VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ HƢƠNG THU
VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG ĐỐI NGOẠI
CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG QUAN HỆ VỚI
TRUNG QUỐC HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2022
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ HƢƠNG THU
VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG ĐỐI NGOẠI
CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG QUAN HỆ VỚI
TRUNG QUỐC HIỆN NAY
Ngành: Chính trị học
Mã số: 9.31.02.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DOÃN THỊ CHÍN
Hà Nội - 2022
LỜI CAM ĐOAN
C
Tác giả luận án
Hoàng Thị Hƣơng Thu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................................. 6
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng đối ngoại
Hồ Chí Minh ............................................................................................. 6
1.2. Những công trình liên quan đến vận dụng tư tưởng đối ngoại
Hồ Chí Minh trong quan hệ đối với Trung Quốc ................................... 22
1.3. Đánh giá những kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án và
vấn đề đặt ra luận án cần giải quyết ........................................................ 25
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 27
Chƣơng 2: TƢ TƢỞNG ĐỐI NGOẠI HỒ CHÍ MINH ............................ 28
2.1. Các khái niệm ................................................................................... 28
2.2. Nội dung cơ bản tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh .......................... 35
2.3. Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh với Trung Quốc ......................... 67
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 77
Chƣơng 3: QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI TRUNG
QUỐC TỪ 1991 ĐẾN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH .......... 79
3.1. Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
từ 1991 đến nay ....................................................................................... 79
3.2. Thực trạng quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc từ 1991
đến nay theo tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh ....................................... 91
3.3. Những vấn đề đặt ra trong việc vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh đối với quan hệ Việt – Trung................................................ 129
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 136
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG
ĐỐI NGOẠI HỒ CHÍ MINH TRONG QUAN HỆ VIỆT - TRUNG .... 137
4.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quan hệ đối ngoại
với Trung Quốc dưới ánh sáng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh ............. 137
4.2. Giải pháp vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong việc
tăng cường quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc ....................... 149
Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................ 162
KẾT LUẬN .................................................................................................. 163
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ .... 167
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 167
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại, nhà hoạt động quốc tế
xuất sắc, chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc, sứ giả của
hòa bình và hữu nghị. Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người
đã để lại kho tàng lý luận, tư tưởng cách mạng và khoa học vô giá cho dân tộc
Việt Nam. Trong toàn bộ di sản ấy, tư tưởng đối ngoại của Người được hình
thành trên cơ sở kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, từ sự
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, thông qua quá trình khảo sát thực tiễn trong nước và thế giới.
Những quan điểm đó đã trở thành đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại
của Đảng, được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn
trong cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân và trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Trên cương vị Chủ tịch nước và Bộ trưởng ngoại giao đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh được thể hiện
sâu sắc trong các mối quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới. Người rất
chú trọng tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, xử
lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn, phấn đấu mở rộng quan hệ quốc tế của
Việt Nam theo hướng đa dạng hóa: Nước Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất
cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai, khẳng định nhân dân
Việt Nam luôn rộng mở chào đón nhân dân các nước trên thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng mối quan hệ hữu nghị với
Trung Quốc, một nước láng giềng gần gũi, “núi liền núi, sông liền sông”, vừa
là đồng chí vừa là anh em với Việt Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, nhân dân Trung Quốc
đã luôn ủng hộ về vật chất và tinh thần, góp phần vào công cuộc đấu tranh
giải phóng của dân tộc Việt Nam. Để có được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân
1
dân Trung Quốc đối với Việt Nam, bên cạnh những thành quả của ngoại giao
nhà nước, phải kể đến mối quan hệ sâu sắc, thân tình của hai vị Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Mao Trạch Đông. Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền
móng và luôn vun đắp, làm sâu sắc thêm mối quan hệ giữa hai nhà nước và
nhân dân hai nước Việt - Trung.
Trước những biến động của tình hình thế giới, xu hướng đa cực, đa
trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, nhưng đấu tranh, thỏa hiệp, nhưng kiềm
chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cường quyền nước
lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát
triển, các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Việt Nam và
Trung Quốc đều là những nước chịu tác động to lớn từ tình hình thế giới.
Đồng thời, là hai nước láng giềng gần gũi, có sự tương đồng về thể chế chính
trị và lựa chọn con đường phát triển, tương thông về văn hóa, xã hội và truyền
thống giao lưu nhân dân. Việc gìn giữ mối quan hệ truyền thống tốt đẹp của
hai Đảng, hai nhà nước và nhân dân ngày càng toàn diện và hiệu quả hơn, góp
phần quan trọng vào việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định thuận lợi cho
công cuộc phát triển và bảo vệ Tổ quốc là nhu cầu tất yếu trong sự nghiệp
phát triển của hai nước. Tiếp tục kế thừa nền tảng quan hệ Chủ tịch Mao
Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách trong
giai đoạn hiện nay.
Đối với Việt Nam, việc vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh
nhằm củng cố và phát huy truyền thống hữu nghị của nhân dân hai nước, tăng
cường sự tin cậy chính trị giữa hai Đảng, hai nước. Kiên trì bảo vệ vững chắc
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội và đảm bảo các lợi ích chiến lược của đất nước theo tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh cần được Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng
hơn trong tình hình mới. Những kết quả đáng khích lệ trong quan hệ Việt
Nam - Trung Quốc cũng như sự phát triển, ổn định của mỗi nước mang đến
cho chúng ta kỳ vọng về một giai đoạn phát triển mới. Tuy nhiên, cùng với
2
những kết quả đã đạt được, quan hệ giữa hai nước cũng tồn tại và đối mặt với
những khó khăn thách thức mới, như việc bất đồng trong nhận thức một số
vấn đề quốc tế, nhất là bất đồng trên biển Đông cần được giải quyết một cách
có lý, có tình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh, khai thác và vận dụng sáng tạo quan điểm đó của Người
vào việc xây dựng đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
nói chung và với Trung Quốc nói riêng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài “V ụ ở ạ
H C M ớ Q ” làm đề tài luận án
tiến sĩ, chuyên ngành Chính trị học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Luận án nghiên cứu nội dung cơ bản tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh
và vận dụng vào đánh giá thực trạng, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm
tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại trong quan hệ với Trung
Quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian tới
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu làm rõ nội dung tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm trong quan hệ với
Trung Quốc từ 1991 đến nay
- Đề xuất giải pháp chủ yếu để tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh trong quan hệ với Trung Quốc thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh; vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh trong quan hệ đối ngoại với Trung Quốc.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về ộ : Tập trung nghiên cứu tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh
và sự vận dụng của Đảng ta trong quan hệ với Trung Quốc hiện nay.
- Về ông gian: Luận án được thực hiện trên địa bàn đất nước Việt Nam
3
- Về ờ : Luận án nghiên cứu thực trạng vận dụng tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh trong quan hệ với Trung Quốc của Đảng ta từ năm 1991
đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Lịch sử - logic;
phân tích, tổng hợp; thống kê, định lượng, định tính, so sánh, gắn lý luận với
thực tiễn, phân tích hành vi... Các phương pháp được sử dụng phù hợp với
yêu cầu cụ thể của luận án:
- Phương pháp logic được vận dụng để làm sáng tỏ nội hàm, bản chất
các khái niệm cơ bản của luận án: khái niệm đối ngoại, tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh; phân tích luận giải nội dung tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh;
khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại trong công tác đối
ngoại của Đảng. Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao
hiệu quả công tác đối ngoại với Trung Quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp lịch sử được vận dụng để làm rõ tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh; thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại với Trung
Quốc từ năm 1991 đến nay.
- Các phương pháp tổng hợp, so sánh, gắn lý luận với thực tiễn được
vận dụng nhằm làm rõ thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối
ngoại với Trung Quốc và yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí trong công tác đối ngoại với Trung Quốc của Đảng ta hiện nay.
- Phương pháp phân tích tài liệu nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu,
đánh giá các quan điểm của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam và
các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu, nhà hoạt động thực tiễn
trong công tác đối ngoại của Đảng.
5. Đóng góp mới của Luận án
- Luận án đã lựa chọn và phân tích rõ hơn các khái niệm “đối ngoại” và
“tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh”.
4
- Luận án khẳng định giá trị khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh về đối
ngoại đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam.
- Luận án phân tích, làm rõ thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đối ngoại trong quan hệ với Trung Quốc từ năm 1991 đến nay, chỉ rõ
những vấn đề đặt ra trong công tác đối ngoại với Trung Quốc hiện nay.
- Luận án đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục vận dụng tư tưởng đối ngoại
Hồ Chí Minh trong quan hệ với Trung Quốc giai đoạn hiện nay và giai đoạn
tiếp theo.
6. Ý nghĩa thực tiễn của Luận án
- Luận án góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh nói riêng và nghiên cứu di sản tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
- Luận án hoàn thành sẽ góp phần làm rõ hơn những giá trị bất biến tư
tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại trong nghiên cứu khoa học chính trị nói
chung, tham mưu cho các cơ quan đối ngoại của Việt Nam.
- Luận án làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở nghiên cứu khoa học,
các trường đào tạo bậc đại học và sau đại học trong nhóm ngành khoa học
chính trị, khoa học xã hội và nhân văn.
- Luận án làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy chuyên đề cho ngành
Hồ Chí Minh học và Quan hệ quốc tế.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình công bố có liên quan
đến luận án của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được
kết cấu thành 4 chương (9 tiết).
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh
- Về đề tài khoa học và sách
Trong đề tài Nghiên c ởng H Chí Minh, do Giáo sư Đặng Xuân
Kỳ làm chủ nhiệm, là Chương trình khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KX
- 02 (1991-1995). Chương trình này gồm 13 đề tài cấp nhà nước, trong đó có
đề tài H Chí Minh với th giới, mỗi đề tài nghiên cứu một cách toàn diện và
có hệ thống một khía cạnh trong tư tưởng của Người. Chương trình cung cấp
cho chúng ta cái nhìn tổng thể về lý luận, quan điểm toàn diện, sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và sự vận dụng, phát triển
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta. Mặc dù, đề
tài không đề cập trực tiếp tới tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh song những nội
dung liên quan tới tư tưởng của Người, trong đó có cả những luận điểm về đối
ngoại của Hồ Chí Minh được đề cập và trình bày tản mạn đều là những tư liệu
thiết thực giúp tác giả luận án tham khảo, kế thừa có chọn lọc trong quá trình
hoàn thiện luận án.
Cuốn sách 50 ă ạ V N ớ ã ạ Đ
Cộ V N Học viện Quan hệ quốc tế (1995), Kỷ yếu hội thảo khoa
học là tập hợp các báo cáo, tham luận của các nhà nghiên cứu, các nhà ngoại
giao chuyên nghiệp, các nhà hoạt động thực tiễn đã tổng kết về công tác đối
ngoại và hoạt động ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh; sự nhìn nhận, đánh giá về tình hình thế giới và xu thế phát triển trong
quan hệ quốc tế; những quan điểm chỉ đạo về đường lối, chiến lược, sách lược
ngoại giao của Đảng, của Hồ Chí Minh đã góp phần làm nên thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng; nhiều bài viết đã giúp người đọc có cái nhìn khái quát về
6
nền ngoại giao Việt Nam qua 50 năm hoạt động, phát triển. Đây là tài liệu có
nhiều nội dung liên quan sát với vấn đề tác giả nghiên cứu, do vậy, chắc chắn
sẽ tiếp thu, kế thừa được nhiều nội dung phù hợp trong quá trình hoàn thiện
luận án.
Trong cuốn ể ở H C M ề ộ ấ ề ,
Phan Ngọc Liên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Đây là kết quả
nghiên cứu chính của đề tài cấp Nhà nước (KX.02.07) do Phan Ngọc Liên chủ
nhiệm. Công trình nghiên cứu về các hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh, từ
khi ra đi tìm đường cứu nước, tham gia thành lập và chỉ đạo hoạt động ở một
số tổ chức cách mạng quốc tế, đến những hoạt động đối ngoại và ngoại giao
của Người trên cương vị nguyên thủ quốc gia. Thông qua các sự kiện, khẳng
định Hồ Chí Minh đã có đóng góp to lớn trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế; những hoạt động của Hồ Chí Minh đã gắn phong trào cách
mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới; tranh thủ được sự ủng hộ,
giúp đỡ của phong trào cách mạng thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Tác
giả đã bước đầu khái quát một số nội dung mang tính lý luận và thực tiễn của
tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế.
Cuốn sách Nă ơ ă ại giao Vi t Nam (1945-1995), t p 1,
Ngoại giao Vi t Nam 1945-1975, Lưu Văn Lợi, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, 1996. Cuốn sách làm sống lại những ngày đầu kháng chiến và độc lập
của dân tộc ta, được thấy rõ hơn những khó khăn của 2 cuộc kháng chiến
trường kỳ. Tác giả đã chọn lọc đúng những thời điểm quan trọng nhất trong
30 năm đầu đấu tranh ngoại giao của dân tộc ta từ 1945-1975. Đánh giá về
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tác giả Lưu Văn Lợi
khẳng định: “Trong cuộc đấu tranh cả trên ba mặt trận quân sự, chính trị, đấu
tranh ngoại giao của ta là tiến công chiến lược nhằm xây dựng và củng cố hậu
phương quốc tế của nhân dân ta, thêm bạn bớt thù, tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ về tinh thần, chính trị và vật chất của các lực lượng cách mạng và tiến bộ
trên thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta, lợi dụng mâu thuẫn
7
trong hàng ngũ kẻ thù, hỗ trợ cho các mặt đấu tranh trong nước, góp phần từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho ta”1. Như vậy, cuốn
sách đã có sự khái quát một số phương pháp ngoại giao được vận dụng trong
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, tác giả cuốn sách chưa hệ
thống hóa toàn bộ tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh đó mà chỉ mới dừng lại
những quan điểm chưa mang tính chất hệ thống nêu ra sau khi phân tích các
sự kiện lịch sử của hai cuộc kháng chiến.
Trong cuốn H Chí Minh: Nhà trí tu lớn c a nền ngoại giao Vi t Nam
hi ại, Nguyễn Phúc Luân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. Cuốn
sách đã làm rõ một số quan niệm của Hồ Chí Minh về bạn thù, về sách lược
tập hợp lực lượng bên ngoài, về chính sách đối ngoại, phương pháp dự báo
thời cuộc. “Thêm bạn bớt thù” trở thành nhiệm vụ trung tâm của hoạt động
đối ngoại, cơ sở của đường lối quốc tế, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta.
Trong cuốn ởng H Chí Minh về công tác ngoại giao, Viện Quan
hệ quốc tế, Vũ Khoan (chủ biên), Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1999. Cuốn sách nêu
lên những sự kiện kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước lãnh đạo cách
mạng tới khi cách mạng Tháng Tám thành công và thời kỳ sau cách mạng
Tháng Tám tới khi Người qua đời vào năm 1969. Qua hoạt động ngoại giao
của Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra được những tư tưởng, bài học, phương pháp
ngoại giao mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vận dụng trong thực tiễn, đem lại
những thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu cung cấp
nhiều tư liệu có giá trị lớn đối với luận án.
Trong cuốn Ngoại giao Vi t Nam trong thờ ại H Chí Minh, Bộ
Ngoại giao, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. Trong Lời tựa của cuốn
sách nêu: Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh vừa kỷ niệm 55
1Lưu Văn Lợi: Nă ơ ă ại giao Vi t Nam (1945-1995), t p 1, Ngoại giao Vi t Nam 1945 - 1975, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, tr. 393.
năm ngày thành lập. Nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh đã đi cùng dân tộc
8
trong suốt những chặng đường đáng ghi nhớ của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Ngoại giao phản ánh thời đại, mang hơi thở của thời đại, góp phần làm nên và
đóng dấu ấn thời đại. Năm mươi nhăm năm qua là thời gian xây dựng và phát
triển và trưởng thành của nền ngoại giao Việt Nam cách mạng và hiện đại.
Trong phần 2 của cuốn sách có bài tham luận: “ ởng ngoại giao H
C M ” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề cập những nội dung lớn của
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, trong đó có khái niệm tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh và một số nội dung hết sức cô đọng như độc lập tự chủ, tự lực tự
cường; tư tưởng hòa bình, chống chiến tranh phi nghĩa theo truyền thống nhân
văn của dân tộc là một tư tưởng lớn của ngoại giao Hồ Chí Minh; “Thêm bạn,
bớt thù” là một chủ trương quan trọng của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh;
“Dĩ bất bi n ng vạn bi ” là tư duy biện chứng, là phương châm, biện pháp
xem xét và giải quyết những vấn đề chiến lược; Hồ Chí Minh và Đảng ta xem
ngoại giao là một mặt trận, một nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách
mạng. Chiến lược ngoại giao là một bộ phận trong chiến lược chung của cách
mạng, bản thân nó lại có nội dung tổng hợp, kết hợp sức mạnh dân tộc.
Trong chuyên đề: “ ởng và phong cách ngoại giao H Chí Minh”
của Vũ Dương Huân khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà chính trị lỗi
lạc, một danh nhân văn hóa, một nhà tư tưởng lớn trong thời đại của chúng ta.
Tác giả nêu: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là một bộ phận hữu cơ trong
tư tưởng chung. Nói đến tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là nói ngắn gọn.
Đúng ra là tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc tế, chính sách đối ngoại và ngoại
giao. Đặc biệt, trong bài viết, tác giả có nêu lên một số p ơ p p ại
giao H Chí Minh, trong đó có phương pháp: Th nhất, kiên trì nguyên tắc,
linh hoạt sách lược, nhân nhượng có nguyên tắc (nói cách khác là tư tưởng Dĩ
bất bi n ng vạn bi n); th hai, triệt để lợi dụng trong hàng ngũ kẻ thù, phân
hóa và cô lập chúng đến cao độ; th ba, kết hợp trong nước và ngoài nước,
phối hợp các lĩnh vực, trước hết là giữa chính trị, quân sự và ngoại giao, tạo
sức mạnh cho đấu tranh ngoại giao; th , giành thắng lợi từng bước, tiến lên
9
giành thắng lợi hoàn toàn với tư tưởng tiến công cách mạng; th ă , dự
đoán và dự báo các sự kiện quốc tế và của đất nước ta; th sáu, nắm bắt thời
cơ. Cuốn sách là nguồn tài liệu quý để tác giả nghiên cứu, tham khảo.
Cuốn sách Ngoại giao Vi t Nam từ thuở d ớ ớc cách
mạng Tháng Tám 1945 (tài liệu lưu hành nội bộ), Học viện Quan hệ quốc tế,
Hà Nội, 2001. Từ chương I đến chương VIII, cuốn sách nêu lên lịch sử ngoại
giao Việt Nam từ thuở dựng nước đến trước cách mạng Tháng Tám 1945.
Chương IX, chỉ ra đặc điểm của đấu tranh ngoại giao của Tổ tiên. Trong đó
nêu rõ vị trí và tác dụng của ngoại giao trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước. Bên cạnh đó, tác giả còn nêu lên một số bài học từ thực tiễn đấu tranh
ngoại giao: Không khoan nhượng và kiên trì đấu tranh cho các mục tiêu cơ
bản của dân tộc; giương cao ngọn cờ chính nghĩa; giành thắng lợi từng bước
trong đấu tranh ngoại giao; nắm vững tình hình địch, triệt để lợi dụng và khai
thác sự bất đồng và những khó khăn trong nội bộ kẻ thù; sự kết hợp giữa tiến
công quân sự với hòa đàm thương lượng; tính chủ động và tiến công trong
đấu tranh ngoại giao,… Những bài học kinh nghiệm trong đấu tranh ngoại
giao này thực chất là những phương pháp ngoại giao trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Cùng với đấu tranh quân sự, hoạt động ngoại
giao của tổ tiên ta không những làm thất bại các mưu đồ xâm lược của phong
kiến phương Bắc mà còn làm cho kẻ địch dù hùng mạnh đến mấy cũng phải
kiêng nể dân tộc ta. Những kinh nghiệm vô cùng phong phú của đấu tranh
ngoại giao trong các thời kỳ lịch sử giữ nước và dựng nước là niềm tự hào của
dân tộc, thể hiện phong cách của Ngoại giao Việt Nam. Hoạt động ngoại giao
của tổ tiên ta đã góp phần xây đắp nền độc lập, tự do của dân tộc, bảo vệ sự
toàn vẹn lãnh thổ, sự phát triển bền vững của đất nước. Cuốn sách là tài liệu
bổ ích cho tác giả nghiên cứu, tham khảo, làm rõ hơn về tư tưởng đối ngoại
nói chung và tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh nói riêng.
Cuốn sách Ngoại giao Vi t Nam hi ại vì s nghi p ộc l p, t
do (1945 - 1975), Nguyễn Phúc Luân (chủ biên), Học viện Quan hệ quốc tế,
10
Bộ Ngoại giao, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, đã nghiên cứu những
chủ trương, chính sách ngoại giao lớn của Đảng và Nhà nước ta trong suốt
thời kỳ lịch sử 1945 - 1975. Đây cũng là công trình nghiên cứu có tính chất
tổng kết kinh nghiệm và lịch sử đấu tranh của nền ngoại giao nước nhà trong
thời kỳ thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Trong đề tài ởng ngoại giao H Chí Minh, Bộ Ngoại giao, do
Nguyễn Đình Bin chủ nhiệm, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, 2002. Các
tác giả đã phân tích các nội dung: Bối cảnh ra đời, nguồn gốc, quá trình phát
triển, nội dung cơ bản của đối ngoại Hồ Chí Minh, phương pháp, phong cách
và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Đây là tài liệu rất quan trọng và thiết
thực trình bày khá hệ thống, chuyên sâu về tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh
bao gồm những vấn đề liên quan tới nguồn gốc, nội dung cơ bản về tư tưởng
đối ngoại Hồ Chí Minh. Đây là nguồn tư liệu quý để tác giả nghiên cứu, trích
dẫn trong luận án.
Cuốn “ ở ạ H C M ” của Nguyên Dy Niên, và
“ ở H C M ề ạ - ộ ộ ơ b ” của tác giả
Đỗ Đức Hinh, là công trình nghiên cứu chi tiết lịch sử hình thành tư tưởng
ngoại giao của Hồ Chí Minh. Đồng thời, luận giải tư tưởng ngoại giao của Hồ
Chí Minh xuất phát từ tư tưởng chính trị và phục vụ mục tiêu chính trị. Ngoại
giao được thực hiện trên cơ sở các quyền dân tộc cơ bản, độc lập, tự chủ là
nền tảng của hợp tác quốc tế. Theo tác giả, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy
việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là nhiệm vụ tất yếu của
mọi cuộc cách mạng. Đồng thời, Người cũng rất chú trọng đến mối quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng, đặc biệt là các nước có chung
biên giới với Việt Nam. Không chỉ phân tích rõ những quan điểm, nội dung
cơ bản trong tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh, tác giả còn tiếp cận sâu
sắc với những phương pháp ngoại giao được Hồ Chí Minh sử dụng. Nhìn
chung, đây là một công trình nghiên cứu khá toàn diện và đa dạng trong cách
tiếp cận tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh. Với những nội dung được
11
trình bày trong cuốn sách, tác giả luận án sẽ tiếp thu, kế thừa có chọn lọc
những nội dung phù hợp, trên cơ sở đó, bổ sung, phát triển theo hướng nghiên
cứu của đề tài luận án.
Tác phẩm “B H - N ờ ĩ ạ ề ạ ạ
V N ” ngoài việc trích dẫn một số bài viết, thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi những chính khách, nhà ngoại giao trên thế giới. Còn là tập hợp bài viết
của nhiều tác giả nghiên cứu, phân tích tư tưởng và hoạt động ngoại giao của Hồ
Chí Minh để lại những bài học sâu sắc cho nền ngoại giao Việt Nam trong các giai
đoạn cách mạng. Tác phẩm trình bày tương đối hệ thống các luận điểm thể hiện tư
tưởng, quan điểm ngoại giao của Hồ Chí Minh trong những thời điểm, hoàn cảnh
lịch sử cụ thể, thể hiện tính nhạy cảm, linh hoạt và sáng tạo trong quan điểm đối
ngoại của Người. Đây là những tư liệu cần thiết để tác giả kế thừa trong quá trình
hoàn thiện đề tài luận án.
Sách “Đ ạ V N ờ ỳ ử 1945-2012” của
PGS.TS Đinh Xuân Lý, thể hiện một cách tiếp cận khác về hoạt động đối
ngoại của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh và trong giai đoạn hiện nay.
Mặc dù tác giả không đi sâu phân tích hoạt động đối ngoại của Hồ Chí Minh,
song vẫn thể hiện cách nhìn đầy đủ về vai trò của Hồ Chí Minh trong hoạt
động đối ngoại của Việt Nam thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Đồng thời, tác giả tiếp cận các hoạt động đối ngoại của Việt Nam dưới góc độ
chính trị học, quyền lợi dân tộc luôn được đặt lên hàng đầu. Chính sách đối
ngoại luôn được cân bằng với các chính sách về kinh tế, văn hóa, quân sự để
đảm bảo thắng lợi trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.
Cuốn “N ữ ể ắ ử
H C M ụ Đ ớ ” của tác giả Trần
Minh Trưởng, giới thiệu những quan điểm, nguyên tắc ứng xử trong quan hệ
quốc của Hồ Chí Minh dựa trên nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
và việc Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng quan điểm, nguyên tắc ứng xử, tư
tưởng ngoại giao trong bối cảnh, tình hình mới. Đồng thời, khẳng định những
thành tựu và hạn chế trong quan hệ của Việt Nam từ khi mở cửa đến nay.
12
Trong cuốn Góp ph n tìm hiể ởng H Chí Minh về ngoại giao của
Học viện Quan hệ quốc tế, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2002. Cuốn sách gồm một
số bài nghiên cứu của nhiều tác giả đã và đang tham gia công tác nghiên cứu,
giảng dạy và hoạt động trên Mặt trận đối ngoại của Bộ Ngoại giao. Các bài
viết được chia thành 4 phần: Phần 1: Khái quát chung về ngoại giao Hồ Chí
Minh; Phần 2: Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao; Phần 3: Một
số vấn đề về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; Phần 4: Phương pháp ngoại
giao Hồ Chí Minh. Nội dung cuốn sách là tài liệu quý để tác giả nghiên cứu
và tham khảo cho cơ sở lý luận của đề tài.
Cuốn sách Ngoại giao Vi t Nam 1945-2000, Nguyễn Đình Bin (chủ
biên), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. Các tác giả đã phác họa những
nét chính của hoạt động ngoại giao Việt Nam trong 55 năm, từ 1945 đến
2000, một thời kỳ đầy những biến động và biết bao thay đổi ở Việt Nam cũng
như trên thế giới. Cuốn sách đã tổng kết quan điểm, tư tưởng, nguyên tắc và
phương châm ngoại giao của Việt Nam trong giai đoạn khá dài, từ năm 1945
đến năm 2000. Nghiên cứu cuốn sách giúp tác giả kế thừa được những nội
dung quan trọng liên quan tới tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, phục vụ thiết
thực cho quá trình hoàn thiện đề tài luận án của mình.
Trong cuốn Ngoại giao H Chí Minh - Lấ ờng bạo do
Nguyễn Phúc Luân (chủ biên), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2003. Cuốn
sách được trình bày thành 3 phần chính: 1. Vai trò lịch sử của Hồ Chí Minh
trong quan hệ quốc tế; 2. Ngoại giao trong tâm thức Hồ Chí Minh; 3. Một số
luận lý ngoại giao Hồ Chí Minh cần nghiên cứu và ứng dụng. Đặc biệt, trong
cuốn sách, tác giả đưa ra những khái lược về thời, thời cơ; những dự báo lớn
của Hồ Chí Minh về những bước quanh của quan hệ quốc tế và thời cơ cách
mạng chuyển mình; khả năng cách mạng Việt Nam bùng nổ và giành thắng
lợi trong thế kỷ XX; phương pháp nhận thức các khả năng và tiếp cận với vấn
đề thời cơ trong hoạt động đối ngoại. Tác giả khẳng định việc phát hiện và
nắm vững thời cơ có ý nghĩa quyết định để giành thắng lợi. Đây là một trong
những phương pháp ngoại giao của Hồ Chí Minh.
13
Cuốn sách Mặt tr n ngoại giao với cuộ p P ề Vi t Nam,
Bộ Ngoại giao, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Cuốn sách tập hợp
những bài viết, bình luận của một số nhà ngoại giao lão thành đã từng trực
tiếp hoặc gián tiếp tham gia Hội nghị Pari. Cuốn sách đề cập cuộc đàm phán
Paris và Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là
đỉnh cao của mặt trận ngoại giao Việt Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước và là
thành công lớn nhất trong lịch sử ngoại giao của dân tộc thời đại Hồ Chí
Minh, để lại những bài học thực tiễn vô giá về đấu tranh ngoại giao.
Trong cuốn Hoạ ộng ngoại giao c a Ch t ch H Chí Minh từ 1954-
1969 do tác giả Trần Minh Trưởng, Nxb. Công an nhân dân, 2005. Cuốn sách
trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và quá trình vận động trong quan hệ
quốc tế từ sau Hiệp định Giơnevơ đã hệ thống lại những hoạt động ngoại giao
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến năm
1969; làm nổi bật vai trò và những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
ngoại giao trong công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, củng cố tình đoàn kết trong phong trào Cộng sản và
công nhân quốc tế. Bằng nguồn tư liệu phong phú, tin cậy, cuốn sách đã cho
thấy tư duy lãnh đạo sáng suốt, nhạy bén của Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong việc phân tích, nhận định, đánh giá, xử lý các tình huống,
sự kiện trong quan hệ quốc tế phức tạp, đa chiều của thời kỳ đầy biến cố và
sôi động.
Trong cuốn H C M ý bạ bè của tác giả Đỗ
Hoàng Linh - Phạm Hoàng Điệp, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. Ghi
lại những phát biểu, suy nghĩ và cảm tưởng của các nhà lãnh đạo, bạn bè trên
thế giới về Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà lãnh đạo kiệt xuất của Việt Nam,
người bạn lớn của nhân dân thế giới.
Trong cuốn Suy ng m về ờng phái ngoại giao H Chí Minh của tác
giả Võ Văn Sung, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010. Cuốn sách ghi lại
một số dấu ấn sâu đậm trong lĩnh vực đối ngoại và phương pháp ngoại giao
14
của Hồ Chí Minh, phân tích những nét độc đáo của ngoại giao Việt Nam thời
đại Hồ Chí Minh,… Tác giả cuốn sách đặt ra vấn đề nếu có thể cần phải từng
bước làm sáng tỏ sự độc đáo nổi bật của nền ngoại giao Việt Nam trên nền
tảng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, trong chương II của cuốn sách nêu:
Cách mạng Việt Nam đã khẳng định rằng, phương pháp cách mạng là một vế
có ý nghĩa hết sức quyết định trong ba vế đảm bảo thắng lợi của cách mạng,
đó là: Đường lối cách mạng, quyết tâm cách mạng và phương pháp cách
mạng. Đương nhiên đường lối đúng đắn và quyết tâm cao là rất cơ bản nhưng
diễn biến cách mạng Việt Nam cho thấy phương pháp cách mạng lại có ý
nghĩa quyết định nhất. Nhờ phương pháp cách mạng của nước ta theo tư
tưởng Hồ Chí Minh và phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh chính là cách
đảm bảo cho chính nghĩa được tất thắng qua hai cuộc kháng chiến. Tuy đề
cập đến phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, nhưng cuốn sách mới chỉ nói
về phương pháp “Dĩ bất bi n ng vạn bi n”, tạo sức mạnh tổng hợp và
phương pháp “Vừ ừ ”. Trong phần kết luận, tác giả khái quát
trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh có nhiều nội dung nhưng yếu tố cốt lõi,
vấn đề xuyên suốt qua mọi vấn đề là “ngoại giao ph i t tấm lòng”. Vì nói
cho cùng, quan hệ quốc tế đúng nghĩa của nó phù hợp với nguyện vọng sâu xa
của mọi người mà thể hiện quan trọng nhất là hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Trong cuốn H ạ ộ ạ C H C M ớ
ớ C Á (1954-1969), Khu Di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010. Cuốn sách tập hợp các sự kiện hoạt động
đối ngoại và ngoại giao của Hồ Chí Minh đối với các nước khu vực châu Á.
Qua đó khẳng định những cống hiến to lớn của Người trong việc thiết lập cây
cầu hữu nghị, đoàn kết giữa Việt Nam với các dân tộc châu Á vì hòa bình và
tiến bộ xã hội, cùng phát triển.
Cuốn sách Ngoại giao và công tác ngoại giao của tác giả Vũ Dương
Huân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Cuốn sách có 15 chương giới
thiệu một cách có hệ thống các nội dung của ngoại giao như: Nhận thức
15
chung về ngoại giao và công tác ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao, tiếp
xúc ngoại giao, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, lễ tân ngoại giao,
ngoại giao đa phương,... Chương I, cuốn sách đề cập đến nhận thức chung về
ngoại giao và công tác ngoại giao, trong đó nêu khái niệm ngoại giao, phân
loại ngoại giao, vài nét về sự phát triển của ngoại giao,… Cuốn sách là tài liệu
tham khảo giúp tác giả đi vào làm rõ các khái niệm về ngoại giao và một số
khái niệm liên quan.
Trong cuốn “Dĩ bấ b ạ b ”, của tác giả Nguyễn Hùng Hậu,
Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011. Tác giả nghiên cứu phương
pháp này dưới góc độ triết học và khẳng định: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là
nội dung cơ bản của phương pháp biện chứng cách mạng được Hồ Chí Minh
quán triệt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Cái bất biến lớn
trong tư tưởng của Người là “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Cuốn sách là tài liệu bổ ích để tác giả
tham khảo khi đi vào phân tích phương pháp “Dĩ bấ b ạ b ”
trong ngoại giao Hồ Chí Minh.
Cuốn Ngoại giao Vi t Nam góc nhìn và suy ng m, của Nguyễn Khắc
Huỳnh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011. Cuốn sách gồm một số bài
viết, bài nghiên cứu đã được chọn lọc của tác giả trong thời gian gần đây và
một số bài tham luận tại các cuộc Hội thảo trong nước và ngoài nước nhân dịp
các sự kiện ngoại giao lớn như 55 năm ký Hiệp định Giơnevơ, 35 năm ký
Hiệp định Pari về Việt Nam,... Tác giả tập trung trình bày và làm rõ thêm một
số vấn đề, sự kiện lớn trong quan hệ quốc tế, đường lối, chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta. Trong bài ởng ngh thu t ngoại giao H Chí
Minh, tác giả trình bày đặc điểm hình thành tư tưởng - nghệ thuật ngoại giao
Hồ Chí Minh; mấy vấn đề tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; mấy vấn đề về
nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.
Trong cuốn sách Nhữ ểm nguyên tắc ng xử trong quan h
qu c t c a H Chí Minh và s v n dụng c Đ ng trong tình hình mới của
16
tác giả Trần Minh Trưởng, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014.
Cuốn sách nêu bật những quan điểm và nguyên tắc ứng xử trong quan hệ
quốc tế nhằm khẳng định chủ quyền quốc gia, quyền bình đẳng giữa các dân
tộc, theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi trong quan hệ giữa các
quốc gia trên thế giới. Những quan điểm, nguyên tắc ứng xử trong quan hệ
quốc tế của Hồ Chí Minh được vận dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam
và đưa đến thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nước; đồng thời trở
thành cơ sở nền tảng trong quan hệ đối ngoại, góp phần cùng với nhiều quốc
gia yêu chuộng hòa bình, tiến bộ xây dựng nên “Năm nguyên tắc chung sống
hòa bình” trên thế giới. Đây là tài liệu có ảnh hưởng lớn đến những quan điểm
của tác giả trong luận án.
Cuốn sách ởng ngoại giao H Chí Minh, của TS. Trần Thị Minh
Tuyết, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016. Tác giả mở đầu cuốn sách:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà chính trị lỗi lạc,
danh nhân văn hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà ngoại giao thiên tài của
dân tộc Việt Nam. Do ngoại giao luôn là một hoạt động trọng yếu của đất
nước nên để lãnh đạo hoạt động văn hóa chính trị ở tầm cao này, Hồ Chí Minh đã xây dựng hệ thống tư tưởng ngoại giao toàn diện và sâu sắc”2. Đề
cập đến tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tác giả đi vào phân tích khái niệm
ngoại giao, tư tưởng ngoại giao, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. Từ đó phân
tích cơ sở, quá trình hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Tác giả đã
tiếp cận trực tiếp đến phương pháp, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh như:
“thêm bạn, bớt thù” và “ ĩ bất bi n ng vạn bi n”, “ngoại giao tâm công”.
Bám sát vào các sự kiện lịch sử diễn ra trong thực tiễn cách mạng Việt Nam,
Bên cạnh đó, tác giả đi vào vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay với hai nội dung: Tổng kết đường lối đối ngoại của Đảng
2 Trần Thị Minh Tuyết: ởng ngoại giao H Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016.
Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, từ đó xác định nhiệm vụ và thách
17
thức đặt ra cho ngoại giao Việt Nam, vạch ra phương hướng vận dụng tư
tưởng ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Những nội dung trong
cuốn sách là nguồn tài liệu cơ bản để tác giả tham khảo, nghiên cứu.
Ngoài ra còn có nhiều cuốn sách khác nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến ngoại giao, phương pháp ngoại giao:
- Các luận án, luận văn viết về đối ngoại Hồ Chí Minh
Phạm Hồng Chương (1993) Đ ã ạ ấ ạ ờ
ỳ Mỹ ớ (1965-1973), Luận án Phó Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội.
Luận án phân tích và luận giải về chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược
của Đảng ta trên mặt trận đấu tranh ngoại giao chống chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc
đấu tranh trên mặt trận ngoại giao: “ ừ ừ ” đã đạt tới đỉnh cao
nghệ thuật, thông qua ngoại giao, kết thúc chiến tranh bằng đàm phán hòa
bình. Ngoại giao trở thành phương tiện, vũ khí sắc bén tấn công kẻ thù; phát
huy được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, góp phần làm nên chiến
thắng vĩ đại của dân tộc ta.
Nguyễn Thị Kim Dung (2000), Đ ã ạ ạ ộ ạ ờ
ỳ 1945-1946, Luận án Tiến sĩ Lịch sử. Luận án phân tích, luận giải về đường
lối đối ngoại của Đảng; tư tưởng, nghệ thuật chỉ đạo, chiến lược, sách lược
ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “ ụ ẻ ù”; “thêm
bạ bớ hù”; “Dĩ bấ b ạ b ”,... góp phần giữ vững chính quyền
cách mạng, xây dựng lực lượng, trong những năm đầu mới thành lập của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mặc dù luận án không trực tiếp đề cập tới
tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh một cách có hệ thống, song những luận điểm
đề cập tới tư tưởng ngoại giao của Người trong giai đoạn 1945-1946 với
những tư tưởng nổi bật trong quan điểm ngoại giao là những tư liệu quan
trọng để tác giả nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc phục vụ cho việc hoàn thiện
đề tài luận án.
18
Luận án tiến sĩ, “Đ ã ạ ấu tranh ngoại giao tại Hội ngh Pari
về Vi t Nam (1968-1973)” của Lương Viết Sang, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh. Luận án đã đề cập tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của
Đảng chỉ đạo cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam ở Hội nghị Pari đã
giành thắng lợi, góp phần vào chiến thắng của nhân dân ta trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Luận án Tiến sĩ lịch sử của Trần Minh Trưởng “H ạ ộ ạ
C H C M ạ 1954 - 1969”, là công trình nghiên cứu
cơ bản những hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh trên cương vị Chủ tịch
nước, kiêm Bộ trưởng ngoại giao của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Dưới góc độ lịch sử, tác giả đã cung cấp nhiều sự kiện quan trọng và thể hiện
đầy đủ bản lĩnh, quan điểm của Hồ Chí Minh trong việc thực hiện chính sách
đối ngoại. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo xử lý mối quan hệ Việt -
Trung - Xô những năm 1960, trong bối cảnh Liên Xô và Trung Quốc có
những bất đồng gay gắt. Một mặt, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sức bảo vệ phe
XHCN, một mặt hàn gắn những rạn nứt giữa Xô - Trung, đồng thời tranh thủ
sự ủng hộ của họ đối với cuộc cách mạng của nhân dân. Ngoài những đánh
giá sâu sắc về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh,
tác giả còn tổng kết, rút ra những bài học quan trọng đối với việc hoạch định
chính sách đối ngoại sau này.
Luận án Tiến sĩ Triết học “H ạ ộ ạ C H C
M ờ ỳ 1945 - 1954” của Đặng Văn Thái. Tác giả tiếp cận tư tưởng và
hoạt động đối ngoại của Hồ Chí Minh dưới góc nhìn triết học và tập trung vào
giai đoạn 1945 - 1954, chủ yếu là quan hệ Việt - Pháp. Đây là thời kỳ rất quan
trọng trong hoạt động đối ngoại của Hồ Chí Minh và thể hiện đầy đủ bản lĩnh
chính trị, khả năng dự báo tình hình, chuẩn bị phương án giải quyết chính xác.
Những luận án, luận văn đó đã đóng góp một phần quan trọng để làm rõ
những quan điểm của Hồ Chí Minh về đối ngoại, hoạt động ngoại giao và sự
19
vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đây đồng thời
cũng là nguồn tài liệu để tác giả tham khảo trong quá trình thực hiện luận án.
- Một số bài báo, tạp chí liên quan đến đối ngoại:
- Phùng Đức Thắng - Phạm Hồng Chương, H Chí Minh vớ "Dĩ bất
bi n, ng vạn bi n", Tạp chí Lịch sử quân sự, số 3 - 2000. Hai tác giả viết:
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” câu nói ấy là tổng quan phương pháp cách mạng
Hồ Chí Minh mà người đã thực hiện trong suốt cuộc đời cách mạng của mình
và cũng là một bài học kinh nghiệm quý giá của cách mạng Việt Nam. Trong
bối cảnh lúc đó điều bất biến ở đây chính là vấn đề dân tộc,… Còn vạn biến là
hàng loạt chủ trương sách lược đấu tranh trong những tình huống cụ thể. Và
qua thực tế hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các luận điểm của Người
cho thấy, muốn đạt tới cái bất biến trong mục tiêu cần phải ứng vạn biến trong
những điều kiện lịch sử cụ thể.
- Trần Thị Minh Tuyết, "Thêm bạn, bớt thù" - nguyên tắc chi c
ởng ngoại giao H Chí Minh, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4-2013.
Tác giả viết: Thực tiễn chứng minh, sự đúng - sai trong việc tập hợp lực
lượng luôn là một nhân tố quyết định sự thành - bại của cuộc đấu tranh. Với
mục đích tập hợp lực lượng rộng rãi, cô lập kẻ thù, tạo nên tương quan lực
lượng có lợi cho cách mạng, Hồ Chí Minh đã tìm ra phương pháp xác định
bạn - thù chính xác và sử dụng linh hoạt các phương cách đạt trình độ nghệ
thuật. Theo tác giả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng linh hoạt, hiệu quả các
phương pháp, chủ trương khác nhau, trong đó chủ trương “ bạ bớ ù”
trong đấu tranh cách mạng vẫn là một viên ngọc lấp lánh trong di sản tư tưởng
của Người. Là một dân tộc nhỏ, trong cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi
chân chính của dân tộc, Việt Nam nhất thiết phải thực hiện tư tưởng “thêm
bạn, bớt thù”, phải coi đó là một ắ chứ không phải là
sách lược hay thủ đoạn chính trị. Bài báo là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác
giả khi đi vào nghiên cứu phương pháp “ bạ bớ ù” trong tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh.
20
- Công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số ít lãnh tụ của một quốc gia được
đông đảo học giả trên thế giới để tâm nghiên cứu. Theo con số thống kê, cho
đến nay đã có trên 350 tác phẩm và các công trình nghiên cứu, hàng trăm bài
tạp chí, hàng ngàn bài báo của các nhà nghiên cứu Lịch sử, Văn học, Triết
học, Tâm lý học, Văn hóa học, các nhà thơ, các phóng viên của các tờ báo
lớn, đặc biệt là nhiều chính khách, tướng lĩnh trên thế giới,... viết về Hồ Chí
Minh. Năm 1987, Hồ Chí Minh được tổ chức Văn hóa Khoa học của Liên
Hợp Quốc (UNESCO) ra Nghị quyết khuyến cáo các quốc gia thành viên, tổ
chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí Minh: A ù p ộ
ă ấ , ghi nhận và tôn vinh những cống hiến của Hồ Chí
Minh đối với dân tộc và nhân loại.
Nói về chủ đề Hồ Chí Minh - nhà ngoại giao, nhà đàm phán mềm dẻo,
khôn khéo và kiên quyết, đã có một số công trình đề cập đến, nhưng chỉ là
một chương hoặc một phần trong công trình, tác phẩm, mà dường như không
thấy có công trình, tác phẩm nghiên cứu mang tính chuyên khảo. Ví dụ, trong
cuốn H ý của mình, N. Khơrútxốp dành một mục Hồ Chí Minh, để nói về
người lãnh tụ giản dị, khiêm nhường, nhưng hết sức thông minh, kiên trì và
mềm mỏng. Những đức tính đó được thể hiện qua phong cách ứng xử của
Người tại Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế ở Mátxcơva
(1960), đã làm cho Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô - N. Khơrútxốp
hết sức kính nể. Ông đã gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là ông Thánh cộng sản.
Một số tác giả khác như: Jean Sainteny với tác phẩm: Face à Ho Chi
Minh (Đ H C M ); Hoàng Tranh với công trình nghiên cứu: Hồ
Chí Minh với Trung Quốc; E. Kôbêlép với tác phẩm Đ H C
Minh,... đi sâu nghiên cứu về cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, trong đó
có dành một dung lượng khá lớn để đề cập đến tư tưởng, hoạt động ngoại giao
của Hồ Chí Minh.
21
Nhà sử học người Pháp: Alanh Rútxô, tác giả của nhiều công trình
nghiên cứu về Hồ Chí Minh đã nói: Ông là một nhà tư tưởng quan trọng của
thế kỷ XX. Ngày nay, phương Tây nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt
là tư tưởng đạo đức. Vì giá trị tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là vì nhân dân.
Ông không có mối bận tâm nào khác ngoài việc lo cho dân. Ông đại diện cho
hai dòng tư tưởng hiện đại: Quốc gia và công bằng xã hội. Thiên tài của Hồ
Chí Minh là ở chỗ, ông đã kết hợp được hai mặt tốt của chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội. Những công trình gần đây có thể kể đến của "H C M -
The Missing Years", tạm dịch là "Hồ Chí Minh - Những năm tháng chưa được
biết đến" của nữ tác giả Sophie Quinn Judge, tiến sỹ triết học - lịch sử, hiện là
Phó giám đốc Trung tâm Triết học, Văn hóa và Xã hội Việt Nam - Đại học
Temple - Mỹ.
1.2. Những công trình liên quan đến vận dụng tƣ tƣởng đối ngoại
Hồ Chí Minh trong quan hệ đối với Trung Quốc
Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc có các bài viết “Dấ ạ ộ
C H C M ấ Q ” của tác giả Nguyễn Thị
Tình; bài “H C M ắp V - ” của Nguyễn Mạnh Hà
và Nguyễn Thị Mai Hoa là những bài viết thể hiện mối quan hệ tốt đẹp giữa
Việt Nam và Trung Quốc trong thời đại Hồ Chí Minh. Đồng thời, việc chính
phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng rất trân trọng mối quan hệ này bằng
việc lưu giữ các kỷ niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số vị lãnh đạo
Việt Nam từng làm việc, hoạt động cách mạng tại Trung Quốc.
Ngoài ra, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc của Viện Nghiên cứu Trung
Quốc thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam cũng có nhiều bài viết phản ánh
quan hệ Việt - Trung qua các giai đoạn lịch sử như: “H ò
V - ạ ” của Lê Văn Mỹ, “Q V -
ờ ỳ ạ ” của Nguyễn Phương Hoa; “Q
Q - V N ỷ XXI - ừ ă ” của Đỗ
Minh Cao và Nguyễn Xuân Cường; “Q V N - Q
22
ơ ở ?” của Vũ Cao Phan,... Các tác giả đều cho rằng
cần thiết phải có mối quan hệ gắn bó giữa Việt Nam - Trung Quốc, hai nước
cần chú trọng giải quyết những bất đồng, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp từ
những điều kiện, mục tiêu chung.
Tạp chí Lý luận Chính trị tháng 4 năm 2013 có bài viết Đinh Xuân Lý,
“V ụ ở ạ H C M ấ b
ề b ể ”, nội dung bài viết nghiên cứu quá trình Đảng, Nhà
nước vận dụng tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết
những mâu thuẫn, bất đồng giữa Việt Nam - Trung Quốc trên biển Đông. Bài
viết của Nguyễn Thị Hoa “Q V - ờ ỳ ổ ớ ”, cũng chỉ ra
những điểm tương đồng và trở ngại trong quan hệ Việt - Trung. Trước việc
Trung Quốc tuyên bố yêu sách đường 9 đoạn “Đường lưỡi bò”, dựa trên
quyền lịch sử, chiếm đến hơn 80% diện tích Biển Đông (bao gồm cả hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), và thực hiện hàng loạt hành động
xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của
Việt Nam tại Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác giả
cho rằng, cần quán triệt mục tiêu đối ngoại theo tư tưởng Hồ Chí Minh và
phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người, cần thấm nhuần quan
điểm có tính nguyên tắc - chủ quyền biển, đảo là lợi ích quốc gia - thiêng
liêng, bất khả xâm phạm, là cái “bất biến”. Cái “vạn biến” là phải linh hoạt,
khôn khéo trong đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ.
Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, để tranh thủ sự ủng hộ quốc
tế trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, như thực hiện các kênh
ngoại giao, thể hiện công khai, minh bạch lập trường, sự kiên trì của Việt
Nam. Vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ cần được quốc tế hóa; phát huy
xu thế toàn cầu hóa, chia sẻ trách nhiệm, lợi ích kinh tế Biển Đông với các
nước; tăng cường quan hệ hữu nghị với các thành viên ASEAN; tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ của tất cả các nước lớn, vận dụng hiệu quả ạ
giao tâm công của Hồ Chí Minh,...
23
Trong bài viết “ bạ bớ ù” - nguyê ắ
ở ạ H C M ” của tác giả Trần Thị Minh Tuyết cũng đặc
biệt phân tích nguyên tắc đối ngoại của Hồ Chí Minh và cho rằng trong quan
hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc nên khai thác những điểm tương đồng và
hạn chế những bất đồng để xây dựng quan hệ láng giềng tốt đẹp.
Tạp chí Quốc phòng toàn dân có bài viết “N ụ
ở ạ H C M ạ p ò ” của tác giả
Vũ Chiến Thắng, Cục trưởng Cục Đối ngoại. Bài viết tiếp cận, vận dụng tư
tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trên lĩnh vực quốc phòng. Tác giả dẫn luận
quan điểm của Hồ Chí Minh và quá trình hiện thực hóa quan điểm của Người,
như việc cử nhiều cán bộ đi học các trường quân sự ở Trung Quốc và không ít
người trong số đó đã tham gia cuộc Vạn lý trường chinh của Hồng quân
Trung Quốc, nhiều những cuộc trao đổi kinh nghiệm, phương pháp, khoa học
kỹ thuật giữa hai lực lượng vũ trang. Điều đó, đặt nền móng cho mối quan hệ
truyền thống giữa hai Đảng, hai Nhà nước và lực lượng quân đội giữa hai bên.
Bài viết cho thấy một khía cạch khác được tiếp cận trong quan hệ Việt -
Trung, mà xuất phát điểm từ tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Luận văn Thạc sĩ Quốc tế học của Nguyễn Thế Hưởng, “V ụ
ở H C M ạ ộ ạ ờ ỳ ổ
ớ ”, mặc dù không đi sâu nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh trong quan hệ Việt - Trung, song công trình nghiên cứu này có
những tư liệu thể hiện quan hệ Việt - Trung có nền tảng từ quan điểm của
ngoại giao “láng giềng” của Hồ Chí Minh. Mối quan hệ này cũng có những
nguyên tắc nhất quán để đảm bảo lợi ích giữa hai dân tộc, hai Nhà nước và
cần được vun đắp lâu dài.
Như vậy, các công trình nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng đối ngoại của
Hồ Chí Minh trong quan hệ với Trung Quốc mới chủ yếu nhằm giải quyết
một số vấn đề cụ thể như giải quyết tranh chấp biển, đảo, hay quan hệ quốc
24
phòng,... Đây đều là những công trình có tính tham khảo rất gần gũi với luận
án. Tuy nhiên, cũng cần có cái nhìn sâu sắc, cụ thể hơn về vấn đề này.
1.3. Đánh giá những kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án và
vấn đề đặt ra luận án cần giải quyết
1.3.1. Những vấn đề đã được đề cập
Các công trình khoa học trên đây đã phân tích, đề cập nhiều khía cạnh
khác nhau liên quan trực tiếp đến tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. Nhìn
chung các công trình này đã làm rõ được cả phần lý luận và thực tiễn của
công tác đối ngoại, đã đạt được những kết quả sau
ấ các công trình đã nghiên cứu và đề cập đến một số khái niệm
như: khái niệm ngoại giao, đối ngoại, phương châm đối ngoại; phương pháp
đối ngoại Hồ Chí Minh; các công trình đã nghiên cứu và tiếp cận tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh, tuy nhiên chưa có công trình nào tiếp cận một cách đầy
đủ, hệ thống và chuyên sâu về những vấn đề liên quan tới sự vận dụng tư tưởng
đối ngoại Hồ Chí Minh của Đảng ta để hoạch định đường lối đối ngoại, chính
sách ngoại giao; định hướng ngoại giao với Trung Quốc trong thời gian tới,...
Th hai, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về đối ngoại. Song chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu, làm rõ
một cách đầy đủ, hệ thống tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh và vận dụng tư
tưởng đối ngoại đó với Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.
1.3.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu giải quyết
Từ tổng quan nghiên cứu đề tài, tác giả lựa chọn hướng nghiên cứu vào
các vấn đề sau:
- Hệ thống nội dung tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh.
- Sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc hiện nay, bao gồm:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh
trong việc đề ra đường lối, chính sách đối ngoại nói chung và ngoại giao với
Trung Quốc nói riêng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
25
+ Trên cơ sở tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, phân tích, đánh giá những
thành tựu và bài học kinh nghiệm quá trình thực hiện chiến lược, sách lược ngoại
giao của Đảng và Nhà nước ta trong quan hệ với Trung Quốc hiện nay.
- Tiếp tục vận dụng nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại với Trung
Quốc theo tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay.
26
Tiểu kết chƣơng 1
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên lĩnh vực đối ngoại,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại nhiều di sản quý báu. Tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh là một bộ phận hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối
cách mạng Việt Nam, là hệ thống các quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về
quan hệ quốc tế, về đường lối đối ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta; là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác
- Lênin và khoa học quan hệ quốc tế vào điều kiện Việt Nam; tư tưởng về đối
ngoại bao hàm cả mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp, nghệ thuật đối ngoại, là
ngọn đuốc soi đường cho hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong
thời đại Hồ Chí Minh. Quan điểm của Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu: “Đảng
phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra”3. Với tinh thần trên, cần tiếp tục nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh.
Đã có một số công trình nghiên cứu đặt vấn đề và đề cập ít nhiều về vận
dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào hệ thống lại tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh
đầy đủ nhất và chưa đi sâu nghiên cứu về vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh trong quan hệ với Trung Quốc hiện nay.
Với ý nghĩa đó, việc thu thập tài liệu và đánh giá tổng quan các công
trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án đã rất được quan tâm. Đây
chính là cơ sở để xác định nhiệm vụ nghiên cứu và là nguồn tư liệu quan
trọng, thiết thực để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa và phát triển, phục vụ
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Vă Đạ ộ ạ b ể XI Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 66.
cho quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận án của mình.
27
Chƣơng 2
TƢ TƢỞNG ĐỐI NGOẠI HỒ CHÍ MINH
2.1. Các khái niệm
2.1.1. Khái niệm “Đối ngoại”
Đối ngoại là từ chỉ những hoạt động đối với nước ngoài, bên ngoài, nói
về đường lối, chính sách, sự giao thiệp của nhà nước, của một tổ chức; phân
biệt với đối nội.
H ạ ộ ạ V N : Hoạt động đối ngoại của Việt Nam
được triển khai dựa trên cấu trúc hệ thống chính trị Việt Nam với ba kênh đối
ngoại là: Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Ba
kênh này bổ sung, phối hợp, quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên sự thống nhất
trong hoạt động đối ngoại đa dạng, đa phương của Việt Nam. Khái quát ba
kênh đối ngoại cơ bản của Việt Nam là:
Đ ạ Đ Cộ V N (của các cơ quan và tổ chức
Đảng): Đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự thực hiện quan hệ của
Đảng với các đảng cộng sản, công nhân, các đảng cánh tả, các đảng cầm
quyền, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và phong trào tiến bộ trên
thế giới.
N ạ ớ (Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan nhà nước):
Ngoại giao nhà nước là lĩnh vực hoạt động thể hiện mối quan hệ giữa Nhà
nước ta và các quốc gia, các tổ chức liên quốc gia, liên chính phủ, trên cơ sở
công nhận chính thức lẫn nhau (thiết lập quan hệ ngoại giao hoặc gia nhập tổ
chức) và các Hiệp ước, hiệp định, nghị định thư,… song phương các điều
ước, luật pháp và tập quán quốc tế.
Đ ạ : Đối ngoại nhân dân - công tác “ ”
là một hình thức hoạt động quan hệ đối ngoại do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các đoàn thể, các tổ chức nhân dân hoặc cá nhân thuộc nhiều lĩnh vực tiến
hành, không mang tính chất chính thức của Chính phủ.
28
2.1.2. Khái niệm “tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh”
Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành của tư
tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Vì vậy, để hiểu được
tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh thì trước hết phải hiểu khái quát tư tưởng Hồ
Chí Minh là gì?
Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn đất nước, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) xác định khá toàn diện và có hệ
thống những vấn đề cốt yếu thuộc nội hàm khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và
dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi”4.
Như vậy, có thể hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết
quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh của những tinh hoa văn hóa dân
tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người.
Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là một bộ phận trong nội hàm của
khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống các
quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại, về ngoại giao cũng đã
được đề cập đến trong các văn kiện của Đảng và đã có một số hội thảo chuyên
4 ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB lần thứ XI, NXB CTQG, H.2011, tr.88.
đề hay một số nội dung đã được kết hợp ở một số chuyên đề khác của tư
29
tưởng Hồ Chí Minh trong chương trình học tập lý luận tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh và một số chương trình khác.
Có nhiều nhận thức khác nhau về khái niệm tư tưởng đối ngoại, tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Trong chuyên đề thứ 11 do Viện Hồ Chí
Minh và các lãnh tụ của Đảng, thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh biên soạn và giới thiệu đề cập đến ở H C M ề p
và đưa ra một nhận xét có tính khái niệm là: “tư tưởng Hồ Chí Minh
về hợp tác quốc tế bao gồm nhiều vấn đề lớn từ nguồn gốc, quá trình hình
thành, phát triển đến những nội dung và việc vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam”5. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác
quốc tế gồm: Xác lập vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế; nguyên tắc hợp
tác quốc tế; hợp tác với các nước láng giềng; hợp tác kinh tế quốc tế trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong cuốn sách: “H C M
ạ ơ ” đã khái quát: “Toàn bộ những tư tưởng của Hồ Chí
Minh về hoạt động ngoại giao, như biết đánh giá, dự báo tình hình, nắm bắt
thời cơ, tổ chức lực lượng, nhận rõ bạn thù, tranh thủ đồng minh, cô lập kẻ
thù chủ yếu, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, biết thắng từng
bước để tiến tới thắng lợi hoàn toàn, độc lập tự chủ gắn liền với đoàn kết quốc
tế, là di sản quí báu đối với chúng ta trong hoạt động ngoại giao để phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”6.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong tác phẩm “Ngoại giao Vi t Nam trong
thờ ại H C M ”, nêu lên một định nghĩa khái quát về tư tưởng Hồ Chí
Minh về ngoại giao: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là một hệ thống
quan điểm và đường lối chiến lược và sách lược đối với các vấn đề quốc tế,
5 Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh (1996), Một số chuyên đề về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 265. 6 Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh, quá khứ, hiện tại và tương lai. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.15.
chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta, là
30
một bộ phận hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam”7.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phân tích năm nội dung lớn của tư tưởng Hồ
Chí Minh về ngoại giao: Độc lập, tự chủ, tự cường; Hòa bình, chống chiến
tranh phi nghĩa theo truyền thống nhân văn của dân tộc; Thêm bạn, bớt thù;
Dĩ bất biến, ứng vạn biến; Ngoại giao là một mặt trận, là nhân tố tạo nên sức
mạnh tổng hợp của cách mạng.
Nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm
đã khái quát tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh như sau: “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do, độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đem sức ta mà giải phóng
cho ta, đồng thời tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa bình và hữu nghị”8.
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan cho rằng những nhận thức của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về tính chất thời đại, mục tiêu đối ngoại, sắp xếp lực lượng,
chỉ đạo chiến lược (độc lập tự chủ, kiên trì nguyên tắc, linh hoạt sách lược,
nắm bắt thời cơ, “Dĩ bất biến ứng vạn biến”…) là tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao9.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Luân trong cuốn: “Ch t ch H Chí Minh
- Trí tu lớn c a nền ngoại giao Vi t Nam hi ại” đã nêu một số nhận thức
về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Đó là quan điểm, phương thức, nhận
thức thời cuộc, dự báo tình hình thế giới, quan hệ quốc tế, đặt cách mạng Việt
Nam trong mối liên hệ với thế giới, quan hệ giữa các quốc gia dân tộc, về bạn,
thù, tập hợp lực lượng, vị trí vai trò đường lối quốc tế, chính sách đối ngoại,
ngoại giao trong chiến lược cách mạng nước ta,…
Trong cuốn “ ởng ngoại giao H Chí Minh”, nguyên Ngoại trưởng
Nguyễn Dy Niên đưa ra một khái niệm ngoại giao khá đầy đủ và toàn diện 7 Võ Nguyên Giáp: Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr. 130-131. 8 Bác Hồ trong trái tim nhà ngoại giao, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 18. 9 Vũ Khoan: Tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động quốc tế và công tác ngoại giao, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 3, 1994.
31
như sau: “Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tư tưởng chính trị
của Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ của tư tưởng của Người về cách
mạng Việt Nam. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hệ thống những nguyên
lý, quan điểm, quan niệm về các vấn đề thế giới và thời đại, về đường lối
quốc tế, chiến lược, sách lược, chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam
thời kỳ hiện đại. Tư tưởng này còn thể hiện trong hoạt động đối ngoại thực tiễn của Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước Việt Nam”10.
Nhà nghiên cứu Vũ Dương Huân trong cuốn “ ở H C M ề
ạ ” đã nêu khái niệm: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là một bộ
phận hữu cơ tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối cách mạng Việt Nam, là hệ
thống các quan điểm về khoa học quan hệ quốc tế, đường lối đối ngoại, chính
sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta, kết quả của sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin và khoa học quan hệ quốc tế vào điều kiện Việt Nam…”11.
Nguyễn Khắc Huỳnh trong cuốn “N ạ V N
” nêu: “Tư tưởng và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh là sản phẩm
của tinh thần yêu nước mãnh liệt, bản lĩnh cách mạng kiên cường, trí tuệ uyên
bác kết tinh của truyền thống văn hóa ngoại giao Việt Nam, hòa quyện với
văn hóa nhiều dân tộc phương Đông, phương Tây, cũng như kinh nghiệm ngoại giao và quan hệ quốc tế thời cận đại và hiện đại”12.
Về sử dụng khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, một số tác
giả cho rằng nên sử dụng khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, mà
không nên dùng khái niệm tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh vì ngoại giao
không hàm nghĩa tư tưởng, mà ngoại giao là nghệ thuật giao tiếp, nghệ thuật
ứng xử hay phong cách ngoại giao. Từ quan điểm như vậy, tác giả Vũ Khoan
trong cuốn ởng H Chí Minh về ộc l p dân tộc và ch ĩ xã hội, đặt
10 Nguyễn Dy Niên: T ởng ngoại giao H Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2008, tr.89. 11 Vũ Dương Huân: ởng H Chí Minh về ngoại giao, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2005, tr.27. 12N ạ V N , Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2011, tr. 31 - 32.
vấn đề rằng: “Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại tức là nói tới chiến
32
lược cách mạng trên mặt trận đối ngoại bao gồm mục tiêu, sắp xếp lực lượng, các phương châm phương pháp đấu tranh để giành cho được mục tiêu đó”13.
Tác giả Đinh Xuân Lý trong cuốn “ ở H C M ề ạ
ụ Đ ờ ỳ ổ ớ ” đã đưa ra định nghĩa: “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về các vấn đề quốc tế; về
chiến lược, sách lược cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Hệ
thống quan điểm đó được thể hiện ở các nội dung sau: Quan niệm của Hồ Chí
Minh về các vấn đề quốc tế; về mục tiêu đối ngoại; về tập hợp và mở rộng lực
lượng đối ngoại; về phương châm đối ngoại, phương pháp và nghệ thuật đấu tranh ngoại giao nhằm đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam”14.
Trong cuốn ở H C M ề ạ - Mộ ộ ơ
b , sau khi nêu một số khái niệm khác nhau về đối ngoại, ngoại giao, tác giả
Đỗ Đức Hinh khẳng định: “Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là hệ thống các
quan điểm về đấu tranh ngoại giao, hoạt động đối ngoại và hợp tác phát triển
bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp, nghệ thuật và phong cách Hồ Chí Minh”15.
Khái quát lại có thể thấy đối ngoại và ngoại giao là hai khái niệm riêng
biệt nhưng gắn bó chặt chẽ với nhau, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nhất định.
Đ ạ là toàn bộ mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng, nguyên tắc, phương
châm, biện pháp mà quốc gia theo đuổi trong quan hệ với các quốc gia khác
hoặc chủ thể khác trong cộng đồng quốc tế nhằm phục vụ cho lợi ích của
quốc gia. N ạ là sự giao thiệp với nước ngoài để bảo vệ quyền lợi quốc
gia, là công cụ, phương tiện quan trọng, phương tiện hòa bình, thực hiện mục
tiêu của chính sách đối ngoại của quốc gia.
13 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: ởng H Chí Minh về ộc l p dân tộc và ch ĩ ã ội, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2003, tr.380. 14Đinh Xuân Lý: ở H C M ề ạ ụ Đ ọ ờ ỳ ổ ớ , Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.56. 15 Đỗ Đức Hinh: ở H C M ề ạ - Mộ ộ ơ b , Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2007, tr.16.
Mặc dù có các cách trình bày khác nhau do cách tiếp cận và góc độ
33
nghiên cứu khác nhau, song về cơ bản các khái niệm đều nhất trí tư tưởng Hồ
Chí Minh về đối ngoại hay ngoại giao với các nội dung chủ yếu, đó là: Bộ
phận hữu cơ tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối cách mạng Việt Nam; Hệ
thống quan điểm, quan niệm về thế giới và quan hệ quốc tế, đường lối chính
sách, chiến lược, sách lược đối ngoại Việt Nam thời kỳ hiện đại; Tư tưởng đối
ngoại bao gồm cả phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao.
Do chính sách đối ngoại và ngoại giao là hai khái niệm gắn bó rất chặt chẽ
với nhau nên hầu hết các tác giả đều dùng khái niệm tư tưởng ngoại giao. Tuy
rằng, chính sách đối ngoại và ngoại giao là hai khái niệm có sự khác biệt nhất
định. Ngoại giao là công cụ, phương tiện hòa bình thực hiện mục tiêu của chính
sách đối ngoại và là phương tiện quan trọng nhất. Khi ta nói tư tưởng ngoại giao,
cũng chính là tư tưởng đối ngoại. Việc xác định khái niệm là công cụ nhận thức
khoa học, vì vậy nên dùng khái niệm tư tưởng đối ngoại và phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh thì chặt chẽ và khoa học hơn16.
Như vậy, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh hay tư tưởng đối ngoại là
một bộ phận trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đi vào giải quyết các vấn đề thuộc
về đường lối cách mạng Việt Nam. Khái niệm tổng quát về tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh, có thể lấy định nghĩa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm và đường lối chiến lược
và sách lược đối với các vấn đề quốc tế, chính sách đối ngoại và hoạt động
ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta, là bộ phận hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam”17.
Trên cơ sở các quan niệm, khái niệm do các nhà khoa học đưa ra ở
trên, theo tác giả có thể hiểu về tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh như sau:
ở ạ H C M ộ bộ p ữ ơ ở
H C M ụ ạ ọ M - Lênin vào
16 Xem: Vũ Dương Huân: Một s vấ ề quan h qu c t chín i ngoại và ngoại giao Vi t Nam, tập 1, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009, tr. 107 - 108. 17Bộ Ngoại giao: N ạ V N ờ ạ H C M , Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.130-131.
ề V N ừ ề ẹp ộ V N
34
ă ạ ề ọ Đ
ể ề ấ ề ề ạ V N ớ
ạ ộ ạ N ớ V N ớ
ớ ổ ằ ắ ụ
ạ V N
Với nội dung có tính tổng hợp và khái quát trên, có thể rút ra một số nội
dung cơ bản sau trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh:
ấ : Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh một bộ phận của tư tưởng
Hồ Chí Minh.
: Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh có nguồn gốc lý luận từ học
thuyết Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam, tinh hoa văn hóa của nhân loại về khoa học quan hệ quốc tế.
b : Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống quan
điểm mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp và nghệ thuật đối ngoại,... nhằm
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Những quan điểm trên đây là kim chỉ nam cho hoạt động quốc tế, đối
ngoại và ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh và cả trong giai
đoạn hiện nay khi đất nước bước vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, hội nhập và phát triển.
2.2. Nội dung cơ bản tƣ tƣởng đối ngoại Hồ Chí Minh
2.2.1. Mục tiêu đối ngoại
2 2 1 1 Đ ạ ằ b ề ơ b ấ ớ
b ộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định các quyền dân tộc cơ bản, đảm
bảo lợi ích của quốc gia, dân tộc là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng và
cũng là mục tiêu quan trọng của hoạt động đối ngoại. Suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đấu tranh không mệt mỏi, không khoan
nhượng để giành lại các quyền dân tộc cơ bản cho đất nước, bảo đảm lợi ích
quốc gia dân tộc Việt Nam.
35
Ngày 2/9/1945, ngay sau khi nước nhà vừa được giải phóng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã công bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới bản: Tuyên
ộ p Bản Tuyên ngôn khẳng định quyền tự do, độc lập của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà. “Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa - trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn
thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”18. Thông qua bản ộ
p Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẳng định độc lập, chủ quyền của
đất nước và định hướng đối ngoại độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam trong
quan hệ chính trị quốc tế.
Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) là văn bản đối ngoại mang tính pháp lý quốc
tế đầu tiên mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký kết với nước ngoài. Với Hiệp
định này, Việt Nam được công nhận là “quốc gia tự do” nằm trong Liên bang
Đông Dương và Liên hiệp Pháp; chấp nhận trưng cầu dân ý ở Nam Bộ về việc
hợp nhất “ba kỳ”. Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có
chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng của mình,... Đối với chủ
quyền dân tộc của Việt Nam, thì những thỏa thuận ấy là rất quan trọng.
Trả lời các nhà báo, ngày 2/1/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khẳng định: “tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc”19. Quan điểm của Hồ
Chí Minh rõ ràng, nhất quán, kiên trì đấu tranh tới cùng để xác lập và bảo vệ
các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam.
Bước vào giai đoạn chống Mỹ cứu nước, Người khẳng định Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, kiên trì đấu tranh bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản, đòi
Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược ở miền Nam và mọi hành động chiến
tranh ở miền Bắc Việt Nam. Tại hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập
18 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.3. 19 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.9.
lại hòa bình ở Việt Nam (27/01/1973) và Định ước quốc tế về Việt Nam
36
(2/3/1973), Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như Hiệp định Giơnevơ 1954 đã công
nhận. Sau Đại thắng mùa Xuân 1975 của quân và dân ta, Quốc hội nước Việt
Nam thống nhất họp phiên đầu tiên (2/7/1976) tuyên bố thành lập nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cuộc đấu tranh để thực hiện các quyền dân
tộc cơ bản của Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn, đảm bảo lợi ích của quốc
gia, đảm bảo quyền dân tộc.
Như vậy, quyền cơ bản của dân tộc không chỉ là mục tiêu của cách
mạng mà còn là mục tiêu hàng đầu của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta, cũng là mục tiêu quan trọng trong quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh.
Độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân, những quyền của dân tộc
luôn luôn được Người đề cao và kiên trì đấu tranh trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng, chỉ đạo hoạt động đối ngoại của nước ta. Đó là mục tiêu đầu
tiên của cách mạng Việt Nam và cũng là mục tiêu kiên định của đối ngoại.
2.2.1.2 Đ ạ ằ b ề ẹ ã ổ
ấ ấ ớ
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu đối ngoại bao giờ cũng được
xác định một cách rõ ràng, nhất quán là: C ề ẹ ã
ổ ấ ấ ớ Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền độc lập thực sự là:
Các dân tộc phải có quyền quyết định vận mệnh của dân tộc mình, có quyền
quyết định về đường lối chính trị - xã hội, xu hướng phát triển, quân sự, ngoại
giao, kinh tế; nhân dân các dân tộc tự quyết định mọi vấn đề thuộc chủ quyền
quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ mà không có sự can thiệp, xâm phạm của bên
ngoài, giá trị đích thực của nó là đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mọi
đường lối, chính sách ngoại giao cũng đều nhằm mục đích trên.
Đối với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc không thể tách rời với thống nhất
Tổ quốc. Trước đây, Người đã nhiều lần lên án chính sách chia để trị của thực
dân Pháp đối với Việt Nam. Nay để chống lại mưu đồ tách Nam bộ ra khỏi
nước Việt Nam, Người đã khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt
37
Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”20. Người đã tuyên bố trước quốc dân: “Trung, Nam, Bắc, đều là đất
nước Việt Nam. Chúng ta đều chung một tổ tiên dòng họ, đều là ruột thịt anh
em. Nước có Trung, Nam, Bắc, cũng như một nhà có ba anh em. Cũng như
nước Pháp có vùng Noócmăngđi, Prôvăngxơ, Bôxơ. Không ai có thể chia rẽ
con một nhà, không ai có thể chia rẽ nước Pháp, thì cũng không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam ta”21. Lập trường kiên định, bất di bất dịch của Hồ Chí
Minh là: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam là
vô cùng thiêng liêng, là lợi ích tối cao của dân tộc.
Ngày 16 tháng 7 năm 1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí
Minh nói: “Chính sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự
do, dân sinh hạnh phúc. Chính sách đối ngoại là thân thiện với tất cả các láng
giềng Trung Hoa, Ấn Độ, Xiêm La, Cao Mên, Ai Lao, v.v.., mà không thù gì với nước nào”22. Bởi độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm
của tất cả các dân tộc, vì vậy tất cả các dân tộc phải đoàn kết, kiên quyết đấu
tranh để giành lại và bảo vệ quyền độc lập tự do của dân tộc mình, ngoại giao
cũng nhằm mục đích đó.
Trong Lờ ọ ỷ ộ p (2/9/1948) Người khẳng
định: “Chúng ta quyết kháng chiến đến cùng, tranh cho kỳ được thống nhất và
độc lập, thống nhất và độc lập thật sự, chứ không phải cái thứ thống nhất và
độc lập bánh vẽ mà thực dân vừa thí cho bọn bù nhìn. Thống nhất mà bị chia
xẻ thành “nước Nam Kỳ”, “nước Tây Kỳ”, “Liên bang Thái”, v.v.. Độc lập
20 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.280. 21 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.470. 22 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.199. 23 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.601.
mà không có quân đội riêng, ngoại giao riêng, kinh tế riêng. Nhân dân Việt Nam quyết không thèm thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy”23.
38
Trong “ ờ ” viết năm 1953, Người xác định: “kiên quyết giữ gìn quyền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình”24.
Trong hoạt động đối ngoại phải luôn luôn kiên trì mục tiêu đó. Điều cốt lõi là
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”25, dù phải hy sinh
đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Nhân dân Việt Nam hoan nghênh
sự giúp đỡ, ủng hộ Việt Nam đấu tranh vì độc lập tự do. Đồng thời, kiên
quyết từ chối, gạt bỏ mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm phạm chủ quyền quốc
gia của dân tộc mình.
Đảm bảo chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước là mục tiêu
nhất quán trong quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh. Đó là cái đích hướng tới
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong suốt quá
trình cách mạng Việt Nam.
2 2 1 3 Đ ạ ò b p ể
Đấu tranh cho hòa bình và cùng tồn tại hòa bình là mục tiêu xuyên suốt
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại. Lòng yêu hòa bình, độc lập tự do
và sự nghiệp chính nghĩa, các mục tiêu đấu tranh mà nhân dân Việt Nam phấn
đấu thực hiện trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng hòa bình
là mẫu số chung để xây dựng quan hệ quốc tế của Việt Nam và để tập hợp lực
lượng quốc tế thông qua sự liên hệ và đoàn kết giữa nhân dân tại các quốc gia
có chế độ chính trị xã hội khác nhau. Nó phù hợp với ý thức chống cường
quyền, yêu chuộng hòa bình của nhân loại tiến bộ. Đó còn là cơ sở để tranh
thủ lòng người, thực hiện ngoại giao “tâm công” hợp với hoàn cảnh và đối
tượng đa dạng của quan hệ quốc tế hiện đại.
Tiếp nhận các quan điểm của Lênin về chiến tranh và hòa bình, Hồ Chí
Minh thường xuyên nhấn mạnh nguyện vọng của Người và của dân tộc Việt
24 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8, tr.272. 25 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.534.
Nam là muốn có được một nền hòa bình công lý. Người nói: “Nhân dân Việt
39
Nam rất yêu chuộng hòa bình, hòa bình thật sự, hòa bình trong độc lập tự do, chứ không phải thứ hòa bình giả hiệu”26, hòa bình của một quốc gia phải trên
cơ sở độc lập, tự do. Do đó, cuộc đấu tranh cho độc lập tự do của các quốc gia
cũng chính là cuộc đấu tranh bảo vệ nền hòa bình của mình. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng: “Giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta.
Vì lợi ích của nhân dân lao động khắp thế giới là nhất trí,... Tinh thần yêu
nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới”27.
Ngay những ngày đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân
dân Việt Nam đã phải đối mặt với nguy cơ của một cuộc chiến tranh tàn khốc.
Chỉ 20 ngày sau khi tuyên bố độc lập, khói lửa chiến tranh đã bùng lên ở Nam
Bộ rồi lan dần ra cả nước. Nhận rõ dã tâm xâm lược của chủ nghĩa thực dân,
chiến tranh là điều khó tránh khỏi, song Hồ Chí Minh luôn tỏ rõ thiện chí hòa
bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình cho việc bình thường hoá
quan hệ Việt - Pháp, tránh cuộc đổ máu không cần thiết. Người đã chủ động
thương thuyết với Chính phủ Pháp, tìm cách tiếp cận với các chính khách
Pháp bằng mọi điều kiện. Hồ Chí Minh đã làm tất cả những gì Pháp đòi hỏi
trừ nền độc lập của dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ là nguyên tắc không thay đổi.
Người tin tưởng vào những người Pháp tiến bộ và nhân dân Pháp. Vì thế, hoạt
động ngoại giao của Hồ Chí Minh ở thời điểm này rất rõ ràng là “cố gắng giữ
gìn hòa bình”, “còn nước còn tát”. Nhưng chiến tranh vẫn nổ ra, và thực sự
đúng như Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”28. Người trịnh trọng tuyên bố: “Dân
Việt Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Nhưng
nếu cần phải hy sinh mấy triệu chiến sĩ, nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu
26 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.132. 27 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8, tr.723. 28 Hồ Chí Minh, T p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.534.
năm để giữ gìn quyền độc lập của Việt Nam, để cho con cháu Việt Nam khỏi
40
kiếp nô lệ, thì chúng ta vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến”29. Như vậy,
nền hòa bình mà Việt Nam lựa chọn phải là hòa bình trong sự tôn trọng độc
lập và chủ quyền dân tộc. Cuộc chiến tranh mà nhân dân Việt Nam phải chấp
nhận cũng chính là nhằm đạt đến “một nền hòa bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”30. Do đó, trước và sau khi cuộc kháng chiến bùng
nổ trong cả nước, Người đã hoạt động không mệt mỏi trong các mối quan hệ
quốc tế nhằm đạt được sự công nhận nền độc lập và tự do của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, nhằm duy trì hòa bình trên đất nước. Nhiều lần Người gửi
thông điệp cho các nhà lãnh đạo Chính phủ Pháp, những đại diện Pháp tại
Đông Dương cùng nhiều chính khách và nhân sĩ tiến bộ trên thế giới bày tỏ
nguyện vọng hòa bình và đề nghị những biện pháp hòa bình. Và Người nói
với nhân dân Pháp rằng: “Chúng tôi yêu chuộng các bạn, và muốn hợp tác
thành thực với các bạn trong khối Liên hiệp Pháp, vì chúng ta có một lý tưởng
chung: Tự do, bình đẳng và độc lập. Chính bọn thực dân phản động Pháp đã
làm ô danh nước Pháp, và tìm cách chia rẽ chúng ta bằng cách khiêu chiến.
Chừng nào nước Pháp hiểu rõ nền độc lập và thống nhất của chúng tôi, và gọi
trở lại những kẻ thực dân hiếu chiến Pháp về, thì tình giao hảo và sự hợp tác giữa hai dân tộc Pháp - Việt sẽ trở lại ngay”31.
Ngay từ khi mới thành lập, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
tuyên bố chính sách đối ngoại vì mục tiêu giữ gìn hòa bình thế giới: “Đối với
tất cả các nước trên thế giới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết tha
mong muốn duy trì tình hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ để xây dựng hòa bình thế giới lâu dài”32.
Trong điện văn gửi Thủ tướng Pháp Lêông Blum ngày 23/12/1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chúng tôi cũng như Ngài, rất mong muốn
29 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.105. 30 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.77-78. 31 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.536. 32 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 11, tr.269.
giữ vững hòa bình và thi hành thành thực những thoả hiệp đã ký kết, như tôi
41
đã từng nói rõ trong nhiều lời kêu gọi gửi đến Ngài”33. Tất cả những điều đó
xuất phát từ tư tưởng hòa bình, một tình cảm mong muốn hòa bình thực sự, tư
tưởng ấy, tình cảm ấy là chân thực, nhưng được đặt trong nguyên tắc bất di
bất dịch là hòa bình trong độc lập thực sự, là toàn vẹn lãnh thổ. Chính tấm
lòng yêu hòa bình, và tinh thần đấu tranh vì hòa bình đã thu hút sự đồng tình
của loài người tiến bộ và trở thành một nội dung quan trọng của tư tưởng
đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh.
Trong ử C p P p p ă ớ ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tôi kêu gọi nhân dân Pháp để chấm dứt cuộc
chiến tranh huynh đệ tương tàn và năm 1947 mang lại nền hòa bình và tình hữu ái giữa nước Pháp và nước Việt Nam”34. Người còn khẳng định mục tiêu
đối ngoại vì hòa bình và phát triển trong thư gửi Chính phủ và Quốc hội Pháp
năm 1947: “Nhân dân Việt Nam chỉ muốn có hòa bình, một nền hòa bình thực
sự, để kiến thiết quốc gia với sự cộng tác của những người bạn Pháp chân chính”35. Người còn nói: “Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và Việt ngừng chảy. Những dòng máu đó chúng tôi đều quý như nhau”36.
Đứng trước dã tâm của đế quốc Mỹ, vì lý tưởng hòa bình, Hồ Chí Minh
quyết tâm chống lại chính sách chiến tranh xâm lược của chúng. Nhưng trong
lúc chiến tranh diễn ra ác liệt thì Người vẫn sẵn sàng bắc chiếc cầu thương
lượng hòa bình. Hồ Chủ tịch khẳng định mong muốn hòa bình, sẵn sàng giải
quyết vấn đề hòa bình về Việt Nam, sẵn sàng trải thảm đỏ và rắc hoa cho Mỹ
rút. Nhưng nếu Mỹ không rút thì nhân dân Việt Nam đành phải kiên quyết
đánh đuổi Mỹ đi, giành độc lập cho Tổ quốc. Tháng 8/1953, trả lời câu hỏi
“Mỹ có mạnh không?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Chính sách xâm
lược của Mỹ trái với chính nghĩa. Chẳng những nhân dân thế giới chống mà
33 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.541. 34 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.3. 35 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.14. 36 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.24.
nhân dân Mỹ cũng chống”; “Mỹ gặp một địch nhân càng ngày càng mạnh là
42
Phong trào thế giới bảo vệ hòa bình”37. Đồng thời, Người khẳng định thắng
lợi tất yếu của phong trào đó, vì “Đôla, nguyên tử không ngăn nổi sức mạnh hòa bình của thế gian”38.
Đối ngoại vì hòa bình, hữu nghị và phát triển của Hồ Chí Minh không
chỉ là định hướng, là quan điểm chung cho hoạt động ngoại giao mà thực sự
đi vào trong hành động, trong ứng xử cụ thể để giải quyết trong vấn đề, trong
con người để khai thác những mặt tích cực, giảm thiểu những mặt tiêu cực
trong các mối quan hệ đối ngoại và ngoại giao ở trong thời điểm cụ thể đảm
bảo tính linh hoạt và tính tình thế rất rõ ràng. Những quan điểm, phẩm chất ấy
đã thành biểu tượng của lương tri con người.
2.2.2. Nguyên tắc đối ngoại
2.2.2.1. Độ p ạ ặ ộ
Có thể nói, độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, là hệ quả của một
quá trình tiếp thu những truyền thống quý báu của dân tộc, biết lựa chọn
những tinh hoa của thế giới và biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý,
nguyên tắc mácxít trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, các hoạt động đối
ngoại và hoạt động ngoại giao. Đây là một thành công của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo công tác đối ngoại, hoạt động ngoại
giao của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Bài học độc lập tự chủ, dựa vào sức
mình không chỉ là nội dung quan trọng trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh
mà còn là nội dung then chốt của tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, và nhiều nội dung khác trong giải quyết các vấn đề quốc tế.
Độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh là phương châm nổi bật, nhất quán trong
toàn bộ cuộc đời hoạt động chính trị nói chung và hoạt động đối ngoại của Hồ
Chí Minh nói riêng. Nguyên lý chủ yếu xuyên suốt của phương châm này là: “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”39. Đó chính
37 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8, tr.196. 38 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.479. 39 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.320.
là cơ sở để thực hiện hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài. Theo
43
Hồ Chí Minh, vị thế của Việt Nam cần phải được xác định, nhất định không
để Việt Nam lệ thuộc vào ai, ngay cả phe Đồng minh thì dân tộc Việt Nam
cũng đã “gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít”. Do vậy, Việt Nam
gia nhập vào phe các nước dân chủ nhân dân với tư cách là một bộ phận của
lực lượng tiến bộ này, có chủ quyền và có quyền đòi hỏi thế giới phải công
nhận nền độc lập này.
Độc lập tự chủ thể hiện ở tư duy nhận thức và hành động tự chủ, sáng
tạo, không giáo điều và dập khuôn. Độc lập tự chủ còn là đặc trưng của bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam; là bản chất khoa học, cách mạng và sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng các giá trị ấy vào việc
hoạch định đường lối đối nội và đối ngoại phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể
của Việt Nam trong bối cảnh quốc tế và xu thế phát triển của thời đại.
Trong quan hệ đối ngoại, Hồ Chí Minh yêu cầu quán triệt quan điểm
độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, gắn liền với đoàn kết, hợp tác quốc tế.
Phương châm này được Hồ Chí Minh giải thích: “Độc lập nghĩa là chúng tôi
điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”40. Cũng có nghĩa là dân tộc Việt Nam phải tự mình vạch ra đường lối,
chính sách đối ngoại độc lập trên cơ sở lợi ích quốc gia, nhưng đồng thời phải
phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thích ứng với xu thế thời đại. Quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là, dân tộc Việt Nam “phải vạch rõ những phương pháp
và những biện pháp của riêng mình”, nhưng Người cũng cho rằng: không thể
nào hạn chế những hoạt động hiện nay và tương lai,... trong khuôn khổ dân tộc
thuần túy, những hoạt động đó có muôn ngàn sợi dây liên hệ với cuộc đấu tranh
chung của thế giới tiến bộ. Người còn nhấn mạnh: “Phải chú ý đến tình hình thế
giới, vì nước ta là một bộ phận của thế giới, mọi việc trong thế giới đều có quan hệ với nước ta, việc gì trong nước ta cũng quan hệ với thế giới”41. Chính vì vậy,
các quốc gia cần phải có sự liên kết, hợp tác với nhau để giải quyết những vấn đề
40 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.162. 41 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 9, tr.265.
chung và tận dụng ngoại lực để phát triển đất nước mình.
44
Vào thời kỳ 1945-1946 chúng ta thấy rõ hơn, nếu không có độc lập tự
chủ, dựa vào sức mình là chính theo quan điểm Hồ Chí Minh thì chắc chắn
chúng ta không thể vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” ấy được. Người
thường xuyên căn dặn cán bộ phải giữ vững lập trường, phải vững vàng, khôn
khéo, phải chủ động, tích cực; phải tự lực cánh sinh, phải “đem sức ta mà giải
phóng cho ta”. Người còn nói: “sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng,
nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc
không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”42.
Từ đầu năm 1950 ta đặt được quan hệ ngoại giao với Liên Xô, Trung
Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, chính thức trở thành thành viên
của phe xã hội chủ nghĩa. Đến những năm đầu 1960, khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ của dân tộc ta bước vào giai đoạn cực kỳ quyết liệt, nếu không độc
lập tự chủ, không dựa vào sức mình là chính thì chúng ta không thể giải quyết
thành công các mối quan hệ quốc tế đặc biệt là khi mâu thuẫn Xô - Trung trở
thành xung đột công khai. Cả hai nước lớn này đều yêu cầu ta phải tỏ thái độ
“nhất biển đảo”, trong lúc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam của ta đang phụ thuộc vào viện
trợ lớn của hai nước về cả kinh tế lẫn quân sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất
phát từ nhận định, cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam vì độc lập
và thống nhất Tổ quốc là sự nghiệp cao cả và chính nghĩa, đã trở thành lương
tâm, vinh dự của thời đại, được cả loài người tiến bộ, kể cả nhân dân Mỹ đồng
tình ủng hộ. Vì vậy, trong cuộc tranh chấp Xô - Trung, để tập hợp lực lượng,
cả hai nước đều cần đến Việt Nam. Bằng tình cảm quốc tế chân thành và
trong sáng, bằng nghệ thuật ứng xử ngoại giao tinh tế, có lý, có tình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta vẫn kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì vận
động thuyết phục, làm cho bạn hiểu ta, tiếp tục ủng hộ, giúp đỡ cho ta đến khi
42 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr.445.
sự nghiệp thống nhất đất nước của ta hoàn toàn thắng lợi. Như vậy, đường lối
45
và phương châm đối ngoại độc lập, tự chủ luôn là nền tảng để đoàn kết, tập
hợp các lực lượng cách mạng thế giới, ủng hộ giúp đỡ cách mạng Việt Nam
cũng là điều kiện quan trọng để làm nên những thắng lợi vang dội trong lịch
sử dân tộc.
2.2.2.2. bạ bớ ù ừ ở ộ , p ơ , ạ
ạ
Triết lý đối ngoại Hồ Chí Minh biểu hiện trên nhiều mặt, trong đó có
tinh thần “thêm bạn, bớt thù”, Người cho rằng: “Nhân dân ta từ lâu đã sống
với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục,
tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà”43. Tư tưởng đó là cơ sở quan trọng để Hồ
Chí Minh xây dựng nguyên tắc không ngừng rộng mở, đa phương, đa dạng
quan hệ đối ngoại.
Trong tác phẩm “Đ ờ K ” năm 1927, Người đã khẳng định: “Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”44. Khi
Đảng ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã nói
về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên
lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản
Pháp. Điều đó thể hiện tư tưởng về đoàn kết, mở rộng quan hệ quốc tế, sau này
tư tưởng đó được Đảng thể hiện bằng phương châm đối ngoại là “làm cho nước
mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết”, đúng với quan điểm của Hồ Chí Minh: “Mọi người yêu nước và tiến bộ là bạn của ta”45.
Trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam, ngay từ sau khi nước nhà
giành được độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương thực hiện
một đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương, đa dạng. Trong nhiều phát biểu
43 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.668. 44 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.329. 45 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr.453.
trả lời phỏng vấn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí
46
Minh khẳng định là Việt Nam muốn “sẽ hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác thật thà và bình đẳng với Việt Nam”46. Những tuyên bố này là sự khởi đầu
của chính sách đối ngoại rộng mở đa phương và đa dạng hóa quan hệ quốc tế
mà nước ta có thể thực hiện được trong điều kiện thực tiễn quan hệ chính trị
thế giới lúc bấy giờ. Việc nước ta triển khai quan hệ đối ngoại trên nhiều
hướng đã góp phần mở rộng tập hợp lực lượng quốc tế, hình thành mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, Hồ Chí
Minh luôn chú trọng xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng,
giữa cái phổ biến với cái đặc thù, để mở rộng các quan hệ đối ngoại, tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới. Chính sách đối ngoại độc lập tự
chủ của Hồ Chí Minh không hướng tới đơn độc, biệt lập mà đi đôi với mở
rộng quan hệ quốc tế, tăng cường đoàn kết quốc tế, gắn mình với thế giới, đặt
mình trong xu thế phát triển của thời đại. Độc lập tự chủ nhằm bảo đảm lợi
ích dân tộc chính đáng, thực hiện các quyền dân tộc cơ bản trong điều kiện lợi
ích của các dân tộc đan xen, chồng chéo. Nhưng độc lập tự chủ, tự lực tự
cường xa lạ với chủ nghĩa biệt phái, sự biệt lập. Để chiến thắng những kẻ thù
mạnh hơn mình gấp nhiều lần trong bối cảnh thời đại mới, nguyên tắc đối
ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tăng cường đoàn kết và tranh thủ sự hợp
tác quốc tế, coi đây là vấn đề có tầm chiến lược hàng đầu trong đường lối đối
ngoại của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của đoàn kết và hợp tác quốc tế là
tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của quốc
tế, làm tăng khả năng tự lực tự cường, tạo điều kiện làm chuyển biến so sánh
lực lượng có lợi cho cách mạng.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng mối quan hệ gắn bó với
các nước xã hội chủ nghĩa, với các “Đảng Cộng sản anh em” theo tinh thần
của “chủ nghĩa quốc tế vô sản” và “chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa”. Với
46 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 6, tr.195.
mối quan hệ này, Người đặc biệt quan tâm đến việc góp phần xây dựng khối
47
đoàn kết trong nội bộ phong trào “trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ
nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”. Và Người đã sớm nhận thấy tầm quan
trọng của việc tăng cường đoàn kết, hợp tác giữa Việt Nam với các nước láng
giềng. Người rất quan tâm phát triển quan hệ đối ngoại với Trung Quốc, sau
khi cách mạng Trung Quốc thành công, hai nước cùng xây dựng chế độ mới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những cống hiến to lớn xây dựng mối quan hệ
mới, hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân
Việt Nam - Trung Quốc. Theo Người:
“M ắ V - Hoa, Vừ ừ ”47.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc đã vận dụng kinh nghiệm ngoại
giao của ông cha, ứng xử phù hợp với truyền thống của quan hệ Việt Nam -
Trung Quốc; am hiểu sâu sắc văn hóa Trung Hoa, kết mối thân tình với nhân
dân và có quan hệ hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau với các nhà lãnh đạo Trung
Quốc; đồng thời, khéo xử lý quan hệ Việt - Trung phù hợp với các mối quan
hệ toàn cầu mới, trong sự tương tác với các nước lớn khác, đồng minh hay đối
phương của Việt Nam.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng với nguyên tắc không ngừng mở
rộng, đa phương, đa dạng quan hệ đối ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập
hợp được lực lượng ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm tăng thêm sức mạnh nội lực, hoàn
thành mục tiêu cách mạng cũng như mục tiêu đối ngoại, đảm bảo độc lập tự
chủ, thống nhất Tổ quốc. Phương châm này là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta
vận dụng trong phát triển quan hệ đối ngoại trong giai đoạn hội nhập và phát
triển hiện nay.
2.2.2.3. K ề ề ẻ ề sách l
“Dĩ bấ b ạ b ” là một nguyên tắc đối ngoại then chốt trong
47 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 14, tr.82.
tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. Nguyên tắc này bắt nguồn từ triết lý phương
48
Đông (Kinh Dịch), triết lý này được ông cha ta vận dụng trong suốt chiều dài
dựng nước và giữ nước. Điều bất biến là mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội nhưng tùy từng điều kiện cụ thể trong quá trình đấu tranh cách
mạng có sự điều chỉnh hợp lý - đó là vạn biến.
Trong bối cảnh phức tạp của tình hình cách mạng sau tháng Tám năm
1945, nhận định âm mưu của từng kẻ thù trên đất nước ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có những chính sách đối ngoại rất khôn khéo, mềm dẻo phù hợp với
điều kiện của một nhà nước vừa mới ra đời với muôn vàn khó khăn, phức tạp.
Người đã chỉ rõ âm mưu của thực dân Pháp là quay trở lại Việt Nam, tuy
nhiên với Pháp lúc đó, ta một mặt phải kiên quyết chủ trương “Độc lập về
chính trị” nhưng có thể nhân nhượng về kinh tế. Đối với Quốc dân Đảng
Trung Hoa thì thực hiện chủ trương “Hoa Việt thân thiện”. Đó là sách lược
ngoại giao mềm dẻo trong tình huống cách mạng lúc bấy giờ.
Chương trình đối ngoại: “Làm sao cho các nước công nhận nền độc lập
của nước Việt Nam. Thân thiện với các kiều dân ngoại quốc, nhất là Hoa
kiều. Đối với Pháp, chỉ đánh bọn thực dân, còn đối với những kiều dân không
làm hại gì cho nền độc lập của ta, ta sẽ phải bảo vệ tính mệnh và tài sản của họ”48. Điều đó biểu hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược đối ngoại của
Hồ Chí Minh. Trước lúc lên đường sang Pháp để đàm phán (31/5/1946), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dặn lại cụ Huỳnh Thúc Kháng phải “dĩ bất biến ứng vạn
biến” trong xử lý việc nước. Người chỉ rõ: “Mục đích bất di bất dịch của ta
vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”49.
Xác định đúng giới hạn của sự nhân nhượng, không thỏa hiệp vô
nguyên tắc, không làm tổn hại đến quyền và lợi ích quốc gia. Trước khi về
nước Hồ Chí Minh đã ký với Bộ trưởng Pháp M.Mutê một bản Tạm ước
48 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.174. 49 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.555.
(14/9/1946), trong đó Chính phủ Pháp đảm bảo quyền tự do và ngừng bắn ở
49
Nam Bộ, ta nhân nhượng một số quyền lợi cho Pháp ở Việt Nam. Đây là sách
lược ngoại giao tài tình tranh thủ thời cơ hòa hoãn với Pháp nhằm chuẩn bị
cho cuộc kháng chiến lâu dài. Đó là sách lược mềm dẻo, linh hoạt trong hoạt
động đối ngoại đồng thời Đảng ta cũng khẳng định: “Tạm ước ngày 14 tháng
Chín là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ
quyền của nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc”. Ngay trong những sự
nhân nhượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên quyết khẳng định quyền tự
chủ của Việt Nam trong vấn đề ngoại giao. Người nói: “nếu quân đội và ngoại
giao Việt Nam ở dưới quyền Pháp tức là Việt Nam chưa được độc lập hẳn và vẫn là thuộc địa của Pháp”50.
Trong chính sách đối ngoại với các nước lớn khác, Hồ Chí Minh tìm ra
những điểm tương đồng giữa ta và họ, cũng như hiểu quan hệ giữa họ với
nhau, không để Việt Nam “bị kẹp” trong xung đột nước lớn, tranh thủ nước
lớn nào có thể tranh thủ được; hết sức tránh gây căng thẳng, đối đầu và
“không gây thù oán với một ai”. Điều quan trọng nữa là phải tạo dựng được
mối quan hệ thoả đáng, không vì quan hệ với nước lớn này mà gây ra đối
kháng với nước lớn khác; giải quyết mối quan hệ trước mắt phải tính đến hệ
quả và chiều hướng phát triển lâu dài; đồng thời luôn đặt quan hệ này trong
tổng thể các mối quan hệ khu vực và toàn cầu.
2.2.2.4. Đ ạ p
Hoạt động đối ngoại phải có thực lực làm cơ sở, trong đó sức mạnh bên
trong - sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự, con người của đất nước làm nền
tảng giữ vai trò quyết định sự thành công của hoạt động đối ngoại. Mức độ
độc lập, tự chủ trong đối ngoại phụ thuộc vào sức mạnh chính trị, kinh tế,
quân sự, … của đất nước nhưng cũng còn phụ thuộc vào trình độ tư duy, trí
tuệ, kinh nghiệm, phương pháp, khả năng ứng xử, … của Đảng và lãnh tụ
50 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.494. 51 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.553.
trong hoạt động và chỉ đạo đối ngoại. Người căn dặn: “Mỗi một người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do”51.
50
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi độc lập tự chủ là “cái gốc”, “là điểm mấu
chốt” của mọi chính sách và sách lược. Người đã nhiều lần căn dặn “ngoại
giao của ta là phải tự lực cánh sinh. Phải hiểu thấu đáo vấn đề này, không thì sẽ xiêu vẹo ngay đấy”52. Phải giữ vững lập trường, phải khôn khéo, chủ động
tích cực xây dựng thực lực của mình. Người nêu cao quan điểm “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”53. Người còn nói: “sự
giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được
ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”54. Muốn thắng
lợi trên mặt trận đối ngoại thì sức mạnh nội lực rất quan trọng “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi”55. Người đã chỉ rõ tầm quan
trọng của việc xây dựng thực lực trong công tác đối ngoại và đấu tranh ngoại
giao: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”56, điều đó cũng khẳng định phương châm đối ngoại phải dựa vào
thực lực của mình mới giữ được thế chủ động, mới giành được thắng lợi.
Ở buổi đầu dựng nền cộng hòa dân chủ, ta ở giữa vòng vây của chủ
nghĩa đế quốc, chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận, quân đội
nước ngoài đóng trên đất nước ta có lúc đến non nửa triệu, ta có thể dựa vào
ai và phải có đối sách như thế nào để giữ vững được thành quả cách mạng?
Dựa vào tinh thần yêu nước và sức đoàn kết của toàn dân, nắm bắt được xu
thế của thời đại, dự đoán được sự phát triển của tình hình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: Về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính và ngoại giao của
ta là tự lực cánh sinh. Muốn thắng lợi trên mặt trận đối ngoại phải có thực lực
làm cơ sở, do đó việc xây dựng thực lực về chính trị, kinh tế, quân sự của đất
52 Bộ Ngoại giao, N ạ V N ờ ạ H C M Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.236. 53 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.320. 54 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr.445. 55 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.147. 56 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.147.
nước - sức mạnh nội lực là rất quan trọng. Thực hiện nguyên tắc của phép
51
dụng binh “chế người chứ không để người chế mình”. Cho nên, theo Người:
“Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”57.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại và đấu
tranh ngoại giao trong điều kiện tương quan lực lượng quân sự giữa ta và đối
phương sau Cách mạng tháng Tám còn nhiều hạn chế đối với ta, vì vậy: “muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”58 và cùng
Trung ương khẳng định: “Dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết định sự thắng lợi giữa ta và Đồng minh”59. Hồ Chí Minh còn đặc biệt nhấn mạnh:
“Nếu tự mình không có thực lực làm cơ sở thì không thể nói gì đến ngoại giao”60 và “muốn tiếp thu lòng đồng tình và sự giúp đỡ đó, chúng ta trước
phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất
trí của toàn thể quốc dân ta,... Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín,
trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”61,
Năm 1949, khi trả lời các nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Chúng tôi bao giờ cũng trông ở sức mình. Chúng tôi không sợ ai cả. Không nước nào có thể thống trị được chúng tôi”62, nghĩa là trong bất kỳ hoàn
cảnh nào việc xây dựng thực lực cũng luôn là một nhiệm vụ trung tâm. Thực
lực chính là sức mạnh tổng hợp về kinh tế, chính trị, quân sự, con người...
Thực tế cách mạng Việt Nam đã chứng minh, thực lực quân sự là điều
kiện cho thành công của đối ngoại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã tạo đà cho
thắng lợi của hiệp định Giơnevơ năm 1954, thắng lợi của trận Điện Biên Phủ
57 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8, tr.552. 58 Nguyễn Dy Niên, ở ạ H C M Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.165. 59 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Vă Đ p tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.417. 60 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.488. 61 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.537. 62 Hồ Chí Minh, p, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.537.
trên không năm 1972, tạo thế chủ động cho chúng ta trên bàn đàm phán ở Hội
52
nghị Pari, giành những điều khoản có lợi cho ta trong Hiệp định Pari
(27/1/1973), thúc đẩy công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ở một góc độ khác, thắng lợi trên mặt trận đối ngoại, mặt trận ngoại giao sẽ
tạo tiền đề, điều kiện để tăng cường “lực” cho cách mạng, tạo “thế” cho đất
nước trong quan hệ chính trị, quân sự và kinh tế quốc tế.
2.2.2.5 H p ơ ở ọ
Quan điểm về sự tự nguyện trong hợp tác quốc tế, được Hồ Chí Minh
nêu rõ, Lênin đã dạy rằng: “Không có sự cố gắng tự nguyện của giai cấp vô
sản và sau đó là của toàn thể quần chúng lao động tất cả các nước và các dân
tộc trên thế giới, hướng tới sự liên minh và thống nhất với nhau, thì việc chiến thắng chủ nghĩa tư bản không thể nào hoàn thành có kết quả được”63. Hồ Chí
Minh còn chỉ rõ, người ta chỉ có thể hợp tác chặt chẽ với nhau khi mối quan
hệ hợp tác đó là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc và bất bình đẳng.
Ngay sau khi đất nước giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã công bố
những quan điểm lớn của chính phủ ta về ngoại giao. Nguyên tắc chung được
nêu lên là kiên trì ngoại giao với tất cả các nước trên cơ sở của sự bình đẳng,
tương trợ, tự nguyện và tôn trọng lẫn nhau. Mục tiêu của ngoại giao là làm
sao đất nước ít kẻ thù hơn, nhiều bạn đồng minh hơn. Người đã nhiều lần nói
rõ: Nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa “làm bạn với
tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, “một khi đã độc lập, Việt Nam sẽ đứng với tất cả các nước bầu bạn”64, từ nguyên tắc ngoại
giao trên đây, chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là quan hệ
kinh tế của nước ta đã được khẳng định rõ: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”65.
Từ nguyên tắc ngoại giao tự nguyện và tôn trọng lẫn nhau đã giúp Hồ
63 Hồ Chí Minh (2011), p, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.573. 64 Hồ Chí Minh (2011), p, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.576. 65 Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Vă Đạ ộ ạ b ể VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.578.
Chí Minh xác định đối tượng trong hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, do những tác
53
động của lịch sử và những điều kiện khách quan, Người đã có những chỉ đạo,
xử lý mối quan hệ quốc tế đối với từng đối tượng cụ thể, tùy theo mối quan hệ
về chính trị, lịch sử, địa lý. Người đặc biệt coi trọng, mở rộng hợp tác toàn
diện với các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Quan điểm của Người trong các
chuyến thăm hữu nghị, chính thức, các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã thể hiện rõ điều này. Khối lượng vật chất to lớn, các phương tiện,
máy móc, việc đào tạo các chuyên gia, thợ kỹ thuật mà các nước xã hội chủ
nghĩa đã dành cho Việt Nam trong những năm dân tộc ta tiến hành công cuộc
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã
thể hiện hiệu quả, tính đúng đắn của đường lối đối ngoại toàn diện, tự nguyện
và tôn trọng lẫn nhau trong việc mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước xã
hội chủ nghĩa anh em.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng hết sức coi trọng quan hệ với các nước
láng giềng và khu vực. Thực tế lịch sử cho thấy, tại các diễn đàn quốc tế có
liên quan, Hồ Chí Minh luôn khẳng định tình đoàn kết, hữu nghị và sự hợp
tác với nhân dân các nước nước láng giềng trên bán đảo Đông Dương, với các
nước Đông Nam Á và Nam Á. Những mối quan hệ ngoại giao mà Nhà nước
ta thực hiện trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
sau này là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thể hiện rõ chủ trương
này. Trong mối quan hệ đó, Hồ Chí Minh nhiều lần nói tới năm nguyên tắc
chung sống hòa bình. Người đặc biệt nhấn mạnh những nguyên tắc không
xâm phạm lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Đối với các nước lớn, có tiềm lực kinh tế và khoa học - kỹ thuật, có vị
trí và vai trò quan trọng trong các mối quan hệ quốc tế. Ngay từ cuối những
năm 20 của thế kỷ XX, sau đó là những năm trước Cách mạng Tháng Tám và
đặc biệt là trong những ngày tháng đất nước ta mới giành được độc lập, Hồ
Chí Minh đã giao thiệp khá rộng rãi với chính giới các nước lớn như Mỹ,
Trung Quốc, Anh, v.v.. Ngay trong những ngày tháng quyết liệt nhất của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người vẫn nêu rõ quan điểm, người Mỹ
54
đến Việt Nam để bắn giết, để bị giết chết là điều sỉ nhục, nhưng người Mỹ
đến giúp đỡ Việt Nam, với tư cách là nhà kinh doanh, chuyên gia kỹ thuật thì
họ sẽ được nhân dân Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh. Người bày tỏ: Sẽ rất
sung sướng được đón tiếp Tổng thống Mỹ đến Việt Nam với ý nguyện ấy.
Đối với những nước đã có những mối quan hệ trong lịch sử, những
nước có nhiều thuận lợi trong việc hiểu biết tâm lý con người Việt Nam, hiểu
những điều kiện tự nhiên và xã hội của đất nước và con người Việt Nam. Với
nước Pháp, trong nhiều lần tiếp xúc với chính giới và giới công thương Pháp
trong chuyến thăm nước Pháp (1946), Người nói rõ: Nếu cần chuyên gia kỹ
thuật nước ngoài thì Chính phủ Việt Nam sẽ mời người Pháp đầu tiên.
Lịch sử đã đi qua, nhưng lịch sử cũng cho chúng ta một độ lùi cần thiết
đủ để khẳng định những quan điểm của Hồ Chí Minh về xác định nguyên tắc
tự nguyện và tôn trọng lẫn nhau trong quan hệ quốc tế là những quan điểm đi
trước thời đại và có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong công cuộc xây dựng nền
ngoại giao Việt Nam hiện nay.
2.2.3. Phương pháp đối ngoại
2.2.3.1. P ơ p p b ắ ú ờ ơ
Phương pháp ngoại giao dự báo và nắm đúng thời cơ là một phương
pháp thể hiện khả năng phân tích tình hình và dự báo xu thế phát triển của
tình hình của Hồ Chí Minh. Không phải bất cứ nhà ngoại giao nào cũng có
khả năng này. Nội dung của phương pháp này tập trung vào bốn vấn đề chủ
yếu sau:
Mộ phải phân tích một cách toàn diện và hệ thống bối cảnh thế giới
và trong nước, tình hình ta và địch, chỉ ra những mối liên hệ, quan hệ biện
chứng giữa các yếu tố có liên quan và ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam và
ngoại giao hai bên. Hồ Chí Minh đã cho rằng: “tình hình thế giới dính dáng mật thiết với nước ta”66, sự vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam
66 Hồ Chí Minh: p, S , t.4, tr. 37.
chịu tác động lớn của những xu thế trên thế giới. Vì vậy, trong quá trình xem
55
xét tình hình thế giới phải gắn phân tích với tổng hợp, khái quát để rút ra
những nét chung nhất, tránh tình trạng “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”, chỉ
thấy các sự kiện đơn lẻ mà không thấy mối quan hệ qua lại, phụ thuộc chặt
chẽ và tác động lẫn nhau, không thấy các xu thế tồn tại khách quan đang chi
phối sự vận động và phát triển của tất cả các dân tộc trên thế giới trong từng
thời kỳ lịch sử.
Hai là, phân tích sự xuất hiện của các cường quốc mới, mâu thuẫn giữa
các trung tâm quyền lực và các đối tác để dự báo chiều hướng vận động của
quan hệ quốc tế và ngoại giao Việt Nam cũng như vận hội của nước nhà. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh sự thay đổi cơ bản
của quan hệ quốc tế. Người cho rằng, cuộc chiến tranh thế giới đã chính thức
kết liễu ở châu Âu, cũng như Viễn Đông, chủ nghĩa dân chủ được toàn thắng,
các cường quốc đồng minh đã trịnh trọng công nhận quyền dân tộc tự quyết,
điều đó sẽ “mở ra một kỉ nguyên mới đầy hy vọng cho các dân tộc Á Đông”.
Ba là, phân tích tương quan lực lượng, chiều hướng phát triển của tình
hình để dự báo khả năng, thời điểm và thời cơ của cách mạng và mở mặt trận
ngoại giao. Ngay từ tháng 6/1941, Người đã đưa ra nhận định cục diện chiến
tranh thế giới và điều kiện thời cơ cho cách mạng nước ta “Nay cơ hội giải
phóng đến rồi, đế quốc Pháp bên Âu đã không thể tự cứu, càng không thể cứu bọn thống trị Pháp ở ta”67. Năm 1946, Người nêu lên một kết luận có tính chất
dự báo về triển vọng của cuộc kháng chiến “Việt Nam sẽ thắng trong cuộc
chiến tranh này,… nước Việt Nam có thể bị tàn phá, nhưng nước Việt Nam sẽ
lại hùng mạnh hơn sau cuộc tàn phá đó. Còn nước Pháp chắc chắn sẽ mất hết và biến khỏi cõi Á châu”68.
B chủ động chuẩn bị lực lượng để chớp thời cơ giành thắng lợi khi
thời cơ đến. Cùng với việc dự báo chính xác thời cơ cách mạng, Chủ tịch Hồ
67 Hồ Chí Minh: p, S , tập 3, tr . 230. 68 Hồ Chí Minh p, S , tập 5, tr. 19.
Chí Minh luôn tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng, tranh thủ điều kiện
56
quốc tế thuận lợi, từng bước khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức để tạo
thế và lực mới, hình thành tương quan lực lượng giữa ta và địch, ngày càng có
lợi cho cách mạng, góp phần thúc đẩy thời cơ.
Phương pháp ngoại giao dự báo và nắm đúng thời cơ của Hồ Chí Minh
đã tranh thủ được những điều kiện thuận lợi và đồng thời hạn chế được những
khó khăn của tình hình quốc tế và trong nước để tiến hành các hoạt động
ngoại giao giành thắng lợi dựa trên tinh thần “đi trước một bước trong tư duy
chiến lược, sách lược ngoại giao”. Đồng thời, cũng khẳng định ngoại giao
phải nắm đúng thời cơ mà đưa ra mục tiêu của mình, phải tranh thủ tận dụng
thời cơ, thời điểm có lợi cho mình mà đàm phán trên thế mạnh của ta. Phân
tích thời cơ không chỉ dừng lại ở tìm đối sách, tình huống mà quan trọng hơn
còn nhằm làm rõ chiều hướng phát triển của tình hình và dự đoán trước được
khả năng phát triển của tình hình để chủ động nhận thức và đón nhận thời cơ,
kịp thời đề ra những quyết định điều chỉnh chiến lược khi cần, nhằm tạo ra
bước ngoặt thúc đẩy cách mạng.
2.2.3.2. P ơ p p i dụng mâu thu ũ ẻ thù
Trong thư gửi cho đồng chí Saumian, viết tháng 3/1918, Lênin viết:
Phải biết lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, chừng nào còn học làm ngoại giao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển các luận điểm
của Lênin về mâu thuẫn kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao của Việt Nam.
Phương pháp ngoại giao này được thể hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trước năm 1945, Hồ Chí Minh đã rất chú ý theo dõi mâu thuẫn giữa
các nước đế quốc liên quan đến Đông Dương, tìm cách lợi dụng các mâu
thuẫn đó có lợi nhất cho cách mạng Việt Nam.
Mặc dù cùng bắt tay khai thác Đông Dương, song mâu thuẫn giữa Pháp
và Nhật ngày càng tăng khi quân Đồng minh liên tiếp giành thắng lợi trên
khắp các chiến trường. Lo sợ Pháp sẽ làm nội ứng khi quân Đồng minh đổ bộ
vào Đông Dương, Nhật đã tiến hành đảo chính Pháp vào đêm ngày 9/3/1945.
57
Nhìn thấy mâu thuẫn từ trước đó, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cho sự kiện này
từ rất sớm và cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị: “Nhật, Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị đã góp phần chuẩn bị chu đáo
về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho quần chúng nhân dân, trực tiếp đẩy thời
cơ đến chín muồi, dẫn đến thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Sau cách mạng Tháng Tám, trước những khó khăn chồng chất, nước
Việt Nam mới trong tình thế “ ”. Trong bối cảnh trên,
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Kiên trì chủ
trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”. Phải
đặc biệt chú trọng “lợi dụng mâu thuẫn của Tàu - Mỹ và Anh - Pháp Đờ Gôn
để tranh thủ ngoại viện, ký hiệp ước với các nước Đồng Minh, để họ thừa nhận nền độc lập của dân tộc ta”69.
Để tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc, chúng ta đã xác
định được kẻ thù chính là Pháp, tập trung lực lượng chống kẻ thù chính, hòa
hoãn với Tưởng, thực hiện chính sách Hoa - Việt thân thiện. Sở dĩ ở đây có
thể hoà hoãn với Tưởng để chống Pháp là do Pháp và Tưởng đều có âm mưu
phá hoại thành quả cách mạng. Pháp dùng quân sự để thiết lập chế độ thuộc
địa, còn Tưởng lợi dụng tư cách là quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật,
kéo theo bè lũ tay sai để thiết lập chính quyền tay sai của chúng nên ta có thể
hòa hoãn được với Tưởng.
Ngày 28/2/1946, Pháp và Tưởng đã ký H p ớ H - Pháp tại Trùng
Khánh. Theo Hiệp ước, Pháp trả cho Tưởng các tô giới Thượng Hải, Hán
Khẩu, Quảng Châu, Thiên Tân, đất mướn Quảng Châu Loan, bán lại đường
sắt Vân Nam, mở cửa Hải Phòng thành cảng tự do, hàng hóa Tưởng vận
chuyển qua miền Bắc được miễn thuế, và lót tay cho Tưởng khoản tiền lớn;
Tưởng đồng ý cho quân Pháp thay quân Tưởng ở Bắc Đông Dương.
Tình hình trên đặt cách mạng nước ta vào tình thế vô cùng khó khăn,
69 Trích Văn kiện Đảng về quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại, tập 1, tr.265.
nguy hiểm. Trước đây ta lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù để tránh phải đối đầu với
58
cả Pháp và Tưởng cùng một lúc, nay chúng đã thỏa hiệp với nhau. Sau khi
nghiên cứu kỹ tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã ra
Chỉ thị ngày 3/3/1946. Chỉ thị phân tích cho rằng đây không phải là chuyện
mua bán riêng giữa Tưởng và Pháp mà là sự nhân nhượng giữa Mỹ, Anh,
Tưởng và Pháp về vấn đề Đông Dương. Chúng tạm thời dẹp mâu thuẫn nội
bộ để cứu vãn quyền lợi của chúng đang bị cao trào cách mạng đe dọa,…
Trong bối cảnh gian nguy đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chủ
trương hòa với Pháp vì có hai điều lợi lớn: Phá được mưu mô của quân
Tưởng, của phát xít và bọn Việt gian, bảo toàn được thực lực; giành được
giây phút nghỉ ngơi chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Ngày 6/3/1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp đã ký
Hiệp định sơ bộ với nội dung: Nước Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là nước tự do, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính
riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp; Pháp cam
đoan sẽ thừa nhận một cuộc trưng cầu dân ý về thống nhất ba kỳ; ta chấp nhận
để 15.000 quân Pháp vào Bắc Việt Nam, và Đông Dương nói chung, thay
quân Tưởng, hạn không quá 5 năm. Có thể đánh giá việc ký Hiệp định Sơ bộ
là một biện pháp ngoại giao sáng suốt, lợi dụng mâu thuẫn Pháp - Tưởng,
nhất là khi chúng đã thỏa hiệp với nhau.
Chuyến thăm Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian họp Hội
nghị Phôngtennơblô, Người đã gặp nhiều người Pháp từ chính khách đến nhà
báo, nhà khoa học, bạn bè. Người đã giải thích rõ lập trường của Đảng và
chính phủ Việt Nam để cô lập bọn phản động Pháp, để lợi dụng “sự khác
nhau” của nhân dân Pháp và bọn thực dân Pháp có lợi cho cuộc kháng chiến
của chúng ta.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Nhân dân ta, Bác Hồ và Đảng
rất chú ý lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ và các đồng minh của Mỹ, trước hết là
Pháp. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ ta đã đề ra chủ trương
miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập tiến tới hòa bình thống nhất Tổ
59
quốc với việc thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Với
chủ trương này ta hạn chế cuộc đấu tranh trong phạm vi dân tộc chống đế quốc,
gắn đấu tranh của ta với bảo vệ hòa bình thế giới, do vậy mà tranh thủ được sự
đồng tình của đồng minh cũng như Pháp, khơi sâu thêm mâu thuẫn Pháp - Mỹ
có lợi cho Việt Nam.
Ngoài mâu thuẫn Pháp - Mỹ, chúng ta còn chú ý khơi sâu mâu thuẫn
giữa Mỹ và các đồng minh khác, giữa chính phủ Mỹ và nhân dân Mỹ, các phe
phái trong giới cầm quyền Mỹ, giữa Mỹ và tay sai,... Cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhiều lần gửi thư cho người đứng đầu các nước, trong đó có Tổng
thống Mỹ, tiếp nhiều chính khách, phóng viên báo chí, viết nhiều bài,… nhấn
mạnh sự nghiệp chính nghĩa của Nhân dân ta, phê phán cuộc chiến tranh của
Mỹ ở Việt Nam, phân hóa hàng ngũ đối phương, tranh thủ thêm sự đồng tình
ủng hộ của bạn bè, nhân dân thế giới đối với cách mạng nước ta.
Ngoài ra, đối với Hồ Chí Minh, lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù không những
là vấn đề chiến lược, biện pháp sách lược của cách mạng Việt Nam mà còn là
nghệ thuật trong đấu tranh ngoại giao của ta. Đây là sự sáng tạo lớn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong đấu tranh ngoại giao, vận dụng trong thực tiễn đã đem
lại những thắng lợi to lớn cho cách mạng Việt Nam.
2.2.3.3. P ơ p p ạ ạ
Điểm độc đáo của tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài
hòa giữa ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao song
phương với ngoại giao đa phương, trong đó ngoại giao nhân dân và ngoại
giao đa phương nhiều khi phải đi trước một bước. Phương pháp đa dạng hóa
các hình thức đối ngoại của Hồ Chí Minh được thể hiện qua một số nội dung
chủ yếu sau:
Th nhất, cùng với th c hi n ngoạ ớc không ngừ ẩy
mạnh i ngoại nhân dân.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, các nước tiến hành các hoạt động ngoại
giao dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng quy tụ lại thành hai loại chính là
60
ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Ngoại giao nhà nước là mối quan
hệ giữa chính phủ với chính phủ của các nước có chủ quyền, giữa các nhà
lãnh đạo của các nước. Các quan chức làm việc trong các đại sứ quán hoặc cơ
quan đại diện ngoại giao của một nước ở nước ngoài là những người đại diện
cho chính phủ ở nước sở tại. Đối ngoại nhân dân là một hình thức hoạt động
quan hệ đối ngoại do các tổ chức, các đoàn thể, hoặc cá nhân thuộc nhiều lĩnh
vực tiến hành, không mang tính chất chính thức của Chính phủ. Có nhiều hình
thức phong phú: Gặp gỡ, các cuộc đi thăm, hội đàm, trao đổi ý kiến,
festival,…
Theo Hồ Chí Minh, ngoại giao không chỉ là việc riêng của “các đại sứ
quán, tổng lãnh sự quán là những cơ quan chuyên môn phụ trách, mà còn là
các tổ chức khác như ngoại thương, văn hóa, thanh niên, phụ nữ, công đoàn cũng đều làm ngoại giao cả”70. Đây là quan điểm xuất phát từ tư tưởng lấy
dân làm gốc của cha ông ta, được Người kế thừa và nâng lên một bước: Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Vậy
ngoại giao cũng là mặt trận không thể thiếu sự tham gia của nhân dân.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng, tháng 2/1951, khi nêu khái niệm về đối
ngoại nhân dân và tầm quan trọng của nó, Đảng ta đã tự kiểm điểm: “Do chưa
nhận thức đầy đủ về tác dụng của đối ngoại nhân dân, ta chưa có kế hoạch
tích cực, kiên quyết vượt qua mọi trở lực, để xúc tiến đối ngoại nhân dân”,
đồng thời nêu nhiệm vụ phải “phát triển đối ngoại nhân dân rộng rãi”, “củng
cố ngoại giao với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác,
tăng cường việc ngoại giao giữa đoàn thể nhân dân nước ta và các đoàn thể nhân dân thế giới”71. Đây là một sự phát triển sáng tạo trong nhận thức của
Đảng ta và Hồ Chí Minh về vai trò và vị trí của đối ngoại nhân dân, phù hợp
với tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đặt
70 Nguyễn Dy Niên, Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2008, tr. 168. 71 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.12, tr.117.
cơ sở cho hoạt động đối ngoại nhân dân thời kỳ tiếp theo.
61
Ít có vị lãnh tụ nào trên thế giới trong khi đang lãnh đạo nhân dân tiến
hành cuộc chiến tranh chính nghĩa để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc
mình, lại vẫn luôn bày tỏ sự cảm thông với nhân dân các nước ở phía bên kia
chiến tuyến. Trong các bức thư gửi nhân dân Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
bày tỏ rằng: Người không lên án bản thân những người lính Mỹ bị đưa sang
Việt Nam, bởi họ, cũng như các binh lính thuộc địa trước đây chẳng qua là
công cụ của nhà cầm quyền. Vì vậy, Người bày tỏ: “Chẳng những chúng tôi
đau xót vì đồng bào miền Nam chúng tôi phải gian khổ, hy sinh, mà chúng tôi
cũng thương xót cho các bà mẹ và các người vợ Mỹ đã mất con, mất chồng
trong cuộc chiến tranh phi nghĩa ở miền Nam Việt Nam do bọn quân phiệt Mỹ tiến hành”72.
Kết hợp đấu tranh ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã rất thành công khi
phát huy sức mạnh của đối ngoại nhân dân, biểu dương sức mạnh của quần
chúng nhân dân trong những ngày đầu của nền dân chủ cộng hòa (1945-
1946). Cũng kết hợp thành công đối ngoại nhân dân với ngoại giao Nhà nước,
Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm cho nhân
loại tiến bộ trên thế giới hiểu sâu sắc hơn về khát vọng độc lập, hòa bình,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Chính phủ và nhân dân Việt Nam khi
kiên trì thực hiện Hiệp định Giơnevơ năm 1954, Hiệp định Pari năm 1973, và
bền bỉ tiến hành cuộc đấu tranh vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự
do, thống nhất.
Th hai, cùng vớ i ngoạ p ơ t h p th c hi n ngoại giao
p ơ .
Kể từ khi Nhà nước Việt Nam độc lập và có chủ quyền ra đời và ngành
Ngoại giao được thành lập, Đảng và Nhà nước ta luôn rất coi trọng hoạt động
ngoại giao. Về nguyên lý, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị trên chiến
72 Hồ Chí Minh: p, S , tập 14, tr.331.
trường và trong lòng địch là nhân tố quyết định thắng lợi. Tuy nhiên, trong
62
tình thế đặc biệt nào đó, mặt trận ngoại giao, có thể và phải giữ vai trò chủ
động, thậm chí có ý nghĩa quyết định. Nước ta ở vào tình thế đặc biệt như vậy
từ khi tuyên bố độc lập ngày 2 tháng Chín năm 1945 đến ngày Toàn quốc
kháng chiến 19 tháng Mười hai năm 1946. Đó là thời kỳ cách mạng nước ta
yếu nhất về quân sự cũng như kinh tế, song phải đối phó với nhiều kẻ thù nhất
trong bối cảnh bị bao vây, cô lập hoàn toàn với bạn bè trên thế giới. Điều hết
sức may mắn cho dân tộc ta là trong tình thế đó, hoạt động ngoại giao đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo và đích thân tiến hành.
Người không từ bỏ cố gắng nào để duy trì trạng thái hòa bình, dù mỏng
manh, để có thời gian xây dựng lực lượng mọi mặt, tìm cách thêm bạn bớt
thù, có sách lược mềm dẻo để phân hóa đối phương, tranh thủ sự công nhận
trên thực tế của các cường quốc trong liên minh chống phát xít, nay là Uỷ
viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc - một tổ chức quốc tế liên
chính phủ quan trọng nhất vừa mới ra đời với chức năng gìn giữ hòa bình và
an ninh quốc tế. Người đã gửi nhiều thư điện đến Tổng thống, Bộ trưởng
Ngoại giao Mỹ và nguyên thủ quốc gia các nước Liên Xô, Anh, Trung Hoa
dân quốc để lên án thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ, đòi Liên Hợp Quốc
công nhận nền độc lập của nước ta, đòi nước ta được kết nạp vào Liên Hợp
Quốc và được tham dự Hội nghị Uỷ ban tư vấn Liên Hợp Quốc để bàn các
vấn đề liên quan đến Viễn Đông sắp khai mạc tại Washington.
Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng Chín năm 1945, do Hồ Chí Minh
khởi thảo, về mặt đối ngoại, đó cũng là thông điệp ngoại giao đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nói về vai trò và trách nhiệm của Liên Hợp
Quốc đối với nền độc lập của nước ta. Tuyên ngôn độc lập khẳng định sự
đóng góp to lớn và tích cực của nhân dân Việt Nam vào cuộc đấu tranh chung
của các nước đồng minh chống phát xít, quân phiệt; đòi Liên Hợp Quốc phải
thực hiện những gì các cường quốc đồng minh đã long trọng hứa hẹn tại Hội
nghị Teheran (từ 28/11 đến 1/12/1943) và Hội nghị Cựu Kim Sơn, tức San
Francisco (từ 25/4 đến 26/6/1945) để thông qua Hiến chương Liên Hợp Quốc,
63
công nhận quyền tự quyết và độc lập của các dân tộc thuộc địa. Do vậy, họ
quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Bản
Tuyên ngôn độc lập khẳng định dứt khoát rằng: “Một dân tộc đã gan góc
chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về
phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân
tộc đó phải được độc lập”.
Trước khả năng cuộc toàn quốc kháng chiến không thể tránh khỏi Hồ
Chí Minh ra “Lời kêu gọi Liên Hợp Quốc” trong đó, một lần nữa “trịnh trọng
tuyên bố rằng nhân dân Việt Nam thành thật mong muốn hòa bình, nhưng
nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những
quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất
nước. Đồng thời, Người cũng công bố nội dung chính sách đối ngoại hết sức
mềm dẻo. Qua đó, có thể thấy rằng chính sách ngoại giao song phương và đa
phương đã được Hồ Chí Minh đưa ra ngay từ khi nước nhà vừa mới giành độc
lập nhằm mục đích tranh thủ sự hợp tác hết sức rộng rãi về nhiều mặt của
nước ngoài trên cơ sở giữ vững nguyên tắc bất biến, đó là “nền độc lập hoàn
toàn của Việt Nam phải được Liên Hợp Quốc công nhận”.
Đa dạng hóa các hình thức đối ngoại là một trong những phương pháp
thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo về sách lược, kiên định về chiến lược trong
nghệ thuật đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.2.3.4. P ơ p p b t thắng từ b ớc
Phương pháp biết thắng từng bước có cơ sở lý luận từ chủ nghĩa Mác -
Lênin, đó là quan điểm phát triển biện chứng từ tuần tự đến nhảy vọt. Trong
tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam thường phải đối
phó với kẻ thù mạnh hơn mình như: Các triều đại phong kiến Trung Hoa, thực
dân Pháp, quân phiệt Nhật và đế quốc Mỹ. Cũng có khi chúng ta cũng phải
đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc như giai đoạn 1945-1946. Phân hóa kẻ
thù, “ ng vớ ở ”, “ ò ã ớ P p” là một trong những
quyết sách táo bạo, đầy trí tuệ và nghệ thuật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng
64
thời là minh chứng cụ thể cho phương pháp đối ngoại “biết thắng từng bước”
trước những âm mưu thôn tính của nhiều kẻ thù. Chủ trương lấy ít địch nhiều,
lấy yếu chống mạnh, phương pháp hợp lý nhất, hiệu quả nhất là giành thắng
lợi từng bước để đi tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Đầu năm 1968, trên cơ sở thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân 1968, ta đã chủ động mở rộng mặt trận đấu tranh ngoại giao,
buộc phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội
nghị Pa-ri, mở ra giai đoạn " ừ ừ ". Thực hiện phương hướng
chiến lược mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra là: "Đ Mỹ ú
cho ụ " và để biến phương hướng chiến lược đó thành hiện thực,
đồng thời với việc tiếp tục đẩy mạnh tiến công quân sự, trong quá trình đàm
phán chúng ta chủ trương thiết lập tại miền Nam một chính quyền liên hiệp ba
thành phần, xem đó là một bộ phận trong giải pháp buộc phía Mỹ phải chấp
nhận rút hết quân ra khỏi cuộc chiến, chấm dứt sự dính líu quân sự của Mỹ ở
Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh chính trị với đấu
tranh quân sự, chúng ta đã triển khai và phát triển thế trận chiến tranh nhân
dân trên ba vùng chiến lược là rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị, thực
hành chiến lược tiến công địch cả về chính trị, quân sự và ngoại giao; đánh
địch bằng phương thức kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính
quy, chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ
lực hợp thành.
Bằng cuộc tiến công Tết Mậu Thân, ta đã giáng cho địch một đòn chí
mạng, buộc Mỹ phải đơn phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom
miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán, mở ra giai đoạn " ừ ừ ". Đây
là thắng lợi bước đầu, nhưng có ý nghĩa chiến lược quan trọng, góp phần làm
cho hậu phương ta thêm vững chắc, tiềm lực ta được tăng cường và chi viện
cho chiến trường miền Nam thêm thuận lợi. Do đó, yêu cầu chính của ta là
giữ vững những thắng lợi mới giành được và chuyển sang đấu tranh đòi Mỹ
rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam.
65
Nhằm làm chuyển biến căn bản cục diện chiến trường, mở ra khả năng
giành thắng lợi quyết định, Đảng ta chỉ đạo mở cuộc tiến công chiến lược trên
toàn chiến trường miền Nam; đánh trả thắng lợi các cuộc đánh phá của không
quân Mỹ ra miền Bắc, mà đỉnh cao là đánh bại cuộc tập kích đường không
chiến lược bằng máy bay B52 của chúng vào tháng 12-1972. Thắng lợi của ta
đã buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri về lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút
hết quân về nước.
Đánh giá tình hình quốc tế, khu vực và trên chiến trường chính xác,
Đảng ta đã chỉ đạo tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1975 “ N ụ
nhào” giành thắng lợi quyết định, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã minh
chứng cho nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh giải phóng giành thắng lợi từng
bước của Đảng ta đã được nâng lên một tầm cao mới.
Phương pháp và nghệ thuật giành thắng lợi từng bước của Hồ Chí Minh
luôn luôn đi với tư tưởng cách mạng tiến công. Có tiến công cách mạng mới
mau chóng giành thắng lợi. Hồ Chí Minh đã thể hiện tinh thần tiến công ở
mọi nơi, mọi lúc, đặc biệt trong công tác ngoại giao. Khi thực dân Pháp còn
đang thống trị đất nước, trước sự đe dọa, mua chuộc của kẻ thù, Hồ Chí Minh
tuyên bố: “Cái mà tôi cần nhất trên đời này là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc
tôi được độc lập”. Lúc thời cơ giành chính quyền đã đến, Người nêu quyết tâm:
“dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”73. Trước âm mưu chia cắt đất nước ta, Hồ Chí Minh khẳng định nước Việt
Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, “sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”74. Khi đế quốc Mỹ, muốn dùng lực lượng
quân sự khổng lồ, thiết bị quân sự hiện đại đè bẹp dân tộc ta, Người tuyên bố:
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
73 Võ Nguyên Giáp: N ữ ặ ờ ử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.196. 74Hồ Chí Minh: p, S tập 4, tr.280.
Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt
66
Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”75.
Chiến lược tiến công của ta là chiến lược tiến công của một nước nhỏ
đối đầu với một nước lớn hùng mạnh, một quân đội nhà nghề, quân số đông,
vũ khí hiện đại, dồi dào,... Vì thế chúng ta chủ trương trên cơ sở nắm vững
phương châm đánh lâu dài, tranh thủ thời cơ, tập trung sức mạnh, đánh thắng
lợi từng bước, tiến lên đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của địch. Đó là một
thành công trong chỉ đạo chiến lược, chiến dịch và chiến đấu của ta. Trong
từng giai đoạn đấu tranh, để đánh bại từng chiến lược của kẻ thù, Đảng ta,
trên cơ sở khách quan, khoa học, đã đánh giá chính xác tình hình, phân tích rõ
những điểm mạnh yếu của địch và của ta để đề ra nhiệm vụ, mục tiêu cho phù
hợp. Đảng đã quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công cho toàn quân, toàn
dân, liên tục tiến công địch, liên tục tạo lực, tạo thế, nắm vững thời cơ, đánh
bại từng biện pháp và kế hoạch chiến lược của địch. Những bài học kinh
nghiệm, đặc biệt là những nét đặc sắc trong nghệ thuật giành thắng lợi từng
bước của ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn nguyên giá trị
trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
2.3. Tƣ tƣởng đối ngoại Hồ Chí Minh với Trung Quốc
Lịch sử những ngày đầu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã
chứng kiến sự gắn bó sâu sắc trong quan hệ hai nước Việt – Trung. Ngay sau
khi về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng (năm 1941), quan hệ
với Trung Quốc cũng luôn là mối quan tâm hàng đầu trong tư tưởng đối ngoại
của Hồ Chí Minh. Lịch sử cách mạng Trung Quốc cũng diễn biến thăng trầm,
khó khăn, song xây dựng mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, dài lâu với Trung
Quốc được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh
cũng như của Đảng và nhân dân Việt Nam.
2.3.1. Mục tiêu đối ngoại với Trung Quốc
Trong những ngày đầu lập nước, cách mạng Việt Nam đứng trước
75Hồ Chí Minh: p S , tập 15, tr. 131.
muôn vàn khó khăn, thù trong giặc ngoài lăm le lật đổ chính quyền non trẻ.
67
Việc đầu tiên của Chính phủ lâm thời là phải “cứu đói khẩn cấp” cho nhân
dân, tuyên truyền văn hóa, chống lại các hủ tục, mê tín dị đoan, xây dựng
niềm tin của nhân dân đối với chính quyền cách mạng.
Lợi dụng danh nghĩa “quân Đồng minh”, Tưởng Giới Thạch với dã tâm
“Hoa quân nhập Việt”, “Diệt cộng, cầm Hồ”, gây nhiều khó khăn cho chính
quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam. Song với trí tuệ vượt bậc, Hồ Chí
Minh đã khéo léo, hy sinh lợi ích trước mắt cả về kinh tế, chính trị để giữ hòa
khí với quân đội Tưởng. Ngay trong ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã gửi thư cho Hoa kiều khẳng định chính sách hữu nghị với Trung Quốc.
Trong đó nói rõ: Chính phủ Việt Nam hoan nghênh Hoa kiều làm ăn sinh
sống ở Việt Nam, chấp nhận cho Việt quốc, Việt Cách tham gia Quốc hội
khóa I không thông qua bầu cử…Tuy nhiên, ngay sau khi Hiệp ước Hoa-
Pháp ở Trùng Khánh được ký kết, chúng ta cũng nhanh chóng ký Hiệp định
Sơ bộ (6/3/1946) buộc Tưởng Giới Thạch phải nhanh chóng rút quân. Có thể
thấy, mọi sự nhân nhượng đều hướng tới mục tiêu xuyên suốt là đảm bảo giữ
vững chính quyền cách mạng, giữ vững nền độc lập.
Năm 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa ra đời lại cho thấy một phương thức ứng xử khác của Hồ Chí
Minh trong quan hệ với Trung Quốc. Thể hiện sự chân thành, sâu sắc và gây
dựng mối quan hệ chiến lược, lâu dài với chính phủ của Chủ tịch Mao Trạch
Đông. Là một chính trị gia đặc biệt am hiểu về văn hóa và con người Trung
Quốc, Hồ Chí Minh đã thể hiện sự tôn kính đối với một nền văn hóa lớn của
nhân loại, song cũng rất kiên trì học hỏi, giữ vững những giá trị riêng biệt
trong văn hóa của Việt Nam. Xây dựng mối quan hệ nồng hậu giữa các
nguyên thủ quốc gia và các vị lãnh đạo cấp cao, kịp thời chia sẻ khó khăn,
giải quyết các vướng mắc, bất đồng trong những vấn đề chung của hai nước.
Ngay sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (ngày
18/01/1950), quan hệ của hai Đảng, hai Nhà nước được nâng lên một tầm cao
mới, đồng thời mở ra cho Việt Nam một thời kỳ thiết lập ngoại giao với nhiều
68
nước trên thế giới. Với sự gắn bó chặt chẽ giữa hai nước, Trung Quốc đã huấn
luyện, đào tạo nhiều cán bộ quan trọng cho Việt Nam, đồng thời giúp đỡ về
vũ khí, lương thực, thuốc men cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược. Tháng 10/1959, nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh
Trung Quốc lần thứ 10, Hồ Chí Minh chân thành chia sẻ: “Việt Nam và Trung
Quốc là hai nước anh em, quan hệ mật thiết với nhau như môi với răng, hai
nước chúng ta đã và đang cùng nhau sát vai phấn đấu cho độc lập dân tộc và
CNXH. Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc có ý nghĩa đặc biệt to lớn đối với nhân dân Việt Nam.”76
Chính sự chân thành đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời với
những nỗ lực xây dựng quan hệ tốt đẹp của nhân dân hai nước, sau khi Mỹ và
Ngụy quyền Sài Gòn mở rộng chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam, Chính phủ
và nhân dân Trung Quốc đã có những phản ứng gay gắt, phản đối chính sách
của Mỹ - Ngụy. Trong buổi tiếp đón đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam (8/1963) Chủ tịch Mao Trạch Đông đã đọc bản
Tuyên bố phản đối bè lũ Mỹ - Diệm xâm lược miền Nam Việt Nam, tàn sát
nhân dân miền Nam. Đồng thời, Chính phủ Trung Quốc cũng ra Tuyên bố
vạch trần sự bịa đặt của Mỹ qua “Sự kiện vịnh Bắc Bộ” và khẳng định: Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước trong phe XHCN, không một nước
XHCN nào có thể ngồi nhìn nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị xâm lược.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nước láng giềng khăng khít như môi
với răng của Trung Quốc, nhân dân Việt Nam là những người anh em thân
như ruột thịt của nhân dân Trung Quốc, “Mỹ xâm lược Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tức là xâm lược Trung Quốc, 650 triệu nhân dân Trung Quốc quyết không thể khoanh tay đứng nhìn”77
Mặc dù có nhiều cách đánh giá, nhìn nhận về sự giúp đỡ của Trung
76 Hồ Chí Minh: p, S , tập 12, tr 288 77 Lý Đan Tuệ, “Quan hệ Trung – Xô và viện trợ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ của Trung Quốc”, Tạp chí “Nghiên cứu lịch sử Trung Quốc đương đại” (Trung Quốc) số 3. 1998
Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, song
69
không thể phủ nhận, sự giúp đỡ to lớn về vật chất, cổ vũ về tinh thần là một
trong những nguyên nhân thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Đế quốc
Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam. Điều đó cũng khẳng định, mục tiêu
xuyên suốt trong tư tưởng đối ngoại với Trung Quốc của Việt Nam là nhằm
đảm bảo chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước. Đồng thời, Người
cũng hết sức chú trọng mục tiêu hợp tác hữu nghị vì hòa bình, vì sự phát triển
chung của nhân dân hai nước và hai Đảng Cộng sản anh em.
2.3.2. Nguyên tắc đối ngoại với Trung Quốc
Tại Đại hội II (2/1951), trong Luận cương được trình bày, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: “Cách mạng Việt Nam chịu ảnh hưởng của cách mạng
Trung Quốc rất mạnh. Dân tộc Việt Nam phải đoàn kết chặt chẽ với nhân dân
Trung Quốc, học hỏi kinh nghiệm quý báu của cách mạng Trung Quốc và tư tưởng Mao Trạch Đông để soi sáng đường lối cách mạng của mình”78, Người
khẳng định: “Cần phát triển tinh thần hữu nghị đối với Trung Quốc, gột bỏ
những tàn tích của mọi thành kiến dân tộc, song đồng thời cần chống lại khuynh hướng ỷ lại vào Trung Quốc và khuynh hướng giáo điều”79. Ngoài ra,
trong cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam,
nhiều lần Đảng Cộng sản Trung Quốc muốn can thiệp, lái cách mạng Việt
Nam theo hướng vì lợi ích của Trung Quốc. Thậm chí, Đặng Tiểu Bình từng
“cảnh cáo” Việt Nam: “Dùng lực lượng vũ trang để thống nhất đất nước sẽ có hai khả năng: một là thắng và hai là mất cả miền Bắc Việt Nam”80. Song với
nguyên tắc “tự chủ, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết”, nhân dân Việt
Nam vẫn dựa vào thực lực của mình, quyết tâm đến cùng để giải phóng miền
78 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t12, tr 99 79 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t12, tr100 80 Phát biểu của Đặng Tiểu Bình trong cuộc hội đàm với đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam tháng 7/1955, “Về Q – V N ừ ớ C ạ Q ộ ữ ớ ” (1948-1979). Tài liệu nghiên cứu tổng hợp, 03/1989, tr 122.
Nam, thống nhất tổ quốc. Mặc dù vậy, trong ứng xử với Trung Quốc, Chủ
70
tịch Hồ Chí Minh vẫn thể hiện sự trân trọng đối với Chủ tịch Mao Trạch
Đông giống như những người cách mạng của Trung Quốc khác khi chúc thọ
“Kính chúc Mao Chủ tịch vạn thọ vô cương”. Trước lối ứng xử chân thành và
văn minh của Hồ Chí Minh đối với Đảng, nhân dân và Chủ tịch Trung Quốc,
người dân Trung Quốc cũng luôn tỏ rõ sự yêu mến, trân trọng đối với Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Thông qua Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân
Trung Quốc cũng có những sự giúp đỡ to lớn, quý báu đối với sự nghiệp giải
phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc của nhân dân Việt Nam.
Trong quan hệ với Trung Quốc, Hồ Chí Minh luôn thể hiện rõ lập
trường, quan hệ thân thiết, chân thành nhưng không ỷ lại, phụ thuộc vô điều
kiện. Bên cạnh sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Trung Quốc, nhân dân Việt
Nam cũng không được giây phút nào quên nhiệm vụ xây dựng, củng cố sức
mạnh, thực lực của chính mình. Chỉ có thực lực mạnh mới tạo nền móng cho
mối quan hệ hữu nghị, bình đẳng giữa hai bên. Đây được coi là một trong
những quan điểm có tính chất lập trường, xuyên suốt trong quan hệ Việt –
Trung. Vừa coi trọng Trung Quốc, nhưng không làm giảm vị trí, vai trò của
Việt Nam trong mối quan hệ của hai bên.
Trong bối cảnh quan hệ Liên Xô và Trung Quốc có nhiều bất đồng gay
gắt gây khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Song với nguyên tắc “kiên định
về chiến lược, mềm dẻo về sách lược” Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã linh
hoạt, giải quyết hài hòa mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc. Khi Liên
Xô đề nghị rất nhiều sáng kiến tốt cho Việt Nam như cầu hàng không, căn cứ
Hoa Nam, Liên Xô - Trung Quốc phối hợp hành động giúp Việt Nam…
nhưng Trung Quốc không đồng ý, thì Việt Nam cũng không triển khai sáng
kiến đó. Hoặc như Liên Xô muốn đưa cố vấn về mặt phòng không, cố vấn vào
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, muốn đưa cố vấn về tên lửa… nhưng
Việt Nam đều không chấp nhận…Trung Quốc muốn đưa cố vấn sang Việt
Nam, đưa bộ đội Trung Quốc vào làm đường ở Việt Nam, chúng ta cũng
không chấp nhận mà chỉ chấp nhận Trung Quốc giúp ta ở miền Bắc, làm
71
đường ở miền Bắc. Điều đó cho thấy, Việt Nam đã rất linh hoạt, những có chủ
kiến trong việc ứng xử với Liên Xô và Trung Quốc, tránh bị đẩy vào tình
trạng nghiêng về bên này, chống đối bên kia, không có lợi cho cuộc chiến
tranh đang hết sức căng thẳng ở miền Nam Việt Nam. Việt Nam khẳng định
rõ lập trường và tinh thần quốc tế vô sản trước những động thái lôi kéo Việt
Nam chống “chủ nghĩa xét lại” của Liên Xô.
Với nguyên tắc hợp tác trên cơ sở tự nguyện và tôn trọng lẫn nhau, khi
Trung Quốc tiến hành Cách mạng văn hóa vào những năm 1960, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đã có thái độ đúng mực,
không bài xích, chê bai, cũng không a dua, ủng hộ khi không phù hợp với tình
hình thực tiễn ở Việt Nam. Trong khi đó, nhiều Đảng cộng sản anh em khác
đã có những phát biểu, thái độ gây bất đồng với Trung Quốc.
Có thể nói, Trung Quốc là một đối tác đặc biệt trong quan hệ đối ngoại
của Việt Nam nói chung và của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng. Để xây dựng
mối quan hệ tốt đẹp, bền vững giữa hai quốc gia, hai Đảng, hai Nhà nước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện đầy đủ nghệ thuật đối ngoại của mình. Vừa
đảm bảo mục tiêu độc lập dân tộc, hợp tác vì hòa bình, phát triển chung của
hai bên, vừa thực hiện nhất quán các nguyên tắc trong đối ngoại, có hợp tác,
có đấu tranh, vừa kiên định lại mềm dẻo, linh hoạt.
2.3.3. Phương pháp đối ngoại với Trung Quốc
Là một chiến sĩ cộng sản Quốc tế, Hồ Chí Minh đi nhiều nơi, hoạt động
trong nhiều phong trào cách mạng của các nước anh em. Thời gian hoạt động,
gắn bó với phong trào cách mạng Trung Quốc luôn được Người nhắc đến
nhiều lần với tình cảm sâu sắc, gắn bó. Trong những năm kháng Nhật của
nhân dân Trung Quốc, Hồ Chí Minh từng tham gia “Bát lộ quân”, làm chủ
nhiệm câu lạc bộ của một đơn vị ở Quế Lâm. Thời gian này, Người viết rất
nhiều bài báo gửi đến các nước và gửi về Việt Nam, trong đó đặc biệt kêu gọi
nhân dân Việt Nam đồng tình và ủng hộ sự nghiệp kháng Nhật của nhân dân
Trung Quốc.
72
Hồ Chí Minh là một trong những nguyên thủ quốc gia được mời và đến
thăm Trung Quốc nhiều nhất trong lịch sử, cũng là người có mối quan hệ gắn
bó, thân mật nhất với các lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc, đồng thời cũng
nhận được sự đón tiếp nồng hậu nhất của Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, Đổng Tất
Vũ, Thủ tướng Chu Ân Lai, bà Tống Khánh Linh...Từ năm 1967 đến năm
1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh có 3 lần sang Trung Quốc nghỉ dưỡng và chữa
bệnh. Thủ tướng Chu Ân Lai đã trực tiếp chỉ đạo công tác đưa đón, tổ chức y,
bác sỹ đặc biệt điều trị cho Người. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh lâm bệnh nặng,
đích thân Chu Ân Lai chỉ đạo chuyên gia y tế Trung Quốc sang Việt Nam
phối hợp, chăm sóc sức khỏe cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây được coi là sự
quan tâm đặc biệt của lãnh đạo cấp cao Nhà nước Trung Quốc đối với Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Có được điều đó, chính là nhờ sự chân thành, nồng hậu của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với các nhà lãnh đạo của Trung Quốc. Quan hệ đó
đã tạo nên một sự tin tưởng bền vững giữa hai quốc gia, đồng thời dễ dàng
giải quyết những vướng mắc, bất đồng để đạt được tiếng nói chung trong
quan hệ hai nước hay trong các vấn đề quốc tế. Xây dựng niềm tin giữa lãnh
đạo cấp cao hai nước, được coi là một phương pháp ngoại giao đặc biệt thành
công của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói Hồ Chí Minh đã vận dụng một
cách sâu sắc nghệ thuật “tâm công” của các vị tiền bối trong quan hệ đối
ngoại với các nhà cầm quyền Trung Quốc
Không chỉ có lối ứng xử đi sâu vào lòng người đối với các vị lãnh đạo
cấp cao của Trung Quốc, Hồ Chí Minh còn thường có những bài viết thể hiện
sự trân trọng đối với những người dân Trung Quốc nhân hậu, tài năng, coi đó
là tấm gương sáng để người dân Việt Nam học hỏi. Người từng viết bài ca
ngợi anh giải phóng quân Lôi Phong, ông nông dân Trần Vĩnh Khang... Trong
bài viết “H ù ” bút danh T.L., đăng trên báo Nhân dân, số 2636
đã kể lại tấm gương tiêu biểu là Cao Sĩ Kỳ (nhà khoa học người Trung Quốc)
chẳng may bị tàn phế, nhưng đã vượt lên mọi đau khổ, đem những hiểu biết
của mình truyền đạt lại cho các em thiếu niên, nhi đồng bằng sách và thơ ca.
73
Kể lại gương tốt là một việc làm đơn giản, song lại tạo nên những tình cảm
cao quý, thân thiết giữa nhân dân Trung Quốc với cá nhân Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí
Minh là vị lãnh tụ thấu triệt nhất về phương pháp “tâm công” trong quan hệ
đối ngoại, đặc biệt đối với Trung Quốc.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của Hồ Chí Minh trên
mặt trận đối ngoại với các đối tác, đặc biệt là Trung Quốc đó là khả năng dự
báo thời cơ và nắm bắt thời cơ. Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945,
mặc dù Tưởng Giới Thạch đại diện cho Trung Quốc với danh nghĩa đồng
minh tiến vào miền Bắc Việt Nam. Song, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định lực lượng cách mạng của Mao Trạch Đông sẽ
thắng thế nên không ngừng giúp đỡ Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc
kháng chiến chống phát xít Nhật. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt cuộc đấu
tranh cách mạng của mình trong mối liên hệ chung với cách mạng Trung
Quốc, coi cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc là “quân
hậu bị trực tiếp” ở bên ngoài của cách mạng Đông Dương. Nhân dân Việt
Nam đã quyên góp tiền ủng hộ quân và dân Trung Quốc, phát động phong
trào tẩy chay hàng Nhật…Trong cuộc chiến giải phóng dân tộc của Trung
Quốc (1947), Việt Nam là hậu phương của quân Giải phóng Trung Quốc. Với
tinh thần “cứu Trung Quốc cũng là tự cứu mình”, Việt Nam đã cung cấp
lương thực, thực phẩm, súng đạn cho Biên khu Điền Quế (Vân Nam – Quảng
Tây), phối hợp với quân Giải phóng Trung Quốc chiến đấu mở rộng khu giải
phóng Biên khu Việt – Quế (Quảng Đông – Quảng Tây), đặc biệt là sự phối
hợp trong chiến dịch Thập vạn Đại Sơn (10/1949). Trung Quốc đánh giá cao
sự ủng hộ, giúp đỡ của Đảng, quân và dân Việt Nam. Trong buổi tiếp lãnh
đạo Đảng và Chính phủ Việt Nam (01/1950), đồng chí Chu Ân Lai khẳng
định: “Trong lúc Việt Nam vừa nghèo khổ vừa gian khổ kháng chiến, lẽ ra
phải được Trung Quốc giúp đỡ, nhưng Việt Nam lại hết lòng giúp đỡ Trung
74
Quốc”81. Với khả năng đánh giá tình hình sâu sắc, chính xác, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những dự báo chính xác, lựa
chọn đúng đối tượng, thời cơ xây dựng mối liên minh bền chặt, làm nền tảng
cho quan hệ đối ngoại sau này.
Vào những năm 1960, nội bộ Trung Quốc có những điều chỉnh quan
trọng, từ chính sách thân thiện, nghiêng về Liên Xô sang chính sách chống đế
quốc, chống xét lại (chống cả Mỹ và Liên Xô), thậm chí coi Liên Xô là “kẻ
thù số 1”, là “Đế quốc XHCN”, tập hợp lực lượng phá thế hòa hoàn Xô –
Mỹ… Trong khi đó, Việt Nam luôn coi trọng sự giúp đỡ to lớn cả của Liên
Xô và Trung Quốc trong cuộc chiến tranh vệ quốc của mình. Điều đó dẫn đến
tình thế Việt Nam bị “kẹt” trong việc giải quyết mối quan hệ với hai “ông anh
cả” của phe XHCN. Một lần nữa, khả năng phân tích, đánh giá thấu đáo tình
hình, cũng như phương pháp ứng xử khéo léo, hài hòa của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã giúp cách mạng Việt Nam luôn nhận được sự giúp đỡ cả từ phía Liên
Xô và Trung Quốc. Mặc dù, Trung Quốc ngày càng thể hiện mối quan hệ chặt
chẽ với Mỹ, gây sức ép đối với Việt Nam trên các mặt trận. Tuy nhiên, dưới
sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan hệ đối ngoại Việt – Trung vẫn ở
trạng thái hài hòa, cách mạng Việt Nam vẫn nhận được sự giúp đỡ về lương
thực, vũ khí và chuyên gia cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lược. Theo thống kê của Trung Quốc, trong hai cuộc kháng chiến (chống
Pháp và Mỹ), Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam hơn 20 tỷ USD, bao gồm
tiền mặt, hàng hóa, vũ khí trang bị, chiếm 40% tổng viện trợ của Trung Quốc
cho nước ngoài. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Trung
Quốc là nước duy nhất viện trợ trực tiếp bằng ngoại tệ cho Việt Nam. Ngoài
ra, Trung Quốc cử nhiều đoàn cố vấn, chuyên gia quân sự, kinh tế và 320.000
lượt bộ đội phòng không, công binh…sang miền Bắc Việt Nam chiến đấu, rà
81 Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam giai đoạn 1948 - 1979, Cục Nghiên cứu, BTTM, tháng 12/1988, tập 1, phần thứ nhất, tr 2.
phá bom mìn, sửa chữa giao thông, xây dựng các công trình quân – dân sự.
75
Trung Quốc giúp Việt Nam xây dựng các khu công nghiệp Thượng Đình,
Việt Trì, Thái Nguyên và tuyến đường ống dẫn dầu vào miền Nam; tiếp nhận,
trung chuyển vũ khí trang bị, hàng hóa của Liên Xô và các nước XHCN viện
trợ cho Việt Nam; đào tạo cán bộ chính trị, quân sự và kỹ thuật cho Việt Nam.
Có thể nói, mặc dù quan điểm đối ngoại của Trung Quốc có những điểm khác
biệt với Việt Nam, song phương pháp đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Trung Quốc đã mang lại những hiệu quả
thiết thực, to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước
nhà của nhân dân Việt Nam.
76
Tiểu kết chƣơng 2
Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh nói chung được xây dựng dựa trên
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là:
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
của thời đại, xây dựng nền ngoại giao độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế; xây
dựng chính sách đối ngoại mới trên tinh thần mở rộng bạn, bớt thù, đặc biệt
chú trọng đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới; xây dựng nền ngoại giao xã hội chủ nghĩa phải thực sự là nền ngoại giao
hòa bình. Hệ thống những nguyên lý trên trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh đặt nền móng cho những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
Chính phủ ta trong thực hiện các nhiệm vụ cách mạng trên lĩnh vực ngoại
giao qua các thời kỳ lịch sử và đặc biệt có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Đúng như đánh giá của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về tư tưởng đối ngoại
Hồ Chí Minh như: “Biết đánh giá, dự báo tình hình, nắm bắt thời cơ, tổ chức
lực lượng, nhận rõ bạn thù, tranh thủ đồng minh, cô lập kẻ thù chủ yếu, kiên
định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, biết thắng từng bước để tiến tới
thắng lợi hoàn toàn, độc lập, tự chủ gắn liền với đoàn kết quốc tế là di sản quý
báu đối với chúng ta trong hoạt động ngoại giao để phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”82.
Thực tế lịch sử cho thấy, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh đã phát huy
hiệu quả to lớn trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam. Mặc dù, việc vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong
hoạch định đường lối đối ngoại và thực hiện nhiệm vụ đối ngoại trong hoàn
cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, song chúng ta vẫn đạt được những thành
tựu cơ bản, quan trọng. Đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng nhằm đưa
82 Phạm Văn Đồng: H C M ạ ơ , Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991, tập 1, tr.55.
đất nước tham gia tiến trình hội nhập quốc tế đã được chứng minh là đúng
77
đắn và kịp thời trước tình hình thực tế những năm cuối của thập kỷ 80, đầu
thập kỷ 90 thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Đảng ta đã sớm nhận thấy sự cần
thiết phải mở rộng, phát triển hơn nữa mối quan hệ láng giềng, hữu nghị với
các nước trong khu vực, và trên thế giới trong đó có Trung Quốc. Việc nước
ta tham gia vào các tổ chức lớn trong cộng đồng thế giới đã và đang đem lại
cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường
quốc tế. Do vậy, việc vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh vào các hoạt
động ngoại giao có ý nghĩa to lớn mà Đảng, Nhà nước ta cần nhận thức và
lãnh đạo thực hiện chặt chẽ, hiệu quả nhằm góp phần đưa lại thành công trong
công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế.
78
Chƣơng 3
QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC TỪ 1991
ĐẾN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
3.1. Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
từ 1991 đến nay
3.1.1. Tình hình thế giới, khu vực
3.1.1.1. Tình hình ớ
Trong những năm từ 1991 đến nay, tình hình thế giới, khu vực có
những biến đổi to lớn, sâu sắc, ảnh hưởng toàn diện và mạnh mẽ đến mọi mặt
đời sống xã hội của các quốc gia, các mối quan hệ quốc tế, trong đó có quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc, nổi bật là:
Mộ hòa bình, hợp tác cùng phát triển là xu thế lớn của thế giới tạo
thuận lợi cho tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Các quốc gia luôn cố gắng giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa
bình, lấy đối thoại thay cho đối đầu và cố gắng kiềm chế đến mức cao nhất
các xung đột có thể xảy ra. Để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột các quốc
gia vẫn thường xuyên đẩy mạnh hợp tác thông qua các diễn đàn song phương
hoặc đa phương, các tổ chức quốc tế, khu vực. Các cuộc đối thoại, gặp gỡ
được tổ chức thường xuyên là cơ hội để các quốc gia tìm ra những điểm
tương đồng và hạn chế các khác biệt trên nguyên tắc “cầu đồng tồn dị”.
Bên cạnh đó, đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu bức thiết đòi hỏi sự hợp
tác chặt chẽ giữa các quốc gia, dân tộc với sự tham gia của các tổ chức quốc
tế, như: Vấn đề chống ô nhiễm môi trường, chống khủng hoảng kinh tế, tài
chính, khủng hoảng năng lượng, lương thực, chống nạn đói, vấn đề an ninh
phi truyền thống,… Quốc gia nào cũng đề cao lợi ích dân tộc nhưng vẫn cố
gắng tuân thủ các nguyên tắc quốc tế với mức độ khác nhau. Các cuộc đàm
phán thương mại vẫn được các quốc gia đẩy mạnh nhằm triệt để khai thác các
lợi ích do thương mại mang lại. Nhiều thỏa thuận và hiệp định thương mại tự
79
do thế hệ mới được đàm phán, ký kết thể hiện thái độ hợp tác theo chiều sâu,
toàn diện, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Các quan hệ hợp tác tiểu vùng, hợp
tác song phương, hợp tác biên giới,… được các quốc gia quan tâm. Đồng
thời, các quốc gia còn coi trọng hợp tác cả về chống biến đổi khí hậu, bảo vệ
môi trường, khai thác tài nguyên, văn hóa - xã hội và các thách thức an ninh
phi truyền thống. Trên cơ sở đó, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc cũng không
nằm ngoài những tác động của xu thế lớn nhưng nó có những diễn biến phức
tạp, chứa đựng nhiều tiềm ẩn, bất trắc khó lường. Ðây vừa là quá trình hợp tác
để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Hai là, cục diện thế giới đa cực với sự chi phối và sự điều chỉnh chiến
lược của các nước lớn có tác động sâu sắc đến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
đầu thập niên 90 của thế kỷ XX làm cho cục diện thế giới và quan hệ quốc tế
thay đổi một cách cơ bản. Chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị khủng hoảng sâu sắc, toàn diện.
Cơ cấu địa chính trị và sự phân bố quyền lực toàn cầu bị đảo lộn, cán cân so
sánh lực lượng trên thế giới nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Sau
gần nửa thế kỷ tồn tại kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, trật tự thế giới hai
cực chấm dứt. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới chứa đựng nhiều yếu
tố bất trắc, khó đoán định, trong đó nổi lên hai khuynh hướng đối nghịch
nhau: Mỹ tham vọng lập lại trật tự thế giới đơn cực, trong khi Nga, Trung
Quốc và một số nước lớn khác đấu tranh cho trật tự thế giới đa cực. Phương
thức tập hợp lực lượng trong quan hệ hợp tác đấu tranh, hợp tác cạnh tranh,
đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn
ngày càng tăng. Theo đó, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc chịu tác động
mạnh mẽ của trật tự thế giới, từ quan hệ đối tác, hợp tác truyền thống với
những điểm tương đồng trên nhiều lĩnh vực tiếp tục phát triển thành đối tác
chiến lược toàn diện trong trật tự thế giới đa cực.
80
Ba là, toàn cầu hóa, khu vực hóa trở thành xu thế chủ đạo, diễn ra
mạnh mẽ tác động sâu sắc đến các quan hệ quốc tế mở ra những cơ hội liên
kết hợp tác trong quan hệ quốc tế.
Toàn cầu hóa là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế vượt
khỏi biên giới quốc gia và phạm vi từ khu vực lan tỏa ra phạm vi toàn cầu
trong đó hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông tin lao động,… vận động thông thoáng.
Sự phân công lao động mang tính quốc tế. Các mối quan hệ quốc tế giữa các
quốc gia, khu vực đan xen nhau hình thành mạng lưới quan hệ đa chiều, vận
hành theo các luật chơi chung được hình thành qua hợp tác và đấu tranh giữa
các thành viên của cộng đồng quốc tế83. Toàn cầu hóa kinh tế xét về bản chất
là quá trình gia tăng mạnh mẽ của những mối liên hệ sự phụ thuộc lẫn nhau
tác động qua lại của các quốc gia khu vực trên lĩnh vực kinh tế. Đảng ta nhận
định: “Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều
nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa
có đấu tranh,... Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một
quốc gia riêng lẻ nào đó có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa
phương”84. Tính khách quan của toàn cầu hóa bắt nguồn từ sự phát triển của
lực lượng sản xuất, của hàng hóa và dịch vụ đòi hỏi phải phá bỏ các rào cản
về thị trường. Sự phát triển của khoa học và công nghệ được thúc đẩy bởi quá
trình toàn cầu hóa làm cho nền sản xuất vật chất có điều kiện vượt biên giới
quốc gia và khu vực. Sự phát triển của sản xuất đòi hỏi phân công lao động
sâu rộng và gia tăng hợp tác phát triển giữa các nền kinh tế. Nhiều vấn đề
toàn cầu xuất hiện như tội phạm ma túy, dịch bệnh đòi hỏi phải hợp tác toàn
cầu mới giải quyết được. Toàn cầu hóa đặt ra yêu cầu mới trong việc tận dụng
tốt cơ hội và giảm thiểu được những rủi ro có thể mang lại trong việc thúc đẩy
83 Ban Chỉ đạo các lớp nghiên cứu, quán triệt nghị quyết Đại hội IX, tr.59. 84 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.13 -14.
quan hệ song phương giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc.
81
B những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học công
nghiệp lần thứ tư trong những năm gần đây trên thế giới đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất toàn cầu phát triển vượt bậc, tiếp tục đặt ra các yêu cầu mới
của quá trình liên kết khu vực và liên kết quốc tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ dẫn đến sự xuất hiện
và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, kinh tế thị trường. Thực tế đó
tiếp tục đặt ra các yêu cầu mới của quá trình liên kết khu vực và liên kết quốc
tế. Đồng thời, các quốc gia buộc phải điều chỉnh chiến lược toàn diện nhằm
tạo không gian phát triển cho các ngành nghề, lĩnh vực cụ thể của đời sống xã
hội vốn ngày càng phụ thuộc vào những tiến bộ khoa học, công nghệ. Nền
kinh tế thị trường trên thế giới đang được hình thành, ngày càng phát triển
hiện đại, đóng vai trò quan trọng trọng sự phát triển của đời sống kinh tế quốc
tế. Tuy nhiên, vẫn tiếp tục tồn tại các mâu thuẫn; khủng hoảng theo chu kỳ
gây thiệt hại lớn đến các nước.
Nă các cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới đã tạo ra
những nguy cơ, thách thức lớn đối với các quốc gia, đòi hỏi các quốc gia phải
cùng chung tay hành động ứng phó.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
kinh tế - tài chính giữa các quốc gia có sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn
nhau. Có rất nhiều tác nhân gây nên sự biến động của kinh tế - tài chính thế
giới, như: Các tác nhân chủ quan (sự bất ổn kinh tế - tài chính vĩ mô; bản chất
quy luật kinh tế đang được vận hành thể hiện qua việc điều hành cơ chế,
chính sách, sự thất bại trong điều tiết nền kinh tế của Chính phủ,…) và khách
quan (hội nhập quốc tế, yếu tố giá, cạnh tranh giữa các quốc gia, các yếu tố về
chính trị, hội nhập, khoa học và công nghệ, biến đổi khí hậu,…). Tuy nhiên,
giữa các tác nhân cũng có sự phụ thuộc, tác động qua lại lẫn nhau, tác nhân
này có thể là nguyên nhân hoặc hậu quả, kết quả của tác nhân khác. Khi một
hoặc một số tác nhân tích tụ đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến tình trạng
khủng hoảng kinh tế - tài chính và ảnh hưởng đến một hoặc nhiều quốc gia.
82
Để giải quyết khủng hoảng, đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung tay của tất cả các
quốc gia, dân tộc, các tổ chức quốc tế, nhất là các cường quốc và các tổ chức
tài chính quốc tế. Đồng thời, đặt ra yêu cầu các nước cần tiếp tục điều chỉnh
chính sách đối ngoại phù hợp nhằm giảm thiểu và ứng phó kịp thời với các
cuộc khủng hoảng có thể xảy ra.
Sáu là, tình hình an ninh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chiến
tranh khu vực, xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền lãnh
thổ, nhất là khu vực biển Đông đặt ra cho quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
nhiều vấn đề phức tạp cần giải quyết.
Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, tình hình an ninh thế giới có nhiều diễn
biến phức tạp, chiến tranh khu vực, xung đột vũ trang diễn ra ở nhiều nơi.
Trong đó, 70% các cuộc xung đột liên quan đến sắc tộc, tôn giáo làm ảnh
hưởng rất lớn đến sự ổn định chính trị, tác động không nhỏ đến quan hệ quốc
tế. Xung đột sắc tộc, tôn giáo đã gây ra không chỉ là những nỗi lo mà còn là
những thảm họa cho nhân loại. Sắc tộc, tôn giáo cũng ngày càng trở thành
nhân tố quan trọng ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ quốc tế. Những cuộc
xung đột trong một số quốc gia, khu vực tăng lên; một số lực lượng cực đoan
tiến hành chính sách khủng bố, đe dọa nền hòa bình và ổn định ở khu vực và
quốc tế. Giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo là một vấn đề toàn cầu. Do đó,
cần phải có sự chung tay góp sức của cả nhân loại, của tất cả các quốc gia và
tổ chức quốc tế trên thế giới.
Tình trạng tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, nhất là khu vực biển Đông
diễn biến phức tạp. Các sáng kiến, mô hình hợp tác song phương và đa
phương này đã có tác dụng nhất định trong việc giảm căng thẳng, tăng cường
hợp tác và khuyến khích đối thoại giữa các bên có liên quan. Tuy nhiên, ở
một mức độ nào đó vẫn chưa giải quyết triệt để các vấn đề đặt ra. Trước thực
trạng trên, các quốc gia xung quanh biển Đông, đặc biệt là các quốc gia có
yêu sách trong vùng tranh chấp lãnh thổ trên biển tại đây vẫn tiếp tục nỗ lực
tìm kiếm và xây dựng, thực hiện các hoạt động hợp tác. Theo đó, việc thúc
83
đẩy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc cũng phụ thuộc rất lớn vào tiến trình giải
quyết các tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, nhất là khi Trung Quốc ngày
càng đặt ra những yêu sách chủ quyền phi lý trên vùng biển quan trọng này.
B : tình hình dịch bệnh Covid đang diễn ra hết sức phức tạp và khó
lường các biến thể của nó đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Khởi nguồn
vào cuối tháng 12 năm 2019 với tâm dịch đầu tiên tại thành phố Vũ
Hán thuộc miền Trung Trung Quốc đại lục, bắt nguồn từ một nhóm người
mắc viêm phổi không rõ nguyên nhân. Những ảnh hưởng trên toàn thế giới
của đại dịch COVID-19 hiện nay bao gồm: thiệt hại sinh mạng con người, sự
bất ổn về kinh tế và xã hội, tình trạng bài ngoại và phân biệt chủng tộc đối với
người gốc Trung Quốc và Đông Á, việc truyền bá thông tin sai lệch trực tuyến
và vũ khí sinh học. Vào ngày 11 tháng 3 năm 2020, WHO tuyên bố COVID-
19 là "đại dịch toàn cầu", trước bối cảnh số ca nhiễm trên toàn cầu đã vượt
mốc 126.000 và dịch đã lan ra 123 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tính đến tháng
5 năm 2021, số ca nhiễm đã vượt quá 150.000.000 ca nhiễm và đang gia tăng
nhanh chóng. Điều đó cũng có những ảnh hướng tới quan hệ đối ngoại giữa
hai nước trong quan hệ về kinh tế, thương mại, du lịch…
3.1.1.2. Tình hình
Là một trung tâm phát triển năng động nhất thế giới, châu Á - Thái Bình
Dương trở thành một trong những động lực chủ yếu cho sự phát triển của thế
giới. Khu vực này có vị trí địa kinh tế - chính trị - quân sự chiến lược ngày
càng quan trọng trên thế giới; đồng thời, cũng là trọng tâm của sự cạnh tranh
chiến lược gay gắt giữa các nước lớn. Quá trình quốc tế hóa và khu vực hóa đã
tạo ra những biến đổi sâu sắc ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cụ thể là:
Bước vào thập kỷ 90, tình hình khu vực châu Á Thái Bình Dương có
những chuyển biến mới. Cụ thể là:
Mộ sự nổi lên của tam giác chiến lược mới Mỹ - Trung - Nhật trở
thành nhân tố chủ yếu chi phối an ninh, chính trị của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương.
84
Hai là, trong khu vực này tuy vẫn tồn tại nhiều nguy cơ bùng nổ xung
đột như vấn đề hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên; vấn đề Đài Loan; vấn đề tranh
chấp lãnh hải ở biển Đông và việc các nước trong khu vực tăng cường vũ
trang nhưng châu Á - Thái Bình Dương sau chiến tranh lạnh vẫn được đánh
giá là khu vực yên tĩnh và ổn định nhất của thế giới.
Ba là, châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu vực có tiềm lực lớn và
năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hòa bình và hợp tác trong khu vực
phát triển mạnh, sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, quá
trình hợp tác phát triển kinh tế của khu vực cũng đang gặp những khó khăn
trở ngại. Đó là, sự chênh lệch về trình độ và tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa
các nền kinh tế trong khu vực; xuất hiện những nhân tố mới có thể gây mất ổn
định ở khu vực, trong đó có nhân tố xuất phát từ sự tranh giành lợi ích kinh tế,
ảnh hưởng chính trị giữa một số nước lớn.
B sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn ở khu vực đã và đang
có những tác động sâu sắc, đa chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực đến Việt Nam và
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Sự điều chỉnh chiến lược của nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương làm gia tăng vai trò, vị thế chính trị của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới. Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn không ngoài mục
đích xác lập vị thế “vượt trội” và “tiếng nói” quyết định của họ đối với khu
vực. Trong sự tác động của điều chỉnh, cạnh tranh đa chiều đó, vị thế của Việt
Nam trên “bàn cờ chính trị” khu vực đang từng bước được nâng cao, là nhân
tố mà các nước lớn, trong đó có Trung Quốc không thể không tính đến trong
chiến lược, chính sách của mình. Với vị trí địa chính trị, địa kinh tế chiến lược
quan trọng, lại nằm trên các trục giao thông đường biển, đường bộ, đường
hàng không huyết mạch của khu vực và quốc tế, là “cửa ngõ” để vươn ra các
đại dương và để tiến vào lục địa,... Việt Nam vừa giữ vị trí trung tâm của các
hoạt động kinh tế - thương mại, vừa nắm vị trí then chốt trong phòng thủ ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Việt
85
Nam còn là “cầu nối” giữa các nước, là đầu mối quan trọng của các hợp tác
và liên kết trong khu vực.
Bên cạnh những tác động tích cực, sự điều chỉnh chiến lược của các
nước lớn trong khu vực cũng có ữ ộ V N
V N - Q Cụ thể là:
Sự điều chỉnh chiến lược của nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương đang làm phức tạp hóa và gây khó khăn cho Việt Nam trong quan hệ
quốc tế. Khi tiến hành điều chỉnh chiến lược, các nước lớn sẽ tăng cường lôi
kéo, chế ngự nước khác, gia tăng vùng ảnh hưởng. Cùng với quá trình đó,
xuất hiện sự “trỗi dậy” của các cường quốc mới nổi trong khu vực. Vấn đề
này sẽ gây ra nhiều hệ lụy đối với những quốc gia nhỏ yếu hơn ở xung quanh
là điều khó tránh khỏi. Việc nước lớn có tham vọng kiểm soát không gian địa
- chính trị trong khu vực sẽ tạo ra những thách thức mới trong mở rộng quan
hệ đối ngoại của các nước nhỏ. Điều này càng làm tăng thêm sự phức tạp
cũng như tính nhạy cảm trong quan hệ ứng xử của các nước nhỏ, trong đó có
Việt Nam đối với các nước lớn. Để thích ứng, mở rộng, củng cố và ổn định
quan hệ; “điều hòa lợi ích” với các nước, phát huy được sức mạnh tổng hợp
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một thách thức lớn trực tiếp
đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương có thể đẩy các nước nhỏ vào thế bị xâm phạm lợi ích, đồng thời
làm xuất hiện loại hình “chiến tranh ủy nhiệm”. Trong cục diện khu vực có sự
điều chỉnh, cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn, nước nhỏ luôn
phải cảnh giác với chính sách thỏa hiệp, “đi đêm” của các nước lớn sẽ gây
phương hại đến lợi ích quốc gia, nhất là phương hại đến độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Việt Nam luôn là trọng điểm, chịu sự tác động
nhiều nhất của quá trình này.
Trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, vai trò của các nước
ASEAN ngày càng quan trọng. Các nước ASEAN đã và đang bước vào thời
86
kỳ hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN và xây dựng Cộng đồng dựa trên
ba trụ cột: Chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội; hợp tác với các đối
tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu. Ðây được coi là một dấu mốc quan
trọng trong quá trình hợp tác và phát triển của các nước ASEAN nói chung và
Việt Nam nói riêng,… Vì vậy, ASEAN ngày càng có vị trí quan trọng trong
chiến lược gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc. Đồng thời, là diễn đàn đa
phương quan trọng trong nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam, thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tự lực tự cường.
ạ : Cục diện thế giới trong thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ
XXI vẫn tiếp tục có nhiều biến động phức tạp, diễn biến khó lường. Cuộc
chạy đua về khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa, sự “xoay trục”, điều
chỉnh chiến lược của các nước lớn, sự dịch chuyển tương quan sức mạnh toàn
cầu. Xu thế dân chủ hóa đời sống quốc tế, sự hợp tác ngày càng có hiệu quả của
các tổ chức khu vực và liên khu vực,... đã mở ra kỷ nguyên đa phương trong
hoạt động đối ngoại, tác động sâu sắc đến quan hệ song phương Việt Nam -
Trung Quốc. Đồng thời, tạo ra những thách thức đòi hỏi hai nước phải có những
điều chỉnh cho phù hợp với xu thế phát triển của quốc tế và khu vực.
3.1.2. Đường lối đối ngoại của Trung Quốc
Sau hơn 40 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc đã vươn lên thành nền
kinh tế lớn thứ hai trên thế giới vào năm 2010. Với thành quả phát triển kinh
tế - xã hội sau cải cách, mở cửa, thế hệ lãnh đạo thứ 5 của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc (được bầu sau Đại hội XVIII của Đảng Cộng Sản Trung Quốc)
đã đề ra khẩu hiệu mới là “Giấc mơ Trung Quốc”, “phục hưng dân tộc Trung
Hoa vĩ đại”. Mục tiêu xuyên suốt là kỳ vọng đưa Trung Quốc trở thành cường
quốc hàng đầu thế giới, tham vọng vẽ lại bản đồ kinh tế, chính trị thế giới.
Nhằm thực hiện mục tiêu này, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh chiến lược
theo một số nội dung quan trọng, cụ thể:
Trên lĩnh vực ngoại giao, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã điều chỉnh
chiến lược ngoại giao, nâng ngoại giao láng giềng lên thành ưu tiên số một,
87
hình thành nền “ngoại giao nước lớn đặc sắc Trung Quốc”, thiết lập quan hệ
nước lớn kiểu mới, thúc đẩy tiến trình thiết lập “trục riêng” tại Châu Á. Trung
Quốc ngày càng thể hiện vai trò nước lớn; từ bỏ phương châm “giấu mình chờ
thời” do Đặng Tiểu Bình đề ra; từng bước chuyển từ “thế thủ” sang “thế
công” về đối ngoại, tích cực hơn trong các công việc quốc tế, chủ động hơn
trong việc tranh giành và mở rộng ảnh hưởng về kinh tế, ngoại giao trên phạm
vi toàn cầu và khu vực; gắn chính sách “ngoại giao láng giềng” với “ngoại
giao nước lớn”, “ngoại giao năng lượng” và “chiến lược biển”,… Điểm đáng
chú ý đó là, Trung Quốc đã chú trọng điều chỉnh chiến lược ngoại giao gắn
với kinh tế. Mặc dù chiến lược này được thực hiện bằng “phương thức mềm
và linh hoạt”, nhưng cũng có tác động làm thay đổi tương quan lực lượng trên
phạm vi thế giới và khu vực, đặt các định chế kinh tế quốc tế và khu vực
trước những thách thức mới, buộc phải sửa đổi hay bổ sung.
Những động thái điều chỉnh chiến lược ngoại giao gắn với chuyển đổi
phương thức phát triển kinh tế trên đây của Trung Quốc đã, đang và sẽ có tác
động cả tích cực lẫn tiêu cực đến Việt Nam và quan hệ song phương Việt
Nam - Trung Quốc. Việt Nam là quốc gia láng giềng với Trung Quốc, việc
Trung Quốc điều chỉnh chiến lược ngoại giao, chuyển đổi phương thức phát
triển kinh tế sẽ ít nhiều, trực tiếp, gián tiếp đã, đang và sẽ có một số tác động
cả tích cực và tiêu cực đến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, cụ thể:
Mộ về tác động tích cực đến Việt Nam và quan hệ Việt Nam -
Trung Quốc.
Việc Trung Quốc điều chỉnh chính sách kinh tế, nhất là đẩy mạnh quốc
tế hóa đồng Nhân dân tệ và hiện tại đồng Nhân dân tệ đã được đưa vào rổ tiền
tệ với quyền rút vốn đặc biệt của IMF, đã làm gia tăng khả năng đồng Nhân
dân tệ chịu thêm nhiều sức ép quốc tế “phải giữ ổn định” tuân theo các quy
định quốc tế chặt chẽ về tiền tệ. Một trong những tác động tích cực của việc
đồng Nhân dân tệ trở thành đồng tiền thanh toán quốc tế đến nền kinh tế Việt
Nam, đó là Việt Nam có thể sử dụng đồng Nhân dân tệ như một ngoại tệ để
88
thanh toán thương mại với Trung Quốc, đa dạng hóa ngoại tệ thanh toán,
giảm sự tập trung vào USD, giảm sức ép lên nhu cầu sử dụng USD và giảm
chi phí chuyển đổi ngoại tệ.
Việc chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế giúp cải thiện thu nhập
của người dân nói chung và của tầng lớp trung lưu nói riêng ở Trung Quốc.
Mặc dù, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc có
giảm tốc nhưng giá trị tuyệt đối của nó lại có xu hướng tăng, qua đó góp phần
thúc đẩy nhu cầu du lịch của một bộ phận không nhỏ người dân Trung Quốc
trong việc hướng đến các chuyến đi du lịch nước ngoài gần với Trung Quốc
như Việt Nam,… nhằm tiết kiệm chi phí.
Trong bối cảnh Trung Quốc đẩy mạnh thực thi Chiến lược “Một Vành
Đai, Một Con Đường”, cho dù hiện nay chưa thấy rõ những tác động đối với
Việt Nam, nhưng về mặt tích cực có thể diễn ra theo chiều hướng: Trung
Quốc sẽ tăng cường đầu tư vào xây dựng hạ tầng tại Việt Nam, tiếp tục mở
rộng kết nối thương mại với Việt Nam, thúc đẩy xây dựng khu hợp tác qua
biên giới, đẩy mạnh hợp tác tài chính tiền tệ, tiến tới ký hiệp định hoán đổi
tiền tệ song phương với Trung Quốc,…
Hai là, về tác động tiêu cực đến Việt Nam và quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc.
Việc chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc sẽ dẫn
đến xu hướng điều chỉnh mạnh kết cấu kinh tế và nâng cấp ngành nghề để
dịch chuyển các ngành và sản phẩm sử dụng các công nghệ thấp và gây ô
nhiễm môi trường sang các nước khác. Việc điều chỉnh cơ cấu, giảm sản xuất
các ngành công nghiệp nặng như sắt, thép, xi măng có thể sẽ khiến cho Trung
Quốc giảm nhập khẩu các nguyên liệu và khoáng sản từ các nước ASEAN,
trong đó có Việt Nam trong ngắn hạn. Một số ngành kinh tế của Việt Nam
phải cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc, đặc biệt các lĩnh vực mà công suất
sản xuất ở Trung Quốc bị dư thừa lớn sau giai đoạn tăng trưởng nóng đang
gặp phải những thách thức lớn không chỉ trong ngắn hạn. Chính vì vậy, hàng
89
hóa dư thừa, công nghệ lạc hậu từ Trung Quốc chuyển sang các nước tiếp
nhận đầu tư của Trung Quốc và có thể kìm hãm sự phát triển của các quốc gia
này. Điều này càng làm tăng thêm những thách thức mà Việt Nam đang phải
đối mặt liên quan đến sự hiện diện của một nền kinh tế đa tốc độ, với khu vực
đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, khu vực trong nước có nguy cơ tiếp tục
trì trệ và rơi vào “bẫy gia công lắp ráp”, cũng như là “nguy cơ” trở thành bãi
rác thải công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm môi trường.
3.1.3. Đường lối đối ngoại của Việt Nam
Những năm đầu của thế kỷ XXI, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc
từ 1991 đến 2000 đã có nhiều chuyển biến tích cực và phát triển nhanh chóng
trên nhiều lĩnh vực. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam (4/2001) tiếp tục “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”85. Đại hội đã có những chuyển biến
tích cực hơn trong công tác đối ngoại, đưa Việt Nam chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời với việc thúc đẩy sâu sắc trong quan hệ với các Đảng
Cộng sản anh em, các nền kinh tế lớn, các nước trong khu vực, các nước có
chung đường biên giới…điều này thể hiện rõ sự chú trọng quan hệ đối ngoại
với Trung Quốc.
Đại hội XII (1/2016) xác định mục tiêu và nhiệm vụ của đối ngoại: mục
tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định,
85 Văn kiện Đảng p, tập 60, tr 146
tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời
90
sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”86
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1/2021) trong quan điểm
chỉ đạo khẳng định: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”87. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ
tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại.
Tiếp tục đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả, không ngừng nâng cao uy tín và vị thế trên
trường quốc tế.
N tình hình thế giới và khu vực, nhất là những điều chỉnh chiến
lược của các nước lớn, đặc biệt là điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung
Quốc và Việt Nam đã và đang tác động sâu sắc đến quan hệ Việt Nam -
Trung Quốc theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Bằng đường lối
đúng đắn “hợp tác chiến lược toàn diện” của hai Đảng, hai Nhà nước, quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc có những bước phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh
vực. Tuy nhiên, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc còn tồn tại một số hạn chế,
bất cập cần tiếp tục phải giải quyết sao cho phù hợp với xu thế phát triển
chung của nhân loại và truyền thống quan hệ lâu đời giữa hai nước.
3.2. Thực trạng quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc từ 1991
đến nay theo tƣ tƣởng đối ngoại Hồ Chí Minh
3.2.1. Thành tựu trên các lĩnh vực
Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những quan điểm, tư tưởng Chủ
tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp đối ngoại vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
86 Đảng Cộng sản Việt Nam: Vă Đạ ộ ạ b ể XII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.34-35 87 Đảng Cộng sản Việt Nam, Vă ĐHĐB XIII Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, HN 2021, Tập 2, tr 324
quan trọng trong quan hệ đối ngoại với các quốc gia trên thế giới, trong đó nổi
91
bật là trong quan hệ đối ngoại với Trung Quốc. Việt Nam - Trung Quốc có
mối quan hệ truyền thống lâu đời, được nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai
nước dày công xây dựng và củng cố. Đặc biệt, trong thời gian qua, với sự nỗ
lực của Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước, quan hệ đối tác hợp tác chiến
lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc duy trì đà phát triển tích cực, đạt được
những thành quả đáng khích lệ. hai nước đã không ngừng củng cố, phát triển
quan hệ chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, quốc phòng, an ninh. Những
thành tựu đó được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau:
3 2 1 1 G ữ ữ ụ ổ p ể
ớ Q
Trong quan hệ chính trị với Trung Quốc, chúng ta đã thực hiện tốt việc
quán triệt mục tiêu, nguyên tắc và phương pháp đối ngoại Hồ Chí Minh, giữ
vững được sự ổn định về chính trị, hợp tác giữa hai Đảng ngày càng được đẩy
mạnh, góp phần quan trọng vào việc xây dựng quan hệ tin cậy giữa hai nước.
Có thể nhận định rằng, những thành tựu trong quan hệ chính trị với Trung
Quốc cũng là điểm nổi bật trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta
từ sau đổi mới đến nay. Cụ thể:
Về
Hai Đảng, hai Nhà nước đã thực hiện tốt việc quán triệt mục tiêu, giữ
vững được sự ổn định về chính trị, hợp tác giữa hai Đảng ngày càng được đẩy
mạnh, góp phần quan trọng vào việc xây dựng quan hệ tin cậy giữa hai nước.
Có thể nhận định rằng, những thành tựu trong quan hệ chính trị với Trung
Quốc cũng là điểm nổi bật trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta
từ sau đổi mới đến nay. Cụ thể:
Từ sau khi bình thường hóa quan hệ (1991), hai nước đã tích cực đẩy
mạnh quan hệ chính trị, tránh nhắc lại những bất đồng, xung đột hướng tới
tương lai. Đảng ta xác định mục tiêu có tính xuyên suốt trong quan hệ chính
trị với Trung Quốc là nỗ lực giữ vững môi trường hòa bình, ổn định nhằm tạo
sức mạnh tổng hợp trong phát triển đất nước. Mục tiêu trong quan hệ chính trị
92
đúng đắn đã giúp cho cách mạng nước ta phát triển không ngừng giành nhiều
thắng lợi quan trọng. Tháng 11/1991, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ
Văn Kiệt thăm Trung Quốc, đánh dấu chính thức bình thường hóa và mở ra
một trang sử mới trong quan hệ giữa hai nước. Đây là một cuộc gặp gỡ với ý
nghĩa khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Hai nước ra tuyên bố chung đánh
dấu sự bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Từ đó đến nay,
quan hệ chính trị với Trung Quốc luôn được Đảng, Nhà nước ta xác định rõ
mục tiêu trong các văn kiện đại hội của Đảng, góp phần giữ vững độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường của dân tộc.
Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6/1992) đã ra Nghị quyết
chuyên đề về công tác đối ngoại. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối
ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại thời kỳ này là mở rộng, đa
phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về
chính trị, kinh tế, văn hóa..., trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và các nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát
triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn
hóa dân tộc...Với quan điểm này, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các
nước được cải thiện đáng kể, đặc biệt là trong quan hệ với Trung Quốc.
Sau nhiều nỗ lực cải thiện mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc,
đặc biệt là giải quyết những vấn đề do lịch sử để lại. Hai bên đã ký bản Hiệp
ước tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới hai nước. Trải
qua nhiều lần trao đổi, ngày 19/10/1993, bản Thỏa thuận về những nguyên tắc
cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc được ký
đã đưa cuộc đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền đi vào thực
chất. Đây cũng được coi là thành tựu đáng kể trong quan hệ đối ngoại của cả
hai nước trong tiến trình cải thiện sâu rộng mối quan hệ Việt – Trung.
93
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: Tiếp
tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới, trong đó có Trung Quốc. Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) và Đại hội VIII (tháng
6/1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục được bạn bè quốc tế ghi nhận
những đổi mới quan trọng trong đường lối đối ngoại của mình. Vận dụng tư
tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tinh thần "Việt Nam muốn là
bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển". Những thay đổi này đã tạo nên nhiều thành tựu trong quan
hệ đối ngoại của Việt Nam đối với các nước, một trong những thành tựu quan
trọng đó là quan hệ Việt – Trung ngày càng được cải thiện. Trong chuyến
thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam Lê Khả Phiêu tháng 02/1999, hai nước xác định “phương châm
16 chữ” thúc đẩy quan hệ hai nước trong thế kỷ XXI là “láng giềng hữu nghị,
hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Đồng thời, hai nước
đã ký kết hiệp ước về biên giới đất liền, làm tiền đề giải quyết vấn đề phân
định vịnh Bắc Bộ, cùng nhau xây dựng biên giới chung thành một biên giới
hòa bình, hữu nghị và ổn định. Ngày 30/12/1999 tại Hà Nội, Chính phủ hai
nước đã ký “H p ớ ạ b ớ ấ ề ữ Cộ ò Xã
ộ ĩ V N Cộ ò N H ”. Trên cơ sở Hiệp
định năm 1999, hai bên phối hợp tiến hành khảo sát thực địa để phân giới cắm
mốc trên suốt chiều biên giới dài 1449,566 km với 1970 cột mốc (1548 cột
mốc chính, 422 cột mốc phụ, chưa kể cột mốc ngã ba biên giới Việt Nam -
Trung Quốc - Lào). Tháng 12/2000, hai nước ký “Tuyên bố chung về hợp tác
toàn diện trong thế kỷ mới”, đề ra những biện pháp cụ thể phát triển quan hệ
hai nước trên tất cả các lĩnh vực.
Tháng 12 năm 2000, Việt Nam và Trung Quốc ra Tuyên bố chung về
hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
94
Nam và nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, ký Hiệp định phân định Vịnh
Bắc Bộ, và Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ. Như vậy, hai nước đã
thống nhất và tạo được một nền tảng pháp lý quan trọng để đảm bảo mối quan
hệ giữa hai nước được ổn định
Kể từ năm 2001, hai nước thường xuyên tổ chức những chuyến thăm
cấp cao giữa lãnh đạo hai nước, cụ thể: trong năm 2001, Tổng Bí thư Nông
Đức Mạnh thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.
Chuyến thăm này đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quan hệ giữa hai
nước trong năm đầu tiên của thế kỷ XXI. Qua chuyến thăm này, phương
châm 16 chữ tiếp tục được cụ thể hoá trong thực tiễn quan hệ giữa hai nước.
Trong chuyến thăm chính thức nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa lần này,
lãnh đạo hai nước đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác quan trọng, với 5 nhận
thức chung mà hai bên đã đạt được: T ấ : Hai bên đều cho rằng, một
trong những thành công của công cuộc phát triển quan hệ giữa hai nước vừa
qua là có những cuộc gặp cấp cao thường xuyên giữa hai Đảng, hai nước;
hai: Trung Quốc và Việt Nam cùng theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại
cùng đang tiến hành cải cách mở cửa, đổi mới, trình độ phát triển giống nhau,
hoàn cảnh lịch sử cũng có nhiều điểm tương đồng. Do đó, có rất nhiều điểm
hai nước có thể học tập được ở nhau. b Hai nước sẽ thoả thuận sẽ tăng
cường hợp tác trên các diễn đàn quốc tế và khu vực, vì hai nước có nhận thức
chung là phải phấn đấu cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. :
về hợp tác kinh tế - thương mại, công nghệ, văn hoá, giáo dục, hai bên đã đạt
được một loạt các thoả thuận rất quan trọng, như đưa kim ngạch thương mại
giữa hai nước lên 5 tỷ USD vào năm 2005. ă : Các nhà lãnh đạo hai nước
nhất trí rằng, cần đẩy nhanh quá trình phân giới cắm mốc ở biên giới, trên bộ để
tình hình ở biên giới hai nước thật sự ổn định, hoà bình và hữu nghị.
Năm 2002, trong chuyến thăm chính thức Việt Nam và phát biểu với
sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
95
Giang Trạch Dân nhấn mạnh: “Phát triển mối quan hệ Việt - Trung phải lấy
tin tưởng lẫn nhau làm cơ sở, ổn định lâu dài là tiền đề, láng giềng hữu hảo là
sự đảm bảo, hợp tác toàn diện là mấu chốt, cùng nhau phát triển phồn vinh là
mục tiêu”88.
Mặc dù còn nhiều những đánh giá khác nhau về việc ký các hiệp định
giữa hai nước, song không thể phủ nhận, đây là bước tiến quan trọng trong
quan hệ đối ngoại Việt – Trung, đặt nền móng cho những thành tựu đối ngoại
chính trị, kinh tế, văn hóa sau này giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân
Việt Nam – Trung Quốc.
Ngày 9/8/2004, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc thỏa
thuận hợp tác chặt chẽ trong việc ngăn ngừa và xử lý các vấn đề nảy sinh
trong khu vực biên giới đất liền và trong Vịnh Bắc Bộ. Trưởng đoàn đại biểu
Chính phủ Việt Nam, Thứ trưởng ngoại giao Vũ Dũng và Trưởng đoàn đại
biểu Chính phủ Trung Quốc, Thứ trưởng ngoại giao Vương Nghị đã ký kết
“Biên bản cuộc gặp đặc biệt về việc thực hiện nhận thức chung quan trọng
của lãnh đạo cấp cao Việt Nam – Trung Quốc” tại Nam Ninh (Quảng Tây,
Trung Quốc). Đây là văn bản thể hiện rõ thiện chí giải quyết các vấn đề, tránh
những bất đồng từ cấp cơ sở của cả hai bên. Thiết lập đường dây nóng, và
thống nhất quy trình xử lý theo trình tự, có thời hạn.
Năm 2005, hai nước thỏa thuận đưa quan hệ hai nước phát triển trên
phương châm “bốn tốt”: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) khẳng định: vận dụng phương pháp đa
dạng hoá các hình thức đối ngoại Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định chính sách đối ngoại của ta là “mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế”, theo nguyên tắc “tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực
88 Báo Nhân dân, ngày 29/02/2002.
hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết bất đồng và tranh chấp thông qua thương
96
lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi”.89 Đại hội nhấn
mạnh: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực"90.
Tháng 8 năm 2006, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh có chuyến thăm
Trung Quốc, đến tháng 11/2006 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào
sang thăm Việt Nam chuyến thứ tư, đồng thời là chuyến thăm Việt Nam lần
thứ hai trên cương vị là người đứng đầu Đảng và Nhà nước Trung Quốc.
Chuyến thăm này càng thắt chặt thêm sự hợp tác hữu nghị trong đối ngoại
giữa hai Đảng và Nhà nước theo phương châm 16 chữ và 4 tốt. Thời gian cuối
năm 2007, phía Trung Quốc khôi phục lại việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cao
cấp và trung cấp cho Việt Nam. Như vậy, với chiến lược mềm dẻo, linh hoạt
trong vận dụng mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp đối ngoại Hồ Chí Minh vào
quan hệ với Trung Quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại những kết quả
rất quan trọng trong chiến lược bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước
Năm 2008 là năm bản lề trong quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt
Nam và Trung Quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục quán triệt, vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại vào quan hệ với Trung Quốc. Điều đó đã
làm cho quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng tăng
thêm và được củng cố bền chặt hơn. Đặc biệt, tháng 5/2008, trong chuyến
thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam - Nông Đức Mạnh, hai nước thống nhất nâng tầm
quan hệ thành “quan hệ đối tác và hợp tác chiến lược toàn diện”, đồng thời
89http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30569&cn_id=41806#3AN3 WscAiR4T truy cập ngày 13/05/2010 90 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 198
nhất trí thiết lập đường dây nóng giữa lãnh đạo cấp cao hai nước.
97
Đối với các vấn đề quốc tế, quan điểm xuyên suốt của hai nước là tôn
trọng tính đa dạng, lịch sử văn hóa, chế độ xã hội, mô hình phát triển, các vấn
đề nội bộ của các nước cũng như các nền văn minh trên thế giới, phản đối chủ
nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền trong các công việc quốc tế, cam kết
có những đóng góp cho hòa bình, ổn định, phát triển ở châu Á, thế giới và sự
phát triển, phồn vinh, tiến bộ của nhân loại. hai nước đều mong muốn thiết
lập một trật tự thế giới, công bằng và hợp lý hơn, mong muốn các nước cùng
phát triển, phồn vinh. Sự thống nhất về lý tưởng, con đường đi đúng đắn,
được chứng minh bằng chính thực tiễn hiện tại là điểm chung vô cùng quan
trọng mà hai nước cần thiết phải phát huy và giữ vững.
Ngày 31/12/2008, công tác phân giới cắm mốc trên toàn biên giới đất
liền Việt Nam - Trung Quốc đã cơ bản hoàn thành. Tiếp theo là việc đàm
phán và ký kết các Nghị định thư về công tác phân giới cắm mốc, về quy chế
quản lý biên giới, về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu. Ngày 14/7/2010, hai bên
chính thức tuyên bố các văn kiện liên quan đến phân giới cắm mốc và quản lý
biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc có hiệu lực, hai bên bắt đầu quản lý
theo đường biên giới mới. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước xác lập được
một đường biên giới rõ ràng trên đất liền
Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc đánh dấu một
bước tiến mới rất quan trọng trong việc xây dựng môi trường hòa bình, ổn
định giữa hai nước và trong khu vực. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước xác
lập được một đường biên giới rõ ràng trên đất liền với một hệ thống mốc quốc
giới hiện đại, đặt nền tảng vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hòa
bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, hợp tác và phát triển giữa hai nước, mở ra
một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam- Trung Quốc.
Cùng với đó, quan hệ đối ngoại giữa hai nước được củng cố và duy trì
đà phát triển tích cực. Hai bên thường xuyên duy trì các cuộc viếng thăm và
gặp gỡ cấp cao dưới nhiều hình thức như đi thăm, gặp gỡ bên lề hội nghị, trao
đổi thông qua đường dây nóng, làm sâu sắc thêm hiểu biết và sự tin cậy lẫn
98
nhau ở tầm cao giữa hai nước; phát huy đầy đủ vai trò của các cơ chế hợp tác
hiện có, nhất là Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc
và cơ chế hợp tác giữa các ngành chủ chốt như ngoại giao, an ninh, quốc
phòng,… mở rộng hợp tác các địa phương, nhất là các địa phương biên giới
hai nước. Đánh giá về quan hệ chính trị giữa Việt Nam - Trung Quốc, nguyên
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: “Quan hệ chính trị giữa hai
nước Việt Nam - Trung Quốc ngày càng trở lên mật thiết thông qua việc tăng
cường trao đổi các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao”91. Các chuyến thăm và
tiếp xúc cấp cao giữa hai Đảng, hai Nhà nước được duy trì thường xuyên; qua
đó, lãnh đạo cấp cao hai nước đạt được nhiều nhận thức chung quan trọng về
việc làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt
Nam - Trung Quốc.
Hai nước duy trì trao đổi đoàn và thiết lập cơ chế hợp tác, giao lưu giữa
các cấp của hai đảng. Hai đảng đã tổ chức 6 cuộc hội thảo khoa học về lý
luận, kinh nghiệm xây dựng đảng, quản lý nhà nước, về đổi mới, cải cách mở
cửa, hội nhập quốc tế. Giao lưu giữa thế hệ trẻ hai nước tiếp tục được duy trì
hằng năm. Quan hệ giữa các ngành như ngoại giao, an ninh, quốc phòng tiếp
tục được đẩy mạnh. Quan hệ giữa các địa phương hai nước cũng được tăng
cường với nhiều hình thức đa dạng và thiết thực như: Trao đổi đoàn các cấp,
ký kết các văn bản hợp tác, cùng nhau tổ chức hội thảo, triển lãm,…
Năm 2009, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có chuyến thăm Hồng Kông, Ma
Cao, Tứ Xuyên, trùng Khánh và phía Trung Quốc có Trưởng ban tổ chức Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Lý Nguyên Triều sang thăm Việt Nam
Năm 2011 – năm hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc, Tuy nhiên trong
năm này có một số vấn đề phức tạp liên quan đến Biển Đông. Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 10/2011. Với
91 Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.104.
những nỗ lực từ phía Việt Nam hai bên đã nhất trí áp dụng các biện pháp hữu
99
hiệu để mở rộng hợp tác giữa hai nước. Một số văn bản quan trọng đã được
ký kết giữa hai Đảng, hai Nhà nước giai đoạn 2012 – 2015 về kế hoạch hợp
tác, giai đoạn 2012 -2016 về Quy hoạch phát triển 5 năm về hợp tác kinh tế,
thương mại, bên cạnh đó 9 biện pháp hợp tác Việt Nam – Trung Quốc cũng
được ký kết. Đây là cơ sở hết sức quan trọng và cần thiết để Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và quan hệ
đối ngoại giữa Việt Nam và Trung Quốc thời gian tiếp theo
Những năm tiếp theo từ 2013 đến 2015 Đảng, Nhà nước hai nước tiếp
tục có những điều chỉnh và thoả thuận những vấn đề liên quan đến Biển
Đông, khu vực cửa biển Vịnh Bắc Bộ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có
cuộc điện đàm qua đường dây nóng vào ngày 21/3/2013 với Chủ tịch nước
Trung Quốc Tập Cận Bình. Cuộc điện đàm đã củng cố thêm mối quan hệ hợp
tác chiến lược toàn diện giữa hai nước theo phương châm 16 chữ và 4 tốt.
Năm 2015 là năm kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc. Vận dụng quan điểm đối ngoại Hồ Chí Minh vì hoà bình và phát triển,
mục tiêu mà Việt Nam hướng đến đó là hoà bình, độc lập, tự do và sự nghiệp
phát triển đất nước. Nhiều hoạt động đối ngoại như thăm hỏi, gặp mặt giữa
lãnh đạo cấp cao hai nước diễn ra thường xuyên. Phía Việt Nam có Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng, phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình
Minh đồng chủ trì Phiên họp lần thứ 8 Uỷ ban Chỉ đạo hợp tác song phương
Việt Nam – Trung Quốc tại Bắc Kinh. Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng
có cuộc gặp với Uỷ viên trưởng Uỷ viên thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân
toàn quốc Trung Quốc Trương Đức Giang tại New York, Mỹ , Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang sang dự hoạt động kỷ niệm 70 năm chiến thắng Phát xít của
nhân dân thế giới tổ chức tại Bắc Kinh…
Trong năm 2016 – 2019, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục quán triệt,
vận dụng mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp đối ngoại Hồ Chí Minh vào
quan hệ với Trung Quốc và đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Lãnh đạo cấp cao
giữa hai nước tiếp tục các chuyến thăm và làm việc như: chuyến thăm của
100
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tháng 9/2016, chuyến thăm chính thức của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tháng 1/2017. Tháng 7/2019, Chủ tịch Quốc
hội Việt Nam – Nguyễn Thị Kim Ngân thăm chính thức Trung Quốc... Từ
những chuyến thăm và làm việc này đã làm sâu sắc hơn quan hệ đối ngoại
chính trị giữa hai Đảng, hai Nhà nước.
Năm 2020, nhân kỷ niệm 70 năm (18/1/1950 – 18/1/2020) ngày thiết
lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc – mối quan hệ láng
giềng hữu nghị mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng
các vị tiền bối cách mạng hai nước trước đây đã dày công vun đắp, một sự
kiện có ý nghĩa quan trọng đánh thêm một dấu mốc vào quan hệ đối ngoại
giữa hai nước. Đại sứ Phạm Sao Mai khẳng định những thành quả đã đạt được
trong quan hệ đối ngoại về chính trị với Trung Quốc 70 năm qua đã củng cố
cho mối quan hệ Việt - Trung phát triển ổn định, lành mạnh có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi nước, đóng góp tích cực cho hòa
bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Tư duy đối ngoại của
Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam là luôn coi trọng phát triển quan hệ
hữu nghị, hợp tác toàn diện với Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng tư tưởng và kinh nghiệm đối ngoại của
Hồ Chí Minh để ứng xử phù hợp với truyền thống hai nước, trên cơ sở hiểu
biết và tôn trọng lẫn nhau và đồng thời khéo léo xử lý quan hệ đối ngoại với
Trung Quốc phù hợp với các mối quan hệ toàn cầu trong bối cảnh mới, trong
sự tương tác với các nước khác trên thế giới. Đây là một trong những ưu tiên
hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với Trung Quốc. Đây cũng
chính là kết quả của sự vận dụng mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp đối
ngoại Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quan hệ đối ngoại với
Trung Quốc trong tình hình hiện nay, nhằm hướng tới những mục tiêu quan
trọng trong tiến trình phát triển đất nước
Trong năm 2021, việc vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong
quan hệ đối ngoại về chính trị với Trung Quốc tiếp tục được Đảng Cộng sản
101
Việt Nam quan tâm, trú trọng. Chiều ngày 11/9/2021, tại Trụ sở Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tiếp Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng
Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nhân dịp sang thăm chính thức Việt
Nam và chủ trì Phiên họp lần thứ 13 của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song
phương Việt Nam - Trung Quốc. Tại buổi tiếp, Thủ tướng Phạm Minh Chính
chúc mừng Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc nhân dịp 100 năm
thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (01/7/1921 - 01/7/2021) và 72 năm
Quốc khánh nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (01/10/1949 - 01/10/2021).
Thủ tướng khẳng định tình hữu nghị truyền thống Việt Nam – Trung Quốc là
tài sản quý báu của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước. Việt Nam coi
trọng phát triển quan hệ với Trung Quốc, coi đây là ưu tiên hàng đầu trong
chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả, là bạn, đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Việc tăng cường và
phát triển quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng ổn định, lành mạnh là
nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của mỗi nước, đóng góp vào hòa
bình, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới. Thủ tướng bày tỏ tin
tưởng hai bên sẽ phối hợp thực hiện hiệu quả những nhận thức chung và thỏa
thuận đạt được tại Phiên họp lần thứ 13 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương
Việt Nam - Trung Quốc; tiếp tục duy trì trao đổi, tiếp xúc thường xuyên giữa
Lãnh đạo cấp cao, thúc đẩy hơn nữa các cơ chế giao lưu, hợp tác để tăng
cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, góp phần đưa quan hệ hai Đảng, hai nước
ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả. Do những chuyển biến tốt
trong quan hệ đối ngoại giữa hai Đảng, hai Nhà nước, các thành tựu được
biểu hiện rõ trong các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội…đặc biệt là
trong quan hệ kinh tế. Đồng thời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: đẩy
mạnh quan hệ đối ngoại để phát triển kinh tế.
102
Về
Do xác định đúng đắn mục tiêu trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc
mà nước ta giữ vững được sự ổn định về mọi mặt, tạo môi trường trong nước
và quốc tế thuận lợi để phát triển toàn diện đất nước. Mặc dù trải qua không ít
những bước thăng trầm, có những thời điểm có những khó khăn, trở ngại nhất
định, song hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trong các hoạt động
kinh tế với Trung Quốc.
ấ , về quan hệ thương mại. Với những nỗ lực của cả hai nước,
thương mại đã có bước phát triển nhanh chóng kể từ khi bình thường hóa
(1991). So sánh giá trị xuất nhập khẩu hai nước năm 1991 là trên 30
triệu USD với kim ngạch đạt 66,7 tỷ USD năm 2015 thì kim ngạch thương
mại hai nước đã tăng trên 2.200 lần trong vòng 25 năm92. Con số này cho thấy
sự gia tăng nhanh chóng tốc độ phát triển của thương mại song phương giữa
hai nước. Đặc biệt, tốc độ này được đẩy nhanh hơn khi kim ngạch thương mại
hai nước năm 2016 năm 2016 đạt 71,6 tỷ USD, chiếm 20% tổng giá trị kim
ngạch xuất nhập khẩu cả nước năm 2016. Trong đó, nước ta xuất khẩu sang
Trung Quốc lượng hàng hóa trị giá gần 22 tỷ USD, chiếm 12% tổng giá trị
kim ngạch xuất khẩu cả nước, và tăng 28% so với năm 2015. Năm 2016 có 7
nhóm hàng “tỷ đô” xuất khẩu vào Trung Quốc; trong đó, máy vi tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện đứng ở vị trí thứ nhất với trị giá 4,06 tỷ USD. Các
vị trị tiếp theo là rau quả đạt 1,74 tỷ USD; xơ, sợi dệt các loại đạt gần 1,65 tỷ
USD; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện đạt 1,7 tỷ USD; dầu thô đạt 1,3 tỷ
USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 1,1 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ
92 Đinh Trọng Thịnh (2014), “Tích cực, chủ động điều chỉnh quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc”, Tạp chí Tài chính Quân đội, số 5(222), tr.10. 93http://vinanet.vn/thuong-mai-cha/trung-quoc-doi-tac-thuong-mai-lon-nhat-cua-viet-nam-nam- 2016-661298.html
trên 1 tỷ USD93.
103
Bảng 3.1: Tình hình thương mại Việt - Trung t khi hai nước thiết lập quan hệ hợp tác đối tác chiến lược đến năm 2 16 Đơn v : triệu D 94
Kim ngạch Kim ngạch Kim ngạch Năm uất nhập kh u uất kh u nhập kh u
20.187,80 4.535,70 15.652,10 2008
21.046 4.746 16.300 2009
27.376,60 7.308,80 20.018,80 2010
35.720,30 11.126,60 24.593,70 2011
41.172,60 12.387,80 28.784,80 2012
50.187,30 13.233 36.954,30 2013
58.773,57 14.905,64 43.867,92 2014
66.668 17.141 49.526 2015
71.600 21.800 49.800 2016
N : ổ p ừ ổ ụ
ổ ụ H (V N )
Về thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc95 ngày càng được đẩy
mạnh:
Thương mại biên giới là một mảng quan trọng trong bức tranh chung về
quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc; đồng thời, thương mại biên giới
cũng tác động đáng kể đến quan hệ thương mại chung giữa hai quốc gia. Do
hai nước có chung đường biên giới trên bộ dài khoảng hơn 1.280 km, với 21
cửa khẩu, 4 cửa khẩu quốc tế, 7 cửa khẩu chính, 10 cửa khẩu phụ tiểu ngạch,
56 đường mòn, và 13 chợ biên giới, tạo điều kiện cho sự phát triển, giao lưu
buôn bán giữa hai nước nói chung và thương mại biên giới 2 nước nói riêng.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của các tỉnh biên giới phía Bắc với 94 Hạ Thị Hồng Vân (2016), Quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng đến năm 2020, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 65, 71. 95 Hà Hồng Vân, “Những đặc trưng cơ bản của quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 1 (161)/2015, tr. 21-23; và http://www.vnmedia.vn/bds-tai-chinh/201601/su-that-vethuong-mai-hang-hoa-tuyen-bien-gioi-viet- trung-516942
104
Trung Quốc, trong nhiều năm, chiếm tỉ trọng khá cao trong tổng kim ngạch
thương mại hai nước, bình quân khoảng 25 - 26%.
Riêng năm 2015, theo số liệu thống kê của Vụ thương mại Biên giới và
Miền núi (Bộ Công thương), tổng kim ngạch mua bán, trao đổi hàng hóa qua
các cửa khẩu biên giới ước đạt 27,56 tỷ USD, tăng 27% so với năm 2014,
trong đó, tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc chiếm khoảng 85%, tức
khoảng 2343 tỉ USD96.
Đặc biệt, tháng 11/2017, hai nước đã ký Bản ghi nhớ hợp tác về kết nối
giữa khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai” với sáng kiến “Vành đai và
Con đường”. Kể từ năm 2004, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại
lớn nhất của Việt Nam. Đến nay, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn
nhất và thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam, trong khi Việt Nam là
đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN, đối tác thương
mại lớn thứ 8, thị trường xuất khẩu lớn thứ 5 và là thị trường nhập khẩu lớn
thứ 9 của Trung Quốc trên thế giới. Năm 2018, kim ngạch thương mại song
phương Việt Nam - Trung Quốc đạt 106,7 tỷ USD, tăng hơn 3.300 lần so với
năm 1991. Trong 11 tháng đầu năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
Việt Nam - Trung Quốc đạt 105,75 tỷ USD, tăng 8,71% so với cùng kỳ 2018.
Tính đến hết tháng 11/2019, Trung Quốc có 2.739 dự án đầu tư trực tiếp vào
Việt Nam, tổng số vốn 16,1 tỷ USD, đứng thứ 7/132 quốc gia và vùng lãnh
thổ đầu tư tại Việt Nam. Các khoản tín dụng ưu đãi dài hạn và viện trợ
không hoàn lại của Chính phủ Trung Quốc dành cho Việt Nam cũng góp
phần quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của nhiều địa phương
Việt Nam. Hàng năm có khoảng 5 triệu lượt du khách Trung Quốc đi Việt
Nam. Hiện nay có khoảng 11.000 học sinh Việt Nam đang học tập tại các
trường Đại học ở Trung Quốc và khoảng 2.000 học sinh Trung Quốc đang
96Http://www.vnmedia.vn/bds-tai-chinh/201601/su-that-ve-thuong-mai-hang-hoa-tuyen-bien-gioi- viet-trung-516942.
học tập tại Việt Nam.
105
Bảng 3.2: T ng hợp kim ngạch thương mại iên mậu Việt - Trung giai đoạn 2 - 2 15 Đơn v : triệu D 97
2.273,1 1.845,1 2.795,9
2.323,9 3.038,3
3.032,3
2.712,0
20.122,3
Năm 2008 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng
2.371,2 1.920,7 2.373,5
2.611,0 2.029,6
2.272,3
3.345,4
18.778,2
KN xuất khẩu
KNnhập khẩu
Các phương thức
3.313,8 4.162,1 5.118,5
3.656,8 11.126,7 11.819,4 17.745,3 58.628,7
khác (tạm nhập, tái
xuất, chuyển khẩu,
kho ngoại quan)
39,0
41,8
64,7
70,4
71,5
78,7
347,8
737,3
Trao đổi cư dân
biên giới
7.997,1 7.969,7 10.352,6 8.662,1 16.266,1 17.202,7 24.150,5 98.266,6
Tổng KN
TM biên giới
Hàng hóa xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu phong phú, đa dạng về
chủng loại. Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc theo đường sắt
chủ yếu là khoáng sản (quặng sắt, tinh quặng sắt, than cám, tinh quặng chì,...),
những mặt hàng xuất khẩu theo biên giới đường bộ chủ yếu là nông sản, cao
su, hạt điều, hoa quả tươi, sắn, các loại thủy hải sản khô và đông lạnh như cá,
mực, tôm, của,... hàng thủ công mỹ nghệ, các loại gia cầm.
Cùng với đó, hợp tác giữa các địa phương Việt Nam với các tỉnh, thành
Trung Quốc, đặc biệt là Quảng Tây, Vân Nam, Quảng Đông,… diễn ra sôi
động, đạt nhiều thành quả thiết thực. Tính đến nay, đã có gần 50 tỉnh/thành
của Việt Nam thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với các tỉnh/thành/khu tự trị
của Trung Quốc. Qua đó hai bên đã đi sâu trao đổi về các biện pháp nhằm
tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác thực chất trên
các lĩnh vực, giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình hợp tác,
97 Bộ Công thương, năm 2016.
cùng xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị, đóng góp cho
106
quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát
triển ổn định, lành mạnh.
đầu tư trực tiếp (FDI) của Trung Quốc tại Việt Nam. Việt Nam
được xem như điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư từ Trung Quốc. Việt
Nam có lợi thế về nhân công giá rẻ cộng thêm vị trí địa lý gần gũi và văn hóa
khá tương đồng với Trung Quốc. Do đó, nguồn đầu tư từ Trung Quốc vào
Việt Nam không ngừng tăng lên. FDI của Trung Quốc vào Việt Nam được bắt
đầu từ cuối tháng 11/1991, trải qua gần 30 năm, kể từ dự án đầu tiên, FDI của
Trung Quốc tại Việt Nam liên tục vươn lên trong vị trí xếp hạng, tăng về quy
mô, thay đổi về hình thức, lĩnh vực, mở rộng về địa bàn.
Về quy mô đầu tư: Mười năm đầu (1991 - 2001), FDI của Trung Quốc
vào Việt Nam chỉ mang tính chất thăm dò, số dự án và lượng vốn đầu tư vào Việt
Nam là rất nhỏ so với tổng lượng vốn FDI. Tính đến tháng 12 năm 2001 Trung
Quốc có 110 dự án với tổng số vốn đăng ký theo giấy phép là 221 triệu USD98.
Mười năm tiếp theo (2001 - 2010), được đánh dấu bởi Hiệp định khung
về hợp tác toàn diện ASEAN - Trung Quốc năm 2002, cũng là thời điểm
Trung Quốc đã gia nhập WTO (2001). Từ thời điểm này, FDI của Trung
Quốc vào Việt Nam tăng cả về số lượng dự án cũng như quy mô vốn (khoảng
2,5 triệu USD/dự án), có nhiều dự án trên 1 triệu USD đến 10 triệu USD đã
xuất hiện. Năm 2007 khi Việt Nam gia nhập WTO, cùng với việc đi sâu hội
nhập kinh tế quốc tế, môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng được cải
thiện, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, FDI của Trung Quốc vào Việt Nam
tăng khá mạnh, nhiều dự án trên 10 triệu USD đến 100 triệu USD đã có mặt
tại Việt Nam, nâng vốn bình quân của một dự án lên 4,3 triệu USD/dự án.
Những dự án với vốn đầu tư lớn nói trên đã góp phần thay đổi diện mạo đầu
tư của Trung Quốc tại Việt Nam trong thời gian 10 năm đầu thế kỷ XXI.
Thời gian từ 2011 đến tháng 5/2014, là khoảng thời gian FDI của Trung
Quốc vào Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt nhất. Bằng chứng là số dự án và
lượng vốn tăng rất mạnh trong năm 2013 và 4 tháng đầu năm 2014. Nếu như 98 Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
107
trong năm 2012 lượng vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam giảm mạnh
xuống mức 312 triệu USD thì năm 2013 lượng vốn đã tăng đột biến lên tới
trên 2,3 tỷ USD với 110 dự án được cấp mới. Đây là mức tăng rất lớn và trên
thực tế đã đưa Trung Quốc lên vị trí thứ 4 trong tổng số 101 quốc gia và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam năm 2013. Đặc biệt, 4 tháng đầu năm 2018,
Trung Quốc vươn lên dẫn đầu về vốn đầu tư trực tiếp (FDI) đăng ký mở mới
vào Việt Nam với 1,3 tỷ USD để thực hiện 187 dự án. Nếu tính cả đăng ký
thêm và góp vốn mua cổ phần, Trung Quốc vươn lên vị trí thứ tư về tổng
lượng vốn đầu tư rót vào Việt Nam trong 4 tháng với 1,69 tỷ USD.
o sánh lượng vốn đầu tư trực tiếp FDI vào Việt Nam 4 tháng đầu
năm 2 1 Đơn v : tỷ D 99.
Những thành tựu trong quan hệ kinh tế Việt – Trung cho thấy hai nước
đều coi trọng đối tác. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục vận dụng quan
điểm đối ngoại Hồ Chí Minh với Trung Quốc, lấy mục tiêu phát triển kinh tế
làm quan hệ trung tâm, làm nền tảng cho quan hệ đối ngoại giữa hai nước.
99 Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Đồng thời khẳng định, Đảng và Nhà nước Việt Nam đặt quan hệ kinh tế Việt
108
– Trung là quan hệ trọng điểm trong chiến lược phát triển kinh tế nói chung
của đất nước.
Theo đó, trong năm 2020 nhân kỷ niệm 70 năm (18/1/1950 –
18/1/2020) ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc
về hợp tác kinh tế, Thủ tướng đề nghị hai bên cần quan tâm tạo điều kiện
thuận lợi cho thông thương hàng hóa qua biên giới, nhất là các loại nông, thủy
sản, hoa quả mùa vụ của Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu cân bằng cán
cân thương mại giữa hai nước. Thủ tướng đề nghị hai bên phối hợp, thúc đẩy
tháo gỡ, giải quyết dứt điểm các vướng mắc của các dự án đầu tư, trong đó có
tuyến đường sắt Cát Linh - Hà Đông; khuyến khích các doanh nghiệp Trung
Quốc đầu tư vào các dự án tương xứng với quan hệ giữa hai nước, để người
dân thụ hưởng thành quả thực chất từ quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc.100 Tính đến 10/2020, Trung Quốc đầu tư tổng cộng trên 18 tỷ
USD vào Việt Nam với khoảng 3.807 dự án.
100 Báo điện tử của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 17/1/2020 101 Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
V c ti p (FDI) c a Trung Qu c vào Vi t Nam n tháng 10/2020 101
109
Những thành tựu trong quan hệ kinh tế Việt – Trung cho thấy hai nước
đều coi trọng đối tác, lấy mục tiêu phát triển kinh tế làm quan hệ trung tâm,
làm nền tảng cho quan hệ đối ngoại giữa hai nước. Đồng thời khẳng định,
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiên trì vận dụng và quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh về đối ngoại trong quan hệ với Trung Quốc, đặt quan hệ kinh tế
Việt – Trung là quan hệ trọng điểm trong chiến lược phát triển kinh tế nói
chung của đất nước.
Về p ò
Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ, mục tiêu của đối ngoại quốc
phòng, an ninh với Trung Quốc là nhằm thiết lập và phát triển quan hệ về
quốc phòng với Trung Quốc trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau nhằm
góp phần vào công cuộc củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ
trang, giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc
đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nói một
cách khái quát, công tác đối ngoại quốc phòng, an ninh với Trung Quốc
chúng ta luôn giữ vững được mục tiêu, đã thực hiện tổng thể các hoạt động
bằng biện pháp hòa bình nhằm góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc,
giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam
giàu mạnh, hùng cường như ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hai nước thường xuyên tiến hành các hoạt động trao đổi đoàn nhằm tạo
sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau, đảm bảo mục tiêu tôn trọng chủ quyền và lãnh
thổ của đôi bên. Từ tháng 11 năm 1991 trở đi, quan hệ đối ngoại giữa hai
Đảng tiếp tục được phát triển không ngừng. Nhiều chuyến thăm và làm việc
giữa hai Đảng, hai Nhà nước đã diễn ra trên tinh thần hoà bình, hợp tác, phát
triển. Từ năm 2010 chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Đại tướng, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh, chuyến thăm chính
thức Việt Nam của Thượng tướng Lương Quang Liệt, Bộ trưởng Quốc phòng
Trung Quốc dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng
110
(ADMM+) cuối năm 2010, và chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thượng
tướng Quách Bá Hùng, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc đầu
năm 2011, là những minh chứng cho sự phát triển không ngừng trong quan hệ
đối ngoại giữa Việt Nam Trung Quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai nước tăng cường các hoạt động “Đối thoại chiến lược quốc phòng -
an ninh”: “Đối thoại chiến lược quốc phòng - an ninh” lần thứ 1 (11/2010),
lần thứ hai (8/2011),... Thông qua đối thoại, hai nước thống nhất tiếp tục đẩy
mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực, như tăng cường trao đổi đoàn, sớm hoàn
thành đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng. Hai nước đã phối hợp chặt
chẽ triển khai thực hiện các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt
Nam - Trung Quốc, tăng cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới;
đạt được những nhận thức chung về kiểm soát bất đồng, duy trì hòa bình, ổn
định trên biển và đang tích cực thúc đẩy các cơ chế đàm phán về các vấn đề
trên biển.
Như vậy, quan hệ Việt – Trung trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc
phòng an ninh đều đảm bảo mục tiêu của đôi bên về ổn định chính trị, phát
triển kinh tế và tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ quốc gia của nhau. Mặc dù còn
nhiều bất đồng chưa được giải quyết, song những thành tựu trên đã khẳng
định Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sâu sắc mục tiêu đối ngoại của Hồ
Chí Minh trong quan hệ với Trung Quốc.
3.2.1.2. Đ b ắ ộ p ạ p cơ
ở ọ
Vận dụng sáng tạo tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản
Việt Nam coi độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại với Trung Quốc là một
trong những nguyên tắc hàng đầu. Sự phát triển có tính đột phá về kinh tế và
vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế trong những năm gần đây tác động
mạnh mẽ đến quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên,
Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX họp và ra
Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết đã
111
thể hiện những nhận thức mới của Đảng về nguyên tắc xác định đối tác và đối
tượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam, nhấn mạnh: Những ai tôn trọng
độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình
đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của Việt Nam; bất kể lực lượng
nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu cách mạng Việt Nam trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.
Kể từ khi bình thường hóa năm 1991 đến nay, quan hệ Việt - Trung đã
phát triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa,
an ninh, quốc phòng. Hai bên đã xác định phát triển quan hệ hai nước theo
phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai” (năm 1999) và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt” (năm 2005). Năm 2008, hai bên nhất trí thiết lập khuôn khổ
quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, đây là
khung hợp tác cao nhất, nội hàm sâu rộng nhất trong quan hệ của Việt Nam
với các nước trên thế giới, Trung Quốc cũng là quốc gia đầu tiên cùng Việt
Nam xây dựng khuôn khổ hợp tác này.
Đồng thời, lãnh đạo cấp cao hai nước thường xuyên có các chuyến thăm
chính thức và gặp gỡ bên lề hội nghị quốc tế, qua các cuộc gặp cấp cao. hai
nước luôn nhấn mạnh, tình hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc là tài sản quý
báu của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, cần được hết sức giữ
gìn và không ngừng vun đắp; khẳng định sẽ làm hết sức mình để đưa quan hệ
đó ngày càng sâu sắc hơn, tin cậy hơn, cùng ủng hộ lẫn nhau trong sự nghiệp
đổi mới, cải cách mở cửa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, vì hòa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu tháng 02/1999, hai nước xác
định “phương châm 16 chữ” thúc đẩy quan hệ hai nước trong thế kỷ XXI là
“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
Đồng thời, hai nước đã ký kết hiệp ước về biên giới đất liền, làm tiền đề giải
112
quyết vấn đề phân định vịnh Bắc Bộ, cùng nhau xây dựng biên giới chung
thành một biên giới hòa bình, hữu nghị và ổn định. Tháng 12/2000, hai nước
ký “Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới”, đề ra những biện
pháp cụ thể phát triển quan hệ hai nước trên tất cả các lĩnh vực.
Năm 2002, trong chuyến thăm chính thức Việt Nam và phát biểu với
sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Giang Trạch Dân nhấn mạnh: “Phát triển mối quan hệ Việt - Trung phải lấy
tin tưởng lẫn nhau làm cơ sở, ổn định lâu dài là tiền đề, láng giềng hữu hảo là
sự đảm bảo, hợp tác toàn diện là mấu chốt, cùng nhau phát triển phồn vinh là
mục tiêu”102.
Năm 2005, hai nước thỏa thuận đưa quan hệ hai nước phát triển trên
phương châm “bốn tốt”: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Đặc biệt, tháng 5/2008, trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức
Mạnh, hai nước thống nhất nâng tầm quan hệ thành “quan hệ đối tác và hợp
tác chiến lược toàn diện”, đồng thời nhất trí thiết lập đường dây nóng giữa
lãnh đạo cấp cao hai nước.
Về ấ ề b ể Đ : hai nước đã ký kết “Thỏa thuận về những nguyên
tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”
(2011), làm cơ sở cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Theo đó, hai nước
nhất trí kiên trì giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông trên cơ sở luật pháp
quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần DOC. Trên
cơ sở Thỏa thuận này, hai nước đã thành lập cơ chế đàm phán cấp chuyên
viên về khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và cơ chế đàm phán cấp chuyên viên
về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Đến nay, sau các vòng
đàm phán, hai nước đã đạt một số kết quả gồm nhất trí thành lập Tổ chuyên
102 Báo Nhân dân, ngày 29/02/2002.
gia kỹ thuật khảo sát chung phục vụ công tác phân định và hợp tác cùng phát
113
triển tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ; nhất trí chọn ra 03 dự án trong lĩnh
vực ít nhạy cảm trên biển để nghiên cứu và triển khai thí điểm, gồm: “Dự án
về hợp tác trao đổi, nghiên cứu về quản lý môi trường biển và hải đảo vùng
Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc”, và “Dự án về nghiên cứu so
sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ
sông Trường Giang” và “Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa
Việt Nam và Trung Quốc”. Trong quá trình tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài
mà hai nước đều có thể chấp nhận được, hai nước đã thành lập và đưa vào
hoạt động “Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong
khuôn khổ Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về Biên giới lãnh thổ Việt Nam -
Trung Quốc (2013)” nhằm nghiên cứu và bàn bạc về các giải pháp mang tính
quá độ, không ảnh hưởng lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm vấn
đề hợp tác cùng phát triển.
Những cuộc gặp gỡ của lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước cho thấy tính tự
chủ trong quan hệ giữa hai bên, không chịu sự chi phối, can thiệp bởi một bên thứ
ba. Đồng thời, Việt Nam khẳng định tính độc lập trong quan hệ đối ngoại với Trung
Quốc, hai bên đều đảm bảo nguyên tắc hợp tác trên cơ sở tự nguyện, tôn trọng lẫn
nhau. Kiên định về chiến lược nhưng mềm dẻo về sách lược, sẵn sàng, chủ động
trong việc giải quyết những bất đồng để đảm bảo lợi ích tối đa của dân tộc.
Cũng bởi coi trọng mối quan hệ với Trung Quốc, vì “đại cục” hai nước
mà thời gian qua dẫu có những bất đồng, căng thẳng, song Đảng, Nhà nước
và nhân dân Việt Nam luôn “kiên quyết, kiên trì” giải quyết mọi bất đồng trên
nền tảng hòa bình, đối thoại. Trên cơ sở đó, quan hệ chính trị giữa Việt Nam
và Trung Quốc ngày càng phát triển tốt đẹp. Đây cũng chính là những biểu
hiện rõ nét nhất của việc quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm,
tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
nước ta của Đảng và Nhà nước ta. Điều đó đã mang lại cho Việt Nam những
điều kiện thuận lợi cơ bản để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
114
3 2 1 3 p ơ p p ạ ạ
ớ Q
Kết hợp giữa đối ngoại Đảng, Nhà nước và nhân dân trong quan hệ với
Trung Quốc. Ngoài những cuộc gặp gỡ chính thức giữa đại diện hai Đảng, hai
Nhà nước, hai bên còn chú trọng đối ngoại nhân dân để củng cố mối quan hệ
ngày càng sâu, rộng và hiệu quả.
Về
Các khoản vay ưu đãi mà Trung Quốc dành cho Việt Nam từ năm 1992
đến năm 2000 chủ yếu tập trung vào việc khôi phục, cải tạo và mở rộng các
nhà máy do Trung Quốc xây dựng trước đây. Từ năm 2000 đến nay, nguồn
vốn vay tín dụng ưu đãi từ Trung Quốc đã tăng lên mạnh mẽ và được hai
nước ưu tiên sử dụng trong các lĩnh vực mà Việt Nam đang cần: Điện lực,
khai khoáng, luyện kim, phân bón nông nghiệp, hóa chất, cơ khí. Chính phủ
Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam nhiều khoản viện trợ không hoàn lại trong
việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã
hội ở Trung Quốc; trao đổi các đoàn thanh, thiếu niên,...
Bên cạnh đó, các bộ, ngành của hai nước đã thường xuyên gặp gỡ, trao
đổi và điều chỉnh, bổ sung nội dung các hiệp định trong các lĩnh vực hợp tác
kinh tế, thương mại nhằm không ngừng hoàn thiện hành lang pháp lý cho hợp
tác kinh tế và trao đổi thương mại. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc (ACFTA hay CAFTA) ngày càng đóng góp quan trọng trong việc tăng
cường hợp tác, liên kết kinh tế khu vực. Trong cơ chế hợp tác này, quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc giữ vai trò quan trọng, mang tính trụ cột, Việt Nam
với vị trí địa chiến lược ở khu vực Đông Nam Á được coi là “cầu nối” trực
tiếp, chiến lược quan trọng để Trung Quốc mở rộng và tiếp cận các nước
ASEAN dựa trên tuyến đường bộ và đường biển. Phát huy đầy đủ vị thế đó là
nhân tố then chốt của quan hệ kinh tế hai nước trong giai đoạn mới.
Về ă – ã ộ
Việt Nam và Trung Quốc, vốn là hai quốc gia có nhiều điểm tương
đồng về văn hóa, trong quá trình quan hệ đối ngoại, hai nước đã đạt được
115
nhiều thành tựu quan trọng trên lĩnh vực văn hóa, nhất là giao lưu văn hóa
truyền thống, triển lãm hội họa, xuất bản, báo chí, điện ảnh,… hai nước đã
triển khai nhiều hoạt động giao lưu văn hóa sôi động, nhất là giữa thế hệ trẻ
và người dân các địa phương vùng biên giới; các cuộc gặp gỡ giữa các bộ,
ngành và địa phương… với nội dung trao đổi, hợp tác đa diện, nhiều chiều,
nhiều tầng nấc, góp phần tăng cường tình hữu nghị truyền thống giữa hai
nước. Trong giao lưu văn hóa, chú trọng phát huy tốt những giá trị nhân văn,
nhân đạo, khơi dậy những tiềm năng hợp tác văn hóa giữa hai nước. Đây
chính là sự vận dụng phương pháp đối ngoại trong lĩnh vực văn hóa mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng và vận dụng trong đấu tranh cách mạng. Hai
nước triển khai “Kế hoạch thực hiện Hiệp định văn hóa Việt Nam - Trung
Quốc giai đoạn 2013 - 2015”; thúc đẩy việc thành lập “Trung tâm văn hóa của
nước này tại nước kia”; tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực sản nghiệp văn
hóa, nguồn nhân lực. Hàng năm, hai nước trao đổi nhiều đoàn biểu diễn nghệ
thuật, giao lưu văn hóa - thể thao, góp phần tăng cường tình hữu nghị giữa
nhân dân hai nước,...
Về ụ - ạ
Trong quá trình hợp tác giáo dục - đào tạo với Trung Quốc, chúng ta đã
luôn giữ vững được mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đất
nước, đảm bảo các quyền cơ bản, đảm bảo lợi ích của quốc gia, dân tộc. Đây
là thắng lợi cơ bản có tính xuyên suốt được Đảng, Nhà nước ta quán triệt và
thực hiện chặt chẽ. Hoạt động hợp tác giáo dục - đào tạo với Trung Quốc còn
thiết thực góp phần bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc thông
qua các cuộc hội thảo, tọa đàm, trao đổi,… các chương trình phối hợp đào tạo
giữa hai bên. Cải thiện mối quan hệ đối ngoại với nước bạn, tranh thủ cơ hội
thuận lợi nhằm tạo thế và lực cho công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Tính đến năm 2011, số lượng lưu học sinh Việt Nam tại Trung Quốc là
hơn 12.000 người, đứng thứ hai trong tổng số hơn 60.000 lưu học sinh Việt
Nam đang học tập tại nước ngoài. Số lượng lưu học sinh Trung Quốc, nhất là
116
lưu học sinh các vùng Quảng Tây, Vân Nam, Quảng Đông, học tập tại Việt Nam
cũng ngày càng gia tăng. Đã có trên 80 trường đại học của Việt Nam có quan hệ
với các trường đại học Trung Quốc một cách thường xuyên, hiệu quả103.
Quan hệ hợp tác giữa các địa phương được tăng cường với nhiều hình
thức với các cơ chế như: Ủy ban công tác liên hợp giữa 04 tỉnh Cao Bằng,
Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Giang (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc);
Nhóm công tác liên hợp giữa 04 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang
(Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc); Hội nghị kiểm điểm tình hình
hợp tác giữa các Bộ/ngành, địa phương Việt Nam với tỉnh Quảng Đông
(Trung Quốc); Hội nghị hợp tác hành lang kinh tế 5 tỉnh, thành phố Lào Cai -
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh (Việt Nam) và Côn Minh (Trung Quốc).
Giao lưu nhân dân và thế hệ trẻ hai nước được triển khai thường xuyên.
hai nước đã tổ chức 02 lần Liên hoan thanh niên Việt Nam - Trung Quốc với
quy mô 10 nghìn người tại Quảng Tây (2010, 2013); 02 lần “Liên hoan hữu
nghị nhân dân Việt Nam - Trung Quốc (2010, 2013)”, 06 lần “Diễn đàn nhân
dân Việt - Trung”, 14 lần “Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt - Trung”.
Về p ể
Kể từ khi “Hiệp định hợp tác du lịch Việt Nam - Trung Quốc” được ký
kết năm 1994, hợp tác du lịch hai nước ngày càng mạnh mẽ. Nếu như năm
1993 chỉ có 17.000 lượt người Trung Quốc sang Việt Nam du lịch (bằng 20%
lượng khách quốc tế đến Việt Nam), thì đến nay, trung bình mỗi tháng có từ
65.000 đến 90.000 lượt khách du lịch Trung Quốc vào Việt Nam, đứng đầu về
số lượng khách quốc tế. Trung Quốc cũng là thị trường du lịch lớn nhất của
Việt Nam104.
Năm 2014, lượng du khách Trung Quốc đến Việt Nam chiếm tỷ lệ lớn
nhất trong tổng số lượng khách du lịch nước ngoài với khoảng 1,95 triệu lượt
103 Tổng hợp từ: www.vnemba.org.vn. 104 Tổng hợp số liệu từ website của Tổng cục Du lịch: www.vietnamtourism.gov.vn
người, tăng 2,1% so với năm 2013. Năm 2015, do tình hình căng thẳng trên
117
biển Đông, lượng khách Trung Quốc đến Việt Nam có giảm; tuy nhiên, với
khoảng 1,4 triệu lượt khách trong 10 tháng đầu năm 2015 thì Trung Quốc vẫn
là một trong những nước có lượng du khách đến Việt Nam đông nhất105.
Đối với Việt Nam, thị trường khách Trung Quốc luôn chiếm tỉ lệ 28-
30% trong tổng lượng khách quốc tế. Năm 2017, Việt Nam đón hơn 4 triệu
lượt khách Trung Quốc trong tổng số gần 13 triệu lượt khách quốc tế, tăng
48,6% so với năm 2016. Năm 2018, khách Trung Quốc đến Việt Nam đạt trên
2,568 triệu lượt, tăng 36,1% so với năm 2017. Các địa bàn đón khách Trung
Quốc chủ yếu là Khánh Hòa, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Phú Quốc, Hà Nội, Tp.
Hồ Chí Minh,… Tại Khánh Hòa, lượng khách Trung Quốc chiếm tới 60%
tổng lượng khách quốc tế đến, trong khi đó con số này lần lượt là 30% và
20% tại Đà Nẵng và Quảng Ninh106.
Trong năm 2020, 2021 do bối cảnh dịch bệnh Covid-19 bùng phát trên
thế giới, quan hệ đối ngoại trong lĩnh vực du lịch giữa Việt Nam và Trung
Quốc có nhiều ảnh hưởng. Tuy nhiên, với nỗ lực của hai bên sẽ sớm đưa
ngành du lịch vào giai đoạn mới thích ứng an toàn và linh hoạt theo Nghị
quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam.
3.2.2. Những mặt còn tồn tại trong quan hệ Việt - Trung theo tư
tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong quan hệ đối ngoại với Trung
Quốc, trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể, việc quán triệt và thực hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, nhất là việc quán triệt, vận dụng các mục
tiêu, nguyên tắc và phương pháp đối ngoại Hồ Chí Minh của Đảng, Nhà nước
ta trong một số lĩnh vực, một số thời điểm chưa thật sự triệt để, hiệu quả đạt
105 Trần Thu Hường (2015), “Phát triển thương mại và du lịch vùng biên giới: Những vấn đề còn đặt ra”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc về an ninh, quốc phòng và phòng tuyến hợp tác cạnh tranh kinh tế quốc tế - Từ thực tiễn Quảng Ninh”, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản - Tỉnh ủy Quảng Ninh - Bộ Khoa học và Công nghệ, Quảng Ninh, tr. 427. 106 http://itdr.org.vn/nghien_cuu/thi-truong-khach-du-lich-trung-quoc-den-viet-nam-va-nhung-van- de-dat-ra-trong-quan-ly-khach-du-lich-trung-quoc-tai-viet-nam/
được chưa đúng như mong muốn. Thực tế đó đã dẫn tới một số hạn chế còn
118
tồn tại trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc cần tiếp tục được tháo gỡ để thúc
đẩy quan hệ đối ngoại theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể:
Mộ ấ ề ò ạ ạ ề
Từ 1991 đến nay, với sự chuyển biến của xu thế quốc tế, xuất phát từ
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân hai nước, quan hệ Việt Nam
- Trung Quốc được bình thường hóa, hai nước đã có nhiều nỗ lực thúc đẩy,
xây dựng quan hệ chính trị tốt đẹp. Song, trở ngại lớn nhất trong quan hệ
chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc đó là những mâu thuẫn, bất đồng về
vấn đề quyền và chủ quyền trên Biển Đông.
Theo đó, Trung Quốc đưa ra yêu sách chủ quyền của họ gần như đối
với toàn bộ biển Đông. Trước đó, năm 1974, Trung Quốc lợi dụng tình trạng
chiến tranh ở Việt Nam, đã cho các lực lượng quân sự chiếm toàn bộ quần
đảo Hoàng Sa và đặt sự hiện diện về quân sự của họ ở đây cho đến nay. Hiện
nay, Trung Quốc yêu sách về chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa
(mà Trung Quốc gọi là Nam Sa) và đã dùng lực lượng quân sự chiếm nhiều
đảo thuộc quần đảo này.
Từ năm 2007 cho tới nay, tình hình biển Đông diễn biến phức tạp, thậm
chí căng thẳng, nhất là việc Trung Quốc đơn phương tiến hành các hoạt động
phi pháp, đe dọa đến an ninh, chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông. Vào
tháng 5/2009, Trung Quốc chính thức gửi lên Ủy ban Liên Hợp Quốc về Ranh
giới thềm lục địa (CLCS) “Báo cáo về thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý
của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, trong đó có kèm theo một bản đồ
“hình lưỡi bò” (đường chữ U) 9 đoạn và cho rằng “Trung Quốc có chủ quyền
không thể tranh cãi đối với các quần đảo ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)
và có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan
cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy biển”. Với tuyên bố coi biển Đông là
một phần của “lợi ích cốt lõi” của mình, Trung Quốc đã thể hiện rõ tham vọng
muốn độc chiếm biển Đông riêng cho mình. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng
tăng cường sử dụng các biện pháp, hoạt động khác để hỗ trợ cho mục tiêu xác
119
lập “chủ quyền” của họ như tiến hành chấp pháp tại các khu vực tranh chấp, gây
sức ép một số công ty đa quốc gia đang hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí với
Việt Nam và Philippines, tiến hành nhiều cuộc tập trận với quy mô lớn trên biển
Đông, thực hiện lệnh cấm bắt cá hàng năm và quấy nhiễu ngư dân các nước hoạt
động hợp pháp trên vùng biển của mình,…
Trong quan hệ song phương với các nước có tranh chấp ở biển Đông,
trong đó có Việt Nam, Trung Quốc luôn dùng “sức mạnh” để trấn áp và đe
dọa các quốc gia này. Điển hình như trong cuộc tranh chấp bãi cạn
Scarborough/Hoàng Nham với Philippines từ tháng 4/2012, Trung Quốc cũng
đã dùng “vị thế quốc tế” của mình để bác bỏ đề nghị của Philippines đưa vấn
đề tranh chấp này ra phán xét tại tòa án quốc tế. Ngày 21/6/2012, khi Quốc
hội Việt Nam thông qua Luật Biển, Trung Quốc đã lên tiếng phản đối gay gắt.
Thậm chí, Trung Quốc ngang nhiên có nhiều hành động xâm phạm trực tiếp
đến lãnh thổ của các quốc gia có chủ quyền ở biển Đông. Cụ thể, chỉ trong
thời gian ngắn, Trung Quốc đã tuyên bố thành lập “thành phố Tam Sa” với
phạm vi quản lý bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam,... Một điểm đáng chú ý là trong khi luôn dùng “sức mạnh”, sự cứng rắn
để ứng xử với các nước có tranh chấp ở biển Đông, Trung Quốc lại tỏ ra khá
mềm dẻo đối với bên ngoài, đặc biệt là khi hiện diện ở các diễn đàn quốc tế.
Vấn đề “Lòng tin chiến lược” trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bị
bào mòn và giảm sút nghiêm trọng trước những hành động “nói không đi đôi
với làm”, “tiền hậu bất nhất” của Trung Quốc trong giải quyết tranh chấp.
Ban lãnh đạo cấp cao Trung Quốc thường xuyên đưa ra những tuyên bố mang
tính chất “hòa bình”, rằng sự phát triển của Trung Quốc là “phù hợp với xu
thế thời đại”, “không gây mất ổn định và phương hại đến quyền lợi của các
nước trong khu vực” nhưng trên thực tế, các tàu kể cả của chính phủ lẫn tàu
cá dân sự Trung Quốc lại có nhiều hành động gây hấn với các nước láng
giềng. Điều này thực sự làm cho hình ảnh của Trung Quốc trên trường quốc tế
ngày càng xấu đi. Trong tất cả những vấn đề liên quan tới tranh chấp chủ
quyền tại biển Đông, Trung Quốc luôn thể hiện quan điểm muốn “đàm phán
120
hòa bình”, nhưng là song phương với các nước liên quan, thay vì đối thoại đa
phương. Trước dư luận quốc tế, Trung Quốc tỏ ý sẵn sàng trao đổi với khối
ASEAN về một bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông nhằm giảm các căng thẳng,
nhưng lại cho rằng bất cứ thỏa thuận nào cũng sẽ không thể được sử dụng để
giải quyết các tuyên bố chủ quyền chồng lấn.
Vào tháng 5/2014, Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép Giàn
khoan HD - 981 vào vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hành động trên làm gia tăng căng thẳng quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, phá
vỡ các cam kết khu vực và quốc tế, nhất là bộ quy tắc ứng xử của các bên trên
biển Đông (COC) mà Trung Quốc ký với các nước ASEAN cũng như các
cam kết song phương giữa hai nước.
Một loạt những hành động gây bất ổn, bất hòa chính trị sâu sắc của
Trung Quốc đã tạo ra những rào cản trong việc thúc đẩy quan hệ chính trị
Việt Nam - Trung Quốc, làm cho lòng tin chính trị bị sói mòn nghiêm trọng.
Để cởi bỏ những nút thắt ấy đồng thời tạo nền tảng thúc đẩy quan hệ giữa hai
nước đòi hỏi phải đẩy mạnh đối thoại hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Muốn vậy, trước hết Việt Nam và Trung Quốc phải chung tay xây dựng lòng
tin chiến lược. Đúng như nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu:
“Để xây dựng lòng tin chiến lược, cần tuân thủ luật pháp quốc tế, đề cao trách
nhiệm của các quốc gia - nhất là các nước lớn và nâng cao hiệu quả thực thi
của các cơ chế hợp tác an ninh đa phương”107.
Mộ ấ ề ò ạ ạ ề
Thúc đẩy quan hệ về kinh tế là một trong những trụ cột trong quan hệ đối
tác, hợp tác chiến lược Việt Nam - Trung Quốc. Tuy nhiên, quan hệ trên lĩnh vực
kinh tế giữa hai nước vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập nhất định. Cụ thể:
Mộ ạ ộ ơ ạ ă ở ổ ấ
bằ ọ Mặc dù kim ngạch thương mại giữa hai nước hàng năm
(trừ năm 1998) đều tăng trưởng nhưng mức tăng trưởng hàng năm không ổn
107 http://nguyentandung.chinhphu.vn/Home/Bai-phat-bieu-cua-Thu-tuong-Nguyen-Tan-Dung-tai- Doi-thoai-ShangriLa-2013/20136/18642.vgp.
định. Năm 1992, do quan hệ hai nước khôi phục bình thường, mức tăng
121
trưởng của thương mại song phương so với năm 1991 tăng 82%, trở thành
mức cao lịch sử, sau đó giảm xuống rồi lại tăng lên. Năm 1998, do chịu ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, thương mại giữa hai nước
tăng trưởng âm, giảm xuống còn -15,3%. Năm 2001, do ảnh hưởng của việc
Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, mức tăng trưởng đạt
46,6%. Tương tự như vậy năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới mức tăng trưởng năm đó đạt 51,9%. Nhưng trong năm 2008 - 2009,
do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, mức tăng trưởng
thương mại giữa hai nước giảm rõ rệt, năm 2008 giảm xuống còn 28,8%, năm
2009 chỉ còn 8,2%. Có thể thấy, biến động trong mức tăng trưởng thương mại
giữa hai nước khá mạnh, có nghĩa là mức độ tăng trưởng hàng năm không ổn
định, chịu ảnh hưởng rõ rệt của nhân tố chính trị, nhân tố chính sách kinh tế
và nhân tố thị trường bên ngoài.
Cán cân thương mại giữa hai nước mất cân bằng nghiêm trọng, trong đó
nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc có xu thế tăng nhanh.
N : ổ p ừ ổ ụ
ổ ụ H (V N )
122
So sánh số liệu trên cho thấy: Mức nhập siêu của Việt Nam với Trung
Quốc ngày càng có chiều hướng gia tăng, với giá trị nhập siêu ngày càng cao
là trở ngại lớn cho Việt Nam trong việc cân bằng cán cân thương mại với
Trung Quốc nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Cụ
thể: Từ năm 2000 đến nay, Việt Nam luôn ở tình trạng nhập siêu và mức nhập
siêu không ngừng tăng lên, nhất là sau năm 2007, mức nhập siêu của Việt
Nam tăng mạnh. Nếu như năm 2001, nhập siêu ở mức 19 tỷ USD thì 14 năm
sau (2015) mức nhập siêu tăng gấp đôi (32,42 tỷ USD).
Cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc biến động mạnh, tỷ
lệ nhập siêu ở mức cao, nhất là trong giai đoạn từ 2007 - 2009:
Biểu đồ trên cho thấy: Nếu như vào năm 2007, Việt Nam nhập khẩu
11,9 tỷ USD, xuất khẩu 3,215 tỷ USD, nhập siêu 8,685 tỷ USD; năm 2008,
giá trị nhập khẩu của Việt Nam tăng gấp 5 lần (15,12 tỷ USD), xuất khẩu
giảm sút nghiêm trọng ở mức 4,34 tỷ USD, vì vậy, nhập siêu 10,78 tỷ USD;
năm 2009, Việt Nam nhập khẩu 16,3 tỷ USD, xuất khẩu 4,747 tỷ USD, nhập
siêu 11,554 tỷ USD.
Thông qua so sánh 2 biểu đồ trên, có thể rút ra nhận định: Sự phụ thuộc
về kinh tế của Việt Nam vào Trung Quốc có xu hướng ngày càng tăng lên.
123
Đồng thời, nó làm gia tăng nguy cơ gây ra những bất ổn, thua thiệt về kinh tế
của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc. Thực tế đó đặt ra yêu cầu bức
thiết đối với Việt Nam là tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, chú
trọng nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước, xây dựng
một nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Đúng như tư tưởng đối
ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải luôn có thực lực mạnh, trong mọi mối
quan hệ phải giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, không bị
phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài mới đảm bảo sự phát triển bền vững.
H ơ ạ b ớ V N - Q b ạ ữ
ọ p p ă ờ ơ ạ ữ
ớ ò bộ ộ ề ạ bất c p. Tình trạng buôn lậu khá phổ biến và
rất khó kiểm soát, nhất là việc buôn bán tiểu ngạch dọc biên giới giữa hai
nước. Doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Việt Nam thường bị động do cơ
chế, chính sách giữa hai nước còn nhiều điểm chưa tương đồng, đặc biệt do
phía Trung Quốc thường xuyên thay đổi cơ chế, chính sách thương mại.
Trong thời gian dài, chính sách biên mậu với Trung Quốc và quản lý nhà
nước của Việt Nam còn khá dễ dãi nên đã tạo ra sự cạnh tranh thiếu công
bằng đối với các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn chân chính.
Nguồn nguyên liệu từ nông sản khi thừa, khi thiếu, không ổn định đã
gây khó khăn cho việc phát triển các doanh nghiệp chế biến nông sản, và
trong thực tế nhiều doanh nghiệp đã phá sản do nguồn nguyên liệu bị thương
nhân Trung Quốc thao túng; sự dễ dãi của thị trường Trung Quốc trong việc
nhập khẩu các nông sản thô đã khiến cho người nông dân Việt Nam lao theo
sản xuất các sản phẩm có chất lượng thấp, sử dụng nhiều hóa chất độc hại,
không an toàn, không nâng cấp đổi mới sản phẩm, dẫn đến hậu quả là khi
doanh nghiệp Trung Quốc không mua nữa thì các sản phẩm với chất lượng
như vậy không thể bán được vào thị trường Trung Quốc.
B p (FDI) Q ở V N bộ ộ ề
ạ Quy mô đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam còn nhiều hạn chế,
124
chưa tương xứng với tiềm năng và điều kiện hiện có, vẫn ở quy mô nhỏ, chủ
yếu trong các lĩnh vực sản xuất thông thường. Tính đến thời điểm 2015, theo
bảng xếp hạng, FDI của Trung Quốc tại Việt Nam mới đứng thứ 9/101 nước
và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, với 1.029 dự án còn hiệu lực, tổng
vốn đăng ký 7,852 tỷ USD.
Dòng vốn FDI của Trung Quốc tại Việt Nam chưa phù hợp với quy
hoạch phát triển ngành và vùng kinh tế của Việt Nam. FDI của Trung Quốc
không chú ý đến các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, chỉ chú ý nhiều đến khai
thác tài nguyên của Việt Nam. Đây là cơ cấu đầu tư không mong đợi, vì việc
khai thác và sơ chế các loại quặng ở Việt Nam để chuyển nguyên liệu (than,
quặng, thiếc,…) về Trung Quốc không mang lại lợi ích kinh tế cho Việt Nam,
rất ít có tác động lan tỏa, tác động xấu đến môi trường và sự phát triển bền
vững của Việt Nam. Trung Quốc đã chia các khu vực trong chiến lược tìm
kiếm nguyên nhiên liệu thành 3 vùng: 1 C ớ Q
bờ b ể b ớ Q ; 2. Đ V
Persian; 3. C P C Mỹ. Việt Nam nằm trong vùng tìm kiếm
nguyên liệu thứ nhất của Trung Quốc. Thực tiễn cho thấy, Trung Quốc đã đầu
tư rất nhiều dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên trải dài suốt từ Bắc đến
Nam (Việt Nam). Tình hình này đã gây nên sự xáo trộn trong quy hoạch
ngành, vùng, miền kinh tế của Việt Nam. Mặt khác, nếu quản lý các dự án
này không tốt, sẽ còn gây nên nguy cơ về ô nhiễm môi trường sống, ảnh
hưởng đến phát triển bền vững của Việt Nam. Sự phát triển của Trung Quốc
trong thời gian tới là thách thức lớn đối với Việt Nam trước nguy cơ cạn kiệt
nguồn tài nguyên.
Vấn đề lao động Trung Quốc theo sau các dự án FDI của Trung Quốc
ngày càng phức tạp, nếu không sớm có giải pháp thì rất có thể trở thành vấn
đề “quốc nạn”. Trên thực tế, FDI của Trung Quốc đi đến đâu kéo theo người
lao động Trung Quốc di dân đến đó. Công nhân Trung Quốc có mặt hầu khắp
các công trình của Trung Quốc đầu tư hoặc nhận thầu ở Việt Nam. Người
125
Trung Quốc ồ ạt đến cùng với FDI của Trung Quốc, điều đáng nói là rất
nhiều trong số họ là lao động phổ thông trái phép, làm ăn, buôn bán, vi phạm
pháp luật, gây ra các vấn đề tệ nạn xã hội, gây mất an ninh trật tự địa
phương,... Trong khi Việt Nam đang tích cực đưa lao động sang các thị
trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaixia để giải quyết công ăn việc làm cho
lượng lao động dư thừa, nhàn rỗi, việc nhà đầu tư Trung Quốc ít sử dụng lao
động tại chỗ đã ảnh hưởng lớn đến chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam.
Điều cần đáng nói hơn nữa là, trong thời đại ngày nay luồng di dân thường đi
từ nước nghèo khó, kém phát triển, đến những nước phát triển có thu nhập
cao hơn thì sự hiện diện của hàng ngàn công nhân Trung Quốc tại những “biệt
khu” ở Việt Nam - quốc gia có thu nhập thấp hơn Trung Quốc nhiều lần, lại là
điều bất thường, thật sự khó hiểu.
FDI của Trung Quốc yếu kém trong chuyển giao công nghệ, phần lớn là
công nghệ lạc hậu hay thuộc các ngành gây ô nhiễm môi trường. Mục tiêu của
Trung Quốc là dịch chuyển các cơ sở sản xuất thâm dụng nhiều lao động, mức
lương thấp, hàng hóa giá rẻ và công nghệ không cao ra nước ngoài. Đây chính là
hạn chế lớn nhất của các doanh nghiệp FDI Trung Quốc tại Việt Nam.
B ODA Q ấp bề
ữ Báo cáo “Cập nhật định hướng thu hút và sử dụng vốn vay ODA và vay
ưu đãi giai đoạn 2018 - 2020 và tầm nhìn 2021-2025”108 (3/8/2018) đã viết
như sau: “... tín dụng ưu đãi của Trung Quốc tương tự như các khoản tín dụng
xuất khẩu, là các khoản vay có điều kiện (chỉ định thầu cho các doanh nghiệp
Trung Quốc) và có điều kiện vay kém ưu đãi hơn so với vốn ODA của các
nhà tài trợ khác tại Việt Nam. Lãi suất khoảng 3%/năm, phí cam kết 0.5%, phí
quản lý 0,5%, thời hạn vay 15 năm, thời gian ân hạn năm năm,... Tuy nhiên,
một số dự án sử dụng vốn vay, nhà thầu, thiết bị Trung Quốc cũng thường
xuyên chậm tiến độ, không đảm bảo chất lượng, tăng tổng mức đầu tư,... ảnh
108 https://vietnambiz.vn/viet-nam-muon-cua-trung-quoc-bao-nhieu-80240.htm
hưởng hiệu quả đầu tư. Do đó, định hướng trong thời gian tới đối với việc vay
126
nguồn tín dụng ưu đãi của Trung Quốc cần được xem xét, cân nhắc”. Lãi suất
vay từ Trung Quốc như vậy là rất cao so với lãi suất 0% của Đan Mạch, 0,2%
của Tây Ban Nha, 0,6-1,2% của Nhật, 1,04% của Pháp, 0,75% của Đức,
1,75% của Ấn Độ,... Còn với các tổ chức quốc tế, lãi suất là 0,9% (Libor 6
tháng + 0,4-0,9%) tức là hiện nay vào khoảng 1,3-1,8%/năm và với thời hạn
vay rất dài có thể tới 30 năm, thời gian ân hạn ít nhất là 5 năm.
Trên đây là một số biểu hiện hạn chế trong quan hệ kinh tế giữa hai bên,
cũng cho thấy sự bị động của Việt Nam khi thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại.
Những hạn chế này cần được đánh giá sâu sắc, thường xuyên, nhằm hỗ trợ
cho việc hoạch định chính sách đối ngoại trong thời gian tới.
Mộ ạ ạ ề ă ã ộ
Những biến động phức tạp của tình hình an ninh chính trị trên thế giới
và khu vực tác động mạnh hơn đến an ninh trật tự của nước ta, tiềm ẩn nguy
cơ gây mất ổn định chính trị, xuất hiện những yếu tố mới tác động tiêu cực
đến an ninh chính trị nội bộ, làm cho khả năng kiểm soát, ngăn chặn các loại
tội phạm rất khó khăn. Đối với Trung Quốc, Việt Nam có đường biên giới
chung kéo dài 1463 km, biên giới trên đất liền (hai nước có 4 cửa khẩu quốc
tế, 3 cửa khẩu quốc gia, 14 cửa khẩu địa phương),… Đây chính là điều kiện
để các loại tội phạm nảy sinh, du nhập vào Việt Nam. Đồng thời, việc quản lý
càng trở lên phức tạp. Cụ thể: Tội phạm buôn bán người ngày càng gia
tăng109, chủ yếu là mua bán người ra nước ngoài (chiếm 85% số vụ mua bán
người), tập trung qua các tuyến biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và
Campuchia, Lào, đặc biệt là vùng biên giới với Trung Quốc; Tội phạm ma túy
qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc gia tăng đáng báo động, khó kiểm soát.
Hàng giả, hàng kém chất lượng có nguồn gốc Trung Quốc gây bất ổn các hoạt
động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng sức khỏe, thậm trí tính mạng người tiêu
109 http://www.vksndtc.gov.vn/khac-959
dùng trong nước.
127
Mộ ạ ạ p ò
Hợp tác quốc phòng là trụ cột trong quan hệ đối tác hợp tác chiến lược
toàn diện giữa Việt Nam - Trung Quốc. Tuy nhiên, hợp tác quốc phòng, an
ninh chưa thực sự đi vào chiều sâu. Cụ thể: Các hoạt động đối thoại, giao lưu
quốc phòng, anh ninh là hoạt động thường niên thể hiện sự tin cậy chính trị
giữa hai nước. Tuy nhiên, các hoạt động trên chủ yếu mang ý nghĩa biểu
tượng, chưa đi đến những cam kết cụ thể, có tính pháp lý bảo đảm hiện thực
hóa sự tin cậy về quốc phòng, an ninh trong thực tiễn. Hoạt động tuần tra
chung, nhất là trên biển giữa quân đội hai nước chưa nhiều, chưa thường
xuyên; hợp tác trong huấn luyện quân sự còn ít, chất lượng thấp, chủ yếu là
hợp tác đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho học viên và chuyên gia quân sự hai
nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa công nghiệp quốc phòng, việc đẩy mạnh
nghiên cứu, chuyển giao công nghệ quốc phòng còn hạn chế. Hiện nay, thị
trường mua sắm các trang thiết bị quốc phòng, an ninh của Việt Nam chủ yếu
là Nga và các nước Liên Xô cũ.
Bên cạnh những thành tựu to lớn, quan hệ đối ngoại giữa hai nước cũng
đặt ra nhiều khó khăn, thách thức, nhất là việc giải quyết các yêu sách chủ
quyền phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông. Do sự phát triển mạnh mẽ của
Trung Quốc về kinh tế, quân sự kéo theo sự điều chỉnh chính sách đối ngoại:
Ngày 7/5/2009, Trung Quốc gửi công hàm, kèm theo bản đồ có “đường lưỡi
bò” còn gọi là “đường chín đoạn” gần như ôm trọn cả Biển Đông, bao gồm
phần lớn diện tích vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các quốc gia
Đông Nam Á khác lên Liên Hiệp Quốc.
Tháng 03/2010, các quan chức Trung Quốc cho biết, Trung Quốc coi
Biển Đông nằm trong lợi ích quốc gia cốt lõi, cùng với cách hành xử quyết
liệt của Trung Quốc trong tranh chấp về chủ quyền biển, đảo với các nước,
trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã làm cho tình hình khu vực
thêm căng thẳng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới lòng tin, tình cảm hữu nghị
Việt - Trung đã đạt được trong hàng thập kỷ qua.
128
Từ năm 2014 đến nay, bên cạnh những nỗ lực của Việt Nam và cộng
đồng quốc tế, Trung Quốc đã có một loạt hành động xâm phạm nghiêm trọng
chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam và tự do hàng hải ở Biển Đông. Tháng
05/2014, Trung Quốc đã hạ đặt giàn khoan dầu khổng lồ HD-918 sâu trong
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động có tính chất bành trướng
này đã làm bùng nổ hơn hai tháng đối đầu căng thẳng giữa lực lượng hàng hải
của hai nước. Cuộc khủng hoảng đã làm sứt mẻ nghiêm trọng niềm tin song
phương và đưa quan hệ hai nước xuống mức thấp nhất kể từ sau khi bình
thường hóa năm 1991.
Chủ trương nhất quán của Việt Nam về giải quyết các tranh chấp ở Biển
Đông là bằng biện pháp hòa bình, trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn
nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về
Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). Quan điểm này được Việt Nam nhiều lần
tuyên bố và kiên trì triển khai trên thực tế trước những diễn biến phức tạp và
biến động nhanh chóng của tình hình trên Biển Đông.
3.3. Những vấn đề đặt ra trong việc vận dụng tƣ tƣởng đối ngoại
Hồ Chí Minh đối với quan hệ Việt – Trung
3.3.1. Mục tiêu đối ngoại của Việt Nam với Trung Quốc t 1991 đến
nay có những thời điểm chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra
Có thể nói, từ khi mở cửa, hội nhập đến nay, đường lối đối ngoại của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên trì mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, đảm
bảo các quyền cơ bản, đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc, thống nhất đất nước,
vì hòa bình và phát triển theo tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. Hoạt động đối
ngoại đã góp phần xứng đáng vào nhiệm vụ giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, duy trì và củng cố môi trường
quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, có những thời điểm chúng ta còn lúng túng, bị động trong
việc xử lý các vấn đề nảy sinh liên quan đến việc giải quyết hài hòa mối quan
hệ hội nhập quốc tế với bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc... Trong khi đó, quá
129
trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế không giới hạn trong một phạm vi và
một lĩnh vực nào của đời sống quốc tế mà nó lan tỏa ở mọi cấp độ, mọi lĩnh
vực trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Khi Việt Nam tham gia mọi mặt đời
sống quốc tế có nghĩa là phải tham gia các quá trình kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, an ninh… dẫn tới sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân
tộc. Đây là vấn đề lớn đặt ra trong quan hệ đối ngoại giữa với các nước lớn,
trong đó Việt Nam cũng đứng trước những nguy cơ, thách thức, nhất là trước
những âm mưu, thủ đoạn bành trướng, tư tưởng nước lớn của một số quốc
gia. Thực tiễn trong thời gian qua, việc Trung Quốc gia tăng các hành động
gây căng thẳng trên Biển Đông, vi phạm nghiêm trọng các quy định về chủ
quyền biển, đảo của Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải có những
giải pháp quyết liệt hơn để giữ vững mục tiêu, nguyên tắc độc lập, tự chủ
trong hoạt động đối ngoại, đúng như quan điểm, tư tưởng đối ngoại của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khi trật tự thế giới và khu vực đang
định hình, việc kiên trì nguyên tắc độc lập, tự chủ phải gắn bó chặt chẽ với
quá trình thực hiện phương châm tích cực và chủ động trong công tác đối
ngoại. Việc chậm trễ trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại,
thậm chí bất đồng quan điểm trong một bộ phận cán bộ, dẫn đến sự bị động
về chính trị, thua thiệt về kinh tế, bị áp đặt, lôi kéo, chi phối không phát huy
được tính chủ động trong việc tham gia vào các công việc chung giữa hai bên,
thậm chí là những vấn đề có tính chất khu vực.
Những tư tưởng cục bộ, địa phương của một số Bộ, ngành, địa phương
và một bộ phận cán bộ, công chức trong các cơ quan Nhà nước cũng ảnh
hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện mục tiêu đối ngoại với Trung Quốc
hiện nay. Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và bảo đảm
độc lập, tự chủ, giữ vững chủ quyền quốc gia chưa thật thấu đáo. Vẫn còn có
những ý kiến trái ngược nhau, hoặc lo ngại về khả năng giữ vững độc lập, tự
chủ trong quá trình hội nhập quốc tế, thấy cái “mất” nhiều hơn cái “được”;
130
hoặc chỉ thấy cái “được” mà ít cân nhắc đầy đủ đến cái “mất”. Ở nơi này, nơi
khác, nhận thức về đối tượng, đối tác chưa thật sâu sắc. Đối chiếu theo định
hướng phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm thì tư duy về hội nhập quốc tế
của chúng ta còn những hạn chế nhất định. Có ngành, địa phương chỉ nghĩ
đến cái lợi trước mắt mà không tính đến tác hại lâu dài, muốn đẩy mạnh hội
nhập quốc tế, đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi cách để nhanh
chóng tăng trưởng kinh tế mà bất chấp những mặt trái của nó là có thể gây tác
hại, ô nhiễm môi trường hoặc nhập khẩu công nghệ lạc hậu biến Việt Nam trở
thành bãi rác công nghệ. Mặt khác, có ngành, địa phương hoàn toàn ỷ lại vào
máy móc giá rẻ của Trung Quốc, hoặc không tin và không quan tâm đến việc
đổi mới, sáng tạo trong nước, dẫn tới bị lệ thuộc về công nghệ, bị động về
kinh tế, chính trị, không phát huy được lợi thế trong quan hệ đối ngoại. Chưa
thực sự đảm bảo mục tiêu độc lập, tự chủ một cách trọn vẹn theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Trong quan hệ đối ngoại với Trung Quốc, Việt Nam luôn hướng tới
mục tiêu “vì hòa bình và phát triển”. Tuy nhiên, trong quan hệ giữa hai nước
vẫn tồn tại một số vấn đề chưa được giải quyết, như: Hai bên còn nhiều bất
đồng trong lịch sử và tranh chấp Biển đông; Sự chống phá, chia rẽ quan hệ hai
nước của các thế lực thù địch, nhất là Mỹ; Lãnh đạo hai nước chưa xây dựng
được mối quan hệ cá nhân thân thiết, sâu sắc như thời kỳ Chủ tịch Hồ Chí
Minh – Mao Trạch Đông; Công tác tuyên truyền của hai bên về tầm quan
trọng trong quan hệ Việt – Trung vẫn chưa thực sự hiệu quả, thậm chí còn
nhiều thông tin tiêu cực, sai lệch; Trung Quốc chưa thực sự tin tưởng Việt
Nam, lo ngại Việt Nam “ngả” theo Mỹ để chống lại Trung Quốc. Trong khi
đó, nội bộ Việt Nam cũng chưa thực sự thống nhất, tin tưởng Trung Quốc,
còn lo ngại sự “bành trướng” của Trung Quốc; Tư tưởng “bài Hoa, thoát
Trung” trong tâm lý xã hội khá phổ biến dẫn đến nhiều phản ứng gay gắt của
một bộ phận xã hội. Hoạt động chống phá, kích động, gây chia rẽ quan hệ
Việt – Trung của các lực lượng thù địch diễn ra công khai bằng nhiều hình
131
thức tinh vi đã gây ra những tác động không nhỏ đến một bộ phận nhân dân
của hai nước. Tất cả những vấn đề trên đã gây cản trở cho việc thực hiện mục
tiêu đối ngoại với Trung Quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.3.2. Nguyên tắc đối ngoại Việt Nam với Trung Quốc t 1991 đến
nay có những thời điểm chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra
Trong bối cảnh các nước lớn tiến hành điều chỉnh chiến lược với việc
các nước lớn sẵn sàng thỏa hiệp, đổi chác với nhau hoặc nước lớn chấp nhận
bỏ qua một vài lợi ích không căn bản của mình để xâm phạm nước nhỏ. Điều
này gây khó khăn cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đảm bảo nguyên
tắc độc lập, tự chủ, đặt lợi dân tộc lên trên hết.
Các cuộc khủng hoảng chính trị ở một số khu vực trên thế giới thời gian
gần đây đã khẳng định trong nhiều trường hợp, sinh mệnh chính trị, lợi ích cốt
lõi của nước nhỏ phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các nước lớn. Với việc các
nước lớn “vươn tầm ảnh hưởng”, tăng cường khuất phục, làm cho các nước
nhỏ trước mắt thì bị động, bất ngờ; sau đó thì bị lệ thuộc vào nước lớn và dần
trở thành “vệ tinh”, “sân sau”, “vùng đệm” của họ. Khi nước lớn “điều chỉnh
ngầm”, tiến hành “mặc cả” để đổi chác, thỏa hiệp với nhau “trên lưng nước
nhỏ” sẽ đẩy nước nhỏ vào tình thế bị xâm phạm lợi ích căn bản; bị rơi vào thế
“kẹt” trong “ván cờ chính trị nước lớn”. Thậm chí, không loại trừ khả năng
nước nhỏ không tự quyết định được lợi ích tối cao là vận mệnh quốc gia, dân
tộc mình. Và ở tình huống “hiểm” nhất của sự điều chỉnh chiến lược; để thực
hiện mưu đồ chính trị của mình, nước lớn sẵn sàng “thả lợi ích” để “nhử
mồi”, lôi kéo nước khác vào “vòng xoáy”, tiến hành cuộc chiến chống lại một
nước thứ ba “không cùng quỹ đạo” với mình. Bản chất vấn đề này chính là
gây chiến “qua tay” người khác; “mượn tay” nước khác để phát động chiến
tranh - “chiến tranh ủy nhiệm”. Nếu không có nhận thức đúng đắn, kịp thời và
thống nhất trong nội bộ Đảng, từ trung ương đến địa phương, Việt Nam sẽ rơi
vào thế bị động và trở thành “quân cờ” trong tay các nước lớn, đặc biệt là
Trung Quốc.
132
Mặt khác, khi chúng ta có quan hệ tốt với các nước lớn thì vị thế và vai
trò của Việt Nam trong quan hệ chung về đối ngoại cũng như trong quan hệ
hợp tác thể chế quốc tế lại được tăng cường. Đặc biệt, với nguyên tắc “thêm
bạn bớt thù đa dạng hóa, đa phương hóa hoạt động đối ngoại” thì tăng cường
quan hệ với các đối tác lớn sẽ tạo cơ hội cho chúng ta quan hệ trên toàn cục,
phù hợp với chủ trương về hội nhập sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của Việt
Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, trước những điều chỉnh chiến lược của các nước
lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nga… quá trình gia tăng ảnh hưởng khu vực và
quốc tế, chúng ta chưa có nhiều điều chỉnh sách lược linh hoạt, chưa chủ động
xây dựng trước những kịch bản cần thiết nhằm giảm thiểu những tác động
tiêu cực từ quá trình trên. Do đó, cùng với việc thực hiện nhất quán nguyên
tắc đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, chúng ta cần tăng cường
mở rộng quan hệ với các nước lớn, nhất là trên lĩnh vực kinh tế tạo ra sự đan
cài lợi ích, là điểm tương đồng, cộng đồng trách nhiệm khi giải quyết các mâu
thuẫn, xung đột có thể nảy sinh, đặc biệt là trong giải quyết những bất đồng
trong đối ngoại với Trung Quốc. Đây là sự khéo léo, linh hoạt, mềm dẻo, đối
ngoại theo hướng đa phương, đa dạng để đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các
nước lớn, tranh thủ môi trường hòa bình để phát triển.
Để tránh gây ra những đảo lộn và xung đột cần bảo đảm sự cân bằng
hợp lý giữa các quan hệ: Quan hệ giữa đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước
với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; giữa quyền lợi và nghĩa vụ của đất
nước trong các thể chế hội nhập, giữa mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta với yêu cầu, đòi hỏi của bên ngoài; giữa lĩnh vực kinh tế với các lĩnh
vực khác. Cần kịp thời thích ứng, phản ứng linh hoạt, tạo lập về tăng cường
khai thác lợi thế so sánh của đất nước để hội nhập quốc tế thành công. Đặc
biệt, vấn đề “kiên định về nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo về sách lược” đòi
hỏi trong hội nhập quốc tế vừa bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ vừa bảo đảm giữ vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển
đất nước, không làm triệt tiêu những cơ hội đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
133
Trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn đòi hỏi các quốc gia phải lựa
chọn, nhiều khi phải đánh đổi lợi ích quốc gia dân tộc. Vì vậy, quá trình đàm
phán, thương lượng trong quá trình hội nhập quốc tế phải làm sao kiên trì
thực hiện phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Vừa bảo đảm giữ vững
những lợi ích cốt lõi, vừa linh hoạt thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm tìm kiếm
cơ hội hướng tới những lợi ích cơ bản, lâu dài.
“Xây dựng thực lực” cũng là một nguyên tắc đối ngoại quan trọng trong
tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài việc ổn định tình hình chính trị, đảm bảo quốc
phòng, an ninh thì nhiệm vụ phát triển kinh tế ngang tầm khu vực và thế giới
sẽ quyết định đến tiếng nói trên mặt trận đối ngoại. Tuy nhiên, việc “xây dựng
thực lực” của Việt Nam trên các lĩnh vực còn gặp nhiều khó khăn, cản trở từ
nhiều phía.
3.3.3. Phương pháp đối ngoại Việt Nam với Trung Quốc t 1991 đến
nay có những thời điểm chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
vận dụng phương pháp đối ngoại của Hồ Chí Minh trong hoạt động đối ngoại
với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, từ đó đạt nhiều thành tựu trên
các phương diện kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh…Tuy nhiên, việc vận
dụng phương pháp đối ngoại của Hồ Chí Minh trong quan hệ đối ngoại với
Trung Quốc hiện nay còn đặt ra một số vấn đề cần giải quyết.
Về phương pháp dự báo tình hình và nắm đúng thời cơ, đây là phương
pháp đòi hỏi sự sắc bén, bản lĩnh và trí tuệ của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
chuyên gia nghiên cứu, tham mưu cho Đảng và Nhà nước. Thực tế cho thấy,
công tác dự báo của chúng ta còn tồn tại một vài hạn chế. Mặc dù đã có
những nhận định đúng đắn, khoa học về sự phát triển, vươn lên mạnh mẽ của
Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, những diễn biến nhanh của tình
hình thế giới, khu vực, sự thay đổi chiến lược của các nước lớn trên thế giới,
đặc biệt là những tác động tiêu cực từ bệnh dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến
dự báo trước đó của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phát triển và quan điểm
134
đối ngoại của Trung Quốc. Những biến động đó, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt
Nam tiếp tục có những dự báo cả về chiến lược và sách lược thận trọng, chắc
chắn hơn nữa để chủ động trong quan hệ đối ngoại nói chung và quan hệ với
Trung Quốc nói riêng.
Ngoài công tác dự báo tình hình, các hoạt động đối ngoại bên cạnh
những điểm tiến bộ còn bộc lộ nhiều hạn chế như: Chưa được triển khai đồng
bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thể. Cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối
hợp thực hiện và giám sát quá trình hội nhập từ Trung ương đến địa phương,
giữa các ban, ngành còn nhiều bất cập,… Do đó, việc thống nhất quản lý đối
ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh,... là một yêu cầu
vừa lâu dài, cơ bản, vừa có tính thời sự cấp bách. Mọi hoạt động đối ngoại
đều phải được xem xét trên quan điểm tổng thể, lấy lợi ích cơ bản và lâu dài
của quốc gia dân tộc làm nền tảng; tránh vì lợi ích cục bộ địa phương, cục bộ
ngành mà làm tổn hại đến lợi ích chung. Cần tính đến sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hóa, khoa học, kỹ thuật;
giữa lợi ích quốc gia và đoàn kết quốc tế; giữa đối ngoại của Đảng, Nhà nước
và ngoại giao nhân dân; giữa Trung ương và địa phương, sao cho hài hòa, hỗ
trợ lẫn nhau. Mọi hoạt động đối ngoại cần phải được thực hiện theo những
chương trình, kế hoạch đã được cấp lãnh đạo có thẩm quyền quyết định, trong
một cơ chế và quy trình làm việc chặt chẽ, tránh trùng lắp để bảo đảm sự
thống nhất trong nhận thức và hành động giữa các cơ quan chức năng.
Ngoài những nội dung trên, vấn đề có tính chất quyết định đến việc vận
dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong quan hệ Việt – Trung là việc
thống nhất nghiên cứu, nhận thức giá trị lý luận và thực tiễn trong tư tưởng
của Người. Vẫn còn có sự hoài nghi, xa rời lý luận, hoặc nhận thức chưa đầy
đủ, vận dụng chưa đến nơi của một số cán bộ, đảng viên được phân công
nhiệm vụ trong hoạt động đối ngoại. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ về đối
ngoại giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước, Chính phủ; giữa Trung ương và địa
phương,…
135
Tiểu kết chƣơng 3
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng gần gũi, nhân dân hai
nước vốn có truyền thống hữu nghị lâu đời, đã từng sát cánh bên nhau, ủng hộ
giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Hiện nay, hai nước đều đang dốc sức tiến hành công cuộc đổi mới và cải cách
mở cửa nhằm xây dựng đất nước mình ngày càng phồn vinh và thịnh vượng.
Với quyết tâm, nỗ lực chung của hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai
nước và triển khai hiệu quả các thỏa thuận hợp tác trên các lĩnh vực, quan hệ
đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc không ngừng
được củng cố và phát triển theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị,
hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, thực sự trở thành
“láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, đáp ứng lợi ích căn bản
và nguyện vọng tha thiết của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác
và phát triển ở khu vực châu Á và trên thế giới.
Tuy nhiên, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc còn nhiều khó khăn, thử
thách phải giải quyết, nhất là vấn đề chủ quyền trên biển Đông đòi hỏi sự nỗ
lực hợp tác giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước. Các cơ chế
hợp tác đã được ký kết phù hợp với xu thế phát triển của tình hình thế giới,
khu vực và nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước. Vấn đề mấu chốt
là hiện thực hóa các cam kết đó bằng những hành động cụ thể với sự tin cậy
quyết tâm chính trị cao của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước.
Đúng như lời căn dặn có ý nghĩa phương pháp luận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Đường lối, chủ trương có rồi, phải có biện pháp thực hiện cho tốt.
Chủ nghĩa xã hội là phải có biện pháp. Kế hoạch một phần, biện pháp phải hai
phần, và quyết tâm phải ba phần, có như thế mới có thể hoàn thành và hoàn
110 Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.25.
thành vượt mức kế hoạch”110
136
Chƣơng 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG ĐỐI NGOẠI
HỒ CHÍ MINH TRONG QUAN HỆ VIỆT - TRUNG
4.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quan hệ đối
ngoại với Trung Quốc dƣới ánh sáng tƣ tƣởng đối ngoại Hồ Chí Minh
4.1.1. Những nhân tố tác động đến quan hệ đối ngoại Việt – Trung
trong thời gian tới
4 1 1 1
ớ đặc điểm lớn của thế giới trong những năm tới là “hoà bình,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn…Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi
theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thoả hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn”111. Bên cạnh đó, các quốc
gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định
con đường phát triển của mình. Nhiều nước đang tích cực đấu tranh cho một
thế giới bình đẳng, công bằng với sự đề cao vai trò của các tổ chức quốc tế
lớn như Liên hợp quốc và sự tôn trọng luật pháp quốc tế trong quan hệ quốc
tế. Các xu thế trên đan xen nhau. Tuy nhiên, cho dù hướng tới mục tiêu nào,
các nước đều mong muốn và cố gắng duy trì hoà bình, duy trì hình thức quan
hệ theo dạng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tránh đối đầu
quân sự trực tiếp. Các hình thức quan hệ hợp tác - đấu tranh ngày càng trở
nên đa dạng, không theo khuôn mẫu nào và được biến đổi linh hoạt theo từng
loại vấn đề, từng đối tượng, khu vực, từng thời điểm cụ thể
“toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển” là một
thuận lợi nữa đối với việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2021-2030. Toàn cầu hóa thường được nhìn nhận từ góc độ phát triển
111 Đảng Cộng sản Việt Nam , Vă Đạ ộ ạ b ể XIII Nxb. CTQG, Hà Nội, 2021, T.1, tr.105
kinh tế, thương mại và tài chính nhờ sự tiến bộ của khoa học và công nghệ.
137
Từ kinh tế, toàn cầu hóa lan rộng ra các lĩnh vực khác của cuộc sống. Toàn
cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, đang lôi cuốn ngày càng nhiều
nước tham gia. Đây vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu
tranh giữa các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hóa, tự
do hóa kinh tế và cải cách thị trường diễn ra phổ biến. Các nền kinh tế dựa
vào nhau, liên kết với nhau, xâm nhập lẫn nhau, khiến cho tính tuỳ thuộc lẫn
nhau giữa các nước ngày càng tăng. Toàn cầu hoá thúc đẩy hợp tác, phân
công lao động quốc tế và tăng trưởng kinh tế. Các hình thức hợp tác, liên kết
kinh tế trở nên nhiều vẻ và rất phong phú về nội dung, tạo điều kiện phát triển
giao lưu văn hoá và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và tình
hữu nghị giữa các dân tộc.
b “cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số
phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia dân tộc”112. Cùng với toàn cầu hoá kinh tế, nền
kinh tế thế giới cũng đang có bước chuyển đổi về cơ cấu và hướng tới nền
kinh tế tri thức. Xu thế phát triển kinh tế tri thức tác động mạnh mẽ đến tất cả
các quốc gia, dân tộc tạo ra những thay đổi căn bản không chỉ trong đời sống
kinh tế - xã hội, mà cả trong so sánh lực lượng cũng như ngôi vị của mỗi quốc
gia trên trường quốc tế. Việc ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ
vào sản xuất, nhất là những ngành công nghệ mũi nhọn như công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu đang và sẽ là nền tảng của sự tăng
trưởng kinh tế. Khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu
kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tỷ trọng GDP
của các ngành nghề đòi hỏi hàm lượng tri thức cao ngày càng lớn.
bên cạnh những thời cơ, thuận lợi trong bối cảnh chung của
112 Đảng Cộng sản Việt Nam, Vă Đạ ộ ạ b ể XIII Nxb. CTQG, Hà Nội 2021, T.1, tr.106
toàn thế giới, trong khu vực chúng ta - khu vực châu Á - Thái Bình Dương,
138
khu vực Đông Nam Á - cũng đang có nhiều thuận lợi cho việc thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030. Đảng và Nhà nước
ta nhận định: “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có
vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các
cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn… ASEAN có vai trò quan trọng trong duy
trì hoà bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều
khó khăn”. Trong khu vực cũng đang có hai tổ chức quốc tế lớn có sự tham
gia của Việt Nam và đang hoạt động rất hiệu quả. Đó là tổ chức APEC - Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương - với 21 nền kinh tế thành
viên, chiếm 39% dân số thế giới, 57% GDP toàn cầu. APEC đang khẳng định
vị thế là diễn đàn hợp tác kinh tế quy mô hàng đầu tại châu Á - Thái Bình
Dương. Tổ chức ASEAN gồm 10 nước trong khu vực Đông Nam Á với diện
tích gần 4,5 triệu km2 và dân số trên 600 triệu người đang trên đà phát triển
với khả năng cạnh tranh mới. Tình hình đó tạo thuận lợi cho chúng ta trong
hợp tác phát triển kinh tế.
4 1 1 2 K ă
ấ , mặc dù xu thế lớn hiện nay là hoà bình, hợp tác và phát triển
nhưng tình hình an ninh - chính trị trên thế giới vẫn có nhiều diễn biến phức
tạp. Quan hệ các nước trên thế giới đan xen giữa hợp tác và đấu tranh, giữa
hoà bình và xung đột. Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh đến những yếu tố
bất lợi của tình hình thế giới đòi hỏi chúng ta cần phải theo dõi, phân tích,
đánh giá để chủ động trong hoạt động của mình. Bên cạnh xu thế hoà bình,
hợp tác và phát triển trên thế giới và trong khu vực, Đảng ta chỉ rõ: “Hoà
bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở
ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp
tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi
ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế… Chủ nghĩa dân tộc
cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan
hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức mới”.
139
Hợp tác và xung đột là hai mặt của đời sống chính trị quốc tế, có mối
quan hệ biện chứng và tương hỗ lẫn nhau. Trong quá trình hợp tác quốc tế có
thể nảy sinh sự xung đột và ngay trong khi xung đột cũng có thể có sự hợp tác
nhất định giữa các yếu tố. Hợp tác và xung đột được coi là những yếu tố quan
trọng nhất của hoạt động quốc tế và nó quyết định sự ổn định của hệ thống
quốc tế. Sự khác nhau giữa xung đột và hợp tác không nên được tuyệt đối
hoá, nhưng cũng không được đồng nhất chúng.
Đảng và Nhà nước ta nhận định xung đột vẫn tiếp tục diễn ra ở nhiều
nơi với tính chất ngày càng phức tạp, trước hết, bởi vì các mâu thuẫn lớn của
thời đại vẫn còn và rất gay gắt. Bên cạnh đó, những nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến xung đột vẫn còn và trở nên hết sức đa dạng. Đó có thể là nguyên nhân
bên trong, có thể là nguyên nhân bên ngoài, có thể thuộc lĩnh vực này hay lĩnh
vực khác. Nhiều nguyên nhân dẫn đến xung đột quốc tế được hình thành
trong thời gian dài, hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm, và trong mỗi
bước ngoặt của lịch sử lại được vận dụng đa dạng. Hợp tác, cạnh tranh, đấu
tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là “các nước lớn vẫn hợp tác thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn”113.
Trong khu vực của chúng ta, những xu hướng lớn của tình hình thế giới
cũng được phản ánh rõ nét. Các nhân tố gây mất ổn định trong khu vực vẫn
chưa mất đi hết. Đảng ta dự báo về khu vực châu Á - Thái Bình Dương “là
khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh
chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn”114. Ở khu vực Đông Bắc Á, vấn đề hạt nhân của Bắc Triều
Tiên vẫn chưa có tiến bộ rõ rệt. Quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản tuy đã
được cải thiện nhưng những bất đồng vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Đặc
113 Đảng Cộng sản Việt Nam, Vă Đạ ộ ạ b ể XIII Nxb. CTQG, Hà Nội 2021, T.1, tr.106 114 Đảng Cộng sản Việt Nam, Vă Đạ ộ ạ b ể XIII Nxb. CTQG, Hà Nội 2021, T.1, tr.106
biệt, trong quan hệ giữa hai nước vẫn còn một loạt vấn đề nhạy cảm, dễ dẫn
140
đến những xung đột ở mức độ gay gắt hơn như các vấn đề liên quan đến ảnh
hưởng và quyền lực trong khu vực, các vấn đề liên quan đến thời kỳ phát xít
Nhật (chất độc hoá học, các cuộc tàn sát nhân dân, sách giáo khoa lịch sử, nô lệ
tình dục, ngôi đền Yakusini…), vấn đề tăng cường tiềm lực quốc phòng, vấn đề
tranh chấp vùng khai thác, thăm dò dầu khí, vấn đề tranh chấp thương mại…
Quan hệ Nhật Bản và Hàn Quốc cũng có nhiều bất ổn liên quan đến
chủ quyền hòn đảo Đốc Đô (Dokdo - tiếng Hàn Quốc) hay Takeshima (tiếng
Nhật Bản), vấn đề sách giáo khoa lịch sử, vấn đề tên gọi vùng biển giữa hai
nước (Biển Đông hay Biển Nhật Bản). Trong quan hệ giữa Nhật Bản và Nga -
một nước có phần lớn lãnh thổ ở khu vực này - vẫn chưa đạt được việc ký kết
Hiệp ước hoà bình do tranh chấp chủ quyền nhóm 4 hòn đảo phía nam quần
đảo Curil. Ngoài ra, vấn đề tuyên bố độc lập của Đài Loan cũng luôn là mối
quan ngại của các nước trong khu vực, là nhân tố dễ gây mất ổn định.
Ở khu vực Đông Nam Á, “hoà bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn
hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột”115, thúc đẩy hợp tác khu vực ASEAN cũng đứng trước
nhiều khó khăn. Tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh
thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước cùng với những bất ổn kinh tế, chính
trị, xã hội ở một số nước làm khu vực này dẽ rơi vào tình trạng mất ổn định.
Tình hình bất ổn ở Myanmar hiện nay đang là nỗi quan ngại của các nước
trong khu vực. Đặc biệt, những sự kiện trên chính trường Myanmar từ sau khi
giới chức quân sự nước này bắt giam và kết tội các nhà lãnh đạo dân sự. Các
cuộc biểu tình diễn ra ngày càng gay gắt và số người thiệt mạng trong các
cuộc biểu tình ở Myanmar ngày càng gia tăng. Theo các nhà hoạt động nhân
quyền quốc tế, cho đến nay ít nhất 550 người Myanmar đã thiệt mạng từ khi
115 Đảng Cộng sản Việt Nam, Vă Đạ ộ ạ b ể XIII Nxb. CTQG, Hà Nội 2021, T.1, tr.106
xảy ra đảo chính ngày 1.2.2021.
141
Bên cạnh đó, tranh chấp đảo, vùng lãnh hải, nguồn tài nguyên thiên
nhiên ở Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp, nhất là khi Trung Quốc
trong tham vọng kiểm soát Biển Đông, sẵn sàng đe dọa sử dụng vũ lực.
các dân tộc trên thế giới trong đó có Việt Nam đang phải đối
mặt với sự xuất hiện ngày càng nhiều những vấn đề toàn cầu gay gắt. Đó là
tổng thể những vấn đề cấp bách mà từ nguyên nhân nảy sinh, phát triển đến
phạm vi, quy mô tác động và việc khắc phục những hậu quả của nó liên quan
trực tiếp đến từng con người đến tất cả các dân tộc, quốc gia, đến toàn nhân
loại. Nguyên nhân của chúng là do sự phát triển như vũ bão của lượng sản
xuất, khoa học, công nghệ dẫn đến sự phân bố lại các lực lượng xã hội trên
quốc tế, là quá trình đấu tranh và hợp tác về quân sự, chính trị kinh tế giữa các
quốc gia, dân tộc.
Ở Việt Nam, những vấn đề toàn cầu vẫn trong xu hướng gia tăng về số
lượng, quy mô về tính chất, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển của
các quốc gia. Đảng ta chỉ rõ: “Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hoà bình,
an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền
thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường,... tiếp tục diễn biến phức tạp”116. Những nỗ lực chung của cộng đồng
quốc tế nhiều năm qua đã đưa lại một số kết quả trong việc làm giảm thiểu
hiệu ứng nhà kính, xử lý nguồn nước và rác thải, chữa trị các bệnh lây
nhiễm... Nhưng, tính chất nghiêm trọng và phức tạp của những vấn đề toàn
cầu tiếp tục đòi hỏi các nước phải tích cực phối hợp, hợp tác một cách hiệu
quả thiết thực, cả trong khuôn khổ song phương cũng như đa phương.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 hoành hành trên toàn cầu, Tổng
Thư ký Liên hợp quốc cũng như Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)
cùng nhiều chính khách và các nhà kinh tế đều cảnh báo rằng, ớ
116 Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), C ơ ĩ ấ ớ ờ ỳ ộ CNXH, Nxb. Sự thật, tr.7
ơ ọ Đại dịch COVID-19 trực tiếp kích hoạt
142
khủng hoảng, song nguồn cơn khủng hoảng liên quan tới một loạt nhân tố
khác, như tranh chấp thương mại và dầu mỏ cũng như về chính trị - chiến
lược giữa các nước lớn. Vì vậy, tính chất và chu kỳ khủng hoảng lần này rất
khác những quan niệm kinh điển về khủng hoảng kinh tế nói chung
b sự khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng của kinh tế thế giới.
Những thách thức, khó khăn về kinh tế thế giới và khu vực cũng đòi hỏi
chúng ta phải tính toán kỹ trong quá trình hoạch định và thực hiện các chính
sách lớn của mình. Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện
phát triển toàn cầu thay đổi với sự xuất hiện những liên kết mới. Vị thế của
châu Á trong nền kinh tế thế giới đang tăng lên. Sự phát triển mạnh mẽ của
một số nước khu vực trong điều kiện hội nhập và thực hiện các hiệp định tự
do ngày càng sâu rộng, mở ra thị trường rộng lớn nhưng cũng tạo ra sự cạnh
tranh quyết liệt. Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế và điều chỉnh các thể
chế tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước tiến mới về
khoa học, công nghệ và sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Đặc biệt,
trong hai năm gần đây 2020-2021, trong bối cảnh dịch Covid-19 đang hoành
hành khắp nơi trên thế giới, nền kinh tế thế giới và khu vực đang tiềm ẩn
những yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hoá kinh tế còn chứa đựng nhiều
yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là
các nước đang phát triển. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ: “Kinh tế
thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài
do tác động của đại dịch Covid-19. Các quốc gia, nhất là các nước lớn, điều
chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay
đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh
giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao,
117 Đảng Cộng sản Việt Nam, Vă Đạ ộ ạ b ể XIII Nxb. CTQG, Hà Nội 2021, T.1, tr.107
thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu”117.
143
Các nước phát triển, mặc dù đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công
nghệ, thị trường, song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, đặc
biệt là mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất
với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa các
nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển.
Nhận diện chính xác xu hướng và đặc điểm lớn của cục diện thế giới,
khu vực cũng như tình hình trong nước từ nay đến năm 2030 sẽ giúp Việt
Nam có cái nhìn toàn diện hơn về bối cảnh tác động đến đối ngoại nói chung
mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc nói riêng, trên cơ sở đó đề ra những giải
pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại trong tình hình
mới. Dựa theo kết quả của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước,
bên cạnh các nhân tố có khả năng tác động lớn đến quan hệ Việt - Trung như
ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, an ninh mạng, sự
điều chỉnh chiến lược và quan hệ giữa các nước lớn; có thể khái quát những
xu hướng và đặc điểm chính của tình hình thế giới, khu vực và trong nước sẽ
tác động trực tiếp đến những giải pháp vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh nhằm tăng cường mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
4.1.2. Về v trí của Trung Quốc trong quan hệ đối ngoại của Việt
Nam hiện nay
Trong suốt chiều dài lịch sử của Việt Nam luôn có dấu ấn của Trung
Quốc, quan hệ ngoại giao giữa hai bên trải qua nhiều thăng trầm, dẫu có nhiều
lần đổ vỡ, thậm chí xảy ra xung đột, chiến tranh, nhưng đều nhận ra được tầm
quan trọng của nhau, nên đã chủ động kết giao, làm hòa, hình thành nên mối
quan hệ truyền thống. Điều này cho thấy, quan hệ Việt – Trung là vô cùng đặc
biệt và khó có thể “xa rời”. Do vậy, hiện nay, trong chủ trương đường lối đối
ngoại của Đảng ta luôn đặt Trung Quốc ở mức ưu tiên cao nhất và hai nước
đã thiết lập “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” (2008) trước cả Nga (2012)
và Ấn Độ (2016). Lãnh đạo cao cấp đã đạt được sự thống nhất, đồng thuận
cao, nhất là cá nhân các đồng chí Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam
144
Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận
Bình; và như đã trình bày ở trên, một số lĩnh vực cũng đang phát huy khá tốt
như quan hệ về chính trị - đối ngoại tiếp tục được thúc đẩy bằng các chuyến
thăm, tiếp xúc cấp cao, hội thảo giữa hai Đảng, nhất là trong khi tình hình đại
dịch Covid diễn biến hết sức phức tạp, lãnh đạo cao cấp hai đảng, nhà nước
không thể gặp nhau trực tiếp, nhưng vẫn hội đàm qua hình thức trực tuyến, để
trao đổi những vấn đề song phương, chúc mừng nhau nhân các ngày lễ lớn
của dân tộc, của Đảng, như Ngày 24/09/2021 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
và Tổng Bí thư Tập Cận Bình đã có cuộc hội đàm trực tuyến…hoặc kênh
quan hệ quốc phòng vẫn duy trì khá tốt... Tuy nhiên, trên thực tế mối quan hệ
này chưa đặt đúng vị trí cần thiết trong những ưu tiên mà Đảng ta đã xác định,
nhất là ở cấp làm việc, khi nhiều bộ, ngành, địa phương có tư tưởng “dị ứng
với” trong hợp tác với Trung Quốc, thậm chí còn thể hiện mong muốn, hoặc
làm cho Trung Quốc hiểu rằng Việt Nam liên minh với nước ngoài để chống
Trung Quốc, điều này thể hiện rõ nhất khi Trung ương triển khai cho các bộ
ngành nghiên cứu, cho ý kiến về việc hợp tác Trung Quốc trong khuôn khổ
chiến lược “Vành đai và Con đường”, nhiều cơ quan đơn vị tỏ ra không mặn
mà, nghiên cứu một cách qua loa, đại khái rồi để đấy, không đưa ra ý kiến
tham mưu, hoặc đưa ra ý kiến phản đối một cách tiêu cực dẫn đến hiện tại
Việt Nam vẫn chưa chính thức tham gia chiến lược này của Trung Quốc mặc dù Trung Quốc triển khai chính thức từ 28/03/2015118, khi các nước trong khu
vực như Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào đã nhất trí tham gia…; một
biểu hiện khác là mặc dù ta luôn khẳng định không liên minh, liên kết với
nước ngoài để chống Trung Quốc, nhưng trên thực tế kể từ đầu năm 2021 đến
nay Việt Nam liên tiếp đón quan chức cấp cao của Mỹ và đồng minh đến 118 Tên đầy đủ của văn kiện là: Viễn cảnh và hành động về việc thúc đẩy cùng xây dựng Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa và con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI. Văn kiện này là phụ lục in kèm trong cuốn sách phát hành chính thức bằng nhiều thứ tiếng của Trung Quốc, trong đó có tiếng Việt do người Trung Quốc tự dịch, tự in tại Nxb Thế giới mới, tác giả Vương Nghĩa Nguy, năm 2017, tr.205-223, Tên sách đầy đủ là: Sáng kiến “Vành đai và Con đường” sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ mang đến cho thế giới điều gì. Sách do Cục Giáo dục cán bộ Ban Tổ chức Trung ương, Cục Lý luận Ban Tuyên truyền Trung ương giới thiệu.
145
thăm như Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin (28/07/2021), Phó Tổng
thống Mỹ Kamala Harris (24 – 26/08/2021), Bộ trưởng Quốc phòng Anh Ben
Wallace (21 – 23/07/2021), Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Kishi Nobuo (10
– 12/09/2021)… Ngoài ra, các cơ quan chức năng Việt Nam không kiểm soát
chặt chẽ báo chí, thiếu định hướng đối với dân chúng nên đang tồn tại tư tưởng
“bài Trung, thoát Hoa” mạnh mẽ, hiện tượng cứ cái gì của Trung Quốc đều xấu
đang ngày một lan rộng trong xã hội Việt Nam, điểm hình như việc dự án
đường sắt Nhổn - ga Hà Nội cũng chậm tiến độ, đội vốn ngang với dự án đường
sắt Cát Linh - Hà Đông, nhưng báo chí, dư luận ít đề cập đến. Trong khi đó, dự
án đường sắt Cát Linh - Hà Đông thường xuyên bị báo chí, dư luận lên án mỗi
khi có cơ hội… Những sự việc trên dẫn đến quan hệ Việt – Trung còn nhiều hạn
chế, tồn tại, mong manh dễ đổ vỡ, chưa tương xứng với khuôn khổ quan hệ
“Đối tác chiến lược toàn diện”, thậm chí có mặt còn kém so với quan hệ Việt –
Mỹ vốn chỉ ở tầm mức “đối tác toàn diện”. Do vậy, Việt Nam nên định vị rõ vị
trí của Trung Quốc trong tổng thể quan hệ đối ngoại của Việt Nam, từ đó có các
giải pháp đồng bộ để thúc đẩy quan hệ hai nước theo đúng tầm mức đã xác
định. Xét một cách tổng thể ta cần xác định, Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu và
là “trụ cột” trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam, nhưng cũng cần cảnh giác
với tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông. Việc xác định Trung Quốc là ưu
tiên hàng đầu và là “trụ cột” trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam xuất phát từ
một số lý do cơ bản sau:
Mộ Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng gần gũi, có mối quan hệ
“sông núi tương liền, văn hóa tương đồng, tư tưởng tương thông, vận mệnh
tương quan”, trong đó yếu tố láng giềng là điều không thể thay đổi trong quan
hệ hai nước, nếu như ở góc độ cá nhân, chúng ta có thể di chuyển chỗ ở, bản
chỗ này để mua chỗ khác, nhưng ở góc độ quốc gia chúng ta không thể di rời
đất nước chúng ta đi chỗ khác được, nên dù thế nào đi nữa chúng ta cũng phải
chấp nhận sự thật bất biến này. Cũng xuất phát từ yếu tố láng giềng và mối quan
hệ truyền thống lâu đời giữa Việt Nam và Trung Quốc, nên hai nước có nền văn
146
hóa rất tương đồng, trong đó những biểu hiện rõ nét nhất cho việc này là hầu hết
các ngày lễ dân gian hầu hết là giống nhau như là Tết Nguyên đán, Tết Trung
thu…, sử dụng lịch mặt trăng… Bên cạnh đó, chế độ Nhà nước đều do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, mục tiêu hướng đến là xây dựng chủ nghĩa cộng sản, do đó
tư tưởng lãnh đạo, phương hướng, con đường dẫn dắt cách mạng của hai nước
khá giống nhau, chỉ khác nhau về biện pháp thực hiện, sách lược tiến hành…
Từ những yếu tố trên chi phối đến vận mệnh của hai nước gắn liền với nhau,
nếu như Đảng Cộng sản của một trong hai nước mất quyền kiểm soát, lãnh đạo
đất nước thì Đảng Cộng sản của nước còn lại cũng bị lung lay, nhiều khả năng
cũng sẽ rơi vào hoàn cảnh tương tự, hoặc nếu một nước bất ổn, bị xâm lược thì
nước còn lại cũng không thể ổn định để phát triển đất nước.
Hai là, trong suốt tiến trình lịch sử phát triển của Việt Nam đã chứng
minh, chỉ khi nào ta hòa hiếu với Trung Quốc thì đất nước mới yên ổn, phát
triển và ngược lại, khi nào Việt Nam căng thẳng, không hòa hảo với Trung
Quốc thì đất nước bất ổn, rơi vào trạng thái khó khăn trăm bề.
Ba là, sự phát triển tốt đẹp của quan hệ hai nước là nền tảng để Việt Nam
duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ Xã hội chủ nghĩa, cũng như trong
phát triển kinh tế - xã hội, bởi suy cho cùng thì sự tồn tại của Đảng, chế độ ở
Việt Nam và Trung Quốc luôn gắn liền với nhau, hiện tại chỉ có Trung Quốc
mới có đủ sức hỗ trợ Việt Nam trong trường hợp xảy ra “cách mạng mầu”. Từ lí
luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn tiến trình lịch sử nhân loại cho
thấy, mục tiêu của Đảng Cộng sản là xây dựng Xã hội Chủ nghĩa và cuối cùng
là hướng tới xây dựng thành công Xã hội Cộng sản. Do vậy, Việt Nam và
Trung Quốc đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bên cạnh đó hệ thống xã hội chủ
nghĩa hiện nay khá mỏng manh, Liên Xô – một thành trì của hệ thống Xã hội
chủ nghĩa không còn nữa, hiện tại chỉ còn Trung Quốc là nước gần gũi, sát Việt
Nam, có đủ tiềm lực, khả năng giữ vững con đường xây dựng Chủ nghĩa Xã
hội, nên Đảng Cộng sản và chế độ của hai nước luôn gắn liền với nhau. Hiện
tại, Mỹ và phương tây không ngừng tiến hành các biện pháp lật đổ sự lãnh đạo
147
của Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, hoặc những nước
không tuân theo sự lãnh đạo của Mỹ, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc,
dựng lên một chính quyền thân Mỹ ở các nước này. Các biện pháp lật đổ bằng
quân sự không hiệu quả, do vậy chúng đẩy mạnh thực hiện “cuộc cách mạng
mầu” và khá thành công như các nước Trung Đông, Bắc Phi thời gian qua. Với
tiềm lực kinh tế, sức mạnh quân sự, vai trò, vị thế và kinh nghiệm như hiện nay,
chỉ có Trung Quốc mới có thể đủ khả năng chống lại “cuộc cách mạng mầu” do
Mỹ và phương Tây tiến hành, điều này cũng đồng nghĩa với việc chỉ có Trung
Quốc mới có thể giúp Việt Nam ngăn chặn thành công âm mưu, thủ đoạn của
Mỹ và phương Tây.
B Trung Quốc là nước lớn, hội tụ đủ các ưu tiên trong quan hệ đối
ngoại của Việt Nam. Bởi Trung Quốc là nước láng giếng, là nước lớn và nước
xã hội chủ nghĩa.
Nă Trung Quốc có tiềm năng trở thành siêu cường trong những thập
kỷ tới, có vai trò quan trọng, quyết định trên trường quốc tế, nhất là trong khu
vực. Sau hơn 30 năm cải cách, mở của Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn
thứ 2 thế giới, có tiềm lực quân sự mạnh, trình độ khoa học kỹ thuật phát triển
mạnh, có những lĩnh vực vượt Mỹ (tốc độ đóng tàu chiến, vượt Mỹ về số lượng
tàu chiến – Trung Quốc có trên 300 tàu chiến, trong khi Mỹ chỉ có gần 300 tàu,
công nghệ trí tuệ nhân tạo, robot…) và theo dự báo của các chuyên gia, Trung
Quốc có thể vượt ngang bằng hoặc vượt Mỹ vào giữa thế kỷ 21, trở thành siêu
cường thế giới. Hiện nay, Trung Quốc đang tham gia tích cực, có trách nhiệm
vào giải quyết các vấn đề lớn của thế giới và khu vực, như giải quyết vấn đề
khủng hoảng ở Afghanistan, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp
quốc, tham gia tích cực vào việc giải quyết chống biến đổi khí hậu, gần đây nhất
là thể hiện vai trò nước lớn có trách nhiệm trong việc phòng chống Covid-19,
cam kết viện trợ, cung cấp cho các nước 2 tỷ liều vaccine phòng Covid-19…
điều này cho thấy, vị trí, vai trò của Trung Quốc trên trường quốc tế ngày càng
được nâng lên và nhiều lĩnh vực giữ vai trò quyết định.
148
Sáu là, thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy, khi ở cạnh một nước lớn, các
nước nhỏ chỉ có một con đường là quan hệ tốt đẹp với nước láng giềng lớn lớn
thì mới duy trì được sự ổn định và phát triển (như Canada ở gần Mỹ, có quan hệ
tương đối tốt với Mỹ, nên giữ được sự ổn định phát triển đất nước), ngược lại sẽ
gặp nhiều tổn thất (như Ucraina không giữ được quan hệ tốt đẹp với Nga nên chịu
mất một phần lãnh thổ, không giữ được ổn định đất nước để phát triển kinh tế)…
B giải quyết tốt mối quan hệ với Trung Quốc có thể giúp ta xử lí ổn
thỏa mối quan hệ với Lào, Campuchia và trong quan hệ với các nước lớn khác,
nhất là Mỹ.
Tám là, Trung Quốc có tham vọng “độc quyền kiểm soát Biển Đông”,
cũng là mối đe dọa đến chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích của Việt Nam,
nên cũng cần phải cảnh giác. Tuy nhiên, nếu quan hệ hai bên tốt đẹp thì việc
giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp ở Biển Đông cũng sẽ thuận lợi hơn.
Dựa vào những vấn đề được phân tích trên, việc xác định Trung Quốc là
“Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn
toàn đúng đắn, cần được nghiêm túc triển khai, thúc đẩy quan hệ đi vào thực
chất, có chiều sâu, tương xứng với tiềm năng của cả hai bên trong thời gian tới.
4.2. Giải pháp vận dụng tƣ tƣởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong việc
tăng cƣờng quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc
4.2.1. Kiên trì mục tiêu đối ngoại độc lập, tự chủ, giữ gìn hòa ình để
phát triển kinh tế
Có thể nói, gìn giữ độc lập, bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ và tự chủ trên
mọi lĩnh vực là mục tiêu đối ngoại của mọi quốc gia trên thế giới. Đây cũng
được coi là mục tiêu lâu dài, xuyên suốt hành trình dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là trong thời đại Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,
trước những tác động to lớn của tình hình thế giới, xu hướng toàn cầu hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế, vấn đề gìn giữ nền độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị,
văn hóa, quân sự, đối ngoại… hơn lúc nào hết lại trở nên vô cùng mạnh mẽ và
119 Đảng Cộng sản Việt Nam, Vă Đạ ộ ạ b ể XIII Nxb. CTQG, Hà Nội 2021, T.1, tr.117
cấp bách. Đại hội XIII khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”119.
149
Trong quan hệ đối ngoại với Trung Quốc hiện nay, chúng ta cần giữ
vững nguyên tắc chiến lược, giữ vững độc lập, tự chủ, không lệ thuộc vào
nước ngoài, không để họ can thiệp, chi phối trên các phương diện, đặc biệt về
chính trị. Với kinh nghiệm thực tiễn phong phú, chúng ta thấu hiểu tầm quan
trọng và giá trị không gì có thể so sánh được của độc lập dân tộc. Có độc lập,
tự do, sẽ có tất cả. Vì vậy, giữ vững độc lập, tự chủ là mục tiêu, nguyên tắc và
là phương châm chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ hoạt động đối ngoại của Đảng.
Việc xác định lợi ích quốc gia dân tộc phải dựa trên cơ sở thực tiễn đất nước
và quốc tế và nền tảng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. Nói cách khác, “tư
tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh” đã trở thành chủ lưu trong hệ thống quan điểm
và giá trị về đối ngoại của Đảng trong thời kỳ hiện nay. Quan niệm cơ bản của
Hồ Chí Minh về lợi ích quốc gia dân tộc đó là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Phục vụ các quyền cơ bản của dân tộc đi đôi với đoàn kết
quốc tế là trọng tâm trong tư duy đối ngoại của Hồ Chí Minh. Trên cơ sở nhận
định, đánh giá toàn diện tình hình thế giới, khu vực và trong nước, Đại hội
XIII khẳng định: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”120. Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Đại hội XIII
cũng đặt nhiệm vụ đối ngoại trong quan hệ với các nước láng giềng, trong đó
có Trung Quốc là “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện,
sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”121.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, Đảng
ta xác định tăng cường mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới nói chung
và Trung Quốc nói riêng; việc xác định đường lối đối ngoại phải “vì lợi ích
120 Đảng Cộng sản Việt Nam, Vă Đạ ộ ạ b ể XIII Nxb. CTQG, Hà Nội 2021, T.2, tr.324. 121 Đảng Cộng sản Việt Nam, Vă Đạ ộ ạ b ể XIII Nxb. CTQG, Hà Nội 2021, T.2, tr.331-332.
quốc gia, dân tộc”, Đảng ta nhận định: “Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp
150
tục tiến triển nhưng gặp nhiều trở ngại, thách thức; chủ nghĩa dân túy, bảo hộ
có xu hướng tăng lên; sự điều chỉnh chính sách, quan hệ đối ngoại của các
nước lớn trong khu vực và trên thế giới diễn biến khó lường. Tăng trưởng
kinh tế thế giới và thương mại, đầu tư quốc tế có xu hướng giảm; nợ công
toàn cầu tăng, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Đặc
biệt, đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây ra suy thoái
trầm trọng và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, có khả năng kéo dài sang đầu
thập niên 20; làm thay đổi sâu sắc thật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản
trị toàn cầu, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của thế giới”122.
Những biến đổi khó lường của tình hình thế giới, buộc Đảng Cộng sản
Việt Nam phải có những nhiệm vụ mới trong việc nghiên cứu, thực hiện mục
tiêu “Bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc”, nhất là trong công tác đối ngoại.
Trong quan hệ với các nước nói chung và với Trung Quốc nói riêng, lợi ích
cao nhất của dân tộc ngoài việc bảo vệ lợi ích cao nhất của giai cấp công nhân
là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa; ra sức phát triển kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh,
giữ vững độc lập và thống nhất. Công tác đối ngoại phải phục vụ lợi ích chân
chính đó của dân tộc và cũng là để thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Vì vậy, việc
xác định lợi ích quốc gia dân tộc trong công tác đối ngoại là một nhiệm vụ
chính trị thường xuyên và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Do đó, việc tiếp tục vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong
thời gian tới nhằm tăng cường mối quan hệ Việt – Trung cần quan tâm đến
một số vấn đề sau:
ấ phải có sự thống nhất trong nội bộ về chủ trương thúc đẩy
quan hệ với Trung Quốc. Đây được coi là ưu tiên hàng đầu và là vấn đề “trụ
122 Đảng Cộng sản Việt Nam, Vă Đạ ộ ạ b ể XIII Nxb. CTQG, Hà Nội 2021, T.1, tr.207.
cột” trong hoạt động đối ngoại (cần được triển khai khéo léo, không công khai
151
ra bên ngoài, tránh ảnh hưởng đến quan hệ với các đối tác khác). Việc xác
định Trung Quốc là đối tác ưu tiên hàng đầu và là “trụ cột” trong nội bộ Lãnh
đạo cấp cao (Bộ Chính trị, Ban Bí thư...), lấy đó làm cơ sở thống nhất để chỉ
đạo hoạt động đối ngoại đối với các cơ quan chuyên môn (bộ, ngành, địa
phương...)
Trong chỉ đạo hoạt động đối ngoại cần phải rành mạch, thống nhất.
Đồng thời, phải có sự thống nhất cao về nhận thức chiến lược, bước đi, bảo
đảm sự thông suốt, tránh nghi kỵ, bất đồng vì mục tiêu riêng. Huy động được
sức mạnh tổng hợp, cao nhất từ Trung ương, đến địa phương, của cả hệ thống
chính trị và nhân dân cả nước. Việc tổ chức các hoạt động đối ngoại cần tiếp
tục được đổi mới theo hướng bài bản, căn cơ hơn; có chiến lược, chương
trình, kế hoạch chặt chẽ, rõ ràng hơn; cụ thể, thiết thực và hiệu quả cao hơn.
kế thừa, phát huy truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc, đặc
biệt là kinh nghiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan hệ với Trung Quốc.
Cần có những nghiên cứu nghiêm túc, khoa học và có hệ thống về tư tưởng
đối ngoại của Hồ Chí Minh. Từ đó, triển khai sâu, rộng đối với các cá nhân
cán bộ, tổ chức, cơ quan hoạt động đối ngoại với Trung Quốc. Khẳng định
việc coi trọng tình hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng có chung biên
giới như Trung Quốc. Mở rộng bang giao với các nước trong khu vực và trên
thế giới nhằm xử lý tốt quan hệ với Trung Quốc phục vụ lợi ích dân tộc. Coi
trọng mục tiêu phồn vinh cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân, bên cạnh
các mục tiêu truyền thống là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Việc mở rộng quan hệ toàn diện với Trung Quốc gắn liền với việc đặt
lợi ích quốc gia dân tộc là mục tiêu hàng đầu. Lợi ích quốc gia, dân tộc có sự
thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp. Khẳng định lợi ích quốc
gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là Đảng ta đặt lợi ích quốc
gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Nói cách
khác, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động
đối ngoại, từ ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng đến ngoại giao nhân dân,
152
đều phải tuân thủ. Đặc biệt, trong quan hệ đối ngoại với Trung Quốc phải luôn
quán triệt quan điểm, tư tưởng, đối ngoại Hồ Chí Minh: Vận dụng nhuần nhuyễn
“năm cái biết” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến), khả
năng tạo dựng thời cơ và chớp thời cơ, ngoại giao tâm công giúp thu phục lòng
người bằng chính nghĩa, tình người, lẽ phải và đạo lý. Những thành tựu của đối
ngoại Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bảo
vệ Tổ quốc ta đã thể hiện rõ nét sự tài tình của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng
các phương pháp đối ngoại để đưa cách mạng đến thành công.
b công tác tuyên truyền và quản lý hoạt động tuyên truyền về
mục tiêu đối ngoại “độc lập, tự chủ, gìn giữ hòa bình để phát triển kinh tế”
của Đảng Cộng sản Việt Nam cần được thực hiện bài bản, nghiêm túc, phù
hợp với thời đại công nghệ 4.0. Đặc biệt, tận dụng các nền tảng xã hội, mạng
internet để nhân dân dễ tiếp cận, tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Hiện nay,
hoạt động chống phá, gây chia rẽ, mất đoàn kết đối với quan hệ Việt – Trung
của các thế lực thù địch diễn ra phổ biến, nhiều thủ đoạn tinh vi. Những thủ
đoạn gây chia rẽ này đã có tác động đến một bộ phận nhân dân trong xã hội,
dẫn đến những nhận thức sai lệch về mục tiêu đối ngoại của Đảng, hoài nghi
về đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thậm chí, gây thù hận
đối với Đảng và nhân dân Trung Quốc, điều này tác động tiêu cực đến những
nỗ lực xây dựng quan hệ giữa hai quốc gia.
Cần có một đội ngũ các cán bộ làm công tác tuyên truyền và quản lý hoạt
động tuyên truyền vững vàng về tư tưởng đối ngoại, có trình độ chuyên môn tốt
để đảm bảo tính hiệu quả trong công tác tuyên truyền chủ trương đường lối của
Đảng nói chung, và đường lối đối ngoại nói riêng trong thời gian tới.
4.2.1. Tiếp tục nguyên tắc kiên đ nh về chiến lược, mềm dẻo về sách
lược, linh hoạt, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau
Kiên định mục tiêu độc lập, tự chủ đi đôi với linh hoạt, mềm dẻo về
sách lược trong hoạt động đối ngoại là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của
153
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời, cũng là bài học đối ngoại quý báu
của dân tộc Việt Nam được đúc kết từ thực tiễn lịch sử.
Sự vận động của quan hệ quốc tế trong quá trình tác động của toàn cầu
hóa đã làm thay đổi tương quan lực lượng trong quan hệ quốc tế, dẫn đến
những đổi thay về địa chính trị trên thế giới. Lôi cuốn vào sự thay đổi có tính
toàn cầu đó với sự tranh đấu giữa Mỹ và Trung Quốc là sự tập hợp của hai
liên minh lợi ích đã buộc tất cả các nước phải lựa chọn chiến lược cho phù
hợp với những biến đổi mà xu hướng chung là thế giới sẽ bước vào một cuộc
Chiến tranh Lạnh mới trong tương lai mà thời gian phụ thuộc vào thực lực
của cuộc đấu không cân sức trên thế giới giữa Mỹ và Trung Quốc.
Thực tế hiện nay, cục diện địa chính trị khu vực đang dần đi theo hướng
“chuyển giao quyền lực” khi Trung Quốc đang tìm mọi cách mở rộng ảnh
hưởng, thách thức quyền lực đang có của Mỹ. Sự xoay trục sang Châu Á là
một trong những cố gắng của Mỹ để tìm cách kiềm chế Trung Quốc, thông
qua các chiến lược tiêu biểu như “tái cân bằng” quân sự sang Tây Thái Bình
Dương,... Mỹ đang cải thiện và thắt chặt quan hệ với các nước đồng minh và
đối tác, nhất là các nước láng giềng Trung Quốc; sử dụng các công cụ như
luật pháp quốc tế và các thể chế quốc tế để kiềm chế và điều chỉnh hành vi
của Trung Quốc,… Vì vậy, Việt Nam phải có sự lựa chọn và xây dựng đường
lối đối ngoại phù hợp, mang lại lợi ích quốc gia cao nhất trong sự vận động quốc
tế đó. Hoạch định đường lối đối ngoại, Đảng Cộng sản Việt Nam cần đảm bảo
nguyên tắc đối ngoại kiên định về chiến lược, mềm dẻo về sách lược, linh hoạt
và trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Để đảm bảo những nguyên tắc này cần:
ấ Việt Nam cần xem xét, thúc đẩy việc ký “Hiệp ước Láng
giềng Hữu nghị” với Trung Quốc (giống như Trung Quốc đã ký với 8 nước
láng giềng) nhằm thể chế hóa, pháp chế hóa những chủ trương lớn trong quan
hệ hai nước. Xây dựng lòng tin chiến lược, giảm bớt sự lo ngại, nghi kỵ lẫn
nhau, hai nước yên tâm thúc đẩy các nội dung hợp tác trước đó. Việc xây
dựng “lòng tin chiến lược” đối với Trung Quốc là một nguyên tắc nhằm thúc
154
đẩy quan hệ lên một tầm cao mới. Nhiều hoạt động đối ngoại chưa đi vào
thực chất, chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên do thiếu niềm tin, còn
hoài nghi lẫn nhau. Do đó, trong thời gian tới, cần cụ thể hóa “niềm tin chiến
lược” bằng những cam kết cụ thể, sâu sắc giữa hai bên. Việt Nam kiên trì thực
hiện “4 không” trong quan hệ Quốc phòng (không tham gia liên minh quân sự;
không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn
cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Duy trì tốt mối
quan hệ cá nhân giữa các cán bộ cấp cao của hai Đảng, hai Nhà nước, tạo điều
kiện thuận lợi trong việc thấu hiểu, chân thành trao đổi ý kiến, giải quyết bất
đồng trên cơ sở tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau.
gia tăng các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ, đàm phán của cán bộ cấp
cao giữa hai bên, đi vào thực chất và sớm có bước chuyển biến đột phá trong
giải quyết vấn đề tranh chấp trên Biển Đông. Trong thực tế, vấn đề tranh chấp
trên Biển Đông là tồn tại lớn nhất cản trở quan hệ hợp tác giữa hai bên. Cho
nên, việc nhanh chóng đưa ra những kết luận chung trên cơ sở bình đẳng và
tôn trọng lẫn nhau sẽ là bước đột phá trong việc thúc đẩy quan hệ hai nước.
Để giải quyết vấn đề này, hai bên cần có những cuộc gặp gỡ trực tiếp, trao đổi
thẳng thắn trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và Luật pháp quốc tế. Việc
vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên Biển Đông với Trung Quốc cần ưu tiên việc
giữ nguyên thực trạng như hiện nay, trao đổi thẳng thắn, trực tiếp quan điểm
của Việt Nam về các khu vực trên Biển Đông. Quá trình đấu tranh cần chân
thành, mềm dẻo trong cách tiếp cận, trao đổi nhằm bảo đảm lợi ích tối đa cho
dân tộc.
b trong hợp tác, đàm phán với Trung Quốc cần thực hiện “3 tôn
trọng”, đó là tôn trọng vị thế, vai trò và lợi ích nước lớn của Trung Quốc.
Theo kinh nghiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với vị thế của Việt Nam, Hồ
Chí Minh luôn nhận thức rõ vai trò “làm em” đối với Trung Quốc. Xét trên
nhiều phương diện, Trung Quốc có tầm ảnh hưởng lớn đối với thế giới, nên
155
quan điểm “nước lớn” luôn chi phối hoạt động đối ngoại của Trung Quốc với
Việt Nam. Trong thời gian tới, Việt Nam cần nghiên cứu cẩn trọng, nhưng
tích cực xem xét ủng hộ, tham gia một số sáng kiến, chiến lược do Trung
Quốc đề xuất nhưng phù hợp với lợi ích chiến lược của Việt Nam. Đặc biệt là
chiến lược đã có nhiều nước trên thế giới ủng hộ và tham gia như “Vành đai
và Con đường”, sáng kiến “Cộng đồng chung vận mệnh”…
Như vậy, trong thời gian vừa qua, Đảng Cộng sản Việt Nam lĩnh hội và
vận dụng các nguyên tắc đối ngoại trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,
để tăng cường hơn nữa mối quan hệ Việt – Trung trong thời gian tới, chúng ta
cần tiếp tục nghiên cứu, nâng tầm tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh lên một
tầm cao mới phù hợp với thời đại. Kiên định nguyên tắc chiến lược song linh
hoạt, mềm dẻo trong sách lược để đảm thực hiện mục tiêu độc lập tự chủ, hòa
bình để phát triển kinh tế theo lời dạy về nguyên tắc đối ngoại của Chủ tịch
Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vận biến”.
4.2.3. Làm tốt hơn nữa các phương pháp dự áo tình hình, đa dạng
hóa hoạt động, lĩnh vực đối ngoại và dành thắng lợi t ng ước
Trong cuộc đời hoạt động, lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đặc biệt trên lĩnh vực đối ngoại, Người được coi là bậc thầy về đối
ngoại, nhà nghệ thuật về ngoại giao của Việt Nam. Mặc dù, tình hình thế giới
có nhiều thay đổi, song nhiều phương pháp đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn được Đảng và Nhà nước ta vận dụng trong chỉ đạo hoạt động đối
ngoại. Nhiều phương pháp cần được vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp
hơn với thực tiễn của tình hình thế giới. Các cán bộ chuyên trách về đối ngoại
cần nắm vững nền tảng tinh thần trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, đặc
biệt là những kinh nghiệm đối ngoại của Người với Trung Quốc để củng cố,
tăng cường mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước
trong thời gian tới.
ấ tăng cường phối hợp trong công tác nghiên cứu, dự báo, nhất
là nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu, đề xuất, thẩm định, tạo sự thống
156
nhất cao về quan điểm và cách xử lý, tạo cơ sở vững chắc để lãnh đạo cấp cao
hai nước thông qua các chủ trương, đề án, giải pháp, chính sách đối ngoại.
Công tác dự báo phải đi trước một bước, đề án triển khai phải xử lý nhanh,
cần tăng thêm các sáng kiến mới tại các diễn đàn quốc tế, chủ động đóng góp
xây dựng, định hình luật chơi chung, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế. Tăng cường phối hợp trong tổ chức và triển khai các hoạt
động đối ngoại quan trọng, nhất là các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo cấp
cao Đảng và Nhà nước, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả phục vụ cho lợi ích
quốc gia - dân tộc; tiếp tục phối hợp trong xây dựng lực lượng cán bộ đối
ngoại, đẩy mạnh trong quản lý các hoạt động đối ngoại, nhất là đội ngũ cán bộ
đối ngoại nhân dân, cán bộ đối ngoại của các ngành, các địa phương đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ hội nhập quốc tế.
đa dạng hóa các kênh đối ngoại. Tổ chức tốt các chuyến thăm
của Đảng, nhất là các chuyến thăm cấp cao giữa Việt Nam và Trung Quốc;
phát huy mạnh mẽ và hiệu quả các cơ chế, các chương trình hợp tác kênh
đảng, như hội thảo lý luận, đối thoại chính sách, đào tạo cán bộ, v.v.. củng cố
sự tin cậy chính trị, tạo nền tảng chính trị vững chắc, giữ vai trò định hướng
chiến lược cho quan hệ song phương; phát huy lợi thế kênh quan hệ đối ngoại
Đảng để tham gia giải quyết những vấn đề lớn trong quan hệ song phương.
Mặt khác, chủ động và tích cực thúc đẩy hiệu quả quan hệ với các đảng cầm
quyền, các đảng tham chính, đảng có vai trò quan trọng tại các đối tác quan
trọng của ta, nhất là các nước đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của Việt
Nam, củng cố lòng tin, tạo nền tảng chính trị cho quan hệ song phương của ta.
Bên cạnh đó, tăng cường quan hệ một cách thực chất, có chiều sâu giữa
hai Đảng; chủ động và tích cực phát huy vai trò tại các diễn đàn đa phương
chính đảng; đề xuất và thúc đẩy các sáng kiến phù hợp với lợi ích Việt Nam
và Trung Quốc; vận động, tạo lập sự ủng hộ đối với lập trường của ta trên các
vấn đề quan trọng, tạo hậu thuẫn quốc tế lâu dài, hiệu quả cho Đảng và Nhà
nước ta, cho đất nước ta. Đẩy mạnh tăng cường phối hợp chặt chẽ, nhịp
157
nhàng, thông suốt giữa các hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước
và đối ngoại nhân dân; tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại
của các ban của Đảng, của các tỉnh, thành ủy.
b đang dạng hóa các lĩnh vực đối ngoại, xây dựng “thực lực”. Có
quyết tâm cao và các giải pháp đồng bộ thúc đẩy quan hệ hai nước trên tất cả
các mặt với phương châm: quan hệ chính trị làm “trọng tâm”, quan hệ kinh tế
làm “trụ cột”, quan hệ quốc phòng – an ninh làm “chỗ dựa”, quan hệ văn hóa
– xã hội làm “nền tảng”. Đối ngoại phải có thực lực, sự lựa chọn chiến lược
hàng đầu của Việt Nam là phải tăng cường nội lực, về kinh tế, quốc phòng,
xây dựng sự đoàn kết và đồng thuận trong cũng như ngoài nước. ớ ,
tiềm lực kinh tế là “khả năng” về kinh tế có thể huy động để phục vụ cho
nhiệm vụ xây dựng, phát triển của đất nước, bảo đảm an sinh xã hội, mà còn
phải tính đến khả năng có thể huy động nhằm phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, trong đó có yêu cầu phát triển nền quốc phòng, an ninh vững mạnh.
Tiềm lực kinh tế được biểu hiện ở trình độ phát triển sản xuất và khối lượng
sản phẩm xã hội, ở nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế, ở sức sống của nền
kinh tế có thể đứng vững và nhanh chóng phục hồi khi bị địch họa, thiên tai
tàn phá,... Do vậy, tiềm lực kinh tế là nền tảng vật chất của các loại tiềm lực
khác trên từng mặt. Hai là, tiềm lực chính trị là khả năng về chính trị của toàn
dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Tiềm lực chính trị giữ vị trí động lực
để biến mọi tiềm lực khác thành sức mạnh, vì bất cứ lợi khí vật chất tinh thần
nào của đất nước cũng nhất thiết phải nằm trong tay con người mới phát huy
được tác dụng. Ba là, tiềm lực quân sự, an ninh là toàn bộ khả năng về vật
chất, tinh thần có thể huy động để tạo thành sức mạnh phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. B tiềm lực khoa học và công nghệ là khả
năng của mọi ngành khoa học từ công nghệ kỹ thuật, khoa học tự nhiên đến
khoa học xã hội - nhân văn có thể huy động vào nhiệm vụ xây dựng và phát
triển đất nước,... Các tiềm lực trên, trước hết, phải được xây dựng thành tiềm
lực quốc gia, có thể huy động nhằm phục vụ cho xây dựng kinh tế, phát triển
158
sản xuất, cho sự tiến bộ xã hội; nhưng xây dựng không thể sao lãng yêu cầu
bảo vệ. Tiềm lực quốc gia mạnh, là cơ sở để chúng ta tiến hành hoạt động đối
ngoại nói chung và quan hệ đối ngoại với Trung Quốc nói riêng ngày càng có
hiệu quả.
Theo Hồ Chí Minh: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao
sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”123. Đây là quan điểm thể hiện tính sáng tạo, tầm nhìn chiến
lược trong việc vận dụng thế giới quan, phương pháp luận cách mạng, khoa
học vào nhận thức và giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa ngoại giao với
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh vào điều kiện cụ thể
của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc của Nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đối ngoại phải chuyển hóa sức mạnh thực lực thành nội lực của mình
mới hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, nhân dân và lịch sử
giao phó. Đối ngoại không thể giành thắng lợi nếu chỉ trông chờ một cách thụ
động vào kết quả hoạt động của các mặt trận khác, mà nó phải tích cực, chủ
động, không ngừng tự phát triển, vươn lên tự tạo dựng sức mạnh cho mình.
Để tạo nên sức mạnh chiến thắng kẻ thù, mặt trận ngoại giao phải thực hiện
thành công sự chuyển hóa những kết quả mà thực lực mang tới thành nội lực
to lớn của mình thì mới giành được thắng lợi, mới thúc đẩy các mặt trận khác
tiếp tục phát triển để tạo nên những thắng lợi lớn hơn trên con đường đi tới
mục tiêu của cách mạng. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tranh thủ tận dụng các
diễn biến địa chính trị khu vực để nâng cao vị thế chiến lược của mình, góp
phần kiềm chế tham vọng của một số nước lớn. Đặc biệt, cần tận dụng mâu
thuẫn giữa các nước lớn đang dần gia tăng để Việt Nam tăng cường quan hệ
những nước có chung nhận thức về mối đe dọa và lợi ích trên Biển Đông.
triệt để thực hiện nghệ thuật “thắng từng bước”. Hiện nay, quan
123 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.147.
hệ Việt – Trung được hai bên thống nhất xác định là “đối tác hợp tác chiến
159
lược toàn diện”. Do đó, các lĩnh vực đối ngoại diễn ra đa dạng, đan xen giữa
hợp tác và đấu tranh, giữa lợi ích và vi phạm lợi ích. Cho nên, cần thống nhất
trong chỉ đạo và hoạt động thực tiễn theo phương pháp “dễ làm trước, khó
làm sau”, cố gắng tách biệt các vấn đề kinh tế ra khỏi các vấn đề chính trị, đặc
biệt là những bất đồng trong nhận thức giữa hai bên, tranh thủ từng phần từ
những lợi ích nhỏ đến những lợi ích lớn hơn.
ă tham gia tích cực và phát huy vai trò của các tổ chức, cơ chế
ở khu vực và quốc tế trong việc bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông. Thực hiện
các giải pháp cân bằng trong quan hệ quốc tế, nhất là đối với các nước lớn,
tránh rơi vào tình thế phải chọn bên. Tiếp tục đẩy mạnh quan hệ đối ngoại
song phương, và đa phương giữa nước ta với các nước trên thế giới trên quan
điểm của Đảng về đối tác, đối tượng: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền,
thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với
Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ đối tượng nào có âm mưu và hành động
chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
đều là đối tượng của chúng ta”. Theo đó, trong mỗi đối tượng vẫn có thể có
những mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn
với lợi ích của ta cần phải đấu tranh. Trên cơ sở phân biệt đúng đối tác, đối
tượng, cần có cách ứng xử và đối sách phù hợp nhằm “thêm bạn, bớt thù”,
tránh được xung đột, đối đầu, cô lập, phụ thuộc.
làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của nhân
dân, tăng cường hiệu quả của đối ngoại nhân dân. Trong thời gian tới, đối
ngoại nhân dân tiếp tục phát huy thế mạnh của mình vì sự nghiệp hòa bình,
đoàn kết, hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân hai nước, vận động sự hỗ trợ
nhiều mặt của nhân dân nước bạn cho công cuộc đổi mới và phát triển đất
nước. Tiếp tục tinh thần coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại
giao nhân dân, phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao
Nhà nước và ngoại giao nhân dân. Tăng cường cơ chế phối hợp linh hoạt,
hiệu quả giữa các cơ quan, ban ngành với lực lượng đối ngoại nhân dân, giữa
160
trung ương với địa phương, giữa các đoàn thể và các tổ chức nhân dân hai
nước với nhau trong việc triển khai các hoạt động đối ngoại nhân dân có tính
đặc thù, các diễn đàn, cơ chế đa phương mang tính chính trị đối ngoại cao.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, phải đảm bảo để mọi người dân hiểu
biết đầy đủ về chủ quyền lãnh thổ trên biển để nâng cao ý thức trách nhiệm
của mỗi người dân trong việc bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc; Tạo dựng dư luận
rộng rãi, mạnh mẽ đối với các hành vi xâm chiếm biển, đảo của Việt Nam từ nhân
dân trong nước và người Việt ở nước ngoài. Chống phản động cần được tiến
hành tích cực hơn nữa trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là việc lợi dụng không
gian mạng, các nền tảng xã hội, công kích nền tảng lý luận Chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đẩy nóng các vấn đề Biển Đông, xuyên tạc
lịch sử, kích động, gây chia rẽ quan hệ Việt – Trung.
161
Tiểu kết chƣơng 4
Quan hệ Việt Nam, Trung Quốc trong thời kỳ đổi mới có những bước phát
triển mới tích cực, ngày càng toàn diện và hiệu quả hơn, góp phần quan trọng
vào việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định thuận lợi cho công cuộc phát triển
và bảo vệ Tổ quốc, kiên quyết và kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và đảm bảo
các lợi ích chiến lược của đất nước. Tuy nhiên, cùng với những kết quả đã đạt
được, quan hệ giữa hai nước cũng tồn tại và đối mặt với những khó khăn thách
thức mới, trong đó đáng chú ý có việc kiểm soát những bất đồng, nhất là bất
đồng trên Biển Đông cần được giải quyết một cách thấu đáo.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn tư tưởng
đối ngoại Hồ Chí Minh, khai thác và vận dụng sáng tạo quan điểm đó của
Người để đề ra quan điểm và giải pháp trong quan hệ đối ngoại với Trung
Quốc nhằm đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, hướng tới xây dựng xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh, không ngừng khẳng định vị thế Việt Nam trên
trường quốc tế.
Để tăng cường quan hệ đối ngoại với Trung Quốc theo tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh, trong thời gian tới, công tác đối ngoại cần nắm vững 3
quan điểm và 4 giải pháp để cùng tồn tại hòa bình, thúc đẩy hợp tác bình đẳng
cùng có lợi; giải quyết những vấn đề tranh chấp thông qua thương lượng hòa
bình. Những nút thắt trong quan hệ hai nước khi dần dần được tháo gỡ, được
giải quyết phù hợp với thực tiễn, với luật pháp và thông lệ quốc tế, sẽ tiếp tục
tạo đà cho quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phát triển, đáp ứng yêu cầu và lợi
ích của mỗi nước. Lịch sử cho thấy, nếu giải quyết đúng hướng, đúng cách
những nút thắt đó sẽ mang lại cho hai nước, hai dân tộc nhiều cơ hội mới để
cùng phát triển trong hữu nghị, hòa bình và thịnh vượng.
162
KẾT LUẬN
Những chuyển biến sâu sắc của tình hình thế giới và sự thay đổi chiến
lược trong đối ngoại của các quốc gia, các khu vực, các nền kinh tế lớn trên
thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lần đầu tiên khẳng định “vai trò tiên
phong của đối ngoại” trong tình hình mới. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
chỉ rõ tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28 (tháng 8-2013): Trong thời bình,
công tác đối ngoại sẽ tiếp tục là một mặt trận quan trọng, cùng với quốc
phòng - an ninh đóng vai trò tiên phong, góp phần bảo vệ an ninh, độc lập và
chủ quyền đất nước.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng và Nhân dân ta. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, cách
mạng Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn cả trong cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Phải khẳng định
rằng, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận và cũng là cơ sở thực
tiễn quan trọng để Đảng ta xây dựng đường lối đối ngoại. Trong giai đoạn
mới cần tiếp tục vận dụng những quan điểm cơ bản trong tư tưởng đối ngoại
của Người, mở rộng quan hệ, hợp tác quốc tế theo chủ trương: “Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc
tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và
khu vực, đưa đất nước đến những thành công trong sự nghiệp đổi mới.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng gần gũi, có sự tương
đồng về thể chế chính trị và lựa chọn con đường phát triển, tương thông về
văn hóa, xã hội và truyền thống giao lưu nhân dân. Những người đặt nền
móng xây dựng quan hệ Việt Nam - Trung Quốc chính là Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông, cùng các thế hệ lãnh đạo cách mạng tiền
bối của hai Đảng, hai Nhà nước. Trong bối cảnh hiện nay khi đất nước ta
163
đang bước vào giai đoạn phát triển mới với những nhiệm vụ vô cùng trọng
đại; Việt Nam sẽ tiếp tục phấn đấu để phát huy tốt “lực” của đất nước ta, làm
cho “thế” chiến lược của Việt Nam ngày càng vững vàng, tạo cơ sở quan
trọng nâng “tầm” của Việt Nam, thực hiện tốt mục tiêu xây dựng Việt Nam
trở thành nước công nghiệp hiện đại, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Chính vì vậy, cần Nghiên cứu tư tưởng đối ngoại Hồ Chí
Minh, trên cơ sở đó tích cực vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng của Người
vào việc xây dựng đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam nói
chung và đường lối đối ngoại với Trung Quốc nói riêng có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc.
2. Từ sau khi Việt Nam - Trung Quốc bình thường hóa quan hệ (tháng
11-1991), thành tựu lớn nhất, nổi bật nhất là hai nước đã không ngừng củng
cố, phát triển quan hệ chính trị - ngoại giao. Việt Nam và Trung Quốc đã định
ra khuôn khổ hợp tác, từ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu
dài, hướng tới tương lai” (năm 1999) đến “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt” (năm 2005) và cuối cùng là “đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện” (năm 2008). Thành tựu trong quan hệ chính trị - ngoại giao Việt Nam -
Trung Quốc là hai nước đã giải quyết được hai trong ba vấn đề bất đồng quan
trọng liên quan đến biên giới - lãnh thổ: Ký kết H p b ớ ấ
ề vào năm 1999 và đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên đất liền
(năm 2008); ký H p p V Bắ Bộ (năm 2000); ký H p
H p ề ở V Bắ Bộ (năm 2004),… Trong quan hệ -
ơ ạ , với hơn 50 hiệp định hợp tác về kinh tế hoặc có liên quan đến
kinh tế và khá nhiều thỏa thuận cấp nhà nước, quan hệ kinh tế Việt Nam -
Trung Quốc không chỉ khởi sắc mà còn phát triển một cách mạnh mẽ. Trung
Quốc trở thành một trong những đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam
và kim ngạch mậu dịch giữa hai nước gia tăng không ngừng. Trên lĩnh
vực ă ụ ọ - cũng diễn ra không
kém phần sôi động. Sự hợp tác, giao lưu văn hóa góp phần đắc lực để hai dân
164
tộc Việt, Hoa thấu hiểu nhau hơn, thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ chính trị, kinh
tế, ngoại giao, là cầu nối vững chắc cho các mối quan hệ khác không ngừng
nâng cao cả về chất và lượng.
Bên cạnh những thành tựu to lớn, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vẫn
không tránh khỏi những khúc mắc, bất đồng, những thách thức không nhỏ,
đòi hỏi sự nỗ lực giải quyết cả từ hai phía. Trở ngại lớn nhất trong quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc liên quan đến các vấn đề trên Biển Đông. Tuyên bố
về “đường lưỡi bò” của Trung Quốc, việc Trung Quốc đưa giàn khoan Hải
Dương 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam,
tiếp tục khẳng định sự hiện diện của mình tại Biển Đông để hiện thực hóa
tuyên bố về “đường lưỡi bò”, tiến hành xây dựng các đảo nhân tạo,... không
chỉ khiến tình hình Biển Đông trở nên căng thẳng, dư luận quốc tế lên tiếng
mà còn làm cho Việt Nam và các nước trong khu vực hết sức quan ngại.
Trong lĩnh vực kinh tế, cán cân thâm hụt thương mại đang nghiêng rất lớn về
phía Việt Nam, là thách thức mang tính báo động. Tỷ lệ nhập siêu của Việt
Nam, chủ yếu là nguyên vật liệu phụ trợ, linh kiện và máy móc thiết bị, từ
Trung Quốc tăng mạnh qua từng năm. Thặng dư thương mại nghiêng lệch về
phía Trung Quốc cộng với nhiều mặt hàng nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc
chưa bảo đảm chất lượng,… sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đối với kinh tế
Việt Nam, tới dư luận và qua đó ảnh hưởng lâu dài đối với quan hệ kinh tế
song phương Việt Nam - Trung Quốc. Những thách thức nêu trên dẫn tới một
hệ lụy to lớn, đó là làm xói mòn niềm tin, tác động tiêu cực đến sự tin cậy mà
hai nước đã nỗ lực xây dựng trong nhiều năm qua, đòi hỏi phải có những biện
pháp, giải pháp tích cực, phù hợp và hiệu quả để Việt Nam và Trung Quốc
thực sự là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” trong bối cảnh
khu vực và quốc tế đầy biến động hiện nay.
3. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, để
tăng cường mối quan hệ với Trung Quốc trong thời gian tới, công tác đối
ngoại cần nắm vững quan điểm, như: Đảm bảo các quyền cơ bản cho đất
165
nước, đảm bảo lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì hòa bình và phát triển; giữ
vững đường lối độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trên cơ sở nguyên tắc kiên
định về chiến lược, mềm dẻo về sách lược; không ngừng củng cố, xây dựng
thực lực mạnh, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ trong quan hệ
quốc tế; đồng thời thực hiện tốt những giải pháp cơ bản sau đây: 1) Kết hợp
giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân một cách
nhuần nhuyễn, hài hòa, hỗ trợ thúc đẩy lẫn nhau phát huy sức mạnh tổng hợp
của Việt Nam. 2) Phối hợp chặt chẽ các trụ cột ngoại giao chính trị, kinh tế,
văn hóa, quốc phòng, an ninh,... theo hướng đồng bộ, toàn diện, hiệu quả. 3)
Phát huy điểm tương đồng, kiên trì, khéo léo xử lý những bất đồng, tranh
chấp đặc biệt là vấn đề Biển Đông trong quan hệ đối ngoại với Trung Quốc.
4) Không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế nhằm không ngừng nâng cao vị thế
của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc. Các nhóm giải pháp trên có mối
quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, mỗi nhóm giải pháp đều có vị trí, vai
trò và tầm quan trọng nhất định, do đó cần được áp dụng một cách chặt chẽ,
đồng bộ và kịp thời nhằm phát huy hiệu quả cao nhất.
166
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
1. Hoàng Thị Hương Thu (2019), V ụ ở ạ H C M
V N Q , Tạp chí
Thông tin Khoa học lý luận chính trị, số 11.
2. Hoàng Thị Hương Thu (2020), Mộ p p ữ V –
ạ ở H C M , Tạp chí Lý luận
Chính trị và Truyền thông, Chuyên đề số 2.
167
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Nguyễn An “V ụ ở H C M ề p
b V N p H p
B D ơ ” Tạp chí Lý luận chính trị tháng 7/2016.
2. Phạm Anh (2013) C bằ ở ớ ớ ớ : p
ạ V N ờ ộ p, Tạp chí K ọc
C - Hành chính, số 1 (13).
3. Hoàng Chí Bảo (2011) ể p ơ p p H C M , Nxb Chính
trị - Hành chính, Hà Nội.
4. Boniface E. S. Mgonja (2013) “ ề ớ lý
quan ớ ớ b ” Phan Thị Thu Hằng
dịch, Tạp chí N Q , Tháng 6, số 2 (93).
5. Mai Văn Bộ (2015) C ú ọ ạ ớ B H , Nxb Trẻ,
TP Hồ Chí Minh.
6. Bộ Ngoại giao (2000) N ạ V N ờ ạ H C M
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ Ngoại giao, Nguyễn Đình Bin (chủ biên) (2002) N ạ V N
1945- 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
8. Bộ Ngoại giao (2004) V N ộ p
hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Bộ Ngoại giao (2009) V ụ ở ạ H C M ờ ỳ
ộ p , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Ngô Xuân Bình (chủ biên) (2014)“H ớ ớ
V N - H Kỳ”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Brice M.Claget (2014) N ữ V N
Q ở bã C L B ể
Đ , Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
12. Bruce Jentleson (2004), C ạ Mỹ: Độ ơ
168
ọ ỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
13. Đỗ Minh Cao (2012), “N ữ b ă ạ
ề Q ”, Tạp chí N Q , số 4 (218).
14. Đỗ Minh Cao và Nguyễn Xuân Cường (2013), “Q Q -
V N ỷ XXI - ừ ă ” Tạp chí
N Q , số 10 (146).
15. Thanh Cao - Nguyễn Đức Gia (2014), “B H - N ờ ĩ ạ
ề ạ ạ V N ”, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
16. Nguyễn Xuân Cường (2012),“N ạ ạ CHND
H ừ 1949 ” Tạp chí N Q số 10
(134).
17. Vũ Thị Phương Dung(2015), “C p ể b ể
Q ”, Tạp chí N Q , số 5 (165).
18. Phạm Thành Dung, Hoàng Phúc Lâm (chủ biên) (2012),“N ữ ấ ề
ờ ạ Đ ớ V
Nam” Nxb Chính trị hành chính Quốc gia, Hà Nội.
19. Lê Viết Duyên, “V ụ ở H C M ề ạ
ộ ổ ớ ”
(http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=35
068&print=true)
20. Vũ Quang Đản (chủ biên) (2006), “Mộ ấ ề ề
ạ ”, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
21. E. Côbêlép (1985), “Đ H C M ”, Nxb Thanh niên, Hà Nội -
Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
22. Nguyễn Hoàng Giáp (chủ biên) (2014), Mộ ấ ề
ạ Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
23. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế (chủ biên) (2013), “Chính sách
ạ V N ờ ỳ ổ ớ ”, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự
169
thật, Hà Nội.
24. Nguyễn Hoàng Giáp, Phan văn Rân (2010), Đặ ể ớ b
ộ Đ Á, Hà Nội, số 4 (121).
25. G.M.Lokshin (2016), B ể ộ , Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
26. Fareed Zakaria (2009), ớ Mỹ, Nxb Tri thức, Hà Nội.
27. Hồng Hà (2001), Q ạ V N - Q ạ 10
ă ể ọ , Tạp chí N Q , số 6 (40).
28. Nguyễn Mạnh Hà và Nguyễn Thị Mai Hoa (2010), “H C M
ắp V - Tru ” Tạp chí N Q , số 5
(105).
29. Võ Thị Thu Hà (2013), “Q Cộ ò P p - Cộ ò ã ộ
ĩ V N 1993 - 2008”, Đại học Sư phạm Hà Nội, Luận án
Tiến sĩ lịch sử.
30. Lê Thị Hà (2016), “N ắ p ơ p p ạ
ở H C M ”, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Luận án
Tiến sĩ Triết học.
31. Nguyễn Trọng Hậu (2004), H ạ ộ ạ ớ V N Dân
ộ ò ờ ỳ 1945 - 1950, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Henry Kisinger “B ề Q ”, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội
33. Trần Xuân Hiệp (2014), “Q V Nam - C p ừ
ạ ”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
34. Đỗ Đức Hinh (2007), “ ở H C M ề ạ - ộ ộ
ơ b ”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Thị Phương Hoa (2011), “Q Q - V N
ạ 1950 - 1975”, Viện Khoa học Xã hội, Luận án Tiến sĩ Lịch sử.
36. Nguyễn Thị Hoa (2002), “Q V - ờ ỳ ổ ớ ”, ạp
Cộ , số 4.
170
37. Nguyễn Phương Hoa (2011), “Q V - ờ ỳ
ạ ”, Tạp chí N Q , số 3 (115).
38. Học viện Quan hệ quốc tế, Nguyễn Vũ Tùng (2007), C
ạ V N , Nxb Thế giới, Hà Nội. Tập 1 (1945 - 1975).
39. Học viện Quan hệ quốc tế, Nguyễn Vũ Tùng (2007), C
ạ V N , Nxb Thế giới, Hà Nội. Tập 2 (1975 - 2006).
40. Nguyễn Thị Hoàn (2011), “C ạ Đ ộ
V N ớ Đ N Á ừ 1995 ă 2006” Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Luận án Tiến sĩ Lịch sử.
41. Lưu Thúy Hồng (2015), N ạ p ơ
ơ ạ , Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
42. Hoàng Mạnh Hùng (2006) Q ữ ã b ờ , Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Mạnh Hùng, Phạm Minh Sơn (2008), Đ ạ V N -
ề ạ , Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
44. Nguyễn Quốc Hùng - Hoàng Khắc Nam (2006), Q - ữ
ạ ý ấ ề, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Nguyễn Khắc Huỳnh (2011), N ạ V N - góc nhìn và suy
, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Khắc Huỳnh (2012), N ạ V N ớ ộ
p P Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Nguyễn Thái Yên Hương (chủ biên) (2017), Q Mỹ - Tru : p
ạ ớ ộ bằ ề , Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, (tái bản), Hà Nội.
48. Nguyễn Thế Hưởng, (2010), “V ụ ở H C M ạ
ộ ạ ờ ỳ ổ ớ ”, Luận văn Thạc sĩ
Quốc tế học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
49. Jay M. Shafitz (2002), ừ ể ề ề H Kỳ (Bản
171
dịch), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
50. James E. Goodby (2014), “ S S of S N ”
http://nghiencuuquocte.org/2014/11/26/chien-luoc-sinh-ton-cua-
nuoc-nho
51. Jeffrey A.Bader (2016), Obama ỗ Q - Bên
C Á Mỹ, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
52. Trần Khánh (chủ biên) (2014), H p ạ Mỹ -
ở Đ N Á b p C ạ , Nxb
Thế giới, Hà Nội.
53. N ễ Vă K - N ễ M H : “P ơ p p ạ o Dĩ
bấ b ạ b H C M ă P p
ă 1946”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11/2016.
54. Phạm Gia Khiêm, “V ụ ở H C M ổ ớ
ạ ”(http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/lich-
su-dang/books-310520153565356/index-11052015347095642.html)
55. Kỷ yếu Hội thảo khoa học (2016), “Q V N - Q :
ạ ữ ấ ề ặ ” của Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
56. Lê Thị Liên (2012), “Q I - V N 1964 - 2010” của
tác giả, Đại học Sư phạm Hà Nội, Luận án Tiến sĩ.
57. Nguyễn Đình Liêm (chủ biên) (2013), Q V ớ ỗ
Q , Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
58. Sở Thụ Long, Kim Uy (2013), C ạ
Q , Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
59. Nguyễn Phúc Luân (1999), C H C M ớ ề
ạ V N ạ , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Phúc Luân (2002), G p p ể ở H C M ề
172
ạ , Nxb Lao Động, Hà Nội.
61. Đinh Xuân Lý (2005), ở H C M ề ạ
ụ Đ ờ ỳ ổ ớ , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
62. Đinh Xuân Lý (2013), Đ ạ V N ờ ỳ ử 1945 –
2012, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
63. Đinh Xuân Lý (2013), “V ụ ở ạ H C M
ấ b ề b ể ”, Tạp chí Lý luận
Chính trị tháng 4.
64. Phạm Sao Mai (2010), Tr Q ạ 2020
Cụ ớ 2020, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. Nguyễn Mại (2008) “Q V N - H Kỳ ớ ề p ớ ”,
Nxb Tri Thức, Hà Nội.
66. Lê Thế Mẫu (2014), Đ é ề ớ ớ ể ớ ụ
ớ , Tạp chí Q p ò , 18-5,
2014.
67. Phạm Bình Minh (chủ biên) (2011), Đ ớ ạ
V N 2020, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh p Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, 15 tập.
69. Phạm Quang Minh (2012), C ạ ổ ớ V N
1986 - 2010, Nxb Thế giới, Hà Nội.
70. Trình Mưu - Vũ Quang Vinh (Đồng chủ biên 2005), Q
ữ ă ỷ XXI: Vấ ề ể , Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
71. Nguyễn Thu Mỹ (2011), “S ỗ Q ừ p Mỹ”
Tạp chí N Q , số 3 (115).
72. Lê Văn Mỹ (2006), Cộ ò H : N ạ
b ớ , Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Hà Nội.
173
73. Lê Văn Mỹ (2007), Q - Mỹ Đạ ộ XVI Đ Cộ
Q , Tạp chí N Q , số 5.
74. Nguyễn Dy Niên (2002), ở ạ H C M , Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
75. Vũ Dương Ninh (2015), L ử ạ V Nam 1940 –
2010, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
76. Dương Xuân Ngọc (chủ biên) (2005), C ọ V Nam Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
77. Ngô Phương Nghị, Nguyễn Thanh Tùng, Đào Ngọc Tuấn (2015), Đạ
ơ ề ọ , Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
78. Tân Ngọc Ngôn và Lý Khắc (2015), “C ỗ ĩ ạ : p
ộ ộ ờ ” Nxb Đài
Loan.
79. Phương Nguyễn (2016), N ạ V - ă 2015
b ă 2016, Tạp chí N Q , số 3.
80. Vũ Cao Phan (2014), “Q V N - Q
ơ ở ?”, Tạp chí N Q , số 2 (150).
81. Lưu Minh Phúc (2012), “G ấ ộ H : Mụ ờ
ă Q ”, Nxb Công ty xuất bản Hữu Nghị -
Trung Quốc.
82. Ngô Thị Lan Phương (2015), “Q V - ạ 1986 -
2010 ờ p ạ ỉ Q N (V N )
Q ( Q )”, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Luận án Tiến sĩ Lịch sử.
83. Lý Việt Quang (2017), “Q ể H C M ề p ù
ữ ” Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5.
84. Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Tất Giáp (2013), “Q V N - N
174
B ạ ”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
85. Nguyễn Thị Quế - Nguyễn Thị Thúy, “ ở H C M ề
” Tạp chí Lý luận chính trị, số 11/2015.
86. Nguyễn Duy Quý (2002), ớ p ỷ XXI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Nguyễn Huy Quý (2012), Q ữ ộ ạ
Q - H ạ ể ọ , Tạp chí N
Q , số 9.
88. Lê Văn Sang (2007), H ể “B ể Đ
ổ ” N Q , số 2 (28).
89. Huỳnh Tâm Sáng, “B ể Đ ở ờ
b ể Q ”, Nxb Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh.
90. Đỗ Tiến Sâm - Furuta Motoo (2003), C ạ ộ ở a
V N Q V N - Q c, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
91. Đỗ Tiến Sâm - Kurihara Hísohidi (2013), N ữ ấ ề ổ b
Q - V N ờ ă ỷ XXI ể
ọ ă 2020, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
92. Lê Thị Tình (2012), “Đ ộ V N ã ạ ạ ộ
ạ ừ ă 1986 2006”, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ Lịch sử.
93. Nguyễn Thị Tình (2010), “Dấ ạ ộ C H C M
ấ Q ” Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5 (105).
94. Đặng Văn Thái (2002), “H ạ ộ ạ C H C M
ờ ỳ 1945 - 1954”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Luận án Tiến sĩ Triết học.
95. Ngô Ngọc Thắng (chủ biên) (2010), C ọ - Mộ ấ ề ý
ễ , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
175
96. Lê Khương Thùy (2012), Q Mỹ - Q : p
ỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
97. Lê Văn Toan,“Q V N - Q b ớ ” Tạp
chí Lý C số tháng 5/2017.
98. Cao Thị Thu Trang (2010), “B ớ ể V N –
Q ữ ă ỷ XXI”, Luận Văn Thạc sĩ Quốc tế
học (ĐH QGHN).
99. Trần Công Trục (2012), Dấ ấ V N B ể Đ , Nxb Thông
tin và Truyền thông, Hà Nội.
100. Trần Minh Trưởng (2001), “H ạ ộ ạ C t H C
M ạ 1954 - 1969”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Luận án Tiến sĩ Lịch sử.
101. Trần Minh Trưởng (2014), “N ữ ể ắ ử
H C M ụ Đ
ớ ”, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
102. Nguyễn Minh Tuấn: “B ụ b - Lý ớ
Đ Cộ Q ” Tạp chí Lý luận chính trị, số tháng
8/2016.
103. Nguyễn Vũ Tùng (2010), S ớ ớ ề ớ ơ :
ễ à chính sách, Tạp chí N , số 2 (81), tháng 6.
104. Nguyễn Vũ Tùng - Đặng Cẩm Tú (2017), “Q Mỹ - Trung trong
ử ỷ XXI: M ớ ớ ể ớ ?”, Nxb Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
105. Trần Thị Minh Tuyết (2016), “ p p ể ở ạ
H C M ờ ạ 30 ă ổ ớ ” Tạp chí Lý
luận chính trị số 8-2016.
106. Trần Thị Minh Tuyết (2016), ở ạ H C M , Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
176
107. Nguyễn Bằng Tường (chủ biên) (2002), “Q ể M ề ộ lý
ớ p ơ ”, Nxb
Chính trị Quốc gia.
108. Thanh Vạn, Nguyễn Trung, Văn Cường (Sách dịch) (2016), “C
Q ở Đ N Á ừ ạ ”, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
109. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2010), Cộ ò N H
60 ă p ể , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
110. Viện nghiên cứu chiến lược và ngoại giao (2013), C ề: Đ ề
ể ọ p ể Q ă Q ở
ờ ớ ơ , Học viện Ngoại giao.
111. Viotti, Paul R (2003), “Lý ” (Sách tham khảo), Học
viện Quan hệ quốc tế, Bộ Ngoại giao dịch. Nxb Lao động.
112. Phạm Phúc Vĩnh (2011),“Q V N - Q ừ 1986
2006” Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm, Luận án Tiến
sĩ Lịch sử.
113. Phạm Xuyên, Đình Lai (1979), “S ề V N - Trung
Q 30 ă ” Nxb Sự thật, Hà Nội.
177