VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ THU HẰNG

VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI

Chuyên ngành: CNDVBC và CNDVLS

Mã số: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS CHU VĂN TUẤN 2.PGS.TS. NGUYỄN MINH PHƯƠNG

i

Hà Nội - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu sử dụng trong luận án là trung thực.

Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Vũ Thị Thu Hằng

ii

ASEAN

:

CSO

:

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN HIệp hội các quốc gia Đông Nam Á Tổ chức xã hội dân sự Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên hợp quốc

:

ECOSOC HĐNQLHQ

:

ICCPR

:

ICESCR

:

KTTT

:

LHQ

:

NGOs

:

NPOs

:

NNPQ

:

OHCHR

:

TCXH

:

UDHR

:

UPR

:

XHCD

:

:

Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa Kinh tế thị trường Liên hợp quốc Các tổ chức phi chính phủ Các tổ chức phi lợi nhuận Nhà nước pháp quyền Văn phòng cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc Tổ chức xã hội Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế Thủ tục kiểm điểm định kỳ phổ quát Xã hội công dân Xã hội dân sự

XHDS

iii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... v

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................................. 1

1.1. Tình hình nghiên cứu về xã hội dân sự .................................................................... 1

1.2. Tình hình nghiên cứu về quyền con người ............................................................ 15

1.3. Tình hình nghiên cứu vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền

con người ...................................................................................................................... 21

1.4. Những vấn đề chưa được các nghiên cứu đề cập đến ............................................ 27

Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI DÂN SỰ,

QUYỀN CON NGƯỜI VÀ THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI .............................. 29

2.1. Những vấn đề lý luận chung về xã hội dân sự ....................................................... 29

2.2. Những vấn đề lý luận chung về quyền con người ................................................. 46

2.3. Những vấn đề lý luận chung về thực hiện quyền con người ................................. 61

Chương 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA

XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI .................. 73

3.1. Những vấn đề chung về vai trò của xã hội dân sự ................................................. 73

3.2. Những vấn đề cơ bản về vai trò của xã hội dân sự với việc thực hiện quyền

con người ...................................................................................................................... 86

3.3. Những khó khăn của xã hội dân sự trong việc thực hiện quyền con người ........ 104

Chương 4. XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG

VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI HIỆN NAY ........................................... 115

4.1. Khái quát về xã hội dân sự Việt Nam .................................................................. 115

4.2. Vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt

Nam hiện nay và một số vấn đề đặt ra ........................................................................ 134

4.3. Một số đề xuất, kiến nghị về vai trò của xã hội dân sự với việc thực hiện

quyền con người.......................................................................................................... 160

KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................... 168

DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN............................................................................................... 172

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 173

PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 1

iv

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhìn lại quá trình phát triển xã hội những năm gần đây, cùng với sự xâm nhập

của nền văn minh công nghiệp, quyền lực kinh tế và quá trình dân chủ hóa xã hội,

quyền con người đang nổi lên như một vấn đề toàn cầu, được cộng đồng quốc tế và

các quốc gia không phân biệt hệ tư tưởng, chế độ chính trị, bản sắc văn hóa, trình độ

phát triển, v.v.. coi trọng, xem đó như một thành tựu của nền văn minh hiện đại, là

thước đo của sự tiến bộ xã hội.

Sự phát triển của quyền con người một mặt gắn liền với những hoàn cảnh, điều

kiện lịch sử và sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thể loài người; mặt

khác, gắn liền với các học thuyết triết học về quyền con người, về bản chất con người,

đóng vai trò là cơ sở, tiền đề lý luận cho sự hình thành và phát triển của quyền con

người. Jean Jacques Rousseau nói, “người ta sinh ra tự do” [54, tr.52], bởi vậy họ có

quyền, bởi quyền chính là khả năng, là sự tự do lựa chọn các hành động, các cơ hội

sống của mình. Do đó, mỗi con người khi sinh ra đã mang quyền của mình trong đó,

nó là cái vốn có. Nhưng, trên thực tế, nó vừa là cái vốn có lại vừa là cái không phải tự

nhiên. Cụ thể, ngay tiếp câu dẫn ở trên của mình, Rousseau nói tiếp: “Nhưng rồi đâu

đâu con người cũng sống trong xiềng xích” [54, tr.52]. Con người trong thời kỳ chưa

sống trong những cộng đồng xã hội, không bị ràng buộc bởi những chế định xã hội, họ

sống bản năng nhiều hơn, nhưng bản thân họ lại gặp nhiều thử thách, bị mất an ninh,

bị lạm dụng hoặc họ lại sử dụng tự do của mình một cách thái quá, ảnh hưởng đến tự

do của người khác. Đến khi sản xuất phát triển hơn, yêu cầu về sự sống cấp bách hơn,

con người đã thiết lập cho mình những cộng đồng người có tổ chức để có thể sinh

sống an toàn, tự do trong đó. Nhưng, ngay cả khi những cộng đồng người có tổ chức

được thiết lập thì sự khác nhau về văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, lịch sử trong

những điều kiện sinh sống nhất định, trong những hoạt động nhất định cũng dẫn đến

sự ràng buộc, lệ thuộc và xâm nhập vào tự do của nhau. Trong cộng đồng xã hội, mỗi

người không chỉ thực hiện tự do của mình, ý chí của mình mà còn thực hiện những ý

chí chung khác. Mỗi người lại có một lựa chọn riêng trong việc giải quyết các vấn đề

của họ, do vậy không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, những vi phạm trong thực hiện

quyền con người. Vậy làm thế nào để thực hiện quyền của người này mà không vi

v

phạm quyền của người khác; làm thế nào để đảm bảo, duy trì và phát triển các quyền

của con người. Có chăng, họ phải tìm cho mình một hình thức liên kết chính trị để

nhân loại có thể được bảo an nhưng không mất đi quyền tự do.

Trong quá trình luận giải những vấn đề trên, để tìm kiếm các cách thức bảo đảm

các quyền của con người, các lý thuyết đã đưa đến các yếu tố như nhà nước và pháp

luật. Nhưng, ngay cả khi các cá nhân từ bỏ trạng thái tự nhiên chuyển sang trạng thái

dân sự thì xuất hiện các mâu thuẫn giữa tự do cá nhân và nghĩa vụ phục tùng đời sống

xã hội, mâu thuẫn giữa tính chuyên chế của đa số chống lại thiểu số, hay chế độ độc

tài. Bản chất của quá trình phát triển là sự mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn,

do đó, các quan hệ dân sự (các quan hệ không mang tính quyền lực trực tiếp như quan

hệ giữa công dân với nhà nước, quan hệ gia đình) trong đời sống đã góp phần giải

quyết phần nào mâu thuẫn này và tác động lớn đến việc thực hiện các quyền con

người. Bởi ngoài việc ủy quyền cho nhà nước thực hiện các công việc của mình, người

dân còn tự thực hiện các quyền của họ. Đây là cơ sở để hình thành nên xã hội dân sự

(XHDS) và là điểm cơ bản để XHDS thực hiện vai trò của mình. Bên cạnh đó, những

vấn đề nảy sinh cùng với quá trình phát triển như vấn đề môi trường, khủng hoảng

kinh tế, di cư quốc tế…đã là những cản trở rõ ràng cho việc thực hiện các quyền con

người. Những vấn đề này đã cung cấp động lực cần thiết cho việc mở rộng, phát triển

XHDS đối với việc bảo đảm, thực hiện quyền con người trên toàn thế giới.

Trên thực tế, XHDS thực hiện nhiều chức năng và vai trò khác nhau trong quá

trình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia và thế giới… Từ đó, XHDS đã

có nhiều phương pháp, sáng kiến và huy động được nhiều nguồn lực trong việc thực hiện

quyền con người ở nhiều quốc gia khác nhau, nhất là cho những người yếu thế ở các quốc

gia mà có các tổ chức XHDS hoạt động. Những năm gần đây, XHDS phát triển mạnh ở

tất cả các quốc gia, ở Mỹ có tới 1,5 triệu tổ chức, sở hữu khối lượng tài sản trị giá 500 tỷ

USD, ngay cả ở những nước kém phát triển hơn số lượng tổ chức XHDS cũng rất nhiều

như Hungari là 400.000; Brazil gần 45.000 tổ chức…, các tổ chức này đã sử dụng một lực

lượng lao động tự nguyện khổng lồ tập trung cho các lĩnh vực chính như giáo dục, sức

khỏe và dịch vụ xã hội [36, tr.1]. Từ thực tế đó cho thấy, việc phát huy vai trò của XHDS

đối với việc thực hiện quyền con người là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

vi

Ở nước ta, từ khi bắt đầu quá trình đổi mới, cùng với quá trình xây dựng nền kinh

tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, chúng ta đã tạo ra những cơ sở, điều kiện để hình thành XHDS và hiện thực hóa

các quyền con người. Vấn đề đặt ra ở đây là với một thể chế xã hội đang hình thành, đang

hoàn thiện thì vai trò của nó với việc thực hiện quyền con người sẽ được xem xét, giải quyết

như thế nào? Nhất là trong điều kiện một đảng duy nhất lãnh đạo, trong một nền kinh tế

đang chuyển đổi với trình độ dân trí chưa cao, người dân vẫn chưa ý thức, chưa chủ động

được quyền của mình. Trong khi đó quyền con người lại là một vấn đề lớn, vừa thuộc về

phạm trù đạo đức, chính trị lại thuộc về phạm trù pháp lý, để thực hiện được nó phải cần có

một chiến lược lâu dài, phải có sự kết hợp giữa các chủ thể khác nhau, và sự ý thức và chủ

động hành động của bản thân mỗi cá nhân trong xã hội.

Thực tế cho thấy, với Nghị quyết số 8B-NQ/TW khóa (VI) ngày 27-3-1990 của

Đảng đã nêu ra chủ trương; trong giai đoạn mới dần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu

chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà,

tương thân, tương ái các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện,

tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật; đến nay, cùng với việc ban

hành nhiều văn bản pháp luật khác tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức này ra đời và phát

triển. Các tổ chức này ngày càng ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong quá trình

phát triển và đã tham gia tích cực, chủ động trong nhiều lĩnh vực [27, tr.3].

Do đó, xuất phát từ mong muốn đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ giữa XHDS và

quyền con người để có thể trả lời cho những câu hỏi về quá trình thực hiện quyền con

người dưới sự tác động, ảnh hưởng của XHDS trên thế giới? quá trình này dựa trên

những nguồn lực, yếu tố nào và để đảm bảo thực hiện nó trên thực tiễn thì cần phải hành

động ra sao? ai sẽ là người cung cấp nguồn lực, kinh nghiệm và trang bị phương pháp

cho quá trình này? và đặc biệt, ở Việt Nam, mối quan hệ này sẽ được biểu hiện ra sao

trong hoàn cảnh chính trị xã hội đặc thù để có thể hướng tới mục tiêu vì sự phát triển

toàn diện của con người, tác giả đã quyết định lựa chọn chủ đề: “Vai trò của xã hội

dân sự đối với việc thực hiện quyền con người” để tiến hành nghiên cứu làm đề tài

luận án tiến sĩ Triết học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích

vii

Trên cơ sở phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về XHDS, quyền con người,

thực hiện quyền con người và vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người,

luận án phân tích vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam

hiện nay, từ đó, đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm phát huy vai trò của XHDS trong việc

thực hiện quyền con người.

2.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích nêu trên, cần thực hiện 4 nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau:

Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu về XHDS, quyền con người, thực

hiện quyền con người và vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người

trên thế giới và Việt Nam.

Thứ hai, nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận chung về XHDS,

quyền con người, thực hiện quyền con người.

Thứ ba, phân tích, làm rõ những vai trò cơ bản của XHDS đối với việc thực hiện

quyền con người, đồng thời, chỉ ra những khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện

vai trò này.

Thứ tư, trình bày khái quát về XHDS ở Việt Nam, vai trò của XHDS Việt Nam

trong quá trình thực hiện quyền con người. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm

phát huy vai trò của XHDS trong quá trình thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện

nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu vào một số vấn đề liên quan đến XHDS, quyền

con người, thực hiện quyền con người và những vai trò cơ bản của XHDS đối với quá

trình thực hiện quyền con người. Đồng thời, luận án cũng nghiên cứu vai trò của

XHDS đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian nghiên cứu: Luận án tập trung vào việc nghiên cứu, khảo sát

XHDS, các vai trò cơ bản của XHDS đối với quá trình thực hiện quyền con người nói

chung và ở Việt Nam nói riêng.

viii

Về thời gian nghiên cứu: Luận án khảo sát sơ lược tiến trình phát triển XHDS,

Quyền con người trong lịch sử và việc thực hiện quyền con người được khảo sát từ năm

1948 khi Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được thông qua và những nghiên cứu về

XHDS ở Việt Nam được khảo sát từ năm 1990 đến nay khi chính sách về đổi mới của

Đảng và Nhà nước đã làm cho không gian XHDS được mở rộng hơn.

4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cách tiếp cận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin

là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, luận án sử

dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội như là triết học, chính trị học, xã

hội học, luật học, triết học - chính trị học, triết học - xã hội học, triết học - luật học …

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành của Triết học và khoa

học xã hội khác có liên quan như phương pháp lôgic - lịch sử, quy nạp, diễn dịch, phân

tích, tổng hợp, khái quát hóa, dự báo, v.v..

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Luận án góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung về XHDS, quyền con

người và thực hiện quyền con người.

- Luận án làm rõ hơn vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người

dưới góc độ triết học.

- Luận án nêu lên những đặc điểm cơ bản của XHDS ở Việt Nam và vai trò, những

thách thức của nó đối với quá trình thực hiện quyền con người, từ đó, đưa ra các đề xuất, kiến

nghị nhằm phát huy vai trò của XHDS trong việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Về mặt lý luận

Luận án đã góp phần bổ sung các nghiên cứu lý luận về XHDS, quyền con người và

thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Đặc biệt, luận án góp phần phân tích, luận giải

những vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con

người.

6.2. Về mặt thực tiễn

Luận án góp phần nâng cao nhận thức của cả xã hội nói chung, các chủ thể lãnh

ix

đạo, quản lý xã hội và bản thân các tổ chức XHDS nói riêng về XHDS, vai trò của

XHDS, nhất là vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người.

Những đề xuất, kiến nghị của luận án có thể cung cấp cơ sở khoa học cho việc

hoạch định chính sách xã hội có liên quan đến lĩnh vực XHDS và quyền con người.

Đồng thời, luận án cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn cho các cơ quan nhà nước trong

công tác quản lý gắn với các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam. Ngoài ra, luận án có

thể tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu về triết học, chính

trị học, xã hội học về XHDS, quyền con người, v.v..

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án

được chia làm 4 chương, 13 tiết.

x

Chương 1.

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu về xã hội dân sự

1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

Xã hội dân sự là một vấn đề không mới đối với các nhà nghiên cứu. Ở Việt

Nam trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo quốc gia,

bài viết đăng trên các sách, báo, tạp chí... về vấn đề này theo nhiều hướng khác nhau:

Thứ nhất, tập trung vào khái niệm, đặc điểm, vai trò, cấu trúc hoạt động của

XHDS ở Việt Nam và trên thế giới.

Cuốn sách Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc do tác giả Vũ Duy Phú chủ

biên đã nêu lên những vấn đề khá rõ ràng về XHDS khi đi từ lịch sử vấn đề và khái

niệm, đến vai trò và những dấu hiệu, biểu hiện của XHDS trong bối cảnh mới. Các tác

giả đã nhấn mạnh sự tác động của toàn cầu hóa, nền kinh tế tri thức, tự do dân chủ

trong phát triển XHDS, những cơ hội và thách thức đối với XHDS, từ đó cho rằng,

phát triển XHDS thông thái tương xứng với nhà nước pháp quyền hiện đại là nhiệm vụ

quan trọng của Việt Nam trong thế kỷ XXI. Cuốn sách này đã cung cấp những thông

tin khá cụ thể về XHDS Việt Nam như cấu trúc, môi trường, giá trị tác động, những

hạn chế và điểm mạnh của xã hội này.

Tác giả Vũ Văn Nhiêm, trong Vài nét về xã hội dân sự trong lịch sử và kinh

nghiệm đối với nước ta đã khẳng định, “XHDS” là quan niệm xuất hiện khá sớm, gắn

liền với sự phát triển của nhà nước công dân Hy Lạp - La Mã cổ đại và phát triển

mạnh vào thời kỳ Khai sáng; theo tác giả, bản chất của XHDS là dân chủ, quá trình

dân chủ hóa gắn liền với sự hình thành phát triển của XHDS.

Tác giả Lê Thị Thanh Hương với cuốn sách Xã hội dân sự ở Malaysia và Thái

Lan đã cung cấp những hiểu biết cơ bản về quá trình hình thành cũng như thực trạng

XHDS ở hai quốc gia này. Để thấy được sự khác biệt và tương đồng giữa các quốc gia

này so với cách nhìn nhận của phương Tây về XHDS, từ đó có thể gợi mở những kiến

giải, hoặc đơn thuần là đưa ra một mô hình XHDS đặc thù nhằm giúp cho việc phát

triển XHDS bền vững ở một nước có mô hình chính trị riêng như Việt Nam.

Cuốn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xã hội dân sự ở Liên minh châu Âu

1

của tác giả Đinh Công Tuấn đã từ những nghiên cứu có hệ thống về khái niệm cơ bản,

nguồn gốc, sự hình thành và phát triển XHDS ở EU nói chung, ở từng nước đại diện cho

các mô hình phát triển kinh tế - xã hội như Anh, Pháp, Đức, Thụy Điển, Hungari, Ba

Lan, Slovakia, để chỉ ra mặt tích cực, tiêu cực trong quá trình thực hiện XHDS ở các

nước này. Theo tác giả, với ý nghĩa truyền thống XHDS là khoảng không gian nằm giữa

nhà nước, thị trường và gia đình, nơi mọi người cùng bắt tay nhau để xây dựng, thúc đẩy

quyền lợi chung của xã hội và cá nhân trong xã hội. Ngày nay, nó được hiểu là một xã

hội tốt đẹp, một đời sống hiệp hội, một lĩnh vực công cộng được hình thành trên cơ sở tự

nguyện, tự tổ chức, tự chủ, đa dạng, phi lợi nhuận, phi thương mại, hành động tập thể,

giải trình cao, minh bạch… với các chức năng về kinh tế, xã hội, chính trị, các chức

năng này đã quy định vai trò XHDS như vận động chính sách, điều tiết nền chính trị dân

chủ, thực hiện các dịch vụ công, thúc đẩy quá trình xã hội hóa và tạo ra, duy trì sự đoàn

kết trong xã hội. Ngoài ra, cuốn sách cũng đưa ra các tiêu chí đánh giá về cấu trúc (cơ

sở hạ tầng, phạm vi) thể chế, tổ chức, mạng lưới, các cá nhân, thành tố, nguồn lực; môi

trường (không gian kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, pháp lý..); các giá trị gồm dân

chủ, minh bạch, khoan dung, phi bạo lực, bình đẳng giới…; tác động, ảnh hưởng tới các

vấn đề chung của xã hội.

Tác giả Bùi Quang Dũng với bài viết Xã hội dân sự: khái niệm và các vấn đề đã

điểm lại các quan điểm về XHDS và nhấn mạnh các định nghĩa phổ biến về XHDS

hiện nay đều nhấn mạnh tới tinh thần tự nguyện của công dân trong việc bảo vệ các

quyền lợi hợp pháp và giá trị của mình. Theo đó, XHDS được tạo lập bởi các đoàn thể

nhằm kết nối giữa những nhóm quyền lợi hiện đại và những tổ chức truyền thông, giữa

các tổ chức chính thức và phi chính thức. Từ đó, tác giả cho rằng, ở Việt Nam, ngoài các

tổ chức xã hội truyền thống, nhiều tổ chức xã hội mới đã và đang ra đời, đang tích cực

tham gia và đóng góp vào nhiều hoạt động xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của

xã hội Việt Nam trong điều kiện mới.

Tác giả đã xác định vai trò của XHDS như: "Củng cố phát triển và dân chủ (dân

chủ thực sự); tăng cường trách nhiệm giải trình, tính công khai và phản hồi của cơ quan

Nhà nước, cũng như tăng cường sự tham gia và phổ biến thông tin đến người dân; tham

gia ngày càng tích cực vào quá trình cung cấp dịch vụ, từ đó XHDS có một vai trò quan

trọng trong việc đòi hỏi và thúc đẩy tinh thần trách nhiệm của Nhà nước đối với công

dân của mình.

2

Tác giả Trần Tuấn Phong, trong bài viết Xã hội công dân và xã hội dân sự từ

Aritxtot đến Hêghen đã trình bày khái quát sự biến đổi khái niệm xã hội công

dân/XHDS trong lịch sử tư tưởng triết học chính trị từ Arixtốt đến Hêghen. Tác giả đi

từ quan niệm của Arixtốt về cộng đồng chính trị - một khái niệm được coi là tiền thân

của khái niệm xã hội công dân/XHDS sau này. Đặc biệt, tác giả đã làm rõ sự kế thừa

và phát triển của Hêghen đối với quan điểm của Arixtốt về xã hội công dân. Theo tác

giả, tư tưởng của Hêghen về XHDS và nhà nước tuy mang tính duy tâm, song những

luận điểm của ông đóng vai trò nhất định trong sự hình thành tư tưởng

C.Mác, Ph.Ăngghen về XHDS. Tác giả cũng cho rằng, xung quanh việc nhận định về

XHDS hiện còn nhiều bàn luận khác nhau, từ đó dẫn đến những cách hiểu khác nhau

về mối liên hệ giữa xã hội công dân/XHDS, gia đình, thị trường và nhà nước.

Đề tài cấp bộ Cơ sở triết học và thực tiễn của việc xây dựng xã hội dân sự do

PGS,TS. Phạm Văn Đức, Viện Triết học chủ nhiệm (2007-2009) đã tiếp cận các vấn

đề XHDS từ góc độ triết học, đặc biệt là góc độ lịch sử triết học trình bày tương đối

đầy đủ, chi tiết về lịch sử phát triển của khái niệm này từ Aristot, đến Th.Hobbes và

J.Locke, Montesquieu, J.J.Rousseau, I.Kant,G.V.Hegel và C.Mác đến các quan điểm

hiện đại của chủ nghĩa cộng đồng, cộng hòa...) và chứng minh bằng các mô hình

XHDS thực tiễn ở một số nơi trên thế giới như: Anh, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc,

Singapore. Từ đó xác định các bản chất, đặc trưng và điều kiện để xây dựng XHDS,

góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng XHDS ở Việt Nam

hiện nay.

Luận án “An ninh của xã hội dân sự trong bối cảnh toàn cầu hóa” của NCS

Trần Việt Hà đã góp phần làm rõ các khái niệm xã hội dân sự Luận án đã góp phần

làm rõ các khái niệm: “Xã hội dân sự”, “An ninh”, “An ninh của xã hội dân sự”, “An

ninh con người”. Luận án đã làm rõ những điểm mới trong nội dung khái niệm "an

ninh của xã hội dân sự" khi đặt vào bối cảnh toàn cầu hóa. An ninh của xã hội dân sự

là trạng thái trật tự, kỷ cương, an toàn về thân thể và ổn định về mặt tinh thần. Nói

cách khác, an ninh của xã hội dân sự chính là một một phương diện của an ninh con

người nhằm tạo ra sự an toàn về thân thể, ổn định về mặt tinh thần, phát triển bình

thường của các cá nhân. Mục tiêu an ninh của xã hội dân sự là làm sao cho cộng đồng

ấy có được trạng thái trật tự và ổn định, những cá nhân ở trong đó thoát khỏi cảm giác

3

lo sợ, bất an và được an toàn về mặt thân thể. Bên cạnh đó, Luận án góp phần chứng

minh rằng, toàn cầu hóa gây ra các yếu tố “bất định” và “rủi ro” và đó chính là những

thách thức mới đối với an ninh của XHDS. Góp phần làm rõ tính tất yếu của sự chuyển

dịch từ an ninh “truyền thống” sang “phi truyền thống”. Rút ra một số bài học nhằm bảo

đảm an ninh con người trong quá trình hội nhập của Việt Nam hiện nay.

Ngoài những bài viết trên, một số tác giả khác đã đề cập đến vấn đề này như:

Nguyễn Thanh Tuấn, Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Đình Tường, Trần Hữu Quang, Đinh

Công Tuấn, Tống Đức Thảo, v.v..

Thứ hai, nhóm các công trình làm rõ mối quan hệ tác động qua lại giữa nhà

nước, XHDS và KTTT.

Ở nhóm này, các tác giả Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh với tác phẩm Quan hệ

giữa Nhà nước và XHDS Việt Nam lịch sử và hiện tại; Đào Trí Úc với bài viết Mối liên

hệ giữa nhà nước với XHDS và vấn đề cải cách hành chính; Hoàng Ngọc Giao, XHDS

với nhà nước và thị trường; Trần Ngọc Hiên, KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa với

Nhà nước pháp quyền và XHDS nước ta; Phạm Thị Ngọc Trầm, Nhà nước pháp

quyền, XHDS với vấn đề về quyền và nghĩa vụ công dân; Đinh Ngọc Vượng, XHDS

và nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; Hà Thị Mai Hiên, XHDS và cá nhân trong Nhà

nước Pháp quyền; Đỗ Hoài Nam (chủ nhiệm) Đề tài cấp nhà nước Mối quan hệ giữa

NNPQ, KTTT, XHCD, v.v.. đã trình bày các vấn đề cơ bản về việc xây dựng nhà nước

pháp quyền trong mối quan hệ giữa XHDS và nền KTTT, trong đó nhà nước pháp

quyền phải được xây dựng trên nền tảng của XHDS và việc xây dựng nhà nước pháp

quyền phải được tiến hành đồng thời với nhau. Cũng có tác giả cho rằng, 3 yếu tố nhà

nước pháp quyền, XHDS, KTTT phải bổ sung cho nhau, làm tiền đề cho nhau và cùng

phục vụ lợi ích của nhau.

Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu thực trạng xã hội dân sự và đánh giá

ban đầu về các yếu tố hình thành, phát triển XHDS Việt Nam.

Đã có nhiều nhà nghiên cứu, Viện nghiên cứu tiến hành các dự án nghiên cứu

về thực trạng XHDS Việt Nam trên các góc độ, từ tổ chức, hoạt động đến sự ảnh

hưởng của chúng đối với đời sống xã hội, như: Trong những năm 2000, Viện Xã hội

học đã tiến hành khảo sát về Hệ thống chính trị cơ sở - Xem từ nhân dân thu thập dữ

4

liệu về nông thôn của người dân sự hiểu biết và ý kiến về hệ thống chính trị ở cấp làng,

xã, bao gồm cả xã hội tổ chức chính trị (Trịnh Duy Luân, 2002); Phối hợp với các nhà

nghiên cứu quốc tế về nghiên cứu kết hợp các kỹ thuật định tính và định lượng về tổ

chức dân sự tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (dự án COHH) trong các nghiên

cứu của mình. Đây là dự án đầu tiên sử dụng hình thức điều tra xã hội học để nghiên

cứu về các tổ chức XHDS Việt Nam. Tiếp đó, năm 2002-2003, IOS thực hiện hai dự

án về những nỗ lực tập thể và phong trào xã hội, trong đó một số tổ chức chính trị xã

hội, hiệp hội và các trung tâm phi chính phủ đã được Bùi Thế Cường và các cộng sự

nghiên cứu. Sang đến giai đoạn cuối những năm 2000 việc nghiên cứu XHDS Việt

Nam đã đi vào thực tiễn hơn, các dự án Phòng chống tham nhũng - đánh giá hiện trạng

và xây dựng năng lực trong phòng chống tham nhũng cho các TCXH và các cộng

đồng nông thôn do sự hỗ trợ bởi Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam (2008).

Ngoài ra, một số nghiên cứu của Bùi Thế Cường và Thaveeporn (2008) về cơ

chế chính thức cho đối thoại giữa các cơ quan nhà nước, quốc hội và các tổ chức

XHDS Việt Nam đã chỉ ra những đặc thù về các TCXHDS Việt Nam, hay nghiên cứu

của TS Nguyễn Quang A và Bạch Tân Sinh về các hình thức cam kết hợp tác giữa cơ

quan nhà nước và các tổ chức XHDS Việt Nam.

Mới đây, Chương trình viện trợ Ailen: Tổ chức xã hội và các tổ chức phi chính

phủ trong Chương trình Quốc gia Việt Nam (2010), đã tiến hành các hạng mục thúc

đẩy, tăng cường năng lực của các VNGO trong việc cung cấp các dịch vụ, xây dựng

chính sách, hoạt động cộng đồng.

Dự án “Sự trao quyền của tổ chức xã hội trong việc vận động và phát triển

chính sách ở Việt Nam”, do quỹ Dân chủ Quốc gia Hoa Kỳ (UNDEF) tài trợ, năm

2012, với sự tham gia của hơn 40 tổ chức xã hội và đại diện của các cơ quan chính phủ

liên quan. Bên cạnh đó, còn nhiều các dự án nghiên cứu về XHDS Việt Nam đã và đang

được các tổ chức quốc tế tài trợ.

Nhiều tác giả đã xuất bản sách, bài báo về XHDS Việt Nam:

Năm 1996, Nguyễn Khắc Mai xuất bản cuốn sách Vị trí và vai trò của các Hiệp

hội nhân dân ở đất nước chúng ta. Bài báo Xã hội dân sự và phi chính phủ tại Việt

Nam, tác giả Bạch Tân Sinh xem xét lại sự phát triển và những khó khăn phải đối mặt

của các tổ chức dân sự Việt Nam. Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả Lê Bạch

5

Dương và các cộng sự đã mô tả các đặc tính của các loại hình tổ chức dân sự và

nghiên cứu trường hợp một số tổ chức công dân.

Năm 2002, cuốn sách Vai trò của các hiệp hội trong đổi mới và Phát triển quốc

gia của tác giả Thang Văn Phúc đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về các vấn đề lý

thuyết của các tổ chức dân sự và một hình ảnh của Hội người Việt Nam cũng như các

NGO quốc tế hoạt động tại Việt Nam.

Cuốn sách Vai trò của tổ chức xã hội đối với phát triển và quản lý xã hội của

TS.Thang Văn Phúc và PGS,TS. Nguyễn Minh Phương đã nêu lên một số vấn đề lý

luận và thực tiễn về vai trò của các tổ chức xã hội (TCXH) đối với phát triển xã hội

như khái niệm, cơ sở, nguyên tắc hình thành và hoạt động của tổ chức xã hội, vai trò

của nó đối với sự phát triển xã hội bao gồm nhận thức về vai trò của TCXH ở một số

nước trên thế giới và ở Việt Nam, quá trình hình thành, phát triển xu hướng của TCXH

ở nước ta. Từ đó, tác giả đã khái quát lại những thành quả trong hoạt động của các tổ

chức xã hội ở nước ta hiện nay như các hội chính trị - xã hội, hội chính trị - xã hội -

nghề nghiệp, hội nhân đạo, từ thiện, hội xã hội nghề nghiệp và các hiệp hội kinh tế.

Qua đó, đưa đến cho người đọc một hình dung khá tổng thể về sự biến đổi, đóng góp

của các TCXH ở nước ta trong những năm qua.

GS. Tương Lai với bài viết Xã hội dân sự và mấy vấn đề của các tổ chức xã hội

dân sự đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp luật, số 4/2007, sau khi điểm những lại

những khái niệm về XHDS tác giả đã nêu lên vai trò của XHDS được thể hiện qua

hoạt động của các tổ chức xã hội, của nhân dân khi tham gia vào quy trình lập pháp

của Quốc hội và phản biện xã hội. Tác giả làm rõ việc TCXH sẽ tham gia vào quy

trình lập pháp của Quốc hội chính là các tổ chức thực hiện liên kết ngang, tạo nên cấu

trúc của XHDS mà chúng ta đang cố gắng hình thành gắn liền với xây dựng nhà nước

pháp quyền. Song, dù lập luận như vậy nhưng tác giả vẫn băn khoăn rằng, khái niệm

TCXH sẽ tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội có gồm cả các tổ chức xã hội

đã tham gia vào MTTQVN và các tổ chức xã hội nằm ngoài Mặt trận không?

Cuốn sách Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành và phát triển xã hội dân

sự định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, của GS. Dương

Xuân Ngọc xuất bản năm 2009 đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề từ cơ sở, tiền đề đến thực

trạng hình thành, phát triển XHDS Việt Nam. Đặc biệt, công trình này đã luận giải mô

6

hình XHDS định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bao gồm những đặc điểm gì, nội

dung hoạt động, vai trò, hạn chế ra sao và giải pháp hoàn thiện mô hình này trong

tương lai. Qua đó, cung cấp cho tác giả luận án tài liệu tham khảo và những gợi mở

mang tính định hướng khi bắt tay vào thực hiện nghiên cứu của mình.

Đề tài khoa học cấp Bộ Lý luận về xã hội công dân - Một số vấn đề xây dựng xã

hội công dân ở Việt Nam năm 2010 do TS. Ngô Huy Đức chủ nhiệm đã trình bày khái

quát các quan niệm về XHCD trong lịch sử tư tưởng chính trị phương Tây. Bên cạnh đó,

đề tài cũng phân tích cơ sở hình thành và điều kiện tồn tại của XHCD trên các lĩnh vực

kinh tế, chính trị, xã hội… vai trò, bản chất, chức năng của XHCD. Ngoài ra, các vấn đề

như XHDS toàn cầu như một hình thức phát triển của XHCD trong xã hội hiện đại.

Ngoài ra, nhóm tác giả đã nêu lên những đặc điểm, quan hệ giữa XHCD và NNPQ ở

Việt Nam, nhưng, phần này chưa thực sự được chứng minh bằng những căn cứ thực

tiễn.

Việc nghiên cứu tập trung vào XHDS Việt Nam (XHDSVN) đã được nhiều tác

giả đưa ra những kiến giải riêng như tác giả Nhạc Phan Linh với Luận án tiến sĩ xã hội

học Vai trò liên kết xã hội và tạo vốn xã hội của các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam

hiện nay đã tập trung đánh giá vai trò của các tổ chức XHDS theo hướng tiếp cận liên

kết xã hội và cung cấp vốn xã hội cho người dân. Tác giả đã sử dụng khung phân tích

từ hướng tiếp cận xã hội học cho việc nghiên cứu này qua hai lý thuyết liên kết xã hội

của Talcost Parsons, và lý thuyết tạo vốn xã hội của Pierre Bourdieu làm cơ sở cho

việc nghiên cứu và đánh giá mức độ đóng góp của các tổ chức xã hội dân sự (CSO)

cho sự phát triển kinh tế, xã hội thông qua các dữ liệu định tính và định lượng về việc

thúc đẩy các liên kết xã hội và cung cấp vốn xã hội cho người dân. Đó là các đóng góp

cho mục tiêu phát triển thiên niên kỷ ở Việt Nam, cho việc xây dựng nhà nước pháp

quyền (NNPQ) và nền KTTT (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận án cũng đã

chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò liên kết xã hội và tạo vốn xã hội của các CSO ở

Việt Nam đó là nhà nước, thị trường và ngay bản thân các yếu tố nội tại của XHDS từ

đó đưa ra các nhóm giải pháp đẻ tăng cường vai trò của XHDS trong nền KTTT định

hướng xã hội ở Việt Nam. Đây là một hướng tiếp cận mới và tác giả đã có những

nghiên cứu chi tiết, khoa học làm nổi bật vai trò liên kết xã hội và tạo vốn xã hội của

XHDS Việt Nam, qua đây cung cấp cho người làm luận án này những kiến thức và

7

những ví dụ thực tiễn quý giá. Điểm đáng tiếc là luận án vẫn chưa đưa ra một khái

niệm rõ ràng về XHDS Việt Nam, mà mới chỉ đưa ra điểm nối bật của XHDS Việt

Nam là các tổ chức xã hội tạo thành XHDS rộng lớn và đi liền với đó là những khuynh

hướng hoạt động đúng định hướng và theo quy định của pháp luật [36, tr.45].

Luận án “Xã hội công dân trong việc bảo đảm và phát huy dân chủ ở Việt Nam

hiện nay”, tác giả Bùi Việt Hương bảo vệ năm 2012 tập trung nghiên cứu sâu về

những tác động của XHCD đến dân chủ như: Tác động từ góc độ giá trị, đến cơ chế ra

quyết định, đến quá trình cải biến và nhận thức của người dân. Theo tác giả nội hàm

của XHCD Việt Nam bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các tổ

chức cộng đồng khác (đây cũng chính là điểm tranh cãi của nhiều người nghiên cứu về

XHDS VN vì cho rằng các tổ chức chính trị - xã hội không thuộc XHDS), thực trạng

tác động của XHCD đối với dân chủ ở Việt Nam, những vấn đề đặt ra và những giải

pháp để xây dựng, hoàn thiện vai trò của XHCD đối với quá trình thực hiện dân chủ ở

Việt Nam. Có thể nói, đây là một luận án hay, cung cấp cho người đọc một cái nhìn cụ

thể hơn về tác động của XHDS đối với dân chủ.

Nghiên cứu XHDS Việt Nam không thể thiếu việc nghiên cứu nó trong mối

quan hệ với hệ thống chính trị Việt Nam, vì thế cuốn sách Đổi mới quan hệ giữa

Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam

của GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo, PGS.TS. Bùi Đình Bôn (Đồng chủ

biên), Nxb. Chính trị Quốc gia (2008) đã làm rõ hơn vấn đề này. Cuốn sách đã đi sâu

vào phân tích mối quan hệ của các yếu tố trong hệ thống chính trị Việt Nam như Đảng

Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và các tổ chức các tổ chức chính trị - xã hội. Thực chất

của quan hệ này là quan hệ với nhân dân, với xã hội, lấy dân làm gốc, xuất phát từ dân

và hướng đích mọi hoạt động vào việc phục vụ nhân dân, tôn trọng và đảm bảo quyền

làm chủ của nhân dân trên căn cứ quan trọng nhất để xác lập và giải quyết mối quan hệ

nội tại giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là Đảng và Nhà nước. Qua

cuốn sách này, luận án sẽ làm nổi bật được tính đặc thù khi nghiên cứu về XHDS Việt

Nam.

Tiếp đến là những nghiên cứu của Hồ Bá Thâm, Xã hội dân sự, tính đặc thù và

vấn đề ở Việt Nam; Trần Hữu Quang, Khái niệm xã hội dân sự; TS. Dương Quang

Trung, Vài nét về cơ cấu xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay, v.v.. Bên cạnh những bài

8

báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu còn có các buổi hội thảo về XHDS. Các cuộc

hội thảo này đã phần nào thu hút được sự quan tâm của giới học giả và công chúng,

góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề còn băn khoăn về XHDS nói chung và XHDS Việt

Nam nói riêng.

Như vậy, với những khảo sát trên có thể thấy, việc nghiên cứu về XHDS Việt

Nam đã và đang được đặt ra trong tiến trình phát triển chung về quan niệm này trên

toàn thế giới. Có những quan điểm khác nhau về việc có hay chưa có XHDS ở việt

Nam. Bản thân sự tranh cãi này đã là một tiền đề để thấy rằng XHDS đã và đang tồn

tại ở Việt Nam. Mặc dù đa số các học giả đều đồng ý với việc cần xây dựng phát triển

XHDSVN, nhưng vẫn băn khoăn XHDSVN thực sự là như thế nào? Có nhiều quan

điểm khác nhau xung quanh việc trả lời câu hỏi này và ngay cả nội hàm XHDS Việt

Nam cũng chưa thống nhất như việc có để các tổ chức chính trị - xã hội là thành phần

của XHDS hay không cũng chưa thống nhất. Nhóm nghiên cứu thuộc nhóm chính trị

học, xã hội học phần lớn vẫn đặt tổ chức chính trị xã hội vào XHDS và cho rằng đó là

điểm đặc thù của XHDS hình thành trong điều kiện một đảng cầm quyền và nhà nước

xã hội chủ nghĩa quản lý như ở Việt Nam. Các nhóm nghiên cứu kinh tế, triết học thì

cho rằng quan điểm đó không phù hợp, vì như vậy tính đặc trưng của XHDS bị mất đi,

tính độc lập bị chi phối và vai trò bị suy giảm. Ngoài ra, những tranh luận về định

hướng phát triển của XHDS trong tương lai, những giải pháp để thúc đẩy vai trò của

yếu tố này trong phát triển xã hội vẫn là những chủ đề.

Theo Báo cáo đánh giá ban đầu về XHDS Việt Nam: Xã hội dân sự là diễn đàn

giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mọi người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền

lợi [2, tr.9]. Trong bản báo cáo này, các tác giả đề cao yếu tố tự quản, tự tổ chức và vai

trò của các tổ chức của XHDS; đề cao tự do, tự chủ cá nhân và sở hữu tư nhân; gần

như tách bạch vai trò của XHDS - Nhà nước và KTTT. Vì lấy tiêu chí xây dựng

XHDS theo quan điểm của chủ nghĩa Tự do và chủ nghĩa Tân tự do (XHDS có thể

được xem là một thực thể tồn tại độc lập và có phần đối lập với Nhà nước, giống như

một lĩnh vực thứ 3 - lĩnh vực này bao gồm các hiệp hội phục vụ lợi ích của các công

dân tự do, đó là “các tổ chức phi lợi nhuận và phi chính phủ của phương Tây”

(NPOs/NGOs) bên ngoài và đối lập khu vực Nhà nước và thị trường) nên bản đánh giá

cho rằng XHDS ở Việt Nam là rất yếu.

9

Cũng theo báo cáo này, XHDS tại Việt Nam được nhìn nhận như là các hoạt

động của tất cả các tổ chức XHDS bao gồm: các tổ chức quần chúng, các hiệp hội

nghề nghiệp, các NGO Việt Nam, các tổ chức không chính thức cấp cơ sở và các tổ

chức dựa trên cơ sở cộng đồng. Báo cáo đã ghi nhận, số lượng các nhóm không chính

thức được thành lập ở cấp cộng đồng, ít chịu sự quản lý trực tiếp từ Nhà nước đang

tăng lên. Các nhóm này có ít ảnh hưởng trực tiếp tới chính sách, mà chủ yếu là hỗ trợ

cho các hoạt động đời sống của người dân cấp cơ sở. Các NGO quốc tế, những nhà tài

trợ song phương và đa phương không được xếp là thành viên của XHDS Việt Nam,

nhưng đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và tài trợ cho tất cả các hình

thức tổ chức đa dạng nêu trên. Về kinh phí hoạt động, các tổ chức này được nhà nước

cấp, song mức độ khác nhau: Các tổ chức quần chúng được nhiều nhất; các tổ chức

nghề nghiệp thì nhận được một phần ngân sách từ Chính phủ bên cạnh những nguồn

tài chính từ bên ngoài; các NGO Việt Nam và các hiệp hội nghề nghiệp sẽ được nhận

tài trợ từ Chính phủ khi thực hiện những công việc cụ thể theo khuôn khổ dự án,

nhưng cũng thường phải tìm ngân sách chủ yếu từ các nguồn khác.

Theo tác giả Trần Đắc Lợi, hiện tại Việt Nam đang mới chỉ có những biểu hiện

của XHDS chứ chưa thực sự có một XHDS theo đúng nghĩa (có một Nhà nước pháp

quyền mạnh và KTTT phát triển). Trong tương lai, XHDS mà Việt Nam xây dựng, bản

thân nó phải phù hợp với bản chất của dân, do dân và vì dân của Nhà nước ta, phù hợp

với chủ trương không ngừng phát huy quyền làm chủ nhân dân của Đảng ta.

TS. Nguyễn Minh Phương, bằng lập luận của mình phần nào cho rằng, ở Việt

Nam đã có XHDS. Theo tác giả, ở nước ta, trong công cuộc đổi mới, cùng với sự phát

triển nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá đời sống xã hội, Nhà

nước đã từng bước chuyển sang thực hiện chức năng định hướng, bảo trợ, tạo lập môi

trường và điều kiện thuận lợi cho người dân tự do phát triển sản xuất kinh doanh, tổ

chức cuộc sống. Nhờ đó, khu vực XHDS ngày càng có điều kiện phát triển, quan hệ xã

hội của người dân được tự do, cởi mở hơn; nhu cầu giao tiếp, liên hệ giữa các cá nhân

có điều kiện được thỏa mãn; tính tích cực xã hội của người dân, của các đoàn thể nhân

dân, các hội, tổ chức phi chính phủ, các nhóm xã hội có tư cách pháp nhân và không

có tư cách pháp nhân được phát huy mạnh mẽ, góp phần vào sự phát triển của đất

nước. Mặt khác, xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng đa phương hoá, đa

10

dạng hoá trong quan hệ quốc tế đòi hỏi các quan hệ đối ngoại không chỉ được thực

hiện theo con đường của Nhà nước, mà còn bằng các hình thức đối ngoại nhân dân

thông qua các đoàn thể nhân dân, các hội, tổ chức phi chính phủ [44].

Hay, quan điểm của TS. Hồ Bá Thâm không chỉ khẳng định ở Việt Nam đã có

XHDS, mà ông còn chỉ ra những đặc trưng cơ bản của XHDSVN dựa trên những đặc

điểm lịch sử và văn hóa, đó là: Thấm nhuần về mặt văn hóa cộng đồng, đoàn kết,

tương trợ và tính đồng thuận xã hội, có mầm mống trong xã hội làng, xã xưa; XHDS ở

Việt Nam ngày nay dựa trên thể chế một Đảng cầm quyền nên về cơ bản không mang

tính đối kháng trong nó với nhà nước. Nó có thể cơ cấu tổ chức chính trị - xã hội trong

cả XHDS và hệ thống chính trị; Nền tảng của XHDS là nền kinh tế nhiều thành phần

cả công và tư, định hướng xã hội chủ nghĩa [58].

Như vậy, trên cơ sở khảo sát tài liệu nghiên cứu về XHDS ở Việt Nam có thể

nêu lên một số vấn đề như sau: 1) Về khái niệm, ở Việt Nam, XHDS có thể được dùng

là XHDS, nhưng cũng có khi được dùng là XHCD tùy theo sự phân tích của mỗi tác

giả; 2) Về mối quan hệ giữa 3 yếu tố XHDS, KTTT, NNPQ, đa phần các tác giả đều

nhìn nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố này và đồng thời cũng khẳng định tính

độc lập tương đối của chúng; 3) Về thực tiễn, có hai luồng ý kiến khác nhau về

XHDSVN: thứ nhất, nhóm tác giả Gred Mutz, Hồ Bá Thâm, Phạm Văn Đức, Nguyễn

Minh Phương dựa vào tiêu chí đặc điểm lịch sử và văn hóa, tính cộng đồng để xác định

có XHDS ở VN; thứ hai, tác giả Trần Đắc Lợi dựa vào tiêu chí nhà có một nhà nước

pháp quyền mạnh và KTTT phát triển cho rằng chưa/ không có XHDS ở Việt Nam.

Trên cơ sở các vấn đề đặt ra, các tài liệu cũng đã đưa ra các kết luận rằng, tùy

theo cách tiếp cận khác nhau, mà trả lời câu hỏi có hay không XHDS ở Việt Nam,

XHDS Việt Nam là như thế nào? Nếu hiểu XHDS theo hướng là địa bàn hoạt động

của các tổ chức phi chính phủ, XHDS chỉ phát triển ở những nước tư bản có nền kinh

tế phát triển và hệ thống pháp luật hoàn chỉnh thì ở Việt Nam chưa có XHDS. Nhưng

nếu dựa trên các cách tiếp cận của một số học giả nêu trên, theo cách hiểu của thuyết

cộng đồng và một số học giả Việt Nam khi nghiên cứu về XHDS tại Việt Nam đã đưa

ra 3 chỉ số chung cho một XHDS đó là: Các hoạt động dân sự mang tính tự nguyện về

tổ chức; các hoạt động này không vì mục đích cá nhân mà vì lợi ích toàn xã hội; các

11

cấu trúc dân sự phải minh bạch và dễ tiếp cận với người dân. Bên cạnh đó, là các căn

cứ vào nét đặc thù về văn hóa, truyền thống và quá trình hình thành, phát triển của xã

hội thì ở Việt Nam XHDS đang hình thành, phát triển. Tuy nhiên, phải nói rằng thực tế

XHDS Việt Nam vẫn còn yếu. Muốn phát huy được vai trò của nó cần đi sâu nghiên

cứu và thúc đẩy phát triển các điều kiện, cơ sở sẵn có, đồng thời, kế thừa có chọn lọc

những kinh nghiệm của nước ngoài, nhằm góp phần tạo môi trường thuận lợi cho sự

phát triển XHDS Việt Nam. Đồng thời, cần xây dựng XHDS mang bản sắc Việt Nam,

dựa trên các điều kiện vốn có và đặc tính văn hóa, lịch sử, chính trị. Lý do là bởi,

XHDS là yếu tố cần thiết cho xã hội và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Việc này

cũng giải quyết vấn đề lý luận về khái niệm XHDS, giúp giải quyết chuyện có hay

không có XHDS ở Việt Nam.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Thứ nhất, ý niệm XHDS đã được các triết gia phương Tây bàn tới từ thời Cổ đại,

tiêu biểu là quan điểm của các nhà triết học, xã hội học, chính trị học, luật học nổi tiếng

trên trên thế giới như: Aristote, Hobbes, Locke, Adam Ferguson, Kant, Heghen, C.Mác,

Alexis de Tocqueville, Antonio Gramsci, Gabriel Almond, Seyney Verba... Đa số họ tập

trung vào nghiên cứu từ những khía cạnh như lịch sử tư tưởng XHDS, khái niệm, các

đặc điểm, nguyên tắc hoạt động của nó và các giá trị, hạn chế; mối quan hệ giữa XHDS

với nhà nước của tự nhiên (trạng thái tự nhiên), xã hội chính trị, xã hội, các lý thuyết

kinh tế và trong quá trình chuyển đổi dân chủ cũng được đề cập đến.

Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, các quan điểm về XHDS cũng thay

đổi, cho đến nay, đã có một hệ thống lý thuyết chung và nhiều mô hình XHDS trên thế

giới được hình thành và phát triển mạnh mẽ.

Ngay trong thời kỳ Cổ đại, khái niệm XHDS được sử dụng như một từ đồng

nghĩa cho xã hội tốt và không có sự phân biệt giữa Nhà nước và xã hội. Thời Trung cổ,

đã nhìn thấy những thay đổi lớn trong các chủ đề thảo luận của triết học chính trị. Do

sự sắp xếp chính trị độc đáo của chế độ phong kiến, khái niệm về XHDS cổ điển thực

tế biến mất khỏi cuộc thảo luận chính. Thay vào đó là vấn đề chiến tranh, một mối bận

tâm kéo dài cho đến cuối thời kỳ phục hưng. Tocqueville, nhà chính trị người Pháp đã

phân biệt giữa xã hội chính trị và XHDS. Antonio Gramsci, nhà triết học chính trị

người Ý thì khẳng định Nhà nước không phải để hiểu theo nghĩa hẹp của chính phủ mà

12

là nơi đấu tranh giành quyền “thống lãnh” về văn hóa, tư tưởng và nơi diễn ra các hoạt

động kinh tế của một cấu trúc kinh tế nhất định.

Thứ hai, xã hội dân sự hiện nay được nghiên cứu theo hai chiều cạnh là xã hội

chính trị và là khu vực thứ ba.

Một là, việc hiểu XHDS là xã hội chính trị đã được đề cập đến trong các nghiên

cứu từ thời Cổ đại, sau đó gián đoạn ở thời phong kiến và tái xuất ở thời hiện đại gắn với

sự hiểu biết về XHDS được phát triển bởi các phe đối lập chính trị trong khối Liên Xô

cũ và các nước Đông Âu trong thập niên 80 của thế kỷ XX. Điều đó xuất phát từ một

thực tế trong lĩnh vực chính trị của việc sử dụng các ý tưởng của XHDS thay vì xã hội

chính trị. Xã hội chính trị là nhà nước, đảm bảo cho quyền lợi của công dân, gắn liền với

lợi ích của công dân, nên từ cơ sở này mà nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam, Trung

Quốc đều cho rằng XHDS là xã hội công dân, hai khái niệm này là một.

Hai là, việc hiểu XHDS là khu vực thứ ba bên cạnh nhà nước và KTTT được

triển khai mạnh mẽ sau cuộc cách mạng tư sản Pháp, sự sụp đổ của Liên Xô, Đông Âu

và đặc biệt là sau sự biến đổi như vũ bão của xã hội ngày nay. Đặc biệt, trong những

năm 90 với sự xuất hiện của các tổ chức phi chính phủ và các phong trào xã hội mới

trên quy mô toàn cầu, XHDS như là một khu vực thứ ba trở thành một địa hình chính

của hành động chiến lược cho xây dựng "một trật tự xã hội và thế giới thay thế”. Từ

đó, việc sử dụng các quan điểm XHDS đã chia thành hai hướng chính là xã hội chính

trị và là khu vực thứ ba: (Bringing Society Back In: Civil Society, Social Capital,and

Third Sector (nghiên cứu cách tiếp cận xã hội theo 3 chiều cạnh vốn xã hội, khu vực

thứ 3 và XHDS, qua đó chỉ ra mối tương quan giữa chúng và tính toàn diện của khái

niệm XHDS)).

Thứ ba, xã hội dân sự gắn với dân chủ.

Đến những năm cuối thập kỷ 90, XHDS được xem như là một liều thuốc trong

bối cảnh sự phát triển của phong trào chống toàn cầu hóa và chuyển đổi của nhiều

nước dân chủ. XHDS ngày càng được kêu gọi để biện minh cho tính hợp pháp của nó

và các thông tin dân chủ. Do vai trò to lớn đó mà Liên hợp quốc đã lập ra một ủy ban

cấp cao về XHDS. Ngày nay, vấn đề XHDS gắn bó chặt chẽ với vấn đề dân chủ, họ

cho rằng các yếu tố chính trị của nhiều tổ chức tự nguyện tạo điều kiện nâng cao nhận

thức cho công dân, bỏ phiếu lựa chọn tốt hơn, tham gia vào chính trị và đòi hỏi chính

13

quyền có trách nhiệm hơn. Kết quả là, các quy chế của các tổ chức này thường được

coi là hiến pháp nhỏ vì họ quen tham gia các thủ tục quyết định dân chủ. Gần đây,

Robert D.Putnam (nhà chính trị học người Mỹ) đã lập luận rằng, các tổ chức phi chính

trị trong XHDS là điều sống còn cho dân chủ. Vì các tổ chức này xây dựng vốn xã hội,

mức độ tin tưởng và chia sẻ các giá trị, sau đó chuyển vào các lĩnh vực chính trị, giúp

tổ chức xã hội cùng với nhau, tạo điều kiện cho sự hiểu biết về sự liên kết của xã hội

và lợi ích trong đó. Những người khác băn khoăn dân chủ XHDS như thế nào là thực

sự? Một số đã lưu ý rằng các “diễn viên” XHDS hiện nay đã thu được một số lượng

đáng kể của chính trị quyền lực mà không có người trực tiếp bầu hoặc bổ nhiệm họ.

Các học giả khác lập luận rằng, kể từ khi khái niệm về XHDS có liên quan chặt chẽ tới

dân chủ và đại diện, nó lần lượt được liên kết với những ý tưởng của các quốc gia và

dân tộc.

Thứ tư, xu hướng nữa là việc phát triển XHDS toàn cầu: XHDS toàn cầu xuất

hiện do sự phát triển mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa và sự biến đổi trong nhận

thức của xã hội. Một xã hội bền vững toàn cầu được thành lập trên sự tôn trọng thiên

nhiên, nhân quyền, kinh tế, công lý vì một nền văn hóa hòa bình. Ngày nay, các thuật

ngữ XHDS hiện đang được các nhà phê bình và các nhà hoạt động sử dụng như một

tham chiếu đến toàn cầu hóa. Điều này, là bởi vì nó được xem như hành động vượt ra

ngoài ranh giới và trên khắp vùng lãnh thổ khác nhau. Tuy nhiên, khi XHDS, có thể

được tài trợ, chỉ dẫn bởi các doanh nghiệp, các tổ chức - những người hỗ trợ toàn cầu

hóa thì đây là một vấn đề gây tranh cãi. Vì sự phát triển nhanh chóng của XHDS trên

quy mô toàn cầu sau sự sụp đổ của hệ thống cộng sản là một phần của chiến lược tân

tự do liên kết với sự đồng thuận của Mỹ. Một số nghiên cứu cũng đã được xuất bản, để

đối phó với các vấn đề chưa được giải quyết về việc sử dụng thuật ngữ này trong kết

nối với các tác động và sức mạnh khái niệm của hệ thống viện trợ quốc tế. Bên cạnh

đó, XHDS toàn cầu cũng được nhìn nhận như một hiện tượng xã hội mở rộng phạm vi

của giá trị, nó ngày càng giữ vai trò lớn hơn trong các quốc gia. Một số tác giả như:

H.Adheir, regina List, et all Global civil society; Chandhoke Nieera (2002) - The

Limits of Global civil society in Global civil society 2003,Oxford University Press;

Robison M, White G. (ed) 1998. Democratic development state: politics and

institutional densign, Oxford Universty press. Adher M 2001; White G 1994, civil

14

society, Democratization and development, Democratization, Vol 1, N 3; Lester

Salamon, H.Adheir, regina List, et all, Global civil society: an overview, 2003; Anheir

K, H and Carlson L; EUISS, the European Commission/DG Research and UNU-CRIS;

Robert W. Cox… đã nghiên cứu vấn đề này.

1.2. Tình hình nghiên cứu về quyền con người

1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam trong những năm gần đây, việc nghiên cứu và thực hiện quyền con

người đã có những bước tiến rất đáng kể, có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến

vấn đề này.

Thứ nhất, nhóm nghiên cứu về sự phát triển tư tưởng khái niệm, đặc điểm, bản

chất và các nhóm quyền cơ bản của quyền con người.

Đề tài Quan điểm Mác - Lênin về quyền con người, quyền công dân do Hoàng

Văn Hảo làm chủ nhiệm đã tập hợp các bài viết khác nhau của nhiều tác giả đề cập đến

những vấn đề lý luận chung về quyền con người, quyền công dân như: Quyền dân sự -

chính trị, kinh tế - văn hóa - xã hội, quan hệ giữa quyền công dân và quyền con người

với trình độ kinh tế, chế độ xã hội, nhà nước và pháp luật, quyền phụ nữ, trẻ em. Việc

phê phán các quan điểm lệch lạc về quyền con người, quyền công dân cũng được các

tác giả đề cập đến trong đề tài này. Nhìn một cách khái quát thì đề tài cũng mới dừng

lại ở việc điểm lại các vấn đề của quyền con người, quyền công dân chứ chưa có

những phân tích tổng hợp, sâu về những vấn đề trên. Bên cạnh đề tài này cũng còn có

hàng loạt các tác giả khác đề cập đến quan niệm của C.Mác - Ph.Ăngghen về quyền

con người như: Trung tâm nghiên cứu Quyền con người (1998) C.Mác - Ph.Ăngghen

về quyền con người; Ngô Đình Xây (2003) Một số vấn đề về quyền con người trong

kinh điển Mácxít.

Cuốn Quyền con người tiếp cận đa nghành và liên ngành khoa học xã hội do

GS,TS. Võ Khánh Vinh chủ biên đã tiếp cận quyền con người theo một phương pháp

mới mà trước đó chưa được đề cập đến một cách chính thống, đó là dựa vào cách nhìn

của các ngành khác nhau như triết học, luật học, xã hội học, kinh tế học… để nghiên

cứu về quyền con người và qua đó đưa ra một cách giải quyết đa ngành cho những vấn

đề nảy sinh từ nó.

15

Nguyễn Văn Vĩnh có công trình Triết học chính trị về quyền con người, đã

phân tích những quan điểm về quyền con người trong lịch sử tư tưởng ở cả phương

Tây và phương Đông, từ đó, nghiên cứu về quyền con người ở Việt Nam từ trước

Cách mạng Tháng 8 đến nay. Có thể thấy, tác giả đã rất công phu khi khảo sát những

quan điểm về quyền con người ở cả phương Tây và phương Đông, nhưng, dù vậy với

tiêu đề là triết học chính trị về quyền con người thì tác giả vẫn chưa làm rõ được tính

triết học chính trị, các nội hàm của vấn đề quyền con người phản ánh tính triết học

chính trị ra sao?

Tác giả Vũ Thị Minh Chi trong bài viết Tư tưởng nhân quyền: di sản của văn

minh nhân loại đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn xuyên suốt về quá trình hình

thành, phát triển của tư tưởng nhân quyền trên thế giới qua các học thuyết, “Học

thuyết thụ thần vương quyền”, “Học thuyết Khế ước xã hội” để chỉ ra sự mở đầu cho

những tư tưởng nhân quyền sau này của con người. Bên cạnh đó, trong bài viết tác giả

cũng đánh giá vai trò của Cách mạng của các tín đồ thanh giáo, cách mạng Pháp,

Tuyên ngôn độc lập Mỹ là đã góp phần khẳng định các quyền con người trên thực tế.

Mặt khác, tác giả cũng đã giới thiệu sự phát triển của nhân quyền trên thế giới như

nhân quyền ở các nước châu Âu, nhân quyền của người châu Âu ở ngoài châu Âu...

nhưng vẫn không phải là nhân quyền ở cả các nước thuộc địa. Đến thế kỷ XX, các

nước thuộc địa đấu tranh giành được độc lập và khi xã hội quốc tế được thiết lập, khi đó

nhân quyền mới được phổ biến và tổ chức hóa, được bảo vệ không chỉ trong nội bộ từng

nước mà ở một tổ chức quốc tế như Liên hiệp quốc (UN). Cuối cùng, bài viết đưa ra

“tương lai” của nhân quyền, theo tác giả “hiện nay nhân quyền viễn tiếp tục được mở

rộng và phát triển. Việc vận dụng nhân quyền như thế nào từ nay về sau, bổ sung thêm

vào đó nội dung gì là hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí và hành động của con người”.

Đề tài Quyền con người trong thời kỳ đổi mới - thành tựu, vấn đề và phương

hướng giải quyết (Đề tài cấp Nhà nước), 2005, do TS. Cao Đức Thái làm chủ nhiệm

đã nêu lên những vấn đề cơ bản về quyền con người như khái niệm, đặc điểm, quá

trình phát triển của nó. Trên cơ sở đó, đề tài đã hệ thống hóa các thành tựu về quyền

con người ở Việt Nam trong quá trình bảo vệ quyền con người và nêu lên những đề

xuất cơ bản đảm bảo quyền con người trong những năm đầu của thế kỷ XXI.

16

Luận án Quyền con người - Thước đo quan trọng của tiến bộ xã hội, bảo vệ

năm 2006 của TS. Đoàn Trường Thụ đã làm rõ lý luận về quyền con người thông qua

sự tác động của nó đến tiến bộ xã hội. Sau khi khảo sát lịch sử tư tưởng quyền con

người, tác giả cho rằng, quyền con người là sản phẩm của con người trong suốt quá

trình sống và lao động; nó gắn bó chặt chẽ với từng con người với tư cách là một cá

nhân vừa với tư cách là thành viên của xã hội. Vì vậy, nó vừa mang tính tự do cá nhân,

vừa thể hiện lợi ích quốc gia, cộng đồng dân tộc; quyền con người phải là sự cần thiết

cho từng cá nhân, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, địa vị, giới tính; được pháp luật

ghi nhận; là một tiêu chí hành động.

Ngoài ra, cũng còn nhiều tác phẩm, bài tạp chí đề cập đến vấn đề này.

Các tài liệu trên đã nêu lên được tiến trình phát triển quyền con người và chỉ ra

Quyền con người là một vấn đề sâu xa, căn bản trong nghiên cứu con người. Sự phát

triển của quyền con người; một mặt, gắn liền với những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử

và sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thể loài người; mặt khác, gắn liền

với các học thuyết triết học về quyền con người, về bản chất con người, đóng vai trò là

cơ sở, tiền đề lý luận cho sự hình thành và phát triển của quyền con người. Xét về lịch

sử phát triển của quan niệm về quyền con người thì đã được đề cập, bàn luận ở thời Cổ

đại. Song lúc đó mới chỉ nói về các quyền, còn nhìn nhận quyền con người như một

học thuyết thì phải đến thế kỷ XVII, XVIII.

Thứ hai, nhóm nghiên cứu về thực hiện quyền con người và quyền con người ở

Việt Nam.

Một là, nghiên cứu về các điều kiện bảo đảm, phát triển quyền con người ở Việt

Nam và thế giới đó là việc chỉ ra các văn kiện pháp lý bảo đảm cho sự thực hiện các

quyền con người và phân tích những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa

thúc đẩy sự phát triển quyền con người bao gồm một số các công trình: TTNCQCN

Thành phố Hồ Chí Minh (1997), Các văn kiện quốc tế về Quyền con người; Đại học

Quốc gia Hà Nội , Quyền con người tập hợp những bình luận khuyến nghị chung của

Văn bản công ước LHQ; Hội luật gia Việt Nam (2007), Pháp luật quốc gia và quốc tế

về bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương; Viện Nghiên cứu quyền con

người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin;

Nguyễn Hồng Anh (2008), Bảo vệ và thúc đẩy quyền dân sự, chính trị vì mục tiêu phát

17

triển con người; Tường Duy Kiên (2003), Nhà nước: cơ chế bảo đảm quyền con

người; Học viện Quan hệ quốc tế (2004), Dân chủ, quyền con người và mậu dịch tự

do; Trần Thị Hòe (2005), Bảo đảm quyền con người trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam;

Lê Minh Thông (2000), Hoàn thiện cơ chế pháp luật bảo đảm quyền con người ở nước

ta, v.v..

Các công trình này đã khẳng định quyền con người được hiểu là bản chất của con

người, được hiểu là “các quyền cụ thể được pháp luật bảo trợ”, được hiểu là “nhóm các

quyền cơ bản cần được duy trì của con người”. Các quyền con người cụ thể bao gồm

các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; quyền của các nhóm, quyền

tập thể. Các chủ thể quyền, các điều kiện bảo đảm, phát triển quyền con người ở Việt

Nam và thế giới đó là nhà nước, các tổ chức xã hội, cá nhân đều là chủ thể quyền và

chủ thể nghĩa vụ của quyền, trong đó nhà nước là yếu tố quan trọng nhất trong việc

bảo đảm các quyền con người. Ngoài ra, dân chủ, XHDS, KTTT cũng là những thể

chế quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện các quyền con người. Cơ sở quan trọng

nhất cho việc đảm bảo, thực hiện các quyền con người là dựa trên các công ước quốc

tế về quyền con người và các văn bản pháp lý khác liên quan. Đồng thời, nó còn căn

cứ vào vào các điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, hệ thống pháp lý, văn hóa, trình độ

nhận thức của người dân.

Hai là, nghiên cứu về quyền con người ở Việt Nam và quyền con người trong

bối cảnh toàn cầu.

Trong nhóm này, tác giả Trần Ngọc Đường với tác phẩm Quyền con người,

quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã điểm lại

những quan niệm về quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền Xã

hội chủ nghĩa Việt Nam trong các bản Hiến pháp, nêu lên những bảo đảm pháp lý

trong việc thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong nhà nước

pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cơ sở đó, khẳng định nhà nước Việt

Nam coi con người là giá trị và là mục tiêu cao nhất.

Tác giả Đặng Trí Dũng, trong Các chuyên đề bài giảng Chính trị học, tập 2,

Chuyên đề 22 ở phần I, đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về quyền con người trong

đó tập trung vào việc chỉ ra nguồn gốc, bản chất và chủ thể quyền, chủ thể thực hiện

quyền con người; luật quốc tế các cơ chế bảo đảm quyền con người. Đặc biệt, trên cơ

18

sở đó, ở phần II, tác giả đã nêu lên một số nhận định của mình về thực tiễn nhân quyền

trên thế giới hiện nay: Những vấn đề nhân quyền mới, vai trò của các tổ chức phi chính

phủ, các khu vực…trong việc bảo vệ quyền con người. Từ đó, đưa ra những nhận định về

vấn đề quyền con người ở Việt Nam đó là “động lực của sự phát triển xã hội, là bản chất

của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời là vấn đề chính trị phức tạp”.

Phạm Ích Khiêm, Hoàng Văn Hảo (1995), “Quyền con người trong thế giới hiện

đại: nghiên cứu và thông tin” đề tài KX-07. Công trình này đã tập hợp những khảo sát của

các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về những vấn đề lý luận cơ bản về quyền

con người (lịch sử khái niệm, các nhóm quyền cơ bản…) trong bối cảnh thế giới hiện đại

và việc thực hiện quyền con người ở một số nước như Pháp, Mỹ, Đức, Úc…. Cuốn sách

cũng đã đề cao việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người, một vấn đề rất phức

tạp và rộng lớn. Đây là một công trình khoa học bổ ích cho những nghiên cứu ban đầu về

quyền con người ở nước ta.

Những nghiên cứu này đã chỉ ra vấn đề nổi cộm hiện nay là một số quốc gia lợi

dụng vấn đề nhân quyền để thực hiện âm mưu bá chủ của mình, áp đặt chuẩn nhân

quyền của mình với các nước khác trên thế giới mà không nhìn thấy sự khác biệt về dân

tộc, tôn giáo, hoàn cảnh địa lý và đặc biệt là văn hóa của những nước đó - đấy là những

công cụ để giải thích về vấn đề nhân quyền như trong quyền Toàn cầu hóa và quyền

công dân ở Việt Nam nhìn từ khía cạnh văn hóa, tác giả Trần Văn Bính đã khẳng định.

Do vậy, việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay cần phải được nhìn nhận

một cách khách quan và có những bước đi và lộ trình thích hợp, phải căn cứ trên chế độ

chính trị, sự phát triển kinh tế và truyền thống văn hóa của mỗi nước.

Bên cạnh đó, các vấn đề khái quát về nhân quyền trong thế kỷ XX dự báo thế kỷ

XXI, các cách tiệp cận dựa trên quyền để phát triển, các giải pháp thực hiện phát triển

quyền con người ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, chính sách pháp luật bảo vệ quyền

con người, các mối liên hệ giữa quyền con người giữa Việt Nam, Trung Quốc, Úc và các

nước khác trên thế giới cũng được các bộ ngành và các tác giả như: Vũ Thị Minh Chi,

Phạm Thị Tính (Viện NC Con người), Vũ Hoàng Công, Chu Hồng Thanh… nghiên cứu

một cách cụ thể.

19

1.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Trên thế giới, việc nghiên cứu quyền con người được chia làm nhiều khía cạnh,

nhiều lĩnh vực theo những chiều tiếp cận khác nhau, từ việc nghiên cứu lịch sử tư

tưởng phát triển của khái niệm quyền, đặc điểm, nội dung, bản chất đến việc nghiên

cứu mối quan hệ giữa quyền con người trong tổng thể các yếu tố khác của xã hội.

Trong lời mở đầu Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 viết: “Chúng ta, các quốc gia

thuộc Liên hợp Quốc đã quyết tâm khẳng định niềm tin của mình vào những quyền cơ

bản của con người, vào nhân phẩm,và giá trị của mỗi người, vào quyền bình đẳng nam

nữ và quyền bình đẳng của các quốc gia dù lớn hay nhỏ…”. Những điều này đã trở

thành di sản tri thức vượt qua mọi ranh giới chính trị – luôn luôn được hoàn thiện - và

làm cho cuộc sống của con người trên toàn thế giới được tốt hơn. Những tư tưởng đó

đã trở thành chủ điểm mà các nhà nghiên cứu trên thế giới đề cập đến khi nghiên cứu

về Quyền con người, cụ thể chia thành các nhóm như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu vai trò của Tuyên ngôn Quyền con người, những nội dung

chủ yếu của nó và những kết quả mà nó mang lại trong cuộc sống của con người trên

toàn thế giới.

Thứ hai, từ việc nghiên cứu Tuyên ngôn này, các nhà nghiên cứu đi sâu vào

việc tìm hiểu về sự ra đời của các quyền và quá trình hoàn thiện các văn kiện nhằm

nâng cao hiểu biết mới về nhân quyền cho mỗi người.

Thứ ba, những rào cản lớn về mặt chính trị trong việc kêu gọi, cam kết thực thi

Tuyên ngôn này và các công ước quốc tế khác về quyền con người trên thực tế ở mỗi

quốc gia.

Thứ tư, nhiều nghiên cứu chỉ ra những cáo buộc nhân rằng quyền chỉ là một sự

áp đặt của các đế quốc, các nước giàu hoặc các nước phương Tây.

Thứ năm, nhóm nghiên cứu khác lại cho rằng: mặc dù, có những sự khác biệt về

chi tiết cụ thể trong các nhóm quyền nhưng có sự nhất trí rộng rãi của nhiều nền văn

hóa chấp nhận tính toàn cầu của các quan niệm về nhân quyền chủ yếu. Quyền con

người thể hiện tính toàn cầu, là di sản chung của mọi người dân trên toàn thế giới.

Thứ sáu, nhóm nghiên cứu quyền con người trong mối quan hệ với các yếu tố

khác như phát triển, phát triển bền vững, toàn cầu hóa, KTTT, nhà nước pháp quyền,

20

dân chủ, bản sắc văn hóa, đa dạng văn hóa, tôn giáo, dân số, y tế, giáo dục, an sinh xã

hội,v.v..

Thứ bảy, nhóm nghiên cứu quyền con người trong lịch sử phát triển của nó.

Thứ tám, nhóm nghiên cứu việc thực hiện nhân quyền ở mỗi quốc gia cụ thể.

Một số công trình trong các nhóm nghiên cứu trên: What is human rights?

http://www.ohchr.org/EN/NEWSEVENTS/Pages/DRCRoleCivilSociety.aspx; Human

Rights in UNDP, www.undp.org/governance/docs/HRPN_English.pdf; John

M.Ackerman, human rights and social Accountability, www

portals.wi.wur.nl/files/docs/gouvernance/HumanRightsandSocial0AccountabilityFINAL.pd

f; J.symonides (2000), Human Rights: concept and standards, UNESCO; Human Rights to

day (European legal texts), Council of publishing; Democracy and development: A culture

perspective; David P.Forsythe (2000), Human Rights in International Relations,

Cambridge; UNDP (1998), Itegrating Human Rights with sustainable human development;

United Natios (1990), Population&human rights; Human Rights review, The State

University of New Jersey (2001); Goodhart Micheal (2005), Democracy as human rights

freedom and equality in the Age of Globalization, New York Routledge.

1.3. Tình hình nghiên cứu về vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện

quyền con người

1.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

Hiện có rất ít các công trình nghiên cứu chuyên sâu, độc lập về vấn đề này, nếu

có thường được nghiên cứu dưới dạng gắn hai yếu tố này với nhà nước pháp quyền,

hoặc XHDS là môi trường, là điều kiện để đảm bảo cho thực hiện quyền con người,

bên cạnh các yếu tố như NNPQ và KTTT, hoặc từng tác động cụ thể của XHDS đến

các mặt khác nhau của việc thực hiện quyền con người. Có thể kể đến một vài công trình

như trong cuốn Hỏi đáp về Quyền con người do tập thể tác giả trường Đại học Quốc gia Hà

Nội xuất bản, cuốn Tìm hiểu về quyền con người của Wolfgang Benedek, hay cuốn

Quyền con người tập hợp những bình luận khuyến nghị chung của Văn bản công ước

LHQ cho rằng các yếu tố của XHDS là chủ thể trực tiếp của quyền con người và có nghĩa

vụ bảo đảm quyền con người. Ngoài ra, các cuốn sách trên cũng chỉ ra cơ chế tầm quan

trọng của các tổ chức phi chính phủ trong việc thực hiện nhân quyền, từ đó các cơ quan

nhân quyền LHQ đã thiết lập mối quan hệ phối hợp với các tổ chức này ở các cấp độ quốc

21

gia, khu vực, quốc tế, trên tất cả các lĩnh vực từ việc tư vấn, giám sát việc thực hiện quyền

con người, đến các hoạt động hoàn thiện chính sách, giáo dục quyền con người.

Tiếp đó, tác giả Vũ Thị Minh Chi với bài viết Về giải pháp nâng cao hiệu quả

thực hiện quyền con người trong sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam đã đưa ra

các giải pháp nâng cao tính hiệu quả thực hiện quyền con người trong quá trình phát

triển, trong đó có giải pháp về để cao vai trò của các tổ chức XHDS tham gia vào quá

trình ra quyết định, phản biện quyết định, chiến lược, chính sách của nhà nước nhằm

nâng cao tính minh bạch trong quản lý nhà nước. Giúp nhà nước giải quyết một số công

việc liên quan đến các vấn đề xã hội, mở rộng dân chủ, đảm bảo tính dân chủ trong mọi

hoạt động v.v.. Với việc đưa ra các giải pháp này, tác giả đã cho thấy việc cần thiết phải

có sự tham gia của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người.

Tác giả Đặng Dũng Chí - Hoàng Văn Nghĩa, trong cuốn Chủ nghĩa xã hội và

quyền con người, ngoài việc khẳng định những giá trị to lớn của chủ nghĩa xã hội

trong bảo vệ quyền con người, cũng đã chỉ ra những vấn đề đương đại của chủ nghĩa

xã hội và quyền con người (phần 6). Đó là vấn đề giải quyết những mâu thuẫn của thời

đại như phát triển KTTT định hướng XHCN gắn với bảo đảm công bằng xã hội, giữ

gìn và phát huy bản sắc dân tộc với hội nhập và phát triển, vấn đề nhà nước pháp

quyền, XHDS với việc bảo đảm quyền con người, biến đổi khí hậu, an ninh quốc gia,

chủ nghĩa khủng bố và quyền con người. Cụ thể, nhóm tác giả thông qua quan điểm

của các nhà dân chủ xã hội cho rằng việc thực thi hiệu quả quyền lực của nhân dân

được thể hiện qua hai hình thức, thứ nhất, thông qua sự ủy thác vào những đại diện

cho mình trong bộ máy nhà nước bằng cách thức dân chủ, công khai và minh bạch, thứ

hai, thông qua việc thực thi quyền lực trực tiếp quyền lực của mình ở trong tổ chức và

hoạt động của tổ chức XHDS [127, tr.361]. Từ đó, cho thấy, XHDS là một phương

thức để người dân thực hiện các quyền của mình.

Bài viết Quyền con người và xã hội dân sự của tác giả Hà Mai Hiên, trích trong

cuốn Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành Khoa học xã hội do GS,TS.

Võ Khánh Vinh chủ biên đã khẳng định sự tồn tại của XHDS là hỗ trợ và phản biện tốt

nhất đối với chế độ, chính sách nhà nước nhằm đảm bảo sự bình đẳng, quyền tự do,

dân chủ của người dân chống lại sự chuyên quyền, độc đoán và tùy tiện của cá nhân và

quyền lực. Trong XHDS, luật pháp không chỉ là các nguyên tắc do cơ quan quyền lực

22

tối cao thiết lập nên mà còn là những quy định được ban hành phù hợp với giới hạn

hiến định của Nhà nước và xã hội và ghi nhận các quyền tự do của các thành viên

trong xã hội.

Trong Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2010, World Bank đã giành chương 6

nói về vai trò giám sát của các tổ chức XHDS Việt Nam trong các hoạt động vận động

chính sách, thực hiện các hoạt động cộng đồng nhằm thực hiện quyền con người nói

riêng. Báo cáo đã chỉ ra được các thành tựu, các hạn chế, thách thức của XHDS Việt

Nam trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội nói chung và thực hiện quyền con người

nói riêng.

Ngoài ra, còn một số tài liệu, báo cáo của các tổ chức phi chính phủ về các hoạt

động của tổ chức mình nói chung cũng có đề cập ít hay nhiều đến các khía cạnh thực

hiện các quyền con người, hay vai trò giáo dục quyền con người, nâng cao trình độ

nhận thức của người dân về quyền con người như khảo sát của quỹ ASIA Foundation

(2008), Khảo sát nhu cầu đào tạo của các tổ chức XHDS: Phát triển tổ chức và huy

động sự tham gia của cộng đồng xây dựng chính sách ở Việt Nam, Hà Nội. Khảo sát

Khỏa lấp sự cách biệt: XHDS mới nổi tại Việt Nam của UNDP Việt Nam...

1.3.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài

Việc nghiên cứu vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người trên

thế giới chủ yếu được thể hiện qua các đánh giá, khảo sát, dự án mà các tổ chức nhân

quyền thế giới, các tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền, các tổ chức

XHDS... tiến hành thông qua các báo cáo về vấn đề quyền con người ở các khu vực,

quốc gia cụ thể. Bên cạnh đó,vai trò này còn được nhìn nhận lồng ghép trong quá trình

tương tác của các cá nhân, tổ chức XHDS với chủ thể quyền khác như Nhà nước,

chính phủ các nước, tổ chức quốc tế.... trong các văn bản, điều ước quốc tế về quyền

con người. Cụ thể:

Thứ nhất, đứng ở góc độ pháp lý quốc tế, vai trò của XHDS mà cụ thể là của

các tổ chức phi chính phủ đối với sự nghiệp nhân quyền được phát triển theo các giai

đoạn sau: Giai đoạn 1 là sự ra đời của LHQ với cam kết rõ ràng của mình cho việc

khuyến khích nhân quyền trên toàn thế giới đã tạo môi trường thể chế cần thiết cho

phép chương trình nhân quyền phi chính phủ phát triển. Giai đoạn 2 là khi hai công

ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và quyền kinh tế, văn hóa, xã hội ra đời đã

23

tạo điều kiện cho sự nghiệp nhân quyền phi chính phủ hoạt động. Ở giai đoạn này

LHQ đã hình thành cơ chế và thủ tục cưỡng chế quốc tế cho phép những người ủng hộ

quyền con người độc lập. Giai đoạn 3 là cơ quan LHQ nhấn mạnh đến sự cần thiết cho

việc phát triển các thể chế quốc gia có hiệu quả gồm cả nhóm ủng hộ nhân quyền phi

chính phủ để thúc đẩy các quyền con người. LHQ công nhận rõ ràng tính hợp pháp và

tầm quan trọng của sự nghiệp ủng hộ nhân quyền phi chính phủ ngày nay [155,

tr1182]. Bên cạnh đó, việc các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực nhân

quyền được phản ánh qua hai thời kỳ. Thứ nhất, là sự ra đời của tổ chức Ân xá quốc tế

từ năm 1961 và thời kỳ thứ hai là các tổ chức giám sát nhân quyền quốc gia phát triển

và các nhóm ủng hộ nhân quyền ở các quốc gia tăng lên. Điều này làm tăng sự chú ý

của quốc tế và buộc các quốc gia phải thay đổi các chính sách về nhân quyền.

Thứ hai, vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người được các

văn kiện, công ước, tuyên bố và các chương trình hành động về Quyền con người của

Liên hợp quốc ghi nhận như sau: Tại nghị quyết số 1296 (XLIV) của Hội đồng kinh tế

và xã hội đã đưa ra những cách thức tham vấn với các tổ chức phi chính phủ nhằm

cung cấp một cơ chế thúc đẩy nguyên tắc và mục đích hoạt động của LHQ. Hay, trong

Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của LHQ đã quy định tại điều 21: “Mọi người đều

có quyền tham gia vào công việc công cộng của nước mình, hoặc trực tiếp, hoặc qua

trung gian những đại diện được tự do lựa chọn” [156, tr.152]. Bản Tuyên bố cuối

cùng của Hội nghị nhân quyền châu Á tại Thái Lan năm 1991, điểm thứ 25 khẳng định

“Ghi nhận tầm quan trọng của sự hợp tác và đối thoại giữa các chính phủ và các tổ

chức phi chính phủ trên cơ sở cùng chia sẻ các giá trị cũng như sự tôn trọng và hiểu

biết lẫn nhau trong việc thúc đẩy nhân quyền và khuyến khích các tổ chức phi chính

phủ có quy chế tư vấn với Hội đồng kinh tế và xã hội, đóng góp tích cực vào quá trình

này phù hợp với nghị quyết 1296 (XLIV) của Hội đồng”[156, tr.480]. Trong bản Tuyên

ngôn VIENNA và Chương trình hành động 1993 (Được thông qua tại Hội nghị thế giới

về quyền con người lần thứ hai, họp tại Viên ngày 25/6/1993) ở điểm 13, khẳng định:

Các quốc gia và tổ chức quốc tế hợp tác với các tổ chức phi chính phủ cần phải tạo

điều kiện thuận lợi trên bình diện quốc gia, khu vực và quốc tế đảm bảo việc hưởng

thụ thực sự và đầy đủ các quyền con người. các quốc gia cần loại bỏ mọi vi phạm

nhân quyền và các nguyên nhân gây ra vi phạm cũng như các trở ngại đối với sự

24

hưởng thụ các quyền này”[156, tr.502]. Hay điểm 34 của Tuyên ngôn cũng khẳng

định vai trò của XHDS đối với việc nâng cao nhận thức của người dân về quyền con

người. Tiếp đến, Hội nghị thế giới về quyền con người, điểm 38 cũng tiếp tục thừa

nhận vai trò quan trọng của các tổ chức phi chính phủ trong việc thúc đẩy tất cả các

quyền con người và các hoạt động nhân đạo ở các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế.

Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai năm 1993 tiếp tục khẳng định

một lần nữa “Trao cho khối tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức XHDS

nói chung những cơ hội rộng rãi hơn trong việc đóng góp vào việc hiện thực hoá các

mục tiêu và chương trình của Liên hợp quốc”.

Về vai trò của XHDS đối với việc giáo dục quyền con người, Tuyên ngôn Liên

hợp quốc về Giáo dục và đào tạo nhân quyền đã được thông qua tại Đại hội đồng

LHQ ngày 9/12/2011đã Tái khẳng định tuyên bố của Hội nghị Thế giới về Nhân quyền

tổ chức tại Vienna năm 1993 kêu gọi tất cả các Nhà nước và các tổ chức đưa nhân

quyền, luật nhân đạo, dân chủ và nguyên tắc thượng tôn pháp luật vào chương trình

của tất cả các tổ chức đào tạo, và tuyên bố của hội nghị rằng giáo dục nhân quyền nên

bao gồm hòa bình, dân chủ, phát triển và công bằng xã hội, như đã đưa ra trong các

công ước nhân quyền quốc tế và khu vực, để đạt được một cách hiểu và nhận thức

chung với xu thế tăng cường cam kết toàn cầu về nhân quyền. Cụ thể tại điều 7.2 của

Tuyên ngôn cho rằng: Nhà nước nên tạo ra một môi trường an toàn và khuyến khích

sự tham gia của xã hội dân sự, khu vực tư nhân cũng như các bên tham gia có liên

quan khác trong giáo dục và đào tạo về nhân quyền,... Hay, ở điều 10.1. Nhiều tác

nhân trong xã hội, bao gồm các tổ chức giáo dục, truyền thông, các gia đình, cộng

đồng địa phương, các thiết chế XHDS bao gồm các tổ chức phi chính phủ, những

người bảo vệ nhân quyền và khu vực tư nhân đóng một vai trò quan trọng trong việc

thúc đẩy và thực hiện các hoạt động giáo dục và đào tạo về nhân quyền. 2. Các tổ chức

XHDS, tổ chức tư nhân và các bên liên quan khác được khuyến khích để đảm bảo giáo

dục và đào tạo về nhân quyền đầy đủ cho các cán bộ và nhân viên của họ [224].

Thứ ba, vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người ở các khu vực,

quốc gia cụ thể như nghiên cứu trong một số sách được các tác giả Việt Nam nghiên

cứu, dịch ra tiếng Việt như cuốn sách Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong khu

vực ASEAN đã phân tích khái quát thực tiễn nhân quyền tại các quốc gia trong khu vực,

25

sự hình thành những chuẩn mực, các cơ chế khu vực bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền,

cũng như vai trò của các chủ thể khác nhau ở ASEAN (nhà nước, tổ chức phi chính phủ,

cơ sở giáo dục, nghiên cứu...) trong việc bảo vệ nhân quyền. Đặc biệt, cuốn sách dành

hẳn phần 3 để nói về hoạt động của các tổ chức XHDS ở Campuchia, Indonesia,

Malaysia, Myanmar, Philippin, Thái Lan, hoạt động của các tổ chức, mạng lưới XHDS

khu vực. Cùng với xu hướng phát triển của XHDS trên phạm vi toàn cầu và vai trò gia

tăng của các tổ chức, mạng lưới phi chính phủ tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, song

phương và đa phương, các tổ chức XHDS trong khu vực ASEAN cũng đã có những

bước tiến đáng kể trên nhiều mặt và ngày càng có vai trò tích cực hơn trong đối thoại

với chính quyền ở phạm vi trong nước cũng như ở tầm ASEAN. Điều 13 Hiến chương

ASEAN đã ghi nhận sự tham gia của XHDS vào tiến trình hội nhập và phát triển “thúc

đẩy một cộng đồng ASEAN dựa vào nhân dân, trong đó khuyến khích sự tham gia của

mọi thành phần trong xã hội để có thể hưởng lợi từ quá trình hội nhập và xây dựng cộng

đồng ASEAN”. Từ đó, quá trình hoạt động của các tổ chức XHDS có nhiều thành tựu,

tác động tích cực vào quá trình thực hiện quyền con người ở khu vực, tuy vậy, cuốn sách

cũng chỉ ra những hạn chế nhất định từ vai trò này của XHDS được ghi trong Hiến

chương đó là tính thực thi trên thực tế của Hiến chương này, bản thân trong Cơ quan

nhân quyền ở ASEAN không có đại diện của khu vực XHDS, một số quốc gia thậm chí

còn không công nhận vai trò của các tổ chức XHDS [167, tr.111-113].

Hay cuốn sách Làm việc cùng chương trình nhân quyền Liên hợp quốc: Sổ tay

cho xã hội dân sự của Cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc do dịch giả Nghiêm Hoa dịch

đã đánh giá rất cao vai trò của các tổ chức XHDS trong việc thực hiện quyền con

người đó là các vai trò cụ thể như việc chia sẻ thông tin, vận động, giám sát chặt chẽ

các quyền con người; báo cáo các vi phạm, hỗ trợ nạn nhân; thực hiện các chiến dịch

xây dựng những tiêu chuẩn nhân quyền mới. từ đó, cuốn sách đã giúp các nhân tố

trong XHDS hiểu và tiếp cận với hệ thống nhân quyền LHQ một cách hiệu quả hơn.

Các tác nhân XHDS quan tâm đến việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người có giá

trị toàn cầu ví dụ như những người bảo vệ nhân quyền, các tổ chức nhân quyền (các

NGO, hiệp hội, nạn nhân); các tổ chức làm việc về các lĩnh vực hoặc vấn đề liên quan,

v.v.. Cuốn sách nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng về nhân quyền cho các tổ chức

XHDS, nhằm đảm bảo một cách bền vững việc bảo vệ nhân quyền ở cấp quốc gia.

26

Cuốn sách đã cung cấp những thông tin về các cơ quan và cơ chế nhân quyền LHQ và

việc vận dụng các cơ quan, cơ chế này như thế nào. Bên cạnh đó các thông tin về các

thủ tục, cơ chế, cách thức gửi khiếu nại tổ cáo về những vi phạm nhân quyền, các

thông tin về nhà tài trợ, quỹ tài trợ... giúp cho các tổ chức XHDS dễ dàng tiếp cận với

quy trình làm việc của các cơ quan nhân quyền, nhằm đẩy mạnh hiệu quả của việc

thực hiện nhân quyền.

Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như Sitharamam

Kakarala, Human Rights, Pluralism and Civil Society Reflecting on contemporary

challenges in India; Ken Bonneville, Civil Society and Human Rights; Kwadwo

Appiagyei-Atua, civil society, human rights and development in africa: an important

analyse (…) Civil society discusses human rights implications

Thứ tư, là những nghiên cứu về vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền

con người ở những khía cạnh cụ thể như vận động chính sách, giám sát phản biện việc

thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người, thực hiện các nhóm quyền cụ thể,

giáo dục quyền con người… Một số công trình liên quan như: Negad El-Borai, Civil

Society and Human Rights in Egypt, Làm thể nào để XHDS thúc đẩy được quyền tự

quyết; Báo cáo của CHRI (commonwealth Human Rights initiative). CHRI 2011

report: A partnership for human rights: civil society and national human rights

institutions; Conor Gearty, Human rights, civil society and the challenge of terrorism -

A Centre for the Study of Human Rights report (www.lse.ac.uk/humanrights); David

skidmore (2001), Civil society, Social capital, Economic development; Civil society

crucial in advancing human rights, UN officials tell Paris meeting; Civil Society: Civil

Society & Peacebuilding Processes, v.v..

1.4. Những vấn đề chưa được các nghiên cứu đề cập đến

Có thể thấy, những nghiên cứu về XHDS và quyền con người trên thế giới và

Việt Nam khá nhiều, đa phần các nghiên cứu đi sâu vào việc chỉ ra bản chất, đặc điểm,

các hoạt động thực tế của XHDS, quyền con người, các điều kiện, cơ sở hình thành,

bảo đảm sự phát triển của các yếu tố này và đặc biệt một số nghiên cứu đã bước đầu

chỉ ra được một vài điểm đặc thù của XHDS Việt Nam, các khía cạnh riêng lẻ khác

nhau về vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người. Tuy vậy, những

nghiên cứu này không nhiều và chưa hệ thống, do đó, trên cơ sở khách quan, chúng tôi

27

sẽ cố gắng nghiên cứu rõ hơn về XHDS, các đặc điểm và vai trò của nó nói chung và

vai trò đối với việc thực hiện quyền con người nói riêng. Nhờ vậy, đề tài sẽ có những

điểm mới mà các nghiên cứu trước đó ít, hoặc chưa đề cập tới, như:

Thứ nhất, chưa có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa XHDS với thực hiện

quyền con người, những nghiên cứu này, nếu có thường rất ít, sơ sài.

Thứ hai, việc nghiên cứu vấn đề “thực hiện quyền con người” dưới góc độ lý

luận chưa được đề cập đến nhiều trong các nghiên cứu về quyền con người ở Việt Nam.

Thứ ba, những vai trò cụ thể của XHDS đối với thực hiện quyền con người mới

chỉ được nêu ra trong một số bài viết dưới dạng những nhận định, chứ chưa có những

phân tích chuyên sâu về vấn đề này.

Thứ tư, chưa có công trình nào nghiên cứu về vai trò của xã hội dân đối với việc

thực hiện quyền con người ở Việt Nam trên góc độ lý luận và thực tiễn.

28

Chương 2.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI DÂN SỰ,

QUYỀN CON NGƯỜI VÀ THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI

2.1. Những vấn đề lý luận chung về xã hội dân sự

2.1.1. Khái niệm xã hội dân sự

Xã hội dân sự là khái niệm được phát triển trong khuôn khổ của triết học, khoa

học chính trị, xã hội học và pháp luật học phương Tây. Nó đã xuất hiện tương đối lâu

trong lịch sử, mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia, mỗi trường phái, mỗi nhà nghiên cứu lại hiểu

khái niệm này trên những khía cạnh khác nhau.

Những tư tưởng ban đầu về XHDS đã được các nhà triết học Hy Lạp Cổ đại

nêu ra, đó là tư tưởng về dân chủ được thể hiện qua việc tranh luận công khai; tư

tưởng về một nhà nước mà người dân được sống bình đẳng, nhân đức. Theo Socrat, để

đảm bảo văn minh trong cộng đồng và đảm bảo một cuộc sống tốt cho người dân cần

phải thông qua tranh luận công cộng. Với Platon, nhà nước lý tưởng là một xã hội mà

trong đó con người hiến thân vào việc phổ biến và thực hành nhân đức. Công dân

trong xã hội đó là những công dân của trí tuệ, điều độ, dũng cảm và công bằng. Qua

những tư tưởng đầu tiên này chúng ta thấy chúng đã hàm chứa những đặc điểm về

quyền được tham gia, về dân chủ - những giá trị cốt lõi của XHDS sau này.

Cùng với sự phát triển của xã hội, các nhà tư tưởng sau này đã làm rõ hơn các

yếu tố cơ bản của XHDS. Trong tác phẩm Chính trị, Aristotle đã nêu lên khái niệm

thành - bang (polis). Polis là cộng đồng chính trị do con người tổ chức ra, nhằm đáp

ứng nhu cầu tự nhiên muốn hoàn thiện mình để có cuộc sống hạnh phúc hơn. Cộng

đồng này được hình thành dựa trên những công dân tự do (tự do về kinh tế, có tài sản,

có địa vị xã hội, có giáo dục, biết suy nghĩ, có năng lực làm chủ…), tự chịu trách

nhiệm về hành động của mình, cùng nhau chia sẻ và điều hành cộng đồng vì những

mục đích chung. Điểm gắn kết các công dân trong cộng đồng chính trị chính là truyền

thống văn hóa của cộng đồng đó. Mọi việc liên quan đến đời sống cộng đồng đều được

đưa vào thảo luận bình đẳng giữa các công dân tự do trong khuôn khổ hiến pháp của

Polis. Bản chất chính của một cộng đồng chính trị là XHDS, là sự tham gia tự nguyện

của các thành viên tùy năng lực của mình cùng nhau chia sẻ việc điều hành cộng đồng,

29

vì mục đích của cộng đồng. Rõ ràng là, với khái niệm này, Aristotle đã phân biệt lĩnh

vực công thuộc về cộng đồng với lĩnh vực tư (gia đình) mà theo như tác giả Trần Tuấn

Phong nhận định đó là sự khác biệt giữa một bên là lĩnh vực được tổ chức để đáp ứng

các nhu cầu thiết yếu của con người, để đảm bảo sự tồn tại về mặt sinh học của cá thể

và duy trì sự tồn tại của giống loài, không có sự bình đẳng, không có tự do vì họ không

được coi là công dân, với một bên là đời sống cộng đồng, đời sống chính trị của những

công dân thành - bang mà chúng tôi đã đề cập đến ở trên [46, tr.66-67].

Và sự phân biệt này cũng là cơ sở cho việc phân chia khu vực XHDS, nhà nước

và KTTT hay lĩnh vực công, lĩnh vực tư mà nhiều học giả đề cập đến sau này. Đồng

thời, việc nghiên cứu này của Aristotle cũng đã chỉ ra một trong đặc điểm bản chất

nhất của khái niệm XHDS là tính tự nguyện và hoạt động vì mục đích chung của cộng

đồng, là hướng đến cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc - hay là sự ý thức về nhân vị, khác

với mục đích của gia đình là lĩnh vực tư, đời sống kinh tế, cái riêng, đáp ứng nhu cầu

thiết yếu của tồn tại người.

Từ quan điểm về một cộng đồng chính trị của Aristotle, các nhà nghiên cứu sau

này đã phát triển và mở rộng nghiên cứu XHDS trong mối quan hệ với nhà nước.

J.Locke xuất phát từ quan điểm cho rằng có những luật tự nhiên chi phối đời sống xã

hội, và khi hiện thực đời sống diễn ra thì những khế ước xã hội sẽ thay thế xã hội tự

nhiên để đảm bảo quyền tự do ngang nhau của mọi người và đảm bảo sự không xâm

phạm quyền tự do lẫn nhau. Các khế ước xã hội này sẽ tạo ra một xã hội tự do, bình

đẳng, được pháp luật bảo đảm một cách linh động. Các khế ước này độc lập với nhà

nước chuyên chế và nó là chất xúc tác chuyển xã hội từ trạng thái tự nhiên sang trạng

thái văn minh mở đường cho chế độ tự do sau này và ở đó XHDS sẽ được phát sinh từ

ý chí của cá nhân, nơi tập hợp con người ở trình độ cao và được thiết lập vì lợi ích

chung nhằm giúp cho các cá nhân, gia đình thoát khỏi tình trạng tự nhiên. Như vậy là

với J.Locke nhà nước và XHDS xuất hiện đồng thời và tồn tại phụ thuộc vào nhau, sự

hình thành XHDS đánh dấu sự phát triển của xã hội loài người từ trạng thái tự nhiên

sang XHDS - xã hội văn minh (xã hội có tổ chức, có nhà nước nhằm duy trì trật tự xã

hội, hướng đến lợi ích cộng đồng), ngược lại với tự nhiên, bản năng. Đối với ông,

không có sự phân biệt, đối lập giữa XHDS và nhà nước hay xã hội chính trị, mà XHDS

nằm trong nhà nước, nhà nước công nhận XHDS, từ đó, tính xã hội và tính chính trị

30

trong XHDS được thể hiện, cũng như sự trưởng thành của con người với tư cách công

dân cũng được biểu hiện rõ ràng hơn.

Điểm riêng của J.Locke khi nói về XHDS nằm ở mục đích của xã hội này đó là

tôn trọng các quyền con người, phẩm giá con người và đặc biệt là bảo vệ quyền sở

hữu, “quyền tư hữu” bên cạnh việc duy trì hòa bình, an ninh cho các thành viên. Đây

cũng có thể được xem là điểm bổ sung nghĩa kinh tế trong sự phát triển về quan niệm

XHDS.

Từ quan điểm của Aristotle đến J.Locke ta thấy XHDS có hai khía cạnh gắn

chặt chẽ với nhau đó là: Tính xã hội và tính chính trị. Từ khía cạnh xã hội, XHDS được

các triết gia hình dung như một cộng đồng người với các nguyên tắc tự nguyện tham

gia, thảo luận về vấn đề chung… Từ khía cạnh chính trị, XHDS là một thực thể ký kết

khế ước với nhà nước hay là một yếu tố của tổ chức chính trị trong xã hội.

Tiếp đến, chịu ảnh hưởng của J.Locke, J.J.Rousseau, nhà triết học Khai sáng

Pháp thế kỷ XVIII, với sự ý thức sâu sắc về cách thức trở thành một nhân vị đã nhấn

mạnh khía cạnh tư hữu của XHDS, ông nói “Người đầu tiên nào có một miếng đất rào

kín và biết nói được rằng đất này là của tôi… thì đó là kẻ sáng lập thực thụ của XHDS"

[50]. XHDS theo J.J.Rousseau là lĩnh vực tư hữu, mặc dù vậy ông cũng muốn tìm một

phương thức thay thế XHDS bằng một xã hội chính trị hơn, ở đó quyền lực chính trị

thuộc về toàn dân, con người không sa đọa vì quá ích kỷ chỉ lo lợi riêng trái lại biết tôn

trọng lợi ích chung, một xã hội của những "công dân" mà ông đã nêu trong tác phẩm

Khế ước xã hội sau này. Quan điểm này của ông đã mở đường cho việc tách XHDS khỏi

nhà nước và hình thành nên xu hướng phát triển quan niệm coi XHDS là xã hội thị

trường.

Điển hình cho xu hướng này có thể kể đến quan điểm của Adam Ferguson

(1723-1816), nhà tư tưởng người Anh, cho rằng XHDS là "kết quả của hoạt động của

con người, chứ không phải của ý định của con người". Ông cho rằng, XHDS không

xuất phát từ sự chủ định của con người, mà là từ sự vận động tự phát của các lợi ích,

các nhu cầu và các tham vọng của con người. Ở đây, chúng ta thấy thuật ngữ XHDS

đã chuyển từ khái niệm "XHDS mang tính quốc gia/nhà nước" (société civile étatique)

như J.Locke quan niệm, sang khái niệm "XHDS mang tính thị trường"

31

Đến Adam Smith thì XHDS mang đậm tính thị trường và đã tách rời khỏi nhà

nước. XHDS là xã hội thương mại, hoạt động tuân thủ theo các quy luật của thị

trường, của lợi ích riêng, của nhu cầu mà không có sự can thiệp của nhà nước. Đây là

xã hội tự trị, tự quản. Có thể thấy quan điểm này của Adam Smith đã hình thành nên

những yếu tố căn bản trong quan niệm XHDS hiện đại đó là tính tự quản, tự trị, phi

nhà nước.

Khi nghiên cứu về XHDS thế kỷ XVIII, I.Kant cũng cho rằng XHDS độc lập

với nhà nước, ông nhấn mạnh khía cạnh pháp lý và luân lý của XHDS. Ông cũng nhấn

mạnh khía cạnh không gian chung sống, đối thoại tự do và công bằng giữa các công

dân, v.v.. của XHDS. Đây là khía cạnh mang tính nhân văn trong quan điểm của

I.Kant về XHDS. Như vậy, bên cạnh việc đề cao luật pháp như các nhà nghiên cứu

XHDS trước đó đề cập, I.Kant đã bổ sung một ý nghĩa mới cho XHDS, đó là ý nghĩa

nhân văn và lĩnh vực tư, lĩnh vực chính trị thực tiễn - Đây có thể coi là bước phát triển

quan trọng trong lịch sử tư tưởng về XHDS, đó là sự xác định cho XHDS một vị thế

trong mối quan hệ với các hình thức tổ chức xã hội khác là nhà nước và gia đình.

Mở rộng và xác lập rõ ràng hơn nguồn gốc ra đời và tính độc lập của XHDS

trong mối quan hệ với nhà nước, Hegel - nhà triết học Cổ điển Đức, trong cuốn Triết

học pháp quyền, cho rằng XHDS chỉ được tạo ra trong thời đại chủ nghĩa tư bản, ở

những quốc gia tư sản và sở hữu tư nhân là điều kiện cần thiết cho sự ra đời, phát triển

của xã hội này. Theo Hegel, XHDS là một sự liên hợp của những thành viên với tư

cách là những cá nhân tự lực mưu sinh (cá nhân quan tâm tới lợi ích riêng của bản

thân) và thông qua lao động của mình thỏa mãn những nhu cầu của chính họ. Do vậy,

sự liên hợp này là tự nguyện. Sự liên hợp này được thôi thúc bởi nhu cầu của chính họ,

yêu cầu của hệ thống luật pháp và của tổ chức bên ngoài nhằm đạt được lợi ích đặc thù

và lợi ích chung của họ. Nó là một khía cạnh, một giai đoạn xen vào giữa gia đình và

nhà nước. Bởi bản thân mỗi người chỉ tìm thấy mình và đạt được mục tiêu của mình

thông qua người khác do vậy toàn bộ lĩnh vực của XHDS là “lãnh địa của sự trung

giới” [50].

Theo Hegel, XHDS là một thời điểm trong tiến trình của con người đi từ gia

đình tiến tới quốc gia và nếu xét dưới khía cạnh trật tự đạo đức thì gia đình là trục thứ

nhất, XHDS là trục thứ hai và nhà nước là trật tự thứ ba hoàn chỉnh nhất, phát triển cao

32

nhất của trật tự đạo đức. Nhà nước là nền tảng của gia đình và XHDS, XHDS chỉ được

hiện thực hóa bằng một cái khác với nó, đó là nhà nước, nói cách khác, XHDS tồn tại

trong mối quan hệ với nhà nước và nhà nước cần XHDS như là lĩnh vực của nhu cầu,

nơi mỗi cá nhân theo đuổi lợi ích của mình, liên hợp lại và làm cho xã hội phát triển.

XHDS cần nhà nước để hòa giải những tranh chấp và mâu thuẫn phát sinh khi các

công ty, hiệp hội, các định chế tư nhân xung đột nhau trong các hoạt động để đạt được

lợi ích chung.

Tiếp thu quan điểm của Hegel nhưng về mối quan hệ giữa nhà nước và XHDS,

K.Marx lại cho rằng nhà nước ra đời trên cơ sở của XHDS, XHDS là nền tảng quyết

định nhà nước, nhà nước đại diện cho lợi ích của XHDS.

Ông viết: “Xã hội công dân bao trùm toàn bộ sự giao tiếp vật chất của các cá

nhân trong một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất...” [9, tr.52].

Và“chính lợi ích là cái liên kết các thành viên của xã hội thị dân lại với nhau” [8,

tr.183]. Xã hội dân sự mà K.Marx nói ở đây là sự biểu hiện của quan hệ sản xuất trong

một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất mà theo ông đó là giai đoạn

của chủ nghĩa tư bản, khi giai cấp tư sản xuất hiện và nắm quyền cả về kinh tế và

chính trị, sở hữu tư nhân phát triển và lợi ích là cơ sở cho sự gắn kết xã hội. Đó là một

xã hội phi chính trị được cấu trúc bởi các quan hệ kinh tế và hệ thống các giai cấp và

sự xuất hiện của xã hội này đã tạo nền tảng cho sự ra đời của nhà nước tư sản và mọi

kiến trúc thượng tầng khác của chủ nghĩa tư bản.

Không chỉ dừng lại ở chỗ chỉ ra các điều kiện cho sự ra đời của XHDS,

K.Marx còn chỉ ra các đặc điểm bản chất của XHDS, trong Hệ tư tưởng Đức ông viết:

“Tổ chức xã hội trực tiếp sinh ra từ sản xuất và giao tiếp và trong mọi thời đại đều cấu

thành cơ sở của nhà nước và của kiến trúc thượng tầng tư tưởng” [10, tr.362]. Điều

này có nghĩa là, XHDS ra đời từ sự giao tiếp giữa con người với con người trong quá

trình sản xuất, do sản xuất quy định và nó biểu hiện thành phương thức tồn tại của xã

hội công dân. Xã hội này chỉ toàn bộ quan hệ giao tiếp, quan hệ sản xuất của con

người trong lịch sử do vậy nó vượt ra ngoài phạm vi của nhà nước và dân tộc. Với

nghĩa đó nó sẽ tồn tại cùng với xã hội loài người ngay cả khi không còn sự hiện diện

của giai cấp và nhà nước. Khi ấy, xã hội công dân được biến đổi thành sự liên hợp của

tự do của các cá nhân tự do thể hiện ra như là không gian xã hội, môi trường sáng tạo

33

và lưu giữ những kỹ năng sản xuất, tổ chức đời sống cộng đồng dưới hình thái văn

hóa. Đây là một ý nghĩa rất giá trị mà K.Marx đã đề cập đến khi nghiên cứu về XHDS,

bởi việc XHDS là một không gian sẽ tạo cơ hội cho mọi người trong không gian đó có

thể phát huy được hết khả năng của mình trong các hoạt động xã hội. Vấn đề là cơ chế

liên hợp giữa không gian đó với không gian khác trong xã hội để phát huy hiệu quả

của nó. Đây là một thách thức không nhỏ cho các quốc gia khi thực hiện quá trình điều

tiết chính trị của mình và đây cũng là vấn đề mà nhiều nhà làm chính sách quan tâm.

Tiếp tục quan điểm của K.Marx và Hegel, Gramsci1 cũng đã kế thừa những quan

điểm về mối quan hệ giữa nhà nước và XHDS khi nghiên cứu XHDS. Song ông lý giải

mối quan hệ này thông qua việc xem xét sự thay đổi của quyền lực chính trị trong sự

biến đổi của xã hội.

Theo ông, xã hội được chia thành hai lĩnh vực: là xã hội chính trị và XHDS. Xã

hội chính trị là khu vực của nhà nước, của các lực lượng quân sự, kinh tế. Còn XHDS

tức khu vực tư - một tập hợp các thể chế mà thông qua đó xã hội tổ chức và thể hiện

mình một cách độc lập với nhà nước. Xã hội này là khu vực của sự đồng thuận. Với sự

phân chia như vậy, sẽ dẫn đến hai cơ chế của sự thống trị trong các quan hệ xã hội, đó là

sự thống trị về chính trị dựa trên sự đồng thuận do cơ sở tự nguyện được xây dựng trên

nền tảng là quan hệ gia đình2 và sự thống trị chính trị cưỡng bức dựa trên quyền lực kinh

tế. Trong hai cơ chế này, Gramsci nhấn mạnh nhiều hơn đến sự thống trị chính trị dựa

trên sự đồng thuận do cơ sở tự nguyện tạo ra.

Từ góc độ chính trị học, có thể nói, Gramsci đã có một cách nhìn khác về cách

thức mà quyền lực trong xã hội được vận hành. Theo ông, nhà nước là cơ chế quản lý

xã hội và việc nắm các vị trí tiên tiến trước khi chiếm được chính quyền, ở đây chính

là nắm được các chức năng về văn hóa, tư tưởng, nắm được giá trị cốt lõi của đời sống

xã hội tự do, bình đẳng, tính cộng đồng,… những yếu tố nền tảng hình thành nên

XHDS trong đời sống xã hội. XHDS dù độc lập với nhà nước nhưng nó giống như một

1 Nhà chính trị học người Ý (1891 – 1937). 2 Gia đình là một thể chế có vai trò trung tâm trong việc hình thành quan điểm chính trị cá nhân, tạo sự đồng thuận cần thiết cho sự ổn định của hệ thống, là công cụ quan trọng để truyền tải và nuôi dưỡng văn hóa, truyền thống.

cơ chế để bảo vệ nhà nước từ trong chiều sâu bởi nó đảm bảo tính chính đáng của

34

quyền lực qua sự thừa nhận của quần chúng (dù được tạo ra bởi nhà nước) về hệ giá trị

và các tư tưởng của giai cấp cầm quyền chứ không phải đối kháng với nhà nước.

Đóng góp của Gramsci trong việc phát triển lý luận về XHDS là nguồn gốc văn

hóa và tư tưởng của XHDS trong mối quan hệ của nó với nhà nước. Nói cách khác,

yếu tố tư tưởng tiên phong của “khu vực tư” - XHDS là tiền đề đảm bảo cho quyền lực

chính trị của xã hội chính trị - nhà nước. Từ việc xác định nguồn gốc này có thể chỉ ra

đóng góp lý luận thứ hai của ông là việc xác định quan hệ định hướng, bổ trợ trong

việc xác lập ý thức hệ của XHDS cho nhà nước. Từ đó, mâu thuẫn giai cấp không chỉ

là mâu thuẫn về mặt kinh tế như K.Marx luận giải mà còn là mâu thuẫn về mặt tư

tưởng hay ý thức hệ giữa các XHDS trong việc giành quyền “tiên phong” định hướng

tư tưởng và hiện thực hóa tư tưởng qua thẩm quyền pháp lý. Như vậy, dựa vào lý

thuyết của Gramsci, ta đã có thêm một tiêu chí để phân định các thể chế XHDS, đó là

tiêu chí văn hóa tư tưởng hay ý thức hệ bên cạnh các tiêu chí về kinh tế, chính trị.

Tiếp tục quá trình phát triển các tư tưởng về XHDS, trong xã hội phương Tây

hiện đại và trong các xã hội khác, nội dung của khái niệm XHDS được mở rộng hơn

và trở thành những mô hình phát triển hiện thực trong tổ chức xã hội. Các thành tố cấu

thành XHDS và tính chất hoạt động của nó cũng được chỉ ra rõ ràng hơn. Một số

nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trong những thập kỷ gần đây, với sự phát triển của nền

KTTT, cách tổ chức của xã hội chịu quy định của thị trường nhiều hơn là gia đình và

nhà nước như trước kia. Xã hội dân sự trở thành một định chế độc lập bên cạnh thị

trường và nhà nước mặc dù trong hoạt động ranh giới phân biệt giữa 3 yếu tố này là

không rõ ràng. Điều này đã thúc đẩy mạnh mẽ vai trò của XHDS nhất là ở khía cạnh

thúc đẩy người dân tham gia nhiều hơn vào đời sống chính trị, xã hội, phát huy thực sự

quyền làm chủ của mình và thực hiện lợi ích của mình trên mọi mặt. Xã hội dân sự

được xem như khu vực của thực tế xã hội thông qua các tổ chức NGO, các tổ chức phi

lợi nhuận (NPO), các hiệp hội, các hội, các tổ chức cộng đồng,v.v.. các tổ chức này

được hình thành dựa trên sự liên kết tự nguyện về lợi ích nhất định trong một lĩnh vực

nào đó, trong các hoạt động tập thể, xoay quanh sự chia sẻ về lợi ích, mục đích và

những giá trị xã hội khác (Trung tâm nghiên cứu về XHDS (Centre for Civil Society -

35

CCS) thuộc Trường Kinh tế Luân Đôn3). Hoặc theo Marc Howard4, XHDS là vương

quốc của các tổ chức, nhóm, hiệp hội chính thức thành lập, có hiệu lực được luật pháp

bảo vệ; là sự tự chủ động và tự tham gia của mọi công dân.

Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu xã hội ở Nga lại nhấn mạnh: “XHDS là

các quan hệ phi chính trị trong xã hội được thể hiện thông qua các hiệp hội và tổ chức

quần chúng, được pháp luật ngăn chặn khỏi sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ.

XHDS là xã hội trong đó các hiệp hội khác nhau của quần chúng (Đảng, công đoàn,

hợp tác xã...) đóng vai trò cầu nối giữa cá nhân với Nhà nước và không để cho Nhà

nước áp bức cá nhân, nghĩa là khi có XHDS thì chính phủ là một thành tố cùng tồn tại

với các thể chế, các đảng phái, hiệp hội khác nhau mà thôi” [65, tr. 49]. Quan điểm

này chỉ ra các NGO, tổ chức NPO và các mạng lưới của các tổ chức này được gọi là

XHDS.

Như vậy là, càng về sau việc nghiên cứu XHDS càng gắn liền với các biểu hiện

cụ thể, thực tế của nó và nhìn nhận nó trong mối quan hệ với chế độ dân chủ với việc

nhấn mạnh vai trò tham gia của người dân trong tiến trình quản trị dân chủ. Tiêu biểu

có thể kể đến quan niệm của CIVICUS - Liên minh Thế giới về sự tham gia của người

dân5: XHDS được hiểu là diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi

người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung. Quan niệm này được đưa ra trên cơ

sở nghiên cứu về XHDS tại các nước trong khu vực châu Á, châu Phi và các nước

XHDS

trường

trang

web

trên

cứu

của

tại

về

3 Trung tâm hiện đã đóng cửa vào năm 2010 nhưng nó vẫn được giáo sư Jude Howell theo dõi và đăng tải những nghiên chỉ: địa http://eprints.lse.ac.uk/gcs.html?cx=002144977510494500317:_n5qeshhmvy&cof=FORID:10&ie=UTF- 8&q=%22Civil+Society+Working+Paper%22&sa=Search

4 Giáo sự tại Đại học Georgetown (Mỹ)

5 CIVICUS, World Alliance for Citizen Participation gồm hơn 1000 tổ chức hội viên và cá nhân tại 110 nước trên thế giới. Định nghĩa này được sử dụng chính thức cho tài liệu nghiên cứu vê Chỉ số XHDS (CSI-Civil Society Index), trong đó Việt Nam là một trong 9 nước tham gia khảo sát. CIVICUS là một liên minh quốc tế nhằm tăng cường hành động dành riêng cho công dân và XHDS trên toàn thế giới. Các hoạt động của tổ chức này hướng đến việc mở rộng tiếng nói của những người bình thường. Họ nhận ra rằng, muốn đảm bảo sự tham gia của công dân cho có hiệu quả và bền vững thì công dân phải được hưởng quyền của liên kết tự do và có thể tham gia vào tất cả các thành phần, hoạt động xã hội. Họ muốn phá vỡ các rào cản và tăng cường hợp tác trong XHDS, biện hộ cho sự tham gia của người dân như là một điều cần thiết là thành phần của quản trị và dân chủ trên toàn thế giới. XHDS xây dựng chiếc cầu nối giữa các công đoàn, các tổ chức tôn giáo theo định hướng dịch vụ phi chính phủ để ảnh hưởng đến quản trị, chính sách và cung cấp các dịch vụ cho người nghèo.

đang phát triển. Nó nhấn mạnh đến chức năng của XHDS là một không gian, một diễn

36

đàn, để mọi người cùng chia sẻ, tác động và gây ảnh hưởng đến nhau, đến cộng đồng

xã hội.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, đặc biệt gắn với giai đoạn phát

triển cao của chủ nghĩa tư bản của quá trình toàn cầu hóa, quan niệm về XHDS đã có

những bước phát triển mạnh mẽ, có sự chuyển hóa về nội dung, phạm vi rất đa dạng.

Theo thuyết Tự do và Tân tự do thì XHDS có thể được xem là một thực thể tồn tại độc

lập và có phần đối lập với nhà nước, giống như một lĩnh vực thứ 3 – lĩnh vực tư. Lĩnh

vực này bao gồm các hiệp hội phục vụ lợi ích của các công dân tự do mà như

Harbermas (nhà xã hội học và triết học người Đức, theo chủ nghĩa tự do) gọi các hiệp

hội đó là “các tổ chức phi lợi nhuận và phi chính phủ của phương Tây” (NPOs/NGOs)

bên ngoài và đối lập khu vực nhà nước và thị trường.

Khác với quan điểm của chủ nghĩa Tự do nhấn mạnh lĩnh vực tư khi nghiên cứu

về XHDS, chủ nghĩa Cộng hòa lại đề cao khía cạnh chính trị, xã hội – lĩnh vực công

của XHDS. Hạt nhân trong quan niệm của chủ nghĩa Cộng hòa là khẳng định: Chính

quyền là công việc công, cần được điều hành với sự tham gia của chính các thành viên

của nền cộng hòa. Cơ chế này chỉ được đảm bảo khi xây dựng bộ khung pháp luật (bộ

khung này được xây dựng trên cơ sở thảo luận rộng rãi với sự tham gia đóng góp ý

kiến tích cực của mọi công dân). Trong khi chủ nghĩa Tự do và chủ nghĩa Cộng hòa

nhấn mạnh yếu tố kinh tế và chính trị trong XHDS thì chủ nghĩa Cộng đồng lại tìm

bản chất của XHDS trong những nét đặc thù, trong tầm quan trọng của truyền thống

văn hóa (thường là những giá trị đạo đức), trong sự hình thành và phát triển nhân cách

của cá nhân cũng như trong tiến trình tạo dựng và phát triển mối liên kết bền vững của

đời sống cộng đồng và xã hội. Khi nhấn mạnh tính lịch sử cụ thể của truyền thống văn

hóa, những nhà nghiên cứu của học thuyết này muốn chỉ ra tính đa dạng của các mô

hình XHDS trên những nền văn hóa khác nhau, ở những quốc gia khác nhau.

Như vậy, với sự mở rộng các quan điểm khác nhau về XHDS cho chúng ta thấy

rằng không có một định nghĩa duy nhất, hoàn toàn đúng về XHDS và cũng không có

một mô hình mẫu XHDS bởi sự phát triển của nhận thức con người và các mối quan hệ

của họ là cả quá trình trong sự tác động qua lại và trong sự tương quan với các yếu tố

khác như KTTT, nhà nước pháp quyền, trình độ của mỗi cá nhân, xã hội. Do đó, việc

mỗi nước khác nhau sẽ lựa chọn cho mình một quan niệm về XHDS để hiện thực hóa

37

quá trình phát triển của mình là hoàn toàn có căn cứ, và việc áp đặt mô hình của nước

này vào nước kia là một sự vô lý cả về mặt nhận thức và thực tiễn. Do vậy, khái niệm

XHDS là một khái niệm mở và luôn được hoàn thiện trong quá trình phát triển.

Song dù vậy, để phục vụ mục đích nghiên cứu, trên cơ sở phân tích quá trình

phát triển các quan điểm, định nghĩa trên về XHDS, luận án đưa ra một định nghĩa về

XHDS như sau: XHDS là một không gian xã hội độc lập, một thiết chế quyền lực

ngoài nhà nước, không lẫn vào Nhà nước; nhưng không vượt ra khỏi sự kiểm soát,

điều tiết bằng luật của Nhà nước. Đây là không gian của các quan hệ giữa các cá

nhân trong xã hội, nơi người dân tập hợp nhau lại thành các tổ chức, các hội, hiệp

hội,v.v.. thực hiện các quyền của mình, hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ,

tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật và vì những lợi ích chung

của cộng đồng. Do vậy, hoạt động của xã hội dân sự không giới hạn ở một lĩnh vực cụ

thể nào của đời sống xã hội mà bao trùm lên tất cả. Từ khía cạnh chính trị, XHDS

phản ánh góc độ người dân tham gia vào các công việc của nhà nước, xã hội, thực hiện

quyền và lợi ích của mình. Ở góc độ này, cần phân biệt xã hội dân sự với hệ thống

chính trị, trong đó, các yếu tố của hệ thống chính trị (Đảng phái trong đó có Đảng cầm

quyền, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội) luôn là yếu tố quan trọng nhất lãnh đạo,

chỉ đạo điều tiết toàn xã hội. Từ góc độ thiết chế, XHDS là một thiết chế phi thị trường,

phi nhà nước, nhưng không vượt ra khỏi sự kiểm soát, điều tiết bằng luật của Nhà

nước hoạt động trên cơ sở sự liên kết tự nguyện của công dân. Từ khía cạnh văn hóa,

XHDS đề cao tính cộng đồng, sự gắn kết chung bởi những giá trị văn hóa ngôn ngữ,

truyền thống, tập quán sinh hoạt, các kỹ năng xã hội đặc thù, v.v.. Từ góc độ các mối

quan hệ, XHDS nằm trong mối quan hệ biện chứng giữa nền KTTT và nhà nước pháp

quyền, là cầu nối giữa nền KTTT và nhà nước. Từ khía cạnh mục đích, quản lý, XHDS

là một xã hội khởi điểm của sáng kiến, hành động để đi tới một cái đích, là sự thực

hành tự do, sự tham gia, bổ sung của con người trong các mối quan hệ xã hội giữa các

nhóm người khác nhau trong tổng thể và vào cái tổng thể.

38

2.1.2. Cơ sở ra đời của xã hội dân sự

Với những phân tích ở trên có thể thấy, XHDS ra đời trên cơ sở chính trị, kinh

tế, xã hội, văn hóa, v.v.. nhất định.

Về cơ sở chính trị, trong quá trình phân tích về khái niệm XHDS, chúng tôi thấy

rằng, XHDS chỉ ra đời khi ý thức chính trị, ý thức về sự tự do, về sự làm chủ của cá

nhân, công dân, ý thức về quyền dân chủ, quyền con người, ý thức về sự tham gia của

người dân đối với quyền lực chính trị, về vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình trong đời

sống xã hội đạt đến mức độ nhất định trước những tác động khác nhau của nhà nước,

của chế độ chính trị và ý thức này thể hiện trên quan hệ ràng buộc giữa cá nhân, công

dân và nhà nước được hiến pháp và pháp luật ghi nhận thông qua sự ký kết các khế

ước xã hội. Điều này có nghĩa là, dân chủ (thuộc tính đặc trưng, cơ sở, nền tảng của

XHDS) chỉ có thể xuất hiện trên một sự thỏa thuận mang tính khế ước giữa công dân

và nhà nước về việc hạn chế và phân chia quyền lực nhà nước để quyền lực ấy thực

chất thuộc về nhân dân. Chừng nào, sự thỏa thuận ấy bị phá vỡ, chừng ấy nhân dân có

quyền xác lập một khế ước mới bằng nhiều cách khác nhau, và đó cũng hoàn toàn là

quyền tự nhiên của con người [122, tr.371].

Như vậy, việc từng bước khẳng định quyền làm chủ của cá nhân, công dân hay

việc hiện thực hóa sự tự do của công dân hay cá nhân bằng pháp luật đã phản ánh xã

hội đã được tổ chức chặt chẽ bởi thiết chế pháp luật hay nói cách khác là chế độ nhà

nước pháp quyền được thiết lập. Đây cũng là cơ sở chính trị thứ hai, bên cạnh sự xuất

hiện ý thức chính trị của người dân đạt đến trình độ nhất định cho XHDS hình thành,

nói một cách khác, đây là một khế ước để xác định, bảo vệ tự do cá nhân, các quyền cơ

bản của cá nhân, công dân và quyền của nhà nước. Là cơ sở để phân biệt giữa đời sống

của nhân dân nói chung và đời sống nhà nước trên thực tế. Hay nói một cách cụ thể

hơn, chế độ này xác lập điều kiện tồn tại cho XHDS, xác định tính hợp pháp và đánh

dấu sự thừa nhận của nhà nước đối với sự tồn tại khách quan của XHDS bên cạnh nhà

nước, đảm bảo những nguyên tắc hoạt động cho cả nhà nước và XHDS [27, tr.39].

Về cơ sở kinh tế, xã hội dân sự không chỉ ra đời trên cơ sở chính trị biểu hiện

tiêu biểu trong quan hệ với nhà nước, mà nó còn bắt nguồn từ quan hệ sản xuất, khi sở

hữu tư nhân ra đời và phát triển như Adam Smith hay K.Mark đã luận giải. Sở hữu tư

nhân ra đời đã tạo động lực cho sự phát triển kinh tế hàng hóa, đẩy mạnh hơn nữa sự

39

phân công lao động xã hội, phân hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này đã

dẫn đến tính đa dạng hóa ngày càng tăng của cá nhân và phức tạp hóa các quan hệ xã

hội. Tính đa dạng này là hệ quả của quá trình hình thành cá nhân tự chủ, tự do, không

phụ thuộc vào quyền lực và có một trình độ tự ý thức công dân cho phép nó xây dựng

quan hệ của mình với cá nhân khác một cách hợp lý và hợp mục đích. Do đó, càng

ngày với sự phát triển của KTTT vai trò của cá nhân trong lĩnh vực sản xuất của cải

vật chất và các nguồn lực tự chủ của người dân trước chính quyền càng được xác lập,

do vậy một nền KTTT tự chủ là điều kiện quan trọng cho XHDS hình thành, phát huy

vai trò, chức năng của mình.

Về cơ sở xã hội đó là sự đồng thuận dựa trên các giá trị cốt lõi của con người

được hình thành trong các nhóm, tổ chức xã hội tự nguyện khi tham gia vào đời sống

xã hội tạo thành mạng lưới xã hội và vốn xã hội. XHDS giống như là một bức tranh

khổ rộng của cộng đồng, nó tìm kiếm sự tương đồng trên những khác biệt về lợi ích về

quan điểm nhằm đạt được công bằng và phúc lợi công cộng cho mọi người trong cộng

đồng chung. Do vậy, trên cơ sở các cấp độ can dự của công dân, điều quan trọng là cần

hiểu được rằng mức độ kết nối giữa các cá nhân hay các thực thể với nhau trong nội bộ

mạng xã hội có thể tạo ra những hiệu ứng rộng khắp toàn xã hội. Điều này thể hiện

qua việc các tác động ngoại hiện của các hiệp hội và việc tích lũy vốn xã hội6 có thể

ảnh hưởng tới cả những cá nhân với vốn xã hội bằng không, hoặc những người không

tham gia một mạng lưới nào. Những cộng đồng có mức độ kết nối và nguồn vốn xã

hội cao thường có thể tiến hành các hoạt động tập thể một cách dễ dàng hơn. Điều này

là do sự thẩm thấu những quy chuẩn đã được phát triển giữa các cá nhân và ngay trong

mạng lưới. Do đó các xu hướng, vốn ảnh hưởng tới các cá nhân, sau đó sẽ ảnh hưởng

tới một số khu vực hay toàn bộ mạng lưới và rộng hơn là toàn bộ xã hội.

Bên cạnh đó, những vấn đề xã hội như đói nghèo, bất công xã hội… cũng là cơ

sở cho việc hình thành nên XHDS. Những vấn đề đó đã khơi dậy lòng khoan dung và

thúc đẩy hành động của mỗi người dân, mỗi tổ chức trong xã hội. Họ ngày càng ý thức

được vị trí vai trò của mình, tham gia với ý nghĩ đó là nghĩa vụ của một công dân đối

6 Theo Bourdieu, vốn xã hội là tập hợp những nguồn lực thực tế hoặc tiềm tang gắn liền với việc nắm giữ một mạng lưới bền vững gồm các mối quan hệ quen biết và thừa nhận lẫn nhau ít nhiều được thể chế hóa”. Xem thêm tại trang nghiencuuquocte.net/2014/04/20/xa-hoi-dan-su-la-gi/#sthash.cN8owWAG.dpuf.

với nhà nước mình, quyền của một con người trong xã hội, hoặc đơn thuần chỉ nhằm

40

mục đích làm giảm những thiệt thòi cho những người nghèo, người yếu thế, chia sẻ với

họ những khó khăn trong cuộc sống. Họ coi đó như trách nhiệm với cộng đồng, xã hội

mà không mong được đền đáp lại. Điều này phản ánh quan niệm một XHDS đề cao

cộng đồng và nó hàm chứa các kỳ vọng con người đối xử với nhau.

Về cơ sở đạo đức, văn hóa và tư tưởng. Việc hình thành XHDS về cơ bản gắn

với sự tự ý thức của con người về tự do, lợi ích, nghĩa vụ pháp lý và nghĩa vụ đạo đức

như trong quan niệm về thành bang hay quan niệm của J.Locke, J.J.Rousseau, I.Kant,

của chủ nghĩa cộng đồng. Điều này xuất phát từ chỗ cá nhân không phải là những chủ

thể trừu tượng phi lịch sử mà luôn được hiểu trong mối liên hệ với một truyền thống

văn hóa cụ thể của một cộng đồng nhất định. Nhân sinh quan và thế giới quan của anh

ta bị chi phối mạnh mẽ bởi các giá trị của nền văn hóa nơi anh sinh ra; nhân cách, năng

lực tư duy cũng như các kỹ năng sinh hoạt và giao tiếp khác của anh ta được hình

thành và phát triển trong quá trình xã hội hóa, trong đời sống của cộng đồng. Quá trình

xã hội hóa đó là một tiến trình mở rộng không ngừng bản ngã cá nhân của con người.

Nói cách khác, bản sắc của anh ta luôn gắn liền với bản sắc văn hóa của cộng đồng.

Chính những yếu tố đặc thù về giá trị văn hóa, ngôn ngữ, tập tục sinh hoạt... là những

cái tạo ra mối gắn kết giữa các thành viên cùng sống chung trong một cộng đồng địa

phương nhất định. Khi cá nhân nhận thấy những nhận thức của họ về quyền lợi về tự

do, những giá trị và định hướng cuộc sống phần lớn bắt nguồn từ bối cảnh văn hóa

cộng đồng thì họ cũng ý thức được trách nhiệm của mình đối với sự phát triển của

cộng đồng. Khi lợi ích cá nhân, tự do cá nhân được nhận thức theo khía cạnh như vậy

thì việc thúc đẩy phát triển công ích (lợi ích cộng đồng) sẽ nhanh chóng nhận được sự

ủng hộ và tham gia tích cực của các thành viên trong cộng đồng [24, tr.134].

2.1.3. Đặc trưng của xã hội dân sự

Căn cứ vào các quan điểm khác nhau về XHDS như đã trình bày ở trên, có thể

rút ra một số đặc trưng cơ bản của XHDS như sau:

Đặc trưng thứ nhất, có sự thống nhất giữa cái gọi là XHDS về mặt lý luận và thể

chế xã hội dân sự. Hay nói cách khác, xã hội giờ đây được nhìn nhận ở 2 góc độ: Lý luận

và cái thực tồn. Về mặt lý luận, xã hội dân sự thể hiện là một kiểu quan hệ đặc biệt giữa

nhà nước với nhân dân, quan hệ này được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Trong

đó, nhà nước thừa nhận mỗi người dân trong một quốc gia đều có tư cách công dân bình

41

đẳng, nhà nước đảm bảo quyền lợi chính trị và sự tự do của công dân, còn công dân phải

có trách nhiệm, nghĩa vụ với nhà nước. Quan hệ này phải được ghi nhận trong Hiến pháp

và pháp luật vì trên thực tế không phải lúc nào nhà nước cũng đảm bảo tốt quyền lợi chính

trị của công dân và công dân không phải lúc nào cũng thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, chỉ

khi người dân và nhà nước xác lập cho mình một khế ước xã hội mang tính ràng buộc, bắt

buộc, ở đó luật pháp có nghĩa vụ bảo vệ, bảo đảm sự trao đổi lẫn nhau giữa quyền lợi

chính trị và nghĩa vụ pháp lý thì lúc đó quyền lợi của cả hai bên mới được đảm bảo. Do

vậy, pháp luật chính là cơ sở để ràng buộc mối quan hệ này và tất cả những điều này đều

được thực hiện thông qua biện pháp mang tính chế độ đó là dân chủ và pháp trị [47, tr.2].

Về mặt thực tồn phổ biến hiện nay, XHDS không phải là một xã hội lý tưởng mà là một

xã hội hiện thực ra đời và phát triển tự nhiên dưới tiền đề của KTTT của nhà nước pháp

quyền. Bên cạnh đó, cũng có những mô hình XHDS riêng biệt được xây dựng ở những

quốc gia mà cả nhà nước pháp quyền và KTTT chưa mạnh, điều này thể hiện tính đặc

thù của XHDS đã được đề cập đến trong những nghiên cứu trên.

Đặc trưng thứ hai, xã hội dân sự là một thiết chế xã hội đặc biệt, có mối quan hệ

khăng khít với các thiết chế xã hội khác trong quá trình tổ chức đời sống xã hội. Điều này

phản ánh cách tổ chức, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, đó chính là sự phân biệt các

lĩnh vực công, tư với nhau. Sự phân biệt này dựa trên sự khác biệt trong hoạt động xã

hội và sự tương tác của chúng, giữa một bên là mạng lưới gia đình với các quan hệ bạn

bè thân thuộc (khu vực tư) với một bên là các khu vực hoạt động khác nhau của xã hội

như xã hội dân sự, xã hội kinh tế, xã hội chính trị, pháp quyền và bộ máy nhà nước

(khu vực công) [71, tr.222-227]. Sự khác nhau giữa các khu vực hoạt động xã hội này

chịu sự quy định của tính chất, cấu tạo của các lĩnh vực. Nếu xét trong phạm vi hệ

thống dân chủ thì Nhà nước và pháp quyền là dựa vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động

của cơ sở pháp lý, cung cấp các yếu tố cốt lõi cho hệ thống dân chủ hiện đại. Trong

khi, xã hội chính trị, xã hội kinh tế, xã hội dân sự bao gồm các tổ chức và nhóm người

cụ thể xác định các tính chất đặc thù của hệ thống dân chủ đó. Các lĩnh vực này tương

tác và củng cố lẫn nhau. Xã hội chính trị bao gồm các tầng lớp chính trị ưu tú, chủ đạo

là các nhóm lãnh đạo, các chính trị gia, đảng phái, các tổ chức chính trị…các quan hệ

cạnh tranh cho quyền lực. Xã hội kinh tế đề cập đến các tổ chức kinh doanh theo đuổi

lợi nhuận kinh tế trên cơ sở sự liên kết chặt chẽ giữa lĩnh vực tư nhân, các doanh nhân,

42

thể chế tài chính, tầng lớp kinh tế trên cơ sở sở hữu tư nhân và kinh tế gia đình. Xã hội

dân sự bao gồm các nhóm, tổ chức, hiệp hội, tổ chức cộng đồng, địa phương, các tổ

chức hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể như môi trường, giáo dục, văn hóa, tôn giáo,

thể thao, cộng đồng…trên cơ sở sự tham gia tự nguyện của công dân. Điểm khác nhau

cơ bản giữa các hình thức tổ chức xã hội này là cách thức sử dụng quyền lực, mức độ

phổ biến, phạm vi ảnh hưởng của chúng ra toàn xã hội và sự tham gia của các tầng lớp

nhân dân trong xã hội. Nếu Nhà nước là thiết chế xã hội dựa vào quyền lực chính trị, thị

trường là thiết chế xã hội dựa vào quyền lực kinh tế có được trên quyền sở hữu, sự am

hiểu các quy luật thị trường, các nhu cầu kinh tế, thì XHDS dựa vào quyền lực của cộng

đồng, vào tính bình đẳng và tự nguyện của các cá nhân. Hay trong xã hội chính trị, xã

hội kinh tế mỗi cá nhân vẫn có quyền kiểm soát các hoạt động chính sách ngay cả khi

họ không đại diện hay ở trong một tổ chức nào đó, vì họ là những người ưu tú, họ có

quyền lực, có sức mạnh về kinh tế. Thì trong xã hội dân sự các thành viên cá nhân là

những người bình thường, tiềm lực kinh tế, chính trị đều yếu, do đó, họ phải thông qua

tổ chức của mình các nhóm, hội, hiệp hội trên cơ sở các lợi ích chung để làm gia tăng

sức mạnh chung nhằm thực hiện các mong muốn hàng ngày của chính họ, thực hiện

các lợi ích cộng đồng, giám sát, phản biện xã hội theo hướng có lợi cho mục đích

chung.

Song không dừng lại ở đó, trong tổ chức đời sống xã hội, mỗi người lại có

nhiều lợi ích khác nhau, do đó nó sẽ hình thành các nhóm, tổ chức thuộc nhiều hơn

một lĩnh vực, nó đan xen, nằm giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế, dân sự. Từ đó, xuất

hiện sự chồng chéo giữa xã hội dân sự và xã hội kinh tế bao gồm các liên đoàn lao

động, nhóm chuyên gia, những người sử dụng lao động các hiệp hội, các nhà sản xuất,

các nhóm lợi ích kinh tế và phi chính phủ. Các tổ chức này đều có liên quan, ảnh

hưởng đến kinh tế, chính trị, xã hội ở một mức độ nào đó tùy phạm vi, năng lực hoạt

động…mặc dù các thành viên lập nên các tổ chức này đều được dựa trên sự tự nguyện,

đều vì lợi ích chung. Đồng thời sự chồng chéo này cũng dẫn đến việc sẽ có những lực

lượng xã hội, truyền thông thỏa thuận với nhau vì lợi ích của nhóm, hội, nghiệp đoàn

mình mà đi ngược lại lợi ích chung. Đây cũng là cơ sở cho những mâu thuẫn, hạn chế

nảy sinh trong quá trình hoạt động của xã hội dân sự.

43

Đặc trưng thứ ba, xã hội dân sự mang tính chính trị. Tính chính trị này thường

gắn đại diện cho tính dân chủ của một hệ thống chính trị (kể cả khi nó được công nhận

hay không). Điều này được thể hiện ở hai điểm: Một là, từ khía cạnh lý thuyết, theo

phân tích ở trên XHDS chỉ ra đời khi ý thức chính trị của người dân đã đạt đến trình độ

nhất định. Hai là, từ phương diện thực tiễn hoạt động, XHDS là phương thức tổ chức

các hoạt động và dịch vụ của công dân cho chính bản thân họ và người khác (cộng

đồng) trên cơ sở các quy định của pháp luật. Các hoạt động này mang tính độc lập và

đóng vai trò là những thiết chế tự quản của nhân dân, tự chủ về tài chính, lĩnh vực hoạt

động. Họ tham gia và bù đắp vào những phần còn thiếu của nhà nước và góp phần

quan trọng là cầu nối giúp người dân thực hiện quyền tự do, dân chủ của mình, mặc dù

bản thân mục tiêu này thuộc về nhà nước. Lúc này người dân tức các cá nhân công dân

tồn tại với tính cách là “nhân tính tự do phổ quát” [122, tr.362]. Từ khía cạnh này, hoạt

động của XHDS là phi nhà nước, nhưng ở khía cạnh khác các thành viên của XHDS

cũng là những công dân, là những chủ thể thực sự của nhà nước - chính trị, được đảm

bảo đầy đủ các quyền cơ bản của một công dân. Do đó, khi tồn tại trong một thể chế

chính trị thì phải có nghĩa vụ, trách nhiệm tác động, ảnh hưởng, đóng góp, tham gia

vào các hoạt động chính trị, xã hội của nhà nước đó. Ở đó, người dân đề ra những mục

tiêu, giám sát và nỗ lực thực hiện các mục tiêu đó trên cơ sở sự đồng thuận nhằm mục

đích đáp ứng các yêu cầu chung của cộng đồng. Điều này cho chúng ta thấy, rõ ràng là

xây dựng XHDS không chỉ là làm gia tăng số lượng hiệp hội, nghiệp đoàn mà thực

chất là việc chuyển hóa thuộc tính công dân, đặt công dân là chủ thể của quyền lực nhà

nước, quyền lực nhà nước trở lại với nguyên nghĩa của nó là quyền lực của nhân dân.

Đặc trưng thứ tư, xã hội dân sự mang tính phi lợi nhuận, tức không trực tiếp

tìm kiếm lợi nhuận, nhưng những hoạt động của nó có thể thúc đẩy sự tìm kiếm lợi ích

chung của toàn xã hội. Điều này xuất phát từ chỗ xã hội dân sự được hình thành trong

quan hệ kinh tế giữa người với người, bản thân nó là biểu hiện cho sự thống nhất của

cá nhân đối với việc bảo vệ chung cho tự do và tài sản của họ. Chính vì thế, nó sẽ thôi

thúc các tổ chức của mình hoạt động nhằm tạo ra nhiều giá trị kinh tế nhất có thể để

đảm bảo cho tự do được thực hiện, do vậy, quan hệ của XHDS hoàn toàn có thể mang

tính kinh tế và tạo ra những động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

44

Đặc trưng thứ năm, xã hội dân sự mang tính đạo đức, luân lý, dân chủ và nó đi

cùng với sự trưởng thành về nhận thức của các cá nhân. Xuất phát từ nền tảng của

XHDS là quan hệ kinh tế (điển hình là nền KTTT), chính trị (tiêu biểu là nhà nước

pháp quyền), lịch sử, văn hóa - xã hội, ngôn ngữ, dân tộc, lãnh thổ, đạo đức, v.v.. nên

khi XHDS có nền tảng văn hóa, tư tưởng và có đặc thù của xã hội, văn hóa, tư tưởng

mà nó chịu ảnh hưởng. Do đó, nó có thể quy định nên tính gắn kết hoặc độc lập với

chính trị, có thể quy định nên tính gắn kết hoặc độc lập với kinh tế, hoặc nó có thể

được hình thành dựa trên những giá trị đạo đức luân lý khác nhau (ngoài dân chủ và tự

do) (ví dụ của Việt Nam là đoàn kết...). Đặc trưng này đã giải thích cho tính đa dạng

của mô hình XHDS đang tồn tại hiện nay. Nhưng đồng thời, nó cũng làm xuất hiện

những vấn đề của XHDS: Nếu quá đề cao vai trò của cộng đồng và các yếu tố văn hóa

truyền thống có thể dẫn đến việc coi nhẹ vai trò của quyền tự do cá nhân, không

khuyến khích việc theo đuổi các lợi ích cá nhân và có thể không khuyến khích tính tích

cực của các thành viên trong cộng đồng, từ đó dễ rơi vào thái cực của chủ nghĩa tương

đối văn hóa hoặc chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Tính đa dạng và đặc thù văn hóa không có

nghĩa là “loại bỏ các giá trị và chuẩn mực (nhân loại) phổ quát”, mà điều quan trọng ở

đây là “chúng ta cần phải bàn đến các giá trị và quy chuẩn để có thể đạt được sự đồng

thuận về các chuẩn mực tối thiểu cho cấu trúc và hoạt động của XHDS”. Hơn nữa,

những giá trị đạo đức được kiến tạo bởi các thành viên của cộng đồng văn hóa thuần

nhất có cùng nguồn gốc văn hóa, tín ngưỡng và các giá trị truyền thống khác (thường

gắn liền với các xã hội nông nghiệp, tiền tư bản) và thường thì các giá trị đạo đức, các

tập tục truyền thống thường được chấp nhận một cách thụ động và không phê phán. Ở

những xã hội đa văn hóa và đa tôn giáo, khi các thành viên liên kết với nhau không

phải trên những giá trị đạo đức, tôn giáo thuần nhất thì việc đề cao truyền thống và đạo

đức thuần nhất này sẽ làm cho việc phát triển XHDS gặp nhiều khó khăn [24, tr.156-

167].

Đặc trưng thứ sáu là về nguyên tắc hoạt động và lực lượng, cấu trúc của xã hội

dân sự: (1) XHDS hoạt động dựa trên nguyên tắc sự tham gia tự nguyện của công dân,

tự quản, tự chủ, tự tổ chức, tự chịu trách nhiệm, công khai, minh bạch, có tính mở và

độc lập không bị chi phối bởi các tổ chức lợi nhuận hay vì mục tiêu lợi nhuận; (2) cấu

trúc, thành phần của XHDS được hình thành với tư cách là một hệ thống các quan hệ

45

xã hội, hoạt động độc lập với các thiết chế khác trong xã hội. Cấu trúc này đa dạng,

không đồng nhất. Nó được hợp thành từ các cấu trúc thành phần kinh tế, chính trị, xã

hội, tác động qua lại lẫn nhau, có nội dung cụ thể và thực hiện vai trò, chức năng nhất

định. Ngoài ra, cấu trúc của XHDS còn được xem xét trên bình diện về các vấn đề như

sự tham gia sâu, rộng của nhân dân vào XHDS; tính đa dạng của các loại hình tổ chức

và các bên tham gia; quy mô các tổ chức bảo trợ và mạng lưới sẵn có; các nguồn lực

tài chính và nhân lực của các tổ chức đó; môi trường kinh tế - chính trị - xã hội mà các

tổ chức XHDS đang hoạt động. Cụ thể đó là: Các quỹ XHDS7, các tổ chức XHDS8 cụ

thể là các tổ chức xã hội điều tiết một lĩnh vực cụ thể dưới quy định của luật pháp; các

tổ chức là các hội nghề nghiệp, hiệp hội tự nguyện, các tổ chức phi chính phủ (NGOs)

hoặc phi lợi nhuận, các tổ chức cộng đồng, các tổ chức lòng tin, các tổ chức chuyên

gia cố vấn và các viện nghiên cứu, các phong trào xã hội, mạng lưới và các nhóm xã

hội phi chính thức, bán chính thức; (3) lực lượng của XHDS là tất cả mọi người dân tự

do và được đảm bảo các quyền cơ bản của con người, những cá nhân này có thể thuộc

các tổ chức chính trị - xã hội của nhà nước, các hiệp hội, nghiệp đoàn đại diện cho các

ngành nghề khác nhau trong KTTT, thành viên trong các gia đình với giá trị và chuẩn

mực riêng. Từ điểm này, có thể thấy XHDS đã góp phần liên kết các chủ thể xã hội

khác lại với nhau để tạo thành mạng lưới xã hội đồng thuận, tạo vốn xã hội cho quá

trình phát triển.

2.2. Những vấn đề lý luận chung về quyền con người

2.2.1. Khái niệm quyền con người 7 (Ví dụ quỹ xã hội dân sự của Ngân hàng thế giới nhằm trợ giúp các tổ chức phi lợi nhuận và các tổ chức xã hội dân sự để tăng cường năng lực giúp nâng cao hiệu quả phát triển, các hoạt động thúc đẩy hòa nhập xã hội, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân, các hoạt động nhằm củng cố quan hệ đối tác khu vực công, khu vực tư và các tổ chức xã hội dân sự khác). 8 Theo quan điểm của Ủy ban Kinh tế và xã hội châu Âu, tổ chức xã hội dân sự (Civil Society Organizations - CSOs) có thể được xác định theo một cách trừu tượng là tổng của tất cả các cơ cấu tổ chức mà các thành viên có cùng mục tiêu và trách nhiệm trong một vấn đề nào đó. Cụ thể hơn, nó là các tổ chức làm việc trong môi trường trung gian giữa những hộ dân, khu vực tư nhân và nhà nước để đàm phán về những vấn đề dân chúng quan tâm. Các tổ chức này có chức năng đại diện, cung cấp đầu vào về mặt kỹ thuật, vận động, cung cấp dịch vụ, xây dựng năng lực công dân và thực hiện các chức năng xã hội. Các tổ chức, phong trào xã hội và các nhóm này tạo nên cơ sở hạ tầng của xã hội dân sự, họ là tiếng nói, là phương tiện phản biện xã hội đồng thời là sự biểu hiện của giá trị, sở thích và cung cấp dịch vụ công cộng; cá nhân (công dân và người tham gia xã hội dân sự nói chung). Điều này bao gồm hoạt động của con người trong xã hội dân sự như: Tình nguyện, tư vấn, hỗ trợ cộng đồng, tổ chức sự kiện, phát huy các giá trị, các vốn xã hội, giá trị văn hóa, đạo đức, tinh thần... động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội dân sự. Hiện nay, các tổ chức xã hội dân sự ngày càng phát triển từ các tổ chức xã hội dân sự ở địa phương, đến tầm quốc gia và ngày nay nó đang hướng đến tính toàn cầu. Điều này thể hiện tính tự giác, chủ động, năng động, độc lập và linh hoạt của công dân ngày càng cao. Xã hội dân sự luôn đề cao tính địa phương và tính cộng đồng khi nó được thiết lập ở các quốc gia khác nhau và nó đều được hình thành dựa trên các giá trị cơ bản của đạo đức và đoàn kết xã hội.

46

Xét về nguồn gốc, tư tưởng quyền con người đã được đề cập đến từ lâu qua

những ý tưởng về nhân phẩm, về tự do của con người trong lịch sử của nhân loại dưới

các hình thức khác nhau trong tất cả các nền văn hóa và tôn giáo. Có thể thấy, hầu hết

các tôn giáo có điểm chung là con người đều từ một đấng tối cao sáng tạo ra và các

đấng tối cao này đều tạo ra con người theo hình ảnh của mình. Điều này được hiểu

giống như việc một tổ tiên chung của nhân loại sinh ra một nhân tính chung và từ đấy

phát sinh tính phổ quát của những quyền nào đó. Bởi vì, những quyền này bắt nguồn

từ một nguồn gốc thần thánh nên chúng không thể bị xâm phạm bởi quyền lực của con

người. Một điểm nữa của các tôn giáo là đều yêu cầu mọi người đối xử với người khác

như đối xử với chính mình, tôn trọng tự do của người khác như tôn trọng tự do của

mình và mọi người đều bình đẳng với nhau, bình đẳng trước các ân huệ của người

sáng tạo ra mình. Những đặc điểm này gần như là cơ sở cho sự ra đời của các quyền

con người, dù vậy, bên cạnh việc khẳng định mọi người do chúa sinh ra đều bình đẳng

nhưng nhiều tôn giáo khá là khắt khe với nô lệ, phụ nữ và những người vô đạo. Song,

nhiều nhà nghiên cứu vẫn tìm thấy những khả năng về sự lựa chọn những yếu tố tín

ngưỡng tôn giáo truyền thống để xây dựng một cơ sở văn hóa quốc tế rộng lớn hợp lý

ủng hộ nguyên lý đa dạng về sự bình đẳng và công bằng nền tảng cho quyền con người

quốc tế [160]. Quyền con người dưới góc cạnh này được gọi là quyền thực định.

Không dừng lại ở việc cho rằng nguồn gốc của quyền con người là do thần

thánh tạo nên, các nhà triết học, luật học đã phát triển học thuyết về quyền tự nhiên

trên cơ sở học thuyết về pháp luật tự nhiên. Pháp luật tự nhiên ban cho con người, các

cá nhân những quyền bất khả xâm phạm. Điều này xuất phát từ bản tính, nhu cầu, lợi

ích và lý trí của con người. Đặc tính tự nhiên của con người là có sự thôi thúc từ phía

xã hội để sống hòa bình và hoà thuận với người khác, bất cứ cái gì phù hợp với bản

chất xã hội có ý thức của con người là chân lý và công bằng; bất cứ cái gì đối lập với

bản chất con người và làm tổn hại đến hòa bình xã hội là sai lầm và bất công [164].

Nhờ đó, các quyền này là hiện thân của lẽ phải, công lý, tồn tại bẩm sinh, bất khả xâm

phạm và phải được chính phủ bảo vệ.

Tư tưởng về quyền tự nhiên tiếp tục được nêu lên trong tuyên ngôn độc lập của

Mỹ (1776) “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những

47

quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,

quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”[137, tr.19].

Cùng với sự ra đời của nhà nước Mỹ, việc công nhận tư tưởng này trong bản

Tuyên ngôn độc lập Mỹ đánh dấu một bước phát triển từ lý thuyết trở thành luật định.

Từ đây, quyền con người có cơ sở để hiện thực hóa trong quan hệ đời sống con người

thông qua công cụ luật pháp - văn bản quy định các quan hệ trong xã hội con người.

Đến Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1789), “con

người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do, bình đẳng về

quyền lợi… mục đích của các tổ chức chính trị là gìn giữ các quyền tự nhiên và không

thể bị tước bỏ của con người, các quyền này là quyền tự do, quyền sở hữu, quyền được

đảm bảo an ninh và chống áp bức”[137, tr.16]. Tư tưởng này bắt nguồn từ quan điểm

của Jacques Rousseau (1712-1778) khi cho rằng, việc xác định các quyền con người

dựa trên những khế ước xã hội. Từ sự ra đời của bản tuyên ngôn này, các quyền con

người không những đã được mở rộng mà điểm đặc biệt là nó còn được các tổ chức

chính trị bảo vệ, giữ gìn. Quan điểm này gần với quan niệm của chủ nghĩa thực chứng

khi cho rằng mọi quyền lực đều có nguồn gốc từ nhà nước và mệnh lệnh của công

chức. Nguồn gốc của các quyền con người chỉ có thể được tìm thấy trong những đạo

luật của hệ thống luật pháp cùng với những chế tài về nó. Quan niệm này đã đóng góp

cho sự phát triển của hệ thống pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người sau này.

Nhất là vào các tình huống vi phạm hoặc thực thi, bảo vệ các quyền đặc thù trong

quyền con người.

Với những tư tưởng ở trên, chúng ta có thể thấy hai cách luận giải về nguồn gốc

của quyền con người. Một quan điểm căn cứ vào bản chất tự trị của quyền con người

(quyền tự nhiên) và quan điểm khác thì dựa vào ý chí của tổ chức quyền lực (luật thực

chứng). Hiện nay, quyền con người được hiểu theo một cách mới, xuất phát từ căn cứ

xem con người trong các quan hệ xã hội, đặc biệt là trong vấn đề vi phạm quyền con

người trong xã hội có giai cấp, vấn đề tổ chức quyền lực vi phạm quyền con người. Học

thuyết Mác - Lênin đã chứng minh điều này xuất phát từ con người là một thực thể

thống nhất giữa yếu tố sinh vật và xã hội, quyền con người được hiểu là sự thống nhất

biện chứng giữa quyền tự nhiên (như một đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có)

và quyền xã hội - sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan

48

hệ xã hội). Quyền con người là sức mạnh, là khát vọng, nhu cầu tự do, giải phóng con

người trong sự thừa nhận, đảm bảo của xã hội bằng pháp luật. Quyền con người phải

được hiện thực hóa trong thực tế bằng các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,

“quyền không bao giờ có thể ở một mình cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn

hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định” [122, tr.72].

Như vậy, có thể định nghĩa quyền con người là những đặc tính xuất phát từ

phẩm giá và nhu cầu9 vốn có của con người, được pháp luật ghi nhận và đảm bảo. Đây

là một phạm trù xã hội tổng hợp, là sự giới định và thừa nhận về mặt xã hội của những

nhu cầu mà con người giành được với tư cách là một thực thể trong xã hội nhằm khẳng

định mình là một sinh vật có tính loài, một nhân tính tự do. Vì thế, quyền con người

mang tính phổ biến, đặc thù, mang bản chất xã hội sâu sắc. Quyền là quyền của con

người trong mối quan hệ với người khác, nhờ đứng trong quan hệ với người khác mà

cá nhân mới có tự do, được thực hiện tự do [122, tr.72-79]. Xuất phát từ quan điểm

này nên các quan niệm về quyền con người về sau đều được giải quyết trong quan hệ

giữa cá nhân với xã hội, giữa tính nhân loại với tính giai cấp, giữa các giá trị đạo đức

với pháp luật và quyền lực, giữa quan hệ quốc tế với lợi ích quốc gia, giữa khả năng và

nhu cầu tự nhiên với những nỗ lực chủ quan.

Từ đó cho thấy, việc xem xét quyền con người dưới góc độ quyền tự nhiên bẩm

sinh, quyền chính trị là chưa đủ mà còn phải tính tới các quyền khác như quyền kinh

tế, xã hội, văn hóa. Điều này càng được củng cố khi chiến tranh thế giới xảy ra, những

vi phạm về đời sống của người dân, quyền của các nhóm dân tộc thiểu số, quyền của

người lao động… bị vi phạm. Để hiện thực hóa và bảo vệ các quyền con người ngang

nhau, năm 1945 Liên Hiệp quốc (LHQ) đã thống nhất nêu ra Bản Hiến chương về

nhân quyền, chính thức đưa quyền con người vào lĩnh vực luật pháp quốc tế. Đến năm

1946, Ủy ban Nhân quyền LHQ ra đời và đã thảo ra Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế

trình lên đại hội đồng LHQ, đến năm 1948, Tuyên ngôn này đã được thông qua và có

hiệu lực trên toàn thế giới [167, tr.264]. Ngày nay, với các tuyên ngôn này, quyền con

9 Theo nhóm tác giả Đặng Chí Dũng và Hoàng Văn Nghĩa thì hệ thống các nhu cầu của con người mang tính thiết yếu và giữa các nhu cầu có quan hệ thống nhất và không thể tách rời, hơn nữa trong đó có các nhu cầu là cần phải được đảm bảo trước tiên - những nhu cầu làm tiền đề, làm nền tảng cho việc thực hiện được các nhu cầu khác. Điều này tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi quốc gia.

người hiển nhiên được thể hiện trong các quan niệm khác nhau, được chấp nhận ở các

49

quốc gia khác nhau. Nó xuất phát từ nguyên tắc được thừa nhận, được đòi hỏi bằng

những mục đích có thể chấp nhận được như hòa bình, công lý xét về mục đích xã hội

và nhân phẩm, hạnh phúc cùng sự hưởng thụ xét về mục đích cá nhân, các quốc gia

thành viên của các văn kiện quốc tế tuyên bố và thừa nhận các quyền con người, xác

định nội dung và những hệ quả của nó trong các tổ chức chính trị và trong hệ thống

các quốc gia. Đây là một khía cạnh quan trọng để quyền con người được đảm bảo

trong thực tiễn.

Như vậy, qua quá trình phát triển tư tưởng quyền con người cho thấy, quyền

con người là khái niệm có nội dung rộng lớn, phức tạp với những đặc điểm nhất định.

Nó vừa mang tính trừu tượng với ý nghĩa là một quan niệm, xu hướng, khát vọng, lại

vừa mang tính trừu tượng với ý nghĩa cụ thể với những nội dung xác định như trong

Hiến chương và Tuyên ngôn về quyền con người của Liên hợp quốc quy định.

2.2.2. Một số đặc điểm của quyền con người

Thứ nhất, bản thân từ “quyền” dưới góc độ pháp lý, chính trị và đạo đức thường

được gắn với các lý thuyết về “lợi ích” về “bình đẳng” và các khái niệm trong một xã

hội tốt đẹp. Theo nghĩa triết học quan niệm về quyền thường được xem là khả năng tự

do lựa chọn hành động của mình và có cơ hội thực hiện hành động đó, cụ thể hơn đó là

sự lựa chọn đến với hạnh phúc, tiện nghi, tiến bộ, v.v.. Nó xuất phát từ các nguyên tắc

được chấp nhận, hoặc được đòi hỏi bằng những mục đích của xã hội có thể chấp nhận

được như hòa bình, công lý; mục đích cá nhân như nhân phẩm con người, hạnh phúc

và sự hưởng thụ. Do vậy, quyền con người gắn liền với quyền cá nhân“được hiểu

chung là những quyền cấu thành và vốn có của con người”,“quyền con người là quyền

có từ lúc sinh ra của tất cả mọi người” [139, tr.16]. Mọi người đều có hoặc có được

các quyền - đó là những yêu sách về tính đúng đắn, hợp lý và chính đáng trong xã hội

như những yêu sách với tài sản với các lợi ích khác nhau về tự do, bình đẳng, tiện

nghi, tiến bộ,v.v.. Các nội dung về quyền này phản ánh một quan niệm chung về sự

công bằng, bình đẳng, đúng đắn.

là không thể tước đoạt, chuyển nhượng, không phân chia, không phân biệt đối xử10; quyền con người có tính phổ quát, đặc thù, tính liên hệ, phụ thuộc vào nhau.

10 Nguyên tắc Limburg về việc thực hiện của ICESCR cũng chỉ ra rằng một sự phân biệt rõ ràng giữa quyền dân sự và chính trị trên một mặt và các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa trên khác là không chính xác.

Thứ hai, quyền con người có những đặc trưng nhất định như: quyền con người

50

Về các đặc trưng này cần làm rõ hơn như sau:

Xuất phát từ những nguyên tắc hình thành quyền con người như trong điểm thứ

nhất, điều 1, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR, 1948) có viết: “Mọi

người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và

phải đối xử với nhau trong tình bác ái”[210]. Điều này đã nói lên rằng quyền con

người thuộc về mọi người ở trong mọi xã hội. Bởi xuất phát từ “tính người” nên tất cả

mọi người đều phải có những quyền này một cách bình đẳng không lệ thuộc vào giới

tính, chủng tộc, lứa tuổi, tôn giáo, không lệ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, xã hội, văn

hóa, lịch sử của quốc gia nào đó. Quyền con người chỉ ra tính nhân văn của mỗi người

và nó là phổ quát, bất khả xâm phạm và không thể bị chuyển nhượng.

Về tính phổ quát của quyền con người, có quan điểm cho rằng, những gì bẩm sinh,

vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình

nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì [129, tr.24]. Quan điểm này

chưa nhận được sự đồng tình của nhiều nhà nghiên cứu bởi nếu như vậy mọi cá nhân đều

phải được đảm bảo các quyền con người như nhau và với những cách thức giống nhau mà

không căn cứ vào trình độ văn hóa, xã hội, kinh tế cụ thể của mỗi quốc gia, hay nói cách

khác không căn cứ vào tính đặc thù của từng quốc gia. Do đó, cần xem xét tính phổ quát

của quyền con người trong mối liên hệ với tính đặc thù của quyền con người.

Trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền và tất cả các văn kiện quốc tế khác về

quyền con người đều nhấn mạnh tới đối tượng được hưởng những quyền được liệt kê

trong đó là tất cả mọi người: “Mọi người được trao tất cả các quyền và tự do được ghi

nhận trong Tuyên ngôn này mà không bị bất cứ sự phân biệt nào, chẳng hạn về chủng

tộc, màu da, giới tính…” quy định này trên thực tế đã xóa bỏ khả năng giới hạn nội

hàm của các quyền, nhờ đó không ai có thể tước bỏ của những người khác quyền được

hưởng các quyền con người vì những lý do tự nhiên và xã hội. Đây là một đặc trưng

quan trọng của các quyền con người, nó mang tính phổ biến. Vậy những nội dung

quyền con người mang tính phổ biến là gì. Điều này hiện nay vẫn là vấn đề còn tranh

cãi, chẳng hạn có những quốc gia giới hạn tính phổ biến của họ ở các quyền tự do

chính trị, ngôn luận và ở những quốc gia khác là quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.

Về điểm tranh cãi trên, có quan điểm cho rằng, hiểu tính phổ quát của quyền

con người là các quyền được chấp nhận và tuân thủ bởi người dân của tất cả các nước,

51

đó là những chuẩn mực chung được các quốc gia theo đuổi và thực hiện. Nội dung của

các quyền này chủ yếu được quy định trong các văn kiện quốc tế về quyền con người

mà LHQ đã thông qua. Trung tâm của các quyền con người phổ quát không phải các

cá nhân hay mối liên hệ của các quyền giữa các cá nhân. Chúng là chủ nghĩa nhân đạo,

nhân phẩm và giá trị con người, sự tiến bộ của xã hội loài người và tính phổ quát này

xuất phát từ tính đa dạng của các nền văn hóa [157, tr.391].

Biểu hiện cụ thể của tính phổ biến của quyền con người là sự bình đẳng về nhân

phẩm và năng lực pháp luật của mỗi cá nhân trong việc được tôn trọng và phát triển về

nhân phẩm (thông qua khả năng được thụ hưởng các quyền). Còn biểu hiện cụ thể của

tính đặc thù của quyền con người là những cách thức và phạm vi hợp lý, tất yếu trong

việc bảo đảm các quyền và tự do của con người xuất phát từ năng lực thực tế của mỗi

quốc gia, do điều kiện, hoàn cảnh khách quan về kinh tế, văn hóa, xã hội… của quốc

gia quy định [157, tr.334-335].

Như vậy, cơ sơ của tính phổ biến của quyền con người là các cá nhân đều bình

đẳng, những nhu cầu của con người phải được tạo mọi điều kiện để thỏa mãn tính phổ

biến của những nhu cầu được đáp ứng. Biểu hiện của nó là: số lượng các quyền; thuộc

về mọi cá nhân; các nhóm quyền cụ thể (dân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội).

Còn về tính đặc thù của quyền con người, cơ sở hình thành nó chính là công

dân và thẩm quyền nhà nước đối với quyền công dân. Các cơ sở kinh tế, chính trị, xã

hội của quyền đó sẽ được bảo đảm. Biểu hiện của tính đặc thù: Phạm vi, số lượng các

quyền tự do; giới hạn mỗi quyền; những điều kiện khác nhau với mỗi công dân.

Trên cơ sở tính phổ quát và tính đặc thù của quyền con người đã dẫn đến Tính

không thể chuyển nhượng: thể hiện ở chỗ, các quyền con người không thể bị tước bỏ

hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả nhà nước, trừ những

trường hợp bản thân người đó vi phạm những chuẩn mực của xã hội được pháp luật

bố Viena

Chương

người"

Tuyên

động

hành

trình

năm

con

11 Phần I, điều 5 khẳng định: "Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ biến, không thể chia cắt, phụ thuộc và liên quan đến nhau. Cộng đồng quốc tế phải đối xử với các quyền con người trên phạm vi toàn cầu một cách công bằng, với cùng một nền tảng và coi trọng như nhau. Trong khi phải luôn ghi nhớ tầm quan trọng của tính đặc thù về dân tộc, khu vực cũng như bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hoá và tôn giáo; các quốc gia, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hoá, có nghĩa vụ thúc đẩy và bảo vệ tất cả các quyền và tự do cơ bản của 1993, http://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%C3%AAn_b%E1%BB%91_Vi%C3%AAn_v%C3%A0_Ch%C6%B0%C6%A 1ng_tr%C3%ACnh_H%C3%A0nh_%C4%91%E1%BB%99ng.

bảo vệ; Tính không thể phân chia11: các quyền con người đều có tầm quan trọng như

52

nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào bởi

hạn chế hay vi phạm quyền nào đều ảnh hưởng đến nhân phẩm và giá trị của con

người. Song như trên đã phân tích, xuất phát từ tính đặc thù của quyền con người thì ở

những quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mình có thể ưu tiên thực hiện

một số quyền con người nhất định. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của các quyền

con người thể hiện ở chỗ bất kỳ một quyền nào được bảo đảm hay vi phạm đều tác

động tích cực hay tiêu cực lên các quyền khác.

Thứ ba, quyền con người được sử dụng để biểu thị một loạt các quyền khác nhau,

từ quyền sống đến quyền thụ hưởng các nhu cầu khác nhau, được chia làm các nhóm

quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền đoàn kết, phát triển, môi trường,

quyền của các nhóm, v.v.. Chúng liên quan đến tất cả các điều kiện tiên quyết cơ bản

cho sự tồn tại của một con người. Các quyền này được cụ thể ở các quốc gia với những

thể chế chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa khác nhau. Mặc dù vậy, trên khía

cạnh luật nhân quyền quốc tế thì điều quan trọng là các quyền con người là phổ quát,

chúng có mối quan hệ với nhau và không có sự phân biệt đối xử giữa các quyền.

Thứ tư, quyền con người là các quyền chứ không phải khát vọng hay lợi ích,

đặc ân mà xã hội ban phát cho. Nghĩa là, chủ thể quyền được đảm bảo bằng trật tự đạo

đức và trật tự pháp lý của xã hội nhất định. Khi xã hội thừa nhận rằng con người có

quyền nào đó và khẳng định, hợp pháp hóa và thể chế hóa nó, xác lập nó cùng với các hệ giá trị khác của xã hội thì đã tạo ra cho các quyền có sức nặng trong tương quan với

các hệ giá trị xã hội khác. Để làm được điều này xã hội phải có nghĩa vụ tôn trọng các

quyền, vạch kế hoạch huy động các nguồn lực để nhằm thỏa mãn những yêu sách ngay

cả khi những yêu sách này xuất phát từ nguyên tắc đạo đức điều chỉnh các quan hệ

giữa người với người. Đây chính là cơ sở cho việc thực hiện quyền con người.

Thứ năm, một điểm quan trọng trong các quan niệm về quyền con người là chỉ ra quan hệ giữa quyền của mỗi cá nhân đối với lợi ích công cộng khác. Các cá nhân có nghĩa vụ đối với người khác và đối với cộng đồng, xã hội nên cá nhân có thể được yêu cầu từ bỏ một số quyền của mình vì lợi ích chung. Một số quyền có thể bị giới hạn trong những trường hợp ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng. Điều này cũng có căn nguyên từ những nguyên tắc chính trị - đạo đức, nguyên tắc này vô hình

chấp nhận một số giới hạn quyền cá nhân vì lợi ích chung - bảo vệ xã hội khỏi sự rối

loạn từ bên trong và chống phá từ bên ngoài nhằm đảm bảo phúc lợi chung. Ví dụ như,

việc đánh thuế là một hình thức lấy đi tài sản cá nhân cho phúc lợi chung, điều này

53

cũng nhận được sự đồng thuận từ phía các cá nhân. Hoặc, việc ký kết các khế ước xã

hội cũng là biểu hiện của sự đồng thuận trong việc giới hạn các quyền cá nhân vì những mục tiêu chung của xã hội.

Thứ sáu, quyền con người gắn với quyền công dân, mỗi người ngoài tư cách

con người thì cũng là công dân của một quốc gia nhất định, họ có quyền công dân.

Quyền công dân là những quyền con người của cá nhân được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình. Chỉ những người tồn tại với tư cách là cá nhân của một nhà nước nhất định, có quốc tịch ở nước đó mới được hưởng các quyền công dân.

Không phải quyền công dân ở mỗi quốc gia đều giống nhau và đều hoàn toàn tương thích với luật quốc tế. Trong trường hợp quyền con người và quyền công dân trùng

nhau, công dân được áp dụng quyền công dân, người phi công dân thì áp dụng quyền

con người. Trong trường hợp không trùng nhau, hệ thống luật quốc tế sẽ là cơ sở, tiêu

chuẩn để giải quyết các vi phạm quyền nảy sinh.

Như vậy, về hình thức biểu hiện, quyền con người được quy định trong Hiến

pháp - đạo luật cơ bản của quốc tế và quốc gia. Quyền con người được ghi nhận trong

luật quốc tế về quyền con người. Đây là những quy phạm có tính ràng buộc, điều

chỉnh trách nhiệm của các chính phủ trong việc tôn trọng và thực thi các cam kết quốc

tế về các quyền con người theo tiêu chuẩn quốc tế như các công ước, tuyên bố... hệ

thống luật này xác định trách nhiệm và nghĩa vụ của quốc gia thành viên với việc nội

luật hóa các quyền và xây dựng, thực thi chính sách, chương trình phù hợp với luật

quốc tế về quyền con người. Từ đó, đưa ra các giải pháp để thực hiện và bảo đảm

quyền con người. Về giá trị pháp lý, quyền con người là cơ sở để nhà nước quy định

các quyền và nghĩa vụ cụ thể trong các văn bản pháp luật khác; Về giá trị thực tế,

quyền con người không chỉ phản ánh chất lượng sống của các cá nhân mà còn thể hiện

tính chất dân chủ, nhân đạo và tiến bộ của một nhà nước.

2.2.3. Các thế hệ quyền con người

Hiện nay, đang tồn tại nhiều cách phân loại quyền con người12, trong đó, cách

phân loại phổ biến nhất là cách chia quyền con người theo các thế hệ của quyền do

12 Chia thành quyền cơ bản, không cơ bản: Quyền cơ bản như quyền được sống, được tự do, được bảo vệ, quyền tham gia (điều kiện tiên quyết để bảo vệ các loại quyền khác của con người) và bất khả xâm phạm của con người, quyền này được ưu tiên tuyệt đối trong chính sách quốc tế và quốc gia. Chia thành các khía cạnh như tự do; Quyền tự do dân sự; Quyền cá nhân và tập thể; các thế hệ quyền (thế hệ thứ nhất: Nhóm quyền dân sự, chính trị; thế hệ thứ 2 nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội; thế hệ thứ 3 quyền tập thể: Quyền tự quyết dân tộc, quyền phát triển; quyền với các tài nguyên thiên nhiên…) Xem tại http://www.humanrights.is/the-human-rights project/humanrightscasesandmaterials/humanrightsconceptsideasandfora/theconceptsofhumanrightsanintroductio n/implementation/. Hay chia thành quyền tồn tại như một thực thể sinh học có nhân tính (khác con vật bản năng, thú tính). Quyền phát triển như một chủ thể mang nhân cách.

Karel Vasak - nhà luật học người Czech đưa ra từ năm 1977 và từ đó đến nay được nhiều

54

nhà nghiên cứu về quyền con người sử dụng như là tiêu chí chung trong việc phân chia

các quyền con người. Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển tư tưởng và pháp luật về

quyền con người ở châu Âu, Karel Vasak cho rằng, trong lịch sử phát triển quyền con

người đã hình thành ba thế hệ quyền con người.

Thế hệ quyền con người thứ nhất: các quyền dân sự, chính trị.

Theo Vasak, thế hệ quyền con người thứ nhất hướng vào hai vấn đề chính là tự

do và sự tham gia vào đời sống chính trị của các cá nhân. Thế hệ này bao gồm các

quyền và tự do cá nhân tiêu biểu như quyền sống, quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo

tín ngưỡng, tự do biểu đạt, quyền được bầu cử, ứng cử, quyền được xét xử công bằng,

v.v.. Các quyền này gắn liền với phạm trù tự do cá nhân, hay còn được gọi là các quyền

thụ động bởi trong quá trình thực hiện quyền đòi hỏi các quốc gia không can thiệp, trực

tiếp hay gián tiếp vào việc thụ hưởng quyền của cá nhân. Đây là một phạm trù mà ở góc

độ nhất định, mang tính đối trọng với phạm trù quyền lực của Nhà nước. Mục đích của

thế hệ quyền này về cơ bản là để hạn chế, ngăn chặn sự lạm quyền và sự tuỳ tiện xâm hại

đến cuộc sống tự do của cá nhân con người từ phía các quan chức và cơ quan nhà nước.

Căn cứ tư tưởng của quyền con người thế hệ thứ nhất là học thuyết luật tự nhiên ở

thế kỷ XVII-XVIII như đã trình bày ở trên với những quan niệm về quyền tự nhiên, bẩm

sinh không thể tước bỏ của con người. Những quyền này phải được thừa nhận và đảm bảo

bằng chế độ nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên, quan niệm về quyền con người của học

thuyết quyền tự nhiên mang màu sắc chủ quan, nhân bản trừu tượng. Những hy vọng

của học thuyết pháp lý tự nhiên vào thiên đường chủ nghĩa tư bản về tự do và bình

đẳng cho tất cả mọi người là hoàn toàn chưa khách quan về mặt lịch sử. Ngày nay, một

số người nhấn mạnh chủ nghĩa nhân bản trừu tượng của học thuyết này có mục đích

tuyên truyền cho cái gọi là: “Nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “nhân quyền không có

biên giới quốc gia”, sẽ làm cho học thuyết mất đi những tiến bộ lịch sử của nó và

nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác.

Xét trên các phương diện lịch sử và chính trị, sự phát triển của thế hệ quyền con

người thứ nhất gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản lật đổ chế độ phong kiến.

Các quyền thuộc thế hệ này, về bản chất chính là những tư tưởng về các quyền tự nhiên

được hình thành và được cổ vũ trước và trong các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu, sau

đó được ghi nhận trong các văn bản pháp luật về quyền công dân của các nhà tư sản.

55

Cùng với hệ thống quyền con người nói chung, các quyền dân sự, chính trị được chính

thức pháp điển hoá trong luật quốc tế kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt,

với việc Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người và Công

ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966.

Trong thời kỳ “Chiến tranh lạnh”, các quyền dân sự, chính trị là trọng tâm trong

cuộc vận động về quyền con người của phe các nước tư bản chủ nghĩa. Điều này trước

hết bắt nguồn từ thực tế là trong xã hội tư sản một số quyền dân sự, chính trị, cụ thể

như quyền sở hữu tư nhân về tài sản, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín

ngưỡng, tôn giáo… được coi là những giá trị nền tảng, bất khả xâm phạm trong đời

sống và nền văn hoá ở nhiều nước tư bản. Chính vì vậy, cho đến ngày nay, các nước tư

bản chủ nghĩa vẫn tiếp tục cổ vũ rất mạnh mẽ cho việc pháp điển hóa và hiện thực hoá

thế hệ quyền này trên thế giới.

Thế hệ quyền con người thứ hai: Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.

Thế hệ quyền con người thứ hai hướng vào việc tạo lập các điều kiện và sự đối

xử bình đẳng, công bằng cho mọi công dân trong xã hội. Bao gồm quyền được học tập,

lao động… và các quyền khác được liệt kê tại Điều 22-26 Tuyên ngôn nhân quyền

quốc tế (UDHR), đồng thời tiếp tục phát triển và đặt ra các chỉ tiêu như hiệp ước ràng

buộc trong công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội - ICESCR). Các quyền này cung

cấp các điều kiện cần thiết cho sự thịnh vượng và hạnh phúc. Quyền kinh tế, ví dụ,

quyền sở hữu, quyền làm việc, tự do lựa chọn hoặc chấp nhận, quyền được có một

mức lương công bằng, hạn chế hợp lý số giờ làm việc, và quyền công đoàn. Quyền xã

hội, là những quyền cần thiết cho một tiêu chuẩn sống phù hợp, bao gồm các quyền

đối với sức khỏe, chỗ ở, thực phẩm, chăm sóc xã hội, và quyền được giáo dục (xem

Điều 6 đến 14 ICESCR) và quyền văn hóa (các quyền văn hóa tại các Điều 27 và 28:

Quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng, quyền được chia sẻ trong

tiến bộ khoa học và quyền được bảo vệ quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ bất

kỳ khoa học, văn học hay sản phẩm nghệ thuật (xem thêm Điều 15 ICESCR và Điều

27 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR)).

Các quyền này được đề xướng và vận động mạnh mẽ từ cuối thế kỷ XIX, và bắt

đầu được quan tâm bởi một số chính phủ kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất

khi chủ nghĩa tư bản khủng hoảng, đời sống của giai cấp công nhân và tầng lớp nhân

56

dân vô cùng khó khăn, lúc đó dưới sự đả kích của những người theo chủ nghĩa tự do

mới, một số nhà nước tư sản đã ban hành các chính sách phúc lợi xã hội13 để cải thiện

đời sống nhân dân. Nhưng phải đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin với sự xuất hiện của

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, gắn liền với vai trò và sứ

mệnh giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột của giai cấp công nhân [133, tr.38] và

sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa Liên xô thì các quyền xã hội cơ bản của con

người mới được hiện thực hóa. Bên cạnh đó, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) ra đời

với hàng loạt các chính sách thúc đẩy quyền lao động, việc làm của người lao động đã

là động lực chính để các công ước về nhóm quyền này được Liên hợp quốc ghi pháp

điển hóa trong luật quốc tế về quyền con người thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về

quyền con người năm 1948 và đặc biệt là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn

hoá, xã hội năm 1966.

Như vậy, rõ ràng là nếu các quyền con người ở thế hệ thứ nhất là các quyền thụ

động, thì ở thế hệ quyền con người thứ hai này là các quyền chủ động vì việc thực hiện

nó đòi hỏi nhà nước, chính quyền phải đưa ra các chính sách, chương trình phù hợp,

phải thông qua hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để đảm bảo việc hiện thực hóa các

quyền của người dân.

Thế hệ quyền con người thứ ba: Quyền đoàn kết, quyền tập thể, quyền phát

triển, quyền về môi trường

Những quyền này xuất hiện từ thập niên 70 của thế kỷ XX, khi xu hướng toàn

cầu hóa về kinh tế mở rộng, làm xuất hiện nhiều vấn đề toàn cầu như đói nghèo, ô

nhiễm môi trường… ảnh hưởng tới các nước, làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau và

làm cho quyền của cá nhân, của tập thể bị xâm phạm. Hơn nữa, việc ra đời của thế hệ

quyền này, nhất là quyền phát triển đã phản ánh sự nỗ lực, cố gắng của các nước thuộc

thế giới thứ ba trong việc thiết lập một quan hệ bình đẳng về thương mại, tài chính,

khoa học kỹ thuật với các nước phát triển.

Xét về tính chất, thế hệ quyền con người thứ ba là sự trung hoà nội dung của cả

13 Một ví dụ điển hình trong số đó là chính sách xã hội của thủ tướng Đức Bismarck (1815-1898), thủ tướng đầu tiên của nước Đức thống nhất. Trên cơ sở Tuyên ngôn Keider(1881), nước Đức dưới sự lãnh đạo của Bismarck đã thiết lập một hệ thống bảo trợ xã hội thống nhất trên toàn quốc mà trọng tâm là bảo hiểm xã hội. Từ năm 1919, Hiến pháp của nước này đã quy định quyền được bảo hiểm xã hội trong các trường hợp già yếu, bệnh tật…

hai nhóm quyền dân sự, chính trị và quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, song đã đặt chúng

57

trong những bối cảnh mới và trong khuôn khổ các quyền của nhóm. Về tính pháp lý,

ngoại trừ một số quyền như quyền tự quyết dân tộc, hầu hết các quyền trong thế hệ thứ

ba chưa được pháp điển hoá bằng các điều ước quốc tế, mà mới chỉ được đề cập trong

các tuyên bố, tuyên ngôn (các văn kiện luật mềm (soft law) - không có hiệu lực ràng

buộc về pháp lý). Tính pháp lý và tính hiện thực của hầu hết các quyền trong thế hệ

này hiện vẫn đang là chủ đề gây tranh cãi. Với tình hình này, các nhà nước, các tổ

chức xã hội dân sự quốc tế đang rất nỗ lực, huy động mọi nguồn lực để đảm bảo phần

nào các quyền cơ bản này cho người dân, nhất là người dân ở các nước đang phát

triển.

Về cơ bản bởi các quyền con người trước đây đề cao quyền cá nhân, để bảo vệ

cá nhân trước tập thể, quyền con người là một công cụ để chống lại sự áp chế quyền

của đa số lên thiểu số, nhưng tới thế hệ quyền thứ 3 lại phát triển quyền của tập thể,

tức là mâu thuẫn với ý niệm ban đầu về quyền con người. Tuy nhiên, nếu xét tới các

quyền như quyền tự quyết dân tộc, quyền phát triển… đã được định chế trong quyền

con người thì rõ ràng các quyền của “nhóm” đã được đề cập tới. Hiện nay trong nghiên

cứu về quyền con người, các nhà nghiên cứu còn thêm vào thế hệ thứ tư của quyền con

người từ ý tưởng phát triển các nội dung về quyền của nhóm, như quyền phụ nữ,

quyền trẻ em, quyền dành cho các nhóm thiểu số, nhóm người dễ bị tổn thương.

Thế hệ quyền con người thứ tư - quyền của các nhóm.

Có thể thấy rằng, các quyền của nhóm, theo nghĩa rộng của thuật ngữ này, được

đề cập đồng thời, hoặc nếu không thì cũng gần như đồng thời với các quyền cá nhân

như các nhóm quyền trẻ em, phụ nữ, người già, người khuyết tật, người đồng tính.

Điều đó là bởi trong một số trường hợp, rất khó tách bạch giữa quyền của nhóm và các

quyền cá nhân. Cụ thể, khi nói về quyền bình đẳng (về vị thế pháp lý, về bầu cử, ứng

cử, trong quan hệ dân sự, trong hôn nhân,...), người ta đã nói đến các quyền dân sự

chính trị của cá nhân và quyền của các nhóm như phụ nữ hoặc người thiểu số... Điều

tương tự cũng xảy ra khi đề cập đến các quyền về lao động việc làm (trong tuyển

dụng, điều kiện làm việc, vệ sinh lao động, bình đẳng trong trả lương,... ). Cụ thể hơn

nữa, nếu nhìn nhận sự phát triển quyền của nhóm trong luật quốc tế thì có thể thấy

rằng những văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên có nội dung về quyền của nhóm chứ

58

không phải quyền cá nhân14. Nói tóm lại, do tính liên kết của nó, rất khó và không nên

tách rời sự phát triển của các quyền cá nhân và quyền của nhóm theo nghĩa rộng của từ

này. Trên thực tế, ở mức độ và góc độ khác nhau, hầu như tất cả các văn kiện quốc tế

hiện hành về quyền con người đều đề cập đến cả các quyền cá nhân và quyền của

nhóm. Dẫu sao thì với sự phát triển của xã hội, có thể thấy rằng, quyền con người từ

góc độ cá nhân được nhận thức rõ hơn ở góc độ nhóm. Các cá nhân được quyền con

người bảo vệ giờ đây nhận thấy nhu cầu cần liên kết và hình thành quyền của nhóm để

nâng cao tầm ảnh hưởng, tiếng nói và tính pháp lý của quyền con người nói chung.

Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến không đồng tình với cách phân chia quyền con

người thành các “thế hệ quyền con người” mà nên đổi thành các “nhóm quyền”, điều

này xuất phát từ nghĩa của khái niệm “thế hệ” (Thế hệ thường để chỉ quan hệ kế thừa,

chuyển tiếp và đôi khi là thay thế giữa các lớp người, trong khi thế hệ quyền con người

sau không thể thay thế được các thế hệ quyền con người trước) và xuất phát từ bản chất

không thể chuyển nhượng, không thể phân chia của quyền con người. Nhưng dù vậy,

những ý kiến khác thì cho rằng, việc phân chia quyền con người thành các thế hệ quyền

con người là để hình thành các cơ sở đánh giá việc thực hiện quyền con người ở mỗi

quốc gia khác nhau và chất lượng cuộc sống mà cá nhân đó được hưởng trong xã hội.

Đồng thời, qua đó thấy được quá trình phát triển quyền con người là dựa trên các tiền đề

điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định. Và điều này cũng phần nào thể hiện tính

triết học trong sự phát triển quyền con người.

Trước hết, quyền con người thường được đồng nhất với tự do cá nhân và ngược

lại, có nghĩa là quyền con người công nhận các quyền tự nhiên của cá nhân, thực hiện

các quyền con người cũng là đảm bảo tự do của con người và khi đấu tranh cho tự do

cũng chính là đấu tranh cho quyền con người. Sau đó, các quyền chính đáng khác của 14 Trong 20 năm tồn tại của Hội Quốc Liên (1919-1939), tổ chức này đã thông qua một số văn kiện quốc tế về vấn đề người thiểu số và người bản địa, và đặc biệt là Tuyên ngôn về quyền trẻ em (1924). Hoặc trước năm 1945, Tổ chức Lao động quốc tế đã thông qua một số điều ước nhằm bảo vệ các quyền lợi bình đẳng của phụ nữ trong lao động, việc làm... Theo một lát cắt khác mà qua đó nhìn nhận sự khởi đầu của luật quốc tế về quyền con người gắn liền với sự ra đời của Liên hợp quốc (1945), chúng ta cũng thấy sự phát triển gần như đồng thời của các quyền cá nhân và quyền tập thể. Hiến chương Liên hợp quốc (Lời nói đầu) bày tỏ sự tin tưởng vào sự bình đẳng không chỉ của mọi cá nhân trong gia đình nhân loại, mà cả sự bình đẳng giữa các quốc gia lớn và nhỏ và giữa phụ nữ với đàn ông. Rõ ràng ở đây đã bắt đầu có sự gắn bó không tách rời giữa các quyền cá nhân với quyền của nhóm. Các văn kiện quốc tế tiếp theo về nhân quyền do Liên hợp quốc thông qua, bao gồm Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 và hai công ước quốc tế cơ bản về các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966, mặc dù nội dung chính đề cập đến các quyền và tự do của cá nhân, song cũng chứa đựng những quy định quan trọng về các quyền của nhóm, kể từ quyền tự quyết dân tộc (Điều 1 của hai công ước năm 1966), đến các quyền của phụ nữ, trẻ em...

59

con người cũng được công nhận và tất cả các quyền này được pháp luật ghi nhận nhằm

đảm bảo cho các thành viên khác trong xã hội cũng được hưởng chính các quyền ấy.

Điều đó có nghĩa là sự thực tồn của cá nhân được bảo vệ, tức là con người sinh ra với

phẩm giá của mình được đảm bảo bởi quyền của chính mình.

Thứ nữa, để tồn tại, phát triển con người cần phải liên kết với nhau vào các tổ

chức kinh tế, xã hội, các hội, các đoàn thể nhằm thực hiện các hành vi sản xuất, sinh

hoạt xã hội, nhằm đảm bảo các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa của mình. Lúc đó,

tính cá nhân, quyền cá nhân đã nhường chỗ cho tính cộng đồng, quyền tập thể, quyền

đoàn kết, quyền phát triển,… và cũng trong quá trình vận hành xã hội, sẽ xuất hiện

những nhóm người yếu thế cần được quan tâm hơn, họ có thể là những người “chịu

hậu quả” từ chọn lọc tự nhiên, từ thiên tai, từ sản xuất phá sản, từ những hệ lụy không

mong muốn của xã hội… như nhóm người đồng tính, nhóm người dân tộc thiểu số,

người khuyết tật, người vô gia cư, người mắc bệnh hiểm nghèo,v.v.. thế hệ quyền con

người thứ ba và thứ tư đã phản ánh điều này.

Hơn nữa, xét lịch sử hình thành và phát triển của quyền con người, có thể thấy

rằng bản thân quyền con người được hình thành từ nhu cầu bảo vệ cái thiểu số, trước

cái đa số, cái đơn độc trước cái tập thể mà cụ thể là bảo đảm quyền của cá nhân trước

sự xâm phạm của quyền lực nhà nước, của người lao động trước giới chủ, của nhóm

thiểu số trước nhóm đa số, điều này ngầm định rằng luôn có một sự lấn át, sự lạm

quyền, sự độc quyền trong xã hội con người nói chung. Vì thế quyền con người là

tiếng nói bảo vệ cho sự công bằng và bình đẳng của con người, sự đa dạng của tồn tại

con người. Đồng nghĩa với việc nó chống lại sự độc tài, bạo lực, và sự xâm phạm đời

sống của con người. Nó đồng thuận với chính nghĩa và là một sự hiện thực hóa những

giá trị nhân văn cao cả (thể hiện bằng đặc tính và đặc trưng của quyền con người) của

loài người bằng công cụ luật nhân định dựa trên nền tảng công nhận/đồng thuận của

cộng đồng.

Ngoài ra, việc chúng tôi lựa chọn hình thức phân chia các quyền con người này

còn xuất phát từ mục đích chung của luận án đó là làm nổi bật hơn vai trò của xã hội

dân sự đối với việc thực hiện quyền con người. Rõ ràng là với sự phát triển của hiện

tại, các nhà nước đang ngày càng thể hiện tốt nhất vai trò của mình trong việc bảo các

quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cơ bản cho mọi cá nhân, công dân của

60

mình, song các vấn đề về môi trường, vấn đề về đối xử với những người bị tổn thương,

quyền của các nhóm, v.v.. đang ngày càng yêu cầu nhiều hơn nữa sự nỗ lực từ phía các

chính phủ, các tổ chức xã hội dân sự toàn cầu, tổ chức xã hội dân sự địa phương, các

cá nhân, do vậy, sự chung tay, liên kết của các chủ thể trong việc tôn trọng, bảo đảm,

thực thi các quyền con người là vô cùng quan trọng và cần thiết.

2.3. Những vấn đề lý luận chung về thực hiện quyền con người

2.3.1. Quan niệm về thực hiện quyền con người

Xét từ quan niệm quyền con người cho tới lịch sử phát triển của nó với các giá

trị nhân văn từ góc độ xã hội có thể thấy rằng, nói đến thực hiện quyền con người là

nói đến các khía cạnh tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thực thi quyền con người.

Việc tôn trọng quyền con người được hiểu là các chủ thể thực hiện quyền cần

phải tôn trọng các đặc tính của quyền trong quá trình thực hiện chúng. Tôn trọng tính

phổ quát của quyền con người, có nghĩa là dù ở đâu cũng cần thể hiện được các đặc

điểm cơ bản của quyền con người theo các tiêu chí chung. Tôn trọng tính đặc thù, tính

không thể phân chia thể hiện ở chỗ có thể ưu tiên, bảo vệ, hoặc giới hạn một số quyền

con người nào đó tùy thuộc vào tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội ở mỗi quốc gia nhất

định, v.v.. Bên cạnh đó, việc tôn trọng quyền con người còn đòi hỏi các chủ thể thực

hiện quyền không can thiệp thô bạo vào việc hưởng thụ các quyền con người của cá

nhân nhất là các quyền chính trị và dân sự đã được pháp luật công nhận. Chính việc

tôn trọng quyền con người theo các nghĩa như trên sẽ làm giảm thiểu sự khác biệt

trong nhận thức về quyền con người, tạo ra nền tảng của an ninh con người, hạn chế

các vi phạm về quyền con người và làm cơ sở cho sự hợp tác, xây dựng và thực thi các

quyền con người nói riêng và các vấn đề lớn trên toàn thế giới.

Trên nền tảng nhận thức về tôn trọng quyền con người, các chủ thể quyền tiến

hành quá trình bảo vệ, bảo đảm, thực thi các quyền con người. Quá trình bảo đảm

quyền con người là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp

lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của công dân thực hiện được các

quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận. Trên góc độ thực

hiện các quyền con người triệt để nhất trên thực tế thì các bảo đảm về mặt pháp lý là

quan trọng và quyết định hơn cả, đó chính là sự thể chế hóa về mọi mặt vào hệ thống

pháp luật, bắt buộc mọi người phải thực hiện, phải tuân theo. Đó là sự ghi nhận các

61

quyền con người, tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức, việc thiết lập cơ

chế, bộ máy chuyên trách bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Để thực

hiện được quá trình này, đòi hỏi các chủ thể quyền con người phải đảm bảo, thực hiện

các nguyên tắc tham gia, minh bạch, trách nhiệm,v.v..và các điều kiện cần thiết.

Bảo vệ quyền con người là xác định các biện pháp pháp lý, tổ chức, các cơ chế

bảo vệ các quyền con người trên cơ sở ngăn chặn các hành vi vi phạm quyền con

người từ các chủ thể khác như cá nhân, tổ chức... nhằm khôi phục các quyền đã bị xâm

phạm. Các chính phủ có trách nhiệm hỗ trợ các thành phần trong xã hội cùng tham gia

thực hiện quyền con người, phổ biến công khai thông tin, các quá trình thực hiện

quyền con người cho các đối tượng thụ hưởng quyền. Đồng thời, phải tạo ra những cơ

chế trách nhiệm cho những chủ thể thực thi quyền, đề ra các biện pháp xử lý với các vi

phạm quyền con người, hoặc không đáp ứng được các tiêu chuẩn nhân quyền. Từ đó,

họ ý thức được quyền lợi, nghĩa vụ của mình và ảnh hưởng, tác động khi thực hiện các

quyền đó đến mọi người khác như thế nào và tăng cơ hội hưởng thụ quyền, giảm

những xâm phạm quyền. Điều này là rất cần thiết cho quá trình thực thi nhân quyền.

Như vậy, nói một cách chung nhất thực hiện quyền con người chính là quá trình

tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ, thực thi các quyền con người trên thực tiễn, thay vì việc các

quyền con người chỉ được thừa nhận, ghi nhận trong các văn bản pháp lý. Ở một khía

cạnh cụ thể, việc thực hiện quyền con người được hiểu là làm cho các văn bản luật quốc

tế về quyền con người được tuân thủ, được thực thi trong đời sống hiện thực của mỗi

quốc gia. Điều này xuất phát từ các văn bản luật quốc tế về quyền con người là công cụ,

cơ sở quan trọng để đánh giá việc thụ hưởng các quyền con người cơ bản của mỗi người

dân ở những quốc gia khác nhau không phân biệt giới tính, tôn giáo, quốc gia, dân tộc,

điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, v.v..

Việc thực hiện quyền con người được tiến hành bởi các chủ thể và phương thức

nhất định.

2.3.2. Chủ thể và phương thức thực hiện quyền con người

Chủ thể thực hiện quyền con người bao gồm chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ.

Chủ thể quyền con người là mọi thành viên của nhân loại, bất kể dân tộc, chủng

tộc, thành phần xuất thân, tôn giáo, tư tưởng, giới tính, độ tuổi,…. Điều này xuất phát

từ việc quyền con người được thực hiện dựa trên nguyên tắc tôn trọng cá nhân bởi họ là

62

một nhân vị hay một nhân cách. Chủ thể quyền khẳng định và yêu sách đối với các quyền

con người mà mình được hưởng. Khi phát hiện các quyền cơ bản của mình chưa được

đảm bảo, chưa được tạo điều kiện để thực hiện, hoặc bị vi phạm thì các chủ thể quyền có

quyền yêu cầu chủ thể nghĩa vụ phải có trách nhiệm xem xét, giải quyết, đưa ra các biện

pháp khắc phục, mở rộng và thực thi các quyền đó.

Chủ thể nghĩa vụ thực hiện quyền là các nhà nước là chủ thể chính, ngoài ra các

tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, cộng đồng, cá nhân... có trách nhiệm thực hiện quyền

con người. Những chủ thể nghĩa vụ thực hiện quyền này trao quyền cho cá nhân, cộng

đồng, nhằm tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền,

tìm kiếm sự biến đổi xã hội, thực hiện đầy đủ các quyền con người. Đồng thời nó cũng chỉ

ra trách nhiệm đối với việc tôn trọng, bảo vệ và thực thi quyền con người, cũng như

trách nhiệm giám sát và giải trình trước các chủ thể quyền và các cơ quan nhân quyền

quốc tế về những nghĩa vụ chưa được thực thi. Điều này tức là trong quá trình thực hiện

quyền con người, nếu có những vi phạm quyền con người thì trách nhiệm bảo vệ

quyền con người thuộc về cả chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ. Việc phân loại này

chỉ có tính tương đối, vì không có chủ thể nào trong xã hội chỉ có quyền mà không có

nghĩa vụ và ngược lại. Như vậy là có sự trùng hợp về chủ thể trực tiếp và chủ thể

nghĩa vụ. Nói cách khác, trong nhiều trường hợp, chủ thể trực tiếp cũng chính là chủ

thể nghĩa vụ. Chủ thể nghĩa vụ khi là bên trực tiếp thực hiện quyền con người thì trở

thành chủ thể trực tiếp.

Về phương thức thực hiện quyền con người

Thứ nhất, thực hiện quyền con người diễn ra trên hai góc độ: Góc độ luật pháp

và góc độ đạo đức. Góc độ đạo đức là cái khó có thể đo đếm và phần nhiều được xác

lập bằng nhận thức về quyền con người thông qua tuyên truyền giáo dục. Còn góc độ

pháp lý, trước hết dựa trên tiền đề công nhận sự tồn tại và giá trị của quyền con người

của một thể chế chính trị, được phân chia thành hai cấp độ: Quốc tế và quốc gia.

Ở cấp độ quốc tế việc thực hiện quyền con người nhấn mạnh sự hợp tác giữa các

quốc gia, hỗ trợ lẫn nhau, phản ánh những hành vi vi phạm của nhau để đảm bảo cho các

công ước quốc tế về quyền con người được tuân thủ, được thực thi. Trong đó, cơ chế bảo

vệ quyền con người là các diễn đàn, thủ tục điều tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo vi

phạm nhân quyền của Liên hợp quốc và một số tổ chức liên chính phủ khu vực.

63

Ở cấp độ quốc gia, nhà nước là cơ quan quan trọng nhất trong việc thực hiện

pháp luật về quyền con người trên cơ sở ý chí chính trị của quốc gia đó và việc nội luật

hóa pháp luật quốc tế vào luật quốc gia. Trong đó, cơ chế bảo vệ quyền con người và

quyền công dân là toà án và một số cơ chế tài phán khác ở mỗi quốc gia. Trong một số

trường hợp, các cơ chế quốc tế được áp dụng như là giải pháp tiếp nối.

Có nhiều phương pháp để các nước có thể nội luật hóa các văn kiện nhân quyền

quốc tế như: đưa nội dung nhân quyền vào bộ luật cao nhất - Hiến pháp; lấy nó làm tiêu

chuẩn cho nguyên tắc hoạt động của các công ty, xí nghiệp, cơ quan, hay rộng hơn là ký

kết, phê chuẩn các điều ước quốc tế15 (cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước thông qua

điều ước, biểu hiện sự đồng ý của nhà nước đối với quyền và nghĩa vụ ghi trong điều

ước), phê duyệt điều ước quốc tế (biểu hiện sự đồng ý ràng buộc của quốc gia vào điều

ước quốc tế nào), gia nhập điều ước quốc tế (chủ thể của luật quốc tế thể hiện rõ ràng sự

đồng thuận ràng buộc mình với các quyền và nghĩa vụ của một điều ước quốc tế nhiều

bên.

Tuy nhiên, ngay cả khi các điều ước quốc tế về quyền con người không được

chính thức đưa vào pháp luật quốc gia, các tòa án quốc gia và các nhà sử dụng quy

phạm pháp luật có thể xem xét các công ước nhân quyền quốc tế và cam kết nhân quyền

trong khu vực khi giải thích và phát triển luật pháp quốc gia, và họ có thể sử dụng các

công ước nhân quyền quốc tế như là tiêu chuẩn tối thiểu mà luật quốc gia cần đạt được

khi bảo vệ nhân quyền. Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng, việc thực hiện trong nước

của các chuẩn mực nhân quyền đòi hỏi một nỗ lực chung và phối hợp của tất cả các

ngành của chính phủ (lập pháp, hành pháp và tư pháp). Ngoài ra, việc thành lập các tổ

chức nhân quyền quốc gia, tăng cường sự tham gia của người dân trong hoạt động của

chính phủ sẽ góp phần đảm bảo việc thực hiện nhân quyền được nâng cao và đảm bảo

bền vững hơn. Đây là những công cụ quan trọng trong việc thực hiền quyền con người ở

tầm quốc gia.

Để tiến hành quá trình này, các quốc gia cần phải căn cứ vào điều kiện kinh tế,

15 Pháp luật quốc tế không có một quy phạm cụ thể hay một văn bản pháp lý cụ thể quy định điều ước nào thì cần phê chuẩn và điều ước nào thì không. Thực tiễn điều ước cho thấy rằng, việc phê chuẩn hay không cần phê chuẩn phụ thuộc ý muốn của các bên tham gia điều ước, vì các bên đều có chủ quyền và đều bình đẳng, tự nguyện tham gia quan hệ điều ước, do đó các bên tự quyết định với nhau trên cơ sở thỏa thuận.

chính trị, xã hội, văn hóa… của mình để xây dựng hệ thống luật pháp, nội luật hóa các văn

64

bản luật quốc tế vào hệ thống luật quốc gia, xây dựng các biện pháp cụ thể để, hệ thống hỗ

trợ để đảm bảo, thực thi các quyền con người một cách khả thi và hiệu quả. Từ đó, nhằm

đảm bảo vai trò của các quốc gia trong việc thực hiện quyền con người chứ không phải

chỉ là những cam kết trên giấy tờ từ phía nhà nước.

Bên cạnh đó, quá trình này phải tuân thủ các nguyên tắc Paris16, nguyên tắc này

yêu cầu một cơ chế quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Các cơ chế quốc

gia bảo vệ quyền con người có chức năng duy trì ổn định, trật tự xã hội và đảm bảo

quyền cho người dân. Các cơ quan này độc lập hoặc bán độc lập với bộ máy nhà nước

để tăng cường hiệu quả của việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Hiện nay, có

một số dạng chính của cơ quan nhân quyền quốc gia như: ủy ban quyền con người

quốc gia17, trung tâm nhân quyền quốc gia, thanh tra quốc hội hay còn gọi là định chế

ombudsman18,v.v.. Các cơ quan này được Liên hợp quốc hỗ trợ trong việc hình thành

các chuẩn mực chung trong quá trình hoạt động. Thành viên của các cơ quan này phải

đa dạng, gồm đại diện của nhiều loại cơ quan, tổ chức trong xã hội như: các tổ chức

công đoàn, các tổ chức xã hội và nghề nghiệp liên quan, các trường đại học, nghị viện,

các cơ quan chính phủ, đặc biệt là các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực

quyền con người và chống phân biệt đối xử. Các tổ chức này luôn được quan tâm, phát

triển, mở rộng quan hệ với các cơ quan nhân quyền quốc gia [165].

Thứ hai, việc định lượng hóa các giá trị trong nhân quyền thông qua đánh giá

hiệu quả của các điều kiện thực hiện quyền con người như hệ thống pháp lý, điều kiện

kinh tế xã hội, văn hóa nhân quyền và mở rộng tác động của thực hiện quyền con

người đến quá trình phát triển con người cũng là một phương thức quan trọng khi thực

hiện quyền con người. Các tiêu chí này được cụ thể bằng việc hiện thực hóa các văn

bản luật quốc tế vào luật quốc gia, tính khả thi, chất lượng và mức độ quy định của các

bên thực hiện quyền. Hay, việc đánh giá từ tác động môi trường bên ngoài như: các 16 Là nguyên tắc quy định về quy chế của các cơ quan quốc gia trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. 17 Thiết chế này thường bao gồm nhiều thành viên đại diện cho nhiều nhóm xã hội, nghề nghiệp. Cơ sở pháp lý cho việc này có thể được quy định trong hiến pháp hoặc bằng một đạo luật cụ thể… chức năng của cơ quan này là bảo vệ cá nhân khỏi sự phân biệt đối xử và thúc đẩy các quyền con người, đặc biệt là quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương…hoặc nghiên cứu chính sách và hoạt động liên quan đến quyền con người, giám sát hoạt động của cơ quan nhàn ước trong việc tuân thủ pháp luật quốc gia và quốc tế về quyền con người. Một số ủy ban quyền con người còn có chức năng giáo dục, tuyên truyền nhận thức của người dân về quyền con người. 18 Định chế này xuất hiện đầu tiên ở Thụy Điển vào năm 1809, có nghĩa là người đại diện, cơ quan giám sát sự công bằng và hợp pháp của chính sách công. Cụ thể thanh tra quốc hội có trách nhiệm bảo vệ quyền của những người là nạn nhân của những hành vi, quyết định của cơ quan hành pháp. Đây có thể coi là trung gian hòa giải giữa cá nhân có quyền bị xâm phạm với chính quyền.

65

bối cảnh về chính trị cho việc thực hiện quyền chính trị, hoặc bối cảnh văn hóa xã hội

về sự tin tưởng, về ý thức công cộng, xã hội dân sự, chuẩn mực xã hội để phát huy các

quyền mà cụ thể là đánh giá mức độ các giá trị, năng lực của chủ thể có liên quan đến

quá trình thực thi quyền con người như giá trị dân chủ (không khí dân chủ, mức độ tôn

trọng nhân phẩm, nhân cách cá nhân, bình đẳng giới, tiếng nói của cá nhân), giá trị

khoan dung, nâng cao năng lực cho chủ thể về mức độ phổ biến quyền, trình độ hiểu

biết và năng lực vận dụng quyền, mức độ tham gia, khả năng việc giải quyết các quyền

với các tồn tại của xã hội. Còn ở bình diện tác động đến phát triển xã hội thì được đánh

giá bằng các tiêu chí về tác động đến bình đẳng (giới, tôn giáo, dân tộc, chính sách

vùng miền, chính sách xã hội), mức sống (xóa đói giảm nghèo, mức sống khá, dự toán

ngân sách), tự do phát triển (giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe trẻ em), an ninh con

người (bạo lực, bất an, môi trường, điều kiện chăm sóc sức khỏe), công bằng, công ăn

việc làm [218].

Như vậy, rõ ràng là việc thực hiện quyền con người vừa là trách nhiệm và nghĩa

vụ của mỗi quốc gia trên nền tảng phát huy phẩm chất của mỗi cá nhân người, nó phụ

thuộc vào các yếu tố: năng lực quốc tế, năng lực quốc gia, pháp luật, bản thân ý chí

của cá nhân người đó (sự hiểu biết về quyền và ý chí tuân thủ, thực hiện quyền theo

những quy định của pháp luật), vào các tổ chức xã hội trong đó có các tổ chức xã hội

dân sự và vào điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của quốc gia đó. Nói cách khác, việc

thực hiện quyền con người lệ thuộc vào: 1- Chủ thể thực hiện quyền con người (chủ

thể trực tiếp, chủ thể nghĩa vụ) mà quan trọng hơn cả là ý chí thực hiện của chính

quyền thông qua các biện pháp khác nhau mà cao nhất là nội luật hóa, hay nói cách

khác là xây vai trò của một nhà nước pháp quyền mang tính nhân quyền; 2- Việc

lượng hóa các giá trị, yếu tố trong nhân quyền của mỗi quốc gia phục vụ cho việc thực

hiện nhân quyền và đánh giá thực hiện nhân quyền. 3- Nền tảng văn hóa dân chủ và

các thiết chế khác của xã hội.

Vậy, vai trò của các điều kiện, các chủ thể này được phân chia như thế nào trong

quá trình thực hiện quyền con người, để trả lời câu hỏi này cần làm rõ ảnh hưởng của các

yếu tố đó đến quá trình thực hiện quyền con người.

2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện quyền con người

Thứ nhất, nhà nước pháp quyền.

66

Để thực thi các mục tiêu xã hội vì con người, thực thi các quyền của nhân dân

trong mối quan hệ giữa công dân và nhà nước, hiến pháp ra đời. Hiến pháp là văn bản

pháp lý ghi nhận sự thỏa thuận, cam kết giữa công dân và nhà nước, theo đó, trách

nhiệm giữa nhà nước và công dân là như nhau. Điều này cũng có nghĩa là cán cân quyền

lực giữa nhà nước và công dân là bằng nhau. Khi những người lãnh đạo nhà nước vi

phạm những thỏa thuận thì nhân dân có quyền bầu ra những người lãnh đạo mới. Nhưng

nhà nước được nhân dân giao quyền thống trị chính họ bằng cách luật hóa các mối quan

hệ trong xã hội, được dùng công cụ luật pháp để quản lý xã hội. Đây là một ràng buộc

mang tính chất pháp lý của xã hội (dân sự) đối với nhà nước. Chính ràng buộc này là

căn cứ cơ bản dẫn tới việc nhà nước phải trở thành nhà nước pháp quyền.

Từ căn cứ trên, có thể thấy, đặc trưng của nhà nước pháp quyền là xem pháp luật

là nguyên tắc tối cao và luật pháp ấy phải luôn được tôn trọng và thực thi với cả nhà

nước và công dân của nó. Có nghĩa là những gì có được sự đồng thuận giữa công dân và

nhà nước được coi là giá trị cao nhất trong việc quản trị các quan hệ xã hội. Điều này

phản ánh phần nào việc nhà nước pháp quyền ấy là nhà nước lấy dân làm gốc rễ để tồn

tại vì lợi ích của nhân dân, mọi hoạt động của nhà nước đều do dân, và tuân thủ hiến

pháp, pháp luật là ràng buộc đã đạt được đồng thuận giữa nhà nước và nhân dân của

mình. Điều đó cũng có nghĩa là nhân dân làm chủ xã hội của mình, làm chủ thông qua

luật pháp, luật pháp với tư cách là cái thể hiện ý chí của nhân dân, tạo điều kiện tối đa

cho người dân thực hiện các quyền tự do, dân chủ của mình, tạo điều kiện cho nhân dân

tiến hành quá trình giám sát, phản biện xã hội, điều hành quản lý nhà nước. Đây là sự

phân chia quyền lực nhà nước một cách độc lập và chế ước lẫn nhau, do vậy quá trình

dân làm chủ buộc phải gắn liền với nhà nước pháp quyền. Nói cách khác, so với các

hình thức hình thức tổ chức nhà nước khác, nhà nước pháp quyền là điều kiện tiên quyết

để dân có thể thực hiện nhiều nhất quyền làm chủ của mình.

Trong nhà nước pháp quyền, quyền con người quyền chiếm vị trí đặc biệt quan

trọng, nó quyết định bản chất của nhà nước, của chế độ pháp quyền, mặt khác, quyền

con người ràng buộc trách nhiệm với nhà nước – chủ thể nghĩa vụ của quyền, buộc nhà

nước phải bảo vệ quyền và tự do của cá nhân, công dân bằng cách xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con

người, xây dựng chế độ, trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong

67

quá trình thực thi công vụ, tăng cường vai trò của cơ quan thực hành luật pháp trrong

việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân. Bên cạnh đó, Nhà nước phải

có những kế hoạch, chương trình, biện pháp cụ thể nhằm hỗ trợ công dân hưởng thụ

đầy đủ các quyền con người. Đồng thời, việc đề cao quyền con người trong nhà nước

pháp quyền sẽ làm tăng trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước với việc thực hiện quyền

con người và hạn chế việc lạm dụng, vi phạm quyền con người của cơ quan Nhà nước.

Thứ hai, kinh tế thị trường.

Là nền sản xuất mà hàng hóa sản xuất ra được trao đổi, mua bán trên thị trường,

nền kinh tế này hoạt động dựa trên các quy luật cơ bản của riêng nó như cung cầu, giá

trị, trao đổi hàng hóa…nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người, tối đa hóa

lợi nhuận của người sản xuất và trao đổi hàng hóa. Điểm chung, gắn kết các hoạt động

của nền sản xuất này là đều dựa trên nguyên tắc cơ bản là quyền tự do cá nhân: khách

hàng tự do lựa chọn trong số những sản phẩm hay dịch vụ cạnh tranh; nhà sản xuất tự

do khai lập hay mở mang cơ sở kinh doanh và chấp nhận những điều may rủi hay

thành công; công nhân viên tự do lựa chọn nghề nghiệp, gia nhập công đoàn lao động

hay đổi qua các xưởng sản xuất khác. Chính những yếu tố của tự do, may rủi và cơ hội

này đã kết hợp những nền KTTT và nền chính trị dân chủ với nhau.

Với cách thức hoạt động như vậy, thị trường trở thành một thiết chế xã hội, mà

giới hạn, mục tiêu và cách thức vận hành của nó phụ thuộc vào tiêu chí của các quyền

cơ bản về tự do, chính trị, kinh tế, xã hội.

Như vậy, một là, về cơ bản, nếu nền KTTT vận hành tốt sẽ tạo ra các điều kiện

để hiện thực hóa các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và là bàn đạp để người dân thực hiện

quyền dân sự, chính trị của chính họ. Hai là, nó là thiết chế giúp con người ta thực hiện

tự do trao đổi hàng hóa, vật phẩm vì lợi ích của mình. Nhờ vậy, nó tạo ra không gian

giúp nhiều người nhất (trong tương quan với chế độ cấm vận hay tập trung, bao cấp) có

thể tiếp cận và thụ hưởng các loại hình hàng hóa vật chất dựa trên nguyên tắc tự do.

Nếu như nói nhà nước pháp quyền là sự hiện thực hóa quan hệ về mặt pháp lý

giữa con người với con người, thì KTTT là sự hiện thực hóa quan hệ về mặt kinh tế

giữa con người với con người. Thì rõ ràng, trong quan hệ kinh tế ấy cần có luật để quy

định các quan hệ kinh tế, tránh trường hợp lũng đoạn thị trường, cạnh tranh không lành

mạnh và cả để giải quyết các trường hợp xâm hại lẫn nhau khi không tuân thủ các

68

nguyên tắc kinh tế, pháp luật. Bên cạnh đó, bản thân thị trường luôn gắn với khung

cảnh văn hóa, xã hội và chính trị xã hội đương thời, điều này đòi hỏi việc phát triển

KTTT cũng phải hướng tới các mục tiêu văn hóa, xã hội nhất định. Do đó, cần có quan

hệ về mặt pháp lý để quản trị nó. Đó là nhu cầu tự thân của bản thân quan hệ này, cũng

là nhu cầu trông thấy từ quan hệ luật pháp hay từ lập trường của nhà nước pháp quyền.

Ở đây ta thấy được một khả năng rằng, để thị trường phát huy được khả năng của mình

thì cần chịu sự giám sát, bổ sung và điều tiết một cách nghiêm ngặt có hiệu quả bởi

những quyết sách kinh tế, bởi sự điều tiết chính trị và phải có trách nhiệm chính trị.

Điều này có nghĩa là, những tác động của thị trường hoàn toàn có thể hướng tới mục

đích tự do và hạnh phúc của con người. Để làm được điều đó nhà nước điều tiết quá

trình phát triển kinh tế vĩ mô, đưa ra các hình thức, giới hạn, cơ chế bên trong, và

phạm vi tác động hợp pháp của thị trường bằng các quyết sách chính trị trên cơ sở đảm

bảo các quyền cơ bản, nắm rõ được tính chất của nền kinh tế (các đặc điểm, quy luật

phát triển của thị trường, hệ quả của sự điều tiết) và trách nhiệm chính trị liên đới.

Thực tế, những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu đã chứng minh rằng nhà

nước và thị trường phải gắn kết chặt chẽ với nhau để có thể thực hiện tốt nhất một nền

sản xuất phúc lợi, có nghĩa là, chỉ khi thị trường chịu sự giám sát, điều tiết và bổ sung

nghiêm khắc từ các chính sách kinh tế (các chính sách này bị quy định, hạn chế bởi

các chính sách chính trị) thì mới phát huy được chức năng điều tiết xã hội quan trọng

của nó. Nói cách khác, trong việc thực hiện được quyền con người trong một nhà nước

pháp quyền thì về cơ bản, nhà nước pháp quyền ấy cần phải định hướng, điều tiết nền

KTTT của chính nó theo những mục tiêu về quyền con người đã được lượng hóa và

dựa trên những pháp quy về quyền con người đã được luật hóa.

Thứ ba, xã hội dân sự.

Nếu xét quan hệ pháp lý cao nhất giữa người với người là nhà nước pháp

quyền, quan hệ kinh tế giữa người với người là KTTT thì các mối quan hệ còn lại của

con người với nhau là xã hội dân sự. Nói cách khác, xã hội dân sự là không gian thỏa

mãn và tạo lập quan hệ cho những nhu cầu khác nữa của con người. Xã hội dân sự có

cách tổ chức và hoạt động khác với các thiết chế khác trong xã hội, nó dựa trên nguyên

tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Bản thân nguyên tắc này cũng là một trong

những nguyên tắc của quyền con người và thực hiện quyền con người.

69

Ở đây, ta thấy xã hội dân sự và quyền con người có những điểm chung nhất

định. 1) Đó là điểm chung về các giá trị gắn kết con người như tự do, dân chủ. Thực

hiện quyền con người cũng là đảm bảo tự do, dân chủ cho con người và phương thức

hành động của xã hội dân sự cũng trên cơ sở tự do, dân chủ. (2) Đó là điểm chung về

nguyên tắc hành động vì những mục tiêu của tổ chức xã hội dân sự cũng như mục tiêu

thực hiện quyền con người. Xã hội dân sự với các mục tiêu hoạt động của mình rất phù

hợp với các mục tiêu thực hiện quyền con người, các hành động của khu vực này như

các cơ chế báo cáo giám sát về tình hình quyền con người ở các quốc gia đến các cơ

quan giám sát quốc tế về quyền con người, hoặc xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức

tập huấn và biên soạn tài liệu thông qua sự phối hợp với Liên hiệp quốc, UNESCO, Hội

đồng châu Âu hay các tổ chức liên chính phủ khác trong việc giáo dục, học tập về quyền

con người, v.v.. đều đã và đang chứng minh xã hội dân sự là một trong những yếu tố

quan trọng giúp nhà nước, hoặc tự chủ trong việc thúc đẩy, thực hiện quyền con người.

Điều này cho thấy, xã hội dân sự và quyền con người có quan hệ cộng sinh.

Bên cạnh đó, vị trí xác lập của xã hội dân sự trong mối quan hệ với nhà nước

chính là không gian tổ chức xã hội được nhà nước công nhận tư cách tự do của công

dân, là cánh tay nối dài của nhà nước, giúp nhà nước thực hiện các mục tiêu và lý tưởng

của mình. Chính vì thế, xã hội dân sự sẽ là nơi nuôi dưỡng những công dân tốt cho nhà

nước. Bản thân xã hội dân sự là một “môi trường” hiện thực các quyền con người, mặt

khác, các thành tố trong xã hội dân sự cũng là những chủ thể trực tiếp của quyền con

người.

Trong quan hệ với KTTT, khi ta hình dung xã hội dân sự nằm trong không gian

KTTT, nó sẽ thỏa mãn các quan hệ khác của những chủ thể kinh tế, ngoài quan hệ

kinh tế thuần túy. Điều này có nghĩa là xã hội dân sự có khả năng điều tiết đối với

KTTT khi nó vận động theo các nguyên tắc thuần túy KTTT hoặc bổ khuyết cho

những khuyết tật của thị trường như nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập. Khi được nhà

nước pháp quyền đảm bảo việc thực hiện quyền con người, KTTT là nền kinh tế vì

con người, và xã hội dân sự khi đó cũng sẽ có điều kiện để hoàn thiện hơn đời sống

của con người bằng cách hoàn thiện hơn nữa các quan hệ xã hội đa dạng của con

người ngoài quan hệ kinh tế mà KTTT đang đảm nhận.

70

Như vậy có thể thấy rằng, nếu xác định nhà nước pháp quyền, KTTT và xã hội

dân sự là ba trục chính trong một xã hội thì rõ ràng, ba yếu tố này sẽ ảnh hưởng tới

việc thực hiện quyền con người. Bản thân quan hệ ràng buộc giữa nhà nước và xã hội

dân sự; quan hệ kiểm soát và điều tiết giữa nhà nước và KTTT; quan hệ tương hỗ, bổ

khuyết giữa xã hội dân sự với KTTT là những yếu tố tác động tới việc thực hiện quyền

con người trong một xã hội nhất định. Nói cách khác, tính chất và chất lượng của các

mối quan hệ giữa 3 thành phần nói trên là yếu tố quyết định cho sự thành công hay

thiếu hiệu quả của việc thực hiện quyền con người. Bởi nhà nước là chủ thể nghĩa vụ

cao nhất của thực hiện quyền con người; KTTT có sự điều khiển của nhà nước sẽ là

công cụ tốt nhất để đạt được những kết quả về lượng của quyền con người, còn xã hội

dân sự là chủ thể trực tiếp mang quyền con người và thực hiện quyền con người. Sự

hòa hợp và kết hợp dựa trên sự đồng thuận, đồng lòng, đồng đích của ba yếu tố này vì

mục tiêu phát triển con người là cơ sở quyết định cho sự thành công của quá trình thực

hiện quyền con người.

71

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Trong quá trình tìm kiếm và duy trì tự do cũng như thực hiện các hành vi điều tiết

chính trị xã hội, cá nhân mỗi người đã liên kết với nhau để tìm ra các hình thức tổ chức xã

hội phù hợp, ký kết với nhau các khế ước xã hội để ràng buộc có trách nhiệm các hành vi

của mình. XHDS là một khế ước như vậy. XHDS được ghi nhận trong nhà nước pháp

quyền như một yếu tố độc lập mang những đặc trưng riêng. Do vậy, nó có mối quan hệ

chặt chẽ với nhà nước pháp quyền và nền KTTT và với chức năng chính trị, kinh tế, xã

hội, phản biện và cộng đồng của mình, với những đặc trưng về tính tự chủ, tự nguyện, độc

lập,v.v.. XHDS được coi như một cầu nối để cá nhân mỗi người đi đến dân chủ, tự do

thực sự và là một điều kiện quan trọng trong việc thực hiện, đảm bảo quyền con người.

Quyền con người từ lâu đã trở thành một vấn đề mang tính chất quốc tế, nó thu hút sự chú

ý rộng rãi của dư luận thế giới. Bản thân các quyền đang trở thành hình thức, phương tiện,

cơ chế biểu hiện của con người với tính cách là người đại diện cho loài người, biểu hiện

của các dân tộc với tính cách là những bộ phận của loài người. Do đó, việc công nhận và

thực hiện quyền con người là một thước đo đáng tin cậy của việc loài người trưởng thành

từng bước như một chỉnh thể thống nhất của sự tiến bộ con người nói chung.

Để thực hiện được các quyền con người ngoài nhiệm vụ, trách nhiệm của nhà nước

với hệ thống pháp lý hoàn chỉnh còn cần có sự chia sẻ trách nhiệm của XHDS và các cá

nhân trong xã hội trên cơ sở một nền KTTT được vận hành tốt và một nền văn hóa nhân

quyền phát triển. Bởi mỗi hình thức tổ chức xã hội và cá nhân lại có một phương thức

khác nhau để phát huy nhân quyền. Việc bảo đảm, thực hiện quyền con người này phải

được hiện thực hóa ở cả hai cấp độ là quốc gia và quốc tế nhằm đảm bảo sự thống nhất, và

bình đẳng trong việc thực hiện quyền con người. Nhưng điều này là không dễ dàng bởi

những khác biệt trong nhận thức, chế độ kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi quốc gia. Và đây

cũng là những tiêu chí để XHDS dựa vào đó để phát huy tốt vai trò của mình đối với quá

trình thực hiện quyền con người.

72

Chương 3.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ

CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI

3.1. Những vấn đề chung về vai trò của xã hội dân sự

Ở đây, khi nói về vai trò của XHDS là muốn xét đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ

của XHDS trong mối tương quan giữa nhà nước, thị trường và trong quá trình phát triển

xã hội nói chung.

3.1.1.Vai trò của xã hội dân sự trong mối quan hệ với nhà nước pháp quyền và kinh

tế thị trường

Như trên chúng tôi đã phân tích, XHDS là một trong 3 thể chế trong quá trình điều

tiết chính trị bên cạnh nhà nước và KTTT và mỗi yếu tố này lại giữ một vai trò khác nhau.

Nhà nước là một thiết chế quyền lực công, có chức năng duy trì trật tự công, điều tiết và

thực thi dịch vụ công, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Trong nhà nước, pháp luật giữ

vai trò quan trọng để xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ và điều tiết mối quan hệ với

thị trường và XHDS. KTTT biểu hiện mối quan hệ bản chất là lợi nhuận thông qua các

hành vi sản xuất kinh doanh. Trong quá trình tiến hành hoạt động này, các cá nhân,

doanh nghiệp có nhu cầu liên kết lập hội, lập phường để thực hiện những mối quan tâm

chung về giá cả, về những tác động của thị trường. Trong khi đó, XHDS là môi trường,

không gian hoạt động của cá nhân một cách tự nguyện, không vì mục tiêu lợi nhuận. Do

đó, việc xem xét vai trò giữa nhà nước, thị trường và XHDS có sự gắn bó chặt chẽ với

nhau.

Thứ nhất, xã hội dân sự là cầu nối, thúc đẩy sự chủ động của người dân trong

việc tham gia vào công việc của nhà nước.

Trong quá trình tổ chức xã hội, công dân vẫn giữ cho mình những quyền tự do

riêng, vẫn lập ra cho mình những tổ chức XHDS để thỏa mãn các nhu cầu cá nhân,

hiện thực hóa các quyền mình đã giữ lại, không vi phạm đến các khoảng không tổ

chức xã hội khác. Nhờ có pháp luật mà các quyền đó của cá nhân được đảm bảo cả

theo hai nghĩa tuân thủ những luật lệ chính trị của nhà nước và các nhóm cộng đồng,

xã hội mà mình lập ra và đây là cơ sở của sự dung hòa giữa việc trở thành một công

73

dân tốt và một con người theo đúng nghĩa, là sự thống nhất giữa tính cá nhân và tính

cộng đồng trong một chỉnh thể thống nhất.

Như vậy, bản thân quá trình cá nhân tham gia vào XHDS xuất phát từ quá trình

tự ý thức của cá nhân đó trước những thay đổi của nhà nước, của xã hội và những đòi

hỏi tự nhiên của bản chất con người. Điều này, gián tiếp thể hiện, sự phát triển của cá

nhân trong quá trình hoàn thiện mình và đồng thời khi tham gia vào XHDS, các cá

nhân cũng từng bước phát huy được các phẩm chất của mình trong các hoạt động nhà

nước, hoạt động xã hội, nâng cao nhận thức chính trị và nhận thức về quyền công dân,

quyền con người và hiện thực nó trên thực tiễn.

Mục đích của XHDS là nhằm phát huy tối đa các quyền con người. Do vậy,

việc các cá nhân tham gia vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội thông qua các tổ chức

XHDS, các hiệp hội và các mối liên kết xã hội đã nâng cao khả năng hoạt động của

công dân trong đời sống chính trị nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung. Điều này,

thể hiện ở việc những cá nhân tham gia XHDS được va chạm với những xúc tác mang

tính chính trị, khiến cho sự sẵn sàng và khả năng tham gia chính trị của họ được nâng

cao. Hay, khi cá nhân tham gia vào một lĩnh vực, vấn đề nào đó do XHDS khởi xướng

sẽ dẫn tới sự kết nối với những cá nhân khác, với mạng lưới tổ chức rộng khắp và đặc

biệt điều này sẽ tạo ra hiệu ứng công luận rộng rãi ảnh hưởng đến mọi công dân và

toàn xã hội, nhằm thay đổi hành vi xã hội theo những hướng có lợi cho cộng đồng.

Nhờ vậy, đã làm tăng nhận thức của công dân về các quyền lợi, trách nhiệm của mình

trong xã hội và qua đây đã làm tăng cường quyền năng của công dân đối với quá trình

hình thành công luận, cũng như việc thực hiện các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã

hội của mình một cách hợp pháp và chủ động.

Thứ hai, xã hội dân sự bù đắp những thiếu hụt của nhà nước trong quá trình hình

thành chính sách công.

Trong mô hình chính sách công truyền thống, việc xác định vấn đề xã hội nào

thuộc về chính sách công thường do nhà nước đảm nhiệm, nhưng càng ngày với quá

trình dân chủ hóa, toàn cầu hóa và sự phát triển của xã hội thông tin, XHDS đã ngày

càng thể hiện được tiếng nói và vị trí, vai trò của mình trong lĩnh vực này.

Xuất phát điểm cho công việc của XHDS thường là sự đáp ứng những nhu cầu cơ

bản, hay là việc đưa ra xã hội những sản phẩm dịch vụ dưới hình thức tự tổ chức. Về

74

nguyên tắc, điều này diễn ra như là một phản ứng, bù đắp đối với sự thiếu hụt của nhà

nước. Bên cạnh đó, các thành viên XHDS cũng thực thi chức năng chính trị, đại diện cho

quyền lợi của các nhóm công dân bị thiệt thòi khi đưa ra những đề xuất chính sách để giải

quyết vấn đề và tác động đến điều kiện chính trị nói chung. Thông qua các công việc

thực tiễn của mình trên nhiều lĩnh vực như: môi trường, bình đẳng giới, quyền con

người, tham nhũng,v.v.. các tổ chức XHDS đã tiến hành nhiều hoạt động điều tra thực

tế ở các địa phương, tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm giữa nhiều thành phần trong xã

hội, mở các lớp tập huấn nâng cao trình độ cho những đối tượng hướng tới của dự án,

gửi các báo cáo đến các cơ quan có chức năng,v.v.. hoặc thông qua các phương tiện

truyền thông như facebook, twitter tác động đến dư luận,v.v.. để phản ánh các vấn đề

xã hội nảy sinh tới các cơ quan có thẩm quyền, tạo ra sự chú ý của dư luận, từ đó, có

nhiều biện pháp ngăn chặn và bảo vệ hơn nhằm cải thiện tình hình trước mắt và về lâu

dài các tổ chức xã hội tìm cách gây ảnh hưởng đến quá trình hoạch định chính sách

công nói chung. Điều này, đã góp phần nâng cao tính trách nhiệm của chính phủ trước

việc thực hiện lợi ích công cho toàn xã hội. Từ đó, có thể thấy vai trò này của XHDS

như một cú huých vào việc nâng cao hiệu quả ban hành các chính sách của chính phủ và

đòi hỏi chính phủ phải minh bạch hơn, giải trình hơn trước những vấn đề cấp bách của xã

hội.

Thứ ba, xã hội dân sự thực hiện vai trò phản biện, giám sát các hoạt động của

nhà nước.

Nhà nước ra đời trên cơ sở của sự ký kết khế ước xã hội giữa các cá nhân độc lập

và có tài sản, nhà nước đại diện cho quyền, lợi ích của nhân dân và thực hiện chức năng

xã hội bên cạnh chức năng trấn áp của mình. Nhưng trong quá trình hoạt động, đã nảy

sinh nhiều vấn đề như tham nhũng, không minh bạch trong quản lý nhà nước và không

thực hiện tốt chức năng xã hội hướng đến đa số người dân của mình. Quyền lực của nhà

nước cũng là quyền lực của xã hội, mà nhà nước chỉ là một thành tố trong đó. Từ đó, các

cá nhân liên hợp với nhau lại, ký kết với nhau những khế ước xã hội tạo nên XHDS, nơi

người dân có thể tham gia trực tiếp vào các hoạt động chính trị, xã hội để có thể kiểm

soát, chế định quyền lực của nhà nước và yêu cầu nhà nước thực hiện đúng các cam kết

của mình với công dân, với XHDS. Sự kiểm soát, chế định này đòi hỏi nhà nước thực

75

hiện theo nguyên tắc dân chủ và pháp quyền. Và nó hướng đến nhu cầu dân chủ hóa và

minh bạch hóa trong bộ máy nhà nước.

Bên cạnh đó, với vị trí, chức năng của mình XHDS còn là lĩnh vực bổ sung cho

nhà nước và khu vực kinh doanh, là đối tác bình đẳng của nhà nước, nơi người dân

tham gia vào việc hoạch định, thực hiện chính sách và giám sát nhà nước, thực hiện

phản biện xã hội đối với nhà nước, kể cả đối với phẩm chất và hành vi của viên chức

nhà nước, của công chúng.

Phản biện xã hội là một đặc trưng của nền dân chủ, là quyền tự nhiên và là tiếng

nói của XHDS. Quyền này, chỉ được phát huy khi nó có được địa vị hợp pháp và ý thức tự

giác của người dân, hay nói cách khác, là trình độ dân trí của quốc gia đạt đến mức độ

nhất định. Qua phản biện xã hội, chúng ta thấy có nhiều khuynh hướng tranh luận với

nhau về những mặt nảy sinh trong xã hội, từ đó dẫn đến những sự đồng thuận nhất định và

khi ấy xã hội sẽ tìm ra cho mình một giải pháp tối ưu nhất cho quá trình phát triển, đảm

bảo lợi ích của đại đa số nhân dân. Với cách thức tổ chức, hoạt động của mình XHDS với

tư cách là đối tác của nhà nước có chức năng quan trọng và giữ vai trò chủ động trong quá

trình chế định, phản biện xã hội, tạo mọi điều kiện để các tổ chức xã hội và người dân

tham gia vào việc hoạch định, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp

luật. Nhưng dù vậy, chức năng này lại phụ thuộc nhiều vào cơ chế tổ chức hiến pháp,

pháp luật của nhà nước pháp quyền và KTTT cụ thể. Bản thân nhà nước pháp quyền giữ

vai trò kích hoạt, khuyến trợ cho các hoạt động của XHDS và góp phần hình thành nên

một xã hội công dân sống động. Nhà nước đảm bảo các quyền tự do thụ động19 để trên

cơ sở đó thực hiện các quyền tự do chủ động và từ đó, các hoạt động của XHDS mới

được đảm bảo và ghi nhận.

Thứ tư, xã hội dân sự kết nối chặt chẽ với nền kinh tế thị trường và thúc đẩy

19 Một quyền thụ động là một quyền không phải chịu một hành động của người khác hoặc nhóm một chính phủ, ví dụ, thường là trong các hình thức lạm dụng hay bị ép buộc. Một quyền chủ động là một quyền phải chịu một hành động của người hoặc một nhóm khác. Những người theo chủ nghĩa tự do là những người nhấn mạnh đến các quyền thụ động và chủ động. Theo họ, những quyền chủ động chỉ được thực hiện khi được ghi nhận trên các văn bản. Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế đều chỉ ra các quyền chủ động và thụ động. Còn hầu hết các Hiến pháp của các nền dân chủ tự do thì đều đảm bảo các quyền thụ động nhưng không phải tất cả các quyền chủ động. Và các quyền chủ động thường được đảm bảo bằng các luật khác, các chính sách xã hội có liên quan.

những nhân tố của thị trường phát triển.

76

Một là, cả XHDS và KTTT đều hướng đến tính độc lập, đều đánh dấu sự khởi

đầu của con người để thoát khỏi sự phụ thuộc và hướng tới việc tồn tại như một cá

nhân tự do chứ không phải cá nhân lệ thuộc. Điều này cho thấy rằng, sự phát triển của

XHDS trong quan hệ xã hội, trên nền tảng của hệ thống thị trường trong nền kinh tế và

sự tự ý thức về sự làm chủ của bản thân mình là một quá trình thống nhất và tác động

lên nhau. Đây là quá trình hướng tới sự hiện đại hóa.

Hai là, xuất phát từ bản chất của nền KTTT, giữa các cơ sở hình thành XHDS

và thị trường có sự gắn kết chặt chẽ với nhau. Bản thân KTTT là nền kinh tế hàng hóa,

ở đó các sản phẩm và dịch vụ được trao đổi, mua bán trên thị trường. Việc trao đổi này

được thực hiện trên nguyên tắc ngang giá, chịu sự chi phối bởi các quy luật của thị

trường như giá trị, cung, cầu, tiền tệ...và nó được biểu thị bằng tiền khi mang ra trao

đổi. Việc trao đổi hàng hóa này được dựa trên các điều kiện đó là người chủ sở hữu

hàng hóa được tự do về thân thể, có thể tự quyết định việc trao đổi hàng hóa của mình.

Những người chủ sở hữu hàng hóa bình đẳng với nhau và tiến hành cạnh tranh hàng

hóa lành mạnh. Thị trường phải được mở cửa công bằng cho tất cả mọi chủ sở hữu

hàng hóa và những chủ sở hữu hàng hóa phải dùng trí tuệ của mình làm cho sản phẩm

mang yếu tố văn hóa, thẩm mỹ để nâng cao tính cạnh tranh hơn. Như vậy quan hệ bản

chất của nền KTTT là hàng - tiền đều được hình thành dựa trên các giá trị cơ bản là tự

do, bình đẳng, cạnh tranh, cởi mở và lý trí. Vì vậy, rõ ràng là nếu nền KTTT muốn

hoạt động như một hệ thống hoàn chỉnh và phát triển thì nó cần phải được hỗ trợ từ

pháp luật để đảm bảo tính công bằng trong cạnh tranh, hạn chế “luật rừng” trong kinh

doanh bởi vì lợi nhuận kinh tế, các chủ sở hữu hàng hóa có thể làm tất cả mọi việc trái

pháp luật; từ triết học và đạo đức để cá nhân tự nâng cao năng lực của mình, đảm bảo

cái tự do được phát huy đầy đủ và tính bình đẳng trở thành một nguyên tắc đạo đức; từ

hệ tư tưởng, chính trị để định hướng cho nền kinh tế đó phát triển với mục tiêu cộng

đồng cao nhất. Và đặc biệt là, từ một bộ máy thiết chế chính quyền mạnh mẽ bao gồm

các cơ quan chính phủ, tòa án, quân đội, cảnh sát để có thể xử lý những vi phạm trong

nền KTTT và các nhóm xã hội khác nhau với các cá nhân độc lập, tham gia theo

nguyên tắc tự nguyện. Những nhóm này thuộc về các lĩnh vực xã hội, đặc biệt là về

kinh tế, biểu thị mối quan hệ giữa nhà nước chính trị và cuộc sống tư nhân. Và đây

cũng là một trong những lĩnh vực của XHDS. Do đó, để đảm bảo rằng nền KTTT có

77

thể hoạt động bình thường, thì cần phải có sự tác động của nhà nước và các tổ chức

XHDS tương ứng.

Cho dù ở phương Tây hay phương Đông, các nhà nước với các tổ chức khác

nhau của nó tồn tại rất lâu trước khi nền tảng của một hệ thống KTTT ra đời. Và cùng

với sự chuyển đổi từ nền kinh tế tự nhiên sang nền KTTT thì hình thức và chức năng

của nhà nước cũng như các tổ chức xã hội cũng đã biến đổi rất nhiều. Mỗi một quốc

gia, vùng lãnh thổ với những đặc thù riêng về văn hóa, điều kiện lịch sử khác nhau sẽ

có những hình thức tổ chức quyền lực đặc thù để thích hợp với hệ thống của họ trong

nền KTTT. Nhưng về cơ bản những đặc trưng của KTTT sẽ vẫn phải thiết lập dù dưới

chế độ chính trị - xã hội nào đi nữa. Những không gian tự do cho chủ sở hữu hàng hóa

phải được tạo ra ngay cả khi dưới một nhà nước quân chủ, bởi họ - nhà nước có thể

kiểm soát về mặt chính trị, tư tưởng chứ không được vi phạm các tự do, bình đẳng khi

trao đổi hàng hóa. Còn nếu trong khi không gian KTTT bị vi phạm, không tồn tại mọi

chỗ thì các lĩnh vực XHDS sẽ tham gia vào quá trình thay đổi điều này ít hay nhiều.

Do vậy, trong ý nghĩa này, XHDS là một điều kiện cần thiết cho nền KTTT tồn tại và

phát triển. Càng phát triển KTTT càng phải mở rộng các lĩnh vực khác ngoài kinh tế

và sớm hay muộn nó sẽ dẫn đến những biến đổi về chính trị. Muốn vậy, XHDS phải

tiến hành các hoạt động có quy mô lớn và mạnh mẽ. Điều này đã được chứng minh

trong các xã hội phương Tây hiện đại.

Như vậy, từ sự phân tích vai trò chung của XHDS trong mối tương quan với

nhà nước pháp quyền và KTTT, có thể thấy, mục tiêu hoạt động của cả ba yếu tố này

đều hướng tới sự thực hiện quyền con người và xa hơn nữa là phát triển con người.

Dường như, nó trở thành một ý chí chung trong hành động và cho thấy sự gắn kết chặt

chẽ giữa XHDS, nhà nước, KTTT với quyền con người.

Bản thân quan hệ ràng buộc giữa nhà nước và XHDS; quan hệ kiểm soát và

điều tiết giữa nhà nước và KTTT; quan hệ tương hỗ, điều tiết, bổ khuyết giữa XHDS

với KTTT là những yếu tố tác động tới việc thực hiện quyền con người trong một xã

hội nhất định. Nói cách khác, tính chất và chất lượng của các mối quan hệ giữa ba

thành phần nói trên là yếu tố quyết định cho sự thành công hay thiếu hiệu quả của việc

thực hiện quyền con người. Bởi nhà nước là chủ thể chính của thực hiện quyền con

người; KTTT có sự điều khiển của nhà nước sẽ là công cụ tốt nhất để đạt được những

78

kết quả về lượng của quyền con người, còn XHDS là chủ thể trực tiếp thực hiện quyền

con người. Chính sự kết hợp giữa lôgíc của thị trường, hành động của nhà nước và

sáng kiến của XHDS đã mang lại một câu trả lời khá hoàn chỉnh cho việc thực hiện

quyền con người.

Thực tế nghiên cứu cho thấy cả ba công cụ trên đều có những điểm mạnh và

điểm yếu trong quá trình vận hành của từng công cụ và do đó có sự bổ sung phù hợp

từ các công cụ khác. Hành động tốt nhất là phải phát huy được những ưu điểm của

những công cụ đó và giảm thiểu tới mức thấp nhất có thể những sai lệch của chúng

[59, tr.124]. Do đó, sự hòa hợp và kết hợp ba yếu tố này bằng cách tạo ra một mối

quan hệ đồng thuận, đồng lòng, đồng đích (chứ không phải là quan hệ đối kháng, đối

đầu...) vì một mục tiêu thực hiện quyền con người là việc quyết định cho sự thành

công của việc thực hiện quyền con người. Từ đó, với vị trí, chức năng của mình, vai

trò đầu tiên của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người sẽ là tác động tới nhà

nước, mà cụ thể ở đây là trong việc hoàn thiện các chính sách về quyền con người,

giám sát việc thực hiện các công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền con người.

3.1.2. Vai trò của xã hội dân sự trong việc phát huy các yếu tố của sự phát triển xã hội

Thứ nhất, trong lĩnh vực chính trị

Một là, xã hội dân sự thúc đẩy quá trình dân chủ vì bản thân nó là tổ chức mang

tính dân chủ. Đây là vai trò cơ bản xuất phát từ đặc trưng của XHDS. Vai trò này thể

hiện ở chỗ, người dân tìm thấy mình trong các quyết sách của chính quyền, tham gia

vào các công việc xã hội, nhận thức, trình độ và đặc biệt ý thức, trách nhiệm với xã

hội.

Về bản chất, dân chủ là sự thể hiện quyền lực của nhân dân qua việc mỗi người

trong xã hội có những quyền con người cơ bản, được tự do suy nghĩ, lựa chọn, quyết

định những gì mà mình muốn trong khuôn khổ của pháp luật và khi chủ thể của quyền

sử dụng những quyền đó đã tạo nên lực thúc đẩy khả năng của mỗi người, sáng tạo ra

sự phát triển xã hội. Biểu hiện của dân chủ trên thực tiễn phần nào thể hiện qua quá

trình dân chủ hóa, người dân tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội. Đây là một tiến trình lâu dài về văn hóa, về cấu trúc tổ chức, về dân chủ...

Chỉ có một nhà nước đủ mạnh mới có khả năng thực thi và gìn giữ những điều kiện

79

dân chủ và quản trị cho công dân, và, những nhân tố cơ bản cho một nền dân chủ sẽ

phát sinh và phát triển trong XHDS.

Xã hội dân sự và những tổ chức của nó là vốn xã hội, là "chất keo" gắn kết các

giá trị của xã hội, đồng thời, nó còn là địa bàn quan trọng để nền dân chủ phản ánh,

bởi vì, nó tạo điều kiện cho mọi công dân hiểu được thực tiễn dân chủ và thể hiện

được tính chủ động của mình trong mọi việc (tham gia vào công luận chính trị, hệ

thống chính trị và các vấn đề khác của xã hội). Việc người dân tham gia vào các tổ

chức hiệp hội cũng đồng nghĩa với việc người dân đang ngày càng tham gia nhiều hơn

vào đời sống chính trị và qua đây cũng có thể khắc phục được sự thiếu ảnh hưởng của

bản thân nếu họ hoạt động với tư cách một cá nhân đơn lẻ. Điển hình là ở Mỹ, vai trò

của các hiệp hội là rất quan trọng trong thời kỳ đầu của quá trình dân chủ. Tocqueville

quan sát khi các cá nhân có chung quan điểm gặp gỡ nhau, họ sẽ tự động kết hợp lại

thành một tổ chức. Khi tổ chức lớn mạnh, những chủ thể chính trị buộc phải chú ý đến

chúng và nhận ra những ưu tiên của các thành viên trong đó. Theo cách này, các tổ

chức hiệp hội tăng quyền lực cho các cá nhân trong bối cảnh chính trị cụ thể, và điều

này buộc những chủ thể chính trị phải tự thích nghi. Chính những tổ chức hiệp hội như

vậy đã duy trì được tính cốt lõi của XHDS, mạng xã hội và vốn xã hội [112]. Có thể

nói, đây là một tiền đề quan trọng cho việc thúc đẩy sự phát triển của dân chủ.

Ngoài việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển tiếp lên dân chủ, XHDS cũng

khuyến khích việc tiếp tục củng cố hệ thống dân chủ. Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu và

lý thuyết gia đã tập trung vào vai trò ưu tú của giới tinh hoa trong việc gây ảnh hưởng

lên hệ thống dân chủ, song, những nền dân chủ hoạt động đúng đắn chắc chắn yêu cầu

về việc phát huy tối đa quyền làm chủ, trình độ làm chủ của người dân. Xã hội dân sự,

bằng nhiều cách, có vai trò trung gian giữa khu vực tư nhân và nhà nước, và đây là

một cơ chế tổ chức đa nguyên, đa dạng. Trong hoạt động, nó tập trung nhiều vào mục

tiêu công, đại diện cho lợi ích của người dân hơn là những mục đích tư. Trong mối

quan hệ với nhà nước nó vừa giới hạn quyền lực, vừa giúp cải cách nhà nước. Do đó,

XHDS, một cách toàn diện nhất, có thể được coi là có ảnh hưởng tích cực lên hệ thống

dân chủ.

Hai là, xã hội dân sự thúc đẩy quá trình dân chủ thông qua việc vận động,

khuyến nghị chính sách, phản biện xã hội.

80

Xã hội dân sự là cầu nối giữa người dân, nhà nước và hệ thống chính trị, là nơi

nói lên nguyện vọng, tâm tư, tình cảm của nhân dân. Là yếu tố giữ vai trò hòa giải giữa

cá nhân và nhà nước, việc này mang đến cho các tổ chức XHDS có chức năng định hình

và điều phối những nhu cầu, lợi ích của những người tham gia và giúp cho quá trình

quản trị dân chủ đi theo những hướng tích cực. Từ việc tạo nên những diễn đàn của công

chúng, nơi mà công dân và giới chính trị có thể bàn luận với nhau ngoài sự hiện diện của

các phương tiện truyền thông. Xã hội dân sự cung cấp một hình thức tư vấn có giá trị, bổ

sung cho hợp tác giữa nhà nước nói riêng và hệ thống chính trị nói chung. Các tổ chức

XHDS có thể cung cấp hỗ trợ cho các hệ thống dân chủ của chính phủ bằng việc thúc

đẩy các giá trị của quyền công dân, quyền con người, quản trị tốt, bình đẳng giới, sự

tham gia dân chủ trong xã hội và tầm quan trọng của một hệ thống dân chủ dựa trên sự

minh bạch, trách nhiệm, hiệu quả và phản ứng. Điều này được thấy rõ qua việc, nhiều tổ

chức XHDS đại diện cho quyền lợi và nhu cầu của các nhóm lợi ích đặc biệt, nhóm thiệt

thòi, yếu thế trong xã hội. Họ thường xuyên đưa ra các khuyến nghị, tác động đến điều

kiện chính trị và quá trình soạn thảo chính sách nói chung; thường xuyên trao đổi với

các cơ quan công quyền thông qua hình thức đối thoại trực tiếp, gián tiếp nhằm thúc đẩy

quyền cho những nhóm mà mình đại diện.

Thứ nữa, xuất phát điểm cho công việc của XHDS là đáp ứng những nhu cầu cơ

bản, hay, tham gia ngày càng tích cực vào quá trình cung cấp các dịch vụ công cộng cho xã

hội. Những nỗ lực của khu vực này bổ sung mạnh mẽ vào nguồn lực, vào hoạt động của

chính phủ trong quá trình phát triển xã hội. Trên thực tế, nó đã góp phần làm giảm gánh

nặng cho nhà nước, bù đắp cho sự thiếu hụt của Nhà nước. Từ đó, song song với sự lớn

mạnh của khu vực tư, nhà nước phải thu hẹp bớt lĩnh vực chi phối của mình. Một điểm nữa,

XHDS giữ vai trò chủ động trong quá trình tư vấn, giám sát và phản biện lại mọi vấn đề

nảy sinh trong xã hội. Điều này đã làm cho đời sống thực tiễn của xã hội dân chủ và có

hiệu quả hơn.

Từ góc độ phân tích này nói lên rằng trong bản thân XHDS đã tự thể hiện tính

dân chủ và các hoạt động của nó, một cách trực tiếp hay gián tiếp đều tạo ra không gian

dân chủ, thúc đẩy và hoàn thiện nó nhằm phát huy tối đa các quyền con người. Đây là

điều kiện rất quan trọng mà XHDS đã tạo ra trong việc thực hiện quyền con người.

Thứ hai, trong lĩnh vực xã hội, văn hóa.

81

Một là, xã hội dân sự thúc đẩy trách nhiệm xã hội thông qua quá trình xóa đói

giảm nghèo, bảo đảm công bằng xã hội và điều tiết xã hội.

Trong quá trình phát triển, những mục tiêu như thúc đẩy quyền con người, nâng

cao chất lượng cuộc sống, góp phần phát huy các nguồn lực đảm bảo công bằng xã

hội... đã trở thành những mục tiêu cơ bản của XHDS. Để thực hiện được các mục tiêu

đó, khi tiến hành các hoạt động của mình, các tổ chức XHDS đã tiến hành các hình

thức tổ chức, vận động, tập hợp các lực lượng xã hội, phản ánh các vấn đề xã hội đến

các cơ quan chính phủ. Đồng thời, tiến hành giám sát, phổ biến thông tin, giáo dục đến

mọi người nhằm thu hút sự chú ý của công luận đến các vấn đề xã hội đang nảy sinh, từ

đó, thông qua các tổ chức cộng đồng, các tổ chức quốc gia đã tham gia vào việc thiết kế

chiến lược như các nhà cung cấp dịch vụ cho những vấn đề trên.

Bên cạnh đó, các dự án trực tiếp của các tổ chức XHDS hướng tới các đối

tượng nghèo khó cũng làm giảm khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội. Một ví dụ ở

Việt Nam, các tổ chức phi chính phủ ActionAid, Oxfam v.v. đã hỗ trợ lâu năm cho

những người nghèo và thiệt thòi ở Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới. Theo

nhận định của Bà Hoàng Phương Thảo, đại diện ActionAid Việt Nam (AAV) chia sẻ,

trong số 900 tổ chức phi chính phủ quốc tế hiện đang hoạt động tại Việt Nam, có 400

tổ chức làm việc trực tiếp với các dân tộc thiểu số thuộc vùng sâu, vùng xa. Trong giai

đoạn từ 2003 - 2012, tổng ngân quỹ được các tổ chức phi chính phủ mang vào Việt

Nam đạt xấp xỉ 2,3 tỷ USD. Mặc dù, số tiền không nhiều so với nguồn ngân sách do

các nhà tài trợ song phương, đa phương khác và Chính phủ Việt Nam hỗ trợ cho các

chương trình phát triển nhưng những hỗ trợ mà các tổ chức phi chính phủ nước ngoài

mang đến cho Việt Nam nói chung và vùng sâu, vùng xa được đánh giá rất cao…

Công việc mà các tổ chức phi chính phủ quốc tế đã làm trong công cuộc phát triển

kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa của Việt Nam có ý nghĩa và ảnh hưởng lớn.

Những đóng góp này đã giúp Việt Nam trở thành một trong những mô hình xóa đói

giảm nghèo thành công nhất trên thế giới [111].

Ngoài ra, xã hội dân sự là một công cụ tự điều tiết của xã hội thông qua hành

động của những người dân bình đẳng. Trên cơ sở này, lợi ích của công dân được đáp

ứng và các hoạt động của XHDS có thể tạo ra những hình thức tự giúp và giúp đỡ xã

hội với người thứ ba. Bằng cách tăng cường hình thức tự giúp đỡ xã hội, can dự vào hệ

82

thống chính trị và tự điều tiết, dưới bóng dáng của các thiết chế của nhà nước pháp

quyền, XHDS đang thực hiện chức năng quan trọng - chức năng điều tiết xã hội. Hoạt

động của các tổ chức XHDS dựa trên nền tảng của sự tin tưởng, nhân đạo và hợp tác.

Vì thế, nó đảm bảo cho vai trò ổn định trong xã hội, tổ chức và khuyến khích thực hiện

hình thức hòa nhập xã hội về chính trị của công dân, đồng thời xây dựng, phát triển

tình đoàn kết và vốn xã hội.

Hai là, xây dựng đoàn kết, tăng cường các mối liên kết xã hội, vốn xã hội.

Xuất phát từ lực lượng, thành phần, phạm vi hoạt động của mình, XHDS đã tạo

ra nhiều hoạt động tăng cường tính đoàn kết của xã hội. Việc tham gia các hoạt động

chính trị chính là cơ sở làm tăng các mối liên kết xã hội, tăng sự đoàn kết giữa XHDS

và nền dân chủ, tăng vốn xã hội. Điều này được thể hiện trong công trình xem xét về

quá trình tham gia chính trị ở Mỹ, Rosenstone và Hansen cho rằng, khía cạnh tự

nguyện của việc tham gia vào các vấn đề xã hội là quan trọng trong việc vận động các

công dân. Đầu tiên, phần lớn các nhóm đều tự tiến hành các hoạt động vận động chính

trị của chính các nhóm đó. Thứ hai, các thành viên của nhóm được tiếp xúc với những

chính khách và nhà hoạt động có chung lý tưởng, cùng với mục tiêu vận động các

thành viên. Cuối cùng, việc đơn giản là một thành viên của nhóm hứa hẹn những

tưởng thưởng tiềm năng mà các thành viên khác cùng theo đuổi và có thể đạt được tốt

nhất thông qua hành động chính trị. Theo cách này, mức độ vốn xã hội, các mối liên

kết xã hội và XHDS có thể ảnh hưởng một cách đa dạng tới mức độ tham dự vào đời

sống chính trị [107]. Quá trình tham gia này cũng góp phần làm tăng vốn xã hội của

người dân và tính đồng thuận trong xã hội.

Ba là, xã hội dân sự giữ vai trò quan trọng trong hội nhập văn hóa, đạo đức và

mức độ ảnh hưởng tới lĩnh vực toàn cầu.

Do sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu đã dẫn đến việc phát triển các mạng

lưới XHDS từ các cấp độ địa phương, đến quốc gia, khu vực và trên toàn thế giới. Các

tổ chức XHDS toàn cầu này hoạt động vì những giá trị chung của nhân loại như xóa

đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, thực hiện quyền con người,v.v.. các hoạt động

triển khai các mục tiêu này đã kéo theo sự thay đổi, thấu hiểu và chấp nhận các giá trị

khác biệt của các quốc gia khác nhau và điều này đã làm cho quá trình hội nhập văn

hóa diễn ra mềm dẻo hơn, mặc dù không tránh khỏi những xung đột. Đây có thể được

83

xem như hành động mở đường cho sự thâm nhập vào nhau, cho sự thấu hiểu nhau và

hợp tác lẫn nhau ở cấp chính phủ, nhà nước sau này.

Bên cạnh đó, do quá trình nhập cư phát triển dẫn tới sự đa dạng về văn hóa, hay

do quá trình toàn cầu hóa bên cạnh những mặt tích cực, cũng đã làm nảy sinh những

vấn đề tiêu cực như bất bình đẳng xã hội, khủng hoảng kinh tế, ô nhiễm sinh thái, v.v..

Trong việc giải quyết những vấn đề này, đã xuất hiện xu hướng phân cực ngày càng

lớn về xã hội và về văn hóa, cũng như tình trạng xung đột gia tăng. Điều này, đòi hỏi

XHDS phải thúc đẩy hoạt động của mình, nhằm thực hiện kết nối toàn cầu, bằng cách

sử dụng sức mạnh văn hóa (ý nghĩa và bản sắc) như một công cụ kiểm soát hành động,

nhờ đó, sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự chỉ đạo công việc xã hội của từng quốc gia và trên

toàn thế giới. Vì vậy, trong quá trình hội nhập ngày nay, vấn đề có tính quyết định là

người dân với những kết hợp bản sắc hết sức khác nhau cùng tạo dựng nên một thứ

văn hóa chính trị nói chung - văn hóa chính trị của dân chủ. Chính vì thế, vai trò của

XHDS là làm cho quá trình hội nhập trở nên dễ dàng hơn.

Thứ ba, trong lĩnh vực kinh tế, xã hội dân sự thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Xã hội dân sự là một lĩnh vực phi lợi nhuận, song trong hoạt động của mình đã

tạo ra những giá trị không nhỏ về mặt kinh tế. Nhiều hội đoàn và các tổ chức của

XHDS là những đơn vị tạo ra phúc lợi, hạnh phúc và an sinh xã hội, đặc biệt là trong

lĩnh vực chăm sóc sức khỏe... nhưng không vì thế mà giá trị kinh tế của những người

trong nhóm này tạo ra nhỏ. Ví dụ, ở Đức có khoảng 21 triệu người hoạt động không

chuyên, có khoảng 500.000 tổ chức phi lợi nhuận, tổng số “giờ lao động” thực hiện

tính ra bằng 2,3 tỷ mỗi năm. Bên cạnh đó, họ đã “kích động” tăng trưởng kinh tế bằng

cách tham gia vào các hoạt động vận động hành lang cho các vấn đề về chính sách, môi

trường phát triển, lợi ích chính đáng của một nền kinh tế [60, tr.94]. Ngoài ra, các tổ

chức XHDS ở cấp địa phương có nhiều khả năng hơn so với chính phủ trong việc cung

cấp, trợ giúp tài chính cho người dân và nắm bắt nhu cầu của họ. Các tổ chức này thực

hiện có hiệu quả việc tiếp cận người nghèo, người bị lãng quên và những người khác

không phục vụ trong khu vực công, cơ sở thương mại, cũng như trong việc huy động

nguồn lực của địa phương và ý kiến công chúng xung quanh các vấn đề như nghèo đói,

các dịch vụ cung cấp cho người nghèo. Do tính linh hoạt và ít có ràng buộc chính trị nên

các tổ chức XHDS có thể giải quyết vấn đề hiệu quả hơn. Không giống như các cơ quan

84

chính phủ, các tổ chức XHDS có thể hành động nhanh hơn những cam kết tổ chức

nguồn lực và đặt áp lực mạnh mẽ vào Nhà nước, nhằm tạo ra và thực hiện các chính

sách mới. Họ cũng sẽ hành động với sự đồng cảm nhiều hơn và từ bi hơn so với các khu

vực kinh doanh. Như vậy, khu vực XHDS tạo ra những phúc lợi có thể đo đếm được về

mặt kinh tế.

Từ những lý giải về vai trò chung của XHDS trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,

văn hóa, xã hội, có thể thấy XHDS đã và đang hành động để tạo ra một môi trường

hoàn thiện hơn, tốt hơn, tạo ra những điều kiện cần thiết để mọi người có cơ hội được

lựa chọn các điều kiện phát triển, được thực hiện quyền tự do, được phát huy khả

năng, sáng tạo của mình và được làm chủ sự phát triển của chính mình. Ở khía cạnh cơ

bản nhất, đây cũng chính là các điều kiện để thực hiện quyền con người, nhằm mục

tiêu phát triển con người. Vì bản thân sự phát triển con người về cả mục đích và động

cơ hoạt động đều gần với quyền con người.

Nhưng, để làm được điều đó, cần phải có những cơ chế hiến chương không cho

phép lạm dụng, vi phạm những quyền cơ bản của con người, cần phải có sự yêu

thương giữa con người với con người, cần phải có thiết chế đặc thù về bảo vệ con

người, thực hiện quyền con người. Do đó, ngoài việc tạo ra các điều kiện phát triển để

hiện thực hóa các quyền con người, thì sự tham gia của của XHDS vào quá trình này

là vô cùng cần thiết ở khía cạnh chống lại những vi phạm về quyền con người. Đây là

một trong những chiến lược hành động quan trọng của XHDS dựa trên nền tảng của

XHDS là quyền của mỗi người (khác với quyền của nhà nước) và nền tảng của quyền

con người là vì phẩm giá và sự phát triển của con người.

Như vậy, vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người xuất phát

từ vai trò chung của XHDS đối với sự phát triển xã hội và xuất phát từ mối quan hệ

chặt chẽ giữa hai yếu tố này.

Quyền con người và XHDS thống nhất với nhau từ khía cạnh tự do gắn với

quyền tự nhiên của mỗi người trên cơ sở ký kết các khế ước xã hội. Con người theo tự

nhiên đều tự do, bình đẳng và độc lập, nên cách duy nhất để đạt được đồng thuận xã

hội đó là một người tự tước bỏ tự nhiên của mình và gắn với ràng buộc của XHDS, với

người khác để cùng liên kết và hợp nhất trong cộng đồng, nhằm đảm bảo quyền tự do

trở thành sở hữu chính bản thân mình thông qua việc định đoạt sử dụng quyền đó như

85

việc tham gia vào các quy trình ra quyết định và vào quyền lực chính trị,v.v.. và sự an

ninh cho chính bản thân mình để chống lại tất cả những gì không thuộc về điều đó. Đó

là thứ tự do trong khuân khổ pháp luật bởi quyền của con người là vốn có nhưng nó

cũng do con người tạo ra trong một môi trường xã hội, hoàn cảnh lịch sử nhất định vì

bản thân con người cũng là sản phẩm của tự nhiên và xã hội. Do vậy, các khế ước xã

hội sẽ điều hòa tự do, phát huy được các giá trị xã hội. Đồng thời, đây cũng là điểm

giới hạn của tự do. Giới hạn này do chính vấn đề đạo đức của tự do quy định, còn với

các cá nhân riêng lẻ, nó liên quan đến vấn đề lợi ích chung. Tự do thể hiện sự gắn kết

XHDS gắn với quyền tự nhiên của con người với tư cách là nền tảng, cơ sở cho sự

hình thành và mục đích của cả hai thành tố này qua những ràng buộc của khế ước xã

hội con người qua sự ràng buộc giữa các quyền tự do, quyền tự nhiên của con người

(hướng đến tự do là cái tất yếu được nhận thức) trong sự nhận thức của cá nhân với

mối tương quan với các quy luật tất yếu, với cộng đồng. Ngoài ra, từ yêu cầu của sự

phát triển một nền dân chủ, từ cơ chế pháp lý trên toàn cầu mà tiêu biểu là các công

ước của LHQ về quyền con người và từ mục tiêu phát triển con người, chúng ta có thể

thấy được sự cần thiết của việc phát huy vai trò của XHDS đối với việc thực hiện

quyền con người. Các vai trò cụ thể được chúng tôi phân tích sau đây phần nào chứng

minh được điều đó.

3.2. Những vấn đề cơ bản về vai trò của xã hội dân sự với việc thực hiện quyền con

người

3.2.1. Xã hội dân sự tác động tới nhà nước trong việc thực hiện quyền con người

Vai trò này được thể hiện qua việc XHDS giúp nhà nước hoàn thiện chính sách

về quyền con người; thúc đẩy nhà nước và các bên liên quan hiện thực hóa quá trình

thực hiện quyền con người thông qua các hoạt động như tham gia vào quá trình xây

dựng chính sách, tư vấn, giám sát, phản biện các hoạt động chính sách về quyền con

người.

Thứ nhất, xã hội dân sự góp phần cùng nhà nước hoàn thiện chính sách, pháp

luật về quyền con người.

Việc bảo vệ quyền con người là một quá trình, nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều

điều kiện khác nhau (kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa…) trong đó pháp luật có vị

trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu. Nhà nước là chủ thể nghĩa vụ chính thực hiện

86

quyền, về cơ bản, nó cũng chính là chủ thể lập pháp, hành pháp cho cộng đồng. Do đó,

với một nhà nước đúng nghĩa, chức năng chính trong việc thực hiện quyền con người là

xây dựng luật, quản lý, cưỡng bức thi hành luật đảm bảo cho quyền lợi và nghĩa vụ của

công dân được thực thi; tiếp đến là điều hòa, điều tiết các hoạt động xã hội, điều tiết thu

nhập để đảm bảo bình đẳng xã hội. Nhưng trên thực tế, khi tổ chức hoạt động được điều

hành bởi các cá nhân cụ thể có quyền lực cao thì nhiều khi các chức năng này của nhà

nước chưa được thực hiện một cách đầy đủ nhất, những nhóm lợi ích lớn lại chi phối nhà

nước và những nhóm xã hội khác nhỏ lẻ hơn thường bị thiệt thòi… Bên cạnh đó, trong

quan hệ với Nhà nước, công dân vừa là người chủ nhà nước, vừa là đối tượng bị quản

lý, chịu sự phán quyết cho nên quyền và lợi ích hợp pháp của họ luôn ở vị thế bất lợi,

luôn có nguy cơ xâm hại cao từ phía các cơ quan, tổ chức, công chức nhà nước trong

khi thi hành công vụ, nhất là từ hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước

và các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như từ phía các thành viên khác trong xã hội.

Trong điều kiện đó, người dân không có vũ khí, phương tiện nào khác hữu hiệu

hơn là sử dụng pháp luật để đấu tranh tự bảo vệ lấy các quyền và lợi ích của mình. Chỉ

có pháp luật, bằng các quy phạm pháp luật quy định chặt chẽ về chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, các quyền và nghĩa vụ của

công dân, mới tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc để mọi người đấu tranh chống lại các

hành vi xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, không phải ở

nhà nước nào, với bất kỳ thời gian nào các chính sách pháp luật về quyền con người là

đã đầy đủ, bởi sự khác biệt trong nhận thức, trong ý đồ chính trị, trong điều kiện kinh

tế - văn hóa – xã hội, v.v.. dẫn đến việc một số quốc gia giới hạn các quyền con người,

nhất là các quyền dân sự, chính trị, quyền cho các nhóm người yếu thế trong xã hội,

hoặc, chưa gia nhập một số công ước quốc tế về quyền con người, chưa nội luật hóa

các quyền đó trong thực tế pháp luật nước mình,v.v..

Do đó, cần một cơ chế ngoài nhà nước như XHDS để cân chỉnh lại trật tự xã hội và

cũng là thể chế đối quyền cho nhà nước, tác động lên nhà nước nhằm thực hiện các quyền

con người, mà ở đây là góp phần cùng nhà nước hoàn thiện chính sách pháp luật về quyền

con người. Vai trò này được thể hiện thông qua việc các cá nhân, tổ chức XHDS đã hợp

tác chặt chẽ với LHQ trong các hoạt động nhân quyền như: đối thoại, vận động và huy

87

động lực lượng xã hội, tham vấn có tổ chức với các chính phủ, các tổ chức khu vực, các

cơ quan nhân quyền quốc gia, trong những hoạt động nhân quyền, cụ thể.

Một là, các cá nhân, tổ chức thuộc XHDS tiến hành tham vấn, tư vấn về tình hình

nhân quyền ở các quốc gia, đóng góp vào việc xây dựng, hoàn thiện các văn bản quốc tế về

quyền con người. Nhưng không phải tổ chức nào cũng được tham vấn chỉ có những tổ chức

XHDS có địa vị quốc tế, trong một lĩnh vực nhất định, được công nhận rộng rãi mới có thể

tham gia quá trình tư vấn, với các nhóm làm việc của Hội đồng nhân quyền như nhóm làm

việc về quyền phát triển, diễn đàn xã hội, hoặc có thể tham gia các cuộc họp thường niên

của cơ chế chuyên gia về quyền của người bản địa,v.v.. Còn đối với các tổ chức quốc gia thì

chỉ được phép tham vấn sau khi có các ý kiến tư vấn với các quốc gia thành viên có liên

quan, việc tiếp cận với hệ thống của Liên hợp quốc là một vấn đề khó khăn.

Có hai cách thức chính để cung cấp ý kiến tư vấn với các cơ quan nhân quyền

LHQ là trình bày ý kiến và gửi các báo cáo, khuyến nghị lên ECOSOC để xem xét và

thảo luận trong các cuộc họp của tổ chức này. Ngoài ra, các tổ chức phi chính phủ, tùy

theo vị thế của từng dạng tổ chức cũng được tham gia ở mức độ nhất định vào tiến trình

giải quyết các khiếu nại tố cáo20. Từ các ý kiến tư vấn này, cùng với các kênh thông tin

khác, các cơ quan nhân quyền LHQ sẽ có các khuyến nghị thúc đẩy quá trình thực hiện

quyền con người ở các quốc gia khác nhau. Đồng thời, qua những ý kiến tư vấn, các báo

cáo của các tổ chức XHDS, các tổ chức này, giờ đây, không còn đơn giản chỉ là những

người ủng hộ cho các ý tưởng mới về nhân quyền, mà họ đã báo động cho cộng đồng

quốc tế về các vấn đề đang nảy sinh, phát huy được các kiến thức, kỹ năng trong các

hoạt động nhân quyền ở cả cấp độ chính sách và vận hành. Do đó, hầu hết các văn

kiện, chương trình của LHQ về quyền con người đều được xây dựng và thực hiện với sự

tham gia, đóng góp về thông tin và tư vấn của các tổ chức phi chính phủ [112, tr.142 -

143]. Ví dụ công ước về Quyền của người khuyết tật và Nghị định thư Tùy chọn kèm

20 Theo NQ 1296 của ECOSOC có 3 hạng tư vấn, hạng 1, 2 và hạng chỉ định. Hạng 1 và 2 được phép tham gia các cuộc họp công khai của các ủy ban và các cơ quan trực thuộc Hội đồng với tư cách quan sát viện của Hội đồng, được đệ trình văn bản khoảng 1500 đến 2000 từ, được lưu hành toàn bộ. Hạng chỉ định có thể tham gia họp vào các lĩnh vực thuộc khả năng của họ và phát biểu ý kiến. Muốn thực hiện tư vấn, các tổ chức phi chính phủ cũng phải đề nghị với Ủy ban về các tổ chức phi chính phủ của ECOSOC để họ tư vấn với Tổng Thư ký sắp xếp thành một đề mục trong chương trình nghị sự. Những báo cáo của các tổ chức phi chính phủ có thể được xem xét trực tiếp tại phiên họp toàn thể của ECOSOC, của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, hoặc, trước đó chuyển cho các ủy ban chức năng của các cơ quan này xem xét.

theo được Đại hội đồng LHQ thông qua vào tháng 12/2006 là có vai trò lớn từ XHDS

88

[106, tr.51]. Để công ước này được thông qua, đại diện XHDS đã tham gia vào các

cuộc đàm phán về nội dung và thúc đẩy nhanh quá trình đàm phán công ước.Và hiện

nay lại tiếp tục quá trình vận động để các nhà nước phê chuẩn công ước. Đây là công

ước được đàm phán nhanh nhất trong các công ước nhân quyền chỉ trong vòng có 4

năm từ 2002-2006. Điều này càng thể hiện rõ vai trò của XHDS bên cạnh các cơ quan

nhân quyền trong việc soạn thảo công ước mới này.

Bên cạnh đó, để thực hiện và phát huy vai trò này của mình, các cá nhân, tổ chức

XHDS đã tiến hành các các điều tra về tình hình thực hiện nhân quyền ở nhiều quốc gia

trên thế giới, từ đó, xây dựng các báo cáo, cung cấp các thông tin về hoạt động thực

hiện quyền con người, những vi phạm về quyền con người, cũng như những diễn biến

xấu và xu hướng đang phát sinh của tình hình nhân quyền ở phạm vi địa phương và

trong cả nước đến các cơ quan nhân quyền LHQ. Với thế mạnh về năng lực và kinh

nghiệm hoạt động trong các lĩnh vực này, khi phát hiện vi phạm quyền con người ở một

quốc gia nào đó, các cá nhân, tổ chức XHDS sẽ công khai vấn đề đó trên các diễn đàn

công cộng, vận động xã hội lên tiếng ủng hộ các quyền con người cơ bản, nhằm thúc đẩy

các phong trào xã hội để hỗ trợ cải thiện tình hình của họ, từ đó tiến xa hơn đến việc tham

gia thảo luận với chính quyền, tìm kiếm các giải pháp hình thành chính sách và đảm

bảo cho các thỏa thuận được thực thi, giám sát. Đây thực sự là một cách quan trọng bên

cạnh nhiều cách khác nữa để XHDS có thể đóng góp hiệu quả cho việc thực thi nhân

quyền và xây dựng những hướng dẫn cụ thể về nhân quyền. Quy trình này thể hiện

rằng, không chỉ dừng lại ở các báo cáo đơn thuần, các cá nhân, tổ chức XHDS đã tham

gia nhiều giai đoạn trong chu kỳ báo cáo, cũng như trong các quá trình khuyến nghị,

điều tra và cảnh báo sớm về tình hình nhân quyền ở nhiều quốc gia. Và đặc biệt là thúc

đẩy việc thông qua các công ước nhân quyền mới và việc phê duyệt, hoặc tham gia các

công ước hiện hành.

Hai là, xã hội dân sự đã góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện chính sách

nhân quyền ở các quốc gia.

Theo đánh giá của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc (OHCHR)21,

21 Là một cơ quan thuộc Liên hợp quốc do Đại Hội đồng thành lập vào ngày 20/12/1993, có nhiệm vụ thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người được bảo hộ trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và luật quốc tế.

XHDS là một đối tác quan trọng trong việc cải thiện tình hình nhân quyền tại các quốc

89

gia cả về mặt thực tế và chính sách [106, tr.15]. Điều này được phản ánh qua việc các

tổ chức XHDS nói chung cả ở cấp quốc tế, quốc gia đã phối hợp với các cơ quan nhân

quyền LHQ, hợp tác với các chính phủ, các cơ quan nhân quyền quốc gia, các tổ chức khu

vực, tổ chức địa phương tiến hành nhiều hoạt động như tổ chức các buổi thảo luận, hội

thảo về quyền con người, các chương trình đào tạo về nhân quyền, các chương trình

cải thiện sinh kế, các buổi tư vấn pháp luật, các cuộc vận động chính sách quyền con

người vào trong các dự án trong nước và khu vực để góp phần nâng cao trình độ nhận

thức về nhân quyền, hạn chế những vi phạm nhân quyền; thúc đẩy việc phê chuẩn các

công ước nhân quyền, thực thi các công ước đó và ban hành những chính sách pháp

luật mới điều chỉnh quyền, lợi ích, trách nhiệm của những nhóm người mới trong xã

hội, v.v.. ví dụ trường hợp của Uganda. Để thúc đẩy quyền của người khuyết tật, các tổ

chức phi chính phủ đã phối hợp với văn phòng quốc gia của OHCHR ở Uganda tiến

hành tham vấn chính sách, qua đó, tư vấn kỹ thuật về sự phù hợp của pháp luật, chính

sách về các vấn đề khuyết tật với tiêu chuẩn nhân quyền. Bên cạnh đó, các tổ chức này

còn tiến hành các hoạt động giám sát, thảo luận nhóm về tình hình của người khuyết

tật, tích cực thúc đẩy ở nhiều quận huyện, sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ

của người khuyết tật trong các cơ chế nhân quyền,v.v.. tổ chức tập huấn, hỗ trợ làm

đường, tập hợp chữ ký ủng hộ quyền cho người khuyết tật. Kết quả là liên đoàn người

khuyết tật Uganda đã thu thập được 1000 chữ ký vào bản khuyến nghị Chính phủ phê

chuẩn Công ước của Người khuyết tật [106, tr.18].

Hay, ở Việt Nam, các nhóm làm việc của Hội đồng nhân quyền LHQ luôn đề

cao việc xem xét lại các thỏa thuận dàn xếp lấy ý kiến tư vấn của các tổ chức phi chính

phủ. Cụ thể, năm 2009, có 12 tổ chức XHDS nộp báo cáo của một số tổ chức XHDS

quốc tế như Liên đoàn Luật sư Dân chủ, Hội đồng Hòa bình thế giới, Hội người đồng

tính nam và đồng tính nữ quốc tế tới LHQ cho việc kiểm điểm Việt Nam, trong đó

không có tổ chức trong nước. Năm 2014, con số tăng lên 59 báo cáo, trong đó có 20

báo cáo được gửi từ các NGOs trong nước như ISEE, CEPEW, Diễn đàn XHDS… các

báo cáo này đã phản ánh trung thực tình trạng nhân quyền ở Việt Nam cả những thành

tựu, hạn chế, khó khăn. Đây cũng là một trong những căn cứ để HĐNQLHQ đánh giá

về tình hình thực hiện quyền con người Việt Nam theo các công ước quốc tế về quyền

con người. Từ những báo cáo tư vấn đó, LHQ đã khuyến nghị chính phủ Việt Nam

90

phải đưa ra các thay đổi trong chính sách về quyền con người, thực tế thực hiện quyền

con người. Chính phủ, Quốc hội Việt Nam đã ban hành nhiều quyết định, Luật nhằm

đảm bảo các quyền con người như: Quyết định 535 của Thủ tướng Chính phủ ngày

14/4/2014 về phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện khuyến nghị của ủy ban về quyền

trẻ em của LHQ, thông qua Luật của người khuyết tật, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo

dục trẻ em, Luận người cao tuổi, v.v.. Điều này đã giúp cho việc thực hiện quyền con

người ở Việt Nam ngày càng đạt được nhiều thành tựu hơn.

Thứ hai, xã hội dân sự thúc đẩy nhà nước và các bên liên quan hiện thực hóa

quá trình thực hiện quyền con người.

Trong việc thúc đẩy vai trò của nhà nước và các bên liên quan hiện thực hóa quá

trình thực hiện quyền con người, mà ở đây là hiện thực hóa các công ước quốc tế của

LHQ về quyền con người vào trong thực tiễn phát triển của mỗi quốc gia, thì một trong

những vấn đề quan trọng là giám sát quá trình đó như thế nào.

Với quan điểm“trao cho khối tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức

XHDS nói chung những cơ hội rộng rãi hơn trong việc đóng góp vào việc hiện thực hoá

các mục tiêu và chương trình của Liên hợp quốc”22, các cơ quan nhân quyền LHQ ngày

càng thiết lập chặt chẽ hơn mối quan hệ phối hợp hoạt động với các tổ chức phi chính phủ

ở tất cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế trong quá trình thực hiện quyền con

người.

Việc giám sát quá trình thực hiện quyền con người được tiến hành bởi nhiều

chủ thể khác nhau như các tổ chức xã hội, các tổ chức hội nghề nghiệp, hiệp hội tự

nguyện, các tổ chức NGO, NPO, tổ chức lòng tin, tổ chức chuyên gia cố vấn, viện

nghiên cứu, các phong trào xã hội, mạng lưới và các nhóm xã hội phi chính thức, bán

chính thức,v.v.. mỗi đơn vị có tính chất, phạm vi hoạt động riêng, tùy theo vị thế của

mình mà có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người ở các cấp độ

khác nhau. Trong đó, hoạt động của các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế

được đánh giá là có nhiều thành công và có hiệu quả thiết thực trong việc giám sát chặt

chẽ các hoạt động thực thi các công ước quốc tế về quyền con người ở mỗi quốc gia,

22 Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết số 55/2 ngày 8/9/2000).

hạn chế các vi phạm về nhân quyền.

91

Quy trình giám sát này được thể hiện như sau: 1) Các tổ chức, cá nhân thuộc

XHDS gửi các báo cáo về tình hình nhân quyền ở quốc gia mà mình giám sát đến các tiểu ban quyền con người của LHQ23, tham gia vào cơ chế kiểm định nhân quyền LHQ, gọi tắt là UPR24, vận động hành lang kiến nghị với nhà nước để xem xét giải

quyết các vi phạm về nhân quyền thông qua UPR, từ đó, đưa ra các khuyến nghị với

ủy ban về giải quyết những vấn đề vi phạm quyền con người. Dựa trên quá trình xem

xét này, các ủy ban công ước đưa ra các quan sát kết luận về những mặt tích cực trong

việc thực thi công ước của nhà nước và những lĩnh vực ủy ban khuyến nghị nhà nước

cần có những hành động tích cực hơn; 2) tiếp đó, XHDS phổ biến những khuyến nghị

đó đến những người quan tâm, ủng hộ nhân quyền ở địa phương, đến người dân, nâng

cao nhận thức của công chúng. Đồng thời, thường xuyên có các báo cáo trọng tâm, chi

tiết giám sát quá trình thực thi các quan sát, kết luận, khuyến nghị mà các ủy ban công

ước nhân quyền nêu ra với từng quốc gia; 3) XHDS thúc đẩy nhà nước, chính phủ nộp

báo cáo đúng hạn đến các ủy ban công ước. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân thuộc

XHDS cũng có thể cung cấp cho Nhà nước những thông tin bổ sung về thực thi công

ước mà họ đã thu thập được trong quá trình hoạt động và làm việc với tư cách là đối

tác của Nhà nước trong việc thực thi công ước. Trường hợp của nhóm làm việc về

Brazil là một chứng minh cho điều này. Tiếp nối kết quả UPR, sau khi phiên kiểm

điểm và thông qua báo cáo của Nhóm làm việc về Brazil tháng 4/2008, Conectas, một

tổ chức nhân quyền ở Brazil đã tiến hành dịch các khuyến nghị và cam kết tự nguyện

trong báo cáo của Nhóm làm việc sang tiếng Bồ Đào Nha, phân tích nội dung của báo

cáo, các kết luận từ những phân tích này được đưa ra trước chính phủ Brazil, sau đó

23 Các ủy ban của các chuyên gia độc lập giám sát việc thực thi các công ước nhân quyền của LHQ đã được các quốc gia ký kết, các ủy ban này sẽ xem các báo cáo về nhân quyền của các nhà nước, các thông tin trao đổi bằng lời do các phái đoàn cung cấp trong quá trình xem xét báo cáo, sẽ xem xét các báo cáo từ các cơ quan LHQ, các cơ quan nhân quyền quốc gia và các tổ chức XHDS. 24 Đây là cơ chế kiểm định định kỳ toàn cầu, là một tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ được thành lập trên sáng kiến của Hội đồng nhân quyền LHQ. Cơ chế này hoạt động với mục tiêu là cải thiện tình hình nhân quyền ở mọi quốc gia với tác động đáng kể lên người dân trên toàn cầu thông qua việc đánh giá các thực hành về nhân quyền của Nhà nước và nêu lên những vi phạm nhân quyền nếu có. Để thực hiện UPR, một nhóm công tác sẽ tiến hành ba kỳ họp mỗi năm, mỗi kỳ họp kéo dài hai tuần để đánh giá 16 quốc gia. Như vậy, mỗi năm UPR sẽ đánh giá được 48 quốc gia và phải mất bốn năm để hoàn tất một vòng thủ tục này với 192 quốc gia thành viên của LHQ. Quy trình mà UPR thực hiện với các quốc gia bao gồm việc chuẩn bị các báo cáo về tình hình nhân quyền của quốc gia đó, sau đó được xem xét, đánh giá bởi các thành viên của quốc gia thành viên, quan sát viên của HRC. Tiếp đến là đánh giá và thực hiện các khuyến nghị. Từ đó, cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật cho các Nhà nước và tăng cường năng lực cho các Nhà nước để giải quyết hiệu quả hơn những thách thức về nhân quyền và chia sẻ các thực hành tốt trong lĩnh vực nhân quyền giữa các nhà nước với nhau và với các bên liên quan khác [141, tr.112 - 114].

trình bày trong kỳ họp của HĐNQ. Sau khi báo cáo được HĐNQ thông qua, Conectas

92

đã tiếp nối các khuyến nghị UPR, các cam kết tự nguyện, từ đó xây dựng quan hệ đối

tác với các NGO đang làm việc ở các lĩnh vực cụ thể, làm việc với chính phủ để xác

định các bước cần thiết, các chính sách thực thi các khuyến nghị của UPR, qua đó

đánh giá tiến bộ của Brazil trong việc thực thi các kết quả UPR và các cam kết tự

nguyện. Conectas đã chia sẻ kinh nghiệm của mình với các tổ chức đối tác ở

Argentina, Peru, Philippines và Nam phi để đóng góp cho tiến trình kiểm điểm ở

những nước này [106, tr.47]; 4) Xã hội dân sự cung cấp thông tin cho các cuộc điều tra

kín của LHQ. Ví dụ Ủy ban chống tra tấn đã tiến hành bày cuộc điều tra kín về (về

Brazil, Ai Cập, Mexico, Peru, Serbia và Montenegro, Sri Lanka và Thổ Nhĩ Kỳ) hay

các tổ chức NGO là Equality Now, Casa Amiga và Thúc đẩy Nhân quyền Mexico đã

cung cấp những thông tin xung quanh vụ 200 phụ nữ Mexico bị giết hại và mất tích từ

năm 2003 đến Ủy ban về xóa bỏ về phân biệt đối xử với phụ nữ. Ủy ban này đã tiến

hành điều tra vấn đề này ở Mexico. Kết quả là đã có một báo cáo dài về các vi phạm,

bối cảnh văn hóa, xã hội của những sự việc xảy ra, tập trung vào những nguyên nhân

gốc rễ của bạo lực phụ nữ và đưa ra các khuyến nghị cứng rắn để đảm bảo rằng các

quy định trong công ước về Xóa bỏ hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ được thực

thi đầy đủ [106, tr.58].

Như vậy, có thể thấy rằng, việc thực hiện vai trò này của XHDS chính là xuất

phát từ thực tế quá trình phát triển, khi đời sống xã hội được nâng cao, nhận thức của cá

nhân, người dân về quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ của mình với công việc xã hội cao

hơn, họ sẽ đòi hỏi một cơ chế dân chủ, công bằng, hiệu quả từ phía xã hội, nhà nước và

các thiết chế tổ chức xã hội khác khi tiến hành các quyết định chính sách quan trọng. Có

nghĩa là các chính sách đó phải đảm bảo lợi ích của đa số người dân. Rõ ràng là mục

tiêu của cá nhân, người dân trùng với mục tiêu trong những hành động của XHDS, bởi

những hành động đó dựa trên ý chí chung của tập thể có chung mục đích, và họ nắm giữ

nhiều nguồn vốn xã hội đủ mạnh để tạo ra những hiệu ứng xã hội rộng lớn để có thể gây

áp lực lên chính phủ, qua đó, XHDS phần nào có thể đảm bảo cho quá trình ra các quyết

định chính sách được dân chủ hơn và sát với yêu cầu của thực tế hơn.

3.2.2. Xã hội dân sự thúc đẩy quá trình hình thành, phát huy các điều kiện thực

hiện quyền con người

Khi phân tích về lịch sử phát triển các quyền con người, một điều dễ nhận thấy là

đầu tiên là sự hình thành các quyền tự nhiên của con người, phản ánh các nhu cầu cơ

bản nhất của con người như quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền sống… dần dần, cùng

93

với sự phát triển của xã hội, các mối quan hệ ngày càng mở rộng hơn, đời sống xã hội

ngày càng phong phú, đa dạng hơn, phức tạp hơn do vậy, các quyền xã hội cũng xuất

hiện để đáp ứng nhu cầu của con người, đó là các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội,

chính trị, quyền của cá nhân, quyền của những nhóm người yếu thế trong xã hội,v.v..

Với sự xuất hiện của nhiều nhóm quyền mới, việc tạo ra các tiền đề, điều kiện để

phát triển quyền con người một cách tốt nhất, hạn chế tối đa những vi phạm quyền là

một vấn đề rất quan trọng. Trong bối cảnh đó XHDS tạo ra không gian xã hội dân chủ,

quản trị tốt và có trách nhiệm; xây dựng môi trường kinh tế - xã hội phát triển cho việc

thực hiện quyền con người.

Thứ nhất, xã hội dân sự tạo ra không gian xã hội dân chủ, quản trị tốt và có trách

nhiệm cho việc thực hiện quyền con người.

Bản thân con người trong quá trình hoạt động tìm kiếm bản chất của mình đã tạo

nên những không gian xã hội, ở đó mọi người đảm nhận những vai trò và chức năng khác

nhau, cùng kết hợp với nhau để tạo nên một chỉnh thể hữu cơ hài hòa hoạt động vì mục

tiêu chung vì sự phát triển con người và XHDS là một trong những không gian đó. Xã hội

dân sự có thể được quan niệm như là một không gian xã hội, không gian công cộng, bên

ngoài, cái thuộc về cộng đồng/xã hội chứ không phải nhà nước cho sự phát triển con

người, một không gian xã hội thể hiện tính sáng tạo và chủ động của con người trong tiến

trình hiện thực hóa và nhận thức bản chất xã hội của mình [46, tr.66]. Trong không gian

đó người dân chủ động tham gia các hoạt động chính trị như bầu cử, ứng cử, tư vấn, vận

động chính sách, giám sát, phản biện xã hội,v.v.. những việc làm này như một công cụ

đắc lực trong quá trình phát triển quốc gia. Hay, tham gia các hoạt động xã hội như tham

gia vào các tổ chức từ thiện, các tổ chức xã hội, các hoạt động trợ giúp cộng đồng và cảm

giác thuộc về cộng đồng nơi sinh sống.

Những hoạt động này giống như phương tiện để các nhóm, cá nhân trao đổi và

cộng tác với nhau để đạt được các mục tiêu chung của xã hội. Nó giữ một vị trí trung tâm

trong cuộc thảo luận và tranh luận về mô hình phát triển xã hội, vị trí, chức năng, hoạt

động của các tổ chức này trong quá trình này như thế nào vì mô hình phát triển xã hội

chung quy lại là để phát huy tối đa khả năng làm chủ của con người, phát huy các giá trị

của con người. Đồng thời, chủ trương khoan dung, tôn trọng quyền con người cũng được

các nhóm XHDS phát huy tối đa trong hoạt động của mình. Ví dụ, ở Anh, với tư cách là

94

tổ chức tự nguyện, tự lực và phi lợi nhuận, XHDS Anh được coi là môi trường hay không

gian công mang tính dân chủ, tự do để mọi công dân đều được tham gia nghị sự các vấn

đề chung của xã hội và thực hiện quyền phản hồi của công dân trước nhà nước. Đó là một

mô hình tiêu biểu với những hoạt động tự do, tự nguyện của các tổ chức dân sự khác

nhau, nhằm hướng tới giải quyết những vấn nạn chung trong xã hội ở những khía cạnh mà

nhà nước không thể quan tâm được [63, tr.191].

Bên cạnh đó, trong không gian XHDS, các khác biệt xã hội, các vấn đề xã hội,

chính sách công, hành động chính phủ, vấn đề cộng đồng, bản sắc văn hóa...được hình

thành, tranh luận, thương lượng. Thông qua đó, các mối liên kết xã hội được tạo ra, sự

hợp tác giữa các cá nhân và nhóm xã hội chia sẻ tầm nhìn, định hướng chung về một

xã hội tốt đẹp [63, tr.35]. Có thể nói đây chính là nơi tích lũy, bảo tồn các giá trị hợp

tác, văn hóa, tiến bộ sáng tạo tri thức. Qua những hoạt động của khu vực này mỗi

người đã học được các kỹ năng để trở thành công dân tốt, có lối sống cộng đồng để từ

đó có thể tin tưởng, hợp tác, hỗ trợ, quan tâm đến nhau vì lợi ích chung. Sự tin tưởng,

liên kết này còn tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn để thúc đẩy, gìn giữ các giá trị xã hội

tốt đẹp, đấu tranh chống lại những hành vi sai trái, đi ngược lại các giá trị chung. Các

phong trào như giờ trái đất, phong trào đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ và trẻ em. Mới

đây nhất Malala Yousafzai người đạt giải Nobel hòa bình năm 2014 là người đấu tranh

và kêu gọi truyền thông, kêu gọi mọi người trên thế giới cùng chung tay bảo vệ quyền

được giáo dục, y tế cho các bé gái ở Pakistan, Nigeria và phong trào này đã lan tỏa ra

toàn thế giới và đạt được những kết quả nhất định.

Một yếu tố nữa, để khẳng định điều này đó là XHDS là một trong những nhân

tố then chốt trong quá trình thực thi quyền lực xã hội và là phương tiện cơ bản để thực

hiện các quyền con người, bởi đây là một thiết chế xã hội được tổ chức và vận hành

một cách dân chủ, minh bạch, đồng thuận, độc lập và vì mục tiêu phát triển con người.

Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở đi, khi quyền phát triển được công nhận, vai trò

này ngày càng được củng cố. Kể từ đó, các cá nhân của nó có nhiều cơ hội hơn trong

việc tham gia vào quyền lực chính trị và mở rộng hơn không gian, lĩnh vực hoạt động

của mình. Về cơ bản, muốn để cho quyền lực của nhân dân được thực đảm bảo, thực

thi thì cơ sở quan trọng của nó là các quyền con người phải được ghi nhận trong Hiến

pháp và pháp luật. Quyền lực của nhân dân nói rộng ra là những quyền con người để

95

thể hiện đó là một con người đúng nghĩa với nhân phẩm của mình. Quyền lực ấy được

biểu hiện ở các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng để có thể nói

lên đầy đủ nhất, bản chất nhất quyền lực của mình thì việc thực thi các quyền chính trị,

dân sự là những nhân tố quan trọng, nền tảng vì trong một nền dân chủ việc làm chủ

của nhân dân, là hình thức cao nhất của quyền lực chính trị, việc nhân dân tham gia

vào hoạt động chính trị là cơ sở để đảm bảo quyền của chính họ.

Ngoài ra, các hoạt động của XHDS đều hướng tới việc hiện thực hóa các quyền

con người, nhất là các nhóm quyền của những người yếu thế trong xã hội, cụ thể, các

tổ chức XHDS tham gia vào quá trình giảm bớt những vi phạm về nhân quyền như:

lên án các hoạt động vi phạm quyền con người; tham gia vào quá trình cải tạo môi

trường, xây dựng môi trường sống trong sạch, lành mạnh; tăng cường mối quan hệ với

các tổ chức xã hội, các nhóm xã hội thiệt thòi nhằm thúc đẩy họ hòa nhập vào cộng

đồng, vào xã hội bằng cách trở thành các nhà cung cấp dịch vụ công, đối tác quan

trọng của chính phủ các nước trong việc giải quyết các vấn đề môi trường, an sinh xã

hội… Điều này đã góp phần mở rộng không gian hoạt động, không gian thụ hưởng đối

với các quyền con người cho những đối tượng thiệt thòi của xã hội.

Thứ hai, xã hội dân sự đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, phát huy các điều

kiện xã hội cho việc thực hiện quyền con người.

Để thực hiện các quyền con người, đặc biệt là các quyền kinh tế, xã hội, văn

hóa thì phải có những nguồn lực vật chất mạnh được tạo ra từ sự tăng trưởng kinh tế.

Trong quá trình này, xuất phát từ đặc điểm, hoạt động của mình các cá nhân, tổ chức

XHDS vừa là chủ thể, vừa là chất xúc tác để đẩy nhanh quá trình tạo ra các điều kiện đó.

Các cá nhân, tổ chức XHDS quốc tế, với nguồn năng lượng và các nguồn lực sẵn có về

nhân lực, tài chính đã có nhiều hoạt động quan trọng: Hỗ trợ cho quá trình tự do hóa và

tăng cường các quan hệ thương mại công bằng cho các nước; ký kết các hiệp ước song

phương, đa phương các thỏa thuận song phương hoặc cơ quan quốc tế như Ngân hàng

Thế giới và UNDP (chương trình phát triển của LHQ), có thể cung cấp hỗ trợ tài chính

để đáp ứng được các tiêu chuẩn tối thiểu trong lĩnh vực quyền kinh tế và xã hội)… chủ

động tham gia cung cứng các dịch vụ công phục vụ cho các mục tiêu phát triển con

người; xây dựng các dự án, chương trình hỗ trợ sinh kế cho người dân (nhất là giúp đỡ

xây dựng nhà ở, trung tâm y tế, trường học và các dự án bền vững nâng cao thu nhập

96

cho người nghèo, cận nghèo), những người thuộc khu vực sản xuất, dịch vụ không

chính thức và những nhóm yếu thế trong xã hội,v.v.. nhằm tạo ra một thế giới với các

cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, hoặc ít nhất là cho trẻ em và các nhóm đối

tượng khó khăn. Như ở Anh, để đảm bảo các quyền kinh tế, xã hội, chính sách của

Đảng lao động mới của ông T.Blair (theo chủ nghĩa tự do mới) đã chuyển một phần

vai trò cung ứng các dịch vụ xã hội về y tế, giáo dục, nhà ở cho các tổ chức dân sự.

Chính sách này đã biến các tổ chức dân sự thành những trung tâm cung ứng các dịch

vụ xã hội cho người dân, còn nhà nước đóng vai trò là người hỗ trợ về mặt tài chính

cho các tổ chức này hoạt động, nhưng nếu các tổ chức này chống lại các quan điểm

của nhà nước thì nó sẽ bị rút tài trợ25. Đây cũng là một trong những vấn đề làm hạn

chế tính chủ động của các tổ chức XHDS trong hoạt động nhân quyền, điều này sẽ làm

rõ hơn trong phần thách thức của XHDS trong việc hiện thực hóa quyền con người.

Bên cạnh đó, thông qua việc tổ chức và thực hiện hình thức tự giúp đỡ xã hội của

cộng đồng, các tổ chức XHDS đã và đang làm tốt chức năng xã hội của mình đó là đảm bảo

sự ổn định, phát triển hài hòa, bền vững và điều tiết xã hội, tăng vốn xã hội, từ đó nâng cao

hiệu quả của việc thực hiện quyền con người. Điều này càng được chứng minh ở những

quốc gia có XHDS phát triển, ví dụ Thụy Điển, XHDS ở Thụy Điển được gọi là khu

vực thứ ba, nó có vai trò quan trọng trong việc tham gia các dịch vụ như chăm sóc xã

hội, y tế, giáo dục, bạo lực trẻ em, phúc lợi cho nhóm nghèo, nhóm vô gia cư. Tham

gia vào điều tra, phục vụ mở rộng các dịch vụ của nhà nước. Luôn có sự ủng hộ lớn

đối với các cải cách và thiết lập quan hệ thân thiện với các khu vực công của xã hội.

Do đặc trưng của xã hội Thụy Điển là coi trọng hoạt động từ thiện mang tính bảo trợ

xã hội, nên các hoạt động của XHDS gắn chặt chẽ với nhà nước phúc lợi và có tác

động, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình ổn định chính trị đất nước [63, tr.131].

Hay, như ở Mỹ, XHDS bao gồm rất nhiều các các tổ chức dưới mọi thể loại từ

các hội nghề nghiệp, công đoàn, đến các tổ chức tôn giáo, tình nguyện, nhóm lợi

25 Ví dụ, tổ chức dân sự Southwark Black Women's Centre (SBWC) được coi là trung tâm cung ứng các dịch vụ xã hội cho phụ nữ nghèo, trẻ em, người có thu nhập thấp, người vô gia cư, những người nhập cư, công nhân và cộng đồng da màu. Ngoài ra, SBWC tham gia đấu tranh để hạn chế sự phân biệt đối với những người da đen và bảo vệ lợi ích của những cộng đồng dân tộc nhỏ, đồng thời đóng vai trò là một tổ chức trung gian giúp người dân thương lượng với chính quyền địa phương để tìm ra những giải pháp thỏa đáng cho những vấn đề của họ. Mọi hoạt động của SBWC dựa trên sự trợ cấp tài chính của nhà nước, nhưng do tổ chức này phản đối nhà nước nên đã bị cắt giảm sự trợ cấp này; vì thế, nó không có đủ chi phí cung ứng các dịch vụ và phải đóng cửa [23, tr.189].

ích,v.v.. Các tổ chức này là một phần trong đời sống xã hội Mỹ, nó đã hình thành nên

97

một xã hội Mỹ như những cộng đồng lớn nhỏ, trong đó, mọi hoạt động của các tổ chức

này đã tạo nên sức mạnh tổng hợp của các cá nhân thống nhất trong một tổ chức, nhằm

đạt được mọi mục tiêu của mình, nhất là các mục tiêu thực hiện quyền con người. Và

quan trọng hơn cả là bảo vệ quyền lợi của những nhóm thiểu số trong xã hội, những

nhóm người không có hoặc không còn đủ khả năng hoà nhập cộng đồng (những người

vô gia cư, người nghèo, những người khiếm khuyết về thể chất, những sắc tộc thiểu

số…). Ngoài ra, các nhóm lợi ích, các phong trào xã hội (thường được tập hợp rất

đông đảo để đấu tranh cho một mục tiêu xã hội nào đó và giải tán khi đã đạt được mục

tiêu) cũng đấu tranh cho quyền con người, bao gồm đấu tranh cho quyền lợi của người

da màu, đấu tranh cho nữ quyền, bảo vệ đạo đức xã hội,v.v.. như phong trào dân quyền

(civil right movement) nổ ra vào những năm 1960 nhằm chống lại nạn phân biệt chủng

tộc và bảo vệ người Mỹ da đen; phong trào chống chiến tranh ở Việt Nam; phong trào

nữ quyền,v.v..

Hơn nữa, để tạo ra một môi trường phát triển quyền con người tốt, hiện nay có

nhiều nhóm, tổ chức xã hội có mối quan tâm chung về một vấn đề nào đó đã liên kết

nhau lại tạo ra sức mạnh tổng thể nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Ví dụ, tổ chức

WFUNA26 đã tiến hành nhiều chương trình hoạt động để xây dựng năng lực (tập trung

nhiều vào công tác xây dựng báo cáo, tham gia vào việc đánh giá định kỳ. Nâng cao

nhận thức về vấn đề nhân quyền ở quốc gia. Huy động vốn để thực hiện các hoạt động

tuyên truyền vận động nhân quyền và mở rộng các chương trình nhân quyền. Tổ chức

các hoạt động hội thảo, vận động, tuyên truyền về nhân quyền cho các cộng đồng, các

tổ chức XHDS ở các quốc gia khác.

Ngoài ra, các tổ chức XHDS giúp cải thiện tình hình nhân quyền và tạo ra

những thay đổi lớn về các điều kiện thực hiện quyền con người. Thông qua việc

thường xuyên giám sát tình hình nhân quyền ở nhiều quốc gia, khi phát hiện có vi

phạm, các tổ chức này sẽ có động thái rút hỗ trợ phát triển, cắt giảm tài trợ cho những

dự án đang tiến hành, hoặc nặng hơn là rút nhân viên ngoại giao, thay đổi quan hệ

thương mại và xử phạt theo các hình thức khác nhau, chủ yếu là về mặt kinh tế. Nếu

chính phủ các nước muốn được tiếp tục nhận được tài trợ, tiếp tục có quan hệ thương

26 Liên đoàn Thế giới của Hiệp hội Liên hợp quốc (WFUNA) là một tổ chức phi lợi nhuận toàn cầu có nhiệm vụ củng cố và nâng cao chức năng của Liên hợp quốc trong việc bảo vệ cuộc sống của các dân tộc trên thế giới http://www.wfuna.org/civil-society-in-action-for-human-rights.

98

mại, ngoại giao với các nước lớn, các tổ chức có vị thế lớn trên thế giới thì phải cam

kết thực hiện các yêu cầu về quyền con người. Hoặc các tổ chức XHDS có cơ chế đối

thoại, tham vấn với Hội đồng nhân quyền và chính phủ. Họ có thể tham dự các phiên

họp, có thể không có những biện pháp can thiệp đối với các chính phủ nhưng có thể

đưa các kiến nghị cụ thể và đo lường được nhằm cải thiện tình hình nhân quyền trong

nước lên các chính phủ và thay đổi các điều kiện về phát triển quyền con người trong

tương lai.

Như vậy, với những tác động trên, XHDS đã góp phần tạo ra một môi trường

phát triển cho việc thực hiện và phát triển quyền con người.

3.2.3. Xã hội dân sự thúc đẩy quá trình giáo dục quyền con người

Hiện nay, cùng với sự phát triển của quá trình kinh tế, xã hội, giáo dục,v.v.. mọi

người đã ngày càng ý thức được quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình. Đồng thời,

với việc ban hành nhiều văn bản pháp lý về các nhóm quyền con người, nội dung các

quyền con người cơ bản, cơ chế thực hiện, những quy định về bảo vệ quyền con người

đã ngày một được phổ biến rộng rãi và có hiệu quả hơn. Nhưng, trên thực tế, vẫn còn

nhiều những vi phạm về quyền con người ở cả cấp độ quốc gia lẫn quốc tế. Điều này

xuất phát từ sự mâu thuẫn trong chính quá trình phát triển của con người. Với một số

người quyền con người là hệ thống quyền hoàn chỉnh để bảo vệ mình, với số người

khác, nhóm dân tộc khác thì cảm thấy xa lạ với các quyền. Không ít người, ít dân tộc

bị tước đoạt quyền làm người (nhất là với những nhóm người dân tộc thiểu số bị mất

đi khi quá trình KTTT tác động đến). Hay, quyền con người là bình đẳng, là thiêng

liêng thì không ít với một số người chỉ là khát vọng mà không thể đạt tới, trong khi

thực hiện quyền của mình lại chà đạp nên quyền của người khác. Những mâu thuẫn

trên có lý do từ chính cá nhân mỗi người, từ sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức về quyền,

về năng lực thực hiện quyền. Và hơn cả là từ xã hội, từ sự cai trị con người, từ những

vấn đề chính trị, từ những thể chế cai trị và cơ chế vận hành quyền lực mà nhà cầm

quyền tạo lập [170, tr.109]. Do vậy, để thay đổi tình hình này các chủ thể quyền và chủ

thể nghĩa vụ quyền con người như cộng đồng quốc tế, chính phủ các quốc gia, và các

tổ chức XHDS,v.v.. phải có biện pháp để bảo vệ, ngăn ngừa những hành vi vi phạm

quyền con người, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân về quyền của mình,

99

năng lực thực hiện quyền và bảo đảm các quyền con người được thực hiện trong cuộc

sống.

Giáo dục quyền con người nằm trong việc thực hiện các quyền con người: “giáo

dục tự nó vừa là quyền con người, đồng thời là một công cụ không thể thiếu để nhận ra

các quyền con người khác” [170, tr.31]. Có nghĩa đây là một bộ phận của quyền được

giáo dục, một quyền thiết yếu cơ bản mà nhờ vào đó nhiều người có thể thoát nghèo và

nhận được phương tiện để tham gia một cách đầy đủ vào cộng đồng của họ, nhờ vào đó,

trẻ em, phụ nữ, những đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội được bảo vệ, được nâng

cao năng lực. Chính vì thế nó là một chiến lược hành động lâu dài dựa trên cơ sở các

quyền con người là phổ quát, mọi người phải được hưởng thụ tốt nhất những quyền của

mình. Quá trình này được diễn ra ở khắp mọi nơi và có sự đóng góp to lớn của XHDS,

bên cạnh các chủ thể quyền và nghĩa vụ khác.

Thứ nhất, xã hội dân sự cụ thể hóa các mục tiêu giáo dục quyền con người

nhằm hướng tới sự tối đa hóa trong thực hiện quyền con người.

Trong việc giáo dục quyền con người, các chính phủ, các tổ chức quốc tế

thường nhấn mạnh tới việc thiết lập hòa bình, và trật tự xã hội, vì vậy hay sử dụng các

thuật ngữ như hòa bình, dân chủ, khoan dung và công bằng xã hội trong các tuyên bố,

như Hội nghị thế giới về quyền con người27 coi giáo dục, đào tạo và thông tin công

cộng về quyền con người là thiết yếu để thúc đẩy việc đạt được các mối quan hệ ổn

định và hài hòa giữa các cộng đồng, và để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, sự khoan

dung và hòa bình. Hay, khuyến nghị năm 1974, Đại hội quốc tế của UNESCO: “Giáo

dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và

những quyền tự do căn bản; phải đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các

quốc gia, các cộng đồng sắc tộc hay tôn giáo, đồng thời yểm trợ những hoạt động của

Liên Hiệp Quốc trong việc duy trì hoà bình. Quan niệm này dường như nhấn mạnh

nhiều đến an ninh con người, từ đó dẫn đến chương trình hành động của chính phủ các

nước chú trọng đến việc bảo vệ và trao quyền giúp con người đạt được sự tự do về

nhiều mặt như thoát khỏi đói nghèo, tự do không bị áp bức, và tự do quyết định các

27 Hội nghị thế giới về nhân quyền được LHQ tổ chức vào ngày 14 -15 tháng 06 năm 1993. Đây là hội nghị về nhân quyền được tổ chức đầu tiên sau chiến tranh lạnh. Hội nghị đã cho ra đời tuyên bố Vienna và chương trình hành động. http://www.ohchr.org/EN/ABOUTUS/Pages/ViennaWC.aspx.

hành động của bản thân mình. Những chương trình này chủ yếu được biểu hiện dưới

100

dạng các chính sách vĩ mô, có tác động bình đẳng đến tất cả mọi người trong xã hội,

tạo ra môi trường kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi cho việc thực hiện quyền con

người, chứ chưa thực sự sát sao đến quyền của các đối tượng cụ thể trong xã hội.

Chính vì thế, các cá nhân, tổ chức XHDS, với đặc thù là hoạt động độc lập,

không chịu sự ràng buộc từ phía nhà nước, có mạng lưới liên kết xã hội rộng lớn, có

mối liên hệ chặt chẽ với các đối tượng khác nhau trong xã hội và mục đích hoạt động

vì lợi ích chung của cộng đồng thì ngoài việc tuân thủ các mục tiêu trên, trong những

chương trình hành động của mình đã cụ thể hóa các mục tiêu giáo dục quyền con

người nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quyền trong các hoàn cảnh cụ thể, đồng

thời, lấy việc bảo vệ quyền con người làm trọng tâm. Các tổ chức XHDS, nhất là các tổ

chức phi chính phủ mong muốn các chính phủ có thể xác định được mục tiêu của giáo

dục quyền con người, đó là phải hướng đến việc phân tích để có thể nhận biết: “hoàn

cảnh nhất định bằng cách tiếp cận tổng thể các quyền dân sự, chính trị, kinh tế xã hội và

văn hóa liên quan tới cuộc sống của các học viên, giúp họ biết được về việc sở hữu

quyền..”. Điều này có nghĩa là làm cho mọi người biết được quyền của mình và sử dụng

các quyền đó phục vụ cho cuộc sống của chính mình.

Ngoài ra, với mục đích tôn trọng các giá trị quyền con người đặc thù ở mỗi quốc

gia, hạn chế những mâu thuẫn trong quan điểm về thực hiện và phát triển các quyền ở

mỗi quốc gia, trong việc giáo dục quyền con người, các thành viên khác của XHDS như

các nhà nghiên cứu, người làm công tác giảng dạy trực tiếp về quyền con người ở các

Viện nghiên cứu, các trung tâm xã hội đã đề cao yếu tố như “tiêu chuẩn” và “giá trị”

bên cạnh việc thiết lập hòa bình và trật tự xã hội. Chẳng hạn như Paul Martin, Giám đốc

Trung tâm nhân quyền, đại học Columbia cho rằng “giáo dục quyền con người cần chú

trọng tới tiêu chuẩn và giá trị, mà hai tiêu chí này lại rất khác nhau trong các xã hội, tôn

giáo và các nền văn hóa khác nhau. Quyền con người được hình thành và phát triển để

giúp mọi người nhận ra được việc hình thành và công nhận các giá trị chung là rất cần

thiết để loài người có thể chung sống hòa bình cùng nhau” [170, tr.350]. Từ quan điểm

này, các tổ chức XHDS đã cùng với Liên hợp quốc, xây dựng một chương trình toàn

diện để giúp đỡ các quốc gia trong việc xây dựng và tăng cường những cơ cấu quốc gia

phù hợp có tác dụng trực tiếp đến việc tuân thủ chung các quyền con người và duy trì

pháp quyền. Họ cung cấp các thông tin và tình hình khách quan về tình hình nhân quyền

101

các nước, nhấn mạnh đến sự cần thiết phải có các thông tin theo từng chủ đề cụ thể, ví

dụ về tất cả các công ước, các tuyên ngôn về quyền con người của LHQ, về các nhóm

quyền cụ thể [123, tr.141].

Như vậy, từ việc xác định các mục tiêu cụ thể trong việc giáo dục quyền con

người, XHDS đã làm tăng khả năng thực hiện quyền của con người và đạt được quyền

hạn hành động, thông tin để can thiệp một cách tích cực theo hướng chú ý tới quyền

con người như đào tạo khả năng đánh giá mang tính phê phán, và học phương pháp

đối phó với xung đột mang đặc tính xây dựng, hơn là giáo dục những lý thuyết hàn

lâm về quyền con người.

Thứ hai, xã hội dân sự giúp nâng cao nhận thức cộng đồng về các quyền, thúc

đẩy quá trình tự nhận thức về quyền và đấu tranh cho các quyền của công dân.

Xã hội dân sự, bằng các kênh khác nhau đã tiến hành các hoạt động phổ biến

kiến thức về quyền con người. Có nhiều chương trình đào tạo nhân quyền như các

chương trình của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Văn phòng Cao ủy Liên

hợp quốc về nhân quyền, hay các tổ chức phi chính phủ có thể kể đến một vài tổ chức

giáo dục nhân quyền như tổ chức tổ chức Ân xá quốc tế, tổ chức HREA (The global

human rights education and training centre) là một tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận

quốc tế hỗ trợ cho việc giáo dục quyền con người. Tổ chức này có nhiệm vụ đào tạo các

nhà hoạt động, các chuyên gia nhân quyền; xây dựng và lập các chương trình, tài liệu

học tập về quyền con người, trong hơn 18 năm hoạt động, HREA đã đào tạo được hơn

18,500 nhà giáo dục, các chuyên gia làm việc trong lĩnh vực nhân quyền ở 131 nước.

Những nhà giáo dục này lại tiếp tục quá trình truyền bá kiến thức về quyền con người ở

nước họ, tạo ra sức lan tỏa lớn trong mạng lưới giáo dục nhân quyền và giúp nâng cao

nhận thức của người dân về quyền của họ. Ngoài việc tham gia giáo dục trực tiếp về

quyền con người, tổ chức này còn thông qua HRE 2020 Liên minh toàn cầu về giáo dục

nhân quyền; tham gia vào chính sách vận động xung quanh chương trình thế giới về

giáo dục quyền con người, tuyên bố của LHQ về giáo dục và đào tạo nhân quyền; Hội

đồng hiến chương châu Âu; tham gia kiểm điểm định kỳ của Hội đồng nhân quyền LHQ

102

[225], Equitas28,v.v.. hay phối hợp với các các tổ chức của Liên hợp quốc, UNESCO,

Hội đồng châu Âu và các tổ chức liên chính phủ để xây dựng các chương trình đào tạo,

biên soạn tài liệu, tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo các nhà hoạt động, chuyên gia về

quyền con người, nhằm khắc phục sự thiếu hụt chung trong nhận thức của người dân về

quyền của chính họ, từ đó, nâng cao nhận thức cộng đồng về các quyền, thúc đẩy quá

trình tự nhận thức về quyền và đấu tranh cho các quyền của công dân.

Bên cạnh đó, thông qua các chương trình tài trợ cho các trường đại học, viện

nghiên, giảng dạy về quyền con người; thông qua các buổi tọa đàm, hội thảo với các

chuyên gia, các cán bộ làm công tác nhân quyền; sử dụng các phương tiện truyền

thông tuyên truyền; các dự án cải thiện sinh kế, giáo dục kiến thức cho các đối tượng

người dân ở các vùng miền khác nhau ,v.v.. các tổ chức XHDS đã góp phần rất lớn

vào việc đạt được các mục tiêu giáo dục quyền con người đó là làm cho mọi người biết

về quyền của mình và đưa ra đòi hỏi về nhân quyền, giúp thay đổi nhận thức, hành vi,

năng lực hành động thực hiện quyền con người, đồng thời nâng cao, trách nhiệm,

nghĩa vụ của mỗi người trước những vấn đề về quyền con người. Ví dụ, tổ chức

KOMAS một tổ chức phi chính phủ của Malaysia đã sử dụng các hình thức hợp tác và

đẩy mạnh việc truyền bá kiến thức về quyền và tự do của con người,thúc đẩy sự hiểu

biết đầy đủ hơn về các quyền con người và sự khoan dung, các cá nhân và tổ chức xã

hội. Tổ chức này đã đẩy mạnh quá trình tăng cường Chiến dịch thông tin công cộng về

quyền con người trên thế giới do Liên hợp quốc thực hiện bằng việc tổ chức mạng lưới

giáo dục về quyền con người với khẩu hiệu “Hãy tham gia hoạt động cùng cộng đồng về

quyền con người thông qua phương tiện thông tin đại chúng”. Từ đây, một mạng lưới

thông tin đại chúng giáo dục mang tính sáng tạo về quyền con người được gây dựng, các

mắt xích của mạng lưới mang tính chất hành chính và hướng dẫn các thành viên cách

tìm hiểu vấn đề và nguồn tài liệu tuyên truyền. Mỗi mắt xích của mạng lưới sẽ đóng vai

trò giảng viên tuyên truyền đồng thời đóng vai trò học viên đầy sáng tạo, có khả năng tư

duy độc lập. Với hoạt động này họ đã tận dụng sức mạnh của các phương tiện thông tin

mang tính sáng tạo như các trò chơi dân gian, các phương tiện thông tin truyền thống và

28 Equitas - Trung tâm giáo dục nhân quyền quốc tế là một tổ chức phi lợi nhuận hoạt động vì sự tiến bộ, bình đẳng, công bằng xã hội và tôn trọng phẩm giá con người ở Canada và trên toàn thế giới thông qua các chương trình giáo dục quyền con người. http://www.equitas.org/en/about-us/our-mission-vision-and-values/.

huy động mối quan tâm của cộng đồng trong vấn đề thực hiện quyền con người nhằm

103

tạo ra sự hỗ trợ truyền thông cộng đồng đẩy tính sáng tạo cho những nội dung tuyên

truyền về quyền con người [168, tr.97]. Sự lồng ghép này cũng được nhiều nước thực

hiện thông qua các chương trình như tuyên truyền về dân số kế hoạch hóa gia đình,

tuyên truyền về bảo vệ môi trường.

Từ những hoạt động trên có thể thấy, các tổ chức XHDS như những tác nhân

quan trọng bên cạnh các tổ chức giáo dục, các phương tiện truyền thông, gia đình,

cộng đồng địa phương,v.v.. trong việc thúc đẩy và hỗ trợ giáo dục và đào tạo về quyền

con người. Việc giáo dục quyền con người không phải chỉ một sớm một chiều, được

thực hiện khi có những vi phạm về quyền con người mà nó là kế hoạch hành động lâu

dài của các chủ thể bảo vệ quyền con người, quá trình này giữ vai trò quan trọng trong

việc hình thành thái độ, hành vi tích cực nhằm thúc đẩy các nguyên tắc và giá trị trong

tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, đồng thời đây cũng là một trong những biện pháp

loại bỏ hành vi vi phạm quyền con người và xây dựng một nền văn hóa hòa bình dựa

trên nền dân chủ, phát triển khoan dung và tôn trọng lẫn nhau.

3.3. Những khó khăn của xã hội dân sự trong việc thực hiện quyền con người

Với những vai trò cơ bản trên, có thể thấy XHDS đang có sức ảnh hưởng mạnh

mẽ đến việc thực hiện quyền con người trên toàn thế giới. Song, chính việc mở rộng

phạm vi hoạt động với sự khó kiểm soát trong quản lý, và những khác biệt trong nhận

thức về vấn đề thực hiện quyền con người ở mỗi quốc gia đã làm cho quá trình này của

XHDS gặp nhiều khó khăn và thách thức.

3.3.1. Những khó khăn về mặt nhận thức

Thứ nhất, ngay từ ngày đầu thành lập, LHQ đã cam kết sẽ thúc đẩy và bảo vệ nhân

quyền một cách mạnh mẽ theo phương châm hành động hòa bình, an ninh, phát triển và

quyền con người, các yếu tố này phụ thuộc, hỗ trợ lẫn nhau và do nhiều chủ thể tiến hành,

trong đó có vai trò của XHDS. Song, trên thực tế điều này chưa được đảm bảo như nhau ở

mọi thời điểm và mọi chính phủ. Đồng thời, chưa có sự thống nhất trong nhận thức của

cộng đồng quốc tế và chính phủ các nước về vấn đề này. Điều này dẫn đến một thực tế

là, cộng đồng quốc tế đã không hành động đầy đủ để tạo ra khuân khổ pháp luật và các

cơ chế giám sát, thực hiện cần thiết để làm cho các quy phạm quốc tế về vai trò của

XHDS đối với việc thực hiện quyền con người nói riêng và các quy phạm quốc tế về

quyền con người nói chung có hiệu lực. Dẫn đến là trong quan hệ giữa các quốc gia và

104

các nhóm phi nhà nước thường không có sự nhất trí giữa các bên về việc áp dụng các

quy phạm liên quan. Ngoài ra, sự phản ứng của cộng đồng quốc tế đối với các cuộc

xung đột, hoặc khủng hoảng ở các quốc gia cụ thể thường mang tính tạm thời, bất ngờ,

chứ không phải là sự áp dụng đã được dự đoán từ trước, với các kế hoạch, nguyên tắc

rõ ràng, minh bạch. Nên, không gây áp lực lớn đến các quốc gia để nâng cao hệ thống

luật về quyền con người của mình.

Thứ hai, về phía các chính phủ, họ lo ngại đối với các tổ chức, cá nhân của

XHDS. Điều này xuất phát từ chỗ các hoạt động nhân quyền thường khuyến khích,

bảo vệ các quyền và tự do như tự do bày tỏ chính kiến, tự do lập hội, hội họp và các

quyền cơ bản như quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (đây là những vấn đề

tất yếu cho sự tồn tại của tất cả các hình thức tổ chức phi chính phủ độc lập). Bản chất

công việc của các tổ chức này cũng đồng nghĩa với việc chúng không được ưa thích gì

bởi các chính phủ của mình, đặc biệt các chính phủ độc tài và ít dân chủ. Một số chính

phủ đã coi các hoạt động của các tổ chức nhân quyền địa phương là chống chính phủ,

đe dọa đến an ninh và ổn định chính trị. Các chính phủ này thường ngăn chặn các hoạt

động của các tổ chức nhân quyền địa phương, hạn chế khả năng phát tán tài liệu tuyên

truyền, khả năng họ tìm tài trợ từ bên ngoài, và hạn chế việc cấp giấy phép hoạt động

cho các tổ chức này như một thực thể pháp lý công khai, ví dụ chính phủ Trung Quốc

không thừa nhận các quyền tự do lập hội, hội họp và bày tỏ chính kiến. Luật pháp

Singapore cũng ngăn cấm các nhóm ủng hộ nhân quyền độc lập. Hay chính phủ Ai cập

đòi hỏi các tổ chức phi chính phủ phải có phép chính thức nếu muốn hoạt động một

cách tự do. Nhưng chính phủ lại kiểm soát rất chặt chẽ và gắt gao việc cấp phép này.

Ngay cả những tổ chức được cấp phép cũng bị Bộ Các vấn đề xã hội can thiệp cấm tổ

chức đó sáp nhập với các nhóm ngoài Ai Cập (mặc dù các hoạt động này của các chính

phủ được xem như trở lực chính cho sự nghiệp bảo vệ nhân quyền thì các tổ chức quốc

tế như LHQ cũng rất chậm chạp để khắc phục các trở ngại này, bằng chứng là bản dự

thảo đầu tiên về Tuyên ngôn về các quyền và trách nhiệm của các cá nhân, nhóm và cơ

quan của tổ chức xã hội khuyến khích và bảo vệ các quyền con người và tự do cơ bản đã

được thừa nhận chung trên thế giới” đã được đệ trình bởi các nhóm làm việc của LHQ

lên ủy ban Nhân qyền LHQ từ tháng 2/1992, nhưng bản dự thảo đến nay vẫn còn đang

gây nhiều tranh cãi từ đại diện chính phủ các nước).

105

Ngoài ra, ngay cả việc số lượng các tổ chức XHDS đang ngày một đông hơn

cũng làm một số chính phủ lo ngại đến sự ổn định của mình, trong khi đó, thực chất

của việc này chỉ là đang phản ánh sức sống của thể chế dân chủ quốc gia, hơn là xem

nó như mối đe dọa cho xã hội. Do vậy, với mục đích này các chính phủ nên có những

biện pháp hữu hiệu để đảm bảo cho hoạt động tự do và hiệu quả của các tổ chức này

hơn là ngăn cấm nó.

Thứ ba, có sự khác biệt trong việc nhận thức về quyền con người giữa các quốc

gia khác nhau. Đó là sự khác nhau trong việc nhấn mạnh các quyền chính trị - dân sự,

các quyền tự do cá nhân ở các nước phương Tây, hay sự hài hòa giữa các quyền chính

trị - dân sự với quyền kinh tế, văn hóa, xã hội ở các nước đang phát triển. Điều này là do

sự khác nhau về chế độ chính trị, phương pháp hành động và mục tiêu phát triển ở mỗi

nước quy định, mặt khác đây cũng là do sự khác biệt về văn hóa trong việc nhận thức

các quyền con người. Đó là mâu thuẫn giữa giá trị phổ biến và giá trị đặc thù trong

tương quan giữa quyền con người và luật pháp quốc gia sở tại. Từ đây dẫn đến hàng

loạt những chỉ trích về việc vi phạm nhân quyền từ các nước phương Tây đối với các

nước đang phát triển, gây ra những mâu thuẫn không đáng có trong quá trình hợp tác

kinh tế xã hội. Cụ thể, trong quá trình viện trợ cho các quốc gia nghèo, quốc gia đang

phát triển, các nước phát triển đã lấy các chuẩn về nhân quyền của mình (không căn cứ

vào tính đặc thù về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của các quốc gia đang phát triển)

làm điều kiện cho việc cung cấp hay duy trì viện trợ cho phát triển hoặc những tiêu

chuẩn cho trao đổi kinh tế, thương mại... Các nước này đang sử dụng khái niệm quyền

con người như một thước đo để đánh giá về các nước đang phát triển và để đối phó với

các mối quan hệ kinh tế và hỗ trợ mở rộng thương mại, ví dụ, Hệp ước Cotonou giữa

ACP và EU là một chứng minh cho điều này. Đây là Hiệp ước ký kết giữa Liên minh

châu Âu (EU) và các nước châu Phi, Caribê và Thái Bình Dương (ACP) vào năm 2002

đã xác định “các yếu tố thiết yếu” của quan hệ đối tác ACP-EU là tôn trọng nhân

quyền, tuân thủ các nguyên tắc dân chủ và nền pháp trị. Nhưng, trong quá trình thực

hiện Hiệp ước, Guinea và Liberia chưa thực hiện được những quy định về nhân quyền

nên đã bị đình chỉ viện trợ [181].

Trong khi đó, các nước đang phát triển nói chung phản đối phần nào các biện

pháp như vậy, họ khẳng định quyền phát triển là quyền phổ biến, một trong những

106

quyền cơ bản của con người. Họ bác bỏ việc gắn điều kiện nhân quyền cho phát triển,

đấu tranh chống lại việc phương Tây lẩn tránh trách nhiệm của họ đối với tuyên bố của

Hội nghị Nhân quyền thế giới (Vienna-1993) (khẳng định lại nội dung tích cực của

quyền phát triển và chống việc đặt điều kiện cho viện trợ phát triển). Vì nếu thực thi

các quyền cho công dân theo tiêu chuẩn phương Tây nó sẽ tạo ra các rào cản về

thương mại29, hoặc làm giảm lợi thế so sánh và trở thành gánh nặng lớn cho sự nghiệp

công nghiệp hóa của họ. Điều này cũng làm các nước đó nghèo đi. Nhưng, dù vậy thì

một số nước đang phát triển trên thế giới cũng đã cố gắng đưa ra những chính sách

thương mại tích hợp với chính sách nhân quyền.

3.3.2. Những khó khăn về nguồn lực của xã hội dân sự trong việc thực hiện quyền

con người

Bên cạnh những khó khăn khách quan như chưa có sự thống nhất ý chí từ phía

cộng đồng quốc tế và chính phủ mỗi nước trong vai trò của XHDS đối với việc thực

hiện quyền con người, dẫn đến chưa có những quy định pháp lý chặt chẽ luật hóa mối

quan hệ này, thì những hạn chế trong việc thực hiện quyền con người của XHDS còn

xuất phát từ chính những khó khăn về nguồn lực của XHDS. Đó là sự thiếu hụt về

pháp lý, tài chính, lực lượng, phương tiện và các cơ chế phối hợp giữa các tổ chức

XHDS với nhà nước, hệ thống chính trị, KTTT. Điều này thể hiện ở chỗ.

Thứ nhất, về hệ thống pháp lý, hiện nay các lĩnh vực của luật quốc tế, kể cả

thừa kế quốc gia, trách nhiệm quốc gia, luật điều ước, luật về chủ quyền lãnh thổ, về

công nhận quốc gia và luật về các tổ chức quốc tế đều cần cho việc phân tích pháp lý

cho các yêu sách của các nhóm phi nhà nước. Nhưng 3 luật quan trọng nhất là các yêu

sách về quyền tự quyết, các yêu sách về quyền dân tộc thiểu số, và các yêu sách về

quyền con người thì lại đang gặp khó khăn trong việc áp dụng trong từng quốc gia cụ

thể [164, tr.1085]. Điều này phần nào làm giảm vai trò của XHDS đối với quá trình thực

hiện quyền con người. Bên cạnh đó, những quy định về vai trò của những cá nhân, tổ

29 Ví dụ, năm 2010 EU đưa ra quy định IUU về hạn chế các hoạt động đánh bắt bất hợp pháp không có báo cáo và không theo quy định. Quy định này yêu cầu các lô hàng hải sản khai thác phải có chứng nhận tàu khai thác, vùng biển khai thác... nếu thiếu sẽ không được phép xuất vào EU và nếu các doanh nghiệp ở các nước không kịp thực hiện thì sẽ bị mất đơn hàng hoặc bị phạt lớn. Đây là một yêu cầu khó với một nước đang phát triển như nước Việt Nam, các chuyên gia thương mại nhận định, chính sách này có thể trở thành một hàng rào phi thuế quan đối với thủy sản Việt Nam http://www.baomoi.com/Doi-mat-rao-can-thuong-mai/45/3168636.epi.

chức thuộc XHDS tham gia vào các công việc liên quan đến việc thực hiện quyền con

107

người chưa nhiều, nếu có chỉ là những quy định chung chung, chưa cụ thể của LHQ nhằm

hướng đến việc bảo vệ quyền con người chung trên toàn thế giới. Ngay cả với những quy

định ít ỏi được thông qua thì việc nội luật hóa những nội dung này vào trong hệ thống pháp

luật của các quốc gia là khác nhau. Một số quốc gia phát triển, có nền dân chủ xã hội điển

hình như Thụy Điển, Đức... thì đã có những quy định chặt chẽ về mức độ đóng góp, nghĩa

vụ của khu vực XHDS đối với việc thực hiện quyền con người, còn đa số các quốc gia, nhất

là những quốc gia nghèo, đang phát triển thì gần như có rất ít, hoặc không có các quy định

về vấn đề này, nếu có thì cũng không rõ ràng về cơ chế phối hợp giữa XHDS với các chủ

thể khác trong quá trình thực hiện quyền con người là như thế nào. Do vậy, các tổ chức, cá

nhân thuộc XHDS quốc tế, địa phương đa phần là kết hợp các dự án, hoạt động về nhân

đạo, về xóa đói giảm nghèo, v.v.. để thông qua đó bảo vệ và thực hiện quyền con người. Vì

thế, hiệu quả của các hoạt động này là chưa cao, chưa bao quát được hết.

Thứ hai, về mặt lực lượng, nhiều tổ chức XHDS chưa thực sự đại diện cho giới,

ngành nghề, cộng đồng dân cư mà chỉ đại diện cho một nhóm người nhất định vì thế mà sự

kết nối giữa các tổ chức XHDS là chưa cao. Bản thân hình thức tổ chức hoạt động của

XHDS phụ thuộc nhiều vào các chế độ xã hội khác nhau, có chế độ xã hội dân chủ việc

XHDS là một lực lượng cốt cán trong việc tạo vốn xã hội là không phải bàn cãi nhưng ở

những chế độ xã hội ít dân chủ hơn, chưa kể những chế độ độc tài, chuyên chế việc liên kết

xã hội, hình thành những mạng lưới xã hội của các tổ chức XHDS còn hạn chế bởi những

quy định hạn chế từ chính quyền, từ hệ thống hiến pháp và pháp luật. Ngoài ra việc đo

lường, định lượng những giá trị vốn xã hội mà XHDS tạo ra là rất khó, bởi việc căn cứ trên

số lượng một nhóm mà người dân tham gia hay số lượng trung bình các nhóm trong xã hội,

thời gian các nhóm được thành lập, rồi sự liên kết giữa các cá nhân trong cùng một nhóm,

các cá nhân với cộng đồng, hay các lĩnh vực mà các nhóm quan tâm hướng đến,v.v..

Thứ ba, về tài chính, do các tổ chức XHDS gần như không tạo ra lợi nhuận, ngân

sách hoạt động chủ yếu phụ thuộc vào sự đóng góp của các thành viên, vào các nguồn tài

trợ bên ngoài, nên đa phần năng lực tài chính của các tổ chức XHDS là không nhiều, không

ổn định, trừ những tổ chức phi chính phủ quốc tế lớn với thâm niên hoạt động lâu năm và

có nguồn tài trợ ổn định từ xã hội. Ngoài ra, các tổ chức XHDS thường có kích thước nhỏ,

nên việc cung cấp về kỹ năng quản lý, chuyên môn, kỹ thuật cho các dự án lớn, dài hạn là

hạn chế, nên các dự án, chương trình lớn về cộng đồng, cho những nhóm người yếu thế

108

không được thực hiện dài hạn, và nhất là khả năng duy trì các hoạt động này sau khi các dự

án kết thúc không được tính đến. Điều này dẫn đến tính hiệu quả của việc đảm bảo và thực

hiện quyền con người chưa cao, chưa nhân rộng.

Thứ tư, chưa có cơ chế phối hợp giữa các tổ chức xã hội dân sự với nhà nước, hệ

thống chính trị, kinh tế thị trường trong việc thực hiện quyền con người, mà cụ thể ở đây là

trong quá trình giám sát việc thực hiện quyền con người, dẫn đến việc phát huy vai trò này

còn hạn chế. Chưa có sự phối hợp tốt giữa các tổ chức phi chính phủ cả địa phương và quốc

tế với chính phủ các nước, với các cơ quan nhân quyền LHQ. Do đó, cần phải có sự tiếp cận

hữu hiệu với những thực thể đóng vai trò theo chốt trong hệ thống LHQ. Tuy vậy, việc tiếp

cận này còn khó khăn và hầu như là không thể đối với các tổ chức XHDS ở địa phương,

vấn đề đặt ra cho việc này là liệu các tổ chức này có tiếp cận như nhau hay không và căn cứ

của sự phân biệt đó là gì? Liệu có thể cho phép nhiều hơn các tổ chức này được tiếp cận với

LHQ hoặc hạn chế nó? cái gì là nhân tố quyết định cho sự tham gia này? Liệu có thể cho họ

tham gia chuyên sâu theo từng lĩnh vực? Các chính phủ có nên cân nhắc lại sự định hướng

cho các tổ chức phi chính phủ, mở rộng phạm vi hoạt động hoặc nội dung thực hiện. Liên

hiệp quốc có nên xem xét lại cơ chế để làm tăng vai trò và hiệu quả của các tổ chức này.

Xã hội dân sự có vai trò quan trọng trong việc kiến tạo hòa bình trên thế giới và

thường các quá trình này đạt được kết quả tốt đẹp. Nhưng đôi khi, có một số tổ chức XHDS

không được trang bị tốt để tham gia vào tiến trình hòa bình, đặc biệt là kiến thức về kinh

nghiệm quản lý xung đột, kết quả là các tổ chức này trở thành con tốt trong trò chơi chính

trị giữa các bên xung đột. Bên cạnh đó, XHDS cũng có quá nhiều tự do dẫn tới đời sống xã

hội bị phân hóa và xung đột xuất hiện. Và trong quá trình thúc đẩy sự phát triển, XHDS

thông qua sự tối đa hóa quyền tự do của các thành viên giữa các nhóm lợi ích khác nhau có

thể chuyển sang bạo lực. Các nhóm xã hội này, có thể thông qua các phương tiện bạo lực để

thúc đẩy lợi ích và giải quyết sự khác biệt của họ trong hoàn cảnh cụ thể, bạo lực lần lượt sẽ

gây nguy hiểm cho dân chủ, điều này có thể thấy rõ ở Indonesia, Thái Lan... Vì thế, đòi hỏi

một sự điều tiết và kiểm soát chặt chẽ hơn của Nhà nước. Nguyên nhân của những vấn đề

này là do một số tổ chức XHDS có năng lực yếu, dẫn đến dễ bị thao túng bởi các tổ chức

kinh tế, chính trị khác. Đôi khi, chính phủ các nước đang phát triển đã sử dụng các tổ chức

XHDS làm phương tiện thuận tiện cho việc thiết lập cơ sở, củng cố liên kết từ trên xuống

nhằm kiểm soát chính trị, hơn là, thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo. Ngoài ra,

109

một số chính phủ ở các nước còn lại cũng tích cực sử dụng các tổ chức phi chính phủ và

nguồn viện trợ phi chính phủ để triển khai các mục tiêu, trong đó, có cả mục tiêu chính trị

của họ tại các quốc gia khác. Bên cạnh đó, sự kết hợp không chọn lọc mô hình XHDS vào

nước mình, cộng với các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước, các phương tiện thông

tin đại chúng và các lực lượng chính trị do phương tây điều khiển đã tạo nên các cuộc cách

mạng sắc màu và gây ra những bất ổn chính trị tại các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia

đang phát triển.

3.3.3. Những khó khăn từ đặc điểm, hoạt động của xã hội dân sự dẫn đến việc hạn

chế theo đuổi những mục tiêu xã hội lâu dài

Một là, xã hội dân sự được tạo thành từ các nhóm xã hội, mạng lưới xã hội khác

nhau, với nhiều thành viên là những lực lượng của nhiều nhóm xã hội khác nhau, do

vậy, tính không ổn định cả về quản lý và hoạt động luôn là vấn đề thường trực. Hơn

nữa, vì là nhiều nhóm xã hội khác nhau sẽ theo đuổi các lợi ích của riêng của từng

nhóm, nên sẽ không tránh khỏi mâu thuẫn với các nhóm xã hội khác. Nó có thể tiến

lên hay bảo thủ tùy thuộc vào việc giải quyết các mâu thuẫn. Bên cạnh đó, XHDS hoạt

động không vì mục tiêu kinh tế, năng lực và nguồn lực tài chính có hạn nên các tổ

chức trong xã hội này không có khả năng theo đuổi các mục tiêu và chương trình lớn,

dài hạn của chính phủ, vì thế, họ dễ bị tha hóa. Ngoài ra, các tổ chức XHDS thường có

kích thước nhỏ, cung cấp hạn chế về kỹ năng quản lý, về chuyên môn kỹ thuật cho

những dự án phức tạp và về khả năng duy trì các dự án sau các quỹ nước ngoài bị thu

hồi. Một số nhà phê bình cho rằng: các tổ chức XHDS thường bỏ qua thực tế chính trị

và xã hội cơ cấu ở cấp quốc gia, do đó, dễ bị tấn công nếu các chương trình của họ

chạy truy cập bất kỳ cách nào để chính sách của chính phủ quan tâm tới. Hơn nữa, họ

không có các nguồn lực để quản lý các chương trình lớn, chi phí cho mỗi người thụ

hưởng cao mặc dù ngân sách tổng thể nhỏ, do đó, họ ít có khả năng đáp ứng phần lớn

nhu cầu phát triển và không thể nhân rộng các dự án trên toàn quốc. Tại một số nước,

các tổ chức XHDS đã mượn danh hoạt động phi lợi nhuận để triển khai các dịch vụ và

kinh doanh trốn thuế. Một số tổ chức XHDS khác, tồn tại chủ yếu như một cơ chế, để

chiếm đoạt các nguồn lực viện trợ cho kênh đó, chứ không phải vì những mục tiêu

chung.

110

Hai là, xuất phát từ bản chất là một không gian tổ chức xã hội độc lập với nhà

nước, với thị trường, XHDS cũng không tránh khỏi hạn chế đó là tính đơn lẻ, kết cấu

không chặt chẽ, quản lý lỏng, hoạt động ngắn hạn, lực lượng không thống nhất, hiệu

quả hoạt động chưa đảm bảo tính lâu dài và bền vững.... nên thách thức lớn nhất liên

quan đến quyền con người vẫn là việc thực hiện nó như thế nào để đảm bảo các quyền

này trên thực tế. Giám sát việc thực hiện là hoạt động cốt lõi của hầu hết của các tổ

chức nhân quyền trong nước cũng như quốc tế, nhưng điều này không hẳn dễ dàng.

Một ví dụ về những điểm mạnh và điểm yếu của chức năng giám sát của XHDS là các

Liên đoàn quốc tế về Đông Timor (IFET) đã gửi các quan sát viên làm nhiệm vụ theo

dõi các thủ tục thực hiện quyền tự quyết của người dân Đông Timor năm 1999. Sau sự

sụp đổ của Soeharto, Indonesia, Đông Timor đã được LHQ thừa nhận và tiến hành các

thủ tục trưng cầu dân ý về quyền tự quyết của mình, nhưng vấn đề là quân đội

Indonesia lại được giao nhiệm vụ chịu trách nhiệm duy trì hòa bình và an ninh ở đây.

Các mạng lưới quốc tế của các nhóm đoàn kết trước lo ngại về tình trạng bạo lực đã

tập trung vào Đông Timor với hy vọng làm giảm thiểu tình trạng này. Họ tiến hành

nhiệm vụ quan sát việc trưng cầu dân ý, bầu cử và theo dõi tình hình nhân quyền. Việc

bỏ phiếu được tiến hành tương đối ôn hòa, nhưng trong những ngày sau đó, bạo lực đã

xảy ra. Các tổ chức thuộc IFET thay vì tạo nên một sức ảnh hưởng nào đó để bảo vệ

người dân, thì đã trở thành mục tiêu của các nhóm nổi dậy, và phải sơ tán cùng với hầu

hết nhân viên của LHQ. Tổng thống Habibie đã phải chấp nhận một lực lượng can

thiệp từ Australia để bảo vệ Timor. Như vậy, dự án này nhấn mạnh sự mong manh của

các nhiệm vụ XHDS khi đối mặt với một xã hội xung đột, có vũ khí, và cũng có những

ảnh hưởng của áp lực của công chúng về chính sách nhân quyền. Mặc dù nhiệm vụ

quan sát việc bảo vệ hòa bình, nhân quyền ở Đông Timor đã thất bại, nhưng ngoài sự

công khai đó ra thì nó đã cho thấy những gì đã xảy ra, có thể không có được nếu

không có sự can thiệp từ XHDS. Do đó, hoạt động giám sát vẫn là điều cần thiết nhất

và bao hàm cả những yếu tố nguy hiểm nhất trong các hoạt động của XHDS về quyền

con người [71, tr.834].

Ba là, xã hội dân sự là một tiến trình hành động tập thể khi các cá nhân và tổ

chức tập hợp lại để tạo sự ảnh hưởng với giới quyền lực và tạo ra sự thay đổi xã hội.

Theo lý thuyết này, đơn vị cơ bản tạo nên XHDS là những mạng lưới của các tổ chức,

111

các nhóm phi chính thức, các nhà hoạt động xã hội chứ không chỉ là các tổ chức phi

chính phủ. Có những mạng lưới cá nhân không bao giờ phát triển thành XHDS vì nó

chỉ dừng lại ở cấp độ quan hệ xã hội và không theo đuổi các mục tiêu liên quan đến

cộng đồng, tác động chính sách. Ví dụ, nhiều câu lạc bộ của các doanh nhân hay các

mạng lưới kinh doanh chỉ tồn tại để phục vụ cho lợi ích của các thành viên. Các nhóm

tôn giáo thì theo đuổi các mục tiêu vì cộng đồng nhưng không tham gia vận động

chính sách và các thành viên gia nhập tôn giáo dựa trên cơ sở căn tính cá nhân chứ

không vì mục tiêu cộng đồng. Có những mạng lưới hoạt động trái ngược với lợi ích

của xã hội. Do vậy, những đối tượng này sẽ không thể hoạt động dài hạn được. Bên

cạnh đó, sự biến động về nhân sự khi thay đổi lĩnh vực hoạt động làm cho các thành

viên không ổn định, dễ dẫn đến manh mún trong hoạt động.

Nhiều hoạt động XHDS chưa đảm bảo được tính dân chủ hóa, giải trình, trách

nhiệm và minh bạch hóa. Ví dụ như các tổ chức XHDS trong Hiệp hội các quốc gia

Đông Nam Á (ASEAN), mặc dù đã có nhiều hoạt động bảo vệ, thúc đẩy quyền con

người ở phạm vi quốc gia và khu vực nhưng nhiều hoạt động chỉ là hình thức. Cụ thể,

trong các điều khoản khác của Hiến chương và trong thực tế, vẫn còn tồn tại nhiều hạn

chế liên quan đến sự tham gia của XHDS trong việc ra quyết định của ASEAN. Tất cả

các cơ quan của ASEAN, bao gồm Hội đồng điều phối, Hội đồng cộng đồng, Hội đồng

Bộ trưởng hoạt động bảo vệ và thúc đẩy quyền con người..., trưởng và các Ủy ban, đều

do quốc gia thành viên chỉ đạo. Hiến chương thiếu hẳn tính chất lấy nhân dân ASEAN

làm trung tâm. Thêm vào đó, không có đại diện của khu vực XHDS trong thành phần

của các Cơ quan nhân quyền ở ASEAN. Thậm chí, một số quốc gia vẫn chưa thực sự

công nhận vai trò của các tổ chức XHDS trong những diễn đàn chính thức. Bên cạnh

đó, việc xây dựng điều khoản tham chiếu (Terms of Reference) ở ACWC30 cho phép

sự tham gia của khối XHDS và thành viên của các nhóm làm việc hứa hẹn dẫn đến

một quá trình minh bạch hơn, nhưng không phải quốc gia ASEAN nào cũng cho phép

30 Ủy ban về thúc đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em (ACWC) thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tại Hội nghị diễn ra mới đây tại thủ đô Bandar Seri Begawan của Brunei, ACWC đã nhất trí thông qua Kế hoạch hành động năm 2014, trong đó nhấn mạnh ACWC sẽ tham vấn liên ngành với các cơ quan liên quan khác của ASEAN và đối thoại với các tổ chức XHDS.

các NGO của nước mình tham gia... Những hạn chế kể trên một phần bắt nguồn từ

112

thực tế là phong trào XHDS hầu như mới được khởi xướng từ một vài thập kỷ gần đây

ở các nước ASEAN [159, tr.142-145].

Như vậy có thể thấy rằng, trong việc thực hiện quyền con người việc đảm bảo vai

trò chủ thể của nhà nước là vô cùng quan trọng trong việc khắc phục những khó khăn,

thách thức và mâu thuẫn của XHDS trong việc thực hiện quyền con người. Bên cạnh đó,

XHDS cũng cần phải nâng cao tính tự chủ, đoàn kết và hiệu quả hơn nữa, cần hướng tới

mục tiêu phát triển bền vững trong quá trình thực hiện quyền con người vì đây sẽ là mục

đích để XHDS định hướng và tích hợp nó trong quá trình hoạt động của mình.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Trong quá trình thực hiện quyền con người, với việc hoàn thiện các chức chức

năng, vai trò của mình được phản ánh qua việc XHDS hoàn thiện chính sách, giám sát,

hình thành các điều kiện thực hiện thực quyền con người và giáo dục nhằm nâng cao

nhận thức của người dân về quyền và nghĩa vụ của mình, XHDS đã thể hiện được vị

trí, vai trò quan trọng của mình. Nhưng, quá trình này cũng gặp nhiều khó khăn và

thách thức về các mặt: Pháp lý, lực lượng, phạm vi hoạt động, tài chính, tổ chức, sự

đoàn kết giữa các đoàn viên và đặc biệt là nhận thức của chính phủ mỗi quốc gia về

XHDS rất khác nhau. Có chính phủ coi XHDS là yếu tố quan trọng trong tổ chức đời

sống xã hội, có chính phủ lại cho rằng XHDS sẽ gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng

đến tình hình chính trị của quốc gia. Bên cạnh đó, ngay trong quá trình hoạt động của

XHDS, nhiều tổ chức XHDS quốc tế đã lợi dụng vị trí của mình có những hành động

gây bất ổn chính trị cho quốc gia mình đang hoạt động. Điều này dẫn đến việc hạn chế

hoạt động của XHDS và không huy động được nguồn vốn xã hội, vốn văn hóa cho quá

trình phát triển. Do vậy, để khắc phục những khó khăn, thách thức này, XHDS cần

hoạt động đúng với vị trí, vai trò của mình và căn cứ vào tính đặc thù của mỗi nước để

có cách hiểu về XHDS cho đúng, tạo điều kiện cho XHDS phát triển và phát huy được

khả năng của mình. Bên cạnh đó, mỗi cá nhân, tổ chức quốc tế, quốc gia cần có sự

hiểu biết về văn hóa, tôn trọng những nét đặc thù khi bàn về vai trò của XHDS đối với

việc thực hiện quyền con người ở từng quốc gia nói riêng và bảo đảm quyền con người

trên toàn thế giới nói chung. Đồng thời, coi trọng sự quan sát và đối thoại về tương lai

113

của XHDS giữa các nước với nhau nhưng cũng cần lưu ý về bản chất của XHDS để nó

không nên đi quá xa khái niệm ban đầu của nó.

114

Chương 4.

XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ

TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI HIỆN NAY

4.1. Khái quát về xã hội dân sự Việt Nam

4.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa cho sự phát triển của xã hội dân sự tại Việt Nam

Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,

quan liêu, bao cấp, Việt Nam đã và đang xây dựng một nền KTTT định hướng xã hội

chủ nghĩa hội nhập ngày càng sâu, rộng với khu vực và trên thế giới. Theo mô hình

này, nước ta đã sử dụng cơ chế thị trường với tư cách là thành quả của nền văn minh

nhân loại làm phương tiện để năng động hóa và đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế,

nâng cao đời sống nhân dân. Việc phát triển KTTT đã tạo ra môi trường cho sự hình

thành ý thức tự do, độc lập, tự chủ của người dân. Điều này thể hiện qua việc họ có thể

tự do lựa chọn phương thức tiêu dùng, lựa chọn sở thích, lối sống theo cách riêng của

họ, đồng thời thỏa mãn các nhu cầu của mình theo những cách khác nhau miễn là

không vi phạm pháp luật và đạo đức. Từ những sự lựa chọn này đã hình thành nên sự

đa dạng văn hóa, đa dạng các mối quan hệ xã hội và quan trọng hơn cả là ý thức công

dân phát triển, người dân tự giác hơn trong việc tham gia các vấn đề chính trị, xã hội,

bảo vệ quyền lợi của con người. Đây là sự khác biệt rất lớn với mô hình kinh tế, quan

liêu, bao cấp trước đây, khi người dân không có điều kiện thực hiện những quyền tự

do kinh tế cơ bản.

Tuy nhiên, bản thân nền KTTT tự do không tự động dẫn đến công bằng xã hội

mà nó còn làm nảy sinh nhiều vấn đề như là sự phân hóa giàu nghèo, tăng trưởng

không bền vững, ảnh hưởng đến môi trường,v.v.. Vì thế, chúng ta kết hợp cơ chế thị

trường với sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa thành mô hình KTTT định hướng

xã hội chủ nghĩa để giải quyết vấn đề đó trên nguyên tắc công bằng, dân chủ, nhằm

thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Khác

với sự kết hợp giữa KTTT và Nhà nước ở các nước khác trên thế giới, trong giai đoạn

mới của sự phát triển đất nước, tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển

KTTT đòi hỏi hoàn thành nhanh các yếu tố của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa,

115

chăm lo cho đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo, đề cao vai trò, trách nhiệm của

Nhà nước và tăng cường mối quan hệ gắn kết giữa nhà nước, nhân dân và xã hội trong

và ngoài nước. Chính tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội đã bao hàm yếu tố dân chủ, tự do, phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân,

mỗi tập thể... Với Việt Nam, kinh tế thị trường cần có xã hội dân sự để khống chế thế

lực thị trường và để hỗ trợ cho thị trường, nhưng chính kinh tế thị trường lại là chủ thể

hình thành, là tiền đề kinh tế của xã hội dân sự.

Thứ hai, ở khía cạnh xã hội, thực tiễn cho thấy, các tổ chức XHDS ở Việt Nam

xuất hiện từ khá sớm. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì nét đáng chú ý trong đời sống xã

hội của làng, xã miền Bắc là xu hướng nông dân muốn hợp thành các phe nhóm, người

ta phát hiện có vô số các hình thức tổ chức “phi chính thức” (hội, phường...) tồn tại

bên cạnh các tổ chức chính thức. Đó là sự hiện diện của các tổ chức hội đoàn xã hội do

nhân dân tự nguyện lập ra. Các tổ chức này bao gồm nhiều loại hình khác nhau: các

hội đoàn tín ngưỡng hay tôn giáo như hội đi chùa, các đoàn tế lễ, rước kiệu, các tổ

đường, nhà thờ họ; các hội đoàn ái hữu hay tương tế như các hội đồng hương, đồng

tỉnh; các hội ái hữu cựu học sinh, sinh viên; các tổ chức ngành nghề, thường tập hợp

thành từng làng nghề hay khu phố chuyên môn (36 phố phường Hà Nội). Các hình

thức hỗ trợ tài chính như chơi hụi (một hình thức ngân hàng dân gian), có cả những tổ

chức giải trí, văn học nghệ thuật như: các hội thi văn, các đoàn văn nghệ bán chuyên

(hát chèo, hát bội, múa rối nước), các đội thể thao, giải trí (đua thuyền, đánh vật, võ

thuật, chơi cờ tướng, thả diều…). Có các tổ chức nhân dân như: tổ chức tự quản làng

xã, dòng tộc, phường hội, các quỹ từ thiện nhân đạo... đều là những tổ chức dựa trên

sự liên kết tự nguyện của người dân với mục đích giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, trao

đổi kinh nghiệm, chia sẻ tình cảm, đấu tranh chính trị, bảo vệ lợi ích của người dân

trước các thế lực cường quyền, bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa truyền thống... Cơ

sở cho các tổ chức này hoạt động chính là thông qua hương ước31 của mỗi làng, đây

31 Hương ước về bản chất là sự thể hiện nguyện vọng chung của dân chúng. Nó điều tiết sinh hoạt xã hội làng xã theo nguyên tắc thấu tình - đạt lý, hợp lòng dân vì vậy nó có sức mạnh rất lớn trong đời sống cộng đồng. Hương ước có những định chế cơ bản về cả kinh tế (quyền của người giàu, người nghèo, mức độ đóng góp cho làng...), về chính trị (ai được đứng ra coi việc làng, ai làm mõ, chế độ với dân ngụ cư...) về xã hội (việc đình, việc nhà, việc đám...), phong tục (đi, đứng, nói năng, ăn ở, lễ tết...). Nếu xét theo các riềng mối thì hương ước phân định rất rõ tính chất của các mối quan hệ, các dạng thức hoạt động, các cách thức tổ chức cộng đồng như: Ứng xử trong gia đình khác ứng xử trong dòng họ, việc làng khác việc quốc gia [49, tr.103-121].

chính là “luật định” - cơ sở pháp lý cho việc manh nha hình thành các yếu tố đầu tiên

116

cho XHDS Việt Nam. Chính vì có những quy định như vậy nên khi tham gia vào

những tổ chức này, vị thế của người nông dân cũng được khẳng định họ là những

người tự do có quyền tự trị và nói lên tiếng nói của mình đối với chính quyền.

Ngày nay, với sự thay đổi của đời sống và mô hình quản lý xã hội, các tổ chức

hội đoàn này không mất đi mà nó còn được phát triển khá mạnh mẽ và trở thành một

trong những yếu tố không thể thiếu trong đời sống của người dân. Bên cạnh đó, cũng

có rất nhiều các tổ chức dân gian, tổ chức cộng đồng mới được thành lập đã tạo nên

động lực lớn mạnh và sự đảm bảo về mặt tổ chức cho sự phát triển của XHDS Việt

Nam. Rõ ràng là trong xã hội cổ truyền cũng như xã hội Việt Nam hiện đại có đủ các

tổ chức hội đoàn do dân chúng tự động lập ra để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt đa dạng

phong phú và thể hiện được vị thế của mình và như quan điểm của GS Gred Mutz đây

chính là những kết cấu dân sự đã phát triển và hiện diện khá phổ biến ở xã hội Việt

Nam. Đây cũng là điểm đặc biệt của XHDS Việt Nam, bởi trên thế giới hầu như các

mô hình XHDS thường khởi xuất từ thành thị, những nơi có nền kinh tế phát triển,

trong khi đó, ở Việt Nam với 70% dân số sống ở vùng nông thôn, các hội, đoàn ở nông

thôn rất nhiều và nó mang tính đặc trưng rất rõ nét làm nên bản sắc của làng, xã,

huyện, tỉnh đó.

Thứ ba, ở khía cạnh văn hóa, có thể thấy rõ tính đặc thù về XHDS Việt Nam đó

là tính cộng đồng dựa trên những giá trị của dân tộc Việt Nam như đoàn kết, yêu quê

hương, đất nước, ý thức dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tình nhân

ái, yêu thương con người. Đây là truyền thống văn hóa Việt Nam, nói lên căn cốt tinh

thần nhân văn, nhân ái của người Việt, đồng thời cũng là vốn xã hội cho quá trình phát

triển đất nước và thể hiện sâu sắc tính công dân của xã hội Việt Nam.

Ngày nay, những giá trị truyền thống đó đã tạo thành sức mạnh để mỗi người

dân, đoàn thể, tổ chức phát huy tính sáng tạo, chủ động của mình trong quá trình hội

nhập và phát triển. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa,

nghĩa là trong ý chí tự lực, tự cường và khả năng hiểu biết; trong tâm hồn, đạo lý, lối

sống, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Nhờ vậy các chính sách

phát triển xã hội đang nhận được sự đồng thuận và ủng hộ của người dân, người dân

đang được đảm bảo các điều kiện tốt hơn để phát huy những năng lực, phẩm chất của

mình và đồng thời họ cũng đang ngày càng tham gia nhiều hơn, tích cực hơn, chủ

117

động hơn trong các vấn đề chính trị, xã hội. Đây là những dấu hiệu rất khả quan cho

quá trình phát triển XHDS Việt Nam bởi chính những giá trị này, đã và đang tạo ra

vốn xã hội to lớn cho Việt Nam, đồng thời cũng là nền tảng để phát huy các giá trị

XHDS vì suy đến cùng XHDS hoạt động cũng vì cộng đồng, vì sự gắn kết và tin tưởng

giữa con người với con người để hướng tới một xã hội tốt đẹp theo cách khác với cách

mà nhà nước và KTTT đang thực hiện.

Như vậy là, với những đặc điểm và sự biến đổi về mặt kinh tế, xã hội, văn hóa ở

nước ta trong thời gian qua đã dẫn đến việc hình thành và phát huy các yếu tố của

XHDS mà điển hình đó là ý thức tham gia các công việc của cộng đồng, của nhà nước

trên tinh thần tự chủ, tự nguyện; đó là các tổ chức XHDS mang đặc thù Việt Nam,

v.v.. Điều này đã tạo ra sự thay đổi lớn trong đời sống xã hội, thúc đẩy quá trình phát

triển, chủ động hội nhập và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

4.1.2. Nhận thức về xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay

Bên cạnh những thay đổi trong thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, thì

những thay đổi trong nhận thức, hành động của Đảng, nhà nước và các nhà nghiên cứu

đã phản ánh sự tồn tại, phát triển của các yếu tố XHDS trong xã hội Việt Nam.

Trong quá trình phát triển xã hội, với việc lấy học thuyết của chủ nghĩa Mác –

Lênin về chủ nghĩa xã hội, tư tưởng “pháp quyền nhân nghĩa” của Chủ tịch Hồ Chí

Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, Đảng Cộng sản Việt Nam

và nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã lấy nhân dân làm mục tiêu cho

các hành động của mình. Điều này có nghĩa là mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã

hội... diễn ra trong xã hội đều vì lợi ích của nhân dân, đều đảm bảo cho mọi người

được hưởng các quyền cơ bản, được phát triển tự do và hoàn thiện nhân cách của

mình. Nhờ đó, đã tạo môi trường tư tưởng, chính trị, nhận thức để hoàn thiện các hình

thức tổ chức xã hội khác nhau, trong đó có XHDS.

Bản thân con người là thực thể tự nhiên của các nhóm xã hội, tồn tại trong

những không gian tổ chức xã hội khác nhau và có mối liên hệ tự nhiên với nhau. Cơ sở

của sự liên hệ đó chính là sự ràng buộc bởi bản chất xã hội của con người và để thực

hiện bản chất đó thì “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự

do của tất cả mọi người”[8, tr.628]. Đây là tư tưởng cơ bản, được xem như cơ sở của

việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là xã hội đề cao tự do, bình đẳng của mỗi người,

118

vì sự phát triển của những người lao động, hướng tới sự phát triển toàn diện. Với

những đặc điểm đó đã tạo thành những nền tảng lý luận cơ bản cho việc xây dựng,

phát triển một xã hội dân chủ, công bằng, vì con người ở nhiều nước sau này, trong đó

có Việt Nam. Chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, phát triển là

chế độ dân chủ xuất phát từ con người với một hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa vì

con người. Xã hội này sẽ tạo ra những tiền đề cơ bản để mở rộng và khắc phục những

hạn chế về quyền con người ở các chế độ chính trị trước đó. Bản chất và mục đích của

chế độ này đã bao trùm lên những giá trị của XHDS, bởi đây cũng là một không gian,

một yếu tố tổ chức xã hội nhằm phát huy tối đa khả năng và phẩm chất cộng đồng của

con người, hướng con người đạt tới các giá trị và phương thức sống minh bạch, trách

nhiệm, và tự do. Từ đó, có thể thấy được điểm chung về giá trị giữa XHDS, quyền con

người và chế độ chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng, từ đây có thể là điểm

mở đầu cho một hướng kết nối mới về xây dựng XHDS định hướng chủ nghĩa xã hội

để đảm bảo việc thực hiện quyền con người ở nước ta.

Điều này còn được dựa trên sự tiếp nối của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước

của dân, do dân và vì dân; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.

Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của

mình chưa khi nào bàn trực tiếp về XHDS, nhưng trong tư tưởng chung về chính trị

của người lại hàm chứa nhiều giá trị của XHDS. Người vận dụng sáng tạo quan điểm

về vai trò của nhà nước trong xã hội xã hội chủ nghĩa, về tính chất tự quản của các tổ

chức nhân dân và phát triển thêm so với quan điểm của chủ nghĩa Mác về bản chất của

chế độ dân chủ, về vai trò, vị trí của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới xã

hội. Trong yêu sách gửi Hội nghị Hòa bình Versailles năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã

yêu cầu các quyền tự do cơ bản cho người dân Việt Nam như tự do báo chí, tự do hội

họp, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do giáo dục... Những tư tưởng này là một minh chứng

cho những tư tưởng dân sự hình thành rất sớm của người. Và sau này, khi xây dựng nhà

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người đã thực hiện một nền dân chủ rộng rãi trên tất

cả các lĩnh vực với việc thực hiện là nghĩa vụ của chính phủ, của toàn dân (theo một

nghĩa nào đó, công việc này cũng là của XHDS vì XHDS là hình thức tổ chức xã hội

mà ở đó quyền công dân được thực hiện trên cơ sở theo đuổi lợi ích chung). Cái quan

trọng nhất mà Hồ Chí Minh đưa ra đó là sự mở rộng nhận thức tư tưởng về bản chất

119

của chế độ dân chủ và nhà nước dân chủ ở nước ta. Theo Người, dân là chủ (làm chủ

trong chế độ chính trị, thiết chế nhà nước và các tổ chức xã hội), dân làm chủ (làm chủ

trong thực tiễn) trong chế độ dân chủ. Làm chủ vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của

người dân, mọi công dân đều được đảm bảo những quyền lợi, đều được phát huy tối đa

mọi khả năng của mình... Bên cạnh việc nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có

nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, tuân thủ pháp luật, cống hiến cho sự nghiệp xây

dựng tổ quốc. Những tư tưởng hết sức sâu sắc của Người nêu trên mang hàm nghĩa về

một XHDS đích thực, có giá trị to lớn làm nền tảng và định hướng cho việc xây dựng

nền dân sự xã hội ở nước ta.

Vậy, có thể thấy tư tưởng về nhà nước của dân, do dân và vì dân của Chủ tịch

Hồ Chí Minh là nhằm phát huy tính công dân của mỗi người dân trong xã hội. Nếu

như hiểu XHDS là tập hợp mối quan hệ giữa người với người, mối quan hệ giữa các

đoàn thể xã hội cũng như mối quan hệ giữa chúng với nhà nước thì những mối quan hệ

đó là biểu hiện bên ngoài của XHDS, còn những giá trị được xây dựng trên các mối

quan hệ đó chính là biểu hiện nội tại của nó, trong tiếng Anh, người ta dùng khái niệm

civility để biểu đạt điều này. Tính công dân, tập tính công dân hoặc tinh thần công dân

chủ yếu bao hàm hai tầng ý nghĩa, một là chỉ sự tu dưỡng của cá nhân, một là chỉ giá

trị tập thể của xã hội, hàm nghĩa của nó là nhận thức chung, sự hiểu ngầm với nhau

hoặc tâm tính của tất cả các thành viên trong nhóm, khi đó nó là tinh thần công dân.

Tư tưởng này của người rất gần với tính chất của XHDS, qua đó có thể thấy việc bảo

vệ quyền con người, thực hiện quyền con người còn mạnh hơn các giá trị khác.

Từ những tư tưởng nền tảng trên, chúng ta thấy rằng, về bản chất xã hội ta là

một xã hội do nhân dân làm chủ và thực hiện mọi quyền lợi của nhân dân, tạo mọi

điều kiện cho người dân được thực hiện quyền làm chủ của mình. Đây là quan điểm

xuyên suốt quá trình phát triển của xã hội ta. Ý thức được điều này, trong quá trình

lãnh đạo Đảng và Nhà nước cùng với hệ thống chính trị xã hội, toàn thể nhân dân cũng

đã xây dựng nên một hệ thống các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo nhằm hiện thực hóa

các giá trị này và từ đó đang ngày càng mở rộng các điều kiện cho sự phát triển của

XHDS.

Cùng với quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế và đặc biệt là hội nhập kinh tế thế

giới, Việt Nam đã và đang phát triển một nền KTTT, trong khi đó, quá trình toàn cầu

120

hóa đã làm cho sự gắn kết giữa giữa các tổ chức quốc tế với nền kinh tế quốc gia một

rõ nét hơn, và vai trò của các tổ chức này trong đời sống cộng đồng là không thể phủ

nhận. Trước đó, sự sụp đổ của Liên Xô, Đông Âu đã chỉ ra những mối tương quan về

các chế độ chính trị khác nhau, về thực tế tình hình phát triển kinh tế - xã hội, các điều

kiện tự nhiên, xã hội của mỗi nước cụ thể và tâm tư, nguyện vọng của người dân nước

đó. Điều này, dẫn đến việc cần phải suy nghĩ lại về mối quan hệ giữa Nhà nước và xã

hội ở nước ta. Còn phải kể tới những biến động chính trị - xã hội sau chiến tranh lạnh

đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phân bổ quyền lực trên toàn thế giới, thương mại tự do và

thành tựu của công nghệ thông tin đã làm suy giảm phần nào quyền lực của các chính

phủ. Xu hướng phi tập trung hoá bên trong các quốc gia làm cho chính phủ trung ương

trở nên yếu đi, bởi các vấn đề được xác định ở cấp phù hợp nhất. Điều đó làm cho

nhiều chức năng truyền thống của chính phủ ngày càng được chuyển sang cho các

chính quyền địa phương đảm nhiệm. Những xu thế này, dẫn đến một tất yếu là XHDS

trở thành tác nhân có ảnh hưởng ngày một mạnh mẽ hơn, dường như, nó đang “bù”

vào khoảng trống quyền lực mà các chính phủ để lại. Trên toàn thế giới “luật mềm”

dưới các hình thức khuyến nghị, phương châm... của các tổ chức XHDS đã và đang

xuất hiện với tư cách “thông lệ quốc tế”. Diễn đàn nhân dân ASEM, tổ chức của các

đoàn thể quần chúng thúc đẩy hợp tác Á - Âu, Diễn đàn nhân dân ASEAN, Diễn đàn

Xã hội thế giới (WSF) và nhiều diễn đàn khác cũng góp phần vào trào lưu đó. Cùng

với đó, nhận thức của người dân về quyền tự do của mình được nâng cao, các hoạt

động cộng đồng ngày một tích cực, hiệu quả và có sự ảnh hưởng lớn đến đời sống xã

hội. Các nhà trí thức, nghiên cứu đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử hình

thành, phát triển và chỉ ra các đặc điểm, vai trò của XHDS trong quá trình phát triển,

điều tiết chính trị, xã hội…Những điều kiện và tình hình trong và ngoài nước này đã

dẫn đến sự thay đổi trong quan điểm, hành động của Đảng và Nhà nước về XHDS nhất

là đối với các tổ chức đoàn thể.

Văn kiện đại hội VII khẳng định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể

nhân dân cần được đổi mới về tổ chức và hoạt động để thực sự góp phần thể hiện dân

chủ và đổi mới xã hội chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia các

công việc quản lý nhà nước; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa đảng

với nhân dân… hình thức tổ chức và sinh hoạt của đoàn thể phải đa dạng đáp ứng nhu

121

cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân, ích nước lợi nhà, tương thân,

tương ái; thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ dưới sự lãnh đạo

của Đảng và tuân theo pháp luật của nhà nước, hướng về cơ sở, sát với đoàn viên, hội

viên. Khắc phục tình trạng nhà nước hóa, hành chính hóa [13, tr.298-299].

Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục đề ra chủ trương: “Mở rộng và

đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ

chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hóa, hữu nghị, từ thiện, nhân đạo… sớm ban

hành Luật về hội” [13, tr. 673], “tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự

nghiệp, khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu

và lợi ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ

công cộng với sự giám sát của cộng đồng như vệ sinh môi trường, tham gia giữ gìn trật

tự an ninh xóm, phường [13, tr.745]. Đến Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X,

các mục tiêu xây dựng CNXH đã được cụ thể hóa đó là xây dựng một chế độ “Dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [13, tr.68]. Thực hiện mục

tiêu này đồng nghĩa với việc xây dựng một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ, tạo điều

kiện tập hợp lực lượng rộng rãi, nhằm xây dựng đất nước trong giai đoạn mới. Đây rõ

ràng là một bước tiến lớn trong nhận thức mới của Đảng về xây dựng một chế độ dân

chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân. Từ mục tiêu này, Đảng ta đã đi gần hơn tới việc xác lập vai trò của XHDS.

Tiếp đến, Hội nghị TƯ 6 (khóa X) tiếp tục nhận định: “phát triển đa dạng các

hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận để chăm

sóc đối tượng bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng theo tinh thần xã hội hóa với sự hỗ trợ

một phần của Nhà nước, bảo đảm cho các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn

định, hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng tự vươn lên” Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng

thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân

và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”. Và, các chính

sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hóa, đề cao trách nhiệm của chính

quyền các cấp, huy động nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của đoàn thể nhân

dân, các tổ chức xã hội” [15, tr.165-166].

Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên CNXH (bổ

sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã xác định cụ thể, khẳng định vị trí, vai trò của

122

các đoàn thể nhân dân: “Các đoàn thể nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ, và mục đích

đã xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách;

chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên nâng

cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý

xã hội. Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo

và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể. Đảng,

Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt

động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội” [16, tr.87].

Mới đây nhất, trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, các vấn đề về

thực hành dân chủ, phát huy tối đa quyền làm chủ của người dân tiếp tục được Đại hội

đề cao và xác định là mục tiêu hành động trong quá trình phát triển xã hội, cụ thể: Mục

tiêu và nhiệm vụ trong 5 năm tới của Đảng ta là tiếp tục tăng cường xây dựng Đảng

trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây

dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội

chủ nghĩa (17, tr.77). Hoàn thiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm

chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết

toàn dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung và phương

thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân (17, tr.166). Tiếp tục

phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước phải

xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân

tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hành đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình

đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng

kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây

dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân

(17, tr.169). Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực

tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của

công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề

cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp

123

luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân.

Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Từ những quan điểm chỉ đạo như vậy, Đảng và Nhà nước đã chuyển hóa thành

hành động thông qua việc ban hành hàng loạt các văn bản pháp lý ghi nhận sự đóng góp

của các yếu tố có tính chất XHDS trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam.

Hiến pháp năm 1946 (chương II) và các năm 1959 (chương III), 1980, 1992

(chương V) và 2013 (chương II) đều thừa nhận: “các quyền con người về chính trị, dân

sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được

quy định trong Hiến pháp và luật”. Hay “công dân có quyền tham gia quản lý Nhà

nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến

nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. “Công

dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền thông tin, có quyền

hội họp, lập hội và biểu tình theo quy định của pháp luật”. “Nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân

dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ;

tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp

công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đây là tuyên ngôn nhà nước ta là

một nước pháp quyền dân chủ. Dân chủ ở đây là dân chủ XHCN, là nền dân chủ tập

trung hay tập trung dân chủ, chứ không phải là nền dân chủ đa nguyên như lý luận chủ

nghĩa xã hội dân chủ” [147, tr.89 - 90].

Ngoài ra, các chỉ thị về việc thành lập các hội đoàn khác nhau đã nhấn mạnh vai

trò của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức hiệp hội, Đảng cũng đã gián tiếp nói về vai

trò của XHDS. Đây có thể coi là những cơ sở lý luận đầu tiên cho việc hình thành một

môi trường hoàn thiện để XHDS có thể phát huy khả năng của mình. (Xem thêm phụ

lục văn bản pháp lý về XHDS).

Như vậy, mặc dù Đảng và Nhà nước ta chưa công nhận XHDS như một thiết chế

tổ chức quản lý xã hội, nhưng đã tồn tại những tổ chức có tính chất của XHDS và cùng

với quá trình dân chủ hóa nền chính trị, vai trò của các tổ chức ấy trong việc hiện thực

hóa quyền của con người đã được công nhận và khẳng định trong các lần đại hội của

Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

124

Bên cạnh đó, về sự thay đổi và nhấn mạnh về mặt nhận thức của đội ngũ cán bộ

lãnh đạo cao cấp và các nhà nghiên cứu đã khẳng định những cơ sở cần thiết cho việc

phát triển XHDS ở Việt Nam. Về phía cán bộ lãnh đạo cao cấp, mới đây nhất, trong bài

phát biểu đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định, cần có thêm

động lực mới để đổi mới đất nước mà nguồn động lực đó phải đến từ Đổi mới thể chế

và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân”. Việc phát huy quyền làm chủ của

nhân dân được đảm bảo qua việc phát huy dân chủ trực tiếp, gián tiếp và trong tổng thể

các giải pháp khác. Thủ tướng nhấn mạnh: Không một quốc gia nào có thể thực hiện

quyền dân chủ trực tiếp ở tất cả các cấp cũng như trong tất cả các lĩnh vực của đời

sống xã hội nhưng dân chủ trực tiếp càng sâu rộng và thực chất thì dân chủ đại diện

càng hiệu quả. Vì vậy, phải đặt mối quan hệ giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại

diện trong tổng thể các giải pháp bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Phải mở

rộng dân chủ trực tiếp và hoàn thiện cơ chế bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân

các cấp”. Phải hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội, tăng cường sự tham gia của

người dân vào quá trình xây dựng chính sách và lựa chọn cán bộ” [197]. Rõ ràng là,

với những khẳng định đó, có thể thấy rằng, sự cần thiết phải có một nền xã hội dân chủ

là quy luật tất yếu trong sự phát triển xã hội, trong đó XHDS là một thành tố không thể

thiếu để phát huy vai trò làm chủ của người dân. Vì vậy, phát triển XHDS mang định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một xu thế phù hợp.

Về phía các nhà nghiên cứu, trong chương 1 về Tình hình nghiên cứu, vấn đề

XHDS Việt Nam đã được các học giả để cập đến cả từ góc độ lý luận và thực tiễn,

mặc dù có tranh cãi về nội hàm của khái niệm này nhưng đa phần đều cho rằng xã hội

Việt Nam có các cơ sở cho sự hình thành, phát triển của XHDS, có thể kể đến quan

điểm tiêu biểu của GS. Gred Mutz khi ông cho rằng: Không thể đánh giá về hiện trạng

dân sự của một quốc gia mà chỉ tính đến các tổ chức phi lợi nhuận hay các tổ chức phi

chính phủ, bởi như vậy các nhân tố khác thuộc XHDS ở Việt Nam hay ở một nơi nào

đó sẽ bị bỏ qua và nó cũng không phản ánh được sự đa dạng của các hội đoàn ở Việt

Nam. Vì thế, ông đưa ra cách tiếp cận khác đối với thực tế XHDS Việt Nam đó là dựa

trên định hướng hoạt động: khái niệm này nhìn XHDS theo kết cấu và hoạt động, thậm

chí là tập quán hay thái độ dân sự. Nó không chỉ tập trung vào các tổ chức theo kiểu

phương tây và các nhóm chính thống mà còn xem xét cả tập quán và hoạt động dân sự

125

phi chính thống. Cách tiếp cận này cho phép phân tích XHDS theo phương thức mang

tính nhạy cảm văn hóa. Những hoạt động truyền thống, những hình thức sinh hoạt tổ

chức mang tính thuần khiết và tập quán của XHDS có thể nhìn thấy ở Việt Nam. Đây

là những đặc thù vốn có từ các địa phương, vùng miền ở nước ta, nhưng những điều

này sẽ bị bỏ qua nếu xét từ quan điểm chính thống về XHDS [23, tr.155-176].

Như vậy rõ ràng là, từ những nghiên cứu về cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, văn

hóa, nhận thức ở trên, đã cho thấy XHDS Việt Nam đang hình thành, tồn tại, phát triển

với những đặc điểm cụ thể của mình. Ở đây, một câu hỏi được nhiều người đặt ra là, dù

về mặt nhận thức về xã hội dân sự đã có những thay đổi đáng kể, song tại sao đến thời

điểm hiện tại Đảng và Nhà nước chưa công nhận xã hội dân sự. Có nhiều cách để trả lời

câu hỏi này, với góc độ người làm nghiên cứu thì có thể thấy rằng: Một là, về bản chất

xã hội ta là một xã hội do nhân dân làm chủ và thực hiện mọi quyền lợi của nhân dân,

tạo mọi điều kiện cho người dân được thực hiện quyền làm chủ của mình. Đảng Cộng

sản Việt Nam đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động, cho quyền lợi của nhân dân,

đây là quan điểm xuyên suốt quá trình phát triển của xã hội ta. Do đó, ý thức được

điều này, trong quá trình lãnh đạo Đảng và Nhà nước cùng với hệ thống chính trị xã

hội, toàn thể nhân dân cũng đã xây dựng nên một hệ thống các quan điểm, tư tưởng chỉ

đạo, các biện pháp quản lý, các chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm hiện thực hóa

các giá trị vì con người, đặt quyền lợi của nhân dân lao động lên trên hết như thế quan

điểm phát triển và hiện thực phát triển đang bao trùm lên cả những phẩm chất tốt đẹp

của xã hội dân sự. Hai là, Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội đều là thành

viên của hệ thống chính trị Việt Nam, được tổ chức chặt chẽ theo nguyên tắc tập trung dân

chủ; có địa vị pháp lý vững chắc, có tính gắn kết, thống nhất cao về ý chí và hành động,

có những bước tiến cơ bản về dân chủ, có tiềm năng sáng tạo dồi dào. Vì vậy quan hệ

giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội với sức mạnh tự thân như một

thuộc tính vốn có, đã, đang và tiếp tục trở thành quan hệ chủ đạo, nền tảng trong hệ thống

chính trị Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo của mình Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập

hợp được những lực lượng ưu tú nhất của người lao động, đã phát huy được sức mạnh

đoàn kết của toàn dân tộc trong quá trình đổi mới đất nước. Ba là, xuất phát từ nguyên

tắc hoạt động của mình, Đảng luôn phê bình và tự phê bình, luôn tự đổi mới, sửa chữa

khuyết điểm và linh hoạt trước các vấn đề mới, nên tiếp tục tạo được niềm tin của

126

nhân dân, đoàn kết các lực lượng toàn dân tộc trong và ngoài nước trong việc xây

dựng phát triển đất nước. Do vậy, những vấn đề xã hội dân sự đặt ra, cũng đã và đang

được Đảng và Nhà nước ta cùng các tổ chức chính trị - xã hội giải quyết. Bốn là, xuất

phát từ chính những vấn đề của xã hội dân sự, nhiều tổ chức xã hội dân sự khi tham

gia vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội bởi những mâu thuẫn về lợi ích, mục đích

trong quá trình hoạt động thì sẽ nảy sinh nhiều vấn đề đe dọa đến sự ổn định của một

nhà nước cụ thể. Và như dưới góc độ kinh tế thì mối nguy hại của “xã hội dân sự”

được chính Ngân hàng Phát triển châu Á nhận xét: “Các tổ chức xã hội công dân cũng

có thể bao gồm những hiệp hội có động cơ bạo lực, tham lam, lợi ích cục bộ, thù địch

sắc tộc và đàn áp xã hội, cũng như các tổ chức kinh doanh vận động hành lang như

ngành công nghiệp thuốc lá, là không thể đại diện cho lợi ích đông đảo của công

chúng”1 Dẫn chứng này cho thấy ngay tính chất vô chính phủ, tự phát, cơ hội của các

tổ chức trong “xã hội dân sự” nếu không có một cơ chế quản lý chính trị chặt chẽ. Năm

là, việc thừa nhận, cho phép XHDS phải có lộ trình, phải đạt được những điều kiện

nhất định, đặc biệt là một nền KTTT mạnh và NNPQ hoàn thiện, trong khi đó ở nước

ta những yếu tố này mới đang vận hành và cần phải có thời gian để xây dựng một thiết

chế hoàn chỉnh. Sáu là, xuất phát từ khía cạnh văn hóa, xã hội. Ở nước ta, tính chất

chọn lọc văn hóa được thể hiện khá mạnh mẽ, trong lịch sử phát triển của dân tộc, gần

như các nền văn hóa khác vào nước ta đều trải qua quá trình chọn lọc, hòa trộn, hỗn

dung và cần có thời gian để thích nghi với văn hóa bản địa. Người Việt rất ít khi sao

chép nguyên xi một mô hình văn hóa nước ngoài vào đời sống của mình. Do đó, hình

thức tổ chức xã hội dân sự theo kiểu phương Tây khi du nhập vào Việt Nam cần có

thời gian để hòa nhập, để tìm những yếu tố tồn tại phù hợp.

Do vậy, với những lý do trên, chúng tôi thấy rằng, ở Việt Nam cần phải có sự

nghiên cứu, nhằm lựa chọn, xây dựng được mô hình XHDS phù hợp. Còn việc có thừa

nhận hay không xã hội dân sự thời gian sẽ trả lời, vấn đề quan trọng ở đây là cách thức

tổ chức, vận hành của xã hội hướng tới người dân và vì người dân, vì cộng đồng là

những vấn đề mấu chốt nhất mà các lực lượng lãnh đạo xã hội luôn đặt lên hàng đầu.

4.1.3. Đặc điểm xã hội dân sự Việt Nam

Với những phân tích trên có thể thấy rằng, ở nước ta các yếu tố cơ bản của

XHDS đã hình thành và ở một số khía cạnh đã được biểu hiện khá rõ nét. Đồng thời,

127

XHDS Việt Nam có những đặc trưng riêng khác với các mô hình XHDS đã hình thành

và phát triển trên thế giới.

Thứ nhất, xã hội dân sự Việt Nam đang hình thành, phát triển trong mối tương

quan chi phối của nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, của Đảng cộng sản và Nhà

nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là điểm khác biệt cơ bản so với những

mô hình XHDS hình thành, phát triển trong một nhà nước tư sản.

Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

đại diện cho lợi ích của nhân dân, mọi chủ trương và chính sách đều lấy nhân dân làm

đích hướng tới và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ - tự do trong thảo luận

và thống nhất trong hành động. Điều này thể hiện sự thống nhất từ trong bản chất, mục

tiêu, phương thức vận hành của một thế chế chính trị, qua đó sự lãnh đạo của Đảng và

quyền lực của nhân dân sẽ gắn bó hữu cơ với nhau. Trong khi đó, XHDS suy đến cùng

hoạt động cũng vì sự ổn định của xã hội, vì quyền lợi của cộng đồng, của nhân dân,

điều này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của

Đảng trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật.

Dù vậy, vì nguyên tắc tập trung dân chủ là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,

đòi hỏi cấp dưới phải phục tùng cấp trên… nên nếu trong Đảng không trong sạch,

vững mạnh, sẽ dẫn đến tình trạng bị chi phối bởi lợi ích của một ai đó, một nhóm xã

hội nào đó, xuất hiện những nguy cơ như làm xơ cứng và mất dân chủ trong xã hội; dễ

dẫn đến chủ quan, tự mãn, duy ý chí, quan liêu trong hoạch định chủ trương, đường

lối… Những điểm này mâu thuẫn với tính chất của các tổ chức XHDS, kìm hãm dân

chủ, cản trở sự phát triển của XHDS. Vì nhìn ở một khía cạnh nào đó, XHDS thường

được hình thành ở các nước tư bản với chế độ đa đảng và mỗi đảng lại có các tổ chức

hội đoàn, chi phối và kiểm soát lẫn nhau dẫn đến sự cạnh tranh, minh bạch và phát

triển, nhưng điểm hạn chế của nó đó là cũng dễ nảy sinh các vấn đề như mất ổn định

chính trị, xã hội, mâu thuẫn xã hội. Do vậy, không có một tiêu chí thống nhất nào cho

việc đánh giá sự tồn tại của XHDS ở một quốc gia, điều quan trọng là các mục tiêu

cộng đồng và vì con người được đảm bảo và thực hiện. Do đó, trong quá trình phát

triển của mình, để giữ vững được vị trí lãnh đạo và đảm bảo sự thống nhất, đoàn kết

trong xã hội thì Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách chỉnh đốn, xây

dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cho phù hợp với tình hình mới đảm bảo sự lành

128

mạnh khi thực hiện thiểu số phục tùng đa số, tránh độc quyền, vô chính phủ, tránh

được sự lợi dụng để mưu lợi riêng, và các quy định dân chủ điều chỉnh các quan hệ,

thiết chế khác nhau trong xã hội thông qua sự tương tác giữa dân chủ trong Đảng và

dân chủ ngoài xã hội làm cho vai trò của XHDS trong phát triển xã hội ngày càng

được ghi nhận. Mặc dù chưa có một văn bản pháp lý nào trực tiếp quy định về XHDS

Việt Nam, nhưng Nhà nước cũng đang cố gắng dựa vào thực tiễn của các tổ chức cộng

đồng, tổ chức dân gian, tổ chức bán chính thức..để có những điều chỉnh hình thái ý

thức và phương thức quản lý của mình tạo không gian cho sự hình thành và phát triển

XHDS, để các tổ chức XHDS, mặc dù vẫn chưa có đăng ký hợp pháp nhưng vẫn có đủ

điều kiện thuận lợi để hoạt động và phát huy vai trò cộng đồng của mình.

Thứ hai, do tồn tại, phát triển trong điều kiện chính trị, xã hội đặc thù như trên

nên XHDS Việt Nam cũng mang nét đặc thù riêng, điều này càng được thể hiện rõ qua

tính chất, hoạt động, cách thức tổ chức, liên kết, vận hành của XHDS ở Việt Nam.

Về lực lượng cơ bản của XHDS Việt Nam gồm những tổ chức XHDS chính

thức, phi chính thức và bán chính thức. Cụ thể là: Các hội, hiệp hội dân sự hiện đại

(liên kết với nhau trên cơ sở chung ngành nghề, theo những mục đích chung), các tổ

chức phi chính thức, bán chính thức, các nhóm hoạt động theo sở thích, các quỹ, các tổ

chức quần chúng, các NGOVN (Việt Nam non-governmental organization), các cơ sở

hoặc các tổ chức trong dân chúng, làng xã không có tư cách pháp nhân, hoạt động dựa

trên cơ sở cộng đồng như hội đồng hương, đồng môn, nhóm tự quản, các câu lạc bộ

văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao...Các tổ chức, hội, hiệp hội này tạo thành những

mạng lưới xã hội liên kết cộng đồng rộng khắp và xây dựng vốn xã hội, vốn văn hóa

dân sự cho sự phát triển32. Có một lưu ý là các tổ chức phi chính phủ quốc tế và những

nhà tài trợ song phương, đa phương không được xếp vào nhóm XHDS Việt Nam, song

nó đóng vai trò lớn trong việc thúc đẩy các hoạt động của XHDS, đặc biệt trong lĩnh

vực chuyển giao tri thức và xóa đói giảm nghèo phục vụ mục tiêu phát triển chung.

Về cấu trúc, nhìn vào xã hội hiện nay, chúng ta thấy rằng ngày càng có nhiều

32 Xem thêm bản phụ lục số 2.

các hội, các tổ chức nhân dân, cộng đồng, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề

129

nghiệp, các tổ chức NGO33... được thành lập, điều này chứng tỏ người dân Việt Nam ở

các khu vực kinh tế xã hội khác nhau, các giai tầng khác nhau đang tham gia vào

XHDS một cách tích cực. Các lĩnh vực mà họ tham gia rất phong phú và đa dạng, có

chiều sâu, đại đa số tập trung vào việc xóa đói giảm nghèo và phát triển cộng đồng

(giáo dục, y tế,..), môi trường và tài nguyên, nông, lâm, thủy sản. Mỗi người dân Việt

Nam có thể là thành viên của nhiều tổ chức xã hội. Sự tham gia này là tự nguyện và họ

thường dành nhiều thời gian cho việc thực hiện các hoạt động mang tính cộng đồng

của hội.

Các thành viên tham gia vào các tổ chức XHDS khá đa dạng, có mặt ở khắp

mọi nơi trên cả nước và nằm ở nhiều thành phần, giàu nghèo, phụ nữ, các nhóm người

dân nông thôn, người dân tộc thiểu số... Có một thực trạng là, trong hoạt động, có sự

chồng chéo giữa các tổ chức XHDS, thành viên của các tổ chức này lại là thành viên

với khối lượng nhất định của tổ chức khác. Ví dụ như: Ở nước ta thường sử dụng các

tổ chức đoàn thể làm công tác xóa đói giảm nghèo và các hoạt động giáo dục như

trường hợp của Hội chữ thập đỏ, vì thế rất khó để phân biệt các loại tổ chức trên cơ sở

chức năng hàng ngày của họ. Một ví dụ khác nữa là các nhóm tiết kiệm tín dụng

thường được hỗ trợ bởi Hội nông dân hoặc Hội phụ nữ. Mục đích của hầu hết các tổ

chức là để hỗ trợ sinh kế của người dân nói chung và đặc biệt là người nghèo, kém

may mắn trong nhiều cách khác nhau.

Không có dữ liệu sẵn có nào có thể đánh giá rõ ràng về việc thực hiện XHDS

của người Việt Nam, tuy nhiên, về mặt định lượng, kích thước của nó là rất lớn nếu kể

cả khối lượng tổ chức không chính thức và các tổ chức tôn giáo. Nếu trong cách nhìn

phương Tây, XHDS gồm nhiều các tổ chức phi chính phủ, thì XHDS Việt Nam có thể

xuất hiện ít ỏi, nhưng trong thực tế điều này là ngược lại: trường hợp do sự lan truyền

của các nhóm hợp tác nông thôn trong những năm gần đây và sự hình thành của vô số

các nhóm phi chính thức, mà theo đuổi mục đích cải thiện sinh kế của người dân cũng

33 Chính việc thay đổi mô hình kinh tế đã dẫn đến việc người dân có thể tự do chi phối không gian xã hội và không ngừng mở rộng nó, các quan hệ hiệp thương giữa người với người được mở rộng. Từ đây đã hình thành một kết cấu xã hội theo chiều ngang lấy việc lựa chọn tự nguyện và tự do cá nhân làm cơ sở. Biểu hiện của nó là ngày càng có nhiều tổ chức phi lợi nhuận được thành lập.

như, tinh thần và giáo dục, giải trí... đang ngày một tăng lên và giữ vai trò quan trọng.

130

Tuy nhiên, nó không thể thay đổi thực tế là các tổ chức quần chúng (tổ chức chính trị -

xã hội) là lớn nhất trong các tổ chức xã hội ở nước ta.

Hầu hết các tổ chức XHDS Việt Nam đều có mối quan hệ chặt chẽ với các tổ

chức chính trị - xã hội, với chính quyền địa phương. Các tổ chức này nhận được các

nguồn bảo trợ từ cả phía nhà nước, các tổ chức tài trợ quốc tế, các quỹ tư nhân và sự

đóng góp của các thành viên. Nhưng các nguồn này khá hạn chế, và nhỏ giọt, mang

nhiều tính hình thức. Cụ thể các cơ quan này cung cấp nguồn lực cho các tổ chức, hiệp

hội nghề nghiệp, tổ chức bán chính thức, còn đối với các tổ chức phi chính phủ, các

nhóm không chính thức, các tổ chức cộng đồng thì thường phụ thuộc vào sự hỗ trợ của

các NGO quốc tế và các nhà tài trợ [42, tr.127]. Do vậy, trong quá trình hoạt động họ

chịu sự chi phối cả bởi tính định hướng chính trị của nhà nước và vừa có tính độc lập

tương đối theo hướng các tổ chức cộng đồng, hoặc theo hướng của các tổ chức quốc

tế.

Hiện nay, không gian hoạt động cho các tổ chức xã hội dân sự đã được mở rộng

hơn, họ đã thoát khỏi các lĩnh vực truyền thống là các hoạt động cộng đồng (xóa đói

giảm nghèo, giáo dục, y tế, môi trường, tài nguyên), thiện nguyện để tham gia nhiều

hơn vào các quyết sách chính trị của nhà nước.

Xã hội dân sự Việt Nam đang tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, mạng lưới tổ chức

XHDS có thể được tìm thấy trong hầu hết các loại cộng đồng của xã hội. Nó thể hiện

ra là một cấu trúc xã hội đa dạng, có vai trò liên kết các cá nhân, nguồn lực trong cùng

tổ chức, và rộng hơn nữa là hình thành mạng lưới xã hội

Về phương thức hoạt động, đặc trưng và vai trò: XHDS Việt Nam mang những

đặc điểm cơ bản của XHDS chung trên thế giới đó là hoạt động của những cá nhân tự

nguyện, tự chủ về tài chính, tự quản, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, không vì mục

tiêu lợi nhuận và không nằm trong hệ thống bộ máy nhà nước, hoạt động trên cơ sở hiến

pháp và pháp luật của Nhà nước, chủ trương của Đảng, đảm bảo sự phù hợp với bản

chất của dân, do dân và vì dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và vì những mục

tiêu chung của cộng đồng. Nhưng có một điểm cần lưu ý là, hiện vẫn chưa có một văn

bản pháp lý nào chính thức thừa nhận sự hoạt động của XHDS ở Việt Nam, song với sự

mở cửa, tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế với sự xuất hiện của những nhân

tố mới như: Các thành phần kinh tế nước ngoài, các hiệp định thương mại song phương,

131

đa phương, các đòi hỏi về môi trường, quyền con người từ các tổ chức quốc tế trong các

hợp đồng sản xuất kinh doanh. Các vấn đề về đô thị hóa, chuyển dịch nông dân thành

công nhân và các tổ chức của họ; các vấn đề về toàn cầu hóa di dân, nhập cư, lao động

nước ngoài…; các vấn đề về quan hệ chính trị quốc tế,v.v.. đã khiến cho vấn đề pháp lý

của XHDS được quan tâm. Nên việc xây dựng hành lang pháp lý là điều kiện để hoạt

hóa các hình thức tổ chức XHDS vốn có tại Việt Nam, đồng thời thể hiện sự chủ động,

tích cực trong hội nhập quốc tế của Việt Nam, cũng như tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ

chức quốc tế trong việc giải quyết vấn đề xã hội mới nảy sinh, đói nghèo, ô nhiễm môi

trường, y tế, sức khỏe, v.v..

Có thể nói, trong một mô hình quốc gia chính phủ chỉ đạo sự ra đời và phát

triển thì sự phát triển của XHDS không tách rời sự chuyển biến của chính sách chính

phủ, cũng như điều kiện nới lỏng được tạo ra bởi sự ưu đãi của các pháp quy liên quan.

Nhà nước cũng đang từng bước xây dựng, đưa vào chương trình nghị sự một số văn bản

đơn lẻ có liên quan, một số văn bản pháp quy được công bố, một số pháp quy đang

trong quá trình nghiên cứu và xây dựng. Điều này giúp chúng ta có thể thấy được diện

mạo của XHDS Việt Nam với tư cách là sự phản ánh quá trình hiện đại hóa xã hội Việt

Nam từ sự tác động của các tổ chức XHDS và chính phủ như hiệu ứng đơn lẻ của nhiều

quy định pháp quy.

Các tổ chức này đều có quy chế hoạt động riêng, tuân thủ hiến pháp, pháp luật

Việt Nam, có thể theo quy định của các bộ luật, hoặc điều lệ của hiệp hội có giá trị khi

được thông qua bởi đại hội của các hiệp hội. Các tổ chức cộng đồng, cũng như các

nhóm tín dụng và câu lạc bộ nghề nghiệp được thành lập theo nhu cầu của nhân dân

dưới nhiều hình thức, vì thế không có quy định có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp.

Phương thức hoạt động của các nhóm được quyết định bởi các thành viên tùy thuộc bối

cảnh và điều kiện.

Nhưng điểm khác của tổ chức XHDS Việt Nam là tính độc lập không cao. Điều

này thể hiện ở ngay trong thành viên và hoạt động của các tổ chức này. Bản thân các

thành viên của các tổ chức XHDS Việt Nam cũng là thành viên của các tổ chức chính

trị - xã hội, hay các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác nên họ sẽ bị chi phối bởi cả lợi

ích kinh tế, chính trị, những quy định, ràng buộc từ những tổ chức kia. Do vậy, trong

hoạt động của họ, họ luôn phải cân nhắc lựa chọn các lĩnh vực “an toàn” để tham gia,

132

và đảm bảo sự hài hòa giữa các lợi ích khác nhau. Dù vậy, để có thể nhận được tài trợ

từ các tổ chức XHDS quốc tế và đẩy mạnh xu hướng phát triển của mình, các tổ chức

XHDS Việt Nam cũng đang ngày càng bứt phá ra khỏi sự ảnh hưởng chính trị để hoạt

động theo những tôn chỉ và mục đích chung.

Song, chính lực lượng của XHDS Việt Nam nằm trong cả ba nhóm chủ thể Nhà

nước, thị trường, gia đình, đã dẫn đến vị trí đặc biệt của XHDS Việt Nam trong cấu trúc

xã hội là đóng vai trò liên kết xã hội, là chủ thể kết nối giữa các nhóm chủ thể nhà nước,

thị trường và gia đình với nhau. Xét về phạm vi và môi trường hoạt động, lực lượng

XHDS nằm trong cả 3 nhóm chủ thể trên do vậy, XHDS không những đóng vai trò giúp

3 nhóm chủ thể này liên kết với nhau mà còn tạo ra mối liên kết giữa cộng đồng với nhà

nước, thị trường và gia đình. Bên cạnh đó, XHDS góp phần thực hành dân chủ, tham gia

nhiều hơn vào các quyết sách chính trị của nhà nước bằng cách phản hồi những vấn đề

bức xúc của xã hội như đất đai, quyền tự chủ của nhân dân, tham gia giám sát đời sống

xã hội, phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội trong việc bảo đảm và cân bằng dân

chủ; củng cố và bảo vệ quyền con người, lợi ích cộng đồng (xóa đói giảm nghèo, giáo

dục, y tế, môi trường, tài nguyên…).

Thứ ba, về bản chất XHDS Việt Nam mang tính nhân dân sâu sắc.

Tính nhân dân này được hình thành dựa trên nền tảng là quan hệ kinh tế - xã

hội, lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, lãnh thổ, đạo đức dân tộc. Nó được biểu hiện cụ thể

qua tính công dân, tinh thần công dân và là dấu hiệu cho thấy vai trò của công dân

được bảo đảm. Mà tính công dân lại là cơ sở để xây dựng nên XHDS, một xã hội mà ở

đó hành vi giữa các thành viên trong xã hội thể hiện tinh thần công dân. Do đó, trong

xã hội này không phải cứ có tự do lập hội, số hội đoàn nhiều mà là XHDS, mà chính là

giá trị riêng để xử lý mối quan hệ giữa các cá nhân, đoàn thể xã hội và nhà nước. Đây

cũng chính là tinh thần công dân. Nó là ý thức tự thân tập thể của xã hội. Nội hàm của

khái niệm này là ý thức tập thể của nhóm được sinh ra do tập quán lịch sử đơn giản

hàng ngày không ngừng mở rộng phạm vi một cách có hiệu quả. Thái độ, tập quán tâm

thế mà tính công dân thể hiện là sự tự nguyện và chủ động của cá nhân, nghĩa vụ của

họ đối với công việc của cá nhân, của cộng đồng. Như vậy, có thể nói rằng, tính công

dân chính là sự đối xử lương thiện giữa người với người mà tiền đề của nó là ý thức

nhóm cộng đồng và sự bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội. Giá trị của tính

133

công dân thể hiện ở sự chuyển đổi mô hình xã hội, còn trong tổ chức xã hội thể hiện qua

tinh thần tự nguyện lập hội. Điều này rất tương hợp với các giá trị cốt lõi của xã hội Việt

Nam.

Bên cạnh đó, có thể thấy, xã hội Việt Nam là xã hội mang chứa các điều kiện về

lịch sử, văn hóa, chính trị cho sự tồn tại và ra đời của XHDS. Nhà nước Việt Nam là nhà

nước của dân (tức là trên lý thuyết vẫn là nhà nước thực thi quyền lực do dân giao phó)

nên có sự thống nhất về lý thuyết giữa chính quyền và nhân dân. Điều này giải thích tại

sao vẫn có các tổ chức XHDS tự phát và tự quản trong dân - thể hiện bằng tính nhân dân

cao và cũng giải thích lý do tại sao các tổ chức XHDS đều có liên hệ với hệ thống chính

trị của nhà nước.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng, XHDS Việt Nam đã và đang có nhiều những

biểu hiện cụ thể, hoạt động sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và góp

phần nhất định vào sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, thực tế XHDS Việt

Nam vẫn còn một số vấn đề đặt ra: 1- Số lượng tổ chức mang hơi hướng/tính chất của

XHDS thì nhiều nhưng lại có quy mô nhỏ lẻ, giới hạn trong phạm vi hoạt động tại địa

phương; 2- chủ yếu giải quyết các vấn đề trước mắt chứ chưa mang tính dài hạn, dài

hơi, tính phản biện, tính giám sát chính sách thấp, chưa có sự độc lập căn bản như một

XHDS phải có; 3- chưa có văn bản pháp lý công nhận về XHDS. Điều này cho thấy sự

đứt đoạn trong công tác quản lý xã hội của nhà nước mà nguyên nhân chủ yếu là do hệ

thống pháp luật của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện.

Như vậy, vấn đề căn bản nhất của XHDS Việt Nam là việc làm sao phát huy

được những nhân tố vốn có (tính nhân dân, tính cộng đồng, số lượng tổ chức XHDS

trên cả nước...), xây dựng những cơ sở pháp lý cần thiết để xác lập một XHDS lành

mạnh vì sự ổn định chung của xã hội và thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam.

4.2. Vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam

hiện nay và một số vấn đề đặt ra

Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người

của tất cả mọi người đều được tôn trọng, bảo đảm, nhà nước là chủ thể chính trong

việc bảo đảm và thực hiện các quyền con người trên cơ sở trên cơ sở những điều kiện,

tiền đề nhất định đó là đất nước phải được độc lập, chủ quyền quốc gia phải được tôn

trọng, cơ sở kinh tế, xã hội, văn hóa được đảm bảo. Cụ thể, việc bảo đảm và thực hiện

134

quyền con người ở nước ta gắn liền với việc thực hiện các công ước của LHQ về

quyền con người và đồng thời cũng là để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng xã hội dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để quá trình này được diễn ra

và có kết quả tốt, mỗi quốc gia phải tùy vào điều kiện của mình để xây dựng một lộ

trình phù hợp và phải kết hợp vai trò của các thiết chế xã hội khác như XHDS, KTTT

bên cạnh nhà nước nhằm phát huy tối đa sức mạnh của toàn dân trong quá trình này.

Với việc nhìn nhận như vậy, hiện nay, việc đảm bảo và thực hiện quyền con người ở

nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể.

4.2.1. Một số thành tựu đạt được

4.2.1.1. Xã hội dân sự thúc đẩy, mở rộng không gian dân chủ cho việc thực hiện quyền

con người

Để đánh giá về sự tiến bộ của dân chủ, cũng như việc hiện thực hóa các quyền

con người trên cơ sở của dân chủ và thể hiện sự gắn kết giữa dân chủ và quyền con

người, có nhiều tiêu chí khác nhau, nhưng nổi bật nhất là tiêu chí quyền con người và

quyền tham gia vào cộng đồng, vào các hoạt động chính trị xã hội, vào hệ thống kinh

tế. Do vậy, việc bảo đảm quyền con người là bảo đảm dân chủ và những người bảo hộ

quyền con người thực sự là những nhà bảo lãnh cho dân chủ. Với cơ chế Đảng lãnh

đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ như ở nước ta, trong quá trình dân chủ hóa,

vấn đề đặt ra với các tổ chức chính trị - xã hội nói riêng và các tổ chức XHDS nói

chung là phải đảm bảo sự làm chủ và tự quản trong khuôn khổ tổ chức và hoạt động

của các tổ chức đó, cũng như sự tham gia của các tổ chức này trong việc thực thi

quyền lực nhà nước. Đây là cơ chế quan trọng để tạo nên không gian dân chủ cho

người dân thực hiện quyền của mình.

Thứ nhất, xã hội dân sự Việt Nam ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động, hình

thức tổ chức, tập hợp lực lượng, thúc đẩy vai trò của người dân trong các hành động xã

hội.

Theo một thống kê ở Việt Nam, số lượng người dân tham gia vào các tổ chức

XHDS là khá lớn, trung bình mỗi người là thành viên của 2,3 tổ chức, cao hơn nhiều

các nước trong khu vực Châu Á (TQ-0,39, Singapo - 0,86)... tỷ lệ người thuộc ít nhất

một tổ chức là tương đối cao khoảng 73,5% [3, tr.9]. Một nghiên cứu vào năm 2012

cho thấy con số thống kê về các tổ chức xã hội nhất là các hội, các quỹ đã tăng lên rất

135

nhiều, hiện cả nước có 450 hội, gần 100 loại quỹ hoạt động ở phạm vi toàn quốc; gần

15.000 hội, hàng nghìn quỹ có phạm vi hoạt động ở cấp tỉnh, cấp huyện, chưa kể hàng

vạn hội hoạt động ở xã, phường thị trấn và các loại quỹ dòng họ, cơ quan, đơn vị,

trường học ở địa phương. Trong những năm gần đây, tính trung bình, mỗi năm có

khoảng 20 hội, hiệp hội xã hội - nghề nghiệp được cấp phép hoạt động trên phạm vi

toàn quốc [45, tr.50]. Các tổ chức XHDS đang ngày một tăng lên cả về số lượng và

chất lượng hoạt động và đấy mới chỉ là những con số thống kê trên giấy tờ, được đăng

ký qua các cơ quan chủ quản khác nhau, còn trên thực tế sẽ còn rất nhiều tổ chức,

nhiều hội đang hoạt động tự do, chưa đăng ký, hoặc đã gửi hồ sơ đăng ký nhưng chưa

được thẩm định nên chưa thống kê hết được. Các tổ chức ngày càng độc lập, tự chủ

hơn về tài chính, có trách nhiệm và được tăng cường hơn trong các hoạt động công

cộng.

Điểm đặc biệt là tại Việt Nam, trước tiên, những tổ chức có tính chất xã hội

được nhà nước trực tiếp thành lập và chi phối trong phạm vi Mặt trận Tổ quốc, hầu hết

các thành viên của các tổ chức chính trị - xã hội (không thuộc XHDS) lại là thành viên

của các tổ chức XHDS khác, mục đích và cơ chế tổ chức, phương pháp hoạt động rất

gần gũi nhau vì thế nó có mối gắn bó mật thiết với XHDS. Hơn nữa, với việc các

thành viên đan xen ở các tổ chức xã hội khác nhau như vậy, đã cung cấp cho người

dân những cái nhìn đa chiều về nhiều vấn đề ở nhiều khía cạnh khác nhau, những cái

nhìn này có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau để đưa ra những ý kiến đúng đắn và phù hợp

nhất với lợi ích cộng đồng. Điều này có nghĩa là, ngay cả các tổ chức chính trị - xã hội

hay các tổ chức quần chúng khi bị chi phối bởi khía cạnh chính trị, ngân sách nhà nước

thì vẫn có chính kiến riêng và vẫn đưa ra những quy trình giám sát và hành động xã

hội một cách khách quan, đặt lợi ích của nhân dân lên trước hết. Sau đó, khi các chính

sách phát triển kinh tế - xã hội được ban hành, các nhóm dân sự nhỏ hình thành để bảo

vệ lợi ích chung và giúp đỡ lẫn nhau trong những vấn đề cá nhân của họ; kế đến là sự

hình thành các tổ chức dân sự có tính chất từ thiện, giúp đỡ những người có cuộc sống

kém may mắn; tất nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế đã xuất hiện các nhóm dân sự

cùng chia sẻ sở thích, chia sẻ quan tâm giống nhau về nhân sinh quan, thế giới quan,

nghề nghiệp, hay giúp người khác rèn luyện kỹ năng sống... Qua các tổ chức này,

quyền lợi của các nhóm công dân khác nhau được thực thi bằng cách đưa ra các

136

khuyến nghị, tác động đến điều kiện chính trị và quá trình soạn thảo chính sách nói

chung, tham gia dân chủ cơ sở, tư vấn, trợ giúp pháp lý, tham gia phòng chống tham

nhũng, thiết lập các cơ quan truyền thông, cung cấp ý kiến phản hồi về thủ tục hành

chính và nhiều hoạt động khác. Các tổ chức này chính là địa bàn hoạt động để người

dân tham gia nhiều hơn vào các vấn đề của xã hội, nói lên tiếng nói của họ và làm cho

tiếng nói của họ mạnh mẽ hơn. Đây chính là môi trường dân chủ để người dân có thể

tham gia vào quá trình vận hành của xã hội một cách công khai, minh bạch, và hiệu

quả. Đồng thời, quá trình này đã hiện thực hóa quyền làm chủ của người dân.

Thứ hai, trong các phong trào xã hội cụ thể, các tổ chức xã hội dân sự đã phát

huy vai trò của mình, góp phần mở rộng không gian hoạt động cho người dân.

Bản thân XHDS được tổ chức thông qua các hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp,

phi chính phủ, quần chúng, cộng đồng... do vậy, nơi đây cung cấp không gian dân chủ

rộng lớn cho người dân có thể tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mỗi tổ

chức, nhóm xã hội trong XHDS lại đại diện cho một nhóm lợi ích xã hội nhất định,

tham gia vào đó, các thành viên trong nhóm sẽ hoạt động vì quyền lợi của mình, thúc

đẩy các giá trị xã hội cộng đồng và qua đó nâng cao năng lực, phẩm chất của mỗi

người [45, tr.106-118].

Các hội này đã tập hợp một lực lượng xã hội rộng lớn, hoạt động theo nghề

nghiệp, quan tâm bảo vệ lợi ích hội viên, góp phần phát triển, quản lý xã hội. Tăng

cường giao lưu, trao đổi nghiệp vụ giữa các hội viên, tham mưu để xuất tư vấn giám

sát, phản biện chính sách, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao hội viên, cung ứng các dịch vụ

công theo các lĩnh vực mà họ đang hoạt động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân,

giảm bớt phiền hà cho nhân dân, lấy được sự đồng tình của người dân. Ví dụ Hội giáo

dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng, Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng cùng

tham gia đóng góp ý kiến, xây dựng các dự thảo pháp lệnh về Luật Bảo vệ quyền lợi

của người tiêu dùng, Luật Thương mại, cạnh tranh, Luật Bảo vệ sức khỏe, Luật Tiêu

chuẩn, quy chuẩn... đến nay, các luật này đã đi vào cuộc sống và góp phần hoàn thiện

chính sách về quyền con người ở Việt Nam. Hội bảo trợ tư pháp cho người nghèo là

một tổ chức xã hội nghề nghiệp làm công tác trợ giúp pháp lý trong cả nước, có vai trò

hỗ trợ, nâng cao năng lực cho các tổ chức thành viên, hội viên, cung cấp dịch vụ pháp

lý miễn phí, giảm phí, thực hiện chỉ định và góp phần xây dựng, phản biện các định

137

chế pháp lý [45, tr.131]. Ngoài ra, còn các hội như Hội làng nghề, Hội làm vườn, Hội

sinh vật cảnh, Hội an toàn vệ sinh lao động, hội y tế công cộng Việt Nam, hội bảo vệ

thiên nhiên và môi trường...đã và đang hoạt động rất tích cực trong lĩnh vực của mình

và bảo đảm các quyền cơ bản cho các thành viên của mình.

Các quỹ xã hội, các quỹ từ thiện cũng hoạt động rất sôi nổi. Các quỹ này khá đa

dạng về loại hình và quy mô. Nó có thể do các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, hiệp

hội doanh nghiệp hoặc cá nhân thành lập để góp phần cùng nhà nước giải quyết nhiều

vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, từ thiện, nhân đạo như quỹ

tấm lòng vàng, Toyota, Kova, quỹ hỗ trợ tài năng trẻ.

Một số tổ chức XHDS khác đã được các tổ chức XHDS quốc tế trao nhiệm vụ

giám sát thực hiện quyền con người ở cấp độ quốc gia. Một số chính sách đang được

thay đổi theo hướng phát huy lợi thế của tổ chức XHDS. Tiếng nói và ảnh hưởng của

các tổ chức này đến người dân ngày một rộng rãi hơn.

Thứ ba, với sự hoạt động ngày một chủ động, độc lập, mạnh mẽ và một hệ

thống thông tin ngày một đầy đủ hơn, các cá nhân, tổ chức xã hội dân sự đã tham gia

ngày càng nhiều hơn vào các công việc của xã hội, tạo nên các diễn đàn của công

chúng để thực hiện các quyền của mình.

Việc phát triển XHDS là để tạo ra một không gian xã hội tự do để người dân

tham gia và trao đổi ý kiến với nhau trên tinh thần dân chủ. Việc hình XHDS chính là

nhằm phát huy tự do ngôn luận, tự do tư tưởng cho người dân. Ở Việt Nam, chúng ta

đã có Luật Báo chí, Luật Xuất bản. Nhiều tờ báo, trang web, mạng xã hội đã góp phần

thúc đẩy phát triển không gian công cộng - một điểm chủ yếu trong không gian XHDS

thông qua các diễn đàn, các bài viết và tranh luận hết sức cởi mở, thẳng thắn về các

vấn đề nhạy cảm như chống tham nhũng, tiêu cực… Do vậy, các tổ chức XHDS với

mạng lưới liên kết rộng khắp của mình đã tạo ra các kênh thông tin độc lập nhằm cung

cấp thông tin đến các thành viên của mình một cách nhanh, chính xác, khách quan, từ

đó định hướng cho hành động của mỗi cá nhân trong xã hội. Khi người dân đã có

thông tin, họ sẽ tham gia một cách trực tiếp, hiệu quả hơn vào việc xây dựng chính

sách, giám sát, phản biện xã hội, vào việc thực hiện các quyền con người cơ bản của

mình. Đồng thời, với một môi trường dân chủ, năng động như vậy, các cá nhân, tổ

138

chức XHDS sẽ góp phần trực tiếp vào việc giáo dục, nâng cao nhận thức của của mỗi

người dân, giúp họ bảo vệ các quyền, lợi ích của mình.

Chứng minh cho điều này phải kể đến các diễn đàn của công chúng đang diễn ra

rất sôi nổi, thực tế, hiệu quả trong thời gian gần đây như diễn đàn KHXH của Viện Hàn

lâm KHXH Việt Nam, diễn đàn KHCN của Viện Hàn lâm KHCNVN, diễn đàn chính

sách...của các Bộ, Ban nghành khác; diễn đàn XHDS trên các trang web, mạng lưới các

tổ chức XHDS... Các diễn đàn này thể hiện ý thức về quyền lợi, trách nhiệm của người

dân đối với các vấn đề xã hội ngày càng cao và điều này cũng thể hiện môi trường xã

hội đang phát triển ở nước ta. Bằng nhiều cách khác nhau như viết đơn kiến nghị đến

những cá nhân, đơn vị có liên quan, sử dụng các mạng xã hội để bày tỏ ý kiến của mình,

hoặc viết thư gửi báo chí, ký đơn kiến nghị, tham dự diễu hành phản đối hoặc bàn luận

về các vấn đề chính trị xã hội của đất nước đang diễn ra, các diễn đàn này đã thu hút

được sự đồng tình của xã hội, từ đó tạo ra những luồng dư luận xã hội mạnh mẽ, gây áp

lực lên các nhà cầm quyền, các bên liên quan buộc họ phải thay đổi hành vi, hoặc điều

chỉnh chính sách cho phù hợp. Mới đây nhất, việc người dân Hà Nội tạo ra các diễn đàn

phản đối chính quyền chặt hạ 6700 cây xanh trên địa bàn thủ đô, trước những phản đối

này, Chính quyền Hà Nội đã ra quyết định dừng dự án chặt hạ cây xanh lại và xem xét,

điều tra, kỷ luật những người có liên quan. Hay, vụ việc Trung Quốc đặt giàn khoan HD

981 trái phép vào hải phận của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng đến chủ quyền đất

nước, đe dọa đến quyền được sống trong môi trường hòa bình, độc lập của người dân.

Mọi người dân Việt Nam, ở mọi lứa tuổi, tầng lớp đã có rất nhiều ý kiến bày tỏ sự bất

bình, phản đối hành động này của TQ. Còn các tổ chức XHDS đã ra một bản tuyên bố

chung về Biển Đông phản đối hành vi phá hoại hòa bình của Trung Quốc và kêu gọi

Trung Quốc ngay lập tức rút giàn khoan Hải Dương 891 và các phương tiện vũ trang ra

khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Ngoài ra, XHDS tạo nên không gian văn hóa thiện nguyện, vì cộng đồng phát

huy truyền thống tương thân tương ái của xã hội. Các hoạt động cộng đồng của các tổ

chức xã hội đã đi vào thực chất và được đẩy mạnh hơn. Ngày càng có nhiều người dân

tham gia vào các hoạt động xã hội từ thiện, tình nguyện, ủng hộ đồng bào gặp khó

khăn, bảo vệ môi trường... với nhiều đợt quyên góp, ủng hộ bằng cả vật chất, tinh thần

và sức lực. Gần đây, với sự khởi xướng của một vài cá nhân là thu mua dưa hấu ủng

139

hộ bà con Quảng Ngãi, chương trình “hành tím nghĩa tình” đã tạo ra sự ủng hộ rộng rãi

trong dư luận cả nước, ngay cả các tổ chức đoàn thể của nhà nước cũng vào cuộc để

giúp đỡ bà con nông dân. Biết rằng đây chỉ là giải pháp tạm thời, tình thế trong tình

cảnh bắt buộc nhưng nó cũng thể hiện tinh thần vì cộng đồng, đoàn kết xã hội của toàn

nhân dân ta và trở thành hành động đẹp của mọi người.

Hay, các tổ chức XHDS đã phối hợp với một số doanh nghiệp ở trong và ngoài

nước, cơ quan truyền thông tổ chức nhiều chương trình gây quỹ từ thiện và phục vụ

công tác xã hội như: chương trình “Xây dựng nhà đại đoàn kết” do Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam ở các cấp phát động và chỉ đạo thực hiện; chương trình như chương

trình “Trái tim cho em”, “Ước mơ Việt Nam”, “Nối vòng tay lớn”, “Công dân toàn

cầu”, “Quỹ Thiện Nhân và những người bạn” v.v.

4.2.1.2. Xã hội dân sự tham gia vào quá trình góp ý, xây dựng chính sách về quyền con người

Các cá nhân, tổ chức XHDS Việt Nam đang tiến hành hàng loạt các hoạt động

như sử dụng các quan hệ cá nhân, quan hệ với tổ chức, sử dụng các phương tiện truyền

thông như báo chí, mạng xã hội... và cộng đồng để tác động đến Nhà nước và dư luận

xã hội nhằm đạt được các mục tiêu về chính sách trong việc hoàn thiện môi trường

pháp lý bảo đảm các quyền cơ bản của con người. Bản thân kết quả của quá trình này

sẽ tạo ra một môi trường pháp lý đầy đủ, hoàn thiện hơn cho hoạt động của XHDS ở

Việt Nam nói riêng và cho việc thực hiện các quyền con người nói chung. Theo nghiên

cứu của TS. Joseph Hanna, ở Việt Nam, thời điểm năm 2004, nhà nước Việt Nam chỉ

cho phép các hoạt động góp ý để thực hiện tốt hơn các chính sách hiện có, và không

cho phép vận động thay đổi chính sách hoặc phê phán công khai các chính sách của

Nhà nước. Nhưng trên thực tế dần dần các giới hạn này đã thay đổi. Đến thời điểm

năm 2009, một số mạng lưới đã có thể tuyên bố công khai về vai trò của họ trong việc

“giám sát để bảo vệ quyền của những người bị chính sách ảnh hưởng”. Theo điều tra

của quỹ Asian Foundation, tính đến thời điểm năm 2008 có 32/76 tổ chức phi chính

phủ được điều tra tham gia vào lĩnh vực này. Đây là hoạt động không thể thiếu được

trong 3 nhiệm vụ chủ yếu của bất kỳ tổ chức VNGO nào, đó là: cung cấp dịch vụ, tăng

cường năng lực, xây dựng mạng lưới và vận động chính sách [90, tr.15].

Mới đây, Nhà nước đã công khai tổ chức lấy ý kiến góp ý của toàn dân về bản dự

thảo Hiến pháp năm 2013, sau 7 tháng tổ chức, Ủy ban Dự thảo Hiến pháp đã thu được

140

2634 triệu lượt ý kiến đóng góp trên cả nước và cả người Việt Nam ở nước ngoài, trong

đó có nhiều ý kiến từ phía các cá nhân, tổ chức thuộc XHDS Việt Nam như Nhóm công

tác vì sự tham gia của người dân (PPWG) và Nhóm hợp tác thúc đẩy quản trị và cải

cách hành chính công (GPAR) đã tổ chức hội thảo “Kiến nghị của các tổ chức XHDS

cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp” nhằm lấy ý kiến đóng góp và kiến nghị từ nhóm các tổ

chức XHDS (CSO) cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Hay tổ chức các buổi hội

thảo đối với các dự thảo luật mới, các buổi tư vấn về những vấn đề liên quan đến

quyền con người, nhằm tìm ra những điểm hạn chế trong các chính sách hiện tại và

đưa ra các khuyến nghị cho việc xây dựng các chính sách mới phù hợp hơn như Viện

ISEE (viện nghiên cứu kinh tế, xã hội và môi trường), PPWG (nhóm làm việc vì sự

tham gia của người dân), Tổ chức Oxfam tại Việt Nam, ACDC (tổ chức PCPVN hoạt

động trong lĩnh vực hỗ trợ người khuyết tật và người yếu thế trong cộng đồng), CDI

(trung tâm phát triển cộng đồng), CECEM (trung tâm nâng cao năng lực cộng đồng),

CEPEW (tổ chức hoạt động vì quyền phụ nữ) nhiều tổ chức phi chính phủ, nhiều hiệp

hội nghề nghiệp khác đã tham gia đóng góp ý kiến, tham gia vào quá trình xây dựng

pháp luật liên quan Luật về Hội, Luật Bình đẳng giới, Luật Tiếp cận thông tin và các

chương trình phát triển kinh tế – xã hội quốc gia… Đặc biệt như Trung ương Hội Luật

gia Việt Nam (VLA) đã trực tiếp tham gia soạn thảo, xây dựng pháp luật liên quan như

Luật trưng cầu dân ý, và Hội này đã họp phiên thứ 3 về Luật này. Đây là một

trong những dự luật hiếm hoi mà việc soạn thảo được giao cho một tổ chức xã hội

(thay vì một Bộ như thông thường). Đa phần nội dung của các góp ý về chính sách đều

tập trung nhấn mạnh đến quyền tự do thông tin, quyền bình đẳng trong việc tiếp cận

thông tin của người dân nhất là với những nhóm người yếu thế trong xã hội. Nhấn

mạnh đến sự tham gia, tăng cường tiếng nói của người dân vào quá trình hoạch định

chính sách trên cơ sở đối thoại với Ban soạn thảo luật, quốc hội, với truyền thông.

Bên cạnh đó, hàng loạt các cuộc vận động chính sách được tiến hành dưới

nhiều hình thức khác như báo cáo về tình hình thực thi các công ước quốc tế về quyền

con người cho các tổ chức nhân quyền quốc tế, ví dụ tổ chức CEPEW35 với lĩnh vực

34 Báo cáo Quốc gia về thực hiện quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế kiểm định kỳ phổ cập (UPR) chu kỳ II. 35 CEPEW là một tổ chức phi chính phủ hoạt động về quyền của phụ nữ, trực thuộc Hội khuyến khích và hỗ trợ giáo dục Việt Nam được thành lập theo quyết định số 137/QĐ - KHVN ngày 20/8/1997.

hoạt động tăng cường quyền cho phụ nữ và trẻ em gái cũng đã tham gia xây dựng và

141

trình bày báo cáo về việc thực hiện Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân

biệt đối xử với phụ nữ với Uỷ ban CEDAW của Liên hiệp quốc từ tháng 6/2006 tới

tháng 2 năm 2007. Như vậy là, ở điểm này, có thể thấy vai trò của XHDS trong việc

liên kết các thành phần khác nhau trong xã hội để xây dựng cơ chế chính sách minh

bạch, hiệu quả, vì người dân là rất quan trọng.

Ngoài sự tham gia tích cực của các tổ chức phi chính phủ vào quá trình góp ý,

xây dựng chính sách thì các hội, hiệp hội dân sự Việt Nam, mặc dù có mối quan hệ

chính trị rất mật thiết với nhà nước nhưng cũng đã có nhiều đóng góp cho quá trình

hoàn thiện chính sách về quyền con người để bảo vệ những quyền của nhóm mình

như: Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam thường xuyên có những ý kiến đóng góp,

phản biện đối với các chủ trương, chính sách, pháp luật, các chương trình, dự án liên

quan đến bảo vệ quyền trẻ em. Hội cứu trợ trẻ em tàn tật tham gia rất tích cực vào quá

trình góp ý cho dự thảo luật Người khuyết tật và kết quả là ngày 17.6.2010 Quốc hội

đã thông qua luật này là Luật số 51/2010/QH12. Đây là cơ sở pháp lý đảm bảo cho

quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật Việt Nam. Qua luật này Nhà nước khuyến

khích tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ, trợ giúp về tài chính, kỹ thuật để thực hiện hoạt

động chỉnh hình, phục hồi chức năng, chăm sóc, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm,

cung cấp dịch vụ khác trợ giúp người khuyết tật. Và các tổ chức XHDS từ khi có luật

này cũng đã tích cực hơn trong việc bảo đảm và thực hiện các quyền cho người khuyết

tật.

Với những hoạt động tích cực trên, phần nào các cá nhân và tổ chức XHDS

Việt Nam đã tạo nên kết quả tốt trong việc chính phủ Việt Nam tham gia ký kết, gia

nhập các công ước quốc tế về quyền con người. Hiện nay, ở góc độ quốc tế Việt Nam

đã ký kết 10 công ước quốc tế cơ bản về quyền con người36, còn ở góc độ quốc gia,

bản Hiến pháp mới được thông qua đã ghi nhận nhiều sự thay đổi, đặc biệt là trong

36 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; công ước về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 gia nhập năm 1982(24/9/1982). Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, 1948, Việt Nam gia nhập năm 1981; công ước về không áp dụng hạn chế luật định đối với tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại, 1968, Việt Nam gia nhập năm 1983; công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội ác A-pác-Thai 1973, Việt Nam gia nhập năm 1981; công ước quốc tế về loại trừ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Việt Nam gia nhập năm 1981; công ước về xóa bỏ tất cả hình thức phân biệt đối xử với phụ 3nữ, 1979, Việt Nam phê chuẩn năm 1982; công ước về quyền trẻ em, 1989, Việt Nam phê chuẩn năm 1990. Mới đây, Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn hai công ước… ngoài ra, Việt Nam còn là thành viên của nhiều điều ước quốc tế.

việc nhận thức và làm luật về quyền con người, vị trí, vai trò quan trọng của quyền con

142

người, khẳng định rõ hơn, cụ thể hơn về việc thực hiện quyền con người, việc bảo vệ,

bảo đảm quyền con người37.

Việc ban hành chính sách cũng có nhiều thay đổi, ngày càng có nhiều văn bản luật

được công khai lấy ý kiến của người dân, chính sách được đưa ra ngày càng gần gũi thiết

thực sát với tình hình thực tiễn và bảo đảm được tối đa quyền lợi của nhân dân. Đây chính

là tác động hai chiều, tạo ra cơ sở pháp lý mạnh mẽ hơn cho các cơ quan nhà nước, các cá

nhân, nhóm, tổ chức thuộc XHDS Việt Nam tham gia đóng góp ý kiến hoàn thiện hệ

thống pháp luật về quyền con người. Điều này đã cho thấy việc bảo đảm và thực thi các

quyền con người là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu ở Việt Nam hiện nay.

4.2.1.3. Vai trò của xã hội dân sự trong việc giám sát thực hiện quyền con người

Trong xã hội Việt Nam, chức năng giám sát nói chung thuộc về Quốc hội, Hội

đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, song, để có thể đảm nhiệm, bao quát hết

được việc giám sát việc thực hiện các chính sách ở tất cả các lĩnh vực, các địa phương

là rất khó. Do vậy, nó cần kết hợp với các thiết chế khác nhằm huy động sức mạnh của

toàn xã hội.

Ở một vị thế nào đó, các tổ chức XHDS tương đối độc lập, khách quan, hoạt

động vì lợi ích xã hội, cho nên nó đóng vai trò quan trọng trong công tác tư vấn, phản

biện và giám sát chính sách nói riêng và hệ thống chính trị nói chung. Đây là một cơ

chế đặc thù của XHDS trên thế giới trong việc thực hiện quyền con người và ở Việt

Nam không phải là ngoại lệ.

Hiện nay, các tổ chức XHDS ngày càng được chính phủ trao nhiều quyền hơn

trrong việc cung cấp các dịch vụ công, xây dựng hệ thống pháp luật và giám sát việc

thực hiện các tiến trình phát triển của xã hội, trong đó có việc thực hiện quyền con

37 Cụ thể, chuyển chương V “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” ở Hiến pháp năm 1992 lên chương II bản Hiến pháp với tên gọi mới “quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Việc thêm cụm từ “quyền con người” trong bản Hiến pháp không chỉ là việc thay đổi từ ngữ đơn thuần mà nó là sự mở rộng hơn về mặt phạm vi bảo vệ, thực hiện quyền cho mọi người nói chung chứ không phải chỉ công dân có quốc tịch Việt Nam và hơn nữa nó cũng khẳng định quyền con người được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo vệ theo Công ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Mọi hoạt động của Nhà nước đều lấy quyền con người, quyền công dân làm cơ sở, làm trung tâm. Điều 28, Hiến pháp năm 2013 quy định công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Quyền này, cùng với các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin nêu ở Điều 25 là cơ sở hiến định trực tiếp mà qua đó mọi tổ chức xã hội và người dân có thể tham gia đóng góp ý kiến vào tiến trình soạn thảo các văn bản pháp luật.

người. Chính phủ và Nhà nước Việt Nam đã ban hành một số luật và quyết định nhằm

143

tạo điều kiện cho các tổ chức phi chính phủ và XHDS cùng tham gia vào các vấn đề

phát triển và xã hội. Một trong số đó là Pháp lệnh Dân chủ Cơ sở được Quốc Hội

thông qua vào năm 2007. Đây là một bước tiến trong việc nâng cao khung pháp lý đối

với sự tham gia của nhân dân vào sự phát triển ở cấp cơ sở. Từ đây, hoạt động giám

sát của các tổ chức cộng đồng, tổ chức nhân dân, cá nhân, tổ chức xã hội khác đã được

đẩy mạnh hơn. Cụ thể vai trò này được thể hiện như sau:

Thứ nhất, xã hội dân sự giám sát quá trình hiện thực hóa các cam kết quốc tế về

quyền con người và xây dựng các cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người.

Liên quan đến việc hiện thực hóa các cam kết bảo vệ quyền con người ở Việt

Nam, bên cạnh sự nỗ lực của các cơ quan, tổ chức chính phủ thì các tổ chức XHDS,

nhất là các tổ chức phi chính phủ trong nước, quốc tế cũng giữ vai trò quan trọng trong

quá trình này, đặc biệt là trong việc hiện thực hóa các quyền của những nhóm khác

nhau, điển hình là những nhóm chịu thiệt thòi trong xã hội như nhóm người dân tộc

thiểu số, người khuyết tật, người đồng tính, song tính và chuyển giới, người có HIV....

Còn ở phạm vi quốc tế, các tổ chức XHDS đang ngày một chủ động hơn khi

tham dự vào tiến trình UPR nhằm bảo vệ một cách mạnh mẽ quyền con người của

những nhóm đối tượng mà mình đang làm việc. Cụ thể, năm 2009, có 12 tổ chức

XHDS như Liên đoàn Luật sư Dân chủ, Hội đồng Hòa bình thế giới, Hội người đồng

tính nam và đồng tính nữ quốc tế… nộp báo cáo tới Liên Hợp quốc cho việc kiểm

điểm Việt Nam, trong đó không có tổ chức trong nước. Năm 2014, con số tăng lên 59

báo cáo, trong đó có 20 báo cáo được gửi từ các NGOs trong nước như ISEE,

CEPEW, Diễn đàn XHDS… các báo cáo này đã phản ánh khá trung thực tình trạng

nhân quyền ở Việt Nam cả những thành tựu, hạn chế, khó khăn. Đây cũng là một trong

những căn cứ để HĐNQLHQ đánh giá về tình hình thực hiện quyền con người Việt

Nam theo các công ước quốc tế về quyền con người. Quá trình này đã cho thấy các tổ

chức XHDS Việt Nam đang bắt đầu quan tâm nhiều hơn và coi cơ chế UPR là một

trong những công cụ quan trọng để cải thiện tình hình nhân quyền trong nước [206],

đồng thời, thể hiện sự chủ động hợp tác, trao đổi giữa các tổ chức với nhau cũng như

giữa các NGOs với các bên liên quan và với chính phủ.

Bên cạnh các báo cáo chính thức gửi lên các ủy ban giám sát của HĐNQ quốc

tế thì các cá nhân, tổ chức XHDS cũng đã có nhiều phát biểu quan trọng thể hiện sự

144

theo dõi sát sao của họ trong quá trình thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Trong

phiên họp thứ 26 của Hội đồng Nhân quyền LHQ thông qua báo cáo UPR của Việt

Nam, ngày 20/6/2014, đại diện của Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường

(ISEE) một tổ chức phi chính phủ Việt Nam và Hiệp hội Đồng tính Quốc tế (ILGA)

làm việc về quyền con người của người đồng tính, song tính và chuyển giới (“LGBT”)

tại Việt Nam đã phát biểu ghi nhận sự nỗ lực từ phía chính phủ Việt Nam đã có những

bước đi tích cực về bảo vệ quyền của người LGBT và trong việc thực hiện khuyến

nghị của Chilê về việc “ban hành một đạo luật chống lại sự phân biệt đối xử, để đảm

bảo quyền bình đẳng của mọi công dân, không phân biệt xu hướng tính dục hay bản

dạng giới của họ”. Nhưng đồng thời, phát biểu này cũng đề nghị chính phủ Việt Nam

tiếp tục thực thi nguyên tắc không phân biệt đối xử được quy định trong Hiến pháp

mới bằng những đạo luật liên quan và những biện pháp thi hành rõ ràng hơn nữa…đề

nghị chính phủ Việt Nam ủng hộ và đề xuất các sáng kiến tại Hội đồng Nhân quyền

liên quan tới quyền của nhóm người trên [208].

Ngoài ra, việc xây dựng các cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người cũng là

cơ sở để nâng cao vai trò giám sát của XHDS trong việc thực hiện quyền con người.

Điều này thể hiện ở chỗ các tổ chức XHDS của Việt Nam ngày càng tích cực và chủ

động bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong nước và tham gia vào những hoạt

động giao lưu, kết nối với XHDS của các nước trong khu vực như cử đại diện tham dự

các cuộc họp của Diễn đàn Nhân dân ASEAN; tham gia tích cực vào những diễn đàn

khu vực tổ chức tại Việt Nam hay tại các nước láng giềng như Hội thảo Tham vấn quốc

gia về Ủy ban liên chính phủ Asean về nhân quyền (AICHR), nhiều NGOs Việt Nam hoạt

động trên các lĩnh vực bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình, phát triển bền vững,

phát triển nông thôn đã bước đầu có những đóng góp tại các diễn đàn khu vực.

Hay Việt Nam trong quá trình thực thi các công ước về nhân quyền quốc tế phải

thực hiện các khuyến nghị của các nước về nhân quyền ở Việt Nam. Để thực thi nhiệm

vụ này, nhà nước sẽ là chủ thể chính, song các tổ chức XHDS cũng giữ một vai trò

quan trọng. Mới đây, trong kỳ kiểm điểm nhân quyền UPR vòng 2 năm 2014, chính

38 Ở kỳ họp năm nay, phiên đối thoại của Việt Nam nhận được sự tham gia của 106 quốc gia, một con số kỷ lục, thể hiện sự quan tâm của các quốc gia với tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Số kiến nghị nhận được cũng

phủ Việt Nam đã đồng ý thông qua 182 khuyến nghị38. Trong đó, có khuyến nghị của

145

Ireland đó là: Tạo điều kiện cho sự phát triển một môi trường an toàn và thuận lợi cho

tất cả các tác nhân XHDS để tự do hiệp hội và biểu đạt quan điểm của họ, bằng các

quy định pháp lý trong nước không được sử dụng để bóp nghẹt những bất đồng hòa

bình và chính đáng. Chính phủ đã đồng ý với khuyến nghị này, đồng thời thông qua

khuyến nghị về việc“dành không gian cho truyền thông phi nhà nước, và làm cho các

điều 79, 88 và 258 của Luật hình sự cụ thể hơn và nhất quán với các nghĩa vụ nhân

quyền quốc tế về tự do biểu đạt” [khuyến nghị 143.156 của Úc]. Khuyến nghị này nếu

được thực hiện sẽ là cơ sở pháp lý cho những người hoạt động quyền con người hiện

nay được bảo vệ, đồng thời điều này nhất quán với nghĩa vụ của Việt Nam về các

quyền Dân sự và Chính trị. Ngoài ra, các khuyến nghị liên quan đến tự do biểu đạt, đặc

biệt trên báo chí và internet, tự do lập hội, tự do hội họp, biểu tình ( KN143, 145, 147,

165) cũng được chính phủ đồng ý. Riêng với các tổ chức phi chính phủ và các nhà

hoạt động nhân quyền chính phủ Việt Nam đã chấp nhận một số khuyến nghị liên quan

trực tiếp đến việc thành lập và hoạt động của họ, như khuyến nghị của Na Uy, Tây

Ban Nha kêu gọi chính phủ Việt Nam công nhận tính chính danh của các tổ chức

XHDS trong việc thúc đẩy nhân quyền và biểu đạt quan điểm một cách công khai

[208]. Việc chấp nhận các khuyến nghị này cũng nằm trong chương trình làm luật của

Quốc hội Việt Nam khi các Luật về hội, Luật tiếp cận thông tin, và Luật biểu tình đã

được đưa vào chương trình chính thức của Quốc hội trong các năm 2014-2016.

Như vậy, có thể thấy rằng, việc chấp nhận các khuyến nghị nêu trên là bước tiến

lớn, nỗ lực lớn trong cam kết bảo vệ, thực hiện quyền con người của chính phủ Việt

Nam. Với cam kết thực hiện khuyến nghị này, chính quyền đã phần nào thừa nhận vai

trò của XHDS và mở ra cơ hội cho việc hợp tác, tham gia của các tác nhân XHDS với

chính phủ trong việc thực hiện, bảo đảm quyền con người. Nhưng để có thể thực hiện

quyền con người một cách tốt nhất thì các tổ chức XHDS cần thúc đẩy trao đổi, hợp tác

với nhau, với các bên liên quan và đặc biệt là với các cơ quan nhà nước. Đồng thời, cần

đẩy mạnh công tác giám sát việc chính phủ thực hiện đầy đủ các cam kết, vận động

chính quyền xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia nhằm tạo điều kiện tối đa cho việc

tăngtừ 146 khuyến nghị vào năm 2009 lên 227 khuyến nghị, trong đó số khuyến nghị được Việt Nam chấp thuận là 46 khuyến nghị vào năm 2009 và 182 khuyến nghị vào năm 2014.

bảo vệ quyền con người.

146

Thứ hai, xã hội dân sự giám sát việc thực hiện quyền con người được phản ánh

qua việc các cá nhân, tổ chức XHDS tham gia giám sát các hoạt động của chính phủ,

doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ quyền, lợi ích của người dân, của cộng đồng,

chống tham nhũng.

Theo đánh giá của ngân hàng thế giới, XHDS ở Việt Nam chia làm hai nhóm rõ

rệt, một nhóm có những liên hệ lâu đời với nhà nước và thực hiện những trách nhiệm

gần như chính thức. Phạm vi để các tổ chức XHDS đóng vai trò giám sát chủ yếu phụ

thuộc vào hình thức hoạt động của tổ chức quần chúng. Các tổ chức này với thế mạnh

là lực lượng đông, có mặt ở mọi nơi, dễ dàng tập hợp, tài chính mạnh từ ngân sách nhà

nước, nhưng sự giám sát của họ là khá hạn chế vì mối quan hệ gần gũi với chính

quyền và chịu sự chi phối của ngân sách nhà nước. Còn với các tổ chức ở địa phương

thì tính chủ động, độc lập của họ ngày càng được thể hiện họ nhận được nhiều vốn từ

các nhà tài trợ nước ngoài, từ các NGO quốc tế nên sự phụ thuộc ít đi. Ngoài ra, các tổ

chức dựa vào cộng đồng (CBO), các ban thanh tra nhân dân và ban đầu tư cộng đồng

cũng là những nhóm tổ chức XHDS có vai trò giám sát. Tuy nhiên, hai loại hình CBO

này còn khá mới và chưa được phát triển đầy đủ tiềm năng [221]. Nhóm còn lại bao

gồm các tổ chức XHDS mới xuất hiện. Các tổ chức xã hội dân mới này có vị thế khá

độc lập về quản lý, về tài chính, dẫn đến vai trò giám sát khá độc lập và có hiệu quả.

Ví dụ, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Đây là các hội xã

hội nghề nghiệp hoạt động trên nguyên tắc tự chủ, tự quản, tự trang trải kinh phí trong

các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, bảo

vệ môi trường sông, suối, chống nhiễm mặn, chống sa mạc hóa, ứng phó với biến đổi

khí hậu, giáo dục và đào tạo, y - dược học... Trong quá trình hoạt động của mình, hiệp

hội này đã rất tích cực phát huy trí tuệ, quyền làm chủ của mình đối với việc giám sát,

phản biện các vấn đề lớn của đất nước như: Dự án boxit Tây Nguyên, dự án Thủy điện

Sơn La, dự án kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè… Song, cũng cần phải nhận thấy rằng công

tác này mới chỉ là bề nổi chưa thực sự đạt được kết quả cao, tương xứng với tiềm năng

sẵn có của VUSTA trong sự phát triển chung của xã hội.

Bên cạnh đó, khi Việt Nam gia nhập các tổ chức thương mại quốc tế, các doanh

nghiệp phải tuân thủ nhiều bộ tiêu chuẩn chất lượng quốc tế về vệ sinh an toàn lao động,

tiền lương, giờ lao động, môi trường làm việc, các thỏa ước tập thể,v.v.. việc thực hiện

147

những tiêu chuẩn này đã trực tiếp đảm bảo quyền của người lao động, gián tiếp đáp ứng

được các chuẩn về nhân quyền chung trên thế giới. Do đó, nhiều tổ chức XHDS Việt Nam

cũng đã có nhiều nghiên cứu, giám sát, tăng cường, thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn

này vào trong hoạt động của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho các quyền của người

lao động được đảm bảo trên thực tiễn. Đây chính là việc thực hiện trách nhiệm xã hội

trong kinh doanh và ở khía cạnh này các tổ chức XHDS đang đóng vai trò khá quan trọng.

Cùng với các tổ chức XHDS, truyền thông, báo chí cũng là một công cụ của

XHDS khi tham gia vào quá trình giám sát các vấn đề xã hội. Việc trao quyền cho báo

chí đồng nghĩa với việc coi báo chí là một đồng minh trong việc thúc đẩy các

mục tiêu xã hội. Hiện nay, theo thống kê của Bộ Thông tin và truyền thông, đến ngày

25/12/2014, cả nước có 838 cơ quan báo chí in với 1.111 ấn phẩm báo chí (trong đó

các cơ quan Trung ương có 86 báo in và 507 tạp chí; địa phương có 113 báo in và 132

tạp chí); 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương; trong đó có 02 đài

quốc gia, 01 đài truyền hình kỹ thuật số, 64 đài phát thanh, truyền hình địa phương; 90

báo và tạp chí điện tử, 215 trang tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí. Hiện cả

nước có 180 kênh phát thanh, truyền hình quảng bá; tổng số kênh truyền hình nước

ngoài được cấp phép là 40 kênh; cả nước có 05 đơn vị phát sóng truyền hình số mặt đất

và 03 nhà cung cấp dịch vụ truyền hình vệ tinh; 27 nhà cung cấp dịch vụ truyền hình cáp

[214]. Trong đó, có 500 báo, tạp chí là ấn phẩm các hội (chiếm hơn 50% báo, tạp chí

của cả nước). Đây là cơ quan ngôn luận của các hội, là diễn đàn của nhân dân, phản ánh

ý chí và nguyện vọng, tiêu chí trong lĩnh vực mình hoạt động, phổ biến kiến thức ra xã

hội.

Với hệ thống báo chí, truyền thông mạnh như trên, nhiều vấn đề nổi cộm như

bảo vệ quyền sở hữu đất đai của người dân, điều kiện làm việc, an sinh xã hội, các vấn

đề kinh tế xã hội, tham nhũng, ô nhiễm môi trường, v.v.. đã được phản ánh và thể hiện

được chính kiến, nguyện vọng, ý chí của các tầng lớp nhân dân, tạo thành dư luận tác

động đến sự vận hành của xã hội. Từ đó, tiếp sức cho sự phán đoán của công chúng

bằng những thông tin chân thực và kịp thời, khơi dậy ý thức công dân trong mỗi độc

giả, cổ vũ họ góp phần đấu tranh cho chân lý.

Đặc biệt, trong lĩnh vực chống tham nhũng, cùng với các phương tiện thông tin

đại chúng, người dân đã ngày càng phản ứng mạnh mẽ hơn và có nhiều hành động cụ

148

thể để đẩy lùi hiện tượng này. Theo báo cáo của Dự án chống tham nhũng của Ban Nội

chính Trung ương, trong số khoảng 5% các vụ tham nhũng được phát hiện, hơn 90% là

do báo chí và người dân phát hiện, tố cáo, trong đó có cả những vụ tham nhũng liên

quan đến những dự án đầu tư lớn từ ngân sách nhà nước hay từ nguồn vốn ODA như

PMU 18, Đường dây 500kv, nhà máy thủy điện Hòa Bình…đặc biệt là những vụ tham

nhũng từ đất đai ở địa phương [27, tr.143] có thể kể đến trường hợp dân chúng ở

huyện Thái Bình bất mãn trước hiện tượng tham nhũng của quan chức địa phương

trong các dự án đầu tư xây dựng cơ bản và đất đai và cách hành xử không đúng mực

của một số cán bộ trước đơn, thư khiếu nại của người dân đã tiến hành các hoạt động

biểu tình, đình công và có một số hành động bạo lực chống hành vi cửa quyền trên. Từ

đây, nhà nước đã phải xem xét lại chính sách của mình với dân chúng trong các vấn đề

xã hội và thay đổi mối quan hệ này, từ đó, nghị định dân chủ cơ sở ra đời, đưa vai trò

của người dân về đúng vị trí là chủ của quyền lực nhà nước, nâng cao vai trò kiểm tra,

giám sát của nhân dân trong các hoạt động xã hội. Và còn nhiều các ví dụ khác nữa để

dẫn chứng cho điều này. Rõ ràng là chúng ta đã thấy được, mặc dù còn nhiều thách

thức trong khi tiến hành chống tham nhũng, nhưng người dân, các phương tiện truyền

thông đã sẵn sàng tham gia vào cuộc chiến này nhằm tạo dưng một môi trường chính

sách minh bạch để thực hiện quyền của chính mình.

4.2.1.4. Xã hội dân sự đẩy mạnh quá trình cải biến nhận thức và hành động của người

dân trong việc thực hiện quyền con người

Việc thực hiện quyền con người chỉ có hiệu quả khi bản thân mỗi người có đầy

đủ tri thức về quyền con người để từ đó họ có tình cảm, lòng tin với việc tôn trọng các

quyền và hình thành động cơ, hành vi, thói quen xử sự hợp pháp, tích cực đảm bảo và

thực hiện các quyền của mình. Do vậy, việc đẩy mạnh quá trình giáo dục quyền con

người là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cần thiết trong việc cải biến nhận thức và

hành động của người dân trong việc thực hiện quyền con người và đảm bảo quá trình

sinh sống và phát triển của con người. Ở Việt Nam, việc giáo dục về quyền con người

là nhằm củng cố nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố cho mục tiêu dân giàu, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh, và hướng tới định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao ý thức, trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi

người, nâng cao tinh thần nhân dân, tính công dân của mỗi người để từng bước xây

149

dựng một xã hội cộng đồng, đoàn kết, văn minh và phát triển. Hạn chế các vi phạm

quyền con người của nhau, hạn chế các hành vi đi ngược lại với phẩm chất, nhân cách

của con người. Bên cạnh đó, việc giáo dục quyền con người ở Việt Nam cũng dựa trên

sự tôn trọng các công ước quốc tế về quyền con người. Điều này đồng thời làm mở

rộng hơn cơ hội hợp tác giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới trong quá trình

toàn cầu hóa, bên cạnh các chiến lược hợp tác về kinh tế, xã hội khác.

Quá trình giáo dục về quyền con người ở Việt Nam được tiến hành với các

phương thức khác nhau, có thể được kết hợp với quá trình vận động chính sách, xây

dựng và hoàn thiện pháp luật khi tiến hành các dự án, chương trình xã hội nhằm nâng

cao các kỹ năng thực tế thực hiện các quyền con người, hoặc, giáo dục kiến thức về

quyền con người trong các cấp học, bậc học... Quá trình này do nhiều chủ thể đảm

trách, trong đó có các cá nhân, tổ chức thuộc XHDS.

Thứ nhất, các cá nhân, tổ chức XHDS, với thế mạnh là các hoạt động vì cộng

đồng nên vai trò cải biến nhận thức và hành động của người dân trong việc thực hiện

quyền con người được thể hiện chủ yếu thông qua các buổi tọa đàm, diễn đàn, các

chương trình, dự án xã hội cải thiện sinh kế nhằm tạo điều kiện vật chất cho người dân,

nâng cao các kỹ năng thực tế thực hiện quyền của mình, thông qua đó các kiến thức cơ

bản về quyền con người cũng được phổ biến đến người dân. Cụ thể, mới đây, tháng

3/2015, tổ chức DREDF (Quỹ Bảo vệ và Giáo dục Quyền của người khuyết tật),

MIUSA (tổ chức vận động quốc tế Hoa Kỳ), IFES (Quỹ quốc tế về hệ thống bầu cử

Hoa Kỳ), USICD (Hội đồng Quốc tế về người khuyết tật) và Trung tâm hành động vì

sự phát triển cộng đồng - ACDC đồng tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy cộng đồng: Tăng

cường quyền cho người khuyết tật” nhằm đánh giá thực trạng thực thi quyền của người

khuyết tật sau khi Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật được phê chuẩn tại

Việt Nam và chia sẻ kỹ năng, công cụ, kinh nghiệm và tài liệu hỗ trợ nâng cao năng

lực cho Hội/nhóm/tổ chức của hoặc vì người khuyết tật Việt Nam trong tương lai. Hay,

Trung tâm nghiên cứu và phát triển năng lực phụ nữ dân tộc (TEW) đã hực hiện dự

án“Góp phần cải thiện điều kiện vật chất và tinh thần của người dân xã Quan Thần

Sán”, huyện Simacai, Lào Cai, tập trung vào các lĩnh vực về nước sạch và vệ sinh môi

trường; tiết kiệm tín dụng và chăn nuôi thú y; thuốc nam; quản lý bảo vệ rừng, thông

qua xây dựng vườn ươm và trồng cây thảo quả. Dự án đã bước đầu làm thay đổi diện

150

mạo đời sống của bà con nơi đây và tạo ra nhiều cơ hội hơn cho họ hội nhập với cộng

đồng các dân tộc khác. Hiện nay, đã và đang có rất nhiều dự án như thế này diễn ra trên

cả nước giúp thay đổi đời sống của bà con và làm cho quá trình thực hiện các quyền

kinh tế, văn hóa, xã hội được đảm bảo hơn.

Thứ hai, các tổ chức XHDS còn mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về

quyền con người cho các đối tượng khác nhau từ cán bộ dự án, cán bộ địa phương, cán

bộ các ngành liên quan đến bà con nhân dân, nhằm nâng cao nhận thức của mọi người

về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trước các vấn đề xã hội, cộng đồng, nâng

cao tính tự chủ của người dân trong các hoạt động chung. Ví dụ, Trung tâm ACDC đã

tiến hành nhiều hoạt động tư vấn pháp lý cho người khuyết tật ở nhiều tỉnh thành của

Việt Nam; Trung tâm phát triển và hội nhập (CDI) kết hợp với quỹ hỗ trợ các sáng

kiến tư pháp (JIFF)39 đã triển khai nhiều hoạt tư vấn pháp lý, tập huấn về quyền con

người, đặc biệt là quyền của trẻ em, quyền của phụ nữ cho các lao động nữ ở các khu

công nghiệp; trợ giúp pháp lý cho đối tượng nguy cơ và nạn nhân bị buôn bán người,

thúc đẩy và bảo vệ quyền của công nhân nhập cư tại các khu công nghiệp phía Bắc

Việt Nam. Hay, như tổ chức CEPEW với hàng loạt chương trình nâng cao nhận thức

giới cho lãnh đạo nam và nữ cấp huyện ở nhiều tỉnh thành trong cả nước như Hà Tây,

Ninh Bình, Quảng Ninh, Phú Thọ, Quảng Bình, Nam Định, Đăk Nông, Trà Vinh, Sóc

Trăng, Bắc Kạn, Nam Định, Bắc Giang,v.v.. từ năm 1999 tới nay, đã tạo ra những hiệu

ứng xã hội to lớn góp phần nâng cao nhận thức của giới lãnh đạo trong việc bình đẳng

giới và đảm bảo quyền lợi của các giới. Từ đó, dẫn đến trách nhiệm xã hội của người

dân tăng lên, sự tham gia với các hoạt động dân chủ ngày một nhiều hơn. Ngoài ra, còn

các hoạt động như tập huấn nâng cao sức khỏe sinh sản cho phụ nữ, trẻ em gái ở nhiều

địa phương, nhằm trang bị những kiến thức cần thiết cho việc sinh sống và bảo vệ

quyền lợi của mình cũng được rất nhiều các tổ chức phi chính phủ Việt Nam tiến hành.

Kết quả của quá trình này đó chính là các tổ chức quốc tế đã đánh giá cao việc

39 Đây là chương trình hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Đan Mạch, Chính phủ Thụy Điển và Ủy ban châu Âu nhằm hỗ trợ chương trình cải cách tư pháp tại Việt Nam, nhằm tăng cường năng lực của các tổ chức ngoài nhà nước góp phần nâng cao nhận thức về các quyền cơ bản, tiếp cận công lý và cải cách tư pháp. http://jpp-jiff.org.vn/.

thực thi các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội nước ta và được ghi nhận là một trong

151

những quốc gia đi đầu về xóa đói giảm nghèo40. Mới đây nhất, chúng ta đã được bầu

vào Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu cao

nhất trong số các thành viên trúng cử.

Song, bên cạnh những tác động tích cực trong quá trình thực hiện quyền con

người ở nước ta thì các tổ chức XHDS cũng gặp phải những hạn chế, khó khăn và

thách thức không nhỏ khi tham gia quá trình này.

4.2.2. Những vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của xã hội dân sự đối với việc

thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay

Như trên chúng ta đã phân tích với những đặc điểm, và những vấn đề phát sinh

trong quá trình phát huy vai trò của XHDS Việt Nam đối với việc thực hiện quyền con

người, có thể chỉ ra một số hạn chế nhất định của XHDS Việt Nam về nhận thức,

nguồn lực hoạt động và cơ cấu, đặc điểm tổ chức vận hành v.v.. Những vấn đề này đã

dẫn đến những khó khăn không nhỏ khi thực hiện vai trò của của XHDS Việt Nam đối

với quá trình phát triển nói chung và thực hiện quyền con người nói riêng.

4.2.2.1. Những vấn đề về mặt nhận thức

Một là, hiện chưa có sự đồng thuận trong quan điểm về XHDS ở Việt Nam.

Mặc dù các tổ chức XHDS Việt Nam đang hoạt động khá mạnh mẽ trên nhiều lĩnh

vực, nhất là phát huy các điều kiện thực hiện, bảo đảm quyền con người, nhưng, các

quan điểm chính thức về XHDS hiện chưa rõ ràng, ngay cả việc tranh luận trên các

diễn đàn, tọa đàm, hội thảo, trên các phương tiện truyền thông, báo chí cũng chưa

thống nhất được về nội hàm của khái niệm này cũng như ý nghĩa của nó đối với sự

phát triển của xã hội Việt Nam. Đồng thời, chưa có sự nhận thức nhất quán giữa cơ

quan nhà nước và giới nghiên cứu về vấn đề này. Vì thế, các quy chế pháp lý, các cơ

chế phối hợp hoạt động giữa nhà nước Việt Nam và các tổ chức dân sự của nước

ngoài, cũng như trong nước về các vấn đề xã hội nói chung và thực hiện quyền con

người nói riêng là chưa có. Điều này dẫn đến việc một số cơ quan còn e ngại XHDS và

tránh hợp tác với các tổ chức của nó, nhất là các tổ chức phi chính phủ, gây ra những

đánh giá khác nhau về XHDS và làm hạn chế vai trò của hình thức tổ chức này lên đời

sống xã hội. 40 Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo quốc gia) trên toàn quốc từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,82% năm 2007, 7,8% năm 2013 và giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên đạt mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo, trở thành tấm gương cho nhiều nước học hỏi kinh nghiệm.

152

Hai là, chưa có sự thống nhất về điểm gặp nhau giữa tiêu chuẩn tình hình thực

hiện nhân quyền của quốc tế và Việt Nam, tức là chưa có sự thống nhất giữa cái phổ

biến và cái đặc thù. Dẫn đến những đánh giá rất khác nhau về tình hình thực hiện

quyền con người ở nước ta. Ví dụ trong quá trình giám sát các khuyến nghị của LHQ

về việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam, nhiều tổ chức đã ghi nhận những nỗ

lực của chính phủ Việt Nam, nhưng nhóm khác thì cho rằng, chưa có tiến triển gì sau

khi Việt Nam chấp nhận 182 khuyến nghị cần thực hiện quyền con người. Nhóm phản

đối gồm một số thành viên của tổ chức Diễn đàn XHDS Việt Nam, hoặc một số người

Việt Nam ở hải ngoại, một số nhà hoạt động nhân quyền cho rằng Việt Nam là thành

viên của HĐNQLHQ, nhưng lại không tôn trọng, hạn chế và vi phạm các quyền, nhất

là các quyền tự do lập hội, tự do ngôn luận. Một số tổ chức khác lại có ý kiến là đang

có sự phân biệt trên thực tế giữa trẻ em của các nhóm xã hội khác nhau, do việc triển

khai các chính sách kinh tế - xã hội không được thành công. Điều này cũng là khá dễ

hiểu, bởi ngay trong XHDS, mặc dù lấy mục tiêu là hoạt động vì cộng đồng, nhưng sự

chi phối về lợi ích của những người điều hành tổ chức là khá lớn, bên cạnh đó là tính

định kiến và dựa trên các thông tin không chính xác và do chưa có một hệ thống pháp lý

thống nhất điều chỉnh hành vi hoạt động của những tổ chức này, nên việc mâu thuẫn

trong quan điểm đánh giá là hoàn toàn có khả năng và cũng là một cơ chế đối chiều để

các bên kể cả nhà nước, XHDS, nhân dân xem xét và điều chỉnh các hành vi thực hiện

quyền con người của mình phù hợp hơn với các giá trị quyền con người đã được quy

định trong các công ước quốc tế trên toàn thế giới và phù hợp với điều kiện kinh tế,

chính trị, xã hội của mỗi quốc gia.

Ba là, tầm quan trọng của quyền con người chưa được nhận thức, quan tâm đầy

đủ ở một số cấp, ngành, quan chức, cán bộ chính sách, người dân. Điều này dẫn đến

việc chưa có các tổ chức chuyên nghiệp của nhà nước Việt Nam đứng ra làm các công

việc với các tổ chức dân sự quốc tế, chưa có cơ quan bảo vệ nhân quyền quốc gia, mà

mới có rất ít các tổ chức có đủ vị trí, vai trò và tiềm lực làm công tác này, đa số là một

số tổ chức được tài trợ bởi các tổ chức phi chính phủ quốc tế, hoặc các tổ chức nhân

quyền quốc tế trực tiếp có đánh giá về tình hình nhân quyền ở Việt Nam nên nhiều khi

kết quả đưa ra chưa phản ánh được thực tế, và còn chịu ảnh hưởng bởi các tiêu chuẩn

phương Tây, gây ra các mâu thuẫn trong việc giải quyết vấn đề quyền con người ở

153

Việt Nam và các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, việc giải quyết một số vấn đề dân

chủ chưa phù hợp với các chính sách nói chung, hệ thống cơ sở kinh tế - xã hội yếu, hệ

thống pháp lý chưa hoàn thiện và các cơ quan cũng như một số các quan chức bị tha

hóa, v.v.. cũng dẫn đến việc, một số nước trên thế giới không thực sự hiểu rõ về tình

hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam đã phê phán về việc thực hiện nhân quyền ở

nước ta, cho rằng chúng ta vi phạm trầm trọng những quyền cơ bản của con người,

như mới đây ngày 11/9/2012, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu thông qua Dự luật Nhân quyền

Việt Nam 2012 H.R.1410 và Nghị quyết H.Res.484 “kêu gọi Chính phủ Việt Nam tôn

trọng nhân quyền”. Về bản chất, đây là một dự luật sai trái, đã dựa trên những thông

tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình thực thi quyền con người tại Việt Nam,

không phù hợp với xu hướng phát triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ” [204].

Nhưng qua đó, cần phải nhận thức rõ hơn về những hạn chế trong việc thực hiện các

quyền con người ở nước ta.

4.2.2.2. Những vấn đề về nguồn lực

Một là, về hệ thống pháp lý, chúng ta hiện chưa có văn bản nào quy định trực

tiếp về vai trò, chức năng của XHDS. Những văn bản như nghị định 45, Nghị định 88

về hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, các pháp lệnh dân chủ cơ sở, các quy định

về việc thành lập các tổ chức nông thôn.v.v.. mặc dù có gián tiếp quy định đến nguyên

tắc hoạt động, tổ chức của XHDS song chưa đầy đủ và chưa thể phát huy hết vai trò

của yếu tố này trong xã hội. Bên cạnh đó, ở nhiều vấn đề, lĩnh vực do chưa có các luật

liên quan đến các quyền tự do như luật tiếp cận thông tin, luật về hội (dù luật này đã

được thảo luận trong 15 năm, đến nay vẫn chưa có kết luận), chưa có một không gian

XHDS thật sự, do vậy, khi tiến hành các hoạt động của mình, các cá nhân, TCXHDS

gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ, ở góc độ giám sát việc thực hiện quyền con người, theo

điều tra của Ngân hàng thế giới trong báo cáo phát triển Việt Nam năm 2010 cho biết:

Về phía các hiệp hội, những khó khăn điển hình là những khuyến nghị, phê bình về

các dự án công trình công cộng và dự án khác mà họ giám sát không phải lúc nào cũng

được chính quyền xem xét, nhiều quan chức đã không mặn mà lắm với việc đọc các

báo cáo này. Bên cạnh đó, họ thiếu thông tin cần thiết để hoạt động do các cơ quan

chính phủ chưa cung cấp đầy đủ thông tin về các kế hoạch, dự án để giúp việc giám sát

hiệu quả hơn. Về phía các tổ chức khoa học công nghệ thì chức năng chính của họ là

154

tiến hành nghiên cứu, phân tích và vận động chính sách, có thể đóng vai trò chủ chốt

trong giám sát, và thông qua các đánh giá phê bình của mình, họ đã có thể đóng góp

nhiều cho những tiến bộ trong chính sách phát triển của Việt Nam nhưng với Quyết

định 97 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định rằng, các tổ chức khoa học công nghệ

do các cá nhân thành lập theo Luật về Khoa học Công nghệ sẽ bị hạn chế hoạt động ở

một số lĩnh vực, và không bao gồm các lĩnh vực nghiên cứu quan trọng. Ngoài ra,

nhóm các tổ chức khoa học kỹ thuật này cũng đối mặt với một trở ngại mới. Những ý

kiến phê bình chính sách của Đảng và Chính phủ phải được trình lên chính phủ theo

cơ chế thông tin mật, và không được công bố rộng rãi nếu chưa được phép [221]. Đây

là một điểm khá mâu thuẫn với hoạt động của các tổ chức XHDS, vì mục đích chính là

hoạt động vì cộng đồng, họ cần phải công khai cho mọi người dân được biết những

vấn đề đang nổi cộm của xã hội hiện nay và cần biết chính phủ đang làm gì trước

những vấn đề đó. Do vậy, đây là một vấn đề mà các tổ chức khoa học công nghệ cần

hết sức linh động trong hoạt động của mình. Với các tổ chức khác như Ban thanh tra

nhân dân ở xã phường, các ban giám sát cộng đồng mang danh là các tổ chức của quần

chúng được lập ra để giám sát các hoạt động cộng đồng như thực thi chính sách, đầu

tư, xây dựng công, quy hoach đất đai của địa phương...nhưng ở nhiều nơi hoạt động

khá hình thức, phụ thuộc nhiều vào chính quyền (vì họ là thành viên của MTTQ, hoặc

chịu sự phân công của chính quyền địa phương hoặc chủ tịch UBND các cấp). Ngoài

ra, những khó khăn về thủ tục thành lập các tổ chức XHDS cũng dẫn đến hạn chế vai trò

giám sát của các tổ chức này. Ví dụ, để thành lập một hiệp hội, cần phải đi qua 3 bước

công nhận và phê duyệt - ủy ban vận động, điều lệ, và hồ sơ đăng ký - mà số lượng tối

thiểu phải nộp là 6 loại tài liệu, với thời gian chờ tối thiểu để được phê duyệt là 6 tháng.

Thời gian này là quá lâu, các tiêu chí xét duyệt thiếu minh bạch, chặt chẽ để chấp nhận

hoặc không chấp nhận đơn đăng ký thành lập hiệp hội còn thiếu minh bạch, khiến cho

các cấp có thẩm quyền phê duyệt có khả năng quyết định một cách tùy tiện.

Hai là, về tài chính, hầu hết các tổ chức XHDS ở Việt Nam đều ở tình trạng

thiếu hụt về tài chính, nguồn tài chính khá hạn hẹp, không ổn định và bị lệ thuộc vào

các cơ quan nhà nước, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, sự đóng góp của các

thành viên, v.v.. Một số tổ chức XHDS có mối liên hệ chặt chẽ với nhà nước như các

hiệp hội nghành nghề, các tổ chức khoa học công nghệ thì có sự hỗ trợ kinh phí từ phía

155

nhà nước thông qua việc chi cho dịch vụ công, ký kết các hợp đồng dịch vụ, quy định

điều tiết, chi trả phí dịch vụ cho các tổ chức này hoạt động. Nhưng hiện nay, với ngân

sách hạn hẹp các tài trợ của chính phủ chỉ đủ hỗ trợ một phần chứ chưa có chiến lược

dài hạn cho các tổ chức này nên họ hoạt động khá bị động, nhỏ lẻ và manh tính chủ đề,

chủ điểm nhiều hơn. Còn các tổ chức không phụ thuộc vào ngân sách nhà nước (chia

làm nhiều đối tượng, những tổ chức cộng đồng, dân chúng hoạt động chủ yếu theo sở

thích), tiềm lực tài chính đến từ các hội viên và sự đóng góp của các nhà hảo tâm nên

không mạnh, dẫn đến vị thế, phạm vi hoạt động yếu, hẹp, do đó mức ảnh hưởng đến

việc gây áp lực lên sự thay đổi chính sách và các việc khác cũng yếu hơn. Trong khi đó,

những tổ chức phi chính phủ trong nước, tiềm lực tài chính mạnh hơn, với nhiều hoạt

động thiết thực, mạnh dạn phản ánh các vấn đề nổi cộm trong xã hội thì lại dễ bị tổn

thương bởi không được đánh giá, ghi nhận trong hoạt động của mình và đôi khi họ còn

bị hiểu nhầm là đang tiến hành các hoạt động chống phá chính phủ, nhà nước.

Ba là, về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chính phủ, các bộ, ban ngành, nhân

dân và các tổ chức XHDS chưa toàn diện, chưa đi vào các vấn đề cụ thể như pháp luật,

chính sách quyền con người, hay vấn đề về thành lập tổ chức XHDS, giám sát, phản

biện xã hội,v.v.. mà mới chỉ ở một số lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, tập huấn nâng

cao trình độ cán bộ,v.v.. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp giữa chính quyền địa phương và

trung ương chưa chặt chẽ, dẫn đến sự tham gia của người dân trong quá trình thực hiện

quyền con người thông qua các hoạt động chính trị, xã hội còn hạn chế. Ví dụ như

trong việc nhân dân tham gia trực tiếp vào các hoạt động quản lý nhà nước, mặc dù đã

có chỉ thị số 30 của Đảng và Nghị định số 29/1998, Nghị định số 79/2003 và pháp lệnh

số 34 về thực hiện dân chủ cơ sở, nhưng việc thực hiện vẫn chưa được thực hiện tốt.

Việc tham gia xây dựng các hương ước, quy ước cộng đồng, dân cư là chủ yếu còn các

vấn đề như sử đụng đất đai, quy hoạch sản xuất vẫn đang vấp phải những trở ngại từ cả

phía người dân cũng như về phía cán bộ chính quyền cơ sở. Vấn đề ở đây là lòng tin

giữa 2 cấp chính quyền và vấn đề giải quyết quan hệ lợi ích của địa phương trong tương

quan với toàn quốc, là vấn đề nhận thức của cán bộ địa phương về tầm quan trọng của

việc thực hiện các chỉ thị mà ở đây là quyền con người. Còn về hình thức tham gia gián

tiếp lại phụ thuộc nhiều vào người đại điện, mối quan hệ giữa nhân dân với người đại

diện khá lỏng lẻo, do không gắn kết bởi lợi ích cộng đồng cụ thể nên những người đại

156

diên này khá chung chung. Các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể nhân dân là một trong

những cơ chế đảm bảo sự tham gia của người dân lại hoạt động khá xơ cứng và hành

chính hóa nên chức năng đại diện cho nhân dân còn yếu. Một hình thức nữa là người

dân trực tiếp gửi đơn, thư khiếu nại đến các cơ quan có thẩm quyền hoặc tham gia góp ý

kiến vào các văn bản pháp luật khi được công bố trên báo chí nhưng hình thức này cũng

tỏ ra ít hiệu quả và thu hút được ít người dân tham gia.

Nguyên nhân của tình trạng này là do chưa có cơ chế bắt buộc về việc tiếp nhận

và xử lý các yêu cầu của cử tri nên nhiều ý kiến của nhân dân chưa được truyền đạt đến

cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó, người dân với trình độ dân trí thấp, thiếu hiểu biết

về pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật kém và chưa ý thức được quyền làm chủ của

mình. Hơn nữa, việc tồn tại trong một môi trường quan liêu, bao cấp trong một thời gian

khá dài nên mọi người khá bị động với các công việc của chính quyền, và cũng quen với

việc chính quyền làm thay tất cả. Ngoài ra, ngay trong các cơ quan nhà nước và xã hội

nói chung do ảnh hưởng của văn hóa hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp còn nặng

nề nên các cơ quan nhà nước coi việc xây dựng pháp luật, chính sách là đặc quyền riêng

của mình vì thế công việc nhà nước luôn khép kín, một số chính sách ban hành không vì

lợi ích của nhân dân. Việc tổ chức các phương pháp, hình thức người dân tham gia vào

việc hoạch địch chính sách còn chưa khoa học, nhiều văn bản pháp quy được lấy ý kiến

của người dân nhưng chưa thực sự đến được với các đối tượng được điều chỉnh. Việc

tiếp thu giải quyết các vấn đề bức xúc của dân còn chậm và có khi còn né tránh làm

giảm lòng tin của nhân dân.

4.2.2.3. Những vấn đề từ đặc điểm, hoạt động, cơ cấu tổ chức của xã hội dân sự Việt Nam

Một là, tính độc lập của các tổ chức XHDS Việt Nam không cao, phụ thuộc

nhiều vào sự chỉ đạo từ trên xuống và chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng phân chia, nên

nhiều tổ chức khá bị động trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, khả

năng giám sát, phản biện bị hạn chế. Điều này xuất phát từ chỗ các thành viên của

XHDS Việt Nam cũng là thành viên của các tổ chức chính trị - xã hội, chịu sự ràng

buộc về lợi ích, quyền lợi trong các tổ chức đó. Nhất là đội ngũ cán bộ điều hành của

hầu hết các tổ chức XHDS Việt Nam là kiêm nhiệm, những người này có thể là cán bộ

cao cấp, có năng lực, trình độ ở một cơ quan nhà nước, một doanh nghiệp nào đó hoặc

là thành viên của các tổ chức quốc tế...nên tính phụ thuộc của họ khá lớn và bị chi phối

157

bởi các lợi ích kinh tế, chính trị khác nhau. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức hội không yêu

cầu tư cách thành viên và một số tổ chức cộng đồng cuối cùng vẫn do chính phủ kiểm

soát. Các ban giám sát cộng đồng đều do MTTQ cấp xã quyết định về quyền hạn, tổ

chức, hoạt động. Đội ngũ cán bộ của các tổ chức này, tuy ý thức được vai trò, trách

nhiệm của mình là một cầu nối quan trọng nhằm truyền tải tiếng nói từ địa phương đến

các nhà hoạch định chính sách các cấp, nhưng lại chưa đủ năng lực kiến thức lẫn kỹ

năng về các công tác liên quan đến nhân quyền như giám sát các hoạt động thực thi

công ước, góp ý, xây dựng chính sách về quyền con người, v.v.. nên các hoạt động liên

quan đến vấn đề bảo đảm, thực thi quyền con người chưa thực sự hiệu quả. Ngoài ra,

đó là sự thiếu tinh thần phản biện và văn hóa phản biện trong các tổ chức XHDS bởi

trước kia người ta quan niệm phê phán tức là không tốt và tâm lý tránh xung đột để

duy trì hòa khí chung. Cần thay đổi nhận thức về phê phán, tức là phê phán là để vì

một kết quả tốt đẹp chung, nó là nghĩa vụ của công dân.

Một nguyên nhân nữa dẫn đến tính trạng này là các tổ chức XHDS Việt Nam phụ

thuộc nhiều vào các tổ chức XHDS quốc tế, nhất là các tổ chức phi chính phủ, do vậy

không phát huy được vai trò chủ động của mình, dễ rơi vào trạng thái bị các tổ chức

nhân quyền quốc tế, các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tạo dựng các lực lượng

đối lập với Nhà nước, chống phá Đảng Cộng sản ngay trong lòng xã hội. Đây cũng là lý

do mà đến nay, chính phủ, nhà nước ta vẫn đang xem xét việc thừa nhận XHDS.

Hai là, cách thức vận hành, tổ chức hoạt động, quản lý của các nhóm XHDS

chưa thực sự chuyên nghiệp, chưa được tổ chức chặt chẽ, hoạt động mang tính dàn trải

hình thức, thiếu hiệu quả. Sự liên kết, phối hợp giữa các TCXHDS nói chung và tổ

chức hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền nói riêng là chưa chặt chẽ. Nhiều người dân

chưa biết đến các tổ chức XHDS, chưa ý thức được vai trò của nó ngay cả khi họ đang

là thành viên của những tổ chức này. Ví dụ ở góc độ vận động chính sách - một quá

trình lâu dài, bền bỉ đòi hỏi phải được tiến hành bởi những cá nhân, tổ chức có kinh

nghiệm hoạt động, am hiểu trong lĩnh vực đó và có khả năng huy động chất xám, khả

năng tổ chức, tham gia vào các cuộc đối thoại trong tiến trình lập pháp - hoàn thiện

khuôn khổ pháp lý. Trong khi đó, đa phần các tổ chức XHDS Việt Nam mới chỉ tiến

hành các hội thảo, tọa đàm, góp ý kiến về các luật chứ chưa có động thái mạnh hơn.

Các kiến nghị cũng mới đang ở mức độ dừng lại trên giấy chứ chưa thực sự tiếp cận

158

được với chính quyền, các cơ quan bộ ngành nhà nước. Điểm lưu ý nữa là các hoạt

động này chỉ được tổ chức khi có sự tài trợ từ các tổ chức XHDS quốc tế và thường

diễn ra trong nội bộ tổ chức XHDS, nếu có liên kết với các tổ chức khác thì phạm vi

cũng khá hẹp. Do đó, nó cũng mới chỉ quy tụ được một số nhà khoa học và giới trí

thức vào các hoạt động vận động, góp ý, xây dựng chính sách trong một khoảng thời

gian nhất định chứ chưa phải cả cộng đồng và khi các chương trình tài trợ kết thúc

(các chương trình này khá ngắn hạn) các tổ chức XHDS Việt Nam cũng không có

động cơ để thực hiện tiếp quá trình này. Vì thế, mức độ ảnh hưởng đến xã hội chưa

cao, mặc dù nó cũng phản ánh một phần sự tham gia tích cực của các tổ chức XHDS,

bất chấp các khó khăn từ hệ thống pháp lý và nhận thức của một số ban, ngành trong

xã hội

Bên cạnh đó, nhiều hoạt động góp ý, xây dựng chính sách mới chỉ dừng ở việc

lồng ghép vào các lĩnh vực hoạt động dự án, chủ yếu ở cấp xã với hình thức kiến nghị

đề xuất trong báo cáo, hoặc trong các buổi tổng kết đánh giá kết quả thực hiện dự án.

Trong khi đó, sự phản hồi thông tin từ cấp có thẩm quyền có chấp nhận hay không thì

không thể biết được. Một số VNGO đã có chương trình vận động chính sách một cách

hệ thống ở cấp cơ sở nhưng tác động để hiệu chỉnh chính sách ở cấp này lại có nhiều hạn

chế, bởi cấp huyện và thậm chí là cấp tỉnh cũng chỉ là cấp thực hiện chính sách; họ chỉ có

thể phản ánh tiếng nói của cộng đồng lên cấp có thẩm quyền, mà điều này thì khá rắc rối

về cả thủ tục và quy trình đề đạt.

Nguyên nhân của vấn đề này xuất phát từ chỗ XHDS Việt Nam có cấu trúc rộng,

không sâu nên dẫn đến các hoạt động trên là khá dàn trải. Ngoài ra, có nhiều tổ chức ban

đầu chỉ tập trung vào hỗ trợ chính phủ trong lĩnh vực phúc lợi và giáo dục đạo đức, hay

hoạt động trên các lĩnh vực môi trường, từ thiện với quy mô nhỏ, chất lượng chưa cao,

nguồn lực tài chính yếu sau này mở rộng ra hoạt động vận động chính sách nên chưa có

nhiều kinh nghiệm dẫn đến tính hiệu quả chưa cao, tầm ảnh hưởng chưa nhiều, tiếng nói

của các tổ chức này trước các vấn đề xã hội, quyền con người còn yếu. Bên cạnh đó, các

hoạt động này tiến hành riêng lẻ và khá manh nha, nhiều tổ chức hoạt động trung gian,

phụ thuộc nhiều vào lợi ích của chính quyền, ngành mà họ đại diện nhiều hơn là tiếng

nói cho cả cộng đồng. Hơn nữa, họ cũng chưa có kế hoạch xây dựng kỹ năng và kiến

thức để các thành viên có thể thực hiện trách nhiệm của họ, và ngân sách phân bổ cho

159

hoạt động của các ban này vẫn còn rất khiêm tốn. Một điểm nữa ảnh hưởng đến tính

hiệu quả của các tổ chức này là các phương pháp đánh giá, đo lường chất lượng hoạt

động của XHDS chưa thể hiện được nhiều về sự biến động thành viên của tổ chức, chất

lượng và kết quả hoạt động và không bao quát được các không gian XHDS tham gia

hoạt động. Một số tổ chức khác còn chú tâm vào tìm kiếm tài trợ, một số tổ chức khác

thì ngại va chạm với chính quyền địa phương.

Như vậy, với phân tích ở cả mặt tích cực và những vấn đề đặt ra trong quá trình

XHDS Việt Nam thực hiện quyền con người, có thể thấy rằng các cá nhân, tổ chức

XHDS Việt Nam đã và đang có những đóng góp không nhỏ trong việc thực hiện

quyền con người nói riêng và quá trình phát triển của xã hội Việt Nam nói chung,

song, với những hạn chế, khó khăn đã nêu ở trên và những nguy cơ sẽ nảy sinh trong

quá trình hoạt động tiếp theo, đòi hỏi chúng ta phải có một cái nhìn định hướng, biện

chứng, cho phát triển XHDS Việt Nam trong tương lai, nhằm mang lại một nguồn vốn

xã hội vô cùng to lớn cho sự chủ động hội nhập và phát triển bền vững, trên cơ sở phát

huy những giá trị căn bản của xã hội đặc thù Việt Nam.

4.3. Một số đề xuất, kiến nghị về vai trò của xã hội dân sự với việc thực hiện

quyền con người

Việc đưa ra các đề xuất, kiến nghị sau đây chính là để hiện thực hóa các mục

tiêu trên về phát triển XHDS Việt Nam và khắc phục những hạn chế, khó khăn mà nó

phải trong quá trình thực hiện quyền con người. Những kiến nghị này tập trung chủ

yếu vào vấn đề nhận thức, bởi nhận thức đúng, hợp quy luật chính là cơ sở để hành

động đúng, và phát triển, nhằm định hướng cho việc phát triển XHDS Việt Nam trong

tương lai; vào khía cạnh tổ chức, quản lý, và văn hóa là những điều kiện cần thiết để

hiện thực hóa các quan hệ XHDS trong xã hội và phát huy vai trò của nó trong việc

thực hiện quyền con người.

4.3.1. Kiến nghị về mặt nhận thức

Quá trình phát triển của xã hội đã chứng minh rằng việc tồn tại của XHDS là

một tất yếu khách quan và là quá trình tăng cường, huy động các nguồn lực và nâng

cao vốn xã hội ở mỗi quốc gia, trong đó, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.

XHDS Việt Nam đang hoạt động khá mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, nhất là phát huy

các điều kiện thực hiện, bảo đảm quyền con người và có những đóng góp tích cực cho

160

sự phát triển của xã hội, song dù vậy, việc nhìn nhận vai trò của hình thức tổ chức xã

hội này vẫn chưa thống nhất. Đa phần mới chỉ có các nhà nghiên cứu thừa nhận, công

nhận thiết chế này, còn chính phủ và nhiều người dân Việt Nam sự nhận thức về

XHDS là chưa nhất quán. Điều này gây đến những khó khăn cho hoạt động của XHDS

Việt Nam và vô hình chung chúng ta đã và đang bỏ qua một nguồn vốn xã hội quan

trọng cho quá trình phát triển. Do vậy, kiến nghị về nhận thức trong việc phát huy vai

trò của nó với thực hiện quyền con người là:

Thứ nhất, về phía Đảng, Nhà nước và các cơ quan quản lý về xã hội dân sự.

1) Đảng, Nhà nước và nhân dân cùng các đoàn thể phát huy vai trò của XHDS

trên cơ sở quan điểm: phát triển XHDS đi cùng với mục tiêu phát triển đất nước. Phát

triển XHDS trước hết đi cùng với phát triển kinh tế, là yếu tố song hành và trợ giúp

của KTTT. Phát triển XHDS là kênh tốt để thực hiện các mục tiêu ổn định xã hội mà

về cơ bản khi kết hợp với việc phát triển quyền con người và thực hiện quyền con

người cùng đều mang lại sự phát triển chung cho xã hội Việt Nam.

2) Trên cơ sở nền tảng của XHDS cũng như các tổ chức XHDS đã tồn tại ở Việt

Nam, các đặc trưng của XHDS cũng lại khá phù hợp với văn hóa Việt Nam, việc cần

làm là hoạt hóa các hệ thống này vì mục tiêu phát triển của chính người dân và vì mục

tiêu chung của đất nước bằng việc thúc đẩy hoạt động của các tổ chức đoàn thể, kết

hợp các đoàn thể thành tổ chức có mạng lưới rộng và quy mô lớn hơn... Ví dụ như

hoạt hóa khả năng phản biện chính sách của Đảng viên các cấp; thực hành dân chủ ở

cơ sở.

3) Xác định cụ thể và phân định rõ ràng chức năng lãnh đạo của Đảng và quản lý

của nhà nước nhưng đồng thời tạo dựng cơ chế kết hợp linh động. Nhà nước xác định cơ

sở pháp lý và hành chính cho sự hoạt động của XHDS. Đảng kết hợp với tổ chức XHDS

giám sát và bảo đảm việc thực hiện quyền con người cũng như bảo đảm định hướng xã

hội chủ nghĩa. Nhà nước kết hợp với XHDS tổ chức các hoạt động thực hiện quyền con

người, đánh giá chỉ số thực hiện quyền con người. Đồng thời, xác định vai trò độc lập

của XHDS, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi vai trò độc lập này trong việc thực hiện

quyền con người.

4) Xác định mâu thuẫn, vấn đề có thể nảy sinh giữa Nhà nước, XHDS và KTTT

qua việc nghiên cứu, cảnh báo... và những giải pháp cho nó. Đặc biệt là trong vấn đề

161

quyền con người và thực hiện quyền con người có thể nảy sinh mâu thuẫn về lợi ích

hoặc mâu thuẫn văn hóa giữa việc hợp tác của XHDS trong nước và nước ngoài; hoặc

mâu thuẫn trong việc phân bổ không đồng đều các nguồn lợi trong phát triển kinh tế

khi có sự phản biện hay giám sát chính sách của XHDS; các kiến nghị của XHDS về

tham nhũng, lạm quyền của nhà nước; vấn đề về định hướng định hướng XHCN và

mục tiêu thực hiện quyền con người...; mâu thuẫn về mục tiêu phát triển KTTT và mục

tiêu của XHDS (vấn đề công bằng, vấn đề sở hữu, phân phối không đồng đều...) gây ra

tình trạng vi phạm thực hiện nhân quyền.

Thứ hai, về phía các tầng lớp trong xã hội.

1) Xuất phát từ việc nhiều tổ chức XHDS Việt Nam hoạt động chưa hiệu quả,

chưa ý thức được vị trí, vai trò của mình trong tương quan với các tổ chức khác trong

xã hội, chưa phát huy được hết vai trò của mình trong công tác vận động chính sách,

giám sát, phản biện và các công việc cộng đồng khác. Do đó, việc đầu tiên là phải đẩy

mạnh việc nhận thức của các tổ chức xã hội về vai trò của các tổ chức XHDS. Họ phải

tự biết mình là tổ chức XHDS và biết XHDS là gì, có vai trò như thế nào trong xã hội

nói chung, từ đó, kết nối với các tổ chức xã hội khác trong nước, với các tổ chức

XHDS khác trên thế giới để tận dụng các nguồn lực từ quốc tế cũng như nâng tầm

nhận thức về các vấn đề chung của nhân loại mà XHDS có thể tham gia giải quyết. Để

thúc đẩy quá trình này cần phải có sự thừa nhận từ phía nhà nước, có nhiều nghiên cứu

khoa học về XHDS nói chung và XHDS Việt Nam, phổ biến các kiến thức này đến với

các đối tượng trong xã hội bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau. Mở các lớp

tập huấn, các khóa đào tạo về nâng cao năng lực cho các tổ chức XHDS trong các lĩnh

vực khác nhau như vận động chính sách, xóa đói giảm nghèo, công tác cộng đồng,v.v..

Tổ chức các diễn đàn nhân dân khu vực, quốc tế để trao đổi, cung cấp thông tin định

hướng về quan điểm và phối hợp thống nhất về nhận thức và hành động của các tổ

chức XHDS Việt Nam trong quan hệ và hoạt động đối ngoại.

2) Cần trang bị nhận thức về quyền con người và thực hiện quyền con người

cho mọi đối tượng trong xã hội, nhất là đội ngũ cán bộ công quyền trong hệ thống

chính trị. Bởi họ vừa là chủ thể thực hiện, chủ thể nghĩa vụ trong quyền con người,

cũng lại là những người vi phạm nhân quyền. Đồng thời, quyền con người chỉ được

thực hiện hoàn toàn khi mọi người biết được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của

162

mình. Điều này là quan trọng với XHDS Việt Nam bởi tính chất không phân tách giữa

tư cách thành viên của XHDS với tư cách công dân của nhân dân Việt Nam. Cán bộ

không vi phạm quyền con người với nhân dân thì tức là thực hiện tốt quyền con người.

Do đó, cần đẩy mạnh việc giáo dục nhân quyền, mở rộng và có hiệu quả các chương

trình giáo dục quyền con người phù hợp với từng đối tượng, nhất là với những nhóm

người yếu thế trong xã hội. Ngoài ra, phải có các biện pháp kinh tế, chính trị, xã hội

tổng hợp để tạo ra môi trường hoàn thiện giúp thực hiện quyền con người một cách tốt

nhất.

3) Thúc đẩy việc nhận thức về vai trò xóa đói giảm nghèo, về vai trò là vốn xã

hội (tính đoàn kết cộng đồng, tình yêu đất nước - tức ý thức cộng đồng, tinh thần dân

chủ...) trong quyền con người với XHDS trên toàn xã hội, bởi mục tiêu của Việt Nam

hiện nay là phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời, kết hợp các

chương trình hỗ trợ kinh tế của XHDS nước ngoài vào Việt Nam nhằm giúp việc xây

dựng XHDS dân chủ mang bản sắc Việt Nam được củng cố và phát huy trên thực tiễn.

Thứ ba, về phía các tổ chức xã hội dân sự.

1) Đẩy mạnh việc nhận thức về vai trò của XHDS với chức năng phản biện

chính sách nhà nước để chính những người phản biện đó trở thành người thụ hưởng

thành quả của chính sách. Kết hợp với định hướng nhận thức về nhu cầu được phản

biện của Đảng Cộng sản và nhà nước để từ đó họ hiểu rằng, việc phê bình, phản biện

chính là việc chung cần làm.

2) Trong lĩnh vực thực hiện quyền con người, cần đẩy mạnh việc nhận thức của

các tổ chức XHDS, nhất là các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực quyền con người về

cái gọi là chủ thể trực tiếp của quyền con người, làm tăng hiệu quả của việc bảo vệ các

quyền con người. Việc nhận thức về quyền con người và thực hiện quyền con người

bằng cách nâng cao sự hiểu biết về các văn bản pháp luật quốc gia, quốc tế về quyền

con người; hiểu rõ đặc thù về việc thực hiện các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam.

Tạo lập môi trường bình đẳng, dân chủ cho việc thực hiện các nội dung về quyền con

người, trên cơ sở tiếp tục thực hiện quá trình dân chủ hóa trong mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội, thực hiện các quy chế dân chủ ở cơ sở, làm cho dân chủ trở thành căn cốt

của quá trình đổi mới, và là thước đo cho mức độc thực hiện quyền con người. Thực

hiện tốt chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, khơi

163

dậy các truyền thống lâu đời về sự yêu thương, chia sẻ, vì cộng đồng của dân tộc Việt

Nam, tạo vốn xã hội nhằm thúc đẩy vai trò chung của XHDS.

4.3.2. Kiến nghị về mặt tổ chức, quản lý

Qua thực tế phát triển của XHDS Việt Nam nói chung và trong quá trình thực

hiện quyền con người nói riêng, có thể nói, một trong những vấn đề tồn tại lớn của

XHDS Việt Nam đó là tính phụ thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở các chương trình

hoạt động, tài chính, thành viên,v.v.. Điều này một phần do tính đặc thù của xã hội

Việt Nam quy định, nhưng phần khác cũng do sự chưa hoàn chỉnh của hệ thống pháp

lý, sự thiếu minh bạch trong quản lý của các cơ quan nhà nước và sự chưa chủ động

của các tổ chức XHDS. Do đó, để phát huy vai trò của mình, cả nhà nước và các tổ

chức xã hội phải có sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức hoạt động và quản lý của mình.

Thứ nhất, về phía Nhà nước.

1) Trong quá trình phát triển của XHDS Việt Nam, vấn đề khó khăn lớn nhất đó

là chưa có một hệ thống pháp lý điều chỉnh trực tiếp đến sự vận hành của thiết chế

này. Điều này đã làm giảm đi vai trò và tác động của XHDS đến sự phát triển chung

của đất nước. Do vậy, để phát huy hơn nữa vai trò của yếu tố này, nhà nước cần đưa ra

một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh, khoa học, tổng thể giúp cho việc quản lý hoạt động

các tổ chức này chặt chẽ hơn, hướng vào thực hiện các mục tiêu chung của đất nước.

Hoàn thiện hệ thống pháp lý về tổ chức XHDS việc đăng ký thành lập, tổ chức

quản lý, lĩnh vực hoạt động, cách thức, phương pháp hoạt động, hội viên, cơ chế tài

chính, cơ chế giám sát... nhằm đảm bảo cho các hội, các tổ chức nhân dân hoạt động

trong khuân khổ của pháp luật, có môi trường hoạt động hiệu quả, đáp ứng nhu cầu,

lợi ích của nhân dân và thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội. Điều này cũng giúp

hạn chế các tiêu cực của XHDS, và nhà nước xã hội chủ nghĩa có cơ chế kiểm soát

hoạt động của thiết chế này một cách công khai và chủ động.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người nhất là các luật liên quan

đến quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận, báo chí, biểu đạt..của người dân. Xây dựng

lộ trình chi tiết thực thi các công ước về quyền con người; thiết lập cơ quan nhân

quyền quốc gia. Nghiêm túc thực hiện các khuyến nghị của LHQ về quyền con người;

xây dựng cơ chế giám sát việc thực hiện quyền con người có sự tham gia chính thức

của các tổ chức XHDS.

164

Xây dựng, hoàn thiện pháp luật, chính sách về tổ chức, hoạt động, chức năng,

quyền hạn của các tổ chức xã hội dân sự hoạt động trong việc bảo vệ, thực hiện quyền

con người.

Nhà nước cần sớm công nhận các cơ chế luật pháp để tạo điều kiện thuận lợi

cho việc thành lập một số tổ chức xã hội dân sự gắn với việc giám sát thực hiện một

quyền hay một nhóm quyền con người cụ thể (chẳng hạn, quyền trẻ em, quyền phụ nữ,

quyền dân sự, quyền chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,..)

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về kinh tế, xã hội để đảm bảo quá

trình thực hiện quyền con người. Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền

KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở tôn trọng đầy đủ các quy luật của KTTT

nhằm đảm bảo cơ sở vật chất cho việc thực hiện quyền con người vì mục tiêu phát

triển con người và hướng đến định hướng xã hội chủ nghĩa, dùng định hướng này làm

công cụ điều tiết đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội, phát huy năng lực của người

dân trong quá trình phát triển.

2) Xác định rõ hơn vai trò điều tiết của nhà nước, cơ chế thị trường tự vận hành,

tạo áp lực cho đổi mới, nâng cao vai trò sáng tạo, chủ động, tự chủ của các đơn vị kinh

tế. Đẩy nhanh quá trình xóa đói giảm nghèo, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội

bằng cách mở rộng mạng lưới các hệ thống dịch vụ, ngành nghề, các cơ cấu kinh tế

trung gian. Đồng thời, Nhà nước cần tinh giảm các thủ tục hành chính, cung cấp thông

tin, hỗ trợ cho sự phát triển của mạng lưới XHDS. Phân bổ các nguồn tài trợ cho các tổ

chức này một cách minh bạch, đồng thời, tăng cường mở rộng hoạt động hợp tác với

các tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Mở rộng các hình thức, mô hình kinh tế, lĩnh

vực và địa bàn hoạt động từ trung ương đến địa phương, từ đồng bằng đến miền

núi...để lực lượng này có thể tham gia đóng góp vào sự phát triển chung của đất

nước.Tạo điều kiện cho các tổ chức nhân dân tham gia thực hiện các chương trình, dự

án do nhà nước quản lý và có những hình thức chuyển giao các dịch vụ công phù hợp

điều này phù hợp với xu thế của thời đại hội nhập quốc tế.

3) Đẩy mạnh quá trình nhà nước thừa nhận vai trò và sự tham gia của các tổ

chức XHDS trong việc xây dựng pháp luật, thậm chí giám sát triển khai pháp luật. Để

thực hiện quá trình này, nhiều chuyên gia cho rằng khi ban hành các văn bản Luật cần

phải thể hiện được việc cho phép người dân đưa ra sáng kiến luật pháp của mình, nếu

165

có nhiều người dân cùng ký vào bản đó thì Quốc hội, hoặc Bộ Tư pháp cần xem xét và

thẩm định luật này; tham vấn ý kiến người dân và công khai nó ngay từ khi soạn luật

chứ không phải đợi khi xây dựng xong mới tham vấn; Quốc hội Việt Nam có thể ra

một cơ chế cho các tổ chức phi Chính phủ đăng ký tư cách tham gia góp ý hoặc soạn

thảo luật, pháp lệnh; Cần có cơ quan độc lập làm đánh giá hoặc kiểm định báo cáo

đánh giá tác động của dự thảo luật chứ không nên để cơ quan chủ trì soạn thảo làm

việc này như hiện tại; Cơ quan thẩm tra và đại biểu Quốc hội cũng bắt buộc phải lấy ý

kiến chuyên gia, người bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dự án luật; Cần phân bổ ngân sách

đảm bảo sự tham gia góp ý của người dân vào dự thảo dự án luật. Ngoài ra, cần tăng

cường xây dựng cơ chế đối thoại giữa nhà nước với các tổ chức XHDS nhằm phát huy

dân chủ trên cơ sở đẩy mạnh việc thành lập các tổ chức nghiên cứu độc lập, góp ý cho

chính phủ, cho Đảng.

4) Nhà nước cần đẩy mạnh quá trình tôn trọng tự do, bình đẳng cá nhân và những

quyền cơ bản khác của cá nhân trong xã hội. Xây dựng đại đoàn kết dân tộc, đề cao tính

đồng thuận, thực tế, bao dung và tinh thần thiện nguyện trong các hoạt động của XHDS.

Tất cả mọi người phải được thụ hưởng công bằng các nguồn lực và cơ hội của xã hội.

Sử dụng truyền thống văn hóa và các giá trị phương Đông, phương Tây phù hợp để duy

trì sự ổn định và đoàn kết xã hội nhằm phát huy những phẩm chất của con người. Tiếp

tục phát triển XHDS trên cơ sở đặc thù kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia mình.

Nhà nước phải đẩy mạnh quá trình giáo dục công dân về các giá trị từ sự bình

đẳng, công lý, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với Nhà nước, xã hội và cộng đồng. Cần

giảm bất bình đẳng xã hội đối với những nhóm người yếu thế (người khuyết tật, dân tộc

thiểu số, người di cư), nhóm dễ bị tổn thương phụ nữ, trẻ em, trong xã hội; cần có chế

độ bảo hiểm bền vững cho mọi đối tượng trong xã hội. Xây dựng đội ngũ cán bộ công

chức trong sạch, vững mạnh, hạn chế tham nhũng, đảm bảo cho các chủ trương, chính

sách được thực hiện đúng trong thực tiễn, vì quyền lợi của nhân dân.

Thứ hai, về phía các tổ chức xã hội dân sự.

1) Xác định rõ mục tiêu và lĩnh vực hoạt động, đánh giá lại cơ cấu tổ chức, môi

trường và ảnh hưởng của mình để từ đó có biện pháp hành động phù hợp. Tăng cường

tính tự quản, phát triển các hình thức tự quản khác nhau trong xã hội. Đẩy mạnh công

tác đào tạo nhân sự, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên. Tăng cường mối

166

liên kết giữa các tổ chức XHDS hoạt động trong các ngành, nghề, mục đích khác nhau.

Thiết lập mạng lưới hoạt động của các tổ chức XHDS trên toàn quốc, ở mọi lĩnh vực

nhất là tại các vùng sâu, xa.

2) Cần xây dựng một mạng lưới các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền

ở Việt Nam. Mạng lưới này cử ra đầu mối làm công tác liên lạc thường xuyên với các

thành viên của mạng lưới và kết nối dọc với các tổ chức nhân quyền quốc tế ở cả cấp

khu vực, quốc tế, kết nối với các cơ quan chính phủ,v.v.. để trao đổi thông tin liên quan

đến tình hình nhân quyền, đoàn kết thực hiện các hoạt động cụ thể như vận động chính

sách, giám sát, phản biện chính sách, các hoạt động của các dự án ở các vùng, miền, các

hoạt động tài trợ,v.v.. Mạng lưới này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện

quyền con người và tạo nên sức ảnh hưởng lớn đối với nhà nước ở các lĩnh vực khác.

3) Tăng cường vai trò của truyền thông trong việc cung cấp thông tin, tạo ra các

diễn đàn xã hội rộng lớn làm điều kiện cho việc thảo luận xã hội tốt hơn, tạo sự đồng

thuận cho các vấn đề còn tranh cãi.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về vai trò của XHDS đối với việc thực

hiện quyền con người, chúng tôi khẳng định rằng các yếu tố của XHDS đã được hình

thành từ lâu trong lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam và các nội hàm của hình thái

tổ chức xã hội này rất gần với mục tiêu phát triển đất nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã đưa ra từ ngày đầu xây dựng một chế độ dân chủ cộng hòa và ngày nay được Đảng

167

và Nhà nước ta kế thừa phát triển trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Từ những đặc điểm

đó, chương 4 của luận án đã khảo sát bước đầu vai trò của XHDS đối với một số khía

cạnh của việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam và nhận thấy, trong việc thực

hiện quyền con người quan trọng nhất là việc hiện thực hóa các chính sách về nhân

quyền và việc giám sát quá trình thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người

thì người dân Việt Nam thông qua hoạt động của các tổ chức XHDS đã ngày càng chủ

động hơn trong việc thực hiện các quyền tự do kinh tế, xã hội, dân sự, chính trị, văn

hóa. Họ tham gia nhiều hơn vào các công việc của xã hội từ những hoạt động đòi hỏi

trình độ và khả năng chuyên môn như vận động chính sách, giám sát chính sách, đến

các hoạt động thiện nguyện, cộng đồng; họ ngày càng ý thức được quyền lợi, trách

nhiệm, nghĩa vụ của mình với bản thân mình và với cộng đồng. Về phía chính quyền,

XHDS cũng làm cho cơ chế hoạt động của nhà nước minh bạch và dân chủ hơn, cơ

chế giải trình, giám sát bước đầu được công khai đến toàn thể nhân dân, tạo không

gian dân chủ cho người dân phát huy được vai trò của mình. Song, cũng cần phải

thẳng thắn nhìn nhận rằng, những thành tựu kể trên mang ít tính thực tiễn, mặc dù

cũng đã có những kết quả được đong đếm về mặt thực tiễn nhưng nhìn chung vẫn còn

khá hình thức. Rõ ràng là, khoảng cách từ nhận thức đến hành động của XHDS còn

khá xa, điều này cũng xuất phát từ đặc thù của xã hội Việt Nam chưa cởi mở hoàn toàn

với XHDS, chưa có chính sách điều chỉnh và phát huy khả năng, vai trò của thành tố

này. Đồng thời, bản thân XHDS cũng chưa thực sự khẳng định được vị trí của mình

trong quá trình phát triển xã hội nói chung. Do đó, từ những nghiên cứu này, luận án

cũng đã đưa ra một số định hướng phát triển XHDS Việt Nam trong tương lai và một

hệ thống các giải pháp về nhận thức, về thể chế, về tổ chức quản lý, văn hóa nhằm đẩy

mạnh vai trò, hoạt động của XHDS, để XHDS có những đóng góp thiết thực cho quá

trình thực hiện quyền con người nói riêng và quá trình phát triển xã hội nói chung.

KẾT LUẬN

Quyền con người là một vấn đề sâu xa, căn bản trong sự phát triển của con

người. Sự phát triển của quyền con người một mặt gắn liền với những hoàn cảnh, điều

kiện lịch sử, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thể loài người; mặt khác,

168

gắn liền với các học thuyết triết học về quyền con người, về bản chất con người, các

học thuyết này đóng vai trò là cơ sở, tiền đề lý luận cho sự hình thành và phát triển của

quyền con người. Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội, khái niệm quyền con

người ngày càng được chia sẻ ở cấp độ toàn cầu, nó được coi như một nền tảng cho

các quốc gia của cộng đồng quốc tế, các tổ chức quốc tế và các phong trào xã hội, tất

cả đều với tư cách thành viên của xã hội quốc tế. Với nhận thức như vậy, hiện nay,

trên toàn thế giới việc hiện thực hóa các quyền con người đã được ghi nhận và đảm

bảo thông qua các văn kiện, công ước, chương trình quốc tế về quyền con người. Các

quốc gia, các tổ chức quốc tế, phong trào xã hội và mỗi người dân đang rất tích cực và

nỗ lực trong việc thực thi các công ước này và biến quyền con người thành phương

tiện mà mọi người có thể sử dụng như một công cụ để biến đổi xã hội.

Trong quá trình đó, bên cạnh vai trò chủ thể nghĩa vụ quyền của nhà nước, luận

án đã chỉ ra XHDS cũng là một trong những nhân tố quan trọng trong việc hiện thực

hóa các quyền con người, làm giảm thiểu những vi phạm về quyền con người ở cả cấp

độ quốc tế và quốc gia.Vai trò này của XHDS xuất phát từ chính đặc điểm cấu thành,

bản chất và mục đích hoạt động của XHDS, đều rất gần với những gì mà quyền con

người hướng tới ở cả động cơ và mục đích. Do vậy, phát huy vai trò của XHDS đối

với việc thực hiện quyền con người chính là thúc đẩy các yếu tố tự do, dân chủ, bình

đẳng và tự nguyện, tình nguyện trong đời sống xã hội. Nhờ vậy, XHDS đang trở thành

một mạng lưới toàn cầu với sức ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ. Song, chính việc mở rộng

phạm vi hoạt động với sự khó kiểm soát trong quản lý, và những khác biệt trong nhận

thức về vấn đề thực hiện quyền con người ở mỗi quốc gia đã làm cho quá trình này của

XHDS gặp nhiều khó khăn, thách thức về hệ thống pháp lý, tính hiệu quả trong công

tác giám sát chính sách về quyền con người của nhà nước, hay hàng loạt các mâu

thuẫn nảy sinh giữa cộng đồng quốc tế và chính phủ các nước trong vấn đề nhân

quyền, việc đưa ra các điều kiện nhân quyền vào các chương trình hỗ trợ phát triển;

giá trị phổ biến và giá trị bản địa trong tương quan giữa quyền con người và luật pháp

quốc gia sở tại. Rõ ràng là phải nhìn nhận một cách khách quan rằng việc thực hiện

quyền con người từ lý thuyết đến thực tế là một quá trình khó khăn và lâu dài. Tương

lai của quyền con người trên thế giới vừa là trách nhiệm và nghĩa vụ của cộng đồng

quốc tế, của mỗi quốc gia, mỗi chủ thể trên nền tảng phát huy phẩm chất của mỗi cá

169

nhân người, vừa là sự thấu hiểu điều kiện đặc điểm đặc thù về lịch sử, tôn giáo, văn

hóa, xã hội, kinh tế, chính trị ở mỗi khu vực, đất nước, nhưng đồng thời cũng đã khẳng

định trách nhiệm của tất cả các quốc gia trong việc thực hiện các quyền con người. Do

đó, việc tồn tại những khác biệt về tôn giáo và văn hóa không được sử dụng như một

cái cớ để không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người. Do vậy,

triển vọng phát triển của nước ta trong việc thực hiện quyền con người nói riêng và

phát triển xã hội nói chung sẽ một phần tuỳ thuộc vào chỗ chúng ta phát huy và thực

hành dân chủ đến đâu, hay nói cách khác là chúng ta xây dựng, phát triển XHDS thế

nào.

Với những đặc thù của mình, XHDS Việt Nam đang trong quá trình hình thành,

phát triển mạnh mẽ và là một yếu tố quan trọng trong quá trình thực hiện quyền con

người, trong quá trình vận động tiến lên của xã hội. Dựa trên tính độc lập tương đối của

mình so với nhà nước, thị trường, XHDS với các hành động tư vấn, trợ giúp pháp lý, tạo

các khoảng không gian công cộng, lợi ích công cộng tham gia, thực hiện các thỏa thuận,

đàm phán, v.v.. đã tạo nên cơ chế linh hoạt để các công dân phát huy khả năng của mình,

thực hiện quyền, trách nhiệm với xã hội. XHDS đã góp phần thúc đẩy nhà nước hiện thực

hóa các công ước quốc tế về quyền con người, giúp nhà nước trong việc hoàn thiện chính

sách, tạo không gian dân chủ cho người dân thực hiện quyền của mình, là một kênh độc

lập để phản biện các vấn đề liên quan đến quyền con người, nâng cao nhận thức của mọi

người về nhân quyền. Song, quá trình này cũng gặp nhiều khó khăn từ phía chính quyền,

khó khăn từ chính các tổ chức XHDS nên chưa phát huy hết được vai trò của XHDSVN

trong việc thực hiện quyền con người. Điều này cũng phản ánh xã hội nói chung đang

chuyển đổi về mọi mặt dù ở lĩnh vực nào chúng ta cũng mới ở mức độ nhập môn, vừa

học vừa làm, vừa làm vừa sửa, nhất là khu vực XHDS, nhưng có thể thấy đó là một

khu vực xã hội đầy năng động, nhiệt huyết và có thể tự do lựa chọn phát triển nó trên

cơ sở lựa chọn các yếu tố phù hợp với xã hội Việt Nam và phát huy nó nhằm thúc đẩy

sự phát triển bền vững của xã hội.

Do đó, muốn cơ chế này phát huy được vai trò của mình, về căn bản, nó đòi hỏi sự

điều hành, quản lý của nhà nước. Sức mạnh của nhà nước là ở chỗ nhà nước thừa nhận,

ủng hộ, chia sẻ và tạo ra môi trường có khả năng cho phép, trợ giúp các thiết chế khác nó

phát triển trong đó có các giá trị cốt lõi của XHDS nhằm duy trì đời sống cộng đồng. Có

170

nghĩa là nhà nước phải đặt ra các chuẩn mực, cấp độ đảm bảo cho xã hội tự do, hòa bình,

an ninh và cung cấp các dịch vụ cần thiết cho công dân, các cá nhân, tổ chức, nhóm xã

hội… để họ có thể phát triển đầy đủ năng lực, khả năng, phát huy được phẩm chất của

chính mình. Đồng thời, phải thừa nhận, bảo vệ, cho phép các cá nhân, nhóm cộng đồng

trong XHDS được tham gia một cách đầy đủ vào sự phát triển toàn diện của xã hội, từ đó,

thúc đẩy các khả năng chức năng của họ. Về điều này, XHDS và nhà nước có thể trùng

nhau ở nhiều điểm, nhưng phần giao nhau, khác nhau ở đây là nhà nước cung cấp sự ổn

định an ninh và những đảm bảo mang tính thể chế và XHDS cung cấp vốn xã hội, tinh

thần đoàn kết, sự chủ động liên kết xã hội, tinh thần thiện nguyện, vì lợi ích cộng đồng và

những giá trị đạo đức tốt đẹp khác kết tinh từ những những giá trị cốt lõi của cá nhân, gia

đình, cộng đồng. Đây này chính là những giá trị nhân quyền căn bản, trên cơ sở đó XHDS

và quyền con người đã gặp nhau ở điểm này. Những giá trị nhân quyền đã được lồng vào

lý thuyết và hành động của XHDS hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà quan điểm của

một xã hội hiện đại lại được dẫn dắt bởi chính hệ thống những nguyên tắc đạo đức được

nêu ra trong Tuyên ngôn nhân quyền thế giới. Quan điểm được chia sẻ dựa trên một tập

hợp các giá trị chung là tự do, công lý và giải quyết hòa bình những tranh chấp, tiến bộ xã

hội và tiêu chuẩn sống tốt hơn bình đẳng, khoan dung và nhân phẩm, những giá trị đã thúc

đẩy, cổ vũ con người qua nhiều thế kỷ.

171

DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. - Đa dạng văn hóa – yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững trong

quá trình toàn cầu hóa, đăng trên Sách Nghiên cứu và giảng dạy Triết học trong

thời đại ngày nay, Nxb Chính trị - Hành chính, năm 2012, tr.126-133.

2. - Vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện trách nhiệm của doanh

nghiệp, đăng trên Tạp chí Triết học, số 7 năm 2013, tr.80-89.

3.- Thực hiện quyền con người - yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo sự phát

triển xã hội bền vững, đăng trên Tạp chí Triết học, số 9 năm 2014, tr.57-65.

4.- Thực hiện quyền con người ở Việt Nam: Thành tựu và một số vấn đề đặt ra,

đăng trên Tạp chí Triết học, số 11, năm 2015, tr.76-83.

172

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. VỀ XÃ HỘI DÂN SỰ

1. Hoàng Chí Bảo, Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội trong phát triển bền

SÁCH, TẠP CHÍ VÀ CÁC TÀI LIỆU LIÊN QUAN, TIẾNG VIỆT

2. Hoàng Chí Bảo, Lê Hữu Nghĩa, Bùi Đình Bôn (2008), Đổi mới quan hệ giữa

vững, Tạp chí Triết học, số 7 (206) - 2008, tr.27-37.

3. CIVICUS (2006), Đánh giá ban đầu về Xã hội dân sự Việt Nam, Hà Nội.

4. Trần Đức Cường, Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội

Đảng Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia.

5. C.Mác - ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

6. C.Mác - Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. C.Mác - Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. C.Mác - Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. C.Mác - Ph.Ăngghen, (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. CIFPEN, Nhóm các tổ chức xã hội dân sự vì an ninh lương thực và giảm

trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Tạp chí Triết học, số 1 (200) - 2008, tr.29 - 39.

11. Bùi Quang Dũng, Xã hội dân sự: khái niệm và các vấn đề, Tạp chí Triết

nghèo (2006), Tài liệu toàn văn, dạng ebook (http://old.cifpen.org).

12. Nguyễn Đăng Dung - Phạm Hồng Thái (chủ biên) (2012), Bảo vệ và thúc

học, số 2 (189) - 2007, tr.35 - 40.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

đẩy quyền con người trong khu vực ASEAN, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

VI, VII, VII, IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

173

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 BCHTW

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

khóa mười, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Đặng Đức Đạm (2007), Một số vấn đề về đổi mới quản lý dịch vụ công ở

thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Vũ Cao Đàm, (2010) Quan hệ giữa Nhà nước và xã hội dân sự trong luật

Việt Nam, bản pdf (http://www.vnep.org.vn).

20. Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Ulrich Dornberg (đồng

khoa học và công nghệ (http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com)

chủ biên) (2008), Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội, Nxb Khoa

21. Phạm Văn Đức, Vai trò và cơ sở của đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện nay,

học xã hội, Hà Nội.

22. Phạm Văn Đức, Vấn đề dân sinh trong chủ trương xây dựng xã hội hài hòa

Tạp chí Triết học, số 1 (200) - 2008, tr.45-54.

của Trung Quốc và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam, Tạp chí Triết học, số

23. Phạm Văn Đức (2009), Xã hội dân sự: Từ cách tiếp cận đến thực tiễn của

11 (210) - 2008, tr.18-27.

Việt Nam, Trao đổi lý luận lần thứ hai giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng

24. Phạm Văn Đức (2009), Đề tài cấp bộ Cơ sở Triết học và Thực tiễn của việc

sản Nhật Bản, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Đinh Công Hoàng (2009), Xây dựng Xã hội dân sự ở Việt Nam nhìn từ

xây dựng Xã hội dân sự, Hà Nội tháng 7.

26. Hoàng Mai Hương, Nguyễn Hồng Hải (2010), Tư tưởng của V.I.Lênin về

kinh nghiệm Châu Âu, Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, số 8 năm 2009, tr.3-14.

27. Bùi Việt Hương (2013) Luận án tiến sĩ Chính trị học Xã hội công dân trong

quyền con người và giá trị thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.17.

việc bảo đảm và phát huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay, Hội đồng bảo vệ TS. Học viện

Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

174

28. Trần Ngọc Hiên, KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp

29. Trần Ngọc Hiên, Đặc điểm mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở Việt

quyền và xã hội dân sự, Tạp chí Cộng sản, số 10 (154) – 2008.

30. Đỗ Trung Hiếu, Một số vấn đề về xã hội công dân, Tạp chí Triết học số 10 -

Nam - vấn đề và giải pháp, Tạp chí Cộng sản, số 13 (181) – 2009.

31. Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt

2002, tr.41 - 47.

32. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn, Nguyễn Văn Vĩnh (2009), Bước

Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam, Nxb Chính trị

33. Lê Thị Thanh Hương (2007), Vài nét về Xã hội dân sự ở Đông Nam Á, Tạp

Quốc gia, Hà Nội.

34. Lê Thị Thanh Hương (2009), Xã hội dân sự ở Malaysia và Thái Lan, Nxb

chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 4, tr.23 - 29.

35. Nguyễn Ngọc Lâm (2005), Hoạt động của các tổ chức nhân dân ở Việt Nam,

Khoa học xã hội, Hà Nội.

36. Nhạc Phan Linh (2012), Luận án tiến sỹ Xã hội học Vai trò liên kết xã hội

Bộ Nội Vụ.

và tạo vốn xã hội của các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính

37. Nhạc Phan Linh, Vai trò Liên kết xã hội của xã hội dân sự qua lý thuyết hệ

trị Hành chính Quốc gia.

38. John Stuart Mill (2009), Bàn về tự do, Nxb Tri thức, Hà Nội.

39. Phạm Xuân Nam (2009), Quan điểm của chủ nghĩa Mác về xã hội dân sự

thống của Talcott parsons, Tạp chí Thông tin KHXH số 4.2012, tr. 42.

trong chế độ dân chủ và những tư tưởng gần gũi của Hồ Chí Minh, Tạp chí Triết học,

40. Vũ Văn Nhiêm (2007), Vài nét về xã hội dân sự trong lịch sử và kinh

số 7/2009, tr.32 - 41.

41. Dương Xuân Ngọc (chủ biên) (2009), Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam:

nghiệm đối với nước ta, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 1(38) - 2007.

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính.

175

42. Vũ Duy Phú (chủ biên) (2008), Xã hội dân sự một số vấn đề chọn lọc, Nxb

43. Nguyễn Minh Phương, Vai trò của Xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay, Tạp

Tri thức, Hà Nội.

44. Nguyễn Minh Phương (2007), Các tổ chức xã hội dân sự trong nền KTTT định

chí Triết học, số 2/2006, tr.10 - 15.

45. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2012), Phát huy vai trò của các tổ

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Thông tin Khoa học Xã hội, số 7/2007, tr. 9 - 16.

46. Trần Tuấn Phong (2014), Xã hội dân sự với tư cách là không gian phát

chức xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

47. Cao Bỉnh Trung - Viên Thụy Quân (chủ biên), Sách xanh phát triển xã hội

triển con người, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.

48. Irene Norlund (2007), Khỏa lấp sự cách biệt: Xã hội dân sự mới nổi tại

công dân Trung Quốc, Nxb Đại học Bắc Kinh.

49. Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh (2003), Quan hệ giữa Nhà nước và xã hội

Việt Nam, Hà Nội (www.undp.org.vn).

50. Trần Hữu Quang, Một số quan niệm cổ điển về xã hội dân sự trong, Tạp chí

dân sự Việt Nam lịch sử và hiện tại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

51. Phan Xuân Sơn (2003), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ

Khoa học xã hội, số 3, năm 2009.

52. Bùi Văn Nam Sơn dịch (2010), Hegel G.W.F, Các nguyên lý của triết học

cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

53. Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải (2006), Immanuel Kant, Phê phán năng

pháp quyền hay đại cương pháp quyền về khoa học và nhà nước, Nxb Tri thức;

54. Jean Jacques Rousseau (2006), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận Chính

lực phán đoán (Kritik der Urteilskraft), Hà Nội, Nxb Tri thức, tr.83, tr. 468.

55. Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái (2001), Lịch sử các học thuyết chính

trị (Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm).

56. Đặng Xuân Thanh, Xã hội dân sự Đông Á: Một số đặc điểm tiến hóa, Tạp

trị trên thế giới, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 1/2010, tr.3-9.

176

57. Hồ Bá Thâm (2009), Xã hội dân sự, tính đặc thù và vấn đề ở Việt Nam,

58. Hồ Bá Thâm - CN. Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (2009), Phản biện xã hội

Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 1(92) /2009.

59. Cao Huy Thuần (2004), Xã hội dân sự? Tạp chí Thời đại mới, số 11.

60. Thomas Meyer và Nicole Breyer (2007), Tương lai của nền dân chủ xã

và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

61. Phạm Thị Ngọc Trầm, Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự với vấn đề về

hội, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

62. Chu Văn Tuấn, Góp phần tìm hiểu quan điểm của Mác về Xã hội dân sự,

quyền và nghĩa vụ của công dân, Tạp chí Triết học, số 4 (179) – 2006, tr.3-9.

63. Đinh Công Tuấn (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xã hội dân sự

Tạp chí Khoa học xã hội, số 2 năm 2010, tr.15.

64. Hoàng Văn Tuệ, Vấn đề phản biện xã hội với yêu cầu thực tế hiện nay, Tạp

ở Liên minh châu Âu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

65. N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina (2009), Chế độ dân chủ: Nhà nước

chí Triết học, số 4 (179) - 2006, tr.53-57.

66. J.Locke. Khảo luận thứ hai về chính quyền (Lê Tuấn Huy dịch), Nxb Tri

và xã hội, Nxb Tri thức, Hà Nội.

67. Viện Nhà nước và Pháp luật (2006), Hội thảo khoa học Xã hội dân sự ở

thức, 2006 tr.124 - 125.

68. Trần Nguyên Việt, Sự thống nhất giữa ổn định chính trị và phát huy dân

Việt Nam và những khía cạnh nhà nước pháp quyền, Hải Phòng.

chủ XHCN - cơ sở của đồng thuận xã hội và phát triển đất nước hiện nay, Tạp chí

69. Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước - một số vấn đề lý

Triết học, số 2 (201) - 2008, tr.3 - 9.

luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

70. Adamferguson, An essay on the history of civil society, L.L.D;

71. Helmut K. Anheier, Stefan Toepler, Regina

TÀI LIỆU TIẾNG ANH

list (Eds), (2010),

Intrernational encyclopedia of civil society, Springer Science+Business Media, LLC

(USA), bản pdf.

177

72. Aisha Ghaus (2004), The role of civil society organizations

in

73. WIB e-Monograp`h Series 2007/2, civil society-state discourses From

governance,(http://unpanl.un.org).

74. UNDP, (1993) UNDP and civil society, NY, UNDP;

75. Manuel Mejido C, 2007, Toward a typology of civil society actors, Program

Liberalism and Marxism to Neo-Marxism and Neoliberalism.

76. Cohen J vaf ACarato A 1992, Political Theory and Civil society,

paper N.30,UNRISD;

77. Honneth Axel (1993), Conceptions of Civil society, Radical Philosophy

Cambridge, MA, Mit press;

78. Hall. J(ed) Civil society: Theory, History, Comparision, Polity Press, 1995;

79. George F.Mclean (1996), Civil society and social reconstruction,

64/summer;

Vol.16/george Mclean-Washington D.C: The council for reasearch in values and

80. Chandhoke Nieera (2002) – The Limits of Global civil society in Global

philosophy.

81. Robison M, White G. (ed) 1998. Democratic development state: politics

civil society 2003,Oxford University Press;

82. White G 1994, civil society, Democratization and development,

and institutional densign, Oxford Universty press. Adher M 2001;

83. Lester Salamon, H.Adheir, regina List, et all Global civil society:

Democratization, Vol 1, N 3;

Dimensions of the nonprofit sector, John Hopkin Center for civil society Studies,

84. Lester Salamon, H.Adheir, regina List, et all, Global civil society: an

1999.

85. EUISS, the European Commission/DG Research and UNU-CRIS, the role

overview, 2003.

86. Robert W. Cox, (1999) Civil society at the turn of the millenium: Prospects

of civil society in global governance, Bỉ 1/10/2010.

for an alternative world order, cambridge university press.

178

87. K.M.Seethi, Civil society - state discourse From Liberalism and Marxism to

88. Kaldor, Mary, The Idea of Global Civil Society , International Affairs 79,

Neo-Marxism and Neoliberalism, WIB e-Monograph Series 2/2007.

89. Report

no;

36445-GLB, Civil society and peacebuilding,

www.siteresources.worldbank.org 20/12/2006

90. The Asia Foundation (2008), Khảo sát Nhu cầu đào tạo của các tổ chức xã

TÀI LIỆU TRÊN TRANG WEB:

hội dân sự: Phát triển tổ chức và huy động sự tham gia của cộng đồng xây dựng chính

91. Andrew Wells – Dang, Không gian xã hội dân sự ở Việt Nam đang mở

sách ở Việt Nam, Hà Nội (http://asiafoundation.org).

92. Andrew Wells Dang, Xã hội dân sự

rộng?, (http://tiasang.com.vn), ngày 5/9/2014.

trọng tâm là hành động,

93. Amartya

(http://tiasang.com.vn), ngày 4/7/2014.

Sen, Dân chủ như một giá trị toàn cầu,

94. Nguyễn Trần Bạt (2007), Bàn về Xã hội dân sự, (www.chungta.com), Ngày

http://icevn.org/vi/node/993

95. Đặng Ngọc Dinh (2006), Đừng sợ Xã hội dân sự, (www.tuoitre.vn), ngày

5/8/2007.

96. Nguyễn Ngọc Giao, Xã hội dân sự , Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Thời

21/5/2006.

97. Hugo Grotius, http://plato.stanford.edu/entries/grotius/

98. Huỳnh Khôi, Nhận xét lại các quan điểm về Xã hội dân sự tại Việt Nam

đại, số 15, tháng 3/2009 ( www.tapchithoidai.org).

99. Nguyễn Thu Linh (2005), Phát triển bền vững và sự tham gia của Xã hội

(www.kinhtehoc.com), ngày 12/4/2006.

100. Locke

dân sự, (www.vids.org.vn), ngày 3/2/2005.

Vs.Hobbes, Nature, and Civil Society

101. Đào Thế Tuấn, Phải xây dựng xã hội dân sự ở nông

(www.philosophy.intellectualprops.com), november, 22nd, 2007.

thôn

(http://www.tuanvietnam.net), ngày 21/9/2010.

179

102. Hồ Bá Thâm (2009), Những tiền đề, điều kiện hình thành phát triển xã hội

103. Lê Quang Thế, Dân chủ và phát huy dân chủ theo Nghị quyết Đại hội XI

dân sự ở Việt Nam hiện nay, (www.chungta.com), ngày 23/10/2009.

104. Chương 1, www.vids.org.vn/vn/Attach/200651222153_Ch1.doc.

105. Chương bốn kết luận và khuyến nghị (www.vids.org.vn)

106. OHCHR, Làm việc cùng chương trình nhân quyền Liên hợp quốc sổ tay

của Đảng (http://truongleduan.quangtri.gov.vn).

107. Xã hội dân sự, xã hội tư sản, (http://www.dict.cc)

108. The market economy and civil society: the individual subject and

cho xã hội dân sự, (http://thuviennhanquyen.vn).

109. Xã hội dân sự là gì? (http://nghiencuuquocte.net), ngày 20/4/2014.

110. Xã hội dân sự, (http://www.icevn.org).

111. Việt Nam sử dụng hiệu quả viện trợ phi chính phủ nước ngoài vào công

modernization (http://www.crvp.org).

112. http://goliath.ecnext.com/coms2/gi_0199-6321160/Race-neoliberalism-

cuộc giảm nghèo và phát triển bền vững (http://dangcongsan.vn), ngày 7/12/2013.

and-welfare-reform.html.

II. VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

113. Amartya Sen (2002), Phát triển là quyền tự do, Nxb Thống kê, Hà Nội.

114. Phạm Ngọc Anh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Nxb

SÁCH VÀ TẠP CHÍ LIÊN QUAN, TIẾNG VIỆT

115. Nguyễn Hồng Anh (2008), Bảo vệ và thúc đẩy quyền dân sự, chính trị vì

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

116. Wolfgang Benedek (chủ biên) (2008), Tìm hiểu về quyền con người, Nxb

mục tiêu phát triển con người, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 6.

117. Trần Văn Bính, (2003) Toàn cầu hóa và quyền công dân ở Việt Nam nhìn

Tư pháp, Hà Nội, (http://www.etc-graz.at).

118. Bộ ngoại giao Việt Nam (2005), Sách trắng nhân quyền, thành tựu bảo vệ

từ khía cạnh văn hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

và phát triển quyền con người ở Việt Nam (www.mofa.gov.vn).

180

119. Chương trình khoa học cấp nhà nước KX-07 (1993), Quyền con người,

quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Trung tâm thông tin tư liệu - Học

120. Vũ Thị Minh Chi, Xã hội dân sự ở Khu vực Đông Á, Tạp chí nghiên cứu

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

121. Vũ Thị Minh Chi, Về giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền con

con người số 4/2009.

người trong sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu con người

122. Đặng Dũng Chí - Hoàng Văn Nghĩa (2014) Chủ nghĩa xã hội và quyền

số 3/2009, tr.18-19.

123. Vũ Hoàng Công (1995), Tìm hiểu tính phổ biến và tính đặc thù của quyền

con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

124. Trương Văn Dũng (2008), Sự tham gia của người dân trong hoạt động quản lý

con người, Luận án Tiến sỹ Triết học, Hà Nội.

125. Vũ Khương Duy (2003), Tính đa dạng của Văn hóa và tính phổ biến của

nhà nước và xã hội vì mục tiêu phát triển con người, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 5.

126. Trần Ngọc Đường (2004), Bàn về quyền con người, quyền công dân, Nxb

nhân quyền, Tạp chí nghiên cứu Quốc tế, số 54.

127. Trần Ngọc Đường, (2011), Quyền con người và quyền công dân trong nhà

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

128. Hội luật gia Việt Nam (2007), Pháp luật quốc gia và quốc tế về bảo vệ

nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

129. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về Quyền con người, Nxb Công An

quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

130. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người “tập tài liệu chuyên đề

nhân dân, Hà Nội.

131. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người tập hợp những bình

của LHQ”, Nxb Công an Nhân dân.

132. Trung tâm nghiên cứu Quyền con người (1998) C.Mác-Ph.Ăngghen về

luận khuyến nghị chung của Văn bản công ước LHQ, Nxb Công an Nhân dân.

quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

181

133. Ngô Đình Xây (2003) Một số vấn đề về quyền con người trong kinh điển

134. Lê Toan, Nguyễn Thị Hương (1998), Trên quan điểm Triết học Mác-Lênin

Macxit Tạp chí Nghiên cứu Con người Số 4, 2003.

135. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh (1996), Về quyền con người (C.M -

xem xét cơ sở triết học của nhân quyền, Nxb Học viện CTQGHCM.

136. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh (Chủ biên) (1997), Một số vấn đề về

AG), Nxb Lao Động, Hà Nội.

137. Hoàng văn Hảo, Chu Hồng Thanh (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền

quyền dân sự và chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

138. Hoàng Văn Hảo, Võ Khánh Vinh chủ biên (2010), Giáo dục quyền con

con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

139. Hoàng Mai Hương, Nguyễn Hồng Hải (2010), Tư tưởng của Lênin về

người: những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

140. Trần Thị Hòe (2005), Bảo đảm quyền con người trong thời kỳ đổi mới ở

Quyền con người và giá trị thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

141. Nguyễn Quang Hiền, Pháp luật là phương tiện quan trọng bảo vệ quyền

Việt Nam, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5.

142. Học viện Quan hệ quốc tế (2004), Dân chủ, quyền con người và mậu dịch

con người, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1/2004.

143. Mai Quỳnh Nam (chủ biên) (2009), Con người văn hóa quyền và phát

tự do, Tạp chí Quan hệ Quốc tế, số 16.

144. Mourgon Jacques, Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người, Sách dịch.

145. Huỳnh Thị Sương Mai (2008), Quyền con người: sự vi phạm và cứu trợ -

triển, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

cơ chế bảo trợ nhân quyền ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, Tạp chí nghiên

146. Cao Đức Thái (chủ nhiệm), Quyền con người trong thời kỳ đổi mới –

cứu con người, số 4.

147. Nguyễn Văn Thạo - Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên) (2011), Tìm hiểu

thành tựu, vấn đề và phương hướng giải quyết (Đề tài cấp nhà nước), 2005.

một số thuật ngữ trong văn kiện đại hội XI của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

182

148. Trịnh Xuân Thắng, Vai trò các tổ chức XHDS đối với Công tác xã hội,

149. Đoàn Trường Thụ, (2006), Luận án Tiến sỹ triết học Quyền con người -

Tạp chí Lý luận Chính trị số 12-2013.

150. Lê Minh Thông (1998), Quyền con người quá trình hình thành và phát

Thước đo quan trọng của tiến bộ xã hội.

151. Lê Minh Thông (2000), Hoàn thiện cơ chế pháp luật bảo đảm quyền con

triển, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, số 2, tr.12-23.

152. Nguyễn Phú Trọng (2011), Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước

người ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8.

pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Chính trị Quốc gia,

153. Nguyễn Hữu Trí (2001), Các quan niệm về Quyền con người, Tạp chí Lý

Hà Nội.

154. Nguyễn Trung Tín (2009), Về các đặc điểm của Quyền con người, Tạp chí

luận Chính trị, số 11.

155. Lại Văn Trình (2011), Luận án tiến sỹ luật học Bảo đảm quyền con người

Nhà nước và Pháp luật, số 7.

của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học

156. TTNCQCN Thành phố Hồ Chí Minh (1997), Các văn kiện quốc tế về

Luật thành phố Hồ Chí Minh (http://www.slideshare.net).

157. TTNCQCN Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Hội nghiên cứu

Quyền con người, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

nhân quyền Trung Quốc (2003), Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam (truyền

158. TTNCQCN - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và khoa Luật

thống lý luận và thực tiễn), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Châu Á TBD thuộc đại học tổng hợp Sedey, Úc (2001, 2002), Tài liệu dịch: Nhân

quyền lý luận và thực tiễn cách tiếp cận triết học, chính trị học, luật học và đạo đức

159. TTNCQCN - Khoa Luật ĐHQG (2012), Bảo vệ và thúc đẩy quyền con

học, Thư viện TTNCQCN mã số 31,32,33.

160. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người (2005), Luật nhân đạo quốc tế -

người trong khu vực ASEAN, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

Những vấn đề cơ bản, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

183

161. Tường Duy Kiên (2003), Nhà nước: cơ chế bảo đảm quyền con người,

162. Umozurike (1999), Quyền con người và phát triển, Tạp chí Khoa học xã

Tạp chí nghiên cứu Lập pháp, số 2.

163. Nguyễn Đăng Quang (2005), Quan hệ giữa nhân quyền và phát triển, Tạp

hội, số 8.

164. Quyền dân chủ, Thư viện viện Nghiên cứu con người, số ký hiệu TL.

chí Lý luận Chính trị, số 2.

165. Phạm Ích Khiêm, Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người trong thế giới

0616, tr.325.

166. Mai Hồng Quỳ (chủ biên) (2010), Hành trình của quyền con người những

hiện đại: nghiên cứu và thông tin, đề tài KX-07.

167. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2010), Quyền con người tiếp cận đa ngành và

quan điểm kinh điển và hiện đại, Nxb Tri thức, Hà Nội.

168. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2010), Quyền con người – tiếp cận liên ngành

liên ngành luật học, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

169. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2009), Quyền con người tiếp cận đa ngành và

và đa ngành luật học, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

170. Võ Khánh Vinh (2010), Giáo dục quyền con người, những vấn đề lý luận

liên ngành Khoa học xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

171. Võ Khánh Vinh (2011), Quyền con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

172. Nguyễn Văn Vĩnh (2005), Triết học chính trị về quyền con người, Nxb

và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

173. Viện Nghiên cứu quyền con người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

của một số nước về tiếp cận thông tin, Nxb Công An nhân dân, Hà Nội.

174. www.amnesty.org/en/united-nations/universal-periodic-review/role-of-

TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI

175. CHRI (commonwealth Human Rights initiative). CHRI 2011 report: a

civil-society;

partnership for human rights: civil society and national human rights institutions;

184

176. Conor Gearty, Human rights, civil society and the challenge of terrorism -

177. David skidmore

A Centre for the Study of Human Rights report (www.lse.ac.uk/humanrights).

(2001), Civil society, Social capital, Economic

178. David P.Forsythe (2000), Human Rights in International Relations,

development, (www. getcited.org), ngày 26/8/2004.

179. Goodhart Micheal (2005), Democracy as human rights freedom and

Cambridge.

180. Goran Therborn, Ambiguous

equality in the Age of Globalization, New York Routledge.

ideals and problematic outcomes:

democracy, civil society, human rights, and social justice, Democracy. Reality and

Responsibility Pontifical Academy of Social Sciences, Acta 6, Vatican City

181. Human Rights Approach to Development: Case of EU-ACP Partnership

182. Human

2001,www.pass.va/content/dam/scienzesociali/pdf/acta6/acta6-therborn.pdf

Rights in

183. John M.Ackerman, human rights and social Accountability, www

UNDP,www.undp.org/governance/docs/HRPN_English.pdf.

portals.wi.wur.nl/files/docs/gouvernance/HumanRightsandSocial0AccountabilityFINA

184. J.symonides (2000), Human Rights: concept and standards, UNESCO

185. Ken

L.pdf.

Bonneville, Civil Society and Human Rights

186. Kwadwo Appiagyei-Atua, civil society, human rights and development in

(https://www.du.edu/korbel/hrhw/researchdigest/russia/civilsociety.pdf)

africa: an important analyse (…)Civil society discusses human rights implications,

187. Negad El-Borai, Civil Society and Human Rights in Egypt

(http://www.cnudhd.org)

188. Michael Freeman, The Philosophical Foundations of Human Rights,

, Egyptian-Style Waltz, 2004-2009

Human Rights Quarterly, Vol. 16, No. 3 (Aug., 1994), pp. 491-514, The Johns

189. Richard Falk (2009), Achieving human rights, First published 2009, by

Hopkins University Press (http://www.jstor.org/stable/762434)

Routledge 270 Madison Ave, New York, NY 10016 Simultaneously published in the UK.

185

190. Rachel A. Cichowski, civil society and the European court of human

191. Sitharamam Kakarala, Human Rights, Pluralism and Civil Society

rights, University of Washington Seattle WA 98195.

Reflecting on contemporary challenges in India, Pluralism Working Paper, no 6 ,

2010,by the Promoting Pluralism Knowledge Programme, jointly coordinated by:

Humanist Institute for Co-operation with DevelopingCountries P.O. Box 85565 | 2508

192. Tim Dunne and Nicholas J.Wheeler (1999), Human Rights in global

CG The Hague |The Netherlands www.hivos.net .

193. UNDP (1998), Itegrating Human Rights with sustainable human

politics, Cambridge University Press.

194. www.worldcivilsociety.org/documents/18.11_wortley_david.doc&usg=A

development.

195. William H.Thornton, Human Rights and Power Politics in the New Moral

LkJrhhLxWzP4tngy4QaPlzcVsnesULBhQ;

Realism, International Journal of Politics, Culture, and Society, Vol. 14, No. 2

196. Vai trò của XHDS trong việc thực hiện quyền con người và luật nhân đạo,

(Winter, 2000), p.p. 315-332 (http://www.jstor.org/stable/20020079).

Handicap International, Diễn đàn Xã hội dân sự toàn cầu tại Geneva tháng 7/2002.

197. Nguyễn Tấn Dũng, Bài phát biểu năm mới 2014, (http://baochinhphu.vn),

MỘT SỐ TRANG WEB

198. Lê Hữu Nghĩa, Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của xã hội XHCN

ngày 1/1/2014.

199. Vũ Hữu Ngoãn, Về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

mà nhân dân ta đang xây dựng (http://www.dangcongsan.vn) ngày 17/1/2011.

200. Bảo đảm

chủ, văn minh, (http://www.qdnd.vn) ngày 13/1/2010.

thực hiện quyền con người trong Hiến pháp 2013

201. Các

(http://dangcongsan.vn) ngày 28/3/2014.

tổ chức xã hội vận động mở rộng các quyền tự do,

202. Cơ chế quốc gia bảo vệ nhân quyền (http://www.nhanquyen.vn).

(http://www.nhanquyen.vn).

186

203. Cuối 2013, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn 7,6% (http://vov.vn), ngày

204. Dự

28/6/2013.

luật nhân quyền Việt Nam của Hạ viện Mỹ là sai trái,

205. Giới thiệu về TT CEPEW (http://cepew.org).

206. Hậu UPR: Cơ hội hợp tác cho các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam và

(http://dantri.com.vn) ngày 14/9/2012.

207. Human Rights Watch: Tổ

Chính phủ vì quyền con người, (http://isee.org.vn) ngày 20/8/2014.

chức đội lốt nhân quyền,

208. ISEE phát biểu về quyền LGBT ở Việt Nam tại phiên thông qua báo cáo

(http://www.nhandan.com.vn) ngày 23/10/2012.

209. Nghị quyết A/52/469 ngày 20/10/1997 của Đại hội đồng Liên hợp

UPR Việt Nam (http://isee.org.vn) ngày 20/6/2014.

210. Mạng lưới giáo dục Quyền con người toàn cầu www.hrea.org/index.php

211. Một

quốc, đoạn 11, (http://www.unhchr.ch/huridocda).

số so sánh quyền con người với quyền công dân,

212. Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế (1948), (http://thuvienphapluat.vn).

213. Tuyên bố Viên và Chương trình Hành động, (http://vi.wikipedia.org).

214. Tình hình phát triển lĩnh vực báo chí 2014, (http://mic.gov.vn), ngày

(http://www.tapchicongsan.org.vn), ngày 23/1/2013.

215. http://www.ohchr.org/Documents/Issues/Development/OpenLetterHC.pdf

216. http://thanhtra.com.vn/54-to-chuc-xa-hoi-dan-su-phan-doi-hanh-vi-pha-

24/12/2014.

217. Việt Nam: Các tổ chức dân sự xã hội hợp tác với công dân nhằm kêu gọi

hoai-hoa-binh-cua-trung-quoc_t221c67n72670.html.

chính phủ công khai, minh bạch và nâng cao trách nhiệm giải trình

218. UNDP, Báo cáo phát triển năm 2000 (http://hdr.undp.org)

219. http://icevn.org/vi/node/351

220. http://www.crvp.org/book/Series03/III-23/chapter-12.htm

221. Worldbank,

(http://cdivietnam.org).

Báo cáo phát triển Việt Nam 2010,

(http://siteresources.worldbank.org)

187

222. http://isee.org.vn/vi/Blog/Article/vai-tro-cua-cac-to-chuc-xa-hoi-trongqua-

223. Quan điểm và chính sách của Việt Nam về quyền con người,

trinh-xay-dung-phap-luat

224. Tuyên ngôn về giáo dục nhân quyền của Liên hợp quốc,

(www.mofahcm.gov.vn), tháng 7/2007

225. http://www.hrea.org.

(http://www.nhanquyen.vn).

188

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Văn bản pháp lý thúc đẩy các yếu tố xã hội dân sự

Hệ thống pháp luật nước ta đang dần tạo ra hành lang pháp lý cho các yếu tố

XHDS phát huy vai trò của mình.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, Chính phủ đã ban

hành nhiều văn bản pháp quy tạo điều kiện cho các loại hình tổ chức của nhân dân ra

đời: ngoài Hiến pháp, một hệ thống các văn bản pháp lý khác là tiền đề trực tiếp cho

sự phát triển XHDS Việt Nam:

Nghị định - Luật 102/SL, 20/5/1957 của Chủ tịch nước ban hành các quy định

về Quyền thành lập các Hiệp hội;

Nghị định 258 ngày 14/6/1957 về các quy định chi tiết hướng dẫn việc thi hành

Luật 102/SL 1957;

Chỉ thị 01 ngày 5/2/1989 của Chỉ tịch Hội đồng Bộ trưởng về quản lý việc tổ

chức và hoạt động của các tổ chức quần chúng;

Thông tư 07 ngày 6/1/1989 của Ban Tổ chức Chính phủ hướng dẫn việc thi

hành Chỉ thị 01;

Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 27/3/1990 của Bộ Chính trị về đổi mới chính

sách huy động quần chúng của Đảng, tăng cường các quan hệ giữa Đảng và cộng đồng

dân cư;

Chỉ thị 202 ngày 05/6/1990 của Chủ tịch Hội đông Bộ trưởng v/v thi hành quy

định của Chính Phủ liên quan tới sự thành lập các hiệp hội;

Nghị định 35/HĐBT ngày 28/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng v/v thành lập các

tổ chức khoa học và công nghệ phi lợi nhuận;

Năm 1995, Nhà nước ban hành Bộ luật Dân sự nhằm quy định quyền và nghĩa

vụ của công dân. Năm 2005, Bộ luật này được sửa đổi, bổ sung đã tăng cường vị trí,

vai trò cho các tổ chức địa phương, tổ chức cơ sở. Dự kiến các tổ chức này sẽ đăng ký

là các tổ chức xã hội hoặc xã hội – nghề nghiệp hoặc là các quỹ xã hội, từ thiện tại ủy

ban nhân dân xã/phường. Điều này thể hiện một sự tiến bộ rất lớn trong hành động của

Đảng với các tổ chức XHDS để mang lại tiếng nói chính thức cho các tổ chức này. Họ

hoạt động có tư cách pháp nhân.

Năm 1998, Chính phủ ban hành NĐ số 29 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã

với mục đích thực hành dân chủ ở nông thông, đảm bảo dân biết, dân bàn, dân làm,

dân kiểm tra. Đến năm 2003 Nghị định này được tăng cường và bổ sung bao hàm việc

đề cập đến vai trò của các tổ chức quần chúng và các hội nghề nghiệp.

Thông tư 143/TB-TW ngày 5/6/1998 về ý kiến của Ủy ban Thường vụ Bộ

Chính trị về tổ chức, hoạt động và quản lý các Hiệp hội Nghề nghiệp; Nghị định

177/NĐ-CP ngày 22/12/1999 của Thủ tướng Chỉnh phủ quy định về Tổ chức và Hoạt

động của các Quỹ Xã hội và Quỹ từ thiện;

Quyết định 21/QĐ-TTg ngày 29/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ về các Quỹ

của Chính phủ cho các hiệp hội nghề nghiệp chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và

các hiệp hội nghề nghiệp liên quan tới các hoạt động có gắn với các nhiệm vụ của Nhà

nước;

Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ Quy định về tổ

chức, hoạt động và quản lý hội. Nghị định này quy định về tổ chức, hoạt động và quản

lý Nhà nước đối với hội, khái niệm, đặc điểm, phạm vi hoạt động, quyền lợi, trách

nhiệm của Hội (NĐ này thay cho NĐ 88/2003/NĐ-CP). Theo các văn bản này, hội là

những tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở

thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường

xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên; hỗ trợ nhau

hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Tiếp theo, các quỹ phi chính phủ thành lập theo Nghị định 148/NĐ-CP /2007.

Quỹ là tổ chức phi chính phủ có tư cách pháp nhân do một hoặc nhiều cá nhân, tổ chức

tự nguyện dành một khoản tài sản nhất định để thành lập hoặc thành lập thông qua hợp

đồng, hiến tặng, di chúc, nhằm mục đích hỗ trợ văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể

thao, khoa học, từ thiện, nhân đạo và các hoạt động vì lợi ích cộng đồng, không vì mục

đích lợi nhuận (theo báo cáo của Bộ Nội vụ, hiện nay có hàng ngàn tổ chức đăng ký

hoạt động dưới dạng này tại Việt Nam).

Quyết định 64/2001/QĐ-TTG v/v ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện

trợ phi chính phủ nước ngoài. Quyết định này đề cập đến Viện trợ Phi chính phủ, viện

trợ đề cập trong Quy chế này được hiểu là viện trợ không hoàn lại và trợ giúp không vì

mục đích lợi nhuận của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, các tổ chức khác và cá

2

nhân người nước ngoài, kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài hỗ trợ cho các

Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức nhân dân (bao gồm các đoàn thể quần chúng, các

tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và một số tổ chức khác) của

Việt Nam thực hiện các mục tiêu nhân đạo và phát triển dành cho Việt Nam.

Quyết định số 22/2002/QĐ – TTG ngày 30/1/2002 của Thủ tướng Chính phủ về

hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ

thuật Việt Nam (Các hội thành viên của LHHVN cũng được hưởng các quyền theo

quyết định này). Quyết định này mở ra cơ hội cho người dân thông qua các tổ chức

XHDS tham gia cung cấp dịch vụ công và phản biện xã hội.

NQ 05/2005/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18/4/ 2005 của Chính phủ về

đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa...

Dự thảo luật về Hội được đưa ra từ năm 2006, đến nay đã có 11 lần dự thảo và

nhận được sự tranh luận của đông đảo của các tầng lớp nhân dân trong xã hội.

Pháp lệnh Số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 v/v thực hiện dân chủ ở

xã, phường, thị trấn. Pháp lệnh này quy định những nội dung phải công khai để nhân

dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham

gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám

sát... Việc ban hành pháp lệnh này đã thẻ hiển rất rõ hành động của Quốc hội, cơ quan

quyền lực cao nhất của nhân dân trong việc thực hành và phát huy dân chủ của người

dân. Một bước tiến trong quá trình dân chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay.

Mới đây nhất, 2015 Chính phủ ban hành nghị định số 4 về thực hiện dân chủ

trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Mục

đích của NĐ là nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức và nâng

cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Góp phần xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức, viên chức là công bộc của nhân dân, có đủ phẩm chất chính trị, phẩm

chất đạo đức, lối sống, năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm việc có năng

suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới của đất nước. Phòng

ngừa, ngăn chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách

nhiễu nhân dân.

Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật nước ta đã và đang trở nên ngày càng hoàn thiện

hơn, bao quát tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chỉ tính từ năm 1986 đến nay

3

(tháng 7/2007), Việt Nam đã ban hành 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó, có

hơn 40 bộ luật và luật, trên 120 pháp lệnh, gần 850 văn bản của Chính phủ và trên 3.000

văn bản pháp quy của các bộ, nghành được thông qua và thực thi.

Như vậy, các quyền của con người được quy định trong hiến pháp không ngừng

được cụ thể hóa thông qua các văn bản pháp quy, điều này, tác động lớn đến sự phát

triển của XHDS đặc biệt là tính chất pháp quyền và mục tiêu vì sự phát triển bền vững

của con người.

Phụ lục 2: Tổng hợp các dạng hành động tập thể ở Việt Nam

Dưới đây là một số bảng khảo sát về các tổ chức xã hội, các dạng hành động tập thể ở

Việt Nam do Viện Nghiên cứu những vấn đề phát triển (VIDS) tiến hành khảo sát năm

2006 [42].

Bảng 1: Các dạng hành động tập thể và người khởi xướng

Người khởi xướng Hệ thống các loại hình Các phong trào từ thập niên 90 tới nay

Cơ quan Đảng. Cơ quan Nhà nước Tổ chức chính trị - xã hội Tổ chức xã hội (hội, các tổ chức phi chính phủ...). Tổ chức tôn giáo. Viện nghiên cứu. Nhóm sơ cấp, thứ cấp. Họ hàng. Tập thể. Cộng đồng. Cá nhân.

Các hành vi tập thể và các phong trào xã hội. Vận động/ Chiến dịch/ Các nỗ lực tập thể/ Phong trào xã hội. Chính thức và Không chính thức (Từ trên xuống và từ dưới lên) Cách mạng/ Cải cách/ Kháng cự. Loại hình theo lĩnh vực/ vấn đề (kinh tế, mở rộng, chuyển giao công nghệ, từ thiện, xã hội, văn hoá).

Bảo thọ Đình công, tranh chấp công nghiệp Bảo vệ Môi trường Chỉnh đốn, xây dựng năng lực Đảng Giảm nhẹ Thiên tai Doanh nhân trẻ Doanh nhân nhỏ và vừa Hiến máu Nhân đạo Khuyến học Đền ơn đáp nghĩa Ngày vì người nghèo Người tốt việc tốt Quy chế Dân chủ cơ sở Thanh niên lập nghiệp Thi đua Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư Toàn dân tham gia bảo đảm an toàn trật tự giao thông Toàn dân xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc Trẻ nghèo vượt khó Trở về với truyền thống Uống nước nhớ nguồn

4

Giảm nghèo

Bảng 2: Các Tổ chức Xã hội theo những Dạng thức xã hội khác nhau

Dạng thức Xã hội

Xã hội truyền thống Đặc trưng Phân cấp bậc cao. Nới lỏng mạng lưới.

Dạng của Tổ chức xã hội Đoàn thể/Tổ chức Tôn giáo. Phường hội. Mạng lưới xã hội. Tổ chức Quần chúng. Hiệp hội Nghề nghiệp. Hội Tôn giáo.

Tập trung hoá dân chủ nhấn mạnh hơn vào tập trung hoá. Một số Hiệp hội chọn lọc. Nhấn mạnh vào các chức năng chính trị của tổ chức.

Xã hội trên cơ sở nền Kinh tế kế hoạch Xã hội Chủ nghĩa (cuối thập niên 50 ở phía Nam, cuối thập niên 79 tới cuối thập niên 80 trên toàn quốc)

Xã hội trên cơ sở nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (cuối thập niên 80 tới nay) Tổ chức Quần chúng. Hiệp hội Nghề nghiệp. Tổ chức Bán Chính phủ/ Công. Tổ chức Phi chính phủ. Tổ chức phi lợi nhuận. Hội Tôn giáo. Hội Kinh doanh. Mạng lưới không chính thức. Tập trung hoá dân chủ có tính đến mở rộng sự tham gia từ cơ sở lên trên/dưới lên. Sự đa dạng về các loại hình tổ chức xã hội. Sự đang dạng trong các lĩnh vực hành động chú trọng tới phát triển và công tác an sinh.

Bảng 3: Các đặc trưng của ban dạng nỗ lực tập thể và phong trào xã hội

Dạng 1: Các phong trào chính thống Dạng 3: Các tập thể

Phong trào vận động Dạng

Lĩnh vực hoạt động Tác động tới chính sách Môi trường Kinh tế An sinh Từ thiện

Các nỗ lực tập thể Kinh tế An sinh Tác động chính sách Từ thiện Hoạt động tôn giáo Lỏng lẻo

Những đặc điểm về cấu trúc

Quy mô lớn, tổ chức hành chính nhiều cấp bậc Phương pháp tiến cận từ trên xuống Kiểu nhà hát Kế hoạch chương trình; hành động;Hội thảo; Dạng 2: Các tổ chức nhóm chung mối quan tâm Những nỗ lực tập thể Phong trào Tác động tới chính sách Môi trường Kinh tế An sinh Từ thiện Hoạt động tôn giáo Nhóm gồm những người ưu tú và năng động Tổ chức quy mô vừa và nhỏ Họp; Hội thảo;Khuyến nghị Áp lực của nhóm nhỏ Cách thức hành động

5

Vận động hành lang; Vận động

Khuyến nghị; Vận động hành lang; Vận động Có tổ chức Không chính thức Tổ chức

(Hiệp) hội; Quỹ; Trung tâm Nhóm nhỏ Tập thể

Dạng tổ chức

Cao Có tổ chức; Không chính thức (Hiệp) hội; Quỹ; Viện nghiên cứu; Đại học Trung tâm; Đơn vị/ Tổ chức tôn giáo Hạn chế Không

Người dân Chính phủ Nhà tài trợ nước ngoài Chính phủ; tư nhân Nhà tài trợ nước ngoài Mức độ nguồn tài trợ Nguồn tài trợ chính

6