VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HUỲNH TRANG
SÁNG TÁC CỦA YOSHIMOTO BANANA TỪ GÓC NHÌN THẨM MĨ KAWAII
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HUỲNH TRANG
SÁNG TÁC CỦA YOSHIMOTO BANANA TỪ GÓC NHÌN THẨM MĨ KAWAII
Ngành: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
Mã số: 9 22 02 42
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Nguyễn Thị Mai Liên
2. PGS. TS. Phùng Ngọc Kiên
HÀ NỘI, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của tập thể giáo viên hướng dẫn. Các số liệu, tài liệu được sử dụng trong luận
án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Huỳnh Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................. 11
1.1. Những nghiên cứu về kawaii trong và ngoài Nhật Bản ...................... 11
1.1.1. Những nghiên cứu về kawaii ở Nhật Bản ..................................... 11
1.1.2. Những nghiên cứu về kawaii ngoài Nhật Bản .............................. 15
1.2. Những nghiên cứu về kawaii trong sáng tác của Y. Banana trong
và ngoài Nhật Bản ................................................................................... 15
1.3. Đánh giá khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án ............................................................................................................ 24
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 27
Chương 2: THẨM MĨ KAWAII .................................................................. 28
2.1. Khái lược về thẩm mĩ kawaii ................................................................. 28
2.1.1. “Thẩm mĩ” (“aesthetics”) .............................................................. 28
2.1.2. “Kawaii” ........................................................................................ 31
2.2. Kawaii trong dòng riêng Nhật Bản ....................................................... 35
2.2.1. Những biểu đạt của kawaii trong đời sống văn hóa...................... 35
2.2.2. Những dấu vết của kawaii từ mĩ học truyền thống ....................... 39
2.3. Kawaii trong dòng chung hiện đại ........................................................ 42
2.3.1. Tinh thần văn hóa đại chúng ......................................................... 42
2.3.2. Sản phẩm giao thoa toàn cầu ........................................................ 45
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 49
Chương 3: TIẾNG VỌNG CỦA THẨM MĨ KAWAII TRONG
SÁNG TÁC YOSHIMOTO BANANA ....................................................... 51
3.1. Vẻ hiền hòa, khả ái ................................................................................. 52
3.1.1. Thiên nhiên hiền hòa ..................................................................... 52
3.1.2. Con người khả ái ........................................................................... 59
3.2. Cảm giác mong manh ............................................................................ 65
3.2.1. Số phận mong manh ...................................................................... 66
3.2.2. Tâm hồn mong manh .................................................................... 68
3.2.3. Tình trạng sống mong manh ......................................................... 69
3.3. Ánh nhìn hướng sáng ............................................................................. 74
3.3.1. Nhìn về phía sự sống ..................................................................... 74
3.3.2. Nhìn về phía yêu thương ............................................................... 82
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 90
Chương 4: TIẾNG NÓI KHÁC BIỆT CỦA Y. BANANA TỪ TRONG
LÒNG THẨM MĨ KAWAII ........................................................................ 91
4.1. Thăng hoa văn học đại chúng ............................................................... 92
4.1.1. Sự gắn bó với không gian mở ....................................................... 94
4.1.2. Sự lên ngôi của những ấn tượng ................................................. 106
4.2. Giải biên văn học tinh hoa ................................................................... 118
4.2.1. Từ nền văn học nữ tính đến những câu chuyện shoujo .............. 119
4.2.2. Từ giá trị vĩnh cửu đến giá trị tức thời ........................................ 131
Tiểu kết chương 4 ........................................................................................ 142
KẾT LUẬN .................................................................................................. 144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ ............................................................................................. 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 150
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Yoshimoto Banana là nữ tác gia văn học Nhật Bản hiện đại, người được
mệnh danh là “linh hồn và bếp phó của Nhật Bản những năm 2000” [147, 5], “một
trong những tác giả Nhật Bản tiên phong của thập kỉ” [147, 5], và cũng là người đã
tạo ra cơn sốt Banana khi xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên – Kitchen. Thành công
của Y. Banana cùng với những cây bút trẻ khác đã đem lại một sức sống mới, một
tinh thần mới cho văn học xứ sở mặt trời mọc. Lớn lên vào nửa sau thế kỉ XX, Y.
Banana (cùng với thế hệ nhà văn trẻ ở Nhật như Haruki Murakami, Ryu Murakami,
Yamada Eimi...) phải “tập quên đi” những cái bóng quá lớn của những cây đại thụ
trước đó như Yasunari Kawabata, Tanizaki Junichiro, Mishima Yukio, Oe
Kenzaburo... để có thể tạo ra một diện mạo mới cho văn học Nhật Bản. Làm thế nào
vừa không giẫm lên bước chân của người đi trước, vừa không đánh mất quốc túy,
đó là một thách thức lớn đối với thế hệ của Y. Banana. Sau hàng loạt những tác
phẩm không chỉ thành công trong nước mà còn gây tiếng vang rộng khắp thế giới
với nhiều giải thưởng danh giá khác nhau, Y. Banana gần như đã chinh phục được
những thách thức ấy. Tài năng không đợi thời gian, Y. Banana đã thành công ngay
từ tác phẩm đầu tay ra đời khi tác giả mới 22 tuổi. Sau đó, với hàng loạt những tác
phẩm đáng chú ý khác, Y. Banana đã nhanh chóng được khẳng định trong lòng
công chúng do những giá trị mà bà muốn gửi gắm được kí thác trong một hình thức
đẹp, thấm đẫm thẩm mĩ kawaii của người Nhật. Có thể nói, sáng tác của Y. Banana
một mặt là nghệ thuật ngôn từ, mặt khác lại được hiểu và thưởng thức như một loại
hình cận văn học (paraliterature) với những vay mượn từ văn hóa đại chúng. Bằng
sự kết hợp nhiều yếu tố, sáng tác của Y. Banana đã tạo ra sự phân cực giữa các ý
kiến đánh giá và làm nên tính thời sự cho nền văn học đương đại, chẳng hạn vấn đề
ranh giới giữa truyền thống và văn hiện đại, nghệ thuật cao hay thấp. Thành công
của Y. Banana giúp chúng ta xác - định - lại khái niệm văn học đương đại, vốn dĩ là
khái niệm mang tính “mở” rất cao, ở cả Nhật Bản cũng như trên thế giới. Trong
1
tương quan giữa giá trị của một nền văn học với số lượng các công trình nghiên cứu
về nó, nhất là ở Việt Nam, chúng tôi thấy chưa có sự tương xứng. Vì vậy, nghiên
cứu Y. Banana vẫn là một khoảng trống cần sự quan tâm nghiên cứu của các nhà
khoa học.
1.2. Sáng tác của Y. Banana thuộc về văn học đại chúng hay văn học tinh hoa?
Y. Banana đã đứng và đi trên lằn ranh giao thoa mong manh của hai kiểu văn học
ấy như thế nào? Giá trị của tác phẩm Y. Banana tỏa ra từ đâu?... Những câu hỏi ấy
khiến chúng ta không ngừng trăn trở để đi tìm câu trả lời, vì sức lan tỏa mà sáng tác
của Y. Banana tạo ra là điều có thật. Chúng tôi nhận thấy, mặc dù Y. Banana tạo ra
sự quan tâm lớn của độc giả thế giới nhưng đa phần những công trình nghiên cứu
chỉ mới đi vào các vấn đề về chủ đề tư tưởng, hoặc nếu không thì từ góc độ thi pháp
hay thể loại, chưa tiếp cận Y. Banana từ phương diện thẩm mĩ. Trong khi đó, thẩm
mĩ của thời đại (luôn) có những ảnh hưởng nhất định đến vùng thẩm mĩ của cá
nhân, nhất là đối với nhà văn. Y. Banana lớn lên trong thời đại nửa sau của thế kỉ
XX, trong không gian của văn hóa đại chúng, đồng thời lại (vẫn) được hấp thu
những tinh hoa của văn học Nhật Bản truyền thống. Một câu hỏi khả dĩ đặt ra và
cần được giải quyết đó là nhìn sáng tác của Y. Banana từ trong bối cảnh văn hóa
của nó để phát hiện có một dòng chảy mĩ học ảnh hưởng, chi phối đến toàn bộ thế
giới nghệ thuật của nhà văn này: thẩm mĩ kawaii. Nhật Bản làm thế giới ngưỡng mộ
về năng lực cảm thụ cái đẹp của mình: độc lập và duy nhất. Nói như Trần Lê Bảo,
“Nghệ thuật Nhật Bản được thể hiện bằng năng lực cảm thụ tinh tế về cái đẹp của tự
nhiên và xã hội con người. Đặc biệt là cách thức cảm thụ mang tính hình tượng
được chi phối bởi các quan niệm thẩm mĩ độc đáo của Nhật Bản, đạt đến trình độ
cao của “đạo”, làm nên những loại hình nghệ thuật thể hiện phong cách riêng, độc
đáo khó có thể hòa trộn với một nền văn nghệ nào khác.” [4, 200] Gắn với đặc điểm
truyền thống lịch sử văn hóa của một đất nước bốn bề là biển, một vị trí biệt lập về
địa lí, người Nhật có truyền thống thẩm mĩ riêng với những phạm trù tiêu biểu như
mono no aware, sabi, wabi, yugen... và có quan niệm riêng về cái đẹp. Thời hiện
đại, trong bối cảnh xã hội thị trường, người dân nơi đây có một xu thế đề cao lí
2
tưởng thẩm mĩ mới: kawaii. Đó là kết quả của sự giao thoa văn hóa nội sinh của đất
nước Nhật Bản với luồng sóng văn hóa toàn cầu thời hiện đại. Với tư cách là một xu
hướng thẩm mĩ, kawaii ngay lập tức tỏa đều vào trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Sản xuất, tiêu dùng, âm nhạc, hội họa, xếp giấy, hoa đạo, trà đạo, thời trang, và cả
trong an ninh, chính trị, ngoại giao và văn học... đều chịu sự chi phối của thẩm mĩ
kawaii. Không nằm ngoài quy luật, những tác phẩm của Y. Banana cũng hội tụ
được tất cả những gì thuộc về vùng thẩm mĩ ấy. Y. Banana không chỉ là người tiếp
thu thụ động mà hoàn toàn chủ động, làm cho người đọc vừa cảm nhận kawaii như
là nguồn ảnh hưởng tự nhiên, máu thịt; vừa như là những hồi ứng mà tác giả đã
sáng tạo nên từ sự tiếp thụ của mình. Do đó, nghiên cứu sáng tác của Y. Banana từ
phương diện thẩm mĩ, cụ thể là từ thẩm mĩ kawaii, là một hướng nghiên cứu vừa
phù hợp với quy luật sáng tạo của nhà văn, vừa phù hợp với đặc trưng của nền văn
học Nhật Bản.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài Sáng tác của Yoshimoto
Banana từ góc nhìn thẩm mĩ kawaii làm đối tượng nghiên cứu cho luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài Sáng tác của Yoshimoto Banana từ góc nhìn thẩm mĩ kawaii,
chúng tôi hướng đến các mục đích như sau:
Thứ nhất, luận án hướng tới mục đích tìm hiểu một khái niệm thẩm mĩ của
người Nhật có sự ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội hiện đại: kawaii và con
đường tác động vào văn học của nó. Từ việc đi sâu tìm hiểu khái niệm “thẩm mĩ” để
cắt nghĩa được những tầng bậc ý nghĩa của khái niệm này, luận án có cơ sở để tìm
hiểu bản chất của thẩm mĩ kawaii trong cách tri nhận cái đẹp và khả năng tri nhận
cái đẹp của người Nhật hiện đại.
Thứ hai, chúng tôi đặt sáng tác của Y. Banana với môi trường mà tác giả đã
sống và hấp thụ, đó là xã hội đương đại, là bầu khí quyển của văn hóa đại chúng, từ
đó thấy được những tương liên, hòa hợp, phản chiếu từ thẩm mĩ kawaii (thứ thuộc
về sự lựa chọn và tri nhận của cộng đồng) lên sáng tác của Y. Banana (thứ thuộc về
3
sự lựa chọn của cá nhân sống trong cộng đồng đó). Chúng tôi muốn đi tìm những
biểu đạt của thẩm mĩ kawaii trong sáng tác Y. Banana như là cách tạo ra đường
“link” kết nối gần như hầu hết các vấn đề nổi bật mà độc giả vẫn thường nhắc tới
mỗi khi bàn về Y. Banana. Từ đó, có thể tìm thấy được lí do vì sao tác phẩm của Y.
Banana được sự yêu mến và hưởng ứng rộng khắp của độc giả Nhật Bản và thế giới
đương đại như vậy.
Thông qua việc tìm hiểu sáng tác của một tác gia từ góc nhìn thẩm mĩ - văn hóa,
chúng tôi hướng đến mục đích tìm kiếm những câu trả lời góp phần vào sự khám
phá giá trị của tác phẩm của Y. Banana với những đóng góp trong việc thể nghiệm
một lối viết mang màu sắc khác biệt so với dòng văn học truyền thống ở Nhật Bản.
Nói cách khác, chúng tôi đi tìm sự tương tác, hồi ứng từ sáng tác của Y. Banana đến
thẩm mĩ kawaii, để thấy Y. Banana không dừng lại là một tác giả đại chúng, sáng tác
của Y. Banana không dừng lại là sản phẩm của văn hóa đại chúng, mà đó còn là một
thế giới nghệ thuật độc đáo với những chủ ý nghệ thuật riêng của người sáng tạo.
Thực hiện được các mục đích trên chính là đóng góp và thành công của luận án.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là cần trả lời được các câu hỏi nghiên cứu.
Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất liên quan đến sự khảo sát tổng quan về thẩm mĩ
kawaii: ngoại sinh hay nội sinh, là giá trị tức thời hay là kết quả của một quá
trình? Để trả lời được câu hỏi này, luận án cần minh định khái niệm “thẩm mĩ” và
“kawaii” để xem xét đầy đủ các phương diện biểu hiện nghĩa của từ ngữ này. Từ đó
đi đến khái quát những đặc điểm thuộc về bản chất (những “mã khóa”) của “thẩm
mĩ kawaii” để làm cơ sở, làm “mắt” để “nhìn” sáng tác của Y. Banana. Bằng việc
nghiên cứu là thẩm mĩ kawaii đặt trong mối liên hệ với văn hóa truyền thống với
dòng chảy mĩ học đã thành hình sắc ở Nhật Bản (aware, sabi, wabi, yugen…) và
văn hóa đại chúng của con người đương đại, luận án tìm một con đường cắt nghĩa
sự thâm nhập - con đường đi của kawaii vào đời sống (vật chất lẫn tinh thần) của
con người Nhật Bản như thế nào cũng như đã tác động vào văn chương ra sao.
Với câu hỏi nghiên cứu thứ hai của luận án: Sáng tác của Y. Banana mang
4
những đặc điểm nghệ thuật nào của thẩm mĩ kawaii?, đối tượng nghiên cứu phục
vụ cho việc trả lời câu hỏi này là những tín hiệu của kawaii được biểu đạt trong
sáng tác của Y. Banana. Luận án cần khảo sát văn bản, phân tích, khái quát để tìm
ra những đặc trưng của thẩm mĩ kawaii trong sáng tác của Y. Banana qua nhiều
phương diện. Từ đó, luận án khái quát mối quan hệ giữa những phương diện ấy
trong “trường” thẩm mĩ kawaii, hướng đến việc chỉ rõ sáng tác của Y. Banana là
một phần, một đại diện của thẩm mĩ này, xem xét dưới sự tác động của ánh sáng
thẩm mĩ này, tác phẩm của Y. Banana đã có những phản chiếu ra sao.
Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ ba: Những sáng tạo riêng nào của Y. Banana
như một sự kết tinh giá trị thẩm mĩ kawaii?, luận án sẽ tập trung vào đối tượng
nghiên cứu là những tín hiệu của Y. Banana đã tạo ra trong sáng tác của bà. Cả ba
câu hỏi với những đối tượng nghiên cứu như trên nhằm hướng đến đối tượng là mối
tương quan biện chứng giữa thẩm mĩ kawaii và những sáng tạo của Y. Banana trong
thời hiện đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những biểu đạt nghệ thuật thuộc về thẩm
mĩ kawaii xuất hiện trong tác phẩm của Y. Banana. Khi soi chiếu thẩm mĩ kawaii vào
sáng tác của Y. Banana, chúng tôi nhận thấy có sự tập trung của một vùng ánh sáng của
kawaii - một trường văn hóa và thẩm mĩ quan trọng của thời đại, đã chi phối các sáng tác
của Y. Banana. Là người tiếp thụ và đứng trên lằn ranh của văn học tinh hoa với văn học
đại chúng, Y. Banana đã cho thấy những dấu ấn nghệ thuật mang đậm tinh thần kawaii
trong sáng tác của mình không chỉ là sự chịu ảnh hưởng, đó còn là hoạt động chủ động
sáng tạo trên cái nền của sự ảnh hưởng. Như vậy, việc hướng đến đối tượng nghiên cứu
là những biểu đạt nghệ thuật trong sáng tác của Y. Banana giúp người nghiên cứu phát
hiện Y. Banana trong vai người sáng tạo, từ đó trả lời được những câu hỏi liên quan đến
giá trị văn chương nghệ thuật của Y. Banana.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi nội dung nghiên cứu: Đề tài Sáng tác của Yoshimoto Banana từ
5
góc nhìn thẩm mĩ kawaii được triển khai chủ yếu qua hai nội dung lớn là tiếng nói
chung (lời đồng vọng từ thẩm mĩ kawaii) và tiếng nói riêng (sự góp lời của một cá
nhân cho cộng đồng) với những nội dung nghiên cứu cụ thể như nhân vật, chủ đề,
thế giới thiên nhiên, tổ chức nghệ thuật (không gian, thời gian), thủ pháp nghệ
thuật… Thông qua những phương diện cơ bản này, chúng tôi đi tìm và góp phần
minh định sự ảnh hưởng cũng như sự phát triển, sáng tạo của Y. Banana từ một
vùng thẩm mĩ mà tác giả đã và đang sống trong nó.
- Về phạm vi văn bản khảo sát: Chúng tôi khảo sát trên các văn bản là các tác
phẩm của Y. Banana đã được dịch sang tiếng Việt và tiếng Anh. Sau Kitchen, Y.
Banana tiếp tục thành công với 12 tiểu thuyết và 7 tập truyện ngắn.
■ Trong số đó, đã xuất bản tại Việt Nam:
+ Kitchen, Bóng trăng (Bóng từ ánh trăng), Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản
Hội nhà văn, 2006
+ N.P, Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006
+ Vĩnh biệt Tugumi (Tugumi), Vũ Hoa dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007
+ Amrita (Amurita), Trần Quang Huy dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Hội
nhà văn, 2008
+ Say ngủ, Trương Thị Mai dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2008
+ Thằn Lằn, Nguyễn Phương Chi dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn học, 2009
+ Hồ, Uyên Thiểm dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2014
+ Nắp biển, Dương Thị Hoa dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2018
■ Đồng thời, chúng tôi có tham khảo bản dịch tiếng Anh của một số tác
phẩm đã được dịch sang tiếng Việt như Kitchen, Moonlight Shadow, N.P, Amrita,
Goodbye Tugumi, Asleep, Lizard, The Lake
+ Kitchen, Moonlight Shadow, Megan Backus dịch, Grove Press, New York 1993
+ N.P, Ann Sherif dịch, Grove Press, New York, 1994
+ Lizard, Ann Sherif dịch, London: Faber and Faber, 1995
+ Amrita, Russell F. Wasden dịch, London: Faber and Faber, 1997
+ Asleep, Michel Emmerich dịch, London: Faber and Faber, 2000
6
+ Goodbye Tugumi, Michel Emmerich dịch, London: Faber and Faber, 2002
■ Các tác phẩm chưa được dịch sang tiếng Việt:
+ Argentine Hag, Sawa Fumiya dịch, Tokyo, 2002
+ Hardboiled Hardluck, Michael Emmerich dịch, Grove Press, New York, 2005
4. Cơ sở lí thuyết và phương pháp nghiên cứu của luận án
Một trong những phương pháp chính mà luận án lựa chọn đó là phương pháp
nghiên cứu liên ngành, trong đó, đặc biệt quan trọng là nghiên cứu văn hóa. Đối
tượng nghiên cứu chính của luận án là sáng tác của một tác gia văn học Nhật Bản
đương đại nhìn từ góc độ ảnh hưởng, tiếp thu và sáng tạo từ một thẩm mĩ cũng của
chính xã hội Nhật Bản đương đại. Thẩm mĩ đó lưu chuyển trong nền văn hóa của
đất nước ấy nên không thể tách rời sáng tác của tác gia văn học này với văn hóa.
Bên cạnh đó, khái niệm thẩm mĩ này tuy mới nhưng lại là kết quả của một dòng
chảy xuyên suốt trong đời sống của người dân Nhật Bản từ xưa đến nay, không tách
biệt với những khái niệm trước đó. Qua văn hóa và những nền tảng lí thuyết của mĩ
học, chúng ta có thể xác định được những hệ giá trị của con người Nhật Bản đương
đại để từ đó có những cách giải thích phù hợp trong việc đánh giá các vấn đề được
phản ánh trong sáng tác của Y. Banana. Đặt văn học trong vùng văn hóa và vùng
thẩm mĩ của chính đất nước đã sản sinh ra nó thiết nghĩ là cách làm phù hợp. Người
viết đặt tác phẩm của Y. Banana trong mối quan hệ với bối cảnh lịch sử - xã hội và
văn hóa – mĩ học Nhật Bản hiện đại và đương đại, nhất là từ nửa sau thế kỉ XX đến
nay, để nghiên cứu và giải thích một số hiện tượng văn học, kiểm định và đánh giá
sự ảnh hưởng, tương tác giữa sáng tác của Y. Banana với những sự kiện, hiện tượng
khác trong đời sống văn hóa xã hội Nhật. Ngoài ra, luận án còn vận dụng những
hiểu biết từ xã hội (tâm lí xã hội và lịch sử xã hội), truyện tranh (đặc biệt là thể loại
shoujo manga, loại truyện tranh dành cho thiếu nữ), phim hoạt hình. Nhờ vào
những hiểu biết về các ngành khác sẽ giúp chúng ta lí giải được cách xây dựng nhân
vật, xu hướng tâm lí, đời sống nội tâm của các nhân vật cũng như hiểu được quan
niệm thẩm mĩ của con người thời hiện đại diễn ra trong tác phẩm của Y. Banana.
Phương pháp so sánh: Luận án sử dụng phương pháp so sánh khi đặt kawaii
trong mối quan hệ với những thẩm mĩ khác của văn học Nhật Bản như mono no
7
aware, miyabi, yugen, wabi, sabi, iki... để phát hiện những điểm giao thoa và khác
biệt, từ đó hướng đến việc tìm hiểu đối tượng nghiên cứu một cách thỏa đáng hơn.
Đồng thời, chúng tôi cũng đặt kawaii trong mối quan hệ so sánh với các khái niệm
mĩ học của một số nền văn hóa khác như cute, lovely của phương Tây. Luận án
cũng đặt ra và giải mã những vấn đề dựa trên cơ sở so sánh Y. Banana với các tác
giả khác (cùng thời đại hoặc khác thời đại) để thấy những nét chung và những gì
khác biệt mà Y. Banana đã tạo ra trong sáng tác của mình.
Phương pháp loại hình: Phương pháp loại hình là phương pháp nghiên cứu dựa
trên sự tập hợp các sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản nào
đó, khi chúng cùng có một “quan hệ cộng đồng giá trị” [18, 144]. Phương pháp
này giúp người nghiên cứu đi tìm những điểm tương đồng của các yếu tố, giúp nắm
bắt được các hiện tượng trong mối quan hệ tổng thể, bao quát, từ đó phát hiện quy
luật, những thông số giá trị về điều cần giải mã. Luận án sử dụng phương pháp loại
hình trong việc nhóm hợp những biểu hiện có cùng chung những đặc trưng cơ bản
giữa các nhân vật (ngoại hình, tính cách, số phận…), những yếu tố thường xuyên
xuất hiện trong sáng tác của Y. Banana, những đặc trưng cơ bản của các thủ pháp
nghệ thuật…
Phương pháp hệ thống: Phương pháp hệ thống là đặt đối tượng vào một hệ
thống nào đó để xem xét những đặc thù, từ đó xác định giá trị, vị trí cũng như đóng
góp của nó cho hệ thống. “Trong nghiên cứu văn học, chúng ta có thể coi một tác
phẩm hay toàn bộ sáng tác của một nhà văn, một thể tài, một thể loại, một nền văn
học, như là những hệ thống”, “trong khi phương pháp loại hình chú ý đến quan hệ
cộng đồng giá trị, thì phương pháp hệ thống lại chú ý đến quan hệ phân cấp và quan
hệ nhân quả” [18, 151 - 152]. Lợi ích cơ bản của phương pháp hệ thống là nó giúp
ta xác định được vị trí (hay tọa độ) của một sự vật trong mối quan hệ phân cấp với
các sự vật khác, qua đó giúp ta đánh giá được đầy đủ giá trị và ý nghĩa của sự vật
đó”. Trong luận án này, người viết đặt kawaii trong dòng chảy mĩ học của Nhật Bản
và thế giới, đặt sáng tác của Y. Banana trong văn học đại chúng và văn học tinh
hoa…, từ đó nghiên cứu về giá trị của thẩm mĩ kawaii trong sáng tác của Y. Banana
8
có ý nghĩa như thế nào đối với văn học đương đại Nhật Bản, thế giới.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đóng góp vào việc nghiên cứu một phạm trù thẩm mĩ chi phối
văn hóa Nhật Bản đương đại là kawaii. Trên tinh thần tiếp thu, đối thoại và phản
biện, luận án góp phần chỉ ra được một yếu tố quan trọng chi phối cách xây dựng
tác phẩm của Y. Banana - một yếu tố vừa có nguồn gốc nội sinh trong cái nhìn lịch
đại, vừa có ý nghĩa ngoại hợp trong cái nhìn đồng đại: thẩm mĩ kawaii.
Từ đó, luận án đóng góp vào việc làm rõ vai trò của kawaii đối với giá trị của
tiểu thuyết Y. Banana. Luận án đặt ra vấn đề: sáng tác của Y. Banana có phải là một
sản phẩm của văn hóa đại chúng không? Rõ ràng, sáng tác của Y. Banana không chỉ
khoác một chiếc áo đại chúng, mà đó là những sản phẩm đại chúng thật sự. Song tất
cả không dừng lại ở đó. Sáng tác của Y. Banana không phải là một sự chệch khỏi
quỹ đạo của văn chương nghệ thuật cũng như những chuẩn mực thẩm mĩ truyền
thống. Cái gọi là phong vị Nhật Bản vẫn luôn len lỏi vào trong thế giới nghệ thuật
của Y. Banana để phát hiện và diễn tả một cách tinh tế nhất những trạng thái cảm
xúc của con người. Nếu là những tác phẩm câu khách dễ dãi với một lối văn tuềnh
toàng, chắc hẳn Y. Banana không thể có được một lượng độc giả đông đảo để đứng
vào hàng best-seller trên thế giới như vậy. Luận án hướng đến việc hiểu được đặc
trưng phong cách của một nhà văn với sở trường là những tác phẩm dễ thương, khả
ái, cung cấp một cách nhìn mới về nghệ thuật tiểu thuyết đương đại Nhật Bản cũng
như văn học đương đại thế giới trong sắc thái đa diện của nó. Phong cách của Y.
Banana luôn có sự kết hợp giữa truyền thống – những rung cảm tinh tế của tâm hồn
con người với tinh thần hiện đại – văn hóa đại chúng, giữa những giá trị cũ và mới,
tất cả hòa quyện trong những sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời. Như vậy, luận án đóng
góp vào việc làm rõ vai trò của kawaii đối với giá trị của tiểu thuyết Y. Banana.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa lí luận, đề tài Sáng tác của Yoshimoto Banana từ góc nhìn thẩm mĩ
kawaii trước hết đóng góp vào việc nghiên cứu hệ thống lí luận một phạm trù mĩ
học của Nhật Bản hiện đại đang có những ảnh hưởng rộng khắp: kawaii. Y. Banana
9
đã “nâng cấp” kawaii để nó không chỉ là một hot trend (trào lưu, xu hướng cuồng
nhiệt) của văn hóa đại chúng mà còn là một thẩm mĩ độc đáo, thể nghiệm thẩm mĩ
ấy vào trong văn chương để tìm kiếm những giá trị sâu sắc. Công chúng yêu văn
học nói chung và yêu văn học Nhật Bản nói riêng trên khắp thế giới không những sẽ
biết đến văn học Nhật Bản với những phạm trù thẩm mĩ truyền thống mà còn là một
phạm trù thẩm mĩ mới: năng động, tươi trẻ, đầy sức sống – kawaii. Bên cạnh đó,
luận án cũng góp vào hướng tiếp cận văn học từ nghiên cứu liên ngành giữa văn học
với văn hóa, mĩ học, xã hội học..., trong xu hướng nghiên cứu chung của thế giới
hiện nay.
Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài Sáng tác của Yoshimoto Banana từ góc nhìn thẩm mĩ
kawaii đã tìm hiểu sự thâm nhập của văn hóa, thẩm mĩ (cụ thể là kawaii) vào trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có văn học, và người sáng tạo. Mọi
sáng tạo văn học đều không nằm ngoài sự phản ánh đời sống và tác động trở lại đời
sống. Qua những trang viết của Y. Banana, người đọc không chỉ hiểu mà còn thực
hiện hành vi, giúp cho thế giới quan, nhân sinh quan, làm cho mỗi người trở nên
hiền hòa, sống hòa nhã và xích lại gần nhau hơn. Với kawaii, con người bớt đi áp
lực cuộc sống và tình trạng chông chênh trước những bất an, biến cố. Với kawaii,
xã hội Nhật Bản càng khẳng định được “thương hiệu” của một đất nước luôn khác
lạ trong mắt nước ngoài.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án được sắp xếp thành
bốn chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thẩm mĩ kawaii
Chương 3: Tiếng vọng của thẩm mĩ kawaii trong sáng tác Y. Banana
10
Chương 4: Tiếng nói khác biệt của Y. Banana từ trong lòng thẩm mĩ kawaii
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1 là chương Tổng quan về vấn đề nghiên cứu nhằm tổng thuật những
công trình nghiên cứu đi trước có liên quan đến đề tài của luận án, cụ thể là những
công trình có đối tượng nghiên cứu là sáng tác Y. Banana, thẩm mĩ kawaii và đặc
biệt là những công trình quan tâm đến các khía cạnh biểu hiện của thẩm mĩ kawaii
trong sáng tác của Y. Banana. Từ đó, người nghiên cứu xác tín những cơ sở khoa học
cho luận án và chỉ ra những khoảng trống khoa học cần được bổ sung, lấp đầy. Khoảng
trống đó là sự xem xét kawaii như một phạm trù thẩm mĩ chi phối toàn bộ các vấn đề
từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật trong sáng tác của Y. Banana.
Ở chương này, người viết sẽ lần lượt trình bày các công trình nghiên cứu đi
trước (bao gồm cả những tài liệu tiếng Việt và tiếng Anh) đã khai thác vấn đề mà
luận án đang nghiên cứu, xem xét các công trình đã nghiên cứu về vấn đề của luận
án như thế nào và đến đâu, để từ đó tìm ra khoảng trống khoa học cần giải quyết.
Người viết sẽ trình bày theo trình tự:
Những nghiên cứu liên quan đến phạm trù thẩm mĩ kawaii
Những nghiên cứu liên quan đến kawaii trong sáng tác của Y. Banana.
Từng mục sẽ được trình bày kết quả của các công trình nghiên cứu theo trình
tự thời gian.
1.1. Những nghiên cứu về kawaii trong và ngoài Nhật Bản
1.1.1. Những nghiên cứu về kawaii ở Nhật Bản
Theo Kyoko Koma, quyển sách về kawaii với nhan đề Kawaii Ron được viết
bởi tác giả Inuhiko Yomota (Đại học Meiji, nhà xuất bản Chikuma, năm 2006) với
mục đích mang kawaii tiếp cận với lượng độc giả đông đảo. Quyển sách có một
đoạn tóm tắt: “Những nhân vật Nhật Bản như Hello Kitty, Pokemon, Thủy thủ Mặt
Trăng... áp đảo trên toàn thế giới [...]. Vì sao kawaii của Nhật Bản lại phát ra ánh
sáng rực rỡ như vậy? Cuốn sách này là nỗ lực định hướng đầu tiên để phân tích
11
đồng đại và lịch đại cấu trúc của kawaii bằng cách đặt nó vào mĩ học của thế kỉ
XXI” [144, 7]. Tác giả đã xem nó như là một thẩm mĩ và phân tích kawaii theo
chiều dài lịch sử. Theo tác giả, nguồn gốc của kawaii bắt đầu từ quyển Sách gối đầu
(Pillow Book) của Seiso Nagon (966 – 1017, thời Heian). Yomota giải thích rằng
dịch giả Arthur David Waley (người dịch tác phẩm này sang tiếng Anh) đã chọn
cách dịch từ “utsukushi” (うつくし, 美し) sang tiếng Anh là “pretty”, nghĩa là
“đẹp”, nói về một người “ngây thơ” (innocent), “trẻ con” (infant), “trong khiết”
(pure), những người cần sự bảo vệ của người lớn. Tác giả tiếp tục chỉ ra thẩm mĩ
kawaii phát triển trong thời Edo (1603 – 1868) trong những vở kịch Kabuki nổi
tiếng và trong sáng tác của tác giả Osamu Dazai. Nó được hiểu như là những cảm
xúc thẩm mĩ về những gì nhỏ nhắn, mong manh, và cần được bảo vệ. Yomota chỉ
rõ, “một người có tính cách kawaii không phải là một người trưởng thành, không
phải là một người đẹp, mà nữ tính, trẻ con, ngoan và trong sáng” [144, 8].
Kan Satoko, một thành viên khoa Nghiên cứu Nhật Bản Quốc tế, trường Đại
học Ochanomizu, trong bài viết năm 2007: kawaii – từ khóa của Văn hóa thiếu nữ ở
Nhật Bản cho rằng, có những kiểu văn hóa mới xuất hiện và đang dần thay thế cho
văn hóa Nhật Bản truyền thống, một trong số đó là kawaii. Bà đã đi tìm bản chất
của kawaii và đưa ra một khái niệm, cũng là một lí do tác động đến việc hiểu từ
kawaii phù hợp, đó là văn hóa nữ giới. Tác giả đã phân tích những bàn luận về
kawaii, xem nó tương đương với khái niệm cute của tiếng Anh, là một trong những
yếu tố quan trọng của văn hóa đại chúng Nhật Bản đương đại, đã lan tỏa ra khắp thế
giới và trở thành một kiểu văn hóa xuyên quốc gia. Bà cho rằng đây là một từ rất
khó dịch: trong tiếng Anh có một từ gần nghĩa là cute nhưng không hoàn toàn giống
nhau. Bà đã đi tìm sự phát triển của nội hàm ý nghĩa từ ngữ kawaii và chỉ ra rằng,
“trong trường hợp nào cũng vậy, kawaii là một từ ngữ, một khái niệm quan trọng
khi nói về xã hội Nhật Bản và những cô gái trẻ”. Kan khẳng định: “Tôi đánh giá cao
vai trò của Y. Banana trong việc làm cho văn hóa đại chúng, trong đó có khái niệm
kawaii và thể loại shoujo manga, vốn không quan trọng trước đó, trở nên được tôn
trọng và qua Y. Banana, văn hóa thiếu nữ mà chúng ta yêu mến cuối cùng cũng
12
được công nhận” [142, 202].
Tiếp theo nữa là ba quyển sách viết về kawaii năm 2009: Nghiên cứu về thiết
kế kiểu mẫu kawaii của tác giả Tomoharu Makabe, Đế chế kawaii: thời trang,
truyền thông đa phương tiện và những cô gái của tác giả Reiko Koga, Cuộc cách
mạng kawaii thế giới: Vì sao họ muốn trở thành người Nhật? của tác giả Takamasa
Sakurai, một thành viên của Ủy ban cố vấn ngoại giao văn hóa của Bộ ngoại giao.
Koga cho rằng nguồn gốc của kawaii là từ văn hóa thiếu nữ (shoujo), “thứ được
hình thành vào cuối thời Minh Trị (Meiji) và kéo dài đến đầu thời Đại Chính
(Taisho)” [144, 7]. Koga đã nhấn mạnh quan điểm của mình thông qua những phân
tích lịch đại về kawaii từ khi bắt đầu đến hôm nay, chạm vào khía cạnh truyền
thông đa phương tiện. “Văn hóa thiếu nữ”, theo Koga, gắn liền với các khái niệm 清
く[Kiyoko], 正しく[Tadashiku], 美しく[Utsukusiku], nghĩa là Trong khiết (Purity),
Chân thành (Honesty) và Đẹp (Beauty) sau Thế chiến thứ II.
Năm 2010, trong cuốn Tương lai của sức mạnh sáng tạo Nhật Bản: Những
khả dĩ của Nhật Bản học (Hiroki Azuma) có một công trình của một nhà xã hội học
là Shinji Miyadai (1959) với tựa đề Bản chất của kawaii [かわいいの本質] [The
Essence of kawaii]. Shinji Miyadai cho rằng, khái niệm kawaii đã được sử dụng
trong lĩnh vực truyền thông đa phương tiện ở Nhật Bản từ năm 1963. Ở Nhật, kiểu
văn hóa non nớt, chưa trưởng thành vẫn tồn tại bất chấp nỗi ám ảnh về sự trưởng
thành và những quy tắc sống. Có thể hiểu đơn giản đó là sự bắt chước, vì đôi khi
con người đã trưởng thành (về tuổi tác) nhưng cứ muốn mãi như trẻ thơ, như là cách
để đối mặt với những khó khăn, biến cố, bất an trong cuộc sống. Những đặc tính
của kawaii được thể hiện rõ nhất khi con người không có ước mơ, chỉ cần sống cho
hiện tại. Bằng cách nói ẩn dụ, Miyadai cho rằng “đặc tính của kawaii – sự non nớt,
giống như một cái kén tằm, là nơi trú ngụ an toàn cho việc “phải trưởng thành”
trước những tác động mạnh mẽ từ quá trình Tây hóa và hiện đại hóa” [144, 11].
Miyadai tiếp tục quan điểm của mình rằng những tác dụng này không chỉ diễn ra ở
Nhật mà còn lan tỏa vào bất cứ nơi nào trên thế giới nơi mà con người không thể
đạt được những ước mơ. Số người rơi vào những tình huống tồi tệ bởi toàn cầu hóa
ngày càng tăng cũng làm tăng số lượng những người sẽ được bảo vệ bởi văn hóa đại
13
chúng Nhật Bản.
Năm 2012, trong cuộc triển lãm về kawaii, Viện Bảo tàng Yayoi đã ra mắt
quyển sách Tham khảo minh họa về kawaii Nhật Bản được viết bởi Keiko Nakamura.
Tác giả đã chỉ ra rằng, “mèo Hello Kitty được xem là biểu trưng cho tính cách kawaii,
ngày càng trở nên rộng khắp thế giới, thông qua tiêu thụ hàng hóa” [144, 8].
Trong công trình nghiên cứu Kawaii như là một đại diện của nghiên cứu
khoa học: Những khả dĩ của việc nghiên cứu văn hóa kawaii năm 2013, tác giả
Kyoko Koma đã phân tích những bàn luận về kawaii, xem nó tương đương với khái
niệm cute của tiếng Anh, là một trong những yếu tố quan trọng của văn hóa đại
chúng Nhật Bản đương đại, đã lan tỏa ra khắp thế giới và trở thành một kiểu văn
hóa xuyên quốc gia. Tác giả cũng đã phác họa những định hướng nghiên cứu xa
hơn về văn hóa đại chúng Nhật Bản đương đại, đặc biệt là văn hóa kawaii và những
sự liên quan của nó với kỉ nguyên thông tin toàn cầu và xuyên quốc gia này. Tuy
công trình này chỉ nhìn về kawaii ở phương diện văn hóa, chưa gắn nó vào lĩnh vực
cụ thể như văn học nhưng đã giúp cho người nghiên cứu về kawaii xác tín được đối
tượng mình đang hướng tới là phù hợp với xu thế đáng được quan tâm của văn học
hiện đại.
Mayako Murai thuộc Đại học Kawanaga, Nhật Bản, trong công trình năm
2015 với nhan đề Từ Chàng rể Chó đến Cô gái Sói: Sự chuyển thể truyện cổ tích
Nhật Bản đương đại trong cuộc trò chuyện với phương Tây (NXB. Wayne State
University Press, Detroit, Michigan) có viết: “Từ những năm 70, quan niệm dễ
thương (kawaii) ở đất nước này đã trở nên quá phổ biến và lan rộng trên toàn thế
giới như một nét tiêu biểu của bản sắc Nhật, ngày càng được thương mại hóa và
phát triển trong nước. Nhà xã hội học Sharon Kinsella định nghĩa kawaii như sau:
kawaii hoặc cute về bản chất nghĩa là giống trẻ con. Kawaii là tiếng nói của sự ngọt
ngào, đáng yêu, ngây ngô, trong sáng, thật thà, êm dịu nhưng cũng rất mong manh,
yếu đuối, những đặc điểm dễ dàng bắt gặp ở hành vi xã hội từng trải và vẻ bề ngoài.
Còn quan niệm hirahira, mang dáng dấp nữ quyền và có lẽ quá gần với kawaii,
trong một số trường hợp có thể khoét sâu định kiến phương Tây về người phụ nữ và
14
sự trẻ con trong bản sắc văn hóa Nhật Bản” [144, 10].
1.1.2. Những nghiên cứu về kawaii ngoài Nhật Bản
Những công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài về kawaii như một
phạm trù thẩm mĩ Nhật Bản có thể kể đến công trình của Botz-Bornstein The Cool
Kawaii, xuất bản năm 2011. T. Botz-Bornsteins đã chỉ ra hai loại thẩm mĩ tác động
đến văn hóa giới trẻ thế giới. Tác giả cho rằng, gần đây, kawaii là một trong hai loại
thẩm mĩ thống trị văn hóa của những người trẻ trên thế giới, hơn là thẩm mĩ cool
của văn hóa Mĩ, Phi như hip-hop. Theo Botz-Bornstein, “trong khi người Âu –
Mĩ phân biệt hai khái niệm cool và kawaii rất rõ ràng: cool có thiên tính nam,
lạnh lùng và ngầu, phân tán cảm xúc còn kawaii thì có thiên tính nữ, gắn liền với
thời thơ ấu và những gì thuần nguyên, sơ khai, tập trung thể hiện tình cảm, cảm
xúc. Tuy nhiên ở Nhật lại không như vậy. Khái niệm cuteness (kawaii) và
coolness không tách bạch quá rõ. Chúng tương tác với nhau phức tạp và trong
tính chất này có tính chất kia. Cả cool và kawaii đều là liều thuốc giải độc cho
những khuôn mẫu xã hội: lối sống bằng phẳng đến nhạt nhẽo, cằn cỗi, mơ hồ và
không có gì đặc biệt. Kawaii đối nghịch với những gì là nguyên tắc, mệnh lệnh,
nghiêm túc một cách cứng nhắc” [144, 9].
Năm 2016, luận án của tác giả Kimberlee Coobes, trường Đại học Wellesley
(bang Masschusetts, Mỹ) có tên Sự tiêu thụ Hello Kitty: sự tổng hợp của nét đẹp dễ
thương của xã hội Nhật Bản (Consuming Hello Kitty: Saccharai Cuteness in
Japanese Society) đã có một tiểu mục dành cho việc đi tìm khái niệm Dễ thương
(Cute / Kawaii) và đặt nó trong mối quan hệ với những khái niệm khác như Ngọt
ngào (Sweet), Sợ hãi (Scary), Cảm động (Pathenic), giới thiệu về văn hóa shoujo,
nói về kawaii như một hội chứng nổi bật của thời đại và thuộc về nữ giới, và là một
dấu hiệu của văn hóa shoujo.
1.2. Những nghiên cứu về kawaii trong sáng tác của Y. Banana trong và ngoài
Nhật Bản
Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu tập trung vào kawaii trong
sáng tác của Yoshimoto Banana. Tuy nhiên, những đánh giá, nhận xét cho thấy
15
những ý tưởng về vấn đề này thì đã được thể hiện trong một số công trình khoa học
trong và ngoài Nhật Bản. Đây chính là những tiền đề đầu tiên tạo cơ sở cho những
nghiên cứu của luận án. Cụ thể như sau:
Trong một số công trình khi nghiên cứu về kawaii, đôi khi có đề cập đến
Yoshimoto Banana và tác phẩm của bà như là những minh chứng cho biểu hiện của
kawaii. Chẳng hạn như công trình của Kan Satoko (đã nói ở trên, trong phần 1.1).
“Trong nền văn học Nhật Bản đương đại, những tác giả nằm ở trung tâm của sự đọc
và dịch không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là Haruki Murakami và Oe
Kenzaburo. Cùng lúc đó, tác phẩm Kitchen của Yoshimoto Banana được dịch rộng
khắp trên thế giới và nhận được nhiều giải thưởng văn học khác nhau như là một
công trình mới mẻ của văn học Nhật Bản viết về phụ nữ. […] Đóng góp lớn nhất
của Yoshimoto là đã làm cho xã hội nhận ra tầm quan trọng của shoujo manga. […]
Shoujo manga đã từng bị xem là không quan trọng, nhưng với sự xuất hiện của
Yoshimoto, shoujo manga bắt đầu được trân trọng” [142, 202].
Từ nhận định của Kan, chúng ta thấy rằng, giữa kawaii và shoujo manga có
mối liên hệ mật thiết. Thế giới của shoujo manga là thế giới của những cô cậu đang
độ tuổi trưởng thành, cách vẽ của nghệ nhân manga chú ý vào vẻ đẹp trong sáng,
xinh xắn của nhân vật. Do đó, có thể xem những công trình đề cập tới biểu hiện của
shoujo manga hay văn hóa shoujo trong sáng tác của Y. Banana cũng là đang mở ra
những hướng đi cho con đường tìm hiểu thẩm mĩ kawaii trong thế giới nghệ thuật
của Y. Banana. Năm 2016, trong công trình “Một nền văn hóa không chính thống
của riêng họ - Écriture Shoujo và tác phẩm Hồ của Y. Banana” của Ioana Fotache
(Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa quốc tế, Đại học Nagoya, Nhật Bản), thông qua việc
phân tích văn bản Hồ (The Lake) của Y. Banana, tác giả đã chỉ ra rằng, Hồ của Y.
Banana là một trong số những tác phẩm mang văn hóa shoujo. Bằng cách tạo ra một
thế giới được định hình bởi các dấu hiệu cảm xúc, tác phẩm Hồ đã tiếp nối truyền
thống shoujo ở việc khám phá những chiều sâu của các mối quan hệ và cảm xúc, và
tìm cách những cách thức mới để thể hiện chúng. “Banana Yoshimoto, một tác giả đã
tạo ra sự bùng nổ vào những năm cuối của thập niên 80, đã ghi dấu ấn cho việc mang
tinh thần của shoujo vào trong văn học Nhật Bản và xác nhận lại ranh giới của giá trị
16
văn học tinh hoa, đẩy nó tới gần hơn với một kiểu văn học mới.” [139, 97]
Năm 96 của thế kỉ trước có nhiều công trình nhắc đến Y. Banana. Tác giả
của công trình nghiên cứu Tiểu thuyết Nhật Bản mới: Văn hoá Phổ biến và Truyền
thống Văn học trong sáng tác của M. Haruki và Y. Banana, Giorgio Amitrano, một
chuyên gia ngôn ngữ, văn hóa và văn học Nhật Bản tại Đại học phương Đông
Naples (Ý), người chuyên dịch tác phẩm của Y. Banana cũng nhận xét: “Tôi nhận
thấy những trang viết của bà (Y. Banana – người viết) rất tươi mới bởi chúng dễ đọc
và nghiêng về nội tâm” [135, 12]. Khi Amitrano lần đầu tiên mang bản dịch
cuốn Kitchen đến nhà xuất bản hàng đầu ở Milan là Feltrinelli, cuốn sách đã bị từ
chối. Bạn bè thân cận của Amitrano trên văn đàn cũng khuyên ông không nên xuất
bản nó. “Một số người không coi cuốn sách này là một tác phẩm văn học, họ nghi ngờ
về giá trị văn chương của nó” [135, 12], ông giải thích. Nhưng khi được ra đời, cuốn
sách đã rất được lòng độc giả và trở thành một best-seller. Những lời chỉ trích cũng
theo đó mà nhạt dần. “Từ đó đến nay, Yoshimoto đã nhận được ba giải thưởng văn học
Italy, trong đó có giải Fendissime - đảm bảo cho cô một vị trí nhất định trên văn đàn
Italia” [135, 13]. Chúng tôi cho rằng, tính chất dễ đọc mà Amitrano đề cập tới rất liên
quan đến tính chất đại chúng của manga trong sáng tác của Yoshimoto Banana.
Cũng năm 1996, tại Mĩ, theo thông tin từ Japan Foundation, mặc dù tiểu
thuyết đương đại Nhật Bản được giới thiệu, chuyển ngữ khá hiếm hoi ở Anh – Mĩ,
nhưng tác phẩm của M. Haruki và Y. Banana là điều ngoại lệ. Chúng thật sự nổi
tiếng ở Bắc Mĩ. Và họ mong muốn rằng thông qua những tác phẩm này, ngày càng
có nhiều người quan tâm đến văn học Nhật Bản đương đại hơn. NXB trường Đại
học California đã xuất bản cuốn Hình dung lại người phụ nữ Nhật viết bởi Nobuko
Awaya và David P. Phillips (được gợi từ những ý tưởng và dữ liệu của Anne E.
Imamura), có đề cập đến rất nhiều những tác phẩm của Y. Banana cũng như đánh
giá những đóng góp của tiểu thuyết Banana đối với nền văn học Nhật: “Chúng tôi
nghiên cứu những tiểu thuyết của Y. Banana và Hayashi Mariko, hai trong số những
tác giả Nhật Bản nổi tiếng hiện nay viết về người phụ nữ” và nhận định “Y. Banana:
Phá cách từ dòng chính thống” [148, 28]. Quan điểm của người viết bài này đã gợi
mở cho giới nghiên cứu những cái nhìn mới về Y. Banana như là một nhà văn
17
đương đại bước ra từ văn học truyền thống, hoàn toàn không phải là một sự thoát li.
Bài viết Y. Banana viết về gia đình: văn hóa thiếu nữ và chủ đề hoài niệm
của tác giả John Whittier Treat, Đại học Hawaii, năm 1996, có đề cập đến những
khái niệm shoujo, manga và kawaii trong sáng tác của Y. Banana nhưng đặt những
khái niệm này vào trong bối cảnh xã hội để lí giải về những chủ đề thường gặp
trong sáng tác của tiểu thuyết gia này, nhất là chú ý vào chủ đề hoài niệm, liên quan
đến cuộc đời, số phận của các nhân vật. Công trình có những đoạn viết có liên quan
đến sự ảnh hưởng của văn hóa đại chúng, cụ thể là shoujo manga đối với Banana:
“Khi được hỏi liệu người cha nổi tiếng Takaaki của cô có truyền cảm hứng cho bà
trở thành một nhà văn chuyên nghiệp hay không, Yoshimoto trả lời rằng, ngược lại,
của chúng tôi được lớn lên cùng với manga và TV. Đó là lí do vì sao chúng
tôi hiểu những vấn đề đó (những vấn đề thuộc về văn hóa đại chúng – người
viết) rất nhanh” [154, 359].
chính là nhờ sự đọc manga” [154, 359]. Tác giả có trích lời của Y. Banana, “thế hệ
Năm 1998, Luận văn Shoujo và hơn thế nữa - Sự phác họa về thế giới phụ
nữ trong những tác phẩm hư cấu của Y. Banana của tác giả Gesa Doris Mihm của
Khoa Nghiên cứu Đông Á, Đại học Arizona đã đề cập rất sát đề tài văn hóa shoujo
trong sáng tác của Y. Banana và xem xét shoujo như một khía cạnh của văn hóa –
văn hóa nữ giới. Tác giả viết: “Tôi sẽ bàn về việc tác phẩm của Yoshimoto bao gồm
những yếu tố liên quan đến khái niệm này (shoujo manga – người viết) và kết hợp
chúng theo một cách thú vị, độc đáo. Trong khi việc áp dụng những lí thuyết của
chủ nghĩa hậu hiện đại đang diễn ra ở hầu hết các nhà văn khác, thì với văn hóa
shoujo (văn hóa thiếu nữ), và văn học nữ quyền, Y. Banana dường như lại muốn
ngụ ý rằng đó là những biểu hiện của dấu ấn hiện đại và hậu hiện đại trong văn
chương của bà. Tôi cũng sẽ chỉ ra rằng bà còn bao gồm cả những yếu tố thuộc về
truyền thống Nhật Bản nữa.” [147, 12] Tuy nhiên, những yếu tố của shoujo manga
chỉ được bàn đến trong công trình này ở khía cạnh chủ đề (theme), xoay quanh các
vấn đề liên quan đến giới nữ như gia đình, tình dục nữ, giới tính… Tác giả chưa đi
sâu vào những khía cạnh khác của shoujo manga, nhất là về mặt thủ pháp. Bên cạnh
đó, tác giả cũng chưa đặt shoujo manga trong trường thẩm mĩ kawaii để thấy được
18
sự chi phối của thẩm mĩ này đối với sáng tác của Y. Banana.
Tháng 01 năm 2006, công trình của Heung Kak Lam Jimmy, khoa Nhật Bản
học trường Đại học Hồng Kông Nghiên cứu so sánh những chủ đề chính trong
những tác phẩm của Y. Banana giai đoạn đầu: Tugumi, N.P và Amrita đã cung cấp
một hướng nghiên cứu mới về chủ đề trong tác phẩm của tiểu thuyết gia Nhật Bản
đương đại Y. Banana – người được biết đến qua việc viết về sự sống và cái chết.
“Cái nhìn đặc biệt của bà ấy đối với sự sống và cái chết, kết hợp với lối viết đặc
trưng, riêng biệt, khiến cho tên tuổi của Banana không chỉ nổi tiếng ở Nhật Bản mà
còn hơn 30 đất nước trên thế giới” [140, 10]. Luận văn đã chỉ ra rằng ba chủ đề cốt
lõi là bệnh tật bẩm sinh, loạn luân và những điều huyền bí đã dẫn đến những cái
chết dữ dội của các nhân vật.
Cũng trong năm 2006, một nghiên cứu của Connies Wang Hongyu, khoa Nhật
Bản học Trường Đại học quốc gia Singapore đã bàn về Các yếu tố kì ảo, các kiểu
gia đình đặc biệt và sức mạnh nữ tính trong việc chữa lành trong tiểu thuyết của Y.
Banana đã chỉ ra rằng, những sáng tác của Y. Banana đã phản ánh một kiểu sống
mới của thế hệ trẻ ở Nhật. Y. Banana thể hiện sự quan tâm của mình đối với những
con người gặp những vấn đề rắc rối trong cuộc sống vì họ gần như bị tàn phá bởi
những mất mát ngẫu nhiên, bệnh tật, gia đình gặp tai ương. Nhưng điều mà cô quan
tâm hơn nữa lại là sự tin tưởng vào khả năng tái hòa nhập xã hội, sau khi bị xa lánh
hoặc chấn thương tinh thần. Y. Banana đã có cách xử trí những điều ấy bằng một
bàn tay ánh sáng đặc biệt. Nhiều tác phẩm của cô là sự pha trộn giữa những điều
huyền bí và những điều có thật. Có thể xảy ra những hiện tượng kì lạ, siêu nhiên
như cái chết không - tự - nhiên: giấc mơ, mất trí với những cấu trúc gia đình độc
đáo, những mối quan hệ kì lạ và những hiện tượng siêu nhiên. Nhân vật chính sẽ
gặp phải những biến cố như trầm cảm, bị xa lánh... và tự tái tạo bản thân.
Ngày 17 tháng 3 năm 2007, tại Trung tâm Việt - Nhật, Đại học Ngoại
thương, 91 Chùa Láng, Hà Nội, buổi Tọa đàm mang tên Thế giới của H. Murakami
và Y. Banana do Nhà xuất bản Nhã Nam và Đại sứ quán Nhật Bản tổ chức với sự
tham gia của 15 bài tham luận từ các nhà nghiên cứu, dịch giả có uy tín trong nước
19
như Phan Nhật Chiêu, Cao Việt Dũng, Trần Tiễn Cao Đăng, Phan Quý Bích, Phạm
Xuân Nguyên, Nguyễn Chí Hoan… và một nhà văn đại diện của Nhật. Nội dung hội
thảo xoay quanh sáu tác phẩm: Rừng Na Uy, Biên niên kí chim vặn dây cót, Phía
nam biên giới phía tây mặt trời, Kitchen, N.P, Tugumi. Trong đó, sáng tác của Y.
Banana được nhắc đến qua bài tham luận của Nguyễn Chí Hoan với tựa đề: “Ca
ngợi khoảnh khắc”. Bài viết chủ yếu chỉ ra một đặc điểm trong cách kể chuyện của
Y. Banana là quan tâm đến từng khoảnh khắc mà nhân vật trải qua, “không phải
việc kể lại những câu chuyện - dù kì thú, lạ lùng hay buồn đau - mà chủ yếu để kể
về việc những câu chuyện như thế đã được cảm nhận như thế nào. Thậm chí, lối
thuật sự này đôi khi gần tới điều mà chủ nghĩa kinh nghiệm coi “thực tại chỉ là một
bó cảm giác” [161]. Hội thảo này đã tạo ra một cái nhìn mới trong việc nhìn nhận
sáng tác của hai nhà văn Nhật này tại Việt Nam.
Ngày 05 tháng 01 năm 2008, trong chuyến thăm Nhật Bản qua lời mời của
Trung tâm Giao lưu văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam Japan Foundation, phóng viên
báo Thanh niên đã có dịp phỏng vấn nhà văn Takahashi Genichiro, nhà văn đương
đại đồng thời là Giáo sư khoa Quốc tế, Đại học Meiji, Nhật Bản. Ông đã đề cập đến
tác gia Y. Banana trong phần trả lời phỏng vấn. Ông nói về sự đồng cảm của mình
khi đọc M. Haruki và Y. Banana. Ông có nói đến phản ứng phê phán của công
chúng đối với thế hệ nhà văn của ông (cùng với M. Haruki, Y. Banana...) vì cho
rằng quá lai Mĩ, quá đồng cảm với chủ nghĩa tư bản, văn chương không đẹp như
trước đây, cho rằng thế hệ nhà văn này đã đoạn tuyệt với những nhà văn duy mĩ của
Nhật Bản, ít học hỏi và thiếu quý trọng nền văn học trước đó. Tuy nhiên, ông cũng
thẳng thắn bày tỏ quan điểm: “[...] Từ thập niên 1980, văn học Nhật Bản không còn
loại văn học nào gọi là chính thống hay không chính thống. Ai tự nghĩ điều gì thì cứ
viết ra, tiểu thuyết xuất hiện một cách tự do. Một tình trạng hoàn toàn tự do cho đến
ngày nay. Tôi là một trong những nhà văn của thế hệ này và tôi nghĩ mình đã làm
tốt” [173]. Phát biểu của nhà văn Takahashi Genichiro thú vị ở chỗ với tư cách là
một người có cùng “tình thế” và cùng thế hệ như Y. Banana, ông muốn kết nối văn
học đại chúng với những sự thể nghiệm giá trị thẩm mỹ tinh hoa trong một nỗ lực
20
đổi mới văn chương đương đại, bởi họ hoàn toàn “được” tự do sáng tạo và còn
“buộc phải” tự do tìm kiếm những cái khác với chính thống, khác với những chuẩn
mực đã có. Vì thế, những phát biểu của nhà văn này đã xác lập những chìa khóa
quan trọng để mở cánh cửa văn chương Nhật Bản đương đại.
Tháng 7 năm 2008, có bài viết của Emerald Louise King, Đại học Tasmania
(Úc), ngành nghiên cứu ngôn ngữ và học thuật châu Á với tựa đề Những vấn đề
nóng hổi của giới trẻ: Viết lại về người phụ nữ trẻ Nhật Bản trong thế kỉ mới viết về
những nữ tác giả Nhật Bản hiện đại như Wataya Risa, Kanehara Hitomi, Aoyama
Nanae, Kawakamai Mieko, tác giả có so sánh họ với Yamada Eimi và Y. Banana
với những đánh giá tích cực cho những đóng góp của bà. Theo đó, Y. Banana được
đánh giá là một cây bút đã định hình thành công, cùng với Yamada Eimi. “Nhân vật
chính trong sáng tác của Y. Banana, bất kể tuổi tác, không bao giờ là người lớn.
Những tác phẩm của bà quan tâm đến cuộc đấu tranh của nhân vật để vượt qua
đường ranh và trở thành người lớn” [133, 6].
Từ ngày 16 tháng 09 đến ngày 29 tháng 09 năm 2009, nằm trong khuôn khổ
các hoạt động năm Giao lưu Nhật Bản – Mê Kông, của tổ chức giao lưu văn hóa
Nhật Bản tại Việt Nam Japan Foundation, chương trình tọa đàm với chủ đề Tiếp
nhận văn học nước ngoài trong bối cảnh hội nhập quốc tế đã lần lượt diễn ra tại Hà
Nội, Huế và TP. HCM do Numano Mistuyoshi đến từ Đại học Tokyo, Nhật Bản chủ
trì. Đây là cơ hội để các nhà văn, các dịch giả, các độc giả có cái nhìn toàn diện về
văn học Nhật Bản cũng như đi tìm sự giao thoa, hợp tác giữa hai nền văn học Nhật
Bản - Việt Nam. Theo Numano, từ khi ra đời vào đầu thế kỉ thứ VIII đến nay, văn
học Nhật Bản luôn xuôi theo một dòng chảy nhất quán, mặc dù trải qua vô số biến
thiên (từng có những thay đổi lớn nhưng chưa bao giờ hoàn toàn đứt đoạn), nó vẫn
được kế thừa với tư cách một nền văn học đồng nhất được viết bằng tiếng Nhật.
Mặc dù khi đánh giá Top 10 tiểu thuyết gia cận hiện đại Nhật Bản, Numano không
đặt vào một cái tên nữ nhà văn nào, nhưng ông cũng cho rằng, “có thể thấy sự đóng
góp nổi bật của các nhà văn nữ như: Tsushima Yuko, Takamura Kaoru, Yamada
Eimi, Y. Banana, Tawada Yoko, Ogawa Yoko, Kawakami Hiromi, Kakuta Mistuyo,
Ekuni Kaori, Kanehara Hitomi, Aoyama Nanae… và tương lai văn học Nhật Bản cũng
21
vẫn được gánh vác bởi những tay viết nữ như vậy” (Lương Việt Dzũng dịch) [65, 1].
Năm 2009 có công trình của tác giả Martin Ramsay, Đại học Công nghệ
Swinburne, Úc với tựa đề Nhân vật chính trong trạng thái cô lẻ: Những cách thức
mới của tiểu thuyết Y. Banana. Thông qua việc chỉ ra người phụ nữ và vai trò giới
tính của họ trong xã hội Nhật Bản đương đại, luận án hướng đến Y. Banana và nền
văn học đương đại Nhật Bản, trong đó có đề cập đến văn hóa shoujo như là một vấn
đề nổi bật trong văn hóa đại chúng Nhật Bản. Ngoài chương 1 nói về Phụ nữ, vai
trò về giới trong xã hội Nhật Bản đương đại và chương 4 đề cập đến Phía bên kia
thế giới khép kín của shoujo, chương 2 và chương 3 của luận án quan tâm xem xét
các biểu hiện của văn hóa shoujo trong sáng tác của Y. Banana. Cụ thể, ở chương 2
với tiêu đề Yoshimoto Banana và văn học Nhật Bản đương đại, tác giả có đề cập
đến Văn hóa shoujo: gương mặt búp bê của nữ quyền luận ở Nhật Bản và ở chương
3 với tiêu đề Thế giới khép kín của shoujo: từ Nhà bếp đến Amrita, tác giả có đề cập
đến Ảnh hưởng của manga đến phong cách viết của Y. Banana. Có thể nói, đây là
công trình rất liên quan đến đề tài của luận án. Luận án đã chỉ ra nhiều ý kiến, quan
điểm của các nhà phê bình văn học về khái niệm shoujo, khái niệm manga và những
ảnh hưởng của Yoshimoto từ manga. Công trình thể hiện sự phác họa chung về Y.
Banana trong vai trò là một nhà văn có phong cách thể hiện mới, chịu ảnh hưởng
của văn hóa shoujo, manga. Tác giả miêu tả, tổng thuật những tác giả đã bàn về nội
dung này, chia thành rất nhiều những nội dung phong phú để cho thấy Y. Banana
vừa là một tác giả trong thế giới khép kín của shoujo, vừa ra khỏi thế giới khép kín
ấy. Luận án chia thành nhiều ý nhỏ, các tiêu đề chủ yếu thể hiện theo cách liệt kê,
mỗi tiểu mục chỉ có dung lượng khoảng 3 đến 5 trang. Phần nội dung viết về Ảnh
hưởng của manga đến phong cách viết của Y. Banana khá mỏng (4 trang), giới
thiệu hai biểu hiện của sự ảnh hưởng từ manga của sáng tác Y. Banana là việc sử
dụng những hình ảnh thị giác (visual imagery) và những cảm giác của (nhân vật)
manga. Tác giả nêu luận điểm và chứng minh ngắn gọn. Công trình đã khơi mở và
xác tín rất nhiều nội dung quan trọng có liên quan đến đề tài luận án.
Tháng 05 năm 2015, trong tạp chí Nghiên cứu giáo dục và xã hội, Nhà xuất
22
bản MCSER (Rome, Italy) có bài viết Tôi thích một thế giới không có đàn ông hơn:
một nghiên cứu về ngôn ngữ, giới, và tài năng của những cây bút nữ Nam Á được
viết bởi nhóm tác giả: Zainab Akram, Naheed Qasim, Hajira Masroor và Shehnaz
Mehboob (cùng là người Pakistan). Bài viết khảo sát chủ yếu ba tác giả: tác giả
Nhật Bản Y. Banana với truyện ngắn Mới cưới – Newlywed, tác giả Trung Quốc
Ding Ling với tác phẩm Khi tôi ở làng Xia – When I was in Xia village và tác giả
Hàn Quốc Krys Lee với tác phẩm Hôn nhân chốc lát – Temporary Marriage.
Đương nhiên, đây là bài viết về vấn đề nữ quyền, và cũng chỉ khảo sát trên một
phạm vi nhỏ trong sáng tác của Y. Banana. Nhưng bài viết cũng giúp cho người đọc
đánh giá được rõ nét hơn về vị trí, vai trò của Y. Banana trên văn đàn thế giới.
“Khái niệm về người phụ nữ tùng phục bị thách thức không theo cách quyết liệt mà
là thông qua việc từ chối nhận vai người lớn. […] Các chủ đề chính về sự mất mát,
cái chết và tìm một sự sống mới, cách sử dụng ngôn ngữ và những kĩ thuật mượn
từ văn hóa đại chúng (người viết nhấn mạnh), sự quan tâm đến vấn đề chữa lành,
sự tìm kiếm ý nghĩa tinh thần và sự tái kết nối với thiên nhiên…, tất cả điều đó có
một ý nghĩa tích cực trong thời đại mà cấu trúc cộng đồng và gia đình đang bị phá
vỡ.” [187, 228]
Năm 2011, công trình của Nguyễn Thị Huỳnh Trang, Đại học Sư phạm, TP.
HCM với đề tài Tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật trong tác phẩm của Y. Banana đã
xem xét tác phẩm của Y. Banana từ góc nhìn thi pháp học, tìm hiểu nghệ thuật trong
tác phẩm của Y. Banana thông qua ba hệ thống chính yếu: nhân vật, không - thời
gian và phương thức kể chuyện, trong đó có nhắc đến sự chi phối của mĩ cảm
kawaii – một yếu tố được cho là ảnh hưởng của văn hóa đại chúng. Tuy nhiên, luận
văn chỉ dừng lại ở ý tưởng và đặt vấn đề, chưa thâm nhập vào khái niệm này như
một khía cạnh thẩm mĩ chi phối đến quan điểm sáng tác và các giá trị nội dung,
nghệ thuật của tác phẩm.
Năm 2014, Trần Hương Trà trong công trình: Tiểu thuyết Vĩnh biệt Tugumi
từ góc nhìn hội họa manga shoujo đã quan tâm đến các yếu tố của manga shoujo
23
như đề tài, chủ đề, bố cục, nhân vật, không gian, thời gian được biểu hiện như thế nào
qua tác phẩm của Y. Banana. Tác giả luận văn chỉ ra tính chất của shoujo manga trong
tiểu thuyết này, như là một đặc điểm tiêu biểu trong sáng tác của Y. Banana.
Năm 2015, Nguyễn Thị Mai Liên có bài viết nhan đề: Hạ đỏ của Nguyễn
Nhật Ánh và Tugumi của Y. Banana từ góc nhìn manga shoujo đăng trong Nguyễn
Nhật Ánh hiệp sĩ tuổi thơ, NXB Đại học Quốc gia. Bài viết đã chỉ ra một điểm
tương đồng thú vị giữa Hạ đỏ của Nguyễn Nhật Ánh với tiểu thuyết Tugumi của Y.
Banana là những yếu tố của truyện tranh manga shoujo như đề tài, tình huống
truyện, chủ đề, bố cục, hình tượng nhân vật và bức tranh thiên nhiên. Người viết
cho rằng, những yếu tố đó đã giúp các nhà văn truyền tải những bức thông điệp
thấm đẫm tinh thần nhân văn. Đó cũng là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn, sức lan tỏa
theo hướng toàn cầu hóa của tác phẩm.
1.3. Đánh giá khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Qua khảo sát, thống kê, ghi nhận và tổng hợp những tư liệu, những công
trình khoa học tại Nhật Bản và trên thế giới có liên quan đến đối tượng mà luận án
hướng đến, cụ thể là những công trình có thể giúp chúng ta đánh giá được vị trí, vai
trò, tầm ảnh hưởng của Y Banana trên văn đàn; những công trình nghiên cứu về văn
hóa kawaii, thẩm mĩ kawaii, và những công trình nghiên cứu mối liên hệ giữa thẩm
mĩ kawaii với sáng tác của Y. Banana, chúng tôi rút ra những kết luận như sau:
Về khái niệm kawaii, có khá nhiều các công trình nghiên cứu quan tâm.
Các công trình nghiên cứu về kawaii nở rộ chủ yếu từ đầu thế kỉ XXI, chủ yếu đi
tìm và chỉ ra bản chất của kawaii. Các tác giả khi thì đặt kawaii trong mối liên hệ
với các khái niệm tương đồng để so sánh (như cool, cute), khi thì đặt kawaii trong
“trường cộng hưởng” của nó: vùng văn hóa đại chúng, truyền thông đa phương tiện,
văn hóa shoujo (văn hóa thiếu nữ) và shoujo manga (truyện tranh dành cho thiếu
nữ). Qua việc khảo sát các công trình này, người nghiên cứu có thể tìm được những
“mã” của khái niệm kawaii một cách xác hợp. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
về kawaii đa phần nhìn kawaii từ góc độ văn hóa đại chúng và tiêu thụ hàng hóa,
còn ở góc độ văn hóa – văn học, gắn liền với thẩm mĩ thì chỉ số ít công trình quan
24
tâm, chủ yếu nhìn từ hiện tượng, sự ảnh hưởng trong đời sống chứ chưa đi vào lí
giải vì sao kawaii được xem là thẩm mĩ của người Nhật hiện đại cũng như sự tác
động của thẩm mĩ ấy tới văn học.
Về mối quan hệ giữa sáng tác của Y. Banana với thẩm mĩ kawaii:
Trước hết, các công trình nghiên cứu đều cho thấy Y. Banana là một trong những
cái tên đang và đáng được quan tâm ở Nhật Bản cũng như trên thế giới, nhất là
trong hai mươi năm trở lại đây (nghĩa là sau khi Y. Banana chính thức cho ra mắt
tác phẩm của mình được khoảng mười năm thì công chúng văn học bắt đầu có sự
bùng nổ trong tiếp nhận Y. Banana). Tác phẩm của Y. Banana đã từng là đối tượng
nghiên cứu của những luận văn, luận án ở nhiều nước có nền học thuật rất phát triển
như Mĩ, Úc, Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, Canada... và đương nhiên còn ở
nhiều nước khác nữa (như chúng tôi đã đề cập). Các bài viết có liên quan đến Y.
Banana giúp người nghiên cứu có những xác tín quan trọng về Y. Banana trên văn
đàn Nhật Bản với vai trò tiên phong (cùng một số nhà văn khác), thể nghiệm những
lối viết mới, làm nên diện mạo của văn chương thế giới đương đại. Tuy nhiên, các
công trình đa phần xoay quanh các vấn đề về nội dung, chủ đề trong tác phẩm của
Y. Banana, các vấn đề về nữ quyền hoặc đi vào tìm hiểu một tác phẩm cụ thể ở một
phương diện nội dung nào đó. Nhìn chung, các học giả đều cho rằng, sáng tác của
Y. Banana có những điều thuộc về văn hóa phổ biến (manga, văn hóa shoujo), cũng
như thể hiện rất rõ nét một thẩm mĩ của Nhật Bản đương đại – kawaii. Bằng cách
này hay cách khác, các công trình nghiên cứu đã gợi mở những vấn đề có liên quan
đến đề tài mà luận án đang thực hiện. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chỉ
dừng lại ở một số phương diện sau:
♦ Chỉ xem xét tác phẩm của Y. Banana ở cách đánh giá khái quát, về các vấn
đề khá tản mạn như chủ đề gia đình, giới tính, vai trò của giới tính nữ trong xã hội
Nhật Bản đương đại hoặc về lối viết nhẹ nhàng, giàu cảm xúc (dừng lại ở những lời
bình giá, nhận xét).
♦ Khi nói đến mối liên hệ giữa kawaii với sáng tác của Y. Banana, các tác
giả chỉ đề cập qua song chưa nói rõ Y. Banana đã ảnh hưởng như thế nào (với
25
những biểu hiện cụ thể), chỉ giới thiệu để chuyển dẫn đến vấn đề về vai trò của Y.
Banana trong nền văn học đương đại Nhật Bản. Do đó, các công trình chưa chỉ ra
được việc Y. Banana đã hấp thụ nền văn hóa đại chúng như thế nào (trong đó có
26
kawaii) và đóng góp cho nền văn học tinh hoa ra sao.
Tiểu kết chương 1
Như vậy, nhìn chung, các công trình nghiên cứu của người đi trước đã mở ra
cho người nghiên cứu những cơ hội để khai thác vấn đề kawaii trong sáng tác của
Y. Banana. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
thẩm mĩ kawaii trong tác phẩm của Y. Banana như một đối tượng nghiên cứu chính,
từ đó giải mã những tín hiệu thẩm mĩ độc đáo trong sáng tác của Y. Banana và tìm
đến các thang bậc giá trị mới trong thế giới nghệ thuật của nữ tác gia này. Đây chính là
khoảng trống khoa học mà luận án này muốn hướng đến giải quyết.
Từ những mảnh ghép rời rạc là những ý tưởng được gợi lên từ những công
trình đi trước, luận án hướng đến việc kết nối các ý tưởng lại trong một sợi dây
chung khả dĩ: thẩm mĩ kawaii như một thứ ánh sáng soi lối cho những trang viết của
Y. Banana. Điều này cho thấy, có những hiện tượng văn hóa được xem là không
chính thống nhưng lại liên hệ mật thiết với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của
nước Nhật hiện đại và con người hiện đại chấp nhận nó (một cách chủ động).
Y. Banana, nhà văn xuất hiện vào cuối những năm 1980 đã sống, đã lớn lên
trong vùng văn hóa đó và bà mang hơi thở của cuộc sống đương đại ấy vào trong
sáng tác của mình. Đó là một lối đi rất khác so với văn học tinh hoa, văn học truyền
thống, nhưng lại không phải là văn học thị trường, câu khách dễ dãi. Ngược lại,
bằng cách riêng của mình, Y. Banana đã giúp người đọc xác định lại ranh giới của
các giá trị văn học thuần túy (pure) Nhật Bản, thúc đẩy họ tiến tới một dạng văn học
mới. Với thẩm mĩ kawaii, có thể thấy, dễ thương hóa cuộc sống không phải là mốt
nhất thời của người Nhật, càng không phải là một trò giải trí mang tính quốc gia.
Kawaii đã trở thành đặc điểm văn hóa của nước Nhật và người Nhật hiện đại.
Chúng tôi muốn khám phá: khi Y. Banana tham gia vào môi trường của kawaii, rồi
cũng chính Banana trở thành một nhà viết văn mang với lối viết đậm chất kawaii,
thì bà đã vừa hấp thụ vừa tạo nên cái mới như thế nào. Nói cách khác, trong tư cách
hai vai: vai công chúng và vai người sáng tạo, Y. Banana đã tạo ra một dấu nối
tương đương từ mã đặc thù của kawaii đến những sáng tác của mình để rồi không
dừng lại ở đó với cấp độ mô phỏng hay minh họa, Y. Banana đã sáng tạo chúng
27
trong văn chương để đem đến những giá trị đẹp cho con người đương đại.
Chương 2
THẨM MĨ KAWAII
Ở chương 1, luận án đã tổng thuật những công trình nghiên cứu đi trước có liên
quan đến đề tài của luận án. Khi xem xét kawaii như một phạm trù thẩm mĩ chi phối
toàn bộ các vấn đề từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật trong sáng tác của
Y. Banana, chương 2 của luận án sẽ làm rõ các khái niệm “thẩm mĩ”, “kawaii”, từ
đó xác định kawaii là một phạm trù thẩm mĩ, một hệ giá trị chi phối mĩ cảm của
người Nhật hiện đại. Bên cạnh đó, chương 2 của luận án sẽ bàn về lịch sử của khái
niệm kawaii, nhìn nó trong dòng chảy văn hóa – xã hội Nhật Bản, trong mối liên hệ
với những thẩm mĩ truyền thống Nhật Bản và cả trong bối cảnh giao thoa của văn
hóa thế giới. Tìm được bản chất của kawaii là gì, tức là đi tìm được những mã khóa
của kawaii, luận án có được những tiền đề khoa học cần thiết để đặt các vấn đề về
sáng tác của Y. Banana dưới sự chi phối của thẩm mĩ kawaii.
2.1. Khái lược về thẩm mĩ kawaii
2.1.1. “Thẩm mĩ” (“aesthetics”)
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học Việt Nam, “thẩm mĩ là cảm
thụ và hiểu biết về cái đẹp” [88, 922]. Từ ngữ này trong tiếng Anh là “aesthetics”,
được sử dụng bao quát cả ý nghĩa “thẩm mĩ” và “mĩ học”. Theo Từ điển Anh – Anh
American Heritage [183], “aesthetics” có hai nét nghĩa chính: a. Một phân nhánh
của triết học, nội dung có liên quan đến bản chất, biểu hiện và nhận thức về cái đẹp,
ví dụ những nghiên cứu về mĩ thuật, nghệ thuật hội họa; b. Nghiên cứu về những
phản ứng tâm lí đối với cái đẹp và những trải nghiệm nghệ thuật; a. Một quan
niệm về cái có giá trị hiện thực thực sự hay là đẹp; b. Một sự hiện diện đẹp hay dễ
chịu về phương diện nghệ thuật. Mặc dù khái niệm này có nhắc đến khá nhiều về
cái Đẹp, nhưng cần hiểu: thứ nhất, cái Đẹp viết hoa theo nội hàm ý nghĩa rất phổ
quát của nó; thứ hai: thẩm mĩ và cái đẹp là hai khái niệm không đồng nhất. Nói tới
thẩm mĩ là nói tới một quan năng, tức khả năng tri nhận cái đẹp, dựa vào cảm xúc
và trí tưởng tượng. Theo Immanuel Kant (1724 – 1804), “cái đẹp chính là cái lí
28
tưởng được số đông xã hội chấp nhận, yêu mến, hài lòng nhưng cái đẹp lại mang
tính chủ quan, phụ thuộc nhiều vào cảm xúc của con người, do đó không có tiêu chí
chung cho cái đẹp” [48, 58]. Trong cả hệ thống triết học mà Kant xây dựng để con
người nhận thức thế giới và bản thân, thì nhận thức thẩm mĩ chiếm một vị trí quan
trọng. Theo Kant, phán đoán thẩm mĩ không phải là một phán đoán nhận thức, do
đó không có tính logic, mà có tính thẩm mĩ, được hiểu là một phán đoán mà cơ sở
của nó không thể là gì khác hơn ngoài chủ quan. Quan điểm này của Kant tiếp nối
quan điểm của A. Baumgarten (1714 – 1762) cho rằng cái đẹp được đánh giá bằng
cảm giác, không phải bằng lí trí. Tuy cái đẹp không có tiêu chuẩn phổ biến nhưng
có thể có cảm quan chung đối với cái đẹp, gọi là cảm quan chung thẩm mĩ (sensus
communis aestheticus). Và cảm quan chung ấy mang tính phổ biến chủ quan. Như
Kant khẳng định, “Có một tính hợp quy luật mà không có quy luật, và một sự hài
hòa chủ quan giữa trí tưởng tượng và giác tính mà không có một sự hài hòa khách
quan. [...] Mọi cái hợp quy tắc cứng nhắc tự chúng có cái gì đi ngược lại với sở
thích (tức cái thẩm mĩ – người viết).” [48, 58]
Như vậy, bản thân cái đẹp không phải là không có phép tắc riêng của nó,
không phải chỉ thuộc về cảm giác riêng của từng người mà chúng còn có quan hệ
với nhân quần xã hội. Thẩm mĩ là nơi tập trung những phép tắc ấy, thể hiện những
mối quan hệ ấy. Nó hình thành cho con người những quan niệm về cái đẹp, từ đó có
thể luyện cho con người có tài thẩm mĩ, có lòng ái mĩ. Đứng trước cái đẹp / xấu,
thẩm mĩ trở thành hệ giá trị, thành thước đo để con người đối chiếu và thẩm định,
đánh giá. Đây là một nội dung có ý nghĩa quan trọng bởi nó liên quan đến những
biểu hiện đa dạng, phong phú, thậm chí có những lúc trái ngược nhau, có những lúc
đi lệch pha với những hệ giá trị khác như đạo đức, sự thực..., vì đơn giản, cái thẩm
mĩ có hệ giá trị và những thang đo lường của riêng nó. Cũng cần phân biệt, đẹp
không giống với thích. Cái gì ta thích không nhất thiết phải đẹp. Đẹp cũng không
giống với ích lợi, vì đẹp không có mục đích và không theo mục đích nào cả. Có
những cái vô ích mà đẹp thì con người vẫn quý chuộng. Đẹp cũng không giống với
thực. Sự thực tuy là một phần trong cái đẹp nhưng không phải sự thực nào cũng
29
đẹp. Nhà thơ Pháp Boileau nói: “Không cái gì đẹp bằng sự thực”, nhưng sự thực
phải gợi lên mĩ cảm mới gọi là đẹp được. Cho nên, nói như Platon thì đúng hơn:
“Cái đẹp ấy là cái vẻ rực rỡ của sự thực”. Đẹp cũng không giống với thiện (lành,
đạo đức).
Ở đây, cần chú ý lập luận của Kant và những người nghiên cứu mĩ học:
“đẹp” như một thuộc tính khách quan vì có những đại lượng chỉ ra được, nhưng
việc đánh giá / phán đoán về đối tượng như thế nào lại thuộc về sự chủ quan của
người tiếp nhận, được gọi là “thẩm mĩ”. Do vậy thẩm mĩ chỉ một quan hệ tương tác
hai chiều, nhưng không đồng nhất với “sở thích” vốn chỉ hoàn toàn có tính chất chủ
quan. Thẩm mĩ còn chứa kích thước “cộng đồng”, để từ đó có thể nhận ra rằng mỗi
cá nhân đưa ra phán đoán hay mỗi sự vật được phán đoán phải nằm trong những
khu vực ảnh hưởng của cộng đồng đó. Từ đó, có thể nhận ra rằng bản thân khái
niệm thẩm mĩ phải được nhận ra ở ba chiều kích:
Bản thân đối tượng (sở thích, gu thẩm mĩ). “Ai không chịu nô lệ cho thời trang
nhất thời mà tự mình có năng lực phán đoán về cái đẹp, người ấy chứng tỏ mình có
sở thích hay có gu thẩm mĩ, vì thế, phán đoán thẩm mĩ về cái đẹp cũng được gọi là
phán đoán sở thích.” [48, 31] Đây là bình diện đầu tiên giúp ta phân biệt phán đoán
thẩm mĩ với phán đoán logic, còn gọi là phán đoán nhận thức, để khẳng định thuộc
tính khách quan của đối tượng. Phán đoán sở thích có liên quan đến cảm trạng của
người đang nhận xét, có sự hài lòng, sự dễ chịu với đối tượng. Rõ ràng, hài lòng, dễ
chịu không phải là một thuộc tính của đối tượng, mà là một trạng thái của chủ thể.
Những phán đoán / thước đo của cộng đồng. Thẩm mĩ còn chứa kích thước
cộng đồng, để từ đó có thể nhận ra mỗi cá nhân đưa ra phán đoán hay mỗi sự vật
được phán đoán phải nằm trong những khu vực ảnh hưởng của cộng đồng đó. Sở
thích cá nhân chỉ giữ vai trò tạm thời và thứ yếu trong việc phán đoán về cái đẹp, và
về nguyên tắc, phải được thay thế bằng một phán đoán của giác tính có giá trị phổ
biến. Kant vừa khẳng định tính chủ quan của phán đoán thẩm mĩ, vừa cho rằng
“trong phán đoán thẩm mĩ, tức một cái phổ biến, những đối tượng vẫn được thẩm
định dựa theo một quy tắc, tức một cái phổ biến, nhưng không phải dựa theo các
30
khái niệm khoa học hay các nguyên tắc luân lí, gọi là cái phổ biến chủ quan” [48,
35]. Nghĩa là, cái đẹp phải được hình dung như là đối tượng của một sự hài lòng
phổ biến (xét về mặt lượng).
Những phản ứng / phán đoán của cá nhân (khả năng nhận thức của bản
thân đối với những sở thích cá nhân và những quy chuẩn cộng đồng) – tức tính
cá biệt. “Trái với sản phẩm của nghệ thuật máy móc (chẳng hạn: mĩ nghệ thủ công)
xuất phát từ sự áp dụng các quy tắc phổ biến, sản phẩm của mĩ thuật tỏ ra thoát li
khỏi mọi cưỡng chế của các quy tắc như thể đó là một sản phẩm của Tự nhiên đơn
thuần.” [48, 36] Với một tác giả văn học, thẩm mĩ phải là thứ được nhận thức, chọn
lọc, từ đó có thể tiếp nhận và sáng tạo, nếu không, nó chỉ dừng lại là sở thích thông
thường. Nghĩa là, ở khâu này, có sự tham gia của lí trí, của ý đồ nghệ thuật ở nhà
văn chứ không đơn thuần là cảm tính nữa. “Ở đây, thẩm mĩ không phải là những
“vườn trồng tiêu ngay hàng thẳng lối” cho giác tính mà là thiên nhiên phong phú vô
hạn không chịu phục tùng quy tắc nhân tạo nhào hết để mang lại dưỡng chất lâu
bền cho sở thích. Như thế, cái cá biệt, đơn lẻ thể hiện cả nơi cái đẹp tự nhiên lẫn cái
đẹp nghệ thuật” [48, 36]. Tuy nhiên, tính cá biệt độc đáo không đồng nghĩa với tính
vô quy tắc và vô chính phủ: một mặt, việc sáng tạo nên các nghệ phẩm riêng lẻ, độc
nhất vô nhị hầu như là sự biệt đãi để thoát khỏi sự ràng buộc của các quy tắc phổ
biến, vì các quy tắc này chỉ làm suy yếu sức bật của tinh thần. Nhưng mặt khác,
theo Kant, “không có ngành mĩ thuật nào lại không có trong mình điều gì đấy có
tính máy móc”, tức có điều gì đấy có tính trường quy (schulgerecht) tạo nên điều
kiện cơ bản cho nghệ thuật, và “chỉ có những đầu óc nông cạn mới tin rằng, họ có
thể chứng tỏ mình là những thiên tài phát tiết khi vứt bỏ hết sự cưỡng chế trường
quy của mọi quy tắc và tin rằng có thể thao diễn tốt hơn trên lưng một con ngựa
chứng hơn là trên lưng một con ngựa đã thuần” [48, 38].
2.1.2. “Kawaii”
2.1.2.1. Nguồn gốc khái niệm “kawaii”
Tác giả Inuhiko Yomota phân tích nguồn gốc của kawaii bắt đầu được nói
đến trong quyển Sách gối đầu (Pillow Book), do Sei Shonagon (966 – 1017) thời
31
Heian viết, Arthur David Waley dịch. Waley đã chọn cách dịch từ うつくし
[Ustukushi], sang tiếng Anh là pretty, có thể hiểu là đẹp, chỉ về một ai đó rất hồn
nhiên, một đứa trẻ, một sự trong trẻo, và cả những ai cần sự bảo vệ từ người lớn.
Sau đó thì khái niệm kawaii tiếp tục được phát triển trong thời Edo (1603 – 1868) trong
những vở kịch Kabuki nổi tiếng, và tác giả Osamu Dazai, được hiểu như là những cảm
xúc thẩm mĩ về những gì nhỏ nhắn, mong manh, và cần được bảo vệ. I. Yomota chỉ rõ,
“một người có tính cách kawaii không phải là một người trưởng thành, không phải là
một người đẹp, mà nữ tính, trẻ con, ngoan và trong sáng” [144, 7].
Không giống như I. Yomota, Reiko Koga, Đại học Bunka Joshi, trong công
trình nghiên cứu của bà về kawaii có tên là Đế chế kawaii: thời trang, truyền thông
đa phương tiện và những cô gái (NXB. Seido), cho rằng nguồn gốc của kawaii là từ
văn hóa thiếu nữ (shoujo), “thứ được hình thành vào cuối thời Minh Trị (Meiji) và
kéo dài đến đầu thời Đại Chính (Taisho)” [142, 7]. Koga đã nhấn mạnh quan điểm
của mình thông qua những phân tích lịch đại về kawaii từ khi nó bắt đầu được sử
dụng đến nay, chạm vào khía cạnh truyền thông đa phương tiện. “Văn hóa thiếu
nữ”, theo Koga, gắn liền với các khái niệm 清く[Kiyoko], 正しく[Tadashiku], 美し
く [Utsukusiku], nghĩa là Trong khiết (Purity), Chân thành (Honesty) và Đẹp
(Beauty) sau Thế chiến thứ II.
2.1.2.2. Những cách hiểu, cách đánh giá về kawaii
Numano Mistuyoshi trong bài nói chuyện ở Việt Nam năm 2009 đã nói lên
cách đánh giá của ông về kawaii: “Thịnh hành nhất hiện nay là ý thức thẩm mĩ được
thể hiện bằng một từ tối tân và đầy chất hiện đại: kawaii, một tính từ được dùng từ
xa xưa để biểu đạt tình cảm quý mến dành cho trẻ nhỏ hoặc những gì xinh xắn, có
vẻ ngoài đáng yêu và có thần thái dễ thương, trong sáng. Tuy nhiên, ngày nay, nó
đã được dùng rộng rãi trong những hoàn cảnh khác nhau, tựu trung lại là vẻ đẹp
đáng yêu, một kiểu mĩ học thường thấy trong manga (truyện tranh), anime (phim
hoạt hình). Ngày nay, nó trở thành câu nói cửa miệng của các teen Nhật để nói về
những thứ mình thích hay khen một cái gì đó hay.” [189]
Về mặt từ ngữ, kawaii (かわいい) viết theo kí tự Kanji là khả ái (可愛い).
32
Nó bắt nguồn từ cụm từ kao tsukushi, nghĩa là khuôn mặt rạng rỡ. Kawaii có hàm ý
nói về cảm giác giống – như – trẻ - con, bao gồm cảm giác ấm áp, được che chở; kết
nối với thời thơ ấu của một con người. Thời thơ ấu gắn liền với vẻ đẹp sơ khai và sự
tự do, trong sáng. Một thứ cảm xúc được coi là kawaii thì thứ đó phải gây một tác
động thị giác mạnh mẽ và tạo cho người nói một cảm xúc tích cực. Kawaii khá gần
với khái niệm cute hay lovely của tiếng Anh, nhưng lại không hoàn toàn trùng khít
với các khái niệm ấy. Dù Hán tự của từ ngữ này là Khả ái nhưng người Nhật lại
thích viết bằng chữ Hiragana hơn (vì chữ Hiragana tạo sự mềm mại và có nguồn
gốc bản địa). Điều đó gợi nên nội hàm kawaii có ý nghĩa nội sinh, là một đặc điểm
gắn liền với mĩ cảm riêng của xứ sở anh đào. Kawaii gắn liền với tính chất nhỏ
nhắn, xinh xắn. Nó có xu hướng nói đến những gì mềm mại, tròn, những màu sắc
thanh nhã (màu hồng hoặc màu nhạt), gắn liền với sự mong manh, nữ tính. Ở Nhật
Bản, những nhân vật hoạt hình ma quỷ xấu xí và nhỏ nhắn, mèo Kitty, ngôi sao
nhạc nhẹ, những bé con ... đều có thể được gắn với từ kawaii. Kawaii còn đang tạo
cho riêng mình một hệ thống ngôn ngữ kèm theo: kimokawaii (từ ghép giữa
kimochiwarui – xấu xa, nổi dậy và kawaii để chỉ những nhân vật hoạt hình ma quỷ
vừa xấu xí lại vừa kháu. Chính vì vậy, kawaii không thể dịch hoàn toàn sang ngôn ngữ
khác được, nhất là ngôn ngữ phương Tây. Người ta chỉ có thể tìm thấy khi tra kawaii
trong tự điển các từ mà bản thân chúng cũng mâu thuẫn lẫn nhau: kháu, quan trọng,
xinh, đẹp... Kawaii được hiểu như một phạm trù thẩm mĩ rất riêng của người Nhật,
không đồng nhất với các khái niệm của phương Tây hoặc của một đất nước nào.
Theo nhà xã hội học Sharon Kinsella, trong quyển Những nét đáng yêu ở
Nhật Bản, “dễ thương, về bản chất, là giống trẻ con, bao gồm ngọt ngào, đáng yêu,
ngây thơ, đơn giản, thành thật, yếu ớt và thiếu từng trải về các hành vi xã hội cũng như
thể chất” [143, 220]. Nói chung, đó là tính cách như trẻ con và mong manh, nhẹ nhàng
trong cảm xúc của người đối diện. Kinsella chỉ ra rằng, những ước mơ mãnh liệt của
giới trẻ Nhật Bản, được bao bọc trong văn hóa dễ thương, là vượt thoát khỏi những
điều khắt khe ảnh hưởng đến cuộc sống của họ như chủ nghĩa khắc kỉ, trách nhiệm,
chịu đựng những điều kiện khắc nghiệt, làm việc cật lực, và những nghĩa vụ...
Trong xã hội hiện đại, từ kawaii được dùng như một thuật ngữ mang xu
33
hướng đặc trưng nhất cho văn hóa Nhật, được phản ánh trong các khía cạnh của xã
hội như trang phục, ẩm thực, vật phẩm, lễ nghi, hành vi ứng xử… Theo Kan
Satoko, kawaii không chỉ tạo ra một kiểu văn hóa của những người trẻ sinh sau thập
niên 70 (thường là nữ) mà còn ảnh hưởng đến nội tâm, hành vi, lối sống của họ.
Nghĩa từ điển của Kawaii là “cảm giác được bảo vệ cho ai đó yếu hơn mình, nhỏ bé
hơn mình và mong muốn sẽ mang đến cho họ những điều kiện tốt hơn” [142, 200].
Tuy nhiên, người Nhật ngày nay, nhất là phụ nữ, sử dụng từ ngữ này với ý nghĩa
rộng hơn. Ví dụ, sinh viên trong trường Đại học Ochanomizu nơi bà đang dạy sẽ nói
câu “Teacher so and so kawaii” [Cô giáo thật là dễ thương] ít nhất một lần. Hơn
thế, họ còn nói câu này với cả những thầy giáo có tuổi, trong khi trước đó (về nguồn
gốc), từ này không dành cho người lớn tuổi và nam giới mà chỉ dành cho những
người nhỏ hơn và yếu ớt hơn. Vậy, điều gì làm thay đổi nghĩa của từ kawaii? Theo
Kan là do văn hóa nữ giới (onna no ko bunka / girl‟s culture). Sau năm 70, trào lưu
shoujo manga ra đời, chia làm hai dòng: những tác giả manga như Moto Hagio,
Keiko Takemiya, và Ryoko Yamagishi, những người được gọi là “24nengumi” vì
họ sinh ra vào thời Showa năm thứ 24 (1949). Đây là dòng hàn lâm. Tuy nhiên còn
có một dòng khác rất liên quan đến thuật ngữ kawaii, được khai phá bởi các tác giả
manga như Ako Mutsu, Yumiko Tabuchi, và Hideko Tachikake. Theo Hideshi
Otsuka, những tác phẩm của họ có thể gọi là otomechikko manga hay maiden‟s
manga, vì nó được viết bởi những tác giả nữ trẻ, và vì khái niệm kawaii được dành
để nói những cô gái trẻ ở Nhật Bản. Nhân vật nữ chính trong các tác phẩm manga
này thường nhút nhát, bình thường, không có sự thông minh gì đặc biệt. Họ không
đẹp, nhưng lại trông rất cute (dễ thương), không chỉ bên ngoài mà còn cả đời sống
bên trong và những suy nghĩ cũng rất cute. Otomechikku manga là thể loại manga
giúp cho phái nữ nuôi dưỡng sự tự tin về bản thân mình. Họ có thể sống theo cách
riêng của mình. Nói cách khác, họ không cần phải quá nổi bật, họ chỉ là chính họ và
không cần phải cố gắng để tốt hơn chính mình của hiện tại. “Bởi vì sự không hoàn
hảo mà bạn mới thật dễ thương.” [142, 201]
Tóm lại, kawaii là khái niệm mà ban đầu được dùng với ý nghĩa chỉ những gì
34
liên quan đến trẻ con hoặc chỉ vẻ đẹp của những sự vật nhỏ nhắn. Giờ đây, khái
niệm này ngày càng trở nên phổ biến rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống, từ
chữ viết, quần áo, thực phẩm, thời trang… đến cả những ý nghĩ, quan điểm sống và
tín ngưỡng. Trong văn hóa Nhật Bản đương đại, kawaii được xem là hệ giá trị có
mối liên quan đặc biệt đến văn hóa đại chúng nói chung và văn hóa shoujo (văn hóa
thiếu nữ) nói riêng vốn rất phổ biến ở xã hội Nhật Bản đương đại. Trong mĩ học,
kawaii được xem là một khái niệm thẩm mĩ, được đặt trên cùng một trục đường
thẳng với mono no aware, yugen, wabi, sabi… Thực tế, nó không mâu thuẫn với
các khái niệm mĩ học truyền thống, bởi đó đều là cảm xúc về cái đẹp, nhất là cảm
giác khó diễn tả bằng lời, trải nghiệm niềm vui từ những điều nhỏ nhặt, tinh tế.
2.2. Kawaii trong dòng riêng Nhật Bản
2.2.1. Những biểu đạt của kawaii trong đời sống văn hóa
Văn hóa kawaii ghi dấu trong các lĩnh vực nghệ thuật truyền thống Nhật
Bản. Những con thú nhồi bông đáng yêu được tạo ra bởi sự đan móc trong nghệ
thuật đan len Amigurumi. Những hình thú ngộ nghĩnh nhưng vô cùng tinh tế, kĩ
thuật được tạo ra từ nghệ thuật xếp giấy Origami, Kirigami. Những chiếc bình hoa
được cắm theo phong cách tối giản xinh xắn, dễ thương được tạo ra từ nghệ thuật
cắm hoa... Trong nghệ thuật Trà đạo, trong ẩm thực, người Nhật ghi dấu ấn đậm nét
với phong cách tinh tế, không lạm dụng quá nhiều gia vị mà chú trọng làm nổi bật
hương vị tươi ngon, tinh khiết, tự nhiên. Hương vị các món ăn Nhật thường thanh tao,
nhẹ nhàng và phù hợp thiên nhiên từng mùa. Đó chính là tinh thần của kawaii. Ngoài ra
kawaii cũng thể hiện trên hình thức trình bày những món ăn. Chúng ta có thể lấy ví dụ
là món bánh Wagashi, loại bánh đặc trưng cho phong cách ẩm thực sang trọng và tinh
tế bậc nhất của người Nhật. Bánh được tạo hình phỏng theo dáng các loài thực vật. Các
cánh hoa thường có hình dạng tròn, tạo hình mềm mại, tông màu pastel – là những
màu tạo cảm giác dịu mát, ấm áp, tạo cảm giác nhẹ nhàng, thanh khiết.
Kawaii trong ẩm thực của người Nhật còn được thể hiện ngay cả trong
những hộp cơm đầy màu sắc, công phu mà người đi học, đi làm hay mang theo để
ăn trưa vô cùng thuận tiện. Một hộp cơm Bento (thuận tiện) thường gồm cơm, cá,
35
thịt, rau củ, được sắp xếp và trang trí theo các hình ảnh đáng yêu, tinh nghịch như
các con vật, các nhân vật hoạt hình, các cô bé, cậu bé... Việc làm cho hộp cơm đáng
yêu, ngộ nghĩnh như thế không chỉ có tính giải trí, vui mắt, mà còn là cả một sự
sáng tạo, cả những tâm hồn lạc quan, thêm vào cho mỗi bữa ăn sự tươi mới, sống
động. Nó thể hiện nhu cầu tinh thần rất quan trọng của người dân Nhật Bản hiện đại
trước những áp lực ngày một lớn của đời sống công nghiệp và sự chênh chao của
các giá trị.
Kawaii cũng trở thành phong cách mới cho những làn sóng giải trí hàng đầu
như âm nhạc, thời trang và phim ảnh. Trong lĩnh vực thời trang, nữ sinh Nhật Bản
được biết đến nhiều với trang phục là chiếc váy ngắn, đôi bốt cao kết hợp với chiếc
áo khoác sáng màu, nhẹ nhàng và những phụ kiện dễ thương. Cách trang điểm cũng
được xem như là đặc trưng của phong cách thời trang này: lông mi dài, dày, cong;
kẻ mắt làm cho đôi mắt to, tròn; tóc uốn nhẹ nhàng hoặc để tự nhiên. Một trong
những phong cách thời trang mà thế giới biết nhiều về Nhật Bản đó là Lolita. Thời
trang Lolita được kết hợp cùng những cá tính riêng của mỗi người, làm nên hình
tượng như những con búp bê dễ thương, ngây thơ, xinh xắn với những chiếc váy
xòe bồng bềnh nhiều lớp vải, được trang trí thêm bằng ren ruy băng, nơ, tạp dề hay
những chiếc ô nhỏ xinh.
Trong lĩnh vực âm nhạc, rất nhiều những ngôi sao ca nhạc theo đuổi phong
cách đáng yêu, trong sáng, ngây thơ, thể hiện qua trang phục, qua phong cách biểu
diễn cũng như các ca khúc của họ như nhóm nhạc Morning Musume, AKB48,
Momoiro Clover Z... Họ trở thành thần tượng của giới trẻ và có sự ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống tinh thần của những người trẻ này. J-pop (tên gọi tắt của
nhạc pop Nhật Bản) đã nổi tiếng từ nhiều năm qua nhưng chỉ trong giới hạn châu Á.
Những thông tin trên cũng làm người ta nghĩ đến nghệ thuật làm búp bê của
Nhật Bản. Đa phần búp bê của Nhật đều nhỏ nhắn, đáng yêu, phong cách thân thiện
(chứ không theo phong cách sang trọng, quý phái như búp bê phương Tây). Trong
đó, búp bê Daruma có hình dáng phỏng theo dung mạo của thiền sư Bồ Đề Đạt Ma,
người sáng lập ra Thiền tông, có ý nghĩa tâm linh đặc biệt. Loại búp bê này thường
36
làm bằng gỗ, hình tròn, sơn đỏ, không có chân tay, khuôn mặt có mắt trống rỗng và
có ria mép lớn màu đen. Trong tư thế ngồi thiền, hai chân bắt chéo lên nhau, hai tay
xếp sát vào thân, trước bụng viết chữ “Phước”, “Cự Phước”... được nhũ vàng.
Daruma tượng trưng cho sự may mắn, thường dùng để làm quà tặng với mong
muốn cầu chúc an lành, bình phục sức khỏe. Sự xuất hiện của búp bê Daruma vào
khoảng năm 1700 được xem như biểu trưng của văn hóa kawaii thời kì trước.
Văn hóa kawaii còn xuất hiện qua những vật dụng phục sức thường ngày, đánh
dấu sự phát triển ngành thủ công mĩ nghệ của người Nhật. Một trong số đó là Netsuke
(根付), là những đồ vật chạm khắc nhỏ, được phát minh ở Nhật Bản khoảng thế kỉ
XVII, thời Edo (khoảng năm 1615 – 1868), đến ngày nay vẫn được lưu giữ như một
nét đẹp văn hóa đặc trưng của Nhật Bản. Netsuke ra đời để phục vụ một nhu cầu
thiết thực, đó như là một cái túi rời gắn vào trang phục kosode và kimono (vốn
không có túi), để mang theo những vật dụng cá nhân như tẩu thuốc, thuốc lá, con
dấu, tiền bạc, thuốc men... Đó có thể là một cái túi, một cái giỏ nhỏ, nhưng phổ biến
nhất là một cái hộp thủ công mĩ nghệ (inro), được treo vào dải thắt lưng của áo
thụng bằng một sợi dây nhỏ. Các hộp này được điêu khắc, chạm trổ rất tinh xảo,
hình dáng đa dạng (hình người, ngành nghề, loài vật, cây cỏ...), nhưng điểm chung
của chúng là nhỏ gọn, sinh động, hài hòa, tạo cảm giác thoải mái và ưa thích cho
người sử dụng.
Kawaii ảnh hưởng hầu hết trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa
xã hội của Nhật Bản, một đất nước tự tin vững bước với sự độc tôn đặc biệt của
riêng mình. Hình ảnh những con vật đáng yêu được trang trí trên các hàng rào, biển
báo đến các phương tiện giao thông như ô tô, máy bay... trở thành biểu tượng của
các thành phố, các tổ chức văn hóa hay kênh truyền hình. Phụ nữ cũng lựa chọn cho
mình những trang phục làm nổi bật sự dễ thương, mang kiểu dáng của trẻ nhỏ,
những màu sắc tươi sáng, ấm áp, có thể kết hợp các phụ kiện như đồ chơi, túi...
Không chỉ phụ nữ mà ngay cả nam giới cũng tham gia xu hướng này. Họ có thể hóa
trang thành các nhân vật trong truyện tranh hay hoạt hình để phục vụ cho các
chương trình giải trí. Sở Cảnh sát Tokyo có hình đại diện là Pi-Po Chan, một chú
37
chuột hoạt hình, được thể hiện trên chính bộ Cảnh phục. Người nước ngoài nhìn vào
có thể cho rằng cảnh sát Tokyo không nghiêm túc, nhưng người Nhật lại nghĩ Pi-Po
Chan giúp họ gần với các anh cảnh sát nghiêm nghị hơn, vì cảnh sát không phải để
đe dân, mà là người giữ an bình, hòa đồng xã hội và củng cố trật tự, gần gũi và đáng
yêu trong mắt người dân. Khi mở tài khoản trong một ngân hàng Nhật Bản, khách
sẽ được mời lựa chọn những mẫu thẻ tín dụng và sổ ngân hàng in hoạt hình rất độc
đáo, từ Hello Kitty, Doraemon đến Pokemon. Cùng với thiết kế thẻ mới chọn,
khách sẽ được tặng một chiếc khăn lông to bự hay một giỏ đi chơi rất dễ thương
mang cùng hình nhân vật trên thẻ để sưu tập. Hãng Hàng không quốc gia Nhật Bản
thì cho sơn hình Pikachu cười toe toét, màu vàng chói lọi trên thân những chiếc máy
bay Boeing 747. Đây là cách họ tách biệt mình ra khỏi những biểu tượng cao sang
nhưng dễ nhầm lẫn của các hãng hàng không khác.
Kawaii cũng được thể hiện trong các lễ hội văn hóa truyền thống của người
Nhật. Lễ hội Tango no Sekku (端午の節句) được biết đến như ngày của các bé trai
và Hinamatsuri là ngày của các bé gái, sau đó đã được gộp lại và lấy ngày mùng 5
tháng 5 gọi chung là Ngày của trẻ em (こどもの日), nhằm thể hiện sự tôn trọng
nhân cách của trẻ em và chào mừng hạnh phúc của chúng. Vào ngày này, các gia
đình sẽ treo các lá cờ dạng cá chép koinobori. Các gia đình cũng bày một búp
bê Kintarō thường cưỡi trên một con cá chép lớn, và chiếc mũ giáp quân đội truyền
thống của Nhật Bản, kabuto, do truyền thống của họ như là biểu tượng sức mạnh và
sức sống. Theo truyền thống Nhật Bản, người ta (đặc biệt là trẻ em) sẽ ăn bánh
giầy mochi (bánh nhân mứt đậu đỏ), được gói trong lá kashiwa (sồi), gọi là
kashiwa-mochi và chimaki (một kiểu “mứt gạo nếp”, gói trong lá diên vĩ hoặc lá
tre). Từ những chú cá koi đến búp bê Kintarō, chiếc mũ kabuto hay món bánh
mochi đều toát lên tinh thần của kawaii.
Trong văn hóa tâm linh, người Nhật đặc biệt dành sự kính ngưỡng cho thần
Jizo (Địa Tạng Bồ Tát), người Nhật gọi là Jizo Bosatsu hay O-Jizo-Sama, Jizo-san,
vị thần bảo hộ trẻ em ở thế giới bên kia. Hình tượng Jizo được kế thừa từ Phật giáo,
nhưng khi đến với Nhật Bản, lại được sáng tạo phù hợp với những đặc trưng riêng
38
trong cách tri nhận thẩm mĩ của họ. Đa phần tượng Jizo ở Nhật Bản đều có kích
thước nhỏ, mang một khuôn mặt trẻ thơ, rất đáng yêu, mặc quần áo và mang yếm
của trẻ nhỏ. Jizo được xem như là vị cứu tinh xoa dịu những đau khổ, che chở
những đứa trẻ ở thế giới bên kia, và đáp lại lời cầu nguyện sức khỏe cũng như thành
công cho những người đang sống.
2.2.2. Những dấu vết của kawaii từ mĩ học truyền thống
Văn học Nhật Bản có một mô hình phát triển khá đặc biệt: thu nhận tất cả và
không loại bỏ gì hết: haiku không xóa bỏ waka, kabuki không thay thế Noh và
Kyogen. Không có sự xung đột một mất một còn giữa cái cũ và cái mới. Do đó,
những khái niệm thẩm mĩ của người Nhật thuở trước vẫn còn cho đến ngày nay:
mono no aware thời Heian, yugen thời Kamakura, wabi và sabi thời Muromachi, iki
thời Tokugawa... Vậy, mối liên hệ giữa kawaii với những thẩm mĩ truyền thống ra
sao? Giữa chúng, là một sự đứt gãy hay là sự tiếp biến?
Người Nhật ở từng thời kì, do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, sẽ có những
tình cảm thẩm mĩ khác nhau. Cảm thức thẩm mĩ chủ đạo thời Heian là mono no
aware ((物の哀れ - bi cảm nhân sinh) và miyabi (雅 - nhã). Aware (mono no
aware) được hiểu là nỗi buồn sự vật / “vật ai”, là cảm xúc xao xuyến, bâng khuâng,
luyến tiếc trước vẻ đẹp luôn biến đổi của sự vật (thiên nhiên và con người). Miaybi
là sự tinh tế, tao nhã trong mối quan hệ con người - thiên nhiên, biểu hiện chủ yếu là
ở thái độ ngưỡng vọng, nâng niu những tạo vật mong manh, nhỏ bé. Hai thẩm mĩ
này nói về mối quan hệ ứng xử giữa con người với tự nhiên: trân trọng, nâng niu
những tạo vật nhỏ bé của đất trời, từng cọng cỏ, một giọt sương trên lá, một cánh
chuồn..., và chúng được sản sinh trong bối cảnh giai cấp quý tộc đang chi phối và là
những người làm nên phong cách của thời đại Heian. Lối sống của quý tộc khiến xu
hướng thẩm mĩ của họ trở nên tinh tế, trau chuốt, cầu kì, thậm chí là xa hoa, lấy
nghệ thuật làm thú vui, đề cao cái đẹp. Do đó, trong lòng họ nảy lên những niềm bi
cảm nhân sinh đầy bâng khuâng tiếc nuối đối với cái đẹp đang độ tròn đầy. Điều
này ta có thể thấy rõ trong Truyện Genji và Vạn diệp tập. Các cảm thức này đều có
nguồn gốc từ Phật giáo thiền tông và Thần đạo với triết lí “vạn vật hữu linh” và
39
“chư hành vô thường”, (無常 mujo). Vô thường nghĩa là “không chắc chắn”, luôn
“thay đổi”, “không trường tồn”. Vô thường là một trong ba tính chất (Tam pháp ấn)
của tất cả sự vật. Vô thường là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, là
thành, trụ, hoại, không (sinh, trụ, dị, diệt). Những thuật ngữ như sabi, wabi, yugen,
karumi... đều được phái sinh từ mujo. Có thể thấy, tất cả những phạm trù thẩm mĩ
này đều gặp gỡ nhau ở tình yêu và sự nâng niu trân trọng mà con người dành cho
vạn vật. Đây cũng chính là bản chất của kawaii: đề cao những vẻ đẹp trong sáng,
hồn nhiên, chân thành, và thái độ trân trọng cuộc sống, trân trọng thực tại.
Yugen (湯源: u huyền) vốn là một từ Hán Nhật. Về từ vựng, yu (u), nghĩa là
không rõ ràng, mờ ảo, bí ẩn, sâu xa; gen (huyền) là màu huyền (màu đen ánh đỏ -
màu của vua chúa Trung Quốc). N. I. Konrat quan niệm: “Yugen là một cái gì sâu
vô cùng tận, thâm thúy đến mức không nhìn rõ. Goeth cũng từng nói tới một cái gì
thầm kín, cái đẹp đó là sự diễu hành của những điều thầm kín trong tự nhiên” [85,
12]. Trong cuốn Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868, tác giả Nhật Chiêu nhận
định yugen “là cảm thức về cái sâu thẳm, u ẩn và huyền diệu của vạn vật” [12, 145].
Như vậy, nhìn chung, yugen dùng để chỉ những cảnh giới sâu xa, vi diệu và thần bí
mà con người không dễ dàng nắm bắt được. Tuy nhiên trong thơ hòa ca (waka)
(thời kì trung đại), đây lại là từ dùng để chỉ một trạng thái lí tưởng mà ở đó vẻ đẹp
tao nhã đóng vai trò chủ đạo khiến nảy sinh những cảm xúc hay tâm trạng sâu xa
nằm ngoài ngôn ngữ. Kawaii cũng là vẻ đẹp không thể diễn tả bằng lời, chú trọng
vào cảm xúc ngay tại thời điểm mà người ta đang cảm nhận về vẻ đẹp đó.
Wabi và sabi là hai khái niệm thường được xếp cạnh nhau. Về mặt từ vựng, wabi
(侘び– đà) vốn được danh từ hóa từ động từ wabu và tính từ wabishii. Wabu là suy
giảm, phai nhạt. Wabishii chỉ vẻ đơn sơ, thanh đạm. Dần dần, wabi phát triển thành
một phạm trù mĩ học và được thể hiện trên nhiều phương diện văn hóa Nhật Bản.
Nhật Chiêu: “Sự dung dị là điều ta thấy được qua nguyên lí thẩm mĩ wabi (đà) được
phát triển đầu tiên trong nghệ thuật trà đạo. Nguyên lí này cho rằng cái đẹp chính là
sự đơn sơ, thanh tịnh. Cả sự đơn sơ cũng chứa đựng một sự nhiệm màu không ngờ”
[12, 274]. Theo Suzuki Setsuko: “Đây là một khái niệm đạo đức và mĩ học đề
40
xướng ra sự tuyệt diệu của cuộc đời nhàn tịch, thanh thản, lìa xa khỏi thế tục. Bắt
nguồn từ những ẩn sĩ thời trung đại, khái niệm này nhấn mạnh đến tinh thần cao
viễn, tịch tĩnh với cái đẹp giản phác, nguyên sơ” [188]. Còn với V.V Otrinnicop:
“Wabi – đó là sự vắng mặt của một cái gì đấy cầu kì, sặc sỡ cố ý mà theo quan điểm
của người Nhật là sự tầm thường. Wabi – đó là vẻ đẹp thường ngày, là sự chừng
mực thông minh, là cái đẹp của sự giản dị… Và người Nhật đã tìm thấy đánh giá cái
đẹp ở tất cả mọi cái quanh con người trong cuộc sống thường ngày, và trong mỗi đồ
vật sinh hoạt thường ngày” [122, 62]. Về từ vựng, sabi vốn được danh từ hóa từ
động từ sabu có nghĩa là suy tàn, phai nhạt theo thời gian. Wabi có nghĩa là trạng
thái tĩnh lặng khi con người qua đời cũng có nghĩa là lớp mốc xanh trên đồ đồng
xưa. Fujiwara no Toshinari (1114 - 1204), Zeami (1363-1443), Zenchiku (1405-
1468) coi sabi là tịch lặng, hoang liêu, cô quạnh, tự nhiên (tịch). Zenchiku dùng từ
sabu để miêu tả cảnh đám lau sậy ven biển lụi tàn vì sương gió. Sen no Rikyu – bậc
thầy trà đạo thế kỉ XVI - thường ghép wabisabi để đề cao vẻ đẹp tự nhiên, đơn giản.
“Sabi là linh hồn của tịch liêu và xa xưa. Đó là niềm tịch tĩnh mà trong những kinh
nghiệm thiền quán mà người ta cảm thấy” [12, 273]. Vẻ đẹp này cũng được nhắc
đến trong cuốn tản văn Ca tụng bóng tối, Junichiro Tanizaki đã nêu lên niềm yêu
thích của người Nhật dành cho những đồ vật mang dấu vết của bụi bặm, bồ hóng và
lớp bóng, gợi nhắc đến quá khứ đã tạo ra chúng – một vẻ đẹp nhuốm màu thời gian.
Ở phương diện này, chúng ta thấy, kawaii cũng đề cao vẻ đẹp giản dị quanh cuộc
sống thường nhật của con người như wabi và cũng quan trọng giá trị của thực tại
như khoảnh khắc mà thiền định mà sabi hướng tới.
Nói như Numano Mitsuyoshi, “Nếu bạn tập hợp tất cả các từ chính của mĩ
học Nhật Bản, từ mono no aware đến kawaii, thì chúng ta sẽ thấy một điểm chung:
mong muốn đạt được sự thống nhất với thế giới, mong muốn thưởng thức sâu sắc
và khó nắm bắt những cảm giác, sự thôi thúc muốn trải nghiệm khoái cảm từ những
điều nhỏ nhặt, tinh tế, khó định nghĩa, trừu tượng được diễn đạt một cách ẩn
dụ. Quan trọng nhất ở đây là sự hài hòa từ ngữ.” [189] Có thể nói, kawaii là kết quả
của một sự vận động tất yếu của đời sống văn hóa xã hội Nhật Bản, nảy sinh trong
41
bối cảnh chịu sự tác động mạnh mẽ từ văn hóa phương Tây nhưng gốc rễ lại là
những ý thức thẩm mĩ tồn tại lâu đời trong văn hóa Nhật Bản. Thoạt nhìn, kawaii có
vẻ chẳng liên quan mấy với mĩ học truyền thống, nhưng xem xét kĩ, khái niệm này
lại rất liên quan đến những nền tảng thẩm mĩ thuần Nhật như mono no aware, wabi,
sabi, yugen... trước hết là ở các điểm sau:
Thái độ trân trọng, nâng niu vạn vật
Hướng tới cái đẹp trong sự không hoàn hảo, không vĩnh cửu. Đối với
người Nhật, sự không hoàn hảo sẽ khiến cuộc sống trở nên thi vị hơn. Như hoa anh
đào đẹp vì nó không kéo dài mãi mãi: chóng nở, chóng tàn. Đây cũng là tiêu chuẩn
đánh giá thẩm mĩ của người Nhật.
Không biểu đạt những hiện thực đơn thuần mà thiên về những hiện thực
bên trong con người, biểu đạt thế giới nội tâm phong phú, sâu xa, nằm ngoài ngôn
ngữ và mang tới cho con người những cảm xúc khó diễn tả
Đích đến không phải chỉ là để tri nhận đối tượng mà là để tận hưởng
những điều tinh tế, tuyệt vời nhất về cuộc sống.
Kawaii là sự kết tinh tuyệt vời của mĩ học truyền thống. Sự ra đời của kawaii
như là câu trả lời tất yếu cho câu hỏi về bước chuyển mình của đời sống xã hội và
văn hóa ở xã hội Nhật Bản - chuyển mình để phát triển, thay đổi để phát triển những
giá trị đã có.
Như vậy, không khác với những thẩm mĩ truyền thống, kawaii cũng theo đuổi
những vẻ đẹp tao nhã, mong manh, hài hòa, tinh tế, coi trọng và nâng niu những cảm xúc
hồn nhiên, giản dị nhất của tâm hồn con người. Nhà xã hội học Nobuyoshi Kurita, Đại
học Musahi (Tokyo) đã khẳng định rằng, kawaii là một “từ ngữ ma thuật, truyền tải tất cả
sự đồng thuận và mong muốn của con người Nhật Bản” [190].
2.3. Kawaii trong dòng chung hiện đại
2.3.1. Tinh thần văn hóa đại chúng
“Khi sự tôn thờ dễ thương (cute-worship) đang nhanh chóng trở thành hình
ảnh toàn cầu của Nhật Bản thì đất nước có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới này tự
hỏi, điều gì đang khiến người dân của họ hướng tới sự dễ thương?” [190]. Văn hóa
42
đại chúng (mass culture) là “tổng thể các ý tưởng, quan điểm, thái độ, hành vi lan
truyền, hình ảnh và các hiện tượng khác, những gì được cho rằng có sự đồng tình
một cách phổ biến nhưng không tuân theo một thủ tục quy định của một nền tư
tưởng văn hóa nhất định, đặc biệt trong văn hóa phương Tây thời kì đầu đến giữa
thế kỉ XX và lan rộng ra toàn cầu vào cuối thế kỉ XX đến thế kỉ XXI” [184]. Văn
hóa đại chúng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các phương tiện truyền thông đại chúng
hay nói cách khác là chính những yếu tố có tính truyền thông phổ biến như Internet,
truyện tranh, hoạt hình, âm nhạc, thời trang, điện ảnh, truyền hình.... đã làm nên
gương mặt của văn hóa đại chúng. Trong đó, manga và anime là hai trong số những
lĩnh vực “đình đám” nhất của kiểu văn hóa được cho là subculture này. Sau khi kết
thúc thời kì Mĩ vào năm 1952, nền văn hóa đại chúng Nhật đã bị các phương tiện
truyền thông này ảnh hưởng sâu sắc. Tuy nhiên, thay vì bị chi phối bởi các sản
phẩm của Mĩ thì Nhật Bản đã hạn chế những ảnh hưởng này bằng cách thích ứng và
tiếp thu các ảnh hưởng của nước ngoài rồi biến nó thành những ngành công nghiệp
truyền thông mang tính bản địa. Ngày nay, văn hóa đại chúng Nhật Bản giữ vững vị
trí là một trong những nền văn hóa đại chúng dẫn đầu và nổi tiếng nhất trên phạm vi
toàn thế giới.
Có thể nói, kawaii là tinh thần chủ đạo của văn hóa đại chúng ở Nhật Bản và
cả thế giới, tức là tinh thần của thời hiện đại. Kawaii có mối liên hệ đặc biệt với một
kiểu văn hóa, một “vùng” văn hóa của giới trẻ, là văn hóa shoujo. Shoujo có nghĩa
là thiếu nữ, nhưng văn hóa shoujo không chỉ dành riêng cho nữ giới, mà ở đây gợi ý
niệm về thiên tính nữ nhiều hơn, nghĩa là thuộc tính nhẹ nhàng, nữ tính, lãng mạn
của khái niệm này hơn là chỉ về giới. Kawaii cũng là một từ ngữ thường xuyên
được nhắc tới trong lĩnh vực truyện tranh (manga) và hoạt hình (anime), đặc biệt là
thể loại shoujo manga, một thể loại truyện tranh dành riêng cho đối tượng là thiếu
nữ, những người đang đứng trước ngưỡng cửa của sự trưởng thành, đã đi qua thời
thơ bé nhưng vẫn chưa là một người lớn thực thụ. Đó là một thế giới chạm đến vẻ
đẹp nhẹ nhàng, thanh khiết, mỏng manh; một thế giới lãng mạn và đầy mơ mộng.
Đó là những câu chuyện đề cao giá trị sống, tình yêu thương, mối quan hệ người –
43
người... Đương nhiên kawaii không thể không có mặt trong thể loại kodomo manga
(truyện tranh dành riêng cho trẻ em). Ở đó, những hình tượng nhân vật, dù là người
hay vật, đều mang dáng vẻ nhỏ nhắn, tính cách đáng yêu, ngộ nghĩnh. Đó là những
câu chuyện mang tính giáo dục cao về đạo đức, lẽ phải trong cuộc sống, cách ứng
xử với mọi người xung quanh bằng tình yêu thương..., như chú mèo máy Doraemon
với chiếc túi thần kì đưa câu chuyện vào những thế giới, những tình huống đáng
yêu, Pikachu với thân hình nhỏ bé nhưng có sức mạnh, chiến thắng cái ác và luôn
trung thành yêu thương người bạn Shatoshi của mình. Khi công nghiệp manga,
anime và đồ chơi của Nhật Bản lên ngôi, xuất khẩu sang các thị trường khác nhau
trên thế giới, thì cũng là lúc kawaii trở thành dấu ấn mạnh mẽ về văn hóa lẫn thẩm
mĩ khiến thế giới biết đến Nhật Bản, gần hơn với Nhật Bản.
Inuhiko Yomota xuất bản một công trình nghiên cứu về kawaii vào đầu thế
kỉ XXI, đã đặt vấn đề về sự lan tỏa mạnh mẽ của nền văn hóa đại chúng Nhật Bản
đến nền văn hóa toàn cầu. Trong đó có đoạn: “Những nhân vật ở Nhật như Hello
Kitty, Pokemon, Thủy thủ Mặt Trăng... tràn ngập khắp thế giới. Vì sao kawaii của
Nhật Bản lại phát ra ánh sáng rực rỡ như vậy? Quyển sách này là một nỗ lực có tính
thăm dò đầu tiên trên hai góc nhìn đồng đại và lịch đại về cấu trúc của kawaii bằng
cách đặt kawaii vào thẩm mĩ của thế kỉ XXI” [144, 7]. Bắt đầu từ năm 1990, khi
những “sản phẩm” của văn hóa đại chúng như manga (truyện tranh), thời trang
đường phố, trò chơi trực tuyến... được “xuất khẩu” ra thế giới, thì khái niệm kawaii
bắt đầu được sử dụng ở các nước châu Âu, đặc biệt trong các Hội chợ triển lãm do
Pháp tổ chức, trong những lễ hội văn hóa Nhật Bản, và thật sự lan rộng trên thế
giới. Nó trở thành một từ khóa quan trọng khi nói về Nhật Bản đương đại, “đại sứ
kawaii”, trở thành một xu hướng giao tiếp của văn hóa đại chúng Nhật Bản. “Trái
ngược với chủ nghĩa Nhật Bản thuần túy của cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, văn
hóa đại chúng Nhật Bản ở thế kỉ XXI được chính phủ Nhật Bản xem như một chủ
nghĩa Nhật Bản thứ hai, ảnh hưởng mạnh mẽ đến thế giới được định hướng bởi
Internet. Do đó, kawaii được xem như một thứ văn hóa xuyên biên giới, xuyên quốc
gia” [144, 5 - 6]. Nó không chỉ diễn ra trong không gian cuộc sống thường nhật của
44
người dân mà còn là gương mặt tinh thần của chính phủ Nhật Bản, bao phủ toàn bộ
xã hội Nhật Bản. Takamasa Sakurai là tác giả của cuốn “Cuộc cách mạng kawaii
trên thế giới: Vì sao người ta muốn là người Nhật” và tác giả chính là một thành
viên của Bộ Ngoại giao. T. Sakurai nhấn mạnh sự phổ biến của văn hóa đại chúng
Nhật Bản và văn hóa kawaii, khẳng định kawaii có vai trò như một phương tiện
thúc đẩy thương mại và ngoại giao văn hóa.
2.3.2. Sản phẩm giao thoa toàn cầu
Trong công trình Mĩ học kawaii từ Nhật Bản đến châu Âu: Lí thuyết về một
Nhật Bản dễ thương và sự chấp nhận chuyển đổi văn hóa trong những phong cách
đã viết: “Văn hóa kawaii rất phổ biến ở Nhật Bản và là một phần của hiện
tượng chuyển đổi văn hóa, với những mức độ khác nhau, trở nên có tính bản
địa đối với từng nhóm hâm mộ khác nhau ở châu Âu. Những biểu hiện khác
biệt của thẩm mĩ liên quan đến sự dễ thương này ở Nhật Bản được gọi là
kawaii. […] Ở Ý và Pháp, việc thích nghi văn hóa kawaii được thể hiện ở cái
gọi là Euromanga (do các tác giả châu Âu thực hiện).” [191] Năm 2012, trong
truyện tranh Ý, Pháp và những hàng hóa văn hóa biến đổi, tác giả Marco Pellitteri
cuộc triển lãm về kawaii, Viện Bảo tàng Yayoi đã xuất bản cuốn sách tham khảo
Minh họa kawaii Nhật Bản được viết bởi Keiko Nakamura. Tác giả đã chỉ ra rằng,
mèo Hello Kitty được xem là biểu trưng cho tính cách kawaii, ngày càng trở nên
rộng khắp thế giới, thông qua tiêu thụ hàng hóa.
Ngô Hương Lan trong chuyên đề nghiên cứu Văn hóa – xã hội Nhật Bản:
Những vấn đề nổi bật, xu hướng chủ yếu trong 10 năm đầu thế kỉ XXI và triển vọng
2020 có chỉ ra, trong một cuộc khảo sát được Bộ thương mại và Công nghiệp Nhật
Bản tiến hành vào tháng 2 – 2010 với tên Bản đồ xu hướng tiêu dùng châu Á, chủ
yếu điều tra về tiêu dùng, ẩm thực và lối sống của ba thành phố và một quốc gia của
châu Á là Hongkong, Bangkok, Mumbai và Singapore. Kết quả điều tra cho thấy, số
người biết đến thời trang kawaii khá lớn, “chiếm tới 50% tỉ lệ người được hỏi tại
Hongkong, Bangkok và Singapore. Lượng người yêu thích thời trang kawaii cũng
45
lên đến 40% ở Singapore và Bangkok, 30% ở Hongkong, 10% ở Mumbai” [162].
Rõ ràng, thời trang kawaii nói riêng và văn hóa kawaii nói chung đã đưa
những con người hiện đại trên khắp châu lục đến gần nhau hơn.
Nhà xã hội học Sharon Kinsella, trong quyển Những nét đáng yêu ở Nhật
Bản đã xác định một số khía cạnh của văn hóa kawaii từ năm 1970 đến đầu những
năm 90, và cho rằng đó là thời điểm mà văn hóa đại chúng Nhật Bản trở nên rộng
khắp trên thế giới. Tác giả chỉ ra những biểu hiện của sự đáng yêu trong những sản
phẩm công nghiệp hàng hóa, tiêu dùng như: thời trang kawaii, thức ăn kawaii, thần
tượng kawaii, những ý tưởng kawaii, sự lãng mạn của tuổi thơ, thời trưởng thành và
chủ nghĩa cá nhân, những người phụ nữ kawaii, sự tiêu dùng kawaii.... Cuộc khảo
sát của Kinsella về kawaii được tiến hành vào ngày 28 tháng 01 năm 2011 với 247
sinh viên học ngành Văn hóa Nhật Bản của Học viện văn hóa và ngôn ngữ quốc tế ở
Pháp, trong đó có 168 nữ và 89 nam, 90% trong số đó ở độ tuổi 17 đến 22. Câu hỏi
khảo sát là: kawaii đã đem đến cho bạn những gì? Lọc ra từ kết quả khảo sát,
Kinsella thu được 5 câu trả lời thường gặp nhất như sau: “1. Hello Kitty, 2. Thời
trang (bao gồm thời trang sáng màu dành cho trẻ em, thời trang Lolita, thời trang
cosplay, phụ kiện), 3. Động vật (mèo, chó, thỏ), 4. Những vật dụng nhỏ hoặc những
cô gái nhỏ, 5. Màu hồng” [144, 16].
Nếu như thời cổ đại (thế kỉ thứ V đến thế kỉ thứ VIII), văn học Nhật Bản có
tính bản địa, thời trung đại (thế kỉ thứ XIX đến giữa thế kỉ thứ XIX), văn học Nhật
Bản ảnh hưởng chủ yếu từ văn học Trung Quốc thì thời cận hiện đại (giữa thế kỉ
XIX đến nay) chủ yếu ảnh hưởng từ phương Tây. Cuộc cải cách Minh Trị đã đặt
dấu chấm hết cho chính sách bế quan tỏa cảng, bắt đầu mở cửa và hàng loạt những
lĩnh vực khác nhau, trong đó có văn hóa, văn học phương Tây, ảnh hưởng mạnh mẽ
đến Nhật Bản. Việc chuyển ngữ văn học Âu Mĩ đã trở thành một bộ phận quan
trọng của nền văn học cận hiện đại Nhật Bản. Kawaii do đó có lẽ cũng là kết quả
của sự giao thoa văn hóa của giới trẻ khắp nơi trên thế giới như cute, cool của
phương Tây, hay dễ thương, xinh xắn của Việt Nam chẳng hạn. Có lẽ cũng trên
quan điểm đó mà Thorsten Botz-Bornstein trong công trình The Cool Kawaii đã
46
xem kawaii như là một trong hai thẩm mĩ thống trị văn hóa của giới trẻ trên thế giới,
cùng với cool. Cả Botz-Bornstein và Kinsella đều gặp nhau ở chỗ cho rằng kawaii
gắn liền với sự chưa trưởng thành và không mong chờ được là trung tâm của các
quy tắc xã hội. Đồng quan điểm đó, Charlène Veillon đề cập đến tác giả Takashi
Murakami và công trình Nghệ thuật đương đại Nhật Bản: tìm kiếm một sự định
danh, từ năm 1900 đến nay của nhà xuất bản L‟Harmattan, 2008. Takashi cho rằng
“nước Nhật nói chung và Hiroshima nói riêng, trong hơn 60 năm qua, vẫn là một nền
tảng vững chắc với nền kinh tế tư bản kiểu Mĩ, được nuôi dưỡng, và nở rộ đến mức
bùng nổ. Bất kể việc Nhật Bản đã từng là một đất nước bị ném bom nguyên tử, thế hệ
trẻ vẫn lớn lên như những đứa con cưng, cùng với tình yêu vô điều kiện của dành cho
mọi thứ. Thái độ ứng xử đó chính là tinh thần của kawaii” [144, 12].
Có thể điểm qua một vài trường hợp là điểm nhấn của sự giao thoa và lan
rộng của tinh thần kawaii trên toàn cầu. Đứng đầu về doanh thu mà một sản phẩm
tiêu dùng mang lại lẫn tầm ảnh hưởng đến thị hiếu, mĩ cảm của người tiêu dùng có
lẽ không thể không nói tới mèo Hello Kitty. Năm 1947, Sanrio sáng tạo ra những
nhân vật được gọi là Hello Kitty, Patty và Jimmy. Mèo con Kitty (Kitty-chan) trở
thành nhân vật phổ biến khắp thế giới vào năm 1974. Tổng doanh thu mà Sanrio thu
được là 19 triệu đô la, với tổng sản phẩm mèo Kitty là 300 triệu con. Cũng trong
thời gian này, những hàng hóa, văn phòng phẩm có thiết kế theo hình mèo Kitty đều
trở thành những sản phẩm bán chạy, rất được ưa thích. Đó là lí do vì sao chúng ta
có thể nói rằng: văn hóa kawaii phát triển một cách bùng nổ, đột biến, không chỉ thể
hiện trong suy nghĩ của thiếu nữ mà còn rất liên quan đến những sản phẩm, hàng
hóa xung quanh họ. Từ năm 70 trở đi, kể từ khi mèo Hello Kitty xuất hiện, những
sản phẩm mang tinh thần kawaii ngày càng quan trọng như một vũ khí bán hàng
cho ngành công nghiệp Nhật Bản (quần áo, đồ ăn vặt, vật dụng gia đình ...). Chúng
dễ bán hơn so với những họa tiết chỉn chu. Nhưng cho đến giờ, không ai còn nghĩ
rằng đây chỉ là một cách marketing dùng để thu hút đại chúng ngắn ngủi nữa, mà nó
đã thuộc về thẩm mĩ mới của thời đại, liên quan đến cách nghĩ, cách cảm, phán
đoán về cái đẹp của con người, đặc biệt là người trẻ, trên khắp thế giới. Những
47
trường hợp tiếp theo có thể nghĩ đến là thời trang Lolita, Cosplay, manga, anime,
âm nhạc (J-Pop). Chẳng hạn như nữ ca sĩ Kyary Pamyu, cô đã không chỉ thành
công chủ yếu ở thị trường châu Á, mà còn được biết đến tại các nước phương Tây
nhờ các video nổi tiếng trên mạng Internet, được các phương tiện truyền thông nhắc
đến Pamyu Pamyu với cái tên “Công chúa nhạc Pop Harajuku” (Harajuku chính là
hơi thở của tinh thần kawaii). Đó là minh chứng cho sức sống và sự lan tỏa mạnh
mẽ của làn sóng kawaii.
Kể cả khi đi vào thập niên 80 trong thời kì của nền kinh tế bong bóng (là
hiện tượng chỉ tình trạng thị trường trong đó giá hàng hóa hoặc tài sản giao dịch
tăng đột biến đến một mức giá vô lí hoặc mức giá không bền vững. Mức giá cao
thái quá này của thị trường không hề phản ánh sức mua của người tiêu dùng theo
như các lí thuyết kinh tế thông thường. Nhiều nhà phê bình, bao gồm cả Otsuka,
cho rằng cho dù quả bom tấn “Kawaii” có giảm sức nóng của nó, thì kawaii vẫn
giữ được vị trí là tinh thần của thời đại nhưng có thêm nhiều biểu đạt khác, nhất là
khi “bong bóng” này vỡ tan (tức sự sụp đổ, trầm lắng, thu nhỏ của thị trường).
Người ta cảm thấy mệt mỏi rất nhiều và từ khóa của thế hệ 80 chuyển dần sang 90
bắt đầu thay đổi thành “tìm kiếm chính mình” (“searching for oneself”) và “chữa
lành” (“healing”). Theo ý nghĩa thông thường, khi người phụ nữ được gọi là
“kawaii”, nghĩa là họ đã cho phép bản thân được (hoặc bị) bảo vệ bởi sức mạnh của
người khác, thường là đàn ông - những người mạnh mẽ hơn họ và cao lớn hơn họ. Tuy
nhiên, giờ đây, phái nữ lại thay đổi nghĩa của từ ngữ này và dùng nó như là cách để vận
hành thế giới theo cách của mình. Nói cách khác, bằng cách dựa vào khái niệm kawaii,
48
những người phụ nữ có một quyền năng để tái cấu trúc thế giới sống của họ.
Tiểu kết chương 2
Như vậy, kawaii là một thẩm mĩ mới của Nhật Bản đương đại, được hiểu là
vẻ đẹp dễ thương, đáng yêu với tất cả những biểu hiện của nó. Thẩm mĩ này gắn
liền với những gì có kích thước nhỏ nhắn, xinh xắn; có đường nét, hình dáng tròn,
mềm mại; có màu sắc thanh nhã; gợi vẻ mong manh, nữ tính; gắn liền với tính cách
ngây thơ, trong sáng, chân thành… Tuy nhiên, kawaii còn đại diện cho văn hóa
Nhật Bản đương đại, chi phối rất nhiều đến cách nghĩ, cách cảm, hành vi, lối sống,
nhân sinh quan... của người Nhật Bản. Việc tìm đến những hình ảnh trong sáng và
dễ thương - kawaii đã trở thành một xu hướng tâm lí phổ biến của người Nhật sau
những gì họ phải gánh chịu trong và sau Thế chiến thứ hai. Điều đáng chú ý là tuy
khái niệm này bắt đầu từ giới trẻ và thuộc về giới trẻ, chủ yếu dành cho nữ giới
nhưng nó lại trở thành sự đồng lòng, yêu thích của người dân cả đất nước này và tạo
thành một quan điểm thẩm mĩ quan trọng.
Từ những biểu đạt của kawaii trong mọi dạng thức của đời sống xã hội và
văn hóa nghệ thuật Nhật Bản, có thể đánh giá đây là một thẩm mĩ vừa có nguồn gốc
nội sinh, vừa có nguồn gốc ngoại sinh; vừa là kết quả tất yếu của những giao thoa
toàn cầu trong bối cảnh đa văn hóa, “giải lãnh thổ” (deterritorialization), vừa là kết
quả của mạch chảy trong lòng văn hóa của người Nhật Bản từ những tầng ngầm xưa
cũ trong mĩ học truyền thống.
Việc khám phá ý nghĩa của thẩm mĩ kawaii và những biểu hiện của nó cho
phép chúng ta phác họa con đường đi tìm thẩm mĩ kawaii trong sáng tác của Y.
Banana: đi tìm mối quan tâm của Y. Banana với thẩm mĩ ấy; đi tìm trường cộng
hưởng của Y. Banana với cộng đồng xã hội, xem mối quan tâm và lựa chọn của
cộng đồng đó đối với thẩm mĩ kawaii như thế nào; đi tìm sự tham gia của riêng Y.
Banana trong việc tác động (hoặc nếu không thì) cũng là góp vào một tiếng nói mới
mẻ trong cách lựa chọn của cộng đồng. Vì vậy, việc nghiên cứu Y. Banana qua
thẩm mĩ kawaii vừa phải chú ý trước hết tới những đặc điểm cụ thể của đối tượng
(lối đọc nội quan tác phẩm văn học với các phân tích ngữ văn / philology), vừa phải
49
đặt Y. Banana trong bối cảnh văn hóa - xã hội (phân tích văn hóa học: các thể loại
liên quan, các truyền thống văn hóa...) để nhận ra những gì Y. Banana tiếp nhận và
sau đó sáng tạo (như một sự tinh lọc cái thẩm mĩ kawaii cộng đồng để hướng tới
50
những biểu đạt kawaii có tính “văn chương” (tinh hoa).
Chương 3
TIẾNG VỌNG CỦA THẨM MĨ KAWAII
TRONG SÁNG TÁC YOSHIMOTO BANANA
Tiếng vọng là “âm thanh từ xa đưa lại” [88, 1121]. Nói cách khác, đó là sự
phản âm, sự hồi thanh từ đối tượng phát ra âm đến đối tượng tiếp nhận âm. Điều thú
vị ở chỗ, nhờ vào tiếng vọng mà ta có thể biết được bản chất của đối tượng phát ra
âm thanh ấy. Ví như khi thả một hòn sỏi xuống giếng sâu, tiếng vọng của hòn sỏi có
thể cho ta viết độ sâu của cái giếng ấy. Trong luận án này, ở địa hạt văn chương –
trong mối liên hệ với văn hóa, tiếng vọng được chúng tôi dùng để nói về sự phản
hồi của tiếng nói thời đại (thời đương đại, văn hóa đại chúng) vào trong sáng tác của
Y. Banana. Ở chương này, chúng tôi trả lời cho câu hỏi nghiên cứu tiếp theo của
luận án: Y. Banana đã chịu ảnh hưởng từ thẩm mĩ kawaii như thế nào? Đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi ở chương này là những tín hiệu nghệ thuật - tức
cái biểu đạt của thẩm mĩ kawaii trong sáng tác của Y. Banana. Nhận thấy những tác
phẩm của Y. Banana quầng tụ trong vùng ánh sáng của kawaii, phản ánh sự tác
động của trường văn hóa và thẩm mĩ của thời đại đối với sáng tác của một nhà văn.
Y. Banana (1964 - ), tên thật là Yoshimoto Mahoko, là con gái của nhà văn,
nhà phê bình Nhật Bản Yoshimoto Takaaki. Lớn lên vào nửa sau thế kỉ XX, trong
môi trường tắm đẫm bầu không khí kawaii với những biểu hiện cụ thể như manga
(đặc biệt là shoujo manga), anime (phim hoạt hình), sản phẩm thương mại – hoạt
hình như mèo Hello Kitty, Pokemon, Pikachu, sản phẩm thời trang Lolita, sản phẩm
âm nhạc J-Pop… Y. Banana từ nhỏ đã rất say mê manga. Hơn thế, chị gái của bà
Yoiko Haruno là một họa sĩ vẽ manga rất thành công. Bà từng nói mình là fan của
nghệ sĩ truyện tranh Mariko Iwadate. Takahashi Genichiro cho rằng: “Tác phẩm của
Banana là tiểu thuyết mang tính tranh truyện thiếu nữ được biểu hiện qua ngôn từ”
[58, 1]. Chính bản thân Banana cũng khẳng định: “Những ảnh hưởng đã tiếp nhận
từ truyện tranh là rất lớn” [58, 1]. Y. Banana đã tham gia vào môi trường của
kawaii nói chung trước hết bằng con đường của manga ở cả hai hướng: thụ hưởng –
51
bị động và tiếp thu – chủ động. Đến lượt mình với tư cách là người sáng tạo trưởng
thành trong thời đại của thẩm mĩ kawaii, Y. Banana thể hiện tiếng nói ấy vào sáng
tác của mình như một tiếng vọng của thời đại. Sáng tác của Y. Banana có thể xem là
gương mặt đại diện cho những gì đang chảy trong văn hóa, thẩm mĩ Nhật Bản
đương đại.
3.1. Vẻ hiền hòa, khả ái
3.1.1. Thiên nhiên hiền hòa
Thiên nhiên đẹp trước hết bởi sự tươi sáng của nó. Tính chất tươi sáng, trong
trẻo của sự vật trở thành giá trị được lựa chọn. Điều này có thể được thấy qua
shoujo manga. Nhiều bức tranh shoujo manga đã ghi lại khoảnh khắc ấn tượng của
không gian: lãng mạn, nên thơ, đặc biệt luôn tươi sáng. Đó chính là nền cảnh cho
những câu chuyện tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình cảm động… Chính phần
không gian ấy đã tạo điều kiện để nhân vật bộc lộ cảm xúc, giúp những câu chuyện
diễn ra thêm phần hấp dẫn đối với độc giả, tạo sức cuốn hút riêng cho những cuốn
shoujo manga. Không gian thiên nhiên trong tác phẩm của Y. Banana cũng là
không gian lãng mạn, nên thơ, trong sáng, dễ thương, dù đó là nơi của những đau
buồn, mất mát, chia li, cô đơn đến khắc kỉ.
Đầu tiên là biển - không gian bao la rộng lớn, khoáng đạt, chứa đựng những bí
ẩn, lưu giữ những khoảnh khắc yêu thương - giận hờn, bên nhau - chia xa. Biển
trong sáng tác của Y. Banana đậm chất kawaii, mở ra một khoảng không lãng mạn,
thanh khiết, giàu cảm xúc. Đó là một không gian khoáng đạt mở ra trước mắt với
những màu sắc thanh khiết, có những sinh vật dù nhỏ bé nhưng đầy sức sống. Đứng
trước nó, con người được khơi dậy những cảm xúc tích cực, tình yêu dành cho cuộc
sống. Mỗi khoảng thời gian khác nhau, biển lại có một dáng vẻ rất riêng, nhất là vào
mùa lễ hội: “Khi cả thị trấn hối hả chuẩn bị cho lễ hội, đột nhiên tôi nhận thấy mùa
thu bắt đầu len lỏi mỗi ngày. Mặc dù nắng vẫn còn gay gắt nhưng gió biển đã dịu đi
và trở nên mát hơn. Mưa mang theo mùi mây ngột ngạt, lặng lẽ hắt vào những con
thuyền đang xếp thành dãy trên bờ biển. Tôi biết rõ rằng mùa hè đang trôi qua”
[126, 127-128]. “Biển trông đen và dậy sóng hơn mọi khi, có lẽ là do biển được
52
chiếu sáng bởi những dãy đèn lồng sáng rực xếp dọc bờ cát” [126, 132]. Khi thì là
“những hoa văn như sóng” (trên cát), khi thì “chỉ có tiếng sóng vang vọng ầm ào”
[126, 114], khi thì nhìn rõ “một màu xanh quá đỗi bao la như không giới hạn” [126,
116], khi thì “làn nước mát lạnh mơn man da thịt” [126, 116], biển được cảm nhận
ở mọi góc độ, bằng mọi giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, xúc giác và cả
trái tim, như chứa đựng trong nó cả thế giới tinh thần sâu lắng của mỗi con người,
trở thành một phần của cuộc đời họ. Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, biển
là “một biểu tượng của động thái sống. Tất cả từ biển mà ra và tất cả trở về biển:
Đây là nơi của những cuộc sinh đẻ, những trạng thái biến đổi và những tái sinh”
[50, 8]. Theo đó, biển hiện lên với nhiều động thái liên quan đến sự sống và cái chết
trong cảm xúc của nhân vật. Những gì gắn liền với nước (hồ, sông, biển) trong sáng
tác của Banana có khả năng an ủi người đang sống và cả những linh hồn chưa nguôi
ngoai về cõi sống. Với đặc điểm có thể thay đổi theo thủy triều theo chu kì thời
gian, biển như là nơi tập trung sức mạnh và một sự tiếp diễn của cuộc sống (thay
đổi nhưng vẫn luôn tồn tại). “[...] với tiếng sóng biển và cát trắng, với mặt biển
xanh thẳm, với những đám mây rực sáng giữa không trung, ngắm nhìn những sinh
linh mà vòng đời không dài quá một ngày trên bãi biển chói chang đến độ ta thấy
như chính mình cũng đang phát sáng, ta sẽ luôn nghĩ về người bên cạnh” [130,
469]. Ở biển, hoặc mỗi khi nói về biển, con người như tách mình ra khỏi dòng chảy
của thời gian và cảm nhận được những điều kì diệu từ cuộc sống. Sakumi cảm thấy
“đầu óc trống rỗng một cách dễ chịu” [127, 469]. Mikage “bỗng thấy một cảm giác
vô cùng kì lạ, vừa buồn đau vừa dịu ngọt” [124, 176]. Satsuki nhìn thấy “một thứ
rất vi diệu, chỉ bằng linh tính, một thứ giống như là ảo ảnh mà trăm năm chỉ xuất
hiện đúng một lần, một thứ rất quý giá” [124, 213] (gặp lại Hitoshi, người yêu đã
mất). Giải thích như cách của Urara, “hiện tượng ấy chỉ xảy ra trên một dòng sông
lớn” [124, 238]. Saseko có thể an ủi những linh hồn của cõi chết bằng tiếng hát
được thực hiện ở ngoài biển khơi. Biển là nơi con người hội ngộ, ra đi, và trở về.
Nơi đó, Maria, Tugumi, Kyoichi đã cùng nhau trải qua kì nghỉ hè đẹp đẽ, Tugumi
và Kyoichi có một tình yêu trong trẻo. Như những nhịp thở thuần khiết của tự nhiên
53
có khả năng xua đẩy tất cả những nỗi nặng nề, u ám, đem đến cảm giác bình yên,
được che chở, “Biển là một cái gì đó thật lạ lùng, khi hai người hướng về phía biển,
dù lặng im hay chuyện trò, không hiểu sao điều đó chẳng hề gì. Cứ nhìn mãi mà
không chán. Cả tiếng sóng và mặt biển, có dữ dội đến mấy vẫn không chút ồn ào.”
[126, 30] Kể cả khi nghĩ về cái chết, Tugumi cũng chỉ muốn mình được chết ở biển.
Vẻ đẹp thanh thuần của thiên nhiên trong tác phẩm của Y. Banana đặc biệt
được chú ý ở tông (tone) màu đặc trưng của thẩm mĩ kawaii: màu pastel (màu nhạt,
tươi sáng), thể hiện sự nhẹ nhàng, mềm mại, thanh tao (trắng, hồng, xanh nhạt...) và
cả những tông màu thể hiện sự ấm áp, rực rỡ, tươi tắn (đỏ, cam, vàng...). Nổi bật
nhất vẫn là màu xanh. Màu xanh của trời – “bầu trời xanh đặc quánh” xuyên thấu
nỗi niềm, “bầu trời màu thiên thanh như vẫn y nguyên” như sự vẹn nguyên của kí
ức, “bầu trời trong như một khối thạch màu lam xanh ngắt”: xanh của mây, của
nước (sông, hồ, biển), của cây cối. Trong không gian đô thị bề bộn, những mảng
không gian được “xanh hóa” trở thành những tín hiệu dễ thương, ấm áp, chở che.
Nhân vật của Y. Banana đặc biệt dành tình yêu cho cây lá, thích ngắm công
viên xanh tươi. Mikage nhớ về người yêu đã mất Sotaro gắn liền với màu xanh, bởi
hồi còn sống, Sotaro rất thích công viên. Tình yêu cũng nảy nở từ những buổi cùng
nhau đi dạo, lặng ngắm những hàng cây. Vẻ dễ thương, xanh mát, đầy sức sống của
một chậu dứa gai cũng có thể làm cho một người đang đối diện với căn bệnh hiểm
nghèo như mẹ của Tanabe có thể lạc quan hơn: “Em muốn có một sinh vật sống ở
trong phòng bệnh”, “một thứ gì đó đang sống, có liên quan đến mặt trời, như là cây
cối ấy” [124, 135]. Cũng cây dứa ấy, sau này trở thành người bạn của Tanabe trong
những lúc cô đơn: “Trên thế gian này, vào đêm nay, chỉ còn mình và cây dứa là hai
kẻ thấu hiểu được nhau mà thôi, [...], chỉ có hai sinh mệnh nhỏ bé đang run rẩy nép
vào nhau trong gió và giá lạnh này cùng nhau chia sẻ nỗi cô đơn” [124, 137]. Người
Nhật đánh giá cao thiên nhiên ở mặt thẩm mĩ và sức mạnh tinh thần của nó. Thần
đạo (Shinto) của tín ngưỡng truyền thống Nhật Bản cho phép họ nhìn mỗi sự vật
trong thế giới khách quan đều có linh hồn (kami): biển, trời, mặt đất, núi non, sông
suối, ao hồ, những hàng cây xanh... Nhờ thiên nhiên tươi đẹp, hiền hòa mà nhân vật
54
dù cô đơn vẫn thấy mình được hạnh phúc. Mari trò chuyện cùng những sinh vật
dưới đáy biển. Cây cối an ủi, vỗ về những giấc ngủ của Mikage: “Tôi vừa lắng nghe
hơi thở của cỏ hoa, cảm nhận khung cảnh ban đêm từ bên kia bức rèm cửa, rồi lúc
nào cũng vậy, chìm vào giấc ngủ tự khi nào không hay” [124, 41]. Khi cô độc,
Mikage không muốn có ai khác bên cạnh, nhưng chỉ cần với cây cối, cô sẽ thấy nhẹ
nhàng, thanh thản. Nhiều nhân vật của Y. Banana có sở thích trồng hoa, ngắm hoa;
thích nắng và ánh sáng, thích ngắm bầu trời, trăng, sao, và biển; thích đi trong công
viên, thích màu xanh của cây cối và được hít thở không khí trong lành. Thiên nhiên
tươi sáng, trong trẻo trở thành sự lựa chọn tốt nhất để các vết thương được chữa
lành và đổ vỡ tinh thần được hàn gắn. Với những hệ giá trị mới về cái đẹp mà
kawaii mang lại: tươi sáng, trong trẻo, giản đơn, thuần khiết, tác phẩm của Y.
Banana đưa con người trở lại với những giá trị bản nguyên, cân bằng lại cuộc sống
con người theo phương thức giản đơn. Ở sáng tác của Y. Banana, nhờ vẻ nguyên sơ,
đơn giản, vĩnh cửu trước mọi biến động ồn ã của đời sống mà cuộc sống bề bộn của
thời hiện đại trở nên có lối thoát hơn. Mùa xuân, “không khí ấm dần lên, anh đào
ngoài sân nở dần, từng ít một. Hàng ngày, chỉ cần nhìn qua cửa sổ tầng hai, ngắm
sắc hồng loang dần trong đám lá xanh cũng đủ thành một niềm vui [...]. Từng cánh
hoa rơi giăng mắc, ánh dương soi rọi, làn gió thổi, cả một rừng cây bạt ngàn cùng
xao động, choáng ngợp trước những dịu ngọt của sắc hồng như nhảy múa, cùng
những mảnh trời xanh qua kẽ lá. Tôi đứng chết lặng. Tôi biết. Chỉ có một lần, và sẽ
mất đi trong chớp mắt. Nhưng một phần của ta sẽ vĩnh viễn tan vào khoảnh khắc ấy.
Wonderful, bravo! Dù phải khổ đau, con người sẽ vẫn kiếm tìm khoảnh khắc ấy”
[127, 154]. Các so sánh được sử dụng trong tác phẩm khi nói về vẻ đẹp của con
người đều liên quan đến vẻ trong trẻo, hiền hòa của thiên nhiên: “Cô ta nở một nụ
cười giống như thứ hoa quả vùng nhiệt đới” [127, 222]; “nụ cười của Saki như một
đóa hướng dương thật lớn” [127, 278], ánh mắt của Sui “chứa đựng sự trong suốt
thuần khiết đến độ tuyệt đối, tựa như vì sao Thiên Lang tỏa sáng giữa bầu trời đêm
thăm thẳm” [127, 400], Sui “quả giống như một đóa li” [127, 416]; mái tóc của
Saseko “giống như sự kết hợp khi ta ngắm nhìn thật kĩ một bông hoa tulip đang nở
55
thì bỗng nhận ra cả hương thơm của nó” [127, 370], khuôn mặt của Mayu lúc cười
chứa “một cái gì đó thuần khiết, trong mát như hơi nước hòa với hương thơm của cả thiên nhiên” [127, 66],.người chồng trong truyện Một trải nghiệm với gương mặt
khi cười “như tỏa hương hoa, đặc biệt là hương hoa li trắng” [128, 183], Chihiro
cảm nhận về mẹ: “phần con người thân thương như một cánh hoa mỏng thẹn thùng
rung rinh trong bóng nắng” [130, 14].
Về phương diện này, quan điểm của Y. Banana có sự gặp gỡ với Matsuo
Basho, thiền giả thi sĩ lỗi lạc của thi ca cổ điển Nhật Bản thời Edo. Basho từng kêu
gọi: “Hãy vượt qua man rợ mà đón nhận thiên nhiên và quay về với thiên nhiên”
[162]. Đây cũng là quan điểm chung của các nhà văn thơ cổ phương Đông. Văn học
từ cổ chí kim chưa bao giờ quay lưng với tự nhiên nếu không muốn nói các nghệ sĩ
đều nhìn thiên nhiên bằng đôi mắt của “người trở về”, “người nương náu”, “kẻ lạc
loài”. Tuy nhiên, cách làm của Y. Banana không giống với bút pháp ước lệ tượng
trưng của văn học cổ. Thiên nhiên không nhất thiết phải được “gán cho” cốt cách
của con người và tác giả cũng không dùng những hình ảnh của thiên nhiên ấy để
ngụ ý về một điều gì đó có tính chất triết lí. Nếu như với M. Basho, thiên nhiên
chứa đựng những thông điệp minh triết của cuộc sống; với Y. Kawabata, thiên
nhiên gìn giữ cái thanh sạch, cao khiết để con người hướng đến cái đẹp lí tưởng; với
M. Haruki, thiên nhiên là không gian của lòng mẹ, ấp ủ, thai nghén con người, là
khung nền của những quan hệ ân ái với những hình ảnh ám hiệu đánh thức sự giao
hòa... thì thiên nhiên trong sáng tác của Y. Banana hiện lên trong cách thức nguyên
bản của chính nó: trong trẻo, hiền hòa, dễ thương, đưa con người trở về với những
giá trị giản đơn nhất trong dòng chảy tất bật, có vai trò vỗ về, an ủi con người phức
tạp và bất an của cuộc sống.
Vẻ hiền hòa của thiên nhiên đem đến cho con người sự bình yên và cảm giác
được chữa lành. Đêm là bóng tối của trời đất, là một cái khép mắt, một giấc ngủ say
của vũ trụ. Tác phẩm Y. Banana với biển đêm, những con đường ngập ánh trăng
đêm, gió và cát trong đêm... cũng là một tín hiệu đặc biệt của thiên nhiên mang đặc
tính của thẩm mĩ kawaii xuất hiện trong sáng tác của Y. Banana, với sức mạnh chữa
56
lành đặc biệt của nó. Biển vào đêm không ầm ào, dữ dội mà hiền hòa, nên thơ với
những bờ cát trắng và gió đêm mát rượi trong Tugumi, trong Amrita, trong N.P.
“Trăng sáng trắng, khiến mặt biển sáng như một mặt đường. Bờ cát trắng chạy ra
sát mép nước, ôm lấy biển rồi trải dài mãi theo hình vòng cung” [124, 240]. Trong
khung cảnh ấy, Kozumi kể cho Sakumi và Ryuichiro về cuộc đời mình, đời của
người sống trong lời nguyền số phận. Đêm phản chiếu vẻ đẹp lúc bình thường khó
nhìn thấy hoặc ít để ý đến: “Đêm trăng, đường rất sáng. Đôi mắt nâu nhạt của
Kozumi ánh lên, rất đẹp. Và tôi nhận ra, sự kì lạ không phải ở màu sắc, không phải
ở ngôn từ mà chính là ở phong thái toát ra từ con người ấy, như làn hương của bãi
biển vào những đêm trăng hay nghĩa trang giữa trưa hè, một sự hòa trộn giữa ánh
sáng và cái chết” [127, 227]. Nhất là những đêm trong vắt, người ta trở nên không
nghĩ suy mà mở rộng tấm lòng, nói chuyện với người bên cạnh như thể nói với
những vì sao lấp lánh nơi xa. Y. Banana có những đoạn văn viết về đêm thật hay:
“Trong một buổi tối không khí trong vắt như thế này, con người ta mới nói những
chuyện trong lòng. Không hề nghĩ suy, mở rộng tấm lòng, nói chuyện với người bên
cạnh như thể nói với những vì sao lấp lánh nơi xa” [126, 87]. Sự thức dậy đột ngột
từ những giấc - mơ - trong - đêm, cũng là điều có ý nghĩa quan trọng với các nhân
vật của Banana, như trường hợp của ba người trong Tugumi là Maria, Tugumi và
Kyoichi. Họ cùng tỉnh giấc giữa đêm và gặp nhau. Maria cho rằng hiện tượng này
có được là bởi đêm. Vào chính đêm, những cảm xúc thật đang bị buộc chặt sẽ được
tiết lộ, giải tỏa. “Đó là bởi vì đêm. Những đêm như thế này khiến bạn bộc lộ những
suy nghĩ và cảm xúc bên trong, vô tình bạn mở rộng tâm hồn mình và bắt đầu trò
chuyện.” [126, 91] Đêm hé lộ những sự thật, những sự thật về tính cách và số phận
các nhân vật. Maria phát hiện ra sự căm thù dữ dội của Tugumi sẽ xảy ra vào đêm.
Đêm dường như đã giải phóng những cảm xúc mạnh mẽ nhất của cô bé Tugumi –
thứ cảm xúc vừa tương đương, vừa là kết quả của những nỗi đau liên tục mà
Tugumi phải gánh chịu. Vì chân thật, nên đêm còn là chứng nhân của tình bạn, tình
yêu. Kỉ niệm của đôi bạn Maria – Tugumi gắn liền với những đêm khuya với trò
chơi Hòm thư ma. Tình bạn – tình yêu giữa Tugumi và Kyoichi cũng bắt đầu vào
57
một đêm sáng trăng ở biển. Đêm chứng kiến cảnh Mikage (Kitchen) vượt hàng trăm
ki-lô-mét đường xa xôi để đem katsudon đến cho Yuichi. Đêm kết nối tâm hồn giữa
những con người cô đơn lại với nhau, là “cơ hội” để họ được chia sẻ, giãi bày và
làm cho họ thoát dần ra khỏi sự đau khổ để phấn chấn trở lại, như Sakumi,
Ryuichiro, Kozumi và Saseko trong Amrita.
Khi Y. Banana bắt đầu đọc manga của Tezuka Osamu năm 10 tuổi, cô đã
cảm nhận thế giới đó quá tối tăm. Điều này phải chăng đã ảnh hưởng đến cách mà
Y. Banana để nhân vật đối mặt với những ý nghĩ cay đắng và tăm tối mỗi khi họ trở
về nhà, nhất là vào ban đêm khi sự cô đơn bủa vây. Thường thì đêm là khoảng
không của sự tối tăm, lạnh lẽo và cô độc, nhưng với Banana, đêm có khả năng vỗ
về, che chở, lắng nghe, thấu hiểu, cứu rỗi và thật đáng yêu, hướng con người đến
cảm giác ấm áp. Hầu như không tác phẩm nào Banana không nhắc đến đêm,
“mang” nhân vật đặt vào đêm. Nhân vật thích đêm, sống trong đêm để cảm nhận
nhịp quay của cuộc sống. Đêm màu đen, tối, nhưng chính nơi đó nhân vật tìm được
ánh sáng cho con đường của đời mình. Trở thành một người bạn tin cậy và ấm áp
đối với những kẻ cô đơn đang chịu nhiều tổn thương, mất mát, trong vòng quay 24
giờ của vũ trụ, đêm không ngắn ngủi mà vô tận, miên man, vĩnh cửu. Cả quá khứ
dằng dặc và hiện tại ngổn ngang ùa về trong đêm, tâm hồn Terako giãn ra vô tận:
“Đêm thật dễ thương. Tôi yêu đêm vô cùng. Chỉ cần nghĩ trong đêm mọi điều trở
nên có thể là tôi không hề buồn ngủ chút nào” [125, 12]. Fumi cũng tự hỏi: “Tại sao
vậy nhỉ? Sao bóng đêm tựa như một sợi dây chun, có thể dãn dài ra mãi và mềm
mại, còn buổi sáng lại không hề độ lượng và cứ sắc lẻm như vậy?” [125, 181]. Đêm
giúp con người tận hưởng được ý nghĩa của cuộc đời quanh mình. Với Sui, “Đêm lạ
lắm. Nó chỉ là khoảnh khắc vụt qua đối với những người ngủ sớm, nhưng dài như
cả một cuộc đời đối với những người thức trắng. Không ngủ, tôi thấy mình được
thêm nhiều thứ” [127, 158]. Đó là khoảng thời gian hội tụ cảm xúc của con người,
khoảng thời gian yên tĩnh để lắng nghe cuộc sống tinh tế nhất. Sakumi cảm nhận,
“Hai giờ sáng, quán đóng cửa. Tôi dọn dẹp rồi rời quán. Mưa đã tạnh hẳn, trời đầy
sao. Đêm se lạnh, không gian phảng phất hương xuân. Làn gió đêm mát lịm thấm
58
qua lớp áo khoác mỏng, ôm trọn lấy tôi” [127, 39], “không gian bên ngoài đẫm
hương vị mùa đông. Lẩn trong làn gió lạnh, cái rét ngấm ngầm đưa thông điệp của
nó đến với cơ thể tôi” [127, 91], “Những ngôi sao đêm lấp láy. Những thân cây xao
động trong bầu không khí trong vắt, cố lắng tai nghe những âm thanh dịu dàng đang
ôm lấy đêm” [127, 283]. Còn Mikage thì thấy: “Đêm cô độc và tĩnh lặng tới mức có
thể nghe thấy rất sâu trong màng nhĩ thứ âm thanh của những vì sao đang chuyển
động trên bầu trời. Một cốc nước đầy. Nước đang thấm dần vào trái tim khô héo của
tôi. Trời hơi lạnh” [124, 68]. Đêm là một phép lành, là cốc nước trong mát và dịu
ngọt tưới vào trái tim đang dần khô héo của Mikage. Đêm trợ lực cho sự chữa trị
những chấn thương tinh thần: Satsuki chạy bộ ban đêm, gặp người con gái kì lạ
Urara vào ban đêm, gặp lại người yêu và cô có thể nói lời tạm biệt cũng trong đêm.
Donald Barthelme từng nói: “Phúc cho chúng ta là có thể tưởng tượng những thực
tại khác, những khả tính khác” [158]. Đọc tiểu thuyết của Y. Banana, chúng ta cho
phép mình vượt khỏi những giới hạn thông thường của cảm giác để tưởng tượng
“những thực tại khác” như là những thế giới song hành với thế giới thực tại ta đang
sống. Đêm khiến không gian dịch chuyển, nhờ đó, con người cũng “dịch chuyển”
khối u ám, trở nên “mềm” hơn, bớt chai cứng.
3.1.2. Con người khả ái
Tạo hình của các nhân vật nữ trong sáng tác của Y. Banana thường được chú ý
ở đôi mắt, khuôn miệng, gương mặt, gắn với những hình ảnh dễ thương, nhẹ nhàng,
trong sáng, lãng mạn nhưng cũng rất phong phú, phức tạp. Đây là một trong những
điểm có liên hệ rất gần với shoujo manga, một trong những biểu hiện chủ yếu và
đậm đặc nhất của thẩm mĩ kawaii. Các nhân vật trong shoujo manga thường là các
cô gái với thân hình siêu mẫu, mái tóc bồng bềnh hoặc thẳng mượt, mắt to long
lanh, cằm nhọn… giống với hình ảnh vẻ đẹp lí tưởng của Nhật Bản. Những bộ
shoujo manga nổi tiếng được dịch sang tiếng Việt và được độc giả Việt Nam yêu
mến như Nữ hoàng Ai Cập (Chieko Hosokawa), Thủy thủ Mặt Trăng (Takeuchi
Naoko), Mặt nạ thủy tinh / Cô bé chăm chỉ (Miuchi Suzue)… đều là những bộ
59
truyện có các nhân vật mang đầy đủ những đặc điểm này.
Nhân vật người kể chuyện thường ngưỡng mộ và ngợi ca vẻ đẹp thiên thần:
trong veo, thanh khiết, dù có thể đã phải trải qua nhiều sóng gió của cuộc đời,
nhưng vẫn hồn nhiên, thánh thiện - vẻ đẹp như thần Phật, như Đức Mẹ tỏa ra ánh
sáng thoát tục, buộc xung quanh phải giữ một khoảng cách đủ xa để ngưỡng vọng
(rất nhiều lần Y. Banana so sánh các nhân vật với nét của thần, Phật). Vẻ đẹp này
vừa là thần thái riêng, vô hình, vừa là vẻ đẹp cụ thể, biểu hiện ở nhiều phương diện
ngoại hình như mái tóc dài bồng bềnh, đôi mắt trong trẻo, là nụ cười xinh xắn, tràn
đầy sức sống... Điều này góp phần làm rõ quan niệm con người chính là hiện thân
của tất cả những gì cao quý nhất - “con người là thần thánh”. Trong đó, Y. Banana
có xu hướng tập trung nhất ở hai “tín hiệu”: đôi mắt và nụ cười. Tần số xuất hiện
cao của đôi mắt trong tác phẩm của Y. Banana tạo nên một ý nghĩa biểu đạt đặc
biệt. Hầu như tác phẩm nào của Y. Banana cũng có sự chú ý miêu tả đôi mắt của
các nhân vật, có những tác phẩm chú ý vào một nhân vật (thường là truyện ngắn) và
cũng có những tác phẩm chú ý nhiều hơn một (thường là tiểu thuyết). Theo thống
kê, có ít nhất 14 nhân vật được miêu tả đôi mắt: Eriko (Kitchen), Sui và Otohiko
(N.P), Mayu, mẹ của Sakumi, Yoshi và Mì Sợi (Amrita), Tugumi (Tugumi), cô gái
trẻ (Mới cưới), Thằn Lằn (Thằn Lằn), Shiori và cô bé nữ sinh (Say ngủ), Sarah (Lữ
khách giữa hai màn đêm), cô gái (Xoắn ốc). Đó là “cặp mắt mơ màng” [127, 21],
“đôi mắt to tròn, trong veo như thủy tinh” [127, 79], “hàng mi dài, rậm; mỗi khi
nhìn xuống thì che rợp đôi mắt to” [125, 20], “đôi mắt xanh thông tuệ” [127, 40],
“Đôi mắt cô ánh lên vẻ mạnh mẽ như không mảy may lo sợ điều gì, đôi mắt của
những kẻ mới bắt đầu yêu, đôi mắt tràn đầy niềm tin sẽ biến mọi giấc mơ thành hiện
thực, thậm chí là thay đổi cả bản thân hiện thực” [127, 41], “cặp mắt sắc lẹm có đôi
đồng tử lấp lánh thẳm sâu” [124, 28], đôi mắt “chứa đựng sự trong suốt thuần khiết
đến độ tuyệt đối, tựa như vì sao Thiên Lang tỏa sáng giữa bầu trời đêm thăm thẳm,
và tựa như những giọt Martini được pha rất khéo trong li cocktail đượm thứ ánh
sáng trong vắt” [124, 76] nhưng lại có lúc “thẳm sâu như mặt nước tối đen dưới đáy
của một cái giếng cũ”, “đôi mắt pha lê với cặp đồng tử mang một thứ âm hưởng
60
lạnh lùng” [124, 91], đôi mắt “thoáng nét u buồn” [124, 11], “đôi mắt to như đang
dõi theo một giấc mơ” [124, 45], “ánh mắt mạnh mẽ” [126, 94], đôi mắt “có ánh
nhìn sâu thẳm già trước tuổi” [126, 26], đôi mắt “như không có quá khứ, cũng
không trông đợi gì ở tương lai” [126, 452], đôi mắt “đen tròn”, “đôi mắt của loài bò
sát [..], ngơ ngác, thờ ơ”, “đôi mắt xếch u sầu” [128, 28], “đôi mắt thon dài lúc nào
cũng mơ màng huyền ảo tựa như hai mảnh trăng xanh”? [128, 27]... Con người có
thể “giấu mình” qua cử chỉ, lời nói, hay hành động, nhưng với ánh mắt thì những
sắc thái khác nhau, chân thật hoặc gượng gạo, đều biểu hiện rõ trạng thái của con
người, không có cách nào che giấu. Văn hóa biểu tượng nói: đôi mắt là sức mạnh
của lương tri tối cao và thần thái con người. Murakami Haruki cũng thường “vẽ
mắt” cho các nhân vật nhưng ông chú ý về độ sâu, thể hiện sự rỗng không, vô cảm
của đôi mắt, phản ánh sự bất lực của nhân vật, cả trong quan hệ tình dục lẫn việc
không thể mở lòng, hoàn toàn bế tắc, tuyệt vọng. Ở đây, Y. Banana lại chú ý đến vẻ
đẹp trong sáng, thánh thiện của đôi mắt. Chính vẻ đẹp như thần Phật, Bồ Tát này
giúp chúng ta khám phá thế giới nội tâm sâu kín của nhân vật, bởi, trong cách cư
xử, trong hành động và thái độ, vẻ đẹp này của nhân vật thường bị che giấu hoặc lẩn
khuất trong tính cách trái khoáy, bướng bỉnh, hay trạng thái yếu ớt, mỏi mệt. Ở
Nhật, trong các sản phẩm văn hóa, thương mại và truyền thông đa phương tiện như
truyện tranh, hoạt hình, hay các nhân vật của văn hóa tiêu dùng như búp bê, đặc biệt
là mèo Hello Kitty..., đôi mắt là một trong những đặc điểm quan trọng. Mèo Kitty
không có miệng nhưng có đôi mắt rất to tròn, chiếm 50% biểu đạt của gương mặt.
Tương tự, búp bê Daruma và những búp bê đồ chơi trong Ngày trẻ em đều có đôi
mắt rất to và có hồn. Đặc biệt là búp bê Daruma, người ta chỉ vẽ một bên mắt, khi
nào đứa trẻ thực hiện được ước mơ của mình thì chúng sẽ vẽ phần mắt còn lại. Cách
tạo hình cho nhân vật của manga hay anime cũng có sự chú ý đến đôi mắt như vậy.
Các bộ phim hoạt hình (anime) khi biểu đạt một trạng thái cảm xúc đặc biệt của
nhân vật thường chiếu cận cảnh vào đôi mắt. Trong một góc quay cận cảnh (close
up) của anime, máy quay sẽ dần phóng to (zoom / dolly out), dồn lên ánh mắt hoặc
gương mặt của nhân vật để tập trung lên nhân vật để biểu đạt diễn biến tâm lí của
61
nhân vật. Trong một khung hình của manga, đôi mắt chiếm tỉ lệ khá lớn so với tổng
kích thước của khung hình, thậm chí vào những tình tiết quan trọng, có ý nghĩa nút
thắt, tâm trạng của nhân vật ngạc nhiên xúc động cực độ hoặc rơi vào bế tắc, thì một
số khung hình chỉ vẽ mỗi đôi mắt, thường là đôi mắt mở to vì ngạc nhiên, long lanh
vì xúc động hoặc ngấn lệ vì đau đớn. Với khung truyện của Y. Banana, hình ảnh đôi
mắt (cùng với nụ cười) cũng trở thành những biểu đạt có trọng lượng trong việc
khắc họa nhân vật, như một phương tiện hiệu quả giúp ta nhìn sâu được vào bên
trong tâm hồn, tính cách nhân vật để thấu hiểu, khám phá họ. Những nhân vật được
đặc tả đôi mắt có một số đặc điểm sau: thứ nhất, đó là những cuộc đời không bằng
phẳng, không đi theo quỹ đạo của cái bình thường; thứ hai, tất cả đều được khúc xạ
qua cảm nhận của nhân vật tôi và đồng hành suốt chặng đường khám phá, nhận
thức, thấu hiểu của nhân vật tôi; thứ ba, các chi tiết liên quan đến đôi mắt thường
được tả ở đoạn đầu truyện, ngay lần đầu tiên nhân vật tôi gặp gỡ hoặc nói về các
nhân vật ấy, mang dấu ấn của một ấn tượng đầu tiên. Đôi mắt, do đó, là sự phản
chiếu của nhiều cung bậc cuộc đời trong tác phẩm của Y. Banana: từ một Shiori
nặng trĩu suy tư với bi kịch thân phận và mâu thuẫn trong chính nghề nghiệp, như
mơ hồ nhận ra chính mình cũng đang cần được có ai đó ngủ bên cạnh; một Eriko
phẫu thuật chuyển giới sau cái chết của vợ và sống hết phần năng lượng còn lại của
mình cho những người xung quanh; một Minowa Sui trong nghịch cảnh loạn luân:
vô tình nhưng đầy mặc cảm tội lỗi; một Takase Otohiko tồn tại giữa ranh giới của
dằn vặt và đam mê mà không cách nào dung hòa được, cũng không thể thoát ra
được; một Mayu với những điều mong manh như ảo ảnh, tưởng như khoảnh khắc
chạm tới cũng chính là khi mọi thứ tan biến; một người mẹ (của Sakumi) vẫn lạc
quan, đầy tự hào và sống kiên cường sau những trò đùa của số phận; một cậu bé
Yoshio mới 11 tuổi nhưng đã chứng kiến quá nhiều biến đổi sinh li của cuộc sống;
một Thằn Lằn với những xúc cảm và phản ứng tinh tế, bén nhạy trong đời sống tinh
thần....
Cùng với đôi mắt, nụ cười cũng là điểm nhấn của một khung hình manga lẫn
anime, thể hiện qua cách tạo hình khuôn miệng với rất nhiều nét biểu cảm phong
62
phú. Nụ cười là nơi hội tụ vẻ đẹp hồn nhiên, chân phương nhất của con người, là
hiện thân của sự bao dung, vị tha như được ban phát bởi các Đấng tối cao. Nụ cười
khiến gương mặt dẫu có buồn đau vẫn rạng rỡ. Điều này phải chăng có mối liên hệ
với cụm từ kao tsukushi (顔映し), nghĩa là “khuôn mặt rạng rỡ” [183], được cho là
nguồn gốc ban đầu của từ ngữ kawaii? Vẻ đẹp dễ thương, trong sáng của các nhân
vật được thể hiện trọn vẹn nhất khi họ cười. Đó là nụ cười của sự hài hòa, lan tỏa
những cảm xúc tinh tế, chạm tới thế giới sâu kín nhất của cõi lòng mỗi người khi
tiếp xúc với họ; là “nét cười hiền” [127, 10], “khi cười, khuôn mặt nom y hệt viên
kẹo dẻo” [126, 21] của Shiori trong Say ngủ, khiến Terako luôn nhớ về cô gái có nét
cười thấp thoáng luôn thường trực trên khóe miệng ấy, “nụ cười đó có thể kéo
phăng đi mọi mệt nhọc, tù túng ứ đọng vô cớ trong lòng ta vậy” [127, 47], “gương
mặt khi cười lúc nào cũng ánh lên như thần Phật” [124, 31], “nụ cười rạng rỡ”, nụ
cười tươi tắn “tựa như ánh sáng tan ra” nhưng lại là nụ cười buồn của Tanabe trong
Kitchen; là Mayu trong Amrita với “cả trăm kiểu cười xã giao nhưng [...] bất chợt
nở một nụ cười hồn nhiên không ý đồ, không vụ lợi thì nụ cười đó đủ sức xóa sạch
mọi khiếm khuyết, lay động đến tâm can người khác [...], một nụ cười dịu dàng,
như trời xanh và nắng ấm chan hòa bất chợt hiện ra sau đám mây mù. Một nụ cười
trong ngần, chói rạng, tự nhiên và mạnh mẽ, chân thành và tha thiết đến mức khiến
người ta muốn khóc. Cả đến khi đã bị viêm gan nặng, sắc mặt xanh xao, da dẻ bợt
bạt, cái mãnh lực trong nụ cười ấy vẫn không hề thay đổi” [127, 20]. Mê lực của nụ
cười khiến người đối diện không thể rời ánh nhìn, không cưỡng lại được những
rung động sâu xa trong lòng. Chính nó đã trở thành kỉ niệm không phai trong tâm
khảm của những người ở lại về Mayu khi cô không còn nữa, như một phương thuốc
diệu kì cứu chữa những vết thương: “Tôi đã yêu khuôn mặt khi cười của nó xiết
bao. Đến giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn mơ thấy khuôn mặt đang cười ấy. Tôi thèm
muốn lại được nhìn thấy khuôn mặt đang cười ấy, dù chỉ một lần” [127, 44]. Đó là
Tugumi “thoáng nét cười mơ hồ như trời chiều thay đổi dáng vẻ trong từng khoảnh
khắc [126, 35], Sui trong N.P có cuộc sống huyền bí đến khó hiểu và những mối
quan hệ tình cảm phức tạp, luôn sống trong áp lực và sự cô đơn, nhưng có “nụ cười
63
giống như thứ hoa quả vùng nhiệt đới dưới bầu trời đỏ rực” [125, 96]. Nụ cười của
Kozumi - một chàng trai lớn lên ở vùng biển Saipan với nhiều nỗi đau số phận
nhưng có “Một nụ cười thật hào phóng [..], cả bầu trời phương Nam bao la trải ra
sau nụ cười ấy.” [127, 222]
Vẻ đẹp thanh thoát, khả ái của các nhân vật trong sáng tác của Y. Banana
mang tới sự bình yên, nhẹ nhàng cho người đối diện, mang tới một sức sống nồng
nhiệt, tươi mới, những tình cảm tích cực. Nhân vật nữ trong sáng tác của Y.
Kawabata cũng được xây dựng đậm thiên tính nữ. Đó là kiểu người phụ nữ trong
trắng, hướng tới cái đẹp trong trắng, vĩnh cửu. Sự khác nhau giữa Y. Kawabata và
Y. Banana chính là ở chỗ, vẻ đẹp của các nhân vật nữ của Kawabata trước hết là
những người đẹp (hiểu theo đúng nghĩa đen của từ ngữ này), nghĩa là vấn đề nhan
sắc. “Mỗi người mỗi vẻ, Kaoru non trẻ, Yoko thanh cao, Komako nồng nàn quyến
rũ, Inamura, Chieko thanh lịch, Naeko khỏe mạnh, đằm thắm, chất phác, Kikuko
ngoan hiền...” [39, 156]. Trong sáng tác của Kawabata, vẻ đẹp của phụ nữ biểu
tượng cho vẻ đẹp, những giá trị truyền thống đang dần bị phôi pha, mai một trước
sức tấn công của văn minh Âu – Mĩ. Vẻ đẹp trong sáng của các nhân vật nữ trong
sáng tác của Kawabata gợi lên sự đức hạnh, quyến rũ như những mẫu hình lí tưởng
trong quan niệm cái đẹp là đích đến của một nhà văn duy mĩ. Còn vẻ đẹp trong
sáng, thánh thiện ở các nhân vật của Y. Banana gợi cho con người cảm giác bình
yên, được che chở / hoặc muốn được che chở. Nó có ý nghĩa truyền đi thông điệp
của yêu thương, sự thấu hiểu và quan niệm rất nhân văn: thiên thần không ở đâu xa:
nằm ngay ở con người, kể cả khi đó là những con người bình thường nhất, đơn giản
nhất. Đó là tinh thần của thẩm mĩ kawaii.
Vẻ khả ái cũng được nhìn từ nét ấm áp tỏa ra từ các nhân vật. Tanabe điềm
nhiên, lạnh lùng, bình thản đến hờ hững một cách kì lạ với các quan hệ xã hội, có
xu hướng đóng kín bản thân, nhưng lại sống nhạy cảm, tinh tế với ngôi nhà được
trồng rất nhiều hoa. Tanabe cũng từng làm thêm ở một cửa hàng bán hoa. Đó là lúc
anh trở thành người bạn nhỏ đáng yêu của bà Mikage. “Cái thái độ không quá nồng
nhiệt cũng chẳng lạnh lùng ấy của cậu ta chợt khiến tôi cảm thấy vô cùng ấm áp”
64
[124, 24]. Còn Eriko thì nồng nhiệt, hối hả toát ra bên ngoài. Người cha đã cải giới
sau khi vợ mất để có thể thương yêu và chăm sóc con thuận tiện hơn ấy lúc nào
cũng gấp rút, tất bật, thích sống bằng những ý tưởng tức thời, nhưng cách mà nhân
vật quan tâm khiến người thân của họ (và cả trái tim người đọc) cảm thấy như được
sưởi ấm: chạy về nhà thăm con một chút dù rất ngắn ngủi, mua những loại vật dụng
tiện ích cho gia đình, không để thiếu thứ gì (Mikage ngạc nhiên vì trong nhà có cả
máy in, máy photocopy, máy xay hoa quả...), tặng Mikage chiếc cốc xinh xắn (một
chi tiết rất kawaii!) – “một chiếc cốc quan trọng, vô cùng quan trọng” [124, 56].
Thực tế, việc tự cuộn mình vào cuộc sống bận rộn và lúc nào cũng để cho mình bận
rộn là cách để Eriko san lấp sự trống trải, cô đơn của chính cô, nhưng không vì thế
mà Eriko quên đi tình thương và sự chia sẻ với xung quanh. Không chờ đợi người
khác hiểu mình, “cô” ấy đã chọn cách sống tuy khá kì lạ nhưng luôn ý thức được
con đường đi tìm giá trị đích thực cuộc sống. Từ Eriko, soi mình vào Eriko, Mikage
dần tìm lại được sự cân bằng. Cô nhận ra, “hạnh phúc là những gì có thật ở hiện tại.
Rồi sẽ có biết bao nhiêu chuyện khi tôi lớn lên, sẽ bao lần nữa tôi suy sụp, khốn
đốn, nhưng sẽ là ngần ấy lần tôi trở về. Tôi sẽ không đầu hàng, tôi sẽ không buông
tay. Chắc chắn sẽ có rất nhiều căn bếp ở những nơi mà tôi sống” [124, 73-74].
3.2. Cảm giác mong manh
Y. Banana đã có sự kế thừa việc thể hiện cảm giác mong manh từ mĩ cảm
của người Nhật truyền thống. Từ thời cổ đại, trong pho thần thoại Cổ sự kí (Kojiki),
người Nhật đã cảm nhận được cái đẹp là cái mong manh, phù du. Chàng Nihigi,
cháu trai của nữ thần Mặt Trời, hạ phàm để tìm vợ. Chàng đến nhà Sơn thần, người
có hai nàng công chúa, để xin cưới một trong hai nàng. Sơn thần nói rằng, ông có
hai người con là công chúa Đá và công chúa Hoa, chàng có thể chọn một trong hai
người. Công chúa Đá xấu xí, nhăn nhó nhưng bất tử. Công chúa Hoa xinh đẹp, tươi
tắn nhưng mong manh, yểu mệnh. Không đắn đo, Nihigi đã chọn công chúa Hoa. Vì
vậy, những đứa con của họ là loài người khi sinh ra cũng có đặc điểm của mẹ: xinh
đẹp nhưng cuộc đời ngắn ngủi, phù du. Sau này, người Nhật lại kế thừa khái niệm
vô thường (mujo) – một khái niệm khái quát một quy luật khách quan – rồi cộng
65
thêm vào đó cảm xúc chủ quan mà tạo nên lí tưởng thẩm mĩ mono no aware (vật ai)
– niềm bi cảm nhân sinh, tức nỗi buồn, bâng khuâng, xao xuyến trước sự đổi thay
của vạn vật.
Đây đều là những lí tưởng thẩm mĩ tiền đề của kawaii.
3.2.1. Số phận mong manh
Sự nhỏ bé, yếu ớt chính là một trong những đặc trưng của vẻ đẹp kawaii.
Nhân vật của Y. Banana không chỉ mang vẻ đẹp mềm mại, trong sáng, ấm áp mà
còn ẩn chứa trong đó sự mong manh, như dễ tan vào hư vô vậy. Trong cái đẹp của
mỗi nhân vật, dường như Y. Banana đều gửi vào đó một hàm ý của cái đẹp đang
mất đi trong từng khoảnh khắc: rất đỗi mong manh, với những niềm lo lắng về số
phận, về sự sống – cái chết. Điều đó khiến ai nấy đều muốn nâng đỡ, chở che. Vẻ
đẹp đó khiến chúng ta tiếc nuối đến xót thương cho những giá trị cao quý nhưng
quá mong manh. Xét về phương diện này, cảm giác ấy không khác gì với niềm bi
cảm nhân sinh chứa đựng trong aware. Nhưng những hình tượng nhân vật nhỏ
bé, yếu ớt trong tinh thần của kawaii lại chứa đựng những cảm xúc đáng yêu
hơn là bi ai, não lòng. Các nhân vật trong sáng tác của Y. Banana cũng hiện lên
trong sự đáng yêu như thế, cho dù yếu ớt, mong manh nhưng không khiến người ta
não lòng, bi ai mà khiến ta thương yêu, bảo vệ, nâng đỡ, chở che, hướng chúng ta
đến những cảm xúc tích cực hơn là bi quan, tiêu cực.
Cụm từ “số phận mong manh” được dùng ở đây ý muốn nói đến những hoàn
cảnh được đặt để, không thuộc về “sự lựa chọn” của nhân vật, thường là những
bệnh tật bẩm sinh hoặc những tai nạn xảy ra trong cuộc đời. Tugumi mang số phận
đoản mệnh ngay từ khi mới sinh ra, cơ thể yếu ớt với “cánh tay và chân dài, mảnh
mai, nổi cả mạch máu, thân hình nhỏ nhắn” [126, 12]. Có lẽ vì vậy mà Y. Banana
dùng sắc trắng như màu sắc chủ đạo khi khắc họa nhân vật này: “chiếc váy trắng”
[126, 14], “đôi xăng đan đi biển có bông hoa màu trắng” [126, 101]. Sắc trắng vừa
thể hiện sự tinh khôi trong trẻo, vừa nhấn mạnh sự mong manh. Như một viên pha
lê rất đẹp, trong suốt nhưng dễ vỡ, thể trạng của Tugumi yếu từ nhỏ khiến tất cả
những người yêu thương cô gần như chuẩn bị sẵn sàng tinh thần có thể mất cô bất
66
cứ lúc nào. Trong niềm vui dường như đã có mầm mống của sự chia phôi. Mỗi cơn
sốt của Tugumi không chỉ khiến cô tiều tụy đi mà còn khiến những người yêu
thương cô rơi vào nỗi lo sợ tột cùng. “Quầng thâm xuất hiện dưới mắt, hơi thở gấp
gáp, môi tái nhợt. Những sợi tóc mỏng, ướt dính bết vào trán, còn mắt và gò má
sáng lấp lánh” [125, 55], nhưng Tugumi thật đáng yêu với đôi mắt và gò má sáng
lấp lánh như mang theo đó một sức mạnh tiềm tàng khiến cô bé như “vùng vẫy
chống lại cái thể xác ốm yếu”. Một Mayu đẹp như thiên thần nhưng “từ khuôn mặt
như thiên thần, hàng mi cong dài khép lại khi say ngủ, đến làn da trắng mỏng manh
như có thể bị tổn thương vì bất cứ thứ gì” [126, 10]. Ngay từ bé, những dự cảm mất
mát, tổn thương đã ngự trị trong cô gái này, nhưng không vì thế mà mất đi cái mãnh
lực kì lạ ở vẻ đẹp thiên thần ấy. Trong vẻ mong manh, thể xác ngày một héo mòn vì
bệnh tật, Mayu vẫn tràn đầy sức sống và tình yêu thương. Đó còn là mẹ của Chihiro
trong tác phẩm Hồ: một nửa là “con người rất xã giao, tươi tắn, phong trần, sống
gấp và sành điệu” và một kia là con người “tinh tế, chẳng khác nào một đóa hoa yếu
mềm, luôn run rẩy chực rụng trước cả một cơn gió thoảng” [129, 6], “thân thương
như một cánh hoa mỏng thẹn thùng rung rinh trong bóng nắng” [129, 14]. Dù chỉ là
một mama ở một quán bar, nhưng chính vẻ đẹp mong manh mà trong sáng kia đã
khiến bố của Chihiro - một người danh giá, giàu có - yêu mẹ Chihiro một cách chân
thành. Sống với những ràng buộc về địa vị, về chuyện kế nghiệp gia đình, đến nỗi
không buồn nghĩ đến việc phải vùng thoát ra khỏi đó, vậy mà bố của Chihiro đã
sống được một cuộc đời đáng sống khi gặp mẹ cô – “đóa hoa duy nhất tỏa ra hương
thơm tự do” [129, 10]. Là Hajime trong Nắp biển, một cô bé với vết bỏng trên mặt
do tai nạn hồi nhỏ, nửa bên phải của khuôn mặt và cơ thể em đen thẫm. Em gầy đến
mức đáng sợ. “Đó là kiểu gầy của người không ăn uống được vì quá đau buồn. Nhìn
những dẻ xương chồi ra sau lưng em, tôi cảm thấy buồn hơn rất nhiều so với khi nhìn
thầy vết sẹo bỏng” [130, 32]. Một cô gái bé nhỏ dường này lại phải gồng mình đối mặt
với thật nhiều vấn đề, “Hajime chỉ có cái đầu là to, như thể toàn bộ máu đã dồn lên trên
đầu, còn đôi chân khẳng khiu nhìn lúc nào cũng như sắp ngã” [130, 33]. Nhưng “một
khi đã quen với ngoại hình của em, sẽ thấy bầu không khí em mang đến tinh khiết tựa
67
như giọt nước trong suốt đọng trên cánh hoa bụp giấm” [130, 10].
Có thể thấy, bên cạnh vẻ đẹp mềm mại thanh thoát thì vẻ đẹp mong manh,
nhỏ bé, nhưng mạnh mẽ, đáng yêu cũng là những nét đặc trưng ở nhân vật của Y.
Banana, cũng là đặc trưng nổi bật của kawaii. Y. Banana có khả năng nắm bắt và
diễn tả đặc biệt tinh tế trong cung bậc, màu sắc cảm xúc khác nhau, những vẻ đẹp
mong manh thoáng qua trong cuộc sống. Mong manh đầy bất trắc nhưng đáng yêu
và đáng trân trọng, vẻ đẹp ấy như thứ ánh sáng dù nhỏ nhoi, có thể lụi tắt bất cứ lúc
nào nhưng cứ can trường tồn tại, thậm chí còn thắp lên nguồn sáng giữa bóng đêm
tuyệt vọng.
3.2.2. Tâm hồn mong manh
Những cô bé tuổi mới lớn trong thế giới shoujo manga đều mơ mộng, nhiều
tâm sự và có nội tâm phong phú. Họ đều có những hồi tưởng, tưởng tượng, giấc mơ,
vô thức: Thủy thủ Mặt Trăng của bộ manga cùng tên, Carol trong Nữ hoàng Ai Cập,
Kitajima Maya – cô bé chăm chỉ trong Mặt nạ thủy tinh..., tất cả họ đều có những phút
giây giãi bày những điều sâu kín trong lòng. Đúng như tâm trạng của tuổi mới lớn,
nhân vật trong những cuốn truyện shoujo manga luôn ngập tràn những mộng mơ. Thế
giới nội tâm của họ vô cùng phong phú và bay bổng. Chính những điều đó đã tạo nên
những nhân vật không chỉ thú vị, hấp dẫn mà còn có chiều sâu về nội tâm.
Cũng như những cuốn truyện shoujo manga, nhân vật của Y. Banana chú ý
nhiều đến thế giới tâm hồn với những nét tính cách dễ thương, trong trẻo, tinh tế,
nhạy cảm, ấm áp, chân thật, tinh nghịch và lạc quan, cho dù cuộc sống có đem đến
cho họ muôn vàn đớn đau, mất mát. Y. Banana rất chú ý đến những cảm xúc mới
chớm nở, những rung cảm nhẹ nhàng, tinh khôi nhất trong tâm hồn nhân vật. Đó là
rung cảm của cô bé Tugumi khi lần đầu gặp Kyoichi dễ mến: “Mới bắt đầu tối, trời
còn nhập nhoạng, nơi bãi biển vầng trăng xanh đầu hè treo lơ lửng như tranh vẽ”
[126, 73], là cảm xúc của Sarah, Hitoshi và Maria trong mối quan hệ tình yêu tay ba
của Lữ khách giữa hai màn đêm mà ai cũng là người muốn hai người kia hạnh
phúc; của những mong manh trong thế giới cô đơn của Chihiro và Nakajima trong
Hồ - cho đến khi họ cảm thông và yêu nhau; của những mơ hồ mà Terako và
68
Iwanaga trong Say ngủ trải qua khi mất đi những người thân yêu; của Mikage và
Yuichi trong Kitchen với những khó khăn để hòa nhập... Nhân vật của Y. Banana
thường thả mình vào những giây phút đắm chìm trong suy tưởng, cảm nhận về thế
giới mà họ đang sống. Trong mỗi cảm nhận là cả một niềm khao khát được bình
yên, yêu thương, thấu hiểu, sẻ chia. Mikage trong Kitchen lắng nghe bầu trời đêm
với sự di chuyển của những vì sao trên bầu trời, để thấy như có thứ nước nào đang
tưới tắm, thấm dần vào trái tim khô héo của cô. Thị giác chuyển thành thính giác,
thính giác chuyển thành xúc giác và cảm giác khiến dòng tâm tưởng cứ thế mà miên
man. Là sự mong manh trong tâm hồn Sakumi (Amrita) khi lắng nghe một ca khúc
chạm tới nút thắt trong lòng cô, nơi đang bị buộc chặt bởi những nỗi đau mất mát
với những mảnh ghép hồi ức ẩn hiện, là cảm giác chệnh choạng quay cuồng nằm
xuống giường của nhân vật tôi Fumi trong truyện Một trải nghiệm khi nghe được
một tiếng hát dịu dàng êm ái, “những âm thanh trầm và dịu ngọt ngân nga lên
xuống như xoa bóp, giúp thư giãn phần chai cứng nhất trong đáy tâm hồn tôi” [127,
177]. Ai đó đang rất muốn nói điều gì với Fumi hay là ảo giác thính giác của một
tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. Nhân vật tôi trong truyện Mới cưới cũng chìm trong
những suy nghĩ nội tâm tinh tế: “Người bên cạnh gây cho tôi một cảm giác thân
quen đến lạ, những mùi hương lan tỏa trong bầu không khí từ nơi có căm ghét hòa
lẫn với yêu thương” [128, 22]. Maria trong Tugumi có linh cảm rất đúng về sợi dây
kết nối vô hình của một tình yêu trong sáng, nhẹ nhàng giữa Tugumi và Kyoichi
mặc dù họ mới lần đầu gặp gỡ: “... Khi cậu ta nói tên Tugumi một cách chính xác
như vậy, đột nhiên trong giây lát, trong ngực tôi tràn đầy linh cảm rằng có lẽ tình
yêu của Tugumi sẽ có tương lai tươi sáng.” [125, 82]
3.2.3. Tình trạng sống mong manh
Trạng thái mong manh của các nhân vật trước hết thường tập trung ở cái chết
như một thực tế, một tín hiệu báo trước sự hữu hạn của cuộc sống, của đời người.
Những người khác nhau về tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp... nhưng cùng gặp phải
những vấn đề bế tắc: phá thai, trầm uất, karoshi (lao lực, làm việc quá sức đến
chết)... Chết - dường như là cách để họ giải quyết các vấn đề phức tạp đó. Mối đe
69
dọa về cái chết từ căn bệnh của Tugumi tạo ra cho câu chuyện một bầu không khí
của sự chết gần kề. Sự liên tục nhận thức về khả năng “sẽ chết” của mình khiến
Tugumi ngày càng trở nên nhạy cảm đối với cuộc sống và bản chất của cuộc sống.
Mang những vết thương tinh thần nặng nề, các nhân vật thường trực trong những
thương tổn, nỗi đau về cái chết của người thân, nỗi cô đơn khi mất hết niềm tin và ý
nghĩa sống, loay hoay chống chọi với những bất an của số phận được cuộc đời lập
trình sẵn và không tiết lộ cái “code” của nó cho bất cứ ai. Các nhân vật quá mệt
mỏi, kể cả khi còn rất trẻ. Dường như họ không thể nào nắm bắt ngay được mọi thứ.
Bởi thế, khi không giải phóng được áp lực ấy, một số nhân vật thường đi đến việc
tự sát (Mayu trong Amrita, ông Takashi Sarao trong N.P...). Mayu, một diễn viên
nổi tiếng dù còn rất trẻ, đã mắc chứng rối loạn thần kinh rồi bỏ nghề và tự sát.
Khoảng thời gian trước khi chết, cô phải sống với những nhận thức từ mơ hồ đến rõ
ràng về cái chết. Rất nhạy cảm, dường như cô cảm nhận một chân mình đang đứng
ở thế giới này nhưng chân kia lại đứng trong một thế giới tiếp theo (cái chết). Vấn
đề là, mọi người xung quanh không nhận ra ở Mayu điều đó, bởi cô luôn rạng rỡ;
không phải ai cũng tinh ý để biết Mayu lúc nào cũng phải dựa vào một chất kích
thích, như rượu hay thuốc an thần. Càng mệt mỏi, áp lực, Mayu càng sống vội vàng,
không kịp để cảm nhận những mạch sống vẫn luôn tồn tại xung quanh, rồi tự sát.
Cả những tình trạng mong manh trong cảm giác của người ở lại. Những nỗi
ám ảnh về cái chết của người thân yêu, cảm giác cô đơn lạc lõng khi bị bỏ lại một
mình và những rạn vỡ trong đời sống hôn nhân gia đình khiến các nhân vật rơi vào
tình trạng sống mong manh như đứng trên bờ vực. Những “người ở lại” (thường là
người trẻ), phần lớn là phụ nữ, trải qua cảm xúc từ giận dữ, sốc, đến cô đơn, lạc
lõng, mất phương hướng. Phải gánh chịu tổn thương: tình trạng cha mẹ li hôn, cái
chết của người thân trong gia đình, mặc cảm loạn luân… khiến nhân vật lạc lối, mất
phương hướng trong cuộc sống, trở nên mong manh, chênh chao: trầm cảm, tự tử,
cô đơn, đặc biệt là tình trạng “chết nửa”. Đó là trạng thái nguội lạnh về cảm xúc, vô
thức, lìa xa thế giới với những hành vi khó lí giải như sự thay đổi tính cách, năng
lực thấu thị, mất tiếng nói, bị mù, mất trí nhớ, khả năng tiên cảm, tê liệt cảm giác,
70
ngủ vùi, thích ngủ ở bếp, chạy bộ liên tục đến khi mệt phờ, con trai mặc đồng phục
con gái, chuyển giới... Cái chết của Mayu đã để lại những di chứng tinh thần rất lớn
cho những người thân của cô, nhất là chị gái Sakumi, cậu em trai Yoshio và người
yêu của cô – Ryuichiro. Kozumi cũng có một cuộc đời đầy ám ảnh về cái chết, đến
nỗi anh rất sợ mùi lưu huỳnh, bởi đó là mùi của sự chết: bố chết vì tai nạn ngoài
biển, em trai chết sau một tai nạn xe máy, chị gái chết vì tai nạn điện giật ở chỗ làm
việc, sau đó ít lâu thì anh trai chết vì bệnh, đứa em trai cuối cùng cũng chết vì AIDS
ở nơi đang du học. Chỉ còn lại anh và mẹ nhưng bà cũng đang ở trong một bệnh
viện tâm thần. Kozumi sống trong nỗi bất an khi sự sống của chính mình cũng
mong manh trước bờ cái chết. Truyện Kitchen bao phủ trong cái chết: bà của
Mikage, mẹ của Yuichi Tanabe và sau đó là bố của Tanabe (tức Eriko, sau khi
chuyển giới). Mikage nhận ra, hình như cô đang “bị bỏ tuột lại đằng sau ngơ ngác”,
và “đang gồng mình xoay xở một cách chậm chạp” [124, 57]. Bị ám ảnh cái chết
đến nỗi Mikage gần như “bão hòa” với nó và suy nghĩ về chuyện cái chết thật bình
thản, mơ hồ. Gắng gượng để sống, nhưng khi còn lại một mình, cô “chợt thấy dòng
nước mắt của chính mình đang lăn dài trên gò má và rỏ thành giọt xuống ngực”, “cứ
tưởng một vài chức năng nào đó trong cơ thể mình vừa bị hỏng” [124, 61]. Satsuki
và Hiiragi trong Bóng trăng thì phải vượt qua nỗi đau mất người yêu. Trong N.P cả
Shoji (bạn trai của Kazami) và ông Sarao Takase đều chết do tự tử. Cú sốc làm cho
Kazami bị mất tiếng nói hoàn toàn trong nhiều tuần. Đó là cuộc đấu tranh khủng
khiếp đang diễn ra bên trong cơ thể của một cô gái nhỏ. Còn Otohiko thì không đến
trường học một thời gian sau cái chết của bố. Đó là Terako, cô gái bế tắc trong tình
yêu với một người đàn ông có vợ đang sống thực vật suốt một năm (Say ngủ), là
Marie đang chống chọi với nỗi đau người yêu thiệt mạng vì tai nạn giao thông khi
anh đang tới chỗ hẹn hò (Lữ khách giữa hai màn đêm), là một cô gái trẻ đột ngột
mất đi người thân duy nhất trên đời, không gia đình, không bè bạn; một người đàn
ông vì quá đau buồn và cô đơn sau khi vợ mất đã chuyển giới thành phụ nữ để tiện
bề chăm sóc con trai (Kitchen), một thiếu nữ vô tình trở thành người tình của cha
mình, rồi của anh trai mình (N.P), một cô gái sinh ra đã trong tình trạng sức khỏe
71
yếu, có thể ra đi bất cứ lúc nào (Tugumi), một trạng thái như bị trôi tuột về phía sau
diễn ra trong tâm hồn của người chị sau khi mất đứa em gái thân yêu (Amrita)... Đối
mặt với cái chết của người thân yêu, những người ở lại cảm thấy như bị mắc kẹt
trong nỗi cô đơn, nên có những biểu hiện kì lạ, bất thường như vậy. Thằn Lằn –
nhân vật chính trong truyện ngắn cùng tên có thời gian bị mù (3 năm) bởi chấn động
thần kinh, vì đã tận mắt chứng kiến cả gia đình bị bọn cướp tấn công và đâm vào
mẹ cô. Terako trong Say ngủ thì li bì theo những cơn say ngủ sau cái chết của cô
bạn thân Shiori. Đó là chứng ngủ triền miên, lúc nào cũng buồn ngủ, đến nỗi quên
hết thực tại, thậm chí quên cả mình đang sống: “Những giấc ngủ ấy lắng sâu vô tận,
đến nỗi tiếng chuông điện thoại và cả tiếng xe cộ qua lại ngoài đường không có
cách gì lọt vào tai tôi được. Không còn đau đớn, cũng không còn muộn phiền, chỉ
còn lại thế giới chìm đắm của giấc ngủ mà thôi” [128, 29]. Với Marie trong Lữ
khách giữa hai màn đêm, đó là chứng mộng du. Còn ở Fumi trong Một trải nghiệm,
đó lại là một nỗi ám ảnh thường trực trong những giấc mơ, nỗi ám ảnh về người
tình địch quá cố. Những giấc ngủ, không hoàn toàn là ngủ sinh lí, mà thiên về ý
nghĩa tinh thần nhiều hơn (trạng thái OFF của cơ thể). Ba người con gái trong ba
truyện ngắn của tập Say ngủ ấy, dù đang sống trong thực tại, nhưng dường như lại
đang bị cuốn vào vòng xoáy mộng mị của quá khứ, vòng xoáy của những đớn đau
và trái ngang trong cuộc sống. Nhân vật thường mượn một cái cớ để tìm đồ đạc gì
đó. Thoạt tiên người đọc sẽ hiểu đó là hành động có ý thức bình thường như bao
nhiêu hành động khác, nhưng để ý kĩ sẽ thấy mục đích “tìm đồ” thường không được
thực hiện. Đó là hành động của vô thức, tìm đồ vật chẳng qua là để quên mình trong
thực tại. Nếu Mikage (Kitchen) tìm đến bếp, thì Ryuichiro (Amrita) tìm cớ lục tìm
sách (thật ra là để tìm cái băng có thu giọng nói của Mayu). Sakumi (Amrita) thì bị
ngã nặng, khiến cô chấn thương não và bị mất một nửa trí nhớ. Không chỉ vậy, nhân
vật có khi rơi vào trạng thái muốn làm một việc gì đó hết tốc lực, muốn tiêu tốn cho
khô cạn hết năng lượng mình có, làm cho người khác, kể cả người đọc, cứ ngỡ rằng
nhân vật đang sống rất mạnh mẽ. Nhưng nếu để ý cái cách nhân vật làm – làm việc
gì cũng như muốn đánh quỵ bản thân – thì ta sẽ nhận ra rằng, chỉ là để họ được sống
72
với những cảm giác trong quá khứ. Không nói ra nhưng ai cũng hiểu đó là hậu quả,
là di chứng nặng nề sau cái chết của cô em gái Mayu. Sakumi cho rằng mình muốn
đi bơi là để giảm cân, nhưng không thể vì thế mà cô có cảm giác “thèm bơi” đến nỗi
dù mỗi lần bơi xong cảm thấy rất mệt nhưng vẫn bơi. Đó là vì Sakumi “bắt gặp hình
ảnh đứa trẻ trong mình” hay bởi, chỉ bằng cách đó mới có thể giúp cô mệt đến lã
người đến không còn đủ sức để nhớ những chuyện đã qua. Trường hợp của Hiiragi
trong câu chuyện Bóng trăng cũng tương tự. Đối diện với nỗi đau về cái chết của
bạn gái tên Yumiko, Hiiragi, anh chàng 18 tuổi này đã mặc bộ váy đồng phục kiểu
lính thủy con gái đến trường (kỉ vật của bạn gái đã chết trong một vụ tai nạn), “mặc
như thế mình thấy trong lòng vững vàng hơn” [124, 198]. Mặc đồ con gái và trả lời
với xung quanh bằng thái độ rất điềm tĩnh, không sợ người khác kì thị hay xa lánh,
Hiiragi hoàn toàn không phải là người xốc nổi hay làm trong vô thức mà kì thực,
cậu đang loay hoay tìm cách để tiếp nhận sự mất mát quá lớn mà nếu không bằng
cách đó, có lẽ cậu sẽ quỵ ngã. Việc mặc đồ lính thủy của Hiiragi cũng chẳng khác
mấy với cái cách bơi đến lã người của Sakumi như đã nói ở trên. Bằng cách này hay
cách khác, khi đối diện với cái chết của người thân, nhân vật tự dằn vặt: “Mình có
cảm giác như khi mặc váy, hình như mình hiểu được tình cảm của con gái nhiều
hơn” [124, 198]. Thường xuyên trong bộ dạng tuyết đầy người, đi chân trần trong
đêm khuya mà không hề thấy lạnh lẽo giữa trời băng giá, Marie (Lữ khách giữa hai
màn đêm) đã tự làm khổ mình một cách đáng thương sau cái chết của người yêu
Hiroshi. Đó là kiểu lang thang của một người nguội lạnh về cảm xúc và muốn tự
làm đau bản thân. Có lẽ, trong cái giá rét của tuyết, tâm hồn Marie mới có thể được
/ bị đông cứng lại mà bớt nhớ thương, đau xót. Như vậy, những phản ứng kì lạ trên
của Tugumi, Hiiragi, Marie... là cách để “ngụy tạo” hoàn cảnh: tìm đến một hoàn
cảnh khác để đủ sức quên hoàn cảnh thực, là kết quả của sự cố gắng đối mặt, chống
chọi và vượt qua nỗi đau.
Nếu cái chết để lại những cảm xúc và phản ứng tiêu cực như vật thì đâu là
tác dụng thanh lọc và hàn gắn mà thế giới của cái chết đó mang lại? Chính từ cảm
giác mong manh về sự sống, gần kề với cái chết, các nhân vật có khả năng thiết lập
73
những kết nối tinh thần với người thân đã chết hoặc người đang gặp chấn thương
tinh thần - một kiểu giao tiếp phi ngôn ngữ, phi không gian thời gian, chỉ thông qua
suy nghĩ. Cách giao tiếp này thực sự đem lại hiệu quả bằng / hoặc hơn cả một cuộc
trò chuyện, bởi những luồng sóng từ rất mạnh mẽ của cảm xúc hoặc ý nghĩ có thể
kết nối sâu với những nỗi đau. Yoshio nghe thấy giọng nói của tất cả những người
khác nhau: người đã chết, người còn sống nhưng ở xa... khi cậu ấy đang vật lộn với
chính mình để tìm sự cân bằng trong cuộc sống. Saseko, người con gái ở Saipan, có
giọng nói thật sự cuốn hút linh hồn của những người chết: “Cô quay ra biển và hát
cho một đám đông không có hình người – một hiện tượng rất khó diễn tả - nó là một
thứ gì đó hoàn toàn khác – nó gần giống với những gì mà ta thấy và nghe thấy trong
tâm trí, được “dịch” ra dưới dạng một bài hát.” [127, 234]
3.3. Ánh nhìn hướng sáng
3.3.1. Nhìn về phía sự sống
Bất chấp sự hiện diện của cái chết và nỗi buồn phảng phất trong những câu
chuyện, Y. Banana luôn mang đến cho các nhân vật của mình một kết thúc có hậu
như một sự đền bù. Trái ngược với sự bi quan và u uất trong văn học Nhật Bản thời
kì đầu hiện đại, Y. Banana sử dụng những chủ đề u ám về cái chết và nỗi buồn để
khắc họa sự chữa lành và thắp lại một đốm lạc quan cho độc giả của mình.
Dù còn rất trẻ, nhưng các nhân vật của Y. Banana có điểm chung là họ quá
mệt mỏi. Dường như họ không thể nào nắm bắt ngay được mọi thứ. Nhân vật ngày
càng phải đối diện và gánh chịu những áp lực nặng nề hơn. Bởi thế, khi không giải
phóng được áp lực ấy, nhân vật thường đi đến việc tự sát. Thế nhưng, Y. Banana đã
thể hiện được một cách thành công cuộc hành trình gian khó của các nhân vật, giúp
họ từ cảm giác bị mất liên hệ với xã hội, đến việc có lại được cảm giác phấn chấn,
đầy hi vọng.
Nhân vật trong sáng tác của Y. Banana dù có rơi vào nỗi bất hạnh, mất mát
đớn đau như thế nào chăng nữa, vẫn không rơi vào trạng thái bi quan tiêu cực về
cuộc sống mà luôn hướng về phía của sự sống như đặc tính hướng sáng của hoa
hướng dương. Nhân vật có xu hướng đưa mình / hoặc người khác ra khỏi bóng tối,
74
tự dịch chuyển / hoặc dịch chuyển hộ người khác những khối nặng nề u tịch trong
cõi lòng – bằng cách sống trong không gian bao la rộng lớn của thế giới tự nhiên, để
bóng tối không còn mang dáng hình của cái chết nữa. “Không khí thật là ngon”,
thằng bé Yoshio trong Amrita bảo vậy. “Cứ ở mãi trong một căn phòng an toàn, con
người ta sẽ đồng hóa với ngôi nhà đó và như trở thành một thứ đồ đạc” [127, 144].
Con người không có quyền chọn lựa hoàn cảnh, số phận, nhưng lại có quyền lựa
chọn cách phản ứng với nó. Các nhân vật của Banana đã tìm đến nhau như cây cối
vươn đến ánh nắng ấm áp của mặt trời, sống hết mình, phơi trải và mạnh mẽ. Đó
chính là tinh thần mới mẻ của kawaii so với aware.
Như đã nói, đa phần truyện của Y. Banana bắt đầu từ những cái chết. Họ như
bị dồn vào chân tường của sự chịu đựng, nhưng rồi tất cả đã vượt lên bằng những
suy nghĩ trong sáng và cao thượng. Nhân vật có xu hướng tìm kiếm cách để đấu
tranh với cuộc sống ngắn ngủi. Kết thúc tác phẩm, thường là một sự bắt đầu mới đối
với mỗi nhân vật. Khởi đi từ ý niệm cái chết không phải là sự đối nghịch của sự
sống mà là một bộ phận của sự sống, nhân vật luôn nhìn thấy có sự tồn tại của cái
chết trong cuộc sống. Có cảm giác rằng, cuộc đời mỗi người hình như phải (nhất
định phải) trải qua một giai đoạn, một khoảng thời gian khác biệt để đối mặt với
nhiều vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Nhưng, Y. Banana dành phần nhiều tâm
huyết cho việc tái hiện hành trình gian khó của các nhân vật, giúp họ từ cảm giác bị
mất liên hệ với xã hội, đến có lại được cảm giác phấn chấn, đầy hi vọng. Dù đau
đớn, nhưng đặc trưng tính cách nhân vật trong tác phẩm của Y. Banana lại không
phải là sự gục ngã trước số phận, mà là dũng cảm đối mặt, vượt qua và gắng gượng
để sống tiếp khi đi đến tận cùng nỗi đau. Nhân vật tìm lại được sự lạc quan cùng
ánh sáng đã mất trong chính cuộc đời họ. Đó là tinh thần của Kawaii. Tinh thần này
góp phần giải quyết khủng hoảng tâm lí cho con người, tạo ra một thế giới thẩm mĩ
trái ngược với thực trạng rối ren của đời sống xã hội.
Phía của ánh sáng ở đâu? Sau một cuộc hành trình qua toàn bộ câu chuyện,
nhân vật lại trở về đúng vị trí bắt đầu, nghĩa là trở lại cảm giác đối diện với hoàn
cảnh mất người thân. Nhưng điều kì diệu của trang truyện cuối là nhân vật ở trong
75
một tâm thế khác, một trạng thái tinh thần hoàn toàn khác: phấn chấn và tích cực
hơn nhiều so với lúc bắt đầu câu chuyện. Vậy, đâu là cách để Y. Banana chữa lành
những vết thương cho nhân vật của mình? Cách của Y. Banana là tạo ra một thế -
giới - mới, thế - giới – khác, một thế giới song song với thế giới thực tại đầy
những nỗi đau và mất mát. Một nhân vật của Y. Banana đã từng nói về sự cần thiết
cho mình một thế giới tưởng tượng, một “thế giới khác” như thế: “Đôi khi tôi cần
một lối thoát hoàn hảo, ở một nơi mà không có câu chuyện”. Nói như Kazami:
“Nếu bạn di chuyển đến một nơi nào đó, bạn có trở thành một nhân vật trong một
câu chuyện của vùng đất đó không? Hay là bạn, ở một nơi nào đó trong trái tim
mình, vẫn muốn trở về chỗ cũ?” [125, 243]. Câu hỏi của Kazami đã gợi lên trong
chúng ta ý tưởng về “một nơi nào đó”. Đó là nơi nào? Y. Banana đã “trả lời” câu
hỏi đó bằng cách đưa các nhân vật đến những miền không gian khác với thực tại
đang diễn ra, nơi họ đang gánh chịu nỗi tổn thương nặng nề sau những biến cố: cái
chết của người thân, bạn bè, người yêu. Từ không gian đặc quánh của hiện tại, Y.
Banana tìm chốn nương thân cho nhân vật, không cần phải đi ngược về quá khứ hay
một thế giới ở tương lai, có thể chỉ là một thị trấn ven biển xa xôi hẻo lánh nhưng
nồng hậu và chân chất, là một bãi biển đầy gió và cát trắng, có thể là một vùng núi
ít người qua lại..., thường được thực hiện bằng một chuyến du lịch, hoặc một cuộc
hành du tâm tưởng qua giấc mơ, hay cũng có thể là một cuộc gặp gỡ mang tính chất
tâm linh không hẹn trước.
Nhân vật của Y. Banana rất hay nhắc tới chuyện đi dã ngoại, hoặc đi cắm
trại. Nhân vật thường đi mà không cần biết sẽ đến đâu, cũng không định trước ngày
trở về. Vì sao các nhân vật lại thích được đi xa? Du lịch đến một vùng đất xa xôi,
hẻo lánh có thể xem là sự vượt thoát về không gian địa lí, là phương cách chữa lành
phổ biến nhất. Nhân vật thường có nhu cầu thoát khỏi cuộc sống thành phố để đi về
miền quê. Sakumi trải qua kì nghỉ ở Saipan sau cái chết của em gái Mayu,
Ryuichiro chọn đi đến Aomori sau cái chết của người yêu. Ở đó, họ có thể “nói lời
tạm biệt” với người yêu của mình rồi bước tiếp những chặng đường phía trước.
Người đọc biết rằng họ sẽ - trở - về ngay khi đã phục hồi được những vết thương
76
tinh thần sau những biến cố. Việc “đi” như là cách trốn chạy, là cách để cân bằng
chính mình sau những hụt hẫng, mất mát. Ryuichiro đi xa, đến nhiều vùng miền,
nhưng trong sâu thẳm của ý thức, không phải vì anh muốn thưởng thức “những lễ
hội vùng này đến hội chợ vùng khác”, mà là “thực sự anh không muốn về chốn
này” [127, 396] (vì không còn Mayu nữa). Tuy nhiên, cũng nhờ việc đi xa mà họ
nhận ra những ý nghĩa mới để vui sống. Chúng tôi cho rằng các nhân vật của
Banana có khuynh hướng hướng sáng của loài cây hướng dương: dù cuộc sống có
khắc nghiệt, bị che khuất ánh sáng đến đâu vẫn luôn kiêu hãnh hướng tìm ánh mặt
trời. Với họ, cuộc đời cũng giống như những chuyến đi: “cứ thế này mà đi, đến bến
cuối lại mua vé đi tiếp, và cứ đi mãi như thế…” [127, 35]. Họ thích và ao ước được
đi lang thang. Đi - cũng chính là hành trình tìm kiếm bản ngã – nguồn mạch cảm
hứng từ bao đời mà các nhà văn Nhật đã dày công khai thác và tiếp nối, từ M.
Basho đến Y. Kawabata rồi M. Haruki, Y. Banana… Trong tiếng Nhật, cách phát
âm của hai từ “muốn đi” (行きたい) và “muốn sống” (生きたい) hoàn toàn giống
nhau. Điều này là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay bởi vì từ trong ý thức lâu đời, xa
xưa, người Nhật đã có một ý niệm về sự sống gắn liền với những cuộc hành trình,
những chuyến đi, những con đường, những miền đất khác... để sống tốt hơn, sống
khác đi khi ta trở về. Otohiko (N.P) đi Boston là một cách chạy trốn, nhưng cuối
cùng anh cũng về Nhật. Cuộc sống ở Boston như một thiên đường nhưng vẫn có cái
gì tựa như sự trầm uất dần chứa trong con người Otohiko: thường bất chợt tỉnh dậy
giữa đêm khuya, ngượng ngùng khi bị hỏi chuyện vợ chồng, thái độ như một kẻ lẩn
trốn và đôi mắt lúc nào cũng buồn bã. Otohiko vừa mơ ước tới những thế giới lí
tưởng, vừa lại muốn ẩn náu trong hang sâu bất cứ khi nào gặp rắc rối. Yoshio trong
Amrita cũng trở nên hòa nhập hơn sau chuyến đi Saipan và gặp những người bạn
lớn. Đối với nhân vật, đi xa là để lắng lòng, và có thời gian suy xét rồi thật bình tĩnh
để trở về đối diện với thực tại, tìm cách hóa giải chứ không phải là cách trốn chạy,
thoát li cuộc sống.
Kiểu “thế giới khác” cũng có thể là một nửa trong chính mình khi nhân vật
tách thành hai nửa: một nửa sống với thế giới thực tại cùng những tổn thương và
77
một nửa sống với thế giới song song, cho phép thực hiện những điều còn dang dở,
là nơi giãi bày những ẩn ức, nơi lắng nghe những khát khao. Đó là một cuộc vật lộn
với chính mình giữa hai nửa ấy! Sakumi mất trí nhớ sau khi bị ngã, nhưng ai cũng
hiểu nguồn cơn sâu xa là dư chấn sau cái chết của em gái Mayu. Có một Sakumi cũ
(được sinh ra vào ngày sinh của cô) và một Sakumi mới (được sinh ra vào ngày cô
bị tai nạn). Sakumi như một “phụ nữ có hai trí nhớ”. Cô ấy so sánh trải nghiệm này
tựa như cái chết và sau đó được sống lại lần nữa vậy. Điều này làm cho quá trình tự
khám phá bản thân càng trở nên cần thiết. Với Sakumi, hành trình tìm lại bản thân
chính là hành trình tìm lại nhận thức về mình. Trạng thái “tâm thần phân liệt” này
(tức, sự chung sống của hai tính cách trong một con người) là một motif khá đặc
trưng của văn học hậu hiện đại. Khi trong trí nhớ không còn một “sự thật” nào nữa
(quên hết tất cả), ý niệm về sự “một mình” (cô đơn, lạc lõng...) cũng không còn.
Hành trình của Sakumi là hành trình vật lộn để mang hai bản thân mình lại với
nhau. Sakumi hay các nhân vật khác trong những câu chuyện khác của Y. Banana
như Mikage trong Kitchen, Kazumi, Sui trong N.P... đều phải đấu tranh với quá khứ
của chính họ và phải tự giải thoát nó trước khi họ thực sự bắt đầu cuộc sống của
chính mình. Sakumi, sau đó, không còn bị đè nặng bởi quá khứ của cô nữa. Mikage
hay Kazami, Sui cũng không còn nghĩ đến cái chết như một sự giải thoát nữa.
Điều đáng nói là Y. Banana không đi tìm một “thế giới khác” bằng những
yếu tố mộng tưởng như một cách chối từ, quay lưng với thế giới thực, thay vào đó,
bà tạo ra một “thế giới song song” với thực tại, tạo một “ống dẫn” để “lưu thông”
giữa các thế giới từ thực tại đến một thế giới thuộc về miền tâm tưởng, nơi có
những kí ức ùa về, nơi có những ước nguyện chưa được thực hiện. Theo đó, bà đưa
vào truyện các nhân vật “kì lạ” như Urara trong Bóng trăng, Mì Sợi trong Amrita,
cậu bé siêu thông minh Hiiragi để “tạo điều kiện” cho các nhân vật “bình thường”
như Satsuki có thể “kết nối” với cái chết, cho các nhân vật đối mặt với cái chết của
người thân yêu và tìm thấy ý chí sống. Banana đi vào khai thác ý niệm “Cái chết
không phải là kết thúc”. Vậy nên trong Bóng trăng, Satsuki và Hitoshi được đoàn
tụ, được “gặp nhau lần nữa” để nói lời tạm biệt, mặc dù họ đang bị ngăn cách bởi
78
cái chết. Đó là một đặc ân, giống như trường hợp của Terako được gặp cô gái kì lạ
trong dáng vẻ của một nữ sinh trung học mà thật ra chính là hình ảnh người vợ quá
cố của Iwanaga. Có lẽ vì Terako đã luôn nghĩ về chị ấy bằng niềm cảm thông sâu
sắc dù chưa một lần gặp mặt (cho đến khi chị mất) nên trong lúc bế tắc nhất, chị ấy
đã đem đến cho Terako một ánh sáng cuối đường hầm. Chị ấy giục Terako ra ga
mua một tờ báo tìm thông tin việc làm, rồi làm việc gì đó, ngắn hạn đến mấy cũng
được. Lời khuyên ấy như khéo léo phơi bày hết nỗi lòng của Terako, khi chính cô
cũng không thể nào kiểm soát được những cơn buồn ngủ bất chợt và triền miên sau
cái chết của Shiori. Cô ấy đã kéo Terako ra khỏi vùng tối kề cận với cái chết. “Chắc
chắn tôi sẽ không gặp chị nữa đâu. Có thể là vì giờ đây chị đang ở một nơi rất gần
với tôi, nên mình mới gặp nhau thế này” [128, 79]. Terako cuối cùng đã khóc được,
nước mắt cô giàn giụa. Cô nhận một công việc, cùng Iwanaga xem lễ hội pháo hoa,
“nhưng điều quan trọng không phải là màn bắn pháo hoa mà là buổi tối hôm nay, ở
nơi này, có hai kẻ đang ở bên nhau, cùng ngước lên bầu trời, khoác tay nhau ngẩng
mặt về cùng một phía với những người ở quanh chúng tôi, và nghe tiếng pháo nổ ì
ùng” [128, 95]. Những cơn buồn ngủ triền miên vô cớ đã biến mất, cảm xúc lành
mạnh đã quay trở lại với Terako, sau những những chao đảo vì nỗi đau mất bạn và
kiệt quệ với cuộc sống hàng ngày. Cuối cùng thì Terako vẫn thấy “con người quả là
một thứ gì đó thật vững chãi” [128, 95]. Trong truyện Lữ khách giữa hai màn đêm,
sau cuộc tình tay ba giữa Sarah, Hitoshi và Marie mà cả ba đều là người hi sinh, đều
nghĩ và sống cho người khác, Hitoshi chết. Cuộc gặp gỡ vô tình nhưng đầy tính chất
định mệnh giữa Shibami (em gái Hitoshi) và con trai bé bỏng của Hitoshi với Sarah
(bí mật mà Sarah giấu kín) được cảm nhận qua Marie. Marie mơ thấy Shibami đã
gặp, đã ôm Hitoshi. Marie cảm nhận được hơi ấm của Hitoshi qua cánh tay (đã ôm
cậu bé) của Shibami. Sự việc thật kì lạ! Nhưng chính điều đó đã đem đến cho Marie
một niềm an ủi lớn, sau tất cả những dằn vặt vì không thể gặp lại được Hitoshi. Sau
một năm sống trong nỗi tổn thương và đơn độc, cuối cùng Marie cũng có thể nhẹ
nhõm hơn với cái chết của Hitoshi và trở lại cuộc sống của mình. Sarah thì cũng có
79
một gia đình hạnh phúc với người chồng là bạn thuở thiếu thời.
Đặc tính “hướng sáng” này của các nhân vật được Banana xây dựng với
nhiều hình ảnh, chi tiết và tình huống đậm chất kawaii. Nhân vật không dửng dưng,
vô cảm, dù có khi bản thân họ hoặc những người xung quanh họ có mất hết nhuệ
khí sống. Kết thúc tác phẩm của Y. Banana thường không phải là sự dang dở (như
phần nhiều các sáng tác truyền thống của Nhật Bản), nhưng cũng không hẳn là sự
hoàn kết. Cuối tác phẩm, nhân vật lúc nào cũng như vừa mới thoát ra khỏi một
đường hầm dài, một hành trình đầy khó khăn; và cuối con đường ấy, có một hướng
sáng luôn được mở ra. Ngay cả lúc éo le nhất vẫn thấy có cái gì bình thản, nhẹ
nhàng. Như đặc tính hướng sáng của hoa hướng dương, các nhân vật trong tác phẩm
của Y. Banana luôn nhìn đời với một niềm kì vọng rực sáng, mặc cho gió cuộc đời
làm nghiêng ngả. Kitchen kết thúc bằng cảnh Yuichi Tanabe đợi Mikage Sakurai trở
về từ Izu với một niềm tin tươi sáng. Mikage và Yuichi đi dưới ánh trăng: Nhận ra
vẻ đẹp của ánh trăng, vầng trăng bàng bạc mùa đông, vầng trăng mười ba, ánh trăng
vằng vặc, sắp tròn. Kết thúc của Bóng trăng là Satsuki thấy toại nguyện vì đã nói lời
chia tay với Hitoshi trong nụ cười và cái vẫy tay của anh. Kết thúc của Tugumi là
một lá thư Tugumi viết cho Maria không theo bản tính bướng bỉnh hàng ngày mà
nhẹ nhàng và đầy cảm xúc. Kết thúc của N.P là mỗi nhân vật đều tìm được lối ra
cho cuộc đời mình và họ vững vàng để đối mặt với thực tại. Kết thúc của Amrita là
sự tìm lại được chính mình và tự cân bằng cuộc sống của Ryuichiro, Yoshio, và
Sakumi: “Tôi ngước nhìn lên vầng trăng sáng, một lần nữa ngưỡng mộ vẻ đẹp vĩnh
hằng của nó. Phố đêm yên tĩnh. Mùi hương của gió đêm” [127, 136].
Các nhân vật nữ của Y. Banana thường loay hoay giữa vùng tối của cái chết
và tìm lối ra. Giữa thời đại những năm 90 với sự gia tăng tỉ lệ người Nhật chết vì tự
tử, những sáng tác trong thời kì đầu của Y. Banana cũng không khỏi nỗi ám ảnh về
cái chết. Thế nhưng, khi nói về cái chết, điều làm Y. Banana quan tâm là quá trình
chữa lành những chấn thương tinh thần (trauma) nhiều hơn là nói về bản thân cái
chết. Không phải là những cái chết vì bệnh tật, đa phần các nhân vật của Y. Banana
chết đột ngột sau những tai nạn giao thông và diễn ra “ngoài văn bản”, nghĩa là
80
trong văn bản, Y. Banana chỉ nhắc qua chứ không mô tả, càng không dụng công,
không phân tích. Trong Bóng trăng, Hitoshi và Yumiko đều chết do tai nạn ô tô,
nhưng không hề có một sự miêu tả nào về tai nạn đó, cũng như không có ý nghĩa
đặc biệt nào gắn liền với nó, đơn giản, đó là một tai nạn, là một tình huống mà
không ai có thể đoán định được trong cuộc đời. Nó không giống như một vụ giết
người, do đó, thay vì quan tâm đến động cơ và những manh mối, Y. Banana quan
tâm đến việc các nhân vật ở lại phải đối mặt với sự thật như thế nào. Những người ở
lại xem cái chết đó là một điều bí ẩn, và họ chấp nhận nó hơn là tìm kiếm sự thật về
nó. Mặc dù cái chết đã cướp đi tình bạn của bốn nhân vật trong Bóng trăng, nhưng
kí ức của tuổi thiếu niên trong họ sẽ luôn được gìn giữ như là những kỉ niệm quý
giá nhất, và có lẽ, điều này còn quí giá hơn chính cuộc sống của họ. Satsuki trong
Bóng trăng từng nói, “Tôi yêu Hitoshi hơn cả cuộc sống của chính mình”. Những
cái chết được kể ngắn gọn ở phần đầu truyện, sau đó, nhân vật phải tìm những cách
khác nhau để đối diện với sự thật và sắp xếp lại cuộc sống của mình – theo nhu cầu
của bản thân chứ không phải theo quy chuẩn của xã hội.
Nhân vật của Y. Banana phản ứng với nỗi cô đơn không phải bằng sự hủy
hoại / tự hủy hoại, mà bằng cách tự thắp sáng bản thân mình rồi soi tỏa xung quanh.
Nhiều nỗi mất mát vì sự ra đi của người thân, con người dường như không còn tin
vào Chúa hay bất cứ điều gì nữa. Họ sống cho thực tại. Họ là những con người
không bao giờ chịu đầu hàng mà rất thiết tha với cuộc sống, vươn trải ra xung
quanh để xua đi những dự cảm u ám, mơ hồ và đó cũng là cách để họ tự an ủi, lạc
quan vươn lên làm chủ hoàn cảnh, lấy lại cân bằng cho bản thân. Sự cô đơn của
nhân vật trong tác phẩm của Y. Banana khác với sự cô đơn của nhân vật theo cảm
quan phương Tây với chủ nghĩa khắc kỉ, cũng không mang màu sắc bi quan như Oe
Kenzaburo, Mishima Yukio…. Cùng kêu gọi con người hãy cứu lấy nhau nhưng
nếu tác phẩm của Oe Kenzaburo cho thấy một cuộc sống mà ở đó, mọi giá trị tinh
thần đang mất hết ý nghĩa mà không gì bù đắp được thì tác phẩm của Y. Banana lại
khác, cũng là con người cô đơn nhưng đời không phải là một sự vô nghĩa. Con
người ở đấy luôn nỗ lực để tìm thấy ý nghĩa mặc dù có khi hạnh phúc chỉ chạm tay
81
là có được nhưng không bao giờ người ta sở hữu được nó. Tất cả đã bị khuất phục
bởi tính bản thiện của con người. Điều này rất hòa hợp với tinh thần của shoujo
manga gắn liền với quá trình tìm đường hướng tới giá trị của tình yêu, sự tự do.
3.3.2. Nhìn về phía yêu thương
Chiều sâu của thẩm mĩ kawaii được thể hiện trong sáng tác của Y. Banana qua
việc xử lí những mối quan hệ giữa người với người, người với việc… không giống
với cách mà văn học và văn hóa truyền thống Nhật Bản từng thể hiện. Vì sao độc
giả ở mọi lứa tuổi và giới tính đều cảm thấy đồng điệu với tác phẩm và nhân vật của
bà? Bằng những từ ngữ đơn giản, những câu văn ngắn, Y. Banana đã chinh phục
độc giả bằng cách đưa tất cả nhìn về phía yêu thương từ chỗ của bóng tối và đổ vỡ.
Đặt một chủ đề có tính trở đi trở lại trong văn học Nhật Bản: gia đình, Y. Banana lại
trình bày theo một cách khá độc đáo. Ở đó, thường không có kiểu gia đình theo
chuẩn truyền thống: một người bố vững chãi, một người mẹ tùng phục, những đứa
con hồn nhiên… Ở đó, chỉ có những thành viên trong gia đình cư xử với nhau như
những người bạn thân không phân biệt tuổi tác. Có người vừa là bố, vừa là mẹ; vừa
là mẹ vừa là bạn; vừa là em vừa là bạn… , chỉ có những gia đình vắng bóng cha –
gia đình nữ tính (feminine family), chỉ có những con người lạc loài, ngơ ngác nhìn
người thân từng người một ra đi, không có những con người phải gồng mình lên để
thực hành vai trò, chức năng của mình mà là đảm đương vai trò theo cách của riêng
họ - cách mà họ cảm thấy thoải mái nhất, tự do nhất. Những mô hình gia đình hoàn
hảo dần bị thay thế bởi những gia đình tái cấu trúc (reconstructional family), gia
đình thay thế (alternative family), gia đình rối loạn chức năng (disfunctional
family). Điều này chẳng những không mâu thuẫn với đặc trưng thẩm mĩ kawaii mà
còn là một trong những biểu hiện khiến người đọc có thể hiểu được bản chất của
kawaii trong sáng tác của Y. Banana một cách đa diện nhất. Bởi lẽ, kawaii không
dừng lại là cảm giác về sự dễ thương mà còn gắn liền với sự không hoàn hảo, gắn
liền với khả năng tạo ra cảm giác tích cực từ những khuyết điểm. Trong Amrita, bố
của Sakumi mất sớm, mẹ Sakumi tái giá rồi sinh thêm Yoshio nhưng lại ly hôn. Bây
giờ, Sakumi cùng với mẹ, Yoshio, cô em họ Mikiko (đang ở nhờ) và cô Junko (bạn
82
thiếu thời của mẹ Sakumi) cùng nhau ở chung một nhà rất vui vẻ. Không còn giữ
cái kết cấu chồng - vợ - con truyền thống nhưng mô hình gia đình đó vẫn sống khá
hòa thuận và thân thiên. Một mô hình gia đình kỳ lạ. Hóa ra, chỉ cần nơi nào có
thể tìm thấy được hạnh phúc, chỉ cần nơi nào có thể hàn gắn được những
khoảng trống mất mát thì dù cho không có mối quan hệ huyết thống đi nữa, ở
nơi đó, người ta vẫn có thể sống được với nhau. Sakumi cho rằng, “Khi một
thành viên sống cùng mái nhà bỗng nhiên ra đi vì lý do nào đó, người ta khó tránh
khỏi tâm trạng nặng nề rất khó diễn tả bằng lời. Có lẽ cái được gọi là gia đình sẽ
được hình thành từ một nhóm người nào đó, trong đó nhân vật trung tâm có khả
năng duy trì một trật tự nhất định giữa các thành viên (trong nhà tôi, người đó chính
là mẹ).” [127, 85] Trong N.P cũng có những mô hình gia đình kì lạ như thế. Gia
đình của Kazami Kano (nhân vật tôi) không có bố, chỉ có mẹ và hai chị em Kazami.
“Một ngày chúng tôi đổi tuổi tác và vai trò cho nhau đến mấy bận. Khi người này
khóc thì người kia dỗ dành, khi người này nói những lời yếu đuối thì người kia
động viên khích lệ, khi người này làm nũng thì người kia vỗ về chiều chuộng, khi
người này tức giận thì người kia sửa chữa lỗi lầm.” [126, 20] Trong Kitchen, Eriko
là bố của Tanabe nhưng sau khi mẹ của Tanabe mất, ông đã quyết định cải giới để
trở thành người mẹ chăm sóc cho Tanabe một cách chu đáo. Không chỉ vậy, Eriko
còn quan tâm và cư xử với con trai mình như hai người bạn, rất thoải mái và gần
gũi. Vì thế, với Tanabe, Eriko là “người bạn cùng phòng duy nhất, người mẹ duy
nhất và người cha duy nhất.” [124, 86]
Cũng có những mối quan hệ đặc biệt mà xét về mặt đạo đức là loạn luân, đồng
tính, phi đạo đức… Đó là những người có dòng họ mắc phải những chứng bệnh tinh
thần, là những đứa con có cha mẹ nhiều lần ly hôn, những đứa con thiếu sự chăm
sóc của bố hoặc mẹ, những người trẻ tuổi nhưng sớm gặp những bệnh ngặt nghèo,
những người ở vào trạng thái thất vọng và mất phương hướng trong cuộc sống, hay
tuy đang sống nhưng cái sự sống đó có thể dừng lại bất cứ lúc nào.… và tất cả đã
dẫn đến những điều méo mó trong đời sống tình cảm. Mối quan hệ giữa những nhân
vật trong tác phẩm Y. Banana có khi vô cùng phức tạp, chồng chéo, thậm chí chệch
83
hướng (nghĩa là chệch khỏi quỹ đạo thông thường của chuẩn mực tình cảm). Cuộc
sống tẻ nhạt đến nỗi một cô gái trẻ (25 tuổi) như Marie “thích có một tình yêu trắc
trở, vì chỉ có điều đó mới đem lại sự mới mẻ […]. Biết là bi thảm nhưng vẫn khao
khát.” [129, 25] Khai thác vấn đề tình yêu đồng tính và tình yêu đồng huyết nhưng
Y. Banana len lỏi vào những góc tâm lí tinh tế nhất để người đọc hiểu và cảm
thông. Tất cả những nhân vật trong tác phẩm của Y. Banana mắc kẹt trong sự cuốn
hút của tình yêu đồng tính / đồng huyết là những người ý thức rõ hơn ai hết về tình
cảm sai trái của mình, nhưng không ai thoát ra được. Để giải thích điều này, không
thể quy tất cả cho định mệnh hay số phận, mà dường như, những con người Nhật
Bản duy cảm ấy có xu hướng thích sự trắc trở. Qua sự trắc trở, người ta cảm nhận
đầy đủ mọi cung bậc của cuộc sống và tìm được ý nghĩa sống. Cách nghĩ này không
khó để hiểu. Từ xưa đến nay, dù thời đại có thay đổi đến đâu thì quan niệm của
người Nhật Bản về cái đẹp vẫn không hề thay đổi: họ yêu thích và say mê cái đẹp
không viên mãn, không hoàn kết; họ buồn nao lòng trước cái đẹp mong manh, vô
thường nhưng lại thích chiêm ngưỡng nó. Bởi thế, tình yêu đẹp, theo họ, là tình yêu
gặp nhiều trắc trở, dở dang, chỉ cần được sống với những xúc cảm chân thật nhất
của trái tim mình (Truyện Genji là một minh chứng). Cuộc sống hiện tại tẻ nhạt
cũng góp phần làm cho con người ở đây khao khát có được một sự mới mẻ, dù biết
là bi thảm nhưng vẫn khao khát.
Những mối quan hệ đặc biệt vượt khỏi những nguyên tắc đạo đức - tình cảm
thông thường đó thống nhất ở chỗ: tất cả đều dựa trên nguyên lí của trái tim –
nguyên lí của sự sẻ chia và gắn kết mà chúng tôi gọi là mối quan hệ “tam giác”.
Điều này tạo nên một hiệu quả nghệ thuật độc đáo. Các nhân vật trong mối quan hệ
tam giác này vừa là sự bổ khuyết cho nhau, vừa là sự đối lập nhau; vừa có tính cách
khác nhau lại vừa có sự hiểu nhau trong sâu thẳm. Được soi vào nhau, họ hiểu bản
thân, tìm được bản ngã chính mình. Mikage Sakurai và Yuichi Tanabe trở thành đôi
bạn thân dù trước khi bà mất, hai người họ vẫn chưa từng quen biết. Tình bạn bắt
đầu sau cái chết của bà Mikage. Yuichi thật lòng quan tâm, giúp đỡ để Mikage vượt
qua những ngày tồi tệ vì cô độc. Yuichi cư xử với Mikage như thể mình đang thực
84
hiện một sứ mệnh bù đắp, san sẻ vì anh hiểu được bà rất yêu thương cô cháu gái
Mikage và cũng hiểu cả việc, đối với Mikage, bà là người thân duy nhất còn lại trên
đời. Từ sự thông cảm và hiểu nhau sâu sắc đó, tình bạn giữa Yuichi và Mikage cứ
thế mà đến một cách tự nhiên, bền chặt. Yuichi và Eriko (người bố đã cải giới trở
thành mẹ) không chỉ là tình mẹ - con, hay cha – con, mà còn là tình bạn bởi sự quan
tâm và cách đối xử thoải mái của họ dành cho nhau. Cách mà Eriko vui vẻ đồng ý
cho Mikage ở lại nhà mình cũng là sự chia sẻ của một người bạn lớn.
Nhân vật của Banana không nhất thiết là người tốt hay toàn thiện nhưng họ
nhất định là những người sống chân thật, chân thành như chính cuộc sống. Ở tác
phẩm của Banana, ta bắt gặp những con người đôi khi bị đánh mất đi tín ngưỡng
của riêng mình. Tiền bạc và những giá trị vật chất càng khiến con người không
ngừng cảm thấy ngày càng xa rời hạnh phúc, hoài nghi bản thân có hạnh phúc hay
không, vì sao mình bất hạnh, thường xuyên rơi vào trạng thái thiếu thốn hạnh phúc.
Con người mệt mỏi vì cuộc sống ở thành phố lớn. Những nhân vật của Banana
thường xuyên rơi vào trạng thái mệt mỏi bởi áp lực và căng thẳng trong cuộc sống
và công việc. Nhân vật cảm thấy sự xa cách giữa người với người trong xã hội
thành thị. Cảm giác này được trải dài trong các tác phẩm. Với Kitchen, sau cái chết
của bà, Mikage cảm thấy rệu rã, “mọi thứ trước mắt mình đều giống như một lời nói
dối” [124, 15]. Tuy không nói về xã hội thực tại với những mối quan hệ người –
người đang nguội lạnh nhưng cách mà Mikage tìm đến bếp như tìm đến một người
bạn thân ấm áp, cách mà Mikage cảm nhận về Tanabe là nỗi xúc động thực sự, chân
thành, “vừa thắp hương, cậu ta vừa nhắm nghiền đôi mắt đã đỏ lên vì khóc và run
rẩy bàn tay” [124, 19] chứ không giống như những người xung quanh đến viếng lễ
tang bà, người đọc có thể hiểu rằng nhân vật đang cần lắm một sự kết nối ấm áp với
thế giới chung quanh. Trong truyện Hồ cũng thế, nhưng nhân vật Chihiro bộc lộ rõ
ràng hơn. Cô “không quên được cảm giác khi thấy những kẻ đầy lòng hiếu kì cùng
hứng thú lẫn ganh ghét vận bộ đồ đen sặc vẻ hình thức và đãi bôi, dát lên mình sự
nghiêm trang giả tạo, gắn lên bộ mặt đau buồn ánh mắt sáng trưng đến nhìn vào bên
trong quan tài mẹ... Cái cảm giác chỉ muốn đập tan bầu không khí giả dối và đội lốt
85
ấy bằng một điệu múa khỏa thân cho bõ ghét” [130, 14]. Cô rất ghét bầu không khí
giả dối đó, và chỉ nhận thấy sự chân thành từ cô hàng xóm và một vài người bạn ít
ỏi của mẹ. Họ đem đến cho Chihiro những tình cảm đầm ấm, dù không dùng lời
nhưng ánh mắt họ như nói với Chihiro rằng: “Chúng ta biết con đang tổn thương”.
Một ánh mắt thật lòng còn hơn ngàn câu nói giả dối. Với cách kể nhẹ nhàng, không
làm căng thẳng tình huống, kể cả đó là những tình huống bi quan nhất, nhân vật của
Banana vẫn luôn mang cảm xúc tích cực và lạc quan. Khi viết về những chủ đề như
loạn luân, tình dục đồng giới..., tác phẩm của cô không hề gợi lên cảm giác ghê
tởm, cũng không tỏ thái độ khuyến khích hay thứ tha. Y. Banana nhìn nhận những
điều không thường ấy bằng con mắt điềm tĩnh của người quan sát và thái độ xót
thương dành cho thân phận con người. Với Y. Banana, những điều vốn được khép
vào phạm trù đạo đức ấy cũng giống như cái chết của một người thân yêu, sự tan vỡ
của một mối tình... Tất cả, chỉ giản đơn, là những thương tổn tinh thần chi phối sâu
sắc tới cuộc đời của mỗi con người. Như ta thấy, tổn thương và chữa lành là những
chủ đề thường xuyên được thể hiện trong tác phẩm của Y. Banana và tác giả nhấn
mạnh nhiều hơn đến sự chữa lành. Tuy tác phẩm của Y. Banana đầy rẫy nỗi buồn:
cô đơn, mất mát, cái chết, tổn thương... nhưng nhà văn đâu chỉ nói có thế. Từ những
điều u ám người đọc thấy ánh lên niềm lạc quan, niềm tin vào tình bạn, tình yêu,
tình cảm gia đình hay giản đơn chỉ là sự cảm thông, chia sẻ giữa người với người.
Chính điều đó đã giúp nhân vật của Y. Banana vượt qua bi kịch. Niềm tin vào sự
tồn tại, khao khát được sống thanh thản, tình bạn, tình yêu, tình thân gia đình… đã
níu giữ mỗi người ở lại với cuộc sống, như trong Amrita, cuối cùng thì Sui đã không
chết, Tugumi trong truyện cùng tên cũng không từ giã cuộc đời như cách mà số
phận xếp đặt. Truyện của Y. Banana thường nói về những mối quan hệ đời thường,
tái hiện chính cuộc sống hàng ngày bằng những câu chuyện giản dị, đôi khi hài
hước, để vượt lên trên những khắc nghiệt, bất an của cuộc sống và nỗi đau số phận.
Sự tỏa bóng của kawaii trong mối quan hệ thân quen giữa các nhân vật trước hết
đến từ những điều đáng yêu, nhỏ bé, giản dị nhưng ấm áp. Đó là những thức quà
xinh yêu mà các nhân vật tặng nhau, là những vật dụng hàng ngày dễ thương, xinh
86
xắn: một chiếc cốc có hình quả chuối xinh xắn (Eriko tặng Mikage), những chùm
pháo hoa sáng nhỏ hiện lên giữa trời đêm trong veo như những bông hoa lửa bé xíu
mà Terako và Nawanaga đã cùng nhau chiêm ngưỡng, tấm thảm chùi chân trải trên
mặt sàn lát gỗ, đôi dép đi trong nhà, những đồ dùng trong bếp được treo tề chỉnh
trên móc, chiếc tủ lạnh mà mọi thứ đều gọn gàng và không có gì để quá lâu, những
bữa cơm mẹ nấu, món kastudon mà Mikage đã mua rồi vượt quãng đường dài đem
đến cho Yuichi, cốc hồng trà thật ngon mà Chihiro và Nakajima được một người
bạn thân pha sẵn để chào đón gần hồ nước lạnh giá và im ắng... Y. Banana đã miêu
tả những điều ấy thật đáng yêu! Cũng có thể nói đến tình bạn giữa Marie và
Tugumi: không chỉ thấu hiểu, chở che mà còn truyền cảm hứng sống cho nhau. Họ
cảm nhận và yêu thích mối quan hệ “cộng sinh” này. Tugumi cần ai đó kể về câu
chuyện của mình, và Maria thì học cách trở nên mạnh mẽ hơn từ Tugumi. Thay vì
phải chứng kiến sự suy giảm sức khỏe của Tugumi, người đọc được thấy Tugumi
học cách chịu trách nhiệm với người khác. Đó là thế giới của kawaii, thế giới của
những cảm xúc đẹp đẽ trong câu chuyện tình người, như khi Maria khi nói về
những ngày cô trải qua trên hòn đảo cùng với Tugumi, đó là “những ngày thật may
mắn”. Đây chính là cảm giác trong ngần trong tâm hồn đơn độc của Tugumi.
Tugumi không phải để người khác thương hại, mà là đáng được ngưỡng mộ. Với
các nhân vật của Y. Banana, dường như không có cái gì khác ngoài “hôm nay”. Y.
Banana tôn vinh người trẻ ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, như một hành động nâng
niu đối với một món quà. Thời thơ ấu và thời niên thiếu trong sáng tác của Y.
Banana được lí tưởng hóa, như thể những điều đó sẽ bị mất đi trong tương lai ở
những người trưởng thành.
Những câu chuyện tình yêu trong sáng tác của Y. Banana cũng đậm tính
kawaii bởi chúng khởi phát từ những rung động tinh khôi, không chút vụ lợi. Cảm
giác “bám chặt lấy cánh tay Yuichi mà dụi mặt mình vào đó. Áo len tỏa ra thứ mùi
lá khô thật ấm áp” [124, 80] của Mikage là một sự sưởi ấm, thắp sáng cho nhau của
những tâm hồn giá lạnh vì cô đơn và những niềm u uất khó giãi bày. Đó là tình yêu
ít khi nhuốm màu nhục cảm, ngay cả khi Y. Banana kể về chuyện làm tình. Cách
87
khởi đầu tình yêu khiến người đọc phát hiện những quan niệm tình yêu rất kawaii:
Tình yêu của ba mẹ Chihiro (Hồ) vượt lên trên những định kiến về vị trí, nghề
nghiệp để thấy được bình yên khi bên nhau, tình yêu của Chihiro với Nakajima bắt
đầu từ nỗi đau mất mẹ. Ba tiếng “Chihiro” trìu mến mà Nakajima – người đang cô
đơn và nguội lạnh cảm xúc - nói ra khiến cô ấy cảm nhận “từng âm tiết trong tên tôi
bỗng ánh lên như ngọc”, “Ồ, chúng vừa mới phát sáng” [130, 31], để rồi tình yêu
len lỏi một cách tự nhiên vào trái tim lạnh giá: “Từng mi-li-mét một, chúng tôi xích
lại gần nhau” [130, 27]. “Chúng tôi không mảy may nhận ra rằng, bản thân việc
chúng tôi luôn quan tâm tới động tĩnh của nhau một cách tự nhiên như thế, tai bỗng
thính nhạy đến mức có thể phân biệt được tiếng mở cửa một cách dễ dàng” [130,
27]. Tình yêu đến từ cảm giác cùng yêu mến cuộc sống, cảnh vật, cây cối, thú cưng,
bạn bè, tình người, thậm chí là người chưa từng quen biết. Tình yêu tựa như “một
cái gì đó đã khác đi, một hạt giống vui đã nảy mầm”. Sakumi khá hơn vì có thể chia
sẻ được với Ryuichiro, và với Ryuichiro cũng thế. Khi thấu hiểu nỗi đau người khác
đang gánh chịu (bởi chính mình cũng đang gánh chịu vết thương đó) thì nảy sinh
một sự gắn kết, đó là tình yêu.
Văn phong của Y. Banana là phong cách hội thoại (trò chuyện), và do đó, nó
tạo ra một không gian truyện rất “thật”. Len lỏi vào thế giới nội tâm của từng nhân
vật trong những tác phẩm của Y. Banana theo nhịp kể của nhân vật tôi, người đọc sẽ
cảm nhận rằng đây là những trang viết rất “dịu dàng”. Dù rơi vào hoàn cảnh và tâm
trạng tồi tệ nhất, nhân vật cũng không có xu hướng bị hay tự mình tối giản, bế tắc
chính cuộc đời mình. Giọng điệu trong tác phẩm của Y. Banana ít ngột ngạt cũng
bởi vì nhân vật luôn có xu hướng vượt ra, phóng ra khỏi thế giới chật hẹp để đến
với vũ trụ bao la. Họ có ước mơ và biết nuôi dưỡng ước mơ, có xu hướng sống phơi
trải và hướng tới tính thiện của con người. Bằng một lối văn không nặng tính học
thuật, giọng điệu trần thuật của Y. Banana gần gũi, mang tính tâm tình, giãi bày.
Mọi thứ đều được kể một cách nhẹ tênh (kể cả khi đó là những vấn đề rất nghiêm
trọng), nhưng lối kể đó lại lôi kéo người đọc vào trong những câu chuyện thường
ngày ấy để cảm nhận sức nặng của cuộc sống. Lối kể đó mang chứa trọn vẹn tinh
88
thần Nhật Bản có từ thời Heian, Edo: tập trung vào những lát cắt rất nhỏ nhưng lại
bao quát gần như toàn bộ những cung bậc cảm xúc của một đời người, là biểu hiện
của cảm thức karumi (nhẹ nhàng, tinh tế trong cảm xúc) vốn có trong văn hóa
truyền thống Nhật Bản và cũng phù hợp với tinh thần kawaii của thời hiện đại.
Trong Kitchen, lần đầu tiên gặp Eriko, Mikage đã thốt lên rằng “(cô ấy) thật là đẹp,
khiến cho tôi muốn gặp lại cô ấy một lần nữa. Đó là một thứ ánh sáng ấm áp, như
thể..., nhẹ nhàng phát sáng trong trái tim tôi. Đó chắc chắn là tất cả những gì chúng
89
ta định nghĩa về sự duyên dáng” [124, 74].
Tiểu kết chương 3
Chương 3 của luận án đã giải quyết những vấn đề cơ bản về sự tác động của
thẩm mĩ kawaii vào trong sáng tác của Y. Banana mà chúng tôi gọi là “tiếng vọng”
với ý nghĩa là sự phản chiếu và lời đồng vọng. Đặt sáng tác của Y. Banana trong
“cảm quan chung thẩm mĩ” của cộng đồng mà Y. Banana sống trong đó, chương 3
của luận án đã khai thác một trong những biểu đạt nổi bật và chủ yếu nhất của thẩm
mĩ kawaii trong sáng tác của Y. Banana. Dưới ánh sáng lan tỏa của kawaii, từ thiên
nhiên đến con người đều được hiện lên qua vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết, dễ
thương, ấm áp, chở che. Y. Banana đã mang một giọng nói của thời đại về quan
niệm cái đẹp, cái giá trị của đời sống vật chất đến đời sống tinh thần trải lên sáng
tác của mình, mang ý nghĩa của một “tiếng vọng” của thời đại. Gắn sáng tác của Y.
Banana với môi trường mà tác giả đã sống và hấp thụ, đó là xã hội đương đại, là
bầu khí quyển của văn hóa đại chúng, từ đó thấy được những tương liên, hòa hợp,
phản chiếu từ thẩm mĩ kawaii (thứ thuộc về sự lựa chọn và tri nhận của cộng đồng)
lên sáng tác của Y. Banana (thứ thuộc về cá nhân sống trong cộng đồng đó). Bằng
cách ấy, Y. Banana đã thiết lập một đường “link” dẫn dắt người đọc bước từ văn
hóa, thẩm mĩ vào thế giới văn học rồi lại từ đó bước trở ra, hòa vào cuộc sống, đem
đến cho cuộc sống vẻ đẹp của cái nhìn hướng sáng và yêu thương. Từ đó thấy được
lí do vì sao tác phẩm của Y. Banana được sự yêu mến và hưởng ứng rộng khắp của
90
độc giả Nhật Bản và thế giới đương đại như vậy.
Chương 4
TIẾNG NÓI KHÁC BIỆT CỦA Y. BANANA
TỪ TRONG LÒNG THẨM MĨ KAWAII
Giải quyết những vấn đề cơ bản về tiếp nhận của Y. Banana từ dòng chảy văn
hóa thẩm mĩ kawaii trong trong sáng tác ở chương 3, luận án tiếp tục đặt ra các vấn
đề nghiên cứu khả dĩ: trong môi trường của kawaii, Y. Banana đâu chỉ thể hiện vai
trò của một công chúng, một “đứa con”, một bản sao, một người thụ hưởng mà còn
mang tư cách của kẻ sáng tạo. Các câu hỏi lần lượt được đặt ra: Bằng việc thể
nghiệm một lối viết mang màu sắc riêng, Y. Banana đã đóng góp được gì cho sự
hoàn thiện những hệ giá trị của kawaii mà mình đã và đang thấm đẫm trong nó?
Hành trình của cái gọi là “gương mặt đại chúng”, “hơi thở đại chúng” trong sáng tác
của Y. Banana như thế nào?
Trả lời những câu hỏi đó, chúng ta nhận thấy, mỗi tác phẩm văn học và con
đường sáng tạo của một tác giả không chỉ là sự “soi bóng thời đại mà nó ra đời”
(Tô Hoài), mà “mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới
được tạo lập” (Marcel Proust). Y. Banana đã hít thở trong bầu không khí của
kawaii để nó ngấm dần và phản chiếu một cách tự nhiên trong tác phẩm. Nhưng rồi,
Y. Banana đã có sự tương tác, hồi ứng, tác động trở lại ra sao với thẩm mĩ ấy? Trả
lời câu hỏi này chính là nhiệm vụ của chúng tôi trong chương này. Cố nhiên ở đây
cần lưu ý, như cách đặt vấn đề của người nghiên cứu, những giá trị thể hiện sự
tương tác, hồi ứng này chỉ được xem xét, đánh giá ở góc độ nghiên cứu tác phẩm
theo hướng nội quan, phát hiện những màu sắc mới, đóng góp mới trên cơ sở biểu
hiện trong tác phẩm.
Không dừng lại là những sản phẩm của văn hóa đại chúng, sáng tác của Y.
Banana là một thế giới nghệ thuật độc đáo với những chủ ý nghệ thuật riêng của
người sáng tạo. Nếu chỉ chạy theo văn hóa tiêu dùng thì sáng tác của bà cũng chỉ
như một chú mèo Kitty hay một sản phẩm tiêu dùng nào tương tự thế, và lẫn vào
91
đấy với ý nghĩa là những câu chuyện giải trí mà không có giá trị văn chương gì.
Song những sáng tác của Y. Banana sau khi đã khiến cho người ta đọc ngấu nghiến
như đọc một cuốn truyện tranh hay xem một tập phim hoạt hình, thì lại khiến người
ta đọc lại, càng đọc càng thích. Đó là do mỗi tác giả vừa chịu chi phối bởi thời đại,
vừa có năng lực sáng tạo ra cái riêng, cái độc đáo. Ví như Matsuo Basho (1964 –
1694), sống trong không gian của thiền nhưng tác phẩm của Basho không phải là
những triết lí thiền học khô khan. Dostoevsky (1821 – 1881) trong bối cảnh đặc
quánh của nền kinh tế, chính trị, xã hội và tinh thần của xã hội Nga thế kỉ XIX, ông
xây dựng thế giới nghệ thuật của mình dựa trên đề tài về tội ác, hình sự, song khi
khép tác phẩm, tất cả những thứ đó đều bỏ lại phía sau, chỉ còn lại sự cứu rỗi thế
giới. Y. Banana cũng thế: dùng thẩm mĩ kawaii để phản ánh thế giới ngày hôm nay
và cả “sáng tạo” ra thế giới đó. Bằng kawaii, Y. Banana tạo ra những giá trị mới về
“khả ái” cho xã hội tiêu dùng, để hướng cái tiêu dùng thành cái giá trị. Vậy con
đường tạo nên sự khác biệt ấy như thế nào? Theo chúng tôi, đó là, trên cơ sở của
thẩm mĩ kawaii, Y. Banana đã giải biên những giá trị của văn học tinh hoa, đồng
thời, ở chiều ngược lại, bà thăng hoa những giá trị của văn hóa đại chúng. Đó là
đóng góp của một tác giả đương đại như Y. Banana.
4.1. Thăng hoa văn học đại chúng
Y. Banana đã đem những giá trị đại chúng, tưởng chừng chỉ có giá trị giải trí
nhưng bà đã “biến” chúng thành cái giá trị tinh hoa của thời đại mới. Từ Kawaii, Y.
Banana đã tạo nên phong cách riêng và làm cho những gì người ta vẫn nghĩ là “đại
chúng”, “giải trí” trở thành “nghệ thuật”, đặc biệt trong địa hạt văn chương.
Thăng là đưa lên, nâng lên. Thăng hoa là làm cho sự vật, hiện tượng “được
nâng cao lên, và như kết tinh của cái tinh hoa thành cái tốt đẹp hơn” [88, 919]. Sự
vật hiện tượng muốn nói tới ở đây là văn học đại chúng. Y. Banana đã chọn những
giá trị tinh hoa, tinh túy của văn học đại chúng (không gian ngoại giới / không gian
mở và kĩ thuật tạo ấn tượng: ấn tượng thị giác, ấn tượng tốc độ) để xây dựng nhân
vật và biểu đạt giá trị nội dung tư tưởng. Theo cách đó, chúng tôi gọi Y. Banana đã
thăng hoa văn học đại chúng. Văn học đại chúng (tiếng Anh: popular literature,
92
tiếng Nhật: taishu bungaku), hiểu một cách cơ bản, đây là loại hình văn học của số
đông, tiếp cận được một lượng độc giả lớn, dễ đọc, dễ thuộc, dễ hiểu. Theo Từ điển
thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, văn học đại
chúng: “Còn gọi là văn học thông tục... Cơ sở tư tưởng của văn học đại chúng là
chủ nghĩa thực dụng. Cơ sở xã hội của văn học đại chúng là chính sách nhượng bộ
đối với lớp thị dân: dùng phương tiện sản xuất hàng loạt để nuôi dưỡng tâm lí tiêu
dùng… Điểm mấu chốt của văn học đại chúng là làm cho người ta được can dự vào
văn hóa hiện đại dưới dạng lược gọn, nó đưa ra một thế phẩm cho sự thỏa thuận
thẩm mĩ...” [37, 407] Nguyễn Đăng Điệp trong công trình Văn học đại chúng ở Việt
Nam hiện nay đã chỉ ra khá đầy đủ các cách hiểu về các khái niệm này: “Khái niệm
„văn hóa đại chúng‟ nhiều khi được đánh đồng với một số khái niệm khác như „văn
học thị trường‟, „văn học bình dân‟, „văn học giải trí‟… Sở dĩ có hiện tượng này bởi
giữa chúng có những điểm chung: thứ nhất, chúng luôn hướng tới số đông; thứ hai,
chúng đề cao chức năng giải trí. […] Đặc trưng cơ bản của loại văn học này là đi
vào những vấn đề liên quan đến cuộc sống thường nhật của cư dân đô thị hiện đại,
những câu chuyện nghiêng về lối giải trí nhẹ nhàng, dễ hiểu, dễ kể lại. Vì thế, văn
học đại chúng có khả năng giúp người đọc gỡ bỏ áp lực xã hội và tranh thủ quỹ thời
gian nhàn rỗi ít ỏi của độc giả. Đối với một tác phẩm tinh hoa, người đọc phải mất
thời gian liên hệ, tưởng tượng, suy ngẫm, còn đối với văn học đại chúng, người ta
có thể vừa đọc vừa trò chuyện, thậm chí, đọc để cho dễ ngủ mà không hề thấy bất
tiện chút nào” [159]. Phân tích diễn giải của Cécile Sakai trong từ điển Kôjien:
“Văn học đại chúng như một hình thức văn học đối lập với văn học thuần túy và
nhắm đến quần chúng độc giả bình dân”, Nguyễn Nam Trân, nhà nghiên cứu đã
sống và làm việc lâu năm ở đất nước Nhật Bản có viết: “Lịch sử văn học Nhật Bản
có những giai đoạn “hạ khắc thượng” (gekokujô) tức là “dưới lấn trên” khi văn
chương bình dân ảnh hưởng ngược lên văn chương cung đình, thế giới nói chung
cũng đang đi vào một thời buổi như thế khi văn học đại chúng, vốn bị coi là văn
chương thấp kém, không có giá trị cho lắm lại nắm vai trò chủ đạo. Những quyển
sách được đọc nhiều và nhớ nhiều hơn cả không phải là tác phẩm của các vị lãnh
93
giải Nobel. Nó là Harry Potter hay Lords of the Ring… những tên sách còn dễ nhớ
hơn tên tác giả. Mà văn chương viết ra làm gì nếu không phải là để được đọc nên ta
không thể coi thường sức mạnh của văn học đại chúng. Hơn nữa, mục đích tiêu
khiển của văn chương đại chúng cũng là một điểm son vì nó đem lại cho ta những
giây phút thư giãn trong một cuộc sống quá căng thẳng. Có thể thấy rằng văn
chương đại chúng còn có thể giải đáp được những vấn đề của thời đại mà không hề
tự trao cho mình một sứ mệnh hay nhiệm vụ gì cả.” [175]
Như vậy, việc bàn đến những nội dung có liên quan đến khái niệm văn học
tinh hoa và văn học đại chúng không phải để khen chê (và cũng không thể khen /
chê), mà là để đi tìm những giá trị thuộc về và giá trị hướng đến của những khái
niệm ấy, trên cơ sở đó đi tìm mối quan hệ, sự chạm gặp giữa hai loại hình văn học
này trong sáng tác của Y. Banana. Thẩm mĩ kawaii gắn liền với đời sống thẩm mĩ
của người dân Nhật Bản trong truyền thống lẫn hiện đại, thuộc về cả văn học tinh
hoa (với đặc trưng là tính chất trữ tình) và cả văn học đại chúng (với đặc trưng là
tính tức thời). Y. Banana đã dung hợp các giá trị đó, tức là dung hợp giữa truyền
thống và hiện đại, tinh hoa và đại chúng, nhưng không phải theo cách trung bình
cộng, vì nếu cộng gộp rồi chia đôi hoặc khiến cho “văn học tinh hoa phải hạ thấp
tiêu chuẩn xuống, còn văn học đại chúng thì nâng cao chất lượng nghệ thuật lên”
[159], thì chẳng những đang triệt tiêu cả hai mà còn khiến cho văn chương của Y.
Banana chẳng có gì đáng nói. Trong khi đó, sáng tác của Y. Banana vừa có thể đứng
vào hàng bán chạy chất thế giới, xuất bản hàng loạt và được dịch ra hơn hai mươi thứ
tiếng, vừa có thể khiến người ta đọc ngấu nghiến như đang được nói hộ những xúc cảm
hiện tại, lại vừa được độc giả ngẫm nghiệm sau khi đã đóng trang sách lại.
4.1.1. Sự gắn bó với không gian mở
4.1.1.1. Không gian bên ngoài - nơi trú ngụ của nỗi cô đơn
Trong khi văn học cổ điển chú ý những cảm giác của nhân vật đối với vùng
không gian hẹp, có tính chất “địa phương” (local space) với khuynh hướng hướng
tâm thì trong những sáng tác đương đại như của Y. Banana, nhân vật lại tồn tại
trong những vùng ngoại ô rộng lớn. Ở các tác phẩm văn học tinh hoa như Truyện
94
Genji của Murasaki, Lối lên miền Oku của M. Basho, tiểu thuyết của Y.
Kawabata…, các nhà thơ, nhà văn thường dùng thiên nhiên như nơi bình yên xoa đi
những tổn thương trong đời sống. Genji tìm về vùng Suma để tĩnh tâm, Basho hành
hương sau cái chết của người bạn, các nhân vật của Kawabata đi về những hòn đảo
hoặc những thị trấn xa xôi để tránh cái ồn ào, xô bồ của đô thị…Y. Banana khác ở
chỗ, bà đi tìm sự xoa dịu tổn thương cho các nhân vật ngay trong chính không gian
đời thường – vốn là đặc trưng của không gian văn hóa đại chúng. Với các sáng tác
của Yasunari Kawabata, cho dù các nhân vật giữa miền cô đơn, đã tìm đến một
vùng đất xa xôi (Xứ tuyết), một lữ điếm (Người đẹp say ngủ), một khu vườn hoa
hướng dương (Tiếng rền của núi)… thì đó vẫn là những dạng không gian tinh thần,
mang tính biểu tượng. Ẩn tàng bên trong những kiểu không gian ấy là những sự xáo
trộn dữ dội của tâm tưởng nhân vật, những nỗi niềm, những ẩn ức, những ước mơ,
những hoài niệm. Trong khi đó, mang tinh thần của thời hiện đại, với những cách tri
nhận và vùng thẩm mĩ mới của kawaii, sáng tác của Y. Banana hướng tới những giá
trị giản đơn nhất của cuộc sống, tái hiện con người trong không gian sống thực tại.
Đọc sáng tác của Y. Banana sẽ thấy xuất hiện một thế giới sống động của cuộc sống
phố thị trong dòng chảy tất bật của nó với quán bar, phố xá, những tòa nhà cao
tầng…, hoặc nếu là không gian hẹp như bếp hay căn phòng thì đó cũng là những
nơi thể hiện khuynh hướng li tâm của nhân vật, rời bỏ giới hạn chật hẹp của cá nhân
đến với ngoại giới để tìm chỗ trú ngụ cho những nỗi cô đơn. Ý tưởng này của Y.
Banana có lẽ cũng không nằm ngoài khuynh hướng điều hòa ranh giới giữa cá nhân
với cá nhân, cá nhân với cộng đồng trong bối cảnh mà con người đang loay hoay
tìm “chốn nương thân” ở thế giới bất an thời hiện đại.
Do áp lực và sự xa cách giữa người với người trong xã hội thành thị, Y.
Banana (và cả Haruki Murakami) có xu hướng đưa các nhân vật của mình ra khỏi
những kiểu không gian có tính giới hạn để các nhân vật tự chữa lành những tổn
thương. Nhân vật tuy thường xuyên rơi vào trạng thái mất cảm giác về nơi chốn
nhưng luôn tìm cách vượt ra. Trước nơi mình đang ở, các nhân vật cảm thấy mình
không khác gì những loài sinh vật đang tồn tại, cố gắng mà tồn tại, chứ không phải
95
là đang sống theo nghĩa thật sự và đầy đủ của từ ngữ ấy. Nhìn ra ngoài cửa sổ,
Sakumi (Amrita) tưởng tượng như đó là một thế giới không có tiếng đồng hồ tích
tắc, ở đó không có sự tồn tại của con người, chỉ có những ngọn núi và những đại
dương đang trò chuyện cùng nhau. Đó là những lúc mối quan hệ người – người
vắng bóng. Trong nỗi đau, nhân vật trốn chạy và mất cảm giác về sự tồn tại của
mình trong cái xã hội thu nhỏ. Nhân vật thường xuyên chán ngán và mệt mỏi trước
những kiểu không gian có tính giới hạn như nhà cao tầng (với các khối bê tông),
trường học... Sự mạnh mẽ vượt lên trên trạng thái u ám đó được thể hiện qua cách
họ lựa chọn công việc. Đó là những công việc mà từ cách làm, sản phẩm tạo ra và
mục tiêu hướng tới đều mang đậm cảm quan kawaii: bán shop hoa tươi, họa sĩ vẽ
tranh bích họa, mở quán bán si-rô đá bào ở một làng xa xôi… Họ không quan tâm
đến các giá trị ảo hay thực dụng từ công việc của mình, không nghĩ đến địa vị xã
hội, sự danh giá, hay kiếm được bao nhiều tiền từ công việc, cũng không có ý nghĩ
dựa vào công việc để quên đời hay trốn chạy. Tất cả họ, dù cuộc sống bản thân vui
hay buồn, họ vẫn đến với công việc bằng chính niềm say mê, sự yêu thích, đặc biệt
là có cả những ý nghĩa sâu thẳm về tinh thần như một sứ mệnh dành riêng cho họ.
Thứ hai, họ không hề bị dao động bởi người khác. Mỗi người họ, dù làm công việc
gì, có ý nghĩa lớn lao hay tầm thường trong mắt người khác, thì đó vẫn là sự lựa
chọn chín chắn của riêng họ với những ý nghĩ độc lập nhất. Chúng tôi muốn nói về
những công việc mà Y. Banana đã thể hiện trong tác phẩm, giúp chúng ta hình dung
về lý tưởng, suy nghĩ, hệ giá trị sống của những người trẻ Nhật Bản hiện đại. Đó là
một Mari trong Nắp biển, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Tokyo nhưng lại
quay về quê nhà là một thị trấn ven biển để mở một cửa hàng bán kem đá bào, để
được thỏa mãn tình yêu với món đá bào, vừa ăn vừa ngắm biển, được bán cho
những người cùng sở thích. Cô chuẩn bị mọi thứ rất chỉn chu, ngăn nắp, sạch sẽ: dù
lười đến đâu cũng rửa ly tách thật cẩn thận, giữ cho những chiếc khăn vải gai luôn
trắng sạch… Đó đâu phải là chuyện dễ dàng đối với những người trẻ lớn lên trong
thời hiện đại, vậy mà một cô gái vừa tốt nghiệp cao đẳng mỹ thuật ở Tokyo như
Mari rốt cuộc khi chẳng thấy hứng thú lắm với hoạch định ban đầu, đã mạnh dạn từ
96
bỏ là chuyển về phương Nam nơi có những cảnh sắc hùng vĩ để sinh sống. Từ mất
cảm giác bình yên khi sống trên phố thị, quyết định quay trở về thị trấn quê nhà
(mặc dù nó đang hoang tàn đi) “tựa như đây là chốn hoang phế thực thụ, những cửa
hàng thi thoảng mở cửa lại càng tô đậm hơn vẻ tàn lụi u sầu” [131, 30] để kinh
doanh cửa hàng bán kem đá bào và phát triển nó theo cách của mình. Cửa hàng của
cô ngày càng buôn bán khá phát đạt, và điều quan trọng nhất là Mari tìm được niềm
vui, sự thoải mái và an nhiên trong tâm hồn. Đó là Chihiro trong truyện Hồ, một
họa sĩ vẽ tranh bích họa. Cô thích cảm giác được sống với những bức tường đầy
màu sắc và được ngắm cảnh sắc cuộc sống.
Nhân vật tôi – Akemi trong Chuyện kì lạ bên dòng sông lớn từng tìm đến
những buổi làm tình tập thể để “trải nghiệm nhiều cảm xúc khác nhau”. Với cảm
giác hưng phấn vì khoái cảm ngọt ngào tan chảy trong tâm hồn từ kiểu tập hợp năng
lượng của đám đông này, Akemi đã tìm thấy ở đó sự giải thoát, tự do và say mê
trong tình trạng trống rỗng, mất phương hướng. Đó cũng là cách để Akemi “khởi
động công tắc” cho bản thân để kết nối giữa tâm trí và cơ thể, vì cô đang ở trong
tình trạng không tìm thấy mối dây liên kết giữa các bộ phận trong cơ thể mình với
tâm hồn. Dĩ nhiên đó không phải là cách tích cực. Nhưng Y. Banana đã mạnh dạn
thể hiện thế giới của những dục vọng thầm kín, thậm chí lệch lạc của con người, chỉ
cần họ cảm giác yêu thương và bình yên. Trong Kitchen, nhờ hành trình tới Izu
(như một nơi xa xôi thanh vắng để tĩnh dưỡng tinh thần) mà Mikage đã có những
suy nghĩ về những biến cố đã xảy ra trong cuộc sống của mình, cô thấy lòng mình
se lại. Cái cảm giác cô đơn trống trải và hẫng hụt, chông chênh được Mikage cảm
nhận mình như “Dáng hình của những thân cây sẫm màu khô xác như bị cắt lìa ra
khỏi nền trời, và những cơn gió tái tê đang thổi tràn qua chúng” [124, 146].
Không gian đô thị với quán (bar), đường phố… là nơi trú ngụ của nỗi cô đơn.
Không gian quán trong tác phẩm của Y. Banana thường không phải là nơi của sự tụ
tập, ồn ào. Quán, kể cả quán bar, cũng hiện lên như một khoảng không gian tối, tĩnh
lặng và đậm chất jazz: huyền ảo, lung linh, giàu cảm xúc. Một thứ không gian dễ
hòa điệu. Chẳng hạn, trong tác phẩm Amrita, nơi Sakumi làm việc, “Cái quán này,
97
đầu tiên phải kể đến là bên trong khá tối, tạo một không gian tĩnh lặng, tối đến mức
không nhìn rõ cả lòng bàn tay của chính mình. Bước vào trong lúc nào cũng có cảm
giác như trời đã tối nhưng chủ quán ngoan cố không chịu bật đèn. Một cái hay nữa
là quán lúc nào cũng vắng” [127, 29]. Ông chủ quán ở đây cũng là một người kì
quặc, khá thú vị. Ông gần bốn mươi tuổi nhưng luôn tỏ ra thích thú khi quán không
có khách vì được nghe nhạc theo ý mình. Đối với ông, hình như, việc mở quán
không nhằm mục đích cao nhất là kiếm tiền, không phải là nơi ra vào tấp nập, ồn ào
mà dường như đó là nơi để con người tìm đến sự chia sẻ. “Giữa cái dòng chảy thật
khó xác định của thời gian và tâm trạng, đã có biết bao kí ức in dấu lên tất cả các
giác quan của tôi. Và những kỉ niệm vụn vặt, nhưng không có gì thay thế nổi ấy,
bỗng lại ùa về trong tôi nơi góc quán nhỏ mùa đông vào lúc này” [124, 127]. Quán
yên tĩnh gọi về bao kỉ niệm. Mikage và Yuichi ngồi trong quán trà, “cái quán nhỏ ấy
nằm trên gác hai, yên tĩnh và sáng sủa. Giữa những bức tường màu trắng, chiếc máy
điều hòa đang phả ra một luồng không khí ấm áp” [124, 126]. Không gian quán làm ùa
về biết bao kí ức và cũng ở nơi đó, hai người bạn trẻ ngầm hứa hẹn với nhau một ngày
mai tươi sáng mà họ sẽ nỗ lực để có được. Trong N.P, sau năm năm kể từ khi còn là
những học sinh trung học, Kazami và Otohiko có dịp gặp lại nhau. Họ ngồi đối diện
nhau trong quán café vắng tanh trước giờ nghỉ trưa. Trong không gian yên tĩnh của
quán, Kazami nhận thấy Otohiko có “một đôi mắt u buồn” mà “đôi mắt ấy không có
trong lần gặp đầu tiên” [125, 26] và “hình như anh ta đang khép mình lại” [125, 27].
Trong thế giới của đô thị, cá nhân trở nên nhỏ bé, yếu ớt nhưng tâm hồn lại vì
thế mà giãn ra, rất phong phú, mạnh mẽ. Nơi ấy, có một sự đồng cảm giữa những
người độc thân còn khá trẻ. Không gian đường phố với tính chất thoáng đãng, nơi
có bầu khí trong lành, mát mẻ, nơi nhân vật không bị ràng buộc với bất cứ áp lực
nào, đã tỏa ra thứ không khí trong lành xua tan những ngột ngạt trong lòng người.
Thằng bé Yoshio (Amrita) không ra khỏi nhà hơn một tuần, nên khi Sakumi đưa nó
ra khỏi nhà, nó bảo, “Không khí thật là ngon” [127, 144]. Sakumi nhận xét, “Cứ ở
mãi trong một căn phòng an toàn, con người ta sẽ đồng hóa với ngôi nhà đó và như
trở thành một thứ đồ đạc […]” [127, 144]. Hay như Kazano nghĩ, “Thoát ra khỏi
98
nhịp sống thường nhật, dừng lại vừa đúng lúc, ngắm nhìn xe cộ và mọi người lại
qua, tôi chợt thấy thế giới này một cách rõ ràng và dị dạng. Bóng đèn đường vẫn thế
tự khi nào bỗng cao hơn, trông như sắp chạm tới bầu trời, và ánh đèn pha ô tô cũng
hóa ra muôn thứ sắc màu” [125, 140]. Trên đường phố, bao nhiêu cảm xúc dồn nén
đang chế ngự trong lòng người đều được tuôn chảy tự nhiên. Hay tin Eriko mất,
Mikage như chết lặng. Trên đường đến nhà Yuichi, nước mắt Mikage bắt đầu trào
ra. “Đi dưới bầu trời đầy sao trong tiếng lanh canh của chùm chìa khóa, tôi thấy
nước mắt mình bắt đầu trào ra, hết giọt này đến giọt khác” [124, 82]. Ngay cả vào
ban đêm, mọi thứ đều rất đẹp, nhất là khi có trăng. “Trăng rất cao và sáng, nó làm
mờ đi tất cả những vì sao và nhích từng bước về phía bên kia của bầu trời đêm.
Trăng đã tàn. Nó vừa giấu mình vào những đám mây, rồi lại hiện ra đầy duyên
dáng” [124, 159]. Mikage và Yuichi đi dưới ánh trăng, cả hai cùng nhận ra vẻ đẹp
của ánh trăng, “vầng trăng bàng bạc mùa đông, vầng trăng mười ba, ánh trăng vằng
vặc, trăng sắp tròn” [124, 103]. Trong không gian rộng thoáng của đường phố,
người ta có thể làm bất cứ điều gì trái tim họ mách bảo mà không phải e dè. Cảnh
Mikage Sakurai leo lên con dốc vất vả để đem katsudon (cô đã mua cách đó hàng
trăm kilomet) đến chỗ Yuichi Tanabe cũng được miêu tả trong ánh sáng của trăng.
Hành động và ý nghĩ đem katsudon đến cho Yuichi mang tính bộc phát, nhưng đó
chính là sự ấm nóng của tình cảm, là lí lẽ của trái tim và là cách để những con người
Nhật Bản trẻ tuổi nắm bắt khoảnh khắc của hiện tại. Mikage cảm nhận như thể cô
đang “đẩy cái gì đó dịch chuyển”. Phải chăng “cái gì đó” ở đây chính là nỗi buồn,
nỗi cô đơn và u ám đang trùm lấy tâm hồn nhân vật, và nó đang được đẩy lùi bởi
con người đang dần tìm cách để từng bước một, con người xích lại gần nhau. Với
họ, “Giờ đây, bóng tối không còn mang dáng hình của cái chết nữa” [124, 171]. Khi
những người thân thiết và thương quý nhau cùng bước trên đường phố, khoảng cách
tình cảm của họ gần hơn, có thể chạm đến bề sâu trong tâm hồn họ. Con đường núi
trong văn học Nhật Bản xuất hiện khá thường xuyên, tượng trưng cho sức nặng
trong tâm hồn con người không sao giải tỏa được. Nhưng trên “con đường núi
không một bóng người tối đen như hang động. Ánh trăng lờ mờ trên vách đá cao và
99
bước chân cũng mơ hồ” [126, 81], Maria, Yoko và Tugumi vẫn cùng nhau bước đi
không hề run sợ. Con đường dẫn tới ngôi chùa cổ mà Thằn Lằn và nhân vật tôi đã
cùng nhau bước đi, vừa đi vừa trò chuyện đến một giờ sáng trong truyện ngắn Thằn
Lằn, con đường lớn rộng thênh thang dẫn ra bờ sông tổ chức bắn pháo hoa trong
truyện ngắn Say ngủ cũng là một con đường tuyệt vời, bởi vì “có hai kẻ đang ở bên
nhau, cùng ngước lên bầu trời, khoác tay nhau ngẩng mặt về cùng một phía […]”
[128, 94].
4.1.1.2. Hành trình thâm nhập nội giới trong không gian ngoại giới
Hành trình thâm nhập nội giới được hiểu là quá trình mà mỗi nhân vật đi tìm
bản ngã của mình, khi cuộc sống cuốn họ đi với tốc độ mất kiểm soát, họ ngơ ngác,
loay hoay với những câu hỏi “mình là ai”, “mình cần làm gì”… Trong khi các nhân
vật trong văn học truyền thống tìm câu trả lời cho những câu hỏi đó bằng cách truy
cầu một thế giới khác xa với thế giới hiện hữu, gần như là một sự trốn chạy thực tại,
bỏ lại phía sau tất cả những bộn bề để đi tìm một không gian thanh sạch và kín đáo.
Trong khi đó, Banana “phó mặc” cho nhân vật của mình loay hoay tìm hiểu lấy
mình ngay trong chốn đời thường, ngay trong đống đổ nát của những mất mát, vụn
vỡ, tổn thương. Nhân vật của Y. Banana quay về gia đình ngay trong sự mất mát
người thân, quay về công viên nơi đã từng là chốn hẹn hò với người yêu đã mất, đối
diện với những khu nhà cao tầng của đô thị… Không gian gia đình hiện lên với tính
chất chân phương, mộc mạc nhất của nó, có ý nghĩa là nơi che chở, bảo vệ con
người. Trong sáng tác của M. Haruki, gia đình chưa bao giờ là thành trì cuối cùng
cho con người nương náu. Nó rơi vào tình trạng đổ vỡ, thậm chí rất đáng sợ. Các
nhân vật trong các sáng tác của M. Haruki như Kafka bên bờ biển, 1Q84, Biên niên
kí chim vặn dây cót… thường có xu hướng chạy trốn khỏi gia đình. Trong khi đó,
ngôi nhà ở sáng tác của Y. Kawabata lại gắn nhiều hơn với quán trọ, gắn liền với
quá trình những lữ khách (các nhân vật nam, và cả Y. Kawabata) đi tìm cái đẹp. Đó
là những “ngôi nhà bí mật”, có khi thực, có khi nằm trong vùng không gian ảo của
những giấc mơ, kiểu không gian ấy mang tính chất của vòng tròn khép kín. Ngay cả
khi đó là chốn đi – về như ngôi nhà của ông Shingo (Tiếng rền của núi) hay Kikiji
100
(Về chim và thú), thì đó cũng là một thế giới riêng với nhiều ẩn ức và chứa đựng
những “bí mật” nội tâm của nhân vật. Đặc biệt, Y. Banana có một phát hiện, tìm tòi
và thể hiện một cách thú vị với kiểu không gian bếp và không gian căn phòng.
Y. Banana từng nói với cha cô (nhà văn Takaaki) rằng cô ấy hình dung mình
“sẽ xây dựng các nhân vật tồn tại trong một nơi thật là vui vẻ như một em bé được
sống trong tử cung của mẹ nó vậy” [146, 96]. Bếp là một “nơi vui vẻ” như thế. Đây
là không gian nhân tạo bị giới hạn với những khoảng hẹp tưởng chừng như đóng
kín nhưng trong sáng tác của Y. Banana, nó không bị giới hạn bởi bất cứ quy tắc,
quy định nào. Đây là tinh thần của văn hóa đại chúng bổ sung, hoàn thiện cho văn
học tinh hoa: tự do về tinh thần, tự do trong không gian ngoại giới, tự do khi được
là chính mình. Bếp là không gian ấm áp của sự tự do (nơi có thể bày biện đồ ăn thức
uống và không ngại lấm bẩn), có khả năng cứu rỗi tuyệt vời, là nơi nhân vật cố tìm
lại chính mình, nói cách khác là tìm một bản thể mới so với hiện tại. Ngồi dựa vào
cánh cửa bạc của một chiếc tủ lạnh khổng lồ trong gian bếp, người đang cô đơn và
ngột ngạt trong thế giới của chính mình như Mikage vẫn tìm thấy được một niềm an
ủi. Căn bếp vốn dĩ từng là biểu tượng của sự áp bức đối với người phụ nữ khi mà
địa phận của họ - các bà nội trợ - bị xích vào những chiếc bồn rửa bát của gian bếp,
giờ đây, nó lại là nơi dành cho sự sáng tạo và thể hiện bản thân của họ. Niềm vui
sống của các nhân vật có khi chỉ là nói về đồ ăn thức uống, việc làm nên những bữa
ăn và chia sẻ về chúng. Những ham muốn tình dục bị khuất phục bởi những ước
muốn về món ăn. Họ có xu hướng thích ăn cùng nhau hơn là ngủ cùng nhau. Khi
lựa chọn giữa một bên là phòng ngủ, một bên là nhà bếp, họ chọn nhà bếp. Thức ăn
và công việc nấu ăn là phương tiện mang các nhân vật lại gần nhau (chứ không phải
là sex). Với Maria, hạnh phúc đơn giản là khi bố mang bánh bột gạo về cho cả nhà
cùng ăn. Món katsudon mà Mikage mang đến cho Yuichi, món sandwiches ngon
lành mà Sasuko tự làm, “nó thú vị hơn việc làm tình” và là phương tiện gắn kết tình
bạn. Mikage tìm thấy tiếng gọi thật sự của mình ở việc nấu ăn. Đó không chỉ là một
sở thích, một nghề nghiệp mà đó là cách để cô ấy có thể cảm thấy mình được sống.
Bếp không khác gì một “sứ giả” của sự sống. Sự tác động của bàn tay con người
101
vào bếp – dù theo cách nào – cũng làm cho người ta cảm thấy phấn chấn hơn. Trong
bếp của nhà Tanabe, tất cả những sự vật, dù là những chi tiết nhỏ nhất, cũng được
chăm chút như thể những con người ấy đang cố công “lau bóng” cho cuộc sống để
nó đẹp sáng hơn. Những hình ảnh, vật dụng, cách bài trí… đều cho thấy những tín
hiệu của sự tồn tại, sự sống: “tấm thảm chùi chân trải trên mặt sàn lát gỗ”,“chất
lượng tuyệt vời của đôi dép trong nhà mà Yuichi đang đi”,“những đồ dùng tối cần
thiết trong bếp được sử dụng thường xuyên, treo tề chỉnh trên móc”, “chảo rán
chống dính có con dao gọt vỏ của Đức”, “những chiếc ly thủy tinh toàn đồ tốt”, “bát
tô, đĩa nướng, đĩa đại, cốc vại có nắp”, “chiếc tủ lạnh, mọi thứ đều gọn gàng và
không có gì để quá lâu”… [124, 23]. Mikage gọi đó là “một căn bếp tuyệt vời”, nơi
màcô có thể học nấu ăn, không sợ những vết bỏng, vết đứt tay, bởi vì, “Bằng cách
đó, tôi đã biết thế nào là niềm vui […]. Dẫu sao, tôi vẫn muốn tiếp tục cảm thấy
rằng rồi một mai, mình sẽ chết. Không làm thế, tôi không nhận thấy được mình
đang sống” [124, 101]. Không gian bếp thật bình thường trong đời sống nhưng rất
lạ khi hiện lên trong văn học, càng trở nên khác lạ qua sáng tác của Banana, bởi ở
đó, bếp không mang ý nghĩa của một sự quẩn quanh bế tắc, không mang nỗi buồn
đau, càng không là nơi bẩn thỉu và bề bộn. Dẫu là căn bếp sạch sẽ tinh tươm hay là
căn bếp bày biện chưa dọn dẹp thì đó vẫn là nơi thật tuyệt vời, thậm chí, Mikage
cho rằng càng bày biện, bẩn thỉu thì lại càng chứa đựng hơi thở của sự sống. Trong
cảm nhận của Mikage, bếp hiện ra đáng yêu, gần gũi và cả là một sự “ngưỡng
vọng”, trở thành một phần của linh hồn cô, là “khoảng không gian kì diệu thống trị
mỗi ngôi nhà”, “từ những ý nghĩ đen tối cho đến món súp củ cải ngon lành nhất đều
sinh ra từ đó” [124]. Tiếng người trò chuyện trong lúc làm bếp, tiếng xoong chảo,
tiếng bát đĩa va vào nhau... của căn bếp khiến Mikage “trở nên vui sướng với cảm
giác có nắng và gió đã về với trái tim mình” [124, 176]. Một nơi quá đỗi bình dị lại
trở thành nơi ru vỗ tâm hồn Mikage sau những khi “mệt rã rời”. Cô thường “trầm tư
trong bếp”, để sự nhỏ bé và ấm áp của bếp vỗ về những tổn thương. Khi Yuichi hỏi
“Cậu thích nhận xét [nhà] thông qua tiêu chí gì nhỉ?”, “Ví dụ, có những người nói
họ chỉ cần xem qua toa-lét là sẽ biết tất cả chẳng hạn” [124, 22] thì Mikage trả lời
102
không chần chừ: “Bếp”. Câu chuyện trong Amrita cũng mở đầu bằng không gian
bếp khi Sakumi nhận được món quà đáng yêu trong chiếc hộp, những câu chuyện
rôm rả giữa cô và mẹ, với những người bạn, người thân khác... đều diễn ra trong
căn bếp này. Tình cảm của hai mẹ con được thể hiện bằng những cử chỉ quan tâm
nhau trong bữa ăn ở căn bếp.
Dạng không gian nhân tạo cũng thường thấy trong tác phẩm của Y. Banana
là căn phòng, giường ngủ. Trong văn học, căn phòng thường mang ý nghĩa của sự
tự đóng kín bản thân, ngột ngạt, khó chịu và nhân vật thường để mặc cho nỗi cô đơn
gặm nhấm. Theo đó, sáng tác của Murakami Hakuki cũng rất thường đề cập đến
không gian căn phòng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt cá nhân của con người, đặc biệt là
sinh hoạt ái ân trong ước muốn được đi tìm bản thể, trong cuộc hành trình chống
chọi mà mỗi con người luôn là những thực thể cô đơn, tách biệt với xã hội, cố tự tạo
một vỏ bọc kiên cố. Cũng có khi, đó là không gian của sự bí ẩn, gợi mở cho con
người tìm kiếm bí ẩn của bản thân. Y. Banana cũng không ngoại lệ, chỉ có điều, nếu
tinh ý, sẽ bắt gặp không gian căn phòng trong tác phẩm của Y. Banana có một điểm
đặc biệt là gắn liền với những ô cửa kính. Bằng cách đó, nhân vật tuy cô đơn nhưng
vẫn luôn có xu hướng “vượt thoát” ra bên ngoài – không phải thế giới phố thị nhộn
nhịp, bề bộn, bận rộn - mà là thế giới của sự sống và năng lượng. Khi đó, kính /
những ô cửa kính là phương tiện hữu hiệu nhất giúp họ thực hiện được ý muốn (bao
gồm cả ước muốn có ý thức và vô thức). Kính giúp con người tận mắt thu trọn cuộc
sống, giúp họ gần gũi với cuộc sống và “giao tiếp” với xung quanh. Tuy nhiên, kính
cũng là bức tường trong suốt mang con người đến thật gần thế giới nhưng không thể
với tới được, nghĩa là họ chưa thể nào hòa nhịp được một cách dễ dàng với cuộc
sống. Hạnh phúc có thể chạm tay là có được nhưng không thể quá vội vã. Họ cần có
thời gian để tự hàn gắn. Thông qua những tấm gương trong suốt này, Banana đã
tinh tế thể hiện quá trình đi tìm ý nghĩa cuộc sống của mỗi nhân vật. Tấm kính là
mối dây liên kết với cuộc sống hay và cũng là những trở ngại tinh thần, là ranh giới
giữa trạng thái thất vọng và hi vọng, mất phương hướng mà nhân vật cần tìm cách
để vượt qua… Do đó, tín hiệu không gian căn phòng trong tác phẩm của Y. Banana
103
không phải là không gian hẹp giam hãm con người như trong tác phẩm của
Chekhov hay Dostoievski mà nó có khả năng tạo điều kiện cho nhân vật phóng tầm
mắt ra xung quanh, để cảm nhận cuộc sống. Gia đình Tugumi đã dành riêng cho cô
một căn phòng đôi xinh xắn trên tầng ba của nhà nghỉ để mỗi khi không khỏe, cô bé
có thể tĩnh dưỡng. “Căn phòng nó nhìn rất đẹp, từ cửa sổ có thể trông thấy biển.
Ban ngày ánh sáng mặt trời lấp lánh, lúc thì mưa dữ dội, mù mịt, còn buổi tối, biển
thật đẹp đẽ trong ánh đèn của những chiếc thuyền câu mực” [126, 11]. Nhưng
Tugumi không có vẻ thích thú gì với sự ưu ái đó. “Lúc thì nó cố xé rèm cửa, lúc thì
đóng chặt cửa chớp lại, lúc thì hất đổ bát cơm, lúc lại vứt hết sách từ trên giá xuống
chiếu […]. Có lúc, nó thực sự như chìm trong tình trạng ma quái” [126, 12].
Tugumi muốn được vùng ra ngoài, nhưng cô nào biết rằng ngay trong căn phòng
đối với cô là tù túng kia vẫn có những ô cửa sổ giúp cô nhìn thấy bao nhiêu là sự
sống bên ngoài, trong đó có biển – thứ cô rất thích. Chưa tìm thấy ô cửa, Tugumi
chưa tìm thấy lối thoát cho đời mình. Trong Amrita, sau cú ngã, Sakumi cô bị mất
trí nhớ và chìm trong tình trạng “chết nửa”, cô đã kịp nhận ra mình qua lớp kính:
“Trên lớp kính cửa dọc lối về phòng, tôi nhìn thấy rõ khuôn mặt mình, và cả những
hình ảnh của kí ức xa xôi…” [127, 70]. Sakumi đã có cơ hội đối diện với chính
mình sau bao nhiêu biến cố, và cô đã kịp bắt lấy khoảnh khắc đó để tìm lại một nửa
Sakumi trước đây. Nếu cú ngã thực chất chỉ là cái cớ (trong vô thức) để nhân vật có
thể quên, có thể chạy trốn những chuyện đau buồn đã qua, thì tấm kính lại có tác
dụng phản chiếu vào sâu trong tâm hồn nhân vật để họ đủ sức đối diện với nỗi đau
và tìm lại sự cân bằng. Ngồi trong nhà Yuichi, Mikage “bắt gặp bóng mình in trên ô
cửa kính lớn, nơi khung cảnh của ban đêm chìm trong làn mưa đang nhòa dần vào
bóng tối” [124, 23]. Phải chăng, từ kính, Mikage đang nhận ra chính mình đang vô
cùng lạc lõng, cô đơn. Nhưng sau đó, khi cùng cô Eriko nấu bếp buổi sáng, Mikage
dần tìm lại được cảm giác thân thuộc mà cô đã từng có được khi bà còn sống. Lúc
đó, “căn phòng tràn đầy ánh nắng như thể nó được làm toàn bằng kính. Bầu trời
xanh dịu trải ra ngút tầm mắt, chói chang” [124, 34]. Xe buýt cũng là một dạng “căn
phòng”. Ngồi trong xe buýt, trông ra những ô cửa sổ, Mikage có cơ hội được lắng
104
tai nghe của sự sống: “tiếng trò chuyện rôm rả giữa lúc đang làm việc, tiếng xoong
chảo, bát đĩa va vào nhau vọng tới” [124, 62]. Như thế, từ trong vô thức, nhân vật
có cơ hội nhận thấy chính mình để đi tìm lối ra cho bản thân.
Không gian toa tàu trong truyện ngắn Mới cưới cũng có thể xem là một dạng
“căn phòng” đặc biệt, và trong “căn phòng” đó cũng có những “ô cửa kính”. Ngồi
trong toa tàu và để mặc nó đưa mình đi đến đâu, dường như trong nhân vật tôi có
một nỗi hoang mang đang chảy trôi không có điểm dừng. Nhân vật rơi vào tình
trạng bất khả của hôn nhân: vừa tẻ nhạt, vừa có lỗi. Khi hướng mắt ra phía ngoài
qua những ô kính của cửa sổ tàu, ánh sáng từ những ngọn đèn đường đã dẫn dắt sự
xuất hiện của ông già – mà sau đó đã biến thành cô gái xinh đẹp nói chuyện với anh.
Có thể nói, “tấm – gương – người” ấy đã đưa nhân vật tôi về với tuổi thơ, làm thức
dậy trong anh bao kí ức sống động để thấy chính mình đã từng có những hi vọng và
ước mơ rất đẹp, phản chiếu cả hình ảnh Atsuko dễ thương, trong sáng, đảm đang.
Chiếc giường ngủ cũng không chỉ là phương tiện của giấc ngủ, mà còn là cả
một thế giới để nhân vật quên đi những muộn phiền, mệt mỏi, khổ đau. Chiếc
giường êm ái và dễ chịu, như đủ sức xoa dịu những đau thương. Fumi – nhân vật
xưng tôi trong truyện ngắn Một trải nghiệm rơi vào trạng thái “có thể phó mặc cho
mọi sự muốn ra sao thì ra, dù có đánh mất tất cả đi nữa thì cũng chẳng hề gì” [128,
20], và chiếc giường ngủ là một cứu cánh đối với cô. Ngày nào cũng vậy, Fumi
uống cả chai rượu rồi lại pha thêm một li Gin-tonic, và thiếp đi trên giường, nghe
bên tai tiếng hát du dương, ngọt ngào, trầm bổng vọng lại từ một thế giới thật gần
mà cũng thật xa. Terako trong truyện ngắn Say ngủ cứ để mặc cho mình chìm vào
những giấc ngủ, không quan tâm đến thế giới xung quanh đang diễn ra như khỏa lấp
nỗi trống vắng khi người Shiori không còn. Marie trong truyện ngắn Lữ khách giữa
hai màn đêm cũng trải qua những ngày u ám và kiệt sức sau cái chết của Hiroshi.
Nơi căn phòng nơi Marie và Hiroshi đã từng sống. trong bóng tối, “Marie nằm cuộn
tròn trên giường”, “khe khẽ ngáy […], tiếng ngáy của một giấc ngủ hoàn toàn khỏe
khoắn” [128, 166]. Tugumi (Tugumi) cũng xem chiếc giường là nơi an toàn và dễ
chịu mỗi khi bệnh tật hoành hành hoặc những khi cô đã trở nên quá suy kiệt mà
105
không muốn cho ai biết. Đó cũng có thể là chiếc ghế sofa mà Mikage gọi là “giường
ngủ lí tưởng”, nơi cô tìm được sự bình yên trong giấc ngủ. Từ chiếc ghế sofa,
Mikage có thể “vừa lắng nghe hơi thở của cỏ hoa, vừa cảm nhận khung cảnh ban
đêm từ bên kia bức rèm cửa, rồi lúc nào cũng vậy, chìm vào giấc ngủ tự khi nào
không hay” [124, 41].
4.1.2. Sự lên ngôi của những ấn tượng
Ấn tượng là là “trạng thái của ý thức ở giai đoạn cảm tính xen lẫn với cảm
xúc, do tác động của thế giới bên ngoài gây ra” [88, 19]. Ấn tượng có tác dụng gây
cảm xúc mạnh mẽ và tạo dấu ấn trong nhận thức. Trong văn hóa đại chúng và
shoujo manga nói riêng, kĩ thuật tạo ấn tượng được xem là một trong những kĩ thuật
quan trọng để ghi lại trong cảm xúc của người đọc, người xem sự thú vị, nổi bật là
ấn tượng thị giác và ấn tượng tốc độ. Những kĩ thuật này được sử dụng trong sáng
tác của Y. Banana không chỉ để miêu tả mà còn làm thay đổi nhận thức của độc giả
về văn học đại chúng. Banana đã mài sắc văn học đại chúng khiến nó trở nên tinh tế
hơn. Với những nỗ lực của Y. Banana, văn học đại chúng có thể tạo ra tiến trình
thay đổi về không gian, khiến nó có những lựa chọn khác biệt hơn so với những gì
mà người ta vẫn nghĩ.
4.1.2.1. Ấn tượng thị giác: thủ pháp ánh sáng – ngôn ngữ nội tâm
Một trong những đặc trưng nổi bật trong phong cách sáng tác của Y. Banana là
việc sử dụng những hình ảnh thị giác (visual imagery). Đó là bởi sự ảnh hưởng rộng
khắp của truyền thông đa phương tiện mà những nhà văn Nhật Bản đương đại như
Y. Banana đã lớn lên trong nó. “Trí tưởng tượng của họ (con người thời đại – người
viết) ít xúc cảm hơn là những cảnh sắc” [146, 121]. Người ta gọi đây là thời đại của
truyền thông thị giác (visual communication) khi sự truyền tải thông điệp của mọi
lĩnh vực trong đời sống đều hướng tới tính trực quan, sống động. Theo Nguyễn
Nam Trân, “thời giờ người Nhật dành ra để tiếp xúc với các phương tiện truyền
thông đã tăng gấp rưỡi trong khoảng thời gian từ 1960 (3 giờ 01 phút) cho đến 1984
(4 giờ 28 phút). Nếu chỉ nói đến sách vở và truyền hình thì trong năm 1960, họ bỏ
ra mỗi ngày trung bình 30 phút để đọc sách báo và 48 phút để xem vô tuyến. Năm
106
1984, hai con số đó tăng lên đến 45 phút và 2 giờ 19 phút. Điều đó chứng tỏ họ
dành thời giờ nhiều cho truyền hình hơn các phương tiện truyền thông khác. Cho
nên, văn học cần phải được ảnh tượng hóa để giữ độc giả.” [175]
Ở một phương diện khác, Văn hóa Nhật Bản vốn đặc trưng với kiểu “văn hóa
nhìn”: từ các công trình kiến trúc lạ mắt đến cách bày trí các món ăn giàu tính mĩ
thuật và những lễ hội đều gắn liền với hoạt động “nhìn” (“nhìn”, “ngắm” là cách
thức để tận hưởng, thưởng thức). Tên gọi của các lễ hội truyền thống ở Nhật đều
gắn với yếu tố “見” (nhìn), chẳng hạn: lễ hội ngắm hoa anh đào “hanami” (花見),
ngắm đom đóm “hotarumi” (蛍見), ngắm trăng “tsukimi” (月見), ngắm pháo hoa
“hanabimi” (花火)… Văn học cổ điển Nhật Bản cũng chú ý những hình ảnh thị
giác: từ những đường nét hoa văn tinh tế trên nếp áo của một quý phu nhân, quang
cảnh lộng lẫy của một đám rước của lễ hội truyền thống, một cành hoa nhỏ, phong
cảnh khoáng đạt hùng vĩ của một vùng núi đồi hay cảnh biển bao la trong Truyện
Genji đến hình ảnh giọt sương, ngọn lá, vạt cỏ, cánh đồng hoa, vầng trăng sáng nửa
đêm, áng mây lúc chiều tà trong Cổ kí sự hay một “bức tranh thu” cô tịch với cánh
quạ đậu của Matsuo Basho… Tuy nhiên, vẻ đẹp thị giác trong văn học cổ điển
không phải là hình ảnh tả thực mà là sự kết hợp giữa miêu tả, cảm nhận và tưởng
tượng, trong đó, hình ảnh thực tế chỉ được sử dụng theo lối biểu trưng, đóng vai trò
gợi mở, năng lực tưởng tượng là yếu tố đóng vai trò quyết định. Đó không phải là
một giác quan cụ thể mà là sự huy động, tổng hợp của nhiều giác quan khác nhau
tạo nên một trí tưởng tượng phong phú cùng với sự nhạy cảm của tâm hồn và sự
mẫn tiệp của trí tuệ. Tất cả tạo thành một quan năng đặc biệt giúp con người tri
nhận thế giới và giúp độc giả khám phá một tác phẩm văn học. Trong khi đó, thời
hiện đại được xem là thời đại của những gì “nhìn thấy được” (obvious, visual), với
những yếu tố phong phú như manga, anime, pachinko, karaoke…, nhất là manga,
“chiếm 1/3 tổng sản phẩm xuất bản ở Nhật, bán ra 4.000 bản/tuần” [146, 112].
Miyoshi đã quan sát thấy, “trong xã hội Nhật Bản hiện đại, “hàm ngôn” (reticence)
được đề cao hơn là “hiển ngôn” (eloquence)”. Có phải vì thế mà mọi lời nói dường
như bất lực trước những cảm xúc và thể nghiệm của con người? Ngay trong mỗi
107
khoảnh khắc, ấn tượng về những gì được nhìn thấy lại trở nên vô cùng quan trọng.
Ở một khía cạnh khác, văn hóa đại chúng, tiêu biểu với manga và anime đa
phần được đọc / xem trong môi trường chuyện kể phổ biến (trên đường, trên tàu
điện, rạp…). Chúng cần có một sự hòa trộn đậm nét giữa từ ngữ và hình ảnh. Thêm
nữa, sự xuất hiện của truyền hình, sự lên ngôi của Internet… đã làm cho kênh chữ
bị giản lược đến mức tối đa, nhường chỗ cho kênh hình. Vì thế, thời đại này được
xem là thời đại của những ấn tượng. Có những cảm xúc, suy nghĩ không nói được
bằng lời mà đôi khi chỉ có thể tư duy bằng hình ảnh, và người ta cũng chỉ cần có
thế. Một thước phim hoạt hình sở dĩ tạo ra ấn tượng với khán giả là bởi nó đã tạo ra
những cảm xúc chân thật và mạnh mẽ để họ trải nghiệm, dựa vào phối cảnh, cách
bày trí, màu sắc, các “shot” nhỏ đầy dụng ý trong một cảnh quay. Đó là nghệ thuật
kể chuyện bằng hình ảnh (visual storytelling). Kĩ thuật “lấy sáng” của anime (mỗi
góc độ lấy sáng khác nhau lên chủ thể sẽ tạo ánh sáng phản chiếu khác nhau, tạo độ
sâu cho khung hình).
Trong cách miêu tả không gian của Y. Banana, có sự tham gia đặc biệt của
ánh sáng, có thể gọi tên là “thủ pháp ánh sáng” (tương tự như một đặc điểm quan
trọng của manga – truyện tranh Nhật Bản). Manga (mạn họa) là một thể loại đặc
biệt của văn hóa đại chúng, với sự kết hợp của những từ ngữ và hình ảnh, tạo ra
những ấn tượng thị giác mạnh mẽ và những cảm xúc không được (hoặc không cần
phải được) thể hiện bằng lời. Những sự kết hợp giữa từ ngữ và hình ảnh để tạo ra
những ấn tượng thị giác mạnh mẽ và những cảm xúc không được (hoặc không cần
phải được) thể hiện bằng lời đó của manga đã được Y. Banana tiếp thu. Từ sự ảnh
hưởng đặc biệt của kĩ thuật sử dụng ánh sáng này của manga, nhất là khả năng
“phát sáng” của nhân vật khi “khung hình” được thiết kế trong sự tương phản giữa
sáng – tối, Banana đã làm cho ánh sáng có một tác dụng đặc biệt: làm bừng sáng
một ý nghĩ, một cảm xúc hay xua tan đi một cảm giác u ám, mơ hồ nào đó trong
nhân vật. Nói cách khác, ánh sáng trong tác phẩm của Y. Banana được khai thác
triệt để các tính năng của nó, có vai trò xúc tác, kích thích, hỗ trợ rất lớn trong quá
trình phát triển tâm lí, tính cách nhân vật. Cách miêu tả nhân vật Eriko (Kitchen) với
108
nhiều tia sáng, vầng sáng xung quanh hệt như cách vẽ một nhân vật trong truyện
tranh hay phim hoạt hình: con người là trung tâm của bức tranh và đẹp như có thể
“phát sáng”: “Mái tóc dài xõa xuống ngang vai, cặp mắt sắc lẹm có đôi đồng tử lấp
lánh thẳm sâu, đường bờ môi rất đẹp, sống mũi thẳng và cao. Toàn thân cô ta tỏa ra
một thứ ánh sáng lộng lẫy tựa như sức sống đang run lên” [124, 25]. Nhà văn có thể
dùng cả một đoạn với những câu văn dài để viết về nụ cười – “điểm sáng” của nhân
vật (Mayu) với lối tả tỉ mỉ, quan sát tinh tế. “Một nụ cười trong ngần, chói rạng, tự
nhiên và mạnh mẽ, chân thành và tha thiết đến mức khiến người ta muốn khóc. Cả
đến khi đã bị viêm gan nặng, sắc mặt xanh xao, da dẻ bợt bạt, cái mãnh lực trong nụ
cười ấy vẫn không hề thay đổi” [127, 28]. Chính nụ cười ấy đã trở thành kỉ niệm
không phai trong tâm khảm của những người ở lại về Mayu khi cô không còn nữa.
Sự lan tỏa của ánh sáng chẳng những làm đẹp thêm cho cảnh vật mà quan trọng hơn
là soi rọi vào thế giới nội tâm của nhân vật, tìm lại được một chút yên bình, hạnh
phúc cho tâm hồn họ. Ánh sáng “từ trong những dải mây trắng mỏng tang, từ những
giọt nước mưa xuyên qua những tia nắng thẳng tắp nối đuôi nhau rớt xuống, như
những mảnh vỡ của ánh sáng […]. Vạn vật bừng lên trong khung cảnh rạng ngời”
[127, 34]. Ánh sáng từ ánh đèn biển hiệu nhà nghỉ Yamamoto làm Marie “thấy lòng
nhẹ nhõm” và “cảm thấy mình được đón chào bởi một thứ gì đó lớn lao” [127, 39].
Pháo hoa trong lễ hội mùa hè cũng là một thứ ánh sáng đặc biệt. Con người sống
trong ánh sáng đó cũng như được cháy hết năng lượng (còn lại). Trong “Ánh mặt
trời rọi thẳng và mặt qua khung cửa sổ”, Sakumi thấy “dáng mẹ tôi từ phía sau,
trong căn bếp hôm ấy, như thu nhỏ lại, trông như một cô bé cấp ba đang chơi trò vợ
chồng” [127, 15]. Trong ánh sáng (của đèn), Sakumi thấy mẹ và cô Junko (bạn học
của mẹ) vẫn trẻ trung, đầy sức sống. “Hai khuôn mặt giờ dưới ánh đèn rọi sáng mịn
màng, trông trẻ trung khác hẳn với ngày thường và ngập màu hi vọng, cứ như thể
họ đã vượt thời gian bằng một cách nào đó để có mặt ở đây” [126, 48]. Ánh sáng
làm nhân vật bị choáng ngợp vì xúc động, ngôn ngữ không bật ra thành lời được,
nhân vật sẽ tư duy thế giới bằng màu sắc. Và dường như chỉ với những gam màu
đậm đặc ấy thì cuộc sống mới có sự tác động mạnh mẽ và ý nghĩa đối với con
109
người. “Màu xanh ướt nước của công viên hiện lên rõ nét trên nền trời xanh quý giá
giữa lúc trời nắng trong mùa mưa đầu hạ […], “ngôi sao đầu tiên xuất hiện nhấp
nháy sáng như một bóng đèn điện màu trắng, bé xíu” [125, 69], “Màu xanh của
những dãy núi bao quanh biển cùng nền trời xanh. Có thể nhìn thấy rất rõ màu xanh
lá cây rất đậm của bờ biển” [125, 116], “bến xe buýt tràn ngập nắng chiều, ánh sáng
màu cam phản xạ chói lòa” [125, 126], “ngoài cửa sổ là một sắc đỏ trải tới tận phía
bên kia bầu trời, trông rất đáng sợ” [126, 128], “Biển chiều đón nhận ánh nắng, tràn
đầy như một màu vàng” [125, 158], “trong ráng chiều, những đám mây màu hồng
tạo thành những bậc thanh tươi sáng” [124, 30].“Siêu thị sáng trưng và bầu trời bên
ngoài đen đặc. Đường phố ướt đẫm và những ngọn đèn pha ánh lên sắc cầu vồng.
Ánh sáng xanh lục của chiếc máy photocopy […]. Mặt sàn ướt át sáng trắng dưới
ánh đèn huỳnh quang” [124, 105]. Sự tương phản của màu sắc và ánh sáng tạo ra
một khung cảnh ấn tượng của phim ảnh.
Việc sử dụng ánh sáng trong manga cũng thỉnh thoảng bao gồm cả những
thứ ánh sáng không có nguồn sáng. Các hiệu ứng này thể hiện cảm xúc của các
nhân vật, mang đến cho người đọc một sự hiểu ngay lập tức về cảm xúc của nhân
vật như thể một chiếc kính lúp. Y. Banana sử dụng ánh sáng để biểu thị cảm xúc
nhân vật. Trong Kitchen, để miêu tả trạng thái cảm xúc của Mikage trong lần đầu
gặp Tanabe sau đám tang của bà, Banana viết: “Trong bóng tối đen tối trước mắt tôi
(như nó vẫn luôn có trong tình trạng ngơ ngác của tôi), tôi thấy một con đường
thẳng dẫn từ tôi đến anh. Anh ta dường như phát sáng với ánh sáng trắng. Đó là
hiệu ứng anh ấy gây ra cho tôi” [124, 20]. Tính trực quan sinh động này đã được thể
hiện ngay trong trang đầu tiên của Kitchen. Chúng ta thấy một gian bếp hiện ra
thông qua đôi mắt của Mikage, nơi mà Mikage bất giác nhìn ra xa lên bầu trời đêm
như một khung ảnh, “Khi tôi ngước mắt lên khỏi bếp ga loang dầu và con dao bếp rỉ
sét, bên ngoài cửa sổ những ngôi sao lấp lánh, cô đơn” [124, 25]. Từ cảm nhận đó
mà Mikage không thấy xa lạ dù đó là lần đầu gặp Tanabe. Bàn về cảnh cuối trong
Kitchen, Araki Nobuyoshi, nhiếp ảnh gia Nhật Bản thập niên 70 cho rằng: “Đó là
cảnh hay nhất, nó giống như một bức ảnh. Không chỉ là cấu trúc câu và phong cách
110
viết mà còn là cảm giác về tốc độ trong cảnh. Hình ảnh tỏa sáng của cô gái mang
katsudon sẽ ở lại trong lòng bạn”. Đó là cảnh mang tính trực quan cao, có thể gọi là
thứ ngôn ngữ hình ảnh. Sự hài hòa của các kiểu không gian thường được tôn lên
trong ánh sáng rực rỡ, mang tới sự cuốn hút kì diệu. “Con đường trải sỏi dọc bờ cầu
lớn. Ở phía bên kia, biển mở ra, sông lặng lẽ chạy vào biển. Trăng và đèn đường
chiếu sáng mặt sông và lan can cầu” [126, 24].
Những câu chuyện có sự hòa trộn giữa từ ngữ và hình ảnh khá đậm nét khiến
độc giả của Y. Banana đôi khi bị cuốn vào kênh hình. Vì vậy, có những cảm xúc,
suy nghĩ không nói được bằng lời mà đôi khi chỉ có thể tư duy bằng hình ảnh.
Banana đẩy cao tính tương tác giữa thế giới truyện với người đọc, xóa nhòa ranh
giới giữa người viết và người đọc, thiết lập một không gian giao tiếp “như thật”
thông qua trang giấy và ngôn từ. Tính hình ảnh thị giác này là do sự ảnh hưởng của
phương tiện truyền thông đại chúng mà chính những cây bút Nhật Bản trong đó có
Y. Banana đã và đang lớn lên cùng nó. Trong tác phẩm của Y. Banana, trí tưởng
tượng của các nhân vật gần như nhường chỗ cho những cảm xúc đến từ cảnh vật.
Nói cách khác, cách viết này phản ánh một thế giới được – nhìn - thấy (world-as-
seen), hơn là một thế giới được - cảm - nhận (world-as-felt) [146, 121].
4.1.2.2. Ấn tượng tốc độ: thủ pháp “nhảy cóc” – những xao động của cảm
xúc và dòng ý thức
Shoujo manga đã đạt đến trình độ cao trong việc dẫn dắt câu chuyện và có
thể nói là không thua gì phim, các khung nhiều khi được thiết kế không theo khuôn
mẫu. Một khung có thể kéo dài cả trang và chân dung của nhân vật có khi được kéo
từ khung này sang khung kia, với hoa cảnh trang trí ở nền. Lối kể chuyện đậm chất
đời thường của cuộc sống đương đại. Người ta không nghĩ quá nhiều mà chỉ quan
tâm đặc biệt đến những gì họ đang cảm nhận được. Điều này chi phối đến kĩ thuật
di chuyển trên những khung tranh. Jack Hunter đã miêu tả manga là “những quyển
truyện tranh Nhật Bản với kĩ thuật điện ảnh làm giảm thiểu hiệu quả đếm từ (word-
count) và dựa vào những hình ảnh được mã hóa, cho phép „đọc‟ truyện tranh ở tốc
độ đáng kinh ngạc” [146, 112]. Cách nói của Jack Hunter đã khiến chúng ta hình
111
dung những câu chuyện manga không cần phải “đọc” (theo đúng nghĩa đen của từ
ngữ này). Cách tri nhận một câu chuyện manga là xem tranh (những ấn tượng thị
giác – như đã trình bày ở trên) và còn một cách nữa là lướt trên những khung tranh,
vì có những biểu đạt được “nói” bằng cách sắp xếp, “décor” những khung tranh.
Người ta gọi đó là thủ pháp “nhảy cóc”. Như thế, “nhảy cóc” được hiểu là tính gián
đoạn nhưng có sắp xếp. Các “bậc nhảy” tuy không liên tục nhưng hô ứng với nhau,
gắn liền với kĩ thuật chuyển cảnh giữa các scene (trong phim ảnh, anime), giữa các
khung truyện – koma (trong manga), xuất phát từ tính “động” của nghệ thuật đại
chúng, tạo cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ.
Điểm nhìn của người kể chuyện xưng tôi trong tác phẩm của Y. Banana liên
tục dịch chuyển “vị trí” của mình, cả vị trí không gian lẫn vị trí thời gian. Ở tại thời
điểm hiện tại, người kể chuyện có thể di chuyển đến một sự kiện có liên quan đến
nhân vật hoặc đối tượng được kể trong quá khứ, có thể cách đó vài giờ, vài ngày,
hay vài năm. Dòng ý thức trong suy nghĩ của nhân vật cho phép thời gian, không
gian được dịch chuyển không giới hạn. Ví thời gian như một dòng chảy bất tận,
Banana miêu tả các nhân vật của mình “chảy trôi”, buông mình trên những dòng
thời gian với nỗi cô đơn, với những ẩn ức tinh thần, với những dư chấn của tổn
thương, với sự ngơ ngác loay hoay không tìm được ý nghĩa sống.
Tác phẩm của Y. Banana không chỉ đưa người ta cuốn vào thế giới của ngôn
ngữ “phi ngôn ngữ” – thế giới của cảm xúc một cách nhanh chóng và say mê mà
còn phản ánh khả năng tạo sự bất ngờ như người ta đang đi từ từ lên dốc thì bỗng bị
chiếc Jet-Coaster nhào xuống dưới rồi lên cao nhưng lần này uốn lượn hoặc lộn
ngược chứ không bằng phẳng như trước. Đọc Y. Banana, người ta để mặc cho cảm
xúc của mình được “nhào lộn” thoải mái, nhất là khi hai đoạn văn kế tiếp nhau lại là
hai câu chuyện khác, hai sự kiện khác, hoặc cùng là suy nghĩ từ một nhân vật nhưng
đặt mình vào hai khoảng thời gian khác, không gian khác. Khi đọc manga, người
đọc cũng cho phép mình được “di chuyển” một cách tự do với những bối cảnh khác
nhau về mặt không gian, thời gian… trên những khung hình (koma). Theo nghệ
nhân Hokusai (ông tổ của nghệ thuật manga), manga không phải là nghệ thuật vẽ
112
nhân vật trong một câu chuyện nào đó, hay là sự chú ý tỉ mỉ đến từng chi tiết một để
có thể tạo ra những bức họa có tính giải trí và đầy ý nghĩa. Thay vào đó, thuật ngữ
“manga” được Hokusai dùng để chỉ phương pháp vẽ một bức tranh dựa theo nét bút
đưa hoặc vẽ vài vật chất lướt ngang trang hoàn toàn theo ngẫu hứng, (người viết
nhấn mạnh); vì thế manga còn có nghĩa là “bức tranh kì quái”. Phải chăng chính vì
lí do này mà truyện tranh hay phim hoạt hình thường chỉ chú trọng vào một hoặc
vài nét vẽ / nét hình ảnh mang tính “thần thái”. Từ ảnh hưởng của loại hình văn hóa
này, tác phẩm của Y. Banana đặc biệt chú ý đến những chi tiết / sự kiện thể hiện rõ
tính cách nhân vật – không nhất thiết phải là sự kiện lớn lao có tính sống – còn, mà
có khi chỉ là những sự kiện diễn ra trong tâm lí, có khả năng “dịch chuyển” một suy
nghĩ nào đó đang tồn tại. Nhưng điều thú vị ở đây là, tuy “khung hình” ở đây (tương
ứng là các đoạn – quy mô nhỏ và các chương – quy mô lớn) mang tính “lát cắt”,
thậm chí là chương truyện mang tính gián đoạn, nhưng mạch truyện của toàn bộ tác
phẩm thì không hề bị đứt mạch hay ngắt quãng; ngược lại, nó “chảy” đi một cách tự
nhiên và người đọc hoàn toàn cảm thấy dễ chịu, không phải dừng lại suy nghĩ xem “tại
sao phải như thế”, hay “dụng ý của tác giả là gì” như đọc một số tác phẩm có tính gián
cách như của B. Brech hay A. Chekhov. Lí giải hiện tượng này, chúng tôi cho rằng, Y.
Banana đã tiếp thu kĩ thuật “nhảy cóc” trong truyện tranh và phim hoạt hình.
Thử lấy các khung (koma) trong truyện tranh để làm ví dụ minh họa. Đây là
khung hình và cách đọc manga truyền thống của người Nhật (người Nhật đọc từ trái
sang. Vì thế, vẫn là trật tự ấy, nhưng khi dịch sang tiếng Việt, nhà xuất bản phải
thiết kế theo lối đọc từ phải sang):
Kiểu cách sắp xếp các koma vừa đứt đoạn, vừa liền mạch một cách rất tinh tế
nên cho phép câu chuyện được thể hiện liền lạc, liên tục trên đơn vị là trang truyện,
chương truyện (cho dù các đoạn văn có sự khác nhau về chủ đề, thời gian, đối
113
tượng...) và trên đơn vị một tác phẩm (với sự sắp xếp nhảy cóc giữa các chương).
Tác phẩm của Y. Banana có sự chuyển cảnh liên tục, tương ứng với sự di chuyển
điểm nhìn của người kể chuyện. Việc chuyển đổi cảnh với điểm nhìn khác nhau của
cùng một người trần thuật mà không làm cho văn bản rời rạc, không làm đứt mạch
văn bản đòi hỏi một kĩ thuật nhất định của người viết, nhất là khi tác phẩm văn học
bằng văn xuôi thì lại càng khó khăn hơn vẽ tranh trên trang truyện hay chiếu trên
màn hình rất nhiều. Chúng tôi cho rằng Y. Banana đã có sự tiếp thu cao độ từ văn
hóa manga, anime để có thể thực hiện “kĩ thuật nhảy cóc” tài tình như vậy. Sự
chuyển cảnh hay các cảnh (scene) “nhảy cóc” từ khung này sang khung khác, tạo ra
tính gián đoạn. Nó sẽ tạo ra một hiệu quả riêng. Người ta hiểu rằng: mỗi trang viết
trong tác phẩm của Y. Banana là những điều “không bao giờ nói hết” (“và sẽ
còn nói tiếp”). Mỗi đoạn văn được Y. Banana viết giống như một khung hình vẽ
trong trang truyện tranh, hay như một cảnh quay trong phim hoạt hình. Những điều
chưa được nói hết trong tác phẩm của Y. Banana không phải là kiểu nói ẩn ý như
trong phương thức lạ hóa của chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XX, cũng không phải như
những mảnh vỡ chưa được ghép lại, những lỗ hỏng, khoảng trống của chủ nghĩa
hậu hiện đại. Kiểu “chưa được nói hết” của Y. Banana chỉ đơn giản là việc lược bỏ
những chi tiết không liên quan đến sự phát triển tâm lí – tính cách của nhân vật –
một thủ pháp của truyện tranh và phim hoạt hình. Điều này lại dẫn đến một hệ
quả mới: khi những điều chưa được nói hết một cách cặn kẽ ở đoạn này mà người
kể chuyện lại chuyển điểm nhìn sang sự kiện khác (tương ứng với một đoạn văn
khác) thì ngay lập tức giữa hai đoạn văn đó – hai “khung hình” đó – sẽ xuất hiện
một khoảng trống. Chính những khoảng trống này đã tạo nên giá trị đương đại, mới
mẻ cho tác phẩm, là giá trị của khoảnh khắc, của cái hiện tại (đã trình bày ở phần
4.2.2). Trong Kitchen, khi cả Mikage và Yuichi đang đối mặt với nỗi mất mát từ cái
chết của Eriko, mạch truyện bỗng “ngắt” sang một “khung” khác, đó là kí ức của
Mikage về Eriko. Đó là tâm sự của Eriko về người vợ mình, về sự yêu quý, trân
trọng sự sống, nghị lực sống phi thường của mẹ Yuichi trong những ngày cuối của
cuộc đời vẫn muốn được nhìn thấy một sinh vật sống, đó là chậu dứa cảnh. Kí ức
114
này “chen ngang” vào sự diễn tiến của tác phẩm có ý nghĩa như một sự tiếp sức cho
Mikage và Yuichi để họ hiểu hơn cuộc sống và trân trọng những ngày tiếp theo.
Trong mỗi scene truyện (thường tương ứng với một đoạn, vài đoạn hoặc một
chương), tác giả tập trung miêu tả tâm trạng của nhân vật thông qua cách mà họ
nhìn cuộc sống, nghĩa là ở mỗi scene, cuộc sống được cảm thụ theo lăng kính riêng
của mỗi nhân vật chứ không phải là tất cả những gì đang được diễn ra trong thế
giới. Thứ đập vào mắt nhân vật bao giờ cũng là một thế giới như tranh vẽ: có hình
khối, đường nét, màu sắc và có con người đang hoạt động trên cái nền cảnh đó (có
thể hoạt động đó chỉ là ngước nhìn và tư lự). Như thế, theo trường cảm xúc của
nhân vật, cảnh này sẽ mở ra, sẽ dẫn lối đến một cảnh khác, cho đến khi nào nhân vật
quay trở lại “vị trí cũ” và mạch truyện cứ thế tiếp tục diễn tiến.
Sự “nhảy cóc” trong truyện của Y. Banana không gây cho người đọc sự chới
với, mơ hồ, khó hiểu là bởi vì tác giả luôn có chủ ý khi tạo lập tình huống, sự kiện.
Tình huống trước thường mang tính dự báo cho tình huống sau nhưng tác giả cố
tình không để cho người đọc đoán được chuyện gì sẽ xảy ra, dễ dàng “lướt” đi.
Nhưng nếu để ý kĩ những chi tiết, tình huống, thì khi tình huống sau xảy ra, người
đọc sẽ vô cùng bất ngờ khi nhận ra hai tình huống nằm trong mối liên hệ trực tiếp
với nhau, thường là theo kiểu nguyên nhân – hệ quả, đến mức có thể phải tốn một
khoảng thời gian nhất định của người đọc tinh tường, nhạy bén mới “ngộ” ra được
và tiếp nhận được. Khi thấy được mối liên hệ giữa hai tình huống nào đó, người đọc
cũng đồng thời nghiệm ra được những thông điệp, ý nghĩa nhất định. Giữa hai tình
huống lại là sự phát sinh của những tình huống khác với nội dung sự kiện khác.
Điều quan trọng là người đọc không phải mất thời gian để suy nghĩ cho từng trang
truyện, mà cứ nhẹ nhàng lao đi thoải mái cùng với sự diễn tiến của mạch truyện. Đó
chính là khả năng tạo tính giải trí mà vẫn tinh tế, nhuần nhị, đậm màu sắc đương
đại, là đặc trưng và hiệu quả từ kĩ thuật “nhảy cóc” của manga mà Y. Banana đã
thăng hoa chúng trong bối cảnh mới của văn học. Trong N.P, lần đầu tiên nhìn thấy
hai chị em Saki và Otohiko, Kazami có cảm giác rất lạ, “cái cảm giác như đã gặp
hai người bọn họ trong những giấc mơ ban đêm” [125, 9]. Về sau, người đọc có thể
115
vỡ lẽ rằng, Kazami có cảm giác như vậy không chỉ vì giữa họ có những điểm giống
và khác của một cặp sinh đôi khác trứng, mà còn vì ở họ có cả một thế giới bí ẩn,
mơ hồ của tình cảm; họ vừa là người chứng kiến, vừa là nạn nhân, vừa là tác nhân
của nhiều mối dây tình cảm phức tạp trong gia đình Takase, nhất là Otohiko. Cũng
như thế, ở những trang đầu của truyện, có một cú điện thoại tìm Kazami, nhưng
không nói gì mà dập máy. Kazami ngày hôm đó, trước khi nhận được cú điện thoại
ấy, đang ở trong trạng thái bất an, làm việc gì cũng hỏng, đánh vỡ chén trà, photo
thiếu trang… Tình huống đó về sau, khi Sui xuất hiện một cách đột ngột để gặp
Kazami, người đọc tự vỡ lẽ ra nhiều vấn đề. Tạo lập ra những tình huống mắc xích
với nhau như thế, có lẽ Y. Banana muốn để cho người đọc hiểu được sâu sắc hơn
những “khái niệm” mà bà đã cố công khai thác như vấn đề sứ mệnh và sự hàn
gắn… Những nhân vật trong N.P gặp nhau như một sự xếp đặt của định mệnh. Chỉ
khi những số phận này được nối kết thì mọi tính cách và mọi cung bậc cảm xúc
trong nhân vật mới được khám phá và phát lộ một cách tối đa. Cũng chỉ khi những
con người này gặp nhau, thì mọi tổn thương tinh thần mới được thấu suốt và “nhân
vật cứu rỗi” với khả năng hàn gắn sẽ xuất hiện, cụ thể trong N.P là Kazano. Tác
phẩm Bóng trăng cũng có sự “sắp xếp” tương tự. Đoạn đầu của tác phẩm nói về
Hitoshi với cái chuông nhỏ luôn mang theo bên mình. Chi tiết này như một ấn
tượng mà người đọc không thể bỏ qua. Nó tạo tâm lí chờ đợi “phút cuối cùng” của
tác phẩm, người đọc muốn biết chiếc chuông ấy có ý nghĩa gì mà được giới thiệu
ngay từ đầu cùng với nhân vật. Thế rồi, hình ảnh chiếc chuông nhỏ ấy quả thật đã
“trở lại” về sau khi nó chính là tín hiệu cho cuộc trùng phùng giữa người sống và kẻ
chết – hai mảnh tâm hồn đầy yêu thương.
Trong một số tác phẩm, Y. Banana thường đặt tên cho mỗi chương truyện.
Ngay cả việc đặt tên chương cũng thể hiện tính gián đoạn của manga. Cách đặt tên
chương với những sự kiện rời rạc và chỉ nhắm đến một sự kiện tiêu biểu nhất đã
làm cho tác phẩm của Y. Banana có đặc điểm của truyện tranh và phim hoạt hình.
Chẳng hạn trong Amrita, có các chương như: Mưa lành, Một ngày kì lạ, Sự gắng
sức của mẹ, Still be a lady/girls can‟t do, Ngôi sao đẹp, Thực sự nghỉ ngơi, Cuộc
116
sống…. Các tên chương trong Vĩnh biệt Tugumi như: Hòm thư ma, Mùa xuân và chị
em nhà Yamamoto, Cuộc sống, Người lạ, Bởi tại đêm, Tự thú, Bơi với bố, Lễ hội,
Cơn giận dữ, Cái hố, Bóng hình, Lá thư của Tugumi.
Điều thú vị là những sự kiện này, những thế giới khác này, hoàn toàn khép
kín này, được Banana thể hiện như một phần, một mảng, một giai đoạn, một “tập”
của nhân vật trong shoujo manga trên hành trình tìm lại chính mình. Họ cũng rất
hiểu tình trạng này chỉ là tạm thời và ngay lúc đó, họ cảm nhận rất rõ về sự phù du
của cuộc sống. Cuộc sống chỉ diễn ra trong hiện tại, và mỗi ngày đều mang đến một
điều hoàn toàn mới. Ở bất kì giai đoạn nào, người kể chuyện đều sẵn sàng cho một
cuộc chia tay với cuộc đời, hoặc bị xóa tên ra khỏi một hiện tại mới. “Bất cứ điều gì
xảy ra, hãy xảy ra, tôi không quan tâm. Ngay cả việc nếu tôi chết. Cuộc sống tôi rất
vui vẻ; tôi không hối tiếc. Thật ra, tôi không có gì, không là điều gì duy nhất để thể
hiện những ngày tháng của mình trên hành tinh này, không con cái, không có gì cả.
Nếu tôi chết ngay bây giờ, tôi sẽ biến mất từ bên này để đến với bên kia của tôi”
[127, 236]. Những nhân vật của Banana không hoàn toàn ở trong một vùng đất giả
tưởng, khác xa thực tế. Thật ra, những vấn đề mà Banana hay quan tâm, những “thế
giới khác” được tạo lập ở các nhân vật như những gia đình tái lập, loạn luân, thần
giao cách cảm hay những những cái chết dữ dội... chẳng qua là cách mà Banana
muốn cường điệu để phản ánh sự thay đổi chóng mặt của hiện thực xã hội. Những
tình huống này được Banana đặt trước bối cảnh cảm xúc của các nhân vật chính,
cảm giác tàn phá, cảm giác khao khát và một sự truy cầu hạnh phúc ở cấp độ cá
nhân. Chúng không chỉ phổ biến trong truyện mà còn cả ngoài đời thực. Chính vì
vậy mà tác phẩm của Banana mang tính đại chúng, bởi người ta có thể cảm nhận
được mối liên hệ với họ, với cuộc sống của chính họ. Nhưng cái lõi của những yếu
tố có tính đại chúng ấy vẫn nằm trong vùng giá trị đích thực của văn chương.
Lời giới thiệu quyển Amrita (Nhà xuất bản Nhã Nam) có viết: “Tiểu thuyết
của Y. Banana giống như trò Jet-coaster, một khi đã ngồi lên rồi, ta sẽ bị cuốn đi
đến tận cùng với tốc độ của nó. Không phải do kịch tính được đẩy đến cao trào mà
do khả năng cảm thụ của nhân vật chính đóng vai trò kể chuyện liên tục hướng về
117
phía trước với một tốc độ đáng sợ, không ngừng cảm nhận thế giới xung quanh”
[192]. Thật vậy, tác phẩm của Y. Banana có những đoạn lao đi với một tốc độ đáng
sợ nhưng cũng có những đoạn chậm rãi, thong thả, nhất là khi nhân vật đang hướng
về một xúc cảm, một chiêm nghiệm về cuộc sống, đời người sau tất cả những biến
cố đã trải qua. Với tốc độ đó, có lẽ những “phương tiện” truyền thống như trí tưởng
tượng hay một sự dừng lại quá lâu sẽ không phù hợp với thời hiện đại - thời lên
ngôi của những ấn tượng.
4.2. Giải biên văn học tinh hoa
Theo Hoàng Long, văn học tinh hoa / văn học thuần túy (tiếng Anh: elite
literature, tiếng Nhật: jun bungaku), với tư cách là một thuật ngữ văn học, xuất hiện
đầu tiên vào thời Meiji (1868 – 1912). Tokoku Kitamura trong bài viết Điều gì là
quan trọng và giúp ích cho cuộc đời? đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về văn học
thuần túy là “những tác phẩm văn học chú trọng đến cái đẹp chứ không phải thứ
văn chương học vấn” [166]. Nhà văn Kan Kikuchi thì định nghĩa đơn giản “văn học
thuần túy là cái mà nhà văn viết theo ý mình còn văn học đại chúng viết theo thị
hiếu của người đọc.” [166]
Giải biên ở đây được hiểu là sự phá bỏ đi những giới hạn. Giải biên văn học
tinh hoa là khiến cho văn học tinh hoa bước ra khỏi đường biên của mình, mở rộng
biên độ, nới rộng những cách hiểu, cách hình dung của người đọc. Trong trường
hợp của Y. Banana, với những sáng tác thuộc văn học đại chúng nhưng những gì
mà bà quan tâm vẫn là những giá trị quan trọng của văn học tinh hoa. Ở phần này,
luận án đi vào hai biểu hiện quan trọng, đó là chất nữ tính và giá trị của khoảnh
khắc. Dưới ánh sáng của thẩm mĩ kawaii, Y. Banana đã mở rộng đường biên của
chất nữ tính trong văn học qua việc thể hiện một thế giới shoujo, nơi mà những cô
gái mới là đối tượng tự trải nghiệm, khám phá và làm chủ cuộc đời mình, (không
phải là đối tượng được người khác chiêm ngưỡng), nơi những thiếu nữ không còn là
hiện thân của những giá trị lí tưởng nhất nhưng vẫn đẹp lên trong cái giản dị, bộn bề
của đời thường và những ngổn ngang của sự đổ vỡ, tổn thương. Đối với giá trị của
khoảnh khắc, Y. Banana chú trọng cái thực tại đến từng giây, từng phút nhưng
118
không phải để vĩnh cửu hóa phút giây ấy mà là để tận hưởng nó – ngay lúc này đây.
Khác với Thiền, khoảnh khắc mà mỗi nhân vật của Y. Banana đang cảm nhận
không ngụ ý một triết lí hay chiêm nghiệm nào về cuộc đời, nó đơn giản là khoảnh
khắc vật lí, con người hoàn toàn nhận thức được sự trôi qua nhanh chóng của nó,
nên họ có thái độ trân trọng từng phút giây qua đi.
4.2.1. Từ nền văn học nữ tính đến những câu chuyện shoujo
Nói đến văn học Nhật Bản có lẽ không phải bàn cãi gì thêm về một nền văn
học đậm chất nữ tính (feminine sensibility) [55, 28], bởi tính chất duy mĩ, duy tình,
ở chất diễm lệ và hướng về vẻ đẹp mong manh, ở khuynh hướng thiên về nội tâm và
phân tích các vấn đề dưới góc độ tâm lí thẩm mĩ hơn là quan điểm đạo đức hay triết
thuyết. Bắt đầu từ lịch sử hình thành đất nước gắn liền với huyền tích Nữ thần Mặt
Trời đã thấy quan niệm về cái đẹp của người dân Nhật Bản mang thiên tính nữ. Đến
văn chương, có lẽ không thể không nói đến sự nở rộ của hàng loạt những cây bút nữ
(phần lớn thuộc giai cấp quý tộc) đã làm nên những tác phẩm bất hủ: Murasaki
Shikibu với Truyện Genji (Genji Monogatari), Sei Shonagon với tùy bút Chẩm thảo
tử (Makura no Soshi), cùng hàng loạt các tác phẩm thơ ca, nhật kí, tùy bút, tiểu
thuyết gây ấn tượng khác như tuyển tập Cổ kí sự (Kokinshu), Nhật kí Murasaki,
Nhật kí Izumi… Đến lượt các nam nghệ sĩ: Matsuo Basho, Yosa Buson với thơ
haiku; Yasunari Kawabata với Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô, Tiếng rền của núi,
Người đẹp say ngủ và Truyện ngắn trong lòng bàn tay…; rồi Tanizaki Junichiro, kể
cả Oe Kenzaburo và Mishima Yukio, thì cái đẹp trầm luân vẫn là giá trị choán chỗ
trên những chặng đường đó. Như vậy, câu chuyện của những tác giả đương đại
Nhật Bản sau này như Y. Banana có sự tiếp nối nguồn mạch của văn học tinh hoa
truyền thống thì cũng là điều dễ hiểu. Nhưng điều đáng nói là Y. Banana đã chuyển
hướng cách nghĩ của người đọc về chất “nữ tính” của văn học Nhật Bản, nói cách
khác là “phá rào”, “giải biên” cho văn học tinh hoa. Thứ nhất, vẻ đẹp nữ tính không
đóng khung trong vẻ đẹp toàn bích diễm lệ, đài các, Y. Banana đi vào thế giới của
những điều bình thường, giản dị trong cuộc sống. Nhân vật nữ không nhất thiết phải
mang những vẻ đẹp lí tưởng mà đó là những người rất “bình thường: không tùng
119
phục, không mẫu mực, nhưng chân thành và thuần hậu, trong khiết, hiện lên qua
những câu chuyện “bình thường” – đúng nghĩa đen của từ này - như sự chảy trôi tự
nhiên của đời sống - “mĩ học của cái thường ngày” - kawaii. Thứ hai, tác phẩm
không hướng vào thế giới của người trưởng thành mà khám phá thế giới phong phú,
trong trẻo và phức tạp của tuổi hoa niên, vào giai đoạn các thiếu nữ bước trên thềm
của sự trưởng thành, phản ánh thế giới qua đôi mắt, tâm hồn và những trải nghiệm
cuộc đời của những cô gái đôi mươi. Người Nhật gọi đó là thế giới shoujo (thiếu
nữ). Văn hóa shoujo ảnh hưởng không nhỏ lên cuộc sống của giới trẻ đương đại: từ
trang phục, hành vi, ứng xử, lối sống đến truyện tranh, điện ảnh. Thứ ba, vẻ đẹp của
người nữ không nhìn vẻ đẹp nữ tính qua đôi mắt của nam nhân mà được nhìn qua
đôi mắt nữ giới, là sự tự viết về phái tính của mình (một trong những biểu hiện của
chủ nghĩa nữ quyền thế kỉ XX). Vai trò của nhân vật nữ trong những câu chuyện
của Y. Banana là thật sự quan trọng, cần thiết, là trung tâm của các mối quan hệ tình
yêu, tình bạn, tình thân gia đình và tình người trong xã hội, là người gánh chịu và
cũng là người giải quyết, tìm kiếm các giá trị sống ý nghĩa. Hình tượng của nhân vật
nữ và thế giới sống của họ có sự giải biên khỏi những mặc định (mind set) về mẫu
hình lí tưởng, hướng vào cái đời thường, có xu hướng tiếp cận với kiểu người nữ
phương Tây hay bất kì đất nước nào trong thời hiện đại. Do đó, có thể nói, với sự
chi phối của thẩm mĩ kawaii, Y. Banana đã mở rộng biên độ cho kiểu nhân vật
nữ, cái nhìn về phái nữ và cả tính chất của nền văn học nữ tính (đặc trưng của
văn học Nhật Bản).
4.2.1.1. Những câu chuyện của phái nữ qua người kể chuyện xưng “tôi”
Shoujo (少女) có nghĩa là “thiếu nữ”, nhưng văn hóa shoujo không chỉ
dành riêng cho nữ giới, mà ở đây gợi ý niệm về thiên tính nữ nhiều hơn, nghĩa là
thuộc tính nhẹ nhàng, nữ tính, lãng mạn của khái niệm này hơn là chỉ về giới.
Kawaii cũng là một từ ngữ thường xuyên được nhắc tới trong lĩnh vực truyện tranh
(manga) và hoạt hình (anime), đặc biệt là thể loại shoujo manga, một thể loại truyện
tranh dành riêng cho đối tượng là thiếu nữ, nhũng người đang đứng trước ngưỡng
cửa của sự trưởng thành, đã đi qua thời thơ bé nhưng vẫn chưa là một người lớn
120
thực thụ. Đó là một thế giới chạm đến vẻ đẹp nhẹ nhàng, thanh khiết, mỏng manh;
một thế giới lãng mạn và đầy mơ mộng. Đó là những câu chuyện đề cao giá trị
sống, tình yêu thương, mối quan hệ người – người... Vấn đề là trước, sau, cùng thời
với Y. Banana, cũng có rất nhiều những tác giả được lớn lên trong bầu không khí
của manga những những tác giả ấy lại chỉ xem manga là đối tượng để đọc chứ
không tham gia vào không gian sống của manga, shoujo manga, và đương nhiên,
điều này sẽ không được hấp thụ vào trong tác phẩm của họ. Nhân vật chính trong
tác phẩm của Y. Banana thường là nữ, tập trung chủ yếu vào cuộc sống của thiếu nữ
trên ranh giới của sự trưởng thành. Đó là những bạn nữ trẻ tuổi vừa tốt nghiệp trung
học, đang trên đường vào hoặc ra khỏi trường đại học, và nhiều người trong số họ
làm việc trong các công việc bán thời gian. Cuộc đời họ thường có mối liên hệ chặt
chẽ với các nhân vật khác, có thể là quan hệ họ hàng hoặc chỉ là mối tri ngộ rồi trở
nên thân thiết. Mô tả của phụ nữ trẻ và độc lập ở những giai đoạn chính trong cuộc
đời của họ chính là điển hình của văn hóa shoujo. Họ thường quan tâm đến những
niềm vui trong hiện tại hơn là một hoạch định lâu dài về cuộc sống gia đình. Đây
được xem như là “sản phẩm” của văn hóa tiêu dùng, có mối liên hệ chặt chẽ với chủ
nghĩa tư bản tiêu dùng kiểu Nhật và xã hội hậu hiện đại. Nếu phụ nữ trong quá khứ
là một phần của quá trình sản xuất hàng hóa và công việc của họ là một cứu cánh
cho sự sống còn của gia đình hoặc cộng đồng, thì người phụ nữ trong xã hội tư bản
không sản xuất – họ chỉ tiêu thụ sản phẩm của những người khác. Do đó, shoujo có
thể được hiểu như là người phụ nữ (kiểu) mới, gắn liền với việc “thoát vai” của
người phụ nữ kiểu cũ – kết hôn sớm, chăm sóc chồng, con, nhường nhịn và tùng
phục người chồng mọi vấn đề trong cuộc sống. Giờ đây, họ được đến trường, được
mở mang hiểu biết, được sống trong kí túc xá, nơi có những người bạn mới. Tuy
nhiên, sống trong thời đại mới, những cô gái trẻ cũng bắt đầu hoài nghi và trở nên
thiếu niềm tin về các giá trị sống, trong đó có các giá trị truyền thống tưởng như bền
vững. Điều này phần nào kìm hãm và làm thụ động cuộc sống của họ, khiến họ
thiếu mạnh mẽ trước cuộc sống, thiếu tin tưởng vào người khác và cả chính mình,
121
trở nên dễ tổn thương và cô đơn.
Những câu chuyện của Y. Banana phần lớn hiện lên qua lăng kính thiếu nữ.
Đó vừa là người tự kể, vừa là người quan sát, khám phá cuộc đời. Những thiếu nữ
đang đứng trên lằn ranh của sự trưởng thành có tuổi đời còn rất trẻ nhưng đã bắt đầu
nhận thức cuộc sống và làm chủ số phận chính mình. Bằng những cảm nhận tinh tế,
nhiều cung bậc cảm xúc phức tạp của nhân vật nữ, Y. Banana cho thấy ngôi tự sự
thứ nhất này có khả năng vô cùng bén nhạy trước cuộc sống, có sự độc lập và khát
khao đi tìm bản ngã không khác gì nam giới. Đó là Sakurai Mikage trong Kitchen,
là Satsuki trong Bóng trăng, là Maria trong Tugumi, là Kazami trong N.P, là
Sakumi trong Amrita, là Chihiro trong Hồ, là Mari trong Nắp biển... Họ viết từ quan
điểm của bản thân đối với những sự kiện diễn ra xung quanh, và từ cuộc đời mình,
họ cảm nhận thế giới trong mối đồng cảm lẫn đối chiếu để trưởng thành, nhận thức
cuộc sống một cách sâu sắc, tích cực. Đó là những bạn nữ trẻ tuổi vừa tốt nghiệp
trung học, đang trên đường vào hoặc ra khỏi trường đại học, và nhiều người trong
số họ làm các công việc bán thời gian: nấu ăn, dịch thuật, kinh doanh một quán đá
bào, làm trà, vẽ tranh, âm nhạc..., từ đó thể hiện khả năng nhận thức cuộc sống của
phái nữ đối với xã hội và đồng thời để cho xã hội hiểu hơn về đời sống nội tâm của
những con người yếu đuối, mong manh nhưng cũng thật mạnh mẽ và có nghị lực
phi thường, thậm chí, đó còn là người thực hiện sứ mệnh cứu rỗi – xoa dịu, chữa
lành những vết thương tinh thần cho người khác, cho chính mình.
Nhân vật tôi bằng niềm cảm thông và sự nhạy cảm, tinh tế của mình, “nhập
thân” vào suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật khác. Những dạng biểu đạt như thế
mang lại hiệu quả đặc biệt. Người đọc tìm được cảm giác đồng điệu và được cùng
nhân vật, tác giả trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc phong phú, sâu kín. Khả năng
thu nhận và nắm bắt của nhân vật tôi có thể so sánh với tấm gương (thứ có khả năng
khúc xạ và phản ảnh chân xác đối tượng đang được soi chiếu). Họ thường đứng ở vị
trí có tiêu cự ngắn (khoảng cách gần với các nhân vật khác). Nhờ đó, người kể
chuyện xưng tôi đã thu vào mắt toàn bộ đời sống của họ với những trạng thái biến
đổi tinh tế nhất. Nhân vật tôi như một thanh nam châm hút lấy mọi thứ của cuộc
122
đời, thực hiện các hành vi nhìn, quan sát, cảm nhận, đánh giá như là cách để định vị
các giá trị của thế giới hiện thực một cách tinh tế và bén nhạy bằng tấm lòng luôn
hướng về người khác để sẻ chia. Người kể chuyện xưng “tôi” đã thiết lập một mối
quan hệ hết sức bình đẳng với các nhân vật, giữ vai trò “môi giới” để cho các nhân
vật gặp gỡ, trò chuyện với nhau. Trong việc thiết lập điểm nhìn bên trong này, thủ
pháp tấm gương hay thủ pháp gương soi đóng vai trò quan trọng. Trong văn học
Nhật Bản, tấm gương tồn tại dưới nhiều dạng thức: hoặc là chiếc gương thật với
tấm kính cửa, hoặc là “tấm gương” như màn sương, đôi mắt, hay có thể là sự song
trùng của một cặp đôi nhân vật có khả năng soi chiếu vào nhau... Nói chung, sự vật
thực hiện “chức năng” của tấm gương khi nó biểu thị sự nhận thức, chiếm lĩnh thế
giới xung quanh, đồng thời cũng là sự tự quan sát của chính nhân vật trong hành
trình nhận thức bản thân, làm ngời lên cái đẹp ẩn giấu, khuất lấp, đồng thời, nó cũng
giúp hiện rõ mọi tổn thương, buồn đau, mong manh, yếu đuối của con người hay
những tính cách phức tạp, mâu thuẫn… Đó là sáng tạo mà Y. Banana đã thể hiện
qua “tấm gương người” – nhân vật tôi. Nhân vật nữ trong sáng tác của Y. Banana
có một cuộc đời không như kiểu nhân vật truyền thống. Trong khi trước đó, văn học
truyền thống gần như không đề cập đến người nữ trong vai trò “người trông nhìn”,
“người thưởng thức”, “người lữ khách” trong hành trình đi tìm bản ngã và khám
phá cái đẹp. Vẫn còn nhớ đó là hành trình phiêu lưu ái tình bất tận của chàng “lữ
khách” Genji, là hành trình của người “lữ khách” lãng du Matsuo Basho đi tìm chân
lí và những điều kì diệu của cuộc sống trên những miền đất của thiên nhiên và miền
tĩnh mịch của tâm thức, là hành trình “vĩnh viễn lữ nhân” của Yasunari Kawabata
cũng như những “lữ khách” trong tác phẩm của ông (Shimamura trong Xứ tuyết,
Shingo trong Tiếng rền của núi, Eguchi trong Người đẹp say ngủ, Toshio trong Đẹp
và buồn, Kikuji trong Ngàn cánh hạc…). Giờ đây, nhân vật nữ (xưng tôi) trong
sáng tác của Y. Banana lại có thể “truy tìm” được những giá trị của cái đẹp từ khả
năng tri nhận thế giới trong vùng sáng của thẩm mĩ kawaii.
Điểm nhìn của người kể chuyện xưng tôi trong tác phẩm của Y. Banana liên
tục dịch chuyển “vị trí” của mình, cả vị trí không gian lẫn vị trí thời gian. Ở tại thời
123
điểm hiện tại, người kể chuyện có thể di chuyển đến một sự kiện có liên quan đến
nhân vật hoặc đối tượng được kể trong quá khứ, có thể cách đó vài giờ, vài ngày,
hay vài năm. Nghĩa là dòng ý thức trong suy nghĩ của nhân vật cho phép thời gian,
không gian được dịch chuyển không giới hạn. Nhân vật xưng tôi có lối trần thuật
phi cốt truyện, nghĩa là, mạch truyện xuôi chảy theo mạch đời sống của nhân vật,
không có những thành phần phổ biến như thắt nút, cao trào, mở nút, ngay cả khi nói
về cái chết. Mọi thứ đều được kể một cách nhẹ tênh nhưng lối kể đó lại lôi kéo
người đọc vào trong những câu chuyện thường ngày ấy để cảm nhận sức nặng của
cuộc sống. Lối kể đó mang chứa trọn vẹn tinh thần Nhật Bản có từ thời Heian, Edo:
tập trung vào những lát cắt rất nhỏ nhưng lại bao quát gần như toàn bộ những cung
bậc cảm xúc của một đời người. Ngôi kể thứ nhất tạo ra nhiều khoảng trống khi
nhân vật dừng lại ở một người, một cảnh nào đó để cảm nhận. Người đọc vì thế có
cảm giác rất nhẹ nhàng mà say sưa khi các nhân vật luôn có xu hướng cởi mở, phơi
trải để xóa đi những dự cảm, cảm xúc u ám và mơ hồ của chính mình. Người kể
chuyện xưng tôi giúp tác giả đưa người đọc bước vào thế giới tác phẩm và sống
cùng với nó. Bởi thế, tác phẩm là thế giới của những cảm xúc chân thật và tự nhiên
nhất của con người. Nếu nhân vật nam trong tác phẩm củaYasunari Kawabata là
người kể chuyện trải nghiệm, hiểu đời, thì nhân vật kể chuyện nữ trong sáng tác của
Y. Banana hầu như chưa hề có chút trải nghiệm nào và mỗi người họ đang lần tìm
cuộc sống, khám phá cuộc sống để trưởng thành hơn. Điều này làm nên văn phong
mang tính hiện đại rõ nét trong tác phẩm của Y. Banana. Với lối kể chuyện đặc
trưng này của shoujo manga - lối kể chuyện đậm chất đời thường mang hơi thở của
cuộc sống đương đại, Y. Banana vẫn tiếp nối nguồn mạch truyền thống nhưng theo
con đường đậm chất Kawaii của mình. Y. Banana tôn vinh người trẻ ở bất cứ đâu,
bất cứ khi nào, như một hành động nâng niu đối với một món quà. Thời thơ ấu và
thời niên thiếu trong sáng tác của Banana được lý tưởng hóa, như thể những điều đó
sẽ bị mất đi trong tương lai ở những người trưởng thành.
4.2.1.2. Vai trò của người nữ trong cấu trúc gia đình tái lập
Một cuộc khảo sát được tiến hành năm 1983 ở Nhật đã tiết lộ rằng cứ bốn
124
cặp vợ chồng kết hôn thì có một cặp ly hôn, và cứ hai phút năm mươi bảy giây lại
có một cuộc ly hôn (theo Sodei Takako, The Fatherless Family, Japan Quarterly,
Jan-March 1985, Vol.32, No.1, p.78). Mặc dù đó không phải là tỉ lệ cao như ở các
nước phương Tây, nhưng rõ ràng tình trạng này ngày càng trở nên phổ biến. Và
năm 1993 được xem là lịch sử khi số vụ li hôn tăng đến 189.000 trường hợp. Theo
đó, những phụ nữ trẻ ngày càng vỡ mộng về hôn nhân và né tránh hôn nhân, một
“thế hệ không kết hôn”. Và tình trạng thiếu vắng cha của các nhân vật trải dài trong
các sáng tác của Y. Banana.
Độc giả của Y. Banana sẽ lập tức nhận ra các nhân vật thường mang vết
thương tinh thần nặng nề, một trong số đó là sự đổ vỡ của cấu trúc gia đình truyền
thống, bắt đầu từ tình trạng li hôn của bố mẹ và đời sống thiếu thốn tình thân gia
đình của mỗi nhân vật, đặc biệt là những người phụ nữ trẻ tuổi: cô độc giữa một
cuộc sống đầy bi kịch. Viết về người nữ, Y. Banana bên cạnh việc quan tâm đến
việc thể hiện nỗi đau và sự cô đơn thì bà còn rất chú trọng vào việc tìm đường để
sống tiếp. Bằng cách đó, nhân vật nhận ra, “phụ nữ thật mạnh mẽ”.
Thay vì ngã quỵ, các nhân vật nữ thể nghiệm những vai trò mới: từ phụ
thuộc đến gánh vác, từ bị động đến chủ động, đặc biệt trong mối quan hệ gia đình.
Khái niệm “gia đình” đã được sáng tạo hoàn toàn mới theo cách định nghĩa mới của
nữ giới về vai trò của mình: không chỉ đảm nhận vai trò nội trợ theo những quy tắc
xã hội truyền thống, họ còn tìm kiếm những cách sống mới, ngay cả khi bị bỏ lại
một mình trong thế giới bất an. Từ hoàn cảnh riêng, vì một lí do nào đó mà gia đình
không có người đàn ông trụ cột (chồng, bố), không có ai trong số các nhân vật nữ
như Kazami hay Sui trong N.P, Tugumi hay Maria trong Tugumi, Mikage trong
Kitchen, Satsuki trong Bóng trăng... sống trong những gia đình giống – như – bình -
thường. Bố của Kazami bỏ nhà để sống với một người phụ nữ khác khi cô mới 9
tuổi, sau đó thì mất ở Mĩ. Cha của Sui là một nhà văn nổi tiếng, đã tự tử và để lại
Sui một mình tự chèo lái con thuyền của cuộc đời mình. Mikage là người duy nhất
còn lại sau tất cả những cái chết trong gia đình. Cha của Sakumi chết và mẹ đi thêm
bước nữa, rồi cũng chia tay với bố dượng. Gia đình của Maria chỉ còn lại hai mẹ
125
con cô (cha của Maria kết hôn và sống với người phụ nữ khác ở Tokyo). Họ bắt đầu
cuộc sống mới với gia đình của dì (gồm hai vợ chồng dì và hai cô con gái) ở Izu,
một thành phố nhỏ ngoài biển. Không có cha, họ bị lạc trong thế giới này mà không
có sự hướng dẫn và tình yêu thương. Từ hoàn cảnh xã hội, chúng ta nhận thấy, thời
hậu chiến với những thay đổi lớn diễn ra trong từng gia đình, đặc biệt liên quan đến
khái niệm “làm mẹ”. Sự vắng mặt của người bố trong gia đình không phải là vấn đề
mới phát sinh gần đây trong xã hội Nhật Bản. Đó là kết quả của một xã hội công
nghiệp hóa mạnh mẽ, nhanh chóng, khi khái niệm người làm công ăn lương (salary-
man) ra đời, bởi vì nó đồng nghĩa với việc ai cũng có thể làm ra tiền, và người phụ
nữ cũng vậy. Xuất hiện khái niệm “mẹ đơn thân”. Do đó, vai trò của người đàn ông
trong gia đình ngày càng bị mờ đi. Mỗi người có thể “chọn” gia đình theo cách
riêng của mình, theo hoàn cảnh của mình.
Theo đó, Y. Banana đã phát triển khái niệm “gia đình” theo cách của riêng
bà: cấu trúc gia đình tái lập, không dựa trên mối quan hệ huyết thống, không nhất
thiết phải được tạo nên từ hôn nhân và duy trì nòi giống. Đơn giản, gia đình là nơi
mà mọi người có thể cùng về và chung sống một cách vui vẻ, được hình thành một
cách rất tình cờ, hi hữu, không hẹn trước, dựa trên cơ sở của tình yêu thương và
những gắn kết tinh thần. Đó là kiểu gia đình lắp ráp, gia đình thay thế (alternative
family). Mối quan hệ huyết thống, phả hệ không quan trọng bằng mối ràng buộc của
hoàn cảnh và tình người giản đơn. Những người phụ nữ đóng vai trò chính, nói như
Sakumi: “Khi một thành viên sống cùng mái nhà bỗng nhiên ra đi vì lí do nào đó,
người ta khó tránh khỏi tâm trạng nặng nề rất khó diễn tả bằng lời. Có lẽ, cái được
gọi là gia đình sẽ được hình thành từ một nhóm người nào đó, trong đó, nhân vật
trung tâm có khả năng duy trì một trật tự nhất định giữa các thành viên (trong nhà
tôi, người đó chính là mẹ)” [127, 94. Họ hầu hết là những người phụ nữ bị (những
người đàn ông) bỏ lại một mình (có thể do lỗi của họ hoặc không phải) trong thế
giới đầy hoài nghi, cô đơn và không có sự dẫn lối. Họ tìm kiếm một lối đi và cùng
với những người phụ nữ khác, tìm kiếm những phương cách mới để tiếp tục sống.
Họ giúp đỡ, hỗ trợ, động viên nhau đồng thời là những người bạn tốt của nhau. Nói
126
như Tanabe, Eriko là “người bạn cùng phòng duy nhất, người mẹ duy nhất và người
cha duy nhất” [124, 86]. Cũng có thể không cần ai phải giữ vai trò chính, gia đình
của Kazami sau đổ vỡ đã tự cấu trúc lại, mọi người thay phiên nhau đóng vai trò
làm mẹ, một nhóm người phụ nữ cùng chung sống trong một ngôi nhà và người con
trai duy nhất trong nhà là một cậu bé, nói như Kazami Kano: “Một ngày chúng tôi
đổi tuổi tác và vai trò cho nhau đến mấy bận. Khi người này khóc thì người kia dỗ
dành, khi người này nói những lời yếu đuối thì người kia động viên khích lệ, khi
người này làm nũng thì người kia vỗ về chiều chuộng, khi người này tức giận thì
người kia sửa chữa lỗi lầm” [125, 57 ]. Như là cách phản ứng lại với sự thay đổi của
xã hội, thái độ sống này thể hiện chủ động của con người thời đại, nhất là phái yếu.
Quan niệm về một gia đình “toàn thiện” trong quá khứ đã trở nên trái ngược với sự
“không chắc chắn” của hiện tại. Mỗi người vui vẻ với quan điểm “Gia đình mình
không ngừng lớn hơn”. Đây là một cách định nghĩa mới có tính cách mạng của Y.
Banana so với quan niệm về gia đình trước đó. Mọi người đều có thể trở thành
thành viên của gia đình. Không có điều gì tuyệt vời bằng việc chúng ta có thể tạo ra
những mối quan hệ tử tế với nhau. Nếu phải định nghĩa “cuộc sống - chỉ đơn giản là
nói những lời tạm biệt”, thì trong khi ta còn tồn tại, hãy tạo ra những điều tốt đẹp.
Những “gia đình mới” này tuy không phải là kiểu gia đình truyền thống, nhưng lại
không có gì khác thường. Ngược lại, dường như nó lại đang “vận hành” khá tốt và
đem lại một môi trường đầy yêu thương cho các thành viên.
4.2.1.3. Nữ giới với sứ mệnh hàn gắn, chữa lành
Trong câu chuyện tình người, truyện của Y. Banana có những “người lạ”
xuất hiện trong vai trò là người lắng nghe, người đồng hành với các nhân vật chính
trong những biến cố lớn trong cuộc đời. Họ thường là những phụ nữ có cách xuất
hiện huyền bí: đến và đi rất bất ngờ, không biết từ đâu, không rõ lai lịch, tên tuổi
(nếu có cũng rất chung chung), và quan trọng là luôn xuất hiện đúng lúc, đúng thời
điểm (khi nhân vật tôi đang mong chờ một điều gì hoặc có những điều ấp ủ trong
lòng không tiện nói ra). Họ như những thiên sứ, được phái đến thế gian với năng lực
chữa lành, hóa giải những vết thương lòng, hàn gắn những đổ vỡ. Những cô gái trẻ
127
với vẻ ngây thơ, rạng rỡ với những tính cách kì lạ, vừa như tinh quái, vừa như thiên
thần, lại có sức mạnh chữa lành. Họ là người đại diện cho một thứ siêu tôn giáo,
một sự kết giao tâm linh, giữ vai trò như là những chiếc “ống dẫn”, nối những thế -
giới - song – song. Có thể kể đến đó là sứ mệnh chữa bệnh bằng châm cứu hoặc
chạm tay vào vết thương của Thằn Lằn (Thằn Lằn), sứ mệnh chữa lành vết thương
tinh thần khi có thể uốn cong những đồ vật bằng gỗ hoặc kim loại cho người khác
như một lá bùa bình an (Máu và nước), sứ mệnh nói chuyện với hồn ma của Mì Sợi
(Amrita), sứ mệnh an ủi – “sứ giả” của những linh hồn ngoài biển khơi của Saseko
Saseko “Được sinh ra ngoài ý muốn, ngay từ trong bụng mẹ, có vẻ như cô ấy đã
cảm nhận được sự ghét bỏ của mẹ […]. Nỗi buồn ấy, cùng với tiếng kêu bi thiết
muốn trốn chạy vọng ra từ nơi thẳm sâu trong tâm hồn một bào thai đã cho cô ấy
một khả năng giao tiếp với những thứ khác!” [127, 224]. Saseko thực hiện thiên
chức của mình là an ủi những hồn ma, với đồ tế là những bài hát. Mỗi người trong
thế giới nhân vật của Y. Banana đang ra sức để hàn gắn nỗi đau và lấp đầy mất mát
cho người khác bằng mọi năng lực và tâm huyết: Saseko phát hiện Sakumi đang bị
“chết một nửa”, nhân vật Mì Sợi có khả năng khai thác được rất nhiều thông tin từ
những thứ mà người chết hoặc mất tích để lại, đã nhiều lần hợp tác với cảnh sát,
Urara trong Bóng trăng là một nhân vật thuộc tuyến phụ, nhưng sự xuất hiện của cô
và những gì cô đã làm cho nhân vật tôi – Satsuki là vô cùng đặc biệt. Cô xuất hiện
bất ngờ khi Satsuki đang đứng ở bờ sông, nơi lưu dấu kỉ niệm của Satsuki với người
yêu Hitoshi đã mất. Urara không rõ từ đâu tới. Linh hồn hay thiên sứ? Điều đó
không quan trọng, không cần phải lí giải, hoặc nói như Urara: “Khi những ý nghĩa
còn chưa tan đi của người chết kết hợp thật huyền diệu với nỗi đau của người sống,
thì cái hư ảnh như thế sẽ hiện ra” [124, 220]. Điều quan trọng là Urara đã nhìn thấu
vết thương lòng đang âm ỉ trong Satsuki khi người yêu mất mà chưa một lời từ biệt.
Urara nhìn thấy được mối dây liên hệ giữa Satsuki và dòng sông, nên cô đã gợi ý
cho Satsuki để có thể chứng kiến được cảnh “giống như là ảo ảnh mà trăm năm chỉ
xuất hiện đúng một lần” [124, 198]. Một thứ rất vi diệu và chỉ thấy bằng linh tính
mà thôi. Satsuki nghe thấy tiếng chuông quen thuộc mà Hitoshi luôn mang theo bên
128
mình, thấy Hitoshi đang nhìn về phía mình. “Hitoshi vẫy tay và nở một nụ cười.
Cậu cứ vẫy tay, vẫy tay mãi. Và chìm khuất vào bóng tối xanh biếc. Tôi cũng vẫy
tay” [124, 230]. Chỉ cần được vẫy tay chào và được thấy nụ cười của người yêu, với
Satsuki, đó là một sự an ủi lớn, một sự toại nguyện vì đã chia tay người ấy một cách
trọn tình. Thực hiện xong “sứ mệnh”, Urara hòa vào dòng người trên con phố của
một buổi bình minh rồi biến mất. Cô gái trong truyện ngắn Mới cưới cũng mang
một sức mạnh “chữa lành” đặc biệt cho tâm hồn tẻ ngắt vì cuộc sống hôn nhân chưa
kịp thích nghi của nhân vật tôi. Từ một ông lão hôi hám, người ngồi cạnh tôi bỗng
biến thành cô gái đẹp, với mùi nước hoa dìu dịu, ngọt ngào rồi cất tiếng nói: “Chẳng
lẽ anh vẫn không muốn về sao?”. Cô gái hỏi về Atsuko – vợ anh, để thức dậy trong
anh hình ảnh của người vợ nhỏ nhắn, đảm đang, rất mực đời thường; để anh biết
quý, biết yêu thương. Tỉnh rượu, chuẩn bị xuống ga, quay sang bên cạnh, thì “cô gái
đã biến trở lại thành ông già bẩn thỉu, đang ngủ say sưa”. Cô gái kia kì lạ, huyền ảo
hay đó là sự phản chiếu của tâm hồn nhân vật, là sự thức dậy của lí trí và tâm hồn
để anh có cơ hội đấu tranh tư tưởng, dẹp bỏ những phiền muộn và nhìn cuộc sống
lạc quan hơn, trân trọng hạnh phúc đang có và yêu thương người vợ bé nhỏ hơn.
Thằn Lằn (tên gọi trìu mến của tôi trong truyện ngắn Thằn Lằn đặt cho người yêu)
là cô gái có đôi mắt đen tròn của loài bò sát, như hai viên bi thủy tinh, đôi môi đỏ
thắm, chỉ cần nhìn qua đã có thể phát hiện chỗ không ổn của người đối diện, chữa
bệnh bằng cách chạm tay vào cơ thể người bệnh. Xoa tay vào người khác, cái năng
lực được truyền đi không phải là sức mạnh siêu nhiên thần thánh, mà là sự đồng
cảm với nỗi đau, là sự “đau cùng” người khác. Thằn Lằn làm người đọc nhớ tới
nhân vật nữ trong truyện ngắn Cánh tay của Yasunari Kawabata với đầy đủ những
vẻ đẹp của bản tính nữ, đẹp lên không phải bằng vẻ yêu kiều mà bằng khả năng cảm
nhận rất tinh tế, mong manh, bằng sự chia sẻ tuyệt vời về tinh thần, cảm xúc. Điều
này đem đến cho người đọc một cái nhìn xa hơn, sau những gì diễn ra trong đời
sống hàng ngày. Liên quan đến lý thuyết của Carl Jung, chúng ta có thể hiểu rằng
những điều bí ẩn, kì diệu như thế là kết quả của những chấn thương đã trải qua hoặc
là biểu hiện của một sức mạnh, một đam mê bên trong nhân vật. Những người phụ
129
nữ kì lạ này làm gián cách cuộc sống thực tại và tạo ra một sự kết nối với cái “phía
sau” cuộc sống (hơn là cung cấp một lối thoát ra khỏi sự vất vả của cuộc sống hàng
ngày). Đó là kiểu phụ nữ trung gian – giữa thế giới thực với thế giới vô thức. Họ
đem đến những ý nghĩ mới về cuộc sống, biến những điều cũ kĩ thành mới mẻ và là
“thông dịch viên” giữa thế giới của lí trí với thế giới của tình cảm. Urara và Eriko
đều là kiểu nhân vật thể hiện cho sự biến đổi, nhưng nếu Eriko trong Kitchen
chuyển giới thì Urara thay đổi ngoại hình và có thể giao tiếp được với nhiều thế giới
khác nhau. Thật ra, trong thập niên 80, sự gắn kết giữa những cô gái hoặc phụ nữ
với những điều huyền bí là một xu hướng thú vị trong truyện tranh. Xét kĩ, sự xuất
hiện cùng với vai trò, sứ mệnh đặc biệt và những điều huyền bí mà các nhân vật bí
ẩn mang đến là có cơ sở. Điều hi hữu mà Urara mang đến cho Satsuki không hoàn
toàn là huyễn tưởng. Nó lấy ý tưởng từ một lễ hội trong văn hóa Nhật Bản là lễ hội
Tanabata, kỉ niệm về cuộc gặp gỡ của hai người yêu nhau là Orihime và Hikoboshi
diễn ra một lần duy nhất trong năm. Thời Nhật Bản cổ đại, phái nữ được coi là sở
hữu sức mạnh tôn giáo và tâm linh mạnh mẽ, như nữ thần Mặt trời Amaterasu được
tôn thờ như vị thần chính của Thần đạo, còn công chúa hoàng gia thì giữ vị trí nữ tư
tế tại các đền thờ lớn của Amaterasu, và cũng có các vị nữ vương khác đã từng cai
quản Nhật Bản rất thành công, như nữ vương Himiko thời Yamatai (189 – 248),
Thiên hoàng Jingu (Thần Công hoàng hậu) (201 – 269)... Các nữ pháp sư cũng có
sức mạnh chữa lành rất kì diệu. Chính tựa đề Amrita, theo tiếng Phạn, cũng có
nghĩa là mật hoa của các vị thần (tạm hiểu: Nước Thánh), một loại đồ uống có thể
ban sự sống vĩnh cửu theo thần thoại Ấn Độ. Trong truyện của Y. Banana, sức
mạnh của phụ nữ và đặc biệt là năng lực tâm linh và khả năng nhận thức của họ
đóng vai trò quan trọng. Có những nhân vật có khả năng đi – về giữa hai thế giới
song đôi. Khác với phương Tây, phương Đông nói chung và Nhật Bản nói riêng,
luôn cho rằng có sự hiện hữu của cái chết trong cuộc sống, hoàn toàn không phải là
một điều gì thần bí.
Nhiều đánh giá cho rằng các tác giả Nhật Bản nữ đương đại trong đó có Y.
Banana đã và đang thực hiện nhiệm vụ đấu tranh cho phong trào nữ quyền. Theo
130
Nguyễn Nam Trân, nhà nghiên cứu và dịch giả văn học Nhật Bản, trong Tổng quan
lịch sử văn học Nhật Bản, chương Khi văn học Nhật Bản nhìn ra thế giới thì “Từ
năm Shôwa 50 (1975) trở đi, trong bầu không khí của phong trào tìm cách nới rộng
quyền sống phụ nữ, các nhà văn phái nữ đã có những hoạt động đáng kể. Đó là
dòng văn học tranh đấu cho nữ quyền (women rights), hay mạnh mẽ hơn nữa, thiên
trọng phụ nữ (feminism)” [175]. Có lẽ, đây là cách mà Y. Banana thể hiện được chủ
nghĩa nữ quyền một cách mạnh mẽ và đầy rung động, là đóng góp của Y. Banana trong
việc đem đến những cái nhìn tích cực và nhân bản về yếu tố đại chúng: không dừng lại
ở việc đem lại sự vui vẻ, sảng khoái cho người đọc mà còn đóng góp cho những giá trị
trong văn học truyền thống, khuyến khích nhân quyền và giải phóng phụ nữ.
4.2.2. Từ giá trị vĩnh cửu đến giá trị tức thời
Truyền thống Nhật Bản luôn đề cao trạng thái nhất tâm và sự hòa diệu tương
giao giữa con người và thế giới. Yếu tính của văn học Nhật Bản nhấn mạnh vào sự
hợp nhất cái vĩnh cửu và phút giây thực tại, được gọi là khoảnh khắc. Có thể hiểu
triết lí này qua kịch Noh – một loại nghệ thuật biết ẩn giấu: nhấn mạnh cái mơ hồ
vượt tri giác (gọi là huyền tính – kakari) trong một vở diễn; qua nghệ thuật Trà đạo
đề cao cái vĩnh cửu Thiên hạ gặp nhau qua một chén trà; qua tiểu thuyết đứng vào
hàng tiên phong của nhân loại Truyện Genji với chàng hoàng tử Genji đa tình đi tìm
vẻ đẹp vĩnh hằng trong cái phù du, mong manh, vô thường của cái đẹp; qua thơ
Haiku để thấy dù là một giọt sương hay một vầng trăng nơi cửa sổ, là con ếch hay
chiếc ao cũ, là bóng quạ cô tịch hay chỉ là một tiếng vỗ tay cũng đủ để làm nên thế
giới; qua truyện ngắn trong lòng bàn tay hay cả những thiên truyện dài của Yasunari
Kawabata với những khoảnh khắc chạm vào đáy vĩnh cửu bởi sự đi tìm và khát
khao gìn giữ vẻ đẹp toàn bích, trinh bạch. Khoảnh khắc - với ý nghĩa là cái thực tại
(rồi đây sẽ trôi qua một cách nhanh chóng) - ít được đề cập tới, hoặc nếu có, đó chỉ
là một phương tiện để “chở” các lữ khách cập “bến” giá trị mà họ truy cầu. Với Y.
Banana, bà lại đề cao giá trị thực tại của khoảnh khắc, khẳng định giá trị ấy theo
đúng nghĩa đen của nó, xem đó là một giai đoạn, một khoảnh khắc rực sáng cần
nâng niu trân trọng của đời người: dù hạnh phúc hay đau buồn, dù có thể rất ngắn
131
ngủi và kết thúc trong phút chốc. Vẫn từ kawaii, Y. Banana đã thổi vào trong khái
niệm „khoảnh khắc‟ của văn học tinh hoa một luồng gió mới, mang tinh thần của
thời đại mới.
4.2.2.1. Phút giây thực tại
Trong sáng tác của Y. Banana, thời gian được nhận thức khác nhau trong
từng giai đoạn tâm lí của nhân vật, trong hành trình đi từ đau thương, mất mát đến
tìm thấy ý nghĩa sống. Dù thể hiện thời gian ở hiện tại hay trong quá khứ, Y.
Banana cũng chỉ chú ý đến những khoảnh khắc ôm trọn được cảm xúc đa chiều kích
của con người. Về khía cạnh này, sáng tác của Y. Banana vừa tiếp thu nguồn mĩ
cảm truyền thống của Nhật Bản khi cảm nhận thế giới qua lòng bàn tay (trường hợp
Y. Kawabata) hay cả giây phút chân ngộ những giá trị quý giá của cuộc sống chỉ từ
khoảnh khắc “Ao cũ. Con ếch nhảy vào. Vang tiếng nước xao” của thiền giả thi sĩ
M. Basho..., vừa tiếp thu quan điểm văn học đại chúng của thời đại Banana sống.
Học giả Jim Cullen, qua lời giới thiệu cho cuốn Bách khoa thư văn hóa đại chúng
của St. James (St. James Encyclopedia of Popular Culture) đã gọi văn hóa đại
chúng là “nghệ thuật của đời sống thường nhật” (the art of everyday life). Văn hóa
đại chúng là kiểu văn hóa có thể diễn ra bất cứ ở đâu, bất cứ khi nào, nhưng quan
trọng nhất đó là chính những gì đương diễn ra. Như chưa hề có ngày hôm qua,
và ngày mai chưa đến, nhân vật của Y. Banana sống hết mình cho từng ngày, từng
khoảnh khắc. Tác phẩm của Y. Banana đặt nhân vật vào rất nhiều “hiện tại”. Sự
phân chia thời gian thành một chuỗi những “hiện tại” bắt đầu từ việc thiếu cảm giác
về quá khứ của chính mình. Không có một khái niệm nào về quá khứ đáng để cho
nhân vật tin vào. Thay vào đó, mỗi cá nhân tự đứng trên đôi chân với những trải
nghiệm cá nhân riêng có. Theo đó, bà đã làm cho khái niệm về “cái khoảnh khắc”
được nới rộng phạm vi biểu hiện của chúng: từng phút giây vật lí cũng có ý nghĩa
lớn lao riêng của nó.
Câu chuyện, kỉ niệm trong quá khứ được thể hiện một cách rất tự nhiên theo
mạch phát triển của truyện, làm cho người đọc không thấy sự tách biệt giữa hiện tại
và quá khứ, quá khứ vẫn luôn song hành với hiện tại. Tuy nhiên, kiểu thời gian
132
đồng hiện hay thời gian dòng kí ức trong tác phẩm của Y. Banana không phải là sự
đan xen đến mức hòa trộn hay xóa nhòa ranh giới, cũng không thể hiện sự “lấn át”
của thời gian quá khứ lên thời gian hiện tại. Thời gian trong tác phẩm của Y.
Banana dù trôi qua nhiều năm nhưng lại như không hề trôi, bởi những khoảnh khắc
của quá khứ vẫn còn in rất đậm sâu trong kí ức của nhân vật: sống động, cựa quậy,
và đầy ám ảnh. Sakumi nhớ về người em gái Mayu đã mất. Nhiều năm trôi qua mà
Sakumi vẫn hình dung Mayu như vẫn đang đứng trước mắt mình: “Lúc ấy, Mayu
ngước nhìn lên sân khấu, nhẹ nhàng như trong một giấc mơ, với một góc nghiêng
tuyệt vời hơn bất kỳ một bộ phim nào nó từng đóng. Khuôn mặt nhìn nghiêng sáng
xanh lên, như vầng trăng vừa nhô ra từ trong bóng tối, tắm mình trong ánh mặt trời.
Mắt nó mở to như đang dõi theo một giấc mơ, làn tóc mai nhẹ rung trong vầng sáng
bạc, và chiếc tai nhỏ cong lên duyên dáng như muốn nuốt trọn từng âm thanh” [127,
45]. Cũng cô đọng thời gian quá khứ độc hiện trong khoảnh khắc nhưng Y.
Kawabata thể hiện hoài niệm về quá khứ, là nỗi ám ảnh về quá khứ với nhiều kỉ
niệm và nỗi đau của các nhân vật chứ không phải là kĩ thuật dồn thời gian của đời
người vào một khoảnh khắc để “duy nhất hóa” nó trong ý nghĩa sống của cuộc đời
các nhân vật như cách mà Y. Banana đã thể hiện, thống nhất với quan điểm của con
người đương đại: mong muốn mỗi người luôn sống hết mình cho từng khoảnh khắc.
Thời gian tạo ra niềm hi vọng chính niềm hy vọng tìm thấy từ những việc giản đơn:
cùng người mình yêu mơ một giấc mơ có mùi kim chi phảng phất (Giấc mơ kim
chi), còn được thấy ai đó còn hiện hữu bên mình bất chấp những chuyện kinh khủng
đã qua (Thằn Lằn), ngắm bình minh huy hoàng trên dòng sông (Chuyện kỳ lạ bên
dòng sông lớn). Những điều đơn giản ấy đã giữ họ lại, khiến ngày mai vẫn còn có ý
nghĩa và hạnh phúc vẫn là điều có thật trên đời. Đây là kiểu nói ta thường bắt gặp
trong tác phẩm của Y. Banana: “Giây phút ấy, tuy tôi cũng ở đó, cùng xem một bộ
phim, cùng nói một câu chuyện, nhưng tôi có một cảm giác rất kì lạ, như đang dần
trôi về một cõi xa xăm nào đó” [128, 25]. Khoảnh khắc Mikage và Yuichi trên con
đường khuya có ánh trăng soi khiến Mikage nhận ra “Đó chính là tình cảm của hai
đứa chúng tôi vừa hòa quyện vào nhau ở một khúc cua thoai thoải, trong bóng tối
133
mà cái chết đang vây quanh. Thế nhưng nếu vượt qua khúc cua ấy rồi, chúng ta sẽ
bước sáng những ngả đường hoàn toàn khác. Lúc này đây, nếu bỏ qua khúc cua ấy,
chúng tôi sẽ vĩnh viễn chỉ là hai người bạn” [124, 154]. Tác phẩm của Y. Banana
luôn đem đến cho người đọc những khoảng lặng êm ái, xao xuyến chứ không bi ai.
Kawaii đã đưa đến những cảm xúc tích cực khiến tâm hồn chúng ta thanh mát đến
lạ! Cái khoảnh khắc mà hai con người có cùng một giấc mơ thật kì diệu. Những con
người trẻ tuổi nhưng luôn có dự cảm bất an và khát khao mãnh liệt niềm hạnh phúc
giản đơn: được ở bên nhau và được chia sẻ cùng nhau. Khoảnh khắc người chồng
lấy ra hộp kim chi tặng vợ trong truyện ngắn Giấc mơ kim chi cũng tương tự vậy.
Khoảng cách vô hình giữa hai vợ chồng đã được xóa tan bởi hành động đơn giản
mà ý nghĩa. Người phụ nữ đang mất lòng tin trầm trọng về tình yêu bớt hoài nghi về
đời sống hôn nhân. Giấc mơ hiện làm hiện lên một khoảnh khắc trong căn bếp giữa
đêm khuya, Mikage và Yuichi vừa luộc mì vừa lắng nghe âm thanh của chiếc máy
xay ầm ĩ, cảm nhận được niềm xúc động mong manh, và trong giấc mơ ấy, họ sợ
rằng cảm giác mình đang có được chỉ là giấc mơ: “trong vòng quay của ngày và
đêm, biết đâu khoảnh khắc này sẽ chẳng biến thành một giấc mơ” [124, 71].
Khoảnh khắc của giấc mơ chung có thể được hiểu rằng, khi hai con người cùng
nhau trải qua chiều dài của năm tháng, vào những khoảnh khắc nhất định (với sự tác
động của tâm lí hiện tại), giữa họ sẽ xuất hiện một mối cảm thông sâu sắc, giống hệt
như thần giao cách cảm. Hai vợ chồng, trong giấc mơ chung ở truyện Giấc mơ kim
chi, đã nắm tay nhau trong một khu chợ, trong ánh mặt trời gay gắt và cùng chọn
mua kim chi. Cái mùi kim chi mạnh đến nỗi làm họ thức giấc và kể cho nhau nghe
câu chuyện. Trong khoảnh khắc đó, nhân vật tôi đã có những suy nghĩ sâu sắc, đó là
sự khám phá ý nghĩa cuộc sống của bản thân: “Cho dù được sinh ra là hai thực thể
hoàn toàn tách biệt, chúng tôi vẫn có thể chia sẻ mọi thứ nhỏ nhặt trong cuộc sống
thường nhật. Phải chăng đó là ý nghĩa của việc sống chung cùng nhau?” [129, 101].
Đã bao lần Tugumi, Maria đã chìm vào trong những giấc mơ với phần linh hồn
nhòa cùng thế giới vô thức. Họ là những cô bé tuổi mới lớn nhiều mơ mộng nên
giấc mơ cũng đầy những hình ảnh của ảo giác và thực tại đan xen. “Tôi lại đang mơ
134
thấy giấc mơ ấy. Chúng tôi đã mơ những giấc mơ giống nhau. Tất cả mọi sự việc
xảy ra trong một đêm, là tâm trạng chỉ trong một đêm mà thôi. Đến sáng hôm sau,
những gì đã xảy ra trở nên mơ hồ, lẫn vào trong ánh sáng. Và những đêm như thế
rất dài. Dài như không hề có điểm kết thúc, sáng lấp lánh như một viên đá quý”
[126, 85]. Thời gian của quá khứ với những kỉ niệm từng diễn ra, thời gian hiện tại
với niềm hi vọng và thời gian tương lai với những dự cảm tốt đẹp luôn đan kết vào
nhau trong giấc mơ, khiến cuộc sống như ngưng tụ. Như thế, mơ là cách để gọi lại
kí ức, khơi lại quá khứ tươi đẹp, ám ảnh chia ly ở hiện tại và niềm khát khao hội
ngộ. Mikage trong Kitchen mơ “thấy mình đang kì cọ bồn rửa bát trên cái kệ bếp”,
thấy “cái màu ô liu của sàn nhà”, cái màu quen thuộc trong ngôi nhà cũ khi bà
Mikage còn sống. Cảnh tượng trong quá khứ ấy cũng có Yuichi, cùng Mikage lau
bếp, uống trà trong một không gian tĩnh mịch. Giấc mơ của Mikage phản chiếu một
ước mơ sâu thẳm: muốn được sống trong ngôi nhà nhiều kỉ niệm của mình, với cảm
giác có bà hiện diện và được cùng với Yuichi chia sẻ vui buồn. Sakumi mơ thấy
mình trò chuyện cùng với người phụ nữ có hai trí nhớ. Cũng giống như Sakumi,
người đó đã cận kề cái chết (trong một vụ tai nạn) rồi có thêm được một trí nhớ của
người có tên giống cô ấy nhưng đã chết trước đó. Giấc mơ của Sakumi là sự âm
vang của kí ức, của quá khứ. Giấc mơ hay là cách để Sakumi được hồi sinh và lấy
lại cân bằng giữa hai trạng thái trước và sau khi gặp tai nạn. Terako trong Say ngủ
đã có một giấc mơ về Shiori, lần đầu tiên, kể từ khi Shiori mất. Giấc mơ thực và
sống động như ước muốn được trở về cuộc sống trước kia: “Shiori ngồi cắm hoa
bên chiếc bàn gỗ tròn [...], mặc chiếc áo len hồng quen thuộc, chiếc quần cộc màu
kaki và đi đôi dép trong nhà mà nó vẫn thường dùng” [128, 63]. Sau giấc mơ ấy,
Terako hiểu ra “chính tôi là người cần có ai đó ngủ bên cạnh”, chính Terako đang
rơi vào một hố cô đơn. Giấc mơ giúp Terako khám phá được chính mình, từ đó
nhân vật nhận thức được nhu cầu của bản thân và giải tỏa những ẩn ức. Tương tự
thế, giấc mơ của Marie gặp Hitoshi giúp cô trở lại cuộc sống, giấc mơ của Chihiro
gặp mẹ và lời khuyên của mẹ khiến cô cân bằng lại chính mình: “Con hãy giữ ấm
bụng, thả lỏng con tim và cơ thể để máu đừng bốc lên đầu. Hãy sống như một bông
135
hoa, con nhé!” [130, 17]. Khi chọn „giấc mơ‟ làm tín hiệu nghệ thuật (tức cái biểu
đạt), Y. Banana có sự khác biệt khi khám phá mối quan hệ hai chiều giữa hiện thực
và giấc mơ. Nghĩa là không chỉ có sự tác động của hiện thực lên giấc mơ như sự
phản chiếu của ẩn ức, mà giấc mơ còn có sự tác động trở lại với hiện thực tạo nên
những linh cảm. Trong giấc mơ, Kazami (Amrita) đã khóc. Khi tỉnh dậy, dù vẫn
thấy “bầu trời mùa hạ trong suốt”, “một chút gió mát lùa vào từ ô cửa sổ đang mở”,
nhưng xúc cảm của giấc mơ vẫn len lỏi vào hiện thực, cho Kazami một linh cảm về
một điều gì đó không mấy bình yên. Kazami liên tục làm hỏng việc, đánh vỡ chén
trà, phô tô thiếu trang… Thật vậy, ngày hôm đó, Kazami đã nhận được cú điện
thoại từ Sui nhưng cô ta dập máy. Sui gọi chỉ để kiểm tra xem có phải Kazami làm
việc ở đó hay không. Và cú điện thoại đó đã bắt đầu cho một câu chuyện tình cảm
phức tạp về sau, khi Sui quay về Nhật và tìm Kazami.
Bản thân mỗi câu chuyện mà Y. Banana kể với người đọc cũng là một khoảnh
khắc. Đó là những câu chuyện có dung lượng không quá lớn, tiểu thuyết có dung
lượng từ 200 đến hơn 500 trang; truyện ngắn thì khoảng vài chục đến hơn 100
trang. Với kiểu tổ chức như vậy, tác phẩm của Y. Banana giống như những bộ
truyện tranh hay những bộ phim hoạt hình nhiều tập, nhiều kì, đáp ứng nhu cầu độc
giả trên những chuyến xe, những khi rảnh rỗi, và do đó, nó mang tính giải trí cao.
Tác phẩm của Y. Banana đôi khi được so sánh với “thức ăn nhanh” vì nó dễ đọc và
người ta có thể đọc nó bất cứ khi nào, nhất là trên những tàu điện, tựa như đọc báo
hay đọc truyện tranh. Mang đặc tính của những sản phẩm đại chúng, và những sáng
tác của Y. Banana cũng có tính giải trí cao, nhưng đó lại không phải là sự câu khách
dễ dãi. Những sáng tác của Y. Banana không như những món thức ăn nhanh: sản
xuất hàng loạt và “tiêu hóa” nhanh chóng. Ngược lại, chúng khiến người đọc có nhu
cầu đọc lại, nghiền ngẫm và khám phá. Điểm giống giữa sáng tác của Y. Banana
với những sản phẩm có tính giải trí, đại chúng ở chỗ: nó “lấp đầy” những “khoảng
trống” trong nội tâm, tình cảm con người, nhất là khi người ta đang cần một ai đó
bên cạnh để chia sẻ, bầu bạn. Khi đó, tác phẩm của Y. Banana là một sự chia sẻ
tuyệt vời. Hơn nữa, giống như khi mong đợi sự xuất bản một tập tiếp theo của một
136
bộ truyện tranh, độc giả cũng đón đợi một câu chuyện mới từ Y. Banana với sự tiếp
diễn chứa đựng điều mới mẻ (tính series). Thứ ba, bất cứ ai cũng có thể đọc và hiểu
được thế giới nghệ thuật trong tác phẩm của Y. Banana, bởi tác phẩm là sự thể hiện
những mạch đời sống gần gũi, dễ hiểu, dễ cảm nhưng không phải dễ nhận ra trong
dòng chảy bề bộn hàng ngày. Từ người trưởng thành đến thanh thiếu niên và trẻ em,
từ nam giới đến nữ giới, từ người sống thờ ơ lạnh lùng đến người sống nội tâm thầm
kín, tất cả đều có thể chạm vào thế giới tình cảm được tái hiện trong tác phẩm của
Y. Banana. Trong thế giới đó, người ta không mấy chú trọng vào tuổi tác, giới tính,
nghề nghiệp… Điều người ta quan tâm là thế giới tâm hồn con người với những
biểu hiện phong phú và tinh tế.
Thời gian của câu chuyện (dài hàng chục đến hàng trăm trang) cũng được
diễn ra như một khoảnh khắc. Ngày tháng trôi qua cũng được tính bằng sự kiện.
Chương 2 trong tác phẩm Amrita có tên “Một ngày kì lạ”. Thời gian của câu
chuyện diễn ra trong một chương truyện được tính bằng sự kiện của một ngày.
Ngày đó bắt đầu bằng Miyamoto (cái chết Miyamoto) và kết thúc cũng bằng
Miyamoto (Sakumi gặp mẹ của chị Miyamoto ngồi trên ghế đá, đang gắng gượng
vượt qua nỗi đau mất con). Sakumi nghĩ về bản thân, thấy mình cũng giống như bà
mẹ ấy, đang “lặng lẽ trốn chạy những ám ảnh quá khứ đang lởn vởn trong không
gian ngôi nhà của chính mình” [127, 92]. Chương 6 của truyện lại được thâu tóm
trong hai tuần lễ - không phải hai tuần của mười bốn ngày mà là hai tuần diễn ra của
sự kiện mẹ Sakumi đi Bali và trở về. Đầu chương 6 là việc mẹ Sakumi quyết định
sẽ đi Bali hai tuần. Chương 6 kết thúc khi hai chị em Sakumi hồi hộp xem tivi đưa
tin có một chiếc máy bay rơi đúng sau khi máy bay của mẹ nó cất cánh. Yoshio bảo
với Sakumi rằng sáng nay đã nghe ai đó nói “Lệch một tiếng” sau khi mẹ đã ra khỏi
nhà. Cách kể dồn nén thời gian vào khoảnh khắc của Banana là sự thể hiện tinh thần
của kawaii: trân trọng hiện tại, nâng niu từng khoảnh khắc ý nghĩa của cuộc sống,
kể cả khi đó là khoảnh khắc bình thường, bình dị nhất, nâng niu từng dấu chân đi
qua để trưởng thành. Bằng tinh thần của kawaii, Y. Banana đã “mở rộng” biên độ
của những ý nghĩa, giá trị “khoảnh khắc”. Đó là cách mà Y. Banana phá biên những
giá trị tinh hoa, làm cho những giá trị ấy được thổi vào những làn gió mới của thời
137
đại mà vẫn không chệch khỏi quỹ đạo của những gì đã có trước đó.
4.2.2.2. Những “scene” ngắn của đời người
“Scene” là từ ngữ mượn của nghệ thuật hoạt hình (anime) để biểu đạt những
lát cắt của đời người trong sáng tác của Y. Banana. Mỗi câu chuyện của Y. Banana
tái hiện một giai đoạn (thường là giai đoạn tuổi trẻ) gắn liền với một biến cố có ý
nghĩa lớn lao, với những trải nghiệm đáng nhớ, làm thay đổi cuộc đời nhân vật. Đó
là một giai đoạn riêng biệt, vừa đau đớn, vừa rạng rỡ, không thể nào quên. Đọc tác
phẩm của Y. Banana, người đọc có cảm giác rằng, cuộc đời mỗi người hình như
phải – nhất định phải trải qua một giai đoạn, một khoảng thời gian khác biệt để đối
mặt với nhiều vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Tất cả những gì người đọc hiểu về
nhân vật đều thông qua „lát cắt‟ ấy. Banana đã dồn nén tất cả những gì thuộc về
nhân vật (tính cách, số phận, tâm hồn) vào trong khoảnh khắc độc sáng mà mỗi câu
chuyện thể hiện. Đọc một tác phẩm của Y. Banana, nếu ngăn ngắn thì khoảng trên
dưới 60 trang (như Bóng trăng), dài nhất thì khoảng 500 trang (như Amrita), nhưng
ngắn hay dài về số lượng trang viết cũng không làm ảnh hưởng đến tính chất „lát
cắt‟ mà Y. Banana kiến tạo trong tác phẩm của mình. Từ đầu đến cuối trang truyện
đều là một sự dồn nén tất cả hành trình tìm kiếm bản thân và các giá trị sống của
nhân vật vào trong một giai đoạn nào đó của cuộc đời họ, một thế giới kín (enclosed
world). Các nhân vật của Y. Banana nhận thức rất rõ từng giai đoạn của cuộc đời
mình, và cũng hiểu luôn cả việc “bạn phải hoàn thành giai đoạn này rồi mới đến
được giai đoạn khác”, nói như Maria (Tugumi), “từ thời điểm này trở đi, cuộc sống
mới của tôi sẽ bắt đầu” [126, 204]. Khoảnh khắc như cách Y. Banana miêu tả thể
hiện sự thay đổi diễn ra có tính chất bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật.
Như hoa anh đào, như cuộc đời của một samurai, ngắn ngủi và không ngừng
gần cái chết, cuộc đời người cũng là sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp thượng thặng và
sự phù du khi chỉ xuất hiện một lần trong rồi sau đó rời đi. Đó là một vòng tròn của
cuộc sống, không khác gì với cách nói về cuộc sống của nhà Phật. Thời gian trong
tác phẩm của Y. Banana là một vòng tròn, nhưng không phải là một vòng tròn duy
nhất với chu kì lặp lại đều đặn, tuần hoàn như cách cảm nhận của người xưa mà là
138
những vòng tròn độc lập nhau nhưng đồng tâm, cho chúng ta thấy những giai đoạn
chuyển tiếp trong quá trình tìm kiếm sự thật và bản chất của cuộc sống. Con người
sống cho hiện tại, những kế hoạch dài hạn hoặc sự chăm chăm vào các mục tiêu
trong cuộc sống có thể sẽ chỉ là vô ích. Không có mục tiêu để phấn đấu hoặc phải
đạt được, cuộc sống này chỉ đơn giản là ngay tại thời điểm này. Tuy nhiên, thật sự
khó khăn khi sống theo cách ấy. Banana đã tạo ra một bức tranh khá chân thực về
những người trẻ hiện đại ở Nhật Bản bằng cách sử dụng các yếu tố hiện đại lẫn
truyền thống để mô tả thế giới của họ và cảm xúc của họ đối với thế giới này.
Nhân vật của Y. Banana thường được hiện lên qua scene đẹp nhất của đời
người: thanh xuân. Tác giả ngưng tụ thời gian đời người ở khoảng tuổi mười tám,
đôi mươi đẹp đẽ đó, rồi khắc tạc vào đó những kí ức không thể nào quên, có cả
niềm vui lẫn nỗi đau. Rồi trong thanh xuân đó, tác giả lại chọn scene ngắn hơn nữa
để đưa nhân vật vào khoảng thời gian ngắn ngủi mà trọn vẹn: mùa hạ. Thanh xuân,
mùa hạ... là những khoảnh khắc đẹp, ý nghĩa, tượng trưng cho sức sống và sự nồng
cháy của tuổi trẻ: có bồng bột, có trưởng thành; có hoài nghi, có tin yêu; có hờ
hững, có nhiệt thành; có ấm áp, có cô đơn. Tất cả dồn nén lại trong một mùa hạ đầy
nắng và ánh sáng: “Một bầu trời xanh rợn, tràn đầy sinh lực của mùa hè chói chang
và rực sáng nơi nơi” [126, 212]. Từ điển thuật ngữ văn học chỉ rõ, “Khác với thời
gian khách quan được đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo
ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một
khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái chốc lát thành vô tận” [37,
322]. Trong tác phẩm của Y. Banana, mùa hạ không chỉ là thời gian sau xuân, trước
thu mà còn là một dạng tồn tại đặc biệt của nhân vật. Cảnh vật mùa hạ lúc nào cũng
có một sức mạnh phi thường, một nguồn năng lượng tràn trề, khổng lồ, sống động,
nhất là ánh nắng và bầu trời xanh mùa hạ. Không giống như sự yên tĩnh, dịu dàng
của đêm, hạ với “Một bầu trời xanh rợn, tràn đầy sinh lực của mùa hè chói chang và
rực sáng nơi nơi” [125, 212], và con người cũng thế! Có thể nói, đêm và mùa hạ là
hai “tính cách” khác biệt nhưng đồng nhất trong những con người Nhật Bản trẻ tuổi.
Mùa hạ đông đúc, ồn ào, tràn đầy năng lượng. Nó luôn gợi cho nhân vật cảm giác
139
háo hức để thực hiện một công việc nằm trong dự định của họ. Nhờ mùa hạ,
Kazami quyết định photo lại bản dịch N.P định mệnh cho Sui: “Dưới bầu trời mùa
hạ, tôi thấy trong mình một cảm giác khoan khoái khi chia sẻ món kỉ vật quý giá
của mình cho những người khác một cách nhẹ nhàng như thế” [125, 113]. Mùa hạ
gợi cho nhân vật lòng khát khao được đi xa, được trải nghiệm những cảm xúc mới
mẻ. Đó là những ngày Maria (Amrita) cùng về sống cùng gia đình của dì ở vùng
biển vào mùa hè năm đó, những gì Sakumi đã trải qua ở Saipan, gặp những người
bạn kì lạ và tìm lại được trí nhớ sau tình trạng “chết nửa” của mình… Có thể nói,
mùa hạ là đích đến của nhiều con người không lối thoát vì người ta luôn hướng tới
ánh sáng của nó: chói chang, rực rỡ, mãnh liệt và phơi trải.
Thứ ánh nắng mùa hạ như một vùng sáng đẹp nhất mà mỗi con người trải qua
trong cuộc đời. Bản thân mỗi con người trong tác phẩm Y. Banana cũng tựa như thứ
ánh nắng mùa hạ: khác lạ, mãnh liệt và phơi trải, rồi qua đi, để lại một khoảng trống
không thể lấp đầy, như những đóa anh đào nở rộ một cách thần bí và cuồng dại giữa
mùa xuân rồi nhanh chóng bay đi, để lại những dư vị khó tả với bầu trời xanh dịu
trải ra bát ngát tầm mắt, chói chang. Mùa hạ như một điểm nhấn, vụt sáng trong
cuộc đời nhân vật, có thể nhanh chóng vút đi nhưng những ấn tượng và sự in dấu
của nó trong tâm trí con người thì không bao giờ phai nhạt. Những nhân vật đến
trong cuộc đời, cháy hết năng lượng họ có, phát ra hết mọi ánh sáng của con người
mình bằng sự nỗ lực sống, để rồi “ra đi ngay khi còn được yêu mến” như hoa anh
đào buông mình rơi xuống khi đang ở độ đẹp nhất. Mikage, và kể cả người đọc,
không thể nào quên được một Eriko đã từng cải giới thành phụ nữ để chăm sóc cho
con trai chu đáo hơn, lúc nào cũng thoăn thoắt trên đôi giày cao gót, chiếc áo đầm
đỏ và nụ cười luôn nở trên môi, đầy nhiệt tình và thân thiện. Hành trình sống và
chết của Eriko là một hành trình đầy ý nghĩa. Eriko đã “chiến đấu” thật sự cho đến
lúc chết. Cũng không thể nào quên một Tugumi góc cạnh, ngang bướng, nhưng
cháy hết năng lượng mình để sống, dù năng lượng đó thật ít ỏi vì bệnh tật. Những
con người trong tác phẩm của Y. Banana như ánh nắng mùa hạ, một thứ ánh sáng
khác lạ vụt qua trước mắt những người thân, rồi để lại một khoảng trống không thể
140
lấp đầy và những kỉ niệm không thể quên, như những đóa anh đào nở rộ một cách
thần bí và cuồng dại giữa mùa xuân rồi nhanh chóng bay đi, để lại những dư vị khó
tả trong lòng người. Người ta đến rồi đi, ở bên nhau rồi chia tay nhau trong mùa hạ.
Buổi sáng ngày Shoji (N.P) chết cũng ở trong bầu không gian của mùa hạ. Sui (N.P)
trải qua những ngày tháng khó quên với Otohiko, Kazami, Saki và quyết định kết
thúc cuộc đời mình cũng trong mùa hạ. Đặc biệt hơn, trong ánh nắng chói chang
của mùa hạ, những điều kì lạ sẽ xuất hiện một cách nhiệm màu: “Dưới ánh nắng
gay gắt như thế này, thế nào cũng có một cái gì đó bất ngờ chạm vào tiềm thức […].
Như một lẽ tự nhiên” [125, 147]. Cùng nhau ngồi dưới sức nóng của mặt trời cuối
hạ, Sui đã “gọi” được Shoji, người yêu đã mất của Kazami (cũng là người yêu trước
đó của Sui) và hóa thân vào Shoji để nói thay những gì mà Shoji “chưa kịp nói” với
Kazami: “Kazami, cho anh xin lỗi nhé”, rồi Sui còn nói thay cả cho Kazami: “Đã
hẹn với anh là sẽ cùng đi ra biển mà không thực hiện được, em xin lỗi nhé. Em cũng
xin lỗi vì vẫn đang cầm sách và đồng hồ của anh” [125, 227]. Đó bí mật giữa Shoji
và Kazami mà chỉ có hai con người ấy mới biết (hẹn nhau ra biển), khiến Kazami
141
“toàn thân đờ cứng, tê dại” [125, 227].
Tiểu kết chương 4
Sáng tạo văn học là một hành vi đặc trưng của con người bắt đầu từ cái đẹp sẵn
có (hệ quy chiếu) và tạo ra cái đẹp mới (tương tác, đối thoại với cái đẹp sẵn có). Từ
hướng đến việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Y. Banana đã hồi ứng ra sao với thẩm
mĩ kawaii để tạo ra những giá trị văn chương đích thực, có thể thấy rằng, tác phẩm
của Y. Banana không chỉ là một sản phẩm của văn hóa đại chúng mà còn là sự phản
hồi, đối thoại và góp phần định hướng cho thẩm mĩ kawaii của thời đại. Y. Banana
đã khiến cho những tín hiệu nghệ thuật trong sáng tác của mình vượt ra khỏi phạm
vi của một câu chuyện bởi tính thẩm mĩ / hiệu quả thẩm mĩ mà nó mang lại. Không
dừng lại ở sự thỏa mãn tâm lí con người trong chốc lát, sáng tác của Y. Banana
khiến người ta có nhu cầu đọc lại, kích thích người ta suy ngẫm về nó. Điều này đòi
hỏi cảm quan thính nhạy của nhà văn trong việc nắm bắt cái đẹp, tiếp thu cái đẹp rồi
sau đó mới tạo ra cái đẹp. Nhưng chỉ khi tác phẩm được đọc bởi người tiếp nhận thì
nó mới trở thành một đối tượng thẩm mĩ. Nói như Dufrènne, một trong những đại
diện của mĩ học hiện tượng học Pháp, “chỉ khi người xem quyết định tham gia hoàn
toàn vào tác phẩm, tùy theo một cảm nhận được quyết định chỉ là cảm nhận, thì tác
phẩm mới hiện ra như là đối tượng thẩm mĩ, và đối tượng thẩm mĩ không là gì khác
ngoài tác phẩm nghệ thuật được tri nhận do chính nó” [4, 34]. Như vậy, khái niệm
này chỉ mối tương tác liên chủ thể giữa kẻ sáng tạo và kẻ tiếp nhận. Hai “kẻ” này có
thể trùng nhau trong một con người là nhà văn, có thể tách ra như trong quan hệ
giữa bạn đọc và người sáng tác. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp nhận
Y. Banana, bởi lẽ Y. Banana là một nhà văn gửi đến người đọc những thông điệp
thẩm mĩ, như là sự kết tinh của thẩm mĩ kawaii, nhưng trước đó lại có một Y.
Banana khác với vai trò là người tiếp nhận, đắm mình trong không gian kawaii, chịu
sự tác động của trường thẩm mĩ này. Chính bạn đọc của Y. Banana cũng tham gia
vào việc đặt sáng tác của bà vào không gian này, như là một dạng thức, một biểu
hiện của tinh thần kawaii, một khái niệm thẩm mĩ đương đại. Con đường đi tìm sự
độc đáo của Y. Banana là con đường từ một sản phẩm của nền văn hóa đại chúng,
142
văn hóa tiêu dùng, trở thành một giá trị được lựa chọn của cộng đồng, cuối cùng là
tạo ra giá trị có tính định hướng (hệ giá trị) để từ đó soi chiếu lại giá trị lựa chọn ấy.
Như những gì đã đặt ra ở chương 1 và chương 2, chúng ta nhận thấy, khó có
thể “định giá” kawaii thuộc riêng về truyền thống hay hiện đại, và việc làm đó cũng
không cần thiết, chỉ biết rằng thẩm mĩ này phôi thai, bắt rễ từ truyền thống nhưng
lớn lên, trưởng thành và được định danh hoàn chỉnh trong xã hội hiện đại. Dùng
những yếu tố của văn hóa đại chúng trong trường thẩm mĩ kawaii, những sáng tác
của Y. Banana đã xem đó như là một “phương tiện” để nói về những vấn đề
“nghiêm túc” của văn học và đồng thời thăng hoa những yếu tố đại chúng như một
cách riêng biệt đi vào khám phá địa hạt văn chương. Theo đó, Y. Banana đã phá vỡ
đường ranh giới giữa văn học đại chúng và văn học tinh hoa. Bỗng thấy đồng điệu
với những gì mà nhà văn Takahashi Genichiro - người cùng thời đại, cùng “tình
thế” với Y. Banana: “[...] Từ thập niên 1980, văn học Nhật Bản không còn loại văn
học nào gọi là chính thống hay không chính thống. Ai tự nghĩ điều gì thì cứ viết ra,
tiểu thuyết xuất hiện một cách tự do. Một tình trạng hoàn toàn tự do cho đến ngày
nay. Tôi là một trong những nhà văn của thế hệ này và tôi nghĩ mình đã làm tốt”
[173]. Trong nỗ lực đổi mới văn chương đương đại, họ (những nhà văn như
Takahashi Genichiro, Yoshimoto Banana...) hoàn toàn “được” tự do sáng tạo và
thậm chí còn “buộc phải” tự do tìm kiếm những cái khác với chính thống, khác với
những chuẩn mực đã có. Đây là cơ sở để xác lập những chìa khóa quan trọng để mở
cánh cửa văn chương Nhật Bản đương đại. Thành công của Y. Banana, vì vậy, giúp
chúng ta xác - định - lại khái niệm văn học đương đại: không phải là sự đứt gãy với
truyền thống, xa rời những giá trị tinh hoa, mà là một nỗ lực bứt phá, tìm kiếm
những thể nghiệm mới, phù hợp với thế giới tinh thần của con người đương đại,
phản ánh gương mặt của thế giới đang cuộn chảy. Với những sáng tạo của Y.
Banana, bản thân những tác phẩm của bà đã là một hệ thống những giá trị của
143
kawaii. Y. Banana đã “tạo ra” kawaii trên chính sáng tác của mình.
KẾT LUẬN
Mọi sáng tạo nghệ thuật đích thực và độc đáo đều đặt ra những vấn đề liên
quan đến tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ nói riêng và mĩ học sáng tạo nói
chung. Các tác phẩm của Yoshimoto Banana đặt ra vấn đề ranh giới truyền thống –
hiện đại, tinh hoa – đại chúng… Luận án đã đặt ra vấn đề, nếu thẩm mĩ kawaii là kết
quả của sự giao thoa văn hóa nội sinh của đất nước Nhật Bản với văn hóa toàn cầu
của thời hiện đại thì các tác phẩm của Yoshimoto Banana hội tụ được những gì
thuộc về vùng thẩm mĩ kawaii; thẩm mĩ kawaii đã tác động đến những sáng tạo
nghệ thuật của Yoshimoto Banana và Banana đã tiếp nhận nó để có được những
sáng tạo nghệ thuật độc đáo.
Qua quá trình tìm hiểu, phát hiện và phân tích, giải mã những giá trị văn
chương trong sáng tác của Y. Banana nhìn từ góc độ ảnh hưởng của thẩm mĩ
kawaii, một thẩm mĩ mới của văn hóa và văn học Nhật Bản hiện đại và đương đại,
chúng tôi có thể đưa ra những nhận xét, đánh giá như sau:
1. Dưới sự tác động của các yếu tố văn hóa – xã hội, văn hóa và văn học
Nhật Bản đã thể hiện sức sống mãnh liệt của mình nhưng không giẫm lên và đi lại
những gì thuộc về tinh hoa của văn học truyền thống, ngược lại, sáng tạo riêng cho
thời đại mình những giá trị mới. Không phủ bỏ truyền thống mà trên tinh thần kế
thừa và phát triển, người Nhật đã có một thẩm mĩ mới: kawaii. Kawaii làm diện
mạo mới cho xã hội Nhật Bản hiện đại. Kawaii là một chất liệu nghệ thuật, một nội
hàm mĩ cảm rộng, không đông cứng trong một cách hiểu hẹp mà cần được hiểu
trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống. Khi nói đến “thẩm mĩ”, nghĩa là bản
thân điều đó không chỉ đem đến cái đẹp mà còn là đạo đức, nhân cách, tâm hồn,
tình cảm. Từ việc được hiểu là mĩ học về vẻ đẹp “dễ thương”, kawaii là cả một trào
lưu văn hóa ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa Nhật Bản nói riêng và thế
giới nói chung, trong đó sự lan tỏa ở các nước lân cận như Hàn Quốc, Việt Nam... rất
mạnh mẽ. Đi đến đâu trên đất nước Nhật cũng thấy dấu ấn của kawaii in rõ nét. Từ
144
những món ăn trong bữa cơm, những thức bánh trong lễ hội, trang phục hàng ngày, quà
tặng, cuốn truyện tranh, âm nhạc, cắm hoa, ... cho đến những biển báo giao thông, hàng
rào, cửa hiệu... Nó không chỉ thúc đẩy sự phát triển của các loại dịch vụ, thương mại
của đất nước mà còn là cơ hội để thể hiện nhiều khía cạnh của xứ sở này ở tầng sâu
như văn học.
2. Y. Banana đã trở thành một cây bút tiên phong chất lượng hàng đầu trong
việc “mã hóa” thành công thẩm mĩ kawaii vào văn học. Vừa kế thừa dòng chảy
thẩm mĩ truyền thống Nhật Bản như mono no aware, miyabi, yugen, sabi, wabi...,
vừa tắm đẫm trong bầu không khí của văn hóa đại chúng, nhất là mối quan tâm và
ảnh hưởng rất lớn từ shoujo manga, tác giả Y. Banana có cơ hội được gieo trên
mảnh đất của mình một thế giới tươi mới mà sự neo đậu của chúng không gì khác
hơn ngoài sự hài hòa và triết lí đề cao tình yêu thương của văn học muôn đời. Trong
không gian mới (xã hội đương đại), văn học cũng như các hình thái ý thức xã hội
khác, đã mở rộng biên độ khi tiếp thu và sáng tạo tất cả những nét độc đáo của văn
hóa, mĩ học và các loại hình nghệ thuật khác nhau để phát triển, xây dựng những
phong cách mới, những diện mạo mới. Văn học Nhật Bản, trong một “tạo hình” mới
mang dáng dấp của phương Tây được cho là quá “lai Mĩ”, đánh mất vẻ đẹp của văn
học Nhật Bản truyền thống, chịu ảnh hưởng của văn hóa đương đại (văn hóa đại
chúng – mass culture, văn hóa phổ biến – pop culture), những cây bút trẻ đầy năng
lượng trong đó có Y. Banana, đã cống hiến với con đường nghệ thuật riêng biệt.
Con đường nghệ thuật ấy của Y. Banana mang đậm dấu ấn của một quan niệm thẩm
mĩ mới – kawaii. Y. Banana đã tạo ra một dấu nối tương đương từ mã đặc thù của
kawaii như một tinh thần chủ đạo của văn hóa đại chúng lẫn kawaii như là kết quả
của nguồn mạch thẩm mĩ truyền thống vẫn chảy trong tâm hồn người dân Nhật Bản.
Nhưng không dừng lại với cấp độ mô phỏng hay minh họa, Y. Banana đã sáng tạo
chúng trong văn chương để đem đến những giá trị đẹp cho con người đương đại.
Kawaii là thẩm mĩ gắn liền với vẻ đẹp nhỏ nhắn, xinh xắn, đáng yêu, tạo cho con
người một cảm xúc tích cực, lạc quan, kiên cường. Cho dù đời sống tinh thần của cả
một thế hệ trẻ Nhật Bản đang dần kiệt quệ, những nỗi đau tinh thần đã làm thay đổi
145
cuộc đời con người ghê gớm, nhưng hệ giá trị mà kawaii mang lại, sức mạnh của
tình cảm giữa con người với con người, tình bạn, tình cảm gia đình hay tình yêu
trong sáng và thuần khiết... sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi con người. Bằng cách
đó, mỗi sáng tác của Y. Banana mang lại cho người đọc những nhận thức mới mẻ
về những điều tưởng đã cũ: gia đình, tình yêu, hôn nhân, tình bạn... Đó là cái nhìn
đầy bao dung với con người vượt qua cả những giới hạn đạo đức vốn có. Chính
những quan niệm mới mẻ bắt nguồn từ sự nhạy cảm và tình yêu thương con người
của Y. Banana là một trong nhiều lý do khiến tác phẩm của cô thành công đến vậy.
Đó không phải là quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật một cách tùy tiện, bẻ gãy
truyền thống hay bê nguyên si những gì đã tiếp thu được mà là cả một con đường
sáng tạo vừa năng động, vừa không tách rời khỏi tâm thức mĩ học truyền thống.
Phong cách của Y. Banana có sự kết hợp giữa truyền thống – những rung cảm tinh
tế của tâm hồn con người với tinh thần hiện đại – văn hóa đại chúng, giữa những
giá trị cũ và mới, tất cả hòa quyện trong những sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời. Đọc
tác phẩm của Y. Banana cũng như ta đang bước đi trong cuộc sống để khám phá nó,
giống như ý nghĩa của Amrita: Sống như uống lấy từng giọt nước thánh .
3. Với thẩm mĩ kawaii, Y. Banana đã góp vào một tiếng nói mới mẻ trong
cách lựa chọn cái thẩm mĩ của cộng đồng. Y. Banana là người tiếp thụ và đứng giữa
những dấu ấn của văn học tinh hoa với văn học đại chúng. Sự lên ngôi và thăng hoa
của thẩm mĩ kawaii trong thời kì này có ý nghĩa lớn đối với con người đương đại,
như là điểm tựa cho họ nương vào trước nhiều con sóng dữ của thời đại: nền văn
minh kĩ trị, sự phát triển vũ bão của khoa học kĩ thuật kéo theo sự thơ ơ lạnh nhạt
trong đời sống tâm hồn, tình cảm, dư âm của chiến tranh, những bất an và biến cố
vô thường của đời sống... Con người hơn lúc nào hết muốn vươn tới vẻ đẹp thánh
thiện để rời xa những xấu xí của cuộc sống. Luận án đã từng bước làm rõ những
biểu đạt phong phú và sâu sắc của thẩm mĩ kawaii trong sáng tác của Y. Banana,
qua đời sống của các nhân vật, qua vẻ ngoài, qua tính cách, tâm hồn, qua sở thích và
vùng thẩm mĩ của các nhân vật, qua thế giới mà họ sống với các dạng thức của
không gian, thời gian... Tất cả thường gắn với thiên hướng nữ tính, dễ thương, trong
146
sáng, nhẹ nhàng, nhỏ nhắn, chẳng với những điều giản dị nhưng mát lành, ấm áp
trong cuộc sống.... Qua những nhân vật đáng yêu như thế, không gian, thời gian
cũng trở nên tươi sáng hơn, nên thơ hơn và đáng trân trọng, nâng niu hơn. Kawaii
trở thành linh hồn cho mọi cái nhìn về cảnh, về người. Y. Banana viết về những
người trẻ tuổi, đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật nhưng chú ý đặc biệt ở
những biểu cảm nhẹ nhàng, tinh tế, ở cái ấm áp của mối quan hệ giữa con người với
nhau, trân trọng những điều mong manh trong cuộc sống, hàn gắn những vết thương
tinh thần và phát triển khái niệm gia đình.
Dưới ánh sáng thẩm mĩ kawaii, Y. Banana đã gửi tới con người thông điệp
để con người trở nên thánh thiện hơn. Cảm quan sống của các nhân vật trong sáng
tác của Banana với toàn bộ thế giới xung quanh thật giản đơn, khiến người đọc có
cảm giác cuộc sống đơn giản chỉ là như thế, không có gì ngoài thế. Cuộc sống vì thế
mà cũng hiện lên giản đơn trong sáng đẹp đẽ, dù con người và sự việc có thực sự
đẹp đẽ, tươi vui hay đầy rẫy nỗi đau chăng nữa. Hơn thế nữa, Y. Banana đã “nâng
cấp” kawaii thành một khái niệm thẩm mĩ chứ không chỉ là một biểu hiện của văn
hóa đại chúng. Trong cuộc thể nghiệm văn chương này, Y. Banana đã tìm kiếm
những màu sắc riêng cho mình. Trong tư cách hai vai: người thụ hưởng không gian
văn hóa kawaii và người tiếp biến, phát triển nó vào trong văn chương để đem đến
một hiệu quả mới cho khái niệm này, Y. Banana đã làm tốt trong việc thể hiện cả
hai điều đó một cách thật nhuần nhuyễn trên từng trang viết. Sáng tác của Y.
Banana là những câu chuyện về cái đẹp. Cái đẹp luôn choán chỗ trong mọi cái nhìn,
trong cảm thức về thực tại của các nhân vật của Y. Banana. Nhưng đó là cái đẹp
trong dáng vẻ hiện đại của nó và trong cảm thức hiện đại về nó, mong manh đầy bất
trắc nhưng đáng yêu và đáng trân trọng. Có nhiều con đường khác nhau để tiếp cận
thế giới nghệ thuật của một nhà văn. Với những sáng tác của Y. Banana, đặt trong
từ trường của vùng thẩm mĩ kawaii, bỗng trở nên xác hợp đến lạ, bởi đó chính là
môi trường đã nuôi lớn một tác giả đương đại như Y. Banana – người đã hấp thụ
thẩm mĩ kawaii trong sự lan tỏa của văn hóa đại chúng mà shoujo manga là một ví
dụ. Y. Banana đã để lại dấu ấn với những tác phẩm mang đặc điểm của văn chương
147
hiện đại, không chú ý quá nhiều vào những đại tự sự, cũng không chú ý đến những
sự kiện, biến cố, mà quan tâm đến phản ứng của con người trước những biến cố.
Sinh ra và lớn lên trong môi trường của kawaii, giờ đây, trong vai người sáng tạo,
Y. Banana đã tiếp thu những điều mình thụ hưởng để tạo ra một phong vị mới cho
148
mảnh đất văn chương của mình.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2017), Sáng tác của Yoshimoto Banana từ góc
nhìn Phê bình sinh thái, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái: tiếng nói
bản địa, tiếng nói toàn cầu, MXB. Khoa học xã hội
2. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2018), Tiểu thuyết của Yoshimoto Banana và Shoujo
manga từ góc nhìn so sánh thể loại, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 07
3. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2020), Sự độc đáo của Yoshimoto Banana qua
149
thẩm mĩ Kawaii, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 04
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A- TIẾNG VIỆT
1. Andrew Juniper (2003), Wabi Sabi Nghệ thuật Nhật Bản về lẽ vô thường, NXB.
Turtle, Hoa Kì, Mai Liên dịch
2. Aninik Howa Gendrot (2003), Nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản, NXB. Đà Nẵng
3. Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Thị Hoài Thanh (2004), Văn học hậu
hiện đại thế giới – Những vấn đề lí thuyết, NXB. Hội Nhà văn, Trung tâm Văn hóa
Ngôn ngữ Đông Tây
4. Trần Lê Bảo (2012), Giáo trình văn hóa phương Đông, NXB. Đại học Sư phạm,
Hà Nội
5. Lê Huy Bắc (2006), Nghệ thuật Franz Kafka, NXB. Giáo dục, Hà Nội
6. Roland Barthes (1997), Độ không của lối viết, Nguyên Ngọc dịch và giới thiệu,
NXB. Hội nhà văn, Hà Nội
7. Roland Barthes (2008), Những huyền thoại, Phùng Văn Tửu dịch, NXB. Tri thức,
Hà Nội
8. Ruth Benedict (2016), Hoa cúc và gươm – Những mẫu hình văn hóa Nhật Bản,
NXB. Hồng Đức, Hà Nội
9. Chieko Hosokawa & Fumin (2001), Trở lại Cairo – Nữ hoàng Ai Cập (tập 9),
NXB. Kim Đồng
10. Carl Gustav Jung (2007), Thăm dò tiềm thức, NXB. Tri thức, Hà Nội
11. Nhật Chiêu (2001), “Genji Monogatari, kiệt tác của văn học Nhật Bản”, Tạp
chí văn học, số 11, Hà Nội
12. Nhật Chiêu (2003), Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868, NXB. Giáo dục,
Quy Nhơn
13. Nhật Chiêu (2003), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB. Giáo dục, Đà Nẵng
14. Đào Ngọc Chương (2003), Thi pháp tiểu thuyết và thi pháp tiểu thuyết
Hemingway, NXB. Đại học quốc gia TP. HCM
15. Đào Ngọc Chương (2008), Phê bình huyền thoại, NXB. Đại học quốc gia TP.
150
HCM
16. Đào Ngọc Chương (2010), Truyện ngắn dưới ánh sáng so sánh, NXB. Văn hóa
thông tin, 2010
17. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB. Khoa
học xã hội, Hà Nội
18. Nguyễn Văn Dân (2011), Lý luận văn học so sánh, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội
19. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, NXB. Khoa học
xã hội, HN
20. Daniel Grojnowski (1993), Đọc truyện ngắn, Trần Hinh – Phùng Kiên dịch
(2017), NXB. Hội nhà văn, Hà Nội
21. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,
NXB. Giáo dục, Hà Nội
22. Trịnh Bá Đĩnh (2017), Từ kí hiệu đến biểu tượng, NXB. Khoa học Xã hội
23. Hà Minh Đức (1997), Lí luận văn học, NXB. Giáo dục, Hà Nội
24. E. M. Meletinsky (2004), Thi pháp của huyển thoại, NXB. Đại học quốc gia Hà
Nội
25. Sigmund Freud (2002), Phân tâm học nhập môn, NXB. ĐHQG HN, H
26. Erich Fromm (2003), Ngôn ngữ bị lãng quên, NXB. Văn hóa thông tin, Hà Nội
27. Fujiko. F. Fujio (1994), Đôrêmon (Doraemon), NXB. Kim Đồng, Hà Nội
28. G. N. Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB. Giáo dục, Hà Nội
29. Đoàn Lê Giang (1997), “So sánh quan niệm trong văn học cổ điển Việt Nam và
Nhật Bản”, Tạp chí Văn học, số 9, Hà Nội
30. Đoàn Lê Giang (1998), “Sự ra đời của từ văn học và quan niệm mới về văn học
ở các nước Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản”, Tạp chí Văn học, số 6, HN
31. J. F. Lyotard (2007), Hoàn cảnh hậu hiện đại, NXB. Tri thức, Hà Nội
32. Hans Robert Jauss (1921), Lịch sử văn học như là sự khiêu khích, Trương Đăng
Dung dịch và giới thiệu, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1/ 2002
33. Hasebe Heikichi (1997), Văn hóa và văn học Nhật Bản – đặc điểm chung và sự
tiếp nhận dưới góc độ cá nhân, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Viện Văn
151
học, Hà Nội
34. Haruki Murakami (2005), Rừng Na-Uy, Trịnh Lữ dịch, NXB. Hội Nhà văn, Hà Nội
35. Haruki Murakami (2007), Kafka bên bờ biển, Dương Tường dịch, NXB. Văn học
36. Haruki Murakami (2008), Biên niên kí chim vặn dây cót, Trần Tiễn Cao Đăng
dịch, NXB. Hội Nhà văn
37. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB. Giáo dục, Hà Nội
38. Đào Thị Thu Hằng (2006), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm Yasunari
Kawabata, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn học, Hà Nội
39. Đào Thị Thu Hằng (2007), Văn hóa Nhật Bản và Yasunari Kawabata, NXB.
Giáo dục, Hà Nội
40. Hê-ghen (1999), Mỹ học, Phan Ngọc giới thiệu và dịch, tập 1, NXB. Văn học
41. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, NXB. Giáo dục,
Hà Nội
42. Lưu Hiệp (1999), Văn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch, NXB. Văn học
43. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB. Hội nhà văn, Hà Nội
44. Hoàng Thị Minh Hoa (2005), “Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai dưới
góc độ đặc thù dân tộc”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 3
45. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB. Giáo dục,
Hà Nội
46. Lê Phụng Hoàng (chủ biên) (2006), Lịch sử văn minh thế giới, NXB. Giáo dục,
Hà Nội
47. Nguyễn Thị Từ Huy (2009), Alain Robbe – Grillet: Sự thật và diễn giải, NXB.
Hội nhà văn, Hà Nội
48. Immanuel Kant (2007), Phê phán năng lực phán đoán, Bùi Văn Nam Sơn dịch
và chú giải, NXB. Tri Thức, Hà Nội
49. James George Frazer (2007), Cành vàng, Ngô Bình Lâm dịch, NXB. Văn hóa
thông tin, Hà Nội
50. Jean Chevalier, Alain Gheerbrand (2002), Từ điển biểu tượng thế giới, NXB. Đà
152
Nẵng
51. Jean – Francois Lyotard (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, NXB. Tri thức, Hà Nội
52. Keiko Yamanaka (1991), Con người và thời đại Nhật thập kỉ 90, NXB. TP.
HCM
53. Kawabata Yasunari (1968), Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản, Diễn từ Nobel Văn học,
Đoàn Tử Huyến dịch, NXB. Lao động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây,
Hà Nội
54. Nguyễn Thị Dư Khánh (2006), Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong
nhà trường, NXB. Giáo dục
55. Nguyễn Phương Khánh (2018), Nhật Bản từ mĩ học đến văn chương, NXB. Đại
học Quốc gia Hà Nội
56. Phùng Ngọc Kiên (2017), Những thế giới song song: khả thể và giới hạn trong
(tái) diễn giải văn chương, NXB. Tri thức, Hà Nội
57. Cao Kim Lan, “Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R.
Kellogg”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 10/ 2008
58. Nguyễn Thị Mai Liên (2010), Hợp tuyển văn học Nhật Bản, NXB. Lao động -
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
59. Nguyễn Thị Mai Liên (2015), “Hạ đỏ” của Nguyễn Nhật Ánh và “Tugumi‟ của
Y. Banana từ góc nhìn hội họa shoujo manga, Nguyễn Nhật Ánh hiệp sĩ tuổi thơ,
NXB Đại học Quốc gia.
60. Lotman, Iu.M, Trần Ngọc Vương dịch (2007), Cấu trúc văn bản nghệ thuật,
Nxb. ĐHQG HN
61. Phạm Phương Mai (2010), Yếu tố tình dục trong tiểu thuyết của Murakami,
Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm. TP. HCM
62. Matsuo Basho (1998), Con đường thiên lí hẹp – cuộc hành trình Haiku, Hàn
Thủy Giang dịch, NXB. Hà Nội
63. M. Bakhtin (2002), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB. Hội nhà văn, Hà Nội
64. Milan Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, NXB. Đà
Nẵng
153
65. Mitsuyoshi Numano (2009), Lịch sử văn học Nhật Bản, Trung tâm Giao lưu
Văn hóa Nhật Bản
66. Mitsuyoshi Numano (2009), Thế giới thơ và tiểu thuyết – Từ Truyện Genji đến
Haruki Murakami, Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản
67. Murakami Shigeyoshi (2005), Tôn giáo Nhật Bản, Trần Văn Trình dịch, NXB.
Tôn giáo, Hà Nội
68. Murasaki Shikibu (1991), Truyện Genji, nhiều người dịch, NXB. Hà Nội
69. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 9, Công chúa Kim Cương, NXB
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
70. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 14, Trận đấu với người mây,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
71. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 15, Tu-xê-đô và Bani Tsukino,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
72. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 17, Coi chừng ! Trên núi có...,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
73. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 20, Lời nhắn gửi từ quá khứ,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
74. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 20, Thức tỉnh, NXB Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội
75. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 22, Niềm thương nhớ, NXB
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
76. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 23, Sự biến thân mới, NXB Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội
77. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 26, Bí mật thế giới ma quỷ,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
78. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 27, Thiên sứ, NXB Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội
79. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 28, Tuyệt giao, NXB Văn hóa -
154
Thông tin, Hà Nội
80. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 30, Hãy bảo vệ nhóc, NXB Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội
81. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ mĩ thuật phổ thông,
NXB. Giáo dục, Hà Nội
82. Hữu Ngọc (2006), Dạo chơi vườn văn Nhật Bản, NXB. Văn nghệ, Hà Nội
83. Nhiều tác giả (2010), Kỷ yếu hội thảo Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản
và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc (từ cuối
thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX), Khoa Văn học và Ngôn ngữ, trường ĐH Khoa học xã
hội & Nhân văn, TP. HCM
84. Nguyễn Diệu Minh Chân Như (2009), Đạm trong tuyệt cú của Vương Duyvà
wabi trong thơ haiku của Basho, Luận văn Thạc sĩ Đại học Sư phạm TP. HCM
85. N. Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây, Trịnh Bá Đĩnh dịch, NXB.
Giáo dục, Hà Nội
86. N. Konrat (1999), Văn học Nhật Bản từ cổ điển đến cận đại, Trịnh Bá Đĩnh
dịch, NXB. Đà Nẵng
87. Lê Lưu Oanh (2011), Văn học và các loại hình nghệ thuật, NXB. Đại học Sư
phạm, Hà Nội
88. Hoàng Phê chủ biên (2005), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, NXB. Đà
Nẵng
89. R. Jakobson (1986), “Bàn về các tín hiệu thị giác và thính giác”, Trịnh Bá Đĩnh
dịch, Tạp chí Nghiên cứu văn học (06/2007), Viện Văn học, Học viện Khoa học xã
hội Việt Nam
90. Nguyễn Văn Sĩ (1993), “Văn xuôi Nhật Bản hiện đại”, Tạp chí Văn học, số 2
91. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ GDĐT – Vụ giáo
viên, Hà Nội
92. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học, NXB. Hội nhà văn
93. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, NXB. Giáo dục, Hà Nội
94. Trần Đăng Suyền (2014), Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm văn
155
học, NXB. Giáo dục, Hà Nội
95. Stephen Wilson (2003), Sigmund Freud – nhà phân tâm học thiên tài, NXB.
Trẻ, TP. HCM
96. Suzue Miuchi (2006), Mặt nạ thủy tinh (tập 3), NXB. Kim Đồng, Hà Nội
97. Takeo Doi (2008), Giải phẫu sự phụ thuộc, NXB. Tri thức, Hà Nội
98. Takeo Doi (2008), Giải phẫu cái tự ngã: cá nhân chọi với xã hội, NXB. Tri
thức, Hà Nội
99. Lê Ngọc Tân (2002), Chủ nghĩa tự nhiên Zola và tiểu thuyết, NXB. Hội nhà
văn, Hà Nội
100. Phạm Hồng Thái (2005), “Đời sống tôn giáo Nhật Bản hiện nay”, Viện Nghiên
cứu Đông Bắc Á, 9/2005
101. Đỗ Lai Thúy (2007), Phê bình văn học và tính cách dân tộc, NXB. Tri thức,
Hà Nội
102. Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp của ham muốn: Phê bình phân tâm học, NXB.
Tri thức, Hà Nội
103. Nguyễn Thị Bích Thúy (2010), “Phức cảm Genji trong tiểu thuyết Kafka bên
bờ biển của Haruki Murakami”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 05
104. Nguyễn Thị Thu Thủy (2003), Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt
Nam sau 1975, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội
105. Lộc Phương Thủy (2007), Lí luận và phê bình văn học phương Tây, NXB.
Giáo dục.
106. Lại Văn Toàn (chủ biên) (1998), Văn học Nhật Bản, Trung tâm khoa học xã
hội và nhân văn Quốc gia viện thông tin Khoa học xã hội, Nxb thông tin khoa học
xã hội - chuyên đề, Hà Nội
107. Tzvetan Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm
dịch, NXB. ĐHSP HN
108. Tzvetan Todorov (2004), Mikhail Bakhtin: Nguyên lí đối thoại, Đào Ngọc
Chương dịch, NXB. ĐHQG TP. HCM
109. Trần Hương Trà (2014), Tiểu thuyết Vĩnh biệt Tugumi từ góc nhìn hội họa
156
shoujo manga, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
110. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2011), Tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật trong tác
phẩm của Y. Banana, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm TP. HCM
111. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2017), “Sáng tác của Y. Banana từ góc nhìn phê
bình sinh thái”, Kỉ yếu Hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng
nói toàn cầu, Viện Văn học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, NXB. Khoa học xã
hội
112. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2018), “Tiểu thuyết của Y. Banana và shoujo
manga từ góc nhìn so sánh thể loại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 07, Viện Văn
học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
113. Nguyễn Gia Trí (1993), Một số ghi chép của Nguyễn Gia Trí (Các bậc thầy hội
họa Việt Nam Tô Ngọc Vân - Nguyễn Gia Trí - Nguyễn Sáng - Bùi Xuân Phái),
NXB. Mĩ thuật, Hà Nội
114. Hoàng Trinh (1990), Từ kí hiệu học đến thi pháp học, NXB. Khoa học xã hội
115. Nguyễn Thành Trung (2010), Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Gabriel Garcia
Marquez, Luận văn Thạc sĩ, trường ĐHSP. TP. HCM
116. Hoàng Ngọc Tuấn (2002), Văn học hiện đại và hậu hiện đại qua thực tiễn sáng
tác và góc nhìn lý thuyết, NXB. Văn nghệ, Hà Nội
117. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại – Những tìm tòi đổi mới,
NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội
118. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, NXB. Tri
thức
119. Huỳnh Vân (1990), “Quan hệ văn học – hiện thực và vấn đề tác động, tiếp
nhận và giao tiếp thẩm mĩ”, trong Văn học và hiện thực, NXB. Khoa học xã hội
120. V. Pronikov, I. Ladanov (2004), Người Nhật, Đức Dương dịch, NXB. Tổng
hợp TP. HCM
121. Vladimir Nabokov (2015), Lolita, Dương Tường dịch, NXB. Hội nhà văn, Hà
Nội
122. V. V. Otrinnikov (1996), “Những quan niệm thẩm mĩ độc đáo về nghệ thuật
157
của người Nhật”, Phong Vũ dịch, Tạp chí Văn học, số 05, Hà Nội
123. Nguyễn Thị Thanh Xuân chủ biên (2008), Văn học Nhật Bản ở Việt Nam,
NXB. Đại học quốc gia TP. HCM
124. Yoshimoto Banana, (2006), Kitchen, Lương Việt Dzũng dịch, NXB. Hội nhà
văn, Hà Nội
125. Yoshimoto Banana, (2006), N.P, Lương Việt Dzũng dịch, NXB. Đà Nẵng
126. Yoshimoto Banana, (2007), Vĩnh biệt Tugumi, Vũ Hoa dịch, NXB. Đà Nẵng
127. Yoshimoto Banana, (2008), Amrita, Trần Quang Huy dịch, NXB. Đà Nẵng
128. Yoshimoto Banana, (2008), Say ngủ, Trương Thị Mai dịch, NXB. Văn học Sài
Gòn
129. Yoshimoto Banana, (2009), Thằn lằn, Nguyễn Phương Chi dịch, NXB. Văn học,
Hà Nội
130. Yoshimoto Banana, (2014), Hồ, Uyên Thiểm dịch, NXB. Hội nhà văn, Hà Nội
131. Yoshimoto Banana, (2018), Nắp biển, Dương Thị Hoa dịch, NXB. Hội nhà văn,
Hà Nội
B - TIẾNG ANH
132. Connie Wang Hongyu (2006), Fantastic Elements, Speacial Families and
Feminine Power in Healing – A Study of Y. Banana‟s Novels, A Thesis Submitted
for The Degree of Master of Arts, Department of Japanese Studies, National
University of Singapore
133. Emerald Louise King (2008), Hot young things: re-writing young Japanese women for the new century, the 17th Biennial Conference of the Asian Studies
Association of Australia in Melbourne
134. Frederick Jameson (1992), Postmodernism and Comsumer Society, Longman,
New York
135. Giorgio Amitrano (1996), The New Japanese Novel: Popular Culture and
Literary Tradition in the Work of Murakami Haruki and Y. Banana, Italian School
of East Asian Studies
136. Gordon Lynch (2005), Understand Theology and Popular Culture, Blackwell
158
Publishing, Malden
137. Imamura Anne (1996), Re-Imaging Japanese Women, Berkeley, Los Angeles,
London: University of California Press
138. Inuhiko Yomota (2006), Kawaii Ron, Chikuma
139. Ioana Fotache (2016), A Subculture of Their Own - Ecriture Shoujo and
Banana Yoshimoto‟s The Lake, Nagoya University
140. Jimmy Heung Kak Lam (2006), A Comparative Study of the Themes of
Yoshimoto Banana‟s “First Phase Bananna”: Tugumi, N.P and Amrita, The
Degree of Master of Philosophy at the Department of Japanese Studies of the
University of Hong Kong
141. Joseph T. Shipley (1964), Dictionary of the world literature, Littlefield, Adams
and Company, New Jersey
142. Kan Sotoko (2007), “Kawaii” – The keyword of Japanese Girls‟ Culture,
Ochanomizu University
143. Sharon Kinsella (1995), Cuties in Japan, In: Skov, L. and Moeran, B.
(eds) Women, Media and Consumption in Japan. London: Curzon Press, 220-254.
144. Kyoko Koma (2013), Kawaii as represented in Scientific Research: The
Possibilities of Kawaii Cutural Studies, International Research Centre for Japanese
Studies
145. Mayako Murai (2015), From Dog Bridegroom to Wolf Girl: Contemporary
Japanese Fairy-Tale Adaptations in Conversation with the West, Wane State
University Press, Detroit, Michigan
146. Martin Ramsay (2009), Single frame heroics: New ways of Being in the fiction
of Y. Banana, Thesis of Ph.D, Swinburn University of Technology, Australia
147. Mihm Gesa Doris (1998), Shoujo and beyond: Depiction of the world of
women in fictional works of Banana Yoshimoto, The Faculity of East Asia Study,
The University of Arizona.
148. Nobuko Awaya and David P. Philips (1996), Popular Reading – The Literary
World of the Japanese Working Women, from Re-Imaging Japanese Women, edited
159
and with an introduction by Anne E. Ianamura, University of California Press
149. Noriko Mizuta Lippit (1980), Reality and Fiction in modern Japanese, M. E.
Sharpe, Inc, New York
150. Nozumi Uematsu (2017), Could Women Ever “Shine”? Happiness and its
Shadow in Right-Wing Discourse since 2011 and Banana Yoshimoto‟s Kitchen,
Hitotsushiba University Repository
151. Oxford Student‟s dictionary (2007), Oxford University Press 152. Paul Varley (2000), (the 4th edition), Japanese Culture, University of
Hawai‟Press
153. Richard Gid Powers and Hidetoshi Kato, 1989, Handbook of Japanese Poplar
Culture, Greenwood Press, London
154. Treat John Whittier (1993), Y. Banana Writes Home: Shoujo Culture and the
Nostalgic Subject, in Contemporary Japan and Popular Culture
155. Yukata Tazawa, Saburo Matsubara, Shunsuke Okuda, Yasunori Nagahata,
(1973), Japan‟s cultural history – A perspective, Ministry of Foreign Affairs, Japan
C - INTERNET
156. Banana Yoshimoto
Nguồn: http:///www.worldlingo.com/ma/dewiki/en/Banana_Yoshimoto
157. Banana Yoshimoto official site,
Nguồn: http://www.yoshimotobanana.com/profile_e/
158. Nhật Chiêu, Thực tại trong ma ảo (Đọc Kafka bên bờ biển của Haruki
Murakami)
Nguồn: http://vietbao.vn/giaitri/thuc-tai-trong-ma-ao/40229474/236
159. Nguyễn Đăng Điệp (2017), Văn học đại chúng ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam, số 07
http://tapchikhxh.vass.gov.vn/van-hoc-dai-chung-o-viet-nam-hien-nay- Nguồn:
n50173.html
160. Fukuzawa Yukichi, Thoát Á luận
Nguồn: http://www.wikipedia.org
160
161. Nguyễn Chí Hoan (2017), Ca ngợi khoảnh khắc, Bài tham luận tại Toạ đàm
“Thế giới của Haruki Murakami và Banana Yoshimoto”
Nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10437&rb=0103
162. Ngô Hương Lan (2010), Chuyên đề nghiên cứu “Văn hóa – xã hội Nhật Bản:
Những vấn đề nổi bật, xu hướng chủ yếu trong 10 năm đầu thế kỉ XXI và triển vọng
2020”
Nguồn: http://cjs.inas.gov.vn/index.php?newsid=413
163. Nguyễn Thị Mai Liên, Một số phương diện thi pháp thơ Haiku và lục bát, ngũ
ngôn tứ tuyệt, ghazal từ góc nhìn so sánh, ngày 21/12/2018
Nguồn:http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Vanhocnuocngoai/tabid/105/newstab/
3209/Default.aspx
164. Hà Linh, Tác giả Kitchen chinh phục độc giả ở Italia
Nguồn: vnexpress.net ngày 22. 09. 2007
165. Trần Thị Tố Loan, Thực tại và con người trong sáng tác của Murakami Haruki
Nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
166. Hoàng Long (2019), Văn học thuần túy và văn học đại chúng
Nguồn: https://kilala.vn/van-hoa-nhat/van-hoc-thuan-tuy-va-van-hoc-dai-chung-
nhat-ban.html
167. Michele Marra, Modern Japanese aesthetics: a reader
Nguồn: http://www.books.google.com
168. Modern Japanese Literature
Nguồn: http://www.suite101.com/content/modern-japanese-literature-
a306393#ixzz198ssvbYA
169. Oe Kenzaburo (1990), Về nền văn học Nhật Bản cận đại và hiện đại, Ngô
Quang Vinh dịch từ tiếng Pháp, Hội nghị Wheatland, San Francisco
Nguồn: http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
170. Numano Mistuyoshi (2008), From Mono no Aware to Kawaii
Nguồn:
https://english.spbu.ru/news/2508-from-mono-no-aware-to-kawaii-
professor-mitsuyoshi-numano-on-the-singularities-of-japanese-literature
161
171. Rebecca D. Larson, Yoshimoto Banana and Yasunari Kawabata, nguồn: http://
rds.yahoo.com
172. Ruth Fulton Benedict (1946), Chrysanthemum and the Sword: patterns of
Japanese Culture
Nguồn: http://www.kilc.konan-u.ac.jp/.../Ruth%Benedict%20andd...
173. Takahashi Genichiro, Văn học Nhật Bản sẽ thay hình đổi dạng để sống tiếp,
nguồn: http://baohoabinh.com.vn, ngày 05.12.2008
174. Phạm Vũ Thịnh, Tản mạn về vấn đề nữ quyền ở Nhật Bản
Nguồn: http://www.erct.com
175. Nguyễn Nam Trân, Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản
Nguồn: http://www.erct.com
176. Hoàng Phong Tuấn, Nghịch dị trong nghệ thuật khắc học chân dung nhân vật
của Oe Kenzaburo (Qua tiểu thuyết Một nỗi đau riêng),
Nguồn: http://www.vienvanhoc.org.vn
177. Hồ Khánh Vân, Từ quan niệm về lối viết nữ đến việc xác lập một phương pháp
nghiên cứu trong phê bình nữ quyền
Nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
178. The appeal of shoujo culture: Banana Yoshimoto and her audience
Nguồn: http://saeadame.livejournal.com/28730.html
179. Võ Minh Vũ, Nền văn hóa đại chúng ở Nhật Bản thập niên 1920
Nguồn: http://www.erct.com
180. http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
181. http://www.vannghequandoi.com.vn
182. http://www.amazon.de
183. ahdictionary.com
184. https://en.wikipedia.org/wiki/Kawaii
185.https://yumenavi.info/lecture.aspx?GNKCD=g005459&OraSeq=44&ProId=W
NA002&SerKbn=Z&SearchMod=2&Page=1&KeyWord=%E3%82%A2%E3%83
%8B%E3%83%A1%EF%BC%88%E3%82%A2%E3%83%8B%E3%83%A1%E3%
162
83%BC%E3%82%B7%E3%83%A7%E3%83%B3%EF%BC%89
186. http://duhocintrase.edu.vn/van-hoa-kawaii-phan-1-kawaii-la-gi-at247.html
187. Zainab Akram, Naheed Qasim, Hajira Masroor and Shahnaz Mehboob
(2015), I Prefer a World without Men: A Study of Language, Gender and Power
in Women Writers of South Asia, Journal of Educational and Social Study,
MCSER, Rome, Italy,
188. Suzuki Setsuko (chủ biên) (1996), Những khái niệm then chốt của mỹ học
Nhật Bản, NXB. Kodansha, Hoàng Long dịch (từ Chương 1 “Mỹ học” 美学,
trong quyển sách song ngữ Nhật-Anh “Linh hồn Nhật Bản” 英語で話す日本の
心 / Keys to the Japanese Heart and Soul, 14-45)
Nguồn: https://www.mcser.org/journal/index.php/jesr/article/view/6579/6304
http://redsvn.net/18-khai-niem-then-chot-cua-my-hoc-nhat-ban2/
189. Numano Mitsuyoshi (2018), “From Mono No Aware to Kawaii”
Nguồn:https://english.spbu.ru/news/2508-from-mono-no-aware-to-kawaii-
professor-mitsuyoshi-numano-on-the-singularities-of-japanese-literature
190. Nobuyoshi Kurita (2006), Cute is cool in Japan,
Nguồn: https://www.aljazeera.com/news/2006/6/15/cute-is-cool-in-japan
191. Marco Pellitteri (2018), Kawaii Aesthetics from Japan to Europe: Theory of
the Japanese “Cute” and Transcultural Adoption of Its Styles in Italian and French
Comics Production and Commodified Culture Goods School of Journalism and
Communication, Shanghai International Studies University
Nguồn: https://www.mdpi.com/2076-0752/7/3/24
163
192. http://nhanam.com.vn/sach/826/amrita