình mở cửa đất nước và hội

nhập quốc tế giúp Việt Nam mở rộng khả năng tiếp cận các nền văn hóa khác

nhau trên thế giới, tiếp nhận các giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại. Quá

trình giao lưu, chia sẻ các giá trị văn hóa với các nước trong quá trình hội

nhập là một cơ hội tốt giúp Việt Nam giới thiệu được nhiều hơn các giá trị

văn hóa dân tộc ra thế giới. Ở cấp độ khu vực, Việt Nam được đánh giá đã có

nhiều đóng góp tích cực vào việc xây dựng cộng đồng văn hóa- xã hội

ASEAN. Trong những năm gần đây, Việt Nam liên tục tham dự cũng như

đăng cai tổ chức nhiều sự kiện văn hóa trong khu vực như: Đại hội Thể thao

Đông Nam Á (SEA Games hay Southeast Asian Games), Đại hội do Liên

đoàn Thể thao Người khuyết tật ASEAN (ASEAN Para Games), các chương

trình giao lưu nghệ thuật... Đặc biệt, trong lĩnh vực văn hóa, chúng ta đã xây

dựng chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012-2013 và giai

đoạn 2012-2015, tiếp đến là xây dựng đề án phát triển ngành công nghiệp văn

hóa đến năm 2020 tầm nhìn 2030… trong đó lấy mục tiêu xây dựng nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm. Những

75

hoạt động này đã góp phần rất lớn vào việc gắn kết nền văn hóa Việt Nam với

nền văn hóa khu vực, qua đó giúp Việt Nam xây dựng khối đoàn kết ASEAN

bền vững đồng thời tạo cơ hội rất lớn để người dân Việt Nam tiếp nhận các

giá trị tiên tiến của các quốc gia trong khu vực.

Trên phạm vi thế giới, Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào các

thể chế, diễn đàn đa phương về văn hóa như Tổ chức văn hóa, Khoa học và

Giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO), Ủy ban di sản văn hóa thế giới… Bên

cạnh đó, trong cương vị là thành viên của UNESCO, Việt Nam cũng tham gia

và thực hiện nhiều các Công ước quốc tế về văn hóa. Điều này không những

thể hiện nỗ lực của nước ta trong hội nhập về văn hóa mà thông qua việc tham

gia các diễn đàn và Công ước quốc tế này, chúng ta có điều kiện hoàn thiện thể

chế về văn hóa cũng như có thêm những cơ hội chia sẻ những giá trị văn hóa

chung với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, quá trình hợp

tác, giao lưu văn hóa này góp phần giúp Việt Nam tăng cường ý thức trách

nhiệm về việc bảo tồn các công trình, giá trị văn hóa với tư cách là tài sản

chung của nhân loại. Trên thực tế, những nỗ lực của Việt Nam trong hội nhập

văn hóa những năm qua đã đã góp phần rất lớn vào việc đưa văn hóa Việt Nam

gần hơn với các nền văn hóa khu vực và thế giới, góp phần nâng cao nhu cầu

hưởng thụ giá trị văn hóa nhân loại cho mỗi người dân.

Hội nhập quốc tế đã thực sự là một cơ hội tốt giúp Việt Nam nâng cao

ý thức trách nhiệm trong công tác bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống

của dân tộc, đồng thời chia sẻ các giá trị văn hóa chung với các quốc gia trên

thế giới. Hiện nay, ở nước ta, do tác động mạnh mẽ, sâu rộng của quá trình

hội nhập quốc tế, nhiều giá trị văn hóa được chú ý phát hiện, bồi dưỡng và tạo

cơ hội phát triển. Trên thực tế, nhiều các giá trị truyền thống như các lễ hội,

các phong tục, các làng nghề và các hoạt động nghệ thuật truyền thống khác...

được “đánh thức” trong quá trình hội nhập. Hiện nay, Việt Nam được đánh

giá là quốc gia có nền văn hóa phong phú, thu hút nhiều sự quan tâm và chia

sẻ đến từ các chuyên gia quốc tế và tổ chức văn hóa có uy tín. Đây là một cơ

hội rất thuận lợi để chúng ta có thêm những kinh nghiệm quý báu trong việc

76

giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc bối cảnh đương

đại. Nhờ những nhân tố tích cực từ hội nhập, các hoạt động văn hóa ở nước ta

được đánh giá có những thay đổi và bước đi hiệu quả hơn. Chính những thay

đổi này đã góp phần đưa nhân dân ta có thêm những điều kiện hưởng thụ và

chia sẻ các giá trị văn hóa với các nước trên thế giới.

Tuy nhiên, trong những năm qua trên lĩnh vực hội nhập văn hóa- xã

hội, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong hoạt động thực tiễn chúng ta

còn có một số hạn chế như sau: Các hoạt động hợp tác quốc tế về văn hóa

được đánh giá có những bước tiến tích cực về số lượng cũng như mức độ

tham dự song về chất lượng nhìn chung chưa cao. Hiện nay, các chương trình

văn hóa, nghệ thuật có uy tín ở nước ta còn chiếm tỷ lệ thấp. Hạn chế này do

nhiều nguyên nhân, trong đó sự đầu tư về nhân lực và vật lực cho lĩnh vực

này hiện nay ở nước ta còn nhiều khó khăn nên phần lớn các hoạt động văn

hóa có tính quy mô và chất lượng còn khá khiêm tốn. Trong những năm trở

lại đây, cùng với quá trình giao lưu, hợp tác về văn hóa ngày càng mạnh mẽ

cũng làm gia tăng nhiều ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài vào Việt Nam.

Trong đó phải kể tới sự gia tăng về tính thương mại không phù hợp với thuần

phong mỹ tục của Việt Nam trong một hoạt động văn hóa nghệ thuật. Một số

ảnh hưởng từ mặt trái của chủ nghĩa thực dụng đến từ phương Tây bắt đầu

thâm nhập nhiều hơn trong giới trẻ, một số chương trình thực tế trên truyền

hình theo phiên bản nước ngoài mang tính nghệ thuật thấp, không ít các trang

báo điện tử về văn hóa nghệ thuật chỉ thiên nhằm phục vụ cho mục đích giải

trí…Những mặt tiêu cực này có ảnh hưởng rất lớn tới việc nâng cao đời sống

tinh thần cho nhân dân ta, gây ra những rối loạn trong các thang bậc giá trị xã

hội nếu không có sự kiểm soát kịp thời trong thời gian tới. Nguyên nhân dẫn

đến những hạn chế trên có nhiều, trong đó có nguyên nhân xuất phát từ công

tác quản lý về văn hóa ở nước ta còn kém hiệu quả, đặc biệt là khâu xử lý và

kiểm soát kịp thời, hiệu quả các thông tin còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ.

Đây cũng là nhân tố dẫn tới không ít các loại hình nghệ thuật truyền thống và

các di sản dân tộc không những không phát triển mà một số loại hình có nguy

77

cơ mai một trong quá trình hội nhập. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, nhìn

chung vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là bài toán khó với

tất cả quốc gia trong quá trình hội nhập, với các nước đang phát triển như Việt

Nam thì những thách thức này là vô cùng lớn, đòi hỏi chúng ta phải có chủ

trương, kế hoạch giải quyết đồng bộ, khắc phục kịp thời những hạn chế đang

tồn tại thì mới có thể phát huy các giá trị của dân tộc và tránh được nguy cơ

xói mòn về văn hóa.

Trên lĩnh vực giáo dục, ngay từ khi bắt đầu hội nhập, Đảng và Nhà

nước đã quan tâm và chú trọng tới hội nhập quốc tế trong công tác giáo dục

và đào tạo, bởi lẽ, sản phẩm của giáo dục thời kỳ hội nhập chính là nguồn lực

chất lượng cao, là nhân tố chủ chốt trong bối cảnh hội nhập. Ngày 04 tháng

11 năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội

nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-

NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng nhu cầu

công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm của vấn

đề chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục,

đào tạo bao gồm các vấn đề sau: Một là, chủ động hội nhập quốc tế về giáo

dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã hội

chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu

có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại.

Hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương và đa phương, thực hiện các cam kết

quốc tế về giáo dục, đào tạo. Hai là, tăng quy mô đào tạo ở nước ngoài bằng

ngân sách nhà nước đối với giảng viên các ngành khoa học cơ bản và khoa

học mũi nhọn, đặc thù. Khuyến khích việc học tập và nghiên cứu ở nước

ngoài bằng các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Mở rộng liên kết

đào tạo với những cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín, chủ yếu trong giáo dục

đại học và giáo dục nghề nghiệp; đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào

tạo. Ba là, có cơ chế khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài,

người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng

78

dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ ở Việt Nam. Tăng cường giao lưu

văn hóa và học thuật quốc tế. Bốn là, có chính sách hỗ trợ, quản lý việc học

tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên Việt Nam đang học ở nước ngoài và

tại các cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.

Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục đào tạo hiện nay của Việt Nam

trong bối cảnh hội nhập là đóng góp tích cực vào việc xây dựng con người

Việt Nam phù hợp với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và

hội nhập quốc tế. Tiếp thu những giá trị văn hóa của nhân loại; bảo tồn, phát

huy và quảng bá các giá trị văn hóa của Việt Nam; nâng cao hình ảnh của đất

nước và con người Việt Nam, đến năm 2030 hình ảnh quốc gia Việt Nam

được giới thiệu rộng rãi trên toàn thế giới, văn hóa Việt Nam có những đóng

góp mới được ghi nhận trong đời sống văn hóa quốc tế; tranh thủ tối đa các

nguồn lực quốc tế nhằm thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược về lao

động, an sinh và xã hội, giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ; chú

trọng nâng cao nguồn nhân lực và năng lực khoa học-công nghệ; tạo công ăn

việc làm, bảo đảm quyền của người lao động và các nhóm yếu thế; thúc đẩy

công bằng xã hội, đảm bảo an sinh - xã hội và nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân.

Ngoài những lĩnh vực tiêu biểu kể trên, các lĩnh vực như: khoa học và

công nghệ, y tế… cũng có những thay đổi và ảnh hưởng nhất định trong quá

trình chúng ta tham gia hội nhập quốc tế. Trong đó những thuận lợi và khó

khăn, cơ hội và thách thức luôn tồn tại đan xen, có sự chuyển hóa cho nhau ở

những điều kiện nhất định.

3.1.3. Một số tác động và yêu cầu của hội nhập quốc tế đến hệ giá trị

con người Việt Nam

3.1.3.1. Tác động của hội nhập quốc tế đến hệ giá trị con người Việt Nam

Không thể phủ nhận, hội nhập kinh tế đã và đang là xu thế khách quan

trong thế giới đương đại, nó có tác động đến tất cả các nước tham gia quá

trình đó. Một mặt xu thế này tạo cơ hội cho các quốc gia mở rộng thị trường,

tiếp cận với các nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại cũng như tri thức

79

quản lý tiên tiến, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Mặt

khác xu thế này còn có những tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa tinh

thần đến các thành phần xã hội, đến con người hay cộng đồng tham gia quá

trình đó. Dưới góc độ nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam, chúng tôi

cho rằng, tác động của hội nhập quốc tế tới hệ giá trị con người Việt Nam trên

một số phương diện sau:

Thứ nhất, dưới tác động của điều kiện hội nhập quốc tế, hệ giá trị con

người Việt Nam truyền thống đã buộc phải đối mặt với những thay đổi nhất

định. Hiện nay, về cơ bản, những giá trị cốt lõi của hệ giá trị con người Việt

Nam được xác định từ truyền thống như: Tinh thần yêu nước, hiếu học, yêu

thương con người… vẫn giữ được vị thế như những giá trị cơ bản, cốt lõi của

người Việt trong các văn kiện, nghị quyết, chủ trương của Đảng và nhà nước

cũng như trong các nghiên cứu khoa học. Song, vị trí giá trị trong thang hệ giá

trị con người Việt Nam có những thay đổi nhất định vì điều kiện mới. Điều

này được thể hiện khá rõ trong văn kiện XII của Đảng Cộng sản Việt Nam với

những định hướng cơ bản trong việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam

– đó là con người “đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; nâng cao trí tuệ, năng

lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ

công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật; phát huy tốt vai trò chủ thể

sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [22, tr.29]. So với các

chủ trương, đường lối của Đảng về con người, hệ giá trị con người, những chỉ

dẫn từ văn kiện của đại hội XII đã có những thay đổi nhất định về vị trí, thang

bậc các giá trị trong hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay so với truyền

thống để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn thời đại đặt ra, trong đó có yêu cầu

của xu thế hội nhập quốc tế.

Thứ hai, hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay dưới tác động của hội

nhập quốc tế đang diễn ra quá trình thu nhận và cải biến các giá trị tiến bộ,

phù hợp của hệ giá trị nhân loại. Về thực chất, hội nhập quốc tế là một quá

trình tham gia một cách chủ động của các quốc gia vào đời sống quốc tế nhằm

khai thác hiệu quả những lợi thế quốc gia và lợi thế quốc tế cho sự phát triển của

80

quốc gia, dân tộc. Trong sân chơi chung này, luôn xuất hiện các cơ hội, các thời

cơ mà nếu nắm bắt kịp thời sẽ tạo ra những bước ngoặt lớn. Thực tế khi tham gia

hội nhập sâu rộng trên các lĩnh vực, trong những năm gần đây, hệ giá trị con

người Việt Nam đã diễn ra mạnh mẽ sự ảnh hưởng các luồng văn hóa với những

giá trị mới của hệ giá trị nhân loại. Trong quá trình đó, hệ giá trị con người Việt

Nam có sự tiếp nhận, cải biến các giá trị tiến bộ để phù hợp với “màu sắc” Việt

Nam. Trong thực tiễn ở Việt Nam, có thể thấy khá rõ một số giá trị như: bình

đẳng, dân chủ, nhân quyền, tự do, sáng tạo… đã du nhập vào Việt Nam bằng

nhiều con đường khác nhau trong lịch sử. Song, cho đến hiện nay, các giá trị

đó ngày càng rõ nét hơn trên nhiều phương diện đời sống xã hội của Việt

Nam qua quá trình tiếp xúc, giao lưu, hợp tác một cách chủ động của Việt

Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong quá trình hội nhập quốc tế, các

giá trị tiến bộ của hệ giá trị nhân loại khi được tiếp biến vào Việt Nam cũng

tuân theo các quy luật của các yếu tố văn hóa trong sự phát triển, tức là, luôn

có sự điều chỉnh cho phù hợp với con người Việt Nam, thực tiễn phát triển

của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.

Thứ ba, dưới tác động của hội nhập quốc tế, hệ giá trị con người Việt

Nam hiện nay cũng xuất hiện một số xung đột giữa các giá trị mới và các giá trị

cũ, giữa cái chung và cái riêng, giữa bản địa và du nhập. Sự xung đột này có thể

nhận rõ hơn sự biến mất một số giá trị con người Việt Nam truyền thống do

những thay đổi của điều kiện mới và một số tranh luận chưa thống nhất xung

quanh vấn đề các giá trị hiện nay của người Việt. Thực tế hiện nay, một số

các giá trị người Việt truyền thống bị biến mất như các giá trị: trung quân ái

quốc, tinh thần quốc tế vô sản... Sự biến mất này, trong bối cảnh mới hiện

nay, có thể coi là một tất yếu khách quan trong mối quan hệ giữa các yếu tố

của ý thức xã hội và tồn tại xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin. Có nghĩa là, khi

tồn tại xã hội hiện nay với sự đan xen của các tác động trên thế giới và yêu

cầu thực tiễn phát triển đất nước, một số giá trị truyền thống nếu bị lạc hậu,

lỗi thời sẽ không phù hợp và bị đào thải. Bên cạnh đó, một số giá trị trong hệ

giá trị con người Việt Nam truyền thống như: cần cù, đoàn kết, thông minh...

81

đang có những ý kiến tranh luận khác nhau trong các nghiên cứu khoa học

cũng như trong đời sống hàng ngày. Cụ thể như giá trị cần cù chăm chỉ, một

giá trị vốn được xem là cơ bản của người Việt truyền thống thì một số học giả

không tán thành đưa vào bảng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc thêm trong công trình “Hệ giá trị Việt

Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai” [105] cho rằng

giá trị cần cù, chăm chỉ là “huyền thoại”. Ông cũng khẳng định rõ quan điểm

không có câu trả lời tuyệt đối cho về câu hỏi cần cù chăm chỉ hay lười biếng,

do đó, theo ông, giá trị này không được xếp trong hệ giá trị con người Việt

Nam trong giai đoạn hiện nay. Những tiếp biến, giao thoa giữa hệ giá trị con

người Việt Nam và hệ giá trị nhân loại trong bối cảnh hội nhập xuất hiện

những xung đột nhất định là một tất yếu trong mối quan hệ giữa cái chung và

cái riêng, mối quan hệ dân tộc và nhân loại, mối quan hệ giữa giá trị cũ và giá

trị mới… để lựa chọn những giá trị phù hợp trong bảng giá trị con người Việt

Nam thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập quốc tế. Hơn nữa, đây cũng là quá trình

diễn ra cuộc “đấu tranh” không chỉ với các nhân tố bên ngoài, mà còn là cuộc

“đấu tranh” vô cùng khốc liệt giữa các yếu tố nội sinh trong quá trình phát

triển đất nước.

3.1.3.2. Một số yêu cầu của hội nhập quốc tế với vấn đề hệ giá trị con

người Việt Nam

Hiện nay, hội nhập quốc tế đang tác động tới đời sống xã hội Việt Nam

khá sâu sắc và đặt ra rất nhiều yêu cầu đối với Việt Nam khi tham quá trình

này. Trong phạm vi xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam, hội nhập quốc tế

đang đặt ra một số yêu cầu như sau:

Thứ nhất, hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu đối với hệ giá trị con người

Việt Nam cần tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, thực hiện đúng và đủ các cam

kết và những ký kết Việt Nam tham gia. Nói cách khác, khi tham gia hội nhập

quốc tế, các giá trị Việt Nam hướng tới xây dựng không chỉ đơn thuần mang

“màu sắc Việt Nam” mà hệ giá trị con người Việt Nam phải có sự “điều

chỉnh” theo những quy tắc, chuẩn mực chung của quốc tế. Điều này không

82

đồng nhất với cách hiểu “bắt buộc” theo những quy tắc một cách cứng nhắc

hay xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam theo một khuôn thước sẵn có hay

một mô hình chung nào đó. Thực tế, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, mỗi

dân tộc đều có “lối đi riêng” để tạo “mầu sắc riêng” của con người, của dân

tộc mình. Song, trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ như

hiện nay, thì việc các quốc gia phải “chấp nhận” các nguyên tắc, chuẩn mực

quốc tế là một tất yếu và hệ giá trị con người cũng không phải là một trường

hợp ngoại lệ. Thực tế theo kinh nghiệm của các quốc gia và vùng lãnh thổ có

quá trình xây dựng hệ giá trị con người trong bối cảnh hội nhập như Nhật Bản,

Hàn Quốc, Trung Quốc… theo nghiên cứu của đề tài KX.04.15/11 với chủ đề

“Hệ giá trị con người- Hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới” có kết

quả như sau: Indonesia gồm 5 giá trị; Singapore gồm 5 giá trị; Malaysia 5 giá

trị; Phipippines gồm 9 giá trị; Thái Lan gồm 12 giá trị… Song, dù mang các giá

trị khác nhau hay giống nhau, số lượng nhiều hay ít các giá trị… thì việc các

giá trị hướng tới các giá trị chuẩn mực quốc tế đang trở thành xu thế chung của

hầu hết các quốc gia trong bối cảnh hiện nay. Điều này cũng đồng nghĩa với

việc khi gia nhập sân chơi quốc tế, con người Việt Nam phải chấp nhận những

khác biệt về giá trị, chấp nhận những xung đột nhất định về giá trị. Trong quá

trình xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

hiện nay, chúng ta buộc phải lựa chọn, phải điều chỉnh các giá trị dân tộc của

mình để hài hòa với hệ giá trị nhân loại. Tiêu chí của sự điều chỉnh, chấp nhận này

chính là dựa trên các tiêu chuẩn, nguyên tắc, các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam

đã tham gia ký kết.

Thứ hai, hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc

tế phải chú ý tới vấn đề bảo tồn các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu

các giá trị tinh hoa của nhân loại. Trước hết, có thể thấy rõ rằng, đối với hầu

hết các quốc gia trong bối cảnh hội nhập, việc giữ gìn và phát huy các giá trị

truyền thống là một điều tất yếu khác quan. Bởi lẽ, giá trị truyền thống là

những truyền thống có giá trị vững bền, những truyền thống tốt đẹp, tích cực

tiêu biểu cho bản sắc văn hoá dân tộc, có tác động tích cực thúc đẩy sự phát

83

triển của dân tộc đó trong suốt chiều dài lịch sử. Hoặc cũng có thể nói, giá

trị truyền thống là những giá trị nội sinh, cao đẹp và vững bền tiêu biểu cho

bản sắc văn hoá dân tộc, có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của dân

tộc đó trong suốt chiều dài lịch sử và được giữ gìn, kế thừa từ thế hệ này

sang thế hệ khác. Giá trị truyền thống của một dân tộc là sự kết tinh toàn bộ

tinh hoa được chắt lọc, cô đúc nên từ tất cả di sản truyền thống trong suốt

quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc đó. Toàn bộ giá trị

truyền thống dân tộc là cái thể hiện cô đọng nhất, độc đáo nhất, rõ nét nhất

bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, không thể đồng nhất cũng như không thể tách

rời giá trị truyền thống với văn hoá dân tộc mà giá trị truyền thống là một bộ

phận của văn hoá, hơn thế là bộ phận cốt lõi nhất làm nên sức mạnh nội sinh

của một nền văn hoá.

Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, văn hoá Việt Nam có cơ hội

hội nhập và giao lưu với các nền văn hoá khác của thế giới để làm giàu và

khẳng định bản sắc của mình. Song, hơn lúc nào hết, đây cũng là giai đoạn mà

các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc phải đối diện với những tác động

tiêu cực của toàn cầu hoá. Hội nhập quốc tế đang là một nhu cầu khách quan;

nó đòi hỏi chúng ta phải mở cửa, giao lưu với cộng đồng thế giới để đón nhận

và tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tuy nhiên, một dân tộc nào

đó sẽ không còn là chính mình nếu đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc, do đó

hội nhập nhưng không hòa tan đang là một yêu cầu cấp bách đặt ra. Trong tác

phẩm “Chiếc Lexus và cây Ô liu” [25], Thomas Loren Friedman đã đề cập

đến sự đụng độ giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại trong kỷ nguyên

toàn cầu hóa. Ông dùng biểu tượng cây Ô liu để chỉ những giá trị truyền

thống của các dân tộc và chiếc xe hơi sang trọng Lexus để chỉ những giá trị

hiện đại mang tính phổ quát của nhân loại. Và theo ông, cuộc đấu tranh giữa

chiếc Lexus và cây Ô liu là một cuộc “vật lộn triền miên”. Trong cuộc vật lộn

đó, “hiểm hoạ lớn nhất đối với cây Ôliu của bạn lại đến từ chiếc xe hơi

Lexus”, trong nhiều trường hợp, chiếc Lexus chế ngự, không đếm xỉa thậm

chí “chà đạp” những hàng cây Ô liu trên con đường mà nó đi qua. Đến lượt

84

nó, những hàng cây Ô liu bắt đầu kháng cự lại, chúng “bóc lột”, “khai thác”,

“vu cáo” chiếc Lexus. Nhưng vấn đề lớn nhất Thomas L.Friedman đề cập đến

ở tác phẩm là sự hòa hợp giữa các giá trị truyền thống và các giá trị mới trong

bối cảnh hiện đại đối với các dân tộc hiện nay như là một yêu cầu cấp bách.

Hiện nay, hệ giá trị con người Việt Nam có sự đan xen giữa những giá

trị mới được phát sinh từ kinh tế thị trường và hệ giá trị truyền thống của dân

tộc. Trong tình hình đó, khó tránh khỏi sự lấn át, xung đột giữa cái cũ và mới,

giữa truyền thống và hiện tại, cùng với những biến thái khó lường sẽ sản sinh

những phản giá trị xâm hại hệ giá trị của dân tộc. Vì thế, việc bảo tồn các giá

trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu các giá trị tinh hoa của nhân loại đang

được xem là một yêu cầu thiết thực đối với xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam hiện nay.

Ở Việt Nam, các giá trị truyền thống như tinh thần yêu nước, tinh thần

nhân văn nhân đạo, lạc quan, hiếu học… là những giá trị luôn được đề cao

trong tâm thức người Việt. Cho tới nay, các giá trị truyền thống này vẫn được

xem là nét đẹp đặc sắc của người Việt Nam. Vì vậy, xây dựng hệ giá trị con

người Việt Nam cũng có nhiệm vụ làm cho các giá trị truyền thống quý báu

đó ngày càng được phát huy hơn nữa trong những điều kiện mới và trở thành

động lực cho sự phát triển của dân tộc.

Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cùng với sự phát

triển mang tính cách mạng và đột biến của khoa học và công nghệ cao, dường

như ngày càng thu hẹp khoảng cách địa lý giữa các quốc gia, dân tộc; không

gian văn hóa các dân tộc đang xích lại gần nhau hơn; giao văn hóa giữa các

dân tộc ngày càng mở rộng. Trong các quá trình đó, các nước chậm phát triển

đứng trước cả vận hội và thách thức, thuận lợi và khó khăn; vừa tiếp nhận

được các giá trị văn minh, hiện đại của nhân loại, có điều kiện nâng cao hiểu

biết, học hỏi lẫn nhau, tiếp thu được những giá trị tốt đẹp của các dân tộc

khác, làm giàu thêm và chấn hưng hệ giá trị Việt Nam. Trên thực tế, các giá

trị tinh hoa của nhân loại sẽ góp phần làm giàu có, bồi đắp thêm cho con

người Việt Nam bên cạnh các giá trị truyền thống khi chúng được tiếp thu có

85

chọn lọc và cải biến phù hợp thực tiễn. Giải quyết bài toán về mối quan hệ

giữa cái chung và cái riêng này cũng là một yêu cầu quan trọng cho việc xây

dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập hiện nay.

Thứ ba, hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu với xây dựng hệ giá trị con

người Việt Nam phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước vì sự nghiệp dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nói cách khác, hệ giá trị con

người Việt Nam hiện nay phải mang tính hiện thực, nó vừa phản ánh trình độ

phát triển thực tế của xã hội Việt Nam trong giai đoạn mới, vừa phản ứng

mục tiêu, lý tưởng của đất nước. Là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp

chung của dân tộc, hệ giá trị con người Việt Nam phải tham gia tích cực vào

công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, hướng đến mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam hiện nay không những phải lựa chọn các giá trị phù hợp với điều kiện

thực tiễn đất nước mà các giá trị đó phải tham gia tích cực vào việc định

hướng, đánh giá và điều chỉnh các hành vi xã hội. Hệ giá trị con người Việt

Nam phải là cơ sở gắn kết tinh thần đoàn kết, khơi dậy sức mạnh dân tộc

trong công cuộc kiến thiết đất nước. Hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay

không chỉ thể hiện mong muốn tốt đẹp mang tính lý tưởng, xa rời thực tiễn,

mà phải gắn với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển đất nước, vì mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.

Thứ tư, hệ giá trị con người trong điều kiện hội hiện nay cần phải được

xây dựng và phát triển trong “chuỗi liên kết” giữa các chủ thể trong xã hội.

Tức là các chủ thể tham gia quá trình xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam

trong điều kiện hội nhập quốc tế bao gồm nhiều đối tượng tham gia. Trên góc

độ thượng tầng kiến trúc, Đảng và Nhà nước là chủ thể quan trọng trong việc

đề xuất các chủ trương, đường lối, các chính sách và kiểm soát các vấn đề liên

quan. Các cơ quan, đoàn thể xã hội có chức năng thực thi các vấn đề về con

người, các nhà khoa học có nhiệm vụ tích cực đưa các quan điểm của Đảng

và Nhà nước vào thực tiễn đời sống và bổ sung những vấn đề của thực tiễn về

con người, hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Quần chúng

86

nhân dân là chủ thể được hưởng các giá trị và là chủ thể tham gia vào quá

trình đó. Nói cách khác, để hiện thực hóa hệ giá trị con người Việt Nam trong

bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay cần có sự chung tay của toàn xã hội, của

tất cả con người Việt Nam chứ không riêng chủ thể, cá nhân nào. Quả thực,

sức mạnh và động lực phát triển của dân tộc - đất nước sẽ được phát huy cao

nhất khi phát huy được giá trị tích cực, giá trị đích thực của mỗi chủ thể, đồng

thời phải tại được hợp lực các chủ thể khác trong quá trình xây dựng hệ giá trị

con người Việt Nam. Hiện nay, khi bối cảnh hội nhập quốc tế với các vấn đề

diễn ra ngày càng đa dạng, phức tạp, trong đó có những vấn đề nhạy cảm liên

quan trực tiếp tới vận mệnh, an ninh quốc gia, đến sự tồn tại và phát triển con

người… Điều này đặt ra những thách thức mới cho tất cả các dân tộc trên con

đường hội nhập. Ở Việt Nam, khi xuất phát điểm trước mắt còn nhiều khó

khăn, những cơ hội và thách thức đan xen, con người Việt Nam với những nét

đặc thù mang những đặc điểm tích cực xen lẫn những hạn chế trước yêu cầu

của thời đại… Vì thế, từ những vấn đề thực tiễn đặt ra với vấn đề xây dựng hệ

giá trị con người cần có sự hợp sức, chung tay của các chủ thể tích cực tạo

thành “chuỗi liên kết” vừa là một yêu cầu khách quan vừa là một nhiệm vụ

bức thiết và quan trọng.

3.2. Thực trạng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội

nhập quốc tế hiện nay

3.2.1. Những chuyển biến tích cực trong hệ giá trị của con người

Việt Nam hiện nay

3.2.1.1. Các giá trị của con người Việt Nam có xu hướng gần hơn với

các chuẩn mực quốc tế

Sau hơn 30 năm Đổi mới, sự nghiệp hợp tác giao lưu quốc tế về văn

hóa đã ở vào trình độ mới về chất, mở rộng về quy mô, đa dạng về hoạt động.

Việt Nam đã thực sự là đối tác tin cậy và đầy tiềm năng về chủ thể văn hóa.

Với quá trình đổi mới văn hóa Việt Nam đã được toàn thế giới biết đến và ghi

nhận ở nét đặc sắc của nó, từ văn hóa vật chất đến văn hóa tinh thần, từ văn

hóa vật thể đến văn hóa phi vật thể, từ văn hóa truyền thống đến văn hóa hiện

87

đại, từ văn hóa ẩm thực đến văn hóa chính trị, ngoại giao, thông tin… Hầu hết

các tổ chức quốc tế về hoạt động văn hóa đều có quan hệ với Việt Nam. Các

công ước, định ước quốc tế chủ yếu về hoạt động văn hóa, đều được Việt

Nam tham gia và tôn trọng thực hiện. Văn hóa Việt Nam trên thực tế đã trở

thành niềm tự hào của người Việt trong giao lưu với bên ngoài. Trên khía

cạnh hệ giá trị con người, có thể thấy những giá trị con người Việt Nam hiện

nay, về cơ bản, đã có những bước chuyển gần với các chuẩn mực quốc tế.

Trong những năm trở đây, đặc biệt khi Việt Nam tham gia sâu rộng trên

nhiều diễn đàn quốc tế, Việt Nam có thêm nhiều cơ hội mới tiếp cận với các

giá trị chuẩn mực quốc tế. Và, hội nhập quốc tế đã thực sự mang lại sự

chuyển biến về giá trị con người Việt Nam trước bối cảnh mới. Cụ thể, năm

1995, Việt Nam bắt đầu có mặt trong Báo cáo của UNDP về phát triển con

người. Năm 2001, Việt Nam công bố Báo cáo quốc gia về phát triển con

người. Xu hướng nghiên cứu định lượng về phát triển con người được chú ý

ngay cả ở phạm vi các địa phương (tỉnh, thành phố). Từ đây, quan niệm coi

con người chiếm vị trí trung tâm dần trở nên phổ biến trong đời sống xã hội

Việt Nam, nó có tác động tích cực trong việc xem xét con người, các giá trị

con người theo những nét mới, ngày càng phù hợp, gần gũi hơn với các chuẩn

mực giá trị quốc tế. Hơn nữa, tư tưởng coi con người chiếm vị trí trung tâm

của sự phát triển đã được đúc rút thành những phương pháp luận có ý nghĩa

rất tích cực đối với sự nghiệp đổi mới và cũng là với sự phát triển đất nước

mấy thập niên qua.

Về phát triển con người, quan điểm của UNDP đã được tiếp thu và chỉ số

phát triển con người cũng đã được ghi vào văn kiện Đại hội VIII như là một

mục tiêu cần đạt tới. Việc coi chỉ số phát triển con người (HDI) như một

thước đo về thành tựu phát triển và là một trong cơ sở để xây dựng chiến

lược, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, là một bước tiến bộ đã

được dư luận trong và ngoài nước ghi nhận. Phát triển con người đi liền với

mở rộng dân chủ, nâng cao cơ hội lựa chọn và hưởng thụ các thành quả phát

88

triển cho người dân. “Sống lâu, sống khỏe mạnh và sáng tạo” được coi là mục

tiêu của sự phát triển. Tăng trưởng kinh tế cùng với tất cả các tiến bộ khác đều

có mục tiêu là phát triển con người - mở rộng cơ hội lựa chọn, nâng cao năng

lực lựa chọn; tăng cường sự tham gia và trao quyền cho người dân; đảm bảo

bình đẳng trong tiếp cận cơ hội và công bằng trong chia sẻ thành quả phát

triển trong một thế hệ và giữa thế hệ, đảm bảo an ninh con người; mọi hoạt

động kinh tế xã hội phải tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển

phong phú, tự do, toàn diện của con người. Chúng ta đã tiếp nhận và đưa các

quan niệm mới mẻ của Liên Hiệp Quốc và các nước phát triển về phát triển

con người. Và trên thực tế, phát triển con người của Việt Nam trong những

năm qua đã có những bước thay đổi đáng kể. Sự thay đổi này góp phần tạo ra

những cơ hội cho con người Việt Nam, các giá trị con người Việt Nam ngày

càng tiếp cận, tiến gần hơn với các chuẩn mực giá trị nhân loại trong bối cảnh

hội nhập hiện nay. Thể lực của người Việt Nam hơn 30 năm qua cũng liên tục

được cải thiện. Tốc độ tăng chiều cao trung bình qua từng 10 năm được đảm

bảo liên tục. Tuổi thọ trung bình và các chỉ số sinh, tử của trẻ sơ sinh trong

nhiều năm qua cũng theo chiều hướng tốt hơn; Công tác giáo dục có nhiều

chuyển biến theo hướng hội nhập. Người Việt hiện nay có ý thức và thực tế là

thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn và các mặt

khác. Tinh thần hiếu học và việc đầu tư cho học tập ở người Việt hiện nay

là rất lớn. Đội ngũ trí thức đang gia tăng cả về số lượng lẫn chất lượng, số lao

động qua đào tạo không ngừng tăng lên trong 30 năm qua, đặc biệt là 10 năm

gần đây. Dân chủ hóa được thực hiện ngày một tốt hơn cả về chiều rộng lẫn

chiều sâu. Quyền con người ở nước ta được tôn trọng, được đảm bảo và thực

thi ngày một tốt hơn. Hiến pháp sửa đổi 2013 đã ghi nhận bước tiến lớn cả về

phương diện pháp lý, chính trị lẫn thực tiễn của việc thực thi quyền con người

ở nước ta trong 10 năm gần đây và xu hướng những năm tiếp theo.

Ngoài ra, các giá trị con người Việt Nam đang diễn ra quá trình chuyển

đổi mạnh mẽ. Các giá trị con người Việt Nam mang tính lỗi thời, lạc hậu

89

không phù hợp với điều kiện mới dần bị loại bỏ, bên cạnh đó, các giá trị nhân

loại như: dân chủ, bình đẳng, tinh thần sáng tạo, kỷ luật, hợp tác... đang dần

được hiện thực hóa trong các chủ trương, văn kiện, chính sách của Đảng và

nhà nước. Các giá trị này về cơ bản phù hợp với điều kiện hiện nay của Việt

Nam và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế trong bối cảnh hội nhập. Ở một

khía cạnh khác về giá trị con người, các chuẩn mực của quốc tế mà Việt Nam

đang hướng tới đã tạo sự thay đổi trong lý luận cũng như thực tiễn xây dựng

hệ giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Nếu như trước hội nhập, các

giá trị con người ở Việt Nam thường được xem xét trên khía cạnh con người

xã hội; nghĩa là con người trong các quan hệ nhóm, tập thể, cộng đồng, giai

cấp, dân tộc, tổ quốc… Quyết định diện mạo con người, gần như không ai bàn

đến vai trò của nhân tố cá nhân, cá thể, huyết tộc, nòi giống... Vì thế, các giá

trị con người cá nhân như: tự do, dân chủ, bình đẳng... hầu như ít được nói

đến hoặc bàn tới. Hiện nay, dưới những tác động mạnh mẽ của thời đại, các

giá trị con người được quan tâm cả trên phương lý luận và phương diện thực

tiễn. Những nhu cầu của con người cá nhân như: được tôn trọng, được an

toàn, phát triển bản thân... qua quá trình giao lưu, hợp tác, tiếp biến văn hóa

đang dần trở thành các giá trị được quan tâm và thực tế hơn.

Đặt trong bối cảnh của một đất nước đến tận đầu những năm 90 (thế kỷ

XX) vẫn chìm trong tất cả các tiêu chuẩn của tình trạng đói nghèo và chậm

phát triển, rồi sau đó tăng trưởng liên tục với tốc độ ấn tượng và trở thành một

quốc gia phát triển sôi động trong con mắt khu vực và thế giới, thì không khó

để có thể thấy rằng, thực trạng xây dựng và phát triển con người Việt Nam

những thập niên qua, quả thực đã đạt tới những thành tựu khó phủ nhận. Dĩ

nhiên, phát triển con người ở Việt Nam vẫn chưa được như kỳ vọng, các giá

trị con người Việt Nam đang có những chuyển biến mạnh mẽ, trong đó vẫn có

cả những biến đổi theo chiều hướng tiêu cực, nhưng nhìn tổng thể, những

thay đổi của các giá trị con người Việt Nam trong thời gian qua đều ít nhiều

đã được kiểm chứng theo các chuẩn mực quốc tế.

90

3.2.1.2. Lối sống văn minh, năng động, thích ứng với hội nhập ngày càng

chiếm ưu thế trong đời sống xã hội

Như chúng ta đã biết, hội nhập quốc tế hiện nay diễn ra chủ yếu trong

lĩnh vực kinh tế. Kinh tế vốn là lĩnh vực thuộc hạ tầng cơ sở có khả năng chi

phối nhiều lĩnh vực khác nhau thuộc thượng tầng kiến trúc, trong đó có văn

hóa. Bởi thế, sự quốc tế hóa đời sống kinh tế cũng đem lại những tác động

không nhỏ làm thay đổi hệ giá trị, quan niệm, lối sống và những ứng xử trong

đời sống văn hóa. Sự thay đổi này là tất yếu bởi yêu cầu tương hợp giữa hạ

tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc. Là một xu thế tất yếu, hội nhập quốc tế

có sức cuốn hút mạnh mẽ, hàm chứa cả cơ hội lẫn thách thức đối với các quốc

gia trên con đường phát triển. Với quan điểm phát huy nội lực, tranh thủ các

điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam nhất quán đường lối chủ động, tích

cực hội nhập quốc tế đi đôi với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc.

Đến nay, con người Việt Nam là con người của một quốc gia đã có quan hệ

ngoại giao với 188/193 nước thành viên Liên Hợp Quốc, là thành viên tích

cực của hơn 70 định chế quốc tế; có quan hệ Đối tác chiến lược với 16

nước, Đối tác toàn diện với 11 nước; được hơn 70 nước công nhận nền

kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường; tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao

và liên tục khoảng 5-7%/năm… Những tác động này có ảnh hưởng không

nhỏ đến lối sống, văn hóa của người Việt Nam, đặc biệt là một bộ phận

giới trẻ có cơ hội tiếp xúc nhanh chóng với đời sống quốc tế, từ đó các xu

hướng, lối sống lành mạnh dễ dàng thâm nhập vào đời sống cộng đồng với

sức lan tỏa dễ dàng hơn trước.

Quá trình chủ động hội nhập một cách tích cực đó đã giúp Việt Nam có

những bước chuyển quan trọng trên nhiều lĩnh vực, con người Việt Nam ngày

càng có thêm cơ hội học hỏi, giao lưu và trang bị thêm những hành trang mới.

Hiện nay, về cơ bản, lối sống lành mạnh, có văn hóa, hội nhập sâu vào xu

hướng tiến bộ của thế giới ngày càng phổ biến và chiếm ưu thế trong đời sống

xã hội Việt Nam. Biểu hiện dễ nhận thấy là con người Việt Nam ngày nay

91

năng động, sáng tạo hơn. Khả năng sáng tạo, hội nhập, thích nghi và nắm bắt

các phẩm chất tiên tiến của văn minh thế giới ở thế hệ trẻ phải nói là rất tích

cực. Trong xã hội xuất hiện ngày càng nhiều người trẻ thành đạt dựa trên

năng lực và trình độ chuyên môn của bản thân. Đó là những con người dám

nghĩ, dám làm, dám biến ước mơ thành hiện thực trong công việc, trong cuộc

sống. Họ luôn tranh thủ các điều kiện thuận mới như việc ứng dụng các thành

tựu khoa học kỹ thuật tiến bộ của nhân loại, hưởng thụ các giá trị tinh thần

phong phú từ các nền văn hóa tiến bộ trên thế giới..để làm giàu đời sống cá

nhân và lan tỏa trong cộng đồng. Ý chí làm người, tâm thế phát triển, khát

vọng xây dựng đất nước giàu mạnh… vẫn được thể hiện mạnh mẽ trong nhiều

tầng lớp cư dân. Hiện nay, con người Việt Nam đang dần khẳng định năng lực

của mình trên nhiều lĩnh vực như thể thao, giáo dục, y tế...không chỉ trong

phạm vi khu vực mà còn trên nhiều lĩnh vực của thế giới. Trong đời sống xã

hội, những lối sống lành mạnh, tiến bộ, văn minh ngày càng phổ biến và được

đón nhận, nó góp phần làm giảm, thậm chí làm biến mất nhiều tư tưởng bảo

thủ, lạc hậu, ấu trĩ vốn tồn tại trong xã hội Việt Nam trước hội nhập.

Về cơ bản, hiện nay, con người đã trở thành chủ thể năng động của mọi

quá trình phát triển, giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Con

người Việt Nam hiện nay với đại bộ phận có lối sống lành mạnh, nếp sống

vǎn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước,

quy ước của cộng đồng. Những phẩm chất này đang tồn tại thực, đang là nhân

tố tạo nên sự ổn định, phát triển của xã hội Việt Nam. Trong giáo dục gia

đình, các phẩm chất trung thực, cần kiệm, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương,

phép nước và quy ước của cộng đồng vẫn được tôn trọng và được chú ý thực

hiện. Một số địa phương, cộng đồng thậm chí có những quy ước rất chặt chẽ

để giáo dục sự làm người. Về trình độ kỹ thuật, năng suất lao động và tính

sáng tạo của các thế hệ người Việt Nam hiện nay có những thay đổi tích cực

hơn so với các thế hệ trước.

Dưới tác động của bối cảnh hội nhập quốc tế với sự đa dạng các làn

sóng văn hóa, con người Việt Nam hiện nay đang hướng tới lối sống lành

92

mạnh, có văn hóa, hội nhập sâu vào xu hướng tiến bộ của thế giới ngày càng

phổ biến và chiếm ưu thế trong đời sống xã hội. Điều này có thể coi là một

điểm chuyển biến tích cực đáng kể trong hệ giá trị con người Việt Nam trước

những thay đổi của thời đại, của những điều kiện mới.

3.2.1.3. Các giá trị con người truyền thống được đánh thức và phát huy

Trong cuộc sống của mỗi cá nhân và trong lịch sử của mỗi dân tộc qua

nhiều thế hệ có những giá trị mới hình thành, có những giá trị trở nên lỗi thời

nhưng cũng có rất nhiều giá trị không những không mất đi mà trái lại còn

được duy trì, được lưu giữ, được khuếch trương, được truyền bá rộng rãi,

được bồi đắp thêm và trở thành các giá trị truyền thống. Khi nói đến giá trị

truyền thống là nói đến những truyền thống nào đã được thẩm định nghiêm

ngặt bởi thời gian, đã có sự chọn lọc, sự phân định và khẳng định ý nghĩa tích

cực của chúng đối với xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.

Hội nhập quốc tế đã tác động mạnh mẽ tới đời sống xã hội Việt Nam,

tạo ra những chuyển biến tích cực đối với các giá trị con người truyền thống,

trong đó, nhiều giá trị người Việt truyền thống có cơ hội phát triển, được

“đánh thức”. Giá trị gia đình trong quan niệm của người Việt hiện nay là một

giá trị dễ thấy rõ. Với người Việt Nam, gia đình vẫn là thiết chế chứa đựng

nhiều phẩm chất tốt đẹp nhất, có giá trị giữ vững sự ổn định và bình thường

(không bất thường) của xã hội - là tế bào lành mạnh nhất của xã hội. Trong đó

các giá trị như hướng thiện và trách nhiệm vốn được coi là định hướng cơ bản

trong giáo dục gia đình truyền thống thì nay, giá trị này vẫn được đặc biệt

xem trọng trong gia đình người Việt hiện đại. Gia đình người Việt hiện nay

vẫn đặc biệt xem trong giá trị đạo hiếu- một giá trị đạo lý cơ bản vững chắc

trong gia đình Việt Nam truyền thống. Hiện nay, trong bối cảnh có sự tác

động mạnh mẽ của các xu hướng, giá trị mới tới gia đình, mặc dù không tránh

khỏi những biến động, song, nhìn chung các giá trị gia đình vẫn được bảo tồn,

lưu giữ trong tâm thức người Việt và chiếm số đông gia đình người Việt hiện

nay. Giá trị nhân văn, tiến bộ trong gia đình gồm: Giá trị tình nghĩa, thủy

chung, hòa thuận trong quan hệ vợ chồng, từ - hiếu trong quan hệ giữa cha mẹ

93

và con cái; tình cảm yêu thương gắn bó, kính trên nhường dưới trong các mối

quan hệ anh chị em. Việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức này góp phần

đảm bảo sự ổn định, hài hòa phát triển trong nội bộ gia đình và trong quan hệ

giữa gia đình với họ tộc, làng xóm, quê hương. Bên cạnh đó, cùng với sự phát

triển của xã hội, đời sống gia đình đã có những cải thiện đáng kể, cha mẹ có

điều kiện nhiều hơn trong việc chăm sóc và dạy dỗ con cái. Các giá trị truyền

thống dưới tác động của hội nhập quốc tế nhờ đó cũng đang có những biến

đổi trong điều kiện mới. Việc lựa chọn bạn đời có thể cần nhiều tiêu chí, song

nhất thiết phải được xây dựng trên quan hệ tình yêu. Quan hệ vợ chồng phải

xem trọng tình nghĩa, thủy chung, hòa thuận. Sự hòa thuận của vợ chồng là

yếu tố cơ bản, tạo ra sức mạnh phi thường khắc phục mọi khó khăn để xây

dựng gia đình hạnh phúc. Sự hòa thuận không thể xây dựng trên một cơ sở

nào khác ngoài tình yêu thương, chung thủy và sự hiểu biết lẫn nhau của hai

người. Trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái ở bối cảnh hiện tại, ngoài tình

thương và trách nhiệm còn cần phải tạo lập giá trị tự do, dân chủ. Thay bằng

việc áp đặt của cha mẹ với con cái trong gia đình truyền thống, hiện nay gia

đình người Việt hiện đại có xu hướng tôn trọng sở thích cá nhân, tính độc lập,

tự do, dân chủ của mỗi cá nhân. Con cái tự quyết định cuộc sống của họ, cha

mẹ đóng vai trò là người bầu bạn đồng hành cùng con, định hướng cho con

cái trong cuộc sống.

Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, quan niệm về yêu nước- một giá trị

đứng đầu trong các giá trị truyền thống- cũng có sự thay đổi và ngày càng mở

rộng nội hàm giá trị hơn. Ngày nay, yêu nước không chỉ giới hạn khi tổ quốc

có nguy cơ đe dọa xâm lăng hay khi chiến tranh, yêu nước không chỉ giới hạn

ở những vấn đề lớn lao mà còn thể hiện cụ thể, thiết thực hơn trong đời sống

xã hội. Học tập, nâng cao trình độ chuyên môn để tạo ra năng suất lao động

cao hơn là biểu hiện của yêu nước. Sống tử tế, trách nhiệm, dám bảo vệ công

bằng, chống tham nhũng, cửa quyền hách dịch… cũng là biểu hiện của tinh

thần yêu nước. Yêu nước trong bối cảnh hội nhập còn là tinh thần mở rộng

giao lưu, học hỏi, đoàn kết quốc tế, chống lại tinh thần dân tộc cực đoan, ý

94

thức dân tộc hẹp hòi… Và rõ ràng, trước tác động của xu thế hội nhập, những

xu hướng tích cực đang diễn ra đa dạng, phong phú trong cộng đồng người

Việt hiện đại đã góp phần mở rộng ngoại diên trong quan niệm về giá trị yêu

nước so với trước kia.

Ngoài các biến đổi của giá trị nói trên, trong bối cảnh tác động của các

bối cảnh thời đại, các giá trị truyền thống như: Hiếu học, yêu lao động, cần

kiệm, trung thực, nhân nghĩa… trong đời sống xã hội Việt Nam cũng có

những thay đổi rõ nét. So với trước kia, nội hàm các giá trị này đang ngày

càng được mở rộng hơn nội hàm giá trị và tạo ra những biến đổi tích cực nhất

định trong hành vi, lối sống, quan niệm, trong giá trị của người Việt hiện nay.

Có thể thấy khá rõ, bối cảnh mới với những tác động mới, một mặt vừa đặt ra

những thách thức không nhỏ với các giá trị truyền thống, song mặt khác,

chính trong điều kiện này, các giá trị truyền thống người Việt cũng có cơ hội

được quan tâm, một lần nữa được “đánh thức” và ngày càng mở rộng nội

hàm. Ở khía cạnh về hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập

quốc tế, điều này có thể xem là những biến đổi tích cực.

3.2.2. Một số vấn đề đặt ra trong xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam thời kỳ hội nhập quốc tế

3.2.2.1. Sự mai một các giá trị truyền thống

Bàn về giá trị truyền thống, nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu cho rằng

“truyền thống thì có cái tốt cái xấu; nhưng khi chúng ta nói “giá trị truyền

thống” thì ở đây chỉ có cái tốt mà thôi, bởi vì chỉ có những cái gì tốt đều được

gọi là giá trị; thậm chí, không phải mỗi cái gì tốt thì mới được gọi là giá trị,

mà phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo

đức luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và hướng dẫn sự hành

động, thì mới được mang danh là giá trị truyền thống” [29, tr.50]. Trên thực

tế, giá trị truyền thống là một thành tố quan trọng hình thành bản sắc riêng

của mỗi dân tộc trong bối cảnh hội nhập. Hiện nay, hội nhập quốc tế không

chỉ đem lại cho các nước những cơ hội để phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá

làm giàu có thêm hệ giá trị của dân tộc mình, mà còn đặt các quốc gia trước

95

những thách thức không nhỏ, một trong những thách thức đáng lo ngại là sự

xem nhẹ các giá trị truyền thống trong hệ thống thang bậc giá trị, sự phá vỡ

những giá trị vốn có từ lâu đời của dân tộc mình, làm cho dân tộc mình bị hoà

tan hay trở thành cái bóng của dân tộc khác, tức là làm đánh mất bản thân

mình và đánh mất sức mạnh vốn có của chính dân tộc mình. Trong tác phẩm

“Chiếc Lexus và cây Ô liu” [25], tác giả Thomas Loren Friedman đã đề cập

đến sự đụng độ mà ông gọi là một “cuộc vật lộn triền miên”giữa giá trị truyền

thống và giá trị hiện đại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Đây

thực sự là một “cuộc đụng độ” khốc liệt giữa cái cũ và cái mới, giá trị truyền

thống và giá trị hiện đại. Hệ quả của các cuộc xung đột đó có thể là nhân tố

thúc đẩy quá trình giữ gìn bản sắc dân tộc với các giá trị truyền thống trước

thay đổi của thời đại, hoặc cũng có thể khiến các giá trị truyền thống đang bị

mai một, thậm chí một số giá trị bị biến mất trong bối cảnh hội nhập khi con

người hiện đại có xu hướng xem nhẹ chúng.

Việt Nam có một di sản những giá trị truyền thống vô cùng phong phú,

trong đó phải kể đến những giá trị điển hình như: Tinh thần yêu nước; ý thức

coi trọng gia đình; Ý chí tự lực, tự cường; tinh thần nhân văn, nhân ái; Chủ

nghĩa anh hùng cách mạng; tinh thần đoàn kết cộng đồng, tương thân, tương

ái... Trong đó, tinh thần yêu nước là một giá trị chủ đạo, xuyên suốt. Chính

những giá trị truyền thống trong con người Việt Nam là kết tinh và tiêu biểu

cho sức sống, bản lĩnh, bản sắc và những phẩm giá của cả dân tộc. Tuy nhiên,

trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, ở nước ta đã và đang xuất hiện xu

hướng xem nhẹ các giá trị truyền thống dân tộc. Đây là một trong những xu

hướng đáng lo ngại. Có thể nhận dạng một số những biểu hiện xem nhẹ các

giá trị truyền thống trong bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay trên một số

bình diện giá trị cơ bản như sau:

Giá trị truyền thống yêu nước- một giá trị truyền thống cao quý nhất, là

sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam. Dưới tác động của toàn cầu

hoá cùng với xu thế hội nhập, giá trị yêu nước truyền thống đang có những

biến động theo những chiều hướng khác nhau. Nếu như trước kia, yêu nước

96

gắn liền với niềm tự hào về truyền thống dân tộc thì hiện nay, một bộ phận

người Việt Nam có xu hướng phủ nhận những giá trị đạo đức truyền thống,

đánh mất đi niềm tự hào dân tộc. Họ cho rằng những giá trị đạo đức ấy không

có gì đáng tự hào, thậm chí có người còn kết tội những truyền thống đó là

nguyên nhân của sự nghèo nàn lạc hậu và không muốn bảo vệ những giá trị

đạo đức đó nữa. Hiện nay, bên cạnh một bộ phận người Việt sống có hoài

bảo, lý tưởng, sẵn sàng góp sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc thì vẫn còn một

bộ phận không nhỏ sinh viên mơ hồ về lí tưởng phấn đấu, chưa xác định được

trách nhiệm của sinh viên nói chung và bản thân nói riêng, họ chạy theo chủ

nghĩa cá nhân xác định cho mình một lối sống thực dụng, họ dần quên đi

những truyền thống tốt đẹp tại chính nơi mình sinh ra, nơi mình lớn lên, học

tập. Vì trong tư tưởng và hành động của họ coi nhẹ và phủ nhận những giá trị

quý giá của truyền thống dân tộc - là những giá trị đã và đang là một trong

những động lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội nước ta. Đây thực sự

là một điều đáng lo lắng, bởi thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước,

nếu không có một lập trường chính trị vững vàng, một niềm tin vững chắc vào

sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thì không chèo lái được con thuyền xã

hội chủ nghĩa, dễ rơi vào âm mưu cạm bẫy của kẻ thù quay lại phản bội tổ

quốc, phản bội nhân dân. Tinh thần sẵn sàng xả thân vì nước giờ đây cũng có

nguy cơ bị giảm sút. Nguyên nhân của những xu hướng biến đổi tiêu cực

trong quan niệm về yêu nước trong cộng đồng người Việt hiện nay do nhiều

nguyên nhân. Một trong số đó bắt nguồn từ nhận thức chưa đúng về giá trị

yêu nước trong bối cảnh hội nhập. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Ngọc

Thêm trong công trình “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và

con đường tới tương lại” [92], ông cho rằng, một bộ phận người Việt hiện nay

có hiểu chưa đúng về tinh thần yêu nước , nhận thức phần “hạn hẹp” về giá trị

yêu nước. Với họ, yêu nước là giá trị “chỉ thể hiện trong đấu tranh chống giặc

ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền đất nước” [92, tr.486]. Do xuất phát từ cách

hiểu này, theo ông, mỗi khi có nguy cơ đe dọa sự tồn vong qua đi, người Việt

lại có khuynh hướng “quay lưng” lại với nhau, không hợp tác với nhau được.

97

Vì thế, giá trị yêu nước gắn với niềm tự hào dân tộc trong chiến tranh bao

nhiêu thì trong hòa bình lại trở nên thiếu bản lĩnh, tự ti.

Có thể nhận thấy việc suy giảm tinh thần yêu nước trong người Việt

trong bối cảnh hội nhập hiện nay có nhiều nguyên nhân từ khách quan tới chủ

quan, từ tác động ngoại cảnh đến nhận thức của chủ thể con người… Song,

hiện nay, những biểu hiện theo chiều hướng tiêu cực nghiêm trọng về vấn đề

này đang gây ra những tổn thất không nhỏ tới sự tồn vong, vị thế của quốc gia

trên trường quốc tế. Trong đó, một số người Việt còn lợi dụng chính sách mở

cửa để kiếm lợi riêng cho bản thân mình, bất chấp cả lợi ích của quốc gia, dân

tộc. Xuất hiện tư tưởng sùng bái một cách tuyệt đối các giá trị phương Tây,

đánh mất lòng tự hào dân tộc, chỉ đòi hỏi về quyền lợi mà không chú trọng tới

nghĩa vụ của bản thân mình đối với Tổ quốc. Họ tuyên truyền văn hóa và lối

sống phương Tây và xem đó là “mô hình chuẩn” cần phải học tập, hướng

tới. Họ thích sống thực dụng hơn là sống lý tưởng và họ thích lối sống sòng

phẳng hơn là nghĩa tình. Họ chạy theo lối sống lai căng, thấp hèn. Biểu hiện

rõ nét nhất của lối sống đó là xu hướng coi thường các giá trị truyền thống,

phủ nhận truyền thống của dân tộc, đồng thời đề cao quá mức các giá trị mà

họ cho là “mới”, là “hiện đại”. Đây là một thách thức đối với những quốc gia

kém và đang phát triển như Việt Nam hiện nay.

Giá trị truyền thống nhân văn, hiểu theo nghĩa chung nhất, giá trị

truyền thống nhân văn là lòng yêu thương con người, sự khoan dung, độ

lượng, chống lại cái ác, hướng tới cái thiện vì quyền tự do và hạnh phúc cao

cả của con người. Tư tưởng nhân văn truyền thống Việt Nam là một trong

những giá trị đáng quý và đáng tự hào nhất trong bảng giá trị tinh thần của

người Việt. Hiện nay, do tác động của xu thế hội nhập quốc tế, giá trị nhân

văn của dân tộc ta nói riêng, cũng như của toàn nhân loại nói chung, đang có

nguy cơ bị đe doạ. Khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, một mặt đã

đem lại nhiều lợi ích lớn lao cho con người nhưng mặt khác cũng đặt con

người trước nguy cơ bị huỷ diệt của nạn ô nhiễm môi trường, của những cuộc

chạy đua vũ trang, chiến tranh sinh học... Hiện nay, do có sự xâm nhập ồ ạt

98

những giá trị ngoại lai và do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế thị trường, giá trị

nhân văn truyền thống đã có những dấu hiệu bị xâm phạm khiến cho tình yêu

thương đùm bọc giữa con người với con người dường như đang bị lấn át bởi

những quan hệ vật chất, tiền bạc. Nếu như trước kia, người Việt Nam rất coi

trọng tình làng nghĩa xóm, “bán anh em xa, mua láng giềng gần” để “tối lửa

tắt đèn có nhau” thì ngày nay con người sống theo lối “đèn nhà ai, nhà ấy

rạng” đặc biệt ở các thành thị. Theo kết quả điều tra của đề tài KX.07 – 02,

với câu hỏi “giả sử trên đường gặp người bị nạn (tai nạn, ốm đau đột xuất) thì

bản thân sẽ ứng xử như thế nào và quan niệm người khác sẽ ứng xử như thế

nào?”. Kết quả cho thấy đại bộ phận người được hỏi biểu thị thái độ nhân ái

“bản thân dừng lại hỏi han (29,48%), dừng lại giúp đỡ (50,48%), đưa đi bệnh

viện (26,79%) và quan niệm người khác cũng cần dừng lại hỏi han (26,4%),

dừng lại giúp đỡ (36,73%), đưa đi bệnh viện (21,9%)”. Tuy nhiên, cũng có

một bộ phận không trả lời hoặc thờ ơ đứng ngoài “bản thân không dừng lại

(5,12%), dừng lại rồi đi (5,18%) và quan niệm người khác cũng không cần

dừng lại (2,75%)” [Trích theo 28].

Trong khi đó số lượng tội phạm ngày càng tăng nhanh, trong đó mức

độ phi nhân tính là rất cao, tình yêu thương đùm bọc giữa con người với con

người dường như đang bị lấn át bởi những quan hệ vật chất, tiền bạc. Trong

lĩnh vực kinh doanh, vì tiền có những kẻ sẵn sàng dẫm đạp lên tính mạng của

người khác, của cả cộng đồng để buôn bán những chất cấm: như heroin, ma

túy, buôn bán hàng giả, hàng lậu... Nhiều công ty, nhà máy, xí nghiệp... đã vì

lợi nhuận mà sản xuất không đúng quy trình đặc biệt là hàng tiêu dùng thực

phẩm, thậm chí không chịu đầu tư cho việc xử lý các chất thải công nghiệp

làm cho nạn ô nhiễm môi trường trở nên trầm trọng đe doạ cuộc sống của

hàng triệu người. Có kẻ còn kiếm tiền trên thân xác của người khác, chẳng

hạn nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em, kinh doanh gái mại dâm... vượt qua cả biên

giới quốc gia.

Giá trị truyền thống gia đình vốn được coi là giá trị nền tảng trong đời

sống xã hội người Việt từ xưa tới nay. Lịch sử xa xưa, Việt Nam là một nước

99

nông nghiệp với truyền thống nhân nghĩa, thuỷ chung lại chịu nhiều ảnh

hưởng của tư tưởng Nho giáo, nên từ xưa đến nay, gia đình luôn có ý nghĩa

hết sức hệ trọng đối với mỗi con người. Đối với mỗi người dân Việt Nam, gia

đình luôn là một giá trị thiêng liêng, cao cả không gì có thể so sánh nổi. Từ

ngàn xưa con người Việt Nam đã coi trọng gia đình, huyết thống và dòng tộc

thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, sự gương mẫu của thế hệ trước; coi trọng

những hành động kính trên, nhường dưới, kính già, yêu trẻ; sự hiếu thảo của

con cháu với ông bà, cha mẹ; sự chung thuỷ của vợ chồng. Trải qua các giai

đoạn lịch sử khác nhau, gia đình Việt Nam đã thực hiện tốt những chức năng

cơ bản của nó và đã có những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp giải phóng

dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đã thực sự trở thành một giá trị

truyền thống bền vững. Hiện nay, dưới sự tác động của xu thế toàn cầu hóa và

tiến trình hội nhập quốc tế, nhiều giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình

Việt Nam đang có những vận động và biến đổi mạnh mẽ. Bên cạnh việc xuất

hiện nhiều giá trị mới của xã hội hiện đại thì nhiều giá trị truyền thống gia

đình Việt Nam đang có nguy cơ bị xâm hại và dần mai một đi. Nhiều nơi,

nhiều gia đình đã có những dấu hiệu của sự khủng hoảng, các mối quan hệ

truyền thống trong gia đình vốn tốt đẹp và bền vững ngày càng trở nên lỏng

lẻo, quan hệ tiền bạc, mua bán đang len lỏi vào các quan hệ gia đình, giữa

những người thân, chủ nghĩa thực dụng cá nhân, ích kỷ phát triển dẫn đến các

vụ kết hôn, ly hôn với những lý do không chính đáng. Phong cách ứng xử

giữa các thành viên trong gia đình trở nên thô kệch, thiếu văn minh, nhiều

quan điểm, cách sống, lối sống xa lạ, lệch chuẩn đang được manh nha dần,

đặc biệt là trong lớp trẻ, xu hướng chạy theo lối sống thực dụng, sùng bái

đồng tiền, đề cao lợi ích cá nhân vô tình đã quay lưng lại với các giá trị truyền

thống trong gia đình đó là lòng nhân ái, vị tha, sự đồng cảm, chia sẻ, quan tâm

lẫn nhau.

Lối sống tự do, buông thả, thích hưởng lạc và đề cao nhu cầu bản năng

theo kiểu phương Tây đang xuất hiện khá phổ biến dẫn tới tình trạng quan hệ

tình dục trước hôn nhân một cách bừa bãi ở không ít thanh niên. Những cặp

100

nam nữ chung sống với nhau một cách tự nguyện mà không cần kết hôn ngày

càng nhiều, khi chán nhau họ sẵn sàng chia tay. Nhiều người chỉ thích chơi

bời mà không muốn chịu sự ràng buộc của gia đình nên không muốn kết hôn,

dẫn đến tỷ lệ người sống độc thân ngày càng cao. Nhiều bậc cha mẹ cho rằng,

chỉ cần đáp ứng tất cả những nhu cầu của con cái là được mà không mấy để ý

xem những nhu cầu đó liệu có chính đáng hay không. Do đó, nạn trẻ em bị bỏ

rơi, trở nên hư hỏng, vì gia đình lục đục, cha mẹ bận làm ăn, công tác... khá

phổ biến. Nhiều trẻ em được gia đình chiều chuộng quá sinh hư hỏng, lười

nhác, mải chơi, kể cả sa vào nghiện hút. Chúng ít được giáo dục về lòng biết

ơn, đạo hiếu với cha mẹ, về cách cư xử lễ phép, tôn trọng người lớn, người

già. Chúng chỉ làm theo sở thích cá nhân và hỗn láo với cha mẹ, thầy cô. Tình

trạng con cháu ngược đãi ông bà, cha mẹ; vợ chồng lăng mạ, đánh đập nhau;

nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em; tình trạng trẻ hoá tuổi đời phạm tội và mắc phải

tệ nạn xã hội của các thành viên trong gia đình ngày một gia tăng, đã và đang là

một trong những biểu hiện xuống cấp của giá trị truyền thống gia đình.

Mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường cùng với những ảnh hưởng của

lối sống thực dụng phương Tây đang “gặm nhấm” những giá trị thiêng liêng

vốn có của gia đình truyền thống. Trong một số gia đình, cuộc sống tuy sung

túc, giàu sang, nhưng lại không có hạnh phúc, hoặc chứa đầy những sự kiện

đau lòng trong quan hệ nội bộ các thành viên. Có thể nói, trong số các nguyên

nhân dẫn đến thực trạng gia đình Việt Nam như đã đề cập trên đây thì tác

động của lối sống không lành mạnh từ bên ngoài tràn vào thông qua giao lưu,

hội nhập, thông qua các phương tiện truyền thông hiện đại là không nhỏ.

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay nhiều giá trị truyền thống bị coi

thường, bị xói mòn, bị băng hoại, không ít người quá đề cao giá trị hiện đại,

sùng bái phương Tây, xuất hiện xu hướng quay lưng với truyền thống, coi

thường giá trị truyền thống, đua đòi theo lối sống bên ngoài, chạy theo đồng

tiền và lợi nhuận một cách vô điều kiện. Từ đó, xuất hiện tư tưởng phủ nhận

vai trò của các giá trị truyền thống dân tộc mà muốn thay vào đó một hệ giá

trị hoàn toàn mới, dẫn tới sự đảo lộn các thang, bậc, chuẩn mực giá trị xã hội.

101

Trước những ảnh hưởng của lối sống nhanh, chạy theo những giá trị vật chất

chớp nhoáng khiến cho không ít người, trong đó có nhiều người trẻ dần mất

đi cảm hứng cội nguồn, dân tộc. Họ coi đó là trào lưu, là văn minh thời

thượng còn việc trở lại những giá trị dân tộc là một bước thụt lùi, lạc hậu. Có

nhiều ý kiến gọi đây là một cách thể hiện “thái độ với lịch sử” đầy cực đoan.

Thái độ này xuất hiện ngay cả những người có tri thức, được nuôi dưỡng

chính dòng sữa dân tộc song khi được “bén rễ” trong mảnh đất mới ra sức kêu

gọi, cổ xúy theo lối sống bên ngoài đồng thời cũng sức bôi nhọ, chống đối,

quay lưng lại các giá trị truyền thống của dân tộc. Không ít thanh thiếu niên

thời công nghệ hiểu văn hóa, lịch sử nước ngoài song lại khá thờ ơ, thậm chí

không biết tới các sự kiện lịch sử dân tộc, điều này không phải hiếm trong bối

cảnh các luồng văn hóa nước ngoài xâm nhập dễ dàng nhưng chưa có cơ chế

quản lý chặt chẽ như hiện nay. Điều này rất nguy hại, bởi lẽ như ý kiến như

nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu đã chỉ ra: Mất giá trị truyền thống dân

tộc cũng chính là nguy cơ dẫn tới mất cơ sở để tự khẳng định mình, mất điều

kiện tự tin và sáng tạo. Trong bối cảnh hội nhập, khi điều kiện đất nước còn

nhiều khó khăn như hiện nay, lối sống sính ngoại trong bộ phận người Việt đã

gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển đất nước, không kích

thích sự phát triển nền kinh tế và gây ra những nguy cơ mai một các giá trị

truyền thống, bản sắc dân tộc. Nhận định về điều này, văn kiện Đảng lần thứ

XII đã nhấn mạnh: “tệ sùng bái nước ngoài, coi thường giá trị văn hóa dân

tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ… đang gây hại cho thuần

phong mỹ tục của dân tộc. [22, tr.46].

3.2.2.2. Sự lệch chuẩn về giá trị

Nếu chuẩn giá trị được hiểu là những giá trị đóng vai trò mẫu mực

chung cho nhiều người, chiếm vị trí then chốt, trong đó “chuẩn” là yêu cầu

hướng tới của một xã hội phát triển hài hòa, tốt đẹp các mối quan hệ giữa con

người với con người, con người với xã hội và con người với thiên nhiên theo

mục tiêu Chân, Thiện, Mỹ thì hiện nay trong đời sống xã hội xuất hiện nhiều

sự lệch chuẩn hay lệch lạc về giá trị.

102

Sự lệch chuẩn giá trị trong đời sống xã hội hiện nay có thể nhận thấy rõ

nhất qua thói giả dối, chuộng hình thức phổ biến ở một bộ phận xã hội và phổ

biến trong các lĩnh vực đời sống, đôi khi còn lấn át sự tử tế và chân thật. Sự

giả dối thì xã hội nào, giai đoạn nào cũng có nhưng có thể nói hiện nay nó

xuất hiện khắp mọi nơi, từ gia đình, trường học, cơ quan công quyền, cộng

đồng, xã hội, thậm chí cả những nơi vốn chỉ dành riêng cho sự trung thực, cao

quý. Sự giả dối xuất hiện phổ biến tới mức trở thành bình thường, hiển nhiên

trong nhiều ứng xử các quan hệ xã hội. Thoạt đầu thói giả dối chỉ là một kiểu

ứng xử đánh lừa người khác nhưng dần dần trở thành một thói quen ngấm sâu

vào tận bản chất sẽ xói mòn nhân cách người. Con người khi đã quen với sự

giả dối thì coi nó như một điều bình thường. Họ sẽ ứng xử phi nhân tính một

cách hết sức tự nhiên, làm điều ác mà không nghĩ mình làm điều ác. Điều này

rất nguy hiểm. Đặc biệt, khi sức mạnh điều tiết của dư luận xã hội yếu, sự giả

dối càng có những cơ hội nảy sinh và len lỏi vào tất cả các mối quan hệ ứng

xử giữa con người với con người. Đây chính là cơ hội cho cái xấu xuất hiện

và trong nhiều trường hợp lấn át cái đúng, cái thiện. Khoảng chục năm trở lại

đây, nhiều người đau xót khi cho rằng “người Việt đang đầu độc lẫn nhau”

bằng thực phẩm bẩn; gian lận trong học hành, thi cử, thăng tiến... Tư duy “hai

luống, hai chuồng” được nhắc tới nhiều hiện nay không chỉ để nói tới người

nông dân giữ an toàn hàng hóa cho mình mà còn nói tới nhiều ngành nghề,

nhiều lĩnh vực vì lợi ích của bản thân sẵn sàng dùng mọi chiêu trò dối trá để

lừa gạt những người khác, thậm chí lừa gạt cả anh em, bè bạn, họ hàng của

chính họ. Sự giả dối ngày nay được thể hiện qua nhiều chiêu thức, không chỉ

trong việc kiếm lợi nhuận về kinh tế mà còn được được ngụy trang qua các

ngôn từ, hành vi, thái độ… và càng khó nhận diện khi chúng hỗ trợ thêm bởi

các phương tiện hiện đại. Tình trạng “nói một đằng làm một ngả” diễn ra khá

nhiều trong thời gian qua và cũng không ít người thẳng thắn thật thà rơi vào

tình trạng “thua thiệt” còn kẻ lọc lừa, dối trá được “lên lương”. Điều đáng lo

ngại nhất hiện nay chính là sự giả dối không chỉ được thực hiện bởi một cá

nhân, một vài người mà trong một số trường hợp hiện nay có cả một tổ chức,

103

cơ chế hỗ trợ. Cái xấu, cái bất minh trắng trợn được bao bọc dẫn tới điều ác

đôi khi được thực hiện dễ dàng, những ứng xử phi nhân tính diễn ra một cách

khá tự nhiên. Hệ quả của việc gia tăng của sự giả dối thiếu trung thực này

không chỉ gây ra những thiệt hại về vật chất mà còn làm giảm sút lòng tin,

làm nản lòng sự tử tế, trung thực. Trước diễn biến gia tăng của những biểu

hiện về sự giả dối, thiếu trung thực những năm trở lại trong đời sống xã hội

nước ta nếu không có cơ chế, chế tài kìm hãm sẽ gây ra những hậu quả

nghiêm trọng đến sự phát triển của xã hội và lòng tin của bạn bè quốc tế về

hình ảnh con người Việt Nam.

Tiếp đến là sự gia tăng thói vụ lợi, mưu cầu lợi ích cá nhân. Hiện nay,

do ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường và các nhân tố khác đã khiến

cho thói vụ lợi và mưu cầu lợi ích cá nhân tăng lên trong xã hội Việt Nam.

Lối sống thực dụng, vị kỷ đang dẫn đến thái độ bàng quan, thờ ơ với công

việc của cộng đồng và với những người xung quanh. Điều đó làm cho mối

dây liên kết giữa cá nhân và cộng đồng, giữa người và người trở nên “lỏng

lẻo”. Đây thực sự là nguy cơ của việc đẩy xa nhau giữa con người với con

người, đi ngược lại với truyền thống “tương thân, tương ái” của dân tộc.

Trong thực tế hàng ngày ở nước ta hiện nay đang xuất hiện khuynh hướng

“thương mại hóa” trên nhiều lĩnh vực, thậm chí cả lĩnh vực “làm người” và

“dạy người” vốn trước kia hầu như không có.

Hội nhập quốc tế có tác động tích cực khiến cho các giá trị cá nhân, giá

trị xã hội ngày càng được hiện thực hóa, song mặt khác, nó cũng làm gia tăng

những biểu hiện mưu cầu lợi ích cá nhân vị kỷ. Biểu hiện rõ nhất trong xã hội

hiện nay là thái độ coi lợi ích của mình là trên hết và duy nhất, lợi ích tập thể

bị lấn át, thậm chí bị phế bỏ, từ đó gây ra các vấn đề kế tiếp như: tham nhũng,

lãng phí, cửa quyền, hách dịch…ngày càng gia tăng, làm cho cái xấu có cơ

hội lấn át cái đẹp. Thói vị kỷ cá nhân khi có quyền lực, chức tước hỗ trợ dễ

tạo thành các “nhóm lợi ích” gây ra hậu quả xấu tới xã hội. Nhìn chung, những

biểu hiện của thói vụ lợi, mưu cầu lợi ích cá nhân không chính đáng khá đa

104

dạng, nó không chỉ gây ra những thiệt hại vô cùng lớn về kinh tế của nhà nước

mà còn gây ra tâm lý hoang mang, lo lắng, mất lòng tin cho người dân.

Thêm nữa, hiện nay trong đời sống xã hội ngày càng gia tăng tệ sùng

bái vật chất, quay lưng lại các giá trị truyền thống dân tộc. Sau hơn ba mươi

năm Đổi mới đất nước, nhìn chung đời sống xã hội Việt Nam đã có nhiều

bước chuyển đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần ngày một nâng cao hơn.

Song, do ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập quốc tế, tệ sùng bái vật chất, quay

lưng lại các giá trị truyền thống dân tộc xuất hiện ngày càng nhiều trong xã

hội Việt Nam hiện nay. Biểu hiện ở thái độ coi trọng lối sống giàu có, chức

tước danh vọng, bằng cấp, nổi tiếng... thậm chí không ít người dùng mọi cách

để đạt được. Trong khi đó, những phẩm chất tốt đẹp bị biến thành lời sáo ngữ

vô hồn. Sự lên ngôi quá mức của các giá trị vật chất khiến cho nhiều người

sẵn sàng chà đạp lên để chiếm lĩnh nó, thậm chí cấu kết thành “lợi ích nhóm”

khai thác cạn kiệt tài sản quốc gia, của cải của nhân dân. Không ít trường hợp

vì đồng tiền và danh dự mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò,

đồng chí, đồng nghiệp. Nhiều ý kiến cho rằng chưa có bao giờ trong xã hội

đồng tiền lại có sức mạnh vạn năng tới vậy, đồng tiền có thể đổi trắng thay

đen các mối quan hệ, len lỏi khắp các ngành, các lĩnh vực, các tầng lớp xã

hội. Tệ sùng bái vật chất vô tình đã dẫn dắt một bộ phận thế hệ trẻ đi theo và

coi đó là giá trị đáng sống. Những giá trị thực để làm người như: giỏi chuyên

môn và cống hiến nhiều cho xã hội, thương người và khoan dung, khiêm tốn

và cầu thị, hy sinh cá nhân và mang lại hạnh phúc cho người khác… ngày

càng ít trở thành động lực để con người phấn đấu và phát triển. Cùng với đó,

những giá trị truyền thống của dân tộc cũng bị xem nhẹ khó phát triển trong

bối cảnh mới.

Những biểu hiện của sự lệch lạc giá trị trong đời sống xã hội nước ta

hiện nay đã hạn chế vai trò của văn hóa trong việc quảng bá các giá trị tốt

đẹp, nhân bản trong xã hội và chưa tạo điều kiện cho văn hóa phát huy được

vai trò trong việc xây dựng con người, xây dựng nguồn nhân lực cho đất nước

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

105

3.2.2.3. Hiện tượng xuống cấp về đạo đức, tha hóa về con người

Ngày nay, không thể phủ nhận rằng, quá trình giao lưu, trao đổi, chia sẻ

các giá trị giữa các quốc gia trong quá trình hội nhập là cơ hội thuận lợi cho

mỗi cộng đồng, cá nhân phát huy tiềm năng của mình. Tuy vậy, sự cạnh tranh

khốc liệt, những xung đột lợi ích và các luồng văn hóa khác nhau trong hội

nhập cũng gây ra không ít ảnh hưởng tiêu cực với những dân tộc tham gia.

Trên khía cạnh xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam, hiện tượng xuống

cấp về đạo đức, tha hóa về con người là một trong những vấn đề khá nhức

nhối trong đời sống xã hội Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.

Hiện tượng xuống cấp về đạo đức, tha hóa con người… có thể bắt gặp

ở khắp nơi. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ

phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức ở nhiều cấp, nhiều ngành tiếp

tục diễn biến phức tạp. Văn hóa làm người “ở một bộ phận không nhỏ” có

phần bị vấy bẩn trong nhiều quan hệ - con bệnh và thày thuốc, công dân và cơ

quan công quyền, công an và các bên đối tượng, thậm chí cả thày giáo và học

trò… Trên thực tế, tình trạng suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, tham

ô, tham nhũng, yếu kém năng lực, tham quyền cố vị đang cản trở sự phát

triển; tình trạng gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân của “một bộ phận không

nhỏ” cán bộ, đảng viên đang gây mất lòng tin nghiêm trọng vào Đảng, vào

chế độ.

Trong đời sống xã hội, tình trạng tham nhũng và làm ngơ trước tham

nhũng, mặc dù thời gian gần đây bị lên án kịch liệt nhưng dường như vẫn

chưa giảm bớt. Đặc biệt, tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu ngày càng lây lan

trong bộ máy của hệ thống chính trị đã gây tổn hại lớn đến uy tín của Đảng và

Nhà nước. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII phải thừa nhận: “Một bộ phận

không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo,

quản lý, kể cả một số cán bộ cấp cao, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,

lối sống…, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa, địa vị, cục bộ, tham nhũng,

lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…” [22, tr.3]. Trong đời sống xã hội ngày

nay, trước lợi ích kinh tế và những cám dỗ của đồng tiền, không ít những mối

106

quan hệ bị tan vỡ, thậm chí là đánh đổi nhân phẩm, giá trị đạo đức để đạt

được mục đích. Mưu cầu lợi ích cá nhân, tham lam, thèm khát giàu có đến

mức chỉ quan tâm đến lợi ích nhóm, tham nhũng và làm ngơ trước tham

nhũng. Trong khi đó, các thiết chế đạo đức- văn hóa và cơ chế xã hội chưa đủ

mạnh để hướng sự vụ lợi, lòng tham lam, tính háo danh và nhu cầu thăng

tiến… đi đúng quỹ đạo văn hóa. Điều này thực sự là một nguy cơ suy thoái

đạo đức, tha hóa con người trong đời sống xã hội hiện nay.

Trong xã hội, hiện tượng tội phạm gia tăng và có những diễn biến phức

tạp thể hiện sự rối loạn của thang giá trị. Không chỉ có số lượng các vụ phạm

tội về kinh tế hay hình sự gia tăng mà điều đáng sợ là tính chất dã man của

các tội phạm hình sự, đối tượng phạm tội vừa trẻ, vừa có kiến thức lại có xu

hướng gia tăng. Tội phạm kinh tế lớn hầu hết đều là cán bộ có chức, có

quyền, có trình độ. Tình hình này đã được các phương tiện thông tin đại

chúng phản ánh tương đối rõ. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn khác có xu

hướng gia tăng. Tình trạng tội gia tăng gây nhức nhối dư luận xã hội. Thói

đạo đức giả với những biểu hiện của nó trong lối sống, nói không đi đôi với

làm ở người lớn, trong gia đình, nhà trường, công sở, xã hội gây ra những

phản cảm nặng nề cho giới trẻ làm cho họ mất niềm tin mất phương hướng

trong cuộc sống.

Hiện tượng vô cảm chưa có xu hướng giảm bớt. Tinh thần “thượng tôn

pháp luật” ngày càng kém; tâm lý lách luật kể cả ở các cơ quan có trách

nhiệm trở thành quen thuộc trong tư duy pháp luật. Tinh thần chia ngọt sẻ bùi,

lá lành đùm lá rách không làm giảm bớt được tâm lý vô cảm. Thực trạng này

phần nào cảnh báo những vấn đề đạo đức đang diễn biến vô cùng phức tạp

trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Các thang bậc giá trị có nguy

cơ bị đảo lộn. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và lạc hậu, giữa lối sống trung

thực, lành mạnh, có lý tưởng với lối sống sa đọa, thực dụng, giữa cái thiện và

cái ác đang không ngừng diễn ra với tốc độ ngày càng gia tăng. Quá trình hội

nhập quốc tế vừa du nhập những cái tốt, giá trị tiến bộ vào đời sống xã hội

Việt Nam đồng thời cũng du nhập những cái xấu, cái tiêu cực, cái đáng lên án

107

đang thâm nhập vào mọi lĩnh vực, tầng lớp nhân dân. Những biểu hiện tiêu

cực xuống cấp đạo đức hiện nay không chỉ thu hút sự quan tâm của cá nhân,

nhóm người, bộ phận mà báo động toàn xã hội, nếu không được định hướng

và giải quyết kịp thời sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng tới sự phát triển

con người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Nhận thức về những vấn đề trong

xây dựng văn hóa, xây dựng hệ giá trị con người sau Nghị quyết trung ương 5

khóa VIII, Nghị quyết 33 của Hội nghị trung ương 9 khóa XI của Đảng ta đã

khẳng định khách quan rằng: Xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp

ứng yêu cầu của đất nước, so với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh

tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương

xứng, chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn

hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống

trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng

3.2.2.4. Xuất hiện biểu hiện cực đoan, thiếu lành mạnh trong lối sống

Xu thế hội nhập quốc tế, trên một phương diện nhất định luôn gắn liền

với sự giao lưu, mở cửa quan hệ với các nước trên thế giới. Không thể phủ

nhận rằng, tham gia hội nhập quốc tế đã tạo ra những bước chuyển rất lớn đối

với xã hội Việt Nam, trong đó có những thay đổi về lối sống, cách sống của

con người Việt Nam. Song, bên cạnh những biến đổi tích cực, trong đời sống

xã hội Việt Nam giai đoạn hội nhập đang xuất hiện lối sống, cách sống mới đi

ngược lại thuần phong mĩ tục của dân tộc.

Hiện nay, trước tác động mạnh mẽ của hội nhập quốc tế, lối sống thực

dụng kiểu Mỹ đang có ảnh hưởng lớn đến một bộ phận người Việt, đặc biệt là

thế hệ trẻ. Lối sống này đề cao lợi ích cá nhân, tôn thờ vật chất và sức mạnh

của đồng tiền, mọi mối quan hệ đều dựa trên lợi nhuận. Và để đạt được mục

đích, người ta sẵn sàng chà đạp lên mọi thứ của người khác để giành ưu tiên

cho mình. Mặt trái của lối sống này khá nguy hiểm, nó khiến con người trở

nên ích kỷ chỉ quan tâm tới lợi ích bản thân ngay tại thời điểm hiện tại, họ

không quan tâm cái lợi ích đó có ảnh hưởng xấu tới tương lai hay không cũng

như có ảnh hưởng tới người khác và xã hội hay không. Điều này rất nguy hại,

108

bởi lẽ, ảnh hưởng của lối sống thực dụng dẫn đến quan niệm lệch lạc coi sự

thỏa mãn tiêu dùng là mục đích của cuộc sống, khiến con người dễ rơi vào

cạm bẫy hưởng thụ hơn là cống hiến. Trên các phương tiện truyền thông hàng

ngày, chúng ta dễ dàng bắt gặp những hình ảnh ăn chơi trác táng, trong đó có

cả thanh niên, sinh viên. Họ dễ dàng rơi vào “cạm bẫy” với các trào lưu “vớ

vẩn” mà họ tự cho là “mốt” của thế giới. Trong công việc, thường ít chịu khó

trau dồi kiến thức, lựa chọn nghề nghiệp theo tâm lý đám đông của xã hội, lựa

chọn một công việc kiếm ra nhiều tiền hơn là chú ý đến đam mê, sở trường

của bản thân. Đối với xã hội, họ thường thiếu nhiệt huyết, thiếu trách nhiệm

với các công việc chung hoặc nếu có thường toan tính phục vụ lợi ích bản

thân. Thông thường họ không coi trọng pháp luật, không coi trọng các giá trị

đạo đức nên dễ dàng có hành vi như bạo lực, cướp bóc ở lứa tuổi thanh thiếu

niên, hay dễ dàng sống thử trước hôn nhân. Cùng với sự phát triển của kinh tế

thị trường, lối sống này hướng đến sự tiêu dùng, đồng nhất mục đích cuộc

sống với sự hưởng thụ. Khi quá đề cao giá trị vật chất, lối sống thực dụng

thường dẫn tới thái độ đánh giá, xem xét mọi thứ, mọi mối quan hệ trên tiêu

chí vật chất, xem nhẹ các giá trị đạo đức, giá trị tinh thần. Có thể thấy, không

phải tới giai đoạn hội nhập lối sống thực dụng phương Tây mới ảnh hưởng

vào Việt Nam, tuy nhiên, khi tham gia hội nhập, đặc biệt với sự phát triển của

công nghệ, lối sống thực dụng ngày càng thâm nhập sâu hơn vào đời sống xã

hội Việt Nam, trong đó có một bộ phận không nhỏ là giới trẻ người Việt. Trên

phương diện hệ giá trị con người, những ảnh hưởng tiêu cực của lối sống thực

dụng gây ra những rối loạn nhất định đối với thang bậc giá trị con người Việt

Nam thời kỳ hội nhập. Những ảnh hưởng tiêu cực của lối sống này không chỉ

gây ra những ảnh hưởng nhất định trong một bộ phận người mà còn ảnh

hưởng tới sự phát triển của cộng đồng xã hội, tới sự phát triển đất nước. Bởi

lẽ, mặt trái của lối sống này khiến cho không ít lớp trẻ ngày nay sống hời hợt,

thiếu đam mê, niềm tin, phai nhạt lý tưởng, đi ngược với giá trị truyền thống

tương thân tương ái, đề cao trách nhiệm cộng đồng của người Việt.

109

Thêm nữa, xu thế hội nhập hiện nay, khi hàng hóa tràn ngập vào Việt

Nam đã tác động đến suy nghĩ, thói quen sinh hoạt của người dân, trong số đó

có một bộ phận người Việt đặc biệt có tâm lý sính ngoại. Tâm lý sính ngoại

này dựa trên sự đề cao quá mức các giá trị nước ngoài và xem thường các giá

trị Việt, nhất là các giá trị truyền thống. Trên các phương tiện đưa tin hàng

ngày, không khó nhận ra có không ít người Việt hiện nay cuồng nhiệt với các

sản phẩm vật chất và tinh thần đến từ nước ngoài, xem trọng các giá trị

phương Tây và quay lưng lại với các giá trị truyền thống. Ngày nay, hội nhập

quốc tế gắn với quá trình mở cửa, giao lưu, chia sẻ, cùng với sự phát triển

mạnh mẽ của công nghệ, vì thế, các luồng văn hóa khác nhau ngày càng có

điều kiện lan tỏa dễ dàng, tuy nhiên, dòng chảy đó luôn chứa đựng đan xem

các giá trị và phản giá trị. Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam,

những ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài tới đời sống xã hội, rõ nhất là quốc

gia phát triển là điều đương nhiên. Con người luôn có nhu cầu hướng tới cái

tân tiến, cái mới trong quá trình phát triển, tuy nhiên, điều này không đồng

nhất với việc quay lưng với cái cũ, đặc biệt là giá trị truyền thống dân tộc.

Trong bối cảnh hội nhập, nhiều người cho rằng với tâm lý sính ngoại quá mức

của một số người Việt hiện nay là nguy cơ dẫn đến những mai một các giá trị

truyền thống. Điều này không phải không có sở khi hiện nay chúng ta chứng

kiến thực trạng xã hội ngày càng nhiều người Việt có xu hướng chạy theo các

thị hiếu không lành mạnh, tôn sùng các giá trị bên ngoài nhưng lại coi nhẹ các

giá trị Việt. Trước những ảnh hưởng của lối sống nhanh, chạy theo những giá

trị vật chất chớp nhoáng khiến cho không ít người, trong đó có nhiều người

trẻ dần mất đi cảm hứng cội nguồn, dân tộc. Họ coi đó là trào lưu, là văn minh

thời thượng còn việc trở lại những giá trị dân tộc là một bước thụt lùi, lạc hậu.

110

Tiểu kết chương 3

Về cơ bản có thể hiểu hội nhập quốc tế là quá trình các quốc gia - dân

tộc, các cộng đồng, các chủ thể xã hội tham gia một cách chủ động hoặc bị

động của vào đời sống quốc tế thời toàn cầu hóa. Thực chất của quá trình hội

nhập quốc tế là các quốc gia - dân tộc, các chủ thể xã hội chấp nhận các tiêu

chuẩn, các định chế quốc tế mà trước hết là các định chế về kinh tế, chính trị và

các lĩnh vực khác, cũng như tham gia xây dựng các chuẩn mực chung trong

khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế nhằm khai thác hiệu quả những lợi

thế quốc gia và lợi thế quốc tế cho sự phát triển của quốc gia - dân tộc.

Trên bình diện chung, khi tham gia hội nhập quốc tế, một mặt, Việt

Nam đứng trước không ít thách thức về việc bảo vệ các giá trị truyền thống

lâu đời của dân tộc; song mặt khác, hội nhập quốc tế cũng mang lại nhiều cơ

hội để Việt Nam tiếp thu một cách chọn lọc các giá trị của nhân loại tiến bộ

nhằm bổ sung vào bảng giá trị của dân tộc những giá trị phù hợp phục vụ

công cuộc phát triển đất nước.

Hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế được

xây dựng trên nền tảng kinh tế xã hội Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới

và hội nhập với những đặc thù về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh

quốc phòng… Trong thời gian qua, đặc biệt khi tham gia hội nhập quốc tế sâu

rộng trên nhiều lĩnh vực, quá trình này đã và đang tác động mạnh mẽ, đồng

thời ngày càng đặt ra yêu cầu mới đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ

giá trị con người Việt Nam hiện nay.

Trên thực tế, hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập

quốc tế trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn là một quá trình bắt nguồn

từ truyền thống và tiếp tục được củng cố, bổ sung thêm các giá trị mới cho

phù hợp yêu cầu của thực tiễn. Tham gia hội nhập quốc tế, một mặt, đặt Việt

Nam trước không ít thách thức về việc bảo vệ các giá trị truyền thống lâu đời

của dân tộc. Tuy vậy, cũng phải khách quan thừa nhận rằng, quá trình hội

nhập quốc tế đã và đang mang lại nhiều cơ hội để Việt Nam tiếp thu chọn lọc

các giá trị của nhân loại nhằm bổ sung vào bảng giá trị của dân tộc những giá

111

trị phù hợp phục vụ công cuộc phát triển đất nước. Trong những trở lại đây,

hội nhập quốc tế thực sự đã tạo ra những chuyển biến tích cực đối với các giá

trị con người Việt Nam. Hiện nay, các giá trị con người Việt Nam có xu

hướng xích lại gần với các chuẩn mực quốc tế. Trong đời sống xã hội nước ta,

lối sống lành mạnh, có văn hóa, hội nhập sâu vào xu hướng tiến bộ của thế

giới ngày càng phổ biến và chiếm ưu thế. Dưới sự tác động tích cực của hội

nhập quốc tế, các giá trị truyền thống có cơ hội được đánh thức... Trên bình

diện hệ giá trị con người, quá trình này đã và đang đặt ra một số vấn đề đối

với con người Việt Nam như: Xu hướng coi nhẹ các giá trị truyền thống; Sự

lệch chuẩn giá trị; Hiện tượng xuống cấp về đạo đức, tha hóa con người; Xuất

hiện lối sống mới cực đoan, thiếu lành mạnh...

Việc giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực trạng hệ giá trị con người Việt

Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải đưa ra được những

định hướng cơ bản, đúng đắn, có tính khả thi, phù hợp thực tiễn phát triển hệ giá

trị con người Việt Nam trong thời gian tới.

112

Chương 4

MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM XÂY DỰNG HỆ GIÁ TRỊ CON

NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

4.1. Nhận diện hệ giá trị con người Việt Nam sau hơn 30 năm hội

nhập quốc tế

Trước hết cần lưu ý rằng, trong hệ giá trị của con người Việt Nam, nói

đến các giá trị truyền thống trước hết là nói đến sự tồn tại hôm nay, đương

đại, hiện thời của các giá trị truyền thống, chứ không phải chỉ là nói đến các

giá trị chỉ tồn tại trong quá khứ hay xa xưa trong lịch sử. Không nhất thiết

truyền thống phải là cái cũ, cái đã “chết”. Trên thực tế, không ít truyền thống

đang tồn tại trong cộng đồng con người hôm nay. Chẳng hạn, yêu nước, hiếu

học, cần cù, nhân ái, trách nhiệm cộng đồng… với tính cách là các giá trị

truyền thống đang tồn tại với ý nghĩa tích cực trong đời sống xã hội Việt Nam

hiện đại. Truyền thống trên bất kỳ phương diện nào cũng có nghĩa là cái đã

được hình thành và phát triển từ trong lịch sử qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau.

Và do đó, hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế là

sự kế thừa hệ giá trị truyền thống, bổ sung thêm các giá trị mới cho phù hợp

với thực tiễn. Nói theo cách của tác giả Hồ Sĩ Quý rằng: “Truyền thống, dù

được tiếp cận theo quan điểm nào, cũng đều được hiểu là những hiện tượng

văn hóa- xã hội (bao gồm các giá trị, các chuẩn mực giao tiếp, các khuôn mẫu

văn hóa, các tư tưởng xã hội, các phong tục, nghi thức xã hội, các thiết chế xã

hội, vv.) được bảo tồn qua năm tháng trong đời sống vật chất và tinh thần của

các cộng đồng xã hội khác nhau (nhân loại hoặc giai cấp, dân tộc hoặc liên

dân tộc, nhóm xã hội hoặc cá nhân, v.v.) và có thể chuyển giao từ thế hệ này

qua thế hệ khác” [80, tr.54].

Từ sau những năm 90 khi Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập sâu

trên nhiều lĩnh vực, xã hội Việt Nam bước đầu hình thành những giá trị hội

nhập mới. Các giá trị đó được phản ánh trên cả phương diện lý luận và bắt đầu

đi vào thực tiễn đời sống xã hội nước ta. Một số nghiên cứu của các học giả

113

như: Ngô Đức Thịnh, Phạm Minh Hạc, Trần Ngọc Thêm, Hồ Sĩ Quý… đã đề

cập đến nội dung này. Tác giả Ngô Đức Thịnh trong nghiên cứu “Một số vấn

đề về giá trị và hệ giá trị Việt Nam” [91] đã lựa chọn 5 giá trị của Việt Nam

cần bảo tồn, phát huy trong đổi mới và hội nhập là: Yêu nước; Đoàn kết; Cần

cù; Anh hùng; Yêu gia đình/làng xóm. Từ góc độ nghiên cứu về văn hóa, Trần

Ngọc Thêm xác định một hệ thống gồm 5 đặc trưng bản sắc của hệ giá trị Việt

Nam bao gồm: “1) Tính cộng đồng (làng xã); 2) Tính ưa hài hòa; 3) Tính trọng

âm; 4) Tính tổng hợp; 5) Tính linh hoạt” [91, tr.160-161]. Tác giả Lương Đình

Hải trong bài viết “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” [38]

đề xuất 10 giá trị con người Việt Nam hiện nay bao gồm: Tinh thần yêu nước

Việt Nam; Tinh thần nhân ái; Anh hùng, dũng cảm; Biết chấp nhận (nhẫn), tiếp

thu; Hiếu học; Sáng tạo; Cần cù; Lạc quan; Trọng đạo lý; Ưa ổn định...

Vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị con người Việt Nam trong bối

cảnh hội nhập đã sớm được Đảng ta và Nhà nước quan tâm, điều này được thể

hiện qua nhiều văn kiện, nghị quyết quan trọng của Đảng, cũng như nhiều

chính sách của Nhà nước trong thời gian qua. Trong nghiên cứu “Một số văn

kiện của Đảng về công tác tư tưởng – văn hóa” của Ban tư tưởng- Văn hóa

Trung ương năm 2000 đã chỉ rõ mục tiêu hướng đến xây dựng con người Việt

Nam trong bối cảnh mới với những phẩm chất, giá trị như: Có trí tuệ, đạo

đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách cao đẹp, có bản lĩnh vững vàng

ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất nước, mau chóng bắt kịp xu thế phát triển

của thời đại. Tại Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ

năm khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra những giá trị tiêu biểu của

con người Việt Nam bao gồm:

- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc

hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc

lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.

- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,

114

nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức

bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,

năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.

- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình

độ thẩm mỹ và thể lực.

Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (năm 2014) tiếp tục làm rõ và bổ

sung những vấn đề của Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII trên các phương

diện cụ thể. Về vấn đề con người, xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam

trong bối cảnh mới, tinh thần của Nghị quyết nhấn mạnh: Hoàn thiện các

chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều

kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất,

tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề

cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người

với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước… Phát triển

văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát

triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con

người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân

ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. So sánh với Nghị quyết

trung ương 5 khóa VIII, nghị quyết Trung ương 9 khóa XI thống nhất xây

dựng hệ giá trị con người Việt Nam ở một số điểm như: Yêu nước, ý chí tự

cường dân tộc; Nhân ái, nghĩa tình, khoan dung, đạo lý; Đoàn kết; Cần cù,

sáng tạo. Bên cạnh đó nghị quyết Trung ương 9 khóa XI bổ sung một số giá

trị mới như: Ý thức cộng đồng (cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc); Trung

thực; Tinh tế trong ứng xử; Giản dị trong lối sống. Đại hội XII của Đảng đã

nhấn mạnh các vấn đề con người, hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt

Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế trong đó

có 9 giá trị được hướng tới bao gồm: Nhân cách, Đạo đức, Trí tuệ, Năng lực

sáng tạo, Thể chất, Tâm hồn, Trách nhiệm xã hội, Nghĩa vụ công dân, Ý thức

tuân thủ pháp luật. Tiếp tục tinh thần của Đại hội XII về xây dựng hệ giá trị

115

con người Việt Nam, Đại hội XIII nhấn mạnh vấn đề “khơi dậy mạnh mẽ tinh

thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và

khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” [23; tr.34].

Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu của tác giả đi trước và các quan

điểm chỉ dẫn của Đảng về vấn đề hệ giá trị con người Việt Nam, chúng tôi

cho rằng những giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

bao gồm các giá trị tiêu biểu như sau: Yêu nước, trách nhiệm cộng đồng, yêu

lao động, hiếu học (tôn trọng giáo dục), trọng gia đình, chuộng hòa bình.

Giá trị yêu nước: Hiện nay, trong xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam, yêu nước vẫn được xem là giá trị hàng đầu trong thang bậc giá trị. Sinh

thời, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân

dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà

tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do,

tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta cách mạng thành công, giành được độc

lập” [63, tr.164-165]. Lịch sử dân tộc đã minh chứng rất rõ, nhân dân ta với

tinh thần yêu nước nồng nàn đã vượt qua nhiều khó khăn, nguy nan, chiến

thắng nhiều kẻ thù hùng mạnh hơn chúng ta gấp nhiều lần. Trên thực tế, tinh

thần yêu nước thì giá trị mà dân tộc nào cũng có, chúng ta không dám khẳng

định dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam yêu nước hơn dân tộc khác.

Song, ở con người Việt Nam, giá trị này bất luận trong hoàn cảnh nào luôn là

giá trị cốt lõi, tiêu biểu và quan trọng trong cuộc công dựng xây và bảo vệ tổ

quốc. Trong thời gian qua, mỗi khi có thiên tai, bệnh dịch, chủ quyền an ninh

dân tộc bị đe dọa... tinh thần yêu nước của nhân dân ta biểu hiện khá đậm nét.

Và thực sự, lòng yêu nước trở thành động lực lớn để dân tộc ta vượt qua

những khó khăn và làm nền tảng quan trọng cho những thành công bước đầu

của Việt Nam trên các lĩnh vực khi chúng ta bước vào con đường hội nhập.

Ngày nay, trong bối cảnh mới, mỗi dân tộc, mỗi con người trên thế giới đều

đứng trước nhiều cơ hội mới song cũng đan xen không ít khó khăn, thách thức

như: nguy cơ chia rẽ dân tộc, mất bản sắc dân tộc, sự xâm nhập văn hóa ngoại

lai… Trong bối cảnh đó, phát huy giá trị yêu nước trở thành sức mạnh đoàn

116

kết dân tộc có ý nghĩa to lớn, đúng như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:

“Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết/ Thành công thành công đại thành công”.

Phát huy giá trị yêu nước trong điều kiện hội nhập quốc tế là yếu tố quan

trọng để hoàn thành mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh, đưa vị thế của Việt Nam lên tầm cao mới trong so sánh tương quan

với các quốc gia khác. Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước cũng như các

yêu cầu của hội nhập quốc tế đặt ra, ngày nay, giá trị yêu nước không chỉ kế

thừa những nội dung từ truyền thống dân tộc mà còn cần bổ sung thêm nội

hàm mới. Trong bối cảnh hội nhập, yêu nước gắn liền với hành động luôn đặt

lợi ích quốc gia lên trên hàng đầu trong mọi lĩnh vực. Cụ thể, trong lĩnh vực

kinh tế, yêu nước chính là gia tăng hiệu quả kinh tế, tích cực áp dụng tiến bộ

thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trong lao động, tích cực giao lưu, hợp

tác với các đối tác nước ngoài nhằm nâng cao thương hiệu Việt lên tầm cao

mới. Trên khía cạnh văn hóa, con người Việt Nam yêu nước có ý thức kế

thừa, phát huy các giá trị truyền thống và tiếp thu chọn lọc các giá trị của tinh

hoa nhân loại, tích cực giao lưu, chia sẻ những giá trị văn hóa hướng tới xu

thế hòa bình, hữu nghị giữa các quốc gia. Khẳng định tầm quan trọng của giá

trị yêu nước trong thời đại hiện nay, tại đi hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam

chỉ rõ: “Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp

để đổi mới và hội nhập: kết hợp hài hòa các lợi ích; phát huy lòng yêu nước,

tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát

huy nhân tố con người; vai trò của khoa học - công nghệ;...” [22, tr.158-159].

Trách nhiệm cộng đồng là một giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam

trong hệ giá trị Việt Nam thời hội nhập. Thực tiễn lịch sử phát triển nhân loại

đã minh chứng, trong bất kỳ giai đoạn nào, xã hội muốn tồn tại và phát triển

đều cần sự đóng góp, vun đắp từ mỗi cá nhân.Từ xa xưa đến nay, đối với

người Việt, tinh thần cố kết cộng đồng, đoàn kết, trách nhiệm có ý nghĩa đặc

biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi lẽ, như lời Hồ

Chí Minh đã nói: “Mỗi người tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc là một vườn

hoa đẹp”. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, mỗi cá nhân có ý thức trách

117

nhiệm cộng đồng không những góp sức hoàn thành mục tiêu phát triển đất

nước mà còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong con đường hội

nhập. Trên thực tế, hội nhập quốc tế càng diễn ra sâu rộng bao nhiêu thì càng

đặt ra nhiều những thách thức, nguy cơ mới đối với các dân tộc như các vấn

đề: chủ quyền dân tộc, ô nhiễm môi trường, an ninh quốc gia, bản sắc dân

tộc… Do đó, nâng cao ý thức trách nhiệm cộng đồng của người Việt hiện nay

có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của Việt Nam trong hội nhập quốc tế.

Bởi lẽ, giá trị trách nhiệm cộng đồng định hướng người Việt có ý thức bảo vệ

các lợi ích dân tộc, ngăn ngừa các âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù

địch cũng như các nhóm lợi ích. Ngày nay, trách nhiệm xã hội cũng đòi hỏi

người Việt tham gia, chung tay đóng góp vào sự phát triển chung của cộng

đồng quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục… nhằm hướng đến

sự phát triển bền vững, hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc.

Yêu lao động là một giá trị cần xây dựng trong hệ giá trị con người Việt

Nam giai đoạn hội nhập quốc tế. Có thể thấy rất rõ, trong lịch sử phát triển

của loài người, lao động luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Lao động

giúp con người tạo ra của cải, đem lại đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Đối với con người, lao động thực sự là “nguồn sống, nguồn hạnh phúc” và lao

động được coi là “thước đo phẩm chất con người”. Ngày nay, tham gia hội

nhập quốc tế, người lao động Việt Nam vừa có thêm những cơ hội mới nhưng

cũng đứng trước nhiều thách thức. Để đáp ứng các yêu cầu của giai đoạn mới,

xây dựng giá trị yêu lao động cho con người Việt Nam là điều rất cần thiết.

Bởi lẽ, từ xưa tới nay, người Việt Nam luôn được biết tới với những đức tính

đáng quý như cần cù, chịu thương chịu khó. Tuy vậy, thiếu trình độ chuyên

môn và tính chuyên nghiệp trong lao động cũng là một trong những trở ngại

rất lớn với người lao động Việt Nam khi tham gia hội nhập. Xây dựng giá trị

yêu lao động đối với con người Việt Nam khuyến khích niềm đam mê, phát

huy những phẩm chất, đức tính đáng quý trong lao động. Hiện nay, tốc độ và

quy mô đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng lớn, người lao động Việt

Nam có thêm môi trường để lựa chọn công việc, phát triển sự nghiệp, từ tình

118

yêu và say mê lao động, con người Việt Nam sẽ phải tự bổ sung những kỹ

năng, phẩm chất mới để thích nghi với môi trường làm việc mới. Có khẳng

định rằng, xây dựng giá trị yêu lao động là một trong những điều kiện quan

trọng hướng tới sự phát triển chất lượng nguồn lực Việt Nam trong sự nghiệp

phát triển đất nước, đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế. Mỗi người Việt

Nam yêu lao động, hoàn thành có trách nhiệm với công việc của mình, nỗ lực

phát triển bản thân, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật sẽ góp phần

nâng cao năng suất lao động, hiệu quả trong sản xuất, đây là tiền đề quan

trọng để phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập.

Hiếu học là giá trị tiêu biểu trong xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam thời kỳ hội nhập quốc tế. Từ xưa cho tới nay, Việt Nam luôn được đánh

giá là một dân tộc có truyền thống hiếu học, người Việt Nam lấy sự học làm

điều căn bản để thực hiện đạo lý làm người. Về điều này, trong hồi ký "One

Man's View of the World" (tạm dịch: "Cái nhìn của một con người về thế

giới"), ông Lý Quang Diệu trong những nghiên cứu về Đông Nam Á và Việt

Nam đã đưa ra nhận xét như sau: Người Việt Nam là một trong những dân tộc

nghị lực và có khả năng nhất Đông Nam Á. Sinh viên của họ đến Singapore

theo diện học bổng ASEAN rất nghiêm túc với việc học hành và thường có

điểm số cao nhất. Quả thực, cho đến hiện nay, Việt Nam là một trong những

quốc gia đặc biệt đề cao vai trò của giáo dục đối với sự tiến bộ của xã hội.

Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ

ngày nay đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của kinh tế tri thức, đồng thời tạo

cơ hội tốt cho các quốc gia đang phát triển có thể phát triển nhanh, mạnh, bền

vững. Nếu nhanh chóng nắm bắt được các thành tựu và vận dụng được chúng

vào đời sống kinh tế, xã hội, các quốc gia có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển

để đạt tới trình độ phát triển cao của thế giới. Đối với Việt Nam, hiện nay,

chưa phải là quốc gia có trình độ cao về khoa học và công nghệ, chúng ta

không có nhiều thành tựu về phát minh, sáng chế lớn thì việc trang bị tri hành

trang tri thức cho mỗi con người sẽ là điều kiện tiên quyết và quan trọng. Vì

vậy, củng cố và phát huy giá trị hiếu học trong điều kiện mới không những

119

góp phần gìn giữ bảo tồn giá trị truyền thống trong điều kiện mới mà còn góp

phần giải quyết được một số vấn đề thực tiễn đặt ra hiện nay.

Trọng gia đình được coi là một giá trị tiêu biểu của con người Việt

Nam trong hội nhập quốc tế. Giá trị này được hình thành từ con người Việt

Nam truyền thống và hiện nay vẫn đang là một giá trị cần được lưu giữ, phát

triển trong quá trình hoàn thiện hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ mới.

Sinh thời, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định vai trò quan trọng của

giá trị gia đình trong ý thức hệ con người Việt Nam: Ba trụ cột của ý thức

cộng đồng người Việt, đó là gia đình (nhà), làng và nước. Ngày nay, xây dựng

một xã hội công bằng, văn minh đòi hỏi chúng ta phải trở lại với những giá trị

văn hóa truyền thống tốt đẹp từ gia đình. Người Việt Nam dù ở truyền thống

hay hiện đại luôn đặc biệt coi trọng gia đình. Gia đình không là nơi duy trì nòi

giống cho mỗi dòng họ mà gia đình còn góp phần xây dựng, tô thắm, làm

rạng rỡ thêm bản sắc văn hoá dân tộc; là nơi giữ gìn, vun đắp, phát huy những

giá trị truyền thống quý báu của người Việt được lưu truyền qua hàng ngàn

năm lịch sử. Ngày nay, trong một “thế giới phẳng”, dòng chảy văn hóa dễ

dàng lan tỏa đến mỗi quốc gia, tuy vậy, con người cũng luôn phải đối mặt với

những vấn đề trong quá trình hội nhập như: Căn bệnh vô cảm, xói mòn bản

sắc văn hóa dân tộc, sự xâm nhập văn hóa ngoại lai… Việc xây dựng và củng

cố giá trị gia đình trong hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay là hết sức cần

thiết trước sự tác động mạnh mẽ của bối cảnh thời đại cũng như sự biến đổi rõ

nét của con người Việt Nam, của gia đình Việt Nam. Nhấn mạnh về vai trò

xây dựng giá trị gia đình trong mối tương quan với vấn đề xây dựng hệ giá trị

con người Việt Nam hiện nay, Đại hội XIII đã chỉ rõ: “xây dựng hệ giá trị

quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát

triển giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới” [23, tr.143]. Sự quan tâm

này cho thấy vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng của giá trị gia đình với con

người Việt Nam trong hiện nay.

Chuộng hòa bình là giá trị tiêu biểu trong xây dựng hệ giá trị con người

Việt Nam thời kỳ hội nhập. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước,

dân tộc Việt Nam phải tiến hành nhiều cuộc kháng chiến chống lại các thế lực

120

ngoại xâm để giành và bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trải qua những

cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ, chịu đựng biết bao mất mát, hy sinh, hơn ai

hết, dân tộc ta nhận rõ giá trị của hòa bình, độc lập, tự do. Bởi vậy, yêu

chuộng hòa bình là một trong những truyền thống nổi bật, là nét đẹp văn hóa

tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới và

hội nhập, Việt Nam luôn nhất quán với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,

hòa bình, hợp tác. Hiện nay, hội nhập quốc tế đang diễn ra khá phức tạp, tuy

vậy, xu hướng hòa bình, hữu nghị, hợp tác bền vững vẫn là xu hướng chính

mà các nước theo đuổi. Chính vì những lý do đó, việc xây dựng và củng cố

giá trị yêu chuộng hòa bình trong hệ giá trị con người Việt Nam không những

thể hiện rõ nguyện vọng của nhân dân ta mà còn thể hiện sự phù hợp với xu

thế chung của thế giới trong giai đoạn hiện nay.

4.2. Đề xuất một số định hướng giá nhằm xây dựng hệ giá trị con

người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

4.2.1. Chủ động kế thừa và phát huy giá trị truyền thống

Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, việc giữ gìn, phát huy các giá trị

truyền thống được xem là vấn đề có ý nghĩa quan trọng với nhiều quốc gia

trên thế giới. Ở đây, các giá trị truyền thống bao gồm các đối tượng của di sản

xã hội như các giá trị vật chất và tinh thần, giá trị con người. Trong giá trị

truyền thống bao gồm các quy định, các tiêu chuẩn hành vi, các giá trị tư

tưởng, thói quen, tập tục... của cộng đồng xã hội nhất định. Chức năng của

truyền thống là chuyển tải các chuẩn mực, định hướng giá trị của hành vi và

hoạt động nhằm bảo tồn bản sắc dân tộc của một cộng đồng nhất định. Cũng

giống như bất kỳ nhân tố nào của ý thức xã hội, sự tồn tại của truyền thống

phụ thuộc vào tồn tại xã hội, đặc biệt là vai trò chủ thể con người và khả năng

chuyển tải các chuẩn mực định hướng giá trị. Do đó, trong thực tiễn, có

những yếu tố của truyền thống được bảo tồn, phát huy, có những yếu tố của

truyền thống trở nên lỗi thời, lạc hậu không phù hợp với các điều kiện mới.

Xung quanh vấn đề vai trò của giá trị truyền thống đối với giai đoạn hiện nay

đang có nhiều ý kiến khác nhau. Một số ý kiến phủ nhận sạch trơn truyền

121

thống vì cho rằng truyền thống gắn với cái cũ, cái lạc hậu nên không còn phù

hợp với điều kiện mới. Một số khác tỏ ra thận trọng đầy e ngại vì cho rằng giá

trị truyền thống luôn chứa đựng cả “sự thông minh” và “sự điên rồ” nên thế

hệ sau dễ trở thành “người thừa kế” luôn đối diện với nhiều rủi ro, nguy hiểm

khi kế thừa truyền thống. Song bên cạnh đó, một số ý kiến nhìn nhận các giá

truyền thống khá lạc quan, khẳng định sức sống vĩnh cửu của giá trị truyền

thống đối với hiện tại và tương lai.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, các dân tộc trên thế giới đều

đứng trước giải quyết về bài toán bản sắc dân tộc, trong đó có các vấn đề liên

quan tới các giá trị truyền thống. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau, song trên

bình diện chúng, có thể thấy, xu hướng bảo tồn, phát huy các giá trị truyền

thống hình thành bản sắc riêng của dân tộc vẫn được xem là xu hướng chủ

đạo. Tại một số quốc gia có nền kinh tế phát triển của châu Á như Trung

Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… các giá trị truyền thống dân tộc được

chú trọng quan tâm sớm. Trên thực tế, sự phát triển của nhiều quốc gia trong

hội nhập chỉ ra bài học kinh nghiệm rằng: sẽ là sai lầm nếu quốc gia nào chỉ

chú trọng phát triển kinh tế mà “bỏ rơi” hoặc “đánh mất” nền văn hóa dân tộc,

trong đó có bộ phận cốt lõi là các giá trị truyền thống. Hay nói cách khác,

bằng cách “không lãng quên truyền thống, khai thác các giá trị nhân bản của

truyền thống, làm cho các giá trị hiện đại ăn nhập hoặc không mâu thuẫn với

các giá trị truyền thống… đó là con đường tự nhiên và tất yếu mà các xã hội,

dù muốn hay không, dù nhận thức được hay chưa nhận thức được, cũng đều

phải thực hiện để đạt tới sự phát triển bền vững” [7, tr.60].

Ở nước ta, các giá trị truyền thống của dân tộc như: Tinh thần yêu

nước, tinh thần cố kết cộng đồng, lòng khoan dung, tinh thần hiếu học, cần cù

siêng năng, lạc quan, yêu lao động… là những giá trị tiêu biểu của hệ giá trị

con người Việt Nam giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế. Nhấn mạnh vai

trò của các giá trị truyền thống trong giai đoạn mới, Đảng ta đã khẳng định:

“Đi vào nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn coi trọng

122

những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không tự đánh mất mình,

trở thành cái bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác” [18, tr.30] và “phải

đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc; kế thừa và

phát triển truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc” [18,

tr.111]. Vì những lẽ đó, có thể thấy, hiện nay việc kế thừa và phát huy các giá

trị truyền thống của dân tộc đối với xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam

trong điều kiện hội nhập quốc tế có ý nghĩa không chỉ trên phương diện lý

luận mà cả trong hoạt động thực tiễn. Ngày nay, hội nhập quốc tế với những

tác động đa chiều và diễn biến ngày càng sôi động, một số ý kiến cho rằng các

giá trị truyền thống của Việt Nam đang đứng trước những nguy cơ mai một.

Điều này không phải không có cơ sở, nhất là hiện nay, sự xâm nhập của các

luồng văn hóa ngoại lai, sự xuất hiện lối sống, cách sống mới không phù hợp

với các giá trị truyền thống của dân tộc đang ngày càng gia tăng. Trên cơ sở

nghiên cứu về thực trạng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội

nhập quốc tế, để định hướng giá trị nhằm kế thừa và phát huy các giá trị

truyền thống một cách hiệu quả cần chú ý một số nguyên tắc cơ bản như sau:

Trước hết, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống hiện nay gắn với

quá trình gìn giữ những “hạt nhân” của giá trị truyền thống và đổi mới các giá

trị truyền thống theo yêu cầu của thời đại. Nguyên lý của chủ nghĩa Mác-

Lênin đã chỉ ra rằng, quá trình vận động phát triển của mọi sự vật, hiện tượng

trong thế giới khách quan liên tục diễn ra những lần phủ định kế tiếp nhau,

song giữa cái cũ và cái mới bao giờ cũng có mối liên hệ tác động qua lại và

chuyển hóa lẫn nhau, trong đó cái cũ, sự vật cũ không mất đi hoàn toàn mà nó

được giữ lại những yếu tố hợp lý, tích cực làm nền tảng cho sự ra đời của cái

mới, cái tiến bộ. Đối với hệ giá trị truyền thống của người Việt, như đã nói,

cho tới nay có rất nhiều giá trị phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước

giai đoạn đổi mới và hội nhập. Hiện nay có rất nhiều giá trị độc đáo, đặc sắc

cần phải được giữ gìn, bảo tồn như lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta,

tinh thần đoàn kết, ý chí tự cường dân tộc, lòng nhân ái, đức tính cần cù, hiếu

học... Đồng thời, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống đi liền với quá

123

trình đổi mới các giá trị truyền thống theo yêu cầu của thời đại. Thực chất của

quá trình này chính là việc mở rộng nội hàm các giá trị truyền thống, làm cho

các giá trị truyền thống phù hợp với những thay đổi của tồn tại xã hội hiện

nay. Quá trình đổi mới này luôn phải gắn liền với các yêu cầu của thời đại và

điều kiện của Việt Nam hiện nay. Chẳng hạn như tinh thần yêu nước, sự cố

kết cộng đồng, ý chí kiên cường của dân tộc trước là nền tảng xây dựng khối

đại đoàn kết toàn dân chung tay xây dựng đất nước, hoàn thành mục tiêu công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và mở rộng hội nhập quốc tế. Hay giá trị

hiếu học, truyền thống tôn sự trọng đạo là cơ sở cho phát triển giáo dục- đào

tạo, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài trong thời kỳ mới. Vì thế, trong quá

trình xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay, kế thừa và phát huy

các giá trị truyền thống quý báu của dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Bởi lẽ, đây là những giá trị đã được chọn lọc, phù hợp với đặc điểm, tính cách

con người Việt Nam. Việc kế thừa có chọn lọc những giá trị quý báu đó sẽ tạo

ra những tiền đề, điều kiện để hoàn thiện hệ giá trị chuẩn mực của con người

Việt Nam trong giai đoạn mới.

Bên cạnh đó, để đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn phát triển đất nước

trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, kế thừa và phát triển các giá trị

truyền thống của dân tộc cần gắn với việc mở rộng các nội hàm các giá trị

truyền thống để phù hợp với thực tiễn. Chẳng hạn, tinh thần yêu nước trong

thời kỳ hội nhập có phạm vi và mức độ rộng hơn trước kia và mang mầu sắc

hiện đại hơn, đó không chỉ là tình cảm của con người với quê hương, đất nước

mình mà còn thể hiện lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền dân tộc, ở ý thức giữ

gìn bản sắc truyền thống trước làn sóng xâm nhập của các văn hóa bên ngoài

trong hội nhập, ở thái độ học tập nâng cao trình độ, áp dụng các thành tựu

khoa học tiên tiến của nhân loại vào thực tiễn... Hay đối với giá trị cần cù,

siêng năng trong giai đoạn hội nhập hiện nay không chỉ bao hàm thái độ chịu

thương chịu khó lao động trên những tư liệu sẵn có mà còn phải đi liền với sự

sáng tạo trên cơ sở việc nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động nhằm

tạo ra năng suất, hiệu quả trong công việc…

124

Thêm nữa, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc

trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế cần

tránh những khuynh hướng sai lầm trong nhận thức và thực tiễn, tiêu biểu

nhất là hai khuynh hướng phủ định sạch trơn và khuynh hướng bảo thủ. Về

thực chất, khuynh hướng phủ định sạch trơn là phủ nhận vai trò của các giá trị

truyền thống đối với hiện thực, cổ xúy cho hành động xóa bỏ toàn bộ cái cũ

xây dựng cái mới. Ở nước ta, khuynh hướng này xuất hiện rõ nhất trong giai

đoạn cải cách tư tưởng, văn hóa giai đoạn trước dẫn tới hậu quả nhiều giá trị

truyền thống, phong tục phong tục tập quán tốt đẹp bị xóa bỏ hoặc lãng quên,

đồng thời gia tăng nhiều thói hư tật xấu không phù hợp xã hội, con người Việt

Nam. Khuynh hướng bảo thủ đối là việc đề cao tuyệt đối hóa vai trò của các

giá trị truyền thống dân tộc trước những thay đổi của tồn tại xã hội. Hậu quả

của khuynh hướng này dẫn đến nguy cơ lạc hậu và chủ nghĩa dân tộc cực

đoan trong xu thế hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, cũng giống như bất kỳ yếu tố nào

của ý thức xã hội, các giá trị không phải là bất biến, mỗi khi tồn tại xã hội

thay đổi thì bản thân các giá trị truyền thống dù ổn định tới mấy cũng cần phải

thay đổi để phù hợp với yêu cầu của điều kiện thực tiễn. Không chỉ có vậy,

các yếu tố truyền thống nói chung trong bối cảnh hội nhập bên cạnh những

yếu tố tích cực và những yếu tố tiêu cực, có những giá trị phù hợp, có những

giá trị đã lỗi thời, lạc hậu. Do đó, phủ nhận sạch trơn hay bảo thủ các giá trị

truyền thống đều dẫn tới sai lầm đối với xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt coi

trọng các giá trị truyền thống, trong tác phẩm Hội nhà năm 1985 có trích dẫn

lời của Người về điều này rằng: Những người cộng sản chúng ta rất quý trọng

cổ điển. Có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ ngọn nguồn cổ điển đó. Càng

thấm nhuần Chủ nghĩa Mác – Lênin, càng phải coi trọng những truyền thống

tốt đẹp của cha ông. Hồ Chủ tịch không quên nhấn mạnh lưu ý về các giá trị

truyền thống trong đời sống với, Người cho rằng: “Đời sống mới không phải

cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải

125

bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp

lý… Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm…” [62, tr.94-95].

Từ những kinh nghiệm thực tiễn, kế thừa và phát huy các giá trị truyền

thống trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ hội nhập đạt

được hiệu quả cần đẩy mạnh, lan tỏa của hệ giá trị con người Việt Nam ra thế

giới thông qua hoạt động ngoại giao văn hóa. Như chúng ta đều biết, trong

quá trình hội nhập, hoạt động ngoại giao văn hóa là cầu nối có vai trò quan

trọng trong sự kết nối giữa Việt Nam và thế giới. Thông qua hoạt động này

một mặt chúng ta có cơ hội tiếp xúc, chọn lọc nhiều hơn các giá trị tiến bộ của

thế giới; mặt khác, đây cũng là cơ hội để thế giới biết tới nhiều hơn các giá trị

Việt Nam, giá trị con người Việt Nam. Trước đây do nhiều nguyên nhân khác

nhau chúng ta chưa chú trọng tới hoạt động này nên kết quả không được như

mong đợi. Chúng tôi cho rằng hiện nay để quảng bá được các giá trị con

người Việt Nam cũng như tiếp thu các giá trị tiến bộ của các nước trên thế

giới thì trong quá trình hội nhập hiện nay nhất thiết phải chú ý tới hoạt động

ngoại giao văn hóa. Để hoạt động ngoại giao văn hóa hiệu quả, cần sự kết hợp

của nhiều nhân tố. Trong đó trước tiên là cần phải hoàn thiện thể chế, chính

sách văn hóa, gắn kết các hoạt động tuyên truyền quảng bá về giá trị con

người Việt Nam vào các hoạt động ngoại giao văn hóa. Tiếp đến là cần tạo ra

sự gắn kết mật thiết giữa hoạt động ngoại giao văn hóa với các hoạt động

ngoại giao khác (ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao giáo dục).

Mục đích của sự gắn kết các hoạt động ngoại giao này nhằm tạo ra nhiều hơn

những cơ hội để quảng bá các giá trị con người Việt Nam trên nhiều lĩnh vực

trong hội nhập. Trong hoạt động ngoại giao văn hóa, nhân tố con người đóng

vai trò đặc biệt quan trọng, do đó để hoạt động này hiệu quả cần có sự đầu tư,

bồi dưỡng nguồn nhân lực trong hoạt động ngoại giao văn hóa nhằm đáp ứng

được yêu cầu của thời kỳ hội nhập. Song hành với quá trình này cần có những

chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng với nguồn nhân lực làm công tác

ngoại giao văn hóa bởi lẽ đây có thể coi là những “sứ giả tuyệt vời” trong quá

trình giao lưu, hợp tác giữa văn hóa Việt Nam với thế giới. Khi chúng ta có

126

đội ngũ nhân lực trong hoạt động ngoại văn hóa có chất lượng sẽ góp phần

giới thiệu rộng rãi, hiệu quả các giá trị về đất nước Việt Nam, con người Việt

Nam với bạn bè thế giới. Ngoài ra, cần lựa chọn khoa học các giá trị truyền

thống mang tính đặc trưng về con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

quốc tế hiện nay. Không thể phủ nhận vai trò đặc biệt của các giá trị truyền

thống đối với các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.

Trong mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc, các giá trị truyền thống đều đóng

góp những vai trò nhất định vào sự phát triển của quốc gia, dân tộc, củng cố

hệ giá trị con người. Tuy nhiên, trước sự thay đổi mạnh mẽ của bối cảnh hội

nhập quốc tế như hiện nay thì bản thân các giá trị truyền thống cũng có những

biến đổi đáng kể. Do vậy việc lựa chọn, cân nhắc một cách khoa học các giá

trị truyền thống trong hệ giá trị con người Việt Nam phù hợp với những đặc

điểm và yêu cầu của thời đại và dân tộc, cần đánh thức các giá trị truyền

thống bằng môi trường lành mạnh và cơ chế chính sách phù hợp. Việc lựa

chọn, kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống của con người

Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc thường xuyên có thái độ và hành động

tích cực, chống lại tư tưởng lạc hậu, cổ hủ, không phù hợp với xu thế phát

triển của thời đại hiện nay, cản trở tới sự phát triển con người và xã hội.

4.2.2. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại

Việt Nam được biết đến là một quốc gia giàu truyền thống văn hóa.

Nền văn hóa Việt Nam, trong tương quan so sánh với dân tộc khác, là nền văn

hóa mở, không cứng nhắc trong quá trình giao lưu, tiếp biến. Con người Việt

Nam từ xưa tới nay luôn được bạn bè quốc tế ca ngợi bởi sự thân thiện, hiếu

khách, không có tư tưởng kỳ thị các dân tộc khác, không có thái độ cực đoan

trong giao lưu, tiếp biến văn hóa với các dân tộc khác. Người Việt Nam đánh

giá của nhiều nhà nghiên cứu rằng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam

không sợ các giá trị ngoại lai, mà sợ nhất là sự áp đặt các giá trị, sự đảo lộn hệ

giá trị, đồng nhất hóa các giá trị. Nhấn mạnh tính tất yếu của sự giao lưu, tiếp

biến văn hóa đối với nền văn hóa Việt Nam, sinh thời Hồ Chí Minh đã khẳng

định: “Văn hoá Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá Đông phương

127

và Tây phương chung đúc lại”. Và Người đã nhắc nhở các nhà văn hoá Việt

Nam: “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một

nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hoá xưa và nay,

trau dồi cho văn hoá Việt Nam có tinh thần thuần tuý Việt Nam, để hợp với

tinh thần dân chủ” [62, tr.71].

Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, mở rộng giao lưu và tiếp biến

văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc với nhau là một vấn đề có tính quy luật của

mọi nền văn hóa, đồng thời cũng là một trong những động lực cơ bản thúc

đẩy sự phát triển văn hóa của mỗi dân tộc. Qua mỗi lần giao lưu, tiếp biến văn

hóa với các dân tộc khác, nền văn hóa của dân tộc có cơ hội truyền bá ra bên

ngoài, được tiếp xúc nhiều hơn với các nền văn hóa khác để làm phong phú

thêm truyền thống văn hóa của dân tộc. Bản chất nền văn hóa Việt Nam theo

tinh thần của văn kiện Đảng là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo,

đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt

Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới

để không ngừng hoàn thiện mình. Vì vậy, xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay không thể không tiếp thu

những tinh hoa, văn hóa nhân loại. Hiện nay, trước sự gia tăng của tình trạng

gia tăng mức độ xuống cấp giá trị đạo đức từ khi thực hiện kinh tế thị trường,

hiện đại hóa xã hội và tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh

vực xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân bắt nguồn từ

những ảnh hưởng của các luồng văn hóa từ bên ngoài không được kiểm soát

chặt chẽ. Do vậy, việc tiếp thu những tinh hoa, văn hóa nhân loại đối với xây

dựng hê giá trị con người Việt Nam là điều tất yếu không thể tránh khỏi song

cũng cần phải dựa trên một số nguyên tắc phương pháp luận nhất định.

Mỗi tinh hoa văn hóa của nhân loại luôn gắn với tồn tại xã hội nhất

định, do đó, sẽ là sai lầm nếu áp dụng nguyên xi các giá trị của nhân loại nếu

không có sự chọn lọc và cải biến. Trên thực tế, đã có một số quốc gia dân tộc

rơi vào tình trạng “mất bản sắc dân tộc”, bị “hòa tan” bản sắc văn hóa dân tộc

trong hội nhập khi tiếp thu “trọn vẹn” các tinh hoa văn hóa của dân tộc khác.

128

Đồng thời, cũng không ít quốc gia phải nhận được sự “trả giá đau đớn” khi

lựa chọn không đúng đắn những tinh hoa, văn hóa nhân loại khi hội nhập. Hệ

quả của những lựa chọn chưa phù hợp các giá trị tiến bộ của nhân loại thường

gây ra những tổn thất và hệ lụy rất lớn cho sự phát triển bền vững của quốc

gia, dân tộc, đặc biệt là những vấn đề liên quan tới hệ giá trị con người. Ở các

quốc gia đang phát triển như nước ta, sự tính toán, cân nhắc một cách khoa

học với các giá tiến bộ của nhân loại trong quá trình hội nhập là rất quan

trọng. Bởi lẽ, từ thế kỷ XX đến nay tình hình chính trị quốc tế đã thay đổi

nhiều, các quan hệ quốc tế ngày càng phức tạp hơn. Để tránh các hiện tượng

du nhập thiếu cân nhắc hoặc chưa phù hợp các giá trị bên ngoài cần có những

chính sách hợp lý của Nhà nước với các nghiên cứu về con người, về hệ giá

trị con người và các giá trị tiến bộ của nhân loại. Thêm nữa, trong bối cảnh

hội nhập, khi tiếp thu các tinh hoa văn hóa của nhân loại vào điều kiện của

nước ta cần tiếp thu, ứng dụng có hiệu quả phương châm “tư duy toàn cầu

hành động địa phương”. Do đó, việc tiếp thu các tinh hoa, văn hóa nhân loại

đòi hỏi sự nghiên cứu và lựa chọn nghiêm túc. Chúng tôi cho rằng, các giá trị

tiến bộ của nhân loại hiện nay như: Tôn trọng, trung thực, trách nhiệm, bình

đẳng, dân chủ, sáng tạo, hòa bình, đó còn là những quy tắc ứng xử văn minh,

lối sống lành mạnh, tinh thần nhân văn nhân ái, thái độ tôn trọng pháp kỷ

cương pháp luật, ý thức bảo vệ môi trường tài nguyên thiên nhiên… Đây là

những giá trị tiến bộ hiện nay hầu hết quốc gia lựa chọn.

Thứ nữa, khi tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại trong xây dựng hệ

giá trị con người Việt Nam giai đoạn hội nhập quốc tế cần tránh các xung đột

với các giá trị truyền thống của dân tộc. Các giá trị truyền thống được hình

thành gắn với lịch sử lâu dài của dân tộc, nó được xem là nền tảng tinh thần

của dân tộc. Ở những thời điểm chuyển giao hay thời điểm có tính chất bước

ngoặt về lịch sử khi có sự xuất hiện của các giá trị mới dễ dẫn tới những đụng

độ nhất định với các giá trị truyền thống. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập

quốc tế đang diễn ra như một xu thế tất yếu hiện nay, quá trình giao thoa, va

chạm các giá trị là điều khó tránh khỏi, đây cũng là cơ hội để nền văn hóa dân

129

tộc có cơ hội thẩm định, thử nghiệm và lựa chọn các tinh hoa văn hóa của các

dân tộc. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại đối

với xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay cần tránh các xung đột

với các giá trị truyền thống dân tộc. Bởi lẽ, đối với con người Việt Nam, dân

tộc Việt Nam, các giá trị truyền thống luôn đóng vai trò quan trọng, khi xảy ra

những xung đột giá trị, dễ dẫn tới những khủng hoảng giá trị, rối loạn xã hội.

Về điều này, có ý kiến cho rằng: “Sự xung đột giữa các giá trị cũ sắp bị loại

bỏ hoặc loại bỏ từng phần với các giá trị mới khiến cho xã hội mất định

hướng giá trị; các hành vi, hoạt động của những con người, bộ phận dân cư

khác nhau sẽ được đánh giá khác nhau. Tình hình đó dẫn đến thậm chí sự

xung đột trong định hướng, đánh giá và niềm tin, tạo nên sự rối loạn của xã

hội. Những thang bậc đúng sai, tốt xấu, có lợi, có hại,…đối với cộng đồng, cá

nhân, có thể bị đảo lộn; xã hội hoặc bộ phận dân cư nào đó, trong những

trường hợp cụ thể, có thể bị mất phương hướng” [79, tr.239-240]. Từ những

bài học về thực tiễn cho thấy để giảm thiểu các xung đột giá trị trong việc tiếp

thu các tinh hoa văn hóa nhân loại với các giá trị truyền thống của dân tộc cần

sự giám sát, quản lý chặt chẽ của các cơ quan liên quan, đặc biệt trong lĩnh

vực văn hóa.

Hiện nay, kết hợp hài hòa giữa các giá trị truyền thống với tinh hoa văn

hóa nhân loại đang trở thành phương án được nhiều quốc gia lựa chọn trong

bối cảnh hội nhập, Nhật Bản là một ví dụ khá điển hình. Cũng giống như

nhiều quốc gia ở châu Á, nền văn hóa Nhật Bản tiếp xúc khá sớm với văn hóa

phương Tây. Trong qua trình giao thoa, những xung đột và khủng hoảng giá

trị đã từng là vấn đề nan giải ở không ít các quốc gia. Hiện nay, chủ trương

“Đạo lí Nhật Bản + Kỹ thuật phương Tây” của Nhật Bản được xem là một

trong những giải pháp được nhiều nhà nghiên cứu luận bàn trong bối cảnh hội

nhập. Ở Việt Nam, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc và chỉ

ra sự gắn bó mật thiết giữa dân tộc và quốc tế. Đó là sự gắn bó biện chứng

giữa yếu tố chủ quan (dân tộc) và yếu tố khách quan (quốc tế). Kết hợp sức

130

mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trở thành nội dung quan trọng trong hệ

thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là quy luật, bài học kinh nghiệm lớn đối với

cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, trên cơ sở phát huy kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã

lãnh đạo dân tộc Việt Nam giành thắng lợi trong suốt chiều dài lịch sử. Khẳng

định việc kế thừa các giá trị văn hóa của nhân loại để làm phong phú, đa dạng

văn hóa dân tộc, nhưng Hồ Chí Minh cũng phê phán, chống lại “cách mượn”

không phải lối, chối bỏ đi các giá trị vốn có của dân tộc, hay là sự tiếp thu xô

bồ mọi thứ của thiên hạ, đồng thời cho rằng cần tiếp thu có chọn lọc những

cái hay, cái tốt, cái đẹp để làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc. Đây thực sự là

“Việt Nam hóa” những cái từ ngoài đến, biến chúng thành những cái bên

trong, tự nhiên như những yếu tố nội sinh của văn hóa Việt Nam. Đứng vững

trên cái nền dân tộc để chiếm lĩnh, tiếp thu những giá trị văn hóa bên ngoài,

bản lĩnh đó của dân tộc Việt Nam đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch

sử mấy nghìn năm qua.

Ngoài ra, trong quá trình hội nhập, quá trình tiếp thu các tinh hoa văn

hóa nhân loại trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam cũng cần gắn liền

với việc chia sẻ các giá trị tốt đẹp của dân tộc. Nhấn mạnh tầm quan trọng của

việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại song Hồ Chí Minh cũng không quên

căn dặn những người làm công tác văn hóa về sự cần thiết chia sẻ các giá trị

trong quá trình giao lưu, tiếp biến. Hồ Chí Minh quan niệm, mình có thể bắt

trước cái hay của bất kỳ nước nào, nhưng điều cốt yếu là sáng tác. Mình đã

hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay để cho người ta hưởng. Mình

đừng chịu vay mà không trả "phát triển cái hay cái đẹp của dân tộc, tức là ta

cùng đi tới chỗ nhân loại". Đây chính là sự vận dụng phép biện chứng của

“nhận và cho”, “vay và trả” trong tiếp xúc, giao lưu, đối thoại giữa các nền

văn hóa. Trong văn hóa, nếu chỉ muốn “viện trợ không hoàn lại”, thì chính

điều đó không chỉ là một thái độ rất không văn hóa mà còn không thể phát

huy được bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Ngoài ra, trong quá trình tiếp thu,

131

học tập kinh nghiệm, phải chú ý đến đặc điểm của dân tộc mình, nếu không sẽ

phạm phải sai lầm, giáo điều. Ngày nay, hội nhập quốc tế trên tất cả lĩnh vực

chỉ đạt tới kết quả khi có sự chia sẻ, chung tay, góp sức của các cộng đồng

dân tộc. Do vậy, tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại trong xây dựng hệ giá

trị con người Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế cần thiết phải có sự chia sẻ

các giá trị con người Việt Nam với các cộng đồng dân tộc trên thế giới. Bởi

lẽ, hội nhập quốc tế không chỉ là cơ hội với các dân tộc mà còn thể hiện trách

nhiệm của các dân tộc trong sự phát triển chung của nhân loại.

4.2.3. Phát triển toàn diện con người Việt Nam nhằm đáp ứng yêu

cầu của hội nhập quốc tế

Trong bất kỳ sự phát triển nào của xã hội, con người luôn đóng vai trò

là chủ thể sáng tạo ra lịch sử- xã hội, là mục tiêu và động lực của sự phát

triển, là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành bại của xã hội. Ngày

nay, trước những tác động mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc

tế, những vấn đề “xưa cũ” về con người được trở lại nhiều hơn. Trong đó, vấn

đề phát triển con người toàn diện đang trở thành mục tiêu trọng tâm trong

nhiều chiến lược phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay.

Ở nước ta, nhận thức về vai trò của con người và phát triển con người

luôn được Đảng và Nhà nước xác định là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng

nhất. Tiếp tục tinh thần này từ các Đại hội trước, Đại hội XIII nhấn mạnh:

“Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể,

nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa,

con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự

phát triển bền vững” [23; tr.215-216].

Trên thực tế, những chủ trương chính sách đúng đắn về con người ở

nước ta trong những năm qua đã mang lại hiệu quả thiết thực. Đời sống vật

chất và tinh thần của con người Việt Nam về cơ bản tăng hơn so với trước đây

Nhấn mạnh vai trò quan trọng của vấn đề phát triển toàn diện con người Việt

Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam

xác định: “con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát

132

triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [22,

tr.78] và trở thành một nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-

2020. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã

tham gia và cam kết hầu hết các định chế quốc tế, trong đó có công ước quốc

tế về quyền con người. Điều này thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng và

Nhà nước với vấn đề phát triển con người Việt Nam toàn diện giai đoạn xây

dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Trên phương diện xây dựng và

hoàn thiện hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế,

phát triển con người Việt Nam hiện nay cần chú ý tới một số vấn đề như sau:

Một là, phát triển con người toàn diện phải đảm bảo nâng cao đời sống

vật chất và tinh thần cho nhân dân. Sự phát triển con người ở bất kỳ giai đoạn

nào, quốc gia nào chỉ thực sự bền vững khi đời sống vật chất và đời sống tinh

thần đầy đủ. Trong bối cảnh hội nhập, yêu cầu nâng cao đời sống vật chất

được thể hiện ở những phương diện cụ thể như sau: Giải quyết tốt công ăn

việc làm cho người dân, nâng cao mức thu nhập đầu người, cải tiến trang thiết

bị lao động và các phương tiện làm việc ngày càng hiện đại… Ngày nay, khoa

học kỹ thuật được xem là lực lượng sản xuất trực tiếp đóng vai trò quan trọng

quyết định năng suất lao động, do vậy muốn nâng cao đời sống vật chất cho

nhân dân, không bị thụt lùi so với các nước khác trong hội nhập thì ưu tiên

việc trang bị, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản

xuất là yếu tố quan trọng để phát triển con người. Trên cơ sở nâng cao đời

sống vật chất, phát triển con người toàn diện cũng song hành với việc nâng

cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Nâng cao đời sống tinh thần sẽ góp phần

tạo những tiền đề quan trọng trong xây dựng nền văn hóa, con người Việt

Nam. Trong bối cảnh hiện nay, sự giao lưu, hội nhập về văn hóa đang diễn ra

mạnh mẽ, nâng cao đời sống tinh thần được thể hiện ở một số khía cạnh như:

Đa dạng hóa các hoạt động văn - thể - mỹ, giữ gìn và phát huy những giá trị

truyền thống dân tộc, tạo điều kiện cho người dân được tham gia và hưởng

thụ các giá trị văn hóa, kết nối mở rộng rộng hợp tác với các nước trên lĩnh

vực văn hóa, quản lý và kiểm soát hiệu quả các hoạt động văn hóa… Sự phát

133

triển con người cần đảm bảo trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần cho

nhân dân, điều này sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển con người Việt

Nam toàn diện, góp phần thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập hiện nay.

Hai là, phát triển con người phải gắn với đổi mới căn bản và toàn diện

giáo dục- đào tạo. Có thể khẳng định rằng, giáo dục- đào tạo có vai trò quan

trọng với phát triển con người, nó luôn được xem là lĩnh vực đặc biệt bởi lẽ

sản phẩm của giáo dục- đào tạo chính là con người. Trong đó đổi mới căn bản

và toàn diện giáo dục- đào tạo là nhân tố quan trọng, quyết định vào sự thành

công trong xây dựng con người Việt Nam toàn diện. Không thể phủ nhận rằng

trong những năm qua giáo dục- đào tạo ở nước ta đã có những thay đổi đáng

kể tạo những nền tảng vững chắc cho sự phát triển con người Việt Nam. Sự

đa dạng hóa các loại hình giáo dục- đào tạo đã góp phần rất lớn vào việc nâng

cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay,

giáo dục- đào tạo Việt Nam vừa đứng trước nhiều cơ hội đồng thời đan xen

nhiều thách thức, trong đó yêu cầu về phát triển chất lượng con người Việt

Nam ngày càng cao hơn. Để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn, việc đổi

mới căn bản và toàn diện giáo dục- đào tạo ở nước ta là nhiệm vụ tiên quyết.

Trong đó có một số vấn đề liên quan trực tiếp như: Đổi mới chương trình dạy

và học, tổ chức hiệu quả công tác quản lý giáo dục, thực hiện xã hội hóa giáo

dục, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục- đào tạo…Việc đổi mới căn bản

và toàn diện giáo dục- đào tạo trong bối cảnh hội nhập ở nước ta phải được

tiến hành đồng bộ, có sự kết hợp nhiều cấp nhiều ngành, trong đó việc nâng

cao chất lượng giáo viên, trang thiết bị các phương tiện giảng dạy hiện đại,

học hỏi những mô hình giáo dục tiên tiến trên thế giới có vai trò đặc biệt quan

trọng. Giáo dục- đào tạo trong bối cảnh hội nhập quốc tế không chỉ giới hạn

trong phạm vi trường học bởi lẽ ngày nay với sự phát triển như vũ bão của

cuộc cách mạng khoa học, công nghệ thông tin, lượng tri thức của nhân loại

ngày càng phong phú, người học có thể tiếp nhận bằng nhiều công cụ, phương

tiện, môi trường khác nhau. Do đó, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục -

134

đào tạo còn thể hiện ở việc gắn giáo dục với tự giáo dục, tức là biến quá trình

giáo dục - đào tạo trở thành tự giác với mọi người. Đây là công việc không hề

đơn giản trong điều kiện giáo dục - đào tạo còn đứng trước nhiều khó khăn

như nước ta hiện nay. Tuy nhiên điều này là cần thiết để mỗi cá nhân, mỗi

công dân nhận thức trách nhiệm tự phát triển năng lực của mình, tự hoàn thiện

những thiếu hụt của mình để đáp ứng những yêu cầu của điều kiện hội nhập

trên cơ sở hỗ trợ, giúp đỡ của các chính sách từ nhà nước, ban ngành liên

quan. Thêm nữa, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo trong bối

cảnh hội nhập còn cần chú ý tới việc tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng

cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu

niên. Sự phát triển toàn diện của con người trong xã hội hiện nay cần hội tụ

đầy đủ các yếu tố như tri thức, đạo đức, kỹ năng sống và thể chất. Do đó, giáo

dục- đào tạo không chỉ hướng tới mục đích trang bị tri thức để con người làm

việc mà còn phải phát huy vai trò của văn học nghệ thuật trong bồi dưỡng tâm

hồn, nâng cao năng lực thẩm mĩ để con người hướng tới những giá trị chân-

thiện- mỹ.

Ba là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh

tế tri thức, phát triển khoa học - công nghệ làm tiền đề cho phát triển con

người toàn diện trong hội nhập. Ngày nay, sự phát triển của kinh tế tri thức và

khoa học- công nghệ đã và đang làm chuyển biến sâu sắc nền kinh tế thế giới,

chi phối đến mọi hoạt động xã hội, trong đó có quan hệ quốc tế. Nhiều ý kiến

cho rằng kinh tế tri thức và khoa học- công nghệ có thể xem là một trong

những nhân tố quyết định thành công của các quốc gia trong quá trình hội

nhập. Ở nước ta, phát triển kinh tế tri thức và khoa học- công nghệ giúp con

người Việt Nam có cơ hội tiếp cận với những tri thức tiên tiến của thế giới

vào sản xuất, thay đổi tư duy và phương pháp làm việc khoa học nhằm tạo ra

năng suất, hiệu quả trong công việc. Bước vào quá trình hội nhập từ xuất phát

điểm từ một nước nông nghiệp, điều kiện còn nhiều khó khăn như Việt Nam,

việc học hỏi những tri thức khoa học, tiếp cận những thành tựu khoa học tiến

135

bộ của nhân loại để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước là một tất yếu, phù hợp với điều kiện thực tiễn và yêu cầu của thời đại.

Trong những năm qua, nhiều văn bản quan trọng về định hướng chiến lược và

cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ đã được ban hành: Nghị

quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (1996); Kết luận của Hội nghị Trung

ương 6 khoá IX (2002); Luật Khoa học và Công nghệ (2000); Chiến lược phát

triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 (2003); và nhiều chính

sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý khoa học và

công nghệ; Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-

2020;... Với sự quyết tâm của Nhà nước trong việc phát triển khoa học- công

nghệ, sự cố gắng của nhiều nhà khoa học và các ban ngành liên quan, có thể

thấy sau Đổi mới, khoa học- công nghệ của nước ta đã có những bước chuyển

lớn, góp phần phát triển đất nước, củng cố quốc phòng an ninh, ổn định xã

hội. Tuy nhiên khách quan cũng cần nhìn nhận rằng: Khoa học- công nghệ

của nước ta còn chưa đáp ứng được các yêu cầu cầu của quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. So với một số quốc gia tiên tiến của khu

vực và trên thế giới, chúng ta còn những hạn chế khá lớn về khoa học- công

nghệ trong giai đoạn hiện nay. Đây là trở ngại trong hội nhập, hạn chế này

cần khắc phục sớm nhằm thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và phát triển toàn diện con người Việt Nam. Hiện nay, trong điều

kiện của nước ta, một số ưu tiên trước mắt cho phát triển kinh tế tri thức, phát

triển khoa học- công nghệ đó là: Cần có sự đầu tư các trang thiết bị khoa học-

kỹ thuật hiện đại trong việc phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như chế

biến nông sản, luyện kim, hóa chất… Cần đẩy mạnh hợp tác về công nghệ cao

trong nhiều lĩnh vực, chuyển giao công nghệ, tiếp thu những thành tựu khoa

học - công nghệ, những tri thức mới nhất của nhân loại bằng nhiều hình thức

khác nhau. Bên cạnh đó cần có chính sách khuyến khích phát triển khoa học-

công nghệ trong nước như đầu tư các sáng chế, phát minh và các ứng dụng

khoa học…cũng như các chính sách đãi ngộ thích đáng với các nghiên cứu

136

khoa học. Trong phát triển con người toàn diện cần chú ý tới những cơ chế,

chính sách quản lý khoa học- công nghệ, đặc biệt là quản lý nhân lực và quản

lý tài chính hiệu quả tạo điều kiện để con người Việt Nam phát huy được khả

năng sáng tạo, nâng cao trình độ. Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập, cần có

những chính sách phát triển nhanh thị trường khoa học và công nghệ để bảo

đảm mọi tri thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận

lợi và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Tăng cường mở rộng hợp tác và

giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao, tạo điều

kiện cho con người Việt Nam được tiếp xúc, trao đổi và học hỏi những thành

tựu tiên tiến của thế giới.

Bốn là, mỗi chủ thể, mỗi cá nhân con người Việt Nam trong bối cảnh

hội nhập cần nêu cao tinh thần tự học, tự rèn luyện, tự bồi dưỡng năng lực sống

của chính bản thân mình. Mỗi người phải là một chủ thể tích cực, năng động,

linh hoạt, nhạy bén trong tiếp nhận và xử lý những thông tin để hình thành cho

mình một năng lực sống phù hợp, lành mạnh, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc

tế. Mỗi cá nhân, mỗi công dân trong xã hội cần phải có ý thức trong việc lựa

chọn, tìm tòi cái hay cái đẹp, cái tiến bộ và loại bỏ những cái xấu, cái không

phù hợp với cuộc sống của mình để phát triển năng lực tự bảo vệ, năng lực

chọn lọc, năng lực giao tiếp, ứng xử. Mỗi người phải biết cố gắng vươn lên

trong cuộc sống, thích nghi với thời cuộc, không ngừng lĩnh hội, tiếp thu những

giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, nâng cao ý thức cộng đồng, tinh

thần đoàn kết… để trở thành công dân ưu tú trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Trên thực tế, quá trình vận động mọi người tự mình điều chỉnh hành vi của

mình đấy mới là gốc rễ, nền tảng.

Giải quyết các vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện giai

đoạn hội nhập hiện nay như đã nói trên là vấn đề không hề đơn giản với bất

kỳ quốc gia nào, kể cả các quốc gia tiên tiến. Trong điều kiện đất nước ta

đang trong giai đoạn phát triển, trình độ con người còn nhiều hạn chế nhất

định khiến cho việc phát triển con người đứng trước nhiều khó khăn, thách

137

thức. Tuy vậy với bản lĩnh của con người Việt Nam, quyết tâm của Nhà nước

và những nhân tố tích cực của xu thế hội nhập quốc tế, việc tạo dựng những

cơ sở thuận lợi cho phát triển con người toàn diện sẽ góp phần quan trong

định hướng giá trị trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều

kiện hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, như đã nói, xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam hiện nay được dựa trên tổng lực của nhiều nhân tố hợp thành, trong đó

nhân tố con người đóng vai trò trung tâm và quan trọng nhất. Hiện nay trong

xây dựng nền văn hóa Việt Nam, Đảng và Nhà nước chỉ rõ việc chăm lo xây

dựng con người Việt Nam đóng vai trò quan trọng, trong đó trọng tâm hướng

tới bồi dưỡng con người về các mặt: tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc,

đạo đức, lối sống và nhân cách. Từ những giá trị cơ bản trọng tâm này tạo

chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người

Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.

Chắc chắn khi giải quyết tốt vấn đề con người và những điều kiện cho phát

triển con người Việt Nam toàn diện sẽ tạo ra những nền tảng và những bước

chuyển lớn trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay.

4.2.4. Đẩy mạnh giáo dục tuyên truyền kết hợp với thực thi pháp luật

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hệ giá trị con người Việt Nam hiện

nay, về khách quan có thể thấy rất rõ, sự xuống cấp về giá trị, xuống cấp về

đạo đức, tha hóa về con người đã và đang trở thành một vấn đề cần sớm được

quan tâm và giải quyết. Do đó, kết hợp giáo dục tuyên truyền với việc thực thi

nghiêm pháp luật cần được xem là một định hướng giá trị nhằm góp phần xây

dựng và hoàn thiện hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập

quốc tế.

Một là, cần xây dựng môi trường xã hội lành mạnh. Như chúng ta đều

biết rằng, mặc dù là nhân tố khách quan song môi trường luôn có vai trò quan

trọng tới sự phát triển của con người và xã hội con người. Môi trường xã hội

lành mạnh hiện nay có thể hiểu là tập hợp các yếu tố có ảnh hưởng tới con

người, các giá trị người như: môi trường sản xuất kinh doanh, môi trường

138

giáo dục, môi trường gia đình, môi trường công cộng, môi trường quản lý nhà

nước… Những nhân tố này đóng góp phần bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển

các giá trị tốt đẹp đồng thời ngăn ngừa, đấu tranh, loại bỏ các giá trị tiêu cực

ảnh hưởng tới con người. Một môi trường xã hội lành mạnh được hiện thực

qua các chính sách phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo

dục… Trong điều kiện nước ta hiện nay, phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn

việc làm đảm bảo những nền tảng vật chất tốt là cơ sở quan trọng cho công

bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội. Phát triển kinh tế cần đi đôi với ổn định xã

hội, trong đó đảm bảo sự bình đẳng, tự do và an toàn để người dân yên tâm

sinh sống. Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích, đãi ngộ người tài

giỏi để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động trước sự cạnh tranh

mạnh mẽ của xu thế hội nhập hiện nay. Đồng thời cần tạo dựng môi trường

đầu tư kinh doanh thuận lợi cho các nhà kinh doanh trong nước cũng như các

đối tác nước ngoài nhằm tạo ra hiệu quả trong sự phát triển kinh tế - xã hội.

Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ người khó khăn, yếu thế trong xã

hội cũng như sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, miền xuôi và miền

ngược, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận

các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển

kinh tế tri thức, phát triển khoa học - công nghệ. Cùng với việc đẩy mạnh tăng

trưởng kinh tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn với

phát triển tri thức, Nhà nước cần có những chính sách pháp luật đúng đắn, đặc

biệt cần có các chính sách xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp

luật, vi phạm đạo đức xã hội để đảm bảo công bằng, an ninh trật tự cho xã

hội, công dân có thể yên tâm và phát huy sức sáng tạo của mình trong môi

trường sống ổn định. Bên cạnh đó, trong xây dựng hệ giá trị con người cần

định hướng những giá trị cốt lõi, trọng điểm để hướng dẫn người dân thực

hiện. Tạo dựng môi trường xã hội lành mạnh cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa

139

môi trường gia đình- nhà trường- xã hội trong việc giáo dục nhân cách cho

con người. Hơn nữa trong giai đoạn hiện nay cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa

xây dựng phát triển hệ giá trị con người với hệ giá trị văn hóa và xây dựng lối

sống mới hướng tới các giá trị tốt đẹp, lành mạnh, văn minh trên cơ sở phát

triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Khuyến khích lối sống có trách nhiệm theo tinh

thần “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, mọi công dân sống

và và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của nhà nước, kết hợp tính tích

cực của cá nhân và tính tích cực của xã hội, khẳng định và tôn vinh cái đúng,

cái tốt, cái nhân văn, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Hai là, cần xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo đức, quy tắc ứng

xử phù hợp hay nói cách khác cần pháp luật hóa về đạo đức. Trên thực tế,

trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã có những chính sách tích cực trong

xây dựng đời sống mới, cụ thể đã ban hành một số văn bản như: Chỉ thị số

11/CT-TTg ngày 29/3/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc “đẩy mạnh

giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình”; “Đề án tuyên truyền, giáo dục

đạo đức, lối sống trong gia đình Việt Nam đến 2020”; “Kế hoạch nâng cao

hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học

sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ VHTTDL giai đoạn 2016-

2020”; “Chương trình giáo dục đời sống gia đình đến năm 2020”; “Đề án

phát huy giá trị tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình và hỗ trợ xây dựng gia

đình hạnh phúc, bền vững đến năm 2020”.... Những văn bản pháp lý trên đã

phần nào cho thấy sự quan tâm của Nhà nước tới vấn đề xây dựng hệ giá trị

con người Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Tuy vậy, để các chính sách tích

cực này được triển khai hiệu quả trong đời sống thực tiễn, góp phần hạn chế,

ngăn ngừa sự xuống cấp về giá trị, xuống cấp về đạo đức, tha hóa về con

người thì cần xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo đức, quy tắc ứng xử

phù hợp với từng lĩnh vực cụ thể. Thực tế trong thời gian gần đây ở nước ta

đã có một số địa phương, thành phố đã đề xuất thực hiện những quy tắc ứng

xử, ví dụ như đầu năm 2018 Hà Nội có chủ trương bộ quy tắc ứng xử hướng

140

tới nét văn minh, thanh lịch đúng nghĩa cho người thủ đô. Phương án triển

khai mô hình từ cơ sở, trước mắt thí điểm tại quận Cầu Giấy, Tây Hồ và các

huyện ngoại thành như Sóc Sơn, Mỹ Đức, thực hiện trong các đơn vị, tổ dân

phố, sau đó Ban chỉ đạo sẽ rút kinh nghiệm để triển khai ra toàn thành phố,

cách làm này đang được kỳ vọng tạo chuyển biến tốt trong thực hiện các Bộ

Quy tắc trên. Sau một thời gian triển khai thực hiện bộ quy tắc ứng xử trong

nhiều sở, ngành, huyện của Hà Nội chưa có sự chuyển biến lớn, tuy vậy cũng

có thể nói đây là một cách làm sáng tạo, thể hiện quyết tâm ngăn ngừa, phòng

chống sự xuống cấp về giá trị, đạo đức, xây dựng nét ứng xử văn minh, hướng

tới những giá trị tốt đẹp. Về vấn đề xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo

đức, quy tắc ứng xử phù hợp với từng lĩnh vực là cần thiết trong thời gian

hiện nay. Tuy nhiên khi xây dựng và ban hành các bộ quy tắc ứng xử cần tính

đến khả năng hiện thực để đạt hiệu quả trong thực tiễn. Bởi lẽ những liên

quan tới đạo đức, ứng xử, giá trị… thường là những vấn đề không đơn giản,

đặc biệt khi xây dựng mới thường vấp phải sự xung đột, đấu tranh dữ dội với

phong tục, truyền thống vốn đã ăn sâu vào đời sống của người dân hàng ngàn

năm nay. Cộng thêm những tác động của các nhân tố và các thế lực chống phá

từ bên ngoài có thể gây cản trở trong quá trình thực hiện các quy tắc ứng xử.

Do đó khi xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo đức, quy tắc ứng xử cần

chú ý tới các vấn đề như: Việc lựa chọn các tiêu, quy tắc phải phù hợp với đối

tượng, khi áp dụng triển khai cần có thời gian áp dụng thử nghiệm và rút kinh

nghiệm, đa dạng hóa các phương pháp thực hiện…. Trong quá trình triển khai

các tiêu chí, quy tắc lựa chọn cần phải có những giải pháp tuyên truyền, vận

động, giáo dục người dân hiểu và thực hiện theo. Khi gặp những khác biệt,

xung đột cần có cách giải quyết phù hợp, tránh việc áp đặt, dập khuôn máy

móc và chạy theo thành tích trái với mục đích ban hành và xây dựng các bộ

tiêu chí và quy tắc ứng xử. Bản thân những cán bộ tham gia triển khai quá

trình này cũng đòi hỏi phải là những công dân tốt, có trách nhiệm và có đạo

đức. Thực hiện hiệu quả, thành công quá trình này sẽ góp phần xây dựng lối

141

sống mới văn minh rộng rãi trong tầng lớp nhân dân, đồng thời góp phần tích

cực trong việc hạn chế, phòng chống sự xuống cấp về giá trị, xuống cấp đạo

đức, tha hóa con người hiện nay.

Ba là, cần chú trọng công tác nêu gương có hiệu quả trong đời sống xã

hội. Trên thực tế, trong những năm qua, các phong trào thi đua yêu nước,

phong trào học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... đã ít nhiều tạo ra

những tác động không nhỏ tới nhận thức và hành động của người dân. Song,

trong thời gian tới, cần đẩy mạnh các phong trào trên đi vào chiều sâu hơn nữa.

Nhấn mạnh về vai trò của phương pháp nêu gương trong đời sống đạo đức xã

hội, phó thủ tướng Vũ Đức Đam tại phiên chất vấn Quốc hội vào ngày 9 tháng

11 năm 2020 đã chỉ rõ: Cần nêu gương từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài.

Người lớn nêu gương cho người trẻ, người cao hơn nêu gương cho cấp dưới.

Đảng viên đi trước “làng nước theo sau”.

Nhìn chung, có thể thấy, vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị con

người đáp ứng được những yêu cầu hội nhập quốc tế ở nước ta còn đứng trước

nhiều khó khăn, phức tạp và những thách thức to lớn của bối cảnh thời đại và

thực tiễn trong nước. Do đó, những định hướng giá trị trên góp phần vào giải

quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng và phát triển hệ giá trị con

người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.

142

Tiểu kết chương 4

Hiện nay, trước những đòi hỏi ngày càng khắt khe của hội nhập quốc

tế, quá trình xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam đang đứng trước nhiều

vấn đề cần phải giải quyết. Từ những nghiên cứu lý luận về hệ giá trị con

người Việt Nam và thực tiễn hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay, có thể

đưa ra một số giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

hướng tới như: Yêu nước, trách nhiệm cộng đồng, yêu lao động, hiếu học (tôn

trọng giáo dục), trọng gia đình, chuộng hòa bình. Các giá trị này một mặt góp

phần định hướng giá trị con người Việt Nam đáp ứng các yêu cầu thực tiễn

phát triển đất nước cũng như các yêu cầu của thời đại trong xu thế hội nhập

quốc tế hiện nay.

Trên thực tế, việc phát triển và hoàn thiện hệ giá trị con người Việt

Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế là một vấn đề to lớn và quan trọng đối

với sự phát triển của Đất nước hiện nay. Nhằm góp phần vào quá trình này,

luận án: Thứ nhất, cần phải chú ý tới vấn đề kế thừa và phát huy giá trị truyền

thống; Thứ hai, cần tiếp thu tinh hoa, văn minh nhân loại; Thứ ba, cần hướng

tới phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của hội nhập

quốc tế; Thứ tư, cần đẩy mạnh giáo dục tuyên truyền kết hợp với thực thi

pháp luật. Các định hướng giá trị này đều xuất phát từ thực tiễn phát triển

kinh tế- xã hội của đất nước cũng như các yêu cầu đặt ra của hội nhập quốc tế

đối với quá trình xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam.

143

KẾT LUẬN

Với con người, thế giới xung quanh không chỉ là thế giới của các sự

vật, hiện tượng mà còn là thế giới của những giá trị. Giá trị, hệ giá trị được

tạo ra trong thế giới tinh thần của con người, nhưng lại nằm ở vị trí trung

gian, kết nối giữa con người với thế giới. Tức là giá trị không thuần túy chủ

quan, nhưng cũng không tuyệt đối khách quan. Xa hay gần, giá trị đều là sản

phẩm dựa trên những tồn tại xã hội, phản ánh sự đa dạng, phong phú, độc đáo

của các cộng đồng người, dân tộc, quốc gia. Giá trị, hệ giá trị một mặt thể

hiện nhu cầu, khát vọng của con người, nhưng mặt khác lại là mục tiêu, định

hướng mà mỗi cá nhân và cộng đồng nhằm tới. Vì vậy, trên phương diện lý

luận và thực tiễn, việc quan tâm đến giá trị con người trong sự biến đổi của

hoàn cảnh bao giờ cũng là công việc có tầm vóc và ý nghĩa quan trọng.

Trong thực tế, dù tuyên bố hay không tuyên bố, mỗi cộng đồng, dân

tộc, quốc gia đều có hệ giá trị của riêng mình. Đó là sản phẩm của sự lựa chọn

thường là gian nan từ trong lịch sử. Đến lượt mình, giá trị, hệ giá trị lại là

hành lang an toàn đối với hoạt động người, đảm nhận chức năng định hướng

vốn có của giá trị. Mặc dù không phải là yếu tố thường xuyên thay đổi, song

hệ giá trị cũng không bất biến. Những biến động của giá trị và hệ giá trị, tất

nhiên do tồn tại xã hội quy định và khi tác động trở lại tồn tại xã hội, động

thái của hệ giá trị bao giờ cũng ảnh hưởng, tác động tạo ra những biến đổi có

ý nghĩa trong đời sống con người.

Những năm qua, ở Việt Nam, nhờ triển khai, vận dụng đúng đắn những

chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, chúng ta đã đạt được

những thành tựu nhất định trong việc xây dựng hệ giá trị con người trong điều

kiện hội nhập quốc tế. Nhìn khách quan, có thể thấy, các giá trị con người Việt

Nam có xu hướng xích lại gần với các chuẩn mực quốc tế. Hiện nay, lối sống

lành mạnh, có văn hóa, hội nhập sâu vào xu hướng tiến bộ của thế giới ngày

càng phổ biến và chiếm ưu thế trong đời sống xã hội ở nước ta. Dưới sự tác

động tích cực của hội nhập quốc tế, các giá trị người Việt truyền thống có cơ

144

hội được đánh thức... Thực tế không thể phủ nhận rằng, trong hơn 30 năm đổi

mới vừa qua, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu trên các mặt phát triển

kinh tế, nâng cao uy tín và vị thế của mình trên trường quốc tế, các giá trị con

người từng bước được cải thiện rõ rệt. Quá trình hội nhập quốc tế đã mang lại

nhiều cơ hội để chúng ta tiếp thu một cách chọn lọc các giá trị cả quá khứ lẫn

hiện tại của nhân loại nhằm bổ sung vào bảng giá trị của dân tộc những giá trị

phù hợp phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước nói chung và đối với sự

phát triển của từng con người nói riêng.

Tuy nhiên, trước những biến chuyển vô cùng nhanh chóng và mạnh mẽ

của điều kiện hội nhập quốc tế, trên phương diện hệ giá trị con người, chúng ta

cũng không tránh khỏi những hạn chế, bất cập nhất định. Hiện nay, xây dựng

hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế đang đứng

trước một số vấn đề đặt ra như: Xu hướng coi nhẹ các giá trị truyền thống, sự

lệch chuẩn giá trị diễn ra khá phổ biến; hiện tượng xuống cấp về đạo đức, tha

hóa con người; xuất hiện lối sống thiếu lành mạnh... đến mức đáng lo ngại.

Thực chất của những hiện tượng đó chính là sự khủng hoảng về giá trị. Xuất

hiện những biến đổi về hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay có nhiều

nguyên nhân: từ mặt trái của kinh tế thị trường, từ hội nhập quốc tế và có thể

đó có thể đó là cái giá phải trả, là một phí tổn cho sự phát triển. Và trong thực

tế, ý thức, hành vi, quan hệ đạo đức cá nhân và xã hội của người Việt Nam

hiện nay vừa là nguyên nhân, tác động trực tiếp đến sự biến đổi của hệ giá trị,

vừa là kết quả biểu hiện của sự định hướng lệch lạc đối với con người trước

bối cảnh mới.

Nghiên cứu về hệ giá trị con người Việt Nam cho thấy, những giá trị tốt

đẹp của người Việt được lưu truyền từ truyền thống có thể khái quát đó là tinh

thần yêu nước mãnh liệt nối tiếp nhau giữa các thế hệ. Đó là lòng nhân ái,

khoan dung… thể hiện giá trị nhân văn xuyên suốt từ trong lịch sử đến tận

ngày nay. Đó là tinh thần đoàn kết, cần cù yêu lao động, chịu đựng gian

khổ… với khát vọng xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, hùng cường.

145

Đó là tinh thần hiếu học, khát khao đạt tới những giới hạn mới về trí tuệ…

Các giá trị này đứng hàng đầu trong bảng giá trị người Việt truyền thống,

phản ánh đậm nét đặc thù của tồn tại xã hội trong lịch sử Việt Nam. Sự hiện

diện của các giá trị này góp phần định hướng những hoạt động của con người

Việt Nam trước đây cũng như hiện nay. Dưới tác động mạnh mẽ của xu thế

hội nhập quốc tế, các giá trị con người Việt đang diễn ra quá trình chuyển đổi

tương đối mạnh và rõ. Yêu cầu khách quan đặt ra đối với vấn đề hệ giá trị con

người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế là phải kết hợp đồng thời

quá trình kế thừa những giá trị cốt lõi, tiêu điểm của người Việt truyền thống

với việc bổ sung thêm các giá trị mới để phù hợp với xu thế phát triển của

thời đại. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu của tác giả đi trước và các quan

điểm chỉ dẫn của Đảng về vấn đề hệ giá trị con người Việt Nam, chúng tôi

cho rằng những giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

bao gồm các giá trị tiêu biểu như sau: Yêu nước, trách nhiệm cộng đồng, yêu

lao động, hiếu học (tôn trọng giáo dục), trọng gia đình, chuộng hòa bình. Các

giá trị này được đề xuất dựa trên tồn tại xã hội của Việt Nam trong điều kiện

hội nhập quốc tế và các yêu cầu của xu thế hội nhập đối với quá trình xây

dựng hệ giá trị con người hiện nay.

Từ những chuyển biến tích cực và một số vấn đề đặt ra về phương diện

hệ giá trị con người Việt Nam, để xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam

trong điều kiện hội nhập quốc tế phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay và

đáp ứng các yêu cầu của thời đại đặt ra cần phải quán triệt một số định hướng

cơ bản như sau: Thứ nhất, định hướng giá trị nhằm kế thừa và phát huy giá trị

truyền thống; Thứ hai, định hướng giá trị nhằm tiếp thu tinh hoa, văn minh

nhân loại; Thứ ba, định hướng giá trị nhằm hướng tới phát triển toàn diện con

người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế; Thứ tư, định hướng

giá trị nhằm đẩy mạnh giáo dục tuyên truyền kết hợp với thực thi pháp luật.

Các định hướng này phải được tiến hành thực hiện đồng bộ mới mang lại hiệu

quả thiết thực. Tuy vậy, cũng cần nhận thức rất rõ rằng, các định hướng giá trị

146

trên chỉ thực sự thâm nhập vào đời sống xã hội Việt Nam một cách hiệu quả khi

có sự phối hợp các chủ trương, biện pháp, các chính sách cũng như các chủ thể

thực hiện, trong đó có vai trò đặc biệt của quá trình ý thức và tự ý thức tích cực

của mỗi cá nhân, trách nhiệm của các cơ quan, đoàn thể, Nhà nước.

147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Trần Văn Phòng, Nguyễn Thị Hoàn (2015), “Quan điểm của Đảng về con

người trong thời kỳ đổi mới”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm

85 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Lý luận Chính trị,

tr.531- 538.

2. Trần Văn Phòng, Nguyễn Thị Hoàn (2015), “Quan điểm của Đảng Cộng

sản Việt Nam về con người với tư cách là đối tượng phục vụ của chính sách

xã hội trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 228 (tháng

4/2015), tr38-42.

3. Nguyễn Thị Hoàn (2016), “Tình hình nghiên cứu hệ giá trị con người Việt

Nam”, Tạp chí Thông tin- Viện Hàn lâm KHVN, số 407 (tháng 11 năm

2016), tr.10- 16.

4. Nguyễn Thị Hoàn (2016), “Chính sách xã hội vì quyền con người- Quan

điểm xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, in

trong sách Nghiên cứu và giảng dạy- NXB Đại học Huế, tr323-332.

5. Nguyễn Thị Hoàn (2017), “Một số tác động cơ bản của hội nhập quốc tế

đến xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo Khoa học

thường niên Đại học Thủy Lợi, NXB Xây Dựng (tháng 11 năm 2017),

tr.263-265.

6. Nguyễn Thị Hoàn (2018), “Ảnh hưởng tích cực của hội nhập quốc tế đến

xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Công đoàn,

số 637 (Xuân Mậu Tuất), tr.89-90.

7. Nguyễn Thị Hoàn (2018): “Nhận diện những biểu hiện lệch chuẩn giá trị

trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay”, Kỷ yếu hội thảo Khoa học

thường niên Đại học Thủy Lợi, NXB Xây Dựng, tr270-272.

148

8. Nguyễn Thị Hoàn (2019): “Vấn đề xác định hệ giá trị con người Việt Nam

trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia,

NXB Lao động- Xã hội, tr.232-238.

9. Nguyễn Thị Hoàn, (tham gia đề tài cấp Bộ), (2019): “Phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay: Yêu cầu và giải pháp”. Số

đăng ký: 2019-62-1080/KQNC- Viện nghiên cứu Con người.

10. Nguyễn Thị Hoàn, (2019), “Một số nét đặc thù hội nhập quốc tế của Việt

Nam và yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với việc xây dựng hệ giá trị

con người Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo cán bộ trẻ và sau đại học, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.280-300.

149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu tiếng Việt

1. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Tổng hợp Đồng

Tháp, Đồng Tháp.

2. Hoàng Chí Bảo (2010), Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và

hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

3. Nguyễn Duy Bắc (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh

xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển Bách

khoa và Viện Văn hóa.

4. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Tổng cục thống kê (2017), Bản tin

Cập nhật thị trường lao động Việt Nam, (12), quý 4 năm 2016.

5. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì

mục tiêu phát triển”, Tạp chí Triết học, (2).

6. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý (2001) (đồng chủ biên),

Tìm hiểu giá trị truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội

7. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2002), Giá trị truyền

thống trước thách thức của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

8. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề về Triết học- con người- xã

hội, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.

9. Nguyễn Trọng Chuẩn (2005), “Để phát triển con người một cách bền vững”,

Tạp chí Triết học, (1), tr.5-9.

10. Phạm Như Cương (chủ biên, 1978), Về vấn đề xây dựng con người mới,

Nxb. KHXH, Hà Nội.

11. Tô Xuân Dân (2006), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến tư duy và

đời sống kinh tế- xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

150

12. Phan Đại Doãn (2001), Làng xã Việt Nam- Một số vấn đề kinh tế- văn

hóa- xã hội, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

13. Đinh Xuân Dũng (2016), Văn hóa và con người Việt Nam hiện nay. Mấy

suy nghĩ từ thực tiễn, Nxb Thông tin và truyền thông.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp

hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương khoá VIII. – H.: Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

21. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2014), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 BCH

Trung ương Đảng khóa XI (số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014) về Xây dựng và

phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền

vững đất nước.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

23. Ðảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XIII. Tập I. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội.

24. Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo (2007), Văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay-

Vấn đề và giải pháp, Nxb Văn hóa- Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.

151

25. Friedman, Thomas Loren (2005), Chiếc Lexus và cây Ôliu, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

26. Frolov I.T. (2002), Trở lại với con người, tạp chí Nghiên cứu con người,

(1).

27. Lê Trường Giang, Ngô Văn Nam và Đặng Thìn Hùng (2014), “Một số yêu

cầu đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa và hội nhập Asean 2015”, Bản tin Khoa học lao động và xã hội,

(41), tr.26-34.

28. Vũ Minh Giang (1996), Nội dung của truyền thống Việt Nam, in trong:

Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang: Các giá trị truyền thống con người Việt

Nam hiện nay, Nxb Hà Nội, tập 2.

29. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

30. Nguyễn Ngọc Hà (chủ biên) (2011), Đặc điểm tư duy và lối sống của con

người Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

31. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

32. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), Về phát triển toàn diện con người thời

kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

33. Phạm Minh Hạc (2006), “Tiềm năng - năng lực - nhân tài”, Tạp chí Khoa

học xã hội Việt Nam, (6), tr.57-72.

34. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2007), Nghiên cứu giá trị nhân cách theo

phương pháp Neo Pi-R cải biên. – H.: Nxb Khoa học Xã hội.

35. Phạm Minh Hạc, Thái Duy Tuyên (2011), Định hướng giá trị con người Việt

Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

36. Phạm Minh Hạc (2012), Giá trị học- H: Nxb Dân trí.

152

37. Lương Đình Hải (2009), “Những tiêu chí cơ bản của con người Việt Nam

thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay”- Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội,

(10), (11).

38. Lương Đình Hải (2015), “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).

39. Hội đồng lý luận trung ương (2021), Những điểm mới trong các văn kiện

Đại hội XIII của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật.

40. Mai Lan Hương (2012), Vai trò của nhà nước đối với hội nhập kinh tế

quốc tế của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

41. Nguyễn Đắc Hưng (2009), Việt Nam- Văn hóa và con người, Nxb Chính

trị quốc gia Sự thật.

42. Nguyễn Đắc Hưng (2017), Văn hóa làng và nhân cách con người Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

43. Nguyễn Văn Huyên (1990), “Mấy suy nghĩ về hướng tiếp cận con người

trong chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Triết học, (1).

44. Nguyễn Văn Huyên (2001), “Mấy vấn đề đặt ra đối với việc nghiên cứu

con người ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (5).

45. Nguyễn Văn Huyên (2003), Văn minh Việt Nam, NXB Hội nhà Văn, Hà Nội.

46. Nguyễn Văn Huyên (2004), “Phẩm chất, năng lực người lãnh đạo theo yêu

cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Lý luận Chính trị, (8), tr.23-26.

47. Lê Thu Huyền, Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2015), “Một số giải pháp nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam nhằm đáp ứng tốt hơn với yêu cầu

của thị trường lao động khi hội nhập AEC”, Bản tin Khoa học lao động và

xã hội, (44), tr.24-30.

48. Đoàn Văn Khái (1995), “Nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Triết học, (4),

tr.20-23.

153

49. Nguyễn Thế Kiệt (2008), “Xây dựng và phát triển con người, nâng cao

chất lượng nguồn lực con người đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh

của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6).

50. Vũ Khiêu (chủ biên) (1974), Đạo đức mới. – H.: Nxb Khoa học xã hội

51. Đinh Xuân Lâm, Dương Lan Hải (1998), Nghiên cứu Việt Nam một số

vấn đề lịch sử kinh tế-xã hội- văn hóa, Nxb Thế giới.

52. Hoàng Thúc Lân (2014), Phát triển năng lực tư duy biện chứng cho sinh

viên Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

53. Loan Lê (2016), “Chương trình Sáng tạo Việt” giới thiệu 100 sáng chế

trong 2 năm”, tại trang http://khoahocphattrien.vn, [cập nhật ngày

20/05/2016].

54. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

55. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

56. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

57. Trần Hồng Lưu (2011), Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,

Hà Nội.

58. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự

thật, Hà Nội.

59. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995). Toàn tập, t.4. Nxb Nxb Chính trị quốc gia

Sự thật, Hà Nội. tr. 624.

60. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t. 20. Nxb Chính trị quốc gia Sự

thật, Hà Nội.

61. C.Mác, Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, t.26 (Phần 2), Nxb Chính trị quốc

gia Sự thật, Hà Nội.

62. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

63. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà

Nội.

154

64. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà

Nội.

65. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà

Nội.

66. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà

Nội

67. Đỗ Hoài Nam, Võ Đại Lược (Chủ biên) (2005), Một số vấn đề phát triển

kinh tế của Việt Nam hiện nay, NxbThế giới, Hà Nội.

68. Phạm Xuân Nam (2008), Triết lý phát triển ở Việt Nam – mấy vấn đề cốt

yếu (in lần thứ 3). – Nxb Khoa học Xã hội.

69. Ngân hàng Thế giới (2013), Phát triển kỹ năng: Xây dựng lực lượng lao

động cho một nền kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam, Báo cáo phát triển

Việt Nam năm 2014.

70. Nguyễn Bá Ngọc, Đặng Đỗ Quyên (2015), “Chất lượng lao động trình độ

cao ở Việt Nam: những hạn chế cơ bản”, Bản tin Khoa học lao động và xã

hội - Viện Khoa học Lao động và Xã hội, (42), tr.8-15.

71. Hoàng Thị Kim Oanh (2016), Vai trò của nhà nước Việt Nam trong chủ

động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế - một số vấn đề lý luận và thực

tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

72. Hoàng Phê (chủ biên) (2007), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học

Vietlex, Nxb Đà Nẵng.

73. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb Khoa học,

Hà Nội.

74. Phùng Hữu Phú, Lâm Bá Nam (1994), Con người Việt Nam hiện tại trong

mối quan hệ với các giá trị và phản giá trị truyền thống. – In trong: Phan

Huy Lê, Vũ Minh Giang (chủ biên) (1994): Các giá trị truyền thống và con

người Việt Nam hiện nay. – H.: Đề tài KX07-02, Chương trình KHCN cấp

nhà nước KX07, tr. 245-288.

155

75. Trương Văn Phúc (2005),“Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây

dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (11).

76. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp

ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Chính

trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

77. Vũ Văn Phúc, Phạm Minh Chính (2015), Hội nhập kinh tế quốc tế: 30 năm

nhìn lại, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

78. Nguyễn Kim Phượng (2014), Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại

lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

79. Nguyễn Duy Quý (2004), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay- Vấn đề và

giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

80. Hồ Sĩ Quý (2005), Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb Chính trị quốc gia Sự

thật.

81. Hồ Sĩ Quý (2006), Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn

hóa, con người và nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn

cầu hoá và hội nhập quốc tế (Báo cáo tổng hợp đề tài KH-CN cấp Nhà

nước KX.05.01). – H.: Chương trình KH-CN cấp Nhà nước KX.05.

82. Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2007), Con người và phát triển con người (Giáo

trình dùng cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành

triết học), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

83. Hồ Sĩ Quý (2015), “Mấy vấn đề về hệ giá trị Việt Nam”, tạp chí KH&CN

Việt Nam. Số 1(5). tr. 42.

84. Hồ Sĩ Quý (2019), “Thực trạng phát triển con người ở Việt Nam hiện nay,

Tạp chí Nghiên cứu con người”, (4), tr. 34-47.

85. Mai Thị Quý (2009), Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị truyền

thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

156

86. M.Rôdentan và P.Iuđin (1955), Từ điển triết học, Nxb Ngoại văn,

Matxcova. Bản dịch và in lần thứ 3 (1978), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,

Hà Nội.

87. Đặng Văn Thái (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế, Nxb

Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

88. Trần Phúc Thăng (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc phát

huy nguồn lực con người thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và

hội nhập quốc tế, Đề tài cơ sở, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

89. Võ Văn Thắng (2006), Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay (từ góc độ

văn hóa truyền thống dân tộc), Nxb VHTT và Viện Văn hóa, Hà Nội

90. Trần Ngọc Thêm (2006), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng

hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

91. Trần Ngọc Thêm (2015), Một số vấn đề về giá trị và hệ giá trị Việt Nam,

Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

92. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị con người Việt Nam hiện tại và con

đường tới tương lai, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

93. Ngô Đức Thịnh (2010), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia Sự thật Hà Nội.

94. Toàn cầu hóa và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam (2004), Đại

học Quốc gia Hà Nội, Nxb Thế giới.

95. Tổng cục Thống kê (2016), Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm

2014, 2015, quý 1 năm 2016, Hà Nội.

96. Nguyễn Phú Trọng (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ

nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-

ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-

646305/

157

97. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang, Chương trình khoa

học cấp nhà nước KX-07 đề tài KX- 07-04 (1995), Giá trị- định hướng

giá trị nhân cách và giáo dục giá trị.

98. UNDP (2011), Báo cáo phát triển con người năm 2011, công bố vào ngày

9 tháng 11 năm 2011 tại Copenhagen (Đan Mạch).

99. Hoàng Vinh (2006), Những vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt

Nam hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

100. Huỳnh Khái Vinh (chủ biên) (2001), Một số vấn đề lối sống, đạo đức,

chuẩn giá trị xã hội (2001), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

101. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2013), "Thông tin chuyên

đề: Vai trò của giáo dục và đào tạo trong xây dựng nguồn nhân lực và

đảm bảo công bằng xã hội", Trung tâm thông tin tư liệu, (4), tr.18.

102. Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa: Vấn đề và giải

pháp (2010), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội..

103. Vũ Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và xây dựng

con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb

Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

*Tài liệu nước ngoài

104. Bahm A.J.1993: The Science of Values- Amsterdam: Atlanta, GA, 134p.

105. Bolger J. (2000), Capacity Development: Why, What and How, CIDA,

Policy Branch, Vol. 1, No. 1, May 2000, pp.2.\

106. Ценности. Философский энциклопедический словарь. Изд (1989),

Советская Энциклопедия. Москва.

107. Committee of Experts on Public Administration- United Nations (2006),

“Definition of basic concepts and terminologies in governance and public

administration”, Economic and Social Council, New York, 27-31 March

2006, http://unpan1.un.org/, pp.7-8.

158

108. Lusthaus C., Adrien M., Perstinger M. (1999), Capacity development:

definitions, issues and implications for planning, monitoring and

evaluation, Universalia Occasional Paper No 35, pp.5.

109. Morgan P. (1998), Capacity and capacity development - some strategies,

Policy branch, CIDA, October, 1998.

110. Otoo S., Agapitova N. and Behrens J. (2009), The Capacity Development

Results Framework. A strategic and results-oriented approach to learning

for capacity development, World bank institute,

http://siteresources.worldbank.org, June 2009.

111. Potten D., (2008), “Learning By Doing: The Japanese PHRD Fund and

Capacity Development“, Capacity Development Resource Center - The World

Bank, June 2008, Issue No. 27, http://siteresources.worldbank.org.

112. Sen A., (1999), Development as Freedom, Oxford University Press,

Oxford.

113. United nations development programme - Capacity development (2010),

Measuring capacity, http://www.undp.org, [Published on 22 Jul 2010].

114. UNDP (2020), Human Development Report.

115. Weinert, F.E. (2001), Comparative performance measurement in schools,

Weinheim and Basejl: Beltz Verlag, pp.12.

159