NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

---------------------------

PHẠM TIẾN MẠNH

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

--------------------------

PHẠM TIẾN MẠNH

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH : TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

MÃ SỐ : 9.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : 1. PGS. TS. NGUYỄN THANH PHƯƠNG

2. TS. ĐÀO LÊ MINH

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận án có tính độc lập, số liệu và dữ liệu sử dụng trong luận án được trích dẫn đúng quy định.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm lời cam đoan trên.

Người cam đoan

Phạm Tiến Mạnh

i

MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................. IV DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH ............................................................................ V MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ............................................................ 7 1.Tổng quan nghiên cứu nước ngoài ........................................................................ 7 1.1.Nguồn cung vốn đối với việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ...... 7

1.2.Các yếu tố chính sách tác động đến sự hình thành và phát triển của quỹ đầu tư

mạo hiểm ............................................................................................................... 12

1.3.Những yếu tố nội tại tác động đến sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm........ 17

2. Tổng quan nghiên cứu trong nước ............................................................... 19 3. Khoảng trống nghiên cứu ............................................................................. 22 Kết luận chương 1 ................................................................................................... 24 CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN .................. 25 QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM.................................................................................... 25 2.1. Khái niệm về vốn đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm ........................ 25 2.1.1. Vốn đầu tư mạo hiểm ................................................................................... 25

2.1.2. Quỹ đầu tư mạo hiểm ................................................................................... 27

2.2. Lý luận về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm .............................. 30 2.2.1. Xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm .................................................................... 33

2.2.2. Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm .................................................................... 48

2.2.3. Vai trò của xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm .............................. 50

2.2.4. Nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ........... 53

Kết luận chương 2 ................................................................................................... 63 CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ................................ 64 QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TRÊN THẾ GIỚI ..................................................... 64 3.1. Thực tiễn quá trình hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới.................................................................................................................................64 3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm.................................. 64

3.1.2. Xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới ................................ 66

3.2. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Trung Quốc và Hàn Quốc ................................................................................................................ 67 3.2.1. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc .. 67

3.2.2. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc ..... 82

3.3. Bài học .............................................................................................................. 93

ii

3.3.1. Chính phủ đóng vai trò thiết yếu trong quá trình xây dựng và phát triển quỹ

đầu tư mạo hiểm .................................................................................................... 93

3.3.2. Tập trung đầu tư vào lĩnh vực yêu cầu trình độ khoa học, công nghệ cao ..... 96

3.3.3. Tận dụng thu hút nguồn vốn đầu tư mạo hiểm từ tất cả các thành phần trong

xã hội ..................................................................................................................... 96

3.3.4. Mạng lưới kết nối trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm ....................................... 97

3.3.5. Lựa chọn hình thức quỹ đầu tư mạo hiểm phù hợp trong từng thời kỳ .......... 98

3.3.6. Tập trung phát triển thị trường chứng khoán................................................. 98

Kết luận chương 3 ................................................................................................... 99 CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN .......................... 100 QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM ......................................................... 100 4.1. Giới thiệu về môi trường nhân tố tác động đến hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ................................................................................................... 100 4.1.1. Chính sách của chính phủ ........................................................................... 100

4.1.2. Giá trị văn hóa xã hội đối với kinh doanh ................................................... 104

4.1.3. Tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ .................................................... 106

4.1.4. Địa điểm .................................................................................................... 109

4.1.5. Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm ................................................................. 111

4.2. Thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ....... 115 4.2.1. Thực trạng xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam............................ 116

4.2.2. Thực trạng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ............................. 119

4.3. Kết quả khảo sát nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ........................................................................................... 139 4.3.1. Thống kê mô tả .......................................................................................... 139

4.3.2. Phân tích nhân tố tác động đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam ............................................................................................................. 143

4.4. Đánh giá chung về thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ............................................................................................................... 149 4.4.1. Kết quả đạt được ........................................................................................ 150

4.4.2. Tồn tại và nguyên nhân .............................................................................. 151

Kết luận chương 4 ................................................................................................. 158 CHƯƠNG 5. KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH NHẰM XÂY DỰNG ................ 159 VÀ PHÁT TRIỂN QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM ......................... 159 5.1. Định hướng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ...... 159

iii

5.2. Một số khuyến nghị chính sách nhằm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam ................................................................................................... 162 5.2.1. Xây dựng khung pháp lý đồng bộ ............................................................... 162

5.2.2. Có cơ chế đặc thù cho quỹ đầu tư mạo hiểm............................................... 163

5.2.3. Thu hút nguồn lực cho quỹ đầu tư mạo hiểm .............................................. 164

5.2.4. Khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm tập trung đầu tư vào lĩnh vực công

nghệ cao............................................................................................................... 165

5.2.5. Xây dựng mạng lưới kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm ............................... 166

5.2.6. Gợi ý hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam ............................................................................................................. 166

5.2.7. Quản lý nhà nước đối với quỹ đầu tư mạo hiểm ......................................... 177

5.2.8. Lộ trình tăng cường xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

............................................................................................................................ 179

Kết luận chương 5 ................................................................................................. 182 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 183 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 185 PHỤ LỤC ............................................................................................................... 192

iv

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Diễn giải AMAC CBRC CIRC CSRC GGF GPs HNX HOSE IPO LPs NDRC NĐT NSSF QĐT UBCK VEIL VOF

Hiệp hội quản lý tài sản Trung Quốc Ủy ban quản lý ngân hàng Trung Quốc Ủy ban điều tiết bảo hiểm Trung Quốc Ủy ban điều tiết chứng khoán Trung Quốc Quỹ đầu tư định hướng của chính phủ Các cổ đông điều hành (General Partners) Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội Sở giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng Các cổ đông góp vốn (Limited Partners) Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia Nhà đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ đầu tư Ủy ban Chứng khoán Quỹ Vietnam Enterprise Investments Limited Quỹ Vietnam Opportunity Fund

v

Bảng 2. 1. So sánh quỹ đầu tư và quỹ đầu tư mạo hiểm .....................................................................29

Bảng 4. 1. Số lượng các cơ sở đào tạo, nghiên cứu tại Việt Nam ......................................................106

Bảng 4. 2. Số lượng chức danh tại Việt Nam giai đoạn 2015-2017 ..................................................106

Bảng 4. 3. Danh sách các nhà đầu tư tổ chức tại Việt Nam ..............................................................114

Bảng 4. 4. Bội chi ngân sách giai đoạn 2010-2017...........................................................................114

Bảng 4. 5. Các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam trong giai đoạn 1991-1996 .................................117

Bảng 4. 6. Một số quỹ đầu tư mạo hiểm dành cho khởi nghiệp của Việt Nam ..................................117

Bảng 4. 7. Cơ cấu đầu tư của VEIL trong năm 2005, 2015 ..............................................................125

Bảng 4. 8. Phân bổ tài sản đầu tư của Vietnam Opportunity Fund (VOF) .........................................126

Bảng 4. 9. Danh mục đầu tư tại các quỹ đầu tư mạo hiểm thuộc Mekong Capital (2002-2015) .........127

Bảng 4. 10. Danh mục đầu tư của IDG Ventures Vietnam giai đoạn 2002-2015 ...............................129

Bảng 4. 11. Tỷ trọng đầu tư của VEIL, năm 2016 và 2018...............................................................131

Bảng 4. 12. Tỷ trọng đầu tư của VOF ..............................................................................................131

Bảng 4. 13. Danh mục đầu tư của Quỹ Mekong Enterprise Fund III hiện nay ..................................132

Bảng 4. 14. Danh mục đầu tư của IDG Ventures Vietnam ...............................................................133

Bảng 4. 15. Lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm ..............................................................133

Bảng 4. 16. Giá trị giá trị tài sản ròng (NAV) của VEIL và VOF .....................................................136

Bảng 4. 17. Tốc độ tăng trưởng NAV của VEIL và VOF .................................................................137

Bảng 4. 18. Giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF ...........................................................................138

Bảng 4. 19. Tốc độ tăng trưởng giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF .............................................138

Bảng 4. 20. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố chính sách của chính phủ ......................................143

Bảng 4. 21. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về văn hóa, xã hội .................................................144

Bảng 4. 22. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về năng lực đào tạo, nghiên cứu ............................145

Bảng 4. 23. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố địa điểm đầu tư .....................................................145

Bảng 4. 24. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về nguồn lực .........................................................146

Bảng 4. 25. Bảng tổng hợp các biến và thang đo sau Phân tích Cronbach’s Alpha ...........................146

Bảng 4. 26. Kết quả phân tích Principle-Component Factor .............................................................147

Bảng 4. 27. Tổng hợp kết quả phân tích nhân tố khám phá ..............................................................149

DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH

Hình 2. 1. Đối tượng tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm ...................................................................34

Hình 2. 2. Cấu trúc quỹ đầu tư mạo hiểm ..........................................................................................36

Hình 2. 3. Nhân tố cần thiết để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm .....................................56

Hình 2. 4. Mô hình nghiên cứu ..........................................................................................................61

Hình 3. 1. Vốn đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc ..................................................................................85

Hình 3. 2. Giá trị đầu tư giai đoạn 2004-2018 tại Hàn Quốc...............................................................86

Hình 3. 3. Cấu trúc Quỹ của quỹ tại Hàn Quốc ..................................................................................91

Hình 3. 4. Các bước lựa chọn công ty quản lý quỹ .............................................................................91

Hình 3. 5. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc (%) ......................................................93

Hình 4. 1. Số lượng văn bản liên quan đến khoa học, công nghệ tại Việt Nam ................................. 102

Hình 4. 2. Các cơ quan ban hành các quy định trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam .................. 104

Hình 4. 3. Số lượng các văn bản liên quan đến chứng khoán được ban hành .................................... 104

Hình 4. 4. Tỷ trọng dư nợ cho vay DNNNV/ Tổng dư nợ (năm 2016).............................................. 112

Hình 4. 5. Số dân Việt Nam giai đoạn 1990 – 2050 (dự tính) ........................................................... 113

Hình 4. 6. Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam giai đoạn 1990-2002 .................................... 123

Hình 4. 7. Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, giai đoạn 2002-2015 ................................... 123

Hình 4. 8. Nơi làm việc của đối tượng khảo sát ............................................................................... 140

Hình 4. 9. Kinh nghiệm đầu tư của đối tượng khảo sát ..................................................................... 140

Hình 4. 10. Trình độ học vấn của đối tượng khảo sát ....................................................................... 140

Hình 4. 11. Câu hỏi ở Việt Nam hiện nay đã có quỹ đầu tư mạo hiểm hay chưa ............................... 140

Hình 4. 12. Câu hỏi quỹ đầu tư mạo hiểm nào đang chiếm ưu thế tại Việt Nam ............................... 142

Hình 4. 13. Câu hỏi tỷ lệ thất bại khi đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm .................................... 142

Hình 4. 14. Câu hỏi về lĩnh vực đầu tư ưa thích của quỹ đầu tư mạo hiểm .......................................142

Hình 4. 15. Câu hỏi về vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm đối với nền kinh tế ....................................143

vi

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kể từ thời điểm đổi mới năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều

thành tựu đáng ghi nhận; Việt Nam luôn nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới, tỷ lệ hộ nghèo giảm, chất lượng cuộc sống của

người dân không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, việc đổi mới nền kinh tế, xây dựng và

phát triển đất nước là một quá trình không ngừng nghỉ, đòi hỏi kết hợp nhiều yếu tố

nhằm tạo ra tốc độ tăng trưởng bền vững, có sức cạnh tranh cao.

Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển, có trình độ khoa học công nghệ cao

như Mỹ, Châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc, Israel, v.v… cho thấy, yếu tố đầu tư mạo

hiểm đóng vai trò then chốt trong quá trình đổi mới công nghệ, hiện đại hóa đất nước,

nâng tầm phát triển của các doanh nghiệp trong nước, hướng tới sức cạnh tranh toàn

cầu; trong đó, các quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò trung gian trong việc luân chuyển

vốn từ các cá nhân, tổ chức có vốn, sẵn sàng chấp nhận đầu tư vào các dự án mạo hiểm

có triển vọng, với mục đích đạt được mức sinh lời cao trong tương lai. Lịch sử hình

thành các quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới cho thấy; Mỹ là quốc gia có quỹ đầu tư

mạo hiểm đầu tiên, được hình thành từ năm 1946; tiếp sau đó là các quốc gia ở Châu

Âu như Anh Quốc và Ireland (năm 1970), với cách thức hoạt động chủ yếu theo kinh

nghiệm và vốn của người Mỹ. Sau đó, đến những năm 1980, các quốc gia khác tại

Châu Âu cũng bắt đầu quan tâm và đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, với phương

thức đầu tư và mô hình quỹ tương tự tại Mỹ. Kết quả cho thấy, Mỹ và Châu Âu là hai

khu vực phát triển nhất trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, chiếm tới 80% giá trị đầu tư

mạo hiểm trên thế giới (Vanham, 2015) [97].

Kinh nghiệm tại các quốc gia như Trung Quốc và Hàn Quốc, chính phủ các

quốc gia này sớm nhận thức được vai trò quan trọng của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói

chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng, đã sớm quan tâm, đầu tư, thúc đẩy lĩnh

vực này phát triển, nhằm tạo ra động lực phát triển kinh tế bền vững. Cụ thể, trong

những giai đoạn đầu hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm, hai quốc gia

này đã tập trung vào quá trình cải cách cơ chế, chính sách, tập trung phát triển thị

trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy các quỹ đầu tư

mạo hiểm phát triển, mở rộng quy mô đầu tư; ngoài ra, các yếu tố như tạo nguồn lực

cho các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động vốn, định hướng lĩnh vực đầu tư của các quỹ

2

đầu tư mạo hiểm, tạo mạng lưới kết nối cộng đồng đầu tư mạo hiểm trong và ngoài

nước, đã và đang phát huy tốt vai trò trong quá trình phát triển của các quỹ đầu tư mạo

hiểm tại các quốc gia này.

Tại Việt Nam, đầu tư mạo hiểm vẫn được coi là lĩnh vực khá mới, mới được

chính phủ quan tâm về mặt chính sách khuyến khích phát triển từ năm 2015 trở lại

đây, thông qua các thông tư, quyết định, nghị định hoặc các điều luật được ban hành

để thúc đẩy quá trình hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích thành lập các quỹ đầu tư mạo

hiểm dành cho khởi nghiệp sáng tạo, hoặc thúc đẩy các thành phần kinh tế tham gia

đầu tư mạo hiểm, v.v… nhằm tận dụng được sức mạnh của nền kinh tế trong phát triển

đất nước. Thực tế cho thấy, phần lớn các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt

Nam là các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài, với thời gian tham gia thị trường đầu

tư mạo hiểm Việt Nam từ những năm 1991; còn đến năm 2015, mới xuất hiện các quỹ

đầu tư mạo hiểm do Việt Nam chính thức thành lập và đi vào hoạt động. Cho đến nay,

các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam còn ít, quy mô vốn và lĩnh vực

đầu tư còn hạn chế, chưa phát huy được vai trò nổi bật thúc đẩy quá trình khởi nghiệp,

sáng tạo, nâng cao hiệu quả kinh tế của Việt Nam.

Do vậy, việc hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

trong tương lai còn nhiều vấn đề, góc độ cần bàn đến; nhằm tạo điều kiện cho lĩnh vực

đầu tư mạo hiểm nói chung, và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng, được phát triển bền

vững, lành mạnh, tạo điều kiện thúc đẩy trình độ khoa học kỹ thuật của Việt Nam nói

riêng, và nền kinh tế Việt Nam phát triển.

Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ.

2. Câu hỏi nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu

Luận án có các mục tiêu nghiên cứu chính đó là:

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm,

trong đó tìm hiểu sâu về môi trường cần thiết cho hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm;

các tiêu chí đánh giá sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá trình hoạt động

của mình.

Phân tích thực trạng xây dựng và phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang

hoạt động tại Việt Nam, bao gồm cả các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài và do

3

Việt Nam thành lập. Từ đó đánh giá mức độ phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm

đang hoạt động tại Việt Nam, chỉ ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.

Xây dựng mô hình kinh tế lượng nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc

hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện

nay, từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp khuyến khích việc hình thành, hỗ

trợ sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam trong tương lai.

Đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy việc hình thành và phát

triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, trong đó có các giải pháp về khung pháp

lý, xây dựng các cơ chế đặc thù cần thiết, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động, vấn

đề quản lý nhà nước, và đề xuất lộ trình cần thiết để hỗ trợ việc hình thành và phát

triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu

Nghiên cứu của luận án này nhằm trả lời ba câu hỏi sau đây:

Thứ nhất: Thực trạng xây dựng và phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt

Nam hiện nay như thế nào?

Thứ hai: Nhân tố nào cần thiết cho việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam hiện nay?

Thứ ba: Những chính sách nào cần thiết để thúc đẩy quá trình xây dựng và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam hiện nay?

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về không gian: Các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài và các quỹ đầu

tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập, đang hoạt động đầu tư tại Việt Nam.

Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt

động tại Việt Nam, giai đoạn từ 1990 – 2018.

Hạn chế nghiên cứu: Do việc thu thập số liệu về các quỹ đầu tư mạo hiểm đang

hoạt động tại Việt Nam rất khó khăn, các quỹ đầu tư mạo hiểm nhỏ, mới thành lập

không công bố số liệu về quá trình đầu tư, kết quả hoạt động kinh doanh của mình, vì

vậy nghiên cứu trong luận án này tập trung vào 4 quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất đang

4

hoạt động tại Việt Nam, đó là các quỹ đầu tư thuộc: VinaCapital, Mekong Capital,

IDG Venture, và Dragon Capital. Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng dữ liệu sẵn có

được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng của các quỹ đầu tư mạo hiểm

do Việt Nam thành lập (từ 2015 trở lại đây).

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án đã sử dụng phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với phương pháp trừu

tượng hóa khoa học, phương pháp nghiên cứu định tính, định lượng nhằm đạt được

mục tiêu nghiên cứu toàn diện, có hệ thống.

Ngoài ra, các phương pháp kỹ thuật chủ yếu được sử dụng trong luận án bao

gồm các phương pháp thống kê, so sánh, đánh giá, phương pháp phân tích hệ thống và

một số phương pháp khác. Cụ thể:

Đối với dữ liệu sơ cấp, luận án sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu và phương

pháp khảo sát thông qua các câu hỏi có liên quan đến luận án. Đối với phỏng vấn sâu,

luận án lựa chọn các chuyên gia đang làm việc tại Ủy Ban chứng khoán Nhà nước

(chủ yếu các cán bộ đang làm việc tại Vụ Quản lý quỹ), các chuyên gia đang làm việc

tại các quỹ đầu tư có văn phòng đại diện/ văn phòng chính tại Hà Nội. Từ việc phỏng

vấn sâu các chuyên gia này, kết hợp với các nghiên cứu trước đây của các tác giả trong

và ngoài nước về quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án đã rút ra được một số yếu tố chính có

tác động đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm; từ đó hình thành nên

được bộ câu hỏi phục vụ cho việc khảo sát.

Đối với phiếu khảo sát, được thiết kế dưới hai dạng: (1) dạng trực tuyến thông

qua sử dụng công cụ Google Docs; (2) Phiếu điều tra bằng giấy được in ra khổ giấy

A4; phiếu điều tra này sau đó được gửi đi tới các đối tượng có kinh nghiệm trong lĩnh

vực đầu tư nói chung, và đầu tư mạo hiểm nói riêng, dưới dạng thư điện tử, gửi trực

tiếp hoặc qua bưu điện; đối với phiếu điều tra trực tuyến, kết quả được cập nhật tự

động trên kết quả trực tuyến; đối với các phiếu điều tra gửi trực tiếp hoặc gửi qua bưu

điện, người trả lời sẽ chụp hình kết quả phiếu điều tra, gửi qua các công cụ mạng xã

hội (Messenger, Zalo, Viber, email), hoặc gửi trực tiếp tới người hỏi. Nội dung phiếu

khảo sát bao gồm 4 phần chính” (1) Thông tin cá nhân; (2) Đánh giá mức độ hiểu biết

và quan điểm về đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; (3) Các nhân tố ảnh hưởng đến xây

5

dựng và phát triên quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; (4) Các nhân tố giải pháp xây

dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Từ việc có số liệu sơ cấp về các nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, luận án sử dụng phương pháp kiểm dịnh

Cronbach’s Alpha nhằm kiểm tra chất lượng thang đo; sử dụng phương pháp nhân tố

khám phá EFA nhằm xác định mức độ tác động của từng thang đo và các biến quan sát

đến việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Đối với dữ liệu thứ cấp, luận án sử dụng dữ liệu đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo

hiểm đã có thời gian dài hoạt động đầu tư tại Việt Nam, với dữ liệu được thu thập từ

các website của các quỹ đầu tư đó, sau đó sử dụng phương pháp thống kê, so sánh,

nhằm tìm ra được chiều hướng phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động

tại Việt Nam. Với các dữ liệu vĩ mô, luận án sử dụng dữ liệu từ website chính thức của

Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Tổng Cục thống kê, Bộ giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư

Pháp, Tổng Cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Tài chính, v.v…

Đối với nội dung về giải pháp xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam, luận án sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, nhằm kết hợp giữa

định hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam của chính phủ, với thực trạng

tại Việt Nam trong thời gian qua, nhằm đưa ra một số giải pháp xây dựng và phát triển

quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.

5. Những đóng góp mới của luận án

Về mặt lý luận

- Luận án đã xây dựng bộ chỉ tiêu và hệ thống hóa các nhân tố ảnh hưởng đến việc

xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

Về mặt thực tiễn

- Luận án đã đánh giá toàn diện nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ

đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam trong những năm gần đây.

- Luận án đã sử dụng mô hình kinh tế lượng để kiểm định những yếu tố môi trường

tác động mạnh nhất đến việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt

Nam

- Luận án đã kết hợp kết quả nghiên cứu từ lý luận và thực tiễn, sau đó đề xuất hệ

thống giải pháp đồng bộ, có cơ sở khoa học và có giá trị ứng dụng cao nhằm khuyến

khích hình thành và thúc đẩy sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

6

trong điều kiện hiện nay, như khung pháp luật cần thiết, xây dựng cơ chế đặc thì cho

quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động; đề xuất ra lộ trình xây dựng và phát triển quỹ đầu tư

mạo hiểm ở Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Ở góc độ lý luận, luận án đã hệ thống được cơ cở lý luận về quỹ đầu tư mạo

hiểm, về điều kiện hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm.

Ở góc độ thực tiễn, luận án được thực hiện trong bối cảnh chính phủ Việt Nam,

cộng đồng đầu tư chú trọng đến vấn đề đầu tư mạo hiểm, vấn đề khởi nghiệp nhằm tạo

ra các bước đột phá, phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng tinh thần doanh nhân cho

các thế hệ doanh nhân tại Việt Nam. Mặc dù quỹ đầu tư mạo hiểm bắt đầu tham gia

đầu tư ở Việt Nam từ năm 1991, nhưng đến năm 2015, chính phủ Việt Nam mới bắt

đầu có các văn bản, chủ trương về mặt chính sách, nhằm thúc đẩy lĩnh vực đầu tư mạo

hiểm nói chung, và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng phát triển. Luận án là nguồn tài

liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng và

phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

7. Cơ cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; nội dung luận án bao

gồm 05 chương:

Chương 1. Tổng quan nghiên cứu

Chương 2. Cơ sở lý luận về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Chương 3. Thực tiễn xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới

Chương 4. Thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

Chương 5. Giải pháp xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

7

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1. Tổng quan nghiên cứu nước ngoài

1.1. Nguồn cung vốn đối với việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm

Tại một số quốc gia, chính phủ đóng vai trò thiết yếu đối với sự hình thành, phát

triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm, ví dụ tại Đức có quỹ ERP-EIF Co-investment

Growth Facility, luôn duy trì giá trị tài sản 500 triệu euro, mục đích đồng hành cùng

các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân tại quốc gia này để cùng đầu tư vào các dự án có

triển vọng; tại Pháp có quỹ Fonds National D’amorcage, chuyên tài trợ cho các dự án

đầu tư mạo hiểm ở giai đoạn hạt giống (seed phase), với số vốn lên tới 400 triệu euro,

cùng đầu tư với 21 quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân khác nhau, với danh mục hiện nay

đang đầu tư vào khoảng 230 công ty trong lĩnh vực công nghệ thông tin, năng lượng

sạch, khoa học đời sống, v.v... Ständer (2017) [95].

Romain (2007) [87] cho rằng, mục tiêu chủ đạo của các quỹ đầu tư mạo hiểm do

chính phủ thành lập và quản lý nhằm bước đầu hình thành nên quan điểm đầu tư mạo

hiểm trong xã hội, tạo ra được thị trường đầu tư mạo hiểm tư nhân có lợi nhuận và tự

tồn tại được trong tương lai. Để làm được điều này, các quỹ đầu tư mạo hiểm do chính

phủ hỗ trợ cần thận trọng trong quá trình hoạt động, tránh thay thế hoặc có tác động

tiêu cực lên các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân; ngoài ra, nhóm tác giả còn nêu ra quan

điểm thận trọng đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm do chính phủ thành lập, với lập luận

cho rằng có thể các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân sẽ quá phụ thuộc vào các quỹ của

chính phủ, chỉ cố gắng huy động và góp vốn vào các dự án chung, hợp tác của hai bên,

bỏ mặc quy trình lọc dự án, rà soát đặc biệt trong quá trình thẩm định và kiểm soát dự

án cho đối tác của mình, hơn là tự mình xây dựng và nâng cao năng lực của chính

mình trong quá trình hoạt động.

Vai trò của chính phủ trong việc cung cấp vốn cho quỹ đầu tư mạo hiểm còn được

Black và Gilson (2000) [23] nhắc đến, bởi tại một số quốc gia và khu vực, nguồn vốn

này được coi là cực kỳ quan trọng, chỉ sau nguồn vốn từ các ngân hàng, trong quá

trình đầu tư, phát triển nói chung, và đầu tư mạo hiểm nói riêng. Nhiều quốc gia đã

cung cấp nhiều chương trình khác nhau để hỗ trợ các doanh nhân khởi nghiệp như các

quỹ đầu tư mạo hiểm do chính phủ tài trợ nhằm tài trợ cho các dự án của các doanh

nhân trẻ. Ví dụ chương trình Yozma của Israel, Corporation for Incentive of

8

Production (CORFU) của Chile, German Venture Financing Corporation (WFG) của

Đức; Early Stage Venture Fund (ESVF) của Singapore; Quỹ đổi mới cho các công ty

công công nghệ, Quỹ đầu tư công nghiệp, Quỹ định hướng chính phủ của Trung Quốc.

Chính các quỹ đầu tư mạo hiểm, do chính phủ hỗ trợ hoặc hỗ trợ này là những quỹ đầu

tàu, cung cấp nguồn vốn, cũng như hỗ trợ về mặt quản lý, nghiên cứu cho các công ty

đầu tư mạo hiểm tại các quốc gia này phát triển trong những giai đoạn đầu.

Liên quan đến nguồn vốn thu hút đầu tư vào quỹ đầu tư mạo hiểm từ trong công

chúng, Gompers và Lerner (1998) [50] cho rằng, những nhà đầu tư sẵn sàng góp vốn

vào đầu tư mạo hiểm là những người ưa thích rủi ro, và mong muốn thu được tỷ suất

sinh lời cao đối với vốn đầu tư của mình. Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, những nhà

đầu tư này không muốn gửi tiết kiêm tại ngân hàng, hay mua trái phiếu chính phủ mà

sẽ tìm kiếm các cơ hội đầu tư mạo hiểm, thông qua việc góp vốn vào quỹ hoặc tự mình

tìm kiếm các cơ hội để tài trợ vốn tại các công ty mới thành lập. Tuy nhiên, Gompers

và Lerner (1998) [51] cho rằng, lợi nhuận từ việc đầu tư vào các dự án đầu tư mạo

hiểm chỉ có thể thu được sau nhiều năm đầu tư, khi các dự án này đã có sự phát triển

nhất định, được công chúng biết đến, và được bán đi thông qua các phương pháp khác

nhau; do đó, những nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm là người có

tiền, hiểu biết trong đầu tư, và sẵn sàng chờ đợi cho quá trình đầu tư chín muồi.

Theo Gompers và các cộng sự (2004) [52], tại Mỹ, các nhà đầu tư tổ chức là đối

tượng chính góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, cũng như họ tự thực hiện các dự

án đầu tư mạo hiểm, với bình quân chiếm 75% tất cả các dự án đầu tư mạo hiểm, đều

có sự tham gia của các nhà đầu tư tổ chức, chủ yếu là các quỹ hưu trí (33%), công ty

bảo hiểm (17%), công ty chuyên đầu tư (26%). Trong khi đó, tại Trung Quốc, phần

lớn các nhà đầu tư góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm là các cá nhân, gia đình giàu

có (chiếm tới 54,4%), các công ty tư nhân (14,9%) và các tập đoàn đầu tư (8,5%) (Lin,

2015b) [70]. Trong nghiên cứu của Mayer và các cộng sự (2005) [76] về nguồn vốn

của các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động để triển khai các dự án mạo hiểm mà họ đầu

tư, với dữ liệu thu thập trong năm 2000 từ các quốc gia như Đức, Anh, Israel, Nhật

Bản, kết quả nghiên cứu cho thấy, một số dự án có nguồn vốn đầu tư được huy động từ

các quỹ hưu trí, các công ty bảo hiểm; nhưng hầu hết thông các các ngân hàng đầu tư.

Cụ thể, tại Nhật Bản và Đức, nơi ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nguồn vốn

đầu tư của nền kinh tế, hầu hết các dự án, đặc biệt dự án ở giai đoạn sau (later-stage)

9

có sự tham gia của các ngân hàng đầu tư; trong khi các giai đoạn đầu huy động vốn,

thường được các nhà đầu tư cá nhân và các quỹ của các công ty tham gia góp vốn.

Trong khi đó, tại Anh và Israel, các quỹ đầu tư và các công ty bảo hiểm hầu như không

tham gia giai đoạn đầu của dự án (early-stage), mà chỉ tham gia vào giai đoạn sau,

hoặc giai đoạn gần IPO của doanh nghiệp.

Liên quan đến yếu tố thị trường tác động đến việc huy động vốn của các quỹ đầu tư

mạo hiểm, Gompers và các cộng sự (2008) [53] nghiên cứu trên 3000 các quyết định

của dự án đầu tư mạo hiểm, trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2000; nhằm tìm ra

câu hỏi, liệu các yếu tố thị trường có ảnh hưởng đến việc ra quyết định đầu tư của các

nhà đầu tư mạo hiểm, khi đầu tư vào các dự án đầu tư chưa tốt; hay yếu tố thị trường

sẽ cung cấp các thông tin hữu ích cho việc đưa ra các quyết định đúng đắn tại các dự

án đầu tư mạo hiểm có triển vọng trong tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những

công ty đầu tư mạo hiểm có phản ứng mạnh nhất đối với yếu tố thị trường không phải

là các công ty đầu tư mạo hiểm mới hoặc chưa có nhiều kinh nghiệm, mà tác động

nhiều nhất đến các công ty đầu tư mạo hiểm đã có sự chuyên biệt trong lĩnh vực đầu

tư, có kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư của mình. Những công ty đầu tư mạo hiểm có

kinh nghiệm đầu tư lâu năm, thường tăng huy động vốn đầu tư khi thị trường bùng nổ,

đồng thời không có bằng chứng cho thấy sự sụt giảm kết quả hoạt động trong thời gian

này. Nhóm nghiên cứu cho rằng, việc thị trường cung cấp thông tin đầu tư, cho dù là

trực tiếp hay gián tiếp cho các đối tượng đầu tư, chính là động lực để các đối tượng

này tìm kiếm, phân bổ nguồn vốn đầu tư của mình. Tuy nhiên không phải công ty đầu

tư mạo hiểm nào cũng được hưởng lợi từ nguồn thông tin này của thị trường, mà yếu

tố chính tác động là nguồn lực con người. Tác giả cho rằng, độ nhạy của việc huy động

vốn của các công ty đầu tư mạo hiểm mặc dù có liên quan mật thiết đến lĩnh vực đầu

tư của nền kinh tế, nhưng yếu tố chính quan trọng nhất đó là mạng lưới tuyển dụng đối

với các nhà quản lý cấp cao, đối tượng khách hàng sử dụng sản phẩm, và các đối tác

chiến lược. Chính những đối tượng này đã góp phần tích cực trong việc định hướng,

huy động, phân bổ nguồn vốn đầu tư mạo hiểm trong xã hội.

Việc huy động vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm còn bị tác động bởi các yếu tố vĩ

mô. Gompers và Lerner (1998) [51] cho rằng, việc cam kết duy trì chính sách vĩ mô ổn

định của chính phủ sẽ tác động đến cả lợi nhuận dự tính cũng như các cơ hội đầu tư

thay thế, và đến cả nền sức khỏe nền kinh tế nói chung. Nếu nền kinh tế tăng trưởng

10

nhanh, sẽ tạo nhiều cơ hội tiềm tàng cho các doanh nhân khởi nghiệp, do đó tăng nhu

cầu vốn đối với các nhà đầu tư mạo hiểm. Các cơ hội đầu tư tốt có liên quan mật thiết

đối với các cam kết vững chắc của chính phủ đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, đến

mức tăng trưởng GDP, lợi nhuận trên thị trường chứng khoán, đến các chi phí dành

cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Bên cạnh đó, mức lãi suất của nền kinh tế cũng

tác động đến nguồn cung vốn dành cho các quỹ đầu tư mạo hiểm, bởi một cơ hội đầu

tư khác có thể cạnh tranh vốn với đầu tư mạo hiểm là kênh đầu tư trái phiếu. Nếu lãi

suất thị trường tăng, mức hấp dẫn đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể giảm,

bởi nó tác động đến việc sẵn sàng bỏ vốn vào đầu tư mạo hiểm của các nhà đầu tư.

Gompers và Lerner (1998) [50] cho rằng, lãi suất thị trường có mối quan hệ rõ ràng

đến nhu cầu huy động vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ. Nhóm tác giả cho

rằng, nếu lãi suất tăng, mức độ đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ giảm; nhóm tác

giả đưa ra kết luận trên sau khi nghiên cứu tổng vốn đầu tư của các quỹ đầu tư mạo

hiểm, và sự biến động của lãi suất ngắn hạn trên thị trường. Khi lãi suất ngắn hạn tăng,

mức độ hấp dẫn của việc đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm sẽ không còn được

như trước nữa, khi các tổ chức tài chính đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm sẽ cân

nhắc lại quyết định đầu tư của mình. Trong giả định nghiên cứu của Romain và

Pottelsberghe (2004) [89], tác giả cho rằng, lãi suất ngắn hạn và dài hạn có tác động

khác nhau đến những quỹ đầu tư mạo hiểm, và cả các doanh nhân “công nghệ cao”.

Do đó họ sử dụng lãi suất ngắn hạn (lãi suất 1 năm) và lãi suất dài hạn (lãi suất 10

năm) trong mô hình nghiên cứu của mình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cả lãi suất 1

năm (ngắn hạn) và lãi suất dài hạn (10 năm) đều có tác động đáng kể, và cùng chiều;

chứng tỏ bên tác động của lãi suất với kỳ hạn khác nhau tác động mạnh hơn bên tác

động của cung vốn đầu tư mạo hiểm. Nhóm tác giả cho rằng, có thể các doanh nhân

mạo hiểm có tầm nhìn ngắn hạn hơn về tầm nhìn tài chính (hoặc lợi nhuận) so với

những nhà cung cấp vốn (nhà đầu tư thiên thần, hoặc các quỹ đầu tư mạo hiểm), do đó

tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa lãi suất dài hạn và khả năng huy động vốn đầu tư

của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Hơn nữa, vấn đề không chỉ dừng lại ở mức lãi suất dài

hạn cao hay thấp, mà còn khoảng cách giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn. Nếu khoảng

cách này là lớn, càng có ít các nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư vào lĩnh vực đầu tư mạo

hiểm, do đó gây khó khăn cho các quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá trình huy động vốn

của mình.

11

Bên cạnh đó, GDP cũng tác động đến vấn đề huy động vốn của các quỹ đầu tư mạo

hiểm. Gompers và Lerner (1998) [50] cho rằng, nếu nền kinh tế tăng trưởng nhanh, sẽ

có nhiều cơ hội hấp dẫn cho các doanh nhân khởi nghiệp để khởi sự doanh nghiệp của

mình, từ đó làm gia tăng nhu cầu vốn đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói chung và

các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng; làm cho đường cầu đối với nhu cầu vốn chuyển

sang bên phải.

Ngoài ra, hiệu quả hoạt động của bản thân các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng tác động

đến vấn đề huy động vốn của các quỹ này. Việc phân bổ vốn đầu tư của các nhà đầu tư

mạo hiểm bị tác động bởi hiệu quả hoạt động trong quá khứ của các quỹ này, đặc biệt

các kết quả hoạt động trong ngắn hạn Grinblatt và các cộng sự (1995) [57]; Khi nghiên

cứu về dòng tiền đầu tư vào các quỹ đầu tư nói chung, Ippolito (2006) [63], Jensen

(2002) [64] nhận thấy, dòng tiền đổ vào các quỹ tương hỗ có tác động cùng chiều với

kết quả hoạt động trong quá khứ; Sirri & Tufano (1998) [94] cũng nhận thấy, so với

các quỹ đầu tư cùng lĩnh vực đầu tư, kết quả đầu tư trong quá khứ có tác động rất lớn

trong việc huy động vốn ở các giai đoạn tiếp theo. Bằng việc nghiên cứu quá trình hoạt

động của 690 quỹ đầu tư khác nhau, nhóm tác giả đã nhận thấy với các quỹ có kết quả

hoạt động kinh doanh hàng đầu, có tỷ lệ cam kết đầu tư cao hơn so với các quỹ khác

trong các vòng gọi vốn đầu tư tiếp theo. Tuy nhiên nhóm tác giả cũng nhận ra kết quả

hoạt động và dòng tiền đổ vào các quỹ đầu tư không có mối quan hệ tuyến tính. Các

quỹ với kết quả hoạt động thấp không bị các nhà đầu tư thờ ơ trong các năm tiếp theo;

hoặc đối với các quỹ mới thành lập, vẫn huy động được vốn đầu tư trong lần gọi vốn

đầu tiên của mình. Chevalier và Ellison (2008) [34] giải thích kết quả ở trên, với quan

điểm cho rằng, những quỹ đầu tư mạo hiểm với kết quả đầu tư thấp hơn so với những

quỹ khác trong những năm đầu, thường chấp nhận mức rủi ro cao hơn trong danh mục

đầu tư của mình, nhằm đạt được mức sinh lời cao hơn trong giai đoạn sau của dự án

đầu tư, do đó trong giai đoạn đầu, kết quả hoạt động kinh doanh của họ có thể thấp.

Nếu sau này, quyết định của họ sai lầm, họ có thể sẽ mất đi một vài các nhà đầu tư

hiện tại, do không đạt được mức sinh lời kỳ vọng như ban đầu.

Tóm lại, các nghiên cứu trước đây đối với nguồn cung vốn đối với các quỹ đầu tư

mạo hiểm cho thấy:

Thứ nhất, chính phủ đóng vai trò rất quan trọng trong giai đoạn đầu hình thành,

phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Chính phủ là đối tượng đóng góp nguồn vốn

12

mồi để hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm, định hướng thị trường trong lĩnh vực đầu

tư mạo hiểm; đồng thời hỗ trợ nguồn vốn cho các dự án đầu tư mạo hiểm có triển

vọng, nhưng đang gặp khó khăn trong các vòng huy động vốn tiếp theo.

Thứ hai, đối tượng tham gia góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm các

nhà đầu tư thiên thần và các nhà đầu tư tổ chức. Đối với các nhà đầu tư thiên thần, họ

là các cá nhân, gia đình giàu có, có hiểu biết về kinh doanh, đầu tư; họ sẵn sàng chấp

nhận mức độ rủi ro cao trong đầu tư để tìm kiếm các thương vụ đầu tư mạo hiểm với

khả năng đạt được lợi nhuận cao. Các nhà đầu tư tổ chức là các công ty bảo hiểm, quỹ

hưu trí, quỹ đầu tư, các ngân hàng đầu tư, v.v… với ưu thế về kinh nghiệm đầu tư, quy

mô vốn đầu tư. Chính các nhà đầu tư tổ chức là đối tượng cung cấp nguồn vốn đầu tư

chính cho các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động.

Thứ ba, trong các giai đoạn đầu của các dự án đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư

thiên thần thường đóng vai trò chính trong việc huy động vốn của các dự án đó; trong

khi các nhà đầu tư tổ chức thường ưa thích đầu tư vào các giai đoạn sau của vòng đời

doanh nghiệp.

Thứ tư, các yếu tố vĩ mô cũng tác động đến vấn đề huy động vốn của các quỹ đầu

tư mạo hiểm, như lãi suất ngắn hạn, lãi suất dài hạn, GDP, v.v…

Thứ năm, hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá khứ có tác

động đến các lần huy động vốn tiếp theo của các quỹ đầu tư mạo hiểm; tuy nhiên

không có mối quan hệ tuyến tính giữa hiệu quả đầu tư trong quá khứ và tiền huy động

được; các quỹ đầu tư mới thành lập, hoặc các quỹ đầu tư có kết quả đầu tư thấp vẫn có

thể huy động vốn đầu tư tại các đợt huy động vốn sau đó.

1.2. Các yếu tố chính sách tác động đến sự hình thành và phát triển của quỹ

đầu tư mạo hiểm

Các yếu tố chính sách tác động đến sự hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm bao gồm các yếu tố chính sách của chính phủ; cũng như xuất phát từ nội tại cộng

đồng đầu tư trong xã hội, được chính phủ, hoặc chính quyền địa phương chấp nhận, hỗ

trợ nhằm thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm. Các

yếu tố chính sách bao gồm:

Thứ nhất, mạng lưới hỗ trợ doanh nhân. Tại giai đoạn đầu của quá trình phát

triển lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư nói chung và các nhà đầu tư thiên thần

gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận các thông tin về các cơ hội đầu tư Wetzel (1983)

13

[98]. Điều này phản ánh tình trạng phân mảnh của thị trường, cũng như thiếu vắng sự

tham gia của các nhà đầu tư thiên thần trong các đợt huy động vốn của các dự án đầu

tư mạo hiểm; trong khi nhu cầu của nhóm nhà đầu tư này luôn sẵn có. Chính vì vậy, đã

gia tăng chi phí tìm kiếm của các quỹ đầu tư mạo hiểm, doanh nhân và các nhà đầu tư

thiên thần, khi họ rất khó tìm được nhau trong các đợt huy động vốn.

Việc hình thành một mạng lưới hỗ trợ doanh nhân đã nâng cao hiệu quả về mặt

tìm kiếm thông tin trên thị trường, bằng việc cung cấp một kênh truyền thông, cho

phép các doanh nhân khởi nghiệp tìm kiếm sự hỗ trợ tài chính từ các nhà đầu tư thiên

thần, hoặc các quỹ đầu tư mạo hiểm tiềm năng, và ngược lại Mason và Harrison

(1996) [75]. Tuy vậy, mạng lưới này chỉ đơn thuần trợ giúp tìm kiếm thông tin giữa

các đối tượng tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, không thực sự đóng vai trò gì

trong quá trình đầu tư, bởi các nhà đầu tư thiên thần, các doanh nhân khởi nghiệp, và

các quỹ đầu tư mạo hiểm tự bản thân họ đưa ra các quyết định đầu tư của riêng mình,

dựa trên quá trình rà soát đầu tư, thỏa thuận trong các điều khoản đầu tư mà họ vẫn

thường sử dụng.

Hầu hết các mạng lưới hỗ trợ doanh nhân đều chỉ hoạt động trong quy mô địa

phương hoặc khu vực, hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc tìm kiếm thông tin, đào tạo kỹ

năng dành cho các nhà đầu tư thiên thần, cũng như các doanh nhân khởi nghiệp

(Mason, 2009) [74]. Điều này cho thấy nguồn vốn nội lực tại các khu vực địa phương

rất lớn; họ sử dụng rất nhiều phương pháp như các cơ chế kết nối, các nhóm đầu tư

tương đồng, cơ sở dữ liệu địa phương, các diễn đàn đầu tư hoặc các bản tin đầu tư để

tìm kiếm nhau. Trong cộng đồng đầu tư sử dụng mạng lưới địa phương, việc đến gặp

và tiếp xúc các đối tượng nhà đầu tư và các doanh nhân đóng vai trò rất quan trọng, vì

thế các công cụ hiện đại hiện nay như sử dụng Internet không thể thay thế được các

doanh nhân và nhà đầu tư trong quá trình tương tác. Phần lớn các mạng lưới (64%)

này là các tổ chức phi lợi nhuận, do chính quyền địa phương, cơ quan chính phủ, các

trường đại học, v.v… lập ra và điều hành (Mason, 2009) [74].

Mạng lưới hỗ trợ các nhà đầu tư đầu tiên được thành lập tại Anh (1990), Hà

Lan (1995), Phần Lan (1996) và tại Bỉ (1999). Mason và Harrison (1996) [75] cho

rằng mạng lưới doanh nhân đóng vai trò rất quan trọng trong những giai đoạn đầu của

lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tại Anh; bởi ngoài việc tiếp cận nguồn vốn từ các nhà đầu tư

tiềm năng, các doanh nhân khởi nghiệp còn được lợi từ việc học hỏi kinh nghiệm được

14

chia sẻ bởi các các nhà đầu tư, các doanh nhân khởi nghiệp khác. Collewaert và các

cộng sự (2007) [37] cũng nhận thấy mối quan hệ tích cực giữa việc hình thành mạng

lưới doanh nhân và lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tại Flanders, với kết luận rằng các dự án

đầu tư thường có thêm những giá trị gia tăng từ việc tận dụng các mối quan hệ kinh

doanh, cũng như kinh nghiệm vận hành doanh nghiêp, ngoài việc thu hút được lượng

vốn đầu tư, từ đó làm cho chi phí học việc của các doanh nhân khởi nghiệp (cost-per-

job) được giảm đi.

Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến trái chiều về vai trò của mạng lưới doanh nhân

trong quá trình đầu tư mạo hiểm. Harrison và các cộng sự (2010) [58] cho rằng, các

nhà đầu tư chỉ nhận được phần vốn rất hạn chế từ các nhà đầu tư khi tiếp cận mạng

lưới doanh nhân, đặc biệt đối với các nhà đầu tư thiên thần; ngoài ra, nhiều nhà đầu tư

cũng cho rằng mạng lưới doanh nhân không giúp họ tìm kiếm được các dự án đầu tư

thực sự tốt. Nguyên nhân chính do các mạng lưới hỗ trợ doanh nhân thiếu hụt các đối

tượng nhà đầu tư tham gia, cũng như các cơ hội đầu tư ở đây; điều này chủ yếu do

thiếu hụt nguồn lực tham gia thị trường, khâu marketing kém, cũng như thiếu các yếu

tố quản lý chuyên nghiệp – và thường xảy ra ở các khu vực mà đầu tư mạo hiểm mới

hình thành, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.

Thứ hai, chính sách đào tạo các nhà đầu tư. Việc đào tạo các nhà đầu tư trước

kia thường chưa được coi trọng, bởi có quan điểm cho rằng, các nhà đầu tư là những

người đã thành công trong kinh doanh, vì thế họ không cần phải học làm thế nào để trở

thành nhà đầu tư thành công. Tuy nhiên không phải nhà đầu tư nào cũng rất xuất

chúng trong lĩnh vực đầu tư, thậm chí có nhiều nhà đầu tư còn thiếu các kỹ năng cần

thiết, khả năng lực điều hành cũng như hiểu được quá trình đầu tư của dự án kinh

doanh. Chính điều này đã tác động rất lớn đến hiệu quả đầu tư của họ, thậm chí nhiều

nhà đầu tư đã phá sản, bắt buộc phải rút ra khỏi thị trường đầu tư. Ngày nay, các nhà

đầu đều nhận ra vai trò của việc học tập để nâng cao kỹ năng đầu tư của mình, cũng

như các kiến thức khác cần thiết trong quá trình đầu tư của các dự án khác nhau (San

José và các cộng sự, 2005) [92].

Trong cuốn The Ready for Equity (2008) đã liệt kê ra khoảng 20 chương trình

đạo tạo, hỗ trợ kiến thức cho các nhà đầu tư tại Châu Âu; hầu hết do mạng lưới hỗ trợ

doanh nhân lập ra từ những năm 2000. Mục đích chính là thu hút các nhà đầu tư tham

gia mạng lưới, đào tạo kỹ năng cho các nhà đầu tư mới, cũng như chia sẻ kiến thức

15

giữa các nhà đầu tư lâu năm với nhau. Ngoài ra, còn có nhiều “học viện kinh doanh

thiên thần1” được lập ra, để cung cấp các khóa học thường niên cho các nhà đầu tư,

giúp họ hiểu được quá trình kinh doanh, nhằm tận dụng được các cơ hội đầu tư trên thị

trường (San José và các cộng sự, 2005) [92].

Tuy nhiên, hầu hết các khóa học dành cho các nhà đầu tư thường là các khóa

học ngắn hạn, diễn ra trong nửa ngày hoặc một ngày đào tạo; thường chỉ chú trọng vào

các lĩnh vực đầu tư, kỹ năng quản lý doanh nghiệp, khai thác lợi nhuận, mà chưa chú

trọng vào các các đối tượng như kế toán, luật sư, cán bộ ngân hàng, cán bộ tư vấn hoặc

các nhà quản lý vườn ươm khởi nghiệp; bởi chính các đối tượng này là người sẽ hỗ trợ

các doanh nhân khởi nghiệp rất nhiều trong quá trình đầu tư sau này (Harrison và

Mason, 2007) [59].

Thứ ba, chính sách thuế trong đầu tư mạo hiểm. Poterba (2016) [84] cho rằng,

thuế đánh trên khoản lãi vốn đầu tư sẽ tác động tiêu cực đến nguồn cung vốn đầu tư

mạo hiểm. Tác giả cho rằng, việc áp dụng mức thuế suất thấp trên khoản lãi vốn sẽ thu

hút những nhà quản lý hoặc người lao động khởi nghiệp xây dựng công ty riêng của

họ. Hầu hết nguồn thu nhập của những nhà quản lý trong công ty đến từ nguồn tiền

lương, hoặc thưởng của họ, và nguồn thu nhập này sẽ bị đánh thuế thu nhập theo tỷ lệ

khác nhau, tùy từng quốc gia, khu vực. Poterba (2016) [84] cho rằng, việc giảm thuế

lãi vốn sẽ là tín hiệu đầu tiên tác động đến nguồn cầu vốn, khi nhiều người muốn trở

thành doanh nhân khởi nghiệp, nhằm mang đến thị trường những dự án đầu tư của họ.

Cùng quan điểm trên, Gompers và Lerner (1998) [51] tin rằng, việc giữ tỷ lệ

thuế trên lãi vốn đầu tư thấp được coi như lời cam kết của chính phủ trong việc hỗ trợ

các quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá trình phát triển. Bởi lẽ với tỷ lệ thấp bại các dự án

đầu tư mạo hiểm lên đến 95%, thời gian đầu tư lại dài, nếu không có sự hỗ trợ hoặc

cam kết hỗ trợ từ chính phủ, rất khó cho các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động vốn để

thực hiện các dự án đầu tư. Gompers và Lerner (1998) [51] kết luận rằng, nếu giảm

thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ có tác động tích cực đến việc thành lập các quỹ đầu tư

mạo hiểm mới. Trên thực tế, nhóm tác giả đã xác nhận kết quả nghiên cứu của Poterba

(1989) [83] khi xây dựng yếu tố tác động đến quyết định trở thành doanh nhân khởi

nghiệp; và cho rằng, việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ giúp các quỹ đầu tư mạo

1 The Business Angel Academies

16

hiểm dễ dàng huy động vốn đầu tư hơn, nhưng không phải thông qua tác động tới bên

cung vốn (ví dụ các nhà đầu tư mạo hiểm tiềm năng), mà tác động chủ yếu đến bên

cầu vốn (tức các doanh nhân khởi nghiệp, các công ty mạo hiểm), cụ thể hơn, sẽ tác

động đến tinh thần doanh nhân trong xã hội, do đó khuyến khích họ tạo lập các công ty

riêng của mình, qua đó thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Đặc

biệt, Romain và các cộng sự (2004) [88] cho rằng, việc thu hút vốn thành công của các

quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn những năm 1990 là kết quả của sự phát triển của

khoa học công nghệ tại các lĩnh vực khác nhau trong xã hội.

Romain và Pottelsberghe (2004) [89] nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến môi

trường hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của

môi trường doanh nhân; với ba yếu tố chính, đó là: (1) mức thuế; (2) mức độ hoạt

động của các doanh nhân; (3) mức độ vững chắc của thị trường lao động; ngoài ra, còn

có các yếu tố nữa như quyền lợi của các cổ đông, mức độ bảo vệ của luật pháp đối với

các vấn đề phát sinh trong quá trình kinh doanh, các tiêu chuẩn kế toán, v.v… Trong

yếu tố tác động đến hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm, yếu tố thuế được tác giả

sử dụng để đánh giá là thuế thu nhập doanh nghiệp. Với dữ liệu thu thập từ 16 quốc

gia OECD trong giai đoạn 1990-2000, đó là Úc, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan,

Pháp, Đức, Ireland, Ý, Nhật, Hà Lan, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Anh và Mỹ.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn này, thuế thu nhập doanh nghiệp không

có tác động đến hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại các quốc gia OECD.

Theo Ständer (2017) [95], tại Châu Âu, mặc dù thuế suất trong đầu tư nói

chung là vấn đề của các quốc gia, nhưng nó đã được mang hàm ý là chức năng của

một thị trường đơn nhất (Single Market). Với các tỷ lệ thuế trong các lĩnh vực đầu tư

khác nhau sẽ làm bóp méo năng lực cạnh tranh, hoặc việc không đồng nhất giữa các kế

hoạch thu thuế giữa các quốc gia khác nhau, sẽ bị lạm dụng để các nhà đầu tư trốn

thuế, chuyển giá khi đầu tư, làm gia tăng chi phí giao dịch, đầu tư giữa các quốc gia.

Chính vì vậy, tác giả Ständer (2017) [95] cho rằng, rất cần thiết để xác lập một mức

thuế cơ bản tối thiểu trong đầu tư nói chung và đầu tư mạo hiểm nói riêng.

Tại Châu Âu, khi so sánh mức thuế lợi vốn trong đầu tư mạo hiểm tại ba khu

vực đầu tư mạo hiểm lớn nhất, là Đức, Pháp và Anh, Bock và các cộng sự (2017) [26]

nhận thấy có sự khác biệt rất lớn đối với thuế suât trong việc thu hút đầu tư mạo hiểm

tại các khu vực này. Trong đầu tư mạo hiểm, thuế đánh trên lợi vốn rất quan trọng đối

17

với các nhà đầu tư, bởi với mức thuế khác nhau, thì các nhà đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu

tư mạo hiểm hoặc các doanh nhân khởi nghiệp khi muốn thoái vốn khỏi các công ty,

dự án đầu tư mạo hiểm mình đã đầu tư để ghi nhận doanh thu trên vốn đầu tư (ROI) sẽ

ghi nhận mức lợi nhuận khác nhau; với mức thuế thu nhập dựa trên lợi vốn đầu tư mạo

hiểm cao, sẽ làm giảm số lượng các công ty đầu tư mạo hiểm được tài trợ vốn trong

quá trình hoạt động của mình.

Tại Pháp, ngưỡng thuế lợi vốn đầu tư cao nhất có thể lên đến 62%, nhưng cũng

có thể được giảm xuống còn 24% nến các doanh nhân khởi nghiệp nắm giữ công ty

mình đầu tư trong ít nhất 8 năm; trong khi đó tại Đức, mức thuế chung áp dụng là

26%; còn tại Anh, năm 2016 đã giảm mức thuế lợi vốn đầu tư mạo hiểm xuống từ

28% xuống còn 20%, khiến Anh trở thành nơi hấp dẫn nhất trong đầu tư mạo hiểm tại

Châu Âu. Đặc biệt, tại Anh, nếu các nhà đầu tư cá nhân, như các giám đốc, các đối tác,

người lao động nắm giữ ít nhất 5% cổ phần của công ty đầu tư mạo hiểm có thể giảm

thuế lợi vốn đầu tư xuống còn 10% nếu họ bán số cổ phần của mình nắm giữ, với tổng

giá trị công ty khi đó là 10 triệu Bảng Anh; chính sự khác biệt này đã khuyến khích

các nhà đầu tư mạo hiểm lựa chọn Anh là nơi khởi nghiệp đầu tư của mình (Bock và

các cộng sự , 2017) [26].

1.3. Những yếu tố nội tại tác động đến sự phát triển của quỹ đầu tư mạo

hiểm

Thứ nhất, loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm. Đối với loại hình quỹ đầu tư mạo

hiểm, Gompers và Lerner (2005) [54] cho rằng, yếu tố chính trị tác động rất lớn đối

với hiệu quả hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm; do đó những quỹ đầu tư mạo hiểm

công thường có hiệu quả thấp hơn, do yếu tố nguồn nhân lực hạn chế, mức lương và

thưởng thấp, và áp lực chính trị khi quyết định đầu tư tại các khu vực địa lý khác nhau.

Chính những yếu tố trên đã làm cho các quỹ đầu tư mạo hiểm công đưa ra được ít

những phương án có giá trị đối với các dự án mà họ đầu tư Gompers và Lerner (1998)

[51].

Một số quỹ đầu tư mạo hiểm là một phần của các công ty đầu tư mạo hiểm

khác, có kết quả hoạt động và tốc độ phát triển tốt hơn là một quỹ đầu tư mạo hiểm

độc lập, đơn lẻ. Một mặt, quỹ đầu tư mạo hiểm trực thuộc một công ty chuyên đầu tư

mạo hiểm khác sẽ được chia sẻ nhiều nguồn lực hơn từ mạng lưới công ty mẹ của

mình, đồng thời có sự so sánh với các quỹ đầu tư mạo hiểm khác cũng do công ty mẹ

18

đó tài trợ, đầu tư. Chính vì vậy, khi công ty đầu tư mạo hiểm dạng này gia tăng quy

mô danh mục đầu tư của mình sẽ dễ dàng hơn, kể cả việc huy động vốn, đến tốc độ

triển khai dự án đầu tư mạo hiểm. Điều này được giải thích do quỹ đầu tư mạo hiểm

này được hưởng lợi từ mạng lưới đầu tư, từ sự nỗ lực bổ sung trong quá trình hoạt

động, so sánh với quỹ khác trong cùng công ty mẹ, và lợi ích từ việc cùng đầu tư với

các quỹ khác có liên quan trong cùng hệ thống Gompers và Lerner (2005) [54].

Thứ hai, giai đoạn đầu tư. Với giai đoạn đầu tư, Cumming (2001) [38] cho

rằng, khi quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm đang trong giai

đoạn đầu (early-stage), hoặc trong lĩnh vực công nghệ cao, với chủ yếu là tài sản vô

hình mà có tài sản hữu hình không đáng kể, thường có lợi ích cận biên lớn hơn, và

đường cong chi phí cận biên lớn hơn so với các dự án đầu tư mạo hiểm khác. Gompers

(1995) [49] cho rằng, tại các giai đoạn đầu phát triển, hoặc với các dự án đầu tư mạo

hiểm chỉ có tài sản vô hình thường có hiện tượng bất cân xứng thông tin lớn đối với

các thông tin họ đưa ra, do đó có mối liên hệ chặt chẽ với vấn đề chi phí cận biên lớn

hơn. Ngoài ra, nếu các quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư từ giai đoạn đầu hoặc vào các công

ty công nghệ cao, sẽ được hưởng lợi rất lớn khi các công ty này vào giai đoạn phát

triển, và có sản phẩm ra thị trường.

Thứ ba, các thỏa thuận trong đầu tư. Đối với những thỏa thuận liên quan giữa

quỹ đầu tư mạo hiểm và công ty nhận đầu tư mạo hiểm, cấu trúc cũng rất phức tạp,

bao gồm cấu trúc chứng khoán, các giai đoạn đầu tư, cơ cấu tổ chức và các vấn đề

khác. Việc định hình các loại chứng khoán khác nhau trong hợp đồng sẽ tác động đến

việc bảo vệ khi giá cả sụt giảm, và tăng lợi nhuận tiềm năng của các quỹ đầu tư mạo

hiểm, chính điều này đã tác động đến các quỹ đầu tư mạo hiểm khi dành nhiều mối

quan tâm hơn đối với vấn đề quản lý và giám sát các dự án đầu tư của mình

(Kanniainen và Keuschnigg, 2003) [66]. Trong đầu tư mạo hiểm, các quỹ đầu tư mạo

hiểm thường rất quan tâm đến tỷ lệ các chứng khoán có thể chuyển đổi và cấu trúc tài

chính tối ưu đối với doanh nghiệp mà họ đầu tư (Bascha và Walz, 2001 [21];

Gompers, 1997 [48]; Sahlman, 1990 [91]); lý do là các chứng khoán có thể chuyển đổi

là các công cụ rất linh hoạt để phân bổ các lợi ích cho quỹ đầu tư mạo hiểm và các

doanh nhân khởi nghiệp; điều này sẽ nhấn mạnh góc độ lợi ích của các bên, từ đó thúc

đẩy các quỹ đầu tư chú tâm đến việc tư vấn, đưa ra các lời khuyên cho các dự án đầu

19

tư mạo hiểm, chú trọng đầu tư vào các dự án nhỏ, nhằm tạo ra được nhiều giá trị gia

tăng cho các dự án đầu tư mạo hiểm này.

2. Tổng quan nghiên cứu trong nước

Năm 2003, đề tài “Quỹ đầu tư mạo hiểm và khả năng hình thành, phát triển ở

Việt Nam” của tác giả Đào Lê Minh [3] được coi là một trong các nghiên cứu đầu tiên,

đầy đủ về lĩnh vực quỹ đầu tư mạo hiểm. Trong nghiên cứu này, tác giả đã nêu rất rõ

các khái niệm, quan điểm về quỹ đầu tư mạo hiểm, được coi là nền tảng đầu tiên,

chính thống về lĩnh vực này ở các tài liệu nghiên cứu về sau. Trong nghiên cứu của

mình, tác giả đã nhấn mạnh vai trò của chính phủ trong việc xây dựng khung pháp lý,

cũng như định hướng công chúng đầu tư vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên thời

gian nghiên cứu của đề tài đã lâu, do đó nhiều quy định của pháp luật đã thay đổi, điều

kiện kinh tế - xã hội cũng khác, vì thế cần có nghiên cứu khác, nhằm cập nhật các dữ

liệu, đi sâu nghiên cứu hơn, cũng như các điều kiện khác để hỗ trợ cho việc xây dựng

và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Trong luận văn tốt nghiệp về hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số quốc gia

Châu Á của tác giả Hoàng Thị Hải Như (2006) [6], tác giả có liệt kê thực trạng hoạt

động đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam từ năm 1990 đến năm 2004. Dựa trên những con

số nghiên cứu của tác giả, tác giả cho rằng giai đoạn 1990-2002 là giai đoạn bắt đầu

hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam. Trong giai đoạn này, các quỹ đầu

tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam mặc dù đã đầu tư vào các doanh nghiệp chưa

niêm yết trên thị trường chứng khoán, nhưng không phải là các công ty hoạt động

trong lĩnh vực công nghệ cao, tức danh mục đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm này

không chú trọng vào các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao tại Việt Nam.Vì

thế có thể nói, trong giai đoạn đầu này, các quỹ đầu tư mạo hiểm ít có tác động đến sự

phát triển của lĩnh vực khoa học công nghệ tại Việt Nam. Liên quan đến yếu tố ảnh

hưởng đến sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, tác giả nghiên cứu đã

chỉ ra một số vấn đề chính như (1) hành lang pháp lý; (2) sự hạn chế về vấn đề sở hữu

cổ phần của các doanh nghiệp nước ngoài; (3) bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; (4) môi

trường kinh doanh tại Việt Nam; (5) trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam. Tuy

nhiên cũng như các nghiên cứu trước đây, các yếu tố này cũng chỉ được giới thiệu

mang tính chất giới thiệu, liệt kê.

20

Trong luận văn thạc sĩ của mình, khi xem xét thực trạng hoạt động của các quỹ

đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, tác giả Châu Thiên Trúc Quỳnh (2006) [2] cho rằng, có

rất nhiều yếu tố khó khăn tác động đến các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, có thể

kể đến như: Thứ nhất, về mặt chính sách, vĩ mô, mặc dù hành lang pháp lý dành cho

lĩnh vực đầu tư nói chung và đầu tư mạo hiểm nói riêng đã có sự cải tiến, nhưng chưa

đồng bộ. Thứ hai, quy mô thị trường chứng khoán còn nhỏ bé, do đó tạo rào cản cho

các quỹ đầu tư thoái vốn trong tương lai tại các dự án đầu tư mạo hiểm mà họ đã đầu

tư. Thứ ba, lượng vốn đầu tư gián tiếp (FII) vào Việt Nam chưa đáp ứng đủ nhu cầu.

Thứ tư, sự hiểu biết của công chúng về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, chứng khoán còn

hạn chế, chính vì thế các quỹ đầu tư sẽ gặp khó khăn khi huy động vốn, tốn công sức

và chi phí. Thứ năm, thông tin trên thị trường chưa minh bạch, đặc biệt là đối với các

doanh nghiệp trên thị trường; chính điều này là rào cản để các quỹ đầu tư quyết định

tham gia vào các dự án đầu tư. Thực tế cho thấy doanh nghiệp chưa tin tưởng để giao

quyền cho quỹ đầu tư tham gia vào hoạt động của quỹ, thông qua việc tham dự vào hội

đồng quản trị của công ty, cũng như chưa muốn công khai về mặt tài chính của doanh

nghiệp. Ngoài ra, tác giả có nhắc đến yếu tố nhân sự, trình độ quản lý trong lĩnh vực

đầu tư mạo hiểm còn thiếu và yếu, gây khó khăn cho việc phát triển của các quỹ đầu tư

mạo hiểm.

Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Dung (2007) [9] nghiên cứu về sự cần thiết để phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm, nhưng giới hạn sự phát triển trong phạm vi thành phố Hồ

Chí Minh. Tác giả cho rằng, khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh được thành

lập là cơ hội rất lớn cho quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư và phát triển. Trong nghiên cứu

của mình, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn nhân lực, của hành lang pháp

lý, của môi trường cho khoa học công nghệ phát triển đúng tầm. Tuy nhiên nghiên cứu

mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê, chưa có sự đi sâu, phân tích, hoặc nêu các tiêu chí cụ

thể của từng yếu tố.

Trong luận văn “Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam” của tác giả Trần

Thị Thanh Giang (2010) [13] đối với vấn đề huy động và sử dụng vốn của các quỹ đầu

tư mạo hiểm tại Việt Nam, tác giả có nếu ra được một số yếu tố cơ bản, đó là:

Thứ nhất, đối tượng phạm vi đầu tư. Tác giả cho rằng, vào giai đoạn 1991-

1996, với việc nền kinh tế Việt Nam mới bắt đầu thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài,

do đó chưa phải là nơi hấp dẫn các quỹ đầu tư mạo hiểm; trong giai đoạn này, chủ yếu

21

các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam đầu tư vào các doanh nghiệp đang

tăng trưởng, cần vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, chứ chưa tập trung vốn vào các

doanh nghiệp start-up. Trong giai đoạn 2002-2008, với sự phát triển của nền kinh tế,

dẫn đến nhu cầu vốn đầu tư rất lớn, các quỹ đầu tư mạo hiểm đã phần nào đáp ứng nhu

cầu cần vốn của các doanh nghiệp mới thành lập. Tuy nhiên, hầu hết các quỹ đầu tư

mạo hiểm trong giai đoạn này thường tập trung vào những công ty đã có sự phát triển

nhất định, rất ít quỹ đầu tư vốn vào các doanh nghiệp khởi sự, với độ rủi ro cao, với

đúng bản chất của quỹ đầu tư mạo hiểm.

Thứ hai, lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn 1991-

2008 chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ, thương mại, tài chính như các dự án xây dựng

khách sạn, các khu giải trí cho công chúng, các dự án xi mang, thép, hoặc xây dựng

các tòa nhà cho thuê, v.v… ngoài ra, cũng có một số quỹ đầu tư vào các ngân hàng

thương mại như ACB, Sacombank, v.v…

Thứ ba, hình thức đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn tác giả

nghiên cứu chủ yếu là mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa, rất ít các quỹ

đầu tư vào các công ty thành lập ban đầu. Như vậy điều này trái với thông lệ tại các

quỹ đầu tư mạo hiểm thông thường, khi chủ yếu đầu tư vào các doanh nghiệp mới

thành lập, trước khi phát hành cổ phiếu ra công chúng.

Thứ tư, nguồn vốn huy động của các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt

Nam chủ yếu từ nước ngoài, với trên 80% vốn huy động ở ngoài Châu Á. Như vậy,

nội lực của Việt Nam trong việc huy động vốn đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn này

rất nhỏ bé.

Thứ năm, ảnh hưởng của các quỹ đầu tư mạo hiểm đến nền kinh tế khá nhỏ.

Bản chất của quỹ đầu tư mạo hiểm là trung gian tài chính, cung cấp vốn cho các dự án

đầu tư mạo hiểm có triển vọng, giảm áp lực vốn lên hệ thống ngân hàng, cung cấp cho

các nhà đầu trong xã hội kênh đầu tư đa dạng hơn. Nhưng thực tế giai đoạn tác giả

nghiên cứu chủ yếu các doanh nghiệp vẫn trông chờ nguồn vốn vay từ các ngân hàng.

Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ủy ban “Quỹ đầu tư mạo hiểm – kinh

nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam” năm 2016, tác giả Nguyễn Quang Long [8]

đã chỉ ra năm trụ cột cho phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, đó là (1) Chính phủ; (2)

Mạng lưới hỗ trợ; (3) Mạng lưới cơ hội; (4) Nguồn nhân lực; (5) Tài chính. Tuy nhiên

phần giải thích ý nghĩa các trụ cột mang nặng tính lý thuyết, chưa có dẫn chứng ví dụ

22

có liên quan đối với các quốc gia, khu vực. Bên cạnh đó, đề tài thiên về tìm hiểu kinh

nghiệm quốc tế trong việc phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại một số quốc gia, trong

khi phần giải pháp để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam còn

chưa được đề cập sâu đến.

Như vậy, các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm

vẫn còn nhiều hạn chế như thời gian nghiên cứu đã từ lâu, số liệu, bối cảnh kinh tế đã

có nhiều thay đổi; các nghiên cứu chỉ tập trung vào một số lĩnh vực quỹ đầu tư mạo

hiểm riêng lẻ, chưa có nghiên cứu tổng quan về các quỹ đầu tư mạo hiểm nói chung;

hoặc các nghiên cứu về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm của các tác giả trước đây chỉ nghiên

cứu về một địa phương nhất định, chưa có sự bao quát đối với toàn bộ thị trường Việt

Nam.

3. Khoảng trống nghiên cứu

Tựu chung lại, các nghiên cứu trước đây đã có những đóng góp rất lớn về mặt

lý luận cũng như thực tiễn trong việc đánh giá những yếu tố tác động đến việc hình

thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm; nhấn mạnh được vai trò của việc phát triển

đầu tư mạo hiểm đến sự phát triển của nền kinh tế các khu vực. Tuy nhiên, các nghiên

cứu này vẫn còn tồn tại một số khoảng trống nghiên cứu nhất định, đó là:

Thứ nhất, trong các nghiên cứu các quốc gia đi trước trong vấn đề xây dựng và

phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, bài học kinh nghiệm rút ra tại mỗi quốc gia, nhóm

quốc gia còn chung chung, chưa đi sâu phân tích cụ thể, do đó việc liên hệ với Việt

Nam còn hạn chế.

Thứ hai, có nhiều nghiên cứu về nhân tố tác động đến quỹ đầu tư mạo hiểm,

nhưng chưa có nghiên cứu nào về việc xây dựng những tiêu chí tổng quát đánh giá yếu

tố cần thiết để xây dựng và thúc đẩy sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm, chưa đi

sâu phân tích và bám theo bộ tiêu chí này khi đi nghiên cứu tại mỗi thị trường cụ thể.

Thứ ba, các nghiên cứu về quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam chưa đề cập đến

xu thế đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam, các nghiên

cứu trước đây đã được thực hiện từ khá lâu, do đó số liệu đã cũ, chưa cập nhật được

tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam hiện

nay.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam, nhằm tìm hiểu xu thế đầu tư hiện nay của các quỹ đầu tư mạo hiểm

23

đang hoạt động tại Việt Nam, bài học kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước, xác định

và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng, và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng và

phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam là rất cần thiết.

24

Kết luận chương 1

Luận án đã đưa ra được các lập luận về các nghiên cứu trước đây đối với vấn đề

liên quan; trong đó có những yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển của các

quỹ đầu tư mạo hiểm như yếu tố nguồn cung vốn đầu tư mạo hiểm; các yếu tố chính

sách của mỗi quốc gia, khu vực, tại những giai đoạn phát triển nhất định của quỹ đầu

tư mạo hiểm; và bản thân yếu tố nội tại của quỹ đầu tư mạo hiểm, cũng có tác động rất

lớn đến quá trình phát triển của chúng sau này. Trên cơ sở thừa kế nghiên cứu trước

đó, luận án sẽ nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại

một số quốc gia trong khu vực, nhằm rút ra được bài học cho Việt Nam.

25

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM

2.1. Khái niệm về vốn đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm

2.1.1. Vốn đầu tư mạo hiểm

Để thúc đẩy sự phát triển, các doanh nghiệp cần không ngừng đổi mới để sáng

tạo nhằm tạo ra các sản phẩm mới, giúp tiết kiệm chi phí sản xuất, thu hút tiêu dùng

trong xã hội nhằm tạo ra lợi nhuận (Chesbrough, 2002) [33]. Đối với các tập đoàn lớn,

họ thường dành ra một phần chi phí để nghiên cứu và phát triểm sản phẩm, tìm kiếm ý

tưởng mới trong các lĩnh vực đầu tư của mình. Nếu nguồn lực nội tại của doanh nghiệp

không đáp ứng đủ, họ có thể dễ dàng huy động vốn thông qua các công cụ trên thị

trường tài chính. Tuy nhiên trên thực tế, những ý tưởng mới, tiềm năng, có thể đưa vào

thực tế được lại thường xuất phát từ các cá nhân, các công ty mới khởi nghiệp trên thị

trường; trong khi việc huy động vốn của các đối tượng này gặp nhiều khó khăn, do

những đối tượng này thường không có tài sản hữu hình để đem ra thế chấp, cầm cố, tài

sản chủ yếu của họ là tài sản vô hình, khó có thể đo đếm được. Để đạt đến thành công,

đưa ra sản phẩm hoàn chỉnh đến người tiêu dùng, phụ thuộc rất nhiều vào quá trình thử

nghiệm, nghiên cứu của họ, trong khi kết quả nghiên cứu có thành công hay không còn

chưa chắc chắn. Hơn nữa, do mới ở ý tưởng mới, việc giữ gìn bí mật kinh doanh đóng

vai trò thiết yếu, nên các doanh nhân, doanh nghiệp này thường hạn chế chia sẻ thông

tin của mình, do đó đối với các nhà đầu tư bên ngoài, đầu tư vào những dự án như vậy

tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.

Theo Sack và McKenzie (1998) [90] vốn đầu tư mạo hiểm đươc hiểu là các

nguồn vốn chuyên được sử dụng để đầu tư vào các công ty tư nhân có tiềm năng tăng

trưởng cao. Tuy nhiên, xét về bản chất vốn đầu tư mạo hiểm được hiểu đơn giản là

nguồn tài chính cung cấp dưới hình thức góp cổ phần hoặc các khoản đầu tư vào công

ty với cam kết thời gian đầu tư tối thiểu một vài năm. Các công ty nhận đầu tư thường

là những công ty mới thành lập hoặc đang trong quá trình phát triển sản phẩm, dịch vụ,

chưa trưởng thành. Những người cung cấp vốn đầu tư mạo hiểm nhằm mục đích tài trợ

cho các công ty nhận đầu tư để vượt qua khó khăn ban đầu, giúp các công ty này phát

triển, sau đó thu lời khi các công ty đó đạt đến thành công. Như vậy có hai yếu tố quan

trọng cấu thành vốn đầu tư mạo hiểm: bên cung là các nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận

rủi ro và bên cầu là các nhà kinh doanh với ý tưởng kinh doanh mới. Nếu thiếu một

26

trong hai nhân tố chính ở trên, dòng chu chuyển vốn này sẽ không xuất hiện. Đó chính

là yếu tố cơ bản phân biệt vốn đầu tư mạo hiểm với các nguồn vốn đầu tư thông

thường khác trên thị trường.

Về mặt ngữ nghĩa học, vốn đầu tư mạo hiểm trong tiếng Anh được viết là

“Venture Capital”. Theo từ điển Cambridge, Venture được coi là một hoạt động mới

mẻ, trong kinh doanh nó bao gồm rủi ro hoặc sự không chắc chắn. Capital được hiểu là

khoản tiền chuyên dùng để đầu tư vào sản xuất hoặc bắt đầu một dự án kinh doanh.

Như vậy, ta có thể hiểu Venture Capital là khoản tiền đầu tư vào các dự án kinh doanh

mới. Chúng ta gọi đây là vốn đầu tư mạo hiểm, bởi lẽ từ sự cần thiết nhấn mạnh đến sự

không chắc chắn thu được trong khoản đầu tư đó, đến sự rủi ro trong dự án đầu tư đó.

Tại Châu Á, Ấn Độ coi vốn đầu tư mạo hiểm là hình thức góp vốn cổ phần,

hoặc các khoản vay có điều kiện nhằm hỗ trợ các công ty chưa niêm yết, với độ rủi ro

cao, hoặc các công ty công nghệ cao được quản lý bởi các doanh nhân chuyên nghiệp,

có trình độ. Thuật ngữ này cũng được sử dụng đối với các nhà đầu tư “cung cấp vốn

hạt giống”, “tài trợ khởi nghiệp”, “tài trợ giai đoạn đầu” của doanh nghiệp (Annamalai

và Deshmukh, 2011) [86]. Tại Trung Quốc, vốn đầu tư mạo hiểm dược coi là khoản

đầu tư vào các dự án có khả năng tăng trưởng cao, rủi ro lớn, thường là các hãng công

nghệ cao, cần vốn để đầu tư phát triển sản phẩm có tiềm năng tăng trường, dưới dạng

góp vốn cổ phần thay vì vay nợ. Người Trung Quốc cho rằng, vốn đầu tư mạo hiểm

không bao hàm việc đầu tư để mua đứt doanh nghiệp, mà các công ty cổ phần tư nhân

sẽ mua số lượng cổ phần đủ lớn để chi phối các công ty hiện tại hoặc các công ty

trưởng thành từ các chủ sở hữu hiện tại (Lin, 2015b) [70].

Tại Châu Âu, ngân hàng Natwest (Vương quốc Anh) cho rằng, vốn đầu tư mạo

hiểm được hiểu là khoản vốn đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ, hoặc tồn tại chỉ trên

giấy tờ,tài trợ cho các ý tưởng mới nhưng có tiềm năng phát triển trong tương lai. Vốn

đầu tư mạo hiểm thường được đầu tư vào các công ty sở hữu tư nhân. Bên cạnh đó,

vốn đầu tư mạo hiểm được đầu tư vào nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế, kể cả những

lĩnh vực không phải là mới, bao gồm cả việc đầu tư vào những công ty đã tăng trưởng,

hoặc mua lại doanh nghiệp (Nguyễn Quang Long, 2016) [8].

Theo hiệp hội đầu tư mạo hiểm Mỹ, vốn đầu tư mạo hiểm là vốn được góp vào

các công ty mới khởi nghiệp, các doanh nghiệp mới, chưa được niêm yết trên thị

trường chứng khoán và có khả năng tăng trưởng nhanh, sáng tạo, và có sự tham gia

27

của công nghệ. Khác với Châu Âu, quan điểm về vốn đầu tư mạo hiểm của Mỹ cho

rằng, vốn đầu tư mạo hiểm không bao gồm góp vốn đầu tư vào các công ty đã phát

triển rồi, không mua quyền quản lý; mà chủ yếu đầu tư vào những ý tưởng sáng tạo

mới, vào các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ cao (Nguyễn

Quang Long, 2016) [8].

Như vậy, vốn đầu tư mạo hiểm là nguồn vốn mà các cá nhân giàu có, hoặc các

tổ chức tài chính cung cấp vốn cho các dự án khởi nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ có

tiềm năng tăng trưởng cao trong tương lai; hoặc các doanh nghiệp khác đang cần vốn

để tiếp tục sản xuất kinh doanh; nguồn vốn này do đầu tư vào các dự án, doanh nghiệp

có mức độ rủi ro cao, nên chủ thể đầu tư phải sẵn sàng chấp nhận khả năng mất vốn

trong quá trình đầu tư của mình.

Đầu tư mạo hiểm là việc các chủ thể đầu tư mạo hiểm tiến hành các quy trình

cần thiết để rót vốn hoặc hỗ trợ các dự án mạo hiểm có triển vọng, nhằm thu được lợi

nhuận lớn trong tương lai. Đầu tư mạo hiểm không nhất thiết thể hiện dưới hình thức

tài trợ vốn, mà các nhà đầu tư mạo hiểm có thể tham gia dưới hình thức hỗ trợ về mặt

kỹ thuật hoặc kinh nghiệm quản lý của mình trong quá trình đầu tư. Đầu tư mạo hiểm

bao gồm cả đầu tư vào những công ty mới thành lập, công ty hoạt động trong lĩnh vực

công nghệ cao, hoặc các công ty đã trưởng thành, thông qua việc mua bán, sáp nhập

doanh nghiệp.

2.1.2. Quỹ đầu tư mạo hiểm

Trong quá trình tìm kiếm các cơ hội đầu tư, các nhà đầu tư có thể tìm thấy các

cơ hội đầu tư có khả năng sinh lời cao, tuy nhiên với lượng vốn đầu tư lớn, rủi ro cao,

các nhà đầu tư không thể có đủ vốn để đầu tư, cũng như không muốn nhận tất cả phần

rủi ro của mình, họ sẽ tiến hành góp vốn cùng các nhà đầu tư khác; với mức độ chuyên

nghiệp, được quy định bởi luật pháp, sẽ hình thành lên quỹ đầu tư.

Trên thị trường có nhiều lựa chọn khác nhau để các nhà đầu tư sử dụng vốn đầu

tư của mình; khi một nhà đầu tư đó sử dụng vốn để bắt đầu một sản phẩm kinh doanh

mới hoặc thành lập doanh nghiệp mới, số vốn đó gọi là vốn đầu tư mạo hiểm, gắn với

đặc tính không chắc chắn về sự thành công trong tương lai. Nếu nguồn vốn tự có

không đủ, chủ thể đầu tư sẽ kêu gọi vốn đầu tư từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thường

được quản lý bởi các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm (Caselli, 2010) [32].

28

Có nhiều cách hiểu khác nhau về quỹ đầu tư mạo hiểm, ví dụ theo Sở giao dịch

Chứng khoán Ấn Độ (Securities And Exchange Board Of India - SEBI), quỹ đầu tư

mạo hiểm là loại hình quỹ đầu tư mà chủ yếu đầu tư vào các công ty chưa niêm yết,

mới thành lập, trong giai đoạn đang phát triển hoặc trong các giai đoạn đầu của huy

động vốn để sản xuất các sản phẩm mới, dịch vụ mới, trong lĩnh vực công nghệ cao,

quyền sở hữu trí tuệ mới hoặc mô hình kinh doanh mới. Quan điểm của người Ấn Độ

cho rằng, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể huy động vốn thông qua các khoản vay, khoản

đóng góp từ các chủ thể đầu tư trong xã hội, hoặc phát hành các loại chứng khoán,

chứng chỉ quỹ đầu tư.

Tại Mỹ, theo Trường Luật Cornell (Cornell Law School), quỹ đầu tư mạo hiểm

được hiểu là loại quỹ đầu tư đại diện cho các nhà đầu tư có nguồn vốn đầu tư mạo

hiểm, góp vốn để đầu tư. Quỹ đầu tư mạo hiểm có thể hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận

(mức sinh lời lớn), hoặc mục tiêu phi lợi nhuận (ví dụ quỹ đầu tư mạo hiểm do chính

phủ thành lập với vai trò tạo vốn mồi để thu hút các nhà đầu tư khác, hoặc tạo ra sự

phát triển mạnh về khoa học, công nghệ). Quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ quản lý tiền góp

của các nhà đầu tư mạo hiểm nhằm tìm kiếm các cơ hội đầu tư vào các công ty khởi

nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa với tiềm năng tăng trưởng cao trong tương lai.

Các công ty dạng này thường được ngầm hiểu là có mức độ rủi ro cao, với khả năng

thành công thấp. Tại Mỹ, quỹ đầu tư mạo hiểm không được phép vay hoặc phát hành

các công cụ nợ vượt quá 15% vốn điều lệ của quỹ.

Tại Việt Nam, hiện nay chưa có quy định về quỹ đầu tư mạo hiểm nói chung,

mới có dự thảo về quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo, theo đó quỹ đầu tư

mạo hiểm là quỹ hình thành tư vốn góp của các thành viên nhằm thực hiện đầu tư mạo

hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo. Quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo không

chịu sự điều chỉnh hoạt động đầu tư như pháp luật quy định đối với quỹ đầu tư chứng

khoán theo Luật chứng khoán. Ngoài ra, luật quy định rõ quỹ đầu tư mạo hiểm cho

khởi nghiệp sáng tạo chỉ phù hợp đối với các cá nhân, tổ chức sẵn sàng chấp nhận mức

rủi ro cao tiềm tàng từ việc đầu tư của quỹ, đồng thời yêu cầu các cá nhân, tổ chức cần

cân nhắc kỹ trước khi quyết định tham gia góp vốn vào quỹ.

Tại các khu vực khác nhau có quan điểm khác nhau về quỹ đầu tư mạo hiểm.

Ví dụ tại Mỹ, có sự phân biệt giữa quỹ đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư vốn cổ phần tư

nhân (private equity fund). Trong đó, quỹ đầu tư vốn cổ phần tư nhân là loại quỹ có

29

vốn góp để đầu tư dành cho nhiều mục đích khác nhau: đầu tư mạo hiểm, mua bán sáp

nhập, mua cổ phần để thâu tóm các công ty khác, đầu tư mua chứng khoán nợ tại các

công ty có có nguy cơ vỡ nợ, mất khả năng thanh toán, v.v… Trong khi quỹ đầu tư

mạo hiểm được hiểu là những quỹ đầu tư có danh mục đầu tư vào các công ty có khả

năng tăng trưởng trong tương lai. Đối với thị trường Châu Âu, quan điểm về quỹ đầu

tư cổ phần tư nhân và quỹ đầu tư mạo hiểm được dùng song hành, không có sự phân

biệt rõ ràng (Gregoriou và các cộng sự, 2007) [56].

Như vậy, quỹ đầu tư mạo hiểm là loại quỹ nhận vốn đầu tư mạo hiểm nhằm

thực hiện đầu tư vào các công ty mới thành lập, vào các công ty tiềm năng tăng trưởng

cao trong tương lai, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Quỹ đầu tư mạo hiểm có thể đầu tư

vào các công ty thuộc nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế, tuy nhiên chủ yếu hướng tới

các công ty khởi nghiệp, các công ty thuộc lĩnh vực công nghệ cao. Tùy mục đích

thành lập khác nhau mà quỹ đầu tư mạo hiểm có thể hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận

(tối đa hóa lợi ích cho các nhà đầu tư mạo hiểm góp vốn), hoặc phi lợi nhuận (thường

do chính phủ thành lập, với mục đích thúc đẩy sự phát triển của khoa học, công nghệ,

mục tiêu quân sự, khoa học vũ trụ).

Bảng 2. 1. So sánh quỹ đầu tư và quỹ đầu tư mạo hiểm

Tiêu chí Quỹ đầu tư Quỹ đầu tư mạo hiểm

thông thường

Thời gian Ngắn hạn, dài hạn Dài hạn

đầu tư

Lĩnh vực Cổ phiếu, trái phiếu, Các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ

đầu tư chỉ số, bất động sản, cao, thương mại điện tử, internet, game, v.v…

các loại kim loại quý,

v.v..

Giai đoạn Các công ty đã niêm -Giai đoạn khởi nghiệp

đầu tư yết -Giai đoạn trước khi IPO

-Giai đoạn phát triển (M&A)

Cách thức Mua cổ phiếu, mua -Góp vốn theo từng giai đoạn gọi vốn của công

đầu tư trái phiếu, mua hàng ty nhận đầu tư

30

hóa, mua các sản - Chỉ xem xét đầu tư tại các giai đoạn tiếp theo

phẩm phái sinh, v.v… nếu nhận thấy dự án vẫn còn triển vọng trong

tương lai

-Chia sẻ kinh nghiệm, mạng lưới kinh doanh với

công ty nhận đầu tư

Yêu cầu Không Có, thường yêu cầu có vị trí trong ban lãnh đạo

sở hữu công ty

Cách thức Bán cổ phiếu, bán tài -Bán lại cho chủ công ty nhận vốn đầu tư

thu hồi sản đầu tư trên thị -M&A

vốn trường thứ cấp -Bán cổ phần trên thị trường chứng khoán

- Bán cho bên thứ ba

Hỗ trợ Không Có: Lập kế hoạch kinh doanh, chiến lược kinh

doanh, lập kế hoạch tài chính, tuyển dụng các vị trong quá

trí chủ chốt, vay từ ngân hàng và các định chế tài trình đầu

chính khác, tiếp cận thị trường với công nghệ tư

mới, tư vấn điều hành hoạt động marketing và

sản xuất kinh doanh, tư vấn niêm yết trên thị

trường chứng khoán, v.v…

Mức độ Thấp – trung bình Cao

chấp nhận

rủi ro

Nguồn: Bartzokas và Mani (2013), tác giả tổng hợp

2.2. Lý luận về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Theo Avnimelech và các cộng sự (2016) [17], quá trình hình thành và phát triển

quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm 5 giai đoạn sau:

Giai đoạn thứ nhất: Điều kiện cần thiết để hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm

Trong giai đoạn này, mọi điều kiện làm xuất hiện nhu cầu về vốn mạo hiểm,

cấp vốn đầu tư mạo hiểm, và sự xuất hiện của các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể được

hình thành một cách có chủ đích, hoặc thậm chí được hình thành một cách vô thức.

Tuy nhiên, thông thường cần có sự xuất hiện của việc nghiên cứu các công nghệ cao,

hoặc liên quan đến các dự án khởi nghiệp (start-up) của các tổ chức, cá nhân trong nền

31

kinh tế; như các nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực quân sự, công nghiệp vũ trụ, hoặc

nhu cầu của xã hội trong việc tài trợ vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang trong

quá trình tìm kiếm nguồn vốn để phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn tiền xuất hiện quỹ đầu tư mạo hiểm

Giai đoạn này thường bắt đầu với những hình thái đầu tư mạo hiểm thực sự, và

hoạt động đầu tư mạo hiểm đã bắt đầu được nhận thức được trong nền kinh tế. Tại giai

đoạn tiền xuất hiện quỹ đầu tư mạo hiểm, rất nhiều các dự án khởi nghiệp đã được tài

trợ vốn thành công, và được phát hành cổ phiếu ra công chúng, ghi nhận được khả

năng huy động vốn, điều hành doanh nghiệp và khả năng tạo ra lợi nhuận, mở rộng

quy mô kinh doanh của các doanh nhân khởi nghiệp. Trong giai đoạn này, đã xuất hiện

một vài quỹ đầu tư mạo hiểm đi vào hoạt động, tuy nhiên chưa có hình thái tổ chức

nào được coi là tối ưu, hoặc được chấp nhận là chính thức; tuy nhiên ở cuối giai đoạn

đầu tư, các quỹ đầu tư mạo hiểm được phân định rõ có sự khác biệt so với các tổ chức

tài chính khác (Avnimelech và các cộng sự, 2016) [17]. Ở giai đoạn tiền xuất hiện quỹ

đầu tư mạo hiểm, đa số nguồn vốn đến từ các nhà đầu tư tổ chức, hoặc các nhà đầu tư

thiên thần tham gia đầu tư; một số dự án có thể đi đến thành công, nhưng phần lớn các

nhà đầu tư tổ chức thường không đóng vai trò quan trọng lớn đến sự tăng trưởng của

lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, mà do các nhà đầu tư thiên thần, kết hợp với nhau để đầu tư

các dự án đầu tư mạo hiểm. Tại giai đoạn này, bắt đầu manh nha xuất hiện các thuật

ngữ chính thức về đầu tư mạo hiểm; và nền văn hóa đã bắt đầu chấp nhận các doanh

nhân thực hiện các hoạt động đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao là một con đường

sự nghiệp chân chính, có triển vọng trong tương lai; đồng thời, có rất nhiều các tấm

gương doanh nhân khởi nghiệp thành công trên thị trường, tạo động lực cho các nhà

đầu tư khác tham gia vào, từ đó gia tăng lượng cầu vốn đầu tư mạo hiểm trong nền

kinh tế, dẫn tới vai trò của các quỹ đầu tư mạo hiểm bắt đầu được xuất hiện. Trong giai

đoạn này, quá trình hình thành của các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể bị gián đoạn bởi

tác động khủng hoảng của nền kinh tế (có thể theo chu kỳ, hoặc do các sự kiện bất

thường của nền kinh tế đó), làm cho quá trình phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm

sẽ bị chậm lại.

Giai đoạn thứ ba: Giai đoạn phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm

Tại giai đoạn này, quan điểm về đầu tư mạo hiểm nói chung, và quỹ đầu tư mạo

hiểm nói riêng đã được thể hiện khá rõ ràng; đồng thời, các chính sách của chính phủ

32

đóng vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Lúc

này, các quỹ đầu tư mạo hiểm được xuất hiện và mở rộng nhanh chóng, nhằm đáp ứng

nhu cầu vốn, và nhu cầu đầu tư mạo hiểm của các nhà đầu tư, đặc biệt là nhu cầu vốn

rất lớn từ các dự án khởi nghiệp (start-up); các quỹ đầu tư mạo hiểm với nhiều hình

thức tổ chức khác nhau cũng đi vào hoạt động, với các tiêu chuẩn, khẩu vị rủi ro,

mong muốn đầu tư của các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ. Hơn nữa, các quỹ đầu tư mạo

hiểm lúc này bắt đầu thử nghiệm hàng loạt các chiến lược đầu tư, thủ tục đầu tư, v.v…

Vào cuối giai đoạn này, các hình thái tổ chức của các quỹ đầu tư mạo hiểm đã chính

thức được xác định, các quy định với mỗi hình thái được quy định chặt chẽ hơn. Mặt

khác, rất nhiều các tổ chức đi theo đã phát triển để phục vụ cho sự phát triển của các

quỹ đầu tư mạo hiểm, như các công ty luật, các tổ chức kế toán, các ngân hàng đầu tư,

v.v… với các dịch vụ chất lượng cao, đưa ra các dịch vụ hỗ trợ cho các dự án khởi

nghiệp, và các quỹ đầu tư mạo hiểm (Avnimelech và các cộng sự, 2016) [17].

Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn khủng hoảng của các quỹ đầu tư mạo hiểm

Tại giai đoạn này, sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính có thể sẽ làm

nghiêm trọng hơn đến sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm, do thị trường chứng

khoán rơi vào giai đoạn trầm lắng, chính phủ ban hành các chính sách thắt chặt, hoặc

đưa ra các quy định chặt chẽ hơn đối với thị trường, làm cho quá trình thoái vốn thông

qua phương thức phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO) của các quỹ đầu tư mạo

hiểm bị gián đoạn, hoặc không thu hút được sự quan tâm của công chúng đầu tư. Bản

thân các quỹ đầu tư mạo hiểm không thoái được vốn, làm cho các nhà đầu tư góp vốn

vào quỹ không thể thu hồi vốn theo như dự kiến thời gian đầu tư ban đầu, dẫn đến

niềm tin vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói chung, và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói

riêng bị ảnh hưởng không nhỏ. Để tồn tại qua giai đoạn này, các quỹ đầu tư mạo hiểm

cần tái cấu trúc các khoản đầu tư của mình, đồng thời tìm kiếm các nhà đầu tư mạo

hiểm khác sẵn sàng chấp nhận rủi ro với các dự án đầu tư sẵn có. Trong giai đoạn này,

rất nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ bị giải thể, phá sản.

Giai đoạn thứ năm: Giai đoạn phục hồi của các quỹ đầu tư mạo hiểm

Những quỹ đầu tư mạo hiểm tồn tại được qua giai đoạn khủng hoảng, đi đến

giai đoạn phục hồi, sẽ trở thành các quỹ đầu tư mạo hiểm dẫn đầu thị trường. Thông

thường, các quỹ đầu tư mạo hiểm này có được sự trợ giúp từ các tổ chức tài chính,

hoặc các nhà đầu tư thiên thần, chấp nhận rủi ro để đầu tư vào quỹ trong giai đoạn

33

khủng hoảng. Lúc này, sẽ xuất hiện các quỹ đầu tư mạo hiểm mới (cả chính thức và

không chính thức), với các mục tiêu đầu tư khác nhau; đồng thời, ở giai đoạn này, rất

nhiều các chính sách mới của chính phủ sẽ được ban hành, nhằm thúc đẩy sự phát triển

của các quỹ đầu tư mạo hiểm, nhằm khơi thông dòng vốn đầu tư mạo hiểm trong nền

kinh tế.

2.2.1. Xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm

Theo từ điển Cambridge, “establish” là một động từ thể hiện việc thành lập, bắt

đầu xây dựng một công ty hoặc một tổ chức mà sẽ tồn tại hoạt động trong một thời

gian dài; việc hoạt động này sẽ có sự tương tác đối với các con người, công ty, tổ chức

hoặc các quốc gia. Tại Việt Nam, khi bắt đầu khởi sự một doanh nghiệp, từ “xây dựng

doanh nghiệp” không phải là một từ ghép thường dùng, do từ “xây dựng” thường được

nhắc đến lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng (nhà cửa, cầu cống, đường xá); mà người ta

thường dùng từ “thành lập doanh nghiệp”, ám chỉ việc thực hiện một thủ tục pháp lý

được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm xác định khai sinh ra một

doanh nghiệp để tham gia quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Theo Luật doanh nghiệp 2014, việc thành lập doanh nghiệp bao gồm những quy

định cơ bản như quy định chủ thể thành lập doanh nghiệp; quy định điều kiện ngành

nghề kinh doanh; quy định điều kiện đặt tên cho doanh nghiệp; và quy định hồ sơ đăng

ký doanh nghiệp. Như vậy dưới góc độ kinh tế, thành lập doanh nghiệp là việc chuẩn

bị đầy đủ các điều kiện cần và đủ nhằm hình thành nên một tô chức kinh doanh (như

trụ sở, vốn điều lệ, nhà xưởng, thiết bị, nhân viên, quản lý, v.v…).

Như vậy, theo quan điểm của luận án, xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm là việc

hình thành nên các quỹ đầu tư mạo hiểm, trong đó đã xác định được các đối tượng

tham gia góp vốn, mục tiêu đầu tư, thời gian đầu tư, đối tượng quản lý quỹ; thông qua

đó huy động được lượng vốn đầu tư mạo hiểm cần thiết và đảm bảo hoạt động của quỹ

tuân theo pháp luật hiện hành.

Khi xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm, cần thiết quan tâm tới các yếu tố sau: (1)

Đối tượng góp vốn; (2) Mô hình tổ chức; (3) Các điều khoản hạn chế trong đầu tư của

quỹ; (4) Tiêu chuẩn giải ngân các dự án đầu tư của quỹ; (5) Phương thức thoái vốn của

quỹ.

34

2.2.1.1. Đối tượng góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm

Các quỹ đầu tư mạo hiểm không chỉ huy động vốn cho vốn điều lệ ban đầu mà

còn huy động thường xuyên nhằm bổ sung lượng vốn để mở rộng quy mô đầu tư của

mình. Các quỹ đầu tư mạo hiểm có mối quan hệ mật thiết với các nhà đầu tư cung cấp

vốn, thường có thể do mối quan hệ quen biết, do đối tác kinh doanh lâu năm hoặc do

tác động chính trị. Trên thực tế, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể hoạt động độc lập, với đội

ngũ quản lý là các cá nhân độc lập, hoặc được quản lý bởi các tổ chức tài chính như

các ngân hàng, công ty bảo hiểm hoặc các công ty tiến hành các thương vụ đầu tư thay

mặt cho các công ty mẹ hoặc khách hàng của họ hay các nhà đầu tư bên ngoài

(Gladstone, 2002) [47].

Nhìn chung, các đối tượng tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm: Thành

viên góp vốn/ đối tượng góp vốn đầu tư mạo hiểm (Limited Partners) và thành viên

hợp danh/ đối tượng quản lý vốn đầu tư mạo hiểm (General Partners).

Đối tượng góp VĐT mạo hiểm (Limited Partners)

Hình 2. 1. Đối tượng tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm

Đối tượng quản lý VĐT mạo hiểm (General Partners)

Góp vốn vào quỹ

Quản lý quỹ/ đầu tư Quỹ đầu tư mạo hiểm

Dự án đầu tư

Nguồn: Venture & Investment (2013)

Trong đó:

Đối tượng góp vốn đầu tư mạo hiểm (Limited Partners - LPs) bao gồm: Cá cá

nhân, gia đình giàu có; các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ của quỹ; ngân hàng đầu

tư; quỹ đầu tư quốc gia, v.v…

35

Đối tượng quản lý vốn đầu tư mạo hiểm (General Partners - GPs): Đây là các

đối tượng trực tiếp gây quỹ từ các nhà đầu tư. Họ là những người chịu rủi ro nhất, do

vậy cũng là người nhận được lợi ích lớn nhất khi công ty nhận được đầu tư. Khả năng

huy động vốn từ các nhà đầu tư đóng vai trò quan trọng nhất của GPs, rồi mới tới khả

năng sử dụng nguồn vốn huy động được một cách hiệu quả. Đối tượng quản lý vốn

đồng thời cũng có thể là người trực tiếp góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên,

phần lớn số tiền vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm do đối tượng góp vốn đầu tư mạo hiểm

góp vốn - LPs (99%), đối tượng quản lý vốn đầu tư mạo hiểm – GPs chỉ chiếm 1%

(Demaria, 2013) [42].

Một quỹ đầu tư mạo hiểm được hoạt động dưới một hợp đồng giữa đối tượng

góp vốn và đối tượng quản lý vốn, gọi là Thỏa thuận hợp tác hữu hạn (Limited

Partnership Agreement – LPA), trong đó quy định mọi điều khoản liên quan đến quá

trình góp quỹ, tiêu chí hoạt động của quỹ, chính sách chi phí của quỹ, cũng như cơ chế

phân chia lợi nhuận của quỹ đầu tư mạo hiểm.

Lợi ích của các bên tham gia

Một quỹ đầu tư mạo hiểm khi xây dựng mô hình hoạt động của mình sẽ có

nhiều cách để hấp dẫn các nhà đầu tư góp vốn, bằng cách cụ thể hóa yêu cầu và các ưu

tiên của họ:

- Giới hạn trách nhiệm của nhà đầu tư trong số tiền đầu tư của họ, nhà đầu tư

góp vốn không được phép tham dự vào việc điều hành, quản lý tại các thương vụ đầu

tư.

- Tránh tối đa bị đánh thuế 2 lần: Khi lợi nhuận của dự án đầu tư được ghi nhận

và khi nhà đầu tư nhận lại phần vốn, lời từ việc đầu tư.

- Đảm bảo hiệu quả, minh bạch các chi phí hành chính, chi phí quản lý và các

chi phí khác phát sinh.

- Đảm bảo quỹ đầu tư mạo hiểm phù hợp với chủ thể đầu tư với một loạt các

thẩm quyền có liên quan như các tổ chức tài chính, các tập đoàn, các nhà đầu tư cá

nhân, tại quốc gia/ khu vực hoạt động, v.v…

Ngoài ra, khi thành lập, quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ xác định các điều khoản và các

điều kiện kèm theo, bao gồm:

36

- Phí quản lý, thường không vượt quá 2,5% trên tổng vốn cam kết, và thường ít hơn đối với các quỹ lớn. Phí quản lý được trả hàng quý và giảm dần trong thời kỳ suy giảm của quỹ (drawdown period).

- Phí thành lập quỹ (ví dụ các chi phí liên quan đến luật pháp, hành chính), chiếm khoản 1% vốn cam kết, và các chi phí hoạt động tiếp theo (như chi phí hải quan, kiểm toán, chi phí sản xuất, phí báo cáo thường niên, phí họp các nhà đầu tư, phí thuê chuyên gia tư vấn độc lập bên ngoài, v.v…). Tuy nhiên, các quỹ đầu tư mạo hiểm ngày nay đang chịu áp lực rất lớn từ các nhà đầu tư góp vốn, khi yêu cầu giảm các khoản phí này xuống, hoặc đã bao gồm trong phí quản lý.

- Lợi nhuận phân chia cũng được quy định rõ ràng, nhằm khuyến khích các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm dành trách nhiệm cao trong công việc của mình, nhằm tối đa hóa hiệu quả hoạt động của quỹ. Thông thường, quỹ sẽ yêu cầu lợi nhuận khoảng 15-20% lợi nhuận. Cách tính cũng rất phong phú, từ cách tính tổng lợi nhuận tất cả các thương vụ đầu tư của quỹ, hay tính theo từng thương vụ đầu tư riêng biệt; hoặc các nhà đầu tư và quỹ có thể phân chia lợi nhuận theo từng giai đoạn đầu tư, v.v…

Quỹ đầu tư mạo hiểm

Bên cần vốn

Hình 2. 2. Cấu trúc quỹ đầu tư mạo hiểm

Vốn

2-3% phí quản lý

Đối tượng cấp vốn

Nhà quản lý

Vốn

20% lợi nhuận của quỹ đầu tư mạo hiểm

IPOs/ Bán thương mại/ Sáp nhập

Doanh nhân

Vốn cổ phần

Người góp vốn -Quỹ hưu trí -Ngân hàng -Cá nhân -Doanh nghiệp -Công ty bảo hiểm -Khác 80% của lợi nhuận quỹ đầu tư mạo hiểm + phần phụ trội

Nguồn: Gladstone (2002) [47]

37

2.2.1.2. Mô hình tổ chức của quỹ đầu tư mạo hiểm

Hiện nay quỹ đầu tư mạo hiểm có nhiều hình thức tổ chức khác nhau, trong mỗi

hình thức lại có ưu/ nhược điểm khác nhau. Theo Đào Lê Minh (2003) [3]; Lin (2016)

[71], quỹ đầu tư mạo hiểm được tồn tại ở ba dạng chính: (1) quỹ đầu tư dạng công ty;

(2) quỹ đầu tư dạng tín thác; (3) quỹ đầu tư dạng hợp danh hữu hạn.

Mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty (company-type funds)

Quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty sẽ có tư cách pháp nhân, có điều lệ công ty

riêng; lúc này quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ có tính chất như một công ty cổ phần, nhà đầu

tư góp vốn vào quỹ có tư cách như các cổ đông của công ty. Cổ đông trong quỹ được

chia thành cổ đông sáng lập và cổ đông thường. Các cổ đông sáng lập sẽ nắm một tỷ lệ

vốn cổ phần đủ lớn để tham gia vào hội đồng quản trị, chịu trách nhiệm quản lý quỹ

đầu tư mạo hiểm. Trong mô hình này, không có sự tách biệt giữa các nhà đầu tư góp

vốn và các nhà quản lý chuyên nghiệp; chỉ có sự chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm

vi góp vốn đầu tư vào quỹ. Lúc này, đối tượng đóng vai trò quan trọng nhất trong vấn

đề giám sát công ty quản lý quỹ đầu tư là hội đồng quản trị quỹ đầu tư. Các điều khoản

giám sát đã được quy định rõ trong điều lệ công ty, phục vụ vì lợi ích của nhà đầu tư

góp vốn vào quỹ.

Tùy theo quy định về điều lệ của quỹ, quỹ có thể chia thành quỹ đầu tư dạng

đóng hoặc quỹ đầu tư dạng mở. Quỹ đầu tư dạng đóng sẽ ngưng nhận vốn góp khi đã

huy động đủ vốn cần thiết, hoặc sau một thời gian hoạt động nhất định, để các nhà

quản lý quỹ đầu tư sẽ tập trung vốn vào các dự án đã được lựa chọn. Lúc này các nhà

đầu tư đã đầu tư vào quỹ, muốn thoái vốn sẽ tự tìm các nhà đầu tư muốn mua chứng

chỉ quỹ trên thị trường thứ cấp. Quỹ đầu tư mạo hiểm dạng mở cho phép quỹ phát

hành chứng chỉ quỹ nhiều lần để gia tăng lượng vốn đầu tư của quỹ, qua đó tạo ra các

cơ hội đầu tư khác cho bản thân quỹ đầu tư, cũng như các nhà đầu tư có hứng thú đầu

tư vào quỹ có cơ hội mua các chứng chỉ quỹ. Bên cạnh đó, đối với quỹ đầu tư dạng

mở, quỹ sẽ có trách nhiệm mua lại các chứng chỉ quỹ đầu tư theo yêu cầu của các nhà

đầu tư, giá mua lại thông thường sẽ bám vào giá trị NAV của quỹ tại thời điểm mua

vào, tùy từng quy định của quỹ.

Mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng tín thác (trust-type funds)

Tổ chức ở dạng mô hình đơn vị tín thác, quỹ đầu tư mạo hiểm không có tư cách

pháp nhân, mà đây là một tổ hợp nhận vốn đầu tư, dựa trên một mức vốn điều lệ, mức

38

vốn pháp định hoặc một hình thức pháp lý được tổ chức theo quy định của pháp luật.

Lúc này quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ được ủy thác cho một tổ chức hoặc một công ty

chuyên để quản lý danh mục đầu tư, với một mức phí quản lý nhất định. Được tổ chức

dưới hình thức mô hình đơn vị tín thác, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng này sẽ có một số

đặc điểm sau:

(1) Quỹ đầu tư dạng đơn vị tín thác chỉ được thành lập khi đã có một công ty

quản lý quỹ chuyên nghiệp đứng ra thành lập quỹ, phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư,

quỹ đã có tiêu chí đầu tư, mục tiêu đầu tư nhất định; quỹ đã có danh sách người điều

hành danh mục đầu tư và chịu trách nhiệm về hiệu quả của quỹ, về các trách nhiệm

liên quan đến pháp luật đối với các hoạt động của quỹ.

(2) Quyền lợi của các nhà đầu tư luôn được đảm bảo, bởi quỹ đã được quản lý,

giám sát bởi các ngân hàng giám sát và các tổ chức trung gian tài chính liên quan, sẽ

đảm nhận các công việc liên quan đến bản quản tài sản của quỹ, lưu giữ các tài sản và

giám sát các hoạt động của quỹ đầu tư.

(3) Quỹ đầu tư dạng đơn vị tín thác không có tư cách pháp nhân. Mọi hoạt động

của quỹ sẽ do đại hội các nhà đầu tư, do công ty quản lý quỹ, hoặc do các ngân hàng

giám sát quản lý, lo liệu các thủ tục cần thiết. Trong khi đó, quyền, lợi ích và nghĩa vụ

của công ty quản lý quỹ đầu tư khi thành lập quỹ có thể được trao cho một công ty

quản lý quỹ khác, nếu được các nhà đầu tư góp vốn đồng ý, được sự phê chuẩn của cơ

quan Nhà nước liên quan.

Mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn (limited partnership-

type funds)

Mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn là hình thức quỹ đầu tư

mạo hiểm phổ biến nhất tại Mỹ và Trung Quốc (Cumming, 2017 [40]; Lin, 2015a

[69]). Việc đầu tư vào các công ty tư nhân khởi nghiệp thường mất từ 2 đến 7 năm để

có thể đưa ra được các sản phẩm được xã hội chấp nhận, và các quỹ đầu tư mạo hiểm

có thể thoát vốn đầu tư (Cumming, 2017) [40]. Do đó, các quỹ đầu tư mạo hiểm dạng

hợp danh hữu hạn thường đề ra các chiến lược đầu tư trong khoảng 10 năm đối với

mỗi dự án, và có điều khoản gia hạn đầu tư thêm khoảng 3 năm nhằm đảm bảo khoản

đầu tư đó có thể thành công và quỹ có thể thoái vốn (Gompers và các cộng sự, 2004

[52]; Gorman và Sahlman, 1989 [55]). Tại các quốc gia chưa cho phép mô hình quỹ

đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn hoạt động, thì có mô hình quỹ đầu tư dạng

39

công ty, với cấu trúc và cơ chế hoạt động tương tự quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp

danh hữu hạn nhằm đạt được kết quả đầu tư cũng như cách thức quản lý ưu việt của

loại hình doanh nghiệp này (Cumming, 2017) [40].

Có hai lý do khiến mô hình hợp danh hữu hạn được phổ biến tại các quốc gia,

đó là:

Thứ nhất, không giống như mô hình công ty, bị ràng buộc bởi điều lệ công ty,

quỹ đầu tư dạng hợp danh hữu hạn được hình thành bởi các hợp đồng, do đó rất linh

hoạt trong việc đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư khác nhau.

Thứ hai, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn cho phép các đối tác

góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn với khoản vốn đầu tư của mình, trong khi có thể

tránh được các loại thuế thu nhập. Các đối tượng góp vốn có thể là các cá nhân, các

công ty nước ngoài, quỹ hưu trí, các tổ chức từ thiện, v.v… với các mức chịu thuế

khác nhau. Trong khi đầu tư mạo hiểm bản thân cũng được chính phủ các quốc gia

khuyến khích, với mức thuế thu nhập thấp hơn so với các lĩnh vực đầu tư thông

thường. Điều này làm cho các đối tác góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm được lợi thuế

nhiều lần. Trong khi lợi nhuận của quỹ đầu tư mạo hiểm được chia đều cho các đối tác

góp vốn theo tỷ lệ đóng góp, việc chi trả lợi nhuận với các đối tác góp vốn khác nhau

sẽ làm cho các đối tác này được lợi thuế theo các mức độ khác nhau.

Trong ba mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm nói trên, quỹ đầu tư mạo hiểm mô hình

công ty, mô hình tín thác xuất hiện sớm nhất, trong giai đoạn đầu của lĩnh vực đầu tư

mạo hiểm hình thành và phát triển. Đến nay, mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng tín

thác và dạng công ty vẫn đang tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt tại Châu

Âu và Châu Phi, góp phần rất lớn tài trợ vốn cho các công ty tư nhân khởi nghiệp, các

doanh nghiệp nhỏ và vừa (Cumming, 2003 [39]; Hossain và các cộng sự, 2000 [62];

Kerubo, 2015 [67]; Maarbani, 2011 [72]). Trong khi đó, mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm

dạng hợp danh hữu hạn tuy ra đời sau, nhưng khá phổ biến tại Mỹ và Trung Quốc do

những đặc tính riêng có của hai quốc gia này (Cumming, 2017 [40]; Lin, 2016 [71]).

Khi so sánh mô hình tổ chức của các quỹ đầu tư mạo hiểm, có thể nhận thấy một số

điểm sau:

Thứ nhất, về việc khả năng thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư mạo

hiểm dạng công ty và dạng tín thác thành lập và huy động vốn khả quan hơn so với

quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn. Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công

40

ty, các nhà đầu tư chính là các cổ đông, có quyền lợi như với công ty cổ phần thông

thường; đối với quỹ đầu tư dạng tín thác, quyền lợi của các đối tượng góp vốn luôn

được đảm bảo do đã có bên thứ ba giám sát, do quỹ đầu tư lúc này chỉ là tổ hợp nhận

góp vốn, không có tư cách pháp nhân; trong khi đó, đối với quỹ đầu tư mạo hiểm dạng

hợp danh hữu hạn, việc huy động vốn tương đối khó khăn, do các thành viên quản lý

vốn đầu tư mạo hiểm phải tiếp cận, giới thiệu về quỹ, mục tiêu đầu tư để huy động vốn

từ các nhà đầu tư mạo hiểm, trong khi việc tiếp cận thông tin giữa hai đối tượng này

còn khá hạn chế.

Thứ hai, về vấn đề quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm. Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm

dạng công ty và dạng tín thác, các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ và đối tượng quản lý

quỹ là hai đối tượng độc lập. Trong trường hợp quỹ đầu tư dạng công ty, đại diện các

nhà đầu tư là hội đồng quản trị, sẽ bầu ra một số người quản lý quỹ chuyên nghiệp,

thực hiện quản lý, đầu tư dưới sự giám sát của các cổ đông. Đối với quỹ đầu tư dạng

tín thác, toàn bộ số tiền của quỹ đều do công ty quản lý quỹ đứng ra huy động vốn,

quản lý và đầu tư, với sự giám sát của ngân hàng đầu tư và các trung gian tài chính

khác có trách nhiệm bảo quản tài sản cho quỹ. Trong khi đó, đối với quỹ đầu tư mạo

hiểm dạng hợp danh hữu hạn, đối tượng quản lý quỹ cũng như các nhà đầu tư mạo

hiểm đều là các thành viên của quỹ. Các thành viên quản lý quỹ đứng ra huy động vốn,

đồng thời trực tiếp quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm theo đúng tiêu chí đã cam kết trong

hợp đồng ban đầu.

Thứ ba, về vấn đề rủi ro khi tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm. Đối với dạng

quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty và dạng tín thác, nhà đầu tư chỉ chịu rủi ro đối với

số vốn mình đã đóng góp vào quỹ, tương ứng nhận lại phần lợi nhận khi quỹ thoái vốn

tại các dự án đầu tư. Hội đồng quản trị, hoặc công ty quản lý quỹ đầu tư sẽ chịu trách

nhiệm đối với các chiến lược, kết quả đầu tư của quỹ. Tuy nhiên đối với quỹ đầu tư

dạng hợp danh hữu hạn, rủi ro của quỹ không chỉ được giới hạn trong số vốn của

những nhà đầu tư góp vốn, mà riêng đối với đối tượng quản lý quỹ (đồng thời cũng là

người góp vốn), còn phải chịu trách nhiệm vô hạn, thậm chí bằng cả tài sản riêng của

mình trong trường hợp không may xảy ra. Chính điều này đã tạo áp lực rất lớn đối với

các thành viên quản lý quỹ của quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn, nhưng

nó cũng giúp các thành viên góp vốn vào an tâm hơn khi tham gia vào quỹ đầu tư dạng

này.

41

Thứ tư, đối với vấn đề giám sát hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm. Đối với

quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty, không có sự tham gia của bên giám sát hoạt động

của quỹ (chỉ có tổ chức bảo quản tài sản), nhưng mọi hoạt động của quỹ đều phải rõ

ràng, minh bạch do yêu cầu từ chính phía các cổ đông góp vốn đầu tư, cũng như mục

đích minh bạch để thu hút vốn đầu tư. Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm dạng tín thác, mọi

hoạt động của quỹ đã có ngân hàng giám sát được lựa chọn, có trách nhiệm giám sát,

bảo quản tài sản của quỹ. Việc giám sát này đã là công việc chuyên nghiệp của các

ngân hàng được lựa chọn, do đó các nhà đầu tư có thể an tâm với chất lượng và uy tín

của dịch vụ họ cung cấp. Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn, không

cần thiết có sự xuất hiện của một tổ chức giám sát, bảo quản tài sản, do mọi vấn đề

liên quan đến mỗi đối tượng thành viên, quy trình đầu tư, mục đích đầu tư, mọi vấn đề

phát sinh đều đã được nêu ra trong hợp đồng hợp danh.

2.2.1.3. Các điều khoản hạn chế trong đầu tư của quỹ

Quỹ đầu tư mạo hiểm là trung gian tài chính kết nối giữa các nhà đầu tư cá

nhân, nhà đầu tư tổ chức (như các ngân hàng, công tư bảo hiểm, quỹ hưu trí, tổ chức từ

thiện, v.v…) với các công ty tư nhân. Các nhà đầu tư tổ chức không có đủ thời gian và

kỹ năng nhằm thực hiện các công đoạn như rà soát đặc biệt (due diligence) để lựa chọn

các công ty tư nhân có tiềm năng để đầu tư. Ngoài ra, họ cũng không có thời gian để

theo sát các dự án mạo hiểm đã đầu tư, hoặc không có kỹ năng để đưa ra các lời

khuyên nhằm gia tăng giá trị cho các công ty nhỏ và vừa đã nhận đầu tư. Chính vì vậy,

các nhà đầu tư tổ chức thường ủy thác cho các quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm quản lý quá

trình đầu tư vào các công ty tư nhân.

Theo Cumming (2001) [38]; Gompers và Lerner (1998) [51], có 5 loại điều

khoản hạn chế mà quỹ đầu tư mạo hiểm thường đề cập đến, đó là:

Điều khoản thứ nhất, thẩm quyền của nhà quản lý quỹ đối với các quyết định

đầu tư. Như đã trao đổi ở phía trên, các nhà đầu tư tổ chức không thể sát sao các hoạt

động hàng ngày của quỹ đầu tư mạo hiểm, do đó, các điều khoản hạn chế về đầu tư sẽ

giảm thiểu các vấn đề chi phí đại diện phát sinh có liên quan đến việc đầu tư vốn của

các nhà đầu tư tổ chức (Gompers và Lerner, 1998) [51]. Các điều khoản hạn chế bao

gồm:

42

Hạn chế trong quy mô đầu tư đối với bất kỳ một công ty riêng lẻ trong danh

mục đầu tư. Điều này nhằm ngăn chặn tình trạng các nhà quản lý quỹ đầu tư không

muốn bỏ nhiều công sức để tìm hiểu, khai thác các cơ hội đầu tư từ các công ty tư

nhân khác nhau mà chỉ muốn tập trung vào một số các dự án họ đã triển khai.

Không cho phép các nhà quản lý quỹ đầu tư vay tiền (từ ngân hàng) để tái đầu

tư khoản tiền vay đó với nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư tổ chức. Điều này sẽ làm

tăng đòn bẩy tài chính của quỹ đầu tư, gia tăng rủi ro cho các nhà đầu tư góp vốn vào

quỹ.

Không cho phép đồng đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm mà có cùng người

quản lý, hoặc thậm chí có cùng nhà đầu tư góp vốn. Điều này nhằm hạn chế các xung

đột lợi ích trong việc phân bổ các cơ hội đầu tư đối với các nhà đầu tư tổ chức khác

nhau của quỹ; hoặc hạn chế các nhà quản lý quỹ bảo lãnh/ tái đầu tư đối với các dự án

đầu tư kém hiệu quả, do cùng đối tượng quản lý quỹ điều hành.

Không cho phép tái đầu tư đối với các khoản lợi vốn thu được từ các dự án đã

mang lại lợi nhuận. Một số nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm theo đuổi chiến lược tập

trung gây dựng danh tiếng của mình hơn là thu lợi thực sự cho quỹ (“fame not

fortune”), bằng cách cố gắng tạo dựng càng nhiều thương vụ IPO thành công càng tốt,

liên tục đầu tư các dự án mới, trong khi biết rằng việc đầu tư mới này có thể làm ảnh

hưởng đến lợi nhuận của các dự án đầu tư cũ.

Hạn chế trong việc nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm có toàn quyền độc lập

trong việc ra các quyết định đầu tư. Đối với một số lĩnh vực đầu tư, quy mô đầu tư

hoặc việc tái đầu tư/ gia hạn đầu tư, cần có sự tham gia của các bên khác, được quy

định kỹ trong hợp đồng.

Điều khoản thứ hai, quyền hạn đầu tư của các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo

hiểm. Việc phân loại rõ quyền hạn của người quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ giới hạn

các vấn đề chi phí đại diện trong việc tách bạch giữa quyền sở hữu (như các nhà đầu tư

tổ chức) và quyền kiểm soát, điều hành (nhà quản lý quỹ) trong quá trình đầu tư. Các

điều khoản này bao gồm:

Hạn chế trong việc đồng đầu tư của chính các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo

hiểm. Điều khoản này cũng tương tự như việc hạn chế đầu tư vào các dự án có cùng

nhà đầu tư, hoặc có cùng nhà quản lý quỹ đầu tư như đã trình bày ở phần trên; nhưng

thêm cả điều khoản hạn chế đối với quỹ đầu tư cá nhân (personal funds) của chính nhà

43

quản lý quỹ đó. Điều này nhằm hạn chế xung đột lợi ích xảy ra khi các nhà quản lý

quỹ đầu tư mạo hiểm dành nhiều thời gian hơn cho dự án mà chính họ tâm huyết đầu

tư, hơn là dành toàn lực cho danh mục đầu tư (mà được kỳ vọng bởi các nhà đầu tư tổ

chức đã góp vốn).

Quyền hạn của các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm đối với việc bảo vệ quyền

lợi điều hành của mình. Trong trường hợp các nhà đầu tư tổ chức muốn thêm các nhà

đầu tư mới, đặc biệt khi số lượng nhà đầu tư thêm với số lượng vốn nhiều, có xung đột

lợi ích với các nhà quản lý quỹ, sẽ làm ảnh hưởng đến các định hướng ban đầu của các

bên, nhất là đối với các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm (đây đồng thời cũng là các

cổ đông tích cực nhất của quỹ đầu tư).

Có một số quy định và giới hạn của những người chủ chốt liên quan đến việc bổ

sung các nguyên tắc đầu tư liên quan đến các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm, bởi

hợp đồng đầu tư này đã xác định giới hạn với đối tượng quản lý quỹ nhất định, và các

nhà đầu tư tổ chức muốn tiền của họ được quản lý bởi những người họ đã ký kết hợp

đồng.

Điều khoản thứ ba, loại hình đầu tư. Điều khoản này nhằm đảm bảo vốn của

các nhà đầu tư được đầu tư theo đúng cách mà họ đã lựa chọn, với khẩu vị rủi ro và lợi

nhuận ước tính ban đầu. Các hạn chế đầu tư bao gồm đầu tư vào các quỹ đầu tư khác,

đầu tư vào các danh mục do nhà quản lý quỹ đầu tư đang quản lý, các chứng khoán

công chúng, mua lại dựa trên vay nợ (leveraged buyouts), cổ phiếu nước ngoài, đầu tư

bắc cầu, v.v… Nếu không có các quy định hạn chế kể trên, nhà quản lý quỹ đầu tư

mạo hiểm có thể chỉ tập trung theo chiến lược đầu tư của riêng mình nhằm thu lợi tối

đa cho bản thân, hơn là hoạt động vì lợi ích của các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ.

Điều khoản thứ tư, hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm. Điều khoản này được

soạn thảo nhằm giám sát ở góc độ hành chính của quỹ, bao gồm việc chia sẻ ý tưởng

đầu tư của người góp vốn đầu tư, hạn chế đối với người quản lý quỹ trong việc gây

một quỹ đầu tư mới, việc công bố thông tin của quỹ cho các nhà đầu tư, điều khoản

cho phép các nhà đầu tư bỏ phiếu để loại bỏ đối tượng quản lý quỹ trong các tình

huống khác nhau, v.v…

Điều khoản thứ năm, giới hạn nghĩa vụ của đối tượng quản lý quỹ. Người

quản lý quỹ mạo hiểm được có một số điều khoản loại trừ nghĩa vụ trong trường hợp

không đạt được tỷ suất lợi nhuận đã được đưa ra, nếu người quản lý quỹ thất bại trong

44

việc đạt được khoản lãi đầu tư trong thời gian đã cam kết, hoặc trong trường hợp đối

tượng này được phát hiện không quản lý quỹ một cách có hiệu quả.

2.2.1.4. Tiêu chuẩn giải ngân các dự án đầu tư của quỹ

Các quỹ đầu tư mạo hiểm thường dựa trên các lý do khác nhau nhằm tìm ra các

dự án đầu tư phù hợp, sau đó giải ngân nhằm hiện thực hóa quá trình đầu tư của quỹ.

Tại giai đoạn đầu hình thành quỹ, các nhà quản lý quỹ, hoặc các đối tượng góp vốn

vào quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ xác định cụ thể, tiêu chí nào nhằm lựa chọn ra dự án đầu

tư phù hợp, và chuẩn hóa các bước cần thiết để giải ngân vào các dự án đầu tư đó.

Lựa chọn dự án đầu tư

Các quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ lựa chọn những dự án đầu tư phù hợp với khẩu vị

của quỹ, tức là đầu tư vào lĩnh vực mà họ hiểu biết rõ nhằm nâng cao khả năng thành

công của dự án đầu tư, hoặc những công ty có ban lãnh đạo có cùng tầm nhìn, cùng chí

hướng hoặc cùng quan điểm với quỹ đầu tư mạo hiểm. Thêm vào đó, họ phải đầu tư

vào những dự án, những ý tưởng kinh doanh có triển vọng, mà họ tin rằng sẽ thành

công trong tương lai. Trên thực tế, ý tưởng kinh doanh rất phong phú và đa dạng,

nhưng số lượng các dự án, ý tưởng thất bại rất nhiều, do đó các nhà đầu tư mạo hiểm

sẽ chú trọng vào các công ty theo đuổi mục tiêu lớn, vì nó có thể tạo ra lợi nhuận lớn,

xứng đáng với công sức và chi phí họ bỏ ra. Ngoài ra, công ty hoặc ý tưởng nhận đầu

tư phải có khả năng nhanh chóng biến cơ hội thành hiện thực, trước khi các áp lực

cạnh tranh làm giảm giá trị các khoản lợi nhuận tiềm năng. Như vậy, tiêu chí để thẩm

định dự án đầu tư tiềm năng bao gồm:

- Mức độ khác biệt, độc đáo của sản phẩm

- Năng lực, tầm nhìn của đội ngũ lãnh đạo công ty

- Tính hấp dẫn của thị trường, lĩnh vực đầu tư

- Lượng vốn đầu tư

- Mức rủi ro, khả năng kiếm lợi nhuận từ thương vụ đầu tư

Cấp vốn đầu tư

Các quỹ đầu tư mạo hiểm không bao giờ chi khoản đầu tư thành một lần, đủ

theo như yêu cầu kêu gọi vốn đầu tư để đối tượng nhận đầu tư có thể tự chủ, mà họ

thường chia thành nhiều giai đoạn nhỏ, với việc mua số lượng cổ phần nhất định, và

thường chỉ đầu tư ở giai đoạn tiếp theo nếu như giai đoạn trước đó đạt được yêu cầu

45

của họ. Điều này sẽ thúc đẩy các nhà sáng lập công ty nhận đầu tư, hoặc chủ sở hữu

của ý tưởng kinh doanh không ngừng làm việc, nâng cao tính khả thi của dự án, đồng

thời làm giá trị của công ty nhận đầu tư tăng lên theo thời gian, làm cho giá trị khoản

đầu tư của các nhà đầu tư mạo hiểm cũng tăng theo. Bên cạnh việc sở hữu cổ phần

trong công ty, các quỹ đầu tư mạo hiểm thường có yêu cầu có đại diện với đa số quyền

bỏ phiếu trong công ty để trực tiếp giám sát, theo dõi quá trình tiến triển của doanh

nghiệp đó. Sự tham gia của họ trong công ty có thể bao gồm cả việc quyết định hướng

đi trong kinh doanh, tuyển dụng nhân sự hoặc đưa ra các lời khuyên chiến lược, giới

thiệu các đối tác kinh doanh, đối tác tài trợ tiếp theo, v.v…

Theo Bergemann và các cộng sự (2009) [22], quy trình đầu tư đầy đủ của các

quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm năm (05) giai đoạn: Tài trợ vốn hạt giống; Tài trợ khởi

động; Tài trợ giai đoạn đầu; Tài trợ giai đoạn mở rộng sản xuất và Tài trợ giai đoạn

tăng tốc. Cụ thể:

- Giai đoạn tài trợ vốn hạt giống (Seed financing): Vốn được cấp cho những cá

nhân hoặc doanh nghiệp để phát triển ý tưởng kinh doanh, phát minh, sáng chế, hoặc

cấp vốn để hỗ trợ phát triển sản phấm. Giai đoạn này vốn đầu tư thường không lớn,

bởi mới hình thành ở mức độ ý tưởng, vẫn còn mang tính chất nghiên cứu tính khả thi

của dự án.

- Giai đoạn tài trợ khởi động (Start-up financing): Giai đoạn này cấp vốn đầu tư

để phát triển sản phẩm, và giai đoạn khởi đầu của marketing. Vốn này được cấp cho

các doanh nghiệp mới thành lập, và sản phẩm còn mới, chưa được giới thiệu ra thị

trường. Các doanh nghiệp nhận đầu tư ở giai đoạn này thông thường đã có bộ máy

quản lý, đã có kế hoạch kinh doanh và đã có các bước đầu về nghiên cứu thị trường, về

người tiêu dùng tiềm năng.

- Giai đoạn tài trợ ban đầu (First-stage financing): Vốn tài trợ dành cho các

doanh nghiệp đang thiếu nguồn vốn đề sản xuất hàng hóa và bán ra trên thị trường.

- Giai đoạn mở rộng sản xuất (Expanding financing): Vốn tài trợ cho các doanh

nghệp mở rộng sản xuất, tài trợ cho các doanh nghệp chuẩn bị niêm yết trên Sở giao

dịch chứng khoán trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 1 năm tới. Ngoài ra, các nhà

đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn này cũng giúp các công ty nhận tài trợ xây dựng một

cơ cấu sở hữu công ty hợp lý. Giai đoạn này công ty bắt đầu sinh lời cho các bên như

46

bên đầu tư và bên nhận đầu tư, thậm chí kể cả các lợi ích khác như xây dựng năng lực

công nghệ cao, đóng góp lợi ích cho nền kinh tế.

- Giai đoạn tài trợ tăng tốc: Vốn đầu tư giai đoạn này nhằm mục đích giúp

doanh nghiệp tham gia sâu vào thị trường bằng các chiến lược sản xuất, kinh doanh

thần tốc, nghiên cứu, phát triển và sản xuất sản phẩm mới. Ở giai đoạn này, thị trường

chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa doanh nghiệp với thị

trường, với các nhà đầu tư.

2.2.1.5. Phương thức thoái vốn của quỹ

Vốn đầu tư mạo hiểm hoạt động theo chu kỳ, và mỗi chu kỳ đều kết thúc bằng

việc thoái vốn đầu tư, có nghĩa các quỹ đầu tư mạo hiểm thanh lý các khoản đầu tư,

thu hồi vốn và lãi để phân phối cho các bên tham gia đầu tư. Các quỹ đầu tư mạo hiểm

rất linh hoạt, mong muốn đạt hiệu quả cao trong đầu tư, do đó họ luôn biết cách vận

động, quay vòng của vốn để tài trợ cho một lĩnh vực kinh doanh, một công ty khởi

nghiệp mới. Điều này giải thích cho sự phát triển nhanh chóng của các phát minh, sáng

chế, ý tưởng kinh doanh và quá trình thương mại hóa sản phẩm đó trên thị trường.

Việc thoái vốn đầu tư là một giai đoạn rất cần thiết, nó giúp các quỹ đầu tư mạo

hiểm đánh giá được kỹ năng đầu tư của các nhà quản lý vốn đầu tư mạo hiểm. Thông

qua việc so sánh mức độ thành công của mỗi thương vụ đầu tư, người cung cấp vốn có

thể quyết định sẽ cung cấp vốn cho đơn vị, cá nhân quản lý vốn đầu tư mạo hiểm nào,

nhằm tối đa hóa lợi ích của nhà đầu tư mạo hiểm. Bên cạnh đó, việc thoái vốn đầu tư

cũng giúp các quỹ đầu tư mạo hiểm so sánh các khoản đầu tư mạo hiểm, hoặc với các

kênh đầu tư khác trên thị trường, nhằm đưa ra quyết định có nên đầu tư hay không, với

giá trị bao nhiêu. Cuối cùng, thoái vốn đầu tư giúp các quỹ đầu tư mạo hiểm có vốn để

tái khởi động một chu kỳ đầu tư mới, tạo ra được lợi nhuận của bản thân cũng như gia

tăng hiệu quả của vốn đầu tư trong nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của khoa học,

công nghệ.

Có ba (03) kênh thoái vốn phổ biến là: (1) Chào bán lần đầu ra công chúng

(IPO); (2) Chào bán thương mại; và (3) Bán lại cổ phần cho các cổ đông sáng lập công

ty.

- Chào bán lần đầu ra công chúng (IPO – Initial Public Offerring): Đây là việc

công ty lần đầu tiên bán cổ phần ra công chúng, với mong muốn công ty sẽ tiếp cận

47

được vốn đầu tư phong phú của công chúng, và nâng cao tính thanh khoản của công

ty, thay vì chỉ gắn liền với các nhà đầu tư tư nhân. Tại Châu Âu, 11% dự án đầu tư

mạo hiểm được quỹ đầu tư mạo hiểm lựa chọn phương thức thoais vốn thông qua

phương thức IPO, trong khi tại Mỹ, con số là 29% (Hege và các cộng sự, 2004) [60].

Với việc chào bán cổ phần ra công chúng, công ty sẽ phải bỏ ra những khoản

chi phí lớn như chi phí quảng cáo, chi phí thuê đơn vị bảo lãnh phát hành, chi phí phân

phối chứng khoán, v.v… Tuy nhiên, đây vẫn là kênh thoái vốn được các quỹ đầu tư

mạo hiểm ưa thích, bởi nó sẽ được thị trường định giá cao nhất, trong khi tính độc lập

của ban lãnh đạo công ty vẫn được giữ. Hơn nữa, đây cũng thể coi là một tín hiệu

ngầm phát ra từ các quỹ đầu tư mạo hiểm với đối tượng khởi nghiệp, với hàm ý các

quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ giảm dần sự kiểm soát của mình trong công ty, còn các doanh

nhân khởi nghiệp sẽ giữ lại phần lớn sự kiểm soát của mình; bởi lẽ lúc này, công ty sẽ

nhận được vốn đầu tư của công chúng đầu tư, thay vì chỉ từ các quỹ đầu tư mạo hiểm.

- Bán thương mại: Đối với các quốc gia, khu vực có thị trường tài chính phụ

thuộc phần lớn vào hệ thống ngân hàng như ở Châu Âu hay các quốc gia đang phát

triển, đây được coi là kênh thoái vốn được ưa thích nhất. Cũng theo Hege và các cộng

sự (2004), trong các dự án đầu tư mạo hiểm tại Châu Âu, 39% lựa chọn thoái vốn

thông qua hình thức chào bán thương mại, so với 24% tại Mỹ. Bán thương mại có

nghĩa công ty sẽ được bán hoặc sáp nhập vào một công ty khác lớn hơn, có uy tín hơn.

So với IPO, bán thương mại được các quỹ đầu tư mạo hiểm coi là cách thoái vốn

nhanh và đỡ tốn chi phí hơn. Trên thực tế, các công ty lớn, đặc biệt là các công ty đã

có sản phẩm nổi tiếng, với nguồn thu nhập ổn định, thường để tâm tới việc mua lại các

công ty khởi nghiệp có khả năng mang lại lợi nhuận hơn là xây dựng lại từ đầu những

công ty mới, với khả năng thành công không chắc chắn. Cách thoái vốn này xác nhận

công ty sẽ được tái đầu tư bởi một đối tác mới, trong khi các quỹ đầu tư mạo hiểm vẫn

yên tâm với việc công ty sẽ được định giá độc lập, phù hợp với giá thị trường. Hơn

nữa, phương án này giúp ban lãnh đạo công ty có thể vẫn ở lại ngay cả công ty không

lựa chọn phương án IPO, và đảm bảo doanh nghiệp được tái cấp vốn để tiếp tục phát

triển. Tuy nhiên, khi lựa chọn bị sáp nhập như vậy, ban quản lý của công ty có thể bị

mất quyền độc lập, bởi lúc này họ không còn được coi là cổ đông lớn trong công ty

nữa, mà đã trở thành công ty con của công ty sáp nhập.

48

- Bán lại cổ phần cho cổ đông sáng lập công ty: Đây là cách thoái vốn phổ biến

trong đầu tư mạo hiểm, được thực hiện bởi những người cùng đầu tư hoặc ban quản lý

công ty. Trên thực tế, đây được coi là kênh thoái vốn hỗ trợ và thường được sử dụng

chủ yếu khi khoản đầu tư mạo hiểm không thành công như mong đợi. Với phương

thức thoái vốn này, nó cho phép công ty nhận vốn đầu tư mạo hiểm giành lại quyền

độc lập sau khi phải chia sẻ quyền lợi, chịu sự kiểm soát của quỹ đầu tư mạo hiểm.

Các chủ thể nhận vốn đầu tư mạo hiểm sẽ mua lại phần sở hữu của người đầu tư mạo

hiểm, với giá cao hơn so với mức định giá trên thị trường tại thời điểm đó; nguồn tiền

có thể từ tiền cá nhân chủ thể nhận đầu tư, hoặc vay từ chính các quỹ đầu tư mạo

hiểm; với cam kết hoàn trả trong tương lai bằng các nguồn thu nhập lấy từ công ty

nhận đầu tư; và việc tất toán nợ sẽ phải hoàn thành khi kết thúc chu kỳ đầu tư.

2.2.2. Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Phát triển là một phạm trù của triết học, thể hiện quá trình vận động tiến lên từ

thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của một

sự vật. Dưới góc độ triết học, quá trình phát triển diễn ra vừa dần dần, lại có giai đoạn

nhảy vọt để tạo ra cái mới, thay thế cho cái cũ. Đây là kết quả của quá trình thay đổi cả

về lượng và về chất, diễn ra theo đường xoắn ốc, tại mỗi chu kỳ sự vật lại lặp lại sự vật

ban đầu nhưng ở mức độ cao hơn (Nguyễn Ngọc Long và Nguyễn Hữu Vui, 2006 [7];

Trần Nguyệt Minh Thu, 2008 [12]). Trong lĩnh vực kinh tế, phát triển mang ý nghĩa

rộng lớn, song nó phản ảnh ba nội dung cơ bản: (1) sự tăng lên về quy mô sản xuất,

tăng giá trị sản lượng của vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tích cực về cơ cấu kinh tế,

kết quả nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, có khả năng khai thác nguồn lực trong

và ngoài nước; (2) sự tác động của tăng trưởng kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội,

nâng cao mức sống dân cư; và (3) phát triển là một quy luật tiến hóa, chịu tác động của

nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nội lực đóng vai trò tiên quyết đến sự phát triển, trong

khi yếu tố bên ngoài cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng.

Như vậy, phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm là việc gia tăng quy mô và chất lượng

hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm, bao gồm sự tăng lên cả số lượng quỹ và nguồn

vốn đầu tư mạo hiểm, nhằm thúc đẩy tài trợ vốn vào các dự án khởi nghiệp, sáng tạo,

trong lĩnh vực khoa học, công nghệ cao; đồng thời, đảm bảo hiệu quả đầu tư của quỹ.

49

Để đánh giá các tiêu chí phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án sử dụng 4 tiêu

chí, đó là (1) số lượng quỹ đầu tư được thành lập; (2) nguồn vốn đầu tư mạo hiểm; (3)

lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm; và (4) kết quả hoạt động của các quỹ

đầu tư mạo hiểm.

2.2.2.1. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm

Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập, hoặc huy động vốn thành công

là tiêu chí đầu tiên để đánh giá sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại mỗi quốc

gia hoặc trong khu vực. Khi nhu cầu về đầu tư mạo hiểm tăng lên, kéo theo sự phát

triển của trung gian dẫn vốn là các quỹ đầu tư mạo hiểm, và ngược lại, khi nhu cầu về

đầu tư mạo hiểm giảm xuống, sẽ làm cho số lượng các quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ giảm

xuống tương ứng.

2.2.2.2. Nguồn vốn đầu tư mạo hiểm

Với số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tăng lên hoặc giảm xuống theo chu kỳ đầu

tư của nền kinh tế, yếu tố nguồn vốn đầu tư mà các quỹ huy động được cũng đóng vai

trò rất quan trọng, song song với số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm thành lập và huy động

vốn thành công. Quy mô vốn huy động càng lớn, chứng tỏ nhu cầu đầu tư mạo hiểm

trong nền kinh tế lớn, đồng thời, quỹ đầu tư mạo hiểm cũng thể hiện tốt vai trò của

mình trong việc dẫn vốn đầu tư mạo hiểm trong nền kinh tế, từ đó thu hút được nhiều

nguồn vốn đầu tư mạo hiểm hơn. Thực tế cho thấy, việc thu hút, tập trung nguồn vốn

đầu tư mạo hiểm với quy mô lớn rất quan trọng, nó tạo điều kiện cho các quỹ đầu tư

mạo hiểm có thể đầu tư vào các dự án công nghệ cao, công nghệ nano hoặc các dự án

khoa học, công nghệ tạo ra vật liệu mới, v.v… bởi các dự án này có tỷ lệ thất bại rất

lớn, vì thế rất khó thu hút được nguồn vốn từ các nhà đầu tư thông thường; bên cạnh

đó, với nguồn vốn tập trung lớn, các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể rót vốn cho các dự án

khởi nghiệp startup, giúp cho các ý tưởng táo bạo của các doanh nhân khởi nghiệp tiếp

tục dự án đầu tư của mình, qua đó tạo hiệu ứng tốt giúp nâng cao trình độ của các

doanh nhân khởi nghiệp, tạo thêm công việc cho các tầng lớp lao động, đặc biệt các

lao động có trình độ cao, từ đó tạo ra sức tăng trưởng kinh tế bền vững của mỗi quốc

gia.

50

2.2.2.3. Lĩnh vực đầu tư mạo hiểm

Mục tiêu của đầu tư mạo hiểm là các dự án đầu tư có mức độ rủi ro lớn, nhưng

có tỷ suất sinh lời cao trong tương lai; vì vậy chỉ có các dự án trong lĩnh vực khoa học,

công nghệ cao, lĩnh vực đầu tư, an ninh mạng, hoặc các công ty khởi nghiệp trong giai

đoạn đầu mới đáp ứng được điều này. Trên thực tế, có nhiều quỹ đầu tư với áp lực thu

hồi vốn nhanh của các cổ đông, đã phải đầu tư vào các công ty ở giai đoạn sau, trước

khi công ty đó tiến hành IPO nhằm chắc chắn thu được lợi nhuận. Tuy vậy, những dự

án đầu tư này chỉ đạt được mức lợi nhuận khiêm tốn; vì thế nó không phản ánh đúng

đặc tính của các quỹ đầu tư mạo hiểm là tài trợ vốn vào các dự án, doanh nghiệp ở giai

đoạn đầu nhằm thu được mức lợi nhuận cao, trong khi thời gian đầu tư thường dài, từ

5 năm trở lên, có khi lên đến 10 năm.

2.2.2.4. Kết quả hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm

Kết quả hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm qua thời gian sẽ chứng minh được

khả năng đầu tư của quỹ, chất lượng hoạt động của quỹ, cũng như giúp các nhà đầu tư

ước lượng được rủi ro khi đầu tư vào quỹ, từ đó giúp các nhà đầu tư đưa ra các quyết

định rót vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư mạo hiểm tại

các dự án đầu tư sẽ giúp các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động thêm nguốn vốn đầu tư

mạo hiểm trong tương lai, giúp các quỹ này có nguồn nội lực mạnh mẽ để tồn tại và

tiếp tục theo đuổi các dự án đầu tư mạo hiểm khác, qua đó làm lợi cho các nhà đầu tư

đã góp vốn vào quỹ. Chính vì vậy, hiệu quả hoạt động của quỹ cũng chính là một trong

các tiêu chí đánh giá sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm qua thời gian.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, đối với những quỹ đầu tư mạo hiểm do chính phủ

thành lập, hoặc các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân được thành lập với mục đích phát

triển khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển khoa học vũ trụ, phát triển sức

mạnh quân sự của quốc gia, v.v… thì yếu tố kết quả hoạt động đôi khi có thể được đặt

sau kết quả nghiên cứu của dự án, do đó, có thể coi các quỹ đầu tư mạo hiểm dạng này

hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận, mà chỉ nhấn mạnh đến mục đích thành lập,

nghiên cứu, phát triển công nghệ, v.v…

2.2.3. Vai trò của xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm đã được nhiều học giả nghiên cứu như Amit

và các cộng sự (2008) [16]; Christofidis và Debande (2001) [36]; Hellmann (2000)

51

[61], nhưng tựu chung lại, có ba đối tượng chính mà quỹ đầu tư mạo hiểm có tác động

trực tiếp, đó là: doanh nghiệp, thị trường tài chính và đối với nền kinh tế.

Thứ nhất, đối với doanh nghiệp. Quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò rất quan

trọng đối với doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp mới tham gia thị trường.

Mục đích chính của quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm hỗ trợ các doanh nhân với ý tưởng

kinh doanh táo bạo củng cố doanh nghiệp của mình, giúp họ tiếp cận nguồn vốn đầu tư

khan hiếm trên thị trường tài chính.

Trong quá khứ, sự hình thành, phát triển của các công ty lớn toàn cầu như Intel,

Apple, Microsoft, Yahoo, v.v.. cho thấy các công ty này đều được hỗ trợ, phát triển

bởi nguồn vốn đầu tư mạo hiểm. Ví dụ Apple nhận được 400,000 USD vốn đầu tư

mạo hiểm, Microsoft nhận được 20 triệu USD, Yahoo nhận được 4 triệu USD

(Gompers và các cộng sự, 2004; Mccullough, 2015). Tại Mỹ, theo thống kê cho thấy

trên 50% doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao nhận được sự trợ giúp thông qua

kênh đầu tư mạo hiểm (Bozkaya và các cộng sự, 2008) [28]. Trên thực tế, vì nhiều lý

do khác nhau liên quan đến đặc thù ngành, lĩnh vực kinh doanh hoặc những vấn đề

mang tính thời điểm mà các tập đoàn lớn rất khó khăn trong việc triển khai các dự án

đổi mới công nghệ mang nhiều rủi ro, khả năng thất bại lớn. Trong khi các doanh

nghiệp nhỏ và và vừa lại cho thấy khả năng thành công cao hơn trong việc thực hiện

các dự án mang tính đổi mới công nghệ, chứa đựng nhiều rủi ro này với sự trợ giúp về

mặt vốn, công nghệ và kinh nghiệm từ các nhà đầu tư mạo hiểm. Hầu hết các hãng đi

đầu trong lĩnh vực sáng tạo và khai thác các thế hệ máy tình mới, các sản phẩm phần

mềm mới, đóng góp tích cực trong việc định hướng các cuộc cách mạng công nghệ

mới, chuyển hướng các xu hướng đầu tư trong các ngành công nghiệp đều trải qua giai

đoạn được tiếp cận vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm, khi họ mới là các doanh nghiệp

nhỏ, vừa, chưa được biết đến rộng rãi trong công chúng, chưa được niêm yết trên thị

trường chứng khoán.

Chính vì vậy, việc thành công của các doanh nghiệp đó không chỉ giúp ích bản

thân các doanh nghiệp đó, làm lợi cho các nhà đầu tư, các cổ đông trong công ty mà

còn góp phần vào thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của quốc gia, khu vực đó nói

chung. Các quỹ đầu tư mạo hiểm ra đời đã giúp cho một loạt các ngành nghề khác như

kinh doanh trong thị trường chứng khoán, các lĩnh vực công nghệ cao, các lĩnh vực

52

phụ trợ của nền kinh tế. Ở góc độ xã hội, sự xuất hiện của các quỹ đầu tư mạo hiểm

giúp tạo ra nhiều công việc cho nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội.

Thứ hai, đối với thị trường tài chính. Đầu tư mạo hiểm là một hình thức kinh

doanh vốn với mức độ chấp nhận rủi ro cao, vì thế nó là một bộ phận không thể tách

rời của thị trường tài chính. Với đặc thù các phương thức thoát vốn khác nhau khi đầu

tư mạo hiểm, chủ yếu thông qua thị trường chứng khoán, nhưng đầu tư mạo hiểm có

tác động rất lớn đến sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và của thị trường

chứng khoán nói riêng.

Quỹ đầu tư mạo hiểm thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển thông qua

thúc đẩy thị trường IPO – một trong những phương thức thoát vốn quan trọng và chủ

yếu của đầu tư mạo hiểm, khi chào bán cổ phiếu của công ty nhận đầu tư ra công

chúng, biến chúng từ công ty cổ phần tư nhân, quy mô nhỏ sang mô hình công ty cổ

phần đại chúng, quy mô lớn. Trên thực tế, quỹ đầu tư mạo hiểm thường nhắm đến các

công ty cổ phần tư nhân mới thành lập, quy mô nhỏ, vốn và kinh nghiệm hạn chế,

đang trong thời kỳ tăng trưởng để làm mục tiêu đầu tư. Ở góc độ đầu tư, việc chào bán

thành công ra công chúng các công ty nhận đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm, còn

minh chứng cho sự thành công của quỹ đầu tư đó trong thương vụ của mình. Tuy

nhiên, mối quan hệ giữa IPO và quỹ đầu tư mạo hiểm là mối quan hệ qua lại, quan hệ

hai chiều, có tác động lẫn nhau. Quỹ đầu tư mạo hiểm muốn IPO thành công, cần thiết

phải có thị trường IPO sôi động, thu hút công chúng đầu tư. Ngược lại, thị trường IPO

phát triển sẽ tạo điều kiện tốt để vốn đầu tư mạo hiểm của các cá nhân ưa thích mạo

hiểm, hoặc từ các quỹ đầu tư mạo hiểm phát huy vai trò của mình (Barry và các cộng

sự, 1990 [18]; Megginson và Weiss, 1991 [78]; Bradley và các cộn sự, 2001 [29])

Bên cạnh đó, quỹ đầu tư mạo hiểm còn có mối quan hệ qua lại với các trung

gian tài chính khác như các công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán, ngân hàng

đầu tư, v.v… Vì vậy, lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói chung và quỹ đầu tư mạo hiểm nói

riêng phát triển tốt, sẽ tác động đến sự phát triển của các trung gian tài chính ở trên,

kéo theo sự phát triển ổn định, lâu dài cho thị trường tài chính và nền kinh tế tại các

quốc gia, khu vực đó.

Thứ ba, đối với nền kinh tế. Quỹ đầu tư mạo hiểm thường tập trung vào những

dự án có ý tưởng mới, cần nhiều vốn, trong đó có lĩnh vực công nghệ cao thường yêu

cầu điều này. Trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, có nhiều yếu tố đóng góp vào

53

sự thành công của doanh nghiệp như chất lượng của người lao động, của vốn đầu tư,

của mức độ đổi mới công nghệ, sự cạnh tranh của các đối thủ hiện tại cũng như các đối

thủ tiềm năng, lợi ích kinh tế nhờ quy mô, mức độ độc quyền, chính sách của chính

phủ đối với doanh nghiệp, đối với ngành nghề mà doanh nghiệp đó đang theo đuổi,

v.v… trong đó, công nghệ là yếu tố đóng góp phần quan trọng rất lớn trong thành công

của doanh nghiệp, đặc biệt trong thời đại công nghiệp 4.0 hiện nay. Sự đổi mới công

nghệ, sẽ làm tăng năng suất lao động của doanh nghiệp, của hiệu quả đồng vốn kinh

doanh, dẫn đến sự phát triển nền kinh tế nói chung. Trên thực tế, muốn đẩy nhanh quá

trình đổi mới công nghệ, rất cần thiết có sự quan tâm của cộng đồng đầu tư để tập

trung vốn vào nghiên cứu phát triển (R&D). Nếu việc đầu tư vào đổi mới công nghệ

này không được quan tâm đúng mức, sẽ dẫn đến vòng luẩn quẩn: vốn ít, đầu tư ít,

công nghệ chậm đổi mới, lãng phí nguồn lực; mà điều này sẽ không có được sự bứt

phá trong sự phát triển của khoa học công nghệ nói riêng, và sự phát triển của nền kinh

tế nói chung. Để việc đầu tư này có hiệu quả, cần thiết cần tập trung vốn trong xã hội,

đặc biệt vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm cần được nhấn mạnh, bởi chỉ có nguồn vốn

đầu tư mạo hiểm mới đáp ứng được yêu cầu về lĩnh vực đặc thù này: rủi ro cao, lâu thu

hồi vốn, nhưng lợi nhuận sẽ rất lớn nến dự án nghiên cứu được thành công, đưa vào

ứng dụng trong cuộc sống.

2.2.4. Nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

2.2.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và phát triển quỹ đầu tư

mạo hiểm

Trong suốt các giai đoạn phát triển của đầu tư mạo hiểm trên thế giới, chính

quyền địa phương cũng như chính phủ tại các quốc gia đã thi hành rất nhiều biện pháp

nhằm xây dựng lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói chung, các quỹ đầu tư mạo hiểm nói

riêng nhằm phát triển khoa học công nghệ, thúc đẩy phát triển đất nước. Có rất nhiều

chính sách được coi là “mới” đưa ra nhằm thúc đẩy các thành phần khác nhau trong

lĩnh vực đầu tư mạo hiểm phát huy tối đa tiềm năng của mình, tuy nhiên, có những

chính sách phù hợp, có những chính sách cần phải điều chỉnh để giúp quỹ đầu tư mạo

hiểm phát triển lành mạnh, đúng hướng như mục tiêu sinh ra của nó (Avnimelech và

các cộng sự, 2016) [17]. Mỗi quốc gia đều có chiến lược riêng của mình để xây dựng

và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm phát triển, phù hợp với mục tiêu tại mỗi giai đoạn

54

khác nhau của họ. Tuy nhiên, tựu chung lại, theo Hellmann, (2000) [61], có năm nhân

tố cần thiết để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, đó là: Chính sách của phủ;

Mạng lưới hỗ trợ; Nguồn nhân lực; Thị trường tài chính; Mạng lưới cơ hội. Theo

Lerner và các cộng sự (2015) [68], muốn xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm tại từng quốc

gia, khu vực, cần thiết xem xét bốn nhân tố: (1) Đối tượng tham gia vào quỹ đầu tư

mạo hiểm; (2) Cơ sở hạ tầng luật pháp, quy định về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; (3)

Nhận thức của xã hội về quỹ đầu tư mạo hiểm; (4) Cơ chế thoái vốn của các quỹ đầu

tư mạo hiểm.

Như vậy, sau khi kết hợp các nghiên cứu trước đây, theo quan điểm của luận

án, muốn xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, cần thiết xem xét năm nhân tố

cần thiết, đó là: (1) Chính sách của chính phủ; (2) Giá trị văn hóa, xã hội; (3) Năng lực

đào tạo, nghiên cứu; (4) Yếu tố địa điểm; (5) Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm.

Nhân tố thứ nhất: Chính sách của chính phủ

Thông qua điều hành chính sách, chính phủ có tác động đến quy mô huy động,

sử dụng nguồn vốn và cấu trúc của quỹ đầu tư mạo hiểm. Tại tiêu chí này, chính phủ

có thể tác động đến các góc độ chính như sau:

(1) Tạo mạng lưới chính thống hỗ trợ các nhà đầu tư mạo hiểm. Thông qua các

chính sách hỗ trợ như các kênh truyền thông, địa điểm hội họp thường niên, hoặc các

mạng lưới chia sẻ kinh nghiệm đầu tư sẽ giúp các nhà đầu tư mạo hiểm tiếp cận được

với quỹ đầu tư mạo hiểm, hoặc với các dự án đầu tư tiềm năng. Việc có cộng đồng đầu

tư mạo hiểm chính thống rất quan trọng, nó sẽ giúp cho việc áp dụng các chính sách

giáo dục liên quan đến đầu tư mạo hiểm của chính phủ dễ đi vào cuộc sống, giúp cho

các tầng lớp nhà đầu tư có điều kiện áp dụng những kiến thức đã được học tại các

chương trình hỗ trợ của chính phủ một cách tích cực và đạt hiệu quả cao.

(2) Tạo ra nguồn cung và cầu của vốn đầu tư mạo hiểm. Chính phủ chú trọng

khuyến khích sự sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của khoa

học công nghệ, từ đó khuyến khích các doanh nhân khởi nghiệp, các doanh nghiệp tập

trung nghiên cứu, đổi mới sáng tạo. Điều này sẽ dẫn đến kết quả là xã hội cần rất nhiều

nguồn vốn đầu tư mạo hiểm để phục vụ cho nhu cầu này nghiên cứu, sáng tạo, thử

nghiệm và phát triển các lĩnh vực mới. Tại Mỹ, nhiều doanh nhân tại Thung lũng

Silicon tin rằng, sự phát triển, thành công của họ không liên quan gì đến chính phủ.

Tuy nhiên điều này là không chính xác, bởi chính phủ Mỹ luôn chủ động trong việc

55

điều tiết các nhu cầu về các lĩnh vực đổi mới, công nghệ cao, đặc biệt trong lĩnh vực

quân sự, từ đó tạo hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy các nhà khoa học nghiên cứu để tạo ra

sản phẩm mới, đáp ứng được nhu cầu của chính phủ (Christofidis và Debande, 2001)

[36]. Bên cạnh đó, chính phủ cũng có thể khuyến khích các cá nhân, tổ chức góp vốn

đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, hay khởi nghiệp, nghiên cứu, sáng tạo bằng cách

áp dụng mức thuế ưu đãi đối với nguồn vốn đầu tư mạo hiểm, bảo vệ bản quyền, sáng

chế, v.v…

(3) Loại bỏ các rào cản đối với hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm, như tiết

giảm các thủ tục hành chính, áp dụng các chính sách thuế ưu đãi đối với các quỹ đầu

tư mạo hiểm. Mặt khác, chính phủ cũng có thể tác động đến việc minh bạch hoạt động

của các quỹ đầu tư mạo hiểm như yêu cầu rõ ràng về cơ chế quản lý, áp dụng các

chuẩn mực kế toán quốc tế, có cơ chế giám sát thường xuyên đối với các quỹ đầu tư

mạo hiểm; quy định rõ ràng các hạn chế đầu tư, v.v…

Nhân tố thứ hai: Giá trị văn hóa xã hội

Các giá trị văn hóa xã hội tại mỗi quốc gia, khu vực, địa phương sẽ tác động rất

lớn đến việc hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm. Có hai yếu tố chính

trong giá trị văn hóa xã hội tác động đến văn hóa kinh doanh, đầu tư đó là văn hóa

kinh doanh của mỗi quốc gia, khu vực; và quan điểm về rủi ro, thất bại của người dân

khu vực đó Lerner và các cộng sự (2015) [68]. Chính các giá trị văn hóa xã hội này sẽ

tác động rất lớn đến quá trình xây dựng và phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại

các quốc gia.

Nếu văn hóa xã hội của quốc gia, khu vực đó có tinh thần doanh nhân, dám

nghĩ dám làm; đồng thời sẵn sàng tương trợ các nhà đầu tư mạo hiểm trong quá trình

xây dựng doanh nghiệp, sẽ hình thành nên các đối tượng hỗ trợ ở các giai đoạn khác

nhau trong quá trình hình thành và phát triển thị trường đầu tư mạo hiểm nói chung, và

các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng. Theo Christofidis và Debande (2001) [36],

Hellmann (2000) [61], sự phát triển của Thung lũng Silicon tại Mỹ là do tại đây có rất

nhiều mạng lưới hỗ trợ cho doanh nghiệp như các công ty luật, kế toán, tư vấn, các nhà

thầu phụ, headhunter2, các công ty quan hệ công chúng, v.v… Tại các quốc gia khác,

việc xây dựng, phát triển mạng lưới hỗ trợ đầu tư mạo hiểm đóng vai trò rất quan

2 Headhunter là cụm từ chỉ những người làm trong nhóm ngành nhân sự, chuyên đi săn chất xám, nhân tài theo các đơn đặt hàng từ các công ty khách hàng, hoặc cho chính công ty mình.

56

trọng, tạo ra sự cạnh tranh rất lớn cho các công ty hoạt động tại đây, cũng như chính

các quốc gia đó so với các quốc gia khác; có thể kể đến “Silicon Fen” trong khuôn

viên đại học Cambridge tại Anh Quốc, Trung Quan Thôn (Zhongguancun) tại Trung

Quốc, v.v… đã nhanh chóng trở thành địa điểm lý tưởng cho các doanh nghiệp khởi

nghiệp, nơi có lực cầu rất lớn với nguồn vốn đầu tư mạo hiểm, và là những nơi dẫn

đầu thế giới về các phát minh công nghệ, các sáng kiến mới, phục vụ trong các lĩnh

vực trong đời sống, xã hội, kinh tế, quân sự (Christofidis và Debande, 2001) [36].

Giá trị văn hóa, xã hội

Hình 2. 3. Nhân tố cần thiết để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Chính sách của chính phủ

Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm Năng lực đào tạo, nghiên cứu

Địa điểm

Nguồn: Hellmann (2000) [61]; Lerner và các cộng sự (2015) [68], tác giả tổng

hợp

Nhân tố thứ ba: Năng lực đào tạo nghiên cứu

Đầu tư mạo hiểm thường tập trung vào các lĩnh vực có hàm lượng khoa học,

công nghệ cao, nhằm có được các kết quả nghiên cứu vượt bậc, tạo lợi thế cạnh tranh

cho các sản phẩm trong tương lai; chính vì thế, yếu tổ nghiên cứu khoa học công nghệ

đóng vai trò sống còn trong quá trình xây dựng và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm.

Tiêu chí này nhắm đến các vấn đề liên quan đề nghiên cứu và phát triển sản

phẩm; như năng lực đào tạo nguồn lao động chất lượng cao; về khả năng nghiên cứu

của các trường đại học, viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu, và các công viên

công nghệ (Lerner và các cộng sự, 2015) [68]. Bên cạnh đó, yếu tố bảo vệ việc thực

thi quyền sở hữu trí tuệ cũng đóng vai trò rất lớn trong việc bảo vệ thành quả của

57

nghiên cứu khoa học, công nghệ, bảo vệ quyền lợi của các đối tượng đã đầu tư công

sức, vốn vào quá trình học tập, nghiên cứu.

Nhân tố thứ tư: Địa điểm

Một số vấn đề liên quan đến tiêu chí địa điểm trong quá trình xây dựng và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm, đó là cơ sở hạ tầng để phát triển sản xuất kinh doanh tại

các địa phương; hay các hiệp hội doanh nghiệp hiện có tại khu vực đó. Tiêu chí này

nhấn mạnh lợi thế của khu vực đó so với các khu vực khác để phát triển các quỹ đầu tư

mạo hiểm. Thông thường, khi các doanh nhân khởi nghiệp sẽ lựa chọn các địa điểm để

khởi sự, sản xuất kinh doanh thuận lợi nhất cho mình như có cơ sở hạ tầng giao thông

tốt, thuận lợi cho việc đi lại, giao thương hàng hóa; hoặc địa điểm đó có cơ sở hạ tầng

công nghệ thông tin tốt, đáp ứng được các nhu cầu làm việc công nghệ cao của họ.

Hơn nữa, trong quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh, các doanh nhân khởi nghiệp rất

cần sự giao lưu, giúp đỡ của cộng đồng doanh nghiệp địa phương, nhằm tạo được hiệu

suất làm việc cao nhất, thông qua việc học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm của các thành viên

trong hiệp hội doanh nghiệp.

Thêm vào đó, địa điểm nhà đầu tư quyết định đầu tư còn phụ thuộc rất lớn vào

mức độ phát triển của thị trường tài chính của quốc gia, khu vực đó. Trong đầu tư mạo

hiểm, có quan điểm cho rằng, sẽ rất tệ nếu các quỹ đầu tư mạo hiểm mắc kẹt trong các

dự án đầu tư tốt, nhưng không có phương án rõ ràng thoái vốn rõ ràng, thậm chí không

được sự đồng thuận từ các cổ đông của dự án đầu tư đó ( Klonowski, 2013) [41]. Có

ba phương án thoái vốn thường được các quỹ đầu tư mạo hiểm sử dụng: phát hành cổ

phần ra công chúng; chào bán thương mại và bán cổ phần cho các cổ đông sáng lập

công ty. Trong đó, phương thức thoái vốn được sử dụng nhiều nhất là IPO và chào bán

thương mại, đòi hỏi cần có sự phát triển đồng bộ của thị trường tài chính. Kinh nghiệm

từ Anh Quốc và Đức cho thấy, khi hai quốc gia này tập trung phát triển thị trường

thoái vốn IPO lành mạnh, đã tạo động lực rất lớn cho sự phát triển của thị trường vốn

đầu tư mạo hiểm (Hellmann, 2000) [61]. Vậy làm thế nào để phát triển thị trường tài

chính lành mạnh, phục vụ cho vấn đề thoái vốn đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm?

Kinh nghiệm từ Mỹ cho thấy, cần tập trung mạnh cho sự phát triển của thị trường

chứng khoán, để đây trở thành kênh đầu tư, huy động vốn chính của nền kinh tế, thay

vì phụ thuộc nhiều vào các ngân hàng như ở các quốc gia khác (Hellmann, 2000) [61].

Chính điều này đã làm cho các nhà đầu tư quan tâm đến các đợt thoái vốn của các quỹ

58

đầu tư mạo hiểm tại các dự án của họ, với quan điểm rõ ràng từ các nhà đầu tư Mỹ, đó

là chấp nhận rủi ro để nhận được lợi nhuận cao.

Nhân tố thứ năm: Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm

Để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm được bền vững, cần thiết sự

phát triển mạnh mẽ tương ứng từ lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Theo Hellmann (2000)

[61], Finkel (2010) [45] có ba đối tượng nguồn lực chính tham gia vào lĩnh vực đầu tư

mạo hiểm: các doanh nhân khởi nghiệp (tức bên cầu vốn); các nhà đầu tư mạo hiểm

(tức bên cung vốn); và những người làm trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm.

Thứ nhất, các doanh nhân khởi nghiệp. Các doanh nhân khởi nghiệp đóng vai

trò then chốt, tạo ra nguồn cầu chính đối với nguồn vốn đầu tư mạo hiểm, cũng như là

đối tượng tiên phong dẫn đầu trong việc nghiên cứu, sáng tạo. Tuy nhiên, để phát triển

được nguồn doanh nhân khởi nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như truyền thống

kinh doanh, khởi nghiệp tại mỗi khu vực, quốc gia; sự thừa nhận của xã hội đối với

các doanh nhân; mức độ linh hoạt, đa dạng đối với hệ thống việc làm, mạng lưới xã

hội; việc đảm bảo quyền lợi, an toàn trong lĩnh vực nghề nghiệp trong các công ty, tập

đoàn lớn, v.v… (Hellmann, 2000) [61]. Chính vì thế, rất cần thiết phải xây dựng, phát

triển tinh thần doanh nhân trong dân tộc, thiết lập các giải thưởng vinh danh doanh

nhân thành đạt, vượt khó khăn để thành công, bảo vệ quyền lợi của người lao động,

sáng tạo; tạo điều kiện thay đổi quan điểm xã hội, nhằm tôn vinh những doanh nhân,

tạo động lực sinh ra những thế hệ doanh nhân dám nghĩ, dám làm.

Thứ hai, các nhà đầu tư mạo hiểm. Để lĩnh vực đầu tư mạo hiểm được phát

triển bền vững, rất cần thiết có những nhà đầu tư mạo hiểm có trình độ. Chính những

thành quả và uy tín của những nhà đầu tư mạo hiểm sẽ tác động đến chất lượng công

việc gây quỹ, cũng như thúc đẩy các đối tượng trong xã hội muốn trở thành các nhà

đầu tư mạo hiểm. Có sự khác biệt rất lớn đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm độc lập, và

các quỹ đầu tư mạo hiểm trực thuộc các công ty, tập đoàn lập ra. Ví dụ, tại Nhật Bản

và Đức, các ngân hàng lớn thường sử dụng các nhân viên của họ để thực hiện các hoạt

động của quỹ đầu tư mạo hiểm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những đối tượng này

hành xử như lối làm việc bảo thủ truyền thống bấy lâu của họ, hơn là hoạt động như

những nhà đầu tư mạo hiểm thực thụ. Họ thường né tránh các hoạt động có thể gây

thua lỗ, hơn là chấp nhận các rủi ro tiền ẩn để đạt được mức sinh lời cao hơn (Bottazzi

và các cộng sự, 2008) [27].

59

Thứ ba, những người làm trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Đây có thể hiểu là

những đối tượng làm thuê trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Tại Thung lũng Silicon của

Mỹ, hầu hết các công ty đầu tư mạo hiểm không được điều hành bởi những nhà sáng

lập công ty, mà bởi các nhà quản lý chuyên nghiệp. Các công ty đầu tư mạo hiểm

thường thu hút các nhân tài làm việc cho mình, thông qua việc chia sẻ quyền lợi bằng

cách phát hành quyền chọn cổ phần, từ đó càng khuyến khích họ làm việc để gia tăng

giá trị cho công ty, cũng như chính bản thân họ. Những người làm thuê trong lĩnh vực

đầu tư mạo hiểm rất đa dạng, từ nhà quản lý, những người nghiên cứu, đến các chuyên

gia quảng cáo, marketing. Những cuộc điều tra gần đây cho thấy, cơ cấu những người

làm thuê trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tại Thung lũng Silicon đã có sự thay đổi đáng

kể. Nếu như trong 30 năm trước đây, thường là những cá nhân có bằng MBA tham gia,

đến 15 năm trước đây là các chuyên gia tư vấn, đầu tư uy tín tại các ngân hàng đầu tư;

thì cho đến nay, lực lượng chủ yếu là các sinh viên sắp và mới ra trường, với khát khao

trở thành các nhà đầu tư mạo hiểm, các doanh nhân khởi nghiệp (Hellmann, 2000)

[61].

Tại mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế toàn cầu nói chung, của

mỗi quốc gia, khu vực nói riêng sẽ có những yêu cầu khác nhau nhằm thúc đẩy sự phát

triển của quỹ đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, tựu chung lại, với mức độ phát triển của

năm trụ cột trên, sẽ tạo điều kiện để thị trường vốn đầu tư mạo hiểm nói chung và các

quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng phát triển bền vững. Do đó, khi xem xét các vấn đề liên

quan đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, cần thiết phải xem xét đến

mức độ phát triển của năm trụ cột này.

2.2.4.2. Phương pháp đánh giá tác động của các nhân tố đến quá trình xây dựng và

phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Sau khi quyết định lựa chọn năm nhân tố đã trình bày ở phần trước, luận án tiến

hành xem xét đánh giá tác động của các nhân tố đó đến việc xây dựng và phát triển

quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Dữ liệu và mẫu nghiên cứu

Luận án sẽ sử dụng dữ liệu được thu thập từ Phiếu khảo sát được thiết kế dựa

trên các thông tin thu thập được từ các cuộc phỏng vấn sâu đối với các chuyên gia từ

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các chuyên gia đang làm việc tại các quỹ đầu tư có

60

địa điểm làm việc tại Hà Nội. Sau đó, phiếu điều tra được thiết kế dưới hai dạng: (1)

dạng trực tuyến thông qua sử dụng công cụ Google Docs; (2) Phiếu điều tra bằng giấy

được in ra khổ giấy A4; phiếu điều tra này sau đó được gửi đi tới các đối tượng có hiểu

biết về quỹ đầu tư mạo hiểm dưới dạng thư điện tử, gửi trực tiếp hoặc qua bưu điện;

đối với phiếu điều tra trực tuyến, kết quả được cập nhật tự động trên kết quả trực

tuyến; đối với các phiếu điều tra gửi trực tiếp hoặc gửi qua bưu điện, người trả lời sẽ

chụp hình kết quả phiếu điều tra, gửi qua các công cụ mạng xã hội (Messenger, Zalo,

Viber, email), hoặc gửi trực tiếp tới người hỏi.

Nội dung phiếu khảo sát bao gồm 4 phần chính” (1) Thông tin cá nhân; (2)

Đánh giá mức độ hiểu biết và quan điểm về đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; (3) Các

nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triên quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; (4)

Các nhân tố giải pháp xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam. Chi

tiết phiếu khảo sát được trình bày tại Phụ lục 6.

Các biến và mô hình nghiên cứu

Biến nghiên cứu

Nhằm đánh giá việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam,

ngoài các câu hỏi mang tính chất hiểu biết về quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án sử dụng

các biến nghiên cứu có liên quan đến việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam, đó là:

(1) CSCP: Các chính sách của chính phủ

(2) VHXH: Các nhân tố về văn hóa, xã hội

(3) ĐTNC: Nhân tố về năng lực đào tạo, nghiên cứu

(4) ĐĐ: Nhân tố về địa điểm đầu tư

(5) NL: Nhân tố về nguồn lực

Thông tin cụ thể về các biến nghiên cứu được trình bày cụ thể ở Phụ lục 6.

61

Hình 2. 4. Mô hình nghiên cứu

VHXH

CSCP

ĐTN

C Xây dựng và phát triển

quỹ đầu tư mạo hiểm

NL ĐĐ

Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp nhân tố khám phá (EFA) để đánh giá các nhân tố

có ảnh hưởng đển xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; bao gồm:

Nhân tố chính sách của chính phủ; Nhân tố về văn hóa, xã hội; Nhân tố về năng lực

đào tạo, nghiên cứu; Nhân tố về địa điểm đầu tư; Nhân tố về nguồn lực. Từ đó đánh

giá yếu tố nào thực sự ảnh hưởng và ảnh hưởng mạnh nhất đến việc xây dựng và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Phương pháp phân tích nhân tố EFA thuộc nhóm phân tích đa biến phụ thuộc

lẫn nhau, nghĩa là không có biến phụ thuộc và biến độc lập mà nó dựa vào mối tương

quan giữa các biến với nhau. Phương pháp EFA dùng để rút gọn một tập k biến quan

sát thành một tập F (với F < k) các nhân tố có ý nghĩa hơn. Theo Mayers và các cộng

sự (2000), trong phân tích nhân tố, phương pháp trích Principle Components Analysis

đi cùng với phép xoay Varimax là cách thức được sử dụng phổ biến nhất.

Phương pháp nghiên cứu bao gồm các bước tiến hành như sau:

Bước 1. Sử dụng kiểm định Cronbach’s Alpha nhằm kiểm tra chất lượng thang đo

Luận án sẽ tiến hành kiểm định Cronbach’s Alpha lần lượt cho từng nhân tố của biến

nghiên cứu. Thang đo được đánh giá chấp nhận được, và được coi là một thang đo

hiệu quả khi và chỉ khi thang đo này thỏa mãn đồng thời hai điều kiện sau:

62

- Hệ số Cronbach’s Alpha của tổng thể lớn hơn 0,6

- Hệ số tương quan qua biến tổng của các biến quan sát trong thang đo (Item-

Rest Correlation) lớn hơn 0,4 (Tuy nhiên, nếu hệ số tương quan qua biến

tổng lớn hơn 0,4; mà biến đó có kết quả Cronbach’s Alpha nếu loại

chỉ biến > Cronbach’s Alpha của thang đo tổng, thì biến đó vẫn bị loại).

Bước 2. Phân tích Principle-Component Factor

Tại bước phân tích này, yêu cầu Minimum Value of Eigenvalue to be retained

từ 1 trở lên. Điều này có nghĩa nhân tố nào có Eigenvalue lớn hơn 1 mới được giữ lại.

Bước 3. Tìm ma trận xoay

Tại bước ma trận xoay này, nhằm mục đích tìm ra mỗi nhân tố gồm những câu

hỏi nào.

Bước 4. Kiểm định Bartlett và kiểm định KMO

Kiểm định Bartlett được sử dụng để xem xét ma trận tương quan trong nghiên

cứu có phải là ma trận đơn vị hay không. Ma trận đơn vị được hiểu là ma trận có hệ số

tương quan giữa các biến bằng 0; trong khi đó, hệ số tương quan của chính nó bằng 1.

Nếu kiểm định Bartlett có p < 5%, có nghĩa các biến trong nghiên cứu có mối quan hệ

với nhau, hay các biến có tương quan với nhau trong tổng thể.

Kiểm định KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) được sử dụng để so sánh độ lớn của hệ

số tương quan giữa 2 biến Xi và Xj đối với hệ số tương quan riêng phần của chúng. Để

sử dụng được phương pháp EFA, yêu cầu KMO phải lớn hơn 0,5. Trong đó, Kaiser

(1974) đề nghị:

KMO ≥ 0,9: Rất tốt

0,8 ≤ KMO < 0,9: Tốt

0,7 ≤ KMO < 0,8: Được

0,6 ≤ KMO < 0,7: Tạm được

0,5 ≤ KMO < 0,6: Xấu

KMO < 0,5: Không chấp nhận được

63

Kết luận chương 2

Như vậy, xây dựng quỹ và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm là việc hình thành và

phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, xuất phát từ nhu cầu của xã hội (bên cung và bên cầu

vốn đầu tư mạo hiểm), với sự tham gia của các thành phần trong xã hội như các trung

gian tài chính, hệ thống luật pháp, cơ quan giám sát, v.v… nhằm tạo ra cơ chế hình

thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm lành mạnh, có sự thay đổi kịp thời, đáp ứng

được tốt yêu cầu của các chủ thể tham gia, thúc đẩy sáng tạo, phát triển công nghệ cao;

đồng thời tạo hiệu quả tích cực đối với nền kinh tế, khai thác tốt nguồn lực trong xã

hội; đồng thời phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực trong quá trình hoạt động của các

quỹ đầu tư mạo hiểm. Theo quan điểm của luận án, muốn xây dựng và phát triển quỹ

đầu tư mạo hiểm, cần thiết xem xét năm tiêu chí, đó là: (1) Chính sách của chính phủ;

(2) Giá trị văn hóa, xã hội; (3) Năng lực đào tạo, nghiên cứu; (4) Yếu tố địa điểm; (5)

Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm.

64

CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TRÊN THẾ GIỚI

3.1. Thực tiễn quá trình hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế

giới

3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

Năm 1946, quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên trên thế giới được thành lập, tên là

Công ty Nghiên cứu và Phát triển Hoa Kỳ (ARD – American Research and

Development), do giáo sư General Georges F. Doriot tại trường Harvard Business

School lập lên. Công ty này có mục tiêu đầu tư vào các doanh nghiệp mới nổi, có mức

rủi ro cao, hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao để phục vụ cho cuộc chiến tranh thế

giới thứ 2. ARD là quỹ đầu tư dạng đóng, được sở hữu và giao dịch chủ yếu bởi các

nhà đầu tư cá nhân (Powers, 2012) [85]. Trên thực tế, ARD đã đầu tư rất thành công

trong 26 năm hoạt động, đặc biệt hơn một nửa lợi nhuận thu được từ thương vụ đầu tư

vào công ty Digital Equipment Company, với 70.000 USD đầu tư năm 1957, và đã

tăng lên hơn 355 triệu USD vào năm 1980.

Sau sự ra đời và thành công của ARD, có rất nhiều quỹ đầu tư dạng đóng khác

cũng được thành lập, tuy nhiên quỹ đầu tư dạng này ngay sau đó đã chứng minh nó

không phù hợp với quỹ đầu tư mạo hiểm. Nguyên nhân chính là do quỹ đầu tư dạng

đóng cho phép chứng chỉ quỹ được giao dịch rộng rãi tới các nhà đầu tư, vì thế rất

nhiều trường hợp các nhà môi giới đã bán các chứng chỉ quỹ đầu tư này cho các đối

tượng đầu tư không phù hợp, ảnh hưởng rất nhiều đến sự hoạt động ổn định của quỹ.

Ví dụ, các nhà đầu tư lớn tuổi thường muốn đầu tư vào các chứng khoán có thu nhập

hiện thời cao, hơn là đầu tư vào các chứng khoán dài hạn. Chính vì vậy, mô hình quỹ

hợp danh hữu hạn (limited partnership) đã ra đời lần đầu vào năm 1958, do ba nhà

sáng lập Draper, Gaither và Anderson (gọi tắt là quỹ hợp danh Draper). Quỹ Draper

tập trung đầu tư vào các dự án bất động sản và khai thác dầu mỏ; các nhà đầu tư góp

vốn vào quỹ sẽ phải ký cam kết thời gian đầu tư tối thiểu, thường là mười năm (mặc

dù vẫn có các điều khoản loại trừ đặc biệt). Sau khi kết thúc chu kỳ đầu tư, thay vì bán

các dự án đầu tư thành công ra công chúng, hoàn trả tiền mặt cho các nhà đầu tư góp

vốn, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn sẽ trả bằng cổ phiếu của các công ty

khác mà quỹ đã đầu tư vào. Bằng cách này, nhà đầu tư có thể tự lựa chọn khi nào họ sẽ

65

tất toán khoản đầu tư của mình vào quỹ đầu tư, bằng cách bán các cổ phiếu của các

công ty mà họ đang sở hữu.

Trong những năm 1960-1970, các quỹ đầu tư mạo hiểm đồng thời tồn tại ở

dạng quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở, quỹ đầu tư dạng hợp danh hữu hạn,

và đặc biệt là sự hình thành của một loại quỹ đầu tư gọi là Small Business Investment

Companies (SBIC) tại Mỹ. Nguyên nhân sâu xa của sự ra đời SBIC là do sự kiện Liên

Xô phóng thành công vệ tinh Sputnik năm 1957, làm cho chính phủ Mỹ lo sợ sự tụt

hậu về công nghệ, đã khởi động SBIC, nhằm thu hút công chúng đầu tư, các nhà khoa

học tập trung vào nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ cao, phát triển ngành công

nghiệp đầu tư mạo hiểm. Theo đó, nếu các cá nhân, doanh nghiệp đủ điều kiện tiêu

chuẩn, sẽ nhận được các cam kết đầu tư lâu dài, hoặc từ các khoản vay ưu đãi của

chính phủ. Tuy nhiên, mô hình kêu gọi vốn đầu tư mạo hiểm dạng này đã chưa được

nghiên cứu kỹ, với các quy định tham gia lỏng lẻo, sớm gây thất vọng cho các nhà đầu

tư, điển hình là các nhà đầu tư hoặc những người sáng lập công ty không có tiếng nói

chung trong dự án, sự tham gia của các nhà đầu tư chỉ quan tâm đến lợi nhuận ngắn

hạn, thậm chí lừa đảo để kiếm lời, hoặc các quỹ SBIC này được kiểm soát phần lớn

bởi các cá nhân có quan hệ gia đình, hoặc có mối quan hệ quen biết. Do đó, hầu hết

các quỹ đầu tư mạo hiểm SBIC đã sụp đổ trong giai đoạn 1960-1970.

Trải qua quá trình phát triển, cho đến hiện nay, mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm

dạng hợp danh hữu hạn vẫn chiếm đa số, bởi mô hình này có lợi thế hơn về thuế suất,

sự linh hoạt trong các vấn đề liên quan đến cấu trúc, điều khoản của quỹ khi hoạt

động. Cụ thể, khi thực hiện ký kết hợp đồng góp vốn đầu tư vào quỹ đầu tư mạo hiểm

dạng này, thường trong điều khoản hợp đồng được chia thành ba nội dung cơ bản: (1)

các điều khoản về hình thành và hoạt động của quỹ, như giới hạn về thời gian gây quỹ,

thời gian tồn tại của quỹ, hay sự đóng góp cần thiết của các nhà quản lý quỹ; (2) mức

phí quản lý của quỹ, mức cổ tức; (3) cấu trúc quản trị của quỹ, nhằm đảm bảo quỹ

được quản lý hiệu quả nhất.

Ngoài ra, trong những năm gần đây đang thịnh hành phát triển một loại quỹ đầu

tư mạo hiểm siêu nhỏ (Micro venture capital funds hoặc super angel funds). Quỹ đầu

tư mạo hiểm dạng này chỉ đầu tư vào các giai đoạn đầu của doanh nghiệp (seed early

stage) với số tiền đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với quỹ đầu tư mạo hiểm truyền thống.

Quỹ này được quản lý bởi các doanh nhân khởi nghiệp, đã bỏ ra rất nhiều công sức,

66

tiền bạc vào doanh nghiệp của mình, và hướng đến mối quan hệ đối tác chiến lược

(partnership stragegy) với các nhà đầu tư vào quỹ. Theo đó, các nhà quản lý quỹ sẽ tập

trung thu hút vốn đầu tư từ bạn bè, người thân, các nhà đầu tư thiên thần (angel

investors), các cá nhân hoặc gia đình giàu có, những người đang tìm kiếm các cơ hội

đầu tư với lợi suất cao cho khoản tiền nhàn rỗi của họ. Theo Feld và Mendelson (2013)

[43], mối quan hệ hợp lực giữa nhà quản lý quỹ đầu tư dạng này đã và đang thu hút

được nhiều sự quan tâm đầu tư từ các trường đại học, hoặc các nhà đầu tư tổ chức. Lý

do các nhà đầu tư thấy loại quỹ đầu tư này rất hấp dẫn vì bản thân các đối tượng huy

động vốn cho các dự án đầu tư mạo hiểm dạng này có mối quan hệ rất tốt với “dây

chuyền” kinh doanh, hay cụ thể hơn họ là người biết rõ nhất những đối tượng có liên

quan trong lĩnh vực đầu tư của mình so với quỹ đầu tư mạo hiểm truyền thống, do đó

có khả năng kết nối, làm việc nhanh, khả năng thành công cao. Vì vậy, quỹ đầu tư mạo

hiểm siêu nhỏ đã khẳng định được chỗ đứng của mình giữa các nhà đầu tư thiên thần

truyền thống và quỹ đầu tư mạo hiểm truyền thống khi kêu gọi vốn đầu tư cho các dự

án riêng của mình. Các quỹ này thường giúp các công ty ở giai đoạn khởi nghiệp

(start-up) với các dịch vụ gia tăng, trợ giúp, hỗ trợ vốn với giá trị dao động trong

khoảng 25,000 USD đến 1 triệu USD (Miloud và các cộng sự, 2012) [80] (Phụ lục 1)

3.1.2. Xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới

Trên thế giới, quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và Châu Âu được coi là hai thị

trường phát triển lâu đời nhất, chiếm trên 80% giá trị đầu tư mạo hiểm trên thế giới

(Vanham, 2015) [97]; do đó việc nghiên cứu xu hướng đầu tư của quỹ đầu tư mạo

hiểm tại hai khu vực này mang tính cấp thiết và định hướng chung cho xu hướng của

toàn cầu.

Trong các năm qua, số lượng các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Mỹ và Châu Âu luôn

có sự tăng trưởng nhất định, như đạt trên 830 quỹ vào năm 2016, với giá trị huy động

được là trên 347 tỷ USD; lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ có xu

hướng tăng mạnh vào lĩnh vực máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng (tỷ trọng 49,1%

năm 2016 tại Mỹ; tại Châu Âu là 20%); với số năm đầu tư bình quân vào mỗi dự án

đầu tư mạo hiểm là 7,4 năm (tại Mỹ) và 6,7 năm (tại Châu Â).

Chi tiết về xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và Châu âu được

trình bày tại Phụ lục 7.

67

3.2. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Trung Quốc và

Hàn Quốc

Tại mỗi quốc gia, vốn đầu tư mạo hiểm đóng vai trò quan trọng trong quá trình

phát triển, giúp các doanh nghiệp với các ý tưởng mới táo bạo có điều kiện tiếp cận

vốn và kinh nghiệm quản lý từ các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước.

Việt Nam đang trong quá trình chuyển mình để hướng tới cuộc cách mạng công

nghiệp 4.0, rất cần thiết việc huy động vốn thông qua quỹ đầu tư mạo hiểm; do đó, học

hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đã đi trước thành công, có vị trí địa lý, điều kiện kinh

tế, chính trị, xã hội tương đồng là cần thiết.

Đối với thị trường đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và các nước phát triển tại Châu Âu,

với lịch sử hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm đã có từ rất lâu, trải qua

nhiều giai đoạn phát triển, với sự thay đổi rất lớn của bối cảnh kinh tế, xã hội; nên điều

kiện áp dụng không có nhiều tương đồng với Việt Nam. Trong khi đó, Trung Quốc

mới phát triển thị trường vốn đầu tư mạo hiểm từ năm 1985; Hàn Quốc bắt đầu quan

tâm và phát triển thị trường vốn đầu tư mạo hiểm từ năm 1997, rất gần với giai đoạn

Việt Nam bắt đầu đổi mới nền kinh tế từ năm 1986; vì vậy khi nghiên cứu quá trình

xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc và Hàn Quốc sẽ giúp cho

Việt Nam có nhiều bài học có giá trị trong xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm.

3.2.1. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc

3.2.1.1. Sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc

Bối cảnh phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc

Có nhiều yếu tố nhấn mạnh tầm quan trọng của vốn đầu tư mạo hiểm và quỹ

đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc.

Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế. Do nhiều hạn chế của nền kinh

tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, và hiện tượng tập trung phần lớn nguồn lực vào

các công ty thuộc sở hữu nhà nước, làm cho thị trường vốn ở Trung Quốc rất khó tiếp

cận theo đúng nghĩa một kênh tài trợ vốn trong một thời gian dài cho các doanh

nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ. Vì vậy, các công ty ở quốc gia này

phần lớn phụ thuộc vào vốn vay của các ngân hàng. Bên cạnh đó, với các mệnh lệnh

can thiệp hành chính từ trung ương hoặc các chính quyền địa phương, các ngân hàng

68

thuộc sở hữu nhà nước của Trung Quốc trong suốt một thời gian dài đã hỗ trợ các công

ty thuộc sở hữu nhà nước với mức lãi suất vay ưu đãi rất thấp, trong khi các công ty

nhỏ, các công ty tư nhân, đặc biệt các công ty không có tài sản thế chấp đã gặp rất

nhiều khó khăn để tiếp cận vốn vay từ các ngân hàng (Lin, 2015b) [70]. Điều đó vô

tình đã làm đẩy mạnh nhu cầu cho thị trường vốn đầu tư mạo hiểm, là phương án khả

thi duy nhất cho các dự án khởi nghiệp có tiềm năng tăng trưởng cao, hoặc với các

công ty công nghệ cao ở giai đoạn đầu mới thành lập. Theo đó, các nhà đầu tư mạo

hiểm với khẩu vị ưa thích rủi ro để mong muốn thu lời lớn từ khoản đầu tư của mình,

họ sẵn sàng cung cấp các khoản vốn đầu tư cần thiết một cách nhanh chóng để mở

rộng các kế hoạch kinh doanh của các công ty dạng này (Fiedler và Hellmann, 2001)

[44].

Thứ hai, sự quan tâm của chính phủ. Từ khi chính phủ Trung Quốc ban hành

rất nhiều chương trình quốc gia để phát triển khoa học công nghệ như Chương trình

9853; Chương trình Ngọn Đuốc4 (Torch Program) vào những năm 1980, nhằm mục

tiêu nâng tầm Trung Quốc trở thành một quốc gia hàng đầu về khoa học - công nghệ

vào thế kỷ 21, cơ sở hạ tầng IT và sự sáng tạo của người Trung Quốc đã được nâng

tầm đáng kể, đặc biệt với sự phát triển như vũ bão của thời đại công nghệ và Internet

như hiện nay. Ví dụ ở Trung Quốc có khu Trung Quan Thôn (Zhongguancun), hay còn

gọi là Thung lũng Silicon của Trung Quốc, riêng trong năm 2014, bình quân mỗi ngày

có 49 dự án khởi nghiệp được thành lập (Bloomberg News, 2015) [25]. Hoặc tính đến

tháng 3 năm 2015, nền công nghiệp khởi nghiệp công nghệ cao của Trung Quốc đã có

hơn 1.600 vườn ươm công nghệ, hỗ trợ cho hơn 80.000 dự án khởi nghiệp, trên 115

trung tâm công nghệ tại các trường đại học và tạo ra hơn 170.000 việc làm (Lin,

2015a) [69]. Trung Quốc hiện nay có hơn 1.000 tổ chức đầu tư vào các dự án khởi

nghiệp với số vốn vượt qua con số 350 tỷ nhân dân tệ, tương đương khoảng 56 tỷ USD

(Lin, 2015a) [69]. Các quỹ đầu tư mạo hiểm đã làm dấy lên phong trào sáng tạo tại

Trung Quốc. Riêng trong năm 2014, quốc gia này có 660.000 bằng sáng chế có giá trị,

tăng 12% so với năm trước đó (Lin, 2015a) [69]. Thậm chí, tầm quan trọng của quỹ

đầu tư mạo hiểm ở Trung Quốc được minh chứng rõ ràng nhất thông qua các công ty

3 Chương trình 985 nhằm thúc đẩy niềm tự hào giáo dục của Trung Quốc, thông qua việc xây dựng, phát triển các trường đại học top đầu thế giới vào thế kỷ 21 4 Chương trình Ngọn đuốc được khởi động năm 1988, nhằm thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực công nghệ cao

69

công nghệ lớn trong thời đại Internet hiện nay, có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế vĩ mô

của quốc gia này như Sina, Sohu, Alibab, đã từng nhận được sự đầu tư từ vốn đầu tư

mạo hiểm ở giai đoạn đầu của mình. Chính điều này đã làm gia tăng mạnh mẽ nhu cầu

về vốn đầu tư mạo hiểm từ các quỹ đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực công nghệ cao

hiện nay (Lin, 2015a) [69].

Thứ ba, môi trường đầu tư. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung quốc

tăng rất nhanh trong thập kỷ qua, với con số rất ấn tượng 7,7% trong giai đoạn 2010-

2014. Số dự án kinh doanh và doanh nghiệp mới thành lập tăng rất mạnh, đặc biệt sau

nỗ lực của chính phủ về sắp xếp lại trình tự đăng ký kinh doanh hợp lý hơn dưới luật

công ty mới của quốc gia này (PRC Companies Act). Trong quý đầu tiên của năm

2015, đã có 844.000 công ty mới được thành lập, tăng tới 38,4% so với cùng kỳ năm

trước đó (Xinhua, 2015) [99]. Môi trường kinh tế được cải thiện, thị trường nội địa

được mở rộng đã khuyến khích hành vi tiêu dùng của người dân tăng lên, tạo điều kiện

cho các dự án kinh doanh nhỏ phát triển, và gia tăng nhu cầu vốn đầu tư mạo hiểm.

Thứ tư, nguồn cung vốn đầu tư mạo hiểm. Số cá nhân và gia đình giàu có đã

tăng đáng kể, làm cho nguồn vốn sẵn có tăng lên rất lớn. Trung Quốc hiện là quốc gia

có số cá nhân giàu có nhiều thứ hai tại Châu Á, với dân số hơn 1,3 tỷ người, nắm giữ

số tài sản ước tính trên 4,3 nghìn tỷ USD (Cumming, 2003) [39]. Việc nền kinh tế

phồn thịnh hơn và sự bùng nổ về sự phát triển của vốn đầu tư mạo hiểm trong thời

gian gần đây đã thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm, nhằm tập

trung vào phân khúc tăng trưởng cao này. Thêm vào đó, chính phủ đã tạo điều kiện

hơn về tự do tiếp cận và mở rộng phạm vi đầu tư của các nhà đầu tư trong thị trường

vốn đầu tư mạo hiểm trong nước. Bằng cách ban hành rất nhiều chương trình đầu tư

cho các nhà đầu tư ngoại, họ đã được cho phép đầu tư vào vốn cổ phần ở Trung Quốc

(Lin, 2015a) [69]. Trong khi đó, ngày càng nhiều các nhà đầu tư tổ chức được phép

đầu tư vào vốn cổ phần trong thời gian gần đây, tạo nguồn cung rất lớn cho vốn của

các quỹ đầu tư mạo hiểm (Lin, 2015a) [69].

Thứ năm, nhu cầu vốn đầu tư mạo hiểm. Một thế hệ doanh nhân mới – thế hệ

doanh nhân thế hệ 1980-1990 đã xuất hiện tại Trung Quốc. Được ví như “những nhà

đầu tư thời đại kỹ thuật số bản địa”, họ có đủ bản lĩnh và tài giỏi để sáng lập ra các

công ty Internet lớn như Tencent và Alibaba, những doanh nhân này có xu hướng trẻ

hóa và không sợ thất bại (Jing, 2015) [65]. Số liệu thống kê tại Trung Quốc cho thấy,

70

2,3% sinh viên tốt nghiệp đại học năm 2013 đã lựa chọn khởi sự doanh nghiệp riêng

của mình. Con số này cao hơn so với những người tốt nghiệp cao đẳng hoặc trung học

phổ thông, với 3,3% lựa chọn trở thành các doanh nhân. Việc hứng thú trở thành các

doanh nhân trẻ với vốn đầu tư mạo hiểm đã được thúc đẩy mạnh mẽ hơn kể từ khi tác

phẩm “Sự sáng tạo và đam mê kinh doanh” được xuất bản tháng 3 năm 2015, nhằm

mục đích khơi dậy dòng máu kinh doanh và cổ vũ tinh thần làm việc của người lao

động tại quốc gia này (ChinaGov, 2015 [35]; Lin, 2015a [69]; Xinhua, 2015) [99].

Các giai đoạn phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc

Nhìn chung, sự phát triển của lĩnh vực quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc có

thể được chia thành các giai đoạn sau:

Giai đoạn đầu: 1985-1990

Các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc thực sự manh nha hình thành từ năm

1985, khi công ty quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên ra đời – Công ty Vốn đầu tư mạo

hiểm Công nghệ mới Trung Hoa5, công ty này được thành lập dưới sự bảo trợ của

chính phủ Trung Quốc. Nhằm khích lệ tinh thần kinh doanh, cũng như tạo điều kiện

cho đổi mới công nghệ, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đã ban

hành Chương trình Ngọn đuốc (Torch Program) vào năm 1988, đây được coi là

chương trình có ảnh hưởng rất lớn đến sự sáng tạo và phát triển của lĩnh vực công

nghệ cao tại nước này. Tiếp sau đó, chính quyền các địa phương và các bộ ngành đã

thành lập rất nhiều các công ty khác nhau nhằm cung cấp tài chính cho các công ty

công nghệ. Đó chính là lý do tại sao tại thời điểm đó, hầu hết các công ty và quỹ đầu

tư mạo hiểm đều do chính phủ hậu thuẫn. Tuy nhiên, do còn khá lạ lẫm với khái niệm

vốn đầu tư mạo hiểm, cũng như thiếu vắng thị trường vốn lúc đó, làm cho việc huy

động vốn của các công ty, quỹ đầu tư mạo hiểm ở giai đoạn này còn rất khó khăn.

Giai đoạn Thử nghiệm: 1990-2000

Từ năm 1990, hàng loạt chính sách và điều luật của chính phủ Trung Quốc

được ban hành nhằm tạo điều kiện cho thị trường vốn đầu tư mạo hiểm phát triển, có

thể kể đến như Chiến lược Hồi sinh Trung Hoa6, thông qua khoa học và giáo dục, Luật

Khuyến khích đổi mới thành tựu khoa học và công nghệ7, v.v… Rất nhiều quỹ đầu tư

5 The China New Technology Venture Capital Company 6 The Strategy of Invigorating China 7 The Law on Promoting the Transformation of Scientific and Technological Achievements

71

của chính phủ được lập ra để cấp vốn cho các công ty công nghệ Start-up, như Quỹ đổi

mới công nghệ8 cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 1999. Bên cạnh đó, thị trường

vốn tại Trung Quốc được nổi lên với sự thành lập Sở Giao dịch Chứng khoán Thượng

Hải và Thâm Quyến năm 1990, đã tạo ra một kênh thoái vốn hiệu quả hơn cho các

thương vụ đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, do sự chậm theo kịp về cơ sở hạ tầng đối với

các quy định, như việc thiếu hụt lựa chọn các công cụ đầu tư sẵn có cho các nhà đầu tư

mạo hiểm, thị trường thứ cấp kém phát triển, làm cho thị trường vốn đầu tư mạo hiểm

phát triển rất chậm chạp trong giai đoạn này. Mặc dù các quỹ đầu tư mạo hiểm nước

ngoài như IDG Capital Partners và Walden International đã bắt đầu bước chân vào thị

trường vốn đầu tư mạo hiểm Trung Quốc, và một số quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân nội

địa đã được thành lập, nhưng chủ yếu chiếm đa số vẫn là các quỹ đầu tư mạo hiểm có

sự hậu thuẫn của chính phủ ở thời kỳ này.

Giai đoạn trầm lắng và phát triển: 2001-2005

Đầu tư vốn đầu tư mạo hiểm sụt giảm rất mạnh tại Trung Quốc sau vụ đổ vỡ

của “Bong bóng dot-com” vào năm 2001 và nền kinh tế toàn cầu suy giảm năm 2002.

Sau đó, nhằm tạo ra môi trường luật pháp thân thiện cho lĩnh vực kinh doanh và khuôn

khổ pháp lý khả thi cho các đối tượng tham gia lĩnh vực vốn đầu tư mạo hiểm, những

quy định và hướng dẫn rõ ràng liên quan đến lĩnh vực này đã được ban hành trong các

khía cạnh như việc thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, việc phê chuẩn của các bên liên

quan, việc quản lý, giám sát thuế và việc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài

ra, năm 2004 sàn giao dịch dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME Board) cũng

được thành lập để tạo ra một kênh mới thoái vốn cho các công ty khởi nghiệp. Kết quả

của các chính sách ưu đãi này, đã làm tỷ trọng của các nhà đầu tư nước ngoài trong

đầu tư mạo hiểm tăng lên từ 5% năm 2003 lên 43,7% năm 2006.

Giai đoạn cải cách cấu trúc sâu rộng: 2006-2013

Sự thay đổi nhanh chóng của các điều kiện hỗ trợ cho sự phát triển của thị

trường vốn đầu tư mạo hiểm đã tạo ra các bước thay đổi rất lớn trong điều kiện môi

trường sinh thái của lĩnh vực này tại Trung Quốc, đồng thời nó tạo ra nhiều kênh khác

nhau để các nhà đầu tư, quỹ đầu tư mạo hiểm thoái vốn khi đầu tư. Trong năm 2011,

lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc đạt mức kỷ lục, đạt

8 The Technical Innovation Fund

72

28.201,99 triệu USD, so với năm trước đó là 11.169 triệu USD; trong khi số lượng quỹ

đầu tư mạo hiểm huy động vốn thành công đã đạt tới 382 quỹ, so với năm 2010 là 158

quỹ.

Những thay đổi về cấu trúc hoạt động thị trường chứng khoán ở nước này đã

tạo ra các bước ngoặt trong vai trò huy động vốn tại các lĩnh vực trong nền kinh tế, đặc

biệt trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Việc phân chia thành các sàn khác nhau như sàn

Mainboard (dành cho các cổ phiếu thả nổi được nắm giữ bởi những nhà đầu tư không

được giao dịch tự do); ChiNext vào năm 2012 (giống sàn NASDAQ, nơi giao dịch cổ

phiếu của các công ty đang tăng trưởng); và New Third Board năm 2013, được coi như

một sàn giao dịch cổ phiếu, và là nơi huy động vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa

(SME).

Một yếu tố khác thúc đẩy nhu cầu sử dụng và khả năng cung cấp vốn cho thị

trường vốn đầu tư mạo hiểm là hàng loạt các chính sách thuế ưu đãi dành cho các công

ty đầu tư mạo hiểm và các nhà đầu tư thuộc lĩnh vực này. Chính điều này đã thu hút

dòng vốn đầu tư mạo hiểm vào các lĩnh vực đặc thù, thúc đẩy tập trung phát triển kinh

tế địa phương tại các khu vực khác nhau tại Trung Quốc.

Thêm vào đó, việc sửa Luật PRC Partnership Enterprise (PEL) vào năm 2006

đã tạo ra bước ngoặt lớn trong việc cho phép hình thành loại hình doanh nghiệp mới –

Công ty hợp danh hữu hạn (Limited partnership). Điều này đã kích thích các nhà đầu

tư đổ vốn vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, nó cho phép cả nhà đầu tư trong và ngoài

nước có thể dễ dàng kết hợp với nhau để thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm dưới dạng

liên doanh, liên kết; mở rộng phạm vi đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước

thông qua việc cập nhật danh mục đầu tư của các nhà đầu tư ngoại và chính sách ngoại

hối của từng bên.

Giai đoạn hướng đến thị trường: 2014 – nay

Từ năm 2014, chính phủ Trung Quốc đã giảm dần phương thức chính phủ trực

tiếp can thiệp vào sự hoạt động của thị trường vốn đầu tư mạo hiểm, chuyển dần sang

mô hình “Chính phủ định hướng + Thị trường tự hoạt động”. Thay vì thành lập ra các

quỹ đầu tư mạo hiểm được chính phủ hỗ trợ, chính phủ nước này đã hỗ trợ lĩnh vực

đầu tư mạo hiểm bằng cách cung cấp vốn cho các giai đoạn hạt giống thông qua các

quỹ định hướng của chính phủ, nhưng không tham dự vào quy trình phân bổ vốn tại

các dự án này.

73

Chính phủ Trung Quốc cho biết, trong năm 2015 nước này đã thu xếp hơn 40 tỷ

NDT (khoảng 6.5 tỷ USD) dành cho Quỹ định hướng đầu tư mạo hiểm quốc gia9 nhằm

hỗ trợ cho các dự án khởi nghiệp thuộc các lĩnh vực mới nổi, nhằm thúc đẩy sáng tạo

và nâng tầm các ngành công nghiệp thuộc lĩnh vực đó. Những quỹ dạng này thường

được chính phủ tài trợ nhằm thúc đẩy các ngành công nghiệp mục tiêu phát triển; có

thể có sự tham gia của các tập đoàn nhà nước hay các nhà đầu tư tư nhân. Do vậy, các

thương vụ đấu thầu công khai sẽ hướng đến các công ty quản lý tài sản chuyên nghiệp,

với mức độ ưu tiên chủ yếu dành cho các nhà đầu tư cá nhân.

Cùng lúc, chính phủ Trung Quốc cam kết tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi

hơn cho đại đa số tầng lớp kinh doanh bằng cách loại bỏ dần các rào cản không hợp lý;

củng cố, nâng cao các dịch vụ công cộng và khuyến khích các sinh viên, các nhà khoa

học và các kỹ sư khởi nghiệp. Đồng thời, chính phủ ban hành hướng dẫn về dự án

Group Innovation Space, và cung cấp nhiều chương trình hỗ trợ cho sự sáng tạo và

khởi sự doanh nghiệp.

Trong quá khứ, chính quyền các địa phương đã ban hành rất nhiều các chính

sách ưu đãi chưa phù hợp, đã làm méo mó sự hoạt động của vốn đầu tư mạo hiểm tại

Trung Quốc. Với các lý do khác nhau, các quỹ đầu tư mạo hiểm được hỗ trợ bởi các

chính quyền địa phương đã cấp vốn cho các doanh nghiệp hoạt động kém để các

doanh nghiệp này tồn tại thoi thóp, nhằm hưởng các chính sách ưu đãi thuế và trợ cấp

từ chính phủ, trong khi lờ đi các dự án khởi nghiệp nhỏ hơn vẫn đang khát vốn hỗ trợ

từ nguồn vốn chính phủ. Chính vì vậy, trong thông báo chính thức của chính quyền

Trung Quốc ngày 27/11/2014 đã nhấn mạnh vai trò để thị trường tự điều tiết trong việc

phân bổ vốn đầu tư mạo hiểm, nhà nước chỉ đóng vai trò định hướng và hỗ trợ khi cần

thiết. Thông báo này nhằm hủy bỏ các chính sách ưu đãi có liên quan đến ưu đãi thuế,

trợ cấp tài chính và các chính sách ưu đãi khác mà chính quyền các địa phương đã

cung cấp cho các công ty đầu tư mạo hiểm. Điều này kéo theo việc thu hồi một loạt

các hợp đồng, cam kết, bản ghi nhớ, ghi chép trong các cuộc họp và các tuyên bố mà

chính quyền các địa phương đã ký kết với các doanh nghiệp nhất định, cũng như các

yêu cầu đề xuất, báo cáo và chấp nhận về mặt nguyên tắc trong tất cả các trường hợp

khác.

9 State Venture Capital Investment Guidance Fund

74

Mục đích chính của động thái trên nhằm nhấn mạnh rằng, sức hút của các địa

phương đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm sẽ không còn được đo đếm bằng lợi ích thuế

và hỗ trợ tài chính nữa, mà bằng những động thái mạnh mẽ hơn như cải cách từ chính

phủ, môi trường đầu tư, hệ thống pháp luật và môi trường đổi mới sáng tạo. Theo đó,

chính quyền các thành phố như Thượng Hải, Bắc Kinh và Thiên Tân đã phải xem lại

các chính sách ưu đãi thuế liên quan đến lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Ví dụ, theo chính

sách thuế mới của chính quyền Thượng Hải, thu nhập cá nhân của các nhà đầu tư

không còn bị đánh mức thuế cố định là 20% như trước kia nữa, mà được phân theo

doanh thu và sản phẩm của công ty mà họ đầu tư, và được phân chia thành 5 mức thuế

khác nhau, từ 5%-35%.

3.2.1.2. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc

Khung pháp lý về cơ chế quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm

Khung pháp lý để quản lý vốn đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm tại

Trung Quốc hiện vẫn đang đổi mới không ngừng. Lĩnh vực vốn đầu tư mạo hiểm bao

gồm rất nhiều giao dịch, nhiều giai đoạn trong chu trình vòng quay của vốn đầu tư,

bao gồm huy động vốn, quá trình hoạt động, đầu tư và thoái vốn, tất cả đều đã được

quy định trong các văn bản pháp quy.

Đối với cơ chế pháp luật đặc thù của đầu tư mạo hiểm, khía cạnh chính mà cơ

chế tại Trung Quốc khác Mỹ ở chỗ, nền tảng quy định tại Trung Quốc dựa trên sự

phân loại của các tổ chức tài chính và sản phẩm mà họ cung cấp. Ví dụ, các quỹ đầu tư

được thành lập dưới dạng các công ty tín thác và được điều chỉnh bởi Ủy ban quản lý

ngân hàng Trung Hoa - CBRC10, trong khi các công ty chứng khoán và các công ty

quản lý quỹ, các sản phẩm tài chính của họ được điều chỉnh bởi Ủy ban điều tiết chứng

khoán Trung Quốc - CSRC11. Trên thực tế, Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia -

NDRC12 và CSRC luôn cạnh tranh để giành quyền quản lý lĩnh vực vốn cổ phần tư

nhân và quỹ đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc. Chính sự không rõ ràng và thống nhất

trong việc quản lý này đã làm cản trở sự phát triển của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và sự

không thống nhất các quy định liên quan đối với các đối tượng tham gia thị trường.

10 The China Banking Regulatory Commission 11 The China Securities Regulatory Commission 12 The National Development and Reform Commission

75

Một điểm đổi mới đáng ghi nhận đó là sự ra đời của một khuôn khổ pháp lý

mới dành riêng cho lĩnh vực vốn cổ phần tư nhân và quỹ đầu tư mạo hiểm ở Trung

Quốc thông qua việc ban hành quy định về Đăng ký các nhà quản lý quỹ đầu tư mạo

hiểm tư nhân và Nộp hồ sơ của các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân13, bản thí điểm thực

hiện (for Trial Implementation) vào năm 2014 do Hiệp hội quản lý tài sản Trung Quốc

(AMAC) ban hành (AMAC Meassures); và Các biện pháp tạm thời đểm quản lý và

giám sát Quỹ đầu tư tư nhân14 vào năm 2014.

Theo khuôn khổ pháp lý mới này, quyền soạn thảo các quy định và luật pháp

liên quan đến vốn cổ phần tư nhân và lĩnh vực đầu tư mạo hiểm đã được chuyển từ Ủy

ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC) sang Ủy ban Quản lý chứng khoán, sau

đó được ủy quyền cho một tổ chức tự quản tên là Hiệp hội Quản lý Tài sản Trung

Quốc15

Như vậy, hiện nay Ủy ban điều tiết chứng khoán Trung Quốc (CSRC) là cơ

quan ban hành các quy định chính về các lĩnh vực liên quan đến các quỹ đầu tư mạo

hiểm, nhằm quản lý và giám sát hiệu quả.

Nguồn vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm

Tại Trung Quốc, trong quá trình xây dựng và phát triển, nguồn vốn đầu tư mạo

hiểm của các quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm: (1) Các nhà đầu tư thiên thần; (2) Các

nhà đầu tư tổ chức; (3) Chính phủ.

Thứ nhất, nguồn vốn từ các nhà đầu tư thiên thần.

Với bản chất kinh doanh của các nhà đầu tư tổ chức như quỹ hưu trí, các tổ

chức từ thiện, các công ty bảo hiểm, thường nghiêng về các dự án đầu tư mạo hiểm dài

hạn.

Tại Bảng 3.1, khi nhìn vào số lượng các nhà đầu tư Trung Quốc, cho thấy

54,5% là các cá nhân và gia đình giàu có, 14,9% là các doanh nghiệp tư nhân và 8,5%

là các công ty đầu tư. Phần còn lại là các tổ chức đầu tư vốn tư nhân hoặc quỹ đầu tư

mạo hiểm tư nhân, các công ty niêm yết, tổ chức chính phủ, quỹ do chính phủ bỏ vốn,

các công ty quản lý tài sản và quỹ của quỹ.

13 The Registration of Private Investment Fund Managers and Filing of Private Investment Funds 14 The Interim Measures for Supervision and Administration of Private Investment Fund – CSRC Interim Measures 15 Asset Management Association of China AMAC

76

Đối với số lượng các dự án đầu tư, trong năm 2014, các công ty niêm yết tại

Trung Quốc chính là các đối tượng nhà đầu tư lớn nhất tại lĩnh vực đầu tư mạo hiểm,

chiếm tới 25% tổng tài sản đầu tư, với giá trị lên đến 221,66 tỷ USD; tiếp theo sau đó

là các quỹ hưu trí công và các quỹ đầu tư quốc gia, lần lượt chiếm 19,2% và 17.5%

tổng tài sản đầu tư.

Việc các nhà đầu tư thiên thần chiếm ưu thế chứ không phải các quỹ đầu tư,

quỹ hưu trí và các công ty bảo hiểm trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc có

thể được giải thích bởi hai lý do chính:

(1) Tại Trung Quốc có rất nhiều cá nhân giàu có sẵn sàng bỏ vốn để đầu tư;

(2) Hậu quả của việc hạn chế đầu tư vốn cổ phần tư nhân trong các thập kỷ

trước, làm cho các nhà đầu tư tổ chức như quỹ đầu tư quốc gia và các công ty bảo

hiểm không có đủ thời gian để tích lũy vốn đầu tư. Tuy nhiên, việc các nhà đầu tư cá

nhân chiếm đa số trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm đã tạo ra nhiều vấn đề trong quá

trình hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Cụ thể, nhìn chung các nhà đầu tư cá

nhân ít có sự hiểu biết về lĩnh vực tài chính, cũng như khả năng chấp nhận rủi ro thấp

hơn so với các nhà đầu tư tổ chức. Rất nhiều nhà đầu tư cá nhân thuộc thế hệ giàu có

thứ nhất, tài sản họ kiếm được sau mở cửa và cải cách kinh tế năm 1978. Do đó, họ

không sẵn lòng giao tiền của mình cho bên thứ ba để đầu tư, mà có xu hướng muốn tự

muốn định đoạt vốn đầu tư của mình bằng việc tự mình lựa chọn các công ty để đầu

tư.

Thứ hai, nguồn vốn từ các nhà đầu tư tổ chức

Các nhà đầu tư nước ngoài từng bước đã được cho phép đầu tư vào vốn cổ phần

tại Trung Quốc thông qua chương trình Qualified Foreign Limited Partner (QFLP),

chương trình Renminbi Qualified Foreign Institutional Investor (RQFII), và chương

trình Renminbi Qualified Foreign Limited Partner (RQLFP).

Các nhà làm luật, đáng chú ý nhất là Ủy ban điều tiết chứng khoán Trung Quốc

- CSRC, Ủy ban Điều tiết Bảo hiểm Trung Quốc - CIRC16 và Ủy ban Quản lý Ngân

hàng Trung Quốc - CBRC đều đã dỡ bỏ những hạn chế trước đây đối với Quỹ Bảo

hiểm xã hội - NSSF17, các công ty bảo hiểm, các ngân hàng thương mại và các công ty

tín thác trong đầu tư vốn cổ phần. Ví dụ, Ủy ban Điều tiết Bảo hiểm Trung Quốc đã

16 China Insurance Regulatory Commission 17 National Social Security Fund

77

ban hành nhiều hướng dẫn, định hướng đầu tư nhằm cho phép các công ty bảo hiểm

tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Kết quả là, theo số liệu thống kê lĩnh vực bảo

hiểm năm 2015, khu vực bảo hiểm tại quốc gia này đã đầu tư vào thị trường vốn đầu

tư mạo hiểm với tốc độ tăng trưởng tổng tài sản rất nhanh, lên đến trên 15 tỷ NDT vào

cuối năm 2015, và khoảng 20% tổng tài sản đã được phân bổ vào đầu tư vốn cổ phẩn.

2013 2.50% 29.70% 35.00% 24.80% 0.70% 1.00% 3.00% 3.00% 0.30%

2015 2.70% 29.50% 34.20% 22.90% 0.70% 1.10% 2.80% 5.40% 0.70%

2014 2.60% 29.90% 34.70% 24.30% 0.70% 1.10% 2.90% 3.10% 0.70%

Bảng 3. 1. Vốn huy động dưới hình thức hợp danh hữu hạn tại các quỹ đầu tư mạo hiểm và công ty vốn cổ phần tại Trung Quốc 2012 Trung Quốc 2.10% Cá nhân và gia đình giàu có 32.20% Các công ty và tập đoàn 33.10% Công ty đầu tư và quỹ đầu tư 24.70% Quỹ hưu trí 0.80% Tổ chức từ thiện 1.10% Công ty bảo hiểm 3.80% Ngân hàng/ dịch vụ tài chính Các tổ chức liên quan đến chính phủ 2.20% 0.00% Khác 100.00% 100.00% 100.00% 100.00% Tổng

Nguồn: Zero2IPO, 2016

Bảng 3. 2. Tỷ lệ nhà đầu tư tham gia vào mô hình quỹ đầu tư Hợp danh hữu hạn tại Trung Quốc

Trung Quốc

2012

2013

2014

2015

Các cá nhân và gia đình

46.10%

50.20%

50.80%

54.40%

giàu có

Các công ty và tập đoàn

19.50%

17.20%

16.60%

14.90%

Các công ty đầu tư

4.70%

5.90%

6.10%

8.50%

Khác

29.70%

26.70%

26.50%

22.20%

Tổng

100.00% 100.00% 100.00% 100.00%

Nguồn: Zero2IPO, 2016

Thứ ba, nguồn vốn đầu tư từ chính phủ

Chính phủ Trung Quốc đã cấp vốn cho các dự án đầu tư mạo hiểm cho các

Start-up công nghệ thông qua nhiều chương trình hỗ trợ của chính phủ như Quỹ đổi

mới cho các công ty công công nghệ, Quỹ đầu tư công nghiệp, Quỹ định hướng chính

phủ. Các dữ liệu nghiên cứu từ năm 2008 cho thấy, 80% vốn đầu tư của các quỹ đầu tư

mạo hiểm là do chính phủ đứng đằng sau hỗ trợ đầu tư.

Quỹ đổi mới dành cho các công ty công nghệ S(IFTBF) do Hội đồng Nhà nước

thành lập, nhằm đẩy nhanh mục tiêu của chính phủ là khuyến khích nghiên cứu, đổi

78

mới và sáng tạo sáng tạo bằng cách tạo ra nguồn vốn dễ dàng tiếp cận cho các doanh

nhân. Với vai trò là một dự án phi lợi nhuận của chính phủ, IFTBF được tạo ra nhằm

đóng góp vào sự phát triển của Trung Quốc thông qua việc tăng GDP và tạo ra nhiều

việc làm cho công chúng. Quỹ đầu tư công nghiệp (IFF) là quỹ đầu tư đặc biệt của

chính phủ nhằm huy động vốn từ các nhà đầu tư tổ chức đặc biệt, bao gồm Quỹ bảo

hiểm xã hội quốc gia, các doanh nghiệp nhà nước (SOEs), các ngân hàng thương mại,

các công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán và các tổ chức tài chính khác theo quy

định của Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC).

Hình thức sở hữu của quỹ đầu tư mạo hiểm

Tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức của quỹ, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể được phân

chia thành 3 loại chính:

(1) Quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty;

(2) Quỹ đầu tư mạo hiểm dạng tín thác;

(3) Quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn.

Trong số các quỹ đầu tư mới được thành lập từ năm 2008 trở lại đây, 51,19%

mô hình hợp danh hữu hạn; 39,29% mô hình công ty; 4,76% là mô hình quỹ tín thác.

Luận án này đi sâu tìm hiểu về 2 mô hình được phổ biến nhất là quỹ dạng hợp danh

hữu hạn và dạng công ty tại Trung Quốc.

Quỹ đầu tư mô hình hợp danh hữu hạn

Mô hình công ty hợp danh hữu hạn là loại hình doanh nghiệp mới tại Trung

Quốc, được chính thức thông qua năm 2007 tại Luật Công ty Hợp danh - PEL18. Có

hai vấn đề nổi cộm trong mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn tại

Trung Quốc, đó là:

(1) Quyền kiểm soát. Không giống như những người góp vốn hữu hạn (Limited

Partners – LPs) trong quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ, thường không tham gia vào sự hoạt

động của quỹ. Tại Trung Quốc, các đối tượng này thường mang tính chủ động, sẵn

sàng tham gia vào sự quản lý của quỹ đầu tư, đặc biệt trong quá trình lựa chọn danh

mục công ty để đầu tư. Ngoài ra, còn có cơ chế quản trị nội bộ cho phép trao quyền

này cho họ, hoặc thông qua rất nhiều loại ủy ban nội bộ khác nhau. Trong khi, khi so

sánh với một quỹ đầu tư mạo hiểm điển hình ở Mỹ, chỉ có GPs (General Partners) mới

18 Partnership Enterprise Law of the People’s Republic of China

79

được phép quyết định về các hoạt động thường ngày của quỹ. Các ủy ban nội bộ này

thường được gọi với cái tên “ủy ban chiến lược đầu tư”, thường bao gồm cả LPs, GPs

và các tư vấn viên ngoài, nhằm xem xét và quyết định các dự án đầu tư.

(2) Chi phí. Tại thị trường vốn đầu tư mạo hiểm Mỹ, các chi phí được phân bổ

theo “Luật 2/20”, có nghĩa các quỹ đầu tư sẽ quy định, chi phí trả cho GPs bao gồm 2

phần chính: phí quản lý thường niên cho các dịch vụ sẽ chiếm khoản 2-2.5% vốn cam

kết; và 20-25% phần lãi khi đầu tư. Luật phân bổ chi phí này được chấp nhận từ lâu

trong giới đầu tư mạo hiểm, được coi là cơ chế hiệu quả nhằm thu hút LPs và GPs, bởi

lẽ lợi ích của các bên tham gia phụ thuộc nhiều vào sự thành công của quỹ, do đó tạo

cơ chế khuyến khích sự làm việc hiệu quả của GPs.

Quỹ đầu tư dạng công ty

Tại Trung Quốc, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty có thể tồn tại dạng công ty

trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, theo Luật công ty Trung Quốc 2005. Đối

với các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài có thể chọn loại hình doanh nghiệp khác

được dành riêng cho các khoản đầu tư của người nước ngoài, đó là doanh nghiệp đầu

tư vốn đầu tư mạo hiểm - VCIE19. So với quỹ đầu tư mạo hiểm nội địa, quỹ đầu tư

mạo hiểm nước ngoài được nhiều lợi thuế hơn, với việc giảm 70% thuế của tổng giá trị

đầu tư của quỹ vào các công ty công nghệ cao, các công ty nhỏ và vừa trong hơn 2

năm.

Một lợi thế khác của mô hình quỹ đầu tư dạng công ty so với mô hình hợp danh

hữu hạn là trách nhiệm của tất cả các nhà đầu tư đã được giới hạn, trong khi trách

nhiệm của GPs là vô hạn. Cũng giống như các cổ đông phổ thông trong một công ty,

các nhà đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty sẽ nhận quyền lợi cũng như

trách nhiệm trong theo tỷ lệ vốn góp của họ vào quỹ. Thứ hai, các cổ đông trong quỹ

đầu tư dạng công ty được phép tham dự vào việc quản lý của quỹ thông qua thực hiện

rất nhiều quyền cổ đông như quyền bỏ phiếu trong các cuộc họp cổ đông, hoặc bổ

nhiệm các giám đốc của quỹ. Cấu trúc công ty cũng hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư cá

nhân – đối tượng mà rất chủ động trong việc quản lý điều hành của quỹ hơn so với

dạng hợp danh hữu hạn, với quy định không cho phép các nhà đầu tư tham dự vào việc

quản lý của quỹ. Thứ ba, dưới góc độ cấu trúc quản trị nội bộ, quỹ đầu tư dạng công ty

19 The Venture Capital Investment Enterprise

80

ít linh hoạt và hiệu quả hơn so với quỹ dạng hợp danh. Theo luật Trung Quốc, quyền

lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, ban lãnh đạo, ban kiểm soát và quản

lý trong doanh nghiệp được quy định rất chặt chẽ thông qua các Luật Công ty, Luật

Chứng khoán và các quy định niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán. Thêm vào đó,

Luật Công ty Trung Quốc quy định, quỹ đầu tư dạng công ty phải có hệ thống ban

lãnh đạo hai tầng, như ban giám đốc và ban kiểm soát. Do đó, một quỹ đầu tư dạng

trách nhiệm hữu hạn phải có ban lãnh đạo bao gồm từ 3 đến 13 giám đốc; hay ban

kiểm soát phải có ít nhất 3 thành viên. Tuy vậy, mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn

thường chỉ có một giám đốc điều hành với một hoặc hai giám sát viên, thay vì cả ban

giám đốc hoặc ban kiểm soát, do quy mô của công ty nhỏ, chỉ có một lượng nhỏ người

góp vốn.

Vai trò của thị trường vốn

Thị trường chứng khoán đóng vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của thị

trường vốn đầu tư mạo hiểm. Gilson & Black (1997) cho rằng, tại các quốc gia có thị

trường chứng khoán phát triển, cho phép các nhà tư bản mạo hiểm thoái vốn thuận lợi

hơn thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO).

Sự xuất hiện của cổ phần ưu đãi

Thị trường chứng khoán tại Trung Quốc từ lâu chỉ chấp nhận hình thức “một cổ

phiếu một phiếu bầu”, bởi chỉ có một loại cổ phiếu được chấp nhận đó là cổ phiếu phổ

thông. Cho đến năm 2013, luật pháp nước này mới cho phép các công ty cổ phần chưa

niêm yết và đã niêm yết phát hành cổ phiếu ưu đãi, cả phát hành ra công chúng và phát

hành riêng lẻ. Chính việc cho phép tồn tại loại cổ phiếu ưu đãi này đã khuyến khích

các nhà đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các công ty mình mong muốn, với vai trò nhà đầu

tư chiến lược, với quyền biểu quyết cao hơn so với cổ phần thường, hoặc quyền lợi cao

hơn cổ đông thường khi phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp.

Sàn giao dịch cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME Boards)

SME Boards được thành lập từ năm 2005, với mục tiêu tạo ra hệ thống thị

trường chứng khoán nhiều tầng, cung cấp nguồn huy động vốn dễ dàng cho các doanh

nghiệp nhỏ và vừa tại Trung Quốc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, cho đến nay SME

Boards không phải là nơi phù hợp để các nhà tư bản mạo hiểm thoái vốn. Lý do chính

là do yêu cầu niêm yết nghiêm ngặt tại sàn này, với các yêu cầu niêm yết và ngưỡng

niêm yết hầu hết giống sàn giao dịch Main Boards. Ví dụ yêu cầu công ty niêm yết

81

phải đáp ứng được 3 năm liên tiếp có lãi, không ít hơn 30 triệu NDT, dòng tiền cộng

dồn trong 3 năm liền kề ít nhất 50 triệu NDT, doanh thu thường niên ít nhất 300 triệu

NDT, v.v… Do vậy, các yêu cầu này đã lọc và loại ra gần hất các công ty nhận vốn

đầu tư mạo hiểm.

Sàn giao dịch ChiNext

ChiNext có nghĩa là China Next, có thể hiểu là sàn giao dịch cho các công ty

tăng trưởng, được thành lập tháng 10 năm 2009 tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thâm

Quyến. Mặc dù ChiNext được coi là NASDAQ tại Trung Quốc, nhưng trên thực tế nó

khác NASDAQ ở chỗ, mục tiêu chủ yếu của nó là thu hút các công ty thuộc lĩnh vực

công nghệ cao, các công ty tăng trưởng cao niêm yết và giao dịch tại ChiNext, trong

khi NASDAQ không tập trung vào một lĩnh vực hoặc loại hình công ty cụ thể nào cả.

Lý do ChiNext thu hút được nhiều doanh nghiệp niêm yết tại đây do điều kiện, yêu

cầu của nó đơn giản hơn Main Board và SME Board. Ví dụ, một doanh nghiệp chỉ cần

yêu cầu có giá trị thị vốn không ít hơn 30 triệu NDT sau IPO, là có thể được xem xét

niêm yết tại ChiNext, trong khi tại Main Board và SME Board là 50 triệu NDT. Yêu

cầu về lợi nhuận để được niêm yết tại ChiNext cũng thấp hơn so với hai sàn kia. Đối

với ChiNext, chỉ cho phép xem xét 2 tiêu chuẩn về lợi nhuận: (1) tổ chức phát hành

phải có lợi nhuận 2 năm liền kề phải lớn hơn 10 triệu NDT, năm sau phải cao hơn năm

trước; và (2) doanh thu các năm liền kề phải lớn hơn 50 triệu NDT, tăng trưởng ít nhất

30% trong 2 năm liền trước khi niêm yết.

Sàn giao dịch New Third Board

Hệ thống báo giá và giao dịch vốn cổ phần quốc gia - NEEQ20, còn được gọi

với cái tên New Third Board, là Sở Giao dịch Chứng khoán quốc gia Trung Quốc, với

mục tiêu nhắm đến là các công ty nhỏ và vừa, được thành lập năm 2006. Đây là sàn

giao dịch với tiêu chuẩn niêm yết thấp nhất tại Trung Quốc.

Tuy nhiên, đối với các nhà đầu tư khi mua bán cổ phiếu tại New Third Board lại

có yêu cầu khá rõ ràng và khắt khe, ví dụ với các nhà đầu tư cá nhân, yêu cầu phải có

giá trị chứng khoán nắm giữ ít nhất 3 triệu NDT, ít nhất 2 năm kinh nghiệm đầu tư

chứng khoán, hoặc có nền tảng kiến thức về tài chính, kế toán. Do vậy, đối tượng giao

dịch tại sàn này chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức như công ty chứng khoán, công ty

20 The National Equities Exchange and Quotation System

82

bảo hiểm, quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư tư nhân, quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc các

nhà đầu tư nước ngoài.

3.2.2. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc

3.2.2.1. Sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc

Lịch sử hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc

Năm 1974, Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc - KIST thành lập Tập đoàn

Công nghệ Tiên tiến Hàn Quốc - KTAC, ngày nay là Kibo Capital, được coi là quỹ

đầu tư mạo hiểm đầu tiên tại Hàn Quốc. Mục tiêu của quỹ đầu tư này là cung cấp vốn

đầu tư cho việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của Viện Khoa học và Công

nghệ Hàn Quốc. Năm 1981, chính phủ Hàn Quốc thành lập Tập đoàn Phát triển Công

nghệ Hàn Quốc - KTDC, nay là KTB Network; tiếp sau đó, năm 1982, Tập đoàn Đầu

tư Phát triển Hàn Quốc - KDIC được thành lập, nay là TG Venture; năm 1984, Tập

đoàn Công nghệ Tài chính Hàn Quốc - KTFC thành lập, nay là KDB Capital. Các quỹ

đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc thành lập những năm 1980 có mục tiêu hỗ trợ quá trình

phát triển kinh tế, theo các chương trình mục tiêu của chính phủ, hơn là với mục đích

đầu tư sinh lời độc lập. Các quỹ đầu tư này thường không chủ động trong việc đầu tư

cho các doanh nhân khởi nghiệp, hoặc không nhằm mục đích tài trợ vốn cho các công

ty ở giai đoạn đầu phát triển, mà thường tập trung vào cung cấp các khoản vốn vay mà

chính phủ định hướng hỗ trợ, như tập trung vào lĩnh vực sản xuất máy móc công

nghiệp nặng, công nghiệp hóa chất, v.v…

Tháng 1 năm 1997, các huyền thoại “quá lớn để sụp đổ” tại Hàn Quốc đã suy

sụp, phá sản như Hanbo Group; kéo theo các tập đoàn khác như Sammi, Jinro,

Deanong, Kia, Ssangbangwool cũng tuyên bố lâm vào tình trạng nguy kịch hoặc phá

sản vào tháng 3 năm 1997. Điều này dẫn đến một loạt các hệ lụy, như các ngân hàng

cho vay bị mất vốn, các công ty có liên quan bị phá sản; đặc biệt tình trạng thất nghiệp

gia tăng nhanh chóng. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng, buộc chính phủ Hàn

Quốc đã phải cầu cứu IMF để được tiếp cận khoản vay lớn nhằm thoát ra khỏi khùng

hoảng.

Giữa cuộc khủng hoảng đang diễn ra phức tạp, chính phủ Hàn Quốc bắt đầu

quan tâm đến loại hình kinh doanh/đầu tư mạo hiểm như là hướng đi mới nhằm giúp

quốc gia này vượt qua khủng hoảng, khuyến khích phát triển doanh nghiệp trong nước;

83

thiết lập các chính sách nhằm tập trung phát triển lĩnh vực đầu tư mạo hiểm như là

chìa khóa chính để giải quyết vấn đề thất nghiệp, phát triển kinh tế. Vì thế, có thể coi

sự phát triển của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm là kết quả của quá trình nỗ lực tái cấu trúc

toàn bộ nền kinh tế nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1990.

Với sự hỗ trợ trực tiếp từ chính phủ Hàn Quốc, như đầu tư cho giáo dục, phát

triển tinh thần doanh nhân, ưu đãi thuế, chính sách, v.v… đã làm cho lĩnh vực đầu tư

mạo hiểm tại nước này đạt được sự phát triển thần kỳ.

Quan điểm của Hàn Quốc về đầu tư mạo hiểm

Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu định hình đầu tư mạo hiểm từ việc ban hành Luật

về các biện pháp đặc biệt để xúc tiến đầu tư mạo hiểm từ tháng 10 năm 1997, trong đó

đã nêu cụ thể các yếu tố và quá trình phát triển để được công nhận đầu tư mạo hiểm.

Theo quan điểm hiện nay của Hàn Quốc, có 3 cách thức, tiêu chuẩn để được công

nhận là đầu tư mạo hiểm: Dựa trên quyết định của thị trường, tức là do các công ty

đầu tư mạo hiểm quyết định, tức là nếu các nhà đầu tư mạo hiểm xác định đầu tư vào

một công ty, thì công ty đó được coi là công ty mạo hiểm. Hoặc nếu công ty đó thực

hiện rất nhiều hoạt động liên quan đến nghiên cứu và phát triển (R&D), hoặc trình độ

khoa học kỹ thuật của công ty đó ở mức cực kỳ cao, thì được chính phủ coi là một

công ty mạo hiểm, do đó đủ tiêu chuẩn để thu hút các quỹ đầu tư tư nhân, các điều

kiện về thuê người lao động như đối với công ty mạo hiểm.

Nếu một doanh nghiệp muốn được nhận ưu đãi để đối xử như với công ty đầu

tư mạo hiểm, doanh nghiệp đó cần cung cấp bằng chứng, chứng nhận do các cơ quan

nhà nước, các nhà đầu tư cá nhân, các ngân hàng hoặc bất cứ đối tượng nào đủ điều

kiện để đánh giá theo quy định của pháp luật. Theo đó, một doanh nghiệp muốn được

công nhận là công ty đầu tư mạo hiểm cần cung cấp các bằng chứng và giấy tờ liên

quan.

Các giai đoạn phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc

Căn cứ vào sự hỗ trợ, quan tâm chính thức của chính phủ Hàn Quốc đối với lĩnh

vực đầu tư mạo hiểm, có thể chia sự phát triển của đầu tư mạo hiểm nói chung và quỹ

đầu tư mạo hiểm tại quốc gia này thành 4 giai đoạn: (1) Giai đoạn Khởi đầu: 1986-

1997; (2) giai đoạn Bùng nổ: 1998-2001; (3) giai đoạn thoái trào, cải cách: 2002-2004;

(4) giai đoạn Sắp xếp lại và phát triển ổn định: 2005-nay.

Giai đoạn Khởi đầu: 1986-1997

84

Mặc dù trước năm 1997, thị trường vốn đầu tư mạo hiểm chưa thực sự nhận

được sự quan tâm của chính phủ và giới đầu tư Hàn Quốc, nhưng cũng có một số

chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty khởi nghiệp lĩnh vực công nghệ

được ban hành năm 1986, như Luật doanh nghiệp nhỏ và vừa; Luật tài trợ dự án công

nghệ mới, đặc biệt sự ra đời của Sở giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc KOSDAQ năm

1996.

Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu đưa ra các kế hoạch 5 năm để khuyến khích các

dự án khởi nghiệp, đặt các ưu tiên cao nhất trong chính sách của mình đối với lĩnh vực

đầu tư mạo hiểm kể từ năm 1997, như việc ban hành Đạo luật các biện pháp đặc biệt

khuyến khích kinh doanh mạo hiểm vào tháng 8 năm 1997. Đây chính là đạo luật nền

tảng cho cơ sở pháp lý sau này cho hàng loạt chính sách của chính phủ, bao gồm các

dự án đầu tư công và bãi bỏ các rào cản đối với đầu tư mạo hiểm trước kia.

Giai đoạn Bùng nổ: 1998-2001

Trong giai đoạn bùng nổ này, chính phủ Hàn Quốc chủ động tham gia thông

qua việc hỗ trợ tài chính và đào tạo nguồn nhân lực cần thiết cho lĩnh vực đầu tư mạo

hiểm. Ví dụ như việc hỗ trợ thuế cho các công ty và quỹ đầu tư mạo hiểm (1998), thực

thi các thử nghiệm đầu tư mạo hiểm và quyền chọn chứng khoán (1999), hình thành

các quỹ đầu tư mạo hiểm công (1999); loại bỏ các điều kiện đối với các công ty mạo

hiểm để niêm yết trên thị trường chứng khoán KOSDAQ, thực hiện các biện pháp hỗ

trợ marketing đầu tư mạo hiểm tại nước này ra thị trường quốc tế, v.v… Đồng thời,

chính phủ Hàn Quốc bắt đầu thiết lập các quy định cụ thể về đầu tư mạo hiểm để có

được sự trợ giúp từ công chúng.

Giai đoạn thoái trào, cải cách: 2002-2004

Năm 2002, thị trường chứng khoán KOSDAQ gần như sụp đổi dưới ảnh hưởng

của “bong bóng dot-com”, làm cho hàng loạt các dự án mạo hiểm đối mặt với khủng

hoảng thanh khoản bởi sự sụt giảm nghiêm trọng lượng vốn đầu tư mạo hiểm. Trong

giai đoạn thoái trào này, chính phủ Hàn Quốc đã bắt đầu thay đổi quan điểm với lĩnh

vực đầu tư mạo hiểm, chuyển từ việc hỗ trợ trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp, đặc biệt với

việc sử dụng các chuyên gia trong lĩnh vực tư nhân, xác định cụ thể các công ty mạo

hiểm, thu hút nguồn lực tư nhân. Đồng thời, chính phủ giới thiệu tầm quan trọng của

thương hiệu công ty đầu tư mạo hiểm, quy định các yếu tố chặt chẽ trong đầu tư mạo

hiểm, mở rộng cơ sở hạ tầng cho đầu tư mạo hiểm, loại bỏ các hành vi tiêu cực của các

85

nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm. Thêm vào đó, chính phủ cũng tăng ngân sách cho

các hệ thống vườn ươm mạo hiểm như tại các trường đại học, các trung tâm nghiên

cứu, bắt đầu cho thành lập hình thức quỹ của quỹ. Tất cả những điều trên nhằm làm

minh bạch việc quản lý đầu tư mạo hiểm, khuyến khích tái cấu trúc lĩnh vực này, tạo

tiền đề cho giai đoạn cải cách và phát triển sau này của đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc.

Giai đoạn Sắp xếp lại và phát triển ổn định: 2005-nay

Trong giai đoạn này, chứng kiến sự đổi mới mạnh mẽ trong các chính sách về

đầu tư mạo hiểm của Hàn Quốc, đặc biệt từ năm 2005, chính phủ tập trung vào phát

triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghệ sáng tạo, tạo hệ sinh thái

đầu tư mạo hiểm lành mạnh, nhằm giúp các công ty sáng tạo có thể khởi nghiệp và

tăng trưởng tốt, công bằng, dễ dàng thu hút vốn đầu tư mạo hiểm. Chính phủ Hàn

Quốc đồng thời cũng nỗ lực tạo các điều kiện khác nhằm khôi phục đầu tư mạo hiểm

(từ 12/2004), thiết lập các tiêu chí bổ sung để vực dậy lĩnh vực đầu tư mạo hiểm (từ

6/2005). Thêm vào đó, chính phủ cũng nhanh chóng thành lập Quỹ của quỹ trị giá 1

nghìn tỷ won vào năm 2005, tái thiết lập các tiêu chuẩn về đầu tư mạo hiểm theo

hướng thân thiện với môi trường đầu tư hiện tại (năm 2006). Các chính sách tiêu biểu

trong thời gian này như các ưu đãi trong 10 năm đối với các công ty đầu tư mạo hiểm

(tháng 8/2007); các hỗ trợ cho các trường đại học và viện nghiên cứu đối với các dự án

khởi nghiệp liên quan đến công nghệ (năm 2008); chương trình tự làm chủ kinh doanh

sáng tạo (năm 2009); ngoài ra còn có các chương trình hỗ trợ cho các doanh nhân khởi

nghiệp tạm thời thất bại nhằm tạo điều kiện cho họ vực dậy (năm 2009), chương trình

nâng cao và đảm bảo trách nhiệm các bên trong liên doanh liên kết đầu tư (năm 2012).

20000

15000

10000

5000

0

2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Vốn cam kết

Vốn ban đầu

Hình 3. 1. Vốn đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc (Đơn vị: Tỷ won)

Nguồn: KVCA, 2019

86

Từ các nỗ lực của chính phủ Hàn Quốc, số lượng vốn đầu tư mạo hiểm qua các

năm đã có sự cải thiện đáng kể; với số vốn đầu tư cam kết tăng từ 3.891 tỷ won năm

2005 lên đến 14.206 tỷ won năm 2013. Bên cạnh đó, tổng giá trị đầu tư trong lĩnh vực

đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc tăng mạnh mẽ qua các năm, với 2,8 nghìn tỷ won năm

2004, tăng lên đến trên 5,9 nghìn tỷ won năm 2018.

70,000

60,000

50,000

40,000

Đầu tư mới

30,000

Tổng đầu tư

20,000

10,000

0

Hình 3. 2. Giá trị đầu tư giai đoạn 2004-2018 tại Hàn Quốc (Đơn vị: 100 triệu won)

Nguồn: KVCA, 2019

3.2.2.2. Vai trò của chính phủ đối với sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm tại

Hàn Quốc

Các chương trình hỗ trợ sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm

Sau giai đoạn bong bóng đầu tư mạo hiểm nổ ra, người Hàn Quốc nhận ra rằng,

việc xây dựng, củng cố các chính sách, cơ sở hạ tầng cho đầu tư mạo hiểm, cho sự

phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm quan trọng hơn khuyến khích mọi người khởi

nghiệp một cách liều lĩnh. Do vậy, trong những năm 2000, chính phủ mong muốn tạo

ra hàng loạt các chính sách hỗ trợ, kiểm soát, dựa vào sự phát triển của vòng quay đầu

tư mạo hiểm, nhằm khuyến khích, tránh tạo ra các sơ hở tiêu cực cho các cá nhân, tổ

chức trục lợi. Trọng tâm của các chính sách đó là dựa vào vòng đời của đầu tư mạo

hiểm: Khởi đầu - Tăng trưởng - Thoái vốn - Tái khởi động.

Chương trình hỗ trợ tài năng trẻ khởi nghiệp

Với nền tảng lựa chọn các doanh nhân trẻ khởi nghiệp đáp ứng được các tiêu

chí nhất định, như có các ý tưởng mới, công nghệ mới, có triển vọng phát triển, v.v…

trong khi gặp khó khăn về huy động vốn, chính phủ Hàn Quốc có gói vốn đầu tư và

87

vốn vay trị giá 1,6 nghìn tỷ won để hỗ trợ các doanh nghiệp này. Nhiệm vụ này được

giao cho Small Business Corporation thực hiện chương trình quỹ khởi nghiệp cho vay-

trả có điều chỉnh, trị giá 50 tỷ won. Đây là cách mà chính phủ chia sẻ rủi ro với các

startup trẻ, giúp họ bắt đầu hoặc tái khởi động kế hoạch kinh doanh khi họ thất bại,

nhằm khuyến khích các doanh nhân trẻ thực hiện các dự án kinh doanh của riêng

mình. Ngoài ra, còn một số tổ chức khác cũng đóng vai trò tương tự trong việc cấp vốn

cho các doanh nhân trẻ như Small & Medium Business Administration, các tập đoàn

nhà nước, các tổ chức tài chính tư nhân, các trường đại học hoặc viện nghiên cứu,

v.v…

Chương trình hỗ trợ nhà đầu tư thiên thần

Đối với các dự án khởi nghiệp, việc huy động vốn trong giai đoạn đầu là rất khó

khăn, do đó, vai trò của các nhà đầu tư thiên thần, các nhà đầu tư mạo hiểm đóng vai

trò rất quan trọng. Bởi lẽ trên thực tế, các thương vụ đầu tư nhỏ, giá trị thấp thường

không thu hút được các nhà đầu tư mạo hiểm, vì thế các nhà đầu tư thiên thần sẽ lấp

khoảng trống gọi vốn này. Việc thành lập Trung tâm hỗ trợ đầu tư thiên thần, được coi

như cơ quan một cửa để giúp các hoạt động đầu tư, như giúp các nhà đầu tư thiên thần

tìm các dự án đầu tư hấp dẫn, hướng dẫn các thủ tục pháp lý, v.v… Bên cạnh đó, nhằm

giảm thiểu rủi ro đầu tư của các nhà đầu tư thiên thần, năm 2011 chính phủ Hàn Quốc

đã tạo ra Quỹ liên kết các nhà đầu tư thiên thần, trị giá 10 tỷ won, với cam kết, chính

phủ sẽ đầu tư một lượng vốn tương ứng với các nhà đầu tư thiên thần khi họ tham gia

đầu tư.

Chương trình giáo dục doanh nhân

Hệ thống giáo dục hỗ trợ doanh nhân, do chính phủ quản lý, với các chương

trình được thiết kế với các mục đích khác nhau, có 4 chương trình chủ yếu:

Chương trình BizCool (từ năm 2002): Chương trình giáo dục dành cho việc

khởi nghiệp và quản lý kinh doanh, dành cho đối tượng học sinh tiểu học, trung học và

trung học phổ thông, nhằm giúp họ hiểu và thực hành tinh thần doanh nhân, khơi dậy

tiền năng kinh doanh, đầu tư, khả năng thương mại hóa ý tưởng, hạn chế tình trạng

thất nghiệp với các đối tượng trẻ thông qua việc gợi mở, thúc đẩy khả năng tự kinh

doanh của bản thân.

Chương trình bồi dưỡng doanh nhân ở bậc đại học, cao đẳng (từ năm 2005):

Truyền bá và nâng cao tinh thần khởi nghiệp, bằng việc giảng dạy, cung cấp cho sinh

88

viên các kỹ năng cần thiết như ý tưởng thành lập doanh nghiệp, tinh thần doanh nhân,

các thủ tục hành chính, v.v… Các khóa giáo dục doanh nhân tại các trường đại học tập

trung vào việc hỗ trợ các khóa học liên quan đến mở và quản lý doanh nghiệp mới, với

các yêu cầu điểm số như các môn học khác; trong khi các câu lạc bộ khởi nghiệp tại

các trường đại học khuyến khích phát triển các sản phẩm khởi nghiệp có thể thương

mại hóa được, các kế hoạch đối phó với cạnh tranh trong kinh doanh, nghiên cứu các

cơ hội tại nước ngoài nhằm hỗ trợ các hoạt động hợp tác mang tầm quốc tế.

Bảng 3. 3. Một số thông tin về chương trình BizCool 2011

2006

2004

2003

2007

2002

2005

2009

2015

2017

Năm

Ngân sách tài trợ

N/A

N/A

10

10

12.5

13.7

15.7

25

22.4

43.8

(100 triệu won)

Số trường tham gia

16

50

80

100

83

94

96

135

149

100

Số lượng sinh viên

3000

1000

23000 26000 32000 52000 61000 85000 94000 76000

Số lượng giáo viên

N/A

N/A

340

210

182

150

150

323

304

366

tham gia

Nguồn: kvca.or.kr, 2018

Chương trình đào tạo doanh nhân cho đối tượng sau đại học (từ năm 2004):

Chương trình này nhằm mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng phòng hộ

doanh nghiệp trước sự cạnh tranh của các đối thủ trong và ngoài nước, dành cho các

doanh nhân tiềm năng, hoặc các doanh nhân với công nghệ tiên tiến, có nhiều ý tưởng

ban đầu có triển vọng. Chương trình nhấn mạnh trách nhiệm, kinh nghiệm trong

thương trường, đồng thời giúp các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư tương lai nắm bắt

cơ hội để thương mại hóa các sản phẩm, ý tưởng đầu tư của mình.

Bảng 3. 4. Thông tin về chương trình khởi nghiệp tại bậc đại học

Năm

2006 2008 2011 2013 2015

2017

Số lượng khóa học khởi nghiệp

51

82

116

218

411

632

Số lượng sinh viên tham gia

3585 3765 6532 9237 11543 65069

Số lượng câu lạc bộ tham gia hỗ trợ 50

55

78

119

350

640

Nguồn: kvca.or.kr, 2018

Học viện khởi nghiệp công nghệ: Học viện này dành cho các cá nhân trưởng

thành, đã có kinh nghiệm làm việc, muốn khởi sự doanh nghiệp mạo hiểm của riêng

mình, thường cùng lĩnh vực công việc trước đây của họ. Điều này được hiểu là, nếu

các cá nhân chưa biết khởi sự doanh nghiệp, chưa có kỹ năng quản lý, chính phủ sẽ

giúp họ thông qua các chương trình tại các trường đại học và các tổ chức công.

89

Chương trình này bao gồm 2 phần chính: (1) nâng cao hiểu biết về khởi sự và quản lý

doanh nghiệp, nâng cao khả năng hiểu biết về tạo lập, hình thành doanh nghiệp ở giai

đoạn đầu của hoạt động doanh nghiệp. (2) nâng cao khả năng sống sót của doanh

nghiệp thông qua các dịch vụ tư vấn quản lý, như dịch vụ kế toán, luật pháp, tài chính

hay tư vấn khác.

Bảng 3. 5. Kết quả chương trình đào tạo doanh nhân cho đối tượng sau đại học

Năm

2004 2005 2006 2007 2008 2011 2015 2017

Đơn xin sở hữu trí tuệ 0

4

29

34

40

62

91

115

Luận văn tốt nghiệp

0

46

71

90

54

70

65

115

Nguồn: kvca.or.kr, 2018

Bảng 3. 6. Chương trình đào tạo doanh nhân đối với người trưởng thành

Năm

2005

2006

2007

2009

2011

2015

2017

Đơn vị đào tạo

11

11

12

15

27

26

27

Người tham gia/

384/297

326/266

357/256 449/36

1195/9

1009/8

1061/8

Người hoàn thành

8

91

87

72

Số lượng khởi

156

100

169

174

418

438

507

nghiệp

Nguồn: kvca.or.kr, 2018

Chương trình Vườn ươm kinh doanh Hàn Quốc

Mục tiêu của chương trình vườn ươm kinh doanh nhằm nâng cao tỷ lệ thành

công của các dự án khởi nghiệp, bằng cách hỗ trợ các doanh nhân qua các công cụ như

công nghệ, tạo lập giá trị doanh nghiệp, phát triển khả năng thành công của dự án để

thương mại hóa sản phẩm, v.v… Các biện pháp chủ yếu hỗ trợ cho các dự án vườn

ươm kinh doanh bao gồm: (1) nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm và công nghệ;

(2) nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu và marketing; (3) nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý; (4) nâng cao khả năng cạnh tranh

trên thị trường quốc tế; (5) nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng việc đầu tư cho cơ sở

hạ tầng; trong đó dựa trên cơ sở luật pháp chủ yếu như Luật thành lập và hỗ trợ các

doanh nghiệp nhỏ và vừa; Luật đối xử đặc biệt nhằm phát triển đầu tư mạo hiểm.

Chính phủ Hàn Quốc đã tài trợ tổng số tiền lên đến gần 700 tỷ won tính đến

năm 2011 (trong đó 427 tỷ won dành cho vườn ươm lĩnh vực xây dựng, 273 tỷ won

đối với lĩnh vực quản lý); số lượng vườn ươm kinh doanh tăng mạnh trong giai đoạn

90

1998-2017, với 30 dự án năm 1998, tăng mạnh lên 265 năm 2006; đến năm 2017, số

lượng vườn ươm đã tăng lên 480 dự án.

3.2.2.3. Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc

Cấu trúc quỹ đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc

Nhận biết được vấn đề đối với việc thu hút vốn đầu tư, chính phủ Hàn Quốc đã

tham gia hỗ trợ lĩnh vực đầu tư mạo hiểm bằng cách tập trung phát triển quỹ đầu tư

mạo hiểm công chúng, nhằm chia sẻ rủi ro với các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân, bằng

cách khuyến khích mối quan hệ đối tác quỹ đầu tư công chúng và quỹ đầu tư tư nhân.

Quỹ đầu tư công chúng có thể giảm thiểu rủi ro trong đầu tư bằng cách cùng đầu tư

hoặc đầu tư vào quỹ đầu tư tư nhân, gọi là hình thức quỹ của quỹ (Funds of fund). Do

vậy, các công ty đầu tư mạo hiểm có thể thu hút vốn từ các nhà đầu tư tổ chức như các

ngân hàng thương mại, các quỹ hưu trí hoặc các tổ chức tài chính khác, cũng như các

nhà đầu tư tư nhân, giúp cho ngày càng nhiều công ty khởi nghiệp có thể thu hút vốn

đầu tư.

Hàn Quốc tạo lập quỹ đầu tư công chúng từ năm 2005 với mục đích phát triển

loại hình quỹ của quỹ, với các khoản đầu tư thu hút từ Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và

vừa Hàn Quốc, Bộ Văn hóa thể thao và du lịch, Cục sở hữu trí tuệ Hàn Quốc, Hội

đồng phim truyện Hàn Quốc và Ủy ban truyền thông Hàn Quốc nhằm khuyến khích

các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt

trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Tổng công ty đầu tư mạo hiểm Hàn Quốc - KVIC, đại

diện đặc biệt trong quản lý quỹ của quỹ dưới sự giám sát của SMBA, đầu tư vào các

quỹ đầu tư khởi nghiệp, quỹ đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, quỹ đầu

tư tư nhân. Các quỹ đầu tư mạo hiểm muốn nhận vốn từ quỹ đầu tư công chúng cần có

kế hoạch đầu tư và nguồn đầu tư cụ thể.

Cơ chế quản lý, giám sát quỹ đầu tư mạo hiểm

Tại Hàn Quốc, quỹ đầu tư mạo hiểm thường được thành lập dưới dạng quỹ của

quỹ, theo Luật đãi ngộ đặc biệt cho sự phát triển của lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm,

do Tập đoàn đầu tư mạo hiểm Hàn Quốc quản lý, đánh giá và giá sát bởi SMBA. Tập

đoàn đầu tư mạo hiểm Hàn Quốc sẽ quyết định kế hoạch hoạt động thường niên, lĩnh

vực phân bổ vốn, số lượng và thời gian họp hàng năm, thành lập hướng dẫn cho việc

quản lý quỹ của quỹ. Các thông tin như lĩnh vực phân bổ vốn đầu tư, quy mô đầu tư,

91

danh mục đầu tư chính yếu, v.v… đều được công bố trên trang chủ của Tập đoàn đầu

tư mạo hiểm Hàn Quốc.

Quản lý – Sử dụng

Đầu tư

SBC

SMBA

Hình 3. 3. Cấu trúc Quỹ của quỹ tại Hàn Quốc

Công ty liên kết

Quản lý

Quỹ SME Quỹ Văn hóa Quỹ bằng sáng chế Quỹ phim truyện Quỹ phát thanh truyền hình

Vốn: 50 tỷ won

Giám sát

Quản lý – Sử dụng

Korea Venture

Quỹ của quỹ

Investment Corp

(Theo luật dân sự)

Quỹ đầu tư

Quỹ đầu tư mạo hiểm

Quỹ đầu tư vốn cổ

công nghệ mới

Hàn Quốc

phần chuyên biệt

Tài khoản đầu tư chung

Quỹ đầu tư mạo hiểm

Nguồn: Small and Medium Business Administration, 2012

Quỹ của quỹ phân bổ nguồn vốn đầu tư để huy động vốn cho quỹ drop-down

theo mục tiêu thành lập của các tổ chức góp vốn; các quỹ đầu tư mạo hiểm được thành

lập phải đầu tư tối thiểu 60% vốn vào các công ty nhỏ và vừa trong tất cả các lĩnh vực

đầu tư chính. Lúc này tập đoàn đầu tư mạo hiểm Hàn Quốc đóng vai trò là thành viên

đặc biệt, nhằm giám sát xem quỹ có đầu tư theo đúng tôn chỉ khi thành lập ban đầu

hay không. KVIC sẽ nhận đề xuất đầu tư, lựa chọn công ty quản lý quỹ thông qua quá

trình đánh giá nhiều bước nhằm đánh giá, lọc các tiêu chí để đánh giá, như mức độ ổn

định của các cổ đông hay nhà đầu tư lớn, kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư, tính phù

hợp trong dự án đầu tư của quỹ và các chiến lược thoái vốn. Bước lựa chọn cuối cùng

của các công ty quản lý quỹ là quyết định thông qua hội đồng đầu tư, đặc biệt phần

khuyến nghị của các chuyên gia trong các tổ chức góp vốn và giám đốc của KVIC.

Nguồn vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm

Tính đến cuối năm 2017, tổng số vốn cam kết đối với 431 quỹ đầu tư mạo hiểm

tại Hàn Quốc đạt đến 10,4 nghìn tỷ won, trong khi vốn gốc đầu tư là 1,1 nghìn tỷ won;

tổng nguồn vốn đầu tư đạt tới 11 nghìn tỷ won. Nguồn vốn đầu tư đối với quỹ đầu tư

92

mạo hiểm tại Hàn Quốc chủ yếu được tài trợ bởi các cơ quan thuộc chính phủ (chiếm

41,7%), các tổ chức tài chính (chiếm 16,6%), các tập đoàn đầu tư (chiếm 14,8%) và

bản thân các quỹ đầu tư mạo hiểm (chiếm 14,3%).

Hình 3. 4. Các bước lựa chọn công ty quản lý quỹ

Bước 3. Xem xét thận trọng Xem kỹ xét lưỡng đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm đủ tiêu chuẩn

Bước 2. Xem xét lần đầu Xem xét đối với các quỹ đầu tư dưới tiêu chuẩn Bước 1. Nhận đề nghị đầu tư Xác định mục tiêu phân bổ tài sản đầu tư

Bước 4. Đánh giá lần thứ hai Đánh khả giá năng, hiệu quả, triển vọng đầu tư

Bước 5. Đưa ra quyết định Công ty quản lý quỹ ra đưa quyết định trong ủy ban đầu tư

Bước 6. Quyết định cuối cùng Đưa ra quyết định cuối cùng, thảo luận các điều kiện đầu tư

Nguồn: Small and Medium Business Administration, 2012

Các nhà đầu tư thiên thần đóng góp khoảng 29 tỷ won vào tổng vốn đầu tư mạo

hiểm tại Hàn Quốc (năm 2000), thường chủ yếu đầu tư vào các công ty chưa niêm yết.

Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa các nhà đầu tư thiên thần Hàn Quốc và Mỹ ở

chỗ, tại Hàn Quốc, các nhà đầu tư tư nhân thường nhắm đến các công ty mạo hiểm ở

giai đoạn sau hoặc ở giai đoạn tiền IPO. Trên thực tế, các công ty mạo hiểm thường ưu

tiên các nhà đầu tư tổ chức hơn là các nhà đầu tư cá nhân, bởi họ kỳ vọng về lượng

tiền nhiều và thời gian đầu tư lâu dài. Do đó, trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm đầy cạnh

tranh như hiện nay, rất khó để các nhà đầu tư tư nhân sử dụng được vốn của mình, do

đó nguồn tiền đối với đối tượng này được coi là rất dồi dào, cần được khơi thông trong

tương lai.

Các tổ chức tài chính được coi là nguồn huy động vốn phong phú và hấp dẫn

đối với các dự án đầu tư mạo hiểm. Kể từ năm 2000, rất nhiều tổ chức tài chính như

các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm bắt đầu

trực tiếp tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Họ tiến hành phân bổ nguồn vốn của

93

mình vào các dự án đầu tư, thậm chí trực tiếp có các phòng, ban liên quan chuyên xem

xét các dự án, cơ hội đầu tư mạo hiểm để đầu tư.

0.4% 2%

2%

Các cơ quan chính phủ

9%

Các tổ chức tài chính

42%

Các tập đoàn đầu tư

13%

Các quỹ đầu tư mạo hiểm

15%

Quỹ hưu trí

17%

Nhà đầu tư cá nhân

Hình 3. 5. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc (%)

Nguồn: Nguồn: kvca.or.kr, 2018

3.3. Bài học

Như vậy, qua nghiên cứu xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới

cũng như nghiên cứu kinh nghiệm từ Trung Quốc và Hàn Quốc, luận án rút ra được

một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như vai trò của chính phủ, lĩnh vực khuyến

khích đầu tư, tầm quan trọng của mạng lưới kết nối, lựa chọn hình thức quỹ đầu tư

mạo hiểm phù hợp, hay vai trò của thị trường chứng khoán trong quá trình xây dựng,

phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm.

3.3.1. Chính phủ đóng vai trò thiết yếu trong quá trình xây dựng và phát triển

quỹ đầu tư mạo hiểm

Chính phủ luôn đóng vai trò tiên quyết, đầu tàu trong quá trình xây dựng và

phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm. Theo quan điểm của luận án, chính phủ thể hiện vai

trò của mình ở hai góc độ chính: góc độ xây dựng, hình thành các quỹ đầu tư mạo

hiểm; và góc độ hỗ trợ trong quá trình phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Vai trò

của chính phủ được thể hiện như sau:

Thứ nhất, chính phủ dựa trên việc quan sát, nghiên cứu, điều tra nhu cầu của

thị trường để xem xét có cho phép sự hình thành, mức độ phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm tại quốc gia mình hay không. Chính phủ thể hiện quyền lực của mình ở chỗ có

thừa nhận hình thức sở hữu, hoặc hình tức tồn tại của chủ thể đó hay không trong nền

kinh tế. Ví dụ, trước năm 1980, nền kinh tế tư nhân chưa được thừa nhận ở Trung

Quốc, vì thế tất cả các hình thức đầu tư trong xã hội đều do chính phủ điều hành, nắm

giữ. Điều này gây ra hậu quả là tích lũy của cải trong xã hội thấp, ít có các cá nhân, gia

94

đình giàu có, vì thế việc huy động vốn trong dân gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, việc

không thừa nhận sở hữu tư nhân cũng làm cho ý niệm về các quỹ đầu tư tư nhân trở

nên xa vời, không thực tế; bên cạnh đó, việc có ý tưởng hình thành các quỹ đầu tư mạo

hiểm dạng công ty trở nên không hợp pháp trong giai đoạn này. Như vậy, chính phủ

đóng vai trò là chìa khóa đầu tiên cho phép có hay không việc hình thành quỹ đầu tư

mạo hiểm.

Thứ hai, chính phủ ban hành các quy định liên quan đến luật pháp, kinh doanh

trong xã hội, tạo điều kiện để hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm. Các quy định của pháp

luật như việc thừa nhận các khái niệm trong kinh doanh, góp vốn, hình thức sở hữu

trong nền kinh tế, cơ chế giám sát các chủ thể trong xã hội thực thi các quy định của

pháp luật. Ví dụ tại Việt Nam hiện nay, vẫn chưa có một quy định cụ thể trong luật do

cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành về khái niệm quỹ đầu tư mạo hiểm, chỉ có

các khái niệm do các nhà đầu tư ngầm hiểu, hoặc do học theo từ các quốc gia khác,

được lưu truyền trong cộng đồng đầu tư.

Thứ ba, chính phủ đóng vai trò hỗ trợ trong việc hình thành và phát triển các

quỹ đầu tư mạo hiểm. Tại giai đoạn đầu hình thành, chính phủ thường xây dựng các

quỹ đầu tư mạo hiểm do mình quản lý, góp vốn để đầu tư, nghiên cứu; qua đó thu hút

sự quan tâm của công chúng để huy động vốn ở các giai đoạn sau. Khi thị trường đã

thừa nhận sự tồn tại của quỹ đầu tư mạo hiểm, chính phủ có thể từ từ rút vốn, hoặc chỉ

góp vốn mang tính chất hỗ trợ cho các quỹ đầu tư mạo hiểm do các chủ thể khác nhau

trong nền kinh tế xây dựng lên. Nhu cầu đầu tư mạo hiểm trong xã hội rất lớn, nếu các

chủ thể huy động vốn đầu tư cho quỹ đầu tư mạo hiểm gặp khó khăn, trong khi có các

dự án có triển vọng, tiềm năng tăng trưởng cao trong tương lai, chính phủ có thể đóng

vai trò hỗ trợ bằng cách đối ứng vốn cho các quỹ đầu tư này, hoặc đứng ra quảng bá,

bảo trợ để quỹ đầu tư mạo hiểm đó thực hiện gọi vốn đầu tư thành công. Ngoài ra,

chính phủ có thể thúc đẩy quá trình gọi vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm trong xã hội

bằng cách tạo điều kiện về thuế suất trong đầu tư mạo hiểm, quy định rõ ràng các đối

tượng nào trong nền kinh tế được góp vốn đầu tư mạo hiểm, nhằm huy động tối đa nội

lực trong nền kinh tế, cũng như thu hút hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài trong đầu

tư mạo hiểm.

Thứ tư, nhằm thúc đẩy sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm, chính phủ

can thiệp, han hành các chính sách kịp thời để quá trình hoạt động của các quỹ đầu tư

95

mạo hiểm được lành mạnh, phát triển bền vững. Điều này khác với vai trò thứ hai ở

chỗ, khi các quỹ đầu tư mạo hiểm đã được hình thành, cần thiết có các quy định của

pháp luật để các nhà đầu tư tin tưởng vào lĩnh vực đầu tư này. Có thể kể đến một số

quy định mà pháp luật cần chú tâm như có các cơ chế giám sát hoạt động của các quỹ

đầu tư, tránh hiện tượng huy động vốn lừa đảo, trục lợi cá nhân; thống nhất cơ quan

giám sát, quản lý, tránh chồng chéo quản lý giữa các cơ quan trong chính phủ, gây tốn

kém nguồn lực, phiền hà cho các quỹ đầu tư mạo hiểm trong quá trình hoạt động; bảo

vệ quyền tác giả, phát minh, sáng chế, quyền sở hữu trí tuệ, nhằm ghi nhận công sức

nghiên cứu của các doanh nhân khởi nghiệp, các công ty đầu tư mạo hiểm để bảo vệ

lợi ích cho các quỹ đầu tư mạo hiểm. Hơn nữa, chính phủ cũng cần quy định các hạn

chế trong đầu tư mạo hiểm, tránh sự chồng chéo trong lĩnh vực đầu tư của các chủ thể

trong xã hội; bởi lẽ, bản chất của đầu tư mạo hiểm là hoạt động trong lĩnh vực công

nghệ cao, lĩnh vực đổi mới sáng tạo.

Thứ năm, chính phủ hỗ trợ sự phát triển toàn diện của quỹ đầu tư mạo hiểm

thông qua việc nâng cao mức độ hiểu biết về đầu tư mạo hiểm trong xã hội. Để thực

hiện điều này, chính phủ tập trung vào gốc của vấn đề, đó là giáo dục. Thông qua các

chương trình giáo dục ở các độ tuổi, cấp bậc khác nhau, giúp toàn xã hội hiểu sâu sắc

về tinh thần doanh nhân, khơi dậy tính sáng tạo, dám nghĩ dám làm trong dân chúng;

hiểu được mức độ rủi ro, cũng như thành quả khi tham gia vào đầu tư mạo hiểm; từ đó

tạo ra các tầng lớp doanh nhân khởi nghiệp, dám nghĩ dám làm, tạo cầu của vốn đầu tư

mạo hiểm. Bên cạnh đó, việc hiểu về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm cũng giúp cho quá

trình huy động vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm được thuận lợi hơn; quá trình tuyển

mộ nhân sự làm việc trong các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng phong phú, hiệu quả.

Thứ sáu, khi thị trường đã thừa nhận sự tồn tại của quỹ đầu tư mạo hiểm, chính

phủ không nên trực tiếp tham gia vào đầu tư mạo hiểm, mà hãy để thị trường tự điều

tiết, dựa vào nhu cầu của thị trường. Chính phủ chỉ nên đóng vai trò dẫn dắt thị trường

thông qua các định hướng chính sách, quy định trong đầu tư; kinh nghiệm tại Trung

Quốc và Hàn Quốc cho thấy, các quỹ đầu tư mạo hiểm có vốn hoàn toàn từ chính phủ

hoạt động kém hiệu quả hơn so với các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân, do vấn đề về cơ

chế bổ nhiệm cán bộ quản lý, về chế độ phân chia lợi nhuận, v.v…

96

3.3.2. Tập trung đầu tư vào lĩnh vực yêu cầu trình độ khoa học, công nghệ cao

Nhằm phát triển kinh tế nhanh chóng, bền vững, cần thiết sự phát triển của các

lĩnh vực khoa học công nghệ cao. Kinh nghiệm từ hai quốc gia kể trên cho thấy, chính

việc khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ

cao đã giúp các quốc gia này tạo được sự tăng trưởng kinh tế vượt bậc, vượt qua giai

đoạn khủng hoảng, kinh tế khó khăn. Mặt khác, điều khác biệt giữa đầu tư mạo hiểm

so với đầu tư thông thường đó là khả năng thu được lợi nhuận lớn trong tương lai;

trong khi chỉ có các nhà đầu tư mạo hiểm mới hiểu rõ được bản chất mối quan hệ “rủi

ro lớn, lợi nhuận cao” trong đầu tư. Tại Việt Nam, làn sóng cách mạng công nghiệp

4.0 đang được triển khai rầm rộ tại các lĩnh vực trong nền kinh tế, với sự tham gia của

tất cả các bộ, ngành. Nhưng thực tế tại các quốc gia cho thấy, lĩnh vực nên đầu tư

trọng tâm là lĩnh vực phần mềm, bởi nó có thể tận dụng được tiềm năng trí tuệ của

người Việt Nam, mà không cần đầu tư cơ sở hạ tầng, thiết bị quá lớn.

3.3.3. Tận dụng thu hút nguồn vốn đầu tư mạo hiểm từ tất cả các thành phần

trong xã hội

Các quỹ đầu tư mạo hiểm nên tận dụng nguồn vốn đầu tư từ tất cả các thành

phần trong nền kinh tế như các nhà đầu tư thiên thần, các nhà đầu tư tổ chức, và nguồn

vốn từ chính phủ. Đối với các nhà đầu tư thiên thần, ưu điểm của họ là nguồn vốn dồi

dào, tổng nguồn lực rất lớn, do đó nếu thu hút được các nhà đầu tư thiên thần góp vốn

vào các quỹ đầu tư mạo hiểm thì các quỹ này sẽ có nguồn vốn lớn để đầu tư vào các

công ty đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, các nhà đầu tư thiên thần đôi khi có chiến lược

đầu tư chưa rõ ràng, thích tham gia vào hoạt động của quỹ, điều này có thể gây rắc rối

đối với vấn đề quản lý quỹ. Đối với các nhà đầu tư tổ chức, với ưu thế tiền lực tài

chính lớn, mức độ hiểu biết về đầu tư chuyên nghiệp, có chiến lược đầu tư, thoái vốn

rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình các quỹ đầu tư huy động vốn và đầu tư.

Đối với chính phủ, các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể coi đây là nguồn lực huy động vốn

đầu tư vô cùng lớn, với các chính sách ưu đãi đối tại các ngành nghề được xác định

trước trong từng giai đoạn; ngoài ra, vốn đầu tư từ chính phủ đôi khi còn là nguồn vốn

sống còn, khi các dự án có triển vọng, có tiềm năng tăng trưởng nhưng thiếu hụt vốn

trong quá trình đầu tư; hoặc trong trường hợp tại Hàn Quốc, có chính sách tái đầu tư

cho các doanh nhân khởi nghiệp khi họ thất bại, giúp họ vực dậy để tiếp tục tinh thần

doanh nhân của mình.

97

3.3.4. Mạng lưới kết nối trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm

Đầu tư mạo hiểm được coi là lĩnh vực đầu tư có mức độ rủi ro cao, vì vậy, cần

thiết phải có kênh kết nối hiệu quả mạng lưới các đối tượng tham gia vào lĩnh vực đầu

tư mạo hiểm, nhằm kết nối thông tin nhanh chóng, kịp thời. Việc kết nối các đối tượng

tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm sẽ mang lại một số lợi ích sau:

Thứ nhất, thông qua mạng lưới này, các nhà đầu tư mạo hiểm có cùng khẩu vị

rủi ro có thể cùng nhau hợp lực, huy động, góp vốn vào các dự án có triển vọng. Đồng

thời lúc này, các nhà đầu tư mạo hiểm cũng có kênh thông tin để tìm hiểu, trao đổi với

nhau về các dự án đang huy động vốn, đánh giá triển vọng, đề phòng các thông tin lừa

đảo, trục lợi. Ngoài ra, các nhà đầu tư mạo hiểm cũng có cơ hội tốt hơn để chia sẻ thực

tế về các quỹ đầu tư mình đang tham gia đầu tư; từ đó có sự so sánh giữa các quỹ với

nhau một cách cụ thể nhất.

Thứ hai, thông qua mạng lưới kết nối này, các doanh nhân khởi nghiệp có thể

tìm, gặp nhau để chia sẻ về các ý tưởng của mình; tham khảo các đối tượng có cùng

chuyên môn như các doanh nhân khởi nghiệp khác, các nhà khoa học, các chuyên gia

trong lĩnh vực họ cần tìm hiểu. Từ đó, các đối tượng này có thể ký kết, trao đổi ý kiến,

bản quyền sáng chế để hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu, thử nghiệm sản phẩm của

mình được nhanh chóng, đạt được tỷ lệ thành công cao hơn, tiết kiệm thời gian, chi

phí.

Thứ ba, các quỹ đầu tư mạo hiểm dễ dàng hơn trong việc điều tra nhu cầu đầu

tư mạo hiểm, mức độ chấp nhận rủi ro của các nhà đầu tư mạo hiểm; từ đó có các

chiến lược thu hút vốn phù hợp trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, thông qua kênh thông

tin này, các quỹ đầu tư mạo hiểm có thể chủ động tuyển mộ nhân viên với chuyên môn

phù hợp làm việc cho quỹ; nâng cao chất lượng nhân sự, với các nhân viên chuyên sâu

tại các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm mà quỹ đã, đang và có ý định đầu tư.

Để xây dựng mạng lưới kết nối trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, có thể xây

dựng đặc khu phát triển cho khoa học công nghệ, đầu tư mạo hiểm như xây dựng

Thung lũng Silicon ở Mỹ, Trung Quan Thôn ở Trung Quốc; hoặc có thể xây dựng các

website chuyên biệt dành cho lĩnh vực này, giúp các đối tượng liên quan dễ dàng tra

cứu, tìm hiểu thông tin.

98

3.3.5. Lựa chọn hình thức quỹ đầu tư mạo hiểm phù hợp trong từng thời kỳ

Với các mức độ phát triển khác nhau trong từng thời kỳ của thị trường vốn đầu

tư mạo hiểm, cần thiết có sự lựa chọn, khuyến khích những hình thức đầu tư mạo hiểm

phù hợp. Từ kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, phát triển của các quỹ đầu tư mạo

hiểm ở trên cho thấy, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng đóng không phù hợp trong quá trình

phát triển lâu dài, do theo quy định, các nhà đầu tư có thể dễ dàng bán các chứng chỉ

quỹ đầu tư này cho các nhà đầu tư khác; điều này dẫn đến tình trạng có sự tham gia

của các nhà đầu cơ chứng chỉ quỹ, họ sẽ mua bán trao tay nhanh chóng để kiếm lời,

dẫn đến có những đối tượng nhà đầu tư không phù hợp với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm;

ảnh hưởng đến quá trình hoạt động lâu dài của quỹ. Bên cạnh đó, tùy mức độ phát

triển của thị trường mà các quỹ đầu nên được xác lập ở hình thái phù hợp. Ví dụ như

quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn có thể coi là hình thái cao nhất, phức tạp

nhất; với mọi điều khoản trong quá trình hoạt động, đầu tư đã thể hiện trong hợp đồng

từ ban đầu; do đó yêu cầu các nhà đầu tư tham gia vào quỹ đầu tư dạng hợp danh hữu

hạn phải thực sự hiểu biết về các khía cạnh trong đầu tư mạo hiểm, tránh bị hớ trong

quá trình soạn thảo hợp đồng, gây bất đồng, hiểu nhầm ý, dẫn đến những tranh chấp

không đáng có về sau.

3.3.6. Tập trung phát triển thị trường chứng khoán

Kinh nghiệm tại Trung Quốc và Hàn Quốc cho thấy, để tạo điều kiện cho các

quỹ đầu tư mạo hiểm thoái vốn, cần thiết phát triển thị trường chứng khoán về chiều

sâu. Thị trường chứng khoán phát triển sẽ giúp dân chúng hiểu về lĩnh vực đầu tư tài

chính, từ đó giúp cho quá trình huy động vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm được thuận

lợi hơn. Mặt khác, việc xây dựng các sàn giao dịch chứng khoán, với các mức độ, tiêu

chuẩn niêm yết khác nhau sẽ giúp các công ty đầu tư mạo hiểm nhận vốn từ các quỹ

đầu tư mạo hiểm dễ dàng thoái vốn, thông qua phương thức IPO. Lúc này, các doanh

nghiệp với kết quả hoạt động kinh doanh, quy mô vốn khác nhau sẽ có nhiều sự lựa

chọn để niêm yết; giúp cho quá trình thoái vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm được thuận

lợi, nhanh chóng khởi đầu một chu kỳ đầu tư mới.

99

Kết luận chương 3

Các quỹ đầu tư mạo hiểm trong những năm gần đây đã có xu thế tập trung vào

các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực công nghệ cao, dược phẩm, y tế,

hoặc công nghệ sinh học, công nghệ nano, v.v… Vì thế các doanh nhân khởi nghiệp,

các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam rất nên xem xét lĩnh vực mình muốn đầu tư

trong giai đoạn hiện nay, nhằm bắt kịp xu thế của thời đại.

Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc và Hàn Quốc cho thấy, trong những giai

đoạn đầu hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, chính phủ đóng vai trò quan

trọng nhất; thông qua việc điều chỉnh các sắc thuế trong đầu tư mạo hiểm, loại bỏ các

rào cản trong đầu tư, thúc đẩy tinh thần doanh nhân của quốc gia, đồng thời chú trọng

vấn đề giáo dục – đào tạo, quan tâm đến các chính sách kiểm soát, hạn chế cách hành

vi tiêu cực trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; đã tạo động lực rất lớn để các quỹ đầu tư

mạo hiểm được phát triển bền vững.

100

CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM

4.1. Giới thiệu về môi trường nhân tố tác động đến hoạt động quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam

Sự phát triển của khoa học công nghệ đóng vai trò chính cho sự phát triển nền

kinh tế toàn cầu, trong đó, sự sáng tạo là con đường dẫn tới sự phát triển của khoa học,

công nghệ về mặt dài hạn, và chính dòng vốn đầu tư mạo hiểm là yếu tố sống còn

trong quá trình khai sinh, tiếp sức và phát triển của quá trình nghiên cứu, sáng tạo của

nhân loại (Miguel và các cộng sự, 2016) [79]. Đầu tư mạo hiểm và lĩnh vực đầu tư đặc

thù, cũng như đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm, cần một loạt các yếu tố chuyên biệt để

có thể hình thành và phát triển được.

Kết quả nghiên cứu ở chương 2 cho thấy, hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm

chịu ảnh hưởng bởi 5 nhân tố, đó là: (1) Chính sách của chính phủ; (2 Giá trị văn hóa,

xã hội; (3) Năng lực đào tạo, nghiên cứu; (4) Địa điểm; (5) Nguồn lực cho đầu tư mạo

hiểm. Tại phần này, luận án sẽ tập trung nghiên cứu thực trạng môi trường hoạt động

của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

4.1.1. Chính sách của chính phủ

Chính phủ đóng vai trò thiết yếu trong việc tạo ra môi trường hoạt động hiệu

quả cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Thông qua các chính sách mang tính chất định

hướng, chính phủ có thể tác động đến tất cả các khía cạnh cần thiết để phát triển thị

trường vốn hiệu quả nói chung và hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng.

Các chính sách của chính phủ cần thiết cho môi trường hoạt động của các quỹ đầu tư

mạo hiểm có thể kể đến như: chính sách trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo liên quan

đến kinh doanh, đầu tư; chính sách của chính phủ liên quan đến phát triển khoa học –

công nghệ; và chính sách của chính phủ liên quan đến thị trường tài chính, trong đó thị

trường chứng khoán đóng vai trò chủ đạo.

Thứ nhất, các chính sách liên quan đến đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực giáo

dục.

Nhận thức được vai trò của đầu tư mạo hiểm trong nền kinh tế, chính phủ Việt

Nam đã từng bước có các chính sách liên quan trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; nhằm

tác động đến gốc của vấn đề: đầu tư mạo hiểm chỉ phát triển khi có sự hiểu biết, nhận

101

thức được của dân chúng đối với lĩnh vực này. Ngay từ năm 2013, tại Geneva (Thụy

Sỹ), chính phủ Việt Nam đã ký kết hợp tác với Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về

chương trình Giáo dục Kinh doanh – KAB21 với đối tượng dành cho độ tuổi thanh niên

từ 15-24 tuổi, đang học tại các trường phổ thông hoặc các trường dạy nghề. Bộ giáo

trình với nội dung nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh ở đối tượng trẻ, xây dựng thái độ

tích cực về kinh doanh, tự tạo việc làm. Ngoài ra, nội dung học cũng cung cấp cho

người học nội dung, kiến thức cơ bản về quản lý doanh nghiệp, rất hữu ích cho các

thanh niên đứng trước sự lựa chọn khởi sự kinh doanh, tự tạo công việc cho bản thân

hay đi làm thuê cho các công ty.

Đến năm 2017, Quyết định 1665/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án “Hỗ trợ học

sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025” của Thủ tướng chính phủ, đã góp phần thúc

đẩy tinh thần khởi nghiệp của học sinh, sinh viên; tạo môi trường thuận lợi để học

sinh, sinh viên hình thành và hiện thực hóa các ý tưởng, dự án khởi nghiệp của bản

thân mình, cũng như góp phần định hướng, tạo việc làm cho đối tượng này sau khi ra

trường. Tiếp theo đó, đến năm 2018, Quyết định 552/QĐ-TTg về phê duyệt đề án

“Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông

giai đoạn 2018-2025” của Thủ tướng chính phủ, với mục tiêu chung là tạo bước đột

phá về chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông, góp phần chuyển

biến công tác phân luông học sinh các cấp học, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất

nước.

Như vậy, trong lĩnh vực giáo dục, việc học tập theo các quốc gia thành công,

phát triển trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm như Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Israel đã

bước đầu có các hành động thực tế; tạo điều kiện tiền đề để phát triển tinh thần doanh

nhân trong thế hệ trẻ, góp phần xây dựng sự phát triển bền vững của lĩnh vực đầu tư

mạo hiểm nói chung và quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng.

Thứ hai, các chính sách của chính phủ trong phát triển khoa học, công nghệ

Định hướng của chính phủ đối với phát triển khoa học công nghệ là môi trường

quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; bởi lúc này phát sinh

nhu cầu của thị trường đối với lĩnh vực công nghệ cao; đồng thời hình thành các quy

21 Know About Business

102

định cụ thể các hoạt động trong lĩnh vực khoa học, giúp các nhà đầu tư, các đối tượng

nghiên cứu sẽ có khung pháp lý bảo vệ họ trong quá trình hoạt động, nghiên cứu.

Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam (cơ quan của chính phủ) tiếp nhận, xử lý

các văn bản liên quan đến lĩnh vực mình quản lý, do quốc hội; chính phủ; thủ tướng

chính phủ; các bộ, cơ quan ngang bộ, và cơ quan khác ban hành. Bên cạnh đó, loại

hình văn bản do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành, quản lý cũng rất đa dạng như

bộ luật; luật; pháp lệnh; nghị quyết; nghị định; quyết định; thông tư; thông tư liên tịch

(www.most.gov.vn). Như vậy, tất cả các vấn đề liên quan đến sự hình thành, phát triển

trong lĩnh vực khoa học công nghệ đã được quy về một mối do Bộ Khoa học và Công

nghệ quản lý. Tuy nhiên, thực tế khi tìm hiểu thông tin tại website của Bộ Khoa học và

Công nghệ cho thấy, tốc độ truy cập rất chậm; đôi khi dữ liệu hiển thị ngắt quãng, gây

khó khăn trong quá trình tìm hiểu thông tin. Bên cạnh đó, thông tin về số liệu của Bộ

còn chưa cập nhật; hiện nay (tháng 7/2019), đa số dữ liệu thống kê chỉ dừng lại ở năm

2013-2014; số ít hiển thị số liệu thống kê ở năm 2016. Chính điều này đã gây hạn chế

cho việc tìm hiểu thông tin tổng quan về tình hình nghiên cứu, sáng tạo ở Việt Nam.

Đối với các thông tin liên quan đến quy định của pháp luật về Khoa học công

nghệ, chính phủ Việt Nam đã sớm thể hiện sự quan tâm đến vấn đề này, với văn bản

đầu tiên đã có từ 30/12/1975, với QĐ số 733-KHKT/QĐ về việc nghiên cứu, xây

dựng, xét duyệt đối với tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp.

Chính sự quan tâm từ sớm đã giúp các sản phẩm Việt Nam có các quy chuẩn cần thiết

trong quá trình nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm phục vụ đời sống xã hội, nghiên

cứu khoa học. Cho đến nay, chính phủ Việt Nam đã ban hành tổng cộng gần 1000 quy

định, thông tư, quyết định liên quan đến lĩnh vực khoa học, công nghệ, nghiên cứu,

nhằm phục vụ công tác xây dựng đất nước.

413

254

143

164

25

1971-1980

1981-1990

1991-2000

2001-2010

2011-2018

Hình 4. 1. Số lượng văn bản liên quan đến khoa học, công nghệ tại Việt Nam

Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ, 2018

103

Như vậy, chính phủ Việt Nam đã dành sự quan tâm rất lớn đối với sự phát triển

của khoa học, công nghệ trong nước, với việc ban hành nhiều quy định pháp luật có

liên quan. Việc có các quy định chặt chẽ, rõ ràng sẽ giúp các chủ thể trong nền kinh tế

khi muốn đầu tư vào lĩnh vực khoa học, công nghệ có các căn cứ pháp lý chính xác để

thực hiện các mong muốn đầu tư, nghiên cứu của mình; là căn cứ để giải quyết các

tranh chấp phát sinh về sau.

Thứ ba, các quy định của chính phủ liên quan đến thị trường chứng khoán

Trong đầu tư mạo hiểm, thị trường chứng khoán đóng vai trò rất quan trọng

trong quá trình hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm; đặc biệt đối với vấn đề huy

động vốn và thoái vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Tại Việt Nam, thị trường chứng

khoán bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2000, cho đến nay, mặc dù vẫn còn nhiều hạn

chế, nhưng có thể nói chính phủ Việt Nam đã có cố gắng rất nhiều trong việc ban hành

các quy định liên quan đến hoạt động của thị trường.

Về quản lý thị trường, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (được thành lập ngày

28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ) là cơ quan trực thuộc Bộ Tài

chính, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước

về chứng khoán và thị trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động

chứng khoán và thị trường chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực

chứng khoán, thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật (www.ssc.gov.vn).

Bên dưới Ủy Ban chứng khoán Nhà nước có (1) Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt

Nam (thành lập theo Quyết định 189/2005/QĐ-TTg), với các nhiệm vụ đăng ký chứng

khoán; lưu ký chứng khoán; bù trừ và thanh toán; thực hiện quyền cổ đông; cấp mã

chứng khoán cho các tổ chức niêm yết; dịch vụ quản trị quỹ cho các quỹ mở và quỹ

ETF; vay và cho vay chứng khoán (www.vsd.vn); (2) Sở giao dịch Chứng khoán TP.

Hồ Chí Minh (www.hsx.vn), và; (3) Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội (www.hnx.vn).

Về các quy định trên thị trường chứng khoán, cho đến nay, có 274 văn bản pháp

luật liên quan đến thị trường chứng khoán, bao gồm các điều luật liên quan đến chứng

khoán; các nghị định; thông tư; quyết định; văn bản khác. Các văn bản này do Ủy ban

Chứng khoán; Bộ Tài chính; Bộ Công An; Ngân hàng Nhà nước; Thủ Tướng; Quốc

hội; Chính Phủ ban hành. Trong đó, đã có các quy định rất cụ thể, từ việc phát hành

chứng khoán riêng lẻ, ra công chúng; điều kiện niêm yết, hủy niêm yết; các chính sách

thuế trong đầu tư chứng khoán; đến các quy định về xử phạt các hành vi vi phạm trong

104

lĩnh vực chứng khoán. Theo quan điểm của luận án, chính việc quy định các điều luật

cụ thể liên quan đến thị trường chứng khoán như vậy, sẽ có tác động làm cho thị

trường chứng khoán Việt Nam hoạt động lành mạnh, minh bạch, thu hút các nhà đầu

tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán; điều này sẽ giúp

cho quá trình thu hút vốn hoặc thoái vốn tại các dự án đầu tư mạo hiểm của các quỹ

đầu tư mạo hiểm thuận lợi hơn.

Hình 4. 2. Các cơ quan ban hành các quy định trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt

10%

1%

Luật chứng khoán

Quyết định

44%

Nghị định

36%

Thông tư

Văn bản khác

9%

Nam

Nguồn: Ủy ban chứng khoán Nhà nước, 2019

Hình 4. 3. Số lượng các văn bản liên quan đến chứng khoán được ban hành

31

28

26 25

22 23

19

18

17

14

10

8

8

8

7

5

3

1

1

0

6 0 0 2

8 0 0 2

7 1 0 2

6 9 9 1

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

7 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

8 1 0 2

Giai đoạn 1996-2018

Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, 2019

4.1.2. Giá trị văn hóa xã hội đối với kinh doanh

Trong đầu tư, kinh doanh, giá trị văn hóa xã hội thể hiện ở 2 góc độ chính: Văn

hóa kinh doanh của quốc gia, khu vực; Quan điểm về rủi ro, thất bại (Lerner và các

cộng sự, 2015) [68].

Thứ nhất, văn hóa kinh doanh tại Việt Nam

Trong giai đoạn từ sau giải phóng đến nay, việc phát triển kinh tế của đất nước

đóng vai trò rất lớn từ các tầng lớp doanh nhân trong xã hội. Phần lớn các doanh nhân

105

đều nhận ra được những yêu cầu, đặc điểm của doanh nhân, nhằm nâng cao khả năng

thành công trong thương trường, như khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh và sáng tạo

– đổi mới; có đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội; tuy nhiên yếu tố dám làm

dám chịu, chấp nhận rủi ro thì phần lớn các doanh nhân đều quan ngại khi đề cập đến

(Nguyễn Viết Lộc, 2012) [10]. Tác giả Dương Thị Liễu và Nguyễn Vân Hà (2009) [4]

cho rằng, trong quá trình hội nhập thế giới, doanh nhân Việt Nam vẫn còn rất nhiều

hạn chế như (1) cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện, thiếu chuyên nghiệp, thiếu

sáng tạo; (2) Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn; (3) Thiếu tính liên kết cộng đồng;

(4) Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt”, dựa dẫm, và; (5) Xem nhẹ chữ tín.

Thứ hai, quan điểm của doanh nhân đối với thất bại, rủi ro

Trong kinh doanh, các nhà đầu tư có câu “thương trường như chiến trường’, ý

muốn nói mọi hành động, quyết định của doanh nhân rất quan trọng, mang ý nghĩa

sống còn đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải lúc nào các doanh nhân cũng

đưa ra các quyết định đúng đắn, bởi ngoài những nguyên nhân chủ quan, những

nguyên nhân khách quan mang tính rủi ro cao cũng rất quan trọng; do đó các doanh

nhân cần có phẩm chất dám nghĩ dám làm, coi thất bại là một phần của thành công

trong tương lai.

Khi bàn về vấn đề thất bại, rủi ro trong kinh doanh, Miguel và các cộng sự

(2016) [79] cho rằng, sự thành công của nước Mỹ một phần rất lớn do các doanh nhân

tại đây dám chấp nhận những thử thách mới, dám đối đầu với rủi ro và không ngại

thay đổi. Tương tự như vậy, đối với các doanh nhân trên thế giới, khi chia sẻ cuộc đời

doanh nhân của họ trong quá khứ, tất cả đều có một điểm chung đó là: gặp rất nhiều

khó khăn, thách thức, thất bại trong quá trình gây dựng doanh nghiệp của mình, như

Thomas Edison; Harland Sanders (KFC); Chung Ju Yung (Hyundai); Steve Jobs

(Apple), v.v…

Tại Việt Nam, Dương Thị Liễu (2013) [11] cho rằng, trong văn hóa kinh doanh

hiện đại, đối với vấn đề đối mặt với rủi ro, dám làm dám chịu của doanh nhân Việt

Nam, vẫn còn những hạn chế như: (1) vẫn nặng nề văn hóa chịu trách nhiệm tập thể,

tức cá nhân vẫn còn chưa ý thức cao trong vấn đề chịu trách nhiệm cá nhân; (2) vẫn

thừa kế nhiều tính “trọng tĩnh” của cha anh đi trước, doanh nhân hiện nay vẫn thích ổn

định, cầu an, do đó việc dám chấp nhận mạo hiểm trong kinh doanh vẫn còn thấp, đặc

biệt khi đã có được thành quả nhất định, thường có xu hướng co cụm, bảo toàn vốn;

106

(3) tư duy nhiệm kỳ (đối với các doanh nhân tại doanh nghiệp nhà nước) vẫn còn nặng

nề, ảnh hưởng nhiều đến tính dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của họ.

4.1.3. Tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ

Yếu tố tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ bao gồm: Năng lực nghiên cứu

khoa học (như số lượng viện nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng); các quy định

về nghiên cứu khoa học của người làm khoa học; các quy định, thực thi về quyền sở

hữu trí tuệ, v.v…

Thứ nhất, đối với năng lực nghiên cứu khoa học

Theo thống kê từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay cả nước có 87 trường đại

học công lập, 27 học viện, 64 đại học tư thục; đối với lĩnh vực quân đội, công an, có

29 trường đạo học, cao đẳng, học viện đào tạo lĩnh vực quân sự; 12 trường đại học,

cao đẳng, học viện đào tạo lĩnh vực công anh; riêng đối với cao đẳng chuyên nghiệp

và cao đẳng nghề, cả nước có trên 400 cơ sở đào tạo; số lượng viện nghiên cứu của các

nước là 23.

87 27 8 64 18 29 12 27 4 419

Đại học công lập Học viện Phân viện (Thuộc đại học) ĐH dân lập và tư thục Phân hiệu Đại học ,cao đẳng, học viện khối quân sự Đại học, cao đẳng, học viện khối công an Đại học địa phương Dự bị đại học, dự bị đại học dân tộc Cao đẳng chuyên nghiệp và cao đẳng nghề (Công lập và tư thục) Viện nghiên cứu

23 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018

Bảng 4. 1. Số lượng các cơ sở đào tạo, nghiên cứu tại Việt Nam

Đối với đối tượng giảng dạy, nghiên cứu, trong năm học 2016-2017, cả nước có

72.792 giảng viên, so với năm 2015-2016 là 69.443 giảng viên. Trong đó, năm 2016-

2017, số lượng thạc sĩ là 43.065; số lượng tiến sĩ là 11.827; giáo sư là 574; phó giáo sư

là 4.113 người; tất cả các con số đều tăng hơn so với năm học trước đó.

Tuy nhiên, số tiền chi cho khoa học tại Việt Nam còn khá khiêm tốn, chỉ đạt

0,87% GDP; trong khi con số trên tại Singapore là 2,1% GDP; Hàn Quốc là 4,1%

GDP; Nhật Bản là 3,4% GDP và tại Malaysia là 1% GDP (Hoài Nam, 2015). Các công

107

bố khoa học tại Việt Nam tại năm 2010 là 14.000 sản phẩm; năm 2014 là 26.000 sản

phẩm; so với Mỹ hàng năm có 2,6 triệu sản phẩm khoa học; có 1,3 triệu người làm

khoa học; Trung Quốc có 1,2 triệu người làm khoa học, bình quân mỗi người công bố

0,83 sản phẩm khoa học hàng năm. Bình quân giai đoạn 2010-2014, tại các quốc gia

như Singapore có 63.000 sản phẩm công bố; Malaysia có 47.000 sản phẩm; Thái Lan

có 36.000 sản phẩm; trong khi tại Việt Nam là 10.000 sản phẩm.

Năm học 2016-2017

Số lượng giảng viên Thạc sĩ Tiến sĩ Giáo sư Phó giáo sư Đại học, cao đẳng Chuyên khoa I, II Khác

Năm học 2015-2016 69443 40426 9731 550 3317 14897 620 50

72792 43065 11827 574 4113 12057 557 149

Bảng 4. 2. Số lượng chức danh tại Việt Nam giai đoạn 2015-2017

Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018

Thứ hai, đối với quy định về nghiên cứu khoa học đối với người làm khoa

học

Tại góc độ này, luận án tiếp cận góc độ quy định về nghiên cứu khoa học của

đối tượng giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng. Đối với giảng viên, giảng dạy

và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ song hành với nhau. Chất lượng giảng dạy của

giảng viên phụ thuộc vào trình độ học vấn, vào kinh nghiệm giảng dạy và năng lực

nghiên cứu khoa học. Thông qua nghiên cứu khoa học, bài giảng của giảng viên sẽ

mang tính chất thời sự, bắt kịp với xu hướng biến động của nền kinh tế. Trong nhiệm

vụ nghiên cứu khoa học của giảng viên, Bộ giáo dục và Đào tạo đã có quy định rất cụ

thể trong Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT, trong đó quy định cụ thể như:

(1) Giảng viên phải dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học

để làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.

(2) Mỗi năm, giảng viên phải hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được

giao tương ứng với chức danh hoặc vị trí công việc đang đảm nhiệm. Kết quả nghiên

cứu khoa học của giảng viên được đánh giá thông qua các sản phẩm nghiên cứu khoa

học cụ thể, tối thiểu là một đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở hoặc tương đương

được nghiệm thu từ đạt yêu cầu trở lên hoặc một bài báo được công bố trên tạp chí

108

khoa học có phản biện hoặc một bài báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học chuyên

ngành.

Thứ ba, đối với các quy định, thực thi quyền sở hữu trí tuệ

Quỹ đầu tư mạo hiểm thường hướng đến các công ty trong lĩnh vực sáng tạo,

công nghệ cao, có các sản phẩm, ý tưởng kinh doanh mới, vì thế việc bảo hộ quyền sở

hữu trí tuệ đóng vai trò sống còn đối với các doanh nghiệp này. Cho đến nay, Việt

Nam đã ký kết các hiệp định song phương và đa phương liên quan đến việc bảo hộ

quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả như Hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả Việt

Nam – Mỹ (năm 1997); Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh

vực sở hữu trí tuệ giữa Việt Nam và Thụy Sĩ (năm 1999); Hiệp định thương mại Việt

Nam – Mỹ (năm 2000); đặc biệt hiện nay Việt Nam cũng đã là thành viên của Công

ước Bern về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, được ra đời từ năm 1886 tại

Thụy Sĩ. Ngoài ra, tại Việt Nam cũng đã có Luật sở hữu trí tuệ 2005, với quy định, tổ

chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ sau đây

thì bị xử phạt vi phạm hành chính: (i) Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho

tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội; (ii) Sản xuất, nhập khẩu, vận

chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 của Luật

này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này; (iii) Sản xuất, nhập khẩu, vận

chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc vật phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ

dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này. Tuy nhiên thực tế

tại Việt Nam, hiện tượng vi phạm các bản quyền, các sáng chế, hàng giả, hàng nhái

còn diễn biến phức tạp, gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp chính hãng, tới các

tác giả bản quyền, làm ảnh hưởng không nhỏ đến ý tưởng đầu tư mạo hiểm của các

quỹ đầu tư mạo hiểm. Tuy vậy, cho tới nay đa số vụ việc vi phạm sở hữu trí tuệ ở Việt

Nam được xử lý bằng phương pháp hành chính, với yêu cầu bắt buộc các chủ thể

quyền phải có yêu cầu và thực hiện các thủ tục hành chính phức tạp, mất thời gian chờ

đợi việc thi hành; bên cạnh đó, chế tài xử lý vi phạm còn chưa đủ sức răn đe (tối đa là

500 triệu đồng), vì thế có nhiều trường hợp sau khi bị xử lý vẫn tiếp tục vi phạm, bởi

việc lợi nhuận đạt được cao hơn rất nhiều khoản phạt xử lý hành chính. Chính vì vậy,

cần thiết phải xây dựng các điều khoản mang tính răn đe mạnh hơn nữa đối với lĩnh

vực vi phạm quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.

109

4.1.4. Địa điểm

Yếu tố địa điểm bao gồm hai vấn đề: (1) Cơ sở hạ tầng tại địa phương và (2)

Các hiệp hội doanh nghiệp.

Thứ nhất, cơ sở hạ tầng tại địa phương, bao gồm cơ sở hạ tầng giao thông,

phục vụ cho việc giao thương, trao đổi hàng hóa được thuận lợi; và cơ sở hạ tầng công

nghệ thông tin, giúp việc trao đổi thông tin được nhanh chóng, thuận tiện. Việc các

điều kiện cơ sở hạ tầng được thuận lợi, thông suốt sẽ giúp cho các doanh nghiệp đầu tư

hiệu quả, giảm chi phí vận chuyển, rút ngắn thời gian sản xuất hàng hóa, v.v… qua đó,

làm cho các dự án đầu tư mạo hiểm của các quỹ đầu tư mạo hiểm nâng cao khả năng

sinh lời, giảm chi phí hoạt động, v.v…

Trong giai đoạn 2011-2016, nhiều công trình giao thông lớn đã được đầu tư,

như mở rộng đường quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh qua khu vực Tây Nguyên; xây

dựng các cảng biển quốc tế (Cái Mép – Thị Vải; Hải Phòng; Cái Lân; Cửa Lò; Vũng

Áng; Tiên Sa; Quy Nhơn; Nha Trang; TP. Hồ Chí Minh; Cần Thơ, v.v…). Việc Việt

Nam có hệ thống giao thông đầy đủ, trải dài từ hệ thống đường bộ, đường thủy, đường

hàng không đã hỗ trợ đắc lực cho việc di chuyển giữa các vùng miền, tạo điều kiện

cho việc đầu tư, giao thương được thuận lợi.

Tuy nhiên, cũng theo Bộ giao thông vận tải, hệ thống giao thông hạ tầng Việt

Nam còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh của quốc gia.

Ngoài ra, do hạn chế về vốn đầu tư, hệ thống giao thông hiện tại ít được duy tu, bảo

dưỡng đầy đủ, kịp thời; dẫn đến hệ lụy xuống cấp hệ thống giao thông trên các mặt.

Bên cạnh đó, với hệ thống quản lý, đấu thầu, đầu tư còn nhiều bất cập, dẫn đến tình

trạng các dự án BOT trong lĩnh vực đường bộ còn gây nhiều tranh cãi trong dư luận

trong thời gian gần đây, như vị trí đặt trạm thu phí, giá vé, chất lượng công trình sau

khi đầu tư, v.v…

Đối với hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, theo Bộ Thông tin và

Truyền thông (2017), cho đến nay, ngành công nghệ thông tin Việt Nam đã đạt được

những thành tựu lớn, trở thành một ngành hạ tầng rất quan trọng, đóng góp cho sự phát

triển, lớn mạnh của đất nước. Ngành công nghiệp phần cứng điện tử, công nghiệp

phần mềm và nội dung số công nghệ thông tin của Việt Nam luôn duy trì tốc độ tăng

trưởng cao, bình quân 30%/ năm trong giai đoạn 2006-2016, tổng doanh thu trong lĩnh

vực công nghiệp công nghệ thông tin đạt 67,7 tỷ USD.

110

Nhằm thu hút các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin,

chính phủ Việt Nam hiểu tầm quan trọng của việc đầu tư vào cơ sở ban đầu, bao gồm

đầu tư trong lĩnh vực giáo dục như khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, từ đó đã

tạo ra nhiều tầng lớp kỹ sư công nghệ lành nghề. Theo công ty tư vấn AT.Kearney

(2018), năm 2017, chỉ số đo xếp hạng dịch vụ gia công phần mềm (Global Services

Location Index) của Việt Nam tăng 5 bậc so với năm 2016, với các chỉ tiêu của các

ngành công nghệ và gia công phần mềm của Việt Nam luôn thể hiện sự tăng trưởng

đều đặn qua các năm. Điều đó dẫn đến các công ty lớn như Intel, Samsung, IBM,

Microsoft không ngừng đầu tư vào Việt Nam, tạo ra các làn sóng phát triển, học tập,

nghề nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin.

Tuy nhiên, theo cơ quan chuyên trách về công nghệ thông tin và truyền thông

của Liên Hợp Quốc, Liên minh Viễn thông thế giới (ITU) cho rằng, sự phát triển của

công nghệ thông tin truyền thông (ICT) của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, với chỉ

số phát triển ICT (ICT Development Index – IDI) năm 2017 chỉ đạt 4,43 điểm, đứng

thứ 108 trên thế giới, không hề thay đổi vị trí so với năm 2016 (với 4,18 điểm). Chỉ số

IDI được đánh giá dựa trên 3 mục chủ yếu, bao gồm khả năng tiếp cận với dịch vụ

công nghệ thông tin truyền thông (chiếm 40% điểm); sử dụng dịch vụ công nghệ thông

tin truyền thông (chiếm 40% điểm), và kỹ năng về công nghệ thông tin và truyền

thông (chiếm 20% điểm). Chỉ số IDI bình quân trên thế giới đạt 4,93 điểm năm 2016;

5,11 điểm năm 2017; trong đó có các quốc gia nổi bật như Iceland (8,98 điểm); Hàn

Quốc (8,85 điểm); Hồng Kông (8,64 điểm); Nhật Bản (8,43 điểm); Australia (6,38

điểm); New Zealand (8,33 điểm), v.v… Như vậy, Việt Nam còn tụt hậu khá xa so với

các quốc gia trong khu vực như Thái Lan (5,67 điểm); Malaysia (6,38 điểm); Trung

Quốc (5,6 điểm), Brunei (6,75 điểm); Singapore (8,05 điểm), v.v…

Thứ hai, các hiệp hội doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp, muốn xây

dựng doanh nghiệp lớn mạnh, phát triển bền vững, cần thiết phải nâng cao năng lực,

đóng góp, liên kết các doanh nghiệp thành tổ chức lớn mạnh cho từng lĩnh vực, từng

ngành nghề, vì thế việc ra đời các hiệp hội doanh nghiệp là nhu cầu tất yếu của quá

trình phát triển các doanh nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế quốc gia nói chung.

Đặc biệt, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã cam kết

giảm dần, dẫn tới loại bỏ sự can thiệp, trợ giúp của chính phủ đối với các doanh

nghiệp, vì thế, vai trò của các hiệp hội càng được nâng cao.

111

Hiện nay, theo thống kê Việt Nam có khoảng gần 70 hiệp hội doanh nghiệp,

gần 20 hiệp hội/ phòng thương mại nước ngoài tại Việt Nam. Đây chính là nơi đại diện

cho các doanh nhân, doanh nghiệp muốn đầu tư làm ăn tìm hiểu các thông tin về các

ngành nghề, lĩnh vực họ đã, đang và sẽ đầu tư trong tương lai. Chính các hiệp hội sẽ

đại diện để bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân trong quá trình đầu tư.

Thực tế còn cho thấy, hiệp hội chính là cầu nối giữa doanh nghiệp với chính phủ.

Thông qua hiệp hội, các chủ trương, đường lối phát triển, các ưu đãi, quy định pháp

luật liên quan sẽ được truyền tải tới các doanh nghiệp, doanh nhân; và ngược lại, thông

qua hiệp hội, các ý kiến đề xuất, góp ý của doanh nhân, doanh nghiệp đối với các

chính sách của chính phủ sẽ tới đúng chỗ và kịp thời, do hiện nay Việt Nam còn hiện

tượng các doanh nghiệp còn e ngại nêu ý kiến của mình một cách trực tiếp. Như vậy,

với số lượng hiệp hội gần như đầy đủ ở tất cả các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, sẽ

góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, thông suốt trong quá trình khởi

nghiệp, sáng tạo của các doanh nhân.

4.1.5. Nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm

Yếu tố nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm bao gồm hai vấn đề chính: (1) nguồn

cầu vốn đầu tư mạo hiểm: các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nguồn nhân lực; (2) nguồn

cung vốn đầu tư mạo hiểm: số lượng công ty, tập đoàn kinh tế, và nội lực của quốc

gia; (3) bản thân nội tại sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm.

Nguồn cầu của vốn đầu tư mạo hiểm

Thứ nhất, tính đến năm 2018, các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 97,5%

tổng số doanh nghiệp đang hoạt hoạt động thực tế tại Việt Nam, với số lượng khoảng

gần 600.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa (Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa, 2019). Về

mặt giá trị, hàng năm đối tượng nhóm doanh nghiệp này đóng góp khoảng 40% GPD,

30% nộp vào ngân sách nhà nước, 33% giá trị sản lượng công nghiệp, 30% giá trị hàng

hóa trong lĩnh vực xuất khẩu, và tạo ra khoảng 60% việc làm cho tầng lớp lao động.

Điều đặc biệt là, trong tổng số 600.000 doanh nghiệp NVV, số doanh nghiệp quy mô

vừa chỉ chiếm 1,6%, phần còn lại là các doanh nghiệp với quy mô nhỏ và siêu nhỏ.

Với số lượng doanh nghiệp thuộc nhóm nhỏ và vừa chiếm áp đảo trong tổng số doanh

nghiệp tại Việt Nam như vậy, tạo ra nguồn cầu vốn rất lớn đối với các quỹ đầu tư mạo

hiểm nói riêng và vốn đầu tư mạo hiểm nói chung. Thực tế cho thấy, với các doanh

nghiệp nhỏ và siêu nhỏ như vậy, khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng là điều rất khó,

112

do thiếu tài sản đảm bảo, năng lực tài chính hạn chế (Bộ Tư Pháp, 2018). Đối với các

trường hợp tiếp cận được vốn vay từ ngân hàng, thì cũng phải chịu mức lãi suất cao

hơn so với các đối tượng khác, ví dụ với mức lãi suất cho vay bình quân năm 2016 tại

Việt Nam là 7%, các doanh nghiệp NVV phải chịu mức lãi suất đi vay bình quân 11%.

Mặt khác, so với các quốc gia trong khu vực, tổng dư nợ tín dụng cho vay đối

với các doanh nghiệp NVV còn khá khiêm tốn (22%), thấp hơn nhiều so với Thái Lan

(30%), Hàn Quốc (36%) và Trung Quốc (37%). Chính điều này đã làm cho vấn đề huy

động vốn đề đầu tư, nghiên cứu, sản xuất của các doanh nghiệp NVV cần thiết hơn

bao giờ hết; trong khi nguồn vốn dành cho đối tượng này chủ yếu đến từ ngân sách

nhà nước, dưới các hình thức trợ cấp, bảo lãnh, bảo hiểm hoặc ưu đãi thuế, v.v…

37%

36%

30%

22%

20%

19%

7%

Hình 4. 4. Tỷ trọng dư nợ cho vay DNNNV/ Tổng dư nợ (năm 2016)

Nguồn: Bộ Tư Pháp (2018)

Thứ hai, đối với nguồn nhân lực, so với các quốc gia trong khu vực ASEAN,

Việt Nam là một trong sáu quốc gia có cơ cấu dân số vàng (ngoại trừ Campuchia,

Philipppines, Malaysia, Lào), do đó Việt Nam đang ở trong giai đoạn có điều kiện phát

triển kinh tế, xã hội mạnh nhất dựa vào lực lượng lao động trẻ. Bên cạnh đó, với số

dân đứng thứ 14 trên thế giới, với trên 68 triệu dân vào năm 1990, đã tăng lên đến trên

95 triệu dân năm 2017, dự báo đến năm 2030, dân số Việt Nam vào khoảng trên 105

triệu người.

Bên cạnh đó, cũng theo Tổng Cục dân số - Kế hoạch hóa gia đình (2017), độ

tuổi trung bình của người dân Việt Nam năm 1990 là 21, trong giai đoạn 2015-2020 là

30-33 tuổi, dự báo đến năm 2030, độ tuổi trung bình là 37. Đây chính là tiền đề cần

113

thiết để tận dụng nguồn lực lao động trẻ mà rất nhiều quốc gia trên thế giới mong

muốn.

120,000,000

100,000,000

80,000,000

60,000,000

40,000,000

20,000,000

0

Hình 4. 5. Số dân Việt Nam giai đoạn 1990 – 2050 (dự tính)

Nguồn: Tổng Cục dân số - Kế hoạch hóa gia đình, 2017

Tuy Việt Nam có số dân trẻ, rất lý tưởng cho phát triển đất nước, nhưng chất

lượng người lao động lại là một trở ngại lớn. Theo số liệu điều tra của Tổng Cục

Thống kê (2010), tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết khá cao, chiếm

93,5% dân số; nhưng có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng, miền. Cụ thể, tỷ lệ học

đại học, cao đẳng ở các tỉnh, thành có kinh tế phát triển cao hơn hẳn ở các địa phương

kém phát triển (ví dụ tại thành phố Đà Nẵng là 50,6%, trong khi tại Lai Châu chỉ đạt

1%); số dân tốt nghiệp từ trung học phổ thông trở lên ở thành thị đạt cao gấp ba lần so

vơi ở khu vực nông thông (với tỷ lệ tương ứng là 37,4% và 13,8%). Mặt khác, theo

Báo cáo phát triển con người của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), chỉ

số phát triển con người của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, năm 2010 đứng 113/169;

năm 2014 đứng 127/186; năm 2017 đứng 116/189 quốc gia, vùng lãnh thổ tham gia

khảo sát. Như vậy, chất lượng người lao động Việt Nam đang đứng trước nguy cơ tụt

hậu, thiếu nguồn lao động có chất lượng cao, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế, xã

hội, cũng như đáp ứng yêu cầu của các ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh yêu cầu chất

lượng lao động cao.

Nguồn cung của vốn đầu tư mạo hiểm

Nguồn cung của đầu tư mạo hiểm, bao gồm nguồn cung cấp, tài trợ tiền cho các

dự án đầu tư mạo hiểm, thể hiện dưới góc độ số lượng, năng lực các tổ chức, tập đoàn

kinh doanh trong nước, cũng như khả năng cung cấp vốn, nội lực của chính phủ.

114

Thứ nhất, đối với các tổ chức kinh tế trong nước. Hiện nay có 51 ngân hàng

đang hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam (bao gồm 38 ngân hàng nội địa, 13 ngân hàng

100% vốn nước ngoài), tổng vốn điều lệ tính đến tháng 10/2018 là gần 400 nghìn tỷ

đồng; có 46 công ty bảo hiểm (trong đó 15 công ty bảo hiểm nhân thọ, 31 ngân hàng

phi nhân thọ), tổng số vốn điều lệ đạt gần 300 nghìn tỷ đồng; ngoài ra, tại Việt Nam

hiện có 99 công ty chứng khoán ghi nhận đang còn hoạt động, và 34 quỹ đầu tư ở các

lĩnh vực khác nhau, với số vốn điều lệ đạt gần 7.000 tỷ đồng.

Như vậy, với số lượng tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như vậy, Việt Nam có

nguồn lực cần thiết để huy động, góp vốn cho quỹ đầu tư mạo hiểm được hình thành

và phát triển.

Bảng 4. 3. Danh sách các nhà đầu tư tổ chức tại Việt Nam

Danh sách tổ chức

STT 1 2 3 4 5 6

Ngân hàng nội địa Ngân hàng nước ngoài Công ty bảo hiểm nhân thọ Công ty bảo hiểm phi nhân thọ Công ty chứng khoán Quỹ đầu tư

Số lượng 38 13 15 31 99 34

Vốn điều lệ (VND) 369.153.936.940.000,00 22.193.580.000.000,00 53.523.694.205.619,00 241.563.461.974.179,00 48.075.874.435.632,00 15.081.790.000.000,00

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Thứ hai, đối với nguồn đầu tư từ chính phủ, tỷ lệ thâm hụt ngân sách quốc gia

được kiểm soát tốt, với tỷ lệ giảm qua các năm, với 6,2% năm 2010; 4,8% năm 2012,

và đến năm 2017, tỷ lệ thâm hụt ngân sách đã giảm xuống còn 3,5%.

Bảng 4. 4. Bội chi ngân sách giai đoạn 2010-2017

(Đơn vị: Tỷ đồng)

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

A Tổng thu cân đối ngân

641500 595000 740500 816000

782700

911100 1014500 1212180

sách nhà nước

294700 382000 494600 545500

539000

638600

785000

990280

1 Thu nội địa

66300

69300

87000

99000

85200

93000

54500

38300

2 Thu từ dầu thô

95500 138700 153900 166500

154000

175000

172000

180000

3 Thu cân đối từ hoạt

động xuất nhập khẩu

4 Thu viện trợ

5000

5000

5000

5000

4500

4500

3000

3600

B Tổng chi cân đối ngân

582200 725600 903100 978000 1006700 1147100 1273200 1390480

sách nhà nước 1 Chi đầu tư phát triển

125500 152000 180000 175000

163000

195000

254950

357150

2 Chi trả nợ lãi

70250

86000 100000 105000

120000

150000

155100

100200

3 Chi thường xuyên

335560 442100 542000 658900

704400

767000

823995

896280

35490

27000

59300

15600

10000

13055

6600

4 Chi cải cách tiền lương, tinh giảm biên chế 5 Chi bổ sung quỹ dự trữ

100

100

100

100

100

100

100

100

tài chính

6 Dự phòng

15300

18400

21700

23400

19200

25000

26000

29300

C Bội chi ngân sách nhà

115

119700 120600 140200 162000

224000

226000

254000

178300

nước Tỷ lệ bội chi so GDP

6.20%

5.30%

4.80%

4.80%

5.0%

4.95%

3.50%

5.30% Nguồn: Bộ Tài chính, 2018

Trong tổng thu ngân sách nhà nước, nguồn thu từ nguồn dầu thô chiếm tỷ trọng

rất lớn; với việc sụt giảm giá dầu liên tục qua các năm qua, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến

nguồn thu ngân sách. Trong khi đó, với tổng chi cho đầu tư phát triển đạt 125.500 tỷ

đồng năm 2010, tăng lên 180.000 tỷ đồng năm 2012, đến năm 2017, tổng chi đầu tư

phát triển đã tăng lên 357.150 tỷ đồng.

Bản thân nội tại sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm

Bản thân nội tại sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm (i) sự tăng

trưởng số lượng các quỹ đầu tư mạo hiểm; (ii) tổng giá trị vốn huy động được của các

quỹ đầu tư mạo hiểm; và (iii) hiệu quả đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các

năm. Thực trạng các yếu tố này sẽ được phân tích kỹ ở mục 4.2 của luận án.

4.2. Thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

Tại Việt Nam, vốn đầu tư mạo hiểm đã bắt đầu tham gia từ năm 1990, khi các

chính sách mở cửa, đổi mới nền kinh tế theo quan điểm của Đại hội lần VI của Đảng

Cộng Sản Việt Nam (12/1986) chính thức đi vào đời sống và phát huy tác dụng đối với

nền kinh tế; đường lối đổi mới này sau đó tiếp tục được kế thừa, phát triển tại Đại hội

Đảng lần thứ VII (6/1991); Đại hội Đảng lần thứ VIII (6/1996); Đại hội Đảng lần thứ

IX (4/2001); v.v…

Nếu xét theo các giai đoạn phát triển của vốn đầu tư mạo hiểm nói chung, và

của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam nói riêng, có thể chia việc

hình thành, phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam thành 3 giai đoạn:

(1) Giai đoạn 1: Từ năm 1990 – 2002: Giai đoạn xuất hiện các quỹ đầu tư mạo

hiểm của nước ngoài vào Việt Nam; tuy nhiên hoạt động chưa hiệu quả,

phần lớn đã rút khỏi Việt Nam.

(2) Giai đoạn 2: Từ năm 2002 – 2015: Các quỹ đầu tư mạo hiểm mới của nước

ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam, đạt được những thành công nhất

định.

116

(3) Giai đoạn 3: Từ năm 2015 – nay: Các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài

tiếp tục tham gia đầu tư tại Việt Nam; bắt đầu có các quỹ đầu tư mạo hiểm

của Việt Nam được thành lập, bắt đầu tham gia vào quá trình đầu tư.

Do đó, việc hình thành, phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, luận

án sẽ tiếp cận ở góc độ sau:

Thứ nhất, với việc hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, luận án sẽ

xem xét việc xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài khi họ bước đầu thành lập

quỹ đầu tư mạo hiểm để đầu tư vào Việt Nam (giai đoạn 1990-2002); Sau đó, luận án

xem xét việc hình thành, xây dựng các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập

(giai đoạn 2015 – nay).

Thứ hai, đối với việc phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại

Việt Nam, luận án sẽ xem xét sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt

động tại Việt Nam, trong đó, như đã trình bày ở phạm vi nghiên cứu tại phần mở đầu,

luận án tập trung nghiên cứu sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại

Việt Nam qua 3 giai đoạn: (1) 1990-2002; (2) 2002 – 2015 và, (3) 2015-nay.

4.2.1. Thực trạng xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam

4.2.1.1. Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài

Trong giai đoạn đầu (từ năm 1991), với làn sóng hình thành các khu công

nghiệp nói chung tại thị trường Đông Nam Á, cũng như chủ trương của chính phủ về

việc thành lập thị trường chứng khoán tại Việt Nam, đã kéo theo vốn đầu tư từ các quỹ

đầu tư mạo hiểm trong và ngoài nước, nhằm tận dụng cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Tại

Bảng 4.5 cho thấy, trong giai đoạn đầu mở cửa, từ năm 1991-1996, có 8 quỹ đầu tư

mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, với quy mô vốn đầu tư trên 300 triệu

USD.

Tại thời điểm mới tham gia vào thị trường Việt Nam, tất cả các quỹ đầu tư mạo

hiểm này đều được thành lập và huy động vốn ở nước ngoài, trong đó cổ phiếu của các

quỹ đầu tư mạo hiểm này đều được niêm yết ở thị trường chứng khoán nước ngoài. Cơ

cấu nhà đầu tư tham gia vào các quỹ đầu tư mạo hiểm này là các nhà đầu tư tổ chức,

mà không có sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân. Tại thời điểm đó, các quỹ đầu tư

mạo hiểm có lĩnh vực hoạt động đa dạng, từ hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ,

tài chính, v.v… mà không có mục tiêu nhất thiết cần đầu tư vào các công ty trong lĩnh

117

vực công nghệ cao, các công ty khởi nghiệp, v.v… thậm chí, các quỹ đầu tư này ngay

từ khi thành lập, còn xác định sẽ đầu tư vào các công ty tiềm năng, trong một thời gian

nhất định (thậm chí là ngắn hạn), nhằm kích thích tăng trưởng của công ty mục tiêu,

sau đó thoái vốn để thu lợi nhuận.

Bảng 4. 5. Các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam trong giai đoạn 1991-1996

STT

Tên quỹ đầu tư mạo hiểm

Năm vào Việt Nam

Quy mô vốn (triệu USD)

1 2 3 4 5 6 7 8

Vietnam Fund Templeton Vietnam Opportunities Fund Beta Vietnam Fund Beta Mekong Fund Lazard Vietnam Fund Vietnam Frontier Investment Ltd. Vietnam Enterprise Investment Ltd. Southeast Asian Frontier Fund

1991 1993 1993 1994 1994 1995 1995 1996

10 113 71 25.6 59 17 17 12.5

Nguồn: Asia Venture Capital Journal, 1998

Đối với mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm, các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài

thành lập ở Việt Nam trong giai đoạn đầu thường chọn mô hình quỹ đầu tư dạng mở,

với đặc tính vốn được huy động một lần ngay từ đầu khi thành lập, quỹ không có trách

nhiệm chi trả cho các nhà đầu tư trong thời gian hoạt động của quỹ, mà các nhà đầu tư

phải bán cho các nhà đầu tư khác trên thị trường chứng khoán, v.v… động thái này

nhằm mục đích tạo sự ổn định về vốn huy động được của các quỹ đầu tư mạo hiểm,

nhằm chuyên tâm thực hiện các dự án đầu tư mạo hiểm đã lựa chọn.

4.2.1.2. Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam

Tại Việt Nam, các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập chính thức từ

năm 2015, với mục tiêu chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo. Các quỹ

đầu tư này chủ yếu huy động vốn từ ngân sách nhà nước, từ các bộ, ngành có liên

quan, hoặc từ các công ty, tập đoàn mẹ, v.v… trong khi sự góp vốn từ các nhà đầu tư

thiên thần còn hạn chế (Phụ lục 4).

Bảng 4. 6. Một số quỹ đầu tư mạo hiểm dành cho khởi nghiệp của Việt Nam

TT Tên quỹ

Đơn vị thành lập

Vốn đầu

Thời gian

Ghi chú

tư ban

thành lập

đầu

1

Quỹ Đầu tư Khởi

Hội LHTN Việt Nam TP.

100 tỷ

2016

Giai đoạn đầu tư 2016-

nghiệp và Sáng

Hồ Chí Minh, đồng sáng lập

đồng

2020

tạo TP. Hồ Chí

bởi Công ty Đầu tư Tài

Minh (HSIF)

chính Nhà nước TP. Hồ Chí

Minh (HFIC) và Ngân hàng

TMCP Sài Gòn – Hà Nội

(SHB)

2

Quỹ khởi nghiệp

UBND tỉnh Bình Phước,

11 tỷ

4/2018

-Đối tượng được vay: cá

Bình Phước

Quỹ Đầu tư phát triển Bình

nhân tổ chức, doanh

Phước

nghiệp được thành lập

không quá 1 năm, lần đầu

có ý tưởng, phương án

khởi nghiệp, phương án

sản xuất kinh doanh có

tính khả thi cao trên tất cả

các lĩnh vực hoạt động đầu

tư, kinh doanh trên địa bàn

tỉnh đã được quỹ thẩm

định.

-Hạn mức vay cho mỗi đối

tượng thụ hưởng không

quá 200 triệu đồng.

3

FPT Ventures

Tập đoàn FPT

3 triệu

2015

Mỗi năm Tập đoàn FPT

USD

cấp 3 triệu USD vốn cho

FPT Ventures

4

Quỹ Khởi nghiệp

Chính phủ Việt Nam (Bộ

5,2 tỷ

1/2015

VSF là quỹ xã hội hóa nội

địa đầu tiên ở Việt Nam

doanh nghiệp

Nội Vụ cấp phép thành lập)

đồng

đã chính thức được cấp

khoa học và công

phép thành lập theo Quyết

nghệ (KH&CN)

định số 1286/QĐ-BNV ký

Việt Nam (VSF)

ngày 16 tháng 12 năm

2014.

5

Quỹ Tăng tốc

FPT; Quỹ Dragon Capital và

2016

Mỗi startup được VIISA

đầu tư 30.000 USD (trong

khởi nghiệp Việt

Tập đoàn Hanwha (Hàn

đó có 15.000 USD tiền

Nam (Vietnam

Quốc)

mặt và các chi phí khác

Innovative Startup

như nhà ở, văn phòng, kỹ

Accelerator -

thuật…)

VIISA)

118

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động dưới sự giám sát, quản lý của công ty, tập

đoàn mẹ, hoặc do các cơ quan chủ quản của chính phủ điều hành, định hướng đường

lối phát triển; với mục tiêu chủ yếu hưởng ứng Quyết định 884/QĐ-TTg về việc phê

119

duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm

2025" của chính phủ; do đó mô hình tổ chức chủ yếu do người của chính phủ, của các

công ty, tập đoàn mẹ là người đứng đầu, đại diện về mặt pháp lý của quỹ đầu tư mạo

hiểm đó; trong đó các chuyên gia tham gia vào quỹ chủ yếu với vai trò tư vấn, giám

sát các dự án mà quỹ đầu tư vào, mà không đặt nặng vai trò huy động vốn của các quỹ

đầu tư mạo hiểm này.

Khi được thành lập, các quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam đã hướng tới đầu

tư vào các công ty khởi nghiệp, các công ty trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công

nghệ, khoa học tự nhiên, v.v… với mục tiêu học tập các quốc gia khởi nghiệp như Mỹ,

Trung Quốc, Hàn Quốc, Israel, Singapore, v.v... để thúc đẩy khoa học kỹ thuật của

nước nhà, tạo động lực phát triển bền vững của nền kinh tế, nhằm nâng cao tính cạnh

tranh toàn cầu của các doanh nghiệp, sản phẩm công nghệ Việt Nam.

4.2.2. Thực trạng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

Để xem xét thực trạng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, luận án sẽ

xem xét sự phát triển của 4 quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất đang hoạt động tại Việt

Nam là VinaCapital, Mekong Capital, IDG Venture, và Dragon Capital; đồng thời,

xem xét các quỹ đầu tư mạo hiểm mới thành lập tại Việt Nam trong thời gian qua. Sự

phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam, luận án sẽ tiếp

cận theo 4 tiêu chí: số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm; nguồn vốn đầu tư mạo hiểm; lĩnh

vực đầu tư mạo hiểm; và kết quả đàu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm.

4.2.2.1. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm

 Giai đoạn 1990-2002

Trong giai đoạn này, các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài bắt đầu tham gia

hoạt động đầu tư tại Việt Nam, với mục tiêu đạt mức sinh lời cao, khi chính phủ Việt

Nam thể hiện quyết tâm cải cách nền kinh tế, mở cửa giao thương với các quốc gia bên

ngoài.

Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đạt đỉnh

điểm năm 1995, sau đó giảm dần, đến năm 2002, chỉ còn 6 quỹ đầu tư mạo hiểm tiếp

tục hoạt động. Nguyên nhân của việc sụt giảm các quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai

đoạn này, là do các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài chưa lường hết được các khó

khăn khi đầu tư vào Việt Nam; môi trường đầu tư, cạnh tranh không thuận lợi. Mặc dù

120

Ủy ban chứng khoán Nhà nước được thành lập từ năm 1996, nhưng cho đến năm 2000

thị trường chứng khoán Việt Nam mới diễn ra phiên giao dịch đầu tiên, với 2 cổ phiếu

được niêm yết và giao dịch. Hơn nữa, mức độ hiểu biết của công chúng đầu tư Việt

Nam về thị trường chứng khoán còn hạn chế, dẫn đến việc khó khăn trong huy động

vốn, cũng như thoái vốn thông qua việc bán cổ phần ra công chúng (IPO) của các quỹ

đầu tư này. Do đó, kết quả đầu tư không như mong muốn, làm cho các quỹ đầu tư

không thành công, buộc phải giải thể và rút khỏi thị trường Việt Nam.

8

5

4

1

1991

1995

1998

2002

Hình 4. 6. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam giai đoạn 1990-2002

Nguồn: Nguyễn Quang Long (2016) [8]

 Giai đoạn 2002-2015

Trong giai đoạn này, Chính phủ tích cực tiến hành các giải pháp đẩy mạnh tiến

trình cổ phần hóa, khuyến khích nền kinh tế tư nhân, như Quyết định 202-CT ngày

08/6/2002; Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002; Nghị định 187/2004/NĐ-CP

năm 2004; đặc biệt Quyết định 929/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ đề Đề án tái cơ

cấu doanh nghiệp nhà nước, giai đoạn 2011-2015, với trọng tâm đối với các tập đoàn,

tổng công ty nhà nước, đã thực sự tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn cho các thành

phần trong nền kinh tế, cũng như thu hút được lượng vốn đầu tư mạo hiểm của các nhà

đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, các quy định, điều luật về hình thành quản lý các loại

hình quỹ đầu tư tại Việt Nam đã đưa vào thực tế, như Thông tư 183/2011/TT-BTC

(năm 2011) về Hướng dẫn thành lập quỹ đầu tư dạng mở; Thông tư 224/2012/TT-BTC

(năm 2012) về Hướng dẫn thành lập và quản lý quỹ đóng, quỹ thành viên; Thông tư

229/2012/TT-BTC (năm 2012) về Hướng dẫn thành lập và quản lý quỹ hoán đổi danh

mục.

Trong giai đoạn này, các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động Việt Nam chủ yếu là

các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài, với số lượng quỹ tăng từ 4 quỹ năm 2002, lên

đến 36 quỹ vào năm 2006; việc tăng đột biến số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt

121

Nam trong giai đoạn này là do sự phát triển mạnh của thị trường chứng khoán Việt

Nam, khi hàng loạt các doanh nghiệp của nhà nước đã cổ phần hóa thành công, tiến

hành niêm yết và giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán; từ đó các quỹ đầu tư mạo

hiểm của nước ngoài nhận thấy cơ hội đầu tư, đã tiến hành đầu tư vào Việt Nam. Tuy

nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, dẫn đến nhiều quỹ đầu

tư mạo hiểm hoạt động thua lỗ, giải thể và rút khỏi Việt Nam, vì thế đến năm 2010, chỉ

còn 28 quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.

60

56

50

40

36

28

30

20

10

4

0

2002

2006

2010

2015

Hình 4. 7. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam

Nguồn: Tổng hợp từ DealstreetAsia, ThomsonOne và Bộ khoa học và Công nghệ,

Startup.gov.vn, 2019

 Giai đoạn 2015 - Nay

Trước năm 2015, tất cả các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động chính thức tại Việt

Nam là các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài, huy động vốn thông qua thị trường

quốc tế và Việt Nam để có vốn đầu tư. Trong giai đoạn này, một trong những quỹ đầu

tư mạo hiểm chính thức đầu tiên của Việt Nam là quỹ đầu tư FPT Ventures của Tập

đoàn FPT, được thành lập tháng 01/2015, với số vốn ban đầu 3 triệu USD. Mục tiêu

ban đầu của FPT Ventures là trở thành nơi hỗ trợ, ươm mầm cho các dự án khởi

nghiệp, thông qua việc hỗ trợ vốn, kinh nghiệm đầu tư, nguồn lực trong quá trình hình

thành và phát triển doanh nghiệp của các doanh nhân khởi nghiệp.

122

Trong giai đoạn 2015-nay, đánh dấu sự tăng trưởng mạnh về số lượng quỹ đầu

tư mạo hiểm nói chung và quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập nói riêng, từ

56 quỹ đầu tư mạo hiểm (năm 2015) đến 70 quỹ đầu tư mạo hiểm (tháng 9/2019). Lý

do của sự gia tăng về số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam trong thời gian qua

là do chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự quan tâm về mặt chính sách, thực hiện các

biện phát thúc đẩy sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam,

nhằm thu hút nguồn vốn phục vụ đầu tư mạo hiểm; vì thế khi nhận thấy các cơ hội đầu

tư thuận lơi như vậy, các quỹ đầu tư mạo hiểm đã nhanh chóng tận dụng cơ hội để

thành lập quỹ, thực hiện các kế hoạch đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.

4.2.2.2. Nguồn vốn đầu tư mạo hiểm

a. Giai đoạn 1990 - 2002

Về quy mô vốn đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn 1990-2002; trong giai đoạn

đầu, vốn đầu tư mạo hiểm do các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đổ vào Việt Nam

rất lớn, với 10 triệu USD trong năm 1991, sau đó tăng lên 247 triệu USD năm 1994; và

đến năm 1995 đạt ngưỡng cao nhất, với 303 triệu USD được huy động; thể hiện sự kỳ

vọng rất lớn của các nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường mới mở cửa Việt Nam.

Số vốn đầu tư mạo hiểm tham gia vào thị trường cũng gia tăng nhanh chóng,

đặc biệt giai đoạn 2002-2006, với số tiền huy động đạt 130 triệu USD năm 2002, tăng

lên 228 triệu USD năm 2004, đạt đỉnh điểm 2,3 tỷ USD năm 2006. Điều này phù hợp

với giai đoạn tăng trưởng của nền kinh tế, thể hiện sự lạc quan của các nhà đầu tư đối

với tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc biệt khi Việt Nam chuẩn bị gia

nhập WTO. Bên cạnh đó, do tác động của các chính sách khuyến khích cổ phần hóa,

tăng cường phát triển kinh tế tư nhân của Chính phủ, đồng thời sự ra đời của thị trường

chứng khoán Việt Nam vào năm 2000, đã tạo điều kiện rất lớn cho việc đầu tư, giao

dịch cổ phần của các doanh nghiệp, các đối tượng đầu tư trong giai đoạn này.

Trong các năm sau đó, dưới sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu

năm 2008, các quỹ đầu tư mạo hiểm thu hẹp quy mô đầu tư, dẫn đến số vốn huy động

năm 2008 giảm xuống còn 574 triệu USD năm 2008, tuy nhiên sau đó số vốn đầu tư

mạo hiểm luôn duy trì đà tăng trưởng, với 741 triệu USD năm 2009; 956 triệu USD

năm 2010; 912 triệu USD năm 2012; đến năm 2015, vốn huy động từ các quỹ đầu tư

mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đạt 932 triệu USD.

123

Hình 4. 8. Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam giai đoạn 1990-2002

318

303

292

276

258

247

157

131

130

114

12

10

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002

Đơn vị: Triệu USD

Nguồn: Asia Venture Capital Journal, 2005

b. Giai đoạn 2002 – 2015

2300

956

932

1012 912

847

769

741

574

500

228

218

130

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2015

Hình 4. 9. Quy mô vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, giai đoạn 2002-2015

Nguồn: Asia Venture Capital Journal, 2018

 Giai đoạn 2015 – Nay

Đối với giai đoạn từ năm 2015-nay, tổng giá trị vốn đầu tư mạo hiểm vào Việt

Nam vẫn chưa có con số chính thức; tuy nhiên, vốn đầu tư mạo hiểm đổ vào lĩnh vực

khởi nghiệp, thành lập doanh nghiệp mới có sự gia tăng đáng kể, với 200 triệu USD

năm 2016; đến năm 2017, theo số liệu từ Topica Founder Institute, trong báo cáo

Vietnam Startup Deal 2017, có tới 92 dự án được cấp vốn từ vốn đầu tư mạo hiểm, với

tổng giá trị đạt 291 triệu USD. Trong số 291 triệu USD đầu tư trong năm 2017, riêng 6

dự án lớn đã chiếm 198 triệu USD. Thương vụ đầu tư đáng chú ý nhất là Sea Group

(Garena cũ) đầu tư vào Foody và 2 startup giấu tên khác với giá trị lần lượt là 64 và 50

triệu USD. Bên cạnh đó, số liệu từ Topica Founder Institute còn cho thấy, số tiền đầu

tư dưới 1 triệu USD chiếm tỷ trọng cao nhất (61 dự án), giá trị thấp nhất là số tiền đầu

124

tư nhận từ 10 đến 20 triệu USD (3 dự án); và số vốn đầu tư trên 20 triệu USD là 3 dự

án.

4.2.2.3. Lĩnh vực đầu tư mạo hiểm

 Giai đoạn 1990 - 2002

Trong giai đoạn đầu đầu tư tại Việt Nam, các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài

tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như ngân hàng, mía đường, cơ điện, sản xuất nông

nghiệp, thực phẩm, phát triển du lịch, v.v… Ví dụ, Lazard Vietnam Fund đầu tư vào

nhà máy mía đường Nagarjuna (nay là NIVL), Công ty Cổ phần Cơ Điện lạnh REE,

v.v…

Nhìn chung, trong giai đoạn này, các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt

động tại Việt Nam còn thận trọng, do quá trình đổi mới của nền kinh tế Việt Nam mới

bắt đầu, vì thế những biến chuyển về kinh tế, môi trường đầu tư còn chưa rõ nét. Chính

điều này đã dẫn đến kết quả đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn này

còn nhiều hạn chế.

 Giai đoạn 2002 – 2015

Do đặc thù quỹ đầu tư mạo hiểm là lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm, tiềm ẩn

nhiều rủi ro, mang tính chất bảo mật trong kinh doanh rất lớn, bởi chỉ cần bị đánh cắp

ý tưởng đầu tư, kinh doanh thì có thể sẽ bị đối thủ cạnh tranh với tiềm lực vốn và nhân

sự tốt hơn ra mắt sản phẩm tương tự, với chất lượng tốt hơn. Do đó, số liệu cụ thể về

lĩnh vực đầu tư, kinh doanh của các quỹ đầu tư là con số rất khó tiếp cận. Bên cạnh đó,

đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm thiên thần, hoặc quỹ đầu tư mạo hiểm dạng nhỏ, họ

không cung cấp số liệu cho công chúng, do thiếu cơ chế giám sát, bắt buộc công bố

thông tin, nên việc tiếp cận không hề dễ dàng; thậm chí có những quỹ sau một thời

gian rầm rộ huy động, quảng bá đầu tư thì đã không còn thấy hoạt động nữa, do đó

không thể lấy được số liệu. Do vậy, luận án này tập trung vào nghiên cứu số liệu của 4

quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất tại Việt Nam; do giả định của tác giả là các quỹ đầu tư

lớn này luôn phải chịu áp lực lợi nhuận từ các cổ đông, và có tiềm lực về vốn, nhân sự,

mối quan hệ, do vậy họ luôn đi trước xu hướng đầu tư mạo hiểm trong xã hội, để đón

đầu những xu thế đầu tư mới nhất, nhằm đạt được mức sinh lời cao nhất. Số liệu tiếp

cận của 4 quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất, nổi bật đang hoạt động tại Việt Nam, đó là:

Dragon Capital; Vinacapital; Mekong Capital và IDG Ventures Vietnam.

125

Quỹ đầu tư mạo hiểm Dragon Capial

Tại Việt Nam, Dragon Capital phân bổ vốn vào 4 quỹ đầu tư, đó là Vietnam

Enterprise Investment Limited (VEIL); Vienam Equity Fund (VEF); Vietnam Debt

Fund (VDeF) và Vietnam Property Fund (VPF). Trong đó, quỹ VEIL có danh mục đầu

tư bao gồm các cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán.

Ngân hàng Thực phẩm/ Đồ uống Bất động sản Nguyên vật liệu Phần mềm, IT/ Dịch vụ Năng lượng Tài chính đa dạng Dịch vụ tiện ích Vận tải Y tế/ Dược Khác

Bảng 4. 7. Cơ cấu đầu tư của VEIL trong năm 2005, 2015

Năm 2005 Năm 2015 19.70% 21.20% 20.10% 10.00% 6.50% 0.00% 8.00% 2.00% 0.00% 1.90% 10.60%

24.00% 15.00% 6.00% 8.00% 7.00% 4.00% 4.00% 0.00% 7.00% 0.00% 25.00%

Nguồn: Báo cáo thường niên Dragoncapital (2005, 2015)

Như thấy ở Bảng 4.7, cơ cấu đầu tư của VEIL trong giai đoạn 2005-2015 có sự

thay đổi đáng kể (do tại thời điểm 2002, số liệu thu thập tại quỹ này không sẵn có). Tại

năm 2015, đầu tư vào lĩnh vực Ngân hàng của VEIL chiếm tỷ trọng cao nhất (với

24%), tiếp đến là lĩnh vực Thực phẩm/ Đồ uống (15%), kế đến là nhóm ngành Nguyên

vật liệu (8%) và Phần mềm, IT, dịch vụ phần mềm (chiếm 7%). Trải qua 10 năm đầu

tư, danh mục của VEIL chiếm 3 nhóm ngành với tỷ trọng đầu tư cao nhất, đó là Thực

phẩm/ Đồ uống (21,2%); Bất động sản (20,1% - so với 2005 chỉ chiếm 6%); Ngân

hàng (19,7%); trong khi đó, nhóm ngành Phần mềm, IT, dịch vụ phần mềm đã giảm

xuống 6,5%; cá biệt có nhóm ngành Năng lượng đã thoái vốn hết (so với 4% năm

2005), tương tự đối với lĩnh vực vận tải (so với 7% năm 2005).

Quỹ đầu tư mạo hiểm VinaCapital

VinaCapital được thành lập năm 2003, là một trong những quỹ đầu tư mạo

hiểm đầu tiên tại Việt Nam, với số vốn đầu tư lên đến 1.8tỷ USD. Hiện nay, danh mục

quỹ đầu tư của Vinacapital bao gồm hai nhóm quỹ dạng mở và quỹ dạng đóng; trong

đó: (1) Quỹ đầu tư dạng mở bao gồm: Forum One – VCG Partners Vietnam Fund

(VVF); VinaWealth Enhanced Fixed Income Fund (VFF); VinaWealth Equity

Opportunity Fund (VEOF); và Vietnam Equity Special Access Fund (VESAF); (2)

126

Quỹ đầu tư dạng đóng bao gồm: Vietnam Opportunity Fund (VOF); Vinaland Fund

(VNL); Vietnam Infrastructure Fund (VNI) và DFJ VinaCapital (DFJV). Trong đó,

VinaCapital Vietnam Opportunity Fund (VOF) được xem là quỹ đầu tư lớn nhất của

VinaCapital, có giá trị NAV đạt 1,15 tỷ USD (tính đến 12/2017), chiếm hơn nửa giá trị

tài sản của VinaCapital.

Bảng 4.8 cho thấy, trong giai đoạn 2006-2015, cơ cấu phân bổ tài sản đầu tư

của VOF có sự thay đổi lớn, đặc biệt nhóm ngành cổ phiếu chưa niêm yết (do dữ liệu

năm 2002 không sẵn có để thu thập). Trong năm 2006, phần lớn tài sản của VOF đầu

tư vào các doanh nghiệp đã niêm yết (chiếm tỷ trọng 33%), các cổ phiếu giao dịch trên

thị trường OTC (chiếm 25%); trong khi đó chỉ đầu tư khoảng 7% vào vốn cổ phần của

các công ty nhỏ (đến năm 2015, tỷ trọng giảm xuống chỉ còn 3,4%); trong khi đó, tỷ

trọng đầu tư vào cổ phiếu đã niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam tăng lên

52,4%; trên thị trường OTC giảm xuống chỉ còn 4,9%; lĩnh vực bất động sản tăng lên

13,8% (so với 8% năm 2006).

OTC Niêm yết Trái phiếu Vốn cổ phần Bất động sản Tiền Khác

Bảng 4. 8. Phân bổ tài sản đầu tư của Vietnam Opportunity Fund (VOF) (2006-2015) Năm 2006 25.00% 33.00% 2.00% 7.00% 8.00% 20.00% 5.00%

Năm 2015 4.90% 52.40% 0.00% 3.40% 13.80% 2.70% 22.80% Nguồn: Báo cáo thường niên của VOF (2006 -2015)

Ngoài ra, nếu xét theo nhóm ngành đầu tư, VOF chủ yếu chú trọng vào lĩnh vực

Thực phẩm/ Đồ uống (30% năm 2006), Tài sản/ Bất động sản (14% năm 2006) và lĩnh

vực thương mại (12% năm 2006).

Quỹ đầu tư mạo hiểm Mekong Capital

Mekong Capital bắt đầu vào Việt Nam từ năm 2001, với 4 quỹ đầu tư đó là:

Quỹ Mekong Enterprise Fund; Quỹ Mekong Enterprise Fund II; Quỹ Mekong

Enterprise Fund III và Quỹ Vietnam Azalea Fund.

Trong giai đoạn 2002-2015, chủ yếu các quỹ đầu tư của thuộc Mekong Capital

đầu tư trong lĩnh vực Y tế/ Dược phẩm (như Traphaco), Bất động sản, Kinh doanh

thực phẩm; Khách sạn, v.v… Tuy nhiên trong giai đoạn này, các quỹ đầu tư mạo hiểm

127

của Mekong Capital đã có sự đầu tư vào một số công ty thuộc lĩnh vực máy tính, công

nghệ cao như Tập đoàn FPT, Công ty Cổ phần Thông minh MK, Công ty cổ phần Thế

giới số, v.v…

Bảng 4. 9. Danh mục đầu tư tại các quỹ đầu tư mạo hiểm thuộc Mekong Capital

(2002-2015)

Quỹ MEKONG

QUỸ MEKONG

Quỹ VIETNAM AZALEA FUND

ENTERPRISE FUND II

ENTERPRISE FUND

THỜI

THỜI

THỜI

GHI

CÔNG

GHI

CÔNG

GHI

GIAN

CÔNG TY

GIAN

GIAN

ĐẦU

CHÚ

TY

CHÚ

TY

CHÚ

ĐẦU TƯ

ĐẦU TƯ

Công ty

Công ty

chuyên

duy nhất

sản

sản xuất

xuất,

Công ty

Bán cho

và cung

tiếp thị

cổ phần

Công

ty

12/2007-

cấp các

03/2003-

một quỹ

và phân

CTCP Traphaco

12/2007

thông

cổ phần

09/2013

sản

10/2011

đầu

phối

minh

AA (AA)

khác

phẩm

đông

MK

thẻ

tại

dược

Việt

của

Nam

Việt

Nam

Công ty

phân

phối và

sản

Thoái

Công ty

xuất

vốn cho

Tập đoàn Lộc

thuốc

cổ phần

Saigon

2002-

12/2008

05/2007

Tập đoàn

Trời

Gas

12/2008

bảo vệ

Thế giới

Dầu khí

thực vật

Di động

Total

hàng

đầu

Việt

Nam

Nhà sản

Trường

Hệ

Công

ty

Công

ty

Công ty cổ phần

xuất và

Dân lập

thống

cổ phần

06/2004-

sản xuất

Vàng bạc đá quý

12/2007

04/2010

bán

lẻ

quốc tế

trường

sản xuất

08/2012

đồ chơi

Phú Nhật

trang

Việt Úc

song

bằng gỗ

sức lớn

(VAS)

thương

ngữ

cho

trẻ

mại Nam

hàng

em từ độ

nhất

đầu Việt

Hoa

tuổi 1-10

Việt

Nam

Nam

Công

ty

Công ty

cung cấp

Công ty

sản

dịch vụ

kinh

Công

ty

xuất

Công ty cổ phần

Công ty

IT

cho

05/2009-

nước

04/2008-

doanh

cổ phần

07/2003-

thực

phẩm

Golden

các

11/2010

chấm,

04/2014

về chuỗi

Tin học

04/2012

Masan

Gate

doanh

Lạc Việt

nhà

gia

vị

nghiệp

hàng

và mì

vừa

ăn liền

nhỏ

Bán cho

đối

tác

Công ty

Marico,

trong

Công ty

Ltd,

lĩnh vực

hàng gia

Công

ty

10/2006-

công

ty

12/2005-

kỹ thuật

Tập đoàn FPT

2011

dụng

cổ phần

02/2011

ngành

2012

và công

quốc tế

Goldsun

hàng

nghệ

(ICP)

tiêu

thông

dùng Ấn

tin

Độ

Toàn bộ

Công ty

Công ty

số

cổ

cổ phần

Công ty

Công

ty

phát

phiếu

Tập đoàn Nam

Dây

04/2004-

sản xuất

In ấn bao

11/2004-

được bán

triển

2010

Long

nhà

điện

từ

10/2013

dây điện

bì Minh

02/2011

cho một

từ

Phúc

vừa túi

Ngô

nhà đầu

tiền

Han

tư Việt

Nam

Đây

Công ty

khoản

hoạt

đầu

động

Công ty

Công

ty

Công ty

đầu

tiên

trong

phân

cổ phần

lĩnh vực

cổ phần

12/2008-

03/2003-

của

INTRESCO

2008

phối

Nhựa

xây

Thế giới

09/2013

08/2009

Mekong

thiết bị

Tân Đại

dựng,

số

Capital

máy tính

Hưng

tại Việt

phát

Nam. Đã

triển,

đưa công

kinh

128

doanh

ty

này

và cho

niêm yết

thuê

thành

căn hộ

công vào

và các

11/2007

dự

án

bất

động

sản

thương

mại

129

Nguồn: mekongcapital.com

Quỹ đầu tư IDG Ventures Vietnam, bắt đầu vào Việt Nam đầu tư từ năm 2004,

với số vốn đầu tư ban đầu khoảng 100 triệu USD. Quỹ đầu tư này tập trung vào 4 lĩnh

vực đầu tư chủ yếu: Công nghệ thông tin và truyền thông; Phương tiện truyền thông và

giải trí; Công nghệ - Kinh doanh và; Cơ sở hạ tầng người tiêu dùng.

Bảng 4. 10. Danh mục đầu tư của IDG Ventures Vietnam giai đoạn 2002-201522 Tên viết tắt

Tên đầy đủ

Ghi chú

Năm đầu tư 2006 2007 Sở hữu Ciao, ACC, Dore 2006

YAN VSMC VinaPay

Yeu Am Nhac Vietnam Social Media Corp Vietnam Payment Technology Jsc Vinagame Jsc Vinabook.com Vietstock Jsc

Vega Technology Jsc

2004 2004 2005 2005 Thoái vốn năm 2006 2006

VNG Vinabook VietStock Vietnamworks Vietnamworks Vega Technology VC CORP

2012 Kenh14, Afamily, GameK,

Vietnam Communication Corporation

Soha, CafeF, Muachung, Muare, Rongbay, Enbac, Sohaphim, Sohatv, Sannhac, Admicro

Vatgia Tamtay.vn Socbay Punch PeaceSoft

Vina Price Jsc Tam tay Jsc Nais Corp Punch Entertainment Inc Peacesorf Solution Corp

2007 2008 2006 2005 2005 Chodientu, Ebay.vn, Adnet,

San OTC

OTC Vietnam Jsc

Nganluong

2006

22 Nguồn thông tin thu được từ website http://idgvv.com.vn/en/portfolios

MX Payment Online Jsc

130

2007 2007 VietAd, Nghenhac.info,

iSphere Hocmai.vn

iSphere Software Ltd Education Services and Investment Jsc Goldsun Focus Media

Anhso.net 2004 Cyworld Vietnam 2007 Tintuc.hocmai.vn, Đienan.hocmai.vn

2006

Goldsun Focus Media GES EPI

Global Equipment Services Corp EPI Technologies Jsc

2006 2006 Baomoi.com, Raovat123,

Vn-Zoom

Humara Jsc

DreamViet Dia Oc Online Dia Oc Online Corp

2008 Aha, Denthan 2007 DiaOcOnline, DiaOc.tv,

ROL.vn, Map.DiaOcOnline.vn

Dang Ho Jsc Apollo Vietnam

2007 Cyvee, Vietladdrers 2008

Cyvee Apollo Vietnam

MX MORRE CORP MORRE CORP

Nguồn: IDG Ventures Vietnam, 2019

Từ Bảng 4.10 cho thấy, trong giai đoạn trước 2015, danh mục đầu tư của IDG

Ventures Vietnam tập trung trong các lĩnh vực giải trí, giáo dục, công nghệ thông tin,

đầu tư – tài chính. Với danh mục đầu tư như trên, cho đến hiện nay, các doanh nghiệp

cho đến nay vẫn hoạt động hiệu quả, trở thành những địa chỉ tin cậy của cộng đồng

đầu tư, người sử dụng tại Việt Nam.

c. Giai đoạn 2015 – Nay

Theo Thomson Reuters (2016), hiện nay Việt Nam thu hút các nhà đầu tư mạo

hiểm chủ yếu ở các lĩnh vực như (i) nhóm các sản phẩm ngành hàng tiêu dùng; (ii)

nhóm công nghệ cao, truyền thông; (iii) nhóm thương mại điện tử; (iv) nhóm thực

phẩm, đồ uống; (v) nhóm doanh nghiệp quảng cáo; (vi) nhóm đầu tư vào nguồn nhân

lực. Đặc biệt, với sự hỗ trợ về mặt chính sách của chính phủ Việt Nam như ban hành

Nghị định 60/2015/NĐ-CP vào tháng 6/2015 cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu

tư nước ngoài từ 49% lên 100%; hay việc Việt Nam tích cực tham gia các hiệp định

thương mại song phương và đa phương, mở ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư khi đầu

tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế. Địa phương được các nhà đầu tư mạo hiểm rót vốn

nhiều nhất bao gồm các thành phố: Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm VEIL của Dragon Capital, so với giai đoạn 2005-

2015, tỷ trọng đầu tư của quỹ này vẫn tiếp tục duy trì lớn vào ba lĩnh vực: ngân hàng,

thực phẩm/ đồ uống, bất động sản.

131

Ngân hàng Thực phẩm/ Đồ uống Bất động sản Nguyên vật liệu Phần mềm, IT/ Dịch vụ Năng lượng Tài chính đa dạng Dịch vụ tiện ích Vận tải Y tế/ Dược Khác

Bảng 4. 11. Tỷ trọng đầu tư của VEIL, năm 2016 và 2018

Năm 2016 Năm 2018 21.75% 15.24% 27.97% 5.00% 1.00% 8.89% 4.77% 2.42% 3.68% 1.02% 8.26%

15.20% 17.70% 17.70% 10.00% 6.00% 7.20% 4.20% 6.80% 7.70% 1.30% 6.20%

Nguồn: Báo cáo thường niêm VEIL (2016-2018)

Trong khi đó, lĩnh vực phần mềm, IT/ Dịch vụ đã giảm xuống đáng kể, từ 6%

năm 2016 xuống còn 1% năm 2018. Các lĩnh vực khác cũng chứng kiến giảm tỷ trọng

đầu tư vào như ngành nguyên vật liệu, dịch vụ tiện ích, giao thông vận tải, hay y tế/

dược phầm.

Đối với quỹ đầu tư VOF của VinaCapital, có thể nhận thấy sự dịch chuyển đáng

kể về danh mục đầu tư của quỹ trong giai đoạn này. Tỷ trọng đầu tư vào các công ty

niêm yết đã tăng trên 66% tổng giá trị tài sản của quỹ; danh mục đầu tư vào các cổ

phiếu đang dược giao dịch trên thị trường OTC cũng gia tăng đáng kể qua 3 năm, với

8,4% năm 2016, tăng lên trên hai lần, đạt 19,4% năm.

Đặc biệt, tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực bất động sản giảm xuống đáng kể, còn

3,2% (so với 8,2% năm 2016), trong khi đó đầu tư vào vốn cổ phần ở nước ngoài, và

vào tài sản vận hành/ hoạt động đã được thoái vốn hoàn toàn vào năm 2018. Như vậy,

giai đoạn này VOF đã tập trung mạnh đầu tư vào các công ty đang niêm yết trên sở

giao dịch chứng khoán ở Việt Nam.

Đối với các quỹ đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm Mekong Capital, hiện nay còn

quỹ đầu tư Mekong Enterprise Fund III là có danh mục đầu tư hoạt động tích cực nhất,

còn 3 quỹ còn lại hoặc thoái vốn gần hết, hoặc không gia tăng danh mục đầu tư mà chỉ

duy trì những công ty đã đầu tư từ giai đoạn trước.

Niêm yết OTC

Bảng 4. 12. Tỷ trọng đầu tư của VOF

Năm 2016 Năm 2018 66.10% 19.40%

47.90% 8.40%

Vốn cổ phần

11.40%

10.80%

Bất động sản Vốn cổ phần ở nước ngoài

8.20% 3.00%

3.20% 0.00%

Tài sản vận hành/ hoạt động

9.20%

0.00%

Tiền mặt và Khác

11.90%

0.50%

132

Nguồn: Báo cáo thường niêm VOF (2016-2018)

Bảng 4. 13. Danh mục đầu tư của Quỹ Mekong Enterprise Fund III hiện nay

TÊN CÔNG TY

GIỚI THIỆU CÔNG TY

Lĩnh vực

Trung tâm YOLA

NĂM ĐẦU TƯ 8/2017

Giáo dục

05/2017

YOLA được thành lập từ 2009. Công ty tập trung vài tiếng anh học thuật: TOEFL, IELTS, SAT, SSAT, GMAT/GRE Thành lập năm 2014, Nhat Tin Logistics là đơn vị cung cấp dịch vụ bưu chính

Logistic

Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại phát triển Nhất Tín (Nhat Tin logistics)

05/2017

Vàng bạc đá quý

Công ty cổ phần Vàng bạc đá quý Bến Thành và PRECITA

03/2016

Công ty cổ phần Chảo Đỏ

Thực phẩm

01/2017

Công ty cổ phần Đầu tư F88

Thành lập từ năm 1987, BJT là thành viên của Bến Thành Group - là một trong những công ty vàng bạc đá quý lâu đời nhất Việt Nam Thành lập năm 2006, kinh doanh các món ăn truyền thống lành mạnh ở Việt Nam Thương hiệu F88 ra đời từ năm 2013, đi tiên phong trong việc chuyên nghiệp hóa mô hình cầm đồ tại Việt Nam

N/A

Công ty cổ phần Giải pháp thương mại ABA

ABA là nhà cung cấp dịch vụ và giải pháp vận chuyển bảo quản nhiệt độ tại Việt Nam

Tài chính Logistic

Nguồn: mekongcapital.com, 2018

Trong khi đó, quỹ đầu tư IDG Ventures Vietnam, bắt đầu vào Việt Nam đầu tư

từ năm 2004, với số vốn đầu tư ban đầu khoảng 100 triệu USD. Quỹ đầu tư này tập

trung vào 4 lĩnh vực đầu tư chủ yếu: Công nghệ thông tin và truyền thông; Phương

tiện truyền thông và giải trí; Công nghệ - Kinh doanh; Cơ sở hạ tầng người tiêu dùng.

133

Bảng 4. 14. Danh mục đầu tư của IDG Ventures Vietnam

Công nghệ thông

Phương tiện truyền

Công nghệ - Kinh

Cơ sở hạ tầng

tin

thông và giải trí

doanh

người tiêu dùng

và truyền thông

* GES

* Moore Corp

* WebTreTho

* Vinapay

* VC Corp

* YeuAmNhac Group

* Vinabook

* Socbay

* Apollo Vietnam

* Vega Tech

* VietStock

* Dia Diem JSC

* PYCO Group

* TV Plus

* Vatgia

* MX

* TinhVan Media

* OTC Vietnam

* DreamViet

* MSS

* Punch

* Tamtay JSC

* PeaceSoft

* Mobivox

* Rubicon

* Muaban JSC

* Goldsun Focus Media

* Hocmai.vn

* FBNC

* DiaOc Online

* Isphere Soft

* San Pham Viet

* Vinagame

* Minh Dat Viet

* VSMC

* EPI

* DMS Group

* Yeu The Thao

* Magnet

* Cyvee

Nguồn: idgvv.com.vn, 2018

Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập tại Việt Nam, tích cực tham

gia đầu tư, giải ngân vốn nhất là hai quỹ FPT Ventures và quỹ Tăng tốc khởi nghiệp

Việt Nam (VIISA); còn các quỹ đầu tư khác thường nhắm đến các lĩnh vực cụ thể ở

địa phương quỹ được thành lập, lại có hạn chế về vốn đầu tư, như quỹ Khởi nghiệp

Bình Phước (11 tỷ), quỹ Đầu tư khởi nghiệp và sáng tạo TP. Hồ Chí Minh (vốn cam

kết 100 tỷ đồng); quỹ khởi nghiệp doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam (5,2

tỷ).

Ngoài ra, danh mục đầu tư cùa FPT Ventures và VIISA chủ yếu tập trung vào các

công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin, như các công ty liên quan đến

bảo mật dữ liệu khách hàng, chống phần mềm gián điệp, truyền thông, quảng cáo; hay

các công ty liên quan đến vấn đề chăm sóc sức khỏe, thực phẩm chất lượng cao, v.v…

Như vậy, có thể thấy lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành

lập trong những năm gần đây chủ yếu tập trung vào các công ty khởi nghiệp, trong

134

lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ thông tin, công nghệ mới, các doanh nghiệp nhỏ và

vừa, v.v… khác biệt rất lớn so với các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đang hoạt

động tại Việt Nam, khi rất nhiều quỹ tập trung đầu tư vào các công ty đã trưởng thành,

được niêm yết và giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán. Chính danh mục đầu tư này

phản ánh đúng bản chất của quỹ đầu tư mạo hiểm, đó là nhắm tới các lĩnh vực tạo ra

giá trị gia tăng cao, dựa trên nền tảng của khoa học công nghệ.

Bảng 4. 15. Lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập tại Việt Nam

Lĩnh vực

Tên quỹ đầu tư mạo hiểm

Ghi chú

Tập trung vào các doanh nghiệp khởi nghiệp

Công nghệ thông tin và viễn thông, công nghệ mới

Tập trung vào các doanh nghiệp khởi nghiệp

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đa lĩnh vực

Nghiên cứu khoa học

Quỹ sáng tạo CMC (50 tỷ đồng) Quỹ tăng tốc khởi nghiệp Việt Nam (VIISA–8 triệu đô la Mỹ) Quỹ đầu tư phát triển thành phố Đà Nẵng (DDIF) FPT Venture Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF – 1000 tỷ đồng) Quỹ khởi nghiệp doanh nghiệp khoa học công nghệ Việt Nam (SVF) Quỹ phát triển khoa học và công nghệ Đinh Tiên Hoàng Quỹ Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp (30 tỷ đồng) Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF) Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp Quỹ đầu tư thịnh vượng mới Quỹ đầu tư mạo hiểm VSV Venture Fund Quỹ Khởi nghiệp Bình Phước quỹ Đầu tư khởi nghiệp và sáng tạo TP. Hồ Chí Minh Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED)

Nhắm tới các trường đại học, viện nghiên cứu, các nhà khoa học trẻ, tập thể nghiên cứu

Nguồn: Tác giả tổng hợp

4.2.2.4. Kết quả đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm

a. Giai đoạn 1990 - 2002

Trái với kỳ vọng ban đầu của các nhà đầu tư mạo hiểm nước ngoài tại thị

trường Việt Nam, kết quả hoạt động kinh doanh không được như dự kiến. Các quỹ đầu

135

tư mạo hiểm lần lượt thoái vốn, giảm tỷ trọng đầu tư tại các dự án, thậm chí hoàn trả

lại phần vốn chưa giải ngân hết cho các nhà đầu tư góp vốn ban đầu; cụ thể:

Đối với hai quỹ đầu tư mạo hiểm Lazard Vietnam Fund và Templeton Vietnam

Fund, hai quỹ này đã rời bỏ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam ngay trong giai đoạn đầu;

mục tiêu ban đầu là hai quỹ này chỉ tập trung vào các dự án lớn, với kỳ vọng mức sinh

lời cao, tuy nhiên, thực tế chỉ có thể giải ngân được một số dự án nhỏ. Sau đó hai quỹ

này đã phải thoái vốn tại các công ty đã đầu tư tại Việt Nam, chuyển hướng sang một

số quốc gia Đông Nam Á khác; đơn cử Lazard Vietnam Fund đã phải bán cho quỹ đầu

tư mạo hiểm Dragon Capital phần vốn đã đầu tư mía đường liên doanh với Nagarjuna

(trị giá 6,5 triệu USD), và 6,6% vốn tại REE (trị giá 1 triệu USD).

Đối với quỹ đầu tư Frontier Vietnam Fund, mặc dù đã giải ngân được trên 70%

vốn huy động (37,3/ 53,1 triệu USD); tuy nhiên sau quá trình đầu tư không hiệu quả,

đã thoái hết phần vốn đầu tư (khoảng 30 triệu USD) vào tháng 7/2004 để đóng cửa và

giải thể quỹ.

Đối với quỹ đầu tư Vietnam Fund, mặc dù là quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài

có mặt đầu tiên tại Việt Nam, tuy nhiên hiệu quả đầu tư không được như ý muốn. Đến

thời điểm cuối năm 1998, quỹ đã giải ngân trên 75% vốn huy động (41,04/54,38 triệu

USD), tuy nhiên kết quả đầu tư không được khả quan, nên quỹ đã trả lại phần lớn số

tiền chưa giải ngân đầu tư, nhằm tiết kiệm chi phí quản lý của quỹ.

Đối với quỹ Vietnam Enterprise Investment Ltd do Công ty quản lý quỹ đầu tư

mạo hiểm Dragon Capital quản lý, là quỹ đầu tư mạo hiểm duy nhất được thành lập

trong giai đoạn này còn tồn tại đến hiện nay; với giá trị tài sản ròng hiện nay đạt

khoảng 1,5 tỷ USD (tháng 3/2019)

Như vậy, trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại

Việt Nam, chỉ có các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư, tuy

nhiên kết quả đầu tư không thành công, đã lần lượt thoái vốn, rút khỏi thị trường Việt

Nam. Theo quan điểm của luận án, trong giai đoạn này thị trường kinh doanh, đầu tư

tại Việt Nam còn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu, bởi hình thức đầu tư tư nhân còn

khá mới mẻ, các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong hệ thống sản xuất,

phân phối tại Việt Nam. Mặc dù từ đầu năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng (hiện nay là

Chính phủ) đã ra Quyết định Số 143/HĐBT ngày 10/5/1990, nhằm lựa chọn ra một số

doanh nghiệp nhỏ và vừa để thử chuyển đổi thành công ty cổ phần; tiếp sau đó là các

136

Nghị định 28/CP (ngày 7/5/1996), Nghị định 44/1998/NĐ-CP (ngày 29/6/1998). Kết

quả là trong năm 1990-1991 chỉ có 2 doanh nghiệp được cổ phần hóa thành công; đến

tháng 4/1996, tổng số chỉ có 7 doanh nghiệp được cổ phần hóa; đến cuối năm 2001, cả

nước có 548 doanh nghiệp được cổ phần hóa.

b. Giai đoạn 2002 – 2015

Quỹ đầu tư mạo hiểm, với đặc tính thời gian đầu tư dài hạn, vào các dự án đầu

tư mạo hiểm, trong lĩnh vực công nghệ cao, hoặc các công ty mới thành lập, thường

trước giai đoạn phát hành cổ phần ra công chúng (IPO), nhằm đạt được tỷ suất sinh lời

cao nhất. Tuy nhiên thực tế cho thấy, hai quỹ đầu tư VEIL và VOF thường tập trung

đầu tư vào các công ty đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam; chính vì

vậy, quá trình thu thập số liệu về kết quả hoạt động kinh doanh của hai quỹ này có

phần đơn giản hơn, do định kỳ hàng quý/ năm, quỹ dễ dàng tổng hợp và công bố giá trị

tài sản ròng (NAV) của các khoản mục quỹ đã và đang đầu tư.

Tại Bảng 4.14 cho thấy, giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF có sự tăng trưởng

đáng kể tại năm 2015 so với năm 2005. Tại giai đoạn đầu của giai đoạn nghiên cứu,

giá trị NAV của VEIL đạt 184,61 triệu USD, lên đến đỉnh điểm vòa năm 2007, với giá

trị trên 900 triệu USD; đây đồng thời là giai đoạn thị trường chứng khoán Việt Nam

đạt mức tăng trưởng cao nhất, với chỉ số Vn-index đạt trên 1000 điểm, chính vì vậy,

giá trị tài sản ròng của danh mục tài sản VEIL nắm giữ có giá trị cao. Tương tự như

vậy, với quỹ VOF, với số liệu NAV năm 2005 đạt 76 triệu USD, giá trị tài sản ròng

của quỹ cũng đạt đỉnh điểm 822 triệu USD vào năm 2007, giai đoạn rất khởi sắc của

thị trường chứng khoán niêm yết tại Việt Nam. Sang các năm sau đó, với sự sụt giảm

chung của nền kinh tế toàn cầu, giá trị tải sản ròng của VEIL giảm xuống còn 330,13

triệu USD năm 2011, sau đó tăng dần lên, đạt 512,86 triệu USD năm 2014, và 792,65

triệu USD vào năm 2015; đối với quỹ VOF, các con số tương ứng là 752 triệu USD,

779 triệu USD và 718,7 triệu USD.

Nếu xét tốc độ tăng trưởng giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF, so với các chỉ

số chung trên thị trường như Vn-index, Hnx-index, VN30, nhận thấy VEIL có tốc độ

tăng trưởng NAV vượt trội hơn so với các chỉ số chung của thị trường; trong khi NAV

của VOF có tốc độ tăng thấp hơn so với các chỉ số còn lại. Cụ thể, năm 2006, NAV

của VEIL tăng 181,46% (của VOF là 240,79%), so với VN-index là 144,46%, của

137

Hnx-index là 167,66%; tại năm 2012, NAV của VEIL đạt 21,63% (của VOF là

1,81%), của VN-index đạt 17,69%, của Hnx-index giảm 0,9%; đến năm 2015, NAV

của VEIL tăng 54,52% (của VOF giảm 7,74%), trong khi Vn-index tăng 6,12%, Hnx-

index giảm 3,65%, VN30 tăng 0,74%.

Bảng 4. 16. Giá trị giá trị tài sản ròng (NAV) của VEIL và VOF

2006

2005

2011

2014

2008

2012

2009

2007

2013

2010

2015 VEIL 184.61 519.61 901.23 365.01 435.36 419.02 330.13 401.55 473.54 512.96 792.65 76.00 259.00 822.00 669.00 682.00 783.00 752.00 765.60 752.40 779.00 718.70 VOF

giai đoạn 2005-201523 (Đơn vị: Triệu USD)

Nguồn: Báo cáo thường niêm VEIL, VOF (2005-2015)

Bảng 4. 17. Tốc độ tăng trưởng NAV của VEIL và VOF

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

VEIL

181.46%

73.44%

-59.50% 19.27%

-3.75%

-21.21% 21.63% 17.93%

8.33% 54.52%

VOF

240.79% 217.37%

-18.61%

1.94%

14.81%

-3.96%

1.81%

-1.72%

3.54%

-7.74%

Vn-index

144.46%

23.32%

-65.95% 56.76%

-2.04%

-27.46% 17.69% 16.49% 13.21%

6.12%

Hnx-index 167.66%

32.94%

-67.41% 51.85%

-29.47%

-48.99%

-0.90% 17.27% 23.94%

-3.65%

VN30

N/A

N/A

N/A

N/A

N/A

N/A

8.47% 34.37%

-9.36%

0.74%

so với một số chỉ số chứng khoán tại Việt Nam

Nguồn: Báo cáo thường niêm VEIL, VOF (2006-2015); www.hnx.vn; www.hsx.vn

Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm Mekong Capital, với ba quỹ chủ lực là Vietnam

Azalea Fund, Mekong Enterprise Fund, Mekong Enterprise Fund II, trong giai đoạn

2002-2015, đã tham gia đầu tư nhiều dự án, và đã bắt đầu thoái vốn một trong số đó, ví

dụ đã thoái vốn tại Công ty cổ phần Thông minh MK (2007-2013); Công ty cổ phần

AA (2003-2011); Saigon Gas (2002-2008), Công ty cổ phần Goldsun (2005-2012),

v.v… đặc biệt, công ty cổ phần Nhựa Đại Hưng, là công ty đầu tiên Mekong Capital

tham gia đầu tư vào Việt Nam (từ 2003), đã đưa công ty này niêm yết thành công vào

năm 2007.

Riêng với quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Venture, với danh mục đầu tư chủ yếu vào

các công ty chưa niêm yết (Bảng 4.10), vì thế trong giai đoạn này, chủ yếu vẫn đang

trong quá trình giải ngân, vì thế theo số liệu luận án thu thập được, chưa có ghi nhận

lợi nhuận trong giai đoạn này.

23 Do dữ liệu từ 2002 đến 2014 không sẵn có để thu thập

138

c. Giai đoạn 2015 – Nay

Trong giai đoạn 2016-2018, các quỹ đầu tư mạo hiểm VEIL và VOF đã có các

mức tăng trưởng cao, ổn định. Giá trị tài sản ròng qua các năm có sự tăng trưởng đáng

ghi nhận. Cụ thể, năm 2016 NAV của VEIL đạt 969,84 triệu USD (của VOF là 786,54

triệu USD); đến năm 2018, giá trị tài sản ròng mà hai quỹ đầu tư này nắm giữ đã tăng

lên trên 1,4 tỷ USD (quỹ VEIL), và trên 1 tỷ USD (quỹ VOF).

2017

2018 2016 VEIL (Triệu USD) 969.84 1,272.33 1,429.47 949.68 1,043.43 VOF (Triệu USD) 786.54

Bảng 4. 18. Giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF

Nguồn: Báo cáo thường niêm VEIL, VOF (2016-2018)

Khi so sánh tốc độ tăng trưởng của các chỉ số chứng khoán trên thị trường, kết

quả đầu tư của VEIL và VOF đã duy trì được tốc độ tăng trưởng tốt, năm với 22,35%

(VEIL), 9,44% (VOF) so với Vn-index là 14,82%, Hnx-index là 0,2% và VN30 là

5,48%; đến năm 2018, khi toàn bộ các chỉ số của thị trường chứng kiến đà sụt giảm,

với 9,32% của Vn-index, 10,81% của Hnx-index và 12,36% của VN30; thì giá trị tổng

tài sản ròng của VEIL đã tăng 12,35%; của VOF tăng 9,87%. Điều này cho thấy, mặc

dù điều kiện chung của toàn thị trường sụt giảm, nhưng hai quỹ đầu tư trên vẫn rất linh

hoạt trong quá trình đầu tư, nhằm bảo vệ lợi nhuận của mình một cách vững chắc.

Với các quỹ đầu tư của Mekong Capital, trong giai đoạn 2015 trở lại đây đã tiến

hành thoái vốn tại nhiều công ty, khi kết thúc giai đoạn đầu tư, hoặc đã đạt được mức

sinh lời kỳ vọng; như thoái vốn tại Công ty cổ phần Traphaco (năm 2017 – thu về 65

triệu USD lợi nhuận), Tập đoàn Lộc Trời (năm 2017 – đạt IRR 18,7%; lợi nhuận 3,6

lần vốn đầu tư), Công ty cổ phần Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (2016), Công ty cổ phần

Thế giới di động (năm 2018 – đạt tỷ suất lợi nhuận 57 lần), trường Dân lập Quốc tế

Việt – Úc (năm 2017), Tập đoàn FPT (năm 2016), Tập đoàn Nam Long (năm 2016),

Công ty cổ phần đầu tư – kinh doanh nhà (Intresco – năm 2016).

Riêng đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập; do đặc thù mới

huy động vốn và đang trong quá trình giải ngân vào các dự án đầu tư mạo hiểm, vì thế

tới thời điểm này chưa có kết quả ghi nhận lợi nhuận đạt được từ quá trình đầu tư. Tuy

nhiên có thể dễ thấy có rất nhiều doanh nghiệp đang được đầu tư, đã có doanh thu, nổi

tiếng trên thị trường như ứng dụng cung cấp giải pháp tập luyện fitness mới tại Việt

139

Nam Wefit; trang mua sắm trực tuyến Sen Đỏ; công ty an ninh mạng Security Box

(chuyên cung cấp dịch vụ bảo mật cho EVN, OnePay, Garena, VegaCoporation,

v.v…), công ty dịch vụ học trực tuyến Ella, v.v…

VEIL Tổng Tài sản (USD) VOF - Tổng tài sản (USD) Vnindex Hnx-index Vn30

2016 22.35% 9.44% 14.82% 0.20% 5.48%

2017 31.19% 20.74% 48.03% 45.87% 55.29%

2018 12.35% 9.87% -9.32% -10.81% -12.36%

Bảng 4. 19. Tốc độ tăng trưởng giá trị tài sản ròng của VEIL và VOF

Nguồn: Báo cáo thường niên VEIL, VOF (2016-2018); www.hnx.vn; www.hsx.vn

4.3. Kết quả khảo sát nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư

mạo hiểm ở Việt Nam

Trong số hơn 300 địa chỉ email được gửi đi, số phản hồi là 92; trong khi đó, với

80 phiếu điều tra gửi qua bưu điện và gửi trực tiếp, số phản hồi là 75. Như vậy, tổng

cộng có 167 phiếu phản hồi; tuy nhiên có 38 kết quả bị loại do người được điều tra còn

bỏ trống một số câu hỏi, còn lại 129 phiếu phản hồi hợp lệ.

4.3.1. Thống kê mô tả

Trong số 129 phiếu khảo sát được trả lời thu về, các chuyên gia làm việc tại quỹ

đầu tư chiếm đa số (với 26%), đơn vị đào tạo về chứng khoán (chiếm 21%), các công

ty chứng khoán và ngân hàng thương mại (chiếm 15%); Ủy ban chứng khoán (Chiếm

10%), công ty bảo hiểm (9%) và các chuyên gia đang làm việc tại Sở giao dịch chứng

khoán (chiếm 5%).

Trong số các đối tượng được khảo sát, gần một nửa đã tham gia đầu tư trên 5

năm (49%), còn lại đã tham gia đầu tư tại các lĩnh vực khác nhau trên 1 năm (chiếm

46%), chỉ có 5% các nhà đầu tư có kinh nghiệm đầu tư dưới 1 năm. Với kinh nghiệm

đầu tư trong những lĩnh vực khác nhau như vậy, những đối tượng này sẽ được kỳ vọng

cung cấp những góc nhìn đáng tin cậy đối với môi trường đầu tư nói chung và môi

tường đầu tư mạo hiểm hiện nay tại Việt Nam.

Đối với trình độ học vấn của đối tượng được khảo sát, mặc dù có những

phương án như trình độ Cao đẳng, và Khác; nhưng các đối tượng trả lời tập trung vào

hai nhóm đối tượng: trình độ đại học (chiếm 73%), và sau đại học (chiếm 27%). Điều

này phần nào phản ánh được trình độ làm động đang làm việc tại các doanh nghiệp

140

như các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, hoặc các đơn vị của nhà

nước như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch Chứng khoán, hoặc các cán bộ

đang làm việc tại các trường đại học, trung tâm đào tạo về chứng khoán, v.v…

Hình 4. 9. Nơi làm việc của đối tượng

Hình 4. 10. Kinh nghiệm đầu tư của đối

khảo sát

tượng khảo sát

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

Sở giao dịch Chứng khoán

5%

10%

21%

Ngân hàng thương mại

15%

15%

9%

5%

26%

< 1 năm

17%

Công ty bảo hiểm

1-3 năm

49%

3-5 năm

Quỹ đầu tư

Trên 5 năm

29%

Nguồn: Kết quả khảo sát

3%

27%

Đại học

Không

Trên đại học

73%

97%

Hình 4. 11. Trình độ học vấn của đối tượng khảo sát Hình 4. 12. Câu hỏi ở Việt Nam hiện nay đã có quỹ đầu tư mạo hiểm hay chưa

Nguồn: Kết quả khảo sát

141

Đánh giá chung về mức độ hiểu biết của các đối tượng được khảo sát về quỹ

đầu tư mạo hiểm, có 97% trả lời đúng về Việt Nam hiện nay đã có quỹ đầu tư mạo

hiểm, trong khi chỉ có 3% trả lời là không có. Như vậy, với thực trạng số lượng và kết

quả đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam như đã trình bày ở các phần

trước, có thể nhận xét đa số các đối tượng được khảo sát đã nhận biết sự có mặt của

quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, phần lớn người được khảo sát cho rằng, hiện nay các quỹ đầu tư

mạo hiểm của nước ngoài đang chiếm ưu thế tại Việt Nam (chiếm 68,8%), trong khi

chỉ có dưới 15% trả lời là quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam hoặc quỹ đầu tư mạo

hiểm liên doanh; đối với đáp án Việt Nam hiện nay chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm, có

3% người trả lời.

Về phần tỷ lệ rủi ro khi đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm, đa số người trả

lời cho rằng tỷ lệ thất bại rất cao, trên 90%; điều này phù hợp với thực tế khi nghiên

cứu về quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới, tỷ lệ thất bại tại các dự án đầu tư rất cao,

chiếm trên 95%, trong khi chỉ có 5% thành công và thoái vốn có lãi. Câu trả lời đã

phản ánh phần nào quan điểm và sự hiểu biết của đối tượng khảo sát, khi phần lớn

đang làm việc tại các quỹ đầu tư, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, v.v.. đã và

đang trực tiếp tham gia nghiên cứu và đầu tư vào các dự án đầu tư tại Việt Nam.

Về phần câu hỏi lĩnh vực đầu tư ưa thích của quỹ đầu tư mạo hiểm, phần lớn

người trả lời cho rằng, các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao, có tiềm

năng phát triển sẽ được các quỹ đầu tư mạo hiểm lựa chọn đầu tư (chiếm 81,4%); đối

với các công ty nhỏ và vừa mới thành lập, có triển vọng phát triển lớn trong tương lai

chiếm thứ hai (với 51,5%); trong khi các công ty đã trưởng thành, có doanh thu và lợi

nhuận ổn định, chỉ có 15,5% ý kiến lựa chọn.

Vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm đối với nền kinh tế, nhiều nhà đầu tư lựa chọn

cả ba phương án câu hỏi khảo sát đưa ra; tuy nhiên phần lớn lựa chọn phương án cung

cấp vốn cho các doanh nghiệp mới thành lập, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao.

Điều này phản ánh quan điểm của những người được khảo sát tin rằng, mục tiêu quan

trọng nhất của quỹ đầu tư mạo hiểm là tài trợ vốn cho các doanh nghiệp mới thành lập

trong nền kinh tế. Ngoài ra, những người được khảo sát cũng cho rằng, quỹ đầu tư mạo

hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu

142

lần đầu ra công chúng (IPO), chiếm 31,2% phiếu trả lời; vai trò phát triển lượng lao

động chất lượng cao trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm chiếm 41,1%.

68.80%

50%-80%

89%-90%

Trên 90%

14.50%

13.70%

8%

3.00%

10%

Quỹ đầu tư mạo hiểm liên doanh

Quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài

Quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam

82%

Việt Nam hiện nay chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm nào hoạt động

Hình 4. 14. Câu hỏi tỷ lệ thất bại khi đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm Hình 4. 13. Câu hỏi quỹ đầu tư mạo hiểm nào đang chiếm ưu thế tại Việt Nam

Nguồn: Kết quả khảo sát

81.40%

51.50%

18.00%

15.50%

Công ty sắp phá sản, giải thể

Công ty đã trưởng thành, có doanh thu, lợi nhuận ổn định

Công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao, có tiềm năng phát triển

Công ty nhỏ và vừa mới thành lập, có triển vọng phát triển lớn trong tương lai

Hình 4. 15. Câu hỏi về lĩnh vực đầu tư ưa thích của quỹ đầu tư mạo hiểm

Nguồn: Kết quả khảo sát

143

85.70%

41.10%

31.20%

Thúc đẩy các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng

Phát triển lượng lao động chất lượng cao trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm

Cung cấp vốn cho các doanh nghiệp mới thành lập, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao

Hình 4. 16. Câu hỏi về vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm đối với nền kinh tế

Nguồn: Kết quả khảo sát

Như vậy, nhìn chung phần tổng quan khảo sát cho thấy, với các đối tượng được

khảo sát đang làm việc tại Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán,

quỹ đầu tư, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, cơ sở đào tạo về chứng khoán cho

thấy, phần lớn đối tượng được khảo sát có sự hiểu biết nhất định đối với lĩnh vực đầu

tư mạo hiểm nói chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng. Các câu trả lời của

những người được khảo sát thể hiện quan điểm của những đối tượng đã và đang làm

việc tại lĩnh vực quỹ đầu tư mạo hiểm, hoặc những đối tượng có kinh nghiệm đầu tư,

vì thế ý kiến của những người được khảo sát là cơ sở quan trọng đóng góp vào kết quả

nghiên cứu của luận án này.

4.3.2. Phân tích nhân tố tác động đến xây dựng và phát triển quỹ đầu tư

mạo hiểm ở Việt Nam

Đối với thanh đo Các chính sách của chính phủ, kết quả kiểm định Cronbach’s

Alpha của thang đo cho thấy, với 5 biến quan sát đều cho kết quả tương quan biến

tổng > 0,4; đồng thời đều có hệ số Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến nhỏ hơn

Cronbach’s Alpha của thang đo của tổng thể; do vậy tất cả các biến quan sát đều được

chấp nhận và sử dụng để phân tích nhân tố tiếp theo.

Tiếp đến, với thang đo Các nhân tố về văn hóa, xã hội; kết quả kiểm định

Cronbach’s Alpha cho thấy, với biến quan sát đều cho kết quả tương quan biến tổng >

0,4; đồng thời đều có hệ số Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến nhỏ hơn Cronbach’s

Alpha của thang đo của tổng thể; do vậy tất cả 4 biến quan sát này đều được chấp nhận

và sử dụng để phân tích nhân tố tiếp theo.

144

Bảng 4. 20. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố chính sách của chính phủ

Biến

Diễn giải

Tương quan biến tổng

Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến 0.9264

CSCP1 Nghiên cứu và ban hành đồng bộ, kịp thời các văn bản

0.8361

pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ, hoàn thiện liên quan đến quỹ đầu tư mạo hiểm

CSCP2 Các quy định pháp luật rõ ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ

0.7998

0.9328

quyền lợi cho các nhà đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm

CSCP3 Chính phủ đưa ra các chương trình hỗ trợ phát triển

0.8659

0.9208

quỹ đầu tư mạo hiểm

CSCP4 Chính sách thuế ưu đãi đối với lĩnh vực đầu tư mạo

0.7953

0.9337

hiểm và các quỹ đầu tư mạo hiểm

CSCP5 Chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho đầu tư mạo

0.8929

0.9156

hiểm ở các cấp độ giáo dục

Cronbach’s Alpha của thang đo 0.9399

Nguồn: Kết quả nghiên cứu

Bảng 4. 21. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về văn hóa, xã hội

Cronbach’s

Biến

Diễn giải

Tương quan

Alpha nếu loại

biến tổng

chỉ biến

VHXH1

Tính nhất quán, coi trọng chữ tín của các bên

0.7760

0.9104

trong quan hệ đầu tư, kinh doanh

VHXH2

Có phẩm chất bền bỉ, nỗ lực không ngừng với

0.8313

0.9065

dự án của mình

VHXH3

Khả năng đánh giá và thích ứng với rủi ro tốt

0.8770

0.8925

VHXH4

Có năng lực quản lý và nắm bắt được các cơ hội

0.8502

0.9010

trong đầu tư

Cronbach’s Alpha của thang đo 0.9281

Nguồn: Kết quả nghiên cứu

Với thang đo Các nhân tố về Năng lực đào tạo, nghiên cứu; kết quả kiểm định

Cronbach’s Alpha cho thấy, cả 4 quan sát biến quan sát đều cho kết quả tương quan

biến tổng > 0,4; Cronbach’s Alpha của thang đo là 0,8958 > 0,6; đồng thời đều có hệ

số Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến nhỏ hơn Cronbach’s Alpha của thang đo của

tổng thể; do vậy tất cả 4 biến quan sát này đều được chấp nhận và sử dụng để phân tích

nhân tố tiếp theo.

145

Diễn giải

Bảng 4. 22. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về năng lực đào tạo, nghiên cứu Cronbach’s Biến Alpha nếu loại chỉ biến

Tương quan biến tổng 0.7901

0.8577

ĐTNC1 Trường học ở các cấp cần tuyên truyền về ý thức doanh nhân, đầu tư cho các thế hệ học sinh, sinh viên

ĐTNC2 Giảng viên, nghiên cứu viên tại các cơ sở đào tạo có

0.8328

0.8417

liên quan cần có năng lực nghiên cứu, truyền đạt ý tưởng kinh doanh cho sinh viên

ĐTNC3 Nâng tầm hiểu biết và thực thi của người dân về quyền

0.7483

0.8732

sở hữu trí tuệ

ĐTNC4 Khuyến khích các nhà đầu tư tập trung vào các lĩnh vực

0.7067

0.8385

công nghệ cao, mang tính sáng tạo

Cronbach’s Alpha của thang đo 0.8958

Nguồn: Kết quả nghiên cứu

Kết quả kiểm định của thang đo Nhân tố địa điểm đầu tư cho thấy, cả 3 biến

quan sát đều cho kết quả tương quan biến tổng > 0,4; Cronbach’s Alpha của thang đo

là 0,7458 > 0,6; đồng thời đều có hệ số Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến nhỏ hơn

Cronbach’s Alpha của thang đo của tổng thể; do vậy tất cả 3 biến quan sát này đều

được chấp nhận và sử dụng để phân tích nhân tố tiếp theo.

Bảng 4. 23. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố địa điểm đầu tư

Biến

Diễn giải

Tương quan biến tổng 0.5225

Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến 0.7227

ĐĐ1 Mạng lưới các loại hình giao thông kết nối các địa điểm

0.6930

0.5198

ĐĐ2

0.5127

0.7278

ĐĐ3

đóng vai trò quan trọng khi quyết định đầu tư tại một địa phương Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp Các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nhân có vai trò lớn trong việc kết nối cộng đồng đầu tư mạo hiểm

Cronbach’s Alpha của thang đo 0.7458

Nguồn: Kết quả nghiên cứu

Trong thang đo Nhân tố về nguồn lực, với 8 biến quan sát được kiểm định

Cronbach’s Alpha, kết quả cho thấy, hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo là 0,8325;

trong 8 biến quan sát, có 7 biến được chấp nhận và sử dụng để phân tích nhân tố tiếp

theo; riêng biến NL3 bị loại, do có kết quả Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến là

0,8343 > Cronbach’s Alpha của thang đo tổng.

Như vậy, kết quả kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha của thang đo cho

thấy, cả 5 thang đo đều thỏa mãn; trong các thang đo đó, có biến NL3 bị loại. Do vậy,

146

có tất cả 5 thang đo và 23 biến quan sát được sử dụng trong kiểm định ở phân tích

Nhân tố khám phá EFA trong bước tiếp theo. Kết quả tổng hợp của kiểm định

Cronbach’s Alpha được tổng hợp ở Bảng 4.23.

Bảng 4. 24. Độ tin cậy của thang đo các nhân tố về nguồn lực

Biến

Diễn giải

Tương quan biến tổng

Cronbach’s Alpha nếu loại chỉ biến

NL1 Các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó tiếp

0,5694

0.8116

cận vốn vay từ ngân hàng

NL2 Các doanh nghiệp mới thành lập, nhỏ và

0.6953

0.7947

vừa có nhu cầu vốn đầu tư mạo hiểm rất lớn NL3 Trình độ lao động trẻ tại Việt Nam chưa đáp

0.4136

0.8343

ứng được chất lượng cao trong đầu tư mạo hiểm

0.6657

0.7977

NL4 Các doanh nghiệp lớn, tập đoàn lớn tại Việt Nam chưa đầu tư tương xứng cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm

NL5 Nguồn lực của chính phủ Việt Nam dành

0.6186

0.8047

cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng còn khiêm tốn

NL6 sự tăng trưởng số lượng các quỹ đầu tư mạo

0.4210

0.8301

hiểm qua các năm

NL7 Tổng giá trị vốn huy động được của các quỹ

0.6352

0.8062

đầu tư mạo hiểm qua các năm

NL8 Hiệu quả đầu tư của các quỹ đầu tư mạo

0.4922

0.8213

hiểm qua các năm

Cronbach’s Alpha của thang đo 0,8325

Nguồn: Kết quả nghiên cứu

Tiếp theo, luận án phân tích nhân tố khám phá EFA cho 5 thang đo và 23 biến quan sát

ở phần trên theo các bước sau, nhằm xác định mức độ tác động của thang đo và các

biến quan sát đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam như

thế nào.

Bảng 4. 25. Bảng tổng hợp các biến và thang đo sau Phân tích Cronbach’s Alpha Biến quan sát TT

Biến quan sát thỏa mãn

Cronbach’s

Nhân tố

Alpha

bị loại

Tên biến

Số

Tên

Số

biến

biến

biến

1

Các chính sách của

0.9399

CSCP1, CSCP2, CSCP3,

0

5

chính phủ (CSCP)

CSCP4, CSCP5

2

Các nhân tố về văn

0.9281

VHXH1, VHXH2

0

4

hóa, xã hội (VHXH)

VHXH3,VHXH4

0

3

Nhân tố về năng lực

0.8958

4

ĐTNC1, ĐTNC2

ĐTNC3, ĐTNC4

đào tạo, nghiên cứu

(ĐTNC)

3

0

4

Nhân tố về địa điểm

0.7458

ĐĐ1, ĐĐ2, ĐĐ3

đầu tư (ĐĐ)

7

5

Nhân tố về nguồn lực

0.7952

NL1, NL2, NL4, NL5,

1

NL3

(NL)

NL6, NL7, NL8

147

Nguồn: Tổng hợp từ kiểm định Cronbach’s Alpha trong Stata của luận án

Phương pháp phân tích nhân tố EFA thuộc nhóm phân tích đa biến phụ thuộc

lẫn nhau, nghĩa là không có biến phụ thuộc và biến độc lập mà nó dựa vào mối tương

quan giữa các biến với nhau. Phương pháp EFA dùng để rút gọn một tập k biến quan

sát thành một tập F (với F < k) các nhân tố có ý nghĩa hơn. Theo Mayers và các cộng

sự (2000), trong phân tích nhân tố, phương pháp trích Principle Components Analysis

đi cùng với phép xoay Varimax là cách thức được sử dụng phổ biến nhất. Do vậy, các

bước tiếp theo được tiến hành như sau:

Bước 1. Phân tích Principle-Component Factor

Tại bước phân tích này, yêu cầu Minimum Value of Eigenvalue to be retained

từ 1 trở lên. Điều này có nghĩa nhân tố nào có Eigenvalue lớn hơn 1 mới được giữ lại.

Kết quả phân tích như sau:

Tại cột Eigenvalues, dòng thứ 8 là giá trị Eigenvalues nhỏ nhất mà lớn hơn 1,

có nghĩa là có tất cả 5 nhân tố được tạo ra, do ngưỡng Eigenvalues > 1 đã được cài đặt

lựa chọn từ trước.

Method: principal-component factors Retained factors = 5

Rotation: (unrotated)

Number of params = 90

Factor

Eigenvalue

Proportion

Cumulative

Factor1

11.39821

0.4656

0.4656

Factor2

5.56391

0.0867

0.5522

Factor3

2.10339

0.0681

0.6204

Factor4

1.68628

0.0449

0.6653

Bảng 4. 26. Kết quả phân tích Principle-Component Factor Number of obs = 129 Factor analysis/correlation

Factor5

1.11195

0.0411

0.7063

Factor6

0.92413

0.0382

0.7445

Factor7

0.87321

0.0298

0.7743

148

Nguồn: Kết quả nghiên cứu

Bước 2. Tìm ma trận xoay

Tại bước ma trận xoay này, nhằm mục đích tìm ra mỗi nhân tố gồm những câu

hỏi nào. Tại bảng tổng hợp 4,29 cho thấy, dựa trên kết quả phân tích giá trị hội tụ và

giá trị phân biệt, có 5 nhân tố được trích, tương ứng với 23 biến quan sát; tất cả các hệ

số tải của biến quan sát đều > 0,5; tất cả các biến quan sát đo lường cho các nhân tố

CSCP, VHXH, ĐTNC, ĐĐ, NL đều có hệ số tải cao trên cùng một nhân tố, tức là các

biến đều đạt giá trị hội tụ tốt; và không có giá trị khác biệt đáng kể của hệ số tải của

một biến quan sát trên các khái niệm khác, tức là các biến quan sát có giá trị phân biệt

tốt.

Kết quả kiểm định KMO cho thấy, hệ số KMO = 0,735 (> 0,7) nên mô hình

nghiên cứu đạt được tính đầy đủ; đồng thời, kết quả kiểm định Bartlett cho thấy,

Sig.=0,000 (< 0,005), có nghĩa trong mô hình nghiên cứu này, các biến có tương quan

với nhau trong tổng thể. Cuối cùng, với phương sai giải thích đạt giá trị 0,8002 có

nghĩa, 5 nhân tố này giải thích được 80,02% việc xây dựng và phát triển của quỹ đầu

tư mạo hiểm ở Việt Nam. Trong đó, tại mỗi nhân tố nghiên cứu, có những quan sát

đóng vai trò quan trọng nhất như: trong nhân tố CSCP, biến CSCP2, tức là các quy

định pháp luật rõ ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư mạo hiểm và

quỹ đầu tư mạo hiểm có tác động mạnh nhất; trong nhân tố VHXH, biến VHXH3, tức

là doanh nhân có khả năng đánh giá và thích ứng với rủi ro tốt có tác động mạnh nhất;

nhân tố ĐTNC có biến ĐTNC3, tức nâng tầm hiểu biết và thực thi của người dân về

quyền sở hữu trí tuệ có tác động mạnh nhất; trong nhân tố ĐĐ, biến ĐĐ1, tức mạng

lưới các loại hình giao thông kết nối các địa điểm đóng vai trò quan trọng khi quyết

định đầu tư tại một địa phương; trong nhân tố NL, có biến NL8, tức Hiệu quả đầu tư

của các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm có tác động mạnh nhất.

149

Biến quan sát

Bảng 4. 27. Tổng hợp kết quả phân tích nhân tố khám phá Nhân tố về địa điểm đầu tư

Các nhân tố về văn hóa, xã hội

Các chính sách của chính phủ

Nhân tố về nguồn lực

Nhân tố về năng lực đào tạo, nghiên cứu

0.8244 0.8243 0.7305 0.7278 0.7211

0.7007 0.6864 0.6461 0.6253

0.6813 0.6187 0.5144

0.8750 0.7078 0.7063 0.6572 0.5774 0.5679 0.5643

0.7471 0.6714 0.6527 0.6109

0.755 0.000

2.10339

11.39821

5.56391

1.68628

1.11195

0.8032

CSCP2 CSCP1 CSCP3 CSCP4 CSCP5 VHXH3 VHXH4 VHXH1 VHXH2 ĐTNC3 ĐTNC1 ĐTNC2 ĐTNC4 ĐĐ1 ĐĐ2 ĐĐ3 NL8 NL6 NL4 NL1 NL2 NL5 NL7 KMO P-value (Bartlett’s test) Eigenvalue Phương sai giải thích (%)

Nguồn: Kết quả nghiên cứu

4.4. Đánh giá chung về thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam

Trải qua gần 30 năm kể từ khi có hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm tại

Việt Nam, dựa vào những điều kể trên, hoạt động đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam đã

đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, quá trình xây dựng và phát triển quỹ

đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Việc đánh giá đúng thực trạng, và

chỉ ra các nguyên nhân hạn chế sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ về thực trạng hoạt

động quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, từ đó có các khuyến nghị chính sách phù hợp

150

để phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, giúp Việt Nam có được sự phát triển đột phá, đặc

biệt trong lĩnh vực khoa học, công nghệ.

4.4.1. Kết quả đạt được

Thứ nhất, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng

qua các năm. Từ những năm đầu với 1 quỹ đầu tư mạo hiểm (năm 1991), cho đến nay

(2019), Việt Nam đã có trên 70 quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đang hoạt động đầu

tư. Với mức tăng trưởng GDP bình quân ở mức trên 5%/ năm, tỷ lệ lạm phát luôn

được kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả, cho thấy hiệu quả, sự quyết tâm điều hành các

chính sách của chính phủ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, so sánh với các

quốc gia trong khu vực, cho thấy tốc độ tăng trưởng của Việt Nam luôn đứng top đầu,

thể hiện sức hấp dẫn của môi trường đầu tư đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Khi lựa chọn quốc gia để đầu tư, việc đầu tư vào quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng

ổn định sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn rất nhiều so với các quốc gia có tốc độ tăng trưởng

thấp, không ổn định; bởi nó thể hiện vai trò của nhà nước trong vấn đề kiểm soát, điều

hành nền kinh tế.

Thứ hai, giá trị của vốn đầu tư mạo hiểm vào Việt Nam có sự tăng trưởng

mạnh mẽ qua các năm, phù hợp với các giai đoạn tăng trưởng/ tích lũy của nền kinh tế.

Với giá trị vốn đầu tư mạo hiểm năm 2001 chỉ đạt 114 triệu USD, đến năm 2006 đạt

mức cao nhất 2,3 tỷ USD và duy trì mức trên 500 triệu USD vào những năm tiếp theo.

Thứ ba, lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm chủ yếu trong lĩnh vực

tài chính – ngân hàng, bất động sản, và trong các lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực

thông tin, giải trí. Thực tiễn cho thấy, Việt Nam có lợi thế là có tỷ lệ dân số trẻ cao.

Theo số liệu từ Quỹ Dân số Liên Hợp quốc (UNFPA) năm 2016, Việt Nam đang có tỷ

lệ dân số trẻ cao nhất trong lịch sử, với số dân đang trong độ tuổi từ 10-24 chiếm gần

40% dân số. Với tỷ lệ dân số trẻ như vậy rất có lợi cho các hoạt động sản xuất kinh

doanh và đầu tư. Bởi lẽ dân số trẻ đồng nghĩa với việc nhu cầu tiêu dùng cao, đặc biệt

các hàng hóa mang tính công nghệ thời thượng, và với việc sẵn sàng chi tiêu cho tiêu

dùng, sẽ thúc đẩy việc sản xuất và buôn bán hàng hóa trong nước. Bên cạnh đó, dân số

trẻ sẽ là lực lượng lao động hùng hậu cho các doanh nghiệp tại mọi lĩnh vực trong xã

hội. Ngoài ra, lực lượng dân số trẻ đồng nghĩa với việc họ chấp nhận rủi ro cao trong

đầu tư, kinh doanh. Đây chính là yếu tố cần thiết cho việc huy động vốn và hoạt động

của các quỹ đầu tư mạo hiểm, mở ra các cơ hội rất lớn cho các quỹ đầu tư dạng này.

151

Thứ tư, kết quả đầu tư của một số quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động

tại Việt Nam trong nghiên cứu này đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Đối với

các quỹ đầu tư mạo hiểm với danh mục đầu tư chủ yếu là các chứng khoán niêm yết

trên thị trường chứng khoán, luôn có mức tăng trưởng giá trị tài sản ròng của quỹ

(NAV) cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của biến độ chỉ số chứng khoán trên thị

trường (VNIndex, VN30) qua các năm; đối với các công ty đầu tư vào các doanh

nghiệp sản xuất, kết quả những doanh nghiệp được đầu tư đều trở thành các doanh

nghiệp lớn, có tên tuổi trên thị trường; do đó, khi thoái vốn các quỹ đầu tư này đều đạt

được mức lợi nhuận đáng kể.

4.4.2. Tồn tại và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được kể trên, thực tế thời gian qua, các quỹ đầu tư

mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam còn gặp không ít tồn tại, đó là:

Thứ nhất, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam chưa nhiều. Hiện nay

hầu hết các quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam đều là quỹ đầu tư mạo hiểm

tại nước ngoài, còn quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập trong nước còn rất ít, mới

thành lập. So với các quốc gia trong khu vực, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động

tại Việt Nam còn khiêm tốn, năm 2015 đạt 56 quỹ, năm 2018 có 43 quỹ, và cao nhất là

đến tháng 9/2019, với 70 quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động, trong khi đó, số liệu

năm 2018 cho thấy, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Indonesia là 50;

tại Singapore là 231; tại Thái Lan là 36; Malaysia là 49 (ThomsonOne, 2019).

Thứ hai, số lượng dự án đầu tư mạo hiểm và vốn đầu tư mạo hiểm đầu tư vào

nước ta còn khiêm tốn. Cũng theo số liệu từ ThomsonOne (2019), bình quân giai đoạn

2015-2018, Việt Nam chỉ có 69 thương vụ đầu tư mạo hiểm được thực hiện; với 59

công ty được đầu tư; giá trị bình quân mỗi thương vụ chỉ đạt 4 triệu USD; bình quân

mỗi quỹ đầu tư mạo hiểm giải ngân 11 triệu USD. Con số trên rất khiêm tốn khi so

sánh với Singapore, với 286 thương vụ được đầu tư, giá trị bình quân mỗi thương vụ

đạt 10 triệu USD; bình quân mỗi công ty được đầu tư nhận khoảng 15 triệu USD; hay

tại Malaysia, có đến 88 công ty được nhận vốn từ quỹ đầu tư mạo hiểm, bình quân mỗi

công ty nhận được 18 triệu USD; bình quân mỗi quỹ đầu tư mạo hiểm giải ngân 14

triệu USD trong giai đoạn này.

Thứ ba, lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động lâu

năm tại Việt Nam chủ yếu tập trung đầu tư vào các công ty đã niêm yết trên thị trường

152

chứng khoán (ví dụ quỹ VOF đã tăng tỷ trọng đầu tư vào công ty niêm yết từ 33% năm

2006 lên đến 66,1% năm 2018); vào lĩnh vực bất động sản, thực phẩm, đồ uống (như

quỹ VEIL), hoặc truyền thông, giải trí (IDG Ventures Vietnam). Trong khi đó, chỉ có

một số quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập hiện nay tập trung vào các công ty

công nghệ cao, bảo mật, công nghệ thông tin, v.v… như quỹ FPT Ventures, VIISA,

hay quỹ CMC. Điều này phản ánh thực trạng, các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước

ngoài thường mong muốn có các thương vụ chắc chắn, khi đầu tư vào những công ty

đang trong giai đoạn phát triển, nhằm hạn chế rủi ro, khả năng thu hồi vốn nhanh;

trong khi quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới thường tập trung vào lĩnh vực khoa học

đời sống, máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng, và các công ty khởi nghiệp, chưa niêm

yết trên thị trường chứng khoán.

Thứ tư, mặc dù có sự tăng trưởng kết quả đầu tư qua các năm, tuy nhiên các

quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam có kết quả đầu tư chưa bền vững,

vẫn bị tác động nhiều bởi sự biến động của thị trường chứng khoán, dẫn đến nhiều giai

đoạn có kết quả đầu tư biến động mạnh.

Việc tồn tại những hạn chế trên do một số nguyên nhân chính như sau:

Thứ nhất, khung pháp lý dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam hiện nay

chưa có. Mặc dù có sự quyết tâm vào cuộc của Chính phủ Việt Nam nhằm thúc đẩy sự

phát triển của đầu tư mạo hiểm nói chung và quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng. Tuy

nhiên sự ủng hộ này mới chỉ dừng lại ở các nghị định, quy định cụ thể cho từng dự án,

chứ chưa có bộ luật chung dành cho đầu tư mạo hiểm. Chính vì thiếu vắng luật quy

định như vậy, tạo ra các kẽ hở, sự không đồng nhất trong giới đầu tư mạo hiểm. Kết

quả của khảo sát cho thấy, kết quả phân tích các nhân tố khám phá tại Bảng 4.29 cho

rằng, đối với các chính sách của chính phủ, các quy định của pháp luật có quy định rõ

ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo

hiểm đóng vai trò quan trọng nhất; tiếp đến là việc Chính phủ nghiên cứu và ban hành

đồng bộ, kịp thời các văn bản pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ, hoàn

thiện liên quan đến quỹ đầu tư mạo hiểm; như vậy, các đối tượng được khảo sát cũng

đồng tình với việc chính phủ cần quan tâm hơn đến lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nói

chung, và quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng ở góc độ xây dựng khung pháp lý cho lĩnh

vực này.

153

Tại thời điểm hiện tại, mới nhất chỉ có dự thảo luật dành cho quỹ đầu tư mạo

hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo chứ chưa có quy định về việc thành lập, hoạt động,

quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm nói chung. Điều này gây ra khó khăn cho các đối tượng

có ý định thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, cũng như các nhà đầu tư muốn góp vốn đầu

tư mạo hiểm nhằm tìm kiếm các cơ hội có khả năng sinh lời cao.

Thứ hai, chưa có cơ chế đặc thù để các quỹ đầu tư mạo hiểm huy động và thoái

vốn tại các công ty đã đầu tư. Mặc dù Việt Nam đã có thị trường chứng khoán, tuy

nhiên việc thu hút vốn đầu tư từ công chúng vẫn còn hạn chế, mức độ liên kết giữa

cộng đồng đầu tư còn nhiều bất cập. Bản thân các doanh nghiệp khi muốn phát hành

cổ phiếu ra công chúng, hiện nay đang bị ràng buộc bởi Luật chứng khoán về điều

kiện phát hành, như phải có số vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên, kết quả hoạt động

kinh doanh năm liền trước phải có lãi. Đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp, việc huy

động vốn và đáp ứng được kết quả hoạt động kinh doanh như vậy rất khó; vì thế, điều

này vô hình chung đã tạo ra rào cản đối với các công ty khởi nghiệp (một trong những

đối tượng đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm). Ngoài ra, để dễ dàng huy động vốn trong

cộng đồng đầu tư, việc niêm yết những công ty đang hoạt động trên thị trường chứng

khoán niêm yết đóng vai trò rất quan trọng, nhưng hiện nay với các quy định khắt khe

về điều kiện niêm yết trên hai Sở giao dịch Chứng khoán tại Việt Nam (HOSE và

HNX), đã tạo ra những hạn chế đối với các công ty mới hoạt động, nhưng với triển

vọng phát triển lớn, làm mất cơ hội cho cả các quỹ đầu tư mạo hiểm và các nhà đầu tư

mạo hiểm.

Đối với hạn chế này, bản thân các đối tượng tham gia khảo sát cũng nhận ra

tầm quan trọng của việc có cần thiết hay không cơ chế đặc thù cho lĩnh vực đầu tư

mạo hiểm nói chung, với 100% người được khảo sát trả lời là có. Ngoài ra, các đối

tượng được khảo sát cũng cho rằng, cần thiết có cơ chế đặc thù cụ thể như chính sách

thuế, hay chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm.

Thứ ba, hạn chế về nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm. Tại Việt Nam, đầu tư mạo

hiểm vẫn được coi là lĩnh vực mới, do đó đa số chỉ thu hút được các nhà đầu tư thiên

thần (các cá nhân, gia đình giàu có), hoặc các tổ chức đầu tư từ nước ngoài. Thực tế có

rất nhiều công ty, tập đoàn trong nước có tiềm lực kinh tế, mạng lưới và kinh nghiệm

đầu tư, nhưng họ chưa biết hoặc chưa quan tâm đến lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, do cho

rằng đây là lĩnh vực có nhiều rủi ro, có khả năng mất vốn lớn. Do vậy, cần thiết khơi

154

thông nguồn vốn từ các nhà đầu tư tổ chức trong nước, nhằm tận dụng nguồn vốn sẵn

có của Việt Nam.

Kết quả phân tích nhân tố khám phá tại Bảng 4.25 cho thấy, trong các biến của

nhân tố nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm, yếu tố NL4, tức các doanh nghiệp lớn, tập

đoàn lớn tại Việt Nam chưa đầu tư tương xứng cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm có tác

động mạnh nhất; yếu tố NL2, tức các doanh nghiệp mới thành lập, nhỏ và vừa có nhu

cầu vốn đầu tư mạo hiểm rất lớn; vì thế có thể thấy vấn đề về nguồn lực của đầu tư

mạo hiểm tại Việt Nam cũng được các đối tượng liên quan đến đầu tư mạo hiểm nhận

thức khá rõ ràng và đầy đủ.

Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực cho đầu tư mạo hiểm cũng là một vấn

đề rất lớn trong quá trình xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Mặc dù được đánh giá là quốc gia có tỷ lệ dân số trẻ ở mức lý tưởng, nhưng năm lực

của nguồn lao động này lại là một vấn đề lớn. Theo Tổng cục Thống kê (2017), tính

theo sức mua tương đương, năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 chỉ bằng 7%

của Singapore; 17,6% của Malaysia; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của Indonesia;

56,7% của Philippines và 87,4% năng suất lao động của Lào. Điều đáng nói là tỷ lệ

năng suất Việt Nam yếu kém hơn so với các quốc gia trong khu vực có xu hướng gia

tăng hơn nữa. Năng suất lao động đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định đầu tư

của doanh nghiệp, quyết định đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong điều kiện

sản xuất kinh doanh khắt khe hiện nay. Ngoài ra, yếu tố quan trọng trong lĩnh vực khởi

nghiệp, đầu tư mạo hiểm đó là chỉ số sáng tạo của người lao động. Theo kết quả khảo

sát chi số sáng tạo (Global Innovation Index) năm 2017 của hai trường đại học hàng

đầu thế giới Cornell và Insead và tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIP) ở hơn 140

quốc gia, Việt nam hiện đang đứng ở vị trí trung bình thấp. Với số xếp hạng 47/127

quốc gia và nền kinh tế (tăng so với số 35/147 năm 2016), Việt Nam đã cố gắng

chuyển mình để hội nhập năng lực với thế giới, nhưng con số thống kê cho thấy, còn

rất nhiều điều cần phải làm để nâng cao năng lực của quốc gia nói chúng, và chất

lượng người lao động nói riêng.

Thứ tư, chưa tập trung đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao. Nhìn vào cơ cấu

danh mục đầu tư của 4 quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất đang hoạt động tại Việt Nam,

hiện chỉ có quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Ventures đang tập trung đầu tư vào các công ty

hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử, giải trí, cơ sở hạ tầng người tiêu dùng,

155

v.v... Trong khi các quỹ đầu tư mạo hiểm khác chỉ đang tập trung đầu tư vào các lĩnh

vực mang tính chất sinh lời nhanh, tức thời, như lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, bất

động sản, v.v... hơn nữa, các quỹ này tập trung phần lớn đầu tư vào các công ty đã

niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán tại Việt Nam; trong khi trên thực tế, các

quỹ đầu tư mạo hiểm đã và đang hoạt động trên thế giới, tập trung đầu tư mạnh vào

các công ty trong lĩnh vực khoa học công nghệ cao, chủ yếu đầu tư vào các công ty

khởi nghiệp, chưa phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO). Chính lý do nguồn vốn

đầu tư mạo hiểm chưa được tập trung đầu tư, phân bổ vào các công ty khởi nghiệp,

hoặc các công ty công nghệ cao, hiện đang rất cần vốn như vậy, nên phần nào đã làm

giảm hiệu quả đầu tư của vốn đầu tư mạo hiểm nói chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm

nói riêng, chưa tạo được sự tăng trưởng đột biến của các công ty công nghệ, các công

ty đang khởi nghiệp tại Việt Nam.

Thứ năm, chưa có mạng lưới kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm hiệu quả. Cho

đến nay, mới có duy nhất Diễn đàn quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam diễn ra

vào tháng 6 năm 2019, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phối hợp với Bộ Khoa học và Công

nghệ và Quỹ Golden Gate Ventures tổ chức. Với mục tiêu kết nối các quỹ đầu tư mạo

hiểm lớn đang hoạt động tại Việt Nam, đồng thời giới thiệu với các quỹ đầu tư mạo

hiểm lớn trên thế giới về môi trường kinh doanh, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo tại

Việt Nam để thu hút nguồn vốn đầu tư mạo hiểm nước ngoài; đồng thời, diễn đàn cũng

mong muốn tạo nên tiếng nói để mong muốn chính phủ Việt Nam xem xét, tạo điều

kiện hỗ trợ các cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, diễn đàn này mới được tổ chức lần thứ nhất, và

chưa có con số thống kê sự hiệu quả của diễn đàn này trong việc thúc đẩy sự hình

thành các quỹ đầu tư mạo hiểm mới, cũng như tác động đến sự phát triển của các quỹ

đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam hiện nay.

Thứ sáu, chưa có mô hình tổ chức và hoạt động cụ thể cho quỹ đầu tư mạo

hiểm. Hiện nay, mặc dù Việt Nam đã có các quỹ đầu tư mạo hiểm nội địa được thành

lập và đi vào hoạt động, nhưng mô hình quỹ rất đa dạng, từ quỹ tư nhân, quỹ đóng,

quỹ thành viên,v.v… điều này dẫn đến việc khó kiểm soát, quản lý từ các cơ quan

chức năng đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Hơn nữa, cho đến nay, Việt Nam chưa

ban hành quy định về điều kiện thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, do đó mặc dù có nhiều

nhà đầu tư cá nhân, gia đình giàu có mong muốn tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo

156

hiểm, nhưng quy định pháp lý không có, vì thế đã cản trở các nhà đầu tư này tham gia

thị trường, do lo ngại các vấn đề pháp lý phát sinh sau này. Bên cạnh đó, ngoài nguyên

nhân khách quan thiếu vắng các quy định của pháp luật, còn có nguyên nhân chủ quan

là chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt Nam thành lập đang thực sự hoạt động có

hiệu quả, vì thế các vấn đề có liên quan đến việc thành lập, hoạt động và quản lý quỹ

đầu tư mạo hiểm, nên những vẫn đề có liên quan như mô hình sở hữu, đối tượng

khuyến khích góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm, hay mô hình quản lý, thoái vốn,

v.v… đều là rào cản cho việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

hiện nay.

Thứ bảy, chưa có cơ quan nhà nước nào quản lý đặc thù đối với các quỹ đầu tư

mạo hiểm. Hiện nay bản thân quỹ đầu tư mạo hiểm vẫn chưa chính xác được quy vào

loại hình doanh nghiệp nào, bởi nếu xét góc độ quỹ đầu tư thì thuộc điều chỉnh của

Luật chứng khoán (do Ủy ban Chứng khoán quản lý); nếu xét ở góc độ huy động vốn

cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (do quan điểm cho rằng các dự án khởi nghiệp – đối

tượng cần vốn nhất từ quỹ đầu tư mạo hiểm, thuộc loại các doanh nghiệp mới thành

lập, do đó được xếp vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa), thì quỹ đầu tư mạo hiểm có thể

thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp nhỏ và vừa (Do Bộ Công Thương

quản lý). Thêm vào đó, nếu xét ở góc độ tài trợ vốn cho lĩnh vực công nghệ cao, loại

hình kinh doanh mới thì có thể thuộc quản lý của Bộ Khoa học Công nghệ. Như vậy,

bản thân loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm có thể do 3 cơ quan, bộ, ngành tác động đến

đó là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Công thương quản

lý. Việc chồng chéo giữa các cơ quan hành pháp tại Việt Nam không phải là mới, khi

xảy ra vấn đề có liên quan, hoặc có tranh chấp xảy ra thì các bên liên quan lại đùn đẩy

trách nhiệm cho nhau, gây khó khăn trong công tác quản lý và xử lý sự việc, lại không

có cơ quan thực sự có trách nhiệm giám sát hoạt động của chủ thể đó.

Thứ tám, chưa có lộ trình rõ ràng, cụ thể để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư

mạo hiểm. Về mặt định hướng, Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” (Quyết định số 844/QĐ-TTg -

2016); Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025” (Quyết định số

939/QĐ-TTg – 2017); Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp” (Quyết định số

1665/ QĐ-TTg – 2017); ra mắt Trung tâm Hỗ tợ thanh niên khởi nghiệp (Supporting

Center for Youth’s Start-up) trực thuộc Trung ương hội Liên hiệp Thanh niên Việt

157

Nam vào tháng 3/2017, v.v… Tuy nhiên, các Quyết định, Đề án trên còn mang tính

chất chung chung, chưa có lộ trình cụ thể về việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư

mạo hiểm ở Việt Nam. Điều này gây ra sự lúng túng cho các địa phương khi đề cập

đến lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; hoặc bản thân các đối tượng muốn tham gia thành lập,

góp vốn đầu tư mạo hiểm cũng chưa biết rõ ràng sẽ được quyền lợi, hạn chế gì trong

thời điểm hiện tại. Chính điều này đã trì hoãn, làm chậm lại quá trình xây dựng và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

158

Kết luận chương 4

Tại Việt Nam hiện nay, môi trường cho sự phát triển của các quỹ đầu tư mạo

hiểm còn ở giai đoạn đầu, vì thế còn nhiều bất cập. Các quỹ đầu tư mạo hiểm đang

hoạt động tại Việt Nam chủ yếu là các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài, có đăng

ký hoạt động tại thị trường Việt Nam; trong khi đó các quỹ đầu tư mạo hiểm do Việt

Nam thành lập còn ít, còn hạn chế về vốn và kinh nghiệm đầu tư. Với lợi thế dân số

trẻ, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp tỷ trọng lớn vào tổng thu nhập quốc

dân hàng năm, đã có sự xuất hiện của các tổ chức trung gian tài chính như ngân hàng,

công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, v.v... đồng thời thị trường chứng

khoán niêm yết đã đi vào hoạt động gần 20 năm, là điều kiện rất cơ bản để phát triển

thị trường đầu tư mạo hiểm nói chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng. Tuy

nhiên, từ giai đoạn 1990 – nay, với 3 giai đoạn phát triển của các quỹ đầu tư chứng

khoán, cho thấy chủ yếu các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài chú trọng vào các công

ty niêm yết, trong khi tỷ trọng đầu tư vào các công ty mới thành lập, công ty khởi

nghiệp, hoặc các công ty trong lĩnh vực công nghệ cao còn hạn chế. Chỉ có giai đoạn

gần đây, khi có sự vào cuộc của chính phủ, đã hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm của

Việt Nam, bắt đầu tập trung vào các lĩnh vực khởi nghiệp của các công ty trong nhóm

ngành công nghệ cao, công nghệ sinh học, các sản phẩm ứng dụng của công nghệ,

thông tin.

159

CHƯƠNG 5. KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH NHẰM XÂY DỰNG

VÀ PHÁT TRIỂN QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM

5.1. Định hướng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chính phủ đã có nhiều động thái nhằm thúc

đẩy sự hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam. Thực tế cho thấy,

trọng tâm chính phủ hướng đến là các hoạt động đầu tư mạo hiểm liên quan đến đổi

mới sáng tạo, khởi nghiệp. Trong các Ban, Ngành của chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu

tư chịu trách nhiệm đầu tàu về lĩnh vực này, thông qua các cơ chế, chính sách hỗ trợ,

khuyến khích các cá nhân tham gia góp vốn hỗ trợ đầu tư khởi nghiệp, hoặc hỗ trợ các

doanh nhân khởi nghiệp bằng các biện pháp liên quan đến pháp lý, hỗ trợ nguồn vốn.

Bảng 5. 1. Một số quy định của pháp luật Việt Nam định hướng, hỗ trợ doanh nghiệp, có liên quan đến lĩnh vực đầu tư mạo hiểm

Năm

Tên

Diễn giải

Có hiệu lực đến -

2015 Số: 19/2015/QĐ-

TTg

Quyết định quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp công nghệ cao

2015 Số: 1193/QĐ-TTg Quyết định Về việc thí điểm một số cơ chế, chính sách

2020

2015 Số: 37/2015/QĐ-

-

TTg

2015 Số: 214/2015/TT-

2020

BTC

-

2016 Số: …./2016/TT- BKHĐT

2016 Số: 19-2016/NQ-

2020

CP

2016 Số: 35/NQ-CP

2020

2016 Số: 884/QĐ-TTg

2025

đặc thù phát triển Vườn ương công nghệ công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc tại thành phố Cần Thơ Quyết định quy định điều kiện thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Thông tư Hướng dẫn cơ chế, chính sách ưu đãi về hỗ trợ ngân sách nhà nước, thuế và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo quy định tại Quyết định số 1193/QĐ- TTg ngày 30/7/2015 của Thủ tưởng Chính phủ về việc thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Vườn ương công nghệ công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc tại thành phố Cần Thơ Dự thảo Thông tư Hướng dẫn về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo Nghị quyết Về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020 Nghị quyết Về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 Quyết định Về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025" 2017 Số: 1665/QĐ-TTg Quyết định Về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ học sinh,

2025

sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025"

2025

160

Quyết định phê duyệt Đề án "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025" Luật chuyển giao công nghệ

2017 Luật số:

-

07/2017/QH14

-

2017 Luật số:

Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

04/2017/QH14

2018 Số: 38/2018/NĐ-

-

CP

2019 Số: 39/2019/NĐ-

-

CP

Nghị định quy định chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo Nghị định Về tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa

2017 Số: 939/QĐ-TTg

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Trong năm 2015, Chính phủ ban hành Quyết định Số 19/2015/QĐ-TTg, Quyết

định quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp công nghệ cao, trong đó quy định cụ thể

doanh nghiệp như thế nào được coi là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công

nghệ cao; ví dụ như Doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao của doanh nghiệp phải đạt

ít nhất 70% trong tổng doanh thu thuần hàng năm; Tổng chi cho hoạt động nghiên cứu

và phát triển được thực hiện tại Việt Nam trên tổng doanh thu thuần hàng năm đối với

doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đạt ít nhất 1%. Đối với các doanh nghiệp có tổng nguồn

vốn trên 100 tỷ đồng và tổng số lao động trên 300 người tỷ lệ này phải đạt ít nhất

0,5%; hay Số lượng lao động có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên trực tiếp thực

hiện nghiên cứu và phát triển trên tổng số lao động của doanh nghiệp đối với doanh

nghiệp vừa và nhỏ phải đạt ít nhất 5%. Đối với các doanh nghiệp có tổng nguồn vốn

trên 100 tỷ đồng và tổng số lao động trên 300 người tỷ lệ này phải đạt ít nhất 2,5%

nhưng không thấp hơn 15 người. Việc quy định cụ thể như vậy, nhằm xác định được

chính xác nhất các doanh nghiệp nào đang thực sự hoạt động trong lĩnh vực công nghệ

cao, để được nhận các ưu đãi, hỗ trợ từ chính phủ trong tương lai; bởi thực tế cho thấy,

các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao được coi là lĩnh vực đầu tư

mạo hiểm, với việc tốn rất nhiều chi phí cho nghiên cứu, thử nghiệm sản phẩm, đồng

thời tỷ lệ thất bại cũng rất lớn; việc làm này được coi là hướng đi đúng đắn, như bài

học tại Hàn Quốc cho thấy, rất cần thiết quy định cụ thể các doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm nhằm đưa những ưu đãi của chính phủ hỗ trợ được các

doanh nghiệp này.

Hay như văn bản sát sườn nhất liên quan đến quỹ đầu tư mạo hiểm là dự thảo

Thông tư Hướng dẫn về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của quỹ đầu tư

mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo năm 2016. Trong dự thảo này đã nêu ra được nổi

161

bật các vấn đề pháp lý cần thiết cho việc thành lập, hoạt động và giám sát quỹ đầu tư

mạo hiểm dành cho lĩnh vực đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.

Ngoài ra, với quan điểm cho rằng, các doanh nghiệp khởi nghiệp thường là các

doanh nghiệp nhỏ, chưa có uy tín để huy động vốn tại các ngân hàng hoặc các trung

gian tài chính lớn khác, trong Hội thảo quốc tế “Tạo dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi

mới sáng tạo Việt Nam – Bài học thực tiễn từ Insrael”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho

rằng, nên để các điều luật, quy định liên quan đến quỹ đầu tư mạo hiểm vào trong Luật

doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ví dụ như Chính phủ đã ban hành một loạt các quy định

định hướng có liên quan như Quyết định Số: 1193/QĐ-TTg về việc thí điểm một số cơ

chế, chính sách đặc thù phát triển Vườn ương công nghệ công nghiệp Việt Nam - Hàn

Quốc tại thành phố Cần Thơ; Quyết định Số: 37/2015/QĐ-TTg, quy định điều kiện

thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan

thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nghị quyết Số: 35/NQ-CP về

hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Quyết định Số: 884/QĐ-TTg v ề việc

phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm

2025"; Quyết định Số: 1665/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ học sinh, sinh

viên khởi nghiệp đến năm 2025"; hay Quyết định Số: 939/QĐ-TTg Quyết định phê

duyệt Đề án "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giia đoạn 2017-2025".

Với quan điểm như vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có các bước hỗ trợ cụ thể như

thành lập Quỹ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa, với mục tiêu hỗ trợ vốn cho các

doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, với mức lãi suất ưu đãi trong suốt quá trình

đầu tư. Riêng trong năm 2017, trong tổng số vốn 560 tỷ phân bổ cho các doanh nghiệp

nhỏ và vừa, mức vốn hỗ trợ cho Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới

sáng tạo đã lên tới 100 tỷ; còn lại phân bổ cho Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ

và vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (180 tỷ); chương trình hỗ

trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo (180 tỷ);

chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành hoạt động quản lý và xử lý

rác thải, nước thải (100 tỷ).

Như vậy có thể thấy, hiện nay chính phủ tập trung vào thực hiện các chính sách

hỗ trợ, thành lập, quản lý các quỹ đầu tư mạo hiểm liên quan đến giai đoạn khởi

nghiệp, cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhưng thực tế cho thấy, các giai đoạn đầu

tư của đầu tư mạo hiểm không chỉ bao gồm giai đoạn start-up mà còn có các giai đoạn

162

sau nữa. Dường như chính phủ đang tách bạch giữa quỹ đầu tư khởi nghiệp và quỹ

đầu tư chứng khoán, với hàm ý rằng, chính phủ sẽ tạo điểu kiện về hành lang pháp lý,

thậm chí đầu tư nguồn vốn “mồi” để giúp hình thành các doanh nghiệp mới, dự án

mới; sau đó để thị trường quyết định có nên đầu tư vào các doanh nghiệp này nữa hay

không, thông qua hiệu quả của giai đoạn nghiên cứu, phát triển sản phẩm.

Nhìn chung, hiện nay môi trường pháp lý đối với quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt

Nam gần như chưa có gì cụ thể, vẫn đang ở các quyết định, dự án mang tính chất

khuyến khích, còn manh mún và chưa có hệ thống pháp luật đồng bộ; chỉ có các Quy

định, Nghị định có liên quan đến đầu tư mạo hiểm, nhưng phần lớn đều mang tính chất

ngắn hạn, thường có hiệu lực đến năm 2020 hoặc 2025, nhằm thử nghiệm cho các

chương trình của Chính phủ. Bên cạnh đó, như đã trình bày ở nội dung phần trước,

hiện nay có rất ít quỹ đầu tư mạo hiểm chính danh nào được thành lập ở Việt Nam, mà

chủ yếu là các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đang hoạt động. Việc cho phép các

quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động tại Việt Nam, trong khi chưa có hành lang pháp lý cụ

thể đối với lĩnh vực này, vừa tạo ra kẽ hở trong quá trình hoạt động của các quỹ đó,

đồng thời bản thân các quỹ đầu tư mạo hiểm ở nước ngoài muốn tham gia đầu tư vào

Việt Nam cũng chưa cảm thấy yên tâm, tin tưởng, làm hạn chế nguồn vốn chảy vào

lĩnh vực đầu tư mạo hiểm ở nước ta.

5.2. Một số khuyến nghị chính sách nhằm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam

Dựa vào kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm,

cũng như từ nghiên cứu thực trạng đầu tư mạo hiểm, hoạt động các quỹ đầu tư mạo

hiểm ở Việt Nam trong thời gian qua, luận án đề xuất một số khuyến nghị chính sách

nhằm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm như cần thiết xây dựng khung pháp

lý đồng bộ trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; xây dựng cơ chế đặc thù cho quỹ đầu tư

mạo hiểm; phát triển nguồn lực cho quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng mạng lưới kết nối

các quỹ đầu tư mạo hiểm; tập trung, khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào

lĩnh vực công nghệ cao; xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động hoàn thiện cho các

quỹ đầu tư mạo hiểm; có cách tiếp cận

5.2.1. Xây dựng khung pháp lý đồng bộ

Như đã trình bày ở các nội dung trước, tại Việt Nam hiện nay chưa có luật riêng

dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm, mà mới chỉ có dự thảo dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm

163

đối với lĩnh vực đổi mới sáng tạo; đối với quỹ đầu tư nói chung, chỉ có luật dành cho

quỹ đầu tư chứng khoán. Như vậy, đây là một khoảng trống pháp lý rất lớn đối với

lĩnh vực đầu tư đầy tiềm năng này.

Đầu tư mạo hiểm nói chung và việc góp vốn, giải ngân vốn của các quỹ đầu tư

mạo hiểm nói riêng đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển của khoa học công nghệ

mỗi quốc gia; bởi các lĩnh vực này yêu cầu vốn rất lớn, lại chứa đựng nhiều rủi ro

trong quá trình triển khai dự án đầu tư; vì thế rất cần thiết có các quy định chặt chẽ của

pháp luật để bảo vệ các nhà đầu tư góp vốn trong và ngoài nước, tránh các hiện tượng

trục lợi, lừa đảo, nhằm nâng cao sự quan tâm của công chúng về lĩnh vực đầu tư mạo

hiểm, tạo vốn cho các quỹ đầu tư mạo hiểm, từ đó nâng cao giá trị đầu tư mạo hiểm tại

Việt Nam.

Đối với việc thành lập quỹ đầu tư, hiện nay đối với quỹ đầu tư chứng khoán,

các quy định về thành lập quỹ vẫn còn gây khó khăn cho các nhà đầu tư cá nhân, như

yêu cầu phải có vốn điều lệ từ 50 tỷ đồng trở lên, thành viên góp vốn ít nhất 100,

không kể nhà đầu tư chuyên nghiệp (đối với quỹ đại chúng); hoặc trên 30 thành viên

góp vốn là pháp nhân (đối với quỹ thành viên); chính việc quy định này đã cản trở việc

tham gia góp vốn, thành lập quỹ của các nhà đầu tư cá nhân. Như vậy, để khuyến

khích các nhà đầu tư tham gia góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, tạo nguồn vốn

cho đầu tư mạo hiểm trong xã hội, cần thiết xây dựng các quy chế, quy định luật pháp

riêng biệt cho quỹ đầu tư mạo hiểm, với đặc thù của riêng Việt Nam.

5.2.2. Có cơ chế đặc thù cho quỹ đầu tư mạo hiểm

Trên thị trường tài chính, việc thoái vốn hiệu quả nhất là thông qua thị trường

chứng khoán, tuy nhiên cho đến nay, chưa có cơ chế đặc thù nào cho việc thoái vốn

hoặc phát hành cổ phiếu ra công chúng, theo hướng hỗ trợ các doanh nghiệp dạng này.

Cụ thể ở Điều 13 Nghị định 58/2012/NĐ-CP, có quy định điều kiện chào bán cổ phiếu

ra công chúng để thành lập mới doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ cao; tuy nhiên

đây là quy định dành riêng cho các doanh nghiệp mới thành lập, tức hướng đến các

doanh nhân khởi nghiệp; tuy nhiên thực tế đầu tư mạo hiểm không chỉ đầu tư vào các

công ty lĩnh vực công nghệ cao, mà có thể đầu tư vào bất cứ ngành nghề nào trên thị

trường, miễn là có triển vọng sinh lời cao. Do đó, cần thiết cần phải có cơ chế cho

phép phát hành cổ phiếu ra công chúng, hoặc thoái vốn thông qua các kênh khác nhau,

với những điều kiện linh hoạt hơn.

164

Thêm vào đó, để các nhà đầu tư dễ dàng tìm đến các công ty có tiềm năng trong

tương lai, đồng thời giúp các quỹ đầu tư mạo hiểm thoái vốn dễ dàng, cần thiết thành

lập sàn giao dịch chứng khoán chuyên biệt dành cho các doanh nghiệp loại này, với

các điều kiện dễ dàng hơn so với các công ty niêm yết. Hiện nay có 3 Sàn giao dịch

Chứng khoán (là HNX, HSX, UPCOM), mặc dù điều kiện niêm yết trên UPCOM là

đơn giản nhất, tuy nhiên vẫn có ràng buộc về vốn điều lệ ít nhất 30 tỷ đồng; trong khi

có nhiều doanh nhân khởi nghiệp vẫn bị hạn chế về vốn đầu tư, do đó với quy định này

vô hình chung đã hạn chế khả năng tham gia thị trường chứng khoán để thu hút vốn

của các nhà đầu tư này.

5.2.3. Thu hút nguồn lực cho quỹ đầu tư mạo hiểm

Như đã trình bày phần cơ sở lý thuyết ở chương 2, và phần nguyên nhân ở

chương 4, nguồn lực dành cho quỹ đầu tư mạo hiểm bao gồm: Thu hút nguồn vốn đầu

tư trong xã hội, đặc biệt đối với các nhà đầu tư tổ chức; và nâng cao trình độ nguồn

nhân lực; và bản thân nội tại của các quỹ đầu tư mạo hiểm.

Thứ nhất, thu hút nguồn vốn đầu tư trong xã hội, đặc biệt đối với các nhà đầu

tư tổ chức. Đặc điểm của nhà đầu tư cá nhân là mức ngại rủi ro cao, thời gian đầu tư

ngắn, và không có nhiều vốn đầu tư nhàn rỗi, đầu tư chỉ mang tính chất nhỏ lẻ. Đối với

các nhà đầu tư tổ chức, có tiềm năng về vốn cũng như kinh nghiệm đầu tư, họ sẽ là nơi

cấp vốn đáng tin cậy cho các quỹ đầu tư mạo hiểm. Thực tế khi so sánh nhà đầu tư tổ

chức và nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư tổ chức sẽ có chiến lược kinh doanh dài hạn

hơn, nguồn lực thông tin tốt hơn, do đó họ sẽ có khả năng tham gia vào thị trường đầu

tư mạo hiểm với các chiến lược dài hơi hơn các nhà đầu tư cá nhân, vì thế, các quỹ đầu

tư nhận góp vốn sẽ ít chịu áp lực thoái vốn bất ngờ từ đối tượng nhà đầu tư này. Đối

với các nhà đầu tư tổ chức, khi lựa chọn các dự án đầu tư mạo hiểm, họ thường xem

xét rất kỹ các rủi ro có thể xảy ra trong đầu tư, thường tại mỗi tổ chức, có phòng ban

quản trị rủi ro riêng biệt. Như vậy, họ thường ưu tiên giảm thiểu rủi ro trong đầu tư,

hơn là chủ động phòng tránh các rủi ro trong các dự án của mình.

Thứ hai, nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Để làm được điều này, cần thiết

giải quyết hai vấn đề sau: (1) nâng cao sự hiểu biết của công chúng đầu tư về đầu tư

mạo hiểm nói chung, qua đó họ sẽ mạnh dạn hơn khi xem xét, đầu tư vào các dự án

đầu tư mạo hiểm, hoặc góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, với sự chấp nhận rủi ro

cao hơn so với các hình thức đầu tư thông thường. Điển hình của mô hình này như

165

Hàn Quốc, đã có sự tham gia giáo dục các tầng lớp doanh nhân từ bậc học tiểu học,

phổ thông đến đại học, sau đại học, qua đó làm cho các tầng lớp công chúng nước này

có sự hiểu biết về rủi ro trong đầu tư, về khả năng chấp nhận rủi ro, về đầu tư mạo

hiểm, qua đó tạo ra được nguồn nhân lực đông đảo cho đầu tư mạo hiểm nói chung.

(2) tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để làm việc tại các quỹ đầu tư mạo hiểm. Đây là

công việc khó, không thể hoàn thành được trong thời gian ngắn, bởi các nhà quản lý

quỹ đầu tư, các nhân viên làm việc tại đây cần thời gian để tích lũy kinh nghiệm, mở

rộng mối quan hệ, nhằm nâng cao hiệu quả từ việc đưa ra các quyết định đầu tư của

quỹ. Để làm được điều này, cần thiết có sự tham gia của các quỹ đầu tư nhằm liên kết,

mở rộng mạng lưới đầu tư để trao đổi các cơ hội kinh doanh, góp vốn. Ngoài ra, cũng

cần thiết có các khóa học bồi dưỡng nhằm nâng cao khả năng hiểu biết của các nhà

quản lý quỹ, nhân viên của quỹ về các điều kiện kinh doanh mới, các cơ chế, chính

sách của chính phủ đối với từng loại hình kinh doanh, về các chiến lược đầu tư, v.v…

Thứ ba, bản thân nội tại các quỹ đầu tư mạo hiểm cần không ngừng nâng cao

hiệu quả đầu tư của mình, làm cho các nhà đầu tư góp vốn tin tưởng và tiếp tục góp

vốn vào quỹ trong các đợt huy động vốn sau, từ đó tận dụng tốt hơn nguồn lực vốn đầu

tư mạo hiểm trong nền kinh tế.

Như vậy, trách nhiệm chính ở đây liên quan đến lĩnh vực giáo dục, đặc biệt từ

cấp học đại học và sau đại học, cả hệ chính quy và bán tập trung, bởi tại lứa tuổi này,

rất phù hợp để truyền đạt và thực hành các kiến thức liên quan đến đầu tư, kinh doanh,

qua đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dành cho đầu tư mạo hiểm nói chung và

các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng.

5.2.4. Khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm tập trung đầu tư vào lĩnh vực công

nghệ cao

Đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ cao, đặc biệt vào các công ty đang

khởi nghiệp trong lĩnh vực này sẽ mang lại cơ hội sinh lời rất lớn đối với các quỹ đầu

tư mạo hiểm, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển bền vững, gia tăng sức

cạnh tranh toàn cầu. Muốn tập trung được vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm vào lĩnh

vực này, cần thiết sự hỗ trợ, vào cuộc của chính phủ, chính quyền địa phương, trong

việc tạo các ưu đãi với các quỹ đầu tư mạo hiểm khi đầu tư vào lĩnh vực này, ví dụ ưu

đãi về thuế thu nhập trong đầu tư, về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, v.v… Ngoài ra,

166

chính phủ còn có thể hỗ trợ gián tiếp thông qua ưu đãi thuế nhập khẩu đối với các thiết

bị, máy móc phục vụ công việc nghiên cứu, sản xuất các hàng hóa trong lĩnh vực công

nghệ cao; kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực công nghệ cao

đã được phê duyệt theo Quyết định 66/2014/QĐ-TTg về việc phê duyệt danh mục

công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và danh mục sản phẩm công nghệ cao

được khuyến khích phát triển.

5.2.5. Xây dựng mạng lưới kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm

Việc xây dựng mạng lưới kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ nâng cao hiệu quả

hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Thông qua mạng lưới kết nối này, các quỹ

đầu tư mạo hiểm sẽ tiết kiệm được các chi phí tìm kiếm các dự án đầu tư mạo hiểm,

chia sẻ các kinh nghiệm trong đầu tư, đưa ra các cảnh báo đối với những hiện tượng,

dự án có dấu hiệu lừa đảo, trục lợi vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm, v.v… Mạng lưới

kết nối các quỹ đầu tư mạo hiểm còn là nơi để các doanh nhân khởi nghiệp tìm đến,

chia sẻ ý tưởng, kêu gọi vốn góp, đồng thời là nơi các doanh nhân khởi nghiệp học hỏi

lẫn nhau, học hỏi kinh nghiệm từ những nhà điều hành quỹ đầu tư mạo hiểm, v.v…

5.2.6. Gợi ý hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam

5.2.6.1. Nới lỏng điều kiện thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm

Hiện nay, Việt Nam đã có quy định về điều kiện thành lập đối với quỹ đầu tư

chứng khoán, quỹ đầu tư bất động sản; chưa có quy định đối với việc thành lập quỹ

đầu tư mạo hiểm. Theo quy định hiện nay, quỹ đầu tư bất động sản phải ở dạng đóng;

trong khi quỹ đầu tư chứng khoán có thể ở dạng quỹ đóng, quỹ mở, hoặc quỹ hoán đổi

danh mục. Trong giai đoạn đầu hình thành của quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án cho rằng,

chúng ta nên bám theo điều kiện thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán hiện nay, tuy

nhiên có sự linh hoạt với điều kiện cụ thể từng giai đoạn. Với giai đoạn ban đầu hình

thành, nhà nước không nên quá khắt khe trong việc hình thành các quỹ đầu tư mạo

hiểm, mà nên thắt chặt vấn đề thanh tra, giám sát hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm,

tránh các trường lừa đảo, lợi dụng việc thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm để trục lợi,

hoặc đầu tư sai mục đích.

Về vốn điều lệ, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể tuân theo quy định của các quỹ đầu

tư chứng khoán hiện nay, tức yêu cầu có vốn điều lệ tối thiểu 50 tỷ đồng. Việc quy

167

định số vốn lớn nhằm đảm bảo cho các quỹ đầu tư mạo hiểm có đủ tiềm lực tài chính,

đầu tư với chiến lược lâu dài vào các công ty mạo hiểm. Bản chất của đầu tư mạo hiểm

là tiềm ẩn nhiều rủi ro, với thời gian đầu tư lâu dài. Vì vậy, số vốn tối thiểu 50 tỷ sẽ

giúp quỹ có đủ vốn đề tham gia vào các hoạt động đầu tư trong tương lai.

Về các quy định trong đầu tư. Hiện nay quy định đối với các quỹ đầu tư hiện

hành khá chặt chẽ; trong đó quỹ đầu tư chứng khoán dạng đóng có quy định, không

được đầu tư quá 15% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của tổ chức đó; hoặc quỹ

đầu tư chứng khoán dạng mở có quỹ định không được đầu tư quá 10% tổng giá trị

chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức; quỹ thành viên có quy định không được

đầu tư vào các quỹ đầu tư chứng khoán khác, kể cả quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu

tư bất động sản; hoặc đối với quỹ đầu tư bất động sản, quy định không được đầu tư

quá 10% tổng số chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành. Như vậy, với

các quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư bất động sản, có mục tiêu đầu tư vào các lĩnh

vực rõ ràng, thì quy định như vậy là hợp lý. Tuy nhiên, với đặc thù quỹ đầu tư mạo

hiểm hoạt động trong các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, với mong muốn tỷ suất sinh lời

cao, theo quan điểm của luận án, trong giai đoạn đầu hình thành, không nên quy định

cụ thể tỷ lệ đầu tư, lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Mục tiêu của quỹ đầu

tư mạo hiểm là tối đa hóa lợi nhuận, với các mục tiêu đầu tư đã được các nhà đầu tư

mạo hiểm góp vốn vào, xác định từ trước, vì thế hãy để cho các quỹ đầu tư tự quyết

định mức độ rủi ro, lĩnh vực đầu tư của mình, tránh hạn chế các cơ hội, chiến lược đầu

tư của họ; bởi lẽ hơn ai hết, chính các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm, đã

luôn ý thức việc bảo toàn vốn của mình trong quá trình đầu tư.

5.2.6.2. Đối tượng tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm

Như đã trao đổi ở các phần trước, đầu tư mạo hiểm có đặc điểm tính rủi ro cao,

tỷ lệ thành công thấp, vì thế đối tượng nhà đầu tư tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm

rất kén chọn. Theo kinh nghiệm quốc tế như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, đối tượng

tham gia vào đầu tư mạo hiểm chủ yếu đến từ các cá nhân, gia đình giàu có, hoặc các

nhà đầu tư tổ chức như các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ

hưu trí, v.v… Lý do chính vì họ có tiền, sẵn sàng đầu tư trong thời gian dài, chịu được

rủi ro khi mất vốn, không sốt sắng thu hồi vốn như các nhà đầu tư nhỏ lẻ khác.

Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, chúng ta cần xác định mục tiêu

chính là thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, và mục tiêu đầu

168

tư là các dự án mạo hiểm, công ty mạo hiểm ở trong nước. Thực tế hiện nay, các cá

nhân, tổ chức ở Việt Nam hoàn toàn có đủ tiềm lực về vốn để tham gia đầu tư mạo

hiểm, thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm. Tuy vậy, đầu tư mạo hiểm là lĩnh vực còn

khá mới đối với Việt Nam, vì thế thu hút nguồn vốn để đầu tư mạo hiểm không phải

việc dễ, đặc biệt với lượng tiền huy động lớn, thời gian đầu tư lâu dài. Chính vì vậy,

trong giai đoạn đầu hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, cần thiết có sự

tham gia đầu tư của các cá nhân có tiềm lực tài chính, các cá nhân nổi tiếng; hoặc các

công ty, tập đoàn lớn tham gia góp vốn; từ đó tạo hiệu ứng truyền thông để thu hút các

nhà đầu tư khác tham gia đầu tư cùng. Các cá nhân, tổ chức tiên phong này có thể là

các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đã từng tham gia đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam,

hoặc trên thị trường thế giới.

Ngoài việc chọn lọc các các nhà đầu tư tham gia góp vốn vào quỹ đầu tư mạo

hiểm, số lượng nhà đầu tư tham gia vào từng quỹ đầu tư cũng rất quan trọng. Kinh

nghiệm hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm từ Trung Quốc cho thấy, tại các

giai đoạn đầu, do chưa quen phong cách đầu tư của các quỹ, các nhà đầu tư góp vốn

thường thích xen vào quá trình hoạt động, đầu tư của quỹ đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến

chiến lược, hiệu quả của quỹ đầu tư mạo hiểm tại các giai đoạn khác nhau. Về cơ cấu

nhà đầu tư, Việt Nam hiện nay các cá nhân, gia đình giàu có chủ yếu hoạt động trong

các lĩnh vực bất động sản, hoạt động sản xuất vật chất; đối với các tổ chức, với đặc

điểm nền kinh tế còn lệ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng, nên các ngân hàng

thương mại là các tổ chức tài chính lớn trên thị trường; ngoài ra còn có sự tham gia của

các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, nhưng với tỷ lệ nhỏ hơn. Vì

thế, nếu các đối tượng này chưa có sự hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm,

sẽ dễ dẫn đến việc chưa hiểu, chưa tin tưởng vào chiến lược đầu tư của quỹ đầu tư mạo

hiểm, trong các đại hội các nhà đầu tư, họ sẽ có các ý kiến trái chiều trong quá trình

đầu tư của quỹ, gây áp lực trong quá trình hoạt động của quỹ, thậm chí áp lực thoái

vốn sớm, hoặc gây các rắc rối không cần thiết trong quá trình hoạt động của quỹ đầu

tư mạo hiểm. Vì vậy, luận án cho rằng, nên giới hạn số lượng nhà đầu tư mạo hiểm

tham gia vào mỗi quỹ đầu tư mạo hiểm.

Theo quan điểm của luận án, nên quy định cụ thể số lượng vốn tham gia, thời

gian góp vốn tối thiểu vào quỹ đầu tư mạo hiểm như:

169

- Đối với các nhà đầu tư cá nhân: tối thiểu góp vốn 1 tỷ đồng; thời gian cam kết

đầu tư tối thiểu 5 năm.

- Đối với các nhà đầu tư tổ chức: tối thiểu góp vốn 5 tỷ đồng; thời gian cam kết

đầu tư tối thiểu 7 năm.

Lý do chính cho việc quy định hạn mức vốn góp và thời gian đầu tư đó là:

Thứ nhất, với đặc thù rủi ro lớn trong quá trình hoạt động đầu tư, quỹ đầu tư

mạo hiểm

cần thu hút vốn từ các nhà đầu tư có tiềm lực về vốn, sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Với số

lượng tiền đầu tư ban đầu lớn như vậy, sẽ sàng lọc được các đối tượng nhà đầu tư thực

sự có tiền, với thời gian đầu tư lâu dài, tránh hiện tượng sử dụng vốn đầu tư từ các

nguồn vay mượn, áp lực trả gốc và lãi, dẫn đến hiện tượng có mong muốn thoái vốn,

hoặc sốt ruột thu hồi vốn, dẫn đến tạo áp lực, yêu cầu quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào

những dự án thu hồi vốn nhanh, hiệu quả thấp.

Thứ hai, đầu tư mạo hiểm cần quá trình nghiên cứu, khảo sát kỹ lưỡng, tiêu tốn

nhiều chiphí, thời gian tìm hiểu lâu dài. Vì thế, việc huy động lượng vốn đầu tư đủ lớn

sẽ giúp quỹ đầu tư mạo hiểm có đủ tiền trang trải các chi phí liên quan đến quá trình

hoạt động của mình. Bên cạnh đó, việc huy động lượng vốn đầu tư lớn cũng giúp các

công ty quản lý quỹ tiết kiệm được các chi phí trong quá trình ghi nhận các hoạt động

của quỹ đầu tư mạo hiểm, đồng thời thuận lợi hơn trong việc quản lý phần vốn góp của

các nhà đầu tư trong quỹ đầu tư mạo hiểm.

Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư trong đầu tư mạo hiểm không thể thiếu được vai trò

của chính phủ, đặc biệt trong giai đoạn đầu mới hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam. Kinh nghiệm từ Trung Quốc và Hàn Quốc cho thấy, ở giai đoạn đầu, chính

phủ cần đầu tàu thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, nhằm định hướng công chúng đầu

tư, đồng thời tạo ra nguồn vốn “mồi”, thu hút các thành phần trong nền kinh tế tham

gia đầu tư. Khi các quỹ đầu tư mạo hiểm đã đạt mức phát triển nhất định, chính phủ

vẫn có vai trò rất lớn trong quá trình đầu tư mạo hiểm, như cung cấp nguồn vốn hỗ trợ,

chứ không nên can thiệp vào quá trình hoạt động, hoặc không cần thiết định hướng thị

trường nữa, bởi lúc này các dự án đầu tư mạo hiểm, nhu cầu đầu tư mạo hiểm sẽ do thị

trường tự quyết định.

170

5.2.6.3. Gợi ý mô hình sở hữu quỹ đầu tư mạo hiểm

Mô hình sở hữu quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ quyết định đến tính hấp dẫn, các quy

định pháp lý kèm theo, cũng như ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của quỹ. Trên

thực tế, lựa chọn mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm của

nhà đầu tư, trình độ nhà đầu tư, cơ sở hạ tầng sẵn có, chính sách, quan điểm của chính

phủ đối với loại hình đầu tư này. Trên thế giới, mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng

hợp danh hữu hạn đã phổ biến từ rất lâu, trong khi tại Đài Loan lại ưa chuộng mô hình

quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty. Trong khi đó, tại Trung Quốc, kể từ năm 2008 trở

lại đây, quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn chiếm đa số (51,19%), dạng

công ty (39,29%), trong khi mô hình quỹ đầu tư dạng tín thác chỉ chiếm 4,76%. Tại

một số quốc gia, có sự tồn tại song song nhiều mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm như tại

Singapore, New Zealand, Nhật Bản, Hà Lan, v.v…

Tại Việt Nam hiện nay, đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động có mô

hình hoạt động đa dạng; dưới dạng quỹ đóng (các quỹ của Dragon Capital, Vina

Capital); quỹ thành viên (Mekong Capital, quỹ Đầu tư khởi nghiệp và sáng tạo TP. Hồ

Chí Minh – HSIF; quỹ khởi nghiệp Bình Phước); quỹ hợp danh hữu hạn (IDG

Ventures); thậm chí một số quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động, không thấy ghi rõ

mô hình hoạt động của quỹ, như FPT Ventures, Quỹ Tăng tốc khởi nghiệp Việt Nam

(VIISA); hay Quỹ khởi nghiệp doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam, có ghi

trong điều lệ quỹ là loại hình quỹ tư nhân, và nhận vốn góp cả từ các nhà đầu tư tổ

chức và cá nhân.

Theo kết quả khảo sát của luận án, có đến 47,1% số người được trả lời lựa chọn

phương án quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty, 24,8% trả lời lựa chọn phương án quỹ

đầu tư mạo hiểm dạng tín thác, và 19,8% lựa chọn mô hình hợp danh hữu hạn. Tuy

nhiên, khi phỏng vấn chuyên gia tại Ủy Ban chứng khoán Nhà nước, tất cả các chuyên

gia đều cho rằng, nên lựa chọn mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng tín thác trong giai

đoạn này ở Việt Nam.

Theo quan điểm của luận án, việc lựa chọn mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng

nào đi chăng nữa, cũng nên nằm trong khuôn khổ pháp lý sẵn có, cùng với quan điểm,

định hướng của chính phủ trong tương lai đối với loại hình quỹ đầu tư này. Mặc dù

trên thế giới, mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn, dạng công ty đã

rất phổ biến, trở thành xu thế chung trong những năm gần đây. Tuy nhiên, theo quan

171

điểm của luận án, việc áp dụng mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn,

hoặc dạng công ty ở Việt Nam trong giai đoạn này là chưa hợp lý, bởi những lý do sau

đây:

Thứ nhất, lĩnh vực đầu tư mạo hiểm còn khá mới ở Việt Nam, do đó các nhà

đầu tư mạo hiểm tham gia góp vốn vào các dự án mạo hiểm sẽ chưa có nhiều kinh

nghiệm trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng. Việc không lường trước được các

khả năng có thể xảy ra trong tương lai sẽ gây bất lợi cho các thành viên hợp danh, dễ

gây đến thua thiệt khi xảy ra tranh chấp, từ đó có thể gây tiếng xấu cho lĩnh vực đầu tư

mạo hiểm, làm khó khăn cho vấn đề huy động vốn về sau. Mô hình quỹ đầu tư mạo

hiểm dạng hợp danh hữu hạn phổ biến ở Mỹ, Trung Quốc do các quốc gia này đã có

thời gian dài phát triển loại hình đầu tư mạo hiểm này, do đó họ đã tranh thủ được các

ưu đãi về thuế suất, sự linh hoạt trong các vấn đề liên quan đến cấu trúc, điều khoản

của quỹ khi hoạt động. Ngoài ra, như đã trao đổi ở chương 3, khi thực hiện ký kết hợp

đồng góp vốn đầu tư vào quỹ đầu tư mạo hiểm dạng này, thường trong điều khoản hợp

đồng được chia thành ba nội dung cơ bản: (1) các điều khoản về hình thành và hoạt

động của quỹ, như giới hạn về thời gian gây quỹ, thời gian tồn tại của quỹ, hay sự

đóng góp cần thiết của các nhà quản lý quỹ; (2) mức phí quản lý của quỹ, mức cổ tức;

(3) cấu trúc quản trị của quỹ, nhằm đảm bảo quỹ được quản lý hiệu quả nhất. Trong

mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn, các đối tượng tham gia vào quỹ

thường ký kết với nhau với các điều khoản rất cụ thể, chặt chẽ, để từ đó quỹ đầu tư

mạo hiếm, dưới sự quản lý của công ty quản lý quỹ sẽ thực hiện đúng cam kết, lộ trình

như đã ký kết từ ban đầu, trừ trường hợp có sự đồng ý, thỏa thuận giữa các bên liên

quan để điều chỉnh lại hợp đồng hợp danh. Để làm được điều này, yêu cầu cần có là

các nhà đầu tư, thị trường đầu tư mạo hiểm đã phát triển đến một mức độ nhất định;

trong khi hiện nay tại Việt Nam mới chỉ manh nha xuất hiện, manh mún ở một số nhà

đầu tư thiên thần, hoặc các quỹ đầu tư mạo hiểm ngoại đang hoạt động ở Việt Nam.

Thứ hai, quỹ đầu tư mạo hiểm ở dạng công ty, tức các nhà đầu tư góp vốn sẽ

trở thành các thành viên trong công ty (dạng công ty trách nhiệm hữu hạn), hoặc dưới

dạng cổ đông (trong mô hình công ty cổ phần). Về hình thái thông thường, quỹ đầu tư

là một tập hợp vốn do các nhà đầu tư góp vào, do công ty quản lý quỹ đầu tư quản lý

và đầu tư; như vậy lúc này quỹ đầu tư mạo hiểm không có tư cách pháp nhân. Nếu quỹ

đầu tư mạo hiểm hoạt động dưới hình thức mô hình công ty, tức là lúc này thừa nhận

172

quỹ đầu tư mạo hiểm có tư cách pháp nhân. Khi đó, quỹ đầu tư sẽ hoạt động như một

công ty bình thường, tức có hệ thống ban lãnh đạo, có đội ngũ nhân viên, có ban kiểm

soát, có các phòng, ban bộ phận khác đi kèm như những công ty bình thường. Điều

này sẽ phát sinh thêm các chi phí hoạt động, chi phí tài chính. Ngoài ra, việc hoạt động

theo mô hình công ty, nghĩa là các thành viên góp vốn sẽ có tác động đến hoạt động

của quỹ, tùy theo mức độ góp vốn như những mô hình công ty bình thường. Điều này,

như đã đề cập ở phần trước, là khá phức tạp. Do ở giai đoạn đầu hình thành và phát

triển, không phải đối tượng nhà đầu tư nào cũng hiểu rõ, lường hết được các rủi ro gặp

phải trong đầu tư mạo hiểm. Vì thế nếu để các nhà đầu tư góp vốn thường xuyên tham

dự vào hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm, sẽ tác động không tốt đến ban lãnh đạo

quỹ đầu tư mạo hiểm dạng công ty. Bên cạnh đó, quỹ đầu tư mạo hiểm là loại hình

kinh doanh mới, mang tính đặc thù riêng, do đó cần có các chuẩn mực, tiêu chí quản lý

doanh nghiệp, kế toán riêng biệt so với các doanh nghiệp thông thường; trong khi ở

giai đoạn xây dựng, hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm, các điều luật, quy định của Việt

Nam chưa theo kịp sự phát triển của nhu cầu đầu tư trong xã hội, điều này có thể dẫn

đến hiện tượng sơ hở trong quá trình hạch toán doanh nghiệp, hoặc bản thân các doanh

nghiệp cũng lúng túng trong quá trình hoạt động của mình.

Như vậy, với hai mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm tiên tiến, được áp dụng rộng rãi

trên thế giới hiện nay là mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng hợp danh hữu hạn và dạng

công ty, luận án cũng cùng quan điểm với tác giả Đào Lê Minh (2003), chưa phù hợp

để áp dụng tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, do các quy định của pháp luật, sự

hiểu biết của công chúng đối với loại hình đầu tư mạo hiểm còn hạn chế. Theo quan

điểm của luận án, với điều kiện pháp luật hiện hành của Việt Nam, nên thành lập quỹ

đầu tư mạo hiểm dạng ủy thác đầu tư, bởi hai lý do chính sau:

Thứ nhất, tận dụng được các quy định của pháp luật về ủy thác đầu tư của Luật

các tổ chức tín dụng (số 47/2010/QH12; sửa đổi, bổ sung số 17/2017/QH14). Trong đó

có quy định rất cụ thể các đối tượng được phép nhận ủy thác đầu tư như các ngân hàng

thương mại, các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân

dân, tổ chức tín dụng vi mô. Ví dụ Điều 106: Nghiệp vụ ủy thác và đại lý có quy định,

ngân hàng thương mại được quyền ủy thác, nhận ủy thác, đại lý trong lĩnh vực liên

quan đến hoạt động ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, quản lý tài sản theo quy định của

Ngân hàng Nhà nước; Điều 111: Các hoạt động kinh doanh khác của công ty tài chính

173

có quy định, Tiếp nhận vốn ủy thác của Chính phủ, tổ chức, cá nhân để thực hiện các

hoạt động đầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh, cấp tín dụng được phép; ủy thác

vốn cho tổ chức tín dụng thực hiện cấp tín dụng. Việc tiếp nhận vốn ủy thác của cá

nhân và ủy thác vốn cho các tổ chức tín dụng cấp tín dụng thực hiện theo quy định của

Ngân hàng Nhà nước; Điều 116: Các hoạt động kinh doanh khác của công ty cho thuê

tài chính, quy định tiếp nhận vốn ủy thác của Chính phủ, tổ chức, cá nhân để thực hiện

hoạt động cho thuê tài chính. Việc tiếp nhận vốn ủy thác của cá nhân thực hiện theo

quy định của Ngân hàng Nhà nước, v.v… Như vậy, đối tượng tạo lập quỹ đầu tư mạo

hiểm sẽ được giới hạn trong các tổ chức tài chính có tiềm lực về vốn, kinh nghiệm đầu

tư như các thành phần đã nêu ở trên. Điều này sẽ tạo niềm tin cho các đối tượng tham

gia góp vốn đầu tư mạo hiểm.

Thứ hai, tận dụng được các quy định về thành lập quỹ đầu tư trong lĩnh vực

chứng khoán hiện nay. Trong giai đoạn đầu, do việc thiết lập các quy định, luật pháp

về quỹ đầu tư mạo hiểm còn mới, chưa có gì, nên việc tận dụng những quy định sẵn có

của việc thành lập quỹ đầu tư chứng khoán là cần thiết, do đầu tư mạo hiểm cũng

thuộc hệ thống luật đầu tư, do đó cần tham khảo, xem xét việc thành lập quỹ dựa vào

điều kiện thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán sẵn có hiện nay.

Như vậy, mô hình sở hữu của quỹ đầu tư mạo hiểm luận án đề xuất là dạng tín

thác, quỹ không có tư cách pháp nhân, được thành lập nên bởi các công ty quản lý

quỹ/ tổ chức huy động ủy thác đầu tư theo quy định của pháp luật.

5.2.6.4. Mô hình hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm

 Dạng quỹ đầu tư

Hiện nay, theo quy định của Việt Nam, pháp luật đã có các quy định điều chỉnh

về các quỹ đầu tư được thành lập dưới dạng quỹ đầu tư dạng mở, quỹ đầu tư dạng

đóng, quỹ hoán đổi danh mục (ETF), quỹ thành viên, quỹ đại chúng. Tuy nhiên đối với

loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm, luận án cho rằng nên xem xét cụ thể từng loại quỹ đầu

tư, nhằm tìm ra mô hình phù hợp trong giai đoạn hiện nay:

Thứ nhất, quỹ đầu tư mạo hiểm không nên ở dạng quỹ đóng, bởi quỹ đóng sẽ

cần niêm yết và giao dịch chứng chỉ quỹ trên thị trường chứng khoán; qua đây cơ cấu

nhà đầu tư sẽ thay đổi nhanh chóng, do có sự trao đổi, giao dịch thông qua phương

thức khớp lệnh trên Sở giao dịch chứng khoán. Việc duy trì cơ cấu cổ đông ổn định rất

174

quan trọng, do đối tượng góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm rất kén chọn, họ phải thực

sự hiểu về đầu tư mạo hiểm, cũng như chấp nhận rủi ro khi đầu tư vào lĩnh vực này.

Nếu cơ cấu cổ đông thay đổi, sẽ dẫn đến áp lực thay đổi chiến lược đầu tư của quỹ,

làm sai lệch mục tiêu đầu tư ban đầu.

Thứ hai, quỹ đầu tư mạo hiểm không nên ở dạng quỹ đầu tư dạng mở, do yêu

cầu của quỹ mở cần phải báo cáo thông tin định kỳ (theo tháng, tuần, thậm chí theo

ngày), đặc biệt là việc công bố giá trị tài sản ròng của quỹ; điều này không hợp lý đối

với quỹ đầu tư mạo hiểm, do quỹ đầu tư mạo hiểm rất khó tính toán giá trị tài sản ròng

đều đặn, đặc biệt đối với các dự án đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp, vì còn liên

quan đến quá trình đầu tư, thử nghiệm sản xuất, sản phẩm, dịch vụ; những giai đoạn

này rất khó định giá doanh nghiệp; hơn nữa, quỹ đầu tư tư dạng mở sẽ phải mua lại

chứng chỉ quỹ theo yêu cầu của nhà đầu tư; điều này cũng không hợp lý đối với quỹ

đầu tư mạo hiểm; đặc thù đầu tư của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm là rất rủi ro, vì thế có

nhiều thời điểm có thể quỹ đầu tư mạo hiểm đã giải ngân hết vốn, mà không còn lại

lượng tiền mặt để mua lại chứng chỉ quỹ của các nhà đầu tư góp vốn.

Thứ ba, quỹ đầu tư mạo hiểm không nên ở dạng quỹ thành viên, do trong quy

định quỹ thành viên có giới hạn số lượng nhà đầu tư tham gia không quá 30 người, đối

tượng góp vốn chỉ giới hạn ở các pháp nhân trong và ngoài nước. Trên thực tế, như đã

trình bày ở phần trước, số lượng nhà đầu tư tham gia vào quỹ đầu tư mạo hiểm không

cần quá đông, do sẽ phát sinh ra các mâu thuẫn trong quá trình hoạt động của quỹ; tuy

nhiên việc quy định góp vốn vào quỹ thành viên sẽ hạn chế sự tham gia của các nhà

đầu tư cá nhân, hay còn gọi là các nhà đầu tư thiên thần vào các quỹ đầu tư mạo hiểm.

Thứ tư, quỹ đầu tư mạo hiểm không nên ở dạng quỹ hoán đổi danh mục, do

liên quan đến các vấn đề phức tạp trong quá trình hoạt động, cũng như việc tính toán

các thủ tục tham gia hoặc rút vốn khỏi quỹ, làm phát sinh thêm các chi phí không cần

thiết.

Như vậy, theo quan điểm của luận án, trong giai đoạn mới hình thành và xây

dựng quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam như hiện nay, nên đơn giản hóa hết sức có thể

đối với các thủ tục hành chính, nhằm tạo điều kiện cho hình thành các quỹ đầu tư mạo

hiểm đầu tiên của Việt Nam. Trong giai đoạn đầu này, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể ở

dạng quỹ đầu tư dạng thành viên, nhưng có thể không hạn chế các nhà đầu tư góp vốn

là các pháp nhân, mà mở rộng ra các cá nhân đủ tiêu chuẩn như ở mục 5.2.4.2; việc

175

mua bán, chuyển nhượng vốn đầu tư trong quỹ nên để các nhà đầu tư nội bộ tự thỏa

thuận với nhau, thông qua các hợp đồng chuyển nhượng, và cần quy định rõ trong điều

lệ quỹ.

 Mô hình quản lý

Với mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm dạng mở, các nhà đầu tư mạo hiểm góp vốn

vào quỹ dưới hình thức tín thác, tức là quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ không có tư cách pháp

nhân, mà do một công ty quản lý quỹ đứng lên huy động thành lập quỹ. Như đã trình

bày ở phần trước, công ty quản lý quỹ có thể là các ngân hàng thương mại, các công ty

tài chính, các công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tín dụng vi

mô, các công ty chứng khoán. Tất nhiên pháp luật cần quy định rõ điều kiện cụ thể để

trở thành công ty quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm.

 Danh mục đầu tư và các hạn chế đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm

Mục tiêu của quỹ đầu tư mạo hiểm là đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm,

nhằm thu được lợi nhuận cao. Tuy nhiên, các quỹ đầu tư mạo hiểm cần phải có những

quy định rõ ràng trong điều lệ quỹ đầu tư, nhằm tránh việc đầu tư vào các dự án có rủi

ro quá cao, dẫn đến khả năng mất vốn trong quá trình đầu tư.

Đầu tư mạo hiểm là quá trình đầu tư xuyên suốt vào các giai đoạn khác nhau

của doanh nghiệp: Giai đoạn ý tưởng, khởi đầu, mở rộng, hoặc tăng tốc. Tuy nhiên ở

giai đoạn mới thành lập, quỹ đầu tư mạo hiểm nên tập trung vào các doanh nghiệp/

doanh nhân khởi nghiệp có ý tưởng kinh doanh tốt, có khả năng mang lại lợi nhuận

cao trong tương lai, sau đó tùy vào thực tế triển khai dự án, sẽ xem xét tài trợ thêm vốn

đầu tư. Càng về các giai đoạn sau, nếu công ty hoạt động tốt, thì nguồn vốn rót vào các

dự án này sẽ có xu hướng giảm dần, do lúc này công ty nhận vốn đầu tư mạo hiểm bắt

đầu có nguồn thu, lợi nhuận, và được công chúng biết đến sản phẩm; lúc này quỹ đầu

tư mạo hiểm sẽ tập trung vào đầu tư ở khâu hoàn thiện sản phẩm, quảng cáo và tính

đến chuyện thoái vốn.

Mặt khác, quỹ đầu tư mạo hiểm cũng có thể xem xét đầu tư vào các công ty có

lịch sử hoạt động tốt, sản phẩm được chấp nhận trên thị trường, nhưng đang gặp khó

khăn trong quá trình huy động vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh; hoặc đơn giản

công ty đó đang rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ, bởi các lý

do khác nhau; hoặc ban lãnh đạo công ty đó đang loay hoay trong việc tìm ra chiến

176

lược phát triền mới, v.v…. Trong trường hợp này, vai trò của công ty quản lý quỹ rất

quan trọng, bởi lúc này đội ngũ tư vấn dày dặn kinh nghiệm sẽ phát huy vai trò chia sẻ

kiến thức, kinh nghiệm, mối quan hệ của mình trong quá trình tư vấn, hỗ trợ công ty

nhận đầu tư.

Mặc dù mục tiêu của quỹ đầu tư mạo hiểm là tối đa hóa lợi nhuận, tức quỹ đầu

tư có thể lựa chọn bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào họ muốn đầu tư. Tuy nhiên trong

giai đoạn hiện nay, khi chính phủ định hướng, khuyến khích các thành phần trong nền

kinh tế tham gia khởi nghiệp, nhằm khơi dậy tinh thần doanh nhân của người dân Việt

Nam; quỹ đầu tư mạo hiểm nên tập trung đầu tư vào các công ty mới thành lập, với

những ý tưởng tốt. Bên cạnh đó, dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệ 4.0,

Việt Nam nên tận dụng cơ hội này để thúc đẩy, phát triển các doanh nghiệp trong nước

theo hướng đầu tư vào các doanh nghiệp có nhiều chất xám; vì thế các quỹ đầu tư mạo

hiểm nên tập trung hỗ trợ vốn cho các doanh nhân khởi nghiệp, các công ty mạo hiểm

liên quan đến lĩnh vực khoa học, công nghệ cao, nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận trong

tương lai.

Nhằm tránh trùng lặp, hoặc lẫn vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm so với các quỹ

đầu tư khác như quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư bất động sản, v.v… trong giai

đoạn đầu xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm, nên có quy định quỹ đầu tư mạo hiểm chỉ

được đầu tư tối đa bao nhiêu vốn vào lĩnh vực các công ty đang niêm yết trên Sở giao

dich chứng khoán, các công ty hoạt động trong lĩnh vực bất động sản đã niêm yết;

hoặc thậm chí không cho phép các quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các công ty đã

niêm yết trên hai Sở giao dịch Chứng khoán lớn của Việt Nam là HNX và HSX;

không được đầu tư vào các loại hàng hóa khác như vàng, bất động sản, đầu tư trên thị

trường ngoại hối, v.v… chỉ cho phép đầu tư vào các công ty mới thành lập, chưa trở

thành công ty đại chúng. Ngoài ra, không cần thiết hạn chế quỹ đầu tư mạo hiểm đầu

tư tối đa bao nhiêu vào một công ty, như đã quy định ở các quỹ đầu tư chứng khoán;

điều này nhằm tạo cho quỹ đầu tư mạo hiểm có cơ hội mua đứt luôn doanh nghiệp

nhận đầu tư mạo hiểm, nếu họ thấy có triển vọng, nhằm đạt được mục tiêu của quỹ đầu

tư mạo hiểm: tối đa hóa lợi nhuận.

 Phương thức thoái vốn

Trong một thương vụ đầu tư, có những cách thoái vốn phổ biến sau:

177

Thứ nhất, phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO). Đối với một

thương vụ đầu tư thành công, phương pháp IPO sẽ đem lại lợi nhuận rất lớn cho quỹ

đầu tư mạo hiểm, do phương pháp IPO thường áp dụng đối với những công ty có sản

phẩm tốt, thành công thị trường, mới thu hút được các nhà đầu tư mua cổ phần phát

hành lần đầu ra công chúng. Thông qua phương thức IPO, quỹ đầu tư mạo hiểm có thể

áp dụng phương pháp đấu giá cổ phần, nhằm tối đa hóa được mức giá các nhà đầu tư

tham gia, qua đó thu được nhiều tiền hơn từ đợt phát hành.

Thứ hai, chào bán thương mại. Phương án này thường dùng để bán công ty

nhận đầu tư mạo hiểm cho đối tác khác, có thể kinh doanh cùng hoặc khác khác ngành

nghề. Chào bán thương mại có thể áp dụng đối với việc công ty sẽ sáp nhập vào công

ty mua, từ đó tạo ra một chủ thể doanh nghiệp mới, mà mỗi bên đều tận dụng được lợi

thế của nhau. So với IPO, một thương vụ chào bán thương mại thường ít ồn ào và đỡ

tốn kém chi phí hơn, do quỹ đầu tư mạo hiểm chỉ cần làm việc với bên mua và bên bán

nhằm đưa ra các thỏa thuận phù hợp.

Thứ tư, bán lại khoản đầu tư cho chính công ty/ doanh nhân khởi nghiệp ban

đầu. Việc làm này cũng được coi là ít tốn kém chi phí, do quỹ đầu tư mạo hiểm chỉ cần

thỏa thuận với bên nhận đầu tư về mức giá và thời gian chuyển nhượng. Trên thực tế,

quá trình đầu tư mạo hiểm là một quá trình lâu dài, có sự đồng thuận cả về phía quỹ

đầu tư mạo hiểm và bên nhận đầu tư, nhằm tạo ra giá trị lớn nhất cho công ty nhận đầu

tư, vì thế việc thỏa thuận giá mua/ bán giữa hai bên không phải là việc quá phức tạp.

Ngoài ra, trong trường hợp thương vụ đầu tư không thành công, thậm chí đến

phá sản, giải thể doanh nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ tiến hành các thủ tục theo

pháp luật để thu hồi phần vốn đã đầu tư, tùy theo tỷ lệ đóng góp.

Việc lựa chọn phương thức thoái vốn như thế nào phụ thuộc rất lớn vào các

điều kiện phát triển của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định thoái vốn; hoặc thậm

chí thoái vốn giữa chừng quá trình đầu tư; ngoài ra, yếu tố thị trường cũng quyết định

rất lớn đến phương thức thoái vốn. Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, quỹ đầu tư mạo

hiểm sẽ nghiên cứu và đưa ra các quyết định phù hợp nhất tại thời điểm đó.

5.2.6.5. Quản lý nhà nước đối với quỹ đầu tư mạo hiểm

Theo kết quả khảo sát của luận án, với câu hỏi “Cơ quan nào sau đây nên nắm

giữ vai trò quản lý các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam”, có đến 72% trả lời nên để

178

Ủy ban chứng khoán Nhà nước nắm giữ vai trò này; 21,5% cho rằng nên để Bộ Kế

hoạch và Đầu tư quản lý lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; còn các cơ quan khác như Ngân

hàng Nhà nước, Hiệp hội doanh nghiệp Nhỏ và vừa, Bộ Khoa học và công nghệ chiếm

tỷ lệ rất nhỏ. Như vậy, phần tiếp theo luận án sẽ nêu quan điểm riêng về vấn đề quản

lý nhà nước đối với quỹ đầu tư mạo hiểm.

 Cơ quan cấp phép hoạt động

Hiện nay, theo quy định tại Việt Nam, cơ quan cấp phép cho các quỹ đầu tư chứng

khoán dạng đóng, dạng mở, quỹ thành viên, quỹ hoán đổi danh mục (ETF) hoạt động

là Ủy ban chứng khoán Nhà nước; trong khi việc cấp phép thành lập quỹ đầu tư mạo

hiểm dành cho khởi nghiệp, sáng tạo lại do Phòng đăng ký kinh doanh nơi quỹ đặt trụ

sở chính (Thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư). Theo quan điểm của luận án, nên thống nhất

một cơ quan cấp giấy phép hoạt động cho các loại hình quỹ đầu tư, đó là Ủy ban

chứng khoán Nhà nước. Việc thống nhất một cơ quan cấp giấy phép như vậy tạo điều

kiện thuận lợi hơn trong việc thống nhất các quy định, điều kiện trong đầu tư của các

quỹ đầu tư trong nền kinh tế, tránh sự chồng chéo hoặc có các quy định trái ngược

nhau trong quá trình hoạt động của các quỹ đầu tư, tạo sự thống nhất trong cộng đồng

quỹ đầu tư.

 Báo cáo hoạt động

Đối với vấn đề báo cáo hoạt động, hiện nay các quỹ đầu tư dạng đóng, dạng mở

hoặc quỹ hoán đổi danh mục, sẽ do các công ty quản lý quỹ quản lý, sẽ báo cáo lên Ủy

ban chứng khoán Nhà nước; ví dụ trong vòng 15 ngày sau khi kết thúc đợt chào bán

chứng chỉ quỹ, công ty quản lý quỹ phải thông báo tới Ủy ban chứng khoán Nhà nước;

hoặc trong vòng ba ngày làm việc, nếu giá trị tài sản ròng của quỹ giảm 50% so với

mức vốn huy động ban đầu, hoặc xuống thấp hơn 30 tỷ đồng, công ty quản lý quỹ

cũng phải báo cáo Ủy ban chứng khoán Nhà nước. Ngoài ra, công ty quản lý quỹ đầu

tư cũng cần thông báo tới Ủy ban chứng khoán những thông tin khác như thông tin về

thay đổi thành viên ban đại diện quỹ; vấn đề hợp nhất, sáp nhập, tách quỹ; thay đổi

ngân hàng giám sát, v.v… Trong khi đó, với các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo hiện

nay, mọi thông tin về hoạt động của quỹ sẽ gửi tới Bộ kế hoạch và đầu tư trước ngày

31/12. Bản thân hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm liên quan nhiều đến vấn đề sở

hữu cổ phần chi phối, về các quy định liên quan đến thâu tóm, mua bán, sáp nhập

179

doanh nghiệp, hoặc trao đổi các loại chứng khoán có thể chuyển đổi (convertible

securities) nhằm giải quyết lợi ích giữa các bên có liên quan. Với các vấn đề chuyên

sâu liên quan đến lĩnh vực chứng khoán như vậy, nên để một cơ quan đầu mối quản lý,

nhằm phát hiện ra các sai sót, các vi phạm làm méo mó mục tiêu của quỹ đầu tư mạo

hiểm là thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, gia tăng giá trị cho xã hội.

 Công bố thông tin

Đối với các thông tin cần công bố theo quy định của pháp luật, liên quan đến quá

hình thành và hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán hiện nay, sẽ được công bố:

(1) Trên các ấn phẩm, trang thông tin điện tử của công ty quản lý quỹ, đại lý phân

phối, đại lý ký danh; hoặc (2) Các phương tiện thông tin đại chúng khác phù hợp với

quy định của pháp luật. Như vậy, đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm, cũng nên tuân theo

các quy định này. Thông thường, công ty quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ công bố các

thông tin liên quan đến quỹ thông qua các website của quỹ đầu tư mạo hiểm, cơ quan

chủ quản quản lý (Ủy ban chứng khoán Nhà nước), đại lý phân phối, ký danh chứng

chỉ quỹ, v.v…

5.2.6.6. Lộ trình tăng cường xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt

Nam

Theo quan điểm của luận án, lộ trình xây thực hiện việc xây dựng và phát triển quỹ

đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam nên được phân chia thành một số giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Từ 1 đến 5 năm

Trong giai đoạn này, Chính phủ sẽ ban hành các văn bản, xây dựng các hành lang

pháp lý cho hoạt động hình thành và quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm. Trước mắt, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư khẩn trương hoàn thiện dự thảo Thông tư “Hướng dẫn về việc thành

lập, tổ chức quản lý và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo”,

nhằm tạo ra hành lang pháp lý chính thức ban đầu cho cộng đồng đầu tư mạo hiểm biết

và thực hiện, góp ý nhằm tạo ra bộ luật hoàn chỉnh, kịp thời, phù hợp với điều kiện

hiện tại ở Việt Nam. Trong giai đoạn này, các quy định của pháp luật về thành lập quỹ

cần thông thoáng, tránh các thủ tục hành chính phức tạp; ngành nghề đầu tư cũng nên

để các chủ thể thành lập quỹ tự lựa chọn, nhằm tạo điều kiện cho việc huy động vốn dễ

dàng hơn. Chính phủ nên tập trung vào lĩnh vực giáo dục, nhằm giới thiệu, đào tạo,

180

định hướng dư luận về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, tạo nguồn lực trong tương lai về các

vị trí việc làm, tư duy đầu tư của đầu tư mạo hiểm.

Để thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư tham gia góp vốn vào các quỹ đầu tư

mạo hiểm, bên cạnh việc ban hành khung pháp lý về thành lập và quản lý quỹ đầu tư

mạo hiểm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nên kết hợp với Bộ Tài chính nhằm ban hành

kèm theo các quy định về ưu đãi thuế cho các khoản đầu tư, sinh lời của các quỹ đầu

tư mạo hiểm, và của các đối tượng góp vốn khi thu hồi vốn về, kết thúc chu kỳ đầu tư.

Trong giai đoạn đầu này, việc thử nghiệm xây dựng, đưa vào hoạt động các quỹ đầu tư

mạo hiểm của Việt Nam rất cần những nhà đầu tư tiên phong, từ đó tạo hiệu ứng lan

tỏa, thu hút vốn đầu tư của công chúng trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Chính phủ

cũng cần song hành cùng công chúng đầu tư, bằng cách trực tiếp tham gia đầu tư mạo

hiểm thông qua các quỹ đặc thù, hoặc đồng hành góp vốn cùng các nhà đầu tư trong

các dự án nhất định, nhằm tạo niềm tin cho công chúng, thu hút nguồn vốn đầu tư.

Mặc dù là giai đoạn thử nghiệm, nhưng không được xem nhẹ vai trò an toàn vốn của

các nhà đầu tư, vì thế cần có những quy định pháp lý mang tính bắt buộc đối với việc

lựa chọn doanh nghiệp lưu ký, lựa chọn ngân hàng giám sát, hoặc các công ty quản lý

quỹ đầu tư mạo hiểm. Chính việc đảm bảo an toàn vốn của các nhà đầu tư, hiệu quả

hoạt động đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm là tiền đề cần thiết để công chúng đầu tư tin

tưởng và giam gia vào các hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm sau này.

Giai đoạn 2: Từ năm thứ 5 đến năm thứ 10

Sau một thời gian thực hiện triển khai thí điểm về việc xây dựng và phát triển quỹ

đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, có số liệu báo cáo của các quỹ đầu tư đến cơ quan chủ

quản theo quy định của pháp luật; các cơ quan này sẽ có số liệu để đánh giá hiệu quả

của việc thành lập và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm này, kết hợp với số liệu vĩ

mô về các chỉ tiêu khác trong nền kinh tế nhằm đánh giá tác động của việc thúc đẩy

hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm đến nền kinh tế Việt Nam. Trong giai

đoạn này, sau khi có báo cáo hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm thành

lập tại Việt Nam, Chính phủ vẫn cần tiếp tục nghiên cứu để có những văn bản, quy

định pháp luật phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Nếu hiệu quả của quỹ đầu

tư mạo hiểm được chứng minh, Chính phủ nên xem xét việc phân bổ một phần vốn từ

các quỹ hưu trí công hiện nay sang đầu tư mạo hiểm, nhằm giảm bớt áp lực chi trả cho

181

các đối tượng nhận tiền khi đến tuổi về hưu, do tình trạng già hóa dân số nhanh chóng

của Việt Nam trong tương lai.

Trong giai đoạn này, chính phủ xem xét rút dần ra khỏi các quỹ đầu tư mạo

hiểm đã tham gia từ giai đoạn trước; hoặc chỉ tiếp tục tham gia đầu tư vào các dự án

cần nhiều vốn đầu tư, khó thu hút nguồn vốn từ công chúng. Lúc này thị trường đã

hình thành được tư tưởng đầu tư mạo hiểm từ kết quả giáo dục, đào tạo ở giai đoạn

trước. Tuy nhiên, chính phủ vẫn cần tiếp tục duy trì các chiến lược đào tạo ở giai đoạn

trước, cải tiến, rút kinh nghiệm từ giai đoạn trước nhằm tìm ra các mô hình đào tạo,

hướng nghiệp phù hợp của trình độ dân trí ở giai đoạn này.

Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động của các quỹ

đầu tư mạo hiểm cần thực hiện chặt chẽ, đặc biệt khi có sự tham gia của nhiều đối

tượng khác nhau trong xã hội, và số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm tăng nhanh. Lúc này,

các trung gian tài chính trên thị trường như các công ty chứng khoán, các công ty bảo

hiểm, các công ty quản lý quỹ cần nâng cao chất lượng của mình để đáp ứng được nhu

cầu của các đối tượng muốn tham gia thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm.

Đối với lĩnh vực truyền thông, việc quảng bá, hỗ trợ cho các quỹ đầu tư mạo

hiểm cần tiếp tục đẩy mạnh. Các cơ quan quản lý cần kết hợp với các phương tiện

truyền thông công bố rộng rãi về lợi ích và hiệu quả của các quỹ đầu tư mạo hiểm

nhằm thu hút các nhà đầu tư tham gia góp vốn vào quỹ.

Giai đoạn 3: sau 10 năm

Đây có thể coi là giai đoạn mà các quỹ đầu tư mạo hiểm đã đi vào hoạt động ổn

định, dần trở thành mô hình đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm

nhằm đạt được mức lợi nhuận cao hơn. Trong giai đoạn này, các cơ quan quản lý sẽ

tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, các chính sách thuế cho hoạt động của các quỹ đầu

tư mạo hiểm. Đối với các tổ chức trung gian tài chính, sẽ phải tự mình thay đổi cung

cách hoạt động, hoàn thiện mình hơn nhằm tang khả năng cạnh tranh, đáp ứng được

nhu cầu huy động vốn và quản lý các quỹ đầu tư mạo hiểm. Tại giai đoạn này, chính

phủ chỉ tham gia với tư cách giám sát, nên để các quỹ đầu tư mạo hiểm tự hoạt động,

huy động vốn theo nhu cầu của xã hội.

182

Kết luận chương 5

Với định hướng phát triển đất nước trong thời gian tới của chính phủ, trọng tâm

khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo, đồng thời chú trọng đầu tư, phát triển lĩnh vực đầu

tư mạo hiểm, sẽ có tác động tích cực đến việc hình thành mới và phát triển các quỹ đầu

tư mạo hiểm ở Việt Nam. Theo quan điểm của luận án, trong giai đoạn đầu xây dựng

và phát triển, Việt Nam nên khuyến khích quỹ đầu tư mạo hiểm theo dạng mở, với mô

hình quỹ tín thác (ủy thác đầu tư), chú trọng thu hút vốn đầu tư trong xã hội, đặc biệt

là từ các tổ chức có nhu cầu đầu tư mạo hiểm. Bên cạnh đó, cần chú trọng các chương

trình đào tạo cho tầng lớp doanh nhân khởi nghiệp, kiến thức cho các nhà đầu tư mạo

hiểm nhằm tạo ra nguồn cung và cầu vốn đầu tư mạo hiểm bền vững. Dưới góc độ

quản lý nhà nước, nên tập trung đầu mối là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quản lý,

kiểm soát về mặt pháp lý và định hướng, ngoài ra, chính phủ cũng nên xây dựng lộ

trình cụ thể các giai đoạn phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, nhằm giúp

lĩnh vực này có điều kiện phát triển tốt nhất, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của

nền kinh tế.

183

KẾT LUẬN

Quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư

mạo hiểm của nền kinh tế, tạo động lực phát triển lĩnh vực khoa học, công nghệ cao,

thúc đẩy các doanh nhân khởi nghiệp đưa ý tưởng đầu tư của mình vào thực tiễn. Quỹ

đầu tư mạo hiểm là chủ thể được nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển

quan tâm, coi là chủ thể chính thúc đẩy sự phát triển, tạo năng lực cạnh tranh bền vững

của quốc gia đó; đối với các quốc gia đang phát triển, cũng đã nhận thức được tầm

quan trọng của quỹ đầu tư mạo hiểm, và đã nghiên cứu nhằm tìm các điều kiện phù

hợp để thúc đẩy việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở quốc gia đó. Đã

có nhiều nghiên cứu về quỹ đầu tư mạo hiểm được thực hiện, tuy nhiên chưa có

nghiên cứu nào nghiên cứu tổng quát về việc hình thành và phát triển của các quỹ đầu

tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam; hơn nữa các nghiên cứu trước đây còn

thiếu tính cập nhật, số liệu đã cũ, vì thế không còn phù hợp với điều kiện hiện nay, khi

chính phủ Việt Nam đã nhận thức và nhấn mạnh tầm quan trọng của quỹ đầu tư mạo

hiểm trong nền kinh tế. Vì thế, các nghiên cứu trước đây vẫn còn khoảng trống nghiên

cứu như đã phân tích.

Luận án đã tổng hợp và hệ thống lại cơ sở lý luận về việc xây dựng và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm, trong đó xây dựng được bộ tiêu chí các nhân tố ảnh hưởng

đến việc hình thành và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm. Sau đó luận án đã phân

tích thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, từ năm 1990

đến 2018, bao gồm các cơ sở pháp lý hiện có về quỹ đầu tư mạo hiểm, định hướng của

chính phủ trong việc phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trong điều kiện hiện nay, v.v…

Nghiên cứu sinh đã đánh giá các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến việc xây dựng và

phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm, đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động của các quỹ

đầu tư mạo hiểm lớn đang hoạt động ở Việt Nam; từ đó đưa ra được những kết quả đạt

được, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo

hiểm được nêu ra ở chương 4.

Luận án sử dụng mô hình kinh tế lượng nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng

đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, xem xét xem nhân

tố nào có tác động mạnh nhất. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhân tố các quy định pháp

luật rõ ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư

mạo hiểm; nhân tố các doanh nhân có khả năng đánh giá và thích ứng với rủi ro tốt;

184

nhân tố nâng tầm hiểu biết và thực thi của người dân về quyền sở hữu trí tuệ; nhân tố

mạng lưới các loại hình giao thông kết nối các địa điểm; nhân tố hiệu quả đầu tư của

các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm có tác động mạnh nhất đến việc xây dựng và

phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm.

Thông qua đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam, kết hợp với kinh nghiệm xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở các

quốc gia trên thế giới tại chương 3, luận án đã đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy

quá trình xây dựng và phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam. Các giải pháp

đưa ra nhằm cải thiện, thúc đẩy quá trình theo hướng tích cực các nhân tố có ảnh

hưởng đến việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm đã phân tích ở các

chương trước đó.

Tóm lại, luận án đã giải quyết được các câu hỏi nghiên cứu và mục tiêu nghiên

cứu đã đề ra. Nghiên cứu sinh mong muốn luận án này sẽ đóng góp một phần công sức

vào cơ sở lý luận, giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển các quỹ

đầu tư mạo hiểm ở VIệt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do vẫn còn hạn chế về khả

năng tiếp cận số liệu, cũng như khả năng nghiên cứu, vì thế luận án vẫn còn những hạn

chế, thiếu sót. Vì vậy, nghiên cứu sinh mong muốn nhận được các ý kiến đánh giá từ

các chuyên gia, nhà khoa học để những kiến thức, nội dung trong luận án trở nên hoàn

thiện hơn.

185

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tư Pháp. (2018). Nhiều chính sách hỗ trợ cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa.

2. Châu Thiên Trúc Quỳnh. (2006). Tìm hiểu hoạt động các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt

Nam - Thực trạng và giải pháp. Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

3. Đào Lê Minh. (2003). Quỹ đầu tư mạo hiểm và khả năng hình thành, phát triển ở Việt

Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

4. Dương Thị Liễu Nguyễn Vân Hà. (2009). Văn hóa kinh doanh Việt Nam. Tạp Chí Hoạt

Động Khoa Học, 11, 23–27.

5. Hoài Nam. (2015). Khoa học Việt Nam đang đứng ở đâu? Tiếp cận ngày 16/3/2019, từ

http://cafebiz.vn/thi-truong/khoa-hoc-viet-nam-dang-dung-o-dau-

20150618115712654.chn

6. Hoàng Thị Hải Như. (2006). Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước Châu Á và bài

học kinh nghiệm cho Việt Nam. Đại học Ngoại Thương.

7. Nguyễn Ngọc Long; Nguyễn Hữu Vui. (2006). Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Nhà xuất

bản chính trị quốc gia.

8. Nguyễn Quang Long. (2016). Quỹ đầu tư mạo hiểm, kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị

cho Việt Nam. Hà Nội: Ủy ban chứng khoán Nhà nước.

9. Nguyễn Thị Mỹ Dung. (2007). Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm cho công nghệ cao Thành

phố Hồ Chí Minh. Tạp Chí Khoa Học và Đào Tạo Ngân Hàng, 56, 53–55.

10. Nguyễn Viết Lộc. (2012). Văn hoá doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc

tế. Đại học kinh tế.

11. Dương Thị Liễu. (2013). Giáo trình Văn hóa kinh doanh. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế

Quốc dân.

12. Trần Nguyệt Minh Thu. (2008). Phát triển xã hội - Một số quan điểm và kinh nghiệm từ

Châu Âu. Nghiên Cứu Châu Âu, 1(88), 40–49.

13. Trần Thị Thanh Giang. (2010). Phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam. Đại học

Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

14. Vụ Hợp Tác Quốc Tế. (2017). Định hướng và chính sách phát triển cơ sở hạ tầng giao

thông Việt Nam. Tiếp cận ngày 16/3/2019, từ http://mt.gov.vn/atgt/tin-tuc/51792/dinh-

huong-va-chinh-sach-phat-trien-co-so-ha-tang-giao-thong-viet-nam.aspx

Tiếng Việt

15. Ahlstrom, D., Bruton, G. D., & Yeh, K. S. (2007). Venture capital in China: Past, present,

Tiếng Anh

and future. Asia Pacific Journal of Management.

16. Amit, R., Brander, J., & Zott, C. (2008). Venture Capital Financing of Entrepreneurship:

Theory, Empirical Evidence and a Research Agenda. In The Blackwell Handbook of

Entrepreneurship.

17. Avnimelech, G., Kenney, M., & Teubal, M. (2016). Building Venture Capital Industries:

Understanding the U.S. and Israeli Experiences. SSRN.

18. Barry, C. B., Muscarella, C. J., Peavy, J. W., & Vetsuypens, M. R. (1990). The role of

venture capital in the creation of public companies: Evidence from the going-public

process. Journal of Financial Economics, 27(2), 447–471.

19. Bartlett, J. W. (1999). Fundamentals of venture capital. Madison Books.

20. Bartzokas, A., & Mani, S. (2013). Financial Systems, Corporate Investment in Innovation,

and Venture Capital. Financial Systems, Corporate Investment in Innovation, and

Venture Capital.

21. Bascha, A., & Walz, U. (2001). Convertible securities and optimal exit decisions in

venture capital finance. Journal of Corporate Finance.

22. Bergemann, D., Hege, U., & Peng, L. (2009). Venture Capital and Sequential

Investments. SSRN.

23. Black, B. S., & Gilson, R. J. (2000). Does Venture Capital Require an Active Stock

Market? SSRN Electronic Journal.

24. Blodget, H. (2013). A Startup’s Odds Of Success Are Very Low - Business Insider.

Retrieved March 14, 2019, from https://www.businessinsider.com/startup-odds-of-

success-2013-5

25. Lin News. (2015). China’s Silicon Valley Sparking 49 Technology Startups a Day.

Retrieved March 15, 2019, from https://www.bloomberg.com/news/articles/2015-03-

11/china-s-silicon-valley-sparking-49-technology-startups-a-day

26. Bock, C., Darmstadt, T. U., Watzinger, M., & Schmidt, K. M. (2017). The Capital Gains

Tax: A Curse but Also a Blessing for Venture Capital Investment. Retrieved from

www.rationality-and-competition.de

27. Bottazzi, L., Da Rin, M., & Hellmann, T. (2008). Who are the active investors? Journal of

Financial Economics, 89(3), 488–512.

28. Bozkaya, A., & van Pottelsberghe de la Potterie, B. (2008). Who funds technology-based

small firms? Evidence from Belgium. Economics of Innovation and New Technology.

29. Bradley, D. J., Jordan, B. D., Yi, H. C., & Roten, I. C. (2001). Venture capital and ipo

lockup expiration: An empirical analysis. Journal of Financial Research.

186

187

Business School Press Books.

31. Bygrave, William D., & Timmons, J. A. (1992). Venture capital at the crossroads.

Harvard Business School Press.

32. Caselli, S. (2010). Private Equity and Venture Capital in Europe. Private Equity and

Venture Capital in Europe.

33. Chesbrough, H. (2002). The role of the business model in capturing value from

innovation: evidence from Xerox Corporation’s technology spin-off companies.

Industrial and Corporate Change.

34. Chevalier, J., & Ellison, G. (2008). Risk Taking by Mutual Funds as a Response to

Incentives. Journal of Political Economy.

35. ChinaGov. (2015). Guideline to boost entrepreneurship and innovation. Retrieved March

15,

2019,

from

http://english.gov.cn/policies/latest_releases/2015/03/11/content_281475069667730.htm

36. Christofidis, C., & Debande, O. (2001). Financing Innovative Firms Through Venture

Capital. European Investment Bank Sector Papers.

37. Collewaert, V., Collewaert, V., Manigart, S., Manigart, S., Aernoudt, R., & Aernoudt, R.

(2007). An Assessment of Government Funding of Business Angel Networks: A Regional

Study. Corporate Finance.

38. Cumming, D. J. (2001). The Determinants of Venture Capital Portfolio Size: Empirical

Evidence. SSRN.

39. Cumming, D. J. (2003). The Structure, Governance and Performance of UK Venture

https://doi.org/10.1080/14735970.2003.11419909

40. Cumming, D. J. (2017). Venture capital and private equity contracting. Elsevier

publisher.

41. Dareck Klonowski. (2013). The venture capital investment process. Choice Reviews

Online, 48(08), 48-4575-48–4575. https://doi.org/10.5860/choice.48-4575

42. Demaria, C. (2013). Introduction to private equity : venture, growth, LBO & turn-

around capital. Retrieved from http://www.ebook777.com/introduction-private-equity-

venture-growth-lbo-turn-around-capital-2nd-edition/

43. Feld, B., & Mendelson, J. (2013). Venture Deals: Be Smarter Than Your Lawyer and

Venture Capitalist. Wiley.

44. Fiedler, M.-O., & Hellmann, T. (2001). Against all odds: the late but rapid development of

the German venture capital industry. The Journal of Private Equity.

30. Bygrave, W D, & Timmons, J. A. (1992). Venture Capital at the Crossroads. Harvard

188

46. Gerald, G. U. (1992). Ideas, Inventions, Innovations. University of Michigan Library .

Retrieved

from

https://www.amazon.com/Ideas-inventions-innovations-Gerald-

Udell/dp/B003HKR0QW

47. Gladstone, D., & Gladstone, L. (2002). Venture capital handbook : an entrepreneur’s

guide to raising venture capital. Prentice Hall.

48. Gompers. (1997). Ownership and Control in Entrepreneurial Firms: An Examination of

Convertible Securities in Venture Capital Investments. Venture Capital.

49. Gompers., P. A. (1995). Optimal Investment, Monitoring, and the Staging of Venture

Capital. The Journal of Finance.

50. Gompers, PA, & Lerner, J. (1998). What drives venture capital fundraising? Brookings

Papers

on

Economic

Activity:

Microeconomics,

1998,

149–204.

https://doi.org/10.2139/ssrn.57935

51. Gompers, Paul A., & Lerner, J. (1998). The determinants of corporate venture capital

success: organizational structure, incentives, and complementarities. Venture Capital.

52. Gompers, Paul Alan, Lerner, J., Silviera, R., & Wright, R. (2004). The Venture Capital

Cycle. Journal of Business Venturing.

53. Gompers, Paul, Kovner, A., Lerner, J., & Scharfstein, D. (2008). Venture capital

investment cycles: The impact of public markets. Journal of Financial Economics.

54. Gompers, Paul, & Lerner, J. (2005). The Use of Covenants: An Empirical Analysis of

Venture Partnership Agreements. The Journal of Law and Economics.

55. Gorman, M., & Sahlman, W. (1989). What Do Venture Capitalists Do. Journal of

Business Venturing, 4, 231–248.

56. Gregoriou, G. N., Kooli, M., & Kraeussl, R. (2007). Venture Capital in Europe. Venture

Capital in Europe.

57. Grinblatt, M., Titman, S., & Wermers, R. (1995). Momentum Investment Strategies,

Portfolio Performance, and Herding: A Study of Mutual Fund Behavior. American

Economic Review.

58. Harrison, R., Mason, C., & Robson, P. (2010). Determinants of long-distance investing by

business angels in the UK. Entrepreneurship and Regional Development.

59. Harrison, R. T., & Mason, C. M. (2007). Does gender matter? Women business angels

and the supply of entrepreneurial finance. Entrepreneurship: Theory and Practice.

60. Hege, U., Palomino, F., & Schwienbacher, A. (2004). Venture Capital Performance: the

Disparity Between Europe and the United States. SSRN.

45. Finkel, R. (2010). Private Equity and Venture Capital. New: Mc Graw Hill.

189

62. Hossain, M., Cahan, S. F., & Adams, M. B. (2000). The investment opportunity set and

the voluntary use of outside directors: New Zealand evidence. Accounting and Business

Research, 30(4), 263–273.

63. Ippolito, R. A. (2006). Efficiency With Costly Information: A Study of Mutual Fund

Performance, 1965-1984. The Quarterly Journal of Economics.

64. Jensen, M. C. (2002). The Performance of Mutual Funds in the Period 1945-1964. SSRN.

65. ChinaGov, S. (2015). Young entrepreneurs weaving innovative dreams online. Retrieved

March 15, 2019, from http://www.chinadaily.com.cn/china/entrepreneursinchina/2015-

04/27/content_20576208.htm

66. Kanniainen, V., & Keuschnigg, C. (2003). The optimal portfolio of start-up firms in

venture capital finance. Journal of Corporate Finance.

67. Kerubo, M. E. (2015). Assessment of Awareness Levels on Venture Capital Financing

Among Small and Medium Enterprises in Kumasi , Ghana. University of Science and

Technology.

68. Lerner, Josh Ann, Leamon Susana, G.-R. (2015). Best Practice In Creating A Venture

Capital Ecosystem.

69. Lin, L. (2015a). Engineering a Venture Capital Market: Lessons from China. SSRN.

70. Lin, L. (2015b). Re-engineering a Venture Capital Market: The Case of China. NUS

Working Paper 2015/007 NUS Centre for Law & Business Working Paper 15/04.

Retrieved from http://law.nus.edu.sg/wps/

71. Lin, L. (2016). Venture Capital and the Structure of Stock Market: Lessons from China.

NUS Centre

for Banking & Finance Law Working Paper. Retrieved

from

https://www.business.unsw.edu.au/About-Site/Schools-Site/Taxation-Business-Law-

Site/Documents/VC-and-Stock-Market-in-China-Lin-Lin.pdf

72. Maarbani, S. (2011). Establishing a new Venture Capital or Private Equity Fund.

Retrieved

from

https://www.pwc.com.au/legal/assets/establishing-a-new-vc-or-pe-

fund.pdf

73. Manigart, S., De Waele, K., Wright, M., Robbie, K., Desbrières, P., Sapienza, H. J., &

Beekman, A. (2002). Determinants of required return in venture capital investments: A

five-country study. Journal of Business Venturing.

74. Mason, C. M. (2009). Public Policy Support for the Informal Venture Capital Market in

Europe: A Critical Review. International Small Business Journal.

75. Mason, C. M., & Harrison, R. T. (1996). Informal venture capital: A study of the

61. Hellmann, T. (2000). Developing a Venture Capital Industry. McGrawhill Publisher.

investment process, the post-investment experience and investment performance.

Entrepreneurship and Regional Development.

76. Mayer, C., Schoors, K., & Yafeh, Y. (2005). Sources of funds and investment activities of

venture capital funds: Evidence from Germany, Israel, Japan and the United Kingdom.

Journal of Corporate Finance.

77. Mccullough, B. (2015). On the 20th Anniversary – The History of Yahoo’s Founding |

Internet

History

Podcast.

Retrieved

March

14,

2019,

from

http://www.internethistorypodcast.com/2015/03/on-the-20th-anniversary-the-history-of-

yahoos-founding/

78. Megginson, W. L., & Weiss, K. A. (1991). Venture Capitalist Certification in Initial

Public Offerings. The Journal of Finance.

79. Miguel, Fernández Acevedo Alexandre, Gazaniol Vivien, Lo Georg, M. (2016). Building

Momentum in Venture Capital across Europe. Rome.

80. Miloud, T., Aspelund, A., & Cabrol, M. (2012). Startup valuation by venture capitalists:

An empirical study. Venture Capital.

81. Newton, L. A., Coopey, R., & Clarke, D. (2006). 3I: Fifty Years Investing in Industry.

The Economic Journal.

82. Osnabrugge, M. Van, & Robinson, R. J. (1999). Financing Entrepreneurship: Business

Angels and Venture Capitalists Compared. Working Paper.

83. Poterba, J. (1989). Venture capital and capital gains taxation. Tax Policy and the

Economy, 3, 47–67.

84. Poterba, J. M. (2016). Venture Capital and Capital Gains Taxation. Tax Policy and the

Economy.

85. Powers, J. (2012). Top Stories - Corporate LiveWire - Corporate LiveWire. Retrieved

March 14, 2019, from http://www.corporatelivewire.com/top-story.html?id=the-history-

of-private-equity-venture-capital

86. Rajan Annamalai, T., & Deshmukh, A. (2011). Venture capital and private equity in India:

an analysis of investments and exits. Journal of Indian Business Research, 3(1), 6–21.

87. Romain, A. (2007). Essays

in the empirical analysis of venture capital and

entrepreneurship. ULB Institutional Repository.

88. Romain, A., & Pottelsberghe, B. Van. (2004). The Determinants of Venture Capital :

Additional Evidence.

89. Romain, A., & Van Pottelsberghe De La Potterie, B. (2004). The Determinants of Venture

Capital: A Panel Data Analysis of 16 OECD Countries. Centre Emile Bernheim:

190

Research Institute in Management Sciences.

90. Sack, Adam; McKenzie, J. (1998). Hình thành một quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Retrieved from https://text.123doc.org/document/1680269-hinh-thanh-mot-quy-dau-tu-

mao-hiem-o-viet-nam-doc.htm

91. d, W. A. (1990). The structure and governance of venture-capital organizations. Journal of

Financial Economics.

92. San José, A., Roure, J., & Aernoudt, R. (2005). Business Angel Academies: Unleashing

the Potential for Business Angel Investment. Venture Capital, 7(2), 149–165.

93. Schertler, A. (2009). The Venture Capital Industry in Europe. The Venture Capital

Industry in Europe.

94. Sirri, E. R., & Tufano, P. (1998). Costly search and mutual fund flows. Journal of

Finance.

95. Ständer, P. (2017). Public policies to promote Venture capital: How to get national and

EU measures in sync, 1–18.

96. Sung, T. K., Gibson, D. V., & Kang, B. S. (2003). Characteristics of technology transfer

in business ventures: The case of Daejeon, Korea. Technological Forecasting and Social

Change.

97. Vanham, P. (2015). Which countries have the most venture capital investments? | World

Economic

Forum.

Retrieved

March

14,

2019,

from

https://www.weforum.org/agenda/2015/07/which-countries-have-the-most-venture-

capital-investments/

98. Wetzel, W. (1983). Angels and informal risk capital. Sloan Management Review.

99. cfv. (2015). New policies encourage entrepreneurship, boost employment. Retrieved

March

15,

2019,

from

http://www.chinadaily.com.cn/china/2015-

04/22/content_20510974.htm

100. Zider, B. (1998). How venture capital works. Harvard Business Review.

191

192

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Một số quỹ đầu tư mạo hiểm siêu nhỏ tại Mỹ và Châu Âu

Bảng PL.1. Một số quỹ đầu tư mạo hiểm siêu nhỏ tại Mỹ

Tên người

Kinh nghiệm

Tên quỹ

Quy mô vốn

Số

Các thương

gọi vốn

làm việc, đầu tư

đầu tư

thương

vụ đầu tư

cho quỹ

vụ đầu

điển hình

Peter Thiel Paypal (đồng

Founder

Founder Fund IV

65

Facebook,

sáng lập);

Funds

(2012) – 625 triệu

Sportify,

Facebook (nhà

USD; Founder

SpaceX,

đầu tư bên ngoài

Fund III (2010) –

Yammer

đầu tiên)

250 triệu USD

Ron

PTS, Altos

SV Angel SV Angel IV – 40

176

Google,

Conway

Computer

triệu USD

Paypal,

Facebook

Jeff

Reuters

SoftTech

Softech VC III

59

Mint,

Clavier

Excecutive

VC

(2011) – 55 triệu

Userplane,

USD

Kaboodle

Micheal

eBay, giáo sư tại

Harrison

N/A

33

Aardvark,

Dearing

trường ĐH

Metal

admob,

Stanford

DocVerse

Dave

Paypal

500

500 Startups I

187

SlideShare,

McClure

Startups

(2011) – 29 triệu

Mint

USD

Mike

Motive, Inc

Floodgate Floodgate Fund IV

77

Twitter, Digg

Maples

(2012) – 75 triệu

USD; Floodgate

III (2010) – 73.5

triệu USD

Nguồn: Business Insider, 2015

Bảng PL.2. Một số quỹ đầu tư siêu nhỏ tại Châu Âu

Tên nhà gọi vốn cho quỹ;

Tên quỹ đầu tư

Quy mô vốn

Kinh

Quốc

193

Kinh nghiệm làm việc

mạo hiểm

nghiệm

gia

đầu tư

Robin Klein (Innovation); và Saul

The Accelerator

N/A

42

Anh

Klein (Lovefilm Int., Skype)

Group (TAG)

Julie Meyer (First Tuesday)

ACE (Ariadne

32 triệu USD

N/A

Anh

Capital

Enterpreneurs

Fund)

Niklas Zennstrom (Skype, Kazaa) Atomico

Atomico

10

Anh

Ventures II –

122 triệu USD

Rogan Angelini-Hurll (City Pan

PROfounders

42 triệu USD

10

Anh

European Medial Research,

Capital

Salomon Brothers); và (Sean-

Rogers (Balderton Capital,

Commonweaalth Capital

Ventures)

Jos White và Ben White (Star,

Notion Capital

Notion Capital 2

13

Anh

(2010) – 112

Messagelabs)

triệu USD;

Notion Capital –

40 triệu USD

Xavier Neil (ISP lliad) và Jérémie

Kima Ventures

15 triệu USD

27

Pháp

Berrebi (Net2One)

Pierre Kosciusko-Morizet

ISAI

ISAI Fund I

9

Pháp

(PriceMinister); Goeffroy Roux

(45 triệu USD)

de Bezieux (Vigrin Mobile);

Stéphane Treppoz (Sarenza);

Ouriel Ohayon (ex

TechCrunch.fr)

Alexander, Marc & Oliver

European

N/A

16

Đức

Samwer (Alando, Jamba)

Founders Fund

Lars Hinrichs (XING)

HackFwd

N/A

7

Đức

Nguồn: Business Insider, 2015

194

195

Phụ lục 2: Danh mục đầu tư của FPT Ventures

196

Đợt 4: 9/2018

Đợt 3: 4/2018

Đợt 2: 10/2017

Đợt 1: 4/2017

Phụ lục 3. Danh mục đầu tư của VIISA

197

Phụ lục 4. Danh sách các quỹ đầu tư tại Việt Nam

Bảng PL.3. Danh sách quỹ đầu tư chứng khoán

STT

Tên quỹ

Loại quỹ

Tình trạng hoạt động

1 Quỹ ETF SSIAM HNX30

Vốn điều lệ (VNĐ) 101.000.000.000

Đang hoạt động

Quỹ hoán đổi danh mục (ETF)

2 Quỹ ETF VFMVN30

202.000.000.000

3 Quỹ thành viên tập trung cổ

Quỹ thành viên

66.000.000.000

phần hóa Việt Nam

Đang hoạt động Đang hoạt động

4 Quỹ Thành viên Y tế Bản Việt

Quỹ thành viên

287.984.000.000

Đang hoạt động

5 Quỹ Việt Nhật

Quỹ thành viên

1.600.000.000.000 Hoàn tất giải

6 Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Dai-ichi

Quỹ thành viên

50.000.000.000

life Việt Nam

thể Đang hoạt động

7 Quỹ Đầu tư Chứng khoán Con

Quỹ thành viên

230.000.000.000

Hổ Việt Nam

Đang hoạt động

8 Quỹ Đầu tư Chứng khoán Hà

Quỹ đóng

200.000.000.000

Đang giải thể

Nội

9 Quỹ Đầu tư Chứng khoán Trái

Quỹ mở

54.296.925.000

phiếu MB Capital Việt Nam

Đang hoạt động

10 Quỹ Đầu tư Chứng khoán Việt

mở

1.000.000.000.000 Đang hoạt

Nam

11 Quỹ Đầu tư Cân bằng Bản Việt Quỹ mở

54.314.089.552

12 Quỹ Đầu tư Cân bằng Chiến

Quỹ mở

60.426.610.500

lược – VCBF

động Đang hoạt động Đang hoạt động

13 Quỹ Đầu tư Cân bằng Prudential

Quỹ Đóng

500.000.000.000

Đang giải thể

(PRUBF1)

14 Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Hàng đầu

Quỹ mở

59.164.003.100

VCBF

15 Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Hưng

Quỹ mở

57.132.321.000

Thịnh VinaWealth

Đang hoạt động Đang hoạt động

16 Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Manulife Quỹ mở

65.113.385.900

17 Quỹ Đầu tư Cổ phiếu Năng động

Quỹ mở

71.247.586.800

Bảo Việt

Đang hoạt động Đang hoạt động

18 Quỹ Đầu tư Doanh nghiệp Hàng

Quỹ mỏ

806.460.000.000

đầu Việt Nam (VF4)

Đang hoạt động

19 Quỹ Đầu tư Giá trị MB Capital

Quỹ mở

54.423.600.000

20 Quỹ Đầu tư Japan Asia MB

Quỹ thành viên

200.000.000.000

Capital

Đang hoạt động Đang hoạt động

Quỹ Thành viên 100.000.000.000

Đang hoạt động

21 Quỹ Đầu tư khám phá giá trị Ngân hàng Công thương Việt Nam

22 Quỹ Đầu tư Lợi thế Cạnh tranh

Quỹ mở

111.922.428.800

Đang hoạt động

Bền vững SSI

Quỹ mở

53.203.406.730

Đang hoạt động

23 Quỹ Đầu tư Năng động Eastspring Investments

24 Quỹ Đầu tư Năng động Việt

Quỹ mở

240.437.600.000

Đang hoạt động

Nam (VFA)

25 Quỹ Đầu tư Thành viên SSI

Quỹ thành viên

390.000.000.000

26 Quỹ Đầu tư Trái phiếu Bảo

Quỹ mở

53.810.960.100

Đang hoạt động Đang hoạt động

Thịnh VinaWealth

27 Quỹ Đầu tư Trái phiếu Việt Nam Quỹ mở

99.574.822.600

Đang hoạt động Đang giải thể Đang giải thể Đang giải thể

28 Quỹ Đầu tư Tăng trường ACB 29 Quỹ Đầu tư tăng trưởng ACB 30 Quỹ Đầu tư Tăng trưởng

Đóng Quỹ đóng Quỹ đóng

240.080.000.000 240.80.000.000 214.090.000.000

Manulife

31 Quỹ Đầu tư Việt Nam

Quỹ thành viên

1.349.200.000.000 Đang hoạt

động

Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, 2019

198

Bảng PL.4. Danh sách quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam (9/2019)

TT

TÊN QUỸ

LĨNH VỰC ĐẦU TƯ

GHI CHÚ/ NGUỒN VỐN CẤP

Quỹ sáng tạo CMC

Tập đoàn CMC quản lý

1

Khoa học kỹ thuật và công nghệ

Khoa học tự nhiên

2

Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam TP. HCM quản lý Các công ty góp vốn

3

Khoa học kỹ thuật và công nghệ

4

Khoa học kỹ thuật và công nghệ

Quỹ Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp (BSSC) Quỹ Tăng tốc khởi nghiệp Việt Nam (VIISA) Quỹ Đầu tư phát triển TP Đà Nẵng (DDIF)

Ngân sách cấp vốn; phát hành TP chính quyền địa phường; vay các tổ chức tài chính

Quỹ đầu tư FPT Capital Công nghệ thông tin

Tập đoàn FPT

5

6

Đa dạng, nhắm tới các doanh nghiệp nhỏ và vừa

Ngân sách nhà nước cấp vốn; trực thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư

Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF)

199

Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp

Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) được giao nhiệm vụ tổ chức giữ Quỹ để thực hiện thu, chi theo quy định của pháp luật và quyết định của cấp có thẩm quyền

Quỹ được thành lập để quản lý tập trung, thống nhất, có hiệu quả các nguồn thu từ phần vốn nhà nước góp tại các doanh nghiệp,bao gồm cả các nguồn thu từ quá trình sắp xếp doanh nghiệp 100% vốn nhà nước

8

Ngân sách nhà nước cấp

Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF)

Nghiên cứu, chuyển giao, đổi mới và hoàn thiện công nghệ

9

Khoa học kỹ thuật và công nghệ

Quỹ trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ

Môi trường

Các tổ chức quốc tế

Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) 10 Quỹ Môi trường toàn

cầu (GEF)

Đa lĩnh vực

Các nhà đầu tư thiên thần

11 Quỹ đầu tư Thịnh vượng mới

12 Quỹ Khởi nghiệp

Công nghệ cao

Các cá nhân, tổ chức góp vốn

Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ Việt Nam (SVF)

13 Quỹ phát triển Khoa

Viện Nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng và các cá nhân, tổ chức tự nguyện góp vốn`

học và Công nghệ Đinh Tiên Hoàng (Quỹ DTHF)

Tài trợ cho các dự án nghiên cứu khoa học công nghệ của Viện Nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng (Viện DTHIM)

14 Quỹ đầu tư mạo hiểm

VSV Venture Fund

Chính phủ VN tài trợ vốn; Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt hoạt động của quỹ

mục tiêu thúc đẩy thương mại hóa công nghệ ưu tiên thuộc các lĩnh vực năng lượng, y sinh, cơ khí, tự động hóa, vật liệu mới, công nghệ thông tin và viễn thông

15 Quỹ Sáng kiến Hỗ trợ

Khoa học nông nghiệp, Khoa học xã hội

Khởi nghiệp Du lịch vùng Mekong (MIST)

Chính phủ Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar, các tổ chức quốc tế khác

16 Quỹ Grand Challenges

Chính phủ Canada

Công nghệ, kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe

Canada

17 Quỹ sáng tạo toàn cầu

Khoa học đời sống xã hội

Chính phủ Anh, Mỹ

(GLF)

Khoa học nông nghiệp

Chính phủ Indonisia

18 Quỹ đầu tư mạo hiểm Convergence Ventures (Indonesia)

7

Khoa học xã hội

Chính phủ Nhật Bản

200

Internet, game, quảng cáo

Softbank CORP

20 Quỹ đầu tư mạo hiểm SoftBank Capital (Indonesia)

21 Quỹ đầu tư mạo hiểm SB ISAT (Indonesia)

Công nghệ tài chính, truyền thông, kỹ thuật số

Softbank CORP và các nhà đầu tư địa phương

22 Quỹ đầu tư TNF

Ventures (Singapore)

Giải pháp cho doanh nghiệp, dịch vụ chuyên gia và công nghệ ứng dụng trong tài chính

Công nghệ quảng cáo, dịch vụ tìm kiếm, thương mại điện tử

Chính phủ Indonisia, các tổ chức tài chính

23 Quỹ đầu tư mạo hiểm Kejora Ventures (Indonesia)

Chính phủ Nhật Bản, các nhà đầu tư thiên thần

24 Quỹ đầu tư mạo hiểm GMO VenturePartners (Nhật Bản)

Công nghệ ứng dụng trong tài chính, Chợ điện tử và nền tảng web

Các nhà đầu tư thiên thần

Thương mại điện tử, mạng xã hội & truyền thông, du lịch

25 Quỹ đầu tư mạo hiểm Crystal Horse Investments (Singapore)

26 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Lĩnh vực kĩ thuật số

Các nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư thiên thần

Asia Venture Group (AVG) (Malaysia)

Tập đoàn Temasek Holdings

27 Quỹ đầu tư mạo hiểm Vertex Ventures (Singapore)

Mạng xã hội & truyền thông, logistics và vận tải, thương mại điện tử

Dịch vụ chuyên nghiệp, logistics và vận tải

Tập đoàn Singapore Press Holdings

28 Quỹ đầu tư mạo hiểm SPH Media Fund (Singapore)

29 Quỹ đầu tư mạo hiểm Sequoia Capital (Mỹ)

Các nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư thiên thần

Mạng xã hội và truyền thông, chợ điện tử và nền tảng web, logistics và vận tải

Tập đoàn OPT Holdings

30 Quỹ đầu tư mạo hiểm OPT SEA (Nhật Bản)

Thương mại điện tử, chăm sóc sức khỏe, dịch vụ tìm kiếm

Các nhà đầu tư thiên thần

Game và nền tảng web, chợ điện tử

31 Quỹ đầu tư mạo hiểm Monk’s Hill Ventures (Indonesia)

Công nghệ trong tài chính

32 Quỹ đầu tư mạo hiểm Life SREDA

Các nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư thiên thần

19 Quỹ đầu tư mạo hiểm Incubate Fund (Nhật Bản)

Tập đoàn InTouch Holdings PLC

201

Chợ điện tử, nền tảng hỗ trợ, dịch vụ tài chính, giáo dục, nội dung số và dịch vụ Internet

Tập đoàn Sinar Mas

34 Quỹ đầu tư mạo hiểm Sinar Mas Digital Ventures (Indonesia)

Các nhà đầu tư thiên thần

Bột giấy và giấy; kinh doanh nông nghiệp và thực phẩm; dịch vụ tài chính; phát triển bất động sản; viễn thông; năng lượng và cơ sở hạ tầng Các công ty công nghệ mới thành lập

35 Quỹ đầu tư mạo hiểm NSI Ventures (Singapore)

Tập đoàn Emtek Group

Truyền thông, viễn thông, giải pháp công nghệ thông tin và kết nối

36 Quỹ đầu tư mạo hiểm Emtek Group (Indonesia)

Các nhà đầu tư thiên thần, nhà đầu tư tổ chức

37 Quỹ đầu tư mạo hiểm Majuven (Singapore)

Khoa học y sinh, Xu hướng kết hợp số giữa công nghệ và dịch vụ, các công nghệ bền vững

38 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Tập đoàn Intel và các nhà đầu tư tổ chức khác

Intel Capital (Singapore)

điện toán, công nghệ dữ liệu đám mây, truyền thông kĩ thuật số, internet, phòng thí nghiệm và xưởng chế tạo, an ninh bảo mật, thiết bị thông minh, thiết bị đeo tay Các công ty khởi nghiệp

39 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Chính phủ Singapore và các tổ chức tài chính

Infocomm Investments (Singapore)

Người tiêu dung, truyền thông, bán lẻ, và công nghệ

40 Quỹ đầu tư mạo hiểm Hera Capital Partners (Singapore)

41 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Kickstart Ventures

Dịch vụ chuyên gia, thương mại điện tử và phần cứng

Là công ty con của Globe Telecom, được bảo trợ bởi Signtel và Tập đoàn Ayala

Các nhà đầu tư thiên thần

Thương mại điện tử, du lịch và nền tảng web & chợ điện tử

42 Quỹ đầu tư mạo hiểm Jungle Ventures (Singapore)

Chính phủ Indonesia

43 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Ideosource (Indonesia)

Nội dung web, truyền thông, thương mại điện tử và phát triển cơ sở hạ tầng

Tập đoàn viễn thông Axiata Group Berhad

44 Quỹ đầu tư mạo hiểm Axiata Group Berhad Innovation Fund

Tiền di dộng, quảng cáo qua điện thoại, thương mại điện tử, giải trí và giáo dục

33 Quỹ đầu tư mạo hiểm InVent (Thái Lan)

Các nhà đầu tư thiên thần

Logistics, thương mại điện tử, nền tảng web và chợ điện tử

202

46 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Chính phủ Nhật Bản

AFD Tại Việt Nam

Năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong công nghiệp, ở các tòa nhà và trong giao thông, quản lý nguồn nước Y tế và chăm sóc sức khỏe

Các nhà đầu tư thiên thần, nhà đầu tư tổ chức

47 Quỹ đầu tư mạo hiểm Bioveda Capital (Singapore)

Internet và dịch vụ di động

Nhà đầu tư tổ chức tại Nhật Bản

48 Quỹ đầu tư mạo hiểm Gree Ventures (Nhật Bản)

49 Quỹ đầu tư mạo hiểm EDBI (Singapore)

Khoa học y sinh, công nghệ thông tin và truyền thôn

Hội đồng Phát triển Kinh tế thuộc Chính phủ Singapore

Nhà đầu tư tổ chức tại Nhật Bản

50 Quỹ đầu tư mạo hiểm

East Ventures (Nhật Bản)

Thương mại, xã hội, game, dịch vụ phần mềm và dịch vụ di động

Internet, kỹ thuật số

51 Quỹ đầu tư mạo hiểm DMP (Singapore)

Chính phủ Đức

52 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Hanns Seidel Foundation (Đức)

Các nhà đầu tư tổ chức Singapore

53 Quỹ đầu tư mạo hiểm IMJ Investment Partners (Singapore)

Các chương trình nhằm chuyển đổi kinh tế, bảo vệ môi trường, cũng như phát triển kinh tế và xã hội bền vững Thương mại điện tử, đời sống và dịch vụ Internet dành cho người dùng

Các nhà đầu tư thiên thần tại Mỹ

54 Quỹ đầu tư mạo hiểm Fenox Venture Capital (Mỹ)

Truyền thông, nền tảng giao dịch online và chợ điện tử, thương mại điện tử

Nhà đầu tư tổ chức tại Nhật Bản

55 Quỹ đầu tư mạo hiểm CyberAgent Ventures (Nhật Bản)

Thương mại điện tử, dịch vụ Internet cho người dùng và Tài chính

56 Quỹ đầu tư mạo hiểm Wavemaker Partners (Singapore)

Công nghệ Quảng cáo, Công nghệ ứng dụng trong tài chính và giải pháp cho doanh nghiệp

57 Quỹ đầu tư mạo hiểm New Asia Investments (Singapore)

Công nghệ y sinh, công nghệ sạch (cụ thể là tài nguyên nước và năng lượng) và sáng chế công nghiệp

45 Quỹ đầu tư mạo hiểm Ardent Capital (Thái Lan)

203

IDG Ventures Vietnam

Công nghệ, truyền thông, viễn thông và hàng tiêu dùng

Nhà đầu tư chính là Tập đoàn International Data Group (IDG), công ty truyền thông và IT lớn nhất thế giới Tập đoàn viễn thông Singtel

59 Quỹ đầu tư mạo hiểm Singtel Innov8

60 Quỹ đầu tư mạo hiểm

SEGNEL Ventures (Singapore)

Hideki - doanh nhân Nhật Bản, các nhà đầu tư tổ chức tại Nhật Bản, Singapore

Công nghệ và giải pháp góp phần tạo ra những thay đổi về lượng đối với khả năng kết nối mạng lưới, các thiết bị thế hệ mới, các dịch vụ kĩ thuật số và các tính năng nâng cao trải nghiệm của người dùng Chăm sóc sắc đẹp, Fitness, Internet TV, Chợ điện tử, Quảng cáo thông qua video online

61 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Rebright Partners (Nhật Bản)

Các nhà đầu tư thiên thần, nhà đầu tư tổ chức Nhật Bản và Singapore

62 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Tập đoàn thương mại điện tử Rakuten của Nhật Bản

Rakuten Ventures (Nhật Bản)

Quảng cáo, Giải trí Kĩ thuật số, Truyền thông kĩ thuật số, Sàn giao dịch thương mại điện tử, Thời trang, Dịch vụ tài chính, Logistics dịch vụ Internet, Nhân sự, Chợ điện tử, Quảng cáo qua di động, Các phần mềm nâng cao năng suất, Dịch vụ tìm kiếm ảo

Hiệp hội Nhật Bản của công ty điều hành (Keizai Doyukai)

63 Quỹ đầu tư mạo hiểm JAC Asia Capital (Singapore)

64 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Công ty mẹ JAFCO Co., Ltd - Nhật Bản

JAFCO Asia (Singapore)

65 Quỹ đầu tư mạo hiểm Golden Gate Ventures (Singapore)

66 Quỹ đầu tư mạo hiểm Gobi Partners (Trung Quốc)

67 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Nhà đầu tư tiên thần tại Mỹ

Hạt giống 500 Startups

Tập trung vào nuôi trồng, bồi dưỡng và hỗ trợ các công ty liên doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đó góp phần vào sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản Điện thoại di động và Internet công nghệ, tiêu dùng và dịch vụ liên quan, an ninh mạng, y tế / chăm sóc sức khỏe và năng lượng tái tạo Lĩnh vực sáng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ trực tuyến dành cho người dùng tại Đông Nam Á Các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu, công ty IT và phương tiện truyền thông kỹ thuật số ở Trung Quốc và Đông Nam Á Thiết kế và kinh nghiệm người dùng, phân phối sản phẩm, số liệu khách hàng

68 Quỹ đầu tư mạo hiểm

Vina Capital

Các công ty công nghệ thông tin và viễn thông đã được cổ

58 Quỹ đầu tư mạo hiểm

phần hóa

69 Quỹ đầu tư mạo hiểm Mekong Capital

70 Quỹ đầu tư mạo hiểm Dragon Capital

Chuyên về vốn cổ phần chưa niêm yết tại Việt Nam tập trung chủ yếu vào các ngành theo xu hướng tiêu dùng Đầu tư vào các công ty đã niêm yết, chuẩn bị IPO tại Việt Nam, hoặc vào các trái phiếu doanh nghiệp, các tài sản sinh lời khác

Nguồn: Startup.gov.vn

204

205

Phụ lục 5. Câu hỏi phỏng vấn sâu

1. Anh/ Chị hãy giới thiệu về bản thân mình

a. Trình độ học vấn

b. Vị trí làm việc

c. Thâm niên đầu tư

2. Câu hỏi về hiểu biết đối với đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm?

a. Nguồn vốn đầu tư mạo hiểm từ đâu mà có

b. Quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò gì đối với mỗi quốc gia

c. Ở Việt Nam có quỹ đầu tư mạo hiểm hay chưa

d. Xu hướng đầu tư hiện nay của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

e. Quỹ đầu tư mạo hiểm nào có kết quả đầu tư nổi bật hiện nay

3. Câu hỏi về quan điểm đối với đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm?

a. Anh/ Chị đã đầu tư vào dự án đầu tư mạo hiểm nào chưa

b. Anh/ Chị đã góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm nào chưa

c. Khẩu vị rủi ro trong đầu tư của Anh/ Chị như thế nào

d. Theo anh chị, tiềm năng đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm ở

Việt Nam trong tương lai như thế nào

4. Theo Anh/ Chị, nhân tố nào đánh giá việc xây dựng và mức độ phát triển của quỹ đầu

tư mạo hiểm của một quốc gia?

5. Theo Anh/ Chị, chính phủ nên có những động thái nào ở góc độ hành lang pháp lý,

chính sách nhằm thúc đẩy việc xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm?

6. Theo Anh/ Chị, yếu tố văn hóa, xã hội, đặc biệt là bản thân doanh nhân khởi nghiệp

hoặc cộng đồng đầu tư cần có những phẩm chất gì để thúc đẩy việc xây dựng và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam?

7. Theo Anh/ Chị, dưới góc độ giáo dục nói chung và kiến thức trong đầu tư nói riêng,

cần có những yếu tố nào để đẩy mạnh sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm?

8. Theo Anh/ Chị, để thu hút được các dự án đầu tư nói chung và các dự án đầu tư mạo

hiểm nói riêng, các địa phương/ quốc gia cần chú trọng những yếu tố nào?

9. Theo Anh/ Chị, bản thân nội lực trong nước gặp những vấn đề trở ngại gì đối với việc

xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm hiện nay?

10. Theo Anh/ Chị, bản thân đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt

Nam, cần chú trọng điều gì nhằm thúc đẩy sự phát triển trong tương lai?

11. Đánh giá của Anh/ Chị đối với các cơ quan chủ quản có liên quan đến lĩnh vực đầu tư

nói chung và đầu tư mạo hiểm nói riêng ở Việt Nam trong thời gian qua?

12. Dưới góc độ quản lý, theo Anh/ Chị cần lưu tâm vấn đề gì để xây dựng phát triển quỹ

đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai?

206

207

Phụ lục 6. Phiếu khảo sát

PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM

Kính thưa Quý vị!

Tên tôi là Phạm Tiến Mạnh, giảng viên trường Học viện Ngân hàng. Hiện nay tôi đang

thực hiện đề tài nghiên cứu về việc Xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.

Vì vậy, tôi mong muốn Quý vị bớt chút thời gian trả lời bảng hỏi dưới đây. Mọi thông tin Quý

vị cung cấp sẽ được giữ kín và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

Mọi câu hỏi liên quan đến đề tài nghiên cứu, vui lòng liên hệ với tôi qua số điện thoại:

0988084025, hoặc email manhpham@hvnh.edu.vn

Trân trọng cảm ơn Quý vị.

PHẦN 1. THÔNG TIN CÁ NHÂN

Quý vị vui lòng khoanh tròn vào lựa chọn tương ứng

1.1. Lĩnh vực công tác của Quý vị

A. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước B. Sở giao dịch chứng khoán C. Ngân hàng thương mại D. Công ty bảo hiểm E. Quỹ đầu tư F. Công ty chứng khoán G. Đơn vị đào tạo về chứng khoán (Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu, Trung tâm đào

tạo, v.v...)

H. Khác

1.2. Thời gian/ kinh nghiệm đầu tư của Quý vị

A. < 1 năm B. 1-3 năm C. năm D. Trên 5 năm

1.3. Trình độ học vấn của Quý vị

A. Cao đẳng B. Đại học C. Trên đại học D. Khác

208

PHẦN 2. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HIỂU BIẾT VÀ QUAN ĐIỂM VỀ ĐẦU TƯ MẠO

HIỂM Ở VIỆT NAM

Quý vị vui lòng khoanh tròn vào lựa chọn tương ứng

2.1. Kiến thức chung về đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm

Câu 1. Theo hiểu biết của Quý vị, tại Việt Nam hiện nay đã có quỹ đầu tư mạo hiểm hay

chưa?

B. Không

A. Có

Câu 2. Theo Quý vị, loại quỹ đầu tư mạo hiểm nào đang hoạt động tại Việt Nam đang

chiếm ưu thế?

A. Quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài

B. Quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam

C. Quỹ đầu tư mạo hiểm liên doanh

D. Việt Nam hiện nay chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm nào hoạt động

E. Khác

Câu 3. Theo Quý vị, tỷ lệ thất bại khi đầu tư vào các dự án đầu tư mạo hiểm

A. < 30%

B. 30-50%

C. 50-80%

D. 80-90%

E. Trên 90%

F. Khác

Câu 4. Quỹ đầu tư mạo hiểm ưa thích đầu tư vào lĩnh vực nào sau đây (Có thể chọn

nhiều đáp án)

A. Công ty đã trưởng thành, có doanh thu, lợi nhuận ổn định

B. Công ty nhỏ và vừa mới thành lập, có triển vọng phát triển lớn trong tương lai

C. Công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao, có tiềm năng phát triển

D. Công ty sắp phá sản, giải thể

E. Khác

Câu 5. Quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò gì đối với nền kinh tế (Có thể chọn nhiều đáp án)

A. Cung cấp vốn cho các doanh nghiệp mới thành lập, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao

B. Thúc đẩy các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO)

C. Phát triển lượng lao động chất lượng cao trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm

D. Khác

2.2. Quan điểm của Quý vị về đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam:

Quý vị vui lòng đánh dấu X vào các ô lựa chọn với các mức độ:

209

1.

2.

3.

4.

5. HOÀN TOÀN ĐỒNG Ý

1 2 3 4 5

1 Tiềm năng phát triển, đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam là rất lớn

2 Bạn quan tâm tới các dự án đầu tư mạo hiểm, với mức rủi ro mất vốn

lớn, nhưng hứa hẹn mức sinh lời cao trong tương lai

3 Bạn sẵn sàng đầu tư vào một doanh nghiệp với thời gian lớn hơn 5 năm

4 Bạn sẵn sàng góp vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm do cá nhân hoặc tổ chức

uy tín đứng lên huy động vốn

HOÀN TOÀN KHÔNG ĐỒNG Ý

PHẦN 3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUỸ

ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM

Quý vị vui lòng đánh dấu X vào các ô lựa chọn với các mức độ:

HOÀN TOÀN KHÔNG ĐỒNG Ý

1.

2.

3.

4.

5. HOÀN TOÀN ĐỒNG Ý

3.1. Các nhân tố về chính sách, hành lang pháp lý của chính phủ

Theo Quý vị, các nhân tố sau đối với chính phủ có tác động lớn đến việc hình thành và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm:

1 2 3 4 5

1 Nghiên cứu và ban hành đồng bộ, kịp thời các văn bản pháp luật tạo ra

một hành lang pháp lý đầy đủ, hoàn thiện liên quan đến quỹ đầu tư mạo

hiểm

2 Các quy định pháp luật rõ ràng, đầy đủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho các

nhà đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư mạo hiểm

3 Chính phủ đưa ra các chương trình hỗ trợ phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm

4 Chính sách thuế ưu đãi đối với lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và các quỹ đầu

tư mạo hiểm

5 Chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho đầu tư mạo hiểm ở các cấp độ

giáo dục

3.2. Các nhân tố về giá trị văn hóa, xã hội của nhà đầu tư trong đầu tư, kinh doanh

Theo Quý vị, các nhân tố văn hóa xã hội sau có tác động lớn đến việc hình thành và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm:

1 2 3 4 5

210

doanh

2 Có phẩm chất bền bỉ, nỗ lực không ngừng với dự án của mình

3 Khả năng đánh giá và thích ứng với rủi ro tốt

4 Có năng lực quản lý và nắm bắt được các cơ hội trong đầu tư

1 Tính nhất quán, coi trọng chữ tín của các bên trong quan hệ đầu tư, kinh

3.3. Các nhân tố về năng lực đào tạo, nghiên cứu

Theo Quý vị, các nhân tố năng lực đào tạo, nghiên cứu sau có tác động lớn đến việc hình

thành và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm:

1 2 3 4 5

1 Trường học ở các cấp cần tuyên truyền về ý thức doanh nhân, đầu tư cho

các thế hệ học sinh, sinh viên

2 Giảng viên, nghiên cứu viên tại các cơ sở đào tạo có liên quan cần có

năng lực nghiên cứu, truyền đạt ý tưởng kinh doanh cho sinh viên

3 Nâng tầm hiểu biết và thực thi của người dân về quyền sở hữu trí tuệ

4 Khuyến khích các nhà đầu tư tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao,

mang tính sáng tạo

3.4. Các nhân tố về địa điểm phục vụ đầu tư

Theo Quý vị, các nhân tố về địa điểm đầu tư sau có tác động lớn đến việc hình thành và phát

triển quỹ đầu tư mạo hiểm:

1 2 3 4 5

1 Mạng lưới các loại hình giao thông kết nối các địa điểm đóng vai trò

quan trọng khi quyết định đầu tư tại một địa phương

2 Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng đối với các

doanh nghiệp

3 Các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nhân có vai trò lớn trong việc kết nối

cộng đồng đầu tư mạo hiểm

3.5. Các nhân tố về nguồn lực cho đầu tư mạo hiểm

Theo Quý vị, các nhân tố về nguồn lực sau có tác động lớn đến việc hình thành và phát triển

quỹ đầu tư mạo hiểm:

1 2 3 4 5

1 Các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó tiếp cận vốn vay từ ngân hàng

2 Các doanh nghiệp mới thành lập, nhỏ và vừa có nhu cầu vốn đầu tư mạo

hiểm rất lớn

3 Trình độ lao động trẻ tại Việt Nam chưa đáp ứng được chất lượng cao

trong đầu tư mạo hiểm

4 Các doanh nghiệp lớn, tập đoàn lớn tại Việt Nam chưa đầu tư tương

xứng cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm

5 Nguồn lực của chính phủ Việt Nam dành cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm

nói chung và các quỹ đầu tư mạo hiểm nói riêng còn khiêm tốn

6 Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập qua các năm

7 Tổng số vốn huy động được của các quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm

8 Kết quả đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm qua các năm

211

PHẦN 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT

TRIỂN QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM

Quý vị hãy khoanh tròn vào lựa chọn tương ứng

Câu 1. Theo Quý vị, để xây dựng và phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, cần

thiết có các cơ chế đặc thù cho lĩnh vực này?

A.Có

B.Không

Câu 2. Theo Quý vị, tại giai đoạn hiện nay, mô hình sở hữu quỹ đầu tư mạo hiểm tại

Việt Nam nên là

A.Mô hình hợp danh hữu hạn

B. Mô hình công ty

C. Mô hình tín thác

D. Khác

Câu 3. Theo Quý vị, lĩnh vực nào sau đây cần sự quan tâm đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo

hiểm

A. Xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, bất động sản B. Truyền thông C. Khoa học – đời sống D. Công nghiệp – năng lượng E. Công nghệ cao F. Doanh nghiệp khởi nghiệp G. Khác

212

Câu 4. Năm 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho ra mắt Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc

gia (NIC), theo bạn đây có phải là tiền đề cho sự phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt

Nam trong tương lai?

A. Có

B. Không

Câu 5. Theo Quý vị, cơ quan nào sau đây nên nắm giữ vai trò quản lý các quỹ đầu tư

mạo hiểm ở Việt Nam?

A.Ủy ban chứng khoán Nhà nước

B. Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam

C. Bộ Kế hoạch và Đầu tư

D. Ngân hàng Nhà nước

E. Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

F. Khác

Cảm ơn Quý vị đã dành thời gian trả lời phiếu khảo sát. Kính chúc Quý vị sức khỏe và thành

công.

213

Phụ lục 7. Xu hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới

Trên thế giới, quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và Châu Âu được coi là hai thị

trường phát triển lâu đời nhất, chiếm trên 80% giá trị đầu tư mạo hiểm trên thế giới

(Vanham, 2015) [97]; do đó việc nghiên cứu xu hướng đầu tư của quỹ đầu tư mạo

hiểm tại hai khu vực này mang tính cấp thiết và định hướng chung cho xu hướng của

toàn cầu.

Với sự xuất hiện đầu tiên tại Mỹ, quỹ đầu tư mạo hiểm nhanh chóng lan ra toàn

cầu, trở thành xu hướng đầu tư thu hút được sự quan tâm của công chúng đầu tư. Khi

thị trường vốn đầu tư mạo hiểm đã trưởng thành tại Mỹ, nó bắt đầu xuất hiện, manh

nha phát triển tại Châu Âu (Ahlstrom và các cộng sự, 2007) [15]. Ở cuối những năm

1970, Anh Quốc và Ireland là một trong hai quốc gia đầu tiên tại Châu Âu thu hút các

nhà đầu tư mạo hiểm. Những quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên thông thường được thành

lập trên cơ sở liên kết với các quỹ tại Mỹ, và được hoạt động chủ yếu dựa trên vốn đầu

tư và kinh nghiệm của người Mỹ. Sau đó đến khoảng đầu năm 1980, các quốc gia khác

tại Châu Âu bắt đầu quan tâm đến đầu tư mạo hiểm, và quỹ đầu tư mạo hiểm thường

được thành lập bởi các ngân hàng nội địa lớn. Trên thực tế, giai đoạn đầu phát triển

quỹ đầu tư mạo hiểm tại Châu Âu, mô hình quỹ tương tự như tại Mỹ (Manigart và các

cộng sự, 2002) [73], nhưng có một số điểm khác biệt như môi trường làm việc, luật

đầu tư, thuế điều chỉnh trong đầu tư và quỹ đầu tư mạo hiểm, làm cho thị trường vốn

đầu tư mạo hiểm tại Châu Âu có các bước phát triển khác biệt so với Mỹ.

Số lượng quỹ, giá trị huy động của quỹ đầu tư mạo hiểm

Qua hình 3.1 cho thấy, số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập mới và

huy động vốn thành công tăng trưởng mạnh mẽ qua các năm. Nếu như ở giai đoạn

1996-2003, số lượng quỹ hoàn thành huy động vốn bình quân khoảng 500 quỹ, với giá

trị huy động của quỹ bình quân 130 tỷ USD.

Giai đoạn 2003-2008 chứng kiến sự phát triển nóng của các quỹ đầu tư mạo

hiểm tại hai khu vực này, với số lượng quỹ được thành lập và huy động vốn thành

công tăng không ngừng qua các năm, đạt đỉnh điểm tại năm 2008, với hơn 1000 quỹ

được thành lập mới, giá trị huy động đạt trên 400 tỷ USD. Với ảnh hưởng của cuộc

khủng hoảng toàn cầu năm 2008, làm cho số lượng và giá trị huy động của quỹ đầu tư

214

mạo hiểm giai đoạn 2008-2010 sụt giảm, tuy nhiên đà tăng đã tiếp ngay sau đó, với số

lượng quỹ đạt 1014 vào năm 2014, giá trị đạt hơn 300 tỷ USD.

Hình PL.1. Số lượng và giá trị huy động của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và

Giá trị huy động (Tỷ USD)

Số quỹ hoàn thành huy động vốn (Quỹ mới)

1019

10091001

945

939

908

851 862

830

765

750

706 742

618

603

516

500

418

410

413 408

350

350

310 348 329347

248

209

207

208 173 213 225

137

135 101 74

31 70 107 135

Châu Âu giai đoạn 1996-2016

Nguồn: Statista.com, 2018

Lĩnh vực đầu tư

Trong giai đoạn 2012-2016 chứng kiến sự thay đổi lớn về lĩnh vực đầu tư của

các quỹ đầu tư mạo hiểm tại Mỹ và Châu Âu. Nếu trong năm 2012, lĩnh vực Khoa học

đời sống (Life sciences) chiếm tỷ trọng lớn, chiếm tới 38.7% tại Mỹ (tương ứng giá trị

giải ngân đạt trên 10 tỷ USD); còn tại Châu Âu, con số là 28.4% ~ trên 1 tỷ USD; cũng

trong năm 2012, tại Mỹ, lĩnh vực thứ hai được quan tâm sau lĩnh vực Khoa học đời

sống là Máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng, với giá trị giải ngân đạt trên 6 tỷ USD,

chiếm 25.8% tổng giá trị đầu tư của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm; trong khi tại Châu Âu,

lĩnh vực này đứng thứ ba (chiếm 19%), sau lĩnh vực khác (chiếm 21.8%).

Tuy nhiên, đến năm 2016 có sự dịch chuyển mạnh mẽ của lĩnh vực đầu tư tại cả

hai khu vực này. Đứng top đầu đầu tư tại Mỹ là lĩnh vực Máy tính và thiết bị điện tử

tiêu dùng, chiếm 49.1%, trong khi lĩnh vực Khoa học đời sống chiếm 18%, đứng thứ

ba; đứng top thứ hai thuộc về lĩnh vực Truyền thông (Communications). Tại thị trường

Châu Âu, đứng đầu danh sách đầu tư đã giải ngân của các quỹ đầu tư mạo hiểm là lĩnh

vực Khoa học đời sống (chiếm 31% tổng giá trị giải ngân), tiếp theo là lĩnh vực

Truyền thông (chiếm 21.5%) và các lĩnh vực khác (chiếm 20.1%). Trong khi lĩnh vực

215

Công nghiệp/Năng lượng tại cả hai khu vực đều có tỷ trọng đầu tư thấp nhất, với 4.8%

tại Mỹ và 7.4 tại Châu Âu.

Bảng PL.5. Giá trị giải ngân của các quỹ đầu tư mạo hiểm

tại Mỹ và Châu Âu năm 2012

Lĩnh vực

Mỹ

Châu Âu

Giá trị giải

Tỷ lệ

Giá trị giải ngân

Tỷ lệ

ngân

%

(Triệu USD)

%

(Triệu USD)

Khoa học đời sống (Life sciences)

10.310

38,69 1.164,4

28,4

Máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng

6.870

25,78 779,3

19,0

(Computer & consumer electronics)

Truyền thông (Communications)

4.551

17,08 743,8

18,2

Công nghiệp/Năng lượng

2.792

10,48 512,9

12,5

(Industrial/Energy)

Lĩnh vực khác

2.127

892,7

21,9

7,98

Nguồn: Truebridgecapital.com ( 2017)

Bảng PL.6. Tỷ lệ đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau của quỹ đầu tư mạo hiểm tại

Mỹ và Châu Âu năm 2016

Mỹ (%) Châu Âu (%)

Khoa học đời sống 18 31

Máy tính và thiết bị điện tử tiêu dùng 49,1 20

Truyền thông 19 21,5

Công nghiệp/Năng lượng 4,8 7,4

Lĩnh vực khác 9,1 20,1

Nguồn: Truebridgecapital.com, 2017

Giai đoạn đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm

Trên thị trường vốn đầu tư mạo hiểm trên thế giới, Mỹ là khu vực đứng đầu

trong việc rót vốn đầu tư trong các giai đoạn của quy trình đầu tư mạo hiểm. Ở giai

đoạn ban đầu (Start-up), giai đoạn 2010-2016 chứng kiến giá trị đầu tư giảm dần ở hầu

hết các khu vực, tuy nhiên Mỹ vẫn là khu vực có giá trị đầu tư cao nhất. Giá trị đầu tư

vào giai đoạn này tại Mỹ vào năm 2010 là 308 triệu USD, sau đó tăng lên đến 593

216

triệu USD vào năm sau đó, trước khi chứng kiến đà sụt giảm ở các năm 2012 trở đi,

đến cuối giai đoạn, giá trị đầu tư chỉ còn 216 triệu USD vào năm 2016. Đối với thị

trường Châu Âu, năm 2011 và 2013 là hai năm có giá trị đầu tư vào giai đoạn Start-up

cao nhất, với giá trị tương ứng 115 triệu USD và 120 triệu USD. Tuy nhiên cùng với

sự sụt giảm giá trị vốn đầu tư mạo hiểm toàn cầu, đến năm 2015 chỉ còn 34 triệu USD

và năm 2016 là 12 triệu USD.

Tại các khu vực khác như Trung Quốc, Ấn Độ hay Israel cũng có xu hướng đầu

tư tương tự, cá biệt tại Ấn Độ vào năm 2015, không có đồng vốn đầu tư mạo hiểm nào

rót vào giai đoạn Start-up, trong khi tại Trung Quốc là 14 triệu USD, tại Israel là 4

triệu USD.

Bảng PL.7. Giá trị đầu tư vào giai đoạn Start-up

Giá trị đầu tư vào giai đoạn Start-up (Triệu USD)

Năm Mỹ Châu Âu Trung Quốc Israel Ấn Độ

2010 308

46

40

21

12

2011 593

115

14

24

2

2012 334

61

53

20

1

2013 474

69

38

3

82

2014 429

120

21

3

17

2015 243

34

14

4

0

2016 216

12

12

4

1

Nguồn: Down Jones VentureSource, 2017

Đối với giai đoạn phát triển sản phẩm, tức trong giai đoạn hoàn thiện, quảng bá

để đưa vào sản xuất thương mại, giá trị đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm đạt các

con số vượt trội hơn hẳn ở giai đoạn ban đầu. Cụ thể tại Mỹ năm 2010 giá trị đầu tư

đạt hơn 3 tỷ USD, sau đó giảm dần ở các năm tiếp theo, đến năm 2016 đạt trên 1,5 tỷ

USD. Tương tự, ở Châu Âu và các quốc gia khác cũng chứng kiến đà sụt giảm giá trị

đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm vào giai đoạn phát triển sản phẩm qua các năm. Đỉnh

điểm tại Châu Âu, giá trị đạt 785 triệu USD, trong khi ở Trung Quốc là 47 triệu USD,

Israel đạt 409 triệu USD và tại Ấn Độ là 44 triệu USD. Các năm tiếp theo, giá trị đầu

tư tại các quốc gia có sự khác biệt, tuy nhiên có thể dễ nhận thấy qua bảng 3.69; Mỹ

vẫn là quốc gia có giá trị đầu tư vào giai đoạn phát triển sản phẩm lớn nhất, tiếp sau đó

là Châu Âu, Trung Quốc và Israel.

217

44 743 15 15 4 12 50

785 564 779 484 367 223 423

47 190 107 187 221 51 38

Bảng PL.8. Giá trị đầu tư vào giai đoạn phát triển sản phẩm

Giá trị đầu tư vào gia đoạn phát triển sản phẩm (Triệu USD) Israel Ấn Độ Châu Âu Trung Quốc Năm Mỹ 409 3152 2010 106 2818 2011 62 1705 2012 41 1782 2013 20 1672 2014 57 1861 2015 72 1584 2016 Nguồn: Nguồn: Down Jones VentureSource, 2017

Để đi vào cụ thể hơn từng giai đoạn đầu tư tại hai khu vực Châu Âu và Mỹ, ta

quan sát Bảng PL.9.

Bảng PL.9. Số lượng và giá trị các dự án đầu tư mạo hiểm tại Châu Âu

Số lượng dự án đầu tư tại Châu Âu các giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

hạt giống

đầu

tiếp theo

sau

tái khởi dộng

2013 (Q3+4)

145

153

131

448

0

2014

159

299

261

857

1

2015

159

333

337

894

3

2016 (Q1+Q2+Q3)

101

286

235

688

1

Giá trị dự án đầu tư tại Châu Âu các giai đoạn (Triệu Euro)

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

hạt giống

đầu

tiếp theo

sau

tái khởi dộng

2013 (Q3+4)

57

1022

1117

1457

0

2014

95

2031

1767

3500

1

2015

96

2879

2543

7410

3

2016 (Q1+Q2+Q3)

104

2110

1863

3556

2

Nguồn: Business Insider, 2017

218

Với cách phân chia các giai đoạn đầu tư của quỹ đầu tư mạo hiểm thành giai

đoạn hạt giống (Seed), Bắt đầu (First); Giai đoạn tiếp theo (Second); Giai đoạn sau

(Later) và Tái khởi động (Restart). Dễ nhận thấy tại Châu Âu, giai đoạn đầu tiên, tức

sau khi giai đoạn hạt giống được đầu tư, thì giai đoạn bắt đầu được các quỹ đầu tư mạo

hiểm quan tâm nhất, với số lượng các dự án luôn đứng đầu, tăng liên tục về số lượng

qua giai đoạn 2013-2016. Bên cạnh đó, tương ứng như vậy giá trị cũng tăng theo; nếu

như chỉ tính riêng Quý 2+3 năm 2013 có hơn 1 tỷ Euro đầu tư vào giai đoạn này, thì

đến ba quý đầu năm 2016 giá trị đã tăng vượt 2 tỷ Euro. Cá biệt có giai đoạn tái khởi

động lại các dự án đầu tư mạo hiểm nhận được ít sự quan tâm của các nhà đầu tư mạo

hiểm, với số lượng dự án đạt rất thấp, có một dự án năm 2014 và 2016, ba dự án năm

2015, tương ứng như vậy giá trị cũng chỉ đạt dưới 3 triệu Euro cho các năm tương ứng.

Bảng PL.10. Số lượng và giá trị các dự án đầu tư mạo hiểm tại Mỹ

Số lượng dự án đầu tư tại Mỹ các giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

hạt giống

đầu

tiếp theo

sau

tái khởi dộng

2013 (Q4)

109

402

217

275

10

2014

397

1507

834

1276

32

2015

292

1497

932

1348

17

2016

187

1299

817

1211

14

Giá trị dự án đầu tư tại Mỹ các giai đoạn (Tỷ USD)

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

hạt giống

đầu

tiếp theo

sau

tái khởi dộng

2013 (Q4)

0.1

2.16

1.95

5.19

0.1

2014

0.39

9.29

9.75

36.4

0.71

2015

0.33

10.42

12.56

48.99

0.22

2016

0.24

8.56

9.06

27.55

0.6

Nguồn: Business Insider

Tại thị trường Mỹ, giai đoạn Bắt đầu cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các

giai đoạn khác trong các giai đoạn đầu tư mạo hiểm, với các con số từ 402 dự án trong

quý 4/2013, lên đến 1299 dự án trong năm 2016. Giá trị của các thương vụ đầu tư mạo

hiểm giai đoạn Bắt đầu cũng tăng rõ rệt, với 2,16 tỷ USD trong quý 4/2013, lên đỉnh

điểm 10,42 tỷ USD trong năm 2015, trước khi hạ xuống còn 8,56 tỷ USD trong năm

219

2016. Điều đặc biệt đối với thị trường Mỹ so với Châu Âu, đó là giai đoạn sau (Later)

của các giai đoạn trong đầu tư mạo hiểm chiếm tỷ trọng lớn, với trên 1000 dự án qua

các năm (năm 2014: 1276 dự án; năm 2015: 1348 dự án; năm 2016: 1211 dự án).

Tương ứng với số lượng dự án như vậy, giá trị của các thương vụ đầu tư luôn đạt các

con số ấn tượng hơn hẳn các giai đoạn khác; với năm 2014 đạt 36,4 tỷ USD; năm 2015

đạt 48,99 tỷ USD và năm 2016 đạt 27,55 tỷ USD.

Thời gian đầu tư bình quân và phương thức thoái vốn

Đối với quy trình đầu tư mạo hiểm, thời gian đầu tư và cách thức thoái vốn

đóng vai trò rất quan trọng, nó liên quan đến chiến lược đầu tư của từng quỹ trong

từng thời kỳ, khu vực nhất định.

Bảng PL.11. Số năm đầu tư bình quân, và cách thức thoái vốn của các quỹ đầu tư

mạo hiểm

Năm

Mỹ

Châu Âu Trung Quốc

IPO M&A IPO M&A IPO M&A

2010

6.8

6.5

6.4

6.5

1.8

3.5

2011

8.7

5.8

8.1

6.7

3.8

3.7

2012

7.9

5.5 N/A

5.5

2.3

3.4

2013

8

5.3

3.8

5.7

2.6

3.8

2014

6.4

5.3

9.2

5.5

2.5

4.1

2015

7.3

5.2

6.2

5.9

2.4

4.4

2016

6.8

5

6.3

6.3

3.9

3.5

7.4

Bình quân

5.5

6.7

6.0

2.8

3.8

Nguồn: Preqin.com, 2017

Như vậy, bình quân số năm đầu tư trước khi thoái vốn tại Châu Âu và Mỹ trong

giai đoạn 2010-2016 không có sự chênh lệch đáng kể, với mức 7,4 năm (tại Mỹ) và 6,7

năm (tại Châu Âu) thông qua kênh thoái vốn IPO; đối với kênh mua bán sáp nhập

(M&A) tại Mỹ bình quân 5,5 năm, Châu Âu là 6,0 năm. Đối với thị trường Trung

Quốc, số năm thoái vốn bình quân tương ứng là 2,8 năm và 3,8 năm.