HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THỊ NHƯ

XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY

THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2020

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THỊ NHƯ

XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY

THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

Mã số: 931 02 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS, TS. Vũ Văn Thuấn

2. TS. Lê Thị Thu Hồng

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả

nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và đã được

trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Trương Thị Như

MỤC LỤC

Trang 1 7 7

MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 1.2. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tục

nghiên cứu

26

30 30 37 67

82 82 97

Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. Các khái niệm cơ bản 2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội học tập 2.3. Hồ Chí Minh xây dựng xã hội học tập Chương 3: XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Những nhân tố tác động đến xây dựng xã hội học tập ở Hải Phòng 3.2. Thực trạng xây dựng xã hội học tập ở Hải Phòng 3.3. Đánh giá thực trạng xây dựng xã hội học tập và những vấn đề đặt ra

đối với Hải Phòng

116

123

Chương 4: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 4.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xây dựng xã hội

học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh

123

4.2. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp giữa các sở,

ban, ngành, các tổ chức, đoàn thể trong xây dựng xã hội học tập

125

131

4.3. Phát triển hệ thống giáo dục suốt đời theo hướng đi vào thực chất, hoàn thành phổ cập giáo dục, tiếp tục mở rộng cơ hội học tập cho người dân 4.4. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập từ cơ sở thông qua khuyến học,

khuyến tài

142

4.5. Xây dựng và thúc đẩy văn hóa học tập, nâng cao chất lượng học tập suốt

đời cho người dân

144

4.6. Tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm xây dựng xã hội học tập của các nước, tiến tới tham gia mạng lưới thành phố học tập toàn cầu

148 155

KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

158 159 172

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Bình dân học vụ BDHV

Bổ túc văn hóa BTVH

Cộng đồng khuyến học CĐKH

Dòng họ hiếu học DHHH

Giáo dục nghề nghiệp GDNN

Giáo dục thường xuyên GDTX

Gia đình hiếu học GĐHH

Khuyến học, khuyến tài KH, KT

Trung học cơ sở THCS

Trung học phổ thông THPT

TPHT Thành phố học tập

TTHTCĐ Trung tâm Học tập cộng đồng

UBND Ủy ban nhân dân

XHHT Xã hội học tập

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ kiệt xuất của Đảng và của dân tộc Việt

Nam. UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà

văn hóa kiệt xuất bởi những cống hiến to lớn của Người cho sự nghiệp giải

phóng dân tộc cũng như những đóng góp về văn hóa, giáo dục cho dân tộc và

nhân loại. Trong những đóng góp vĩ đại đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

nói chung và xây dựng XHHT nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng, có giá trị

sâu sắc trong xây dựng XHHT ở nước ta hiện nay.

Từ sau khi nước nhà giành được độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã từng bước xây dựng nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam cho tất cả mọi

người, hướng tới một xã hội “ai cũng được học hành”. Người khẳng định một

cách nhất quán: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho

nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng

có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [94, tr.187]. Ham muốn đó vừa là

niềm mong mỏi, vừa là mục tiêu, vừa là chỉ đạo quan trọng của Hồ Chí Minh về

xây dựng XHHT. Quan điểm này được phát triển mạnh mẽ và liên tục từ sau

Cách mạng Tháng Tám năm 1945; được cụ thể hóa bằng các chủ trương giáo

dục như BDHV, BTVH, phổ cập giáo dục tiểu học và ngày nay đang tiến tới phổ

cập giáo dục trung học cơ sở cho toàn dân. Từng bước thực hiện điều đó, cũng là

từng bước hiện thực hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội “ai cũng

được học hành”.

Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT

càng thấy được rằng, tư tưởng của Người đã bắt gặp, thậm chí đi trước thời đại

trong quan niệm về xu thế phát triển giáo dục, nội dung, chương trình cũng như

mô hình giáo dục tiếp tục. Ngày nay, xu thế giáo dục mà nhiều thành phố lớn

trên thế giới đang hướng tới là xây dựng TPHT, các quốc gia đang hướng tới là

xây dựng quốc gia học tập, xã hội tiến tới là xây dựng XHHT. Mục đích của

XHHT là làm cho mọi người đều thấy cần phải học, và học suốt đời, xem học

2

tập là một nhu cầu của cuộc sống, như cơm ăn, áo mặc hàng ngày. Hồ Chí Minh

từng khẳng định: việc học không bao giờ cùng, càng tiến bộ càng thấy phải học

thêm. Đó là một thực tế. Xã hội ngày càng phát triển, tri thức chúng ta có được

không thể chỉ học một lần là sử dụng mãi mãi. Trong xã hội ngày nay, tri thức đã

trở thành “chìa khóa vạn năng” và sự thua kém, tụt hậu về tri thức sẽ tạo ra

khoảng cách phát triển giữa người này với người khác, giữa vùng này với vùng

khác, quốc gia này với quốc gia khác. Điều chúng ta thêm tự hào và cảm phục

chính ở tầm nhìn của Hồ Chí Minh về vấn đề này. Bản thân mỗi cá nhân cũng

như toàn xã hội phải luôn chủ động trang bị tri thức, học và học suốt đời, học

mãi để tiến bộ mãi, học để rút ngắn khoảng cách phát triển với các quốc gia khác

và “sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Đối với dân tộc Việt Nam, chúng ta tự hào là một quốc gia văn hiến.

Người dân đất Việt mang trong mình truyền thống ham học hỏi, luôn lấy sự học

làm điều căn bản để thực hiện đạo lý làm người, “nhân bất học bất tri lý”. Cũng

vì thế, trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, dù lịch sử có thăng

trầm nhưng giáo dục vẫn luôn được coi trọng. Trong giai đoạn hiện nay, Việt

Nam đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập quốc tế, thành tựu gần 35 năm đổi mới đang làm thay đổi diện mạo đất

nước từng ngày. Đảng ta cũng khẳng định rất rõ vai trò quốc sách hàng đầu của

giáo dục đào tạo và tầm quan trọng của việc xây dựng XHHT. Từ năm 2001,

Đảng ta lần đầu tiên sử dụng cụm từ XHHT. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ: “Đẩy mạnh phong trào

học tập trong nhân dân bằng hình thức chính quy và không chính quy, thực hiện

giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập” [36, tr.35]. Từ đó

đến nay, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn kiên định chủ trương xây dựng cả

nước trở thành một XHHT. Ngày 09/01/2013, Thủ tướng Chính phủ chính thức

phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” nhằm hướng

tới xây dựng mô hình XHHT ở Việt Nam. Đến Đại hội XII (2016), Đảng tiếp tục

nhấn mạnh: “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo

dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” [39, tr.116]. Như vậy,

3

Đảng và Nhà nước ta cũng nhận thức rất rõ tầm quan trọng của việc xây dựng

XHHT và kịp thời đề ra các chủ trương, chính sách, giải pháp xây dựng XHHT.

Có thể nói, xây dựng XHHT là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong

sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đáp ứng đúng xu thế thời đại và sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong dòng chảy chung của dân tộc và nhân loại, Hải Phòng là địa

phương luôn xác định vai trò to lớn của công tác giáo dục - đào tạo, KH, KT,

xây dựng XHHT. Là một thành phố cảng quan trọng, trung tâm công nghiệp,

đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ

của vùng Bắc Bộ, Hải Phòng đã và đang cùng các địa phương khác tiến hành

xây dựng XHHT nhằm mang lại lợi quyền cao nhất cho người dân trong việc

tiếp cận tri thức và hưởng thụ giáo dục. Điều này càng có ý nghĩa khi thời gian

gần đây, Hải Phòng có những chính sách rất nhân văn trong phát triển giáo dục,

chính thức miễn học phí cho tất cả các bậc học kể từ năm học 2020 - 2021. Đây

chính là sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT ở Việt

Nam nói chung và ở Hải Phòng nói riêng.

Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài Xây dựng xã hội học

tập ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh làm luận án tiến sĩ,

ngành Hồ Chí Minh học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về

xây dựng XHHT; đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng, chỉ ra

nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng XHHT ở Hải Phòng

hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận án xác định những nhiệm vụ chủ yếu

sau đây:

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra những

vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.

4

- Nêu lên một số khái niệm cơ bản có liên quan để định hướng vấn đề

nghiên cứu.

- Hệ thống hóa, khái quát hóa nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây

dựng XHHT.

- Đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng, chỉ ra những thành

tựu, hạn chế, nguyên nhân thành tựu hạn chế và những vấn đề đặt ra.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay

theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT, thực trạng và những

giải pháp xây dựng XHHT ở Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT và quá trình

vận dụng, triển khai xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay. Do vấn đề có nội

dung rất rộng nên luận án tập trung nghiên cứu thực trạng xây dựng XHHT ở

Hải Phòng theo kết quả triển khai Đề án xây dựng XHHT tại thành phố Hải

Phòng, có sự tham chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Về không gian: Thành phố Hải Phòng.

- Về thời gian: Tác giả nghiên cứu vấn đề từ năm 2013 đến năm 2019.

Tuy nhiên, để đảm bảo tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận án

có đề cập đến thời gian trước và sau giai đoạn trên.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư

tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng về giáo dục - đào tạo nói chung và

xây dựng XHHT nói riêng.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án tuân thủ phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình triển khai, luận án còn

5

sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và chuyên

ngành như:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Để phục vụ cho đề tài luận án, tác giả

tiến hành tập hợp và phân tích một số nguồn tài liệu sau:

+ Những bài nói, bài viết, tác phẩm của Hồ Chí Minh liên quan đến chủ

đề nghiên cứu, tập trung trong các công trình: Hồ Chí Minh Toàn tập, Hồ Chí

Minh Biên niên tiểu sử, Bách khoa thư Hồ Chí Minh sơ giản…

+ Những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh nhằm chỉ đạo xây dựng

XHHT.

+ Những công trình nghiên cứu tiêu biểu, có giá trị của các cá nhân, nhóm

tác giả liên quan đến chủ đề.

- Phương pháp logic, lịch sử.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp.

- Phương pháp so sánh.

- Phương pháp hệ thống hóa, khái quát hóa...

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

5.1. Ý nghĩa lý luận

- Góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng

XHHT, từ đó khẳng định thêm vai trò và những cống hiến to lớn của Hồ Chí

Minh đối với nền giáo dục Việt Nam nói chung và xây dựng XHHT nói riêng.

- Góp phần nghiên cứu có hệ thống những luận điểm của Hồ Chí Minh về

xây dựng XHHT như tầm quan trọng của xây dựng XHHT, nội dung, hình thức,

đối tượng, phương pháp xây dựng XHHT…

- Cung cấp các cứ liệu, luận chứng tin cậy để có thể tiếp tục nghiên cứu

chuyên sâu về tư tưởng Hồ Chí Minh.

5.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT có ý nghĩa

vô cùng sâu sắc trong thực tiễn chỉ đạo và xây dựng TPHT, tiến tới XHHT ở Hải

Phòng hiện nay, làm cho tư tưởng của Người luôn sống mãi với nhân dân thành

6

phố Cảng. Các giải pháp luận án đề xuất mang tính khả thi nhằm xây dựng

XHHT ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên

cứu, giảng dạy và học tập ở các học viện, các nhà trường, các ban ngành trên

cả nước.

6. Những đóng góp mới của luận án

Luận án là công trình khoa học nghiên cứu có hệ thống về xây dựng

XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh với những điểm mới sau đây:

- Đưa ra được khái niệm “xã hội học tập”, “xây dựng xã hội học tập”, “tư

tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội học tập”.

- Phân tích được những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về

xây dựng XHHT.

- Đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng, chỉ ra thành tựu, hạn

chế và nguyên nhân, nêu rõ những vấn đề đặt ra đối với xây dựng XHHT ở Hải

Phòng hiện nay.

- Đề xuất các giải pháp xây dựng XHHT ở Hải Phòng theo tư tưởng Hồ

Chí Minh.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận án được kết cấu thành 4 chương, 14 tiết.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về xã hội học tập

XHHT là một khái niệm được bàn luận nhiều năm gần đây. Tìm kiếm từ

khóa này trên các trang mạng xã hội, không quá khó để thấy được rất nhiều kết

quả. Cụm từ này đã trở thành mục tiêu trong Chiến lược phát triển giáo dục của

nước ta trong thế kỷ XXI.

Trên thế giới, cuộc thảo luận về khái niệm XHHT bắt đầu từ năm 1972

khi mà Edgarl Faure, cựu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Bộ trưởng Bộ Giáo

dục Pháp, đứng đầu Ủy ban Quốc tế về phát triển giáo dục thế kỷ XXI của

UNESCO cho xuất bản cuốn “Học để tồn tại”. Lần đầu tiên, thuật ngữ XHHT

(Learning society) xuất hiện trong cuốn sách này, như là trở thành xu thế cho

nền giáo dục nhân loại thế kỷ mới. Edgarl Faure cho rằng: Nếu học tập là việc

động chạm đến suốt đời con người, cả theo nghĩa thời gian cả theo nghĩa đa dạng

và đối với mọi người trong xã hội, kể cả các nguồn lực xã hội, kinh tế và giáo

dục, khi đó chúng ta phải đi xa hơn việc tháo dỡ tất cả các hệ thống giáo dục cho

đến khi nào đạt được tình trạng của một XHHT. Như vậy, XHHT là mọi người

học suốt đời, trong nhà trường và ngoài nhà trường.

Trước Edgarl Faure, từ những năm 60 của thế kỷ XX, ý tưởng về XHHT

cũng được nhiều nhà giáo dục đưa ra. Lúc đầu, người ta mới chỉ muốn tìm cách

canh tân giáo dục, phải làm thế nào để có một thiết chế giáo dục mới để khắc

phục tình trạng khủng hoảng của giáo dục trong nhà trường khép kín. Nghĩa là

phải có một nền giáo dục cởi mở hơn, hạn chế sự giáo dục bó hẹp với những

thiết chế chặt chẽ trong nhà trường chỉ dành cho một số đối tượng có điều kiện

nhất định mà chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của quảng đại quần chúng. Vì

vậy, phải xây dựng một nền giáo dục đại chúng với thiết chế mở. Từ đó, các nhà

giáo dục tiếp cận ý tưởng về một XHHT. Ý tưởng này được Donald Schon (tiến

sĩ người Mỹ) ba lần đề cập vào các năm 1963, 1967, 1973. Donald Schon cho

8

rằng xã hội sẽ có nhiều biến đổi, do đó nhu cầu học tập sẽ ngày càng tăng, sẽ

không còn tình hình ổn định lâu dài nữa. Con người sẽ phải học để hiểu, để tác

động, để điều hành các chuyển đổi đó. Khi ấy, năng lực học tập phải trở thành

thuộc tính của mỗi người, ai cũng phải biết học suốt đời một cách thành thục.

Hơn thế nữa, các thiết chế muốn luôn luôn chuyển đổi cũng phải học tập theo.

Donald Schon đã có đóng góp lớn lao là đưa ra ý tưởng: các công ty, các phong

trào xã hội và chính quyền đều phải là “các hệ thống học tập”, và từ đó ông đưa

ra luận điểm quan trọng về “tổ chức học tập”.

Năm 1968, trong một cuốn sách của mình, nhà giáo dục người Mỹ Robert

M.Hutchins (từng làm hiệu trưởng trường Đại học Chicago) cũng đã khẳng định

sự cần thiết tiến tới một XHHT với hai lý do: 1) Do sự phát triển của khoa học

và công nghệ, sức lao động được giải phóng, con người sẽ có nhiều thời gian để

nghỉ ngơi hơn và 2) Thế giới biến đổi nhanh đòi hỏi con người cần có tri thức để

đáp ứng được những thay đổi đó. Ông quan niệm học tập là hồn của biến đổi.

Huchin quay lại tư tưởng cổ đại là, không phải chỉ học vài giờ trong ngày ở một

chỗ nào đó như lớp học mà học tập là mục tiêu của xã hội. Đúng như V.I.Lênin

đã tổng kết: Giáo dục là một phạm trù lịch sử của loài người; loài người cùng tồn

tại với phạm trù học tập - truyền thụ kinh nghiệm, tri thức từ người này sang

người kia, từ thế hệ này sang thế hệ kia...

Turten Husen là một trong những học giả đầu tiên cho rằng: tiến bộ kỹ

thuật là một yếu tố quan trọng dẫn đến khái niệm XHHT, nhất là từ những năm

40 của thế kỷ XX khi bắt đầu có phát minh điện tử hóa, rồi vi điện tử vào những

năm 70 và mạng internet những năm 90, tạo ra cuộc cách mạng công nghệ toàn

cầu. Nhờ công nghệ này mà có một sự bùng nổ tri thức, sự sản sinh tri thức rất

nhanh được gọi là “công nghệ tri thức”, trong đó có cả vấn đề truyền bá tri thức,

truyền bá công nghệ đòi hỏi mọi người phải học liên tục. Ở phương Tây, quá

trình này diễn ra mạnh mẽ từ những năm 1960 và được gọi là cách mạng hóa

quá trình thông báo tri thức. Sau đó, người ta đã đưa ý tưởng này gắn với ý

tưởng học suốt đời, học liên tục, học không chính quy, học cho tất cả mọi người.

Qua giáo dục thực hiện các xu thế nổi bật của thời đại: công nghệ, văn hóa, dân

9

chủ và quyền con người trong thế giới toàn cầu hóa, đi vào kinh tế tri thức. Và

như vậy sẽ đạt đỉnh cao mới trong quá trình dân chủ hóa giáo dục.

Như vậy, XHHT là một xu thế mới trong phát triển của loài người ở thời

kỳ hậu công nghiệp mà có người còn gọi là hậu hiện đại. Đó là đòi hỏi của cách

mạng công nghệ và phát triển kinh tế, và cũng là đòi hỏi mới của sự phát triển

con người bền vững trong thế kỷ mới.

Rõ ràng, xây dựng XHHT đã và đang trở thành xu thế tất yếu của các

quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu về XHHT thu hút

nhiều tác giả với nhiều công trình nghiên cứu.

Nghiên cứu XHHT xét từ góc độ xu thế cho sự phát triển giáo dục của các

quốc gia hiện nay có khá nhiều công trình. Cuốn Phát triển giáo dục hướng tới

một xã hội học tập [26] của tác giả Phạm Tất Dong đã chỉ rõ sự phát triển nền

kinh tế tri thức và yêu cầu tất yếu xây dựng XHHT ở Việt Nam trong thời kỳ

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; những vấn đề cơ bản về nội dung và cấu

trúc của XHHT, tình hình phát triển giáo dục qua các giai đoạn 2000 - 2010 và

2011 - 2020 nhằm đổi mới toàn diện nền giáo dục theo hướng xây dựng XHHT

ở Việt Nam. Quan điểm này của tác giả tiếp tục được thể hiện trong bài viết

“Xây dựng xã hội học tập - một xu hướng đổi mới phát triển của giáo dục thế kỷ

XXI” [30]. Bài viết nhấn mạnh sự bùng nổ thông tin và việc sản xuất ra những tri

thức mới, những công nghệ mới cho thấy những kiến thức tiếp thu trong hệ

thống giáo dục ban đầu không thể sử dụng suốt đời, học vấn phổ thông không

còn giúp con người đi thẳng vào lao động sản xuất. Con người cần biết cách học

xử lý thông tin thành tri thức và phải học suốt đời trong một XHHT. Do đó,

XHHT chính là nội dung cốt lõi trong chủ trương đổi mới giáo dục ở nước ta.

Chúng ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối

cảnh một thế giới luôn biến động, một xã hội thông tin đang bùng nổ và một thời

đại mà tiến bộ khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão. Khái niệm tốt

nghiệp một chương trình đào tạo nào đó với những kiến thức và kỹ năng có

được, cứ thế mà lao động suốt đời đã không còn phù hợp. Từ thực tiễn đó, tác

giả Nguyễn Minh Đường khẳng định trong bài viết “Xây dựng một xã hội học

10

tập - yêu cầu tất yếu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”

[43]: Mọi người đều phải học, mọi loại hình lao động đều phải học, mọi lứa tuổi

đều phải học và phải học thường xuyên, học suốt đời, học bằng nhiều hình thức.

Nói cách khác, phải hình thành một XHHT (learning society).

Cũng từ góc độ tiếp cận XHHT là xu thế trong nền kinh tế tri thức, cuốn

Đổi mới và phát triển giáo dục hướng tới xây dựng cả nước trở thành một xã hội

học tập [22] đã nêu bật xu thế đó. Sách dẫn lời của Jin Yang - chuyên gia

chương trình cao cấp, Viện học tập suốt đời thuộc UNESCO: “Ngày nay chúng

ta đang sống trong một xã hội đầy biến động và thay đổi nhanh chóng. Mỗi cá

nhân không thể đáp ứng được các thách thức của cuộc sống nếu như không biến

mình thành một người học suốt đời, và một xã hội sẽ không bền vững nếu không

trở thành một xã hội học tập” [22, tr.53-54]. Từ đó, tác giả đi đến khẳng định:

Xây dựng XHHT là xu thế tất yếu trước yêu cầu mới của thời đại - thời đại phát

triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt công nghệ thông

tin, thời đại của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập, của nền kinh tế tri thức.

Cuốn sách của tác giả Nguyễn Kỳ Mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội

học tập [72] tiếp tục nghiên cứu về XHHT với tính chất là một mô hình giáo dục

mở. Trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập đến vấn đề XHHT như là một xu thế

tất yếu của thế kỷ XXI, điều mà tất cả các quốc gia cần và tiếp tục hướng tới.

Bằng những lập luận và luận chứng, tác giả khái quát về quan niệm XHHT, vai

trò của XHHT và mô hình XHHT ở một số nước tiên tiến. Từ đó, tác giả khẳng

định giáo dục Việt Nam cần nhanh chóng đổi mới theo mô hình này.

Ngày nay, tất cả chúng ta đều nhận thức rõ vai trò thiết yếu của giáo dục

và học tập trong phát triển kinh tế, xã hội và con người. Để duy trì và cạnh tranh

trong nền kinh tế toàn cầu, mọi người đều cần phải liên tục học tập những kỹ

năng mới, nâng cao trình độ chuyên môn và phát triển năng lực. Nhận thức được

điều đó, một diễn đàn quốc tế: “Diễn đàn Việt Nam: Học tập suốt đời - Xây

dựng xã hội học tập” tại Hà Nội, từ ngày 06 đến 08 tháng 12 năm 2010 do

Chính phủ Việt Nam, Hiệp hội nghiên cứu học tập suốt đời của ASEM và

UNESCO tổ chức. Với sự tham gia chủ trì của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện

11

Nhân, Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia xây dựng XHHT, Diễn đàn đã quy tụ gần

400 nhà hoạch định chính sách chủ chốt, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà

giáo dục hàng đầu đến từ nhiều nước trên thế giới. Cuốn kỷ yếu “Diễn đàn Việt

Nam: Học tập suốt đời - Xây dựng xã hội học tập”[32] tập hợp 37 bài viết của

45 nhà nghiên cứu và chuyên gia giáo dục đến từ 17 quốc gia ASEM được trình

bày tại Diễn đàn. Những vấn đề của giáo dục, xây dựng XHHT và học tập suốt

đời được mổ xẻ, phân tích. Thông qua đó, các tác giả bày tỏ quan điểm về tính

tất yếu phải xây dựng XHHT, mô hình xây dựng XHHT và chia sẻ kinh nghiệm

xây dựng XHHT ở nhiều nước, đồng thời chỉ ra hướng đi cho giáo dục Việt

Nam trong dòng chảy chung của thế giới.

Tiếp cận XHHT nhìn từ góc độ tầm quan trọng của việc đổi mới giáo dục

theo hướng xây dựng XHHT được khá nhiều tác phẩm đề cập đến bởi xét đến

cùng, xây dựng XHHT cũng nằm trong chiến lược phát triển giáo dục của đất

nước. Cuốn Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam [53] đã phần nhiều đề cập đến

vấn đề này. Trong cuốn sách, tác giả đã dày công tập hợp các báo cáo khoa học

và bài nói tập trung làm sáng tỏ các vấn đề về vị trí của giáo dục đối với ba cuộc

cách mạng đang tiến hành ở Việt Nam; đối tượng của giáo dục và khoa học giáo

dục; tính chất và nhiệm vụ của nhà trường phổ thông; phát triển giáo dục và xây

dựng khoa học giáo dục... Bài viết “Xây dựng xã hội học tập - một cuộc cách

mạng về giáo dục” của tác giả Phạm Tất Dong [30] tiếp tục nhấn mạnh tầm quan

trọng của việc xây dựng XHHT. Những thành tựu đạt được trong 50 năm của

nền quốc học nhân dân ở Việt Nam, trong đó có liên quan tới xây dựng XHHT

như việc xoá nạn mù chữ, chống chính sách ngu dân, các cuộc cải cách giáo

dục; vấn đề văn hoá và giáo dục nhân cách văn hoá là nội dung cơ bản được

đề cập trong Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã

hội - kinh tế [50].

Đề cập đến nội dung cải cách giáo dục theo hướng xây dựng XHHT có

hai công trình của tác giả Nghiêm Đình Vỳ được nhà xuất bản Chính trị quốc gia

phát hành. Đó là cuốn Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, đồng tác giả với

Nguyễn Đắc Hưng [159] và Cải cách giáo dục: Một số vấn đề chung và thực

12

tiễn ở Việt Nam, đồng tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến [158]. Điểm chung của hai

công trình này là đều nghiên cứu về vấn đề cải cách giáo dục: Các định hướng

toàn cầu trong thế kỷ XXI, tiến trình cải cách của một số nước trên thế giới, rút

ra kinh nghiệm, bài học cho Việt Nam; đồng thời tìm hiểu về quá trình cải cách

giáo dục ở Việt Nam, đường lối phát triển giáo dục của Đảng, một số vấn đề lý

luận và tổ chức thực hiện đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện theo hướng xây

dựng XHHT suốt đời ở Việt Nam. Đây là nguồn tài liệu tham khảo rất cần thiết

cho công tác nghiên cứu giáo dục.

Xây dựng XHHT là một trong những biện pháp quan trọng nhằm cải cách

giáo dục hiện nay. Đặt giáo dục Việt Nam trước những yêu cầu và thách thức

của thế kỷ XXI để thấy được tính tất yếu phải đổi mới là nội dung cơ bản của

sách Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI [48]. Những vấn đề nổi

bật của giáo dục Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI được đề cập tới như: tính chất

giáo dục và nguyên lý giáo dục; hệ thống giáo dục; cải cách, đổi mới, chấn hưng

giáo dục; vấn đề giáo dục mầm non, tiểu học, trung học, đại học, xoá mù chữ và

giáo dục cho mọi người - những nội dung rất gần với XHHT. Thông qua đó, tác

giả đưa ra các phương hướng phát triển giáo dục ở nước ta.

Nội dung này cũng được trình bày trong cuốn Mấy vấn đề lý luận và thực

tiễn của đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo Nghị quyết TW XI, tác

giả Phạm Tất Dong [28]. Nghị quyết Trung ương XI (Nghị quyết số 29) của

Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục

nước ta. Nền giáo dục mới phải có thiết chế giáo dục với đủ các hình thức giáo

dục cho bất cứ lứa tuổi nào, cho bất cứ trình độ học vấn và trình độ nghề nghiệp

nào, thực hiện dạy và học trong bất cứ không gian và thời gian nào. Việc giáo

dục thực hiện theo đúng tinh thần “giáo dục của dân, do dân, vì dân”, ai cũng

được học hành, không ai bị thải loại ra khỏi giáo dục và không ai bị thất bại

trong giáo dục học đường. Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả khẳng

định một xã hội có được hệ thống giáo dục như vậy chính là XHHT. Xây dựng

XHHT chính là góp phần thực hiện lý tưởng cao đẹp của nhân loại thế kỷ XXI.

Vấn đề tiếp theo của XHHT mà khá nhiều công trình quan tâm nghiên

13

cứu là nội dung, cấu trúc cũng như thành tố cấu thành XHHT. Cuốn sách Xây

dựng con người, xây dựng xã hội học tập [29] đã trình bày khá cụ thể những vấn

đề cốt lõi để xây dựng XHHT, bao gồm giáo dục chính quy, giáo dục không

chính quy, kinh nghiệm xây dựng XHHT ở các nước... Xuyên suốt nội dung đó

là vấn đề con người, xây dựng con người trở thành hạt nhân động lực cho toàn

bộ quá trình xây dựng XHHT ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Về mô hình XHHT nổi bật là cuốn Cấu trúc mô hình xã hội học tập ở Việt

Nam [25]. Sách giới thiệu sự phát triển giáo dục của một số nước trên thế giới

hướng tới XHHT và sự phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay trong bước khởi

đầu định hướng xây dựng XHHT, đồng thời đề cập đến cấu trúc mô hình XHHT

ở Việt Nam. Cùng đề cập đến mô hình XHHT có cuốn Mô hình giáo dục mở -

mô hình xã hội học tập [72]. Cuốn sách này đi vào trình bày các mô hình khuyến

học và phân tích tác động của nó tới việc xây dựng XHHT ở nước ta. Tuy chỉ

phản ánh một nội dung nhỏ của XHHT là các mô hình hoạt động khuyến học

nhưng sách cũng là nguồn tài liệu tham khảo giá trị.

Ở Việt Nam, xây dựng XHHT là tất yếu nhưng lại không hoàn toàn dễ

dàng. Việc xây dựng XHHT không dừng lại ở chỗ nước ta sẽ có một XHHT như

mọi nước. XHHT không có mục đích tự thân. Chúng ta cần có một XHHT để từ

đó tạo nên những nhân cách cần cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

cần cho việc phát triển kinh tế tri thức. Mục tiêu XHHT là những nhân cách Việt

Nam ở thế kỷ XXI mà trong nhân cách đó, trí tuệ thời đại và đạo đức thời đại là

cái cốt lõi. Từ đó, tác giả cuốn Khuyến học [27] mong muốn phát huy và đẩy

mạnh hơn nữa công tác KH, KT để tạo nên một dấu gạch nối giữa sự nghiệp

KH, KT trong lịch sử với sự nghiệp KH, KT thời hiện đại.

Tiếp tục đi sâu về thành tố của XHHT là cuốn Xã hội học tập - Học suốt

đời và các kỹ năng tự học của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Hải Yến [138].

GDTX, giáo dục người lớn được xem là thành tố rất quan trọng của XHHT. Do

đó trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập đến cơ sở lý luận chung của GDTX,

các đặc điểm và khó khăn của GDTX cũng như quá trình xây dựng XHHT ở

Việt Nam. Về phương pháp để xây dựng XHHT, tác giả nhấn mạnh vấn đề tự

14

học, bản chất của tự học và cách thức tiến hành tự học theo từng lứa tuổi. Ở góc

độ lý luận giáo dục, để có thể tiến tới XHHT đòi hỏi mỗi cá nhân và toàn xã hội

phải không ngừng tự học và học suốt đời. Đây là một thành tố rất quan trọng

trong XHHT mà công trình đã đề cập tới.

Cùng đề cập tới GDTX là nội dung chính của luận án tiến sĩ Khoa học

Giáo dục (mã số 62.14.01.14) của Bùi Trọng Trâm với đề tài Quản lý phát triển

trung tâm học tập cộng đồng theo định hướng xã hội học tập [142]. Tác giả đi

vào chuyên sâu nghiên cứu một khía cạnh của XHHT ở bộ phận cấu trúc của nó

là các TTHTCĐ. Trên cơ sở trình bày cơ sở lý luận về quản lý phát triển

TTHTCĐ theo định hướng XHHT, luận án nghiên cứu thực trạng, kinh nghiệm

của một số nước và thực trạng quản lý phát triển TTHTCĐ ở xã, phường, thị trấn

của tỉnh Thái Bình. Thêm vào đó, tác giả đã đề xuất bộ tiêu chuẩn đánh giá và

một số giải pháp quản lý phát triển TTHTCĐ theo định hướng XHHT của tỉnh

Thái Bình hiện nay.

Lý luận chung về XHHT như khái niệm, đặc điểm, cấu trúc XHHT được

luận bàn ở nhiều bài viết đăng trên các tạp chí:

- “Tìm hiểu quan niệm về xã hội học tập”, Phạm Minh Hạc, tạp chí Giáo

dục [51].

- “Xã hội học tập: quan niệm, thực trạng và giải pháp”, Thái Xuân Đào,

tạp chí Phát triển giáo dục [40].

- “Bàn về khái niệm xã hội học tập”, Tô Bá Trượng, Tạp chí Giáo dục [149].

- “Tiến tới xây dựng một xã hội học tập”, Nguyễn Ngọc Phú, tạp chí Giáo

dục [115].

Điểm chung trong phần lớn nội dung của những bài viết này là đề cập đến

quan niệm về XHHT của các học giả trong và ngoài nước, rút ra những đặc điểm

nhận diện XHHT và tổ chức xây dựng XHHT ở Việt Nam.

Làm thế nào để xây dựng XHHT, hay nói cách khác là điều kiện và giải

pháp để xây dựng XHHT ở Việt Nam? “Để xây dựng nền giáo dục Việt Nam

thực sự trở thành một xã hội học tập - giáo dục suốt đời: Quan niệm và thể chế

hóa” là bài viết của tác giả Nguyễn Như Ất đăng trên tạp chí Phát triển giáo dục,

15

[8]. Tác giả nêu ra quan niệm và điều kiện cơ bản để xây dựng XHHT mà quan

trọng là đi từ nhận thức đúng đến hành động đúng.

Xây dựng hệ thống học suốt đời trong nền giáo dục Việt Nam cũng là một

biện pháp để xây dựng XHHT. Đây là bài viết của tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến,

in trong cuốn Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam [10].

Bài viết khẳng định trong nhiều mô hình giáo dục mới được đề xuất, thì mô hình

học suốt đời đang là xu thế chung thể hiện bước chuyển về giáo dục của nhiều

nước trước một thế giới biến động khó lường của toàn cầu hóa, kinh tế tri thức

và cách mạng công nghệ. Tác giả cũng đánh giá, việc xây dựng hệ thống học

suốt đời là bước phát triển về chất của nền giáo dục Việt Nam.

Trong quá trình xây dựng luận án, tác giả cũng tiếp cận một số tài liệu của

các học giả nước ngoài về vấn đề này, đặc biệt đề cập đến giải pháp xây dựng

XHHT. Tiêu biểu nhất là cuốn Xây dựng xã hội học tập: Cách tiếp cận mới cho

tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội (Creating a learning society: A new

Approach to Growth, Development and Social Progress) [170] của hai tác giả

Joseph E. Stiglitz và Bruce C. Greenwald (giáo sư Đại học Columbia, Mỹ), do

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành năm 2017. Với độ dày 555

trang, sách được chia làm hai phần. Phần thứ nhất gồm 8 chương nêu bật tầm

quan trọng của việc học tập, về các doanh nghiệp học tập và phát minh, về cấu

trúc thị trường - nơi các doanh nghiệp đang hoạt động tác động đến khả năng

học tập và sáng tạo của doanh nghiệp, kết thúc với đánh giá phúc lợi và trạng

thái ổn định của toàn bộ nền kinh tế. Phần thứ hai gồm 6 chương bàn về các giải

pháp cho một XHHT. Tác giả đưa ra chính sách ở nhiều lĩnh vực để xây dựng

thành công XHHT năng động từ các chính sách phát triển ngành, chính sách về

tài chính, chính sách vĩ mô cho đến các chính sách về quyền sở hữu trí tuệ và

chuyển đổi xã hội.

Bên cạnh đó, những khuyến nghị về giải pháp xây dựng XHHT, như hình

thành cơ chế quản lý liên ngành, thúc đẩy động lực học tập suốt đời cho người

học, tăng cường học tập tại nơi làm việc, nhân rộng các mô hình TPHT, cộng

đồng học tập, sử dụng công nghệ thông tin như một phương tiện phục vụ sự phát

16

triển... được đề cập đến trong Kỷ yếu Diễn đàn Việt Nam: Học tập suốt đời - xây

dựng xã hội học tập [32] trên cơ sở những đóng góp của các chuyên gia trong

nước và quốc tế.

Ngoài ra, còn khá nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này như: tác giả

Trần Ngọc Vượng với bài “Kiến tạo một xã hội học tập ở Việt Nam, những hạn

chế từ lịch sử”, tạp chí Tia sáng, 2005; tác giả Phan Thanh Long với “Kinh

nghiệm xã hội hóa giáo dục trên thế giới và việc xây dựng xã hội học tập ở nước

ta”, tạp chí Khoa học, 2007; tác giả Trần Viết Lưu với “Nâng cao nhận thức về

xây dựng nước ta trở thành một xã hội học tập”, tạp chí Phát triển giáo dục, 2009;

tác giả Bùi Thanh Xuân với “Thành phố, thị trấn học tập - mô hình thu nhỏ của xã

hội học tập, thúc đẩy học tập suốt đời”, tạp chí Giáo dục, 2013; hay Trần Hồng

Đức với “Định hướng xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam trong điều kiện nền

kinh tế tri thức hiện nay”, tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, 2016...

Dễ nhận thấy quan niệm của từng tác giả được thể hiện khá rõ trong từng

bài viết. Nội dung cơ bản của các bài viết này là đã đi vào tìm hiểu một số khía

cạnh của XHHT, bước đầu phác họa những điều kiện và bước đi để xây dựng

XHHT ở Việt Nam hiện nay.

Vấn đề XHHT cũng đã được đưa vào nội dung học tập và giảng dạy ở

một số nhà trường. Trường Đại học Thái Nguyên cho ra mắt cuốn Giáo trình lý

luận xã hội học tập năm 2013 [67]. Lần đầu tiên, lý luận về XHHT được viết

dưới dạng giáo trình, trở thành tài liệu học tập cho sinh viên. Cuốn sách này

nghiên cứu những giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại của nền giáo dục Việt

Nam, các bộ phận cấu thành của hệ thống giáo dục quốc dân cũng như tầm quan

trọng của bộ phận GDTX trong quá trình xây dựng phát triển đất nước. Bên cạnh

đó, sách còn đưa ra định hướng những nhân tố giá trị trong việc xây dựng

XHHT hiện nay.

Tác giả Vũ Minh Tâm cũng có cuốn Xã hội học tập: tập bài giảng cho

sinh viên các ngành Khoa học xã hội và nhân văn [125]. Sách đề cập khái quát

những vấn đề cơ bản của XHHT như: khái niệm, mô hình, cấu trúc. Nhưng rõ

ràng, đây vẫn là vấn đề mới cần tiếp tục quan tâm, nghiên cứu.

17

Ngoài ra, trong quá trình tổng quan tài liệu, tác giả luận án cũng được tiếp

cận cuốn Các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác khuyến học,

khuyến tài và xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam [160]. Cuốn sách cung cấp

những tài liệu của Đảng và Nhà nước về công tác KH, KT; khẳng định phương

hướng, nhiệm vụ cơ bản và biện pháp lớn của công cuộc xây dựng cả nước trở

thành một XHHT. Đây là cẩm nang tư tưởng, tổ chức và hoạt động đối với

những người làm công tác KH, KT, hướng tới xây dựng XHHT ở Việt Nam.

Nhìn chung, trong các nghiên cứu trên, từ nhiều góc độ khác nhau, các tác

giả đều đề cập đến những khía cạnh rất quan trọng của XHHT, như khái niệm,

đặc điểm, vai trò và biện pháp xây dựng XHHT ở Việt Nam. Có thể xem đây là

nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong quá trình xây dựng luận án.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội

học tập

Trước hết phải khẳng định, thời điểm Hồ Chí Minh sinh sống và hoạt

động chưa có khái niệm XHHT. Khái niệm này xuất hiện đầu tiên trên thế giới

vào khoảng đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, và chính thức được Đảng ta sử

dụng trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Do đó, nghiên cứu tư

tưởng Hồ Chí Minh về XHHT là dựa trên cơ sở những luận điểm của Người về

giáo dục. Tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT không tách rời tư tưởng Hồ Chí

Minh về giáo dục.

Hồ Chí Minh là một nhà lý luận giáo dục và thực hành giáo dục vĩ đại.

Người có rất nhiều bài viết, bài nói, tác phẩm để phát triển giáo dục nước nhà

với mong mỏi đưa dân tộc ta sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế

giới. Sinh thời, Người chưa một lần đề cập đến XHHT nhưng thông qua những

bài nói, bài viết, tác phẩm và hoạt động thực tiễn của Người đã toát lên những

giá trị lớn lao của một XHHT Việt Nam trong đó. Một trong những trăn trở rất

lớn của Người lúc sinh thành là làm sao cho dân ta “ai cũng được học hành”.

Câu nói đó chính là cốt lõi của XHHT mà Người không ngừng kiến tạo và chỉ

đạo thực hiện ở Việt Nam.

Tổng quan các công trình đề cập đến vấn đề này, như sau:

18

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT trong tổng thể tư

tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung, có cuốn sách: Chủ tịch Hồ Chí Minh

với sự nghiệp chống nạn thất học, nâng cao dân trí, do nhà xuất bản Giáo dục ấn

hành [141]. Với hai phần, đặc biệt là phần thứ nhất tác giả phác thảo hành trình

xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí cho nhân dân trong từng thời kỳ cách mạng.

Xuyên suốt cuốn sách là chặng đường diệt giặc dốt gian nan nhưng cũng đầy tự

hào của nhân dân ta, mà nổi bật trên hết là vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí

Minh trong xây dựng, chỉ đạo và trực tiếp đồng hành trong suốt chặng đường đó

của dân tộc.

Nghiên cứu tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, từ đó gián tiếp đề cập tới tư

tưởng Hồ Chí Minh về XHHT, về học tập suốt đời được nhiều tác giả lựa chọn.

Tác giả Nguyễn Lân có cuốn Hồ Chủ tịch - nhà giáo dục vĩ đại [74]. Như là một

lời khẳng định từ tên gọi của cuốn sách, tác giả đi vào nghiên cứu di sản Hồ Chí

Minh với tư cách như là một nhà giáo dục vĩ đại trên cả phương diện tư tưởng và

hoạt động thực tiễn. Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con

người Việt Nam phát triển toàn diện [33] của tác giả Thành Duy nghiên cứu về

tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh - một trong những biện pháp để xây dựng con

người Việt Nam phát triển toàn diện.

Cùng đề cập đến tư tưởng giáo dục nói chung, tư tưởng về XHHT nói

riêng là cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục [54]. Sách tập hợp những bài

nói, bài viết của Hồ Chí Minh về giáo dục, những bài nghiên cứu về tư tưởng

giáo dục Hồ Chí Minh của nhiều nhà khoa học quan tâm đến vấn đề này. Sách

do Đào Thanh Hải, Minh Tiến sưu tầm, tuyển chọn.

Một cuốn sách khác gồm 5 phần, tập hợp những thư điện của Hồ Chí

Minh gửi ngành giáo dục; những bài nói, bài viết của Người về giáo dục; biên

niên hoạt động của Người về giáo dục, đó là cuốn Bác Hồ với sự nghiệp giáo

dục [18]. Cuốn sách của Đặng Quốc Bảo lại tập trung nghiên cứu về tư tưởng

giáo dục Hồ Chí Minh và nhà giáo Hồ Chí Minh, được tác giả coi là kim chỉ

nam cho việc thực hiện đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay, đó là cuốn Tư

tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008 [12].

19

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện là công trình của

tác giả Nguyễn Hữu Công [23]. Cuốn sách dành một nội dung đề cập về quan

điểm giáo dục, đào tạo toàn diện của Hồ Chí Minh, với ý nghĩa là một trong

những con đường hình thành và phát triển con người toàn diện Việt Nam.

Quan điểm này tiếp tục được đề cập trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về

giáo dục và đào tạo [7]. Qua 31 bài viết của các giảng viên, các nhà nghiên cứu

đến từ nhiều trường đại học trong cả nước, công trình đã làm rõ hơn những quan

điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo như vị trí, vai trò,

nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục, những cống hiến về giáo dục và

đào tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhấn mạnh về vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giáo dục và xây

dựng XHHT ở Việt Nam, tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng Hồ Chí Minh chính

là người khai sáng cho tư duy và chiến lược hành động xây dựng XHHT ở Việt

Nam ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng. Nội dung này được

đề cập đến trong cuốn Phát triển sự nghiệp giáo dục dưới ánh sáng tư tưởng Hồ

Chí Minh [13].

Gián tiếp đề cập đến việc xây dựng XHHT là cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí

Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay của tác giả Hoàng

Anh [1]. Cuốn sách trình bày nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư

tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục theo từng thời kỳ gắn với cuộc đời hoạt động

cách mạng của Người cũng như của đất nước. Đồng thời, sách phân tích nội

dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và nêu bật tầm quan trọng của việc vận

dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào nâng cao chất lượng đào tạo đại học

hiện nay. Mặc dù không trực tiếp đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT

nhưng cuốn sách cũng gợi mở nhiều ý tưởng cho tác giả khi xây dựng luận án.

Góp phần tìm hiểu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về

giáo dục, coi đó là những giá trị nền tảng để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

Việt Nam, đáng chú ý là cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với vấn đề đổi

mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay [119], nhà xuất bản Chính

trị quốc gia Sự thật. Sách khẳng định trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện

20

giáo dục hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có ý nghĩa hết sức quan

trọng, là kim chỉ nam định hướng cho sự phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo

của Việt Nam. Từ đó, công trình đi sâu phân tích thực trạng, đề xuất phương

hướng, nội dung, giải pháp vận dụng tư tưởng của Người vào đổi mới giáo dục

Việt Nam hiện nay.

Bên cạnh đó là không ít các sách thuộc nhóm sách biên niên hoặc sưu

tầm, tuyển chọn các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đào

tạo, các bài viết của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các học giả, các chuyên gia

nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Có thể kể đến: Bách khoa thư Hồ

Chí Minh Sơ giản [76], giới thiệu một số bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về

giáo dục; tập hợp các bài viết, các đoạn trích của các nhà nghiên cứu tư tưởng

Hồ Chí Minh về giáo dục và quá trình vận dụng tư tưởng của Người vào thực

tiễn giáo dục; vận dụng tư tưởng của Người thông qua một số môn học. Một số

cuốn sách như Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo do Lê Văn Tích và Nguyễn Thị

Kim Dung biên soạn [133]; Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập do Vũ

Kim Yến, Nguyễn Văn Dương biên soạn [164] cơ bản đều đi vào trình bày

những quan điểm về giáo dục - đào tạo, các bài viết về tư tưởng giáo dục, sự

nghiệp giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giới thiệu biên niên hoạt động của

Người với ngành giáo dục - đào tạo.

Một cuốn sách ra đời với mục đích phục vụ công tác học tập, nghiên cứu,

thông tin tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến những quan điểm cơ bản

của Người về giáo dục - đào tạo, góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục - đào tạo

nước ta ngày càng phát triển, đáp ứng yêu cầu của tình hình cách mạng mới,

đồng thời thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: phải làm cho dân tộc

Việt Nam trở thành một dân tộc thông thái. Đó là cuốn Bác Hồ với sự nghiệp

giáo dục đào tạo [34]. Trong 4 phần, thì phần 1 (Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo

dục đào tạo) và phần 2 (Công tác giáo dục, đào tạo trong sự nghiệp đổi mới theo

tư tưởng Hồ Chí Minh), đã cung cấp nhiều tư liệu, bài viết của nhiều tác giả về

tư tưởng giáo dục của Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng đó vào việc đổi mới

giáo dục - đào tạo Việt Nam trong giai đoạn mới.

21

Ngoài ra, liên quan đến tư tưởng và hoạt động giáo dục của Hồ Chí Minh

còn thu hút rất nhiều tác giả, thể hiện qua một số luận văn như: Vận dụng tư

tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục -

đào tạo trong các trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ở Ninh Bình hiện

nay, luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học của Hoàng Diệu Thúy, Hà Nội, 2007;

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào việc đổi mới giáo dục cao đẳng

ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học của Lê

Thị Thanh Hoa, Hà Nội, 2008; Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược

“trồng người” vào đào tạo, rèn luyện sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên

truyền trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học của Lê Thị

Thúy Bình, Hà Nội, 2011.

Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề lý luận và

thực tiễn khi xây dựng XHHT được thể hiện trong một số Hội thảo, có thể kể

đến như: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục”, năm 2003 do Bảo

tàng Hồ Chí Minh và Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức; “Chủ tịch Hồ Chí Minh

- một tầm nhìn chiến lược về giáo dục và sư phạm” năm 2010, do Đại học Sư

phạm Hà Nội tổ chức; “Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

qua những bức thư của Người gửi cho ngành giáo dục”, năm 2013 do Đại học

Sư phạm Hà Nội tổ chức... Tiếp tục làm sáng tỏ hơn những tư tưởng vượt trước

của Hồ Chí Minh về XHHT, Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam phối hợp

với Viện nghiên cứu xây dựng XHHT tỉnh Sơn La đã tổ chức Hội thảo với chủ

đề “Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp - Những tư tưởng lớn về

xây dựng xã hội học tập” [148]. Hội thảo được nhiều nhà nghiên cứu tham gia

viết báo cáo chuyên đề, báo cáo tham luận. 15 bản tham luận; báo cáo được in

trong Kỷ yếu đều đề cập đến những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí

Minh về giáo dục và học tập suốt đời. Các tác giả đều đánh giá: Hồ Chí Minh,

Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp là những đại thụ trong nền giáo dục nước

nhà, và đã để lại dấu ấn đậm nét đến sự nghiệp giáo dục ở Sơn La, một vùng đất

miền núi giàu đẹp nhờ vào sự tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa mạnh mẽ

và bền vững.

22

Đề cập đến cách thức giáo dục và học tập trong quan điểm Hồ Chí Minh,

đáng chú ý nhất là Luận án Tiến sĩ giáo dục học của Võ Văn Nam với đề tài: “Tư

tưởng tự học của Hồ Chí Minh và biện pháp nâng cao việc tự học cho sinh viên

Đại học Sư phạm” [106]. Khác với các công trình khác, luận án lại nghiên cứu tư

tưởng Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của một nhà giáo dục học. Nội dung chủ yếu

đề cập đến là tự học - một thành tố của giáo dục nói chung và học tập suốt đời

nói riêng. Trên cơ sở giáo dục học, tác giả đã khái quát tư tưởng, tấm gương tự

học của các vĩ nhân trong lịch sử Việt Nam và thế giới; Khẳng định vai trò của

tự học đối với thành công của các vĩ nhân đó; Tìm hiểu thực trạng nhận thức tư

tưởng Hồ Chí Minh trong sinh viên Đại học Sư phạm. Tác giả cũng đã phân tích

và bước đầu hình thành hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung

và đi sâu vào phân tích hệ thống hóa tư tưởng tự học của Người, vận dụng tư

tưởng đó vào việc nâng cao việc tự học cho sinh viên Đại học sư phạm. Như

vậy, riêng về luận án tiến sĩ nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT và vận

dụng vào một địa phương cụ thể dường như chưa có công trình nào đi sâu về vấn

đề này.

Liên quan trực tiếp đến việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT

chủ yếu là những bài viết, trao đổi của các tác giả trên các tạp chí. Tiêu biểu là

bài viết của một số tác giả:

Lê Hoàng Yến với bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội học tập”, tạp chí

Đông Nam Á, số 6/2005 [163], trình bày khái quát những định hướng của Hồ

Chí Minh trong việc xóa bỏ nạn dốt, hướng tới “ai cũng được học hành”.

Nguyễn Kỳ: “Học, làm, sống - ba trong một và xây dựng xã hội học tập

theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, tạp chí Phát triển giáo dục, số 6/2005 [70], chỉ ra

ba động cơ và cách thức xây dựng XHHT theo quan điểm Hồ Chí Minh.

Đặng Quốc Bảo, Đinh Thị Minh Tuyết: “Bác Hồ - người khai sáng cho tư

duy và chiến lược hành động xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam”, tạp chí Khoa

học giáo dục, số 68/2010 [14], cho thấy những chỉ dẫn chiến lược của Hồ Chí

Minh trong cả tư duy và hành động để xây dựng XHHT.

23

Thái Xuân Đào: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội học tập”, tạp chí Giáo

dục, số 87/2004 [41], trình bày quan niệm khái quát về xã hội học tập dưới cách

nhìn của Hồ Chí Minh.

Nguyễn Quang Uẩn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề học tập”, Tạp chí

Dạy và Học ngày nay, số 5/2010 [150], cho người đọc thấy tư tưởng có tính chất

định hướng của Hồ Chí Minh về vấn đề học tập.

Như vậy, xây dựng XHHT theo quan điểm Hồ Chí Minh là một nội dung

mới, nằm trong tổng thể và là một bộ phận hết sức quan trọng của tư tưởng Hồ

Chí Minh về giáo dục. Hướng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và

vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã cho ra đời nhiều công trình,

trong đó có nhiều công trình, bài viết rất chất lượng. Riêng hướng nghiên cứu tư

tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT thì gần như còn bỏ ngỏ và có rất ít các

công trình tầm cỡ. Cũng vì thế mà vấn đề này thường chỉ chiếm phần dung

lượng nhỏ trong các chuyên khảo nghiên cứu tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh,

hoặc chỉ là những bài nghiên cứu, trao đổi đăng trên các tạp chí. Điều này làm

cho tác giả trong quá trình hoàn thành luận án vừa phải nghiên cứu tổng thể tư

tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, vừa phải nghiên cứu, chắt lọc những nội dung cần

thiết liên quan đến đề tài. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống tư tưởng

Hồ Chí Minh về XHHT và định hướng đối với hiện thực xây dựng XHHT ở

nước ta hiện nay cần được lưu tâm hơn nữa.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về giáo dục Hải Phòng và xây dựng

xã hội học tập ở Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Hải Phòng là địa phương quan trọng nằm trong chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước. Ngay từ lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành

cho Hải Phòng sự quan tâm sâu sắc ở nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực giáo

dục.

Nghiên cứu về lịch sử giáo dục Hải Phòng là cuốn sách của tác giả

Nguyễn Trọng Lô Sơ thảo lịch sử giáo dục Hải Phòng (939 - 6/1995) [81]. Từ

việc nghiên cứu giáo dục Hải Phòng trong nhiều thời kỳ, sách giúp cho các thế

hệ thầy giáo, cô giáo, các thế hệ học sinh và nhân dân thấy được vai trò của giáo

24

dục trên địa bàn Hải Phòng qua các thời kỳ lịch sử, từ đó tích cực góp phần là

cho sự nghiệp “trồng người” phát triển mạnh mẽ, đáp ứng yêu cầu “nâng cao dân

trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” của thành phố trong giai đoạn mới. Đó

cũng chính là sự cụ thể hóa lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vì lợi ích trăm

năm thì phải trồng Người.

Tiếp tục nghiên cứu giáo dục Hải Phòng là cuốn Giáo dục và đào tạo Hải

Phòng, 60 năm xây dựng và phát triển (1955 - 2015) [122]. 60 năm là cả một

chặng đường đối với một nền giáo dục được cách mạng soi đường. Thực tiễn

công cuộc xây dựng và phát triển giáo dục - đào tạo Hải Phòng trong 60 năm đã

khẳng định sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với

công tác giáo dục, đào tạo nơi đây, đồng thời cũng ghi nhận sự cố gắng, năng

động, sáng tạo để tạo nên những thành tích nổi bật về giáo dục của các thế hệ

thầy, cô giáo, các thế hệ học sinh, sinh viên và nhân dân thành phố Hoa phượng

đỏ. Bên cạnh những thành tựu đó, thì tình trạng chưa theo kịp sự đổi mới, hội

nhập khu vực, quốc tế của thành phố, của đất nước và những tồn tại, yếu kém

nội tại của toàn ngành chưa được khắc phục một cách căn bản. Tất cả những nội

dung trên đều được phản ánh trong cuốn sách.

Nghiên cứu về tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Hải Phòng và Hải

Phòng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đáng chú ý là 3 cuốn sách.

Cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh với đảng bộ và nhân dân Hải Phòng do

Thành ủy Hải Phòng xuất bản năm 2000 [130]. Cuốn sách ra đời nhân kỷ niệm

110 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 45 năm ngày giải phóng Hải

Phòng. Sách tập hợp những bài nói, bài viết, thư, điện mừng của Bác đối với Hải

Phòng và ghi lại những hình ảnh của Người khi về thăm Hải Phòng, hình ảnh

các cá nhân tiêu biểu trong sản xuất và chiến đấu, học tập được vinh dự chụp ảnh

cùng với Người. Đọc sách, chúng ta thấy rõ tư tưởng xuyên suốt mà Người căn

dặn, nhắc nhở cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố Hải Phòng là: Chăm lo

xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, đoàn kết, dân chủ, lao động sáng tạo,

quyết tâm phấn đấu đưa thành phố phát triển... Trách nhiệm đó không nằm ngoài

nhiệm vụ của ngành giáo dục, đào tạo.

25

Về tình cảm của Bác Hồ đối với Hải Phòng và Hải Phòng đối với Bác có

cuốn Hải Phòng làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Hải

Phòng ra đời năm 2015 [131]. Cuốn sách gồm hai phần: Chủ tịch Hồ Chí Minh

với Hải Phòng và Hải Phòng làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phần

thứ nhất tập trung phản ánh tình cảm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua 9

lần Người về thăm, làm việc, nói chuyện với Đảng bộ, chính quyền, quân và dân

Hải Phòng; qua những bài viết, bài báo của Người về Hải Phòng, thư của Người

gửi cán bộ, chiến sỹ và đồng bào Hải Phòng. Đồng thời, phân tích làm rõ và

thống nhất nhận thức về giá trị tư tưởng, lý luận những lời dạy của Chủ tịch Hồ

Chí Minh với Hải Phòng, giá trị khoa học của di sản Hồ Chí Minh với Hải

Phòng. Phần thứ hai tập trung tổng kết những thành tựu của Đảng bộ, quân và

dân thành phố Hải Phòng thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các

cuộc kháng chiến chống các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược, góp phần giải

phóng thành phố, giải phóng và thống nhất đất nước; trong sự nghiệp xây dựng,

bảo vệ và phát triển thành phố. Cuốn sách cũng ghi nhận những kết quả thực

hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các địa phương, cơ quan, đơn vị vinh

dự được Người trực tiếp về thăm, trong đó có ngành giáo dục.

Tiếp tục nói về tình cảm thiêng liêng của Bác Hồ dành cho Hải Phòng là

công trình Thư mục địa chí toàn văn: Bác Hồ trong lòng nhân dân Hải Phòng

do Sở Văn hóa thể thao & du lịch Hải Phòng kết hợp với Thư viện khoa học

tổng hợp thành phố ấn hành [123], nhân kỷ niệm 70 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh

về thăm Hải Phòng (20/10/1946 - 20/10/2016). Thư mục gồm 3 phần, tiếp tục

khẳng định tình cảm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thành phố và

quyết tâm của quân, dân thành phố cảng nguyện làm theo lời dạy của Người.

Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu kể trên đều trực tiếp hoặc

gián tiếp đề cập đến vấn đề XHHT và xây dựng XHHT theo tư tưởng Hồ Chí

Minh. Những công trình lý luận chung về XHHT thường là sản phẩm dày công

sưu tầm, nghiên cứu của các giáo sư, tiến sĩ đầu ngành trong lĩnh vực khoa học

giáo dục với nguồn tài liệu tham khảo phong phú, cả trong và ngoài nước. Còn

đối với vấn đề XHHT trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì hầu khắp các công trình

26

mới chỉ dừng lại ở những bài báo, tạp chí. Liên quan đến đề tài xây dựng XHHT

ở Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì cho đến nay chưa có một công trình

nào đề cập tới. Đây là thuận lợi nhưng cũng là khó khăn rất lớn của tác giả trong

quá trình xây dựng và hoàn thiện luận án.

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN

ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.2.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu

Qua nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án,

tác giả đã được cung cấp và tiếp thu nhiều tri thức khoa học và phương pháp

nghiên cứu có giá trị quan trọng về những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí

Minh về giáo dục nói chung và về XHHT nói riêng. Đây chính là những công

trình nghiên cứu cơ bản về lý luận và thực tiễn của các nhà khoa học, đã gợi mở

và định hướng cho tác giả nhằm thực hiện luận án của mình.

Từ tổng quan tình hình nghiên cứu có thể rút ra được một số kết quả liên

quan đến đề tài nghiên cứu như sau:

Một là, các cuốn sách và các bài viết đăng trên tạp chí chủ yếu nghiên

cứu, làm rõ được những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục:

vai trò, nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục. Các tác giả đã phân tích

được những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là một nhà giáo

dục vĩ đại cho nền giáo dục Việt Nam. Các tác giả cũng đã nêu được những vấn

đề liên quan việc Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục từ thời kỳ

đổi mới đến nay.

Hai là, các công trình nghiên cứu trên đã phần nào chỉ ra được một số vấn

đề chung của giáo dục Việt Nam hiện nay: thực trạng của giáo dục Việt Nam,

những tồn tại, hạn chế cũng như những thời cơ, thách thức đến với giáo dục Việt

Nam trong thời gian tới. Đó là yêu cầu tất yếu đưa tới sự đổi mới căn bản và toàn

diện nền giáo dục nước nhà.

Ba là, một số công trình đã phác họa được mô thức xây dựng XHHT ở

Việt Nam trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng và thấm nhuần tư tưởng Hồ

Chí Minh, trang bị cho người đọc những hiểu biết cơ bản về XHHT, như quan

27

niệm, mô hình, giải pháp và kinh nghiệm xây dựng XHHT ở các nước. Đó là

những hành trang lý luận quý báu để từng bước hiện thực hóa mô hình XHHT ở

Việt Nam.

Với tinh thần cầu thị, tác giả luận án có sự tham khảo nghiêm túc, đồng

thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của các nhà khoa học, lấy đó

làm những gợi ý quan trọng phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hoàn thiện

luận án.

1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy vấn đề XHHT và xây dựng

XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được một số nhà khoa học quan tâm

nghiên cứu. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số vấn đề chưa được đi sâu nghiên

cứu, làm rõ:

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT vẫn

dựa trên nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và là một khía

cạnh nhỏ trong tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh. Chưa có một công trình

nghiên cứu độc lập tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT.

Thứ hai, chưa có công trình nào chỉ ra những nhân tố tác động vào quá

trình xây dựng XHHT của Hải Phòng, cũng như đánh giá khách quan thực trạng

giáo dục nói chung và xây dựng XHHT nói riêng của thành phố trong suốt

những năm qua.

Thứ ba, chưa có công trình nào đề ra những yêu cầu và giải pháp xây

dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chính vì vậy, vấn đề mà tác giả luận án lựa chọn “Xây dựng xã hội học

tập ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” là mới mẻ, cần thiết,

vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cũng như không trùng với các

công trình nghiên cứu đã được công bố.

Trên cơ sở thành tựu của các công trình đi trước, nắm bắt hạn chế, tồn tại

xung quanh vấn đề nghiên cứu cũng như bám sát đối tượng, mục đích, nhiệm vụ

nghiên cứu về xây dựng XHHT hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, luận án

cần tiếp tục giải quyết một số vấn đề sau:

28

Một là, xây dựng định nghĩa khoa học cho các khái niệm: XHHT, xây

dựng XHHT, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT.

Hai là, làm rõ lý luận chung về XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh với

các khía cạnh về vị trí, vai trò của XHHT; nội dung xây dựng XHHT, mô

hình xây dựng XHHT, chủ thể xây dựng XHHT và phương pháp xây dựng

XHHT; cùng với đó là những chỉ đạo thực tiễn của Người nhằm xây dựng

XHHT ở nước ta.

Ba là, phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải Phòng,

chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó,

những vấn đề đặt ra đối với xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay theo tư

tưởng Hồ Chí Minh.

Bốn là, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện

nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tiểu kết chương 1

Ở chương 1, luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu các công trình bao

gồm đề tài khoa học, sách chuyên khảo, luận án, kỷ yếu, các bài viết trên báo,

tạp chí... hay các công trình nghiên cứu khoa học khác. Từ những công trình đó,

tác giả tiếp nhận, hệ thống và khái quát hóa thông tin liên quan đến đề tài; phân

tích và đưa ra nhận xét những khía cạnh đã nghiên cứu về đề tài để thấy được:

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản quý giá và phong phú về

giáo dục, trong đó có vấn đề xây dựng XHHT. Tư tưởng này được phát triển

mạnh mẽ và liên tục từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945; được cụ thể hóa

bằng các chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước như: BDHV,

BTVH, phổ cập giáo dục tiểu học và ngày nay đang tiến tới phổ cập giáo dục

trung học cơ sở cho toàn dân. Thông qua tổng quan cho thấy, vấn đề này vẫn còn

nhiều nội dung chưa được nghiên cứu sâu, chưa được đề cập tới, từ đó đặt ra cho

luận án nhiệm vụ cần tiếp tục nghiên cứu. Với khối lượng tài liệu có chất lượng

khoa học và thực tiễn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu chuyên sâu, tác giả cho

rằng luận án có giá trị khoa học và khả năng thực hiện.

29

2. Xã hội học tập đang là mục tiêu và xu thế của các quốc gia trên thế

giới. Quan điểm này được rất nhiều học giả đề cập nhất là từ những năm đầu

của thế kỷ XXI.

3. Hải Phòng cũng như nhiều địa phương khác nằm trong dòng chảy

chung của phong trào đó. Các tài liệu cho thấy, công tác xây dựng XHHT

đang được triển khai, Hải Phòng đã và đang trong quá trình xây dựng XHHT.

Thông qua những nội dung tổng quan nhận thấy vẫn còn có nhiều khía

cạnh liên quan đến đề tài chưa được nghiên cứu sâu, chưa được đề cập tới.

Việc kế thừa các thành quả nghiên cứu của các công trình trước để thực hiện

mục tiêu, nhiệm vụ của luận án là hết sức quan trọng và cần thiết. Đây là cơ

sở quan trọng giúp tác giả đi sâu nghiên cứu, giải quyết những vấn đề của

luận án đặt ra.

30

Chương 2

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP -

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

2.1.1. Khái niệm Xã hội học tập

XHHT được xem là một xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của các

quốc gia trên thế giới. Đó là đòi hỏi của cách mạng công nghệ và nền kinh tế tri

thức, cũng là đòi hỏi của sự phát triển con người bền vững trong thời đại mới.

Nhiều nghiên cứu về XHHT đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây.

Thực tế có nhiều quan điểm khác nhau về XHHT.

Trên thế giới, một trong những quan điểm được chú ý là quan điểm của

Richard Edwards. Ông đưa ra định nghĩa mới về XHHT như sau:

1) XHHT là xã hội chuyên về giáo dục, đảm bảo tự do và cơ hội như nhau

về học tập. Thực hiện giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời. Mục đích của

nó là cung cấp cơ hội học tập cho người lớn nhằm đáp ứng những thách thức của

những thay đổi và quyền công dân.

2) XHHT là thị trường học tập cho phép các thể chế giáo dục cung cấp

dịch vụ cho các cá nhân nhằm hỗ trợ sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nó nhấn

mạnh tới quá trình học tập suốt đời. Mục đích là nhằm phát triển thị trường bao

gồm các cơ hội học tập để đáp ứng đòi hỏi nâng cao năng lực và kỹ năng của

người lao động.

3) XHHT là xã hội trong đó người học chấp nhận phương pháp học suốt

đời, dựa trên nhiều nguồn lực nhằm giúp họ có được những thông lệ về phong

cách sống. Xã hội coi quá trình học tập suốt đời như một điều kiện của các cá

nhân trong giai đoạn hiện hành mà các chính sách cần đáp ứng.

Theo quan điểm của UNESCO, XHHT có 7 đặc trưng nổi bật sau:

1) Mọi người đều được học, học thường xuyên, học suốt đời;

2) Toàn bộ môi trường xung quanh đều có thể tạo ra cơ hội học tập và

phát huy tài năng của mỗi người;

31

3) Con người được tiếp nhận trình độ giáo dục cơ bản để học tập và tự

hoàn thiện;

4) Nhà trường mang lại cho mọi người lòng mong muốn và sự hào hứng

được học tập với năng lực “học cách học” và với sự tò mò trí tuệ;

5) Mỗi cá nhân đều có thể lần lượt làm người dạy và làm người học;

6) Xã hội dựa trên thành tựu, cập nhật và ứng dụng tri thức;

7) Người học trở thành những nhà nghiên cứu, còn người dạy, dạy cho

người học cách đánh giá và quản lý những thông tin mà họ được cung cấp.

Ở Việt Nam hiện nay có ba cách tiếp cận chính về nghiên cứu XHHT:

Thứ nhất là, đi từ vấn đề kinh tế tri thức mà đề xuất những đổi mới nền giáo

dục, trong đó nội dung cốt lõi là xây dựng XHHT. Nằm trong hướng tiếp cận này

là một số học giả như Phạm Tất Dong, Phan Đình Diệu, Đặng Mộng Lân, Phạm

Hồng Tiến... Từ sự biến đổi tất yếu của nền kinh tế tri thức, các tác giả khẳng định

phải tiến hành một con đường mới cho giáo dục Việt Nam, như là: Phổ cập giáo

dục ở bậc cao; Phổ cập công nghệ thông tin; Phổ cập ngoại ngữ...

Thứ hai là, tiếp cận vấn đề nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại

hóa trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu phải xây dựng XHHT. Một

số học giả theo hướng này như Đặng Ngọc Dinh, Vũ Ngọc Hải.

Thứ ba là, xuất phát từ việc phát triển những khoa học cụ thể, những

ngành sản xuất trực tiếp mà nhà nghiên cứu nói đến một cuộc cải cách giáo dục

theo hướng xây dựng XHHT. Các học giả đi theo hướng này như Tô Bá Trượng,

Nguyễn Như Ất, Hoàng Minh Luật, Thái Thị Xuân Đào, Nguyễn Công Giáp...

Trên cơ sở những hướng nghiên cứu đó, các học giả của Việt Nam cũng

đưa ra quan điểm của mình về XHHT.

Theo tác giả Vũ Oanh, XHHT là một xã hội vì người học, của người học,

do người học, lấy người học và việc học suốt đời làm trung tâm.

Theo tác giả Phạm Minh Hạc, thì XHHT là một xã hội mọi người đều lấy

học tập là một công việc thường xuyên, suốt đời, học trong nhà trường và học

ngoài nhà trường, chính quy và không chính quy, như là một phần không thể

thiếu được của đời mình, lấy học tập là phương pháp tiếp cận (cách nhìn, cách

32

xử lý) của cuộc sống nhằm phát triển con người bền vững, động lực cho toàn bộ

sự tiến bộ xã hội. Với cách hiểu như vậy, XHHT không xa lạ với chúng ta. Đó là

Truyền bá chữ quốc ngữ (từ 1938), BDHV (từ 8/9/1945), BTVH (từ 1956), và

ngày nay là GDTX (từ 1991), Giáo dục cho mọi người (từ 1990), thập kỷ chống

nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học (1990 - 2000), thập kỷ phổ cập trung

học cơ sở (2001 - 2010) với tư tưởng “mù gì xóa nấy” - mù chữ thì học chữ, mù

máy tính thì học máy tính, mù khoa học phổ thông phục vụ sản xuất thì theo học

các lớp chuyên đề về sản xuất, các câu lạc bộ phổ biến kiến thức, v.v...

Tác giả Nguyễn Viết Sự lại xem xét khái niệm XHHT từ nội dung và các

tiêu chí của nó. Theo đó, khái niệm XHHT được tác giả đề cập: Ở cấp độ quốc

gia, là quan điểm, định hướng và chính sách đảm bảo cho mọi người có quyền,

có điều kiện học tập để phát triển phẩm chất và năng lực của bản thân. Ở cấp độ

cá nhân, trong xã hội cần thấm nhuần trong nhận thức và hành động về việc học

tập để hiểu biết, để làm việc, để tồn tại và để chung sống với cộng đồng. Mỗi

người phải sẵn sàng học tập, thường xuyên học tập với quan điểm luân phiên,

nối tiếp về đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng.

Tác giả Tô Bá Trượng bước đầu đưa ra định nghĩa về XHHT: XHHT là

một xã hội mà ở đó ai cũng học tập, học ở mọi lứa tuổi, mọi lúc, mọi nơi. Mọi

hiện tượng, sự kiện, hoạt động... đều có thể là đối tượng, nội dung học tập, tùy

theo sự quan tâm của người học. Phương pháp học cũng rất đa dạng, nhưng lấy tự

học làm chính. Tùy theo điều kiện cụ thể của người học, có thể học ở trường, lớp

hay trong cuộc sống, lao động, giao tiếp, giải trí... và bằng mọi phương tiện thông

tin, giao lưu, nối mạng trong và ngoài nước. XHHT chứa đựng ý tưởng về giáo

dục suốt đời, học tập suốt đời, mà cốt lõi của học tập suốt đời là học cách học.

Theo tác giả Phạm Tất Dong, trong XHHT, mỗi con người phải được giáo

dục thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập suốt đời, lấy sự học hỏi làm lẽ sống

của mình. Mỗi người đều có nhiều cơ hội học tập: học tập ở trường, học tập

trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa, do đó, hệ thống giáo dục không chỉ bó

hẹp trong các loại hình trường, mà còn trong các hình thức học ngoài nhà

trường. Đó là hệ thống giáo dục mềm dẻo, tạo ra sự đa dạng của các ngành học,

33

của các hình thức học, về những kênh liên thông giữa các loại hình giáo dục

khác nhau.

Tác giả Nguyễn Minh Đường cho rằng, XHHT là một xã hội mà mọi lứa

tuổi đều học, mọi loại hình lao động đều học, học một cách tự nguyện, học

thường xuyên, học suốt đời, học bằng nhiều hình thức để có thể lao động và

sống trong một xã hội đang không ngừng biến đổi của quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước dưới tác động của khoa học - công nghệ, làm tiền đề

cho việc bước sang một xã hội tri thức.

Tác giả Nguyễn Ngọc Phú thì khẳng định, XHHT là xã hội khuyến học -

một môi trường học tập trong đó việc học đã vượt ra khỏi giới hạn của môi trường

giáo dục chính quy, mọi người đều coi việc học là suốt đời, say sưa tiếp cận tri

thức hiện đại của thế giới và vận dụng sáng tạo vào cuộc sống. Tác giả cho rằng

trong XHHT, kinh tế tri thức là cơ sở hạ tầng, là biểu hiện tập trung của XHHT.

Nhu cầu học tập, nhu cầu được học phải trở thành nét đặc trưng của xã hội này,

không chỉ xuất hiện ở các cá nhân riêng lẻ mà thể hiện ở các thiết chế xã hội.

Tác giả Nguyễn Mạnh Cầm cho rằng, khái niệm XHHT gần với khái

niệm xã hội trí thức, xã hội thông tin, trong đó con người được đặt và vị trí trung

tâm, được tạo điều kiện để hoàn thiện nhân cách, phát triển bền vững, thúc đẩy

kinh tế xã hội phát triển. Đó là một xã hội mà mọi người, không kể già trẻ, gái

trai, giàu nghèo, cương vị công tác... đều bình đẳng trong học tập, lấy tự học làm

phương thức cơ bản.

Như vậy, mỗi học giả đều diễn đạt khái niệm XHHT theo những cách

hiểu khác nhau. Dù được hiểu hay định nghĩa theo cách nào, thì trong nội hàm

của XHHT phải bao gồm các đặc điểm sau:

Thứ nhất, XHHT đề cao giá trị học tập, đặt việc tự học, học tập suốt đời

vào trung tâm và là yếu tố cốt lõi của nhân cách; “Học ăn, học nói, học gói, học

mở” để nâng cao kỹ năng sống cho mỗi cá nhân và cộng đồng, thực hiện mục

tiêu của thời đại: Học để biết, để làm, để chung sống và học để tồn tại.

Thứ hai, XHHT có nhiều cơ hội học tập (ở trong trường, ở ngoài nhà

trường cũng như trong các tổ chức, lực lượng xã hội, các tổ chức kinh tế, văn

34

hóa,...). Ở đó, mọi thứ đều là nơi cung ứng những cơ hội học tập và phát huy

tiềm năng con người, để “ai cũng được học hành”, thực hiện “giáo dục cho mọi

người”, mọi người được hưởng sự bình đẳng về cơ hội học tập.

Thứ ba, XHHT là một xã hội đa dạng và phong phú những hình thức học

tập, làm cho mọi năng lực học tập của mỗi cá nhân được phát huy cao độ. Mỗi

cá nhân đi tới tương lai của mình bằng nhiều con đường học tập khác nhau, mỗi

con đường đi lên đều giá trị như nhau và đều tươi đẹp.

Thứ tư, XHHT là một xã hội gắn học với làm, học trong công việc, “cần

gì học nấy”; một xã hội khai thác và phát huy tiềm năng học tập như một “kho

báu” để từng cá nhân quyết định lựa chọn con đường, hình thức học tập, quyết

định mục đích và phương tiện học tập tùy nhu cầu, hoàn cảnh và điều kiện, thích

ứng với cuộc sống cá nhân và xã hội đang biến đổi nhanh chóng.

Thứ năm, XHHT là một xã hội có nền giáo dục đại chúng, chất lượng.

Hệ thống giáo dục mở, mềm dẻo, linh hoạt, thực hiện đồng thời nhiều phương

thức giáo dục: giáo dục chính quy, giáo dục phi chính quy với nội dung chương

trình phong phú đa dạng, đáp ứng được nhu cầu học tập của mọi thành viên

trong xã hội.

Từ sự phân tích trên, tác giả bước đầu đưa ra cách hiểu về XHHT như

sau: XHHT là một xã hội mà mọi người đều coi việc học tập như nhu cầu tự thân

của mình; chủ động và tự giác học tập trong mọi lúc, ở mọi nơi, bằng mọi cách;

được tạo cơ hội để tiếp cận tri thức phù hợp nhất với mình nhằm hướng tới một

văn hóa học tập trong toàn xã hội ấy. XHHT không giới hạn không gian, thời

gian, tri thức và hình thức học tập. Con người trong XHHT đều coi tri thức là

điều kiện để phát triển, lấy học tập là một hoạt động thường xuyên, đặt việc tự

học, học suốt đời làm trung tâm và là yếu tố cốt lõi của từng nhân cách.

Bên cạnh khái niệm XHHT còn có một số khái niệm bộ phận liên quan

mà nhiều người đề cập đến gần đây như thành phố học tập, cộng đồng học tập,

gia đình học tập, công dân học tập. Tất nhiên, từ lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí

Minh chưa nêu lên những khái niệm như vậy nhưng trong những bài nói, bài viết

của Người ít nhiều đều đã đề cập đến.

35

2.1.2. Khái niệm Xây dựng xã hội học tập

Theo Từ điển Tiếng Việt, “xây dựng” là động từ, nghĩa là làm, dựng lên

[156, tr.1008]. Theo cách dùng của người Việt, khái niệm “xây dựng” có thể

được dùng để tạo nên những vật chất hữu hình (như xây dựng nhà cửa, xây dựng

công trình công cộng, xây dựng cầu cống...). “Xây dựng” cũng được dùng với

nghĩa tạo lập nên một mô hình nào đó (như xây dựng gia đình, xây dựng hệ

thống kinh doanh...). Cao hơn, “xây dựng” có thể được hiểu là làm cho hình

thành một chỉnh thể chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội (xây dựng đất nước, xây

dựng cơ đồ...). Dù kết quả xây dựng để tạo nên những giá trị hữu hình hay vô

hình thì điểm chung của nó là đều mang tính chủ động, có phương hướng hoặc

kế hoạch nhất định. Nó nhấn mạnh vào vai trò của chủ thể (người đi xây dựng)

hơn là khách thể (cái được xây dựng).

Qua phân tích ở trên, tác giả cho rằng:

Xây dựng XHHT là quá trình tạo nên một XHHT cho cộng đồng, tạo ra

cho họ những cơ hội học tập và bảo đảm những điều kiện tốt nhất để mọi người

dân đều được tiếp cận tri thức, phục vụ cho chính sự phát triển của xã hội đó.

Trách nhiệm xây dựng XHHT thuộc về chính quyền và mọi người dân. Nó đòi

hỏi phải có mục tiêu, có chiến lược, có biện pháp cùng như những cơ chế chính

sách cần thiết để đảm bảo cho sự hình thành và tồn tại của XHHT.

Nội hàm của xây dựng XHHT bao gồm:

Thứ nhất, mọi công dân đều phải học tập suốt đời để trở thành người

lao động có nghề, có năng suất lao động cao để cải thiện cuộc sống bản thân,

làm giàu cho gia đình và cho cộng đồng, đóng góp xây dựng xã hội ấm no,

hạnh phúc.

Thứ hai, mọi công dân, mọi gia đình, dòng họ, mọi cộng đồng dân cư, và

xã hội đều có trách nhiệm tạo cơ hội và điều kiện để ai cũng được học hành, ai

cũng thực hiện được nhiệm vụ học tập suốt đời, bảo đảm mọi người đều bình

đẳng, được công bằng về giáo dục.

Thứ ba, phải có định hướng và kế hoạch xây dựng XHHT và những điều

kiện đảm bảo cho XHHT như xây dựng một hệ thống giáo dục để phục vụ việc

36

học tập suốt đời của người dân, cơ chế chính sách, cơ sở hạ tầng, văn hóa học

tập... của người dân trong xã hội đó.

Như vậy, mọi cá nhân đều có trách nhiệm học cho bản thân và cho người

xung quanh, học để góp phần phát triển quê hương, đóng góp cho đất nước và

nhân loại. Mọi cơ quan, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang, cộng

đồng dân cư và gia đình đều phải cung ứng các cơ hội học tập để mọi người học

tập suốt đời. Xây dựng XHHT dựa trên nền tảng phát triển đồng thời, có sự liên

kết giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy, đẩy mạnh giáo dục thế hệ

trẻ, đồng thời huy động và quy định chặt chẽ việc học của người lớn.

2.1.3. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội học tập

Về khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ XI đưa ra định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: “Tư tưởng Hồ

Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ

bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ

nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá

trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản

tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường

cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” [38, tr.88].

Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có

nhiều bài phát biểu, bài viết về vấn đề học tập và xây dựng XHHT. Người không

những chủ trương phải học tập suốt đời mà còn mong muốn tất cả mọi người

đều được học, thực hiện bình đẳng trong giáo dục. Năm 1946, Hồ Chí Minh đã

từng phát biểu: Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho

nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng

có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Những việc làm đầu tiên của Chủ

tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ngay sau Cách mạng Tháng Tám đã từng bước

hiện thực ham muốn đó. Người đã chỉ đạo toàn dân thực hiện xóa nạn mù chữ,

tiến hành phổ cập giáo dục qua các phong trào BDHV, khơi dậy một không khí

học tập sôi nổi trong dân: Chồng biết thì bảo vợ, anh biết thì dạy em... Như vậy

từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã có quan niệm và bước đầu bắt tay xây dựng một xã

37

hội đem lại sự học tập và giáo dục cho mọi người dân, để “ai cũng được học

hành”. Cùng với quan điểm đó, là một loạt những chỉ đạo thực tiễn của Hồ Chí

Minh trong việc xây dựng XHHT ở nước ta, đặc biệt là ngay sau khi Cách mạng

Tháng Tám thắng lợi, cho đến khi Người qua đời.. Người đã kêu gọi mọi người,

đặc biệt là cán bộ, quân nhân phải ra sức học tập và học tập suốt đời bởi vì việc

học là không bao giờ cùng, học mãi để tiến bộ mãi, càng tiến bộ càng thấy cần

phải học thêm. XHHT theo Hồ Chí Minh là xã hội được phổ cập nền giáo dục

cách mạng, là xã hội mang sự học đến cho tất cả mọi người, là tất cả mọi người

có cơ hội và trách nhiệm như nhau trong việc học và học suốt đời.

Rõ ràng, dù thời điểm Hồ Chí Minh sống, Người chưa một lần đề cập đến

cụm từ XHHT, nhưng từ những quan điểm và chỉ đạo thực tiễn giáo dục của Hồ

Chí Minh đã nói lên tư tưởng lớn của Người về xây dựng XHHT ở Việt Nam.

Thậm chí, tư tưởng lớn này của Người còn đi trước cả thế giới vài thập kỷ khi

mà mãi đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, UNESCO mới đề cập tới.

Từ sự phân tích và từ những khái niệm nền tảng trên, tác giả bước đầu đưa

ra khái niệm sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT là hệ thống quan

điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về sự cần thiết xây dựng XHHT, về

nội dung xây dựng XHHT, chủ thể xây dựng XHHT, mô hình xây dựng XHHT và

những phương pháp tiến hành xây dựng XHHT ở Việt Nam.

2.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI

HỌC TẬP

2.2.1. Sự cần thiết xây dựng xã hội học tập

Các Mác đã dẫn theo quan điểm của một nhà triết học: Mỗi một thời đại

xã hội đều cần có những con người anh hùng và vĩ nhân của nó, và nếu không có

những con người như thế thì thời đại sẽ sáng tạo ra những con người như thế.

Thật vậy, các anh hùng và vĩ nhân từ thời cổ đại, trung đại, cận đại đã lần lượt

xuất hiện theo yêu cầu của lịch sử. Họ chính là những người nắm bắt được nhịp

đập của thời đại, giải quyết đúng đắn và kịp thời những vấn đề thời đại đặt ra,

thúc đẩy lịch sử thoát khỏi bế tắc và tiến lên với tốc độ mới. Với trí tuệ, bản lĩnh

38

và tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh chính là vĩ nhân trong bước

ngoặt trọng đại của lịch sử dân tộc.

Hồ Chí Minh sinh ra, lớn lên khi tình hình thế giới và trong nước có nhiều

biến động, đặc biệt về chính trị. Các nước đế quốc mâu thuẫn lớn trong vấn đề

thuộc địa do sự phân chia thị trường không đồng đều, dẫn đến chiến tranh thế

giới; các nước ở Á, Phi, Mỹ la tinh rên xiết dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực

dân, từng bước vùng lên giành độc lập. Ở trong nước, thực dân Pháp tiến hành

công cuộc nô dịch mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó

có nô dịch về giáo dục, nô dịch con người. Chính vì thế, trọng trách cho Hồ Chí

Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng là rất lớn: vừa phải giải phóng dân tộc

Việt Nam, vừa phải xây dựng đất nước, thu hẹp khoảng cách phát triển với các

nước khác. Do đó, ngoài chỉ đạo chiến lược cách mạng, Hồ Chí Minh còn hết

sức quan tâm đến giáo dục, mong muốn đưa nhân dân ta thoát khỏi sự bần hàn

về tri thức và nô dịch con người. Ý thức về việc xây dựng một XHHT ở Việt

Nam đã được Người khởi xướng từ rất sớm.

Trong hành trình khảo cứu các cuộc cách mạng và mô hình các nước trên

thế giới, Hồ Chí Minh sớm nhận thức vấn đề giáo dục có ý nghĩa quyết định đến

vận mệnh của một dân tộc. Không có một dân tộc nào phát triển mà không phát

triển giáo dục. Khi khảo sát vòng quanh thế giới, Người thấy rằng: hầu hết các

nước thuộc địa và kể cả một số nước phụ thuộc đều bị hạn chế rất nặng nề về

giáo dục, bất cập với sự phát triển chung của nhân loại và ngày càng bị khoảng

cách xa vời với văn minh và khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Chủ nghĩa đế quốc đã

dùng chính giáo dục làm công cụ, làm chỗ dựa để nô dịch các dân tộc chịu thiệt

thòi đó.

Ở Việt Nam, thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị

nhân dân ta, làm cho kinh tế ta què quặt, giáo dục ta phiến diện. Hồ Chí Minh đã

lên án gay gắt: "Làm cho dân ngu để dễ trị", đó là chính sách mà các nhà cầm

quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất” [93, tr.108]. Bằng ngòi bút

trào phúng sâu sắc, Người đã vạch trần bộ mặt thật của cái gọi là “khai hoá văn

minh” của thực dân Pháp. Với số lượng rất hạn chế, trường học Pháp lập ra

39

không phải để giáo dục cho thanh niên Việt Nam một nền học vấn tốt đẹp và

chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho

họ “đần độn” thêm. Pháp lập ra trường học để rao giảng sứ mệnh khai hóa văn

minh của Pháp, để đào tạo cho Pháp đội ngũ quan lại tay sai như tuỳ phái, thông

ngôn và viên chức nhỏ... “Vấn đề nào có liên quan đến chính trị, xã hội và có thể

làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi. Có học lịch sử nước

Pháp đi nữa, thì người ta không hề đả động đến chương nói về cách mạng. Người

ta cấm học sinh đọc tác phẩm của Huygô, Rútxô và Môngtexkiơ. Nói tóm lại,

trường học thật là tương xứng với chế độ đã khai sinh ra nó” [91, tr.424-425].

Phát biểu tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Hồ

Chí Minh tiếp tục tố cáo chính sách giáo dục mà Pháp áp dụng ở Đông Dương:

“nhà tù nhiều hơn trường học... Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do

ngôn luận... chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không

có quyền tự do học tập” [91, tr.34-35]. Mục đích của Pháp là ngăn trở sự tiếp cận

tri thức và kéo lùi sự phát triển của các dân tộc Đông Dương.

Trong bài Đông Dương đăng trên Tạp chí Thư tín quốc tế năm 1921, Hồ

Chí Minh đã viết: “Sự thật là người Đông Dương không có một phương tiện

hành động và học tập nào hết... Rượu cồn và thuốc phiện cùng báo chí phản

động của bọn cầm quyền bổ sung cho cái công cuộc ngu dân của Chính phủ.

Máy chém và nhà tù làm nốt phần còn lại” [91, tr.39-40]. Trong "Bản án chế độ

thực dân Pháp" (1925), Nguyễn Ái Quốc tiếp tục dẫn chứng rằng: ở xứ Goa-dơ-

lúp 10.000 trẻ em không có trường học. Tại Angiêri, suốt 94 năm trong số 5 triệu

dân chỉ có 35.000 học sinh được hưởng nền giáo dục nhỏ, còn 695.000 trẻ em

khác phải chịu cảnh thất học. Tại Cao Miên chỉ có 60 trường cho hơn 2 triệu

dân. Còn ở Nam Kỳ (Việt Nam) trong số hơn 2,5 triệu người chỉ có 51.000 em

được đến trường... Như vậy, thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, đất nước ta phải chịu

một nền giáo dục cưỡng bức, phiến diện, một nền giáo dục không nhằm mang lại

sự học hành và phát triển toàn diện cho người dân. Có thể nói chế độ thực dân

phản động đã tìm mọi cách kìm giữ dân tộc Việt Nam trong vòng tăm tối, dốt nát

để dễ bề thống trị.

40

Do vậy, gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc, tự do và

hạnh phúc của nhân dân, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng cuộc đấu tranh mở

mang, nâng cao trình độ dân trí nhân dân. Người là chiến sĩ tiên phong trên mặt

trận diệt dốt. Ngay sau Ngày Độc lập, Hồ Chí Minh đã coi nhiệm vụ diệt giặc

dốt cũng là nhiệm vụ chiến lược, mở đầu thời kỳ xây dựng XHHT của nhà

nước cách mạng. Người khẳng định: “Nạn dốt là một trong những phương

pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Một dân tộc dốt là một

dân tộc yếu” [94, tr.7].

Đây là sự đúc kết những khảo nghiệm quý báu mà Hồ Chí Minh có được

cả trước và trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Có thể hiểu như thế

này: Một dân tộc dốt là một dân tộc nghèo nàn về tri thức, thua kém về trí tuệ,

không thể hoặc không biết cách để làm giàu vốn hiểu biết của mình, cũng

không thể hoặc không biết cách đưa dân tộc mình tiến lên. Dân tộc yếu là dân

tộc bị thua thiệt về vị trí, thậm chí thụt lùi về khoảng cách phát triển với các

dân tộc khác.

Hồ Chí Minh coi một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, bởi sự dốt nát, nghèo

nàn về tri thức cũng là một kẻ địch. Kẻ địch này câu kết cùng giặc ngoại xâm

chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám

1945 thành công, đồng thời với cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm và “giặc

đói”, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, Chính phủ chỉ đạo toàn dân khẩn

trương diệt “giặc dốt”. Người kêu gọi:

"Quốc dân Việt Nam!

Muốn giữ vững nền độc lập,

Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,

Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của

mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước

nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” [94, tr.40].

Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, nền giáo dục cách mạng non trẻ của

Việt Nam đã góp phần xứng đáng vào công cuộc chấn hưng đất nước, chống thù

trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng - thành quả cách

41

mạng quan trọng nhất, trước những khó khăn, thách thức tưởng chừng không thể

vượt qua. Người giao nhiệm vụ cho các thầy cô giáo: “Bây giờ nhiệm vụ giáo

dục khác trước. Các cô, các chú có nhiệm vụ rất quan trọng: Bồi dưỡng thế hệ

công dân, cán bộ sau này. Làm tốt thì thế hệ sau này có ảnh hưởng tốt. Làm

không tốt sẽ có ảnh hưởng không tốt đến thế hệ sau” [100, tr.344].

Nền giáo dục mới của nước Việt Nam đã định hướng và tạo điều kiện cho

tất cả mọi người không phân biệt giai cấp, giới tính, giàu nghèo, tôn giáo… được

học tập, có điều kiện để phát huy năng lực của mình. Nền giáo dục ấy tạo ra

những thế hệ công dân, cán bộ có đạo đức, có năng lực, có trình độ, có sức khỏe,

kế tục được sự nghiệp cách mạng. Không đâu khác, nền giáo dục đó chính là

phần hiện hữu của XHHT mà chúng ta từng bước xây dựng.

Với Hồ Chí Minh, muốn vậy phải xác định vai trò, ý nghĩa, cũng như mục

đích, động cơ học tập đúng đắn. Hồ Chí Minh đề cập đến mục đích ấy trong lời

ghi ở trang đầu cuốn Sổ vàng tại Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương (nay là

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) vào tháng 9 năm 1949:

"Học để làm việc,

làm người,

làm cán bộ.

Học để phụng sự Đoàn thể,

giai cấp và nhân dân,

Tổ quốc và nhân loại." [96, tr.208]

Trong bài nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn

luyện và học tập ngày 06/5/1950, Người cũng nhấn mạnh:

"a) Học để sửa chữa tư tưởng

b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng

c) Học để tin tưởng

d) Học để hành:…" [96, tr.360-361].

Trong bức thư cuối cùng gửi cho ngành giáo dục nhân dịp khai giảng năm

học 1968 - 1969, một lần nữa, Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục nhằm đào

tạo ra những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta”

42

[100, tr.508]. Như vậy, với Hồ Chí Minh, giáo dục - đào tạo con người trở thành

một chiến lược nhân văn - cách mạng, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải

phóng và phát triển con người. Hồ Chí Minh luôn xác định giáo dục là điểm xuất

phát, là động lực chủ yếu để xây dựng con người nhân văn xã hội chủ nghĩa.

Nếu như XHHT là mô hình, thì giáo dục và tự giáo dục chính là cách thức để

xây dựng mô hình đó.

Có thể nói, thành công của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo sự nghiệp cách

mạng Việt Nam chính là thành công trong việc giáo dục cách mạng cho toàn

dân, mở mang và nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất

nước. Với sức mạnh tổng lực của toàn thể nhân dân đã được giác ngộ, với đội

ngũ cộng sự là những học trò, những cán bộ nòng cốt, kiên trung, Hồ Chí Minh

đã khéo léo tổ chức và hiện thực hóa được khát vọng của cả dân tộc là đánh đổ

ách thống trị ngoại bang, giành lại nền độc lập của đất nước, giành lại quyền làm

người, quyền làm chủ của nhân dân, tạo tiền đề thuận lợi để tiếp tục xây dựng xã

hội mới ngày càng văn minh và tiến bộ.

2.2.2. Nội dung xây dựng xã hội học tập

2.2.2.1. Một xã hội “ai cũng được học hành”

“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta

được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm

ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [93, tr.187]. Câu nói nổi tiếng này của Hồ

Chí Minh ra đời năm 1946, khi Người trả lời phỏng vấn của các nhà báo nước

ngoài. Chúng ta thấy bóng dáng của XHHT hiện hữu trong câu nói đó: ai cũng

được học hành. Có thể xem “ai cũng được học hành” như là một tuyên ngôn của

Hồ Chí Minh về giáo dục, một tư tưởng có ý nghĩa chiến lược và giá trị thời đại

sâu sắc, luôn luôn nhất quán trong lời nói và hành động của Hồ Chí Minh.

Thời thuộc Pháp, kinh tế, xã hội, giáo dục nước ta phát triển một cách

phiến diện. Pháp lập ra trường học không phải để giáo dục cho nhân dân ta một

nền học vấn tốt đẹp và chân thực, không phải để mở mang trí tuệ và phát triển tư

tưởng cho nhân dân ta. Mục đích chính của Pháp là để đào tạo những tùy phái,

43

thông ngôn, viên chức nhỏ, tức là đào tạo một lực lượng tay sai, giúp việc mới ở

thuộc địa. Thực tế này đã được Hồ Chí Minh vạch trần và kịch liệt phê phán.

Hồ Chí Minh luôn coi giáo dục là một mặt trận quan trọng và làm sao

hướng tới cả dân tộc được học, mọi người dân đều được học. Lý tưởng kiến tạo

“nền giáo dục cho tất cả mọi người” đã được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đề

ra và luôn hướng tới trên con đường cách mạng của mình.

Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc

đã gửi Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Vécxây, trong đó điểm thứ 6

ghi rõ phải có quyền “tự do học tập” ở Việt Nam. Tự do học tập là một tư tưởng

giáo dục khẳng định giữa các giai tầng không hề có sự cách biệt về quyền được

học tập; học tập, giáo dục không phải là quyền, là đặc ân của một tập đoàn người

hay một cá nhân nào mà là quyền chung, quyền cơ bản của tất cả mọi người

không phân biệt giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi, giới tính trong xã hội.

Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người đã chỉ rõ: Hết sức mở mang

giáo dục như lập trường, tổ chức nhà xem sách. Khi vạch ra Chánh cương vắn

tắt của Đảng, Người cũng đã nhấn mạnh cần thiết phải phổ thông giáo dục theo

công nông hóa và kêu gọi “thực hành giáo dục toàn dân”. Ngày 18/2/1930, trong

Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản viết bằng tiếng Anh, trình bày đường lối của

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ “To make Education for

All”. 60 năm sau, trong Hội nghị Giáo dục thế giới họp ở Thái Lan năm 1990 đã

đưa ra đúng khẩu hiệu trên. Ngày nay Education for All - viết tắt là EFA được

coi là đường lối giáo dục chung của thế giới.

Từ năm 1941, khi thành lập Mặt trận Việt Minh và đưa ra chương trình 10

điểm, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh vấn đề giáo dục cho tất cả mọi người.

Tư tưởng giáo dục cho mọi người tiếp tục được triển khai ngay sau Cách

mạng Tháng Tám cùng quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa. Với những Sắc lệnh quan trọng ký sau ngày tuyên bố độc lập, một phong

trào diệt giặc dốt đã diễn ra trên khắp cả nước, sôi nổi không khác gì một cuộc

cách mạng. Niềm khát khao học tập của nhân dân ta bị đè nén trong suốt mấy

mươi năm nay đã có dịp được khơi dậy. Thành quả của phong trào đã đập tan di

44

sản giáo dục ngu dân (95% dân số mù chữ) mà Pháp để lại. Thực tế đất nước lúc

này, ai cũng được học hành!

Có thể nói, quan điểm “ai cũng được học hành” là một biểu hiện cao cả

của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh mà điểm xuất phát đầu tiên là từ lòng

thương yêu con người rất rộng lớn, đặc biệt là những con người nghèo khổ, bị áp

bức bóc lột. Xuất phát điểm của Hồ Chí Minh là yêu thương con người, và đích

đến cũng luôn luôn hướng về con người. Dường như trong quan điểm này của

Hồ Chí Minh, người ta còn thấy có cả tư tưởng “hữu giáo vô loài” (dạy người

chẳng cần phân biệt) của triết học phương Đông mà đại diện là Khổng Tử, lại có

cả bóng dáng của triết học phương Tây thế kỷ XVIII “giáo dục bình đẳng cho

mọi trẻ em”, đặc biệt là tư tưởng nhân văn cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin về

giáo dục phổ cập cho con người. Sau này, Đảng ta thực hiện các cuộc cải cách

giáo dục, tiến hành phổ cập giáo dục cho từng cấp học, bậc học, đó chính là sự

tiếp nối tư tưởng “ai cũng được học hành” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2.2.2.2. Một xã hội phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của con người

Trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp phát triển

kinh tế, xã hội của đất nước, con người luôn phải đặt ở vị trí trung tâm của sự

phát triển. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo, dìu dắt con người.

Chẳng thế mà mượn ý của Quản Trọng (tức Quản Di Ngô - nhà chính trị, tư

tưởng, quân sự nổi tiếng thời Xuân Thu của Trung Quốc), nhiều lần Người nhắc

nhở: Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.

Theo Hồ Chí Minh, nhân cách của con người bao gồm hai mặt: mặt Đức

và mặt Tài. Hai mặt này được biểu hiện sinh động trong lao động sản xuất, bảo

vệ Tổ quốc, trong ứng xử và giao lưu giữa người với người, giữa người với xã

hội và trong ứng xử với chính mình. Nói khái quát, Đức và Tài thể hiện năng lực

của con người trong những quan hệ xã hội.

Hồ Chí Minh cho rằng, là người từ khi sinh ra, ai cũng có những năng lực

tiềm tàng bên trong mà theo cách nói của Người, đó là những năng lực sẵn có

trong con người. Làm thế nào để phát huy được những năng lực sẵn có, những

sức mạnh tiềm tàng ấy? Đó chính là nhờ vai trò của giáo dục - đào tạo. Trong

45

XHHT, nếu giáo dục tốt sẽ làm cho những năng lực ấy trở thành sức mạnh bản

chất của con người. Ai ai trong dân tộc ấy cũng được phát triển hoàn toàn những

năng lực sẵn có thì đó sẽ là một xã hội tiên tiến nhất, nhân văn nhất. Hồ Chí

Minh tin tưởng rằng, trong xã hội ai ai cũng được hưởng những thành tựu của

nền giáo dục cách mạng thì sẽ làm nảy nở và phát triển đầy đủ những tiềm năng

bên trong của con người.

Ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong

niềm phấn chấn của triệu triệu học sinh cắp sách đến trường thừa hưởng những

thành quả đầu tiên của nền giáo dục độc lập, Hồ Chí Minh viết thư cho học sinh

cả nước, trong đó có đoạn viết: “Ngày nay, các em được cái may mắn hơn cha

anh là được hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục

nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam,

một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”

[94, tr.34]. Người nhấn mạnh đó là nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam. “Phát triển

hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”, đó vừa là mục tiêu, vừa là định

hướng, vừa là nhiệm vụ, cũng đồng thời là một khía cạnh quan trọng trong quan

niệm của Hồ Chí Minh về XHHT.

Về nội dung học tập trong XHHT, theo Hồ Chí Minh, để có thể phát triển

một cách toàn diện, có được một vốn tri thức phong phú, thì phải trau dồi, học

tập ở tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: "Trong việc giáo dục, học tập, chú

trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ cách mạng xã hội chủ nghĩa, văn

hóa, kinh tế, lao động và sản xuất. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định

phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận

Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Cần phải học kinh

nghiệm tốt của các đoàn thanh niên bạn" [103, tr.90].

Đối với lý luận Mác - Lênin, Hồ Chí Minh xác định cách mạng cũng là

một nghề, rằng "làm nghề gì cũng phải học, vậy làm cách mạng cũng phải học.

Nếu không giáo dục cho đảng viên làm cách mạng mà cứ yêu cầu họ làm cách

mạng thì họ không làm tròn được nhiệm vụ" [105, tr.294]. Vì vậy, mỗi cán bộ,

đảng viên phải ra sức học tập ở nhà trường và qua thực tiễn. Đảng ta tổ chức

46

trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta nhằm

giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta,

để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ

cách mạng vĩ đại của mình. Tất cả những yêu cầu trên chỉ đạt được kết quả khi

có lập trường giai cấp vững vàng, mà tiền đề quan trọng chính là nắm vững

những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Theo Hồ Chí Minh: "Chủ nghĩa Mác - Lênin soi phương hướng, đường

lối cho chúng ta đi. Có phương hướng đúng thì làm việc mới đúng. Hết lòng hết

sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc; bất kỳ việc to việc nhỏ cũng nhằm

mục đích ấy; đó là chủ nghĩa Mác - Lênin" [100, tr.290]. Trong việc giáo dục và

học tập lý luận chính trị, Người còn lưu ý, phải chú trọng các mặt: đạo đức cách

mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất, học đi

đôi với hành… Vì có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức

cách mạng, giữ vững được lập trường, nâng cao sự hiểu biết, mới làm tốt công

tác được giao. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả mọi người, đặc biệt là cán bộ

đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận và chính trị là một

nhiệm vụ quan trọng của mình.

Giáo dục, học tập lý luận Mác - Lênin không phải giáo điều theo từng câu

chữ của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà phải nắm vững lập trường, quan điểm,

phương pháp, tinh thần cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp

thu và kết hợp được tinh hoa văn hóa của dân tộc cũng như của nhân loại, cũng

không phải thuộc lòng từng câu chữ, đem kinh nghiệm của các nước áp dụng

một cách máy móc, mà học để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách

mạng nước ta. Theo Hồ Chí Minh, việc giáo dục lý luận Mác - Lênin cho cán bộ,

đảng viên và nhân dân là để giúp họ nắm được bản chất cách mạng và khoa học

của học thuyết đó. Người nói rõ: "Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái

tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập

những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng

tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta" [101, tr.611].

47

Như vậy, trong quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin

không chỉ là vũ khí lý luận để cải tạo thế giới, mà còn là vũ khí lý luận để cải tạo

chính bản thân mình. Lý luận Mác - Lênin là khoa học làm người, góp phần hình

thành đạo đức mới, nếp sống mới của người cách mạng. Người xem học tập chủ

nghĩa Mác - Lênin là đạo đức cách mạng. Người căn dặn chúng ta: "Hiểu chủ

nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu

sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin

được" [105, tr.668].

Đạo đức cách mạng là vấn đề mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Trong

mối quan hệ giữa đức và tài, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là gốc của người

cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa quyết định của việc xây dựng con người mới.

Muốn làm người, trước hết phải biết làm việc để phục vụ nhân dân, phục vụ

cách mạng, không có tri thức, không có văn hóa thì không thể xây dựng chủ

nghĩa xã hội được. Muốn làm việc đồng thời phải biết làm người tốt, do đó đức

là gốc, nếu không có đức thì vô dụng. Đạo đức phải hình thành qua học tập, lao

động sản xuất, đấu tranh cách mạng, trong sự giúp đỡ và học hỏi nhân dân. Đó là

đạo đức trong hành động. Hồ Chí Minh yêu cầu việc tu dưỡng, học tập đạo đức

cách mạng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục như trong công tác hàng

ngày, bởi lẽ "đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh,

rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài

càng sáng, vàng càng luyện càng trong" [101, tr.612].

Trong nội dung học tập toàn diện, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc đến

sự kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa khoa học với chính trị "học làm tính, học chính

trị, học lịch sử, học khoa học thường thức" [95, tr.469]. Người cho rằng nếu

không học văn hóa thì không thể tiếp thu khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ

chuyên môn mà không có văn hóa, khoa học kỹ thuật thì làm sao đạt đến đỉnh

cao chính trị. Nhưng, nếu chỉ học văn hóa và khoa học kỹ thuật mà không học

tập chính trị thì như người nhắm mắt mà đi, không biết đi đâu về đâu. "Nếu

không học tập văn hoá, không có trình độ văn hoá thì không học tập được kỹ

thuật, không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh tế nước

48

nhà; nhưng phải chú ý học tập chính trị vì nếu chỉ học văn hoá, kỹ thuật mà

không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi" [100, tr.384].

Bên cạnh đó, việc học tập các kinh nghiệm thực tế cũng được Hồ Chí

Minh đặt ra. Kinh nghiệm là những tri thức được tích lũy qua bề dày thời gian,

chứ không thể có được do một sớm một chiều. Hồ Chí Minh đánh giá: "Đó là

những kinh nghiệm do những người đi học mang đến, kinh nghiệm thành công

cũng như kinh nghiệm thất bại. Những kinh nghiệm đó đem trao đổi, gom góp

lại tức là những bài học quý, không phải cứ chờ đồng chí cấp trên đến nói

chuyện thì mới là bài, là học" [96, tr.360]. Việc học tập các kinh nghiệm thực tế

này có ý nghĩa thực tiễn to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Là

người lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh rất chú ý đọc và học kinh

nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và

đặc biệt là Trung Quốc, một nước láng giềng có hoàn cảnh giống ta. Người đã

đọc lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, các

báo cáo chính trị các Đại hội của các Đảng bạn, các báo cáo về kế hoạch 5 năm,

một số sách chuyên đề như nông nghiệp, hợp tác xã... Qua dấu bút chúng ta có

thể thấy, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến học hỏi kinh nghiệm của các nước bạn

để phục vụ cho cách mạng Việt Nam.

Rõ ràng, học tập và học tập suốt đời là một yêu cầu không thể thiếu được

đối với tất cả mọi người, nhất là trong XHHT. Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi người

trong vấn đề tự học phải toàn diện, học lý luận Mác - Lênin, học văn hóa, khoa

học, kỹ thuật, học đạo đức, học kinh nghiệm cách mạng... Nó hoàn toàn phù hợp

với chủ trương giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước ta.

2.2.2.3. Một xã hội bình đẳng về giáo dục và không mất tiền

Từ rất sớm khi còn trong thời kỳ định hình con đường giải phóng dân tộc,

Hồ Chí Minh đã luôn trăn trở và mơ ước một nền giáo dục bình đẳng cho toàn

dân Việt Nam. Nửa đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh ở Pháp và có dịp tiếp xúc với

nền văn hóa Pháp cũng như văn hóa phương Tây. Người rất chú ý đến quan

điểm của Rútxô với Dân ước, Môngtétxkiơ với Vạn pháp tinh lý... Khi soạn

thảo Yêu sách của nhân dân An Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh một trong tám

49

điều là quyền tự do giáo dục, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp

cho người bản xứ. Người mong mỏi một ngày nào đó ở Việt Nam, mọi trẻ em

đều được học, được chăm sóc tinh thần và thể chất, được học hỏi ở các thư

viện, cung văn hóa, được nghỉ hè ở các “cung điện”... mà không phải đóng bất

cứ một lệ phí nào.

Chính vì thế, trong Chương trình Việt Minh năm 1941, ở mục văn hóa

giáo dục, Hồ Chí Minh ghi lên hàng đầu: Hủy bỏ nền giáo dục nô lệ. Gây dựng

nền quốc dân giáo dục. Cưỡng bức giáo dục từ bậc cơ sở. Mỗi dân tộc có quyền

dùng tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục dân tộc mình. Chương trình còn có điều

khoản nói đến việc học hành của học sinh: Bỏ học phí, bỏ khai sinh hạn tuổi.

Những chính sách của Việt Minh đã được Hồ Chí Minh diễn ca thành một

bài thơ lục bát, hết sức giản dị, hết sức dễ hiểu nhưng vẫn thể hiện đầy đủ tư

tưởng dân chủ, bình quyền, nhân văn trong đó:

“Thanh niên có trường học nhiều,

Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho.

Đàn bà cũng được tự do,

Bất phân nam nữ, cũng cho bình quyền.

Người tàn tật, kẻ lão niên,

Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho.

Trẻ em bố mẹ khỏi lo,

Dạy nuôi, Chính phủ giúp cho đủ đầy” [93, tr.243].

Sự bình đẳng trong giáo dục Hồ Chí Minh còn hướng tới cả đồng bào dân

tộc thiểu số. Sau Cách mạng Tháng Tám, trong khi cả nước có trên 90% người

mù chữ, thì tỷ lệ này trong 53 dân tộc thiểu số ở các vùng Việt Bắc, Tây Bắc,

Tây Nguyên cao hơn nhiều. Trong bức thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số ngày

3/12/1945, Hồ Chí Minh đã viết: “Đồng bào có nhiệm vụ (bảo vệ Tổ quốc) thì

có quyền lợi, quyền lợi của các dân tộc thiểu số là: Chính phủ sẽ chú ý để nâng

cao giáo dục làm cho ai cũng được học hành” [92, tr.156].

Như vậy từ sơ khai mô hình nhà nước độc lập, Hồ Chí Minh đã ý thức rất

rõ con đường để xây dựng nền giáo dục toàn dân, XHHT. Đó là thực hiện bình

50

đẳng, dân chủ trong giáo dục và hoàn toàn không mất tiền. XHHT là ai cũng

học, ai cũng được học thì rào cản về học phí, rào cản về sự bất bình đẳng giữa

giai cấp, lứa tuổi, địa vị, vùng miền... phải được xóa bỏ. Điều đó càng cho thấy

cái Tâm, cái Tầm vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2.2.3. Mô hình xây dựng xã hội học tập

Khoảng giữa năm 1949, Báo Cứu Quốc có đăng một loạt 4 bài báo của

Hồ Chí Minh với bút danh Lê Quyết Thắng: Thế nào là Cần, 30/5/1949; Thế

nào là Kiệm, 31/5/1949; Thế nào là Liêm, 1/6/1949; Thế nào là Chính, 2/6/1949.

Nội dung của 4 bài báo này đã được Người tập hợp thành sách với tên gọi “Cần

kiệm liêm chính”. Điều làm chúng ta ngỡ ngàng và tự hào là, chỉ với 4 câu ngắn

gọn trong tác phẩm này, Hồ Chí Minh đã đề cập đến tất cả những mô hình học

tập mà ta đang xây dựng hiện nay:

“Người siêng năng thì mau tiến bộ.

Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.

Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.

Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu” [96; tr118].

Xét ở góc độ xây dựng XHHT thì:

Người siêng năng ứng với mô hình công dân học tập mà ta đang

hướng đến.

Nhà siêng năng ứng với mô hình gia đình học tập.

Làng siêng năng ứng với mô hình cộng đồng học tập, đơn vị học tập (thôn

bản học tập, cộng đồng học tập cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh).

Nước siêng năng ứng với mô hình XHHT, trong đó có một nền giáo dục

mở, đáp ứng mọi nhu cầu trao đổi và tiếp nhận tri thức của con người.

Trong mô hình công dân học tập, Hồ Chí Minh cho rằng đó phải là con

người hội tụ đầy đủ cả đức và tài, vừa hồng vừa chuyên. Để trở thành công dân

học tập thì phải siêng năng: năng học, năng làm, năng tiến bộ. Với mục tiêu của

chiến lược “trồng người” là “dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân

tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà” [98,

tr.448], theo Người, phải xây dựng một nền giáo dục toàn diện để đào tạo những

51

con người có đức, có tài. Nền giáo dục đó phải kết hợp chặt chẽ giữa học và

hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, gắn liền giáo dục của nhà trường với gia

đình và xã hội, học suốt đời, kết hợp tự học với học trong nhà trường, học trong

sách vở và học trong cuộc sống.

Hồ Chí Minh đề cập đến con người trên 4 khía cạnh: người công dân tốt,

người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt. Không nên hiểu đây là 4

mẫu người riêng lẻ mà theo Hồ Chí Minh, đó là những vai trò khác nhau của

một con người toàn diện: người công dân tốt khi anh thực thi đầy đủ quyền và

nghĩa vụ đối với xã hội; người lao động tốt khi anh làm việc có năng suất, chất

lượng đối với công việc; người chiến sĩ tốt khi anh hoàn thành mọi nhiệm vụ

trên mặt trận của mình; và người cán bộ tốt khi anh xử lý hiệu quả đối với công

việc và đối với mọi người. Tức là trong hoàn cảnh nào, ở cương vị nào, con

người cũng luôn luôn nỗ lực học tập và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Trong mô hình gia đình học tập, Hồ Chí Minh đã chú ý xây dựng từ ngay

sau Cách mạng Tháng Tám. Có một lần Người nhắc tới mô hình này nhưng với

cách diễn đạt khác: “gia đình học hiệu” [95, tr.63]. Năm 1947, khi về thăm tỉnh

Thanh Hóa, Người có nhắc đến như là kiểu mẫu cho những cách không cần tốn

tiền mà vẫn học được, như "gia đình học hiệu", "tiểu giáo viên", cả làng chung

gạo nuôi một thầy giáo, v.v.. Người còn gợi ý những cách học không tốn tiền

khác như dùng cát để thay giấy, dùng lẽ tre để thay bút viết. Thật hiếm có đâu

như ở Việt Nam “Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ

không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, các

người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở

hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở

lớp học cho những tá điền, những người làm của mình” [94, tr.41]. Đó thực sự là

một mô hình học tập rất bình đẳng và nhân văn.

Trong mô hình cộng đồng học tập, XHHT, Hồ Chí Minh cho rằng đây là

sự nhân rộng tất yếu của người người học tập, nhà nhà học tập. Ở Việt Nam,

nhiều người nhóm lại mà thành làng, nhiều làng nhóm lại mà thành nước, đó là

những cộng đồng từ nhỏ đến lớn. Trong những cộng đồng này, Hồ Chí Minh đặc

52

biệt nhấn mạnh “người là gốc của làng nước” [95, tr.117], là hạt nhân cốt lõi của

cộng đồng. Nếu mỗi người đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh. Nếu mỗi

người đều siêng năng thì thành làng siêng năng, nước siêng năng. Cách dùng từ

của Hồ Chí Minh vừa đắt, vừa độc là thế. Mô hình nào Hồ Chí Minh cũng đòi

hỏi phải siêng năng, phải ham học. “Siêng học tập thì mau biết. Siêng nghĩ ngợi

thì hay có sáng kiến. Siêng làm thì nhất định thành công” [96, tr.118]. Siêng

năng là phương tiện để đạt được thành quả: Người siêng năng thì người mau tiến

bộ, nhà siêng năng thì nhà no ấm, làng siêng năng thì làng phồn thịnh mà nước

siêng năng thì nước mạnh giàu.

Trên thế giới hiện nay, nhiều quốc gia đã và đang xây dựng mô hình

XHHT. Thế mà cách chúng ta hơn 70 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra

những vấn đề lý luận hết sức chặt chẽ cho mô hình XHHT ở Việt Nam: xây

dựng XHHT từ cơ sở, từ nhỏ đến lớn, từ hẹp đến rộng. XHHT là phải bắt đầu từ

mỗi người (người siêng năng) đến mỗi nhà (nhà siêng năng), rộng hơn nữa là

mỗi cộng đồng (làng siêng năng) và toàn xã hội (nước siêng năng). Nếu coi mô

hình XHHT như là một ngôi nhà, thì con người chính là từng viên gạch đỏ trong

ngôi nhà đó. Xây dựng quốc gia học tập, trước hết phải bắt đầu từ những thành

tố nhỏ nhất đó chính là con người học tập trong quốc gia đó. Mỗi một người

phấn đấu trở thành công dân học tập, mỗi một nhà trở thành gia đình học tập,

mỗi cơ quan trở thành đơn vị học tập, mỗi cộng đồng trở thành cộng đồng học

tập. Đây vừa là mô hình, vừa là điều kiện để xây dựng XHHT ở Việt Nam theo

tư tưởng Hồ Chí Minh.

2.2.4. Chủ thể xây dựng xã hội học tập

Hồ Chí Minh luôn có niềm tin vào con người và sức mạnh của con người.

Do đó, Người cũng thường xuyên nhắc nhở mọi người phải cố gắng thực hiện

các mục tiêu cách mạng. Đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và xây dựng

XHHT nói riêng, Người xác định chủ thể đó chính là con người.

XHHT là yêu cầu mọi người, ở mọi lứa tuổi không ngừng học tập nhằm

đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thời đại. Trong xã hội đó, Hồ Chí Minh luôn

xác định học tập là yêu cầu đối với tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ, trai

53

gái, tôn giáo, nghề nghiệp. Bởi lẽ, tri thức nhân loại thì vô cùng vô hạn và ngày

càng phát triển, nếu tự bản thân mỗi người không tự học, không tự trau dồi kiến

thức thì sớm muộn cũng bị lạc hậu và thoái bộ. "Xã hội càng đi tới, công việc

càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc

hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình" [101, tr.333]. Khi xác định đối tượng

xây dựng XHHT, Hồ Chí Minh nhấn mạnh ở hai khía cạnh: một là những chủ

thể trực tiếp tham gia xây dựng XHHT, hai là những khách thể được thừa hưởng

thành quả của việc xây dựng XHHT đó. Dù ở khía cạnh nào thì Hồ Chí Minh

cũng đều hướng tới con người, ở đây chính là tất cả mọi người, không chỉ đối

với những người đang trực tiếp giảng dạy, học tập, không chỉ đối với thế hệ trẻ

mà là tất cả mọi tầng lớp, giới tính, tuổi tác, chức vụ... đều phải ra sức học tập và

học tập suốt đời.

Đối với người cao tuổi là những người đã có sự trải nghiệm về kinh

nghiệm sống cũng như kinh nghiệm công tác, có sự tích lũy tri thức nhất định.

Trong số họ có những người tạm hài lòng với những gì mình đã đạt được, hoặc

có những người rơi vào tâm lý ngại học, sợ học vì lý do tuổi tác. Thấu hiểu tâm

lý đó, Hồ Chí Minh bày tỏ: "Bác thường nghe nói có đồng chí mới 40 tuổi mà đã

cho mình là già cho nên ít chịu học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi

chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học

và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động

cách mạng" [105, tr.113]. Đó cũng là yêu cầu chung mà Hồ Chí Minh đặt ra đối

với tất cả mọi người.

Năm 1961 khi về thăm quê lần thứ hai, gặp gỡ bà con quê hương xứ

Nghệ, Người không quên nhắc nhở: "Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải

học. Việc lớn, việc nhỏ, tôi phải tham gia. Công việc cứ tiến mãi. Không học thì

không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau" [103, tr.273].

Đối với thanh thiếu niên, là thế hệ các mạng kế cận được Hồ Chí Minh

luôn luôn quan tâm dìu dắt. Họ là lực lượng đông đảo, có sức khỏe, có trí tuệ,

góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Nhân ngày khai

giảng năm học mới, Hồ Chí Minh gửi thư cho học sinh, sinh viên cả nước, ân

54

cần chỉ rõ cho những người chủ tương lai của nước nhà về vinh dự được hưởng

một nền giáo dục cách mạng. Người đặt kỳ vọng: "Ngày nay chúng ta cần phải

xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo

kịp các nước khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông

mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay

không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường

quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của

các em" [94, tr.35]. Từ đó Người yêu cầu thanh niên cần phải có tinh thần gan dạ

và sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó

khăn, gian khổ để tiến mãi không ngừng, "phải học tập mãi, tiến bộ mãi, mới

thật là thanh niên" [100, tr.216].

Trong công cuộc xây dựng XHHT, kiến thiết nước nhà, Người khuyên

thanh niên, học sinh, sinh viên phải có động cơ học tập đúng đắn để xứng đáng

với vai trò làm chủ đất nước nước. Ta thấy được hàm ý sâu sắc của Người khi

nhắc nhở thanh niên trong vấn đề học tập. Trả lời câu hỏi “học để phụng sự ai?”,

Người định hướng: “Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu,

nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà” [99, tr.179].

Nhắc nhở thanh niên về phương pháp học tập cũng như xây dựng XHHT,

Người chỉ rõ: Học phải đi đôi với hành. Đặc biệt, trong bất cứ hoàn cảnh nào và

ở đâu, thì thanh niên, sinh viên phải là lực lượng xung kích trong học tập, tiếp

nhận tri thức cho mình và truyền đạt tri thức cho mọi người: Khi ở nhà, phải

thương yêu cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ về công việc, giúp đỡ về tinh thần (học được

điều gì về tình hình trong nước và thế giới thì nói lại cho cha mẹ nghe). Khi ở

trường thì phải đoàn kết, giúp đỡ anh chị em, thi đua học tập; đoàn kết giữa thầy

và trò, làm cho trường mình luôn luôn tiến bộ. Đến khi ở ngoài xã hội thì có thể

làm được nhiều việc có ích bằng khả năng của mình như: tuyên truyền vệ sinh,

giúp đỡ các em nhi đồng, xung phong dạy BDHV, v.v…

Hồ Chí Minh rất chú trọng đến việc học tập phấn đấu vươn lên của mỗi

thanh niên. Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày Cách mạng Tháng Tám, Người đã gửi

thư căn dặn thanh niên nước ta phải ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị,

55

văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ

quốc, cho nhân dân. Người còn chỉ rõ: làm nghề gì cũng phải học, mục đích của

việc học không gì khác hơn là để nâng cao năng lực, làm cho kinh tế phát triển,

chiến đấu thắng lợi, đời sống của nhân dân ngày càng no ấm, tươi vui.

Đối với giáo viên, Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, chức năng, nhiệm vụ

của các thầy giáo, cô giáo. Trong công cuộc xây dựng XHHT thì nhiệm vụ của

các thầy giáo, cô giáo càng quan trọng hơn bao giờ hết. Thầy giáo, cô giáo vừa là

chủ thể góp phần giáo dục, đào tạo và xây dựng XHHT cho xã hội, vừa là đối

tượng được nhận lấy mọi thành quả của XHHT ấy. Hơn ai hết, "Nhiệm vụ của

các cô giáo, thầy giáo rất nặng nề nhưng rất vẻ vang" [104, tr.747]. Có lúc Người

diễn đạt: "Nhiệm vụ của cô giáo, thầy giáo là rất quan trọng và rất vẻ vang" [105,

tr.508]. Từ đó, Hồ Chí Minh nhắc nhở đội ngũ nhà giáo thường xuyên "học, học

nữa, học mãi" để nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ văn hóa, trình độ chuyên

môn và nghiệp vụ sư phạm. Người yêu cầu cô giáo, thầy giáo muốn làm tròn

nhiệm vụ đó thì phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, không ngừng bồi dưỡng

đạo đức cách mạng, lập trường chính trị; phải ra sức đoàn kết giúp đỡ nhau cùng

tiến bộ.

Hồ Chí Minh cũng cảnh báo đội ngũ cán bộ và giáo viên về những căn

bệnh trong tư duy và hành động xây dựng XHHT. Kẻ thù của sự học tập và tiến

bộ chính là sự tự hài lòng, tự thỏa mãn với tri thức mình có. Người nhắc nhở:

"Chớ tự túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại. Mà dừng lại là lùi bước, là lạc

hậu, mình tự đào thải trước” [102, tr.266]. Biện pháp cho vấn đề này là mỗi cán

bộ, giáo viên phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải

tạo con em và giúp vào việc cải tạo xã hội. Tại Đại hội chiến sĩ thi đua toàn

ngành Giáo dục (tháng 2/1956), Hồ Chí Minh căn dặn: "Các cô, các chú là

những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm,

học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi, thì sẽ không theo kịp đà

tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu" [100, tr.273-274].

Thầy giáo, cô giáo "phải gương mẫu" được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đi

nhắc lại nhiều lần trong các bài nói chuyện với các nhà trường. Đặc biệt, Người

56

lưu ý: Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hoá, chuyên môn, đức là

chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức mới đào tạo những

công dân tốt, những cán bộ tốt sau này.

Đối với cán bộ, đảng viên cũng phải không ngừng học và tự học. Người

huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình.

Người dẫn lời của Lênin: Học, học nữa, học mãi. Mỗi người đều phải ghi nhớ và

thực hành điều đó, những người huấn luyện lại càng phải ghi nhớ hơn ai hết.

“Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất”

[96, tr.356]. Năm 1966, nói chuyện với lớp đảng viên mới của Hà Nội, Người

nhắc nhở: "Thời kỳ bí mật, điều kiện học tập của đảng viên rất khó khăn: thiếu

thầy, thiếu sách, thiếu tự do, nhưng cán bộ và đảng viên vẫn quyết tâm vì cách

mạng mà học, dù hoàn cảnh khó khăn thế nào cũng tìm đủ mọi cách mà học.

Bây giờ điều kiện thuận lợi nhiều, cho nên các cô, các chú càng phải ra sức học

tập cho tốt" [95, tr.116].

Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, học tập là yêu cầu, là nhiệm vụ của tất cả

mọi người, không loại trừ một đối tượng nào. Bởi lẽ, thế giới luôn luôn vận động

và ngày càng đổi mới, tri thức nhân loại ngày càng phong phú, khoa học kỹ thuật

ngày càng phát triển... Tất cả tiến bộ rất nhanh, những ai không muốn mình bị

đào thải, bị đẩy ra khỏi guồng quay ấy thì phải biết học hỏi không ngừng để

nâng cao trình độ và phẩm chất đạo đức. Sự học không bao giờ có điểm dừng:

"Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng

phải học thêm" [96, tr.61].

Hơn ai hết, Hồ Chí Minh là một dẫn chứng điển hình, cụ thể về tự học và

học suốt đời trên tất cả các lĩnh vực: tự học ngoại ngữ, tự học viết thơ viết văn,

tự học cách tổ chức cuộc sống theo khoa học, tự học lý luận, tự học chính trị,

quân sự, tự học triết học, tự học ngoại giao, tự học quan hệ quần chúng… Kết

quả là lĩnh vực nào Người cũng thông thạo tuyệt vời, và trở thành anh hùng giải

phóng dân tộc, thành nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới.

57

2.2.5. Phương pháp xây dựng xã hội học tập

2.2.5.1. Giáo dục thường xuyên, học tập suốt đời

Nếu như tự học là yếu tố cốt lõi trong XHHT thì yếu tố đó phải được duy

trì thường xuyên, đều đặn, hàng ngày, việc học phải là học tập suốt đời. Một xã

hội là XHHT chỉ khi nào mỗi thành viên trong đó đều coi GDTX, học tập suốt

đời là một nhiệm vụ cách mạng. Bởi như Hồ Chí Minh cảnh báo, xã hội ngày

càng phát triển, công việc ngày càng nhiều, máy móc ngày càng tinh xảo, để

không lạc hậu, không bị đào thải, phải không ngừng học tập. Người khẳng định:

“Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng

phải học thêm” [96, tr.61].

Để đáp ứng nhu cầu của tình hình mới khi thế giới luôn vận động và ngày

càng đổi mới, tri thức nhân loại ngày càng phong phú, khoa học kỹ thuật ngày

càng phát triển... mỗi người phải không ngừng cố gắng nâng cao cả năng lực,

trình độ và phẩm chất đạo đức của bản thân. Nói chuyện với cán bộ, công nhân

nhà máy cơ khí Hà Nội (2/2/1960), Hồ Chí Minh đã căn dặn: Bây giờ làm việc

bằng máy móc tinh xảo nên việc học tập văn hóa, nâng cao trình độ kỹ thuật là

cần thiết, không có trình độ văn hóa và kỹ thuật thì không thể điều khiển được

máy móc hiện đại.

Tu dưỡng đạo đức cũng phải thường xuyên và suốt đời bởi theo Hồ Chí

Minh đạo đức cách mạng không tự nhiên mà có, mà do đấu tranh, rèn luyện bền

bỉ hàng ngày mà ngày càng phát triển và củng cố. Phẩm chất đạo đức cá nhân

cần không ngừng rèn luyện như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện

càng trong”. Thực tế đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: mỗi con người, mỗi đảng

ngày hôm qua là vĩ đại, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi

người yêu mến, ca ngợi nếu lòng dạ không còn trong sáng, nếu sa vào chủ nghĩa

cá nhân. Do đó, tu dưỡng đạo đức phải là hoạt động thường xuyên, suốt đời.

Học tập, tu dưỡng là công việc suốt đời, không bao giờ cùng là trách

nhiệm của mỗi người, không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Chỉ

có không ngừng học tập, nâng cao trình độ mỗi cá nhân mới không ngừng tiến

bộ và từng bước vươn tới chiếm lĩnh đỉnh cao trí tuệ của nhân loại.

58

Hơn ai hết, Hồ Chí Minh chính là tấm gương mẫu mực về tự học và học

suốt đời. Người không có nhiều điều kiện học tập "chính quy" trên ghế nhà

trường. Đối với Người, việc ngồi học trên ghế nhà trường chỉ là bắt buộc, là điều

kiện để hoạt động cách mạng. Cả cuộc đời Hồ Chí Minh, tự học vẫn là chính.

Nói chuyện với đồng chí Vũ Kỳ (là người được Thường vụ Trung ương Đảng

chọn làm thư ký cho Bác), Người vui miệng hỏi: "Chú có biết Bác học chính

thức trên ghế nhà trường hết lớp mấy không?". Rồi tự trả lời luôn: "Bác học

chính thức trên ghế nhà trường chỉ hết lớp nhì của bậc tiểu học". Nói chuyện tại

Hội nghị chuyên đề sinh viên quốc tế tại Việt Nam, Người tâm sự: "Về văn hóa:

Tôi chỉ học hết lớp tiểu học... Về hiểu biết phổ thông: Năm 17 tuổi, tôi mới thấy

ngọn đèn điện lần đầu tiên, 29 tuổi mới nghe rađiô lần đầu tiên" [59, tr.187].

Ngày 17/8/1962, nói chuyện với giáo viên, học sinh trường Thanh niên lao động

xã hội chủ nghĩa Hòa Bình, Hồ Chí Minh kể lại: "Trước đây lúc tuổi thanh niên,

Bác hoạt động ở Pháp, cũng vừa lao động, vừa học tập, nhưng lúc đó lao động là

lao động nô lệ cho đế quốc. Bác phải làm thế để tự kiếm sống, nhưng vẫn dành

thì giờ để học tập, ngày lao động, đêm học tập, chứ Bác không được đến trường

học đâu" [59, tr.437]. Chẳng thế mà trong bản khai lý lịch tại Đại hội VII Quốc

tế cộng sản, Người ghi ở mục Trình độ học vấn là Tự học.

Tuy nhiên, chính nhờ tự học và học suốt đời đã giúp Hồ Chí Minh có một

tầm hiểu biết rộng lớn Đông Tây kim cổ, có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, có

trí tuệ thiên tài không ai sánh kịp. Đồng chí Gớt Hôn, Tổng Bí thư Đảng Cộng

sản Mỹ viết: "Đồng chí Hồ Chí Minh là một lãnh tụ trong lĩnh vực lý luận và tư

tưởng. Người là một lãnh tụ chính trị. Nhưng Người cũng là một lãnh tụ xuất sắc

về quân sự. Đây không phải là những lĩnh vực cách biệt trong tài trí cao rộng của

Người". Báo Diễn đàn nhân dân, cơ quan Trung ương của Đảng Công nhân

thống nhất Ba Lan viết: "Mặc dù tuổi cao, Người không những giữ được hình

dáng trẻ trung mà còn giữ được sự trong sáng của con người trai trẻ và trí tuệ

minh mẫn". Báo chí Bungari ca ngợi Người có "tầm hiểu biết uyên bác về Châu

Á". Đồng chí Giôn Gôlan nói: "Đây quả là một con người vĩ đại nhưng không

bao giờ tỏ ra mình là một con người vĩ đại" [59, tr.26].

59

Bạn bè thế giới đều nhận định: Hiếm có một chính khách nào của thế kỷ

XX có thể sánh được với Nguyễn Ái Quốc về trình độ học vấn và sự thông minh

trong cuộc đời. Nhà văn Liên Xô Manđenxtam trầm trồ khi thấy từ Nguyễn Ái

Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa Âu châu mà có lẽ là "nền văn

hóa tương lai". Nếu không có quá trình tự học, tự tích lũy, trải nghiệm và vươn

lên không ngừng thì thật khó ai có được điều đó.

Ngày nay, vấn đề GDTX, học tập suốt đời trở thành một trong những

chiến lược giáo dục của toàn nhân loại hướng vào việc “tiến bộ thêm mãi” của

nền văn minh, hướng vào “tiến lên bước cao hơn” của sự phát triển khoa học, kỹ

thuật, kinh tế và tiến bộ xã hội.

2.2.5.2. “Lấy tự học làm cốt”

Sự nghiệp xây dựng XHHT không thể thiếu yếu tố cốt lõi là học tập và tự

học. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, thì tư tưởng về tự học, đặc biệt là

tấm gương sáng của Người về tự học và học suốt đời là bài học vô giá đối với

mỗi thế hệ chúng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm giàu vốn tri thức của mình

bằng vốn tri thức tiên tiến nhất của thời đại, Người trở thành Anh hùng giải

phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất thông qua con đường tự học. Hồ Chí Minh

là một tấm gương, đồng thời là nhà lý luận lớn về tự học. Trong suốt cuộc đời,

Người chỉ một lần định nghĩa về tự học trong một câu nói ngắn gọn, súc tích

nhưng đầy tư tưởng. Điều đặc biệt là mặc dù câu nói đó ra đời cách đây đã lâu

nhưng lại rất phù hợp với quan điểm về tự học của giáo dục học hiện đại.

Theo Hồ Chí Minh, tự học là "tự động học tập" [96, tr.360]. Có nghĩa là

việc học tập là do chính bản thân người học quyết định, người học tự giác, tự chủ

không cần sự nhắc nhở, giao nhiệm vụ của người khác. Tự mình nhận thấy nhu

cầu của bản thân để rồi từ đó tiến hành việc tự học. Hồ Chí Minh giải thích: "Tự

động là không phải tựa vào ai, là tự mình biết biến báo xoay xở, tự mình biết

thực hành công tác theo nhiều hình thức mới mẻ, phong phú" [94, tr.44]. Như

vậy, theo Hồ Chí Minh, tự học là tự mình quản lý việc học tập, lĩnh hội tri thức

của bản thân. Người học tự vạch ra kế hoạch học tập cho chính mình, kiên trì và

60

nhẫn nại thực hiện kế hoạch đó một cách bài bản, sau đó người học tự kiểm tra

đánh giá kết quả đã đạt được, rút kinh nghiệm cho bản thân mình.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm tự học có nhiều điểm tương đồng

với quan niệm của giáo dục học hiện đại. Từ khái niệm tự học của Người, chúng

ta thấy bao hàm cả ba hình thức tự học mà giáo dục học hiện đại đã đề ra. Đó là tự

học có hướng dẫn trực tiếp của thầy; tự học theo yêu cầu của thầy, của nội dung,

chương trình đào tạo; và tự học để khám phá tri thức theo nhu cầu của cá nhân.

Theo Hồ Chí Minh, mọi người đều phải tự học; tự học không chỉ là nhiệm

vụ của giáo dục không chính quy, mà còn là một bộ phận không thể tách rời của

giáo dục chính quy. Chỉ khi học sinh có ý thức tự học thì khi đó xây dựng

XHHT mới đạt được hiệu quả cao nhất.

Năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người khẳng định: “Lấy tự

học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [95, tr.312]. Tiếp đến, khi nói về

công tác huấn luyện và học tập năm 1950, Người lại nhấn mạnh: “Phải nâng cao

và hướng dẫn việc tự học”. “Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư

tưởng” [101, tr.98]. Như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, cốt lõi của XHHT là tự học.

Tự học là sự nỗ lực của bản thân người học, sự làm việc của bản thân người học

một cách có kế hoạch trên tinh thần tự nguyện, tự giác cao. Học là quá trình biến

những tri thức khoa học được tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến

thức của mình thì tự học chính là yếu tố cơ bản nhất, làm cho quá trình tích lũy ấy

diễn ra nhanh nhất và hiệu quả nhất. Trong một XHHT thì tự học càng đóng vai

trò then chốt để mỗi người vươn lên làm chủ tri thức của mình.

Do đó, Hồ Chí Minh luôn phê phán việc học tập thụ động, lười học, ỷ lại.

Người căn dặn: “không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự

động học tập” [96, tr.360], phải tự tìm tòi tài liệu học tập, lấy sách làm thầy.

Bên cạnh đó, Người nhắc nhở, để tự học thành công phải có kế hoạch,

phải sắp xếp thời gian học tập khoa học, phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế hoạch,

không lùi bước trước mọi khó khăn, trở ngại. Người chỉ rõ: “Sắp xếp thời gian

và bài học…, phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau, mà không xung đột với

nhau” [95, tr.312].

61

Trong quá trình học tập, Hồ Chí Minh nhắc nhở người học phải đặt các

câu hỏi “vì sao”, phải suy nghĩ kỹ xem vấn đề có hợp thực tế không? Quá trình

ấy giúp người học rèn luyện tư duy, nâng cao năng lực tìm tòi, giải đáp các câu

hỏi đặt ra, nắm vững những nội dung cần thiết, cần áp dụng. Học phải đi đôi với

hỏi thì mới hiểu sâu và sẽ thấy được những điều chưa hiểu, cần phải tiếp tục học.

Là một nhà giáo dục lớn, Hồ Chí Minh cho rằng, trong quá trình học không nên

chỉ tiếp thu một chiều, người học cần lật đi, lật lại vấn đề tức là phải đề ra được

câu hỏi, biết cách hỏi và tìm được cách trả lời thì mới hiểu sâu, rộng vấn đề, từ

đó mới có khả năng hành động và giải quyết vấn đề đó được thấu đáo.

Từ kinh nghiệm của bản thân trong quá trình tự học, theo Hồ Chí Minh,

người học cần tận dụng mọi hoàn cảnh, phương tiện, mọi hình thức để tự học.

Người không những triệt để tận dụng những tổ chức, những hoạt động sẵn có

trong xã hội như thư viện, câu lạc bộ, sách báo, các buổi nói chuyện, các hội

thảo, các viện bảo tàng… mà còn tự mình tạo ra những hình thức học tập mới,

sinh động và bổ ích như: tranh thủ sự hướng dẫn, giúp đỡ của người khác, học

trong khi giao tiếp, trong công tác vận động quần chúng… Người đã tranh thủ

tận dụng mọi hoàn cảnh để học tập. Thời gian làm việc trên tàu Latútsơ Tơrêvin,

Người học tiếng với các nhân viên trên tàu; đến Pháp, Người học tiếng với người

giúp việc trong gia đình. Học đến đâu cần ra sức vận dụng vào thực tiễn đến đó.

Hồ Chí Minh chú trọng thực hành trong tự học, khi học ngoại ngữ, học được chữ

nào, Người tìm cách ghép câu để dùng ngay. Ban đêm, khi chưa ngủ, Người lấy

tay viết những chữ khó xuống chăn cho đến khi nào nhớ được mới thôi. Đi du

lịch, dự tọa đàm, giao tiếp với người nước ngoài, viết báo… đó là cách Người tự

trau dồi và làm phong phú thêm vốn từ của mình.

Những điều Hồ Chí Minh nói và làm về tự học hàm chứa giá trị to lớn và

sức sống bất diệt. Ngày nay, trong thời đại khoa học công nghệ, trong một thế

giới toàn cầu hóa, trong một XHHT, tri thức của loài người không ngừng thay

đổi, tăng lên rất nhanh và cũng mau chóng lỗi thời. Vì vậy, hơn lúc nào hết, tự

học càng trở thành một yêu cầu cấp bách và bắt buộc cho tất cả mọi người.

62

2.2.5.3. Học tập linh hoạt mọi lúc, mọi nơi, bằng mọi phương tiện,

hình thức

Anhxtanh - nhà khoa học lớn của thế kỷ XX đã từng khẳng định: Ai

không còn tò mò người đó sẽ chết, V.I.Lênin sau này cũng nói: "Học, học nữa,

học mãi".

Trên tinh thần tự học, học tập suốt đời và nhận thức được tầm quan trọng

của tri thức với sự phát triển của mỗi con người, với dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí

Minh căn dặn chúng ta trong mọi hoạt động cách mạng đều có thể và đều phải

học tập, "còn sống thì còn phải học". Và chính Người là một tấm gương lớn về

tinh thần học tập thường xuyên mọi lúc mọi nơi trong suốt quá trình sống và

hoạt động cách mạng, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù sống trong lao tù, nơi con

người chỉ mong được tồn tại thì Người vẫn bằng nghị lực của mình tự học tập để

vun đắp ý chí cách mạng, tri thức, cứu nước cứu dân.

Theo Hồ Chí Minh tự học là một dòng chảy liên tục, phát triển không

ngừng, người học không được để cho nó gián đoạn, không ngắt quãng, dù công

việc cuộc sống có bộn bề đến đâu. Sau này dù bận trăm công nghìn việc ở cương

vị đứng đầu nhà nước ta, Người vẫn thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng, bổ sung

tri thức cho bản thân, là một tấm gương sáng của tiếp thu và sáng tạo tri thức.

Trả lời cho câu hỏi: Học ở đâu?, Người đã nói: "học ở trường, học ở sách

vở, học lẫn nhau và học nhân dân..." [96, tr.361], tức là ở bất kỳ nơi đâu mọi

người cũng có thể tự học. Không phải chỉ học ở trường lớp mà con người phải

học trong lao động, trong công tác thực tiễn, không chỉ học ở thầy giáo mà còn

học ở những người khác với thái độ kiên trì, bền bỉ tiếp thu mọi nguồn tri thức

có thể để hoạt động một cách hiệu quả.

Tri thức có ở rất nhiều nguồn khác nhau nhưng theo Hồ Chí Minh, trước

hết người học phải biết "học ở sách vở". Khi còn mang tên Nguyễn Ái Quốc

sống trên đất Pháp, Hồ Chí Minh đã coi thư viện là một trường học lớn của

mình. Nhờ nghị sĩ quốc hội Pháp P.V.Couturier, Người đã có một thẻ thư viện

để có thể đọc thường xuyên ở thư viện Pháp trên đường Richeulieu. Người

không chỉ đọc những sách viết về triết học, chính trị mà chú ý đến cả văn học

63

của nhiều nước, nhiều thời đại. Hồ Chí Minh không khi nào bỏ phí một chút thời

gian, một cơ hội để đọc sách. Sau này, khi làm Chủ tịch nước, dù bận trăm công

nghìn việc nhưng Người luôn dành khoảng thời gian ngất định để đọc sách báo,

xem tin tức hàng ngày. Đại tướng Hoàng Văn Thái kể rằng, năm 1969, mỗi lần

đến làm việc, ông thường thấy trên chiếc bàn con bên giường của Người có rất

nhiều sách báo Người đang xem. Lo lắng đến sức khỏe của Người nên ông đề

nghị: "Thưa Bác, Bác mệt, Bác nên đọc ít, để nhiều thời gian nghỉ ngơi thư thả

cho lại sức". Bác trả lời, giọng như tâm sự mà rành rẽ, dứt khoát từng lời: "Chú

bảo Bác không đọc sách báo ư? Dù già yếu cũng phải học, phải đọc sách báo

nâng cao hiểu biết và nhất là để nắm vững tình hình chứ!". Những cuốn sách Hồ

Chí Minh đọc ở thời gian cuối đời là các cuốn: Cuộc kháng chiến chống xâm

lược Nguyên Mông, Vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ, The truth about Vietnam (Sự

thật về vấn đề Việt Nam, Nxb Green Leaf Classic, 1966).

Cuộc sống luôn là một kho tàng tri thức vô tận. Hồ Chí Minh đã dạy:

"Ngoài cách học ở trường, ở lớp, học trên sách, báo, v.v., có một cách học rất tốt

ai cũng có thể tham gia hằng ngày. Đó là cách học tập ngay trong sản xuất, học

tập những người, những tổ, những đơn vị tiên tiến" [102, tr.528] (mà ngày nay

UNESCO gọi là học tại nơi làm việc). Và chính Người đã luôn coi cuộc sống là

trường học lớn của mình. Từ khi còn là một thiếu niên, Nguyễn Tất Thành đã

chú ý quan sát những sự việc ở ngoài đời và trong đầu luôn có nhiều câu hỏi,

nhiều thắc mắc muốn được hiểu tường tận đến ngọn nguồn. Sau này, trên hành

trình tìm đường cứu nước, từ Sài Gòn qua Pháp, qua châu Phi rồi sang Mỹ, sang

Anh…, Nguyễn Tất Thành đã học được rất nhiều điều trong cuộc sống và rút ra

được những kết luận quan trọng đầu tiên về bạn và thù, về cuộc sống của nhân

dân ở các nước thuộc địa, về bản chất của các nước đế quốc… Nói chuyện với

sinh viên trường Đại học thành phố Băng Đung trong lần Người đến thăm

Inđônêxia ngày 27/02/1959 trên tư cách nguyên thủ quốc gia, Người ôn tồn chia

sẻ: "Tôi sẽ nói vài lời với các bạn. Khi còn trẻ, tôi không có dịp đến trường học.

Tôi đã đi du lịch và để làm việc, đó là trường đại học của tôi. Trường học ấy đã

dạy cho tôi khoa học xã hội. Nó đã dạy cho tôi cách yêu, cách ghét, yêu nước,

64

yêu loài người, yêu dân chủ và hòa bình và căm ghét áp bức, ích kỷ… Trường

học ấy đã dạy cho tôi khoa học quân sự… Trường học ấy đã dạy tôi chính trị…"

[12, tr.126].

Tiếp nữa là học ở bạn bè ở đồng nghiệp, "học lẫn nhau". Ông cha ta đã

đúc kết "học thầy không tày học bạn". Hồ Chí Minh cho rằng một người phải

biết học ở nhiều người, hơn nữa phải làm cho món ăn tinh thần phong phú,

không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi, cũng như vào vườn hoa cần

cho mọi người được thấy nhiều hoa đẹp. Người lấy đó để nhắc nhở cán bộ đảng

viên không được tự cao, tự đại cho mình là tài giỏi hơn mọi người, trái lại phải

học hỏi điều hay, điều tốt ở mọi người.

Hồ Chí Minh không những triệt để tận dụng những tổ chức, hoạt động có

sẵn trong xã hội như thư viện, câu lạc bộ, sách báo, các buổi nói chuyện, hội

thảo, viện bảo tàng…, mà còn tự tạo ra những hình thức học tập mới, sinh động

và bổ ích, như tranh thủ sự giúp đỡ chỉ bảo của người khác, học trong khi đi giao

thiệp, trong vận động quần chúng mà Người gọi là học trong nhân dân. Người

kết luận: "không học nhân dân là một thiếu sót lớn" [96, tr.361]. Mục tiêu cuối

cùng của cuộc cách mạng mà Đảng, Chính phủ, đứng đầu là Hồ Chí Minh tiến

hành nhằm giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho nhân dân, đưa nhân dân

lên địa vị làm chủ đất nước, xây dựng cuộc sống ấm no tự do, hạnh phúc cho

nhân dân đúng như nguyện vọng suốt đời của Người "ai cũng được học hành".

Chính vì vậy, việc học hỏi ở nhân dân phải đi đôi với việc giáo dục, soi đường

cho nhân dân đi đúng hướng để nhân dân phát huy hết sức mạnh và khả năng to

lớn của mình. Đó là công tác mà cán bộ, đảng viên phải đảm nhiệm.

2.2.5.4. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn

Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản

của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng là phương châm sống và hoạt động của Hồ Chí

Minh. Ở đâu, việc gì, lời nói và việc làm của Người luôn thống nhất và gắn kết

với nhau chặt chẽ.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành

thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông"

65

[101, tr.95]. Ở Người, nói đi đôi với làm, nói với làm thống nhất biện chứng với

nhau. Trong tất cả các công việc, Hồ Chí Minh luôn lấy lý luận để soi rọi vào

thực tiễn, và từ thực tiễn khái quát thành lý luận. Lý luận mà Hồ Chí Minh diễn

đạt rất trong sáng, giản dị, cô đọng, hàm súc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm và rất gần

gũi với thực tiễn. Ngôn từ của Người đạt tới sự gặp gỡ, gần gũi giữa người nói

với người nghe, người viết và người đọc, giữa lãnh tụ và quần chúng. Hồ Chí

Minh không viết nhiều, không hay nói dài mà lại làm nên sự nghiệp lớn lao là vì,

Người nói ít mà mọi người hiểu nhiều, nói ít mà mọi người nghe nhiều, tin

nhiều, chỉ một lời vắn tắt dễ hiểu đã đi vào trái tim, khối óc cuả quần chúng, biến

thành sức mạnh phi thường. Phương pháp Hồ Chí Minh là đi vào thực tiễn, qua

hoạt động thực tiễn đúc kết thành kinh nghiệm, từ đó nâng lên thành lý luận.

Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, giữa học và hành được

Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh. Người chỉ rõ: "Lý luận như cái kim chỉ nam,

nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì

lúng túng như nhắm mắt mà đi" [95, tr.273-274]. Lý luận phải đem ra thực hành.

Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn).

Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung,

cũng như không có tên. Người nhấn mạnh: "Lý luận cốt để áp dụng vào công

việc thực tế... Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một

mắt mờ" [95, tr.274]. Nếu chỉ học thuộc lòng, để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy

cũng vô ích. Trong XHHT, học và hành phải gắn bó chặt chẽ với nhau. Hồ Chí

Minh chỉ rõ: Học mà không hành, không áp dụng vào thực tế khác nào chiếc

hòm đựng đầy sách, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Người học

phải áp dụng ngay lý luận vào thực tiễn: Học xong về xí nghiệp, về hợp tác xã,

về cơ quan... phải biến những điều đã học thành hoạt động cách mạng thực tế.

"Học phải đi đôi với hành, chứ không phải học để nói suông" [105, tr.116]. Bởi

xét đến cùng, nói như Hồ Chí Minh về mục đích của việc học tập: "Học cốt để

mà làm. Học mà không làm được, học mấy cũng vô ích" [95, tr.343]. Những

quan điểm đem suy xét trong XHHT hiện nay thật vô cùng sâu sắc.

66

Để tránh lý luận suông, theo Hồ Chí Minh phải kết hợp giữa học với

hành, giữa học tập với lao động sản xuất. Sự kết hợp lao động sản xuất với học

tập trong nhà trường sẽ giúp người học nắm vững kiến thức cơ bản, đồng thời

tạo tiền đề để con người phát triển toàn diện. Thông qua thực tiễn lao động sản

xuất làm cho tri thức của người học được gọt giũa, mài sắc thêm tạo nền tảng để

người học tiếp thu tri thức mới. Người khuyên học sinh: "Các cháu học sinh

không nên học gạo, không nên học vẹt... Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với

thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau"

[104, tr.402]. Từ đó, Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu về thái độ học tập. Theo Hồ

Chí Minh, muốn thực hiện nguyên tắc lý luận liên hệ thực tế, muốn cho việc

học tập đạt được mục đích đề ra, thì cần phải có thái độ học tập đúng đắn. Đó

là: - Phải khiêm tốn, thật thà. - Phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập

cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được,

do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu

khó, cố gắng, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập. -

Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải

đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn

đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. - Phải bảo vệ

chân lý, phải có nguyên tắc tính, không được ba phải, điều hòa. - Phải đoàn kết

giúp đỡ lẫn nhau học tập, mạnh dạn phê bình và thật thà tự phê bình và khi phê

bình, tự phê bình thì phải xuất phát từ ý muốn đoàn kết, để đạt đến đoàn kết

mới trên cơ sở mới. Hồ Chí Minh căn dặn tất cả mọi người: "Đối với bất cứ

vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi "vì sao?", đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có

hợp với thực tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt

tuân theo sách vở một cách xuôi chiều" [101, tr.98-99], "cái gì biết thì nói biết,

không biết thì nói không biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của

học tập" [101, tr.98].

Quan điểm trên của Hồ Chí Minh hoàn toàn tương đồng với công thức về

cách học mà UNESCO đưa ra năm 1996 - Công thức 4H: Học - Hỏi - Hiểu -

Hành. Ở đây, học phải đi đôi với hỏi thì mới hiểu, hiểu sâu và đồng thời thấy

67

được những điều chưa hiểu, cần phải tiếp tục học. Khi học thì không nên chỉ tiếp

thu một chiều, mà phải lật đi lật lại vấn đề, tức là phải đề ra được câu hỏi, biết

cách hỏi và tìm được cách trả lời thì mới hiểu sâu, biết rộng và từ đó có khả năng

hành động cũng như giải quyết vấn đề.

Có thể khẳng định trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT, học

đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, học tập kết hợp với lao động sản xuất

là một phương châm căn bản, vừa là nguyên tắc, vừa là phương pháp, đồng thời

là mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam.

2.3. HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP

Không chỉ là nhà tư tưởng, Hồ Chí Minh còn là nhà thực hành vĩ đại.

Trong vấn đề xây dựng XHHT, Hồ Chí Minh không chỉ đề ra hệ thống quan

điểm mà trên hết và trước hết, Người còn đặt nền móng xây dựng XHHT trên

đất nước ta.

2.3.1. Hồ Chí Minh với phong trào Bình dân học vụ

Cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945. Ngày 2/9/1945, tại

Quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu

vực Đông Nam Á. Chính phủ lâm thời được thành lập, Nhà nước non trẻ ra đời,

nhưng khó khăn thì vẫn còn chồng chất.

Nạn đói năm 1945 khiến hơn 2 triệu người (chiếm khoảng 10% dân số

nước ta lúc đó) bị chết đói. Trong khi đó, ở miền Bắc, 20 vạn quân đội Trung

Quốc của Tưởng Giới Thạch vào giải giáp quân đội Nhật; ở miền Nam là hơn 1

vạn quân Anh, núp sau Anh là Pháp với âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta

lần thứ hai. Các thế lực phản động trong nước núp bóng lực lượng quân đội nước

ngoài cũng tìm cách lật đổ chính quyền cách mạng.

Về trình độ văn hóa lúc bấy giờ, hơn 95% dân số nước ta chưa biết đọc,

biết viết. Cần phải mang ánh sáng văn hóa đến cho họ, trước hết là phải cho họ

thoát khỏi nạn mù chữ nhằm giúp họ nhanh chóng giác ngộ lý tưởng cách mạng,

nhanh chóng nắm được đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Như vậy là,

68

vào thời điểm ấy, không chỉ “giặc đói”, “giặc ngoại xâm” mà cả “giặc dốt” đều

là kẻ thù mà chính quyền cách mạng phải kiên quyết tiêu diệt.

Tình thế khẩn trương đòi hỏi người cách mạng không thể chần chừ. Ngày

3/9/1945, ngay sau ngày tuyên bố độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính

phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu những

nhiệm vụ cấp bách của đất nước. Một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất, thiết

thực nhất mà chính quyền cách mạng vừa mới ra đời phải giải quyết trong hoàn

cảnh khó khăn và thiếu thốn đó là “nạn dốt”. Người chỉ rõ: “Nạn dốt là một

trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta…

Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch để

chống nạn mù chữ” [94, tr.7]. Đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Hội đồng

Chính phủ lâm thời nhất trí tán thành. Sự nghiệp xóa nạn mù chữ được đặt thành

chính sách của Nhà nước.

Ngày 8/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký 3 sắc lệnh:

Sắc lệnh số 17: Đặt ra một BDHV trong toàn cõi Việt Nam

Sắc lệnh số 19: Trong toàn cõi nước Việt Nam sẽ thiết lập cho nông dân

và thợ thuyền những lớp bình dân buổi tối.

Sắc lệnh số 20: Trong khi chờ đợi lập được nền tiểu học cưỡng bức, việc

học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn

trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết

chữ Quốc ngữ.

Như vậy, với vai trò là người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ mới, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã đặt ngang hàng nhiệm vụ diệt dốt cùng với nhiệm vụ diệt

đói và diệt ngoại xâm. Những sắc lệnh Người ban hành vừa phản ánh yêu cầu

quan trọng của nền giáo dục mới, vừa đáp ứng nguyện vọng thiết tha của đông

đảo nhân dân, vừa giải đáp được những trăn trở từ bao lâu của Người về một nền

giáo dục thực sự cho nhân dân, vì nhân dân. Trong điều kiện nước nhà còn vô

vàn khó khăn lúc bấy giờ, thì sự “cưỡng bức” giáo dục bắt buộc và không mất

tiền này thực sự là cố gắng rất lớn của Hồ Chí Minh cùng với Chính phủ nhằm

mang lại lợi quyền cho đông đảo nhân dân. Từ đây, công cuộc diệt dốt không chỉ

69

dừng lại ở những lời kêu gọi, những khẩu hiệu, mà thực sự đã trở thành phong

trào quần chúng rộng khắp, có sức lan tỏa mạnh mẽ, thu hút triệu triệu người dân

tham gia.

Tháng 10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Chống nạn thất học.

Lời kêu gọi Chống nạn thất học của Hồ Chí Minh đã vạch ra chiến lược

xóa mù chữ, gồm hai điểm cơ bản: Xây dựng sự nghiệp xóa mù chữ thành một

phong trào quần chúng, làm cho xóa mù chữ trở thành việc của toàn xã hội;

tuyên truyền giải thích cho người mù chữ hiểu nghĩa vụ học tập của mình và làm

chủ việc xóa nạn mù chữ cho mình.

Cương lĩnh hành động của phong trào BDHV được thể hiện rất rõ:

“Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ,... Những

người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng

bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người

làm không biết thì chủ nhà bảo” [94, tr.40-41]. Thậm chí, người giàu có thì mở

lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng;

những người chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, chủ nhà máy thì mở lớp học

cho những người làm của mình.

Một tháng sau ngày thành lập BDHV, lớp huấn luyện cán bộ BDHV đầu

tiên đã được khai giảng tại Hà Nội, ngày 8/10/1945. Lớp huấn luyện mang tên

Chủ tịch Hồ Chí Minh (Khóa huấn luyện Hồ Chí Minh) và Người trực tiếp đến

dự lễ khai giảng. Chương trình hành động của BDHV được xây dựng với tinh

thần tự lực tự cường, động viên được hàng vạn cán bộ và giáo viên tự nguyện

làm việc không lương, tiết kiệm cho quỹ Nhà nước hàng trăm triệu đồng. Người

nêu rõ ba nhiệm vụ cách mạng trước mắt có liên quan với nhau là chống nạn đói,

nạn dốt, nạn ngoại xâm và chỉ rõ: Chống nạn thất học cũng quan trọng như

chống ngoại xâm.

Cán bộ và ủy viên BDHV được đưa về các tỉnh xây dựng, triển khai chiến

dịch diệt dốt với những biện pháp linh hoạt, sáng tạo thích hợp với từng địa

phương. Khắp nơi, đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia chiến dịch diệt dốt:

người đi học, người đi dạy, người ủng hộ BDHV bằng nhiều cách tùy theo điều

70

kiện và khả năng của mình (vận động người đi học, người đi dạy, đỡ đầu lớp

học, cho mượn nhà làm lớp học...).

Song song với việc vận động nhân dân tham gia vào các lớp xóa mù chữ là

cuộc vận động người biết chữ đi dạy tại các lớp BDHV. Hưởng ứng phong trào,

cả nước đã có tới 10.000 người tình nguyện dạy các lớp xóa mù chữ mà không

nhận tiền thù lao. Đội ngũ giáo viên gồm những người đã từng dạy ở các lớp học

Truyền bá Quốc ngữ trước đây, những thanh niên, học sinh, những nhân viên,

công chức đang làm việc trong các cơ quan, nhà máy, những hướng đạo sinh...

Sự quan tâm của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ, dù bận trăm công nghìn

việc nhưng Người vẫn luôn dành thời gian đi thăm các lớp học BDHV. Buổi tối

ngày 13/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm lớp học bình dân ở trường

Hoài Đức, phố Hàng Trống, Hà Nội. Thấy học viên viết chính tả rõ ràng, ít lỗi,

Người rất vui lòng. Người xem sách vở, ân cần thăm hỏi học viên và giáo viên.

Ngày 1/5/1946, nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động, Người gửi thư động

viên toàn thể giáo viên BDHV, trong đó nhấn mạnh: “Chương trình của Chính

phủ ta là làm thế nào cho toàn quốc đồng bào ai cũng có ăn, có mặc, có học” [94,

tr.556]. Đó cũng chính là lý tưởng suốt đời của Hồ Chí Minh.

Ở khắp nơi trên cả nước, BDHV sôi nổi bàn biện pháp tích cực đẩy mạnh

phong trào diệt dốt bằng mọi hình thức. Tại Hà Nội, ngày 12/5/1946, BDHV đã

tổ chức một cuộc mít tinh lớn hàng vạn người tại quảng trường Nhà hát Thành

phố. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành thời gian đến dự lễ khai mạc, khuyến

khích mọi người giúp sức diệt giặc dốt. Đối với học viên, Người căn dặn cố gắng

học tập theo gương cụ Nguyễn Văn Bảng ở xã Vạn An, 77 tuổi còn chịu khó học

tập, biết chữ và đã viết thư lên thăm Người.

Những hành động này chứng tỏ, mặc dù việc nước bộn bề trăm công

nghìn việc nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn quan tâm đến việc ăn và việc

học của nhân dân. Từ những lời kêu gọi chí lý chí tình, đến những bức thư động

viên tha thiết; từ những lời phát biểu ân cần đến những lần đến thăm từng lớp

học, tất cả đều toát lên tấm lòng và sự quan tâm của Người đứng đầu đất nước

tới công cuộc xóa nạn mù chữ của nhân dân ta.

71

Lúc bấy giờ, chống nạn mù chữ, tham gia BDHV trở thành phong trào

hết sức sôi nổi. Những khẩu hiệu: “Đi học BDHV là yêu nước”, “Dạy học

BDHV là yêu nước”, “Giặc dốt diệt, Việt Nam cường”… được dán ở khắp nơi,

thậm chí viết trên thân cây, viết lên tường, viết trên nong nia dựng ở đầu

đường, đầu làng…

Lớp học không có. Nhà chùa, nhà thờ cho mượn phòng để học, tư nhân

cho mượn nhà, mượn bàn ghế, dựng tấm phản làm bảng để tạo thành lớp học.

Phấn viết bảng không có. Người ta dùng gạch non, đất sét trắng phơi khô,

thậm chí dùng cả than củi làm phấn để dạy, để học.

Các lớp học được tổ chức linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng: thợ cày

học trong giờ nghỉ trưa hoặc sau buổi ăn cơm tối; công nhân học sau ca làm việc.

Có những lớp học được tiến hành ngay tại sân nhà, viết than lên mặt sân gạch

hoặc lấy que tre viết chữ lên sân đất. Có nơi thiếu bàn ghế, học viên trải chiếu

xuống đất để ngồi, úp thúng xuống để làm bàn học. Không có bút mực thì dùng

bút chì, không có giấy trắng thì viết lên giấy báo cũ, có nơi dùng cả bút lông và

mực tàu để viết chữ Quốc ngữ. Không có dầu hỏa thì dùng dầu lạc, dùng hạt

bưởi khô làm đèn.

Dân nghèo ra lớp bất kể sáng, trưa, chiều, tối, miễn là tìm được khoảng

thời gian trống giữa những công việc mưu sinh hàng ngày. Ở vùng vạn chài, lớp

học có khi bắt đầu từ 4 giờ sáng để học viên - ngư dân kịp ra biển đánh cá.

Ngày nay, khó có thể hình dung được lớp học bình dân được tổ chức trên

thuyền, dưới gốc đa đầu làng, ngồi trên xe xích lô, ngồi ở đầu bờ ruộng, trong

nhà lao. Người đi học là nông dân, công nhân, thợ thủ công, người bán hàng

rong,… Có lớp đông học viên, có lớp một thầy một trò, có lớp không có thầy.

Chữ được viết tên lưng trâu, trên mui thuyền, trên thân cây, tạo nên một “rừng

chữ”, ra đường, đi cày, ngồi bán hàng ở chợ…, bất cứ lúc nào cũng có thể trông

thấy những chữ mà ngày hôm đó cần học.

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hồ Chí Minh vẫn quan tâm chỉ đạo

phong trào BDHV. Người căn dặn đồng bào, chiến sĩ, cán bộ phải tiến hành một

cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện: ra chiến trường là kháng chiến, sản xuất

72

trên cánh đồng là kháng chiến, đi học cũng là kháng chiến. Cục diện mới của

phong trào BDHV lúc này là vừa phải dồn sức người sức của cho cuộc chiến,

vừa tiếp tục xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí cho nhân dân. Đâu đâu cũng thấy

những khẩu hiệu: “Đi học là kháng chiến”, “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu

phương diệt giặc dốt”, “Mỗi lớp học là một tổ tuyên truyền kháng chiến”, “Mỗi

giáo viên BDHV là một đội viên tuyên truyền kháng chiến”...

Ngày 6/8/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị BDHV Khu

XII (Theo quyết định của Chính phủ, tháng 11/1946 cả nước ta được chia thành

12 khu hành chính và quân sự. Mỗi khu có Ủy ban kháng chiến Khu phụ trách

hành chính, khu trưởng phụ trách quân sự. Khu XII gồm các tỉnh (cũ): Lạng

Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh, Hòn Gai, Quảng Yên): “Từ ngày kháng

chiến, tuy hoàn cảnh khó khăn, nhưng bình dân học vụ vẫn hăng hái tiến hành,

thế là tốt lắm... Tôi trân trọng gửi lời khen ông giám đốc và tất cả anh chị em

bình dân học vụ về thành tích đã đạt được, và khuyên tất cả mọi người gắng sức

thêm” [95, tr.212].

Đến ngày 10/11/1947, nhận được báo cáo trong mấy tháng đầu kháng

chiến, BDHV Khu III phát triển mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng

chí Giám đốc và toàn thể giáo viên nam nữ BDHV Khu III biểu dương những

thành tích và căn dặn: “Tôi mong rằng các lớp bình dân học vụ chẳng những dạy

cho đồng bào học chữ, làm tính mà dạy thêm về công cuộc kháng chiến, cứu

nước, tăng gia sản xuất, giúp mùa Đông binh sĩ, giúp đồng bào tản cư, khoa học

thường thức” [95, tr.347].

Có thể thấy, hiếm một nơi nào trong hoàn cảnh kháng chiến chống ngoại

xâm cực kỳ gian khổ, thiếu thốn lại phát động được phong trào toàn dân đi học

như ở Việt Nam những năm sau Cách mạng Tháng Tám.

Nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc khánh 2/9/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi

thư căn dặn các chiến sĩ BDHV: “Vùng nào còn sót nạn mù chữ, thì các bạn cố

gắng thi đua diệt cho hết giặc dốt... Vùng nào đã hết nạn mù chữ, thì các bạn thi

đua để tiến lên một bước nữa” [95, tr.604]. Đó chính là tinh thần của học liên

tục, học suốt đời mà Người luôn nhắc nhở.

73

Từ cuối năm 1948, đã có những xã, huyện và tỉnh xóa xong nạn mù chữ

như: huyện Quỳnh Côi (Thái Bình), huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) và nhiều xã,

trong đó có xã Thanh Nông là xã đầu tiên miền núi thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh

Hòa Bình. Về đơn vị tỉnh thì Hà Tĩnh là tỉnh đã thanh toán xong nạn mù chữ đầu

tiên trên cả nước. Tất cả những địa phương này đều được Chủ tịch Hồ Chí Minh

viết thư khen ngợi.

Sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phong trào diệt dốt

cùng những lời khích lệ, dặn dò của Người là nguồn động viên to lớn đối với cán

bộ và nhân dân cả nước, nhất là những nơi chưa thanh toán xong nạn mù chữ,

hăng hái xung phong diệt giặc dốt gắn liền với diệt giặc ngoại xâm, đẩy mạnh

sản xuất. Tính đến cuối năm 1950, đã có trên 10 triệu người được thoát nạn mù

chữ. Tổng số đơn vị được công nhận thanh toán nạn mù chữ là 10 tỉnh (Hà Tĩnh,

Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Hưng Yên, Phúc Yên, Quảng Nam, Quảng

Ngãi, Phú Yên, Bình Định).

Trong kháng chiến toàn quốc, được sự chỉ đạo, động viên thường xuyên

của Chủ tịch Hồ Chí Minh, BDHV có những đặc sắc về tổ chức và nội dung,

riêng biệt ở từng vùng, từng giai đoạn, phụ thuộc vào tình hình quân sự, chính

trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, đã phục vụ rất đắc lực công cuộc kháng chiến

kiến quốc.

Bước sang thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhiệm vụ của

ngành BDHV cũng thay đổi. Nhân ngày Quốc khánh 2/9/1954, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã nêu rõ nhiệm vụ của BDHV trong giai đoạn mới: “Về văn hóa, chúng ta

phải thanh toán hết nạn mù chữ, đào tạo cán bộ để xây dựng nước nhà” [99,

tr.39]. Nhân dân khắp nơi phấn khởi, nô nức đi học, nhất là ở những vùng mới

giải phóng và những xã đã phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất.

Năm 1956, Đảng và Chính phủ đề ra kế hoạch 3 năm hoàn thành thanh

toán nạn mù chữ ở miền Bắc (1956 - 1958). Để động viên phong trào, tối ngày

27/3/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuống thăm các lớp học bình dân ở khu lao

động Lương Yên và tối 4/6/1956, Người đến thăm các lớp BDHV ở trường

Đoàn Kết và xóm Chùa Vua thuộc khu phố Hai Bà Trưng. Đến đâu, Người cũng

74

ân cần căn dặn anh chị em giáo viên chịu khó dạy và học viên chịu khó học để

mau chóng xóa xong nạn mù chữ.

Trong phong trào này, từ thành thị đến thôn quê, ở các đường phố, các

nhà máy, các công trường, các chợ búa... lớp học mọc lên ở khắp nơi. Già, trẻ,

gái, trai, ai chưa biết chữ đều tìm cách vượt khó khăn để đi học. Buổi sáng, buổi

trưa, buổi tối, đến đâu cũng nghe tiếng học. Thật là một phong trào sôi nổi, một

cảnh tượng tưng bừng của một dân tộc quyết rời bỏ chỗ tối, bước lên chỗ sáng.

Cảm động nhất là có những cụ tuổi đã rất cao, mà cũng xung phong đi học để

khuyến khích con cháu, như bà cụ Nguyễn Thị Xuyến (100 tuổi, xã Nghi Tân,

Nghệ An), cụ Lê Siêu (106 tuổi, xã Sơn Phố, Hà Tĩnh) và nhiều cụ khác. Học

sinh các trường công và tư là quân chủ lực tinh nhuệ của đội ngũ giáo viên bình

dân học vụ. Nhưng cũng có nhiều cụ phụ lão (như cụ Dương 80 tuổi, cụ Mỹ 79

tuổi), các em nhi đồng, nhiều anh chị công nhân và cán bộ... cũng không ngại

khó nhọc, xung phong đi dạy.

Ngoài cách dạy và cách học thông thường, lại có nhiều sáng kiến và hình

thức như: Dán bài vào cánh tay, viết chữ trên mẹt hàng, găm bài học vào lưng

áo người đi trước để người đi sau nhìn mà học, viết chữ cắm ở những nơi đông

người qua lại... Như vậy, đồng bào có thể vừa lao động, vừa học chữ. Đồng bào

các giới thì đều tuỳ khả năng của mình mà ủng hộ phong trào diệt giặc dốt,

như: Tổ chức giữ trẻ để cho chị em có con mọn đi học được; cho mượn nhà

làm lớp học; đóng bàn ghế không lấy tiền; giúp dầu đèn, bút, giấy cho những

học viên nghèo, v.v.. BDHV đã phát triển mạnh mẽ, rộng khắp mang tính quần

chúng thật sự, đến cuối tháng 6/1956 đã có tới trên 2 triệu người ra lớp học.

Người nhấn mạnh: “Có thành tích ấy là vì nhân dân ta hiểu thấu rằng: Bất kỳ

làm nghề gì, nếu không biết chữ thì khó tiến bộ, cho nên nhiều người cố gắng

đi học” [100, tr.397].

Tháng 7/1956, Nha BDHV đã triệu tập Đại hội sơ kết công tác BDHV 6

tháng đầu năm 1956 và bàn biện pháp đẩy mạnh phong trào xóa mù chữ trong 6

tháng cuối năm. Trong Đại hội này, Người đã đến thăm, huấn thị và trao đổi một

số kinh nghiệm:

75

- Muốn thoát nạn mù chữ cho số đông nhân dân mà đại đa số là nông

dân thì phong trào BDHV phải là phong trào quần chúng, phải đi sát quần

chúng, bàn bạc với quần chúng, áp dụng những hình thức phong phú thích hợp

với sinh hoạt của quần chúng, phải dựa vào quần chúng để đẩy phong trào lên.

- Bình dân học vụ cũng là dạy học, nhưng không có trường lớp, đèn,

sách như trường phổ thông. Nó là một phong trào rộng rãi, phức tạp mà lại phải

tự lực cánh sinh. Muốn thanh toán nạn mù chữ cho nhân dân, phải chịu khó;

quan liêu, mệnh lệnh là không được.

- Bình dân học vụ cũng có lãnh đạo, có Bộ, có Nha, có Ty. Lãnh đạo

không phải ngồi viết trong bàn giấy. Lãnh đạo phải đi sát, phải giúp đỡ cán bộ

giải quyết khó khăn.

- Công tác BDHV trông không oanh liệt, nhưng nếu 3 năm thanh toán

nạn mù chữ được cho nhân dân thì là một công trạng rất to. Nước ta có thể tự

hào là một nước thanh toán nạn mù chữ nhanh chóng. Các nước tự xưng là văn

minh như Mỹ, Anh, Pháp, người không biết chữ vẫn còn nhiều. Hai ba năm

thanh toán được nạn mù chữ là đại thắng lợi. Làm được như thế thì tất cả cán bộ,

giáo viên BDHV là anh hùng, là anh hùng tập thể.

Từ đó, Người nêu nhiệm vụ xóa mù chữ: “Lúc chưa biết chữ thì học cho

biết chữ. Biết chữ rồi thì phải tiến lên nữa. Những người đã thoát nạn mù chữ mà

không có sách báo xem thì lại mù lại, cho nên đặt ra cho Chính phủ và Bộ nhiệm

vụ phải có sách báo hợp với trình độ đồng bào cho đồng bào xem. Các cô, các

chú có nhiệm vụ giúp cho đồng bào chưa biết chữ biết chữ rồi lại học thêm. Vậy

các cô, các chú phải học thêm nữa để dạy nữa. Dân tộc tiến lên, cán bộ cũng phải

tiến lên. Cán bộ phải tiến trước để đưa dân tộc tiến lên mãi” [100, tr.370-371].

Đặt tư duy này trong điều kiện xây dựng XHHT hiện nay mới càng ngỡ ngàng

thán phục tầm nhìn vượt trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày 21/12/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi cán bộ và

đồng bào các xã Vĩnh Khang (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), Diễn Liên (Diễn Châu,

Nghệ An), Tam Cường (Tam Nông, Phú Thọ), Liên Sơn (Gia Viễn, Ninh Bình)

và thị xã Phát Diệm (Ninh Bình) đã hoàn thành thanh toán nạn mù chữ trước

76

thời hạn. Người nhấn mạnh ý nghĩa cách mạng to lớn của công cuộc xóa mù

chữ: Thanh toán nạn mù chữ là bước đầu nâng cao trình độ văn hóa. Trình độ

văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục

kinh tế, phát triển dân chủ. Các địa phương, sau khi thành lập ban lãnh đạo thanh

toán nạn mù chữ, đã lần lượt mở đại hội thi đua diệt dốt ở địa phương mình: giữa

các xã trong một huyện, giữa các huyện trong một tỉnh và giữa tỉnh này với tỉnh

khác, v.v... Có nơi mở chiến dịch “Điện Biên Phủ diệt dốt”; có nơi mở cuộc

“Tổng công kích diệt dốt”... với những phong trào rầm rộ: “Lúa xanh tươi, người

biết chữ”, “Làm mùa tốt, diệt dốt hăng”... Lại có những ngành, những giới hăng

hái tham gia các đợt “xung kích diệt dốt”, “Trưng Triệu diệt dốt”, “Bạch đầu

quân diệt dốt”, “Hè diệt dốt” v.v... Phong trào BDHV trở thành phong trào quần

chúng thật sự và rộng khắp, thu hút các lực lượng xã hội tham gia.

Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh có một phần thưởng đặc biệt đối với

phong trào BDHV: đó là bức ảnh màu của Người có chữ ký và lời đề tặng tự tay

Người viết: “Tặng chiến sĩ diệt dốt”. Đây thực sự là món quà vô giá Người dành

tặng cán bộ và giáo viên BDHV. Ngoài ra, Người còn dành nhiều thì giờ đi thăm

lớp học bình dân và đến dự các cuộc họp của cán bộ và giáo viên BDHV như :

- Đầu tháng 2/1958, thăm xã Mễ Trì (Từ Liêm, Hà Nội) là xã yếu nhất của

Thủ đô năm 1957;

- Tối 17/3/1958, thăm các lớp BDHV ở trường Trí Tri, trường Nguyễn

Du, bãi Phúc Tân (khu Hoàn Kiếm).

- Sáng 18/3/1958, thăm Hội nghị tổng kết phong trào Diệt dốt năm 1957

của Hà Nội. Tại đây, Người đã tự tay trao huy hiệu diệt dốt cho 8 chiến sỹ và gia

đình ông Ấp ở khu Hoàn Kiếm có 4 cha con cùng tham gia công tác BDHV.

- Tối 25/5/1958, đến thăm anh em công nhân nhà máy điện Bờ Hồ. Sau

khi hỏi thăm về tình hình làm việc và học tập của anh em, Bác hỏi: “Trên một

nghìn người mà còn một chục chưa biết chữ. Liệu có thanh toán được không?

(...). Vậy các cô, các chú có cố gắng tham gia học không? Các cô, các chú có

làm được không? Cả nhà máy đêm hôm ấy đã vang lên lời hứa: “Thưa Bác, làm

được ạ!”

77

Những tặng phẩm quý giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho các chiến

sĩ diệt dốt, những lời dạy bảo và khích lệ của Người trong khi Người đến thăm

các lớp học là nguồn động viên, là lời nhắc nhở cán bộ, giáo viên BDHV và

đồng bào cả nước, với quyết tâm mới, với khí thế mới, xông lên xóa nạn mù chữ

đúng tiến độ.

Ngay cả những nơi còn nhiều khó khăn như vùng ven biển, vùng Thiên

chúa giáo, các lớp học BDHV cùng mọc lên dưới nhiều hình thức, từ những lớp

tập trung chuyển thành những lớp nhỏ, phân tán, lớp tư gia, tùy theo điều kiện

thuận tiện của người học, người dạy, học ở nhà máy, học ở ngoài đồng, học

trong chợ, học ở dưới thuyền, dưới mảng... trong những giờ nghỉ làm ăn, thậm

chí có những lớp chỉ có “một thày một trò” tổ chức ngay tại nhà học viên.

Kết quả là số người thoát nạn mù chữ ngày càng nhiều, đã có những xã,

những huyện hoàn thành kế hoạch thanh toán nạn mù chữ trước thời hạn. Ninh

Bình là tỉnh đầu tiên hoàn thành kế hoạch thanh toán nạn mù chữ trước thời hạn

4 tháng với tỉ lệ 95,8% dân số từ 12 đến 50 tuổi thoát nạn mù chữ.

Tiếp sau Ninh Bình, ba tỉnh Thanh Hóa, Hà Nam, Thái Bình báo cáo hoàn

thành nhiệm vụ thanh toán nạn mù chữ trong tháng 11/1958 và đến cuối năm,

các tỉnh còn lại, trừ miền núi, cũng hoàn thành kế hoạch thanh toán nạn mù chữ

trước hoặc đúng hạn.

Vậy là, với sự quan tâm và những chỉ đạo hết sức thiết thực của Chủ tịch

Hồ Chí Minh, một cuộc cách mạng thực sự trong lĩnh vực giáo dục đã được thực

hiện. Nhân dân ta từ chỗ không biết đọc, biết viết (hơn 90% sau Cách mạng

tháng Tám) thì nay đã có thể đọc thông, viết thạo chữ quốc ngữ; đồng bào ta từ

chỗ không có lớp, có trường thì nay đã tự xây dựng trường lớp cho mình. Đó

thực sự là một cuộc xã hội hóa học tập không biên giới (miền ngược, miền xuôi,

trong quân đội, trong nhà máy xí nghiệp, trong nhà tù thực dân), không tuổi tác

(từ các em thiếu niên nhi đồng cho đến các cụ phụ lão), không giới tính (từ đàn

ông đến đàn bà), không tôn giáo. Nó thể hiện tinh thần quần chúng và truyền

thống ham học hỏi của nhân dân ta. Đặc biệt, trong hoàn cảnh nhà nước non trẻ,

78

phải đương đầu với vô vàn khó khăn thử thách, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc

thì những thành tựu trên thực sự là một kỳ tích.

2.3.2. Hồ Chí Minh với phong trào Bổ túc văn hóa

Từ sau chiến thắng Biên giới năm 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp đã

chuyển sang giai đoạn quyết định. Tháng 2/1951, Đảng ra hoạt động công khai

với tên Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, Đảng đề ra một-số chính sách mới nhằm

tích cực bồi dưỡng lực lượng kháng chiến về mọi mặt. Về mặt văn hóa, Đảng

chủ trương ra sức bồi dưỡng cán bộ công nông đã được rèn luyện trong khói lửa

chiến tranh cách mạng để có đủ năng lực đưa vào các vị trí lãnh đạo then chốt

của Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp, nhất là ở cơ sở. Cũng từ đây, BDHV

đã chuyển sang thời kỳ mới, một mặt, tiếp tục xóa nạn mù chữ và phát triển lớp

dự bị bình dân, mặt khác, bước đầu tổ chức việc BTVH, với nội dung chương

trình, hình thức học và đối tượng phục vụ đều khác với các lớp dự bị bình dân.

Từ năm 1950, Quốc hội khóa II đã quyết định phát triển phong trào BTVH.

Hình thức học BTVH là học tại chức. Chương trình BTVH được soạn

thảo có nội dung kiến thức và kỹ năng tương đương với chương trình giáo dục

phổ thông chính quy, nhưng tinh giản và được giảng dạy theo những phương

pháp thích hợp với người lớn.

Do nhu cầu bồi dưỡng văn hóa cho cán bộ chủ chốt các cấp, theo chỉ thị

của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trường BTVH tập trung (tên là Trường phổ thông lao

động Trung ương) được xây dựng ở Khu X (Tuyên Quang) từ đầu năm 1951.

Chương trình học mô phỏng theo chương trình Tiểu học và trung học, có cải tiến

cho phù hợp với học viên, chia làm 5 lớp (tương đương với các lớp 3, 4, 5, 6, 7,

8 hồi đó), thời gian học mỗi lớp 4 tháng.

Tháng 6/1952, Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về “Đẩy mạnh công tác

giáo dục BTVH” phục vụ công nông binh, gồm những vấn đề chính dưới đây:

Về phương châm, nhấn mạnh 3 điểm:

- Lý luận và thực tiễn thống nhất, học kết hợp với hành, học để mà làm;

79

- Tranh thủ thời gian phục vụ kháng chiến, đồng thời chuẩn bị để có thể

học lên cao;

- Dựa vào lực lượng nhân dân, dùng những phương pháp và hình thức tổ

chức linh động, mềm dẻo, thích hợp với điều kiện cụ thể và nhu cầu thiết thực

từng thời kỳ, từng địa phương, từng lớp người.

Về đường lối biên soạn chương trình học, Nghị quyết nêu hướng giải

quyết mối quan hệ giữa thiết thực và đề cao: chương trình vừa thiết thực, vừa đề

cao, thiết thực là chính, đề cao là phụ; vừa thích hợp với nhu cầu học và hành

trước mắt, vừa nhằm thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết và công tác sau này,

song chủ yếu phải là thiết thực.

Theo tinh thần Nghị quyết trên, Nha BDHV xây dựng chương trình giáo

dục bổ túc gồm 2 cấp:

Cấp I: 2 lớp (lớp 1 - 2) tương đương với cấp I phổ thông.

Cấp II: 3 lớp (3 - 4 - 5) tương đương với cấp II phổ thông và gồm 3 loại:

chương trình trường phổ thông lao động học tập trung và chương trình BTVH

học tại chức, soạn riêng cho 3 địa bàn: xí nghiệp, cơ quan, nông thôn.

Chương trình giáo dục bổ túc mới được ban hành do nghị định số

258/NĐ ngày 20/8/1952 của Bộ Giáo dục. Điều 2 nói về mục đích giáo dục

bổ túc, điều 3 nói về phương châm biên soạn chương trình và hình thức tổ

chức giáo dục bổ túc.

Như thế là một hệ thống tư tưởng cơ bản chỉ đạo công tác BTVH dần dần

được hoàn thiện, làm cơ sở cho sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng đối

với công tác này.

Về vị trí và tầm quan trọng của công tác BTVH, trong thư gửi cho cán bộ

và giáo viên BTVH ngày 17/12/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Muốn

xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn tăng gia sản xuất tốt

thì phải có kỹ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kỹ thuật thì phải có văn hóa. Vì

vậy công việc bổ túc văn hóa là cực kỳ cần thiết” [103, tr.361].

Từ 1961 - 1965, công tác BTVH đã phát triển mạnh mẽ ở khắp các địa

80

bàn và đã thiết thực phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước trong giai

đoạn mới. Trong thực tiễn hoàn thành kế hoạch 5 năm về BTVH đã xuất hiện

những đơn vị tiên tiến, xuất sắc nhất là xã Yên Cường (Nam Định), xã Cẩm

Bỉnh (Hà Tĩnh), tiêu biểu cho nông thôn miền xuôi, xã Thu Phong (Hòa Bình),

tiêu biểu cho nông thôn miền núi và đặc biệt nhà máy Ô tô 1-5 (Hà Nội), tiêu

biểu cho địa bàn cơ quan, xí nghiệp.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mặc dù có nhiều khó khăn,

ngành BDHV đã có những cố gắng mới để duy trì phong trào, đồng thời xử lý

nội dung chương trình BTVH theo yêu cầu của nhiều đối tượng khác nhau.

Ngày 15/10/1968, Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, giáo viên và học

sinh toàn ngành giáo dục, trong đó có ngành BTVH. Người vui mừng khi biết

rằng mặc dù hoàn cảnh khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,

miền Bắc đã có 12000 trường phổ thông, mỗi xã đều có trường cấp I, nhiều xã

đã có trường cấp II, các huyện đều có ít nhất một trường cấp III. Số người đi học

đã hơn 6 triệu, trong đó có hơn 1 triệu cán bộ và công nông đang học BTVH. Số

người vào học các trường đại học và trung học chuyên nghiệp tăng gần gấp ba

lần so với trước chiến tranh chống Mỹ. Hơn 30 trường đại học và 200 trường

trung học chuyên nghiệp đã phối hợp chặt chẽ với các ngành và các địa phương,

đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ, tập trung cũng như tại chức. Trong thư,

Người căn dặn: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học

tốt” [105, tr.507].

Như vậy là suốt 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí

Minh luôn luôn quan tâm, song hành và chỉ đạo sát sao, khích lệ kịp thời những

thành tựu của phong trào xóa nạn mù chữ, BDHV. Đó vừa là sự tiếp nối cuộc

vận động truyền bá chữ quốc ngữ thời Pháp thuộc, vừa là nền tảng khởi đầu cho

những thành tựu to lớn của giáo dục Việt Nam sau này.

81

Tiểu kết chương 2

Chương 2, luận án đã hệ thống những vấn đề cơ bản về lý luận và thực

tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT. Khái quát lại những nội dung cơ

bản của chương 2 như sau:

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ, danh nhân văn hóa kiệt xuất của dân

tộc và thế giới. Hồ Chí Minh cũng chính là nhà giáo dục vĩ đại đã đặt nền móng

cho sự ra đời của nền giáo dục cách mạng Việt Nam. Người có nhiều đóng góp

vô cùng quý báu cho nền giáo dục nước nhà. Đặc biệt, trong di sản Hồ Chí

Minh về giáo dục chứa đựng những quan điểm đến nay vẫn có ý nghĩa thời sự

sâu sắc, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại của Người, trong đó có tư tưởng về xây

dựng một XHHT ở Việt Nam. Đó là quan điểm “một dân tộc dốt là một dân tộc

yếu”, về một nền giáo dục bình đẳng, không mất tiền, một nền giáo dục phát

triển hoàn toàn những năng lực vốn có của con người, một xã hội mà “ai cũng

được học hành”.

2. Không chỉ dừng lại ở hệ thống lý luận về XHHT, Hồ Chí Minh còn là

người kiến tạo, xây dựng và phát triển một nền giáo dục hoàn toàn mang lại giá

trị thiết thực cho người dân, mà do hoàn cảnh thực tiễn bấy giờ, chủ yếu thông

qua hai phong trào BDHV và BTVH... Dù hoàn cảnh chiến tranh, dù bộn bề

trăm công nghìn việc nhưng Hồ Chí Minh luôn dành thời gian chăm lo, xây

dựng phong trào. Người đã dành những lời ân cần thăm hỏi, động viên giáo viên

và học viên khi Người tới thăm các lớp BDHV. Người đã gửi nhiều bức thư biểu

dương, khen ngợi thành tích lớn nhỏ của phong trào... Điều đó thực sự trở thành

động lực vô giá cho cán bộ, giáo viên và học viên BDHV nỗ lực vượt mọi khó

khăn để xóa mù, phổ cập chữ quốc ngữ. Thông qua những phong trào này, người

người đi học, nhà nhà đi học, việc xóa nạn mù chữ và BTVH, nâng cao dân trí

đã trở thành nhu cầu của mỗi cá nhân và đất nước. Có thể khẳng định, Chủ tịch

Hồ Chí Minh chính là người tiên phong, đặt nền móng cho công cuộc xây dựng

XHHT ở Việt Nam.

82

Chương 3

XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG - THỰC TRẠNG

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở

HẢI PHÒNG

3.1.1. Xu thế xây dựng xã hội học tập trên thế giới và ở Việt Nam

hiện nay

Từ những thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới đã và đang chứng kiến “sự

bùng nổ” thông tin do sự phát triển vượt bậc của tri thức và những thành tựu kỳ

diệu của cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Tuổi

đời của công nghệ ngày càng rút ngắn trong khi tuổi thọ của con người ngày

càng tăng. Nếu như trước đây, tuổi thọ của công nghệ kéo dài 300 năm (khoảng

3 đời người) thì nay trong một đời người, công nghệ có thể thay đổi tới 3 lần,

thậm chí nhiều hơn. Người ta tính rằng, trung bình cứ 10 năm thì tri thức nhân

loại sẽ tăng gấp đôi. Với tốc độ gia tăng như vậy, những kiến thức tiếp thu trong

nhà trường, kể cả ở bậc đại học và sau đại học đã trở nên ít ỏi, thậm chí nhanh

chóng trở nên lạc hậu và không đủ dùng trong suốt cuộc đời. Cuộc cách mạng tri

thức càng đòi hỏi con người phải không ngừng tiếp cận và sáng tạo ra nhanh,

nhiều tri thức hơn nữa. Vì vậy, hơn lúc nào hết, giáo dục thường xuyên, học tập

suốt đời trở nên cần thiết đối với tất cả mọi người nếu muốn sống, làm việc và

tồn tại trong thời đại ngày nay.

Trước nhu cầu học tập suốt đời ngày càng tăng, ngày càng đa dạng đối với

mọi người dân, xây dựng XHHT đã trở thành chính sách và thực tiễn ở nhiều

quốc gia. Các nước phương Tây đã và đang bổ sung, sửa đổi, cải cách từng phần

hoặc toàn bộ hệ thống giáo dục hướng tới XHHT trên cơ sở lấy nguyên tắc học

tập suốt đời làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Họ ý thức được rằng để thúc đẩy học tập

suốt đời cần phải xây dựng XHHT, và ngược lại muốn xây dựng XHHT thì phải

đẩy mạnh học tập suốt đời. Học tập suốt đời và xây dựng XHHT gắn bó chặt chẽ

với nhau. E.Faure coi ý tưởng giáo dục suốt đời là điểm nhấn của XHHT, còn

83

J.Delors thì xem học tập suốt đời là cốt lõi của XHHT. Một xã hội không thể

phát triển bền vững nếu không trở thành XHHT. Vì thế, XHHT đang là xu thế

mà nhiều quốc gia hướng tới.

Ở châu Âu, từ những năm 90 của thế kỷ XX các quốc gia này đã triển

khai Chương trình hành động chung “Hướng tới một xã hội học tập ở châu Âu

(Toward a European Learning Society - TELS). Năm 1995, châu Âu xuất bản

Sách trắng với tiêu đề “Dạy và học: Hướng tới xã hội học tập”, trong đó khẳng

định: Xã hội tương lai sẽ là XHHT. Tương lai và sự phát triển của Liên minh

châu Âu sẽ phụ thuộc phần lớn vào khả năng quản lý quá trình hướng tới xã hội

mới đó.

Ở châu Á, Nhật Bản không chỉ chủ trương xây dựng XHHT, mà còn chủ

trương xây dựng một XHHT suốt đời. “Để xây dựng một xã hội năng động và

thịnh vượng, vấn đề cốt lõi là phải tạo ra được một xã hội học tập suốt đời, trong

đó người dân có thể tự do lựa chọn cơ hội học tập trong bất kỳ thời gian nào

trong cuộc đời của họ” [22, tr.57]. Năm 1990, Nhật Bản đã thông qua Luật

Khuyến khích học tập suốt đời nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng XHHT.

Tại Hàn Quốc, điều 13 của Hiến pháp sửa đổi năm 1980 quy định trách

nhiệm của Nhà nước trong việc thúc đẩy học tập suốt đời, và cũng như Nhật

Bản, Hàn Quốc không chỉ xây dựng XHHT mà chủ trương xây dựng XHHT

suốt đời.

Tại Trung Quốc, từ cuối thế kỷ XIX, Trung Quốc đã đưa khái niệm “học

tập suốt đời” vào trong các văn bản, chính sách của chính phủ. Trong kế hoạch

“Làm sống lại nền giáo dục thế kỷ XXI” ban hành năm 1999, Trung Quốc đã

đưa ra một số chính sách, biện pháp xây dựng hệ thống học tập suốt đời và

XHHT, trong đó mọi người đều học tập và các cơ hội học tập được cung cấp ở

mọi nơi, mọi lúc.

Ở Thái Lan, vấn đề về XHHT đã được chính phủ và công chúng tiếp cận

rộng khắp, được đưa vào chiến lược phát triển quốc gia. Năm 2008, Thái Lan đã

thông qua “Luật thúc đẩy giáo dục không chính quy và Giáo dục phi chính quy”

nhằm đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời và xây dựng XHHT.

84

Như vậy, xây dựng XHHT là xu thế tất yếu của sự phát triển giáo dục mà

nhiều quốc gia đã và đang hướng tới. Từ việc nắm bắt xu thế đó, nhiều quốc gia

trên thế giới đã từng bước xây dựng và dần hoàn thiện cơ sở pháp lý về XHHT,

từ đó hoạch định ra các giải pháp để hiện thực hóa XHHT trên đất nước mình.

Đối với Việt Nam, xây dựng XHHT vừa là một nhiệm vụ tất yếu, vừa là

một yêu cầu chiến lược, lâu dài của nền giáo dục nước nhà, quyết định thành

công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3.1.2. Đặc điểm của Hải Phòng

3.1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội

Hải Phòng là thành phố ven biển, nằm ở hạ lưu của hệ thống sông Thái

Bình, có vị trí nằm trong khoảng từ 20 độ 35’ đến 21 độ 01’ vĩ độ Bắc, và từ 106

độ 29’ đến 107 độ 05’ kinh độ Đông; phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng

Ninh, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Bình và

phía Đông là biển Đông với đường bờ biển dài 125km, nơi có 5 cửa sông lớn là

Bạch Đằng, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và sông Thái Bình.

Trên bản đồ hành chính cả nước, Hải Phòng là thành phố trực thuộc

Trung ương - là đô thị loại 1 gồm 7 quận (Ngô Quyền, Hồng Bàng, Lê Chân,

Dương Kinh, Đồ Sơn, Kiến An và Hải An), 6 huyện ngoại thành (Thuỷ Nguyên,

An Dương, An Lão, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo) và 2 huyện đảo (Cát Hải,

Bạch Long Vĩ) với 223 xã, phường và thị trấn. Về dân số, Hải Phòng có 2,029

triệu người (số liệu năm 2019).

Trong suốt chiều dài lịch sử, Hải Phòng nổi tiếng là một cảng biển lớn

nhất ở miền Bắc, một đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống giao thông

thuỷ, bộ, đường sắt, hàng không trong nước và quốc tế, là cửa chính ra biển của

thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc; là đầu mối giao thông quan trọng của

Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trên hai hành lang - một vành đai hợp tác

kinh tế Việt Nam - Trung Quốc. Chính vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội vùng châu thổ sông Hồng, Hải Phòng được xác định là một cực tăng

trưởng của vùng kinh tế động lực phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng

Ninh); là trung tâm kinh tế - khoa học - kỹ thuật tổng hợp của Vùng Duyên hải

85

Bắc Bộ và là một trong những trung tâm phát triển của Vùng Kinh tế trọng

điểm Bắc Bộ và cả nước.

Với vị trí là đầu mối giao thông quan trọng, là cửa ngõ ra biển của toàn

miền Bắc, Hải Phòng hội đủ tất cả các loại hình giao thông là đường bộ, đường

sắt, đường sông, đường biển, đường hàng không. Đặc biệt có Cảng Hải Phòng -

cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, cùng với Cảng Sài Gòn là một trong hai

hệ thống cảng biển lớn nhất Việt Nam. Do đó, Hải Phòng sớm trở thành nơi giao

lưu kinh tế, văn hóa ở trong nước cũng như với nước ngoài. Ngay từ thời Bắc

thuộc, nhiều thuyền buôn Trung Quốc đã theo con đường ven biển qua Cửa

Cấm, Bạch Đằng để buôn bán với Giao Châu. Trong thời kỳ thịnh đạt của nước

Đại Việt dưới các vương triều Lý, Trần, Lê, vùng cửa biển và các dòng sông lớn

thuộc Hải Phòng là một trong những tuyến thông thương quan trọng giữa trong

nước và nước ngoài qua trung tâm mậu dịch đối ngoại của quốc gia là thương

cảng Vân Đồn, sau đó là Phố Hiến.

Tính đa dạng và phong phú của điều kiện tự nhiên đã tạo điều kiện cho

Hải Phòng trở thành một trong những thành phố có nền kinh tế phát triển năng

động. Hải Phòng nhanh chóng tham gia vào thị trường thế giới, bản đồ thế giới

xuất hiện địa danh Cảng Hải Phòng. Cảng Hải Phòng giữ vai trò quan trọng đối

với hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần đưa hàng hóa của phía Bắc đi các vùng

trong cả nước, cũng như tham gia vào việc vận tải hàng hóa đến các nước trên

thế giới.

Đầu thế kỷ XX, ở Hải Phòng đã diễn ra quá trình hội cư lớn và phân hoá

giai cấp sâu sắc. Hải Phòng là một công trường xây dựng lớn thu hút đông đảo

lao động, những người buôn bán, kinh doanh. Nông dân khắp các vùng Nam

Định, Hà Nam, Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương và nhiều nơi khác

ở Bắc Kỳ đến kiếm việc làm. Họ trở thành thợ xây dựng, công nhân bốc vác ở

cảng, thợ nhà máy xi măng, nhà máy phốt phát, thuỷ thủ trên tàu biển, tàu sông...

Các nhà sản xuất, kinh doanh cũng hình thành, họ mở cửa hiệu, nhà hàng, đầu tư

vào sản xuất, dịch vụ, giao thông vận tải...

86

Hải Phòng là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng.

Nhân dân Hải Phòng giàu lòng yêu nước, anh dũng kiên cường trong đấu tranh

chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, quê hương, đó là truyền thống tự chủ,

cũng là cái vốn để nhân dân Hải Phòng phát huy quyền làm chủ của mình theo

đường lối của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Có thể nói lịch sử Hải Phòng gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước

của dân tộc Việt Nam. Với vị trí địa - chính trị đặc biệt, Hải Phòng thường là

mục tiêu đầu tiên cần đánh chiếm và thường là nơi rút lui cuối cùng của nhiều

đạo quân xâm lược. Nơi đây đã diễn ra nhiều trận đánh lớn, đặc biệt là hai trận

quyết chiến chiến lược trên sông Bạch Đằng năm 938 (Ngô Quyền lãnh đạo tiêu

diệt quân xâm lược Nam Hán) và năm 1288 (quân dân nhà Trần tiêu diệt quân

xâm lược Mông - Nguyên).

Trong thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ, tại Hải Phòng đã diễn ra các phong

trào đấu tranh của nhân dân. Năm 1946, khi Pháp bội ước quay trở lại xâm lược

Việt Nam, để thực hiện mục tiêu đánh chiếm Thủ đô Hà Nội, thực dân Pháp đã

đánh chiếm và xây dựng Hải Phòng thành một địa bàn quân sự chiến lược rất

quan trọng ở miền duyên hải, chi viện cho chiến trường chính ở Đông Bắc Bộ

cùng với các chiến trường miền Bắc Đông Dương. Trong cuộc kháng chiến 9

năm trường kỳ chống thực dân Pháp, Đảng bộ và nhân dân thành phố Hải Phòng

đã tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện ngay trong vùng tạm chiếm và

lập nhiều chiến công, làm nên truyền thống: “Đường 5 anh dũng”, “Đường 10

quật khởi”, “Cát Bi rực lửa”... Với tinh thần “Trung dũng - Quyết thắng”, Hải

Phòng đã góp phần xứng đáng cùng nhân dân cả nước làm nên chiến thắng lịch

sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Sau chiến thắng lịch

sử đó, quân và dân thành phố Cảng bước vào cuộc chiến đấu mới với 300 ngày

đêm đấu tranh để bảo vệ, giữ không cho địch đập phá, di chuyển máy móc vào

miền Nam. Trên địa bàn Thành phố có nhiều khu du kích và làng chiến đấu điển

hình như ở Cát Bà, Thủy Nguyên, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo. Đặc biệt, khu du kích

Tiên Lãng gắn với tên tuổi anh hùng Phạm Ngọc Đa luôn là nỗi kinh hoàng của

87

đối phương. Truyền thống này đã được kế thừa và phát huy trong kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước.

Được xem là cửa ngõ của đất nước từ phía biển, một thành phố đông dân,

có hải cảng lớn, nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông, có nhiều cơ sở chính trị,

kinh tế, quốc phòng, có vị trí chiến lược quan trọng, Hải Phòng có nhiều lợi thế

so với các tỉnh khác của vùng đồng bằng Bắc Bộ, là nơi hội tụ nhiều yếu tố quan

trọng của quá trình xây dựng hậu phương cũng như điều kiện thuận lợi để xây

dựng các tuyến giao thông chiến lược. Hải Phòng có nhiều thế mạnh về kinh tế,

phát triển giao thông vận tải và dịch vụ, có nhiều thuận lợi khi triển khai xây

dựng khu vực phòng thủ, kết hợp kinh tế với quốc phòng. Tuy nhiên, bên cạnh

đó, cũng do có nhiều sông ngòi, bờ biển dài và nhiều đảo nên khi đất nước có

chiến tranh, Hải Phòng dễ bị bao vây, uy hiếp từ phía biển và bị cô lập với Thủ

đô Hà Nội cùng với các tỉnh khác, khả năng bị chia cắt thành nhiều khu vực là

rất lớn. Khi Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, thực hiện chiến tranh phá hoại

miền Bắc, Mỹ đã chọn Hải Phòng là một trong những trọng điểm bắn phá hết

sức ác liệt.

Với điều kiện đa dạng về tự nhiên, kinh tế, xã hội, Hải Phòng đã vững

bước phát triển mọi mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội, vượt qua những khó khăn

thử thách trong điều kiện chiến tranh ác liệt và tiếp tục phát triển đến như ngày

hôm nay.

3.1.2.2. Đặc điểm văn hóa - con người

Cùng với chiều dài lịch sử, Hải Phòng còn được xem là vùng đất hội tụ

khí thiêng sông núi. Về đặc trưng văn hóa, những cư dân từ nhiều miền quê

đến sinh sống tại vùng đất cửa biển này đã hình thành nên tính cách kiên nghị,

năng động, sáng tạo trong lao động, luôn nhạy bén với cái mới, làm cho người

Hải Phòng sớm tiếp thu được những tinh hoa của thời đại trước biến thiên của

lịch sử.

Cư dân Hải Phòng từ khắp nơi hội tụ đến. Sinh sống lâu đời trên một vùng

đất chua mặn, luôn luôn phải đối phó với biển khơi và bão tố để tồn tại và phát

88

triển nên trước hết, cư dân Hải Phòng là những con người cần cù, dũng cảm,

không chịu khuất phục trước mọi thiên tai, địch họa.

Quá trình hình thành đất Hải Phòng cũng là quá trình hội tụ dân cư. Các di

chỉ Cái Bèo (Cát Bà), Tràng Kênh, Việt Khê (Thủy Nguyên), núi Voi (An Lão)

cho thấy tại Hải Phòng, từ thời kỳ đồ đá cũ đến thời kỳ đồ đồng đã có người Việt

cổ sinh sống, góp phần tạo nên văn hóa Hạ Long, Phùng Nguyên, Đông Sơn nổi

tiếng. Do những biến cố lớn về lịch sử, xã hội, tự nhiên và công cuộc khai hoang

lấn biển, ở Hải Phòng thường có những đợt di cư lớn. Nhiều người từ các miền

trung du và đồng bằng kéo đến đây khai phá đất đai. Bên cạnh đó, có hiện tượng

những cư dân sống trên biển, những vạn chài hoặc từ những nơi xa xôi khác,

bằng đường biển đã lập nghiệp trên đất liền. Lý Tử Tấn khi viết thông luận cho

Dư địa chí của Nguyễn Trãi có nhận xét chung: “Đạo Hải Dương đất tốt, người

hung hãn. Thái bình thì thuận lòng, thời loạn thì cường ngạnh, từ Đinh, Lý đến

giờ vẫn thế”. Phạm Quý Thích khi đề tựa sách Hải Dương phong tục ký đại lược

nói: “Thượng Hồng, Hạ Hồng và các huyện Chí Linh, Thanh Lâm, phủ Nam

Sách phong tục văn nhã, gần hợp với lễ, còn bảy huyện khác thì phong tục hung

hãn, vũ dũng, gần hợp với nghĩa, đây là nói đại khái phong tục ngày thường”

(Các huyện khác nói ở đây chính là thuộc vùng đất Hải Phòng ngày nay). Quá

trình hội tụ cư dân cũng đồng thời là quá trình hội tụ văn hóa. Những nét đặc sắc

của văn hóa nhiều miền đã hòa trộn, đan xen vào nhau tạo nên sắc thái phong

phú, đa dạng và riêng biệt của đất và người Hải Phòng.

Về văn hóa, khi cộng đồng làng xã hình thành và ổn định thì văn hóa làng

xã có điều kiện phát triển khá phong phú. Nhiều công trình kiến trúc được xây

dựng trong suốt chiều dài lịch sử mà chứng tích còn lưu lại đến ngày nay đã thể

hiện tài năng của người Hải Phòng như tháp Tường Long, chùa Vân Bản, chùa

Dư Hàng, chùa Hòa Hy, đình Hàng Kênh, đình Cung Chúc, đình Kền Bài, đình

Đôn Lương, đình Gia Lộc, đền Nghè, từ Lương Xâm, miếu Cựu Điện...

Hải Phòng cũng là nơi bảo tồn được nhiều loại hình nghệ thuật văn hóa

dân gian đặc sắc. Xã Đồng Minh (huyện Vĩnh Bảo) là quê hương của múa rối

(gồm rối nước, rối cạn, rối pháo), cũng là nơi có nghề điêu khắc, tạc tượng nổi

89

tiếng. Ngoài ra, còn có hát đúm ở Phục Lễ, Phả Lễ - trai gái hát giao duyên với

nhiều làn điệu như trống quân, cò lả, sa mạc; ca trù Đông Môn (Thủy Nguyên)...

Về truyền thống khoa bảng, Hải Phòng thuộc tỉnh Đông nổi tiếng học

hành đỗ đạt. Về tiến sĩ, huyện Thủy Đường (nay là Thủy Nguyên) có 18 người,

huyện Nghi Dương (nay là Kiến Thụy) có 14 người, huyện An Lão 8 người,

huyện An Dương 7 người, huyện Vĩnh Lại (nay là Vĩnh Bảo) 18 người, huyện

Tiên Minh (nay là Tiên Lãng) có 11 người. Lịch sử gần 800 năm thi cử hán học

của đất nước cho thấy, cả nước có 46 người đỗ Trạng nguyên thì Hải Phòng có 3

người, đó là Lê Ích Mộc (Thanh Lãng, Thủy Nguyên), Trần Tất Văn (Nguyệt

Áng, An Lão) và Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trung Am, Vĩnh Bảo). Đặc biệt, Trạng

Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) được coi là cây đại thụ của nền văn

học Việt Nam thế kỷ XVI mà bóng còn tỏa rợp sang cả thế kỷ XVII và nửa đầu

thế kỷ XVIII. Phan Huy Chú nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm: “có tài giỏi, lưu

tiếng nghìn đời”, còn sứ nhà Thanh cũng phải trầm trồ: “An Nam lý học hữu

Trình tuyển” (người Nam giỏi lý học chỉ có trình tuyển hầu Nguyễn Bỉnh

Khiêm) [81, tr.35]. Học vấn uyên bác của ông cùng nhân cách cao đẹp đã được

người đương thời kính phục, ngưỡng mộ, coi là bậc thầy của cả một thời đại và

tôn ông là Tuyết Giang phu tử (đánh giá của Trường Chinh). Chính Nguyễn

Bỉnh Khiêm khi về ở ẩn, dựng am Bạch Vân, mở trường dạy học đã làm cho

Vĩnh Bảo trở thành một trung tâm văn hóa, giáo dục nổi tiếng, thu hút sĩ tử của

nhiều miền trong nước đến theo học, trong đó có nhiều người thành đạt như

Nguyễn Quyện, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ...

Lao động chân tay, lao động trí óc, lao động nghệ thuật của người Hải

Phòng qua hàng nghìn năm đã tạo dựng nên những thành tựu văn hóa vật

chất, văn hóa tinh thần khá phong phú. Những truyền thống văn hóa ấy trở

lại góp phần hun đúc cho con người Hải Phòng hiện nay: những công nhân

có tay nghề cao, những nông dân thâm canh giỏi, những nghệ nhân nổi tiếng

và những trí thức tài năng... Truyền thống văn hóa lâu đời là cơ sở tạo nên

tính năng động, sáng tạo, luôn luôn nhạy bén với cái mới của con người Hải

Phòng. Ngày nay, trên cơ sở phát huy mặt tích cực trong văn hóa truyền

90

thống, Hải Phòng đang đẩy mạnh xây dựng đô thị phát triển toàn diện, trong

đó có vấn đề xây dựng XHHT.

Có thể nói, đất và người Hải Phòng đã tạo nên những nét đặc trưng riêng

có của vùng đất Hoa Phượng đỏ. Nơi đây có bề dày lịch sử, có dân cư đô thị lâu

đời, là thành phố lớn thứ ba cả nước, người dân thông minh, khoáng đạt với

truyền thống khoa bảng nổi tiếng. Những đặc điểm ấy là cơ sở quan trọng để Hải

Phòng thực hiện được nhiều kế hoạch giáo dục quan trọng, trong đó có vấn đề

xây dựng XHHT.

3.1.3. Chủ trương, đường lối xây dựng xã hội học tập của Đảng, Nhà

nước và thành phố Hải Phòng

Khi vấn đề xây dựng XHHT được nhiều quốc gia đề cập tới thì Việt Nam

cũng không ngoại lệ. Chủ trương xây dựng XHHT ở Việt Nam đã được Đảng ta

khẳng định lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

(2001), khi vấn đề kinh tế tri thức được coi là một cơ hội để thực hiện quá trình

công nghiệp hóa rút ngắn. Đó là một chủ trương đúng đắn trong điều kiện đất

nước còn nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt khi nước ta chưa trở thành một

nước công nghiệp hiện đại. Từ Văn kiện Đại hội IX đến Văn kiện Đại hội XII,

Đảng ta đều nhất quán chủ trương xây dựng XHHT, tạo cơ hội cho mọi người

dân được học tập suốt đời.

Các văn kiện của Đảng nói về chủ trương xây dựng XHHT như sau:

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng ta khẳng

định: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung,

phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực

hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ

và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học

vấn và tay nghề. Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình

thức chính quy và không chính quy, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả

nước trở thành một XHHT” [36, tr.35]. Lần đầu tiên, cụm từ “xã hội học tập”

được đưa vào văn kiện của Đảng.

91

Đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006): Tư duy về

XHHT đã có sự chuyển động, từ mục tiêu chuyển sang hành động: “Chuyển dần

mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình XHHT với hệ

thống học suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây

dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập,

thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng,

cơ hội khác nhau cho người học, đảm bảo sự công bằng xã hội trong giáo dục

[37, tr.95].

Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011): Nội hàm

khái niệm XHHT tiếp tục được Đảng nhấn mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính

sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện: động viên các nguồn

lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt

động khuyến học, khuyến tài, xây dựng XHHT, tạo điều kiện để người dân được

học tập suốt đời. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo [38,

tr.218]. Vấn đề xây dựng XHHT trở thành một trong ba phương diện chiến lược

phát triển giáo dục, mà nội dung cốt lõi vẫn là học tập suốt đời.

Đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016): Xây dựng

XHHT tiếp tục là giải pháp để phát triển giáo dục, đào tạo nhằm: “Hoàn thiện hệ

thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và

xây dựng XHHT [39, tr.116].

Có thể nhận thấy tinh thần xuyên suốt trong những chủ trương này là:

1) Cần phải thực hiện tốt quan điểm “giáo dục cho mọi người”, làm cho

mọi người dân đều được học và ai cũng phải học tập suốt đời.

2) Để thực hiện được như vậy đòi hỏi phải đổi mới căn bản và toàn diện

giáo dục - đào tạo theo hướng chuyển mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình

XHHT.

3) Cốt lõi trong XHHT là học suốt đời. Việc học tập suốt đời chỉ có thể

thực hiện tốt khi coi trọng cả giáo dục trong nhà trường và giáo dục ngoài nhà

trường, cả giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy, trên cơ sở phát huy

tính tự học, học tập bằng phương pháp tư duy sáng tạo.

92

4) Một trong những nguyên tắc khi xây dựng XHHT là phải dựa vào cộng

đồng theo tinh thần xã hội hóa, huy động các nguồn lực trong xã hội.

5) Giải pháp xây dựng XHHT là đẩy mạnh công tác KH, KT, tạo mọi khả

năng và cơ hội để ai cũng được học hành, ai cũng được hưởng sự công bằng xã

hội về giáo dục.

Trên cơ sở những chủ trương của Đảng, Nhà nước đã thể chế hóa thành

những quyết định sau:

Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg ngày 18/5/2005 của Thủ tướng Chính

phủ về xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010.

Quyết định xác định 5 mục tiêu cụ thể, đồng thời nhấn mạnh công tác KH,

KT, thu hút mọi lực lượng xã hội tham gia đẩy mạnh phong trào học tập; phát

huy tính hiệu quả của các mô hình GĐHH, dòng họ khuyến học, tổ dân phố, bản

làng văn hóa, xã/phường/thị trấn khuyến học.

Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13/4/2007 của Bộ Chính trị về “Tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây

dựng xã hội học tập”.

Chỉ thị xác định nhiệm vụ của các cấp ủy đảng trong việc:

1- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và nhân dân với

nhiều hình thức phong phú, thiết thực về sự cần thiết, tầm quan trọng của việc

xây dựng XHHT ở nước ta hiện nay; xác định xây dựng XHHT là nhiệm vụ của

toàn Đảng, toàn dân, là một mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát

triển giáo dục của nước ta.

2- Cụ thể hoá các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng XHHT trong

phạm vi từng địa phương, đơn vị.

3- Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào KH, KT, góp phần hỗ trợ

các cơ sở giáo dục trong giảng dạy và học tập; xây dựng GĐHH; cộng đồng,

dòng họ, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị khuyến học. Tiếp tục đẩy mạnh xây

dựng các TTHTCĐ ở xã, phường, thị trấn; phát triển nhiều loại hình học tập đa

dạng, phù hợp với điều kiện và nhu cầu học tập của cán bộ, nhân dân từng địa

phương, đơn vị.

93

4- Củng cố, xây dựng Hội Khuyến học các cấp vững mạnh, làm nòng cốt

trong việc liên kết, phối hợp với các tổ chức, các lực lượng xã hội tham gia hoạt

động KH, KT, xây dựng XHHT. Các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,

tổ chức xã hội, nghề nghiệp, các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang, doanh

nghiệp tích cực, chủ động tổ chức các hoạt động KH, KT, xây dựng XHHT theo

tinh thần xã hội hoá giáo dục.

Chỉ thị số 02/2008/CT-TTg ngày 08/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ

Về đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập

theo Chỉ thị 11-CT/TW.

Chỉ thị xác định rõ: Xây dựng XHHT là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân,

là mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước

ta. Cần đẩy mạnh công tác KH, KT gắn với xây dựng môi trường giáo dục lành

mạnh, với phong trào làm kinh tế giỏi, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng đời

sống văn hóa ở cơ sở, học đi đôi với làm. Phát triển các hình thức học tập chính

quy đi đôi với phát triển, đa dạng hóa các hình thức học tập, tạo điều kiện thuận

lợi cho mọi người được học tập thường xuyên, học suốt đời.

Quyết định số 89/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/01/2013

phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020”. Quan

điểm chỉ đạo là:

1- Trong XHHT, mọi cá nhân có trách nhiệm học tập thường xuyên, suốt

đời, tận dụng mọi cơ hội học tập để làm người công dân tốt; có nghề, lao động

với hiệu quả ngày càng cao; học cho bản thân và những người xung quanh hạnh

phúc; học để góp phần phát triển quê hương, đất nước và nhân loại.

2- Các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ

trang nhân dân, cộng đồng dân cư và gia đình có trách nhiệm cung ứng các cơ

hội học tập và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người được học tập suốt đời.

3- Xây dựng XHHT dựa trên nền tảng phát triển đồng thời, gắn kết và liên

thông giữa giáo dục chính quy và GDTX; đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt

đời ở ngoài nhà trường; ưu tiên các đối tượng chính sách, người dân tộc, phụ nữ,

người bị thiệt thòi.

94

Quyết định số 281/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày

20/02/2014, phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong

gia đình, dòng họ, cộng đồng học tập đến năm 2020”. Mục tiêu chung là: Đẩy

mạnh các hoạt động học tập thường xuyên, học tập suốt đời trong gia đình, dòng

họ, cộng đồng thông qua việc xây dựng và triển khai các mô hình “Gia đình học

tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập” và “Đơn vị học tập”, góp phần

xây dựng XHHT.

Kết luận số 49-KL/TW của Ban Bí thư ngày 10/5/2019 tiếp tục thực

hiện Chỉ thị 11-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Đây là văn kiện quan

trọng chỉ rõ phương hướng phát triển XHHT và nhiệm vụ KH, KT sau khi tổng

kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW.

Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng XHHT, bảo

đảm cho tất cả các công dân có cơ hội bình đẳng trong học tập, đào tạo, Bộ Giáo

dục và Đào tạo đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, các tổ chức, đoàn thể,

đặc biệt là Hội Khuyến học Việt Nam tổ chức nhiều hoạt động thiết thực triển

khai thực hiện Đề án. Một số hoạt động cụ thể được thực hiện, như xây dựng các

văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc triển khai thực hiện

Đề án; xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 6 đề án thành phần: 1-

Đề án “Xóa mù chữ đến năm 2020”; 2- Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học

tập suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ”; 3- Đề

án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng

đến năm 2020”; 4- Đề án “Truyền thông về xây dựng xã hội học tập”; 5- Đề

án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời cho công nhân lao động trong

các doanh nghiệp”; 6- Đề án “Phát triển đào tạo từ xa”; Tổ chức tuyên truyền

trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông qua việc tổ chức Tuần lễ

hưởng ứng học tập suốt đời vào tuần đầu tháng 10 hằng năm để mỗi người dân

nhận thức đầy đủ hơn, đúng đắn hơn về vai trò, ý nghĩa và lợi ích của việc học

suốt đời, xây dựng XHHT đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, phát triển bền

vững xã hội, nâng cao chất lượng đời sống của cộng đồng và cá nhân; tổ chức

95

những chương trình giáo dục mở trên sóng phát thanh, truyền hình (như Chương

trình hướng dẫn ôn tập và luyện thi đại học và Chương trình dạy tiếng Anh trên

VTV2; Chương trình dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài trên

VTV4; Chương trình giáo dục các kỹ năng sống trên VTV3; các chương trình

Chào buổi sáng, đời sống thường ngày trên VTV đã giúp cho người dân có được

những kiến thức về chăn nuôi, trồng trọt, thực hiện pháp luật, bảo vệ môi trường,

chăm sóc sức khỏe người dân; Chương trình học tiếng Anh Obla Air trên trên

kênh VOV2 (Kênh Văn hóa, Xã hội và Giáo dục) và VOV5 (Hệ Phát thanh Đối

ngoại Quốc gia); kênh Truyền hình Giáo dục quốc gia phát sóng trên kênh

truyền hình VTV7 với mục tiêu “Vì một xã hội học tập”, cung cấp các tri thức đa

dạng cho nhiều tầng lớp khán giả khác nhau,...).

Các cấp ủy, chính quyền và đoàn thể các địa phương trong cả nước đã chỉ

đạo triển khai thực hiện Đề án với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, như xây

dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề án cụ thể, phù hợp với đặc điểm của mỗi

địa phương; thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Đề án; ban hành chỉ thị, nghị quyết

của tỉnh/thành ủy, hội đồng nhân dân tỉnh/thànhphố về việc thực hiện Đề án; tổ

chức nhiều hoạt động thiết thực triển khai thực hiện Đề án.

Tại Hải Phòng, trên cơ sở chủ trương, Nghị quyết của Đảng và văn bản

của Nhà nước, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, các cấp lãnh đạo Hải Phòng

đã cụ thể hóa bằng nhiều chỉ thị, kế hoạch hướng dẫn việc tổ chức xây dựng

XHHT tại địa phương. Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng đã ban hành Chỉ

thị số 10-CT/TU ngày 5/7/2007 về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy

Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Chỉ

thị xác định phải: Đẩy mạnh, phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động

KH, KT trong toàn thành phố; huy động, thu hút mọi lực lượng xã hội tham gia

xây dựng XHHT; nhân rộng và phát huy hiệu quả của các mô hình GĐHH,

DHHH, CĐKH.

Đối với các Đề án thành phần, trên cơ sở Thông tư số 44/2014/TT-

BGDĐT ngày 12/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về

đánh giá, xếp loại Cộng đồng học tập cấp xã, Ban chỉ đạo xây dựng XHHT

96

thành phố, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng, cơ quan thường trực Ban chỉ đạo

đề án xây dựng XHHT đã phối hợp với Hội Khuyến học tham mưu với UBND

thành phố ban hành các văn bản để chỉ đạo, triển khai thực hiện. Theo đó,

UBND thành phố ban hành Quyết định số 954/QĐ-UBND ngày 30/5/2013 về

việc thành lập Ban chỉ đạo Đề án Xây dựng xã hội học tập, giai đoạn 2012 -

2020. Thành phần Ban chỉ đạo có các ban, ngành, cơ quan và các tổ chức xã hội

liên quan trên địa bàn thành phố, có sự phân công trách nhiệm chung đối với

thành viên của Ban. Hàng năm, Ban chỉ đạo thành phố thực hiện kiểm điểm,

đánh giá hoạt động và kiện toàn về nhân sự tham gia Ban chỉ đạo.

Công văn số 3174/ UBND-VX ngày 22/8/2013 được UBND thành phố

ban hành về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 07/2013/NQ-HDND ngày

25/7/2013 của Hội đồng nhân dân thành phố về nhiệm vụ, giải pháp, cơ chế,

chính sách xã hội hóa giáo dục - đào tạo và dạy nghề trong lĩnh vực giáo dục;

tiến hành tổ chức ký kết các Nghị quyết liên tịch về phối hợp hoạt động giữa

Sở Giáo dục và Đào tạo với Hội Khuyến học, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Ban

chỉ huy Bộ đội biên phòng Hải Phòng để triển khai thực hiện các mục tiêu của

Đề án.

Trên cơ sở nội dung Đề án tổng thể và các Đề án thành phần của Đề án 89

đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, UBND thành phố Hải Phòng ban hành

thành phố Hải Phòng, Ban chỉ đạo xây dựng XHHT thành phố ban hành văn bản

số 9467/BCĐ ngày 20/12/2013 về việc xây dựng Kế hoạch thực hiện Đề án,

trong đó Sở Giáo dục và Đào tạo là cơ quan thường trực; các sở, ban, ngành và

ủy ban nhân dân các quận/huyện chủ động xây dựng Kế hoạch thực hiện trên cơ

sở mục tiêu hàng năm; phù hợp với nhiệm vụ tương ứng với các Sở, ngành, cơ

quan, tổ chức của thành phố trong các Đề án thành phần, phù hợp với chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và định hướng cũng như phương hướng,

nhiệm vụ hàng năm của từng đơn vị; có thực hiện đánh giá theo năm và đánh giá

chung theo giai đoạn.

UBND thành phố Hải Phòng tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn cụ

thể kế hoạch thực hiện Đề án, như văn bản số 6192/UBND-VX ngày 19/8/2014

97

hướng dẫn nội dung và mức chi thực hiện Đề án xây dựng XHHT, trên cơ sở

thực hiện văn bản số 4163/BGDĐT-GDTX ngày 07/8/2014 của Sở Giáo dục và

Đào tạo. Tiếp đến là văn bản số 1919/UBND-VX ngày 03/10/2016 hướng dẫn

đánh giá, xếp loại Cộng đồng học tập cấp xã; văn bản số 3141/UBND-VX ngày

12/12/2016 hướng dẫn đánh giá, công nhận danh hiệu “Gia đình học tập”,

“Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập”, “Đơn vị học tập”.

Ngoài vai trò chủ đạo của ngành giáo dục - đào tạo, các ngành văn hóa,

thể thao và du lịch, thông tin và truyền thông, lao động - thương binh và xã hội,

nội vụ, tài chính..; các tổ chức, đoàn thể: Hội Khuyến học, Hội Liên hiệp phụ nữ,

Hội Nông dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh...; các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền

thông đã tham gia tích cực trong việc xây dựng XHHT ở địa phương. Nhiều địa

phương đã có giải pháp tuyên truyền về vai trò, tác dụng của học tập suốt đời,

xây dựng XHHT thiết thực, tạo ấn tượng sâu sắc và có tác động mạnh mẽ đến

nhận thức của các tầng lớp nhân dân; chỉ đạo cụ thể hoạt động của các

TTHTCĐ; xây dựng các mô hình học tập; đa dạng hóa nội dung, hình thức học

tập; tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, các lớp

phổ biến kiến thức phục vụ nhu cầu học tập suốt đời của mọi tầng lớp nhân dân.

Có thể khẳng định, xây dựng XHHT nằm trong chủ trương lớn của Đảng

và Nhà nước, vừa là một nhiệm vụ cấp bách, vừa là một yêu cầu chiến lược, cơ

bản, lâu dài của nền giáo dục, quyết định thành công của sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Những định hướng phát triển giáo dục trên chính là

sự tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT trong thời đại mới, đáp

ứng khao khát ngàn đời của dân tộc Việt Nam “ai cũng được học hành”.

3.2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG

3.2.1. Công tác chỉ đạo, phối hợp, tổ chức thực hiện

Trên cơ sở chủ trương chung của Đảng và các quyết định của Chính phủ

về xây dựng XHHT ở Việt Nam, Hải Phòng đã tiến hành công tác chỉ đạo thực

hiện Đề án xây dựng XHHT một cách đồng bộ và nhất quán từ trên xuống dưới,

98

thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo thành phố và sự vào cuộc của các sở,

ban, ngành, cơ quan, tổ chức, đoàn thể và nhân dân địa phương.

Thành ủy Hải Phòng đã tổ chức Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Chỉ thị

số 11-CT/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Thành ủy Hải

Phòng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác KH, KT, xây dựng

XHHT. UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 954/QĐ-UBND ngày

30/5/2013 của UBND thành phố về việc thành lập Ban chỉ đạo Đề án xây dựng

XHHT giai đoạn 2012 - 2020 và phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án xây dựng

XHHT giai đoạn 2012 - 2020 trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Từ cấp thành

phố, Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án ở các quận, huyện được thành lập; xây dựng

Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án xây dựng XHHT giai đoạn 2012 - 2020 ở

từng địa phương mình. Việc triển khai thực hiện Đề án tiến hành đồng bộ, được

các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị xã hội và đông đảo nhân dân tham gia.

UBND thành phố còn tổ chức ký kết các Nghị quyết liên tịch nhằm phối

hợp hiệu quả hoạt động giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với Hội Khuyến học, Hội

Nông dân, Hội Phụ nữ, Ban chỉ huy Bộ đội biên phòng Hải Phòng để triển khai

thực hiện các mục tiêu của Đề án.

Ngành giáo dục đã tích cực triển khai Quyết định số 954/QĐ - UBND và

các Quyết định kiện toàn đến UBND các quận, huyện, phòng Giáo dục và Đào

tạo quận, huyện và Trung tâm GDTX Hải Phòng, Trung tâm Giáo dục hướng

nghiệp - kỹ thuật thực hành Hải Phòng, các Trung tâm GDNN - GDTX quận,

huyện. Trên cơ sở này phòng Giáo dục và Đào tạo tham mưu với UBND các

quận, huyện triển khai thực hiện Đề án xây dựng XHHT giai đoạn 2012 - 2020

trên địa bàn và Kiện toàn ban chỉ đạo xây dựng XHHT các quận, huyện; hàng

năm tổ chức Hội nghị sơ kết nhiệm vụ năm trước và triển khai nhiệm vụ năm

sau đến các quận, huyện, sở ngành, tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyên môn,

nghiệp vụ quản lý cho các thành viên ban chỉ đạo xây dựng XHHT từ thành phố

đến các xã, phường, thị trấn, triển khai tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho các

cán, bộ, chuyên viên phụ trách TTHTCĐ cho của các phòng giáo dục và đào tạo;

Ban giám đốc TTHTCĐ về công tác xây dựng kế hoạch, triển khai nhiệm vụ liên

99

kết phối hợp, hướng dẫn biên soạn, thu thập tài liệu, mời báo cáo viên, huy động

các nguồn lực nên hoạt động có hiệu quả ngày càng đáp ứng nhu cầu học tập đa

dạng và phong phú của người dân.

Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Hội Khuyến học kiểm tra đánh giá

công tác chỉ đạo xây dựng XHHT ở các quận, huyện, đồng thời tham mưu các

cấp chính quyền chỉ đạo các cấp, các ngành, vận động các tổ chức chính trị xã

hội, các doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí cho các TTHTCĐ.

Hội Nông dân thành phố phối hợp với Hội Nông dân các quận, huyện

tuyên truyền trong hội viên về lợi ích việc xây dựng XHHT, cung cấp nhiều tài

liệu cho các cấp Hội để tuyên truyền. Trong năm 2019, số hội viên nông dân

được đào tạo nghề 50.542/60.765 chiếm tỉ lệ 83,17%, tổ chức 387 lớp tập huấn

chuyên đề chuyển giao công nghệ sản xuất cho trên 41.500 lượt người [9, tr.4].

Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp đã tuyên truyền qua các hình thức tọa đàm

giao lưu, trao đổi kinh nghiệp, liên hoan nhân rộng mô hình xã hội học tập ở địa

phương; biên soạn phát hành trên 150.000 tờ rơi các loại về tuyên truyền cuộc

vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, các tài lệu về tuyên truyền

phòng chống HIV/AIDS, ma túy, sức khỏe sinh sản vị thành niên, các tài liệu về

thu gom rác thải, vệ sinh môi trường...

Các cấp công đoàn đã vận động, phối hợp tổ chức cho 6.069 công nhân

viên chức, lao động tham gia học các lớp nâng cao nhận thức cho 23.679 công

nhân viên chức người lao động tham gia các khóa học và tự học nâng cao

chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề [9, tr.4]. Phối hợp với các cấp công đoàn và

doanh nghiệp tổ chức các chương trình đào tạo từ xa… đáp ứng nhu cầu học tập

của một bộ phận công nhân viên chức người lao động.

Thành đoàn Thanh niên trong năm 2019 đã tổ chức 321 lớp kỹ năng sống

thu hút 33.869 lượt học sinh, sinh viên tham dự; mở 118 lớp tập huấn, bồi dưỡng

và đào tạo về kỹ năng cho 6.834 lượt đoàn viên thanh niên, 45 trại huấn luyện kỹ

năng thu hút 9.657 lượt đoàn viên thanh niên tham gia, ngoài ra hàng năm còn tổ

chức học kỳ quân đội đã thu hút được 4350 học sinh, sinh viên tham gia khóa

học tại trung đoàn 50 và trung đoàn 169 Hải Quân... [9, tr.4].

100

Sở Tài chính, Sở Kế hoạch đầu tư bố trí kinh phí xây dựng mới và trang

thiết bị dạy và học cho Trung tâm GDTX Hải Phòng, các Trung tâm GDNN -

GDTX quận, huyện. Đến nay trên địa bàn thành phố đã có 15/15 trung tâm có

trụ sở riêng và có cơ sở vật chất để đảm bảo cho công tác dạy và học văn hóa

giáo dục thường xuyên và các lớp dạy nghề cho học viên trên địa bàn quận,

huyện.

Năm 2019, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã tuyển sinh đào tạo

được 81.478 học viên trong đó cao đẳng nghề: 5.880 sinh viên; trung cấp nghề:

2.570 học viên; sơ cấp nghề: 40.050 học viên, đặc biệt đề án đào tạo nghề cho

nông thôn theo QĐ số 825/QĐ - UBND ngày 21/4/2015 của UBND thành phố

phê duyệt Kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn và đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ công chức xã năm đến nay là 2.935 học viên; đào tạo nghề cho

nông dân, ngư dân về kiến thức tiến bộ kỹ thuật là 29.520 lượt người; đề án Hỗ

trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm theo đề án 295 - Hội liên hiệp phụ nữ là 523

người [9, tr.5].

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc

thực hiện các cẩm nang, tờ rơi chuyên môn nghiệp vụ như: 15.420 cuốn Cẩm

nang xây dựng nông thôn mới, 180.366 tờ rơi các loại tuyên truyền nhiệm vụ

xây dựng nông thôn mới, tổ chức lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ các sở - ngành,

quận - huyện, phường - xã các nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện tốt việc hướng dẫn các hình

thức tuyên truyền về treo băng - rôn, panô, áp phích, các xe loa phát thanh… cổ

động Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời tại trung tâm thành phố và các khu vực

công cộng.

Sở Nội vụ phối hợp với các cơ sở đào tạo từng bước đổi mới nội dung,

chương trình, phương pháp đánh giá học viên nâng cao chất lượng đào tạo. Tổ

chức tập huấn, phổ biến đến các cơ quan đơn vị và phối hợp với các cơ quan đơn

vị từng bước tăng cường kỷ cương, đảm bảo thực hiện nghiêm chế độ đào tạo

bắt buộc tối thiểu 1 tuần/năm theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ

về đào tạo, bồi dưỡng công chức.

101

Các Sở Y tế, Công an Thành phố, Sở cảnh sát phòng cháy và chữa cháy,

Sở Công thương, Sở Thông tin và truyền thông, Sở Xây dựng, Sở Tài Nguyên và

Môi trường và Sở Ngoại Vụ đã làm tốt công tác tuyên truyền xây dựng XHHT

trong toàn ngành, tham gia tích cực “Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời” và cử

cán bộ tham gia học tập nhiều nội dung để đáp ứng yêu cầu công việc.

UBND các quận, huyện đã bố trí giáo viên làm việc tại TTHTCĐ với

chức danh phó giám đốc theo tinh thần Thông tư số 40/2010/TT-BGD ngày

30/12/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo để xây dựng kế hoạch và tổ chức thực

hiện kế hoạch của trung tâm; chỉ đạo xây dựng TTHTCĐ kết hợp với nhà văn

hóa, bưu điện xã, chọn trung tâm nguồn để nhân rộng điển hình trên địa bàn;

hướng dẫn phòng giáo dục và đào tạo các quận, huyện phối hợp với Hội người

cao tuổi tổ chức các lớp học tuyên truyền, phổ biến kiến thức phổ thông về chế

độ dinh dưỡng ở người cao tuổi; hướng dẫn người cao tuổi kỹ năng phòng bệnh,

chữa bệnh và tự chăm sóc sức khỏe.

Có thể nói, sự nghiệp xây dựng XHHT ở Hải Phòng đã thu hút sự tham

gia của nhiều cấp, sở, ban, ngành, địa phương, doanh nghiệp và cá nhân. Thành

công của sự nghiệp xây dựng XHHT trước hết chính là nhờ sự chỉ đạo, phối hợp

tổ chức hiệu quả của những đơn vị này.

3.2.2. Kết quả xây dựng xã hội học tập

3.2.2.1. Kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục các cấp

Từ rất sớm, Hải Phòng đã bắt tay ngay vào công cuộc xóa mù chữ, góp

phần thực hiện chiến lược “ai cũng được học hành” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cũng như cả nước, ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945 và những năm

kháng chiến, Hải Phòng luôn xác định xóa nạn mù chữ và BTVH là một trong

những nhiệm vụ trọng tâm, nằm trong chiến dịch diệt “giặc dốt” mà Chủ tịch Hồ

Chí Minh phát động. Các lớp học BDHV được mở ra, thu hút và giải quyết được

nạn mù chữ cho nhiều thành phần dân cư trong thành phố.

Nhiều hình thức tổ chức lớp học được thực hiện phù hợp với nhiều đối

tượng: ở thành thị mở các lớp sáng sớm, lớp trưa, lớp tối, lớp theo ca kíp; ở nông

thôn mở lớp ở xóm, lớp theo tổ sản xuất, tổ đổi công, lớp cho các chị em có con

102

nhỏ (được Hội Phụ lão giúp trông cháu)... Đi học để biết đọc, biết viết không

những là nguyện vọng của người dân mà còn trở thành một hình thức sinh hoạt

mới mẻ, hấp dẫn đối với người lao động. Có những lớp học rất đặc biệt như lớp

học theo con nước của đội vận tải thủy nhà máy Xi măng. Có những lớp học bắt

đầu từ 1 hoặc 2 giờ sáng tùy theo con nước. Có những lớp học trên thuyền cho

bà con xóm chài tại tiểu khu trên sông của khu phố Hồng Bàng. Trên các đường

phố có nhiều lớp "tư gia" chỉ vài ba học viên người cùng phố. Điển hình là

huyện Hải An, Hải Phòng và 5 quận Hà Nội, nhiều lần tổ chức tham quan trao

đổi kinh nghiệm lẫn nhau và ký giao ước thi đua. Báo Hải Phòng, Đài Phát

thanh Hải Phòng thường xuyên có bài phản ánh phong trào BDHV, biểu dương

các đơn vị, cá nhân có thành tích xuất sắc. Các bài thơ, ca về chủ đề diệt dốt

được tuyên truyền, phổ biến rộng khắp. Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, phụ lão

hăng hái tuyên truyền vận động người đi học, tổ chức và duy trì các lớp học.

Nhiều người cao tuổi vẫn đi học, đi dạy làm gương cho con cháu. Nhiều cụ bà

giúp giữ trẻ, nấu cơm cho các chị em có con nhỏ đi học. Hình ảnh người công

nhân cảng vai đeo súng, vai đeo túi sách vở đạp xe đến trường học bổ túc vào

buổi tối khiến thủy thủ nước ngoài phải khâm phục.

Trong những năm kháng chiến, ngành BTVH Hải Phòng đã hoàn thành

nhiệm vụ phổ cập cấp I cho nhân dân, phổ cập cấp II cho cán bộ chủ chốt và

tăng nhanh số lượng học viên học BTVH cấp III, sáp nhập các trường BTVH

nhỏ lẻ thành các trường BTVH với quy mô lớn hơn để tập trung thực hiện nhiệm

vụ chính trị của ngành, đồng thời mở rộng hệ thống các trường BTVH tại các

cụm xã thực hiện nhiệm vụ vừa học, vừa làm, đáp ứng nhu cầu phát triển của các

hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ mới.

Ngày nay, Hải Phòng luôn đề cao công tác phổ cập giáo dục các cấp, coi

công tác phổ cập giáo dục là một trong ba nhiệm vụ chiến lược: Nâng cao dân

trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Để đạt và duy trì vững chắc chuẩn phổ

cập, hàng năm thành phố đều tổ chức kiểm tra mức độ đạt chuẩn của các quận,

huyện, qua đó đánh giá nhắc nhở các quận huyện tập trung vận động học sinh có

hoàn cảnh khó khăn ra lớp phổ cập hoặc học nghề để duy trì chuẩn. Các trường

103

tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông đã chú trọng nâng cao hiệu suất

đào tạo, đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá; quan

tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh, thực hiện giảm tỷ lệ lưu ban, chống bỏ

học có hiệu quả.

Hải Phòng đã thực hiện những biện pháp sáng tạo, linh hoạt. Các cấp ủy

Đảng, chính quyền và đoàn thể ở cơ sở quan tâm trực tiếp và làm tốt công tác

tuyên truyền, vận động, tổ chức phong trào. Ngành Giáo dục đã xây dựng được

đội ngũ chuyên trách đông đảo (có lúc lên tới 500 người), bố trí đến tận các thôn,

xóm, gia đình xã viên để vận động người đi học; thực hiện việc phân loại đối

tượng để huy động hoặc ưu tiên đi học, rồi tiếp tục học lên để đào tạo cán bộ cho

tương lai; đa dạng hóa các hình thức học tập trung, nửa tập trung, học tại chức,

học ban ngày, ban đêm, thời vụ... tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người đi học.

Hải Phòng trở thành một trong những địa phương thực hiện phổ cập các

cấp sớm nhất. Thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm

1991; hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2001; cơ bản hoàn

thành phổ cập bậc trung học và nghề vào năm 2008 (sớm trước 2 năm so với kế

hoạch); hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2014,

được Bộ Giáo dục và Đào tạo kiểm tra, công nhận vào tháng 4/2015, công nhận

thành phố Hải Phòng đạt chuẩn phổ cập giáo dục cho trẻ em 5 tuổi. Những thành

quả đó chính là bước đầu của công cuộc xây dựng XHHT, thực hiện phương

châm “ai cũng được học hành” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

3.2.2.2. Kết quả học tập nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ

Không chỉ xóa mù chữ, phổ cập giáo dục mà nội dung quan trọng của

XHHT là xóa mù chữ chức năng (xóa mù chữ hành dụng). Trước yêu cầu của

công việc và cuộc sống, việc học không chỉ dừng lại trong nhà trường hoặc sau

khi có bằng, mà cần phải tiếp tục trong suốt cuộc đời của con người. Nếu không

theo kịp công nghệ và kỹ thuật tiên tiến thì đó là mù chức năng. Mù nghề, mù

công nghệ, mù tin học, mù ngoại ngữ, mù kỹ năng đều là biểu hiện của mù chữ

chức năng. Vì vậy, xóa mù chữ cơ bản là giúp con người biết đọc, biết viết (điều

kiện cần) còn xóa mù chữ chức năng là giúp con người có đủ kiến thức và kỹ

104

năng để hành nghề (điều kiện đủ). Xã hội càng phát triển thì việc xóa mù chức

năng càng quan trọng. Không ai dám chắc mình không bị mù chức năng. Xóa

mù chức năng là để người lao động học vì công việc, vì bản thân để nâng cao

năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo uy tín và thương hiệu

trong lĩnh vực của mình.

Ở Hải Phòng, nhu cầu học tập nâng cao trình độ là rất lớn. Đặc biệt, nhiều

cán bộ, công chức, viên chức tham gia chương trình học tập nâng cao trình độ

ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm của

từng cá nhân trong các đơn vị. Từ năm học 2012 - 2013 đến nay, toàn thành phố

đã tổ chức được 374 lớp tin học ngoại ngữ cho đối tượng là cán bộ, công chức,

viên chức với tổng số người tham gia học tập, nâng cao kiến thức và đã được cấp

là hàng trăm nghìn chứng chỉ cho học viên ở các độ tuổi.

Năm 2019, trên 90% cán bộ công chức có đủ trình độ tin học đáp ứng yêu

cầu công việc và thường xuyên tham gia chương trình học tập nâng cao trình độ

tin học. Thành phố hải Phòng cũng đã hoàn thành vượt mức Mục tiêu 20% cán

bộ công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ bậc 2 và 5% có trình độ bậc 3

theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam ban hành tại Thông

tư 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24/01/2014.

Cũng từ năm học 2012 - 2013 đến nay, có hàng chục nghìn cán bộ, công

chức, viên chức cấp quận, huyện đi học tin học, ngoại ngữ. Các quận, huyện đã

làm tốt công tác này là các quận Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền và huyện

Thủy Nguyên, huyện Kiến Thụy, huyện Cát Hải. Ở cấp phường, xã, thị trấn

cũng ghi nhận có trên 3.200 lượt cán bộ đi học tin học, ngoại ngữ.

Một trong những mục tiêu của xây dựng XHHT là nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề để lao động có hiệu quả, hoàn thành tốt hơn

nhiệm vụ được giao. Nhu cầu này đã đáp ứng nguyện vọng của nhiều tầng lớp

cư dân Hải Phòng.

Đối với cán bộ, công chức thành phố và tại các quận, huyện: Đảm bảo

100% được đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn quy định đáp ứng yêu cầu Đề án vị trí

việc làm và cơ cấu ngạch công chức của thành phố; trên 97% cán bộ công chức

105

giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp được đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình

quy định; trên 82% cán bộ công chức các cấp thực hiện nghiêm chế độ bồi

dưỡng bắt buộc hàng năm.

Đối với cán bộ, công chức xã: 100% cán bộ cấp xã được bồi dưỡng kiến

thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành theo vị trí công việc; trên 90% cán bộ

xã có trình độ chuyên môn theo chuẩn quy định. Nhiều lãnh đạo cấp xã đã tự học

tập, nâng cao trình độ, kiến thức, tham gia thường xuyên các lớp bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ của địa phương, và thành phố. Công chức cấp xã đều

thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiếu hàng năm. Kết quả thực hiện đạt

trên 80%.

Đối với lao động nông thôn: qua báo cáo của quận, huyện và Sở Lao

động, thương binh và xã hội năm 2019, Hải Phòng đã tuyển sinh và đào tạo cho

hơn 125.000 lao động nông thôn trình độ cao đẳng, trung cấp, sơ cấp và đào tạo

dưới 3 tháng, trong đó có 20.978 người được hỗ trợ đào tạo trực tiếp từ chính

sách của Đề án 1956; đã có 53.629 nông dân ra các lớp tập huấn nghề ngắn tại

các TTHTCĐ tăng hơn các năm trước khi mới bắt đầu thực hiện, đạt trên 55%

được học tập, cập nhật kiển thức việc học tập của nông dân đã giúp tiếp cận, thụ

hưởng các chương trình bồi dưỡng nâng cao hiểu biết, khả năng lao động sản

xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Đối với công nhân lao động tại các doanh nghiệp, xí nghiệp, cơ sở sản

xuất, đặc biệt là tại các khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn thành phố

ngày càng tăng về chất và lượng. Đội ngũ nhân lực phục vụ cho những hoạt

động này ngày càng tăng kể cả về số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát

triển trong những năm vừa qua và đặc biệt trong tình hình hiện nay của thành

phố, với tỷ lệ lao động đã qua đào tạo từ 71% (trong đó qua đào tạo nghề là

48%) cuối năm 2012 lên thành 81% (trong đó qua đào tạo nghề là 57,2%) cuối

năm 2017, cơ bản đáp ứng yêu cầu mục tiêu của Đề án năm 2015. Công nhân

lao động tại các khu chế xuất có tỷ lệ trên 76% có trình độ học vấn trung học phổ

thông hoặc tương đương [9, tr.8].

106

3.2.2.3. Kết quả học tập kỹ năng sống

Nhiệm vụ giáo dục kỹ năng sống được thực hiện tại tất cả các trường học

trên địa bàn thành phố, 100% học sinh các cấp được học kỹ năng sống.

Các TTHTCĐ cấp xã, phường, thị trấn đã quan tâm giáo dục kỹ năng

sống cho người lao động qua việc phối hợp với nhà văn hóa các quận, huyện

giáo dục kỹ năng sống cho 26.341 lượt người.

Dưới đây là tổng hợp kết quả Đề án xây dựng xã hội học tập Hải Phòng

tính đến năm 2019.

Bảng tổng hợp kết quả Đề án xây dựng xã hội học tập Hải Phòng

tính đến năm 2019

Nội dung

Tỷ lệ %

Số lượng (tính đến 2019)

Dự báo (2020)

0 98.5

1924975 1108638 579503 325 596645 285448 231

0 97.62 76.05 15.42 78.96 15.39

79.26 15.42 92.46 80.08 15.39

111112 111112 5778 5 4555 2738 2

15.23 21.37 15.06 0 15.21 7.75 0

15.31 21.71 15.03 0 15.24 7.79 0

47423

42.68 0

43.61 0

1. Xóa mù chữ và phổ cập giáo dục a) Xóa mù chữ - Số người biết chữ + Độ tuổi 15 - 60, trong đó: Trong đó: Nữ Dân tộc thiểu số + Độ tuổi 15 - 35 Trong đó: Nữ Dân tộc thiểu số - Số người ra học các lớp xóa mù chữ và được công nhận biết chữ + Độ tuổi 15 - 60 Trong đó: Nữ Dân tộc thiểu số + Độ tuổi 15 - 35 Trong đó: Nữ Dân tộc thiểu số - Số người mới biết chữ tiếp tục học tập và không mù chữ trở lại b) Phổ cập giáo dục - Số huyện (thị xã, thành phố) củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học

14

100

100

14

100 0

100 0

92.1

97.15

52.52

78.54

48.22

57.24

56.7

58.92

0

0

0

0

100

100

97.62

98.12

82.02 0

88.26 0

100

100

92.81

97.14

91.42

96.18

107

- Số huyện (thị xã, thành phố) củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục THCS 2. Nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ a) Cán bộ, công chức, viên chức tham gia các chương trình học tập nâng cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm b) Cán bộ, công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ tương đương bậc 2 c) Cán bộ, công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ tương đương bậc 3 d) Công nhân lao động có kiến thức cơ bản về tin học, ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc và giao lưu văn hóa 3. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề để lao động có hiệu quả hơn, hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn a) Đối với cán bộ, công chức từ Trung ương đến cấp huyện - Cán bộ, công chức được đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn quy định - Cán bộ, công chức giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp được đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình quy định - Cán bộ, công chức thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hằng năm b) Đối với cán bộ, công chức cấp xã - Cán bộ cấp xã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành theo vị trí công việc - Cán bộ cấp xã có trình độ chuyên môn theo chuẩn quy định - Công chức cấp xã thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hằng năm c) Đối với lao động nông thôn Tham gia học tập cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao khoa học kỹ thuật công nghệ sản xuất tại các trung tâm học tập cộng đồng

59.64

62.62

76.16

82.17

47.21 57.2

52.24 68.17

0

0

72.16

79.24

108

d) Đối với công nhân lao động - Công nhân lao động tại các khu chế xuất, khu công nghiệp có trình độ học vấn trung học phổ thông hoặc tương đương - Công nhân lao động có tay nghề cao ở các ngành kinh tế mũi nhọn - Công nhân qua đào tạo nghề 4. Hoàn thiện kỹ năng sống, xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng ngày càng hạnh phúc hơn a) Học sinh, sinh viên và người lao động tham gia học tập các chương trình giáo dục kĩ năng sống b) Học sinh, sinh viên được học kỹ năng sống tại các cơ sở giáo dục

85.24

89.16

Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn

2012 - 2020” đến năm 2019 của thành phố Hải Phòng

Những con số này phản ánh rõ quyết tâm và nỗ lực của cán bộ, nhân dân

Hải Phòng trong sự nghiệp xây dựng XHHT hiện nay.

3.2.2.4. Kết quả hoạt động giáo dục khác

Về các TTHTCĐ:

Hoạt động của các TTHTCĐ đã có nhiều khởi sắc hơn và đi vào nền nếp,

trong năm đã huy động được 11.262 lượt người ra học tại các TTHTCĐ tăng

2.135 lượt người so với các năm trước [9, tr.9]. Cụ thể trên các lĩnh vực như sau

tuyên truyền pháp luật; sức khỏe gia đình; hoạt động thể dục thể thao; tập huấn

nghề ngắn hạn như tư vấn kinh tế gia đình. Tuy số lượng học viên ra lớp tăng

nhưng chỉ mới đạt khoảng gần 30% dân số thành phố ra sinh hoạt tại các

TTHTCĐ, tỷ lệ này còn thấp và có xu hướng còn giảm, đặc biệt tại các quận nội

thành trong thành phố.

Tổng số các cơ sở văn hóa ngoài giờ hiện nay là trên 120 trung tâm bao

gồm trung tâm tin học, ngoại ngữ, trung tâm tin học - ngoại ngữ, trung tâm giáo

dục kỹ năng sống và hoạt động ngoài giờ chính khóa, tăng gần 100 trung tâm so

với thời điểm ban đầu triển khai đề án.

109

BẢNG TỔNG HỢP KẾT

QUẢ ĐÁNH GIÁ TRUNG TÂM HỌC TẬP CỘNG ĐỒNG

(Kèm theo Báo cáo số: 147/SGDĐT- GDTX ngày tháng 7 năm 2019 của Giám

đốc Sở Giáo dục và Đào tạo)

XẾP LOẠI

ST

QUẬN

GHI CHÚ

TRUNG

T

/HUYỆN

TỐT

KHÁ

YẾU

BÌNH

1 HỒNG BÀNG

3

0

0

8

2 NGÔ QUYỀN

2

6

0

5

3

LÊ CHÂN

7

0

0

8

4 HẢI AN

5

0

0

3

5 KIẾN AN

4

0

0

6

6 DƯƠNG KINH

0

0

0

6

7 ĐỒ SƠN

2

2

0

3

8

THỦY NGUYÊN

8

6

0

23

9 VĨNH BẢO

16

0

0

14

10 TIÊN LÃNG

5

8

0

10

11 AN LÃO

0

3

8

6

12 AN DƯƠNG

5

0

0

11

13 KIẾN THỤY

0

8

0

10

14 CÁT HẢI

3

1

0

8

TỎNG CỘNG

45

131

37

10

(Danh sách được ấn định 14 đơn vị quận/huyện)

Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng

Như vậy, mặc dù vẫn còn trung tâm hoạt động chưa hiệu quả nhưng số

TTHTCĐ được đánh giá tích cực chiếm tỷ lệ rất cao 176/223 trung tâm, chiếm

gần 80%. Các trung tâm này tập trung chủ yếu ở các quận, huyện Vĩnh Bảo,

Thủy Nguyên, Tiên Lãng, An Dương, Lê Chân, Hồng Bàng, Kiến An.

Về mạng lưới GDTX:

Đến năm 1997, toàn thành phố đã chuyển đổi xong các trường BTVH

thành trung tâm GDTX đồng thời sáp nhập trung tâm dạy nghề quận huyện vào

trung tâm GDTX.

110

Từ khi thực hiện đổi mới, ngành Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng nói

chung và sự nghiệp xây dựng XHHT nói riêng đã có những bước tiến dài, trở

thành một trong những địa phương đứng trong tốp đầu phát triển giáo dục của cả

nước. Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI (2000 - 2020), kinh tế đất nước và thành

phố tăng trưởng, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện, giao lưu

quốc tế được mở rộng. Đây là những điều kiện thuận lợi để GDTX phát triển. Bộ

mặt của các Trung tâm GDTX thực sự đổi mới, trang thiết bị từ chỗ hầu như

không có gì nay đã trở nên khá phong phú: Số phòng học kiên cố: 193/195, số

máy tính là 627, số phòng thí nghiệm 13, số thư viện 13 [122, tr.176]. Hiện Hải

Phòng có 1 trung tâm GDTX cấp thành phố, 14 trung tâm GDTX cấp quận,

huyện, có 256 phòng học, 15 phòng thí nghiệm, 15 phòng thư viện và trên 620

máy vi tính; trong 5 năm đã mở được 978 lớp các loại với tổng số 25.143 học

viên [9, tr.11]. Nhìn chung mạng lưới cơ sở vật chất, trang thiết bị của hệ thống

GDTX thành phố đã đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân để nâng cao

trình độ văn hóa và nâng chất lượng cuộc sống.

Đạt những kết quả trên do có sự chỉ đạo kịp thời của cấp ủy, chính quyền

các cấp chăm lo xây dựng XHHT ở địa phương, nhiều quận, huyện đã bố trí cơ

sở vật chất, nhân sự và hỗ trợ kinh phí cho TTHTCĐ hoạt động; cấp kinh phí

hoạt động, mua sắm thiết bị và kinh phí sửa chữa cho các trung tâm GDNN -

GDTX quận, huyện, tổ chức nhiều buổi nói chuyện, tập huấn về nhiệm vụ xây

dựng XHHT cho cán bộ chủ chốt các trường học, phường xã, công tác chỉ đạo,

phân công nhiệm vụ, xây dựng kế hoạch và nội dung hoạt động đã được thực

hiện đồng bộ từ Sở đến Phòng Giáo dục và Đào tạo và các cơ sở, nhiệm vụ tổ

chức thực hiện đã được quan tâm và thực hiện đồng bộ. Các sở, ngành, đoàn thể

cấp thành phố đã quan tâm thực hiện nhiệm vụ xây dựng XHHT ở cơ quan luôn

tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động học tập nâng

cao trình độ đáp ứng yêu cầu công việc. Hoạt động của ngành GDTX nhìn

chung theo đúng định hướng yêu cầu "giáo dục cho mọi người", "giáo dục suốt

đời" nhằm góp phần hình thành XHHT trên địa bàn thành phố.

111

3.2.3. Công tác khuyến học, khuyến tài

Nhằm phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc và đáp ứng yêu cầu đổi

mới, phát triển kinh tế - xã hội, chấn hưng giáo dục, phục vụ sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới, Đảng

và Nhà nước xác định phát triển giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Quyết

định số 122/QĐ-TTg ngày 29/1/1996 của Thủ tướng Chính phủ cho phép thành

lập Hội Khuyến học Việt Nam. Ngày 10/8/1999, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị

số 50/CT-TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Khuyến học

Việt Nam và Chỉ thị 29/1999/CT-TTg, ngày 15/10/1999, của Thủ tướng Chính

phủ về phát huy vai trò của Hội Khuyến học Việt Nam trong phát triển sự nghiệp

giáo dục. Hội Khuyến học Việt Nam đã tập trung chỉ đạo hoạt động của Hội theo

tinh thần “Hướng tới xây dựng một XHHT” và thực hiện Đề án “Hội Khuyến

học Việt Nam góp phần xây dựng XHHT từ cơ sở”.

Năm 1997, Hội Khuyến học Hải Phòng được thành lập. Là thành viên của

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Khuyến học Hải Phòng đã gắn phong trào

“Xây dựng cả nước trở thành XHHT” với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, đẩy mạnh các hoạt động KH, KT

nhằm vận động, thu hút mọi lực lượng xã hội tham gia xây dựng XHHT, chăm

lo cho sự nghiệp trồng người của thành phố. Thông qua các mô hình gia đình

học tập, DHHH, tổ dân phố, làng xóm khuyến học, xã, phường, thị trấn khuyến

học để nâng cao ý thức thường xuyên tự học, tự nâng cao trình độ của mỗi người

dân, phát huy ý thức trách nhiệm của mỗi gia đình, dòng họ, phường xã, thôn

xóm, đơn vị; chăm lo, động viên con, cháu chăm ngoan, học giỏi. Phong trào

KH, KT, xây dựng XHHT đã lan rộng vào trong các trường học, vận động xây

dựng Quỹ Khuyến học để tặng thưởng, khuyến khích, động viên thầy cô giáo

dạy tốt, học sinh học tốt, học sinh nghèo khắc phục khó khăn vươn lên học khá,

giỏi. Chủ trương thành lập Hội Khuyến học và hoạt động KH, KT hợp ý Đảng,

lòng dân nên tổ chức hội phát triển nhanh, mạnh, sâu, rộng, góp phần tích cực ổn

định quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo trên toàn Thành phố.

112

Để tranh thủ tối đa sức mạnh tổng hợp của xã hội, tham gia đóng góp các

nguồn lực để thực hiện mục tiêu đề ra, Hội đã đặt đúng vị trí công tác tuyên

truyền, phổ biến các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Chính sách pháp luật của nhà

nước, các Chỉ thị, Nghị quyết của Thành uỷ, UBND thành phố lãnh đạo thực

hiện công tác KH, KT, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo đến Hội khuyến

học các cấp. Hội Khuyến học đã đổi mới các hình thức tuyên truyền, phối hợp

thường xuyên với các cơ quan, thông tin đại chúng như: Đài phát thanh truyền

hình Hải Phòng, báo Hải Phòng, báo An ninh Hải Phòng, hệ thống Đài phát

thanh, truyền thanh các quận, huyện phản ánh kịp thời các hoạt động KH, KT,

trao học bổng, biểu dương những gương tiêu biểu có thành tích trong công tác

KH, KT; đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, xây dựng kế hoạch cụ thể, có

trọng tâm, trọng điểm, đặc biệt nhân dịp các ngày lễ lớn, ngày kỷ niệm truyền

thống của đất nước, thành phố, của ngành giáo dục, đào tạo và Hội khuyến học

các cấp. Công tác tuyên truyền đã góp phần quan trọng đưa hoạt động KH, KT

chuyển biến tích cực và đi vào cuộc sống trở thành phong trào sâu rộng ở thành

phố trong nhiều năm qua.

Từ Chỉ thị 10-CT/TƯ ngày 05/7/2007 về Tăng cường sự lãnh đạo của các

cấp uỷ Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng XHHT, Hội

khuyến học các cấp đã củng cố, kiện toàn tổ chức Hội, phát triển hội viên. Đến

nay, 15/15 quận, huyện và hầu hết các xã, phường, thị trấn đã thành lập Hội

Khuyến học, các tổ dân phố, thôn, làng, trường học đó thành lập được 4.192 chi

hội khuyến học, nhiều dòng họ, cơ quan, đơn vị vũ trang, doanh nghiệp, trường

học, hội đồng hương… đã thành lập được 1.768 Ban khuyến học, một số địa

phương đã thực hiện thí điểm mô hình liên chi Hội khuyến học ở các tổ dân phố

để làm công tác KH, KT. Số hội viên đã phát triển được 247.132 người, tỷ lệ hội

viên Hội khuyến học ở nhiều quận, huyện cao hơn mức quy định của Trung

ương Hội khuyến học Việt Nam đề ra như: Quận Hồng Bàng đạt 28%, quận Ngô

Quyền đạt 22,6%, quận Kiến An đạt 21,8% so với dân số của địa phương.

Hội Khuyến học thành phố và Hội Khuyến học các quận, huyện, xã,

phường, thị trấn thường xuyên phối hợp chặt chẽ với ngành giáo dục - đào tạo,

113

Công đoàn ngành Giáo dục, Hội cựu giáo chức, các cơ quan, đoàn thể, các tổ

chức xã hội ở địa phương hưởng ứng các phong trào thi đua nhằm nâng cao chất

lượng giáo dục đào tạo, giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho học

sinh, biểu dương phong trào thi đua KH, KT, các GĐHH, DHHH, CĐKH tiêu

biểu góp phần vào thành tích giáo dục của thành phố. Năm 2018, Hội Khuyến

học thành phố đã tổ chức Đại hội biểu dương GĐHH, DHHH, CĐKH lần thứ

IV, bình chọn được 76.648 gia đình đạt danh hiệu GĐHH, 833 dòng họ đạt danh

hiệu DHHH và 404 cộng đồng, đơn vị đạt danh hiệu CĐKH. Đặc biệt, thành phố

Hải Phòng trở thành đơn vị giáo dục liên tục trong tốp dẫn đầu toàn quốc trong

các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia và là đơn vị duy nhất trong cả nước 22 năm liền

có các học sinh đoạt huy chương Vàng, Bạc, Đồng trong các kỳ thi học sinh giỏi

Quốc tế, khu vực ở các môn văn hoá cơ bản như: Toán, Lý, Hoá và Ngoại ngữ...

Hải Phòng đã và đang tiếp tục là trung tâm đào tạo nhân tài tin cậy cho cả nước.

Định kỳ hàng năm, Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND thành phố chỉ đạo Sở

Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các cấp, các ngành tổ chức lễ biểu dương cho

các em học sinh, sinh viên có thành tích xuất sắc trong học tập, đạt giải quốc gia,

quốc tế, các em đỗ thủ khoa vào các trường Đại học và các thầy cô dạy giỏi tại

đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo.

Có thể xem hoạt động của Hội Khuyến học Hải Phòng là điểm sáng trong

quá trình xây dựng XHHT ở Hải Phòng hiện nay. Tổ chức hội đã được thành

lập, củng cố, kiện toàn ở khắp các quận huyện, đã hoàn thiện quy chế hoạt động,

điều lệ Hội ở tất cả các quận, huyện, xã, phường, thị trấn. Hầu hết các tổ dân

phố, thôn, làng, cơ quan, đơn vị, trường học, dòng họ đã thành lập Ban KH, KT.

Một số địa phương đã xuất hiện nhân tố mới, mô hình liên chi hội KH, KT phù

hợp tính chất quản lý và hoạt động của chính quyền đô thị. Đặc biệt truyền thống

hiếu học của nhân dân Hải Phòng tiếp tục được khơi dậy, phát huy có hiệu quả,

góp phần to lớn nhằm xây dựng XHHT, TPHT trong thời gian tới.

Có được những thành tựu to lớn nêu trên, xuất phát từ nhiều lý do.

Một là, có chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới giáo dục - đào

tạo và công tác KH, KT, xây dựng XHHT định hướng cho quá trình xây dựng

114

XHHT. Từ chủ trương, Nghị quyết chung, Thành phố đã cụ thể hóa bằng nhiều

chỉ thị, Công văn, Nghị quyết đến các Sở, ban, ngành để triển khai quá trình xây

dựng XHHT.

Cuộc vận động xây dựng mô hình GĐHH, DHHH, CĐKH được tổng kết,

đánh giá tại Hội nghị các quận, huyện và toàn Thành phố. Đến nay, Hội Khuyến

học thành phố đã hoàn thành việc thực hiện thí điểm mô hình: Gia đình, dòng

họ, cộng đồng học tập để thúc đẩy phong trào học tập suốt đời, xây dựng XHHT.

Kế hoạch này đã được tuyên truyền sâu rộng trong xã hội, được nhân dân hưởng

ứng, tham gia tích cực, đã làm chuyển biến nhận thức của quảng đại quần chúng

nhân dân về phát huy truyền thống hiếu học và sự nghiệp giáo dục của Đảng về

xây dựng, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhân tài cho sự nghiệp phát triển đất nước

phồn vinh.

Hai là, có sự phối kết hợp giữa các cấp lãnh đạo thành phố với ngành giáo

dục đào tạo và các tổ chức chính trị - xã hội.

Hội Khuyến học từ Thành phố đến các Hội Khuyến học quận, huyện luôn

duy trì tốt mối quan hệ, phối hợp chặt chẽ với Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng

Giáo dục và Đào tạo các địa phương trên địa bàn thành phố để triển khai hoạt

động KH, KT và phát triển sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo. Hội Khuyến học

thành phố đã xây dựng quy chế phối hợp với ngành Giáo dục - Đào tạo, Công

đoàn ngành Giáo dục - Đào tạo và Hội Cựu giáo chức Thành phố ký kết chương

trình phối hợp hoạt động, có công văn liên ngành chỉ đạo các trường học kiện

toàn, thành lập các chi hội khuyến học, đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến

tài mang lại hiệu quả thiết thực; làm tham mưu cho Ủy ban nhân dân Thành phố

triển khai thực hiện Quyết định 89 và Quyết định 281 của Thủ tướng chính phủ.

Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đoàn thể các Hội trong thành phố như:

Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội Cựu giáo chức, Hội Cựu chiến

binh, Hội Từ thiện, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi… đẩy mạnh công tác

KH, KT đạt hiệu quả.

Hàng năm Hội Khuyến học thành phố đều có chương trình phối hợp với

Sở Giáo dục và Đào tạo tiến hành kiểm tra đánh giá toàn diện các mặt hoạt động

115

công tác KH, KT xây dựng XHHT của 15/15 Hội khuyến học quận, huyện, điển

hình như: Hồng Bàng, Kiến An, Lê Chân, Hải An, Đồ Sơn, An Lão, Cát Hải,

Tiên Lãng..v.v…

Hội khuyến học các cấp đã trở thành nòng cốt trong việc phối hợp, liên

kết các tổ chức, các lực lượng xã hội tiến hành các hoạt động KH, KT, đáp ứng

nguyện vọng của đông đảo quần chúng, nhân dân. Đây là vấn đề mang tính nhân

văn sâu sắc, góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, từng bước

nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực tạo tiền đề vững chắc để xây

dựng một XHHT.

Ba là, đội ngũ cán bộ ở các cấp nhìn chung nhiệt tình với công việc, lăn

lộn với phong trào, xuất hiện ngày càng nhiều tấm gương làm việc có trách

nhiệm, sáng tạo, sâu sát cơ sở. Đội ngũ cán bộ làm công tác khuyến học các cấp

tích luỹ được kinh nghiệm công tác mà đặc biệt là phương pháp tuyên truyền,

vận động nhân dân hưởng ứng tham gia tích cực có hiệu quả đối với hoạt động

KH, KT, có đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo của

thành phố nhiều năm qua.

Bốn là, truyền thống hiếu học vốn có trong các gia đình, dòng họ, cộng

đồng ở các địa phương được khơi dậy, phát huy ngày càng có hiệu quả. Phong

trào KH, KT, xây dựng XHHT đã làm chuyển biến căn bản nhận thức của người

dân thành phố về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với phát triển sự nghiệp giáo dục -

đào tạo, khơi dậy và phát huy có hiệu quả truyền thống hiếu học trong mỗi gia

đình, dòng họ, cộng đồng, xã hội. Cấp uỷ, chính quyền các cấp đề ra nhiều giải

pháp xây dựng và phát triển phong trào, vận động nhân dân ở phường, xã, tổ dân

phố xây dựng các mô hình điểm, cá nhân tiêu biểu đóng góp tích cực vào cuộc

vận động các gia đình có con đến tuổi đi học để các em được đến trường học tập

với các bạn đồng lứa tuổi. Các cuộc vận động được hình thành một cách phong

phú đa dạng ở khắp mọi nơi như tiếng kẻng học tập ở xã Chiến Thắng huyện An

Lão, các cuộc vận động dành tiền ăn sáng giúp bạn học bài; cuộc vận động

quyên góp sách vở, bút, giấy giúp các bạn có hoàn cảnh khó khăn ở các trường

phổ thông, khu dân phố... Rất nhiều nghĩa cử cao đẹp, tự giác xuất hiện ở

116

phường xã, làng xóm, tổ dân phố, tạo điều kiện cơ sở vật chất để con em có điều

kiện học tập tốt hơn. Tác dụng tích cực của phong trào KH, KT, xây dựng

XHHT đến tận gia đình, dòng tộc và cộng đồng dân cư. Những tiêu chí cơ bản

của phong trào khuyến học được ghi trong các văn bản hương ước của Dòng họ,

làng văn hoá. Với những hoạt động tích cực, nhiệt tình, tâm huyết của cán bộ,

hội viên các cấp, hoạt động khuyến học, khuyến tài của thành phố đã tạo thành

sức mạnh tổng hợp được đại đa số các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, ủng hộ đưa

phong trào thi đua KH, KT giữ vị trí hết sức ý nghĩa đối với sự nghiệp giáo dục -

đào tạo của thành phố và thu được những kết quả rất đáng trân trọng.

3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP VÀ NHỮNG

VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HẢI PHÒNG

3.3.1. Những mặt đạt được

Từ kết quả của việc triển khai và thực hiện Đề án xây dựng XHHT trên

địa bàn thành phố có thể thấy những chuyển biến tích cực.

Một là, việc xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện Đề án nhận được

sự quan tâm sâu sát và thường xuyên của Thành ủy, Hội đồng nhân dân trong

công tác chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng XHHT trên địa bàn thành phố.

Hai là, sự nghiệp xây dựng XHHT của Hải Phòng nhận được sự phối hợp

tận tình của các quận, huyện, sở, ngành, đoàn thể cấp thành phố trong việc vận

động người lao động ra lớp, hỗ trợ kinh phí, địa điểm, cung cấp các điều kiện

cho người học và cho các TTHTCĐ hoạt động.

Ba là, quá trình triển khai Đề án xây dựng XHHT đã làm chuyển biến

được nhận thức của các cấp lãnh đạo trong việc xây dựng XHHT ở quận, huyện,

sở ngành; nhiệm vụ xây dựng XHHT luôn được sự quan tâm và đồng hành của

Hội Khuyến học thành phố.

Qua gần 10 năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng XHHT trên địa bàn thành

phố đã tạo được những nền tảng cơ bản về nhận thức, trách nhiệm của các cấp

lãnh đạo; cơ sở vật chất, huy động nguồn lực của các cấp chính quyền; trách

nhiệm của ngành giáo dục trong cung ứng cơ hội học tập suốt đời cho người dân;

117

nhất là sự đồng thuận của người dân trong việc tham gia các hoạt động tại các

TTHTCĐ.

Hệ thống mạng lưới các TTHTCĐ đi vào hoạt động ổn định, phủ kín

100% các xã, phường, thị trấn trong thành phố, nội dung hoạt động ngày càng đa

dạng, hình thức ngày càng phong phú; số lượng người học tại các TTHTCĐ mỗi

năm mỗi tăng.

Nội dung học tập tại các TTHTCĐ đã góp phần ổn định chính trị, tăng

năng xuất lao động, thay đổi vật nuôi cây trồng, tăng thu nhập, góp phần phòng

chống dịch bệnh cho người và gia súc, gia cầm, góp phần xóa đói giảm nghèo,

xây dựng văn hóa tại khu dân cư, xây dựng nông thôn mới phát triển bền vững.

3.3.2. Những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân

3.3.2.1. Những tồn tại, yếu kém

Mặc dù đạt được nhiều dấu ấn quan trọng, song trong quá trình xây dựng

XHHT ở Hải Phòng hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế không tránh khỏi.

Một là, nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác KH, KT,

xây dựng XHHT của một số cấp ủy, chính quyền và người dân địa phương chưa

đầy đủ. Nhiều người còn mơ hồ về khái niệm XHHT, đặc trưng và cách thức xây

dựng XHHT.

Hai là, mặc dù đã có các văn bản chỉ đạo của Trung ương và Thành phố

về đầu tư kinh phí ban đầu và chi thường xuyên cho các TTHTCĐ, nhưng chưa

được thực hiện đồng đều ở các cơ sở, mà chỉ được thực hiện ở các quận: Ngô

Quyền, Lê Chân, Hải An, Hồng Bàng và các huyện như Cát Hải, Thủy Nguyên,

Tiên Lãng. Các quận, huyện còn lại chưa được bố trí kinh phí hoặc bố trí kinh

phí chưa đầy đủ. Rất nhiều nội dung chưa thực hiện do thiếu kinh phí và chưa có

nguồn tài trợ, kinh phí chi thường xuyên cho TTHTCĐ còn ít và phụ thuộc hoàn

toàn vào ngân sách xã, phường, thị trấn trong khi đó nhu cầu học tập theo

chuyên đề của người dân còn rất lớn.

Ba là, một số xã, phường, thị trấn chưa có cơ chế phối hợp giữa chính

quyền, ban, ngành, đoàn thể do đó việc huy động các nguồn lực trong xã hội

cùng tham gia xây dựng XHHT chưa phát huy mạnh mẽ.

118

Bốn là, đội ngũ báo cáo viên số lượng còn ít, khả năng báo cáo chưa thu

hút được người nghe. Báo cáo viên chủ yếu là giáo viên từ các nhà trường và

trung tâm dạy nghề, GDTX quận, huyện chưa được tập huấn đầy đủ và đi vào

chiều sâu. Nguồn tài liệu tuyên truyền chưa dồi dào, phong phú, cũng làm ảnh

hưởng đến hoạt động chung của Trung tâm.

Năm là, công tác khảo sát, điều tra, nắm bắt nhu cầu học tập của người

dân trong cộng đồng chưa cập nhật kịp thời, đầy đủ, chính xác nên việc thực

hiện các mục tiêu đề án còn hạn chế; Công tác vận động các tổ chức kinh tế, xã

hội cùng tham gia đóng góp cho hoạt động của trung tâm chưa có sức lan tỏa

trong cộng đồng. Lực lượng tham gia chủ yếu là phụ nữ, chưa thu hút được

nhiều nam giới tham gia.

Sáu là, so với cư dân nội thành thì người dân ngoại thành chưa có thói

quen và động cơ tự thân học tập nâng cao trình độ, kiến thức nghề nghiệp do mặt

bằng dân trí thấp và phải lao động kiếm sống nên việc hình thành nhu cầu ý thức

học tập, học tập suốt đời cho mọi người dân ở khu vực ngoại thành còn gặp

nhiều khó khăn.

Số lượng nông dân đến học tại các TTHTCĐ còn thấp; cán bộ, công

chức các cấp đi học để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa đạt được

mục tiêu đề ra vẫn còn nặng tính bằng cấp. Số thanh niên trong độ tuổi lao

động theo học BTVH hoặc học nghề tại các trung tâm chưa cao do người lao

động thích làm việc tự do có thu nhập ngay trong khi học nghề chưa có nơi thu

nhận khi tốt nghiệp.

Đối với Hội Khuyến học, tuy đã được củng cố, kiện toàn về tổ chức

nhưng hoạt động của một số Hội khuyến học ở địa phương, cơ sở hoạt động

chưa đồng đều, chậm bổ sung nhân sự thay thế, nhất là vị trí người đứng đầu

Hội. Vì vậy hoạt động của Hội Khuyến học ở một vài địa phương bị gián

đoạn một thời gian dài, cá biệt còn có địa phương chưa triển khai việc thành

lập Hội Khuyến học ở cấp phường, xã theo Quy định của Điều lệ Hội (quận

Ngô Quyền).

119

Sự phối hợp, liên kết giữa các tổ chức, lực lượng xã hội làm công tác

khuyến học, khuyến tài còn hạn chế.

Công tác vận động xây dựng và quản lý quỹ khuyến học ở các đơn vị,

doanh nghiệp còn hạn chế hiệu quả chưa cao, chưa có tính bền vững, đặc biệt là

hệ thống các trường học chưa có sự phối hợp đầy đủ của các cấp Hội.

3.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém

Những hạn chế, tồn tại trong quá trình xây dựng XHHT ở Hải Phòng là

do nhiều nguyên nhân.

Thứ nhất, nhận thức của nhân dân về XHHT còn chưa đầy đủ, thiếu đồng

nhất ở nhiều nơi. Một số địa phương còn xem nhiệm vụ xây dựng XHHT là của

ngành giáo dục, không phải là nhiệm vụ chung của cộng đồng, nên chưa tạo

được sự phối hợp đồng bộ. Về cơ bản, nhận thức về công tác khuyến học chưa

đồng nhất, một số địa phương, đơn vị chưa hiểu đầy đủ về tính chất, ý nghĩa,

nhiệm vụ công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập theo Chỉ thị

số 11-CT/TW của Bộ Chính trị và các văn bản chỉ đạo của Nhà nước. Do đó

chưa quan tâm đúng mức, một số chủ trương, chính sách không được cụ thể hóa

và triển khai còn mang tính thụ động, hình thức.

Thứ hai, những bất cập trong công tác tổ chức thực hiện như điều kiện

hoạt động, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, kinh phí chưa được quan tâm

đầu tư thích đáng. Chế độ chính sách, chế độ đãi ngộ đối với những người là

công tác KH, KT còn thấp, không tạo được động lực để khuyến khích người dạy

và người học. Đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác KH, KT, xây dựng XHHT

phần lớn là cán bộ đã nghỉ hưu hoặc cán bộ kiêm nhiệm, không có nhiều thời

gian và kinh nghiệm trong công tác vận động, xây dựng kế hoạch và tổ chức

hoạt động. Một số quận, huyện chưa phân công giáo viên kiêm nhiệm tại các

TTHTCĐ; chế độ chính sách cho họ chưa được quan tâm đúng mức nên không

thu hút được giáo viên về công tác tại các trung tâm. Giám đốc các TTHTCĐ

thường xuyên thay đổi do luân chuyển cán bộ, cán bộ phụ trách ở phòng giáo

dục và đào tạo, ở các xã, phường, thị trấn nên có nhiều thay đổi làm ảnh hưởng

120

đến công tác quản lý, điều hành. Công tác tuyên truyền chưa đến được người

nghèo, đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội.

Thứ ba, xây dựng XHHT ở Hải Phòng chưa tạo thành phong trào quần

chúng rộng rãi, lôi cuốn đông đảo tầng lớp tham gia.

Thứ tư, xây dựng XHHT, mà cụ thể ở đây là TPHT còn là vấn đề mới tiếp

cận, vừa làm vừa học hỏi và chưa có nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này.

3.3.2. Vấn đề đặt ra đối với Hải Phòng

Từ thành tựu và hạn chế nêu trên, vấn đề đặt ra đối với quá trình xây dựng

XHHT ở Hải Phòng hiện nay là:

Thứ nhất, cần phải có nhận thức đúng đắn, sự vận dụng linh hoạt về

XHHT và xây dựng XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ hai, để xây dựng XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần thiết phải có

cơ chế, chính sách từ vĩ mô đến vi mô, thậm chí là những chính sách đặc thù

trong việc xây dựng XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Phải nắm vững các

quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục - đào tạo

về công tác KH, KT, xây dựng XHHT để vận dụng sáng tạo sát với điều kiện ở

địa phương.

Bộ máy tổ chức cần tiếp tục được củng cố, kiện toàn, quan tâm về chất

lượng và chế độ chính sách đối với đội ngũ làm công tác KH, KT.

Thứ ba, có sự quyết tâm, thậm chí là cam kết chính trị của lãnh đạo thành

phố; sự chỉ đạo, phối hợp giữa các sở, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể, doanh

nghiệp... trong vấn đề xây dựng XHHT. Cần tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ

đạo tạo điều kiện thuận lợi mọi mặt cả về vật chất lẫn tinh thần của cấp ủy, chính

quyền các cấp từ thành phố đến địa phương đối với công tác KH, KT một cách

thiết thực, tránh hình thức hóa.

Mối quan hệ giữa Hội Khuyến học với ngành giáo dục - đào tạo, các tổ

chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội cần được

thường xuyên củng cố, xây dựng thành quy chế phối hợp chặt chẽ, có chương

trình kế hoạch phối hợp thực hiện và phải có cơ chế kiểm tra, đánh giá kết quả

phối hợp định kỳ để rút kinh nghiệm.

121

Thứ tư, có sự đồng thuận của nhân dân, phải tạo thành phong trào quần

chúng trong việc hưởng ứng, thực hiện và tham gia các cuộc vận động, các hoạt

động KH, KT... trên địa bàn toàn thành phố.

Cần coi trọng công tác tuyên truyền, phát động các phong trào thi đua sôi

nổi, sâu rộng trong xã hội thu hút sự quan tâm, tham gia đông đảo của các tầng

lớp nhân dân đối với hoạt động KH, KT, nhân rộng, biểu dương, động viên khen

thưởng kịp thời các gương điển hình, tiêu biểu.

Đội ngũ cán bộ làm công tác khuyến học trước hết phải có trách

nhiệm cao, có tâm huyết và lòng nhiệt tình với sự nghiệp giáo dục - đào tạo

thế hệ trẻ và cần được trang bị kiến thức, cập nhật thông tin cần thiết về các

lĩnh vực liên quan.

Đổi mới và tăng cường công tác vận động, huy động các nguồn lực xã

hội xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài. Việc quản lý, sử dụng Quỹ

khuyến học phải bảo đảm nguyên tắc: Công khai, minh bạch, đúng mục

đích, đúng đối tượng.

Thứ năm, phải từng bước hình thành văn hóa học tập cho đông đảo người

dân, coi học tập như là động cơ và nhu cầu tất yếu của mỗi con người trong xã

hội ngày càng phát triển.

Phải khơi dậy và phát huy được truyền thống hiếu học vốn có của nhân

dân mà trước hết là ở từng gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư.

Thứ sáu, phải học hỏi kinh nghiệm của các nước, các thành phố trên thế

giới trong việc triển khai xây dựng XHHT, đồng thời có sự vận dụng linh hoạt

vào đặc thù của địa phương mình.

Tiểu kết chương 3

Chương 3, luận án nghiên cứu quá trình xây dựng XHHT ở Hải Phòng

trên nhiều khía cạnh.

1. Quá trình Hải Phòng xây dựng XHHT chịu tác động của nhiều nhân tố.

Thứ nhất là xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới đang đặt ra yêu

cầu tất yếu phải xây dựng XHHT - một giải pháp hữu hiệu cho sự phát triển bền

122

vững mà Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng cũng không thể đứng

ngoài xu thế ấy. Thứ hai là những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng,

Nhà nước và của thành phố Hải Phòng bao gồm các văn kiện, các Quyết định,

các Chỉ thị... từ Trung ương đến địa phương đều nhằm hướng tới xây dựng

XHHT. Thứ ba là những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế xã hội và con người Hải

Phòng đóng vai trò là nhân tố chủ quan tác động trực tiếp đến quá trình xây dựng

XHHT ở Hải Phòng.

2. Từ khi được giải phóng, Hải Phòng đã chú trọng và đạt được nhiều

thành tích trong sự nghiệp giáo dục nói chung và xây dựng XHHT nói riêng.

Phong trào BTVH luôn gắn chặt với đặc điểm sản xuất và các hoạt động của các

đoàn thể quần chúng cùng nhiều hình thức trường, dành cho nhiều đối tượng

khác nhau, thời gian địa điểm khác nhau. Về phổ cập giáo dục, Hải Phòng luôn

đi đầu trong công tác phổ cập giáo dục, đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học

(năm 1991), phổ cập giáo dục trung học cơ sở (năm 2001) và đẩy mạnh phổ cập

bậc trung học và nghề. Công tác KH, KT cũng là điểm sáng trên cả nước khi Hải

Phòng liên tục dẫn đầu nhiều năm liền với số học sinh đạt giải cao tại các kỳ thi

quốc gia, quốc tế.

Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận án cũng chỉ rõ những nguyên nhân

căn bản của thành tựu và hạn chế, đồng thời chỉ ra vấn đề đối với việc xây dựng

XHHT ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

123

Chương 4

GIẢI PHÁP XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY

THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

4.1. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, NÂNG CAO NHẬN THỨC

VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Xây dựng XHHT là một sự nghiệp lớn của thời đại mà bất cứ một quốc

gia nào nếu muốn phát triển bền vững đều phải nhanh chóng bắt tay vào thực

hiện. Kết quả tất yếu của XHHT mang lại là tri thức tăng nhanh như một nguồn

của cải quan trọng nhất của xã hội, từ đó làm chuyển đổi xã hội, thực hiện việc

hiện đại hóa các quan hệ truyền thống, hiện đại hóa phương thức tư duy truyền

thống cùng các vấn đề y tế, văn hóa, phát triển nhân lực. Thông qua quá trình

này, con người sẽ nắm bắt tốt hơn vận mệnh của mình, mở rộng tầm nhìn, giảm

thiểu những ách tắc xã hội, nhờ đó đời sống ở mỗi quốc gia cũng như đời sống

của nhân loại sẽ phong phú hơn, hạnh phúc hơn, giàu có hơn.

Cần phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT để thấy

được từ thuở sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vấn đề học tập và học

suốt đời. Một XHHT không thể thiếu vấn đề học tập và tự học. Đối với Hồ Chí

Minh, tự học và học suốt đời là yêu cầu, là nhiệm vụ của tất cả mọi người, không

loại trừ một đối tượng nào. Bản thân Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng ngời

về học suốt đời và học ngoại ngữ. Vì vậy, trong quá trình xây dựng XHHT, Hải

Phòng cần tiếp tục tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, tấm gương tự học suốt đời

của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi đó như gương sáng và động lực để mỗi cán bộ

đảng viên và nhân dân Hải Phòng phấn đấu học tập, hoàn thiện bản thân, phục

vụ sự nghiệp cách mạng.

Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT cũng cần hết

sức linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với tình hình. Không chỉ riêng Việt Nam mà

trên thế giới hiện nay, nhiều quốc gia đang đổi mới hoặc cải cách giáo dục theo

hướng xây dựng XHHT. Đối với Hải Phòng, cần tiếp tục tuyên truyền, nâng cao

nhận thức của người dân về tấm gương tự học Hồ Chí Minh, về mục đích, ý

nghĩa và lợi ích của việc xây dựng XHHT bằng nhiều hình thức phong phú.

124

Một là, thường xuyên tổ chức các cuộc tuyên truyền, triển lãm sâu rộng

cho các tầng lớp nhân dân thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học

tập suốt đời, học liên tục theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Hình ảnh

lãnh tụ Hồ Chí Minh và học tập suốt đời” cần được tiếp tục triển lãm tại Nhà

Văn hoá Thanh niên, Nhà văn hóa các quận, huyện, các Khu Chế xuất - Khu

Công nghiệp, Trung tâm GDTX Hải Phòng, các Trung tâm GDNN - GDTX

quận, huyện và Trung tâm văn hóa các quận, huyện, qua triển lãm đã tác động

sâu sắc đến nhận thức của người dân, đến ý chí những học sinh đang đi học,

đến những người lao động trên mọi lĩnh vực, người lớn tuổi học tập tư tưởng,

tấm gương Hồ Chí Minh về tự học và học tập suốt đời. Các hình ảnh về tấm

gương tự học của Người đã thôi thúc tinh thần tự học của các bạn trẻ, cho họ

thấy phải cố gắng hơn nữa, cố gắng học tập suốt đời mới đem đến mọi sự thành

công trong cuộc sống.

Hai là, tích cực hưởng ứng “Tuần lễ học tập suốt đời”, tổ chức nhiều hình

thức tuyên truyền rất đa dạng và phong phú ở các quận, huyện, trên các tuyến

đường chính của thành phố bằng panô, băng rôn, khẩu hiệu nhằm giúp người

dân ý thức được nhiệm vụ xây dựng XHHT.

Ba là, nhân rộng hình thức xe loa phát thanh, tuyên truyền chủ đề “Học để

có nghề nghiệp và lao động ngày càng hiệu quả”, tuyên dương những tấm gương

tiêu biểu về học tập suốt đời đã vươn lên từ các trường học, lớp học đặc biệt là

trong các trường nghề, giới thiệu các cơ sở dạy nghề tại các quận, huyện; giới

thiệu những mô hình sản xuất giỏi áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi,

trồng trọt mang lại hiệu quả cao, góp phần nâng cao mức sống của người dân;

gương người tốt việc tốt trong phong trào KH, KT, xây dựng XHHT đến các khu

dân cư các xã, phường, thị trấn.

Bốn là, các quận, huyện, đoàn thể và các sở, ngành quan tâm tuyên

truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân về chủ

trương xây dựng XHHT tại từng cơ quan, đơn vị, từng địa phương; tăng cường

tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về khái niệm XHHT, học tập không chỉ

125

trong các trường lớp chính quy mà còn được tổ chức ở bất cứ lúc nào, bất cứ nơi

đâu và bất kỳ đối tượng nào.

Năm là, Đài Phát thanh truyền hình Hải Phòng tiếp tục có nhiều phóng sự,

tài liệu về tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, về các GĐHH, DHHH nhằm tuyên

truyền chủ trương xây dựng XHHT của thành phố và cả nước.

Tìm hiểu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về XHHT, tham chiếu vào quá

trình xây dựng XHHT ở Hải Phòng để thấy được giá trị to lớn, tính vượt trước

trong tư tưởng của Người về XHHT. Giá trị khoa học của di sản Hồ Chí Minh

đối với Hải Phòng không chỉ thuần túy là các bài viết, các bức thư, bài nói

chuyện, những lần đến thăm, làm việc của Hồ Chí Minh với Hải Phòng; không

chỉ là hệ thống quan điểm lý luận toàn diện, nhân cách đạo đức cao đẹp, sáng

trong Người để lại, mà còn là tình cảm sâu nặng, ân tình, đằm thắm, những lời

chỉ bảo chí tình, sâu sắc Người dành cho nhân dân, đảng bộ, đảng viên thành phố

Hải Phòng. Hải Phòng xây dựng XHHT là làm theo lời Đảng, lời Bác. Nghiên

cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về xây dựng XHHT nói

riêng, người Hải Phòng càng vững tâm và tự tin hơn vì hiểu rằng: Làm theo điều

Bác dạy cũng chính là tiếp tục hiện thực hóa và làm cho truyền thống, bản sắc

văn hóa của mảnh đất, con người Hải Phòng không ngừng tỏa sáng. Am hiểu sâu

sắc, quan tâm thường xuyên đối với Hải Phòng nên những lời dạy của Người

cũng chính là sự khơi nguồn để mạch ngầm văn hóa tiềm ẩn nơi vùng đất giàu

truyền thống cách mạng, nơi những con người Hải Phòng kiên cường, bất khuất,

khoáng đạt, năng động tiếp tục được phát huy và kết tinh thành những thành tựu

đầy ý nghĩa. Làm theo lời Người dạy cũng là cách để Hải Phòng thể hiện sự tự

tin, ý chí, trí tuệ và bản lĩnh của thành phố Cảng, xứng đáng với vai trò đi đầu

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

4.2. TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC CẤP ỦY ĐẢNG, SỰ

PHỐI HỢP GIỮA CÁC SỞ, BAN, NGÀNH, CÁC TỔ CHỨC, ĐOÀN THỂ TRONG

XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP

Để có thể triển khai hiệu quả và mạnh mẽ công cuộc xây dựng XHHT,

nhất thiết phải có sự lãnh đạo và đồng thuận của tất cả các cấp, ban ngành trong

toàn thành phố.

126

Công tác chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng XHHT cần được triển khai

kịp thời, đồng bộ và nhất quán từ thành phố đến các quận, huyện; cần được sự

quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và thu hút được sự tham gia của

nhiều cơ quan, tổ chức, đoàn thể và nhân dân địa phương.

Có thể nói, để tập trung chỉ đạo thực hiện Quyết định số 89/QĐ-TTg của

Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai

đoạn 2012 - 2020”, Thành ủy và UBND thành phố Hải Phòng đã ban hành các

văn bản chỉ đạo công tác xây dựng XHHT trên địa bàn làm cơ sở để các Sở,

ngành, quận, huyện và UBND các phường, xã, thị trấn xây dựng tổ chức hoạt

động của các TTHTCĐ cho phù hợp với tình hình và điều kiện nhân lực, cơ sở

vật chất ở địa phương. Trên cơ sở đó, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ban

ngành để việc xây dựng XHHT thực sự hiệu quả. Cần thiết phải tiến hành ký kết

các Nghị quyết liên tịch nhằm phối hợp hoạt động giữa Sở Giáo dục và Đào tạo

với Hội Khuyến học, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Ban chỉ huy Bộ đội biên phòng

Hải Phòng để triển khai thực hiện các mục tiêu của Đề án.

Ban chỉ đạo Đề án xây dựng XHHT giai đoạn 2012 - 2020 của thành phố

đã được thành lập theo Quyết định số 954/QĐ-UBND ngày 30/5/2013 của

UBND thành phố. Ban chỉ đạo cần thường xuyên được bổ sung, thay thế nhân

sự là lãnh đạo các ban, ngành thành phố để kịp thời chỉ đạo thực hiện Đề án.

Trên cơ sở Ban chỉ đạo cấp thành phố, Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án ở các quận,

huyện được thành lập; xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề án trên địa

bàn. Phòng Giáo dục và Đào tạo cần phát huy vai trò tham mưu với UBND các

quận, huyện để triển khai Đề án. Việc kiện toàn Ban chỉ đạo Đề án xây dựng

XHHT các quận, huyện đóng vai trò quan trọng. Những biện pháp cần tiếp tục

tiến hành như: tổ chức Hội nghị sơ kết nhiệm vụ năm trước và triển khai nhiệm

vụ năm sau đến các quận, huyện, sở, ngành; tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyên

môn, nghiệp vụ quản lý cho các thành viên ban chỉ đạo xây dựng XHHT từ

thành phố đến các xã, phường, thị trấn; triển khai tập huấn chuyên môn nghiệp

vụ cho các cán bộ, chuyên viên phụ trách TTHTCĐ. Ban giám đốc các

TTHTCĐ cần chú ý công tác xây dựng kế hoạch, triển khai nhiệm vụ liên kết

127

phối hợp, hướng dẫn biên soạn, thu thập tài liệu, mời báo cáo viên, huy động các

nguồn lực nên hoạt động có hiệu quả ngày càng đáp ứng nhu cầu học tập đa

dạng và phong phú của người dân.

Bên cạnh đó, các sở, ban, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân

cũng cần vào cuộc để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thành phố.

Nhiệm vụ cụ thể của các đơn vị như sau:

1) Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng

Đây là cơ quan thường trực giúp Ủy ban nhân dân thành phố tổ chức triển

khai Đề án; đồng thời chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể

thực hiện nhiệm vụ và giải pháp xây dựng XHHT. Làm tốt điều này, Sở cần chủ

động phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan và các địa phương để tăng cường

phát huy vai trò tham mưu với UBND thành phố trong việc xây dựng, bổ sung

và điều chỉnh Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “Phát triển đào tạo từ xa”, Đề

án “Xóa mù chữ giai đoạn 2012 - 2020” trên địa bàn thành phố.

Phối hợp với Hội Khuyến học Hải Phòng tiếp tục triển khai Đề án Đẩy

mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư;

kiểm tra công tác chỉ đạo xây dựng XHHT ở các quận, huyện; xây dựng bộ chỉ

số đánh giá việc thực hiện xây dựng XHHT của sở, ban, ngành, địa phương.

Tổ chức Tuần lễ Học tập suốt đời hàng năm bằng các hình thức và hoạt

động phong phú với các chủ đề cụ thể, thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia

học tập.

Về hoạt động chuyên môn đặc thù, Sở cần có sự chuẩn bị đầy đủ về cơ sở

vật chất, đội ngũ giáo viên, tổ chức lớp học linh hoạt đáp ứng nhu cầu học tập

của người lao động; tổ chức hoạt động nghiên cứu, học tập kinh nghiệm các mô

hình học tập suốt đời và xây dựng XHHT; chuẩn bị các điều kiện cho việc Hải

Phòng đăng ký tham gia mạng lưới TPHT toàn cầu của UNESCO.

2) Hội Khuyến học Hải Phòng

Chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan và các địa phương xây

dựng Kế hoạch triển khai thực hiện đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt

đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư” trên địa bàn thành phố.

128

Phổ biến các nội dung liên quan trên Bản tin và Trang thông tin điện tử

“Giáo dục và Khuyến học Hải Phòng” theo hướng tăng cường tuyên truyền các

nội dung và kết quả đạt được của công tác KH, KT, xây dựng XHHT theo nội

dung kết quả thực hiện Đề án.

Tích cực tổ chức tuyên truyền xây dựng XHHT thông qua phong trào xây

dựng các mô hình Gia đình học tập, Dòng họ học tập, Cộng đồng học tập cấp

thôn, tổ dân phố hoặc tương đương và Đơn vị học tập ở cơ sở thuộc cấp xã quản

lý; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng tiêu chí đánh giá, công nhận

các danh hiệu trên.

Thông qua các hoạt động phong phú tại Trung tâm văn hóa thể thao -

Học tập cộng đồng, TTHTCĐ, Hội cần đóng vai trò hạt nhân trong tổ chức,

vận động người dân tích cực tham gia học tập thường xuyên, học tập suốt đời,

xây dựng XHHT.

3) Sở Lao động Thương binh và Xã hội

Với tính chất đặc thù, Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hải Phòng cần

phối hợp với các sở, ban, ngành và các địa phương trong việc xây dựng, rà soát,

bổ sung Kế hoạch thực hiện Đề án “Hỗ trợ cho người lao động nông thôn, những

người hết tuổi lao động, người nội trợ, người khuyết tật có điều kiện thuận lợi để

học tập suốt đời” trên địa bàn thành phố theo hướng dẫn của Bộ Lao động

Thương binh và Xã hội.

Sự phối hợp này cần được hiệu quả hơn nữa trong xây dựng kế hoạch phát

triển hệ thống các cơ sở dạy nghề, mở rộng các hình thức dạy nghề trong doanh

nghiệp, công ty, dạy nghề gắn với sản xuất và dạy nghề ở nông thôn, vùng sâu,

vùng xa; tổ chức dạy nghề kết hợp với dạy văn hóa để nâng cao trình độ học vấn

cho người lao động tại các Trung tâm GDNN - GDTX quận, huyện.

4) Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch

Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các sở, ban, ngành khác xây dựng,

bổ sung Kế hoạch thực hiện Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời

trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ” trên địa bàn thành phố

theo hướng dẫn của Bộ văn hóa Thể thao và Du lịch.

129

Phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội và các sở, ban, ngành

trong việc thực hiện Đề án “Hỗ trợ cho người lao động nông thôn, những người

hết tuổi lao động, người nội trợ, người khuyết tật có điều kiện thuận lợi để học

tập suốt đời” ở các nội dung liên quan.

Phối hợp với Hội Khuyến học Hải Phòng và các sở, ban, ngành trong việc

thực hiện Đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ,

cộng đồng dân cư” trên địa bàn thành phố.

5) Sở Thông tin và Truyền thông

Phối hợp với các sở, ban, ngành và các địa phương trong việc xây dựng, rà

soát, bổ sung Kế hoạch thực hiện Đề án “Truyền thông về xây dựng xã hội học

tập”; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo triển khai thực hiện Đề án “Phát triển

đào tạo từ xa”; cung cấp nội dung thông tin về việc tuyên truyền xây dựng

XHHT cho các cơ quan báo, đài.

6) Sở Khoa học và Công nghệ

Cung cấp, biên soạn thông tin tài liệu về khoa học công nghệ phục vụ cho

nội dung xây dựng XHHT.

Tổ chức phổ biến kiến thức, hỗ trợ khai thác có hiệu quả các điểm truy cập

thông tin khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân.

7) Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Chủ trì biên soạn tài liệu về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn

liên quan đến nội dung xây dựng XHHT.

Hướng dẫn chỉ đạo việc giới thiệu báo cáo viên chất lượng cho các TTHTCĐ

tại các xã, phường, thị trấn tổ chức các lớp học về nông nghiệp, nông thôn.

8) Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư

Tham mưu, đề xuất kinh phí cho kế hoạch thực hiện Đề án “Xây dựng xã

hội học tập giai đoạn 2012 - 2020”, cùng với đó là cơ chế quản lý tài chính, kiểm

tra, giám sát việc thực hiện.

9) Đài Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng, Báo Hải Phòng, Cổng

Thông tin điện tử thành phố, các cơ quan báo chí liên quan

Đây là các cơ quan truyền thông đóng vai trò quan trọng trong tuyên

truyền, phổ biến kết quả thực hiện Đề án 89 và các Đề án thành phần trên địa

130

bàn thành phố. Để phát huy có hiệu quả công tác xây dựng XHHT, đòi hỏi sự

vào cuộc tích cực của các cơ quan truyền thông, thông tấn báo chí; cần phải

xây dựng chuyên mục tuyên truyền nội dung, kết quả xây dựng XHHT, qua đó

vận động người dân học tập thường xuyên, suốt đời, tận dụng mọi cơ hội học

tập để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, góp phần phát triển quê hương,

đất nước.

10) Các tổ chức chính trị - xã hội

Hội Khuyến học thành phố tiếp tục phối hợp với các tổ chức, các lực lượng

xã hội tuyên truyền, vận động người dân ra học các lớp xóa mù chữ, tích cực học

tập suốt đời, xây dựng XHHT; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo trong việc

duy trì, củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các TTHTCĐ;

xây dựng bộ chỉ số đánh giá việc thực hiện xây dựng XHHT của sở, ngành, địa

phương (bao gồm cấp huyện và cấp xã); chủ trì tổ chức đánh giá, xếp loại các

trung tâm học tập cộng đồng”; chủ trì xây dựng và thực hiện đề án “Đẩy mạnh

phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư”; xây

dựng các mô hình học tập phù hợp để thực hiện các mục tiêu của đề án (mô

hình “Công dân học tập”; “Gia đình học tập”; “Dòng họ học tập”; “Cộng

đồng/Khu dân cư học tập”; “Tổ chức, Cơ quan/Doanh nghiệp học tập”.

Ủy ban mặt trận Tổ quốc thành phố tham gia tuyên truyền, vận động nhân

dân tích cực học tập suốt đời; phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo và các cơ

quan, tổ chức thành viên đưa các chỉ tiêu xây dựng XHHT vào cuộc vận động

“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tại khu dân cư”.

Liên đoàn Lao động thành phố có kế hoạch cụ thể triển khai Đề án “Đẩy

mạnh các hoạt động học tập suốt đời cho công nhân lao động trong các doanh

nghiệp”; phối hợp với các cơ quan liên quan chỉ đạo, theo dõi việc đào tạo, bồi

dưỡng cho đội ngũ người lao động trong các doanh nghiệp; phối hợp với Sở

Giáo dục và Đào tạo tổ chức các lớp học để nâng cao trình độ học vấn cho người

lao động theo mục tiêu của kế hoạch.

Thành đoàn Hải Phòng chủ trì, tổ chức phối hợp, lồng ghép các hoạt động

tuyên truyền về xây dựng XHHT cho đoàn viên thanh niên, vận động đoàn viên

131

thanh niên tham gia giảng dạy các chuyên đề, phổ cập giáo dục và xóa mù chữ

tại các TTHTCĐ; vận động gây quỹ hỗ trợ thanh niên có hoàn cảnh khó khăn

trong học tập.

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành phố chủ trì, tổ chức phối hợp, lồng

ghép các hoạt động tuyên truyền về xây dựng XHHT trong tổ chức hội các cấp;

phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tuyên truyền, vận động phụ nữ, trẻ em gái

ở những vùng khó khăn mà chưa biết chữ ra học các lớp xóa mù chữ; nhân rộng

mô hình đào tạo nghề dưới dạng các chuyên đề Nhà Văn hóa của phụ nữ đến các

quận, huyện.

Hội Cựu chiến binh, Hội người cao tuổi, Hội Cựu giáo chức thành phố

phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai thực hiện công tác xóa mù chữ,

dạy nghề cho con em hội viên và hội viên, vận động các hội viên của hội tham

gia các hoạt động xây dựng XHHT; chỉ đạo các quận, huyện hội triển khai các

nhiệm vụ và giải pháp thực hiện nhiệm vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ

của Hội.

Hội Nông dân thành phố cần phối hợp với Hội Nông dân các quận, huyện

tuyên truyền trong hội viên về lợi ích việc xây dựng XHHT, cung cấp nhiều tài

liệu cho các cấp Hội để tuyên truyền; phối hợp với các cấp công đoàn và doanh

nghiệp tổ chức các chương trình đào tạo từ xa… đáp ứng nhu cầu học tập của

một bộ phận công nhân viên chức người lao động.

Thực tế, xây dựng XHHT là nhiệm vụ chung của tất cả người dân thành

phố, nhưng trước hết, trách nhiệm đó thuộc về các cấp lãnh đạo ở Hải Phòng.

Chỉ khi có sự cam kết chính trị, sự quyết tâm cao của các cấp lãnh đạo thì sự

nghiệp xây dựng XHHT ở Hải Phòng mới mau chóng đi đến kết quả.

4.3. PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIÁO DỤC SUỐT ĐỜI THEO HƯỚNG ĐI

VÀO THỰC CHẤT, HOÀN THÀNH PHỔ CẬP GIÁO DỤC, TIẾP TỤC MỞ RỘNG

CƠ HỘI HỌC TẬP CHO NGƯỜI DÂN

4.3.1. Tiếp tục phát huy lợi thế của Trung tâm học tập cộng đồng

Là một loại thiết chế GDTX được tổ chức trên địa bàn các xã, phường và

thị trấn, TTHTCĐ thật sự là tổ chức giáo dục được đưa đến tận những người

132

dân, đặc biệt là những lao động không có điều kiện tới trường chính quy và

những người nghèo, những người trong các nhóm yếu thế rất ít có cơ hội học

tập. Có thể thấy rằng, không có các TTHTCĐ (và những thiết chế GDTX) cắm

sâu trên địa bàn xã, phường và thị trấn, bắt rễ vào từng thôn, ấp, bản, làng, phun,

sóc… thì không thể nói đến việc thực hiện khẩu hiệu “ai cũng học tập”, và

không thể xây dựng thành công XHHT được.

Ông Victor Ordonez, Tổng Giám đốc UNESCO khu vực Đông Nam Á

cho rằng: TTHTCĐ có thể coi là phát minh quan trọng nhất mà bấy lâu nay thế

giới đang tìm kiếm. Trong những năm trở lại đây, TTHTCĐ được hầu hết các

nước ở Châu Á chú ý và xây dựng ngày càng nhiều. Việt Nam cũng nằm trong

xu thế đó.

UNESCO quan niệm, TTHTCĐ là cơ sở giáo dục không chính quy của

xã, phường, do cộng đồng thành lập và quản lý nhằm nâng cao chất lượng cuộc

sống của người dân và phát triển cộng đồng thông qua việc tạo cơ hội học tập

suốt đời của người dân trong cộng đồng. TTHTCĐ là thiết chế giáo dục không

chính quy của cộng đồng; do cộng đồng và vì cộng đồng.

So với với nhà trường chính quy thì TTHTCĐ khác ở mấy điểm:

- TTHTCĐ do cộng đồng thành lập (chứ không phải do Chính phủ

thành lập).

- Những vị trí như quản lý, giáo viên, hướng dẫn viên là những người làm

tự nguyện, không lương (có thể hưởng phụ cấp).

- Không chặt chẽ về thời gian (phục vụ suốt đời).

- TTHTCĐ phục vụ cho mọi người, mọi lứa tuổi.

- Không định hướng bằng cấp.

- Chương trình và phương thức hoạt động linh hoạt, đáp ứng kịp thời nhu

cầu của cộng đồng.

- Đa mục tiêu học tập.

- Đa dạng về tổ chức, tuỳ thuộc về điều kiện kinh tế - xã hội của cộng đồng.

Trên thế giới, với những nước có nền kinh tế phát triển như Australia có

hệ thống trường lớp đầy đủ, trang thiết bị hiện đại, mức sống và dân trí cao

133

nhưng họ rất chú trọng đến hình thức học tập cộng đồng. Các TTHTCĐ là nơi

thu hút mọi người có nhu cầu học tập. Họ đến đây để học tập, để làm việc, giao

lưu, trao đổi, học hỏi lẫn nhau nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Nhật Bản

cũng rất chú trọng việc phát triển rộng khắp các hình thức học tập nhằm tạo cơ

hội học tập cho người dân. Chương trình giáo dục xã hội được thực hiện ở Nhật

Bản là giáo dục bên ngoài nhà trường chính quy, đối tượng của giáo dục xã hội

là cả thanh thiếu niên và người lớn. Hầu hết các lớp học và chương trình trong

lĩnh vực giáo dục xã hội được tiến hành ở nhiều loại cơ sở cộng đồng khác nhau.

TTHTCĐ có mối quan hệ rất gần gũi với sinh hoạt của cư dân địa phương, tại

các TTHTCĐ đã tiến hành được nhiều lớp học và chương trình học khác nhau,

tổ chức các cuộc hội họp, cung cấp sách vở, tư liệu, giáo dục thể chất… Các

nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia,

Singapo… cũng phát triển mạnh mẽ các TTHTCĐ, là nơi thu hút người dân có

nhu cầu thể dục thể thao, văn hóa, văn nghệ, y tế, giáo dục…

Ở Việt Nam, TTHTCĐ được khẳng định tại Điều 46 (thuộc mục 5 - Giáo

dục thường xuyên) Luật Giáo dục 2005: TTHTCĐ là cơ sở GDTX, được tổ chức

tại xã, phường, thị trấn.

Cũng giống nhiều nước trong khu vực, việc tổ chức các TTHTCĐ ở Việt

Nam có 3 mục đích chính: Một là, tạo ra những cơ hội học tập cho mọi người

dân trong cộng đồng để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và phát

triển nguồn nhân lực cộng đồng. Hai là, tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu học

tập theo phương châm “cần gì học nấy” và giáo dục suốt đời cho mọi người. Ba

là, xây dựng hệ thống GDTX ở cơ sở nhằm giúp cho ai cũng được học hành, ai

cũng có thể tham gia vào công việc giáo dục và học tập tại cộng đồng.

Ở Hải Phòng, các TTHTCĐ được ra đời từ sớm và hoạt động khá hiệu quả.

Từ năm 2000, thực hiện Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 (khoá IX), Thành

phố bắt đầu xây dựng các TTHTCĐ. Ngày 15/12/2000, đơn vị đầu tiên được

thành lập là TTHTCĐ xã Đồng Minh (huyện Vĩnh Bảo) và ngày 15/11/2001,

TTHTCĐ đầu tiên của một phường được thành lập tại phường Hùng Vương

(quận Hồng Bàng). Đến năm 2005, toàn thành phố thành lập được 180

134

TTHTCĐ, trong tổng số 223 xã, phường, thị trấn. 6 huyện, quận đạt tỉ lệ 100%

số xã, phường, thị trấn có TTHTCĐ là: Vĩnh Bảo, An Lão, Kiến Thụy, Tiên

Lãng, An Dương và Kiến An [122, tr.176].

Ngày 24/3/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy chế tổ chức và

hoạt động của TTHTCĐ tại xã, phường, thị trấn, tạo cơ sở để các TTHTCĐ Hải

Phòng thống nhất tổ chức và hoạt động, đồng thời tranh thủ sự đầu tư và quan

tâm của lãnh đạo địa phương. Đây là tổ chức quan trọng để xây dựng XHHT tại

cơ sở. Hoạt động chủ yếu của trung tâm là điều tra và đáp ứng yêu cầu học tập

nhiều mặt của nhân dân ở trình độ phổ thông bằng cách phối hợp, liên kết với

các ban ngành, các tổ chức khoa học kỹ thuật, mời các cán bộ kỹ thuật, chuyên

gia để thuyết giảng, tập huấn về những vấn đề như: Nuôi trồng, y tế, môi trường,

pháp luật, kinh doanh, dịch vụ...

Mặc dù trong những năm đầu thành lập, hoạt động của các trung tâm còn

bỡ ngỡ, không đều, có trung tâm không hoạt động được, nhưng từng bước, phần

lớn các trung tâm đã tìm ra phương thức phù hợp, hoạt động đều đặn hơn, nội

dung phong phú hơn và được nhiều người dân hưởng ứng. Hằng năm, mỗi trung

tâm tổ chức cho hàng ngàn lượt người học. Năm học 2009 - 2010: huyện Thuỷ

Nguyên có 19.101 lượt người, huyện Tiên Lãng có 4.500 lượt người, quận Lê

Chân có 3.500 lượt người, huyện Vĩnh Bảo có 2.500 lượt người học [122,

tr.177]. Được xem là “nhà trường nhân dân”, rất nhiều TTHTCĐ đã tích cực

thúc đẩy các cuộc vận động trong nhân dân “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hoá trên địa bàn dân cư”, “Toàn dân đoàn kết làm kinh tế giỏi”, “Toàn

dân tham gia xây dựng XHHT”.

Việc nâng cao nhận thức cho người dân về Hiến pháp và pháp luật, về bảo

vệ môi trường sống, về chăm sóc khoẻ cộng đồng, về ý thức học tập thường

xuyên, về những chính sách của Nhà nước... đã từng bước xây dựng lối sống có

văn hoá trong cộng đồng, làm tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau thông qua các

buổi học tập, tọa đàm, trao đổi ý kiến, tạo được sự đồng thuận của nhân dân đối

với những chủ trương của Đảng. Chính điều này đã làm cho những cộng đồng

dân cư có sự ổn định chính trị, tạo nên không khí tâm lý và không khí đạo đức

135

tốt đẹp, hình thành nên những cộng đồng văn hoá, cộng đồng khuyến học v.v...

TTHTCĐ có thể giúp cho người lao động được học nghề, là cơ sở giáo dục có

tác dụng giúp cho nhiều người dân thoát cảnh “mù nghề”, “mù máy tính”, góp

phần tích cực vào việc tăng tỉ lệ người được đào tạo nghề trong xã hội. Rất nhiều

người chưa qua quá trình đào tạo nghề đã được học nghề ngắn hạn mà tăng thu

nhập hàng năm. Nhiều người đã có nghề, nay được học thêm nghề mới đã có

những thay đổi trong cách thức làm ăn, thích ứng được với cơ chế thị trường.

TTHTCĐ thực sự giúp cho mọi người “ai cũng được học hành”.

Để tiếp tục phát huy cao nhất hiệu quả hoạt động, các TTHTCĐ ở Hải

Phòng cần nhấn mạnh mấy vấn đề sau:

Thứ nhất, cung cấp tri thức cho người dân theo hướng “cần gì học

nấy”, “mù gì xóa nấy”.

Để tạo cơ hội học tập cho mọi người dân trong cộng đồng, nhất là người

lao động đang thiếu thông tin, những người thiệt thòi nhiều trong cuộc sống như

nghèo đói, ở vùng hẻo lánh, trẻ mồ côi không có điều kiện đi học, v.v…

TTHTCĐ phải có nhiều chương trình học tập để ai cũng tìm được một chương

trình phù hợp. Mặt khác, Trung tâm phải biết tư vấn và tìm thông tin để cung

ứng cho người dân. Điều đặc biệt là muốn nhập học, người dân không phải thực

hiện những thủ tục chặt chẽ, không có yêu cầu về bằng cấp và không cấu tạo

chương trình học với tính liên tục như mô hình giáo dục chính quy.

Sự đa dạng về chương trình, về bài học, về chuyên đề là hết sức cần thiết

để đảm bảo phương châm “cần gì học nấy”. Hiện nay, các TTHTCĐ thường thể

hiện chức năng giáo dục và huấn luyện ở những chương trình như: Xoá mù chữ

cho thanh niên và người lớn; Các lớp học tình thương cho trẻ em thất học; Các

chương trình sau xoá mù chữ; Các chương trình tương đương (giáo dục bổ túc

tiểu học, trung học cơ sở); Các chương trình tạo thu nhập (dạy nghề ngắn hạn,

tập huấn về kỹ thuật, chuyển giao công nghệ…); Các chương trình nâng cao chất

lượng cuộc sống (chuyên đề về sức khoẻ, dinh dưỡng, dân số - kế hoạch hoá gia

đình, bảo vệ môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội, pháp luật…); Các chương

136

trình đáp ứng sở thích cá nhân (chụp ảnh, cắm hoa, thêu ren, nấu nướng, vẽ…);

Các chương trình chuẩn bị cho tương lai (ngoại ngữ, tin học…).

Một thực tế là cán bộ trong biên chế của Trung tâm thì rất ít, mà những

vấn đề huấn luyện giáo dục lại rất đa dạng. Do vậy, Trung tâm luôn phải phối

hợp với các lực lượng khác như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, trại chăn nuôi,

cán bộ khuyến nông v.v… để tiến hành các bài giảng, các chuyên đề khoa học

và công nghệ v.v…

Thứ hai, linh hoạt trong giải đáp thông tin và tư vấn người dân.

Nhu cầu thông tin và cách thức tìm kiếm thông tin của nhân dân là rất đa

dạng. Để cung ứng thông tin, giới thiệu nguồn tin, cách thức tiếp cận với thông

tin thường phải dựa vào đội ngũ làm công tác văn hoá, khoa học, kỹ thuật ở địa

phương hoặc nhờ sự giúp đỡ của những chuyên gia ở gần Trung tâm. Việc tiến

hành công việc này càng bức thiết khi địa phương không có thư viện hoặc bưu

điện văn hoá. Ở nhiều tỉnh, thành phố, các TTHTCĐ có tủ sách. Tuy nhiên, với

nguồn kinh phí của trung tâm rất hạn hẹp, số sách báo thường rất ít ỏi.

Những vấn đề mà người dân thường cần được trung tâm tư vấn là bảo vệ

sức khoẻ, chữa bệnh, cách dùng thuốc, tìm kiếm việc làm, giá cả thị trường, tín

dụng, hôn nhân - gia đình, chăn nuôi, trồng trọt. Hình thức cung cấp thông tin

cũng rất đa dạng như: tổ chức giới thiệu sách; thông báo về các nguồn tin; sử

dụng hệ thống truyền thanh của xã, phường; làm bảng tin…

Thứ ba, đa dạng hóa các hoạt động cộng đồng của Trung tâm.

Đúng như tên gọi, TTHTCĐ thường tổ chức các hoạt động mang tính

cộng đồng như: Biểu diễn thể dục, thi đấu thể thao, luyện tập dưỡng sinh; tổ

chức trao đổi, tọa đàm về công việc; tổ chức nói chuyện theo các chủ đề; xem

chiếu bóng, băng Video, phim đèn chiếu; dịch vụ khám chữa bệnh; hỗ trợ các dự

án đang triển khai ở địa phương.v.v… Các chương trình, các dự án cần trung

tâm hỗ trợ có thể là chương trình xoá đói giảm nghèo, dự án cho vay vốn với lãi

suất thấp, chương trình xây dựng quỹ khuyến học của xã, phường, chương trình

chống suy dinh dưỡng, chương trình tiêm chủng dự phòng…

137

Thứ tư, tiếp tục duy trì và thúc đẩy sự liên kết với nhiều trung tâm, tổ

chức khác.

Rất nhiều công việc ở địa phương cần được tiến hành với sự liên kết hoặc

phối hợp giữa trung tâm với các tổ chức khác. Hiện nay, có nhiều công việc cần

được Trung tâm phối hợp, liên kết với các tổ chức, các lực lượng xã hội để thực

hiện như phối hợp với Hội người cao tuổi điều tra nhu cầu học tập của các cụ về

hưu, phối hợp với Đoàn Thanh niên để tổ chức huấn luyện cho thanh niên làm

trang trại, phối hợp với Hội Phụ nữ về kế hoạch hoá gia đình, phòng chống suy

dinh dưỡng ở trẻ em v.v…

Cần thấy rằng việc cập nhật kiến thức và kỹ năng lao động kỹ thuật cho

người dân, giúp họ tiếp cận với những công nghệ sản xuất mới, mang lại cho họ

những thông tin cần thiết để thay đổi cách nghĩ, cách làm theo truyền thống... sẽ

có tác dụng to lớn trong xoá đói giảm nghèo trong cộng đồng dân cư, nhất là

những cộng đồng trong lĩnh vực “tam nông” (nông nghiệp, nông thôn, nông

dân). Những chuyên đề, những lớp tập huấn, những cuộc tọa đàm về kỹ thuật

liên hoàn VAC (vườn, ao, chuồng) về nuôi ba ba, cá sấu, ngan Pháp, gà siêu

thịt..., về trồng hoa, trồng tiêu, làm nấm...; về quản lý trang trại, chống sâu bệnh

cho cây trồng, đề phòng dịch cúm gia cầm... chắc chắn sẽ giúp cho không ít

nông dân đói nghèo trở thành triệu phú.

Dễ dàng nhận thấy những lớp học xoá mù chữ và bổ túc sau khi xoá mù

chữ, những lớp học bổ túc tiểu học và trung học cơ sở, những lớp chuyên đề về

pháp luật, vệ sinh thực phẩm, bảo vệ sức khoẻ, những khoá dạy nghề ngắn hạn

đã giúp cho người dân không rơi vào tình trạng mù chữ lại (tái mù) và góp phần

không nhỏ vào phổ cập giáo dục cho người lớn. Với đối tượng là trẻ em đã phổ

cập giáo dục tiểu học hay trung học cơ sở mà không có điều kiện theo học các

trường chính quy thì nhờ học tập ở TTHTCĐ mà củng cố được kết quả phổ cập

giáo dục của mình.

Ủy ban nhân dân các quận, huyện cần bố trí giáo viên làm việc tại

TTHTCĐ; chỉ đạo xây dựng TTHTCĐ kết hợp với nhà văn hóa, bưu điện xã,

chọn trung tâm nguồn để nhân rộng điển hình trên địa bàn; hướng dẫn Phòng

138

giáo dục và đào tạo các quận, huyện phối hợp với Hội người cao tuổi tổ chức các

lớp học tuyên truyền, phổ biến kiến thức phổ thông về chế độ dinh dưỡng ở

người cao tuổi; hướng dẫn người cao tuổi kỹ năng phòng bệnh, chữa bệnh và tự

chăm sóc sức khỏe.

Về tài liệu học tập, ngoài các tài liệu do Vụ GDTX; chương trình GDTX

đáp ứng theo yêu cầu người học của Bộ Giáo dục và Đào tạo; các tài liệu về giáo

dục pháp luật, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, các

chuyên đề giáo dục do Sở Giáo dục và Đào tạo cung cấp; sách giáo khoa chương

trình xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ cần được cung cấp cho

các TTHTCĐ để làm tài liệu giảng dạy. Bên cạnh đó, các quận, huyện tiếp tục

bổ sung tài liệu giảng dạy cho các TTHTCĐ qua các kênh:

- Khai thác các chuyên đề từ địa chỉ http://clc.mis.moet.gov.vn (Hệ thống

phần mềm quản lý điều hành các TTHTCĐ)

- Cung cấp báo Giáo dục thời đại;

- Kết hợp sử dụng nguồn tư liệu từ các ban, ngành, đoàn thể ở các quận,

huyện; tài liệu từ các hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật, các chương trình dạy

nghề ngắn hạn của các cơ sở tư nhân;

- Các chương trình dạy nghề dưới các hình thức chuyên đề, dạy nghề ngắn

hạn của Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp và của Trung tâm khuyến nông thành phố;

- Bổ sung thường xuyên sách về y dược, nông nghiệp, chính trị, kinh tế,

môi trường các loại báo cho các TTHTCĐ;

- Tài liệu tuyên truyền, bộ đĩa truyền thanh, thông tin phụ nữ 8/3, sổ

tay, tập san nội bộ của Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố và Hội Liên hiệp phụ

nữ các cấp;

- Các chương trình dạy nghề của các Sở Lao động - Thương binh và Xã

hội, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn theo chương trình dạy nghề cho lao

động nông thôn.

Với những ưu thế không thể phủ nhận, rõ ràng mô hình TTHTCĐ là một

thiết chế giáo dục phù hợp với những mục tiêu mà XHHT đề ra. Hàng ngàn

người đã được giải quyết nhu cầu học tập thường xuyên với cấu trúc chương

139

trình linh hoạt. Các TTHTCĐ góp phần ổn định chính trị, xã hội tạo điều kiện

cho mọi người nâng cao trình độ hiểu biết, nhu cầu học tập thường xuyên, suốt

đời, vận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cuộc sống để phát

triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa ở cộng

đồng dân cư, xóa mù chữ, xóa mù nghề, phổ cập giáo dục, nâng cao chất lượng

giáo dục chính quy. Các TTHTCĐ thể hiện nổi bật tinh thần cộng đồng, phát

triển TTHTCĐ là một biện pháp tăng cường xã hội hóa công tác giáo dục, góp

phần xây dựng XHHT ở Hải Phòng nói riêng và Việt Nam nói chung.

4.3.2. Đa dạng hóa hoạt động Giáo dục thường xuyên

Nhiều quốc gia trên thế giới cho rằng, giáo dục là công việc phải được

tiến hành đối với mọi lứa tuổi, trong tất cả các giai đoạn của đời người. Không

phân biệt học trong nhà trường, học ngoài xã hội hay học tại gia đình, học có

mục đích hay học ngẫu nhiên, học theo hệ thống tri thức và kỹ năng hay cần gì

học nấy, quá trình giáo dục đó đều phải được quan tâm và phải có sự quản lý từ

phía Nhà nước. Với cách hiểu này, GDTX là một chính sách xã hội của một xã

hội hiện đại, trong đó học tập là quyền của con người. Như vậy, nếu phân chia

hệ thống giáo dục ra làm 2 hệ nhỏ thành phần là hệ thống giáo dục ban đầu và hệ

thống giáo dục tiếp tục, thì sự liên kết, liên thông, kết nối và được tiến hành

không đứt đoạn nhờ sự đan xen và liên tục của sự học ở mỗi con người được gọi

là GDTX.

UNESCO đưa ra 14 khuyến cáo về giáo dục và tất cả đều nói tới GDTX.

Quan niệm của UNESCO về GDTX rất phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay

ở Việt Nam. Theo đó, GDTX bao gồm tất cả các cơ hội học tập mà mọi người đều

mong muốn hoặc cần có sau xoá mù chữ cơ bản và giáo dục tiểu học. Trong thực

tế, những chương trình của GDTX thường được nhiều đối tượng hoan nghênh như

những người phải bỏ học giữa chừng khi đang học trong nhà trường chính quy,

những người nghèo hoặc thất nghiệp, những người di cư, những người tị nạn,

những phụ nữ ít có cơ may học tập, những người về hưu v.v..

Ở một số nước, trong đó có Việt Nam, lại gộp các loại hình học tập không

chính quy vào khái niệm GDTX. GDTX được coi là một hệ thống gồm các loại

140

hình học tập thuộc phạm vi giáo dục tiếp tục. Vì thế, nó không bao hàm các hình

thức giáo dục chính quy trong hệ giáo dục ban đầu. Nói đến GDTX, người ta

hiểu rằng đó là giáo dục tiếp tục. Theo quy định của Luật giáo dục 2005, giáo

dục tiếp tục bao gồm mọi loại hình giáo dục không chính quy. Do tính chất bắc

cầu trong quan niệm nói trên nên nói đến GDTX là ai cũng hiểu rằng đó là giáo

dục không chính quy.

Điều 44, Luật Giáo dục 2005 của nước ta quy định: GDTX giúp mọi

người vừa học vừa làm, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách,

mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải

thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời

sống xã hội.

Nhà nước có chính sách phát triển GDTX, thực hiện giáo dục cho mọi

người, xây dựng XHHT.

Nội dung GDTX được thể hiện trong các chương trình: xoá mù chữ và

giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ; cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công

nghệ; đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ; lấy

văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân. Hình thức để lấy văn bằng của hệ

thống giáo dục quốc dân cũng rất phong phú: Vừa học vừa làm; Học từ xa; Tự

học có hướng dẫn. Như vậy, nội hàm GDTX có nhiều điểm tương đồng với

XHHT mà Hồ Chí Minh xây dựng và kiến tạo.

Việc coi GDTX là một hệ thống thành phần của hệ thống giáo dục quốc

dân cũng được ghi trong Quyết định 112/2005/QĐ-TTg ngày 18/5/2005 của Thủ

tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 -

2010”. Xây dựng cả nước trở thành XHHT được dựa trên nền tảng phát triển

đồng thời, gắn kết, liên thông của hai bộ phận cấu thành: Giáo dục chính quy và

GDTX của hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó GDTX thực hiện các chương

trình học tập nhằm tạo các điều kiện tốt nhất đáp ứng mọi yêu cầu học tập suốt

đời, học tập liên tục của mọi người công dân sẽ là một bộ phận có chức năng

quan trọng, làm tiền đề để xây dựng XHHT.

141

Tại Hải Phòng, hệ thống GDTX đã dần hoàn thiện, từ cấp thành phố đến

cấp quận, huyện. Các trung tâm dạy nghề quận, huyện cũng được sáp nhập vào

trung tâm GDTX tương ứng.

Để có thể phát huy hiệu quả hoạt động, đưa chất lượng đào tạo tại các

trung tâm GDTX ở Hải Phòng đi vào thực chất, cần quán triệt những vấn đề có

tính nguyên tắc:

Một là, GDTX là cánh cửa, là cơ hội học tập thứ hai cho những ai chưa

bao giờ đi học, từ đó góp phần vào việc mang lại công bằng xã hội và bình đẳng

trong giáo dục, điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn thực hiện.

Hai là, với những người bỏ học giữa chừng vì lý do nào đó, GDTX cần

nối lại sự đứt đoạn trong quá trình học tập của họ, làm cho việc học tập được

thực hiện tiếp tục, liền mạch. Cũng có nghĩa, GDTX chính là cầu nối, là cánh tay

nối dài của quá trình giáo dục tiếp tục.

Ba là, GDTX bổ sung những tri thức cần thiết cho con người trong quá

trình lao động, sản xuất. Điều này bắt nguồn từ việc con người thấy thiếu hụt

những kiến thức, những kỹ năng nào đó trong quá trình lao động, giao lưu xã

hội… Sự thiếu hụt này làm cho họ khó thích nghi, khó phát triển trong điều kiện

xã hội thay đổi nhanh chóng về các phương diện sản xuất, kinh doanh, quan hệ

đối ngoại v.v… Do đó, con người phải cập nhật những hiểu biết, những phương

pháp làm việc… cần thiết mà cuộc sống đòi hỏi. Nói cách khác, đó chính là giáo

dục liên tục, học tập suốt đời.

Bốn là, GDTX mang lại cơ hội học tập mà qua đó con người làm cho vốn

kinh nghiệm của mình đầy đủ hơn, năng lực hoạt động được nâng cao, sức khoẻ

được tăng cường, những phẩm chất nhân cách được phát triển hài hoà và hoàn

chỉnh hơn. Tức là, GDTX giúp con người hoàn thiện hơn về năng lực và nhân

cách thông qua quá trình giáo dục.

Có thể coi GDTX là mô hình mới của xã hội hiện đại, giải quyết hiệu quả

nhu cầu học tập của người dân, góp phần xây dựng XHHT ở Việt Nam nói

chung và Hải Phòng nói riêng. Đến nay, ngành GDTX Hải Phòng vẫn đang tiếp

tục phát triển và phát huy lợi thế mà loại hình này mang lại. Trong thời gian tới,

142

GDTX Hải Phòng cần năng động hơn nữa trong việc liên kết, tổ chức và đào tạo

cho các đối tượng học viên, giúp trang bị cho họ những kiến thức nghề nghiệp

cần thiết phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.

4.4. ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP TỪ CƠ SỞ THÔNG QUA

KHUYẾN HỌC, KHUYẾN TÀI

Sự nghiệp xây dựng XHHT ở Việt Nam khác với các nước phát triển

không phải ở nguyên tắc, không phải ở cấu trúc vĩ mô mà là ở các bước đi chiến

lược. Nếu như ở các nước phát triển, XHHT bắt đầu từ sự tập trung nguồn lực để

xây dựng các TPHT, từ đó nhân rộng ra nhiều TPHT để có được một quốc gia

học tập của họ, thì ở Việt Nam, XHHT phải được bắt đầu từ cơ sở, từ những hạt

nhân nhỏ nhất là công dân học tập, gia đình học tập từ đó xây dựng xã, phường

học tập, quận, huyện học tập rồi mới tiến tới TPHT, quốc gia học tập. Có như

vậy, xây dựng XHHT ở Việt Nam mới tiến được những bước dài và vững chắc.

Những bước đi này phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hóa, chính trị Việt Nam

và cũng phù hợp với mô hình mà Hồ Chí Minh đã đề cập đến từ năm 1949. Mỗi

một cá nhân, mỗi một đơn vị và một địa phương xây dựng XHHT, cộng gộp lại

sẽ là thành quả chung của sự nghiệp xây dựng XHHT trên cả nước.

Tuy nhiên, là một nước nông nghiệp có điều kiện kinh tế còn hết sức khó

khăn nên Việt Nam không thể lấy kinh tế làm động lực chính để xây dựng

XHHT. Việt Nam phải tìm sức mạnh phi kinh tế để làm động lực xây dựng

XHHT từ cơ sở. Đó chính là sức mạnh của yếu tố tinh thần, mà ở đây là tinh

thần siêng năng, ham học hỏi, ham tiến bộ của dân tộc. Vì thế, xây dựng XHHT

không tách rời với mọi hoạt động KH, KT ở từng địa phương và trên cả nước.

Đối với Hải Phòng, KH, KT có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hải Phòng

được mệnh danh là vùng đất địa linh nhân kiệt, có nhiều anh tài lưu danh muôn

thuở. Nhiều năm qua, phong trào KH, KT, xây dựng XHHT đã làm chuyển biến

căn bản nhận thức của người dân thành phố về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với

phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, khơi dậy và phát huy có hiệu quả truyền

thống hiếu học trong mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng, xã hội. Cấp uỷ, chính

quyền các cấp đề ra nhiều giải pháp xây dựng và phát triển phong trào, vận động

143

nhân dân ở phường, xã, tổ dân phố xây dựng các mô hình điểm, cá nhân tiêu

biểu đóng góp tích cực vào cuộc vận động các gia đình có con đến tuổi đi học để

các em được đến trường học tập với các bạn đồng lứa tuổi. Các cuộc vận động

được hình thành một cách đa dạng, linh hoạt ở khắp mọi nơi như tiếng kẻng học

tập ở xã Chiến Thắng, huyện An Lão, các cuộc vận động dành tiền ăn sáng giúp

bạn học bài; cuộc vận động quyên góp sách vở, bút, giấy giúp các bạn có hoàn

cảnh khó khăn ở các trường phổ thông, khu dân phố... Rất nhiều nghĩa cử cao

đẹp, tự giác xuất hiện ở phường xã, làng xóm, tổ dân phố, tạo điều kiện cơ sở vật

chất để con em có điều kiện học tập tốt hơn. Tác dụng tích cực của phong trào

KH, KT, xây dựng XHHT đến tận gia đình, dòng tộc và cộng đồng dân cư.

Những tiêu chí cơ bản của phong trào khuyến học được ghi trong các văn bản

hương ước của dòng họ, làng văn hoá. Hội khuyến học các cấp của thành phố đã

xây dựng kế hoạch thực hiện ở địa phương, tổ chức cho cán bộ chủ chốt của Hội

Khuyến học thành phố và các quận, huyện quán triệt, triển khai quyết định số

281 của Thủ tướng Chính phủ. Với những hoạt động tích cực, nhiệt tình, tâm

huyết của cán bộ, hội viên các cấp, hoạt động KH, KT của thành phố đã tạo

thành sức mạnh tổng hợp được đại đa số các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, ủng

hộ đưa phong trào thi đua KH, KT giữ vị trí hết sức có ý nghĩa đối với sự nghiệp

giáo dục đào tạo của thành phố và thu được những kết quả rất đáng trân trọng.

Để duy trì tốt hoạt động KH, KT cần thực hiện xã hội hóa Quỹ KH, KT.

Trong bối cảnh kinh tế đất nước, thành phố và các doanh nghiệp còn gặp nhiều

khó khăn, phong trào xây dựng quỹ KH, KT vẫn phát triển mạnh mẽ, rộng khắp

ở các Hội Khuyến học quận, huyện, xã, phường, thị trấn với nhiều hình thức đa

dạng, phong phú. Cần thiết nhân rộng mô hình xã hội hóa quỹ KH, KT hoạt

động có hiệu quả. Thông qua công tác tuyên truyền vận động, sự đóng góp tích

cực của các cá nhân, tập thể và sự chăm lo xây dựng quỹ khuyến học từ các gia

đình, dòng họ, chi hội khuyến học các tổ dân phố, xóm thôn, các cơ quan, doanh

nghiệp, trường học, hội đồng hương… nhiều đơn vị có những sáng kiến để xây

dựng quỹ đem lại hiệu quả thiết thực, tiêu biểu như: Quỹ Khuyến học trong các

nhà trường ở quận Lê Chân, Quỹ học bổng Phạm Đình Trọng của dòng họ Phạm

144

ở Thành phố Hải Phòng, Quỹ học bổng Đức Trí của nhà giáo Đàm Lê Đức

(Hiệu trưởng trường bồi dưỡng văn hoá số 218 Lý Tự Trọng, Thành phố Hồ Chí

Minh), Quỹ học bổng Trần Phú của trường THPT chuyên Trần Phú, Quỹ KH,

KT mang tên Trạng nguyên Lê Ích Mộc của huyện Thuỷ Nguyên, Quỹ khuyến

học Nguyễn Bỉnh Khiêm của huyện Vĩnh Bảo, Quỹ khuyến học Trần Tất Văn

của huyện An Lão, Quỹ khuyến học Tô Hiệu, Phú Mỹ Hưng, Quỹ học bổng Lá

Xanh, quỹ học bổng Hữu Nghị, học bổng của Công ty Phú Mỹ Hưng… Phong

trào “Nuôi lợn siêu trọng” được phát triển rộng rãi ở các nhà trường trong toàn

thành phố với nhiều hình thức sinh động. Nguồn quỹ huy động được từ các

doanh nghiệp, doanh nhân, nhà hảo tâm trong và ngoài thành phố đã trực tiếp

mang lại hiệu quả thiết thực giúp các học sinh có hoàn cảnh khó khăn, động viên

những học sinh đạt thành tích xuất sắc trong học tập ở các cấp học, đồng thời tạo

được sự đồng thuận của các gia đình, dòng họ, các doanh nghiệp, doanh nhân và

cả cộng đồng ủng hộ. Việc quản lý, sử dụng quỹ được các cấp Hội khuyến học

xây dựng thành quy chế rõ ràng, thực hiện có hiệu quả với nguyên tắc: Công

khai, minh bạch, khách quan để nhận được sự đồng tình, tin tưởng ủng hộ của

nhân dân và các doanh nghiệp, tập thể, cá nhân tham gia xây dựng quỹ.

4.5. XÂY DỰNG VÀ THÚC ĐẨY VĂN HÓA HỌC TẬP, NÂNG CAO CHẤT

LƯỢNG HỌC TẬP SUỐT ĐỜI CHO NGƯỜI DÂN

4.5.1. Tiếp tục nhân rộng mô hình tủ sách thư viện đáp ứng nhu cầu

tiếp cận tri thức của người dân

Thực tế cho thấy, thư viện luôn là địa chỉ tin cậy cho học tập và học tập

suốt đời. Hiện thành phố đã có trên 750 thư viện trường học, với nhiều chủng

loại sách phong phú và có giá trị, trong số đó có gần 300 thư viện đạt chuẩn. Hải

Phòng đã triển khai mô hình thư viện mới như: thư viện xanh tại Trường Tiểu

học Lê Hồng Phong, quận Ngô Quyền, Trường THCS Hồng Bàng, quận Hồng

Bàng; Thư viện phụ huynh, tủ sách phụ huynh tại các Trường THPT Thái Phiên,

An Dương, Kiến An; Đặc biệt, Trường THPT Kiến An phối hợp với Ban đại

diện cha mẹ học sinh đã tổ chức xây dựng tủ sách phụ huynh tại các lớp học

trong phạm vi toàn trường. Các bậc cha mẹ học sinh đã đóng góp được 210 đầu

145

sách với trên 3000 cuốn sách thuộc các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học

kỹ thuật, kỹ năng sống, giáo dục giới tính... Các em học sinh trong mỗi lớp đã

bầu chọn các học sinh có tinh thần trách nhiệm làm nhiệm vụ thủ thư. Nhà

trường đã mở lớp tập huấn về nghiệp vụ thư viện cho đội ngũ này để giúp các

em quản lý tốt tủ sách và biết các duy trì phong trào đọc sách trong lớp; chỉ đạo

Đoàn thanh niên phát động cuộc thi đọc sách và viết cảm nhận về cuốn sách em

yêu thích. Trên cơ sở những bài thi có chất lượng được Ban Giám khảo đánh giá

cao và những bài thi nhận được nhiều lượt bình chọn của độc giả trên trang web

của nhà trường và trên trang facebook của Đoàn trường. Đoàn trường đã mở

chuyên mục phát thanh “Mỗi tuần một cuốn sách” phát thanh trên hệ thống loa

phát thanh học đường vào sáng thứ năm hàng tuần. Đồng thời bộ phận hoạt động

ngoài giờ lên lớp cũng đã chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm kết hợp với tổ bộ

môn Ngữ văn và Ban chủ nhiệm các Câu lạc bộ như Câu lạc bộ Khoa học, Câu

lạc bộ Văn học, Câu lạc bộ Hóa học, Vật lý, Lịch sử, với các Chi hội phụ huynh

các lớp... tổ chức những buổi sinh hoạt Câu lạc bộ với nội dung thuyết trình về

cuốn sách yêu thích. Các giáo viên chủ nhiệm và giáo viên Ngữ văn đã phối hợp

tổ chức cho học sinh đọc sách và viết bài thu hoạch về các cuốn sách bổ ích theo

các chủ đề giáo dục từng tháng; Tổ chức được nhiều buổi phát thanh học đường

về chủ đề sách, trên 20 buổi thảo luận, thuyết trình tại lớp về cuốn sách em yêu

thích với gần 1.100 lượt học sinh tham gia.

4.5.2. Tích cực hưởng ứng và tham gia tuần lễ học tập suốt đời

Xây dựng XHHT là sự nghiệp không chỉ của riêng Hải Phòng hay riêng

Việt Nam mà là xu thế chung của các quốc gia trên thế giới. Mỗi năm, UNESCO

đều phát động người dân hưởng ứng Tuần lễ học tập suốt đời. Định kỳ hàng

năm, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng đã xây dựng kế hoạch triển khai Tuần

lễ hưởng ứng học tập suốt đời trong các ban, ngành thành phố, Ủy ban nhân dân

các quận, huyện. Tuần lễ Hưởng ứng học tập suốt đời hàng năm luôn nhận được

sự quan tâm sâu sát của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong

công tác chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng XHHT trên địa bàn thành phố và

các nội dung, chuyên đề cần thực hiện trong dịp tổ chức Tuần lễ hưởng ứng học

tập suốt đời.

146

Tổng hợp số liệu kết quả tổ chức tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời 2019

Số lượng

STT

Các hoạt động

Đơn vị

Ghi chú

Người

Số lớp/số cuộc thi

lớp

1

Các lớp bồi dưỡng, tập huấn tổ chức trong Tuần lễ

người

Tổng số người tham gia, trong đó:

lớp/người

182

7.162

Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức (các cấp)

825

lớp/người

31

Bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức (các cấp)

813

lớp/người

37

Bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học cho cán bộ, công chức, viên chức (các cấp)

lớp/người

124

458

Bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho công nhân lao động

336

Học nghề cho lao động nông thôn

lớp/người

73

465

lớp/người

105

Nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ công chức cấp xã, người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất

7482

Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh

lớp/người

267

618

lớp/người

21

Phổ biến kiến thức khoa học, kiến thức pháp luật cho người lao động

2548

Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên

lớp/người

78

518

lớp/người

26

Bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ quản lý, báo cáo viên TTHTCĐ

427

Phổ cập giáo dục (tiểu học, THCS)

lớp/người

19

58

Xóa mù chữ

lớp/người

53

Tin, bài/ cuộc

298

2 Số tin bài về các hoạt động của Tuần lễ

quyển/ tờ

12.146

3 Ấn phẩm thông tin (tờ rơi, áp phích, băng

rôn, khẩu hiệu)

224

4

Phát động phong trào và tổ chức quyên góp sách giúp xây dựng tủ sách lớp học, xây dựng thư viện trường học

Số tập thể/ cá nhân tặng sách

75

624

Tập thể/cá nhân

Số sách đã huy động tặng các trường học, thư viện

Quyển

6.852

147

Số lượng

STT

Các hoạt động

Đơn vị

Ghi chú

Người

Số lớp/số cuộc thi

Số cuộc

281

5

Tổ chức các thi, các buổi tọa đàm về khuyến đọc, khuyến học, XD XHHT

Hội sách, đường sách, phố sách

Số cuộc

72

Trưng bày, triển lãm sách báo, tư liệu

Số cuộc

51

Số cuộc/người

391

18

Thi tìm hiểu, học tập lịch sử, văn hóa địa phương tại các bảo tàng, di tích

Số cuộc/người

58

1.589

Thi về sách (thi xếp sách nghệ thuật, thi vẽ tranh theo sách, thi tìm hiểu kiến thức qua sách báo, thi thiếu nhi kể chuyện theo sách, thi viết cảm nhận qua việc đọc sách)

Sinh hoạt chuyên đề HTSĐ, xây dựng XHHT Số cuộc/người

Số cuộc

6

Tổ chức hoạt động văn nghệ, thể thao, thăm quan, sinh hoạt chuyên đề

Hoạt động thể dục thể thao

Số cuộc/người

19

524

Hoạt động văn nghệ

Số cuộc/người

24

312

Thăm quan, học tập tại bảo tàng, di tích lịch sử Số cuộc/người

6

168

7

Tổ chức Lễ khai mạc Tuần lễ

Số huyện tổ chức Lễ khai mạc Tuần lễ

Huyện

13

551

Trường/trung tâm

Số cơ sở giáo dục tổ chức Lễ khai mạc Tuần lễ

cuộc

32

211

8 Tổ chức hội thảo/sinh hoạt chuyên đề

9

Khen thưởng về tổ chức Tuần lễ

Tập thể

Đơn vị

Cá nhân

Người

10

Kinh phí

Ngân sách nhà nước

đồng

đồng

Kinh phí hỗ trợ, huy động từ các nguồn hợp pháp khác (nếu có)

11 Các nội dung khác (nếu có)

Nguồn: Báo cáo V/v tổ chức thực hiện Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời

năm 2019 của UBND thành phố Hải Phòng

Như vậy, để việc hưởng ứng Tuần lễ học tập suốt đời hiệu quả, cần tiếp

tục làm tốt công tác thông tin tuyên truyền về Tuần lễ học tập suốt đời, nhiệm vụ

148

xây dựng XHHT trên các phương tiện thông tin đại chúng cho mọi người dân

được biết. Ngoài ra, chính quyền cần có kế hoạch và biện pháp tuyên truyền đến

các khu dân cư, các hộ gia đình, trong các cơ quan công sở nhà nước nhằm nâng

cao nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức, đoàn thể, các lực lượng xã

hội về vai trò của việc xây dựng XHHT vì sự phát triển bền vững của đất nước,

hạnh phúc của mỗi cá nhân; có cơ chế tạo động lực, khuyến khích trong việc xây

dựng XHHT trên địa bàn thành phố theo Chủ đề Tuần lễ được phát động. Một số

chủ đề được Ban chỉ đạo Đề án xây dựng XHHT Hải Phòng gợi ý như:

- Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân.

- Trong cách học, phải “lấy tự học làm cốt”.

- Trường học vĩ đại nhất chính là sách vở.

- Việc đọc rất quan trọng. Nếu bạn biết cách đọc, cả thế giới sẽ mở ra

cho bạn.

- Học để tiếp thu tri thức mới, hoàn thiện bản thân, vì một tương lai tốt

đẹp hơn.

- Đọc sách để mở mang kiến thức, hướng tới phục vụ cho công việc và

cộng đồng.

- Học chưa bao giờ là muộn. Hãy học khi còn có thể.

- Học để tiếp thu tri thức từ sách vở, trường học, từ thực tế cuộc sống. Hãy

học khi mình có thể.

- Không ngừng học hỏi để tiếp thu tri thức của nhân loại, hoàn thiện bản

thân, phụng sự cho quê hương, đất nước.

Những chủ đề này là thiết thực, ngắn gọn, phù hợp với mục đích tuyên

truyền, khơi dậy tinh thần ham học của các tầng lớp nhân dân trong chủ động

lĩnh hội tri thức, đóng góp cho sự phát triển của xã hội.

4.6. TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC QUỐC TẾ, HỌC HỎI KINH NGHIỆM XÂY

DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP CỦA CÁC NƯỚC, TIẾN TỚI THAM GIA MẠNG LƯỚI

THÀNH PHỐ HỌC TẬP TOÀN CẦU

Việc xây dựng XHHT không chỉ gần đây mới đề cập đến, và cũng không

chỉ Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng. Như đã nói, trên thế giới, từ

149

năm 1972, Ủy ban Quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI đã đưa ra ý tưởng về XHHT.

Báo cáo của Ủy ban với tiêu đề Học để tồn tại (Learning to be) đã có tác dụng

lớn trong việc khắc phục dòng tư duy giáo dục cổ điển lúc bấy giờ và nhiều quốc

gia thống nhất quan điểm sau:

- Những tiến bộ nhanh của khoa học, công nghệ cũng như những thay đổi

có gia tốc lớn của xã hội không cho phép bất cứ ai dừng lại việc học tập ở bất kỳ

thời điểm nào trong cuộc sống của mình.

- Giáo dục của mỗi quốc gia phải có thể chế buộc mọi người phải học tập,

trước hết là người lớn.

Ủy ban khuyến khích các quốc gia xây dựng nền giáo dục thế kỷ XXI

hướng vào XHHT. Từ đó, một số quốc gia đã tổ chức lực lượng khoa học để

khởi thảo những chính sách giáo dục, bao gồm cả việc xây dựng khung pháp lý

để tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng nền giáo dục mới theo tư

tưởng giáo dục suốt đời và học tập suốt đời.

Năm 1976, UNESCO biên soạn nhiều tài liệu để giải thích và cụ thể hóa

tư tưởng xây dựng XHHT.

Năm 1977, Hội đồng Canada thuộc UNESCO đã tổ chức thảo luận về

XHHT, sau đó xuất bản tài liệu “Học tập, cùng nhau, suốt đời”.

Năm 2002, Australia đưa ra chủ trương “Hướng tới nhận thức XHHT”.

Nhìn chung, cho tới những năm đầu thế kỷ XXI, các nhà nghiên cứu chỉ

đề cập tới ý tưởng hướng tới một XHHT. Họ cho rằng lúc này, XHHT chưa thể

trở thành một thực thể giáo dục, mà còn đang là một quan niệm “mở”, cần vận

dụng uyển chuyển để đổi mới hoặc cải cách nền giáo dục hiện có, trước hết là

giáo dục người lớn. Ý tưởng này đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi bộ mặt

giáo dục thế giới ở các trình độ đào tạo, mà rõ nét nhất là trình độ đào tạo đại

học. Đó là xu thế giáo dục đại học cho số đông với sự thực hiện đa dạng hóa về

phương diện tổ chức và phân tầng trình độ giáo dục đại học, mở rộng giáo dục

đại học từ xa, giáo dục đại học xuyên biên giới, giáo dục đại học vừa học vừa

làm. Từ đó bùng nổ số lượng sinh viên và những cơ sở giáo dục đại học.

150

Từ chủ trương của Ủy ban Quốc tế giáo dục thế kỷ XXI, nhiều quốc gia

đã có những việc làm cụ thể trong việc hướng nền giáo dục của mình vào mô

hình XHHT thông qua quá trình đổi mới hoặc cải cách nền giáo dục hiện tại

đang mất dần tính thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của thế giới, nhất

là với sự xuất hiện kinh tế tri thức. Cụ thể, các quốc gia tiến hành xây dựng

XHHT trên một khu vực địa lý hoặc một địa phương nào đó, và địa bàn thí điểm

là đô thị, là thành phố chứ không phải là vùng nông thôn.

Tại sao lại lựa chọn địa bàn xây dựng là thành phố? Các nhà nghiên cứu

cho rằng, lý do chủ yếu chọn thành phố làm địa bàn xây dựng XHHT là do trong

điều kiện thí điểm, chọn thành phố vì nó có nhiều điều kiện thuận lợi hơn vùng

nông thôn trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường. Tại thành phố,

việc thực hiện các chương trình giáo dục, y tế, văn hóa, dịch vụ... thường hiệu

quả hơn so với các vùng khác. Thành phố cũng là nơi huy động sự tham gia của

xã hội, tranh thủ các nguồn lực vào sự nghiệp XHHT dễ hơn với địa bàn nông

thôn. Tuy chính quyền quốc gia có vai trò chủ đạo về tầm nhìn và thiết lập lịch

trình, nhưng trong thành phố và trong từng cộng đồng, việc tổ chức và hành

động thuộc nhiều chương trình, dự án diễn ra thuận lợi hơn. Vì thế, xây dựng

một quốc gia học tập phải thông qua xây dựng từng cộng đồng học tập và trong

các cộng đồng thì thành phố là nơi tiến hành phù hợp hơn cả. Hải Phòng là đô thị

lớn thứ ba cả nước, và Hải Phòng cơ bản có đủ điều kiện để xây dựng TPHT.

Kinh nghiệm cho thấy rất nhiều quốc gia đã chú ý đến xây dựng TPHT

bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX. Ban đầu, có 7 thành phố tham gia

Chương trình, là 7 thành phố của các nước thành viên của OECD gồm

Edmonton (Canada), Gothenburg (Thụy Điển), Vienne (Áo), Adelaide

(Australia), Pittsburgh (Mỹ), Kakegawa (Nhật Bản) và Edinburgh (Bỉ). Năm

1990, Hội đồng thành phố Barcelona tổ chức Hội nghị quốc tế đầu tiên về thành

phố giáo dục, thu hút hơn 140 thành phố tham dự. Hội nghị đã thông qua Hiến

chương các thành phố giáo dục. Đến năm 1992, tại Hội nghị quốc tế lần thứ hai

ở Gothenburg đã nêu sáng kiến xây dựng TPHT, và từ đó, các nước OECD bắt

đầu dùng thuật ngữ TPHT thay tên gọi thành phố giáo dục. Năm 1996, khi

151

UNESCO xuất bản báo cáo “Học tập: một kho báu tiềm ẩn” thì OECD cho in

báo cáo “Học tập suốt đời cho mọi người”. Từ năm 2000, Liên minh châu Âu

triển khai chương trình “Hướng tới một XHHT của châu Âu”, xây dựng bộ công

cụ toàn diện để xác định các chỉ số về TPHT.

Như vậy, có thể hiểu TPHT là một cộng đồng học tập (một thành phố, thị

xã hoặc một vùng) mà ở đó huy động được mọi nguồn lực trong mọi thành phần

của nó nhằm phát triển, làm giàu thêm tiềm năng con người để nuôi dưỡng sự

phát triển cá nhân, duy trì sự gắn kết xã hội và tạo ra sự thịnh vượng của cộng

đồng đó.

Theo Chuyên gia cao cấp của Viện Học tập suốt đời UNESCO, để xây

dựng TPHT cần có một số yêu cầu sau:

1. Có sự quyết tâm và cam kết chính trị của Nhà nước, của chính quyền.

2. Có sự liên kết, phối hợp giữa các ngành và các bộ phận liên quan.

3. Nắm chắc được nhu cầu học tập của người dân.

4. Các cơ hội học tập phải đa dạng.

5. Tất cả các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, trường học đều là những tổ

chức học tập.

6. Không có sự phân biệt, đối xử.

7. Kinh tế phát triển, có nhiều việc làm.

8. Các trường đại học tham gia tích cực.

9. Có sự tôn vinh và khen thưởng.

Ở nhiều quốc gia, TPHT được hiểu là các vùng học tập, có thể là các khu

công nghiệp học tập, khu chế xuất học tập, vùng biển đảo học tập, cảng học tập

với quy mô dân số từ 5000 người trở lên.

Tính đến năm 2005, đã có hơn 300 thành phố ở châu Âu, Canada,

Australia thực hiện việc xây dựng TPHT. Từ Hội nghị bàn về TPHT đầu tiên ở

Barcelona đến năm 2010 đã có 11 Hội nghị quốc tế về các thành phố giáo dục.

Đến nay, ước tính đã có trên 1000 TPHT được xây dựng trên toàn thế giới, và sẽ

tiếp tục gia tăng. Con số này cho thấy việc xây dựng TPHT đã trở thành một xu

thế ngày càng phát triển trên phạm vi toàn thế giới.

152

Trước xu thế này và với tư cách là một Viện thúc đẩy học tập suốt đời,

xây dựng XHHT trên phạm vi toàn thế giới, Viện Học tập suốt đời của

UNESCO đã khởi xướng thành lập mạng lưới TPHT toàn cầu để tạo diễn đàn

trao đổi, chia sẻ, học tập kinh nghiệm xây dựng TPHT giữa các quốc gia. Các

quốc gia và các tổ chức quốc tế cũng đã cố gắng xác định những đặc điểm chủ

yếu của một TPHT để có thể giám sát, đánh giá hoặc để cho các thành phố dựa

vào đó mà phấn đấu. Trong khuôn khổ Chương trình Hướng tới một xã hội học

tập của châu Âu (TELS, 2011), 14 đặc điểm cơ bản của một TPHT đã được xác

lập. Dự án LILIPUT về xây dựng các TPHT của Liên minh châu Âu cũng đã sơ

đồ hóa 12 đặc điểm của một TPHT. OECD (2001) đã nêu lên 10 nguyên tắc về

chính sách cho việc thành lập thành phố/vùng học tập.

Hiện tại, trong trào lưu xây dựng TPHT còn nhiều cách tiếp cận, đánh giá

khác nhau tùy theo quan niệm, thực tế và quá trình phát triển của mỗi quốc gia.

Thực tế cho thấy TPHT rất đa dạng và việc xây dựng TPHT là một quá trình liên

tục. Để khắc phục rào cản về mặt địa lý, kinh tế, thời gian, các quốc gia đã và

đang có nhiều chính sách cũng như giải pháp như:

- Đẩy mạnh học tập trực tuyến (E-Learning), học tập qua mạng (Online

Learning), học tập di động (M-Learning, Mobile Learning).

- Khuyến khích học tập tại nơi làm việc (Learning at Workplace).

- Cấp phiếu giảm giá cho người học (Vouchers).

- Miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp có tổ chức lớp học bồi dưỡng

nâng cao nghề nghiệp, học tập suốt đời cho người lao động.

- Công nhận kết quả học tập không chính quy.

- Xây dựng, khuyến khích văn hóa học tập suốt đời.

Hiện tại, UNESCO có đưa ra 42 tiêu chí đánh giá xếp hạng TPHT. Quốc

gia nào hưởng ứng, tự nguyện thực hiện 42 tiêu chí thì được UNESCO đưa

thành phố đó vào mạng lưới TPHT toàn cầu. 42 tiêu chí này cũng không phải

cứng nhắc ở tất cả các quốc gia. Ở Việt Nam, từ 42 tiêu chí chúng ta cụ thể

thành 36 tiêu chí và vẫn được UNESCO công nhận, đưa vào mạng lưới TPHT

toàn cầu.

153

Hải Phòng là một thành phố lớn, thành phố trực thuộc trung ương, có cư

dân đô thị lâu đời do đó Hải Phòng có đủ điều kiện để xây dựng TPHT. Trong

quá trình Hải Phòng xây dựng TPHT, cần thiết phải xem xét và học hỏi kinh

nghiệm của các quốc gia và thành phố trên. Kinh nghiệm được rút ra từ đây là:

Xây dựng TPHT đòi hỏi một sự nỗ lực trí tuệ để nâng cao hiệu quả quản lý và

tính thực tiễn của vấn đề, song lại rất cần sự quan tâm đến phương diện học thuật

trên cơ sở nghiên cứu sâu về cách thức tổ chức, triển khai cùng với việc hoạch

định chính sách. Mặt khác, cũng cần xây dựng hệ thống tài liệu toàn diện trong

các lĩnh vực khoa học về vấn đề học tập suốt đời. Cần có sự thống nhất về định

hướng chiến lược xây dựng TPHT giữa các quốc gia, đồng thời có sự linh hoạt,

sáng tạo khi vận dụng để giữ được nét đặc trưng riêng của từng thành phố.

Việc tham gia mạng lưới các TPHT toàn cầu của UNESCO sẽ giúp thành

phố thuận lợi hơn trong việc trao đổi ý tưởng, tri thức và kinh nghiệm với các

thành phố thành viên khác trên toàn thế giới, được tiếp cận với các chuyên gia,

các nhà nghiên cứu, giáo dục của UNESCO cũng như có cơ hội cập nhật kiến

thức và thực tiễn tại các hội thảo, hội nghị học tập toàn cầu. Khi thành phố đạt

danh hiệu “Thành phố học tập toàn cầu UNESCO”, danh hiệu này sẽ nâng cao

uy tín và sự công nhận của cộng đồng quốc tế cũng như gia tăng khả năng thu

hút đầu tư, nguồn nhân lực, sự thịnh vượng và phát triển bền vững của chính

thành phố đó.

Nhận thấy những lợi ích nhiều mặt của việc tham gia và những điều kiện

hiện tại của thành phố cơ bản đáp ứng được Bộ tiêu chí xây dựng TPHT, ngày

18/01/2019, Ủy ban nhân dân thành phố có văn bản số 386/UBND-VX về việc

hướng dẫn đăng ký tham gia vào mạng lưới TPHT toàn cầu UNESCO. Bằng

việc đăng ký này, Hải Phòng sẽ áp dụng bộ tài liệu hướng dẫn của UNESCO

gồm Tuyên bố Bắc Kinh về xây dựng TPHT, Tuyên bố Mêxicô về các TPHT

bền vững và những đặc điểm chính của TPHT, Tuyên bố Cork về những yêu cầu

của TPHT. Thực tiễn xây dựng TPHT là một quá trình. Đăng ký tham gia vào

mạng lưới TPHT toàn cầu UNESCO mới chỉ là bước khởi đầu của quá trình đó.

Do vậy khi đăng ký, Hải Phòng, cần có một sự cam kết chính trị, ngoài quyết

154

tâm thì cần phải có tầm nhìn dài hạn. Học tập suốt đời không phải việc riêng của

ngành giáo dục mà là một hiện tượng mang tính xã hội, chính trị, kinh tế, văn

hóa..., cần có sự hợp tác chặt chẽ của các lực lượng xã hội. Tất cả cùng chung

tay xây dựng TPHT: trường học học tập, bệnh viện học tập, nông dân học tập,

doanh nghiệp học tập, hợp tác xã học tập. Ngay cả các cơ quan chính quyền

cũng như các cơ quan lãnh đạo cũng đều là cơ sở học tập. Tăng cường cơ hội

học tập ở mọi nơi, mọi lúc thì mới đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội.

Bởi vì bản thân việc học không phải là mục đích cuối cùng của TPHT. Cái đích

hướng tới chính là văn hóa học tập của cộng đồng ấy. Trách nhiệm của chính

quyền là phải bảo trợ cho cộng đồng hoàn thành được mục tiêu đã đề ra.

Tiểu kết chương 4

Chương 4, luận án đã tập trung làm rõ những giải pháp cơ bản để xây

dựng XHHT ở Hải Phòng. Hệ thống giải pháp đó bao gồm:

1) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xây dựng

XHHT theo tư tưởng Hồ Chí Minh;

2) Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp giữa các

Sở, ban, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp trong xây dựng XHHT;

3) Phát triển hệ thống học tập suốt đời theo hướng đi vào thực chất, hoàn

thành phổ cập giáo dục; tiếp tục mở rộng cơ hội học tập cho người dân;

4) Đẩy mạnh xây dựng XHHT từ cơ sở thông qua KH, KT;

5) Xây dựng và thúc đẩy văn hóa học tập, nâng cao chất lượng học tập

suốt đời cho người dân;

6) Tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm xây dựng XHHT,

tiến tới tham gia mạng lưới TPHT toàn cầu.

155

KẾT LUẬN

Từ nửa sau thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra

những tiền đề quan trọng để nền kinh tế công nghiệp trên thế giới chuyển dần

sang nền kinh tế tri thức. Sự bùng nổ thông tin và sự xuất hiện những tri thức

mới, công nghệ mới... cho thấy những kiến thức tiếp thu trước đây không thể sử

dụng suốt đời, học vấn trước đây có được không còn đáp ứng được nhu cầu mới.

Chính vì vậy, xây dựng XHHT vừa là một nhiệm vụ cấp bách, vừa là một yêu

cầu chiến lược, nhiệm vụ cơ bản, lâu dài của nền giáo dục nước ta. Xây dựng

XHHT quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

của quá trình phát triển Việt Nam trên đường hội nhập thế giới.

Xuất phát từ giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương học tập suốt đời Chủ

tịch Hồ Chí Minh, đồng thời từ nhu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng

XHHT ở nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng, đề tài luận án Xây dựng xã

hội học tập ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã làm rõ được

một số nội dung sau:

1. Luận án đã làm rõ tổng quan tình hình nghiên cứu về XHHT và xây

dựng XHHT, các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng

XHHT ở Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng. Trên cơ sở đó, rút ra

những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.

2. Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các tác giả đi trước, luận án đã đi sâu

nghiên cứu và hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT. Luận án

đã hệ thống các khái niệm liên quan đến vấn đề xây dựng XHHT, gồm quan

điểm của các học giả trên thế giới, các học giả Việt Nam và của Hồ Chí Minh.

Từ đó, luận án xây dựng và khái quát hóa hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về

xây dựng XHHT, bao gồm quan điểm về sự cần thiết xây dựng XHHT; quan

điểm về mục tiêu xây dựng XHHT; về chủ thể xây dựng XHHT; về mô hình xây

dựng XHHT; về phương châm, phương pháp xây dựng XHHT. Bên cạnh đó,

luận án cũng đi vào nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn Hồ Chí Minh xây dựng

156

XHHT thông qua hai phong trào BDHV và BTVH. Qua nghiên cứu có thể thấy,

từ những năm đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra quan điểm về xây

dựng XHHT, điều mà đến thập niên 70 của thế kỷ, thế giới mới đề cập tới. Ở

cương vị lãnh tụ tối cao của Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn

dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp diệt giặc dốt, nâng cao dân trí, xây

dựng XHHT cho nhân dân. Cùng với hệ thống quan điểm về xây dựng XHHT,

Hồ Chí Minh còn là người kiến tạo, xây dựng và phát triển nền giáo dục bình

dân cho nước Việt Nam non trẻ qua phong trào BDHV và BTVH. Mọi bước đi

của phong trào đều được Người quan tâm, theo dõi, chỉ đạo và động viên rất kịp

thời. Dù hoàn cảnh chiến tranh, dù bận trăm công nghìn việc nhưng Hồ Chí

Minh luôn dành thời gian chăm lo, xây dựng phong trào. Những lời ân cần thăm

hỏi, động viên giáo viên và học viên khi Người tới thăm các lớp BDHV; những

bức thư biểu dương, khen ngợi thành tích lớn nhỏ của phong trào... thực sự trở

thành động lực vô giá cho cán bộ, giáo viên và học viên thời kỳ đó. Có thể khẳng

định, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một trong những người tiên phong, đặt nền

móng cho công cuộc xây dựng XHHT ở Việt Nam.

3. Đối với Hải Phòng, thực tế cho thấy cùng với cả nước, Hải Phòng đang

từng bước xây dựng một XHHT. Qua việc phân tích các nhân tố tác động mang

tính đặc thù, luận án đã chỉ ra và đánh giá thực trạng xây dựng XHHT ở Hải

Phòng giai đoạn hiện nay. Từ một địa phương có nền giáo dục què quặt dưới

thời thuộc Pháp, Hải Phòng đã xây dựng một nền giáo dục phát triển toàn diện

cả về quy mô và chất lượng. Hải Phòng trở thành một trong những địa phương đi

đầu trong việc xóa mù chữ, phổ cập giáo dục sớm nhất cả nước, hoàn thành phổ

cập giáo dục tiểu học, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, hoàn thành phổ cập

bậc trung học - nghề và đang tiếp tục xây dựng ngành GDTX với mục tiêu xây

dựng XHHT. Thành tựu to lớn là vậy, song quá trình Hải Phòng xây dựng

XHHT cũng vấp phải không ít khó khăn, thử thách. Luận án đã cho thấy những

khó khăn và những vấn đề đặt ra để Hải Phòng tiếp tục hướng tới mục tiêu xây

dựng XHHT trong thời gian tới.

157

4. Để góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng XHHT ở Hải Phòng, luận án

đã đưa ra 6 giải pháp cơ bản. Các giải pháp đều có tính khả thi và có quan hệ

tương hỗ với nhau. Trước hết, đó là giải pháp nhận thức nhằm tuyên truyền,

nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của việc xây dựng XHHT theo tư tưởng

Hồ Chí Minh; giải pháp về tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự

phối hợp giữa các Sở, ban, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp trong vấn đề xây

dựng XHHT. Tiếp đến là các giải pháp phát triển hệ thống học tập suốt đời theo

hướng đi vào thực chất, hoàn thành phổ cập giáo dục; tiếp tục mở rộng cơ hội

học tập cho người dân; giải pháp đẩy mạnh công tác KH, KT, xây dựng XHHT

từ cơ sở; giải pháp xây dựng và thúc đẩy văn hóa học tập, nâng cao chất lượng

học tập suốt đời cho người dân. Cuối cùng và cũng rất quan trọng là giải pháp

tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm xây dựng XHHT, tiến tới tham

gia mạng lưới TPHT toàn cầu. Những giải pháp đều có tính khả thi và nếu được

thực hiện đồng bộ sẽ góp phần thắng lợi vào sự nghiệp xây dựng XHHT ở thành

phố Cảng giai đoạn sắp tới.

158

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1. Trương Thị Như (2015), “Phương pháp tự học Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo

dục lý luận, số 227, tháng 4/2015, tr.31-33.

2. Trương Thị Như (2015), Phát huy tinh thần tự học của sinh viên trường Đại

học Hàng hải Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đề tài Nghiên

cứu khoa học, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam, năm 2015.

3. Trương Thị Như (2019), “Nhận diện xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí

Minh”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, Kỳ 1, tháng 4/2019, tr.161-163.

4. Trương Thị Như (2019), Tăng cường kỹ năng học tập sáng tạo của sinh viên

thông qua hoạt động thảo luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, Kỷ yếu “Hội

thảo CDIO: Giảng dạy tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ”, Trường Đại học

Hàng hải Việt Nam, năm 2019.

5. Trương Thị Như (2019), “Pháp lệnh diệt dốt - sự “cưỡng chế” nhân văn của

Chủ tịch Hồ Chí Minh sau Cách mạng tháng Tám 1945”, Tạp chí Giáo dục

và xã hội, tháng 9/2019, tr.9-13.

6. Trương Thị Như (2019), “Trung tâm Học tập cộng đồng ở Hải Phòng với

việc hiện thực hóa tư tưởng “ai cũng được học hành” của Chủ tịch Hồ Chí

Minh”, Tạp chí Khoa học và Kinh tế (199), tháng 9/2019, tr.30-34.

7. Trương Thị Như (2020), “Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về

xã hội học tập trong hoạch định chính sách giáo dục ở Việt Nam hiện nay”,

Sách Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý giáo

dục”, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.608-617.

159

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng Việt

1. Hoàng Anh (Cb) (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng

vào đào tạo đại học hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Hoàng Anh, Nguyễn Duy Bắc, Phạm Văn Thủy (2010), Phát triển văn hóa

và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

3. Hoàng Anh - Đỗ Thị Châu (2005), Tự học của sinh viên, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

4. Phạm Ngọc Anh (2013), “Bốn mươi lăm năm thực hiện bức thư cuối cùng

Hồ Chí Minh gửi cho ngành giáo dục”, Đặc san Hồ Chí Minh học, số 4.

5. Phạm Ngọc Anh (2009), Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và

thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Phạm Ngọc Anh, Nguyễn Thị Kim Dung (Đồng chủ biên) (2011), Tư tưởng

Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

7. Nguyễn Như Ất (2005), “Để xây dựng nền giáo dục Việt Nam thực sự trở

thành một xã hội học tập - giáo dục suốt đời: Quan niệm và thể chế hóa”,

Tạp chí Phát triển giáo dục.

8. Ban chỉ đạo Đề án xây dựng xã hội học tập thành phố Hải Phòng (2018),

Báo cáo số 111/BC-XDXHHT: Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Quyết

định số 89/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Xây

dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020”, ngày 27/6/2018, Hải Phòng.

9. Ban chỉ đạo Đề án xây dựng xã hội học tập thành phố Hải Phòng (2018),

Kế hoạch số 300/KH-BCĐ: Thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai

đoạn 2012 - 2020” trên địa bàn thành phố đến năm 2020, ngày

16/12/2019, Hải Phòng.

10. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Dạy nghề, Viên Nghiên cứu phát

triển phương Đông (2012), Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

160

11. Đặng Quốc Bảo (2001), “Hồ Chí Minh với vấn đề tự học”, Tạp chí Khoa

học giáo dục, (83), tr.20-22.

12. Đặng Quốc Bảo (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nhà xuất bản

Giáo dục, Hà Nội.

13. Đặng Quốc Bảo (2012), Phát triển sự nghiệp giáo dục dưới ánh sáng tư

tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

14. Đặng Quốc Bảo, Đinh Thị Minh Tuyết (2010), “Bác Hồ - người khai sáng

cho tư duy và chiến lược hành động xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam”,

Tạp chí Khoa học giáo dục, (68), tr.5-7.

15. Lê Khánh Bằng (1998), Cơ sở khoa học của tự học và hướng dẫn tự học

(đề cương chuyên đề), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

16. Lê Khánh Bằng (1998), Phương pháp tự học (đề cương chuyên đề), Nxb

Đại học Sư phạm, Hà Nội.

17. Lê Khánh Bằng (1998), “Tìm hiểu lời dạy của Hồ Chủ tịch về cách dạy,

cách học”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (7/1097).

18. Nguyễn Khánh Bật (Chủ biên) (2007), Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục,

Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

19. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ Giáo dục thường xuyên (2005), Dự án Trung

tâm Học tập Cộng đồng, Hà Nội.

20. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Đề án thành lập Trung tâm khu vực về

Học tập suốt đời của SEAMEO, Hà Nội.

21. Épghênhi Cabêlép (1985), Đồng chí Hồ Chí Minh, tập 1, 2, Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

22. Nguyễn Mạnh Cầm (2013), Đổi mới và phát triển giáo dục hướng tới xây

dựng cả nước trở thành một xã hội học tập, Nxb Dân trí, Hà Nội.

23. Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người

toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Cục thống kê thành phố Hải Phòng (2019), Niên giám thống kê thành phố

Hải Phòng, Nxb Thống kê.

161

25. Phạm Tất Dong (2012), Cấu trúc mô hình xã hội học tập ở Việt Nam, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

26. Phạm Tất Dong (2012), Phát triển giáo dục hướng tới một xã hội học tập,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

27. Phạm Tất Dong (2012), Khuyến học, Nxb Dân trí, Hà Nội.

28. Phạm Tất Dong (2014), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn của đổi mới căn

bản và toàn diện nền giáo dục theo Nghị quyết Trung ương khóa XI, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

29. Phạm Tất Dong, Đỗ Hoàng Nam (2011), Xây dựng con người, xây dựng xã

hội học tập, Nxb Dân trí, Hà Nội.

30. Phạm Tất Dong (2004), “Xây dựng xã hội học tập - một cuộc cách mạng

về giáo dục”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, Hà Nội.

31. Phạm Tất Dong (2013), “Xây dựng xã hội học tập - một xu hướng đổi mới

phát triển giáo dục thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, Đại học

Quốc gia Hà Nội (1), tr.57-66.

32. Diễn đàn Việt Nam: Học tập suốt đời - Xây dựng xã hội học tập, Kỷ yếu

Hội thảo khoa học quốc gia, Hà Nội, 2010.

33. Thành Duy (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con

người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Thị Kim Dung và Trần Thị Nhuần (đồng chủ biên) (2013): Bác

Hồ với sự nghiệp giáo dục đào tạo, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

35. Phạm Văn Dũng (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nền

giáo dục toàn dân”, Tạp chí Khoa học, (5), tr.101-105.

36. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

162

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

40. Thái Xuân Đào (2004), “Xã hội học tập: Quan niệm, thực trạng và giải

pháp”, Tạp chí Phát triển giáo dục, (6), tr.7-9.

41. Thái Xuân Đào (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội học tập”, Tạp chí

Giáo dục, (87), tr.5-6, 13.

42. Phạm Văn Đồng, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ (1998), Tự học, tự đào

tạo - tư tưởng chiến lược của phát triển giáo dục Việt Nam, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

43. Nguyễn Minh Đường (2004), “Xây dựng một xã hội học tập - yêu cầu tất

yếu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Giáo

dục, (91), tr.5-6.

44. Nguyễn Công Giáp (1996), Giáo dục thường xuyên: Hiện trạng và xu

hướng phát triển, Nxb Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục, Hà Nội.

45. Ngô Văn Hà (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng

đội ngũ giảng viên đại học hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Trần Thị Thu Hà (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Từ điển

bách khoa, Hà Nội.

47. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1996), Hơn 50 năm diệt dốt, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

48. Phạm Minh Hạc (2002), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI

(xuất bản lần hai, có sửa chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Phạm Minh Hạc (2014), Luận bàn về giáo dục, quản lý giáo dục, khoa học

giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

50. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ

phát triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

51. Phạm Minh Hạc (2004), “Tìm hiểu quan niệm về xã hội học tập”, Tạp chí

Giáo dục, (91), tr.2-4.

52. Phạm Minh Hạc (2005), “Tiến tới một xã hội học tập - trở thành một dân

tộc thông thái”, Tạp chí Giáo dục, (122), tr.1-2.

163

53. Phạm Minh Hạc (2013), Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam, Nxb Chính

trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

54. Đào Thanh Hải, Minh Tiến (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục,

Nxb Lao động, Hà Nội.

55. Vũ Ngọc Hải, Trần Khánh Đức (2001), Hệ thống giáo dục hiện đại trong

những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

56. Lê Mậu Hãn (2004), “Hồ Chí Minh khởi đầu việc xây dựng nền giáo dục

quốc dân Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3).

57. Hệ thống giáo dục và Luật Giáo dục một số nước trên thế giới (2005), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

58. Nguyễn Văn Hiến, Lê Thu Hòa (Cb) (2011), Phương pháp dạy học tích

cực: Dành cho sinh viên sau đại học, Nxb Y học, Hà Nội.

59. Nguyễn Minh Hiển (2005), “Phát triển giáo dục và đào tạo phục vụ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (22).

60. Ngô Hào Hiệp, Trần Khánh Đức (1995), Giáo dục Việt Nam và định

hướng đầu thế kỷ XXI, Nxb Viện Khoa học Giáo dục, Hà Nội.

61. Đỗ Đức Hinh (2004), “Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng

một nền giáo dục Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3).

62. Nguyễn Huy Hoan (2010), “Tấm gương tự học của Bác Hồ”, Tạp chí Mặt

trận, (79).

63. Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức (1990), Hoạt động tự học của sinh viên Đại

học, Nxb ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.

64. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí Minh tiểu sử,

Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

65. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển quốc gia Việt Nam, Từ điển

Bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

66. Hội Khuyến học Hải Phòng (2017), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ

thị số 11 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 10 của Thành uỷ Hải Phòng về “Tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây

dựng xã hội học tập ( 2007 - 2017), ngày 17 tháng 3 năm 2017.

164

67. Nguyễn Khắc Hùng, Lê Đình Viên (Cb) (2013), Giáo trình lý luận xã hội

học tập, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.

68. Trần Đình Huỳnh, Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng (2010), Ngành giáo

dục Việt Nam thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Lao động,

Hà Nội.

69. Đặng Xuân Kỳ (2004), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Nguyễn Kỳ (2005), “Học, làm, sống - ba trong một và xây dựng xã hội học

tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Phát triển giáo dục, (6), tr.15-17.

71. Nguyễn Kỳ (2004), “Xã hội học tập trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí

Phát triển giáo dục, (6), tr.1-2.

72. Nguyễn Kỳ (2007), Mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập, Nxb

Dân trí, Hà Nội.

73. Nguyễn Kỳ (2007), “Cải cách giáo dục Việt Nam theo mô hình mở - mô

hình xã hội học tập”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, (6), tr.48-50.

74. Nguyễn Lân (1990), Hồ Chủ tịch - Nhà giáo dục vĩ đại, Nxb KHXH,

Hà Nội.

75. Nguyễn Lân (1992), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

76. Phan Ngọc Liên, Nguyên An (2002), Bách khoa thư Hồ Chí Minh Sơ giản

(Tập 1: Hồ Chí Minh với giáo dục - đào tạo), Nxb Từ điển Bách khoa,

Hà Nội.

77. Phan Ngọc Liên (2003), “Hồ Chí Minh với việc xây dựng một nền giáo

dục mới của Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (11).

78. Phan Ngọc Liên (biên soạn) (2007), Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Từ

điển Bách khoa, Hà Nội.

79. Phan Ngọc Liên (Cb) (2004), Sổ tay tra cứu về cuộc đời và sự nghiệp của

Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất bản lần thứ 3, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

80. Phan Ngọc Liên, Bùi Thị Thu Hà (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo

dục, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

165

81. Nguyễn Trọng Lô (1996), Sơ thảo lịch sử giáo dục Hải Phòng (939-

6/1995), Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

82. Phạm Trọng Luận (1995), “Về khái niệm: Học sinh là trung tâm”, Tạp chí

Nghiên cứu Giáo dục, (2).

83. Luật giáo dục đại học (2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Luật giáo dục năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (2012), Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. C.Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

86. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội.

87. Hồ Chí Minh (1990), Bàn về giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

88. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử (2008), từ tập 1 đến tập 10, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

89. Hồ Chí Minh (1977), Về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

90. Hồ Chí Minh (1960), Phát huy tinh thần cầu học cầu tiến bộ: Một số bài

nói chuyện của Hồ Chí Minh ở các lớp học chính trị và huấn thị về vấn đề

huấn luyện và học tập, Nxb Sự thật, Hà Nội.

91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

97. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

98. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

101. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

166

103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

104. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

105. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

106. Võ Văn Nam (2008), Tư tưởng tự học Hồ Chí Minh và biện pháp nâng cao

việc tự học cho sinh viên ĐHSP, LATSGDH, Hà Nội.

107. Vũ Thị Thúy Nga (2009), Cơ sở khoa học của việc xây dựng xã hội học tập

ở thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục chuyên ngành

Quản lý giáo dục, mã số 60.14.05, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.

108. Nho học ở Việt Nam - Giáo dục và thi cử (1995), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

109. Nhóm Cánh buồm (2011), Kỷ yếu hội thảo Tự học - Tự giáo dục, Nxb Trí

thức, Hà Nội.

110. Vũ Oanh (2006), “Đổi mới và phát triển giáo dục hướng tới xây dựng cả

nước trở thành một xã hội học tập”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, (5),

tr.13-14.

111. Bùi Đình Phong (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục cách

mạng Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (11).

112. Bùi Đình Phong (2012), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo, giá

trị toàn cầu và ý nghĩa thời đại”, Đặc san Hồ Chí Minh học, số 4.

113. Bùi Đình Phong (2013), “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo

trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đặc san Hồ Chí Minh học, số 4.

114. Trần Văn Phòng, Hoàng Anh (2015), Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

115. Nguyễn Ngọc Phú “Tiến tới xây dựng một xã hội học tập”, Tạp chí Giáo

dục, (90), tr.2-3.

116. Nguyễn Ngọc Phú, Nguyễn Hữu Châu, Đào Thái Lai (2005), Tiến tới một

xã hội học tập ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

117. Phùng Hữu Phú (2014), “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học theo

tinh thần Nghị quyết Trung ương tám khóa XI”, Tạp chí Tuyên giáo, (2).

167

118. Phùng Hữu Phú (2010), Bí quyết thành công Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

119. Lý Việt Quang (chủ biên) (2017), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với

việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay, Nxb Chính

trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

120. Đỗ Văn Quân, Đặng Ánh Tuyết (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Học

để làm việc” - một trong 4 trụ cột của nền giáo dục hiện đại”, Tạp chí Giáo

dục, (106).

121. Dương Đức Sáu (2007), “Phải biết tự học để học suốt đời”, Tạp chí Dạy và

Học ngày nay, (3), tr.54-55.

122. Sở Giáo dục và đào tạo Hải Phòng (2015), Giáo dục và đào tạo Hải Phòng,

60 năm xây dựng và phát triển (1955 - 2015), Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

123. Sở Văn hóa, thể thao và du lịch Hải Phòng (2016), Thư mục địa chí toàn

văn: Bác Hồ trong lòng nhân dân Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

124. Nguyễn Thị Tâm (1984), Công tác tự học của sinh viên và vai trò của các

tổ bộ môn KHXH, Nxb ĐHSP, Hà Nội.

125. Vũ Minh Tâm (Cb) (2001), Xã hội học tập - Tập bài giảng cho sinh viên

các ngành KHXH&NV, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

126. Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương (2005), Từ điển

tiếng Việt, Nxb văn hóa Sài Gòn, TP. HCM.

127. Chu Hồng Thanh (2005), Tìm hiểu luật Giáo dục năm 2005, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

128. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận

chính trị, Hà Nội.

129. Trần Sinh Thành, Đặng Quang Khoa (2003), “Phương pháp tự học là cầu

nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học”, Tạp chí Giáo dục, (53), tr.26-27.

130. Thành ủy Hải Phòng (2000), Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đảng bộ và nhân

dân Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

168

131. Thành ủy Hải Phòng (2015), Hải Phòng làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

132. Nguyễn Minh Thuyết (2005), “Giáo dục Việt Nam: Hiện trạng và yêu cầu

đổi mới”, Tạp chí Giáo dục, (109).

133. Lê Văn Tích, Nguyễn Thị Kim Dung (biên soạn) (2007), Hồ Chí Minh về

giáo dục và đào tạo, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

134. Nguyễn Đăng Tiến (Cb) (2011), Danh nhân giáo dục Việt Nam và thế giới,

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

135. Bùi Đức Tịnh (bs) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

136. Nguyễn Cảnh Toàn (2001), Tuyển tập tác phẩm: tự giáo dục, tự học, tự

nghiên cứu, tập 1, Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Đông Tây, Hà Nội.

137. Nguyễn Cảnh Toàn (2001), Tuyển tập tác phẩm: tự giáo dục, tự học, tự

nghiên cứu, tập 2, Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Đông Tây, Hà Nội.

138. Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Hải Yến (Cb) (2011), Xã hội học tập - học suốt đời

và các kỹ năng tự học, Nxb Dân trí, Hà Nội.

139. Nguyễn Cảnh Toàn (1999), Luận bàn và kinh nghiệm tự học, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

140. Nguyễn Khánh Toàn, Nền giáo dục Việt Nam - Lý luận và thực hành, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

141. Vương Kiêm Toàn (1986), Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp chống nạn

thất học, nâng cao dân trí, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

142. Bùi Trọng Trâm (2015), Quản lý phát triển trung tâm học tập cộng đồng

theo định hướng xã hội học tập, Luận án tiến sĩ Khoa học Giáo dục (mã số

62.14.01.14), Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

143. Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục

Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.

144. Thái Duy Tuyên (2001), Giáo dục học hiện đại - Những vấn đề cơ bản,

Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

169

145. Phan Tuyết, Bích Diệp (sưu tầm, tuyển chọn) (2008), Những câu chuyện kể

về Bác Hồ với giáo dục và thế hệ trẻ, Nxb Lao động, Hà Nội.

146. Trịnh Minh Tứ (2004),“Phát triển giáo dục từ xa góp phần xây dựng xã hội

học tập”, Tạp chí Giáo dục, Hà Nội.

147. Trịnh Quang Từ (1995), Những phương hướng tổ chức hoạt động tự học

của các sinh viên các trường quân sự, Luận án PTS KH SP tâm lý, ĐHSP -

ĐHQG, Hà Nội.

148. Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam (chỉ đạo), Hồ Chí Minh - Phạm Văn

Đồng - Võ Nguyên Giáp những tư tưởng lớn về xây dựng xã hội học tập,

Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Sơn La.

149. Tô Bá Trượng (2005), “Bàn về khái niệm xã hội học tập”, Tạp chí Giáo

dục, tr.3-5.

150. Nguyễn Quang Uẩn (2010), “Tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề học tập”,

Tạp chí Dạy và Học ngày nay, (5), tr.11-13.

151. Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng (2018), Báo cáo kết quả 5 năm

thực hiện Quyết định số 89/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt

Đề án “Xây dựng xã hội học tập Giai đoạn 2012 - 2020”.

152. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2018), Báo cáo kết quả 5 năm

thực hiện Quyết định số 89/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê

duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020”, ngày 27

tháng 6 năm 2018.

153. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2019), Báo cáo V/v tổ chức thực

hiện Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời năm 2019 của thành phố Hải

Phòng năm 2019.

154. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (1990), Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb KHXH, Hà Nội.

155. Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

156. Việt Văn book (2014), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Bách Khoa, Hà Nội.

170

157. Đức Vượng (2010), Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

158. Nghiêm Đình Vỳ, Phạm Đỗ Nhật Tiến (2016), Cải cách giáo dục: Một số

vấn đề chung và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

159. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào

tạo nhân tài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

160. Nguyễn Như Ý (Tuyển chọn, giới thiệu) (2009), Các văn bản chỉ đạo của

Đảng và Nhà nước về công tác khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội

học tập ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

161. Lê Văn Yên (Cb) (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Lao

động, Hà Nội.

162. Cao Hải Yến (2010), Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

163. Lê Hoàng Yến (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về “xã hội học tập”, Tạp

chí Đông Nam Á, (6), tr.23-24.

164. Vũ Kim Yến, Nguyễn Văn Dương (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn

đề học tập, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

B. Tiếng Anh

165. A new vision for education: Một quan điểm mới về vấn đề giáo dục (2007),

Nguồn: Irish Times.

166. Hukins Celia (2004), Continuing Professional Education for the

Information Society: Vấn đề học tập liên tục trong một xã hội thông tin.

Nguồn: Managing Information.

167. Schon D.A (1973), Beyond the Stable State - public and private learning in

a changing society - Hormondsworth: Penguin.

168. Peterson David A., Masunaga Hiromi (1998), Policy for older adult

education: Chính sách giáo dục cho người lớn tuổi và trưởng thành.

Nguồn: New Directions for Adult and Continuing Education.

171

169. Jacques Delors (2002), Học tập: Một kho báu tiềm ẩn, Bản dịch từ tiếng

Pháp sang tiếng Việt của Trịnh Đức Thắng, hiệu đính Vũ Văn Tảo, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

170. Joseph E. Stiglitz và Bruce C. Greenwald (2017), Xây dựng xã hội học tập:

Cách tiếp cận mới cho tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội, Biên dịch

và hiệu đính: Đỗ Đức Thọ, Nguyễn Thị Lan Anh, Dương Bá Đoan, Phan

Thu Hoài, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

171. Robert J. Havighurst, Berice L. Neugarten (1962), Society and education:

Vấn đề xã hội và giáo dục, Nguồn: Allyn and Bacon Inc - Boston.

172. Human studies education development and XXIst century: Nghiên cứu con

người và phát triển giáo dục vào thế kỷ 21 (1995), Kỷ yếu hội nghị khoa

học quốc tế, Nhà Xuất bản Khoa học, Hà Nội.

173. Estabrook Iris, Rous Emma (2007), We're committed to an adequate

education for all: Đề xuất một giải pháp giáo dục thích hợp cho tất cả mọi

người. Nguồn: New Hampshire Business Review.

174. Renate Kock, Smyth Robyn (2007), Education and training in a globalized

world society: Vấn đề giáo dục và đào tạo trong một xã hội toàn cầu hóa.

Nguồn: British Journal of Educational Technology.

175. John Love (1994), Giáo dục người lớn - Viễn cảnh thế giới (Tài liệu dịch

của Viện Khoa học giáo dục Việt Nam).

176. Su Ya-Hui (2007), The Learning Society as Itself: Lifelong Learning,

Individualization of Learning, and beyond Education: Bản chất của khuynh

hướng xã hội học tập: Học suốt đời, tự học và học tập bên ngoài phạm vi

ngành giáo dục. Nguồn: Studies in Continuing Education.

172

PHỤ LỤC

MỘT SỐ VĂN BẢN CHỈ ĐẠO VỀ CÔNG TÁC KHUYẾN HỌC,

KHUYẾN TÀI, XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP

173

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG --------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ----------------

Số: 11-CT/TW

Hà Nội, ngày 13 tháng 4 năm 2007

CHỈ THỊ CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC KHUYẾN HỌC, KHUYẾN TÀI, XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) về xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập, Chỉ thị 50-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Khuyến học Việt Nam; những năm qua, tổ chức đảng các cấp đã có nhiều chủ trương, biện pháp chỉ đạo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, động viên nhân dân tham gia học tập. Phong trào thi đua xây dựng gia đình hiếu học được đẩy mạnh, hàng nghìn trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường, thị trấn được xây dựng và đi vào hoạt động. Việc phát huy vai trò của các lực lượng trong xã hội tham gia khuyến học, khuyến tài, thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục ngày càng hiệu quả, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Hội Khuyến học Việt Nam đã phát triển rộng khắp trên cả nước, hoạt động đạt nhiều kết quả tốt. Đây là những tiền đề quan trọng để thúc đẩy cuộc vận động xây dựng xã hội học tập trong thời kỳ mới.

Tuy nhiên, những kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu. Nhận thức của nhiều cấp uỷ đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự cần thiết, tầm quan trọng của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong thời kỳ mới chưa thật sự đầy đủ; một số cấp uỷ đảng chưa chỉ đạo chính quyền, đoàn thể phối hợp thực hiện; hoạt động ở một số nơi còn mang tính hình thức; phong trào phát triển không đồng đều, triển khai còn lúng túng, hiệu quả thấp; cán bộ chuyên trách chưa đáp ứng yêu cầu; việc huy động các nguồn lực của xã hội thông qua các chủ trương, biện pháp tuyên truyền, vận động thực hiện xã hội hoá để mọi người tham gia hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập còn hạn chế; cơ chế, chính sách và hành lang pháp lý cho công tác này chậm được ban hành...

Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về ''chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập'' và tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước, nhất là trong bối cảnh nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp uỷ đảng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong thời gian tới, tập trung thực hiện một số nội dung cơ bản sau đây:

l- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và nhân dân với nhiều hình thức phong phú, thiết thực để nhận thức rõ về sự cần thiết, tầm quan trọng của việc xây dựng xã hội học tập ở nước ta hiện nay; xác định xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là một mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước ta.

2- Cụ thể hoá các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng xã hội học tập trong phạm vi từng địa phương, đơn vị. Trước mắt rà soát, bổ sung nội dung kế hoạch thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trong ''Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010'' mà Chính phủ đã ban hành. Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, chỉ đạo giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

3- Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào khuyến học, khuyến tài, góp phần hỗ trợ các cơ sở giáo dục trong giảng dạy và học tập; xây dựng gia đình hiếu học; cộng đồng, dòng họ, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị khuyến học. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường, thị trấn; phát triển nhiều loại hình học tập đa dạng, phù hợp với điều kiện và nhu cầu học tập của cán bộ, nhân dân từng địa phương, đơn vị.

Chú trọng và kịp thời phát hiện, có chính sách cụ thể để bồi dưỡng nhân tài,

nhất là tài năng trẻ trên các lĩnh vực.

Vận động nhân dân tích cực học tập nâng cao dân trí, nghề nghiệp, chuyên môn nhằm tăng năng lực sản xuất, chất lượng công việc, chất lượng cuộc sống. Gắn việc phát triển phong trào khuyến học, khuyến tài với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, học đi đôi với hành, với phong trào làm kinh tế giỏi, xoá đói, giảm nghèo và xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.

Chỉ đạo nghiên cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm và có hình thức khen thưởng, tuyên dương, nhân rộng các mô hình hay, hiệu quả trong việc triển khai thực hiện phong trào khuyến học, xây dựng xã hội học tập ở các địa phương, đơn vị.

4- Củng cố, xây dựng Hội Khuyến học các cấp vững mạnh, lành nòng cốt trong việc liên kết, phối hợp với các tổ chức, các lực lượng xã hội tham gia hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Các tổ chức chính trị, tổ

174

chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang, doanh nghiệp tích cực, chủ động tổ chức các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập theo tinh thần xã hội hoá giáo dục.

5- Ban cán sự đảng Chính phủ, các bộ, ngành, uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi quyền hạn và nhiệm vụ của mình khẩn trương chỉ đạo việc xây dựng, ban hành các chủ trương, chính sách, kế hoạch triển khai thực hiện ''Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010'' của Chính phủ, nhất là các chủ trương, chính sách bảo đảm phát triển hệ thống giáo dục thường xuyên, tổ chức dạy nghề ở các quận, huyện, tạo điều kiện cho hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường, thị trấn; có biện pháp tích cực, nội dung cụ thể giúp các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương có khó khăn trong việc triển khai xây dựng xã hội học tập. Ban hành cơ chế giao cho hội khuyến học các cấp thực hiện nhiệm vụ triển khai phong trào khuyến học, khuyến tài, nghiên cứu xây dựng mô hình xã hội học tập; quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi về chế độ, chính sách, tổ chức bộ máy, kinh phí hoạt động của hội khuyến học các cấp theo các quy định hiện hành của Nhà nước.

Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam tăng cường các hoạt động phối hợp thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.

Các cơ quan thông tin đại chúng thường xuyên tuyên truyền công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập và các cá nhân, tập thể có thành tích trong công tác này.

6- Ban Tuyên giáo Trung ương, ban tuyên giáo các địa phương chủ trì, phối hợp với ban dân vận cùng cấp giúp cấp uỷ theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo việc thực hiện Chỉ thị này. Hằng năm, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư (ở địa phương báo cáo thường vụ cấp uỷ đảng) về kết quả thực hiện.

Chỉ thị này phổ biến đến chi bộ.

175

Nơi nhận: - Các tỉnh uỷ, thành uỷ - Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc trung ương. - Các đồng chí uỷ viên ban chấp hành trung ương - Lưu văn phòng trung ương

T/M BỘ CHÍNH TRỊ (đã ký) Trương Tấn Sang

176

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc __________________________________________

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ___________ Số: 89/QĐ-TTg

Hà Nội, ngày 09 tháng 01 năm 2013

QUYẾT ĐỊNH Phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” __________

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật giáo dục ngày 14 tháng 6 năm 2005; Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật giáo dục ngày 25 tháng 11 năm 2009;

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” (sau

đây gọi tắt là Đề án) với những nội dung chủ yếu sau đây:

I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

1. Trong xã hội học tập, mọi cá nhân có trách nhiệm học tập thường xuyên,

suốt đời, tận dụng mọi cơ hội học tập để làm người công dân tốt; có nghề, lao động

với hiệu quả ngày càng cao; học cho bản thân và những người xung quanh hạnh

phúc; học để góp phần phát triển quê hương, đất nước và nhân loại.

2. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang

nhân dân, cộng đồng dân cư và gia đình có trách nhiệm cung ứng các cơ hội học tập

và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người được học tập suốt đời.

3. Xây dựng xã hội học tập dựa trên nền tảng phát triển đồng thời, gắn kết và

liên thông giữa giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên; đẩy mạnh các hoạt

động học tập suốt đời ở ngoài nhà trường; ưu tiên các đối tượng chính sách, người

dân tộc, phụ nữ, người bị thiệt thòi.

177

II. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu đến năm 2015

a) Xóa mù chữ và phổ cập giáo dục

- 96% người trong độ tuổi từ 15 - 60, 98% người trong độ tuổi từ 15 - 35 biết

chữ. Đối với các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ tương

ứng là 90% và 92%.

Đặc biệt ưu tiên xoá mù chữ cho phụ nữ, trẻ em gái, người dân tộc thiểu số ở

vùng khó khăn; phấn đấu tỷ lệ biết chữ cân bằng giữa nam và nữ.

- 80% số người mới biết chữ tiếp tục học tập và không mù chữ trở lại;

- 100% tỉnh, thành phố củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học

đúng độ tuổi, kết quả phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

b) Nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ

- 80% cán bộ, công chức, viên chức tham gia các chương trình học tập nâng

cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm;

- 20% cán bộ, công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ bậc 2 và 5% có

trình độ bậc 3;

- Hằng năm, tăng tỷ lệ số công nhân lao động có kiến thức cơ bản về tin học,

ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc và giao lưu văn hóa.

c) Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề để lao động có hiệu quả

hơn, hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn

- Đối với cán bộ, công chức từ Trung ương đến cấp huyện:

+ 100% được đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn quy định;

+ 95% cán bộ công chức giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp được đào

tạo, bồi dưỡng theo chương trình quy định;

+ 80% thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hằng năm.

- Đối với cán bộ, công chức cấp xã:

+ 100% cán bộ cấp xã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý,

điều hành theo vị trí công việc;

+ 90% cán bộ cấp xã có trình độ chuyên môn theo chuẩn quy định;

+ 70% công chức cấp xã thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hằng năm.

- Đối với lao động nông thôn:

50% lao động nông thôn tham gia học tập cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển

giao khoa học kỹ thuật công nghệ sản xuất tại các trung tâm học tập cộng đồng.

- Đối với công nhân lao động:

80% công nhân lao động tại các khu chế xuất, khu công nghiệp có trình độ học vấn

trung học phổ thông hoặc tương đương; Tăng tỷ lệ công nhân lao động có tay nghề cao ở

các ngành kinh tế mũi nhọn; phấn đấu 85% công nhân qua đào tạo nghề.

d) Hoàn thiện kỹ năng sống, xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng ngày

càng hạnh phúc hơn

Hằng năm, tăng dần tỷ lệ học sinh, sinh viên và người lao động tham gia học tập

các chương trình giáo dục kĩ năng sống để xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng

ngày càng hạnh phúc hơn. Trong đó, phấn đấu 30% học sinh, sinh viên được học kĩ

năng sống tại các cơ sở giáo dục.

2. Mục tiêu đến năm 2020

a) Xóa mù chữ và phổ cập giáo dục

- 98% người trong độ tuổi từ 15 - 60, 99% người trong độ tuổi từ 15 - 35 biết

chữ. Đối với các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ tương

ứng là 94% và 96%;

- 90% số người mới biết chữ tiếp tục tham gia học tập và không mù chữ trở lại;

- 100% tỉnh, thành phố tiếp tục củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục

tiểu học đúng độ tuổi, kết quả phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

b) Nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ

- 100% cán bộ, công chức, viên chức tham gia các chương trình học tập nâng

cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm;

- 40% cán bộ, công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ bậc 2 và 20% có

trình độ bậc 3;

- Hằng năm, tiếp tục tăng tỷ lệ số công nhân lao động có kiến thức cơ bản về

tin học, ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc và giao lưu văn hóa.

c) Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề để lao động có hiệu quả

hơn, hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn

178

- Đối với cán bộ, công chức từ Trung ương đến cấp huyện:

+ Tiếp tục duy trì 100% được đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn quy định;

+ 100% cán bộ công chức giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp được đào

tạo, bồi dưỡng theo chương trình quy định;

+ 90% thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hằng năm.

- Đối với cán bộ, công chức cấp xã:

+ 100% cán bộ cấp xã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý,

điều hành theo vị trí công việc;

+ 95% cán bộ cấp xã có trình độ chuyên môn theo chuẩn quy định;

+ 85% công chức cấp xã thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hàng

năm.

- Đối với lao động nông thôn:

70% lao động nông thôn tham gia học tập cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển

giao khoa học kỹ thuật công nghệ sản xuất tại các trung tâm học tập cộng đồng.

- Đối với công nhân lao động:

90% công nhân lao động tại các khu chế xuất, khu công nghiệp có trình độ học

vấn trung học phổ thông hoặc tương đương; tiếp tục tăng tỷ lệ công nhân lao động

có tay nghề cao ở các ngành kinh tế mũi nhọn; phấn đấu 95% công nhân được qua

đào tạo nghề.

d) Hoàn thiện kỹ năng sống, xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng ngày

càng hạnh phúc hơn

Hằng năm, tiếp tục tăng tỷ lệ học sinh, sinh viên và người lao động tham gia học

tập các chương trình giáo dục kỹ năng sống để xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng

đồng ngày càng hạnh phúc hơn. Trong đó phấn đấu 50% học sinh, sinh viên được học

kỹ năng sống tại các cơ sở giáo dục.

179

III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP

1. Nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, vai trò, lợi ích của việc xây dựng

xã hội học tập

a) Tổ chức các hình thức tuyên truyền phong phú trên các phương tiện thông

tin đại chúng, trong các nhà trường, cơ quan, doanh nghiệp, khu dân cư, qua các hội

nghị, hội thảo, mạng internet.

b) Tổ chức tuyên truyền xây dựng xã hội học tập thông qua phong trào gia

đình hiếu học, dòng họ khuyến học, phát động phong trào đơn vị học tập, cộng đồng

học tập.

c) Nghiên cứu và tổ chức nhiều hình thức phong phú nhằm động viên mọi

người học tập suốt đời; hằng năm tổ chức Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời ở các

địa phương.

d) Xây dựng chuyên mục “xây dựng xã hội học tập” trên đài truyền hình, đài

phát thanh; biên soạn và phát hành bản tin, các tài liệu tuyên truyền về xây dựng xã

hội học tập.

đ) Tổ chức tuyên dương, khen thưởng các đơn vị và cá nhân có nhiều thành

tích trong công tác xây dựng xã hội học tập; tổ chức xét tặng danh hiệu “Đơn vị học

tập” cho các cơ quan, các địa phương.

2. Tổ chức các hoạt động học tập suốt đời thông qua các phương tiện thông tin

đại chúng, thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ

a) Các phương tiện thông tin đại chúng thực hiện các chương trình giáo dục từ

xa, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về các lĩnh vực của khoa học và đời sống.

b) Xây dựng và triển khai thực hiện Đề án Đẩy mạnh các hoạt động học tập

suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá, câu lạc bộ.

3. Củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục

a) Trung tâm học tập cộng đồng

Củng cố, phát triển bền vững các trung tâm học tập cộng đồng; tăng cường các

biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng; mở

rộng địa bàn hoạt động đến các thôn, bản, cụm dân cư; đa dạng hóa nội dung giáo

dục; phấn đấu tăng số lượng trung tâm học tập cộng đồng hoạt động có hiệu quả;

phát triển mô hình trung tâm học tập cộng đồng kết hợp với trung tâm văn hóa thể

thao xã hoạt động có hiệu quả.

b) Trung tâm giáo dục thường xuyên

180

Mở rộng quy mô hợp lý, nâng cao chất lượng, năng lực của các trung tâm giáo

dục thường xuyên cấp tỉnh, cấp huyện đã được thành lập; thành lập mới trung tâm

giáo dục thường xuyên ở các quận, huyện, tỉnh, thành phố hiện nay chưa có; phát

triển các trung tâm giáo dục thường xuyên theo hướng mỗi huyện có một trung tâm

thực hiện các nhiệm vụ: Giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp, dạy nghề.

c) Các cơ sở giáo dục chính quy làm nhiệm vụ giáo dục thường xuyên

Đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá trong các trường

phổ thông, các trường đại học, cao đẳng nhằm giáo dục cho học sinh, sinh viên tinh

thần ham học, năng lực tự học, khả năng nghiên cứu để học tập suốt đời có hiệu

quả. Các cơ sở giáo dục đại học tổ chức nghiên cứu về các hình thức học tập suốt

đời, phát triển các loại học liệu phục vụ cho học tập suốt đời; mở mã ngành đào tạo

về giáo dục cộng đồng, về học tập suốt đời; xây dựng chương trình và triển khai bồi

dưỡng về phương pháp giáo dục người lớn cho giáo viên các cơ sở giáo dục thường

xuyên; tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên.

d) Các cơ sở giáo dục khác

Củng cố, phát triển các trung tâm ngoại ngữ, tin học; củng cố mạng lưới trường,

trung tâm bồi dưỡng cán bộ của các địa phương, các Bộ, ngành, các tổ chức chính trị

- xã hội đáp ứng nhu cầu học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán

bộ, công chức, viên chức và người lao động. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện

thuận lợi để các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc các thành

phần kinh tế khác nhau thành lập các cơ sở học tập, bồi dưỡng thường xuyên cho

người lao động.

4. Đẩy mạnh hình thức học từ xa, học qua mạng

a) Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo từ xa ở các cơ sở giáo dục và đào tạo, đặc

biệt là ở các cơ sở giáo dục đại học.

b) Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin phục

vụ cho việc đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến (E-learning); tăng cường ứng dụng

công nghệ thông tin và truyền thông trong việc cung ứng các chương trình học tập

suốt đời cho mọi người.

181

c) Củng cố, hoàn thiện chức năng và nhiệm vụ của Viện Đại học Mở Hà Nội

và Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm dẫn đầu về

nghiên cứu phát triển công nghệ đào tạo mở và từ xa; trung tâm phát triển học liệu;

trung tâm bồi dưỡng cán bộ, giáo viên phục vụ học tập suốt đời.

5. Triển khai các biện pháp hỗ trợ người học nhằm nâng cao chất lượng và

hiệu quả học tập suốt đời

a) Hoàn thiện chính sách hỗ trợ cho người học thuộc đối tượng chính sách,

người dân tộc, phụ nữ theo địa bàn, đặc biệt là các địa phương có điều kiện kinh tế -

xã hội còn nhiều khó khăn.

b) Xây dựng cơ chế đánh giá, công nhận kết quả học tập không chính quy và

phi chính quy nhằm khuyến khích mọi người dân tự học, tự tích lũy kiến thức.

c) Tổ chức biên soạn tài liệu học tập về các lĩnh vực của đời sống xã hội đáp

ứng nhu cầu học tập đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân.

d) Đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá phù hợp với việc

học tập của người lớn tuổi.

6. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh

nghiệp trong quá trình xây dựng xã hội học tập

a) Quy định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của các tổ chức và cá nhân, cơ

chế tham gia, phối hợp của các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp đối với

học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập.

b) Xây dựng bộ chỉ số đánh giá việc thực hiện xây dựng xã hội học tập của

Bộ, ngành, địa phương (bao gồm cấp tỉnh và cấp xã).

c) Các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang

nhân dân đưa xây dựng xã hội học tập là nội dung bắt buộc trong chương trình, kế

hoạch hoạt động, thi đua hàng năm và từng giai đoạn.

d) Thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng xã hội học tập từ trung ương đến cấp

xã.

đ) Củng cố, xây dựng bộ phận làm đầu mối quản lý về học tập suốt đời, xây

dựng xã hội học tập ở các Bộ, ngành, tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp.

182

e) Khuyến khích doanh nghiệp xây dựng “Quỹ học tập suốt đời” để hỗ trợ

người lao động học tập nâng cao trình độ nghề nghiệp, hoặc đào tạo lại cho những

người chuyển đổi nghề nghiệp.

7. Hợp tác quốc tế

a) Tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế về xây dựng xã hội học tập; phối hợp

tổ chức các hội nghị, hội thảo nhằm chia sẻ kinh nghiệm, cập nhật thông tin về học tập

suốt đời và xây dựng xã hội học tập ở các nước trong khu vực và trên thế giới.

b) Tổ chức nghiên cứu, học tập kinh nghiệm về học tập suốt đời và xây dựng

xã hội học tập tại một số nước có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này.

c) Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo từ xa. Đẩy mạnh hoạt động

của Trung tâm SEAMEO về học tập suốt đời.

183

IV. KINH PHÍ VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA ĐỀ ÁN

1. Kinh phí thực hiện Đề án từ ngân sách nhà nước dự kiến là 340 tỷ đồng

(vốn sự nghiệp) cho các hoạt động sau đây:

a) Tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về mục đích, ý nghĩa và lợi

ích của việc xây dựng xã hội học tập là 45 tỷ đồng.

b) Cung cấp tài liệu học tập cho các cơ sở giáo dục thường xuyên là 135 tỷ

đồng.

c) Đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, giáo viên các cơ sở giáo dục thường

xuyên là 98 tỷ đồng.

d) Tăng cường hợp tác quốc tế trong xây dựng xã hội học tập là 47 tỷ đồng.

đ) Kinh phí quản lý thực hiện Đề án là 15 tỷ đồng.

2. Kinh phí thực hiện Đề án theo tiến độ thực hiện

a) Giai đoạn 2012 - 2015: 150 tỷ đồng.

b) Giai đoạn 2016 - 2020: 190 tỷ đồng.

3. Cơ chế tài chính của Đề án

a) Ngân sách trung ương đảm bảo 40% tổng kinh phí thực hiện Đề án để thực

hiện các hoạt động quy định tại Khoản 1 Phần IV Điều này.

b) Các địa phương có trách nhiệm cân đối ngân sách hỗ trợ cho các hoạt động

tuyên truyền; cung cấp tài liệu học tập phù hợp với địa phương; đào tạo, bồi dưỡng

đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý.

c) Huy động thêm nguồn lực của các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp, cá

nhân và cộng đồng để bổ sung cho việc thực hiện Đề án (các doanh nghiệp được trừ

để tính thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật đối với các khoản chi cho

học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập).

d) Các cơ quan được giao nhiệm vụ xây dựng Đề án thành phần, căn cứ vào nội

dung, chương trình, mục tiêu để dự toán kinh phí cụ thể cho mỗi Đề án, trình Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt.

184

V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

1. Trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ương

a) Bộ Giáo dục và Đào tạo

- Là cơ quan thường trực, giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức triển khai thực

hiện Đề án; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan điều phối và hướng dẫn tổ

chức thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp của Đề án; xây dựng các văn bản quy

phạm pháp luật liên quan đến phát triển giáo dục thường xuyên và xây dựng xã hội

học tập;

- Chủ trì xây dựng và thực hiện Đề án Phát triển đào tạo từ xa; Đề án Xóa mù

chữ;

- Chủ trì, phối hợp với Hội Khuyến học Việt Nam xây dựng bộ chỉ số đánh giá

việc thực hiện xây dựng xã hội học tập của Bộ, ngành, địa phương (bao gồm cấp

tỉnh và cấp xã);

- Tổ chức các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực học tập suốt đời;

- Kiểm tra, giám sát, tổng hợp tình hình thực hiện Đề án; định kỳ 6 tháng,

hàng năm tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện Đề án.

b) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương xây dựng kế hoạch phát triển hệ thống các cơ sở dạy nghề; mở rộng các hình thức dạy nghề

trong các doanh nghiệp, công ty, dạy nghề gắn với sản xuất và dạy nghề ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa;

- Chủ trì xây dựng và thực hiện Đề án Hỗ trợ cho người lao động nông thôn, những người hết tuổi lao động, người nội trợ, người khuyết tật có điều kiện thuận lợi để học tập suốt đời;

- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của

trung tâm cấp huyện làm nhiệm vụ giáo dục thường xuyên và dạy nghề.

c) Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và thực hiện Đề án Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá, câu lạc bộ;

- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn các địa phương củng cố, kiện toàn mô hình hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng kết hợp với trung tâm văn hoá thể thao xã.

d) Bộ Thông tin và Truyền thông - Chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí tổ chức tuyên truyền về xây dựng xã

hội học tập;

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng, triển khai thực hiện

Đề án Truyền thông về xây dựng xã hội học tập.

đ) Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính - Bố trí kinh phí để thực hiện Đề án từ năm 2013 theo quy định của Luật ngân

sách nhà nước;

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính, đầu tư đối với các hoạt động của Đề án; phối hợp kiểm tra, giám sát thực hiện Đề án.

e) Các Bộ, ngành khác có trách nhiệm cung ứng học tập suốt đời và tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc ngành mình được học tập suốt đời, có trách nhiệm tổ chức biên soạn các tài liệu học tập cho mọi tầng lớp nhân dân về các lĩnh vực theo chức năng và nhiệm vụ của từng Bộ, ngành; phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện các nhiệm vụ xây dựng xã hội học tập trên phạm vi toàn quốc.

2. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - Xây dựng kế hoạch thực hiện Đề án hàng năm và từng giai đoạn phù hợp với chiến lược kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2020; bố trí ngân sách cho các hoạt động xây dựng xã hội học tập của địa phương;

185

- Xây dựng kế hoạch củng cố, phát triển các trung tâm giáo dục thường xuyên,

trung tâm học tập cộng đồng hoạt động có hiệu quả, bền vững;

- Chỉ đạo các cơ quan phát thanh, truyền hình, báo của địa phương xây dựng

chuyên mục tuyên truyền về xây dựng xã hội học tập;

- Theo dõi, đôn đốc, tổ chức kiểm tra giám sát việc thực hiện Đề án tại địa phương; định kỳ 6 tháng, hàng năm báo cáo tình hình thực hiện Đề án gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

3. Đề nghị các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp

a) Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia học tập; đưa nội dung xây dựng xã hội học tập vào phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.

b) Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan chỉ đạo, động viên, theo dõi việc

đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ người lao động trong các doanh nghiệp;

- Chủ trì xây dựng Đề án Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời cho công

nhân lao động trong các doanh nghiệp (ưu tiên khu chế xuất, khu công nghiệp).

c) Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

- Chủ trì, tổ chức phối hợp, lồng ghép các hoạt động tuyên truyền về xây dựng

xã hội học tập cho các đoàn viên, thanh niên;

- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng phong trào thanh niên tình nguyện, thanh niên tài năng; vận động gây quỹ hỗ trợ thanh niên có hoàn cảnh khó khăn tham gia học tập.

d) Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

- Tổ chức phối hợp, lồng ghép các hoạt động tuyên truyền về xây dựng xã hội học tập trong phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch”;

- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tuyên truyền, vận động phụ nữ, trẻ em

gái ở những vùng khó khăn chưa biết chữ ra học các lớp xóa mù chữ.

4. Hội Khuyến học Việt Nam

- Phối hợp với các tổ chức, các lực lượng xã hội trong việc tổ chức tuyên

truyền, vận động người dân tích cực học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập;

- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc duy trì, củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng; xây dựng bộ chỉ số đánh giá việc thực hiện xây dựng xã hội học tập của các Bộ, ngành, địa phương (bao gồm cấp tỉnh và cấp xã);

186

- Chủ trì tổ chức đánh giá công nhận “đơn vị học tập”, “cộng đồng học tập”;

- Chủ trì xây dựng và thực hiện Đề án Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư; xây dựng các mô hình học tập phù hợp để thực hiện các mục tiêu của Đề án. Chủ trì tổ chức, lồng ghép các hoạt động tuyên truyền về xây dựng xã hội học tập thông qua hệ thống mạng lưới hội khuyến học các cấp, các trang website của Hội, Báo Khuyến học và dân trí, Báo Dân trí điện tử.

5. Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Người cao tuổi Việt Nam, Hội Cựu giáo chức Việt Nam phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai nhiệm vụ và giải pháp xây dựng xã hội học tập phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Hội.

187

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.

Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

KT. THỦ TƯỚNG

PHÓ THỦ TƯỚNG

(Đã ký) Nguyễn Thiện Nhân

Nơi nhận: - Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP; - Văn phòng BCĐTW về phòng, chống tham nhũng; - HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc Trung ương; - Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;

- Văn phòng Tổng Bí thư; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Tòa án nhân dân tối cao; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Kiểm toán Nhà nước; - UB Giám sát tài chính Quốc gia; - Ngân hàng Chính sách xã hội; - Ngân hàng Phát triển Việt Nam; - UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Cơ quan Trung ương của các đoàn thể; - VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTCP, Cổng TTĐT,

các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lưu: Văn thư, KGVX (3b).N. 240

188

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ __________

Số: 02/2008/CT-TTg

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ______________________________________

Hà Nội, ngày 08 tháng 01 năm 2008

CHỈ THỊ

Về đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài,

xây dựng xã hội học tập _________

Những năm qua, công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đã có những bước phát triển mạnh mẽ, thu hút được sự quan tâm của toàn xã hội; cùng với những nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị, Hội Khuyến học đã được thành lập ở tất cả 64 tỉnh, thành phố trong cả nước và đã có những đóng góp tích cực. Các phong trào thi đua xây dựng ''gia đình hiếu học'', ''dòng họ khuyến học'' ở thôn, làng, phường, xã, được khơi dậy và đẩy mạnh, phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, theo tinh thần học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Các Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm học tập cộng đồng được thành lập và hoạt động tích cực ở các địa phương, tạo điều kiện để mọi người dân đều có thêm cơ hội được học tập nâng cao hiểu biết, năng lực sản xuất và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Tuy nhiên, phong trào khuyến học, khuyến tài phát triển còn chưa thật đồng đều; một số cấp, ngành, địa phương đơn vị nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập chưa thật sự đầy đủ, nên phong trào phát triển chưa vững chắc.

Để triển khai thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, từng bước xây dựng và phát triển mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị:

1. Các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị cần quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; tập trung triển khai thực hiện mạnh mẽ, đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục, đào tạo, nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.

2. Xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước ta. Cần đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài gắn với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, với phong trào làm kinh tế giỏi, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, học đi đôi với hành. Phát triển các hình thức học tập chính quy đi

đôi với phát triển, đa dạng hóa các hình thức học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người được học tập thường xuyên, học suốt đời.

3. Các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị cần tập trung chỉ đạo xác định, cụ thể hoá các mục tiêu nhiệm vụ và giải pháp triển khai các hoạt động xây dựng xã hội học tập theo Đề án của Chính phủ về việc xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác khuyến học, khuyến tài, trong đó lưu ý xây dựng tổ chức Hội Khuyến học Việt Nam vững mạnh, hoạt động thiết thực, có hiệu quả.

4. Yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt các công việc sau: a) Bộ Giáo dục và Đào tạo: - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương, các tổ chức, đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động về công tác khuyến học, khuyến tài, đồng thời chỉ đạo triển khai, kiểm tra đôn đốc nhằm nâng cao hiệu quả công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng cả nước trở thành xã hội học tập; tích cực triển khai thực hiện Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010, theo Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ.

- Thực hiện các giải pháp để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục thường xuyên, các Trung tâm học tập cộng đồng, cơ sở dạy nghề, trong đó tập trung đổi mới nội dung, chương trình, tài liệu, phương pháp học tập đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân.

- Đẩy mạnh công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cho người lao động trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, lao động ở nông thôn, tạo điều kiện, môi trường học, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ cho mọi tầng lớp nhân dân, bồi dưỡng nhân tài, nhất là tài năng trẻ trên các lĩnh vực.

b) Bộ Nội vụ: - Nghiên cứu xây dựng, điều chỉnh, bổ sung những cơ chế chính sách cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Hội Khuyến học hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích và có hiệu quả, phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Hội trong việc thúc đẩy hoạt động khuyến học khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.

- Xem xét, phê duyệt Điều lệ của Hội Khuyến học Việt Nam phù hợp với điều kiện mới, theo tinh thần Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị.

c) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Nghiên cứu, xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư phát triển các cơ sở giáo dục thường xuyên, các Trung tâm học tập cộng đồng, đặc biệt là các cơ sở, Trung tâm ở các vùng khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng hải đảo, bảo đảm công bằng giáo dục.

d) Bộ Tài chính: Nghiên cứu, xây dựng các cơ chế chính sách tài chính hợp lý nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện đẩy mạnh sự phát triển các cơ sở giáo dục thường xuyên, các Trung tâm học tập cộng đồng, các hoạt động khuyến học, khuyến tài.

189

đ) Ủy ban nhân dân các cấp: Chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan, các đoàn thể, thường xuyên đẩy mạnh các hoạt động khuyến học, khuyến tài hướng đến mục tiêu xây dựng xã hội học tập trên địa bàn; tạo điều kiện thuận lợi để các cấp Hội Khuyến học hoạt động có hiệu quả, đúng tôn chỉ, mục đích.

5. Hội Khuyến học Việt Nam: - Chỉ đạo các cấp Hội tăng cường các hoạt động thiết thực, cụ thể nhằm đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; có những đóng góp tích cực vào việc phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh phong trào xây dựng ''gia đình hiếu học'', ''dòng họ khuyến học'', ....

- Xây dựng, củng cố Hội Khuyến học các cấp hoạt động có hiệu quả, làm nòng

cốt trong các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. - Nghiên cứu, đề xuất về mô hình xã hội học tập ở Việt Nam. 6. Các cơ quan thông tin đại chúng cần tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng cả nước trở thành xã hội học tập; biểu dương kịp thời các cá nhân và tập thể có thành tích xuất sắc trong các hoạt động khuyến học, khuyến tài.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức thực hiện nghiêm Chỉ thị này./.

190

THỦ TƯỚNG

Nguyễn Tấn Dũng đã ký

Nơi nhận: - Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP; - Văn phòng BCĐTW về phòng, chống tham nhũng; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Toà án nhân dân tối cao; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - Kiểm toán Nhà nước; - Ngân hàng Chính sách Xã hội; - Ngân hàng Phát triển Việt Nam; - UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Cơ quan Trung ương của các đoàn thể; - VPCP: BTCN, các PCN, Website Chính phủ, Người phát ngôn của Thủ tướng Chính phủ, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lưu: Văn thư, KG (5b). A.