BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
********
nguyÔn thïy linh
VỐN XÃ HỘI TRONG LỄ HỘI ĐỀN VÀ
Ở THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 9229040
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI, 2022
Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Bùi Hoài Sơn
2. PGS.TS. Dương Văn Sáu
Phản biện 1: PGS.TS. Đặng Hoài Thu
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Quỳnh Phương
Đại học Quốc gia Hà Nội
Phản biện 3: PGS.TS. Lê Quý Đức
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sỹ cấp Trường Tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội Số 418, đường La Thành, Đống Đa, Hà Nội Vào hồi: … giờ …, ngày … tháng … năm 2022
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện trường Đại học Văn hóa Hà Nội
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài Hơn hai thập kỷ trở lại đây việc thực hành tôn giáo tín ngưỡng đã trỗi dậy ở mọi miền quê, với một sinh khí mới. Gương mặt lễ hội hiện lên trong diện mạo mới với những lễ nghi, trò diễn, nghi thức gắn với tín ngưỡng. Những điều này gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ về bản chất của lễ hội hiện nay: lễ hội có phải chỉ đơn thuần là một sinh hoạt văn hoá thông thường hay là cơ hội để liên kết các mối quan hệ xã hội? Những thành viên trong cộng đồng đến với nhau liệu có phải chỉ vì nhu cầu tìm đến sự cộng cảm, vì niềm tin tín ngưỡng hay còn vì vấn đề lợi ích kinh tế, lợi ích của bản thân? Bối cảnh xã hội nào đã tác động làm đa dạng hóa bản chất của các mối quan hệ đó? Và các mối quan hệ này giúp gì cho họ? Như vậy, lí do đầu tiên và cũng là quan trọng nhất khiến NCS lựa chọn đề tài này để nghiên cứu là do tính vấn đề của đối tượng nghiên cứu: việc tham gia vào tổ chức lễ hội giúp Nhà nước và cộng đồng nhận được nhưng lợi ích như thế nào?
Lễ hội đền Và, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội đã được tiếp cận dưới nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó các nghiên cứu chủ yếu tiếp cận ở các góc độ văn học và văn hoá học… Tuy nhiên, hạn chế dễ nhận thấy trong khi tổng quan tư liệu về lễ hội đền Và là các nguồn tài liệu thường chỉ tập trung nghiên cứu về bản thân lễ hội này như thời gian, không gian, diễn trình cũng như nhiệm vụ của các thành viên trong tổ chức lễ hội mà dường như ít quan tâm đến việc nghiên cứu cơ sở hình thành, biểu hiện cũng như lợi ích từ VXH trong thực hành tín ngưỡng và tổ chức lễ hội đền Và. Đây là một vấn đề cần tìm hiểu của các nhà nghiên cứu.
Trong khoảng hai thập niên trở lại đây, VXH trở thành một đề tài thu hút sự quan tâm của rất nhiều học giả trên thế giới và trong nước. Các công trình nghiên cứu đã đưa ra cách tiếp cận khác nhau về VXH như chức năng, vai trò của VXH trên phương diện chính sách, vai trò của VXH với việc kiểm soát xã hội hay giáo dục trong gia đình và cộng đồng... Bởi bản chất của tín ngưỡng và lễ hội là được hình thành từ trong xã hội nông nghiệp cổ truyền và duy trì đến xã hội hiện đại với những khác biệt về thể chế chính trị, nhóm đoàn thể của Nhà nước cũng như tổ chức cộng đồng nên nếu phân tích VXH trong một sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, cụ thể là lễ hội Đền Và thì chúng ta có thể phân tích về phương thức tạo lập, vai trò cũng như lợi ích của Nhà nước và cộng đồng trong mối liên hệ với VXH. Chính vì vậy, đặt Nhà nước và cộng đồng trong hai bối cảnh xã hội đó để phân tích phương thức tạo lập cũng như những nguồn lợi mà hai nhóm này có được từ việc tham gia vào sinh hoạt tín ngưỡng cũng như tổ chức và quản lý lễ hội Đền Và chính là cách tiếp cận được xem như một hướng đi có ý nghĩa lý luận cũng như thực tiễn cao.
2
Với những lí do trên, NCS chọn “Vốn xã hội trong lễ hội đền Và ở thị
xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận án. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ cơ sở hình thành, biểu hiện và lợi ích của vốn xã hội trong lễ
hội đền Và từ quá khứ đến hiện tại. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất: hệ thống và phân tích khái niệm “vốn xã hội” và các khái niệm có liên quan, mô tả dân tộc học về thời gian, không gian, diễn trình lễ hội cũng như sự hình thành và các lớp ý nghĩa văn hóa của hình tượng Đức Thánh Tản.
Thứ hai: phân tích và lý giải các đặc trưng nổi bật của VXH của Nhà nước và cộng đồng (cơ sở hình thành, biểu hiện và lợi ích). Đây là cơ sở cho việc lý giải vì sao tín ngưỡng và lễ hội là môi trường giúp cho các thành viên của Nhà nước và cộng đồng tạo lập và sử dụng VXH.
Thứ ba: nhận diện và phân tích một số vấn đề đặt ra từ VXH trong lễ hội đền Và của Nhà nước và cộng đồng cũng như xu hướng biến đổi và phát triển của VXH trong lễ hội đền Và trong tương lai.
3. Câu hỏi nghiên cứu đặt ra Thứ nhất, thông qua tín ngưỡng và lễ hội, VXH dưới góc độ Nhà nước đã được hình thành, biểu hiện và đem lại những lợi ích như thế nào? Thứ hai, thông qua tín ngưỡng và lễ hội, VXH dưới góc độ cộng đồng đã được hình thành, biểu hiện và đem lại những lợi ích như thế nào?
Thứ ba, mối quan hệ hai chiều giữa Nhà nước và cộng đồng trong việc tạo lập và sử dụng nguồn VXH là gì? Xu hướng vận động và biến đổi của VXH trong lễ hội đền Và hiện nay là gì?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Vì nghiên cứu vấn đề “VXH của Nhà nước và cộng đồng” nên đối tượng nghiên cứu của luận án là niềm tin và chuẩn mực xã hội, quan hệ xã hội và lợi ích xã hội của Nhà nước và cộng đồng trong lễ hội đền Và. Đối tượng khảo sát chính của luận án là lễ hội đền Và 1 năm 2 lần. Do phạm vi của luận án nên mới chỉ dừng lại ở lễ hội đền Và mà chưa có sự so sánh cũng như đối chiếu với các lễ hội khác.
4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: luận án tập trung nghiên cứu sự hình thành VXH của Nhà nước và cộng đồng. Từ sự hình thành này, Nhà nước và cộng đồng sẽ có những biểu hiện và đem lại lợi ích cho các thành viên của mình.
3
Về không gian: luận án nghiên cứu lễ hội đền Và tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Không gian ở đây rất tập trung vì đó là không gian thực hành nghi lễ và tổ chức lễ hội, cho nên việc điều tra trở nên thuận lợi hơn.
Về thời gian: do số tư liệu còn lại khá ít ỏi nên luận án sẽ tập trung hơn vào khoảng hai mươi năm trở lại đây khi lễ hội được khôi phục trở lại và trở thành lễ hội cấp vùng (năm 1999).
5. Phương pháp nghiên cứu của luận án Từ góc độ phương pháp luận, NCS sử dụng cách tiếp cận liên ngành văn hoá học trong đó có sự kết hợp của các cách tiếp cận xã hội học và nhân học. Ở cấp độ phương pháp tiến hành cụ thể, luận án đã sử dụng hai hệ phương pháp chính: 1/ tập hợp và nghiên cứu những tài liệu thứ cấp; 2/ quan sát tham dự và phỏng vấn sâu.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án làm rõ cơ sở hình thành VXH và biểu hiện VXH của Nhà nước và cộng đồng trong lễ hội đền Và cũng như những lợi ích mà họ nhận được. Quá trình này gắn với sự tham gia của các bên liên quan và các động thái kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội khác nhau của mỗi bên. Luận án bổ sung thêm một cách tiếp cận về lễ hội, đó là cách tiếp cận trên phương diện Nhà nước và cộng đồng trong lễ hội đền Và bên cạnh cách tiếp cận quen thuộc từ trước đến nay ta vẫn thường thấy là tập trung nghiên cứu bản thân lễ hội với cấu trúc thời gian, không gian, diễn trình cũng như những giá trị của lễ hội. Trong bối cảnh phần lớn những nghiên cứu về VXH ở Việt Nam được tiếp cận từ góc độ kinh tế học, chính trị - xã hội thì luận án góp thêm một cách tiếp cận VXH từ góc nhìn văn hóa. Luận án cũng phản ánh mối quan hệ và chuyển hóa lẫn nhau giữa các loại vốn: VXH, vốn kinh tế, vốn văn hóa và vốn biểu tượng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 7.1. Ý nghĩa lý luận của luận án Luận án được hoàn thành cung cấp những quan điểm, cách tiếp cận cập nhật, chuyên sâu và hệ thống về sự hình thành tín ngưỡng và tổ chức lễ hội, góp phần vào nhận diện một cách khá toàn diện về lễ hội đền Và từ các khía cạnh thành viên tham gia. Đặc biệt, luận án góp phần nhận diện đặc điểm VXH của các thành viên tham gia trong lễ hội đền Và, cách thức tạo lập và lợi ích của VXH đối với đời sống của họ.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Từ trường hợp cụ thể về VXH trong lễ hội đền Và, luận án góp thêm luận cứ về tầm quan trọng của VXH của việc tạo lập VXH và lợi ích cho các bên liên quan, điều đó có ý nghĩa thực tiễn không chỉ đối với cá nhân mà đối với cả các cộng đồng, tổ chức trong việc đưa ra chiến lược phát triển của mình. Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu cho các nhà nghiên
4
cứu về văn hóa, lễ hội và VXH và gợi mở cho các nhà quản lý lễ hội trong những hoạt động về lễ hội nói chung trên cả nước.
8. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương sau đây: Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát về lễ hội đền Và
Chương 2: Vốn xã hội dưới góc độ Nhà nước trong lễ hội đền Và Chương 3: Vốn xã hội dưới góc độ cộng đồng trong lễ hội đền Và Chương 4: Một số vấn đề cần bàn luận về vốn xã hội trong lễ hội đền Và
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI ĐỀN VÀ
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về vốn xã hội Trên phương diện lịch sử, Lyda Judson Hanifan (nhà xã hội học người Mỹ) được coi là người đầu tiên đưa ra khái niệm vốn xã hội (social capital le capital social) vào năm 191 . Vào những năm 19 , Jane Jacobs có đề cập lại khái niệm vốn xã hội và từ đầu những năm 197 Bourdieu đã dùng khái niệm này trong các nghiên cứu của ông. Đến những năm 19 , khái niệm vốn xã hội được đưa vào từ điển khoa học xã hội ( ukuyama). Như vậy, có thể thấy, trong thời gian gần đây, trong những sinh hoạt khoa học và các bài viết trên các tờ báo, tạp chí trong nước có bàn nhiều về VXH với các tác giả đến từ nhiều ngành khoa học khác nhau như kinh tế học, luật học hay xã hội học nổi bật trên thế giới như Pierre Bourdieu, Jame Coleman cho đến Robert Putnam, Francis Fukyuama, Grootaert, Guison, Woolcock, Narayan, leur Thomése, J Appold và ở Việt Nam như Trần Hữu Quang, Trần Hữu Dũng, Nguyễn Duy Thắng, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Quý Thanh, Lương Văn Hy, Mai Thị Hạnh và Lê Minh Tiến. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò cũng như mối quan hệ giữa Nhà nước và cộng đồng trong tổ chức và quản lý lễ hội
Trong xu thế hiện nay, tổ chức và quản lý lễ hội không còn là việc riêng của cộng đồng hay Nhà nước mà nó đã trở thành một công việc chung của hai nhóm đối tượng. Tuy nhiên, giữa Nhà nước và cộng đồng đang tồn tại những vấn đề nhất định trong tổ chức và quản lý lễ hội. Vấn đề này đã được đề cập trong nghiên cứu của Ngô Đức Thịnh, Choi Horim, Daniel Fabre, Lê Thị Minh Lý, Phan Phương Anh, Bùi Hoài Sơn, Bountheng Souksavatd, Từ Thị Loan, nhóm tác giả Lê Hồng Lý, Nguyễn Thị Hiền, Đào Thế Đức, Hoàng Cầm, Nguyễn Thị Nhung và Trần Thị Lan.
5
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về lễ hội đền Và và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản tại đền Và
Cho đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu về lễ hội đền Và và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản tại đền Và dưới góc độ văn học, văn hoá, chính trị tiêu biểu như nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Diện, Lê Thị Hiền; Ngô Đức Thịnh và Vũ Ngọc Khánh, Trần Ngọc Vương. 1.1.4. Những vấn đề luận án kế thừa và những vấn đề nghiên cứu đặt ra
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới VXH, Nhà nước, cộng đồng, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản cũng như lễ hội đền Và trên nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó có nhiều khía cạnh là những sự gợi ý cho ý tưởng nghiên cứu trong luận án. Tuy nhiên, nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ về VXH trong lễ hội đền Và như: Khái niệm về VXH dưới góc nhìn văn hóa học là gì? Cơ sở hình thành VXH và biểu hiện của VXH của Nhà nước và cộng đồng là gì? VXH ấy có những lợi ích cụ thể gì đối với các Nhà nước và cộng đồng? Giữa Nhà nước và cộng đồng có mối quan hệ như thế nào trong quá trình tạo lập và thực hành các sinh hoạt tín ngưỡng và lễ hội? Xu hướng biến đổi VXH trong lễ hội đền Và hiện nay là gì? Các vấn đề này sẽ được nghiên cứu trong khuôn khổ nội dung của luận án.
1. 2. Cơ sở lý luận Với câu hỏi nghiên cứu chính: Nếu coi thực hành tín ngưỡng và tổ chức lễ hội đền Và là yếu tố tạo ra VXH cho Nhà nước và cộng đồng thì VXH đó được hình thành như thế nào? Biểu hiện của VXH của Nhà nước và cộng đồng là gì? VXH ấy có những lợi ích cụ thể gì đối với các Nhà nước và cộng đồng? Mối quan hệ hai chiều giữa Nhà nước và cộng đồng trong việc tạo lập và sử dụng VXH như thế nào? Xu hướng biến đổi VXH trong lễ hội đền Và hiện nay là gì?, luận án sẽ trình bày các khái niệm và lý thuyết được sử dụng như nền tảng cơ sở lý luận để giải quyết các vấn đề trong luận án. Cụ thể, NCS sẽ trình bày các khái niệm “vốn xã hội”,” “vốn kinh tế”, “vốn văn hoá”, “vốn biểu tượng”, “cộng đồng”, “cộng đồng tín ngưỡng” và “định chế xã hội” cũng như hướng tiếp cận lý thuyết của luận án.
1.2.1. Các khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án 1.2.1.1. “Vốn xã hội” VXH là giá trị của xã hội bao gồm các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực giá trị và sự tin cậy có được qua quá trình tạo lập, thực hiện các hoạt động, sinh hoạt của cộng đồng hay tổ chức, thiết chế nào đó. Dưới góc độ văn hóa học, VXH có được qua quá trình tạo lập, tham gia vào sinh hoạt, tổ chức các hoạt động văn hóa. Trong trường hợp cụ thể là lễ hội đền Và, VXH là những mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực giá trị, niềm tin cũng như những lợi ích mà Nhà nước và cộng đồng có được hoặc mong muốn có
6
được thông qua việc tạo lập và khai thác giá trị của tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản cũng như tổ chức lễ hội đền Và.
1.2.1.2. “Vốn kinh tế”, “vốn văn hoá” và “vốn biểu tượng” Ngoài VXH (social capital) là khái niệm chính, luận án cũng đề cập đến các khái niệm khác như vốn kinh tế, vốn văn hoá và vốn biểu tượng. Giữa VXH và các loại vốn này có sự chuyển hoá lẫn nhau.
1.2.1.3. Sự chuyển hoá giữa các loại vốn 1.2.1.4. “Nhà nước” 1.2.1.5. “Cộng đồng” và “cộng đồng tín ngưỡng” 1.2.1.3. “Định chế xã hội” 1.2.2. Hướng tiếp cận và khung lý thuyết của luận án 1.2.2.1. Hướng tiếp cận lý thuyết Theo hướng tiếp cận lý thuyết của luận án, VXH là mối quan hệ xã hội cũng như niềm tin và chuẩn mực xã hội có được qua quá trình tạo lập, thực hiện các hoạt động, sinh hoạt của cộng đồng hay tổ chức, thiết chế nào đó. Điều này có nghĩa là luận án quan tâm đến khía cạnh hình thành, biểu hiện và thu được lợi ích của VXH thông qua quá trình thực hiện các hoạt động, sinh hoạt. 1.2.2.2. Khung phân tích của luận án
7
1. 3. Khái quát về lễ hội đền Và 1.3.1. Khái quát về di tích 1.3.1.1. Vị trí địa lý 1.3.1.2. Lịch sử di tích 1.3.1.3. Kiến trúc và bài trí 1.3.1.3. Hiện vật 1.3.2. Các lớp văn hoá tín ngưỡng của hình tượng Tản Viên Sơn Thánh Theo tác giả có ba lớp văn hoá tồn tại ở hình tượng này, đó là lớp văn hoá tín ngưỡng Việt - Mường, lớp văn hoá Đạo giáo và lớp văn hoá Nho giáo. Sự phát triển của hình tượng Tản Viên Sơn Thánh cũng như các lớp trầm tích văn hoá ẩn sâu trong mỗi biểu hiện của hình tượng.
1.3.3. Khái quát về lễ hội Đền Và Lễ hội đền Và được tổ chức hai lần trong một năm hội xuân vào rằm tháng Giêng và hội thu vào rằm tháng Chín.
Tiểu kết Như vậy, chương 1 là một chương quan trọng có tính chất nền tảng của luận án khi nội dung của chương này tập trung vào các vấn đề tổng quan tình hình nghiên cứu về đề tài cũng như cơ sở lý thuyết. Qua tổng quan các nghiên cứu về VXH, Nhà nước, cộng đồng, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản cũng như lễ hội đền Và, có thể thấy: VXH đã được nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu từ cơ chế hình thành, sự chuyển hoá các loại vốn, môi trường tạo lập và sử dụng VXH, đo lường VXH cũng như những lợi ích của VXH. Mục tiêu của luận án nghiên cứu về cơ sở hình thành, biểu hiện và lợi ích Nhà nước và cộng đồng thu được từ VXH nên luận án đặt Nhà nước và cộng đồng trong khung lý thuyết để phân tích phương thức tạo lập cũng như những nguồn lợi mà hai nhóm này có được từ việc tham gia vào sinh hoạt tín ngưỡng cũng như tổ chức và quản lý lễ hội đền Và. Khái quát về di tích, tín ngưỡng và lễ hội đền Và, chúng ta có thể thấy được đền Và (Đông cũng) thuộc hệ thống Tứ cung nổi tiếng của xứ Đoài thờ Đức Thánh Tản. Từ sự nhận thức về tính nguyên hợp trong thần tích Đức Thánh Tản, chúng ta có thể thấy được sự phát triển cũng như các lớp trầm tích văn hoá ẩn sâu trong mỗi biểu hiện của hình tượng. Một năm hai lần, vào rằm tháng Giêng và rằm tháng Chín, lễ hội đền Và được tổ chức chính là dịp tưởng nhớ công lao Đức Thánh Tản, đoàn kết Nhà nước và cộng đồng trong một sự kiện văn hoá truyền thống lớn nhất Sơn Tây từ quá khứ cho đến hiện tại.
8
Chương 2 VỐN XÃ HỘI DƯỚI GÓC ĐỘ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LỄ HỘI ĐỀN VÀ
2.1. Quản lý tín ngưỡng và củng cố hệ tư tưởng chính trị 2.1.1. Quản lý tín ngưỡng Có thể khẳng định rằng, sự hình thành tín ngưỡng không phải bắt đầu từ Nhà nước. Tuy nhiên, để cho vị thần của tín ngưỡng đó được quyền uy hơn, có tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn nhất định cần có sự giúp sức và can thiệp của triều đình phong kiến. Sự can thiệp này đã biểu hiện qua những cách sau: Thứ nhất, xây dựng, bảo lưu và phát huy giá trị của thần tích; Thứ hai, lịch sử hoá Đức Thánh Tản. Có thể nói, thần tích và lịch sử hoá đã cho thấy Đức Thánh Tản vốn không phải một con người có thật mà chính là sản phẩm của sự nhào nặn dân gian cùng những động thái chính trị của triều đình phong kiến. Mặc dù Đức Thánh Tản có nguồn gốc xuất thân từ trong dân gian nhưng nếu không có sự ủng hộ từ triều đình thì chắc chắn không thể có sự phổ rộng và những sinh hoạt tín ngưỡng liên quan đến ngài mạnh mẽ như vậy. Quá trình nhào nặn, đắp thêm các lớp nghĩa của hình tượng phản ánh yếu tố chính trị rõ nét. Nhìn từ phương diện quyền lực của triều đình xuống làng xã thì quá trình lịch sử hóa Đức Thánh Tản không đơn thuần là một cách thức lưu giữ ký ức tập thể những vết tích quan trọng của quá khứ mà còn là một công cụ thay Nhà nước bảo hộ con dân, nhằm củng cố tính thống nhất - dân tộc - tộc người của Nhà nước cũng như những người đại diện cho lợi ích quốc gia và gửi gắm những mong muốn về một xã hội tốt hơn, an bình và thịnh trị hơn của triều đình trong một giai đoạn lịch sử.
2.1.2. Củng cố hệ tư tưởng chính trị 2.1.2.1. Vị vua của làng xã: thành hoàng làng Đức Thánh Tản Ngày nay, mặc dù Sơn Tây đã trở thành thị xã, tổ chức hành chính cũng đã có sự thay đổi, nhưng trong tâm lý của cộng đồng, Đức Thánh Tản vẫn luôn là vị thần bảo hộ cho cuộc sống, cho sinh mệnh của họ. Tích hợp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng tiêu biểu nhất là lễ hội đền Và một năm hai lần. Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản và lễ hội đền Và dĩ nhiên đã trở thành biểu tượng của cố kết cộng đồng: từ cộng mệnh (gắn bó vận mệnh) tới cộng cảm (đồng cảm về sinh hoạt văn hóa) của cộng đồng cư dân vùng Sơn Tây. Có thể thấy, ở làng xã Sơn Tây truyền thống, từ vị thần Núi, Đức Thánh Tản trở thành Thành hoàng làng và đã trải qua nhiều biến đổi, vừa do sự phát triển của bản thân làng xã, vừa do giao lưu ảnh hưởng và nhất là do tác động của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền theo hướng phong kiến hóa, Nho giáo hóa thờ cúng Thần hoàng ở các làng với ước
9
muốn ngày một can thiệp và nắm lấy hệ thống thần linh và tín ngưỡng này để thao túng cấp hành chính cơ sở là làng xã. Điều này thể hiện rõ hơn từ thời Lê mạt và nhất là từ thời Nguyễn, qua việc hàng năm vua phong thần cho các Thành hoàng ở làng xã, quy định các thể thức tế tự, nghi lễ.
2.1.2.2. Nho giáo hóa Đức Thánh Tản qua thần tích và sắc phong Mỗi làng quê có một không gian thiêng, có thần linh ngự trị. Chính vì vậy, tìm hiểu về các sắc phong và văn bản thần tích chính là một cách cho thấy những biểu hiện đậm nét của mô hình nhà nước thế quyền với hệ tư tưởng Nho giáo chi phối làng xã. Sắc phong chính là sự cụ thể hóa thế tục của thần quyền. Đây là “công cụ tâm linh” mà các triều đình phong kiến sử dụng để điều tiết xã hội. Trong số những ngôi đền thờ phụng Thánh Tản ở vùng Sơn Tây và Ba Vì, đền Và có một giá trị đặc biệt. Thần tích và truyền thuyết về Đức Thánh Tản phản ánh rất rõ điều này, thể hiện không những trong kết cấu văn bản, trong ngôn từ biểu đạt mà còn ở trong bản thân hình tượng.
2.2. Chính thống hoá vai trò tổ chức và mở rộng quan hệ xã hội 2.2.1 Chính thống hoá vai trò tổ chức 2.2.1.1. Chính thống hóa vai trò tổ chức của UBND thị xã Sơn Tây Đứng trên phương diện quyền lực, Nhà nước đã nhào nặn hình tượng, phổ rộng hình tượng để đạt đến mục đích là mở rộng quy mô lễ hội. Một khi quy mô đã được mở rộng thì đương nhiên, Nhà nước cần phải hỗ trợ cộng đồng trong khâu tổ chức lễ hội. Việc chuyển giao trách nhiệm tổ chức từ UBND phường Trung Hưng cho UBND thị xã Sơn Tây vào hội chính được diễn ra hoàn toàn tự nhiên, không có sự tranh chấp nào, thậm chí là đồng thuận hoàn toàn. Như vậy, quá trình phân công nhiệm vụ tổ chức vào hội chính cho UBND thị xã Sơn Tây chính là một ví dụ điển hình của vấn đề chính thống hóa vai trò của nhà nước. Sự tham gia của Nhà nước trong tổ chức chính là điều cần thiết bởi bản thân các cộng đồng chủ nhân, trong bối cảnh thể chế chính trị Việt Nam hiện nay cần có sự chính danh hay hợp pháp hóa các hoạt động bảo vệ di sản của cộng đồng. Chính thống hóa, Nhà nước hóa từ quan điểm của người dân cũng thể hiện sự quan tâm của các cấp chính quyền, từ đó làm chất xúc tác để người dân có ý thức và nỗ lực hơn trong việc bảo vệ di sản mà cha ông để lại. Chính thống hóa, mặt khác cũng tạo thuận lợi hơn cho công tác quản lý kể cả trong tổ chức lễ hội cũng như trong những hoạt động khác. Mặt khác, trong bối cảnh lễ hội có những biến đổi không ngừng cần có một quan điểm tỉnh táo để quản lý cộng đồng. Chính bản thân cộng đồng cũng thừa nhận, nếu không có sự tham gia của của chính quyền thì cộng đồng không thể tổ chức lễ hội với quy mô vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ như hiện nay được. Chỉ Nhà nước mới có thể đảm bảo các vấn đề về an ninh trật tự, an toàn vệ sinh môi trường cũng như
10
là đầu mối kết nói các nhóm xã hội, các nhà tài trợ cho việc tổ chức và bảo tồn lễ hội.
2.2.1.2 Chính thống hóa vai trò tổ chức của UBND phường Trung Hưng Vào hội lệ, UBND phường Trung Hưng được coi là đơn vị chịu trách nhiệm chính trong tổ chức lễ hội. Để lễ hội có thể diễn ra thành công, giống như UBND thị xã Sơn Tây, UBND phường Trung Hưng cũng thành lập ban chỉ đạo, điều hành lễ hội Nhìn chung, trong tổ chức lễ hội đền Và vào hội lệ, UBND phường Trung Hưng đã đáp ứng được những yêu cầu của bản kế hoạch tổ chức. Trách nhiệm của UBND phường Trung Hưng trong tổ chức lễ hội được thể hiện ở việc chỉ đạo nhân lực và chi kinh phí vào hội lệ, cụ thể phân công đối với năm nhóm đối tượng như sau:
Thứ nhất, đối với Ban Tế Thứ hai, đối với đội ngũ làm vệ sinh Thứ ba, đối với các cụ viết sớ trong đền Và Thứ tư, đối với kinh phí tổ chức Thứ năm, đối với cộng đồng 2.2.2. Củng cố và mở rộng các mối quan hệ xã hội Xét trên phương diện quy mô thì trong lễ hội lớn vào năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, người ta có thể thấy đông đảo quan khách tham dự đến từ những khu vực lân cận cùng chung tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản như đền Thính, đền Thượng, đền Lăng Sương. Thông qua sự tham dự này, chính quyền thị xã Sơn Tây cũng đã hình thành và củng cố mối quan hệ của mình với những quan chức các vùng lân cận. Bản thân lễ hội đền Và tháng Giêng và tháng Chín âm lịch với quy mô làng luôn có sự tham gia không thể thiếu của làng Duy Bình ở Vĩnh Phúc. Đó chính là sự kết nối quan hệ chính trị của hai địa vực cùng chung truyền thuyết về Đức Thánh Tản. Trên nền quan hệ xã hội đó, thị xã Sơn Tây vẫn có được thế chủ động của mình khi lễ hội đền Và là lễ hội lớn nhất xứ Đoài. Điều này được biểu hiện qua nghi lễ tế thì đền Và tế xong rồi đền Ngự Dội mới được vào tế, cả vào những năm lễ hội được tổ chức lớn hay nhỏ. Hơn nữa, đối với thị xã Sơn Tây hay huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc thì các làng cùng chung tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản hay chung lễ hội có nhiệm vụ phải đến tham dự lễ hội. Chính vì vậy, danh sách khách mời quan trọng được tính đến ở đây là những địa phương xa hơn, có chung nguồn gốc văn hóa lịch sử. Ngoài ra còn có đại diện thành phố, sở ban ngành. Thông qua việc mở rộng quy mô tổ chức lễ hội, chính quyền thị xã có thêm cơ hội kết nối và duy trì mối quan hệ của mình.
2.3. “Sáng tạo truyền thống” và phân công xã hội 2.3.1. “Sáng tạo truyền thống” Bàn về vấn đề khôi phục lễ hội, NCS cho rằng, Nhà nước đã rất thành công trong việc tạo lập VXH cho bản thân Nhà nước cũng như cộng đồng.
11
Để tìm hiểu về phương thức khôi phục lễ hội truyền thống, luận án sẽ dựa vào hướng tiếp cận lý thuyết mới, đó là sáng tạo truyền thống qua góc nhìn của Hobsbawm. Cụ thể, sự sáng tạo truyền thống được thể hiện như sau:
2.3.1.1. Khôi phục lễ hội truyến thống 2.3.1.2. Mở rộng quy mô lễ hội 2.3.1.3. Khai thác giá trị lễ hội 2.3.2. Phân công xã hội 2.3.2.1. Phân công nhiệm vụ Tại lễ hội đền Và, 7 làng quanh đền sẽ được rước kiệu vào đền lễ Thánh. Tuy nhiên, ở đây có sự phân chia làng chính- làng phụ với mỗi làng có nhiệm vụ khác nhau. Ba làng chính là Vân Gia, Phù Sa, và Phú Nhi. Bốn làng phụ còn lại là Mai Trai, Nghĩa Phủ, Ái Mỗ, và Thanh Trì. Ngoài ra còn có sự tham gia của một làng bên đền Ngự Dội là làng Duy Bình, Vĩnh Phúc. Nhà nước có sự phân tách nhiệm vụ rõ ràng của mình và cộng đồng, tránh sự chồng chéo, vừa thừa vừa thiếu trong khâu tổ chức.
Trên phương diện phân công xã hội, trách nhiệm hầu hết thuộc về Nhà nước và tất nhiên cũng có sự đồng thuận của cộng đồng. Tất cả tạo nên một lễ hội có sự phân công rõ ràng nhiệm vụ của các ban, các nhóm, các độ tuổi hay các ngành nghề. Đó chính là cách tạo lập VXH thông qua quá trình phân công xã hội. Nhờ đó, lợi ích mà Nhà nước nhận được là hoạt động giữa các nhóm luôn có sự khớp nối rất trơn tru và lễ hội có thể diễn ra một cách suôn sẻ mà không cần đến một vị tổng đạo diễn nào, uy tín của Nhà nước cũng nhờ đó mà tăng lên, quan hệ của Nhà nước với cộng đồng cũng trở nên bền chặt hơn. Từ đó, nó tạo nên một ý thức thứ hai là quy định ý thức và tâm lý của từng nhóm xã hội: luôn ý thức về cộng đồng trong mối quan hệ với Nhà nước với tính tính cực khi muốn khẳng định vị trí và uy tín của cộng đồng cũng như trông chờ những lợi ích khác sẽ nhận được từ Nhà nước như sự quan tâm, giúp đỡ và sự đầu tư bảo lưu và phát huy giá trị tín ngưỡng lễ hội. Trên phương diện phân công xã hội, có thể thấy việc phân công thành phần tham gia của lễ hội được coi là nhân tố trọng tâm tạo nên kết cấu lễ hội. Trong đó, Nhà nước ý thức được sâu sắc người làng gốc có lễ hội bao giờ cũng đóng vai trò chủ thể, giữ luôn vai trò chính, trung tâm của lễ hội, vì vậy, cách chọn chủ tế, cách chọn đội tế, đội rước chính hay cách tán lộc đều phản ánh nguyên tắc chủ thể lễ hội của cộng đồng. Trên phương diện lợi ích, những cơ quan chức năng của Nhà nước sẽ này nhận được sự tôn trọng, uy tín từ cộng đồng và tất nhiên cả nguồn lợi vật chất.
2.3.2.2. Hài hòa trách nhiệm tổ chức Tổ chức lễ hội là trách nhiệm thuộc về cả chính quyền và cộng đồng. Tuy nhiên, lợi ích mà cả hai bên nhận được là không ít. Như đã phân tích ở trên, tổ chức lễ hội chính là một dịp để chính quyền có thể mở
12
rộng các mối quan hệ xã hội và tích luỹ thêm cho mình kinh nghiệm tổ chức. Chính vì vậy, không tránh khỏi tâm lý đố kị giữa làng chính và làng phụ trong tổ chức. Tuy nhiên, qua truyền thuyết về quá trình xây dựng đền cũng như vi hành của Đức Thánh Tản, mọi lý giải cho trách nhiệm làng chính và làng phụ trở nên hợp lý và nhận được sự đồng thuận của cộng đồng.
Tiểu kết Tại chương 2, luận án đã đi vào phân tích quá trình quản lý tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản, từ đó khẳng định Ngài vốn không phải là một con người có thật mà chính là sản phẩm của triều đình phong kiến. Mặc dù Đức Thánh Tản có nguồn gốc xuất thân từ trong dân gian nhưng quá trình nhào nặn, đắp thêm các lớp ý nghĩa của hình tượng đã phản ánh yếu tố chính trị rõ nét, khiến hình tượng trở thành một công cụ để củng cố tính thống nhất - dân tộc - tộc người của Nhà nước cũng như những người đại diện cho lợi ích quốc gia và gửi gắm những mong muốn về một xã hội tốt hơn, an bình và thịnh trị hơn của triều đình trong một giai đoạn lịch sử. Từ đó, Nhà nước cũng có thể chính thống hóa vai trò tổ chức và hài hoà trách nhiệm giữa làng chính và làng phụ trong khâu tổ chức cũng như củng cố và mở rộng mối quan hệ xã hội với các địa phương bạn. Cũng trong khuôn khổ trách nhiệm và quyền hạn của mình, Nhà nước có thể “sáng tạo truyền thống” và phân công xã hội. Tất cả tạo nên một lễ hội có sự phân công rõ ràng nhiệm vụ của các ban, các nhóm, các độ tuổi hay các ngành nghề. Đó chính là cách tạo lập vốn xã hội thông qua quá trình phân công xã hội. Nhờ đó, lợi ích mà Nhà nước nhận được là hoạt động giữa các nhóm luôn có sự khớp nối rất trơn tru và lễ hội có thể diễn ra một cách suôn sẻ.
Chương 3 VỐN XÃ HỘI DƯỚI GÓC ĐỘ CỘNG ĐỒNG TRONG LỄ HỘI ĐỀN VÀ
3.1. Vốn xã hội dưới góc độ cộng đồng trên phương diện kinh tế Trên phương diện kinh tế, lễ hội ra đời từ tín ngưỡng đã phản chiếu trung thực loại hình kinh tế của cộng đồng, có nghĩa là trong lễ hội, VXH có thể được hiểu ở loại hình kinh tế của cộng đồng. Từ lễ hội và sinh hoạt tín ngưỡng, cộng đồng sẽ nhận được những lợi ích kinh tế. Nhưng lợi ích này có thể giống không giống hoặc hơi giống với loại hình kinh tế ban đầu trong quá trình tạo lập. Ở đây luận án bàn đến hai loại hình kinh tế, thứ nhất là loại hình kinh tế sơ khai tạo nên tín ngưỡng và lễ hội; thứ hai là thực hành sinh hoạt tín ngưỡng và tổ chức lễ hội mang lại giá trị kinh tế cho cộng đồng.
13
3.1.1. Loại hình kinh tế nông nghiệp xứ Đoài hình thành tín ngưỡng và lễ hội
Trong xã hội xưa, nông dân và ngư dân chính là hai tổ chức nhóm xã hội cùng sinh tồn trên một địa bàn đồng ruộng ven sông, cùng nghề nông ngư nghiệp đã tạo dựng nên tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản và lễ hội rằm tháng Giêng và rằm tháng Chín. Trong xã hội nay, với bối cảnh kinh tế thị trường ngày một lớn mạnh, tổ chức nhóm xã hội trở nên đa dạng hơn, bên cạnh hai nhóm nông dân và ngư dân, lễ hội đã nảy sinh thêm nhóm chủ thể thứ ba là thị dân (buôn bán gần và xa đền Và). Tầng lớp thị dân trong lễ hội đền Và vốn có nguồn gốc từ nông dân và ngư dân nhưng đã có sự biến đổi ngành nghề cho phù hợp với xu thế. Từ đó, chủ khách thể của lễ hội ít nhiều đã có sự tham gia một cách tích cực hơn thông qua hoạt động công đức và đóng góp vào di tích và lễ hội. 3.1.2. Địa danh hóa Đức Thánh Tản tạo tiền đề địa danh hóa sản phẩm đặc trưng
Làng Phú Nhi có làm và bán bánh tẻ nhưng làng lại được biết đến đầu tiên gắn với sự tích vi hành của Đức Thánh Tản, rồi từ đó người ta nhớ thêm câu chuyện bánh tẻ Phú Nhi. Điều này có nghĩa là cái ban đầu để tạo được ký ức về địa phương là địa danh hóa thông qua sự tích vi hành của Đức Thánh Tản (làm người ăn xin đến thôn Phú Nhi), điều này tạo nên một ký ức, một niềm tin và một sự thực hành sâu sắc qua lễ hội. Và từ đó, người dân có tiền đề và cơ sở để tạo nên lớp địa danh hóa thứ hai là qua sản vật địa phương. Rõ ràng, ở phương diện này, sản phẩm bánh tẻ Phú Nhi được tiêu thụ tốt hơn trong lễ hội và đem lại nguồn lợi kinh tế cho cộng đồng. Kết luận ở đây là, địa danh hóa Đức Thánh Tản là tiền đề cho quá trình địa danh hóa sản vật địa phương. Cộng đồng sẽ nhận được hai lợi ích, lợi ích đầu tiên là trên phương diện tinh thần khi duy trì ký ức, niềm tin sâu sắc với thánh thần và lợi ích thứ hai là trên phương diện vật chất: đem lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng. Lợi ích đầu tiên được hình thành trước rồi mới đến lợi ích thứ hai.
3.2. Vốn xã hội dưới góc độ cộng đồng trên phương diện văn hoá 3.2.1. Hình thành tín ngưỡng và thiêng hoá nhân vật phụng thờ 3.2.1.1. Hình thành tín ngưỡng Sự xuất hiện của Đức Thánh Tản cũng được coi như là sự lý giải cho một hiện tượng tự nhiên khi mà con người đứng trước thiên tai, bão lũ họ khao khát có được một sức mạnh to lớn, một chỗ dựa vững chắc và một vị thần để bảo hộ cho cuộc sống của họ. Từ đây, Đức Thánh Tản trở thành một nhân vật đại diện cho những khát vọng của nhân dân chinh phục được thiên nhiên và phát triển cuộc sống nông nghiệp. Do vậy, họ tôn thờ Đức Thánh Tản như tôn thờ một sức mạnh nào đó có thể tăng thêm sức lực cho họ chiến đấu chống lại thiên tai, lũ lụt để bảo vệ mùa màng và cuộc sống
14
của chính mình. Đây chính là cơ sở đầu tiên để hình thành nên tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản và cộng đồng với niềm tin tín ngưỡng là nhân tố quyết định sự hình thành tín ngưỡng. Nhờ lối suy nghĩ giản dị và trí tưởng tưởng phong phú mà con người mới hình dung sáng tạo ra các vị thần có sức mạnh siêu nhiên hoàn toàn vượt xa khả năng của họ. Chính vì thế, ngay từ khi các vị thần trong tín ngưỡng được hình thành, người dân đã bắt đầu có những câu chuyện kể truyền miệng về sự tích của vị thần đó với những yếu tố kỳ ảo, thần thánh hóa khiến vị thần trở nên linh thiêng, những câu chuyện đó được gọi chung là truyền thuyết. Kể từ khi Đức Thánh Tản được người dân tôn thờ, họ đã xây dựng thêu dệt nên các sự tích xoay quanh cuộc đời, sự nghiệp, công lao của Ngài thông qua các yếu tố thần kỳ, kỳ ảo. Để từ đó giá trị của Đức Thánh Tản tăng lên và hình tượng Đức Thánh Tản mang trong mình những vẻ đẹp của một vị anh hùng với những sức mạnh phi thường vượt xa khỏi sức mạnh tầm thường của con người. Như vậy, các truyền thuyết đã làm tăng thêm giá trị của tín ngưỡng và khiến người dân càng thêm tin tưởng vào vị thần mà mình tôn thờ. 3.2.1.2. Thiêng hóa nhân vật phụng thờ Có thể nói, không có các vị thánh thần thì không có lễ hội truyền thống và không có yếu tố nào hình thành mạng lưới xã hội bền vững như niềm tin tín ngưỡng. Thánh, thần là đối tượng tôn thờ, thiêng hóa của cộng đồng làng và người ta tiến hành lễ hội cũng không ngoài mục đích đó. Có thể khẳng định nhân vật phụng thời Đức Thánh Tản đã được thiêng hóa bằng cả thời gian, không gian, lễ vật, tiểu sử hành trạng, cử chỉ động tác, nghi thức, nghi lễ, trang phục cũng như ngôn ngữ văn tự… Trong luận án, NCS nhấn mạnh đến ba yếu tố chính, đó là: tiểu sử hành trạng của nhân vật phụng thờ, thời gian cũng như không gian của tín ngưỡng và lễ hội.
3.2.2. Gìn giữ niềm tin tín ngưỡng và “sáng tạo truyền thống” 3.2.2.1. Gìn giữ niềm tin tín ngưỡng Trong tâm thức người dân đền Và, Đức Thánh Tản không chỉ là vị nhiên thần mà còn là vị nhân thần dạy dân làm nghề và cứu dân độ thế. Tất cả mọi việc Ngài làm đều là vì nước, vì dân, tạo lập sự hòa hợp và cuộc sống thanh bình trong nhân dân. Mọi nghi lễ và lễ vật trong lễ hội đền Và tháng Giêng và tháng Chín gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Ngài đã thực sự tạo nên một không gian linh thiêng đặc biệt. Không gian ấy cùng với nghi thức tế lễ thành kính, đã làm cho mọi người cảm thấy gần gũi, gắn bó với nhau hơn, họ cùng hướng về Đức Thánh, cầu mong Ngài phù hộ độ trì cho bản thân, cho cộng đồng, cùng trở về nguồn. Lễ hội đền Và không chỉ liên kết các thôn trong Sơn Tây lại với nhau mà còn có thể liên kết ngoài Sơn Tây, sang tận thôn Duy Bình, Vĩnh Phúc bởi truyền thuyết Đức Thánh Tản dạo chơi sông Hồng dạy dân cắt cỏ hái lượm. Vậy nên, lòng biết
15
ơn, sự ngưỡng mộ và tôn vinh sự nghiệp của Ngài là tình cảm chung của mọi người vượt qua địa vực làng xã thông thường, khiến cho mọi người gần gũi nhau hơn. Việc thực hành các hoạt động tín ngưỡng không chỉ đơn thuần là một phong tục, một cổ tục mà nó còn góp phần bảo lưu và tôn vinh truyền thống của chính cộng đồng đó. Thực hành tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản của người dân đền Và đã giúp cho định chế xã hội dân sự mà cụ thể là quan hệ cộng đồng và ý thức cộng đồng trở nên bền chặt và có được sự thống nhất cao.
3.2.2.2. “Sáng tạo truyền thống” Trường hợp “sáng tạo truyền thống” đối với lễ hội đền Và cho thấy cộng đồng đã dùng chất liệu và mô hình tổ chức trong quá khứ để tạo thành những mảnh ghép của sinh hoạt tín ngưỡng đương đại. Ở đây, có hai điểm mới của cộng đồng trong quá trình “sáng tạo truyền thống” đối với lễ hội đền Và.
+ Nhân lực tổ chức lễ hội + Tạo dựng thêm không gian thờ cúng Đức Thánh Tản 3.2.3. Tâm lý và ý thức cộng đồng 3.2.3.1. Tâm lý “người làng ta” Trong cuộc trò chuyện với người dân làng Vân Gia, Phù Sa có thể thấy rõ sự từ hào về “làng ta” khi vinh dự là nơi Thánh chọn làng mình làm Đông cung hay chuyện người làng mình công đức đất xây dựng đền Và của người làng Vân Gia cũng như việc làng Phù Sa đã giúp đỡ Thánh khi Thánh giả làm ăn xin vi hành qua làng. Đây là một tâm lý hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng ngay cả với làng Phú Nhi, vốn đã từ chối giúp Thánh khi Thánh giả làm người ăn xin mà bị đặt tên là Bần Nhi (sau mới đổi thành Phú Nhi) thì người dân thay vì nhớ đến câu chuyện đó thì họ nhắc nhiều đến câu chuyện sản vật địa phương bánh tẻ Phú Nhi cung cấp cho lễ hội hay như việc làng tham gia lễ múa lân múa rồng trong lễ Rước, vì thế nếu làng Phú Nhi chưa đến thì tất nhiên lễ hội chưa thể khai mạc được. Hay như sang bên làng Duy Bình bên đền Ngự Dội, câu chuyện tham gia trong lễ rước của lễ hội đền Và là vì có liên quan đến sự tích vi hành của Đức Thánh Tản sang bờ bên kia sông Hồng dạy dân làm nghề nhưng với ý thức “làng ta” thì cộng đồng đã khoác thêm nhiều câu chuyện về Thánh tại đây để niềm tự hào thêm vững vàng hơn. Một khía cạnh khác, về sắc phong, không hoàn toàn được hiểu trên khía cạnh Nhà nước mà chúng ta có thể thấy được những yếu tố tâm lý cộng đồng ở đây. Chính sắc phong cùng với truyền thuyết chính thức và không chính thức ấy đã tạo nên một tâm lý: đã là người làng, dù thân phận thế nào cũng không một ai dám tỏ thái độ bất kính với thần linh. Có một ý thức về sự ganh đua giữa làng mình với làng khác (không hơn được làng khác thì chí ít làng mình cũng phải bằng họ).
16
3.2.3.2. Sự thăng hoa trạng thái tâm lý cá nhân và cộng đồng Trong các ngày lễ hội đền Và, và cũng chỉ trong những ngày ấy, người nông dân được sống trong một khung cảnh có thể gọi là vô trật tự, là thái quá, một thứ vô trật tự hay thái quá được tổ chức và được phép của Thánh. Cụ thể, sự thăng hoa ấy được thể hiện qua những nghi lễ sau:
+ Lễ Độ Hà + Nghênh lễ Thánh + Chui kiệu 3.2.3.3. Bảo lưu thức cộng đồng Lễ hội đền Và tạo được sự cố kết cộng đồng mạnh mẽ. Sự cố kết này cho thấy mặt hữu hình của VXH thông qua mọi hoạt động trong lễ hội đều có sự tham gia của đông đảo người dân. Đoàn rước trong lễ hội đền Và không chỉ là sự tái diễn về một cuộc hành trình cứu dân, độ thế đầy vẻ huyền thoại của Đức Thánh Tản từ đền Và qua sông Hồng sang làng Duy Bình thuộc xã Vĩnh Ninh - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc mà thực sự là sản phẩm giàu trí tưởng tượng sáng tạo, tổng hợp hình ảnh những chuyến du ngoạn, thưởng lãm cảnh trí thiên nhiên, giúp dân trị thủy, trừ giặc của Đức Thánh Tản trong một không gian tập thể - một không gian biểu hiện sự đoàn kết và gắn kết chặt chẽ cộng đồng. “Hội tụ và lan tỏa”, biểu dương và hiệu triệu quần chúng tạo nên “tính hoành tráng” trong lễ hội của cộng đồng chính là biểu hiện sinh động của VXH trong lễ hội đền Và.
Tính cố kết cộng đồng còn được thể hiện ở hoạt động của một số tổ chức phục vụ cho hoạt động của lễ hội như ban tế tự, ban khánh tiết, ban văn nghệ… Những tổ chức này cũng tạo nên các mối liên kết cộng đồng thoả mãn nhu cầu tâm linh, nhu cầu cộng cảm… Và từ đó, sự liên kết xã hội của cộng đồng lớn ấy sẽ xoay quanh một trục trung tâm tín ngưỡng và trở thành một cấu trúc có sự bất di bất dịch, bởi theo xu hướng chung thì tín ngưỡng chỉ có thể đậm nhạt chứ không thể biến mất trong tâm thức cộng đồng được.
3.3. Vốn xã hội dưới góc độ cộng đồng trên phương diện biểu tượng 3.3.1. Biểu tượng Đức Thánh Tản và các nghi thức biểu đạt Luận án tán thành cách tiếp cận của Đoàn Văn Chúc [17] và Đoàn Minh Châu [15] khi cho rằng chức năng của lễ hội là “sự biểu hiện các giá trị xã hội của một cộng đồng và tái xác định những mối liên hệ đã gắn bó cộng đồng lại với nhau” [17, tr.133]. Biểu tượng hóa lễ hội để tạo nên những giá trị xã hội và mối quan hệ xã hội, đương nhiên không phải là sản phẩm của một cá nhân nào mà phải là sự cộng hưởng, trí tuệ, niềm tin cũng như hành vi của cả một cộng đồng. Cộng đồng đã tạo ra lịch sử và văn hóa thông qua biểu tượng Đức Thánh Tản. Ngài ngự tại đền, chứng kiến đời sống của dân chúng cùng dân chúng ghi nhớ mọi kỉ niệm của làng xã. Nhờ VXH này,
17
mọi luật lệ, thói tục, đạo đức của cộng đồng đều được ngài duy trì vì muốn được Ngài ban phước và sợ bị Ngài trừng phạt. Trên phương diện xây dựng biểu tượng lịch sử và văn hóa cho hình tượng Đức Thánh Tản, cộng đồng đã chọn cách sáng tạo các lễ vật liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Ngài. Quan sát trong một lễ hội ở đền thì bên cạnh những cuộc tế long trọng và có tính chất chính thống là hàng loạt những thực hành tín ngưỡng của cá nhân hay một nhóm người. Người phụng thờ ký gửi ước vọng, niềm tin, sự tin tưởng vào lễ vật dâng cúng. Họ sắm những mâm, những đĩa lễ vật riêng, truyền tay nhau đến ông từ hoặc những người phụ lễ đưa đến bàn thờ thần, rồi từ những góc khác nhau họ hướng về phía bàn thờ mà lễ vọng với những lời cầu khẩn rất chân thành cho sức khoẻ, tài lộc và may mắn của bản thân và gia đình. Lễ vật không phải là yếu tố bắt buộc nhưng đó chính là một phương tiện để bày tỏ tấm lòng thành kính, để khấn vái xin những điều mà họ mong được để thánh thần trợ giúp. Có những lễ hội ở đền chọn các lễ vật ngẫu nhiên tuỳ vào tình hình kinh tế cũng như thói quen của người đi lễ (hương, hoa, oản, quả, rượu, trà) nhưng cũng có những lễ hội người ta dâng thánh thần những lễ vật liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của vị thánh thần ấy. Và đó chính là một cách biểu lộ lòng thành kính và tưởng nhớ tri ân sâu sắc. Việc tin và thực hành các biểu tượng đó qua các lễ tế, lễ rước, lễ dâng cúng phẩm mà nhờ Ngài mới có được chính là biểu hiện lòng sùng kính và biết ơn vô hạn của toàn dân đối với Ngài. Cũng qua các lễ vật ấy, chúng ta có thể thấy được hình ảnh oai phong lẫm liệt của một vị Nhiên thần - thần Núi (voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao), công lao của một vị Bách nghệ tổ sư khi dạy dân làm nông nghiệp (quang gánh, đội sọt, làm ngư nghiệp (cá) hay những nếp sinh hoạt quen thuộc của cư dân (trầu không vôi, xôi không muối).
3.3.2. Biểu tượng quy định hành vi của con người và cố kết cộng đồng Cộng đồng nơi đây tuân thủ nghiêm ngặt quy định về thời gian tổ chức. Không kể năm chính hay năm phụ thì trước ngày 15 tháng Giêng và tháng Chín là ngày chính hội, người dân chuẩn bị lễ vật cúng ở nhà trước khi vào đền làm lễ dâng thánh. Vào năm chính, mặc dù lễ rước bắt đầu từ 4h sáng nhưng từ 12 giờ đêm kiệu của các thôn đã được rước lên và sắp xếp ngăn nắp tại sân đền Và. Trước 4 giờ sáng thì đoàn múa lân múa rồng của thôn Phú Nhi cũng đợi sẵn ở cửa đền, chỉ chờ hiệu lệnh kiệu Long Ngai Bài Vị được rước ra thì các kiệu khác sẵn sàng theo sau. Đoàn rước đi từ tờ mờ sáng và đến chiều tối muộn mới quay lại đền nhưng mọi người đi rước đều rất thành tâm, có ý thức nên đoàn rước đi từ đầu đến cuối rất nghiêm trang và tạo thành một khối thống nhất chứ không rời rạc. Phía đền Ngự Dội nghênh lễ Thánh từ 1 giờ sáng cùng ngày, mặc dù đoàn rước từ đền Và
18
thông thường sớm nhất cũng 11 giờ và muộn nhất là khoảng 1 giờ chiều mới đến được bên kia sông Hồng - khu vực nghênh lễ của đền Ngự Dội. 3.3.3. Biểu tượng hội tụ các giá trị xã hội và tái xác định những mối liên hệ đã gắn bó cộng đồng
Trong lễ hội, những nghi thức mang tính biểu tượng quy định hành vi của con người mà ở đây, hành vi có thể hiểu là một dạng biểu tượng. Những hành vi đó được truyền từ đời này sang đời khác, chính vì vậy, thế giới biểu tượng trong lễ hội cổ truyền tạo nên sức mạnh và tính cố kết cộng đồng dân tộc. Hệ thống biểu tượng với toàn bộ ý nghĩa tốt đẹp của nó có chức năng điều tiết xã hội, chống lại những tác động tiêu cực sinh ra do sự biến đổi tất yếu của đời sống con người. Sự hiện diện của các hệ thống biểu tượng trong lễ hội chính là sự bày tỏ “cái tâm thức” của cả cộng đồng, nói lên được những giá trị định hướng mà cả cộng đồng lựa chọn nó là niềm tin, cái thiêng liêng, sự mong ước và khát vọng của mỗi cá nhân, của nhóm và của cả cộng đồng. Nó thể hiện phần nào cốt cách và bản lĩnh của mỗi dân tộc, vì mỗi biểu tượng có trong lễ hội đều là những thần tích kỳ vĩ hay những chiến công hiển hách của anh hùng dân tộc khai sáng văn hóa Đức Thánh Tản.
Tiểu kết Xét trên phương diện kinh tế, lễ hội và tín ngưỡng được tạo lập phản chiếu trung thực loại hình kinh tế của cộng đồng, có nghĩa là trong lễ hội, VXH có thể được hiểu ở loại hình kinh tế của cộng đồng. Từ lễ hội và tín ngưỡng, cộng đồng sẽ nhận được những lợi ích kinh tế. Nhưng lợi ích này có thể giống không giống hoặc hơi giống với loại hình kinh tế ban đầu trong quá trình tạo lập. Địa danh hóa Đức Thánh Tản là tiền đề cho quá trình địa danh hóa sản vật địa phương. Trên phương diện văn hoá, VXH trong lễ hội được tạo lập từ ý thức chung về sự linh thiêng của vị thánh được tôn thờ. Từ đó, VXH này đã đáp ứng sự vận động duy trì thăng bằng tâm lý mà dường như khó có hình thức nào khác của văn hóa có thể làm được như vậy. Nhờ đó, lễ hội giải phóng những xúc cảm bị dồn nén, là điều kiện cho sự tái sáng tạo của mỗi người trong lĩnh vực hoạt động của mình. Trên phương diện xây dựng biểu tượng, cộng đồng đã tạo ra lịch sử và văn hóa thông qua biểu tượng Đức Thánh Tản cũng như các hành vi, các lễ vật dâng cúng Ngài. Biểu tượng về cộng đồng bao giờ cũng chứa trong nó tính thiêng, chính yếu tố này tạo nên đức tin và ước mơ cho con người, góp phần nối liền các tâm hồn lại với nhau. Trên phương diện này, đó chính là quá trình biểu hiện các giá trị xã hội và tái xác định những mối liên hệ đã gắn bó cộng đồng với nhau.
19
Chương 4 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN BÀN LUẬN VỀ VỐN XÃ HỘI TRONG LỄ HỘI ĐỀN VÀ
4.1. Tam giác quan hệ Nhà nước, cộng đồng và vốn xã hội 4.1.1. Nhà nước, cộng đồng và định chế xã hội Đối với tín ngưỡng Đức Thánh Tản tại đền Và, Sơn Tây, Hà Nội, chúng ta thấy rằng, định chế xã hội chính trị ở đây được thể hiện qua hai giai đoạn. Trong quá khứ nó đã được tạo dựng bởi chính lớp tư tưởng Nho giáo phủ lên hình tượng Đức Thánh Tản bằng thần tích, sắc phong cùng với chức năng một vị Nhiên thần, Nhân thần, Bách nghệ Tổ sư và cuối cùng là Thành hoàng làng. Còn hiện tại, định chế xã hội chính trị này được thể hiện thông qua sự tham gia của chính quyền vào khâu tổ chức, như phân công các tiểu ban phụ trách lễ hội và chỉ đạo toàn bộ diễn trình lễ hội vào bốn năm lớn Tí, Ngọ, Mão, Dậu ở cấp thị xã và ở cấp phường vào những năm còn lại.
4.1.2. Nhà nước, cộng đồng và phân công xã hội Qua thực tiễn lễ hội đền Và có thể thấy việc tổ chức lễ hội là một công việc tất yếu với sự tham gia của nhiều bên liên quan khác nhau, thể hiện qua sự phân công xã hội, với các chiến lược khác nhau, tạo nên bức tranh sinh hoạt văn hoá đa dạng và độc đáo ở Việt Nam sau đổi mới. Về phía nhà nước, đó là các động thái tuyên truyền quảng bá, biểu tượng hoá lễ hội và di tích đền Và, sự can thiệp vào các khâu tổ chức, tạo ra diễn ngôn mới. Nhà nước sử dụng lễ hội để củng cố, khẳng định quyền lực chính trị của mình. Về phía cộng đồng, đó là các động thái tiếp cận, hỗ trợ, kế thừa, sáng tạo hoặc mở rộng hoặc chủ động lưu giữ, bảo tồn…. Để đảm bảo việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản có hiệu quả cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các ban ngành. Bởi di sản không bao giờ đứng yên, di sản cũng đem lại nhiều lợi ích to lớn. Cho nên, một cách ứng xử linh hoạt, mềm dẻo và khôn khéo giữa hai nhóm Nhà nước và cộng đồng trong khâu tổ chức là điều kiện tiên quyết cho công cuộc bảo tồn di sản.
4.1.3. Nhà nước, cộng đồng và “sáng tạo truyền thống” Qua phân tích quá trình khôi phục và tổ chức lễ hội đền Và của Nhà nước và cộng đồng, chúng ta có thể đưa ra một số nhận định như sau: 4.1.3.1. Truyền thống luôn được bảo lưu và mang lại nhiều thành quả trong quá trình sáng tạo 4.1.3.2. Tiến trình sáng tạo truyền thống liên quan đến sự thương thảo của nhiều chủ thể với những tiếng nói đa dạng với những động thái khác nhau 4.1.3.3. Sự sáng tạo của cộng đồng một cách có chọn lọc đã có tác dụng làm cho tâm lý của người tham dự lễ hội được thăng hoa
20
4.1.3.4. Sáng tạo truyền thống cho thấy thế ứng xử của Nhà nước và cộng đồng khi linh hoạt “sử dụng”, “vận dụng” cơ chế truyền thống sang cơ chế mới 4.1.3.5. Kết quả của tiến trình thương thảo trên ở cấp cộng đồng không
phải lúc nào cũng đi theo một khuôn mẫu nhất định. 4.1.4. Nhà nước, cộng đồng và cái thiêng Thông qua lễ hội, các thành viên trong cộng đồng được tri giác cái thiêng liêng như là những gì đối diện với cái phàm tục: đó là tình cảm thiêng liêng, quy tắc đạo đức thiêng liêng cũng như những quyền năng thiêng liêng. Tính chất thiêng này là một đặc thù của lễ hội, giống như linh hồn của lễ hội mà được tạo dựng từ cả hai phía Nhà nước và cộng đồng, bao trùm lên toàn bộ không gian, thời gian, mọi hành động của con người trong nghi lễ, trò chơi và mọi chi tiết trong lễ vật dâng cúng.
Nhà nước cũng ý thức được tính thiêng chính là linh hồn của lễ hội truyền thống - là cơ sở của tình cảm cộng đồng, của sự kết nối và chia sẻ trách nhiệm cũng như quyền lợi giữa Nhà nước và cộng đồng nên Nhà nước hết sức hỗ trợ người dân trong việc đảm bảo không gian tổ chức, duy trì thời gian thiêng cũng như các nghi lễ và lễ vật dâng cúng. 4.1.5. Nhà nước, cộng đồng và biểu tượng hoá Trong xu thế biến dạng và mai một khá mạnh của nhiều lễ hội cổ truyền ở Việt Nam hiện nay, lễ hội đền Và là một trong những lễ hội còn bảo lưu được nhiều yếu tố “gốc”, nghi lễ tế và rước đặc sắc mà ít lễ hội dân gian có được. Trải qua bao thăng trầm của thời gian và biến thiên lịch sử, lễ hội vẫn giữ được những nét độc đáo riêng có, “độc nhất vô nhị” của nó. 4.2. Những xu hướng biến đổi của vốn xã hội trong lễ hội đền Và hiện nay
4.2.1. Quyền lực hoá vốn xã hội Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh chính là một cách quyền lực hoá hình tượng một vị Nhiên thần, Nhân thần và “Bách nghệ tổ sư” của triều đình về với làng xã mà nhận được sự đồng thuận to lớn từ cả phía triều đình phong kiến và làng xã nông thôn. 4.2.2. Kinh tế hoá vốn xã hội Trên phương diện đóng góp kinh tế cho lễ hội, chúng ta thấy, số lượng những cửa hàng buôn bán vàng mã để sử dụng làm lễ vật, các sản phẩm nghi lễ và số lượng người cung cấp các dịch vụ nghi lễ đang tăng lên, các dịch vụ tâm linh cứ theo đà mà nở rộ. Con người cầu ước sự giàu có thông qua vô số nghi lễ. Lễ hội góp phần vào việc phân hóa giàu nghèo mà bất cứ nước xã hội chủ nghĩa nào cũng không mong muốn. Các lễ vật do doanh nhân thành đạt, cán bộ cấp cao chuẩn bị khác xa so với những người lao động nghèo, dù họ cùng sống trong một cộng đồng. Phát triển lễ hội đã thể hiện sự phân hóa xã hội sâu sắc.
21
Số tiền và hiện vật công đức cho nghi lễ đã trở thành cách thể hiện địa vị và quyền lực của người đóng góp. Đó là lý do mà các cán bộ, quan chức nhà nước và lãnh đạo địa phương tranh nhau đóng góp cho công tác tổ chức lễ hội. Rõ ràng, người ta không thể huy động tiền cho các lễ hội nếu như nền kinh tế không thịnh vượng. Cuộc điền dã lễ rước kiệu tại hội chính đền Và tháng 2 năm 2 17 cho thấy một sự khác biệt đáng kể của những tổ dân phố trong việc sắp lễ nghênh Thánh đi qua. Các lễ vật phong phú, đầy màu sắc, nhiều ý nghĩa đã phản ánh một xu hướng “phú quý sinh lễ nghĩa” của xã hội đương đại.
Trên phương diện “làm kinh tế” từ lễ hội, nhiều nhà nghiên cứu nói, kinh tế thị trường len lỏi đến các di tích, khi người làm kinh tế đã có sự mặc cả rõ ràng với thần thánh, đem tham sân si đến cửa thánh, cửa thiền. Điều này không sai bởi nhiều năm nay, các di sản đã trở thành công cụ làm kinh tế. Khi coi lễ hội, di tích là chiếc “máy in tiền” thì khách hành hương cũng trở thành khách hàng để phục vụ mục đích tăng doanh thu. Điều này cho thấy, bản chất của rất nhiều lễ hội hiện nay đã hoàn toàn khác xưa. Ngày xưa, các địa phương tổ chức lễ hội để tri ân thánh thần, tri ân người có công, đem lại niềm vui cho người dân địa phương. Bây giờ, ngoài những mục đích ấy, lễ hội còn phải “làm kinh tế”. 4.2.3. Văn hoá hoá vốn xã hội 4.2.3.1. Dân tộc hoá truyền thống vốn xã hội Lễ hội đền Và được tổ chức nhằm mục đích thiết lập sự tiếp nối với nguyên bản của lễ hội trong quá khứ và thuận tiện cho việc tuân thủ những nghi lễ đó. Hành vi của dân làng trong nghi lễ cho thấy rõ rằng truyền thống đã thay đổi nhưng vẫn được tiếp tục. Một cách hiển nhiên, truyền thống được tạo ra bao trùm tính liên tục của quá khứ thông qua việc nó không ngừng làm cho người dân thấm nhuần các giá trị và tiêu chuẩn nhất định, dựa vào bối cảnh quá khứ để đảm bảo giá trị và tính xác thực của mình. 4.2.3.2. Hỗn dung tín ngưỡng trong vốn xã hội Hiện nay, di tích và lễ hội đền Và đã là môi trường để tồn tại cả sự bảo lưu truyền thống và hỗn dung tín ngưỡng thờ Thánh với tín ngưỡng thờ Mầu. Tuy đã có sự hỗn dung khá sâu sắc nhưng không thể phủ nhận rằng tại đây, tín ngưỡng thờ Mẫu không có ảnh hưởng quá lớn, lấn át tới tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh. Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh đang được bảo lưu rất tốt qua việc lễ hội đền Và được tổ chức hằng năm với sự dày công chuẩn bị của các làng, qua những truyền thuyết còn được lưu truyền từ đời ông cha tới các thế hệ trẻ bây giờ, qua những niềm tin của nhân dân nơi đây với sự che chở và bảo hộ của Tản Viên Sơn Thánh. Vậy nên có thể nói rằng hai xu hướng: hỗn dung và bảo lưu vẫn luôn tồn tại song song và đồng hành với nhau tại đền Và, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
22
4.2.4. Sức mạnh vốn xã hội của lễ hội đền Và trong bối cảnh đương đại Qua việc phân tích, tìm hiểu VXH qua lễ hội đền Và và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản cho chúng ta thấy có nhiều nét mới của việc thực hành tín ngưỡng trong bối cảnh xã hội hiện nay. Nền kinh tế thị trường đem lại một cuộc sống tốt đẹp hơn, người dân có điều kiện tham gia dễ dàng và ủng hộ tích cực về cả vật chất lẫn tinh thần cho lễ hội. Nhưng kinh tế thị trường với những bấp bênh, rủi ro, được mất trong phút chốc khiến cho một số đông tin vào tín ngưỡng như sự cứu vớt tinh thần, đem lại niềm tin và động lực hy vọng cho chính họ. Hơn nữa, nền kinh tế thị trường và xã hội hiện đại cũng là môi trường giúp Nhà nước củng cố và nâng cao VXH thông qua việc thiết lập chặt chẽ quyền lực của mình, mở rộng mối quan hệ xã hội và chính thống hoá vai trò tổ chức. Như vậy, VXH được hình thành trong quá khứ nhưng vai trò và ảnh hưởng của nó vẫn chưa bao giờ ngừng lại. Chính vì vậy, VXH chính là một quá trình mang tính tái tạo, hình thành để tạo nên lợi ích, lợi ích tiếp tục được sinh sôi, phát triển và trở thành một dạng thức VXH, tiếp đó, nó quay lại để tham gia vào việc thực hành tín ngưỡng và tổ chức lễ hội.
Tiểu kết Lễ hội truyền thống vốn là hình thức sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng gắn liền với xã hội nông nghiệp cổ truyền nhưng có sức sống trường tồn qua nhiều giai đoạn lịch sử và phản ánh được nhiều hình thái khác nhau của Nhà nước cũng như đời sống của cộng đồng. Chính vì vậy, lễ hội không đơn thuần chỉ dừng lại ở lĩnh vực văn hoá mà còn mang ý nghĩa về chính trị, kinh tế và xã hội. Trong xu thế toàn cầu hoá và bối cảnh đương đại như hiện nay, tổ chức lễ hội được các quốc gia quan tâm để thông qua đó nhà nước có thể gắn kết hơn với cộng đồng chủ thể trong quản lý xã hội, củng cố vị thế chính trị trong nước và thế giới, khẳng định bề dày lịch sử phát triển cũng như giữ gìn bản sắc văn hoá quốc gia. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa Nhà nước, cộng đồng và vốn xã hội trong lễ hội đền Và là mối quan hệ tất yếu, được tạo dựng cũng như thu nhận lại trên nhiều lợi ích khác nhau mà trong phạm vi luận án, NCS đề cập đến các khía cạnh: định chế xã hội, phân công xã hội, “sáng tạo truyền thống”, cái thiêng và biểu tượng hoá
Như chúng ta đã biết thì lễ hội không phải là một sản phẩm của quá khứ với những giá trị và hình thái bất di bất dịch. Trong phạm vi luận án, chúng tôi đề cập đến các xu hướng như: chính trị hoá vốn xã hội, thị trường hoá vốn xã hội, dân tộc hoá truyền thống vốn xã hội, hỗn dung tín ngưỡng trong vốn xã hội cũng như sức mạnh mềm của vốn xã hội tại lễ hội đền Và trong bối cảnh đương đại. Những xu hướng này phản ánh tính động của di sản cũng như những biến động của môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội có thể tác động đến vốn xã hội trong lễ hội đền Và.
23
KẾT LUẬN
1. Trong vài thập kỷ trở lại đây, gương mặt lễ hội hiện lên trong diện mạo mới với những lễ nghi, trò diễn, nghi thức và cả tín ngưỡng. Trong bức tranh chung về sự “trỗi dậy” mạnh mẽ đó, quy mô lễ hội cũng trở nên lớn hơn, sự tham gia của Nhà nước và cộng đồng cũng có những biến đổi nhất định. Những điều này gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ về bản chất của lễ hội hiện nay: lễ hội có phải chỉ đơn thuần là một sinh hoạt văn hóa thông thường hay là cơ hội để liên kết các mối quan hệ xã hội ? Những thành viên trong cộng đồng đến với nhau liệu có phải chỉ vì nhu cầu tìm đến sự cộng cảm, vì niềm tin tín ngưỡng hay còn vì vấn đề lợi ích kinh tế, lợi ích của bản thân? Bối cảnh xã hội nào đã tác động làm đa dạng hóa bản chất của các mối quan hệ đó? Và các mối quan hệ này giúp gì cho họ trong cuộc sống? Nói một cách khái quát, đó là việc tham gia vào lễ hội giúp Nhà nước và cộng đồng nhận được nhưng lợi ích như thế nào?
2. Như chúng ta biết, mặc dù có chậm hơn so với các quốc gia khác trong việc tiếp cận khái niệm và khung lý thuyết này, song tính đến nay, ở Việt Nam đã có khoảng vài chục nghiên cứu về VXH bao gồm các bài viết đăng trên các tạp chí, sách, báo và luận án. Hầu hết các nghiên cứu đề cập đến VXH trong phát triển kinh tế, giáo dục và xã hội dân sự, thiếu vắng các công trình nghiên cứu về VXH trong lễ hội, và việc tạo lập cũng như sử dụng VXH trong lễ hội này của Nhà nước và cộng đồng như thế nào. Chính vì vậy, luận án sẽ tiếp cận VXH trong lễ hội từ khía cạnh các bên tham gia với những phương thức tạo lập, biểu hiện cũng như động thái lợi ích, cụ thể là Nhà nước và cộng đồng.
3. Khảo cứu nguồn tài liệu, có thể thấy lễ hội đền Và đã được tiếp cận dưới nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó chúng ta chủ yếu nói đến những nghiên cứu và tiếp cận ở các góc độ văn học và văn hóa học… Tuy nhiên, hạn chế dễ nhận thấy trong khi tổng quan tư liệu là các nguồn tài liệu thường chỉ tập trung nghiên cứu về bản thân lễ hội này như thời gian, không gian, diễn trình cũng như nhiệm vụ của các thành viên trong tổ chức lễ hội mà dường như ít quan tâm đến việc nghiên cứu cơ sở hình thành, biểu hiện cũng như lợi ích của VXH trong lễ hội đền Và, cụ thể ở đây là từ Nhà nước và cộng đồng.
4. Tìm hiểu về VXH của Nhà nước, chúng ta thấy, mặc dù Nhà nước không trực tiếp tạo ra tín ngưỡng nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc quản lý tín ngưỡng. Chính vì vậy, để tìm hiểu về cơ sở hình thành cũng như biểu hiện của VXH của Nhà nước, luận án đã đi vào phân tích sự mở rộng lớp tín ngưỡng của hình tượng Đức Thánh Tản, từ đó khẳng định Ngài vốn không phải là một con người có thật mà chính là sản phẩm của triều đình phong kiến. Từ đó, Nhà nước cũng có thể chính thống hóa vai trò tổ chức
24
và hài hoà trách nhiệm giữa làng chính và làng phụ trong khâu tổ chức cũng như củng cố và mở rộng mối quan hệ xã hội với các địa phương bạn. Cũng trong khuôn khổ trách nhiệm và quyền hạn của mình, Nhà nước có thể “sáng tạo truyền thống” và phân công xã hội.
5. Tìm hiểu về VXH của cộng đồng, chúng ta có thể phân tích trên ba phương diện, đó là: kinh tế, văn hoá và biểu tượng. Xét trên phương diện kinh tế, lễ hội và tín ngưỡng được tạo lập phản chiếu trung thực loại hình kinh tế của cộng đồng, có nghĩa là trong lễ hội, VXH có thể được hiểu ở loại hình kinh tế của cộng đồng. Trên phương diện văn hoá, VXH trong lễ hội đã đáp ứng sự vận động duy trì thăng bằng tâm lý mà dường như khó có hình thức nào khác của văn hóa có thể làm được như vậy. Trên phương diện biểu tượng, cộng đồng đã tạo ra lịch sử và văn hóa thông qua biểu tượng Đức Thánh Tản cũng như các hành vi, các lễ vật dâng cúng Ngài. Từ đó, biểu tượng ẩn chứa trong nó tính thiêng, chính yếu tố này tạo nên đức tin và ước mơ cho con người, góp phần nối liền các tâm hồn lại với nhau.
. Trong xu thế toàn cầu hóa và bối cảnh đương đại như hiện nay, tổ chức lễ hội được các quốc gia quan tâm để thông qua đó nhà nước có thể gắn kết hơn với cộng đồng chủ thể trong quản lý xã hội, củng cố vị thế chính trị trong nước và thế giới, khẳng định bề dày lịch sử phát triển cũng như giữ gìn bản sắc văn hóa quốc gia. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa Nhà nước, cộng đồng và VXH trong lễ hội đền Và là mối quan hệ tất yếu, được tạo dựng cũng như thu nhận lại trên nhiều lợi ích khác nhau. Qua các mối quan hệ tương tác, quyền lực chính thức và phi chính thức, lễ hội luôn vận động và phát triển. Điều quan trọng là Nhà nước và cộng đồng cần thích ứng với những biến đổi đó và vận dụng một cách hiệu quả VXH trong việc bảo tồn giá trị di sản cũng như mang lại những lợi ích cho Nhà nước và cộng đồng.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thùy Linh (2 2 ), “Vai trò của vốn xã hội trong việc hình thành
bảo lưu lễ hội truyền thống - nhìn từ lễ rước y trang nữ thần
của người Chăm và Raglai (Ninh Thuận)”, Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, (429), tr.37-40.
2. Nguyễn Thùy Linh (2 2 ), “Tác động của định chế xã hội đến việc thực
hành tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản tại đền Và, Sơn Tây, Hà
Nội”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, (34), tr.37-48.
3. Nguyễn Thùy Linh (2 2 ), “Tiếp cận lễ hội cổ truyền từ góc nhìn định
chế xã hội: Tam giác quan hệ nhà nước, cộng đồng và truyền
thống trong tổ chức lễ hội đền Và, Sơn Tây, Hà Nội, hiện nay”,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế "Việt Nam học ngày nay",
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.231-243.
4. Nguyễn Thuỳ Linh (2 2 ) (chủ nhiệm đề tài), “Tạo lập và huy động
vốn xã hội trong bảo lưu và phát huy tín ngưỡng thờ Đức
Thánh Tản tại đền Và, Sơn Tây, Hà Nội”, Đề tài Cấp trường
SPHN19-14, Cơ quan chủ trì: Đại học Sư phạm Hà Nội.
5. Nguyễn Thuỳ Linh (2 21) (viết chung), “Phát huy vai trò của định chế xã
hội trong quản lý lễ hội Katê của người Chăm ở Ninh Thuận hiện
nay”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, (37), tr.64-68.