NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
---------------------------
PHẠM TIẾN MẠNH
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI, 2019
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
--------------------------
PHẠM TIẾN MẠNH
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
MÃ SỐ : 9.34.02.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : 1. PGS. TS. NGUYỄN THANH PHƯƠNG
2. TS. ĐÀO LÊ MINH
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận án có tính độc lập, số liệu và dữ liệu sử dụng trong luận án được trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm lời cam đoan trên.
Người cam đoan
Phạm Tiến Mạnh
i
MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................. IV DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH ............................................................................ V MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ............................................................ 7 1.Tổng quan nghiên cứu nước ngoài ........................................................................ 7 1.1.Nguồn cung vốn đối với việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ...... 7
1.2.Các yếu tố chính sách tác động đến sự hình thành và phát triển của quỹ đầu tư
mạo hiểm ............................................................................................................... 12
1.3.Những yếu tố nội tại tác động đến sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm........ 17
2. Tổng quan nghiên cứu trong nước ............................................................... 19 3. Khoảng trống nghiên cứu ............................................................................. 22 Kết luận chương 1 ................................................................................................... 24 CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN .................. 25 QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM.................................................................................... 25 2.1. Khái niệm về vốn đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm ........................ 25 2.1.1. Vốn đầu tư mạo hiểm ................................................................................... 25
2.1.2. Quỹ đầu tư mạo hiểm ................................................................................... 27
2.2. Lý luận về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm .............................. 30 2.2.1. Xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm .................................................................... 33
2.2.2. Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm .................................................................... 48
2.2.3. Vai trò của xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm .............................. 50
2.2.4. Nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ........... 53
Kết luận chương 2 ................................................................................................... 63 CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ................................ 64 QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TRÊN THẾ GIỚI ..................................................... 64 3.1. Thực tiễn quá trình hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới.................................................................................................................................64 3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm.................................. 64
3.1.2. Xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới ................................ 66
3.2. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Trung Quốc và Hàn Quốc ................................................................................................................ 67 3.2.1. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc .. 67
3.2.2. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc ..... 82
3.3. Bài học .............................................................................................................. 93
ii
3.3.1. Chính phủ đóng vai trò thiết yếu trong quá trình xây dựng và phát triển quỹ
đầu tư mạo hiểm .................................................................................................... 93
3.3.2. Tập trung đầu tư vào lĩnh vực yêu cầu trình độ khoa học, công nghệ cao ..... 96
3.3.3. Tận dụng thu hút nguồn vốn đầu tư mạo hiểm từ tất cả các thành phần trong
xã hội ..................................................................................................................... 96
3.3.4. Mạng lưới kết nối trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm ....................................... 97
3.3.5. Lựa chọn hình thức quỹ đầu tư mạo hiểm phù hợp trong từng thời kỳ .......... 98
3.3.6. Tập trung phát triển thị trường chứng khoán................................................. 98
Kết luận chương 3 ................................................................................................... 99 CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN .......................... 100 QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM ......................................................... 100 4.1. Giới thiệu về môi trường nhân tố tác động đến hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ................................................................................................... 100 4.1.1. Chính sách của chính phủ ........................................................................... 100
4.1.2. Giá trị văn hóa xã hội đối với kinh doanh ................................................... 104
4.1.3. Tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ .................................................... 106
4.1.4. Địa điểm .................................................................................................... 109
4.1.5. Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm ................................................................. 111
4.2. Thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ....... 115 4.2.1. Thực trạng xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam............................ 116
4.2.2. Thực trạng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ............................. 119
4.3. Kết quả khảo sát nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ........................................................................................... 139 4.3.1. Thống kê mô tả .......................................................................................... 139
4.3.2. Phân tích nhân tố tác động đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở
Việt Nam ............................................................................................................. 143
4.4. Đánh giá chung về thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ............................................................................................................... 149 4.4.1. Kết quả đạt được ........................................................................................ 150
4.4.2. Tồn tại và nguyên nhân .............................................................................. 151
Kết luận chương 4 ................................................................................................. 158 CHƯƠNG 5. KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH NHẰM XÂY DỰNG ................ 159 VÀ PHÁT TRIỂN QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM ......................... 159 5.1. Định hướng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ...... 159
iii
5.2. Một số khuyến nghị chính sách nhằm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ................................................................................................... 162 5.2.1. Xây dựng khung pháp lý đồng bộ ............................................................... 162
5.2.2. Có cơ chế đặc thù cho quỹ đầu tư mạo hiểm............................................... 163
5.2.3. Thu hút nguồn lực cho quỹ đầu tư mạo hiểm .............................................. 164
5.2.4. Khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm tập trung đầu tư vào lĩnh vực công
nghệ cao............................................................................................................... 165
5.2.5. Xây dựng mạng lưới kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm ............................... 166
5.2.6. Gợi ý hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm ở
Việt Nam ............................................................................................................. 166
5.2.7. Quản lý nhà nước đối với quỹ đầu tư mạo hiểm ......................................... 177
5.2.8. Lộ trình tăng cường xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
............................................................................................................................ 179
Kết luận chương 5 ................................................................................................. 182 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 183 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 185 PHỤ LỤC ............................................................................................................... 192
iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải AMAC CBRC CIRC CSRC GGF GPs HNX HOSE IPO LPs NDRC NĐT NSSF QĐT UBCK VEIL VOF
Hiệp hội quản lý tài sản Trung Quốc Ủy ban quản lý ngân hàng Trung Quốc Ủy ban điều tiết bảo hiểm Trung Quốc Ủy ban điều tiết chứng khoán Trung Quốc Quỹ đầu tư định hướng của chính phủ Các cổ đông điều hành (General Partners) Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội Sở giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng Các cổ đông góp vốn (Limited Partners) Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia Nhà đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ đầu tư Ủy ban Chứng khoán Quỹ Vietnam Enterprise Investments Limited Quỹ Vietnam Opportunity Fund
v
Bảng 2. 1. So sánh quỹ đầu tư và quỹ đầu tư mạo hiểm .....................................................................29
Bảng 4. 1. Số lượng các cơ sở đào tạo, nghiên cứu tại Việt Nam ......................................................106
Bảng 4. 2. Số lượng chức danh tại Việt Nam giai đoạn 2015-2017 ..................................................106
Bảng 4. 3. Danh sách các nhà đầu tư tổ chức tại Việt Nam ..............................................................114
Bảng 4. 4. Bội chi ngân sách giai đoạn 2010-2017...........................................................................114
Bảng 4. 5. Các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam trong giai đoạn 1991-1996 .................................117
Bảng 4. 6. Một số quỹ đầu tư mạo hiểm dành cho khởi nghiệp của Việt Nam ..................................117
Bảng 4. 7. Cơ cấu đầu tư của VEIL trong năm 2005, 2015 ..............................................................125
Bảng 4. 8. Phân bổ tài sản đầu tư của Vietnam Opportunity Fund (VOF) .........................................126
Bảng 4. 9. Danh mục đầu tư tại các quỹ đầu tư mạo hiểm thuộc Mekong Capital (2002-2015) .........127
Bảng 4. 10. Danh mục đầu tư của IDG Ventures Vietnam giai đoạn 2002-2015 ...............................129
Bảng 4. 11. Tỷ trọng đầu tư của VEIL, năm 2016 và 2018...............................................................131
Bảng 4. 12. Tỷ trọng đầu tư của VOF ..............................................................................................131
Bảng 4. 13. Danh mục đầu tư của Quỹ Mekong Enterprise Fund III hiện nay ..................................132
Bảng 4. 14. Danh mục đầu tư của IDG Ventures Vietnam ...............................................................133
Bảng 4. 15. Lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm ..............................................................133
Bảng 4. 16. Giá trị giá trị tài sản ròng (NAV) của VEIL và VOF .....................................................136
Bảng 4. 17. Tốc độ tăng trưởng NAV của VEIL và VOF .................................................................137
Bảng 4. 18. Giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF ...........................................................................138
Bảng 4. 19. Tốc độ tăng trưởng giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF .............................................138
Bảng 4. 20. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố chính sách của chính phủ ......................................143
Bảng 4. 21. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về văn hóa, xã hội .................................................144
Bảng 4. 22. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về năng lực đào tạo, nghiên cứu ............................145
Bảng 4. 23. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố địa điểm đầu tư .....................................................145
Bảng 4. 24. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về nguồn lực .........................................................146
Bảng 4. 25. Bảng tổng hợp các biến và thang đo sau Phân tích Cronbach’s Alpha ...........................146
Bảng 4. 26. Kết quả phân tích Principle-Component Factor .............................................................147
Bảng 4. 27. Tổng hợp kết quả phân tích nhân tố khám phá ..............................................................149
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Hình 2. 1. Đối tượng tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm ...................................................................34
Hình 2. 2. Cấu trúc quỹ đầu tư mạo hiểm ..........................................................................................36
Hình 2. 3. Nhân tố cần thiết để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm .....................................56
Hình 2. 4. Mô hình nghiên cứu ..........................................................................................................61
Hình 3. 1. Vốn đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc ..................................................................................85
Hình 3. 2. Giá trị đầu tư giai đoạn 2004-2018 tại Hàn Quốc...............................................................86
Hình 3. 3. Cấu trúc Quỹ của quỹ tại Hàn Quốc ..................................................................................91
Hình 3. 4. Các bước lựa chọn công ty quản lý quỹ .............................................................................91
Hình 3. 5. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc (%) ......................................................93
Hình 4. 1. Số lượng văn bản liên quan đến khoa học, công nghệ tại Việt Nam ................................. 102
Hình 4. 2. Các cơ quan ban hành các quy định trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam .................. 104
Hình 4. 3. Số lượng các văn bản liên quan đến chứng khoán được ban hành .................................... 104
Hình 4. 4. Tỷ trọng dư nợ cho vay DNNNV/ Tổng dư nợ (năm 2016).............................................. 112
Hình 4. 5. Số dân Việt Nam giai đoạn 1990 – 2050 (dự tính) ........................................................... 113
Hình 4. 6. Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam giai đoạn 1990-2002 .................................... 123
Hình 4. 7. Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, giai đoạn 2002-2015 ................................... 123
Hình 4. 8. Nơi làm việc của đối tượng khảo sát ............................................................................... 140
Hình 4. 9. Kinh nghiệm đầu tư của đối tượng khảo sát ..................................................................... 140
Hình 4. 10. Trình độ học vấn của đối tượng khảo sát ....................................................................... 140
Hình 4. 11. Câu hỏi ở Việt Nam hiện nay đã có quỹ đầu tư mạo hiểm hay chưa ............................... 140
Hình 4. 12. Câu hỏi quỹ đầu tư mạo hiểm nào đang chiếm ưu thế tại Việt Nam ............................... 142
Hình 4. 13. Câu hỏi tỷ lệ thất bại khi đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm .................................... 142
Hình 4. 14. Câu hỏi về lĩnh vực đầu tư ưa thích của quỹ đầu tư mạo hiểm .......................................142
Hình 4. 15. Câu hỏi về vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm đối với nền kinh tế ....................................143
vi
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ thời điểm đổi mới năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu đáng ghi nhận; Việt Nam luôn nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới, tỷ lệ hộ nghèo giảm, chất lượng cuộc sống của
người dân không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, việc đổi mới nền kinh tế, xây dựng và
phát triển đất nước là một quá trình không ngừng nghỉ, đòi hỏi kết hợp nhiều yếu tố
nhằm tạo ra tốc độ tăng trưởng bền vững, có sức cạnh tranh cao.
Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển, có trình độ khoa học công nghệ cao
như Mỹ, Châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc, Israel, v.v… cho thấy, yếu tố đầu tư mạo
hiểm đóng vai trò then chốt trong quá trình đổi mới công nghệ, hiện đại hóa đất nước,
nâng tầm phát triển của các doanh nghiệp trong nước, hướng tới sức cạnh tranh toàn
cầu; trong đó, các quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò trung gian trong việc luân chuyển
vốn từ các cá nhân, tổ chức có vốn, sẵn sàng chấp nhận đầu tư vào các dự án mạo hiểm
có triển vọng, với mục đích đạt được mức sinh lời cao trong tương lai. Lịch sử hình
thành các quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới cho thấy; Mỹ là quốc gia có quỹ đầu tư
mạo hiểm đầu tiên, được hình thành từ năm 1946; tiếp sau đó là các quốc gia ở Châu
Âu như Anh Quốc và Ireland (năm 1970), với cách thức hoạt động chủ yếu theo kinh
nghiệm và vốn của người Mỹ. Sau đó, đến những năm 1980, các quốc gia khác tại
Châu Âu cũng bắt đầu quan tâm và đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, với phương
thức đầu tư và mô hình quỹ tương tự tại Mỹ. Kết quả cho thấy, Mỹ và Châu Âu là hai
khu vực phát triển nhất trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, chiếm tới 80% giá trị đầu tư
mạo hiểm trên thế giới (Vanham, 2015) [97].
Kinh nghiệm tại các quốc gia như Trung Quốc và Hàn Quốc, chính phủ các
quốc gia này sớm nhận thức được vai trò quan trọng của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói
chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng, đã sớm quan tâm, đầu tư, thúc đẩy lĩnh
vực này phát triển, nhằm tạo ra động lực phát triển kinh tế bền vững. Cụ thể, trong
những giai đoạn đầu hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm, hai quốc gia
này đã tập trung vào quá trình cải cách cơ chế, chính sách, tập trung phát triển thị
trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy các quỹ đầu tư
mạo hiểm phát triển, mở rộng quy mô đầu tư; ngoài ra, các yếu tố như tạo nguồn lực
cho các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động vốn, định hướng lĩnh vực đầu tư của các quỹ
2
đầu tư mạo hiểm, tạo mạng lưới kết nối cộng đồng đầu tư mạo hiểm trong và ngoài
nước, đã và đang phát huy tốt vai trò trong quá trình phát triển của các quỹ đầu tư mạo
hiểm tại các quốc gia này.
Tại Việt Nam, đầu tư mạo hiểm vẫn được coi là lĩnh vực khá mới, mới được
chính phủ quan tâm về mặt chính sách khuyến khích phát triển từ năm 2015 trở lại
đây, thông qua các thông tư, quyết định, nghị định hoặc các điều luật được ban hành
để thúc đẩy quá trình hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích thành lập các quỹ đầu tư mạo
hiểm dành cho khởi nghiệp sáng tạo, hoặc thúc đẩy các thành phần kinh tế tham gia
đầu tư mạo hiểm, v.v… nhằm tận dụng được sức mạnh của nền kinh tế trong phát triển
đất nước. Thực tế cho thấy, phần lớn các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt
Nam là các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài, với thời gian tham gia thị trường đầu
tư mạo hiểm Việt Nam từ những năm 1991; còn đến năm 2015, mới xuất hiện các quỹ
đầu tư mạo hiểm do Việt Nam chính thức thành lập và đi vào hoạt động. Cho đến nay,
các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam còn ít, quy mô vốn và lĩnh vực
đầu tư còn hạn chế, chưa phát huy được vai trò nổi bật thúc đẩy quá trình khởi nghiệp,
sáng tạo, nâng cao hiệu quả kinh tế của Việt Nam.
Do vậy, việc hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
trong tương lai còn nhiều vấn đề, góc độ cần bàn đến; nhằm tạo điều kiện cho lĩnh vực
đầu tư mạo hiểm nói chung, và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng, được phát triển bền
vững, lành mạnh, tạo điều kiện thúc đẩy trình độ khoa học kỹ thuật của Việt Nam nói
riêng, và nền kinh tế Việt Nam phát triển.
Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo
hiểm ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Câu hỏi nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Luận án có các mục tiêu nghiên cứu chính đó là:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm,
trong đó tìm hiểu sâu về môi trường cần thiết cho hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm;
các tiêu chí đánh giá sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá trình hoạt động
của mình.
Phân tích thực trạng xây dựng và phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang
hoạt động tại Việt Nam, bao gồm cả các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài và do
3
Việt Nam thành lập. Từ đó đánh giá mức độ phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm
đang hoạt động tại Việt Nam, chỉ ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
Xây dựng mô hình kinh tế lượng nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc
hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp khuyến khích việc hình thành, hỗ
trợ sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam trong tương lai.
Đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy việc hình thành và phát
triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, trong đó có các giải pháp về khung pháp
lý, xây dựng các cơ chế đặc thù cần thiết, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động, vấn
đề quản lý nhà nước, và đề xuất lộ trình cần thiết để hỗ trợ việc hình thành và phát
triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu của luận án này nhằm trả lời ba câu hỏi sau đây:
Thứ nhất: Thực trạng xây dựng và phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt
Nam hiện nay như thế nào?
Thứ hai: Nhân tố nào cần thiết cho việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo
hiểm ở Việt Nam hiện nay?
Thứ ba: Những chính sách nào cần thiết để thúc đẩy quá trình xây dựng và phát
triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam hiện nay?
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo
hiểm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài và các quỹ đầu
tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập, đang hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt
động tại Việt Nam, giai đoạn từ 1990 – 2018.
Hạn chế nghiên cứu: Do việc thu thập số liệu về các quỹ đầu tư mạo hiểm đang
hoạt động tại Việt Nam rất khó khăn, các quỹ đầu tư mạo hiểm nhỏ, mới thành lập
không công bố số liệu về quá trình đầu tư, kết quả hoạt động kinh doanh của mình, vì
vậy nghiên cứu trong luận án này tập trung vào 4 quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất đang
4
hoạt động tại Việt Nam, đó là các quỹ đầu tư thuộc: VinaCapital, Mekong Capital,
IDG Venture, và Dragon Capital. Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng dữ liệu sẵn có
được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng của các quỹ đầu tư mạo hiểm
do Việt Nam thành lập (từ 2015 trở lại đây).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án đã sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với phương pháp trừu
tượng hóa khoa học, phương pháp nghiên cứu định tính, định lượng nhằm đạt được
mục tiêu nghiên cứu toàn diện, có hệ thống.
Ngoài ra, các phương pháp kỹ thuật chủ yếu được sử dụng trong luận án bao
gồm các phương pháp thống kê, so sánh, đánh giá, phương pháp phân tích hệ thống và
một số phương pháp khác. Cụ thể:
Đối với dữ liệu sơ cấp, luận án sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu và phương
pháp khảo sát thông qua các câu hỏi có liên quan đến luận án. Đối với phỏng vấn sâu,
luận án lựa chọn các chuyên gia đang làm việc tại Ủy Ban chứng khoán Nhà nước
(chủ yếu các cán bộ đang làm việc tại Vụ Quản lý quỹ), các chuyên gia đang làm việc
tại các quỹ đầu tư có văn phòng đại diện/ văn phòng chính tại Hà Nội. Từ việc phỏng
vấn sâu các chuyên gia này, kết hợp với các nghiên cứu trước đây của các tác giả trong
và ngoài nước về quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án đã rút ra được một số yếu tố chính có
tác động đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm; từ đó hình thành nên
được bộ câu hỏi phục vụ cho việc khảo sát.
Đối với phiếu khảo sát, được thiết kế dưới hai dạng: (1) dạng trực tuyến thông
qua sử dụng công cụ Google Docs; (2) Phiếu điều tra bằng giấy được in ra khổ giấy
A4; phiếu điều tra này sau đó được gửi đi tới các đối tượng có kinh nghiệm trong lĩnh
vực đầu tư nói chung, và đầu tư mạo hiểm nói riêng, dưới dạng thư điện tử, gửi trực
tiếp hoặc qua bưu điện; đối với phiếu điều tra trực tuyến, kết quả được cập nhật tự
động trên kết quả trực tuyến; đối với các phiếu điều tra gửi trực tiếp hoặc gửi qua bưu
điện, người trả lời sẽ chụp hình kết quả phiếu điều tra, gửi qua các công cụ mạng xã
hội (Messenger, Zalo, Viber, email), hoặc gửi trực tiếp tới người hỏi. Nội dung phiếu
khảo sát bao gồm 4 phần chính” (1) Thông tin cá nhân; (2) Đánh giá mức độ hiểu biết
và quan điểm về đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; (3) Các nhân tố ảnh hưởng đến xây
5
dựng và phát triên quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; (4) Các nhân tố giải pháp xây
dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Từ việc có số liệu sơ cấp về các nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng và phát
triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, luận án sử dụng phương pháp kiểm dịnh
Cronbach’s Alpha nhằm kiểm tra chất lượng thang đo; sử dụng phương pháp nhân tố
khám phá EFA nhằm xác định mức độ tác động của từng thang đo và các biến quan sát
đến việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Đối với dữ liệu thứ cấp, luận án sử dụng dữ liệu đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo
hiểm đã có thời gian dài hoạt động đầu tư tại Việt Nam, với dữ liệu được thu thập từ
các website của các quỹ đầu tư đó, sau đó sử dụng phương pháp thống kê, so sánh,
nhằm tìm ra được chiều hướng phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động
tại Việt Nam. Với các dữ liệu vĩ mô, luận án sử dụng dữ liệu từ website chính thức của
Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Tổng Cục thống kê, Bộ giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư
Pháp, Tổng Cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Tài chính, v.v…
Đối với nội dung về giải pháp xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở
Việt Nam, luận án sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, nhằm kết hợp giữa
định hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam của chính phủ, với thực trạng
tại Việt Nam trong thời gian qua, nhằm đưa ra một số giải pháp xây dựng và phát triển
quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận án
Về mặt lý luận
- Luận án đã xây dựng bộ chỉ tiêu và hệ thống hóa các nhân tố ảnh hưởng đến việc
xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
Về mặt thực tiễn
- Luận án đã đánh giá toàn diện nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ
đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam trong những năm gần đây.
- Luận án đã sử dụng mô hình kinh tế lượng để kiểm định những yếu tố môi trường
tác động mạnh nhất đến việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt
Nam
- Luận án đã kết hợp kết quả nghiên cứu từ lý luận và thực tiễn, sau đó đề xuất hệ
thống giải pháp đồng bộ, có cơ sở khoa học và có giá trị ứng dụng cao nhằm khuyến
khích hình thành và thúc đẩy sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
6
trong điều kiện hiện nay, như khung pháp luật cần thiết, xây dựng cơ chế đặc thì cho
quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động; đề xuất ra lộ trình xây dựng và phát triển quỹ đầu tư
mạo hiểm ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ở góc độ lý luận, luận án đã hệ thống được cơ cở lý luận về quỹ đầu tư mạo
hiểm, về điều kiện hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm.
Ở góc độ thực tiễn, luận án được thực hiện trong bối cảnh chính phủ Việt Nam,
cộng đồng đầu tư chú trọng đến vấn đề đầu tư mạo hiểm, vấn đề khởi nghiệp nhằm tạo
ra các bước đột phá, phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng tinh thần doanh nhân cho
các thế hệ doanh nhân tại Việt Nam. Mặc dù quỹ đầu tư mạo hiểm bắt đầu tham gia
đầu tư ở Việt Nam từ năm 1991, nhưng đến năm 2015, chính phủ Việt Nam mới bắt
đầu có các văn bản, chủ trương về mặt chính sách, nhằm thúc đẩy lĩnh vực đầu tư mạo
hiểm nói chung, và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng phát triển. Luận án là nguồn tài
liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng và
phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
7. Cơ cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; nội dung luận án bao
gồm 05 chương:
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở lý luận về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm
Chương 3. Thực tiễn xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới
Chương 4. Thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
Chương 5. Giải pháp xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
7
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan nghiên cứu nước ngoài
1.1. Nguồn cung vốn đối với việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo
hiểm
Tại một số quốc gia, chính phủ đóng vai trò thiết yếu đối với sự hình thành, phát
triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm, ví dụ tại Đức có quỹ ERP-EIF Co-investment
Growth Facility, luôn duy trì giá trị tài sản 500 triệu euro, mục đích đồng hành cùng
các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân tại quốc gia này để cùng đầu tư vào các dự án có
triển vọng; tại Pháp có quỹ Fonds National D’amorcage, chuyên tài trợ cho các dự án
đầu tư mạo hiểm ở giai đoạn hạt giống (seed phase), với số vốn lên tới 400 triệu euro,
cùng đầu tư với 21 quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân khác nhau, với danh mục hiện nay
đang đầu tư vào khoảng 230 công ty trong lĩnh vực công nghệ thông tin, năng lượng
sạch, khoa học đời sống, v.v... Ständer (2017) [95].
Romain (2007) [87] cho rằng, mục tiêu chủ đạo của các quỹ đầu tư mạo hiểm do
chính phủ thành lập và quản lý nhằm bước đầu hình thành nên quan điểm đầu tư mạo
hiểm trong xã hội, tạo ra được thị trường đầu tư mạo hiểm tư nhân có lợi nhuận và tự
tồn tại được trong tương lai. Để làm được điều này, các quỹ đầu tư mạo hiểm do chính
phủ hỗ trợ cần thận trọng trong quá trình hoạt động, tránh thay thế hoặc có tác động
tiêu cực lên các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân; ngoài ra, nhóm tác giả còn nêu ra quan
điểm thận trọng đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm do chính phủ thành lập, với lập luận
cho rằng có thể các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân sẽ quá phụ thuộc vào các quỹ của
chính phủ, chỉ cố gắng huy động và góp vốn vào các dự án chung, hợp tác của hai bên,
bỏ mặc quy trình lọc dự án, rà soát đặc biệt trong quá trình thẩm định và kiểm soát dự
án cho đối tác của mình, hơn là tự mình xây dựng và nâng cao năng lực của chính
mình trong quá trình hoạt động.
Vai trò của chính phủ trong việc cung cấp vốn cho quỹ đầu tư mạo hiểm còn được
Black và Gilson (2000) [23] nhắc đến, bởi tại một số quốc gia và khu vực, nguồn vốn
này được coi là cực kỳ quan trọng, chỉ sau nguồn vốn từ các ngân hàng, trong quá
trình đầu tư, phát triển nói chung, và đầu tư mạo hiểm nói riêng. Nhiều quốc gia đã
cung cấp nhiều chương trình khác nhau để hỗ trợ các doanh nhân khởi nghiệp như các
quỹ đầu tư mạo hiểm do chính phủ tài trợ nhằm tài trợ cho các dự án của các doanh
nhân trẻ. Ví dụ chương trình Yozma của Israel, Corporation for Incentive of
8
Production (CORFU) của Chile, German Venture Financing Corporation (WFG) của
Đức; Early Stage Venture Fund (ESVF) của Singapore; Quỹ đổi mới cho các công ty
công công nghệ, Quỹ đầu tư công nghiệp, Quỹ định hướng chính phủ của Trung Quốc.
Chính các quỹ đầu tư mạo hiểm, do chính phủ hỗ trợ hoặc hỗ trợ này là những quỹ đầu
tàu, cung cấp nguồn vốn, cũng như hỗ trợ về mặt quản lý, nghiên cứu cho các công ty
đầu tư mạo hiểm tại các quốc gia này phát triển trong những giai đoạn đầu.
Liên quan đến nguồn vốn thu hút đầu tư vào quỹ đầu tư mạo hiểm từ trong công
chúng, Gompers và Lerner (1998) [50] cho rằng, những nhà đầu tư sẵn sàng góp vốn
vào đầu tư mạo hiểm là những người ưa thích rủi ro, và mong muốn thu được tỷ suất
sinh lời cao đối với vốn đầu tư của mình. Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, những nhà
đầu tư này không muốn gửi tiết kiêm tại ngân hàng, hay mua trái phiếu chính phủ mà
sẽ tìm kiếm các cơ hội đầu tư mạo hiểm, thông qua việc góp vốn vào quỹ hoặc tự mình
tìm kiếm các cơ hội để tài trợ vốn tại các công ty mới thành lập. Tuy nhiên, Gompers
và Lerner (1998) [51] cho rằng, lợi nhuận từ việc đầu tư vào các dự án đầu tư mạo
hiểm chỉ có thể thu được sau nhiều năm đầu tư, khi các dự án này đã có sự phát triển
nhất định, được công chúng biết đến, và được bán đi thông qua các phương pháp khác
nhau; do đó, những nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm là người có
tiền, hiểu biết trong đầu tư, và sẵn sàng chờ đợi cho quá trình đầu tư chín muồi.
Theo Gompers và các cộng sự (2004) [52], tại Mỹ, các nhà đầu tư tổ chức là đối
tượng chính góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, cũng như họ tự thực hiện các dự
án đầu tư mạo hiểm, với bình quân chiếm 75% tất cả các dự án đầu tư mạo hiểm, đều
có sự tham gia của các nhà đầu tư tổ chức, chủ yếu là các quỹ hưu trí (33%), công ty
bảo hiểm (17%), công ty chuyên đầu tư (26%). Trong khi đó, tại Trung Quốc, phần
lớn các nhà đầu tư góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm là các cá nhân, gia đình giàu
có (chiếm tới 54,4%), các công ty tư nhân (14,9%) và các tập đoàn đầu tư (8,5%) (Lin,
2015b) [70]. Trong nghiên cứu của Mayer và các cộng sự (2005) [76] về nguồn vốn
của các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động để triển khai các dự án mạo hiểm mà họ đầu
tư, với dữ liệu thu thập trong năm 2000 từ các quốc gia như Đức, Anh, Israel, Nhật
Bản, kết quả nghiên cứu cho thấy, một số dự án có nguồn vốn đầu tư được huy động từ
các quỹ hưu trí, các công ty bảo hiểm; nhưng hầu hết thông các các ngân hàng đầu tư.
Cụ thể, tại Nhật Bản và Đức, nơi ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nguồn vốn
đầu tư của nền kinh tế, hầu hết các dự án, đặc biệt dự án ở giai đoạn sau (later-stage)
9
có sự tham gia của các ngân hàng đầu tư; trong khi các giai đoạn đầu huy động vốn,
thường được các nhà đầu tư cá nhân và các quỹ của các công ty tham gia góp vốn.
Trong khi đó, tại Anh và Israel, các quỹ đầu tư và các công ty bảo hiểm hầu như không
tham gia giai đoạn đầu của dự án (early-stage), mà chỉ tham gia vào giai đoạn sau,
hoặc giai đoạn gần IPO của doanh nghiệp.
Liên quan đến yếu tố thị trường tác động đến việc huy động vốn của các quỹ đầu tư
mạo hiểm, Gompers và các cộng sự (2008) [53] nghiên cứu trên 3000 các quyết định
của dự án đầu tư mạo hiểm, trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2000; nhằm tìm ra
câu hỏi, liệu các yếu tố thị trường có ảnh hưởng đến việc ra quyết định đầu tư của các
nhà đầu tư mạo hiểm, khi đầu tư vào các dự án đầu tư chưa tốt; hay yếu tố thị trường
sẽ cung cấp các thông tin hữu ích cho việc đưa ra các quyết định đúng đắn tại các dự
án đầu tư mạo hiểm có triển vọng trong tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những
công ty đầu tư mạo hiểm có phản ứng mạnh nhất đối với yếu tố thị trường không phải
là các công ty đầu tư mạo hiểm mới hoặc chưa có nhiều kinh nghiệm, mà tác động
nhiều nhất đến các công ty đầu tư mạo hiểm đã có sự chuyên biệt trong lĩnh vực đầu
tư, có kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư của mình. Những công ty đầu tư mạo hiểm có
kinh nghiệm đầu tư lâu năm, thường tăng huy động vốn đầu tư khi thị trường bùng nổ,
đồng thời không có bằng chứng cho thấy sự sụt giảm kết quả hoạt động trong thời gian
này. Nhóm nghiên cứu cho rằng, việc thị trường cung cấp thông tin đầu tư, cho dù là
trực tiếp hay gián tiếp cho các đối tượng đầu tư, chính là động lực để các đối tượng
này tìm kiếm, phân bổ nguồn vốn đầu tư của mình. Tuy nhiên không phải công ty đầu
tư mạo hiểm nào cũng được hưởng lợi từ nguồn thông tin này của thị trường, mà yếu
tố chính tác động là nguồn lực con người. Tác giả cho rằng, độ nhạy của việc huy động
vốn của các công ty đầu tư mạo hiểm mặc dù có liên quan mật thiết đến lĩnh vực đầu
tư của nền kinh tế, nhưng yếu tố chính quan trọng nhất đó là mạng lưới tuyển dụng đối
với các nhà quản lý cấp cao, đối tượng khách hàng sử dụng sản phẩm, và các đối tác
chiến lược. Chính những đối tượng này đã góp phần tích cực trong việc định hướng,
huy động, phân bổ nguồn vốn đầu tư mạo hiểm trong xã hội.
Việc huy động vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm còn bị tác động bởi các yếu tố vĩ
mô. Gompers và Lerner (1998) [51] cho rằng, việc cam kết duy trì chính sách vĩ mô ổn
định của chính phủ sẽ tác động đến cả lợi nhuận dự tính cũng như các cơ hội đầu tư
thay thế, và đến cả nền sức khỏe nền kinh tế nói chung. Nếu nền kinh tế tăng trưởng
10
nhanh, sẽ tạo nhiều cơ hội tiềm tàng cho các doanh nhân khởi nghiệp, do đó tăng nhu
cầu vốn đối với các nhà đầu tư mạo hiểm. Các cơ hội đầu tư tốt có liên quan mật thiết
đối với các cam kết vững chắc của chính phủ đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, đến
mức tăng trưởng GDP, lợi nhuận trên thị trường chứng khoán, đến các chi phí dành
cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Bên cạnh đó, mức lãi suất của nền kinh tế cũng
tác động đến nguồn cung vốn dành cho các quỹ đầu tư mạo hiểm, bởi một cơ hội đầu
tư khác có thể cạnh tranh vốn với đầu tư mạo hiểm là kênh đầu tư trái phiếu. Nếu lãi
suất thị trường tăng, mức hấp dẫn đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể giảm,
bởi nó tác động đến việc sẵn sàng bỏ vốn vào đầu tư mạo hiểm của các nhà đầu tư.
Gompers và Lerner (1998) [50] cho rằng, lãi suất thị trường có mối quan hệ rõ ràng
đến nhu cầu huy động vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ. Nhóm tác giả cho
rằng, nếu lãi suất tăng, mức độ đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ giảm; nhóm tác
giả đưa ra kết luận trên sau khi nghiên cứu tổng vốn đầu tư của các quỹ đầu tư mạo
hiểm, và sự biến động của lãi suất ngắn hạn trên thị trường. Khi lãi suất ngắn hạn tăng,
mức độ hấp dẫn của việc đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm sẽ không còn được
như trước nữa, khi các tổ chức tài chính đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm sẽ cân
nhắc lại quyết định đầu tư của mình. Trong giả định nghiên cứu của Romain và
Pottelsberghe (2004) [89], tác giả cho rằng, lãi suất ngắn hạn và dài hạn có tác động
khác nhau đến những quỹ đầu tư mạo hiểm, và cả các doanh nhân “công nghệ cao”.
Do đó họ sử dụng lãi suất ngắn hạn (lãi suất 1 năm) và lãi suất dài hạn (lãi suất 10
năm) trong mô hình nghiên cứu của mình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cả lãi suất 1
năm (ngắn hạn) và lãi suất dài hạn (10 năm) đều có tác động đáng kể, và cùng chiều;
chứng tỏ bên tác động của lãi suất với kỳ hạn khác nhau tác động mạnh hơn bên tác
động của cung vốn đầu tư mạo hiểm. Nhóm tác giả cho rằng, có thể các doanh nhân
mạo hiểm có tầm nhìn ngắn hạn hơn về tầm nhìn tài chính (hoặc lợi nhuận) so với
những nhà cung cấp vốn (nhà đầu tư thiên thần, hoặc các quỹ đầu tư mạo hiểm), do đó
tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa lãi suất dài hạn và khả năng huy động vốn đầu tư
của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Hơn nữa, vấn đề không chỉ dừng lại ở mức lãi suất dài
hạn cao hay thấp, mà còn khoảng cách giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn. Nếu khoảng
cách này là lớn, càng có ít các nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư vào lĩnh vực đầu tư mạo
hiểm, do đó gây khó khăn cho các quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá trình huy động vốn
của mình.
11
Bên cạnh đó, GDP cũng tác động đến vấn đề huy động vốn của các quỹ đầu tư mạo
hiểm. Gompers và Lerner (1998) [50] cho rằng, nếu nền kinh tế tăng trưởng nhanh, sẽ
có nhiều cơ hội hấp dẫn cho các doanh nhân khởi nghiệp để khởi sự doanh nghiệp của
mình, từ đó làm gia tăng nhu cầu vốn đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói chung và
các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng; làm cho đường cầu đối với nhu cầu vốn chuyển
sang bên phải.
Ngoài ra, hiệu quả hoạt động của bản thân các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng tác động
đến vấn đề huy động vốn của các quỹ này. Việc phân bổ vốn đầu tư của các nhà đầu tư
mạo hiểm bị tác động bởi hiệu quả hoạt động trong quá khứ của các quỹ này, đặc biệt
các kết quả hoạt động trong ngắn hạn Grinblatt và các cộng sự (1995) [57]; Khi nghiên
cứu về dòng tiền đầu tư vào các quỹ đầu tư nói chung, Ippolito (2006) [63], Jensen
(2002) [64] nhận thấy, dòng tiền đổ vào các quỹ tương hỗ có tác động cùng chiều với
kết quả hoạt động trong quá khứ; Sirri & Tufano (1998) [94] cũng nhận thấy, so với
các quỹ đầu tư cùng lĩnh vực đầu tư, kết quả đầu tư trong quá khứ có tác động rất lớn
trong việc huy động vốn ở các giai đoạn tiếp theo. Bằng việc nghiên cứu quá trình hoạt
động của 690 quỹ đầu tư khác nhau, nhóm tác giả đã nhận thấy với các quỹ có kết quả
hoạt động kinh doanh hàng đầu, có tỷ lệ cam kết đầu tư cao hơn so với các quỹ khác
trong các vòng gọi vốn đầu tư tiếp theo. Tuy nhiên nhóm tác giả cũng nhận ra kết quả
hoạt động và dòng tiền đổ vào các quỹ đầu tư không có mối quan hệ tuyến tính. Các
quỹ với kết quả hoạt động thấp không bị các nhà đầu tư thờ ơ trong các năm tiếp theo;
hoặc đối với các quỹ mới thành lập, vẫn huy động được vốn đầu tư trong lần gọi vốn
đầu tiên của mình. Chevalier và Ellison (2008) [34] giải thích kết quả ở trên, với quan
điểm cho rằng, những quỹ đầu tư mạo hiểm với kết quả đầu tư thấp hơn so với những
quỹ khác trong những năm đầu, thường chấp nhận mức rủi ro cao hơn trong danh mục
đầu tư của mình, nhằm đạt được mức sinh lời cao hơn trong giai đoạn sau của dự án
đầu tư, do đó trong giai đoạn đầu, kết quả hoạt động kinh doanh của họ có thể thấp.
Nếu sau này, quyết định của họ sai lầm, họ có thể sẽ mất đi một vài các nhà đầu tư
hiện tại, do không đạt được mức sinh lời kỳ vọng như ban đầu.
Tóm lại, các nghiên cứu trước đây đối với nguồn cung vốn đối với các quỹ đầu tư
mạo hiểm cho thấy:
Thứ nhất, chính phủ đóng vai trò rất quan trọng trong giai đoạn đầu hình thành,
phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Chính phủ là đối tượng đóng góp nguồn vốn
12
mồi để hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm, định hướng thị trường trong lĩnh vực đầu
tư mạo hiểm; đồng thời hỗ trợ nguồn vốn cho các dự án đầu tư mạo hiểm có triển
vọng, nhưng đang gặp khó khăn trong các vòng huy động vốn tiếp theo.
Thứ hai, đối tượng tham gia góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm các
nhà đầu tư thiên thần và các nhà đầu tư tổ chức. Đối với các nhà đầu tư thiên thần, họ
là các cá nhân, gia đình giàu có, có hiểu biết về kinh doanh, đầu tư; họ sẵn sàng chấp
nhận mức độ rủi ro cao trong đầu tư để tìm kiếm các thương vụ đầu tư mạo hiểm với
khả năng đạt được lợi nhuận cao. Các nhà đầu tư tổ chức là các công ty bảo hiểm, quỹ
hưu trí, quỹ đầu tư, các ngân hàng đầu tư, v.v… với ưu thế về kinh nghiệm đầu tư, quy
mô vốn đầu tư. Chính các nhà đầu tư tổ chức là đối tượng cung cấp nguồn vốn đầu tư
chính cho các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động.
Thứ ba, trong các giai đoạn đầu của các dự án đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư
thiên thần thường đóng vai trò chính trong việc huy động vốn của các dự án đó; trong
khi các nhà đầu tư tổ chức thường ưa thích đầu tư vào các giai đoạn sau của vòng đời
doanh nghiệp.
Thứ tư, các yếu tố vĩ mô cũng tác động đến vấn đề huy động vốn của các quỹ đầu
tư mạo hiểm, như lãi suất ngắn hạn, lãi suất dài hạn, GDP, v.v…
Thứ năm, hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá khứ có tác
động đến các lần huy động vốn tiếp theo của các quỹ đầu tư mạo hiểm; tuy nhiên
không có mối quan hệ tuyến tính giữa hiệu quả đầu tư trong quá khứ và tiền huy động
được; các quỹ đầu tư mới thành lập, hoặc các quỹ đầu tư có kết quả đầu tư thấp vẫn có
thể huy động vốn đầu tư tại các đợt huy động vốn sau đó.
1.2. Các yếu tố chính sách tác động đến sự hình thành và phát triển của quỹ
đầu tư mạo hiểm
Các yếu tố chính sách tác động đến sự hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo
hiểm bao gồm các yếu tố chính sách của chính phủ; cũng như xuất phát từ nội tại cộng
đồng đầu tư trong xã hội, được chính phủ, hoặc chính quyền địa phương chấp nhận, hỗ
trợ nhằm thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm. Các
yếu tố chính sách bao gồm:
Thứ nhất, mạng lưới hỗ trợ doanh nhân. Tại giai đoạn đầu của quá trình phát
triển lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư nói chung và các nhà đầu tư thiên thần
gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận các thông tin về các cơ hội đầu tư Wetzel (1983)
13
[98]. Điều này phản ánh tình trạng phân mảnh của thị trường, cũng như thiếu vắng sự
tham gia của các nhà đầu tư thiên thần trong các đợt huy động vốn của các dự án đầu
tư mạo hiểm; trong khi nhu cầu của nhóm nhà đầu tư này luôn sẵn có. Chính vì vậy, đã
gia tăng chi phí tìm kiếm của các quỹ đầu tư mạo hiểm, doanh nhân và các nhà đầu tư
thiên thần, khi họ rất khó tìm được nhau trong các đợt huy động vốn.
Việc hình thành một mạng lưới hỗ trợ doanh nhân đã nâng cao hiệu quả về mặt
tìm kiếm thông tin trên thị trường, bằng việc cung cấp một kênh truyền thông, cho
phép các doanh nhân khởi nghiệp tìm kiếm sự hỗ trợ tài chính từ các nhà đầu tư thiên
thần, hoặc các quỹ đầu tư mạo hiểm tiềm năng, và ngược lại Mason và Harrison
(1996) [75]. Tuy vậy, mạng lưới này chỉ đơn thuần trợ giúp tìm kiếm thông tin giữa
các đối tượng tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, không thực sự đóng vai trò gì
trong quá trình đầu tư, bởi các nhà đầu tư thiên thần, các doanh nhân khởi nghiệp, và
các quỹ đầu tư mạo hiểm tự bản thân họ đưa ra các quyết định đầu tư của riêng mình,
dựa trên quá trình rà soát đầu tư, thỏa thuận trong các điều khoản đầu tư mà họ vẫn
thường sử dụng.
Hầu hết các mạng lưới hỗ trợ doanh nhân đều chỉ hoạt động trong quy mô địa
phương hoặc khu vực, hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc tìm kiếm thông tin, đào tạo kỹ
năng dành cho các nhà đầu tư thiên thần, cũng như các doanh nhân khởi nghiệp
(Mason, 2009) [74]. Điều này cho thấy nguồn vốn nội lực tại các khu vực địa phương
rất lớn; họ sử dụng rất nhiều phương pháp như các cơ chế kết nối, các nhóm đầu tư
tương đồng, cơ sở dữ liệu địa phương, các diễn đàn đầu tư hoặc các bản tin đầu tư để
tìm kiếm nhau. Trong cộng đồng đầu tư sử dụng mạng lưới địa phương, việc đến gặp
và tiếp xúc các đối tượng nhà đầu tư và các doanh nhân đóng vai trò rất quan trọng, vì
thế các công cụ hiện đại hiện nay như sử dụng Internet không thể thay thế được các
doanh nhân và nhà đầu tư trong quá trình tương tác. Phần lớn các mạng lưới (64%)
này là các tổ chức phi lợi nhuận, do chính quyền địa phương, cơ quan chính phủ, các
trường đại học, v.v… lập ra và điều hành (Mason, 2009) [74].
Mạng lưới hỗ trợ các nhà đầu tư đầu tiên được thành lập tại Anh (1990), Hà
Lan (1995), Phần Lan (1996) và tại Bỉ (1999). Mason và Harrison (1996) [75] cho
rằng mạng lưới doanh nhân đóng vai trò rất quan trọng trong những giai đoạn đầu của
lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tại Anh; bởi ngoài việc tiếp cận nguồn vốn từ các nhà đầu tư
tiềm năng, các doanh nhân khởi nghiệp còn được lợi từ việc học hỏi kinh nghiệm được
14
chia sẻ bởi các các nhà đầu tư, các doanh nhân khởi nghiệp khác. Collewaert và các
cộng sự (2007) [37] cũng nhận thấy mối quan hệ tích cực giữa việc hình thành mạng
lưới doanh nhân và lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tại Flanders, với kết luận rằng các dự án
đầu tư thường có thêm những giá trị gia tăng từ việc tận dụng các mối quan hệ kinh
doanh, cũng như kinh nghiệm vận hành doanh nghiêp, ngoài việc thu hút được lượng
vốn đầu tư, từ đó làm cho chi phí học việc của các doanh nhân khởi nghiệp (cost-per-
job) được giảm đi.
Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến trái chiều về vai trò của mạng lưới doanh nhân
trong quá trình đầu tư mạo hiểm. Harrison và các cộng sự (2010) [58] cho rằng, các
nhà đầu tư chỉ nhận được phần vốn rất hạn chế từ các nhà đầu tư khi tiếp cận mạng
lưới doanh nhân, đặc biệt đối với các nhà đầu tư thiên thần; ngoài ra, nhiều nhà đầu tư
cũng cho rằng mạng lưới doanh nhân không giúp họ tìm kiếm được các dự án đầu tư
thực sự tốt. Nguyên nhân chính do các mạng lưới hỗ trợ doanh nhân thiếu hụt các đối
tượng nhà đầu tư tham gia, cũng như các cơ hội đầu tư ở đây; điều này chủ yếu do
thiếu hụt nguồn lực tham gia thị trường, khâu marketing kém, cũng như thiếu các yếu
tố quản lý chuyên nghiệp – và thường xảy ra ở các khu vực mà đầu tư mạo hiểm mới
hình thành, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.
Thứ hai, chính sách đào tạo các nhà đầu tư. Việc đào tạo các nhà đầu tư trước
kia thường chưa được coi trọng, bởi có quan điểm cho rằng, các nhà đầu tư là những
người đã thành công trong kinh doanh, vì thế họ không cần phải học làm thế nào để trở
thành nhà đầu tư thành công. Tuy nhiên không phải nhà đầu tư nào cũng rất xuất
chúng trong lĩnh vực đầu tư, thậm chí có nhiều nhà đầu tư còn thiếu các kỹ năng cần
thiết, khả năng lực điều hành cũng như hiểu được quá trình đầu tư của dự án kinh
doanh. Chính điều này đã tác động rất lớn đến hiệu quả đầu tư của họ, thậm chí nhiều
nhà đầu tư đã phá sản, bắt buộc phải rút ra khỏi thị trường đầu tư. Ngày nay, các nhà
đầu đều nhận ra vai trò của việc học tập để nâng cao kỹ năng đầu tư của mình, cũng
như các kiến thức khác cần thiết trong quá trình đầu tư của các dự án khác nhau (San
José và các cộng sự, 2005) [92].
Trong cuốn The Ready for Equity (2008) đã liệt kê ra khoảng 20 chương trình
đạo tạo, hỗ trợ kiến thức cho các nhà đầu tư tại Châu Âu; hầu hết do mạng lưới hỗ trợ
doanh nhân lập ra từ những năm 2000. Mục đích chính là thu hút các nhà đầu tư tham
gia mạng lưới, đào tạo kỹ năng cho các nhà đầu tư mới, cũng như chia sẻ kiến thức
15
giữa các nhà đầu tư lâu năm với nhau. Ngoài ra, còn có nhiều “học viện kinh doanh
thiên thần1” được lập ra, để cung cấp các khóa học thường niên cho các nhà đầu tư,
giúp họ hiểu được quá trình kinh doanh, nhằm tận dụng được các cơ hội đầu tư trên thị
trường (San José và các cộng sự, 2005) [92].
Tuy nhiên, hầu hết các khóa học dành cho các nhà đầu tư thường là các khóa
học ngắn hạn, diễn ra trong nửa ngày hoặc một ngày đào tạo; thường chỉ chú trọng vào
các lĩnh vực đầu tư, kỹ năng quản lý doanh nghiệp, khai thác lợi nhuận, mà chưa chú
trọng vào các các đối tượng như kế toán, luật sư, cán bộ ngân hàng, cán bộ tư vấn hoặc
các nhà quản lý vườn ươm khởi nghiệp; bởi chính các đối tượng này là người sẽ hỗ trợ
các doanh nhân khởi nghiệp rất nhiều trong quá trình đầu tư sau này (Harrison và
Mason, 2007) [59].
Thứ ba, chính sách thuế trong đầu tư mạo hiểm. Poterba (2016) [84] cho rằng,
thuế đánh trên khoản lãi vốn đầu tư sẽ tác động tiêu cực đến nguồn cung vốn đầu tư
mạo hiểm. Tác giả cho rằng, việc áp dụng mức thuế suất thấp trên khoản lãi vốn sẽ thu
hút những nhà quản lý hoặc người lao động khởi nghiệp xây dựng công ty riêng của
họ. Hầu hết nguồn thu nhập của những nhà quản lý trong công ty đến từ nguồn tiền
lương, hoặc thưởng của họ, và nguồn thu nhập này sẽ bị đánh thuế thu nhập theo tỷ lệ
khác nhau, tùy từng quốc gia, khu vực. Poterba (2016) [84] cho rằng, việc giảm thuế
lãi vốn sẽ là tín hiệu đầu tiên tác động đến nguồn cầu vốn, khi nhiều người muốn trở
thành doanh nhân khởi nghiệp, nhằm mang đến thị trường những dự án đầu tư của họ.
Cùng quan điểm trên, Gompers và Lerner (1998) [51] tin rằng, việc giữ tỷ lệ
thuế trên lãi vốn đầu tư thấp được coi như lời cam kết của chính phủ trong việc hỗ trợ
các quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá trình phát triển. Bởi lẽ với tỷ lệ thấp bại các dự án
đầu tư mạo hiểm lên đến 95%, thời gian đầu tư lại dài, nếu không có sự hỗ trợ hoặc
cam kết hỗ trợ từ chính phủ, rất khó cho các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động vốn để
thực hiện các dự án đầu tư. Gompers và Lerner (1998) [51] kết luận rằng, nếu giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ có tác động tích cực đến việc thành lập các quỹ đầu tư
mạo hiểm mới. Trên thực tế, nhóm tác giả đã xác nhận kết quả nghiên cứu của Poterba
(1989) [83] khi xây dựng yếu tố tác động đến quyết định trở thành doanh nhân khởi
nghiệp; và cho rằng, việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ giúp các quỹ đầu tư mạo
1 The Business Angel Academies
16
hiểm dễ dàng huy động vốn đầu tư hơn, nhưng không phải thông qua tác động tới bên
cung vốn (ví dụ các nhà đầu tư mạo hiểm tiềm năng), mà tác động chủ yếu đến bên
cầu vốn (tức các doanh nhân khởi nghiệp, các công ty mạo hiểm), cụ thể hơn, sẽ tác
động đến tinh thần doanh nhân trong xã hội, do đó khuyến khích họ tạo lập các công ty
riêng của mình, qua đó thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Đặc
biệt, Romain và các cộng sự (2004) [88] cho rằng, việc thu hút vốn thành công của các
quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn những năm 1990 là kết quả của sự phát triển của
khoa học công nghệ tại các lĩnh vực khác nhau trong xã hội.
Romain và Pottelsberghe (2004) [89] nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến môi
trường hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của
môi trường doanh nhân; với ba yếu tố chính, đó là: (1) mức thuế; (2) mức độ hoạt
động của các doanh nhân; (3) mức độ vững chắc của thị trường lao động; ngoài ra, còn
có các yếu tố nữa như quyền lợi của các cổ đông, mức độ bảo vệ của luật pháp đối với
các vấn đề phát sinh trong quá trình kinh doanh, các tiêu chuẩn kế toán, v.v… Trong
yếu tố tác động đến hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm, yếu tố thuế được tác giả
sử dụng để đánh giá là thuế thu nhập doanh nghiệp. Với dữ liệu thu thập từ 16 quốc
gia OECD trong giai đoạn 1990-2000, đó là Úc, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan,
Pháp, Đức, Ireland, Ý, Nhật, Hà Lan, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Anh và Mỹ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn này, thuế thu nhập doanh nghiệp không
có tác động đến hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại các quốc gia OECD.
Theo Ständer (2017) [95], tại Châu Âu, mặc dù thuế suất trong đầu tư nói
chung là vấn đề của các quốc gia, nhưng nó đã được mang hàm ý là chức năng của
một thị trường đơn nhất (Single Market). Với các tỷ lệ thuế trong các lĩnh vực đầu tư
khác nhau sẽ làm bóp méo năng lực cạnh tranh, hoặc việc không đồng nhất giữa các kế
hoạch thu thuế giữa các quốc gia khác nhau, sẽ bị lạm dụng để các nhà đầu tư trốn
thuế, chuyển giá khi đầu tư, làm gia tăng chi phí giao dịch, đầu tư giữa các quốc gia.
Chính vì vậy, tác giả Ständer (2017) [95] cho rằng, rất cần thiết để xác lập một mức
thuế cơ bản tối thiểu trong đầu tư nói chung và đầu tư mạo hiểm nói riêng.
Tại Châu Âu, khi so sánh mức thuế lợi vốn trong đầu tư mạo hiểm tại ba khu
vực đầu tư mạo hiểm lớn nhất, là Đức, Pháp và Anh, Bock và các cộng sự (2017) [26]
nhận thấy có sự khác biệt rất lớn đối với thuế suât trong việc thu hút đầu tư mạo hiểm
tại các khu vực này. Trong đầu tư mạo hiểm, thuế đánh trên lợi vốn rất quan trọng đối
17
với các nhà đầu tư, bởi với mức thuế khác nhau, thì các nhà đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu
tư mạo hiểm hoặc các doanh nhân khởi nghiệp khi muốn thoái vốn khỏi các công ty,
dự án đầu tư mạo hiểm mình đã đầu tư để ghi nhận doanh thu trên vốn đầu tư (ROI) sẽ
ghi nhận mức lợi nhuận khác nhau; với mức thuế thu nhập dựa trên lợi vốn đầu tư mạo
hiểm cao, sẽ làm giảm số lượng các công ty đầu tư mạo hiểm được tài trợ vốn trong
quá trình hoạt động của mình.
Tại Pháp, ngưỡng thuế lợi vốn đầu tư cao nhất có thể lên đến 62%, nhưng cũng
có thể được giảm xuống còn 24% nến các doanh nhân khởi nghiệp nắm giữ công ty
mình đầu tư trong ít nhất 8 năm; trong khi đó tại Đức, mức thuế chung áp dụng là
26%; còn tại Anh, năm 2016 đã giảm mức thuế lợi vốn đầu tư mạo hiểm xuống từ
28% xuống còn 20%, khiến Anh trở thành nơi hấp dẫn nhất trong đầu tư mạo hiểm tại
Châu Âu. Đặc biệt, tại Anh, nếu các nhà đầu tư cá nhân, như các giám đốc, các đối tác,
người lao động nắm giữ ít nhất 5% cổ phần của công ty đầu tư mạo hiểm có thể giảm
thuế lợi vốn đầu tư xuống còn 10% nếu họ bán số cổ phần của mình nắm giữ, với tổng
giá trị công ty khi đó là 10 triệu Bảng Anh; chính sự khác biệt này đã khuyến khích
các nhà đầu tư mạo hiểm lựa chọn Anh là nơi khởi nghiệp đầu tư của mình (Bock và
các cộng sự , 2017) [26].
1.3. Những yếu tố nội tại tác động đến sự phát triển của quỹ đầu tư mạo
hiểm
Thứ nhất, loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm. Đối với loại hình quỹ đầu tư mạo
hiểm, Gompers và Lerner (2005) [54] cho rằng, yếu tố chính trị tác động rất lớn đối
với hiệu quả hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm; do đó những quỹ đầu tư mạo hiểm
công thường có hiệu quả thấp hơn, do yếu tố nguồn nhân lực hạn chế, mức lương và
thưởng thấp, và áp lực chính trị khi quyết định đầu tư tại các khu vực địa lý khác nhau.
Chính những yếu tố trên đã làm cho các quỹ đầu tư mạo hiểm công đưa ra được ít
những phương án có giá trị đối với các dự án mà họ đầu tư Gompers và Lerner (1998)
[51].
Một số quỹ đầu tư mạo hiểm là một phần của các công ty đầu tư mạo hiểm
khác, có kết quả hoạt động và tốc độ phát triển tốt hơn là một quỹ đầu tư mạo hiểm
độc lập, đơn lẻ. Một mặt, quỹ đầu tư mạo hiểm trực thuộc một công ty chuyên đầu tư
mạo hiểm khác sẽ được chia sẻ nhiều nguồn lực hơn từ mạng lưới công ty mẹ của
mình, đồng thời có sự so sánh với các quỹ đầu tư mạo hiểm khác cũng do công ty mẹ
18
đó tài trợ, đầu tư. Chính vì vậy, khi công ty đầu tư mạo hiểm dạng này gia tăng quy
mô danh mục đầu tư của mình sẽ dễ dàng hơn, kể cả việc huy động vốn, đến tốc độ
triển khai dự án đầu tư mạo hiểm. Điều này được giải thích do quỹ đầu tư mạo hiểm
này được hưởng lợi từ mạng lưới đầu tư, từ sự nỗ lực bổ sung trong quá trình hoạt
động, so sánh với quỹ khác trong cùng công ty mẹ, và lợi ích từ việc cùng đầu tư với
các quỹ khác có liên quan trong cùng hệ thống Gompers và Lerner (2005) [54].
Thứ hai, giai đoạn đầu tư. Với giai đoạn đầu tư, Cumming (2001) [38] cho
rằng, khi quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm đang trong giai
đoạn đầu (early-stage), hoặc trong lĩnh vực công nghệ cao, với chủ yếu là tài sản vô
hình mà có tài sản hữu hình không đáng kể, thường có lợi ích cận biên lớn hơn, và
đường cong chi phí cận biên lớn hơn so với các dự án đầu tư mạo hiểm khác. Gompers
(1995) [49] cho rằng, tại các giai đoạn đầu phát triển, hoặc với các dự án đầu tư mạo
hiểm chỉ có tài sản vô hình thường có hiện tượng bất cân xứng thông tin lớn đối với
các thông tin họ đưa ra, do đó có mối liên hệ chặt chẽ với vấn đề chi phí cận biên lớn
hơn. Ngoài ra, nếu các quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư từ giai đoạn đầu hoặc vào các công
ty công nghệ cao, sẽ được hưởng lợi rất lớn khi các công ty này vào giai đoạn phát
triển, và có sản phẩm ra thị trường.
Thứ ba, các thỏa thuận trong đầu tư. Đối với những thỏa thuận liên quan giữa
quỹ đầu tư mạo hiểm và công ty nhận đầu tư mạo hiểm, cấu trúc cũng rất phức tạp,
bao gồm cấu trúc chứng khoán, các giai đoạn đầu tư, cơ cấu tổ chức và các vấn đề
khác. Việc định hình các loại chứng khoán khác nhau trong hợp đồng sẽ tác động đến
việc bảo vệ khi giá cả sụt giảm, và tăng lợi nhuận tiềm năng của các quỹ đầu tư mạo
hiểm, chính điều này đã tác động đến các quỹ đầu tư mạo hiểm khi dành nhiều mối
quan tâm hơn đối với vấn đề quản lý và giám sát các dự án đầu tư của mình
(Kanniainen và Keuschnigg, 2003) [66]. Trong đầu tư mạo hiểm, các quỹ đầu tư mạo
hiểm thường rất quan tâm đến tỷ lệ các chứng khoán có thể chuyển đổi và cấu trúc tài
chính tối ưu đối với doanh nghiệp mà họ đầu tư (Bascha và Walz, 2001 [21];
Gompers, 1997 [48]; Sahlman, 1990 [91]); lý do là các chứng khoán có thể chuyển đổi
là các công cụ rất linh hoạt để phân bổ các lợi ích cho quỹ đầu tư mạo hiểm và các
doanh nhân khởi nghiệp; điều này sẽ nhấn mạnh góc độ lợi ích của các bên, từ đó thúc
đẩy các quỹ đầu tư chú tâm đến việc tư vấn, đưa ra các lời khuyên cho các dự án đầu
19
tư mạo hiểm, chú trọng đầu tư vào các dự án nhỏ, nhằm tạo ra được nhiều giá trị gia
tăng cho các dự án đầu tư mạo hiểm này.
2. Tổng quan nghiên cứu trong nước
Năm 2003, đề tài “Quỹ đầu tư mạo hiểm và khả năng hình thành, phát triển ở
Việt Nam” của tác giả Đào Lê Minh [3] được coi là một trong các nghiên cứu đầu tiên,
đầy đủ về lĩnh vực quỹ đầu tư mạo hiểm. Trong nghiên cứu này, tác giả đã nêu rất rõ
các khái niệm, quan điểm về quỹ đầu tư mạo hiểm, được coi là nền tảng đầu tiên,
chính thống về lĩnh vực này ở các tài liệu nghiên cứu về sau. Trong nghiên cứu của
mình, tác giả đã nhấn mạnh vai trò của chính phủ trong việc xây dựng khung pháp lý,
cũng như định hướng công chúng đầu tư vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên thời
gian nghiên cứu của đề tài đã lâu, do đó nhiều quy định của pháp luật đã thay đổi, điều
kiện kinh tế - xã hội cũng khác, vì thế cần có nghiên cứu khác, nhằm cập nhật các dữ
liệu, đi sâu nghiên cứu hơn, cũng như các điều kiện khác để hỗ trợ cho việc xây dựng
và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Trong luận văn tốt nghiệp về hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số quốc gia
Châu Á của tác giả Hoàng Thị Hải Như (2006) [6], tác giả có liệt kê thực trạng hoạt
động đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam từ năm 1990 đến năm 2004. Dựa trên những con
số nghiên cứu của tác giả, tác giả cho rằng giai đoạn 1990-2002 là giai đoạn bắt đầu
hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam. Trong giai đoạn này, các quỹ đầu
tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam mặc dù đã đầu tư vào các doanh nghiệp chưa
niêm yết trên thị trường chứng khoán, nhưng không phải là các công ty hoạt động
trong lĩnh vực công nghệ cao, tức danh mục đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm này
không chú trọng vào các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao tại Việt Nam.Vì
thế có thể nói, trong giai đoạn đầu này, các quỹ đầu tư mạo hiểm ít có tác động đến sự
phát triển của lĩnh vực khoa học công nghệ tại Việt Nam. Liên quan đến yếu tố ảnh
hưởng đến sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, tác giả nghiên cứu đã
chỉ ra một số vấn đề chính như (1) hành lang pháp lý; (2) sự hạn chế về vấn đề sở hữu
cổ phần của các doanh nghiệp nước ngoài; (3) bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; (4) môi
trường kinh doanh tại Việt Nam; (5) trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam. Tuy
nhiên cũng như các nghiên cứu trước đây, các yếu tố này cũng chỉ được giới thiệu
mang tính chất giới thiệu, liệt kê.
20
Trong luận văn thạc sĩ của mình, khi xem xét thực trạng hoạt động của các quỹ
đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, tác giả Châu Thiên Trúc Quỳnh (2006) [2] cho rằng, có
rất nhiều yếu tố khó khăn tác động đến các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, có thể
kể đến như: Thứ nhất, về mặt chính sách, vĩ mô, mặc dù hành lang pháp lý dành cho
lĩnh vực đầu tư nói chung và đầu tư mạo hiểm nói riêng đã có sự cải tiến, nhưng chưa
đồng bộ. Thứ hai, quy mô thị trường chứng khoán còn nhỏ bé, do đó tạo rào cản cho
các quỹ đầu tư thoái vốn trong tương lai tại các dự án đầu tư mạo hiểm mà họ đã đầu
tư. Thứ ba, lượng vốn đầu tư gián tiếp (FII) vào Việt Nam chưa đáp ứng đủ nhu cầu.
Thứ tư, sự hiểu biết của công chúng về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, chứng khoán còn
hạn chế, chính vì thế các quỹ đầu tư sẽ gặp khó khăn khi huy động vốn, tốn công sức
và chi phí. Thứ năm, thông tin trên thị trường chưa minh bạch, đặc biệt là đối với các
doanh nghiệp trên thị trường; chính điều này là rào cản để các quỹ đầu tư quyết định
tham gia vào các dự án đầu tư. Thực tế cho thấy doanh nghiệp chưa tin tưởng để giao
quyền cho quỹ đầu tư tham gia vào hoạt động của quỹ, thông qua việc tham dự vào hội
đồng quản trị của công ty, cũng như chưa muốn công khai về mặt tài chính của doanh
nghiệp. Ngoài ra, tác giả có nhắc đến yếu tố nhân sự, trình độ quản lý trong lĩnh vực
đầu tư mạo hiểm còn thiếu và yếu, gây khó khăn cho việc phát triển của các quỹ đầu tư
mạo hiểm.
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Dung (2007) [9] nghiên cứu về sự cần thiết để phát
triển quỹ đầu tư mạo hiểm, nhưng giới hạn sự phát triển trong phạm vi thành phố Hồ
Chí Minh. Tác giả cho rằng, khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh được thành
lập là cơ hội rất lớn cho quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư và phát triển. Trong nghiên cứu
của mình, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn nhân lực, của hành lang pháp
lý, của môi trường cho khoa học công nghệ phát triển đúng tầm. Tuy nhiên nghiên cứu
mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê, chưa có sự đi sâu, phân tích, hoặc nêu các tiêu chí cụ
thể của từng yếu tố.
Trong luận văn “Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam” của tác giả Trần
Thị Thanh Giang (2010) [13] đối với vấn đề huy động và sử dụng vốn của các quỹ đầu
tư mạo hiểm tại Việt Nam, tác giả có nếu ra được một số yếu tố cơ bản, đó là:
Thứ nhất, đối tượng phạm vi đầu tư. Tác giả cho rằng, vào giai đoạn 1991-
1996, với việc nền kinh tế Việt Nam mới bắt đầu thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài,
do đó chưa phải là nơi hấp dẫn các quỹ đầu tư mạo hiểm; trong giai đoạn này, chủ yếu
21
các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam đầu tư vào các doanh nghiệp đang
tăng trưởng, cần vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, chứ chưa tập trung vốn vào các
doanh nghiệp start-up. Trong giai đoạn 2002-2008, với sự phát triển của nền kinh tế,
dẫn đến nhu cầu vốn đầu tư rất lớn, các quỹ đầu tư mạo hiểm đã phần nào đáp ứng nhu
cầu cần vốn của các doanh nghiệp mới thành lập. Tuy nhiên, hầu hết các quỹ đầu tư
mạo hiểm trong giai đoạn này thường tập trung vào những công ty đã có sự phát triển
nhất định, rất ít quỹ đầu tư vốn vào các doanh nghiệp khởi sự, với độ rủi ro cao, với
đúng bản chất của quỹ đầu tư mạo hiểm.
Thứ hai, lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn 1991-
2008 chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ, thương mại, tài chính như các dự án xây dựng
khách sạn, các khu giải trí cho công chúng, các dự án xi mang, thép, hoặc xây dựng
các tòa nhà cho thuê, v.v… ngoài ra, cũng có một số quỹ đầu tư vào các ngân hàng
thương mại như ACB, Sacombank, v.v…
Thứ ba, hình thức đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn tác giả
nghiên cứu chủ yếu là mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa, rất ít các quỹ
đầu tư vào các công ty thành lập ban đầu. Như vậy điều này trái với thông lệ tại các
quỹ đầu tư mạo hiểm thông thường, khi chủ yếu đầu tư vào các doanh nghiệp mới
thành lập, trước khi phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Thứ tư, nguồn vốn huy động của các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt
Nam chủ yếu từ nước ngoài, với trên 80% vốn huy động ở ngoài Châu Á. Như vậy,
nội lực của Việt Nam trong việc huy động vốn đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn này
rất nhỏ bé.
Thứ năm, ảnh hưởng của các quỹ đầu tư mạo hiểm đến nền kinh tế khá nhỏ.
Bản chất của quỹ đầu tư mạo hiểm là trung gian tài chính, cung cấp vốn cho các dự án
đầu tư mạo hiểm có triển vọng, giảm áp lực vốn lên hệ thống ngân hàng, cung cấp cho
các nhà đầu trong xã hội kênh đầu tư đa dạng hơn. Nhưng thực tế giai đoạn tác giả
nghiên cứu chủ yếu các doanh nghiệp vẫn trông chờ nguồn vốn vay từ các ngân hàng.
Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ủy ban “Quỹ đầu tư mạo hiểm – kinh
nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam” năm 2016, tác giả Nguyễn Quang Long [8]
đã chỉ ra năm trụ cột cho phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, đó là (1) Chính phủ; (2)
Mạng lưới hỗ trợ; (3) Mạng lưới cơ hội; (4) Nguồn nhân lực; (5) Tài chính. Tuy nhiên
phần giải thích ý nghĩa các trụ cột mang nặng tính lý thuyết, chưa có dẫn chứng ví dụ
22
có liên quan đối với các quốc gia, khu vực. Bên cạnh đó, đề tài thiên về tìm hiểu kinh
nghiệm quốc tế trong việc phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại một số quốc gia, trong
khi phần giải pháp để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam còn
chưa được đề cập sâu đến.
Như vậy, các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm
vẫn còn nhiều hạn chế như thời gian nghiên cứu đã từ lâu, số liệu, bối cảnh kinh tế đã
có nhiều thay đổi; các nghiên cứu chỉ tập trung vào một số lĩnh vực quỹ đầu tư mạo
hiểm riêng lẻ, chưa có nghiên cứu tổng quan về các quỹ đầu tư mạo hiểm nói chung;
hoặc các nghiên cứu về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm của các tác giả trước đây chỉ nghiên
cứu về một địa phương nhất định, chưa có sự bao quát đối với toàn bộ thị trường Việt
Nam.
3. Khoảng trống nghiên cứu
Tựu chung lại, các nghiên cứu trước đây đã có những đóng góp rất lớn về mặt
lý luận cũng như thực tiễn trong việc đánh giá những yếu tố tác động đến việc hình
thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm; nhấn mạnh được vai trò của việc phát triển
đầu tư mạo hiểm đến sự phát triển của nền kinh tế các khu vực. Tuy nhiên, các nghiên
cứu này vẫn còn tồn tại một số khoảng trống nghiên cứu nhất định, đó là:
Thứ nhất, trong các nghiên cứu các quốc gia đi trước trong vấn đề xây dựng và
phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, bài học kinh nghiệm rút ra tại mỗi quốc gia, nhóm
quốc gia còn chung chung, chưa đi sâu phân tích cụ thể, do đó việc liên hệ với Việt
Nam còn hạn chế.
Thứ hai, có nhiều nghiên cứu về nhân tố tác động đến quỹ đầu tư mạo hiểm,
nhưng chưa có nghiên cứu nào về việc xây dựng những tiêu chí tổng quát đánh giá yếu
tố cần thiết để xây dựng và thúc đẩy sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm, chưa đi
sâu phân tích và bám theo bộ tiêu chí này khi đi nghiên cứu tại mỗi thị trường cụ thể.
Thứ ba, các nghiên cứu về quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam chưa đề cập đến
xu thế đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam, các nghiên
cứu trước đây đã được thực hiện từ khá lâu, do đó số liệu đã cũ, chưa cập nhật được
tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam hiện
nay.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo
hiểm ở Việt Nam, nhằm tìm hiểu xu thế đầu tư hiện nay của các quỹ đầu tư mạo hiểm
23
đang hoạt động tại Việt Nam, bài học kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước, xác định
và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng, và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng và
phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam là rất cần thiết.
24
Kết luận chương 1
Luận án đã đưa ra được các lập luận về các nghiên cứu trước đây đối với vấn đề
liên quan; trong đó có những yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển của các
quỹ đầu tư mạo hiểm như yếu tố nguồn cung vốn đầu tư mạo hiểm; các yếu tố chính
sách của mỗi quốc gia, khu vực, tại những giai đoạn phát triển nhất định của quỹ đầu
tư mạo hiểm; và bản thân yếu tố nội tại của quỹ đầu tư mạo hiểm, cũng có tác động rất
lớn đến quá trình phát triển của chúng sau này. Trên cơ sở thừa kế nghiên cứu trước
đó, luận án sẽ nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại
một số quốc gia trong khu vực, nhằm rút ra được bài học cho Việt Nam.
25
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
2.1. Khái niệm về vốn đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm
2.1.1. Vốn đầu tư mạo hiểm
Để thúc đẩy sự phát triển, các doanh nghiệp cần không ngừng đổi mới để sáng
tạo nhằm tạo ra các sản phẩm mới, giúp tiết kiệm chi phí sản xuất, thu hút tiêu dùng
trong xã hội nhằm tạo ra lợi nhuận (Chesbrough, 2002) [33]. Đối với các tập đoàn lớn,
họ thường dành ra một phần chi phí để nghiên cứu và phát triểm sản phẩm, tìm kiếm ý
tưởng mới trong các lĩnh vực đầu tư của mình. Nếu nguồn lực nội tại của doanh nghiệp
không đáp ứng đủ, họ có thể dễ dàng huy động vốn thông qua các công cụ trên thị
trường tài chính. Tuy nhiên trên thực tế, những ý tưởng mới, tiềm năng, có thể đưa vào
thực tế được lại thường xuất phát từ các cá nhân, các công ty mới khởi nghiệp trên thị
trường; trong khi việc huy động vốn của các đối tượng này gặp nhiều khó khăn, do
những đối tượng này thường không có tài sản hữu hình để đem ra thế chấp, cầm cố, tài
sản chủ yếu của họ là tài sản vô hình, khó có thể đo đếm được. Để đạt đến thành công,
đưa ra sản phẩm hoàn chỉnh đến người tiêu dùng, phụ thuộc rất nhiều vào quá trình thử
nghiệm, nghiên cứu của họ, trong khi kết quả nghiên cứu có thành công hay không còn
chưa chắc chắn. Hơn nữa, do mới ở ý tưởng mới, việc giữ gìn bí mật kinh doanh đóng
vai trò thiết yếu, nên các doanh nhân, doanh nghiệp này thường hạn chế chia sẻ thông
tin của mình, do đó đối với các nhà đầu tư bên ngoài, đầu tư vào những dự án như vậy
tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.
Theo Sack và McKenzie (1998) [90] vốn đầu tư mạo hiểm đươc hiểu là các
nguồn vốn chuyên được sử dụng để đầu tư vào các công ty tư nhân có tiềm năng tăng
trưởng cao. Tuy nhiên, xét về bản chất vốn đầu tư mạo hiểm được hiểu đơn giản là
nguồn tài chính cung cấp dưới hình thức góp cổ phần hoặc các khoản đầu tư vào công
ty với cam kết thời gian đầu tư tối thiểu một vài năm. Các công ty nhận đầu tư thường
là những công ty mới thành lập hoặc đang trong quá trình phát triển sản phẩm, dịch vụ,
chưa trưởng thành. Những người cung cấp vốn đầu tư mạo hiểm nhằm mục đích tài trợ
cho các công ty nhận đầu tư để vượt qua khó khăn ban đầu, giúp các công ty này phát
triển, sau đó thu lời khi các công ty đó đạt đến thành công. Như vậy có hai yếu tố quan
trọng cấu thành vốn đầu tư mạo hiểm: bên cung là các nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận
rủi ro và bên cầu là các nhà kinh doanh với ý tưởng kinh doanh mới. Nếu thiếu một
26
trong hai nhân tố chính ở trên, dòng chu chuyển vốn này sẽ không xuất hiện. Đó chính
là yếu tố cơ bản phân biệt vốn đầu tư mạo hiểm với các nguồn vốn đầu tư thông
thường khác trên thị trường.
Về mặt ngữ nghĩa học, vốn đầu tư mạo hiểm trong tiếng Anh được viết là
“Venture Capital”. Theo từ điển Cambridge, Venture được coi là một hoạt động mới
mẻ, trong kinh doanh nó bao gồm rủi ro hoặc sự không chắc chắn. Capital được hiểu là
khoản tiền chuyên dùng để đầu tư vào sản xuất hoặc bắt đầu một dự án kinh doanh.
Như vậy, ta có thể hiểu Venture Capital là khoản tiền đầu tư vào các dự án kinh doanh
mới. Chúng ta gọi đây là vốn đầu tư mạo hiểm, bởi lẽ từ sự cần thiết nhấn mạnh đến sự
không chắc chắn thu được trong khoản đầu tư đó, đến sự rủi ro trong dự án đầu tư đó.
Tại Châu Á, Ấn Độ coi vốn đầu tư mạo hiểm là hình thức góp vốn cổ phần,
hoặc các khoản vay có điều kiện nhằm hỗ trợ các công ty chưa niêm yết, với độ rủi ro
cao, hoặc các công ty công nghệ cao được quản lý bởi các doanh nhân chuyên nghiệp,
có trình độ. Thuật ngữ này cũng được sử dụng đối với các nhà đầu tư “cung cấp vốn
hạt giống”, “tài trợ khởi nghiệp”, “tài trợ giai đoạn đầu” của doanh nghiệp (Annamalai
và Deshmukh, 2011) [86]. Tại Trung Quốc, vốn đầu tư mạo hiểm dược coi là khoản
đầu tư vào các dự án có khả năng tăng trưởng cao, rủi ro lớn, thường là các hãng công
nghệ cao, cần vốn để đầu tư phát triển sản phẩm có tiềm năng tăng trường, dưới dạng
góp vốn cổ phần thay vì vay nợ. Người Trung Quốc cho rằng, vốn đầu tư mạo hiểm
không bao hàm việc đầu tư để mua đứt doanh nghiệp, mà các công ty cổ phần tư nhân
sẽ mua số lượng cổ phần đủ lớn để chi phối các công ty hiện tại hoặc các công ty
trưởng thành từ các chủ sở hữu hiện tại (Lin, 2015b) [70].
Tại Châu Âu, ngân hàng Natwest (Vương quốc Anh) cho rằng, vốn đầu tư mạo
hiểm được hiểu là khoản vốn đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ, hoặc tồn tại chỉ trên
giấy tờ,tài trợ cho các ý tưởng mới nhưng có tiềm năng phát triển trong tương lai. Vốn
đầu tư mạo hiểm thường được đầu tư vào các công ty sở hữu tư nhân. Bên cạnh đó,
vốn đầu tư mạo hiểm được đầu tư vào nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế, kể cả những
lĩnh vực không phải là mới, bao gồm cả việc đầu tư vào những công ty đã tăng trưởng,
hoặc mua lại doanh nghiệp (Nguyễn Quang Long, 2016) [8].
Theo hiệp hội đầu tư mạo hiểm Mỹ, vốn đầu tư mạo hiểm là vốn được góp vào
các công ty mới khởi nghiệp, các doanh nghiệp mới, chưa được niêm yết trên thị
trường chứng khoán và có khả năng tăng trưởng nhanh, sáng tạo, và có sự tham gia
27
của công nghệ. Khác với Châu Âu, quan điểm về vốn đầu tư mạo hiểm của Mỹ cho
rằng, vốn đầu tư mạo hiểm không bao gồm góp vốn đầu tư vào các công ty đã phát
triển rồi, không mua quyền quản lý; mà chủ yếu đầu tư vào những ý tưởng sáng tạo
mới, vào các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ cao (Nguyễn
Quang Long, 2016) [8].
Như vậy, vốn đầu tư mạo hiểm là nguồn vốn mà các cá nhân giàu có, hoặc các
tổ chức tài chính cung cấp vốn cho các dự án khởi nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ có
tiềm năng tăng trưởng cao trong tương lai; hoặc các doanh nghiệp khác đang cần vốn
để tiếp tục sản xuất kinh doanh; nguồn vốn này do đầu tư vào các dự án, doanh nghiệp
có mức độ rủi ro cao, nên chủ thể đầu tư phải sẵn sàng chấp nhận khả năng mất vốn
trong quá trình đầu tư của mình.
Đầu tư mạo hiểm là việc các chủ thể đầu tư mạo hiểm tiến hành các quy trình
cần thiết để rót vốn hoặc hỗ trợ các dự án mạo hiểm có triển vọng, nhằm thu được lợi
nhuận lớn trong tương lai. Đầu tư mạo hiểm không nhất thiết thể hiện dưới hình thức
tài trợ vốn, mà các nhà đầu tư mạo hiểm có thể tham gia dưới hình thức hỗ trợ về mặt
kỹ thuật hoặc kinh nghiệm quản lý của mình trong quá trình đầu tư. Đầu tư mạo hiểm
bao gồm cả đầu tư vào những công ty mới thành lập, công ty hoạt động trong lĩnh vực
công nghệ cao, hoặc các công ty đã trưởng thành, thông qua việc mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp.
2.1.2. Quỹ đầu tư mạo hiểm
Trong quá trình tìm kiếm các cơ hội đầu tư, các nhà đầu tư có thể tìm thấy các
cơ hội đầu tư có khả năng sinh lời cao, tuy nhiên với lượng vốn đầu tư lớn, rủi ro cao,
các nhà đầu tư không thể có đủ vốn để đầu tư, cũng như không muốn nhận tất cả phần
rủi ro của mình, họ sẽ tiến hành góp vốn cùng các nhà đầu tư khác; với mức độ chuyên
nghiệp, được quy định bởi luật pháp, sẽ hình thành lên quỹ đầu tư.
Trên thị trường có nhiều lựa chọn khác nhau để các nhà đầu tư sử dụng vốn đầu
tư của mình; khi một nhà đầu tư đó sử dụng vốn để bắt đầu một sản phẩm kinh doanh
mới hoặc thành lập doanh nghiệp mới, số vốn đó gọi là vốn đầu tư mạo hiểm, gắn với
đặc tính không chắc chắn về sự thành công trong tương lai. Nếu nguồn vốn tự có
không đủ, chủ thể đầu tư sẽ kêu gọi vốn đầu tư từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thường
được quản lý bởi các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm (Caselli, 2010) [32].
28
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quỹ đầu tư mạo hiểm, ví dụ theo Sở giao dịch
Chứng khoán Ấn Độ (Securities And Exchange Board Of India - SEBI), quỹ đầu tư
mạo hiểm là loại hình quỹ đầu tư mà chủ yếu đầu tư vào các công ty chưa niêm yết,
mới thành lập, trong giai đoạn đang phát triển hoặc trong các giai đoạn đầu của huy
động vốn để sản xuất các sản phẩm mới, dịch vụ mới, trong lĩnh vực công nghệ cao,
quyền sở hữu trí tuệ mới hoặc mô hình kinh doanh mới. Quan điểm của người Ấn Độ
cho rằng, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể huy động vốn thông qua các khoản vay, khoản
đóng góp từ các chủ thể đầu tư trong xã hội, hoặc phát hành các loại chứng khoán,
chứng chỉ quỹ đầu tư.
Tại Mỹ, theo Trường Luật Cornell (Cornell Law School), quỹ đầu tư mạo hiểm
được hiểu là loại quỹ đầu tư đại diện cho các nhà đầu tư có nguồn vốn đầu tư mạo
hiểm, góp vốn để đầu tư. Quỹ đầu tư mạo hiểm có thể hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận
(mức sinh lời lớn), hoặc mục tiêu phi lợi nhuận (ví dụ quỹ đầu tư mạo hiểm do chính
phủ thành lập với vai trò tạo vốn mồi để thu hút các nhà đầu tư khác, hoặc tạo ra sự
phát triển mạnh về khoa học, công nghệ). Quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ quản lý tiền góp
của các nhà đầu tư mạo hiểm nhằm tìm kiếm các cơ hội đầu tư vào các công ty khởi
nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa với tiềm năng tăng trưởng cao trong tương lai.
Các công ty dạng này thường được ngầm hiểu là có mức độ rủi ro cao, với khả năng
thành công thấp. Tại Mỹ, quỹ đầu tư mạo hiểm không được phép vay hoặc phát hành
các công cụ nợ vượt quá 15% vốn điều lệ của quỹ.
Tại Việt Nam, hiện nay chưa có quy định về quỹ đầu tư mạo hiểm nói chung,
mới có dự thảo về quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo, theo đó quỹ đầu tư
mạo hiểm là quỹ hình thành tư vốn góp của các thành viên nhằm thực hiện đầu tư mạo
hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo. Quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo không
chịu sự điều chỉnh hoạt động đầu tư như pháp luật quy định đối với quỹ đầu tư chứng
khoán theo Luật chứng khoán. Ngoài ra, luật quy định rõ quỹ đầu tư mạo hiểm cho
khởi nghiệp sáng tạo chỉ phù hợp đối với các cá nhân, tổ chức sẵn sàng chấp nhận mức
rủi ro cao tiềm tàng từ việc đầu tư của quỹ, đồng thời yêu cầu các cá nhân, tổ chức cần
cân nhắc kỹ trước khi quyết định tham gia góp vốn vào quỹ.
Tại các khu vực khác nhau có quan điểm khác nhau về quỹ đầu tư mạo hiểm.
Ví dụ tại Mỹ, có sự phân biệt giữa quỹ đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư vốn cổ phần tư
nhân (private equity fund). Trong đó, quỹ đầu tư vốn cổ phần tư nhân là loại quỹ có
29
vốn góp để đầu tư dành cho nhiều mục đích khác nhau: đầu tư mạo hiểm, mua bán sáp
nhập, mua cổ phần để thâu tóm các công ty khác, đầu tư mua chứng khoán nợ tại các
công ty có có nguy cơ vỡ nợ, mất khả năng thanh toán, v.v… Trong khi quỹ đầu tư
mạo hiểm được hiểu là những quỹ đầu tư có danh mục đầu tư vào các công ty có khả
năng tăng trưởng trong tương lai. Đối với thị trường Châu Âu, quan điểm về quỹ đầu
tư cổ phần tư nhân và quỹ đầu tư mạo hiểm được dùng song hành, không có sự phân
biệt rõ ràng (Gregoriou và các cộng sự, 2007) [56].
Như vậy, quỹ đầu tư mạo hiểm là loại quỹ nhận vốn đầu tư mạo hiểm nhằm
thực hiện đầu tư vào các công ty mới thành lập, vào các công ty tiềm năng tăng trưởng
cao trong tương lai, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Quỹ đầu tư mạo hiểm có thể đầu tư
vào các công ty thuộc nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế, tuy nhiên chủ yếu hướng tới
các công ty khởi nghiệp, các công ty thuộc lĩnh vực công nghệ cao. Tùy mục đích
thành lập khác nhau mà quỹ đầu tư mạo hiểm có thể hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận
(tối đa hóa lợi ích cho các nhà đầu tư mạo hiểm góp vốn), hoặc phi lợi nhuận (thường
do chính phủ thành lập, với mục đích thúc đẩy sự phát triển của khoa học, công nghệ,
mục tiêu quân sự, khoa học vũ trụ).
Bảng 2. 1. So sánh quỹ đầu tư và quỹ đầu tư mạo hiểm
Tiêu chí Quỹ đầu tư Quỹ đầu tư mạo hiểm
thông thường
Thời gian Ngắn hạn, dài hạn Dài hạn
đầu tư
Lĩnh vực Cổ phiếu, trái phiếu, Các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ
đầu tư chỉ số, bất động sản, cao, thương mại điện tử, internet, game, v.v…
các loại kim loại quý,
v.v..
Giai đoạn Các công ty đã niêm -Giai đoạn khởi nghiệp
đầu tư yết -Giai đoạn trước khi IPO
-Giai đoạn phát triển (M&A)
Cách thức Mua cổ phiếu, mua -Góp vốn theo từng giai đoạn gọi vốn của công
đầu tư trái phiếu, mua hàng ty nhận đầu tư
30
hóa, mua các sản - Chỉ xem xét đầu tư tại các giai đoạn tiếp theo
phẩm phái sinh, v.v… nếu nhận thấy dự án vẫn còn triển vọng trong
tương lai
-Chia sẻ kinh nghiệm, mạng lưới kinh doanh với
công ty nhận đầu tư
Yêu cầu Không Có, thường yêu cầu có vị trí trong ban lãnh đạo
sở hữu công ty
Cách thức Bán cổ phiếu, bán tài -Bán lại cho chủ công ty nhận vốn đầu tư
thu hồi sản đầu tư trên thị -M&A
vốn trường thứ cấp -Bán cổ phần trên thị trường chứng khoán
- Bán cho bên thứ ba
Hỗ trợ Không Có: Lập kế hoạch kinh doanh, chiến lược kinh
doanh, lập kế hoạch tài chính, tuyển dụng các vị trong quá
trí chủ chốt, vay từ ngân hàng và các định chế tài trình đầu
chính khác, tiếp cận thị trường với công nghệ tư
mới, tư vấn điều hành hoạt động marketing và
sản xuất kinh doanh, tư vấn niêm yết trên thị
trường chứng khoán, v.v…
Mức độ Thấp – trung bình Cao
chấp nhận
rủi ro
Nguồn: Bartzokas và Mani (2013), tác giả tổng hợp
2.2. Lý luận về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm
Theo Avnimelech và các cộng sự (2016) [17], quá trình hình thành và phát triển
quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm 5 giai đoạn sau:
Giai đoạn thứ nhất: Điều kiện cần thiết để hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm
Trong giai đoạn này, mọi điều kiện làm xuất hiện nhu cầu về vốn mạo hiểm,
cấp vốn đầu tư mạo hiểm, và sự xuất hiện của các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể được
hình thành một cách có chủ đích, hoặc thậm chí được hình thành một cách vô thức.
Tuy nhiên, thông thường cần có sự xuất hiện của việc nghiên cứu các công nghệ cao,
hoặc liên quan đến các dự án khởi nghiệp (start-up) của các tổ chức, cá nhân trong nền
31
kinh tế; như các nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực quân sự, công nghiệp vũ trụ, hoặc
nhu cầu của xã hội trong việc tài trợ vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang trong
quá trình tìm kiếm nguồn vốn để phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn tiền xuất hiện quỹ đầu tư mạo hiểm
Giai đoạn này thường bắt đầu với những hình thái đầu tư mạo hiểm thực sự, và
hoạt động đầu tư mạo hiểm đã bắt đầu được nhận thức được trong nền kinh tế. Tại giai
đoạn tiền xuất hiện quỹ đầu tư mạo hiểm, rất nhiều các dự án khởi nghiệp đã được tài
trợ vốn thành công, và được phát hành cổ phiếu ra công chúng, ghi nhận được khả
năng huy động vốn, điều hành doanh nghiệp và khả năng tạo ra lợi nhuận, mở rộng
quy mô kinh doanh của các doanh nhân khởi nghiệp. Trong giai đoạn này, đã xuất hiện
một vài quỹ đầu tư mạo hiểm đi vào hoạt động, tuy nhiên chưa có hình thái tổ chức
nào được coi là tối ưu, hoặc được chấp nhận là chính thức; tuy nhiên ở cuối giai đoạn
đầu tư, các quỹ đầu tư mạo hiểm được phân định rõ có sự khác biệt so với các tổ chức
tài chính khác (Avnimelech và các cộng sự, 2016) [17]. Ở giai đoạn tiền xuất hiện quỹ
đầu tư mạo hiểm, đa số nguồn vốn đến từ các nhà đầu tư tổ chức, hoặc các nhà đầu tư
thiên thần tham gia đầu tư; một số dự án có thể đi đến thành công, nhưng phần lớn các
nhà đầu tư tổ chức thường không đóng vai trò quan trọng lớn đến sự tăng trưởng của
lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, mà do các nhà đầu tư thiên thần, kết hợp với nhau để đầu tư
các dự án đầu tư mạo hiểm. Tại giai đoạn này, bắt đầu manh nha xuất hiện các thuật
ngữ chính thức về đầu tư mạo hiểm; và nền văn hóa đã bắt đầu chấp nhận các doanh
nhân thực hiện các hoạt động đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao là một con đường
sự nghiệp chân chính, có triển vọng trong tương lai; đồng thời, có rất nhiều các tấm
gương doanh nhân khởi nghiệp thành công trên thị trường, tạo động lực cho các nhà
đầu tư khác tham gia vào, từ đó gia tăng lượng cầu vốn đầu tư mạo hiểm trong nền
kinh tế, dẫn tới vai trò của các quỹ đầu tư mạo hiểm bắt đầu được xuất hiện. Trong giai
đoạn này, quá trình hình thành của các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể bị gián đoạn bởi
tác động khủng hoảng của nền kinh tế (có thể theo chu kỳ, hoặc do các sự kiện bất
thường của nền kinh tế đó), làm cho quá trình phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm
sẽ bị chậm lại.
Giai đoạn thứ ba: Giai đoạn phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm
Tại giai đoạn này, quan điểm về đầu tư mạo hiểm nói chung, và quỹ đầu tư mạo
hiểm nói riêng đã được thể hiện khá rõ ràng; đồng thời, các chính sách của chính phủ
32
đóng vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Lúc
này, các quỹ đầu tư mạo hiểm được xuất hiện và mở rộng nhanh chóng, nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn, và nhu cầu đầu tư mạo hiểm của các nhà đầu tư, đặc biệt là nhu cầu vốn
rất lớn từ các dự án khởi nghiệp (start-up); các quỹ đầu tư mạo hiểm với nhiều hình
thức tổ chức khác nhau cũng đi vào hoạt động, với các tiêu chuẩn, khẩu vị rủi ro,
mong muốn đầu tư của các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ. Hơn nữa, các quỹ đầu tư mạo
hiểm lúc này bắt đầu thử nghiệm hàng loạt các chiến lược đầu tư, thủ tục đầu tư, v.v…
Vào cuối giai đoạn này, các hình thái tổ chức của các quỹ đầu tư mạo hiểm đã chính
thức được xác định, các quy định với mỗi hình thái được quy định chặt chẽ hơn. Mặt
khác, rất nhiều các tổ chức đi theo đã phát triển để phục vụ cho sự phát triển của các
quỹ đầu tư mạo hiểm, như các công ty luật, các tổ chức kế toán, các ngân hàng đầu tư,
v.v… với các dịch vụ chất lượng cao, đưa ra các dịch vụ hỗ trợ cho các dự án khởi
nghiệp, và các quỹ đầu tư mạo hiểm (Avnimelech và các cộng sự, 2016) [17].
Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn khủng hoảng của các quỹ đầu tư mạo hiểm
Tại giai đoạn này, sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính có thể sẽ làm
nghiêm trọng hơn đến sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm, do thị trường chứng
khoán rơi vào giai đoạn trầm lắng, chính phủ ban hành các chính sách thắt chặt, hoặc
đưa ra các quy định chặt chẽ hơn đối với thị trường, làm cho quá trình thoái vốn thông
qua phương thức phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO) của các quỹ đầu tư mạo
hiểm bị gián đoạn, hoặc không thu hút được sự quan tâm của công chúng đầu tư. Bản
thân các quỹ đầu tư mạo hiểm không thoái được vốn, làm cho các nhà đầu tư góp vốn
vào quỹ không thể thu hồi vốn theo như dự kiến thời gian đầu tư ban đầu, dẫn đến
niềm tin vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói chung, và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói
riêng bị ảnh hưởng không nhỏ. Để tồn tại qua giai đoạn này, các quỹ đầu tư mạo hiểm
cần tái cấu trúc các khoản đầu tư của mình, đồng thời tìm kiếm các nhà đầu tư mạo
hiểm khác sẵn sàng chấp nhận rủi ro với các dự án đầu tư sẵn có. Trong giai đoạn này,
rất nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ bị giải thể, phá sản.
Giai đoạn thứ năm: Giai đoạn phục hồi của các quỹ đầu tư mạo hiểm
Những quỹ đầu tư mạo hiểm tồn tại được qua giai đoạn khủng hoảng, đi đến
giai đoạn phục hồi, sẽ trở thành các quỹ đầu tư mạo hiểm dẫn đầu thị trường. Thông
thường, các quỹ đầu tư mạo hiểm này có được sự trợ giúp từ các tổ chức tài chính,
hoặc các nhà đầu tư thiên thần, chấp nhận rủi ro để đầu tư vào quỹ trong giai đoạn
33
khủng hoảng. Lúc này, sẽ xuất hiện các quỹ đầu tư mạo hiểm mới (cả chính thức và
không chính thức), với các mục tiêu đầu tư khác nhau; đồng thời, ở giai đoạn này, rất
nhiều các chính sách mới của chính phủ sẽ được ban hành, nhằm thúc đẩy sự phát triển
của các quỹ đầu tư mạo hiểm, nhằm khơi thông dòng vốn đầu tư mạo hiểm trong nền
kinh tế.
2.2.1. Xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm
Theo từ điển Cambridge, “establish” là một động từ thể hiện việc thành lập, bắt
đầu xây dựng một công ty hoặc một tổ chức mà sẽ tồn tại hoạt động trong một thời
gian dài; việc hoạt động này sẽ có sự tương tác đối với các con người, công ty, tổ chức
hoặc các quốc gia. Tại Việt Nam, khi bắt đầu khởi sự một doanh nghiệp, từ “xây dựng
doanh nghiệp” không phải là một từ ghép thường dùng, do từ “xây dựng” thường được
nhắc đến lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng (nhà cửa, cầu cống, đường xá); mà người ta
thường dùng từ “thành lập doanh nghiệp”, ám chỉ việc thực hiện một thủ tục pháp lý
được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm xác định khai sinh ra một
doanh nghiệp để tham gia quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Theo Luật doanh nghiệp 2014, việc thành lập doanh nghiệp bao gồm những quy
định cơ bản như quy định chủ thể thành lập doanh nghiệp; quy định điều kiện ngành
nghề kinh doanh; quy định điều kiện đặt tên cho doanh nghiệp; và quy định hồ sơ đăng
ký doanh nghiệp. Như vậy dưới góc độ kinh tế, thành lập doanh nghiệp là việc chuẩn
bị đầy đủ các điều kiện cần và đủ nhằm hình thành nên một tô chức kinh doanh (như
trụ sở, vốn điều lệ, nhà xưởng, thiết bị, nhân viên, quản lý, v.v…).
Như vậy, theo quan điểm của luận án, xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm là việc
hình thành nên các quỹ đầu tư mạo hiểm, trong đó đã xác định được các đối tượng
tham gia góp vốn, mục tiêu đầu tư, thời gian đầu tư, đối tượng quản lý quỹ; thông qua
đó huy động được lượng vốn đầu tư mạo hiểm cần thiết và đảm bảo hoạt động của quỹ
tuân theo pháp luật hiện hành.
Khi xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm, cần thiết quan tâm tới các yếu tố sau: (1)
Đối tượng góp vốn; (2) Mô hình tổ chức; (3) Các điều khoản hạn chế trong đầu tư của
quỹ; (4) Tiêu chuẩn giải ngân các dự án đầu tư của quỹ; (5) Phương thức thoái vốn của
quỹ.
34
2.2.1.1. Đối tượng góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm
Các quỹ đầu tư mạo hiểm không chỉ huy động vốn cho vốn điều lệ ban đầu mà
còn huy động thường xuyên nhằm bổ sung lượng vốn để mở rộng quy mô đầu tư của
mình. Các quỹ đầu tư mạo hiểm có mối quan hệ mật thiết với các nhà đầu tư cung cấp
vốn, thường có thể do mối quan hệ quen biết, do đối tác kinh doanh lâu năm hoặc do
tác động chính trị. Trên thực tế, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể hoạt động độc lập, với đội
ngũ quản lý là các cá nhân độc lập, hoặc được quản lý bởi các tổ chức tài chính như
các ngân hàng, công ty bảo hiểm hoặc các công ty tiến hành các thương vụ đầu tư thay
mặt cho các công ty mẹ hoặc khách hàng của họ hay các nhà đầu tư bên ngoài
(Gladstone, 2002) [47].
Nhìn chung, các đối tượng tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm: Thành
viên góp vốn/ đối tượng góp vốn đầu tư mạo hiểm (Limited Partners) và thành viên
hợp danh/ đối tượng quản lý vốn đầu tư mạo hiểm (General Partners).
Đối tượng góp VĐT mạo hiểm (Limited Partners)
Hình 2. 1. Đối tượng tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm
Đối tượng quản lý VĐT mạo hiểm (General Partners)
Góp vốn vào quỹ
Quản lý quỹ/ đầu tư Quỹ đầu tư mạo hiểm
Dự án đầu tư
Nguồn: Venture & Investment (2013)
Trong đó:
Đối tượng góp vốn đầu tư mạo hiểm (Limited Partners - LPs) bao gồm: Cá cá
nhân, gia đình giàu có; các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ của quỹ; ngân hàng đầu
tư; quỹ đầu tư quốc gia, v.v…
35
Đối tượng quản lý vốn đầu tư mạo hiểm (General Partners - GPs): Đây là các
đối tượng trực tiếp gây quỹ từ các nhà đầu tư. Họ là những người chịu rủi ro nhất, do
vậy cũng là người nhận được lợi ích lớn nhất khi công ty nhận được đầu tư. Khả năng
huy động vốn từ các nhà đầu tư đóng vai trò quan trọng nhất của GPs, rồi mới tới khả
năng sử dụng nguồn vốn huy động được một cách hiệu quả. Đối tượng quản lý vốn
đồng thời cũng có thể là người trực tiếp góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên,
phần lớn số tiền vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm do đối tượng góp vốn đầu tư mạo hiểm
góp vốn - LPs (99%), đối tượng quản lý vốn đầu tư mạo hiểm – GPs chỉ chiếm 1%
(Demaria, 2013) [42].
Một quỹ đầu tư mạo hiểm được hoạt động dưới một hợp đồng giữa đối tượng
góp vốn và đối tượng quản lý vốn, gọi là Thỏa thuận hợp tác hữu hạn (Limited
Partnership Agreement – LPA), trong đó quy định mọi điều khoản liên quan đến quá
trình góp quỹ, tiêu chí hoạt động của quỹ, chính sách chi phí của quỹ, cũng như cơ chế
phân chia lợi nhuận của quỹ đầu tư mạo hiểm.
Lợi ích của các bên tham gia
Một quỹ đầu tư mạo hiểm khi xây dựng mô hình hoạt động của mình sẽ có
nhiều cách để hấp dẫn các nhà đầu tư góp vốn, bằng cách cụ thể hóa yêu cầu và các ưu
tiên của họ:
- Giới hạn trách nhiệm của nhà đầu tư trong số tiền đầu tư của họ, nhà đầu tư
góp vốn không được phép tham dự vào việc điều hành, quản lý tại các thương vụ đầu
tư.
- Tránh tối đa bị đánh thuế 2 lần: Khi lợi nhuận của dự án đầu tư được ghi nhận
và khi nhà đầu tư nhận lại phần vốn, lời từ việc đầu tư.
- Đảm bảo hiệu quả, minh bạch các chi phí hành chính, chi phí quản lý và các
chi phí khác phát sinh.
- Đảm bảo quỹ đầu tư mạo hiểm phù hợp với chủ thể đầu tư với một loạt các
thẩm quyền có liên quan như các tổ chức tài chính, các tập đoàn, các nhà đầu tư cá
nhân, tại quốc gia/ khu vực hoạt động, v.v…
Ngoài ra, khi thành lập, quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ xác định các điều khoản và các
điều kiện kèm theo, bao gồm:
36
- Phí quản lý, thường không vượt quá 2,5% trên tổng vốn cam kết, và thường ít hơn đối với các quỹ lớn. Phí quản lý được trả hàng quý và giảm dần trong thời kỳ suy giảm của quỹ (drawdown period).
- Phí thành lập quỹ (ví dụ các chi phí liên quan đến luật pháp, hành chính), chiếm khoản 1% vốn cam kết, và các chi phí hoạt động tiếp theo (như chi phí hải quan, kiểm toán, chi phí sản xuất, phí báo cáo thường niên, phí họp các nhà đầu tư, phí thuê chuyên gia tư vấn độc lập bên ngoài, v.v…). Tuy nhiên, các quỹ đầu tư mạo hiểm ngày nay đang chịu áp lực rất lớn từ các nhà đầu tư góp vốn, khi yêu cầu giảm các khoản phí này xuống, hoặc đã bao gồm trong phí quản lý.
- Lợi nhuận phân chia cũng được quy định rõ ràng, nhằm khuyến khích các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm dành trách nhiệm cao trong công việc của mình, nhằm tối đa hóa hiệu quả hoạt động của quỹ. Thông thường, quỹ sẽ yêu cầu lợi nhuận khoảng 15-20% lợi nhuận. Cách tính cũng rất phong phú, từ cách tính tổng lợi nhuận tất cả các thương vụ đầu tư của quỹ, hay tính theo từng thương vụ đầu tư riêng biệt; hoặc các nhà đầu tư và quỹ có thể phân chia lợi nhuận theo từng giai đoạn đầu tư, v.v…
Quỹ đầu tư mạo hiểm
Bên cần vốn
Hình 2. 2. Cấu trúc quỹ đầu tư mạo hiểm
Vốn
2-3% phí quản lý
Đối tượng cấp vốn
Nhà quản lý
Vốn
20% lợi nhuận của quỹ đầu tư mạo hiểm
IPOs/ Bán thương mại/ Sáp nhập
Doanh nhân
Vốn cổ phần
Người góp vốn -Quỹ hưu trí -Ngân hàng -Cá nhân -Doanh nghiệp -Công ty bảo hiểm -Khác 80% của lợi nhuận quỹ đầu tư mạo hiểm + phần phụ trội
Nguồn: Gladstone (2002) [47]
37
2.2.1.2. Mô hình tổ chức của quỹ đầu tư mạo hiểm
Hiện nay quỹ đầu tư mạo hiểm có nhiều hình thức tổ chức khác nhau, trong mỗi
hình thức lại có ưu/ nhược điểm khác nhau. Theo Đào Lê Minh (2003) [3]; Lin (2016)
[71], quỹ đầu tư mạo hiểm được tồn tại ở ba dạng chính: (1) quỹ đầu tư dạng công ty;
(2) quỹ đầu tư dạng tín thác; (3) quỹ đầu tư dạng hợp danh hữu hạn.
Mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty (company-type funds)
Quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty sẽ có tư cách pháp nhân, có điều lệ công ty
riêng; lúc này quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ có tính chất như một công ty cổ phần, nhà đầu
tư góp vốn vào quỹ có tư cách như các cổ đông của công ty. Cổ đông trong quỹ được
chia thành cổ đông sáng lập và cổ đông thường. Các cổ đông sáng lập sẽ nắm một tỷ lệ
vốn cổ phần đủ lớn để tham gia vào hội đồng quản trị, chịu trách nhiệm quản lý quỹ
đầu tư mạo hiểm. Trong mô hình này, không có sự tách biệt giữa các nhà đầu tư góp
vốn và các nhà quản lý chuyên nghiệp; chỉ có sự chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm
vi góp vốn đầu tư vào quỹ. Lúc này, đối tượng đóng vai trò quan trọng nhất trong vấn
đề giám sát công ty quản lý quỹ đầu tư là hội đồng quản trị quỹ đầu tư. Các điều khoản
giám sát đã được quy định rõ trong điều lệ công ty, phục vụ vì lợi ích của nhà đầu tư
góp vốn vào quỹ.
Tùy theo quy định về điều lệ của quỹ, quỹ có thể chia thành quỹ đầu tư dạng
đóng hoặc quỹ đầu tư dạng mở. Quỹ đầu tư dạng đóng sẽ ngưng nhận vốn góp khi đã
huy động đủ vốn cần thiết, hoặc sau một thời gian hoạt động nhất định, để các nhà
quản lý quỹ đầu tư sẽ tập trung vốn vào các dự án đã được lựa chọn. Lúc này các nhà
đầu tư đã đầu tư vào quỹ, muốn thoái vốn sẽ tự tìm các nhà đầu tư muốn mua chứng
chỉ quỹ trên thị trường thứ cấp. Quỹ đầu tư mạo hiểm dạng mở cho phép quỹ phát
hành chứng chỉ quỹ nhiều lần để gia tăng lượng vốn đầu tư của quỹ, qua đó tạo ra các
cơ hội đầu tư khác cho bản thân quỹ đầu tư, cũng như các nhà đầu tư có hứng thú đầu
tư vào quỹ có cơ hội mua các chứng chỉ quỹ. Bên cạnh đó, đối với quỹ đầu tư dạng
mở, quỹ sẽ có trách nhiệm mua lại các chứng chỉ quỹ đầu tư theo yêu cầu của các nhà
đầu tư, giá mua lại thông thường sẽ bám vào giá trị NAV của quỹ tại thời điểm mua
vào, tùy từng quy định của quỹ.
Mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng tín thác (trust-type funds)
Tổ chức ở dạng mô hình đơn vị tín thác, quỹ đầu tư mạo hiểm không có tư cách
pháp nhân, mà đây là một tổ hợp nhận vốn đầu tư, dựa trên một mức vốn điều lệ, mức
38
vốn pháp định hoặc một hình thức pháp lý được tổ chức theo quy định của pháp luật.
Lúc này quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ được ủy thác cho một tổ chức hoặc một công ty
chuyên để quản lý danh mục đầu tư, với một mức phí quản lý nhất định. Được tổ chức
dưới hình thức mô hình đơn vị tín thác, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng này sẽ có một số
đặc điểm sau:
(1) Quỹ đầu tư dạng đơn vị tín thác chỉ được thành lập khi đã có một công ty
quản lý quỹ chuyên nghiệp đứng ra thành lập quỹ, phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư,
quỹ đã có tiêu chí đầu tư, mục tiêu đầu tư nhất định; quỹ đã có danh sách người điều
hành danh mục đầu tư và chịu trách nhiệm về hiệu quả của quỹ, về các trách nhiệm
liên quan đến pháp luật đối với các hoạt động của quỹ.
(2) Quyền lợi của các nhà đầu tư luôn được đảm bảo, bởi quỹ đã được quản lý,
giám sát bởi các ngân hàng giám sát và các tổ chức trung gian tài chính liên quan, sẽ
đảm nhận các công việc liên quan đến bản quản tài sản của quỹ, lưu giữ các tài sản và
giám sát các hoạt động của quỹ đầu tư.
(3) Quỹ đầu tư dạng đơn vị tín thác không có tư cách pháp nhân. Mọi hoạt động
của quỹ sẽ do đại hội các nhà đầu tư, do công ty quản lý quỹ, hoặc do các ngân hàng
giám sát quản lý, lo liệu các thủ tục cần thiết. Trong khi đó, quyền, lợi ích và nghĩa vụ
của công ty quản lý quỹ đầu tư khi thành lập quỹ có thể được trao cho một công ty
quản lý quỹ khác, nếu được các nhà đầu tư góp vốn đồng ý, được sự phê chuẩn của cơ
quan Nhà nước liên quan.
Mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn (limited partnership-
type funds)
Mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn là hình thức quỹ đầu tư
mạo hiểm phổ biến nhất tại Mỹ và Trung Quốc (Cumming, 2017 [40]; Lin, 2015a
[69]). Việc đầu tư vào các công ty tư nhân khởi nghiệp thường mất từ 2 đến 7 năm để
có thể đưa ra được các sản phẩm được xã hội chấp nhận, và các quỹ đầu tư mạo hiểm
có thể thoát vốn đầu tư (Cumming, 2017) [40]. Do đó, các quỹ đầu tư mạo hiểm dạng
hợp danh hữu hạn thường đề ra các chiến lược đầu tư trong khoảng 10 năm đối với
mỗi dự án, và có điều khoản gia hạn đầu tư thêm khoảng 3 năm nhằm đảm bảo khoản
đầu tư đó có thể thành công và quỹ có thể thoái vốn (Gompers và các cộng sự, 2004
[52]; Gorman và Sahlman, 1989 [55]). Tại các quốc gia chưa cho phép mô hình quỹ
đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn hoạt động, thì có mô hình quỹ đầu tư dạng
39
công ty, với cấu trúc và cơ chế hoạt động tương tự quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp
danh hữu hạn nhằm đạt được kết quả đầu tư cũng như cách thức quản lý ưu việt của
loại hình doanh nghiệp này (Cumming, 2017) [40].
Có hai lý do khiến mô hình hợp danh hữu hạn được phổ biến tại các quốc gia,
đó là:
Thứ nhất, không giống như mô hình công ty, bị ràng buộc bởi điều lệ công ty,
quỹ đầu tư dạng hợp danh hữu hạn được hình thành bởi các hợp đồng, do đó rất linh
hoạt trong việc đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư khác nhau.
Thứ hai, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn cho phép các đối tác
góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn với khoản vốn đầu tư của mình, trong khi có thể
tránh được các loại thuế thu nhập. Các đối tượng góp vốn có thể là các cá nhân, các
công ty nước ngoài, quỹ hưu trí, các tổ chức từ thiện, v.v… với các mức chịu thuế
khác nhau. Trong khi đầu tư mạo hiểm bản thân cũng được chính phủ các quốc gia
khuyến khích, với mức thuế thu nhập thấp hơn so với các lĩnh vực đầu tư thông
thường. Điều này làm cho các đối tác góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm được lợi thuế
nhiều lần. Trong khi lợi nhuận của quỹ đầu tư mạo hiểm được chia đều cho các đối tác
góp vốn theo tỷ lệ đóng góp, việc chi trả lợi nhuận với các đối tác góp vốn khác nhau
sẽ làm cho các đối tác này được lợi thuế theo các mức độ khác nhau.
Trong ba mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm nói trên, quỹ đầu tư mạo hiểm mô hình
công ty, mô hình tín thác xuất hiện sớm nhất, trong giai đoạn đầu của lĩnh vực đầu tư
mạo hiểm hình thành và phát triển. Đến nay, mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng tín
thác và dạng công ty vẫn đang tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt tại Châu
Âu và Châu Phi, góp phần rất lớn tài trợ vốn cho các công ty tư nhân khởi nghiệp, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa (Cumming, 2003 [39]; Hossain và các cộng sự, 2000 [62];
Kerubo, 2015 [67]; Maarbani, 2011 [72]). Trong khi đó, mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm
dạng hợp danh hữu hạn tuy ra đời sau, nhưng khá phổ biến tại Mỹ và Trung Quốc do
những đặc tính riêng có của hai quốc gia này (Cumming, 2017 [40]; Lin, 2016 [71]).
Khi so sánh mô hình tổ chức của các quỹ đầu tư mạo hiểm, có thể nhận thấy một số
điểm sau:
Thứ nhất, về việc khả năng thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư mạo
hiểm dạng công ty và dạng tín thác thành lập và huy động vốn khả quan hơn so với
quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn. Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công
40
ty, các nhà đầu tư chính là các cổ đông, có quyền lợi như với công ty cổ phần thông
thường; đối với quỹ đầu tư dạng tín thác, quyền lợi của các đối tượng góp vốn luôn
được đảm bảo do đã có bên thứ ba giám sát, do quỹ đầu tư lúc này chỉ là tổ hợp nhận
góp vốn, không có tư cách pháp nhân; trong khi đó, đối với quỹ đầu tư mạo hiểm dạng
hợp danh hữu hạn, việc huy động vốn tương đối khó khăn, do các thành viên quản lý
vốn đầu tư mạo hiểm phải tiếp cận, giới thiệu về quỹ, mục tiêu đầu tư để huy động vốn
từ các nhà đầu tư mạo hiểm, trong khi việc tiếp cận thông tin giữa hai đối tượng này
còn khá hạn chế.
Thứ hai, về vấn đề quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm. Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm
dạng công ty và dạng tín thác, các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ và đối tượng quản lý
quỹ là hai đối tượng độc lập. Trong trường hợp quỹ đầu tư dạng công ty, đại diện các
nhà đầu tư là hội đồng quản trị, sẽ bầu ra một số người quản lý quỹ chuyên nghiệp,
thực hiện quản lý, đầu tư dưới sự giám sát của các cổ đông. Đối với quỹ đầu tư dạng
tín thác, toàn bộ số tiền của quỹ đều do công ty quản lý quỹ đứng ra huy động vốn,
quản lý và đầu tư, với sự giám sát của ngân hàng đầu tư và các trung gian tài chính
khác có trách nhiệm bảo quản tài sản cho quỹ. Trong khi đó, đối với quỹ đầu tư mạo
hiểm dạng hợp danh hữu hạn, đối tượng quản lý quỹ cũng như các nhà đầu tư mạo
hiểm đều là các thành viên của quỹ. Các thành viên quản lý quỹ đứng ra huy động vốn,
đồng thời trực tiếp quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm theo đúng tiêu chí đã cam kết trong
hợp đồng ban đầu.
Thứ ba, về vấn đề rủi ro khi tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm. Đối với dạng
quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty và dạng tín thác, nhà đầu tư chỉ chịu rủi ro đối với
số vốn mình đã đóng góp vào quỹ, tương ứng nhận lại phần lợi nhận khi quỹ thoái vốn
tại các dự án đầu tư. Hội đồng quản trị, hoặc công ty quản lý quỹ đầu tư sẽ chịu trách
nhiệm đối với các chiến lược, kết quả đầu tư của quỹ. Tuy nhiên đối với quỹ đầu tư
dạng hợp danh hữu hạn, rủi ro của quỹ không chỉ được giới hạn trong số vốn của
những nhà đầu tư góp vốn, mà riêng đối với đối tượng quản lý quỹ (đồng thời cũng là
người góp vốn), còn phải chịu trách nhiệm vô hạn, thậm chí bằng cả tài sản riêng của
mình trong trường hợp không may xảy ra. Chính điều này đã tạo áp lực rất lớn đối với
các thành viên quản lý quỹ của quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn, nhưng
nó cũng giúp các thành viên góp vốn vào an tâm hơn khi tham gia vào quỹ đầu tư dạng
này.
41
Thứ tư, đối với vấn đề giám sát hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm. Đối với
quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty, không có sự tham gia của bên giám sát hoạt động
của quỹ (chỉ có tổ chức bảo quản tài sản), nhưng mọi hoạt động của quỹ đều phải rõ
ràng, minh bạch do yêu cầu từ chính phía các cổ đông góp vốn đầu tư, cũng như mục
đích minh bạch để thu hút vốn đầu tư. Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm dạng tín thác, mọi
hoạt động của quỹ đã có ngân hàng giám sát được lựa chọn, có trách nhiệm giám sát,
bảo quản tài sản của quỹ. Việc giám sát này đã là công việc chuyên nghiệp của các
ngân hàng được lựa chọn, do đó các nhà đầu tư có thể an tâm với chất lượng và uy tín
của dịch vụ họ cung cấp. Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn, không
cần thiết có sự xuất hiện của một tổ chức giám sát, bảo quản tài sản, do mọi vấn đề
liên quan đến mỗi đối tượng thành viên, quy trình đầu tư, mục đích đầu tư, mọi vấn đề
phát sinh đều đã được nêu ra trong hợp đồng hợp danh.
2.2.1.3. Các điều khoản hạn chế trong đầu tư của quỹ
Quỹ đầu tư mạo hiểm là trung gian tài chính kết nối giữa các nhà đầu tư cá
nhân, nhà đầu tư tổ chức (như các ngân hàng, công tư bảo hiểm, quỹ hưu trí, tổ chức từ
thiện, v.v…) với các công ty tư nhân. Các nhà đầu tư tổ chức không có đủ thời gian và
kỹ năng nhằm thực hiện các công đoạn như rà soát đặc biệt (due diligence) để lựa chọn
các công ty tư nhân có tiềm năng để đầu tư. Ngoài ra, họ cũng không có thời gian để
theo sát các dự án mạo hiểm đã đầu tư, hoặc không có kỹ năng để đưa ra các lời
khuyên nhằm gia tăng giá trị cho các công ty nhỏ và vừa đã nhận đầu tư. Chính vì vậy,
các nhà đầu tư tổ chức thường ủy thác cho các quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm quản lý quá
trình đầu tư vào các công ty tư nhân.
Theo Cumming (2001) [38]; Gompers và Lerner (1998) [51], có 5 loại điều
khoản hạn chế mà quỹ đầu tư mạo hiểm thường đề cập đến, đó là:
Điều khoản thứ nhất, thẩm quyền của nhà quản lý quỹ đối với các quyết định
đầu tư. Như đã trao đổi ở phía trên, các nhà đầu tư tổ chức không thể sát sao các hoạt
động hàng ngày của quỹ đầu tư mạo hiểm, do đó, các điều khoản hạn chế về đầu tư sẽ
giảm thiểu các vấn đề chi phí đại diện phát sinh có liên quan đến việc đầu tư vốn của
các nhà đầu tư tổ chức (Gompers và Lerner, 1998) [51]. Các điều khoản hạn chế bao
gồm:
42
Hạn chế trong quy mô đầu tư đối với bất kỳ một công ty riêng lẻ trong danh
mục đầu tư. Điều này nhằm ngăn chặn tình trạng các nhà quản lý quỹ đầu tư không
muốn bỏ nhiều công sức để tìm hiểu, khai thác các cơ hội đầu tư từ các công ty tư
nhân khác nhau mà chỉ muốn tập trung vào một số các dự án họ đã triển khai.
Không cho phép các nhà quản lý quỹ đầu tư vay tiền (từ ngân hàng) để tái đầu
tư khoản tiền vay đó với nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư tổ chức. Điều này sẽ làm
tăng đòn bẩy tài chính của quỹ đầu tư, gia tăng rủi ro cho các nhà đầu tư góp vốn vào
quỹ.
Không cho phép đồng đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm mà có cùng người
quản lý, hoặc thậm chí có cùng nhà đầu tư góp vốn. Điều này nhằm hạn chế các xung
đột lợi ích trong việc phân bổ các cơ hội đầu tư đối với các nhà đầu tư tổ chức khác
nhau của quỹ; hoặc hạn chế các nhà quản lý quỹ bảo lãnh/ tái đầu tư đối với các dự án
đầu tư kém hiệu quả, do cùng đối tượng quản lý quỹ điều hành.
Không cho phép tái đầu tư đối với các khoản lợi vốn thu được từ các dự án đã
mang lại lợi nhuận. Một số nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm theo đuổi chiến lược tập
trung gây dựng danh tiếng của mình hơn là thu lợi thực sự cho quỹ (“fame not
fortune”), bằng cách cố gắng tạo dựng càng nhiều thương vụ IPO thành công càng tốt,
liên tục đầu tư các dự án mới, trong khi biết rằng việc đầu tư mới này có thể làm ảnh
hưởng đến lợi nhuận của các dự án đầu tư cũ.
Hạn chế trong việc nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm có toàn quyền độc lập
trong việc ra các quyết định đầu tư. Đối với một số lĩnh vực đầu tư, quy mô đầu tư
hoặc việc tái đầu tư/ gia hạn đầu tư, cần có sự tham gia của các bên khác, được quy
định kỹ trong hợp đồng.
Điều khoản thứ hai, quyền hạn đầu tư của các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo
hiểm. Việc phân loại rõ quyền hạn của người quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ giới hạn
các vấn đề chi phí đại diện trong việc tách bạch giữa quyền sở hữu (như các nhà đầu tư
tổ chức) và quyền kiểm soát, điều hành (nhà quản lý quỹ) trong quá trình đầu tư. Các
điều khoản này bao gồm:
Hạn chế trong việc đồng đầu tư của chính các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo
hiểm. Điều khoản này cũng tương tự như việc hạn chế đầu tư vào các dự án có cùng
nhà đầu tư, hoặc có cùng nhà quản lý quỹ đầu tư như đã trình bày ở phần trên; nhưng
thêm cả điều khoản hạn chế đối với quỹ đầu tư cá nhân (personal funds) của chính nhà
43
quản lý quỹ đó. Điều này nhằm hạn chế xung đột lợi ích xảy ra khi các nhà quản lý
quỹ đầu tư mạo hiểm dành nhiều thời gian hơn cho dự án mà chính họ tâm huyết đầu
tư, hơn là dành toàn lực cho danh mục đầu tư (mà được kỳ vọng bởi các nhà đầu tư tổ
chức đã góp vốn).
Quyền hạn của các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm đối với việc bảo vệ quyền
lợi điều hành của mình. Trong trường hợp các nhà đầu tư tổ chức muốn thêm các nhà
đầu tư mới, đặc biệt khi số lượng nhà đầu tư thêm với số lượng vốn nhiều, có xung đột
lợi ích với các nhà quản lý quỹ, sẽ làm ảnh hưởng đến các định hướng ban đầu của các
bên, nhất là đối với các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm (đây đồng thời cũng là các
cổ đông tích cực nhất của quỹ đầu tư).
Có một số quy định và giới hạn của những người chủ chốt liên quan đến việc bổ
sung các nguyên tắc đầu tư liên quan đến các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm, bởi
hợp đồng đầu tư này đã xác định giới hạn với đối tượng quản lý quỹ nhất định, và các
nhà đầu tư tổ chức muốn tiền của họ được quản lý bởi những người họ đã ký kết hợp
đồng.
Điều khoản thứ ba, loại hình đầu tư. Điều khoản này nhằm đảm bảo vốn của
các nhà đầu tư được đầu tư theo đúng cách mà họ đã lựa chọn, với khẩu vị rủi ro và lợi
nhuận ước tính ban đầu. Các hạn chế đầu tư bao gồm đầu tư vào các quỹ đầu tư khác,
đầu tư vào các danh mục do nhà quản lý quỹ đầu tư đang quản lý, các chứng khoán
công chúng, mua lại dựa trên vay nợ (leveraged buyouts), cổ phiếu nước ngoài, đầu tư
bắc cầu, v.v… Nếu không có các quy định hạn chế kể trên, nhà quản lý quỹ đầu tư
mạo hiểm có thể chỉ tập trung theo chiến lược đầu tư của riêng mình nhằm thu lợi tối
đa cho bản thân, hơn là hoạt động vì lợi ích của các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ.
Điều khoản thứ tư, hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm. Điều khoản này được
soạn thảo nhằm giám sát ở góc độ hành chính của quỹ, bao gồm việc chia sẻ ý tưởng
đầu tư của người góp vốn đầu tư, hạn chế đối với người quản lý quỹ trong việc gây
một quỹ đầu tư mới, việc công bố thông tin của quỹ cho các nhà đầu tư, điều khoản
cho phép các nhà đầu tư bỏ phiếu để loại bỏ đối tượng quản lý quỹ trong các tình
huống khác nhau, v.v…
Điều khoản thứ năm, giới hạn nghĩa vụ của đối tượng quản lý quỹ. Người
quản lý quỹ mạo hiểm được có một số điều khoản loại trừ nghĩa vụ trong trường hợp
không đạt được tỷ suất lợi nhuận đã được đưa ra, nếu người quản lý quỹ thất bại trong
44
việc đạt được khoản lãi đầu tư trong thời gian đã cam kết, hoặc trong trường hợp đối
tượng này được phát hiện không quản lý quỹ một cách có hiệu quả.
2.2.1.4. Tiêu chuẩn giải ngân các dự án đầu tư của quỹ
Các quỹ đầu tư mạo hiểm thường dựa trên các lý do khác nhau nhằm tìm ra các
dự án đầu tư phù hợp, sau đó giải ngân nhằm hiện thực hóa quá trình đầu tư của quỹ.
Tại giai đoạn đầu hình thành quỹ, các nhà quản lý quỹ, hoặc các đối tượng góp vốn
vào quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ xác định cụ thể, tiêu chí nào nhằm lựa chọn ra dự án đầu
tư phù hợp, và chuẩn hóa các bước cần thiết để giải ngân vào các dự án đầu tư đó.
Lựa chọn dự án đầu tư
Các quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ lựa chọn những dự án đầu tư phù hợp với khẩu vị
của quỹ, tức là đầu tư vào lĩnh vực mà họ hiểu biết rõ nhằm nâng cao khả năng thành
công của dự án đầu tư, hoặc những công ty có ban lãnh đạo có cùng tầm nhìn, cùng chí
hướng hoặc cùng quan điểm với quỹ đầu tư mạo hiểm. Thêm vào đó, họ phải đầu tư
vào những dự án, những ý tưởng kinh doanh có triển vọng, mà họ tin rằng sẽ thành
công trong tương lai. Trên thực tế, ý tưởng kinh doanh rất phong phú và đa dạng,
nhưng số lượng các dự án, ý tưởng thất bại rất nhiều, do đó các nhà đầu tư mạo hiểm
sẽ chú trọng vào các công ty theo đuổi mục tiêu lớn, vì nó có thể tạo ra lợi nhuận lớn,
xứng đáng với công sức và chi phí họ bỏ ra. Ngoài ra, công ty hoặc ý tưởng nhận đầu
tư phải có khả năng nhanh chóng biến cơ hội thành hiện thực, trước khi các áp lực
cạnh tranh làm giảm giá trị các khoản lợi nhuận tiềm năng. Như vậy, tiêu chí để thẩm
định dự án đầu tư tiềm năng bao gồm:
- Mức độ khác biệt, độc đáo của sản phẩm
- Năng lực, tầm nhìn của đội ngũ lãnh đạo công ty
- Tính hấp dẫn của thị trường, lĩnh vực đầu tư
- Lượng vốn đầu tư
- Mức rủi ro, khả năng kiếm lợi nhuận từ thương vụ đầu tư
Cấp vốn đầu tư
Các quỹ đầu tư mạo hiểm không bao giờ chi khoản đầu tư thành một lần, đủ
theo như yêu cầu kêu gọi vốn đầu tư để đối tượng nhận đầu tư có thể tự chủ, mà họ
thường chia thành nhiều giai đoạn nhỏ, với việc mua số lượng cổ phần nhất định, và
thường chỉ đầu tư ở giai đoạn tiếp theo nếu như giai đoạn trước đó đạt được yêu cầu
45
của họ. Điều này sẽ thúc đẩy các nhà sáng lập công ty nhận đầu tư, hoặc chủ sở hữu
của ý tưởng kinh doanh không ngừng làm việc, nâng cao tính khả thi của dự án, đồng
thời làm giá trị của công ty nhận đầu tư tăng lên theo thời gian, làm cho giá trị khoản
đầu tư của các nhà đầu tư mạo hiểm cũng tăng theo. Bên cạnh việc sở hữu cổ phần
trong công ty, các quỹ đầu tư mạo hiểm thường có yêu cầu có đại diện với đa số quyền
bỏ phiếu trong công ty để trực tiếp giám sát, theo dõi quá trình tiến triển của doanh
nghiệp đó. Sự tham gia của họ trong công ty có thể bao gồm cả việc quyết định hướng
đi trong kinh doanh, tuyển dụng nhân sự hoặc đưa ra các lời khuyên chiến lược, giới
thiệu các đối tác kinh doanh, đối tác tài trợ tiếp theo, v.v…
Theo Bergemann và các cộng sự (2009) [22], quy trình đầu tư đầy đủ của các
quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm năm (05) giai đoạn: Tài trợ vốn hạt giống; Tài trợ khởi
động; Tài trợ giai đoạn đầu; Tài trợ giai đoạn mở rộng sản xuất và Tài trợ giai đoạn
tăng tốc. Cụ thể:
- Giai đoạn tài trợ vốn hạt giống (Seed financing): Vốn được cấp cho những cá
nhân hoặc doanh nghiệp để phát triển ý tưởng kinh doanh, phát minh, sáng chế, hoặc
cấp vốn để hỗ trợ phát triển sản phấm. Giai đoạn này vốn đầu tư thường không lớn,
bởi mới hình thành ở mức độ ý tưởng, vẫn còn mang tính chất nghiên cứu tính khả thi
của dự án.
- Giai đoạn tài trợ khởi động (Start-up financing): Giai đoạn này cấp vốn đầu tư
để phát triển sản phẩm, và giai đoạn khởi đầu của marketing. Vốn này được cấp cho
các doanh nghiệp mới thành lập, và sản phẩm còn mới, chưa được giới thiệu ra thị
trường. Các doanh nghiệp nhận đầu tư ở giai đoạn này thông thường đã có bộ máy
quản lý, đã có kế hoạch kinh doanh và đã có các bước đầu về nghiên cứu thị trường, về
người tiêu dùng tiềm năng.
- Giai đoạn tài trợ ban đầu (First-stage financing): Vốn tài trợ dành cho các
doanh nghiệp đang thiếu nguồn vốn đề sản xuất hàng hóa và bán ra trên thị trường.
- Giai đoạn mở rộng sản xuất (Expanding financing): Vốn tài trợ cho các doanh
nghệp mở rộng sản xuất, tài trợ cho các doanh nghệp chuẩn bị niêm yết trên Sở giao
dịch chứng khoán trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 1 năm tới. Ngoài ra, các nhà
đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn này cũng giúp các công ty nhận tài trợ xây dựng một
cơ cấu sở hữu công ty hợp lý. Giai đoạn này công ty bắt đầu sinh lời cho các bên như
46
bên đầu tư và bên nhận đầu tư, thậm chí kể cả các lợi ích khác như xây dựng năng lực
công nghệ cao, đóng góp lợi ích cho nền kinh tế.
- Giai đoạn tài trợ tăng tốc: Vốn đầu tư giai đoạn này nhằm mục đích giúp
doanh nghiệp tham gia sâu vào thị trường bằng các chiến lược sản xuất, kinh doanh
thần tốc, nghiên cứu, phát triển và sản xuất sản phẩm mới. Ở giai đoạn này, thị trường
chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa doanh nghiệp với thị
trường, với các nhà đầu tư.
2.2.1.5. Phương thức thoái vốn của quỹ
Vốn đầu tư mạo hiểm hoạt động theo chu kỳ, và mỗi chu kỳ đều kết thúc bằng
việc thoái vốn đầu tư, có nghĩa các quỹ đầu tư mạo hiểm thanh lý các khoản đầu tư,
thu hồi vốn và lãi để phân phối cho các bên tham gia đầu tư. Các quỹ đầu tư mạo hiểm
rất linh hoạt, mong muốn đạt hiệu quả cao trong đầu tư, do đó họ luôn biết cách vận
động, quay vòng của vốn để tài trợ cho một lĩnh vực kinh doanh, một công ty khởi
nghiệp mới. Điều này giải thích cho sự phát triển nhanh chóng của các phát minh, sáng
chế, ý tưởng kinh doanh và quá trình thương mại hóa sản phẩm đó trên thị trường.
Việc thoái vốn đầu tư là một giai đoạn rất cần thiết, nó giúp các quỹ đầu tư mạo
hiểm đánh giá được kỹ năng đầu tư của các nhà quản lý vốn đầu tư mạo hiểm. Thông
qua việc so sánh mức độ thành công của mỗi thương vụ đầu tư, người cung cấp vốn có
thể quyết định sẽ cung cấp vốn cho đơn vị, cá nhân quản lý vốn đầu tư mạo hiểm nào,
nhằm tối đa hóa lợi ích của nhà đầu tư mạo hiểm. Bên cạnh đó, việc thoái vốn đầu tư
cũng giúp các quỹ đầu tư mạo hiểm so sánh các khoản đầu tư mạo hiểm, hoặc với các
kênh đầu tư khác trên thị trường, nhằm đưa ra quyết định có nên đầu tư hay không, với
giá trị bao nhiêu. Cuối cùng, thoái vốn đầu tư giúp các quỹ đầu tư mạo hiểm có vốn để
tái khởi động một chu kỳ đầu tư mới, tạo ra được lợi nhuận của bản thân cũng như gia
tăng hiệu quả của vốn đầu tư trong nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của khoa học,
công nghệ.
Có ba (03) kênh thoái vốn phổ biến là: (1) Chào bán lần đầu ra công chúng
(IPO); (2) Chào bán thương mại; và (3) Bán lại cổ phần cho các cổ đông sáng lập công
ty.
- Chào bán lần đầu ra công chúng (IPO – Initial Public Offerring): Đây là việc
công ty lần đầu tiên bán cổ phần ra công chúng, với mong muốn công ty sẽ tiếp cận
47
được vốn đầu tư phong phú của công chúng, và nâng cao tính thanh khoản của công
ty, thay vì chỉ gắn liền với các nhà đầu tư tư nhân. Tại Châu Âu, 11% dự án đầu tư
mạo hiểm được quỹ đầu tư mạo hiểm lựa chọn phương thức thoais vốn thông qua
phương thức IPO, trong khi tại Mỹ, con số là 29% (Hege và các cộng sự, 2004) [60].
Với việc chào bán cổ phần ra công chúng, công ty sẽ phải bỏ ra những khoản
chi phí lớn như chi phí quảng cáo, chi phí thuê đơn vị bảo lãnh phát hành, chi phí phân
phối chứng khoán, v.v… Tuy nhiên, đây vẫn là kênh thoái vốn được các quỹ đầu tư
mạo hiểm ưa thích, bởi nó sẽ được thị trường định giá cao nhất, trong khi tính độc lập
của ban lãnh đạo công ty vẫn được giữ. Hơn nữa, đây cũng thể coi là một tín hiệu
ngầm phát ra từ các quỹ đầu tư mạo hiểm với đối tượng khởi nghiệp, với hàm ý các
quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ giảm dần sự kiểm soát của mình trong công ty, còn các doanh
nhân khởi nghiệp sẽ giữ lại phần lớn sự kiểm soát của mình; bởi lẽ lúc này, công ty sẽ
nhận được vốn đầu tư của công chúng đầu tư, thay vì chỉ từ các quỹ đầu tư mạo hiểm.
- Bán thương mại: Đối với các quốc gia, khu vực có thị trường tài chính phụ
thuộc phần lớn vào hệ thống ngân hàng như ở Châu Âu hay các quốc gia đang phát
triển, đây được coi là kênh thoái vốn được ưa thích nhất. Cũng theo Hege và các cộng
sự (2004), trong các dự án đầu tư mạo hiểm tại Châu Âu, 39% lựa chọn thoái vốn
thông qua hình thức chào bán thương mại, so với 24% tại Mỹ. Bán thương mại có
nghĩa công ty sẽ được bán hoặc sáp nhập vào một công ty khác lớn hơn, có uy tín hơn.
So với IPO, bán thương mại được các quỹ đầu tư mạo hiểm coi là cách thoái vốn
nhanh và đỡ tốn chi phí hơn. Trên thực tế, các công ty lớn, đặc biệt là các công ty đã
có sản phẩm nổi tiếng, với nguồn thu nhập ổn định, thường để tâm tới việc mua lại các
công ty khởi nghiệp có khả năng mang lại lợi nhuận hơn là xây dựng lại từ đầu những
công ty mới, với khả năng thành công không chắc chắn. Cách thoái vốn này xác nhận
công ty sẽ được tái đầu tư bởi một đối tác mới, trong khi các quỹ đầu tư mạo hiểm vẫn
yên tâm với việc công ty sẽ được định giá độc lập, phù hợp với giá thị trường. Hơn
nữa, phương án này giúp ban lãnh đạo công ty có thể vẫn ở lại ngay cả công ty không
lựa chọn phương án IPO, và đảm bảo doanh nghiệp được tái cấp vốn để tiếp tục phát
triển. Tuy nhiên, khi lựa chọn bị sáp nhập như vậy, ban quản lý của công ty có thể bị
mất quyền độc lập, bởi lúc này họ không còn được coi là cổ đông lớn trong công ty
nữa, mà đã trở thành công ty con của công ty sáp nhập.
48
- Bán lại cổ phần cho cổ đông sáng lập công ty: Đây là cách thoái vốn phổ biến
trong đầu tư mạo hiểm, được thực hiện bởi những người cùng đầu tư hoặc ban quản lý
công ty. Trên thực tế, đây được coi là kênh thoái vốn hỗ trợ và thường được sử dụng
chủ yếu khi khoản đầu tư mạo hiểm không thành công như mong đợi. Với phương
thức thoái vốn này, nó cho phép công ty nhận vốn đầu tư mạo hiểm giành lại quyền
độc lập sau khi phải chia sẻ quyền lợi, chịu sự kiểm soát của quỹ đầu tư mạo hiểm.
Các chủ thể nhận vốn đầu tư mạo hiểm sẽ mua lại phần sở hữu của người đầu tư mạo
hiểm, với giá cao hơn so với mức định giá trên thị trường tại thời điểm đó; nguồn tiền
có thể từ tiền cá nhân chủ thể nhận đầu tư, hoặc vay từ chính các quỹ đầu tư mạo
hiểm; với cam kết hoàn trả trong tương lai bằng các nguồn thu nhập lấy từ công ty
nhận đầu tư; và việc tất toán nợ sẽ phải hoàn thành khi kết thúc chu kỳ đầu tư.
2.2.2. Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm
Phát triển là một phạm trù của triết học, thể hiện quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của một
sự vật. Dưới góc độ triết học, quá trình phát triển diễn ra vừa dần dần, lại có giai đoạn
nhảy vọt để tạo ra cái mới, thay thế cho cái cũ. Đây là kết quả của quá trình thay đổi cả
về lượng và về chất, diễn ra theo đường xoắn ốc, tại mỗi chu kỳ sự vật lại lặp lại sự vật
ban đầu nhưng ở mức độ cao hơn (Nguyễn Ngọc Long và Nguyễn Hữu Vui, 2006 [7];
Trần Nguyệt Minh Thu, 2008 [12]). Trong lĩnh vực kinh tế, phát triển mang ý nghĩa
rộng lớn, song nó phản ảnh ba nội dung cơ bản: (1) sự tăng lên về quy mô sản xuất,
tăng giá trị sản lượng của vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tích cực về cơ cấu kinh tế,
kết quả nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, có khả năng khai thác nguồn lực trong
và ngoài nước; (2) sự tác động của tăng trưởng kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội,
nâng cao mức sống dân cư; và (3) phát triển là một quy luật tiến hóa, chịu tác động của
nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nội lực đóng vai trò tiên quyết đến sự phát triển, trong
khi yếu tố bên ngoài cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Như vậy, phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm là việc gia tăng quy mô và chất lượng
hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm, bao gồm sự tăng lên cả số lượng quỹ và nguồn
vốn đầu tư mạo hiểm, nhằm thúc đẩy tài trợ vốn vào các dự án khởi nghiệp, sáng tạo,
trong lĩnh vực khoa học, công nghệ cao; đồng thời, đảm bảo hiệu quả đầu tư của quỹ.
49
Để đánh giá các tiêu chí phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án sử dụng 4 tiêu
chí, đó là (1) số lượng quỹ đầu tư được thành lập; (2) nguồn vốn đầu tư mạo hiểm; (3)
lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm; và (4) kết quả hoạt động của các quỹ
đầu tư mạo hiểm.
2.2.2.1. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm
Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập, hoặc huy động vốn thành công
là tiêu chí đầu tiên để đánh giá sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại mỗi quốc
gia hoặc trong khu vực. Khi nhu cầu về đầu tư mạo hiểm tăng lên, kéo theo sự phát
triển của trung gian dẫn vốn là các quỹ đầu tư mạo hiểm, và ngược lại, khi nhu cầu về
đầu tư mạo hiểm giảm xuống, sẽ làm cho số lượng các quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ giảm
xuống tương ứng.
2.2.2.2. Nguồn vốn đầu tư mạo hiểm
Với số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tăng lên hoặc giảm xuống theo chu kỳ đầu
tư của nền kinh tế, yếu tố nguồn vốn đầu tư mà các quỹ huy động được cũng đóng vai
trò rất quan trọng, song song với số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm thành lập và huy động
vốn thành công. Quy mô vốn huy động càng lớn, chứng tỏ nhu cầu đầu tư mạo hiểm
trong nền kinh tế lớn, đồng thời, quỹ đầu tư mạo hiểm cũng thể hiện tốt vai trò của
mình trong việc dẫn vốn đầu tư mạo hiểm trong nền kinh tế, từ đó thu hút được nhiều
nguồn vốn đầu tư mạo hiểm hơn. Thực tế cho thấy, việc thu hút, tập trung nguồn vốn
đầu tư mạo hiểm với quy mô lớn rất quan trọng, nó tạo điều kiện cho các quỹ đầu tư
mạo hiểm có thể đầu tư vào các dự án công nghệ cao, công nghệ nano hoặc các dự án
khoa học, công nghệ tạo ra vật liệu mới, v.v… bởi các dự án này có tỷ lệ thất bại rất
lớn, vì thế rất khó thu hút được nguồn vốn từ các nhà đầu tư thông thường; bên cạnh
đó, với nguồn vốn tập trung lớn, các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể rót vốn cho các dự án
khởi nghiệp startup, giúp cho các ý tưởng táo bạo của các doanh nhân khởi nghiệp tiếp
tục dự án đầu tư của mình, qua đó tạo hiệu ứng tốt giúp nâng cao trình độ của các
doanh nhân khởi nghiệp, tạo thêm công việc cho các tầng lớp lao động, đặc biệt các
lao động có trình độ cao, từ đó tạo ra sức tăng trưởng kinh tế bền vững của mỗi quốc
gia.
50
2.2.2.3. Lĩnh vực đầu tư mạo hiểm
Mục tiêu của đầu tư mạo hiểm là các dự án đầu tư có mức độ rủi ro lớn, nhưng
có tỷ suất sinh lời cao trong tương lai; vì vậy chỉ có các dự án trong lĩnh vực khoa học,
công nghệ cao, lĩnh vực đầu tư, an ninh mạng, hoặc các công ty khởi nghiệp trong giai
đoạn đầu mới đáp ứng được điều này. Trên thực tế, có nhiều quỹ đầu tư với áp lực thu
hồi vốn nhanh của các cổ đông, đã phải đầu tư vào các công ty ở giai đoạn sau, trước
khi công ty đó tiến hành IPO nhằm chắc chắn thu được lợi nhuận. Tuy vậy, những dự
án đầu tư này chỉ đạt được mức lợi nhuận khiêm tốn; vì thế nó không phản ánh đúng
đặc tính của các quỹ đầu tư mạo hiểm là tài trợ vốn vào các dự án, doanh nghiệp ở giai
đoạn đầu nhằm thu được mức lợi nhuận cao, trong khi thời gian đầu tư thường dài, từ
5 năm trở lên, có khi lên đến 10 năm.
2.2.2.4. Kết quả hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm
Kết quả hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm qua thời gian sẽ chứng minh được
khả năng đầu tư của quỹ, chất lượng hoạt động của quỹ, cũng như giúp các nhà đầu tư
ước lượng được rủi ro khi đầu tư vào quỹ, từ đó giúp các nhà đầu tư đưa ra các quyết
định rót vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư mạo hiểm tại
các dự án đầu tư sẽ giúp các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động thêm nguốn vốn đầu tư
mạo hiểm trong tương lai, giúp các quỹ này có nguồn nội lực mạnh mẽ để tồn tại và
tiếp tục theo đuổi các dự án đầu tư mạo hiểm khác, qua đó làm lợi cho các nhà đầu tư
đã góp vốn vào quỹ. Chính vì vậy, hiệu quả hoạt động của quỹ cũng chính là một trong
các tiêu chí đánh giá sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm qua thời gian.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, đối với những quỹ đầu tư mạo hiểm do chính phủ
thành lập, hoặc các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân được thành lập với mục đích phát
triển khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển khoa học vũ trụ, phát triển sức
mạnh quân sự của quốc gia, v.v… thì yếu tố kết quả hoạt động đôi khi có thể được đặt
sau kết quả nghiên cứu của dự án, do đó, có thể coi các quỹ đầu tư mạo hiểm dạng này
hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận, mà chỉ nhấn mạnh đến mục đích thành lập,
nghiên cứu, phát triển công nghệ, v.v…
2.2.3. Vai trò của xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm
Vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm đã được nhiều học giả nghiên cứu như Amit
và các cộng sự (2008) [16]; Christofidis và Debande (2001) [36]; Hellmann (2000)
51
[61], nhưng tựu chung lại, có ba đối tượng chính mà quỹ đầu tư mạo hiểm có tác động
trực tiếp, đó là: doanh nghiệp, thị trường tài chính và đối với nền kinh tế.
Thứ nhất, đối với doanh nghiệp. Quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò rất quan
trọng đối với doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp mới tham gia thị trường.
Mục đích chính của quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm hỗ trợ các doanh nhân với ý tưởng
kinh doanh táo bạo củng cố doanh nghiệp của mình, giúp họ tiếp cận nguồn vốn đầu tư
khan hiếm trên thị trường tài chính.
Trong quá khứ, sự hình thành, phát triển của các công ty lớn toàn cầu như Intel,
Apple, Microsoft, Yahoo, v.v.. cho thấy các công ty này đều được hỗ trợ, phát triển
bởi nguồn vốn đầu tư mạo hiểm. Ví dụ Apple nhận được 400,000 USD vốn đầu tư
mạo hiểm, Microsoft nhận được 20 triệu USD, Yahoo nhận được 4 triệu USD
(Gompers và các cộng sự, 2004; Mccullough, 2015). Tại Mỹ, theo thống kê cho thấy
trên 50% doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao nhận được sự trợ giúp thông qua
kênh đầu tư mạo hiểm (Bozkaya và các cộng sự, 2008) [28]. Trên thực tế, vì nhiều lý
do khác nhau liên quan đến đặc thù ngành, lĩnh vực kinh doanh hoặc những vấn đề
mang tính thời điểm mà các tập đoàn lớn rất khó khăn trong việc triển khai các dự án
đổi mới công nghệ mang nhiều rủi ro, khả năng thất bại lớn. Trong khi các doanh
nghiệp nhỏ và và vừa lại cho thấy khả năng thành công cao hơn trong việc thực hiện
các dự án mang tính đổi mới công nghệ, chứa đựng nhiều rủi ro này với sự trợ giúp về
mặt vốn, công nghệ và kinh nghiệm từ các nhà đầu tư mạo hiểm. Hầu hết các hãng đi
đầu trong lĩnh vực sáng tạo và khai thác các thế hệ máy tình mới, các sản phẩm phần
mềm mới, đóng góp tích cực trong việc định hướng các cuộc cách mạng công nghệ
mới, chuyển hướng các xu hướng đầu tư trong các ngành công nghiệp đều trải qua giai
đoạn được tiếp cận vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm, khi họ mới là các doanh nghiệp
nhỏ, vừa, chưa được biết đến rộng rãi trong công chúng, chưa được niêm yết trên thị
trường chứng khoán.
Chính vì vậy, việc thành công của các doanh nghiệp đó không chỉ giúp ích bản
thân các doanh nghiệp đó, làm lợi cho các nhà đầu tư, các cổ đông trong công ty mà
còn góp phần vào thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của quốc gia, khu vực đó nói
chung. Các quỹ đầu tư mạo hiểm ra đời đã giúp cho một loạt các ngành nghề khác như
kinh doanh trong thị trường chứng khoán, các lĩnh vực công nghệ cao, các lĩnh vực
52
phụ trợ của nền kinh tế. Ở góc độ xã hội, sự xuất hiện của các quỹ đầu tư mạo hiểm
giúp tạo ra nhiều công việc cho nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội.
Thứ hai, đối với thị trường tài chính. Đầu tư mạo hiểm là một hình thức kinh
doanh vốn với mức độ chấp nhận rủi ro cao, vì thế nó là một bộ phận không thể tách
rời của thị trường tài chính. Với đặc thù các phương thức thoát vốn khác nhau khi đầu
tư mạo hiểm, chủ yếu thông qua thị trường chứng khoán, nhưng đầu tư mạo hiểm có
tác động rất lớn đến sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và của thị trường
chứng khoán nói riêng.
Quỹ đầu tư mạo hiểm thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển thông qua
thúc đẩy thị trường IPO – một trong những phương thức thoát vốn quan trọng và chủ
yếu của đầu tư mạo hiểm, khi chào bán cổ phiếu của công ty nhận đầu tư ra công
chúng, biến chúng từ công ty cổ phần tư nhân, quy mô nhỏ sang mô hình công ty cổ
phần đại chúng, quy mô lớn. Trên thực tế, quỹ đầu tư mạo hiểm thường nhắm đến các
công ty cổ phần tư nhân mới thành lập, quy mô nhỏ, vốn và kinh nghiệm hạn chế,
đang trong thời kỳ tăng trưởng để làm mục tiêu đầu tư. Ở góc độ đầu tư, việc chào bán
thành công ra công chúng các công ty nhận đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm, còn
minh chứng cho sự thành công của quỹ đầu tư đó trong thương vụ của mình. Tuy
nhiên, mối quan hệ giữa IPO và quỹ đầu tư mạo hiểm là mối quan hệ qua lại, quan hệ
hai chiều, có tác động lẫn nhau. Quỹ đầu tư mạo hiểm muốn IPO thành công, cần thiết
phải có thị trường IPO sôi động, thu hút công chúng đầu tư. Ngược lại, thị trường IPO
phát triển sẽ tạo điều kiện tốt để vốn đầu tư mạo hiểm của các cá nhân ưa thích mạo
hiểm, hoặc từ các quỹ đầu tư mạo hiểm phát huy vai trò của mình (Barry và các cộng
sự, 1990 [18]; Megginson và Weiss, 1991 [78]; Bradley và các cộn sự, 2001 [29])
Bên cạnh đó, quỹ đầu tư mạo hiểm còn có mối quan hệ qua lại với các trung
gian tài chính khác như các công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán, ngân hàng
đầu tư, v.v… Vì vậy, lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói chung và quỹ đầu tư mạo hiểm nói
riêng phát triển tốt, sẽ tác động đến sự phát triển của các trung gian tài chính ở trên,
kéo theo sự phát triển ổn định, lâu dài cho thị trường tài chính và nền kinh tế tại các
quốc gia, khu vực đó.
Thứ ba, đối với nền kinh tế. Quỹ đầu tư mạo hiểm thường tập trung vào những
dự án có ý tưởng mới, cần nhiều vốn, trong đó có lĩnh vực công nghệ cao thường yêu
cầu điều này. Trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, có nhiều yếu tố đóng góp vào
53
sự thành công của doanh nghiệp như chất lượng của người lao động, của vốn đầu tư,
của mức độ đổi mới công nghệ, sự cạnh tranh của các đối thủ hiện tại cũng như các đối
thủ tiềm năng, lợi ích kinh tế nhờ quy mô, mức độ độc quyền, chính sách của chính
phủ đối với doanh nghiệp, đối với ngành nghề mà doanh nghiệp đó đang theo đuổi,
v.v… trong đó, công nghệ là yếu tố đóng góp phần quan trọng rất lớn trong thành công
của doanh nghiệp, đặc biệt trong thời đại công nghiệp 4.0 hiện nay. Sự đổi mới công
nghệ, sẽ làm tăng năng suất lao động của doanh nghiệp, của hiệu quả đồng vốn kinh
doanh, dẫn đến sự phát triển nền kinh tế nói chung. Trên thực tế, muốn đẩy nhanh quá
trình đổi mới công nghệ, rất cần thiết có sự quan tâm của cộng đồng đầu tư để tập
trung vốn vào nghiên cứu phát triển (R&D). Nếu việc đầu tư vào đổi mới công nghệ
này không được quan tâm đúng mức, sẽ dẫn đến vòng luẩn quẩn: vốn ít, đầu tư ít,
công nghệ chậm đổi mới, lãng phí nguồn lực; mà điều này sẽ không có được sự bứt
phá trong sự phát triển của khoa học công nghệ nói riêng, và sự phát triển của nền kinh
tế nói chung. Để việc đầu tư này có hiệu quả, cần thiết cần tập trung vốn trong xã hội,
đặc biệt vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm cần được nhấn mạnh, bởi chỉ có nguồn vốn
đầu tư mạo hiểm mới đáp ứng được yêu cầu về lĩnh vực đặc thù này: rủi ro cao, lâu thu
hồi vốn, nhưng lợi nhuận sẽ rất lớn nến dự án nghiên cứu được thành công, đưa vào
ứng dụng trong cuộc sống.
2.2.4. Nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm
2.2.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và phát triển quỹ đầu tư
mạo hiểm
Trong suốt các giai đoạn phát triển của đầu tư mạo hiểm trên thế giới, chính
quyền địa phương cũng như chính phủ tại các quốc gia đã thi hành rất nhiều biện pháp
nhằm xây dựng lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói chung, các quỹ đầu tư mạo hiểm nói
riêng nhằm phát triển khoa học công nghệ, thúc đẩy phát triển đất nước. Có rất nhiều
chính sách được coi là “mới” đưa ra nhằm thúc đẩy các thành phần khác nhau trong
lĩnh vực đầu tư mạo hiểm phát huy tối đa tiềm năng của mình, tuy nhiên, có những
chính sách phù hợp, có những chính sách cần phải điều chỉnh để giúp quỹ đầu tư mạo
hiểm phát triển lành mạnh, đúng hướng như mục tiêu sinh ra của nó (Avnimelech và
các cộng sự, 2016) [17]. Mỗi quốc gia đều có chiến lược riêng của mình để xây dựng
và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm phát triển, phù hợp với mục tiêu tại mỗi giai đoạn
54
khác nhau của họ. Tuy nhiên, tựu chung lại, theo Hellmann, (2000) [61], có năm nhân
tố cần thiết để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, đó là: Chính sách của phủ;
Mạng lưới hỗ trợ; Nguồn nhân lực; Thị trường tài chính; Mạng lưới cơ hội. Theo
Lerner và các cộng sự (2015) [68], muốn xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm tại từng quốc
gia, khu vực, cần thiết xem xét bốn nhân tố: (1) Đối tượng tham gia vào quỹ đầu tư
mạo hiểm; (2) Cơ sở hạ tầng luật pháp, quy định về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; (3)
Nhận thức của xã hội về quỹ đầu tư mạo hiểm; (4) Cơ chế thoái vốn của các quỹ đầu
tư mạo hiểm.
Như vậy, sau khi kết hợp các nghiên cứu trước đây, theo quan điểm của luận
án, muốn xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, cần thiết xem xét năm nhân tố
cần thiết, đó là: (1) Chính sách của chính phủ; (2) Giá trị văn hóa, xã hội; (3) Năng lực
đào tạo, nghiên cứu; (4) Yếu tố địa điểm; (5) Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm.
Nhân tố thứ nhất: Chính sách của chính phủ
Thông qua điều hành chính sách, chính phủ có tác động đến quy mô huy động,
sử dụng nguồn vốn và cấu trúc của quỹ đầu tư mạo hiểm. Tại tiêu chí này, chính phủ
có thể tác động đến các góc độ chính như sau:
(1) Tạo mạng lưới chính thống hỗ trợ các nhà đầu tư mạo hiểm. Thông qua các
chính sách hỗ trợ như các kênh truyền thông, địa điểm hội họp thường niên, hoặc các
mạng lưới chia sẻ kinh nghiệm đầu tư sẽ giúp các nhà đầu tư mạo hiểm tiếp cận được
với quỹ đầu tư mạo hiểm, hoặc với các dự án đầu tư tiềm năng. Việc có cộng đồng đầu
tư mạo hiểm chính thống rất quan trọng, nó sẽ giúp cho việc áp dụng các chính sách
giáo dục liên quan đến đầu tư mạo hiểm của chính phủ dễ đi vào cuộc sống, giúp cho
các tầng lớp nhà đầu tư có điều kiện áp dụng những kiến thức đã được học tại các
chương trình hỗ trợ của chính phủ một cách tích cực và đạt hiệu quả cao.
(2) Tạo ra nguồn cung và cầu của vốn đầu tư mạo hiểm. Chính phủ chú trọng
khuyến khích sự sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của khoa
học công nghệ, từ đó khuyến khích các doanh nhân khởi nghiệp, các doanh nghiệp tập
trung nghiên cứu, đổi mới sáng tạo. Điều này sẽ dẫn đến kết quả là xã hội cần rất nhiều
nguồn vốn đầu tư mạo hiểm để phục vụ cho nhu cầu này nghiên cứu, sáng tạo, thử
nghiệm và phát triển các lĩnh vực mới. Tại Mỹ, nhiều doanh nhân tại Thung lũng
Silicon tin rằng, sự phát triển, thành công của họ không liên quan gì đến chính phủ.
Tuy nhiên điều này là không chính xác, bởi chính phủ Mỹ luôn chủ động trong việc
55
điều tiết các nhu cầu về các lĩnh vực đổi mới, công nghệ cao, đặc biệt trong lĩnh vực
quân sự, từ đó tạo hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy các nhà khoa học nghiên cứu để tạo ra
sản phẩm mới, đáp ứng được nhu cầu của chính phủ (Christofidis và Debande, 2001)
[36]. Bên cạnh đó, chính phủ cũng có thể khuyến khích các cá nhân, tổ chức góp vốn
đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, hay khởi nghiệp, nghiên cứu, sáng tạo bằng cách
áp dụng mức thuế ưu đãi đối với nguồn vốn đầu tư mạo hiểm, bảo vệ bản quyền, sáng
chế, v.v…
(3) Loại bỏ các rào cản đối với hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm, như tiết
giảm các thủ tục hành chính, áp dụng các chính sách thuế ưu đãi đối với các quỹ đầu
tư mạo hiểm. Mặt khác, chính phủ cũng có thể tác động đến việc minh bạch hoạt động
của các quỹ đầu tư mạo hiểm như yêu cầu rõ ràng về cơ chế quản lý, áp dụng các
chuẩn mực kế toán quốc tế, có cơ chế giám sát thường xuyên đối với các quỹ đầu tư
mạo hiểm; quy định rõ ràng các hạn chế đầu tư, v.v…
Nhân tố thứ hai: Giá trị văn hóa xã hội
Các giá trị văn hóa xã hội tại mỗi quốc gia, khu vực, địa phương sẽ tác động rất
lớn đến việc hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm. Có hai yếu tố chính
trong giá trị văn hóa xã hội tác động đến văn hóa kinh doanh, đầu tư đó là văn hóa
kinh doanh của mỗi quốc gia, khu vực; và quan điểm về rủi ro, thất bại của người dân
khu vực đó Lerner và các cộng sự (2015) [68]. Chính các giá trị văn hóa xã hội này sẽ
tác động rất lớn đến quá trình xây dựng và phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại
các quốc gia.
Nếu văn hóa xã hội của quốc gia, khu vực đó có tinh thần doanh nhân, dám
nghĩ dám làm; đồng thời sẵn sàng tương trợ các nhà đầu tư mạo hiểm trong quá trình
xây dựng doanh nghiệp, sẽ hình thành nên các đối tượng hỗ trợ ở các giai đoạn khác
nhau trong quá trình hình thành và phát triển thị trường đầu tư mạo hiểm nói chung, và
các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng. Theo Christofidis và Debande (2001) [36],
Hellmann (2000) [61], sự phát triển của Thung lũng Silicon tại Mỹ là do tại đây có rất
nhiều mạng lưới hỗ trợ cho doanh nghiệp như các công ty luật, kế toán, tư vấn, các nhà
thầu phụ, headhunter2, các công ty quan hệ công chúng, v.v… Tại các quốc gia khác,
việc xây dựng, phát triển mạng lưới hỗ trợ đầu tư mạo hiểm đóng vai trò rất quan
2 Headhunter là cụm từ chỉ những người làm trong nhóm ngành nhân sự, chuyên đi săn chất xám, nhân tài theo các đơn đặt hàng từ các công ty khách hàng, hoặc cho chính công ty mình.
56
trọng, tạo ra sự cạnh tranh rất lớn cho các công ty hoạt động tại đây, cũng như chính
các quốc gia đó so với các quốc gia khác; có thể kể đến “Silicon Fen” trong khuôn
viên đại học Cambridge tại Anh Quốc, Trung Quan Thôn (Zhongguancun) tại Trung
Quốc, v.v… đã nhanh chóng trở thành địa điểm lý tưởng cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp, nơi có lực cầu rất lớn với nguồn vốn đầu tư mạo hiểm, và là những nơi dẫn
đầu thế giới về các phát minh công nghệ, các sáng kiến mới, phục vụ trong các lĩnh
vực trong đời sống, xã hội, kinh tế, quân sự (Christofidis và Debande, 2001) [36].
Giá trị văn hóa, xã hội
Hình 2. 3. Nhân tố cần thiết để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm
Chính sách của chính phủ
Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm Năng lực đào tạo, nghiên cứu
Địa điểm
Nguồn: Hellmann (2000) [61]; Lerner và các cộng sự (2015) [68], tác giả tổng
hợp
Nhân tố thứ ba: Năng lực đào tạo nghiên cứu
Đầu tư mạo hiểm thường tập trung vào các lĩnh vực có hàm lượng khoa học,
công nghệ cao, nhằm có được các kết quả nghiên cứu vượt bậc, tạo lợi thế cạnh tranh
cho các sản phẩm trong tương lai; chính vì thế, yếu tổ nghiên cứu khoa học công nghệ
đóng vai trò sống còn trong quá trình xây dựng và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Tiêu chí này nhắm đến các vấn đề liên quan đề nghiên cứu và phát triển sản
phẩm; như năng lực đào tạo nguồn lao động chất lượng cao; về khả năng nghiên cứu
của các trường đại học, viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu, và các công viên
công nghệ (Lerner và các cộng sự, 2015) [68]. Bên cạnh đó, yếu tố bảo vệ việc thực
thi quyền sở hữu trí tuệ cũng đóng vai trò rất lớn trong việc bảo vệ thành quả của
57
nghiên cứu khoa học, công nghệ, bảo vệ quyền lợi của các đối tượng đã đầu tư công
sức, vốn vào quá trình học tập, nghiên cứu.
Nhân tố thứ tư: Địa điểm
Một số vấn đề liên quan đến tiêu chí địa điểm trong quá trình xây dựng và phát
triển quỹ đầu tư mạo hiểm, đó là cơ sở hạ tầng để phát triển sản xuất kinh doanh tại
các địa phương; hay các hiệp hội doanh nghiệp hiện có tại khu vực đó. Tiêu chí này
nhấn mạnh lợi thế của khu vực đó so với các khu vực khác để phát triển các quỹ đầu tư
mạo hiểm. Thông thường, khi các doanh nhân khởi nghiệp sẽ lựa chọn các địa điểm để
khởi sự, sản xuất kinh doanh thuận lợi nhất cho mình như có cơ sở hạ tầng giao thông
tốt, thuận lợi cho việc đi lại, giao thương hàng hóa; hoặc địa điểm đó có cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin tốt, đáp ứng được các nhu cầu làm việc công nghệ cao của họ.
Hơn nữa, trong quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh, các doanh nhân khởi nghiệp rất
cần sự giao lưu, giúp đỡ của cộng đồng doanh nghiệp địa phương, nhằm tạo được hiệu
suất làm việc cao nhất, thông qua việc học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm của các thành viên
trong hiệp hội doanh nghiệp.
Thêm vào đó, địa điểm nhà đầu tư quyết định đầu tư còn phụ thuộc rất lớn vào
mức độ phát triển của thị trường tài chính của quốc gia, khu vực đó. Trong đầu tư mạo
hiểm, có quan điểm cho rằng, sẽ rất tệ nếu các quỹ đầu tư mạo hiểm mắc kẹt trong các
dự án đầu tư tốt, nhưng không có phương án rõ ràng thoái vốn rõ ràng, thậm chí không
được sự đồng thuận từ các cổ đông của dự án đầu tư đó ( Klonowski, 2013) [41]. Có
ba phương án thoái vốn thường được các quỹ đầu tư mạo hiểm sử dụng: phát hành cổ
phần ra công chúng; chào bán thương mại và bán cổ phần cho các cổ đông sáng lập
công ty. Trong đó, phương thức thoái vốn được sử dụng nhiều nhất là IPO và chào bán
thương mại, đòi hỏi cần có sự phát triển đồng bộ của thị trường tài chính. Kinh nghiệm
từ Anh Quốc và Đức cho thấy, khi hai quốc gia này tập trung phát triển thị trường
thoái vốn IPO lành mạnh, đã tạo động lực rất lớn cho sự phát triển của thị trường vốn
đầu tư mạo hiểm (Hellmann, 2000) [61]. Vậy làm thế nào để phát triển thị trường tài
chính lành mạnh, phục vụ cho vấn đề thoái vốn đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm?
Kinh nghiệm từ Mỹ cho thấy, cần tập trung mạnh cho sự phát triển của thị trường
chứng khoán, để đây trở thành kênh đầu tư, huy động vốn chính của nền kinh tế, thay
vì phụ thuộc nhiều vào các ngân hàng như ở các quốc gia khác (Hellmann, 2000) [61].
Chính điều này đã làm cho các nhà đầu tư quan tâm đến các đợt thoái vốn của các quỹ
58
đầu tư mạo hiểm tại các dự án của họ, với quan điểm rõ ràng từ các nhà đầu tư Mỹ, đó
là chấp nhận rủi ro để nhận được lợi nhuận cao.
Nhân tố thứ năm: Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm
Để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm được bền vững, cần thiết sự
phát triển mạnh mẽ tương ứng từ lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Theo Hellmann (2000)
[61], Finkel (2010) [45] có ba đối tượng nguồn lực chính tham gia vào lĩnh vực đầu tư
mạo hiểm: các doanh nhân khởi nghiệp (tức bên cầu vốn); các nhà đầu tư mạo hiểm
(tức bên cung vốn); và những người làm trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm.
Thứ nhất, các doanh nhân khởi nghiệp. Các doanh nhân khởi nghiệp đóng vai
trò then chốt, tạo ra nguồn cầu chính đối với nguồn vốn đầu tư mạo hiểm, cũng như là
đối tượng tiên phong dẫn đầu trong việc nghiên cứu, sáng tạo. Tuy nhiên, để phát triển
được nguồn doanh nhân khởi nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như truyền thống
kinh doanh, khởi nghiệp tại mỗi khu vực, quốc gia; sự thừa nhận của xã hội đối với
các doanh nhân; mức độ linh hoạt, đa dạng đối với hệ thống việc làm, mạng lưới xã
hội; việc đảm bảo quyền lợi, an toàn trong lĩnh vực nghề nghiệp trong các công ty, tập
đoàn lớn, v.v… (Hellmann, 2000) [61]. Chính vì thế, rất cần thiết phải xây dựng, phát
triển tinh thần doanh nhân trong dân tộc, thiết lập các giải thưởng vinh danh doanh
nhân thành đạt, vượt khó khăn để thành công, bảo vệ quyền lợi của người lao động,
sáng tạo; tạo điều kiện thay đổi quan điểm xã hội, nhằm tôn vinh những doanh nhân,
tạo động lực sinh ra những thế hệ doanh nhân dám nghĩ, dám làm.
Thứ hai, các nhà đầu tư mạo hiểm. Để lĩnh vực đầu tư mạo hiểm được phát
triển bền vững, rất cần thiết có những nhà đầu tư mạo hiểm có trình độ. Chính những
thành quả và uy tín của những nhà đầu tư mạo hiểm sẽ tác động đến chất lượng công
việc gây quỹ, cũng như thúc đẩy các đối tượng trong xã hội muốn trở thành các nhà
đầu tư mạo hiểm. Có sự khác biệt rất lớn đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm độc lập, và
các quỹ đầu tư mạo hiểm trực thuộc các công ty, tập đoàn lập ra. Ví dụ, tại Nhật Bản
và Đức, các ngân hàng lớn thường sử dụng các nhân viên của họ để thực hiện các hoạt
động của quỹ đầu tư mạo hiểm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những đối tượng này
hành xử như lối làm việc bảo thủ truyền thống bấy lâu của họ, hơn là hoạt động như
những nhà đầu tư mạo hiểm thực thụ. Họ thường né tránh các hoạt động có thể gây
thua lỗ, hơn là chấp nhận các rủi ro tiền ẩn để đạt được mức sinh lời cao hơn (Bottazzi
và các cộng sự, 2008) [27].
59
Thứ ba, những người làm trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Đây có thể hiểu là
những đối tượng làm thuê trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Tại Thung lũng Silicon của
Mỹ, hầu hết các công ty đầu tư mạo hiểm không được điều hành bởi những nhà sáng
lập công ty, mà bởi các nhà quản lý chuyên nghiệp. Các công ty đầu tư mạo hiểm
thường thu hút các nhân tài làm việc cho mình, thông qua việc chia sẻ quyền lợi bằng
cách phát hành quyền chọn cổ phần, từ đó càng khuyến khích họ làm việc để gia tăng
giá trị cho công ty, cũng như chính bản thân họ. Những người làm thuê trong lĩnh vực
đầu tư mạo hiểm rất đa dạng, từ nhà quản lý, những người nghiên cứu, đến các chuyên
gia quảng cáo, marketing. Những cuộc điều tra gần đây cho thấy, cơ cấu những người
làm thuê trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tại Thung lũng Silicon đã có sự thay đổi đáng
kể. Nếu như trong 30 năm trước đây, thường là những cá nhân có bằng MBA tham gia,
đến 15 năm trước đây là các chuyên gia tư vấn, đầu tư uy tín tại các ngân hàng đầu tư;
thì cho đến nay, lực lượng chủ yếu là các sinh viên sắp và mới ra trường, với khát khao
trở thành các nhà đầu tư mạo hiểm, các doanh nhân khởi nghiệp (Hellmann, 2000)
[61].
Tại mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế toàn cầu nói chung, của
mỗi quốc gia, khu vực nói riêng sẽ có những yêu cầu khác nhau nhằm thúc đẩy sự phát
triển của quỹ đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, tựu chung lại, với mức độ phát triển của
năm trụ cột trên, sẽ tạo điều kiện để thị trường vốn đầu tư mạo hiểm nói chung và các
quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng phát triển bền vững. Do đó, khi xem xét các vấn đề liên
quan đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, cần thiết phải xem xét đến
mức độ phát triển của năm trụ cột này.
2.2.4.2. Phương pháp đánh giá tác động của các nhân tố đến quá trình xây dựng và
phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm
Sau khi quyết định lựa chọn năm nhân tố đã trình bày ở phần trước, luận án tiến
hành xem xét đánh giá tác động của các nhân tố đó đến việc xây dựng và phát triển
quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Dữ liệu và mẫu nghiên cứu
Luận án sẽ sử dụng dữ liệu được thu thập từ Phiếu khảo sát được thiết kế dựa
trên các thông tin thu thập được từ các cuộc phỏng vấn sâu đối với các chuyên gia từ
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các chuyên gia đang làm việc tại các quỹ đầu tư có
60
địa điểm làm việc tại Hà Nội. Sau đó, phiếu điều tra được thiết kế dưới hai dạng: (1)
dạng trực tuyến thông qua sử dụng công cụ Google Docs; (2) Phiếu điều tra bằng giấy
được in ra khổ giấy A4; phiếu điều tra này sau đó được gửi đi tới các đối tượng có hiểu
biết về quỹ đầu tư mạo hiểm dưới dạng thư điện tử, gửi trực tiếp hoặc qua bưu điện;
đối với phiếu điều tra trực tuyến, kết quả được cập nhật tự động trên kết quả trực
tuyến; đối với các phiếu điều tra gửi trực tiếp hoặc gửi qua bưu điện, người trả lời sẽ
chụp hình kết quả phiếu điều tra, gửi qua các công cụ mạng xã hội (Messenger, Zalo,
Viber, email), hoặc gửi trực tiếp tới người hỏi.
Nội dung phiếu khảo sát bao gồm 4 phần chính” (1) Thông tin cá nhân; (2)
Đánh giá mức độ hiểu biết và quan điểm về đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; (3) Các
nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triên quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; (4)
Các nhân tố giải pháp xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam. Chi
tiết phiếu khảo sát được trình bày tại Phụ lục 6.
Các biến và mô hình nghiên cứu
Biến nghiên cứu
Nhằm đánh giá việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam,
ngoài các câu hỏi mang tính chất hiểu biết về quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án sử dụng
các biến nghiên cứu có liên quan đến việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo
hiểm ở Việt Nam, đó là:
(1) CSCP: Các chính sách của chính phủ
(2) VHXH: Các nhân tố về văn hóa, xã hội
(3) ĐTNC: Nhân tố về năng lực đào tạo, nghiên cứu
(4) ĐĐ: Nhân tố về địa điểm đầu tư
(5) NL: Nhân tố về nguồn lực
Thông tin cụ thể về các biến nghiên cứu được trình bày cụ thể ở Phụ lục 6.
61
Hình 2. 4. Mô hình nghiên cứu
VHXH
CSCP
ĐTN
C Xây dựng và phát triển
quỹ đầu tư mạo hiểm
NL ĐĐ
Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp nhân tố khám phá (EFA) để đánh giá các nhân tố
có ảnh hưởng đển xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; bao gồm:
Nhân tố chính sách của chính phủ; Nhân tố về văn hóa, xã hội; Nhân tố về năng lực
đào tạo, nghiên cứu; Nhân tố về địa điểm đầu tư; Nhân tố về nguồn lực. Từ đó đánh
giá yếu tố nào thực sự ảnh hưởng và ảnh hưởng mạnh nhất đến việc xây dựng và phát
triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Phương pháp phân tích nhân tố EFA thuộc nhóm phân tích đa biến phụ thuộc
lẫn nhau, nghĩa là không có biến phụ thuộc và biến độc lập mà nó dựa vào mối tương
quan giữa các biến với nhau. Phương pháp EFA dùng để rút gọn một tập k biến quan
sát thành một tập F (với F < k) các nhân tố có ý nghĩa hơn. Theo Mayers và các cộng
sự (2000), trong phân tích nhân tố, phương pháp trích Principle Components Analysis
đi cùng với phép xoay Varimax là cách thức được sử dụng phổ biến nhất.
Phương pháp nghiên cứu bao gồm các bước tiến hành như sau:
Bước 1. Sử dụng kiểm định Cronbach’s Alpha nhằm kiểm tra chất lượng thang đo
Luận án sẽ tiến hành kiểm định Cronbach’s Alpha lần lượt cho từng nhân tố của biến
nghiên cứu. Thang đo được đánh giá chấp nhận được, và được coi là một thang đo
hiệu quả khi và chỉ khi thang đo này thỏa mãn đồng thời hai điều kiện sau:
62
- Hệ số Cronbach’s Alpha của tổng thể lớn hơn 0,6
- Hệ số tương quan qua biến tổng của các biến quan sát trong thang đo (Item-
Rest Correlation) lớn hơn 0,4 (Tuy nhiên, nếu hệ số tương quan qua biến
tổng lớn hơn 0,4; mà biến đó có kết quả Cronbach’s Alpha nếu loại
chỉ biến > Cronbach’s Alpha của thang đo tổng, thì biến đó vẫn bị loại).
Bước 2. Phân tích Principle-Component Factor
Tại bước phân tích này, yêu cầu Minimum Value of Eigenvalue to be retained
từ 1 trở lên. Điều này có nghĩa nhân tố nào có Eigenvalue lớn hơn 1 mới được giữ lại.
Bước 3. Tìm ma trận xoay
Tại bước ma trận xoay này, nhằm mục đích tìm ra mỗi nhân tố gồm những câu
hỏi nào.
Bước 4. Kiểm định Bartlett và kiểm định KMO
Kiểm định Bartlett được sử dụng để xem xét ma trận tương quan trong nghiên
cứu có phải là ma trận đơn vị hay không. Ma trận đơn vị được hiểu là ma trận có hệ số
tương quan giữa các biến bằng 0; trong khi đó, hệ số tương quan của chính nó bằng 1.
Nếu kiểm định Bartlett có p < 5%, có nghĩa các biến trong nghiên cứu có mối quan hệ
với nhau, hay các biến có tương quan với nhau trong tổng thể.
Kiểm định KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) được sử dụng để so sánh độ lớn của hệ
số tương quan giữa 2 biến Xi và Xj đối với hệ số tương quan riêng phần của chúng. Để
sử dụng được phương pháp EFA, yêu cầu KMO phải lớn hơn 0,5. Trong đó, Kaiser
(1974) đề nghị:
KMO ≥ 0,9: Rất tốt
0,8 ≤ KMO < 0,9: Tốt
0,7 ≤ KMO < 0,8: Được
0,6 ≤ KMO < 0,7: Tạm được
0,5 ≤ KMO < 0,6: Xấu
KMO < 0,5: Không chấp nhận được
63
Kết luận chương 2
Như vậy, xây dựng quỹ và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm là việc hình thành và
phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, xuất phát từ nhu cầu của xã hội (bên cung và bên cầu
vốn đầu tư mạo hiểm), với sự tham gia của các thành phần trong xã hội như các trung
gian tài chính, hệ thống luật pháp, cơ quan giám sát, v.v… nhằm tạo ra cơ chế hình
thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm lành mạnh, có sự thay đổi kịp thời, đáp ứng
được tốt yêu cầu của các chủ thể tham gia, thúc đẩy sáng tạo, phát triển công nghệ cao;
đồng thời tạo hiệu quả tích cực đối với nền kinh tế, khai thác tốt nguồn lực trong xã
hội; đồng thời phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực trong quá trình hoạt động của các
quỹ đầu tư mạo hiểm. Theo quan điểm của luận án, muốn xây dựng và phát triển quỹ
đầu tư mạo hiểm, cần thiết xem xét năm tiêu chí, đó là: (1) Chính sách của chính phủ;
(2) Giá trị văn hóa, xã hội; (3) Năng lực đào tạo, nghiên cứu; (4) Yếu tố địa điểm; (5)
Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm.
64
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TRÊN THẾ GIỚI
3.1. Thực tiễn quá trình hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế
giới
3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm
Năm 1946, quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên trên thế giới được thành lập, tên là
Công ty Nghiên cứu và Phát triển Hoa Kỳ (ARD – American Research and
Development), do giáo sư General Georges F. Doriot tại trường Harvard Business
School lập lên. Công ty này có mục tiêu đầu tư vào các doanh nghiệp mới nổi, có mức
rủi ro cao, hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao để phục vụ cho cuộc chiến tranh thế
giới thứ 2. ARD là quỹ đầu tư dạng đóng, được sở hữu và giao dịch chủ yếu bởi các
nhà đầu tư cá nhân (Powers, 2012) [85]. Trên thực tế, ARD đã đầu tư rất thành công
trong 26 năm hoạt động, đặc biệt hơn một nửa lợi nhuận thu được từ thương vụ đầu tư
vào công ty Digital Equipment Company, với 70.000 USD đầu tư năm 1957, và đã
tăng lên hơn 355 triệu USD vào năm 1980.
Sau sự ra đời và thành công của ARD, có rất nhiều quỹ đầu tư dạng đóng khác
cũng được thành lập, tuy nhiên quỹ đầu tư dạng này ngay sau đó đã chứng minh nó
không phù hợp với quỹ đầu tư mạo hiểm. Nguyên nhân chính là do quỹ đầu tư dạng
đóng cho phép chứng chỉ quỹ được giao dịch rộng rãi tới các nhà đầu tư, vì thế rất
nhiều trường hợp các nhà môi giới đã bán các chứng chỉ quỹ đầu tư này cho các đối
tượng đầu tư không phù hợp, ảnh hưởng rất nhiều đến sự hoạt động ổn định của quỹ.
Ví dụ, các nhà đầu tư lớn tuổi thường muốn đầu tư vào các chứng khoán có thu nhập
hiện thời cao, hơn là đầu tư vào các chứng khoán dài hạn. Chính vì vậy, mô hình quỹ
hợp danh hữu hạn (limited partnership) đã ra đời lần đầu vào năm 1958, do ba nhà
sáng lập Draper, Gaither và Anderson (gọi tắt là quỹ hợp danh Draper). Quỹ Draper
tập trung đầu tư vào các dự án bất động sản và khai thác dầu mỏ; các nhà đầu tư góp
vốn vào quỹ sẽ phải ký cam kết thời gian đầu tư tối thiểu, thường là mười năm (mặc
dù vẫn có các điều khoản loại trừ đặc biệt). Sau khi kết thúc chu kỳ đầu tư, thay vì bán
các dự án đầu tư thành công ra công chúng, hoàn trả tiền mặt cho các nhà đầu tư góp
vốn, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn sẽ trả bằng cổ phiếu của các công ty
khác mà quỹ đã đầu tư vào. Bằng cách này, nhà đầu tư có thể tự lựa chọn khi nào họ sẽ
65
tất toán khoản đầu tư của mình vào quỹ đầu tư, bằng cách bán các cổ phiếu của các
công ty mà họ đang sở hữu.
Trong những năm 1960-1970, các quỹ đầu tư mạo hiểm đồng thời tồn tại ở
dạng quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở, quỹ đầu tư dạng hợp danh hữu hạn,
và đặc biệt là sự hình thành của một loại quỹ đầu tư gọi là Small Business Investment
Companies (SBIC) tại Mỹ. Nguyên nhân sâu xa của sự ra đời SBIC là do sự kiện Liên
Xô phóng thành công vệ tinh Sputnik năm 1957, làm cho chính phủ Mỹ lo sợ sự tụt
hậu về công nghệ, đã khởi động SBIC, nhằm thu hút công chúng đầu tư, các nhà khoa
học tập trung vào nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ cao, phát triển ngành công
nghiệp đầu tư mạo hiểm. Theo đó, nếu các cá nhân, doanh nghiệp đủ điều kiện tiêu
chuẩn, sẽ nhận được các cam kết đầu tư lâu dài, hoặc từ các khoản vay ưu đãi của
chính phủ. Tuy nhiên, mô hình kêu gọi vốn đầu tư mạo hiểm dạng này đã chưa được
nghiên cứu kỹ, với các quy định tham gia lỏng lẻo, sớm gây thất vọng cho các nhà đầu
tư, điển hình là các nhà đầu tư hoặc những người sáng lập công ty không có tiếng nói
chung trong dự án, sự tham gia của các nhà đầu tư chỉ quan tâm đến lợi nhuận ngắn
hạn, thậm chí lừa đảo để kiếm lời, hoặc các quỹ SBIC này được kiểm soát phần lớn
bởi các cá nhân có quan hệ gia đình, hoặc có mối quan hệ quen biết. Do đó, hầu hết
các quỹ đầu tư mạo hiểm SBIC đã sụp đổ trong giai đoạn 1960-1970.
Trải qua quá trình phát triển, cho đến hiện nay, mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm
dạng hợp danh hữu hạn vẫn chiếm đa số, bởi mô hình này có lợi thế hơn về thuế suất,
sự linh hoạt trong các vấn đề liên quan đến cấu trúc, điều khoản của quỹ khi hoạt
động. Cụ thể, khi thực hiện ký kết hợp đồng góp vốn đầu tư vào quỹ đầu tư mạo hiểm
dạng này, thường trong điều khoản hợp đồng được chia thành ba nội dung cơ bản: (1)
các điều khoản về hình thành và hoạt động của quỹ, như giới hạn về thời gian gây quỹ,
thời gian tồn tại của quỹ, hay sự đóng góp cần thiết của các nhà quản lý quỹ; (2) mức
phí quản lý của quỹ, mức cổ tức; (3) cấu trúc quản trị của quỹ, nhằm đảm bảo quỹ
được quản lý hiệu quả nhất.
Ngoài ra, trong những năm gần đây đang thịnh hành phát triển một loại quỹ đầu
tư mạo hiểm siêu nhỏ (Micro venture capital funds hoặc super angel funds). Quỹ đầu
tư mạo hiểm dạng này chỉ đầu tư vào các giai đoạn đầu của doanh nghiệp (seed early
stage) với số tiền đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với quỹ đầu tư mạo hiểm truyền thống.
Quỹ này được quản lý bởi các doanh nhân khởi nghiệp, đã bỏ ra rất nhiều công sức,
66
tiền bạc vào doanh nghiệp của mình, và hướng đến mối quan hệ đối tác chiến lược
(partnership stragegy) với các nhà đầu tư vào quỹ. Theo đó, các nhà quản lý quỹ sẽ tập
trung thu hút vốn đầu tư từ bạn bè, người thân, các nhà đầu tư thiên thần (angel
investors), các cá nhân hoặc gia đình giàu có, những người đang tìm kiếm các cơ hội
đầu tư với lợi suất cao cho khoản tiền nhàn rỗi của họ. Theo Feld và Mendelson (2013)
[43], mối quan hệ hợp lực giữa nhà quản lý quỹ đầu tư dạng này đã và đang thu hút
được nhiều sự quan tâm đầu tư từ các trường đại học, hoặc các nhà đầu tư tổ chức. Lý
do các nhà đầu tư thấy loại quỹ đầu tư này rất hấp dẫn vì bản thân các đối tượng huy
động vốn cho các dự án đầu tư mạo hiểm dạng này có mối quan hệ rất tốt với “dây
chuyền” kinh doanh, hay cụ thể hơn họ là người biết rõ nhất những đối tượng có liên
quan trong lĩnh vực đầu tư của mình so với quỹ đầu tư mạo hiểm truyền thống, do đó
có khả năng kết nối, làm việc nhanh, khả năng thành công cao. Vì vậy, quỹ đầu tư mạo
hiểm siêu nhỏ đã khẳng định được chỗ đứng của mình giữa các nhà đầu tư thiên thần
truyền thống và quỹ đầu tư mạo hiểm truyền thống khi kêu gọi vốn đầu tư cho các dự
án riêng của mình. Các quỹ này thường giúp các công ty ở giai đoạn khởi nghiệp
(start-up) với các dịch vụ gia tăng, trợ giúp, hỗ trợ vốn với giá trị dao động trong
khoảng 25,000 USD đến 1 triệu USD (Miloud và các cộng sự, 2012) [80] (Phụ lục 1)
3.1.2. Xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới
Trên thế giới, quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và Châu Âu được coi là hai thị
trường phát triển lâu đời nhất, chiếm trên 80% giá trị đầu tư mạo hiểm trên thế giới
(Vanham, 2015) [97]; do đó việc nghiên cứu xu hướng đầu tư của quỹ đầu tư mạo
hiểm tại hai khu vực này mang tính cấp thiết và định hướng chung cho xu hướng của
toàn cầu.
Trong các năm qua, số lượng các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Mỹ và Châu Âu luôn
có sự tăng trưởng nhất định, như đạt trên 830 quỹ vào năm 2016, với giá trị huy động
được là trên 347 tỷ USD; lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ có xu
hướng tăng mạnh vào lĩnh vực máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng (tỷ trọng 49,1%
năm 2016 tại Mỹ; tại Châu Âu là 20%); với số năm đầu tư bình quân vào mỗi dự án
đầu tư mạo hiểm là 7,4 năm (tại Mỹ) và 6,7 năm (tại Châu Â).
Chi tiết về xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và Châu âu được
trình bày tại Phụ lục 7.
67
3.2. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Trung Quốc và
Hàn Quốc
Tại mỗi quốc gia, vốn đầu tư mạo hiểm đóng vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển, giúp các doanh nghiệp với các ý tưởng mới táo bạo có điều kiện tiếp cận
vốn và kinh nghiệm quản lý từ các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển mình để hướng tới cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0, rất cần thiết việc huy động vốn thông qua quỹ đầu tư mạo hiểm; do đó, học
hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đã đi trước thành công, có vị trí địa lý, điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội tương đồng là cần thiết.
Đối với thị trường đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và các nước phát triển tại Châu Âu,
với lịch sử hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm đã có từ rất lâu, trải qua
nhiều giai đoạn phát triển, với sự thay đổi rất lớn của bối cảnh kinh tế, xã hội; nên điều
kiện áp dụng không có nhiều tương đồng với Việt Nam. Trong khi đó, Trung Quốc
mới phát triển thị trường vốn đầu tư mạo hiểm từ năm 1985; Hàn Quốc bắt đầu quan
tâm và phát triển thị trường vốn đầu tư mạo hiểm từ năm 1997, rất gần với giai đoạn
Việt Nam bắt đầu đổi mới nền kinh tế từ năm 1986; vì vậy khi nghiên cứu quá trình
xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc và Hàn Quốc sẽ giúp cho
Việt Nam có nhiều bài học có giá trị trong xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo
hiểm.
3.2.1. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc
3.2.1.1. Sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc
Bối cảnh phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc
Có nhiều yếu tố nhấn mạnh tầm quan trọng của vốn đầu tư mạo hiểm và quỹ
đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc.
Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế. Do nhiều hạn chế của nền kinh
tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, và hiện tượng tập trung phần lớn nguồn lực vào
các công ty thuộc sở hữu nhà nước, làm cho thị trường vốn ở Trung Quốc rất khó tiếp
cận theo đúng nghĩa một kênh tài trợ vốn trong một thời gian dài cho các doanh
nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ. Vì vậy, các công ty ở quốc gia này
phần lớn phụ thuộc vào vốn vay của các ngân hàng. Bên cạnh đó, với các mệnh lệnh
can thiệp hành chính từ trung ương hoặc các chính quyền địa phương, các ngân hàng
68
thuộc sở hữu nhà nước của Trung Quốc trong suốt một thời gian dài đã hỗ trợ các công
ty thuộc sở hữu nhà nước với mức lãi suất vay ưu đãi rất thấp, trong khi các công ty
nhỏ, các công ty tư nhân, đặc biệt các công ty không có tài sản thế chấp đã gặp rất
nhiều khó khăn để tiếp cận vốn vay từ các ngân hàng (Lin, 2015b) [70]. Điều đó vô
tình đã làm đẩy mạnh nhu cầu cho thị trường vốn đầu tư mạo hiểm, là phương án khả
thi duy nhất cho các dự án khởi nghiệp có tiềm năng tăng trưởng cao, hoặc với các
công ty công nghệ cao ở giai đoạn đầu mới thành lập. Theo đó, các nhà đầu tư mạo
hiểm với khẩu vị ưa thích rủi ro để mong muốn thu lời lớn từ khoản đầu tư của mình,
họ sẵn sàng cung cấp các khoản vốn đầu tư cần thiết một cách nhanh chóng để mở
rộng các kế hoạch kinh doanh của các công ty dạng này (Fiedler và Hellmann, 2001)
[44].
Thứ hai, sự quan tâm của chính phủ. Từ khi chính phủ Trung Quốc ban hành
rất nhiều chương trình quốc gia để phát triển khoa học công nghệ như Chương trình
9853; Chương trình Ngọn Đuốc4 (Torch Program) vào những năm 1980, nhằm mục
tiêu nâng tầm Trung Quốc trở thành một quốc gia hàng đầu về khoa học - công nghệ
vào thế kỷ 21, cơ sở hạ tầng IT và sự sáng tạo của người Trung Quốc đã được nâng
tầm đáng kể, đặc biệt với sự phát triển như vũ bão của thời đại công nghệ và Internet
như hiện nay. Ví dụ ở Trung Quốc có khu Trung Quan Thôn (Zhongguancun), hay còn
gọi là Thung lũng Silicon của Trung Quốc, riêng trong năm 2014, bình quân mỗi ngày
có 49 dự án khởi nghiệp được thành lập (Bloomberg News, 2015) [25]. Hoặc tính đến
tháng 3 năm 2015, nền công nghiệp khởi nghiệp công nghệ cao của Trung Quốc đã có
hơn 1.600 vườn ươm công nghệ, hỗ trợ cho hơn 80.000 dự án khởi nghiệp, trên 115
trung tâm công nghệ tại các trường đại học và tạo ra hơn 170.000 việc làm (Lin,
2015a) [69]. Trung Quốc hiện nay có hơn 1.000 tổ chức đầu tư vào các dự án khởi
nghiệp với số vốn vượt qua con số 350 tỷ nhân dân tệ, tương đương khoảng 56 tỷ USD
(Lin, 2015a) [69]. Các quỹ đầu tư mạo hiểm đã làm dấy lên phong trào sáng tạo tại
Trung Quốc. Riêng trong năm 2014, quốc gia này có 660.000 bằng sáng chế có giá trị,
tăng 12% so với năm trước đó (Lin, 2015a) [69]. Thậm chí, tầm quan trọng của quỹ
đầu tư mạo hiểm ở Trung Quốc được minh chứng rõ ràng nhất thông qua các công ty
3 Chương trình 985 nhằm thúc đẩy niềm tự hào giáo dục của Trung Quốc, thông qua việc xây dựng, phát triển các trường đại học top đầu thế giới vào thế kỷ 21 4 Chương trình Ngọn đuốc được khởi động năm 1988, nhằm thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực công nghệ cao
69
công nghệ lớn trong thời đại Internet hiện nay, có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế vĩ mô
của quốc gia này như Sina, Sohu, Alibab, đã từng nhận được sự đầu tư từ vốn đầu tư
mạo hiểm ở giai đoạn đầu của mình. Chính điều này đã làm gia tăng mạnh mẽ nhu cầu
về vốn đầu tư mạo hiểm từ các quỹ đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực công nghệ cao
hiện nay (Lin, 2015a) [69].
Thứ ba, môi trường đầu tư. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung quốc
tăng rất nhanh trong thập kỷ qua, với con số rất ấn tượng 7,7% trong giai đoạn 2010-
2014. Số dự án kinh doanh và doanh nghiệp mới thành lập tăng rất mạnh, đặc biệt sau
nỗ lực của chính phủ về sắp xếp lại trình tự đăng ký kinh doanh hợp lý hơn dưới luật
công ty mới của quốc gia này (PRC Companies Act). Trong quý đầu tiên của năm
2015, đã có 844.000 công ty mới được thành lập, tăng tới 38,4% so với cùng kỳ năm
trước đó (Xinhua, 2015) [99]. Môi trường kinh tế được cải thiện, thị trường nội địa
được mở rộng đã khuyến khích hành vi tiêu dùng của người dân tăng lên, tạo điều kiện
cho các dự án kinh doanh nhỏ phát triển, và gia tăng nhu cầu vốn đầu tư mạo hiểm.
Thứ tư, nguồn cung vốn đầu tư mạo hiểm. Số cá nhân và gia đình giàu có đã
tăng đáng kể, làm cho nguồn vốn sẵn có tăng lên rất lớn. Trung Quốc hiện là quốc gia
có số cá nhân giàu có nhiều thứ hai tại Châu Á, với dân số hơn 1,3 tỷ người, nắm giữ
số tài sản ước tính trên 4,3 nghìn tỷ USD (Cumming, 2003) [39]. Việc nền kinh tế
phồn thịnh hơn và sự bùng nổ về sự phát triển của vốn đầu tư mạo hiểm trong thời
gian gần đây đã thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm, nhằm tập
trung vào phân khúc tăng trưởng cao này. Thêm vào đó, chính phủ đã tạo điều kiện
hơn về tự do tiếp cận và mở rộng phạm vi đầu tư của các nhà đầu tư trong thị trường
vốn đầu tư mạo hiểm trong nước. Bằng cách ban hành rất nhiều chương trình đầu tư
cho các nhà đầu tư ngoại, họ đã được cho phép đầu tư vào vốn cổ phần ở Trung Quốc
(Lin, 2015a) [69]. Trong khi đó, ngày càng nhiều các nhà đầu tư tổ chức được phép
đầu tư vào vốn cổ phần trong thời gian gần đây, tạo nguồn cung rất lớn cho vốn của
các quỹ đầu tư mạo hiểm (Lin, 2015a) [69].
Thứ năm, nhu cầu vốn đầu tư mạo hiểm. Một thế hệ doanh nhân mới – thế hệ
doanh nhân thế hệ 1980-1990 đã xuất hiện tại Trung Quốc. Được ví như “những nhà
đầu tư thời đại kỹ thuật số bản địa”, họ có đủ bản lĩnh và tài giỏi để sáng lập ra các
công ty Internet lớn như Tencent và Alibaba, những doanh nhân này có xu hướng trẻ
hóa và không sợ thất bại (Jing, 2015) [65]. Số liệu thống kê tại Trung Quốc cho thấy,
70
2,3% sinh viên tốt nghiệp đại học năm 2013 đã lựa chọn khởi sự doanh nghiệp riêng
của mình. Con số này cao hơn so với những người tốt nghiệp cao đẳng hoặc trung học
phổ thông, với 3,3% lựa chọn trở thành các doanh nhân. Việc hứng thú trở thành các
doanh nhân trẻ với vốn đầu tư mạo hiểm đã được thúc đẩy mạnh mẽ hơn kể từ khi tác
phẩm “Sự sáng tạo và đam mê kinh doanh” được xuất bản tháng 3 năm 2015, nhằm
mục đích khơi dậy dòng máu kinh doanh và cổ vũ tinh thần làm việc của người lao
động tại quốc gia này (ChinaGov, 2015 [35]; Lin, 2015a [69]; Xinhua, 2015) [99].
Các giai đoạn phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc
Nhìn chung, sự phát triển của lĩnh vực quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc có
thể được chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn đầu: 1985-1990
Các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc thực sự manh nha hình thành từ năm
1985, khi công ty quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên ra đời – Công ty Vốn đầu tư mạo
hiểm Công nghệ mới Trung Hoa5, công ty này được thành lập dưới sự bảo trợ của
chính phủ Trung Quốc. Nhằm khích lệ tinh thần kinh doanh, cũng như tạo điều kiện
cho đổi mới công nghệ, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đã ban
hành Chương trình Ngọn đuốc (Torch Program) vào năm 1988, đây được coi là
chương trình có ảnh hưởng rất lớn đến sự sáng tạo và phát triển của lĩnh vực công
nghệ cao tại nước này. Tiếp sau đó, chính quyền các địa phương và các bộ ngành đã
thành lập rất nhiều các công ty khác nhau nhằm cung cấp tài chính cho các công ty
công nghệ. Đó chính là lý do tại sao tại thời điểm đó, hầu hết các công ty và quỹ đầu
tư mạo hiểm đều do chính phủ hậu thuẫn. Tuy nhiên, do còn khá lạ lẫm với khái niệm
vốn đầu tư mạo hiểm, cũng như thiếu vắng thị trường vốn lúc đó, làm cho việc huy
động vốn của các công ty, quỹ đầu tư mạo hiểm ở giai đoạn này còn rất khó khăn.
Giai đoạn Thử nghiệm: 1990-2000
Từ năm 1990, hàng loạt chính sách và điều luật của chính phủ Trung Quốc
được ban hành nhằm tạo điều kiện cho thị trường vốn đầu tư mạo hiểm phát triển, có
thể kể đến như Chiến lược Hồi sinh Trung Hoa6, thông qua khoa học và giáo dục, Luật
Khuyến khích đổi mới thành tựu khoa học và công nghệ7, v.v… Rất nhiều quỹ đầu tư
5 The China New Technology Venture Capital Company 6 The Strategy of Invigorating China 7 The Law on Promoting the Transformation of Scientific and Technological Achievements
71
của chính phủ được lập ra để cấp vốn cho các công ty công nghệ Start-up, như Quỹ đổi
mới công nghệ8 cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 1999. Bên cạnh đó, thị trường
vốn tại Trung Quốc được nổi lên với sự thành lập Sở Giao dịch Chứng khoán Thượng
Hải và Thâm Quyến năm 1990, đã tạo ra một kênh thoái vốn hiệu quả hơn cho các
thương vụ đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, do sự chậm theo kịp về cơ sở hạ tầng đối với
các quy định, như việc thiếu hụt lựa chọn các công cụ đầu tư sẵn có cho các nhà đầu tư
mạo hiểm, thị trường thứ cấp kém phát triển, làm cho thị trường vốn đầu tư mạo hiểm
phát triển rất chậm chạp trong giai đoạn này. Mặc dù các quỹ đầu tư mạo hiểm nước
ngoài như IDG Capital Partners và Walden International đã bắt đầu bước chân vào thị
trường vốn đầu tư mạo hiểm Trung Quốc, và một số quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân nội
địa đã được thành lập, nhưng chủ yếu chiếm đa số vẫn là các quỹ đầu tư mạo hiểm có
sự hậu thuẫn của chính phủ ở thời kỳ này.
Giai đoạn trầm lắng và phát triển: 2001-2005
Đầu tư vốn đầu tư mạo hiểm sụt giảm rất mạnh tại Trung Quốc sau vụ đổ vỡ
của “Bong bóng dot-com” vào năm 2001 và nền kinh tế toàn cầu suy giảm năm 2002.
Sau đó, nhằm tạo ra môi trường luật pháp thân thiện cho lĩnh vực kinh doanh và khuôn
khổ pháp lý khả thi cho các đối tượng tham gia lĩnh vực vốn đầu tư mạo hiểm, những
quy định và hướng dẫn rõ ràng liên quan đến lĩnh vực này đã được ban hành trong các
khía cạnh như việc thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, việc phê chuẩn của các bên liên
quan, việc quản lý, giám sát thuế và việc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài
ra, năm 2004 sàn giao dịch dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME Board) cũng
được thành lập để tạo ra một kênh mới thoái vốn cho các công ty khởi nghiệp. Kết quả
của các chính sách ưu đãi này, đã làm tỷ trọng của các nhà đầu tư nước ngoài trong
đầu tư mạo hiểm tăng lên từ 5% năm 2003 lên 43,7% năm 2006.
Giai đoạn cải cách cấu trúc sâu rộng: 2006-2013
Sự thay đổi nhanh chóng của các điều kiện hỗ trợ cho sự phát triển của thị
trường vốn đầu tư mạo hiểm đã tạo ra các bước thay đổi rất lớn trong điều kiện môi
trường sinh thái của lĩnh vực này tại Trung Quốc, đồng thời nó tạo ra nhiều kênh khác
nhau để các nhà đầu tư, quỹ đầu tư mạo hiểm thoái vốn khi đầu tư. Trong năm 2011,
lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc đạt mức kỷ lục, đạt
8 The Technical Innovation Fund
72
28.201,99 triệu USD, so với năm trước đó là 11.169 triệu USD; trong khi số lượng quỹ
đầu tư mạo hiểm huy động vốn thành công đã đạt tới 382 quỹ, so với năm 2010 là 158
quỹ.
Những thay đổi về cấu trúc hoạt động thị trường chứng khoán ở nước này đã
tạo ra các bước ngoặt trong vai trò huy động vốn tại các lĩnh vực trong nền kinh tế, đặc
biệt trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Việc phân chia thành các sàn khác nhau như sàn
Mainboard (dành cho các cổ phiếu thả nổi được nắm giữ bởi những nhà đầu tư không
được giao dịch tự do); ChiNext vào năm 2012 (giống sàn NASDAQ, nơi giao dịch cổ
phiếu của các công ty đang tăng trưởng); và New Third Board năm 2013, được coi như
một sàn giao dịch cổ phiếu, và là nơi huy động vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(SME).
Một yếu tố khác thúc đẩy nhu cầu sử dụng và khả năng cung cấp vốn cho thị
trường vốn đầu tư mạo hiểm là hàng loạt các chính sách thuế ưu đãi dành cho các công
ty đầu tư mạo hiểm và các nhà đầu tư thuộc lĩnh vực này. Chính điều này đã thu hút
dòng vốn đầu tư mạo hiểm vào các lĩnh vực đặc thù, thúc đẩy tập trung phát triển kinh
tế địa phương tại các khu vực khác nhau tại Trung Quốc.
Thêm vào đó, việc sửa Luật PRC Partnership Enterprise (PEL) vào năm 2006
đã tạo ra bước ngoặt lớn trong việc cho phép hình thành loại hình doanh nghiệp mới –
Công ty hợp danh hữu hạn (Limited partnership). Điều này đã kích thích các nhà đầu
tư đổ vốn vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, nó cho phép cả nhà đầu tư trong và ngoài
nước có thể dễ dàng kết hợp với nhau để thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm dưới dạng
liên doanh, liên kết; mở rộng phạm vi đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước
thông qua việc cập nhật danh mục đầu tư của các nhà đầu tư ngoại và chính sách ngoại
hối của từng bên.
Giai đoạn hướng đến thị trường: 2014 – nay
Từ năm 2014, chính phủ Trung Quốc đã giảm dần phương thức chính phủ trực
tiếp can thiệp vào sự hoạt động của thị trường vốn đầu tư mạo hiểm, chuyển dần sang
mô hình “Chính phủ định hướng + Thị trường tự hoạt động”. Thay vì thành lập ra các
quỹ đầu tư mạo hiểm được chính phủ hỗ trợ, chính phủ nước này đã hỗ trợ lĩnh vực
đầu tư mạo hiểm bằng cách cung cấp vốn cho các giai đoạn hạt giống thông qua các
quỹ định hướng của chính phủ, nhưng không tham dự vào quy trình phân bổ vốn tại
các dự án này.
73
Chính phủ Trung Quốc cho biết, trong năm 2015 nước này đã thu xếp hơn 40 tỷ
NDT (khoảng 6.5 tỷ USD) dành cho Quỹ định hướng đầu tư mạo hiểm quốc gia9 nhằm
hỗ trợ cho các dự án khởi nghiệp thuộc các lĩnh vực mới nổi, nhằm thúc đẩy sáng tạo
và nâng tầm các ngành công nghiệp thuộc lĩnh vực đó. Những quỹ dạng này thường
được chính phủ tài trợ nhằm thúc đẩy các ngành công nghiệp mục tiêu phát triển; có
thể có sự tham gia của các tập đoàn nhà nước hay các nhà đầu tư tư nhân. Do vậy, các
thương vụ đấu thầu công khai sẽ hướng đến các công ty quản lý tài sản chuyên nghiệp,
với mức độ ưu tiên chủ yếu dành cho các nhà đầu tư cá nhân.
Cùng lúc, chính phủ Trung Quốc cam kết tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi
hơn cho đại đa số tầng lớp kinh doanh bằng cách loại bỏ dần các rào cản không hợp lý;
củng cố, nâng cao các dịch vụ công cộng và khuyến khích các sinh viên, các nhà khoa
học và các kỹ sư khởi nghiệp. Đồng thời, chính phủ ban hành hướng dẫn về dự án
Group Innovation Space, và cung cấp nhiều chương trình hỗ trợ cho sự sáng tạo và
khởi sự doanh nghiệp.
Trong quá khứ, chính quyền các địa phương đã ban hành rất nhiều các chính
sách ưu đãi chưa phù hợp, đã làm méo mó sự hoạt động của vốn đầu tư mạo hiểm tại
Trung Quốc. Với các lý do khác nhau, các quỹ đầu tư mạo hiểm được hỗ trợ bởi các
chính quyền địa phương đã cấp vốn cho các doanh nghiệp hoạt động kém để các
doanh nghiệp này tồn tại thoi thóp, nhằm hưởng các chính sách ưu đãi thuế và trợ cấp
từ chính phủ, trong khi lờ đi các dự án khởi nghiệp nhỏ hơn vẫn đang khát vốn hỗ trợ
từ nguồn vốn chính phủ. Chính vì vậy, trong thông báo chính thức của chính quyền
Trung Quốc ngày 27/11/2014 đã nhấn mạnh vai trò để thị trường tự điều tiết trong việc
phân bổ vốn đầu tư mạo hiểm, nhà nước chỉ đóng vai trò định hướng và hỗ trợ khi cần
thiết. Thông báo này nhằm hủy bỏ các chính sách ưu đãi có liên quan đến ưu đãi thuế,
trợ cấp tài chính và các chính sách ưu đãi khác mà chính quyền các địa phương đã
cung cấp cho các công ty đầu tư mạo hiểm. Điều này kéo theo việc thu hồi một loạt
các hợp đồng, cam kết, bản ghi nhớ, ghi chép trong các cuộc họp và các tuyên bố mà
chính quyền các địa phương đã ký kết với các doanh nghiệp nhất định, cũng như các
yêu cầu đề xuất, báo cáo và chấp nhận về mặt nguyên tắc trong tất cả các trường hợp
khác.
9 State Venture Capital Investment Guidance Fund
74
Mục đích chính của động thái trên nhằm nhấn mạnh rằng, sức hút của các địa
phương đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm sẽ không còn được đo đếm bằng lợi ích thuế
và hỗ trợ tài chính nữa, mà bằng những động thái mạnh mẽ hơn như cải cách từ chính
phủ, môi trường đầu tư, hệ thống pháp luật và môi trường đổi mới sáng tạo. Theo đó,
chính quyền các thành phố như Thượng Hải, Bắc Kinh và Thiên Tân đã phải xem lại
các chính sách ưu đãi thuế liên quan đến lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Ví dụ, theo chính
sách thuế mới của chính quyền Thượng Hải, thu nhập cá nhân của các nhà đầu tư
không còn bị đánh mức thuế cố định là 20% như trước kia nữa, mà được phân theo
doanh thu và sản phẩm của công ty mà họ đầu tư, và được phân chia thành 5 mức thuế
khác nhau, từ 5%-35%.
3.2.1.2. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc
Khung pháp lý về cơ chế quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm
Khung pháp lý để quản lý vốn đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm tại
Trung Quốc hiện vẫn đang đổi mới không ngừng. Lĩnh vực vốn đầu tư mạo hiểm bao
gồm rất nhiều giao dịch, nhiều giai đoạn trong chu trình vòng quay của vốn đầu tư,
bao gồm huy động vốn, quá trình hoạt động, đầu tư và thoái vốn, tất cả đều đã được
quy định trong các văn bản pháp quy.
Đối với cơ chế pháp luật đặc thù của đầu tư mạo hiểm, khía cạnh chính mà cơ
chế tại Trung Quốc khác Mỹ ở chỗ, nền tảng quy định tại Trung Quốc dựa trên sự
phân loại của các tổ chức tài chính và sản phẩm mà họ cung cấp. Ví dụ, các quỹ đầu tư
được thành lập dưới dạng các công ty tín thác và được điều chỉnh bởi Ủy ban quản lý
ngân hàng Trung Hoa - CBRC10, trong khi các công ty chứng khoán và các công ty
quản lý quỹ, các sản phẩm tài chính của họ được điều chỉnh bởi Ủy ban điều tiết chứng
khoán Trung Quốc - CSRC11. Trên thực tế, Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia -
NDRC12 và CSRC luôn cạnh tranh để giành quyền quản lý lĩnh vực vốn cổ phần tư
nhân và quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc. Chính sự không rõ ràng và thống nhất
trong việc quản lý này đã làm cản trở sự phát triển của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và sự
không thống nhất các quy định liên quan đối với các đối tượng tham gia thị trường.
10 The China Banking Regulatory Commission 11 The China Securities Regulatory Commission 12 The National Development and Reform Commission
75
Một điểm đổi mới đáng ghi nhận đó là sự ra đời của một khuôn khổ pháp lý
mới dành riêng cho lĩnh vực vốn cổ phần tư nhân và quỹ đầu tư mạo hiểm ở Trung
Quốc thông qua việc ban hành quy định về Đăng ký các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo
hiểm tư nhân và Nộp hồ sơ của các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân13, bản thí điểm thực
hiện (for Trial Implementation) vào năm 2014 do Hiệp hội quản lý tài sản Trung Quốc
(AMAC) ban hành (AMAC Meassures); và Các biện pháp tạm thời đểm quản lý và
giám sát Quỹ đầu tư tư nhân14 vào năm 2014.
Theo khuôn khổ pháp lý mới này, quyền soạn thảo các quy định và luật pháp
liên quan đến vốn cổ phần tư nhân và lĩnh vực đầu tư mạo hiểm đã được chuyển từ Ủy
ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC) sang Ủy ban Quản lý chứng khoán, sau
đó được ủy quyền cho một tổ chức tự quản tên là Hiệp hội Quản lý Tài sản Trung
Quốc15
Như vậy, hiện nay Ủy ban điều tiết chứng khoán Trung Quốc (CSRC) là cơ
quan ban hành các quy định chính về các lĩnh vực liên quan đến các quỹ đầu tư mạo
hiểm, nhằm quản lý và giám sát hiệu quả.
Nguồn vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm
Tại Trung Quốc, trong quá trình xây dựng và phát triển, nguồn vốn đầu tư mạo
hiểm của các quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm: (1) Các nhà đầu tư thiên thần; (2) Các
nhà đầu tư tổ chức; (3) Chính phủ.
Thứ nhất, nguồn vốn từ các nhà đầu tư thiên thần.
Với bản chất kinh doanh của các nhà đầu tư tổ chức như quỹ hưu trí, các tổ
chức từ thiện, các công ty bảo hiểm, thường nghiêng về các dự án đầu tư mạo hiểm dài
hạn.
Tại Bảng 3.1, khi nhìn vào số lượng các nhà đầu tư Trung Quốc, cho thấy
54,5% là các cá nhân và gia đình giàu có, 14,9% là các doanh nghiệp tư nhân và 8,5%
là các công ty đầu tư. Phần còn lại là các tổ chức đầu tư vốn tư nhân hoặc quỹ đầu tư
mạo hiểm tư nhân, các công ty niêm yết, tổ chức chính phủ, quỹ do chính phủ bỏ vốn,
các công ty quản lý tài sản và quỹ của quỹ.
13 The Registration of Private Investment Fund Managers and Filing of Private Investment Funds 14 The Interim Measures for Supervision and Administration of Private Investment Fund – CSRC Interim Measures 15 Asset Management Association of China AMAC
76
Đối với số lượng các dự án đầu tư, trong năm 2014, các công ty niêm yết tại
Trung Quốc chính là các đối tượng nhà đầu tư lớn nhất tại lĩnh vực đầu tư mạo hiểm,
chiếm tới 25% tổng tài sản đầu tư, với giá trị lên đến 221,66 tỷ USD; tiếp theo sau đó
là các quỹ hưu trí công và các quỹ đầu tư quốc gia, lần lượt chiếm 19,2% và 17.5%
tổng tài sản đầu tư.
Việc các nhà đầu tư thiên thần chiếm ưu thế chứ không phải các quỹ đầu tư,
quỹ hưu trí và các công ty bảo hiểm trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc có
thể được giải thích bởi hai lý do chính:
(1) Tại Trung Quốc có rất nhiều cá nhân giàu có sẵn sàng bỏ vốn để đầu tư;
(2) Hậu quả của việc hạn chế đầu tư vốn cổ phần tư nhân trong các thập kỷ
trước, làm cho các nhà đầu tư tổ chức như quỹ đầu tư quốc gia và các công ty bảo
hiểm không có đủ thời gian để tích lũy vốn đầu tư. Tuy nhiên, việc các nhà đầu tư cá
nhân chiếm đa số trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm đã tạo ra nhiều vấn đề trong quá
trình hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Cụ thể, nhìn chung các nhà đầu tư cá
nhân ít có sự hiểu biết về lĩnh vực tài chính, cũng như khả năng chấp nhận rủi ro thấp
hơn so với các nhà đầu tư tổ chức. Rất nhiều nhà đầu tư cá nhân thuộc thế hệ giàu có
thứ nhất, tài sản họ kiếm được sau mở cửa và cải cách kinh tế năm 1978. Do đó, họ
không sẵn lòng giao tiền của mình cho bên thứ ba để đầu tư, mà có xu hướng muốn tự
muốn định đoạt vốn đầu tư của mình bằng việc tự mình lựa chọn các công ty để đầu
tư.
Thứ hai, nguồn vốn từ các nhà đầu tư tổ chức
Các nhà đầu tư nước ngoài từng bước đã được cho phép đầu tư vào vốn cổ phần
tại Trung Quốc thông qua chương trình Qualified Foreign Limited Partner (QFLP),
chương trình Renminbi Qualified Foreign Institutional Investor (RQFII), và chương
trình Renminbi Qualified Foreign Limited Partner (RQLFP).
Các nhà làm luật, đáng chú ý nhất là Ủy ban điều tiết chứng khoán Trung Quốc
- CSRC, Ủy ban Điều tiết Bảo hiểm Trung Quốc - CIRC16 và Ủy ban Quản lý Ngân
hàng Trung Quốc - CBRC đều đã dỡ bỏ những hạn chế trước đây đối với Quỹ Bảo
hiểm xã hội - NSSF17, các công ty bảo hiểm, các ngân hàng thương mại và các công ty
tín thác trong đầu tư vốn cổ phần. Ví dụ, Ủy ban Điều tiết Bảo hiểm Trung Quốc đã
16 China Insurance Regulatory Commission 17 National Social Security Fund
77
ban hành nhiều hướng dẫn, định hướng đầu tư nhằm cho phép các công ty bảo hiểm
tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Kết quả là, theo số liệu thống kê lĩnh vực bảo
hiểm năm 2015, khu vực bảo hiểm tại quốc gia này đã đầu tư vào thị trường vốn đầu
tư mạo hiểm với tốc độ tăng trưởng tổng tài sản rất nhanh, lên đến trên 15 tỷ NDT vào
cuối năm 2015, và khoảng 20% tổng tài sản đã được phân bổ vào đầu tư vốn cổ phẩn.
2013 2.50% 29.70% 35.00% 24.80% 0.70% 1.00% 3.00% 3.00% 0.30%
2015 2.70% 29.50% 34.20% 22.90% 0.70% 1.10% 2.80% 5.40% 0.70%
2014 2.60% 29.90% 34.70% 24.30% 0.70% 1.10% 2.90% 3.10% 0.70%
Bảng 3. 1. Vốn huy động dưới hình thức hợp danh hữu hạn tại các quỹ đầu tư mạo hiểm và công ty vốn cổ phần tại Trung Quốc 2012 Trung Quốc 2.10% Cá nhân và gia đình giàu có 32.20% Các công ty và tập đoàn 33.10% Công ty đầu tư và quỹ đầu tư 24.70% Quỹ hưu trí 0.80% Tổ chức từ thiện 1.10% Công ty bảo hiểm 3.80% Ngân hàng/ dịch vụ tài chính Các tổ chức liên quan đến chính phủ 2.20% 0.00% Khác 100.00% 100.00% 100.00% 100.00% Tổng
Nguồn: Zero2IPO, 2016
Bảng 3. 2. Tỷ lệ nhà đầu tư tham gia vào mô hình quỹ đầu tư Hợp danh hữu hạn tại Trung Quốc
Trung Quốc
2012
2013
2014
2015
Các cá nhân và gia đình
46.10%
50.20%
50.80%
54.40%
giàu có
Các công ty và tập đoàn
19.50%
17.20%
16.60%
14.90%
Các công ty đầu tư
4.70%
5.90%
6.10%
8.50%
Khác
29.70%
26.70%
26.50%
22.20%
Tổng
100.00% 100.00% 100.00% 100.00%
Nguồn: Zero2IPO, 2016
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư từ chính phủ
Chính phủ Trung Quốc đã cấp vốn cho các dự án đầu tư mạo hiểm cho các
Start-up công nghệ thông qua nhiều chương trình hỗ trợ của chính phủ như Quỹ đổi
mới cho các công ty công công nghệ, Quỹ đầu tư công nghiệp, Quỹ định hướng chính
phủ. Các dữ liệu nghiên cứu từ năm 2008 cho thấy, 80% vốn đầu tư của các quỹ đầu tư
mạo hiểm là do chính phủ đứng đằng sau hỗ trợ đầu tư.
Quỹ đổi mới dành cho các công ty công nghệ S(IFTBF) do Hội đồng Nhà nước
thành lập, nhằm đẩy nhanh mục tiêu của chính phủ là khuyến khích nghiên cứu, đổi
78
mới và sáng tạo sáng tạo bằng cách tạo ra nguồn vốn dễ dàng tiếp cận cho các doanh
nhân. Với vai trò là một dự án phi lợi nhuận của chính phủ, IFTBF được tạo ra nhằm
đóng góp vào sự phát triển của Trung Quốc thông qua việc tăng GDP và tạo ra nhiều
việc làm cho công chúng. Quỹ đầu tư công nghiệp (IFF) là quỹ đầu tư đặc biệt của
chính phủ nhằm huy động vốn từ các nhà đầu tư tổ chức đặc biệt, bao gồm Quỹ bảo
hiểm xã hội quốc gia, các doanh nghiệp nhà nước (SOEs), các ngân hàng thương mại,
các công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán và các tổ chức tài chính khác theo quy
định của Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC).
Hình thức sở hữu của quỹ đầu tư mạo hiểm
Tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức của quỹ, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể được phân
chia thành 3 loại chính:
(1) Quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty;
(2) Quỹ đầu tư mạo hiểm dạng tín thác;
(3) Quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn.
Trong số các quỹ đầu tư mới được thành lập từ năm 2008 trở lại đây, 51,19%
mô hình hợp danh hữu hạn; 39,29% mô hình công ty; 4,76% là mô hình quỹ tín thác.
Luận án này đi sâu tìm hiểu về 2 mô hình được phổ biến nhất là quỹ dạng hợp danh
hữu hạn và dạng công ty tại Trung Quốc.
Quỹ đầu tư mô hình hợp danh hữu hạn
Mô hình công ty hợp danh hữu hạn là loại hình doanh nghiệp mới tại Trung
Quốc, được chính thức thông qua năm 2007 tại Luật Công ty Hợp danh - PEL18. Có
hai vấn đề nổi cộm trong mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn tại
Trung Quốc, đó là:
(1) Quyền kiểm soát. Không giống như những người góp vốn hữu hạn (Limited
Partners – LPs) trong quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ, thường không tham gia vào sự hoạt
động của quỹ. Tại Trung Quốc, các đối tượng này thường mang tính chủ động, sẵn
sàng tham gia vào sự quản lý của quỹ đầu tư, đặc biệt trong quá trình lựa chọn danh
mục công ty để đầu tư. Ngoài ra, còn có cơ chế quản trị nội bộ cho phép trao quyền
này cho họ, hoặc thông qua rất nhiều loại ủy ban nội bộ khác nhau. Trong khi, khi so
sánh với một quỹ đầu tư mạo hiểm điển hình ở Mỹ, chỉ có GPs (General Partners) mới
18 Partnership Enterprise Law of the People’s Republic of China
79
được phép quyết định về các hoạt động thường ngày của quỹ. Các ủy ban nội bộ này
thường được gọi với cái tên “ủy ban chiến lược đầu tư”, thường bao gồm cả LPs, GPs
và các tư vấn viên ngoài, nhằm xem xét và quyết định các dự án đầu tư.
(2) Chi phí. Tại thị trường vốn đầu tư mạo hiểm Mỹ, các chi phí được phân bổ
theo “Luật 2/20”, có nghĩa các quỹ đầu tư sẽ quy định, chi phí trả cho GPs bao gồm 2
phần chính: phí quản lý thường niên cho các dịch vụ sẽ chiếm khoản 2-2.5% vốn cam
kết; và 20-25% phần lãi khi đầu tư. Luật phân bổ chi phí này được chấp nhận từ lâu
trong giới đầu tư mạo hiểm, được coi là cơ chế hiệu quả nhằm thu hút LPs và GPs, bởi
lẽ lợi ích của các bên tham gia phụ thuộc nhiều vào sự thành công của quỹ, do đó tạo
cơ chế khuyến khích sự làm việc hiệu quả của GPs.
Quỹ đầu tư dạng công ty
Tại Trung Quốc, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty có thể tồn tại dạng công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, theo Luật công ty Trung Quốc 2005. Đối
với các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài có thể chọn loại hình doanh nghiệp khác
được dành riêng cho các khoản đầu tư của người nước ngoài, đó là doanh nghiệp đầu
tư vốn đầu tư mạo hiểm - VCIE19. So với quỹ đầu tư mạo hiểm nội địa, quỹ đầu tư
mạo hiểm nước ngoài được nhiều lợi thuế hơn, với việc giảm 70% thuế của tổng giá trị
đầu tư của quỹ vào các công ty công nghệ cao, các công ty nhỏ và vừa trong hơn 2
năm.
Một lợi thế khác của mô hình quỹ đầu tư dạng công ty so với mô hình hợp danh
hữu hạn là trách nhiệm của tất cả các nhà đầu tư đã được giới hạn, trong khi trách
nhiệm của GPs là vô hạn. Cũng giống như các cổ đông phổ thông trong một công ty,
các nhà đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty sẽ nhận quyền lợi cũng như
trách nhiệm trong theo tỷ lệ vốn góp của họ vào quỹ. Thứ hai, các cổ đông trong quỹ
đầu tư dạng công ty được phép tham dự vào việc quản lý của quỹ thông qua thực hiện
rất nhiều quyền cổ đông như quyền bỏ phiếu trong các cuộc họp cổ đông, hoặc bổ
nhiệm các giám đốc của quỹ. Cấu trúc công ty cũng hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư cá
nhân – đối tượng mà rất chủ động trong việc quản lý điều hành của quỹ hơn so với
dạng hợp danh hữu hạn, với quy định không cho phép các nhà đầu tư tham dự vào việc
quản lý của quỹ. Thứ ba, dưới góc độ cấu trúc quản trị nội bộ, quỹ đầu tư dạng công ty
19 The Venture Capital Investment Enterprise
80
ít linh hoạt và hiệu quả hơn so với quỹ dạng hợp danh. Theo luật Trung Quốc, quyền
lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, ban lãnh đạo, ban kiểm soát và quản
lý trong doanh nghiệp được quy định rất chặt chẽ thông qua các Luật Công ty, Luật
Chứng khoán và các quy định niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán. Thêm vào đó,
Luật Công ty Trung Quốc quy định, quỹ đầu tư dạng công ty phải có hệ thống ban
lãnh đạo hai tầng, như ban giám đốc và ban kiểm soát. Do đó, một quỹ đầu tư dạng
trách nhiệm hữu hạn phải có ban lãnh đạo bao gồm từ 3 đến 13 giám đốc; hay ban
kiểm soát phải có ít nhất 3 thành viên. Tuy vậy, mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn
thường chỉ có một giám đốc điều hành với một hoặc hai giám sát viên, thay vì cả ban
giám đốc hoặc ban kiểm soát, do quy mô của công ty nhỏ, chỉ có một lượng nhỏ người
góp vốn.
Vai trò của thị trường vốn
Thị trường chứng khoán đóng vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của thị
trường vốn đầu tư mạo hiểm. Gilson & Black (1997) cho rằng, tại các quốc gia có thị
trường chứng khoán phát triển, cho phép các nhà tư bản mạo hiểm thoái vốn thuận lợi
hơn thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO).
Sự xuất hiện của cổ phần ưu đãi
Thị trường chứng khoán tại Trung Quốc từ lâu chỉ chấp nhận hình thức “một cổ
phiếu một phiếu bầu”, bởi chỉ có một loại cổ phiếu được chấp nhận đó là cổ phiếu phổ
thông. Cho đến năm 2013, luật pháp nước này mới cho phép các công ty cổ phần chưa
niêm yết và đã niêm yết phát hành cổ phiếu ưu đãi, cả phát hành ra công chúng và phát
hành riêng lẻ. Chính việc cho phép tồn tại loại cổ phiếu ưu đãi này đã khuyến khích
các nhà đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các công ty mình mong muốn, với vai trò nhà đầu
tư chiến lược, với quyền biểu quyết cao hơn so với cổ phần thường, hoặc quyền lợi cao
hơn cổ đông thường khi phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp.
Sàn giao dịch cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME Boards)
SME Boards được thành lập từ năm 2005, với mục tiêu tạo ra hệ thống thị
trường chứng khoán nhiều tầng, cung cấp nguồn huy động vốn dễ dàng cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Trung Quốc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, cho đến nay SME
Boards không phải là nơi phù hợp để các nhà tư bản mạo hiểm thoái vốn. Lý do chính
là do yêu cầu niêm yết nghiêm ngặt tại sàn này, với các yêu cầu niêm yết và ngưỡng
niêm yết hầu hết giống sàn giao dịch Main Boards. Ví dụ yêu cầu công ty niêm yết
81
phải đáp ứng được 3 năm liên tiếp có lãi, không ít hơn 30 triệu NDT, dòng tiền cộng
dồn trong 3 năm liền kề ít nhất 50 triệu NDT, doanh thu thường niên ít nhất 300 triệu
NDT, v.v… Do vậy, các yêu cầu này đã lọc và loại ra gần hất các công ty nhận vốn
đầu tư mạo hiểm.
Sàn giao dịch ChiNext
ChiNext có nghĩa là China Next, có thể hiểu là sàn giao dịch cho các công ty
tăng trưởng, được thành lập tháng 10 năm 2009 tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thâm
Quyến. Mặc dù ChiNext được coi là NASDAQ tại Trung Quốc, nhưng trên thực tế nó
khác NASDAQ ở chỗ, mục tiêu chủ yếu của nó là thu hút các công ty thuộc lĩnh vực
công nghệ cao, các công ty tăng trưởng cao niêm yết và giao dịch tại ChiNext, trong
khi NASDAQ không tập trung vào một lĩnh vực hoặc loại hình công ty cụ thể nào cả.
Lý do ChiNext thu hút được nhiều doanh nghiệp niêm yết tại đây do điều kiện, yêu
cầu của nó đơn giản hơn Main Board và SME Board. Ví dụ, một doanh nghiệp chỉ cần
yêu cầu có giá trị thị vốn không ít hơn 30 triệu NDT sau IPO, là có thể được xem xét
niêm yết tại ChiNext, trong khi tại Main Board và SME Board là 50 triệu NDT. Yêu
cầu về lợi nhuận để được niêm yết tại ChiNext cũng thấp hơn so với hai sàn kia. Đối
với ChiNext, chỉ cho phép xem xét 2 tiêu chuẩn về lợi nhuận: (1) tổ chức phát hành
phải có lợi nhuận 2 năm liền kề phải lớn hơn 10 triệu NDT, năm sau phải cao hơn năm
trước; và (2) doanh thu các năm liền kề phải lớn hơn 50 triệu NDT, tăng trưởng ít nhất
30% trong 2 năm liền trước khi niêm yết.
Sàn giao dịch New Third Board
Hệ thống báo giá và giao dịch vốn cổ phần quốc gia - NEEQ20, còn được gọi
với cái tên New Third Board, là Sở Giao dịch Chứng khoán quốc gia Trung Quốc, với
mục tiêu nhắm đến là các công ty nhỏ và vừa, được thành lập năm 2006. Đây là sàn
giao dịch với tiêu chuẩn niêm yết thấp nhất tại Trung Quốc.
Tuy nhiên, đối với các nhà đầu tư khi mua bán cổ phiếu tại New Third Board lại
có yêu cầu khá rõ ràng và khắt khe, ví dụ với các nhà đầu tư cá nhân, yêu cầu phải có
giá trị chứng khoán nắm giữ ít nhất 3 triệu NDT, ít nhất 2 năm kinh nghiệm đầu tư
chứng khoán, hoặc có nền tảng kiến thức về tài chính, kế toán. Do vậy, đối tượng giao
dịch tại sàn này chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức như công ty chứng khoán, công ty
20 The National Equities Exchange and Quotation System
82
bảo hiểm, quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư tư nhân, quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc các
nhà đầu tư nước ngoài.
3.2.2. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc
3.2.2.1. Sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc
Lịch sử hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc
Năm 1974, Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc - KIST thành lập Tập đoàn
Công nghệ Tiên tiến Hàn Quốc - KTAC, ngày nay là Kibo Capital, được coi là quỹ
đầu tư mạo hiểm đầu tiên tại Hàn Quốc. Mục tiêu của quỹ đầu tư này là cung cấp vốn
đầu tư cho việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của Viện Khoa học và Công
nghệ Hàn Quốc. Năm 1981, chính phủ Hàn Quốc thành lập Tập đoàn Phát triển Công
nghệ Hàn Quốc - KTDC, nay là KTB Network; tiếp sau đó, năm 1982, Tập đoàn Đầu
tư Phát triển Hàn Quốc - KDIC được thành lập, nay là TG Venture; năm 1984, Tập
đoàn Công nghệ Tài chính Hàn Quốc - KTFC thành lập, nay là KDB Capital. Các quỹ
đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc thành lập những năm 1980 có mục tiêu hỗ trợ quá trình
phát triển kinh tế, theo các chương trình mục tiêu của chính phủ, hơn là với mục đích
đầu tư sinh lời độc lập. Các quỹ đầu tư này thường không chủ động trong việc đầu tư
cho các doanh nhân khởi nghiệp, hoặc không nhằm mục đích tài trợ vốn cho các công
ty ở giai đoạn đầu phát triển, mà thường tập trung vào cung cấp các khoản vốn vay mà
chính phủ định hướng hỗ trợ, như tập trung vào lĩnh vực sản xuất máy móc công
nghiệp nặng, công nghiệp hóa chất, v.v…
Tháng 1 năm 1997, các huyền thoại “quá lớn để sụp đổ” tại Hàn Quốc đã suy
sụp, phá sản như Hanbo Group; kéo theo các tập đoàn khác như Sammi, Jinro,
Deanong, Kia, Ssangbangwool cũng tuyên bố lâm vào tình trạng nguy kịch hoặc phá
sản vào tháng 3 năm 1997. Điều này dẫn đến một loạt các hệ lụy, như các ngân hàng
cho vay bị mất vốn, các công ty có liên quan bị phá sản; đặc biệt tình trạng thất nghiệp
gia tăng nhanh chóng. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng, buộc chính phủ Hàn
Quốc đã phải cầu cứu IMF để được tiếp cận khoản vay lớn nhằm thoát ra khỏi khùng
hoảng.
Giữa cuộc khủng hoảng đang diễn ra phức tạp, chính phủ Hàn Quốc bắt đầu
quan tâm đến loại hình kinh doanh/đầu tư mạo hiểm như là hướng đi mới nhằm giúp
quốc gia này vượt qua khủng hoảng, khuyến khích phát triển doanh nghiệp trong nước;
83
thiết lập các chính sách nhằm tập trung phát triển lĩnh vực đầu tư mạo hiểm như là
chìa khóa chính để giải quyết vấn đề thất nghiệp, phát triển kinh tế. Vì thế, có thể coi
sự phát triển của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm là kết quả của quá trình nỗ lực tái cấu trúc
toàn bộ nền kinh tế nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1990.
Với sự hỗ trợ trực tiếp từ chính phủ Hàn Quốc, như đầu tư cho giáo dục, phát
triển tinh thần doanh nhân, ưu đãi thuế, chính sách, v.v… đã làm cho lĩnh vực đầu tư
mạo hiểm tại nước này đạt được sự phát triển thần kỳ.
Quan điểm của Hàn Quốc về đầu tư mạo hiểm
Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu định hình đầu tư mạo hiểm từ việc ban hành Luật
về các biện pháp đặc biệt để xúc tiến đầu tư mạo hiểm từ tháng 10 năm 1997, trong đó
đã nêu cụ thể các yếu tố và quá trình phát triển để được công nhận đầu tư mạo hiểm.
Theo quan điểm hiện nay của Hàn Quốc, có 3 cách thức, tiêu chuẩn để được công
nhận là đầu tư mạo hiểm: Dựa trên quyết định của thị trường, tức là do các công ty
đầu tư mạo hiểm quyết định, tức là nếu các nhà đầu tư mạo hiểm xác định đầu tư vào
một công ty, thì công ty đó được coi là công ty mạo hiểm. Hoặc nếu công ty đó thực
hiện rất nhiều hoạt động liên quan đến nghiên cứu và phát triển (R&D), hoặc trình độ
khoa học kỹ thuật của công ty đó ở mức cực kỳ cao, thì được chính phủ coi là một
công ty mạo hiểm, do đó đủ tiêu chuẩn để thu hút các quỹ đầu tư tư nhân, các điều
kiện về thuê người lao động như đối với công ty mạo hiểm.
Nếu một doanh nghiệp muốn được nhận ưu đãi để đối xử như với công ty đầu
tư mạo hiểm, doanh nghiệp đó cần cung cấp bằng chứng, chứng nhận do các cơ quan
nhà nước, các nhà đầu tư cá nhân, các ngân hàng hoặc bất cứ đối tượng nào đủ điều
kiện để đánh giá theo quy định của pháp luật. Theo đó, một doanh nghiệp muốn được
công nhận là công ty đầu tư mạo hiểm cần cung cấp các bằng chứng và giấy tờ liên
quan.
Các giai đoạn phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc
Căn cứ vào sự hỗ trợ, quan tâm chính thức của chính phủ Hàn Quốc đối với lĩnh
vực đầu tư mạo hiểm, có thể chia sự phát triển của đầu tư mạo hiểm nói chung và quỹ
đầu tư mạo hiểm tại quốc gia này thành 4 giai đoạn: (1) Giai đoạn Khởi đầu: 1986-
1997; (2) giai đoạn Bùng nổ: 1998-2001; (3) giai đoạn thoái trào, cải cách: 2002-2004;
(4) giai đoạn Sắp xếp lại và phát triển ổn định: 2005-nay.
Giai đoạn Khởi đầu: 1986-1997
84
Mặc dù trước năm 1997, thị trường vốn đầu tư mạo hiểm chưa thực sự nhận
được sự quan tâm của chính phủ và giới đầu tư Hàn Quốc, nhưng cũng có một số
chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty khởi nghiệp lĩnh vực công nghệ
được ban hành năm 1986, như Luật doanh nghiệp nhỏ và vừa; Luật tài trợ dự án công
nghệ mới, đặc biệt sự ra đời của Sở giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc KOSDAQ năm
1996.
Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu đưa ra các kế hoạch 5 năm để khuyến khích các
dự án khởi nghiệp, đặt các ưu tiên cao nhất trong chính sách của mình đối với lĩnh vực
đầu tư mạo hiểm kể từ năm 1997, như việc ban hành Đạo luật các biện pháp đặc biệt
khuyến khích kinh doanh mạo hiểm vào tháng 8 năm 1997. Đây chính là đạo luật nền
tảng cho cơ sở pháp lý sau này cho hàng loạt chính sách của chính phủ, bao gồm các
dự án đầu tư công và bãi bỏ các rào cản đối với đầu tư mạo hiểm trước kia.
Giai đoạn Bùng nổ: 1998-2001
Trong giai đoạn bùng nổ này, chính phủ Hàn Quốc chủ động tham gia thông
qua việc hỗ trợ tài chính và đào tạo nguồn nhân lực cần thiết cho lĩnh vực đầu tư mạo
hiểm. Ví dụ như việc hỗ trợ thuế cho các công ty và quỹ đầu tư mạo hiểm (1998), thực
thi các thử nghiệm đầu tư mạo hiểm và quyền chọn chứng khoán (1999), hình thành
các quỹ đầu tư mạo hiểm công (1999); loại bỏ các điều kiện đối với các công ty mạo
hiểm để niêm yết trên thị trường chứng khoán KOSDAQ, thực hiện các biện pháp hỗ
trợ marketing đầu tư mạo hiểm tại nước này ra thị trường quốc tế, v.v… Đồng thời,
chính phủ Hàn Quốc bắt đầu thiết lập các quy định cụ thể về đầu tư mạo hiểm để có
được sự trợ giúp từ công chúng.
Giai đoạn thoái trào, cải cách: 2002-2004
Năm 2002, thị trường chứng khoán KOSDAQ gần như sụp đổi dưới ảnh hưởng
của “bong bóng dot-com”, làm cho hàng loạt các dự án mạo hiểm đối mặt với khủng
hoảng thanh khoản bởi sự sụt giảm nghiêm trọng lượng vốn đầu tư mạo hiểm. Trong
giai đoạn thoái trào này, chính phủ Hàn Quốc đã bắt đầu thay đổi quan điểm với lĩnh
vực đầu tư mạo hiểm, chuyển từ việc hỗ trợ trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp, đặc biệt với
việc sử dụng các chuyên gia trong lĩnh vực tư nhân, xác định cụ thể các công ty mạo
hiểm, thu hút nguồn lực tư nhân. Đồng thời, chính phủ giới thiệu tầm quan trọng của
thương hiệu công ty đầu tư mạo hiểm, quy định các yếu tố chặt chẽ trong đầu tư mạo
hiểm, mở rộng cơ sở hạ tầng cho đầu tư mạo hiểm, loại bỏ các hành vi tiêu cực của các
85
nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm. Thêm vào đó, chính phủ cũng tăng ngân sách cho
các hệ thống vườn ươm mạo hiểm như tại các trường đại học, các trung tâm nghiên
cứu, bắt đầu cho thành lập hình thức quỹ của quỹ. Tất cả những điều trên nhằm làm
minh bạch việc quản lý đầu tư mạo hiểm, khuyến khích tái cấu trúc lĩnh vực này, tạo
tiền đề cho giai đoạn cải cách và phát triển sau này của đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc.
Giai đoạn Sắp xếp lại và phát triển ổn định: 2005-nay
Trong giai đoạn này, chứng kiến sự đổi mới mạnh mẽ trong các chính sách về
đầu tư mạo hiểm của Hàn Quốc, đặc biệt từ năm 2005, chính phủ tập trung vào phát
triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghệ sáng tạo, tạo hệ sinh thái
đầu tư mạo hiểm lành mạnh, nhằm giúp các công ty sáng tạo có thể khởi nghiệp và
tăng trưởng tốt, công bằng, dễ dàng thu hút vốn đầu tư mạo hiểm. Chính phủ Hàn
Quốc đồng thời cũng nỗ lực tạo các điều kiện khác nhằm khôi phục đầu tư mạo hiểm
(từ 12/2004), thiết lập các tiêu chí bổ sung để vực dậy lĩnh vực đầu tư mạo hiểm (từ
6/2005). Thêm vào đó, chính phủ cũng nhanh chóng thành lập Quỹ của quỹ trị giá 1
nghìn tỷ won vào năm 2005, tái thiết lập các tiêu chuẩn về đầu tư mạo hiểm theo
hướng thân thiện với môi trường đầu tư hiện tại (năm 2006). Các chính sách tiêu biểu
trong thời gian này như các ưu đãi trong 10 năm đối với các công ty đầu tư mạo hiểm
(tháng 8/2007); các hỗ trợ cho các trường đại học và viện nghiên cứu đối với các dự án
khởi nghiệp liên quan đến công nghệ (năm 2008); chương trình tự làm chủ kinh doanh
sáng tạo (năm 2009); ngoài ra còn có các chương trình hỗ trợ cho các doanh nhân khởi
nghiệp tạm thời thất bại nhằm tạo điều kiện cho họ vực dậy (năm 2009), chương trình
nâng cao và đảm bảo trách nhiệm các bên trong liên doanh liên kết đầu tư (năm 2012).
20000
15000
10000
5000
0
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Vốn cam kết
Vốn ban đầu
Hình 3. 1. Vốn đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc (Đơn vị: Tỷ won)
Nguồn: KVCA, 2019
86
Từ các nỗ lực của chính phủ Hàn Quốc, số lượng vốn đầu tư mạo hiểm qua các
năm đã có sự cải thiện đáng kể; với số vốn đầu tư cam kết tăng từ 3.891 tỷ won năm
2005 lên đến 14.206 tỷ won năm 2013. Bên cạnh đó, tổng giá trị đầu tư trong lĩnh vực
đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc tăng mạnh mẽ qua các năm, với 2,8 nghìn tỷ won năm
2004, tăng lên đến trên 5,9 nghìn tỷ won năm 2018.
70,000
60,000
50,000
40,000
Đầu tư mới
30,000
Tổng đầu tư
20,000
10,000
0
Hình 3. 2. Giá trị đầu tư giai đoạn 2004-2018 tại Hàn Quốc (Đơn vị: 100 triệu won)
Nguồn: KVCA, 2019
3.2.2.2. Vai trò của chính phủ đối với sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại
Hàn Quốc
Các chương trình hỗ trợ sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm
Sau giai đoạn bong bóng đầu tư mạo hiểm nổ ra, người Hàn Quốc nhận ra rằng,
việc xây dựng, củng cố các chính sách, cơ sở hạ tầng cho đầu tư mạo hiểm, cho sự
phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm quan trọng hơn khuyến khích mọi người khởi
nghiệp một cách liều lĩnh. Do vậy, trong những năm 2000, chính phủ mong muốn tạo
ra hàng loạt các chính sách hỗ trợ, kiểm soát, dựa vào sự phát triển của vòng quay đầu
tư mạo hiểm, nhằm khuyến khích, tránh tạo ra các sơ hở tiêu cực cho các cá nhân, tổ
chức trục lợi. Trọng tâm của các chính sách đó là dựa vào vòng đời của đầu tư mạo
hiểm: Khởi đầu - Tăng trưởng - Thoái vốn - Tái khởi động.
Chương trình hỗ trợ tài năng trẻ khởi nghiệp
Với nền tảng lựa chọn các doanh nhân trẻ khởi nghiệp đáp ứng được các tiêu
chí nhất định, như có các ý tưởng mới, công nghệ mới, có triển vọng phát triển, v.v…
trong khi gặp khó khăn về huy động vốn, chính phủ Hàn Quốc có gói vốn đầu tư và
87
vốn vay trị giá 1,6 nghìn tỷ won để hỗ trợ các doanh nghiệp này. Nhiệm vụ này được
giao cho Small Business Corporation thực hiện chương trình quỹ khởi nghiệp cho vay-
trả có điều chỉnh, trị giá 50 tỷ won. Đây là cách mà chính phủ chia sẻ rủi ro với các
startup trẻ, giúp họ bắt đầu hoặc tái khởi động kế hoạch kinh doanh khi họ thất bại,
nhằm khuyến khích các doanh nhân trẻ thực hiện các dự án kinh doanh của riêng
mình. Ngoài ra, còn một số tổ chức khác cũng đóng vai trò tương tự trong việc cấp vốn
cho các doanh nhân trẻ như Small & Medium Business Administration, các tập đoàn
nhà nước, các tổ chức tài chính tư nhân, các trường đại học hoặc viện nghiên cứu,
v.v…
Chương trình hỗ trợ nhà đầu tư thiên thần
Đối với các dự án khởi nghiệp, việc huy động vốn trong giai đoạn đầu là rất khó
khăn, do đó, vai trò của các nhà đầu tư thiên thần, các nhà đầu tư mạo hiểm đóng vai
trò rất quan trọng. Bởi lẽ trên thực tế, các thương vụ đầu tư nhỏ, giá trị thấp thường
không thu hút được các nhà đầu tư mạo hiểm, vì thế các nhà đầu tư thiên thần sẽ lấp
khoảng trống gọi vốn này. Việc thành lập Trung tâm hỗ trợ đầu tư thiên thần, được coi
như cơ quan một cửa để giúp các hoạt động đầu tư, như giúp các nhà đầu tư thiên thần
tìm các dự án đầu tư hấp dẫn, hướng dẫn các thủ tục pháp lý, v.v… Bên cạnh đó, nhằm
giảm thiểu rủi ro đầu tư của các nhà đầu tư thiên thần, năm 2011 chính phủ Hàn Quốc
đã tạo ra Quỹ liên kết các nhà đầu tư thiên thần, trị giá 10 tỷ won, với cam kết, chính
phủ sẽ đầu tư một lượng vốn tương ứng với các nhà đầu tư thiên thần khi họ tham gia
đầu tư.
Chương trình giáo dục doanh nhân
Hệ thống giáo dục hỗ trợ doanh nhân, do chính phủ quản lý, với các chương
trình được thiết kế với các mục đích khác nhau, có 4 chương trình chủ yếu:
Chương trình BizCool (từ năm 2002): Chương trình giáo dục dành cho việc
khởi nghiệp và quản lý kinh doanh, dành cho đối tượng học sinh tiểu học, trung học và
trung học phổ thông, nhằm giúp họ hiểu và thực hành tinh thần doanh nhân, khơi dậy
tiền năng kinh doanh, đầu tư, khả năng thương mại hóa ý tưởng, hạn chế tình trạng
thất nghiệp với các đối tượng trẻ thông qua việc gợi mở, thúc đẩy khả năng tự kinh
doanh của bản thân.
Chương trình bồi dưỡng doanh nhân ở bậc đại học, cao đẳng (từ năm 2005):
Truyền bá và nâng cao tinh thần khởi nghiệp, bằng việc giảng dạy, cung cấp cho sinh
88
viên các kỹ năng cần thiết như ý tưởng thành lập doanh nghiệp, tinh thần doanh nhân,
các thủ tục hành chính, v.v… Các khóa giáo dục doanh nhân tại các trường đại học tập
trung vào việc hỗ trợ các khóa học liên quan đến mở và quản lý doanh nghiệp mới, với
các yêu cầu điểm số như các môn học khác; trong khi các câu lạc bộ khởi nghiệp tại
các trường đại học khuyến khích phát triển các sản phẩm khởi nghiệp có thể thương
mại hóa được, các kế hoạch đối phó với cạnh tranh trong kinh doanh, nghiên cứu các
cơ hội tại nước ngoài nhằm hỗ trợ các hoạt động hợp tác mang tầm quốc tế.
Bảng 3. 3. Một số thông tin về chương trình BizCool 2011
2006
2004
2003
2007
2002
2005
2009
2015
2017
Năm
Ngân sách tài trợ
N/A
N/A
10
10
12.5
13.7
15.7
25
22.4
43.8
(100 triệu won)
Số trường tham gia
16
50
80
100
83
94
96
135
149
100
Số lượng sinh viên
3000
1000
23000 26000 32000 52000 61000 85000 94000 76000
Số lượng giáo viên
N/A
N/A
340
210
182
150
150
323
304
366
tham gia
Nguồn: kvca.or.kr, 2018
Chương trình đào tạo doanh nhân cho đối tượng sau đại học (từ năm 2004):
Chương trình này nhằm mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng phòng hộ
doanh nghiệp trước sự cạnh tranh của các đối thủ trong và ngoài nước, dành cho các
doanh nhân tiềm năng, hoặc các doanh nhân với công nghệ tiên tiến, có nhiều ý tưởng
ban đầu có triển vọng. Chương trình nhấn mạnh trách nhiệm, kinh nghiệm trong
thương trường, đồng thời giúp các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư tương lai nắm bắt
cơ hội để thương mại hóa các sản phẩm, ý tưởng đầu tư của mình.
Bảng 3. 4. Thông tin về chương trình khởi nghiệp tại bậc đại học
Năm
2006 2008 2011 2013 2015
2017
Số lượng khóa học khởi nghiệp
51
82
116
218
411
632
Số lượng sinh viên tham gia
3585 3765 6532 9237 11543 65069
Số lượng câu lạc bộ tham gia hỗ trợ 50
55
78
119
350
640
Nguồn: kvca.or.kr, 2018
Học viện khởi nghiệp công nghệ: Học viện này dành cho các cá nhân trưởng
thành, đã có kinh nghiệm làm việc, muốn khởi sự doanh nghiệp mạo hiểm của riêng
mình, thường cùng lĩnh vực công việc trước đây của họ. Điều này được hiểu là, nếu
các cá nhân chưa biết khởi sự doanh nghiệp, chưa có kỹ năng quản lý, chính phủ sẽ
giúp họ thông qua các chương trình tại các trường đại học và các tổ chức công.
89
Chương trình này bao gồm 2 phần chính: (1) nâng cao hiểu biết về khởi sự và quản lý
doanh nghiệp, nâng cao khả năng hiểu biết về tạo lập, hình thành doanh nghiệp ở giai
đoạn đầu của hoạt động doanh nghiệp. (2) nâng cao khả năng sống sót của doanh
nghiệp thông qua các dịch vụ tư vấn quản lý, như dịch vụ kế toán, luật pháp, tài chính
hay tư vấn khác.
Bảng 3. 5. Kết quả chương trình đào tạo doanh nhân cho đối tượng sau đại học
Năm
2004 2005 2006 2007 2008 2011 2015 2017
Đơn xin sở hữu trí tuệ 0
4
29
34
40
62
91
115
Luận văn tốt nghiệp
0
46
71
90
54
70
65
115
Nguồn: kvca.or.kr, 2018
Bảng 3. 6. Chương trình đào tạo doanh nhân đối với người trưởng thành
Năm
2005
2006
2007
2009
2011
2015
2017
Đơn vị đào tạo
11
11
12
15
27
26
27
Người tham gia/
384/297
326/266
357/256 449/36
1195/9
1009/8
1061/8
Người hoàn thành
8
91
87
72
Số lượng khởi
156
100
169
174
418
438
507
nghiệp
Nguồn: kvca.or.kr, 2018
Chương trình Vườn ươm kinh doanh Hàn Quốc
Mục tiêu của chương trình vườn ươm kinh doanh nhằm nâng cao tỷ lệ thành
công của các dự án khởi nghiệp, bằng cách hỗ trợ các doanh nhân qua các công cụ như
công nghệ, tạo lập giá trị doanh nghiệp, phát triển khả năng thành công của dự án để
thương mại hóa sản phẩm, v.v… Các biện pháp chủ yếu hỗ trợ cho các dự án vườn
ươm kinh doanh bao gồm: (1) nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm và công nghệ;
(2) nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu và marketing; (3) nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý; (4) nâng cao khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế; (5) nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng việc đầu tư cho cơ sở
hạ tầng; trong đó dựa trên cơ sở luật pháp chủ yếu như Luật thành lập và hỗ trợ các
doanh nghiệp nhỏ và vừa; Luật đối xử đặc biệt nhằm phát triển đầu tư mạo hiểm.
Chính phủ Hàn Quốc đã tài trợ tổng số tiền lên đến gần 700 tỷ won tính đến
năm 2011 (trong đó 427 tỷ won dành cho vườn ươm lĩnh vực xây dựng, 273 tỷ won
đối với lĩnh vực quản lý); số lượng vườn ươm kinh doanh tăng mạnh trong giai đoạn
90
1998-2017, với 30 dự án năm 1998, tăng mạnh lên 265 năm 2006; đến năm 2017, số
lượng vườn ươm đã tăng lên 480 dự án.
3.2.2.3. Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc
Cấu trúc quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc
Nhận biết được vấn đề đối với việc thu hút vốn đầu tư, chính phủ Hàn Quốc đã
tham gia hỗ trợ lĩnh vực đầu tư mạo hiểm bằng cách tập trung phát triển quỹ đầu tư
mạo hiểm công chúng, nhằm chia sẻ rủi ro với các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân, bằng
cách khuyến khích mối quan hệ đối tác quỹ đầu tư công chúng và quỹ đầu tư tư nhân.
Quỹ đầu tư công chúng có thể giảm thiểu rủi ro trong đầu tư bằng cách cùng đầu tư
hoặc đầu tư vào quỹ đầu tư tư nhân, gọi là hình thức quỹ của quỹ (Funds of fund). Do
vậy, các công ty đầu tư mạo hiểm có thể thu hút vốn từ các nhà đầu tư tổ chức như các
ngân hàng thương mại, các quỹ hưu trí hoặc các tổ chức tài chính khác, cũng như các
nhà đầu tư tư nhân, giúp cho ngày càng nhiều công ty khởi nghiệp có thể thu hút vốn
đầu tư.
Hàn Quốc tạo lập quỹ đầu tư công chúng từ năm 2005 với mục đích phát triển
loại hình quỹ của quỹ, với các khoản đầu tư thu hút từ Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và
vừa Hàn Quốc, Bộ Văn hóa thể thao và du lịch, Cục sở hữu trí tuệ Hàn Quốc, Hội
đồng phim truyện Hàn Quốc và Ủy ban truyền thông Hàn Quốc nhằm khuyến khích
các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt
trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Tổng công ty đầu tư mạo hiểm Hàn Quốc - KVIC, đại
diện đặc biệt trong quản lý quỹ của quỹ dưới sự giám sát của SMBA, đầu tư vào các
quỹ đầu tư khởi nghiệp, quỹ đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, quỹ đầu
tư tư nhân. Các quỹ đầu tư mạo hiểm muốn nhận vốn từ quỹ đầu tư công chúng cần có
kế hoạch đầu tư và nguồn đầu tư cụ thể.
Cơ chế quản lý, giám sát quỹ đầu tư mạo hiểm
Tại Hàn Quốc, quỹ đầu tư mạo hiểm thường được thành lập dưới dạng quỹ của
quỹ, theo Luật đãi ngộ đặc biệt cho sự phát triển của lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm,
do Tập đoàn đầu tư mạo hiểm Hàn Quốc quản lý, đánh giá và giá sát bởi SMBA. Tập
đoàn đầu tư mạo hiểm Hàn Quốc sẽ quyết định kế hoạch hoạt động thường niên, lĩnh
vực phân bổ vốn, số lượng và thời gian họp hàng năm, thành lập hướng dẫn cho việc
quản lý quỹ của quỹ. Các thông tin như lĩnh vực phân bổ vốn đầu tư, quy mô đầu tư,
91
danh mục đầu tư chính yếu, v.v… đều được công bố trên trang chủ của Tập đoàn đầu
tư mạo hiểm Hàn Quốc.
Quản lý – Sử dụng
Đầu tư
SBC
SMBA
Hình 3. 3. Cấu trúc Quỹ của quỹ tại Hàn Quốc
Công ty liên kết
Quản lý
Quỹ SME Quỹ Văn hóa Quỹ bằng sáng chế Quỹ phim truyện Quỹ phát thanh truyền hình
Vốn: 50 tỷ won
Giám sát
Quản lý – Sử dụng
Korea Venture
Quỹ của quỹ
Investment Corp
(Theo luật dân sự)
Quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư mạo hiểm
Quỹ đầu tư vốn cổ
công nghệ mới
Hàn Quốc
phần chuyên biệt
Tài khoản đầu tư chung
Quỹ đầu tư mạo hiểm
Nguồn: Small and Medium Business Administration, 2012
Quỹ của quỹ phân bổ nguồn vốn đầu tư để huy động vốn cho quỹ drop-down
theo mục tiêu thành lập của các tổ chức góp vốn; các quỹ đầu tư mạo hiểm được thành
lập phải đầu tư tối thiểu 60% vốn vào các công ty nhỏ và vừa trong tất cả các lĩnh vực
đầu tư chính. Lúc này tập đoàn đầu tư mạo hiểm Hàn Quốc đóng vai trò là thành viên
đặc biệt, nhằm giám sát xem quỹ có đầu tư theo đúng tôn chỉ khi thành lập ban đầu
hay không. KVIC sẽ nhận đề xuất đầu tư, lựa chọn công ty quản lý quỹ thông qua quá
trình đánh giá nhiều bước nhằm đánh giá, lọc các tiêu chí để đánh giá, như mức độ ổn
định của các cổ đông hay nhà đầu tư lớn, kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư, tính phù
hợp trong dự án đầu tư của quỹ và các chiến lược thoái vốn. Bước lựa chọn cuối cùng
của các công ty quản lý quỹ là quyết định thông qua hội đồng đầu tư, đặc biệt phần
khuyến nghị của các chuyên gia trong các tổ chức góp vốn và giám đốc của KVIC.
Nguồn vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm
Tính đến cuối năm 2017, tổng số vốn cam kết đối với 431 quỹ đầu tư mạo hiểm
tại Hàn Quốc đạt đến 10,4 nghìn tỷ won, trong khi vốn gốc đầu tư là 1,1 nghìn tỷ won;
tổng nguồn vốn đầu tư đạt tới 11 nghìn tỷ won. Nguồn vốn đầu tư đối với quỹ đầu tư
92
mạo hiểm tại Hàn Quốc chủ yếu được tài trợ bởi các cơ quan thuộc chính phủ (chiếm
41,7%), các tổ chức tài chính (chiếm 16,6%), các tập đoàn đầu tư (chiếm 14,8%) và
bản thân các quỹ đầu tư mạo hiểm (chiếm 14,3%).
Hình 3. 4. Các bước lựa chọn công ty quản lý quỹ
Bước 3. Xem xét thận trọng Xem kỹ xét lưỡng đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm đủ tiêu chuẩn
Bước 2. Xem xét lần đầu Xem xét đối với các quỹ đầu tư dưới tiêu chuẩn Bước 1. Nhận đề nghị đầu tư Xác định mục tiêu phân bổ tài sản đầu tư
Bước 4. Đánh giá lần thứ hai Đánh khả giá năng, hiệu quả, triển vọng đầu tư
Bước 5. Đưa ra quyết định Công ty quản lý quỹ ra đưa quyết định trong ủy ban đầu tư
Bước 6. Quyết định cuối cùng Đưa ra quyết định cuối cùng, thảo luận các điều kiện đầu tư
Nguồn: Small and Medium Business Administration, 2012
Các nhà đầu tư thiên thần đóng góp khoảng 29 tỷ won vào tổng vốn đầu tư mạo
hiểm tại Hàn Quốc (năm 2000), thường chủ yếu đầu tư vào các công ty chưa niêm yết.
Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa các nhà đầu tư thiên thần Hàn Quốc và Mỹ ở
chỗ, tại Hàn Quốc, các nhà đầu tư tư nhân thường nhắm đến các công ty mạo hiểm ở
giai đoạn sau hoặc ở giai đoạn tiền IPO. Trên thực tế, các công ty mạo hiểm thường ưu
tiên các nhà đầu tư tổ chức hơn là các nhà đầu tư cá nhân, bởi họ kỳ vọng về lượng
tiền nhiều và thời gian đầu tư lâu dài. Do đó, trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm đầy cạnh
tranh như hiện nay, rất khó để các nhà đầu tư tư nhân sử dụng được vốn của mình, do
đó nguồn tiền đối với đối tượng này được coi là rất dồi dào, cần được khơi thông trong
tương lai.
Các tổ chức tài chính được coi là nguồn huy động vốn phong phú và hấp dẫn
đối với các dự án đầu tư mạo hiểm. Kể từ năm 2000, rất nhiều tổ chức tài chính như
các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm bắt đầu
trực tiếp tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Họ tiến hành phân bổ nguồn vốn của
93
mình vào các dự án đầu tư, thậm chí trực tiếp có các phòng, ban liên quan chuyên xem
xét các dự án, cơ hội đầu tư mạo hiểm để đầu tư.
0.4% 2%
2%
Các cơ quan chính phủ
9%
Các tổ chức tài chính
42%
Các tập đoàn đầu tư
13%
Các quỹ đầu tư mạo hiểm
15%
Quỹ hưu trí
17%
Nhà đầu tư cá nhân
Hình 3. 5. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc (%)
Nguồn: Nguồn: kvca.or.kr, 2018
3.3. Bài học
Như vậy, qua nghiên cứu xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới
cũng như nghiên cứu kinh nghiệm từ Trung Quốc và Hàn Quốc, luận án rút ra được
một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như vai trò của chính phủ, lĩnh vực khuyến
khích đầu tư, tầm quan trọng của mạng lưới kết nối, lựa chọn hình thức quỹ đầu tư
mạo hiểm phù hợp, hay vai trò của thị trường chứng khoán trong quá trình xây dựng,
phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm.
3.3.1. Chính phủ đóng vai trò thiết yếu trong quá trình xây dựng và phát triển
quỹ đầu tư mạo hiểm
Chính phủ luôn đóng vai trò tiên quyết, đầu tàu trong quá trình xây dựng và
phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm. Theo quan điểm của luận án, chính phủ thể hiện vai
trò của mình ở hai góc độ chính: góc độ xây dựng, hình thành các quỹ đầu tư mạo
hiểm; và góc độ hỗ trợ trong quá trình phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Vai trò
của chính phủ được thể hiện như sau:
Thứ nhất, chính phủ dựa trên việc quan sát, nghiên cứu, điều tra nhu cầu của
thị trường để xem xét có cho phép sự hình thành, mức độ phát triển quỹ đầu tư mạo
hiểm tại quốc gia mình hay không. Chính phủ thể hiện quyền lực của mình ở chỗ có
thừa nhận hình thức sở hữu, hoặc hình tức tồn tại của chủ thể đó hay không trong nền
kinh tế. Ví dụ, trước năm 1980, nền kinh tế tư nhân chưa được thừa nhận ở Trung
Quốc, vì thế tất cả các hình thức đầu tư trong xã hội đều do chính phủ điều hành, nắm
giữ. Điều này gây ra hậu quả là tích lũy của cải trong xã hội thấp, ít có các cá nhân, gia
94
đình giàu có, vì thế việc huy động vốn trong dân gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, việc
không thừa nhận sở hữu tư nhân cũng làm cho ý niệm về các quỹ đầu tư tư nhân trở
nên xa vời, không thực tế; bên cạnh đó, việc có ý tưởng hình thành các quỹ đầu tư mạo
hiểm dạng công ty trở nên không hợp pháp trong giai đoạn này. Như vậy, chính phủ
đóng vai trò là chìa khóa đầu tiên cho phép có hay không việc hình thành quỹ đầu tư
mạo hiểm.
Thứ hai, chính phủ ban hành các quy định liên quan đến luật pháp, kinh doanh
trong xã hội, tạo điều kiện để hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm. Các quy định của pháp
luật như việc thừa nhận các khái niệm trong kinh doanh, góp vốn, hình thức sở hữu
trong nền kinh tế, cơ chế giám sát các chủ thể trong xã hội thực thi các quy định của
pháp luật. Ví dụ tại Việt Nam hiện nay, vẫn chưa có một quy định cụ thể trong luật do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành về khái niệm quỹ đầu tư mạo hiểm, chỉ có
các khái niệm do các nhà đầu tư ngầm hiểu, hoặc do học theo từ các quốc gia khác,
được lưu truyền trong cộng đồng đầu tư.
Thứ ba, chính phủ đóng vai trò hỗ trợ trong việc hình thành và phát triển các
quỹ đầu tư mạo hiểm. Tại giai đoạn đầu hình thành, chính phủ thường xây dựng các
quỹ đầu tư mạo hiểm do mình quản lý, góp vốn để đầu tư, nghiên cứu; qua đó thu hút
sự quan tâm của công chúng để huy động vốn ở các giai đoạn sau. Khi thị trường đã
thừa nhận sự tồn tại của quỹ đầu tư mạo hiểm, chính phủ có thể từ từ rút vốn, hoặc chỉ
góp vốn mang tính chất hỗ trợ cho các quỹ đầu tư mạo hiểm do các chủ thể khác nhau
trong nền kinh tế xây dựng lên. Nhu cầu đầu tư mạo hiểm trong xã hội rất lớn, nếu các
chủ thể huy động vốn đầu tư cho quỹ đầu tư mạo hiểm gặp khó khăn, trong khi có các
dự án có triển vọng, tiềm năng tăng trưởng cao trong tương lai, chính phủ có thể đóng
vai trò hỗ trợ bằng cách đối ứng vốn cho các quỹ đầu tư này, hoặc đứng ra quảng bá,
bảo trợ để quỹ đầu tư mạo hiểm đó thực hiện gọi vốn đầu tư thành công. Ngoài ra,
chính phủ có thể thúc đẩy quá trình gọi vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm trong xã hội
bằng cách tạo điều kiện về thuế suất trong đầu tư mạo hiểm, quy định rõ ràng các đối
tượng nào trong nền kinh tế được góp vốn đầu tư mạo hiểm, nhằm huy động tối đa nội
lực trong nền kinh tế, cũng như thu hút hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài trong đầu
tư mạo hiểm.
Thứ tư, nhằm thúc đẩy sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm, chính phủ
can thiệp, han hành các chính sách kịp thời để quá trình hoạt động của các quỹ đầu tư
95
mạo hiểm được lành mạnh, phát triển bền vững. Điều này khác với vai trò thứ hai ở
chỗ, khi các quỹ đầu tư mạo hiểm đã được hình thành, cần thiết có các quy định của
pháp luật để các nhà đầu tư tin tưởng vào lĩnh vực đầu tư này. Có thể kể đến một số
quy định mà pháp luật cần chú tâm như có các cơ chế giám sát hoạt động của các quỹ
đầu tư, tránh hiện tượng huy động vốn lừa đảo, trục lợi cá nhân; thống nhất cơ quan
giám sát, quản lý, tránh chồng chéo quản lý giữa các cơ quan trong chính phủ, gây tốn
kém nguồn lực, phiền hà cho các quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá trình hoạt động; bảo
vệ quyền tác giả, phát minh, sáng chế, quyền sở hữu trí tuệ, nhằm ghi nhận công sức
nghiên cứu của các doanh nhân khởi nghiệp, các công ty đầu tư mạo hiểm để bảo vệ
lợi ích cho các quỹ đầu tư mạo hiểm. Hơn nữa, chính phủ cũng cần quy định các hạn
chế trong đầu tư mạo hiểm, tránh sự chồng chéo trong lĩnh vực đầu tư của các chủ thể
trong xã hội; bởi lẽ, bản chất của đầu tư mạo hiểm là hoạt động trong lĩnh vực công
nghệ cao, lĩnh vực đổi mới sáng tạo.
Thứ năm, chính phủ hỗ trợ sự phát triển toàn diện của quỹ đầu tư mạo hiểm
thông qua việc nâng cao mức độ hiểu biết về đầu tư mạo hiểm trong xã hội. Để thực
hiện điều này, chính phủ tập trung vào gốc của vấn đề, đó là giáo dục. Thông qua các
chương trình giáo dục ở các độ tuổi, cấp bậc khác nhau, giúp toàn xã hội hiểu sâu sắc
về tinh thần doanh nhân, khơi dậy tính sáng tạo, dám nghĩ dám làm trong dân chúng;
hiểu được mức độ rủi ro, cũng như thành quả khi tham gia vào đầu tư mạo hiểm; từ đó
tạo ra các tầng lớp doanh nhân khởi nghiệp, dám nghĩ dám làm, tạo cầu của vốn đầu tư
mạo hiểm. Bên cạnh đó, việc hiểu về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm cũng giúp cho quá
trình huy động vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm được thuận lợi hơn; quá trình tuyển
mộ nhân sự làm việc trong các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng phong phú, hiệu quả.
Thứ sáu, khi thị trường đã thừa nhận sự tồn tại của quỹ đầu tư mạo hiểm, chính
phủ không nên trực tiếp tham gia vào đầu tư mạo hiểm, mà hãy để thị trường tự điều
tiết, dựa vào nhu cầu của thị trường. Chính phủ chỉ nên đóng vai trò dẫn dắt thị trường
thông qua các định hướng chính sách, quy định trong đầu tư; kinh nghiệm tại Trung
Quốc và Hàn Quốc cho thấy, các quỹ đầu tư mạo hiểm có vốn hoàn toàn từ chính phủ
hoạt động kém hiệu quả hơn so với các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân, do vấn đề về cơ
chế bổ nhiệm cán bộ quản lý, về chế độ phân chia lợi nhuận, v.v…
96
3.3.2. Tập trung đầu tư vào lĩnh vực yêu cầu trình độ khoa học, công nghệ cao
Nhằm phát triển kinh tế nhanh chóng, bền vững, cần thiết sự phát triển của các
lĩnh vực khoa học công nghệ cao. Kinh nghiệm từ hai quốc gia kể trên cho thấy, chính
việc khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ
cao đã giúp các quốc gia này tạo được sự tăng trưởng kinh tế vượt bậc, vượt qua giai
đoạn khủng hoảng, kinh tế khó khăn. Mặt khác, điều khác biệt giữa đầu tư mạo hiểm
so với đầu tư thông thường đó là khả năng thu được lợi nhuận lớn trong tương lai;
trong khi chỉ có các nhà đầu tư mạo hiểm mới hiểu rõ được bản chất mối quan hệ “rủi
ro lớn, lợi nhuận cao” trong đầu tư. Tại Việt Nam, làn sóng cách mạng công nghiệp
4.0 đang được triển khai rầm rộ tại các lĩnh vực trong nền kinh tế, với sự tham gia của
tất cả các bộ, ngành. Nhưng thực tế tại các quốc gia cho thấy, lĩnh vực nên đầu tư
trọng tâm là lĩnh vực phần mềm, bởi nó có thể tận dụng được tiềm năng trí tuệ của
người Việt Nam, mà không cần đầu tư cơ sở hạ tầng, thiết bị quá lớn.
3.3.3. Tận dụng thu hút nguồn vốn đầu tư mạo hiểm từ tất cả các thành phần
trong xã hội
Các quỹ đầu tư mạo hiểm nên tận dụng nguồn vốn đầu tư từ tất cả các thành
phần trong nền kinh tế như các nhà đầu tư thiên thần, các nhà đầu tư tổ chức, và nguồn
vốn từ chính phủ. Đối với các nhà đầu tư thiên thần, ưu điểm của họ là nguồn vốn dồi
dào, tổng nguồn lực rất lớn, do đó nếu thu hút được các nhà đầu tư thiên thần góp vốn
vào các quỹ đầu tư mạo hiểm thì các quỹ này sẽ có nguồn vốn lớn để đầu tư vào các
công ty đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, các nhà đầu tư thiên thần đôi khi có chiến lược
đầu tư chưa rõ ràng, thích tham gia vào hoạt động của quỹ, điều này có thể gây rắc rối
đối với vấn đề quản lý quỹ. Đối với các nhà đầu tư tổ chức, với ưu thế tiền lực tài
chính lớn, mức độ hiểu biết về đầu tư chuyên nghiệp, có chiến lược đầu tư, thoái vốn
rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình các quỹ đầu tư huy động vốn và đầu tư.
Đối với chính phủ, các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể coi đây là nguồn lực huy động vốn
đầu tư vô cùng lớn, với các chính sách ưu đãi đối tại các ngành nghề được xác định
trước trong từng giai đoạn; ngoài ra, vốn đầu tư từ chính phủ đôi khi còn là nguồn vốn
sống còn, khi các dự án có triển vọng, có tiềm năng tăng trưởng nhưng thiếu hụt vốn
trong quá trình đầu tư; hoặc trong trường hợp tại Hàn Quốc, có chính sách tái đầu tư
cho các doanh nhân khởi nghiệp khi họ thất bại, giúp họ vực dậy để tiếp tục tinh thần
doanh nhân của mình.
97
3.3.4. Mạng lưới kết nối trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm
Đầu tư mạo hiểm được coi là lĩnh vực đầu tư có mức độ rủi ro cao, vì vậy, cần
thiết phải có kênh kết nối hiệu quả mạng lưới các đối tượng tham gia vào lĩnh vực đầu
tư mạo hiểm, nhằm kết nối thông tin nhanh chóng, kịp thời. Việc kết nối các đối tượng
tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm sẽ mang lại một số lợi ích sau:
Thứ nhất, thông qua mạng lưới này, các nhà đầu tư mạo hiểm có cùng khẩu vị
rủi ro có thể cùng nhau hợp lực, huy động, góp vốn vào các dự án có triển vọng. Đồng
thời lúc này, các nhà đầu tư mạo hiểm cũng có kênh thông tin để tìm hiểu, trao đổi với
nhau về các dự án đang huy động vốn, đánh giá triển vọng, đề phòng các thông tin lừa
đảo, trục lợi. Ngoài ra, các nhà đầu tư mạo hiểm cũng có cơ hội tốt hơn để chia sẻ thực
tế về các quỹ đầu tư mình đang tham gia đầu tư; từ đó có sự so sánh giữa các quỹ với
nhau một cách cụ thể nhất.
Thứ hai, thông qua mạng lưới kết nối này, các doanh nhân khởi nghiệp có thể
tìm, gặp nhau để chia sẻ về các ý tưởng của mình; tham khảo các đối tượng có cùng
chuyên môn như các doanh nhân khởi nghiệp khác, các nhà khoa học, các chuyên gia
trong lĩnh vực họ cần tìm hiểu. Từ đó, các đối tượng này có thể ký kết, trao đổi ý kiến,
bản quyền sáng chế để hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu, thử nghiệm sản phẩm của
mình được nhanh chóng, đạt được tỷ lệ thành công cao hơn, tiết kiệm thời gian, chi
phí.
Thứ ba, các quỹ đầu tư mạo hiểm dễ dàng hơn trong việc điều tra nhu cầu đầu
tư mạo hiểm, mức độ chấp nhận rủi ro của các nhà đầu tư mạo hiểm; từ đó có các
chiến lược thu hút vốn phù hợp trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, thông qua kênh thông
tin này, các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể chủ động tuyển mộ nhân viên với chuyên môn
phù hợp làm việc cho quỹ; nâng cao chất lượng nhân sự, với các nhân viên chuyên sâu
tại các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm mà quỹ đã, đang và có ý định đầu tư.
Để xây dựng mạng lưới kết nối trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, có thể xây
dựng đặc khu phát triển cho khoa học công nghệ, đầu tư mạo hiểm như xây dựng
Thung lũng Silicon ở Mỹ, Trung Quan Thôn ở Trung Quốc; hoặc có thể xây dựng các
website chuyên biệt dành cho lĩnh vực này, giúp các đối tượng liên quan dễ dàng tra
cứu, tìm hiểu thông tin.
98
3.3.5. Lựa chọn hình thức quỹ đầu tư mạo hiểm phù hợp trong từng thời kỳ
Với các mức độ phát triển khác nhau trong từng thời kỳ của thị trường vốn đầu
tư mạo hiểm, cần thiết có sự lựa chọn, khuyến khích những hình thức đầu tư mạo hiểm
phù hợp. Từ kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, phát triển của các quỹ đầu tư mạo
hiểm ở trên cho thấy, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng đóng không phù hợp trong quá trình
phát triển lâu dài, do theo quy định, các nhà đầu tư có thể dễ dàng bán các chứng chỉ
quỹ đầu tư này cho các nhà đầu tư khác; điều này dẫn đến tình trạng có sự tham gia
của các nhà đầu cơ chứng chỉ quỹ, họ sẽ mua bán trao tay nhanh chóng để kiếm lời,
dẫn đến có những đối tượng nhà đầu tư không phù hợp với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm;
ảnh hưởng đến quá trình hoạt động lâu dài của quỹ. Bên cạnh đó, tùy mức độ phát
triển của thị trường mà các quỹ đầu nên được xác lập ở hình thái phù hợp. Ví dụ như
quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn có thể coi là hình thái cao nhất, phức tạp
nhất; với mọi điều khoản trong quá trình hoạt động, đầu tư đã thể hiện trong hợp đồng
từ ban đầu; do đó yêu cầu các nhà đầu tư tham gia vào quỹ đầu tư dạng hợp danh hữu
hạn phải thực sự hiểu biết về các khía cạnh trong đầu tư mạo hiểm, tránh bị hớ trong
quá trình soạn thảo hợp đồng, gây bất đồng, hiểu nhầm ý, dẫn đến những tranh chấp
không đáng có về sau.
3.3.6. Tập trung phát triển thị trường chứng khoán
Kinh nghiệm tại Trung Quốc và Hàn Quốc cho thấy, để tạo điều kiện cho các
quỹ đầu tư mạo hiểm thoái vốn, cần thiết phát triển thị trường chứng khoán về chiều
sâu. Thị trường chứng khoán phát triển sẽ giúp dân chúng hiểu về lĩnh vực đầu tư tài
chính, từ đó giúp cho quá trình huy động vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm được thuận
lợi hơn. Mặt khác, việc xây dựng các sàn giao dịch chứng khoán, với các mức độ, tiêu
chuẩn niêm yết khác nhau sẽ giúp các công ty đầu tư mạo hiểm nhận vốn từ các quỹ
đầu tư mạo hiểm dễ dàng thoái vốn, thông qua phương thức IPO. Lúc này, các doanh
nghiệp với kết quả hoạt động kinh doanh, quy mô vốn khác nhau sẽ có nhiều sự lựa
chọn để niêm yết; giúp cho quá trình thoái vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm được thuận
lợi, nhanh chóng khởi đầu một chu kỳ đầu tư mới.
99
Kết luận chương 3
Các quỹ đầu tư mạo hiểm trong những năm gần đây đã có xu thế tập trung vào
các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực công nghệ cao, dược phẩm, y tế,
hoặc công nghệ sinh học, công nghệ nano, v.v… Vì thế các doanh nhân khởi nghiệp,
các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam rất nên xem xét lĩnh vực mình muốn đầu tư
trong giai đoạn hiện nay, nhằm bắt kịp xu thế của thời đại.
Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc và Hàn Quốc cho thấy, trong những giai
đoạn đầu hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, chính phủ đóng vai trò quan
trọng nhất; thông qua việc điều chỉnh các sắc thuế trong đầu tư mạo hiểm, loại bỏ các
rào cản trong đầu tư, thúc đẩy tinh thần doanh nhân của quốc gia, đồng thời chú trọng
vấn đề giáo dục – đào tạo, quan tâm đến các chính sách kiểm soát, hạn chế cách hành
vi tiêu cực trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; đã tạo động lực rất lớn để các quỹ đầu tư
mạo hiểm được phát triển bền vững.
100
CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM
4.1. Giới thiệu về môi trường nhân tố tác động đến hoạt động quỹ đầu tư mạo
hiểm ở Việt Nam
Sự phát triển của khoa học công nghệ đóng vai trò chính cho sự phát triển nền
kinh tế toàn cầu, trong đó, sự sáng tạo là con đường dẫn tới sự phát triển của khoa học,
công nghệ về mặt dài hạn, và chính dòng vốn đầu tư mạo hiểm là yếu tố sống còn
trong quá trình khai sinh, tiếp sức và phát triển của quá trình nghiên cứu, sáng tạo của
nhân loại (Miguel và các cộng sự, 2016) [79]. Đầu tư mạo hiểm và lĩnh vực đầu tư đặc
thù, cũng như đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm, cần một loạt các yếu tố chuyên biệt để
có thể hình thành và phát triển được.
Kết quả nghiên cứu ở chương 2 cho thấy, hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm
chịu ảnh hưởng bởi 5 nhân tố, đó là: (1) Chính sách của chính phủ; (2 Giá trị văn hóa,
xã hội; (3) Năng lực đào tạo, nghiên cứu; (4) Địa điểm; (5) Nguồn lực cho đầu tư mạo
hiểm. Tại phần này, luận án sẽ tập trung nghiên cứu thực trạng môi trường hoạt động
của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4.1.1. Chính sách của chính phủ
Chính phủ đóng vai trò thiết yếu trong việc tạo ra môi trường hoạt động hiệu
quả cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Thông qua các chính sách mang tính chất định
hướng, chính phủ có thể tác động đến tất cả các khía cạnh cần thiết để phát triển thị
trường vốn hiệu quả nói chung và hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng.
Các chính sách của chính phủ cần thiết cho môi trường hoạt động của các quỹ đầu tư
mạo hiểm có thể kể đến như: chính sách trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo liên quan
đến kinh doanh, đầu tư; chính sách của chính phủ liên quan đến phát triển khoa học –
công nghệ; và chính sách của chính phủ liên quan đến thị trường tài chính, trong đó thị
trường chứng khoán đóng vai trò chủ đạo.
Thứ nhất, các chính sách liên quan đến đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực giáo
dục.
Nhận thức được vai trò của đầu tư mạo hiểm trong nền kinh tế, chính phủ Việt
Nam đã từng bước có các chính sách liên quan trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; nhằm
tác động đến gốc của vấn đề: đầu tư mạo hiểm chỉ phát triển khi có sự hiểu biết, nhận
101
thức được của dân chúng đối với lĩnh vực này. Ngay từ năm 2013, tại Geneva (Thụy
Sỹ), chính phủ Việt Nam đã ký kết hợp tác với Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về
chương trình Giáo dục Kinh doanh – KAB21 với đối tượng dành cho độ tuổi thanh niên
từ 15-24 tuổi, đang học tại các trường phổ thông hoặc các trường dạy nghề. Bộ giáo
trình với nội dung nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh ở đối tượng trẻ, xây dựng thái độ
tích cực về kinh doanh, tự tạo việc làm. Ngoài ra, nội dung học cũng cung cấp cho
người học nội dung, kiến thức cơ bản về quản lý doanh nghiệp, rất hữu ích cho các
thanh niên đứng trước sự lựa chọn khởi sự kinh doanh, tự tạo công việc cho bản thân
hay đi làm thuê cho các công ty.
Đến năm 2017, Quyết định 1665/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án “Hỗ trợ học
sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025” của Thủ tướng chính phủ, đã góp phần thúc
đẩy tinh thần khởi nghiệp của học sinh, sinh viên; tạo môi trường thuận lợi để học
sinh, sinh viên hình thành và hiện thực hóa các ý tưởng, dự án khởi nghiệp của bản
thân mình, cũng như góp phần định hướng, tạo việc làm cho đối tượng này sau khi ra
trường. Tiếp theo đó, đến năm 2018, Quyết định 552/QĐ-TTg về phê duyệt đề án
“Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông
giai đoạn 2018-2025” của Thủ tướng chính phủ, với mục tiêu chung là tạo bước đột
phá về chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông, góp phần chuyển
biến công tác phân luông học sinh các cấp học, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất
nước.
Như vậy, trong lĩnh vực giáo dục, việc học tập theo các quốc gia thành công,
phát triển trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm như Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Israel đã
bước đầu có các hành động thực tế; tạo điều kiện tiền đề để phát triển tinh thần doanh
nhân trong thế hệ trẻ, góp phần xây dựng sự phát triển bền vững của lĩnh vực đầu tư
mạo hiểm nói chung và quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng.
Thứ hai, các chính sách của chính phủ trong phát triển khoa học, công nghệ
Định hướng của chính phủ đối với phát triển khoa học công nghệ là môi trường
quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; bởi lúc này phát sinh
nhu cầu của thị trường đối với lĩnh vực công nghệ cao; đồng thời hình thành các quy
21 Know About Business
102
định cụ thể các hoạt động trong lĩnh vực khoa học, giúp các nhà đầu tư, các đối tượng
nghiên cứu sẽ có khung pháp lý bảo vệ họ trong quá trình hoạt động, nghiên cứu.
Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam (cơ quan của chính phủ) tiếp nhận, xử lý
các văn bản liên quan đến lĩnh vực mình quản lý, do quốc hội; chính phủ; thủ tướng
chính phủ; các bộ, cơ quan ngang bộ, và cơ quan khác ban hành. Bên cạnh đó, loại
hình văn bản do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành, quản lý cũng rất đa dạng như
bộ luật; luật; pháp lệnh; nghị quyết; nghị định; quyết định; thông tư; thông tư liên tịch
(www.most.gov.vn). Như vậy, tất cả các vấn đề liên quan đến sự hình thành, phát triển
trong lĩnh vực khoa học công nghệ đã được quy về một mối do Bộ Khoa học và Công
nghệ quản lý. Tuy nhiên, thực tế khi tìm hiểu thông tin tại website của Bộ Khoa học và
Công nghệ cho thấy, tốc độ truy cập rất chậm; đôi khi dữ liệu hiển thị ngắt quãng, gây
khó khăn trong quá trình tìm hiểu thông tin. Bên cạnh đó, thông tin về số liệu của Bộ
còn chưa cập nhật; hiện nay (tháng 7/2019), đa số dữ liệu thống kê chỉ dừng lại ở năm
2013-2014; số ít hiển thị số liệu thống kê ở năm 2016. Chính điều này đã gây hạn chế
cho việc tìm hiểu thông tin tổng quan về tình hình nghiên cứu, sáng tạo ở Việt Nam.
Đối với các thông tin liên quan đến quy định của pháp luật về Khoa học công
nghệ, chính phủ Việt Nam đã sớm thể hiện sự quan tâm đến vấn đề này, với văn bản
đầu tiên đã có từ 30/12/1975, với QĐ số 733-KHKT/QĐ về việc nghiên cứu, xây
dựng, xét duyệt đối với tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp.
Chính sự quan tâm từ sớm đã giúp các sản phẩm Việt Nam có các quy chuẩn cần thiết
trong quá trình nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm phục vụ đời sống xã hội, nghiên
cứu khoa học. Cho đến nay, chính phủ Việt Nam đã ban hành tổng cộng gần 1000 quy
định, thông tư, quyết định liên quan đến lĩnh vực khoa học, công nghệ, nghiên cứu,
nhằm phục vụ công tác xây dựng đất nước.
413
254
143
164
25
1971-1980
1981-1990
1991-2000
2001-2010
2011-2018
Hình 4. 1. Số lượng văn bản liên quan đến khoa học, công nghệ tại Việt Nam
Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ, 2018
103
Như vậy, chính phủ Việt Nam đã dành sự quan tâm rất lớn đối với sự phát triển
của khoa học, công nghệ trong nước, với việc ban hành nhiều quy định pháp luật có
liên quan. Việc có các quy định chặt chẽ, rõ ràng sẽ giúp các chủ thể trong nền kinh tế
khi muốn đầu tư vào lĩnh vực khoa học, công nghệ có các căn cứ pháp lý chính xác để
thực hiện các mong muốn đầu tư, nghiên cứu của mình; là căn cứ để giải quyết các
tranh chấp phát sinh về sau.
Thứ ba, các quy định của chính phủ liên quan đến thị trường chứng khoán
Trong đầu tư mạo hiểm, thị trường chứng khoán đóng vai trò rất quan trọng
trong quá trình hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm; đặc biệt đối với vấn đề huy
động vốn và thoái vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Tại Việt Nam, thị trường chứng
khoán bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2000, cho đến nay, mặc dù vẫn còn nhiều hạn
chế, nhưng có thể nói chính phủ Việt Nam đã có cố gắng rất nhiều trong việc ban hành
các quy định liên quan đến hoạt động của thị trường.
Về quản lý thị trường, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (được thành lập ngày
28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ) là cơ quan trực thuộc Bộ Tài
chính, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước
về chứng khoán và thị trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động
chứng khoán và thị trường chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực
chứng khoán, thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật (www.ssc.gov.vn).
Bên dưới Ủy Ban chứng khoán Nhà nước có (1) Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt
Nam (thành lập theo Quyết định 189/2005/QĐ-TTg), với các nhiệm vụ đăng ký chứng
khoán; lưu ký chứng khoán; bù trừ và thanh toán; thực hiện quyền cổ đông; cấp mã
chứng khoán cho các tổ chức niêm yết; dịch vụ quản trị quỹ cho các quỹ mở và quỹ
ETF; vay và cho vay chứng khoán (www.vsd.vn); (2) Sở giao dịch Chứng khoán TP.
Hồ Chí Minh (www.hsx.vn), và; (3) Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội (www.hnx.vn).
Về các quy định trên thị trường chứng khoán, cho đến nay, có 274 văn bản pháp
luật liên quan đến thị trường chứng khoán, bao gồm các điều luật liên quan đến chứng
khoán; các nghị định; thông tư; quyết định; văn bản khác. Các văn bản này do Ủy ban
Chứng khoán; Bộ Tài chính; Bộ Công An; Ngân hàng Nhà nước; Thủ Tướng; Quốc
hội; Chính Phủ ban hành. Trong đó, đã có các quy định rất cụ thể, từ việc phát hành
chứng khoán riêng lẻ, ra công chúng; điều kiện niêm yết, hủy niêm yết; các chính sách
thuế trong đầu tư chứng khoán; đến các quy định về xử phạt các hành vi vi phạm trong
104
lĩnh vực chứng khoán. Theo quan điểm của luận án, chính việc quy định các điều luật
cụ thể liên quan đến thị trường chứng khoán như vậy, sẽ có tác động làm cho thị
trường chứng khoán Việt Nam hoạt động lành mạnh, minh bạch, thu hút các nhà đầu
tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán; điều này sẽ giúp
cho quá trình thu hút vốn hoặc thoái vốn tại các dự án đầu tư mạo hiểm của các quỹ
đầu tư mạo hiểm thuận lợi hơn.
Hình 4. 2. Các cơ quan ban hành các quy định trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt
10%
1%
Luật chứng khoán
Quyết định
44%
Nghị định
36%
Thông tư
Văn bản khác
9%
Nam
Nguồn: Ủy ban chứng khoán Nhà nước, 2019
Hình 4. 3. Số lượng các văn bản liên quan đến chứng khoán được ban hành
31
28
26 25
22 23
19
18
17
14
10
8
8
8
7
5
3
1
1
0
6 0 0 2
8 0 0 2
7 1 0 2
6 9 9 1
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
7 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
6 1 0 2
8 1 0 2
Giai đoạn 1996-2018
Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, 2019
4.1.2. Giá trị văn hóa xã hội đối với kinh doanh
Trong đầu tư, kinh doanh, giá trị văn hóa xã hội thể hiện ở 2 góc độ chính: Văn
hóa kinh doanh của quốc gia, khu vực; Quan điểm về rủi ro, thất bại (Lerner và các
cộng sự, 2015) [68].
Thứ nhất, văn hóa kinh doanh tại Việt Nam
Trong giai đoạn từ sau giải phóng đến nay, việc phát triển kinh tế của đất nước
đóng vai trò rất lớn từ các tầng lớp doanh nhân trong xã hội. Phần lớn các doanh nhân
105
đều nhận ra được những yêu cầu, đặc điểm của doanh nhân, nhằm nâng cao khả năng
thành công trong thương trường, như khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh và sáng tạo
– đổi mới; có đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội; tuy nhiên yếu tố dám làm
dám chịu, chấp nhận rủi ro thì phần lớn các doanh nhân đều quan ngại khi đề cập đến
(Nguyễn Viết Lộc, 2012) [10]. Tác giả Dương Thị Liễu và Nguyễn Vân Hà (2009) [4]
cho rằng, trong quá trình hội nhập thế giới, doanh nhân Việt Nam vẫn còn rất nhiều
hạn chế như (1) cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện, thiếu chuyên nghiệp, thiếu
sáng tạo; (2) Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn; (3) Thiếu tính liên kết cộng đồng;
(4) Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt”, dựa dẫm, và; (5) Xem nhẹ chữ tín.
Thứ hai, quan điểm của doanh nhân đối với thất bại, rủi ro
Trong kinh doanh, các nhà đầu tư có câu “thương trường như chiến trường’, ý
muốn nói mọi hành động, quyết định của doanh nhân rất quan trọng, mang ý nghĩa
sống còn đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải lúc nào các doanh nhân cũng
đưa ra các quyết định đúng đắn, bởi ngoài những nguyên nhân chủ quan, những
nguyên nhân khách quan mang tính rủi ro cao cũng rất quan trọng; do đó các doanh
nhân cần có phẩm chất dám nghĩ dám làm, coi thất bại là một phần của thành công
trong tương lai.
Khi bàn về vấn đề thất bại, rủi ro trong kinh doanh, Miguel và các cộng sự
(2016) [79] cho rằng, sự thành công của nước Mỹ một phần rất lớn do các doanh nhân
tại đây dám chấp nhận những thử thách mới, dám đối đầu với rủi ro và không ngại
thay đổi. Tương tự như vậy, đối với các doanh nhân trên thế giới, khi chia sẻ cuộc đời
doanh nhân của họ trong quá khứ, tất cả đều có một điểm chung đó là: gặp rất nhiều
khó khăn, thách thức, thất bại trong quá trình gây dựng doanh nghiệp của mình, như
Thomas Edison; Harland Sanders (KFC); Chung Ju Yung (Hyundai); Steve Jobs
(Apple), v.v…
Tại Việt Nam, Dương Thị Liễu (2013) [11] cho rằng, trong văn hóa kinh doanh
hiện đại, đối với vấn đề đối mặt với rủi ro, dám làm dám chịu của doanh nhân Việt
Nam, vẫn còn những hạn chế như: (1) vẫn nặng nề văn hóa chịu trách nhiệm tập thể,
tức cá nhân vẫn còn chưa ý thức cao trong vấn đề chịu trách nhiệm cá nhân; (2) vẫn
thừa kế nhiều tính “trọng tĩnh” của cha anh đi trước, doanh nhân hiện nay vẫn thích ổn
định, cầu an, do đó việc dám chấp nhận mạo hiểm trong kinh doanh vẫn còn thấp, đặc
biệt khi đã có được thành quả nhất định, thường có xu hướng co cụm, bảo toàn vốn;
106
(3) tư duy nhiệm kỳ (đối với các doanh nhân tại doanh nghiệp nhà nước) vẫn còn nặng
nề, ảnh hưởng nhiều đến tính dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của họ.
4.1.3. Tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ
Yếu tố tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ bao gồm: Năng lực nghiên cứu
khoa học (như số lượng viện nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng); các quy định
về nghiên cứu khoa học của người làm khoa học; các quy định, thực thi về quyền sở
hữu trí tuệ, v.v…
Thứ nhất, đối với năng lực nghiên cứu khoa học
Theo thống kê từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay cả nước có 87 trường đại
học công lập, 27 học viện, 64 đại học tư thục; đối với lĩnh vực quân đội, công an, có
29 trường đạo học, cao đẳng, học viện đào tạo lĩnh vực quân sự; 12 trường đại học,
cao đẳng, học viện đào tạo lĩnh vực công anh; riêng đối với cao đẳng chuyên nghiệp
và cao đẳng nghề, cả nước có trên 400 cơ sở đào tạo; số lượng viện nghiên cứu của các
nước là 23.
87 27 8 64 18 29 12 27 4 419
Đại học công lập Học viện Phân viện (Thuộc đại học) ĐH dân lập và tư thục Phân hiệu Đại học ,cao đẳng, học viện khối quân sự Đại học, cao đẳng, học viện khối công an Đại học địa phương Dự bị đại học, dự bị đại học dân tộc Cao đẳng chuyên nghiệp và cao đẳng nghề (Công lập và tư thục) Viện nghiên cứu
23 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018
Bảng 4. 1. Số lượng các cơ sở đào tạo, nghiên cứu tại Việt Nam
Đối với đối tượng giảng dạy, nghiên cứu, trong năm học 2016-2017, cả nước có
72.792 giảng viên, so với năm 2015-2016 là 69.443 giảng viên. Trong đó, năm 2016-
2017, số lượng thạc sĩ là 43.065; số lượng tiến sĩ là 11.827; giáo sư là 574; phó giáo sư
là 4.113 người; tất cả các con số đều tăng hơn so với năm học trước đó.
Tuy nhiên, số tiền chi cho khoa học tại Việt Nam còn khá khiêm tốn, chỉ đạt
0,87% GDP; trong khi con số trên tại Singapore là 2,1% GDP; Hàn Quốc là 4,1%
GDP; Nhật Bản là 3,4% GDP và tại Malaysia là 1% GDP (Hoài Nam, 2015). Các công
107
bố khoa học tại Việt Nam tại năm 2010 là 14.000 sản phẩm; năm 2014 là 26.000 sản
phẩm; so với Mỹ hàng năm có 2,6 triệu sản phẩm khoa học; có 1,3 triệu người làm
khoa học; Trung Quốc có 1,2 triệu người làm khoa học, bình quân mỗi người công bố
0,83 sản phẩm khoa học hàng năm. Bình quân giai đoạn 2010-2014, tại các quốc gia
như Singapore có 63.000 sản phẩm công bố; Malaysia có 47.000 sản phẩm; Thái Lan
có 36.000 sản phẩm; trong khi tại Việt Nam là 10.000 sản phẩm.
Năm học 2016-2017
Số lượng giảng viên Thạc sĩ Tiến sĩ Giáo sư Phó giáo sư Đại học, cao đẳng Chuyên khoa I, II Khác
Năm học 2015-2016 69443 40426 9731 550 3317 14897 620 50
72792 43065 11827 574 4113 12057 557 149
Bảng 4. 2. Số lượng chức danh tại Việt Nam giai đoạn 2015-2017
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018
Thứ hai, đối với quy định về nghiên cứu khoa học đối với người làm khoa
học
Tại góc độ này, luận án tiếp cận góc độ quy định về nghiên cứu khoa học của
đối tượng giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng. Đối với giảng viên, giảng dạy
và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ song hành với nhau. Chất lượng giảng dạy của
giảng viên phụ thuộc vào trình độ học vấn, vào kinh nghiệm giảng dạy và năng lực
nghiên cứu khoa học. Thông qua nghiên cứu khoa học, bài giảng của giảng viên sẽ
mang tính chất thời sự, bắt kịp với xu hướng biến động của nền kinh tế. Trong nhiệm
vụ nghiên cứu khoa học của giảng viên, Bộ giáo dục và Đào tạo đã có quy định rất cụ
thể trong Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT, trong đó quy định cụ thể như:
(1) Giảng viên phải dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học
để làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.
(2) Mỗi năm, giảng viên phải hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được
giao tương ứng với chức danh hoặc vị trí công việc đang đảm nhiệm. Kết quả nghiên
cứu khoa học của giảng viên được đánh giá thông qua các sản phẩm nghiên cứu khoa
học cụ thể, tối thiểu là một đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở hoặc tương đương
được nghiệm thu từ đạt yêu cầu trở lên hoặc một bài báo được công bố trên tạp chí
108
khoa học có phản biện hoặc một bài báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học chuyên
ngành.
Thứ ba, đối với các quy định, thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Quỹ đầu tư mạo hiểm thường hướng đến các công ty trong lĩnh vực sáng tạo,
công nghệ cao, có các sản phẩm, ý tưởng kinh doanh mới, vì thế việc bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ đóng vai trò sống còn đối với các doanh nghiệp này. Cho đến nay, Việt
Nam đã ký kết các hiệp định song phương và đa phương liên quan đến việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả như Hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả Việt
Nam – Mỹ (năm 1997); Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ giữa Việt Nam và Thụy Sĩ (năm 1999); Hiệp định thương mại Việt
Nam – Mỹ (năm 2000); đặc biệt hiện nay Việt Nam cũng đã là thành viên của Công
ước Bern về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, được ra đời từ năm 1886 tại
Thụy Sĩ. Ngoài ra, tại Việt Nam cũng đã có Luật sở hữu trí tuệ 2005, với quy định, tổ
chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ sau đây
thì bị xử phạt vi phạm hành chính: (i) Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho
tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội; (ii) Sản xuất, nhập khẩu, vận
chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 của Luật
này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này; (iii) Sản xuất, nhập khẩu, vận
chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc vật phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ
dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này. Tuy nhiên thực tế
tại Việt Nam, hiện tượng vi phạm các bản quyền, các sáng chế, hàng giả, hàng nhái
còn diễn biến phức tạp, gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp chính hãng, tới các
tác giả bản quyền, làm ảnh hưởng không nhỏ đến ý tưởng đầu tư mạo hiểm của các
quỹ đầu tư mạo hiểm. Tuy vậy, cho tới nay đa số vụ việc vi phạm sở hữu trí tuệ ở Việt
Nam được xử lý bằng phương pháp hành chính, với yêu cầu bắt buộc các chủ thể
quyền phải có yêu cầu và thực hiện các thủ tục hành chính phức tạp, mất thời gian chờ
đợi việc thi hành; bên cạnh đó, chế tài xử lý vi phạm còn chưa đủ sức răn đe (tối đa là
500 triệu đồng), vì thế có nhiều trường hợp sau khi bị xử lý vẫn tiếp tục vi phạm, bởi
việc lợi nhuận đạt được cao hơn rất nhiều khoản phạt xử lý hành chính. Chính vì vậy,
cần thiết phải xây dựng các điều khoản mang tính răn đe mạnh hơn nữa đối với lĩnh
vực vi phạm quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
109
4.1.4. Địa điểm
Yếu tố địa điểm bao gồm hai vấn đề: (1) Cơ sở hạ tầng tại địa phương và (2)
Các hiệp hội doanh nghiệp.
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng tại địa phương, bao gồm cơ sở hạ tầng giao thông,
phục vụ cho việc giao thương, trao đổi hàng hóa được thuận lợi; và cơ sở hạ tầng công
nghệ thông tin, giúp việc trao đổi thông tin được nhanh chóng, thuận tiện. Việc các
điều kiện cơ sở hạ tầng được thuận lợi, thông suốt sẽ giúp cho các doanh nghiệp đầu tư
hiệu quả, giảm chi phí vận chuyển, rút ngắn thời gian sản xuất hàng hóa, v.v… qua đó,
làm cho các dự án đầu tư mạo hiểm của các quỹ đầu tư mạo hiểm nâng cao khả năng
sinh lời, giảm chi phí hoạt động, v.v…
Trong giai đoạn 2011-2016, nhiều công trình giao thông lớn đã được đầu tư,
như mở rộng đường quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh qua khu vực Tây Nguyên; xây
dựng các cảng biển quốc tế (Cái Mép – Thị Vải; Hải Phòng; Cái Lân; Cửa Lò; Vũng
Áng; Tiên Sa; Quy Nhơn; Nha Trang; TP. Hồ Chí Minh; Cần Thơ, v.v…). Việc Việt
Nam có hệ thống giao thông đầy đủ, trải dài từ hệ thống đường bộ, đường thủy, đường
hàng không đã hỗ trợ đắc lực cho việc di chuyển giữa các vùng miền, tạo điều kiện
cho việc đầu tư, giao thương được thuận lợi.
Tuy nhiên, cũng theo Bộ giao thông vận tải, hệ thống giao thông hạ tầng Việt
Nam còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh của quốc gia.
Ngoài ra, do hạn chế về vốn đầu tư, hệ thống giao thông hiện tại ít được duy tu, bảo
dưỡng đầy đủ, kịp thời; dẫn đến hệ lụy xuống cấp hệ thống giao thông trên các mặt.
Bên cạnh đó, với hệ thống quản lý, đấu thầu, đầu tư còn nhiều bất cập, dẫn đến tình
trạng các dự án BOT trong lĩnh vực đường bộ còn gây nhiều tranh cãi trong dư luận
trong thời gian gần đây, như vị trí đặt trạm thu phí, giá vé, chất lượng công trình sau
khi đầu tư, v.v…
Đối với hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, theo Bộ Thông tin và
Truyền thông (2017), cho đến nay, ngành công nghệ thông tin Việt Nam đã đạt được
những thành tựu lớn, trở thành một ngành hạ tầng rất quan trọng, đóng góp cho sự phát
triển, lớn mạnh của đất nước. Ngành công nghiệp phần cứng điện tử, công nghiệp
phần mềm và nội dung số công nghệ thông tin của Việt Nam luôn duy trì tốc độ tăng
trưởng cao, bình quân 30%/ năm trong giai đoạn 2006-2016, tổng doanh thu trong lĩnh
vực công nghiệp công nghệ thông tin đạt 67,7 tỷ USD.
110
Nhằm thu hút các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin,
chính phủ Việt Nam hiểu tầm quan trọng của việc đầu tư vào cơ sở ban đầu, bao gồm
đầu tư trong lĩnh vực giáo dục như khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, từ đó đã
tạo ra nhiều tầng lớp kỹ sư công nghệ lành nghề. Theo công ty tư vấn AT.Kearney
(2018), năm 2017, chỉ số đo xếp hạng dịch vụ gia công phần mềm (Global Services
Location Index) của Việt Nam tăng 5 bậc so với năm 2016, với các chỉ tiêu của các
ngành công nghệ và gia công phần mềm của Việt Nam luôn thể hiện sự tăng trưởng
đều đặn qua các năm. Điều đó dẫn đến các công ty lớn như Intel, Samsung, IBM,
Microsoft không ngừng đầu tư vào Việt Nam, tạo ra các làn sóng phát triển, học tập,
nghề nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Tuy nhiên, theo cơ quan chuyên trách về công nghệ thông tin và truyền thông
của Liên Hợp Quốc, Liên minh Viễn thông thế giới (ITU) cho rằng, sự phát triển của
công nghệ thông tin truyền thông (ICT) của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, với chỉ
số phát triển ICT (ICT Development Index – IDI) năm 2017 chỉ đạt 4,43 điểm, đứng
thứ 108 trên thế giới, không hề thay đổi vị trí so với năm 2016 (với 4,18 điểm). Chỉ số
IDI được đánh giá dựa trên 3 mục chủ yếu, bao gồm khả năng tiếp cận với dịch vụ
công nghệ thông tin truyền thông (chiếm 40% điểm); sử dụng dịch vụ công nghệ thông
tin truyền thông (chiếm 40% điểm), và kỹ năng về công nghệ thông tin và truyền
thông (chiếm 20% điểm). Chỉ số IDI bình quân trên thế giới đạt 4,93 điểm năm 2016;
5,11 điểm năm 2017; trong đó có các quốc gia nổi bật như Iceland (8,98 điểm); Hàn
Quốc (8,85 điểm); Hồng Kông (8,64 điểm); Nhật Bản (8,43 điểm); Australia (6,38
điểm); New Zealand (8,33 điểm), v.v… Như vậy, Việt Nam còn tụt hậu khá xa so với
các quốc gia trong khu vực như Thái Lan (5,67 điểm); Malaysia (6,38 điểm); Trung
Quốc (5,6 điểm), Brunei (6,75 điểm); Singapore (8,05 điểm), v.v…
Thứ hai, các hiệp hội doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp, muốn xây
dựng doanh nghiệp lớn mạnh, phát triển bền vững, cần thiết phải nâng cao năng lực,
đóng góp, liên kết các doanh nghiệp thành tổ chức lớn mạnh cho từng lĩnh vực, từng
ngành nghề, vì thế việc ra đời các hiệp hội doanh nghiệp là nhu cầu tất yếu của quá
trình phát triển các doanh nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế quốc gia nói chung.
Đặc biệt, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã cam kết
giảm dần, dẫn tới loại bỏ sự can thiệp, trợ giúp của chính phủ đối với các doanh
nghiệp, vì thế, vai trò của các hiệp hội càng được nâng cao.
111
Hiện nay, theo thống kê Việt Nam có khoảng gần 70 hiệp hội doanh nghiệp,
gần 20 hiệp hội/ phòng thương mại nước ngoài tại Việt Nam. Đây chính là nơi đại diện
cho các doanh nhân, doanh nghiệp muốn đầu tư làm ăn tìm hiểu các thông tin về các
ngành nghề, lĩnh vực họ đã, đang và sẽ đầu tư trong tương lai. Chính các hiệp hội sẽ
đại diện để bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân trong quá trình đầu tư.
Thực tế còn cho thấy, hiệp hội chính là cầu nối giữa doanh nghiệp với chính phủ.
Thông qua hiệp hội, các chủ trương, đường lối phát triển, các ưu đãi, quy định pháp
luật liên quan sẽ được truyền tải tới các doanh nghiệp, doanh nhân; và ngược lại, thông
qua hiệp hội, các ý kiến đề xuất, góp ý của doanh nhân, doanh nghiệp đối với các
chính sách của chính phủ sẽ tới đúng chỗ và kịp thời, do hiện nay Việt Nam còn hiện
tượng các doanh nghiệp còn e ngại nêu ý kiến của mình một cách trực tiếp. Như vậy,
với số lượng hiệp hội gần như đầy đủ ở tất cả các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, sẽ
góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, thông suốt trong quá trình khởi
nghiệp, sáng tạo của các doanh nhân.
4.1.5. Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm
Yếu tố nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm bao gồm hai vấn đề chính: (1) nguồn
cầu vốn đầu tư mạo hiểm: các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nguồn nhân lực; (2) nguồn
cung vốn đầu tư mạo hiểm: số lượng công ty, tập đoàn kinh tế, và nội lực của quốc
gia; (3) bản thân nội tại sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Nguồn cầu của vốn đầu tư mạo hiểm
Thứ nhất, tính đến năm 2018, các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 97,5%
tổng số doanh nghiệp đang hoạt hoạt động thực tế tại Việt Nam, với số lượng khoảng
gần 600.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa (Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa, 2019). Về
mặt giá trị, hàng năm đối tượng nhóm doanh nghiệp này đóng góp khoảng 40% GPD,
30% nộp vào ngân sách nhà nước, 33% giá trị sản lượng công nghiệp, 30% giá trị hàng
hóa trong lĩnh vực xuất khẩu, và tạo ra khoảng 60% việc làm cho tầng lớp lao động.
Điều đặc biệt là, trong tổng số 600.000 doanh nghiệp NVV, số doanh nghiệp quy mô
vừa chỉ chiếm 1,6%, phần còn lại là các doanh nghiệp với quy mô nhỏ và siêu nhỏ.
Với số lượng doanh nghiệp thuộc nhóm nhỏ và vừa chiếm áp đảo trong tổng số doanh
nghiệp tại Việt Nam như vậy, tạo ra nguồn cầu vốn rất lớn đối với các quỹ đầu tư mạo
hiểm nói riêng và vốn đầu tư mạo hiểm nói chung. Thực tế cho thấy, với các doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ như vậy, khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng là điều rất khó,
112
do thiếu tài sản đảm bảo, năng lực tài chính hạn chế (Bộ Tư Pháp, 2018). Đối với các
trường hợp tiếp cận được vốn vay từ ngân hàng, thì cũng phải chịu mức lãi suất cao
hơn so với các đối tượng khác, ví dụ với mức lãi suất cho vay bình quân năm 2016 tại
Việt Nam là 7%, các doanh nghiệp NVV phải chịu mức lãi suất đi vay bình quân 11%.
Mặt khác, so với các quốc gia trong khu vực, tổng dư nợ tín dụng cho vay đối
với các doanh nghiệp NVV còn khá khiêm tốn (22%), thấp hơn nhiều so với Thái Lan
(30%), Hàn Quốc (36%) và Trung Quốc (37%). Chính điều này đã làm cho vấn đề huy
động vốn đề đầu tư, nghiên cứu, sản xuất của các doanh nghiệp NVV cần thiết hơn
bao giờ hết; trong khi nguồn vốn dành cho đối tượng này chủ yếu đến từ ngân sách
nhà nước, dưới các hình thức trợ cấp, bảo lãnh, bảo hiểm hoặc ưu đãi thuế, v.v…
37%
36%
30%
22%
20%
19%
7%
Hình 4. 4. Tỷ trọng dư nợ cho vay DNNNV/ Tổng dư nợ (năm 2016)
Nguồn: Bộ Tư Pháp (2018)
Thứ hai, đối với nguồn nhân lực, so với các quốc gia trong khu vực ASEAN,
Việt Nam là một trong sáu quốc gia có cơ cấu dân số vàng (ngoại trừ Campuchia,
Philipppines, Malaysia, Lào), do đó Việt Nam đang ở trong giai đoạn có điều kiện phát
triển kinh tế, xã hội mạnh nhất dựa vào lực lượng lao động trẻ. Bên cạnh đó, với số
dân đứng thứ 14 trên thế giới, với trên 68 triệu dân vào năm 1990, đã tăng lên đến trên
95 triệu dân năm 2017, dự báo đến năm 2030, dân số Việt Nam vào khoảng trên 105
triệu người.
Bên cạnh đó, cũng theo Tổng Cục dân số - Kế hoạch hóa gia đình (2017), độ
tuổi trung bình của người dân Việt Nam năm 1990 là 21, trong giai đoạn 2015-2020 là
30-33 tuổi, dự báo đến năm 2030, độ tuổi trung bình là 37. Đây chính là tiền đề cần
113
thiết để tận dụng nguồn lực lao động trẻ mà rất nhiều quốc gia trên thế giới mong
muốn.
120,000,000
100,000,000
80,000,000
60,000,000
40,000,000
20,000,000
0
Hình 4. 5. Số dân Việt Nam giai đoạn 1990 – 2050 (dự tính)
Nguồn: Tổng Cục dân số - Kế hoạch hóa gia đình, 2017
Tuy Việt Nam có số dân trẻ, rất lý tưởng cho phát triển đất nước, nhưng chất
lượng người lao động lại là một trở ngại lớn. Theo số liệu điều tra của Tổng Cục
Thống kê (2010), tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết khá cao, chiếm
93,5% dân số; nhưng có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng, miền. Cụ thể, tỷ lệ học
đại học, cao đẳng ở các tỉnh, thành có kinh tế phát triển cao hơn hẳn ở các địa phương
kém phát triển (ví dụ tại thành phố Đà Nẵng là 50,6%, trong khi tại Lai Châu chỉ đạt
1%); số dân tốt nghiệp từ trung học phổ thông trở lên ở thành thị đạt cao gấp ba lần so
vơi ở khu vực nông thông (với tỷ lệ tương ứng là 37,4% và 13,8%). Mặt khác, theo
Báo cáo phát triển con người của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), chỉ
số phát triển con người của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, năm 2010 đứng 113/169;
năm 2014 đứng 127/186; năm 2017 đứng 116/189 quốc gia, vùng lãnh thổ tham gia
khảo sát. Như vậy, chất lượng người lao động Việt Nam đang đứng trước nguy cơ tụt
hậu, thiếu nguồn lao động có chất lượng cao, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế, xã
hội, cũng như đáp ứng yêu cầu của các ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh yêu cầu chất
lượng lao động cao.
Nguồn cung của vốn đầu tư mạo hiểm
Nguồn cung của đầu tư mạo hiểm, bao gồm nguồn cung cấp, tài trợ tiền cho các
dự án đầu tư mạo hiểm, thể hiện dưới góc độ số lượng, năng lực các tổ chức, tập đoàn
kinh doanh trong nước, cũng như khả năng cung cấp vốn, nội lực của chính phủ.
114
Thứ nhất, đối với các tổ chức kinh tế trong nước. Hiện nay có 51 ngân hàng
đang hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam (bao gồm 38 ngân hàng nội địa, 13 ngân hàng
100% vốn nước ngoài), tổng vốn điều lệ tính đến tháng 10/2018 là gần 400 nghìn tỷ
đồng; có 46 công ty bảo hiểm (trong đó 15 công ty bảo hiểm nhân thọ, 31 ngân hàng
phi nhân thọ), tổng số vốn điều lệ đạt gần 300 nghìn tỷ đồng; ngoài ra, tại Việt Nam
hiện có 99 công ty chứng khoán ghi nhận đang còn hoạt động, và 34 quỹ đầu tư ở các
lĩnh vực khác nhau, với số vốn điều lệ đạt gần 7.000 tỷ đồng.
Như vậy, với số lượng tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như vậy, Việt Nam có
nguồn lực cần thiết để huy động, góp vốn cho quỹ đầu tư mạo hiểm được hình thành
và phát triển.
Bảng 4. 3. Danh sách các nhà đầu tư tổ chức tại Việt Nam
Danh sách tổ chức
STT 1 2 3 4 5 6
Ngân hàng nội địa Ngân hàng nước ngoài Công ty bảo hiểm nhân thọ Công ty bảo hiểm phi nhân thọ Công ty chứng khoán Quỹ đầu tư
Số lượng 38 13 15 31 99 34
Vốn điều lệ (VND) 369.153.936.940.000,00 22.193.580.000.000,00 53.523.694.205.619,00 241.563.461.974.179,00 48.075.874.435.632,00 15.081.790.000.000,00
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Thứ hai, đối với nguồn đầu tư từ chính phủ, tỷ lệ thâm hụt ngân sách quốc gia
được kiểm soát tốt, với tỷ lệ giảm qua các năm, với 6,2% năm 2010; 4,8% năm 2012,
và đến năm 2017, tỷ lệ thâm hụt ngân sách đã giảm xuống còn 3,5%.
Bảng 4. 4. Bội chi ngân sách giai đoạn 2010-2017
(Đơn vị: Tỷ đồng)
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
A Tổng thu cân đối ngân
641500 595000 740500 816000
782700
911100 1014500 1212180
sách nhà nước
294700 382000 494600 545500
539000
638600
785000
990280
1 Thu nội địa
66300
69300
87000
99000
85200
93000
54500
38300
2 Thu từ dầu thô
95500 138700 153900 166500
154000
175000
172000
180000
3 Thu cân đối từ hoạt
động xuất nhập khẩu
4 Thu viện trợ
5000
5000
5000
5000
4500
4500
3000
3600
B Tổng chi cân đối ngân
582200 725600 903100 978000 1006700 1147100 1273200 1390480
sách nhà nước 1 Chi đầu tư phát triển
125500 152000 180000 175000
163000
195000
254950
357150
2 Chi trả nợ lãi
70250
86000 100000 105000
120000
150000
155100
100200
3 Chi thường xuyên
335560 442100 542000 658900
704400
767000
823995
896280
35490
27000
59300
15600
10000
13055
6600
4 Chi cải cách tiền lương, tinh giảm biên chế 5 Chi bổ sung quỹ dự trữ
100
100
100
100
100
100
100
100
tài chính
6 Dự phòng
15300
18400
21700
23400
19200
25000
26000
29300
C Bội chi ngân sách nhà
115
119700 120600 140200 162000
224000
226000
254000
178300
nước Tỷ lệ bội chi so GDP
6.20%
5.30%
4.80%
4.80%
5.0%
4.95%
3.50%
5.30% Nguồn: Bộ Tài chính, 2018
Trong tổng thu ngân sách nhà nước, nguồn thu từ nguồn dầu thô chiếm tỷ trọng
rất lớn; với việc sụt giảm giá dầu liên tục qua các năm qua, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
nguồn thu ngân sách. Trong khi đó, với tổng chi cho đầu tư phát triển đạt 125.500 tỷ
đồng năm 2010, tăng lên 180.000 tỷ đồng năm 2012, đến năm 2017, tổng chi đầu tư
phát triển đã tăng lên 357.150 tỷ đồng.
Bản thân nội tại sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm
Bản thân nội tại sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm (i) sự tăng
trưởng số lượng các quỹ đầu tư mạo hiểm; (ii) tổng giá trị vốn huy động được của các
quỹ đầu tư mạo hiểm; và (iii) hiệu quả đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các
năm. Thực trạng các yếu tố này sẽ được phân tích kỹ ở mục 4.2 của luận án.
4.2. Thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
Tại Việt Nam, vốn đầu tư mạo hiểm đã bắt đầu tham gia từ năm 1990, khi các
chính sách mở cửa, đổi mới nền kinh tế theo quan điểm của Đại hội lần VI của Đảng
Cộng Sản Việt Nam (12/1986) chính thức đi vào đời sống và phát huy tác dụng đối với
nền kinh tế; đường lối đổi mới này sau đó tiếp tục được kế thừa, phát triển tại Đại hội
Đảng lần thứ VII (6/1991); Đại hội Đảng lần thứ VIII (6/1996); Đại hội Đảng lần thứ
IX (4/2001); v.v…
Nếu xét theo các giai đoạn phát triển của vốn đầu tư mạo hiểm nói chung, và
của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam nói riêng, có thể chia việc
hình thành, phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam thành 3 giai đoạn:
(1) Giai đoạn 1: Từ năm 1990 – 2002: Giai đoạn xuất hiện các quỹ đầu tư mạo
hiểm của nước ngoài vào Việt Nam; tuy nhiên hoạt động chưa hiệu quả,
phần lớn đã rút khỏi Việt Nam.
(2) Giai đoạn 2: Từ năm 2002 – 2015: Các quỹ đầu tư mạo hiểm mới của nước
ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam, đạt được những thành công nhất
định.
116
(3) Giai đoạn 3: Từ năm 2015 – nay: Các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài
tiếp tục tham gia đầu tư tại Việt Nam; bắt đầu có các quỹ đầu tư mạo hiểm
của Việt Nam được thành lập, bắt đầu tham gia vào quá trình đầu tư.
Do đó, việc hình thành, phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, luận
án sẽ tiếp cận ở góc độ sau:
Thứ nhất, với việc hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, luận án sẽ
xem xét việc xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài khi họ bước đầu thành lập
quỹ đầu tư mạo hiểm để đầu tư vào Việt Nam (giai đoạn 1990-2002); Sau đó, luận án
xem xét việc hình thành, xây dựng các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập
(giai đoạn 2015 – nay).
Thứ hai, đối với việc phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại
Việt Nam, luận án sẽ xem xét sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt
động tại Việt Nam, trong đó, như đã trình bày ở phạm vi nghiên cứu tại phần mở đầu,
luận án tập trung nghiên cứu sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại
Việt Nam qua 3 giai đoạn: (1) 1990-2002; (2) 2002 – 2015 và, (3) 2015-nay.
4.2.1. Thực trạng xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
4.2.1.1. Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài
Trong giai đoạn đầu (từ năm 1991), với làn sóng hình thành các khu công
nghiệp nói chung tại thị trường Đông Nam Á, cũng như chủ trương của chính phủ về
việc thành lập thị trường chứng khoán tại Việt Nam, đã kéo theo vốn đầu tư từ các quỹ
đầu tư mạo hiểm trong và ngoài nước, nhằm tận dụng cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Tại
Bảng 4.5 cho thấy, trong giai đoạn đầu mở cửa, từ năm 1991-1996, có 8 quỹ đầu tư
mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, với quy mô vốn đầu tư trên 300 triệu
USD.
Tại thời điểm mới tham gia vào thị trường Việt Nam, tất cả các quỹ đầu tư mạo
hiểm này đều được thành lập và huy động vốn ở nước ngoài, trong đó cổ phiếu của các
quỹ đầu tư mạo hiểm này đều được niêm yết ở thị trường chứng khoán nước ngoài. Cơ
cấu nhà đầu tư tham gia vào các quỹ đầu tư mạo hiểm này là các nhà đầu tư tổ chức,
mà không có sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân. Tại thời điểm đó, các quỹ đầu tư
mạo hiểm có lĩnh vực hoạt động đa dạng, từ hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ,
tài chính, v.v… mà không có mục tiêu nhất thiết cần đầu tư vào các công ty trong lĩnh
117
vực công nghệ cao, các công ty khởi nghiệp, v.v… thậm chí, các quỹ đầu tư này ngay
từ khi thành lập, còn xác định sẽ đầu tư vào các công ty tiềm năng, trong một thời gian
nhất định (thậm chí là ngắn hạn), nhằm kích thích tăng trưởng của công ty mục tiêu,
sau đó thoái vốn để thu lợi nhuận.
Bảng 4. 5. Các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam trong giai đoạn 1991-1996
STT
Tên quỹ đầu tư mạo hiểm
Năm vào Việt Nam
Quy mô vốn (triệu USD)
1 2 3 4 5 6 7 8
Vietnam Fund Templeton Vietnam Opportunities Fund Beta Vietnam Fund Beta Mekong Fund Lazard Vietnam Fund Vietnam Frontier Investment Ltd. Vietnam Enterprise Investment Ltd. Southeast Asian Frontier Fund
1991 1993 1993 1994 1994 1995 1995 1996
10 113 71 25.6 59 17 17 12.5
Nguồn: Asia Venture Capital Journal, 1998
Đối với mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm, các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài
thành lập ở Việt Nam trong giai đoạn đầu thường chọn mô hình quỹ đầu tư dạng mở,
với đặc tính vốn được huy động một lần ngay từ đầu khi thành lập, quỹ không có trách
nhiệm chi trả cho các nhà đầu tư trong thời gian hoạt động của quỹ, mà các nhà đầu tư
phải bán cho các nhà đầu tư khác trên thị trường chứng khoán, v.v… động thái này
nhằm mục đích tạo sự ổn định về vốn huy động được của các quỹ đầu tư mạo hiểm,
nhằm chuyên tâm thực hiện các dự án đầu tư mạo hiểm đã lựa chọn.
4.2.1.2. Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam
Tại Việt Nam, các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập chính thức từ
năm 2015, với mục tiêu chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo. Các quỹ
đầu tư này chủ yếu huy động vốn từ ngân sách nhà nước, từ các bộ, ngành có liên
quan, hoặc từ các công ty, tập đoàn mẹ, v.v… trong khi sự góp vốn từ các nhà đầu tư
thiên thần còn hạn chế (Phụ lục 4).
Bảng 4. 6. Một số quỹ đầu tư mạo hiểm dành cho khởi nghiệp của Việt Nam
TT Tên quỹ
Đơn vị thành lập
Vốn đầu
Thời gian
Ghi chú
tư ban
thành lập
đầu
1
Quỹ Đầu tư Khởi
Hội LHTN Việt Nam TP.
100 tỷ
2016
Giai đoạn đầu tư 2016-
nghiệp và Sáng
Hồ Chí Minh, đồng sáng lập
đồng
2020
tạo TP. Hồ Chí
bởi Công ty Đầu tư Tài
Minh (HSIF)
chính Nhà nước TP. Hồ Chí
Minh (HFIC) và Ngân hàng
TMCP Sài Gòn – Hà Nội
(SHB)
2
Quỹ khởi nghiệp
UBND tỉnh Bình Phước,
11 tỷ
4/2018
-Đối tượng được vay: cá
Bình Phước
Quỹ Đầu tư phát triển Bình
nhân tổ chức, doanh
Phước
nghiệp được thành lập
không quá 1 năm, lần đầu
có ý tưởng, phương án
khởi nghiệp, phương án
sản xuất kinh doanh có
tính khả thi cao trên tất cả
các lĩnh vực hoạt động đầu
tư, kinh doanh trên địa bàn
tỉnh đã được quỹ thẩm
định.
-Hạn mức vay cho mỗi đối
tượng thụ hưởng không
quá 200 triệu đồng.
3
FPT Ventures
Tập đoàn FPT
3 triệu
2015
Mỗi năm Tập đoàn FPT
USD
cấp 3 triệu USD vốn cho
FPT Ventures
4
Quỹ Khởi nghiệp
Chính phủ Việt Nam (Bộ
5,2 tỷ
1/2015
VSF là quỹ xã hội hóa nội
địa đầu tiên ở Việt Nam
doanh nghiệp
Nội Vụ cấp phép thành lập)
đồng
đã chính thức được cấp
khoa học và công
phép thành lập theo Quyết
nghệ (KH&CN)
định số 1286/QĐ-BNV ký
Việt Nam (VSF)
ngày 16 tháng 12 năm
2014.
5
Quỹ Tăng tốc
FPT; Quỹ Dragon Capital và
2016
Mỗi startup được VIISA
đầu tư 30.000 USD (trong
khởi nghiệp Việt
Tập đoàn Hanwha (Hàn
đó có 15.000 USD tiền
Nam (Vietnam
Quốc)
mặt và các chi phí khác
Innovative Startup
như nhà ở, văn phòng, kỹ
Accelerator -
thuật…)
VIISA)
118
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động dưới sự giám sát, quản lý của công ty, tập
đoàn mẹ, hoặc do các cơ quan chủ quản của chính phủ điều hành, định hướng đường
lối phát triển; với mục tiêu chủ yếu hưởng ứng Quyết định 884/QĐ-TTg về việc phê
119
duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm
2025" của chính phủ; do đó mô hình tổ chức chủ yếu do người của chính phủ, của các
công ty, tập đoàn mẹ là người đứng đầu, đại diện về mặt pháp lý của quỹ đầu tư mạo
hiểm đó; trong đó các chuyên gia tham gia vào quỹ chủ yếu với vai trò tư vấn, giám
sát các dự án mà quỹ đầu tư vào, mà không đặt nặng vai trò huy động vốn của các quỹ
đầu tư mạo hiểm này.
Khi được thành lập, các quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam đã hướng tới đầu
tư vào các công ty khởi nghiệp, các công ty trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công
nghệ, khoa học tự nhiên, v.v… với mục tiêu học tập các quốc gia khởi nghiệp như Mỹ,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Israel, Singapore, v.v... để thúc đẩy khoa học kỹ thuật của
nước nhà, tạo động lực phát triển bền vững của nền kinh tế, nhằm nâng cao tính cạnh
tranh toàn cầu của các doanh nghiệp, sản phẩm công nghệ Việt Nam.
4.2.2. Thực trạng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
Để xem xét thực trạng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, luận án sẽ
xem xét sự phát triển của 4 quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất đang hoạt động tại Việt
Nam là VinaCapital, Mekong Capital, IDG Venture, và Dragon Capital; đồng thời,
xem xét các quỹ đầu tư mạo hiểm mới thành lập tại Việt Nam trong thời gian qua. Sự
phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam, luận án sẽ tiếp
cận theo 4 tiêu chí: số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm; nguồn vốn đầu tư mạo hiểm; lĩnh
vực đầu tư mạo hiểm; và kết quả đàu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm.
4.2.2.1. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm
Giai đoạn 1990-2002
Trong giai đoạn này, các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài bắt đầu tham gia
hoạt động đầu tư tại Việt Nam, với mục tiêu đạt mức sinh lời cao, khi chính phủ Việt
Nam thể hiện quyết tâm cải cách nền kinh tế, mở cửa giao thương với các quốc gia bên
ngoài.
Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đạt đỉnh
điểm năm 1995, sau đó giảm dần, đến năm 2002, chỉ còn 6 quỹ đầu tư mạo hiểm tiếp
tục hoạt động. Nguyên nhân của việc sụt giảm các quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai
đoạn này, là do các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài chưa lường hết được các khó
khăn khi đầu tư vào Việt Nam; môi trường đầu tư, cạnh tranh không thuận lợi. Mặc dù
120
Ủy ban chứng khoán Nhà nước được thành lập từ năm 1996, nhưng cho đến năm 2000
thị trường chứng khoán Việt Nam mới diễn ra phiên giao dịch đầu tiên, với 2 cổ phiếu
được niêm yết và giao dịch. Hơn nữa, mức độ hiểu biết của công chúng đầu tư Việt
Nam về thị trường chứng khoán còn hạn chế, dẫn đến việc khó khăn trong huy động
vốn, cũng như thoái vốn thông qua việc bán cổ phần ra công chúng (IPO) của các quỹ
đầu tư này. Do đó, kết quả đầu tư không như mong muốn, làm cho các quỹ đầu tư
không thành công, buộc phải giải thể và rút khỏi thị trường Việt Nam.
8
5
4
1
1991
1995
1998
2002
Hình 4. 6. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam giai đoạn 1990-2002
Nguồn: Nguyễn Quang Long (2016) [8]
Giai đoạn 2002-2015
Trong giai đoạn này, Chính phủ tích cực tiến hành các giải pháp đẩy mạnh tiến
trình cổ phần hóa, khuyến khích nền kinh tế tư nhân, như Quyết định 202-CT ngày
08/6/2002; Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002; Nghị định 187/2004/NĐ-CP
năm 2004; đặc biệt Quyết định 929/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ đề Đề án tái cơ
cấu doanh nghiệp nhà nước, giai đoạn 2011-2015, với trọng tâm đối với các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước, đã thực sự tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn cho các thành
phần trong nền kinh tế, cũng như thu hút được lượng vốn đầu tư mạo hiểm của các nhà
đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, các quy định, điều luật về hình thành quản lý các loại
hình quỹ đầu tư tại Việt Nam đã đưa vào thực tế, như Thông tư 183/2011/TT-BTC
(năm 2011) về Hướng dẫn thành lập quỹ đầu tư dạng mở; Thông tư 224/2012/TT-BTC
(năm 2012) về Hướng dẫn thành lập và quản lý quỹ đóng, quỹ thành viên; Thông tư
229/2012/TT-BTC (năm 2012) về Hướng dẫn thành lập và quản lý quỹ hoán đổi danh
mục.
Trong giai đoạn này, các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động Việt Nam chủ yếu là
các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài, với số lượng quỹ tăng từ 4 quỹ năm 2002, lên
đến 36 quỹ vào năm 2006; việc tăng đột biến số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt
121
Nam trong giai đoạn này là do sự phát triển mạnh của thị trường chứng khoán Việt
Nam, khi hàng loạt các doanh nghiệp của nhà nước đã cổ phần hóa thành công, tiến
hành niêm yết và giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán; từ đó các quỹ đầu tư mạo
hiểm của nước ngoài nhận thấy cơ hội đầu tư, đã tiến hành đầu tư vào Việt Nam. Tuy
nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, dẫn đến nhiều quỹ đầu
tư mạo hiểm hoạt động thua lỗ, giải thể và rút khỏi Việt Nam, vì thế đến năm 2010, chỉ
còn 28 quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
60
56
50
40
36
28
30
20
10
4
0
2002
2006
2010
2015
Hình 4. 7. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam
Nguồn: Tổng hợp từ DealstreetAsia, ThomsonOne và Bộ khoa học và Công nghệ,
Startup.gov.vn, 2019
Giai đoạn 2015 - Nay
Trước năm 2015, tất cả các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động chính thức tại Việt
Nam là các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài, huy động vốn thông qua thị trường
quốc tế và Việt Nam để có vốn đầu tư. Trong giai đoạn này, một trong những quỹ đầu
tư mạo hiểm chính thức đầu tiên của Việt Nam là quỹ đầu tư FPT Ventures của Tập
đoàn FPT, được thành lập tháng 01/2015, với số vốn ban đầu 3 triệu USD. Mục tiêu
ban đầu của FPT Ventures là trở thành nơi hỗ trợ, ươm mầm cho các dự án khởi
nghiệp, thông qua việc hỗ trợ vốn, kinh nghiệm đầu tư, nguồn lực trong quá trình hình
thành và phát triển doanh nghiệp của các doanh nhân khởi nghiệp.
122
Trong giai đoạn 2015-nay, đánh dấu sự tăng trưởng mạnh về số lượng quỹ đầu
tư mạo hiểm nói chung và quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập nói riêng, từ
56 quỹ đầu tư mạo hiểm (năm 2015) đến 70 quỹ đầu tư mạo hiểm (tháng 9/2019). Lý
do của sự gia tăng về số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam trong thời gian qua
là do chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự quan tâm về mặt chính sách, thực hiện các
biện phát thúc đẩy sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam,
nhằm thu hút nguồn vốn phục vụ đầu tư mạo hiểm; vì thế khi nhận thấy các cơ hội đầu
tư thuận lơi như vậy, các quỹ đầu tư mạo hiểm đã nhanh chóng tận dụng cơ hội để
thành lập quỹ, thực hiện các kế hoạch đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.
4.2.2.2. Nguồn vốn đầu tư mạo hiểm
a. Giai đoạn 1990 - 2002
Về quy mô vốn đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn 1990-2002; trong giai đoạn
đầu, vốn đầu tư mạo hiểm do các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đổ vào Việt Nam
rất lớn, với 10 triệu USD trong năm 1991, sau đó tăng lên 247 triệu USD năm 1994; và
đến năm 1995 đạt ngưỡng cao nhất, với 303 triệu USD được huy động; thể hiện sự kỳ
vọng rất lớn của các nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường mới mở cửa Việt Nam.
Số vốn đầu tư mạo hiểm tham gia vào thị trường cũng gia tăng nhanh chóng,
đặc biệt giai đoạn 2002-2006, với số tiền huy động đạt 130 triệu USD năm 2002, tăng
lên 228 triệu USD năm 2004, đạt đỉnh điểm 2,3 tỷ USD năm 2006. Điều này phù hợp
với giai đoạn tăng trưởng của nền kinh tế, thể hiện sự lạc quan của các nhà đầu tư đối
với tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc biệt khi Việt Nam chuẩn bị gia
nhập WTO. Bên cạnh đó, do tác động của các chính sách khuyến khích cổ phần hóa,
tăng cường phát triển kinh tế tư nhân của Chính phủ, đồng thời sự ra đời của thị trường
chứng khoán Việt Nam vào năm 2000, đã tạo điều kiện rất lớn cho việc đầu tư, giao
dịch cổ phần của các doanh nghiệp, các đối tượng đầu tư trong giai đoạn này.
Trong các năm sau đó, dưới sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
năm 2008, các quỹ đầu tư mạo hiểm thu hẹp quy mô đầu tư, dẫn đến số vốn huy động
năm 2008 giảm xuống còn 574 triệu USD năm 2008, tuy nhiên sau đó số vốn đầu tư
mạo hiểm luôn duy trì đà tăng trưởng, với 741 triệu USD năm 2009; 956 triệu USD
năm 2010; 912 triệu USD năm 2012; đến năm 2015, vốn huy động từ các quỹ đầu tư
mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đạt 932 triệu USD.
123
Hình 4. 8. Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam giai đoạn 1990-2002
318
303
292
276
258
247
157
131
130
114
12
10
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Asia Venture Capital Journal, 2005
b. Giai đoạn 2002 – 2015
2300
956
932
1012 912
847
769
741
574
500
228
218
130
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2015
Hình 4. 9. Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, giai đoạn 2002-2015
Nguồn: Asia Venture Capital Journal, 2018
Giai đoạn 2015 – Nay
Đối với giai đoạn từ năm 2015-nay, tổng giá trị vốn đầu tư mạo hiểm vào Việt
Nam vẫn chưa có con số chính thức; tuy nhiên, vốn đầu tư mạo hiểm đổ vào lĩnh vực
khởi nghiệp, thành lập doanh nghiệp mới có sự gia tăng đáng kể, với 200 triệu USD
năm 2016; đến năm 2017, theo số liệu từ Topica Founder Institute, trong báo cáo
Vietnam Startup Deal 2017, có tới 92 dự án được cấp vốn từ vốn đầu tư mạo hiểm, với
tổng giá trị đạt 291 triệu USD. Trong số 291 triệu USD đầu tư trong năm 2017, riêng 6
dự án lớn đã chiếm 198 triệu USD. Thương vụ đầu tư đáng chú ý nhất là Sea Group
(Garena cũ) đầu tư vào Foody và 2 startup giấu tên khác với giá trị lần lượt là 64 và 50
triệu USD. Bên cạnh đó, số liệu từ Topica Founder Institute còn cho thấy, số tiền đầu
tư dưới 1 triệu USD chiếm tỷ trọng cao nhất (61 dự án), giá trị thấp nhất là số tiền đầu
124
tư nhận từ 10 đến 20 triệu USD (3 dự án); và số vốn đầu tư trên 20 triệu USD là 3 dự
án.
4.2.2.3. Lĩnh vực đầu tư mạo hiểm
Giai đoạn 1990 - 2002
Trong giai đoạn đầu đầu tư tại Việt Nam, các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài
tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như ngân hàng, mía đường, cơ điện, sản xuất nông
nghiệp, thực phẩm, phát triển du lịch, v.v… Ví dụ, Lazard Vietnam Fund đầu tư vào
nhà máy mía đường Nagarjuna (nay là NIVL), Công ty Cổ phần Cơ Điện lạnh REE,
v.v…
Nhìn chung, trong giai đoạn này, các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt
động tại Việt Nam còn thận trọng, do quá trình đổi mới của nền kinh tế Việt Nam mới
bắt đầu, vì thế những biến chuyển về kinh tế, môi trường đầu tư còn chưa rõ nét. Chính
điều này đã dẫn đến kết quả đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn này
còn nhiều hạn chế.
Giai đoạn 2002 – 2015
Do đặc thù quỹ đầu tư mạo hiểm là lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm, tiềm ẩn
nhiều rủi ro, mang tính chất bảo mật trong kinh doanh rất lớn, bởi chỉ cần bị đánh cắp
ý tưởng đầu tư, kinh doanh thì có thể sẽ bị đối thủ cạnh tranh với tiềm lực vốn và nhân
sự tốt hơn ra mắt sản phẩm tương tự, với chất lượng tốt hơn. Do đó, số liệu cụ thể về
lĩnh vực đầu tư, kinh doanh của các quỹ đầu tư là con số rất khó tiếp cận. Bên cạnh đó,
đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm thiên thần, hoặc quỹ đầu tư mạo hiểm dạng nhỏ, họ
không cung cấp số liệu cho công chúng, do thiếu cơ chế giám sát, bắt buộc công bố
thông tin, nên việc tiếp cận không hề dễ dàng; thậm chí có những quỹ sau một thời
gian rầm rộ huy động, quảng bá đầu tư thì đã không còn thấy hoạt động nữa, do đó
không thể lấy được số liệu. Do vậy, luận án này tập trung vào nghiên cứu số liệu của 4
quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất tại Việt Nam; do giả định của tác giả là các quỹ đầu tư
lớn này luôn phải chịu áp lực lợi nhuận từ các cổ đông, và có tiềm lực về vốn, nhân sự,
mối quan hệ, do vậy họ luôn đi trước xu hướng đầu tư mạo hiểm trong xã hội, để đón
đầu những xu thế đầu tư mới nhất, nhằm đạt được mức sinh lời cao nhất. Số liệu tiếp
cận của 4 quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất, nổi bật đang hoạt động tại Việt Nam, đó là:
Dragon Capital; Vinacapital; Mekong Capital và IDG Ventures Vietnam.
125
Quỹ đầu tư mạo hiểm Dragon Capial
Tại Việt Nam, Dragon Capital phân bổ vốn vào 4 quỹ đầu tư, đó là Vietnam
Enterprise Investment Limited (VEIL); Vienam Equity Fund (VEF); Vietnam Debt
Fund (VDeF) và Vietnam Property Fund (VPF). Trong đó, quỹ VEIL có danh mục đầu
tư bao gồm các cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán.
Ngân hàng Thực phẩm/ Đồ uống Bất động sản Nguyên vật liệu Phần mềm, IT/ Dịch vụ Năng lượng Tài chính đa dạng Dịch vụ tiện ích Vận tải Y tế/ Dược Khác
Bảng 4. 7. Cơ cấu đầu tư của VEIL trong năm 2005, 2015
Năm 2005 Năm 2015 19.70% 21.20% 20.10% 10.00% 6.50% 0.00% 8.00% 2.00% 0.00% 1.90% 10.60%
24.00% 15.00% 6.00% 8.00% 7.00% 4.00% 4.00% 0.00% 7.00% 0.00% 25.00%
Nguồn: Báo cáo thường niên Dragoncapital (2005, 2015)
Như thấy ở Bảng 4.7, cơ cấu đầu tư của VEIL trong giai đoạn 2005-2015 có sự
thay đổi đáng kể (do tại thời điểm 2002, số liệu thu thập tại quỹ này không sẵn có). Tại
năm 2015, đầu tư vào lĩnh vực Ngân hàng của VEIL chiếm tỷ trọng cao nhất (với
24%), tiếp đến là lĩnh vực Thực phẩm/ Đồ uống (15%), kế đến là nhóm ngành Nguyên
vật liệu (8%) và Phần mềm, IT, dịch vụ phần mềm (chiếm 7%). Trải qua 10 năm đầu
tư, danh mục của VEIL chiếm 3 nhóm ngành với tỷ trọng đầu tư cao nhất, đó là Thực
phẩm/ Đồ uống (21,2%); Bất động sản (20,1% - so với 2005 chỉ chiếm 6%); Ngân
hàng (19,7%); trong khi đó, nhóm ngành Phần mềm, IT, dịch vụ phần mềm đã giảm
xuống 6,5%; cá biệt có nhóm ngành Năng lượng đã thoái vốn hết (so với 4% năm
2005), tương tự đối với lĩnh vực vận tải (so với 7% năm 2005).
Quỹ đầu tư mạo hiểm VinaCapital
VinaCapital được thành lập năm 2003, là một trong những quỹ đầu tư mạo
hiểm đầu tiên tại Việt Nam, với số vốn đầu tư lên đến 1.8tỷ USD. Hiện nay, danh mục
quỹ đầu tư của Vinacapital bao gồm hai nhóm quỹ dạng mở và quỹ dạng đóng; trong
đó: (1) Quỹ đầu tư dạng mở bao gồm: Forum One – VCG Partners Vietnam Fund
(VVF); VinaWealth Enhanced Fixed Income Fund (VFF); VinaWealth Equity
Opportunity Fund (VEOF); và Vietnam Equity Special Access Fund (VESAF); (2)
126
Quỹ đầu tư dạng đóng bao gồm: Vietnam Opportunity Fund (VOF); Vinaland Fund
(VNL); Vietnam Infrastructure Fund (VNI) và DFJ VinaCapital (DFJV). Trong đó,
VinaCapital Vietnam Opportunity Fund (VOF) được xem là quỹ đầu tư lớn nhất của
VinaCapital, có giá trị NAV đạt 1,15 tỷ USD (tính đến 12/2017), chiếm hơn nửa giá trị
tài sản của VinaCapital.
Bảng 4.8 cho thấy, trong giai đoạn 2006-2015, cơ cấu phân bổ tài sản đầu tư
của VOF có sự thay đổi lớn, đặc biệt nhóm ngành cổ phiếu chưa niêm yết (do dữ liệu
năm 2002 không sẵn có để thu thập). Trong năm 2006, phần lớn tài sản của VOF đầu
tư vào các doanh nghiệp đã niêm yết (chiếm tỷ trọng 33%), các cổ phiếu giao dịch trên
thị trường OTC (chiếm 25%); trong khi đó chỉ đầu tư khoảng 7% vào vốn cổ phần của
các công ty nhỏ (đến năm 2015, tỷ trọng giảm xuống chỉ còn 3,4%); trong khi đó, tỷ
trọng đầu tư vào cổ phiếu đã niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam tăng lên
52,4%; trên thị trường OTC giảm xuống chỉ còn 4,9%; lĩnh vực bất động sản tăng lên
13,8% (so với 8% năm 2006).
OTC Niêm yết Trái phiếu Vốn cổ phần Bất động sản Tiền Khác
Bảng 4. 8. Phân bổ tài sản đầu tư của Vietnam Opportunity Fund (VOF) (2006-2015) Năm 2006 25.00% 33.00% 2.00% 7.00% 8.00% 20.00% 5.00%
Năm 2015 4.90% 52.40% 0.00% 3.40% 13.80% 2.70% 22.80% Nguồn: Báo cáo thường niên của VOF (2006 -2015)
Ngoài ra, nếu xét theo nhóm ngành đầu tư, VOF chủ yếu chú trọng vào lĩnh vực
Thực phẩm/ Đồ uống (30% năm 2006), Tài sản/ Bất động sản (14% năm 2006) và lĩnh
vực thương mại (12% năm 2006).
Quỹ đầu tư mạo hiểm Mekong Capital
Mekong Capital bắt đầu vào Việt Nam từ năm 2001, với 4 quỹ đầu tư đó là:
Quỹ Mekong Enterprise Fund; Quỹ Mekong Enterprise Fund II; Quỹ Mekong
Enterprise Fund III và Quỹ Vietnam Azalea Fund.
Trong giai đoạn 2002-2015, chủ yếu các quỹ đầu tư của thuộc Mekong Capital
đầu tư trong lĩnh vực Y tế/ Dược phẩm (như Traphaco), Bất động sản, Kinh doanh
thực phẩm; Khách sạn, v.v… Tuy nhiên trong giai đoạn này, các quỹ đầu tư mạo hiểm
127
của Mekong Capital đã có sự đầu tư vào một số công ty thuộc lĩnh vực máy tính, công
nghệ cao như Tập đoàn FPT, Công ty Cổ phần Thông minh MK, Công ty cổ phần Thế
giới số, v.v…
Bảng 4. 9. Danh mục đầu tư tại các quỹ đầu tư mạo hiểm thuộc Mekong Capital
(2002-2015)
Quỹ MEKONG
QUỸ MEKONG
Quỹ VIETNAM AZALEA FUND
ENTERPRISE FUND II
ENTERPRISE FUND
THỜI
THỜI
THỜI
GHI
CÔNG
GHI
CÔNG
GHI
GIAN
CÔNG TY
GIAN
GIAN
ĐẦU
CHÚ
TY
CHÚ
TY
CHÚ
ĐẦU TƯ
ĐẦU TƯ
TƯ
Công ty
Công ty
chuyên
duy nhất
sản
sản xuất
xuất,
Công ty
Bán cho
và cung
tiếp thị
cổ phần
Công
ty
12/2007-
cấp các
03/2003-
một quỹ
và phân
CTCP Traphaco
12/2007
thông
cổ phần
09/2013
sản
10/2011
đầu
tư
phối
minh
AA (AA)
khác
phẩm
đông
MK
thẻ
tại
dược
Việt
của
Nam
Việt
Nam
Công ty
phân
phối và
sản
Thoái
Công ty
xuất
vốn cho
Tập đoàn Lộc
thuốc
cổ phần
Saigon
2002-
12/2008
05/2007
Tập đoàn
Trời
Gas
12/2008
bảo vệ
Thế giới
Dầu khí
thực vật
Di động
Total
hàng
đầu
Việt
Nam
Nhà sản
Trường
Hệ
Công
ty
Công
ty
Công ty cổ phần
xuất và
Dân lập
thống
cổ phần
06/2004-
sản xuất
Vàng bạc đá quý
12/2007
04/2010
bán
lẻ
quốc tế
trường
sản xuất
08/2012
đồ chơi
Phú Nhật
trang
Việt Úc
song
và
bằng gỗ
sức lớn
(VAS)
thương
ngữ
cho
trẻ
mại Nam
hàng
em từ độ
nhất
đầu Việt
Hoa
tuổi 1-10
Việt
Nam
Nam
Công
ty
Công ty
cung cấp
Công ty
sản
dịch vụ
kinh
Công
ty
xuất
Công ty cổ phần
Công ty
IT
cho
05/2009-
nước
04/2008-
doanh
cổ phần
07/2003-
thực
phẩm
Golden
các
11/2010
chấm,
04/2014
về chuỗi
Tin học
04/2012
Masan
Gate
doanh
Lạc Việt
nhà
gia
vị
nghiệp
hàng
và mì
vừa
và
ăn liền
nhỏ
Bán cho
đối
tác
Công ty
Marico,
trong
Công ty
Ltd,
lĩnh vực
hàng gia
Công
ty
10/2006-
công
ty
12/2005-
kỹ thuật
Tập đoàn FPT
2011
dụng
cổ phần
02/2011
ngành
2012
và công
quốc tế
Goldsun
hàng
nghệ
(ICP)
tiêu
thông
dùng Ấn
tin
Độ
Toàn bộ
Công ty
Công ty
số
cổ
cổ phần
Công ty
Công
ty
phát
phiếu
Tập đoàn Nam
Dây
04/2004-
sản xuất
In ấn bao
11/2004-
được bán
triển
2010
Long
nhà
ở
điện
từ
10/2013
dây điện
bì Minh
02/2011
cho một
từ
Phúc
vừa túi
Ngô
nhà đầu
tiền
Han
tư Việt
Nam
Đây
là
Công ty
khoản
hoạt
đầu
tư
động
Công ty
Công
ty
Công ty
đầu
tiên
trong
phân
cổ phần
lĩnh vực
cổ phần
12/2008-
03/2003-
của
INTRESCO
2008
phối
Nhựa
xây
Thế giới
09/2013
08/2009
Mekong
thiết bị
Tân Đại
dựng,
số
Capital
máy tính
Hưng
tại Việt
phát
Nam. Đã
triển,
đưa công
kinh
128
doanh
ty
này
và cho
niêm yết
thuê
thành
căn hộ
công vào
và các
11/2007
dự
án
bất
động
sản
thương
mại
129
Nguồn: mekongcapital.com
Quỹ đầu tư IDG Ventures Vietnam, bắt đầu vào Việt Nam đầu tư từ năm 2004,
với số vốn đầu tư ban đầu khoảng 100 triệu USD. Quỹ đầu tư này tập trung vào 4 lĩnh
vực đầu tư chủ yếu: Công nghệ thông tin và truyền thông; Phương tiện truyền thông và
giải trí; Công nghệ - Kinh doanh và; Cơ sở hạ tầng người tiêu dùng.
Bảng 4. 10. Danh mục đầu tư của IDG Ventures Vietnam giai đoạn 2002-201522 Tên viết tắt
Tên đầy đủ
Ghi chú
Năm đầu tư 2006 2007 Sở hữu Ciao, ACC, Dore 2006
YAN VSMC VinaPay
Yeu Am Nhac Vietnam Social Media Corp Vietnam Payment Technology Jsc Vinagame Jsc Vinabook.com Vietstock Jsc
Vega Technology Jsc
2004 2004 2005 2005 Thoái vốn năm 2006 2006
VNG Vinabook VietStock Vietnamworks Vietnamworks Vega Technology VC CORP
2012 Kenh14, Afamily, GameK,
Vietnam Communication Corporation
Soha, CafeF, Muachung, Muare, Rongbay, Enbac, Sohaphim, Sohatv, Sannhac, Admicro
Vatgia Tamtay.vn Socbay Punch PeaceSoft
Vina Price Jsc Tam tay Jsc Nais Corp Punch Entertainment Inc Peacesorf Solution Corp
2007 2008 2006 2005 2005 Chodientu, Ebay.vn, Adnet,
San OTC
OTC Vietnam Jsc
Nganluong
2006
22 Nguồn thông tin thu được từ website http://idgvv.com.vn/en/portfolios
MX Payment Online Jsc
130
2007 2007 VietAd, Nghenhac.info,
iSphere Hocmai.vn
iSphere Software Ltd Education Services and Investment Jsc Goldsun Focus Media
Anhso.net 2004 Cyworld Vietnam 2007 Tintuc.hocmai.vn, Đienan.hocmai.vn
2006
Goldsun Focus Media GES EPI
Global Equipment Services Corp EPI Technologies Jsc
2006 2006 Baomoi.com, Raovat123,
Vn-Zoom
Humara Jsc
DreamViet Dia Oc Online Dia Oc Online Corp
2008 Aha, Denthan 2007 DiaOcOnline, DiaOc.tv,
ROL.vn, Map.DiaOcOnline.vn
Dang Ho Jsc Apollo Vietnam
2007 Cyvee, Vietladdrers 2008
Cyvee Apollo Vietnam
MX MORRE CORP MORRE CORP
Nguồn: IDG Ventures Vietnam, 2019
Từ Bảng 4.10 cho thấy, trong giai đoạn trước 2015, danh mục đầu tư của IDG
Ventures Vietnam tập trung trong các lĩnh vực giải trí, giáo dục, công nghệ thông tin,
đầu tư – tài chính. Với danh mục đầu tư như trên, cho đến hiện nay, các doanh nghiệp
cho đến nay vẫn hoạt động hiệu quả, trở thành những địa chỉ tin cậy của cộng đồng
đầu tư, người sử dụng tại Việt Nam.
c. Giai đoạn 2015 – Nay
Theo Thomson Reuters (2016), hiện nay Việt Nam thu hút các nhà đầu tư mạo
hiểm chủ yếu ở các lĩnh vực như (i) nhóm các sản phẩm ngành hàng tiêu dùng; (ii)
nhóm công nghệ cao, truyền thông; (iii) nhóm thương mại điện tử; (iv) nhóm thực
phẩm, đồ uống; (v) nhóm doanh nghiệp quảng cáo; (vi) nhóm đầu tư vào nguồn nhân
lực. Đặc biệt, với sự hỗ trợ về mặt chính sách của chính phủ Việt Nam như ban hành
Nghị định 60/2015/NĐ-CP vào tháng 6/2015 cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu
tư nước ngoài từ 49% lên 100%; hay việc Việt Nam tích cực tham gia các hiệp định
thương mại song phương và đa phương, mở ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư khi đầu
tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế. Địa phương được các nhà đầu tư mạo hiểm rót vốn
nhiều nhất bao gồm các thành phố: Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm VEIL của Dragon Capital, so với giai đoạn 2005-
2015, tỷ trọng đầu tư của quỹ này vẫn tiếp tục duy trì lớn vào ba lĩnh vực: ngân hàng,
thực phẩm/ đồ uống, bất động sản.
131
Ngân hàng Thực phẩm/ Đồ uống Bất động sản Nguyên vật liệu Phần mềm, IT/ Dịch vụ Năng lượng Tài chính đa dạng Dịch vụ tiện ích Vận tải Y tế/ Dược Khác
Bảng 4. 11. Tỷ trọng đầu tư của VEIL, năm 2016 và 2018
Năm 2016 Năm 2018 21.75% 15.24% 27.97% 5.00% 1.00% 8.89% 4.77% 2.42% 3.68% 1.02% 8.26%
15.20% 17.70% 17.70% 10.00% 6.00% 7.20% 4.20% 6.80% 7.70% 1.30% 6.20%
Nguồn: Báo cáo thường niêm VEIL (2016-2018)
Trong khi đó, lĩnh vực phần mềm, IT/ Dịch vụ đã giảm xuống đáng kể, từ 6%
năm 2016 xuống còn 1% năm 2018. Các lĩnh vực khác cũng chứng kiến giảm tỷ trọng
đầu tư vào như ngành nguyên vật liệu, dịch vụ tiện ích, giao thông vận tải, hay y tế/
dược phầm.
Đối với quỹ đầu tư VOF của VinaCapital, có thể nhận thấy sự dịch chuyển đáng
kể về danh mục đầu tư của quỹ trong giai đoạn này. Tỷ trọng đầu tư vào các công ty
niêm yết đã tăng trên 66% tổng giá trị tài sản của quỹ; danh mục đầu tư vào các cổ
phiếu đang dược giao dịch trên thị trường OTC cũng gia tăng đáng kể qua 3 năm, với
8,4% năm 2016, tăng lên trên hai lần, đạt 19,4% năm.
Đặc biệt, tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực bất động sản giảm xuống đáng kể, còn
3,2% (so với 8,2% năm 2016), trong khi đó đầu tư vào vốn cổ phần ở nước ngoài, và
vào tài sản vận hành/ hoạt động đã được thoái vốn hoàn toàn vào năm 2018. Như vậy,
giai đoạn này VOF đã tập trung mạnh đầu tư vào các công ty đang niêm yết trên sở
giao dịch chứng khoán ở Việt Nam.
Đối với các quỹ đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm Mekong Capital, hiện nay còn
quỹ đầu tư Mekong Enterprise Fund III là có danh mục đầu tư hoạt động tích cực nhất,
còn 3 quỹ còn lại hoặc thoái vốn gần hết, hoặc không gia tăng danh mục đầu tư mà chỉ
duy trì những công ty đã đầu tư từ giai đoạn trước.
Niêm yết OTC
Bảng 4. 12. Tỷ trọng đầu tư của VOF
Năm 2016 Năm 2018 66.10% 19.40%
47.90% 8.40%
Vốn cổ phần
11.40%
10.80%
Bất động sản Vốn cổ phần ở nước ngoài
8.20% 3.00%
3.20% 0.00%
Tài sản vận hành/ hoạt động
9.20%
0.00%
Tiền mặt và Khác
11.90%
0.50%
132
Nguồn: Báo cáo thường niêm VOF (2016-2018)
Bảng 4. 13. Danh mục đầu tư của Quỹ Mekong Enterprise Fund III hiện nay
TÊN CÔNG TY
GIỚI THIỆU CÔNG TY
Lĩnh vực
Trung tâm YOLA
NĂM ĐẦU TƯ 8/2017
Giáo dục
05/2017
YOLA được thành lập từ 2009. Công ty tập trung vài tiếng anh học thuật: TOEFL, IELTS, SAT, SSAT, GMAT/GRE Thành lập năm 2014, Nhat Tin Logistics là đơn vị cung cấp dịch vụ bưu chính
Logistic
Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại phát triển Nhất Tín (Nhat Tin logistics)
05/2017
Vàng bạc đá quý
Công ty cổ phần Vàng bạc đá quý Bến Thành và PRECITA
03/2016
Công ty cổ phần Chảo Đỏ
Thực phẩm
01/2017
Công ty cổ phần Đầu tư F88
Thành lập từ năm 1987, BJT là thành viên của Bến Thành Group - là một trong những công ty vàng bạc đá quý lâu đời nhất Việt Nam Thành lập năm 2006, kinh doanh các món ăn truyền thống lành mạnh ở Việt Nam Thương hiệu F88 ra đời từ năm 2013, đi tiên phong trong việc chuyên nghiệp hóa mô hình cầm đồ tại Việt Nam
N/A
Công ty cổ phần Giải pháp thương mại ABA
ABA là nhà cung cấp dịch vụ và giải pháp vận chuyển bảo quản nhiệt độ tại Việt Nam
Tài chính Logistic
Nguồn: mekongcapital.com, 2018
Trong khi đó, quỹ đầu tư IDG Ventures Vietnam, bắt đầu vào Việt Nam đầu tư
từ năm 2004, với số vốn đầu tư ban đầu khoảng 100 triệu USD. Quỹ đầu tư này tập
trung vào 4 lĩnh vực đầu tư chủ yếu: Công nghệ thông tin và truyền thông; Phương
tiện truyền thông và giải trí; Công nghệ - Kinh doanh; Cơ sở hạ tầng người tiêu dùng.
133
Bảng 4. 14. Danh mục đầu tư của IDG Ventures Vietnam
Công nghệ thông
Phương tiện truyền
Công nghệ - Kinh
Cơ sở hạ tầng
tin
thông và giải trí
doanh
người tiêu dùng
và truyền thông
* GES
* Moore Corp
* WebTreTho
* Vinapay
* VC Corp
* YeuAmNhac Group
* Vinabook
* Socbay
* Apollo Vietnam
* Vega Tech
* VietStock
* Dia Diem JSC
* PYCO Group
* TV Plus
* Vatgia
* MX
* TinhVan Media
* OTC Vietnam
* DreamViet
* MSS
* Punch
* Tamtay JSC
* PeaceSoft
* Mobivox
* Rubicon
* Muaban JSC
* Goldsun Focus Media
* Hocmai.vn
* FBNC
* DiaOc Online
* Isphere Soft
* San Pham Viet
* Vinagame
* Minh Dat Viet
* VSMC
* EPI
* DMS Group
* Yeu The Thao
* Magnet
* Cyvee
Nguồn: idgvv.com.vn, 2018
Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập tại Việt Nam, tích cực tham
gia đầu tư, giải ngân vốn nhất là hai quỹ FPT Ventures và quỹ Tăng tốc khởi nghiệp
Việt Nam (VIISA); còn các quỹ đầu tư khác thường nhắm đến các lĩnh vực cụ thể ở
địa phương quỹ được thành lập, lại có hạn chế về vốn đầu tư, như quỹ Khởi nghiệp
Bình Phước (11 tỷ), quỹ Đầu tư khởi nghiệp và sáng tạo TP. Hồ Chí Minh (vốn cam
kết 100 tỷ đồng); quỹ khởi nghiệp doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam (5,2
tỷ).
Ngoài ra, danh mục đầu tư cùa FPT Ventures và VIISA chủ yếu tập trung vào các
công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin, như các công ty liên quan đến
bảo mật dữ liệu khách hàng, chống phần mềm gián điệp, truyền thông, quảng cáo; hay
các công ty liên quan đến vấn đề chăm sóc sức khỏe, thực phẩm chất lượng cao, v.v…
Như vậy, có thể thấy lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành
lập trong những năm gần đây chủ yếu tập trung vào các công ty khởi nghiệp, trong
134
lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ thông tin, công nghệ mới, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, v.v… khác biệt rất lớn so với các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đang hoạt
động tại Việt Nam, khi rất nhiều quỹ tập trung đầu tư vào các công ty đã trưởng thành,
được niêm yết và giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán. Chính danh mục đầu tư này
phản ánh đúng bản chất của quỹ đầu tư mạo hiểm, đó là nhắm tới các lĩnh vực tạo ra
giá trị gia tăng cao, dựa trên nền tảng của khoa học công nghệ.
Bảng 4. 15. Lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập tại Việt Nam
Lĩnh vực
Tên quỹ đầu tư mạo hiểm
Ghi chú
Tập trung vào các doanh nghiệp khởi nghiệp
Công nghệ thông tin và viễn thông, công nghệ mới
Tập trung vào các doanh nghiệp khởi nghiệp
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đa lĩnh vực
Nghiên cứu khoa học
Quỹ sáng tạo CMC (50 tỷ đồng) Quỹ tăng tốc khởi nghiệp Việt Nam (VIISA–8 triệu đô la Mỹ) Quỹ đầu tư phát triển thành phố Đà Nẵng (DDIF) FPT Venture Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF – 1000 tỷ đồng) Quỹ khởi nghiệp doanh nghiệp khoa học công nghệ Việt Nam (SVF) Quỹ phát triển khoa học và công nghệ Đinh Tiên Hoàng Quỹ Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp (30 tỷ đồng) Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF) Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp Quỹ đầu tư thịnh vượng mới Quỹ đầu tư mạo hiểm VSV Venture Fund Quỹ Khởi nghiệp Bình Phước quỹ Đầu tư khởi nghiệp và sáng tạo TP. Hồ Chí Minh Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED)
Nhắm tới các trường đại học, viện nghiên cứu, các nhà khoa học trẻ, tập thể nghiên cứu
Nguồn: Tác giả tổng hợp
4.2.2.4. Kết quả đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm
a. Giai đoạn 1990 - 2002
Trái với kỳ vọng ban đầu của các nhà đầu tư mạo hiểm nước ngoài tại thị
trường Việt Nam, kết quả hoạt động kinh doanh không được như dự kiến. Các quỹ đầu
135
tư mạo hiểm lần lượt thoái vốn, giảm tỷ trọng đầu tư tại các dự án, thậm chí hoàn trả
lại phần vốn chưa giải ngân hết cho các nhà đầu tư góp vốn ban đầu; cụ thể:
Đối với hai quỹ đầu tư mạo hiểm Lazard Vietnam Fund và Templeton Vietnam
Fund, hai quỹ này đã rời bỏ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam ngay trong giai đoạn đầu;
mục tiêu ban đầu là hai quỹ này chỉ tập trung vào các dự án lớn, với kỳ vọng mức sinh
lời cao, tuy nhiên, thực tế chỉ có thể giải ngân được một số dự án nhỏ. Sau đó hai quỹ
này đã phải thoái vốn tại các công ty đã đầu tư tại Việt Nam, chuyển hướng sang một
số quốc gia Đông Nam Á khác; đơn cử Lazard Vietnam Fund đã phải bán cho quỹ đầu
tư mạo hiểm Dragon Capital phần vốn đã đầu tư mía đường liên doanh với Nagarjuna
(trị giá 6,5 triệu USD), và 6,6% vốn tại REE (trị giá 1 triệu USD).
Đối với quỹ đầu tư Frontier Vietnam Fund, mặc dù đã giải ngân được trên 70%
vốn huy động (37,3/ 53,1 triệu USD); tuy nhiên sau quá trình đầu tư không hiệu quả,
đã thoái hết phần vốn đầu tư (khoảng 30 triệu USD) vào tháng 7/2004 để đóng cửa và
giải thể quỹ.
Đối với quỹ đầu tư Vietnam Fund, mặc dù là quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài
có mặt đầu tiên tại Việt Nam, tuy nhiên hiệu quả đầu tư không được như ý muốn. Đến
thời điểm cuối năm 1998, quỹ đã giải ngân trên 75% vốn huy động (41,04/54,38 triệu
USD), tuy nhiên kết quả đầu tư không được khả quan, nên quỹ đã trả lại phần lớn số
tiền chưa giải ngân đầu tư, nhằm tiết kiệm chi phí quản lý của quỹ.
Đối với quỹ Vietnam Enterprise Investment Ltd do Công ty quản lý quỹ đầu tư
mạo hiểm Dragon Capital quản lý, là quỹ đầu tư mạo hiểm duy nhất được thành lập
trong giai đoạn này còn tồn tại đến hiện nay; với giá trị tài sản ròng hiện nay đạt
khoảng 1,5 tỷ USD (tháng 3/2019)
Như vậy, trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại
Việt Nam, chỉ có các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư, tuy
nhiên kết quả đầu tư không thành công, đã lần lượt thoái vốn, rút khỏi thị trường Việt
Nam. Theo quan điểm của luận án, trong giai đoạn này thị trường kinh doanh, đầu tư
tại Việt Nam còn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu, bởi hình thức đầu tư tư nhân còn
khá mới mẻ, các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong hệ thống sản xuất,
phân phối tại Việt Nam. Mặc dù từ đầu năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng (hiện nay là
Chính phủ) đã ra Quyết định Số 143/HĐBT ngày 10/5/1990, nhằm lựa chọn ra một số
doanh nghiệp nhỏ và vừa để thử chuyển đổi thành công ty cổ phần; tiếp sau đó là các
136
Nghị định 28/CP (ngày 7/5/1996), Nghị định 44/1998/NĐ-CP (ngày 29/6/1998). Kết
quả là trong năm 1990-1991 chỉ có 2 doanh nghiệp được cổ phần hóa thành công; đến
tháng 4/1996, tổng số chỉ có 7 doanh nghiệp được cổ phần hóa; đến cuối năm 2001, cả
nước có 548 doanh nghiệp được cổ phần hóa.
b. Giai đoạn 2002 – 2015
Quỹ đầu tư mạo hiểm, với đặc tính thời gian đầu tư dài hạn, vào các dự án đầu
tư mạo hiểm, trong lĩnh vực công nghệ cao, hoặc các công ty mới thành lập, thường
trước giai đoạn phát hành cổ phần ra công chúng (IPO), nhằm đạt được tỷ suất sinh lời
cao nhất. Tuy nhiên thực tế cho thấy, hai quỹ đầu tư VEIL và VOF thường tập trung
đầu tư vào các công ty đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam; chính vì
vậy, quá trình thu thập số liệu về kết quả hoạt động kinh doanh của hai quỹ này có
phần đơn giản hơn, do định kỳ hàng quý/ năm, quỹ dễ dàng tổng hợp và công bố giá trị
tài sản ròng (NAV) của các khoản mục quỹ đã và đang đầu tư.
Tại Bảng 4.14 cho thấy, giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF có sự tăng trưởng
đáng kể tại năm 2015 so với năm 2005. Tại giai đoạn đầu của giai đoạn nghiên cứu,
giá trị NAV của VEIL đạt 184,61 triệu USD, lên đến đỉnh điểm vòa năm 2007, với giá
trị trên 900 triệu USD; đây đồng thời là giai đoạn thị trường chứng khoán Việt Nam
đạt mức tăng trưởng cao nhất, với chỉ số Vn-index đạt trên 1000 điểm, chính vì vậy,
giá trị tài sản ròng của danh mục tài sản VEIL nắm giữ có giá trị cao. Tương tự như
vậy, với quỹ VOF, với số liệu NAV năm 2005 đạt 76 triệu USD, giá trị tài sản ròng
của quỹ cũng đạt đỉnh điểm 822 triệu USD vào năm 2007, giai đoạn rất khởi sắc của
thị trường chứng khoán niêm yết tại Việt Nam. Sang các năm sau đó, với sự sụt giảm
chung của nền kinh tế toàn cầu, giá trị tải sản ròng của VEIL giảm xuống còn 330,13
triệu USD năm 2011, sau đó tăng dần lên, đạt 512,86 triệu USD năm 2014, và 792,65
triệu USD vào năm 2015; đối với quỹ VOF, các con số tương ứng là 752 triệu USD,
779 triệu USD và 718,7 triệu USD.
Nếu xét tốc độ tăng trưởng giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF, so với các chỉ
số chung trên thị trường như Vn-index, Hnx-index, VN30, nhận thấy VEIL có tốc độ
tăng trưởng NAV vượt trội hơn so với các chỉ số chung của thị trường; trong khi NAV
của VOF có tốc độ tăng thấp hơn so với các chỉ số còn lại. Cụ thể, năm 2006, NAV
của VEIL tăng 181,46% (của VOF là 240,79%), so với VN-index là 144,46%, của
137
Hnx-index là 167,66%; tại năm 2012, NAV của VEIL đạt 21,63% (của VOF là
1,81%), của VN-index đạt 17,69%, của Hnx-index giảm 0,9%; đến năm 2015, NAV
của VEIL tăng 54,52% (của VOF giảm 7,74%), trong khi Vn-index tăng 6,12%, Hnx-
index giảm 3,65%, VN30 tăng 0,74%.
Bảng 4. 16. Giá trị giá trị tài sản ròng (NAV) của VEIL và VOF
2006
2005
2011
2014
2008
2012
2009
2007
2013
2010
2015 VEIL 184.61 519.61 901.23 365.01 435.36 419.02 330.13 401.55 473.54 512.96 792.65 76.00 259.00 822.00 669.00 682.00 783.00 752.00 765.60 752.40 779.00 718.70 VOF
giai đoạn 2005-201523 (Đơn vị: Triệu USD)
Nguồn: Báo cáo thường niêm VEIL, VOF (2005-2015)
Bảng 4. 17. Tốc độ tăng trưởng NAV của VEIL và VOF
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
VEIL
181.46%
73.44%
-59.50% 19.27%
-3.75%
-21.21% 21.63% 17.93%
8.33% 54.52%
VOF
240.79% 217.37%
-18.61%
1.94%
14.81%
-3.96%
1.81%
-1.72%
3.54%
-7.74%
Vn-index
144.46%
23.32%
-65.95% 56.76%
-2.04%
-27.46% 17.69% 16.49% 13.21%
6.12%
Hnx-index 167.66%
32.94%
-67.41% 51.85%
-29.47%
-48.99%
-0.90% 17.27% 23.94%
-3.65%
VN30
N/A
N/A
N/A
N/A
N/A
N/A
8.47% 34.37%
-9.36%
0.74%
so với một số chỉ số chứng khoán tại Việt Nam
Nguồn: Báo cáo thường niêm VEIL, VOF (2006-2015); www.hnx.vn; www.hsx.vn
Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm Mekong Capital, với ba quỹ chủ lực là Vietnam
Azalea Fund, Mekong Enterprise Fund, Mekong Enterprise Fund II, trong giai đoạn
2002-2015, đã tham gia đầu tư nhiều dự án, và đã bắt đầu thoái vốn một trong số đó, ví
dụ đã thoái vốn tại Công ty cổ phần Thông minh MK (2007-2013); Công ty cổ phần
AA (2003-2011); Saigon Gas (2002-2008), Công ty cổ phần Goldsun (2005-2012),
v.v… đặc biệt, công ty cổ phần Nhựa Đại Hưng, là công ty đầu tiên Mekong Capital
tham gia đầu tư vào Việt Nam (từ 2003), đã đưa công ty này niêm yết thành công vào
năm 2007.
Riêng với quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Venture, với danh mục đầu tư chủ yếu vào
các công ty chưa niêm yết (Bảng 4.10), vì thế trong giai đoạn này, chủ yếu vẫn đang
trong quá trình giải ngân, vì thế theo số liệu luận án thu thập được, chưa có ghi nhận
lợi nhuận trong giai đoạn này.
23 Do dữ liệu từ 2002 đến 2014 không sẵn có để thu thập
138
c. Giai đoạn 2015 – Nay
Trong giai đoạn 2016-2018, các quỹ đầu tư mạo hiểm VEIL và VOF đã có các
mức tăng trưởng cao, ổn định. Giá trị tài sản ròng qua các năm có sự tăng trưởng đáng
ghi nhận. Cụ thể, năm 2016 NAV của VEIL đạt 969,84 triệu USD (của VOF là 786,54
triệu USD); đến năm 2018, giá trị tài sản ròng mà hai quỹ đầu tư này nắm giữ đã tăng
lên trên 1,4 tỷ USD (quỹ VEIL), và trên 1 tỷ USD (quỹ VOF).
2017
2018 2016 VEIL (Triệu USD) 969.84 1,272.33 1,429.47 949.68 1,043.43 VOF (Triệu USD) 786.54
Bảng 4. 18. Giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF
Nguồn: Báo cáo thường niêm VEIL, VOF (2016-2018)
Khi so sánh tốc độ tăng trưởng của các chỉ số chứng khoán trên thị trường, kết
quả đầu tư của VEIL và VOF đã duy trì được tốc độ tăng trưởng tốt, năm với 22,35%
(VEIL), 9,44% (VOF) so với Vn-index là 14,82%, Hnx-index là 0,2% và VN30 là
5,48%; đến năm 2018, khi toàn bộ các chỉ số của thị trường chứng kiến đà sụt giảm,
với 9,32% của Vn-index, 10,81% của Hnx-index và 12,36% của VN30; thì giá trị tổng
tài sản ròng của VEIL đã tăng 12,35%; của VOF tăng 9,87%. Điều này cho thấy, mặc
dù điều kiện chung của toàn thị trường sụt giảm, nhưng hai quỹ đầu tư trên vẫn rất linh
hoạt trong quá trình đầu tư, nhằm bảo vệ lợi nhuận của mình một cách vững chắc.
Với các quỹ đầu tư của Mekong Capital, trong giai đoạn 2015 trở lại đây đã tiến
hành thoái vốn tại nhiều công ty, khi kết thúc giai đoạn đầu tư, hoặc đã đạt được mức
sinh lời kỳ vọng; như thoái vốn tại Công ty cổ phần Traphaco (năm 2017 – thu về 65
triệu USD lợi nhuận), Tập đoàn Lộc Trời (năm 2017 – đạt IRR 18,7%; lợi nhuận 3,6
lần vốn đầu tư), Công ty cổ phần Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (2016), Công ty cổ phần
Thế giới di động (năm 2018 – đạt tỷ suất lợi nhuận 57 lần), trường Dân lập Quốc tế
Việt – Úc (năm 2017), Tập đoàn FPT (năm 2016), Tập đoàn Nam Long (năm 2016),
Công ty cổ phần đầu tư – kinh doanh nhà (Intresco – năm 2016).
Riêng đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập; do đặc thù mới
huy động vốn và đang trong quá trình giải ngân vào các dự án đầu tư mạo hiểm, vì thế
tới thời điểm này chưa có kết quả ghi nhận lợi nhuận đạt được từ quá trình đầu tư. Tuy
nhiên có thể dễ thấy có rất nhiều doanh nghiệp đang được đầu tư, đã có doanh thu, nổi
tiếng trên thị trường như ứng dụng cung cấp giải pháp tập luyện fitness mới tại Việt
139
Nam Wefit; trang mua sắm trực tuyến Sen Đỏ; công ty an ninh mạng Security Box
(chuyên cung cấp dịch vụ bảo mật cho EVN, OnePay, Garena, VegaCoporation,
v.v…), công ty dịch vụ học trực tuyến Ella, v.v…
VEIL Tổng Tài sản (USD) VOF - Tổng tài sản (USD) Vnindex Hnx-index Vn30
2016 22.35% 9.44% 14.82% 0.20% 5.48%
2017 31.19% 20.74% 48.03% 45.87% 55.29%
2018 12.35% 9.87% -9.32% -10.81% -12.36%
Bảng 4. 19. Tốc độ tăng trưởng giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF
Nguồn: Báo cáo thường niên VEIL, VOF (2016-2018); www.hnx.vn; www.hsx.vn
4.3. Kết quả khảo sát nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư
mạo hiểm ở Việt Nam
Trong số hơn 300 địa chỉ email được gửi đi, số phản hồi là 92; trong khi đó, với
80 phiếu điều tra gửi qua bưu điện và gửi trực tiếp, số phản hồi là 75. Như vậy, tổng
cộng có 167 phiếu phản hồi; tuy nhiên có 38 kết quả bị loại do người được điều tra còn
bỏ trống một số câu hỏi, còn lại 129 phiếu phản hồi hợp lệ.
4.3.1. Thống kê mô tả
Trong số 129 phiếu khảo sát được trả lời thu về, các chuyên gia làm việc tại quỹ
đầu tư chiếm đa số (với 26%), đơn vị đào tạo về chứng khoán (chiếm 21%), các công
ty chứng khoán và ngân hàng thương mại (chiếm 15%); Ủy ban chứng khoán (Chiếm
10%), công ty bảo hiểm (9%) và các chuyên gia đang làm việc tại Sở giao dịch chứng
khoán (chiếm 5%).
Trong số các đối tượng được khảo sát, gần một nửa đã tham gia đầu tư trên 5
năm (49%), còn lại đã tham gia đầu tư tại các lĩnh vực khác nhau trên 1 năm (chiếm
46%), chỉ có 5% các nhà đầu tư có kinh nghiệm đầu tư dưới 1 năm. Với kinh nghiệm
đầu tư trong những lĩnh vực khác nhau như vậy, những đối tượng này sẽ được kỳ vọng
cung cấp những góc nhìn đáng tin cậy đối với môi trường đầu tư nói chung và môi
tường đầu tư mạo hiểm hiện nay tại Việt Nam.
Đối với trình độ học vấn của đối tượng được khảo sát, mặc dù có những
phương án như trình độ Cao đẳng, và Khác; nhưng các đối tượng trả lời tập trung vào
hai nhóm đối tượng: trình độ đại học (chiếm 73%), và sau đại học (chiếm 27%). Điều
này phần nào phản ánh được trình độ làm động đang làm việc tại các doanh nghiệp
140
như các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, hoặc các đơn vị của nhà
nước như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch Chứng khoán, hoặc các cán bộ
đang làm việc tại các trường đại học, trung tâm đào tạo về chứng khoán, v.v…
Hình 4. 9. Nơi làm việc của đối tượng
Hình 4. 10. Kinh nghiệm đầu tư của đối
khảo sát
tượng khảo sát
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
Sở giao dịch Chứng khoán
5%
10%
21%
Ngân hàng thương mại
15%
15%
9%
5%
26%
< 1 năm
17%
Công ty bảo hiểm
1-3 năm
49%
3-5 năm
Quỹ đầu tư
Trên 5 năm
29%
Nguồn: Kết quả khảo sát
3%
Có
27%
Đại học
Không
Trên đại học
73%
97%
Hình 4. 11. Trình độ học vấn của đối tượng khảo sát Hình 4. 12. Câu hỏi ở Việt Nam hiện nay đã có quỹ đầu tư mạo hiểm hay chưa
Nguồn: Kết quả khảo sát
141
Đánh giá chung về mức độ hiểu biết của các đối tượng được khảo sát về quỹ
đầu tư mạo hiểm, có 97% trả lời đúng về Việt Nam hiện nay đã có quỹ đầu tư mạo
hiểm, trong khi chỉ có 3% trả lời là không có. Như vậy, với thực trạng số lượng và kết
quả đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam như đã trình bày ở các phần
trước, có thể nhận xét đa số các đối tượng được khảo sát đã nhận biết sự có mặt của
quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, phần lớn người được khảo sát cho rằng, hiện nay các quỹ đầu tư
mạo hiểm của nước ngoài đang chiếm ưu thế tại Việt Nam (chiếm 68,8%), trong khi
chỉ có dưới 15% trả lời là quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam hoặc quỹ đầu tư mạo
hiểm liên doanh; đối với đáp án Việt Nam hiện nay chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm, có
3% người trả lời.
Về phần tỷ lệ rủi ro khi đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm, đa số người trả
lời cho rằng tỷ lệ thất bại rất cao, trên 90%; điều này phù hợp với thực tế khi nghiên
cứu về quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới, tỷ lệ thất bại tại các dự án đầu tư rất cao,
chiếm trên 95%, trong khi chỉ có 5% thành công và thoái vốn có lãi. Câu trả lời đã
phản ánh phần nào quan điểm và sự hiểu biết của đối tượng khảo sát, khi phần lớn
đang làm việc tại các quỹ đầu tư, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, v.v.. đã và
đang trực tiếp tham gia nghiên cứu và đầu tư vào các dự án đầu tư tại Việt Nam.
Về phần câu hỏi lĩnh vực đầu tư ưa thích của quỹ đầu tư mạo hiểm, phần lớn
người trả lời cho rằng, các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao, có tiềm
năng phát triển sẽ được các quỹ đầu tư mạo hiểm lựa chọn đầu tư (chiếm 81,4%); đối
với các công ty nhỏ và vừa mới thành lập, có triển vọng phát triển lớn trong tương lai
chiếm thứ hai (với 51,5%); trong khi các công ty đã trưởng thành, có doanh thu và lợi
nhuận ổn định, chỉ có 15,5% ý kiến lựa chọn.
Vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm đối với nền kinh tế, nhiều nhà đầu tư lựa chọn
cả ba phương án câu hỏi khảo sát đưa ra; tuy nhiên phần lớn lựa chọn phương án cung
cấp vốn cho các doanh nghiệp mới thành lập, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao.
Điều này phản ánh quan điểm của những người được khảo sát tin rằng, mục tiêu quan
trọng nhất của quỹ đầu tư mạo hiểm là tài trợ vốn cho các doanh nghiệp mới thành lập
trong nền kinh tế. Ngoài ra, những người được khảo sát cũng cho rằng, quỹ đầu tư mạo
hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu
142
lần đầu ra công chúng (IPO), chiếm 31,2% phiếu trả lời; vai trò phát triển lượng lao
động chất lượng cao trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm chiếm 41,1%.
68.80%
50%-80%
89%-90%
Trên 90%
14.50%
13.70%
8%
3.00%
10%
Quỹ đầu tư mạo hiểm liên doanh
Quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài
Quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam
82%
Việt Nam hiện nay chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm nào hoạt động
Hình 4. 14. Câu hỏi tỷ lệ thất bại khi đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm Hình 4. 13. Câu hỏi quỹ đầu tư mạo hiểm nào đang chiếm ưu thế tại Việt Nam
Nguồn: Kết quả khảo sát
81.40%
51.50%
18.00%
15.50%
Công ty sắp phá sản, giải thể
Công ty đã trưởng thành, có doanh thu, lợi nhuận ổn định
Công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao, có tiềm năng phát triển
Công ty nhỏ và vừa mới thành lập, có triển vọng phát triển lớn trong tương lai
Hình 4. 15. Câu hỏi về lĩnh vực đầu tư ưa thích của quỹ đầu tư mạo hiểm
Nguồn: Kết quả khảo sát
143
85.70%
41.10%
31.20%
Thúc đẩy các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng
Phát triển lượng lao động chất lượng cao trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm
Cung cấp vốn cho các doanh nghiệp mới thành lập, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao
Hình 4. 16. Câu hỏi về vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm đối với nền kinh tế
Nguồn: Kết quả khảo sát
Như vậy, nhìn chung phần tổng quan khảo sát cho thấy, với các đối tượng được
khảo sát đang làm việc tại Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán,
quỹ đầu tư, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, cơ sở đào tạo về chứng khoán cho
thấy, phần lớn đối tượng được khảo sát có sự hiểu biết nhất định đối với lĩnh vực đầu
tư mạo hiểm nói chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng. Các câu trả lời của
những người được khảo sát thể hiện quan điểm của những đối tượng đã và đang làm
việc tại lĩnh vực quỹ đầu tư mạo hiểm, hoặc những đối tượng có kinh nghiệm đầu tư,
vì thế ý kiến của những người được khảo sát là cơ sở quan trọng đóng góp vào kết quả
nghiên cứu của luận án này.
4.3.2. Phân tích nhân tố tác động đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư
mạo hiểm ở Việt Nam
Đối với thanh đo Các chính sách của chính phủ, kết quả kiểm định Cronbach’s
Alpha của thang đo cho thấy, với 5 biến quan sát đều cho kết quả tương quan biến
tổng > 0,4; đồng thời đều có hệ số Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến nhỏ hơn
Cronbach’s Alpha của thang đo của tổng thể; do vậy tất cả các biến quan sát đều được
chấp nhận và sử dụng để phân tích nhân tố tiếp theo.
Tiếp đến, với thang đo Các nhân tố về văn hóa, xã hội; kết quả kiểm định
Cronbach’s Alpha cho thấy, với biến quan sát đều cho kết quả tương quan biến tổng >
0,4; đồng thời đều có hệ số Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến nhỏ hơn Cronbach’s
Alpha của thang đo của tổng thể; do vậy tất cả 4 biến quan sát này đều được chấp nhận
và sử dụng để phân tích nhân tố tiếp theo.
144
Bảng 4. 20. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố chính sách của chính phủ
Biến
Diễn giải
Tương quan biến tổng
Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến 0.9264
CSCP1 Nghiên cứu và ban hành đồng bộ, kịp thời các văn bản
0.8361
pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ, hoàn thiện liên quan đến quỹ đầu tư mạo hiểm
CSCP2 Các quy định pháp luật rõ ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ
0.7998
0.9328
quyền lợi cho các nhà đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm
CSCP3 Chính phủ đưa ra các chương trình hỗ trợ phát triển
0.8659
0.9208
quỹ đầu tư mạo hiểm
CSCP4 Chính sách thuế ưu đãi đối với lĩnh vực đầu tư mạo
0.7953
0.9337
hiểm và các quỹ đầu tư mạo hiểm
CSCP5 Chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho đầu tư mạo
0.8929
0.9156
hiểm ở các cấp độ giáo dục
Cronbach’s Alpha của thang đo 0.9399
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
Bảng 4. 21. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về văn hóa, xã hội
Cronbach’s
Biến
Diễn giải
Tương quan
Alpha nếu loại
biến tổng
chỉ biến
VHXH1
Tính nhất quán, coi trọng chữ tín của các bên
0.7760
0.9104
trong quan hệ đầu tư, kinh doanh
VHXH2
Có phẩm chất bền bỉ, nỗ lực không ngừng với
0.8313
0.9065
dự án của mình
VHXH3
Khả năng đánh giá và thích ứng với rủi ro tốt
0.8770
0.8925
VHXH4
Có năng lực quản lý và nắm bắt được các cơ hội
0.8502
0.9010
trong đầu tư
Cronbach’s Alpha của thang đo 0.9281
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
Với thang đo Các nhân tố về Năng lực đào tạo, nghiên cứu; kết quả kiểm định
Cronbach’s Alpha cho thấy, cả 4 quan sát biến quan sát đều cho kết quả tương quan
biến tổng > 0,4; Cronbach’s Alpha của thang đo là 0,8958 > 0,6; đồng thời đều có hệ
số Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến nhỏ hơn Cronbach’s Alpha của thang đo của
tổng thể; do vậy tất cả 4 biến quan sát này đều được chấp nhận và sử dụng để phân tích
nhân tố tiếp theo.
145
Diễn giải
Bảng 4. 22. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về năng lực đào tạo, nghiên cứu Cronbach’s Biến Alpha nếu loại chỉ biến
Tương quan biến tổng 0.7901
0.8577
ĐTNC1 Trường học ở các cấp cần tuyên truyền về ý thức doanh nhân, đầu tư cho các thế hệ học sinh, sinh viên
ĐTNC2 Giảng viên, nghiên cứu viên tại các cơ sở đào tạo có
0.8328
0.8417
liên quan cần có năng lực nghiên cứu, truyền đạt ý tưởng kinh doanh cho sinh viên
ĐTNC3 Nâng tầm hiểu biết và thực thi của người dân về quyền
0.7483
0.8732
sở hữu trí tuệ
ĐTNC4 Khuyến khích các nhà đầu tư tập trung vào các lĩnh vực
0.7067
0.8385
công nghệ cao, mang tính sáng tạo
Cronbach’s Alpha của thang đo 0.8958
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
Kết quả kiểm định của thang đo Nhân tố địa điểm đầu tư cho thấy, cả 3 biến
quan sát đều cho kết quả tương quan biến tổng > 0,4; Cronbach’s Alpha của thang đo
là 0,7458 > 0,6; đồng thời đều có hệ số Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến nhỏ hơn
Cronbach’s Alpha của thang đo của tổng thể; do vậy tất cả 3 biến quan sát này đều
được chấp nhận và sử dụng để phân tích nhân tố tiếp theo.
Bảng 4. 23. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố địa điểm đầu tư
Biến
Diễn giải
Tương quan biến tổng 0.5225
Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến 0.7227
ĐĐ1 Mạng lưới các loại hình giao thông kết nối các địa điểm
0.6930
0.5198
ĐĐ2
0.5127
0.7278
ĐĐ3
đóng vai trò quan trọng khi quyết định đầu tư tại một địa phương Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp Các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nhân có vai trò lớn trong việc kết nối cộng đồng đầu tư mạo hiểm
Cronbach’s Alpha của thang đo 0.7458
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
Trong thang đo Nhân tố về nguồn lực, với 8 biến quan sát được kiểm định
Cronbach’s Alpha, kết quả cho thấy, hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo là 0,8325;
trong 8 biến quan sát, có 7 biến được chấp nhận và sử dụng để phân tích nhân tố tiếp
theo; riêng biến NL3 bị loại, do có kết quả Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến là
0,8343 > Cronbach’s Alpha của thang đo tổng.
Như vậy, kết quả kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha của thang đo cho
thấy, cả 5 thang đo đều thỏa mãn; trong các thang đo đó, có biến NL3 bị loại. Do vậy,
146
có tất cả 5 thang đo và 23 biến quan sát được sử dụng trong kiểm định ở phân tích
Nhân tố khám phá EFA trong bước tiếp theo. Kết quả tổng hợp của kiểm định
Cronbach’s Alpha được tổng hợp ở Bảng 4.23.
Bảng 4. 24. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về nguồn lực
Biến
Diễn giải
Tương quan biến tổng
Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến
NL1 Các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó tiếp
0,5694
0.8116
cận vốn vay từ ngân hàng
NL2 Các doanh nghiệp mới thành lập, nhỏ và
0.6953
0.7947
vừa có nhu cầu vốn đầu tư mạo hiểm rất lớn NL3 Trình độ lao động trẻ tại Việt Nam chưa đáp
0.4136
0.8343
ứng được chất lượng cao trong đầu tư mạo hiểm
0.6657
0.7977
NL4 Các doanh nghiệp lớn, tập đoàn lớn tại Việt Nam chưa đầu tư tương xứng cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm
NL5 Nguồn lực của chính phủ Việt Nam dành
0.6186
0.8047
cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng còn khiêm tốn
NL6 sự tăng trưởng số lượng các quỹ đầu tư mạo
0.4210
0.8301
hiểm qua các năm
NL7 Tổng giá trị vốn huy động được của các quỹ
0.6352
0.8062
đầu tư mạo hiểm qua các năm
NL8 Hiệu quả đầu tư của các quỹ đầu tư mạo
0.4922
0.8213
hiểm qua các năm
Cronbach’s Alpha của thang đo 0,8325
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
Tiếp theo, luận án phân tích nhân tố khám phá EFA cho 5 thang đo và 23 biến quan sát
ở phần trên theo các bước sau, nhằm xác định mức độ tác động của thang đo và các
biến quan sát đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam như
thế nào.
Bảng 4. 25. Bảng tổng hợp các biến và thang đo sau Phân tích Cronbach’s Alpha Biến quan sát TT
Biến quan sát thỏa mãn
Cronbach’s
Nhân tố
Alpha
bị loại
Tên biến
Số
Tên
Số
biến
biến
biến
1
Các chính sách của
0.9399
CSCP1, CSCP2, CSCP3,
0
5
chính phủ (CSCP)
CSCP4, CSCP5
2
Các nhân tố về văn
0.9281
VHXH1, VHXH2
0
4
hóa, xã hội (VHXH)
VHXH3,VHXH4
0
3
Nhân tố về năng lực
0.8958
4
ĐTNC1, ĐTNC2
ĐTNC3, ĐTNC4
đào tạo, nghiên cứu
(ĐTNC)
3
0
4
Nhân tố về địa điểm
0.7458
ĐĐ1, ĐĐ2, ĐĐ3
đầu tư (ĐĐ)
7
5
Nhân tố về nguồn lực
0.7952
NL1, NL2, NL4, NL5,
1
NL3
(NL)
NL6, NL7, NL8
147
Nguồn: Tổng hợp từ kiểm định Cronbach’s Alpha trong Stata của luận án
Phương pháp phân tích nhân tố EFA thuộc nhóm phân tích đa biến phụ thuộc
lẫn nhau, nghĩa là không có biến phụ thuộc và biến độc lập mà nó dựa vào mối tương
quan giữa các biến với nhau. Phương pháp EFA dùng để rút gọn một tập k biến quan
sát thành một tập F (với F < k) các nhân tố có ý nghĩa hơn. Theo Mayers và các cộng
sự (2000), trong phân tích nhân tố, phương pháp trích Principle Components Analysis
đi cùng với phép xoay Varimax là cách thức được sử dụng phổ biến nhất. Do vậy, các
bước tiếp theo được tiến hành như sau:
Bước 1. Phân tích Principle-Component Factor
Tại bước phân tích này, yêu cầu Minimum Value of Eigenvalue to be retained
từ 1 trở lên. Điều này có nghĩa nhân tố nào có Eigenvalue lớn hơn 1 mới được giữ lại.
Kết quả phân tích như sau:
Tại cột Eigenvalues, dòng thứ 8 là giá trị Eigenvalues nhỏ nhất mà lớn hơn 1,
có nghĩa là có tất cả 5 nhân tố được tạo ra, do ngưỡng Eigenvalues > 1 đã được cài đặt
lựa chọn từ trước.
Method: principal-component factors Retained factors = 5
Rotation: (unrotated)
Number of params = 90
Factor
Eigenvalue
Proportion
Cumulative
Factor1
11.39821
0.4656
0.4656
Factor2
5.56391
0.0867
0.5522
Factor3
2.10339
0.0681
0.6204
Factor4
1.68628
0.0449
0.6653
Bảng 4. 26. Kết quả phân tích Principle-Component Factor Number of obs = 129 Factor analysis/correlation
Factor5
1.11195
0.0411
0.7063
Factor6
0.92413
0.0382
0.7445
Factor7
0.87321
0.0298
0.7743
148
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
Bước 2. Tìm ma trận xoay
Tại bước ma trận xoay này, nhằm mục đích tìm ra mỗi nhân tố gồm những câu
hỏi nào. Tại bảng tổng hợp 4,29 cho thấy, dựa trên kết quả phân tích giá trị hội tụ và
giá trị phân biệt, có 5 nhân tố được trích, tương ứng với 23 biến quan sát; tất cả các hệ
số tải của biến quan sát đều > 0,5; tất cả các biến quan sát đo lường cho các nhân tố
CSCP, VHXH, ĐTNC, ĐĐ, NL đều có hệ số tải cao trên cùng một nhân tố, tức là các
biến đều đạt giá trị hội tụ tốt; và không có giá trị khác biệt đáng kể của hệ số tải của
một biến quan sát trên các khái niệm khác, tức là các biến quan sát có giá trị phân biệt
tốt.
Kết quả kiểm định KMO cho thấy, hệ số KMO = 0,735 (> 0,7) nên mô hình
nghiên cứu đạt được tính đầy đủ; đồng thời, kết quả kiểm định Bartlett cho thấy,
Sig.=0,000 (< 0,005), có nghĩa trong mô hình nghiên cứu này, các biến có tương quan
với nhau trong tổng thể. Cuối cùng, với phương sai giải thích đạt giá trị 0,8002 có
nghĩa, 5 nhân tố này giải thích được 80,02% việc xây dựng và phát triển của quỹ đầu
tư mạo hiểm ở Việt Nam. Trong đó, tại mỗi nhân tố nghiên cứu, có những quan sát
đóng vai trò quan trọng nhất như: trong nhân tố CSCP, biến CSCP2, tức là các quy
định pháp luật rõ ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư mạo hiểm và
quỹ đầu tư mạo hiểm có tác động mạnh nhất; trong nhân tố VHXH, biến VHXH3, tức
là doanh nhân có khả năng đánh giá và thích ứng với rủi ro tốt có tác động mạnh nhất;
nhân tố ĐTNC có biến ĐTNC3, tức nâng tầm hiểu biết và thực thi của người dân về
quyền sở hữu trí tuệ có tác động mạnh nhất; trong nhân tố ĐĐ, biến ĐĐ1, tức mạng
lưới các loại hình giao thông kết nối các địa điểm đóng vai trò quan trọng khi quyết
định đầu tư tại một địa phương; trong nhân tố NL, có biến NL8, tức Hiệu quả đầu tư
của các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm có tác động mạnh nhất.
149
Biến quan sát
Bảng 4. 27. Tổng hợp kết quả phân tích nhân tố khám phá Nhân tố về địa điểm đầu tư
Các nhân tố về văn hóa, xã hội
Các chính sách của chính phủ
Nhân tố về nguồn lực
Nhân tố về năng lực đào tạo, nghiên cứu
0.8244 0.8243 0.7305 0.7278 0.7211
0.7007 0.6864 0.6461 0.6253
0.6813 0.6187 0.5144
0.8750 0.7078 0.7063 0.6572 0.5774 0.5679 0.5643
0.7471 0.6714 0.6527 0.6109
0.755 0.000
2.10339
11.39821
5.56391
1.68628
1.11195
0.8032
CSCP2 CSCP1 CSCP3 CSCP4 CSCP5 VHXH3 VHXH4 VHXH1 VHXH2 ĐTNC3 ĐTNC1 ĐTNC2 ĐTNC4 ĐĐ1 ĐĐ2 ĐĐ3 NL8 NL6 NL4 NL1 NL2 NL5 NL7 KMO P-value (Bartlett’s test) Eigenvalue Phương sai giải thích (%)
Nguồn: Kết quả nghiên cứu
4.4. Đánh giá chung về thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở
Việt Nam
Trải qua gần 30 năm kể từ khi có hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại
Việt Nam, dựa vào những điều kể trên, hoạt động đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam đã
đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, quá trình xây dựng và phát triển quỹ
đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Việc đánh giá đúng thực trạng, và
chỉ ra các nguyên nhân hạn chế sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ về thực trạng hoạt
động quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, từ đó có các khuyến nghị chính sách phù hợp
150
để phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, giúp Việt Nam có được sự phát triển đột phá, đặc
biệt trong lĩnh vực khoa học, công nghệ.
4.4.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng
qua các năm. Từ những năm đầu với 1 quỹ đầu tư mạo hiểm (năm 1991), cho đến nay
(2019), Việt Nam đã có trên 70 quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đang hoạt động đầu
tư. Với mức tăng trưởng GDP bình quân ở mức trên 5%/ năm, tỷ lệ lạm phát luôn
được kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả, cho thấy hiệu quả, sự quyết tâm điều hành các
chính sách của chính phủ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, so sánh với các
quốc gia trong khu vực, cho thấy tốc độ tăng trưởng của Việt Nam luôn đứng top đầu,
thể hiện sức hấp dẫn của môi trường đầu tư đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Khi lựa chọn quốc gia để đầu tư, việc đầu tư vào quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng
ổn định sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn rất nhiều so với các quốc gia có tốc độ tăng trưởng
thấp, không ổn định; bởi nó thể hiện vai trò của nhà nước trong vấn đề kiểm soát, điều
hành nền kinh tế.
Thứ hai, giá trị của vốn đầu tư mạo hiểm vào Việt Nam có sự tăng trưởng
mạnh mẽ qua các năm, phù hợp với các giai đoạn tăng trưởng/ tích lũy của nền kinh tế.
Với giá trị vốn đầu tư mạo hiểm năm 2001 chỉ đạt 114 triệu USD, đến năm 2006 đạt
mức cao nhất 2,3 tỷ USD và duy trì mức trên 500 triệu USD vào những năm tiếp theo.
Thứ ba, lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm chủ yếu trong lĩnh vực
tài chính – ngân hàng, bất động sản, và trong các lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực
thông tin, giải trí. Thực tiễn cho thấy, Việt Nam có lợi thế là có tỷ lệ dân số trẻ cao.
Theo số liệu từ Quỹ Dân số Liên Hợp quốc (UNFPA) năm 2016, Việt Nam đang có tỷ
lệ dân số trẻ cao nhất trong lịch sử, với số dân đang trong độ tuổi từ 10-24 chiếm gần
40% dân số. Với tỷ lệ dân số trẻ như vậy rất có lợi cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh và đầu tư. Bởi lẽ dân số trẻ đồng nghĩa với việc nhu cầu tiêu dùng cao, đặc biệt
các hàng hóa mang tính công nghệ thời thượng, và với việc sẵn sàng chi tiêu cho tiêu
dùng, sẽ thúc đẩy việc sản xuất và buôn bán hàng hóa trong nước. Bên cạnh đó, dân số
trẻ sẽ là lực lượng lao động hùng hậu cho các doanh nghiệp tại mọi lĩnh vực trong xã
hội. Ngoài ra, lực lượng dân số trẻ đồng nghĩa với việc họ chấp nhận rủi ro cao trong
đầu tư, kinh doanh. Đây chính là yếu tố cần thiết cho việc huy động vốn và hoạt động
của các quỹ đầu tư mạo hiểm, mở ra các cơ hội rất lớn cho các quỹ đầu tư dạng này.
151
Thứ tư, kết quả đầu tư của một số quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động
tại Việt Nam trong nghiên cứu này đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Đối với
các quỹ đầu tư mạo hiểm với danh mục đầu tư chủ yếu là các chứng khoán niêm yết
trên thị trường chứng khoán, luôn có mức tăng trưởng giá trị tài sản ròng của quỹ
(NAV) cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của biến độ chỉ số chứng khoán trên thị
trường (VNIndex, VN30) qua các năm; đối với các công ty đầu tư vào các doanh
nghiệp sản xuất, kết quả những doanh nghiệp được đầu tư đều trở thành các doanh
nghiệp lớn, có tên tuổi trên thị trường; do đó, khi thoái vốn các quỹ đầu tư này đều đạt
được mức lợi nhuận đáng kể.
4.4.2. Tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được kể trên, thực tế thời gian qua, các quỹ đầu tư
mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam còn gặp không ít tồn tại, đó là:
Thứ nhất, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam chưa nhiều. Hiện nay
hầu hết các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam đều là quỹ đầu tư mạo hiểm
tại nước ngoài, còn quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập trong nước còn rất ít, mới
thành lập. So với các quốc gia trong khu vực, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động
tại Việt Nam còn khiêm tốn, năm 2015 đạt 56 quỹ, năm 2018 có 43 quỹ, và cao nhất là
đến tháng 9/2019, với 70 quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động, trong khi đó, số liệu
năm 2018 cho thấy, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Indonesia là 50;
tại Singapore là 231; tại Thái Lan là 36; Malaysia là 49 (ThomsonOne, 2019).
Thứ hai, số lượng dự án đầu tư mạo hiểm và vốn đầu tư mạo hiểm đầu tư vào
nước ta còn khiêm tốn. Cũng theo số liệu từ ThomsonOne (2019), bình quân giai đoạn
2015-2018, Việt Nam chỉ có 69 thương vụ đầu tư mạo hiểm được thực hiện; với 59
công ty được đầu tư; giá trị bình quân mỗi thương vụ chỉ đạt 4 triệu USD; bình quân
mỗi quỹ đầu tư mạo hiểm giải ngân 11 triệu USD. Con số trên rất khiêm tốn khi so
sánh với Singapore, với 286 thương vụ được đầu tư, giá trị bình quân mỗi thương vụ
đạt 10 triệu USD; bình quân mỗi công ty được đầu tư nhận khoảng 15 triệu USD; hay
tại Malaysia, có đến 88 công ty được nhận vốn từ quỹ đầu tư mạo hiểm, bình quân mỗi
công ty nhận được 18 triệu USD; bình quân mỗi quỹ đầu tư mạo hiểm giải ngân 14
triệu USD trong giai đoạn này.
Thứ ba, lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động lâu
năm tại Việt Nam chủ yếu tập trung đầu tư vào các công ty đã niêm yết trên thị trường
152
chứng khoán (ví dụ quỹ VOF đã tăng tỷ trọng đầu tư vào công ty niêm yết từ 33% năm
2006 lên đến 66,1% năm 2018); vào lĩnh vực bất động sản, thực phẩm, đồ uống (như
quỹ VEIL), hoặc truyền thông, giải trí (IDG Ventures Vietnam). Trong khi đó, chỉ có
một số quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập hiện nay tập trung vào các công ty
công nghệ cao, bảo mật, công nghệ thông tin, v.v… như quỹ FPT Ventures, VIISA,
hay quỹ CMC. Điều này phản ánh thực trạng, các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước
ngoài thường mong muốn có các thương vụ chắc chắn, khi đầu tư vào những công ty
đang trong giai đoạn phát triển, nhằm hạn chế rủi ro, khả năng thu hồi vốn nhanh;
trong khi quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới thường tập trung vào lĩnh vực khoa học
đời sống, máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng, và các công ty khởi nghiệp, chưa niêm
yết trên thị trường chứng khoán.
Thứ tư, mặc dù có sự tăng trưởng kết quả đầu tư qua các năm, tuy nhiên các
quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam có kết quả đầu tư chưa bền vững,
vẫn bị tác động nhiều bởi sự biến động của thị trường chứng khoán, dẫn đến nhiều giai
đoạn có kết quả đầu tư biến động mạnh.
Việc tồn tại những hạn chế trên do một số nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất, khung pháp lý dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam hiện nay
chưa có. Mặc dù có sự quyết tâm vào cuộc của Chính phủ Việt Nam nhằm thúc đẩy sự
phát triển của đầu tư mạo hiểm nói chung và quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng. Tuy
nhiên sự ủng hộ này mới chỉ dừng lại ở các nghị định, quy định cụ thể cho từng dự án,
chứ chưa có bộ luật chung dành cho đầu tư mạo hiểm. Chính vì thiếu vắng luật quy
định như vậy, tạo ra các kẽ hở, sự không đồng nhất trong giới đầu tư mạo hiểm. Kết
quả của khảo sát cho thấy, kết quả phân tích các nhân tố khám phá tại Bảng 4.29 cho
rằng, đối với các chính sách của chính phủ, các quy định của pháp luật có quy định rõ
ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo
hiểm đóng vai trò quan trọng nhất; tiếp đến là việc Chính phủ nghiên cứu và ban hành
đồng bộ, kịp thời các văn bản pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ, hoàn
thiện liên quan đến quỹ đầu tư mạo hiểm; như vậy, các đối tượng được khảo sát cũng
đồng tình với việc chính phủ cần quan tâm hơn đến lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói
chung, và quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng ở góc độ xây dựng khung pháp lý cho lĩnh
vực này.
153
Tại thời điểm hiện tại, mới nhất chỉ có dự thảo luật dành cho quỹ đầu tư mạo
hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo chứ chưa có quy định về việc thành lập, hoạt động,
quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm nói chung. Điều này gây ra khó khăn cho các đối tượng
có ý định thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, cũng như các nhà đầu tư muốn góp vốn đầu
tư mạo hiểm nhằm tìm kiếm các cơ hội có khả năng sinh lời cao.
Thứ hai, chưa có cơ chế đặc thù để các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động và thoái
vốn tại các công ty đã đầu tư. Mặc dù Việt Nam đã có thị trường chứng khoán, tuy
nhiên việc thu hút vốn đầu tư từ công chúng vẫn còn hạn chế, mức độ liên kết giữa
cộng đồng đầu tư còn nhiều bất cập. Bản thân các doanh nghiệp khi muốn phát hành
cổ phiếu ra công chúng, hiện nay đang bị ràng buộc bởi Luật chứng khoán về điều
kiện phát hành, như phải có số vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên, kết quả hoạt động
kinh doanh năm liền trước phải có lãi. Đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp, việc huy
động vốn và đáp ứng được kết quả hoạt động kinh doanh như vậy rất khó; vì thế, điều
này vô hình chung đã tạo ra rào cản đối với các công ty khởi nghiệp (một trong những
đối tượng đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm). Ngoài ra, để dễ dàng huy động vốn trong
cộng đồng đầu tư, việc niêm yết những công ty đang hoạt động trên thị trường chứng
khoán niêm yết đóng vai trò rất quan trọng, nhưng hiện nay với các quy định khắt khe
về điều kiện niêm yết trên hai Sở giao dịch Chứng khoán tại Việt Nam (HOSE và
HNX), đã tạo ra những hạn chế đối với các công ty mới hoạt động, nhưng với triển
vọng phát triển lớn, làm mất cơ hội cho cả các quỹ đầu tư mạo hiểm và các nhà đầu tư
mạo hiểm.
Đối với hạn chế này, bản thân các đối tượng tham gia khảo sát cũng nhận ra
tầm quan trọng của việc có cần thiết hay không cơ chế đặc thù cho lĩnh vực đầu tư
mạo hiểm nói chung, với 100% người được khảo sát trả lời là có. Ngoài ra, các đối
tượng được khảo sát cũng cho rằng, cần thiết có cơ chế đặc thù cụ thể như chính sách
thuế, hay chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm.
Thứ ba, hạn chế về nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm. Tại Việt Nam, đầu tư mạo
hiểm vẫn được coi là lĩnh vực mới, do đó đa số chỉ thu hút được các nhà đầu tư thiên
thần (các cá nhân, gia đình giàu có), hoặc các tổ chức đầu tư từ nước ngoài. Thực tế có
rất nhiều công ty, tập đoàn trong nước có tiềm lực kinh tế, mạng lưới và kinh nghiệm
đầu tư, nhưng họ chưa biết hoặc chưa quan tâm đến lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, do cho
rằng đây là lĩnh vực có nhiều rủi ro, có khả năng mất vốn lớn. Do vậy, cần thiết khơi
154
thông nguồn vốn từ các nhà đầu tư tổ chức trong nước, nhằm tận dụng nguồn vốn sẵn
có của Việt Nam.
Kết quả phân tích nhân tố khám phá tại Bảng 4.25 cho thấy, trong các biến của
nhân tố nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm, yếu tố NL4, tức các doanh nghiệp lớn, tập
đoàn lớn tại Việt Nam chưa đầu tư tương xứng cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm có tác
động mạnh nhất; yếu tố NL2, tức các doanh nghiệp mới thành lập, nhỏ và vừa có nhu
cầu vốn đầu tư mạo hiểm rất lớn; vì thế có thể thấy vấn đề về nguồn lực của đầu tư
mạo hiểm tại Việt Nam cũng được các đối tượng liên quan đến đầu tư mạo hiểm nhận
thức khá rõ ràng và đầy đủ.
Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực cho đầu tư mạo hiểm cũng là một vấn
đề rất lớn trong quá trình xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Mặc dù được đánh giá là quốc gia có tỷ lệ dân số trẻ ở mức lý tưởng, nhưng năm lực
của nguồn lao động này lại là một vấn đề lớn. Theo Tổng cục Thống kê (2017), tính
theo sức mua tương đương, năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 chỉ bằng 7%
của Singapore; 17,6% của Malaysia; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của Indonesia;
56,7% của Philippines và 87,4% năng suất lao động của Lào. Điều đáng nói là tỷ lệ
năng suất Việt Nam yếu kém hơn so với các quốc gia trong khu vực có xu hướng gia
tăng hơn nữa. Năng suất lao động đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định đầu tư
của doanh nghiệp, quyết định đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong điều kiện
sản xuất kinh doanh khắt khe hiện nay. Ngoài ra, yếu tố quan trọng trong lĩnh vực khởi
nghiệp, đầu tư mạo hiểm đó là chỉ số sáng tạo của người lao động. Theo kết quả khảo
sát chi số sáng tạo (Global Innovation Index) năm 2017 của hai trường đại học hàng
đầu thế giới Cornell và Insead và tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIP) ở hơn 140
quốc gia, Việt nam hiện đang đứng ở vị trí trung bình thấp. Với số xếp hạng 47/127
quốc gia và nền kinh tế (tăng so với số 35/147 năm 2016), Việt Nam đã cố gắng
chuyển mình để hội nhập năng lực với thế giới, nhưng con số thống kê cho thấy, còn
rất nhiều điều cần phải làm để nâng cao năng lực của quốc gia nói chúng, và chất
lượng người lao động nói riêng.
Thứ tư, chưa tập trung đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao. Nhìn vào cơ cấu
danh mục đầu tư của 4 quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất đang hoạt động tại Việt Nam,
hiện chỉ có quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Ventures đang tập trung đầu tư vào các công ty
hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử, giải trí, cơ sở hạ tầng người tiêu dùng,
155
v.v... Trong khi các quỹ đầu tư mạo hiểm khác chỉ đang tập trung đầu tư vào các lĩnh
vực mang tính chất sinh lời nhanh, tức thời, như lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, bất
động sản, v.v... hơn nữa, các quỹ này tập trung phần lớn đầu tư vào các công ty đã
niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán tại Việt Nam; trong khi trên thực tế, các
quỹ đầu tư mạo hiểm đã và đang hoạt động trên thế giới, tập trung đầu tư mạnh vào
các công ty trong lĩnh vực khoa học công nghệ cao, chủ yếu đầu tư vào các công ty
khởi nghiệp, chưa phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO). Chính lý do nguồn vốn
đầu tư mạo hiểm chưa được tập trung đầu tư, phân bổ vào các công ty khởi nghiệp,
hoặc các công ty công nghệ cao, hiện đang rất cần vốn như vậy, nên phần nào đã làm
giảm hiệu quả đầu tư của vốn đầu tư mạo hiểm nói chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm
nói riêng, chưa tạo được sự tăng trưởng đột biến của các công ty công nghệ, các công
ty đang khởi nghiệp tại Việt Nam.
Thứ năm, chưa có mạng lưới kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm hiệu quả. Cho
đến nay, mới có duy nhất Diễn đàn quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam diễn ra
vào tháng 6 năm 2019, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phối hợp với Bộ Khoa học và Công
nghệ và Quỹ Golden Gate Ventures tổ chức. Với mục tiêu kết nối các quỹ đầu tư mạo
hiểm lớn đang hoạt động tại Việt Nam, đồng thời giới thiệu với các quỹ đầu tư mạo
hiểm lớn trên thế giới về môi trường kinh doanh, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo tại
Việt Nam để thu hút nguồn vốn đầu tư mạo hiểm nước ngoài; đồng thời, diễn đàn cũng
mong muốn tạo nên tiếng nói để mong muốn chính phủ Việt Nam xem xét, tạo điều
kiện hỗ trợ các cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở
Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, diễn đàn này mới được tổ chức lần thứ nhất, và
chưa có con số thống kê sự hiệu quả của diễn đàn này trong việc thúc đẩy sự hình
thành các quỹ đầu tư mạo hiểm mới, cũng như tác động đến sự phát triển của các quỹ
đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam hiện nay.
Thứ sáu, chưa có mô hình tổ chức và hoạt động cụ thể cho quỹ đầu tư mạo
hiểm. Hiện nay, mặc dù Việt Nam đã có các quỹ đầu tư mạo hiểm nội địa được thành
lập và đi vào hoạt động, nhưng mô hình quỹ rất đa dạng, từ quỹ tư nhân, quỹ đóng,
quỹ thành viên,v.v… điều này dẫn đến việc khó kiểm soát, quản lý từ các cơ quan
chức năng đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Hơn nữa, cho đến nay, Việt Nam chưa
ban hành quy định về điều kiện thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, do đó mặc dù có nhiều
nhà đầu tư cá nhân, gia đình giàu có mong muốn tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo
156
hiểm, nhưng quy định pháp lý không có, vì thế đã cản trở các nhà đầu tư này tham gia
thị trường, do lo ngại các vấn đề pháp lý phát sinh sau này. Bên cạnh đó, ngoài nguyên
nhân khách quan thiếu vắng các quy định của pháp luật, còn có nguyên nhân chủ quan
là chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập đang thực sự hoạt động có
hiệu quả, vì thế các vấn đề có liên quan đến việc thành lập, hoạt động và quản lý quỹ
đầu tư mạo hiểm, nên những vẫn đề có liên quan như mô hình sở hữu, đối tượng
khuyến khích góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm, hay mô hình quản lý, thoái vốn,
v.v… đều là rào cản cho việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
hiện nay.
Thứ bảy, chưa có cơ quan nhà nước nào quản lý đặc thù đối với các quỹ đầu tư
mạo hiểm. Hiện nay bản thân quỹ đầu tư mạo hiểm vẫn chưa chính xác được quy vào
loại hình doanh nghiệp nào, bởi nếu xét góc độ quỹ đầu tư thì thuộc điều chỉnh của
Luật chứng khoán (do Ủy ban Chứng khoán quản lý); nếu xét ở góc độ huy động vốn
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (do quan điểm cho rằng các dự án khởi nghiệp – đối
tượng cần vốn nhất từ quỹ đầu tư mạo hiểm, thuộc loại các doanh nghiệp mới thành
lập, do đó được xếp vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa), thì quỹ đầu tư mạo hiểm có thể
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp nhỏ và vừa (Do Bộ Công Thương
quản lý). Thêm vào đó, nếu xét ở góc độ tài trợ vốn cho lĩnh vực công nghệ cao, loại
hình kinh doanh mới thì có thể thuộc quản lý của Bộ Khoa học Công nghệ. Như vậy,
bản thân loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm có thể do 3 cơ quan, bộ, ngành tác động đến
đó là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Công thương quản
lý. Việc chồng chéo giữa các cơ quan hành pháp tại Việt Nam không phải là mới, khi
xảy ra vấn đề có liên quan, hoặc có tranh chấp xảy ra thì các bên liên quan lại đùn đẩy
trách nhiệm cho nhau, gây khó khăn trong công tác quản lý và xử lý sự việc, lại không
có cơ quan thực sự có trách nhiệm giám sát hoạt động của chủ thể đó.
Thứ tám, chưa có lộ trình rõ ràng, cụ thể để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư
mạo hiểm. Về mặt định hướng, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” (Quyết định số 844/QĐ-TTg -
2016); Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025” (Quyết định số
939/QĐ-TTg – 2017); Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp” (Quyết định số
1665/ QĐ-TTg – 2017); ra mắt Trung tâm Hỗ tợ thanh niên khởi nghiệp (Supporting
Center for Youth’s Start-up) trực thuộc Trung ương hội Liên hiệp Thanh niên Việt
157
Nam vào tháng 3/2017, v.v… Tuy nhiên, các Quyết định, Đề án trên còn mang tính
chất chung chung, chưa có lộ trình cụ thể về việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư
mạo hiểm ở Việt Nam. Điều này gây ra sự lúng túng cho các địa phương khi đề cập
đến lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; hoặc bản thân các đối tượng muốn tham gia thành lập,
góp vốn đầu tư mạo hiểm cũng chưa biết rõ ràng sẽ được quyền lợi, hạn chế gì trong
thời điểm hiện tại. Chính điều này đã trì hoãn, làm chậm lại quá trình xây dựng và phát
triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
158
Kết luận chương 4
Tại Việt Nam hiện nay, môi trường cho sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo
hiểm còn ở giai đoạn đầu, vì thế còn nhiều bất cập. Các quỹ đầu tư mạo hiểm đang
hoạt động tại Việt Nam chủ yếu là các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài, có đăng
ký hoạt động tại thị trường Việt Nam; trong khi đó các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt
Nam thành lập còn ít, còn hạn chế về vốn và kinh nghiệm đầu tư. Với lợi thế dân số
trẻ, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp tỷ trọng lớn vào tổng thu nhập quốc
dân hàng năm, đã có sự xuất hiện của các tổ chức trung gian tài chính như ngân hàng,
công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, v.v... đồng thời thị trường chứng
khoán niêm yết đã đi vào hoạt động gần 20 năm, là điều kiện rất cơ bản để phát triển
thị trường đầu tư mạo hiểm nói chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng. Tuy
nhiên, từ giai đoạn 1990 – nay, với 3 giai đoạn phát triển của các quỹ đầu tư chứng
khoán, cho thấy chủ yếu các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài chú trọng vào các công
ty niêm yết, trong khi tỷ trọng đầu tư vào các công ty mới thành lập, công ty khởi
nghiệp, hoặc các công ty trong lĩnh vực công nghệ cao còn hạn chế. Chỉ có giai đoạn
gần đây, khi có sự vào cuộc của chính phủ, đã hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm của
Việt Nam, bắt đầu tập trung vào các lĩnh vực khởi nghiệp của các công ty trong nhóm
ngành công nghệ cao, công nghệ sinh học, các sản phẩm ứng dụng của công nghệ,
thông tin.
159
CHƯƠNG 5. KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH NHẰM XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM
5.1. Định hướng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chính phủ đã có nhiều động thái nhằm thúc
đẩy sự hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam. Thực tế cho thấy,
trọng tâm chính phủ hướng đến là các hoạt động đầu tư mạo hiểm liên quan đến đổi
mới sáng tạo, khởi nghiệp. Trong các Ban, Ngành của chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư chịu trách nhiệm đầu tàu về lĩnh vực này, thông qua các cơ chế, chính sách hỗ trợ,
khuyến khích các cá nhân tham gia góp vốn hỗ trợ đầu tư khởi nghiệp, hoặc hỗ trợ các
doanh nhân khởi nghiệp bằng các biện pháp liên quan đến pháp lý, hỗ trợ nguồn vốn.
Bảng 5. 1. Một số quy định của pháp luật Việt Nam định hướng, hỗ trợ doanh nghiệp, có liên quan đến lĩnh vực đầu tư mạo hiểm
Năm
Tên
Diễn giải
Có hiệu lực đến -
2015 Số: 19/2015/QĐ-
TTg
Quyết định quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp công nghệ cao
2015 Số: 1193/QĐ-TTg Quyết định Về việc thí điểm một số cơ chế, chính sách
2020
2015 Số: 37/2015/QĐ-
-
TTg
2015 Số: 214/2015/TT-
2020
BTC
-
2016 Số: …./2016/TT- BKHĐT
2016 Số: 19-2016/NQ-
2020
CP
2016 Số: 35/NQ-CP
2020
2016 Số: 884/QĐ-TTg
2025
đặc thù phát triển Vườn ương công nghệ công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc tại thành phố Cần Thơ Quyết định quy định điều kiện thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Thông tư Hướng dẫn cơ chế, chính sách ưu đãi về hỗ trợ ngân sách nhà nước, thuế và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo quy định tại Quyết định số 1193/QĐ- TTg ngày 30/7/2015 của Thủ tưởng Chính phủ về việc thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Vườn ương công nghệ công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc tại thành phố Cần Thơ Dự thảo Thông tư Hướng dẫn về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo Nghị quyết Về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020 Nghị quyết Về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 Quyết định Về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025" 2017 Số: 1665/QĐ-TTg Quyết định Về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ học sinh,
2025
sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025"
2025
160
Quyết định phê duyệt Đề án "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025" Luật chuyển giao công nghệ
2017 Luật số:
-
07/2017/QH14
-
2017 Luật số:
Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
04/2017/QH14
2018 Số: 38/2018/NĐ-
-
CP
2019 Số: 39/2019/NĐ-
-
CP
Nghị định quy định chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo Nghị định Về tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
2017 Số: 939/QĐ-TTg
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Trong năm 2015, Chính phủ ban hành Quyết định Số 19/2015/QĐ-TTg, Quyết
định quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp công nghệ cao, trong đó quy định cụ thể
doanh nghiệp như thế nào được coi là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
nghệ cao; ví dụ như Doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao của doanh nghiệp phải đạt
ít nhất 70% trong tổng doanh thu thuần hàng năm; Tổng chi cho hoạt động nghiên cứu
và phát triển được thực hiện tại Việt Nam trên tổng doanh thu thuần hàng năm đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đạt ít nhất 1%. Đối với các doanh nghiệp có tổng nguồn
vốn trên 100 tỷ đồng và tổng số lao động trên 300 người tỷ lệ này phải đạt ít nhất
0,5%; hay Số lượng lao động có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên trực tiếp thực
hiện nghiên cứu và phát triển trên tổng số lao động của doanh nghiệp đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ phải đạt ít nhất 5%. Đối với các doanh nghiệp có tổng nguồn vốn
trên 100 tỷ đồng và tổng số lao động trên 300 người tỷ lệ này phải đạt ít nhất 2,5%
nhưng không thấp hơn 15 người. Việc quy định cụ thể như vậy, nhằm xác định được
chính xác nhất các doanh nghiệp nào đang thực sự hoạt động trong lĩnh vực công nghệ
cao, để được nhận các ưu đãi, hỗ trợ từ chính phủ trong tương lai; bởi thực tế cho thấy,
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao được coi là lĩnh vực đầu tư
mạo hiểm, với việc tốn rất nhiều chi phí cho nghiên cứu, thử nghiệm sản phẩm, đồng
thời tỷ lệ thất bại cũng rất lớn; việc làm này được coi là hướng đi đúng đắn, như bài
học tại Hàn Quốc cho thấy, rất cần thiết quy định cụ thể các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nhằm đưa những ưu đãi của chính phủ hỗ trợ được các
doanh nghiệp này.
Hay như văn bản sát sườn nhất liên quan đến quỹ đầu tư mạo hiểm là dự thảo
Thông tư Hướng dẫn về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của quỹ đầu tư
mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo năm 2016. Trong dự thảo này đã nêu ra được nổi
161
bật các vấn đề pháp lý cần thiết cho việc thành lập, hoạt động và giám sát quỹ đầu tư
mạo hiểm dành cho lĩnh vực đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
Ngoài ra, với quan điểm cho rằng, các doanh nghiệp khởi nghiệp thường là các
doanh nghiệp nhỏ, chưa có uy tín để huy động vốn tại các ngân hàng hoặc các trung
gian tài chính lớn khác, trong Hội thảo quốc tế “Tạo dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo Việt Nam – Bài học thực tiễn từ Insrael”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho
rằng, nên để các điều luật, quy định liên quan đến quỹ đầu tư mạo hiểm vào trong Luật
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ví dụ như Chính phủ đã ban hành một loạt các quy định
định hướng có liên quan như Quyết định Số: 1193/QĐ-TTg về việc thí điểm một số cơ
chế, chính sách đặc thù phát triển Vườn ương công nghệ công nghiệp Việt Nam - Hàn
Quốc tại thành phố Cần Thơ; Quyết định Số: 37/2015/QĐ-TTg, quy định điều kiện
thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nghị quyết Số: 35/NQ-CP về
hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Quyết định Số: 884/QĐ-TTg v ề việc
phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm
2025"; Quyết định Số: 1665/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ học sinh, sinh
viên khởi nghiệp đến năm 2025"; hay Quyết định Số: 939/QĐ-TTg Quyết định phê
duyệt Đề án "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giia đoạn 2017-2025".
Với quan điểm như vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có các bước hỗ trợ cụ thể như
thành lập Quỹ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa, với mục tiêu hỗ trợ vốn cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, với mức lãi suất ưu đãi trong suốt quá trình
đầu tư. Riêng trong năm 2017, trong tổng số vốn 560 tỷ phân bổ cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, mức vốn hỗ trợ cho Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới
sáng tạo đã lên tới 100 tỷ; còn lại phân bổ cho Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (180 tỷ); chương trình hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo (180 tỷ);
chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành hoạt động quản lý và xử lý
rác thải, nước thải (100 tỷ).
Như vậy có thể thấy, hiện nay chính phủ tập trung vào thực hiện các chính sách
hỗ trợ, thành lập, quản lý các quỹ đầu tư mạo hiểm liên quan đến giai đoạn khởi
nghiệp, cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhưng thực tế cho thấy, các giai đoạn đầu
tư của đầu tư mạo hiểm không chỉ bao gồm giai đoạn start-up mà còn có các giai đoạn
162
sau nữa. Dường như chính phủ đang tách bạch giữa quỹ đầu tư khởi nghiệp và quỹ
đầu tư chứng khoán, với hàm ý rằng, chính phủ sẽ tạo điểu kiện về hành lang pháp lý,
thậm chí đầu tư nguồn vốn “mồi” để giúp hình thành các doanh nghiệp mới, dự án
mới; sau đó để thị trường quyết định có nên đầu tư vào các doanh nghiệp này nữa hay
không, thông qua hiệu quả của giai đoạn nghiên cứu, phát triển sản phẩm.
Nhìn chung, hiện nay môi trường pháp lý đối với quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt
Nam gần như chưa có gì cụ thể, vẫn đang ở các quyết định, dự án mang tính chất
khuyến khích, còn manh mún và chưa có hệ thống pháp luật đồng bộ; chỉ có các Quy
định, Nghị định có liên quan đến đầu tư mạo hiểm, nhưng phần lớn đều mang tính chất
ngắn hạn, thường có hiệu lực đến năm 2020 hoặc 2025, nhằm thử nghiệm cho các
chương trình của Chính phủ. Bên cạnh đó, như đã trình bày ở nội dung phần trước,
hiện nay có rất ít quỹ đầu tư mạo hiểm chính danh nào được thành lập ở Việt Nam, mà
chủ yếu là các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đang hoạt động. Việc cho phép các
quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam, trong khi chưa có hành lang pháp lý cụ
thể đối với lĩnh vực này, vừa tạo ra kẽ hở trong quá trình hoạt động của các quỹ đó,
đồng thời bản thân các quỹ đầu tư mạo hiểm ở nước ngoài muốn tham gia đầu tư vào
Việt Nam cũng chưa cảm thấy yên tâm, tin tưởng, làm hạn chế nguồn vốn chảy vào
lĩnh vực đầu tư mạo hiểm ở nước ta.
5.2. Một số khuyến nghị chính sách nhằm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo
hiểm ở Việt Nam
Dựa vào kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm,
cũng như từ nghiên cứu thực trạng đầu tư mạo hiểm, hoạt động các quỹ đầu tư mạo
hiểm ở Việt Nam trong thời gian qua, luận án đề xuất một số khuyến nghị chính sách
nhằm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm như cần thiết xây dựng khung pháp
lý đồng bộ trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; xây dựng cơ chế đặc thù cho quỹ đầu tư
mạo hiểm; phát triển nguồn lực cho quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng mạng lưới kết nối
các quỹ đầu tư mạo hiểm; tập trung, khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào
lĩnh vực công nghệ cao; xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động hoàn thiện cho các
quỹ đầu tư mạo hiểm; có cách tiếp cận
5.2.1. Xây dựng khung pháp lý đồng bộ
Như đã trình bày ở các nội dung trước, tại Việt Nam hiện nay chưa có luật riêng
dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm, mà mới chỉ có dự thảo dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm
163
đối với lĩnh vực đổi mới sáng tạo; đối với quỹ đầu tư nói chung, chỉ có luật dành cho
quỹ đầu tư chứng khoán. Như vậy, đây là một khoảng trống pháp lý rất lớn đối với
lĩnh vực đầu tư đầy tiềm năng này.
Đầu tư mạo hiểm nói chung và việc góp vốn, giải ngân vốn của các quỹ đầu tư
mạo hiểm nói riêng đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển của khoa học công nghệ
mỗi quốc gia; bởi các lĩnh vực này yêu cầu vốn rất lớn, lại chứa đựng nhiều rủi ro
trong quá trình triển khai dự án đầu tư; vì thế rất cần thiết có các quy định chặt chẽ của
pháp luật để bảo vệ các nhà đầu tư góp vốn trong và ngoài nước, tránh các hiện tượng
trục lợi, lừa đảo, nhằm nâng cao sự quan tâm của công chúng về lĩnh vực đầu tư mạo
hiểm, tạo vốn cho các quỹ đầu tư mạo hiểm, từ đó nâng cao giá trị đầu tư mạo hiểm tại
Việt Nam.
Đối với việc thành lập quỹ đầu tư, hiện nay đối với quỹ đầu tư chứng khoán,
các quy định về thành lập quỹ vẫn còn gây khó khăn cho các nhà đầu tư cá nhân, như
yêu cầu phải có vốn điều lệ từ 50 tỷ đồng trở lên, thành viên góp vốn ít nhất 100,
không kể nhà đầu tư chuyên nghiệp (đối với quỹ đại chúng); hoặc trên 30 thành viên
góp vốn là pháp nhân (đối với quỹ thành viên); chính việc quy định này đã cản trở việc
tham gia góp vốn, thành lập quỹ của các nhà đầu tư cá nhân. Như vậy, để khuyến
khích các nhà đầu tư tham gia góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, tạo nguồn vốn
cho đầu tư mạo hiểm trong xã hội, cần thiết xây dựng các quy chế, quy định luật pháp
riêng biệt cho quỹ đầu tư mạo hiểm, với đặc thù của riêng Việt Nam.
5.2.2. Có cơ chế đặc thù cho quỹ đầu tư mạo hiểm
Trên thị trường tài chính, việc thoái vốn hiệu quả nhất là thông qua thị trường
chứng khoán, tuy nhiên cho đến nay, chưa có cơ chế đặc thù nào cho việc thoái vốn
hoặc phát hành cổ phiếu ra công chúng, theo hướng hỗ trợ các doanh nghiệp dạng này.
Cụ thể ở Điều 13 Nghị định 58/2012/NĐ-CP, có quy định điều kiện chào bán cổ phiếu
ra công chúng để thành lập mới doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ cao; tuy nhiên
đây là quy định dành riêng cho các doanh nghiệp mới thành lập, tức hướng đến các
doanh nhân khởi nghiệp; tuy nhiên thực tế đầu tư mạo hiểm không chỉ đầu tư vào các
công ty lĩnh vực công nghệ cao, mà có thể đầu tư vào bất cứ ngành nghề nào trên thị
trường, miễn là có triển vọng sinh lời cao. Do đó, cần thiết cần phải có cơ chế cho
phép phát hành cổ phiếu ra công chúng, hoặc thoái vốn thông qua các kênh khác nhau,
với những điều kiện linh hoạt hơn.
164
Thêm vào đó, để các nhà đầu tư dễ dàng tìm đến các công ty có tiềm năng trong
tương lai, đồng thời giúp các quỹ đầu tư mạo hiểm thoái vốn dễ dàng, cần thiết thành
lập sàn giao dịch chứng khoán chuyên biệt dành cho các doanh nghiệp loại này, với
các điều kiện dễ dàng hơn so với các công ty niêm yết. Hiện nay có 3 Sàn giao dịch
Chứng khoán (là HNX, HSX, UPCOM), mặc dù điều kiện niêm yết trên UPCOM là
đơn giản nhất, tuy nhiên vẫn có ràng buộc về vốn điều lệ ít nhất 30 tỷ đồng; trong khi
có nhiều doanh nhân khởi nghiệp vẫn bị hạn chế về vốn đầu tư, do đó với quy định này
vô hình chung đã hạn chế khả năng tham gia thị trường chứng khoán để thu hút vốn
của các nhà đầu tư này.
5.2.3. Thu hút nguồn lực cho quỹ đầu tư mạo hiểm
Như đã trình bày phần cơ sở lý thuyết ở chương 2, và phần nguyên nhân ở
chương 4, nguồn lực dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm: Thu hút nguồn vốn đầu
tư trong xã hội, đặc biệt đối với các nhà đầu tư tổ chức; và nâng cao trình độ nguồn
nhân lực; và bản thân nội tại của các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Thứ nhất, thu hút nguồn vốn đầu tư trong xã hội, đặc biệt đối với các nhà đầu
tư tổ chức. Đặc điểm của nhà đầu tư cá nhân là mức ngại rủi ro cao, thời gian đầu tư
ngắn, và không có nhiều vốn đầu tư nhàn rỗi, đầu tư chỉ mang tính chất nhỏ lẻ. Đối với
các nhà đầu tư tổ chức, có tiềm năng về vốn cũng như kinh nghiệm đầu tư, họ sẽ là nơi
cấp vốn đáng tin cậy cho các quỹ đầu tư mạo hiểm. Thực tế khi so sánh nhà đầu tư tổ
chức và nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư tổ chức sẽ có chiến lược kinh doanh dài hạn
hơn, nguồn lực thông tin tốt hơn, do đó họ sẽ có khả năng tham gia vào thị trường đầu
tư mạo hiểm với các chiến lược dài hơi hơn các nhà đầu tư cá nhân, vì thế, các quỹ đầu
tư nhận góp vốn sẽ ít chịu áp lực thoái vốn bất ngờ từ đối tượng nhà đầu tư này. Đối
với các nhà đầu tư tổ chức, khi lựa chọn các dự án đầu tư mạo hiểm, họ thường xem
xét rất kỹ các rủi ro có thể xảy ra trong đầu tư, thường tại mỗi tổ chức, có phòng ban
quản trị rủi ro riêng biệt. Như vậy, họ thường ưu tiên giảm thiểu rủi ro trong đầu tư,
hơn là chủ động phòng tránh các rủi ro trong các dự án của mình.
Thứ hai, nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Để làm được điều này, cần thiết
giải quyết hai vấn đề sau: (1) nâng cao sự hiểu biết của công chúng đầu tư về đầu tư
mạo hiểm nói chung, qua đó họ sẽ mạnh dạn hơn khi xem xét, đầu tư vào các dự án
đầu tư mạo hiểm, hoặc góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, với sự chấp nhận rủi ro
cao hơn so với các hình thức đầu tư thông thường. Điển hình của mô hình này như
165
Hàn Quốc, đã có sự tham gia giáo dục các tầng lớp doanh nhân từ bậc học tiểu học,
phổ thông đến đại học, sau đại học, qua đó làm cho các tầng lớp công chúng nước này
có sự hiểu biết về rủi ro trong đầu tư, về khả năng chấp nhận rủi ro, về đầu tư mạo
hiểm, qua đó tạo ra được nguồn nhân lực đông đảo cho đầu tư mạo hiểm nói chung.
(2) tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để làm việc tại các quỹ đầu tư mạo hiểm. Đây là
công việc khó, không thể hoàn thành được trong thời gian ngắn, bởi các nhà quản lý
quỹ đầu tư, các nhân viên làm việc tại đây cần thời gian để tích lũy kinh nghiệm, mở
rộng mối quan hệ, nhằm nâng cao hiệu quả từ việc đưa ra các quyết định đầu tư của
quỹ. Để làm được điều này, cần thiết có sự tham gia của các quỹ đầu tư nhằm liên kết,
mở rộng mạng lưới đầu tư để trao đổi các cơ hội kinh doanh, góp vốn. Ngoài ra, cũng
cần thiết có các khóa học bồi dưỡng nhằm nâng cao khả năng hiểu biết của các nhà
quản lý quỹ, nhân viên của quỹ về các điều kiện kinh doanh mới, các cơ chế, chính
sách của chính phủ đối với từng loại hình kinh doanh, về các chiến lược đầu tư, v.v…
Thứ ba, bản thân nội tại các quỹ đầu tư mạo hiểm cần không ngừng nâng cao
hiệu quả đầu tư của mình, làm cho các nhà đầu tư góp vốn tin tưởng và tiếp tục góp
vốn vào quỹ trong các đợt huy động vốn sau, từ đó tận dụng tốt hơn nguồn lực vốn đầu
tư mạo hiểm trong nền kinh tế.
Như vậy, trách nhiệm chính ở đây liên quan đến lĩnh vực giáo dục, đặc biệt từ
cấp học đại học và sau đại học, cả hệ chính quy và bán tập trung, bởi tại lứa tuổi này,
rất phù hợp để truyền đạt và thực hành các kiến thức liên quan đến đầu tư, kinh doanh,
qua đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dành cho đầu tư mạo hiểm nói chung và
các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng.
5.2.4. Khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm tập trung đầu tư vào lĩnh vực công
nghệ cao
Đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ cao, đặc biệt vào các công ty đang
khởi nghiệp trong lĩnh vực này sẽ mang lại cơ hội sinh lời rất lớn đối với các quỹ đầu
tư mạo hiểm, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển bền vững, gia tăng sức
cạnh tranh toàn cầu. Muốn tập trung được vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm vào lĩnh
vực này, cần thiết sự hỗ trợ, vào cuộc của chính phủ, chính quyền địa phương, trong
việc tạo các ưu đãi với các quỹ đầu tư mạo hiểm khi đầu tư vào lĩnh vực này, ví dụ ưu
đãi về thuế thu nhập trong đầu tư, về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, v.v… Ngoài ra,
166
chính phủ còn có thể hỗ trợ gián tiếp thông qua ưu đãi thuế nhập khẩu đối với các thiết
bị, máy móc phục vụ công việc nghiên cứu, sản xuất các hàng hóa trong lĩnh vực công
nghệ cao; kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực công nghệ cao
đã được phê duyệt theo Quyết định 66/2014/QĐ-TTg về việc phê duyệt danh mục
công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và danh mục sản phẩm công nghệ cao
được khuyến khích phát triển.
5.2.5. Xây dựng mạng lưới kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm
Việc xây dựng mạng lưới kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ nâng cao hiệu quả
hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Thông qua mạng lưới kết nối này, các quỹ
đầu tư mạo hiểm sẽ tiết kiệm được các chi phí tìm kiếm các dự án đầu tư mạo hiểm,
chia sẻ các kinh nghiệm trong đầu tư, đưa ra các cảnh báo đối với những hiện tượng,
dự án có dấu hiệu lừa đảo, trục lợi vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm, v.v… Mạng lưới
kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm còn là nơi để các doanh nhân khởi nghiệp tìm đến,
chia sẻ ý tưởng, kêu gọi vốn góp, đồng thời là nơi các doanh nhân khởi nghiệp học hỏi
lẫn nhau, học hỏi kinh nghiệm từ những nhà điều hành quỹ đầu tư mạo hiểm, v.v…
5.2.6. Gợi ý hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm ở
Việt Nam
5.2.6.1. Nới lỏng điều kiện thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm
Hiện nay, Việt Nam đã có quy định về điều kiện thành lập đối với quỹ đầu tư
chứng khoán, quỹ đầu tư bất động sản; chưa có quy định đối với việc thành lập quỹ
đầu tư mạo hiểm. Theo quy định hiện nay, quỹ đầu tư bất động sản phải ở dạng đóng;
trong khi quỹ đầu tư chứng khoán có thể ở dạng quỹ đóng, quỹ mở, hoặc quỹ hoán đổi
danh mục. Trong giai đoạn đầu hình thành của quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án cho rằng,
chúng ta nên bám theo điều kiện thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán hiện nay, tuy
nhiên có sự linh hoạt với điều kiện cụ thể từng giai đoạn. Với giai đoạn ban đầu hình
thành, nhà nước không nên quá khắt khe trong việc hình thành các quỹ đầu tư mạo
hiểm, mà nên thắt chặt vấn đề thanh tra, giám sát hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm,
tránh các trường lừa đảo, lợi dụng việc thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm để trục lợi,
hoặc đầu tư sai mục đích.
Về vốn điều lệ, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể tuân theo quy định của các quỹ đầu
tư chứng khoán hiện nay, tức yêu cầu có vốn điều lệ tối thiểu 50 tỷ đồng. Việc quy
167
định số vốn lớn nhằm đảm bảo cho các quỹ đầu tư mạo hiểm có đủ tiềm lực tài chính,
đầu tư với chiến lược lâu dài vào các công ty mạo hiểm. Bản chất của đầu tư mạo hiểm
là tiềm ẩn nhiều rủi ro, với thời gian đầu tư lâu dài. Vì vậy, số vốn tối thiểu 50 tỷ sẽ
giúp quỹ có đủ vốn đề tham gia vào các hoạt động đầu tư trong tương lai.
Về các quy định trong đầu tư. Hiện nay quy định đối với các quỹ đầu tư hiện
hành khá chặt chẽ; trong đó quỹ đầu tư chứng khoán dạng đóng có quy định, không
được đầu tư quá 15% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của tổ chức đó; hoặc quỹ
đầu tư chứng khoán dạng mở có quỹ định không được đầu tư quá 10% tổng giá trị
chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức; quỹ thành viên có quy định không được
đầu tư vào các quỹ đầu tư chứng khoán khác, kể cả quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu
tư bất động sản; hoặc đối với quỹ đầu tư bất động sản, quy định không được đầu tư
quá 10% tổng số chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành. Như vậy, với
các quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư bất động sản, có mục tiêu đầu tư vào các lĩnh
vực rõ ràng, thì quy định như vậy là hợp lý. Tuy nhiên, với đặc thù quỹ đầu tư mạo
hiểm hoạt động trong các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, với mong muốn tỷ suất sinh lời
cao, theo quan điểm của luận án, trong giai đoạn đầu hình thành, không nên quy định
cụ thể tỷ lệ đầu tư, lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Mục tiêu của quỹ đầu
tư mạo hiểm là tối đa hóa lợi nhuận, với các mục tiêu đầu tư đã được các nhà đầu tư
mạo hiểm góp vốn vào, xác định từ trước, vì thế hãy để cho các quỹ đầu tư tự quyết
định mức độ rủi ro, lĩnh vực đầu tư của mình, tránh hạn chế các cơ hội, chiến lược đầu
tư của họ; bởi lẽ hơn ai hết, chính các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm, đã
luôn ý thức việc bảo toàn vốn của mình trong quá trình đầu tư.
5.2.6.2. Đối tượng tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm
Như đã trao đổi ở các phần trước, đầu tư mạo hiểm có đặc điểm tính rủi ro cao,
tỷ lệ thành công thấp, vì thế đối tượng nhà đầu tư tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm
rất kén chọn. Theo kinh nghiệm quốc tế như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, đối tượng
tham gia vào đầu tư mạo hiểm chủ yếu đến từ các cá nhân, gia đình giàu có, hoặc các
nhà đầu tư tổ chức như các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ
hưu trí, v.v… Lý do chính vì họ có tiền, sẵn sàng đầu tư trong thời gian dài, chịu được
rủi ro khi mất vốn, không sốt sắng thu hồi vốn như các nhà đầu tư nhỏ lẻ khác.
Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, chúng ta cần xác định mục tiêu
chính là thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, và mục tiêu đầu
168
tư là các dự án mạo hiểm, công ty mạo hiểm ở trong nước. Thực tế hiện nay, các cá
nhân, tổ chức ở Việt Nam hoàn toàn có đủ tiềm lực về vốn để tham gia đầu tư mạo
hiểm, thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm. Tuy vậy, đầu tư mạo hiểm là lĩnh vực còn
khá mới đối với Việt Nam, vì thế thu hút nguồn vốn để đầu tư mạo hiểm không phải
việc dễ, đặc biệt với lượng tiền huy động lớn, thời gian đầu tư lâu dài. Chính vì vậy,
trong giai đoạn đầu hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, cần thiết có sự
tham gia đầu tư của các cá nhân có tiềm lực tài chính, các cá nhân nổi tiếng; hoặc các
công ty, tập đoàn lớn tham gia góp vốn; từ đó tạo hiệu ứng truyền thông để thu hút các
nhà đầu tư khác tham gia đầu tư cùng. Các cá nhân, tổ chức tiên phong này có thể là
các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đã từng tham gia đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam,
hoặc trên thị trường thế giới.
Ngoài việc chọn lọc các các nhà đầu tư tham gia góp vốn vào quỹ đầu tư mạo
hiểm, số lượng nhà đầu tư tham gia vào từng quỹ đầu tư cũng rất quan trọng. Kinh
nghiệm hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm từ Trung Quốc cho thấy, tại các
giai đoạn đầu, do chưa quen phong cách đầu tư của các quỹ, các nhà đầu tư góp vốn
thường thích xen vào quá trình hoạt động, đầu tư của quỹ đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến
chiến lược, hiệu quả của quỹ đầu tư mạo hiểm tại các giai đoạn khác nhau. Về cơ cấu
nhà đầu tư, Việt Nam hiện nay các cá nhân, gia đình giàu có chủ yếu hoạt động trong
các lĩnh vực bất động sản, hoạt động sản xuất vật chất; đối với các tổ chức, với đặc
điểm nền kinh tế còn lệ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng, nên các ngân hàng
thương mại là các tổ chức tài chính lớn trên thị trường; ngoài ra còn có sự tham gia của
các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, nhưng với tỷ lệ nhỏ hơn. Vì
thế, nếu các đối tượng này chưa có sự hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm,
sẽ dễ dẫn đến việc chưa hiểu, chưa tin tưởng vào chiến lược đầu tư của quỹ đầu tư mạo
hiểm, trong các đại hội các nhà đầu tư, họ sẽ có các ý kiến trái chiều trong quá trình
đầu tư của quỹ, gây áp lực trong quá trình hoạt động của quỹ, thậm chí áp lực thoái
vốn sớm, hoặc gây các rắc rối không cần thiết trong quá trình hoạt động của quỹ đầu
tư mạo hiểm. Vì vậy, luận án cho rằng, nên giới hạn số lượng nhà đầu tư mạo hiểm
tham gia vào mỗi quỹ đầu tư mạo hiểm.
Theo quan điểm của luận án, nên quy định cụ thể số lượng vốn tham gia, thời
gian góp vốn tối thiểu vào quỹ đầu tư mạo hiểm như:
169
- Đối với các nhà đầu tư cá nhân: tối thiểu góp vốn 1 tỷ đồng; thời gian cam kết
đầu tư tối thiểu 5 năm.
- Đối với các nhà đầu tư tổ chức: tối thiểu góp vốn 5 tỷ đồng; thời gian cam kết
đầu tư tối thiểu 7 năm.
Lý do chính cho việc quy định hạn mức vốn góp và thời gian đầu tư đó là:
Thứ nhất, với đặc thù rủi ro lớn trong quá trình hoạt động đầu tư, quỹ đầu tư
mạo hiểm
cần thu hút vốn từ các nhà đầu tư có tiềm lực về vốn, sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Với số
lượng tiền đầu tư ban đầu lớn như vậy, sẽ sàng lọc được các đối tượng nhà đầu tư thực
sự có tiền, với thời gian đầu tư lâu dài, tránh hiện tượng sử dụng vốn đầu tư từ các
nguồn vay mượn, áp lực trả gốc và lãi, dẫn đến hiện tượng có mong muốn thoái vốn,
hoặc sốt ruột thu hồi vốn, dẫn đến tạo áp lực, yêu cầu quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào
những dự án thu hồi vốn nhanh, hiệu quả thấp.
Thứ hai, đầu tư mạo hiểm cần quá trình nghiên cứu, khảo sát kỹ lưỡng, tiêu tốn
nhiều chiphí, thời gian tìm hiểu lâu dài. Vì thế, việc huy động lượng vốn đầu tư đủ lớn
sẽ giúp quỹ đầu tư mạo hiểm có đủ tiền trang trải các chi phí liên quan đến quá trình
hoạt động của mình. Bên cạnh đó, việc huy động lượng vốn đầu tư lớn cũng giúp các
công ty quản lý quỹ tiết kiệm được các chi phí trong quá trình ghi nhận các hoạt động
của quỹ đầu tư mạo hiểm, đồng thời thuận lợi hơn trong việc quản lý phần vốn góp của
các nhà đầu tư trong quỹ đầu tư mạo hiểm.
Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư trong đầu tư mạo hiểm không thể thiếu được vai trò
của chính phủ, đặc biệt trong giai đoạn đầu mới hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm ở
Việt Nam. Kinh nghiệm từ Trung Quốc và Hàn Quốc cho thấy, ở giai đoạn đầu, chính
phủ cần đầu tàu thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, nhằm định hướng công chúng đầu
tư, đồng thời tạo ra nguồn vốn “mồi”, thu hút các thành phần trong nền kinh tế tham
gia đầu tư. Khi các quỹ đầu tư mạo hiểm đã đạt mức phát triển nhất định, chính phủ
vẫn có vai trò rất lớn trong quá trình đầu tư mạo hiểm, như cung cấp nguồn vốn hỗ trợ,
chứ không nên can thiệp vào quá trình hoạt động, hoặc không cần thiết định hướng thị
trường nữa, bởi lúc này các dự án đầu tư mạo hiểm, nhu cầu đầu tư mạo hiểm sẽ do thị
trường tự quyết định.
170
5.2.6.3. Gợi ý mô hình sở hữu quỹ đầu tư mạo hiểm
Mô hình sở hữu quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ quyết định đến tính hấp dẫn, các quy
định pháp lý kèm theo, cũng như ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của quỹ. Trên
thực tế, lựa chọn mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm của
nhà đầu tư, trình độ nhà đầu tư, cơ sở hạ tầng sẵn có, chính sách, quan điểm của chính
phủ đối với loại hình đầu tư này. Trên thế giới, mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng
hợp danh hữu hạn đã phổ biến từ rất lâu, trong khi tại Đài Loan lại ưa chuộng mô hình
quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty. Trong khi đó, tại Trung Quốc, kể từ năm 2008 trở
lại đây, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn chiếm đa số (51,19%), dạng
công ty (39,29%), trong khi mô hình quỹ đầu tư dạng tín thác chỉ chiếm 4,76%. Tại
một số quốc gia, có sự tồn tại song song nhiều mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm như tại
Singapore, New Zealand, Nhật Bản, Hà Lan, v.v…
Tại Việt Nam hiện nay, đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động có mô
hình hoạt động đa dạng; dưới dạng quỹ đóng (các quỹ của Dragon Capital, Vina
Capital); quỹ thành viên (Mekong Capital, quỹ Đầu tư khởi nghiệp và sáng tạo TP. Hồ
Chí Minh – HSIF; quỹ khởi nghiệp Bình Phước); quỹ hợp danh hữu hạn (IDG
Ventures); thậm chí một số quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động, không thấy ghi rõ
mô hình hoạt động của quỹ, như FPT Ventures, Quỹ Tăng tốc khởi nghiệp Việt Nam
(VIISA); hay Quỹ khởi nghiệp doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam, có ghi
trong điều lệ quỹ là loại hình quỹ tư nhân, và nhận vốn góp cả từ các nhà đầu tư tổ
chức và cá nhân.
Theo kết quả khảo sát của luận án, có đến 47,1% số người được trả lời lựa chọn
phương án quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty, 24,8% trả lời lựa chọn phương án quỹ
đầu tư mạo hiểm dạng tín thác, và 19,8% lựa chọn mô hình hợp danh hữu hạn. Tuy
nhiên, khi phỏng vấn chuyên gia tại Ủy Ban chứng khoán Nhà nước, tất cả các chuyên
gia đều cho rằng, nên lựa chọn mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng tín thác trong giai
đoạn này ở Việt Nam.
Theo quan điểm của luận án, việc lựa chọn mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng
nào đi chăng nữa, cũng nên nằm trong khuôn khổ pháp lý sẵn có, cùng với quan điểm,
định hướng của chính phủ trong tương lai đối với loại hình quỹ đầu tư này. Mặc dù
trên thế giới, mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn, dạng công ty đã
rất phổ biến, trở thành xu thế chung trong những năm gần đây. Tuy nhiên, theo quan
171
điểm của luận án, việc áp dụng mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn,
hoặc dạng công ty ở Việt Nam trong giai đoạn này là chưa hợp lý, bởi những lý do sau
đây:
Thứ nhất, lĩnh vực đầu tư mạo hiểm còn khá mới ở Việt Nam, do đó các nhà
đầu tư mạo hiểm tham gia góp vốn vào các dự án mạo hiểm sẽ chưa có nhiều kinh
nghiệm trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng. Việc không lường trước được các
khả năng có thể xảy ra trong tương lai sẽ gây bất lợi cho các thành viên hợp danh, dễ
gây đến thua thiệt khi xảy ra tranh chấp, từ đó có thể gây tiếng xấu cho lĩnh vực đầu tư
mạo hiểm, làm khó khăn cho vấn đề huy động vốn về sau. Mô hình quỹ đầu tư mạo
hiểm dạng hợp danh hữu hạn phổ biến ở Mỹ, Trung Quốc do các quốc gia này đã có
thời gian dài phát triển loại hình đầu tư mạo hiểm này, do đó họ đã tranh thủ được các
ưu đãi về thuế suất, sự linh hoạt trong các vấn đề liên quan đến cấu trúc, điều khoản
của quỹ khi hoạt động. Ngoài ra, như đã trao đổi ở chương 3, khi thực hiện ký kết hợp
đồng góp vốn đầu tư vào quỹ đầu tư mạo hiểm dạng này, thường trong điều khoản hợp
đồng được chia thành ba nội dung cơ bản: (1) các điều khoản về hình thành và hoạt
động của quỹ, như giới hạn về thời gian gây quỹ, thời gian tồn tại của quỹ, hay sự
đóng góp cần thiết của các nhà quản lý quỹ; (2) mức phí quản lý của quỹ, mức cổ tức;
(3) cấu trúc quản trị của quỹ, nhằm đảm bảo quỹ được quản lý hiệu quả nhất. Trong
mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn, các đối tượng tham gia vào quỹ
thường ký kết với nhau với các điều khoản rất cụ thể, chặt chẽ, để từ đó quỹ đầu tư
mạo hiếm, dưới sự quản lý của công ty quản lý quỹ sẽ thực hiện đúng cam kết, lộ trình
như đã ký kết từ ban đầu, trừ trường hợp có sự đồng ý, thỏa thuận giữa các bên liên
quan để điều chỉnh lại hợp đồng hợp danh. Để làm được điều này, yêu cầu cần có là
các nhà đầu tư, thị trường đầu tư mạo hiểm đã phát triển đến một mức độ nhất định;
trong khi hiện nay tại Việt Nam mới chỉ manh nha xuất hiện, manh mún ở một số nhà
đầu tư thiên thần, hoặc các quỹ đầu tư mạo hiểm ngoại đang hoạt động ở Việt Nam.
Thứ hai, quỹ đầu tư mạo hiểm ở dạng công ty, tức các nhà đầu tư góp vốn sẽ
trở thành các thành viên trong công ty (dạng công ty trách nhiệm hữu hạn), hoặc dưới
dạng cổ đông (trong mô hình công ty cổ phần). Về hình thái thông thường, quỹ đầu tư
là một tập hợp vốn do các nhà đầu tư góp vào, do công ty quản lý quỹ đầu tư quản lý
và đầu tư; như vậy lúc này quỹ đầu tư mạo hiểm không có tư cách pháp nhân. Nếu quỹ
đầu tư mạo hiểm hoạt động dưới hình thức mô hình công ty, tức là lúc này thừa nhận
172
quỹ đầu tư mạo hiểm có tư cách pháp nhân. Khi đó, quỹ đầu tư sẽ hoạt động như một
công ty bình thường, tức có hệ thống ban lãnh đạo, có đội ngũ nhân viên, có ban kiểm
soát, có các phòng, ban bộ phận khác đi kèm như những công ty bình thường. Điều
này sẽ phát sinh thêm các chi phí hoạt động, chi phí tài chính. Ngoài ra, việc hoạt động
theo mô hình công ty, nghĩa là các thành viên góp vốn sẽ có tác động đến hoạt động
của quỹ, tùy theo mức độ góp vốn như những mô hình công ty bình thường. Điều này,
như đã đề cập ở phần trước, là khá phức tạp. Do ở giai đoạn đầu hình thành và phát
triển, không phải đối tượng nhà đầu tư nào cũng hiểu rõ, lường hết được các rủi ro gặp
phải trong đầu tư mạo hiểm. Vì thế nếu để các nhà đầu tư góp vốn thường xuyên tham
dự vào hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm, sẽ tác động không tốt đến ban lãnh đạo
quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty. Bên cạnh đó, quỹ đầu tư mạo hiểm là loại hình
kinh doanh mới, mang tính đặc thù riêng, do đó cần có các chuẩn mực, tiêu chí quản lý
doanh nghiệp, kế toán riêng biệt so với các doanh nghiệp thông thường; trong khi ở
giai đoạn xây dựng, hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm, các điều luật, quy định của Việt
Nam chưa theo kịp sự phát triển của nhu cầu đầu tư trong xã hội, điều này có thể dẫn
đến hiện tượng sơ hở trong quá trình hạch toán doanh nghiệp, hoặc bản thân các doanh
nghiệp cũng lúng túng trong quá trình hoạt động của mình.
Như vậy, với hai mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm tiên tiến, được áp dụng rộng rãi
trên thế giới hiện nay là mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn và dạng
công ty, luận án cũng cùng quan điểm với tác giả Đào Lê Minh (2003), chưa phù hợp
để áp dụng tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, do các quy định của pháp luật, sự
hiểu biết của công chúng đối với loại hình đầu tư mạo hiểm còn hạn chế. Theo quan
điểm của luận án, với điều kiện pháp luật hiện hành của Việt Nam, nên thành lập quỹ
đầu tư mạo hiểm dạng ủy thác đầu tư, bởi hai lý do chính sau:
Thứ nhất, tận dụng được các quy định của pháp luật về ủy thác đầu tư của Luật
các tổ chức tín dụng (số 47/2010/QH12; sửa đổi, bổ sung số 17/2017/QH14). Trong đó
có quy định rất cụ thể các đối tượng được phép nhận ủy thác đầu tư như các ngân hàng
thương mại, các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân
dân, tổ chức tín dụng vi mô. Ví dụ Điều 106: Nghiệp vụ ủy thác và đại lý có quy định,
ngân hàng thương mại được quyền ủy thác, nhận ủy thác, đại lý trong lĩnh vực liên
quan đến hoạt động ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, quản lý tài sản theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước; Điều 111: Các hoạt động kinh doanh khác của công ty tài chính
173
có quy định, Tiếp nhận vốn ủy thác của Chính phủ, tổ chức, cá nhân để thực hiện các
hoạt động đầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh, cấp tín dụng được phép; ủy thác
vốn cho tổ chức tín dụng thực hiện cấp tín dụng. Việc tiếp nhận vốn ủy thác của cá
nhân và ủy thác vốn cho các tổ chức tín dụng cấp tín dụng thực hiện theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước; Điều 116: Các hoạt động kinh doanh khác của công ty cho thuê
tài chính, quy định tiếp nhận vốn ủy thác của Chính phủ, tổ chức, cá nhân để thực hiện
hoạt động cho thuê tài chính. Việc tiếp nhận vốn ủy thác của cá nhân thực hiện theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước, v.v… Như vậy, đối tượng tạo lập quỹ đầu tư mạo
hiểm sẽ được giới hạn trong các tổ chức tài chính có tiềm lực về vốn, kinh nghiệm đầu
tư như các thành phần đã nêu ở trên. Điều này sẽ tạo niềm tin cho các đối tượng tham
gia góp vốn đầu tư mạo hiểm.
Thứ hai, tận dụng được các quy định về thành lập quỹ đầu tư trong lĩnh vực
chứng khoán hiện nay. Trong giai đoạn đầu, do việc thiết lập các quy định, luật pháp
về quỹ đầu tư mạo hiểm còn mới, chưa có gì, nên việc tận dụng những quy định sẵn có
của việc thành lập quỹ đầu tư chứng khoán là cần thiết, do đầu tư mạo hiểm cũng
thuộc hệ thống luật đầu tư, do đó cần tham khảo, xem xét việc thành lập quỹ dựa vào
điều kiện thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán sẵn có hiện nay.
Như vậy, mô hình sở hữu của quỹ đầu tư mạo hiểm luận án đề xuất là dạng tín
thác, quỹ không có tư cách pháp nhân, được thành lập nên bởi các công ty quản lý
quỹ/ tổ chức huy động ủy thác đầu tư theo quy định của pháp luật.
5.2.6.4. Mô hình hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm
Dạng quỹ đầu tư
Hiện nay, theo quy định của Việt Nam, pháp luật đã có các quy định điều chỉnh
về các quỹ đầu tư được thành lập dưới dạng quỹ đầu tư dạng mở, quỹ đầu tư dạng
đóng, quỹ hoán đổi danh mục (ETF), quỹ thành viên, quỹ đại chúng. Tuy nhiên đối với
loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án cho rằng nên xem xét cụ thể từng loại quỹ đầu
tư, nhằm tìm ra mô hình phù hợp trong giai đoạn hiện nay:
Thứ nhất, quỹ đầu tư mạo hiểm không nên ở dạng quỹ đóng, bởi quỹ đóng sẽ
cần niêm yết và giao dịch chứng chỉ quỹ trên thị trường chứng khoán; qua đây cơ cấu
nhà đầu tư sẽ thay đổi nhanh chóng, do có sự trao đổi, giao dịch thông qua phương
thức khớp lệnh trên Sở giao dịch chứng khoán. Việc duy trì cơ cấu cổ đông ổn định rất
174
quan trọng, do đối tượng góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm rất kén chọn, họ phải thực
sự hiểu về đầu tư mạo hiểm, cũng như chấp nhận rủi ro khi đầu tư vào lĩnh vực này.
Nếu cơ cấu cổ đông thay đổi, sẽ dẫn đến áp lực thay đổi chiến lược đầu tư của quỹ,
làm sai lệch mục tiêu đầu tư ban đầu.
Thứ hai, quỹ đầu tư mạo hiểm không nên ở dạng quỹ đầu tư dạng mở, do yêu
cầu của quỹ mở cần phải báo cáo thông tin định kỳ (theo tháng, tuần, thậm chí theo
ngày), đặc biệt là việc công bố giá trị tài sản ròng của quỹ; điều này không hợp lý đối
với quỹ đầu tư mạo hiểm, do quỹ đầu tư mạo hiểm rất khó tính toán giá trị tài sản ròng
đều đặn, đặc biệt đối với các dự án đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp, vì còn liên
quan đến quá trình đầu tư, thử nghiệm sản xuất, sản phẩm, dịch vụ; những giai đoạn
này rất khó định giá doanh nghiệp; hơn nữa, quỹ đầu tư tư dạng mở sẽ phải mua lại
chứng chỉ quỹ theo yêu cầu của nhà đầu tư; điều này cũng không hợp lý đối với quỹ
đầu tư mạo hiểm; đặc thù đầu tư của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm là rất rủi ro, vì thế có
nhiều thời điểm có thể quỹ đầu tư mạo hiểm đã giải ngân hết vốn, mà không còn lại
lượng tiền mặt để mua lại chứng chỉ quỹ của các nhà đầu tư góp vốn.
Thứ ba, quỹ đầu tư mạo hiểm không nên ở dạng quỹ thành viên, do trong quy
định quỹ thành viên có giới hạn số lượng nhà đầu tư tham gia không quá 30 người, đối
tượng góp vốn chỉ giới hạn ở các pháp nhân trong và ngoài nước. Trên thực tế, như đã
trình bày ở phần trước, số lượng nhà đầu tư tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm không
cần quá đông, do sẽ phát sinh ra các mâu thuẫn trong quá trình hoạt động của quỹ; tuy
nhiên việc quy định góp vốn vào quỹ thành viên sẽ hạn chế sự tham gia của các nhà
đầu tư cá nhân, hay còn gọi là các nhà đầu tư thiên thần vào các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Thứ tư, quỹ đầu tư mạo hiểm không nên ở dạng quỹ hoán đổi danh mục, do
liên quan đến các vấn đề phức tạp trong quá trình hoạt động, cũng như việc tính toán
các thủ tục tham gia hoặc rút vốn khỏi quỹ, làm phát sinh thêm các chi phí không cần
thiết.
Như vậy, theo quan điểm của luận án, trong giai đoạn mới hình thành và xây
dựng quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam như hiện nay, nên đơn giản hóa hết sức có thể
đối với các thủ tục hành chính, nhằm tạo điều kiện cho hình thành các quỹ đầu tư mạo
hiểm đầu tiên của Việt Nam. Trong giai đoạn đầu này, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể ở
dạng quỹ đầu tư dạng thành viên, nhưng có thể không hạn chế các nhà đầu tư góp vốn
là các pháp nhân, mà mở rộng ra các cá nhân đủ tiêu chuẩn như ở mục 5.2.4.2; việc
175
mua bán, chuyển nhượng vốn đầu tư trong quỹ nên để các nhà đầu tư nội bộ tự thỏa
thuận với nhau, thông qua các hợp đồng chuyển nhượng, và cần quy định rõ trong điều
lệ quỹ.
Mô hình quản lý
Với mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng mở, các nhà đầu tư mạo hiểm góp vốn
vào quỹ dưới hình thức tín thác, tức là quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ không có tư cách pháp
nhân, mà do một công ty quản lý quỹ đứng lên huy động thành lập quỹ. Như đã trình
bày ở phần trước, công ty quản lý quỹ có thể là các ngân hàng thương mại, các công ty
tài chính, các công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tín dụng vi
mô, các công ty chứng khoán. Tất nhiên pháp luật cần quy định rõ điều kiện cụ thể để
trở thành công ty quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm.
Danh mục đầu tư và các hạn chế đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm
Mục tiêu của quỹ đầu tư mạo hiểm là đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm,
nhằm thu được lợi nhuận cao. Tuy nhiên, các quỹ đầu tư mạo hiểm cần phải có những
quy định rõ ràng trong điều lệ quỹ đầu tư, nhằm tránh việc đầu tư vào các dự án có rủi
ro quá cao, dẫn đến khả năng mất vốn trong quá trình đầu tư.
Đầu tư mạo hiểm là quá trình đầu tư xuyên suốt vào các giai đoạn khác nhau
của doanh nghiệp: Giai đoạn ý tưởng, khởi đầu, mở rộng, hoặc tăng tốc. Tuy nhiên ở
giai đoạn mới thành lập, quỹ đầu tư mạo hiểm nên tập trung vào các doanh nghiệp/
doanh nhân khởi nghiệp có ý tưởng kinh doanh tốt, có khả năng mang lại lợi nhuận
cao trong tương lai, sau đó tùy vào thực tế triển khai dự án, sẽ xem xét tài trợ thêm vốn
đầu tư. Càng về các giai đoạn sau, nếu công ty hoạt động tốt, thì nguồn vốn rót vào các
dự án này sẽ có xu hướng giảm dần, do lúc này công ty nhận vốn đầu tư mạo hiểm bắt
đầu có nguồn thu, lợi nhuận, và được công chúng biết đến sản phẩm; lúc này quỹ đầu
tư mạo hiểm sẽ tập trung vào đầu tư ở khâu hoàn thiện sản phẩm, quảng cáo và tính
đến chuyện thoái vốn.
Mặt khác, quỹ đầu tư mạo hiểm cũng có thể xem xét đầu tư vào các công ty có
lịch sử hoạt động tốt, sản phẩm được chấp nhận trên thị trường, nhưng đang gặp khó
khăn trong quá trình huy động vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh; hoặc đơn giản
công ty đó đang rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ, bởi các lý
do khác nhau; hoặc ban lãnh đạo công ty đó đang loay hoay trong việc tìm ra chiến
176
lược phát triền mới, v.v…. Trong trường hợp này, vai trò của công ty quản lý quỹ rất
quan trọng, bởi lúc này đội ngũ tư vấn dày dặn kinh nghiệm sẽ phát huy vai trò chia sẻ
kiến thức, kinh nghiệm, mối quan hệ của mình trong quá trình tư vấn, hỗ trợ công ty
nhận đầu tư.
Mặc dù mục tiêu của quỹ đầu tư mạo hiểm là tối đa hóa lợi nhuận, tức quỹ đầu
tư có thể lựa chọn bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào họ muốn đầu tư. Tuy nhiên trong
giai đoạn hiện nay, khi chính phủ định hướng, khuyến khích các thành phần trong nền
kinh tế tham gia khởi nghiệp, nhằm khơi dậy tinh thần doanh nhân của người dân Việt
Nam; quỹ đầu tư mạo hiểm nên tập trung đầu tư vào các công ty mới thành lập, với
những ý tưởng tốt. Bên cạnh đó, dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệ 4.0,
Việt Nam nên tận dụng cơ hội này để thúc đẩy, phát triển các doanh nghiệp trong nước
theo hướng đầu tư vào các doanh nghiệp có nhiều chất xám; vì thế các quỹ đầu tư mạo
hiểm nên tập trung hỗ trợ vốn cho các doanh nhân khởi nghiệp, các công ty mạo hiểm
liên quan đến lĩnh vực khoa học, công nghệ cao, nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận trong
tương lai.
Nhằm tránh trùng lặp, hoặc lẫn vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm so với các quỹ
đầu tư khác như quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư bất động sản, v.v… trong giai
đoạn đầu xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm, nên có quy định quỹ đầu tư mạo hiểm chỉ
được đầu tư tối đa bao nhiêu vốn vào lĩnh vực các công ty đang niêm yết trên Sở giao
dich chứng khoán, các công ty hoạt động trong lĩnh vực bất động sản đã niêm yết;
hoặc thậm chí không cho phép các quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các công ty đã
niêm yết trên hai Sở giao dịch Chứng khoán lớn của Việt Nam là HNX và HSX;
không được đầu tư vào các loại hàng hóa khác như vàng, bất động sản, đầu tư trên thị
trường ngoại hối, v.v… chỉ cho phép đầu tư vào các công ty mới thành lập, chưa trở
thành công ty đại chúng. Ngoài ra, không cần thiết hạn chế quỹ đầu tư mạo hiểm đầu
tư tối đa bao nhiêu vào một công ty, như đã quy định ở các quỹ đầu tư chứng khoán;
điều này nhằm tạo cho quỹ đầu tư mạo hiểm có cơ hội mua đứt luôn doanh nghiệp
nhận đầu tư mạo hiểm, nếu họ thấy có triển vọng, nhằm đạt được mục tiêu của quỹ đầu
tư mạo hiểm: tối đa hóa lợi nhuận.
Phương thức thoái vốn
Trong một thương vụ đầu tư, có những cách thoái vốn phổ biến sau:
177
Thứ nhất, phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO). Đối với một
thương vụ đầu tư thành công, phương pháp IPO sẽ đem lại lợi nhuận rất lớn cho quỹ
đầu tư mạo hiểm, do phương pháp IPO thường áp dụng đối với những công ty có sản
phẩm tốt, thành công thị trường, mới thu hút được các nhà đầu tư mua cổ phần phát
hành lần đầu ra công chúng. Thông qua phương thức IPO, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể
áp dụng phương pháp đấu giá cổ phần, nhằm tối đa hóa được mức giá các nhà đầu tư
tham gia, qua đó thu được nhiều tiền hơn từ đợt phát hành.
Thứ hai, chào bán thương mại. Phương án này thường dùng để bán công ty
nhận đầu tư mạo hiểm cho đối tác khác, có thể kinh doanh cùng hoặc khác khác ngành
nghề. Chào bán thương mại có thể áp dụng đối với việc công ty sẽ sáp nhập vào công
ty mua, từ đó tạo ra một chủ thể doanh nghiệp mới, mà mỗi bên đều tận dụng được lợi
thế của nhau. So với IPO, một thương vụ chào bán thương mại thường ít ồn ào và đỡ
tốn kém chi phí hơn, do quỹ đầu tư mạo hiểm chỉ cần làm việc với bên mua và bên bán
nhằm đưa ra các thỏa thuận phù hợp.
Thứ tư, bán lại khoản đầu tư cho chính công ty/ doanh nhân khởi nghiệp ban
đầu. Việc làm này cũng được coi là ít tốn kém chi phí, do quỹ đầu tư mạo hiểm chỉ cần
thỏa thuận với bên nhận đầu tư về mức giá và thời gian chuyển nhượng. Trên thực tế,
quá trình đầu tư mạo hiểm là một quá trình lâu dài, có sự đồng thuận cả về phía quỹ
đầu tư mạo hiểm và bên nhận đầu tư, nhằm tạo ra giá trị lớn nhất cho công ty nhận đầu
tư, vì thế việc thỏa thuận giá mua/ bán giữa hai bên không phải là việc quá phức tạp.
Ngoài ra, trong trường hợp thương vụ đầu tư không thành công, thậm chí đến
phá sản, giải thể doanh nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ tiến hành các thủ tục theo
pháp luật để thu hồi phần vốn đã đầu tư, tùy theo tỷ lệ đóng góp.
Việc lựa chọn phương thức thoái vốn như thế nào phụ thuộc rất lớn vào các
điều kiện phát triển của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định thoái vốn; hoặc thậm
chí thoái vốn giữa chừng quá trình đầu tư; ngoài ra, yếu tố thị trường cũng quyết định
rất lớn đến phương thức thoái vốn. Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, quỹ đầu tư mạo
hiểm sẽ nghiên cứu và đưa ra các quyết định phù hợp nhất tại thời điểm đó.
5.2.6.5. Quản lý nhà nước đối với quỹ đầu tư mạo hiểm
Theo kết quả khảo sát của luận án, với câu hỏi “Cơ quan nào sau đây nên nắm
giữ vai trò quản lý các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam”, có đến 72% trả lời nên để
178
Ủy ban chứng khoán Nhà nước nắm giữ vai trò này; 21,5% cho rằng nên để Bộ Kế
hoạch và Đầu tư quản lý lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; còn các cơ quan khác như Ngân
hàng Nhà nước, Hiệp hội doanh nghiệp Nhỏ và vừa, Bộ Khoa học và công nghệ chiếm
tỷ lệ rất nhỏ. Như vậy, phần tiếp theo luận án sẽ nêu quan điểm riêng về vấn đề quản
lý nhà nước đối với quỹ đầu tư mạo hiểm.
Cơ quan cấp phép hoạt động
Hiện nay, theo quy định tại Việt Nam, cơ quan cấp phép cho các quỹ đầu tư chứng
khoán dạng đóng, dạng mở, quỹ thành viên, quỹ hoán đổi danh mục (ETF) hoạt động
là Ủy ban chứng khoán Nhà nước; trong khi việc cấp phép thành lập quỹ đầu tư mạo
hiểm dành cho khởi nghiệp, sáng tạo lại do Phòng đăng ký kinh doanh nơi quỹ đặt trụ
sở chính (Thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư). Theo quan điểm của luận án, nên thống nhất
một cơ quan cấp giấy phép hoạt động cho các loại hình quỹ đầu tư, đó là Ủy ban
chứng khoán Nhà nước. Việc thống nhất một cơ quan cấp giấy phép như vậy tạo điều
kiện thuận lợi hơn trong việc thống nhất các quy định, điều kiện trong đầu tư của các
quỹ đầu tư trong nền kinh tế, tránh sự chồng chéo hoặc có các quy định trái ngược
nhau trong quá trình hoạt động của các quỹ đầu tư, tạo sự thống nhất trong cộng đồng
quỹ đầu tư.
Báo cáo hoạt động
Đối với vấn đề báo cáo hoạt động, hiện nay các quỹ đầu tư dạng đóng, dạng mở
hoặc quỹ hoán đổi danh mục, sẽ do các công ty quản lý quỹ quản lý, sẽ báo cáo lên Ủy
ban chứng khoán Nhà nước; ví dụ trong vòng 15 ngày sau khi kết thúc đợt chào bán
chứng chỉ quỹ, công ty quản lý quỹ phải thông báo tới Ủy ban chứng khoán Nhà nước;
hoặc trong vòng ba ngày làm việc, nếu giá trị tài sản ròng của quỹ giảm 50% so với
mức vốn huy động ban đầu, hoặc xuống thấp hơn 30 tỷ đồng, công ty quản lý quỹ
cũng phải báo cáo Ủy ban chứng khoán Nhà nước. Ngoài ra, công ty quản lý quỹ đầu
tư cũng cần thông báo tới Ủy ban chứng khoán những thông tin khác như thông tin về
thay đổi thành viên ban đại diện quỹ; vấn đề hợp nhất, sáp nhập, tách quỹ; thay đổi
ngân hàng giám sát, v.v… Trong khi đó, với các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo hiện
nay, mọi thông tin về hoạt động của quỹ sẽ gửi tới Bộ kế hoạch và đầu tư trước ngày
31/12. Bản thân hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm liên quan nhiều đến vấn đề sở
hữu cổ phần chi phối, về các quy định liên quan đến thâu tóm, mua bán, sáp nhập
179
doanh nghiệp, hoặc trao đổi các loại chứng khoán có thể chuyển đổi (convertible
securities) nhằm giải quyết lợi ích giữa các bên có liên quan. Với các vấn đề chuyên
sâu liên quan đến lĩnh vực chứng khoán như vậy, nên để một cơ quan đầu mối quản lý,
nhằm phát hiện ra các sai sót, các vi phạm làm méo mó mục tiêu của quỹ đầu tư mạo
hiểm là thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, gia tăng giá trị cho xã hội.
Công bố thông tin
Đối với các thông tin cần công bố theo quy định của pháp luật, liên quan đến quá
hình thành và hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán hiện nay, sẽ được công bố:
(1) Trên các ấn phẩm, trang thông tin điện tử của công ty quản lý quỹ, đại lý phân
phối, đại lý ký danh; hoặc (2) Các phương tiện thông tin đại chúng khác phù hợp với
quy định của pháp luật. Như vậy, đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm, cũng nên tuân theo
các quy định này. Thông thường, công ty quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ công bố các
thông tin liên quan đến quỹ thông qua các website của quỹ đầu tư mạo hiểm, cơ quan
chủ quản quản lý (Ủy ban chứng khoán Nhà nước), đại lý phân phối, ký danh chứng
chỉ quỹ, v.v…
5.2.6.6. Lộ trình tăng cường xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt
Nam
Theo quan điểm của luận án, lộ trình xây thực hiện việc xây dựng và phát triển quỹ
đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam nên được phân chia thành một số giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Từ 1 đến 5 năm
Trong giai đoạn này, Chính phủ sẽ ban hành các văn bản, xây dựng các hành lang
pháp lý cho hoạt động hình thành và quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm. Trước mắt, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư khẩn trương hoàn thiện dự thảo Thông tư “Hướng dẫn về việc thành
lập, tổ chức quản lý và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo”,
nhằm tạo ra hành lang pháp lý chính thức ban đầu cho cộng đồng đầu tư mạo hiểm biết
và thực hiện, góp ý nhằm tạo ra bộ luật hoàn chỉnh, kịp thời, phù hợp với điều kiện
hiện tại ở Việt Nam. Trong giai đoạn này, các quy định của pháp luật về thành lập quỹ
cần thông thoáng, tránh các thủ tục hành chính phức tạp; ngành nghề đầu tư cũng nên
để các chủ thể thành lập quỹ tự lựa chọn, nhằm tạo điều kiện cho việc huy động vốn dễ
dàng hơn. Chính phủ nên tập trung vào lĩnh vực giáo dục, nhằm giới thiệu, đào tạo,
180
định hướng dư luận về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, tạo nguồn lực trong tương lai về các
vị trí việc làm, tư duy đầu tư của đầu tư mạo hiểm.
Để thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư tham gia góp vốn vào các quỹ đầu tư
mạo hiểm, bên cạnh việc ban hành khung pháp lý về thành lập và quản lý quỹ đầu tư
mạo hiểm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nên kết hợp với Bộ Tài chính nhằm ban hành
kèm theo các quy định về ưu đãi thuế cho các khoản đầu tư, sinh lời của các quỹ đầu
tư mạo hiểm, và của các đối tượng góp vốn khi thu hồi vốn về, kết thúc chu kỳ đầu tư.
Trong giai đoạn đầu này, việc thử nghiệm xây dựng, đưa vào hoạt động các quỹ đầu tư
mạo hiểm của Việt Nam rất cần những nhà đầu tư tiên phong, từ đó tạo hiệu ứng lan
tỏa, thu hút vốn đầu tư của công chúng trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Chính phủ
cũng cần song hành cùng công chúng đầu tư, bằng cách trực tiếp tham gia đầu tư mạo
hiểm thông qua các quỹ đặc thù, hoặc đồng hành góp vốn cùng các nhà đầu tư trong
các dự án nhất định, nhằm tạo niềm tin cho công chúng, thu hút nguồn vốn đầu tư.
Mặc dù là giai đoạn thử nghiệm, nhưng không được xem nhẹ vai trò an toàn vốn của
các nhà đầu tư, vì thế cần có những quy định pháp lý mang tính bắt buộc đối với việc
lựa chọn doanh nghiệp lưu ký, lựa chọn ngân hàng giám sát, hoặc các công ty quản lý
quỹ đầu tư mạo hiểm. Chính việc đảm bảo an toàn vốn của các nhà đầu tư, hiệu quả
hoạt động đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm là tiền đề cần thiết để công chúng đầu tư tin
tưởng và giam gia vào các hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm sau này.
Giai đoạn 2: Từ năm thứ 5 đến năm thứ 10
Sau một thời gian thực hiện triển khai thí điểm về việc xây dựng và phát triển quỹ
đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, có số liệu báo cáo của các quỹ đầu tư đến cơ quan chủ
quản theo quy định của pháp luật; các cơ quan này sẽ có số liệu để đánh giá hiệu quả
của việc thành lập và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm này, kết hợp với số liệu vĩ
mô về các chỉ tiêu khác trong nền kinh tế nhằm đánh giá tác động của việc thúc đẩy
hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm đến nền kinh tế Việt Nam. Trong giai
đoạn này, sau khi có báo cáo hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm thành
lập tại Việt Nam, Chính phủ vẫn cần tiếp tục nghiên cứu để có những văn bản, quy
định pháp luật phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Nếu hiệu quả của quỹ đầu
tư mạo hiểm được chứng minh, Chính phủ nên xem xét việc phân bổ một phần vốn từ
các quỹ hưu trí công hiện nay sang đầu tư mạo hiểm, nhằm giảm bớt áp lực chi trả cho
181
các đối tượng nhận tiền khi đến tuổi về hưu, do tình trạng già hóa dân số nhanh chóng
của Việt Nam trong tương lai.
Trong giai đoạn này, chính phủ xem xét rút dần ra khỏi các quỹ đầu tư mạo
hiểm đã tham gia từ giai đoạn trước; hoặc chỉ tiếp tục tham gia đầu tư vào các dự án
cần nhiều vốn đầu tư, khó thu hút nguồn vốn từ công chúng. Lúc này thị trường đã
hình thành được tư tưởng đầu tư mạo hiểm từ kết quả giáo dục, đào tạo ở giai đoạn
trước. Tuy nhiên, chính phủ vẫn cần tiếp tục duy trì các chiến lược đào tạo ở giai đoạn
trước, cải tiến, rút kinh nghiệm từ giai đoạn trước nhằm tìm ra các mô hình đào tạo,
hướng nghiệp phù hợp của trình độ dân trí ở giai đoạn này.
Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động của các quỹ
đầu tư mạo hiểm cần thực hiện chặt chẽ, đặc biệt khi có sự tham gia của nhiều đối
tượng khác nhau trong xã hội, và số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tăng nhanh. Lúc này,
các trung gian tài chính trên thị trường như các công ty chứng khoán, các công ty bảo
hiểm, các công ty quản lý quỹ cần nâng cao chất lượng của mình để đáp ứng được nhu
cầu của các đối tượng muốn tham gia thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm.
Đối với lĩnh vực truyền thông, việc quảng bá, hỗ trợ cho các quỹ đầu tư mạo
hiểm cần tiếp tục đẩy mạnh. Các cơ quan quản lý cần kết hợp với các phương tiện
truyền thông công bố rộng rãi về lợi ích và hiệu quả của các quỹ đầu tư mạo hiểm
nhằm thu hút các nhà đầu tư tham gia góp vốn vào quỹ.
Giai đoạn 3: sau 10 năm
Đây có thể coi là giai đoạn mà các quỹ đầu tư mạo hiểm đã đi vào hoạt động ổn
định, dần trở thành mô hình đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm
nhằm đạt được mức lợi nhuận cao hơn. Trong giai đoạn này, các cơ quan quản lý sẽ
tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, các chính sách thuế cho hoạt động của các quỹ đầu
tư mạo hiểm. Đối với các tổ chức trung gian tài chính, sẽ phải tự mình thay đổi cung
cách hoạt động, hoàn thiện mình hơn nhằm tang khả năng cạnh tranh, đáp ứng được
nhu cầu huy động vốn và quản lý các quỹ đầu tư mạo hiểm. Tại giai đoạn này, chính
phủ chỉ tham gia với tư cách giám sát, nên để các quỹ đầu tư mạo hiểm tự hoạt động,
huy động vốn theo nhu cầu của xã hội.
182
Kết luận chương 5
Với định hướng phát triển đất nước trong thời gian tới của chính phủ, trọng tâm
khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo, đồng thời chú trọng đầu tư, phát triển lĩnh vực đầu
tư mạo hiểm, sẽ có tác động tích cực đến việc hình thành mới và phát triển các quỹ đầu
tư mạo hiểm ở Việt Nam. Theo quan điểm của luận án, trong giai đoạn đầu xây dựng
và phát triển, Việt Nam nên khuyến khích quỹ đầu tư mạo hiểm theo dạng mở, với mô
hình quỹ tín thác (ủy thác đầu tư), chú trọng thu hút vốn đầu tư trong xã hội, đặc biệt
là từ các tổ chức có nhu cầu đầu tư mạo hiểm. Bên cạnh đó, cần chú trọng các chương
trình đào tạo cho tầng lớp doanh nhân khởi nghiệp, kiến thức cho các nhà đầu tư mạo
hiểm nhằm tạo ra nguồn cung và cầu vốn đầu tư mạo hiểm bền vững. Dưới góc độ
quản lý nhà nước, nên tập trung đầu mối là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quản lý,
kiểm soát về mặt pháp lý và định hướng, ngoài ra, chính phủ cũng nên xây dựng lộ
trình cụ thể các giai đoạn phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, nhằm giúp
lĩnh vực này có điều kiện phát triển tốt nhất, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
nền kinh tế.
183
KẾT LUẬN
Quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư
mạo hiểm của nền kinh tế, tạo động lực phát triển lĩnh vực khoa học, công nghệ cao,
thúc đẩy các doanh nhân khởi nghiệp đưa ý tưởng đầu tư của mình vào thực tiễn. Quỹ
đầu tư mạo hiểm là chủ thể được nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển
quan tâm, coi là chủ thể chính thúc đẩy sự phát triển, tạo năng lực cạnh tranh bền vững
của quốc gia đó; đối với các quốc gia đang phát triển, cũng đã nhận thức được tầm
quan trọng của quỹ đầu tư mạo hiểm, và đã nghiên cứu nhằm tìm các điều kiện phù
hợp để thúc đẩy việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở quốc gia đó. Đã
có nhiều nghiên cứu về quỹ đầu tư mạo hiểm được thực hiện, tuy nhiên chưa có
nghiên cứu nào nghiên cứu tổng quát về việc hình thành và phát triển của các quỹ đầu
tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam; hơn nữa các nghiên cứu trước đây còn
thiếu tính cập nhật, số liệu đã cũ, vì thế không còn phù hợp với điều kiện hiện nay, khi
chính phủ Việt Nam đã nhận thức và nhấn mạnh tầm quan trọng của quỹ đầu tư mạo
hiểm trong nền kinh tế. Vì thế, các nghiên cứu trước đây vẫn còn khoảng trống nghiên
cứu như đã phân tích.
Luận án đã tổng hợp và hệ thống lại cơ sở lý luận về việc xây dựng và phát
triển quỹ đầu tư mạo hiểm, trong đó xây dựng được bộ tiêu chí các nhân tố ảnh hưởng
đến việc hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm. Sau đó luận án đã phân
tích thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, từ năm 1990
đến 2018, bao gồm các cơ sở pháp lý hiện có về quỹ đầu tư mạo hiểm, định hướng của
chính phủ trong việc phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trong điều kiện hiện nay, v.v…
Nghiên cứu sinh đã đánh giá các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến việc xây dựng và
phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động của các quỹ
đầu tư mạo hiểm lớn đang hoạt động ở Việt Nam; từ đó đưa ra được những kết quả đạt
được, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo
hiểm được nêu ra ở chương 4.
Luận án sử dụng mô hình kinh tế lượng nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng
đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, xem xét xem nhân
tố nào có tác động mạnh nhất. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhân tố các quy định pháp
luật rõ ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư
mạo hiểm; nhân tố các doanh nhân có khả năng đánh giá và thích ứng với rủi ro tốt;
184
nhân tố nâng tầm hiểu biết và thực thi của người dân về quyền sở hữu trí tuệ; nhân tố
mạng lưới các loại hình giao thông kết nối các địa điểm; nhân tố hiệu quả đầu tư của
các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm có tác động mạnh nhất đến việc xây dựng và
phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Thông qua đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở
Việt Nam, kết hợp với kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở các
quốc gia trên thế giới tại chương 3, luận án đã đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy
quá trình xây dựng và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam. Các giải pháp
đưa ra nhằm cải thiện, thúc đẩy quá trình theo hướng tích cực các nhân tố có ảnh
hưởng đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm đã phân tích ở các
chương trước đó.
Tóm lại, luận án đã giải quyết được các câu hỏi nghiên cứu và mục tiêu nghiên
cứu đã đề ra. Nghiên cứu sinh mong muốn luận án này sẽ đóng góp một phần công sức
vào cơ sở lý luận, giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển các quỹ
đầu tư mạo hiểm ở VIệt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do vẫn còn hạn chế về khả
năng tiếp cận số liệu, cũng như khả năng nghiên cứu, vì thế luận án vẫn còn những hạn
chế, thiếu sót. Vì vậy, nghiên cứu sinh mong muốn nhận được các ý kiến đánh giá từ
các chuyên gia, nhà khoa học để những kiến thức, nội dung trong luận án trở nên hoàn
thiện hơn.
185
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tư Pháp. (2018). Nhiều chính sách hỗ trợ cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2. Châu Thiên Trúc Quỳnh. (2006). Tìm hiểu hoạt động các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp. Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
3. Đào Lê Minh. (2003). Quỹ đầu tư mạo hiểm và khả năng hình thành, phát triển ở Việt
Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
4. Dương Thị Liễu Nguyễn Vân Hà. (2009). Văn hóa kinh doanh Việt Nam. Tạp Chí Hoạt
Động Khoa Học, 11, 23–27.
5. Hoài Nam. (2015). Khoa học Việt Nam đang đứng ở đâu? Tiếp cận ngày 16/3/2019, từ
http://cafebiz.vn/thi-truong/khoa-hoc-viet-nam-dang-dung-o-dau-
20150618115712654.chn
6. Hoàng Thị Hải Như. (2006). Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam. Đại học Ngoại Thương.
7. Nguyễn Ngọc Long; Nguyễn Hữu Vui. (2006). Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Nhà xuất
bản chính trị quốc gia.
8. Nguyễn Quang Long. (2016). Quỹ đầu tư mạo hiểm, kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị
cho Việt Nam. Hà Nội: Ủy ban chứng khoán Nhà nước.
9. Nguyễn Thị Mỹ Dung. (2007). Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm cho công nghệ cao Thành
phố Hồ Chí Minh. Tạp Chí Khoa Học và Đào Tạo Ngân Hàng, 56, 53–55.
10. Nguyễn Viết Lộc. (2012). Văn hoá doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc
tế. Đại học kinh tế.
11. Dương Thị Liễu. (2013). Giáo trình Văn hóa kinh doanh. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế
Quốc dân.
12. Trần Nguyệt Minh Thu. (2008). Phát triển xã hội - Một số quan điểm và kinh nghiệm từ
Châu Âu. Nghiên Cứu Châu Âu, 1(88), 40–49.
13. Trần Thị Thanh Giang. (2010). Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam. Đại học
Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
14. Vụ Hợp Tác Quốc Tế. (2017). Định hướng và chính sách phát triển cơ sở hạ tầng giao
thông Việt Nam. Tiếp cận ngày 16/3/2019, từ http://mt.gov.vn/atgt/tin-tuc/51792/dinh-
huong-va-chinh-sach-phat-trien-co-so-ha-tang-giao-thong-viet-nam.aspx
Tiếng Việt
15. Ahlstrom, D., Bruton, G. D., & Yeh, K. S. (2007). Venture capital in China: Past, present,
Tiếng Anh
and future. Asia Pacific Journal of Management.
16. Amit, R., Brander, J., & Zott, C. (2008). Venture Capital Financing of Entrepreneurship:
Theory, Empirical Evidence and a Research Agenda. In The Blackwell Handbook of
Entrepreneurship.
17. Avnimelech, G., Kenney, M., & Teubal, M. (2016). Building Venture Capital Industries:
Understanding the U.S. and Israeli Experiences. SSRN.
18. Barry, C. B., Muscarella, C. J., Peavy, J. W., & Vetsuypens, M. R. (1990). The role of
venture capital in the creation of public companies: Evidence from the going-public
process. Journal of Financial Economics, 27(2), 447–471.
19. Bartlett, J. W. (1999). Fundamentals of venture capital. Madison Books.
20. Bartzokas, A., & Mani, S. (2013). Financial Systems, Corporate Investment in Innovation,
and Venture Capital. Financial Systems, Corporate Investment in Innovation, and
Venture Capital.
21. Bascha, A., & Walz, U. (2001). Convertible securities and optimal exit decisions in
venture capital finance. Journal of Corporate Finance.
22. Bergemann, D., Hege, U., & Peng, L. (2009). Venture Capital and Sequential
Investments. SSRN.
23. Black, B. S., & Gilson, R. J. (2000). Does Venture Capital Require an Active Stock
Market? SSRN Electronic Journal.
24. Blodget, H. (2013). A Startup’s Odds Of Success Are Very Low - Business Insider.
Retrieved March 14, 2019, from https://www.businessinsider.com/startup-odds-of-
success-2013-5
25. Lin News. (2015). China’s Silicon Valley Sparking 49 Technology Startups a Day.
Retrieved March 15, 2019, from https://www.bloomberg.com/news/articles/2015-03-
11/china-s-silicon-valley-sparking-49-technology-startups-a-day
26. Bock, C., Darmstadt, T. U., Watzinger, M., & Schmidt, K. M. (2017). The Capital Gains
Tax: A Curse but Also a Blessing for Venture Capital Investment. Retrieved from
www.rationality-and-competition.de
27. Bottazzi, L., Da Rin, M., & Hellmann, T. (2008). Who are the active investors? Journal of
Financial Economics, 89(3), 488–512.
28. Bozkaya, A., & van Pottelsberghe de la Potterie, B. (2008). Who funds technology-based
small firms? Evidence from Belgium. Economics of Innovation and New Technology.
29. Bradley, D. J., Jordan, B. D., Yi, H. C., & Roten, I. C. (2001). Venture capital and ipo
lockup expiration: An empirical analysis. Journal of Financial Research.
186
187
Business School Press Books.
31. Bygrave, William D., & Timmons, J. A. (1992). Venture capital at the crossroads.
Harvard Business School Press.
32. Caselli, S. (2010). Private Equity and Venture Capital in Europe. Private Equity and
Venture Capital in Europe.
33. Chesbrough, H. (2002). The role of the business model in capturing value from
innovation: evidence from Xerox Corporation’s technology spin-off companies.
Industrial and Corporate Change.
34. Chevalier, J., & Ellison, G. (2008). Risk Taking by Mutual Funds as a Response to
Incentives. Journal of Political Economy.
35. ChinaGov. (2015). Guideline to boost entrepreneurship and innovation. Retrieved March
15,
2019,
from
http://english.gov.cn/policies/latest_releases/2015/03/11/content_281475069667730.htm
36. Christofidis, C., & Debande, O. (2001). Financing Innovative Firms Through Venture
Capital. European Investment Bank Sector Papers.
37. Collewaert, V., Collewaert, V., Manigart, S., Manigart, S., Aernoudt, R., & Aernoudt, R.
(2007). An Assessment of Government Funding of Business Angel Networks: A Regional
Study. Corporate Finance.
38. Cumming, D. J. (2001). The Determinants of Venture Capital Portfolio Size: Empirical
Evidence. SSRN.
39. Cumming, D. J. (2003). The Structure, Governance and Performance of UK Venture
https://doi.org/10.1080/14735970.2003.11419909
40. Cumming, D. J. (2017). Venture capital and private equity contracting. Elsevier
publisher.
41. Dareck Klonowski. (2013). The venture capital investment process. Choice Reviews
Online, 48(08), 48-4575-48–4575. https://doi.org/10.5860/choice.48-4575
42. Demaria, C. (2013). Introduction to private equity : venture, growth, LBO & turn-
around capital. Retrieved from http://www.ebook777.com/introduction-private-equity-
venture-growth-lbo-turn-around-capital-2nd-edition/
43. Feld, B., & Mendelson, J. (2013). Venture Deals: Be Smarter Than Your Lawyer and
Venture Capitalist. Wiley.
44. Fiedler, M.-O., & Hellmann, T. (2001). Against all odds: the late but rapid development of
the German venture capital industry. The Journal of Private Equity.
30. Bygrave, W D, & Timmons, J. A. (1992). Venture Capital at the Crossroads. Harvard
188
46. Gerald, G. U. (1992). Ideas, Inventions, Innovations. University of Michigan Library .
Retrieved
from
https://www.amazon.com/Ideas-inventions-innovations-Gerald-
Udell/dp/B003HKR0QW
47. Gladstone, D., & Gladstone, L. (2002). Venture capital handbook : an entrepreneur’s
guide to raising venture capital. Prentice Hall.
48. Gompers. (1997). Ownership and Control in Entrepreneurial Firms: An Examination of
Convertible Securities in Venture Capital Investments. Venture Capital.
49. Gompers., P. A. (1995). Optimal Investment, Monitoring, and the Staging of Venture
Capital. The Journal of Finance.
50. Gompers, PA, & Lerner, J. (1998). What drives venture capital fundraising? Brookings
Papers
on
Economic
Activity:
Microeconomics,
1998,
149–204.
https://doi.org/10.2139/ssrn.57935
51. Gompers, Paul A., & Lerner, J. (1998). The determinants of corporate venture capital
success: organizational structure, incentives, and complementarities. Venture Capital.
52. Gompers, Paul Alan, Lerner, J., Silviera, R., & Wright, R. (2004). The Venture Capital
Cycle. Journal of Business Venturing.
53. Gompers, Paul, Kovner, A., Lerner, J., & Scharfstein, D. (2008). Venture capital
investment cycles: The impact of public markets. Journal of Financial Economics.
54. Gompers, Paul, & Lerner, J. (2005). The Use of Covenants: An Empirical Analysis of
Venture Partnership Agreements. The Journal of Law and Economics.
55. Gorman, M., & Sahlman, W. (1989). What Do Venture Capitalists Do. Journal of
Business Venturing, 4, 231–248.
56. Gregoriou, G. N., Kooli, M., & Kraeussl, R. (2007). Venture Capital in Europe. Venture
Capital in Europe.
57. Grinblatt, M., Titman, S., & Wermers, R. (1995). Momentum Investment Strategies,
Portfolio Performance, and Herding: A Study of Mutual Fund Behavior. American
Economic Review.
58. Harrison, R., Mason, C., & Robson, P. (2010). Determinants of long-distance investing by
business angels in the UK. Entrepreneurship and Regional Development.
59. Harrison, R. T., & Mason, C. M. (2007). Does gender matter? Women business angels
and the supply of entrepreneurial finance. Entrepreneurship: Theory and Practice.
60. Hege, U., Palomino, F., & Schwienbacher, A. (2004). Venture Capital Performance: the
Disparity Between Europe and the United States. SSRN.
45. Finkel, R. (2010). Private Equity and Venture Capital. New: Mc Graw Hill.
189
62. Hossain, M., Cahan, S. F., & Adams, M. B. (2000). The investment opportunity set and
the voluntary use of outside directors: New Zealand evidence. Accounting and Business
Research, 30(4), 263–273.
63. Ippolito, R. A. (2006). Efficiency With Costly Information: A Study of Mutual Fund
Performance, 1965-1984. The Quarterly Journal of Economics.
64. Jensen, M. C. (2002). The Performance of Mutual Funds in the Period 1945-1964. SSRN.
65. ChinaGov, S. (2015). Young entrepreneurs weaving innovative dreams online. Retrieved
March 15, 2019, from http://www.chinadaily.com.cn/china/entrepreneursinchina/2015-
04/27/content_20576208.htm
66. Kanniainen, V., & Keuschnigg, C. (2003). The optimal portfolio of start-up firms in
venture capital finance. Journal of Corporate Finance.
67. Kerubo, M. E. (2015). Assessment of Awareness Levels on Venture Capital Financing
Among Small and Medium Enterprises in Kumasi , Ghana. University of Science and
Technology.
68. Lerner, Josh Ann, Leamon Susana, G.-R. (2015). Best Practice In Creating A Venture
Capital Ecosystem.
69. Lin, L. (2015a). Engineering a Venture Capital Market: Lessons from China. SSRN.
70. Lin, L. (2015b). Re-engineering a Venture Capital Market: The Case of China. NUS
Working Paper 2015/007 NUS Centre for Law & Business Working Paper 15/04.
Retrieved from http://law.nus.edu.sg/wps/
71. Lin, L. (2016). Venture Capital and the Structure of Stock Market: Lessons from China.
NUS Centre
for Banking & Finance Law Working Paper. Retrieved
from
https://www.business.unsw.edu.au/About-Site/Schools-Site/Taxation-Business-Law-
Site/Documents/VC-and-Stock-Market-in-China-Lin-Lin.pdf
72. Maarbani, S. (2011). Establishing a new Venture Capital or Private Equity Fund.
Retrieved
from
https://www.pwc.com.au/legal/assets/establishing-a-new-vc-or-pe-
fund.pdf
73. Manigart, S., De Waele, K., Wright, M., Robbie, K., Desbrières, P., Sapienza, H. J., &
Beekman, A. (2002). Determinants of required return in venture capital investments: A
five-country study. Journal of Business Venturing.
74. Mason, C. M. (2009). Public Policy Support for the Informal Venture Capital Market in
Europe: A Critical Review. International Small Business Journal.
75. Mason, C. M., & Harrison, R. T. (1996). Informal venture capital: A study of the
61. Hellmann, T. (2000). Developing a Venture Capital Industry. McGrawhill Publisher.
investment process, the post-investment experience and investment performance.
Entrepreneurship and Regional Development.
76. Mayer, C., Schoors, K., & Yafeh, Y. (2005). Sources of funds and investment activities of
venture capital funds: Evidence from Germany, Israel, Japan and the United Kingdom.
Journal of Corporate Finance.
77. Mccullough, B. (2015). On the 20th Anniversary – The History of Yahoo’s Founding |
Internet
History
Podcast.
Retrieved
March
14,
2019,
from
http://www.internethistorypodcast.com/2015/03/on-the-20th-anniversary-the-history-of-
yahoos-founding/
78. Megginson, W. L., & Weiss, K. A. (1991). Venture Capitalist Certification in Initial
Public Offerings. The Journal of Finance.
79. Miguel, Fernández Acevedo Alexandre, Gazaniol Vivien, Lo Georg, M. (2016). Building
Momentum in Venture Capital across Europe. Rome.
80. Miloud, T., Aspelund, A., & Cabrol, M. (2012). Startup valuation by venture capitalists:
An empirical study. Venture Capital.
81. Newton, L. A., Coopey, R., & Clarke, D. (2006). 3I: Fifty Years Investing in Industry.
The Economic Journal.
82. Osnabrugge, M. Van, & Robinson, R. J. (1999). Financing Entrepreneurship: Business
Angels and Venture Capitalists Compared. Working Paper.
83. Poterba, J. (1989). Venture capital and capital gains taxation. Tax Policy and the
Economy, 3, 47–67.
84. Poterba, J. M. (2016). Venture Capital and Capital Gains Taxation. Tax Policy and the
Economy.
85. Powers, J. (2012). Top Stories - Corporate LiveWire - Corporate LiveWire. Retrieved
March 14, 2019, from http://www.corporatelivewire.com/top-story.html?id=the-history-
of-private-equity-venture-capital
86. Rajan Annamalai, T., & Deshmukh, A. (2011). Venture capital and private equity in India:
an analysis of investments and exits. Journal of Indian Business Research, 3(1), 6–21.
87. Romain, A. (2007). Essays
in the empirical analysis of venture capital and
entrepreneurship. ULB Institutional Repository.
88. Romain, A., & Pottelsberghe, B. Van. (2004). The Determinants of Venture Capital :
Additional Evidence.
89. Romain, A., & Van Pottelsberghe De La Potterie, B. (2004). The Determinants of Venture
Capital: A Panel Data Analysis of 16 OECD Countries. Centre Emile Bernheim:
190
Research Institute in Management Sciences.
90. Sack, Adam; McKenzie, J. (1998). Hình thành một quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Retrieved from https://text.123doc.org/document/1680269-hinh-thanh-mot-quy-dau-tu-
mao-hiem-o-viet-nam-doc.htm
91. d, W. A. (1990). The structure and governance of venture-capital organizations. Journal of
Financial Economics.
92. San José, A., Roure, J., & Aernoudt, R. (2005). Business Angel Academies: Unleashing
the Potential for Business Angel Investment. Venture Capital, 7(2), 149–165.
93. Schertler, A. (2009). The Venture Capital Industry in Europe. The Venture Capital
Industry in Europe.
94. Sirri, E. R., & Tufano, P. (1998). Costly search and mutual fund flows. Journal of
Finance.
95. Ständer, P. (2017). Public policies to promote Venture capital: How to get national and
EU measures in sync, 1–18.
96. Sung, T. K., Gibson, D. V., & Kang, B. S. (2003). Characteristics of technology transfer
in business ventures: The case of Daejeon, Korea. Technological Forecasting and Social
Change.
97. Vanham, P. (2015). Which countries have the most venture capital investments? | World
Economic
Forum.
Retrieved
March
14,
2019,
from
https://www.weforum.org/agenda/2015/07/which-countries-have-the-most-venture-
capital-investments/
98. Wetzel, W. (1983). Angels and informal risk capital. Sloan Management Review.
99. cfv. (2015). New policies encourage entrepreneurship, boost employment. Retrieved
March
15,
2019,
from
http://www.chinadaily.com.cn/china/2015-
04/22/content_20510974.htm
100. Zider, B. (1998). How venture capital works. Harvard Business Review.
191
192
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Một số quỹ đầu tư mạo hiểm siêu nhỏ tại Mỹ và Châu Âu
Bảng PL.1. Một số quỹ đầu tư mạo hiểm siêu nhỏ tại Mỹ
Tên người
Kinh nghiệm
Tên quỹ
Quy mô vốn
Số
Các thương
gọi vốn
làm việc, đầu tư
đầu tư
thương
vụ đầu tư
cho quỹ
vụ đầu
điển hình
tư
Peter Thiel Paypal (đồng
Founder
Founder Fund IV
65
Facebook,
sáng lập);
Funds
(2012) – 625 triệu
Sportify,
Facebook (nhà
USD; Founder
SpaceX,
đầu tư bên ngoài
Fund III (2010) –
Yammer
đầu tiên)
250 triệu USD
Ron
PTS, Altos
SV Angel SV Angel IV – 40
176
Google,
Conway
Computer
triệu USD
Paypal,
Jeff
Reuters
SoftTech
Softech VC III
59
Mint,
Clavier
Excecutive
VC
(2011) – 55 triệu
Userplane,
USD
Kaboodle
Micheal
eBay, giáo sư tại
Harrison
N/A
33
Aardvark,
Dearing
trường ĐH
Metal
admob,
Stanford
DocVerse
Dave
Paypal
500
500 Startups I
187
SlideShare,
McClure
Startups
(2011) – 29 triệu
Mint
USD
Mike
Motive, Inc
Floodgate Floodgate Fund IV
77
Twitter, Digg
Maples
(2012) – 75 triệu
USD; Floodgate
III (2010) – 73.5
triệu USD
Nguồn: Business Insider, 2015
Bảng PL.2. Một số quỹ đầu tư siêu nhỏ tại Châu Âu
Tên nhà gọi vốn cho quỹ;
Tên quỹ đầu tư
Quy mô vốn
Kinh
Quốc
193
Kinh nghiệm làm việc
mạo hiểm
nghiệm
gia
đầu tư
Robin Klein (Innovation); và Saul
The Accelerator
N/A
42
Anh
Klein (Lovefilm Int., Skype)
Group (TAG)
Julie Meyer (First Tuesday)
ACE (Ariadne
32 triệu USD
N/A
Anh
Capital
Enterpreneurs
Fund)
Niklas Zennstrom (Skype, Kazaa) Atomico
Atomico
10
Anh
Ventures II –
122 triệu USD
Rogan Angelini-Hurll (City Pan
PROfounders
42 triệu USD
10
Anh
European Medial Research,
Capital
Salomon Brothers); và (Sean-
Rogers (Balderton Capital,
Commonweaalth Capital
Ventures)
Jos White và Ben White (Star,
Notion Capital
Notion Capital 2
13
Anh
(2010) – 112
Messagelabs)
triệu USD;
Notion Capital –
40 triệu USD
Xavier Neil (ISP lliad) và Jérémie
Kima Ventures
15 triệu USD
27
Pháp
Berrebi (Net2One)
Pierre Kosciusko-Morizet
ISAI
ISAI Fund I
9
Pháp
(PriceMinister); Goeffroy Roux
(45 triệu USD)
de Bezieux (Vigrin Mobile);
Stéphane Treppoz (Sarenza);
Ouriel Ohayon (ex
TechCrunch.fr)
Alexander, Marc & Oliver
European
N/A
16
Đức
Samwer (Alando, Jamba)
Founders Fund
Lars Hinrichs (XING)
HackFwd
N/A
7
Đức
Nguồn: Business Insider, 2015
194
195
Phụ lục 2: Danh mục đầu tư của FPT Ventures
196
Đợt 4: 9/2018
Đợt 3: 4/2018
Đợt 2: 10/2017
Đợt 1: 4/2017
Phụ lục 3. Danh mục đầu tư của VIISA
197
Phụ lục 4. Danh sách các quỹ đầu tư tại Việt Nam
Bảng PL.3. Danh sách quỹ đầu tư chứng khoán
STT
Tên quỹ
Loại quỹ
Tình trạng hoạt động
1 Quỹ ETF SSIAM HNX30
Vốn điều lệ (VNĐ) 101.000.000.000
Đang hoạt động
Quỹ hoán đổi danh mục (ETF)
2 Quỹ ETF VFMVN30
202.000.000.000
3 Quỹ thành viên tập trung cổ
Quỹ thành viên
66.000.000.000
phần hóa Việt Nam
Đang hoạt động Đang hoạt động
4 Quỹ Thành viên Y tế Bản Việt
Quỹ thành viên
287.984.000.000
Đang hoạt động
5 Quỹ Việt Nhật
Quỹ thành viên
1.600.000.000.000 Hoàn tất giải
6 Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Dai-ichi
Quỹ thành viên
50.000.000.000
life Việt Nam
thể Đang hoạt động
7 Quỹ Đầu tư Chứng khoán Con
Quỹ thành viên
230.000.000.000
Hổ Việt Nam
Đang hoạt động
8 Quỹ Đầu tư Chứng khoán Hà
Quỹ đóng
200.000.000.000
Đang giải thể
Nội
9 Quỹ Đầu tư Chứng khoán Trái
Quỹ mở
54.296.925.000
phiếu MB Capital Việt Nam
Đang hoạt động
10 Quỹ Đầu tư Chứng khoán Việt
mở
1.000.000.000.000 Đang hoạt
Nam
11 Quỹ Đầu tư Cân bằng Bản Việt Quỹ mở
54.314.089.552
12 Quỹ Đầu tư Cân bằng Chiến
Quỹ mở
60.426.610.500
lược – VCBF
động Đang hoạt động Đang hoạt động
13 Quỹ Đầu tư Cân bằng Prudential
Quỹ Đóng
500.000.000.000
Đang giải thể
(PRUBF1)
14 Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Hàng đầu
Quỹ mở
59.164.003.100
VCBF
15 Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Hưng
Quỹ mở
57.132.321.000
Thịnh VinaWealth
Đang hoạt động Đang hoạt động
16 Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Manulife Quỹ mở
65.113.385.900
17 Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Năng động
Quỹ mở
71.247.586.800
Bảo Việt
Đang hoạt động Đang hoạt động
18 Quỹ Đầu tư Doanh nghiệp Hàng
Quỹ mỏ
806.460.000.000
đầu Việt Nam (VF4)
Đang hoạt động
19 Quỹ Đầu tư Giá trị MB Capital
Quỹ mở
54.423.600.000
20 Quỹ Đầu tư Japan Asia MB
Quỹ thành viên
200.000.000.000
Capital
Đang hoạt động Đang hoạt động
Quỹ Thành viên 100.000.000.000
Đang hoạt động
21 Quỹ Đầu tư khám phá giá trị Ngân hàng Công thương Việt Nam
22 Quỹ Đầu tư Lợi thế Cạnh tranh
Quỹ mở
111.922.428.800
Đang hoạt động
Bền vững SSI
Quỹ mở
53.203.406.730
Đang hoạt động
23 Quỹ Đầu tư Năng động Eastspring Investments
24 Quỹ Đầu tư Năng động Việt
Quỹ mở
240.437.600.000
Đang hoạt động
Nam (VFA)
25 Quỹ Đầu tư Thành viên SSI
Quỹ thành viên
390.000.000.000
26 Quỹ Đầu tư Trái phiếu Bảo
Quỹ mở
53.810.960.100
Đang hoạt động Đang hoạt động
Thịnh VinaWealth
27 Quỹ Đầu tư Trái phiếu Việt Nam Quỹ mở
99.574.822.600
Đang hoạt động Đang giải thể Đang giải thể Đang giải thể
28 Quỹ Đầu tư Tăng trường ACB 29 Quỹ Đầu tư tăng trưởng ACB 30 Quỹ Đầu tư Tăng trưởng
Đóng Quỹ đóng Quỹ đóng
240.080.000.000 240.80.000.000 214.090.000.000
Manulife
31 Quỹ Đầu tư Việt Nam
Quỹ thành viên
1.349.200.000.000 Đang hoạt
động
Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, 2019
198
Bảng PL.4. Danh sách quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam (9/2019)
TT
TÊN QUỸ
LĨNH VỰC ĐẦU TƯ
GHI CHÚ/ NGUỒN VỐN CẤP
Quỹ sáng tạo CMC
Tập đoàn CMC quản lý
1
Khoa học kỹ thuật và công nghệ
Khoa học tự nhiên
2
Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam TP. HCM quản lý Các công ty góp vốn
3
Khoa học kỹ thuật và công nghệ
4
Khoa học kỹ thuật và công nghệ
Quỹ Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp (BSSC) Quỹ Tăng tốc khởi nghiệp Việt Nam (VIISA) Quỹ Đầu tư phát triển TP Đà Nẵng (DDIF)
Ngân sách cấp vốn; phát hành TP chính quyền địa phường; vay các tổ chức tài chính
Quỹ đầu tư FPT Capital Công nghệ thông tin
Tập đoàn FPT
5
6
Đa dạng, nhắm tới các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngân sách nhà nước cấp vốn; trực thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư
Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF)
199
Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) được giao nhiệm vụ tổ chức giữ Quỹ để thực hiện thu, chi theo quy định của pháp luật và quyết định của cấp có thẩm quyền
Quỹ được thành lập để quản lý tập trung, thống nhất, có hiệu quả các nguồn thu từ phần vốn nhà nước góp tại các doanh nghiệp,bao gồm cả các nguồn thu từ quá trình sắp xếp doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
8
Ngân sách nhà nước cấp
Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF)
Nghiên cứu, chuyển giao, đổi mới và hoàn thiện công nghệ
9
Khoa học kỹ thuật và công nghệ
Quỹ trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ
Môi trường
Các tổ chức quốc tế
Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) 10 Quỹ Môi trường toàn
cầu (GEF)
Đa lĩnh vực
Các nhà đầu tư thiên thần
11 Quỹ đầu tư Thịnh vượng mới
12 Quỹ Khởi nghiệp
Công nghệ cao
Các cá nhân, tổ chức góp vốn
Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ Việt Nam (SVF)
13 Quỹ phát triển Khoa
Viện Nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng và các cá nhân, tổ chức tự nguyện góp vốn`
học và Công nghệ Đinh Tiên Hoàng (Quỹ DTHF)
Tài trợ cho các dự án nghiên cứu khoa học công nghệ của Viện Nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng (Viện DTHIM)
14 Quỹ đầu tư mạo hiểm
VSV Venture Fund
Chính phủ VN tài trợ vốn; Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt hoạt động của quỹ
mục tiêu thúc đẩy thương mại hóa công nghệ ưu tiên thuộc các lĩnh vực năng lượng, y sinh, cơ khí, tự động hóa, vật liệu mới, công nghệ thông tin và viễn thông
15 Quỹ Sáng kiến Hỗ trợ
Khoa học nông nghiệp, Khoa học xã hội
Khởi nghiệp Du lịch vùng Mekong (MIST)
Chính phủ Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar, các tổ chức quốc tế khác
16 Quỹ Grand Challenges
Chính phủ Canada
Công nghệ, kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe
Canada
17 Quỹ sáng tạo toàn cầu
Khoa học đời sống xã hội
Chính phủ Anh, Mỹ
(GLF)
Khoa học nông nghiệp
Chính phủ Indonisia
18 Quỹ đầu tư mạo hiểm Convergence Ventures (Indonesia)
7
Khoa học xã hội
Chính phủ Nhật Bản
200
Internet, game, quảng cáo
Softbank CORP
20 Quỹ đầu tư mạo hiểm SoftBank Capital (Indonesia)
21 Quỹ đầu tư mạo hiểm SB ISAT (Indonesia)
Công nghệ tài chính, truyền thông, kỹ thuật số
Softbank CORP và các nhà đầu tư địa phương
22 Quỹ đầu tư TNF
Ventures (Singapore)
Giải pháp cho doanh nghiệp, dịch vụ chuyên gia và công nghệ ứng dụng trong tài chính
Công nghệ quảng cáo, dịch vụ tìm kiếm, thương mại điện tử
Chính phủ Indonisia, các tổ chức tài chính
23 Quỹ đầu tư mạo hiểm Kejora Ventures (Indonesia)
Chính phủ Nhật Bản, các nhà đầu tư thiên thần
24 Quỹ đầu tư mạo hiểm GMO VenturePartners (Nhật Bản)
Công nghệ ứng dụng trong tài chính, Chợ điện tử và nền tảng web
Các nhà đầu tư thiên thần
Thương mại điện tử, mạng xã hội & truyền thông, du lịch
25 Quỹ đầu tư mạo hiểm Crystal Horse Investments (Singapore)
26 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Lĩnh vực kĩ thuật số
Các nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư thiên thần
Asia Venture Group (AVG) (Malaysia)
Tập đoàn Temasek Holdings
27 Quỹ đầu tư mạo hiểm Vertex Ventures (Singapore)
Mạng xã hội & truyền thông, logistics và vận tải, thương mại điện tử
Dịch vụ chuyên nghiệp, logistics và vận tải
Tập đoàn Singapore Press Holdings
28 Quỹ đầu tư mạo hiểm SPH Media Fund (Singapore)
29 Quỹ đầu tư mạo hiểm Sequoia Capital (Mỹ)
Các nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư thiên thần
Mạng xã hội và truyền thông, chợ điện tử và nền tảng web, logistics và vận tải
Tập đoàn OPT Holdings
30 Quỹ đầu tư mạo hiểm OPT SEA (Nhật Bản)
Thương mại điện tử, chăm sóc sức khỏe, dịch vụ tìm kiếm
Các nhà đầu tư thiên thần
Game và nền tảng web, chợ điện tử
31 Quỹ đầu tư mạo hiểm Monk’s Hill Ventures (Indonesia)
Công nghệ trong tài chính
32 Quỹ đầu tư mạo hiểm Life SREDA
Các nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư thiên thần
19 Quỹ đầu tư mạo hiểm Incubate Fund (Nhật Bản)
Tập đoàn InTouch Holdings PLC
201
Chợ điện tử, nền tảng hỗ trợ, dịch vụ tài chính, giáo dục, nội dung số và dịch vụ Internet
Tập đoàn Sinar Mas
34 Quỹ đầu tư mạo hiểm Sinar Mas Digital Ventures (Indonesia)
Các nhà đầu tư thiên thần
Bột giấy và giấy; kinh doanh nông nghiệp và thực phẩm; dịch vụ tài chính; phát triển bất động sản; viễn thông; năng lượng và cơ sở hạ tầng Các công ty công nghệ mới thành lập
35 Quỹ đầu tư mạo hiểm NSI Ventures (Singapore)
Tập đoàn Emtek Group
Truyền thông, viễn thông, giải pháp công nghệ thông tin và kết nối
36 Quỹ đầu tư mạo hiểm Emtek Group (Indonesia)
Các nhà đầu tư thiên thần, nhà đầu tư tổ chức
37 Quỹ đầu tư mạo hiểm Majuven (Singapore)
Khoa học y sinh, Xu hướng kết hợp số giữa công nghệ và dịch vụ, các công nghệ bền vững
38 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Tập đoàn Intel và các nhà đầu tư tổ chức khác
Intel Capital (Singapore)
điện toán, công nghệ dữ liệu đám mây, truyền thông kĩ thuật số, internet, phòng thí nghiệm và xưởng chế tạo, an ninh bảo mật, thiết bị thông minh, thiết bị đeo tay Các công ty khởi nghiệp
39 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Chính phủ Singapore và các tổ chức tài chính
Infocomm Investments (Singapore)
Người tiêu dung, truyền thông, bán lẻ, và công nghệ
40 Quỹ đầu tư mạo hiểm Hera Capital Partners (Singapore)
41 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Kickstart Ventures
Dịch vụ chuyên gia, thương mại điện tử và phần cứng
Là công ty con của Globe Telecom, được bảo trợ bởi Signtel và Tập đoàn Ayala
Các nhà đầu tư thiên thần
Thương mại điện tử, du lịch và nền tảng web & chợ điện tử
42 Quỹ đầu tư mạo hiểm Jungle Ventures (Singapore)
Chính phủ Indonesia
43 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Ideosource (Indonesia)
Nội dung web, truyền thông, thương mại điện tử và phát triển cơ sở hạ tầng
Tập đoàn viễn thông Axiata Group Berhad
44 Quỹ đầu tư mạo hiểm Axiata Group Berhad Innovation Fund
Tiền di dộng, quảng cáo qua điện thoại, thương mại điện tử, giải trí và giáo dục
33 Quỹ đầu tư mạo hiểm InVent (Thái Lan)
Các nhà đầu tư thiên thần
Logistics, thương mại điện tử, nền tảng web và chợ điện tử
202
46 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Chính phủ Nhật Bản
AFD Tại Việt Nam
Năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong công nghiệp, ở các tòa nhà và trong giao thông, quản lý nguồn nước Y tế và chăm sóc sức khỏe
Các nhà đầu tư thiên thần, nhà đầu tư tổ chức
47 Quỹ đầu tư mạo hiểm Bioveda Capital (Singapore)
Internet và dịch vụ di động
Nhà đầu tư tổ chức tại Nhật Bản
48 Quỹ đầu tư mạo hiểm Gree Ventures (Nhật Bản)
49 Quỹ đầu tư mạo hiểm EDBI (Singapore)
Khoa học y sinh, công nghệ thông tin và truyền thôn
Hội đồng Phát triển Kinh tế thuộc Chính phủ Singapore
Nhà đầu tư tổ chức tại Nhật Bản
50 Quỹ đầu tư mạo hiểm
East Ventures (Nhật Bản)
Thương mại, xã hội, game, dịch vụ phần mềm và dịch vụ di động
Internet, kỹ thuật số
51 Quỹ đầu tư mạo hiểm DMP (Singapore)
Chính phủ Đức
52 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Hanns Seidel Foundation (Đức)
Các nhà đầu tư tổ chức Singapore
53 Quỹ đầu tư mạo hiểm IMJ Investment Partners (Singapore)
Các chương trình nhằm chuyển đổi kinh tế, bảo vệ môi trường, cũng như phát triển kinh tế và xã hội bền vững Thương mại điện tử, đời sống và dịch vụ Internet dành cho người dùng
Các nhà đầu tư thiên thần tại Mỹ
54 Quỹ đầu tư mạo hiểm Fenox Venture Capital (Mỹ)
Truyền thông, nền tảng giao dịch online và chợ điện tử, thương mại điện tử
Nhà đầu tư tổ chức tại Nhật Bản
55 Quỹ đầu tư mạo hiểm CyberAgent Ventures (Nhật Bản)
Thương mại điện tử, dịch vụ Internet cho người dùng và Tài chính
56 Quỹ đầu tư mạo hiểm Wavemaker Partners (Singapore)
Công nghệ Quảng cáo, Công nghệ ứng dụng trong tài chính và giải pháp cho doanh nghiệp
57 Quỹ đầu tư mạo hiểm New Asia Investments (Singapore)
Công nghệ y sinh, công nghệ sạch (cụ thể là tài nguyên nước và năng lượng) và sáng chế công nghiệp
45 Quỹ đầu tư mạo hiểm Ardent Capital (Thái Lan)
203
IDG Ventures Vietnam
Công nghệ, truyền thông, viễn thông và hàng tiêu dùng
Nhà đầu tư chính là Tập đoàn International Data Group (IDG), công ty truyền thông và IT lớn nhất thế giới Tập đoàn viễn thông Singtel
59 Quỹ đầu tư mạo hiểm Singtel Innov8
60 Quỹ đầu tư mạo hiểm
SEGNEL Ventures (Singapore)
Hideki - doanh nhân Nhật Bản, các nhà đầu tư tổ chức tại Nhật Bản, Singapore
Công nghệ và giải pháp góp phần tạo ra những thay đổi về lượng đối với khả năng kết nối mạng lưới, các thiết bị thế hệ mới, các dịch vụ kĩ thuật số và các tính năng nâng cao trải nghiệm của người dùng Chăm sóc sắc đẹp, Fitness, Internet TV, Chợ điện tử, Quảng cáo thông qua video online
61 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Rebright Partners (Nhật Bản)
Các nhà đầu tư thiên thần, nhà đầu tư tổ chức Nhật Bản và Singapore
62 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Tập đoàn thương mại điện tử Rakuten của Nhật Bản
Rakuten Ventures (Nhật Bản)
Quảng cáo, Giải trí Kĩ thuật số, Truyền thông kĩ thuật số, Sàn giao dịch thương mại điện tử, Thời trang, Dịch vụ tài chính, Logistics dịch vụ Internet, Nhân sự, Chợ điện tử, Quảng cáo qua di động, Các phần mềm nâng cao năng suất, Dịch vụ tìm kiếm ảo
Hiệp hội Nhật Bản của công ty điều hành (Keizai Doyukai)
63 Quỹ đầu tư mạo hiểm JAC Asia Capital (Singapore)
64 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Công ty mẹ JAFCO Co., Ltd - Nhật Bản
JAFCO Asia (Singapore)
65 Quỹ đầu tư mạo hiểm Golden Gate Ventures (Singapore)
66 Quỹ đầu tư mạo hiểm Gobi Partners (Trung Quốc)
67 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Nhà đầu tư tiên thần tại Mỹ
Hạt giống 500 Startups
Tập trung vào nuôi trồng, bồi dưỡng và hỗ trợ các công ty liên doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đó góp phần vào sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản Điện thoại di động và Internet công nghệ, tiêu dùng và dịch vụ liên quan, an ninh mạng, y tế / chăm sóc sức khỏe và năng lượng tái tạo Lĩnh vực sáng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ trực tuyến dành cho người dùng tại Đông Nam Á Các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu, công ty IT và phương tiện truyền thông kỹ thuật số ở Trung Quốc và Đông Nam Á Thiết kế và kinh nghiệm người dùng, phân phối sản phẩm, số liệu khách hàng
68 Quỹ đầu tư mạo hiểm
Vina Capital
Các công ty công nghệ thông tin và viễn thông đã được cổ
58 Quỹ đầu tư mạo hiểm
phần hóa
69 Quỹ đầu tư mạo hiểm Mekong Capital
70 Quỹ đầu tư mạo hiểm Dragon Capital
Chuyên về vốn cổ phần chưa niêm yết tại Việt Nam tập trung chủ yếu vào các ngành theo xu hướng tiêu dùng Đầu tư vào các công ty đã niêm yết, chuẩn bị IPO tại Việt Nam, hoặc vào các trái phiếu doanh nghiệp, các tài sản sinh lời khác
Nguồn: Startup.gov.vn
204
205
Phụ lục 5. Câu hỏi phỏng vấn sâu
1. Anh/ Chị hãy giới thiệu về bản thân mình
a. Trình độ học vấn
b. Vị trí làm việc
c. Thâm niên đầu tư
2. Câu hỏi về hiểu biết đối với đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm?
a. Nguồn vốn đầu tư mạo hiểm từ đâu mà có
b. Quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò gì đối với mỗi quốc gia
c. Ở Việt Nam có quỹ đầu tư mạo hiểm hay chưa
d. Xu hướng đầu tư hiện nay của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
e. Quỹ đầu tư mạo hiểm nào có kết quả đầu tư nổi bật hiện nay
3. Câu hỏi về quan điểm đối với đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm?
a. Anh/ Chị đã đầu tư vào dự án đầu tư mạo hiểm nào chưa
b. Anh/ Chị đã góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm nào chưa
c. Khẩu vị rủi ro trong đầu tư của Anh/ Chị như thế nào
d. Theo anh chị, tiềm năng đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm ở
Việt Nam trong tương lai như thế nào
4. Theo Anh/ Chị, nhân tố nào đánh giá việc xây dựng và mức độ phát triển của quỹ đầu
tư mạo hiểm của một quốc gia?
5. Theo Anh/ Chị, chính phủ nên có những động thái nào ở góc độ hành lang pháp lý,
chính sách nhằm thúc đẩy việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm?
6. Theo Anh/ Chị, yếu tố văn hóa, xã hội, đặc biệt là bản thân doanh nhân khởi nghiệp
hoặc cộng đồng đầu tư cần có những phẩm chất gì để thúc đẩy việc xây dựng và phát
triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam?
7. Theo Anh/ Chị, dưới góc độ giáo dục nói chung và kiến thức trong đầu tư nói riêng,
cần có những yếu tố nào để đẩy mạnh sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm?
8. Theo Anh/ Chị, để thu hút được các dự án đầu tư nói chung và các dự án đầu tư mạo
hiểm nói riêng, các địa phương/ quốc gia cần chú trọng những yếu tố nào?
9. Theo Anh/ Chị, bản thân nội lực trong nước gặp những vấn đề trở ngại gì đối với việc
xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm hiện nay?
10. Theo Anh/ Chị, bản thân đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt
Nam, cần chú trọng điều gì nhằm thúc đẩy sự phát triển trong tương lai?
11. Đánh giá của Anh/ Chị đối với các cơ quan chủ quản có liên quan đến lĩnh vực đầu tư
nói chung và đầu tư mạo hiểm nói riêng ở Việt Nam trong thời gian qua?
12. Dưới góc độ quản lý, theo Anh/ Chị cần lưu tâm vấn đề gì để xây dựng phát triển quỹ
đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai?
206
207
Phụ lục 6. Phiếu khảo sát
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM
Kính thưa Quý vị!
Tên tôi là Phạm Tiến Mạnh, giảng viên trường Học viện Ngân hàng. Hiện nay tôi đang
thực hiện đề tài nghiên cứu về việc Xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Vì vậy, tôi mong muốn Quý vị bớt chút thời gian trả lời bảng hỏi dưới đây. Mọi thông tin Quý
vị cung cấp sẽ được giữ kín và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Mọi câu hỏi liên quan đến đề tài nghiên cứu, vui lòng liên hệ với tôi qua số điện thoại:
0988084025, hoặc email manhpham@hvnh.edu.vn
Trân trọng cảm ơn Quý vị.
PHẦN 1. THÔNG TIN CÁ NHÂN
Quý vị vui lòng khoanh tròn vào lựa chọn tương ứng
1.1. Lĩnh vực công tác của Quý vị
A. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước B. Sở giao dịch chứng khoán C. Ngân hàng thương mại D. Công ty bảo hiểm E. Quỹ đầu tư F. Công ty chứng khoán G. Đơn vị đào tạo về chứng khoán (Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu, Trung tâm đào
tạo, v.v...)
H. Khác
1.2. Thời gian/ kinh nghiệm đầu tư của Quý vị
A. < 1 năm B. 1-3 năm C. năm D. Trên 5 năm
1.3. Trình độ học vấn của Quý vị
A. Cao đẳng B. Đại học C. Trên đại học D. Khác
208
PHẦN 2. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HIỂU BIẾT VÀ QUAN ĐIỂM VỀ ĐẦU TƯ MẠO
HIỂM Ở VIỆT NAM
Quý vị vui lòng khoanh tròn vào lựa chọn tương ứng
2.1. Kiến thức chung về đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm
Câu 1. Theo hiểu biết của Quý vị, tại Việt Nam hiện nay đã có quỹ đầu tư mạo hiểm hay
chưa?
B. Không
A. Có
Câu 2. Theo Quý vị, loại quỹ đầu tư mạo hiểm nào đang hoạt động tại Việt Nam đang
chiếm ưu thế?
A. Quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài
B. Quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam
C. Quỹ đầu tư mạo hiểm liên doanh
D. Việt Nam hiện nay chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm nào hoạt động
E. Khác
Câu 3. Theo Quý vị, tỷ lệ thất bại khi đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm
A. < 30%
B. 30-50%
C. 50-80%
D. 80-90%
E. Trên 90%
F. Khác
Câu 4. Quỹ đầu tư mạo hiểm ưa thích đầu tư vào lĩnh vực nào sau đây (Có thể chọn
nhiều đáp án)
A. Công ty đã trưởng thành, có doanh thu, lợi nhuận ổn định
B. Công ty nhỏ và vừa mới thành lập, có triển vọng phát triển lớn trong tương lai
C. Công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao, có tiềm năng phát triển
D. Công ty sắp phá sản, giải thể
E. Khác
Câu 5. Quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò gì đối với nền kinh tế (Có thể chọn nhiều đáp án)
A. Cung cấp vốn cho các doanh nghiệp mới thành lập, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao
B. Thúc đẩy các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO)
C. Phát triển lượng lao động chất lượng cao trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm
D. Khác
2.2. Quan điểm của Quý vị về đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam:
Quý vị vui lòng đánh dấu X vào các ô lựa chọn với các mức độ:
209
1.
2.
3.
4.
5. HOÀN TOÀN ĐỒNG Ý
1 2 3 4 5
1 Tiềm năng phát triển, đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam là rất lớn
2 Bạn quan tâm tới các dự án đầu tư mạo hiểm, với mức rủi ro mất vốn
lớn, nhưng hứa hẹn mức sinh lời cao trong tương lai
3 Bạn sẵn sàng đầu tư vào một doanh nghiệp với thời gian lớn hơn 5 năm
4 Bạn sẵn sàng góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm do cá nhân hoặc tổ chức
uy tín đứng lên huy động vốn
HOÀN TOÀN KHÔNG ĐỒNG Ý
PHẦN 3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUỸ
ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM
Quý vị vui lòng đánh dấu X vào các ô lựa chọn với các mức độ:
HOÀN TOÀN KHÔNG ĐỒNG Ý
1.
2.
3.
4.
5. HOÀN TOÀN ĐỒNG Ý
3.1. Các nhân tố về chính sách, hành lang pháp lý của chính phủ
Theo Quý vị, các nhân tố sau đối với chính phủ có tác động lớn đến việc hình thành và phát
triển quỹ đầu tư mạo hiểm:
1 2 3 4 5
1 Nghiên cứu và ban hành đồng bộ, kịp thời các văn bản pháp luật tạo ra
một hành lang pháp lý đầy đủ, hoàn thiện liên quan đến quỹ đầu tư mạo
hiểm
2 Các quy định pháp luật rõ ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho các
nhà đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm
3 Chính phủ đưa ra các chương trình hỗ trợ phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm
4 Chính sách thuế ưu đãi đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và các quỹ đầu
tư mạo hiểm
5 Chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho đầu tư mạo hiểm ở các cấp độ
giáo dục
3.2. Các nhân tố về giá trị văn hóa, xã hội của nhà đầu tư trong đầu tư, kinh doanh
Theo Quý vị, các nhân tố văn hóa xã hội sau có tác động lớn đến việc hình thành và phát
triển quỹ đầu tư mạo hiểm:
1 2 3 4 5
210
doanh
2 Có phẩm chất bền bỉ, nỗ lực không ngừng với dự án của mình
3 Khả năng đánh giá và thích ứng với rủi ro tốt
4 Có năng lực quản lý và nắm bắt được các cơ hội trong đầu tư
1 Tính nhất quán, coi trọng chữ tín của các bên trong quan hệ đầu tư, kinh
3.3. Các nhân tố về năng lực đào tạo, nghiên cứu
Theo Quý vị, các nhân tố năng lực đào tạo, nghiên cứu sau có tác động lớn đến việc hình
thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm:
1 2 3 4 5
1 Trường học ở các cấp cần tuyên truyền về ý thức doanh nhân, đầu tư cho
các thế hệ học sinh, sinh viên
2 Giảng viên, nghiên cứu viên tại các cơ sở đào tạo có liên quan cần có
năng lực nghiên cứu, truyền đạt ý tưởng kinh doanh cho sinh viên
3 Nâng tầm hiểu biết và thực thi của người dân về quyền sở hữu trí tuệ
4 Khuyến khích các nhà đầu tư tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao,
mang tính sáng tạo
3.4. Các nhân tố về địa điểm phục vụ đầu tư
Theo Quý vị, các nhân tố về địa điểm đầu tư sau có tác động lớn đến việc hình thành và phát
triển quỹ đầu tư mạo hiểm:
1 2 3 4 5
1 Mạng lưới các loại hình giao thông kết nối các địa điểm đóng vai trò
quan trọng khi quyết định đầu tư tại một địa phương
2 Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng đối với các
doanh nghiệp
3 Các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nhân có vai trò lớn trong việc kết nối
cộng đồng đầu tư mạo hiểm
3.5. Các nhân tố về nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm
Theo Quý vị, các nhân tố về nguồn lực sau có tác động lớn đến việc hình thành và phát triển
quỹ đầu tư mạo hiểm:
1 2 3 4 5
1 Các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó tiếp cận vốn vay từ ngân hàng
2 Các doanh nghiệp mới thành lập, nhỏ và vừa có nhu cầu vốn đầu tư mạo
hiểm rất lớn
3 Trình độ lao động trẻ tại Việt Nam chưa đáp ứng được chất lượng cao
trong đầu tư mạo hiểm
4 Các doanh nghiệp lớn, tập đoàn lớn tại Việt Nam chưa đầu tư tương
xứng cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm
5 Nguồn lực của chính phủ Việt Nam dành cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm
nói chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng còn khiêm tốn
6 Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập qua các năm
7 Tổng số vốn huy động được của các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm
8 Kết quả đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm
211
PHẦN 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM
Quý vị hãy khoanh tròn vào lựa chọn tương ứng
Câu 1. Theo Quý vị, để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, cần
thiết có các cơ chế đặc thù cho lĩnh vực này?
A.Có
B.Không
Câu 2. Theo Quý vị, tại giai đoạn hiện nay, mô hình sở hữu quỹ đầu tư mạo hiểm tại
Việt Nam nên là
A.Mô hình hợp danh hữu hạn
B. Mô hình công ty
C. Mô hình tín thác
D. Khác
Câu 3. Theo Quý vị, lĩnh vực nào sau đây cần sự quan tâm đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo
hiểm
A. Xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, bất động sản B. Truyền thông C. Khoa học – đời sống D. Công nghiệp – năng lượng E. Công nghệ cao F. Doanh nghiệp khởi nghiệp G. Khác
212
Câu 4. Năm 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho ra mắt Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc
gia (NIC), theo bạn đây có phải là tiền đề cho sự phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt
Nam trong tương lai?
A. Có
B. Không
Câu 5. Theo Quý vị, cơ quan nào sau đây nên nắm giữ vai trò quản lý các quỹ đầu tư
mạo hiểm ở Việt Nam?
A.Ủy ban chứng khoán Nhà nước
B. Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam
C. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
D. Ngân hàng Nhà nước
E. Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
F. Khác
Cảm ơn Quý vị đã dành thời gian trả lời phiếu khảo sát. Kính chúc Quý vị sức khỏe và thành
công.
213
Phụ lục 7. Xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới
Trên thế giới, quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và Châu Âu được coi là hai thị
trường phát triển lâu đời nhất, chiếm trên 80% giá trị đầu tư mạo hiểm trên thế giới
(Vanham, 2015) [97]; do đó việc nghiên cứu xu hướng đầu tư của quỹ đầu tư mạo
hiểm tại hai khu vực này mang tính cấp thiết và định hướng chung cho xu hướng của
toàn cầu.
Với sự xuất hiện đầu tiên tại Mỹ, quỹ đầu tư mạo hiểm nhanh chóng lan ra toàn
cầu, trở thành xu hướng đầu tư thu hút được sự quan tâm của công chúng đầu tư. Khi
thị trường vốn đầu tư mạo hiểm đã trưởng thành tại Mỹ, nó bắt đầu xuất hiện, manh
nha phát triển tại Châu Âu (Ahlstrom và các cộng sự, 2007) [15]. Ở cuối những năm
1970, Anh Quốc và Ireland là một trong hai quốc gia đầu tiên tại Châu Âu thu hút các
nhà đầu tư mạo hiểm. Những quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên thông thường được thành
lập trên cơ sở liên kết với các quỹ tại Mỹ, và được hoạt động chủ yếu dựa trên vốn đầu
tư và kinh nghiệm của người Mỹ. Sau đó đến khoảng đầu năm 1980, các quốc gia khác
tại Châu Âu bắt đầu quan tâm đến đầu tư mạo hiểm, và quỹ đầu tư mạo hiểm thường
được thành lập bởi các ngân hàng nội địa lớn. Trên thực tế, giai đoạn đầu phát triển
quỹ đầu tư mạo hiểm tại Châu Âu, mô hình quỹ tương tự như tại Mỹ (Manigart và các
cộng sự, 2002) [73], nhưng có một số điểm khác biệt như môi trường làm việc, luật
đầu tư, thuế điều chỉnh trong đầu tư và quỹ đầu tư mạo hiểm, làm cho thị trường vốn
đầu tư mạo hiểm tại Châu Âu có các bước phát triển khác biệt so với Mỹ.
Số lượng quỹ, giá trị huy động của quỹ đầu tư mạo hiểm
Qua hình 3.1 cho thấy, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập mới và
huy động vốn thành công tăng trưởng mạnh mẽ qua các năm. Nếu như ở giai đoạn
1996-2003, số lượng quỹ hoàn thành huy động vốn bình quân khoảng 500 quỹ, với giá
trị huy động của quỹ bình quân 130 tỷ USD.
Giai đoạn 2003-2008 chứng kiến sự phát triển nóng của các quỹ đầu tư mạo
hiểm tại hai khu vực này, với số lượng quỹ được thành lập và huy động vốn thành
công tăng không ngừng qua các năm, đạt đỉnh điểm tại năm 2008, với hơn 1000 quỹ
được thành lập mới, giá trị huy động đạt trên 400 tỷ USD. Với ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng toàn cầu năm 2008, làm cho số lượng và giá trị huy động của quỹ đầu tư
214
mạo hiểm giai đoạn 2008-2010 sụt giảm, tuy nhiên đà tăng đã tiếp ngay sau đó, với số
lượng quỹ đạt 1014 vào năm 2014, giá trị đạt hơn 300 tỷ USD.
Hình PL.1. Số lượng và giá trị huy động của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và
Giá trị huy động (Tỷ USD)
Số quỹ hoàn thành huy động vốn (Quỹ mới)
1019
10091001
945
939
908
851 862
830
765
750
706 742
618
603
516
500
418
410
413 408
350
350
310 348 329347
248
209
207
208 173 213 225
137
135 101 74
31 70 107 135
Châu Âu giai đoạn 1996-2016
Nguồn: Statista.com, 2018
Lĩnh vực đầu tư
Trong giai đoạn 2012-2016 chứng kiến sự thay đổi lớn về lĩnh vực đầu tư của
các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và Châu Âu. Nếu trong năm 2012, lĩnh vực Khoa học
đời sống (Life sciences) chiếm tỷ trọng lớn, chiếm tới 38.7% tại Mỹ (tương ứng giá trị
giải ngân đạt trên 10 tỷ USD); còn tại Châu Âu, con số là 28.4% ~ trên 1 tỷ USD; cũng
trong năm 2012, tại Mỹ, lĩnh vực thứ hai được quan tâm sau lĩnh vực Khoa học đời
sống là Máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng, với giá trị giải ngân đạt trên 6 tỷ USD,
chiếm 25.8% tổng giá trị đầu tư của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; trong khi tại Châu Âu,
lĩnh vực này đứng thứ ba (chiếm 19%), sau lĩnh vực khác (chiếm 21.8%).
Tuy nhiên, đến năm 2016 có sự dịch chuyển mạnh mẽ của lĩnh vực đầu tư tại cả
hai khu vực này. Đứng top đầu đầu tư tại Mỹ là lĩnh vực Máy tính và thiết bị điện tử
tiêu dùng, chiếm 49.1%, trong khi lĩnh vực Khoa học đời sống chiếm 18%, đứng thứ
ba; đứng top thứ hai thuộc về lĩnh vực Truyền thông (Communications). Tại thị trường
Châu Âu, đứng đầu danh sách đầu tư đã giải ngân của các quỹ đầu tư mạo hiểm là lĩnh
vực Khoa học đời sống (chiếm 31% tổng giá trị giải ngân), tiếp theo là lĩnh vực
Truyền thông (chiếm 21.5%) và các lĩnh vực khác (chiếm 20.1%). Trong khi lĩnh vực
215
Công nghiệp/Năng lượng tại cả hai khu vực đều có tỷ trọng đầu tư thấp nhất, với 4.8%
tại Mỹ và 7.4 tại Châu Âu.
Bảng PL.5. Giá trị giải ngân của các quỹ đầu tư mạo hiểm
tại Mỹ và Châu Âu năm 2012
Lĩnh vực
Mỹ
Châu Âu
Giá trị giải
Tỷ lệ
Giá trị giải ngân
Tỷ lệ
ngân
%
(Triệu USD)
%
(Triệu USD)
Khoa học đời sống (Life sciences)
10.310
38,69 1.164,4
28,4
Máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng
6.870
25,78 779,3
19,0
(Computer & consumer electronics)
Truyền thông (Communications)
4.551
17,08 743,8
18,2
Công nghiệp/Năng lượng
2.792
10,48 512,9
12,5
(Industrial/Energy)
Lĩnh vực khác
2.127
892,7
21,9
7,98
Nguồn: Truebridgecapital.com ( 2017)
Bảng PL.6. Tỷ lệ đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau của quỹ đầu tư mạo hiểm tại
Mỹ và Châu Âu năm 2016
Mỹ (%) Châu Âu (%)
Khoa học đời sống 18 31
Máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng 49,1 20
Truyền thông 19 21,5
Công nghiệp/Năng lượng 4,8 7,4
Lĩnh vực khác 9,1 20,1
Nguồn: Truebridgecapital.com, 2017
Giai đoạn đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm
Trên thị trường vốn đầu tư mạo hiểm trên thế giới, Mỹ là khu vực đứng đầu
trong việc rót vốn đầu tư trong các giai đoạn của quy trình đầu tư mạo hiểm. Ở giai
đoạn ban đầu (Start-up), giai đoạn 2010-2016 chứng kiến giá trị đầu tư giảm dần ở hầu
hết các khu vực, tuy nhiên Mỹ vẫn là khu vực có giá trị đầu tư cao nhất. Giá trị đầu tư
vào giai đoạn này tại Mỹ vào năm 2010 là 308 triệu USD, sau đó tăng lên đến 593
216
triệu USD vào năm sau đó, trước khi chứng kiến đà sụt giảm ở các năm 2012 trở đi,
đến cuối giai đoạn, giá trị đầu tư chỉ còn 216 triệu USD vào năm 2016. Đối với thị
trường Châu Âu, năm 2011 và 2013 là hai năm có giá trị đầu tư vào giai đoạn Start-up
cao nhất, với giá trị tương ứng 115 triệu USD và 120 triệu USD. Tuy nhiên cùng với
sự sụt giảm giá trị vốn đầu tư mạo hiểm toàn cầu, đến năm 2015 chỉ còn 34 triệu USD
và năm 2016 là 12 triệu USD.
Tại các khu vực khác như Trung Quốc, Ấn Độ hay Israel cũng có xu hướng đầu
tư tương tự, cá biệt tại Ấn Độ vào năm 2015, không có đồng vốn đầu tư mạo hiểm nào
rót vào giai đoạn Start-up, trong khi tại Trung Quốc là 14 triệu USD, tại Israel là 4
triệu USD.
Bảng PL.7. Giá trị đầu tư vào giai đoạn Start-up
Giá trị đầu tư vào giai đoạn Start-up (Triệu USD)
Năm Mỹ Châu Âu Trung Quốc Israel Ấn Độ
2010 308
46
40
21
12
2011 593
115
14
24
2
2012 334
61
53
20
1
2013 474
69
38
3
82
2014 429
120
21
3
17
2015 243
34
14
4
0
2016 216
12
12
4
1
Nguồn: Down Jones VentureSource, 2017
Đối với giai đoạn phát triển sản phẩm, tức trong giai đoạn hoàn thiện, quảng bá
để đưa vào sản xuất thương mại, giá trị đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm đạt các
con số vượt trội hơn hẳn ở giai đoạn ban đầu. Cụ thể tại Mỹ năm 2010 giá trị đầu tư
đạt hơn 3 tỷ USD, sau đó giảm dần ở các năm tiếp theo, đến năm 2016 đạt trên 1,5 tỷ
USD. Tương tự, ở Châu Âu và các quốc gia khác cũng chứng kiến đà sụt giảm giá trị
đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm vào giai đoạn phát triển sản phẩm qua các năm. Đỉnh
điểm tại Châu Âu, giá trị đạt 785 triệu USD, trong khi ở Trung Quốc là 47 triệu USD,
Israel đạt 409 triệu USD và tại Ấn Độ là 44 triệu USD. Các năm tiếp theo, giá trị đầu
tư tại các quốc gia có sự khác biệt, tuy nhiên có thể dễ nhận thấy qua bảng 3.69; Mỹ
vẫn là quốc gia có giá trị đầu tư vào giai đoạn phát triển sản phẩm lớn nhất, tiếp sau đó
là Châu Âu, Trung Quốc và Israel.
217
44 743 15 15 4 12 50
785 564 779 484 367 223 423
47 190 107 187 221 51 38
Bảng PL.8. Giá trị đầu tư vào giai đoạn phát triển sản phẩm
Giá trị đầu tư vào gia đoạn phát triển sản phẩm (Triệu USD) Israel Ấn Độ Châu Âu Trung Quốc Năm Mỹ 409 3152 2010 106 2818 2011 62 1705 2012 41 1782 2013 20 1672 2014 57 1861 2015 72 1584 2016 Nguồn: Nguồn: Down Jones VentureSource, 2017
Để đi vào cụ thể hơn từng giai đoạn đầu tư tại hai khu vực Châu Âu và Mỹ, ta
quan sát Bảng PL.9.
Bảng PL.9. Số lượng và giá trị các dự án đầu tư mạo hiểm tại Châu Âu
Số lượng dự án đầu tư tại Châu Âu các giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
hạt giống
đầu
tiếp theo
sau
tái khởi dộng
2013 (Q3+4)
145
153
131
448
0
2014
159
299
261
857
1
2015
159
333
337
894
3
2016 (Q1+Q2+Q3)
101
286
235
688
1
Giá trị dự án đầu tư tại Châu Âu các giai đoạn (Triệu Euro)
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
hạt giống
đầu
tiếp theo
sau
tái khởi dộng
2013 (Q3+4)
57
1022
1117
1457
0
2014
95
2031
1767
3500
1
2015
96
2879
2543
7410
3
2016 (Q1+Q2+Q3)
104
2110
1863
3556
2
Nguồn: Business Insider, 2017
218
Với cách phân chia các giai đoạn đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm thành giai
đoạn hạt giống (Seed), Bắt đầu (First); Giai đoạn tiếp theo (Second); Giai đoạn sau
(Later) và Tái khởi động (Restart). Dễ nhận thấy tại Châu Âu, giai đoạn đầu tiên, tức
sau khi giai đoạn hạt giống được đầu tư, thì giai đoạn bắt đầu được các quỹ đầu tư mạo
hiểm quan tâm nhất, với số lượng các dự án luôn đứng đầu, tăng liên tục về số lượng
qua giai đoạn 2013-2016. Bên cạnh đó, tương ứng như vậy giá trị cũng tăng theo; nếu
như chỉ tính riêng Quý 2+3 năm 2013 có hơn 1 tỷ Euro đầu tư vào giai đoạn này, thì
đến ba quý đầu năm 2016 giá trị đã tăng vượt 2 tỷ Euro. Cá biệt có giai đoạn tái khởi
động lại các dự án đầu tư mạo hiểm nhận được ít sự quan tâm của các nhà đầu tư mạo
hiểm, với số lượng dự án đạt rất thấp, có một dự án năm 2014 và 2016, ba dự án năm
2015, tương ứng như vậy giá trị cũng chỉ đạt dưới 3 triệu Euro cho các năm tương ứng.
Bảng PL.10. Số lượng và giá trị các dự án đầu tư mạo hiểm tại Mỹ
Số lượng dự án đầu tư tại Mỹ các giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
hạt giống
đầu
tiếp theo
sau
tái khởi dộng
2013 (Q4)
109
402
217
275
10
2014
397
1507
834
1276
32
2015
292
1497
932
1348
17
2016
187
1299
817
1211
14
Giá trị dự án đầu tư tại Mỹ các giai đoạn (Tỷ USD)
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
hạt giống
đầu
tiếp theo
sau
tái khởi dộng
2013 (Q4)
0.1
2.16
1.95
5.19
0.1
2014
0.39
9.29
9.75
36.4
0.71
2015
0.33
10.42
12.56
48.99
0.22
2016
0.24
8.56
9.06
27.55
0.6
Nguồn: Business Insider
Tại thị trường Mỹ, giai đoạn Bắt đầu cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các
giai đoạn khác trong các giai đoạn đầu tư mạo hiểm, với các con số từ 402 dự án trong
quý 4/2013, lên đến 1299 dự án trong năm 2016. Giá trị của các thương vụ đầu tư mạo
hiểm giai đoạn Bắt đầu cũng tăng rõ rệt, với 2,16 tỷ USD trong quý 4/2013, lên đỉnh
điểm 10,42 tỷ USD trong năm 2015, trước khi hạ xuống còn 8,56 tỷ USD trong năm
219
2016. Điều đặc biệt đối với thị trường Mỹ so với Châu Âu, đó là giai đoạn sau (Later)
của các giai đoạn trong đầu tư mạo hiểm chiếm tỷ trọng lớn, với trên 1000 dự án qua
các năm (năm 2014: 1276 dự án; năm 2015: 1348 dự án; năm 2016: 1211 dự án).
Tương ứng với số lượng dự án như vậy, giá trị của các thương vụ đầu tư luôn đạt các
con số ấn tượng hơn hẳn các giai đoạn khác; với năm 2014 đạt 36,4 tỷ USD; năm 2015
đạt 48,99 tỷ USD và năm 2016 đạt 27,55 tỷ USD.
Thời gian đầu tư bình quân và phương thức thoái vốn
Đối với quy trình đầu tư mạo hiểm, thời gian đầu tư và cách thức thoái vốn
đóng vai trò rất quan trọng, nó liên quan đến chiến lược đầu tư của từng quỹ trong
từng thời kỳ, khu vực nhất định.
Bảng PL.11. Số năm đầu tư bình quân, và cách thức thoái vốn của các quỹ đầu tư
mạo hiểm
Năm
Mỹ
Châu Âu Trung Quốc
IPO M&A IPO M&A IPO M&A
2010
6.8
6.5
6.4
6.5
1.8
3.5
2011
8.7
5.8
8.1
6.7
3.8
3.7
2012
7.9
5.5 N/A
5.5
2.3
3.4
2013
8
5.3
3.8
5.7
2.6
3.8
2014
6.4
5.3
9.2
5.5
2.5
4.1
2015
7.3
5.2
6.2
5.9
2.4
4.4
2016
6.8
5
6.3
6.3
3.9
3.5
7.4
Bình quân
5.5
6.7
6.0
2.8
3.8
Nguồn: Preqin.com, 2017
Như vậy, bình quân số năm đầu tư trước khi thoái vốn tại Châu Âu và Mỹ trong
giai đoạn 2010-2016 không có sự chênh lệch đáng kể, với mức 7,4 năm (tại Mỹ) và 6,7
năm (tại Châu Âu) thông qua kênh thoái vốn IPO; đối với kênh mua bán sáp nhập
(M&A) tại Mỹ bình quân 5,5 năm, Châu Âu là 6,0 năm. Đối với thị trường Trung
Quốc, số năm thoái vốn bình quân tương ứng là 2,8 năm và 3,8 năm.