HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRƯƠNG THỊ NHƯ
XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRƯƠNG THỊ NHƯ
XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 931 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS. Vũ Văn Thuấn
2. TS. Lê Thị Thu Hồng
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và đã được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Trương Thị Như
MỤC LỤC
Trang 1 7 7
MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 1.2. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tục
nghiên cứu
26
30 30 37 67
82 82 97
Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. Các khái niệm cơ bản 2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội học tập 2.3. Hồ Chí Minh xây dựng xã hội học tập Chương 3: XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Những nhân tố tác động đến xây dựng xã hội học tập ở Hải Phòng 3.2. Thực trạng xây dựng xã hội học tập ở Hải Phòng 3.3. Đánh giá thực trạng xây dựng xã hội học tập và những vấn đề đặt ra
đối với Hải Phòng
116
123
Chương 4: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 4.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xây dựng xã hội
học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
123
4.2. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp giữa các sở,
ban, ngành, các tổ chức, đoàn thể trong xây dựng xã hội học tập
125
131
4.3. Phát triển hệ thống giáo dục suốt đời theo hướng đi vào thực chất, hoàn thành phổ cập giáo dục, tiếp tục mở rộng cơ hội học tập cho người dân 4.4. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập từ cơ sở thông qua khuyến học,
khuyến tài
142
4.5. Xây dựng và thúc đẩy văn hóa học tập, nâng cao chất lượng học tập suốt
đời cho người dân
144
4.6. Tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm xây dựng xã hội học tập của các nước, tiến tới tham gia mạng lưới thành phố học tập toàn cầu
148 155
KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
158 159 172
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Bình dân học vụ BDHV
Bổ túc văn hóa BTVH
Cộng đồng khuyến học CĐKH
Dòng họ hiếu học DHHH
Giáo dục nghề nghiệp GDNN
Giáo dục thường xuyên GDTX
Gia đình hiếu học GĐHH
Khuyến học, khuyến tài KH, KT
Trung học cơ sở THCS
Trung học phổ thông THPT
TPHT Thành phố học tập
TTHTCĐ Trung tâm Học tập cộng đồng
UBND Ủy ban nhân dân
XHHT Xã hội học tập
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ kiệt xuất của Đảng và của dân tộc Việt
Nam. UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà
văn hóa kiệt xuất bởi những cống hiến to lớn của Người cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc cũng như những đóng góp về văn hóa, giáo dục cho dân tộc và
nhân loại. Trong những đóng góp vĩ đại đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
nói chung và xây dựng XHHT nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng, có giá trị
sâu sắc trong xây dựng XHHT ở nước ta hiện nay.
Từ sau khi nước nhà giành được độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng bước xây dựng nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam cho tất cả mọi
người, hướng tới một xã hội “ai cũng được học hành”. Người khẳng định một
cách nhất quán: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [94, tr.187]. Ham muốn đó vừa là
niềm mong mỏi, vừa là mục tiêu, vừa là chỉ đạo quan trọng của Hồ Chí Minh về
xây dựng XHHT. Quan điểm này được phát triển mạnh mẽ và liên tục từ sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945; được cụ thể hóa bằng các chủ trương giáo
dục như BDHV, BTVH, phổ cập giáo dục tiểu học và ngày nay đang tiến tới phổ
cập giáo dục trung học cơ sở cho toàn dân. Từng bước thực hiện điều đó, cũng là
từng bước hiện thực hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội “ai cũng
được học hành”.
Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT
càng thấy được rằng, tư tưởng của Người đã bắt gặp, thậm chí đi trước thời đại
trong quan niệm về xu thế phát triển giáo dục, nội dung, chương trình cũng như
mô hình giáo dục tiếp tục. Ngày nay, xu thế giáo dục mà nhiều thành phố lớn
trên thế giới đang hướng tới là xây dựng TPHT, các quốc gia đang hướng tới là
xây dựng quốc gia học tập, xã hội tiến tới là xây dựng XHHT. Mục đích của
XHHT là làm cho mọi người đều thấy cần phải học, và học suốt đời, xem học
2
tập là một nhu cầu của cuộc sống, như cơm ăn, áo mặc hàng ngày. Hồ Chí Minh
từng khẳng định: việc học không bao giờ cùng, càng tiến bộ càng thấy phải học
thêm. Đó là một thực tế. Xã hội ngày càng phát triển, tri thức chúng ta có được
không thể chỉ học một lần là sử dụng mãi mãi. Trong xã hội ngày nay, tri thức đã
trở thành “chìa khóa vạn năng” và sự thua kém, tụt hậu về tri thức sẽ tạo ra
khoảng cách phát triển giữa người này với người khác, giữa vùng này với vùng
khác, quốc gia này với quốc gia khác. Điều chúng ta thêm tự hào và cảm phục
chính ở tầm nhìn của Hồ Chí Minh về vấn đề này. Bản thân mỗi cá nhân cũng
như toàn xã hội phải luôn chủ động trang bị tri thức, học và học suốt đời, học
mãi để tiến bộ mãi, học để rút ngắn khoảng cách phát triển với các quốc gia khác
và “sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Đối với dân tộc Việt Nam, chúng ta tự hào là một quốc gia văn hiến.
Người dân đất Việt mang trong mình truyền thống ham học hỏi, luôn lấy sự học
làm điều căn bản để thực hiện đạo lý làm người, “nhân bất học bất tri lý”. Cũng
vì thế, trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, dù lịch sử có thăng
trầm nhưng giáo dục vẫn luôn được coi trọng. Trong giai đoạn hiện nay, Việt
Nam đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, thành tựu gần 35 năm đổi mới đang làm thay đổi diện mạo đất
nước từng ngày. Đảng ta cũng khẳng định rất rõ vai trò quốc sách hàng đầu của
giáo dục đào tạo và tầm quan trọng của việc xây dựng XHHT. Từ năm 2001,
Đảng ta lần đầu tiên sử dụng cụm từ XHHT. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ: “Đẩy mạnh phong trào
học tập trong nhân dân bằng hình thức chính quy và không chính quy, thực hiện
giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập” [36, tr.35]. Từ đó
đến nay, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn kiên định chủ trương xây dựng cả
nước trở thành một XHHT. Ngày 09/01/2013, Thủ tướng Chính phủ chính thức
phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” nhằm hướng
tới xây dựng mô hình XHHT ở Việt Nam. Đến Đại hội XII (2016), Đảng tiếp tục
nhấn mạnh: “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo
dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” [39, tr.116]. Như vậy,
3
Đảng và Nhà nước ta cũng nhận thức rất rõ tầm quan trọng của việc xây dựng
XHHT và kịp thời đề ra các chủ trương, chính sách, giải pháp xây dựng XHHT.
Có thể nói, xây dựng XHHT là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong
sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đáp ứng đúng xu thế thời đại và sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong dòng chảy chung của dân tộc và nhân loại, Hải Phòng là địa
phương luôn xác định vai trò to lớn của công tác giáo dục - đào tạo, KH, KT,
xây dựng XHHT. Là một thành phố cảng quan trọng, trung tâm công nghiệp,
đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ
của vùng Bắc Bộ, Hải Phòng đã và đang cùng các địa phương khác tiến hành
xây dựng XHHT nhằm mang lại lợi quyền cao nhất cho người dân trong việc
tiếp cận tri thức và hưởng thụ giáo dục. Điều này càng có ý nghĩa khi thời gian
gần đây, Hải Phòng có những chính sách rất nhân văn trong phát triển giáo dục,
chính thức miễn học phí cho tất cả các bậc học kể từ năm học 2020 - 2021. Đây
chính là sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT ở Việt
Nam nói chung và ở Hải Phòng nói riêng.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài Xây dựng xã hội học
tập ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh làm luận án tiến sĩ,
ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng XHHT; đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng, chỉ ra
nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng XHHT ở Hải Phòng
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án xác định những nhiệm vụ chủ yếu
sau đây:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra những
vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
4
- Nêu lên một số khái niệm cơ bản có liên quan để định hướng vấn đề
nghiên cứu.
- Hệ thống hóa, khái quát hóa nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng XHHT.
- Đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng, chỉ ra những thành
tựu, hạn chế, nguyên nhân thành tựu hạn chế và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT, thực trạng và những
giải pháp xây dựng XHHT ở Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT và quá trình
vận dụng, triển khai xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay. Do vấn đề có nội
dung rất rộng nên luận án tập trung nghiên cứu thực trạng xây dựng XHHT ở
Hải Phòng theo kết quả triển khai Đề án xây dựng XHHT tại thành phố Hải
Phòng, có sự tham chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Về không gian: Thành phố Hải Phòng.
- Về thời gian: Tác giả nghiên cứu vấn đề từ năm 2013 đến năm 2019.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận án
có đề cập đến thời gian trước và sau giai đoạn trên.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng về giáo dục - đào tạo nói chung và
xây dựng XHHT nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án tuân thủ phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình triển khai, luận án còn
5
sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và chuyên
ngành như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Để phục vụ cho đề tài luận án, tác giả
tiến hành tập hợp và phân tích một số nguồn tài liệu sau:
+ Những bài nói, bài viết, tác phẩm của Hồ Chí Minh liên quan đến chủ
đề nghiên cứu, tập trung trong các công trình: Hồ Chí Minh Toàn tập, Hồ Chí
Minh Biên niên tiểu sử, Bách khoa thư Hồ Chí Minh sơ giản…
+ Những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh nhằm chỉ đạo xây dựng
XHHT.
+ Những công trình nghiên cứu tiêu biểu, có giá trị của các cá nhân, nhóm
tác giả liên quan đến chủ đề.
- Phương pháp logic, lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp hệ thống hóa, khái quát hóa...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa lý luận
- Góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
XHHT, từ đó khẳng định thêm vai trò và những cống hiến to lớn của Hồ Chí
Minh đối với nền giáo dục Việt Nam nói chung và xây dựng XHHT nói riêng.
- Góp phần nghiên cứu có hệ thống những luận điểm của Hồ Chí Minh về
xây dựng XHHT như tầm quan trọng của xây dựng XHHT, nội dung, hình thức,
đối tượng, phương pháp xây dựng XHHT…
- Cung cấp các cứ liệu, luận chứng tin cậy để có thể tiếp tục nghiên cứu
chuyên sâu về tư tưởng Hồ Chí Minh.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT có ý nghĩa
vô cùng sâu sắc trong thực tiễn chỉ đạo và xây dựng TPHT, tiến tới XHHT ở Hải
Phòng hiện nay, làm cho tư tưởng của Người luôn sống mãi với nhân dân thành
6
phố Cảng. Các giải pháp luận án đề xuất mang tính khả thi nhằm xây dựng
XHHT ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy và học tập ở các học viện, các nhà trường, các ban ngành trên
cả nước.
6. Những đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình khoa học nghiên cứu có hệ thống về xây dựng
XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh với những điểm mới sau đây:
- Đưa ra được khái niệm “xã hội học tập”, “xây dựng xã hội học tập”, “tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội học tập”.
- Phân tích được những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng XHHT.
- Đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng, chỉ ra thành tựu, hạn
chế và nguyên nhân, nêu rõ những vấn đề đặt ra đối với xây dựng XHHT ở Hải
Phòng hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp xây dựng XHHT ở Hải Phòng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được kết cấu thành 4 chương, 14 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về xã hội học tập
XHHT là một khái niệm được bàn luận nhiều năm gần đây. Tìm kiếm từ
khóa này trên các trang mạng xã hội, không quá khó để thấy được rất nhiều kết
quả. Cụm từ này đã trở thành mục tiêu trong Chiến lược phát triển giáo dục của
nước ta trong thế kỷ XXI.
Trên thế giới, cuộc thảo luận về khái niệm XHHT bắt đầu từ năm 1972
khi mà Edgarl Faure, cựu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Bộ trưởng Bộ Giáo
dục Pháp, đứng đầu Ủy ban Quốc tế về phát triển giáo dục thế kỷ XXI của
UNESCO cho xuất bản cuốn “Học để tồn tại”. Lần đầu tiên, thuật ngữ XHHT
(Learning society) xuất hiện trong cuốn sách này, như là trở thành xu thế cho
nền giáo dục nhân loại thế kỷ mới. Edgarl Faure cho rằng: Nếu học tập là việc
động chạm đến suốt đời con người, cả theo nghĩa thời gian cả theo nghĩa đa dạng
và đối với mọi người trong xã hội, kể cả các nguồn lực xã hội, kinh tế và giáo
dục, khi đó chúng ta phải đi xa hơn việc tháo dỡ tất cả các hệ thống giáo dục cho
đến khi nào đạt được tình trạng của một XHHT. Như vậy, XHHT là mọi người
học suốt đời, trong nhà trường và ngoài nhà trường.
Trước Edgarl Faure, từ những năm 60 của thế kỷ XX, ý tưởng về XHHT
cũng được nhiều nhà giáo dục đưa ra. Lúc đầu, người ta mới chỉ muốn tìm cách
canh tân giáo dục, phải làm thế nào để có một thiết chế giáo dục mới để khắc
phục tình trạng khủng hoảng của giáo dục trong nhà trường khép kín. Nghĩa là
phải có một nền giáo dục cởi mở hơn, hạn chế sự giáo dục bó hẹp với những
thiết chế chặt chẽ trong nhà trường chỉ dành cho một số đối tượng có điều kiện
nhất định mà chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của quảng đại quần chúng. Vì
vậy, phải xây dựng một nền giáo dục đại chúng với thiết chế mở. Từ đó, các nhà
giáo dục tiếp cận ý tưởng về một XHHT. Ý tưởng này được Donald Schon (tiến
sĩ người Mỹ) ba lần đề cập vào các năm 1963, 1967, 1973. Donald Schon cho
8
rằng xã hội sẽ có nhiều biến đổi, do đó nhu cầu học tập sẽ ngày càng tăng, sẽ
không còn tình hình ổn định lâu dài nữa. Con người sẽ phải học để hiểu, để tác
động, để điều hành các chuyển đổi đó. Khi ấy, năng lực học tập phải trở thành
thuộc tính của mỗi người, ai cũng phải biết học suốt đời một cách thành thục.
Hơn thế nữa, các thiết chế muốn luôn luôn chuyển đổi cũng phải học tập theo.
Donald Schon đã có đóng góp lớn lao là đưa ra ý tưởng: các công ty, các phong
trào xã hội và chính quyền đều phải là “các hệ thống học tập”, và từ đó ông đưa
ra luận điểm quan trọng về “tổ chức học tập”.
Năm 1968, trong một cuốn sách của mình, nhà giáo dục người Mỹ Robert
M.Hutchins (từng làm hiệu trưởng trường Đại học Chicago) cũng đã khẳng định
sự cần thiết tiến tới một XHHT với hai lý do: 1) Do sự phát triển của khoa học
và công nghệ, sức lao động được giải phóng, con người sẽ có nhiều thời gian để
nghỉ ngơi hơn và 2) Thế giới biến đổi nhanh đòi hỏi con người cần có tri thức để
đáp ứng được những thay đổi đó. Ông quan niệm học tập là hồn của biến đổi.
Huchin quay lại tư tưởng cổ đại là, không phải chỉ học vài giờ trong ngày ở một
chỗ nào đó như lớp học mà học tập là mục tiêu của xã hội. Đúng như V.I.Lênin
đã tổng kết: Giáo dục là một phạm trù lịch sử của loài người; loài người cùng tồn
tại với phạm trù học tập - truyền thụ kinh nghiệm, tri thức từ người này sang
người kia, từ thế hệ này sang thế hệ kia...
Turten Husen là một trong những học giả đầu tiên cho rằng: tiến bộ kỹ
thuật là một yếu tố quan trọng dẫn đến khái niệm XHHT, nhất là từ những năm
40 của thế kỷ XX khi bắt đầu có phát minh điện tử hóa, rồi vi điện tử vào những
năm 70 và mạng internet những năm 90, tạo ra cuộc cách mạng công nghệ toàn
cầu. Nhờ công nghệ này mà có một sự bùng nổ tri thức, sự sản sinh tri thức rất
nhanh được gọi là “công nghệ tri thức”, trong đó có cả vấn đề truyền bá tri thức,
truyền bá công nghệ đòi hỏi mọi người phải học liên tục. Ở phương Tây, quá
trình này diễn ra mạnh mẽ từ những năm 1960 và được gọi là cách mạng hóa
quá trình thông báo tri thức. Sau đó, người ta đã đưa ý tưởng này gắn với ý
tưởng học suốt đời, học liên tục, học không chính quy, học cho tất cả mọi người.
Qua giáo dục thực hiện các xu thế nổi bật của thời đại: công nghệ, văn hóa, dân
9
chủ và quyền con người trong thế giới toàn cầu hóa, đi vào kinh tế tri thức. Và
như vậy sẽ đạt đỉnh cao mới trong quá trình dân chủ hóa giáo dục.
Như vậy, XHHT là một xu thế mới trong phát triển của loài người ở thời
kỳ hậu công nghiệp mà có người còn gọi là hậu hiện đại. Đó là đòi hỏi của cách
mạng công nghệ và phát triển kinh tế, và cũng là đòi hỏi mới của sự phát triển
con người bền vững trong thế kỷ mới.
Rõ ràng, xây dựng XHHT đã và đang trở thành xu thế tất yếu của các
quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu về XHHT thu hút
nhiều tác giả với nhiều công trình nghiên cứu.
Nghiên cứu XHHT xét từ góc độ xu thế cho sự phát triển giáo dục của các
quốc gia hiện nay có khá nhiều công trình. Cuốn Phát triển giáo dục hướng tới
một xã hội học tập [26] của tác giả Phạm Tất Dong đã chỉ rõ sự phát triển nền
kinh tế tri thức và yêu cầu tất yếu xây dựng XHHT ở Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; những vấn đề cơ bản về nội dung và cấu
trúc của XHHT, tình hình phát triển giáo dục qua các giai đoạn 2000 - 2010 và
2011 - 2020 nhằm đổi mới toàn diện nền giáo dục theo hướng xây dựng XHHT
ở Việt Nam. Quan điểm này của tác giả tiếp tục được thể hiện trong bài viết
“Xây dựng xã hội học tập - một xu hướng đổi mới phát triển của giáo dục thế kỷ
XXI” [30]. Bài viết nhấn mạnh sự bùng nổ thông tin và việc sản xuất ra những tri
thức mới, những công nghệ mới cho thấy những kiến thức tiếp thu trong hệ
thống giáo dục ban đầu không thể sử dụng suốt đời, học vấn phổ thông không
còn giúp con người đi thẳng vào lao động sản xuất. Con người cần biết cách học
xử lý thông tin thành tri thức và phải học suốt đời trong một XHHT. Do đó,
XHHT chính là nội dung cốt lõi trong chủ trương đổi mới giáo dục ở nước ta.
Chúng ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối
cảnh một thế giới luôn biến động, một xã hội thông tin đang bùng nổ và một thời
đại mà tiến bộ khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão. Khái niệm tốt
nghiệp một chương trình đào tạo nào đó với những kiến thức và kỹ năng có
được, cứ thế mà lao động suốt đời đã không còn phù hợp. Từ thực tiễn đó, tác
giả Nguyễn Minh Đường khẳng định trong bài viết “Xây dựng một xã hội học
10
tập - yêu cầu tất yếu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
[43]: Mọi người đều phải học, mọi loại hình lao động đều phải học, mọi lứa tuổi
đều phải học và phải học thường xuyên, học suốt đời, học bằng nhiều hình thức.
Nói cách khác, phải hình thành một XHHT (learning society).
Cũng từ góc độ tiếp cận XHHT là xu thế trong nền kinh tế tri thức, cuốn
Đổi mới và phát triển giáo dục hướng tới xây dựng cả nước trở thành một xã hội
học tập [22] đã nêu bật xu thế đó. Sách dẫn lời của Jin Yang - chuyên gia
chương trình cao cấp, Viện học tập suốt đời thuộc UNESCO: “Ngày nay chúng
ta đang sống trong một xã hội đầy biến động và thay đổi nhanh chóng. Mỗi cá
nhân không thể đáp ứng được các thách thức của cuộc sống nếu như không biến
mình thành một người học suốt đời, và một xã hội sẽ không bền vững nếu không
trở thành một xã hội học tập” [22, tr.53-54]. Từ đó, tác giả đi đến khẳng định:
Xây dựng XHHT là xu thế tất yếu trước yêu cầu mới của thời đại - thời đại phát
triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt công nghệ thông
tin, thời đại của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập, của nền kinh tế tri thức.
Cuốn sách của tác giả Nguyễn Kỳ Mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội
học tập [72] tiếp tục nghiên cứu về XHHT với tính chất là một mô hình giáo dục
mở. Trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập đến vấn đề XHHT như là một xu thế
tất yếu của thế kỷ XXI, điều mà tất cả các quốc gia cần và tiếp tục hướng tới.
Bằng những lập luận và luận chứng, tác giả khái quát về quan niệm XHHT, vai
trò của XHHT và mô hình XHHT ở một số nước tiên tiến. Từ đó, tác giả khẳng
định giáo dục Việt Nam cần nhanh chóng đổi mới theo mô hình này.
Ngày nay, tất cả chúng ta đều nhận thức rõ vai trò thiết yếu của giáo dục
và học tập trong phát triển kinh tế, xã hội và con người. Để duy trì và cạnh tranh
trong nền kinh tế toàn cầu, mọi người đều cần phải liên tục học tập những kỹ
năng mới, nâng cao trình độ chuyên môn và phát triển năng lực. Nhận thức được
điều đó, một diễn đàn quốc tế: “Diễn đàn Việt Nam: Học tập suốt đời - Xây
dựng xã hội học tập” tại Hà Nội, từ ngày 06 đến 08 tháng 12 năm 2010 do
Chính phủ Việt Nam, Hiệp hội nghiên cứu học tập suốt đời của ASEM và
UNESCO tổ chức. Với sự tham gia chủ trì của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện
11
Nhân, Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia xây dựng XHHT, Diễn đàn đã quy tụ gần
400 nhà hoạch định chính sách chủ chốt, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà
giáo dục hàng đầu đến từ nhiều nước trên thế giới. Cuốn kỷ yếu “Diễn đàn Việt
Nam: Học tập suốt đời - Xây dựng xã hội học tập”[32] tập hợp 37 bài viết của
45 nhà nghiên cứu và chuyên gia giáo dục đến từ 17 quốc gia ASEM được trình
bày tại Diễn đàn. Những vấn đề của giáo dục, xây dựng XHHT và học tập suốt
đời được mổ xẻ, phân tích. Thông qua đó, các tác giả bày tỏ quan điểm về tính
tất yếu phải xây dựng XHHT, mô hình xây dựng XHHT và chia sẻ kinh nghiệm
xây dựng XHHT ở nhiều nước, đồng thời chỉ ra hướng đi cho giáo dục Việt
Nam trong dòng chảy chung của thế giới.
Tiếp cận XHHT nhìn từ góc độ tầm quan trọng của việc đổi mới giáo dục
theo hướng xây dựng XHHT được khá nhiều tác phẩm đề cập đến bởi xét đến
cùng, xây dựng XHHT cũng nằm trong chiến lược phát triển giáo dục của đất
nước. Cuốn Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam [53] đã phần nhiều đề cập đến
vấn đề này. Trong cuốn sách, tác giả đã dày công tập hợp các báo cáo khoa học
và bài nói tập trung làm sáng tỏ các vấn đề về vị trí của giáo dục đối với ba cuộc
cách mạng đang tiến hành ở Việt Nam; đối tượng của giáo dục và khoa học giáo
dục; tính chất và nhiệm vụ của nhà trường phổ thông; phát triển giáo dục và xây
dựng khoa học giáo dục... Bài viết “Xây dựng xã hội học tập - một cuộc cách
mạng về giáo dục” của tác giả Phạm Tất Dong [30] tiếp tục nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc xây dựng XHHT. Những thành tựu đạt được trong 50 năm của
nền quốc học nhân dân ở Việt Nam, trong đó có liên quan tới xây dựng XHHT
như việc xoá nạn mù chữ, chống chính sách ngu dân, các cuộc cải cách giáo
dục; vấn đề văn hoá và giáo dục nhân cách văn hoá là nội dung cơ bản được
đề cập trong Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã
hội - kinh tế [50].
Đề cập đến nội dung cải cách giáo dục theo hướng xây dựng XHHT có
hai công trình của tác giả Nghiêm Đình Vỳ được nhà xuất bản Chính trị quốc gia
phát hành. Đó là cuốn Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, đồng tác giả với
Nguyễn Đắc Hưng [159] và Cải cách giáo dục: Một số vấn đề chung và thực
12
tiễn ở Việt Nam, đồng tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến [158]. Điểm chung của hai
công trình này là đều nghiên cứu về vấn đề cải cách giáo dục: Các định hướng
toàn cầu trong thế kỷ XXI, tiến trình cải cách của một số nước trên thế giới, rút
ra kinh nghiệm, bài học cho Việt Nam; đồng thời tìm hiểu về quá trình cải cách
giáo dục ở Việt Nam, đường lối phát triển giáo dục của Đảng, một số vấn đề lý
luận và tổ chức thực hiện đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện theo hướng xây
dựng XHHT suốt đời ở Việt Nam. Đây là nguồn tài liệu tham khảo rất cần thiết
cho công tác nghiên cứu giáo dục.
Xây dựng XHHT là một trong những biện pháp quan trọng nhằm cải cách
giáo dục hiện nay. Đặt giáo dục Việt Nam trước những yêu cầu và thách thức
của thế kỷ XXI để thấy được tính tất yếu phải đổi mới là nội dung cơ bản của
sách Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI [48]. Những vấn đề nổi
bật của giáo dục Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI được đề cập tới như: tính chất
giáo dục và nguyên lý giáo dục; hệ thống giáo dục; cải cách, đổi mới, chấn hưng
giáo dục; vấn đề giáo dục mầm non, tiểu học, trung học, đại học, xoá mù chữ và
giáo dục cho mọi người - những nội dung rất gần với XHHT. Thông qua đó, tác
giả đưa ra các phương hướng phát triển giáo dục ở nước ta.
Nội dung này cũng được trình bày trong cuốn Mấy vấn đề lý luận và thực
tiễn của đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo Nghị quyết TW XI, tác
giả Phạm Tất Dong [28]. Nghị quyết Trung ương XI (Nghị quyết số 29) của
Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục
nước ta. Nền giáo dục mới phải có thiết chế giáo dục với đủ các hình thức giáo
dục cho bất cứ lứa tuổi nào, cho bất cứ trình độ học vấn và trình độ nghề nghiệp
nào, thực hiện dạy và học trong bất cứ không gian và thời gian nào. Việc giáo
dục thực hiện theo đúng tinh thần “giáo dục của dân, do dân, vì dân”, ai cũng
được học hành, không ai bị thải loại ra khỏi giáo dục và không ai bị thất bại
trong giáo dục học đường. Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả khẳng
định một xã hội có được hệ thống giáo dục như vậy chính là XHHT. Xây dựng
XHHT chính là góp phần thực hiện lý tưởng cao đẹp của nhân loại thế kỷ XXI.
Vấn đề tiếp theo của XHHT mà khá nhiều công trình quan tâm nghiên
13
cứu là nội dung, cấu trúc cũng như thành tố cấu thành XHHT. Cuốn sách Xây
dựng con người, xây dựng xã hội học tập [29] đã trình bày khá cụ thể những vấn
đề cốt lõi để xây dựng XHHT, bao gồm giáo dục chính quy, giáo dục không
chính quy, kinh nghiệm xây dựng XHHT ở các nước... Xuyên suốt nội dung đó
là vấn đề con người, xây dựng con người trở thành hạt nhân động lực cho toàn
bộ quá trình xây dựng XHHT ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Về mô hình XHHT nổi bật là cuốn Cấu trúc mô hình xã hội học tập ở Việt
Nam [25]. Sách giới thiệu sự phát triển giáo dục của một số nước trên thế giới
hướng tới XHHT và sự phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay trong bước khởi
đầu định hướng xây dựng XHHT, đồng thời đề cập đến cấu trúc mô hình XHHT
ở Việt Nam. Cùng đề cập đến mô hình XHHT có cuốn Mô hình giáo dục mở -
mô hình xã hội học tập [72]. Cuốn sách này đi vào trình bày các mô hình khuyến
học và phân tích tác động của nó tới việc xây dựng XHHT ở nước ta. Tuy chỉ
phản ánh một nội dung nhỏ của XHHT là các mô hình hoạt động khuyến học
nhưng sách cũng là nguồn tài liệu tham khảo giá trị.
Ở Việt Nam, xây dựng XHHT là tất yếu nhưng lại không hoàn toàn dễ
dàng. Việc xây dựng XHHT không dừng lại ở chỗ nước ta sẽ có một XHHT như
mọi nước. XHHT không có mục đích tự thân. Chúng ta cần có một XHHT để từ
đó tạo nên những nhân cách cần cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
cần cho việc phát triển kinh tế tri thức. Mục tiêu XHHT là những nhân cách Việt
Nam ở thế kỷ XXI mà trong nhân cách đó, trí tuệ thời đại và đạo đức thời đại là
cái cốt lõi. Từ đó, tác giả cuốn Khuyến học [27] mong muốn phát huy và đẩy
mạnh hơn nữa công tác KH, KT để tạo nên một dấu gạch nối giữa sự nghiệp
KH, KT trong lịch sử với sự nghiệp KH, KT thời hiện đại.
Tiếp tục đi sâu về thành tố của XHHT là cuốn Xã hội học tập - Học suốt
đời và các kỹ năng tự học của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Hải Yến [138].
GDTX, giáo dục người lớn được xem là thành tố rất quan trọng của XHHT. Do
đó trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập đến cơ sở lý luận chung của GDTX,
các đặc điểm và khó khăn của GDTX cũng như quá trình xây dựng XHHT ở
Việt Nam. Về phương pháp để xây dựng XHHT, tác giả nhấn mạnh vấn đề tự
14
học, bản chất của tự học và cách thức tiến hành tự học theo từng lứa tuổi. Ở góc
độ lý luận giáo dục, để có thể tiến tới XHHT đòi hỏi mỗi cá nhân và toàn xã hội
phải không ngừng tự học và học suốt đời. Đây là một thành tố rất quan trọng
trong XHHT mà công trình đã đề cập tới.
Cùng đề cập tới GDTX là nội dung chính của luận án tiến sĩ Khoa học
Giáo dục (mã số 62.14.01.14) của Bùi Trọng Trâm với đề tài Quản lý phát triển
trung tâm học tập cộng đồng theo định hướng xã hội học tập [142]. Tác giả đi
vào chuyên sâu nghiên cứu một khía cạnh của XHHT ở bộ phận cấu trúc của nó
là các TTHTCĐ. Trên cơ sở trình bày cơ sở lý luận về quản lý phát triển
TTHTCĐ theo định hướng XHHT, luận án nghiên cứu thực trạng, kinh nghiệm
của một số nước và thực trạng quản lý phát triển TTHTCĐ ở xã, phường, thị trấn
của tỉnh Thái Bình. Thêm vào đó, tác giả đã đề xuất bộ tiêu chuẩn đánh giá và
một số giải pháp quản lý phát triển TTHTCĐ theo định hướng XHHT của tỉnh
Thái Bình hiện nay.
Lý luận chung về XHHT như khái niệm, đặc điểm, cấu trúc XHHT được
luận bàn ở nhiều bài viết đăng trên các tạp chí:
- “Tìm hiểu quan niệm về xã hội học tập”, Phạm Minh Hạc, tạp chí Giáo
dục [51].
- “Xã hội học tập: quan niệm, thực trạng và giải pháp”, Thái Xuân Đào,
tạp chí Phát triển giáo dục [40].
- “Bàn về khái niệm xã hội học tập”, Tô Bá Trượng, Tạp chí Giáo dục [149].
- “Tiến tới xây dựng một xã hội học tập”, Nguyễn Ngọc Phú, tạp chí Giáo
dục [115].
Điểm chung trong phần lớn nội dung của những bài viết này là đề cập đến
quan niệm về XHHT của các học giả trong và ngoài nước, rút ra những đặc điểm
nhận diện XHHT và tổ chức xây dựng XHHT ở Việt Nam.
Làm thế nào để xây dựng XHHT, hay nói cách khác là điều kiện và giải
pháp để xây dựng XHHT ở Việt Nam? “Để xây dựng nền giáo dục Việt Nam
thực sự trở thành một xã hội học tập - giáo dục suốt đời: Quan niệm và thể chế
hóa” là bài viết của tác giả Nguyễn Như Ất đăng trên tạp chí Phát triển giáo dục,
15
[8]. Tác giả nêu ra quan niệm và điều kiện cơ bản để xây dựng XHHT mà quan
trọng là đi từ nhận thức đúng đến hành động đúng.
Xây dựng hệ thống học suốt đời trong nền giáo dục Việt Nam cũng là một
biện pháp để xây dựng XHHT. Đây là bài viết của tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến,
in trong cuốn Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam [10].
Bài viết khẳng định trong nhiều mô hình giáo dục mới được đề xuất, thì mô hình
học suốt đời đang là xu thế chung thể hiện bước chuyển về giáo dục của nhiều
nước trước một thế giới biến động khó lường của toàn cầu hóa, kinh tế tri thức
và cách mạng công nghệ. Tác giả cũng đánh giá, việc xây dựng hệ thống học
suốt đời là bước phát triển về chất của nền giáo dục Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng luận án, tác giả cũng tiếp cận một số tài liệu của
các học giả nước ngoài về vấn đề này, đặc biệt đề cập đến giải pháp xây dựng
XHHT. Tiêu biểu nhất là cuốn Xây dựng xã hội học tập: Cách tiếp cận mới cho
tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội (Creating a learning society: A new
Approach to Growth, Development and Social Progress) [170] của hai tác giả
Joseph E. Stiglitz và Bruce C. Greenwald (giáo sư Đại học Columbia, Mỹ), do
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành năm 2017. Với độ dày 555
trang, sách được chia làm hai phần. Phần thứ nhất gồm 8 chương nêu bật tầm
quan trọng của việc học tập, về các doanh nghiệp học tập và phát minh, về cấu
trúc thị trường - nơi các doanh nghiệp đang hoạt động tác động đến khả năng
học tập và sáng tạo của doanh nghiệp, kết thúc với đánh giá phúc lợi và trạng
thái ổn định của toàn bộ nền kinh tế. Phần thứ hai gồm 6 chương bàn về các giải
pháp cho một XHHT. Tác giả đưa ra chính sách ở nhiều lĩnh vực để xây dựng
thành công XHHT năng động từ các chính sách phát triển ngành, chính sách về
tài chính, chính sách vĩ mô cho đến các chính sách về quyền sở hữu trí tuệ và
chuyển đổi xã hội.
Bên cạnh đó, những khuyến nghị về giải pháp xây dựng XHHT, như hình
thành cơ chế quản lý liên ngành, thúc đẩy động lực học tập suốt đời cho người
học, tăng cường học tập tại nơi làm việc, nhân rộng các mô hình TPHT, cộng
đồng học tập, sử dụng công nghệ thông tin như một phương tiện phục vụ sự phát
16
triển... được đề cập đến trong Kỷ yếu Diễn đàn Việt Nam: Học tập suốt đời - xây
dựng xã hội học tập [32] trên cơ sở những đóng góp của các chuyên gia trong
nước và quốc tế.
Ngoài ra, còn khá nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này như: tác giả
Trần Ngọc Vượng với bài “Kiến tạo một xã hội học tập ở Việt Nam, những hạn
chế từ lịch sử”, tạp chí Tia sáng, 2005; tác giả Phan Thanh Long với “Kinh
nghiệm xã hội hóa giáo dục trên thế giới và việc xây dựng xã hội học tập ở nước
ta”, tạp chí Khoa học, 2007; tác giả Trần Viết Lưu với “Nâng cao nhận thức về
xây dựng nước ta trở thành một xã hội học tập”, tạp chí Phát triển giáo dục, 2009;
tác giả Bùi Thanh Xuân với “Thành phố, thị trấn học tập - mô hình thu nhỏ của xã
hội học tập, thúc đẩy học tập suốt đời”, tạp chí Giáo dục, 2013; hay Trần Hồng
Đức với “Định hướng xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam trong điều kiện nền
kinh tế tri thức hiện nay”, tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, 2016...
Dễ nhận thấy quan niệm của từng tác giả được thể hiện khá rõ trong từng
bài viết. Nội dung cơ bản của các bài viết này là đã đi vào tìm hiểu một số khía
cạnh của XHHT, bước đầu phác họa những điều kiện và bước đi để xây dựng
XHHT ở Việt Nam hiện nay.
Vấn đề XHHT cũng đã được đưa vào nội dung học tập và giảng dạy ở
một số nhà trường. Trường Đại học Thái Nguyên cho ra mắt cuốn Giáo trình lý
luận xã hội học tập năm 2013 [67]. Lần đầu tiên, lý luận về XHHT được viết
dưới dạng giáo trình, trở thành tài liệu học tập cho sinh viên. Cuốn sách này
nghiên cứu những giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại của nền giáo dục Việt
Nam, các bộ phận cấu thành của hệ thống giáo dục quốc dân cũng như tầm quan
trọng của bộ phận GDTX trong quá trình xây dựng phát triển đất nước. Bên cạnh
đó, sách còn đưa ra định hướng những nhân tố giá trị trong việc xây dựng
XHHT hiện nay.
Tác giả Vũ Minh Tâm cũng có cuốn Xã hội học tập: tập bài giảng cho
sinh viên các ngành Khoa học xã hội và nhân văn [125]. Sách đề cập khái quát
những vấn đề cơ bản của XHHT như: khái niệm, mô hình, cấu trúc. Nhưng rõ
ràng, đây vẫn là vấn đề mới cần tiếp tục quan tâm, nghiên cứu.
17
Ngoài ra, trong quá trình tổng quan tài liệu, tác giả luận án cũng được tiếp
cận cuốn Các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác khuyến học,
khuyến tài và xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam [160]. Cuốn sách cung cấp
những tài liệu của Đảng và Nhà nước về công tác KH, KT; khẳng định phương
hướng, nhiệm vụ cơ bản và biện pháp lớn của công cuộc xây dựng cả nước trở
thành một XHHT. Đây là cẩm nang tư tưởng, tổ chức và hoạt động đối với
những người làm công tác KH, KT, hướng tới xây dựng XHHT ở Việt Nam.
Nhìn chung, trong các nghiên cứu trên, từ nhiều góc độ khác nhau, các tác
giả đều đề cập đến những khía cạnh rất quan trọng của XHHT, như khái niệm,
đặc điểm, vai trò và biện pháp xây dựng XHHT ở Việt Nam. Có thể xem đây là
nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong quá trình xây dựng luận án.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội
học tập
Trước hết phải khẳng định, thời điểm Hồ Chí Minh sinh sống và hoạt
động chưa có khái niệm XHHT. Khái niệm này xuất hiện đầu tiên trên thế giới
vào khoảng đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, và chính thức được Đảng ta sử
dụng trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Do đó, nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về XHHT là dựa trên cơ sở những luận điểm của Người về
giáo dục. Tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT không tách rời tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục.
Hồ Chí Minh là một nhà lý luận giáo dục và thực hành giáo dục vĩ đại.
Người có rất nhiều bài viết, bài nói, tác phẩm để phát triển giáo dục nước nhà
với mong mỏi đưa dân tộc ta sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế
giới. Sinh thời, Người chưa một lần đề cập đến XHHT nhưng thông qua những
bài nói, bài viết, tác phẩm và hoạt động thực tiễn của Người đã toát lên những
giá trị lớn lao của một XHHT Việt Nam trong đó. Một trong những trăn trở rất
lớn của Người lúc sinh thành là làm sao cho dân ta “ai cũng được học hành”.
Câu nói đó chính là cốt lõi của XHHT mà Người không ngừng kiến tạo và chỉ
đạo thực hiện ở Việt Nam.
Tổng quan các công trình đề cập đến vấn đề này, như sau:
18
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT trong tổng thể tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung, có cuốn sách: Chủ tịch Hồ Chí Minh
với sự nghiệp chống nạn thất học, nâng cao dân trí, do nhà xuất bản Giáo dục ấn
hành [141]. Với hai phần, đặc biệt là phần thứ nhất tác giả phác thảo hành trình
xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí cho nhân dân trong từng thời kỳ cách mạng.
Xuyên suốt cuốn sách là chặng đường diệt giặc dốt gian nan nhưng cũng đầy tự
hào của nhân dân ta, mà nổi bật trên hết là vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong xây dựng, chỉ đạo và trực tiếp đồng hành trong suốt chặng đường đó
của dân tộc.
Nghiên cứu tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, từ đó gián tiếp đề cập tới tư
tưởng Hồ Chí Minh về XHHT, về học tập suốt đời được nhiều tác giả lựa chọn.
Tác giả Nguyễn Lân có cuốn Hồ Chủ tịch - nhà giáo dục vĩ đại [74]. Như là một
lời khẳng định từ tên gọi của cuốn sách, tác giả đi vào nghiên cứu di sản Hồ Chí
Minh với tư cách như là một nhà giáo dục vĩ đại trên cả phương diện tư tưởng và
hoạt động thực tiễn. Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện [33] của tác giả Thành Duy nghiên cứu về
tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh - một trong những biện pháp để xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện.
Cùng đề cập đến tư tưởng giáo dục nói chung, tư tưởng về XHHT nói
riêng là cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục [54]. Sách tập hợp những bài
nói, bài viết của Hồ Chí Minh về giáo dục, những bài nghiên cứu về tư tưởng
giáo dục Hồ Chí Minh của nhiều nhà khoa học quan tâm đến vấn đề này. Sách
do Đào Thanh Hải, Minh Tiến sưu tầm, tuyển chọn.
Một cuốn sách khác gồm 5 phần, tập hợp những thư điện của Hồ Chí
Minh gửi ngành giáo dục; những bài nói, bài viết của Người về giáo dục; biên
niên hoạt động của Người về giáo dục, đó là cuốn Bác Hồ với sự nghiệp giáo
dục [18]. Cuốn sách của Đặng Quốc Bảo lại tập trung nghiên cứu về tư tưởng
giáo dục Hồ Chí Minh và nhà giáo Hồ Chí Minh, được tác giả coi là kim chỉ
nam cho việc thực hiện đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay, đó là cuốn Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008 [12].
19
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện là công trình của
tác giả Nguyễn Hữu Công [23]. Cuốn sách dành một nội dung đề cập về quan
điểm giáo dục, đào tạo toàn diện của Hồ Chí Minh, với ý nghĩa là một trong
những con đường hình thành và phát triển con người toàn diện Việt Nam.
Quan điểm này tiếp tục được đề cập trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục và đào tạo [7]. Qua 31 bài viết của các giảng viên, các nhà nghiên cứu
đến từ nhiều trường đại học trong cả nước, công trình đã làm rõ hơn những quan
điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo như vị trí, vai trò,
nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục, những cống hiến về giáo dục và
đào tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhấn mạnh về vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giáo dục và xây
dựng XHHT ở Việt Nam, tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng Hồ Chí Minh chính
là người khai sáng cho tư duy và chiến lược hành động xây dựng XHHT ở Việt
Nam ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng. Nội dung này được
đề cập đến trong cuốn Phát triển sự nghiệp giáo dục dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh [13].
Gián tiếp đề cập đến việc xây dựng XHHT là cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay của tác giả Hoàng
Anh [1]. Cuốn sách trình bày nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục theo từng thời kỳ gắn với cuộc đời hoạt động
cách mạng của Người cũng như của đất nước. Đồng thời, sách phân tích nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và nêu bật tầm quan trọng của việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào nâng cao chất lượng đào tạo đại học
hiện nay. Mặc dù không trực tiếp đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT
nhưng cuốn sách cũng gợi mở nhiều ý tưởng cho tác giả khi xây dựng luận án.
Góp phần tìm hiểu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục, coi đó là những giá trị nền tảng để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
Việt Nam, đáng chú ý là cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với vấn đề đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay [119], nhà xuất bản Chính
trị quốc gia Sự thật. Sách khẳng định trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện
20
giáo dục hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có ý nghĩa hết sức quan
trọng, là kim chỉ nam định hướng cho sự phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo
của Việt Nam. Từ đó, công trình đi sâu phân tích thực trạng, đề xuất phương
hướng, nội dung, giải pháp vận dụng tư tưởng của Người vào đổi mới giáo dục
Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó là không ít các sách thuộc nhóm sách biên niên hoặc sưu
tầm, tuyển chọn các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đào
tạo, các bài viết của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các học giả, các chuyên gia
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Có thể kể đến: Bách khoa thư Hồ
Chí Minh Sơ giản [76], giới thiệu một số bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về
giáo dục; tập hợp các bài viết, các đoạn trích của các nhà nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục và quá trình vận dụng tư tưởng của Người vào thực
tiễn giáo dục; vận dụng tư tưởng của Người thông qua một số môn học. Một số
cuốn sách như Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo do Lê Văn Tích và Nguyễn Thị
Kim Dung biên soạn [133]; Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập do Vũ
Kim Yến, Nguyễn Văn Dương biên soạn [164] cơ bản đều đi vào trình bày
những quan điểm về giáo dục - đào tạo, các bài viết về tư tưởng giáo dục, sự
nghiệp giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giới thiệu biên niên hoạt động của
Người với ngành giáo dục - đào tạo.
Một cuốn sách ra đời với mục đích phục vụ công tác học tập, nghiên cứu,
thông tin tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến những quan điểm cơ bản
của Người về giáo dục - đào tạo, góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục - đào tạo
nước ta ngày càng phát triển, đáp ứng yêu cầu của tình hình cách mạng mới,
đồng thời thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: phải làm cho dân tộc
Việt Nam trở thành một dân tộc thông thái. Đó là cuốn Bác Hồ với sự nghiệp
giáo dục đào tạo [34]. Trong 4 phần, thì phần 1 (Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục đào tạo) và phần 2 (Công tác giáo dục, đào tạo trong sự nghiệp đổi mới theo
tư tưởng Hồ Chí Minh), đã cung cấp nhiều tư liệu, bài viết của nhiều tác giả về
tư tưởng giáo dục của Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng đó vào việc đổi mới
giáo dục - đào tạo Việt Nam trong giai đoạn mới.
21
Ngoài ra, liên quan đến tư tưởng và hoạt động giáo dục của Hồ Chí Minh
còn thu hút rất nhiều tác giả, thể hiện qua một số luận văn như: Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục -
đào tạo trong các trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ở Ninh Bình hiện
nay, luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học của Hoàng Diệu Thúy, Hà Nội, 2007;
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào việc đổi mới giáo dục cao đẳng
ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học của Lê
Thị Thanh Hoa, Hà Nội, 2008; Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược
“trồng người” vào đào tạo, rèn luyện sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên
truyền trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học của Lê Thị
Thúy Bình, Hà Nội, 2011.
Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề lý luận và
thực tiễn khi xây dựng XHHT được thể hiện trong một số Hội thảo, có thể kể
đến như: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục”, năm 2003 do Bảo
tàng Hồ Chí Minh và Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức; “Chủ tịch Hồ Chí Minh
- một tầm nhìn chiến lược về giáo dục và sư phạm” năm 2010, do Đại học Sư
phạm Hà Nội tổ chức; “Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
qua những bức thư của Người gửi cho ngành giáo dục”, năm 2013 do Đại học
Sư phạm Hà Nội tổ chức... Tiếp tục làm sáng tỏ hơn những tư tưởng vượt trước
của Hồ Chí Minh về XHHT, Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam phối hợp
với Viện nghiên cứu xây dựng XHHT tỉnh Sơn La đã tổ chức Hội thảo với chủ
đề “Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp - Những tư tưởng lớn về
xây dựng xã hội học tập” [148]. Hội thảo được nhiều nhà nghiên cứu tham gia
viết báo cáo chuyên đề, báo cáo tham luận. 15 bản tham luận; báo cáo được in
trong Kỷ yếu đều đề cập đến những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về giáo dục và học tập suốt đời. Các tác giả đều đánh giá: Hồ Chí Minh,
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp là những đại thụ trong nền giáo dục nước
nhà, và đã để lại dấu ấn đậm nét đến sự nghiệp giáo dục ở Sơn La, một vùng đất
miền núi giàu đẹp nhờ vào sự tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa mạnh mẽ
và bền vững.
22
Đề cập đến cách thức giáo dục và học tập trong quan điểm Hồ Chí Minh,
đáng chú ý nhất là Luận án Tiến sĩ giáo dục học của Võ Văn Nam với đề tài: “Tư
tưởng tự học của Hồ Chí Minh và biện pháp nâng cao việc tự học cho sinh viên
Đại học Sư phạm” [106]. Khác với các công trình khác, luận án lại nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của một nhà giáo dục học. Nội dung chủ yếu
đề cập đến là tự học - một thành tố của giáo dục nói chung và học tập suốt đời
nói riêng. Trên cơ sở giáo dục học, tác giả đã khái quát tư tưởng, tấm gương tự
học của các vĩ nhân trong lịch sử Việt Nam và thế giới; Khẳng định vai trò của
tự học đối với thành công của các vĩ nhân đó; Tìm hiểu thực trạng nhận thức tư
tưởng Hồ Chí Minh trong sinh viên Đại học Sư phạm. Tác giả cũng đã phân tích
và bước đầu hình thành hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung
và đi sâu vào phân tích hệ thống hóa tư tưởng tự học của Người, vận dụng tư
tưởng đó vào việc nâng cao việc tự học cho sinh viên Đại học sư phạm. Như
vậy, riêng về luận án tiến sĩ nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT và vận
dụng vào một địa phương cụ thể dường như chưa có công trình nào đi sâu về vấn
đề này.
Liên quan trực tiếp đến việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT
chủ yếu là những bài viết, trao đổi của các tác giả trên các tạp chí. Tiêu biểu là
bài viết của một số tác giả:
Lê Hoàng Yến với bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội học tập”, tạp chí
Đông Nam Á, số 6/2005 [163], trình bày khái quát những định hướng của Hồ
Chí Minh trong việc xóa bỏ nạn dốt, hướng tới “ai cũng được học hành”.
Nguyễn Kỳ: “Học, làm, sống - ba trong một và xây dựng xã hội học tập
theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, tạp chí Phát triển giáo dục, số 6/2005 [70], chỉ ra
ba động cơ và cách thức xây dựng XHHT theo quan điểm Hồ Chí Minh.
Đặng Quốc Bảo, Đinh Thị Minh Tuyết: “Bác Hồ - người khai sáng cho tư
duy và chiến lược hành động xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam”, tạp chí Khoa
học giáo dục, số 68/2010 [14], cho thấy những chỉ dẫn chiến lược của Hồ Chí
Minh trong cả tư duy và hành động để xây dựng XHHT.
23
Thái Xuân Đào: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội học tập”, tạp chí Giáo
dục, số 87/2004 [41], trình bày quan niệm khái quát về xã hội học tập dưới cách
nhìn của Hồ Chí Minh.
Nguyễn Quang Uẩn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề học tập”, Tạp chí
Dạy và Học ngày nay, số 5/2010 [150], cho người đọc thấy tư tưởng có tính chất
định hướng của Hồ Chí Minh về vấn đề học tập.
Như vậy, xây dựng XHHT theo quan điểm Hồ Chí Minh là một nội dung
mới, nằm trong tổng thể và là một bộ phận hết sức quan trọng của tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục. Hướng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã cho ra đời nhiều công trình,
trong đó có nhiều công trình, bài viết rất chất lượng. Riêng hướng nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT thì gần như còn bỏ ngỏ và có rất ít các
công trình tầm cỡ. Cũng vì thế mà vấn đề này thường chỉ chiếm phần dung
lượng nhỏ trong các chuyên khảo nghiên cứu tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh,
hoặc chỉ là những bài nghiên cứu, trao đổi đăng trên các tạp chí. Điều này làm
cho tác giả trong quá trình hoàn thành luận án vừa phải nghiên cứu tổng thể tư
tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, vừa phải nghiên cứu, chắt lọc những nội dung cần
thiết liên quan đến đề tài. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh về XHHT và định hướng đối với hiện thực xây dựng XHHT ở
nước ta hiện nay cần được lưu tâm hơn nữa.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về giáo dục Hải Phòng và xây dựng
xã hội học tập ở Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Hải Phòng là địa phương quan trọng nằm trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Ngay từ lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành
cho Hải Phòng sự quan tâm sâu sắc ở nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực giáo
dục.
Nghiên cứu về lịch sử giáo dục Hải Phòng là cuốn sách của tác giả
Nguyễn Trọng Lô Sơ thảo lịch sử giáo dục Hải Phòng (939 - 6/1995) [81]. Từ
việc nghiên cứu giáo dục Hải Phòng trong nhiều thời kỳ, sách giúp cho các thế
hệ thầy giáo, cô giáo, các thế hệ học sinh và nhân dân thấy được vai trò của giáo
24
dục trên địa bàn Hải Phòng qua các thời kỳ lịch sử, từ đó tích cực góp phần là
cho sự nghiệp “trồng người” phát triển mạnh mẽ, đáp ứng yêu cầu “nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” của thành phố trong giai đoạn mới. Đó
cũng chính là sự cụ thể hóa lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng Người.
Tiếp tục nghiên cứu giáo dục Hải Phòng là cuốn Giáo dục và đào tạo Hải
Phòng, 60 năm xây dựng và phát triển (1955 - 2015) [122]. 60 năm là cả một
chặng đường đối với một nền giáo dục được cách mạng soi đường. Thực tiễn
công cuộc xây dựng và phát triển giáo dục - đào tạo Hải Phòng trong 60 năm đã
khẳng định sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
công tác giáo dục, đào tạo nơi đây, đồng thời cũng ghi nhận sự cố gắng, năng
động, sáng tạo để tạo nên những thành tích nổi bật về giáo dục của các thế hệ
thầy, cô giáo, các thế hệ học sinh, sinh viên và nhân dân thành phố Hoa phượng
đỏ. Bên cạnh những thành tựu đó, thì tình trạng chưa theo kịp sự đổi mới, hội
nhập khu vực, quốc tế của thành phố, của đất nước và những tồn tại, yếu kém
nội tại của toàn ngành chưa được khắc phục một cách căn bản. Tất cả những nội
dung trên đều được phản ánh trong cuốn sách.
Nghiên cứu về tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Hải Phòng và Hải
Phòng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đáng chú ý là 3 cuốn sách.
Cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh với đảng bộ và nhân dân Hải Phòng do
Thành ủy Hải Phòng xuất bản năm 2000 [130]. Cuốn sách ra đời nhân kỷ niệm
110 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 45 năm ngày giải phóng Hải
Phòng. Sách tập hợp những bài nói, bài viết, thư, điện mừng của Bác đối với Hải
Phòng và ghi lại những hình ảnh của Người khi về thăm Hải Phòng, hình ảnh
các cá nhân tiêu biểu trong sản xuất và chiến đấu, học tập được vinh dự chụp ảnh
cùng với Người. Đọc sách, chúng ta thấy rõ tư tưởng xuyên suốt mà Người căn
dặn, nhắc nhở cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố Hải Phòng là: Chăm lo
xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, đoàn kết, dân chủ, lao động sáng tạo,
quyết tâm phấn đấu đưa thành phố phát triển... Trách nhiệm đó không nằm ngoài
nhiệm vụ của ngành giáo dục, đào tạo.
25
Về tình cảm của Bác Hồ đối với Hải Phòng và Hải Phòng đối với Bác có
cuốn Hải Phòng làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Hải
Phòng ra đời năm 2015 [131]. Cuốn sách gồm hai phần: Chủ tịch Hồ Chí Minh
với Hải Phòng và Hải Phòng làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phần
thứ nhất tập trung phản ánh tình cảm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua 9
lần Người về thăm, làm việc, nói chuyện với Đảng bộ, chính quyền, quân và dân
Hải Phòng; qua những bài viết, bài báo của Người về Hải Phòng, thư của Người
gửi cán bộ, chiến sỹ và đồng bào Hải Phòng. Đồng thời, phân tích làm rõ và
thống nhất nhận thức về giá trị tư tưởng, lý luận những lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh với Hải Phòng, giá trị khoa học của di sản Hồ Chí Minh với Hải
Phòng. Phần thứ hai tập trung tổng kết những thành tựu của Đảng bộ, quân và
dân thành phố Hải Phòng thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các
cuộc kháng chiến chống các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược, góp phần giải
phóng thành phố, giải phóng và thống nhất đất nước; trong sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ và phát triển thành phố. Cuốn sách cũng ghi nhận những kết quả thực
hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các địa phương, cơ quan, đơn vị vinh
dự được Người trực tiếp về thăm, trong đó có ngành giáo dục.
Tiếp tục nói về tình cảm thiêng liêng của Bác Hồ dành cho Hải Phòng là
công trình Thư mục địa chí toàn văn: Bác Hồ trong lòng nhân dân Hải Phòng
do Sở Văn hóa thể thao & du lịch Hải Phòng kết hợp với Thư viện khoa học
tổng hợp thành phố ấn hành [123], nhân kỷ niệm 70 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh
về thăm Hải Phòng (20/10/1946 - 20/10/2016). Thư mục gồm 3 phần, tiếp tục
khẳng định tình cảm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thành phố và
quyết tâm của quân, dân thành phố cảng nguyện làm theo lời dạy của Người.
Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu kể trên đều trực tiếp hoặc
gián tiếp đề cập đến vấn đề XHHT và xây dựng XHHT theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Những công trình lý luận chung về XHHT thường là sản phẩm dày công
sưu tầm, nghiên cứu của các giáo sư, tiến sĩ đầu ngành trong lĩnh vực khoa học
giáo dục với nguồn tài liệu tham khảo phong phú, cả trong và ngoài nước. Còn
đối với vấn đề XHHT trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì hầu khắp các công trình
26
mới chỉ dừng lại ở những bài báo, tạp chí. Liên quan đến đề tài xây dựng XHHT
ở Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì cho đến nay chưa có một công trình
nào đề cập tới. Đây là thuận lợi nhưng cũng là khó khăn rất lớn của tác giả trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện luận án.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN
ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu
Qua nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án,
tác giả đã được cung cấp và tiếp thu nhiều tri thức khoa học và phương pháp
nghiên cứu có giá trị quan trọng về những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục nói chung và về XHHT nói riêng. Đây chính là những công
trình nghiên cứu cơ bản về lý luận và thực tiễn của các nhà khoa học, đã gợi mở
và định hướng cho tác giả nhằm thực hiện luận án của mình.
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu có thể rút ra được một số kết quả liên
quan đến đề tài nghiên cứu như sau:
Một là, các cuốn sách và các bài viết đăng trên tạp chí chủ yếu nghiên
cứu, làm rõ được những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục:
vai trò, nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục. Các tác giả đã phân tích
được những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là một nhà giáo
dục vĩ đại cho nền giáo dục Việt Nam. Các tác giả cũng đã nêu được những vấn
đề liên quan việc Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục từ thời kỳ
đổi mới đến nay.
Hai là, các công trình nghiên cứu trên đã phần nào chỉ ra được một số vấn
đề chung của giáo dục Việt Nam hiện nay: thực trạng của giáo dục Việt Nam,
những tồn tại, hạn chế cũng như những thời cơ, thách thức đến với giáo dục Việt
Nam trong thời gian tới. Đó là yêu cầu tất yếu đưa tới sự đổi mới căn bản và toàn
diện nền giáo dục nước nhà.
Ba là, một số công trình đã phác họa được mô thức xây dựng XHHT ở
Việt Nam trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng và thấm nhuần tư tưởng Hồ
Chí Minh, trang bị cho người đọc những hiểu biết cơ bản về XHHT, như quan
27
niệm, mô hình, giải pháp và kinh nghiệm xây dựng XHHT ở các nước. Đó là
những hành trang lý luận quý báu để từng bước hiện thực hóa mô hình XHHT ở
Việt Nam.
Với tinh thần cầu thị, tác giả luận án có sự tham khảo nghiêm túc, đồng
thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của các nhà khoa học, lấy đó
làm những gợi ý quan trọng phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hoàn thiện
luận án.
1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy vấn đề XHHT và xây dựng
XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được một số nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số vấn đề chưa được đi sâu nghiên
cứu, làm rõ:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT vẫn
dựa trên nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và là một khía
cạnh nhỏ trong tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh. Chưa có một công trình
nghiên cứu độc lập tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT.
Thứ hai, chưa có công trình nào chỉ ra những nhân tố tác động vào quá
trình xây dựng XHHT của Hải Phòng, cũng như đánh giá khách quan thực trạng
giáo dục nói chung và xây dựng XHHT nói riêng của thành phố trong suốt
những năm qua.
Thứ ba, chưa có công trình nào đề ra những yêu cầu và giải pháp xây
dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chính vì vậy, vấn đề mà tác giả luận án lựa chọn “Xây dựng xã hội học
tập ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” là mới mẻ, cần thiết,
vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cũng như không trùng với các
công trình nghiên cứu đã được công bố.
Trên cơ sở thành tựu của các công trình đi trước, nắm bắt hạn chế, tồn tại
xung quanh vấn đề nghiên cứu cũng như bám sát đối tượng, mục đích, nhiệm vụ
nghiên cứu về xây dựng XHHT hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, luận án
cần tiếp tục giải quyết một số vấn đề sau:
28
Một là, xây dựng định nghĩa khoa học cho các khái niệm: XHHT, xây
dựng XHHT, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT.
Hai là, làm rõ lý luận chung về XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh với
các khía cạnh về vị trí, vai trò của XHHT; nội dung xây dựng XHHT, mô
hình xây dựng XHHT, chủ thể xây dựng XHHT và phương pháp xây dựng
XHHT; cùng với đó là những chỉ đạo thực tiễn của Người nhằm xây dựng
XHHT ở nước ta.
Ba là, phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng,
chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó,
những vấn đề đặt ra đối với xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Bốn là, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiểu kết chương 1
Ở chương 1, luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu các công trình bao
gồm đề tài khoa học, sách chuyên khảo, luận án, kỷ yếu, các bài viết trên báo,
tạp chí... hay các công trình nghiên cứu khoa học khác. Từ những công trình đó,
tác giả tiếp nhận, hệ thống và khái quát hóa thông tin liên quan đến đề tài; phân
tích và đưa ra nhận xét những khía cạnh đã nghiên cứu về đề tài để thấy được:
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản quý giá và phong phú về
giáo dục, trong đó có vấn đề xây dựng XHHT. Tư tưởng này được phát triển
mạnh mẽ và liên tục từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945; được cụ thể hóa
bằng các chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước như: BDHV,
BTVH, phổ cập giáo dục tiểu học và ngày nay đang tiến tới phổ cập giáo dục
trung học cơ sở cho toàn dân. Thông qua tổng quan cho thấy, vấn đề này vẫn còn
nhiều nội dung chưa được nghiên cứu sâu, chưa được đề cập tới, từ đó đặt ra cho
luận án nhiệm vụ cần tiếp tục nghiên cứu. Với khối lượng tài liệu có chất lượng
khoa học và thực tiễn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu chuyên sâu, tác giả cho
rằng luận án có giá trị khoa học và khả năng thực hiện.
29
2. Xã hội học tập đang là mục tiêu và xu thế của các quốc gia trên thế
giới. Quan điểm này được rất nhiều học giả đề cập nhất là từ những năm đầu
của thế kỷ XXI.
3. Hải Phòng cũng như nhiều địa phương khác nằm trong dòng chảy
chung của phong trào đó. Các tài liệu cho thấy, công tác xây dựng XHHT
đang được triển khai, Hải Phòng đã và đang trong quá trình xây dựng XHHT.
Thông qua những nội dung tổng quan nhận thấy vẫn còn có nhiều khía
cạnh liên quan đến đề tài chưa được nghiên cứu sâu, chưa được đề cập tới.
Việc kế thừa các thành quả nghiên cứu của các công trình trước để thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ của luận án là hết sức quan trọng và cần thiết. Đây là cơ
sở quan trọng giúp tác giả đi sâu nghiên cứu, giải quyết những vấn đề của
luận án đặt ra.
30
Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP -
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
2.1.1. Khái niệm Xã hội học tập
XHHT được xem là một xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của các
quốc gia trên thế giới. Đó là đòi hỏi của cách mạng công nghệ và nền kinh tế tri
thức, cũng là đòi hỏi của sự phát triển con người bền vững trong thời đại mới.
Nhiều nghiên cứu về XHHT đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây.
Thực tế có nhiều quan điểm khác nhau về XHHT.
Trên thế giới, một trong những quan điểm được chú ý là quan điểm của
Richard Edwards. Ông đưa ra định nghĩa mới về XHHT như sau:
1) XHHT là xã hội chuyên về giáo dục, đảm bảo tự do và cơ hội như nhau
về học tập. Thực hiện giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời. Mục đích của
nó là cung cấp cơ hội học tập cho người lớn nhằm đáp ứng những thách thức của
những thay đổi và quyền công dân.
2) XHHT là thị trường học tập cho phép các thể chế giáo dục cung cấp
dịch vụ cho các cá nhân nhằm hỗ trợ sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nó nhấn
mạnh tới quá trình học tập suốt đời. Mục đích là nhằm phát triển thị trường bao
gồm các cơ hội học tập để đáp ứng đòi hỏi nâng cao năng lực và kỹ năng của
người lao động.
3) XHHT là xã hội trong đó người học chấp nhận phương pháp học suốt
đời, dựa trên nhiều nguồn lực nhằm giúp họ có được những thông lệ về phong
cách sống. Xã hội coi quá trình học tập suốt đời như một điều kiện của các cá
nhân trong giai đoạn hiện hành mà các chính sách cần đáp ứng.
Theo quan điểm của UNESCO, XHHT có 7 đặc trưng nổi bật sau:
1) Mọi người đều được học, học thường xuyên, học suốt đời;
2) Toàn bộ môi trường xung quanh đều có thể tạo ra cơ hội học tập và
phát huy tài năng của mỗi người;
31
3) Con người được tiếp nhận trình độ giáo dục cơ bản để học tập và tự
hoàn thiện;
4) Nhà trường mang lại cho mọi người lòng mong muốn và sự hào hứng
được học tập với năng lực “học cách học” và với sự tò mò trí tuệ;
5) Mỗi cá nhân đều có thể lần lượt làm người dạy và làm người học;
6) Xã hội dựa trên thành tựu, cập nhật và ứng dụng tri thức;
7) Người học trở thành những nhà nghiên cứu, còn người dạy, dạy cho
người học cách đánh giá và quản lý những thông tin mà họ được cung cấp.
Ở Việt Nam hiện nay có ba cách tiếp cận chính về nghiên cứu XHHT:
Thứ nhất là, đi từ vấn đề kinh tế tri thức mà đề xuất những đổi mới nền giáo
dục, trong đó nội dung cốt lõi là xây dựng XHHT. Nằm trong hướng tiếp cận này
là một số học giả như Phạm Tất Dong, Phan Đình Diệu, Đặng Mộng Lân, Phạm
Hồng Tiến... Từ sự biến đổi tất yếu của nền kinh tế tri thức, các tác giả khẳng định
phải tiến hành một con đường mới cho giáo dục Việt Nam, như là: Phổ cập giáo
dục ở bậc cao; Phổ cập công nghệ thông tin; Phổ cập ngoại ngữ...
Thứ hai là, tiếp cận vấn đề nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu phải xây dựng XHHT. Một
số học giả theo hướng này như Đặng Ngọc Dinh, Vũ Ngọc Hải.
Thứ ba là, xuất phát từ việc phát triển những khoa học cụ thể, những
ngành sản xuất trực tiếp mà nhà nghiên cứu nói đến một cuộc cải cách giáo dục
theo hướng xây dựng XHHT. Các học giả đi theo hướng này như Tô Bá Trượng,
Nguyễn Như Ất, Hoàng Minh Luật, Thái Thị Xuân Đào, Nguyễn Công Giáp...
Trên cơ sở những hướng nghiên cứu đó, các học giả của Việt Nam cũng
đưa ra quan điểm của mình về XHHT.
Theo tác giả Vũ Oanh, XHHT là một xã hội vì người học, của người học,
do người học, lấy người học và việc học suốt đời làm trung tâm.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, thì XHHT là một xã hội mọi người đều lấy
học tập là một công việc thường xuyên, suốt đời, học trong nhà trường và học
ngoài nhà trường, chính quy và không chính quy, như là một phần không thể
thiếu được của đời mình, lấy học tập là phương pháp tiếp cận (cách nhìn, cách
32
xử lý) của cuộc sống nhằm phát triển con người bền vững, động lực cho toàn bộ
sự tiến bộ xã hội. Với cách hiểu như vậy, XHHT không xa lạ với chúng ta. Đó là
Truyền bá chữ quốc ngữ (từ 1938), BDHV (từ 8/9/1945), BTVH (từ 1956), và
ngày nay là GDTX (từ 1991), Giáo dục cho mọi người (từ 1990), thập kỷ chống
nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học (1990 - 2000), thập kỷ phổ cập trung
học cơ sở (2001 - 2010) với tư tưởng “mù gì xóa nấy” - mù chữ thì học chữ, mù
máy tính thì học máy tính, mù khoa học phổ thông phục vụ sản xuất thì theo học
các lớp chuyên đề về sản xuất, các câu lạc bộ phổ biến kiến thức, v.v...
Tác giả Nguyễn Viết Sự lại xem xét khái niệm XHHT từ nội dung và các
tiêu chí của nó. Theo đó, khái niệm XHHT được tác giả đề cập: Ở cấp độ quốc
gia, là quan điểm, định hướng và chính sách đảm bảo cho mọi người có quyền,
có điều kiện học tập để phát triển phẩm chất và năng lực của bản thân. Ở cấp độ
cá nhân, trong xã hội cần thấm nhuần trong nhận thức và hành động về việc học
tập để hiểu biết, để làm việc, để tồn tại và để chung sống với cộng đồng. Mỗi
người phải sẵn sàng học tập, thường xuyên học tập với quan điểm luân phiên,
nối tiếp về đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng.
Tác giả Tô Bá Trượng bước đầu đưa ra định nghĩa về XHHT: XHHT là
một xã hội mà ở đó ai cũng học tập, học ở mọi lứa tuổi, mọi lúc, mọi nơi. Mọi
hiện tượng, sự kiện, hoạt động... đều có thể là đối tượng, nội dung học tập, tùy
theo sự quan tâm của người học. Phương pháp học cũng rất đa dạng, nhưng lấy tự
học làm chính. Tùy theo điều kiện cụ thể của người học, có thể học ở trường, lớp
hay trong cuộc sống, lao động, giao tiếp, giải trí... và bằng mọi phương tiện thông
tin, giao lưu, nối mạng trong và ngoài nước. XHHT chứa đựng ý tưởng về giáo
dục suốt đời, học tập suốt đời, mà cốt lõi của học tập suốt đời là học cách học.
Theo tác giả Phạm Tất Dong, trong XHHT, mỗi con người phải được giáo
dục thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập suốt đời, lấy sự học hỏi làm lẽ sống
của mình. Mỗi người đều có nhiều cơ hội học tập: học tập ở trường, học tập
trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa, do đó, hệ thống giáo dục không chỉ bó
hẹp trong các loại hình trường, mà còn trong các hình thức học ngoài nhà
trường. Đó là hệ thống giáo dục mềm dẻo, tạo ra sự đa dạng của các ngành học,
33
của các hình thức học, về những kênh liên thông giữa các loại hình giáo dục
khác nhau.
Tác giả Nguyễn Minh Đường cho rằng, XHHT là một xã hội mà mọi lứa
tuổi đều học, mọi loại hình lao động đều học, học một cách tự nguyện, học
thường xuyên, học suốt đời, học bằng nhiều hình thức để có thể lao động và
sống trong một xã hội đang không ngừng biến đổi của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước dưới tác động của khoa học - công nghệ, làm tiền đề
cho việc bước sang một xã hội tri thức.
Tác giả Nguyễn Ngọc Phú thì khẳng định, XHHT là xã hội khuyến học -
một môi trường học tập trong đó việc học đã vượt ra khỏi giới hạn của môi trường
giáo dục chính quy, mọi người đều coi việc học là suốt đời, say sưa tiếp cận tri
thức hiện đại của thế giới và vận dụng sáng tạo vào cuộc sống. Tác giả cho rằng
trong XHHT, kinh tế tri thức là cơ sở hạ tầng, là biểu hiện tập trung của XHHT.
Nhu cầu học tập, nhu cầu được học phải trở thành nét đặc trưng của xã hội này,
không chỉ xuất hiện ở các cá nhân riêng lẻ mà thể hiện ở các thiết chế xã hội.
Tác giả Nguyễn Mạnh Cầm cho rằng, khái niệm XHHT gần với khái
niệm xã hội trí thức, xã hội thông tin, trong đó con người được đặt và vị trí trung
tâm, được tạo điều kiện để hoàn thiện nhân cách, phát triển bền vững, thúc đẩy
kinh tế xã hội phát triển. Đó là một xã hội mà mọi người, không kể già trẻ, gái
trai, giàu nghèo, cương vị công tác... đều bình đẳng trong học tập, lấy tự học làm
phương thức cơ bản.
Như vậy, mỗi học giả đều diễn đạt khái niệm XHHT theo những cách
hiểu khác nhau. Dù được hiểu hay định nghĩa theo cách nào, thì trong nội hàm
của XHHT phải bao gồm các đặc điểm sau:
Thứ nhất, XHHT đề cao giá trị học tập, đặt việc tự học, học tập suốt đời
vào trung tâm và là yếu tố cốt lõi của nhân cách; “Học ăn, học nói, học gói, học
mở” để nâng cao kỹ năng sống cho mỗi cá nhân và cộng đồng, thực hiện mục
tiêu của thời đại: Học để biết, để làm, để chung sống và học để tồn tại.
Thứ hai, XHHT có nhiều cơ hội học tập (ở trong trường, ở ngoài nhà
trường cũng như trong các tổ chức, lực lượng xã hội, các tổ chức kinh tế, văn
34
hóa,...). Ở đó, mọi thứ đều là nơi cung ứng những cơ hội học tập và phát huy
tiềm năng con người, để “ai cũng được học hành”, thực hiện “giáo dục cho mọi
người”, mọi người được hưởng sự bình đẳng về cơ hội học tập.
Thứ ba, XHHT là một xã hội đa dạng và phong phú những hình thức học
tập, làm cho mọi năng lực học tập của mỗi cá nhân được phát huy cao độ. Mỗi
cá nhân đi tới tương lai của mình bằng nhiều con đường học tập khác nhau, mỗi
con đường đi lên đều giá trị như nhau và đều tươi đẹp.
Thứ tư, XHHT là một xã hội gắn học với làm, học trong công việc, “cần
gì học nấy”; một xã hội khai thác và phát huy tiềm năng học tập như một “kho
báu” để từng cá nhân quyết định lựa chọn con đường, hình thức học tập, quyết
định mục đích và phương tiện học tập tùy nhu cầu, hoàn cảnh và điều kiện, thích
ứng với cuộc sống cá nhân và xã hội đang biến đổi nhanh chóng.
Thứ năm, XHHT là một xã hội có nền giáo dục đại chúng, chất lượng.
Hệ thống giáo dục mở, mềm dẻo, linh hoạt, thực hiện đồng thời nhiều phương
thức giáo dục: giáo dục chính quy, giáo dục phi chính quy với nội dung chương
trình phong phú đa dạng, đáp ứng được nhu cầu học tập của mọi thành viên
trong xã hội.
Từ sự phân tích trên, tác giả bước đầu đưa ra cách hiểu về XHHT như
sau: XHHT là một xã hội mà mọi người đều coi việc học tập như nhu cầu tự thân
của mình; chủ động và tự giác học tập trong mọi lúc, ở mọi nơi, bằng mọi cách;
được tạo cơ hội để tiếp cận tri thức phù hợp nhất với mình nhằm hướng tới một
văn hóa học tập trong toàn xã hội ấy. XHHT không giới hạn không gian, thời
gian, tri thức và hình thức học tập. Con người trong XHHT đều coi tri thức là
điều kiện để phát triển, lấy học tập là một hoạt động thường xuyên, đặt việc tự
học, học suốt đời làm trung tâm và là yếu tố cốt lõi của từng nhân cách.
Bên cạnh khái niệm XHHT còn có một số khái niệm bộ phận liên quan
mà nhiều người đề cập đến gần đây như thành phố học tập, cộng đồng học tập,
gia đình học tập, công dân học tập. Tất nhiên, từ lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chưa nêu lên những khái niệm như vậy nhưng trong những bài nói, bài viết
của Người ít nhiều đều đã đề cập đến.
35
2.1.2. Khái niệm Xây dựng xã hội học tập
Theo Từ điển Tiếng Việt, “xây dựng” là động từ, nghĩa là làm, dựng lên
[156, tr.1008]. Theo cách dùng của người Việt, khái niệm “xây dựng” có thể
được dùng để tạo nên những vật chất hữu hình (như xây dựng nhà cửa, xây dựng
công trình công cộng, xây dựng cầu cống...). “Xây dựng” cũng được dùng với
nghĩa tạo lập nên một mô hình nào đó (như xây dựng gia đình, xây dựng hệ
thống kinh doanh...). Cao hơn, “xây dựng” có thể được hiểu là làm cho hình
thành một chỉnh thể chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội (xây dựng đất nước, xây
dựng cơ đồ...). Dù kết quả xây dựng để tạo nên những giá trị hữu hình hay vô
hình thì điểm chung của nó là đều mang tính chủ động, có phương hướng hoặc
kế hoạch nhất định. Nó nhấn mạnh vào vai trò của chủ thể (người đi xây dựng)
hơn là khách thể (cái được xây dựng).
Qua phân tích ở trên, tác giả cho rằng:
Xây dựng XHHT là quá trình tạo nên một XHHT cho cộng đồng, tạo ra
cho họ những cơ hội học tập và bảo đảm những điều kiện tốt nhất để mọi người
dân đều được tiếp cận tri thức, phục vụ cho chính sự phát triển của xã hội đó.
Trách nhiệm xây dựng XHHT thuộc về chính quyền và mọi người dân. Nó đòi
hỏi phải có mục tiêu, có chiến lược, có biện pháp cùng như những cơ chế chính
sách cần thiết để đảm bảo cho sự hình thành và tồn tại của XHHT.
Nội hàm của xây dựng XHHT bao gồm:
Thứ nhất, mọi công dân đều phải học tập suốt đời để trở thành người
lao động có nghề, có năng suất lao động cao để cải thiện cuộc sống bản thân,
làm giàu cho gia đình và cho cộng đồng, đóng góp xây dựng xã hội ấm no,
hạnh phúc.
Thứ hai, mọi công dân, mọi gia đình, dòng họ, mọi cộng đồng dân cư, và
xã hội đều có trách nhiệm tạo cơ hội và điều kiện để ai cũng được học hành, ai
cũng thực hiện được nhiệm vụ học tập suốt đời, bảo đảm mọi người đều bình
đẳng, được công bằng về giáo dục.
Thứ ba, phải có định hướng và kế hoạch xây dựng XHHT và những điều
kiện đảm bảo cho XHHT như xây dựng một hệ thống giáo dục để phục vụ việc
36
học tập suốt đời của người dân, cơ chế chính sách, cơ sở hạ tầng, văn hóa học
tập... của người dân trong xã hội đó.
Như vậy, mọi cá nhân đều có trách nhiệm học cho bản thân và cho người
xung quanh, học để góp phần phát triển quê hương, đóng góp cho đất nước và
nhân loại. Mọi cơ quan, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang, cộng
đồng dân cư và gia đình đều phải cung ứng các cơ hội học tập để mọi người học
tập suốt đời. Xây dựng XHHT dựa trên nền tảng phát triển đồng thời, có sự liên
kết giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy, đẩy mạnh giáo dục thế hệ
trẻ, đồng thời huy động và quy định chặt chẽ việc học của người lớn.
2.1.3. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội học tập
Về khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI đưa ra định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản
tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” [38, tr.88].
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
nhiều bài phát biểu, bài viết về vấn đề học tập và xây dựng XHHT. Người không
những chủ trương phải học tập suốt đời mà còn mong muốn tất cả mọi người
đều được học, thực hiện bình đẳng trong giáo dục. Năm 1946, Hồ Chí Minh đã
từng phát biểu: Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Những việc làm đầu tiên của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ngay sau Cách mạng Tháng Tám đã từng bước
hiện thực ham muốn đó. Người đã chỉ đạo toàn dân thực hiện xóa nạn mù chữ,
tiến hành phổ cập giáo dục qua các phong trào BDHV, khơi dậy một không khí
học tập sôi nổi trong dân: Chồng biết thì bảo vợ, anh biết thì dạy em... Như vậy
từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã có quan niệm và bước đầu bắt tay xây dựng một xã
37
hội đem lại sự học tập và giáo dục cho mọi người dân, để “ai cũng được học
hành”. Cùng với quan điểm đó, là một loạt những chỉ đạo thực tiễn của Hồ Chí
Minh trong việc xây dựng XHHT ở nước ta, đặc biệt là ngay sau khi Cách mạng
Tháng Tám thắng lợi, cho đến khi Người qua đời.. Người đã kêu gọi mọi người,
đặc biệt là cán bộ, quân nhân phải ra sức học tập và học tập suốt đời bởi vì việc
học là không bao giờ cùng, học mãi để tiến bộ mãi, càng tiến bộ càng thấy cần
phải học thêm. XHHT theo Hồ Chí Minh là xã hội được phổ cập nền giáo dục
cách mạng, là xã hội mang sự học đến cho tất cả mọi người, là tất cả mọi người
có cơ hội và trách nhiệm như nhau trong việc học và học suốt đời.
Rõ ràng, dù thời điểm Hồ Chí Minh sống, Người chưa một lần đề cập đến
cụm từ XHHT, nhưng từ những quan điểm và chỉ đạo thực tiễn giáo dục của Hồ
Chí Minh đã nói lên tư tưởng lớn của Người về xây dựng XHHT ở Việt Nam.
Thậm chí, tư tưởng lớn này của Người còn đi trước cả thế giới vài thập kỷ khi
mà mãi đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, UNESCO mới đề cập tới.
Từ sự phân tích và từ những khái niệm nền tảng trên, tác giả bước đầu đưa
ra khái niệm sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT là hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về sự cần thiết xây dựng XHHT, về
nội dung xây dựng XHHT, chủ thể xây dựng XHHT, mô hình xây dựng XHHT và
những phương pháp tiến hành xây dựng XHHT ở Việt Nam.
2.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI
HỌC TẬP
2.2.1. Sự cần thiết xây dựng xã hội học tập
Các Mác đã dẫn theo quan điểm của một nhà triết học: Mỗi một thời đại
xã hội đều cần có những con người anh hùng và vĩ nhân của nó, và nếu không có
những con người như thế thì thời đại sẽ sáng tạo ra những con người như thế.
Thật vậy, các anh hùng và vĩ nhân từ thời cổ đại, trung đại, cận đại đã lần lượt
xuất hiện theo yêu cầu của lịch sử. Họ chính là những người nắm bắt được nhịp
đập của thời đại, giải quyết đúng đắn và kịp thời những vấn đề thời đại đặt ra,
thúc đẩy lịch sử thoát khỏi bế tắc và tiến lên với tốc độ mới. Với trí tuệ, bản lĩnh
38
và tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh chính là vĩ nhân trong bước
ngoặt trọng đại của lịch sử dân tộc.
Hồ Chí Minh sinh ra, lớn lên khi tình hình thế giới và trong nước có nhiều
biến động, đặc biệt về chính trị. Các nước đế quốc mâu thuẫn lớn trong vấn đề
thuộc địa do sự phân chia thị trường không đồng đều, dẫn đến chiến tranh thế
giới; các nước ở Á, Phi, Mỹ la tinh rên xiết dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân, từng bước vùng lên giành độc lập. Ở trong nước, thực dân Pháp tiến hành
công cuộc nô dịch mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó
có nô dịch về giáo dục, nô dịch con người. Chính vì thế, trọng trách cho Hồ Chí
Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng là rất lớn: vừa phải giải phóng dân tộc
Việt Nam, vừa phải xây dựng đất nước, thu hẹp khoảng cách phát triển với các
nước khác. Do đó, ngoài chỉ đạo chiến lược cách mạng, Hồ Chí Minh còn hết
sức quan tâm đến giáo dục, mong muốn đưa nhân dân ta thoát khỏi sự bần hàn
về tri thức và nô dịch con người. Ý thức về việc xây dựng một XHHT ở Việt
Nam đã được Người khởi xướng từ rất sớm.
Trong hành trình khảo cứu các cuộc cách mạng và mô hình các nước trên
thế giới, Hồ Chí Minh sớm nhận thức vấn đề giáo dục có ý nghĩa quyết định đến
vận mệnh của một dân tộc. Không có một dân tộc nào phát triển mà không phát
triển giáo dục. Khi khảo sát vòng quanh thế giới, Người thấy rằng: hầu hết các
nước thuộc địa và kể cả một số nước phụ thuộc đều bị hạn chế rất nặng nề về
giáo dục, bất cập với sự phát triển chung của nhân loại và ngày càng bị khoảng
cách xa vời với văn minh và khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Chủ nghĩa đế quốc đã
dùng chính giáo dục làm công cụ, làm chỗ dựa để nô dịch các dân tộc chịu thiệt
thòi đó.
Ở Việt Nam, thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị
nhân dân ta, làm cho kinh tế ta què quặt, giáo dục ta phiến diện. Hồ Chí Minh đã
lên án gay gắt: "Làm cho dân ngu để dễ trị", đó là chính sách mà các nhà cầm
quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất” [93, tr.108]. Bằng ngòi bút
trào phúng sâu sắc, Người đã vạch trần bộ mặt thật của cái gọi là “khai hoá văn
minh” của thực dân Pháp. Với số lượng rất hạn chế, trường học Pháp lập ra
39
không phải để giáo dục cho thanh niên Việt Nam một nền học vấn tốt đẹp và
chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho
họ “đần độn” thêm. Pháp lập ra trường học để rao giảng sứ mệnh khai hóa văn
minh của Pháp, để đào tạo cho Pháp đội ngũ quan lại tay sai như tuỳ phái, thông
ngôn và viên chức nhỏ... “Vấn đề nào có liên quan đến chính trị, xã hội và có thể
làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi. Có học lịch sử nước
Pháp đi nữa, thì người ta không hề đả động đến chương nói về cách mạng. Người
ta cấm học sinh đọc tác phẩm của Huygô, Rútxô và Môngtexkiơ. Nói tóm lại,
trường học thật là tương xứng với chế độ đã khai sinh ra nó” [91, tr.424-425].
Phát biểu tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Hồ
Chí Minh tiếp tục tố cáo chính sách giáo dục mà Pháp áp dụng ở Đông Dương:
“nhà tù nhiều hơn trường học... Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do
ngôn luận... chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không
có quyền tự do học tập” [91, tr.34-35]. Mục đích của Pháp là ngăn trở sự tiếp cận
tri thức và kéo lùi sự phát triển của các dân tộc Đông Dương.
Trong bài Đông Dương đăng trên Tạp chí Thư tín quốc tế năm 1921, Hồ
Chí Minh đã viết: “Sự thật là người Đông Dương không có một phương tiện
hành động và học tập nào hết... Rượu cồn và thuốc phiện cùng báo chí phản
động của bọn cầm quyền bổ sung cho cái công cuộc ngu dân của Chính phủ.
Máy chém và nhà tù làm nốt phần còn lại” [91, tr.39-40]. Trong "Bản án chế độ
thực dân Pháp" (1925), Nguyễn Ái Quốc tiếp tục dẫn chứng rằng: ở xứ Goa-dơ-
lúp 10.000 trẻ em không có trường học. Tại Angiêri, suốt 94 năm trong số 5 triệu
dân chỉ có 35.000 học sinh được hưởng nền giáo dục nhỏ, còn 695.000 trẻ em
khác phải chịu cảnh thất học. Tại Cao Miên chỉ có 60 trường cho hơn 2 triệu
dân. Còn ở Nam Kỳ (Việt Nam) trong số hơn 2,5 triệu người chỉ có 51.000 em
được đến trường... Như vậy, thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, đất nước ta phải chịu
một nền giáo dục cưỡng bức, phiến diện, một nền giáo dục không nhằm mang lại
sự học hành và phát triển toàn diện cho người dân. Có thể nói chế độ thực dân
phản động đã tìm mọi cách kìm giữ dân tộc Việt Nam trong vòng tăm tối, dốt nát
để dễ bề thống trị.
40
Do vậy, gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc, tự do và
hạnh phúc của nhân dân, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng cuộc đấu tranh mở
mang, nâng cao trình độ dân trí nhân dân. Người là chiến sĩ tiên phong trên mặt
trận diệt dốt. Ngay sau Ngày Độc lập, Hồ Chí Minh đã coi nhiệm vụ diệt giặc
dốt cũng là nhiệm vụ chiến lược, mở đầu thời kỳ xây dựng XHHT của nhà
nước cách mạng. Người khẳng định: “Nạn dốt là một trong những phương
pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu” [94, tr.7].
Đây là sự đúc kết những khảo nghiệm quý báu mà Hồ Chí Minh có được
cả trước và trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Có thể hiểu như thế
này: Một dân tộc dốt là một dân tộc nghèo nàn về tri thức, thua kém về trí tuệ,
không thể hoặc không biết cách để làm giàu vốn hiểu biết của mình, cũng
không thể hoặc không biết cách đưa dân tộc mình tiến lên. Dân tộc yếu là dân
tộc bị thua thiệt về vị trí, thậm chí thụt lùi về khoảng cách phát triển với các
dân tộc khác.
Hồ Chí Minh coi một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, bởi sự dốt nát, nghèo
nàn về tri thức cũng là một kẻ địch. Kẻ địch này câu kết cùng giặc ngoại xâm
chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám
1945 thành công, đồng thời với cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm và “giặc
đói”, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, Chính phủ chỉ đạo toàn dân khẩn
trương diệt “giặc dốt”. Người kêu gọi:
"Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của
mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước
nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” [94, tr.40].
Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, nền giáo dục cách mạng non trẻ của
Việt Nam đã góp phần xứng đáng vào công cuộc chấn hưng đất nước, chống thù
trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng - thành quả cách
41
mạng quan trọng nhất, trước những khó khăn, thách thức tưởng chừng không thể
vượt qua. Người giao nhiệm vụ cho các thầy cô giáo: “Bây giờ nhiệm vụ giáo
dục khác trước. Các cô, các chú có nhiệm vụ rất quan trọng: Bồi dưỡng thế hệ
công dân, cán bộ sau này. Làm tốt thì thế hệ sau này có ảnh hưởng tốt. Làm
không tốt sẽ có ảnh hưởng không tốt đến thế hệ sau” [100, tr.344].
Nền giáo dục mới của nước Việt Nam đã định hướng và tạo điều kiện cho
tất cả mọi người không phân biệt giai cấp, giới tính, giàu nghèo, tôn giáo… được
học tập, có điều kiện để phát huy năng lực của mình. Nền giáo dục ấy tạo ra
những thế hệ công dân, cán bộ có đạo đức, có năng lực, có trình độ, có sức khỏe,
kế tục được sự nghiệp cách mạng. Không đâu khác, nền giáo dục đó chính là
phần hiện hữu của XHHT mà chúng ta từng bước xây dựng.
Với Hồ Chí Minh, muốn vậy phải xác định vai trò, ý nghĩa, cũng như mục
đích, động cơ học tập đúng đắn. Hồ Chí Minh đề cập đến mục đích ấy trong lời
ghi ở trang đầu cuốn Sổ vàng tại Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương (nay là
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) vào tháng 9 năm 1949:
"Học để làm việc,
làm người,
làm cán bộ.
Học để phụng sự Đoàn thể,
giai cấp và nhân dân,
Tổ quốc và nhân loại." [96, tr.208]
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn
luyện và học tập ngày 06/5/1950, Người cũng nhấn mạnh:
"a) Học để sửa chữa tư tưởng
b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng
c) Học để tin tưởng
d) Học để hành:…" [96, tr.360-361].
Trong bức thư cuối cùng gửi cho ngành giáo dục nhân dịp khai giảng năm
học 1968 - 1969, một lần nữa, Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục nhằm đào
tạo ra những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta”
42
[100, tr.508]. Như vậy, với Hồ Chí Minh, giáo dục - đào tạo con người trở thành
một chiến lược nhân văn - cách mạng, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải
phóng và phát triển con người. Hồ Chí Minh luôn xác định giáo dục là điểm xuất
phát, là động lực chủ yếu để xây dựng con người nhân văn xã hội chủ nghĩa.
Nếu như XHHT là mô hình, thì giáo dục và tự giáo dục chính là cách thức để
xây dựng mô hình đó.
Có thể nói, thành công của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng Việt Nam chính là thành công trong việc giáo dục cách mạng cho toàn
dân, mở mang và nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất
nước. Với sức mạnh tổng lực của toàn thể nhân dân đã được giác ngộ, với đội
ngũ cộng sự là những học trò, những cán bộ nòng cốt, kiên trung, Hồ Chí Minh
đã khéo léo tổ chức và hiện thực hóa được khát vọng của cả dân tộc là đánh đổ
ách thống trị ngoại bang, giành lại nền độc lập của đất nước, giành lại quyền làm
người, quyền làm chủ của nhân dân, tạo tiền đề thuận lợi để tiếp tục xây dựng xã
hội mới ngày càng văn minh và tiến bộ.
2.2.2. Nội dung xây dựng xã hội học tập
2.2.2.1. Một xã hội “ai cũng được học hành”
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [93, tr.187]. Câu nói nổi tiếng này của Hồ
Chí Minh ra đời năm 1946, khi Người trả lời phỏng vấn của các nhà báo nước
ngoài. Chúng ta thấy bóng dáng của XHHT hiện hữu trong câu nói đó: ai cũng
được học hành. Có thể xem “ai cũng được học hành” như là một tuyên ngôn của
Hồ Chí Minh về giáo dục, một tư tưởng có ý nghĩa chiến lược và giá trị thời đại
sâu sắc, luôn luôn nhất quán trong lời nói và hành động của Hồ Chí Minh.
Thời thuộc Pháp, kinh tế, xã hội, giáo dục nước ta phát triển một cách
phiến diện. Pháp lập ra trường học không phải để giáo dục cho nhân dân ta một
nền học vấn tốt đẹp và chân thực, không phải để mở mang trí tuệ và phát triển tư
tưởng cho nhân dân ta. Mục đích chính của Pháp là để đào tạo những tùy phái,
43
thông ngôn, viên chức nhỏ, tức là đào tạo một lực lượng tay sai, giúp việc mới ở
thuộc địa. Thực tế này đã được Hồ Chí Minh vạch trần và kịch liệt phê phán.
Hồ Chí Minh luôn coi giáo dục là một mặt trận quan trọng và làm sao
hướng tới cả dân tộc được học, mọi người dân đều được học. Lý tưởng kiến tạo
“nền giáo dục cho tất cả mọi người” đã được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đề
ra và luôn hướng tới trên con đường cách mạng của mình.
Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc
đã gửi Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Vécxây, trong đó điểm thứ 6
ghi rõ phải có quyền “tự do học tập” ở Việt Nam. Tự do học tập là một tư tưởng
giáo dục khẳng định giữa các giai tầng không hề có sự cách biệt về quyền được
học tập; học tập, giáo dục không phải là quyền, là đặc ân của một tập đoàn người
hay một cá nhân nào mà là quyền chung, quyền cơ bản của tất cả mọi người
không phân biệt giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi, giới tính trong xã hội.
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người đã chỉ rõ: Hết sức mở mang
giáo dục như lập trường, tổ chức nhà xem sách. Khi vạch ra Chánh cương vắn
tắt của Đảng, Người cũng đã nhấn mạnh cần thiết phải phổ thông giáo dục theo
công nông hóa và kêu gọi “thực hành giáo dục toàn dân”. Ngày 18/2/1930, trong
Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản viết bằng tiếng Anh, trình bày đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ “To make Education for
All”. 60 năm sau, trong Hội nghị Giáo dục thế giới họp ở Thái Lan năm 1990 đã
đưa ra đúng khẩu hiệu trên. Ngày nay Education for All - viết tắt là EFA được
coi là đường lối giáo dục chung của thế giới.
Từ năm 1941, khi thành lập Mặt trận Việt Minh và đưa ra chương trình 10
điểm, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh vấn đề giáo dục cho tất cả mọi người.
Tư tưởng giáo dục cho mọi người tiếp tục được triển khai ngay sau Cách
mạng Tháng Tám cùng quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Với những Sắc lệnh quan trọng ký sau ngày tuyên bố độc lập, một phong
trào diệt giặc dốt đã diễn ra trên khắp cả nước, sôi nổi không khác gì một cuộc
cách mạng. Niềm khát khao học tập của nhân dân ta bị đè nén trong suốt mấy
mươi năm nay đã có dịp được khơi dậy. Thành quả của phong trào đã đập tan di
44
sản giáo dục ngu dân (95% dân số mù chữ) mà Pháp để lại. Thực tế đất nước lúc
này, ai cũng được học hành!
Có thể nói, quan điểm “ai cũng được học hành” là một biểu hiện cao cả
của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh mà điểm xuất phát đầu tiên là từ lòng
thương yêu con người rất rộng lớn, đặc biệt là những con người nghèo khổ, bị áp
bức bóc lột. Xuất phát điểm của Hồ Chí Minh là yêu thương con người, và đích
đến cũng luôn luôn hướng về con người. Dường như trong quan điểm này của
Hồ Chí Minh, người ta còn thấy có cả tư tưởng “hữu giáo vô loài” (dạy người
chẳng cần phân biệt) của triết học phương Đông mà đại diện là Khổng Tử, lại có
cả bóng dáng của triết học phương Tây thế kỷ XVIII “giáo dục bình đẳng cho
mọi trẻ em”, đặc biệt là tư tưởng nhân văn cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin về
giáo dục phổ cập cho con người. Sau này, Đảng ta thực hiện các cuộc cải cách
giáo dục, tiến hành phổ cập giáo dục cho từng cấp học, bậc học, đó chính là sự
tiếp nối tư tưởng “ai cũng được học hành” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.2.2.2. Một xã hội phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của con người
Trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước, con người luôn phải đặt ở vị trí trung tâm của sự
phát triển. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo, dìu dắt con người.
Chẳng thế mà mượn ý của Quản Trọng (tức Quản Di Ngô - nhà chính trị, tư
tưởng, quân sự nổi tiếng thời Xuân Thu của Trung Quốc), nhiều lần Người nhắc
nhở: Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.
Theo Hồ Chí Minh, nhân cách của con người bao gồm hai mặt: mặt Đức
và mặt Tài. Hai mặt này được biểu hiện sinh động trong lao động sản xuất, bảo
vệ Tổ quốc, trong ứng xử và giao lưu giữa người với người, giữa người với xã
hội và trong ứng xử với chính mình. Nói khái quát, Đức và Tài thể hiện năng lực
của con người trong những quan hệ xã hội.
Hồ Chí Minh cho rằng, là người từ khi sinh ra, ai cũng có những năng lực
tiềm tàng bên trong mà theo cách nói của Người, đó là những năng lực sẵn có
trong con người. Làm thế nào để phát huy được những năng lực sẵn có, những
sức mạnh tiềm tàng ấy? Đó chính là nhờ vai trò của giáo dục - đào tạo. Trong
45
XHHT, nếu giáo dục tốt sẽ làm cho những năng lực ấy trở thành sức mạnh bản
chất của con người. Ai ai trong dân tộc ấy cũng được phát triển hoàn toàn những
năng lực sẵn có thì đó sẽ là một xã hội tiên tiến nhất, nhân văn nhất. Hồ Chí
Minh tin tưởng rằng, trong xã hội ai ai cũng được hưởng những thành tựu của
nền giáo dục cách mạng thì sẽ làm nảy nở và phát triển đầy đủ những tiềm năng
bên trong của con người.
Ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong
niềm phấn chấn của triệu triệu học sinh cắp sách đến trường thừa hưởng những
thành quả đầu tiên của nền giáo dục độc lập, Hồ Chí Minh viết thư cho học sinh
cả nước, trong đó có đoạn viết: “Ngày nay, các em được cái may mắn hơn cha
anh là được hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục
nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam,
một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”
[94, tr.34]. Người nhấn mạnh đó là nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam. “Phát triển
hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”, đó vừa là mục tiêu, vừa là định
hướng, vừa là nhiệm vụ, cũng đồng thời là một khía cạnh quan trọng trong quan
niệm của Hồ Chí Minh về XHHT.
Về nội dung học tập trong XHHT, theo Hồ Chí Minh, để có thể phát triển
một cách toàn diện, có được một vốn tri thức phong phú, thì phải trau dồi, học
tập ở tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: "Trong việc giáo dục, học tập, chú
trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ cách mạng xã hội chủ nghĩa, văn
hóa, kinh tế, lao động và sản xuất. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định
phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận
Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Cần phải học kinh
nghiệm tốt của các đoàn thanh niên bạn" [103, tr.90].
Đối với lý luận Mác - Lênin, Hồ Chí Minh xác định cách mạng cũng là
một nghề, rằng "làm nghề gì cũng phải học, vậy làm cách mạng cũng phải học.
Nếu không giáo dục cho đảng viên làm cách mạng mà cứ yêu cầu họ làm cách
mạng thì họ không làm tròn được nhiệm vụ" [105, tr.294]. Vì vậy, mỗi cán bộ,
đảng viên phải ra sức học tập ở nhà trường và qua thực tiễn. Đảng ta tổ chức
46
trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta nhằm
giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta,
để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ
cách mạng vĩ đại của mình. Tất cả những yêu cầu trên chỉ đạt được kết quả khi
có lập trường giai cấp vững vàng, mà tiền đề quan trọng chính là nắm vững
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Theo Hồ Chí Minh: "Chủ nghĩa Mác - Lênin soi phương hướng, đường
lối cho chúng ta đi. Có phương hướng đúng thì làm việc mới đúng. Hết lòng hết
sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc; bất kỳ việc to việc nhỏ cũng nhằm
mục đích ấy; đó là chủ nghĩa Mác - Lênin" [100, tr.290]. Trong việc giáo dục và
học tập lý luận chính trị, Người còn lưu ý, phải chú trọng các mặt: đạo đức cách
mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất, học đi
đôi với hành… Vì có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức
cách mạng, giữ vững được lập trường, nâng cao sự hiểu biết, mới làm tốt công
tác được giao. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả mọi người, đặc biệt là cán bộ
đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận và chính trị là một
nhiệm vụ quan trọng của mình.
Giáo dục, học tập lý luận Mác - Lênin không phải giáo điều theo từng câu
chữ của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà phải nắm vững lập trường, quan điểm,
phương pháp, tinh thần cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp
thu và kết hợp được tinh hoa văn hóa của dân tộc cũng như của nhân loại, cũng
không phải thuộc lòng từng câu chữ, đem kinh nghiệm của các nước áp dụng
một cách máy móc, mà học để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách
mạng nước ta. Theo Hồ Chí Minh, việc giáo dục lý luận Mác - Lênin cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân là để giúp họ nắm được bản chất cách mạng và khoa học
của học thuyết đó. Người nói rõ: "Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái
tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập
những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng
tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta" [101, tr.611].
47
Như vậy, trong quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin
không chỉ là vũ khí lý luận để cải tạo thế giới, mà còn là vũ khí lý luận để cải tạo
chính bản thân mình. Lý luận Mác - Lênin là khoa học làm người, góp phần hình
thành đạo đức mới, nếp sống mới của người cách mạng. Người xem học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin là đạo đức cách mạng. Người căn dặn chúng ta: "Hiểu chủ
nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin
được" [105, tr.668].
Đạo đức cách mạng là vấn đề mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Trong
mối quan hệ giữa đức và tài, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là gốc của người
cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa quyết định của việc xây dựng con người mới.
Muốn làm người, trước hết phải biết làm việc để phục vụ nhân dân, phục vụ
cách mạng, không có tri thức, không có văn hóa thì không thể xây dựng chủ
nghĩa xã hội được. Muốn làm việc đồng thời phải biết làm người tốt, do đó đức
là gốc, nếu không có đức thì vô dụng. Đạo đức phải hình thành qua học tập, lao
động sản xuất, đấu tranh cách mạng, trong sự giúp đỡ và học hỏi nhân dân. Đó là
đạo đức trong hành động. Hồ Chí Minh yêu cầu việc tu dưỡng, học tập đạo đức
cách mạng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục như trong công tác hàng
ngày, bởi lẽ "đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong" [101, tr.612].
Trong nội dung học tập toàn diện, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc đến
sự kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa khoa học với chính trị "học làm tính, học chính
trị, học lịch sử, học khoa học thường thức" [95, tr.469]. Người cho rằng nếu
không học văn hóa thì không thể tiếp thu khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ
chuyên môn mà không có văn hóa, khoa học kỹ thuật thì làm sao đạt đến đỉnh
cao chính trị. Nhưng, nếu chỉ học văn hóa và khoa học kỹ thuật mà không học
tập chính trị thì như người nhắm mắt mà đi, không biết đi đâu về đâu. "Nếu
không học tập văn hoá, không có trình độ văn hoá thì không học tập được kỹ
thuật, không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh tế nước
48
nhà; nhưng phải chú ý học tập chính trị vì nếu chỉ học văn hoá, kỹ thuật mà
không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi" [100, tr.384].
Bên cạnh đó, việc học tập các kinh nghiệm thực tế cũng được Hồ Chí
Minh đặt ra. Kinh nghiệm là những tri thức được tích lũy qua bề dày thời gian,
chứ không thể có được do một sớm một chiều. Hồ Chí Minh đánh giá: "Đó là
những kinh nghiệm do những người đi học mang đến, kinh nghiệm thành công
cũng như kinh nghiệm thất bại. Những kinh nghiệm đó đem trao đổi, gom góp
lại tức là những bài học quý, không phải cứ chờ đồng chí cấp trên đến nói
chuyện thì mới là bài, là học" [96, tr.360]. Việc học tập các kinh nghiệm thực tế
này có ý nghĩa thực tiễn to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Là
người lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh rất chú ý đọc và học kinh
nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và
đặc biệt là Trung Quốc, một nước láng giềng có hoàn cảnh giống ta. Người đã
đọc lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, các
báo cáo chính trị các Đại hội của các Đảng bạn, các báo cáo về kế hoạch 5 năm,
một số sách chuyên đề như nông nghiệp, hợp tác xã... Qua dấu bút chúng ta có
thể thấy, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến học hỏi kinh nghiệm của các nước bạn
để phục vụ cho cách mạng Việt Nam.
Rõ ràng, học tập và học tập suốt đời là một yêu cầu không thể thiếu được
đối với tất cả mọi người, nhất là trong XHHT. Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi người
trong vấn đề tự học phải toàn diện, học lý luận Mác - Lênin, học văn hóa, khoa
học, kỹ thuật, học đạo đức, học kinh nghiệm cách mạng... Nó hoàn toàn phù hợp
với chủ trương giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước ta.
2.2.2.3. Một xã hội bình đẳng về giáo dục và không mất tiền
Từ rất sớm khi còn trong thời kỳ định hình con đường giải phóng dân tộc,
Hồ Chí Minh đã luôn trăn trở và mơ ước một nền giáo dục bình đẳng cho toàn
dân Việt Nam. Nửa đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh ở Pháp và có dịp tiếp xúc với
nền văn hóa Pháp cũng như văn hóa phương Tây. Người rất chú ý đến quan
điểm của Rútxô với Dân ước, Môngtétxkiơ với Vạn pháp tinh lý... Khi soạn
thảo Yêu sách của nhân dân An Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh một trong tám
49
điều là quyền tự do giáo dục, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp
cho người bản xứ. Người mong mỏi một ngày nào đó ở Việt Nam, mọi trẻ em
đều được học, được chăm sóc tinh thần và thể chất, được học hỏi ở các thư
viện, cung văn hóa, được nghỉ hè ở các “cung điện”... mà không phải đóng bất
cứ một lệ phí nào.
Chính vì thế, trong Chương trình Việt Minh năm 1941, ở mục văn hóa
giáo dục, Hồ Chí Minh ghi lên hàng đầu: Hủy bỏ nền giáo dục nô lệ. Gây dựng
nền quốc dân giáo dục. Cưỡng bức giáo dục từ bậc cơ sở. Mỗi dân tộc có quyền
dùng tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục dân tộc mình. Chương trình còn có điều
khoản nói đến việc học hành của học sinh: Bỏ học phí, bỏ khai sinh hạn tuổi.
Những chính sách của Việt Minh đã được Hồ Chí Minh diễn ca thành một
bài thơ lục bát, hết sức giản dị, hết sức dễ hiểu nhưng vẫn thể hiện đầy đủ tư
tưởng dân chủ, bình quyền, nhân văn trong đó:
“Thanh niên có trường học nhiều,
Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho.
Đàn bà cũng được tự do,
Bất phân nam nữ, cũng cho bình quyền.
Người tàn tật, kẻ lão niên,
Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho.
Trẻ em bố mẹ khỏi lo,
Dạy nuôi, Chính phủ giúp cho đủ đầy” [93, tr.243].
Sự bình đẳng trong giáo dục Hồ Chí Minh còn hướng tới cả đồng bào dân
tộc thiểu số. Sau Cách mạng Tháng Tám, trong khi cả nước có trên 90% người
mù chữ, thì tỷ lệ này trong 53 dân tộc thiểu số ở các vùng Việt Bắc, Tây Bắc,
Tây Nguyên cao hơn nhiều. Trong bức thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số ngày
3/12/1945, Hồ Chí Minh đã viết: “Đồng bào có nhiệm vụ (bảo vệ Tổ quốc) thì
có quyền lợi, quyền lợi của các dân tộc thiểu số là: Chính phủ sẽ chú ý để nâng
cao giáo dục làm cho ai cũng được học hành” [92, tr.156].
Như vậy từ sơ khai mô hình nhà nước độc lập, Hồ Chí Minh đã ý thức rất
rõ con đường để xây dựng nền giáo dục toàn dân, XHHT. Đó là thực hiện bình
50
đẳng, dân chủ trong giáo dục và hoàn toàn không mất tiền. XHHT là ai cũng
học, ai cũng được học thì rào cản về học phí, rào cản về sự bất bình đẳng giữa
giai cấp, lứa tuổi, địa vị, vùng miền... phải được xóa bỏ. Điều đó càng cho thấy
cái Tâm, cái Tầm vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.2.3. Mô hình xây dựng xã hội học tập
Khoảng giữa năm 1949, Báo Cứu Quốc có đăng một loạt 4 bài báo của
Hồ Chí Minh với bút danh Lê Quyết Thắng: Thế nào là Cần, 30/5/1949; Thế
nào là Kiệm, 31/5/1949; Thế nào là Liêm, 1/6/1949; Thế nào là Chính, 2/6/1949.
Nội dung của 4 bài báo này đã được Người tập hợp thành sách với tên gọi “Cần
kiệm liêm chính”. Điều làm chúng ta ngỡ ngàng và tự hào là, chỉ với 4 câu ngắn
gọn trong tác phẩm này, Hồ Chí Minh đã đề cập đến tất cả những mô hình học
tập mà ta đang xây dựng hiện nay:
“Người siêng năng thì mau tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu” [96; tr118].
Xét ở góc độ xây dựng XHHT thì:
Người siêng năng ứng với mô hình công dân học tập mà ta đang
hướng đến.
Nhà siêng năng ứng với mô hình gia đình học tập.
Làng siêng năng ứng với mô hình cộng đồng học tập, đơn vị học tập (thôn
bản học tập, cộng đồng học tập cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh).
Nước siêng năng ứng với mô hình XHHT, trong đó có một nền giáo dục
mở, đáp ứng mọi nhu cầu trao đổi và tiếp nhận tri thức của con người.
Trong mô hình công dân học tập, Hồ Chí Minh cho rằng đó phải là con
người hội tụ đầy đủ cả đức và tài, vừa hồng vừa chuyên. Để trở thành công dân
học tập thì phải siêng năng: năng học, năng làm, năng tiến bộ. Với mục tiêu của
chiến lược “trồng người” là “dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân
tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà” [98,
tr.448], theo Người, phải xây dựng một nền giáo dục toàn diện để đào tạo những
51
con người có đức, có tài. Nền giáo dục đó phải kết hợp chặt chẽ giữa học và
hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, gắn liền giáo dục của nhà trường với gia
đình và xã hội, học suốt đời, kết hợp tự học với học trong nhà trường, học trong
sách vở và học trong cuộc sống.
Hồ Chí Minh đề cập đến con người trên 4 khía cạnh: người công dân tốt,
người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt. Không nên hiểu đây là 4
mẫu người riêng lẻ mà theo Hồ Chí Minh, đó là những vai trò khác nhau của
một con người toàn diện: người công dân tốt khi anh thực thi đầy đủ quyền và
nghĩa vụ đối với xã hội; người lao động tốt khi anh làm việc có năng suất, chất
lượng đối với công việc; người chiến sĩ tốt khi anh hoàn thành mọi nhiệm vụ
trên mặt trận của mình; và người cán bộ tốt khi anh xử lý hiệu quả đối với công
việc và đối với mọi người. Tức là trong hoàn cảnh nào, ở cương vị nào, con
người cũng luôn luôn nỗ lực học tập và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trong mô hình gia đình học tập, Hồ Chí Minh đã chú ý xây dựng từ ngay
sau Cách mạng Tháng Tám. Có một lần Người nhắc tới mô hình này nhưng với
cách diễn đạt khác: “gia đình học hiệu” [95, tr.63]. Năm 1947, khi về thăm tỉnh
Thanh Hóa, Người có nhắc đến như là kiểu mẫu cho những cách không cần tốn
tiền mà vẫn học được, như "gia đình học hiệu", "tiểu giáo viên", cả làng chung
gạo nuôi một thầy giáo, v.v.. Người còn gợi ý những cách học không tốn tiền
khác như dùng cát để thay giấy, dùng lẽ tre để thay bút viết. Thật hiếm có đâu
như ở Việt Nam “Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ
không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, các
người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở
hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở
lớp học cho những tá điền, những người làm của mình” [94, tr.41]. Đó thực sự là
một mô hình học tập rất bình đẳng và nhân văn.
Trong mô hình cộng đồng học tập, XHHT, Hồ Chí Minh cho rằng đây là
sự nhân rộng tất yếu của người người học tập, nhà nhà học tập. Ở Việt Nam,
nhiều người nhóm lại mà thành làng, nhiều làng nhóm lại mà thành nước, đó là
những cộng đồng từ nhỏ đến lớn. Trong những cộng đồng này, Hồ Chí Minh đặc
52
biệt nhấn mạnh “người là gốc của làng nước” [95, tr.117], là hạt nhân cốt lõi của
cộng đồng. Nếu mỗi người đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh. Nếu mỗi
người đều siêng năng thì thành làng siêng năng, nước siêng năng. Cách dùng từ
của Hồ Chí Minh vừa đắt, vừa độc là thế. Mô hình nào Hồ Chí Minh cũng đòi
hỏi phải siêng năng, phải ham học. “Siêng học tập thì mau biết. Siêng nghĩ ngợi
thì hay có sáng kiến. Siêng làm thì nhất định thành công” [96, tr.118]. Siêng
năng là phương tiện để đạt được thành quả: Người siêng năng thì người mau tiến
bộ, nhà siêng năng thì nhà no ấm, làng siêng năng thì làng phồn thịnh mà nước
siêng năng thì nước mạnh giàu.
Trên thế giới hiện nay, nhiều quốc gia đã và đang xây dựng mô hình
XHHT. Thế mà cách chúng ta hơn 70 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra
những vấn đề lý luận hết sức chặt chẽ cho mô hình XHHT ở Việt Nam: xây
dựng XHHT từ cơ sở, từ nhỏ đến lớn, từ hẹp đến rộng. XHHT là phải bắt đầu từ
mỗi người (người siêng năng) đến mỗi nhà (nhà siêng năng), rộng hơn nữa là
mỗi cộng đồng (làng siêng năng) và toàn xã hội (nước siêng năng). Nếu coi mô
hình XHHT như là một ngôi nhà, thì con người chính là từng viên gạch đỏ trong
ngôi nhà đó. Xây dựng quốc gia học tập, trước hết phải bắt đầu từ những thành
tố nhỏ nhất đó chính là con người học tập trong quốc gia đó. Mỗi một người
phấn đấu trở thành công dân học tập, mỗi một nhà trở thành gia đình học tập,
mỗi cơ quan trở thành đơn vị học tập, mỗi cộng đồng trở thành cộng đồng học
tập. Đây vừa là mô hình, vừa là điều kiện để xây dựng XHHT ở Việt Nam theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2.4. Chủ thể xây dựng xã hội học tập
Hồ Chí Minh luôn có niềm tin vào con người và sức mạnh của con người.
Do đó, Người cũng thường xuyên nhắc nhở mọi người phải cố gắng thực hiện
các mục tiêu cách mạng. Đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và xây dựng
XHHT nói riêng, Người xác định chủ thể đó chính là con người.
XHHT là yêu cầu mọi người, ở mọi lứa tuổi không ngừng học tập nhằm
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thời đại. Trong xã hội đó, Hồ Chí Minh luôn
xác định học tập là yêu cầu đối với tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ, trai
53
gái, tôn giáo, nghề nghiệp. Bởi lẽ, tri thức nhân loại thì vô cùng vô hạn và ngày
càng phát triển, nếu tự bản thân mỗi người không tự học, không tự trau dồi kiến
thức thì sớm muộn cũng bị lạc hậu và thoái bộ. "Xã hội càng đi tới, công việc
càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc
hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình" [101, tr.333]. Khi xác định đối tượng
xây dựng XHHT, Hồ Chí Minh nhấn mạnh ở hai khía cạnh: một là những chủ
thể trực tiếp tham gia xây dựng XHHT, hai là những khách thể được thừa hưởng
thành quả của việc xây dựng XHHT đó. Dù ở khía cạnh nào thì Hồ Chí Minh
cũng đều hướng tới con người, ở đây chính là tất cả mọi người, không chỉ đối
với những người đang trực tiếp giảng dạy, học tập, không chỉ đối với thế hệ trẻ
mà là tất cả mọi tầng lớp, giới tính, tuổi tác, chức vụ... đều phải ra sức học tập và
học tập suốt đời.
Đối với người cao tuổi là những người đã có sự trải nghiệm về kinh
nghiệm sống cũng như kinh nghiệm công tác, có sự tích lũy tri thức nhất định.
Trong số họ có những người tạm hài lòng với những gì mình đã đạt được, hoặc
có những người rơi vào tâm lý ngại học, sợ học vì lý do tuổi tác. Thấu hiểu tâm
lý đó, Hồ Chí Minh bày tỏ: "Bác thường nghe nói có đồng chí mới 40 tuổi mà đã
cho mình là già cho nên ít chịu học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi
chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học
và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động
cách mạng" [105, tr.113]. Đó cũng là yêu cầu chung mà Hồ Chí Minh đặt ra đối
với tất cả mọi người.
Năm 1961 khi về thăm quê lần thứ hai, gặp gỡ bà con quê hương xứ
Nghệ, Người không quên nhắc nhở: "Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải
học. Việc lớn, việc nhỏ, tôi phải tham gia. Công việc cứ tiến mãi. Không học thì
không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau" [103, tr.273].
Đối với thanh thiếu niên, là thế hệ các mạng kế cận được Hồ Chí Minh
luôn luôn quan tâm dìu dắt. Họ là lực lượng đông đảo, có sức khỏe, có trí tuệ,
góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Nhân ngày khai
giảng năm học mới, Hồ Chí Minh gửi thư cho học sinh, sinh viên cả nước, ân
54
cần chỉ rõ cho những người chủ tương lai của nước nhà về vinh dự được hưởng
một nền giáo dục cách mạng. Người đặt kỳ vọng: "Ngày nay chúng ta cần phải
xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo
kịp các nước khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông
mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của
các em" [94, tr.35]. Từ đó Người yêu cầu thanh niên cần phải có tinh thần gan dạ
và sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó
khăn, gian khổ để tiến mãi không ngừng, "phải học tập mãi, tiến bộ mãi, mới
thật là thanh niên" [100, tr.216].
Trong công cuộc xây dựng XHHT, kiến thiết nước nhà, Người khuyên
thanh niên, học sinh, sinh viên phải có động cơ học tập đúng đắn để xứng đáng
với vai trò làm chủ đất nước nước. Ta thấy được hàm ý sâu sắc của Người khi
nhắc nhở thanh niên trong vấn đề học tập. Trả lời câu hỏi “học để phụng sự ai?”,
Người định hướng: “Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu,
nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà” [99, tr.179].
Nhắc nhở thanh niên về phương pháp học tập cũng như xây dựng XHHT,
Người chỉ rõ: Học phải đi đôi với hành. Đặc biệt, trong bất cứ hoàn cảnh nào và
ở đâu, thì thanh niên, sinh viên phải là lực lượng xung kích trong học tập, tiếp
nhận tri thức cho mình và truyền đạt tri thức cho mọi người: Khi ở nhà, phải
thương yêu cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ về công việc, giúp đỡ về tinh thần (học được
điều gì về tình hình trong nước và thế giới thì nói lại cho cha mẹ nghe). Khi ở
trường thì phải đoàn kết, giúp đỡ anh chị em, thi đua học tập; đoàn kết giữa thầy
và trò, làm cho trường mình luôn luôn tiến bộ. Đến khi ở ngoài xã hội thì có thể
làm được nhiều việc có ích bằng khả năng của mình như: tuyên truyền vệ sinh,
giúp đỡ các em nhi đồng, xung phong dạy BDHV, v.v…
Hồ Chí Minh rất chú trọng đến việc học tập phấn đấu vươn lên của mỗi
thanh niên. Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày Cách mạng Tháng Tám, Người đã gửi
thư căn dặn thanh niên nước ta phải ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị,
55
văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ
quốc, cho nhân dân. Người còn chỉ rõ: làm nghề gì cũng phải học, mục đích của
việc học không gì khác hơn là để nâng cao năng lực, làm cho kinh tế phát triển,
chiến đấu thắng lợi, đời sống của nhân dân ngày càng no ấm, tươi vui.
Đối với giáo viên, Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, chức năng, nhiệm vụ
của các thầy giáo, cô giáo. Trong công cuộc xây dựng XHHT thì nhiệm vụ của
các thầy giáo, cô giáo càng quan trọng hơn bao giờ hết. Thầy giáo, cô giáo vừa là
chủ thể góp phần giáo dục, đào tạo và xây dựng XHHT cho xã hội, vừa là đối
tượng được nhận lấy mọi thành quả của XHHT ấy. Hơn ai hết, "Nhiệm vụ của
các cô giáo, thầy giáo rất nặng nề nhưng rất vẻ vang" [104, tr.747]. Có lúc Người
diễn đạt: "Nhiệm vụ của cô giáo, thầy giáo là rất quan trọng và rất vẻ vang" [105,
tr.508]. Từ đó, Hồ Chí Minh nhắc nhở đội ngũ nhà giáo thường xuyên "học, học
nữa, học mãi" để nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ văn hóa, trình độ chuyên
môn và nghiệp vụ sư phạm. Người yêu cầu cô giáo, thầy giáo muốn làm tròn
nhiệm vụ đó thì phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, không ngừng bồi dưỡng
đạo đức cách mạng, lập trường chính trị; phải ra sức đoàn kết giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ.
Hồ Chí Minh cũng cảnh báo đội ngũ cán bộ và giáo viên về những căn
bệnh trong tư duy và hành động xây dựng XHHT. Kẻ thù của sự học tập và tiến
bộ chính là sự tự hài lòng, tự thỏa mãn với tri thức mình có. Người nhắc nhở:
"Chớ tự túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại. Mà dừng lại là lùi bước, là lạc
hậu, mình tự đào thải trước” [102, tr.266]. Biện pháp cho vấn đề này là mỗi cán
bộ, giáo viên phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải
tạo con em và giúp vào việc cải tạo xã hội. Tại Đại hội chiến sĩ thi đua toàn
ngành Giáo dục (tháng 2/1956), Hồ Chí Minh căn dặn: "Các cô, các chú là
những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm,
học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi, thì sẽ không theo kịp đà
tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu" [100, tr.273-274].
Thầy giáo, cô giáo "phải gương mẫu" được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đi
nhắc lại nhiều lần trong các bài nói chuyện với các nhà trường. Đặc biệt, Người
56
lưu ý: Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hoá, chuyên môn, đức là
chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức mới đào tạo những
công dân tốt, những cán bộ tốt sau này.
Đối với cán bộ, đảng viên cũng phải không ngừng học và tự học. Người
huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình.
Người dẫn lời của Lênin: Học, học nữa, học mãi. Mỗi người đều phải ghi nhớ và
thực hành điều đó, những người huấn luyện lại càng phải ghi nhớ hơn ai hết.
“Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất”
[96, tr.356]. Năm 1966, nói chuyện với lớp đảng viên mới của Hà Nội, Người
nhắc nhở: "Thời kỳ bí mật, điều kiện học tập của đảng viên rất khó khăn: thiếu
thầy, thiếu sách, thiếu tự do, nhưng cán bộ và đảng viên vẫn quyết tâm vì cách
mạng mà học, dù hoàn cảnh khó khăn thế nào cũng tìm đủ mọi cách mà học.
Bây giờ điều kiện thuận lợi nhiều, cho nên các cô, các chú càng phải ra sức học
tập cho tốt" [95, tr.116].
Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, học tập là yêu cầu, là nhiệm vụ của tất cả
mọi người, không loại trừ một đối tượng nào. Bởi lẽ, thế giới luôn luôn vận động
và ngày càng đổi mới, tri thức nhân loại ngày càng phong phú, khoa học kỹ thuật
ngày càng phát triển... Tất cả tiến bộ rất nhanh, những ai không muốn mình bị
đào thải, bị đẩy ra khỏi guồng quay ấy thì phải biết học hỏi không ngừng để
nâng cao trình độ và phẩm chất đạo đức. Sự học không bao giờ có điểm dừng:
"Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng
phải học thêm" [96, tr.61].
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh là một dẫn chứng điển hình, cụ thể về tự học và
học suốt đời trên tất cả các lĩnh vực: tự học ngoại ngữ, tự học viết thơ viết văn,
tự học cách tổ chức cuộc sống theo khoa học, tự học lý luận, tự học chính trị,
quân sự, tự học triết học, tự học ngoại giao, tự học quan hệ quần chúng… Kết
quả là lĩnh vực nào Người cũng thông thạo tuyệt vời, và trở thành anh hùng giải
phóng dân tộc, thành nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới.
57
2.2.5. Phương pháp xây dựng xã hội học tập
2.2.5.1. Giáo dục thường xuyên, học tập suốt đời
Nếu như tự học là yếu tố cốt lõi trong XHHT thì yếu tố đó phải được duy
trì thường xuyên, đều đặn, hàng ngày, việc học phải là học tập suốt đời. Một xã
hội là XHHT chỉ khi nào mỗi thành viên trong đó đều coi GDTX, học tập suốt
đời là một nhiệm vụ cách mạng. Bởi như Hồ Chí Minh cảnh báo, xã hội ngày
càng phát triển, công việc ngày càng nhiều, máy móc ngày càng tinh xảo, để
không lạc hậu, không bị đào thải, phải không ngừng học tập. Người khẳng định:
“Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng
phải học thêm” [96, tr.61].
Để đáp ứng nhu cầu của tình hình mới khi thế giới luôn vận động và ngày
càng đổi mới, tri thức nhân loại ngày càng phong phú, khoa học kỹ thuật ngày
càng phát triển... mỗi người phải không ngừng cố gắng nâng cao cả năng lực,
trình độ và phẩm chất đạo đức của bản thân. Nói chuyện với cán bộ, công nhân
nhà máy cơ khí Hà Nội (2/2/1960), Hồ Chí Minh đã căn dặn: Bây giờ làm việc
bằng máy móc tinh xảo nên việc học tập văn hóa, nâng cao trình độ kỹ thuật là
cần thiết, không có trình độ văn hóa và kỹ thuật thì không thể điều khiển được
máy móc hiện đại.
Tu dưỡng đạo đức cũng phải thường xuyên và suốt đời bởi theo Hồ Chí
Minh đạo đức cách mạng không tự nhiên mà có, mà do đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà ngày càng phát triển và củng cố. Phẩm chất đạo đức cá nhân
cần không ngừng rèn luyện như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong”. Thực tế đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: mỗi con người, mỗi đảng
ngày hôm qua là vĩ đại, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi
người yêu mến, ca ngợi nếu lòng dạ không còn trong sáng, nếu sa vào chủ nghĩa
cá nhân. Do đó, tu dưỡng đạo đức phải là hoạt động thường xuyên, suốt đời.
Học tập, tu dưỡng là công việc suốt đời, không bao giờ cùng là trách
nhiệm của mỗi người, không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Chỉ
có không ngừng học tập, nâng cao trình độ mỗi cá nhân mới không ngừng tiến
bộ và từng bước vươn tới chiếm lĩnh đỉnh cao trí tuệ của nhân loại.
58
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh chính là tấm gương mẫu mực về tự học và học
suốt đời. Người không có nhiều điều kiện học tập "chính quy" trên ghế nhà
trường. Đối với Người, việc ngồi học trên ghế nhà trường chỉ là bắt buộc, là điều
kiện để hoạt động cách mạng. Cả cuộc đời Hồ Chí Minh, tự học vẫn là chính.
Nói chuyện với đồng chí Vũ Kỳ (là người được Thường vụ Trung ương Đảng
chọn làm thư ký cho Bác), Người vui miệng hỏi: "Chú có biết Bác học chính
thức trên ghế nhà trường hết lớp mấy không?". Rồi tự trả lời luôn: "Bác học
chính thức trên ghế nhà trường chỉ hết lớp nhì của bậc tiểu học". Nói chuyện tại
Hội nghị chuyên đề sinh viên quốc tế tại Việt Nam, Người tâm sự: "Về văn hóa:
Tôi chỉ học hết lớp tiểu học... Về hiểu biết phổ thông: Năm 17 tuổi, tôi mới thấy
ngọn đèn điện lần đầu tiên, 29 tuổi mới nghe rađiô lần đầu tiên" [59, tr.187].
Ngày 17/8/1962, nói chuyện với giáo viên, học sinh trường Thanh niên lao động
xã hội chủ nghĩa Hòa Bình, Hồ Chí Minh kể lại: "Trước đây lúc tuổi thanh niên,
Bác hoạt động ở Pháp, cũng vừa lao động, vừa học tập, nhưng lúc đó lao động là
lao động nô lệ cho đế quốc. Bác phải làm thế để tự kiếm sống, nhưng vẫn dành
thì giờ để học tập, ngày lao động, đêm học tập, chứ Bác không được đến trường
học đâu" [59, tr.437]. Chẳng thế mà trong bản khai lý lịch tại Đại hội VII Quốc
tế cộng sản, Người ghi ở mục Trình độ học vấn là Tự học.
Tuy nhiên, chính nhờ tự học và học suốt đời đã giúp Hồ Chí Minh có một
tầm hiểu biết rộng lớn Đông Tây kim cổ, có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, có
trí tuệ thiên tài không ai sánh kịp. Đồng chí Gớt Hôn, Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Mỹ viết: "Đồng chí Hồ Chí Minh là một lãnh tụ trong lĩnh vực lý luận và tư
tưởng. Người là một lãnh tụ chính trị. Nhưng Người cũng là một lãnh tụ xuất sắc
về quân sự. Đây không phải là những lĩnh vực cách biệt trong tài trí cao rộng của
Người". Báo Diễn đàn nhân dân, cơ quan Trung ương của Đảng Công nhân
thống nhất Ba Lan viết: "Mặc dù tuổi cao, Người không những giữ được hình
dáng trẻ trung mà còn giữ được sự trong sáng của con người trai trẻ và trí tuệ
minh mẫn". Báo chí Bungari ca ngợi Người có "tầm hiểu biết uyên bác về Châu
Á". Đồng chí Giôn Gôlan nói: "Đây quả là một con người vĩ đại nhưng không
bao giờ tỏ ra mình là một con người vĩ đại" [59, tr.26].
59
Bạn bè thế giới đều nhận định: Hiếm có một chính khách nào của thế kỷ
XX có thể sánh được với Nguyễn Ái Quốc về trình độ học vấn và sự thông minh
trong cuộc đời. Nhà văn Liên Xô Manđenxtam trầm trồ khi thấy từ Nguyễn Ái
Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa Âu châu mà có lẽ là "nền văn
hóa tương lai". Nếu không có quá trình tự học, tự tích lũy, trải nghiệm và vươn
lên không ngừng thì thật khó ai có được điều đó.
Ngày nay, vấn đề GDTX, học tập suốt đời trở thành một trong những
chiến lược giáo dục của toàn nhân loại hướng vào việc “tiến bộ thêm mãi” của
nền văn minh, hướng vào “tiến lên bước cao hơn” của sự phát triển khoa học, kỹ
thuật, kinh tế và tiến bộ xã hội.
2.2.5.2. “Lấy tự học làm cốt”
Sự nghiệp xây dựng XHHT không thể thiếu yếu tố cốt lõi là học tập và tự
học. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, thì tư tưởng về tự học, đặc biệt là
tấm gương sáng của Người về tự học và học suốt đời là bài học vô giá đối với
mỗi thế hệ chúng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm giàu vốn tri thức của mình
bằng vốn tri thức tiên tiến nhất của thời đại, Người trở thành Anh hùng giải
phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất thông qua con đường tự học. Hồ Chí Minh
là một tấm gương, đồng thời là nhà lý luận lớn về tự học. Trong suốt cuộc đời,
Người chỉ một lần định nghĩa về tự học trong một câu nói ngắn gọn, súc tích
nhưng đầy tư tưởng. Điều đặc biệt là mặc dù câu nói đó ra đời cách đây đã lâu
nhưng lại rất phù hợp với quan điểm về tự học của giáo dục học hiện đại.
Theo Hồ Chí Minh, tự học là "tự động học tập" [96, tr.360]. Có nghĩa là
việc học tập là do chính bản thân người học quyết định, người học tự giác, tự chủ
không cần sự nhắc nhở, giao nhiệm vụ của người khác. Tự mình nhận thấy nhu
cầu của bản thân để rồi từ đó tiến hành việc tự học. Hồ Chí Minh giải thích: "Tự
động là không phải tựa vào ai, là tự mình biết biến báo xoay xở, tự mình biết
thực hành công tác theo nhiều hình thức mới mẻ, phong phú" [94, tr.44]. Như
vậy, theo Hồ Chí Minh, tự học là tự mình quản lý việc học tập, lĩnh hội tri thức
của bản thân. Người học tự vạch ra kế hoạch học tập cho chính mình, kiên trì và
60
nhẫn nại thực hiện kế hoạch đó một cách bài bản, sau đó người học tự kiểm tra
đánh giá kết quả đã đạt được, rút kinh nghiệm cho bản thân mình.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm tự học có nhiều điểm tương đồng
với quan niệm của giáo dục học hiện đại. Từ khái niệm tự học của Người, chúng
ta thấy bao hàm cả ba hình thức tự học mà giáo dục học hiện đại đã đề ra. Đó là tự
học có hướng dẫn trực tiếp của thầy; tự học theo yêu cầu của thầy, của nội dung,
chương trình đào tạo; và tự học để khám phá tri thức theo nhu cầu của cá nhân.
Theo Hồ Chí Minh, mọi người đều phải tự học; tự học không chỉ là nhiệm
vụ của giáo dục không chính quy, mà còn là một bộ phận không thể tách rời của
giáo dục chính quy. Chỉ khi học sinh có ý thức tự học thì khi đó xây dựng
XHHT mới đạt được hiệu quả cao nhất.
Năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người khẳng định: “Lấy tự
học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [95, tr.312]. Tiếp đến, khi nói về
công tác huấn luyện và học tập năm 1950, Người lại nhấn mạnh: “Phải nâng cao
và hướng dẫn việc tự học”. “Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư
tưởng” [101, tr.98]. Như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, cốt lõi của XHHT là tự học.
Tự học là sự nỗ lực của bản thân người học, sự làm việc của bản thân người học
một cách có kế hoạch trên tinh thần tự nguyện, tự giác cao. Học là quá trình biến
những tri thức khoa học được tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến
thức của mình thì tự học chính là yếu tố cơ bản nhất, làm cho quá trình tích lũy ấy
diễn ra nhanh nhất và hiệu quả nhất. Trong một XHHT thì tự học càng đóng vai
trò then chốt để mỗi người vươn lên làm chủ tri thức của mình.
Do đó, Hồ Chí Minh luôn phê phán việc học tập thụ động, lười học, ỷ lại.
Người căn dặn: “không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự
động học tập” [96, tr.360], phải tự tìm tòi tài liệu học tập, lấy sách làm thầy.
Bên cạnh đó, Người nhắc nhở, để tự học thành công phải có kế hoạch,
phải sắp xếp thời gian học tập khoa học, phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế hoạch,
không lùi bước trước mọi khó khăn, trở ngại. Người chỉ rõ: “Sắp xếp thời gian
và bài học…, phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau, mà không xung đột với
nhau” [95, tr.312].
61
Trong quá trình học tập, Hồ Chí Minh nhắc nhở người học phải đặt các
câu hỏi “vì sao”, phải suy nghĩ kỹ xem vấn đề có hợp thực tế không? Quá trình
ấy giúp người học rèn luyện tư duy, nâng cao năng lực tìm tòi, giải đáp các câu
hỏi đặt ra, nắm vững những nội dung cần thiết, cần áp dụng. Học phải đi đôi với
hỏi thì mới hiểu sâu và sẽ thấy được những điều chưa hiểu, cần phải tiếp tục học.
Là một nhà giáo dục lớn, Hồ Chí Minh cho rằng, trong quá trình học không nên
chỉ tiếp thu một chiều, người học cần lật đi, lật lại vấn đề tức là phải đề ra được
câu hỏi, biết cách hỏi và tìm được cách trả lời thì mới hiểu sâu, rộng vấn đề, từ
đó mới có khả năng hành động và giải quyết vấn đề đó được thấu đáo.
Từ kinh nghiệm của bản thân trong quá trình tự học, theo Hồ Chí Minh,
người học cần tận dụng mọi hoàn cảnh, phương tiện, mọi hình thức để tự học.
Người không những triệt để tận dụng những tổ chức, những hoạt động sẵn có
trong xã hội như thư viện, câu lạc bộ, sách báo, các buổi nói chuyện, các hội
thảo, các viện bảo tàng… mà còn tự mình tạo ra những hình thức học tập mới,
sinh động và bổ ích như: tranh thủ sự hướng dẫn, giúp đỡ của người khác, học
trong khi giao tiếp, trong công tác vận động quần chúng… Người đã tranh thủ
tận dụng mọi hoàn cảnh để học tập. Thời gian làm việc trên tàu Latútsơ Tơrêvin,
Người học tiếng với các nhân viên trên tàu; đến Pháp, Người học tiếng với người
giúp việc trong gia đình. Học đến đâu cần ra sức vận dụng vào thực tiễn đến đó.
Hồ Chí Minh chú trọng thực hành trong tự học, khi học ngoại ngữ, học được chữ
nào, Người tìm cách ghép câu để dùng ngay. Ban đêm, khi chưa ngủ, Người lấy
tay viết những chữ khó xuống chăn cho đến khi nào nhớ được mới thôi. Đi du
lịch, dự tọa đàm, giao tiếp với người nước ngoài, viết báo… đó là cách Người tự
trau dồi và làm phong phú thêm vốn từ của mình.
Những điều Hồ Chí Minh nói và làm về tự học hàm chứa giá trị to lớn và
sức sống bất diệt. Ngày nay, trong thời đại khoa học công nghệ, trong một thế
giới toàn cầu hóa, trong một XHHT, tri thức của loài người không ngừng thay
đổi, tăng lên rất nhanh và cũng mau chóng lỗi thời. Vì vậy, hơn lúc nào hết, tự
học càng trở thành một yêu cầu cấp bách và bắt buộc cho tất cả mọi người.
62
2.2.5.3. Học tập linh hoạt mọi lúc, mọi nơi, bằng mọi phương tiện,
hình thức
Anhxtanh - nhà khoa học lớn của thế kỷ XX đã từng khẳng định: Ai
không còn tò mò người đó sẽ chết, V.I.Lênin sau này cũng nói: "Học, học nữa,
học mãi".
Trên tinh thần tự học, học tập suốt đời và nhận thức được tầm quan trọng
của tri thức với sự phát triển của mỗi con người, với dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh căn dặn chúng ta trong mọi hoạt động cách mạng đều có thể và đều phải
học tập, "còn sống thì còn phải học". Và chính Người là một tấm gương lớn về
tinh thần học tập thường xuyên mọi lúc mọi nơi trong suốt quá trình sống và
hoạt động cách mạng, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù sống trong lao tù, nơi con
người chỉ mong được tồn tại thì Người vẫn bằng nghị lực của mình tự học tập để
vun đắp ý chí cách mạng, tri thức, cứu nước cứu dân.
Theo Hồ Chí Minh tự học là một dòng chảy liên tục, phát triển không
ngừng, người học không được để cho nó gián đoạn, không ngắt quãng, dù công
việc cuộc sống có bộn bề đến đâu. Sau này dù bận trăm công nghìn việc ở cương
vị đứng đầu nhà nước ta, Người vẫn thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng, bổ sung
tri thức cho bản thân, là một tấm gương sáng của tiếp thu và sáng tạo tri thức.
Trả lời cho câu hỏi: Học ở đâu?, Người đã nói: "học ở trường, học ở sách
vở, học lẫn nhau và học nhân dân..." [96, tr.361], tức là ở bất kỳ nơi đâu mọi
người cũng có thể tự học. Không phải chỉ học ở trường lớp mà con người phải
học trong lao động, trong công tác thực tiễn, không chỉ học ở thầy giáo mà còn
học ở những người khác với thái độ kiên trì, bền bỉ tiếp thu mọi nguồn tri thức
có thể để hoạt động một cách hiệu quả.
Tri thức có ở rất nhiều nguồn khác nhau nhưng theo Hồ Chí Minh, trước
hết người học phải biết "học ở sách vở". Khi còn mang tên Nguyễn Ái Quốc
sống trên đất Pháp, Hồ Chí Minh đã coi thư viện là một trường học lớn của
mình. Nhờ nghị sĩ quốc hội Pháp P.V.Couturier, Người đã có một thẻ thư viện
để có thể đọc thường xuyên ở thư viện Pháp trên đường Richeulieu. Người
không chỉ đọc những sách viết về triết học, chính trị mà chú ý đến cả văn học
63
của nhiều nước, nhiều thời đại. Hồ Chí Minh không khi nào bỏ phí một chút thời
gian, một cơ hội để đọc sách. Sau này, khi làm Chủ tịch nước, dù bận trăm công
nghìn việc nhưng Người luôn dành khoảng thời gian ngất định để đọc sách báo,
xem tin tức hàng ngày. Đại tướng Hoàng Văn Thái kể rằng, năm 1969, mỗi lần
đến làm việc, ông thường thấy trên chiếc bàn con bên giường của Người có rất
nhiều sách báo Người đang xem. Lo lắng đến sức khỏe của Người nên ông đề
nghị: "Thưa Bác, Bác mệt, Bác nên đọc ít, để nhiều thời gian nghỉ ngơi thư thả
cho lại sức". Bác trả lời, giọng như tâm sự mà rành rẽ, dứt khoát từng lời: "Chú
bảo Bác không đọc sách báo ư? Dù già yếu cũng phải học, phải đọc sách báo
nâng cao hiểu biết và nhất là để nắm vững tình hình chứ!". Những cuốn sách Hồ
Chí Minh đọc ở thời gian cuối đời là các cuốn: Cuộc kháng chiến chống xâm
lược Nguyên Mông, Vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ, The truth about Vietnam (Sự
thật về vấn đề Việt Nam, Nxb Green Leaf Classic, 1966).
Cuộc sống luôn là một kho tàng tri thức vô tận. Hồ Chí Minh đã dạy:
"Ngoài cách học ở trường, ở lớp, học trên sách, báo, v.v., có một cách học rất tốt
ai cũng có thể tham gia hằng ngày. Đó là cách học tập ngay trong sản xuất, học
tập những người, những tổ, những đơn vị tiên tiến" [102, tr.528] (mà ngày nay
UNESCO gọi là học tại nơi làm việc). Và chính Người đã luôn coi cuộc sống là
trường học lớn của mình. Từ khi còn là một thiếu niên, Nguyễn Tất Thành đã
chú ý quan sát những sự việc ở ngoài đời và trong đầu luôn có nhiều câu hỏi,
nhiều thắc mắc muốn được hiểu tường tận đến ngọn nguồn. Sau này, trên hành
trình tìm đường cứu nước, từ Sài Gòn qua Pháp, qua châu Phi rồi sang Mỹ, sang
Anh…, Nguyễn Tất Thành đã học được rất nhiều điều trong cuộc sống và rút ra
được những kết luận quan trọng đầu tiên về bạn và thù, về cuộc sống của nhân
dân ở các nước thuộc địa, về bản chất của các nước đế quốc… Nói chuyện với
sinh viên trường Đại học thành phố Băng Đung trong lần Người đến thăm
Inđônêxia ngày 27/02/1959 trên tư cách nguyên thủ quốc gia, Người ôn tồn chia
sẻ: "Tôi sẽ nói vài lời với các bạn. Khi còn trẻ, tôi không có dịp đến trường học.
Tôi đã đi du lịch và để làm việc, đó là trường đại học của tôi. Trường học ấy đã
dạy cho tôi khoa học xã hội. Nó đã dạy cho tôi cách yêu, cách ghét, yêu nước,
64
yêu loài người, yêu dân chủ và hòa bình và căm ghét áp bức, ích kỷ… Trường
học ấy đã dạy cho tôi khoa học quân sự… Trường học ấy đã dạy tôi chính trị…"
[12, tr.126].
Tiếp nữa là học ở bạn bè ở đồng nghiệp, "học lẫn nhau". Ông cha ta đã
đúc kết "học thầy không tày học bạn". Hồ Chí Minh cho rằng một người phải
biết học ở nhiều người, hơn nữa phải làm cho món ăn tinh thần phong phú,
không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi, cũng như vào vườn hoa cần
cho mọi người được thấy nhiều hoa đẹp. Người lấy đó để nhắc nhở cán bộ đảng
viên không được tự cao, tự đại cho mình là tài giỏi hơn mọi người, trái lại phải
học hỏi điều hay, điều tốt ở mọi người.
Hồ Chí Minh không những triệt để tận dụng những tổ chức, hoạt động có
sẵn trong xã hội như thư viện, câu lạc bộ, sách báo, các buổi nói chuyện, hội
thảo, viện bảo tàng…, mà còn tự tạo ra những hình thức học tập mới, sinh động
và bổ ích, như tranh thủ sự giúp đỡ chỉ bảo của người khác, học trong khi đi giao
thiệp, trong vận động quần chúng mà Người gọi là học trong nhân dân. Người
kết luận: "không học nhân dân là một thiếu sót lớn" [96, tr.361]. Mục tiêu cuối
cùng của cuộc cách mạng mà Đảng, Chính phủ, đứng đầu là Hồ Chí Minh tiến
hành nhằm giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho nhân dân, đưa nhân dân
lên địa vị làm chủ đất nước, xây dựng cuộc sống ấm no tự do, hạnh phúc cho
nhân dân đúng như nguyện vọng suốt đời của Người "ai cũng được học hành".
Chính vì vậy, việc học hỏi ở nhân dân phải đi đôi với việc giáo dục, soi đường
cho nhân dân đi đúng hướng để nhân dân phát huy hết sức mạnh và khả năng to
lớn của mình. Đó là công tác mà cán bộ, đảng viên phải đảm nhiệm.
2.2.5.4. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn
Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng là phương châm sống và hoạt động của Hồ Chí
Minh. Ở đâu, việc gì, lời nói và việc làm của Người luôn thống nhất và gắn kết
với nhau chặt chẽ.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông"
65
[101, tr.95]. Ở Người, nói đi đôi với làm, nói với làm thống nhất biện chứng với
nhau. Trong tất cả các công việc, Hồ Chí Minh luôn lấy lý luận để soi rọi vào
thực tiễn, và từ thực tiễn khái quát thành lý luận. Lý luận mà Hồ Chí Minh diễn
đạt rất trong sáng, giản dị, cô đọng, hàm súc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm và rất gần
gũi với thực tiễn. Ngôn từ của Người đạt tới sự gặp gỡ, gần gũi giữa người nói
với người nghe, người viết và người đọc, giữa lãnh tụ và quần chúng. Hồ Chí
Minh không viết nhiều, không hay nói dài mà lại làm nên sự nghiệp lớn lao là vì,
Người nói ít mà mọi người hiểu nhiều, nói ít mà mọi người nghe nhiều, tin
nhiều, chỉ một lời vắn tắt dễ hiểu đã đi vào trái tim, khối óc cuả quần chúng, biến
thành sức mạnh phi thường. Phương pháp Hồ Chí Minh là đi vào thực tiễn, qua
hoạt động thực tiễn đúc kết thành kinh nghiệm, từ đó nâng lên thành lý luận.
Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, giữa học và hành được
Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh. Người chỉ rõ: "Lý luận như cái kim chỉ nam,
nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì
lúng túng như nhắm mắt mà đi" [95, tr.273-274]. Lý luận phải đem ra thực hành.
Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn).
Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung,
cũng như không có tên. Người nhấn mạnh: "Lý luận cốt để áp dụng vào công
việc thực tế... Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một
mắt mờ" [95, tr.274]. Nếu chỉ học thuộc lòng, để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy
cũng vô ích. Trong XHHT, học và hành phải gắn bó chặt chẽ với nhau. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: Học mà không hành, không áp dụng vào thực tế khác nào chiếc
hòm đựng đầy sách, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Người học
phải áp dụng ngay lý luận vào thực tiễn: Học xong về xí nghiệp, về hợp tác xã,
về cơ quan... phải biến những điều đã học thành hoạt động cách mạng thực tế.
"Học phải đi đôi với hành, chứ không phải học để nói suông" [105, tr.116]. Bởi
xét đến cùng, nói như Hồ Chí Minh về mục đích của việc học tập: "Học cốt để
mà làm. Học mà không làm được, học mấy cũng vô ích" [95, tr.343]. Những
quan điểm đem suy xét trong XHHT hiện nay thật vô cùng sâu sắc.
66
Để tránh lý luận suông, theo Hồ Chí Minh phải kết hợp giữa học với
hành, giữa học tập với lao động sản xuất. Sự kết hợp lao động sản xuất với học
tập trong nhà trường sẽ giúp người học nắm vững kiến thức cơ bản, đồng thời
tạo tiền đề để con người phát triển toàn diện. Thông qua thực tiễn lao động sản
xuất làm cho tri thức của người học được gọt giũa, mài sắc thêm tạo nền tảng để
người học tiếp thu tri thức mới. Người khuyên học sinh: "Các cháu học sinh
không nên học gạo, không nên học vẹt... Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với
thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau"
[104, tr.402]. Từ đó, Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu về thái độ học tập. Theo Hồ
Chí Minh, muốn thực hiện nguyên tắc lý luận liên hệ thực tế, muốn cho việc
học tập đạt được mục đích đề ra, thì cần phải có thái độ học tập đúng đắn. Đó
là: - Phải khiêm tốn, thật thà. - Phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập
cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được,
do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu
khó, cố gắng, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập. -
Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải
đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn
đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. - Phải bảo vệ
chân lý, phải có nguyên tắc tính, không được ba phải, điều hòa. - Phải đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau học tập, mạnh dạn phê bình và thật thà tự phê bình và khi phê
bình, tự phê bình thì phải xuất phát từ ý muốn đoàn kết, để đạt đến đoàn kết
mới trên cơ sở mới. Hồ Chí Minh căn dặn tất cả mọi người: "Đối với bất cứ
vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi "vì sao?", đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có
hợp với thực tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt
tuân theo sách vở một cách xuôi chiều" [101, tr.98-99], "cái gì biết thì nói biết,
không biết thì nói không biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của
học tập" [101, tr.98].
Quan điểm trên của Hồ Chí Minh hoàn toàn tương đồng với công thức về
cách học mà UNESCO đưa ra năm 1996 - Công thức 4H: Học - Hỏi - Hiểu -
Hành. Ở đây, học phải đi đôi với hỏi thì mới hiểu, hiểu sâu và đồng thời thấy
67
được những điều chưa hiểu, cần phải tiếp tục học. Khi học thì không nên chỉ tiếp
thu một chiều, mà phải lật đi lật lại vấn đề, tức là phải đề ra được câu hỏi, biết
cách hỏi và tìm được cách trả lời thì mới hiểu sâu, biết rộng và từ đó có khả năng
hành động cũng như giải quyết vấn đề.
Có thể khẳng định trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT, học
đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, học tập kết hợp với lao động sản xuất
là một phương châm căn bản, vừa là nguyên tắc, vừa là phương pháp, đồng thời
là mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam.
2.3. HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP
Không chỉ là nhà tư tưởng, Hồ Chí Minh còn là nhà thực hành vĩ đại.
Trong vấn đề xây dựng XHHT, Hồ Chí Minh không chỉ đề ra hệ thống quan
điểm mà trên hết và trước hết, Người còn đặt nền móng xây dựng XHHT trên
đất nước ta.
2.3.1. Hồ Chí Minh với phong trào Bình dân học vụ
Cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945. Ngày 2/9/1945, tại
Quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu
vực Đông Nam Á. Chính phủ lâm thời được thành lập, Nhà nước non trẻ ra đời,
nhưng khó khăn thì vẫn còn chồng chất.
Nạn đói năm 1945 khiến hơn 2 triệu người (chiếm khoảng 10% dân số
nước ta lúc đó) bị chết đói. Trong khi đó, ở miền Bắc, 20 vạn quân đội Trung
Quốc của Tưởng Giới Thạch vào giải giáp quân đội Nhật; ở miền Nam là hơn 1
vạn quân Anh, núp sau Anh là Pháp với âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta
lần thứ hai. Các thế lực phản động trong nước núp bóng lực lượng quân đội nước
ngoài cũng tìm cách lật đổ chính quyền cách mạng.
Về trình độ văn hóa lúc bấy giờ, hơn 95% dân số nước ta chưa biết đọc,
biết viết. Cần phải mang ánh sáng văn hóa đến cho họ, trước hết là phải cho họ
thoát khỏi nạn mù chữ nhằm giúp họ nhanh chóng giác ngộ lý tưởng cách mạng,
nhanh chóng nắm được đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Như vậy là,
68
vào thời điểm ấy, không chỉ “giặc đói”, “giặc ngoại xâm” mà cả “giặc dốt” đều
là kẻ thù mà chính quyền cách mạng phải kiên quyết tiêu diệt.
Tình thế khẩn trương đòi hỏi người cách mạng không thể chần chừ. Ngày
3/9/1945, ngay sau ngày tuyên bố độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu những
nhiệm vụ cấp bách của đất nước. Một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất, thiết
thực nhất mà chính quyền cách mạng vừa mới ra đời phải giải quyết trong hoàn
cảnh khó khăn và thiếu thốn đó là “nạn dốt”. Người chỉ rõ: “Nạn dốt là một
trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta…
Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch để
chống nạn mù chữ” [94, tr.7]. Đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Hội đồng
Chính phủ lâm thời nhất trí tán thành. Sự nghiệp xóa nạn mù chữ được đặt thành
chính sách của Nhà nước.
Ngày 8/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký 3 sắc lệnh:
Sắc lệnh số 17: Đặt ra một BDHV trong toàn cõi Việt Nam
Sắc lệnh số 19: Trong toàn cõi nước Việt Nam sẽ thiết lập cho nông dân
và thợ thuyền những lớp bình dân buổi tối.
Sắc lệnh số 20: Trong khi chờ đợi lập được nền tiểu học cưỡng bức, việc
học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn
trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết
chữ Quốc ngữ.
Như vậy, với vai trò là người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ mới, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đặt ngang hàng nhiệm vụ diệt dốt cùng với nhiệm vụ diệt
đói và diệt ngoại xâm. Những sắc lệnh Người ban hành vừa phản ánh yêu cầu
quan trọng của nền giáo dục mới, vừa đáp ứng nguyện vọng thiết tha của đông
đảo nhân dân, vừa giải đáp được những trăn trở từ bao lâu của Người về một nền
giáo dục thực sự cho nhân dân, vì nhân dân. Trong điều kiện nước nhà còn vô
vàn khó khăn lúc bấy giờ, thì sự “cưỡng bức” giáo dục bắt buộc và không mất
tiền này thực sự là cố gắng rất lớn của Hồ Chí Minh cùng với Chính phủ nhằm
mang lại lợi quyền cho đông đảo nhân dân. Từ đây, công cuộc diệt dốt không chỉ
69
dừng lại ở những lời kêu gọi, những khẩu hiệu, mà thực sự đã trở thành phong
trào quần chúng rộng khắp, có sức lan tỏa mạnh mẽ, thu hút triệu triệu người dân
tham gia.
Tháng 10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Chống nạn thất học.
Lời kêu gọi Chống nạn thất học của Hồ Chí Minh đã vạch ra chiến lược
xóa mù chữ, gồm hai điểm cơ bản: Xây dựng sự nghiệp xóa mù chữ thành một
phong trào quần chúng, làm cho xóa mù chữ trở thành việc của toàn xã hội;
tuyên truyền giải thích cho người mù chữ hiểu nghĩa vụ học tập của mình và làm
chủ việc xóa nạn mù chữ cho mình.
Cương lĩnh hành động của phong trào BDHV được thể hiện rất rõ:
“Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ,... Những
người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng
bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người
làm không biết thì chủ nhà bảo” [94, tr.40-41]. Thậm chí, người giàu có thì mở
lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng;
những người chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, chủ nhà máy thì mở lớp học
cho những người làm của mình.
Một tháng sau ngày thành lập BDHV, lớp huấn luyện cán bộ BDHV đầu
tiên đã được khai giảng tại Hà Nội, ngày 8/10/1945. Lớp huấn luyện mang tên
Chủ tịch Hồ Chí Minh (Khóa huấn luyện Hồ Chí Minh) và Người trực tiếp đến
dự lễ khai giảng. Chương trình hành động của BDHV được xây dựng với tinh
thần tự lực tự cường, động viên được hàng vạn cán bộ và giáo viên tự nguyện
làm việc không lương, tiết kiệm cho quỹ Nhà nước hàng trăm triệu đồng. Người
nêu rõ ba nhiệm vụ cách mạng trước mắt có liên quan với nhau là chống nạn đói,
nạn dốt, nạn ngoại xâm và chỉ rõ: Chống nạn thất học cũng quan trọng như
chống ngoại xâm.
Cán bộ và ủy viên BDHV được đưa về các tỉnh xây dựng, triển khai chiến
dịch diệt dốt với những biện pháp linh hoạt, sáng tạo thích hợp với từng địa
phương. Khắp nơi, đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia chiến dịch diệt dốt:
người đi học, người đi dạy, người ủng hộ BDHV bằng nhiều cách tùy theo điều
70
kiện và khả năng của mình (vận động người đi học, người đi dạy, đỡ đầu lớp
học, cho mượn nhà làm lớp học...).
Song song với việc vận động nhân dân tham gia vào các lớp xóa mù chữ là
cuộc vận động người biết chữ đi dạy tại các lớp BDHV. Hưởng ứng phong trào,
cả nước đã có tới 10.000 người tình nguyện dạy các lớp xóa mù chữ mà không
nhận tiền thù lao. Đội ngũ giáo viên gồm những người đã từng dạy ở các lớp học
Truyền bá Quốc ngữ trước đây, những thanh niên, học sinh, những nhân viên,
công chức đang làm việc trong các cơ quan, nhà máy, những hướng đạo sinh...
Sự quan tâm của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ, dù bận trăm công nghìn
việc nhưng Người vẫn luôn dành thời gian đi thăm các lớp học BDHV. Buổi tối
ngày 13/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm lớp học bình dân ở trường
Hoài Đức, phố Hàng Trống, Hà Nội. Thấy học viên viết chính tả rõ ràng, ít lỗi,
Người rất vui lòng. Người xem sách vở, ân cần thăm hỏi học viên và giáo viên.
Ngày 1/5/1946, nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động, Người gửi thư động
viên toàn thể giáo viên BDHV, trong đó nhấn mạnh: “Chương trình của Chính
phủ ta là làm thế nào cho toàn quốc đồng bào ai cũng có ăn, có mặc, có học” [94,
tr.556]. Đó cũng chính là lý tưởng suốt đời của Hồ Chí Minh.
Ở khắp nơi trên cả nước, BDHV sôi nổi bàn biện pháp tích cực đẩy mạnh
phong trào diệt dốt bằng mọi hình thức. Tại Hà Nội, ngày 12/5/1946, BDHV đã
tổ chức một cuộc mít tinh lớn hàng vạn người tại quảng trường Nhà hát Thành
phố. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành thời gian đến dự lễ khai mạc, khuyến
khích mọi người giúp sức diệt giặc dốt. Đối với học viên, Người căn dặn cố gắng
học tập theo gương cụ Nguyễn Văn Bảng ở xã Vạn An, 77 tuổi còn chịu khó học
tập, biết chữ và đã viết thư lên thăm Người.
Những hành động này chứng tỏ, mặc dù việc nước bộn bề trăm công
nghìn việc nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn quan tâm đến việc ăn và việc
học của nhân dân. Từ những lời kêu gọi chí lý chí tình, đến những bức thư động
viên tha thiết; từ những lời phát biểu ân cần đến những lần đến thăm từng lớp
học, tất cả đều toát lên tấm lòng và sự quan tâm của Người đứng đầu đất nước
tới công cuộc xóa nạn mù chữ của nhân dân ta.
71
Lúc bấy giờ, chống nạn mù chữ, tham gia BDHV trở thành phong trào
hết sức sôi nổi. Những khẩu hiệu: “Đi học BDHV là yêu nước”, “Dạy học
BDHV là yêu nước”, “Giặc dốt diệt, Việt Nam cường”… được dán ở khắp nơi,
thậm chí viết trên thân cây, viết lên tường, viết trên nong nia dựng ở đầu
đường, đầu làng…
Lớp học không có. Nhà chùa, nhà thờ cho mượn phòng để học, tư nhân
cho mượn nhà, mượn bàn ghế, dựng tấm phản làm bảng để tạo thành lớp học.
Phấn viết bảng không có. Người ta dùng gạch non, đất sét trắng phơi khô,
thậm chí dùng cả than củi làm phấn để dạy, để học.
Các lớp học được tổ chức linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng: thợ cày
học trong giờ nghỉ trưa hoặc sau buổi ăn cơm tối; công nhân học sau ca làm việc.
Có những lớp học được tiến hành ngay tại sân nhà, viết than lên mặt sân gạch
hoặc lấy que tre viết chữ lên sân đất. Có nơi thiếu bàn ghế, học viên trải chiếu
xuống đất để ngồi, úp thúng xuống để làm bàn học. Không có bút mực thì dùng
bút chì, không có giấy trắng thì viết lên giấy báo cũ, có nơi dùng cả bút lông và
mực tàu để viết chữ Quốc ngữ. Không có dầu hỏa thì dùng dầu lạc, dùng hạt
bưởi khô làm đèn.
Dân nghèo ra lớp bất kể sáng, trưa, chiều, tối, miễn là tìm được khoảng
thời gian trống giữa những công việc mưu sinh hàng ngày. Ở vùng vạn chài, lớp
học có khi bắt đầu từ 4 giờ sáng để học viên - ngư dân kịp ra biển đánh cá.
Ngày nay, khó có thể hình dung được lớp học bình dân được tổ chức trên
thuyền, dưới gốc đa đầu làng, ngồi trên xe xích lô, ngồi ở đầu bờ ruộng, trong
nhà lao. Người đi học là nông dân, công nhân, thợ thủ công, người bán hàng
rong,… Có lớp đông học viên, có lớp một thầy một trò, có lớp không có thầy.
Chữ được viết tên lưng trâu, trên mui thuyền, trên thân cây, tạo nên một “rừng
chữ”, ra đường, đi cày, ngồi bán hàng ở chợ…, bất cứ lúc nào cũng có thể trông
thấy những chữ mà ngày hôm đó cần học.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hồ Chí Minh vẫn quan tâm chỉ đạo
phong trào BDHV. Người căn dặn đồng bào, chiến sĩ, cán bộ phải tiến hành một
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện: ra chiến trường là kháng chiến, sản xuất
72
trên cánh đồng là kháng chiến, đi học cũng là kháng chiến. Cục diện mới của
phong trào BDHV lúc này là vừa phải dồn sức người sức của cho cuộc chiến,
vừa tiếp tục xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí cho nhân dân. Đâu đâu cũng thấy
những khẩu hiệu: “Đi học là kháng chiến”, “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu
phương diệt giặc dốt”, “Mỗi lớp học là một tổ tuyên truyền kháng chiến”, “Mỗi
giáo viên BDHV là một đội viên tuyên truyền kháng chiến”...
Ngày 6/8/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị BDHV Khu
XII (Theo quyết định của Chính phủ, tháng 11/1946 cả nước ta được chia thành
12 khu hành chính và quân sự. Mỗi khu có Ủy ban kháng chiến Khu phụ trách
hành chính, khu trưởng phụ trách quân sự. Khu XII gồm các tỉnh (cũ): Lạng
Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh, Hòn Gai, Quảng Yên): “Từ ngày kháng
chiến, tuy hoàn cảnh khó khăn, nhưng bình dân học vụ vẫn hăng hái tiến hành,
thế là tốt lắm... Tôi trân trọng gửi lời khen ông giám đốc và tất cả anh chị em
bình dân học vụ về thành tích đã đạt được, và khuyên tất cả mọi người gắng sức
thêm” [95, tr.212].
Đến ngày 10/11/1947, nhận được báo cáo trong mấy tháng đầu kháng
chiến, BDHV Khu III phát triển mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng
chí Giám đốc và toàn thể giáo viên nam nữ BDHV Khu III biểu dương những
thành tích và căn dặn: “Tôi mong rằng các lớp bình dân học vụ chẳng những dạy
cho đồng bào học chữ, làm tính mà dạy thêm về công cuộc kháng chiến, cứu
nước, tăng gia sản xuất, giúp mùa Đông binh sĩ, giúp đồng bào tản cư, khoa học
thường thức” [95, tr.347].
Có thể thấy, hiếm một nơi nào trong hoàn cảnh kháng chiến chống ngoại
xâm cực kỳ gian khổ, thiếu thốn lại phát động được phong trào toàn dân đi học
như ở Việt Nam những năm sau Cách mạng Tháng Tám.
Nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc khánh 2/9/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
thư căn dặn các chiến sĩ BDHV: “Vùng nào còn sót nạn mù chữ, thì các bạn cố
gắng thi đua diệt cho hết giặc dốt... Vùng nào đã hết nạn mù chữ, thì các bạn thi
đua để tiến lên một bước nữa” [95, tr.604]. Đó chính là tinh thần của học liên
tục, học suốt đời mà Người luôn nhắc nhở.
73
Từ cuối năm 1948, đã có những xã, huyện và tỉnh xóa xong nạn mù chữ
như: huyện Quỳnh Côi (Thái Bình), huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) và nhiều xã,
trong đó có xã Thanh Nông là xã đầu tiên miền núi thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh
Hòa Bình. Về đơn vị tỉnh thì Hà Tĩnh là tỉnh đã thanh toán xong nạn mù chữ đầu
tiên trên cả nước. Tất cả những địa phương này đều được Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết thư khen ngợi.
Sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phong trào diệt dốt
cùng những lời khích lệ, dặn dò của Người là nguồn động viên to lớn đối với cán
bộ và nhân dân cả nước, nhất là những nơi chưa thanh toán xong nạn mù chữ,
hăng hái xung phong diệt giặc dốt gắn liền với diệt giặc ngoại xâm, đẩy mạnh
sản xuất. Tính đến cuối năm 1950, đã có trên 10 triệu người được thoát nạn mù
chữ. Tổng số đơn vị được công nhận thanh toán nạn mù chữ là 10 tỉnh (Hà Tĩnh,
Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Hưng Yên, Phúc Yên, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Phú Yên, Bình Định).
Trong kháng chiến toàn quốc, được sự chỉ đạo, động viên thường xuyên
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, BDHV có những đặc sắc về tổ chức và nội dung,
riêng biệt ở từng vùng, từng giai đoạn, phụ thuộc vào tình hình quân sự, chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, đã phục vụ rất đắc lực công cuộc kháng chiến
kiến quốc.
Bước sang thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhiệm vụ của
ngành BDHV cũng thay đổi. Nhân ngày Quốc khánh 2/9/1954, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu rõ nhiệm vụ của BDHV trong giai đoạn mới: “Về văn hóa, chúng ta
phải thanh toán hết nạn mù chữ, đào tạo cán bộ để xây dựng nước nhà” [99,
tr.39]. Nhân dân khắp nơi phấn khởi, nô nức đi học, nhất là ở những vùng mới
giải phóng và những xã đã phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất.
Năm 1956, Đảng và Chính phủ đề ra kế hoạch 3 năm hoàn thành thanh
toán nạn mù chữ ở miền Bắc (1956 - 1958). Để động viên phong trào, tối ngày
27/3/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuống thăm các lớp học bình dân ở khu lao
động Lương Yên và tối 4/6/1956, Người đến thăm các lớp BDHV ở trường
Đoàn Kết và xóm Chùa Vua thuộc khu phố Hai Bà Trưng. Đến đâu, Người cũng
74
ân cần căn dặn anh chị em giáo viên chịu khó dạy và học viên chịu khó học để
mau chóng xóa xong nạn mù chữ.
Trong phong trào này, từ thành thị đến thôn quê, ở các đường phố, các
nhà máy, các công trường, các chợ búa... lớp học mọc lên ở khắp nơi. Già, trẻ,
gái, trai, ai chưa biết chữ đều tìm cách vượt khó khăn để đi học. Buổi sáng, buổi
trưa, buổi tối, đến đâu cũng nghe tiếng học. Thật là một phong trào sôi nổi, một
cảnh tượng tưng bừng của một dân tộc quyết rời bỏ chỗ tối, bước lên chỗ sáng.
Cảm động nhất là có những cụ tuổi đã rất cao, mà cũng xung phong đi học để
khuyến khích con cháu, như bà cụ Nguyễn Thị Xuyến (100 tuổi, xã Nghi Tân,
Nghệ An), cụ Lê Siêu (106 tuổi, xã Sơn Phố, Hà Tĩnh) và nhiều cụ khác. Học
sinh các trường công và tư là quân chủ lực tinh nhuệ của đội ngũ giáo viên bình
dân học vụ. Nhưng cũng có nhiều cụ phụ lão (như cụ Dương 80 tuổi, cụ Mỹ 79
tuổi), các em nhi đồng, nhiều anh chị công nhân và cán bộ... cũng không ngại
khó nhọc, xung phong đi dạy.
Ngoài cách dạy và cách học thông thường, lại có nhiều sáng kiến và hình
thức như: Dán bài vào cánh tay, viết chữ trên mẹt hàng, găm bài học vào lưng
áo người đi trước để người đi sau nhìn mà học, viết chữ cắm ở những nơi đông
người qua lại... Như vậy, đồng bào có thể vừa lao động, vừa học chữ. Đồng bào
các giới thì đều tuỳ khả năng của mình mà ủng hộ phong trào diệt giặc dốt,
như: Tổ chức giữ trẻ để cho chị em có con mọn đi học được; cho mượn nhà
làm lớp học; đóng bàn ghế không lấy tiền; giúp dầu đèn, bút, giấy cho những
học viên nghèo, v.v.. BDHV đã phát triển mạnh mẽ, rộng khắp mang tính quần
chúng thật sự, đến cuối tháng 6/1956 đã có tới trên 2 triệu người ra lớp học.
Người nhấn mạnh: “Có thành tích ấy là vì nhân dân ta hiểu thấu rằng: Bất kỳ
làm nghề gì, nếu không biết chữ thì khó tiến bộ, cho nên nhiều người cố gắng
đi học” [100, tr.397].
Tháng 7/1956, Nha BDHV đã triệu tập Đại hội sơ kết công tác BDHV 6
tháng đầu năm 1956 và bàn biện pháp đẩy mạnh phong trào xóa mù chữ trong 6
tháng cuối năm. Trong Đại hội này, Người đã đến thăm, huấn thị và trao đổi một
số kinh nghiệm:
75
- Muốn thoát nạn mù chữ cho số đông nhân dân mà đại đa số là nông
dân thì phong trào BDHV phải là phong trào quần chúng, phải đi sát quần
chúng, bàn bạc với quần chúng, áp dụng những hình thức phong phú thích hợp
với sinh hoạt của quần chúng, phải dựa vào quần chúng để đẩy phong trào lên.
- Bình dân học vụ cũng là dạy học, nhưng không có trường lớp, đèn,
sách như trường phổ thông. Nó là một phong trào rộng rãi, phức tạp mà lại phải
tự lực cánh sinh. Muốn thanh toán nạn mù chữ cho nhân dân, phải chịu khó;
quan liêu, mệnh lệnh là không được.
- Bình dân học vụ cũng có lãnh đạo, có Bộ, có Nha, có Ty. Lãnh đạo
không phải ngồi viết trong bàn giấy. Lãnh đạo phải đi sát, phải giúp đỡ cán bộ
giải quyết khó khăn.
- Công tác BDHV trông không oanh liệt, nhưng nếu 3 năm thanh toán
nạn mù chữ được cho nhân dân thì là một công trạng rất to. Nước ta có thể tự
hào là một nước thanh toán nạn mù chữ nhanh chóng. Các nước tự xưng là văn
minh như Mỹ, Anh, Pháp, người không biết chữ vẫn còn nhiều. Hai ba năm
thanh toán được nạn mù chữ là đại thắng lợi. Làm được như thế thì tất cả cán bộ,
giáo viên BDHV là anh hùng, là anh hùng tập thể.
Từ đó, Người nêu nhiệm vụ xóa mù chữ: “Lúc chưa biết chữ thì học cho
biết chữ. Biết chữ rồi thì phải tiến lên nữa. Những người đã thoát nạn mù chữ mà
không có sách báo xem thì lại mù lại, cho nên đặt ra cho Chính phủ và Bộ nhiệm
vụ phải có sách báo hợp với trình độ đồng bào cho đồng bào xem. Các cô, các
chú có nhiệm vụ giúp cho đồng bào chưa biết chữ biết chữ rồi lại học thêm. Vậy
các cô, các chú phải học thêm nữa để dạy nữa. Dân tộc tiến lên, cán bộ cũng phải
tiến lên. Cán bộ phải tiến trước để đưa dân tộc tiến lên mãi” [100, tr.370-371].
Đặt tư duy này trong điều kiện xây dựng XHHT hiện nay mới càng ngỡ ngàng
thán phục tầm nhìn vượt trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 21/12/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi cán bộ và
đồng bào các xã Vĩnh Khang (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), Diễn Liên (Diễn Châu,
Nghệ An), Tam Cường (Tam Nông, Phú Thọ), Liên Sơn (Gia Viễn, Ninh Bình)
và thị xã Phát Diệm (Ninh Bình) đã hoàn thành thanh toán nạn mù chữ trước
76
thời hạn. Người nhấn mạnh ý nghĩa cách mạng to lớn của công cuộc xóa mù
chữ: Thanh toán nạn mù chữ là bước đầu nâng cao trình độ văn hóa. Trình độ
văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục
kinh tế, phát triển dân chủ. Các địa phương, sau khi thành lập ban lãnh đạo thanh
toán nạn mù chữ, đã lần lượt mở đại hội thi đua diệt dốt ở địa phương mình: giữa
các xã trong một huyện, giữa các huyện trong một tỉnh và giữa tỉnh này với tỉnh
khác, v.v... Có nơi mở chiến dịch “Điện Biên Phủ diệt dốt”; có nơi mở cuộc
“Tổng công kích diệt dốt”... với những phong trào rầm rộ: “Lúa xanh tươi, người
biết chữ”, “Làm mùa tốt, diệt dốt hăng”... Lại có những ngành, những giới hăng
hái tham gia các đợt “xung kích diệt dốt”, “Trưng Triệu diệt dốt”, “Bạch đầu
quân diệt dốt”, “Hè diệt dốt” v.v... Phong trào BDHV trở thành phong trào quần
chúng thật sự và rộng khắp, thu hút các lực lượng xã hội tham gia.
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh có một phần thưởng đặc biệt đối với
phong trào BDHV: đó là bức ảnh màu của Người có chữ ký và lời đề tặng tự tay
Người viết: “Tặng chiến sĩ diệt dốt”. Đây thực sự là món quà vô giá Người dành
tặng cán bộ và giáo viên BDHV. Ngoài ra, Người còn dành nhiều thì giờ đi thăm
lớp học bình dân và đến dự các cuộc họp của cán bộ và giáo viên BDHV như :
- Đầu tháng 2/1958, thăm xã Mễ Trì (Từ Liêm, Hà Nội) là xã yếu nhất của
Thủ đô năm 1957;
- Tối 17/3/1958, thăm các lớp BDHV ở trường Trí Tri, trường Nguyễn
Du, bãi Phúc Tân (khu Hoàn Kiếm).
- Sáng 18/3/1958, thăm Hội nghị tổng kết phong trào Diệt dốt năm 1957
của Hà Nội. Tại đây, Người đã tự tay trao huy hiệu diệt dốt cho 8 chiến sỹ và gia
đình ông Ấp ở khu Hoàn Kiếm có 4 cha con cùng tham gia công tác BDHV.
- Tối 25/5/1958, đến thăm anh em công nhân nhà máy điện Bờ Hồ. Sau
khi hỏi thăm về tình hình làm việc và học tập của anh em, Bác hỏi: “Trên một
nghìn người mà còn một chục chưa biết chữ. Liệu có thanh toán được không?
(...). Vậy các cô, các chú có cố gắng tham gia học không? Các cô, các chú có
làm được không? Cả nhà máy đêm hôm ấy đã vang lên lời hứa: “Thưa Bác, làm
được ạ!”
77
Những tặng phẩm quý giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho các chiến
sĩ diệt dốt, những lời dạy bảo và khích lệ của Người trong khi Người đến thăm
các lớp học là nguồn động viên, là lời nhắc nhở cán bộ, giáo viên BDHV và
đồng bào cả nước, với quyết tâm mới, với khí thế mới, xông lên xóa nạn mù chữ
đúng tiến độ.
Ngay cả những nơi còn nhiều khó khăn như vùng ven biển, vùng Thiên
chúa giáo, các lớp học BDHV cùng mọc lên dưới nhiều hình thức, từ những lớp
tập trung chuyển thành những lớp nhỏ, phân tán, lớp tư gia, tùy theo điều kiện
thuận tiện của người học, người dạy, học ở nhà máy, học ở ngoài đồng, học
trong chợ, học ở dưới thuyền, dưới mảng... trong những giờ nghỉ làm ăn, thậm
chí có những lớp chỉ có “một thày một trò” tổ chức ngay tại nhà học viên.
Kết quả là số người thoát nạn mù chữ ngày càng nhiều, đã có những xã,
những huyện hoàn thành kế hoạch thanh toán nạn mù chữ trước thời hạn. Ninh
Bình là tỉnh đầu tiên hoàn thành kế hoạch thanh toán nạn mù chữ trước thời hạn
4 tháng với tỉ lệ 95,8% dân số từ 12 đến 50 tuổi thoát nạn mù chữ.
Tiếp sau Ninh Bình, ba tỉnh Thanh Hóa, Hà Nam, Thái Bình báo cáo hoàn
thành nhiệm vụ thanh toán nạn mù chữ trong tháng 11/1958 và đến cuối năm,
các tỉnh còn lại, trừ miền núi, cũng hoàn thành kế hoạch thanh toán nạn mù chữ
trước hoặc đúng hạn.
Vậy là, với sự quan tâm và những chỉ đạo hết sức thiết thực của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, một cuộc cách mạng thực sự trong lĩnh vực giáo dục đã được thực
hiện. Nhân dân ta từ chỗ không biết đọc, biết viết (hơn 90% sau Cách mạng
tháng Tám) thì nay đã có thể đọc thông, viết thạo chữ quốc ngữ; đồng bào ta từ
chỗ không có lớp, có trường thì nay đã tự xây dựng trường lớp cho mình. Đó
thực sự là một cuộc xã hội hóa học tập không biên giới (miền ngược, miền xuôi,
trong quân đội, trong nhà máy xí nghiệp, trong nhà tù thực dân), không tuổi tác
(từ các em thiếu niên nhi đồng cho đến các cụ phụ lão), không giới tính (từ đàn
ông đến đàn bà), không tôn giáo. Nó thể hiện tinh thần quần chúng và truyền
thống ham học hỏi của nhân dân ta. Đặc biệt, trong hoàn cảnh nhà nước non trẻ,
78
phải đương đầu với vô vàn khó khăn thử thách, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc
thì những thành tựu trên thực sự là một kỳ tích.
2.3.2. Hồ Chí Minh với phong trào Bổ túc văn hóa
Từ sau chiến thắng Biên giới năm 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp đã
chuyển sang giai đoạn quyết định. Tháng 2/1951, Đảng ra hoạt động công khai
với tên Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, Đảng đề ra một-số chính sách mới nhằm
tích cực bồi dưỡng lực lượng kháng chiến về mọi mặt. Về mặt văn hóa, Đảng
chủ trương ra sức bồi dưỡng cán bộ công nông đã được rèn luyện trong khói lửa
chiến tranh cách mạng để có đủ năng lực đưa vào các vị trí lãnh đạo then chốt
của Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp, nhất là ở cơ sở. Cũng từ đây, BDHV
đã chuyển sang thời kỳ mới, một mặt, tiếp tục xóa nạn mù chữ và phát triển lớp
dự bị bình dân, mặt khác, bước đầu tổ chức việc BTVH, với nội dung chương
trình, hình thức học và đối tượng phục vụ đều khác với các lớp dự bị bình dân.
Từ năm 1950, Quốc hội khóa II đã quyết định phát triển phong trào BTVH.
Hình thức học BTVH là học tại chức. Chương trình BTVH được soạn
thảo có nội dung kiến thức và kỹ năng tương đương với chương trình giáo dục
phổ thông chính quy, nhưng tinh giản và được giảng dạy theo những phương
pháp thích hợp với người lớn.
Do nhu cầu bồi dưỡng văn hóa cho cán bộ chủ chốt các cấp, theo chỉ thị
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trường BTVH tập trung (tên là Trường phổ thông lao
động Trung ương) được xây dựng ở Khu X (Tuyên Quang) từ đầu năm 1951.
Chương trình học mô phỏng theo chương trình Tiểu học và trung học, có cải tiến
cho phù hợp với học viên, chia làm 5 lớp (tương đương với các lớp 3, 4, 5, 6, 7,
8 hồi đó), thời gian học mỗi lớp 4 tháng.
Tháng 6/1952, Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về “Đẩy mạnh công tác
giáo dục BTVH” phục vụ công nông binh, gồm những vấn đề chính dưới đây:
Về phương châm, nhấn mạnh 3 điểm:
- Lý luận và thực tiễn thống nhất, học kết hợp với hành, học để mà làm;
79
- Tranh thủ thời gian phục vụ kháng chiến, đồng thời chuẩn bị để có thể
học lên cao;
- Dựa vào lực lượng nhân dân, dùng những phương pháp và hình thức tổ
chức linh động, mềm dẻo, thích hợp với điều kiện cụ thể và nhu cầu thiết thực
từng thời kỳ, từng địa phương, từng lớp người.
Về đường lối biên soạn chương trình học, Nghị quyết nêu hướng giải
quyết mối quan hệ giữa thiết thực và đề cao: chương trình vừa thiết thực, vừa đề
cao, thiết thực là chính, đề cao là phụ; vừa thích hợp với nhu cầu học và hành
trước mắt, vừa nhằm thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết và công tác sau này,
song chủ yếu phải là thiết thực.
Theo tinh thần Nghị quyết trên, Nha BDHV xây dựng chương trình giáo
dục bổ túc gồm 2 cấp:
Cấp I: 2 lớp (lớp 1 - 2) tương đương với cấp I phổ thông.
Cấp II: 3 lớp (3 - 4 - 5) tương đương với cấp II phổ thông và gồm 3 loại:
chương trình trường phổ thông lao động học tập trung và chương trình BTVH
học tại chức, soạn riêng cho 3 địa bàn: xí nghiệp, cơ quan, nông thôn.
Chương trình giáo dục bổ túc mới được ban hành do nghị định số
258/NĐ ngày 20/8/1952 của Bộ Giáo dục. Điều 2 nói về mục đích giáo dục
bổ túc, điều 3 nói về phương châm biên soạn chương trình và hình thức tổ
chức giáo dục bổ túc.
Như thế là một hệ thống tư tưởng cơ bản chỉ đạo công tác BTVH dần dần
được hoàn thiện, làm cơ sở cho sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng đối
với công tác này.
Về vị trí và tầm quan trọng của công tác BTVH, trong thư gửi cho cán bộ
và giáo viên BTVH ngày 17/12/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn tăng gia sản xuất tốt
thì phải có kỹ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kỹ thuật thì phải có văn hóa. Vì
vậy công việc bổ túc văn hóa là cực kỳ cần thiết” [103, tr.361].
Từ 1961 - 1965, công tác BTVH đã phát triển mạnh mẽ ở khắp các địa
80
bàn và đã thiết thực phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước trong giai
đoạn mới. Trong thực tiễn hoàn thành kế hoạch 5 năm về BTVH đã xuất hiện
những đơn vị tiên tiến, xuất sắc nhất là xã Yên Cường (Nam Định), xã Cẩm
Bỉnh (Hà Tĩnh), tiêu biểu cho nông thôn miền xuôi, xã Thu Phong (Hòa Bình),
tiêu biểu cho nông thôn miền núi và đặc biệt nhà máy Ô tô 1-5 (Hà Nội), tiêu
biểu cho địa bàn cơ quan, xí nghiệp.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mặc dù có nhiều khó khăn,
ngành BDHV đã có những cố gắng mới để duy trì phong trào, đồng thời xử lý
nội dung chương trình BTVH theo yêu cầu của nhiều đối tượng khác nhau.
Ngày 15/10/1968, Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, giáo viên và học
sinh toàn ngành giáo dục, trong đó có ngành BTVH. Người vui mừng khi biết
rằng mặc dù hoàn cảnh khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
miền Bắc đã có 12000 trường phổ thông, mỗi xã đều có trường cấp I, nhiều xã
đã có trường cấp II, các huyện đều có ít nhất một trường cấp III. Số người đi học
đã hơn 6 triệu, trong đó có hơn 1 triệu cán bộ và công nông đang học BTVH. Số
người vào học các trường đại học và trung học chuyên nghiệp tăng gần gấp ba
lần so với trước chiến tranh chống Mỹ. Hơn 30 trường đại học và 200 trường
trung học chuyên nghiệp đã phối hợp chặt chẽ với các ngành và các địa phương,
đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ, tập trung cũng như tại chức. Trong thư,
Người căn dặn: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học
tốt” [105, tr.507].
Như vậy là suốt 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn quan tâm, song hành và chỉ đạo sát sao, khích lệ kịp thời những
thành tựu của phong trào xóa nạn mù chữ, BDHV. Đó vừa là sự tiếp nối cuộc
vận động truyền bá chữ quốc ngữ thời Pháp thuộc, vừa là nền tảng khởi đầu cho
những thành tựu to lớn của giáo dục Việt Nam sau này.
81
Tiểu kết chương 2
Chương 2, luận án đã hệ thống những vấn đề cơ bản về lý luận và thực
tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT. Khái quát lại những nội dung cơ
bản của chương 2 như sau:
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ, danh nhân văn hóa kiệt xuất của dân
tộc và thế giới. Hồ Chí Minh cũng chính là nhà giáo dục vĩ đại đã đặt nền móng
cho sự ra đời của nền giáo dục cách mạng Việt Nam. Người có nhiều đóng góp
vô cùng quý báu cho nền giáo dục nước nhà. Đặc biệt, trong di sản Hồ Chí
Minh về giáo dục chứa đựng những quan điểm đến nay vẫn có ý nghĩa thời sự
sâu sắc, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại của Người, trong đó có tư tưởng về xây
dựng một XHHT ở Việt Nam. Đó là quan điểm “một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu”, về một nền giáo dục bình đẳng, không mất tiền, một nền giáo dục phát
triển hoàn toàn những năng lực vốn có của con người, một xã hội mà “ai cũng
được học hành”.
2. Không chỉ dừng lại ở hệ thống lý luận về XHHT, Hồ Chí Minh còn là
người kiến tạo, xây dựng và phát triển một nền giáo dục hoàn toàn mang lại giá
trị thiết thực cho người dân, mà do hoàn cảnh thực tiễn bấy giờ, chủ yếu thông
qua hai phong trào BDHV và BTVH... Dù hoàn cảnh chiến tranh, dù bộn bề
trăm công nghìn việc nhưng Hồ Chí Minh luôn dành thời gian chăm lo, xây
dựng phong trào. Người đã dành những lời ân cần thăm hỏi, động viên giáo viên
và học viên khi Người tới thăm các lớp BDHV. Người đã gửi nhiều bức thư biểu
dương, khen ngợi thành tích lớn nhỏ của phong trào... Điều đó thực sự trở thành
động lực vô giá cho cán bộ, giáo viên và học viên BDHV nỗ lực vượt mọi khó
khăn để xóa mù, phổ cập chữ quốc ngữ. Thông qua những phong trào này, người
người đi học, nhà nhà đi học, việc xóa nạn mù chữ và BTVH, nâng cao dân trí
đã trở thành nhu cầu của mỗi cá nhân và đất nước. Có thể khẳng định, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chính là người tiên phong, đặt nền móng cho công cuộc xây dựng
XHHT ở Việt Nam.
82
Chương 3
XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG - THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở
HẢI PHÒNG
3.1.1. Xu thế xây dựng xã hội học tập trên thế giới và ở Việt Nam
hiện nay
Từ những thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới đã và đang chứng kiến “sự
bùng nổ” thông tin do sự phát triển vượt bậc của tri thức và những thành tựu kỳ
diệu của cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Tuổi
đời của công nghệ ngày càng rút ngắn trong khi tuổi thọ của con người ngày
càng tăng. Nếu như trước đây, tuổi thọ của công nghệ kéo dài 300 năm (khoảng
3 đời người) thì nay trong một đời người, công nghệ có thể thay đổi tới 3 lần,
thậm chí nhiều hơn. Người ta tính rằng, trung bình cứ 10 năm thì tri thức nhân
loại sẽ tăng gấp đôi. Với tốc độ gia tăng như vậy, những kiến thức tiếp thu trong
nhà trường, kể cả ở bậc đại học và sau đại học đã trở nên ít ỏi, thậm chí nhanh
chóng trở nên lạc hậu và không đủ dùng trong suốt cuộc đời. Cuộc cách mạng tri
thức càng đòi hỏi con người phải không ngừng tiếp cận và sáng tạo ra nhanh,
nhiều tri thức hơn nữa. Vì vậy, hơn lúc nào hết, giáo dục thường xuyên, học tập
suốt đời trở nên cần thiết đối với tất cả mọi người nếu muốn sống, làm việc và
tồn tại trong thời đại ngày nay.
Trước nhu cầu học tập suốt đời ngày càng tăng, ngày càng đa dạng đối với
mọi người dân, xây dựng XHHT đã trở thành chính sách và thực tiễn ở nhiều
quốc gia. Các nước phương Tây đã và đang bổ sung, sửa đổi, cải cách từng phần
hoặc toàn bộ hệ thống giáo dục hướng tới XHHT trên cơ sở lấy nguyên tắc học
tập suốt đời làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Họ ý thức được rằng để thúc đẩy học tập
suốt đời cần phải xây dựng XHHT, và ngược lại muốn xây dựng XHHT thì phải
đẩy mạnh học tập suốt đời. Học tập suốt đời và xây dựng XHHT gắn bó chặt chẽ
với nhau. E.Faure coi ý tưởng giáo dục suốt đời là điểm nhấn của XHHT, còn
83
J.Delors thì xem học tập suốt đời là cốt lõi của XHHT. Một xã hội không thể
phát triển bền vững nếu không trở thành XHHT. Vì thế, XHHT đang là xu thế
mà nhiều quốc gia hướng tới.
Ở châu Âu, từ những năm 90 của thế kỷ XX các quốc gia này đã triển
khai Chương trình hành động chung “Hướng tới một xã hội học tập ở châu Âu
(Toward a European Learning Society - TELS). Năm 1995, châu Âu xuất bản
Sách trắng với tiêu đề “Dạy và học: Hướng tới xã hội học tập”, trong đó khẳng
định: Xã hội tương lai sẽ là XHHT. Tương lai và sự phát triển của Liên minh
châu Âu sẽ phụ thuộc phần lớn vào khả năng quản lý quá trình hướng tới xã hội
mới đó.
Ở châu Á, Nhật Bản không chỉ chủ trương xây dựng XHHT, mà còn chủ
trương xây dựng một XHHT suốt đời. “Để xây dựng một xã hội năng động và
thịnh vượng, vấn đề cốt lõi là phải tạo ra được một xã hội học tập suốt đời, trong
đó người dân có thể tự do lựa chọn cơ hội học tập trong bất kỳ thời gian nào
trong cuộc đời của họ” [22, tr.57]. Năm 1990, Nhật Bản đã thông qua Luật
Khuyến khích học tập suốt đời nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng XHHT.
Tại Hàn Quốc, điều 13 của Hiến pháp sửa đổi năm 1980 quy định trách
nhiệm của Nhà nước trong việc thúc đẩy học tập suốt đời, và cũng như Nhật
Bản, Hàn Quốc không chỉ xây dựng XHHT mà chủ trương xây dựng XHHT
suốt đời.
Tại Trung Quốc, từ cuối thế kỷ XIX, Trung Quốc đã đưa khái niệm “học
tập suốt đời” vào trong các văn bản, chính sách của chính phủ. Trong kế hoạch
“Làm sống lại nền giáo dục thế kỷ XXI” ban hành năm 1999, Trung Quốc đã
đưa ra một số chính sách, biện pháp xây dựng hệ thống học tập suốt đời và
XHHT, trong đó mọi người đều học tập và các cơ hội học tập được cung cấp ở
mọi nơi, mọi lúc.
Ở Thái Lan, vấn đề về XHHT đã được chính phủ và công chúng tiếp cận
rộng khắp, được đưa vào chiến lược phát triển quốc gia. Năm 2008, Thái Lan đã
thông qua “Luật thúc đẩy giáo dục không chính quy và Giáo dục phi chính quy”
nhằm đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời và xây dựng XHHT.
84
Như vậy, xây dựng XHHT là xu thế tất yếu của sự phát triển giáo dục mà
nhiều quốc gia đã và đang hướng tới. Từ việc nắm bắt xu thế đó, nhiều quốc gia
trên thế giới đã từng bước xây dựng và dần hoàn thiện cơ sở pháp lý về XHHT,
từ đó hoạch định ra các giải pháp để hiện thực hóa XHHT trên đất nước mình.
Đối với Việt Nam, xây dựng XHHT vừa là một nhiệm vụ tất yếu, vừa là
một yêu cầu chiến lược, lâu dài của nền giáo dục nước nhà, quyết định thành
công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.1.2. Đặc điểm của Hải Phòng
3.1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội
Hải Phòng là thành phố ven biển, nằm ở hạ lưu của hệ thống sông Thái
Bình, có vị trí nằm trong khoảng từ 20 độ 35’ đến 21 độ 01’ vĩ độ Bắc, và từ 106
độ 29’ đến 107 độ 05’ kinh độ Đông; phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng
Ninh, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Bình và
phía Đông là biển Đông với đường bờ biển dài 125km, nơi có 5 cửa sông lớn là
Bạch Đằng, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và sông Thái Bình.
Trên bản đồ hành chính cả nước, Hải Phòng là thành phố trực thuộc
Trung ương - là đô thị loại 1 gồm 7 quận (Ngô Quyền, Hồng Bàng, Lê Chân,
Dương Kinh, Đồ Sơn, Kiến An và Hải An), 6 huyện ngoại thành (Thuỷ Nguyên,
An Dương, An Lão, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo) và 2 huyện đảo (Cát Hải,
Bạch Long Vĩ) với 223 xã, phường và thị trấn. Về dân số, Hải Phòng có 2,029
triệu người (số liệu năm 2019).
Trong suốt chiều dài lịch sử, Hải Phòng nổi tiếng là một cảng biển lớn
nhất ở miền Bắc, một đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống giao thông
thuỷ, bộ, đường sắt, hàng không trong nước và quốc tế, là cửa chính ra biển của
thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc; là đầu mối giao thông quan trọng của
Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trên hai hành lang - một vành đai hợp tác
kinh tế Việt Nam - Trung Quốc. Chính vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội vùng châu thổ sông Hồng, Hải Phòng được xác định là một cực tăng
trưởng của vùng kinh tế động lực phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh); là trung tâm kinh tế - khoa học - kỹ thuật tổng hợp của Vùng Duyên hải
85
Bắc Bộ và là một trong những trung tâm phát triển của Vùng Kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ và cả nước.
Với vị trí là đầu mối giao thông quan trọng, là cửa ngõ ra biển của toàn
miền Bắc, Hải Phòng hội đủ tất cả các loại hình giao thông là đường bộ, đường
sắt, đường sông, đường biển, đường hàng không. Đặc biệt có Cảng Hải Phòng -
cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, cùng với Cảng Sài Gòn là một trong hai
hệ thống cảng biển lớn nhất Việt Nam. Do đó, Hải Phòng sớm trở thành nơi giao
lưu kinh tế, văn hóa ở trong nước cũng như với nước ngoài. Ngay từ thời Bắc
thuộc, nhiều thuyền buôn Trung Quốc đã theo con đường ven biển qua Cửa
Cấm, Bạch Đằng để buôn bán với Giao Châu. Trong thời kỳ thịnh đạt của nước
Đại Việt dưới các vương triều Lý, Trần, Lê, vùng cửa biển và các dòng sông lớn
thuộc Hải Phòng là một trong những tuyến thông thương quan trọng giữa trong
nước và nước ngoài qua trung tâm mậu dịch đối ngoại của quốc gia là thương
cảng Vân Đồn, sau đó là Phố Hiến.
Tính đa dạng và phong phú của điều kiện tự nhiên đã tạo điều kiện cho
Hải Phòng trở thành một trong những thành phố có nền kinh tế phát triển năng
động. Hải Phòng nhanh chóng tham gia vào thị trường thế giới, bản đồ thế giới
xuất hiện địa danh Cảng Hải Phòng. Cảng Hải Phòng giữ vai trò quan trọng đối
với hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần đưa hàng hóa của phía Bắc đi các vùng
trong cả nước, cũng như tham gia vào việc vận tải hàng hóa đến các nước trên
thế giới.
Đầu thế kỷ XX, ở Hải Phòng đã diễn ra quá trình hội cư lớn và phân hoá
giai cấp sâu sắc. Hải Phòng là một công trường xây dựng lớn thu hút đông đảo
lao động, những người buôn bán, kinh doanh. Nông dân khắp các vùng Nam
Định, Hà Nam, Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương và nhiều nơi khác
ở Bắc Kỳ đến kiếm việc làm. Họ trở thành thợ xây dựng, công nhân bốc vác ở
cảng, thợ nhà máy xi măng, nhà máy phốt phát, thuỷ thủ trên tàu biển, tàu sông...
Các nhà sản xuất, kinh doanh cũng hình thành, họ mở cửa hiệu, nhà hàng, đầu tư
vào sản xuất, dịch vụ, giao thông vận tải...
86
Hải Phòng là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng.
Nhân dân Hải Phòng giàu lòng yêu nước, anh dũng kiên cường trong đấu tranh
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, quê hương, đó là truyền thống tự chủ,
cũng là cái vốn để nhân dân Hải Phòng phát huy quyền làm chủ của mình theo
đường lối của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Có thể nói lịch sử Hải Phòng gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam. Với vị trí địa - chính trị đặc biệt, Hải Phòng thường là
mục tiêu đầu tiên cần đánh chiếm và thường là nơi rút lui cuối cùng của nhiều
đạo quân xâm lược. Nơi đây đã diễn ra nhiều trận đánh lớn, đặc biệt là hai trận
quyết chiến chiến lược trên sông Bạch Đằng năm 938 (Ngô Quyền lãnh đạo tiêu
diệt quân xâm lược Nam Hán) và năm 1288 (quân dân nhà Trần tiêu diệt quân
xâm lược Mông - Nguyên).
Trong thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ, tại Hải Phòng đã diễn ra các phong
trào đấu tranh của nhân dân. Năm 1946, khi Pháp bội ước quay trở lại xâm lược
Việt Nam, để thực hiện mục tiêu đánh chiếm Thủ đô Hà Nội, thực dân Pháp đã
đánh chiếm và xây dựng Hải Phòng thành một địa bàn quân sự chiến lược rất
quan trọng ở miền duyên hải, chi viện cho chiến trường chính ở Đông Bắc Bộ
cùng với các chiến trường miền Bắc Đông Dương. Trong cuộc kháng chiến 9
năm trường kỳ chống thực dân Pháp, Đảng bộ và nhân dân thành phố Hải Phòng
đã tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện ngay trong vùng tạm chiếm và
lập nhiều chiến công, làm nên truyền thống: “Đường 5 anh dũng”, “Đường 10
quật khởi”, “Cát Bi rực lửa”... Với tinh thần “Trung dũng - Quyết thắng”, Hải
Phòng đã góp phần xứng đáng cùng nhân dân cả nước làm nên chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Sau chiến thắng lịch
sử đó, quân và dân thành phố Cảng bước vào cuộc chiến đấu mới với 300 ngày
đêm đấu tranh để bảo vệ, giữ không cho địch đập phá, di chuyển máy móc vào
miền Nam. Trên địa bàn Thành phố có nhiều khu du kích và làng chiến đấu điển
hình như ở Cát Bà, Thủy Nguyên, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo. Đặc biệt, khu du kích
Tiên Lãng gắn với tên tuổi anh hùng Phạm Ngọc Đa luôn là nỗi kinh hoàng của
87
đối phương. Truyền thống này đã được kế thừa và phát huy trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Được xem là cửa ngõ của đất nước từ phía biển, một thành phố đông dân,
có hải cảng lớn, nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông, có nhiều cơ sở chính trị,
kinh tế, quốc phòng, có vị trí chiến lược quan trọng, Hải Phòng có nhiều lợi thế
so với các tỉnh khác của vùng đồng bằng Bắc Bộ, là nơi hội tụ nhiều yếu tố quan
trọng của quá trình xây dựng hậu phương cũng như điều kiện thuận lợi để xây
dựng các tuyến giao thông chiến lược. Hải Phòng có nhiều thế mạnh về kinh tế,
phát triển giao thông vận tải và dịch vụ, có nhiều thuận lợi khi triển khai xây
dựng khu vực phòng thủ, kết hợp kinh tế với quốc phòng. Tuy nhiên, bên cạnh
đó, cũng do có nhiều sông ngòi, bờ biển dài và nhiều đảo nên khi đất nước có
chiến tranh, Hải Phòng dễ bị bao vây, uy hiếp từ phía biển và bị cô lập với Thủ
đô Hà Nội cùng với các tỉnh khác, khả năng bị chia cắt thành nhiều khu vực là
rất lớn. Khi Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, thực hiện chiến tranh phá hoại
miền Bắc, Mỹ đã chọn Hải Phòng là một trong những trọng điểm bắn phá hết
sức ác liệt.
Với điều kiện đa dạng về tự nhiên, kinh tế, xã hội, Hải Phòng đã vững
bước phát triển mọi mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội, vượt qua những khó khăn
thử thách trong điều kiện chiến tranh ác liệt và tiếp tục phát triển đến như ngày
hôm nay.
3.1.2.2. Đặc điểm văn hóa - con người
Cùng với chiều dài lịch sử, Hải Phòng còn được xem là vùng đất hội tụ
khí thiêng sông núi. Về đặc trưng văn hóa, những cư dân từ nhiều miền quê
đến sinh sống tại vùng đất cửa biển này đã hình thành nên tính cách kiên nghị,
năng động, sáng tạo trong lao động, luôn nhạy bén với cái mới, làm cho người
Hải Phòng sớm tiếp thu được những tinh hoa của thời đại trước biến thiên của
lịch sử.
Cư dân Hải Phòng từ khắp nơi hội tụ đến. Sinh sống lâu đời trên một vùng
đất chua mặn, luôn luôn phải đối phó với biển khơi và bão tố để tồn tại và phát
88
triển nên trước hết, cư dân Hải Phòng là những con người cần cù, dũng cảm,
không chịu khuất phục trước mọi thiên tai, địch họa.
Quá trình hình thành đất Hải Phòng cũng là quá trình hội tụ dân cư. Các di
chỉ Cái Bèo (Cát Bà), Tràng Kênh, Việt Khê (Thủy Nguyên), núi Voi (An Lão)
cho thấy tại Hải Phòng, từ thời kỳ đồ đá cũ đến thời kỳ đồ đồng đã có người Việt
cổ sinh sống, góp phần tạo nên văn hóa Hạ Long, Phùng Nguyên, Đông Sơn nổi
tiếng. Do những biến cố lớn về lịch sử, xã hội, tự nhiên và công cuộc khai hoang
lấn biển, ở Hải Phòng thường có những đợt di cư lớn. Nhiều người từ các miền
trung du và đồng bằng kéo đến đây khai phá đất đai. Bên cạnh đó, có hiện tượng
những cư dân sống trên biển, những vạn chài hoặc từ những nơi xa xôi khác,
bằng đường biển đã lập nghiệp trên đất liền. Lý Tử Tấn khi viết thông luận cho
Dư địa chí của Nguyễn Trãi có nhận xét chung: “Đạo Hải Dương đất tốt, người
hung hãn. Thái bình thì thuận lòng, thời loạn thì cường ngạnh, từ Đinh, Lý đến
giờ vẫn thế”. Phạm Quý Thích khi đề tựa sách Hải Dương phong tục ký đại lược
nói: “Thượng Hồng, Hạ Hồng và các huyện Chí Linh, Thanh Lâm, phủ Nam
Sách phong tục văn nhã, gần hợp với lễ, còn bảy huyện khác thì phong tục hung
hãn, vũ dũng, gần hợp với nghĩa, đây là nói đại khái phong tục ngày thường”
(Các huyện khác nói ở đây chính là thuộc vùng đất Hải Phòng ngày nay). Quá
trình hội tụ cư dân cũng đồng thời là quá trình hội tụ văn hóa. Những nét đặc sắc
của văn hóa nhiều miền đã hòa trộn, đan xen vào nhau tạo nên sắc thái phong
phú, đa dạng và riêng biệt của đất và người Hải Phòng.
Về văn hóa, khi cộng đồng làng xã hình thành và ổn định thì văn hóa làng
xã có điều kiện phát triển khá phong phú. Nhiều công trình kiến trúc được xây
dựng trong suốt chiều dài lịch sử mà chứng tích còn lưu lại đến ngày nay đã thể
hiện tài năng của người Hải Phòng như tháp Tường Long, chùa Vân Bản, chùa
Dư Hàng, chùa Hòa Hy, đình Hàng Kênh, đình Cung Chúc, đình Kền Bài, đình
Đôn Lương, đình Gia Lộc, đền Nghè, từ Lương Xâm, miếu Cựu Điện...
Hải Phòng cũng là nơi bảo tồn được nhiều loại hình nghệ thuật văn hóa
dân gian đặc sắc. Xã Đồng Minh (huyện Vĩnh Bảo) là quê hương của múa rối
(gồm rối nước, rối cạn, rối pháo), cũng là nơi có nghề điêu khắc, tạc tượng nổi
89
tiếng. Ngoài ra, còn có hát đúm ở Phục Lễ, Phả Lễ - trai gái hát giao duyên với
nhiều làn điệu như trống quân, cò lả, sa mạc; ca trù Đông Môn (Thủy Nguyên)...
Về truyền thống khoa bảng, Hải Phòng thuộc tỉnh Đông nổi tiếng học
hành đỗ đạt. Về tiến sĩ, huyện Thủy Đường (nay là Thủy Nguyên) có 18 người,
huyện Nghi Dương (nay là Kiến Thụy) có 14 người, huyện An Lão 8 người,
huyện An Dương 7 người, huyện Vĩnh Lại (nay là Vĩnh Bảo) 18 người, huyện
Tiên Minh (nay là Tiên Lãng) có 11 người. Lịch sử gần 800 năm thi cử hán học
của đất nước cho thấy, cả nước có 46 người đỗ Trạng nguyên thì Hải Phòng có 3
người, đó là Lê Ích Mộc (Thanh Lãng, Thủy Nguyên), Trần Tất Văn (Nguyệt
Áng, An Lão) và Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trung Am, Vĩnh Bảo). Đặc biệt, Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) được coi là cây đại thụ của nền văn
học Việt Nam thế kỷ XVI mà bóng còn tỏa rợp sang cả thế kỷ XVII và nửa đầu
thế kỷ XVIII. Phan Huy Chú nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm: “có tài giỏi, lưu
tiếng nghìn đời”, còn sứ nhà Thanh cũng phải trầm trồ: “An Nam lý học hữu
Trình tuyển” (người Nam giỏi lý học chỉ có trình tuyển hầu Nguyễn Bỉnh
Khiêm) [81, tr.35]. Học vấn uyên bác của ông cùng nhân cách cao đẹp đã được
người đương thời kính phục, ngưỡng mộ, coi là bậc thầy của cả một thời đại và
tôn ông là Tuyết Giang phu tử (đánh giá của Trường Chinh). Chính Nguyễn
Bỉnh Khiêm khi về ở ẩn, dựng am Bạch Vân, mở trường dạy học đã làm cho
Vĩnh Bảo trở thành một trung tâm văn hóa, giáo dục nổi tiếng, thu hút sĩ tử của
nhiều miền trong nước đến theo học, trong đó có nhiều người thành đạt như
Nguyễn Quyện, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ...
Lao động chân tay, lao động trí óc, lao động nghệ thuật của người Hải
Phòng qua hàng nghìn năm đã tạo dựng nên những thành tựu văn hóa vật
chất, văn hóa tinh thần khá phong phú. Những truyền thống văn hóa ấy trở
lại góp phần hun đúc cho con người Hải Phòng hiện nay: những công nhân
có tay nghề cao, những nông dân thâm canh giỏi, những nghệ nhân nổi tiếng
và những trí thức tài năng... Truyền thống văn hóa lâu đời là cơ sở tạo nên
tính năng động, sáng tạo, luôn luôn nhạy bén với cái mới của con người Hải
Phòng. Ngày nay, trên cơ sở phát huy mặt tích cực trong văn hóa truyền
90
thống, Hải Phòng đang đẩy mạnh xây dựng đô thị phát triển toàn diện, trong
đó có vấn đề xây dựng XHHT.
Có thể nói, đất và người Hải Phòng đã tạo nên những nét đặc trưng riêng
có của vùng đất Hoa Phượng đỏ. Nơi đây có bề dày lịch sử, có dân cư đô thị lâu
đời, là thành phố lớn thứ ba cả nước, người dân thông minh, khoáng đạt với
truyền thống khoa bảng nổi tiếng. Những đặc điểm ấy là cơ sở quan trọng để Hải
Phòng thực hiện được nhiều kế hoạch giáo dục quan trọng, trong đó có vấn đề
xây dựng XHHT.
3.1.3. Chủ trương, đường lối xây dựng xã hội học tập của Đảng, Nhà
nước và thành phố Hải Phòng
Khi vấn đề xây dựng XHHT được nhiều quốc gia đề cập tới thì Việt Nam
cũng không ngoại lệ. Chủ trương xây dựng XHHT ở Việt Nam đã được Đảng ta
khẳng định lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
(2001), khi vấn đề kinh tế tri thức được coi là một cơ hội để thực hiện quá trình
công nghiệp hóa rút ngắn. Đó là một chủ trương đúng đắn trong điều kiện đất
nước còn nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt khi nước ta chưa trở thành một
nước công nghiệp hiện đại. Từ Văn kiện Đại hội IX đến Văn kiện Đại hội XII,
Đảng ta đều nhất quán chủ trương xây dựng XHHT, tạo cơ hội cho mọi người
dân được học tập suốt đời.
Các văn kiện của Đảng nói về chủ trương xây dựng XHHT như sau:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng ta khẳng
định: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung,
phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực
hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ
và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học
vấn và tay nghề. Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình
thức chính quy và không chính quy, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả
nước trở thành một XHHT” [36, tr.35]. Lần đầu tiên, cụm từ “xã hội học tập”
được đưa vào văn kiện của Đảng.
91
Đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006): Tư duy về
XHHT đã có sự chuyển động, từ mục tiêu chuyển sang hành động: “Chuyển dần
mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình XHHT với hệ
thống học suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây
dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập,
thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng,
cơ hội khác nhau cho người học, đảm bảo sự công bằng xã hội trong giáo dục
[37, tr.95].
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011): Nội hàm
khái niệm XHHT tiếp tục được Đảng nhấn mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính
sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện: động viên các nguồn
lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt
động khuyến học, khuyến tài, xây dựng XHHT, tạo điều kiện để người dân được
học tập suốt đời. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo [38,
tr.218]. Vấn đề xây dựng XHHT trở thành một trong ba phương diện chiến lược
phát triển giáo dục, mà nội dung cốt lõi vẫn là học tập suốt đời.
Đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016): Xây dựng
XHHT tiếp tục là giải pháp để phát triển giáo dục, đào tạo nhằm: “Hoàn thiện hệ
thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và
xây dựng XHHT [39, tr.116].
Có thể nhận thấy tinh thần xuyên suốt trong những chủ trương này là:
1) Cần phải thực hiện tốt quan điểm “giáo dục cho mọi người”, làm cho
mọi người dân đều được học và ai cũng phải học tập suốt đời.
2) Để thực hiện được như vậy đòi hỏi phải đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục - đào tạo theo hướng chuyển mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình
XHHT.
3) Cốt lõi trong XHHT là học suốt đời. Việc học tập suốt đời chỉ có thể
thực hiện tốt khi coi trọng cả giáo dục trong nhà trường và giáo dục ngoài nhà
trường, cả giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy, trên cơ sở phát huy
tính tự học, học tập bằng phương pháp tư duy sáng tạo.
92
4) Một trong những nguyên tắc khi xây dựng XHHT là phải dựa vào cộng
đồng theo tinh thần xã hội hóa, huy động các nguồn lực trong xã hội.
5) Giải pháp xây dựng XHHT là đẩy mạnh công tác KH, KT, tạo mọi khả
năng và cơ hội để ai cũng được học hành, ai cũng được hưởng sự công bằng xã
hội về giáo dục.
Trên cơ sở những chủ trương của Đảng, Nhà nước đã thể chế hóa thành
những quyết định sau:
Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg ngày 18/5/2005 của Thủ tướng Chính
phủ về xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010.
Quyết định xác định 5 mục tiêu cụ thể, đồng thời nhấn mạnh công tác KH,
KT, thu hút mọi lực lượng xã hội tham gia đẩy mạnh phong trào học tập; phát
huy tính hiệu quả của các mô hình GĐHH, dòng họ khuyến học, tổ dân phố, bản
làng văn hóa, xã/phường/thị trấn khuyến học.
Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13/4/2007 của Bộ Chính trị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây
dựng xã hội học tập”.
Chỉ thị xác định nhiệm vụ của các cấp ủy đảng trong việc:
1- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và nhân dân với
nhiều hình thức phong phú, thiết thực về sự cần thiết, tầm quan trọng của việc
xây dựng XHHT ở nước ta hiện nay; xác định xây dựng XHHT là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, là một mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát
triển giáo dục của nước ta.
2- Cụ thể hoá các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng XHHT trong
phạm vi từng địa phương, đơn vị.
3- Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào KH, KT, góp phần hỗ trợ
các cơ sở giáo dục trong giảng dạy và học tập; xây dựng GĐHH; cộng đồng,
dòng họ, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị khuyến học. Tiếp tục đẩy mạnh xây
dựng các TTHTCĐ ở xã, phường, thị trấn; phát triển nhiều loại hình học tập đa
dạng, phù hợp với điều kiện và nhu cầu học tập của cán bộ, nhân dân từng địa
phương, đơn vị.
93
4- Củng cố, xây dựng Hội Khuyến học các cấp vững mạnh, làm nòng cốt
trong việc liên kết, phối hợp với các tổ chức, các lực lượng xã hội tham gia hoạt
động KH, KT, xây dựng XHHT. Các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội, nghề nghiệp, các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang, doanh
nghiệp tích cực, chủ động tổ chức các hoạt động KH, KT, xây dựng XHHT theo
tinh thần xã hội hoá giáo dục.
Chỉ thị số 02/2008/CT-TTg ngày 08/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ
Về đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập
theo Chỉ thị 11-CT/TW.
Chỉ thị xác định rõ: Xây dựng XHHT là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân,
là mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước
ta. Cần đẩy mạnh công tác KH, KT gắn với xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, với phong trào làm kinh tế giỏi, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở, học đi đôi với làm. Phát triển các hình thức học tập chính
quy đi đôi với phát triển, đa dạng hóa các hình thức học tập, tạo điều kiện thuận
lợi cho mọi người được học tập thường xuyên, học suốt đời.
Quyết định số 89/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/01/2013
phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020”. Quan
điểm chỉ đạo là:
1- Trong XHHT, mọi cá nhân có trách nhiệm học tập thường xuyên, suốt
đời, tận dụng mọi cơ hội học tập để làm người công dân tốt; có nghề, lao động
với hiệu quả ngày càng cao; học cho bản thân và những người xung quanh hạnh
phúc; học để góp phần phát triển quê hương, đất nước và nhân loại.
2- Các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân, cộng đồng dân cư và gia đình có trách nhiệm cung ứng các cơ
hội học tập và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người được học tập suốt đời.
3- Xây dựng XHHT dựa trên nền tảng phát triển đồng thời, gắn kết và liên
thông giữa giáo dục chính quy và GDTX; đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt
đời ở ngoài nhà trường; ưu tiên các đối tượng chính sách, người dân tộc, phụ nữ,
người bị thiệt thòi.
94
Quyết định số 281/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
20/02/2014, phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong
gia đình, dòng họ, cộng đồng học tập đến năm 2020”. Mục tiêu chung là: Đẩy
mạnh các hoạt động học tập thường xuyên, học tập suốt đời trong gia đình, dòng
họ, cộng đồng thông qua việc xây dựng và triển khai các mô hình “Gia đình học
tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập” và “Đơn vị học tập”, góp phần
xây dựng XHHT.
Kết luận số 49-KL/TW của Ban Bí thư ngày 10/5/2019 tiếp tục thực
hiện Chỉ thị 11-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Đây là văn kiện quan
trọng chỉ rõ phương hướng phát triển XHHT và nhiệm vụ KH, KT sau khi tổng
kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW.
Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng XHHT, bảo
đảm cho tất cả các công dân có cơ hội bình đẳng trong học tập, đào tạo, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, các tổ chức, đoàn thể,
đặc biệt là Hội Khuyến học Việt Nam tổ chức nhiều hoạt động thiết thực triển
khai thực hiện Đề án. Một số hoạt động cụ thể được thực hiện, như xây dựng các
văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc triển khai thực hiện
Đề án; xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 6 đề án thành phần: 1-
Đề án “Xóa mù chữ đến năm 2020”; 2- Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học
tập suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ”; 3- Đề
án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng
đến năm 2020”; 4- Đề án “Truyền thông về xây dựng xã hội học tập”; 5- Đề
án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời cho công nhân lao động trong
các doanh nghiệp”; 6- Đề án “Phát triển đào tạo từ xa”; Tổ chức tuyên truyền
trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua việc tổ chức Tuần lễ
hưởng ứng học tập suốt đời vào tuần đầu tháng 10 hằng năm để mỗi người dân
nhận thức đầy đủ hơn, đúng đắn hơn về vai trò, ý nghĩa và lợi ích của việc học
suốt đời, xây dựng XHHT đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, phát triển bền
vững xã hội, nâng cao chất lượng đời sống của cộng đồng và cá nhân; tổ chức
95
những chương trình giáo dục mở trên sóng phát thanh, truyền hình (như Chương
trình hướng dẫn ôn tập và luyện thi đại học và Chương trình dạy tiếng Anh trên
VTV2; Chương trình dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài trên
VTV4; Chương trình giáo dục các kỹ năng sống trên VTV3; các chương trình
Chào buổi sáng, đời sống thường ngày trên VTV đã giúp cho người dân có được
những kiến thức về chăn nuôi, trồng trọt, thực hiện pháp luật, bảo vệ môi trường,
chăm sóc sức khỏe người dân; Chương trình học tiếng Anh Obla Air trên trên
kênh VOV2 (Kênh Văn hóa, Xã hội và Giáo dục) và VOV5 (Hệ Phát thanh Đối
ngoại Quốc gia); kênh Truyền hình Giáo dục quốc gia phát sóng trên kênh
truyền hình VTV7 với mục tiêu “Vì một xã hội học tập”, cung cấp các tri thức đa
dạng cho nhiều tầng lớp khán giả khác nhau,...).
Các cấp ủy, chính quyền và đoàn thể các địa phương trong cả nước đã chỉ
đạo triển khai thực hiện Đề án với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, như xây
dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề án cụ thể, phù hợp với đặc điểm của mỗi
địa phương; thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Đề án; ban hành chỉ thị, nghị quyết
của tỉnh/thành ủy, hội đồng nhân dân tỉnh/thànhphố về việc thực hiện Đề án; tổ
chức nhiều hoạt động thiết thực triển khai thực hiện Đề án.
Tại Hải Phòng, trên cơ sở chủ trương, Nghị quyết của Đảng và văn bản
của Nhà nước, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, các cấp lãnh đạo Hải Phòng
đã cụ thể hóa bằng nhiều chỉ thị, kế hoạch hướng dẫn việc tổ chức xây dựng
XHHT tại địa phương. Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng đã ban hành Chỉ
thị số 10-CT/TU ngày 5/7/2007 về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy
Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Chỉ
thị xác định phải: Đẩy mạnh, phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động
KH, KT trong toàn thành phố; huy động, thu hút mọi lực lượng xã hội tham gia
xây dựng XHHT; nhân rộng và phát huy hiệu quả của các mô hình GĐHH,
DHHH, CĐKH.
Đối với các Đề án thành phần, trên cơ sở Thông tư số 44/2014/TT-
BGDĐT ngày 12/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về
đánh giá, xếp loại Cộng đồng học tập cấp xã, Ban chỉ đạo xây dựng XHHT
96
thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng, cơ quan thường trực Ban chỉ đạo
đề án xây dựng XHHT đã phối hợp với Hội Khuyến học tham mưu với UBND
thành phố ban hành các văn bản để chỉ đạo, triển khai thực hiện. Theo đó,
UBND thành phố ban hành Quyết định số 954/QĐ-UBND ngày 30/5/2013 về
việc thành lập Ban chỉ đạo Đề án Xây dựng xã hội học tập, giai đoạn 2012 -
2020. Thành phần Ban chỉ đạo có các ban, ngành, cơ quan và các tổ chức xã hội
liên quan trên địa bàn thành phố, có sự phân công trách nhiệm chung đối với
thành viên của Ban. Hàng năm, Ban chỉ đạo thành phố thực hiện kiểm điểm,
đánh giá hoạt động và kiện toàn về nhân sự tham gia Ban chỉ đạo.
Công văn số 3174/ UBND-VX ngày 22/8/2013 được UBND thành phố
ban hành về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 07/2013/NQ-HDND ngày
25/7/2013 của Hội đồng nhân dân thành phố về nhiệm vụ, giải pháp, cơ chế,
chính sách xã hội hóa giáo dục - đào tạo và dạy nghề trong lĩnh vực giáo dục;
tiến hành tổ chức ký kết các Nghị quyết liên tịch về phối hợp hoạt động giữa
Sở Giáo dục và Đào tạo với Hội Khuyến học, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Ban
chỉ huy Bộ đội biên phòng Hải Phòng để triển khai thực hiện các mục tiêu của
Đề án.
Trên cơ sở nội dung Đề án tổng thể và các Đề án thành phần của Đề án 89
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, UBND thành phố Hải Phòng ban hành
thành phố Hải Phòng, Ban chỉ đạo xây dựng XHHT thành phố ban hành văn bản
số 9467/BCĐ ngày 20/12/2013 về việc xây dựng Kế hoạch thực hiện Đề án,
trong đó Sở Giáo dục và Đào tạo là cơ quan thường trực; các sở, ban, ngành và
ủy ban nhân dân các quận/huyện chủ động xây dựng Kế hoạch thực hiện trên cơ
sở mục tiêu hàng năm; phù hợp với nhiệm vụ tương ứng với các Sở, ngành, cơ
quan, tổ chức của thành phố trong các Đề án thành phần, phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và định hướng cũng như phương hướng,
nhiệm vụ hàng năm của từng đơn vị; có thực hiện đánh giá theo năm và đánh giá
chung theo giai đoạn.
UBND thành phố Hải Phòng tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn cụ
thể kế hoạch thực hiện Đề án, như văn bản số 6192/UBND-VX ngày 19/8/2014
97
hướng dẫn nội dung và mức chi thực hiện Đề án xây dựng XHHT, trên cơ sở
thực hiện văn bản số 4163/BGDĐT-GDTX ngày 07/8/2014 của Sở Giáo dục và
Đào tạo. Tiếp đến là văn bản số 1919/UBND-VX ngày 03/10/2016 hướng dẫn
đánh giá, xếp loại Cộng đồng học tập cấp xã; văn bản số 3141/UBND-VX ngày
12/12/2016 hướng dẫn đánh giá, công nhận danh hiệu “Gia đình học tập”,
“Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập”, “Đơn vị học tập”.
Ngoài vai trò chủ đạo của ngành giáo dục - đào tạo, các ngành văn hóa,
thể thao và du lịch, thông tin và truyền thông, lao động - thương binh và xã hội,
nội vụ, tài chính..; các tổ chức, đoàn thể: Hội Khuyến học, Hội Liên hiệp phụ nữ,
Hội Nông dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh...; các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền
thông đã tham gia tích cực trong việc xây dựng XHHT ở địa phương. Nhiều địa
phương đã có giải pháp tuyên truyền về vai trò, tác dụng của học tập suốt đời,
xây dựng XHHT thiết thực, tạo ấn tượng sâu sắc và có tác động mạnh mẽ đến
nhận thức của các tầng lớp nhân dân; chỉ đạo cụ thể hoạt động của các
TTHTCĐ; xây dựng các mô hình học tập; đa dạng hóa nội dung, hình thức học
tập; tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, các lớp
phổ biến kiến thức phục vụ nhu cầu học tập suốt đời của mọi tầng lớp nhân dân.
Có thể khẳng định, xây dựng XHHT nằm trong chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước, vừa là một nhiệm vụ cấp bách, vừa là một yêu cầu chiến lược, cơ
bản, lâu dài của nền giáo dục, quyết định thành công của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Những định hướng phát triển giáo dục trên chính là
sự tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT trong thời đại mới, đáp
ứng khao khát ngàn đời của dân tộc Việt Nam “ai cũng được học hành”.
3.2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG
3.2.1. Công tác chỉ đạo, phối hợp, tổ chức thực hiện
Trên cơ sở chủ trương chung của Đảng và các quyết định của Chính phủ
về xây dựng XHHT ở Việt Nam, Hải Phòng đã tiến hành công tác chỉ đạo thực
hiện Đề án xây dựng XHHT một cách đồng bộ và nhất quán từ trên xuống dưới,
98
thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo thành phố và sự vào cuộc của các sở,
ban, ngành, cơ quan, tổ chức, đoàn thể và nhân dân địa phương.
Thành ủy Hải Phòng đã tổ chức Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Chỉ thị
số 11-CT/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Thành ủy Hải
Phòng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác KH, KT, xây dựng
XHHT. UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 954/QĐ-UBND ngày
30/5/2013 của UBND thành phố về việc thành lập Ban chỉ đạo Đề án xây dựng
XHHT giai đoạn 2012 - 2020 và phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án xây dựng
XHHT giai đoạn 2012 - 2020 trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Từ cấp thành
phố, Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án ở các quận, huyện được thành lập; xây dựng
Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án xây dựng XHHT giai đoạn 2012 - 2020 ở
từng địa phương mình. Việc triển khai thực hiện Đề án tiến hành đồng bộ, được
các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị xã hội và đông đảo nhân dân tham gia.
UBND thành phố còn tổ chức ký kết các Nghị quyết liên tịch nhằm phối
hợp hiệu quả hoạt động giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với Hội Khuyến học, Hội
Nông dân, Hội Phụ nữ, Ban chỉ huy Bộ đội biên phòng Hải Phòng để triển khai
thực hiện các mục tiêu của Đề án.
Ngành giáo dục đã tích cực triển khai Quyết định số 954/QĐ - UBND và
các Quyết định kiện toàn đến UBND các quận, huyện, phòng Giáo dục và Đào
tạo quận, huyện và Trung tâm GDTX Hải Phòng, Trung tâm Giáo dục hướng
nghiệp - kỹ thuật thực hành Hải Phòng, các Trung tâm GDNN - GDTX quận,
huyện. Trên cơ sở này phòng Giáo dục và Đào tạo tham mưu với UBND các
quận, huyện triển khai thực hiện Đề án xây dựng XHHT giai đoạn 2012 - 2020
trên địa bàn và Kiện toàn ban chỉ đạo xây dựng XHHT các quận, huyện; hàng
năm tổ chức Hội nghị sơ kết nhiệm vụ năm trước và triển khai nhiệm vụ năm
sau đến các quận, huyện, sở ngành, tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyên môn,
nghiệp vụ quản lý cho các thành viên ban chỉ đạo xây dựng XHHT từ thành phố
đến các xã, phường, thị trấn, triển khai tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho các
cán, bộ, chuyên viên phụ trách TTHTCĐ cho của các phòng giáo dục và đào tạo;
Ban giám đốc TTHTCĐ về công tác xây dựng kế hoạch, triển khai nhiệm vụ liên
99
kết phối hợp, hướng dẫn biên soạn, thu thập tài liệu, mời báo cáo viên, huy động
các nguồn lực nên hoạt động có hiệu quả ngày càng đáp ứng nhu cầu học tập đa
dạng và phong phú của người dân.
Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Hội Khuyến học kiểm tra đánh giá
công tác chỉ đạo xây dựng XHHT ở các quận, huyện, đồng thời tham mưu các
cấp chính quyền chỉ đạo các cấp, các ngành, vận động các tổ chức chính trị xã
hội, các doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí cho các TTHTCĐ.
Hội Nông dân thành phố phối hợp với Hội Nông dân các quận, huyện
tuyên truyền trong hội viên về lợi ích việc xây dựng XHHT, cung cấp nhiều tài
liệu cho các cấp Hội để tuyên truyền. Trong năm 2019, số hội viên nông dân
được đào tạo nghề 50.542/60.765 chiếm tỉ lệ 83,17%, tổ chức 387 lớp tập huấn
chuyên đề chuyển giao công nghệ sản xuất cho trên 41.500 lượt người [9, tr.4].
Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp đã tuyên truyền qua các hình thức tọa đàm
giao lưu, trao đổi kinh nghiệp, liên hoan nhân rộng mô hình xã hội học tập ở địa
phương; biên soạn phát hành trên 150.000 tờ rơi các loại về tuyên truyền cuộc
vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, các tài lệu về tuyên truyền
phòng chống HIV/AIDS, ma túy, sức khỏe sinh sản vị thành niên, các tài liệu về
thu gom rác thải, vệ sinh môi trường...
Các cấp công đoàn đã vận động, phối hợp tổ chức cho 6.069 công nhân
viên chức, lao động tham gia học các lớp nâng cao nhận thức cho 23.679 công
nhân viên chức người lao động tham gia các khóa học và tự học nâng cao
chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề [9, tr.4]. Phối hợp với các cấp công đoàn và
doanh nghiệp tổ chức các chương trình đào tạo từ xa… đáp ứng nhu cầu học tập
của một bộ phận công nhân viên chức người lao động.
Thành đoàn Thanh niên trong năm 2019 đã tổ chức 321 lớp kỹ năng sống
thu hút 33.869 lượt học sinh, sinh viên tham dự; mở 118 lớp tập huấn, bồi dưỡng
và đào tạo về kỹ năng cho 6.834 lượt đoàn viên thanh niên, 45 trại huấn luyện kỹ
năng thu hút 9.657 lượt đoàn viên thanh niên tham gia, ngoài ra hàng năm còn tổ
chức học kỳ quân đội đã thu hút được 4350 học sinh, sinh viên tham gia khóa
học tại trung đoàn 50 và trung đoàn 169 Hải Quân... [9, tr.4].
100
Sở Tài chính, Sở Kế hoạch đầu tư bố trí kinh phí xây dựng mới và trang
thiết bị dạy và học cho Trung tâm GDTX Hải Phòng, các Trung tâm GDNN -
GDTX quận, huyện. Đến nay trên địa bàn thành phố đã có 15/15 trung tâm có
trụ sở riêng và có cơ sở vật chất để đảm bảo cho công tác dạy và học văn hóa
giáo dục thường xuyên và các lớp dạy nghề cho học viên trên địa bàn quận,
huyện.
Năm 2019, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã tuyển sinh đào tạo
được 81.478 học viên trong đó cao đẳng nghề: 5.880 sinh viên; trung cấp nghề:
2.570 học viên; sơ cấp nghề: 40.050 học viên, đặc biệt đề án đào tạo nghề cho
nông thôn theo QĐ số 825/QĐ - UBND ngày 21/4/2015 của UBND thành phố
phê duyệt Kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức xã năm đến nay là 2.935 học viên; đào tạo nghề cho
nông dân, ngư dân về kiến thức tiến bộ kỹ thuật là 29.520 lượt người; đề án Hỗ
trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm theo đề án 295 - Hội liên hiệp phụ nữ là 523
người [9, tr.5].
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc
thực hiện các cẩm nang, tờ rơi chuyên môn nghiệp vụ như: 15.420 cuốn Cẩm
nang xây dựng nông thôn mới, 180.366 tờ rơi các loại tuyên truyền nhiệm vụ
xây dựng nông thôn mới, tổ chức lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ các sở - ngành,
quận - huyện, phường - xã các nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện tốt việc hướng dẫn các hình
thức tuyên truyền về treo băng - rôn, panô, áp phích, các xe loa phát thanh… cổ
động Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời tại trung tâm thành phố và các khu vực
công cộng.
Sở Nội vụ phối hợp với các cơ sở đào tạo từng bước đổi mới nội dung,
chương trình, phương pháp đánh giá học viên nâng cao chất lượng đào tạo. Tổ
chức tập huấn, phổ biến đến các cơ quan đơn vị và phối hợp với các cơ quan đơn
vị từng bước tăng cường kỷ cương, đảm bảo thực hiện nghiêm chế độ đào tạo
bắt buộc tối thiểu 1 tuần/năm theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ
về đào tạo, bồi dưỡng công chức.
101
Các Sở Y tế, Công an Thành phố, Sở cảnh sát phòng cháy và chữa cháy,
Sở Công thương, Sở Thông tin và truyền thông, Sở Xây dựng, Sở Tài Nguyên và
Môi trường và Sở Ngoại Vụ đã làm tốt công tác tuyên truyền xây dựng XHHT
trong toàn ngành, tham gia tích cực “Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời” và cử
cán bộ tham gia học tập nhiều nội dung để đáp ứng yêu cầu công việc.
UBND các quận, huyện đã bố trí giáo viên làm việc tại TTHTCĐ với
chức danh phó giám đốc theo tinh thần Thông tư số 40/2010/TT-BGD ngày
30/12/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo để xây dựng kế hoạch và tổ chức thực
hiện kế hoạch của trung tâm; chỉ đạo xây dựng TTHTCĐ kết hợp với nhà văn
hóa, bưu điện xã, chọn trung tâm nguồn để nhân rộng điển hình trên địa bàn;
hướng dẫn phòng giáo dục và đào tạo các quận, huyện phối hợp với Hội người
cao tuổi tổ chức các lớp học tuyên truyền, phổ biến kiến thức phổ thông về chế
độ dinh dưỡng ở người cao tuổi; hướng dẫn người cao tuổi kỹ năng phòng bệnh,
chữa bệnh và tự chăm sóc sức khỏe.
Có thể nói, sự nghiệp xây dựng XHHT ở Hải Phòng đã thu hút sự tham
gia của nhiều cấp, sở, ban, ngành, địa phương, doanh nghiệp và cá nhân. Thành
công của sự nghiệp xây dựng XHHT trước hết chính là nhờ sự chỉ đạo, phối hợp
tổ chức hiệu quả của những đơn vị này.
3.2.2. Kết quả xây dựng xã hội học tập
3.2.2.1. Kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục các cấp
Từ rất sớm, Hải Phòng đã bắt tay ngay vào công cuộc xóa mù chữ, góp
phần thực hiện chiến lược “ai cũng được học hành” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cũng như cả nước, ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945 và những năm
kháng chiến, Hải Phòng luôn xác định xóa nạn mù chữ và BTVH là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm, nằm trong chiến dịch diệt “giặc dốt” mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh phát động. Các lớp học BDHV được mở ra, thu hút và giải quyết được
nạn mù chữ cho nhiều thành phần dân cư trong thành phố.
Nhiều hình thức tổ chức lớp học được thực hiện phù hợp với nhiều đối
tượng: ở thành thị mở các lớp sáng sớm, lớp trưa, lớp tối, lớp theo ca kíp; ở nông
thôn mở lớp ở xóm, lớp theo tổ sản xuất, tổ đổi công, lớp cho các chị em có con
102
nhỏ (được Hội Phụ lão giúp trông cháu)... Đi học để biết đọc, biết viết không
những là nguyện vọng của người dân mà còn trở thành một hình thức sinh hoạt
mới mẻ, hấp dẫn đối với người lao động. Có những lớp học rất đặc biệt như lớp
học theo con nước của đội vận tải thủy nhà máy Xi măng. Có những lớp học bắt
đầu từ 1 hoặc 2 giờ sáng tùy theo con nước. Có những lớp học trên thuyền cho
bà con xóm chài tại tiểu khu trên sông của khu phố Hồng Bàng. Trên các đường
phố có nhiều lớp "tư gia" chỉ vài ba học viên người cùng phố. Điển hình là
huyện Hải An, Hải Phòng và 5 quận Hà Nội, nhiều lần tổ chức tham quan trao
đổi kinh nghiệm lẫn nhau và ký giao ước thi đua. Báo Hải Phòng, Đài Phát
thanh Hải Phòng thường xuyên có bài phản ánh phong trào BDHV, biểu dương
các đơn vị, cá nhân có thành tích xuất sắc. Các bài thơ, ca về chủ đề diệt dốt
được tuyên truyền, phổ biến rộng khắp. Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, phụ lão
hăng hái tuyên truyền vận động người đi học, tổ chức và duy trì các lớp học.
Nhiều người cao tuổi vẫn đi học, đi dạy làm gương cho con cháu. Nhiều cụ bà
giúp giữ trẻ, nấu cơm cho các chị em có con nhỏ đi học. Hình ảnh người công
nhân cảng vai đeo súng, vai đeo túi sách vở đạp xe đến trường học bổ túc vào
buổi tối khiến thủy thủ nước ngoài phải khâm phục.
Trong những năm kháng chiến, ngành BTVH Hải Phòng đã hoàn thành
nhiệm vụ phổ cập cấp I cho nhân dân, phổ cập cấp II cho cán bộ chủ chốt và
tăng nhanh số lượng học viên học BTVH cấp III, sáp nhập các trường BTVH
nhỏ lẻ thành các trường BTVH với quy mô lớn hơn để tập trung thực hiện nhiệm
vụ chính trị của ngành, đồng thời mở rộng hệ thống các trường BTVH tại các
cụm xã thực hiện nhiệm vụ vừa học, vừa làm, đáp ứng nhu cầu phát triển của các
hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ mới.
Ngày nay, Hải Phòng luôn đề cao công tác phổ cập giáo dục các cấp, coi
công tác phổ cập giáo dục là một trong ba nhiệm vụ chiến lược: Nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Để đạt và duy trì vững chắc chuẩn phổ
cập, hàng năm thành phố đều tổ chức kiểm tra mức độ đạt chuẩn của các quận,
huyện, qua đó đánh giá nhắc nhở các quận huyện tập trung vận động học sinh có
hoàn cảnh khó khăn ra lớp phổ cập hoặc học nghề để duy trì chuẩn. Các trường
103
tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông đã chú trọng nâng cao hiệu suất
đào tạo, đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá; quan
tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh, thực hiện giảm tỷ lệ lưu ban, chống bỏ
học có hiệu quả.
Hải Phòng đã thực hiện những biện pháp sáng tạo, linh hoạt. Các cấp ủy
Đảng, chính quyền và đoàn thể ở cơ sở quan tâm trực tiếp và làm tốt công tác
tuyên truyền, vận động, tổ chức phong trào. Ngành Giáo dục đã xây dựng được
đội ngũ chuyên trách đông đảo (có lúc lên tới 500 người), bố trí đến tận các thôn,
xóm, gia đình xã viên để vận động người đi học; thực hiện việc phân loại đối
tượng để huy động hoặc ưu tiên đi học, rồi tiếp tục học lên để đào tạo cán bộ cho
tương lai; đa dạng hóa các hình thức học tập trung, nửa tập trung, học tại chức,
học ban ngày, ban đêm, thời vụ... tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người đi học.
Hải Phòng trở thành một trong những địa phương thực hiện phổ cập các
cấp sớm nhất. Thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm
1991; hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2001; cơ bản hoàn
thành phổ cập bậc trung học và nghề vào năm 2008 (sớm trước 2 năm so với kế
hoạch); hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2014,
được Bộ Giáo dục và Đào tạo kiểm tra, công nhận vào tháng 4/2015, công nhận
thành phố Hải Phòng đạt chuẩn phổ cập giáo dục cho trẻ em 5 tuổi. Những thành
quả đó chính là bước đầu của công cuộc xây dựng XHHT, thực hiện phương
châm “ai cũng được học hành” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3.2.2.2. Kết quả học tập nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ
Không chỉ xóa mù chữ, phổ cập giáo dục mà nội dung quan trọng của
XHHT là xóa mù chữ chức năng (xóa mù chữ hành dụng). Trước yêu cầu của
công việc và cuộc sống, việc học không chỉ dừng lại trong nhà trường hoặc sau
khi có bằng, mà cần phải tiếp tục trong suốt cuộc đời của con người. Nếu không
theo kịp công nghệ và kỹ thuật tiên tiến thì đó là mù chức năng. Mù nghề, mù
công nghệ, mù tin học, mù ngoại ngữ, mù kỹ năng đều là biểu hiện của mù chữ
chức năng. Vì vậy, xóa mù chữ cơ bản là giúp con người biết đọc, biết viết (điều
kiện cần) còn xóa mù chữ chức năng là giúp con người có đủ kiến thức và kỹ
104
năng để hành nghề (điều kiện đủ). Xã hội càng phát triển thì việc xóa mù chức
năng càng quan trọng. Không ai dám chắc mình không bị mù chức năng. Xóa
mù chức năng là để người lao động học vì công việc, vì bản thân để nâng cao
năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo uy tín và thương hiệu
trong lĩnh vực của mình.
Ở Hải Phòng, nhu cầu học tập nâng cao trình độ là rất lớn. Đặc biệt, nhiều
cán bộ, công chức, viên chức tham gia chương trình học tập nâng cao trình độ
ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm của
từng cá nhân trong các đơn vị. Từ năm học 2012 - 2013 đến nay, toàn thành phố
đã tổ chức được 374 lớp tin học ngoại ngữ cho đối tượng là cán bộ, công chức,
viên chức với tổng số người tham gia học tập, nâng cao kiến thức và đã được cấp
là hàng trăm nghìn chứng chỉ cho học viên ở các độ tuổi.
Năm 2019, trên 90% cán bộ công chức có đủ trình độ tin học đáp ứng yêu
cầu công việc và thường xuyên tham gia chương trình học tập nâng cao trình độ
tin học. Thành phố hải Phòng cũng đã hoàn thành vượt mức Mục tiêu 20% cán
bộ công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ bậc 2 và 5% có trình độ bậc 3
theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam ban hành tại Thông
tư 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24/01/2014.
Cũng từ năm học 2012 - 2013 đến nay, có hàng chục nghìn cán bộ, công
chức, viên chức cấp quận, huyện đi học tin học, ngoại ngữ. Các quận, huyện đã
làm tốt công tác này là các quận Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền và huyện
Thủy Nguyên, huyện Kiến Thụy, huyện Cát Hải. Ở cấp phường, xã, thị trấn
cũng ghi nhận có trên 3.200 lượt cán bộ đi học tin học, ngoại ngữ.
Một trong những mục tiêu của xây dựng XHHT là nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề để lao động có hiệu quả, hoàn thành tốt hơn
nhiệm vụ được giao. Nhu cầu này đã đáp ứng nguyện vọng của nhiều tầng lớp
cư dân Hải Phòng.
Đối với cán bộ, công chức thành phố và tại các quận, huyện: Đảm bảo
100% được đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn quy định đáp ứng yêu cầu Đề án vị trí
việc làm và cơ cấu ngạch công chức của thành phố; trên 97% cán bộ công chức
105
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp được đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình
quy định; trên 82% cán bộ công chức các cấp thực hiện nghiêm chế độ bồi
dưỡng bắt buộc hàng năm.
Đối với cán bộ, công chức xã: 100% cán bộ cấp xã được bồi dưỡng kiến
thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành theo vị trí công việc; trên 90% cán bộ
xã có trình độ chuyên môn theo chuẩn quy định. Nhiều lãnh đạo cấp xã đã tự học
tập, nâng cao trình độ, kiến thức, tham gia thường xuyên các lớp bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ của địa phương, và thành phố. Công chức cấp xã đều
thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiếu hàng năm. Kết quả thực hiện đạt
trên 80%.
Đối với lao động nông thôn: qua báo cáo của quận, huyện và Sở Lao
động, thương binh và xã hội năm 2019, Hải Phòng đã tuyển sinh và đào tạo cho
hơn 125.000 lao động nông thôn trình độ cao đẳng, trung cấp, sơ cấp và đào tạo
dưới 3 tháng, trong đó có 20.978 người được hỗ trợ đào tạo trực tiếp từ chính
sách của Đề án 1956; đã có 53.629 nông dân ra các lớp tập huấn nghề ngắn tại
các TTHTCĐ tăng hơn các năm trước khi mới bắt đầu thực hiện, đạt trên 55%
được học tập, cập nhật kiển thức việc học tập của nông dân đã giúp tiếp cận, thụ
hưởng các chương trình bồi dưỡng nâng cao hiểu biết, khả năng lao động sản
xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Đối với công nhân lao động tại các doanh nghiệp, xí nghiệp, cơ sở sản
xuất, đặc biệt là tại các khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn thành phố
ngày càng tăng về chất và lượng. Đội ngũ nhân lực phục vụ cho những hoạt
động này ngày càng tăng kể cả về số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát
triển trong những năm vừa qua và đặc biệt trong tình hình hiện nay của thành
phố, với tỷ lệ lao động đã qua đào tạo từ 71% (trong đó qua đào tạo nghề là
48%) cuối năm 2012 lên thành 81% (trong đó qua đào tạo nghề là 57,2%) cuối
năm 2017, cơ bản đáp ứng yêu cầu mục tiêu của Đề án năm 2015. Công nhân
lao động tại các khu chế xuất có tỷ lệ trên 76% có trình độ học vấn trung học phổ
thông hoặc tương đương [9, tr.8].
106
3.2.2.3. Kết quả học tập kỹ năng sống
Nhiệm vụ giáo dục kỹ năng sống được thực hiện tại tất cả các trường học
trên địa bàn thành phố, 100% học sinh các cấp được học kỹ năng sống.
Các TTHTCĐ cấp xã, phường, thị trấn đã quan tâm giáo dục kỹ năng
sống cho người lao động qua việc phối hợp với nhà văn hóa các quận, huyện
giáo dục kỹ năng sống cho 26.341 lượt người.
Dưới đây là tổng hợp kết quả Đề án xây dựng xã hội học tập Hải Phòng
tính đến năm 2019.
Bảng tổng hợp kết quả Đề án xây dựng xã hội học tập Hải Phòng
tính đến năm 2019
Nội dung
Tỷ lệ %
Số lượng (tính đến 2019)
Dự báo (2020)
0 98.5
1924975 1108638 579503 325 596645 285448 231
0 97.62 76.05 15.42 78.96 15.39
79.26 15.42 92.46 80.08 15.39
111112 111112 5778 5 4555 2738 2
15.23 21.37 15.06 0 15.21 7.75 0
15.31 21.71 15.03 0 15.24 7.79 0
47423
42.68 0
43.61 0
1. Xóa mù chữ và phổ cập giáo dục a) Xóa mù chữ - Số người biết chữ + Độ tuổi 15 - 60, trong đó: Trong đó: Nữ Dân tộc thiểu số + Độ tuổi 15 - 35 Trong đó: Nữ Dân tộc thiểu số - Số người ra học các lớp xóa mù chữ và được công nhận biết chữ + Độ tuổi 15 - 60 Trong đó: Nữ Dân tộc thiểu số + Độ tuổi 15 - 35 Trong đó: Nữ Dân tộc thiểu số - Số người mới biết chữ tiếp tục học tập và không mù chữ trở lại b) Phổ cập giáo dục - Số huyện (thị xã, thành phố) củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học
14
100
100
14
100 0
100 0
92.1
97.15
52.52
78.54
48.22
57.24
56.7
58.92
0
0
0
0
100
100
97.62
98.12
82.02 0
88.26 0
100
100
92.81
97.14
91.42
96.18
107
- Số huyện (thị xã, thành phố) củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục THCS 2. Nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ a) Cán bộ, công chức, viên chức tham gia các chương trình học tập nâng cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm b) Cán bộ, công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ tương đương bậc 2 c) Cán bộ, công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ tương đương bậc 3 d) Công nhân lao động có kiến thức cơ bản về tin học, ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc và giao lưu văn hóa 3. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề để lao động có hiệu quả hơn, hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn a) Đối với cán bộ, công chức từ Trung ương đến cấp huyện - Cán bộ, công chức được đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn quy định - Cán bộ, công chức giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp được đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình quy định - Cán bộ, công chức thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hằng năm b) Đối với cán bộ, công chức cấp xã - Cán bộ cấp xã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành theo vị trí công việc - Cán bộ cấp xã có trình độ chuyên môn theo chuẩn quy định - Công chức cấp xã thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hằng năm c) Đối với lao động nông thôn Tham gia học tập cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao khoa học kỹ thuật công nghệ sản xuất tại các trung tâm học tập cộng đồng
59.64
62.62
76.16
82.17
47.21 57.2
52.24 68.17
0
0
72.16
79.24
108
d) Đối với công nhân lao động - Công nhân lao động tại các khu chế xuất, khu công nghiệp có trình độ học vấn trung học phổ thông hoặc tương đương - Công nhân lao động có tay nghề cao ở các ngành kinh tế mũi nhọn - Công nhân qua đào tạo nghề 4. Hoàn thiện kỹ năng sống, xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng ngày càng hạnh phúc hơn a) Học sinh, sinh viên và người lao động tham gia học tập các chương trình giáo dục kĩ năng sống b) Học sinh, sinh viên được học kỹ năng sống tại các cơ sở giáo dục
85.24
89.16
Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn
2012 - 2020” đến năm 2019 của thành phố Hải Phòng
Những con số này phản ánh rõ quyết tâm và nỗ lực của cán bộ, nhân dân
Hải Phòng trong sự nghiệp xây dựng XHHT hiện nay.
3.2.2.4. Kết quả hoạt động giáo dục khác
Về các TTHTCĐ:
Hoạt động của các TTHTCĐ đã có nhiều khởi sắc hơn và đi vào nền nếp,
trong năm đã huy động được 11.262 lượt người ra học tại các TTHTCĐ tăng
2.135 lượt người so với các năm trước [9, tr.9]. Cụ thể trên các lĩnh vực như sau
tuyên truyền pháp luật; sức khỏe gia đình; hoạt động thể dục thể thao; tập huấn
nghề ngắn hạn như tư vấn kinh tế gia đình. Tuy số lượng học viên ra lớp tăng
nhưng chỉ mới đạt khoảng gần 30% dân số thành phố ra sinh hoạt tại các
TTHTCĐ, tỷ lệ này còn thấp và có xu hướng còn giảm, đặc biệt tại các quận nội
thành trong thành phố.
Tổng số các cơ sở văn hóa ngoài giờ hiện nay là trên 120 trung tâm bao
gồm trung tâm tin học, ngoại ngữ, trung tâm tin học - ngoại ngữ, trung tâm giáo
dục kỹ năng sống và hoạt động ngoài giờ chính khóa, tăng gần 100 trung tâm so
với thời điểm ban đầu triển khai đề án.
109
BẢNG TỔNG HỢP KẾT
QUẢ ĐÁNH GIÁ TRUNG TÂM HỌC TẬP CỘNG ĐỒNG
(Kèm theo Báo cáo số: 147/SGDĐT- GDTX ngày tháng 7 năm 2019 của Giám
đốc Sở Giáo dục và Đào tạo)
XẾP LOẠI
ST
QUẬN
GHI CHÚ
TRUNG
T
/HUYỆN
TỐT
KHÁ
YẾU
BÌNH
1 HỒNG BÀNG
3
0
0
8
2 NGÔ QUYỀN
2
6
0
5
3
LÊ CHÂN
7
0
0
8
4 HẢI AN
5
0
0
3
5 KIẾN AN
4
0
0
6
6 DƯƠNG KINH
0
0
0
6
7 ĐỒ SƠN
2
2
0
3
8
THỦY NGUYÊN
8
6
0
23
9 VĨNH BẢO
16
0
0
14
10 TIÊN LÃNG
5
8
0
10
11 AN LÃO
0
3
8
6
12 AN DƯƠNG
5
0
0
11
13 KIẾN THỤY
0
8
0
10
14 CÁT HẢI
3
1
0
8
TỎNG CỘNG
45
131
37
10
(Danh sách được ấn định 14 đơn vị quận/huyện)
Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng
Như vậy, mặc dù vẫn còn trung tâm hoạt động chưa hiệu quả nhưng số
TTHTCĐ được đánh giá tích cực chiếm tỷ lệ rất cao 176/223 trung tâm, chiếm
gần 80%. Các trung tâm này tập trung chủ yếu ở các quận, huyện Vĩnh Bảo,
Thủy Nguyên, Tiên Lãng, An Dương, Lê Chân, Hồng Bàng, Kiến An.
Về mạng lưới GDTX:
Đến năm 1997, toàn thành phố đã chuyển đổi xong các trường BTVH
thành trung tâm GDTX đồng thời sáp nhập trung tâm dạy nghề quận huyện vào
trung tâm GDTX.
110
Từ khi thực hiện đổi mới, ngành Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng nói
chung và sự nghiệp xây dựng XHHT nói riêng đã có những bước tiến dài, trở
thành một trong những địa phương đứng trong tốp đầu phát triển giáo dục của cả
nước. Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI (2000 - 2020), kinh tế đất nước và thành
phố tăng trưởng, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện, giao lưu
quốc tế được mở rộng. Đây là những điều kiện thuận lợi để GDTX phát triển. Bộ
mặt của các Trung tâm GDTX thực sự đổi mới, trang thiết bị từ chỗ hầu như
không có gì nay đã trở nên khá phong phú: Số phòng học kiên cố: 193/195, số
máy tính là 627, số phòng thí nghiệm 13, số thư viện 13 [122, tr.176]. Hiện Hải
Phòng có 1 trung tâm GDTX cấp thành phố, 14 trung tâm GDTX cấp quận,
huyện, có 256 phòng học, 15 phòng thí nghiệm, 15 phòng thư viện và trên 620
máy vi tính; trong 5 năm đã mở được 978 lớp các loại với tổng số 25.143 học
viên [9, tr.11]. Nhìn chung mạng lưới cơ sở vật chất, trang thiết bị của hệ thống
GDTX thành phố đã đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân để nâng cao
trình độ văn hóa và nâng chất lượng cuộc sống.
Đạt những kết quả trên do có sự chỉ đạo kịp thời của cấp ủy, chính quyền
các cấp chăm lo xây dựng XHHT ở địa phương, nhiều quận, huyện đã bố trí cơ
sở vật chất, nhân sự và hỗ trợ kinh phí cho TTHTCĐ hoạt động; cấp kinh phí
hoạt động, mua sắm thiết bị và kinh phí sửa chữa cho các trung tâm GDNN -
GDTX quận, huyện, tổ chức nhiều buổi nói chuyện, tập huấn về nhiệm vụ xây
dựng XHHT cho cán bộ chủ chốt các trường học, phường xã, công tác chỉ đạo,
phân công nhiệm vụ, xây dựng kế hoạch và nội dung hoạt động đã được thực
hiện đồng bộ từ Sở đến Phòng Giáo dục và Đào tạo và các cơ sở, nhiệm vụ tổ
chức thực hiện đã được quan tâm và thực hiện đồng bộ. Các sở, ngành, đoàn thể
cấp thành phố đã quan tâm thực hiện nhiệm vụ xây dựng XHHT ở cơ quan luôn
tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động học tập nâng
cao trình độ đáp ứng yêu cầu công việc. Hoạt động của ngành GDTX nhìn
chung theo đúng định hướng yêu cầu "giáo dục cho mọi người", "giáo dục suốt
đời" nhằm góp phần hình thành XHHT trên địa bàn thành phố.
111
3.2.3. Công tác khuyến học, khuyến tài
Nhằm phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc và đáp ứng yêu cầu đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội, chấn hưng giáo dục, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới, Đảng
và Nhà nước xác định phát triển giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Quyết
định số 122/QĐ-TTg ngày 29/1/1996 của Thủ tướng Chính phủ cho phép thành
lập Hội Khuyến học Việt Nam. Ngày 10/8/1999, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị
số 50/CT-TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Khuyến học
Việt Nam và Chỉ thị 29/1999/CT-TTg, ngày 15/10/1999, của Thủ tướng Chính
phủ về phát huy vai trò của Hội Khuyến học Việt Nam trong phát triển sự nghiệp
giáo dục. Hội Khuyến học Việt Nam đã tập trung chỉ đạo hoạt động của Hội theo
tinh thần “Hướng tới xây dựng một XHHT” và thực hiện Đề án “Hội Khuyến
học Việt Nam góp phần xây dựng XHHT từ cơ sở”.
Năm 1997, Hội Khuyến học Hải Phòng được thành lập. Là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Khuyến học Hải Phòng đã gắn phong trào
“Xây dựng cả nước trở thành XHHT” với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, đẩy mạnh các hoạt động KH, KT
nhằm vận động, thu hút mọi lực lượng xã hội tham gia xây dựng XHHT, chăm
lo cho sự nghiệp trồng người của thành phố. Thông qua các mô hình gia đình
học tập, DHHH, tổ dân phố, làng xóm khuyến học, xã, phường, thị trấn khuyến
học để nâng cao ý thức thường xuyên tự học, tự nâng cao trình độ của mỗi người
dân, phát huy ý thức trách nhiệm của mỗi gia đình, dòng họ, phường xã, thôn
xóm, đơn vị; chăm lo, động viên con, cháu chăm ngoan, học giỏi. Phong trào
KH, KT, xây dựng XHHT đã lan rộng vào trong các trường học, vận động xây
dựng Quỹ Khuyến học để tặng thưởng, khuyến khích, động viên thầy cô giáo
dạy tốt, học sinh học tốt, học sinh nghèo khắc phục khó khăn vươn lên học khá,
giỏi. Chủ trương thành lập Hội Khuyến học và hoạt động KH, KT hợp ý Đảng,
lòng dân nên tổ chức hội phát triển nhanh, mạnh, sâu, rộng, góp phần tích cực ổn
định quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo trên toàn Thành phố.
112
Để tranh thủ tối đa sức mạnh tổng hợp của xã hội, tham gia đóng góp các
nguồn lực để thực hiện mục tiêu đề ra, Hội đã đặt đúng vị trí công tác tuyên
truyền, phổ biến các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Chính sách pháp luật của nhà
nước, các Chỉ thị, Nghị quyết của Thành uỷ, UBND thành phố lãnh đạo thực
hiện công tác KH, KT, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo đến Hội khuyến
học các cấp. Hội Khuyến học đã đổi mới các hình thức tuyên truyền, phối hợp
thường xuyên với các cơ quan, thông tin đại chúng như: Đài phát thanh truyền
hình Hải Phòng, báo Hải Phòng, báo An ninh Hải Phòng, hệ thống Đài phát
thanh, truyền thanh các quận, huyện phản ánh kịp thời các hoạt động KH, KT,
trao học bổng, biểu dương những gương tiêu biểu có thành tích trong công tác
KH, KT; đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, xây dựng kế hoạch cụ thể, có
trọng tâm, trọng điểm, đặc biệt nhân dịp các ngày lễ lớn, ngày kỷ niệm truyền
thống của đất nước, thành phố, của ngành giáo dục, đào tạo và Hội khuyến học
các cấp. Công tác tuyên truyền đã góp phần quan trọng đưa hoạt động KH, KT
chuyển biến tích cực và đi vào cuộc sống trở thành phong trào sâu rộng ở thành
phố trong nhiều năm qua.
Từ Chỉ thị 10-CT/TƯ ngày 05/7/2007 về Tăng cường sự lãnh đạo của các
cấp uỷ Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng XHHT, Hội
khuyến học các cấp đã củng cố, kiện toàn tổ chức Hội, phát triển hội viên. Đến
nay, 15/15 quận, huyện và hầu hết các xã, phường, thị trấn đã thành lập Hội
Khuyến học, các tổ dân phố, thôn, làng, trường học đó thành lập được 4.192 chi
hội khuyến học, nhiều dòng họ, cơ quan, đơn vị vũ trang, doanh nghiệp, trường
học, hội đồng hương… đã thành lập được 1.768 Ban khuyến học, một số địa
phương đã thực hiện thí điểm mô hình liên chi Hội khuyến học ở các tổ dân phố
để làm công tác KH, KT. Số hội viên đã phát triển được 247.132 người, tỷ lệ hội
viên Hội khuyến học ở nhiều quận, huyện cao hơn mức quy định của Trung
ương Hội khuyến học Việt Nam đề ra như: Quận Hồng Bàng đạt 28%, quận Ngô
Quyền đạt 22,6%, quận Kiến An đạt 21,8% so với dân số của địa phương.
Hội Khuyến học thành phố và Hội Khuyến học các quận, huyện, xã,
phường, thị trấn thường xuyên phối hợp chặt chẽ với ngành giáo dục - đào tạo,
113
Công đoàn ngành Giáo dục, Hội cựu giáo chức, các cơ quan, đoàn thể, các tổ
chức xã hội ở địa phương hưởng ứng các phong trào thi đua nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo, giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho học
sinh, biểu dương phong trào thi đua KH, KT, các GĐHH, DHHH, CĐKH tiêu
biểu góp phần vào thành tích giáo dục của thành phố. Năm 2018, Hội Khuyến
học thành phố đã tổ chức Đại hội biểu dương GĐHH, DHHH, CĐKH lần thứ
IV, bình chọn được 76.648 gia đình đạt danh hiệu GĐHH, 833 dòng họ đạt danh
hiệu DHHH và 404 cộng đồng, đơn vị đạt danh hiệu CĐKH. Đặc biệt, thành phố
Hải Phòng trở thành đơn vị giáo dục liên tục trong tốp dẫn đầu toàn quốc trong
các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia và là đơn vị duy nhất trong cả nước 22 năm liền
có các học sinh đoạt huy chương Vàng, Bạc, Đồng trong các kỳ thi học sinh giỏi
Quốc tế, khu vực ở các môn văn hoá cơ bản như: Toán, Lý, Hoá và Ngoại ngữ...
Hải Phòng đã và đang tiếp tục là trung tâm đào tạo nhân tài tin cậy cho cả nước.
Định kỳ hàng năm, Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND thành phố chỉ đạo Sở
Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các cấp, các ngành tổ chức lễ biểu dương cho
các em học sinh, sinh viên có thành tích xuất sắc trong học tập, đạt giải quốc gia,
quốc tế, các em đỗ thủ khoa vào các trường Đại học và các thầy cô dạy giỏi tại
đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo.
Có thể xem hoạt động của Hội Khuyến học Hải Phòng là điểm sáng trong
quá trình xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay. Tổ chức hội đã được thành
lập, củng cố, kiện toàn ở khắp các quận huyện, đã hoàn thiện quy chế hoạt động,
điều lệ Hội ở tất cả các quận, huyện, xã, phường, thị trấn. Hầu hết các tổ dân
phố, thôn, làng, cơ quan, đơn vị, trường học, dòng họ đã thành lập Ban KH, KT.
Một số địa phương đã xuất hiện nhân tố mới, mô hình liên chi hội KH, KT phù
hợp tính chất quản lý và hoạt động của chính quyền đô thị. Đặc biệt truyền thống
hiếu học của nhân dân Hải Phòng tiếp tục được khơi dậy, phát huy có hiệu quả,
góp phần to lớn nhằm xây dựng XHHT, TPHT trong thời gian tới.
Có được những thành tựu to lớn nêu trên, xuất phát từ nhiều lý do.
Một là, có chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới giáo dục - đào
tạo và công tác KH, KT, xây dựng XHHT định hướng cho quá trình xây dựng
114
XHHT. Từ chủ trương, Nghị quyết chung, Thành phố đã cụ thể hóa bằng nhiều
chỉ thị, Công văn, Nghị quyết đến các Sở, ban, ngành để triển khai quá trình xây
dựng XHHT.
Cuộc vận động xây dựng mô hình GĐHH, DHHH, CĐKH được tổng kết,
đánh giá tại Hội nghị các quận, huyện và toàn Thành phố. Đến nay, Hội Khuyến
học thành phố đã hoàn thành việc thực hiện thí điểm mô hình: Gia đình, dòng
họ, cộng đồng học tập để thúc đẩy phong trào học tập suốt đời, xây dựng XHHT.
Kế hoạch này đã được tuyên truyền sâu rộng trong xã hội, được nhân dân hưởng
ứng, tham gia tích cực, đã làm chuyển biến nhận thức của quảng đại quần chúng
nhân dân về phát huy truyền thống hiếu học và sự nghiệp giáo dục của Đảng về
xây dựng, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhân tài cho sự nghiệp phát triển đất nước
phồn vinh.
Hai là, có sự phối kết hợp giữa các cấp lãnh đạo thành phố với ngành giáo
dục đào tạo và các tổ chức chính trị - xã hội.
Hội Khuyến học từ Thành phố đến các Hội Khuyến học quận, huyện luôn
duy trì tốt mối quan hệ, phối hợp chặt chẽ với Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng
Giáo dục và Đào tạo các địa phương trên địa bàn thành phố để triển khai hoạt
động KH, KT và phát triển sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo. Hội Khuyến học
thành phố đã xây dựng quy chế phối hợp với ngành Giáo dục - Đào tạo, Công
đoàn ngành Giáo dục - Đào tạo và Hội Cựu giáo chức Thành phố ký kết chương
trình phối hợp hoạt động, có công văn liên ngành chỉ đạo các trường học kiện
toàn, thành lập các chi hội khuyến học, đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến
tài mang lại hiệu quả thiết thực; làm tham mưu cho Ủy ban nhân dân Thành phố
triển khai thực hiện Quyết định 89 và Quyết định 281 của Thủ tướng chính phủ.
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đoàn thể các Hội trong thành phố như:
Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội Cựu giáo chức, Hội Cựu chiến
binh, Hội Từ thiện, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi… đẩy mạnh công tác
KH, KT đạt hiệu quả.
Hàng năm Hội Khuyến học thành phố đều có chương trình phối hợp với
Sở Giáo dục và Đào tạo tiến hành kiểm tra đánh giá toàn diện các mặt hoạt động
115
công tác KH, KT xây dựng XHHT của 15/15 Hội khuyến học quận, huyện, điển
hình như: Hồng Bàng, Kiến An, Lê Chân, Hải An, Đồ Sơn, An Lão, Cát Hải,
Tiên Lãng..v.v…
Hội khuyến học các cấp đã trở thành nòng cốt trong việc phối hợp, liên
kết các tổ chức, các lực lượng xã hội tiến hành các hoạt động KH, KT, đáp ứng
nguyện vọng của đông đảo quần chúng, nhân dân. Đây là vấn đề mang tính nhân
văn sâu sắc, góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, từng bước
nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực tạo tiền đề vững chắc để xây
dựng một XHHT.
Ba là, đội ngũ cán bộ ở các cấp nhìn chung nhiệt tình với công việc, lăn
lộn với phong trào, xuất hiện ngày càng nhiều tấm gương làm việc có trách
nhiệm, sáng tạo, sâu sát cơ sở. Đội ngũ cán bộ làm công tác khuyến học các cấp
tích luỹ được kinh nghiệm công tác mà đặc biệt là phương pháp tuyên truyền,
vận động nhân dân hưởng ứng tham gia tích cực có hiệu quả đối với hoạt động
KH, KT, có đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo của
thành phố nhiều năm qua.
Bốn là, truyền thống hiếu học vốn có trong các gia đình, dòng họ, cộng
đồng ở các địa phương được khơi dậy, phát huy ngày càng có hiệu quả. Phong
trào KH, KT, xây dựng XHHT đã làm chuyển biến căn bản nhận thức của người
dân thành phố về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với phát triển sự nghiệp giáo dục -
đào tạo, khơi dậy và phát huy có hiệu quả truyền thống hiếu học trong mỗi gia
đình, dòng họ, cộng đồng, xã hội. Cấp uỷ, chính quyền các cấp đề ra nhiều giải
pháp xây dựng và phát triển phong trào, vận động nhân dân ở phường, xã, tổ dân
phố xây dựng các mô hình điểm, cá nhân tiêu biểu đóng góp tích cực vào cuộc
vận động các gia đình có con đến tuổi đi học để các em được đến trường học tập
với các bạn đồng lứa tuổi. Các cuộc vận động được hình thành một cách phong
phú đa dạng ở khắp mọi nơi như tiếng kẻng học tập ở xã Chiến Thắng huyện An
Lão, các cuộc vận động dành tiền ăn sáng giúp bạn học bài; cuộc vận động
quyên góp sách vở, bút, giấy giúp các bạn có hoàn cảnh khó khăn ở các trường
phổ thông, khu dân phố... Rất nhiều nghĩa cử cao đẹp, tự giác xuất hiện ở
116
phường xã, làng xóm, tổ dân phố, tạo điều kiện cơ sở vật chất để con em có điều
kiện học tập tốt hơn. Tác dụng tích cực của phong trào KH, KT, xây dựng
XHHT đến tận gia đình, dòng tộc và cộng đồng dân cư. Những tiêu chí cơ bản
của phong trào khuyến học được ghi trong các văn bản hương ước của Dòng họ,
làng văn hoá. Với những hoạt động tích cực, nhiệt tình, tâm huyết của cán bộ,
hội viên các cấp, hoạt động khuyến học, khuyến tài của thành phố đã tạo thành
sức mạnh tổng hợp được đại đa số các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, ủng hộ đưa
phong trào thi đua KH, KT giữ vị trí hết sức ý nghĩa đối với sự nghiệp giáo dục -
đào tạo của thành phố và thu được những kết quả rất đáng trân trọng.
3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HẢI PHÒNG
3.3.1. Những mặt đạt được
Từ kết quả của việc triển khai và thực hiện Đề án xây dựng XHHT trên
địa bàn thành phố có thể thấy những chuyển biến tích cực.
Một là, việc xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện Đề án nhận được
sự quan tâm sâu sát và thường xuyên của Thành ủy, Hội đồng nhân dân trong
công tác chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng XHHT trên địa bàn thành phố.
Hai là, sự nghiệp xây dựng XHHT của Hải Phòng nhận được sự phối hợp
tận tình của các quận, huyện, sở, ngành, đoàn thể cấp thành phố trong việc vận
động người lao động ra lớp, hỗ trợ kinh phí, địa điểm, cung cấp các điều kiện
cho người học và cho các TTHTCĐ hoạt động.
Ba là, quá trình triển khai Đề án xây dựng XHHT đã làm chuyển biến
được nhận thức của các cấp lãnh đạo trong việc xây dựng XHHT ở quận, huyện,
sở ngành; nhiệm vụ xây dựng XHHT luôn được sự quan tâm và đồng hành của
Hội Khuyến học thành phố.
Qua gần 10 năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng XHHT trên địa bàn thành
phố đã tạo được những nền tảng cơ bản về nhận thức, trách nhiệm của các cấp
lãnh đạo; cơ sở vật chất, huy động nguồn lực của các cấp chính quyền; trách
nhiệm của ngành giáo dục trong cung ứng cơ hội học tập suốt đời cho người dân;
117
nhất là sự đồng thuận của người dân trong việc tham gia các hoạt động tại các
TTHTCĐ.
Hệ thống mạng lưới các TTHTCĐ đi vào hoạt động ổn định, phủ kín
100% các xã, phường, thị trấn trong thành phố, nội dung hoạt động ngày càng đa
dạng, hình thức ngày càng phong phú; số lượng người học tại các TTHTCĐ mỗi
năm mỗi tăng.
Nội dung học tập tại các TTHTCĐ đã góp phần ổn định chính trị, tăng
năng xuất lao động, thay đổi vật nuôi cây trồng, tăng thu nhập, góp phần phòng
chống dịch bệnh cho người và gia súc, gia cầm, góp phần xóa đói giảm nghèo,
xây dựng văn hóa tại khu dân cư, xây dựng nông thôn mới phát triển bền vững.
3.3.2. Những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân
3.3.2.1. Những tồn tại, yếu kém
Mặc dù đạt được nhiều dấu ấn quan trọng, song trong quá trình xây dựng
XHHT ở Hải Phòng hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế không tránh khỏi.
Một là, nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác KH, KT,
xây dựng XHHT của một số cấp ủy, chính quyền và người dân địa phương chưa
đầy đủ. Nhiều người còn mơ hồ về khái niệm XHHT, đặc trưng và cách thức xây
dựng XHHT.
Hai là, mặc dù đã có các văn bản chỉ đạo của Trung ương và Thành phố
về đầu tư kinh phí ban đầu và chi thường xuyên cho các TTHTCĐ, nhưng chưa
được thực hiện đồng đều ở các cơ sở, mà chỉ được thực hiện ở các quận: Ngô
Quyền, Lê Chân, Hải An, Hồng Bàng và các huyện như Cát Hải, Thủy Nguyên,
Tiên Lãng. Các quận, huyện còn lại chưa được bố trí kinh phí hoặc bố trí kinh
phí chưa đầy đủ. Rất nhiều nội dung chưa thực hiện do thiếu kinh phí và chưa có
nguồn tài trợ, kinh phí chi thường xuyên cho TTHTCĐ còn ít và phụ thuộc hoàn
toàn vào ngân sách xã, phường, thị trấn trong khi đó nhu cầu học tập theo
chuyên đề của người dân còn rất lớn.
Ba là, một số xã, phường, thị trấn chưa có cơ chế phối hợp giữa chính
quyền, ban, ngành, đoàn thể do đó việc huy động các nguồn lực trong xã hội
cùng tham gia xây dựng XHHT chưa phát huy mạnh mẽ.
118
Bốn là, đội ngũ báo cáo viên số lượng còn ít, khả năng báo cáo chưa thu
hút được người nghe. Báo cáo viên chủ yếu là giáo viên từ các nhà trường và
trung tâm dạy nghề, GDTX quận, huyện chưa được tập huấn đầy đủ và đi vào
chiều sâu. Nguồn tài liệu tuyên truyền chưa dồi dào, phong phú, cũng làm ảnh
hưởng đến hoạt động chung của Trung tâm.
Năm là, công tác khảo sát, điều tra, nắm bắt nhu cầu học tập của người
dân trong cộng đồng chưa cập nhật kịp thời, đầy đủ, chính xác nên việc thực
hiện các mục tiêu đề án còn hạn chế; Công tác vận động các tổ chức kinh tế, xã
hội cùng tham gia đóng góp cho hoạt động của trung tâm chưa có sức lan tỏa
trong cộng đồng. Lực lượng tham gia chủ yếu là phụ nữ, chưa thu hút được
nhiều nam giới tham gia.
Sáu là, so với cư dân nội thành thì người dân ngoại thành chưa có thói
quen và động cơ tự thân học tập nâng cao trình độ, kiến thức nghề nghiệp do mặt
bằng dân trí thấp và phải lao động kiếm sống nên việc hình thành nhu cầu ý thức
học tập, học tập suốt đời cho mọi người dân ở khu vực ngoại thành còn gặp
nhiều khó khăn.
Số lượng nông dân đến học tại các TTHTCĐ còn thấp; cán bộ, công
chức các cấp đi học để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa đạt được
mục tiêu đề ra vẫn còn nặng tính bằng cấp. Số thanh niên trong độ tuổi lao
động theo học BTVH hoặc học nghề tại các trung tâm chưa cao do người lao
động thích làm việc tự do có thu nhập ngay trong khi học nghề chưa có nơi thu
nhận khi tốt nghiệp.
Đối với Hội Khuyến học, tuy đã được củng cố, kiện toàn về tổ chức
nhưng hoạt động của một số Hội khuyến học ở địa phương, cơ sở hoạt động
chưa đồng đều, chậm bổ sung nhân sự thay thế, nhất là vị trí người đứng đầu
Hội. Vì vậy hoạt động của Hội Khuyến học ở một vài địa phương bị gián
đoạn một thời gian dài, cá biệt còn có địa phương chưa triển khai việc thành
lập Hội Khuyến học ở cấp phường, xã theo Quy định của Điều lệ Hội (quận
Ngô Quyền).
119
Sự phối hợp, liên kết giữa các tổ chức, lực lượng xã hội làm công tác
khuyến học, khuyến tài còn hạn chế.
Công tác vận động xây dựng và quản lý quỹ khuyến học ở các đơn vị,
doanh nghiệp còn hạn chế hiệu quả chưa cao, chưa có tính bền vững, đặc biệt là
hệ thống các trường học chưa có sự phối hợp đầy đủ của các cấp Hội.
3.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém
Những hạn chế, tồn tại trong quá trình xây dựng XHHT ở Hải Phòng là
do nhiều nguyên nhân.
Thứ nhất, nhận thức của nhân dân về XHHT còn chưa đầy đủ, thiếu đồng
nhất ở nhiều nơi. Một số địa phương còn xem nhiệm vụ xây dựng XHHT là của
ngành giáo dục, không phải là nhiệm vụ chung của cộng đồng, nên chưa tạo
được sự phối hợp đồng bộ. Về cơ bản, nhận thức về công tác khuyến học chưa
đồng nhất, một số địa phương, đơn vị chưa hiểu đầy đủ về tính chất, ý nghĩa,
nhiệm vụ công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập theo Chỉ thị
số 11-CT/TW của Bộ Chính trị và các văn bản chỉ đạo của Nhà nước. Do đó
chưa quan tâm đúng mức, một số chủ trương, chính sách không được cụ thể hóa
và triển khai còn mang tính thụ động, hình thức.
Thứ hai, những bất cập trong công tác tổ chức thực hiện như điều kiện
hoạt động, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, kinh phí chưa được quan tâm
đầu tư thích đáng. Chế độ chính sách, chế độ đãi ngộ đối với những người là
công tác KH, KT còn thấp, không tạo được động lực để khuyến khích người dạy
và người học. Đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác KH, KT, xây dựng XHHT
phần lớn là cán bộ đã nghỉ hưu hoặc cán bộ kiêm nhiệm, không có nhiều thời
gian và kinh nghiệm trong công tác vận động, xây dựng kế hoạch và tổ chức
hoạt động. Một số quận, huyện chưa phân công giáo viên kiêm nhiệm tại các
TTHTCĐ; chế độ chính sách cho họ chưa được quan tâm đúng mức nên không
thu hút được giáo viên về công tác tại các trung tâm. Giám đốc các TTHTCĐ
thường xuyên thay đổi do luân chuyển cán bộ, cán bộ phụ trách ở phòng giáo
dục và đào tạo, ở các xã, phường, thị trấn nên có nhiều thay đổi làm ảnh hưởng
120
đến công tác quản lý, điều hành. Công tác tuyên truyền chưa đến được người
nghèo, đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội.
Thứ ba, xây dựng XHHT ở Hải Phòng chưa tạo thành phong trào quần
chúng rộng rãi, lôi cuốn đông đảo tầng lớp tham gia.
Thứ tư, xây dựng XHHT, mà cụ thể ở đây là TPHT còn là vấn đề mới tiếp
cận, vừa làm vừa học hỏi và chưa có nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này.
3.3.2. Vấn đề đặt ra đối với Hải Phòng
Từ thành tựu và hạn chế nêu trên, vấn đề đặt ra đối với quá trình xây dựng
XHHT ở Hải Phòng hiện nay là:
Thứ nhất, cần phải có nhận thức đúng đắn, sự vận dụng linh hoạt về
XHHT và xây dựng XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, để xây dựng XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần thiết phải có
cơ chế, chính sách từ vĩ mô đến vi mô, thậm chí là những chính sách đặc thù
trong việc xây dựng XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Phải nắm vững các
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục - đào tạo
về công tác KH, KT, xây dựng XHHT để vận dụng sáng tạo sát với điều kiện ở
địa phương.
Bộ máy tổ chức cần tiếp tục được củng cố, kiện toàn, quan tâm về chất
lượng và chế độ chính sách đối với đội ngũ làm công tác KH, KT.
Thứ ba, có sự quyết tâm, thậm chí là cam kết chính trị của lãnh đạo thành
phố; sự chỉ đạo, phối hợp giữa các sở, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể, doanh
nghiệp... trong vấn đề xây dựng XHHT. Cần tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo tạo điều kiện thuận lợi mọi mặt cả về vật chất lẫn tinh thần của cấp ủy, chính
quyền các cấp từ thành phố đến địa phương đối với công tác KH, KT một cách
thiết thực, tránh hình thức hóa.
Mối quan hệ giữa Hội Khuyến học với ngành giáo dục - đào tạo, các tổ
chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội cần được
thường xuyên củng cố, xây dựng thành quy chế phối hợp chặt chẽ, có chương
trình kế hoạch phối hợp thực hiện và phải có cơ chế kiểm tra, đánh giá kết quả
phối hợp định kỳ để rút kinh nghiệm.
121
Thứ tư, có sự đồng thuận của nhân dân, phải tạo thành phong trào quần
chúng trong việc hưởng ứng, thực hiện và tham gia các cuộc vận động, các hoạt
động KH, KT... trên địa bàn toàn thành phố.
Cần coi trọng công tác tuyên truyền, phát động các phong trào thi đua sôi
nổi, sâu rộng trong xã hội thu hút sự quan tâm, tham gia đông đảo của các tầng
lớp nhân dân đối với hoạt động KH, KT, nhân rộng, biểu dương, động viên khen
thưởng kịp thời các gương điển hình, tiêu biểu.
Đội ngũ cán bộ làm công tác khuyến học trước hết phải có trách
nhiệm cao, có tâm huyết và lòng nhiệt tình với sự nghiệp giáo dục - đào tạo
thế hệ trẻ và cần được trang bị kiến thức, cập nhật thông tin cần thiết về các
lĩnh vực liên quan.
Đổi mới và tăng cường công tác vận động, huy động các nguồn lực xã
hội xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài. Việc quản lý, sử dụng Quỹ
khuyến học phải bảo đảm nguyên tắc: Công khai, minh bạch, đúng mục
đích, đúng đối tượng.
Thứ năm, phải từng bước hình thành văn hóa học tập cho đông đảo người
dân, coi học tập như là động cơ và nhu cầu tất yếu của mỗi con người trong xã
hội ngày càng phát triển.
Phải khơi dậy và phát huy được truyền thống hiếu học vốn có của nhân
dân mà trước hết là ở từng gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư.
Thứ sáu, phải học hỏi kinh nghiệm của các nước, các thành phố trên thế
giới trong việc triển khai xây dựng XHHT, đồng thời có sự vận dụng linh hoạt
vào đặc thù của địa phương mình.
Tiểu kết chương 3
Chương 3, luận án nghiên cứu quá trình xây dựng XHHT ở Hải Phòng
trên nhiều khía cạnh.
1. Quá trình Hải Phòng xây dựng XHHT chịu tác động của nhiều nhân tố.
Thứ nhất là xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới đang đặt ra yêu
cầu tất yếu phải xây dựng XHHT - một giải pháp hữu hiệu cho sự phát triển bền
122
vững mà Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng cũng không thể đứng
ngoài xu thế ấy. Thứ hai là những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước và của thành phố Hải Phòng bao gồm các văn kiện, các Quyết định,
các Chỉ thị... từ Trung ương đến địa phương đều nhằm hướng tới xây dựng
XHHT. Thứ ba là những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế xã hội và con người Hải
Phòng đóng vai trò là nhân tố chủ quan tác động trực tiếp đến quá trình xây dựng
XHHT ở Hải Phòng.
2. Từ khi được giải phóng, Hải Phòng đã chú trọng và đạt được nhiều
thành tích trong sự nghiệp giáo dục nói chung và xây dựng XHHT nói riêng.
Phong trào BTVH luôn gắn chặt với đặc điểm sản xuất và các hoạt động của các
đoàn thể quần chúng cùng nhiều hình thức trường, dành cho nhiều đối tượng
khác nhau, thời gian địa điểm khác nhau. Về phổ cập giáo dục, Hải Phòng luôn
đi đầu trong công tác phổ cập giáo dục, đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học
(năm 1991), phổ cập giáo dục trung học cơ sở (năm 2001) và đẩy mạnh phổ cập
bậc trung học và nghề. Công tác KH, KT cũng là điểm sáng trên cả nước khi Hải
Phòng liên tục dẫn đầu nhiều năm liền với số học sinh đạt giải cao tại các kỳ thi
quốc gia, quốc tế.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận án cũng chỉ rõ những nguyên nhân
căn bản của thành tựu và hạn chế, đồng thời chỉ ra vấn đề đối với việc xây dựng
XHHT ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
123
Chương 4
GIẢI PHÁP XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
4.1. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, NÂNG CAO NHẬN THỨC
VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Xây dựng XHHT là một sự nghiệp lớn của thời đại mà bất cứ một quốc
gia nào nếu muốn phát triển bền vững đều phải nhanh chóng bắt tay vào thực
hiện. Kết quả tất yếu của XHHT mang lại là tri thức tăng nhanh như một nguồn
của cải quan trọng nhất của xã hội, từ đó làm chuyển đổi xã hội, thực hiện việc
hiện đại hóa các quan hệ truyền thống, hiện đại hóa phương thức tư duy truyền
thống cùng các vấn đề y tế, văn hóa, phát triển nhân lực. Thông qua quá trình
này, con người sẽ nắm bắt tốt hơn vận mệnh của mình, mở rộng tầm nhìn, giảm
thiểu những ách tắc xã hội, nhờ đó đời sống ở mỗi quốc gia cũng như đời sống
của nhân loại sẽ phong phú hơn, hạnh phúc hơn, giàu có hơn.
Cần phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT để thấy
được từ thuở sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vấn đề học tập và học
suốt đời. Một XHHT không thể thiếu vấn đề học tập và tự học. Đối với Hồ Chí
Minh, tự học và học suốt đời là yêu cầu, là nhiệm vụ của tất cả mọi người, không
loại trừ một đối tượng nào. Bản thân Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng ngời
về học suốt đời và học ngoại ngữ. Vì vậy, trong quá trình xây dựng XHHT, Hải
Phòng cần tiếp tục tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, tấm gương tự học suốt đời
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi đó như gương sáng và động lực để mỗi cán bộ
đảng viên và nhân dân Hải Phòng phấn đấu học tập, hoàn thiện bản thân, phục
vụ sự nghiệp cách mạng.
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT cũng cần hết
sức linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với tình hình. Không chỉ riêng Việt Nam mà
trên thế giới hiện nay, nhiều quốc gia đang đổi mới hoặc cải cách giáo dục theo
hướng xây dựng XHHT. Đối với Hải Phòng, cần tiếp tục tuyên truyền, nâng cao
nhận thức của người dân về tấm gương tự học Hồ Chí Minh, về mục đích, ý
nghĩa và lợi ích của việc xây dựng XHHT bằng nhiều hình thức phong phú.
124
Một là, thường xuyên tổ chức các cuộc tuyên truyền, triển lãm sâu rộng
cho các tầng lớp nhân dân thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học
tập suốt đời, học liên tục theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Hình ảnh
lãnh tụ Hồ Chí Minh và học tập suốt đời” cần được tiếp tục triển lãm tại Nhà
Văn hoá Thanh niên, Nhà văn hóa các quận, huyện, các Khu Chế xuất - Khu
Công nghiệp, Trung tâm GDTX Hải Phòng, các Trung tâm GDNN - GDTX
quận, huyện và Trung tâm văn hóa các quận, huyện, qua triển lãm đã tác động
sâu sắc đến nhận thức của người dân, đến ý chí những học sinh đang đi học,
đến những người lao động trên mọi lĩnh vực, người lớn tuổi học tập tư tưởng,
tấm gương Hồ Chí Minh về tự học và học tập suốt đời. Các hình ảnh về tấm
gương tự học của Người đã thôi thúc tinh thần tự học của các bạn trẻ, cho họ
thấy phải cố gắng hơn nữa, cố gắng học tập suốt đời mới đem đến mọi sự thành
công trong cuộc sống.
Hai là, tích cực hưởng ứng “Tuần lễ học tập suốt đời”, tổ chức nhiều hình
thức tuyên truyền rất đa dạng và phong phú ở các quận, huyện, trên các tuyến
đường chính của thành phố bằng panô, băng rôn, khẩu hiệu nhằm giúp người
dân ý thức được nhiệm vụ xây dựng XHHT.
Ba là, nhân rộng hình thức xe loa phát thanh, tuyên truyền chủ đề “Học để
có nghề nghiệp và lao động ngày càng hiệu quả”, tuyên dương những tấm gương
tiêu biểu về học tập suốt đời đã vươn lên từ các trường học, lớp học đặc biệt là
trong các trường nghề, giới thiệu các cơ sở dạy nghề tại các quận, huyện; giới
thiệu những mô hình sản xuất giỏi áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi,
trồng trọt mang lại hiệu quả cao, góp phần nâng cao mức sống của người dân;
gương người tốt việc tốt trong phong trào KH, KT, xây dựng XHHT đến các khu
dân cư các xã, phường, thị trấn.
Bốn là, các quận, huyện, đoàn thể và các sở, ngành quan tâm tuyên
truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân về chủ
trương xây dựng XHHT tại từng cơ quan, đơn vị, từng địa phương; tăng cường
tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về khái niệm XHHT, học tập không chỉ
125
trong các trường lớp chính quy mà còn được tổ chức ở bất cứ lúc nào, bất cứ nơi
đâu và bất kỳ đối tượng nào.
Năm là, Đài Phát thanh truyền hình Hải Phòng tiếp tục có nhiều phóng sự,
tài liệu về tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, về các GĐHH, DHHH nhằm tuyên
truyền chủ trương xây dựng XHHT của thành phố và cả nước.
Tìm hiểu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT, tham chiếu vào quá
trình xây dựng XHHT ở Hải Phòng để thấy được giá trị to lớn, tính vượt trước
trong tư tưởng của Người về XHHT. Giá trị khoa học của di sản Hồ Chí Minh
đối với Hải Phòng không chỉ thuần túy là các bài viết, các bức thư, bài nói
chuyện, những lần đến thăm, làm việc của Hồ Chí Minh với Hải Phòng; không
chỉ là hệ thống quan điểm lý luận toàn diện, nhân cách đạo đức cao đẹp, sáng
trong Người để lại, mà còn là tình cảm sâu nặng, ân tình, đằm thắm, những lời
chỉ bảo chí tình, sâu sắc Người dành cho nhân dân, đảng bộ, đảng viên thành phố
Hải Phòng. Hải Phòng xây dựng XHHT là làm theo lời Đảng, lời Bác. Nghiên
cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về xây dựng XHHT nói
riêng, người Hải Phòng càng vững tâm và tự tin hơn vì hiểu rằng: Làm theo điều
Bác dạy cũng chính là tiếp tục hiện thực hóa và làm cho truyền thống, bản sắc
văn hóa của mảnh đất, con người Hải Phòng không ngừng tỏa sáng. Am hiểu sâu
sắc, quan tâm thường xuyên đối với Hải Phòng nên những lời dạy của Người
cũng chính là sự khơi nguồn để mạch ngầm văn hóa tiềm ẩn nơi vùng đất giàu
truyền thống cách mạng, nơi những con người Hải Phòng kiên cường, bất khuất,
khoáng đạt, năng động tiếp tục được phát huy và kết tinh thành những thành tựu
đầy ý nghĩa. Làm theo lời Người dạy cũng là cách để Hải Phòng thể hiện sự tự
tin, ý chí, trí tuệ và bản lĩnh của thành phố Cảng, xứng đáng với vai trò đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.2. TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC CẤP ỦY ĐẢNG, SỰ
PHỐI HỢP GIỮA CÁC SỞ, BAN, NGÀNH, CÁC TỔ CHỨC, ĐOÀN THỂ TRONG
XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP
Để có thể triển khai hiệu quả và mạnh mẽ công cuộc xây dựng XHHT,
nhất thiết phải có sự lãnh đạo và đồng thuận của tất cả các cấp, ban ngành trong
toàn thành phố.
126
Công tác chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng XHHT cần được triển khai
kịp thời, đồng bộ và nhất quán từ thành phố đến các quận, huyện; cần được sự
quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và thu hút được sự tham gia của
nhiều cơ quan, tổ chức, đoàn thể và nhân dân địa phương.
Có thể nói, để tập trung chỉ đạo thực hiện Quyết định số 89/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai
đoạn 2012 - 2020”, Thành ủy và UBND thành phố Hải Phòng đã ban hành các
văn bản chỉ đạo công tác xây dựng XHHT trên địa bàn làm cơ sở để các Sở,
ngành, quận, huyện và UBND các phường, xã, thị trấn xây dựng tổ chức hoạt
động của các TTHTCĐ cho phù hợp với tình hình và điều kiện nhân lực, cơ sở
vật chất ở địa phương. Trên cơ sở đó, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ban
ngành để việc xây dựng XHHT thực sự hiệu quả. Cần thiết phải tiến hành ký kết
các Nghị quyết liên tịch nhằm phối hợp hoạt động giữa Sở Giáo dục và Đào tạo
với Hội Khuyến học, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Ban chỉ huy Bộ đội biên phòng
Hải Phòng để triển khai thực hiện các mục tiêu của Đề án.
Ban chỉ đạo Đề án xây dựng XHHT giai đoạn 2012 - 2020 của thành phố
đã được thành lập theo Quyết định số 954/QĐ-UBND ngày 30/5/2013 của
UBND thành phố. Ban chỉ đạo cần thường xuyên được bổ sung, thay thế nhân
sự là lãnh đạo các ban, ngành thành phố để kịp thời chỉ đạo thực hiện Đề án.
Trên cơ sở Ban chỉ đạo cấp thành phố, Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án ở các quận,
huyện được thành lập; xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề án trên địa
bàn. Phòng Giáo dục và Đào tạo cần phát huy vai trò tham mưu với UBND các
quận, huyện để triển khai Đề án. Việc kiện toàn Ban chỉ đạo Đề án xây dựng
XHHT các quận, huyện đóng vai trò quan trọng. Những biện pháp cần tiếp tục
tiến hành như: tổ chức Hội nghị sơ kết nhiệm vụ năm trước và triển khai nhiệm
vụ năm sau đến các quận, huyện, sở, ngành; tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyên
môn, nghiệp vụ quản lý cho các thành viên ban chỉ đạo xây dựng XHHT từ
thành phố đến các xã, phường, thị trấn; triển khai tập huấn chuyên môn nghiệp
vụ cho các cán bộ, chuyên viên phụ trách TTHTCĐ. Ban giám đốc các
TTHTCĐ cần chú ý công tác xây dựng kế hoạch, triển khai nhiệm vụ liên kết
127
phối hợp, hướng dẫn biên soạn, thu thập tài liệu, mời báo cáo viên, huy động các
nguồn lực nên hoạt động có hiệu quả ngày càng đáp ứng nhu cầu học tập đa
dạng và phong phú của người dân.
Bên cạnh đó, các sở, ban, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân
cũng cần vào cuộc để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thành phố.
Nhiệm vụ cụ thể của các đơn vị như sau:
1) Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng
Đây là cơ quan thường trực giúp Ủy ban nhân dân thành phố tổ chức triển
khai Đề án; đồng thời chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể
thực hiện nhiệm vụ và giải pháp xây dựng XHHT. Làm tốt điều này, Sở cần chủ
động phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan và các địa phương để tăng cường
phát huy vai trò tham mưu với UBND thành phố trong việc xây dựng, bổ sung
và điều chỉnh Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “Phát triển đào tạo từ xa”, Đề
án “Xóa mù chữ giai đoạn 2012 - 2020” trên địa bàn thành phố.
Phối hợp với Hội Khuyến học Hải Phòng tiếp tục triển khai Đề án Đẩy
mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư;
kiểm tra công tác chỉ đạo xây dựng XHHT ở các quận, huyện; xây dựng bộ chỉ
số đánh giá việc thực hiện xây dựng XHHT của sở, ban, ngành, địa phương.
Tổ chức Tuần lễ Học tập suốt đời hàng năm bằng các hình thức và hoạt
động phong phú với các chủ đề cụ thể, thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia
học tập.
Về hoạt động chuyên môn đặc thù, Sở cần có sự chuẩn bị đầy đủ về cơ sở
vật chất, đội ngũ giáo viên, tổ chức lớp học linh hoạt đáp ứng nhu cầu học tập
của người lao động; tổ chức hoạt động nghiên cứu, học tập kinh nghiệm các mô
hình học tập suốt đời và xây dựng XHHT; chuẩn bị các điều kiện cho việc Hải
Phòng đăng ký tham gia mạng lưới TPHT toàn cầu của UNESCO.
2) Hội Khuyến học Hải Phòng
Chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan và các địa phương xây
dựng Kế hoạch triển khai thực hiện đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt
đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư” trên địa bàn thành phố.
128
Phổ biến các nội dung liên quan trên Bản tin và Trang thông tin điện tử
“Giáo dục và Khuyến học Hải Phòng” theo hướng tăng cường tuyên truyền các
nội dung và kết quả đạt được của công tác KH, KT, xây dựng XHHT theo nội
dung kết quả thực hiện Đề án.
Tích cực tổ chức tuyên truyền xây dựng XHHT thông qua phong trào xây
dựng các mô hình Gia đình học tập, Dòng họ học tập, Cộng đồng học tập cấp
thôn, tổ dân phố hoặc tương đương và Đơn vị học tập ở cơ sở thuộc cấp xã quản
lý; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng tiêu chí đánh giá, công nhận
các danh hiệu trên.
Thông qua các hoạt động phong phú tại Trung tâm văn hóa thể thao -
Học tập cộng đồng, TTHTCĐ, Hội cần đóng vai trò hạt nhân trong tổ chức,
vận động người dân tích cực tham gia học tập thường xuyên, học tập suốt đời,
xây dựng XHHT.
3) Sở Lao động Thương binh và Xã hội
Với tính chất đặc thù, Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hải Phòng cần
phối hợp với các sở, ban, ngành và các địa phương trong việc xây dựng, rà soát,
bổ sung Kế hoạch thực hiện Đề án “Hỗ trợ cho người lao động nông thôn, những
người hết tuổi lao động, người nội trợ, người khuyết tật có điều kiện thuận lợi để
học tập suốt đời” trên địa bàn thành phố theo hướng dẫn của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội.
Sự phối hợp này cần được hiệu quả hơn nữa trong xây dựng kế hoạch phát
triển hệ thống các cơ sở dạy nghề, mở rộng các hình thức dạy nghề trong doanh
nghiệp, công ty, dạy nghề gắn với sản xuất và dạy nghề ở nông thôn, vùng sâu,
vùng xa; tổ chức dạy nghề kết hợp với dạy văn hóa để nâng cao trình độ học vấn
cho người lao động tại các Trung tâm GDNN - GDTX quận, huyện.
4) Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch
Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các sở, ban, ngành khác xây dựng,
bổ sung Kế hoạch thực hiện Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời
trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ” trên địa bàn thành phố
theo hướng dẫn của Bộ văn hóa Thể thao và Du lịch.
129
Phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội và các sở, ban, ngành
trong việc thực hiện Đề án “Hỗ trợ cho người lao động nông thôn, những người
hết tuổi lao động, người nội trợ, người khuyết tật có điều kiện thuận lợi để học
tập suốt đời” ở các nội dung liên quan.
Phối hợp với Hội Khuyến học Hải Phòng và các sở, ban, ngành trong việc
thực hiện Đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ,
cộng đồng dân cư” trên địa bàn thành phố.
5) Sở Thông tin và Truyền thông
Phối hợp với các sở, ban, ngành và các địa phương trong việc xây dựng, rà
soát, bổ sung Kế hoạch thực hiện Đề án “Truyền thông về xây dựng xã hội học
tập”; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo triển khai thực hiện Đề án “Phát triển
đào tạo từ xa”; cung cấp nội dung thông tin về việc tuyên truyền xây dựng
XHHT cho các cơ quan báo, đài.
6) Sở Khoa học và Công nghệ
Cung cấp, biên soạn thông tin tài liệu về khoa học công nghệ phục vụ cho
nội dung xây dựng XHHT.
Tổ chức phổ biến kiến thức, hỗ trợ khai thác có hiệu quả các điểm truy cập
thông tin khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân.
7) Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Chủ trì biên soạn tài liệu về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn
liên quan đến nội dung xây dựng XHHT.
Hướng dẫn chỉ đạo việc giới thiệu báo cáo viên chất lượng cho các TTHTCĐ
tại các xã, phường, thị trấn tổ chức các lớp học về nông nghiệp, nông thôn.
8) Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư
Tham mưu, đề xuất kinh phí cho kế hoạch thực hiện Đề án “Xây dựng xã
hội học tập giai đoạn 2012 - 2020”, cùng với đó là cơ chế quản lý tài chính, kiểm
tra, giám sát việc thực hiện.
9) Đài Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng, Báo Hải Phòng, Cổng
Thông tin điện tử thành phố, các cơ quan báo chí liên quan
Đây là các cơ quan truyền thông đóng vai trò quan trọng trong tuyên
truyền, phổ biến kết quả thực hiện Đề án 89 và các Đề án thành phần trên địa
130
bàn thành phố. Để phát huy có hiệu quả công tác xây dựng XHHT, đòi hỏi sự
vào cuộc tích cực của các cơ quan truyền thông, thông tấn báo chí; cần phải
xây dựng chuyên mục tuyên truyền nội dung, kết quả xây dựng XHHT, qua đó
vận động người dân học tập thường xuyên, suốt đời, tận dụng mọi cơ hội học
tập để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, góp phần phát triển quê hương,
đất nước.
10) Các tổ chức chính trị - xã hội
Hội Khuyến học thành phố tiếp tục phối hợp với các tổ chức, các lực lượng
xã hội tuyên truyền, vận động người dân ra học các lớp xóa mù chữ, tích cực học
tập suốt đời, xây dựng XHHT; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo trong việc
duy trì, củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các TTHTCĐ;
xây dựng bộ chỉ số đánh giá việc thực hiện xây dựng XHHT của sở, ngành, địa
phương (bao gồm cấp huyện và cấp xã); chủ trì tổ chức đánh giá, xếp loại các
trung tâm học tập cộng đồng”; chủ trì xây dựng và thực hiện đề án “Đẩy mạnh
phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư”; xây
dựng các mô hình học tập phù hợp để thực hiện các mục tiêu của đề án (mô
hình “Công dân học tập”; “Gia đình học tập”; “Dòng họ học tập”; “Cộng
đồng/Khu dân cư học tập”; “Tổ chức, Cơ quan/Doanh nghiệp học tập”.
Ủy ban mặt trận Tổ quốc thành phố tham gia tuyên truyền, vận động nhân
dân tích cực học tập suốt đời; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo và các cơ
quan, tổ chức thành viên đưa các chỉ tiêu xây dựng XHHT vào cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tại khu dân cư”.
Liên đoàn Lao động thành phố có kế hoạch cụ thể triển khai Đề án “Đẩy
mạnh các hoạt động học tập suốt đời cho công nhân lao động trong các doanh
nghiệp”; phối hợp với các cơ quan liên quan chỉ đạo, theo dõi việc đào tạo, bồi
dưỡng cho đội ngũ người lao động trong các doanh nghiệp; phối hợp với Sở
Giáo dục và Đào tạo tổ chức các lớp học để nâng cao trình độ học vấn cho người
lao động theo mục tiêu của kế hoạch.
Thành đoàn Hải Phòng chủ trì, tổ chức phối hợp, lồng ghép các hoạt động
tuyên truyền về xây dựng XHHT cho đoàn viên thanh niên, vận động đoàn viên
131
thanh niên tham gia giảng dạy các chuyên đề, phổ cập giáo dục và xóa mù chữ
tại các TTHTCĐ; vận động gây quỹ hỗ trợ thanh niên có hoàn cảnh khó khăn
trong học tập.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành phố chủ trì, tổ chức phối hợp, lồng
ghép các hoạt động tuyên truyền về xây dựng XHHT trong tổ chức hội các cấp;
phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tuyên truyền, vận động phụ nữ, trẻ em gái
ở những vùng khó khăn mà chưa biết chữ ra học các lớp xóa mù chữ; nhân rộng
mô hình đào tạo nghề dưới dạng các chuyên đề Nhà Văn hóa của phụ nữ đến các
quận, huyện.
Hội Cựu chiến binh, Hội người cao tuổi, Hội Cựu giáo chức thành phố
phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai thực hiện công tác xóa mù chữ,
dạy nghề cho con em hội viên và hội viên, vận động các hội viên của hội tham
gia các hoạt động xây dựng XHHT; chỉ đạo các quận, huyện hội triển khai các
nhiệm vụ và giải pháp thực hiện nhiệm vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của Hội.
Hội Nông dân thành phố cần phối hợp với Hội Nông dân các quận, huyện
tuyên truyền trong hội viên về lợi ích việc xây dựng XHHT, cung cấp nhiều tài
liệu cho các cấp Hội để tuyên truyền; phối hợp với các cấp công đoàn và doanh
nghiệp tổ chức các chương trình đào tạo từ xa… đáp ứng nhu cầu học tập của
một bộ phận công nhân viên chức người lao động.
Thực tế, xây dựng XHHT là nhiệm vụ chung của tất cả người dân thành
phố, nhưng trước hết, trách nhiệm đó thuộc về các cấp lãnh đạo ở Hải Phòng.
Chỉ khi có sự cam kết chính trị, sự quyết tâm cao của các cấp lãnh đạo thì sự
nghiệp xây dựng XHHT ở Hải Phòng mới mau chóng đi đến kết quả.
4.3. PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIÁO DỤC SUỐT ĐỜI THEO HƯỚNG ĐI
VÀO THỰC CHẤT, HOÀN THÀNH PHỔ CẬP GIÁO DỤC, TIẾP TỤC MỞ RỘNG
CƠ HỘI HỌC TẬP CHO NGƯỜI DÂN
4.3.1. Tiếp tục phát huy lợi thế của Trung tâm học tập cộng đồng
Là một loại thiết chế GDTX được tổ chức trên địa bàn các xã, phường và
thị trấn, TTHTCĐ thật sự là tổ chức giáo dục được đưa đến tận những người
132
dân, đặc biệt là những lao động không có điều kiện tới trường chính quy và
những người nghèo, những người trong các nhóm yếu thế rất ít có cơ hội học
tập. Có thể thấy rằng, không có các TTHTCĐ (và những thiết chế GDTX) cắm
sâu trên địa bàn xã, phường và thị trấn, bắt rễ vào từng thôn, ấp, bản, làng, phun,
sóc… thì không thể nói đến việc thực hiện khẩu hiệu “ai cũng học tập”, và
không thể xây dựng thành công XHHT được.
Ông Victor Ordonez, Tổng Giám đốc UNESCO khu vực Đông Nam Á
cho rằng: TTHTCĐ có thể coi là phát minh quan trọng nhất mà bấy lâu nay thế
giới đang tìm kiếm. Trong những năm trở lại đây, TTHTCĐ được hầu hết các
nước ở Châu Á chú ý và xây dựng ngày càng nhiều. Việt Nam cũng nằm trong
xu thế đó.
UNESCO quan niệm, TTHTCĐ là cơ sở giáo dục không chính quy của
xã, phường, do cộng đồng thành lập và quản lý nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân và phát triển cộng đồng thông qua việc tạo cơ hội học tập
suốt đời của người dân trong cộng đồng. TTHTCĐ là thiết chế giáo dục không
chính quy của cộng đồng; do cộng đồng và vì cộng đồng.
So với với nhà trường chính quy thì TTHTCĐ khác ở mấy điểm:
- TTHTCĐ do cộng đồng thành lập (chứ không phải do Chính phủ
thành lập).
- Những vị trí như quản lý, giáo viên, hướng dẫn viên là những người làm
tự nguyện, không lương (có thể hưởng phụ cấp).
- Không chặt chẽ về thời gian (phục vụ suốt đời).
- TTHTCĐ phục vụ cho mọi người, mọi lứa tuổi.
- Không định hướng bằng cấp.
- Chương trình và phương thức hoạt động linh hoạt, đáp ứng kịp thời nhu
cầu của cộng đồng.
- Đa mục tiêu học tập.
- Đa dạng về tổ chức, tuỳ thuộc về điều kiện kinh tế - xã hội của cộng đồng.
Trên thế giới, với những nước có nền kinh tế phát triển như Australia có
hệ thống trường lớp đầy đủ, trang thiết bị hiện đại, mức sống và dân trí cao
133
nhưng họ rất chú trọng đến hình thức học tập cộng đồng. Các TTHTCĐ là nơi
thu hút mọi người có nhu cầu học tập. Họ đến đây để học tập, để làm việc, giao
lưu, trao đổi, học hỏi lẫn nhau nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Nhật Bản
cũng rất chú trọng việc phát triển rộng khắp các hình thức học tập nhằm tạo cơ
hội học tập cho người dân. Chương trình giáo dục xã hội được thực hiện ở Nhật
Bản là giáo dục bên ngoài nhà trường chính quy, đối tượng của giáo dục xã hội
là cả thanh thiếu niên và người lớn. Hầu hết các lớp học và chương trình trong
lĩnh vực giáo dục xã hội được tiến hành ở nhiều loại cơ sở cộng đồng khác nhau.
TTHTCĐ có mối quan hệ rất gần gũi với sinh hoạt của cư dân địa phương, tại
các TTHTCĐ đã tiến hành được nhiều lớp học và chương trình học khác nhau,
tổ chức các cuộc hội họp, cung cấp sách vở, tư liệu, giáo dục thể chất… Các
nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia,
Singapo… cũng phát triển mạnh mẽ các TTHTCĐ, là nơi thu hút người dân có
nhu cầu thể dục thể thao, văn hóa, văn nghệ, y tế, giáo dục…
Ở Việt Nam, TTHTCĐ được khẳng định tại Điều 46 (thuộc mục 5 - Giáo
dục thường xuyên) Luật Giáo dục 2005: TTHTCĐ là cơ sở GDTX, được tổ chức
tại xã, phường, thị trấn.
Cũng giống nhiều nước trong khu vực, việc tổ chức các TTHTCĐ ở Việt
Nam có 3 mục đích chính: Một là, tạo ra những cơ hội học tập cho mọi người
dân trong cộng đồng để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và phát
triển nguồn nhân lực cộng đồng. Hai là, tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu học
tập theo phương châm “cần gì học nấy” và giáo dục suốt đời cho mọi người. Ba
là, xây dựng hệ thống GDTX ở cơ sở nhằm giúp cho ai cũng được học hành, ai
cũng có thể tham gia vào công việc giáo dục và học tập tại cộng đồng.
Ở Hải Phòng, các TTHTCĐ được ra đời từ sớm và hoạt động khá hiệu quả.
Từ năm 2000, thực hiện Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 (khoá IX), Thành
phố bắt đầu xây dựng các TTHTCĐ. Ngày 15/12/2000, đơn vị đầu tiên được
thành lập là TTHTCĐ xã Đồng Minh (huyện Vĩnh Bảo) và ngày 15/11/2001,
TTHTCĐ đầu tiên của một phường được thành lập tại phường Hùng Vương
(quận Hồng Bàng). Đến năm 2005, toàn thành phố thành lập được 180
134
TTHTCĐ, trong tổng số 223 xã, phường, thị trấn. 6 huyện, quận đạt tỉ lệ 100%
số xã, phường, thị trấn có TTHTCĐ là: Vĩnh Bảo, An Lão, Kiến Thụy, Tiên
Lãng, An Dương và Kiến An [122, tr.176].
Ngày 24/3/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy chế tổ chức và
hoạt động của TTHTCĐ tại xã, phường, thị trấn, tạo cơ sở để các TTHTCĐ Hải
Phòng thống nhất tổ chức và hoạt động, đồng thời tranh thủ sự đầu tư và quan
tâm của lãnh đạo địa phương. Đây là tổ chức quan trọng để xây dựng XHHT tại
cơ sở. Hoạt động chủ yếu của trung tâm là điều tra và đáp ứng yêu cầu học tập
nhiều mặt của nhân dân ở trình độ phổ thông bằng cách phối hợp, liên kết với
các ban ngành, các tổ chức khoa học kỹ thuật, mời các cán bộ kỹ thuật, chuyên
gia để thuyết giảng, tập huấn về những vấn đề như: Nuôi trồng, y tế, môi trường,
pháp luật, kinh doanh, dịch vụ...
Mặc dù trong những năm đầu thành lập, hoạt động của các trung tâm còn
bỡ ngỡ, không đều, có trung tâm không hoạt động được, nhưng từng bước, phần
lớn các trung tâm đã tìm ra phương thức phù hợp, hoạt động đều đặn hơn, nội
dung phong phú hơn và được nhiều người dân hưởng ứng. Hằng năm, mỗi trung
tâm tổ chức cho hàng ngàn lượt người học. Năm học 2009 - 2010: huyện Thuỷ
Nguyên có 19.101 lượt người, huyện Tiên Lãng có 4.500 lượt người, quận Lê
Chân có 3.500 lượt người, huyện Vĩnh Bảo có 2.500 lượt người học [122,
tr.177]. Được xem là “nhà trường nhân dân”, rất nhiều TTHTCĐ đã tích cực
thúc đẩy các cuộc vận động trong nhân dân “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá trên địa bàn dân cư”, “Toàn dân đoàn kết làm kinh tế giỏi”, “Toàn
dân tham gia xây dựng XHHT”.
Việc nâng cao nhận thức cho người dân về Hiến pháp và pháp luật, về bảo
vệ môi trường sống, về chăm sóc khoẻ cộng đồng, về ý thức học tập thường
xuyên, về những chính sách của Nhà nước... đã từng bước xây dựng lối sống có
văn hoá trong cộng đồng, làm tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau thông qua các
buổi học tập, tọa đàm, trao đổi ý kiến, tạo được sự đồng thuận của nhân dân đối
với những chủ trương của Đảng. Chính điều này đã làm cho những cộng đồng
dân cư có sự ổn định chính trị, tạo nên không khí tâm lý và không khí đạo đức
135
tốt đẹp, hình thành nên những cộng đồng văn hoá, cộng đồng khuyến học v.v...
TTHTCĐ có thể giúp cho người lao động được học nghề, là cơ sở giáo dục có
tác dụng giúp cho nhiều người dân thoát cảnh “mù nghề”, “mù máy tính”, góp
phần tích cực vào việc tăng tỉ lệ người được đào tạo nghề trong xã hội. Rất nhiều
người chưa qua quá trình đào tạo nghề đã được học nghề ngắn hạn mà tăng thu
nhập hàng năm. Nhiều người đã có nghề, nay được học thêm nghề mới đã có
những thay đổi trong cách thức làm ăn, thích ứng được với cơ chế thị trường.
TTHTCĐ thực sự giúp cho mọi người “ai cũng được học hành”.
Để tiếp tục phát huy cao nhất hiệu quả hoạt động, các TTHTCĐ ở Hải
Phòng cần nhấn mạnh mấy vấn đề sau:
Thứ nhất, cung cấp tri thức cho người dân theo hướng “cần gì học
nấy”, “mù gì xóa nấy”.
Để tạo cơ hội học tập cho mọi người dân trong cộng đồng, nhất là người
lao động đang thiếu thông tin, những người thiệt thòi nhiều trong cuộc sống như
nghèo đói, ở vùng hẻo lánh, trẻ mồ côi không có điều kiện đi học, v.v…
TTHTCĐ phải có nhiều chương trình học tập để ai cũng tìm được một chương
trình phù hợp. Mặt khác, Trung tâm phải biết tư vấn và tìm thông tin để cung
ứng cho người dân. Điều đặc biệt là muốn nhập học, người dân không phải thực
hiện những thủ tục chặt chẽ, không có yêu cầu về bằng cấp và không cấu tạo
chương trình học với tính liên tục như mô hình giáo dục chính quy.
Sự đa dạng về chương trình, về bài học, về chuyên đề là hết sức cần thiết
để đảm bảo phương châm “cần gì học nấy”. Hiện nay, các TTHTCĐ thường thể
hiện chức năng giáo dục và huấn luyện ở những chương trình như: Xoá mù chữ
cho thanh niên và người lớn; Các lớp học tình thương cho trẻ em thất học; Các
chương trình sau xoá mù chữ; Các chương trình tương đương (giáo dục bổ túc
tiểu học, trung học cơ sở); Các chương trình tạo thu nhập (dạy nghề ngắn hạn,
tập huấn về kỹ thuật, chuyển giao công nghệ…); Các chương trình nâng cao chất
lượng cuộc sống (chuyên đề về sức khoẻ, dinh dưỡng, dân số - kế hoạch hoá gia
đình, bảo vệ môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội, pháp luật…); Các chương
136
trình đáp ứng sở thích cá nhân (chụp ảnh, cắm hoa, thêu ren, nấu nướng, vẽ…);
Các chương trình chuẩn bị cho tương lai (ngoại ngữ, tin học…).
Một thực tế là cán bộ trong biên chế của Trung tâm thì rất ít, mà những
vấn đề huấn luyện giáo dục lại rất đa dạng. Do vậy, Trung tâm luôn phải phối
hợp với các lực lượng khác như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, trại chăn nuôi,
cán bộ khuyến nông v.v… để tiến hành các bài giảng, các chuyên đề khoa học
và công nghệ v.v…
Thứ hai, linh hoạt trong giải đáp thông tin và tư vấn người dân.
Nhu cầu thông tin và cách thức tìm kiếm thông tin của nhân dân là rất đa
dạng. Để cung ứng thông tin, giới thiệu nguồn tin, cách thức tiếp cận với thông
tin thường phải dựa vào đội ngũ làm công tác văn hoá, khoa học, kỹ thuật ở địa
phương hoặc nhờ sự giúp đỡ của những chuyên gia ở gần Trung tâm. Việc tiến
hành công việc này càng bức thiết khi địa phương không có thư viện hoặc bưu
điện văn hoá. Ở nhiều tỉnh, thành phố, các TTHTCĐ có tủ sách. Tuy nhiên, với
nguồn kinh phí của trung tâm rất hạn hẹp, số sách báo thường rất ít ỏi.
Những vấn đề mà người dân thường cần được trung tâm tư vấn là bảo vệ
sức khoẻ, chữa bệnh, cách dùng thuốc, tìm kiếm việc làm, giá cả thị trường, tín
dụng, hôn nhân - gia đình, chăn nuôi, trồng trọt. Hình thức cung cấp thông tin
cũng rất đa dạng như: tổ chức giới thiệu sách; thông báo về các nguồn tin; sử
dụng hệ thống truyền thanh của xã, phường; làm bảng tin…
Thứ ba, đa dạng hóa các hoạt động cộng đồng của Trung tâm.
Đúng như tên gọi, TTHTCĐ thường tổ chức các hoạt động mang tính
cộng đồng như: Biểu diễn thể dục, thi đấu thể thao, luyện tập dưỡng sinh; tổ
chức trao đổi, tọa đàm về công việc; tổ chức nói chuyện theo các chủ đề; xem
chiếu bóng, băng Video, phim đèn chiếu; dịch vụ khám chữa bệnh; hỗ trợ các dự
án đang triển khai ở địa phương.v.v… Các chương trình, các dự án cần trung
tâm hỗ trợ có thể là chương trình xoá đói giảm nghèo, dự án cho vay vốn với lãi
suất thấp, chương trình xây dựng quỹ khuyến học của xã, phường, chương trình
chống suy dinh dưỡng, chương trình tiêm chủng dự phòng…
137
Thứ tư, tiếp tục duy trì và thúc đẩy sự liên kết với nhiều trung tâm, tổ
chức khác.
Rất nhiều công việc ở địa phương cần được tiến hành với sự liên kết hoặc
phối hợp giữa trung tâm với các tổ chức khác. Hiện nay, có nhiều công việc cần
được Trung tâm phối hợp, liên kết với các tổ chức, các lực lượng xã hội để thực
hiện như phối hợp với Hội người cao tuổi điều tra nhu cầu học tập của các cụ về
hưu, phối hợp với Đoàn Thanh niên để tổ chức huấn luyện cho thanh niên làm
trang trại, phối hợp với Hội Phụ nữ về kế hoạch hoá gia đình, phòng chống suy
dinh dưỡng ở trẻ em v.v…
Cần thấy rằng việc cập nhật kiến thức và kỹ năng lao động kỹ thuật cho
người dân, giúp họ tiếp cận với những công nghệ sản xuất mới, mang lại cho họ
những thông tin cần thiết để thay đổi cách nghĩ, cách làm theo truyền thống... sẽ
có tác dụng to lớn trong xoá đói giảm nghèo trong cộng đồng dân cư, nhất là
những cộng đồng trong lĩnh vực “tam nông” (nông nghiệp, nông thôn, nông
dân). Những chuyên đề, những lớp tập huấn, những cuộc tọa đàm về kỹ thuật
liên hoàn VAC (vườn, ao, chuồng) về nuôi ba ba, cá sấu, ngan Pháp, gà siêu
thịt..., về trồng hoa, trồng tiêu, làm nấm...; về quản lý trang trại, chống sâu bệnh
cho cây trồng, đề phòng dịch cúm gia cầm... chắc chắn sẽ giúp cho không ít
nông dân đói nghèo trở thành triệu phú.
Dễ dàng nhận thấy những lớp học xoá mù chữ và bổ túc sau khi xoá mù
chữ, những lớp học bổ túc tiểu học và trung học cơ sở, những lớp chuyên đề về
pháp luật, vệ sinh thực phẩm, bảo vệ sức khoẻ, những khoá dạy nghề ngắn hạn
đã giúp cho người dân không rơi vào tình trạng mù chữ lại (tái mù) và góp phần
không nhỏ vào phổ cập giáo dục cho người lớn. Với đối tượng là trẻ em đã phổ
cập giáo dục tiểu học hay trung học cơ sở mà không có điều kiện theo học các
trường chính quy thì nhờ học tập ở TTHTCĐ mà củng cố được kết quả phổ cập
giáo dục của mình.
Ủy ban nhân dân các quận, huyện cần bố trí giáo viên làm việc tại
TTHTCĐ; chỉ đạo xây dựng TTHTCĐ kết hợp với nhà văn hóa, bưu điện xã,
chọn trung tâm nguồn để nhân rộng điển hình trên địa bàn; hướng dẫn Phòng
138
giáo dục và đào tạo các quận, huyện phối hợp với Hội người cao tuổi tổ chức các
lớp học tuyên truyền, phổ biến kiến thức phổ thông về chế độ dinh dưỡng ở
người cao tuổi; hướng dẫn người cao tuổi kỹ năng phòng bệnh, chữa bệnh và tự
chăm sóc sức khỏe.
Về tài liệu học tập, ngoài các tài liệu do Vụ GDTX; chương trình GDTX
đáp ứng theo yêu cầu người học của Bộ Giáo dục và Đào tạo; các tài liệu về giáo
dục pháp luật, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, các
chuyên đề giáo dục do Sở Giáo dục và Đào tạo cung cấp; sách giáo khoa chương
trình xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ cần được cung cấp cho
các TTHTCĐ để làm tài liệu giảng dạy. Bên cạnh đó, các quận, huyện tiếp tục
bổ sung tài liệu giảng dạy cho các TTHTCĐ qua các kênh:
- Khai thác các chuyên đề từ địa chỉ http://clc.mis.moet.gov.vn (Hệ thống
phần mềm quản lý điều hành các TTHTCĐ)
- Cung cấp báo Giáo dục thời đại;
- Kết hợp sử dụng nguồn tư liệu từ các ban, ngành, đoàn thể ở các quận,
huyện; tài liệu từ các hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật, các chương trình dạy
nghề ngắn hạn của các cơ sở tư nhân;
- Các chương trình dạy nghề dưới các hình thức chuyên đề, dạy nghề ngắn
hạn của Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp và của Trung tâm khuyến nông thành phố;
- Bổ sung thường xuyên sách về y dược, nông nghiệp, chính trị, kinh tế,
môi trường các loại báo cho các TTHTCĐ;
- Tài liệu tuyên truyền, bộ đĩa truyền thanh, thông tin phụ nữ 8/3, sổ
tay, tập san nội bộ của Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố và Hội Liên hiệp phụ
nữ các cấp;
- Các chương trình dạy nghề của các Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn theo chương trình dạy nghề cho lao
động nông thôn.
Với những ưu thế không thể phủ nhận, rõ ràng mô hình TTHTCĐ là một
thiết chế giáo dục phù hợp với những mục tiêu mà XHHT đề ra. Hàng ngàn
người đã được giải quyết nhu cầu học tập thường xuyên với cấu trúc chương
139
trình linh hoạt. Các TTHTCĐ góp phần ổn định chính trị, xã hội tạo điều kiện
cho mọi người nâng cao trình độ hiểu biết, nhu cầu học tập thường xuyên, suốt
đời, vận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cuộc sống để phát
triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa ở cộng
đồng dân cư, xóa mù chữ, xóa mù nghề, phổ cập giáo dục, nâng cao chất lượng
giáo dục chính quy. Các TTHTCĐ thể hiện nổi bật tinh thần cộng đồng, phát
triển TTHTCĐ là một biện pháp tăng cường xã hội hóa công tác giáo dục, góp
phần xây dựng XHHT ở Hải Phòng nói riêng và Việt Nam nói chung.
4.3.2. Đa dạng hóa hoạt động Giáo dục thường xuyên
Nhiều quốc gia trên thế giới cho rằng, giáo dục là công việc phải được
tiến hành đối với mọi lứa tuổi, trong tất cả các giai đoạn của đời người. Không
phân biệt học trong nhà trường, học ngoài xã hội hay học tại gia đình, học có
mục đích hay học ngẫu nhiên, học theo hệ thống tri thức và kỹ năng hay cần gì
học nấy, quá trình giáo dục đó đều phải được quan tâm và phải có sự quản lý từ
phía Nhà nước. Với cách hiểu này, GDTX là một chính sách xã hội của một xã
hội hiện đại, trong đó học tập là quyền của con người. Như vậy, nếu phân chia
hệ thống giáo dục ra làm 2 hệ nhỏ thành phần là hệ thống giáo dục ban đầu và hệ
thống giáo dục tiếp tục, thì sự liên kết, liên thông, kết nối và được tiến hành
không đứt đoạn nhờ sự đan xen và liên tục của sự học ở mỗi con người được gọi
là GDTX.
UNESCO đưa ra 14 khuyến cáo về giáo dục và tất cả đều nói tới GDTX.
Quan niệm của UNESCO về GDTX rất phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay
ở Việt Nam. Theo đó, GDTX bao gồm tất cả các cơ hội học tập mà mọi người đều
mong muốn hoặc cần có sau xoá mù chữ cơ bản và giáo dục tiểu học. Trong thực
tế, những chương trình của GDTX thường được nhiều đối tượng hoan nghênh như
những người phải bỏ học giữa chừng khi đang học trong nhà trường chính quy,
những người nghèo hoặc thất nghiệp, những người di cư, những người tị nạn,
những phụ nữ ít có cơ may học tập, những người về hưu v.v..
Ở một số nước, trong đó có Việt Nam, lại gộp các loại hình học tập không
chính quy vào khái niệm GDTX. GDTX được coi là một hệ thống gồm các loại
140
hình học tập thuộc phạm vi giáo dục tiếp tục. Vì thế, nó không bao hàm các hình
thức giáo dục chính quy trong hệ giáo dục ban đầu. Nói đến GDTX, người ta
hiểu rằng đó là giáo dục tiếp tục. Theo quy định của Luật giáo dục 2005, giáo
dục tiếp tục bao gồm mọi loại hình giáo dục không chính quy. Do tính chất bắc
cầu trong quan niệm nói trên nên nói đến GDTX là ai cũng hiểu rằng đó là giáo
dục không chính quy.
Điều 44, Luật Giáo dục 2005 của nước ta quy định: GDTX giúp mọi
người vừa học vừa làm, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách,
mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải
thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời
sống xã hội.
Nhà nước có chính sách phát triển GDTX, thực hiện giáo dục cho mọi
người, xây dựng XHHT.
Nội dung GDTX được thể hiện trong các chương trình: xoá mù chữ và
giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ; cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công
nghệ; đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ; lấy
văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân. Hình thức để lấy văn bằng của hệ
thống giáo dục quốc dân cũng rất phong phú: Vừa học vừa làm; Học từ xa; Tự
học có hướng dẫn. Như vậy, nội hàm GDTX có nhiều điểm tương đồng với
XHHT mà Hồ Chí Minh xây dựng và kiến tạo.
Việc coi GDTX là một hệ thống thành phần của hệ thống giáo dục quốc
dân cũng được ghi trong Quyết định 112/2005/QĐ-TTg ngày 18/5/2005 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 -
2010”. Xây dựng cả nước trở thành XHHT được dựa trên nền tảng phát triển
đồng thời, gắn kết, liên thông của hai bộ phận cấu thành: Giáo dục chính quy và
GDTX của hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó GDTX thực hiện các chương
trình học tập nhằm tạo các điều kiện tốt nhất đáp ứng mọi yêu cầu học tập suốt
đời, học tập liên tục của mọi người công dân sẽ là một bộ phận có chức năng
quan trọng, làm tiền đề để xây dựng XHHT.
141
Tại Hải Phòng, hệ thống GDTX đã dần hoàn thiện, từ cấp thành phố đến
cấp quận, huyện. Các trung tâm dạy nghề quận, huyện cũng được sáp nhập vào
trung tâm GDTX tương ứng.
Để có thể phát huy hiệu quả hoạt động, đưa chất lượng đào tạo tại các
trung tâm GDTX ở Hải Phòng đi vào thực chất, cần quán triệt những vấn đề có
tính nguyên tắc:
Một là, GDTX là cánh cửa, là cơ hội học tập thứ hai cho những ai chưa
bao giờ đi học, từ đó góp phần vào việc mang lại công bằng xã hội và bình đẳng
trong giáo dục, điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn thực hiện.
Hai là, với những người bỏ học giữa chừng vì lý do nào đó, GDTX cần
nối lại sự đứt đoạn trong quá trình học tập của họ, làm cho việc học tập được
thực hiện tiếp tục, liền mạch. Cũng có nghĩa, GDTX chính là cầu nối, là cánh tay
nối dài của quá trình giáo dục tiếp tục.
Ba là, GDTX bổ sung những tri thức cần thiết cho con người trong quá
trình lao động, sản xuất. Điều này bắt nguồn từ việc con người thấy thiếu hụt
những kiến thức, những kỹ năng nào đó trong quá trình lao động, giao lưu xã
hội… Sự thiếu hụt này làm cho họ khó thích nghi, khó phát triển trong điều kiện
xã hội thay đổi nhanh chóng về các phương diện sản xuất, kinh doanh, quan hệ
đối ngoại v.v… Do đó, con người phải cập nhật những hiểu biết, những phương
pháp làm việc… cần thiết mà cuộc sống đòi hỏi. Nói cách khác, đó chính là giáo
dục liên tục, học tập suốt đời.
Bốn là, GDTX mang lại cơ hội học tập mà qua đó con người làm cho vốn
kinh nghiệm của mình đầy đủ hơn, năng lực hoạt động được nâng cao, sức khoẻ
được tăng cường, những phẩm chất nhân cách được phát triển hài hoà và hoàn
chỉnh hơn. Tức là, GDTX giúp con người hoàn thiện hơn về năng lực và nhân
cách thông qua quá trình giáo dục.
Có thể coi GDTX là mô hình mới của xã hội hiện đại, giải quyết hiệu quả
nhu cầu học tập của người dân, góp phần xây dựng XHHT ở Việt Nam nói
chung và Hải Phòng nói riêng. Đến nay, ngành GDTX Hải Phòng vẫn đang tiếp
tục phát triển và phát huy lợi thế mà loại hình này mang lại. Trong thời gian tới,
142
GDTX Hải Phòng cần năng động hơn nữa trong việc liên kết, tổ chức và đào tạo
cho các đối tượng học viên, giúp trang bị cho họ những kiến thức nghề nghiệp
cần thiết phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
4.4. ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP TỪ CƠ SỞ THÔNG QUA
KHUYẾN HỌC, KHUYẾN TÀI
Sự nghiệp xây dựng XHHT ở Việt Nam khác với các nước phát triển
không phải ở nguyên tắc, không phải ở cấu trúc vĩ mô mà là ở các bước đi chiến
lược. Nếu như ở các nước phát triển, XHHT bắt đầu từ sự tập trung nguồn lực để
xây dựng các TPHT, từ đó nhân rộng ra nhiều TPHT để có được một quốc gia
học tập của họ, thì ở Việt Nam, XHHT phải được bắt đầu từ cơ sở, từ những hạt
nhân nhỏ nhất là công dân học tập, gia đình học tập từ đó xây dựng xã, phường
học tập, quận, huyện học tập rồi mới tiến tới TPHT, quốc gia học tập. Có như
vậy, xây dựng XHHT ở Việt Nam mới tiến được những bước dài và vững chắc.
Những bước đi này phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hóa, chính trị Việt Nam
và cũng phù hợp với mô hình mà Hồ Chí Minh đã đề cập đến từ năm 1949. Mỗi
một cá nhân, mỗi một đơn vị và một địa phương xây dựng XHHT, cộng gộp lại
sẽ là thành quả chung của sự nghiệp xây dựng XHHT trên cả nước.
Tuy nhiên, là một nước nông nghiệp có điều kiện kinh tế còn hết sức khó
khăn nên Việt Nam không thể lấy kinh tế làm động lực chính để xây dựng
XHHT. Việt Nam phải tìm sức mạnh phi kinh tế để làm động lực xây dựng
XHHT từ cơ sở. Đó chính là sức mạnh của yếu tố tinh thần, mà ở đây là tinh
thần siêng năng, ham học hỏi, ham tiến bộ của dân tộc. Vì thế, xây dựng XHHT
không tách rời với mọi hoạt động KH, KT ở từng địa phương và trên cả nước.
Đối với Hải Phòng, KH, KT có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hải Phòng
được mệnh danh là vùng đất địa linh nhân kiệt, có nhiều anh tài lưu danh muôn
thuở. Nhiều năm qua, phong trào KH, KT, xây dựng XHHT đã làm chuyển biến
căn bản nhận thức của người dân thành phố về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với
phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, khơi dậy và phát huy có hiệu quả truyền
thống hiếu học trong mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng, xã hội. Cấp uỷ, chính
quyền các cấp đề ra nhiều giải pháp xây dựng và phát triển phong trào, vận động
143
nhân dân ở phường, xã, tổ dân phố xây dựng các mô hình điểm, cá nhân tiêu
biểu đóng góp tích cực vào cuộc vận động các gia đình có con đến tuổi đi học để
các em được đến trường học tập với các bạn đồng lứa tuổi. Các cuộc vận động
được hình thành một cách đa dạng, linh hoạt ở khắp mọi nơi như tiếng kẻng học
tập ở xã Chiến Thắng, huyện An Lão, các cuộc vận động dành tiền ăn sáng giúp
bạn học bài; cuộc vận động quyên góp sách vở, bút, giấy giúp các bạn có hoàn
cảnh khó khăn ở các trường phổ thông, khu dân phố... Rất nhiều nghĩa cử cao
đẹp, tự giác xuất hiện ở phường xã, làng xóm, tổ dân phố, tạo điều kiện cơ sở vật
chất để con em có điều kiện học tập tốt hơn. Tác dụng tích cực của phong trào
KH, KT, xây dựng XHHT đến tận gia đình, dòng tộc và cộng đồng dân cư.
Những tiêu chí cơ bản của phong trào khuyến học được ghi trong các văn bản
hương ước của dòng họ, làng văn hoá. Hội khuyến học các cấp của thành phố đã
xây dựng kế hoạch thực hiện ở địa phương, tổ chức cho cán bộ chủ chốt của Hội
Khuyến học thành phố và các quận, huyện quán triệt, triển khai quyết định số
281 của Thủ tướng Chính phủ. Với những hoạt động tích cực, nhiệt tình, tâm
huyết của cán bộ, hội viên các cấp, hoạt động KH, KT của thành phố đã tạo
thành sức mạnh tổng hợp được đại đa số các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, ủng
hộ đưa phong trào thi đua KH, KT giữ vị trí hết sức có ý nghĩa đối với sự nghiệp
giáo dục đào tạo của thành phố và thu được những kết quả rất đáng trân trọng.
Để duy trì tốt hoạt động KH, KT cần thực hiện xã hội hóa Quỹ KH, KT.
Trong bối cảnh kinh tế đất nước, thành phố và các doanh nghiệp còn gặp nhiều
khó khăn, phong trào xây dựng quỹ KH, KT vẫn phát triển mạnh mẽ, rộng khắp
ở các Hội Khuyến học quận, huyện, xã, phường, thị trấn với nhiều hình thức đa
dạng, phong phú. Cần thiết nhân rộng mô hình xã hội hóa quỹ KH, KT hoạt
động có hiệu quả. Thông qua công tác tuyên truyền vận động, sự đóng góp tích
cực của các cá nhân, tập thể và sự chăm lo xây dựng quỹ khuyến học từ các gia
đình, dòng họ, chi hội khuyến học các tổ dân phố, xóm thôn, các cơ quan, doanh
nghiệp, trường học, hội đồng hương… nhiều đơn vị có những sáng kiến để xây
dựng quỹ đem lại hiệu quả thiết thực, tiêu biểu như: Quỹ Khuyến học trong các
nhà trường ở quận Lê Chân, Quỹ học bổng Phạm Đình Trọng của dòng họ Phạm
144
ở Thành phố Hải Phòng, Quỹ học bổng Đức Trí của nhà giáo Đàm Lê Đức
(Hiệu trưởng trường bồi dưỡng văn hoá số 218 Lý Tự Trọng, Thành phố Hồ Chí
Minh), Quỹ học bổng Trần Phú của trường THPT chuyên Trần Phú, Quỹ KH,
KT mang tên Trạng nguyên Lê Ích Mộc của huyện Thuỷ Nguyên, Quỹ khuyến
học Nguyễn Bỉnh Khiêm của huyện Vĩnh Bảo, Quỹ khuyến học Trần Tất Văn
của huyện An Lão, Quỹ khuyến học Tô Hiệu, Phú Mỹ Hưng, Quỹ học bổng Lá
Xanh, quỹ học bổng Hữu Nghị, học bổng của Công ty Phú Mỹ Hưng… Phong
trào “Nuôi lợn siêu trọng” được phát triển rộng rãi ở các nhà trường trong toàn
thành phố với nhiều hình thức sinh động. Nguồn quỹ huy động được từ các
doanh nghiệp, doanh nhân, nhà hảo tâm trong và ngoài thành phố đã trực tiếp
mang lại hiệu quả thiết thực giúp các học sinh có hoàn cảnh khó khăn, động viên
những học sinh đạt thành tích xuất sắc trong học tập ở các cấp học, đồng thời tạo
được sự đồng thuận của các gia đình, dòng họ, các doanh nghiệp, doanh nhân và
cả cộng đồng ủng hộ. Việc quản lý, sử dụng quỹ được các cấp Hội khuyến học
xây dựng thành quy chế rõ ràng, thực hiện có hiệu quả với nguyên tắc: Công
khai, minh bạch, khách quan để nhận được sự đồng tình, tin tưởng ủng hộ của
nhân dân và các doanh nghiệp, tập thể, cá nhân tham gia xây dựng quỹ.
4.5. XÂY DỰNG VÀ THÚC ĐẨY VĂN HÓA HỌC TẬP, NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG HỌC TẬP SUỐT ĐỜI CHO NGƯỜI DÂN
4.5.1. Tiếp tục nhân rộng mô hình tủ sách thư viện đáp ứng nhu cầu
tiếp cận tri thức của người dân
Thực tế cho thấy, thư viện luôn là địa chỉ tin cậy cho học tập và học tập
suốt đời. Hiện thành phố đã có trên 750 thư viện trường học, với nhiều chủng
loại sách phong phú và có giá trị, trong số đó có gần 300 thư viện đạt chuẩn. Hải
Phòng đã triển khai mô hình thư viện mới như: thư viện xanh tại Trường Tiểu
học Lê Hồng Phong, quận Ngô Quyền, Trường THCS Hồng Bàng, quận Hồng
Bàng; Thư viện phụ huynh, tủ sách phụ huynh tại các Trường THPT Thái Phiên,
An Dương, Kiến An; Đặc biệt, Trường THPT Kiến An phối hợp với Ban đại
diện cha mẹ học sinh đã tổ chức xây dựng tủ sách phụ huynh tại các lớp học
trong phạm vi toàn trường. Các bậc cha mẹ học sinh đã đóng góp được 210 đầu
145
sách với trên 3000 cuốn sách thuộc các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học
kỹ thuật, kỹ năng sống, giáo dục giới tính... Các em học sinh trong mỗi lớp đã
bầu chọn các học sinh có tinh thần trách nhiệm làm nhiệm vụ thủ thư. Nhà
trường đã mở lớp tập huấn về nghiệp vụ thư viện cho đội ngũ này để giúp các
em quản lý tốt tủ sách và biết các duy trì phong trào đọc sách trong lớp; chỉ đạo
Đoàn thanh niên phát động cuộc thi đọc sách và viết cảm nhận về cuốn sách em
yêu thích. Trên cơ sở những bài thi có chất lượng được Ban Giám khảo đánh giá
cao và những bài thi nhận được nhiều lượt bình chọn của độc giả trên trang web
của nhà trường và trên trang facebook của Đoàn trường. Đoàn trường đã mở
chuyên mục phát thanh “Mỗi tuần một cuốn sách” phát thanh trên hệ thống loa
phát thanh học đường vào sáng thứ năm hàng tuần. Đồng thời bộ phận hoạt động
ngoài giờ lên lớp cũng đã chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm kết hợp với tổ bộ
môn Ngữ văn và Ban chủ nhiệm các Câu lạc bộ như Câu lạc bộ Khoa học, Câu
lạc bộ Văn học, Câu lạc bộ Hóa học, Vật lý, Lịch sử, với các Chi hội phụ huynh
các lớp... tổ chức những buổi sinh hoạt Câu lạc bộ với nội dung thuyết trình về
cuốn sách yêu thích. Các giáo viên chủ nhiệm và giáo viên Ngữ văn đã phối hợp
tổ chức cho học sinh đọc sách và viết bài thu hoạch về các cuốn sách bổ ích theo
các chủ đề giáo dục từng tháng; Tổ chức được nhiều buổi phát thanh học đường
về chủ đề sách, trên 20 buổi thảo luận, thuyết trình tại lớp về cuốn sách em yêu
thích với gần 1.100 lượt học sinh tham gia.
4.5.2. Tích cực hưởng ứng và tham gia tuần lễ học tập suốt đời
Xây dựng XHHT là sự nghiệp không chỉ của riêng Hải Phòng hay riêng
Việt Nam mà là xu thế chung của các quốc gia trên thế giới. Mỗi năm, UNESCO
đều phát động người dân hưởng ứng Tuần lễ học tập suốt đời. Định kỳ hàng
năm, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng đã xây dựng kế hoạch triển khai Tuần
lễ hưởng ứng học tập suốt đời trong các ban, ngành thành phố, Ủy ban nhân dân
các quận, huyện. Tuần lễ Hưởng ứng học tập suốt đời hàng năm luôn nhận được
sự quan tâm sâu sát của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong
công tác chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng XHHT trên địa bàn thành phố và
các nội dung, chuyên đề cần thực hiện trong dịp tổ chức Tuần lễ hưởng ứng học
tập suốt đời.
146
Tổng hợp số liệu kết quả tổ chức tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời 2019
Số lượng
STT
Các hoạt động
Đơn vị
Ghi chú
Người
Số lớp/số cuộc thi
lớp
1
Các lớp bồi dưỡng, tập huấn tổ chức trong Tuần lễ
người
Tổng số người tham gia, trong đó:
lớp/người
182
7.162
Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức (các cấp)
825
lớp/người
31
Bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức (các cấp)
813
lớp/người
37
Bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học cho cán bộ, công chức, viên chức (các cấp)
lớp/người
124
458
Bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho công nhân lao động
336
Học nghề cho lao động nông thôn
lớp/người
73
465
lớp/người
105
Nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ công chức cấp xã, người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
7482
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
lớp/người
267
618
lớp/người
21
Phổ biến kiến thức khoa học, kiến thức pháp luật cho người lao động
2548
Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên
lớp/người
78
518
lớp/người
26
Bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ quản lý, báo cáo viên TTHTCĐ
427
Phổ cập giáo dục (tiểu học, THCS)
lớp/người
19
58
Xóa mù chữ
lớp/người
53
Tin, bài/ cuộc
298
2 Số tin bài về các hoạt động của Tuần lễ
quyển/ tờ
12.146
3 Ấn phẩm thông tin (tờ rơi, áp phích, băng
rôn, khẩu hiệu)
224
4
Phát động phong trào và tổ chức quyên góp sách giúp xây dựng tủ sách lớp học, xây dựng thư viện trường học
Số tập thể/ cá nhân tặng sách
75
624
Tập thể/cá nhân
Số sách đã huy động tặng các trường học, thư viện
Quyển
6.852
147
Số lượng
STT
Các hoạt động
Đơn vị
Ghi chú
Người
Số lớp/số cuộc thi
Số cuộc
281
5
Tổ chức các thi, các buổi tọa đàm về khuyến đọc, khuyến học, XD XHHT
Hội sách, đường sách, phố sách
Số cuộc
72
Trưng bày, triển lãm sách báo, tư liệu
Số cuộc
51
Số cuộc/người
391
18
Thi tìm hiểu, học tập lịch sử, văn hóa địa phương tại các bảo tàng, di tích
Số cuộc/người
58
1.589
Thi về sách (thi xếp sách nghệ thuật, thi vẽ tranh theo sách, thi tìm hiểu kiến thức qua sách báo, thi thiếu nhi kể chuyện theo sách, thi viết cảm nhận qua việc đọc sách)
Sinh hoạt chuyên đề HTSĐ, xây dựng XHHT Số cuộc/người
Số cuộc
6
Tổ chức hoạt động văn nghệ, thể thao, thăm quan, sinh hoạt chuyên đề
Hoạt động thể dục thể thao
Số cuộc/người
19
524
Hoạt động văn nghệ
Số cuộc/người
24
312
Thăm quan, học tập tại bảo tàng, di tích lịch sử Số cuộc/người
6
168
7
Tổ chức Lễ khai mạc Tuần lễ
Số huyện tổ chức Lễ khai mạc Tuần lễ
Huyện
13
551
Trường/trung tâm
Số cơ sở giáo dục tổ chức Lễ khai mạc Tuần lễ
cuộc
32
211
8 Tổ chức hội thảo/sinh hoạt chuyên đề
9
Khen thưởng về tổ chức Tuần lễ
Tập thể
Đơn vị
Cá nhân
Người
10
Kinh phí
Ngân sách nhà nước
đồng
đồng
Kinh phí hỗ trợ, huy động từ các nguồn hợp pháp khác (nếu có)
11 Các nội dung khác (nếu có)
Nguồn: Báo cáo V/v tổ chức thực hiện Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời
năm 2019 của UBND thành phố Hải Phòng
Như vậy, để việc hưởng ứng Tuần lễ học tập suốt đời hiệu quả, cần tiếp
tục làm tốt công tác thông tin tuyên truyền về Tuần lễ học tập suốt đời, nhiệm vụ
148
xây dựng XHHT trên các phương tiện thông tin đại chúng cho mọi người dân
được biết. Ngoài ra, chính quyền cần có kế hoạch và biện pháp tuyên truyền đến
các khu dân cư, các hộ gia đình, trong các cơ quan công sở nhà nước nhằm nâng
cao nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức, đoàn thể, các lực lượng xã
hội về vai trò của việc xây dựng XHHT vì sự phát triển bền vững của đất nước,
hạnh phúc của mỗi cá nhân; có cơ chế tạo động lực, khuyến khích trong việc xây
dựng XHHT trên địa bàn thành phố theo Chủ đề Tuần lễ được phát động. Một số
chủ đề được Ban chỉ đạo Đề án xây dựng XHHT Hải Phòng gợi ý như:
- Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân.
- Trong cách học, phải “lấy tự học làm cốt”.
- Trường học vĩ đại nhất chính là sách vở.
- Việc đọc rất quan trọng. Nếu bạn biết cách đọc, cả thế giới sẽ mở ra
cho bạn.
- Học để tiếp thu tri thức mới, hoàn thiện bản thân, vì một tương lai tốt
đẹp hơn.
- Đọc sách để mở mang kiến thức, hướng tới phục vụ cho công việc và
cộng đồng.
- Học chưa bao giờ là muộn. Hãy học khi còn có thể.
- Học để tiếp thu tri thức từ sách vở, trường học, từ thực tế cuộc sống. Hãy
học khi mình có thể.
- Không ngừng học hỏi để tiếp thu tri thức của nhân loại, hoàn thiện bản
thân, phụng sự cho quê hương, đất nước.
Những chủ đề này là thiết thực, ngắn gọn, phù hợp với mục đích tuyên
truyền, khơi dậy tinh thần ham học của các tầng lớp nhân dân trong chủ động
lĩnh hội tri thức, đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
4.6. TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC QUỐC TẾ, HỌC HỎI KINH NGHIỆM XÂY
DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP CỦA CÁC NƯỚC, TIẾN TỚI THAM GIA MẠNG LƯỚI
THÀNH PHỐ HỌC TẬP TOÀN CẦU
Việc xây dựng XHHT không chỉ gần đây mới đề cập đến, và cũng không
chỉ Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng. Như đã nói, trên thế giới, từ
149
năm 1972, Ủy ban Quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI đã đưa ra ý tưởng về XHHT.
Báo cáo của Ủy ban với tiêu đề Học để tồn tại (Learning to be) đã có tác dụng
lớn trong việc khắc phục dòng tư duy giáo dục cổ điển lúc bấy giờ và nhiều quốc
gia thống nhất quan điểm sau:
- Những tiến bộ nhanh của khoa học, công nghệ cũng như những thay đổi
có gia tốc lớn của xã hội không cho phép bất cứ ai dừng lại việc học tập ở bất kỳ
thời điểm nào trong cuộc sống của mình.
- Giáo dục của mỗi quốc gia phải có thể chế buộc mọi người phải học tập,
trước hết là người lớn.
Ủy ban khuyến khích các quốc gia xây dựng nền giáo dục thế kỷ XXI
hướng vào XHHT. Từ đó, một số quốc gia đã tổ chức lực lượng khoa học để
khởi thảo những chính sách giáo dục, bao gồm cả việc xây dựng khung pháp lý
để tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng nền giáo dục mới theo tư
tưởng giáo dục suốt đời và học tập suốt đời.
Năm 1976, UNESCO biên soạn nhiều tài liệu để giải thích và cụ thể hóa
tư tưởng xây dựng XHHT.
Năm 1977, Hội đồng Canada thuộc UNESCO đã tổ chức thảo luận về
XHHT, sau đó xuất bản tài liệu “Học tập, cùng nhau, suốt đời”.
Năm 2002, Australia đưa ra chủ trương “Hướng tới nhận thức XHHT”.
Nhìn chung, cho tới những năm đầu thế kỷ XXI, các nhà nghiên cứu chỉ
đề cập tới ý tưởng hướng tới một XHHT. Họ cho rằng lúc này, XHHT chưa thể
trở thành một thực thể giáo dục, mà còn đang là một quan niệm “mở”, cần vận
dụng uyển chuyển để đổi mới hoặc cải cách nền giáo dục hiện có, trước hết là
giáo dục người lớn. Ý tưởng này đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi bộ mặt
giáo dục thế giới ở các trình độ đào tạo, mà rõ nét nhất là trình độ đào tạo đại
học. Đó là xu thế giáo dục đại học cho số đông với sự thực hiện đa dạng hóa về
phương diện tổ chức và phân tầng trình độ giáo dục đại học, mở rộng giáo dục
đại học từ xa, giáo dục đại học xuyên biên giới, giáo dục đại học vừa học vừa
làm. Từ đó bùng nổ số lượng sinh viên và những cơ sở giáo dục đại học.
150
Từ chủ trương của Ủy ban Quốc tế giáo dục thế kỷ XXI, nhiều quốc gia
đã có những việc làm cụ thể trong việc hướng nền giáo dục của mình vào mô
hình XHHT thông qua quá trình đổi mới hoặc cải cách nền giáo dục hiện tại
đang mất dần tính thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của thế giới, nhất
là với sự xuất hiện kinh tế tri thức. Cụ thể, các quốc gia tiến hành xây dựng
XHHT trên một khu vực địa lý hoặc một địa phương nào đó, và địa bàn thí điểm
là đô thị, là thành phố chứ không phải là vùng nông thôn.
Tại sao lại lựa chọn địa bàn xây dựng là thành phố? Các nhà nghiên cứu
cho rằng, lý do chủ yếu chọn thành phố làm địa bàn xây dựng XHHT là do trong
điều kiện thí điểm, chọn thành phố vì nó có nhiều điều kiện thuận lợi hơn vùng
nông thôn trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường. Tại thành phố,
việc thực hiện các chương trình giáo dục, y tế, văn hóa, dịch vụ... thường hiệu
quả hơn so với các vùng khác. Thành phố cũng là nơi huy động sự tham gia của
xã hội, tranh thủ các nguồn lực vào sự nghiệp XHHT dễ hơn với địa bàn nông
thôn. Tuy chính quyền quốc gia có vai trò chủ đạo về tầm nhìn và thiết lập lịch
trình, nhưng trong thành phố và trong từng cộng đồng, việc tổ chức và hành
động thuộc nhiều chương trình, dự án diễn ra thuận lợi hơn. Vì thế, xây dựng
một quốc gia học tập phải thông qua xây dựng từng cộng đồng học tập và trong
các cộng đồng thì thành phố là nơi tiến hành phù hợp hơn cả. Hải Phòng là đô thị
lớn thứ ba cả nước, và Hải Phòng cơ bản có đủ điều kiện để xây dựng TPHT.
Kinh nghiệm cho thấy rất nhiều quốc gia đã chú ý đến xây dựng TPHT
bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX. Ban đầu, có 7 thành phố tham gia
Chương trình, là 7 thành phố của các nước thành viên của OECD gồm
Edmonton (Canada), Gothenburg (Thụy Điển), Vienne (Áo), Adelaide
(Australia), Pittsburgh (Mỹ), Kakegawa (Nhật Bản) và Edinburgh (Bỉ). Năm
1990, Hội đồng thành phố Barcelona tổ chức Hội nghị quốc tế đầu tiên về thành
phố giáo dục, thu hút hơn 140 thành phố tham dự. Hội nghị đã thông qua Hiến
chương các thành phố giáo dục. Đến năm 1992, tại Hội nghị quốc tế lần thứ hai
ở Gothenburg đã nêu sáng kiến xây dựng TPHT, và từ đó, các nước OECD bắt
đầu dùng thuật ngữ TPHT thay tên gọi thành phố giáo dục. Năm 1996, khi
151
UNESCO xuất bản báo cáo “Học tập: một kho báu tiềm ẩn” thì OECD cho in
báo cáo “Học tập suốt đời cho mọi người”. Từ năm 2000, Liên minh châu Âu
triển khai chương trình “Hướng tới một XHHT của châu Âu”, xây dựng bộ công
cụ toàn diện để xác định các chỉ số về TPHT.
Như vậy, có thể hiểu TPHT là một cộng đồng học tập (một thành phố, thị
xã hoặc một vùng) mà ở đó huy động được mọi nguồn lực trong mọi thành phần
của nó nhằm phát triển, làm giàu thêm tiềm năng con người để nuôi dưỡng sự
phát triển cá nhân, duy trì sự gắn kết xã hội và tạo ra sự thịnh vượng của cộng
đồng đó.
Theo Chuyên gia cao cấp của Viện Học tập suốt đời UNESCO, để xây
dựng TPHT cần có một số yêu cầu sau:
1. Có sự quyết tâm và cam kết chính trị của Nhà nước, của chính quyền.
2. Có sự liên kết, phối hợp giữa các ngành và các bộ phận liên quan.
3. Nắm chắc được nhu cầu học tập của người dân.
4. Các cơ hội học tập phải đa dạng.
5. Tất cả các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, trường học đều là những tổ
chức học tập.
6. Không có sự phân biệt, đối xử.
7. Kinh tế phát triển, có nhiều việc làm.
8. Các trường đại học tham gia tích cực.
9. Có sự tôn vinh và khen thưởng.
Ở nhiều quốc gia, TPHT được hiểu là các vùng học tập, có thể là các khu
công nghiệp học tập, khu chế xuất học tập, vùng biển đảo học tập, cảng học tập
với quy mô dân số từ 5000 người trở lên.
Tính đến năm 2005, đã có hơn 300 thành phố ở châu Âu, Canada,
Australia thực hiện việc xây dựng TPHT. Từ Hội nghị bàn về TPHT đầu tiên ở
Barcelona đến năm 2010 đã có 11 Hội nghị quốc tế về các thành phố giáo dục.
Đến nay, ước tính đã có trên 1000 TPHT được xây dựng trên toàn thế giới, và sẽ
tiếp tục gia tăng. Con số này cho thấy việc xây dựng TPHT đã trở thành một xu
thế ngày càng phát triển trên phạm vi toàn thế giới.
152
Trước xu thế này và với tư cách là một Viện thúc đẩy học tập suốt đời,
xây dựng XHHT trên phạm vi toàn thế giới, Viện Học tập suốt đời của
UNESCO đã khởi xướng thành lập mạng lưới TPHT toàn cầu để tạo diễn đàn
trao đổi, chia sẻ, học tập kinh nghiệm xây dựng TPHT giữa các quốc gia. Các
quốc gia và các tổ chức quốc tế cũng đã cố gắng xác định những đặc điểm chủ
yếu của một TPHT để có thể giám sát, đánh giá hoặc để cho các thành phố dựa
vào đó mà phấn đấu. Trong khuôn khổ Chương trình Hướng tới một xã hội học
tập của châu Âu (TELS, 2011), 14 đặc điểm cơ bản của một TPHT đã được xác
lập. Dự án LILIPUT về xây dựng các TPHT của Liên minh châu Âu cũng đã sơ
đồ hóa 12 đặc điểm của một TPHT. OECD (2001) đã nêu lên 10 nguyên tắc về
chính sách cho việc thành lập thành phố/vùng học tập.
Hiện tại, trong trào lưu xây dựng TPHT còn nhiều cách tiếp cận, đánh giá
khác nhau tùy theo quan niệm, thực tế và quá trình phát triển của mỗi quốc gia.
Thực tế cho thấy TPHT rất đa dạng và việc xây dựng TPHT là một quá trình liên
tục. Để khắc phục rào cản về mặt địa lý, kinh tế, thời gian, các quốc gia đã và
đang có nhiều chính sách cũng như giải pháp như:
- Đẩy mạnh học tập trực tuyến (E-Learning), học tập qua mạng (Online
Learning), học tập di động (M-Learning, Mobile Learning).
- Khuyến khích học tập tại nơi làm việc (Learning at Workplace).
- Cấp phiếu giảm giá cho người học (Vouchers).
- Miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp có tổ chức lớp học bồi dưỡng
nâng cao nghề nghiệp, học tập suốt đời cho người lao động.
- Công nhận kết quả học tập không chính quy.
- Xây dựng, khuyến khích văn hóa học tập suốt đời.
Hiện tại, UNESCO có đưa ra 42 tiêu chí đánh giá xếp hạng TPHT. Quốc
gia nào hưởng ứng, tự nguyện thực hiện 42 tiêu chí thì được UNESCO đưa
thành phố đó vào mạng lưới TPHT toàn cầu. 42 tiêu chí này cũng không phải
cứng nhắc ở tất cả các quốc gia. Ở Việt Nam, từ 42 tiêu chí chúng ta cụ thể
thành 36 tiêu chí và vẫn được UNESCO công nhận, đưa vào mạng lưới TPHT
toàn cầu.
153
Hải Phòng là một thành phố lớn, thành phố trực thuộc trung ương, có cư
dân đô thị lâu đời do đó Hải Phòng có đủ điều kiện để xây dựng TPHT. Trong
quá trình Hải Phòng xây dựng TPHT, cần thiết phải xem xét và học hỏi kinh
nghiệm của các quốc gia và thành phố trên. Kinh nghiệm được rút ra từ đây là:
Xây dựng TPHT đòi hỏi một sự nỗ lực trí tuệ để nâng cao hiệu quả quản lý và
tính thực tiễn của vấn đề, song lại rất cần sự quan tâm đến phương diện học thuật
trên cơ sở nghiên cứu sâu về cách thức tổ chức, triển khai cùng với việc hoạch
định chính sách. Mặt khác, cũng cần xây dựng hệ thống tài liệu toàn diện trong
các lĩnh vực khoa học về vấn đề học tập suốt đời. Cần có sự thống nhất về định
hướng chiến lược xây dựng TPHT giữa các quốc gia, đồng thời có sự linh hoạt,
sáng tạo khi vận dụng để giữ được nét đặc trưng riêng của từng thành phố.
Việc tham gia mạng lưới các TPHT toàn cầu của UNESCO sẽ giúp thành
phố thuận lợi hơn trong việc trao đổi ý tưởng, tri thức và kinh nghiệm với các
thành phố thành viên khác trên toàn thế giới, được tiếp cận với các chuyên gia,
các nhà nghiên cứu, giáo dục của UNESCO cũng như có cơ hội cập nhật kiến
thức và thực tiễn tại các hội thảo, hội nghị học tập toàn cầu. Khi thành phố đạt
danh hiệu “Thành phố học tập toàn cầu UNESCO”, danh hiệu này sẽ nâng cao
uy tín và sự công nhận của cộng đồng quốc tế cũng như gia tăng khả năng thu
hút đầu tư, nguồn nhân lực, sự thịnh vượng và phát triển bền vững của chính
thành phố đó.
Nhận thấy những lợi ích nhiều mặt của việc tham gia và những điều kiện
hiện tại của thành phố cơ bản đáp ứng được Bộ tiêu chí xây dựng TPHT, ngày
18/01/2019, Ủy ban nhân dân thành phố có văn bản số 386/UBND-VX về việc
hướng dẫn đăng ký tham gia vào mạng lưới TPHT toàn cầu UNESCO. Bằng
việc đăng ký này, Hải Phòng sẽ áp dụng bộ tài liệu hướng dẫn của UNESCO
gồm Tuyên bố Bắc Kinh về xây dựng TPHT, Tuyên bố Mêxicô về các TPHT
bền vững và những đặc điểm chính của TPHT, Tuyên bố Cork về những yêu cầu
của TPHT. Thực tiễn xây dựng TPHT là một quá trình. Đăng ký tham gia vào
mạng lưới TPHT toàn cầu UNESCO mới chỉ là bước khởi đầu của quá trình đó.
Do vậy khi đăng ký, Hải Phòng, cần có một sự cam kết chính trị, ngoài quyết
154
tâm thì cần phải có tầm nhìn dài hạn. Học tập suốt đời không phải việc riêng của
ngành giáo dục mà là một hiện tượng mang tính xã hội, chính trị, kinh tế, văn
hóa..., cần có sự hợp tác chặt chẽ của các lực lượng xã hội. Tất cả cùng chung
tay xây dựng TPHT: trường học học tập, bệnh viện học tập, nông dân học tập,
doanh nghiệp học tập, hợp tác xã học tập. Ngay cả các cơ quan chính quyền
cũng như các cơ quan lãnh đạo cũng đều là cơ sở học tập. Tăng cường cơ hội
học tập ở mọi nơi, mọi lúc thì mới đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội.
Bởi vì bản thân việc học không phải là mục đích cuối cùng của TPHT. Cái đích
hướng tới chính là văn hóa học tập của cộng đồng ấy. Trách nhiệm của chính
quyền là phải bảo trợ cho cộng đồng hoàn thành được mục tiêu đã đề ra.
Tiểu kết chương 4
Chương 4, luận án đã tập trung làm rõ những giải pháp cơ bản để xây
dựng XHHT ở Hải Phòng. Hệ thống giải pháp đó bao gồm:
1) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xây dựng
XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh;
2) Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp giữa các
Sở, ban, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp trong xây dựng XHHT;
3) Phát triển hệ thống học tập suốt đời theo hướng đi vào thực chất, hoàn
thành phổ cập giáo dục; tiếp tục mở rộng cơ hội học tập cho người dân;
4) Đẩy mạnh xây dựng XHHT từ cơ sở thông qua KH, KT;
5) Xây dựng và thúc đẩy văn hóa học tập, nâng cao chất lượng học tập
suốt đời cho người dân;
6) Tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm xây dựng XHHT,
tiến tới tham gia mạng lưới TPHT toàn cầu.
155
KẾT LUẬN
Từ nửa sau thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra
những tiền đề quan trọng để nền kinh tế công nghiệp trên thế giới chuyển dần
sang nền kinh tế tri thức. Sự bùng nổ thông tin và sự xuất hiện những tri thức
mới, công nghệ mới... cho thấy những kiến thức tiếp thu trước đây không thể sử
dụng suốt đời, học vấn trước đây có được không còn đáp ứng được nhu cầu mới.
Chính vì vậy, xây dựng XHHT vừa là một nhiệm vụ cấp bách, vừa là một yêu
cầu chiến lược, nhiệm vụ cơ bản, lâu dài của nền giáo dục nước ta. Xây dựng
XHHT quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
của quá trình phát triển Việt Nam trên đường hội nhập thế giới.
Xuất phát từ giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương học tập suốt đời Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đồng thời từ nhu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng
XHHT ở nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng, đề tài luận án Xây dựng xã
hội học tập ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã làm rõ được
một số nội dung sau:
1. Luận án đã làm rõ tổng quan tình hình nghiên cứu về XHHT và xây
dựng XHHT, các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
XHHT ở Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng. Trên cơ sở đó, rút ra
những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
2. Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các tác giả đi trước, luận án đã đi sâu
nghiên cứu và hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT. Luận án
đã hệ thống các khái niệm liên quan đến vấn đề xây dựng XHHT, gồm quan
điểm của các học giả trên thế giới, các học giả Việt Nam và của Hồ Chí Minh.
Từ đó, luận án xây dựng và khái quát hóa hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng XHHT, bao gồm quan điểm về sự cần thiết xây dựng XHHT; quan
điểm về mục tiêu xây dựng XHHT; về chủ thể xây dựng XHHT; về mô hình xây
dựng XHHT; về phương châm, phương pháp xây dựng XHHT. Bên cạnh đó,
luận án cũng đi vào nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn Hồ Chí Minh xây dựng
156
XHHT thông qua hai phong trào BDHV và BTVH. Qua nghiên cứu có thể thấy,
từ những năm đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra quan điểm về xây
dựng XHHT, điều mà đến thập niên 70 của thế kỷ, thế giới mới đề cập tới. Ở
cương vị lãnh tụ tối cao của Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp diệt giặc dốt, nâng cao dân trí, xây
dựng XHHT cho nhân dân. Cùng với hệ thống quan điểm về xây dựng XHHT,
Hồ Chí Minh còn là người kiến tạo, xây dựng và phát triển nền giáo dục bình
dân cho nước Việt Nam non trẻ qua phong trào BDHV và BTVH. Mọi bước đi
của phong trào đều được Người quan tâm, theo dõi, chỉ đạo và động viên rất kịp
thời. Dù hoàn cảnh chiến tranh, dù bận trăm công nghìn việc nhưng Hồ Chí
Minh luôn dành thời gian chăm lo, xây dựng phong trào. Những lời ân cần thăm
hỏi, động viên giáo viên và học viên khi Người tới thăm các lớp BDHV; những
bức thư biểu dương, khen ngợi thành tích lớn nhỏ của phong trào... thực sự trở
thành động lực vô giá cho cán bộ, giáo viên và học viên thời kỳ đó. Có thể khẳng
định, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một trong những người tiên phong, đặt nền
móng cho công cuộc xây dựng XHHT ở Việt Nam.
3. Đối với Hải Phòng, thực tế cho thấy cùng với cả nước, Hải Phòng đang
từng bước xây dựng một XHHT. Qua việc phân tích các nhân tố tác động mang
tính đặc thù, luận án đã chỉ ra và đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải
Phòng giai đoạn hiện nay. Từ một địa phương có nền giáo dục què quặt dưới
thời thuộc Pháp, Hải Phòng đã xây dựng một nền giáo dục phát triển toàn diện
cả về quy mô và chất lượng. Hải Phòng trở thành một trong những địa phương đi
đầu trong việc xóa mù chữ, phổ cập giáo dục sớm nhất cả nước, hoàn thành phổ
cập giáo dục tiểu học, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, hoàn thành phổ cập
bậc trung học - nghề và đang tiếp tục xây dựng ngành GDTX với mục tiêu xây
dựng XHHT. Thành tựu to lớn là vậy, song quá trình Hải Phòng xây dựng
XHHT cũng vấp phải không ít khó khăn, thử thách. Luận án đã cho thấy những
khó khăn và những vấn đề đặt ra để Hải Phòng tiếp tục hướng tới mục tiêu xây
dựng XHHT trong thời gian tới.
157
4. Để góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng XHHT ở Hải Phòng, luận án
đã đưa ra 6 giải pháp cơ bản. Các giải pháp đều có tính khả thi và có quan hệ
tương hỗ với nhau. Trước hết, đó là giải pháp nhận thức nhằm tuyên truyền,
nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của việc xây dựng XHHT theo tư tưởng
Hồ Chí Minh; giải pháp về tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự
phối hợp giữa các Sở, ban, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp trong vấn đề xây
dựng XHHT. Tiếp đến là các giải pháp phát triển hệ thống học tập suốt đời theo
hướng đi vào thực chất, hoàn thành phổ cập giáo dục; tiếp tục mở rộng cơ hội
học tập cho người dân; giải pháp đẩy mạnh công tác KH, KT, xây dựng XHHT
từ cơ sở; giải pháp xây dựng và thúc đẩy văn hóa học tập, nâng cao chất lượng
học tập suốt đời cho người dân. Cuối cùng và cũng rất quan trọng là giải pháp
tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm xây dựng XHHT, tiến tới tham
gia mạng lưới TPHT toàn cầu. Những giải pháp đều có tính khả thi và nếu được
thực hiện đồng bộ sẽ góp phần thắng lợi vào sự nghiệp xây dựng XHHT ở thành
phố Cảng giai đoạn sắp tới.
158
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Trương Thị Như (2015), “Phương pháp tự học Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo
dục lý luận, số 227, tháng 4/2015, tr.31-33.
2. Trương Thị Như (2015), Phát huy tinh thần tự học của sinh viên trường Đại
học Hàng hải Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đề tài Nghiên
cứu khoa học, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam, năm 2015.
3. Trương Thị Như (2019), “Nhận diện xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, Kỳ 1, tháng 4/2019, tr.161-163.
4. Trương Thị Như (2019), Tăng cường kỹ năng học tập sáng tạo của sinh viên
thông qua hoạt động thảo luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, Kỷ yếu “Hội
thảo CDIO: Giảng dạy tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ”, Trường Đại học
Hàng hải Việt Nam, năm 2019.
5. Trương Thị Như (2019), “Pháp lệnh diệt dốt - sự “cưỡng chế” nhân văn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh sau Cách mạng tháng Tám 1945”, Tạp chí Giáo dục
và xã hội, tháng 9/2019, tr.9-13.
6. Trương Thị Như (2019), “Trung tâm Học tập cộng đồng ở Hải Phòng với
việc hiện thực hóa tư tưởng “ai cũng được học hành” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Khoa học và Kinh tế (199), tháng 9/2019, tr.30-34.
7. Trương Thị Như (2020), “Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
xã hội học tập trong hoạch định chính sách giáo dục ở Việt Nam hiện nay”,
Sách Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý giáo
dục”, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.608-617.
159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1. Hoàng Anh (Cb) (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng
vào đào tạo đại học hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Hoàng Anh, Nguyễn Duy Bắc, Phạm Văn Thủy (2010), Phát triển văn hóa
và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
3. Hoàng Anh - Đỗ Thị Châu (2005), Tự học của sinh viên, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
4. Phạm Ngọc Anh (2013), “Bốn mươi lăm năm thực hiện bức thư cuối cùng
Hồ Chí Minh gửi cho ngành giáo dục”, Đặc san Hồ Chí Minh học, số 4.
5. Phạm Ngọc Anh (2009), Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và
thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Phạm Ngọc Anh, Nguyễn Thị Kim Dung (Đồng chủ biên) (2011), Tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Như Ất (2005), “Để xây dựng nền giáo dục Việt Nam thực sự trở
thành một xã hội học tập - giáo dục suốt đời: Quan niệm và thể chế hóa”,
Tạp chí Phát triển giáo dục.
8. Ban chỉ đạo Đề án xây dựng xã hội học tập thành phố Hải Phòng (2018),
Báo cáo số 111/BC-XDXHHT: Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Quyết
định số 89/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Xây
dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020”, ngày 27/6/2018, Hải Phòng.
9. Ban chỉ đạo Đề án xây dựng xã hội học tập thành phố Hải Phòng (2018),
Kế hoạch số 300/KH-BCĐ: Thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai
đoạn 2012 - 2020” trên địa bàn thành phố đến năm 2020, ngày
16/12/2019, Hải Phòng.
10. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Dạy nghề, Viên Nghiên cứu phát
triển phương Đông (2012), Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
160
11. Đặng Quốc Bảo (2001), “Hồ Chí Minh với vấn đề tự học”, Tạp chí Khoa
học giáo dục, (83), tr.20-22.
12. Đặng Quốc Bảo (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
13. Đặng Quốc Bảo (2012), Phát triển sự nghiệp giáo dục dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
14. Đặng Quốc Bảo, Đinh Thị Minh Tuyết (2010), “Bác Hồ - người khai sáng
cho tư duy và chiến lược hành động xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam”,
Tạp chí Khoa học giáo dục, (68), tr.5-7.
15. Lê Khánh Bằng (1998), Cơ sở khoa học của tự học và hướng dẫn tự học
(đề cương chuyên đề), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
16. Lê Khánh Bằng (1998), Phương pháp tự học (đề cương chuyên đề), Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
17. Lê Khánh Bằng (1998), “Tìm hiểu lời dạy của Hồ Chủ tịch về cách dạy,
cách học”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (7/1097).
18. Nguyễn Khánh Bật (Chủ biên) (2007), Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
19. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ Giáo dục thường xuyên (2005), Dự án Trung
tâm Học tập Cộng đồng, Hà Nội.
20. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Đề án thành lập Trung tâm khu vực về
Học tập suốt đời của SEAMEO, Hà Nội.
21. Épghênhi Cabêlép (1985), Đồng chí Hồ Chí Minh, tập 1, 2, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
22. Nguyễn Mạnh Cầm (2013), Đổi mới và phát triển giáo dục hướng tới xây
dựng cả nước trở thành một xã hội học tập, Nxb Dân trí, Hà Nội.
23. Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người
toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Cục thống kê thành phố Hải Phòng (2019), Niên giám thống kê thành phố
Hải Phòng, Nxb Thống kê.
161
25. Phạm Tất Dong (2012), Cấu trúc mô hình xã hội học tập ở Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
26. Phạm Tất Dong (2012), Phát triển giáo dục hướng tới một xã hội học tập,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Phạm Tất Dong (2012), Khuyến học, Nxb Dân trí, Hà Nội.
28. Phạm Tất Dong (2014), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn của đổi mới căn
bản và toàn diện nền giáo dục theo Nghị quyết Trung ương khóa XI, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
29. Phạm Tất Dong, Đỗ Hoàng Nam (2011), Xây dựng con người, xây dựng xã
hội học tập, Nxb Dân trí, Hà Nội.
30. Phạm Tất Dong (2004), “Xây dựng xã hội học tập - một cuộc cách mạng
về giáo dục”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, Hà Nội.
31. Phạm Tất Dong (2013), “Xây dựng xã hội học tập - một xu hướng đổi mới
phát triển giáo dục thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, Đại học
Quốc gia Hà Nội (1), tr.57-66.
32. Diễn đàn Việt Nam: Học tập suốt đời - Xây dựng xã hội học tập, Kỷ yếu
Hội thảo khoa học quốc gia, Hà Nội, 2010.
33. Thành Duy (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Thị Kim Dung và Trần Thị Nhuần (đồng chủ biên) (2013): Bác
Hồ với sự nghiệp giáo dục đào tạo, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
35. Phạm Văn Dũng (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nền
giáo dục toàn dân”, Tạp chí Khoa học, (5), tr.101-105.
36. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
40. Thái Xuân Đào (2004), “Xã hội học tập: Quan niệm, thực trạng và giải
pháp”, Tạp chí Phát triển giáo dục, (6), tr.7-9.
41. Thái Xuân Đào (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội học tập”, Tạp chí
Giáo dục, (87), tr.5-6, 13.
42. Phạm Văn Đồng, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ (1998), Tự học, tự đào
tạo - tư tưởng chiến lược của phát triển giáo dục Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
43. Nguyễn Minh Đường (2004), “Xây dựng một xã hội học tập - yêu cầu tất
yếu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Giáo
dục, (91), tr.5-6.
44. Nguyễn Công Giáp (1996), Giáo dục thường xuyên: Hiện trạng và xu
hướng phát triển, Nxb Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục, Hà Nội.
45. Ngô Văn Hà (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng
đội ngũ giảng viên đại học hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Trần Thị Thu Hà (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Từ điển
bách khoa, Hà Nội.
47. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1996), Hơn 50 năm diệt dốt, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
48. Phạm Minh Hạc (2002), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI
(xuất bản lần hai, có sửa chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Phạm Minh Hạc (2014), Luận bàn về giáo dục, quản lý giáo dục, khoa học
giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ
phát triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Phạm Minh Hạc (2004), “Tìm hiểu quan niệm về xã hội học tập”, Tạp chí
Giáo dục, (91), tr.2-4.
52. Phạm Minh Hạc (2005), “Tiến tới một xã hội học tập - trở thành một dân
tộc thông thái”, Tạp chí Giáo dục, (122), tr.1-2.
163
53. Phạm Minh Hạc (2013), Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
54. Đào Thanh Hải, Minh Tiến (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục,
Nxb Lao động, Hà Nội.
55. Vũ Ngọc Hải, Trần Khánh Đức (2001), Hệ thống giáo dục hiện đại trong
những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56. Lê Mậu Hãn (2004), “Hồ Chí Minh khởi đầu việc xây dựng nền giáo dục
quốc dân Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3).
57. Hệ thống giáo dục và Luật Giáo dục một số nước trên thế giới (2005), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
58. Nguyễn Văn Hiến, Lê Thu Hòa (Cb) (2011), Phương pháp dạy học tích
cực: Dành cho sinh viên sau đại học, Nxb Y học, Hà Nội.
59. Nguyễn Minh Hiển (2005), “Phát triển giáo dục và đào tạo phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (22).
60. Ngô Hào Hiệp, Trần Khánh Đức (1995), Giáo dục Việt Nam và định
hướng đầu thế kỷ XXI, Nxb Viện Khoa học Giáo dục, Hà Nội.
61. Đỗ Đức Hinh (2004), “Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng
một nền giáo dục Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3).
62. Nguyễn Huy Hoan (2010), “Tấm gương tự học của Bác Hồ”, Tạp chí Mặt
trận, (79).
63. Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức (1990), Hoạt động tự học của sinh viên Đại
học, Nxb ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.
64. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí Minh tiểu sử,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
65. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển quốc gia Việt Nam, Từ điển
Bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
66. Hội Khuyến học Hải Phòng (2017), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ
thị số 11 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 10 của Thành uỷ Hải Phòng về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây
dựng xã hội học tập ( 2007 - 2017), ngày 17 tháng 3 năm 2017.
164
67. Nguyễn Khắc Hùng, Lê Đình Viên (Cb) (2013), Giáo trình lý luận xã hội
học tập, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
68. Trần Đình Huỳnh, Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng (2010), Ngành giáo
dục Việt Nam thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Lao động,
Hà Nội.
69. Đặng Xuân Kỳ (2004), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Nguyễn Kỳ (2005), “Học, làm, sống - ba trong một và xây dựng xã hội học
tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Phát triển giáo dục, (6), tr.15-17.
71. Nguyễn Kỳ (2004), “Xã hội học tập trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí
Phát triển giáo dục, (6), tr.1-2.
72. Nguyễn Kỳ (2007), Mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập, Nxb
Dân trí, Hà Nội.
73. Nguyễn Kỳ (2007), “Cải cách giáo dục Việt Nam theo mô hình mở - mô
hình xã hội học tập”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, (6), tr.48-50.
74. Nguyễn Lân (1990), Hồ Chủ tịch - Nhà giáo dục vĩ đại, Nxb KHXH,
Hà Nội.
75. Nguyễn Lân (1992), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
76. Phan Ngọc Liên, Nguyên An (2002), Bách khoa thư Hồ Chí Minh Sơ giản
(Tập 1: Hồ Chí Minh với giáo dục - đào tạo), Nxb Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
77. Phan Ngọc Liên (2003), “Hồ Chí Minh với việc xây dựng một nền giáo
dục mới của Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (11).
78. Phan Ngọc Liên (biên soạn) (2007), Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Từ
điển Bách khoa, Hà Nội.
79. Phan Ngọc Liên (Cb) (2004), Sổ tay tra cứu về cuộc đời và sự nghiệp của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất bản lần thứ 3, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
80. Phan Ngọc Liên, Bùi Thị Thu Hà (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
165
81. Nguyễn Trọng Lô (1996), Sơ thảo lịch sử giáo dục Hải Phòng (939-
6/1995), Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
82. Phạm Trọng Luận (1995), “Về khái niệm: Học sinh là trung tâm”, Tạp chí
Nghiên cứu Giáo dục, (2).
83. Luật giáo dục đại học (2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Luật giáo dục năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (2012), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. C.Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
86. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.
87. Hồ Chí Minh (1990), Bàn về giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
88. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử (2008), từ tập 1 đến tập 10, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh (1977), Về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (1960), Phát huy tinh thần cầu học cầu tiến bộ: Một số bài
nói chuyện của Hồ Chí Minh ở các lớp học chính trị và huấn thị về vấn đề
huấn luyện và học tập, Nxb Sự thật, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
166
103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Võ Văn Nam (2008), Tư tưởng tự học Hồ Chí Minh và biện pháp nâng cao
việc tự học cho sinh viên ĐHSP, LATSGDH, Hà Nội.
107. Vũ Thị Thúy Nga (2009), Cơ sở khoa học của việc xây dựng xã hội học tập
ở thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục chuyên ngành
Quản lý giáo dục, mã số 60.14.05, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
108. Nho học ở Việt Nam - Giáo dục và thi cử (1995), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
109. Nhóm Cánh buồm (2011), Kỷ yếu hội thảo Tự học - Tự giáo dục, Nxb Trí
thức, Hà Nội.
110. Vũ Oanh (2006), “Đổi mới và phát triển giáo dục hướng tới xây dựng cả
nước trở thành một xã hội học tập”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, (5),
tr.13-14.
111. Bùi Đình Phong (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục cách
mạng Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (11).
112. Bùi Đình Phong (2012), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo, giá
trị toàn cầu và ý nghĩa thời đại”, Đặc san Hồ Chí Minh học, số 4.
113. Bùi Đình Phong (2013), “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo
trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đặc san Hồ Chí Minh học, số 4.
114. Trần Văn Phòng, Hoàng Anh (2015), Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115. Nguyễn Ngọc Phú “Tiến tới xây dựng một xã hội học tập”, Tạp chí Giáo
dục, (90), tr.2-3.
116. Nguyễn Ngọc Phú, Nguyễn Hữu Châu, Đào Thái Lai (2005), Tiến tới một
xã hội học tập ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
117. Phùng Hữu Phú (2014), “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương tám khóa XI”, Tạp chí Tuyên giáo, (2).
167
118. Phùng Hữu Phú (2010), Bí quyết thành công Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
119. Lý Việt Quang (chủ biên) (2017), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với
việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
120. Đỗ Văn Quân, Đặng Ánh Tuyết (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Học
để làm việc” - một trong 4 trụ cột của nền giáo dục hiện đại”, Tạp chí Giáo
dục, (106).
121. Dương Đức Sáu (2007), “Phải biết tự học để học suốt đời”, Tạp chí Dạy và
Học ngày nay, (3), tr.54-55.
122. Sở Giáo dục và đào tạo Hải Phòng (2015), Giáo dục và đào tạo Hải Phòng,
60 năm xây dựng và phát triển (1955 - 2015), Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
123. Sở Văn hóa, thể thao và du lịch Hải Phòng (2016), Thư mục địa chí toàn
văn: Bác Hồ trong lòng nhân dân Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
124. Nguyễn Thị Tâm (1984), Công tác tự học của sinh viên và vai trò của các
tổ bộ môn KHXH, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
125. Vũ Minh Tâm (Cb) (2001), Xã hội học tập - Tập bài giảng cho sinh viên
các ngành KHXH&NV, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
126. Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương (2005), Từ điển
tiếng Việt, Nxb văn hóa Sài Gòn, TP. HCM.
127. Chu Hồng Thanh (2005), Tìm hiểu luật Giáo dục năm 2005, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
128. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
129. Trần Sinh Thành, Đặng Quang Khoa (2003), “Phương pháp tự học là cầu
nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học”, Tạp chí Giáo dục, (53), tr.26-27.
130. Thành ủy Hải Phòng (2000), Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đảng bộ và nhân
dân Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
168
131. Thành ủy Hải Phòng (2015), Hải Phòng làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
132. Nguyễn Minh Thuyết (2005), “Giáo dục Việt Nam: Hiện trạng và yêu cầu
đổi mới”, Tạp chí Giáo dục, (109).
133. Lê Văn Tích, Nguyễn Thị Kim Dung (biên soạn) (2007), Hồ Chí Minh về
giáo dục và đào tạo, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
134. Nguyễn Đăng Tiến (Cb) (2011), Danh nhân giáo dục Việt Nam và thế giới,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
135. Bùi Đức Tịnh (bs) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
136. Nguyễn Cảnh Toàn (2001), Tuyển tập tác phẩm: tự giáo dục, tự học, tự
nghiên cứu, tập 1, Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
137. Nguyễn Cảnh Toàn (2001), Tuyển tập tác phẩm: tự giáo dục, tự học, tự
nghiên cứu, tập 2, Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
138. Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Hải Yến (Cb) (2011), Xã hội học tập - học suốt đời
và các kỹ năng tự học, Nxb Dân trí, Hà Nội.
139. Nguyễn Cảnh Toàn (1999), Luận bàn và kinh nghiệm tự học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
140. Nguyễn Khánh Toàn, Nền giáo dục Việt Nam - Lý luận và thực hành, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
141. Vương Kiêm Toàn (1986), Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp chống nạn
thất học, nâng cao dân trí, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
142. Bùi Trọng Trâm (2015), Quản lý phát triển trung tâm học tập cộng đồng
theo định hướng xã hội học tập, Luận án tiến sĩ Khoa học Giáo dục (mã số
62.14.01.14), Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
143. Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục
Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
144. Thái Duy Tuyên (2001), Giáo dục học hiện đại - Những vấn đề cơ bản,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
169
145. Phan Tuyết, Bích Diệp (sưu tầm, tuyển chọn) (2008), Những câu chuyện kể
về Bác Hồ với giáo dục và thế hệ trẻ, Nxb Lao động, Hà Nội.
146. Trịnh Minh Tứ (2004),“Phát triển giáo dục từ xa góp phần xây dựng xã hội
học tập”, Tạp chí Giáo dục, Hà Nội.
147. Trịnh Quang Từ (1995), Những phương hướng tổ chức hoạt động tự học
của các sinh viên các trường quân sự, Luận án PTS KH SP tâm lý, ĐHSP -
ĐHQG, Hà Nội.
148. Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam (chỉ đạo), Hồ Chí Minh - Phạm Văn
Đồng - Võ Nguyên Giáp những tư tưởng lớn về xây dựng xã hội học tập,
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Sơn La.
149. Tô Bá Trượng (2005), “Bàn về khái niệm xã hội học tập”, Tạp chí Giáo
dục, tr.3-5.
150. Nguyễn Quang Uẩn (2010), “Tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề học tập”,
Tạp chí Dạy và Học ngày nay, (5), tr.11-13.
151. Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng (2018), Báo cáo kết quả 5 năm
thực hiện Quyết định số 89/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
Đề án “Xây dựng xã hội học tập Giai đoạn 2012 - 2020”.
152. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2018), Báo cáo kết quả 5 năm
thực hiện Quyết định số 89/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020”, ngày 27
tháng 6 năm 2018.
153. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2019), Báo cáo V/v tổ chức thực
hiện Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời năm 2019 của thành phố Hải
Phòng năm 2019.
154. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (1990), Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb KHXH, Hà Nội.
155. Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
156. Việt Văn book (2014), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Bách Khoa, Hà Nội.
170
157. Đức Vượng (2010), Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
158. Nghiêm Đình Vỳ, Phạm Đỗ Nhật Tiến (2016), Cải cách giáo dục: Một số
vấn đề chung và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào
tạo nhân tài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160. Nguyễn Như Ý (Tuyển chọn, giới thiệu) (2009), Các văn bản chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước về công tác khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội
học tập ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
161. Lê Văn Yên (Cb) (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Lao
động, Hà Nội.
162. Cao Hải Yến (2010), Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
163. Lê Hoàng Yến (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về “xã hội học tập”, Tạp
chí Đông Nam Á, (6), tr.23-24.
164. Vũ Kim Yến, Nguyễn Văn Dương (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề học tập, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
B. Tiếng Anh
165. A new vision for education: Một quan điểm mới về vấn đề giáo dục (2007),
Nguồn: Irish Times.
166. Hukins Celia (2004), Continuing Professional Education for the
Information Society: Vấn đề học tập liên tục trong một xã hội thông tin.
Nguồn: Managing Information.
167. Schon D.A (1973), Beyond the Stable State - public and private learning in
a changing society - Hormondsworth: Penguin.
168. Peterson David A., Masunaga Hiromi (1998), Policy for older adult
education: Chính sách giáo dục cho người lớn tuổi và trưởng thành.
Nguồn: New Directions for Adult and Continuing Education.
171
169. Jacques Delors (2002), Học tập: Một kho báu tiềm ẩn, Bản dịch từ tiếng
Pháp sang tiếng Việt của Trịnh Đức Thắng, hiệu đính Vũ Văn Tảo, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
170. Joseph E. Stiglitz và Bruce C. Greenwald (2017), Xây dựng xã hội học tập:
Cách tiếp cận mới cho tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội, Biên dịch
và hiệu đính: Đỗ Đức Thọ, Nguyễn Thị Lan Anh, Dương Bá Đoan, Phan
Thu Hoài, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
171. Robert J. Havighurst, Berice L. Neugarten (1962), Society and education:
Vấn đề xã hội và giáo dục, Nguồn: Allyn and Bacon Inc - Boston.
172. Human studies education development and XXIst century: Nghiên cứu con
người và phát triển giáo dục vào thế kỷ 21 (1995), Kỷ yếu hội nghị khoa
học quốc tế, Nhà Xuất bản Khoa học, Hà Nội.
173. Estabrook Iris, Rous Emma (2007), We're committed to an adequate
education for all: Đề xuất một giải pháp giáo dục thích hợp cho tất cả mọi
người. Nguồn: New Hampshire Business Review.
174. Renate Kock, Smyth Robyn (2007), Education and training in a globalized
world society: Vấn đề giáo dục và đào tạo trong một xã hội toàn cầu hóa.
Nguồn: British Journal of Educational Technology.
175. John Love (1994), Giáo dục người lớn - Viễn cảnh thế giới (Tài liệu dịch
của Viện Khoa học giáo dục Việt Nam).
176. Su Ya-Hui (2007), The Learning Society as Itself: Lifelong Learning,
Individualization of Learning, and beyond Education: Bản chất của khuynh
hướng xã hội học tập: Học suốt đời, tự học và học tập bên ngoài phạm vi
ngành giáo dục. Nguồn: Studies in Continuing Education.
172
PHỤ LỤC
MỘT SỐ VĂN BẢN CHỈ ĐẠO VỀ CÔNG TÁC KHUYẾN HỌC,
KHUYẾN TÀI, XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP
173
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG --------
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ----------------
Số: 11-CT/TW
Hà Nội, ngày 13 tháng 4 năm 2007
CHỈ THỊ CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC KHUYẾN HỌC, KHUYẾN TÀI, XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) về xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập, Chỉ thị 50-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Khuyến học Việt Nam; những năm qua, tổ chức đảng các cấp đã có nhiều chủ trương, biện pháp chỉ đạo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, động viên nhân dân tham gia học tập. Phong trào thi đua xây dựng gia đình hiếu học được đẩy mạnh, hàng nghìn trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường, thị trấn được xây dựng và đi vào hoạt động. Việc phát huy vai trò của các lực lượng trong xã hội tham gia khuyến học, khuyến tài, thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục ngày càng hiệu quả, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Hội Khuyến học Việt Nam đã phát triển rộng khắp trên cả nước, hoạt động đạt nhiều kết quả tốt. Đây là những tiền đề quan trọng để thúc đẩy cuộc vận động xây dựng xã hội học tập trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu. Nhận thức của nhiều cấp uỷ đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự cần thiết, tầm quan trọng của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong thời kỳ mới chưa thật sự đầy đủ; một số cấp uỷ đảng chưa chỉ đạo chính quyền, đoàn thể phối hợp thực hiện; hoạt động ở một số nơi còn mang tính hình thức; phong trào phát triển không đồng đều, triển khai còn lúng túng, hiệu quả thấp; cán bộ chuyên trách chưa đáp ứng yêu cầu; việc huy động các nguồn lực của xã hội thông qua các chủ trương, biện pháp tuyên truyền, vận động thực hiện xã hội hoá để mọi người tham gia hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập còn hạn chế; cơ chế, chính sách và hành lang pháp lý cho công tác này chậm được ban hành...
Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về ''chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập'' và tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, nhất là trong bối cảnh nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp uỷ đảng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong thời gian tới, tập trung thực hiện một số nội dung cơ bản sau đây:
l- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và nhân dân với nhiều hình thức phong phú, thiết thực để nhận thức rõ về sự cần thiết, tầm quan trọng của việc xây dựng xã hội học tập ở nước ta hiện nay; xác định xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là một mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước ta.
2- Cụ thể hoá các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng xã hội học tập trong phạm vi từng địa phương, đơn vị. Trước mắt rà soát, bổ sung nội dung kế hoạch thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trong ''Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010'' mà Chính phủ đã ban hành. Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, chỉ đạo giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
3- Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào khuyến học, khuyến tài, góp phần hỗ trợ các cơ sở giáo dục trong giảng dạy và học tập; xây dựng gia đình hiếu học; cộng đồng, dòng họ, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị khuyến học. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường, thị trấn; phát triển nhiều loại hình học tập đa dạng, phù hợp với điều kiện và nhu cầu học tập của cán bộ, nhân dân từng địa phương, đơn vị.
Chú trọng và kịp thời phát hiện, có chính sách cụ thể để bồi dưỡng nhân tài,
nhất là tài năng trẻ trên các lĩnh vực.
Vận động nhân dân tích cực học tập nâng cao dân trí, nghề nghiệp, chuyên môn nhằm tăng năng lực sản xuất, chất lượng công việc, chất lượng cuộc sống. Gắn việc phát triển phong trào khuyến học, khuyến tài với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, học đi đôi với hành, với phong trào làm kinh tế giỏi, xoá đói, giảm nghèo và xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.
Chỉ đạo nghiên cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm và có hình thức khen thưởng, tuyên dương, nhân rộng các mô hình hay, hiệu quả trong việc triển khai thực hiện phong trào khuyến học, xây dựng xã hội học tập ở các địa phương, đơn vị.
4- Củng cố, xây dựng Hội Khuyến học các cấp vững mạnh, lành nòng cốt trong việc liên kết, phối hợp với các tổ chức, các lực lượng xã hội tham gia hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Các tổ chức chính trị, tổ
174
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang, doanh nghiệp tích cực, chủ động tổ chức các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập theo tinh thần xã hội hoá giáo dục.
5- Ban cán sự đảng Chính phủ, các bộ, ngành, uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi quyền hạn và nhiệm vụ của mình khẩn trương chỉ đạo việc xây dựng, ban hành các chủ trương, chính sách, kế hoạch triển khai thực hiện ''Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010'' của Chính phủ, nhất là các chủ trương, chính sách bảo đảm phát triển hệ thống giáo dục thường xuyên, tổ chức dạy nghề ở các quận, huyện, tạo điều kiện cho hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường, thị trấn; có biện pháp tích cực, nội dung cụ thể giúp các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương có khó khăn trong việc triển khai xây dựng xã hội học tập. Ban hành cơ chế giao cho hội khuyến học các cấp thực hiện nhiệm vụ triển khai phong trào khuyến học, khuyến tài, nghiên cứu xây dựng mô hình xã hội học tập; quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi về chế độ, chính sách, tổ chức bộ máy, kinh phí hoạt động của hội khuyến học các cấp theo các quy định hiện hành của Nhà nước.
Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam tăng cường các hoạt động phối hợp thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
Các cơ quan thông tin đại chúng thường xuyên tuyên truyền công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập và các cá nhân, tập thể có thành tích trong công tác này.
6- Ban Tuyên giáo Trung ương, ban tuyên giáo các địa phương chủ trì, phối hợp với ban dân vận cùng cấp giúp cấp uỷ theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo việc thực hiện Chỉ thị này. Hằng năm, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư (ở địa phương báo cáo thường vụ cấp uỷ đảng) về kết quả thực hiện.
Chỉ thị này phổ biến đến chi bộ.
175
Nơi nhận: - Các tỉnh uỷ, thành uỷ - Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc trung ương. - Các đồng chí uỷ viên ban chấp hành trung ương - Lưu văn phòng trung ương
T/M BỘ CHÍNH TRỊ (đã ký) Trương Tấn Sang
176
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc __________________________________________
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ___________ Số: 89/QĐ-TTg
Hà Nội, ngày 09 tháng 01 năm 2013
QUYẾT ĐỊNH Phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” __________
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật giáo dục ngày 14 tháng 6 năm 2005; Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật giáo dục ngày 25 tháng 11 năm 2009;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” (sau
đây gọi tắt là Đề án) với những nội dung chủ yếu sau đây:
I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
1. Trong xã hội học tập, mọi cá nhân có trách nhiệm học tập thường xuyên,
suốt đời, tận dụng mọi cơ hội học tập để làm người công dân tốt; có nghề, lao động
với hiệu quả ngày càng cao; học cho bản thân và những người xung quanh hạnh
phúc; học để góp phần phát triển quê hương, đất nước và nhân loại.
2. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân, cộng đồng dân cư và gia đình có trách nhiệm cung ứng các cơ hội học tập
và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người được học tập suốt đời.
3. Xây dựng xã hội học tập dựa trên nền tảng phát triển đồng thời, gắn kết và
liên thông giữa giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên; đẩy mạnh các hoạt
động học tập suốt đời ở ngoài nhà trường; ưu tiên các đối tượng chính sách, người
dân tộc, phụ nữ, người bị thiệt thòi.
177
II. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu đến năm 2015
a) Xóa mù chữ và phổ cập giáo dục
- 96% người trong độ tuổi từ 15 - 60, 98% người trong độ tuổi từ 15 - 35 biết
chữ. Đối với các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ tương
ứng là 90% và 92%.
Đặc biệt ưu tiên xoá mù chữ cho phụ nữ, trẻ em gái, người dân tộc thiểu số ở
vùng khó khăn; phấn đấu tỷ lệ biết chữ cân bằng giữa nam và nữ.
- 80% số người mới biết chữ tiếp tục học tập và không mù chữ trở lại;
- 100% tỉnh, thành phố củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi, kết quả phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
b) Nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ
- 80% cán bộ, công chức, viên chức tham gia các chương trình học tập nâng
cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm;
- 20% cán bộ, công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ bậc 2 và 5% có
trình độ bậc 3;
- Hằng năm, tăng tỷ lệ số công nhân lao động có kiến thức cơ bản về tin học,
ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc và giao lưu văn hóa.
c) Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề để lao động có hiệu quả
hơn, hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn
- Đối với cán bộ, công chức từ Trung ương đến cấp huyện:
+ 100% được đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn quy định;
+ 95% cán bộ công chức giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp được đào
tạo, bồi dưỡng theo chương trình quy định;
+ 80% thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hằng năm.
- Đối với cán bộ, công chức cấp xã:
+ 100% cán bộ cấp xã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý,
điều hành theo vị trí công việc;
+ 90% cán bộ cấp xã có trình độ chuyên môn theo chuẩn quy định;
+ 70% công chức cấp xã thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hằng năm.
- Đối với lao động nông thôn:
50% lao động nông thôn tham gia học tập cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển
giao khoa học kỹ thuật công nghệ sản xuất tại các trung tâm học tập cộng đồng.
- Đối với công nhân lao động:
80% công nhân lao động tại các khu chế xuất, khu công nghiệp có trình độ học vấn
trung học phổ thông hoặc tương đương; Tăng tỷ lệ công nhân lao động có tay nghề cao ở
các ngành kinh tế mũi nhọn; phấn đấu 85% công nhân qua đào tạo nghề.
d) Hoàn thiện kỹ năng sống, xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng ngày
càng hạnh phúc hơn
Hằng năm, tăng dần tỷ lệ học sinh, sinh viên và người lao động tham gia học tập
các chương trình giáo dục kĩ năng sống để xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng
ngày càng hạnh phúc hơn. Trong đó, phấn đấu 30% học sinh, sinh viên được học kĩ
năng sống tại các cơ sở giáo dục.
2. Mục tiêu đến năm 2020
a) Xóa mù chữ và phổ cập giáo dục
- 98% người trong độ tuổi từ 15 - 60, 99% người trong độ tuổi từ 15 - 35 biết
chữ. Đối với các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ tương
ứng là 94% và 96%;
- 90% số người mới biết chữ tiếp tục tham gia học tập và không mù chữ trở lại;
- 100% tỉnh, thành phố tiếp tục củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi, kết quả phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
b) Nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ
- 100% cán bộ, công chức, viên chức tham gia các chương trình học tập nâng
cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm;
- 40% cán bộ, công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ bậc 2 và 20% có
trình độ bậc 3;
- Hằng năm, tiếp tục tăng tỷ lệ số công nhân lao động có kiến thức cơ bản về
tin học, ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc và giao lưu văn hóa.
c) Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề để lao động có hiệu quả
hơn, hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn
178
- Đối với cán bộ, công chức từ Trung ương đến cấp huyện:
+ Tiếp tục duy trì 100% được đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn quy định;
+ 100% cán bộ công chức giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp được đào
tạo, bồi dưỡng theo chương trình quy định;
+ 90% thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hằng năm.
- Đối với cán bộ, công chức cấp xã:
+ 100% cán bộ cấp xã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý,
điều hành theo vị trí công việc;
+ 95% cán bộ cấp xã có trình độ chuyên môn theo chuẩn quy định;
+ 85% công chức cấp xã thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hàng
năm.
- Đối với lao động nông thôn:
70% lao động nông thôn tham gia học tập cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển
giao khoa học kỹ thuật công nghệ sản xuất tại các trung tâm học tập cộng đồng.
- Đối với công nhân lao động:
90% công nhân lao động tại các khu chế xuất, khu công nghiệp có trình độ học
vấn trung học phổ thông hoặc tương đương; tiếp tục tăng tỷ lệ công nhân lao động
có tay nghề cao ở các ngành kinh tế mũi nhọn; phấn đấu 95% công nhân được qua
đào tạo nghề.
d) Hoàn thiện kỹ năng sống, xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng ngày
càng hạnh phúc hơn
Hằng năm, tiếp tục tăng tỷ lệ học sinh, sinh viên và người lao động tham gia học
tập các chương trình giáo dục kỹ năng sống để xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng
đồng ngày càng hạnh phúc hơn. Trong đó phấn đấu 50% học sinh, sinh viên được học
kỹ năng sống tại các cơ sở giáo dục.
179
III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
1. Nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, vai trò, lợi ích của việc xây dựng
xã hội học tập
a) Tổ chức các hình thức tuyên truyền phong phú trên các phương tiện thông
tin đại chúng, trong các nhà trường, cơ quan, doanh nghiệp, khu dân cư, qua các hội
nghị, hội thảo, mạng internet.
b) Tổ chức tuyên truyền xây dựng xã hội học tập thông qua phong trào gia
đình hiếu học, dòng họ khuyến học, phát động phong trào đơn vị học tập, cộng đồng
học tập.
c) Nghiên cứu và tổ chức nhiều hình thức phong phú nhằm động viên mọi
người học tập suốt đời; hằng năm tổ chức Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời ở các
địa phương.
d) Xây dựng chuyên mục “xây dựng xã hội học tập” trên đài truyền hình, đài
phát thanh; biên soạn và phát hành bản tin, các tài liệu tuyên truyền về xây dựng xã
hội học tập.
đ) Tổ chức tuyên dương, khen thưởng các đơn vị và cá nhân có nhiều thành
tích trong công tác xây dựng xã hội học tập; tổ chức xét tặng danh hiệu “Đơn vị học
tập” cho các cơ quan, các địa phương.
2. Tổ chức các hoạt động học tập suốt đời thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng, thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ
a) Các phương tiện thông tin đại chúng thực hiện các chương trình giáo dục từ
xa, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về các lĩnh vực của khoa học và đời sống.
b) Xây dựng và triển khai thực hiện Đề án Đẩy mạnh các hoạt động học tập
suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá, câu lạc bộ.
3. Củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục
a) Trung tâm học tập cộng đồng
Củng cố, phát triển bền vững các trung tâm học tập cộng đồng; tăng cường các
biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng; mở
rộng địa bàn hoạt động đến các thôn, bản, cụm dân cư; đa dạng hóa nội dung giáo
dục; phấn đấu tăng số lượng trung tâm học tập cộng đồng hoạt động có hiệu quả;
phát triển mô hình trung tâm học tập cộng đồng kết hợp với trung tâm văn hóa thể
thao xã hoạt động có hiệu quả.
b) Trung tâm giáo dục thường xuyên
180
Mở rộng quy mô hợp lý, nâng cao chất lượng, năng lực của các trung tâm giáo
dục thường xuyên cấp tỉnh, cấp huyện đã được thành lập; thành lập mới trung tâm
giáo dục thường xuyên ở các quận, huyện, tỉnh, thành phố hiện nay chưa có; phát
triển các trung tâm giáo dục thường xuyên theo hướng mỗi huyện có một trung tâm
thực hiện các nhiệm vụ: Giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp, dạy nghề.
c) Các cơ sở giáo dục chính quy làm nhiệm vụ giáo dục thường xuyên
Đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá trong các trường
phổ thông, các trường đại học, cao đẳng nhằm giáo dục cho học sinh, sinh viên tinh
thần ham học, năng lực tự học, khả năng nghiên cứu để học tập suốt đời có hiệu
quả. Các cơ sở giáo dục đại học tổ chức nghiên cứu về các hình thức học tập suốt
đời, phát triển các loại học liệu phục vụ cho học tập suốt đời; mở mã ngành đào tạo
về giáo dục cộng đồng, về học tập suốt đời; xây dựng chương trình và triển khai bồi
dưỡng về phương pháp giáo dục người lớn cho giáo viên các cơ sở giáo dục thường
xuyên; tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên.
d) Các cơ sở giáo dục khác
Củng cố, phát triển các trung tâm ngoại ngữ, tin học; củng cố mạng lưới trường,
trung tâm bồi dưỡng cán bộ của các địa phương, các Bộ, ngành, các tổ chức chính trị
- xã hội đáp ứng nhu cầu học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi để các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau thành lập các cơ sở học tập, bồi dưỡng thường xuyên cho
người lao động.
4. Đẩy mạnh hình thức học từ xa, học qua mạng
a) Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo từ xa ở các cơ sở giáo dục và đào tạo, đặc
biệt là ở các cơ sở giáo dục đại học.
b) Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin phục
vụ cho việc đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến (E-learning); tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong việc cung ứng các chương trình học tập
suốt đời cho mọi người.
181
c) Củng cố, hoàn thiện chức năng và nhiệm vụ của Viện Đại học Mở Hà Nội
và Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm dẫn đầu về
nghiên cứu phát triển công nghệ đào tạo mở và từ xa; trung tâm phát triển học liệu;
trung tâm bồi dưỡng cán bộ, giáo viên phục vụ học tập suốt đời.
5. Triển khai các biện pháp hỗ trợ người học nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả học tập suốt đời
a) Hoàn thiện chính sách hỗ trợ cho người học thuộc đối tượng chính sách,
người dân tộc, phụ nữ theo địa bàn, đặc biệt là các địa phương có điều kiện kinh tế -
xã hội còn nhiều khó khăn.
b) Xây dựng cơ chế đánh giá, công nhận kết quả học tập không chính quy và
phi chính quy nhằm khuyến khích mọi người dân tự học, tự tích lũy kiến thức.
c) Tổ chức biên soạn tài liệu học tập về các lĩnh vực của đời sống xã hội đáp
ứng nhu cầu học tập đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân.
d) Đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá phù hợp với việc
học tập của người lớn tuổi.
6. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh
nghiệp trong quá trình xây dựng xã hội học tập
a) Quy định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của các tổ chức và cá nhân, cơ
chế tham gia, phối hợp của các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp đối với
học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập.
b) Xây dựng bộ chỉ số đánh giá việc thực hiện xây dựng xã hội học tập của
Bộ, ngành, địa phương (bao gồm cấp tỉnh và cấp xã).
c) Các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân đưa xây dựng xã hội học tập là nội dung bắt buộc trong chương trình, kế
hoạch hoạt động, thi đua hàng năm và từng giai đoạn.
d) Thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng xã hội học tập từ trung ương đến cấp
xã.
đ) Củng cố, xây dựng bộ phận làm đầu mối quản lý về học tập suốt đời, xây
dựng xã hội học tập ở các Bộ, ngành, tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp.
182
e) Khuyến khích doanh nghiệp xây dựng “Quỹ học tập suốt đời” để hỗ trợ
người lao động học tập nâng cao trình độ nghề nghiệp, hoặc đào tạo lại cho những
người chuyển đổi nghề nghiệp.
7. Hợp tác quốc tế
a) Tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế về xây dựng xã hội học tập; phối hợp
tổ chức các hội nghị, hội thảo nhằm chia sẻ kinh nghiệm, cập nhật thông tin về học tập
suốt đời và xây dựng xã hội học tập ở các nước trong khu vực và trên thế giới.
b) Tổ chức nghiên cứu, học tập kinh nghiệm về học tập suốt đời và xây dựng
xã hội học tập tại một số nước có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
c) Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo từ xa. Đẩy mạnh hoạt động
của Trung tâm SEAMEO về học tập suốt đời.
183
IV. KINH PHÍ VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA ĐỀ ÁN
1. Kinh phí thực hiện Đề án từ ngân sách nhà nước dự kiến là 340 tỷ đồng
(vốn sự nghiệp) cho các hoạt động sau đây:
a) Tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về mục đích, ý nghĩa và lợi
ích của việc xây dựng xã hội học tập là 45 tỷ đồng.
b) Cung cấp tài liệu học tập cho các cơ sở giáo dục thường xuyên là 135 tỷ
đồng.
c) Đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, giáo viên các cơ sở giáo dục thường
xuyên là 98 tỷ đồng.
d) Tăng cường hợp tác quốc tế trong xây dựng xã hội học tập là 47 tỷ đồng.
đ) Kinh phí quản lý thực hiện Đề án là 15 tỷ đồng.
2. Kinh phí thực hiện Đề án theo tiến độ thực hiện
a) Giai đoạn 2012 - 2015: 150 tỷ đồng.
b) Giai đoạn 2016 - 2020: 190 tỷ đồng.
3. Cơ chế tài chính của Đề án
a) Ngân sách trung ương đảm bảo 40% tổng kinh phí thực hiện Đề án để thực
hiện các hoạt động quy định tại Khoản 1 Phần IV Điều này.
b) Các địa phương có trách nhiệm cân đối ngân sách hỗ trợ cho các hoạt động
tuyên truyền; cung cấp tài liệu học tập phù hợp với địa phương; đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý.
c) Huy động thêm nguồn lực của các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp, cá
nhân và cộng đồng để bổ sung cho việc thực hiện Đề án (các doanh nghiệp được trừ
để tính thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật đối với các khoản chi cho
học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập).
d) Các cơ quan được giao nhiệm vụ xây dựng Đề án thành phần, căn cứ vào nội
dung, chương trình, mục tiêu để dự toán kinh phí cụ thể cho mỗi Đề án, trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
184
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ương
a) Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Là cơ quan thường trực, giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức triển khai thực
hiện Đề án; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan điều phối và hướng dẫn tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp của Đề án; xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan đến phát triển giáo dục thường xuyên và xây dựng xã hội
học tập;
- Chủ trì xây dựng và thực hiện Đề án Phát triển đào tạo từ xa; Đề án Xóa mù
chữ;
- Chủ trì, phối hợp với Hội Khuyến học Việt Nam xây dựng bộ chỉ số đánh giá
việc thực hiện xây dựng xã hội học tập của Bộ, ngành, địa phương (bao gồm cấp
tỉnh và cấp xã);
- Tổ chức các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực học tập suốt đời;
- Kiểm tra, giám sát, tổng hợp tình hình thực hiện Đề án; định kỳ 6 tháng,
hàng năm tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện Đề án.
b) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương xây dựng kế hoạch phát triển hệ thống các cơ sở dạy nghề; mở rộng các hình thức dạy nghề
trong các doanh nghiệp, công ty, dạy nghề gắn với sản xuất và dạy nghề ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa;
- Chủ trì xây dựng và thực hiện Đề án Hỗ trợ cho người lao động nông thôn, những người hết tuổi lao động, người nội trợ, người khuyết tật có điều kiện thuận lợi để học tập suốt đời;
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của
trung tâm cấp huyện làm nhiệm vụ giáo dục thường xuyên và dạy nghề.
c) Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và thực hiện Đề án Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá, câu lạc bộ;
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn các địa phương củng cố, kiện toàn mô hình hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng kết hợp với trung tâm văn hoá thể thao xã.
d) Bộ Thông tin và Truyền thông - Chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí tổ chức tuyên truyền về xây dựng xã
hội học tập;
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng, triển khai thực hiện
Đề án Truyền thông về xây dựng xã hội học tập.
đ) Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính - Bố trí kinh phí để thực hiện Đề án từ năm 2013 theo quy định của Luật ngân
sách nhà nước;
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính, đầu tư đối với các hoạt động của Đề án; phối hợp kiểm tra, giám sát thực hiện Đề án.
e) Các Bộ, ngành khác có trách nhiệm cung ứng học tập suốt đời và tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc ngành mình được học tập suốt đời, có trách nhiệm tổ chức biên soạn các tài liệu học tập cho mọi tầng lớp nhân dân về các lĩnh vực theo chức năng và nhiệm vụ của từng Bộ, ngành; phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện các nhiệm vụ xây dựng xã hội học tập trên phạm vi toàn quốc.
2. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - Xây dựng kế hoạch thực hiện Đề án hàng năm và từng giai đoạn phù hợp với chiến lược kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2020; bố trí ngân sách cho các hoạt động xây dựng xã hội học tập của địa phương;
185
- Xây dựng kế hoạch củng cố, phát triển các trung tâm giáo dục thường xuyên,
trung tâm học tập cộng đồng hoạt động có hiệu quả, bền vững;
- Chỉ đạo các cơ quan phát thanh, truyền hình, báo của địa phương xây dựng
chuyên mục tuyên truyền về xây dựng xã hội học tập;
- Theo dõi, đôn đốc, tổ chức kiểm tra giám sát việc thực hiện Đề án tại địa phương; định kỳ 6 tháng, hàng năm báo cáo tình hình thực hiện Đề án gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
3. Đề nghị các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp
a) Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia học tập; đưa nội dung xây dựng xã hội học tập vào phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
b) Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan chỉ đạo, động viên, theo dõi việc
đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ người lao động trong các doanh nghiệp;
- Chủ trì xây dựng Đề án Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời cho công
nhân lao động trong các doanh nghiệp (ưu tiên khu chế xuất, khu công nghiệp).
c) Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
- Chủ trì, tổ chức phối hợp, lồng ghép các hoạt động tuyên truyền về xây dựng
xã hội học tập cho các đoàn viên, thanh niên;
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng phong trào thanh niên tình nguyện, thanh niên tài năng; vận động gây quỹ hỗ trợ thanh niên có hoàn cảnh khó khăn tham gia học tập.
d) Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
- Tổ chức phối hợp, lồng ghép các hoạt động tuyên truyền về xây dựng xã hội học tập trong phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch”;
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tuyên truyền, vận động phụ nữ, trẻ em
gái ở những vùng khó khăn chưa biết chữ ra học các lớp xóa mù chữ.
4. Hội Khuyến học Việt Nam
- Phối hợp với các tổ chức, các lực lượng xã hội trong việc tổ chức tuyên
truyền, vận động người dân tích cực học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập;
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc duy trì, củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng; xây dựng bộ chỉ số đánh giá việc thực hiện xây dựng xã hội học tập của các Bộ, ngành, địa phương (bao gồm cấp tỉnh và cấp xã);
186
- Chủ trì tổ chức đánh giá công nhận “đơn vị học tập”, “cộng đồng học tập”;
- Chủ trì xây dựng và thực hiện Đề án Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư; xây dựng các mô hình học tập phù hợp để thực hiện các mục tiêu của Đề án. Chủ trì tổ chức, lồng ghép các hoạt động tuyên truyền về xây dựng xã hội học tập thông qua hệ thống mạng lưới hội khuyến học các cấp, các trang website của Hội, Báo Khuyến học và dân trí, Báo Dân trí điện tử.
5. Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Người cao tuổi Việt Nam, Hội Cựu giáo chức Việt Nam phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai nhiệm vụ và giải pháp xây dựng xã hội học tập phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Hội.
187
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.
Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
(Đã ký) Nguyễn Thiện Nhân
Nơi nhận: - Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP; - Văn phòng BCĐTW về phòng, chống tham nhũng; - HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc Trung ương; - Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Tòa án nhân dân tối cao; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Kiểm toán Nhà nước; - UB Giám sát tài chính Quốc gia; - Ngân hàng Chính sách xã hội; - Ngân hàng Phát triển Việt Nam; - UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Cơ quan Trung ương của các đoàn thể; - VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTCP, Cổng TTĐT,
các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lưu: Văn thư, KGVX (3b).N. 240
188
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ __________
Số: 02/2008/CT-TTg
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ______________________________________
Hà Nội, ngày 08 tháng 01 năm 2008
CHỈ THỊ
Về đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài,
xây dựng xã hội học tập _________
Những năm qua, công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đã có những bước phát triển mạnh mẽ, thu hút được sự quan tâm của toàn xã hội; cùng với những nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị, Hội Khuyến học đã được thành lập ở tất cả 64 tỉnh, thành phố trong cả nước và đã có những đóng góp tích cực. Các phong trào thi đua xây dựng ''gia đình hiếu học'', ''dòng họ khuyến học'' ở thôn, làng, phường, xã, được khơi dậy và đẩy mạnh, phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, theo tinh thần học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Các Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm học tập cộng đồng được thành lập và hoạt động tích cực ở các địa phương, tạo điều kiện để mọi người dân đều có thêm cơ hội được học tập nâng cao hiểu biết, năng lực sản xuất và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Tuy nhiên, phong trào khuyến học, khuyến tài phát triển còn chưa thật đồng đều; một số cấp, ngành, địa phương đơn vị nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập chưa thật sự đầy đủ, nên phong trào phát triển chưa vững chắc.
Để triển khai thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, từng bước xây dựng và phát triển mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị:
1. Các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị cần quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; tập trung triển khai thực hiện mạnh mẽ, đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục, đào tạo, nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
2. Xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước ta. Cần đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài gắn với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, với phong trào làm kinh tế giỏi, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, học đi đôi với hành. Phát triển các hình thức học tập chính quy đi
đôi với phát triển, đa dạng hóa các hình thức học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người được học tập thường xuyên, học suốt đời.
3. Các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị cần tập trung chỉ đạo xác định, cụ thể hoá các mục tiêu nhiệm vụ và giải pháp triển khai các hoạt động xây dựng xã hội học tập theo Đề án của Chính phủ về việc xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác khuyến học, khuyến tài, trong đó lưu ý xây dựng tổ chức Hội Khuyến học Việt Nam vững mạnh, hoạt động thiết thực, có hiệu quả.
4. Yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt các công việc sau: a) Bộ Giáo dục và Đào tạo: - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương, các tổ chức, đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động về công tác khuyến học, khuyến tài, đồng thời chỉ đạo triển khai, kiểm tra đôn đốc nhằm nâng cao hiệu quả công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng cả nước trở thành xã hội học tập; tích cực triển khai thực hiện Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010, theo Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ.
- Thực hiện các giải pháp để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục thường xuyên, các Trung tâm học tập cộng đồng, cơ sở dạy nghề, trong đó tập trung đổi mới nội dung, chương trình, tài liệu, phương pháp học tập đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cho người lao động trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, lao động ở nông thôn, tạo điều kiện, môi trường học, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ cho mọi tầng lớp nhân dân, bồi dưỡng nhân tài, nhất là tài năng trẻ trên các lĩnh vực.
b) Bộ Nội vụ: - Nghiên cứu xây dựng, điều chỉnh, bổ sung những cơ chế chính sách cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Hội Khuyến học hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích và có hiệu quả, phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Hội trong việc thúc đẩy hoạt động khuyến học khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
- Xem xét, phê duyệt Điều lệ của Hội Khuyến học Việt Nam phù hợp với điều kiện mới, theo tinh thần Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị.
c) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Nghiên cứu, xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư phát triển các cơ sở giáo dục thường xuyên, các Trung tâm học tập cộng đồng, đặc biệt là các cơ sở, Trung tâm ở các vùng khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng hải đảo, bảo đảm công bằng giáo dục.
d) Bộ Tài chính: Nghiên cứu, xây dựng các cơ chế chính sách tài chính hợp lý nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện đẩy mạnh sự phát triển các cơ sở giáo dục thường xuyên, các Trung tâm học tập cộng đồng, các hoạt động khuyến học, khuyến tài.
189
đ) Ủy ban nhân dân các cấp: Chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan, các đoàn thể, thường xuyên đẩy mạnh các hoạt động khuyến học, khuyến tài hướng đến mục tiêu xây dựng xã hội học tập trên địa bàn; tạo điều kiện thuận lợi để các cấp Hội Khuyến học hoạt động có hiệu quả, đúng tôn chỉ, mục đích.
5. Hội Khuyến học Việt Nam: - Chỉ đạo các cấp Hội tăng cường các hoạt động thiết thực, cụ thể nhằm đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; có những đóng góp tích cực vào việc phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh phong trào xây dựng ''gia đình hiếu học'', ''dòng họ khuyến học'', ....
- Xây dựng, củng cố Hội Khuyến học các cấp hoạt động có hiệu quả, làm nòng
cốt trong các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. - Nghiên cứu, đề xuất về mô hình xã hội học tập ở Việt Nam. 6. Các cơ quan thông tin đại chúng cần tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng cả nước trở thành xã hội học tập; biểu dương kịp thời các cá nhân và tập thể có thành tích xuất sắc trong các hoạt động khuyến học, khuyến tài.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức thực hiện nghiêm Chỉ thị này./.
190
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng đã ký