ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ------------ ------------
HỒ TRUNG THANH
XUẤT KHẨU BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI – 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả trong luận án này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận án
Hồ Trung Thanh
1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
MỤC LỤC ................................................................................................................... 2
DANH MỤC BẢNG, HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ ................................................................ 5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................... 6
MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 10
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XUẤT KHẨU
BỀN VỮNG ............................................................................................................... 19
1.1 Tổng quan về lý thuyết phát triển bền vững ...................................................... 19
1.1.1 Khái niệm về phát triển bền vững ....................................................................... 19
1.1.2 Nội dung và các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững ........................................ 24
1.1.3 Các mô hình phát triển bền vững ........................................................................ 29
1.2 Xuất khẩu bền vững: Khái niệm, vai trò, nội dung và các chỉ tiêu đánh giá .... 33
1.2.1 Khái niệm và vai trò của xuất khẩu bền vững ..................................................... 33
1.2.2 Nội dung xuất khẩu bền vững ............................................................................. 36
1.2.3 Các tiêu chí đánh giá xuất khẩu bền vững ........................................................... 42
1.3 Các yếu tố ảnh hƣởng đến xuất khẩu bền vững trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế ........................................................................................................................ 46
1.3.1 Các yếu tố quốc tế .............................................................................................. 46
1.3.2 Các yếu tố trong nước ........................................................................................ 52
1.4 Kinh nghiệm phát triển xuất khẩu bền vững của một số nƣớc ......................... 58
1.4.1 Kinh nghiệm của Thái Lan ................................................................................. 58
1.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc ........................................................................... 66
1.4.3 Bài học đối với Việt Nam ................................................................................... 75
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM ............ 81
2.1 Chính sách phát triển xuất khẩu bền vững của Việt Nam giai đoạn 1995-200881
2.1.1 Các chính sách khuyến khích xuất khẩu ............................................................. 81
2.1.2 Chính sách phát triển xuất khẩu và bảo vệ môi trường ........................................ 94
2.1.3 Chính sách phát triển xuất khẩu và giải quyết các vấn đề xã hội ......................... 99
2
2.2 Phân tích thực trạng xuất khẩu của Việt Nam theo các tiêu chí phát triển bền
vững giai đoạn 1995-2008 ....................................................................................... 101
2.2.1 Quy mô, tốc độ và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu ........................................ 101
2.2.2 Đóng góp của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô .. 113
2.2.3 Xuất khẩu và các vấn đề môi trường ................................................................. 118
2.2.4 Xuất khẩu và tác động đến các vấn đề xã hội .................................................... 130
2.3 Nhận định về xuất khẩu bền vững ở Việt Nam giai đoạn 1995-2008 .............. 136
2.3.1 Những mặt tích cực .......................................................................................... 136
2.3.2 Những hạn chế ................................................................................................. 137
2.3.3 Nguyên nhân của các hạn chế ........................................................................... 138
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT
KHẨU BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ ............................................................................................................... 143
3.1 Bối cảnh quốc tế và trong nƣớc ảnh hƣởng đến phát triển xuất khẩu bền vững ở
Việt Nam trong giai đoạn tới .................................................................................. 143
3.1.1 Bối cảnh quốc tế ............................................................................................... 143
3.1.2 Tình hình trong nước ........................................................................................ 148
3.2 Quan điểm phát triển xuất khẩu bền vững ở Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế ......................................................................................................... 153
3.2.1 Phát triển xuất khẩu trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế so sánh và lợi thế cạnh
tranh, đảm bảo tốc độ và chất lượng tăng trưởng cao, góp phần tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững .................................................................................................... 154
3.2.2 Phát triển xuất khẩu trên cơ sở khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, hạn chế ô
nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và
tiêu chuẩn môi trường của hàng hóa xuất khẩu .......................................................... 157
3.2.3 Phát triển xuất khẩu góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội như xóa đói giảm
nghèo, tạo nhiều việc làm, đảm bảo công bằng xã hội, chia sẻ lợi ích hợp lý giữa các
thành phần tham gia vào xuất khẩu ........................................................................... 159
3.2.4 Phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện để
phát triển xuất khẩu bền vững ............................................................................. ..... 162
3
3.2.5 Ổn định chính trị - xã hội là tiền đề, điều kiện để phát triển xuất khẩu bền vững164
3.3 Một số giải pháp phát triển xuất khẩu bền vững trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế ở Việt Nam .............................................................................................. 164
3.3.1 Các giải pháp chung ......................................................................................... 164
3.3.2 Các giải pháp đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững ........................ 173
3.3.3 Giải pháp giải quyết hài hoà giữa tăng trưởng xuất khẩu và bảo vệ môi trường 179
3.3.4 Các giải pháp đảm bảo hài hoà giữa tăng trưởng xuất khẩu và giải quyết các vấn đề
xã hội ........................................................................................................................ 182
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................. 184
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ................................................................................................................ 189
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 190
PHỤ LỤC.............................................................................................. ..................... 198
4
Bảng 1.1 Những thay đổi khác biệt từ phát triển đến phát triển bền vững .................... 21
Bảng 1.2 Xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Thái Lan thời kỳ 2002-2007 ..................... 59
Bảng 1.2 Xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Trung Quốc thời kỳ 2001-2007 ................ 67
Bảng 2.1 Đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu của các thành phần kinh tế thời kỳ 1995-2008... 88
Bảng 2.3 Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1995-2008 (%) ......................... 104
Bảng 2.4 Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo phân loại SITC giai đoạn 1995-2008 (%). 105
Bảng 2.5 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo thành phần kinh tế ................................... 106
Bảng 2.6 Cơ cấu thị trường xuất khẩu giai đoạn 2003-2008 (%) ............................... 108
Bảng 2.7 Sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu sản phẩm chế biến thời kỳ 1985-2008 .......... 109
Bảng 2.8 So sánh ICOR của Việt Nam với một số nước ............................................ 110
Bảng 2.9 Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo cấu thành tổng cầu giai đoạn 2002-2008...... 114
Bảng 2.10 Tương quan giữa sự suy giảm diện tích rừng ngập mặn và sự mở rộng diện
tích nuôi tôm tại một số tỉnh (2002) .......................................................................... 121
Bảng 2.12 Kết quả kiểm tra điều kiện ATVSTP cơ sở chế biến thuỷ sản ................... 129
DANH MỤC BẢNG
Hình 1.1 Sơ đồ phát triển bền vững ............................................................................. 22
Hình 1.2 Tương tác giữa ba hệ thống Tự nhiên - Kinh tế - Xã hội và Phát triển bền vững29
Hình 1.3 Quan hệ thời gian và không gian của các hệ Kinh tế - Xã hội - Môi trường .. 30
Hình 1.4 Mô hình phát triển bền vững của WCED 1987 ............................................. 31
Hình 1.5 Mô hình phát triển bền vững của Ngân hàng thế giới .................................... 32
Hình 1.6 Mô hình phát triển bền vững của Việt Nam .................................................. 32
Hình 1.7 Sơ đồ xuất khẩu bền vững ............................................................................ 45
DANH MỤC HÌNH
Biểu đồ 2.1 So sánh tốc độ tăng trưởng xuất khẩu........................................................101
Biểu đồ 2.2 Chỉ số cạnh tranh của Việt Nam và Trung Quốc trong ngành dệt may.....101
Biểu đồ 2.3 Tốc độ tăng GDP và xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2000-2008..............114
Biểu đồ 2.4 Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu giai đoạn 2000-2008 (%).................116
Biểu đồ 2.5 Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn ..................106
Biểu đồ 2.6 Diễn biến diện tích rừng ngập mặn và nuôi tôm qua các năm..................120
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. Danh mục cụm từ viết tắt tiếng Anh
Chữ viết tắt
Giải nghĩa tiếng Anh
Giải nghĩa tiếng Việt
ACFTA
ASEAN - China Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc
AFTA
Asian Free Trade Area
Khu vực Mậu dịch tự do
ASEAN
APEC
Asia Pacific Economic Cooperation Diễn đàn Hợp tác Kinh tế khu
vực Châu Á - Thái Bình
Dương
ASEAN
The Association of South East Asian
Hiệp hội các nước Đông Nam
Nations
Á
ASEM
Asia-Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
CAFTA
Central America Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do
Trung Mỹ
CEPT
Common Effective Preferential
Chương trình ưu đãi thuế quan
Tariff
có hiệu lực chung
CITES
Convention on International
Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp
Trade in Endangered Species
EC
European Commission
Uỷ ban châu Âu
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA
Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do
GATT
General Agreement on Tariffs and
Hiệp định chung về thuế quan
Trade
và mậu dịch
6
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
GMS
Greater Mekong Subregion
Khu vực Tiểu vùng Mê Kông
mở rộng
GNP
Gross National Product
Tổng sản phẩm quốc dân
HACCP
Hazard Analysis and Critical Control
Hệ thống phân tích mối nguy
Points
và kiểm soát điểm tới hạn
HDI
Human Development Index
Chỉ số phát triển con người
HFI
Human Free Index
Chỉ số tự do của con người
IMF
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
ISO
International Organization for
Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế
Standardization
IUCN
International Union for Conservation
Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên
of Nature
Quốc tế
OECD
Organization for Economic
Tổ chức hợp tác và phát triển
Co-operation and Development
kinh tế
RCA
Revealed Comparative Advantage
Chỉ số lợi thế so sánh hiển thị
R&D
Reseach & Development
Nghiên cứu và triển khai
SIDA
Swedish International Development
Tổ chức hợp tác phát triển
Cooperation Agency
quốc tế Thụy Điển
SITC
Standard International Trade
Danh mục phân loại thương
Classification
mại quốc tế tiêu chuẩn
SNP
Sustainable National Product
Tổng sản phẩm quốc dân bền
vững
SNI
Sustainable National Income
Tổng thu nhập quốc dân bền
vững
7
SPS
Sanitary and Phytosanitary Measures Các biện pháp kiểm dịch động
thực vật
TBT
Technical Barriers to Trade
Hàng rào kỹ thuật đối với
thương mại
TFP
Total Factor Productivity
Năng suất tổng hợp các yếu tố
TNC
Transnational Cooporation
Tập đoàn xuyên quốc gia
UNCED
United Nations Conference on
Hội nghị về Môi trường và
Environment and Development
Phát triển
UNDP
United Nations Development
Chương trình phát triển Liên
Programme
hợp quốc
USD
United States Dollar
Đô la Mỹ
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
WCED
World Commission for Environment
Uỷ ban Thế giới về Môi
and Development
trường và Phát triển
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới
ĐCSVN
Đảng cộng sản Việt Nam
BVMT
Bảo vệ môi trường
CCTKVL
Cán cân tài khoản vãng lai
CIEM
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
CNH, HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
ĐTNN
Đầu tư nước ngoài
2. Danh mục cụm từ viết tắt tiếng Việt
8
HNKTQT
Hội nhập kinh tế quốc tế
KNXK
Kim ngạch xuất khẩu
KTQT
Kinh tế quốc tế
KTTT
Kinh tế thị trường
LHQ
Liên hợp quốc
NDT
Đơn vị tiền tệ Trung Quốc
NHTMQD
Ngân hàng thương mại quốc doanh
NK
Nhập khẩu
PTBV
Phát triển bền vững
RNM
Rừng ngập mặn
TCH
Toàn cầu hoá
VSATTP
Vệ sinh an toàn thực phẩm
XK
Xuất khẩu
XKBV
Xuất khẩu bền vững
9
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Phát triển bền vững đang trở thành xu thế tất yếu mang tính toàn cầu, là
mục tiêu phấn đấu của các quốc gia trên thế giới. Xét một cách chung nhất, phát
triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không làm ảnh hưởng đến việc thoả mãn nhu cầu của các thế hệ trong tương lai.
Đó là sự đảm bảo về chất của sự phát triển, sự hài hoà giữa mục tiêu kinh tế, xã
hội, môi trường...
Để đảm bảo sự PTBV của nền kinh tế đòi hỏi sự phát triển bền vững ở tất
cả các lĩnh vực, trong đó, thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng là một
trong những lĩnh vực quan trọng tạo nên sự bền vững đó. Đối với các nước mà
định hướng phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu, phát triển xuất khẩu bền vững
góp phần tạo nên sự bền vững chung của nền kinh tế. Đã có nhiều lý thuyết về
PTBV, nhưng ứng dụng đối với hoạt động xuất khẩu còn khá ít.
Phát triển xuất khẩu bền vững có vai trò to lớn đối với các nước, đặc biệt là
các nước đang trong thời kỳ công nghiệp hoá. Thực tế cho thấy, xuất khẩu là một
trong những nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế cao và ổn định ở nhiều nước
tiến hành công nghiệp hoá định hướng xuất khẩu trong 3-4 thập kỷ gần đây, như
các nước NICs chẳng hạn. Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy, phát
triển xuất khẩu bằng mọi giá sẽ dẫn đến mất cân đối nền kinh tế, cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường, làm nảy sinh các vấn đề xã hội. Đây
là các vấn đề đang đặt ra đối với các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Phát triển xuất khẩu là định hướng chiến lược quan trọng trong đường lối
phát triển kinh tế của Việt Nam hiện tại cũng như trong những năm tới. Trong
những năm đổi mới, hoạt động xuất khẩu đã có những đóng góp đáng kể cho tăng
trưởng kinh tế, giải quyết một số vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên,
xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua chưa bền vững. Chất lượng tăng
trưởng xuất khẩu chưa cao, xuất khẩu chưa thể hiện xu thế công nghiệp hoá, hiện
10
đại hoá. Xuất khẩu còn thâm dụng quá mức tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm
môi trường, mất cân bằng sinh thái. Hoạt động xuất khẩu làm nảy sinh một số
vấn đề về xã hội như bất bình đẳng trong việc chia sẻ lợi ích từ xuất khẩu.
Yêu cầu phát triển xuất khẩu bền vững càng bức xúc hơn trong bối cảnh
nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sau khi
gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hội nhập kinh tế quốc tế làm
tăng cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu của nước ta, do đó khuyến khích khai
thác tài nguyên và gia tăng sử dụng các yếu tố đầu vào liên quan đến môi trường.
Áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt và sự biến động kinh tế thế giới đang là
thách thức đối với việc duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững. Mở
rộng xuất khẩu có thể làm nảy sinh các vấn đề xã hội như việc làm, thu nhập,
xung đột xã hội... nếu như không có các chính sách đúng đắn và kịp thời.
Phát triển xuất khẩu bền vững cần có những chính sách đúng đắn và phù
hợp, được xây dựng trên cơ sở khoa học, tính đến một cách hài hoà giữa mục tiêu
kinh tế, xã hội, môi trường. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc xây dựng chính
sách phát triển xuất khẩu chưa thực sự dựa trên các căn cứ lý luận và thực tiễn về
PTBV. Phát triển xuất khẩu, mặc dù mang lại lợi ích kinh tế cao nhưng đang tiềm
ẩn xung đột với các mục tiêu về môi trường và xã hội. Chính vì vậy, cần có tiêu
chí khoa học để kiểm định chính sách, làm căn cứ cho các nhà quản lý đưa ra các
chính sách đảm bảo phát triển xuất khẩu bền vững.
2. Tình hình nghiên cứu
Ngoài nước:
Vấn đề phát triển bền vững đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu của các
học giả nước ngoài, đặc biệt là sau hội nghị Môi trường và Phát triển tại Rio de
Janiero năm 1992. Nhiều nghiên cứu đã đưa ra khái niệm, nội dung, các mô hình
và những bài học kinh nghiệm của các nước về PTBV. Đây là tài liệu tham khảo
cho tác giả luận án trong việc xây dựng khung khổ lý thuyết về xuất khẩu bền
vững. Các nội dung nói trên có thể được tham khảo trong các tài liệu
11
[5,34,36,64]. Một số nghiên cứu cũng đã đưa ra các tiêu chí (độ đo) PTBV. Bộ
chỉ số được tham khảo nhiều nhất trong luận án này là bộ chỉ số phát triển bền
vững của Liên Hiệp Quốc và Việt Nam được đề cập trong các phụ lục 1- 6. Tuy
nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào chỉ ra nội dung và tiêu chí đánh giá
xuất khẩu bền vững.
Vấn đề được các học giả nước ngoài quan tâm nhiều nhất là mối quan hệ
giữa thương mại, môi trường và phát triển bền vững. Nhiều nghiên cứu đã đưa ra
cơ chế tác động của thương mại đối với môi trường trong điều kiện tự do hóa
thương mại [74]. Đây là cơ sở để tác giả luận án đề xuất cơ chế tác động của hội
nhập KTQT đến phát triển xuất khẩu bền vững. Các nội dung khác liên quan đến
mối quan hệ giữa thương mại và môi trường được đề cập trong các tài liệu
[89,90,93,98,99]. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa phân tích mối quan hệ giữa
thương mại, môi trường đối với việc duy trì tốc độ và nâng cao chất lượng xuất
khẩu, mà chỉ quan tâm nhiều đến khía cạnh môi trường, xã hội của hoạt động
này.
Một số công trình khác có đề cập đến việc duy trì tốc độ và chất lượng tăng
trưởng xuất khẩu ở Việt Nam và các nước khác. David Dapice đã có một nghiên
cứu liên quan đến tăng trưởng xuất khẩu bền vững ở Việt Nam, trong đó đề cập
đến mô hình tăng trưởng xuất khẩu cho Việt Nam [19]. Một số các công trình
khác [11,20,21,39,40,43] cũng đề cập đến những điều kiện để Việt Nam tăng
trưởng xuất khẩu bền vững, trong đó nhấn mạnh các điều kiện về thể chế, chất
lượng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng... Tuy nhiên những công trình này lại không
phân tích việc duy trì tốc độ và chất lượng xuất khẩu gắn với mục tiêu phát triển
bền vững về xã hội và môi trường.
Nhìn chung, chưa có công trình nghiên cứu nước ngoài nào nghiên cứu sâu
về chủ đề xuất khẩu bền vững, xét trên các mặt là đảm bảo chất lượng tăng
trưởng, góp phần bảo tăng trưởng và ổn định kinh tế, bảo vệ môi trường và giải
quyết các vấn đề xã hội. Đặc biệt là chưa có nghiên cứu nào đưa ra nội dung và
12
các tiêu chí để đánh giá xuất khẩu bền vững. Các nghiên cứu nước ngoài chỉ đề
cập đến một mặt này hay mặt khác của xuất khẩu bền vững.
Trong nước:
Đã có nhiều công trình nghiên cứu giới thiệu về các lý thuyết phát triển
bền vững và ứng dụng để giải quyết vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam. Các
nghiên cứu này [18,26,35] đã đề cập đến các quan điểm, nguyên tắc, tiêu chí và
các mô hình PTBV cũng như các vấn đề liên quan đến PTBV ở Việt Nam. Tuy
nhiên những nghiên cứu này không đề cập đến lĩnh vực xuất khẩu, mà chỉ đánh
giá tính bền vững của nền kinh tế nói chung.
Chủ đề được các học giả quan tâm nhiều nhất là nghiên cứu mối quan hệ
giữa thương mại (trong đó chủ yếu là xuất khẩu) và môi trường, đặc biệt là tác
động của tự do hoá thương mại đến môi trường trên phương diện lý thuyết cũng
như thực tiễn ở Việt Nam (xem các tài liệu [27,55]). Các nghiên cứu về chủ đề
này đã luận giải khá rõ về tác động của thương mại tới môi trường và sự cần thiết
phải bảo vệ môi trường trong điều kiện tự do hoá thương mại. Đây là cơ sở để
đảm bảo phát triển thương mại bền vững.
Một số nghiên cứu cũng đã đề cập đến chủ đề phát triển thương mại bền
vững nói chung và xuất khẩu nói riêng. Chẳng hạn trong cuốn sách, Thương mại
- môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam [55] đã đề cập đến phát triển
thương mại bền vững xét về khía cạnh môi trường. Tuy nhiên nghiên cứu ngày
không vận dụng lý thuyết phát triển bền vững để luận giải về sự bền vững của
hoạt động thương mại, do không đưa ra được các tiêu chí để đánh giá mức độ bền
vững của hoạt động thương mại. Một nghiên cứu khác liên quan đến đề tài luận
án với chủ đề "Cơ sở khoa học để giải quyết mối quan hệ giữa chính sách thương
mại và chính sách môi trường đảm bảo phát triển thương mại bền vững" [28],
trong đó đã luận giải khía cạnh chính sách của phát triển thương mại bền vững
trên cơ sở lý thuyết PTBV. Tuy nhiên nghiên cứu này cũng chưa đưa ra được hệ
các tiêu chí để đánh giá XKBV.
13
Một số nghiên cứu khác tập trung giải quyết các vấn đề đảm bảo tăng
trưởng xuất khẩu bền vững ở các khía cạnh như hạn chế khai thác tài nguyên, đáp
ứng các yêu cầu môi trường của các nước nhập khẩu [31,32,74,80]. Tuy nhiên,
các nghiên cứu này lại không đề cập đến bản chất của XKBV là đảm bảo chất
lượng tăng trưởng như giá trị gia tăng của xuất khẩu, sức cạnh tranh của hàng hóa
xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu xét theo hướng nâng cao chất lượng
tăng trưởng...
Như vậy, cả trong nước và ở nước ngoài chưa có công trình chuyên sâu
nào đi sâu nghiên cứu về phát triển xuất khẩu bền vững, chưa đưa ra được các nội
dung và tiêu chí đánh giá mức độ bền vững của hoạt động xuất khẩu và kiểm định
chính sách liên quan đến phát triển xuất khẩu bền vững trong bối cảnh hội nhập
quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt, tính bền vững về mặt xã hội của hoạt động xuất
khẩu ít được đề cập trong các nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận án là làm rõ bản chất của xuất khẩu
bền vững và vận dụng đối với hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam nhằm góp phần
phát triển xuất khẩu nước ta theo hướng bền vững trong điều kiện HNKTQT.
Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ của luận án là:
- Hệ thống hoá và phát triển một số lý thuyết về PTBV ứng dụng đối với
hoạt động xuất khẩu;
- Đưa ra các nội dung và tiêu chí đánh giá phát triển xuất khẩu bền vững;
- Đánh giá hoạt động xuất khẩu theo các tiêu chí PTBV ở Việt Nam từ năm
1995-2008;
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp phát triển xuất khẩu bền vững ở
Việt Nam trong quá trình HNKTQT.
14
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tính bền vững của hoạt động xuất
khẩu, tức là hoạt động xuất khẩu được xem xét theo các mặt, tiêu chí của PTBV,
tập trung vào ba mặt chủ yếu là kinh tế, xã hội và môi trường. Xuất khẩu bền
vững là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học như kinh tế đối ngoại,
kinh tế phát triển, kinh tế môi trường…, tuy nhiên trong luận án này, XKBV
được nghiên cứu dưới giác độ kinh tế chính trị, tức là xem xét hoạt động xuất
khẩu như là cơ sở để phát triển kinh tế và giải quyết các quan hệ kinh tế có liên
quan như phân phối thu nhập, việc làm, chia sẻ lợi ích thương mại, lợi ích môi
trường… Khía cạnh kinh tế chính trị của luận án còn được thể hiện ở những quan
điểm và giải pháp mang tính định hướng chính sách mà nó đưa ra.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án chỉ nghiên cứu xuất khẩu hàng hoá, không nghiên
cứu xuất khẩu dịch vụ. Nghiên cứu sự bền vững của hoạt động xuất khẩu nói
chung, không đi sâu nghiên cứu chi tiết ở các ngành hàng xuất khẩu cụ thể.
Không nghiên cứu các giải pháp mang tính kỹ thuật, chủ yếu là các quan điểm và
các giải pháp mang tính định hướng chính sách phát triển XKBV.
Về không gian: Xuất khẩu trên phạm vi cả nước. Có nghiên cứu kinh
nghiệm phát triển XKBV của hai nước Trung Quốc và Thái Lan. Xuất khẩu bền
vững ở Việt Nam được nghiên cứu gắn với PTBV trên phạm vi toàn cầu trong
bối cảnh toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về thời gian: Giai đoạn nghiên cứu là từ năm 1995 - 2008. Đây là giai
đoạn Việt Nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, giai đoạn đẩy mạnh xuất khẩu
để tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn này được khắc họa bởi những mốc thời gian
quan trọng trong nỗ lực hội nhập KTQT của nước ta như: năm 1995 Việt Nam
tham gia ASEAN; năm 2001: ký hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, năm
2007: Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Thời gian của giai đoạn này là
đủ dài để đánh giá tính bền vững của xuất khẩu của một nước. Một số sự kiện
15
được tác giả miêu tả trong những tháng đầu năm 2009 là để cập nhật hơn thông
tin, đặc biệt là những thông tin diễn biến mới nhất về khủng hoảng tài chính thế
giới và suy thoái kinh tế toàn cầu liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Căn cứ vào đối
tượng nghiên cứu của luận án thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị, luận án sử
dụng phương pháp này để làm rõ bản chất của xuất khẩu bền vững, tức là làm rõ
mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng và ổn định
kinh tế, bảo vệ môi trường, giải quyết vấn đề xã hội trong tiến trình hội nhập
KTQT của Việt Nam.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: PTBV nói chung và xuất khẩu nói riêng
là một hệ thống gắn kết hữu cơ và sự kết hợp hài hòa của các mặt kinh tế, xã hội,
môi trường. Phương pháp tiếp cận hệ thống giúp khắc phục cách nhìn một chiều,
phiến diện, từng mặt riêng rẽ của xuất khẩu bền vững.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế
mang tính liên ngành, liên quốc gia. Phát triển bền vững chứa đựng các mặt khác
nhau là kinh tế, xã hội, môi trường. Vì vậy, XKBV chứa đựng các nội dung mang
tính liên ngành, đa lĩnh vực. Do đó, để làm rõ bản chất của XKBV, cách tiếp
nghiên cứu là gắn kết các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các ngành/lĩnh
vực liên quan đến hoạt động xuất khẩu.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình (tiếp cận điểm - case studies): hoạt
động xuất khẩu bao gồm nhiều ngành/lĩnh vực có ảnh hưởng khác nhau đến
XKBV. Do đó luận án lựa chọn một số ngành để nghiên cứu và chủ yếu tập trung
vào các khía cạnh liên quan đến XKBV. Chẳng hạn, có nhiều ngành xuất khẩu
ảnh hưởng đến môi trường, luận án chỉ lựa chọn những ngành có tác động nổi trội
nhất là nuôi tôm, khai thác khoáng sản, hoạt động của các khu chế xuất. Phương
16
pháp nghiên cứu này là phù hợp với đối tượng nghiên cứu của luận án dưới góc
độ kinh tế chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để thu thập thông tin về
cơ sở lý luận, các công trình nghiên cứu trước đây, chủ trương chính sách của
Đảng và Chính phủ về XKBV, kinh nghiệm các nước, các số liệu thống kê...
- Phương pháp so sánh, đối chứng và dự báo để tiến hành đánh giá hiện
trạng, dự báo xu thế xuất khẩu nước ta trong giai đoạn tới trong mối quan hệ với
tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và xử lý các vấn đề xã hội. Để xem xuất
khẩu ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu có bền vững hay không, phải so
sánh, đối chứng với các tiêu chí đưa ra, so sánh các chỉ tiêu PTBV của Việt Nam
với các nước. Sử dụng phương pháp dự báo để dự báo bối cảnh và các nhân tố
ảnh hưởng đến XKBV trong thời gian tới như xu thế tự do hóa thương mại, biến
đổi môi trường, khủng hoảng tài chính hiện nay...
- Kết hợp phương pháp phân tích định tính với phân tích định lượng để làm
rõ hơn tính bền vững của xuất khẩu nước ta trong giai đoạn 1995-2008. Phương
pháp phân tích định tính là làm rõ bản chất của XKBV. Sử dụng phương pháp
phân tích định lượng để kiểm chứng các nhận định đã được đưa ra. Chẳng hạn,
phương pháp phân tích định lượng có thể chỉ ra một cách chính xác đóng góp của
xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế.
- Áp dụng kỹ thuật tin học để quản lý dữ liệu, phương tiện tính toán, xây
dựng mô hình XKBV.
6. Những đóng góp mới của luận án
Luận án có một số đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn sau đây:
- Góp phần phát triển lý thuyết phát triển bền vững và ứng dụng đối với
hoạt động xuất khẩu. Luận án đã đưa ra khái niệm mới “xuất khẩu bền vững” với
các nội dung và tiêu chí đánh giá. Lý thuyết về XKBV là cơ sở để kiểm định
chính sách phát triển xuất khẩu, đánh giá thực tiễn hoạt động xuất khẩu theo các
nội dung và tiêu chí PTBV. Mô hình phân tích XKBV có thể ứng dụng đối với
17
các ngành kinh tế khác. Đây là một hướng nghiên cứu mới chưa được chú trọng ở
Việt Nam.
- Làm rõ tính bền vững của hoạt động xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn
1995 - 2008 theo các tiêu chí phát triển bền vững. Cụ thể là đưa ra các nhận định
bước đầu về thực trạng xuất khẩu ở nước ta theo hướng phát triển bền vững trên
các khía cạnh như nhịp độ và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu; đóng góp của
xuất khẩu vào tăng trưởng và ổn định kinh tế; giải quyết các vấn đề xã hội và môi
trường.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp mang tính định hướng chính sách
nhằm phát triển xuất khẩu bền vững ở Việt Nam trong giai đoạn tới. Những đề
xuất này góp phần nâng cao hiệu quả hoạch định chính sách phát triển xuất khẩu
bền vững ở nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Kết quả luận án
cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng mô hình tăng trưởng xuất khẩu
bền vững, xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển xuất khẩu của Việt Nam
trong giai đoạn 2011-2020.
7. Bố cục của luận án
Ngoài các trang bìa, mục lục, danh mục bảng, hình và biểu đồ, danh mục
chữ viết tắt, mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan
đến luận án, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận án được bố cục với kết cấu
03 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về xuất khẩu bền vững
Chương 2: Thực trạng phát triển xuất khẩu bền vững ở Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp phát triển xuất khẩu bền vững ở
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
18
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XUẤT KHẨU BỀN VỮNG
1.1 TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1.1 Khái niệm về phát triển bền vững
Phát triển là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành
khác nhau như kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, văn hoá v.v… Mục tiêu của
phát triển là nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của con người; làm cho
con người ít phụ thuộc vào thiên nhiên; tạo lập cuộc sống công bằng và bình đẳng
giữa các thành viên. Tuy nhiên, trong một thời gian khá dài, người ta thường đặt
mục tiêu kinh tế quá cao, xem sự tăng trưởng về kinh tế là độ đo duy nhất của sự
phát triển.
Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, sự gia tăng nhanh dân số thế giới trong
những thập niên vừa qua và các tác động của chúng đến môi trường trái đất đã
dẫn loài người đến việc xem xét và đánh giá các mối quan hệ: con người - trái
đất, phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường. Ngày nay, con người đã biết
nguồn tài nguyên của trái đất không phải là vô tận, không thể khai thác hoặc
thống trị theo ý mình; khả năng đồng hoá chất thải của môi trường trái đất là có
giới hạn nên con người cần thiết phải sống hài hoà với tự nhiên; sự cần thiết phải
tính đến lợi ích chung của cộng đồng, của các thế hệ tương lai và các chi phí môi
trường cho sự phát triển v.v... Bên cạnh đó, cần thiết phải đảm bảo một môi
trường sống lành mạnh để con người tự do phát huy khả năng của mình, được
chia sẻ lợi ích một cách bình đẳng, đảm bảo các quyền được sống, làm việc và
mưu cầu hạnh phúc… Tất cả các yêu cầu trên dẫn đến sự ra đời một quan niệm
sống mới: “phát triển bền vững”.
Thuật ngữ "phát triển bền vững" lần đầu tiên được sử dụng trong bản báo
cáo “Chiến lược bảo tồn Thế giới” (Word Conservation Strategy) do Ủy ban Bảo
tồn và Thiên nhiên Thế giới (IUCN) đề xuất năm 1980 với nội dung khá đơn
19
giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế
mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi
trường sinh thái" [83].
Khái niệm PTBV được phổ biến rộng rãi nhất hiện nay được đưa ra năm
1987 trong báo cáo của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED với
tiêu đề “Tương lai của chúng ta - Our Common Futur”. Báo cáo nêu rõ: “Phát
triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà
không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai” [83].
Định nghĩa PTBV này có nội dung bao quát, không bị gò bó bởi những
chuẩn mực hoặc quy tắc đã định sẵn, có thể dễ dàng áp dụng vào điều kiện thực
tế trong mọi hoàn cảnh của mỗi quốc gia, mỗi vùng, lãnh thổ. Vì vậy, khái niệm
PTBV này được nhiều nước chấp nhận.
Khái niệm này sau đó được được bổ sung và hoàn chỉnh trong Hội nghị
Rio-92, Rio- 92+5, Johannesburg 2002, văn kiện và công bố của các tổ chức quốc
tế. Phát triển bền vững được hình thành trong sự hoà nhập, đan xen và thoả hiệp
nhau của ba hệ thống tương tác lớn của thế giới: hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ xã
hội. Hiện nay, nhiều lý thuyết và mô hình phát triển bền vững được đưa ra trên cơ
sở nội dung phát triển bền vững nói trên, trong đó người ta bổ sung thêm các yếu
tố khác như văn hóa, tôn giáo, chính trị, công nghệ... Tuy nhiên, hạt nhân của sự
phát triển bền vững là sự hài hòa giữa ba mặt: kinh tế, xã hội, môi trường.
Có thể khái quát một số đặc trưng chủ yếu về PTBV như sau:
Thứ nhất, phát triển bền vững khác với phát triển truyền thống (xem bảng
1.1). Sự khác biệt này thể hiện ở sự kết hợp hài hòa các mục tiêu kinh tế, xã hội,
môi trường. Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm sự phát triển kinh
tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ.
20
Bảng 1.1 Những thay đổi khác biệt từ phát triển đến phát triển bền vững
Nội dung Phát triển Phát triển bền vững
Mục đích Của cải vật chất/ hàng hóa Con người
Điều kiện cơ bản Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên con người
Chủ thể quản lý Một chủ thể (Nhà nước) Nhiều chủ thể
Quan hệ với TN Khai thác/cải tạo tự nhiên
Bảo tồn/sử dụng hợp lý tự nhiên
Giới Nam quyền Bình đẳng nam, nữ
Tính chất Kinh tế truyền thống Kinh tế tri thức
Nguồn: Trương Quang Học (2008), Từ phát triển đến phát triển bền vững nhìn từ góc độ giáo
dục và nghiên cứu khoa học [72].
Cách tiếp cận Đơn ngành/Liên ngành thấp Liên ngành cao, quốc tế
Thứ hai, mục tiêu của PTBV là vì con người. Con người là trung tâm của
mối quan tâm lâu dài của sự phát triển. Sự phát triển của các thế hệ hiện tại
không làm tổn hại đến sự phát triển của các thế hệ tương lai mà phải tạo điều kiện
để các thế hệ tiếp nối thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của họ.
Thứ ba, PTBV không phải là một vấn đề kỹ thuật cần giải quyết, mà là một
tầm nhìn vào tương lai, đảm bảo một lộ trình thích hợp, tập trung chú ý vào một
tập hợp có giá trị và những nguyên tắc mang tính lý luận về đạo đức để hướng
dẫn hành động.
Thứ tư, PTBV là một quá trình lâu dài, bao gồm nhiều giai đoạn khác
nhau, từ thấp lên cao. Mức độ phát triển bền vững được đặt ra khác nhau trong
những điều kiện khác nhau. Trong nhiều trường hợp phải chấp nhận sự đánh đổi
(trade off ) giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường, đánh đổi mục tiêu này
để đạt được mục tiêu khác. Tuy nhiên, cần xây dựng chiến lược phát triển để cân
bằng các mục tiêu PTBV trong dài hạn. Hiểu biết một cách sâu sắc khái niệm
21
đánh đổi sẽ có cách tiếp cận đúng đắn (tiếp cận liên ngành) trong những quyết
định liên quan tới PTBV.
Hình 1.1 xem xét sự thay đổi cách tiếp cận về sự kết hợp giữa các trụ cột
của PTBV. Từ trái sang phải là (i) mô hình PTBV trên lý thuyết (ii) mô hình
thực tế và (iii) sự thay đổi để có sự hài hòa giữa ba trụ cột của sự phát triển.
Trong mô hình lý thuyết, ba trụ cột được kết hợp hài hòa. Mô hình thực tiễn cho
thấy quá trình phát triển phải đánh đổi môi trường, xã hội để đạt được mục tiêu
tăng trưởng kinh tế. Mô hình tiếp theo là cần phải tạo ra sự cân bằng mới, cụ thể
là phải điều chỉnh mục tiêu kinh tế để phục hồi và phát triển yếu tố môi trường,
Kinh tế
Xã hội
Xã hội
Kinh tế
Kinh tế
Môi trường
Môi trường
Môi trường
Thực tiễn
Lý thuyết
Sự thay đổi cần thiết
xã hội.
Ba trụ cột của phát triển bền vững: Từ trái sang, lý thuyết, thực tế và sự thay đổi cần thiết để đạt đƣợc mô hình cân bằng tốt hơn
Xã hội
Hình 1.1 Sơ đồ phát triển bền vững:
Theo lý thuyết, Thực tiễn và Cần thay đổi (IUCN, 2004)
Quan điểm phát triển bền vững khoa học khác với các quan điểm phát triển
coi trọng mặt này hay mặt khác của PTBV. Hiện nay, về mặt lý thuyết, người ta
công nhận mô hình PTBV, nhưng trên thực tế, nhiều người vẫn tôn sùng quan
điểm ưu tiên cho mục tiêu kinh tế [25]. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi
mà cuộc chạy đua phát triển giữa các quốc gia, giữa các khu vực kinh tế của thế
22
giới diễn ra ngày càng gay gắt, khốc liệt, thì khuynh hướng “phát triển với bất cứ
giá nào” vẫn được tôn sùng trên thực tế, đặc biệt là ở các nước đang phải đối đầu
với nghèo đói, lạc hậu, kinh tế chậm phát triển. Người ta dễ có khuynh hướng hy
sinh môi trường và các yếu tố khác cho phát triển kinh tế. Những người quá sốt
ruột trước tình trạng lạc hậu, kém phát triển của nước mình thường lập luận rằng
“cứ phát triển kinh tế đã rồi sẽ tính sau”. Đây là quan điểm “Làm bẩn -Làm giàu -
Làm sạch”, tức là giải quyết vấn đề môi trường sau khi đã đạt được trình độ phát
triển nhất định về kinh tế [28,tr.32].
Ngược lại với khuynh hướng trên là khuynh hướng “tăng trưởng bằng
không hoặc âm” (Zero or Negative Growth) để bảo vệ các nguồn tài nguyên hữu
hạn, hoặc “chủ nghĩa bảo vệ” chủ trương không can thiệp vào các nguồn tài
nguyên sinh học để bảo vệ chúng hay “chủ nghĩa bảo tồn” (Conservation) chủ
trương không đụng chạm vào thiên nhiên, nhất là tại các địa bàn chưa được điều
tra, nghiên cứu đầy đủ. Tất cả những khuynh hướng, quan điểm trên đều là không
tưởng, đặc biệt đối với các nước đang và kém phát triển, nơi mà tài nguyên thiên
nhiên là nguồn vốn cơ bản cho mọi hoạt động phát triển của con người [25].
Một quan điểm khác đang gây tranh luận hiện nay là mối quan hệ giữa phát
triển bền vững và phát triển đồng đều (công bằng) [51,41]. Quan điểm này thể
hiện bất đồng của hai nhóm nước là phát triển và đang phát triển trong việc chia
sẻ lợi ích thương mại và lợi ích môi trường giữa chúng. Các nước phát triển cho
rằng, nguyên nhân xuống cấp môi trường toàn cầu là do sự phát triển nóng, gia
tăng dân số ở các nước đang phát triển. Ngược lại, các nước đang phát triển lập
luận rằng suy thoái môi trường toàn cầu, đói nghèo có nguyên nhân từ việc bất
bình đẳng trong thương mại quốc tế. Do vậy, vấn đề phát triển bền vững chỉ có
thể giải quyết trên cơ sở phát triển công bằng, chia sẻ một cách bình đẳng lợi ích
giữa các nước. Quan điểm này bổ sung cho cách tiếp cận mới trong PTBV: tiếp
cận liên quốc gia (quốc tế).
23
1.1.2 Nội dung và các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển dựa trên sự giải quyết hài hoà mối quan
hệ kinh tế - xã hội - môi trường, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa tự
nhiên và con người. Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng
kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử
dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường
sống.
1.1.2.1 Phát triển bền vững về kinh tế
Kinh tế phát triển bền vững là một nền kinh tế tăng trưởng liên tục, ổn
định, có cơ cấu hợp lý, chuyển dịch theo hướng tiến bộ, đáp ứng được nhu cầu
ngày càng cao của người dân, tránh được suy thoái và đình trệ trong tương lai,
tránh để lại gánh nợ cho các thế hệ mai sau. Phát triển kinh tế bền vững còn
phải đảm bảo không gây ra sự suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ô
nhiễm môi trường.
Độ đo kinh tế của sự phát triển bền vững về kinh tế được tính trên giá trị
GDP hoặc GNP. Tuy nhiên, chỉ số này không tính đến sự suy giảm chất lượng
môi trường và suy thoái tài nguyên thiên nhiên. Từ GNP người ta đưa ra chỉ số
SNP (tổng sản phẩm quốc dân bền vững) hoặc chỉ số SNI (tổng thu nhập quốc
dân bền vững). Để tính được SNP hoặc SNI phải sử dụng các nguyên tắc quản lý
môi trường, người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP) hoặc người sử dụng môi
trường phải trả tiền (UPP).
Một số tổ chức quốc tế và quốc gia đã đưa ra bộ chỉ tiêu phát triển kinh tế
bền vững. Chẳng hạn, Hội Đồng Phát triển bền vững Liên Hợp Quốc và một số tổ
chức quốc tế khác đã đưa ra các chỉ tiêu phát triển bền vững về kinh tế gồm (1)
các chủ đề như công bằng, mẫu hình sản xuất và tiêu dùng (2) các chủ đề nhánh:
Hiện trạng kinh tế, tình trạng tài chính, tiêu dùng vật chất, sử dụng năng lượng,
xã thải và quản lý xã thải, giao thông vận tải và (3) các chỉ tiêu: GDP bình quân
24
đầu người, Tỷ lệ đầu tư trong GDP, Cán cân thương mại hàng hóa và dịch vụ, Tỷ
lệ nợ trong GDP, tổng viện trợ ODA hoặc nhận viện trợ ODA so với GNP, Mức
độ sử dụng vật chất, tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người, Tỷ lệ tiêu dùng
năng lượng có thể tái sinh, Mức độ sử dụng năng lượng, Xả thải rắn của công
nghiệp và đô thị, Chất thải nguy hiểm, Chất thải phóng xạ…[5,tr.61]. Bộ chỉ số
này được mô tả tại phụ lục 1.
Việt Nam cũng đã xây dựng các chỉ tiêu phát triển kinh tế bền vững. Theo
đó, các chỉ tiêu phát triển bền vững về kinh tế được xây dựng theo 6 nhóm chỉ
tiêu, được mô tả chi tiết tại phụ lục 2 [5,tr.153].
Nhóm 1 là các chỉ tiêu tăng trưởng của nền kinh tế như tốc độ tăng sản
phẩm quốc nội GDP; tốc độ giá trị tăng thêm của các ngành công nghiệp và xây
dựng, nông, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ.
Nhóm 2 là các chỉ tiêu về cơ cấu kinh tế như tỷ trọng các ngành trong
GDP, tỷ trọng các khu vực kinh tế.
Nhóm 3 là các chỉ tiêu liên quan đến các cân đối lớn trong nền kinh tế như
tích lũy và tiêu dùng; GDP bình quân đầu người; tiêu dùng bình quân đầu người;
tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách; tỷ lệ đầu tư, thu chi nhân sách.
Nhóm 4 là các chỉ tiêu về sản xuất công nghiệp: Tốc độ tăng giá trị sản
xuất công nghiệp; Cơ cấu sản xuất trong các ngành công nghiệp; Tỷ lệ giá trị các
sản phẩm sản xuất trong các doanh nghiệp công nghệ cao và công nghệ sạch
trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp; Tốc độ đổi mới công nghệ trong sản xuất
công nghiệp theo hướng PTBV (công nghệ sạch, công nghệ cao); Khối lượng sản
xuất một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu như năng lượng, khai khoáng, vật liệu
xây dựng, sản phẩm chế biến, chế tạo máy móc, thiết bị…
Nhóm 5 là các chỉ tiêu về sản xuất nông nghiệp: Tốc độ tăng giá trị sản
xuất nông lâm ngư nghiệp; Cơ cấu sản xuất trong các ngành nông lâm ngư
nghiệp; Tỷ lệ giá trị các sản phẩm sản xuất bằng các phương pháp công nghệ sinh
25
học và công nghệ sạch trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp; Tốc độ đổi mới và
áp dụng quy trình công nghệ, quy trình sản xuất nông lâm ngư nghiệp theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Khối lượng sản xuất một số sản phẩm nông, lâm
ngư nghiệp chủ yếu như tổng sản lượng lương thực có hạt, sản lượng lương thực
bình quân đầu người, các sản phẩm cây công nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản…
Nhóm 6 là các chỉ tiêu của ngành dịch vụ: Tốc độ tăng trưởng giá trị các
ngành dịch vụ, Khối lượng vận chuyển, luân chuyển hàng hoá, hành khách, giá trị
doanh thu vận tải, Tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hoá, dịch vụ trên thị trường,
Giá trị kim ngạch xuất khẩu, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, Tỷ trọng các mặt
hàng xuất khẩu đã qua chế biến, Giá trị kim ngạch nhập khẩu, cơ cấu các mặt
hàng nhập khẩu.
1.1.2.2 Phát triển bền vững về môi trường
Phát triển bền vững về môi trường là sự phát triển bảo đảm tính bền vững
của các hệ sinh thái, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có các biện pháp để
cải thiện và quản lý môi trường.
Độ đo môi trường của sự phát triển bền vững có thể đánh giá thông qua
chất lượng các thành phần môi trường không khí, nước, đất, sinh thái; mức độ
duy trì các nguồn tài nguyên tái tạo; việc khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn
tài nguyên không tái tạo; nguồn vốn của xã hội dành cho các hoạt động bảo vệ
môi trường; khả năng kiểm soát của chính quyền đối với các hoạt động kinh tế xã
hội, tiềm ẩn các tác động tiêu cực đối với môi trường, ý thức bảo vệ môi trường
của người dân v.v...
Để đo mức độ bền vững về môi trường của sự phát triển người ta dùng các
chỉ số như mức độ ô nhiễm môi trường đất, không khí, nước, mức độ suy giảm đa
dạng sinh học, diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng...
Hội Đồng Phát triển bền vững LHQ và một số tổ chức quốc tế khác đã đưa
ra các chỉ tiêu phát triển bền vững về môi trường với mục tiêu xây dựng một bộ
26
tiêu chuẩn PTBV thống nhất trên thế giới nhằm thúc đẩy việc triển khai hiện thực
hoá PTBV một cách khả thi ở mỗi quốc gia và toàn cầu (xem phụ lục 3). Tổ chức
này đã đưa ra 21 nhóm chỉ tiêu về bền vững về môi trường như chất lượng không
khí, đa dạng sinh học, đất, chất lượng nước, trữ lượng nước, giảm ô nhiễm không
khí, giảm sức ép lên hệ sinh thái, giảm áp lực dân số, giảm sức ép tiêu thụ và xả
thải, giảm sức ép lên nguồn nước, quản lý tài nguyên, sự lành mạnh của môi
trường, nguồn sống cơ bản của con người, giảm rủi ro môi trường và thiệt hại do
thiên tai, quản lý môi trường, hiệu quả sinh thái, phản ứng của khu vực tư nhân,
khoa học công nghệ, khả năng tham gia vào hợp tác quốc tế, sự tham gia của khu
vực tư nhân, mức phát thải khí thải nhà kính, giảm áp lực lên môi trường toàn cầu
[5,tr.57].
Bộ chỉ thị, chỉ số PTBV về lĩnh vực tài nguyên và môi trường của Việt
Nam đã được các nhà khoa học và quản lý môi trường quan tâm nghiên cứu trong
khoảng 10 năm trở lại đây. Năm 1998, Bộ chỉ thị được Cục Môi trường ban hành
thử nghiệm gồm 44 chỉ thị, trong đó: Môi trường đất có 7 chỉ thị; nước trên lục
địa có 5 chỉ thị; nước biển có 4 chỉ thị; không khí có 6 chỉ thị; chất thải rắn có 3
chỉ thị; đa dạng sinh học có 11 chỉ thị và sự cố môi trường có 8 chỉ thị. Ngoài ra,
lĩnh vực quản lý môi trường cũng được đề xuất bộ chỉ thị gồm 16 chỉ thị
[5,tr.167].
Trong khuôn khổ dự án hỗ trợ xây dựng Agenda 21 của Việt Nam đã được
triển khai tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bộ chỉ thị PTBV về tài nguyên và môi
trường được đề xuất gồm 11 chỉ thị. Năm 2003 Hội Liên hiệp các Hội Khoa học
và kỹ thuật Việt Nam đề xuất bộ chỉ thị PTBV về tài nguyên và môi trường gồm
17 chỉ thị, và bộ chỉ thị rút gọn gồm 10 chỉ thị. Một số kết quả nghiên cứu điển
hình được triển khai sau đó, bao gồm: Viện Môi trường và PTBV đề xuất bộ chỉ
thị về môi trường gồm 09 chỉ thị; Dự án VIE/01/21 đề xuất 05 chỉ thị và gần nhất
là nhóm tác giả của Viện nghiên cứu chiến lược PTBV đề xuất Bộ 12 chỉ thị ở
cấp quốc gia và 7 chỉ thị ở cấp địa phương.
27
Như vậy, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có bộ chỉ số, chỉ thị PTBV
thống nhất áp dụng cho lĩnh vực tài nguyên và môi trường. Các kết quả nghiên
cứu đề xuất đã có những sự khác biệt khá lớn về: số lượng các vấn đề tài nguyên
và môi trường quan tâm và số lượng các chỉ thị áp dụng. Ngoài ra, các yêu cầu
đánh giá cho từng vấn đề tài nguyên và môi trường quan tâm cũng có những quan
điểm tiếp cận nghiên cứu khá khác nhau.
Nhằm khắc phục những khác biệt đang còn tồn tại, Văn phòng PTBV đã
phối hợp với Trung tâm Công nghệ Môi trường (ENTEC) và các cơ quan liên
quan, các nhà khoa học xây dựng bản dự thảo về bộ chỉ số, chỉ chị và thông số
đánh giá tính bền vững về Tài nguyên - Môi trường tại Việt Nam. Phụ lục 4 là dự
thảo bộ chỉ thị về tài nguyên và môi trường Việt Nam.
1.1.2.3 Phát triển bền vững về xã hội
Xã hội phát triển bền vững là một xã hội mà trong đó nền kinh tế phát
triển, chất lượng cuộc sống tinh thần được nâng cao không ngừng, chất lượng
môi trường sống được đảm bảo. Sự công bằng của người dân trong việc có
quyền lao động, đảm bảo các quyền lợi khác về kinh tế, chính trị, xã hội.
Để đo mức độ bền vững về xã hội của sự phát triển người ta dùng chỉ số về
phát triển con người (HDI), chỉ số tự do HFI), mức độ tăng trưởng việc làm, thu
nhập, tình hình cung cấp dịch vụ y tế, số học sinh tiểu học phổ cập...
Hội Đồng Phát triển bền vững LHQ và một số tổ chức quốc tế khác đã đưa
ra các chỉ tiêu phát triển bền vững về xã hội bao gồm các chủ đề, các chủ đề
nhánh và các chỉ tiêu cụ thể. Có các nhóm chủ đề như công bằng, y tế, giáo dục,
nhà ở an ninh và dân số. Phụ lục 5 thể hiện các chỉ tiêu phát triển bền vững về xã
hội của Liên hiệp quốc [5,tr.54].
Việt Nam cũng đã xây dựng các chỉ tiêu phát triển về xã hội gồm 05 nhóm
chỉ tiêu là: xóa đói, giảm nghèo, lao động và việc làm, phổ cập giáo dục, khoa
học và công nghệ, y tế, văn hóa, xã hội [5,tr.160]. Các tiêu chí đánh giá tính bền
vững về xã hội của Việt Nam được thể hiện chi tiết tại phụ lục 6.
28
1.1.3 Các mô hình phát triển bền vững
Để làm rõ thêm bản chất, nội dung và các tiêu chí đánh giá phát triển bền
vững, dưới đây sẽ giới thiệu một số mô hình phát triển bền vững đang được áp
dụng tương đối phổ biến ở các nước, nhất là các nước phát triển.
1.1.3.1. Mô hình phát triển bền vững của Jacobs và Sadler (1990)
Theo mô hình này, phát triển bền vững là kết quả của các tương tác qua lại
và phụ thuộc lẫn nhau của ba hệ thống chủ yếu của thế giới: Hệ thống tự nhiên
(bao gồm các hệ sinh thái tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, các thành phần môi
trường của trái đất); Hệ thống kinh tế (hệ sản xuất và phân phối sản phẩm); Hệ
thống xã hội (quan hệ của con người trong xã hội) [35,tr.60].
Hình 1.2 Tƣơng tác giữa ba hệ thống Tự nhiên - Kinh tế - Xã hội
và Phát triển bền vững
Trong mô hình trên, sự phát triển bền vững không cho phép vì sự ưu tiên
của hệ này dễ gây ra sự suy thoái và tàn phá đối với một hệ khác hay phát triển
bền vững là sự dung hoà các tương tác và thoả hiệp của ba hệ thống chủ yếu trên.
1.1.3.2 Mô hình phát triển bền vững của UNCED (1993)
Mô hình này thể hiện quan hệ giữa kinh tế, xã hội và môi trường theo
thời gian và không gian, nhấn mạnh tới các mục tiêu: kinh tế - mục tiêu xã hội
29
- mục tiêu môi trường thay cho các hệ: kinh tế - xã hội - môi trường. Mục tiêu
kinh tế trong mô hình này là nâng cao thu nhập của người dân, các ngành kinh
tế và GDP, GNP. Mục tiêu xã hội là thoả mãn các nhu cầu về văn hoá, vật
chất, tinh thần của mọi người dân và các cộng đồng dân cư. Mục tiêu môi
trường là giữ lâu dài cân bằng của các hệ sinh thái nuôi dưỡng sự sống
[35,tr.61].
Hình 1.3 Quan hệ thời gian và không gian của các hệ Kinh tế - Xã hội -
Môi trƣờng
Mô hình này thể hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, môi trường theo thời
gian và không gian. Tuy nhiên mô hình này không thể hiện rõ sự tương tác, tính
liên kết của các mục tiêu PTBV.
1.1.3.3 Mô hình của Uỷ ban thế giới về Môi trường và Phát triển
(WCED)
Mô hình này tập trung trình bày quan niệm về phát triển bền vững trong
các lĩnh vực cụ thể kinh tế, chính trị, xã hội, hành chính, công nghệ, sản xuất và
quốc tế (hình 1.2) [35,tr.62]. Phát triển bền vững theo mô hình này là sự dung
hòa, đan xen lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, sản xuất, chính trị, công
30
nghệ. Như vậy, mô hình phát triển bền vững của WCED đã mở rộng các lĩnh vực
cũng như cụ thể hóa một số lĩnh vực phát triển bền vững.
Hình 1.4 Mô hình phát triển bền vững của WCED 1987
Về thực chất, mô hình này là sự cụ thể hóa mô hình tổng quát về PTBV. Mô
hình này cho thấy phát triển bền vững phải đảm bảo sự hài hòa giữa nhiều yếu tố,
trong đó có các yếu tố như chính trị, hành chính, công nghệ. Phát triển bền vững của
một quốc gia phải được xem xét trong sự phát triển bền vững của thế giới, chịu tác
động bởi các yếu tố mang tính quốc tế.
1.1.3.4 Mô hình phát triển bền vững của Ngân hàng thế giới
Theo mô hình này, phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển kinh tế xã
hội để đạt được đồng thời các mục tiêu kinh tế (tăng trưởng kinh tế, công bằng
trong phân phối thu nhập, hiệu quả kinh tế của sản xuất cao), mục tiêu xã hội
(công bằng và dân chủ trong quyền lợi và nghĩa vụ xã hội), mục tiêu sinh thái
(đảm bảo cân bằng sinh thái và bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên nuôi dưỡng con
người) [35,tr.63].
31
Mục tiêu kinh tế
Phát triển bền vững
Mục tiêu xã hội
Mục tiêu sinh thái
Hình 1.5 Mô hình phát triển bền vững của Ngân hàng thế giới
Mô hình này đề cập đến mục tiêu của phát triển bền vững. Các mục tiêu được
cụ thể hóa trong 3 lĩnh vực chính là kinh tế, xã hội, môi trường. Đây có thể coi là mô
hình tổng quát, phù hợp cho việc đưa ra các mục tiêu phát triển bền vững, thuận lợi
cho việc xây dựng chương trình PTBV của nền kinh tế nói chung và các lĩnh vực nói
riêng.
1.1.3.5 Mô hình phát triển bền vững của Việt Nam
Theo mô hình này phát triển bền vững là vấn đề cốt lõi, trung tâm của sự
phối hợp một cách hài hoà cả ba mặt tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường [5,tr.44].
Bảo vệ môi trƣờng
Tăng trƣởng kinh tế
Phát triển bền vững vững
Công bằng xã hội
Hình 1.6 Mô hình phát triển bền vững của Việt Nam
32
Mô hình PTBV của Việt Nam là sự kết hợp giữa mô hình 1.1 và mô hình
1.4. PTBV là sự kết hợp hài hòa giữa ba mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi
trường và công bằng xã hội. Đây là một sự cụ thể hóa phù hợp với mục tiêu phát
triển của Việt Nam là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Tóm lại, các mô hình phát triển bền vững rất đa dạng và phong phú, được
thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, hạt nhân của các mô hình
nói trên là sự hài hòa của ba nhân tố chính là kinh tế, xã hội, môi trường. Phát
triển bền vững theo các mô hình nói trên là sự phát triển đảm bảo tăng trưởng
kinh tế ổn định, cải thiện cuộc sống của người dân, đảm bảo các quyền của con
người và hướng tới một môi trường tự nhiên được bảo tồn và phát triển.
1.2 XUẤT KHẨU BỀN VỮNG: KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, NỘI DUNG VÀ CÁC TIÊU
CHÍ ĐÁNH GIÁ
1.2.1 Khái niệm và vai trò của xuất khẩu bền vững
1.2.1.1 Khái niệm XKBV
Vận dụng lý thuyết phát triển bền vững đối với lĩnh vực xuất khẩu, theo tác
giả luận án, xuất khẩu bền vững là sự duy trì nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao
và ổn định, chất lượng tăng trưởng xuất khẩu ngày càng được nâng cao, góp
phần tăng trưởng và ổn định kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường.
Theo định nghĩa này, XKBV là sự kết hợp hài hòa hai nội dung. Nội dung
thứ nhất duy trì nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao và ổn định, đảm bảo chất
lượng tăng trưởng được nâng cao. Nội dung thứ hai là đảm bảo yêu cầu về sự hài
hòa giữa các mặt của PTBV: kinh tế, xã hội, môi trường (xem hình 1.7, trang 45).
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động kinh tế nói chung, do đó phát
triển xuất khẩu bền vững cũng giống như phát triển kinh tế bền vững phải duy trì
được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục, đảm bảo chất lượng tăng trưởng trên cơ
sở tăng giá trị gia tăng xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng hiện
33
đại, sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu ngày càng được nâng cao. Tăng
trưởng xuất khẩu không liên tục, chứa đựng nhiều rủi ro tăng trưởng khi có biến
động lớn do cơ cấu không hợp lý, sức cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu yếu kém,
sụt giảm tốc độ xuất khẩu gây nên bất ổn kinh tế vĩ mô... thì không thể coi là
XKBV.
Xuất khẩu bền vững phải đáp ứng yêu cầu về sự hài hòa của PTBV: kinh
tế, xã hội, môi trường. Xuất khẩu tăng trưởng cao và liên tục, chất lượng được
nâng cao nhưng xuất khẩu chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên, làm cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, tức là đánh đổi môi trường để có
được thành tích xuất khẩu cao thì không thể coi là xuất khẩu bền vững. Hoặc là,
xuất khẩu chỉ phục vụ lợi ích cho một nhóm người, nhất là trong việc khai thác
tài nguyên thiên nhiên. Trường hợp này thường xảy ra ở nhiều nước có nền dân
chủ phát triển thấp, độc tài, tập trung quyền lực cao độ. Trong trường hợp này,
chia sẻ lợi ích xuất khẩu không công bằng thì cũng không thể coi đây là xuất
khẩu bền vững.
Như vậy, xuất khẩu bền vững phải là sự kết hợp hài hòa giữa mục tiêu tăng
trưởng xuất khẩu và các mục tiêu ổn định kinh tế, xã hội và cải thiện môi trường.
Tuy nhiên, trong những giai đoạn phát triển khác nhau, việc đảm bảo sự hài hòa
giữa các mặt của PTBV là khác nhau. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa,
giai đoạn tích lũy tư bản, tăng trưởng xuất khẩu cũng như tăng trưởng kinh tế
phải dựa vào tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ, phát triển các ngành
công nghiệp có thể gây ô nhiễm. Các quốc gia phải đánh đổi môi trường để có
được sự tăng trưởng kinh tế. Đây là mô hình phát triển xuất khẩu theo chiều rộng.
Tuy nhiên, mức độ đánh đổi khác nhau ở các nước do chính sách phát triển của
chính phủ. Chẳng hạn, các nước Đông Á theo đuổi mô hình phát triển dựa vào
xuất khẩu thành công hơn các nước Đông Nam Á trong vấn đề môi trường và xã
hội. Các nước Đông Á có nền kinh tế bền vững hơn, xã hội công bằng hơn và
môi trường được gìn giữ hơn [21]. Đó là do các nước Đông Á đã có mô hình phát
34
triển hợp lý hơn, tạo ra những điều kiện để nhanh chóng chuyển từ mô hình tăng
trưởng theo chiều rộng (dựa chủ yếu vào tài nguyên và lao động rẻ) sang mô hình
tăng trưởng theo chiều sâu, hạn chế khai thác tài nguyên, sử dụng công nghệ và
chất xám. Thành công của các nước Đông Á dựa trên một nền giáo dục chất
lượng cao, một chính phủ năng động và trong sạch, một nền kinh tế năng động và
có sức cạnh tranh quốc tế. Như vậy, XKBV phải dựa vào mô hình tăng trưởng
theo chiều sâu, trên cơ sở khai thác các lợi thế cạnh tranh do các yếu tố thể chế,
chất lượng lao động, công nghệ mang lại.
Một vấn đề khác cũng cần chú ý khi nghiên cứu xuất khẩu bền vững là tính
bền vững của hoạt động xuất khẩu phải được xem xét trong dài hạn. Tăng trưởng
xuất khẩu cao trong ngắn hạn trên cơ sở khai thác các yếu tố lợi thế so sánh sẵn
có mặc dù mang lại hiệu quả kinh tế cao (thu được nhiều ngoại tệ) chưa hẳn là
xuất khẩu bền vững nếu chỉ xuất khẩu hàng thô, có giá trị gia tăng thấp, làm cạn
kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường, đem lại lợi ích cho một bộ phận tham
gia xuất khẩu.
Xuất khẩu, xét về bản chất, là hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa
các quốc gia. Do đó, hoạt động xuất khẩu bền vững của một nước cũng cần tính
đến sự bền vững chung của thế giới. Một môi trường phát triển bền vững trên
bình diện thế giới là một trong những điều kiện để phát triển xuất khẩu bền vững
của một nước.
1.2.1.2 Vai trò của xuất khẩu bền vững
Nghiên cứu về XKBV có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức,
đổi mới tư duy về PTBV. Nắm vững lý thuyết về XKBV sẽ giúp những nhà
hoạch định chính sách phát triển kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng khắc
phục được tư duy ngắn hạn, cục bộ, chạy theo lợi ích trước mắt, từ đó có những
điều chỉnh chính sách tăng trưởng xuất khẩu bền vững, dựa trên việc đảm bảo
chất lượng tăng trưởng, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường và giải quyết tốt các vấn đề xã hội có liên quan.
35
Dựa trên nội dung và các tiêu chí đánh giá XKBV, các nhà hoạch định
chính sách phát triển xuất khẩu có căn cứ để điều chỉnh chính sách theo hướng
PTBV, kiểm nghiệm thực tế hoạt động xuất khẩu, từ đó có những nhận định khoa
học về thực trạng hoạt động của lĩnh vực này.
Ngoài ra, việc xây dựng lý thuyết về XKBV sẽ giúp cho việc nghiên cứu
và giảng dạy, bổ sung thêm lý thuyết về PTBV. Thông qua sơ đồ xuất khẩu bền
vững, các nhà khoa học có thể xây dựng các mô hình phát triển bền vững của
nhiều lĩnh vực khác như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…
1.2.2 Nội dung xuất khẩu bền vững
1.2.2.1. Duy trì nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao và ổn định, đảm
bảo chất lượng xuất khẩu được nâng cao
Nội dung đầu tiên của xuất khẩu bền vững là duy trì được nhịp độ tăng
trưởng cao và ổn định trong một thời gian dài. Nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu
không ổn định cho thấy các chính sách phát triển xuất khẩu thiếu bền vững,
không khuyến khích hoạt động xuất khẩu như là một định hướng chiến lược được
ưu tiên. Nhịp độ tăng trưởng có thể bị ảnh hưởng bởi yếu tố bên ngoài như thiên
tai, chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, tài chính... Tuy nhiên những yếu tố này chỉ
mang tính nhất thời, ngắn hạn. Chẳng hạn như tác động của khủng hoảng tài
chính Châu Á, khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu hiện nay làm
giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, nhưng tốc độ tăng trưởng sẽ được phục hồi
khi khủng hoảng được khắc phục.
Xuất khẩu bền vững phải gắn với chất lượng tăng trưởng xuất khẩu. Chất
lượng tăng trưởng xuất khẩu thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu từ các
ngành sử dụng nhiều tài nguyên, lao động rẻ, giá trị gia tăng thấp sang các ngành
công nghiệp và dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng cao trên cơ sở sử dụng các nhân tố
làm tăng năng suất, chất lượng, tiết kiệm các yếu tố đầu vào, hạn chế khai thác tài
nguyên không tái tạo. Đó là sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng hiện
đại, phù hợp với xu hướng biến động của thị trường thế giới. Đối với những quốc
36
gia tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu, cần đảm bảo ổn định kinh tế khi thị
trường thế giới biến động. Do đó, năng lực duy trì nhịp độ và chất lượng tăng
trưởng xuất khẩu là một trong những độ đo tính bền vững của hoạt động này.
Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu còn được thể hiện ở năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, sản phẩm xuất khẩu, năng lực tham gia của quốc gia vào chuỗi gia
trị toàn cầu.
1.2.2.2 Xuất khẩu và bền vững về kinh tế
Nội dung bền vững về kinh tế của hoạt động xuất khẩu được thể hiện: (i)
đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế (ii) đóng góp của xuất khẩu vào
ổn định kinh tế vĩ mô.
Tăng trưởng xuất khẩu đóng góp vào tăng trưởng GDP, thể hiện ở tỷ lệ
đóng góp của xuất khẩu vào GDP thông qua chỉ số xuất khẩu ròng. Xuất khẩu là
một bộ phận cấu thành của tổng cầu, do đó kim ngạch xuất khẩu càng lớn, tổng
cầu hay GDP càng lớn. Xuất khẩu tăng nhanh hơn nhập khẩu còn làm tăng yếu tố
xuất khẩu ròng. Điều này về ý nghĩa kinh tế thể hiện sự lành mạnh của hoạt động
ngoại thương của một nước, thể hiện sự thặng dư thương mại, hay là khả năng
cạnh tranh quốc tế của một quốc gia [24].
Trong điều kiện kinh tế mở, xuất khẩu là một trong những nhân tố ảnh
hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Những ảnh hưởng của xuất khẩu đến tính ổn
định của nền kinh tế thể hiện :
Thứ nhất, xuất khẩu phản ánh tình trạng của cán cân tài khoản vãng lai và
nợ nước ngoài. Xuất khẩu là một bộ phận của cán cân thương mại. Sự biến động
của xuất khẩu có ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai. Đặc biệt đối với các
nước đang phát triển, khi xuất khẩu dịch vụ còn chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong tổng
kim ngạch xuất khẩu, các khoản chuyển giao còn chưa đáng kể, cán cân thương
mại quyết định tình trạng cán cân tài khoản vãng lai. Thâm hụt hay thặng dư cán
cân thương mại thể hiện mức độ thâm hụt hay thặng dư của cán cân tài khoản
vãng lai. Để đánh giá khả năng chịu đựng của cán cân tài khoản vãng lai người ta
thường sử dụng các chỉ tiêu như tỷ lệ giữa giá trị xuất khẩu và thu nhập quốc dân,
37
chỉ số nợ trên xuất khẩu, tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu trên tăng trưởng xuất khẩu,
tỷ lệ mức lãi suất trả nợ trên mức tăng xuất khẩu. Chẳng hạn, chỉ số nợ trên xuất
khẩu của một nước giảm dần theo thời gian phản ánh sự cải thiện thiện cán cân
tài khoản vãng lai. Ngược lại, nếu chỉ số nợ trên xuất khẩu có xu hướng tăng,
điều này cho thấy tình trạng của cán cân tài khoản vãng lai đang xấu đi. Hoặc,
nếu mức tăng xuất khẩu của một nước lớn hơn mức lãi suất trả nợ, nước đó có
khả năng thanh toán các khoản nợ mà không ảnh hưởng đến phát triển kinh tế
[77,tr.53-54].
Thứ hai, xuất khẩu thể hiện mức tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thực tế thông
qua tình trạng của cán cân thương mại. Cán cân thương mại phản ánh việc thu
nhập của quốc gia được hình thành và sử dụng như thế nào. Nếu cán cân thương
mại bị thiếu hụt (X-M<0), điều đó có nghĩa là quốc gia chi nhiều hơn thu nhập
của mình. Ngược lại, cán cân thương mại thặng dư (X-M>0), quốc gia đó chi tiêu
ít hơn so với thu nhập của mình [53].
Cán cân thương mại còn biểu thị cho tổng tiết kiệm ròng của quốc gia,
chính là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của quốc gia đó. Mối quan hệ giữa
cán cân thương mại và đầu tư và tiết kiệm được biểu thị bằng biểu thức:
X - M = (S -I) + (T - G)
Trong dó, X là xuất khẩu, M là nhập khẩu, S là tiết kiệm, I là đầu tư, T là
thu nhập từ thuế và G là chi tiêu của chính phủ.
Cán cân thương mại thâm hụt, có nghĩa là quốc gia tiết kiệm ít hơn đầu tư,
và ngược lại, nếu cán cân thương mại thặng dư, quốc gia tiết kiệm nhiều hơn so
với đầu tư .
1.2.2.3 Xuất khẩu và bền vững về môi trường
Để xác định nội dung của xuất khẩu bền vững về môi trường cần phân tích
mối quan hệ giữa hoạt động xuất khẩu và bảo vệ môi trường. Theo chúng tôi ảnh
hưởng xuất khẩu đến môi trường tập trung ở một số khía cạnh sau đây:
38
Thứ nhất, xuất khẩu ảnh hưởng đến môi trường bởi tính chất của hoạt động
này. Xuất khẩu là hoạt động trao đổi, mua bán, là khâu trung gian giữa sản xuất
và tiêu dùng, do vậy vừa là nguyên nhân lây lan ô nhiễm vừa có thể phổ biến một
cách nhanh nhất những sản phẩm và công nghệ thân thiện với môi trường.
Thứ hai, hoạt động xuất khẩu ảnh hưởng đến môi trường bởi tính quy mô
của nó. Thương mại quốc tế ngày nay mang tính toàn cầu. Do đặc tính này mà
hoạt động xuất khẩu có thể mở rộng quy mô sản xuất thông qua sử dụng các
phương pháp sản xuất ngày càng hiệu quả, sản xuất nhiều hàng hoá hơn trên cùng
một đơn vị lao động, tài nguyên và công nghệ. Như vậy, hoạt động xuất khẩu góp
phần làm tăng hiệu quả sản xuất, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên. Tuy nhiên, sự gia tăng quy mô sản xuất do tác động của thương mại tự do
cũng có thể gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Một mặt, hoạt động này làm tăng
các yếu tố đầu vào, khuyến khích khai thác và sử dụng ngày càng nhiều các
nguồn tài nguyên, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Mặt khác, quy mô
thương mại và sản xuất gia tăng sẽ làm tăng chất thải ô nhiễm từ hoạt động sản
xuất và tiêu dùng. Điều này có thể thấy rất rõ về tình trạng rác thải và chất phát
thải gây hiệu ứng nhà kính ở các nước phát triển.
Thứ ba, một khía cạnh tác động khác hoạt động xuất khẩu đối với môi
trường là tính chất cơ cấu của nó. Xuất khẩu có thể tạo ra thay đổi cơ cấu sản
xuất của một nước theo nguyên tắc lợi thế so sánh, tức là, tập trung sản xuất
những mặt hàng có lợi thế để trao đổi lấy những hàng hoá khác. Nếu cơ cấu sản
xuất chuyển sang những hàng hoá ít tổn hại đến môi trường hơn, khi đó thương
mại có tác dụng tốt đối với môi trường. Tuy nhiên, nếu một nước có khả năng
cạnh tranh tốt đối với những sản phẩm dựa trên các nguồn tài nguyên thiên nhiên
hoặc những hàng hoá khi sản xuất chúng có khả năng ô nhiễm cao thì thương mại
lại làm cho nước đó bị gia tăng ô nhiễm môi trường, gây cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên.
39
Tác động của xuất khẩu đối với môi trường được thể hiện rõ nét trong
trong điều kiện tự do hoá thương mại. Trong điều kiện tự do hoá thương mại, tác
động đó mang tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Một mặt, Thương mại quốc tế,
trong đó có hoạt động xuất khẩu, làm tăng quy mô của thương mại do đó khuyến
khích việc khai thác sử dụng ngày càng nhiều hơn các nguồn đầu vào có nguồn
gốc thiên nhiên và hậu quả là làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và huỷ hoại môi
trường. Tự do hoá thương mại còn là nguyên nhân lây lan ô nhiễm giữa các vùng,
quốc gia. Mặt khác, thương mại quốc tế cũng tạo điều kiện để bảo vệ môi trường
như phổ biến các công nghệ sạch, sản phẩm thân thiện với môi trường, tăng chi
phí làm sạch môi trường, tăng cường hợp tác quốc tế để bảo vệ môi trường [74].
Mặc dù tự do hoá thương mại có những tác động tiêu cực đối với môi trường, tuy
nhiên, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, xét về dài hạn, nền kinh tế mở, hội nhập thân
thiện với môi trường hơn các nền kinh tế đóng, bao cấp. Khảo sát so sánh của
Ngân hàng Thế giới đối với hai nhóm nước (i) các quốc gia như Braxin,
Indonesia, Thái Lan (đại diện cho các nước có nền kinh tế mở) và (ii) Liên xô cũ,
Trung Quốc (đại diện cho nền kinh tế đóng cửa) trong giai đoạn 1960-1977 cho
thấy các nền kinh tế đóng đã lập nên một kỷ lục về ô nhiễm môi trường công
nghiệp và lãng phí tài nguyên. Công nghiệp hoá của Liên Xô cũ và Trung Quốc
trong giai đoạn này đã để lại những hậu quả trầm trọng về môi trường, đặc trưng
nhất là trong các ngành công nghiệp nặng [39].
Để đảm bảo xuất khẩu bền vững về môi trường cũng cần tính đến nhu cầu
về những hàng hoá và dịch vụ thân thiện môi trường trên thế giới, đặc biệt là ở
những nước nhập khẩu. Nhu cầu về các loại hàng hoá thân thiện môi trường trên
thế giới ngày càng cao. Điều này bắt buộc các nhà xuất khẩu phải đáp ứng các
quy định và tiêu chuẩn về an toàn và vệ sinh trong sản xuất và trao đổi hàng hoá
xuất khẩu. Ngược lại, người tiêu dùng cũng phải thay đổi nhận thức để chấp nhận
chi phí môi trường và sẵn sàng hoàn trả chi phí đó. Đây là một vấn đề mâu thuẫn
trong sản xuất và trao đổi hàng hoá thân thân thiện môi trường. Mâu thuẫn này
40
thể hiện thông qua việc chấp nhận hay không chấp nhận các chi phí môi trường
trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa xuất khẩu.
Xuất khẩu bền vững cũng được xem xét dưới tác động của các yếu tố môi
trường. BVMT, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển xuất khẩu
bền vững.
1.2.2.4 Xuất khẩu và bền vững về xã hội
Thứ nhất, phát triển xuất khẩu góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm
nghèo, tạo việc làm. Ở những quốc gia đang phát triển, nơi mà lao động thủ công
và nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn, phát triển các ngành xuất khẩu dựa vào tài
nguyên và lao động rẻ tạo việc làm cho một bộ phận lớn dân cư, nhất là khu vực
nông thôn. Tăng trưởng xuất khẩu góp phần vào xóa đói giảm nghèo, ổn định xã
hội. Phát triển xuất khẩu còn góp phần giải quyết chênh lệch phát triển giữa các
vùng miền, hạn chế bất bình đẳng và xung đột xã hội. Các chính sách khuyến
khích xuất khẩu như trợ cấp, thuế... góp phần đảm bảo an sinh xã hội hợp lý cho
các tầng lớp dân cư.
Thứ hai, phát triển xuất khẩu đóng góp vào nâng cao chất lượng lao động,
trình độ quản lý. Tăng trưởng xuất khẩu ở những ngành công nghiệp chế tạo thu
hút lao động có tay nghề và học vấn cao, tạo điều kiện để nâng cao dân trí.
Thứ ba, phát triển xuất khẩu có thể làm nảy sinh các vấn đề xã hội. Chẳng
hạn, vấn đề tập trung lao động (nhất là lao động nữ) ở một số ngành thu hút nhiều
lao động như da giày, dệt may, lắp ráp điện tử,..., vấn đề đình công, bãi công...
Thứ tư, vấn đề chia sẻ lợi ích thu được từ xuất khẩu là một trong những nội
dung của xuất khẩu bền vững. Hoạt động xuất khẩu tuy mang lại lợi ích to lớn
nhưng lợi ích này chỉ một nhóm nhỏ được hưởng thì không thể nói đó là xuất
khẩu bền vững.
Cuối cùng, xuất khẩu còn tác động đến các yếu tố khác như văn hóa, chính
trị. Xuất khẩu có thể thay đổi văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần
41
gìn giữ và phát triển các giá trị văn hóa hoặc làm giảm các giá trị đó. Hoạt động
xuất khẩu cũng có thể ảnh hưởng đến ổn định chính trị.
1.2.3 Các tiêu chí đánh giá xuất khẩu bền vững
1.2.3.1 Các tiêu chí đánh giá tính ổn định và chất lƣợng tăng trƣởng
xuất khẩu
i- Tiêu chí đầu tiên để đánh giá tính bền vững xuất khẩu là quy mô và nhịp độ
tăng trưởng bình quân kim ngạch xuất khẩu trong một thời gian nhất định. Tiêu chí
này thể hiện việc duy trì quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Đó là tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng năm và tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm. Quy mô kim
ngạch xuất khẩu được thể hiện ở tỷ trọng KNXK một nước trong tổng KNXK của
khu vực hoặc thế giới. Tốc tăng trưởng xuất khẩu bình quân cần được so sánh với
tốc độ tăng trưởng của GDP.
ii- Tỷ trọng của xuất khẩu trong GDP cũng là một chỉ số để đo lường tính
bền vững của hoạt động xuất khẩu về kinh tế. Theo đó, tỷ trọng xuất khẩu trong
GDP tăng nhanh. Chỉ số này còn thể hiện độ mở của nền kinh tế trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
iii- Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu được thể hiện ở cơ cấu xuất khẩu theo
nhóm hàng cũng như cơ cấu xuất khẩu theo mức độ chế biến, cơ cấu thành phần
kinh tế tham gia xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất khẩu. Chẳng hạn, tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu hàng công nghệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một nước
thể hiện trình độ công nghiệp hóa của nước đó cũng như mức độ tăng giá trị của
hàng hóa xuất khẩu.
iv- Một chỉ số khác thể hiện chất lượng tăng trưởng xuất khẩu là mức độ
gia tăng giá trị của hàng hóa xuất khẩu. Đây là chỉ số rất quan trọng để đánh giá
tính hiệu quả của hoạt động xuất khẩu cũng như khả năng cạnh tranh của hàng
hóa xuất khẩu.
42
v- Tính bền vững của hoạt động xuất khẩu còn được thể hiện qua một số yếu
tố khác như chất lượng hoạt động của hệ thống tài chính, ngân hàng, dịch vụ hỗ trợ
xuất khẩu, kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, hệ thống phân phối...
1.2.3.2 Các tiêu chí đánh giá mức độ bền vững về kinh tế
i- Tiêu chí đầu tiên đánh giá tính bền vững của hoạt động xuất khẩu về
kinh tế là mức độ đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng GDP, thể hiện ở tỷ lệ
phần trăm của xuất khẩu trong tăng trưởng GDP hoặc điểm phần trăm của xuất
khẩu trong mức tăng GDP.
ii- Một chỉ số khác thể hiện mức độ bền vững của xuất khẩu đối với nền
kinh tế là chỉ số nợ trên xuất khẩu. Về thực chất, chỉ số này thể hiện mức độ an
toàn về tài chính của một nước, tức là mức độ đóng góp của xuất khẩu vào dự trữ
ngoại tệ và cân bằng cán cân thanh toán. Nếu chỉ số nợ trên xuất khẩu tăng lên vô
hạn, thì điều này cho thấy cả nợ và thâm hụt cán cân thanh toán sẽ không có khả
năng chịu đựng. Trái lại, nếu chỉ số nợ có xu hướng giảm xuống, thì nợ sẽ có khả
năng chịu đựng được và nước vay nợ có khả năng trả nợ của mình [77,tr.23].
iii- Tỷ lệ giữa tốc độ tăng xuất khẩu và tốc độ tăng nhập khẩu cũng thể
hiện mức độ ổn định vĩ mô của nền kinh tế. Nếu chỉ số tăng xuất xuất/chỉ số tăng
nhập khẩu lớn hơn 1, cho thấy sự lành mạnh của cán cân thương mại nhờ tăng
trưởng xuất khẩu. Đây cũng là một chỉ số thể hiện tính lành mạnh của cán cân tài
khoản vãng lai.
1.2.3.3 Các tiêu chí đánh giá mức độ bền vững về môi trường
i- Mức độ ô nhiễm môi trường được đo bằng nồng độ các thành phần môi
trường không khí, nước, đất, xử lý chất thải rắn... Chẳng hạn như mối quan hệ
giữa tăng trưởng xuất khẩu và mức độ ô nhiễm hay mức độ cải thiện các thành
phần môi trường.
ii- Mức độ duy trì các nguồn tài nguyên tái tạo và mức độ khai thác và sử
dụng các nguồn tài nguyên không tái tạo. Chẳng hạn, suy giảm đa dạng sinh học
hay cải thiện nó dưới tác động của việc mở rộng xuất khẩu như: xuất khẩu thủy
43
sản và thu hẹp diện tích rừng ngập mặn, tăng trưởng xuất khẩu lâm sản và thu
hẹp diện tích rừng nguyên sinh, động thực vật quý hiếm...
iii- Tỷ lệ các doanh nghiệp đạt được các chứng chỉ môi trường. Chẳng hạn
như tỷ lệ các doanh nghiệp có chứng nhận tiêu chuẩn ISO 14000, HACCP,…
iv- Mức độ đóng góp của xuất khẩu vào kinh phí bảo vệ môi trường cũng
là một trong những tiêu chí đánh giá tính bền vững về môi trường của hoạt động
xuất khẩu. Trên thực tế khó có thể tách bạch phần đóng góp của xuất khẩu dành
cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, có thể thấy được phần đóng góp
này thông qua đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế.
v- Khả năng kiểm soát của chính quyền đối với các hoạt động xuất khẩu để
hạn chế các tác động tiêu cực đối với môi trường, ý thức bảo vệ môi trường của
người dân v.v... Tiêu chí này được phản ánh thông qua các chính sách thúc đẩy
xuất khẩu và bảo vệ môi trường.
1.2.3.4 Các tiêu chí đánh giá mức độ bền vững về xã hội
i- Tiêu chí đầu tiên đánh giá tính bền vững của hoạt động xuất khẩu về mặt
xã hội là mức độ gia tăng việc làm từ việc mở rộng xuất khẩu. Điều này có thể
nhận biết được qua việc phân tích mối quan hệ giữa mở rộng xuất khẩu và thu hút
lao động, tạo ra những việc làm mới.
ii- Một tiêu chí khác đánh giá tính bền vững về xã hội của xuất khẩu là
mức độ cải thiện thu nhập của người dân từ hoạt động xuất khẩu. Các chỉ số đo
lường mức thu nhập, tỷ lệ nghèo đói có thể được áp dụng để đánh giá tính bền
vững về xã hội của hoạt động xuất khẩu.
iii- Tỷ trọng các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu áp dụng các biện
pháp để cải thiện môi trường và điều kiện lao động, chẳng hạn như áp dụng tiêu
chuẩn SA8000 cũng là một tiêu chí khác đánh giá tính bền vững về xã hội của
xuất khẩu.
iv- Phát triển bền vững xuất khẩu về mặt xã hội cũng có thể đánh giá thông
qua việc phân tích cơ chế chia sẻ lợi ích từ hoạt động xuất khẩu, các vụ biểu tình,
đình công của công nhân, khảo sát về bất bình đẳng thu nhập…
44
v- Tính bền vững của hoạt động xuất khẩu còn được đánh giá thông qua
các chính sách khuyến khích xuất khẩu như trợ cấp xuất khẩu, hoàn thuế xuất
khẩu, bảo hiểm xuất khẩu...
XUẤT KHẨU BỀN VỮNG
Duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và liên tục, chất
Đảm bảo yêu cầu về sự hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển: kinh tế, xã hội,
môi trường
lượng tăng trưởng xuất khẩu được nâng cao
KINH TẾ
MÔI TRƢỜNG
XÃ HỘI
Tổng kim ngạch
Đóng góp vào tăng
Khai thác hợp lý tài
Tăng thu nhập, việc
XK
trưởng kinh tế cao và liên
làm, chia sẻ lợi ích hợp
nguyên, hạn chế ô
Tốc độ tăng trưởng
tục, góp phần ổn định
nhiễm, quản lý môi
bình quân
kinh tế vĩ mô
trường bền vững
lý, hạn chế bình đẳng và xung đột xã hội
Tỷ trọng XK/GDP
Tỷ trọng khẩu hàng
chế biến, công nghệ
cao trong tổng XK
Tỷ lệ đóng góp của
Số việc làm tạo ra do
Mức độ ô nhiễm
Giá trị gia tăng của
XK trong GDP
mở rộng xuất khẩu
Tình trạng đa dạng
hàng XK
sinh học
Tốc độ tăng xuất
Mức độ cải thiện thu
khẩu và nhập khẩu
nhập của người lao
Tỷ trọng các doanh
động
Tỷ lệ nhập siêu
Trình độ lao động
nghiệp có chứng chỉ môi trường
Tỷ lệ nợ/xuất khẩu
Bất bình đẳng
Đóng góp của xuất
khẩu vào BVMT
Xung đột xã hội
Khác
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Hình 1.7 Sơ đồ xuất khẩu bền vững
45
1.3 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.3.1 Các yếu tố quốc tế
1.3.1.1. Tự do hóa thương mại và HNKTQT
Tự do hóa thương mại và HNKTQT ảnh hưởng đến xuất khẩu bền vững ở
một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tự do hóa thương mại và HNKTQT góp phần tăng trưởng xuất
khẩu cao và nâng cao chất lượng tăng trưởng xuất khẩu. Thông qua tự do hoá
thương mại và HNKTQT, ở tầm vĩ mô, các quốc gia có thể phát huy lợi thế so
sánh; nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế nhờ phân bổ nguồn lực
hợp lý và hiệu quả hơn; mở rộng khả năng tiếp cận thị trường. Ở tầm vi mô, tự do
hóa thương mại tác động tích cực đối với cạnh tranh và công nghiệp hóa trong
nước, chủ yếu nhờ giảm chi phí đầu vào sản xuất, tiếp nhận công nghệ và kỹ
năng quản lý tiến bộ hơn, phát triển nguồn nhân lực...; các yếu tố này dẫn đến
làm tăng năng suất và sức cạnh tranh quốc tế. Kết quả là xuất khẩu được mở rộng
tạo điều kiện để mở rộng quy mô sản xuất, nhập khẩu công nghệ mới, tăng hiệu
quả quản lý. Như vậy, tự do hoá thương mại góp phần cải thiện năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP), thúc đẩy cạnh tranh, qua đó tác động tích cực đối với
công nghiệp hóa, tăng trưởng kinh tế [50,tr.78].
Các nước đang phát triển hội nhập vào nền kinh tế thế giới đang nỗ lực để
tận dụng cơ hội này để đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, nền kinh tế của các nước
này ngày càng bị lệ thuộc vào sự thay đổi của thị trường thế giới. Tính bất định
có xu hướng ngày càng gia tăng của thị trường thế giới làm cho xuất khẩu khó có
thể duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định. Bên cạnh đó, áp lực cạnh tranh cũng
ngày càng lớn hơn. Nhiều quy định của các nước phát triển trái với nguyên tắc tự
do hóa thương mại vẫn được áp dụng trong thương mại quốc tế gây khó khăn cho
việc tiếp cận thị trường của hàng hóa xuất khẩu của các nước đang phát triển như
46
Việt Nam. Chẳng hạn, việc áp thuế chống bán phá giá đối với một số mặt hàng
như cá tra, da giày, bật lửa,… với lý do nước ta chưa được công nhận là nền kinh
tế thị trường.
Thứ hai, tự do hóa thương mại ảnh hưởng đến xuất khẩu bền vững thông
qua tác động của nó đến môi trường. Tự do hoá thương mại vừa có tác động tích
cực vừa có tác động tiêu cực đối với môi trường sinh thái. Những tác động tích
cực gồm:
i- Tự do hoá thương mại tạo điều kiện thuận lợi để phổ biến hàng hoá và
công nghệ thân thiện với môi trường, làm cho chúng được áp dụng trên diện
rộng hơn.
ii- Thu nhập của người tiêu dùng ngày càng được cải thiện liên tục nên nhu
cầu về sản phẩm hàng hoá và dịch vụ thân thiện với môi trường cũng ngày càng
gia tăng, nhận thức của người tiêu dùng về các vấn đề môi trường vì thế ngày
càng cao hơn. Xu thế tiêu dùng này sẽ góp phần khuyến khích khai thác, sản xuất
và tiêu thụ các sản phẩm thân thiện với môi trường và sức khoẻ con người.
iii- Việc gia tăng áp dụng các biện pháp môi trường trong thương mại
quốc tế đòi hỏi các nước phải nâng cao hơn nữa việc đáp ứng các tiêu chuẩn
môi trường, do đó hạn chế khai thác tài nguyên và giảm áp lực đối với ô nhiễm
môi trường.
iv- Tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế về thương mại và môi trường,
thúc đẩy các điều kiện tốt hơn cho hợp tác quốc tế trong lĩnh vực BVMT thông
qua quá trình liên tục đàm phán song phương và đa phương giữa các quốc gia.
Bên cạnh những tác động tích cực, tự do hóa thương mại cũng có những
tác động tiêu cực đối với môi trường:
i- Tự do hoá thương mại khuyến khích các nước, đặc biệt là các nước đang
phát triển, khai thác ngày càng nhiều hơn các nguồn tài nguyên nhằm đạt được
tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Theo đánh giá của Quỹ bảo tồn thiên nhiên
47
(WWF) hiện nay, con người trên hành tinh đang tiêu dùng hơn nguồn tài nguyên
thiên nhiên mà trái đất không có khả năng sản sinh [93].
ii- Tự do hoá thương mại làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường qua biên
giới (xuyên quốc gia). Đó là ô nhiễm môi trường từ việc buôn bán các công nghệ
lạc hậu, hàng hoá không đảm bảo các yêu cầu về môi trường, di nhập các loài
động thực vật ngoại lai, chất thải độc hại, buôn bán trái phép các loài động thực
vật quý hiếm, bất bình đẳng trong chia sẻ lợi ích tài nguyên đa dạng sinh học…
iii- Gia tăng các rào cản môi trường trong thương mại quốc tế cũng là một
trong những thách thức đối với các nước đang phát triển trong việc khai thác lợi
thế so sánh và mở rộng khả năng tiếp cận thị trường nhờ mở cửa, hội nhập. Trong
nhiều trường hợp các hàng rào xanh được các nước phát triển dựng lên là vì mục
đích bảo hộ mậu dịch chứ không phải bảo vệ môi trường. Điều này sẽ làm hạn
chế sự tiếp cận thị trường của hàng hóa xuất khẩu của các nước đang phát triển,
nơi đang thiếu các điều kiện để vượt qua các rào cản đó [99].
Thứ ba, tự do hóa thương mại có ảnh hưởng đến xuất khẩu bền vững thông
qua việc tác động của nó đối với việc làm, thu nhập và đói nghèo. Về mặt nguyên
tắc, tự do hóa thương mại mở rộng thêm cơ hội (bình đẳng hơn) và phân bổ có
hiệu quả hơn một tập hợp lớn hơn các luồng chu chuyển hàng hóa, dịch vụ, vốn,
công nghệ, ý tưởng, thông tin, việc làm và dẫn đến duy trì và nâng cao tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Hệ quả chung là tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và
góp phần quan trọng giảm đói nghèo. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế cao còn tạo
điều kiện khai thác thêm nguồn lực để thực hiện các chương trình giảm đói
nghèo, đào tạo tay nghề, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nhất là đối với nhóm
người dễ bị tổn thương.
Một vấn đề khác là chênh lệch giàu nghèo trong điều kiện toàn cầu hóa.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, trong 3-4 thập kỷ gần đây, khoảng cách giàu nghèo
giữa các nước tham gia toàn cầu hoá có xu hướng xích lại nếu tính thu nhập theo
sức mua tương đương. Nghiên cứu gần đây của Trung tâm kinh tế quốc tế (CIE)
48
năm 2000 phát hiện thấy rằng tỷ lệ của người giàu nhất với người nghèo nhất
giảm xuống (1970 đến 1997) là từ 15 lần xuống 13 lần, một tỷ lệ nhỏ hơn nhiều
so với số liệu của UNDP và thay đổi theo hướng ngược lại. Tương tự, nếu sử
dụng thu nhập trung bình lấy trọng số là dân số, CIE tính toán đường cong
Lorenz về phân phối thu nhập, cho thấy rằng bất bình đẳng thu nhập giảm xuống
khoảng 10% từ giữa thập kỷ 60 đến cuối những năm 1990 [50,tr.51]. Một số
nghiên cứu khác như của Salai Martin cũng cho kết quả tương tự, và khẳng định
là phân phối thu nhập của thế giới trở nên bình đẳng hơn trong 20 năm qua [38].
Tuy vậy, tự do hóa thương mại quá đột ngột có thể dẫn tới phá sản và tình
trạng thất nghiệp ở các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh kém; điều này cùng
với việc điều chỉnh cơ cấu ngành có thể làm tăng thất nghiệp, giảm thu nhập và
tăng đói nghèo ở các khu vực liên quan.
Các tiêu chuẩn về xã hội được sử dụng ngày càng phổ biến trong điều kiện
tự do hóa thương mại cũng là một trong những áp lực để các doanh nghiệp quan
tâm nhiều hơn đến lợi ích của người lao động. Áp lực cạnh tranh quốc tế cũng
như cam kết thực hiện các mục tiêu xã hội trong kinh doanh buộc các doanh
nghiệp tham gia thương mại quốc tế phải áp dụng các quy trình và tiêu chuẩn sản
xuất đảm bảo an toàn và nhân văn đối với người lao động. Tiêu chuẩn lao động,
các quy định về quyền con người là những tiêu chí đánh giá uy tín của doanh
nghiệp và hàng hóa, đang được áp dụng ngày càng phổ biến trong kinh doanh
quốc tế.
1.3.1.2 Gia tăng trách nhiệm của các quốc gia trong việc xử lý các
vấn đề toàn cầu
Thế giới ngày nay đang phải đối mặt với những vấn đề xã hội và môi
trường. Nghèo đói, dịch bệnh, dân chủ là những chủ đề được quan tâm ở bình
diện quốc tế. Nhiều văn bản pháp lý mang tính quốc tế được ban hành và đang
được nhiều quốc gia ủng hộ như Công ước về quyền con người, quyền trẻ em,
phụ nữ...
49
Nhiều công ước quốc tế về môi trường liên quan đến thương mại nói chung
và xuất khẩu nói riêng đang được các nước cam kết thực hiện. Các hiệp định môi
trường đa biên cũng đã tính đến những vấn đề thương mại có ảnh hưởng đến môi
trường, đồng thời cũng xem xét các vấn đề môi trường có ảnh hưởng đến tự do
thương mại nhằm điều hoà giữa mục đích bảo vệ môi trường và tăng trưởng
thương mại. Các biện pháp môi trường trong các hiệp định môi trường quốc tế
được áp dụng đối với việc vận chuyển buôn bán, trao đổi, khai thác các sản phẩm
có ảnh hưởng đến môi trường như chất thải độc hại, động vật hoang dã, các
nguồn gien thực động vật, các chất phá huỷ tầng ôzôn, biến đổi khí
hậu...[29,tr.21].
Các quy định về môi trường quốc tế có tác dụng hạn chế thương mại các
hàng hóa có hại đến môi trường và sức khỏe con người, do đó có tác dụng nâng
cao nhận thức và trách nhiệm của các chính phủ trong việc hoạch định chính sách
phát triển bền vững nói chung và xuất khẩu bền vững nói riêng.
Các công ước quốc tế về con người, chẳng hạn như Công ước quốc tế về
quyền trẻ em, cũng có ảnh hưởng đến xuất khẩu bền vững. Chẳng hạn, việc sử
dụng lao động trẻ em, lao động tù nhân là nguyên nhân của việc từ chối nhập
khẩu hàng hóa sử dụng các dạng lao động nói trên. Tương tự, điều kiện lao động
không được đảm bảo, chẳng hạn như môi trường lao động độc hại, điều kiện sinh
sống và làm việc của công nhân không đảm bảo cũng ảnh hưởng đến khả năng
tiếp cận thị trường xuất khẩu. Việc áp dụng tiêu chuẩn SA8000 là một biện pháp
để cải thiện môi trường cho người lao động.
1.3.1.3 Các yếu tố khác
Bên cạnh những yếu tố nêu trên, các vấn đề khác như khủng hoảng tài
chính, năng lượng, lương thực, xung đột sắc tộc, khủng hoảng chính trị, dịch
bệnh, dịch hại đối với gia cầm, gia súc và cây trồng... cũng ảnh hưởng đến phát
triển xuất khẩu bền vững.
50
Khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đang làm mất cơ hội thương mại
của các nước đang phát triển, làm cho việc thực hiện mục tiêu phát triển bền
vững càng khó khăn hơn. Biểu hiện rõ nét nhất chúng ta đang chứng kiến là sự
sụt giảm xuất khẩu của các nước đang phát triển kéo theo bất ổn kinh tế vĩ mô,
bất ổn xã hội như mất việc làm, giảm thu nhập, gia tăng tình trạng tái nghèo...
Khủng hoảng năng lượng và lương thực thế giới trong những năm gần đây
cũng ảnh hưởng đến phát triển bền vững. Chẳng hạn như trong năm 2007, tăng
giá dầu và lương thực đã gây nên những vấn đề xã hội và môi trường nghiêm
trọng như chặt phá rừng để làm chất đốt, chuyển đổi mục đích canh tác, mở rộng
diện tích canh tác...
Vấn đề khác như dịch bệnh và dịch hại đối với cây trồng và vật nuôi cũng
ảnh hưởng đến xuất khẩu bền vững. Bệnh dịch làm giảm năng suất canh tác và
nuôi trồng đối với hàng nông sản, thủy sản, chăn nuôi. Đặc biệt là dịch cúm gia
cầm, bệnh lở mồm long móng ở trâu bò, dịch hại đối với cây trồng làm thiệt hại
lớn đối với nền kinh tế ở những quốc gia nông nghiệp như Việt Nam. Theo số
liệu của Ngân hàng Thế giới, thiệt hại do sâu bệnh thực vật hàng năm ở Việt Nam
là khoảng trên 250 triệu USD, do bệnh trên động vật là 200 triệu USD. [6].
Môi trường chính trị ổn định cũng là một nhân tố đảm bảo xuất khẩu bền
vững. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước do môi trường chính trị không ổn
định, các phe phái chính trị tranh giành quyền lực, xung đột xã hội và sắc tộc liên
miên dẫn đến kinh tế đình đốn, không tận dụng được cơ hội của hội nhập kinh tế
để phát triển xuất khẩu. Nghiên cứu trường hợp các nước gia nhập WTO cho
thấy, hầu hết các nước gia nhập đều có cải thiện về thương mại. Tuy nhiên, một
số nước do môi trường chính trị không ổn định mà việc gia nhập không mang lại
kết quả như Bungary, có quá nhiều đảng phái đấu tranh gìành quyền điều hành đất
nước, hoặc Mianma, do mâu thuẫn giữa phái cấp tiến và bảo thủ. Đảm bảo ổn
định xã hội cũng là yếu tố giúp cho việc gia nhập WTO thành công. Đó là xử lý
51
vấn đề công bằng xã hội, bất bình đẳng giữa các vùng, nhóm dân cư, xung đột lợi
ích. Kinh nghiệm cho thấy, Achentina và một số nước Mỹ La tinh do không có
thể chế bảo hiểm và quản lý xung đột xã hội mạnh nên đã xảy ra rối loạn chính trị
xã hội, cản trở hội nhập kinh tế [27,tr.42].
1.3.2 Các yếu tố trong nƣớc
Để đảm bảo phát triển xuất khẩu bền vững yếu tố quan trọng nhất là xây
dựng chiến lược/chính phát triển bền vững và chuẩn bị các nguồn lực để thực
hiện các chính sách đó.
1.3.2.1 Các yếu tố chính sách
Vấn đề phát triển bền vững nói chung và xuất khẩu bền vững nói riêng ở
cấp độ quốc gia được thể hiện tập trung nhất trong chính sách phát triển kinh tế,
xã hội và chính sách bảo vệ môi trường, trong mục tiêu tăng trưởng kinh tế, xã
hội và mục tiêu bảo vệ môi trường của một nước. Quan điểm về tăng trưởng kinh
tế, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường trong từng giai đoạn nhất
định và ở các nước có trình độ phát triển khác nhau thường không giống nhau.
Tuy nhiên, các nước cần xây dựng chiến lược phát triển bền vững, trong đó đưa
ra các mục tiêu cụ thể cho các lĩnh vực, dành ưu tiên nhất định cho lĩnh vực này
hay lĩnh vực kia, chẳng hạn như hoặc là kinh tế, hoặc là môi trường hay xã hội.
Trong chính sách quốc gia về phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu có ảnh
hưởng trực tiếp đến xuất khẩu bền vững. Lựa chọn cơ cấu kinh tế, trong nhiều
trường hợp, quyết định cách giải quyết đảm bảo hài hòa giữa các mục tiêu PTBV.
Chẳng hạn, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng hàng chế
biến, chế tạo, dựa trên cơ sở công nghệ và nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ
đảm bảo chất lượng tăng trưởng dài hạn, hạn chế khai thác tài nguyên thiên nhiên
và ô nhiễm môi trường, nâng cao thu nhập bền vững cho người lao động. Chính
sách cơ cấu khuyến khích khai thác nhanh hơn và sử dụng ngày càng nhiều hơn
52
nguồn tài nguyên để đạt được hiệu quả kinh tế sẽ hạn chế tăng trưởng xuất khẩu
cao trong dài hạn và làm nảy sinh các vấn đề môi trường, xã hội. Tương tự như
vậy, chính sách thương mại cũng phải hướng tới mục tiêu phát triển XKBV.
Chẳng hạn, chính sách thương mại phải khuyến khích cải tiến công nghệ, hạn chế
bảo hộ, khai thác lợi thế cạnh tranh động của quá trình hội nhập.
Tính ổn định, bền vững và nhất quán của các chính sách phát triển có ảnh
hưởng đến PTBV nói chung và xuất khẩu nói riêng. Phát triển xuất khẩu bền
vững là một mục tiêu mang tính dài hạn, do đó, chính sách phát triển XKBV phải
được xây dựng trên cơ sở tư duy khoa học, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất
nước và bối cảnh quốc tế. Bên cạnh đó, việc thực thi chính sách PTBV đóng vai
trò quyết định để thực hiện mục tiêu PTBV. Thực tế cho thấy, ở các quốc gia
đang phát triển người ta dành nhiều ưu tiên hơn cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế,
đặc biệt là trong ngắn hạn. Chính vì vậy, trong chiến lược quốc gia về phát triển
kinh tế - xã hội, vấn đề lồng ghép các mục tiêu kinh tế và mục tiêu môi trường
thường bị xem nhẹ, sự phối hợp trong việc đề ra chính sách thương mại và chính
sách môi trường chưa được coi trọng đúng mức. Phần lớn các nước vẫn bị ảnh
hưởng của quan điểm trước đây về phát triển bền vững là phải đạt được tăng
trưởng về kinh tế và trên cơ sở đó mới giải quyết các vấn đề về môi trường, xã
hội [28,tr.21].
Đối với các nước đang và chậm phát triển, trong nhiều trường hợp, các
nước này phải đánh đổi lợi ích môi trường, xã hội để có được sự tăng trưởng kinh
tế. Trường hợp khá phổ biến là trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, khi mà
tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và phát triển các ngành
công nghiệp sử dụng nhiều lao động và công nghệ thấp hoặc trung bình, vấn đề
kiểm soát ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên là rất khó khăn. Bài học của
những nước tiến hành công nghiệp hóa trước đây rất rõ ràng nhưng hiện tại các
nước đang và kém phát triển vẫn chưa có các chính sách hữu hiệu để hạn chế ô
nhiễm và cải thiện môi trường, bất bình đẳng xã hội như mục tiêu đề ra. Các
53
nước đang phát triển Đông Nam Á, Việt Nam, Trung Quốc đang phải đánh đổi
môi trường và xã hội cho mục tiêu tăng trưởng. Ô nhiễm môi trường ngày càng
trầm trọng, bất bình đẳng xã hội ngày càng tăng là những cái giá mà các nước
này đang phải trả cho tăng trưởng. Có thể nói, ở giai đoạn đầu của công nghiệp
hóa, ô nhiễm môi trường và bất bình đẳng là tất yếu. Vấn đề đặt ra là hạn chế ô
nhiễm trong giới hạn cho phép và đảm bảo công bằng xã hội để hài hòa các mục
tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để đảm bảo phát triển bền vững nói chung
và xuất khẩu nói riêng, chính sách tăng trưởng phải tập trung vào việc nhanh
chóng chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ việc dựa vào lợi thế sẵn có về tài
nguyên và lao động sang lợi thế cạnh tranh dựa vào vốn, công nghệ và tri thức.
Những quốc gia đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững là những nước có các
chính sách thúc đẩy nhanh quá trình nói trên. Điều kiện để đảm bảo tăng trưởng
xuất khẩu bền vững là có chính sách PTBV đúng đắn, chính phủ trong sạch và
sáng suốt, chất lượng lao động cao, nền kinh tế hội nhập và mang tính cạnh
tranh cao.
1.3.2.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một trong những yếu tố quyết
định đối với xuất khẩu bền vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được thể
hiện qua (1) Chất lượng, khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hoá các đầu
vào (2) Các ngành sản xuất và dịch vụ trợ giúp cho doanh nghiệp (3) Nhu cầu đối
với sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, đến yêu cầu của khách hàng về chất
lượng của sản phẩm, dịch vụ (4) Mức độ cạnh tranh trên lĩnh vực mà doanh
nghiệp kinh doanh, vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp tham gia
cạnh tranh. (5) môi trường thể chế khuyến khích cạnh tranh hay là vai trò của
chính phủ và (6) sự thay đổi các yếu tố bên ngoài như khủng hoảng kinh tế, chính
trị, chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh... Uy tín của doanh nghiệp và các sản phẩm
xuất khẩu của họ thể hiện vị thế cạnh tranh của quốc gia. Năng lực cạnh tranh của
54
doanh nghiệp còn thể hiện thông qua các hoạt động bảo vệ môi trường, hoạt động
xã hội.
1.3.2.3 Các yếu tố về công nghệ, cơ sở hạ tầng
Trình độ công nghệ, cơ sở hạ tầng của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp
đến phát triển xuất khẩu bền vững. Phát triển công nghệ góp phần tăng trưởng
xuất khẩu nhanh và bền vững do tạo ra những ngành xuất khẩu dựa vào tăng năng
xuất nhân tố tổng hợp, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa định hướng xuất
khẩu, quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu từ các ngành dựa vào khai thác tài
nguyên và lao động rẻ sang các ngành dựa vào công nghệ và lao động có trình độ
cao. Phát triển công nghệ là yếu tố quyết định trong cạnh tranh xuất khẩu quốc tế,
sự tham gia của quốc gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Các yếu tố về cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng hết sức quan trọng để duy trì tốc
độ tăng trưởng xuất khẩu bền vững. Cơ sở hạ tầng về giao thông, thông tin và đặc
biệt là cơ sở hạ tầng dịch vụ logicstic. Sự phát triển của các dịch vụ hỗ trợ xuất
khẩu như vận tải, giao nhận, hệ thống cảng biển, dịch vụ thông quan... góp phần
làm giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cũng như tiết kiệm thời gian giao
hàng.
1.3.2.4 Phát triển nguồn nhân lực
Để tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu cần thiết phải phát
triển nguồn nhân lực.
Trước hết là phát triển đội ngũ quản lý các doanh nghiệp hiểu biết về kinh
tế quốc tế đặc biệt là thị trường quốc tế, các định chế liên kết kinh tế quốc tế mà
Việt Nam tham gia, các cam kết về mở cửa thị trường của nước mình cũng như
của các nước khác.
Hai là phát triển đội ngũ công nhân, người lao động có trình độ cao đáp
ứng với yêu cầu phát triển của khoa học và công nghệ tiên tiến. Đây là một trong
những điều kiện để những nước đang và kém phát triển thu hút công nghệ, vốn và
55
tri thức kinh doanh từ các nước phát triển hơn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy,
thiếu đội ngũ người lao động có tay nghề cao là một trong những nguyên nhân
hạn chế hội nhập kinh tế quốc tế, tăng trưởng kinh tế cao.
Ba là phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các lĩnh vực khác như môi trường,
xã hội. Đội ngũ cán bộ này sẽ góp phần định hướng kinh doanh xuất khẩu theo
hướng phát triển bền vững là khai thác hợp lý tài nguyên, hạn chế ô nhiễm, cải
thiện môi trường, giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình kinh
doanh.
Nhà nước cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực đảm bảo cho quá
trình hội nhập nói chung và xuất khẩu nói riêng. Các giải pháp là phát triển hệ
thống đào tạo các cấp, các trường dạy nghề, có chính sách ưu tiên và đãi ngộ
hợp lý đối với người có trình độ, người tài của đất nước, xây dựng các chính
sách hỗ trợ đào tạo lại cho các doanh nghiệp trong điều kiện kinh doanh có
nhiều biến động.
1.3.2.5. Ổn định kinh tế vĩ mô
Ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những điều kiện quan trọng để phát
triển kinh tế và xuất khẩu bền vững. Đó là sự ổn định và vững mạnh của hệ thống
tài chính. Hệ thống tài chính ốm yếu, hoạt động thiếu hiệu quả là nguyên nhân
quan trọng nhất gây nên rối loạn hoạt động kinh tế và xuất khẩu. Ổn định kinh tế
vĩ mô, trước hết, là sự ổn định về tiền tệ, tỷ giá, hoạt động có kiểm soát của hệ
thống ngân hàng, các doanh nghiệp nhà nước. Sự ổn định vĩ mô còn phụ thuộc
vào vai trò của chính phủ thông qua việc ban hành và thi các chính sách và công
cụ điều tiết nền kinh tế một cách linh hoạt và kịp thời. Chẳng hạn, chính sách tỷ
giá hối đoái, lãi suất tác động trực tiếp đến hiệu quả xuất khẩu.
1.3.2.6 Các yếu tố khác
Các yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, thể chế, bối cảnh chính trị, yếu tố
văn hóa, xã hội cũng có ảnh hưởng đến xuất khẩu bền vững.
56
Điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ làm tăng lợi thế so sánh trong phát triển
xuất khẩu, hạn chế khai thác tài nguyên không tái tạo, có cơ sở để đề ra chính
sách khai thác tiết kiệm tài nguyên phục vụ cho xuất khẩu. Những nước có
điều kiện tự nhiên thuận lợi là lợi thế để phát triển kinh tế ở những vùng nông
thôn, miền núi dựa vào xuất khẩu. Môi trường tự nhiên cũng là nơi hấp thụ ô
nhiễm làm giảm chi phí cho việc cải thiện môi trường, do đó nâng cao hiệu
quả xuất khẩu.
Phát triển bền vững cần đảm bảo một khung khổ thể chế và năng lực thể chế
phù hợp với việc thực hiện các mục tiêu PTBV. Luật pháp thích hợp và các công cụ
chính sách hữu hiệu là những điều kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu phát triển
bền vững. Các chỉ tiêu PTBV về mặt thể chể cần thể hiện rõ thiện chí quốc gia và
cam kết để chuyển đổi từ một cách tiếp cận từng phần đứt đoạn sang quá trình
PTBV chính thống và nhất quán. Để phát triển theo mô hình bền vững đòi hỏi nâng
cao năng lực thể chế. Năng lực thể chế thể hiện trước hết ở năng lực xây dựng và
thực thi các mục tiêu PTBV.
Môi trường chính trị ổn định cũng là yếu tố đảm bảo hội nhập nói chung và
xuất khẩu nói riêng. Chẳng hạn, Việt Nam trong những năm gần đây, nhờ chính
trị ổn định mà thu hút được ngày càng nhiều dự án đầu tư nước ngoài, nhiều
khoản vay ưu đãi để phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường.
Nhiều nước do môi trường chính trị không ổn định đã không tận dụng được cơ
hội hội nhập để phát triển xuất khẩu, ở vào thế bị động và chậm chí khủng hoảng
kinh tế, chẳng hạn như Mianma. Yếu tố chính trị quan trọng ảnh hưởng đến xuất
khẩu bền vững là năng lực hoạch định chính sách và mô hình phát triển kinh tế
của chính phủ, chẳng hạn nên theo định hướng xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu,
ưu tiên phát triển thị trường nội địa hay thị trường xuất khẩu...
Các yếu tố khác như văn hóa, xã hội cũng ảnh hưởng đến hội nhập nói
chung và xuất khẩu nói riêng. Những khác biệt về văn hóa, xã hội mang tính bản
sắc lành mạnh có ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh và tính độc đáo của sản
57
phẩm. Môi trường xã hội ổn định, phát triển lành mạnh cũng là yếu tố của tăng
trưởng kinh tế bền vững nói chung và xuất khẩu nói riêng.
1.4 KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU BỀN VỮNG CỦA MỘT SỐ NƢỚC
1.4.1 Kinh nghiệm của Thái Lan
Mục 1.4 sẽ trình bày kinh nghiệm hoạch định chính sách phát triển xuất
khẩu bền vững của Thái Lan và Trung Quốc. Việc lựa chọn hai nước này để phân
tích là do Thái Lan và Trung Quốc là hai nước đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế
cao nhờ theo đuổi chính sách công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu. Hai nước
này có nhiều điểm tương đồng với nước ta. Trung Quốc và Thái Lan đều là nước
đang phát triển. Thái Lan có cơ cấu lao động, điều kiện tự nhiên gần giống với
Việt Nam. Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng, có thể chế kinh tế và
chính trị gần giống nhau, cùng đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang
kinh tế thị trường và thực hiện công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu. Nhiều vấn
đề nảy sinh trong phát triển kinh tế và xuất khẩu của hai nước này cũng là những
vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay như đảm bảo chất lượng tăng trưởng
xuất khẩu, bảo vệ môi trường, giải quyết vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình
mở cửa và hội nhập kinh tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc và Thái Lan được
nghiên cứu trong sự liên hệ với kinh nghiệm phát triển xuất khẩu và kinh tế của
các nước Đông Á, những nước có thể coi là khá thành công trong chiến lược
công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu theo hướng PTBV.
1.4.1.1 Các chính sách thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu
Trong 3 thập niên vừa qua, Thái Lan đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế
cao và tương đối ổn định, trở thành một trong những nước công nghiệp hóa mới.
Một trong những nhân tố quan trọng của thành tựu này là thực hiện chiến lược
công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu.
58
Bảng 1.2 Xuất khẩu và tăng trƣởng kinh tế Thái Lan thời kỳ 2002-2007
2002 2003 2004 2005 2006 2007
Kim ngạch xuất khẩu (tỷ 83,0 95,0 110,0 126,0 140,0 156,0
USD)
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 15,5 14,5 15,7 14,5 11,1 15,0
(%)
Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 5,2 6,7 6,1 4,0 5,2 5,5
Tỷ trọng XK/GDP (%) 53,6 56,1 59,7 69,7 63,3 63,2
Đóng góp của XK trong GDP 50,2 48,7 47,6 45,3 46,5 47,8
(%)
-9.000 2.114 5.570
Cán cân thương mại (1000. 4.257 5.314 2.085
Nguồn: Niên giám thống kê (Tổng cục Thống kê)[82], Staticstics Handbook 2008 [104].
USD)
Xuất khẩu đã trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của Thái Lan trong suốt
30 năm qua. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan năm 2007 chiếm đến gần
60% trọng GDP, đạt 156 tỷ USD. Từ chỗ chủ yếu khai thác lợi thế về tự nhiên để
đẩy mạnh xuất khẩu, đến nay, Thái Lan đã chuyển mạnh sang xuất khẩu hàng chế
biến. Tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu của Thái Lan năm 2007 chiếm trên 70%
[104]. Một số lĩnh vực xuất khẩu của Thái Lan có vị thế cạnh tranh quốc tế như may
mặc, chế biến thực phẩm, nông sản, hàng điện tử gia dụng…
Để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu cao và ổn định, Chính phủ Thái Lan đã
thực hiện một số chính sách và biện pháp quan trọng sau đây:
Chính sách chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu: Từ những năm 1980 Thái Lan
bắt đầu chiến lược phát triển kinh tế định hướng xuất khẩu, chủ yếu tập trung vào
các ngành công nghệ chế tác. Để thực hiện định hướng này, Chính phủ Thái Lan
đã thực hiện hai cuộc cải cách quan trọng. Thứ nhất, khu vực kinh tế tư nhân
được chính thức thừa nhận là động lực phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà
59
nước khuyến khích khu vực kinh tế này đi đầu trong lĩnh vực đầu tư vì khu vực
kinh tế quốc doanh đang gặp nhiều khó khăn về tài chính. Thứ hai, Chính phủ
thực hiện chính sách ưu đãi đặc biệt đối với sự phát triển của các ngành công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời Bộ Thương mại từng bước hoàn thiện
hệ thống các công cụ hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu. Bộ Tài chính thực thi
việc giảm thuế xuất nhập khẩu nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động kinh tế
đối ngoại.
Xây dựng kế hoạch phát triển xuất khẩu trong từng thời kỳ phù hợp với
tình hình thị trường thế giới: Để thực hiện chiến lược phát triển xuất khẩu, Chính
phủ Thái Lan đã tăng cường năng lực hoạt động cho các cơ quan hoạch định
chính sách phát triển và hỗ trợ xuất khẩu như Hội đồng phát triển kinh tế, Ủy ban
đầu tư, Cục xúc tiến xuất khẩu (DEP). Các cơ quan này có nhiệm vụ xây dựng
các chính sách khuyến khích xuất khẩu như chính sách thuế, chính sách lãi suất,
tỷ giá, ưu đãi đầu tư… Các tổ chức này được giao nhiệm vụ nghiên cứu lựa chọn
các mặt hàng xuất khẩu chiến lược mà Thái Lan có lợi thế cạnh tranh để hỗ trợ
phát triển. Chẳng hạn, trong giai đoạn 1987-1991, giai đoạn thực hiện kế hoạch
lần thứ 16, Chính phủ Thái Lan đã giao cho Cục xúc tiến Xuất khẩu xây dựng
chương trình hỗ trợ phát triển 5 nhóm hàng cơ bản gồm: thực phẩm, dệt và may
mặc, ngọc và đồ trang sức, đồ điện, điện tử, các hàng gia dụng và trang trí
[4,tr.28]. Trong những năm 90 và hiện nay đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Thái Lan.
Thành lập các công ty thương mại quốc tế: Khả năng khai thác nhu cầu
tiềm ẩn của thị trường nước ngoài và tiếp thị các sản phẩm là các yếu tố cơ bản
trong việc tăng cường xuất khẩu. Thái Lan hiểu được chính xác tầm quan trọng
của những nhân tố này khi các nhà nghiên cứu cho thấy sự phục hồi kinh tế của
Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai trong một chừng mực nào đó là nhờ các
công ty thương mại (các công ty này ở Nhật Bản chiếm hơn một nữa tổng khối
lượng xuất khẩu cả nước). Học tập kinh nghiệm đó của Nhật Bản, Thái Lan đã
60
thành lập nhiều công ty thương mại tư nhân và đã nhận được các ưu đãi hỗ trợ từ
Uỷ ban đầu tư [4,tr.47]. Các công ty thương mại quốc tế có một vai trò quan
trọng trong việc phát triển kinh tế ở Thái Lan, đặc biệt là các công ty kinh doanh
xuất khẩu đòi hỏi một lực lượng lao động dồi dào và cần có lợi thế so sánh tương
đối lớn như các sản phẩm như hoa quả đóng hộp, giầy dép, đồ da, đồ chơi, đồ
trang sức, các sản phẩm nhựa, điện tử, các bộ phận, phụ tùng ôtô...
Tuy nhiên, cho đến nay, Thái Lan vẫn chưa có được các công ty cạnh tranh
quốc tế tầm cỡ, và do đó xuất khẩu Thái Lan vẫn chậm chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa có công nghệ cao. Thái Lan vẫn chưa có công
ty nào trong số 500 công ty hàng đầu thế giới của tạp chí Fortune’s Global. Một
trong những nguyên nhân này là các công ty lớn của Thái Lan vẫn được chính
phủ hỗ trợ khi không có khả năng cạnh tranh. Cạnh tranh chưa phải là tiêu chí
hàng đầu để xây dựng các tập đoàn xuất khẩu mạnh ở Thái Lan, không giống như
các chaebol ở Hàn Quốc hay keiresu ở Nhật Bản [13,tr.19].
Vai trò của khu vực tư nhân: Từ những năm 80, vai trò Chính phủ Thái
Lan chủ yếu là tạo ra môi trường ổn định cho khu vực tư nhân hoạt động. Cùng
với khu vực tư nhân hết sức năng động, Thái Lan đã theo đuổi chính sách hướng
ngoại kết hợp với một số biện pháp của các cơ quan cụ thể. Trước hết là chính
sách tự do hoá, tư nhân hoá một số lĩnh vực hoạt động công cộng. Chính sách tỷ
giá linh hoạt cùng với hệ thống thanh toán tự do đã được thực hiện. Những biện
pháp trên thực hiện kết hợp với chính sách khuyến khích đầu tư, các chương trình
điều chỉnh thuế, hỗ trợ tài chính, cải cách thủ tục hải quan đã góp phần đẩy mạnh
xuất khẩu.
Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sau khủng hoảng tài
chính – tiền tệ châu Á năm 1997, Thái Lan đã thay đổi chính sách đầu tư để tạo
ra một môi trường hấp dẫn hơn so với các nước trong khu vực: nâng mức sở hữu
nước ngoài lên 49% đối với các dự án thông thường, 100% đối với các dự án có
trên 80% sản phẩm xuất khẩu [43]. Ngoài ra, phía nước ngoài còn được phép
61
điều chỉnh tỷ lệ sở hữu lên trên 51% trong trường hợp đối tác Thái Lan gặp khó
khăn về tài chính.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Chính phủ Thái Lan
đưa ra chương trình nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nhằm duy
trì và phát triển lợi thế so sánh của đất nước. Chương trình bao gồm: (1) Thúc
đẩy sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp từ sử dụng hàm lượng lao động cao sang
sử dụng hàm lượng công nghệ cao, (2) Khuyến khích sự phát triển và áp dụng
công nghệ hiện đại nhằm làm tăng phần giá trị gia tăng trong các ngành công
nghiệp sử dụng hàm lượng lao động cao.
Chẳng hạn, dưới áp lực cạnh tranh của Trung Quốc, Thái Lan đã ráo riết
tăng cường khả năng cạnh tranh. Tháng 5/2002, Thái Lan đã lập ra Ủy ban tăng
cường cạnh tranh quốc gia do Thủ tướng đứng đầu. Họ mời các chuyên gia quốc
tế tham gia thảo luận và tháng 10-2003 đã đưa ra bản báo cáo 600 trang phân tích
cụ thể các mặt mạnh, mặt yếu và nhất là đưa ra chiến lược rất rõ ràng và biện
pháp thực hiện rất cụ thể. Trong chiến lược này, Thái Lan xác định năm lĩnh vực
có thể tạo cho họ một vị trí trên thị trường quốc tế: xe hơi, thực phẩm, thời trang,
du lịch và phần mềm máy tính [71,tr.111].
Thái Lan khẳng định hai biện pháp cần đẩy mạnh để thực hiện chiến lược
này là tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và triển khai các hiệp định
thương mại tự do (FTA). Gần đây chúng ta thấy các chính sách đối ngoại và hoạt
động của các nhà lãnh đạo cao nhất của chính phủ Thái Lan đều tập trung vào
vấn đề này.
Lựa chọn thị trường chiến lược và thị trường bổ trợ: Một trong những biện
pháp duy trì ổn định, hạn chế rủi ro trong hoạt động xuất khẩu của Thái Lan là
xây dựng chiến lược đối tác thương mại với hai nhóm đối tác: những nước thị
trường chiến lược và những nước thị trường bổ trợ. Nhóm nước thị trường chiến
lược là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... Nhóm nước thị trường bổ trợ là
ASEAN, Trung Quốc, một số nước châu Phi và Mỹ-la-tinh... Đặc biệt Thái Lan
62
tận dụng rất tốt cơ hội để xâm nhập vào các thị trường ngách. Chẳng hạn, nhận
thức được Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh lớn, nhất là lợi thế về quy mô
sản xuất và thị trường, Thái Lan đã xúc tiến chương trình thâm nhập vào các
khâu sản xuất và thị trường ngách, những lĩnh vực mà Thái Lan có lợi thế. Chẳng
hạn, Thái Lan đã xúc tiến xây dựng hệ thống nhà hàng ăn uống tại Trung Quốc
trong kế hoạch “Thái Lan là bếp ăn của thế giới”. Tương tự như vậy, Thái Lan đã
tham gia vào những công đoạn thị trường mà họ có lợi thế hơn so với Trung
Quốc, đặc biệt là trong phát triển thương mại hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ.
1.4.1.2 Các biện pháp bảo vệ môi trường
Cùng với tốc độ tăng trưởng cao, Thái Lan cũng là nước dẫn đầu về tốc độ
khai thác tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường. Rừng ở Thái Lan bị tàn phá rất
nhanh và nghiêm trọng, tỷ lệ rừng được quy hoạch bảo vệ chỉ còn 13,8% năm
1996. Ô nhiễm không khí là khá cao và có xu hướng tăng, từ 0,9 năm 1980 lên
3,4 năm 1996. Ô nhiễm nguồn nước cũng rất trầm trọng, chất thải hữu cơ trong
nước sông, hồ nổi lên đến 213.271 kg/ngày vào năm 1980, sau đó tăng gấp đôi
vào năm 1995. Tình trạng thiếu nước, nhất là vào mùa khô đã xảy ra ở Thái Lan
trong những năm gần đây. Mùa khô năm 2005, có tới 60 trong tổng số 76 tỉnh
của Thái Lan đã bị khô hạn và thiếu nước [4,tr.74]. Nguyên nhân của tình trạng
này là do Thái Lan đã khai thác quá mức tài nguyên nhằm phục vụ cho tăng
trưởng, chỉ chú trọng tới sự tăng trưởng về mặt lượng, mà thiếu quan tâm đến
môi trường. Những bất ổn về thiên nhiên, môi trường như mưa lũ, nắng nóng kéo
dài, động đất, núi lửa hoạt động trở lại… đang đe doạ cuộc sống của nhân dân
Thái Lan nói riêng và nhiều nước trên thế giới nói chung. Chính vì vậy, tăng
trưởng nhanh đồng thời phải gắn với bảo vệ môi trường là một nhiệm vụ cấp
bách mà Thái Lan đang cố gắng thực hiện. Thái Lan còn biết đến liên quan đến
các vụ kiện thương mại môi trường như vụ kiện tôm với Hoa Kỳ.
Để bảo vệ môi trường, hạn chế khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên
hướng tới mục tiêu phát triển bền vững kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng,
63
Chính phủ Thái Lan đã áp dụng một số chính sách và biện pháp sau đây:
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển bền vững: Để đảm bảo phát
triển bền vững, Chính phủ Thái Lan đã kết hợp các vấn đề kinh tế và vấn đề môi
trường ngay từ khâu lập kế hoạch, tập trung chủ yếu vào các vấn đề môi trường
quan trọng như bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học, hạn chế ô nhiễm công
nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các yêu cầu về môi trường, khuyến khích
tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường, sử dụng các công cụ kinh tế
trong quản lý môi trường.
Áp dụng nhiều biện pháp để bảo vệ môi trường và nâng cao khả năng cạnh
tranh của sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là thuỷ sản, rau quả và hàng dệt may.
Những biện pháp chủ yếu được áp dụng là nâng cao hiểu biết về môi trường cho
doanh nghiệp và các nhà quản lý; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia phù hợp
với tiêu chuẩn quốc tế, ban hành các quy định về bao bì đóng gói, nhãn sinh thái,
áp dụng các phương pháp sản xuất sạch, sử dụng các công cụ kinh tế như thuế, lệ
phí môi trường; chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp như tín dụng (quỹ môi
trường), cung cấp thông tin, kỹ thuật và chuyên môn, khuyến khích áp dụng các
tiêu chuẩn môi trường như ISO 14000, HACCP, CODEX…
Hạn chế và xử lý ô nhiễm môi trường. Công nghiệp dệt của Thái Lan là
một ngành được đầu tư phát triển từ rất sớm. Mặc dù ngành này đã mang lại hiệu
quả kinh tế cao nhưng tác hại môi trường của nó cũng rất lớn. Đó là ô nhiễm bụi,
ô nhiễm nước do sử dụng nhiều loại hoá chất độc hại ở khâu nhuộm. Để hạn chế
ô nhiễm môi trường và vượt qua rào cản thương mại do việc sử dụng thuốc
nhuộm Azo, từ năm 1996 Thái Lan đã áp dụng nhiều biện pháp để xử lý môi
trường trong ngành dệt như sử dụng thuốc nhuộm không chứa Azo. Đáp ứng yêu
cầu này hàng dệt may của Thái Lan đã có sức cạnh tranh ở một số thị trường
thuộc EU, đặc biệt là Đức [4,tr.17].
Khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Mặc dù tỷ trọng ngành nông
nghiệp của Thái Lan đang có xu hướng giảm dần, nhưng đóng góp của nó đối với
64
nền kinh tế là rất lớn. Ngành chế biến nông sản là một trong những ngành xuất
khẩu chủ lực của Thái Lan. Tuy nhiên việc tăng năng suất cây trồng cũng đi liền
với việc sử dụng chưa hợp lý quỹ đất, rừng, hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật. Điều
này đã ảnh hưởng đến chất lượng nông sản xuất khẩu, môi trường sinh thái ở
nông thôn và sức khoẻ của bà con nông dân. Trong thương mại quốc tế, việc lạm
dụng quá mức thuốc trừ sâu và thuốc bảo vệ thực vật ở Thái Lan đã gặp phải
phản ứng của Nhật Bản bằng việc hạn chế nhập khẩu rau quả. Chính vì vậy từ
năm 1992, Thái Lan đã áp dụng nhiều biện pháp để hạn chế ô nhiễm môi trường,
nâng cao khả năng đáp ứng các quy định môi trường của nước nhập khẩu như
ban hành các tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm như gạo, cà phê, kiểm soát chặt
chẽ nguồn thuốc trừ sâu và phân bón, quy định mức sử dụng hoá chất trong nông
nghiệp, giảm trợ cấp trong nông nghiệp. Thái Lan cũng áp dụng việc dán nhãn
sinh thái cho sản phẩm gỗ.
Thái Lan đã có nhiều nỗ lực để hạn chế ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên.
Tuy nhiên, có thể nói rằng, bài học về xử lý các vấn đề môi trường của Thái Lan
chưa thật sự thành công. Cũng giống như Việt Nam và các nước Đông Nam Á
khác, Thái Lan đã phải đánh đổi môi trường vì tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, vấn
đề ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên vẫn chưa được xử lý triệt để ở Thái
Lan [21,tr.13].
1.4.1.3 Các biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội
Để giảm thiểu những tác động tiêu cực về mặt xã hội của quá trình công
nghiệp hóa và tự do hóa thương mại, Chính phủ Thái Lan đã áp dụng một số biện
pháp như thực hiện chính sách trợ cấp xuất khẩu đối với những vùng khó khăn.
Những biện pháp này chủ yếu là hỗ trợ về kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, nhân lực… do
đó không vi phạm các quy định về trợ cấp của WTO. Gần đây, Chính phủ Thái
Lan đã phát động phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” để tạo việc làm và cuộc
sống ổn định cho người dân. Chính phủ Thái Lan cũng đã xây dựng các chính
sách bảo hiểm xuất khẩu, nhất là đối với các sản phẩm nông sản, thủy sản, những
65
sản phẩm bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên và giá cả. Chính phủ Thái Lan còn
có chính sách hỗ trợ lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản bằng việc cung ứng các
dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu như xây dựng hệ thống kho chứa, hỗ trợ đầu tư công
nghệ chế biến, vận tải, bảo quản… Chẳng hạn, để đảm bảo ổn định cho hoạt động
xuất khẩu gạo, Thái Lan đã thiết lập một hệ thống dịch vụ hỗ trợ sau thu hoạch
như xây dựng các tập đoàn chế biến, bảo quản, nhà nước hỗ trợ cho các tập đoàn
kinh doanh gạo thu mua lúa gạo cho nông dân trong những thời điểm khó khăn
của thị trường.
Tuy nhiên, cũng giống như các nước Đông Nan Á khác, bất bình đẳng xã
hội ở Thái Lan có xu hướng gia tăng. Các cuộc biểu tình và xung đột chính trị ở
Thái Lan gần đây có nguyên nhân từ sự chia sẻ lợi ích bất bình đẳng. Đó là vấn
đề tham nhũng của một số quan chức chính phủ, vấn đề chia sẻ lợi ích giữa các
vùng, miền liên quan đến tài nguyên và đất đai. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng,
Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác chưa học được các bài học thành công
về xử lý các vấn đề xã hội từ các nước Đông Á [21,tr.13]. Các trung tâm kinh tế
lớn của Thái Lan như Băng cốc, Chiềng mai là nơi phân hóa giàu nghèo cao.
Trung tâm là các tầng lớp dân cư giàu có, ngoại vi là những người lao động
nghèo khổ.
1.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
1.4.2.1 Chính sách khuyến khích xuất khẩu
Trong suốt 30 năm qua, nền kinh tế của Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ
đáng khâm phục trung bình khoảng gần 9%/năm, trở thành sự thần kỳ kinh tế của
những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Trung Quốc hiện đứng trong số 10
nước có GDP lớn nhất thế giới. Về tổng sản phẩm quốc dân (GDP), năm 1980
Trung quốc đứng vị trí thứ 14 thế giới, đến năm 2008 đã vươn lên vị trí thứ 3 (sau
Hoa Kỳ, Nhật Bản). Dự báo, sau 10 năm sẽ vượt Nhật Bản và trong vòng 40 năm
tới, Trung Quốc có thể thách thức vị trí cường quốc số một hiện nay của Hoa Kỳ.
66
Bảng 1.2 Xuất khẩu và tăng trƣởng kinh tế Trung Quốc thời kỳ 2001-2007
2001 266,6
2002 326,3
2003 439,2
2004 594,7
2005 763,6
2006 2007 971,3 1220,9
6,8 22,4 34,6 35,4 28,4 27,2 25,7
tăng xuất
8,3 9,10 10,00 10,10 10,40 10,70 10,50
22,1 22,36 26,7 30,70 33,9 36,66 42,09
22,4 30,4 25,5 32,0 102,0 177,4 202,7
Nguồn: Niên giám thống kê (Tổng cục Thống kê)[82], Staticstics Handbook 2008 [104].
ngạch Kim xuất khẩu (tỷ USD) Tốc độ trưởng khẩu (%) tăng Tốc độ trưởng GDP (%) trọng Tỷ XK/GDP (%) Cán cân thương mại (tỷ USD)
Động lực chính của tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong 30 năm qua là
nhờ chính sách mở cửa hội nhập, đặc biệt là những thay đổi về chính sách sau khi
Trung Quốc gia nhập WTO, năm 2001. Tăng trưởng xuất khẩu đã trở thành động
lực chính của tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong suốt 30 năm qua. Tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc trong giai đoạn 1980 - 2008 luôn được
duy trì ở mức trên /năm. Kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc năm 2008 đứng
thứ ba thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Xuất khẩu đã góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ổn dịnh
kinh tế vĩ mô, nâng cao năng lực công nghệ của nền kinh tế. Cơ cấu xuất khẩu
của Trung Quốc đã chuyển dịch theo hướng tích cực, dựa trên việc khai thác lợi
thế cạnh tranh. Đến nay tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghệ cao của Trung Quốc
đã chiếm trên 30% trong tổng kim ngạch xuất, chiếm 7% trong GDP, trở thành
một ngành kinh tế chủ đạo của đất nước. Nhờ tăng trưởng xuất khẩu cao và ổn
định trong nhiều năm, cán cân thương mại Trung Quốc được cải thiện rõ rệt.
Trung Quốc thặng dư thương mại với hầu hết các nước trên thế giới, trong đó
67
nhiều nhất là Hoa Kỳ, EU. Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc tăng rất nhanh, đến
hết năm 2008 đã đạt mức gần 2000 tỷ USD.
Những thành tựu nói trên về phát triển xuất khẩu của Trung Quốc là nhờ
thực hiện các biện pháp và chính sách sau đây:
Xác định xuất khẩu là động lực của tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc
làm, xóa đói giảm nghèo: Trong đường lối phát triển kinh tế của Trung Quốc từ
những năm 80 thế kỷ 20, phát triển mậu dịch quốc tế được đặt vào vị trí ưu tiên
hàng đầu. Khai thác thị trường thế giới là mục tiêu chiến lược, là điều kiện để
Trung Quốc lớn mạnh. Trung Quốc đã có những chính sách để hội nhập sâu rộng
vào kinh tế thế giới. Trước hết là tham gia các định chế thương mại quốc tế và
khu vực như ký hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, EU, gia nhập WTO, tham gia
Diễn đàn kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, Diễn đàn kinh tế Á - Âu, xây dựng
khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc. Trung Quốc đã tìm mọi biện
pháp để mở cửa thị trường, thể hiện mở cửa trên đất liền, trên biển. Thực hiện các
biện pháp để thúc đẩy xuất khẩu như thuế, hạn ngạch, ưu đãi tín dụng, xúc tiến
thương mại. Phát triển xuất khẩu trở thành phong trào quốc gia.
Xây dựng chiến lược nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu:
Trung Quốc đã đề ra kế hoạch "lấy khoa học kỹ thuật thúc đẩy phát triển mậu
dịch". Mục tiêu của kế hoạch này là hình thành môi trường kỹ thuật cao, đẩy
nhanh tốc độ sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm kỹ thuật cao của 5 ngành: tin
học, công nghệ sinh học, vật liệu xây dựng, điện gia dụng, hàng điện tử tiêu
dùng. Chiến lược này là sự kế tiếp của 3 chiến lược "chiến lược mậu dịch",
"chiến lược đa dạng hoá thị trường" và "chiến lược cạnh tranh ưu thế chất
lượng"[4,tr.69].
Tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu và khai thác thị trường nước
ngoài: Theo Chương 9 của Luật Ngoại thương, Trung Quốc thúc đẩy xuất khẩu
thông qua các biện pháp như tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu; hỗ
trợ dịch vụ thông tin công cộng; hỗ trợ các nhà xuất khẩu trong việc khai thác thị
trường quốc tế; tạo dựng các thể chế thúc đẩy thương mại thông qua phát triển
68
các môi quan hệ ngoại thương, tài trợ các cuộc triển lãm, hội chợ, cung ứng thông
tin và các dịch vụ tư vấn, trong đó có việc ấn hành thường xuyên các hướng dẫn
về giảm hay ngừng xuất khẩu hàng dệt, may tới các nước đưa ra các hạn chế nhập
khẩu các mặt hàng có liên quan; và hỗ trợ xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Thúc đẩy phát triển các ngành công nghệ cao và xuất khẩu của khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài: Phát triển khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (nhất là khu
vực công nghiệp chế biến hướng về xuất khẩu, sử dụng nhiều vốn và công nghệ
cao, công nghệ mới) để thúc đẩy xuất khẩu và đẩy mạnh công nghiệp hóa được
coi là chiến lược xuyên suốt, ưu tiên hàng đầu của Trung Quốc từ trước tới đây.
Để thu hút đầu tư của khu vực này, Trung Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp
thuận lợi hóa đầu tư như cải thiện các thủ tục xin cấp phép đầu tư, xây dựng cơ sở
hạ tầng, ưu đãi về thuế, giá thuê đất, cung cấp dịch vụ...
Tìm cách vượt qua rào cản về hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu:
Là một nước đang phát triển, xuất khẩu của Trung Quốc đang ngày càng gặp phải
nhiều thách thức về các biện pháp TBT của các nước công nghiệp phát triển.
Trên thực tế, đây là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến việc đẩy
mạnh xuất khẩu của Trung Quốc khi mà Trung Quốc chưa phải là thành viên của
WTO và chưa có một hệ thống TBT đủ mạnh. Để khắc phục tình trạng này,
Trung Quốc đã cố gắng để ký kết các hiệp định thương mại với các nước để được
hưởng những nhượng bộ về buôn bán. Đồng thời, Trung Quốc đã phải nghiên
cứu kỹ các biện pháp TBT của các nước bạn hàng chủ yếu để xem ảnh hưởng
như thế nào với việc xuất khẩu những mặt hàng chủ yếu của Trung Quốc để đưa
ra các biện pháp đối phó thích hợp, phá vỡ hàng rào TBT của các nước để đẩy
mạnh xuất khẩu.
1.4.2.2 Phát triển xuất khẩu và bảo vệ môi trường
Tình trạng xuống cấp về môi trường là một thách thức to lớn đối với mục
tiêu PTBV của Trung Quốc. Điều này phản ánh áp lực nặng nề của một nước có
69
dân số khổng lồ đang gia tăng lên môi trường tự nhiên vốn đã dễ tổn thương với
tác động bị nhân lên gấp bội bởi tăng trưởng công nghiệp với tốc độ cao
[56,tr.41]. Trung Quốc được biết đến bởi nhiều thành phố có độ ô nhiễm không
khí cao nhất thế giới và những con sông trở thành nơi chứa nước thải của các khu
công nghiệp. Phát triển xuất khẩu dựa vào lợi thế lao động rẻ và sử dụng tài
nguyên đã làm cho môi trường Trung Quốc ô nhiễm trầm trọng, đặc biệt là ô
nhiễm nước và không khí. Hai phần ba số thành phố của Trung Quốc không đạt
tiêu chuẩn chất lượng không khí và 10% số vụ tử vong của người lớn ở Thượng
Hải có nguyên nhân từ ô nhiễm không khí [21,tr.27]. Nguyên nhân của suy thoái
và ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc là do phát triển kinh tế quá nóng. Tăng
trưởng công nghiệp bùng nổ ở Trung Quốc dẫn tới sự mở rộng với tốc độ cao các
ngành sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu có nguồn gốc thiên nhiên. Trung
Quốc hiện nay được ví như một “hố đen” hút đến gần 40% năng lượng thế giới.
Trong bốn thập niên vừa qua, gần một nữa diện tích rừng của Trung Quốc đã bị
hủy hoại, khiến hiện giờ nước này có độ che phủ rừng thuộc hàng thấp nhất trên
thế giới. Sự bùng nổ phát triển của Trung Quốc còn là nguy cơ đe dọa PTBV của
thế giới, nhất là các nước láng giềng. Chẳng hạn, rừng ở Nga và tài nguyên
khoáng sản và đa dạng sinh học ở Việt Nam là một trong số các nguồn cung cấp
cho sự bùng nổ kinh tế ở quốc gia này.
Chính vì vậy, chiến lược phát triển bền vững của Trung Quốc phải khắc
phục được hậu quả này. Chiến lược phát triển bền vững của Trung Quốc được
triển khai từ đầu thập niên 90 thế kỷ 20 được thể hiện một cách rõ nét trong
Chương trình nghị sự 21 (1993) [3,tr 21]. Một số nội dung quan trọng liên quan
đến thương mại và môi trường của chiến lược này là phát triển bền vững nông
nghiệp, bền vững đa dạng sinh học, bền vững thương mại. Chiến lược này được
xây dựng trên cơ sở xuất phát từ mối liên hệ tổng thể giữa môi trường và phát
triển, mục tiêu là sự phát triển hài hoà giữa kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật với
dân số, tài nguyên và môi trường với tiền đề giữ vững tốc độ phát triển kinh tế
cao, thực hiện việc sử dụng tổng hợp và lâu dài tài nguyên, không ngừng cải
thiện chất lượng môi trường, không những làm cho người Trung Quốc đương đại
70
có thể lấy từ kho tài sản quý giá của thiên nhiên những gì mà mình cần, đồng thời
còn để lại cho đời sau môi trường sinh thái và tài nguyên để họ có thể tiếp tục sử
dụng những gì mà họ cần.
Trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
các chính sách thương mại và chính sách môi trường của Trung Quốc đảm bảo
phát triển bền vững, tập trung chủ yếu vào một số biện pháp sau đây:
Bảo vệ môi trường lồng ghép với chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Thay vì chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế, hiện nay, Trung Quốc cũng đã chú
trọng hơn tới vấn đề bảo tồn năng lượng và bảo vệ môi trường. Trung Quốc là
một trong những nước đi đầu trong việc xây dựng Chương trình Nghị sự 21 về
phát triển bền vững của Trung Quốc (được Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa thông qua và phê duyệt chương trình vào tháng 7/2004), trong đó
công tác bảo vệ môi trường được quan tâm lồng ghép và thực hiện đồng thời với
phát triển kinh tế - xã hội. Trong các kỳ kế hoạch hàng năm hay dài hạn của Nhà
nước Trung Quốc cũng như của các địa phương đều dành một phần hoặc một
chương mục riêng viết về phương hướng, nhiệm vụ và biện pháp phát triển bền
vững, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm và hợp lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên
Quản lý xuất nhập khẩu. Quy chế quản lý xuất nhập khẩu của Trung Quốc
quy định danh mục hàng hoá xuất khẩu có ảnh hưởng đến môi trường như hàng
cấm xuất nhập khẩu, hạn chế xuất nhập khẩu, hàng xuất nhập khẩu theo hạn
ngạch. Chẳng hạn, danh mục cấm xuất khẩu quy định 4 nhóm hàng là xương hổ,
động vật hoang dã chưa hoặc đã qua chế biến, sừng tê giác, thuốc phiện và chất
gây nghiện, chất nổ; 68 mặt hàng đã qua sử dụng, 54 mặt hàng quản lý bằng giấy
phép [32,tr.167].
Kiểm tra giám sát hoạt động thương mại gây ô nhiễm. Để quản lý xuất
nhập khẩu các sản phẩm ảnh hưởng đến môi trường, Trung Quốc ban hành quy
định về kiểm nghiệm, kiểm dịch hàng xuất nhập khẩu. Các quy định trong lĩnh
vực này gồm (i) Hàng miễn kiểm nghiệm, kiểm dịch (ii) Hàng liên quan đến an
71
toàn vệ sinh và có yêu cầu đặc biệt bắt buộc kiểm nghiệm, kiểm dịch (iii) Quy
định về chế độ giấy phép an toàn chất lượng (iv) Các quy định về vệ sinh y tế tại
cảng, cửa khẩu. Danh mục những mặt hàng thuộc diện kiểm nghiệm, kiểm dịch
được quy định khá cụ thể và chi tiết [32,tr.168].
Áp dụng hệ thống tiêu chuẩn môi trường. Nhằm nâng cao khả năng đáp
ứng các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu, Trung Quốc đã khuyến khích
và hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như HACCP, ISO
14000…., đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất, đóng gói,
vận chuyển và bảo quản hàng xuất khẩu, phổ biến công nghệ sạch, năng lượng
sạch cho các cơ sở sản xuất, cung cấp cho họ thông tin kịp thời về yêu cầu của
nước nhập khẩu. Hệ thống nhãn hiệu xanh, thực phẩm xanh (green food) đã được
áp dụng. Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản, đồng thời thúc đẩy phát
triển nông nghiệp bền vững Trung Quốc đã áp dụng chính sách “Hộp xanh” và
“Hộp vàng” trong nông nghiệp. Đối với nhóm nông sản được hưởng chính sách
Hộp xanh, Nhà nước tăng cường hỗ trợ như giảm thuế, hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp
dịch vụ, đầu tư cơ sở hạ tầng. Đối với nhóm được hưởng chính sách Hộp vàng,
Nhà nước chuyển trợ cấp ở khâu lưu thông sang các khâu liên quan đến quá trình
sản xuất, chế biến như ưu đãi vật tư nông nghiệp, giống cây trồng, vật nuôi, phân
bón, năng lượng [32,tr.169].
Hạn chế đầu tư vào những ngành sử dụng nhiều nguyên nhiên liệu: Từ
năm 2005, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách ưu đãi đầu tư, kể cả đầu tư nước
ngoài theo hướng hạn chế những dự án sử dụng nhiều nguyên nhiên liệu và ô
nhiễm môi trường, nhất là trong lĩnh vực dệt may, chế biến thực phẩm. Chính
phủ Trung Quốc đã có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng nhiều nguyên
nhiên liệu đầu tư ra nước ngoài.
1.4.2.3 Các biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội
Tăng trưởng xuất khẩu đã góp phần vào việc giải quyết các vấn đề xã hội
của Trung Quốc. Năm 2003, Trung Quốc giải quyết được việc làm cho 8 triệu
người ở thành phố, khống chế tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4,5%. Năm 2004, tỷ lệ thất
72
nghiệp giảm xuống 4,2%, thu nhập bình quân của dân cư nông thôn là 2.936
NDT, tăng 6,8% so với 2003, mức tăng cao nhất từ 1997 đến nay, thu nhập bình
quân của dân cư thành thị là 9.422 NDT, tăng 7,7%. Tỷ lệ dân số sống dưới mức
cực kỳ nghèo đói theo tiêu chí của Liên Hợp quốc (2 USD một ngày) đã giảm từ
gần 73% năm 1990 xuống 32% năm 2003 [4,tr.71].
Tuy nhiên, Trung Quốc hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng phân hóa
giàu nghèo, bất bình đẳng về thu nhập, vấn đề nông nghiệp và nông thôn, xung
đột xã hội...
Trung Quốc hiện nay không những dẫn đầu về thành tích phát triển kinh tế
mà còn được biết đến là một quốc gia bất bình đẳng nhất châu Á. Ở một cực là
những người lao động, chủ yếu là nông thôn, với thu nhập ngày càng bấp bênh. Ở
cực kia là hầu hết quan chức chính phủ, ban giám đốc của doanh nghiệp và
những người thân cận, trở nên giàu có một cách nhanh chóng. Sự giàu lên của các
nhóm đặc quyền, đặc lợi này không chỉ có tính bất thường đối với người Trung
Quốc, mà còn chưa từng xảy ra ở bất kỳ một nước châu Á nào. Một nghiên cứu
đã chỉ ra rằng, 65% trong số 1.500 tỷ USD tài sản thanh khoản ở Trung Quốc
nằm trong tay của 0,16% dân số [56, tr.27].
Tình trạng công nhân bị sa thải hàng loạt, khan hiếm việc làm ở nông thôn,
mức bất bình đẳng tăng nhanh, chiếm đoạt đất đai trắng trợn của quan chức nhà
nước, tệ tham nhũng, cửa quyền của hệ thống hành chính quan liêu... đã làm đời
sống xã hội và chính trị ở Trung Quốc trở nên ngày càng căng thẳng ở cả nông
thôn và thành thị. Sự căng thẳng này đã bộc phát thành các vụ biểu tình của
người dân với số lượng tăng rất nhanh, từ 8.700 vụ năm 1993 lên 74.000 vụ năm
2004, tức là tăng với tốc độ 21,5%/năm - cao gấp đôi tốc độ tăng trưởng của
Trung Quốc và bình quân mỗi ngày có 203 vụ biểu tình [21,tr.29]. Mặc dù những
con số chính thức này có thể chưa phản ảnh hết mức độ căng thẳng trong đời
sống kinh tế, chính trị và xã hội của Trung Quốc, nhưng chúng đã chứng tỏ một
sự rạn nứt ngày càng sâu sắc trong xã hội.
73
Đói nghèo tuyệt đối ở Trung Quốc đã giảm trên quy mô lớn trong những
năm đầu của những cuộc cải cách nông thôn ở Trung Quốc vào cuối những năm
1970 và đầu những năm 1980. Tuy nhiên, vẫn còn một số lượng dân chúng khổng
lồ là người nghèo tuyệt đối tính theo ngưỡng nghèo đói quốc tế. Ngân hàng Thế
giới ước tính rằng trong năm 1995 có 716 triệu người (59% dân số) có thu nhập
dưới 2 USD một ngày và khoảng 280 triệu người sống với dưới 1 USD một ngày
[56,tr.20]. Như vậy Trung Quốc đang phải đối mặt với tình trạng đói nghèo trên
quy mô lớn và tình trạng này ngày càng xấu đi nếu tình hình kinh tế trong nước
gặp khó khăn.
Để hạn chế những tình trạng nói trên, Trung Quốc đã áp dụng một số biện
pháp sau đây:
Chính sách an sinh xã hội: Hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt ở các thành
phố của Trung Quốc đã được cải thiện đáng kể. Năm 1999, Trung Quốc đã chi
khoảng 554 triệu USD về việc đảm bảo cuộc sống cơ bản cho người nghèo đô
thị, đây là mức chi lớn nhất từ trước đến nay về vấn đề này. Cho đến đầu năm
2002 đã có khoảng 13 triệu trong gần 20 triệu người nghèo ở các đô thị Trung
Quốc được hưởng trợ cấp từ chương trình này, đa số những người thất nghiệp,
cán bộ hưu trí và các gia đình có thu nhập thấp, tăng 76% so với năm trước. Hệ
thống này cho đến nay đã được thực hiện ở các khu đô thị nghèo ở Bắc Kinh,
Giang Tô, Triết Giang và Quảng Đông [4,tr.70].
Chính sách hạn chế bất bình đẳng về thu nhập: Để thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các vùng, Trung Quốc đã triển khai một số chương trình phát
triển vùng để hỗ trợ các vùng nghèo hơn, nhất là vùng miền Tây và miền Trung
và gần đây là vùng Đông Bắc. Các chương trình hỗ trợ ở các vùng nghèo tập
trung vào việc nâng cấp các lĩnh vực, ngành truyền thống, phát triển các ngành
chế biến thực phẩm và dịch vụ, và đa dạng hóa cơ cấu những ngành phát triển
dựa vào tài nguyên. các phương thức khuyến khích và hỗ trợ phát triển gồm:
miễn thuế VAT cho việc mua một số mặt hàng máy móc, giảm thuế cho lĩnh
74
vực năng lượng, miễn thuế nông nghiệp và chuyển giao trợ cấp trực tiếp để phát
triển kết cấu hạ tầng.
Chính sách xóa đói giảm nghèo: Từ đầu những năm 1990, Trung Quốc đã
đưa ra nhiều giải pháp tích cực để giải quyết vấn đề đói nghèo của dân cư. Năm
1994, Trung Quốc đề ra “Kế hoạch 8-7” nghĩa là trong vòng 8 năm thực hiện xóa
nghèo cho 70 triệu người [4,tr.69]. Tháng 9 năm 1996, Hội nghị công tác đẩy
mạnh chống đói nghèo của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nêu rõ
“Dù nhiệm vụ gian khổ như thế nào, thì mục tiêu cuối thể kỷ này phải giải quyết
vấn đề ăn no mặc ấm cho những người nghèo khổ ở nông thôn nước ta cũng
không được thay đổi”. Gần đây, với chính sách “Miền trung trỗi dậy” và chủ
trương “Phát triển xã hội hài hòa”, Trung Quốc đã tập trung nhiều nguồn lực cho
công cuộc xóa đói nghèo.
Như vậy, phát triển kinh tế của Trung Quốc đang gặp phải những lực cản
to lớn về xã hội. Đây cũng là những vấn đề hiện nay của Việt Nam. Có thể thấy
rằng, so với các nước Đông Á, chính sách phát triển của Trung Quốc còn nhiều
thiên lệch. Nếu không xử lý tốt các vấn đề xã hội, phát triển bền vững ở Trung
Quốc còn là mục tiêu khá xã vời.
1.4.3 Bài học đối với Việt Nam
1.4.3.1 Bài học về tăng trưởng xuất khẩu nhanh và bền vững
Thứ nhất, kiên trì định hướng công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu: Trung
Quốc và Thái Lan là hai nước áp dụng khá thành công công nghiệp hoá hướng vào
xuất khẩu. Ở thời kỳ đầu, tập trung khai thác lợi thế sẵn có của các mặt hàng xuất
khẩu như nông sản, khoáng sản, các sản phẩm chế biến giá trị thấp sử dụng nhiều
lao động như dệt may, da giày để tích luỹ vốn. Thời kỳ tiếp theo là đẩy mạnh thu hút
đầu tư nước ngoài vào các ngành chế biến công nghệ trung bình sử dụng nhiều lao
động và từng bước chuyển sang phát triển dịch vụ và công nghệ cao. Mặc dù hai
nước này chưa chuyển đổi thành công mô hình tăng trưởng xuất khẩu như các nước
75
Đông Á, tuy nhiên kiên trì định hướng xuất khẩu là động lực tăng trưởng kinh tế cao
và ổn định trong nhiều thập kỷ vừa qua.
Thứ hai, thực hiện chính sách đầu tư và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu: Một
trong những yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Á nói chung và
Thái Lan và Trung Quốc nói riêng trong những thập kỷ gần đây là duy trì một tỷ lệ
tiết kiệm và đầu tư cao. Mức trung bình của Thái Lan, Trung Quốc là từ 30-
40%/GDP. Chính sách đầu tư ở các nước công nghiệp hoá mới là kết hợp khai thác
lợi thế so sánh sẵn có như tài nguyên và lao động rẻ với từng bước tận dụng cơ hội
của tự do hoá thương mại để phát triển các ngành công nghiệp chế tạo định hướng
xuất khẩu.
Thứ ba, đẩy mạnh tư do hóa thương mại và đầu tư: Một đặc điểm chung của
hai nền kinh tế Thái Lan và Trung Quốc là mở cửa thương mại. Sự mở cửa nền kinh
tế đã giúp hai nước này có tỷ lệ xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP. Các nền kinh
tế của các nước này sử dụng rất nhiều công cụ nhằm đạt được tính ổn định trong hệ
thống thương mại của mình bằng cách tạo ra cơ chế khuyến khích cho các doanh
nghiệp xuất khẩu để cân đối với cơ chế cung cấp các hoạt động thay thế thông qua
bảo hộ dành cho các nhà nhập khẩu.
Thứ tư, khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân: Khu vực tư nhân
đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động xuất khẩu ở các nước. Chính phủ
các nước coi việc phát triển khu vực này là động lực của tăng trưởng kinh tế, điển
hình là Thái Lan và Trung Quốc. Đối với Việt Nam lĩnh vực này chưa được quan
tâm thích đáng. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới thông qua một cuộc điều tra
gần đây về lĩnh vực kinh tế tư nhân cho thấy lĩnh vực này hoạt động trong môi
trường còn nhiều rủi ro, hạn chế về nguồn lực, khả năng tiếp cận nguồn vốn, thông
tin còn hạn chế, các thể chế hỗ trợ thị trường cũng như các loại hình dịch vụ kinh
doanh còn kém phát triển, ít kinh nghiệm để học hỏi. Vì vậy, Chính phủ cần tạo ra
một môi trường kinh doanh thuận lợi cũng như các chính sách khuyến khích thích
hợp để thu hút khu vực tư nhân tham gia hoạt động xuất khẩu.
76
Thứ năm, xây dựng và củng cố các tập đoàn kinh doanh lớn, tăng cường sự
liên kết ngành: Việc ra đời của các tập đoàn kinh doanh lớn sẽ tạo điều kiện vừa
phát triển đa ngành trong phạm vi tập đoàn, vừa thực hiện được sự phân công
chuyên môn hoá ở từng đơn vị thành viên, giúp cho các đơn vị thành viên kết thành
sức mạnh tổng hợp hỗ trợ lẫn nhau, loại trừ tình trạng manh mún trong quản lý sử
dụng vốn, tạo khả năng huy động nguồn vốn đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh
của các xí nghiệp thành viên, đủ sức vươn ra thị trường thế giới. Trung Quốc đã khá
thành công trong việc nâng cao tính cạnh tranh quốc tế của các tập đoàn kinh tế lớn.
Bài học quý giá đối với Việt Nam là hỗ trợ sự lớn mạnh của các tập đoàn kinh tế
hiện nay theo hướng nâng cao tính cạnh tranh của chúng chứ không phải tạo thuận
lợi nhờ sự bảo hộ, ưu đãi và vị thế độc quyền của mình.
Thứ sáu, phát triển công nghệ: Trung Quốc đã thành công trong việc chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu sang các ngành có hàm lượng công nghệ cao nhờ các yếu tố
tăng năng suất nhân tố tổng hợp. Xây dựng một hệ thống giáo dục có chất lượng cao
và phát triển khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định đối với sự chuyển dịch
này. Phát triển xuất khẩu dựa vào lợi thế cạnh tranh là một trong những bài học về
xuất khẩu bền vững. Việt Nam trong gần 10 năm gần đây chưa có sự chuyển dịch rõ
nét trong cơ cấu xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa là do trình
độ công nghệ và chất lượng lao động của ta chậm được cải thiện.
1.4.3.2 Bài học về phát triển xuất khẩu gắn với bảo vệ môi trường
Thứ nhất, bảo đảm yêu cầu về môi trường ngay từ khâu xây dựng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án đầu tư: Lồng ghép các vấn đề môi trường vào
trong các chính sách thương mại ngay từ giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp
hoá. Mọi chính sách môi trường phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo tăng
trưởng kinh tế, hạn chế những trở ngại không cần thiết đối với tự do thương mại.
Xử lý hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và lợi ích môi trường. Cân nhắc
để trong từng trường hợp ưu tiên mục tiêu nào hơn: lợi nhuận hay môi trường.
77
Ưu tiên phát triển kinh tế trong ngắn hạn có tính đến những tác động về môi
trường.
Thứ hai, xử lí triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và
khắc phục suy thoái môi trường: Áp dụng công cụ kinh tế, ban hành quy định việc
thu và sử dụng các loại phí, lệ phí bảo vệ môi trường theo danh mục đính kèm Pháp
lệnh phí và lệ phí; xây dựng kế hoạch thực hiện chi ngân sách nhà nước cho mục chi
các hoạt động sự nghiệp môi trường và đảm bảo tăng dần hàng năm theo tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế. Đa dạng hóa đầu tư để đảm bảo có đủ nguồn lực bảo vệ môi
trường.
Thứ ba, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp đáp
ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường hàng hóa xuất khẩu: Xây dựng hệ thống
tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với quy định quốc tế để kiểm soát ô nhiễm môi trường
xuyên quốc gia, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước và nâng cao khả năng cạnh tranh
của hàng hoá xuất khẩu là một trong những giải pháp để phát triển xuất khẩu bền
vững. Thực hiện giải pháp này sẽ đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu, nâng cao sức
cạnh tranh của hàng xuất khẩu trong điều kiện các nước nhập khẩu thuộc thị trường
phát triển có xu hướng áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường ở mức ngày
càng cao.
1.4.3.3 Bài học về phát triển xuất khẩu và giải quyết các vấn đề xã hội
Thứ nhất, thực hiện chính sách an sinh xã hội: Thiết lập hệ thống an sinh xã
hội rộng khắp để giải quyết các vấn đề liên quan đến bất bình đẳng thu nhập, mất
việc làm, phá sản, rủi ro thương mại. Có chính sách hỗ trợ đặc biệt đối với dân cư
các vùng sâu, vùng xa và những đối tượng chính sách. Cần có chính sách hỗ trợ các
ngành xuất khẩu có nhiều rủi ro như nông nghiệp, thủy sản, dệt may, da giày…
Thứ hai, thực hiện các chính sách hỗ trợ: Hỗ trợ các ngành hàng xuất khẩu
thu hút nhiều lao động như thủy sản, nông sản, dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ,
đồ gỗ trong trường hợp thị trường biến động xấu hạn chế xuất khẩu để tránh người
nông dân và người lao động mất thu nhập, việc làm. Trường hợp Chính phủ hỗ trợ
78
tài chính cho những người nuôi cá tra là một chính sách đúng cần duy trì và áp dụng
rộng rãi, hay hỗ trợ hiện nay để cứu các doanh nghiệp bị ảnh hưởng của khung
hoảng tài chính không có thị trường xuất khẩu. Các chính sách là hỗ trợ về lãi suất,
thuế thu nhập doanh nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực…
Thứ ba, cải thiện môi trường cho người lao động và nâng cao trình độ và tinh
thần trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước: Áp dụng các biện pháp để cải
thiện môi trường cho người lao động, vừa đáp ứng yêu cầu của nhà nhập khẩu nhất
là trong các ngành dệt may, da giày (áp dụng tiêu chuẩn SA 8000). Nâng cao trình
độ và tinh thần trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý đất
đai, quản lý thị trường, kiểm định chất lượng hàng hóa xuất khẩu, giải quyết tranh
chấp thương mại…
Những kinh nghiệm trên đây Việt Nam có thể tham khảo áp dụng. Tuy
nhiên, cần nhận thức sâu sắc rằng, chạy theo tăng trưởng, xem nhẹ phát triển
bền vững về mặt xã hội và môi trường, Trung Quốc và Thái Lan chưa phải là một
mô hình tốt cho Việt Nam học tập. Tuy vậy, từ kinh nghiệm của Trung Quốc và
Thái Lan, Việt Nam có thể tránh được những sai lầm mà hai nước này gặp phải.
Đây cũng là kinh nghiệm tốt cho Việt Nam, nơi dường như đang lặp lại những sai
lầm của những người đi trước.
Kết luận chƣơng 1
Xuất khẩu bền vững là một trong nội dung của phát triển bền vững. Muốn
đảm bảo xuất khẩu bền vững cần thiết phải duy trì nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu
ở mức cao và ổn định, chất lượng xuất khẩu ngày càng được nâng cao, xuất khẩu
phải đáp ứng yêu cầu về sự hài hòa các mặt của sự phát triển: kinh tế, xã hội, môi
trường. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, các nước thường phải đánh đổi
môi trường và nhiều khi và cả mục tiêu xã hội để có được sự tăng trưởng. Tuy
nhiên, mô hình tăng trưởng xuất khẩu bền vững phải hướng tới việc hạn chế
79
những tác động về mặt môi trường và xã hội, tức là chuyển đổi mô hình tăng
trưởng từ khai thác các yếu tố sẵn có sang khai thác lợi thế cạnh tranh. Xuất khẩu
bền vững phụ thuộc vào một số nhân tố chủ yếu như tự do hóa thương mại, chính
sách phát triển xuất khẩu của quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
chất lượng của nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng, trình độ công nghệ, môi trường
văn hóa, chính trị... Thể chế cũng là yếu tố quan trọng của XKBV. Thất bại của
các nước về đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và BVMT, công bằng xã
hội có nguyên nhân sâu xa từ chất lượng thể chế. Đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế là một trong những điều kiện quan trọng để phát triển XKBV. Nền kinh
tế hội nhập, xét về dài hạn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững hơn
nền kinh tế đóng và bao cấp. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, chạy theo thành tích
tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu có thể dẫn đến sự hủy hoại môi trường và bất ổn
về xã hội. Việt Nam cần rút ra những bài học để tránh lặp lại những sai lầm mà
các nước khác đã trải qua.
80
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
2.1 CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 1995-2008
2.1.1 Chính sách khuyến khích xuất khẩu
Trong giai đoạn 1986 đến nay, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã ban hành
nhiều chủ trương chính sách phát triển xuất khẩu nhanh và bền vững. Trong các
Nghị quyết của đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ khóa VI (1986), khóa VII
(1991), khóa VIII (1996), khóa IX (2001) và khóa X (2006), đều chú trọng đến
các biện phát đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh của hàng hóa và doanh nghiệp. Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát
triển xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 với định hướng là "Phát triển xuất khẩu với
tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP.
Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát
triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực
mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị tăng cao; tăng sản
phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao,
giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô" [68].
Để thực hiện mục tiêu nói trên, Chính phủ đã hướng tới yêu cầu thực hiện
đồng bộ các biện pháp như mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu, tự do hóa
thương mại thông qua việc từng bước cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế
quan, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành định hướng xuất khẩu, hỗ
trợ sự phát triển của khu vực tư nhân, hỗ trợ tín dụng, giảm kết hối ngoại tệ,...
Đặc biệt, sau khi nước ta gia nhập WTO, Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa IV ngày 5/2/2007 đã ban hành nghị quyết 08/NQ-/TW về “Một số chính
sách và biện pháp phát triển kinh tế nhanh và bền vững sau khi Việt Nam trở
81
thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới”. Nghị quyết đã đưa ra 10
nhóm giải pháp để thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, trong đó
có nhiều nhóm giải pháp liên quan đến XKBV như (i) hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN (ii) nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,
doanh nghiệp và sản phẩm (iii) phát triển khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực
(iv) bảo vệ môi trường (v) thực hiện chính sách an sinh xã hội...
Trong bối cảnh suy giảm tăng trưởng kinh tế do khủng hoảng tài chính
toàn cầu, Chính phủ đã khuyến khích sản xuất và xuất khẩu trên cơ sở “đẩy
nhanh quá trình cải cách và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ mô hình tăng
trưởng chủ yếu là dựa vào các yếu tố theo chiều rộng (dựa chủ yếu vào xuất khẩu
tài nguyên, tăng đầu tư, nhất là đầu tư trong nước) sang mô hình tăng trưởng
theo chiều sâu trên cơ sở phát huy nguồn lực và tính năng động của khu vực dân
doanh, khai thác lợi thế so sánh, tăng đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp
(công nghệ và quản lý, chất lượng nguồn nhân lực…) nhằm tạo ra năng lực cạnh
tranh mới trong từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế” [2].
Dưới đây sẽ trình bày một số chính sách của Việt Nam liên quan đến phát
triển xuất khẩu bền vững trong thời gian qua. Phụ lục 7 miêu tả những mốc quan
trọng trong chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam liên quan đến
XKBV.
2.1.1.1 Chính sách thương mại và cơ chế khuyến khích xuất khẩu
Mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu là khâu đột phá trong quá trình
cải cách chính sách thương mại Việt Nam, có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng xuất
khẩu và nhập khẩu. Từ năm 1980 trở về trước, với nguyên tắc Nhà nước độc
quyền về ngoại thương, toàn quốc chỉ một vài công ty lớn trực thuộc Bộ Ngoại
thương được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong giai đoạn 1986-1988 chỉ
có các doanh nghiệp quốc doanh, chủ yếu là các Tổng công ty xuất nhập khẩu
mới được quyền hoạt động ngoại thương. Trong giai đoạn 1989-1997, việc hạn
chế thương quyền được nới lỏng dần, song cho đến trước năm 1998, để được
82
phép tham gia xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp phải có đầy đủ các giấy phép
như hợp đồng thương mại, giấy phép vận tải hàng hải quốc tế, vốn kinh doanh bắt
buộc... Nói chung, trước năm 1998 các các điều kiện tham gia xuất nhập khẩu
chủ yếu nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp ngoại thương Nhà nước và hạn chế nhập
khẩu hàng tiêu dùng. Bước ngoặt quan trọng là từ cuối năm 1997, Chính phủ ban
hành Luật thương mại và sau đó là Nghị định số 57/1998/NĐ-CP cho phép tất cả
các doanh nghiệp trong nước có đăng ký hoạt động thương mại đều có quyền trực
tiếp xuất nhập khẩu hàng hóa mà không cần giấy phép xuất nhập khẩu (ngoại trừ
4 nhóm hàng hóa đặc biệt) sau khi đã đăng ký mã hàng hóa tại Tổng cục Hải
quan. Năm 2001, Quyết định 46/2001/QĐ-TTg lần đầu tiên đã công bố cơ chế
quản lý xuất nhập khẩu trong 5 năm (2001-2005), đồng thời cho phép mọi thương
nhân được phép xuất khẩu hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề, ngành
hàng đăng ký. Từ năm 1998, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng được
khuyến khích xuất khẩu hàng hoá không phải là sản phẩm của mình ngoại trừ
một số hàng hóa đặc biệt. Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh 41-2002-PL-
UBTVQH10 ngày 25/5/2002 về Quy chế tối huệ quốc và Đãi ngộ Quốc gia, áp
dụng cho hàng hoá nhập khẩu và xuất khẩu, dịch vụ và pháp nhân cung cấp dịch
vụ nước ngoài, đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài và các tổ chức hay cá nhân nước
ngoài nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ. Nghị định cũng bao gồm những trường hợp
ngoại lệ của thương mại hàng hoá không áp dụng MFN và NT. Khi gia nhập
WTO, Việt Nam cam kết không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nước
ngoài và doanh nghiệp trong nước (Nguyên tắc đối xử quốc gia). Trong tinh thần
này, Việt Nam đã ban hành Luật doanh nghiệp năm 2005, tạo khuôn khổ pháp lý
chung cho các doanh nghiệp trong nước (doanh nghiệp Nhà nước và doanh
nghiệp tư nhân) và doanh nghiệp nước ngoài. Để thực hiện cam kết gia nhập
WTO, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 2
năm 2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá và
các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
83
Việt Nam đã từng bước cắt giảm và xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu đối với
các mặt hàng như dệt may, da giày, lúa gạo... Việt Nam cũng đã cam kết cắt giảm
thuế quan trong khuôn khổ AFTA, ACFTA và WTO. Chẳng hạn, Việt Nam đã
cam kết trong khuôn khổ WTO giảm mức thuế bình quân từ mức hiện hành
17,4% xuống còn 13,4%, thực hiện dần trong vòng 5-7 năm. Mức thuế bình quân
hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9%, thực hiện trong
khoảng 5 năm. Mức thuế bình quân hàng công nghiệp giảm từ 16,8% xuống
12,6%, thực hiện trong vòng từ 5 đến 7 năm.
Việt Nam đã nhận thức được nhu cầu cần phải điều chỉnh lại những thiên
lệch bất lợi đối với xuất khẩu [40,tr.24]. Mặc dù không có trợ cấp xuất khẩu trực
tiếp, nhưng Nhà nước luôn luôn cố gắng giảm các chi phí cho các nhà sản xuất.
Tuy trợ cấp xuất khẩu không phải là một công cụ trực tiếp nhưng Việt Nam bắt
đầu thực hiện chính sách miễn thuế nhập khẩu, hoàn thuế và các khu chế xuất từ
năm 1992 nhằm cung cấp cho các nhà xuất khẩu khả năng tiếp cận các yếu tố đầu
vào nhập khẩu không chịu thuế và tạo điều kiện cho việc chế biến theo theo yêu
cầu của khách hàng. Việt Nam đã cho phép xuất khẩu không cần giấy phép, trước
khi cho nhập khẩu dưới dạng này rất lâu và gần đây đã miễn thuế giá trị gia tăng
cho hàng xuất khẩu và làm việc thông qua hàng xuất khẩu của các nhà đầu tư
nước ngoài trở nên tự động hơn.
Miễn thuế và hoàn thuế nhập khẩu cho những mặt hàng nhập khẩu để sản
xuất hàng xuất khẩu đã trở thành chính sách chủ yếu của Việt Nam từ đầu những
năm 1990. Chính sách này đã thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu cao trong các năm
2001-2003, đặc biệt là đối với một số mặt hàng như rau quả, dệt may, da giày...
Trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã áp dụng chính sách thưởng xuất khẩu.
Trong các năm 2008-2009, do xuất khẩu sụt giảm, Chính phủ đã áp dụng nhiều
biện pháp để duy trì nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu như giảm lãi suất cho vay để
sản xuất hàng xuất khẩu, miễm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp…
84
Mặc dù đã có sự tự do hoá đáng kể trong nhập khẩu nhưng cho đến nay, cơ
chế thương mại của Việt Nam vẫn có những thiên lệch không tốt cho xuất khẩu.
Thứ nhất, bảo hộ quá cao hàng nhập khẩu sẽ làm cho sản xuất để tiêu thụ nội địa
có lãi hơn sản xuất để xuất khẩu, do giá bán trong nước có thể được định ở mức
cao hơn giá thị trường quốc tế. Thêm nữa, có rất ít áp lực lên các nhà sản xuất để
buộc họ phải tăng cường tính hiệu quả của mình. Thứ hai, bảo hộ nhập khẩu làm
tăng chi phí của những hàng hóa phi thương mại, bao gồm cả lao động và điều này
làm giảm tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Thứ ba, với mức thuế nhập khẩu
hiện nay, các yếu tố đầu vào nhập khẩu của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu Việt
Nam có chi phí cao hơn giá thế giới. Theo những ước tính về sự thiên lệch bất lợi
với hàng xuất khẩu thì phần bù đắp vẫn không đủ cho mức tăng này.
2.1.1.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Giống như các nước Đông Á khác, xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng
nhanh trong những năm qua dựa trên sự tăng lên nhanh chóng của các luồng đầu
tư nước ngoài. Trong hơn 2 thập kỷ qua, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực
nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Năm 1987 Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành. Đến nay đã trải qua
nhiều lần sửa đổi với khung khổ pháp lý ngày càng thông thoáng và thuận lợi hơn
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Bước ngoặt lớn trong chính sách thu hút đầu tư
nước ngoài là việc Quốc hội thông qua Luật đầu tư mới tháng 11/2005 và có
hiệu lực từ ngày 01/07/2006, thay thế Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 (sửa
đổi) và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
Trong các văn bản pháp luật của mình, Chính phủ Việt Nam đã có những
chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những ngành xuất
khẩu, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Các chính sách khuyến khích đầu tư là:
cải thiện môi trường pháp lý, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện cơ sở hạ
tầng, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, giá thuê đất, ưu tiên các dự án sử
dụng công nghệ cao, hạn chế sử dụng tài nguyên và ô nhiễm môi trường, tạo
85
nhiều việc làm... Sau khủng hoảng tài chính châu Á, Việt Nam trở thành điểm
đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2007, Việt Nam thu hút
được gần 21,3 tỷ USD, năm 2008 đạt con số kỷ lục là 60,3 tỷ USD vốn đăng ký.
Từ năm 2003 đến nay, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước
ngoài chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Có thể nhận định rằng, hiện nay
và trong những năm tới, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là biện
pháp quyết định tăng trưởng xuất khẩu ở nước ta.
Mặc dù FDI có những đóng góp to lớn đối với tăng trưởng xuất khẩu và
việc làm của Việt Nam, tuy nhiên cần nhận thấy những bất cập hiện nay trong xu
hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài để có những điều chỉnh chính sách phù hợp.
Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam mới chú trọng đến số lượng
mà chưa quan tâm nhiều đến chất lượng. Chúng ta chú trọng đến số dự án, quy
mô dự án mà chưa chú ý đến hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của việc thu hút
đầu tư. Nhiều nhận định cho rằng, FDI ở nước ta đóng góp nhiều nhất về thu hút
việc làm nhưng chưa tạo ra được nhiều thặng dư thương mại hay sự phát triển
công nghiệp theo chiều sâu [21,tr.5]. Những lợi ích lâu dài đối với nền kinh tế
của FDI phụ thuộc rất nhiều với các mối liên kết giữa FDI và doanh nghiệp trong
nước. Thực tế cho thấy, từ năm 2001 đến nay, xu hướng FDI 100% vốn nước
ngoài là xu thế phụ đạo. Sự yếu kém của khu vực tư nhân trong nước và sự bảo
hộ cao của các doanh nghiệp khu vực nhà nước hạn chế sự liên kết này. Xuất
khẩu lệ thuộc quá mức vào FDI cũng là rủi ro đối với phát triển bền vững nền
kinh tế. Cũng như Trung Quốc, nếu cái “bóng bóng” đầu tư trực tiếp nước ngoài
mà vỡ ra, sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng đối với toàn bộ con đường
tăng trưởng và ổn định ở nước ta. Bên cạnh đó những tác động xã hội và môi
trường đối với FDI ngày càng tăng, thể hiện ở các trường hợp vi phạm quy định
BVMT, các vụ đình công tăng lên tại các doanh nghiệp FDI. Việt Nam cần học
tập Trung Quốc để điều chỉnh lại chính sách khuyến khích FDI trong giai đoạn
tăng trưởng mới, hạn chế các dự án FDI sử dụng nhiều năng lượng, ô nhiễm môi
trường, công nghệ lạc hậu.
86
2.1.1.3 Môi trường cho xuất khẩu của khu vực tư nhân và nhà nước
Từ khi bắt đầu quá trình đổi mới, Việt Nam đã thực hiện chính sách kinh tế
nhiều thành phần nhằm huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế. Một trong
những nét nổi bật của chính sách này là từng bước nới lỏng ràng buộc đối với khu
vực tư nhân. Đây là một phần trong tiến trình tự do hoá tuần tự của Việt Nam.
Đầu tiên là xoá bỏ những hạn chế và kiểm soát cũng như việc thừa nhận quyền sở
hữu bất động sản đối với nông dân và các nhà đầu tư nước ngoài, tiếp đến là các
hộ gia đình, sau cùng là các nhà đầu tư tư nhân trong nước.
Việt Nam đã có nhiều cải cách để thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân tham
gia xuất khẩu. Luật đầu tư nước ngoài ban hành vào năm 1987, Luật đầu tư trong
nước và Luật Thương mại năm 1997, đã rất có hiệu quả trong việc thúc đẩy sự
tăng trưởng đầu tư của khu vực tư nhân. Tiếp đó là Luật doanh nghiệp năm 2000
và sửa đổi năm 2005, Luật đầu tư sửa đổi 2005, Luật thương mại sửa đổi 2005,
hủy bỏ phần lớn giấy phép còn trong việc đăng ký kinh doanh, hỗ trợ doanh
nghiệp tư nhân trong việc tiếp cận thị trường, tín dụng, nguồn nhân lực... đã thúc
đẩy khu vực tư nhân phát triển. Bảng 2.1 cho thấy, số doanh nghiệp khu vực tư
nhân đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu đã tăng từ 8.418 năm 2000 lên 17.036
năm 2004 và 35.808 năm 2008. Khu vực dân doanh hiện tại ở Việt Nam đã trở
thành một trong những lực lượng chính tăng trưởng xuất khẩu hiện nay của Việt
Nam (sẽ được phân tích sâu trong mục 2.2.).
Mặc dù Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn trong việc phát
triển khu vực tư nhân, các chính sách hiện nay đã giảm đáng kể sự phân biệt đối
xử giữa khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp, các doanh nghiệp tư nhân vẫn bị hạn chế các quyền kinh doanh, khả năng
tiếp cận các nguồn vốn, hỗ trợ, nguồn nhân lực chất lượng cao. Sự tiến bộ không
đồng đều trong phát triển khu vực tư nhân do không được tiếp thêm sức mạnh sẽ
là thách thức lớn đối với Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết phát triển thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
87
1995
2000
2001
2002
2003
2004
2008
Nhà nước
1.076
2.634
2.770
2.943
3.153
2.917
2.537
Khu vực tư
156
8.418
10.567
13.774
15.145
17.036
35.808
nhân
-
1.470
1.852
2.226
4.101
4.517
5.889
-
97
123
281
572
512
1.254
FDI Khác Tổng số
1.232
12.619
15.312
19.224
22.971
24.982
44.760
Nguồn: Kinh tế Việt Nam (CIEM) [78], Niên giám Thống kê (Tổng cục Thông kê) [81]
Bảng 2.1 Đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu của các thành phần kinh tế thời kỳ 1995-2008
Bên cạnh chính sách khuyến khích khu vực tư nhân, Nhà nước cũng đã có
nhiều nỗ lực để nâng cao hiệu quả kinh tế của khu vực kinh tế nhà nước. Chủ
trương cổ phần hóa, bán khoán, cho thuê, sáp nhập đối với khu vực này đã được
thực hiện trong nhiều năm. Tuy nhiên, hiện nay, khu vực này vẫn chưa có sự
chuyển biến về sức cạnh tranh và hiệu quả đầu tư. Khu vực kinh tế nhà nước tiếp
tục nhận được sự ưu đãi về vốn, đất đai nhưng hiệu quả hoạt động và tính cạnh
tranh không được cải thiện. Khu vực kinh tế nhà nước chiếm một nửa tổng vốn
đầu tư của xã hội nhưng không tạo thêm việc làm mới trong suốt giai đoạn từ
2005-2007 [12.tr.17]. Nợ của 70 tập đoàn và tổng công ty nhà nước vào cuối năm
2007 đã lên tới 28 tỷ USD (bằng 40% GDP) [13,tr.11]. Thành tích xuất khẩu của
khu vực kinh tế của nhà nước cũng rất khiêm tốn (sẽ được phân tích trong mục
2.2.). Đóng góp của khu vực nhà nước vào nền kinh tế, tính theo giá trị gia tăng,
tạo việc làm và xuất khẩu là rất không tương xứng về mặt tỷ lệ với lợi ích mà khu
vực này nhận được về tín dụng, đất đai và chính sách ưu đãi. Quá trình cải cách
doanh nghiệp nhà nước còn quá chậm, không tương thích với tiến bộ nhanh trong
tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế, với những cam kết đẩy nhanh
quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường chắc chắn sẽ là cản trở tăng trưởng
bền vững của nền kinh tế trong dài hạn [13,tr.18].
88
2.1.1.4 Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Đảng và Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy
mạnh hội nhập kinh tế quốc tế với mục đích là khai thác tiềm năng, lợi thế để
phát triển xuất khẩu. Phụ lục 7 cho thấy những chính sách và biện pháp Đảng và
Chính phủ đã ban hành để đẩy mạnh hội nhập. Một số chủ trương lớn được ban
hành như: Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 27/11/2001 về Hội nhập kinh tế quốc tế;
Chỉ thị 08/2003/CT-TTg ngày 4/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về “Nâng cao
hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp”; Nghị quyết 08/NQ-/TW ngày
5/2/2007 của BCH Trung ương về “Một số chủ trương và chính sách lớn phát
triển kinh tế nhanh và bền vững sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới” và Nghị quyết 16/NQ-CP ngày 27/2/2007 về
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW...
Các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ đã thúc đẩy tăng
trưởng xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu. Việc thực
hiện cam kết trong ASEAN về khu vực AFTA, ký hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, tham gia khu vực mậu
dịch tự do ACFTA, mở rộng hợp tác song phương... đã thúc đẩy cải cách trong
nước, mở ra nhiều thị trường mới cho xuất khẩu cũng như thu hút đầu tư. Chính
sách tự do hóa của Việt Nam đã thúc đẩy việc cải cách thể chế, hoàn thiện môi
trường kinh doanh trong nước, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp giảm chi phí
kinh doanh, tăng cường đầu tư cho xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng
hóa xuất khẩu.
Việc thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần nâng cao
nhận thức của lãnh đạo và doanh nghiệp về PTBV. Chẳng hạn, thực hiện các cam
kết gia nhập WTO, Việt Nam đã có những thay đổi chính sách tạo thuận lợi cho
xuất khẩu như hạn chế những biện pháp quản lý định lượng chuyển sang quản lý
bằng công cụ thuế và phi thuế; áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật để
bảo vệ môi trường và sức khỏe con người theo quy định của Hiệp định SPS; Việt
Nam đã thiết lập hệ thống các văn phòng TBT từ trung ương đến địa phương để
89
giúp doanh nghiệp đáp ứng các quy định về TBT của các nước nhập khẩu; đã xây
dựng hệ thống cảnh báo về dịch bệnh ở vật nuôi và cây trồng...
Tuy nhiên, chúng ta chưa thực sự chủ động hội nhập. Chính sách tự do hóa
mới tạo thuận lợi để phát huy những lợi thế sẵn có, nhất là tài nguyên và lao động
rẻ mà chưa có tác dụng khai thác các lợi thế cạnh tranh để nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm. Cải cách thể chế kinh tế thị
trường theo yêu cầu hội nhập còn chậm. Nền kinh tế vẫn đứng trước những khó
khăn do hạn chế về năng lực thể chế, cơ sở hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực.
Có thể nói, mặc dù hội nhập đã thúc đẩy quá trình cải cách, tuy nhiên chưa có
bước chuyển biến căn bản trong những lĩnh vực nêu trên. Tính thiếu chủ động và
tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế làm cho Việt Nam ở vào thế bất lợi so với
các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc và các nước ASEAN.
2.1.1.5. Các chính sách khác
Bên cạnh những chính sách nêu trên, Việt Nam đã thực hiện một số chính
sách, biện pháp khác để thúc đẩy xuất khẩu như:
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại: Chính phủ đã ban hành Chương trình Xúc
tiến thương mại (XTTM) quốc gia giai đoạn 2006-2010 tại Quyết định
279/2005/QĐ-TTg ngày 03/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ (QĐ 279). Một
trong những mục tiêu của chương trình này là đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu thông
qua việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới, xây dựng chính sách phát triển thị
trường xuất khẩu, thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại tại các địa
phương. Bên cạnh đó, công tác thu thập và phổ biến thông tin cũng như công tác
dự báo để định hướng cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu được tăng cường. Nâng
cao chất lượng hoạt động xúc tiến thương mại của các cơ quan đại diện ngoại
giao, ngoại thương của ta ở nước ngoài. Đẩy mạnh các hoạt động hội trợ, triển
lãm, khảo sát thị trường xuất khẩu... [68,tr.25].
Phát triển kết cấu hạ tầng và dịch vụ hậu cần cho xuất khẩu: Chiến lược
phát triển xuất nhập khẩu Việt Nam thời kỳ 2001-2010 đã đưa ra các giải pháp để
phát triển kết cấu hạ tầng cho xuất khẩu, trong đó dành ưu tiên cho các dự án như
90
xây dựng các cảng biển, hệ thống kho tàng, kể cả kho ngoại quan, các trung tâm
thương mại ở nước ngoài, trung tâm hội chợ, triển lãm trong nước [68,tr.23]. Các
chủ trương lớn nói trên đã được cụ thể hóa trong các kế hoạch, chương trình của
Chính phủ và các địa phương. Hệ thống cảng biển được xây dựng hầu hết các
tỉnh ven biển, các thành phố lớn đều có trung tâm hội chợ, triển lãm. Hệ thống
hải quan và viễn thông từng bước được hiện đại hóa. Chính phủ đã thực hiện
nhiều biện pháp để đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo
hướng xoá bỏ các thủ tục phiền hà, và phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để
tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn
đầu tư lâu dài. Phấn đấu làm cho chính sách thuế, đặc biệt là chính sách thuế xuất
nhập khẩu có định hướng nhất quán để không gây khó khăn cho doanh nghiệp
trong tính toán hiệu quả kinh doanh [68,tr.27].
Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng và chất lượng dịch vụ cho xuất khẩu của
Việt Nam vẫn còn hạn chế. Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng chưa khuyến
khích đầu tư của nước ngoài và khu vực tư nhân, chưa có một cơ chế để hình
thành giá cả dịch vụ cạnh tranh. Chính vì vậy, chi phí dịch vụ xuất khẩu ở Việt
Nam còn cao hơn các nước, thủ tục hành chính liên quan đến xuất khẩu còn khá
phiền hà.
Chính sách phát triển khoa học, công nghệ: Việt Nam đã ban hành nhiều
chính sách khuyến khích ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động kinh tế nói
chung và xuất khẩu nói riêng. Quốc hội đã thông qua Luật khoa học và Công nghệ
ngày 9/6/2000, Luật chuyển giao công nghệ ngày 29/11/2006, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định 214/2005/QĐ-TTg ngày 30/8/2005 phê duyệt Đề án
phát triển thị trường công nghệ, ... Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ
2001-2010 và Nghị quyết TW 8/NQ-TW ngày 5/2/2007 cũng đã đưa ra chủ
trương đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất nhằm nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, hàng hóa và dịch vụ.
Nhà nước đã có những chính sách khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các
doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học; ban hành các quy định về bảo
91
hộ quyền sở hữu công nghiệp; áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt
buộc đối với một số mặt hàng xuất khẩu để thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm
hơn nữa đến vấn đề công nghệ, đặc biệt là công nghệ sạch. Nhà nước đã có nhiều
chính sách ưu đãi đối với phát triển công nghệ như miễn giảm thuế nhập khẩu
công nghệ, khuyến khích đầu tư phát triển các mặt hàng có hàm lượng công nghệ
cao, nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm [68,tr.22].
Tuy nhiên, việc hình thành thị trường khoa học công nghệ diễn ra còn chậm.
Khung khổ pháp lý tuy đã được hoàn thiện nhưng vẫn chưa thúc đẩy phát triển
khoa học công nghệ, các sản phẩm công nghệ của nước ta vẫn còn ở trình độ
thấp, chưa có khả năng thay thế công nghệ nhập khẩu. Sự liên kết giữa các cơ
quan nghiên cứu và cơ sở sản xuất còn lỏng lẻo, quá trình chuyển đổi các cơ sở
nghiên cứu triển khai sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp còn chậm. Tính
chất bao cấp đối với lĩnh vực khoa học, công nghệ vẫn còn cao.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực: Chính phủ đã tiến hành xây dựng
nhiều đề án để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo
đại học và dạy nghề. Đầu tư cho giáo dục, đào tạo được tăng cường đối với tất cả
các hệ từ tiểu học đến cao học, từ dạy nghề đến đào tạo lại. Trong những nỗ lực
chung nhằm xây dựng một nền giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước trong tình hình mới, các Bộ, ngành
chịu trách nhiệm chính trong lĩnh vực này đã nghiên cứu, xây dựng và trình
Chính phủ ban hành nhiều quyết định quan trọng như: Quyết định 07/2008/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia
giáo dục và đào tạo đến năm 2010; Chỉ thị 02/2008/CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học
tập; Nghị định 69/2008/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội
hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể
thao, môi trường; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng đã có Quyết định số
07/2006/QĐ-BLĐTBXH về việc phê duyệt "Quy hoạch phát triển mạng lưới
92
trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020";...
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm: Chính phủ
đã ban hành nhiều chủ trương chính sách để nâng cao năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm. Điển hình nhất là Chỉ thị 08/2003/CT-
TTg ngày 4/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về “Nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của doanh nghiệp”; Nghị quyết 16/NQ-CP ngày 27/2/2007 về
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW... Để nâng cao năng
lực cạnh tranh, Chính phủ đã tập trung giải quyết một số vấn đề quan trọng như
hoàn thiện môi trường thể chế, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, phát
triển nguồn nhân lực, chỉ đạo xây dựng các chương trình, dự án nâng cao năng
lực cạnh tranh. Môi trường kinh doanh đã từng bước được hoàn thiện theo hướng
minh bạch, công bằng, hạn chế độc quyền, hạn chế và bãi bỏ các rào cản kinh
doanh đối với doanh nghiệp. Đặc biệt, đã có nhiều chính sách thông thoáng hơn
để khuyến khích đầu tư đối với khu vực tư nhân trong nước và đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Trong những năm qua, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, Chính phủ
đó tập trung lớn vào phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là nâng cấp hệ thống giao
thông đường bộ, nâng cấp và xây mới các cảng biển, tập trung đầu tư các dự án
về điện, thực hiện các dự án về công nghệ thông tin, hiện đại hóa hệ thống hải
quan, ngân hàng, thuế... Chính phủ đó chỉ đạo các ngành, địa phương xây dựng
các đề án nâng cao năng lực cạnh tranh. Một số chương trình của Chính phủ đang
được xây dựng như “Chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành
hàng hóa và dịch vụ", "Đề án phân tích khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và
doanh nghiệp cụ thể", “Chương trình đồng bộ nâng cao năng lực cạnh tranh để hỗ
trợ đầu tư và phát triển sản phẩm". Các địa phương cũng đó chủ động xây dựng
các dự án để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ của địa phương
mình [2,tr.45].
Nhìn chung, các chính sách khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng xuất khẩu ở mức cao. Việt Nam đã từng bước
93
dỡ bỏ các rào cản thương mại đối với xuất khẩu. Chính sách tự do hóa được thực
hiện liên tục ở Việt Nam là yếu tố quyết định đối với tăng trưởng xuất khẩu trong
thời gian qua. Tuy nhiên, các chính sách của Việt Nam chưa khuyến khích phát
triển xuất khẩu theo chiều sâu, mà chủ yếu là tận dụng các lợi thế cạnh tranh tĩnh,
dựa chủ yếu vào khai thác các nguồn lợi đầu vào như tài nguyên và lao động rẻ.
Các chính sách tạo ra lợi thế cạnh tranh động, dựa vào công nghệ và chất lượng
lao động, trình độ quản lý chưa phát huy tác dụng rõ nét. Như vậy, chính sách
khuyến khích xuất khẩu chưa có tác dụng tích cực trong việc chuyển đổi mô hình
tăng trưởng. Đây có thể nói là hạn chế lớn nhất nhất của chính sách phát triển
xuất khẩu hiện nay của Việt Nam. Bên cạnh đó, trong chiến lược và chính sách
thúc đẩy xuất khẩu còn thiên về thành thích, số lượng, chưa quan tâm đến chất
lượng và những ảnh hưởng của xuất khẩu đến môi trường và xã hội.
2.1.2 Chính sách phát triển xuất khẩu và bảo vệ môi trƣờng
2.1.2.1 Cấm và hạn chế xuất khẩu
Trong các văn bản pháp luật về thương mại và môi trường Việt Nam đều
có những quy định về cấm, hạn chế xuất khẩu các sản phẩm ảnh hưởng xấu đến
môi trường, sức khỏe con người và động thực vật. Chẳng hạn, Điều 7 của Luật
Bảo vệ môi trường sửa đổi năm 2005 quy định những hành vi bị nghiêm cấm
như: phá hoại, khai thác trái phép rừng, các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác;
khai thác, đánh bắt các nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương tiện, công cụ,
phương pháp huỷ diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo quy định của pháp
luật; khai thác, kinh doanh, tiêu thụ, sử dụng các loài thực vật, động vật hoang dã
quý hiếm thuộc danh mục cấm do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định
[60].
Trong kế hoạch xuất nhập khẩu từng thời kỳ, Chính phủ quy định những
hàng hóa được phép, hạn chế và cấm xuất khẩu. Chẳng hạn Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005 đã quy định chi tiết danh mục hàng hóa cấm
94
xuất khẩu vì lý do bảo vệ môi trường, trong đó cấm xuất khẩu các loại hoá chất
độc hại, gỗ tròn, gỗ xẻ từ gỗ rừng tự nhiên trong nước; than làm từ gỗ hoặc củi có
nguồn gốc từ gỗ rừng tự nhiên trong nước; động vật hoang dã và động thực vật
quy hiếm tự nhiên [67].
Nhiều bộ luật được ban hành nhằm hạn chế khai thác quá mức tài nguyên
và bảo vệ môi trường ở một số ngành mà việc phát triển gây tác động xấu đến
môi trường như Luật thủy sản [59], Luật Khoáng sản [57], Luật bảo vệ và phát
triển rừng [58]...
Trong cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, Việt Nam đã cam
kết thực hiện các quy định của WTO về các biện pháp cấm hạn chế xuất khẩu bảo
vệ môi trường, sức khỏe con người và động thực vật [81]. Việt Nam cũng đã
tham gia các công ước quốc tế về BVMT liên quan đến xuất khẩu như công ước
CITES, Đất ngập nước, biến đổi khí hậu, Bazel... nhằm hạn chế thương mại các
chất gây nguy hiểm đến môi trường, động thực vật quý hiếm.
2.1.2.2 Xây dựng các quy định và tiêu chuẩn đối với hàng hóa xuất
khẩu
Nước ta đã ban hành Bộ tiêu chuẩn Việt Nam, trong đó quy định về tiêu
chuẩn nói chung và tiêu chuẩn môi trường nói riêng đối với hàng hoá xuất khẩu
như tiêu chuẩn đối với, gạo, cà phê, thuỷ sản, chè, sản phẩm gỗ, thực phẩm…
Đồng thời ban hành các quy định về kiểm tra, giám sát chất lượng hàng xuất
khẩu, các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có ảnh hưởng đến môi
trường.
Chẳng hạn, để nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu và tiêu dùng
trong nước, Bộ Thuỷ sản đã ban hành Quyết định số 649/2000/QĐ - BTS ngày
4/8/2000 ban hành quy chế kiểm tra và công nhận cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ
sản đạt tiêu chuẩn VSATTP, trong đó yêu cầu các cơ sở sản xuất kinh doanh
hàng thuỷ sản phải tuân thủ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu
nuôi trồng, chế biến, đóng gói, vận chuyển… Thông tư liên tịch số
17/2003/TTLT-BTC-BNNPTNT-BTS hướng dẫn việc kiểm tra, giám sát hàng
95
xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện kiểm dịch động vật, kiểm dịch thực vật, kiểm
dịch thuỷ sản cũng đã quy định cho các cơ quan kiểm tra các tiêu chuẩn về
VSATTP đối với các mặt hàng nói trên. Một số văn bản khác đã quy định cụ thể
về việc cấm sản xuất, lưu thông và sử dụng một số loại kháng sinh, hoá chất
trong sản xuất và kinh doanh thức ăn chăn nuôi như: Carbuterol, Cimaterol,
Clenbuterol, Chloramphenicol... (Quyết định số 54/2002/QĐ-BNNPTNT ngày
20/6/2002); Chỉ thị của Bộ Thuỷ sản số 07/2001/CT - BTS ngày 24/9/2001 về
việc cấm dùng hoá chất, thuốc thú y trong sản xuất thuỷ sản)…
Để đảm bảo chất lượng xuất khẩu của cà phê, Uỷ ban tiêu chuẩn Việt Nam
đã soát xét các tiêu chuẩn TCVN 4193-86 (Tiêu chuẩn Việt Nam) 1998 và ban
hành tiêu chuẩn mới TCVN 4193-93 cho cà phê nhân, đồng thời xây dựng
phương pháp xác định độ ẩm của cà phê nhân và hàm lượng cafein.
Để tăng cường xuất khẩu mặt hàng thực phẩm chế biến, Bộ Thủy sản đã
triển khai áp dụng HACCP tại các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh hàng
xuất khẩu thủy sản và đã nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản.
Hiện nay Việt Nam đã có 161 doanh nghiệp tham gia tiêu chuẩn HACCP. Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có Quyết định số 1032/QĐ/NN-KHCN
về nhiệm vụ hoạt động vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó giao cho Tổng công
ty Chăn nuôi Việt Nam thực hiện tiêu chuẩn HACCP, coi đây là tiêu chuẩn bắt
buộc cho các nhà xuất khẩu thịt...
2.1.2.3 Hỗ trợ doanh nghiệp bảo vệ môi trường trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế
Nhằm nâng cao khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp về các quy định và
tiêu chuẩn môi trường về hàng hóa xuất khẩu tại các thị trường xuất khẩu chính,
Chính phủ đã có nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp như hỗ trợ về thông tin, tài
chính, kỹ thuật,... Tại Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến
năm 2010 và định hướng đến năm 2020”, trong đó giao cho Bộ Thương mại (cũ)
phối hợp với các bộ/ngành hữu quan thực hiện chương trình “Hỗ trợ doanh
96
nghiệp Việt Nam bảo vệ môi trường và hội nhập kinh tế quốc tế”. Quyết định
cũng đề ra nhiều chỉ tiêu cho ngành thương mại và các ngành liên quan trong giai
đoạn từ nay đến năm 2010: 50% cơ sở sản xuất kinh doanh được cấp giấy chứng
nhận đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc chứng chỉ ISO 14001; 100% doanh nghiệp
có sản phẩm xuất khẩu áp dụng hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14001;
100% sinh vật biến đổi gien nhập khẩu vào Việt Nam được kiểm soát; loại bỏ
hoàn toàn việc nhập khẩu chất thải nguy hại… Thời kỳ tiếp theo đến năm 2020,
phấn đấu: 100% sản phẩm, hàng hoá xuất khẩu và 50% hàng hoá tiêu dùng nội
địa được ghi nhãn môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14021 [8].
Luật BVMT (2005) đã có các điều khoản liên quan đến hỗ trợ doanh
nghiệp bảo vệ môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Luật cũng
dành một chương đề cập đến các vấn đề môi trường trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, trong đó khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn môi trường quốc tế,
nhập khẩu công nghệ thân thiện với môi trường, mở rộng xuất khẩu các mặt hàng
có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, hợp tác quốc tế về BVMT… [60]
2.1.2.4 Khuyến khích đầu tư phát triển hàng hóa xuất khẩu thân
thiện môi trường
Để khuyến khích hoạt động xuất khẩu theo hướng hạn chế khai thác tài
nguyên thiên nhiên, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách như ưu đãi
nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất để sản xuất khàng xuất khẩu,
khuyến khích giảm tỷ trọng hàng chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu
bằng việc áp dụng công nghệ chế biến hiện đại đi đôi với các biện pháp bảo vệ
môi trường, khuyến khích sản xuất sạch, hạn chế nhập khẩu công nghệ trung
gian, tăng cường sử dụng các biện pháp phi thuế hợp lệ để bảo vệ môi trường
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế...
2.1.2.5 Thực hiện các cam kết quốc tế về môi trường liên quan đến
hoạt động xuất khẩu
Cam kết thực hiện các quy định quốc tế về bảo vệ môi trường cũng là một
trong những chủ trương, biện pháp thúc đẩy quá trình hội nhập và phát triển bền
97
vững ở nước ta. Các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường là sự thể hiện quyết
tâm chính trị của Đảng, Chính phủ hướng tới mục tiêu phát triển bền vững ở Việt
Nam. Hiện nay Việt Nam đã tham gia nhiều Công ước quốc tế về môi trường,
trong đó nhiều công ước đã được nội luật hóa. Một số Công ước quốc tế về môi
trường liên quan đến xuất khẩu như Công ước Đa dạng sinh học, Công ước
Bazel, Nghị định Kiôtô về biến đổi khí hậu, Công ước CITES,... Việt Nam cũng
đã ban hành Chương trình Nghị sự 21 với những cam kết phát triển bền vững như
thực hiện công nghiệp hóa sạch, thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo
hướng thân thiện môi trường, phát triển bền vững nông thôn, phát triển bền vững
các vùng...[9].
Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với việc thực
hiện các cam kết về các lĩnh vực thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, trong đó có
nhiều cam kết liên quan đến BVMT. Chẳng hạn, với tư cách là thành viên của
WTO, Việt Nam phải cam kết áp dụng các biện pháp về kiểm dịch động thực vật
(Hiệp định SPS), các biện pháp kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT), trợ
cấp môi trường (Hiệp định Nông nghiệp và Hiệp định về các biện pháp đối
kháng)... Việt Nam đang tích cực thực hiện các cam kết nói trên như đã xây dựng
các điểm hỏi đáp về SPS, thành lập văn phòng TBT Việt Nam. Nhờ áp dụng các
biện pháp kiểm soát nói trên, sau khi gia nhập WTO, hàng hóa Việt Nam, nhất là
thủy sản, đã có những tiến bộ trong đáp ứng các quy định về vệ sinh và an toàn
của các nước nhập khẩu.
Tóm lại, hệ thống chính sách của Việt Nam nhằm phát triển xuất khẩu và
bảo vệ môi trường tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với mục tiêu phát triển bền
vững. Tuy nhiên, vấn đề thực thi các quy định nêu trên còn hạn chế. Vẫn xảy ra
nhiều trường hợp vi phạm các quy định BVMT. Nguyên nhân của tình trạng này
là do ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp, trình độ và trách nhiệm
quản lý của các cơ quan có thẩm quyền, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý
vẫn còn hạn chế.
98
2.1.3 Chính sách phát triển xuất khẩu và giải quyết các vấn đề xã hội
Nhiều chính sách của Việt Nam tập trung vào việc giải quyết các vấn đề xã
hội trong quá trình phát triển kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng. Các chính
sách tập trung chủ yếu vào các nhóm chính sách như: (i) xóa đói giảm nghèo,
nâng cao thu nhập, tạo việc làm (ii) nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên
môn cho người lao động (iii) hạn chế phân hóa giàu nghèo (iv) hạn chế các xung
đột xã hội…
Các chính sách nói trên được thể hiện trong các chủ trương của Đảng, văn
bản pháp luật của Nhà nước và các chương trình phát triển của Chính phủ. Các
mục tiêu phát triển bền vững về xã hội được thể hiện cụ thể trong Chiến lược
phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21), luật bảo vệ môi
trường, chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, y tế, giáo dục, môi trường,
vệ sinh an toàn thực phẩm, cung cấp nước sạch…
Chẳng hạn, Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam đã đặt ra một số
mục tiêu phát triển bền vững về xã hội như (i) Tập trung nỗ lực để xoá đói, giảm
nghèo, đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội (ii) Tiếp tục giảm mức
tăng dân số và tạo thêm việc làm cho người lao động (iii) Định hướng quá trình
đô thị hoá và di dân nhằm phát triển bền vững các đô thị, phân bố hợp lý dân cư
và lao động theo vùng (iv) Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí và
trình độ nghề nghiệp, phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước và
(v) Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ,
cải thiện điều kiện lao động và vệ sinh môi trường sống [9].
Liên quan đến lĩnh vực xuất khẩu, Chính phủ đã có những chính sách
khuyến khích phát triển xuất khẩu nhằm cải thiện đời sống nhân dân, hỗ trợ, trợ
cấp xuất khẩu trong một số lĩnh vực và trường hợp đặc biệt. Cụ thể:
- Chính sách hỗ trợ xuất khẩu, nhất là xuất khẩu các nhóm hàng sử dụng
nhiều lao động như dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ, nông sản. Đặc biệt Nhà
nước đã có những chính sách hỗ trợ, trợ cấp xuất khẩu đối với những vùng sâu,
99
vùng xa như hỗ trợ về giá vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm thông qua các chính
sách như thuế, tín dụng. Ngoài ra các chính sách hỗ trợ xuất khẩu như đào tạo
nguồn nhân lực, hỗ trợ kỹ thuật nuôi trồng, xử lý dịch bệnh, dịch hại. Hỗ trợ
thông qua các chính sách trợ giúp khi bị thiên tai, dịch bệnh.
- Hỗ trợ người nghèo phát triển các sản phẩm xuất khẩu như ngô, đậu,
thanh long... Chính phủ phối hợp với các tổ chức quốc tế thực hiện nhiều dự án
hỗ trợ nông dân phát triển sản phẩm xuất khẩu: Dự án khoa tây Thái Bình, chè
Thái Nguyên...
- Nhà nước đã quy định các mức thuế đối với khai thác tài nguyên để đảm
bảo hài hòa lợi ích giữa người kinh doanh và xã hội. Chính phủ cũng có những
quy định về điều kiện được bảo hiểm và bảo lãnh xuất khẩu để hạn chế rủi ro cho
các nhà kinh doanh, nhất là xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Chính phủ cũng đã
có những chính sách hỗ trợ thích hợp đối với một số mặt hàng xuất khẩu khi có
biến động bất thường về thị trường. Chẳng hạn như hỗ trợ nông dân Nam bộ khi
cá tra và cá basa không có thị trường tiêu thụ, hỗ trợ người trồng cà phê khi giá
cà phê sụt giá nghiêm trọng.
- Việt Nam đã có các chính sách chia sẻ lợi ích thương mại giữa các nhóm
xã hội, đặc biệt trong khai thác tài nguyên đa dạng sinh học. Điều 30, mục 1 Luật
Bảo vệ môi trường quy định về chia sẻ lợi ích thương mại trong khai thác tài
nguyên là đảm bảo lợi ích của người dân bản địa, và những đối tượng có liên
quan [60]. Điều 4 của Luật Đa dạng sinh học nêu lên các nguyên tắc trong bảo
tồn đa dạng sinh học, trong đó nhấn mạnh rằng Tổ chức, cá nhân hưởng lợi từ
việc khai thác, sử dụng đa dạng sinh học phải chia sẻ lợi ích với các bên có liên
quan; bảo đảm hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước với lợi ích của tổ chức, cá nhân
[62].
Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng, các chính sách xã hội của nước ta về chia
sẻ lợi ích giữa các nhóm xã hội trong hoạt động thương mại nói chung và xuất
khẩu nói riêng chưa thật rõ ràng. Các biện pháp đảm bảo hài hòa lợi ích giữa
người sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nước được sử dụng trong trường hợp đặc biệt,
100
chưa có những quy định mang tính định hướng dài hạn. Do đó, việc xử lý hài hòa
lợi ích giữa các nhóm xã hội thường bị động. Người thiệt hại nhất là những người
sản xuất trực tiếp do bị ép giá, phụ thuộc vào điều kiện của các nhà xuất khẩu.
2.2 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM THEO CÁC TIÊU
CHÍ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG GIAI ĐOẠN 1995-2008
2.2.1 Quy mô, tốc độ và chất lƣợng tăng trƣởng xuất khẩu
2.2.1.1 Quy mô, tốc độ tăng trưởng
Phụ lục 8 miêu tả cụ thể các chỉ tiêu chủ yếu của xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 1991-2008. Quy mô xuất khẩu của Việt Nam đã tăng từ 2 tỷ USD năm 1991 lên 62,9 tỷ năm 2008, tăng hơn 31 lần. Với quy mô như vậy, năm 2008, Việt Nam đã tăng tỷ phần hàng xuất khẩu của mình lên mức 0,36% trong tổng xuất khẩu của thế giới và 1,1% trong tổng xuất khẩu của các nước đang phát triển [2].
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu [82,85,97].
Biểu đồ 2.1 So sánh tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân thời kỳ 1995-2008 đạt trên . Với mức tăng như vậy, Việt Nam được coi là một trong những quốc gia có mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhất khu vực châu Á (sau Trung Quốc). Biểu đồ 2.1 cho thấy mức độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam so với Trung Quốc và Thái Lan trong giai đoạn này tương đối ổn định. Trừ năm 1998 và năm 2001, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính châu Á, kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng tương ứng là
101
1,9% và 3,8%, các năm còn lại đều có mức tăng trưởng cao, năm cao nhất lên đến 34,4% (năm 1995) và 31,5% (năm 2004).
Bảng 2.2 So sánh các giai đoạn tăng trƣởng
Tăng GDP
FDI/GD P (%)
Tăng xuất khẩu (%)
Tăng việc làm (%)
Tăng chỉ số giá CPI (%)
Cán cân thƣơng mại/GD P (%)
Việt Nam 1991-2007
Hàn Quốc: 1969-1988
7,6 20,1 2,4 -8,69 5,9 12,8
Ma-lai-xi-a: 1977-1996
8,4 19,2 3,2 -3,58 0,5 12,1
Thái Lan: 1976-1995
7,4 11,5 3,5 2,09 4,3 3,8
Đài Loan: 1963-1982
8,1 13,9 3,0 -4,12 1,1 5,9
In-đô-nê-xi-a: 1977-1996
9,8 27,1 3,4 -2,26 - -
Phi-líp-pin: 1961-1980
7,2 4,8 2,9 2,8 0,9 9,6
Nguồn: Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright [13].
5,4 6,9 3,3 -1,8 - 10,2
Bảng 2.2 so sánh các giai đoạn tăng trưởng của Việt Nam với các nước
trong khu vực châu Á. Xét về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, quốc gia duy nhất có
tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân cao hơn Việt Nam là Đài Loan trong thời
kỳ 1962-1982. Các nước như Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a,
Phi-líp-pin trong các giai đoạn công nghiệp hóa tương tự như Việt Nam có tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu bình quân thấp hơn Việt Nam. Đây là một thành tích đáng
trân trọng.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trên GDP cũng tăng dần qua
các năm. Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP, 24% năm 1991, tỷ trọng này
năm 2008 đã lên tới 70%. Với tỷ trọng cao như vậy, Việt Nam được coi là một
trong những quốc gia có độ mở thương mại cao nhất thế giới. Điều này cho thấy,
nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc ở mức độ lớn vào thị trường thế giới. Việt Nam đã
102
tận dụng được cơ hội để tăng trưởng xuất khẩu nhưng cũng tiềm ẩn những bất ổn
tăng trưởng xuất khẩu khi thị trường thế giới có biến động lớn và việc duy trì tốc
độ xuất khẩu ổn định là một thách thức đối với nước ta.
Mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú và đa dạng. Phụ lục 9 miêu tả
xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 2001-2008. Nếu như
năm 2004 Việt Nam chỉ có 17 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD thì
đến hết năm 2008 đã có 25 nhóm hàng, trong đó có 10 nhóm hàng đạt kim ngạch
xuất khẩu trên 1 tỷ USD và 8 nhóm hàng trên 2 tỷ USD. 10 mặt hàng có kim
ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là dầu thô, dệt may, giày da, thuỷ sản, đồ gỗ, điện
tử, gạo, cà phê, cao su, than đá. 8 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ
USD là dầu thô, dệt may, giày da, thuỷ sản, đồ gỗ, điện tử, cà phê, gạo. Năm
2008, Việt Nam đứng thứ 16 trên thế giới về giá trị xuất khẩu, là nước đứng thứ
hai về xuất khẩu gạo và cà phê, đứng thứ nhất về xuất khẩu hạt tiêu, đứng thứ 9
về xuất khẩu hàng dệt may và đứng thứ tư về xuất khẩu cao su [2,tr.11]. Việt
Nam đang trở thành đối thủ cạnh tranh lớn trên thị trường đồ gỗ thế giới.
2.2.1.2 Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu
Phát triển xuất khẩu bền vững phải tính đến chất lượng của sự tăng trưởng.
Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu được xét trên một số khía cạnh chủ yếu (i)
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu và (ii) giá trị gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu
(iii) khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và (iv) khả năng tham gia của
hàng hóa xuất khẩu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu nhìn từ cơ cấu xuất khẩu: Từ năm 1995
đến nay, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã chuyển dịch theo xu hướng
tích cực: tăng tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu chế biến, giảm tỷ trọng hàng thô, sơ
chế; tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến, giảm tỷ trọng hàng nông, lâm, thuỷ
sản; tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực
kinh tế tư nhân, giảm tỷ trọng xuất khẩu khu vực kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, có
103
thể dễ dàng nhận thấy là tốc độ chuyển dịch còn chậm, trong 5 năm trở lại đây
không có sự thay đổi đáng kể, đột phá trong chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu.
Chuyển dịch cơ cấu hàng hoá theo nhóm hàng: Bảng 2.3. miêu tả sự
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo nhóm hàng. Tỷ trọng nhóm hàng nông - lâm -
thủy sản đã giảm đáng kể từ 46,3% năm 1995 xuống còn khoảng 20,4% năm
2008. Trong khi đó, tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng
sản tăng từ 25,3% năm 1995 lên mức cao nhất 36,2% năm 2007, giảm còn 28,7%
năm 2008. Tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ
28,4% năm 1995 lên 50,9 % năm 2008. Đây là xu hướng chuyển dịch tích cực,
phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Tuy nhiên, từ năm 2004 trở lại đây, cơ
cấu xuất khẩu chưa có sự thay đổi lớn theo hướng tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng
chế biến.
Bảng 2.3 Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1995-2008 (%)
1995
2000
2005
2006
2007
2008
25,3
35,6
36,0
35,2
36,2
28,7
Công nghiệp nặng và khoáng sản
Công nghiệp nhẹ và TTCN
28,4
34,3
41,0
40,7
40,1
50,9
Nông, Lâm, Thuỷ sản
46,3
30,1
23,0
24,1
23,7
20,4
Nguồn: Niên giám Thông kê (Tổng cục Thống kê) [82], Bộ Công Thương [85].
Để thấy được mức độ chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng công
nghiệp hoá, theo cách tiếp cận mới, chúng tôi tách hàng xuất khẩu khoáng sản ra
khỏi nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản; tách hàng dệt may và giày da
ra khỏi hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp và nhập chúng vào nhóm
hàng nông lâm thuỷ sản. Vì về thực chất, nhóm hàng khoáng sản là hàng thô,
nhóm hàng dệt may và da giày là nhóm hàng có giá trị gia tăng thấp, tỷ lệ nguyên
liệu nhập khẩu cao. Những nhóm hàng này có thể coi như hàng thô và sơ chế.
Trong những năm gần đây, tỷ trọng của nhóm hàng này chiếm khoảng 50% tổng
104
kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, tỷ trọng xuất khẩu hàng thô, sơ chế, giá trị gia
tăng thấp của Việt Nam lên tới trên 70%.
Theo cách tiếp cận này cho thấy rõ xu hướng mất cân xứng rất lớn trong cơ
cấu hàng xuất khẩu, ảnh hưởng đến việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa
định hướng xuất khẩu của Việt Nam. Qua phân tích cho thấy Việt Nam đang ở
điểm xuất phát của Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a và Thái Lan trong thời kỳ đầu cuối
thập kỷ 70 [40]. Nói một cách khác, đằng sau những con số thể hiện sự tăng
trưởng trung bình khá ấn tượng của xuất khẩu trong thời kỳ 1995- 2008, có thể
nhận thấy rằng xuất khẩu của Việt Nam trong hơn một thập kỷ vừa qua vẫn chưa
có những sự thay đổi về chất.
Chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo mức độ chế biến: Từ năm
1995 đến 2008, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến của
Việt Nam chưa có sự thay đổi lớn. Bảng 2.4 cho thấy, tỷ trọng hàng xuất khẩu
chế biến trong tổng kim ngạch xuất khẩu tăng không đáng kể, từ 45,4% năm
1995 lên 52,3% năm 2008. Điều đáng nói là mức độ tăng ít và không ổn định,
trong 14 năm chỉ tăng thêm 6,9 điểm phần trăm, và đặc biệt trong 4 năm gần đây
gần như không thay đổi. Đây là sự chuyển dịch khá chậm chạp so với các nước
trong khu vực. Số liệu ở bảng 2.3 cũng cho thấy, xuất khẩu Việt Nam chưa thể
hiện rõ nét xu thế công nghiệp hóa.
Bảng 2.4 Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo phân loại SITC giai đoạn 1995- 2008 (%)
1995
2000
2005
2006
2007
2008
Năm
Hàng thô hay mới sơ chế 54,6 55,8 49,6 48,8 49,3 47,7
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu [82,85,97].
Hàng chế biến 45,4 44,2 50,4 51,2 50,7 52,3
105
Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo thành phần kinh tế: Cơ cấu xuất khẩu
đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng giảm tỷ trọng khu vực kinh tế trong
nước, tăng tỷ trọng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực tư nhân. Bảng
2.5 miêu tả cơ cấu xuất khẩu theo thành phần kinh tế. Khu vực có vốn FDI từ chỗ
chỉ chiếm 27% tỷ trọng xuất khẩu năm 1995, đến nay (2008) đã chiếm tỷ trọng
55%. Một điều cần nhấn mạnh là khu vực FDI chỉ chiếm khoảng 15-17% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội trong những năm gần đây. Như vậy có thể nói khu vực
FDI hiện nay đang đại diện cho xu hướng công nghiệp hoá hướng xuất khẩu.
Bảng 2.5 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo thành phần kinh tế
1995 2000 2005 2006 2007 2008
Khu vực kinh tế Nhà nước 67,0 40,0 21,3 19,8 20,8 20,3
Khu vực tư nhân 6,0 13,0 21,5 22,4 22,3 24,7
Nguồn: Niên giám Thông kê (Tổng cục Thống kê) [82], Bộ Công Thương [85].
Khu vực có vốn ĐTNN 27,0 47,0 57,2 57,8 56,9 55,0
Bên cạnh khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực tư nhân đã chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Đến hết năm 2008,
khu vực tư nhân đã chiếm đến 24,7% tổng giá trị xuất khẩu. Điều đáng nói là với
môi trường kinh doanh không thuận lợi, nhận được ít sự ưu đãi của nhà nước
nhưng khu vực tư nhân là khu vực kinh tế hoạt động hiệu quả cả về phương diện
kinh tế và xã hội. Đay là khu vực thu hút nhiều lao động nhất [12,tr.17].
Khu vực nhà nước trong nhiều năm chiếm tỷ trọng tuyệt đối, đến năm
2008 chỉ còn chiếm 20,3%. Điều đáng nói là khu vực kinh tế nhà nước chiếm hơn
một nữa vốn đầu tư toàn xã hội, nhận được sự ưu đãi của nhà nước, được bao cấp
lớn, nắm giữ các lĩnh vực kinh tế then chốt nhưng lại nghèo nàn về thành tích
xuất khẩu. Có thể nói rằng, với kết quả xuất khẩu kém cỏi như vậy, các tập đoàn
kinh tế nhà nước không đại diện cho xu thế công nghiệp hóa định hướng xuất
khẩu, chưa thể hiện vai trò chủ đạo, dẫn dắt nền kinh tế. Năng lực cạnh tranh
106
quốc tế yếu kém của khu vực kinh tế nhà nước là một thách thức đối với phát
triển bền vững ở nước ta hiện nay.
Tỷ trọng xuất khẩu cao của khu vực FDI cho thấy Việt Nam đã tận dụng
được cơ hội của mở cửa kinh tế để thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ phát triển
xuất khẩu. Tuy nhiên, như đã phân tích trong mục 2.1.1.1, đầu tư nước ngoài
chưa tạo ra sự chuyển biến thực sự về công nghệ và năng suất, chủ yếu tập trung
ở những ngành công nghệ trung bình, sự dụng nhiều lao động trình độ thấp. Xu
thế này tiếp tục sẽ ảnh hưởng đến phát triển xuất khẩu bền vững của Việt Nam
trên các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường. Việc lệ thuộc quá mức vào FDI
cũng tiềm ẩn nguy cơ đối với xuất khẩu bền vững, đặc biệt là trong điều kiện có
biến động lớn từ bên ngoài, chẳn hạn như khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện
nay.
Cơ cấu xuất khẩu theo thị trường: Thị trường xuất khẩu của Việt Nam
ngày càng đa dạng. Từ chỗ phải lệ thuộc hoàn toàn vào khu vực thị trường Đông
Âu và Liên xô (cũ), từ năm 1991 đến nay, thị trường xuất khẩu của Việt Nam
ngày càng được mở rộng từ ASEAN sang các nước khác ở châu Á, châu Âu,
châu Mỹ và bước đầu phát triển trên thị trường châu Phi. Nếu như từ năm 2000
trở về trước thị trường xuất khẩu thị trường chủ yếu của nước ta chủ yếu ở khu
vực châu Á, thì từ 2001 đến nay, thị trường đã được đa dạng hoá. Tính đến hết
năm 2008, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 220 quốc gia và vùng
lãnh thổ.
Việt Nam đã có những bước tiến tích cực trong việc đa dạng hóa thị trường
xuất khẩu. Tuy nhiên, xuất khẩu vẫn dựa chủ yếu vào những thị trường lớn như
EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản. Trong điều kiện biến đổi nhanh chóng của thị trường và
suy giảm kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính toàn cầu như hiện nay, việc
tập trung xuất khẩu vào một số ít thị trường sẽ tiềm ẩn rủi ro lớn khi các thị
trường này bị thu hẹp. Chẳng hạn, trong quý I/2009, xuất khẩu của Việt Nam chỉ
107
tăng 2,4%, thấp hơn 8% so với cùng kỳ năm 2008, mức tăng thấp nhất từ năm
2001 đến nay [2,tr.11].
Bảng 2.6 Cơ cấu thị trƣờng xuất khẩu giai đoạn 2003-2008 (%)
thị vực 2003 2004 2005 2006 2007 2008
49,0 22,0 20,2 0,8 54,8 20,4 21,3 1,6 50,5 18,1 21,3 2,1 45,5 18,5 24,0 3,9 43,8 19,8 24,3 3,8 44,5 18,3 25,6 3,9
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu [82,85].
Khu trƣờng Châu Á Châu Âu Châu Mỹ Châu Phi, Tây Nam Á Châu Đại Dương Tổng 8,0 100,0 6,7 100,0 8,0 100,0 8,1 100,0 8,3 100.0 7,7 100,00
Tóm lại, qúa trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam cho thấy
xuất khẩu của nước ta chưa thật bền vững. Xuất khẩu chưa thể hiện rõ nét xu thế
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng hàng thô, sơ chế, giá trị gia tăng thấp còn
cao. Việt Nam mới tận dụng được lợi thế so sánh sẵn có để phát triển xuất khẩu
mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh để phát triển những mặt hàng có hàm
lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn. Xét theo khía cạnh đó, xuất khẩu của
Việt Nam trong những năm qua mới chỉ mang ý nghĩa tích cực trong việc tạo ra
công ăn việc làm, chưa thay đổi về căn bản hiện trạng công nghiệp xuất khẩu của
Việt Nam, chưa tạo được những ngành công nghiệp gắn kết với nhau để cùng
hướng về xuất khẩu và tạo ra giá trị gia tăng ngày càng lớn. Xu hướng chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu hiện nay của Việt Nam chưa thật sự thúc đẩy quá trình
hình thành một cơ cấu đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại, có
năng lực hội nhập kinh tế quốc tế.
Với cơ cấu xuất khẩu như hiện nay, Việt Nam rất khó khăn trong việc duy
trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, ở vào thế bất lợi trong cạnh tranh quốc tế,
giải quyết các vấn đề như nhập siêu, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
108
Giá trị gia tăng của xuất khẩu: Mặc dù tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của
Việt Nam rất cao nhưng giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu còn nhỏ bé trong tổng
kim ngạch xuất khẩu. Bảng 2.7 miêu tả cơ cấu xuất khẩu của nhóm hàng công
nghiệp chế biến. Xuất khẩu Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào các ngành chế biến
dựa vào nguồn tài nguyên và ngành chế tạo công nghệ thấp sử dụng nhiều lao
động và sản xuất các cấu kiện, công nghệ trung bình. Xuất khẩu công nghệ cao,
sử dụng nhiều vốn chỉ chiếm 6% năm 2005 và chưa đầy 8% năm 2008 [2,tr.19].
Một số ngành có mức tăng trưởng xuất khẩu cao, chiếm tỷ trọng lớn trong kim
ngạch xuất khẩu là những ngành có giá trị gia tăng thấp. Chẳng hạn, trong ngành
dệt may, Việt Nam chỉ tạo được khoảng 30% giá trị xuất khẩu, chủ yếu là tham
gia vào khâu tạo ra ít giá trị, công đoạn gia công. Những khâu tạo ra nhiều giá trị
đều phụ thuộc vào nước ngoài như nguyên vật liệu, thiết kế, xúc tiến thương
mại... Tương tự như vậy đối với ngành da giày, tỷ lệ đóng góp vào giá trị xuất
khẩu của Việt Nam chỉ khoảng 20% . Trong các ngành khác như sản xuất xe máy, ô
tô, điện tử... Việt Nam cũng chủ yếu tham gia vào công đoạn lắp ráp.
Bảng 2.7 Sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu sản phẩm chế biến thời kỳ 1985-2008
Tỷ trọng (%) Hàm lƣợng xuất khẩu
1985 74,4 2000 17,6 2005 20,4 2008 25,7
21,7 77,0 73,6 66,3
3,9 5,4 6,0 8,0
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu [2,13,82].
Ngành chế biến dựa vào nguồn tài nguyên Ngành chế tạo công nghệ thấp sử dụng nhiều lao động và sản xuất các cấu kiện, công nghệ trung bình Công nghệ cao, sử dụng nhiều vốn
Một chỉ số khác để đánh giá hiệu quả xuất khẩu là tỷ suất lợi nhuận (ở đây đo
bằng tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trong năm trên một đơn vị doanh thu). Tỷ suất lợi
nhuận của những ngành thay thế nhập khẩu được bảo hộ cao hơn so với các ngành
định hướng xuất khẩu, nhất là các ngành sử dụng nhiều lao động. Ví dụ ngành dệt,
109
may, da giày, đồ gỗ có tỷ suất lợi nhuận rất thấp, thậm chí âm, tương ứng là 0,11%;
0,61%; -0,05% và 1,99% năm 2006. Trong khi đó, các ngành in ấn, sản phẩm khai
khoáng phi kim loại, máy móc thiết bị giao thông có lợi nhuận cao hơn nhiều
[2,tr.19].
Giá trị gia tăng thấp của hàng xuất khẩu Việt Nam còn thể hiện ở hiệu suất
đầu tư thấp (ICOR). Bảng 2.8 cho thấy, nếu như trong giai đoạn 1995-2000, chỉ
cần 2,5-3 đồng vốn đã tạo ra một đồng giá trị gia tăng, nhưng giai đoạn 2001-
2007 phải cần đến 4-4,5 đơn vị đầu tư. Bảng 2.8 cho thấy hiệu suất sử dụng vốn
đầu tư của Việt Nam cũng thấp hơn so với các nước trong khu vực ở giai đoạn
công nghiệp hóa tương tự như Việt Nam hiện nay.
Tuy vậy, vấn đề nổi lên hiện nay đó là vấn đề chất lượng tăng trưởng liên
quan đến tỷ trọng đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) còn thấp. Sự
tăng trưởng đạt được chủ yếu do tăng vốn đầu tư và số lượng lao động chứ không
phải là do nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư, trình độ công nghệ và chất lượng
lao động. Điều này đe dọa tính bền vững trong hiện thời và tương lai, tạo ra mâu
thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng (số lượng) và chất lượng, hiệu quả tăng trưởng.
Bảng 2.8 So sánh ICOR của Việt Nam với một số nƣớc
Nƣớc Giai đoạn ICOR
Nguồn: David Dapice (2008), Lựa chọn thành công: Bài học từ Đông Á cho Việt Nam,
http//:www.fetp.edu.vn. [21].
Hàn Quốc Đài Loan In-đô-nê-xi-a Ma-lai-xi-a Thái lan Trung Quốc Việt Nam 1961-1980 1961-1980 1981-1995 1981-1995 1981-1995 2001-2006 2001-2006 Tăng trƣởng GDP (%/năm) 7,9 9,7 6,9 7,2 8,1 9,7 7,6 Tổng đầu tƣ (% của GDP/năm) 23,3 26,2 25,7 32,9 33,3 38,8 33,5 3,0 2,7 3,7 4,6 4,1 4,0 4,4
Sức canh tranh của hàng hóa xuất khẩu: Trong thời gian qua, mặc dù có
sự cải thiện về sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, tuy nhiên, về cơ bản, hàng
110
hóa xuất khẩu của Việt Nam vẫn có sức cạnh tranh thấp so với các nước trong
khu vực, đặc biệt là Trung Quốc và ASEAN.
Để thấy rõ hơn về chất lượng tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam, chúng
ta có thể so sánh sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam với Trung Quốc.
Phụ lục 11 xem xét chỉ số cạnh tranh của các hàng xuất khẩu của Việt Nam
và Trung Quốc trên thị trường thế giới. Trung Quốc có năng lực cạnh tranh mạnh
trong nhóm những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động giản
đơn, như vải vóc, quần áo, giày dép, dụng cụ lữ hành, dụng cụ du lịch… các sản
phẩm của ngành công nghiệp nặng và các sản phẩm lắp ráp. Những nhóm hàng
sử dụng nhiều lao động và tài nguyên là những ngành Việt Nam đang có lợi thế
so sánh. Tuy nhiên, trong hai ngành chủ lực là may mặc và giày dép, hiện nay
Việt Nam mới tập trung trong công đoạn gia công và chủ yếu dựa vào lao động
giản đơn. Các giai đoạn cao hơn trong chuỗi giá trị vẫn phụ thuộc vào nước
ngoài.
Sơ đồ 2.2 so sánh sức cạnh tranh của hàng dệt may giữa Việt Nam và
Trung Quốc. Sơ đồ này được xây dựng trên cơ sở tính toán chỉ số cạnh tranh của
một nước trong một ngành xuất khẩu nào đó [71,tr.60]. Nếu gọi X là xuất khẩu
và N là nhập khẩu, chỉ số cạnh tranh của một nước trong một ngành công nghiệp
nào đó được tính theo công thức sau:
(X-N)/X+N
Nếu chủ yếu là nhập khẩu và hầu như không xuất khẩu, chỉ số cạnh tranh
sẽ bằng -1. Đây là trường hợp nước này hoàn toàn không có lợi thế so sánh trong
ngành đang phân tích nên nhu cầu trong nước phụ thuộc hoàn toàn vào nhập
khẩu. Ngược lại, nếu hầu như chỉ xuất khẩu và không nhập khẩu chỉ số cạnh
tranh là 1. Đây là trường hợp ngành công nghiệp phát triển mạnh mẽ, có sức cạnh
tranh áp đảo hàng nhập.
111
Sơ đồ 2.2 Chỉ số cạnh tranh của Việt Nam và Trung Quốc trong ngành
dệt may
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu [97,104].
Sơ đồ 2.2 cho thấy, mặc dù chỉ số cạnh tranh của Việt Nam trong ngành
dệt may đã có sự cải thiện từ năm 2000 đến 2007, tăng từ 0,2 đến 0,4 điểm,
nhưng còn thấp hơn so với Trung Quốc. Chỉ số cạnh tranh của Trung quốc trong
ngành này năm 2007 là 0,735 điểm. Điều đáng nói là sức cạnh tranh của Trung
Quốc tăng liên tục, còn của Việt Nam từ năm 2006 bắt đầu suy giảm. Năm 2008
do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới nên chỉ số này của hai nước đều
giảm.
Khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu: Việt Nam hiện nay mới
tham gia vào những khâu tạo ra giá trị gia tăng ít nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Đó là khâu gia công, lắp ráp, cung cấp nguyên vật liệu đầu vào. Phụ lục 12 miêu
tả cơ cấu nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước ASEAN, cho thấy, trong khi
các nước trong khu vực như Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a đã
gần như tham gia vào hệ thống công nghiệp tại Trung Quốc với tư cách là công
xưởng thế giới. Điều này thể hiện tỷ trọng cao hàng công nghiệp xuất khẩu của
các nước này vào thị trường Trung Quốc. Trong khi đó, trong 10 năm gần dây, tỷ
trọng xuất khẩu hàng công nghiệp của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc
không hề thay đổi, chỉ chiếm khoảng 10 % tổng kim ngạch xuất khẩu [104]. Hiện
tại, Việt Nam mới tham gia vào trung nguồn là chế biến, lắp ráp chưa chưa tham
112
gia vào khâu thượng nguồn (nghiên cứu, thiết kế) và khâu hạ nguồn (phân phối)
trong chuỗi giá trị sản phẩm, là các khâu tạo ra nhiều giá trị nhất [71]. Nếu Việt
Nam không cải thiện được năng lực cạnh tranh để tham gia vào những khâu tạo
ra giá trị gia tăng cao hơn thì khả năng tăng trưởng xuất khẩu nhanh và liên tục
trong dài hạn sẽ rất khó khăn.
Tóm lại: Mặc dầu có tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định nhưng
chất lượng tăng trưởng xuất khẩu chưa thật bền vững. Thứ nhất, xuất khẩu của
Việt Nam còn thâm dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, do đó tăng trưởng bị hạn
chế mang tính cơ cấu là diện tích, năng xuất, khả năng khai thác, đánh bắt. Thứ
hai, xuất khẩu nước ta chưa thể hiện xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xuất
khẩu Việt Nam vẫn dựa chủ yếu vào các ngành công nghiệp trình độ thấp, sử
dụng nhiều lao động, do đó giá trị gia tăng thấp. Thứ ba, xuất khẩu của Việt Nam
hiện nay đang ở vào khâu tạo ra ít giá trị gia tăng nhất trong chuỗi giá trị toàn
cầu.
2.2.2 Đóng góp của xuất khẩu đối với tăng trƣởng kinh tế và ổn định
kinh tế vĩ mô
2.2.2.1 Đóng góp vào tăng trưởng GDP
Từ năm 1995 đến nay mức đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế
là khá ấn tượng. Bảng 2.9 miêu tả đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng GDP
theo điểm phần trăm và tỷ lệ phần trăm bên cạnh các yếu tố khác như tiêu dùng,
tích lũy tài sản và nhập khẩu. Số liệu trong bảng này cho thấy, từ năm 2002 đến
nay, xuất khẩu là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Theo điểm phần trăm,
năm 2002, GDP tăng 7,08% thì xuất khẩu đóng góp 5,89 điểm phần trăm, tương
ứng năm 2003 là 7,34 và 11,66; năm 2004: 7,79 và 16,80; năm 2005: 8,44 và
15,13; năm 2006: 8,23 và 17,78; năm 2007: 8,48 và 19,80 và năm 2008 là 6,18 và
3,57. Theo tỷ lệ phần trăm, năm 2002, xuất khẩu đóng góp 83,25%; năm 2003:
158,78%; năm 2004: 215,71%; năm 2005: 179,25%; năm 2006: 206,04%; năm
113
2007 là 233,53% và năm 2008 là 57,57%. Tuy nhiên, nếu xét theo mức đóng góp
của xuất khẩu ròng thì hầu như tỷ lệ này đều âm qua các năm. Điều này là do
nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu làm cho thâm hụt thương mại ngày càng
tăng, mức kỷ lục là năm 2008, 17 tỷ USD (phụ lục 8).
Bảng 2.9 Đóng góp vào tăng trƣởng GDP theo cấu thành tổng cầu giai đoạn 2002-2008
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
GDP (theo 7,08 7,34 7,79 8,44 8,23 8,48 6,18
điểm %)
Tiêu dùng 5,33 5,72 5,18 5,29 5,96 6,80 6,56
Tích lũy tài sản 4,02 3,95 3,66 3,97 4,31 9,11 2,77
0,39 1,57 -1,56 -11,42 Xuất khẩu ròng -3,66 -3,21 -3,24
Nhập khẩu -9,55 -14,87 -16,41 -13,56 -19,33 -31,22 -6,81
Xuất khẩu 5,89 11,66 16,80 15,13 17,78 19,80 3,57
Sai số 1,39 0,89 -1,44 -2,38 -0,49 3,98 0,09
GDP (theo tỷ lệ 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
%)
Tiêu dùng 75,24 77,87 66,52 62,64 72,40 80,22 106,24
Tích lũy tài sản 56,82 53,78 46,93 46,98 52,43 107,47 44,78
Xuất khẩu ròng -51,65 -43,72 5,06 18,58 -18,90 -134,68 -52,52
Nhập khẩu -134,90 -202,51 -210,65 -160,66 -234,95 -368,20 -110,29
Xuất khẩu 83,25 158,78 215,71 179,25 216,04 233,53 57,77
Nguồn: Kinh tế Việt Nam các năm 2001,2002,2004,2008 (CIEM) [76,77,78,79].
Sai số 19,59 12,08 -18,51 -29,20 -5,93 46,99 1,50
Thực tế cho thấy là những năm xuất khẩu tăng trưởng cao thì năm đó GDP
có mức tăng trưởng cao. Phụ lục 10 cho thấy, giai đoạn 1992-1997, kim ngạch
xuất khẩu tăng bình quân trên 30%, GDP đạt mức trên 8%, có năm 9% (1995,
1996). Những năm kim ngạch xuất khẩu tăng thấp thì GDP tăng chậm hoặc sụt
giảm. Chẳng hạn, trong 3 năm 1998, 1999, 2000, do ảnh hưởng của khủng
114
khoảng tài chính khu vực, xuất khẩu khó khăn, GDP tăng ở mức thấp. Sau một số
năm tăng trưởng giảm, từ năm 2001, GDP đã tăng trưởng ổn định trở lại. Năm
2004 mức tăng GDP 7,7%, mức cao nhất từ năm 1997 đến nay, hay năm 2007,
GDP tăng đến 8,48% đây là những năm xuất khẩu tăng trưởng cao. Sáu tháng đầu
năm 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới, xuất khẩu của Việt
Nam hầu như không tăng. Dự kiến, năm 2009, xuất khẩu có thể tăng trưởng âm.
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu [82,85,97].
Biểu đồ 2.3 Tốc độ tăng GDP và xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2000-2008
2.2.2.2 Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô
Tăng trưởng xuất khẩu cao ở Việt Nam trong thời gian qua đã góp phần
làm lành mạnh hóa cán cân tài khoản vãng lai, hạn chế thâm hụt thương mại. Mặc
dù từ năm 1992 đến nay, cán cân thương mại Việt Nam luôn ở trong tình trạng
thâm hụt, tuy nhiên, một phần, nhờ tăng trưởng xuất khẩu cao, thâm hụt cán cân
thương mại vẫn ở mức độ cho phép chưa ảnh hưởng nghiêm trọng đến cán cân
thanh toán và nợ nước ngoài [49,77].
Tuy nhiên, trong một số năm, tốc độ tăng nhập khẩu cao hơn xuất khẩu
làm cho thâm hụt thương mại trở nên trầm trọng. Biểu đồ 2.4 và phụ lục 8 cho
thấy, các năm 1995, 1996, 2002, 2003, 2007 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao
115
hơn nhiều so với nhập khẩu làm cho cán cân thương mại các năm đó thâm hụt
nghiêm trọng.
Nguồn: Tổng hợp từ nguồn số liệu phụ lục 10.
Biểu đồ 2.4 Tốc độ tăng trƣởng xuất nhập khẩu giai đoạn 2000-2008 (%)
Số liệu trong phụ lục 8 và biểu đồ 2.5 cũng cho thấy rõ điều này. Thâm hụt
thương mại các năm này đã vượt mức độ cho phép đối với ổn định của cán cân
tài khoản vãng lai. Nếu không có các yếu tố làm lành mạnh hóa như thặng dư tài
khoản vốn và các yếu tố chuyển giao như ngoại hối, viện trợ nước ngoài thì cán
cân thanh toán có thể bị khủng hoảng. Một điều cũng đáng lưu ý là Việt Nam
nhập siêu là do nhập khẩu tăng đột biến chưa không phải thành tích xuất khẩu
nghèo nàn (trong điều kiện xuất khẩu tăng trưởng ở mức cao). Do đó, để giải
quyết vấn đề nhập siêu trong ngắn hạn khó có thể tăng xuất khẩu mà biện pháp
chủ yếu là hạn chế nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu phi cạnh tranh (nhập khẩu
không làm tăng năng lực công nghệ).
Xuất khẩu là một trong những nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của Việt Nam.
Bên cạnh làm lành mạnh hóa cán cân thanh toán, xuất khẩu còn làm tăng dự trữ
ngoại tệ. Đến nay, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam đã đạt trên 20 tỷ USD. Trong bối
cảnh bất ổn định kinh tế vĩ mô hiện nay, đóng góp của xuất khẩu làm giảm bớt
căng thẳng về kinh tế xã hội. Nợ của Việt Nam hiện nay vẫn đang trong giới hạn
116
an toàn. Chỉ số nợ trên GDP khoảng 40% và chỉ số nợ trên xuất khẩu của Việt
Nam có xu hướng giảm dần và thấp hơn mức độ báo động (dưới 25%) [49].
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu [82,85].
Biểu đồ 2.5 Xuất nhập khẩu, cán cân thƣơng mại giai đoạn 2000-2008
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp của xuất khẩu đối với ổn định kinh tế
vĩ mô, hoạt động xuất khẩu còn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định kinh tế. Thứ
nhất, cơ cấu hàng xuất khẩu nước ta hiện đang chứa đựng yếu tố rủi ro (giá hàng
nông sản và hàng nguyên nhiên liệu đầu vào dễ biến động mạnh, giá trị gia tăng
thấp) cũng có thể tác động tiêu cực đối với thu ngân sách và phát triển xuất khẩu
trong điều kiện thương mại tự do. Thứ hai, chính sách thương mại bảo hộ cao cho
một số ngành nhiều vốn, ít tạo ra việc làm, hướng thay thế nhập khẩu gây nên
méo mó trong đầu tư, tạo ra mức tăng trưởng GDP không bền vững có thể làm
gia tăng gánh nợ nước ngoài trong điều kiện tự do hoá thương mại trong tương
lai. Gia tăng thâm hụt cán cân thương mại trong những năm gần đây cho thấy nếu
không sử dụng hiệu quả vốn đầu tư vào những ngành xuất khẩu mang lại giá trị
gia tăng cao thì khả năng trả nợ trong dài hạn sẽ bị hạn chế, ảnh hưởng đến an
ninh tài chính và ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ ba, với độ mở kinh tế quá cao như
hiện nay, nền kinh tế nước ta lệ thuộc quá lớn vào nền kinh tế thế giới. Do đó,
nếu không đẩy mạnh cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh, thì những biến động
của thị trường thế giới sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến duy trì sự ổn định kinh tế vĩ
117
mô và biến động xã hội. Sự biến động giá năm 2004, 2007, 2008 đã cho thấy
chúng ta đang còn bị động trong việc đối phó với những cú sốc bên ngoài và sức
chịu đựng của nền kinh tế còn rất hạn chế. Thứ tư, chất lượng thu hút lao động
trong các ngành định hướng xuất khẩu chưa cao, do đó nguy cơ có thể xảy ra mất
việc làm và giảm thu nhập của người lao động trong bối cảnh thị trường biến
động lớn là rất cao. Chẳng hạn, suy giảm kinh tế trong năm 2008 và 2009 làm
giảm việc làm chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da
giày, đồ gỗ...
2.2.3 Xuất khẩu và các vấn đề môi trƣờng
Đẩy mạnh xuất khẩu trong bối cảnh tự do hoá thương mại sẽ tiềm ẩn nguy
cơ suy thoái môi trường. Đặc biệt, Việt Nam đang ở vào giai đoạn đầu của tăng
trưởng xuất khẩu - giai đoạn mà giá trị gia tăng tạo ra dựa chủ yếu vào lợi thế sẵn
có về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ. Tự do hoá thương mại đang
khuyến khích khai thác ngày càng nhiều hơn nguồn lợi tự nhiên cũng như sử
dụng ngày càng nhiều hơn nguyên, nhiên liệu. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam như thuỷ sản, nông sản, khoáng sản, da giày, may mặc đang gây ô
nhiễm môi trường và làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.
Điều này đễ nhận thấy nếu xem xét cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Việt Nam
giai đoạn 2001-2008. Mặc dù đã có những thay đổi tích cực, tăng dần tỷ trọng
hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng thô và sơ chế. Tuy nhiên hàng xuất khẩu thô
và sơ chế vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam, trong đó
các mặt hàng nhạy cảm về môi trường như nông sản, thuỷ sản, lâm sản, khoáng
sản chiếm tới trên 50% năm 2008. Đây là nhóm hàng có nguồn gốc đa dạng sinh
học mà việc khai thác chế biến có nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường,
ảnh hưởng đến phát triển và bảo tồn đa dạng sinh học, tài nguyên không tái tạo.
Dưới đây sẽ phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng xuất khẩu và tác động
của nó đến các vấn đề môi trường theo các tiêu chí được nêu trong mục 1.2.3.3.
118
Đó là xuất khẩu với vấn đề ô nhiễm và cải thiện môi trường, khai thác tài nguyên
thiên nhiên, khả năng đáp ứng tiêu chuẩn môi trường của hàng hóa xuất khẩu.
2.2.3.1 Xuất khẩu với việc duy trì và cải thiện tài nguyên đa dạng
sinh học
Xuất khẩu đã có những đóng góp vào việc duy trì và phát triển đa dạng
sinh học. Hiệu quả kinh tế cao của một số mặt hàng nông sản, thuỷ sản làm cho
người sản xuất quan tâm hơn đến việc duy trì và phát triển chúng, chẳng hạn,
xuất khẩu các loại quả có giá trị kinh tế như vải, thanh long, hoa lan. Việc mở
rộng diện tích canh tác trên những vùng đất trống như trồng rừng, cây ăn quả...
góp phần phủ xanh đất đồi, khôi phục hệ sinh thái rừng, phòng chống thiên tai.
Nhiều vùng đất cát hoang hoá ở miền Trung được đưa vào canh tác với những
giống cây trồng thích hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao và làm phong phú thêm
đa dạng sinh học của vùng. Mở rộng diện tích trồng cây cao su, chè ở những
vùng đất trung du giúp phủ xanh đất đồi. Những phương pháp canh tác khoa học,
hạn chế sử dụng phân hoá học, khuyến khích sử dụng phân hữu cơ, luân canh cây
trồng có tác dụng làm tăng độ màu mỡ của đất... Trong những năm gần đây,
nhiều mô hình sản xuất rau sạch được trồng thí điểm và nhân rộng ở nhiều địa
phương. Việc khai thác gắn liền với bảo tồn các loài cây có giá trị kinh tế cao
phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu làm thay đổi nhận thức của người
dân trong việc bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học. Việc khai thác các nguồn
gen quý hiếm truyền thống để phát triển các giống cây có giá trị kinh tế cao như
vải, chuối, đặc sản rừng đã có tác dụng duy trì và phát triển tài nguyên đa dạng
sinh học, đảm bảo cân bằng sinh thái.
Tuy nhiên, quá trình đẩy mạnh xuất khẩu không được kiểm soát ở nước ta
đang làm suy giảm tài nguyên đa dạng sinh học. Đó là việc khai thác vì mục đích
thương mại các sản phẩm đa dạng sinh học và tài nguyên như các loại khoáng
sản, gỗ, các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản...
Điển hình nhất là việc đẩy mạnh xuất khẩu nhóm sản phẩm nông thuỷ sản
theo chiều rộng làm thu hẹp diện tích rừng, phá vỡ hệ sinh thái trên cạn và ven
119
biển do mở rộng diện tích canh tác. Chỉ trong hơn hai thập kỷ qua, diện tích rừng
ngập mặn Việt Nam giảm đi hơn một nửa, trung bình mỗi năm mất đi gần 20.000
ha, hơn 80% độ che phủ đã bị ảnh hưởng. Các đầm nuôi tôm là một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng phá huỷ này. Nếu tính trung bình từ năm
2000 đến nay, cứ tăng thêm 1 ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thì chúng ta sẽ
mất tương đương 0,027 ha diện tích rừng ngập mặn. Ngoài ra hoạt động khai thác
hải sản không hợp lý gồm khai thác quá mức, thực hành các biện pháp đánh bắt
huỷ diệt như dùng chất nổ, chất độc, giã cào là một trong những nguyên nhân
chính làm mất đi các hệ sinh thái đặc trưng riêng như cỏ biển, san hô. Hiện nay,
diện tích các bãi cỏ biển của Việt Nam bị giảm 40-50% [63]. Nếu như trước năm
1995 diện tích các bãi cỏ biển Việt Nam là 10.770 ha thì đến năm 2003 chỉ còn
hơn 4.000 ha. Khoảng 80% rạn san hô biển nước ta nằm trong tình trạng rủi ro,
trong đó có đến 50% rạn nằm trong tình trạng rủi ro cao [63]. Theo đánh giá của
WRI, 2002, rạn san hô chất lượng rất tốt chiếm 1,4% diện tích, chất lượng tốt
chiếm 31%, chất lượng tương đối chiếm 48,6% và chất lượng xấu chiếm 37,3%.
Nuôi tôm trên cát ở miền Trung làm ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước ngầm, cảnh
quan ven biển đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Hiện nay Việt Nam chỉ quản lý
được khoảng 10% diện tích muôi tôm trên cát [30].
Biểu đồ 2.6 Diễn biến diện tích rừng ngập mặn và nuôi tôm qua các năm
4 0 0 2
Nguồn: Ruffor (2003), Một nghề còn lắm bất trắc [64].
120
Biểu đồ 2.6 miêu tả mối quan hệ giữa mở rộng diện tích nuôi tôm và thu
hẹp diện tích rừng ngập mặn. Diện tích nuôi tôm càng lớn thì diện tích rừng ngập
mặn càng bị thu hẹp. Từ năm 1993 đến nay, tổng sản lượng nuôi trồng tăng bình
quân 3,7%/năm thì diện tích biển và ven biển chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản
cũng tăng tương ứng khoảng 3,8%/năm [45, tr,23]. Như vậy, sản lượng nuôi
trồng thuỷ sản chủ yếu tăng lên là nhờ mở rộng các hoạt động nuôi trồng thuỷ
sản, là nguyên nhân dẫn đến giảm diện tích RNM [45,tr.18].
Bảng 2.10 Tƣơng quan giữa sự suy giảm diện tích rừng ngập mặn và sự mở rộng diện tích nuôi tôm tại một số tỉnh (2002)
Tỉnh
Diện tích RNM (ha) Độ che phủ (%)
Nguồn: Báo cáo quốc gia về rừng ngập mặn của Viện nghiên cứu Lâm nghiệp năm 2003 [75].
Bến Tre Trà Vinh Sóc Trăng Bạc Liêu Cà Mau Diện tích tự nhiên (ha) 231.500 222.600 322.300 252.100 519.500 3.797 6.002 9.106 3.990 58.285 1,64 2,60 - - 11,0 Diện tích nuôi tôm (ha) 34.392 30.996 53.000 108.000 244.000 Tỷ lệ % đất nông nghiệp 14,85 13,92 12,54 39,04 47,0
Sử dụng các phương pháp đánh bắt hải sản theo lối huỷ diệt như dùng
thuốc nổ, các loại lưới mắt nhỏ làm mất đi các loài cá con và các sinh vật biển
khác. Do sự phát triển ồ ạt của nghề đánh cá kết hợp ánh sáng ở vùng nước ven
bờ, tỉ lệ cá non, cá chưa đến tuổi trưởng thành trong mỗi mẻ lưới đánh cá đã tăng
lên rất cao, gây hại lớn cho nguồn lợi hải sản. Hơn nữa, việc dùng lưới kéo đánh
bắt hải sản không đúng tiêu chuẩn quy định như mắt lưới quá nhỏ gây cản trở cho
việc tái tạo nguồn lợi vì quá nhiều lượng cá con, kể cả trứng cá và các loại tôm
mực đang trong thời kỳ mang trứng bị đánh bắt và có thể làm phá vỡ hệ sinh thái
ven bờ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các bãi san hô, khu thực vật ngầm vốn là
nơi cư trú, sinh sản của nhiều loại hải sản. Công nghệ đánh bắt, khai thác còn lạc
hậu và việc khai thác tuỳ tiện cũng là một trong những nguyên nhân làm cạn kiệt
và huỷ diệt nguồn lợi thuỷ sản. Do ý thức bảo vệ môi trường của dân chúng còn
quá thấp nên hiện tượng dùng mìn, hóa chất độc, xung điện để đánh bắt hải sản
121
vẫn còn tồn tại, làm nhiễm độc cả khu vực xung quanh, giết hại một số lớn sinh
vật, trứng và ấu thể.
Diện tích rừng tự nhiên của nước ta đang bị thu hẹp. Theo thống kê, hiện
nay diện tích rừng giàu tại Việt Nam chỉ còn khoảng 5%. Một trong số những
nguyên nhân làm giảm diện tích rừng giàu là khai thác gỗ và các loại sản phẩm
phi gỗ trái phép. Một tỷ lệ lớn diện tích rừng bị phá để mở rộng diện tích trồng
các loại cây có giá trị kinh tế cao như cà phê, điều, tiêu, cao su. Vấn đề chuyển
đổi mục đích sử dụng đất để mở rộng diện tích đất nông nghiệp đang gây ra những
sức ép lên môi trường, đặc biệt là tài nguyên ĐDSH. Việc chuyển đổi mục đích sử
dụng đất làm thay đổi hoàn toàn thành phần các loài sinh vật và các mối quan hệ
giữa các loài sinh vật trong các hệ sinh thái. Các vùng đồng bằng châu thổ, đặc biệt
là các vùng trồng cỏ tự nhiên của đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long,
chịu sức ép nặng nề từ mối đe doạ này. Ở đồng bằng Bắc Bộ, hầu như không còn
kiểu sinh cảnh đồng cỏ tự nhiên, trong khi tại đồng bằng sông Cửu Long, những
diện tích lớn của kiểu sinh cảnh này tại Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên
đã bị chuyển đổi thành đất canh tác nông nghiệp dẫn đến sự suy giảm quần thể thậm
chí là tuyệt chủng nội bộ của nhiều loài chim nước lớn.
Khai thác gỗ trái phép cũng là nguyên nhân dẫn đến thu hẹp diện tích
rừng nguyên sinh. Chẳng hạn, năm 2004, cả nước xảy ra 47.861 vụ vi phạm
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (trung bình mỗi ngày có hơn 130 vụ) với những
hành vi vi phạm: 3.152 vụ vi phạm về phá rừng gồm 1.464 vụ về phá nương
rẫy; 4.968 vụ vi phạm khai thác lâm sản; 993 vụ vi phạm quy trình phòng cháy
rừng; 28.920 vụ vi phạm về mua bán, vận chuyển lâm sản; 1.243 vụ vi phạm về
buôn bán, vận chuyển động vật rừng và các vi phạm khác là 8.585 vụ. Tổng
diện tích rừng bị mất trong năm 2005 là 5.375 ha trong đó mất do phá rừng là
1.393 ha (chiếm 63,8% so với năm 2003) gồm 703 ha mất do phá nương rẫy, 75
ha mất do khai thác; 4.294 ha mất do cháy rừng (chiếm 77,8% so với năm 2004)
và 1 ha bị phá do chăn thả gia súc.
Mặc dù, từ năm 1990 đến nay, diện tích rừng liên tục tăng, trong đó rừng
trồng tăng rất nhanh, nhưng chất lượng rừng vẫn chưa được cải thiện. Phần lớn
rừng tự nhiên hiện nay thuộc nhóm rừng nghèo, trong khi đó rừng nguyên sinh
122
chỉ còn 0,57 triệu ha phân bố rải rác. Rừng trồng công nghiệp hiện nay mang tính
thuần loại về cây trồng cao, do vậy tính đa dạng sinh học thấp.
Bảng 2.11 Diễn biến diện tích rừng qua các thời kỳ
Năm Diện tích (1000ha)
Bình quân (ha/người) Tổng cộng Độ che phủ (%) Rừng tự nhiên
14.300 Rừng trồng 0 14.300 1943 43,0 0,70
11.077 92 11.168 1976 33,8 0,22
10.186 422 10.608 1980 32,1 0,14
9.308,3 584 9.892 1985 30,0 0,12
8.430,7 745 9.175 1990 27,8 0,11
8.252 1.050 9.302 1995 28,2 0,12
9.470,7 1.524 10.995 1999 33,1 0,14
9.444,2 9.865,0 10.088,3 1.471 1.919,6 2.218,6 10.915 11.784,6 12.306,9 2000 2002 2004 33,2 35,8 36,7 0,14 0,14 0,15
10.332,4 2.267,6 12.600,0 2005 37,0 0,15
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu [82,86].
10.188,2 2,551,4 12.739,6 2007 37,2 0,15
Suy giảm đa dạng sinh học gây nên những thiệt hại to lớn về kinh tế và môi
trường, ảnh hưởng đến phát triển xuất khẩu bền vững.
Suy giảm đa dạng sinh học ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất cây trồng vật
nuôi. Cùng với việc mất rừng ngập mặn, năng suất tôm theo phương thức quảng
canh cũng giảm sút từ 200-250 kg/ha/vụ (năm 1980) còn 70-80kg/ha/vụ (2004-
2005. Năm 1980-1985, ước tính có thể khai thác 700-1000 kg thuỷ sản/ha RNM,
đến nay chỉ thu được 1/20 so với trước đây [17.tr34].
Suy giảm đa dạng sinh học làm suy giảm các giống cây trồng vật nuôi
truyền thống. Trong các loại cây trồng, lúa là cây có nhiều biến động về giống.
Số lượng các giống lúa nương giảm, một số giống đặc sản bị mất. Thống kê cho
123
thấy từ năm 1970-1999 diện tích trồng các giống lúa địa phương giảm 50% số
lượng giống lúa địa phương bị mất là 90%. Đối với các loại ngô, đậu đỗ, các con
số tương ứng là 75% và 505, cây có củ là 75% và , chè và đay là và 90%, cây ăn
quả là 50% và 70%.
Các giống vật nuôi truyền thống của Việt Nam bị giảm sút nhiều. Nhiều
giống bị mất hoàn toàn (lợn ỉ, lợn lang hồng, lợn Phú Khánh, lợn cỏ, lợn Sơn Vị,
gà Vàn Phú), nhiều giống bị giảm về số lượng (lợn Ba Xuyên, gà Hồ), nhiều
giống gia cầm, thuỷ cầm bị pha tạp. Từ năm 1990 đến nay một số giống vật nuôi
đã được phục hồi từ số lượng rất ít (lợn ỉ gộc, gà Đông Cả, vịt Bến Hoà Bình, vịt
Kỳ Lừa, gà Te) [17,tr.34].
Suy giảm đa dạng sinh học làm mất nơi cư tú và sinh trưởng của các loài
động thực vật quý hiếm. Theo danh sách đỏ các loài bị đe doạ của IUCN, năm
2004, Việt Nam có 289 loài động vật và thực vật bị đe dọa toàn cầu. Trong khi đó
sách đỏ Việt Nam (do Bộ Tài nguyên và Môi trường đưa ra) đã liệt kê 1056 động
vật và thực vật bị đe dọa ở mức quốc gia. So sánh với số liệu thống kê của sách
đỏ Việt Nam lần biên soạn đầu tiên (Phần động vật, 1992 và Phần thực vật,
1996), vào thời điểm hiện tại, số lượng loài được các nhà khoa học đề xuất đưa
vào danh mục cần được bảo vệ của Việt Nam tăng rất nhanh: 1056 loài so với
721 loài [17.tr34].
Theo IUCN, số các loài bị đe doạ toàn cầu ở Việt Nam không chỉ tăng về
số lượng, 226 lên 259 loài, mà còn tăng về phân hạng bị đe doạ. Nếu trong danh
mục năm 1996 liệt kê 5 loài thú của Việt Nam ở mức nguy cấp (EN) thì đến năm
2004, con số này đã tăng lên 12 loài. Trong những loài mới bị xếp hạng này có
những loài như Bò rừng (Bos javanicus), Sói đỏ (Cuon Alpicus), Voọc vá chân
nâu (Pygathrix nemaeus) và Voọc vá chân đen (Pygathrix nigripes) [17.tr.34].
Thiệt hại kinh tế do mất rừng ngập mặn là rất lớn. Trong 3 thập kỷ gần đây
nhất từ 1960 đến 1995, ở Quảng Ninh và Hải Phòng đã có khoảng 40 ngàn ha
rừng ngập mặn bị biến mất. Hiện cả hai tỉnh này còn khoảng 15.700 ha rừng ngập
124
mặn ước tính thiệt hại do việc không thể thu lợi được từ diện tích rừng ngập mặn
bị mất (như thuỷ sản, lâm nghiệp và chống xói lở) khoảng 10-32 triệu USD mỗi
năm [63]. Nếu tính thiệt hại do việc mất rừng ngập mặn của cả nước (chủ yếu ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long) cả nguồn lợi có thể thu được cộng với thiên tai,
hàng năm số thiệt hại này khoảng 500 triệu USD [63]. Số thiệt hại này người dân
sinh sống ở vùng này phải chịu vì các đầm nuôi tôm lớn là của dân cư vùng khác
đến khai phá.
2.2.3.2 Xuất khẩu với vấn đề ô nhiễm môi trường
Định hướng phát triển kinh tế hướng vào xuất khẩu đã tạo điều kiện thuận
lợi để nước ta tiếp thu công nghệ cao ít hoặc không gây ô nhiễm môi trường, tiết
kiệm nguyên vật liệu. Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài hiện nay đang là
động lực tăng trưởng xuất khẩu. Nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã
đem theo những công nghệ tiên tiến nhất, ít gây ô nhiễm, sử dụng nguyên nhiên
liệu đầu vào một cách hiệu quả hơn, hạn chế khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Trong số gần 200 doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 14000 tại nước ta tính
đến hết năm 2007 có 2/3 là số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [32,tr.34].
Sử dụng các công nghệ tiên tiến, công nghệ sản xuất sạch và các phương pháp
sản xuất thân thiện với môi trường, các giống cây trồng và vật nuôi mới có tác
dụng duy trì và phát triển các loài, tạo điều kiện tăng năng suất cây trồng, vật
nuôi, hạn chế mở rộng thêm diện tích canh tác, do đó có tác động tích cực đối với
việc bảo tồn da dạng sinh học.
Tuy nhiên, xuất khẩu của nước ta tiềm ẩn nguy cơ cao về ô nhiễm môi
trường. Sử dụng các loại phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật không đúng quy
cách và quá mức nhằm tăng năng suất vật nuôi cây trồng đang gây ô nhiễm môi
trường đất, nước. Tình trạng này hiện nay khá phổ biến trong sản xuất nông
nghiệp. Vấn đề sử dụng các loại thuốc hoá học bảo vệ thực vật trong nông nghiệp
đang gây nhiều tác động tiêu cực, đặc biệt khi sử dụng tuỳ tiện, không tuân thủ đầy
đủ các yêu cầu kỹ thuật: (i) làm ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất, ô nhiễm không
125
khí; (ii) làm tăng mức độ quen thuốc, tăng tính chống thuốc ở các loài sâu bệnh, thúc
đẩy việc hình thành các quần thể sâu bệnh chống thuốc; (iii) tiêu diệt nhiều loài sinh
vật có ích trong các hệ sinh thái nông nghiệp, nhất là các loài côn trùng thiên địch,
các loài côn trùng ăn sâu hại, phá vỡ nguyên tắc tự cân bằng trong phát triển loài;
(iv) gây độc cho gia súc, gia cầm và gây độc trực tiếp cho người nông dân; (v) để lại
dư lượng chất độc trong nông sản gây ngộ độc thực phẩm cho người tiêu dùng.
Sử dụng các loại hoá chất trong nông nghiệp là một trong những nguyên
nhân gây nên ô nhiễm đất, nước. Hàng năm ở nước ta, trong lĩnh vực nông
nghiệp và lâm nghiệp đã sử dụng khoảng 15.000 - 25.000 tấn thuốc phòng trừ
dịch hại và thuốc bảo vệ thực vật, bình quân lượng thuốc sử dụng trên một ha
gieo trồng là 0,4-0,5 kg/ha. Cá biệt có vùng trồng rau ở Đà Lạt: 5,1-13,5 kg /ha;
vùng trồng bông Thuận Hải: 1,7-13,5 kg/ha; vùng trồng rau Tây Tựu, Từ Liêm -
Hà Nội: 6,5-9,5 kg/ha; vùng trồng lúa đồng bằng sông Hồng: 0,5-2 kg/ha; đồng
bằng sông Cửu Long: 1,5-2,7 kg/ha [30.tr,33].
Các cơ sở chế biến hàng xuất khẩu (đặc biệt là tại các khu chế xuất) đang
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là các cơ sở chế biến thủy hải
sản, nông sản, dệt may, da giày, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ... Hoạt
động chế biến thuỷ sản tạo ra một lượng lớn các chất thải rắn, nước thải, khí thải độc
hại gây ô nhiễm môi trường đất và nước xung quanh. Với lượng thuỷ sản chế biến
như hiện nay mỗi năm hoạt động chế biến thuỷ sản thải ra khoảng 160-180 nghìn
tấn chất thải rắn (chiếm 35-40% so với nguyên liệu đem chế biến), 8-12 triệu m3
nước thải. Nước thải này có hàm lượng chất hữu cơ cao, giàu đạm, lipit, chất
khoáng... khi phân huỷ sẽ tạo ra các sản phẩm trung gian của sự phân huỷ các axit
béo không bão hoà tạo ra mùi khó chịu. Nước thải trong xí nghiệp chế biến thuỷ sản
vượt quá nhiều lần so với quy định cho phép xả vào nguồn tiếp nhận do Nhà nước
quy định từ 5-10 lần về BOD và COD, gấp 7-15 lần về chỉ số nitơ hữu cơ [28,tr.6].
Vì vậy, việc xử lý nước thải trước khi xả ra môi trường xung quanh là công việc bắt
buộc đối với các nhà máy chế biến. Song hiện nay mới chỉ có khoảng 40/280 xí
126
nghiệp chế biến có hệ thống xử lý nước thải với quy mô đầu tư và công nghệ khác
nhau, từ 70-1.700 triệu đồng cho một hệ thống xử lý nước thải. Chất thải khí trong
chế biến thuỷ sản phát ra từ các nguồn chất đốt, mùi tanh của các sản phẩm thuỷ sản,
các máy phát điện dự phòng, tủ cấp đông, than củi đốt lò hơi, sấy khô các sản phẩm
thuỷ sản. Các dạng khí phát sinh chủ yếu là CO2, H2S, NH3, CFC... Kết quả đo đạc
cho thấy lượng khí thải trong các xí nghiệp chế biến thuỷ sản là không đáng kể và
nằm trong giới hạn cho phép. Các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu như dệt may, da
giày, đồ gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến thực phẩm cũng đang gây ô nhiễm
môi trường. Trường hợp của Công ty Vedan Việt Nam là một điển hình. Năm 2006,
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai đã kiểm tra mức độ ô nhiễm nước
thải của Công ty Vedan Việt Nam, trong đó có 7 tiêu chuẩn về ô nhiễm vượt mức
quy định. Trong các tiêu chuẩn này, Coliform = 93.000 - 2.400.000 MPN trên
100ml đã vượt mức quy định lên đến 480 lần (tiêu chuẩn quy định là 5.000MPN
trên 100ml). Hiện tại có khoảng 200 công ty tại khu công nghiệp Lê Minh Xuân
thành phố Hồ Chí Minh gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng [86].
Khai thác khoáng sản xuất khẩu, nhất là than và các loại khoáng sản tận
thu đang gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí và làm giảm đa dạng sinh
học. Mặc dù hoạt động khai thác và và xuất khẩu khoáng sản mang lại hiệu quả
kinh tế cao. Tuy nhiên, mọi công đoạn trong quá trình khai thác đều có thể gây ô
nhiễm môi trường như tuyển, đập sàng, nghiền, chế biến, nấu luyện đều sinh ra bụi,
ồn, khí thải, nước thải, chất thải rắn gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, quá trình
khai thác còn gây phá vỡ chu kỳ thuỷ văn, làm mất đa dạng sinh học, tàn phá rừng,
gây sa mạc hoá, phá hoại cảnh quan thiên nhiên. Hơn nữa công nghệ khai thác hiện
nay chưa hợp lý, đặc biệt các mỏ kim loại và các khu mỏ đang khai thác hầu hết
nằm ở vùng núi và trung du với công nghệ khai thác còn thô sơ, lạc hậu gây lãng
phí tài nguyên, ô nhiễm và sự cố môi trường. Tại các cơ sở chế biến, nung luyện
quy mô lớn, việc áp dụng công nghệ môi trường được quan tâm hơn nhưng tại các
cơ sở chế biến quy mô nhỏ có giấy phép hay lén lút hoạt động (nấu thiếc, đồng, chì,
127
kẽm, tách vàng, xay nghiền đá...) vấn đề bảo vệ môi trường hoàn toàn không được
quan tâm.
Khai thác và xuất khẩu khoáng sản còn ảnh hưởng đến cảnh quan một số vùng sinh thái và danh lam thắng cảnh: ước tính hàng năm có khoảng 1 tỷ m3 đất
do hoạt động khai thác than chưa được xử lý, nhiều nhất là khu vực khai thác
than ở Cẩm Phả, Móng Cái (Quảng Ninh). Hoạt động khai thác các loại khoáng
sản tận thu như quặng titan, tinh quặng sulfur chì, tinh quặng đồng, quặng sắt,
quặng kẽm, quặng măng gan, tinh quặng wolfram và cát trắng thuỷ tinh... ở một
số địa phương như Bắc Cạn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Lào Cai, Bắc Giang, Phú
Thọ, Thanh Hoá phá vỡ cảnh quan một số khu du lịch. Năm 2004 đã có 1,6 triệu
tấn quặng sắt của Việt Nam được nhập khẩu vào Trung Quốc với giá bình quân
30 USD/tấn [31,tr.34].
2.2.3.3 Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường
Việc nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường
của các nước nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu đã nâng cao nhận thức của
doanh nghiệp về bảo vệ môi trường. Những yêu cầu về môi trường và an toàn đối
với sản phẩm xuất khẩu là áp lực để các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, phương
thức tổ chức kinh doanh nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường. Điều này một mặt
là tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam đồng thời giảm bớt nguy cơ
ô nhiễm môi trường trong nước. Chẳng hạn, gia tăng áp lực cạnh tranh trong
thương mại đối với hàng nông sản, thuỷ sản buộc các doanh nghiệp chú trọng
hơn đến các vấn đề về môi trường. Nhiều doanh nghiệp đã áp dụng những biện
pháp sản xuất mới, đầu tư đổi mới công nghệ, tiết kiệm nguyên liệu đầu vào, thay
đổi phương pháp đánh bắt và nuôi trồng nhằm khai thác hiệu quả hơn tài nguyên
đa dạng sinh học như thuỷ sản, nông sản, lâm sản.
Nếu như trước năm 1994, chỉ khoảng 1,5% lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu
của ta đạt yêu cầu của thị trường EU, đến hết năm 2003 chỉ có 78/264 cơ sở chế
biến thủy sản được Bộ Thủy sản công nhận đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện
128
đảm bảo VSATTP, thì tính đến tháng 10 năm 2007, Việt Nam đã có 209/270
doanh nghiệp thủy sản được phép xuất khẩu sang khối thị trường EU. Mặt hàng
thuỷ sản cũng được các thị trường khó tính khác như Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật
Bản chấp nhận. Số lô hàng bị cảnh bảo và trả lại giảm dần. Năm 2002, số lượng
các lô hàng bị cảnh báo là: EU: 27, Hoa Kỳ: 125, Nhật Bản: 56. Năm 2003: Tổng
số các lô hàng bị cảnh báo là 180: năm 2004: 215; năm 2005: 267; năm 2006:
324 [86].
Bảng 2.12 Kết quả kiểm tra điều kiện ATVSTP cơ sở chế biến thuỷ sản
% tổng
Tổng số
% so với
TT
Chỉ tiêu
số DN
2007
2006
1 Đạt tiêu chuẩn Ngành 370 115
hiện có 72
2 245 117 48
3 343 115 67
4 370 115 72 Trong Danh sách XK thủy sản vào EU, Thuỵ Sĩ, Nauy Trong Danh sách XK thủy sản vào Hàn Quốc Trong Danh sách đạt HACCP xuất khẩu vào Mỹ
5 Trong Danh sách XK thủy sản vào Canada 216 120 42
6 338 105 66 Trong Danh sách XK thủy sản vào Trung Quốc
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn [86].
7 Trong Danh sách XK thủy sản vào Nga Tổng số doanh nghiệp quy mô công nghiệp 24 510 - 103 4 100
Tuy nhiên, việc đáp ứng các yêu cầu môi trường đối với hàng hoá xuất
khẩu đang là thách thức đối với các doanh nghiệp nước ta. Nhiều lô hàng xuất
khẩu của Việt Nam bị cảnh báo và từ chối do không đảm bảo các yêu cầu về vệ
sinh an toàn thực phẩm như thuỷ sản, hoa quả, thực phẩm chế biến. Theo Bộ thủy
sản, trong năm 2001, đã có 44 lô hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam bị EU và
340 lô bị Hoa kỳ cảnh báo về chất lượng. Sáu tháng đầu năm 2003, Hoa Kỳ đã
129
tẩy chay 56 doanh nghiệp của Việt Nam xuất khẩu thực phẩm sang thị trường này
vì không đáp ứng được nhu cầu về về sinh an toàn thực phẩm [86]. Mặc dù trong
những năm gần đây, chúng ta đã có những cố gắng trong việc nâng cao chất
lượng nuôi trồng, chế biến, bảo quản để đáp ứng yêu cầu môi trường của nước
nhập khẩu, tuy nhiên do nhận thức còn hạn chế, công nghệ chế biến chậm thay
đổi, thiếu thông tin về quy định của các nước nhập khẩu nên tình trạng vi phạm
các yêu cầu về vệ sinh và môi trường vẫn còn khá phổ biến. Trong khi ta chưa có
biện pháp hiệu quả để nâng cao việc đáp ứng các quy định môi trường của các
nước nhập khẩu thì các nước nhập khẩu đang tìm cách nâng cao tiêu chuẩn và bổ
sung thêm nhiều quy định khác. Đây là một thách thức lớn đối với hàng xuất
khẩu nước ta trong những năm tới.
2.2.4 Xuất khẩu và tác động đến các vấn đề xã hội
2.2.4.1 Xuất khẩu với việc làm và thu nhập
Xuất khẩu đã đóng góp làm tăng GDP do đó tăng thu nhập bình quân đầu
người. Kim ngạch xuất khẩu trên đầu người ở nước ta đã tăng từ 31 USD năm
1991 lên 730 USD năm 2008. Mở rộng xuất khẩu các mặt hàng sử dụng nhiều lao
động như giày da, dệt may, thủ công mỹ nghệ, thuỷ sản, nông sản, đồ gỗ tạo việc
làm và tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư có thu nhập thấp, đặc biệt là dân cư
nông nghiệp. Các chương trình hỗ trợ xuất khẩu đã có tác dụng xoá đói giảm
nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc tế giảm từ 58,1% năm 1992 xuống còn
18% năm 2007 còn theo chuẩn nghèo của Việt Nam, hiện nay tỷ lệ đói nghèo chỉ
còn khoảng 8% [88]. Xuất khẩu lao động đóng vai trò quan trọng trong việc giải
quyết việc làm cho người lao động, trước hết cho một bộ phận thanh niên, đào tạo
kỹ năng lao động, tạo thu nhập, qua đó góp phần xóa đói, giảm nghèo.
Tuy nhiên, việc cải thiện việc làm ở nước ta còn rất hạn chế. So với các
nước trong khu vực, Việt Nam có tốc độ tăng việc làm thấp nhất (xem lại bảng
2.1, trang 99). Tăng trưởng xuất khẩu và kinh tế không tương xứng với tăng việc
130
làm. Bảng 2.1 cho thấy, trong giai đoạn 1991-2007, tốc độ tăng trưởng việc làm
bình quân của Việt Nam chỉ tăng 2,4%, trong khi GDP tăng 7,6% và xuất khẩu
tăng 20,1%. Trong khi đó, Phi-líp-pin, một nước có tốc độ tăng trưởng GDP và
xuất khẩu rất khiêm tốn, chỉ 5,4% và 6,9%, lại có mức tăng việc làm tới 3,3%.
Bảng 2.13 Kim ngạch xuất khẩu và việc làm trong một số ngành
Ngành nghề
2001 2002 2003
2004 2005 2006 2007 2008
Dệt may
Kim ngạch XK (Triệu USD)
1.975 2.752 3.687 4.386 4.806 5.834 7.784 9.120
Số lượng lao động (Triệu người) 0,79 1,1
1,4
1,7
1,9
2,3
3,1
3,6
Da giày
Kim ngạch XK (Triệu USD)
1.559 1.867 2.268 2.692 3.005 3.592 3.963 4.767
Số lượng lao động (Triệu người) 0,21 0,26 0,31 0,37 0,41 0,49 0,55 0,66
Điện tử, máy tính
Kim ngạch XK (Triệu USD)
595 492 672 1.075 1.442 1.708 2.178 2.638
Số lượng lao động (Triệu người) 0,06 0,05 0,06 0,1
0,14 0,17 0,21 0,23
Thủ công mỹ nghệ
Kim ngạch XK (Triệu USD)
235 331 367 516 565 415 509 627
Số lượng lao động (Triệu người) 0,71 0,99 1,10 1,55 1,69 1,24 1,53 1,88
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu [82,85,86].
Nhờ duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong thời gian
qua, nước ta đã thu hẹp được khoảng cách về phát triển so với các nước trong khu
vực và trên thế giới, thể hiện chỉ tiêu so sánh quốc tế chủ yếu là tổng sản phẩm
quốc nội bình quân đầu người. Đầu những năm 1990, Việt Nam có GDP bình
quân đầu người rất thấp và nằm trong 20 nước nghèo nhất thế giới. Từ năm 1993
đến năm 2008, GDP tính theo đầu người đã tăng từ 180 USD lên trên 1000 USD
tính theo giá thị trường, và tăng từ 1.170 USD lên 3.200 USD nếu tính theo tỷ giá
sức mua tương đương (PPP). Nhờ đó, Việt Nam đã rút ngắn được khoảng cách
GDP đầu người với các nước trong khu vực, so với Nhật từ 17,8 lần xuống còn
131
13 lần, với Singapore từ 17,1 lần xuống còn 15 lần, với Hàn Quốc từ 8,4 lần
xuống còn 7,1 lần, với Thái Lan từ 4,4 lần xuống còn 3,4 lần, với Inđônêxia từ
2,3 lần xuống còn l,7 lần, với Phi-líp-pin từ 2,5 lần xuống còn 1,9 lần và với Ma-
lai-xi-a từ 5 lần xuống còn 4,2 lần. Riêng tốc độ tăng thu nhập bình quân hàng
năm trong thời gian 1994-2007 tính bằng USD theo sức mua tương đương của
Việt Nam là khoảng 7%, Ma-lai-xi-a 3,88%, Thái Lan là 2,44% và Phi-líp-pin là
2,15% [50, tr.130].
Tuy nhiên, xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn theo chiều rộng, do vậy,
chất lượng lao động không cao và thu nhập của người lao động không ổn định.
Biến động thị trường thế giới các năm 2004, 2007, 2008 và những tháng đầu năm
2009 cho thấy, việc làm và thu nhập của người lao động, nhất là lao động trong
các ngành xuất khẩu sử dụng nhiều lao động dễ bị tổn thương. Theo nhiều số
liệu, số lao động mất việc tại các thành phố lớn và một số khu công nghiệp trong
quý IV/2008 đã lên tới 30.000 - 40.000 người [2,tr.34-35].
2.2.4.2 Xuất khẩu với vấn đề công bằng xã hội
Bên cạnh những xu hướng tích cực góp phần giải quyết các vấn đề xã hội,
phát triển xuất khẩu trong 20 năm qua cũng có những mặt hạn chế. Trước hết,
quá trình tự do hoá thương mại làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bất bình
đẳng trong thu nhập giữa các vùng, các tầng lớp dân cư. Cơ hội thương mại khác
nhau dẫn đến khác nhau trong thu nhập. Hơn nữa, các chính sách thương mại
không hợp lý có thể dẫn đến việc chia sẻ lợi ích kinh tế bất bình đẳng giữa các bộ
phận dân cư. Những người có thu nhập thấp, làm nông nghiệp chịu nhiều thiệt
thòi trong việc phân chia giá trị gia tăng thu được nhờ quá trình hội nhập và tự do
hoá thương mại. Điều này thấy rất rõ trong việc các đầu nậu thu gom nông sản ép
giá đối với nông dân, các thương lái vật tư sản xuất nông nghiệp nâng giá để trục
lợi trên lao động của người nông dân, những công ty môi giới lao động (đặc biệt
là lao động nước ngoài), tư vấn chuyên môn định phí quá cao… Những yếu tố
như vậy đang ngày càng gia tăng trong bối cảnh tự do hoá thương mại làm cho
132
khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng lớn. Những dấu hiệu
bất bình đẳng ở ViệtNam đã xuất hiện. Một báo cáo gần đây của UNDP cho biết
hệ số bất bình đẳng Gini của Việt Nam đã lên tới 0,41 [21,tr.59].
Năng lực khác nhau trong việc tận dụng cơ hội của tự do hóa thương mại
dẫn đến sự khác nhau về thu nhập. Tuy nhiên, đang có bất bình đẳng lớn đối với
phân chia lợi ích thương mại từ hoạt động xuất khẩu, nhất là khai thác các nguồn
lợi tự nhiên. Xét về phương diện pháp lý, tài nguyên thiên nhiên là tài sản quốc
gia. Tuy nhiên, hiện nay đang còn tồn tại tình trạng các thế lực có tiềm lực kinh tế
đang khai thác tài sản quốc gia vì mục đích trục lợi phi thị trường. Những người
dân sống ở những vùng giàu tính đa dang sinh học không được chia sẻ lợi ích
thương mại từ hoạt động khai thác chúng. Những người chủ mới tại các đầm tôm,
rừng cao su, chè, tiêu,... là những người từ nơi khác đến. Tại đây đang diễn ra sự
phân hóa giàu nghèo một cách rõ nét. Nếu không có chính sách hạn chế bất bình
đẳng có thể xảy ra xung đột xã hội.
Theo một nghiên cứu gần đây của David Dapice, kể từ năm 1995 thu nhập
thực trên đầu người ở nông thôn đã tăng lên khoảng 13% tính tới 2001-2002,
trong khi thu nhập thực ở thành thị đã tăng 60% [42,tr.14]. Vì thu nhập ở thành
thị xuất phát cao hơn nhiều thu nhập ở nông thôn, nên lượng tăng tuyệt đối trong
thu nhập thành thị trong giai đoạn này gấp 13 lần lượng tăng ở nông thôn
(khoảng cách này trong năm 1994-1995 là 5 lần) [42,tr.15]. Ngân hàng thế giới
cũng có đánh giá tương tự về quá trình cải cách kinh tế ở Việt Nam đối với đói
nghèo và bất bình đẳng xã hội. Theo đó, trong thập kỷ 90, sự phát triển thịnh
vượng về kinh tế không làm gia tăng đáng kể bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân
cư. Người nghèo được hưởng lợi nhiều hơn người giàu, xét theo nghĩa tương đối.
Đây là một thành tựu được quốc tế ghi nhận của Việt Nam trong cuộc chiến giảm
đói nghèo. Tuy nhiên, xuất hiện ngày càng nhiều yếu tố làm gia tăng bất bình
đẳng trong giai đoạn tăng trưởng mới. Sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị
đang lớn dần lên, cũng như chênh lệch giữa những người có thể tận dụng được
133
những lợi ích của tự do hoá đem lại và những người bị tụt hậu. Bởi vì, tự do hoá
thương mại sẽ khiến kỹ năng lao động trở nên có giá trị, do đó bất bình đẳng
trong giáo dục sẽ biến thành bất bình đẳng ngày càng gia tăng trong cơ hội thu
nhập [42,tr. ii].
Việc làm bấp bênh, thu nhập không ổn định, an sinh xã hội không đảm bảo
là nguyên nhân gây nên những bất ổn xã hội. Số vụ đình công ở Việt Nam ngày
càng tăng, năm 2008 diễn ra khoảng hơn 600 cuộc [2,tr.36].
Phân tích nói trên cho thấy, nếu không có những biện pháp ngăn chặn sự
gia tăng bất bình đẳng trong giai đoạn đẩy nhanh phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập KTQT thì việc thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ là thách thức
lớn đối với Việt Nam. Phân tích trên đây cũng gợi mở hướng giải quyết là cần có
những biện pháp kiểm soát giá cả hữu hiệu, quản lý hệ thống phân phối, chống
độc quyền và cạnh tranh bất bình đẳng, thiết lập một hệ thống an sinh xã hội rộng
khắp để bảo vệ những nhóm dân cư dễ bị tổn thương trong quá trình tự do hoá
thương mại.
2.2.4.3 Xuất khẩu với vấn đề chất lượng và trình độ lao động
Phát triển xuất khẩu thông qua việc chuyển giao và phát triển công nghệ
mới và phương thức quản lý tiên tiến, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và
cán bộ kinh doanh. Nhiều lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu đang thu hút ngày càng
nhiều lao động có trình độ cao như phần mềm máy tính, công nghiệp đóng tàu,
hóa chất, điện tử gia dụng... Khu vực đầu tư nước ngoài đang chiếm ưu thế về lao
động có trình độ chuyên môn cao. Với hơn 50% kim ngạch xuất khẩu, chủ yếu
trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, khu vực FDI thu hút khoảng 50
vạn lao động trực tiếp trong đó có tới 8.000 cán bộ quản lý và 30.000 cán bộ kỹ
thuật được đào tạo và trưởng thành [50,tr.134].
Tuy nhiên, một số lượng lao động ở nước ta trong các ngành xuất khẩu
chiếm dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, nuôi trồng thủy sản, trồng các
loại cây có giá trị xuất khẩu... chủ yếu là lao động giản đơn. Số lao động không
134
có trình độ chuyên môn kỹ thuật của Việt Nam năm 2008 vẫn còn rất cao, chiếm
tới 75% tổng số lao động. Trong số lao động được gọi là có chuyên môn, phần
lớn vẫn là công nhân kỹ thuật, dạy nghề ngắn hạn, dạy nghề dài hạn và trung học
chuyên nghiệp, chiếm tỷ lệ tương ứng là 7,3%; 4,4%; 1,6% và 5,0%. Tỷ trọng lực
lượng lao động có trình độ cao đẳng và đại học trở lên chỉ chiếm 6,8% [80,tr.48].
Nếu không nhanh chóng chuyển đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu theo hướng
nâng cao giá trị giá tăng, phát triển các ngành có hàm lượng công nghệ và chất
xám cao thì việc giải quyết vấn đề về tăng trưởng xuất khẩu và chất lượng lao
động còn rất khó khăn.
2.2.4.4 Các vấn đề khác
Phát triển xuất khẩu còn ảnh hưởng đến các vấn đề văn hoá, lối sống. Các
doanh nghiệp xuất khẩu nước ta được tiếp xúc với phương thức kinh doanh hiện
đại của thế giới nhờ đó nâng cao văn hóa và đạo đức kinh doanh. Tuy nhiên, một
số doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận ngắn hạn, kinh doanh phi pháp làm ảnh
hưởng đến bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt tình trạng buôn lậu, sản xuất và lưu
thông hàng giả, hàng kém chất lượng có xu hướng gia tăng mà ta chưa có những
biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và phòng ngừa.
Như vậy, phát triển xuất khẩu của Việt Nam trong 20 năm qua đã góp phần
nâng cao đời sống của nhân dân, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường. Tuy
nhiên, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất bình đẳng thu nhập, ô nhiễm môi
trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức
tạp như bảo tồn văn hoá, băng hoại đạo đức, lối sống… Mặc dù đã có nhiều biện
pháp hạn chế những tác động tiêu cực đối với những hiện tượng nói trên, nhưng
có thể nói rằng chúng ta chưa có một hệ thống chính sách phù hợp và đủ mạnh để
chủ động đối phó với những tác động tiêu cực của mở cửa và tự do hoá thương
mại. Điều này sẽ hạn chế việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn mới - giai đoạn đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa hội nhập và phát triển kinh tế thị trường.
135
2.3 NHẬN ĐỊNH VỀ XUẤT KHẨU BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995-2008
2.3.1 Những mặt tích cực
Tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng: Việt Nam đã duy trì được
nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao và tương đối ổn định trong giai đoạn 1995-
2008. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân giai đoạn này đạt trên /năm. Chất
lượng tăng trưởng từng bước được cải thiện. Tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến
ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất hiện một số mặt hàng mới
có giá trị gia tăng cao như điện tử, phần mềm máy tính...
Xuất khẩu và bền vững về kinh tế: Tăng trưởng xuất khẩu cao và ổn định
trong thời gian qua đã góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh và ở mức cao. Xuất
khẩu đã trở thành động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế. Xuất khẩu đã có
những đóng góp vào ổn định kinh tế vĩ mô như làm lành mạnh cán cân thanh
toán, hạn chế nhập siêu, tăng dự trữ ngoại tệ, giảm áp lực đối với nợ nước ngoài,
giảm thất nghiệp.
Xuất khẩu và bền vững về xã hội: Tăng trưởng xuất khẩu góp phần tăng
trưởng kinh tế do đó tăng thu nhập cho người lao động. Mở rộng xuất khẩu tạo
thêm công ăn việc làm, đặc biệt lao động nông nghiệp, thúc đẩy quá trình dịch
chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, từ nông thôn sang thành thị.
Mở rộng xuất khẩu góp phần xóa đói giảm nghèo ở vùng nông thôn. Phát triển
xuất khẩu hạn chế các xung đột xã hội, góp phần ổn định chính trị.
Xuất khẩu và bền vững về môi trường: Lợi ích từ xuất khẩu các sản phẩm
đa dạng sinh học góp phần bảo tồn và phát triển chúng. Áp lực cạnh tranh trên thị
trường xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới công nghệ và
phương thức sản xuất thân thiện môi trường. Xuất khẩu tạo thêm kinh phí để
phục hồi và tái tạo môi trường.
136
2.3.2 Những hạn chế
Tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu: Tăng trưởng
xuất khẩu chưa thật ổn định, còn phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới và đầu
tư nước ngoài. Những biến động thị trường thế giới (khủng hoảng tài chính châu
Á năm 1997-1998 và khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay) gây ra sự sụt
giảm lớn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Chất lượng tăng trưởng chưa vững chắc.
Chưa có những ngành hàng chủ lực tạo ra giá trị gia tăng lớn trên cơ sở công
nghệ cao và lao động có trình độ. Xuất khẩu chưa thể hiện xu thế công nghiệp
hóa, còn thâm dụng ở mức độ lớn tài nguyên thiên nhiên. Sự phát triển các mặt
hàng xuất khẩu của Việt Nam chưa phù hợp với xu hướng biến đổi của thị trường
thế giới, chứa đựng rủi ro cao khi có biến động thị trường xuất khẩu. Tăng trưởng
xuất khẩu khó có thể duy trì ở mức cao nếu không có sự chuyển dịch sang các
nhóm hàng công nghiệp chế biến dựa vào vốn, công nghệ và nguồn nhân lực chất
lượng cao.
Xuất khẩu và bền vững về kinh tế: Chất lượng tăng trưởng thấp hạn chế
đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững do giá trị gia
tăng thấp của hầu hết các mặt hàng xuất khẩu. Chưa có các mặt hàng xuất khẩu
có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới dựa vào công nghệ và chất lượng
lao động. Xuất khẩu lệ thuộc quá mức vào thị trường thế giới, do đó, dễ gây rủi
ro khi có những biến động bất ổn. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến vấn đề ổn định
kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Xuất khẩu và bền vững về xã hội: Chia sẻ lợi ích thương mại chưa thật sự
bình đẳng, đặc biệt là lợi ích thu được từ các nhóm hàng có nguồn gốc thiên
nhiên. Gia tăng khoảng cách giàu nghèo trong quá trình tự do hóa thương mại.
Cơ hội về thu nhập và việc làm dựa vào xuất khẩu chưa thật sự bền vững đối với
nhóm xã hội dễ bị tổn thương là người nghèo, khu vực nông nghiệp.
Xuất khẩu và bền vững về môi trường: Mở rộng xuất khẩu làm cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học và ô nhiễm môi trường. Tăng
137
trưởng xuất khẩu khuyến khích khai thác các nguồn lợi tự nhiên và sử dụng ngày
càng nhiều thêm các yếu tố đầu vào là áp lực gia tăng ô nhiễm. Nếu không có sự
chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu xuất khẩu sang các ngành có hàm lượng công nghệ
cao thì thiệt hại kinh tế từ việc suy thoái môi trường sẽ ngày càng lớn.
2.3.3 Nguyên nhân của các hạn chế
1. Chưa nhận thức đầy đủ về phát triển bền vững trong hoạch định và thực
thi các chính sách phát triển xuất khẩu. Còn chạy theo lợi ích ngắn hạn, cục bộ,
tư duy theo nhiệm kỳ, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm. Đây là
nguyên nhân cơ bản của tình trạng kém chất lượng và kém bền vững trong hoạt
động kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng. Chạy theo lợi ích ngắn hạn, cục
bộ là nguyên nhân của việc khai thác tài nguyên quá mức, không chú trọng đến
chất lượng, phát triển mất cân đối trong nhiều ngành kinh tế và vùng kinh tế.
Chẳn hạn như, phá rừng ngập mặn để nuôi tôm, khai thác khoáng sản tận thu, phá
rừng để gia tăng diện tích canh tác...
2. Chậm chuyển đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu. Chúng ta chậm
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, áp dụng kém hiệu quả các chính sách kinh tế vĩ mô
(đặc biệt là chính sách đầu tư). Những chính sách đầu tư mới phát huy tác dụng
đối với việc sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng xuất
khẩu theo chiều rộng mà chưa tạo điều kiện cho sự phát triển các ngành sản xuất
và xuất khẩu chủ lực có giá trị gia tăng cao, phù hợp với chuyển đổi cơ cấu của
nền kinh tế thế giới trong bối cảnh bùng nổ cách mạng khoa học và công nghệ.
Nếu như từ năm 1995 đến năm 1997 để tạo ra một đơn vị tăng trưởng cần khoảng
3,2 đơn vị đầu tư, thì từ năm 2000 đến năm 2008 phải cần tới gần 5 đơn vị đầu tư
[11].
3. Chính sách phát triển xuất khẩu thiên về số lượng, chạy theo thành tích:
Trong chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001-2010, các chỉ
tiêu xuất khẩu mới thể hiện về mặt số lượng như tốc độ tăng trưởng, quy mô xuất
138
khẩu mà chưa tính đến chất lượng tăng trưởng. Tăng trưởng xuất khẩu của nước
ta dựa vào mức tăng xuất khẩu của các nhóm hàng cụ thể, trong đó phần lớn là
các mặt hàng thâm dụng tài nguyên và lao động. Chính sách phát triển xuất khẩu
chưa chú trọng đến các yếu tố khác như môi trường, xã hội.
4. Còn duy trì chính sách bảo hộ thị trường nội địa ở mức cao. Chính sách
bảo hộ thị trường nội địa đã khuyến khích các doanh nghiệp tận dụng cơ hội này
để kinh doanh trên thị trường trong nước vì bảo hộ cao kinh doanh nội địa thu
được lợi nhuận cao hơn so với xuất khẩu. Theo nghiên cứu gần đây của Ngân
hàng Thế giới, với mức thuế mang tính bảo hộ ở một số ngành như hiện nay, kinh
doanh nội địa vẫn có lãi hơn so với xuất khẩu do giá bán trong nước được định ở
mức cao hơn giá thị trường quốc tế. So sánh giữa lợi nhuận trên doanh thu nội địa
với lợi nhuận trên doanh thu xuất khẩu cho thấy nếu không có việc miễn thuế
nhập khẩu cho các yếu tố đầu vào thì bán hàng nội địa mang lại lãi suất cao gấp 5
lần bán hàng trên thị trường nước ngoài [40,tr.23].
Hơn nữa, có rất ít áp lực lên các nhà sản xuất để buộc họ phải tăng cường
tính hiệu quả của mình. Với mức thuế nhập khẩu như hiện nay, các yếu tố đầu
vào nhập khẩu của các nhà xuất khẩu Việt Nam có chi phí cao hơn giá thế giới.
Bảo hộ còn làm mất lợi thế của Việt Nam ở những ngành sản xuất dựa vào lao
động rẻ và tài nguyên sẵn có, lĩnh vực đang có chuyển dịch lớn từ các nước công
nghiệp hoá và phát triển sang các nước kém phát triển hơn. Tác động của bảo hộ
đối với xuất khẩu có thể được tính toán thông qua tỷ lệ bảo hộ thực tế (ERP). Qua
đó có thể thấy nhiều ngành có ERP âm nghĩa là phải dùng hơn 1 USD đầu vào để
sản xuất 1 USD đầu ra. Tác động tiêu cực này đối với xuất khẩu có thể thấy rõ ở
một số ngành như dệt may, dầu thực vật, sản phẩm giấy, sản phẩm da, cá và thực
phẩm.
Bảo hộ đối với khu vực kinh tế nhà nước làm chậm quá trình đổi mới công
nghệ, cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều này dẽ nhận thấy nếu
139
so sánh chỉ số ICOR của khu vực kinh tế nhà nước và khu vực tư nhân. Năm
2007, hệ số này của khu vực tư nhân là 2,9, còn khu vực nhà nước là 7,2 [11].
5. Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh chưa hoàn thiện. Hiện
nay các thể chế kinh tế thị trường ở nước ta còn thiếu đồng bộ như thị trường các
yếu tố sản xuất như vốn, công nghệ, lao động, tài chính, bất động sản; các quy
định pháp lý về cạnh tranh chống độc quyền, phá sản, bảo hộ… chưa hoàn thiện.
Đây là những cản trở gián tiếp nhưng hết sức quan trọng đối với quá trình hội
nhập kinh tế nước ta nói chung và xuất khẩu nói riêng.
6. Yếu kém về kết cấu hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu. Điều này thể
hiện ở giá cả dịch vụ cao và chất lượng phục vụ thấp. Giá bốc xếp tại cảng ở Việt
Nam gấp đôi Thái Lan, giá điện thoại quốc tế cao hơn so với các nước khu vực,
việc thực hiện thông quan cho các nhà xuất khẩu còn chậm trễ, các loại phí còn
nhiều và phiền hà, tệ mãi lộ còn phổ biến, hệ thống dịch vụ tư vấn, hỗ trợ phát
triển kinh doanh chưa tương xứng với nhu cầu của doanh nghiệp… Hạn chế của
lĩnh vực cung cấp kết cấu hạ tầng và dịch vụ cho các nhà xuất khẩu theo chúng
tôi chủ yếu là do mức độ độc quyền cao của lĩnh vực này. Việc hạn chế kinh
doanh đối với khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch
vụ ( kể cả ngân hàng) làm cho lĩnh vực này vừa kém năng động vừa kém hiệu
quả, dẫn đến giá thành dịch vụ cao và chất lượng phục vụ thấp.
7. Yếu kém của nguồn nhân lực. Nhân lực nước ta đông nhưng thiếu đào
tạo (khoảng 15,5 % so với 50% ở các nước), ý thức kỷ luật và tác phong lao động
công nghiệp chưa cao. Cơ cấu lao động chưa phù hợp với nhu cầu CNH - HĐH;
thiếu lao động có tay nghề, nhất là đối với các ngành có công nghệ cao, hiện đại.
Năng suất lao động thấp và tăng chậm hơn tiền lương (7%/năm so với 9%/năm).
Theo tính toán của các nhà phân tích kinh tế cho thấy tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam chủ yếu dựa vào việc tăng vốn, yếu tố năng suất chiếm tỷ lệ nhỏ bé. Cơ cấu
các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng công nghệ của Việt Nam thời gian qua cho
thấy vốn chiếm khoảng 70%, năng suất 14%, lao động 16% [4,tr.34]. Đội ngũ
140
doanh nhân thiếu đào tạo chính quy, đang tự học hỏi để nâng cao trình độ, kỹ
năng quản lý và thiếu kinh nghiệm kinh doanh, nhất là trên thị trường quốc tế.
8. Hạn chế về năng lực thực thi các quy định về môi trường, đặc biệt là tại
các khu công nghiệp, các vùng nuôi trồng thủy sản, khu vực khai thác và chế biến
khoáng sản. Chạy theo thành tích xuất khẩu và lợi ích ngắn hạn trong phát triển
xuất khẩu, chúng ta đã khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên. Không tuân thủ
các quy định về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, hoạt động của một số
doanh nghiệp đã gây tổn thất lớn đối với môi trường.
9. Chưa có chính sách chia sẻ lợi ích bình đẳng trong hoạt động xuất khẩu
và hạn chế rủi ro của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu dễ bị tổn thương
trong bối cảnh thị trường thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là các nhóm xuất
khẩu dựa vào lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao động rẻ như nông sản thủy sản,
dệt may, da giày, đồ gỗ… Chính sách của nhà nước để hạn chế rủi ro chưa được
thực hiện một cách liên tục và kịp thời. Biến động giá cả của một số mặt hàng
xuất khẩu như gạo, cà phê trong năm 2008 cho thấy Chính phủ còn bị động trong
việc ban hành các chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Lợi ích thu được từ xuất khẩu
không bình đẳng tiềm ẩn nguy cơ xung đột xã hội, giảm lòng tin của người dân
vào các chính sách của nhà nước.
Còn có thể kể thêm một số hạn chế khác như chính sách tỷ giá chưa thực
sự linh hoạt và điều chỉnh có lợi cho xuất khẩu, vấn đề cải cách doanh nghiệp
Nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, doanh nghiệp Việt Nam còn thụ động, ỉ
lại vào sự bao cấp của Nhà nước, chưa có chiến lược kinh doanh dài hạn, trình độ
đội ngũ kinh doanh còn yếu, chưa tập trung vào việc tạo dựng uy thế cho mình
như thương hiệu, quảng cáo, đầu tư cho khoa học, công nghệ… Những yếu kém
trong việc khuyến khích xuất khẩu cho thấy cải cách trong nước vẫn còn chậm,
chưa phù hợp với đòi hỏi của doanh nghiệp và yêu cầu hội nhập, tập trung chủ
yếu ở lĩnh vực điều tiết vĩ mô.
141
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu trên, xuất khẩu của nước ta
trong thời gian quan chưa thật bền vững còn có nguyên nhân khác quan. Trước
hết, là trình độ phát triển kinh tế trước khi tham gia hội nhập còn thấp so với các
nước, do đó chính sách xuất khẩu trong thời gian đầu phải dựa vào lợi thế sẵn có
về tài nguyên và lao động rẻ. Thứ hai, phát triển xuất khẩu phải đáp ứng yêu cầu
tạo việc làm, giảm đói nghèo cho một bộ phận lớn là dân cư nông thôn, tức là ưu
tiên nhất định cho mục tiêu kinh tế. Thứ ba, hạn chế về vốn, kinh nghiệm quản lý,
trình độ lao động nên Việt Nam chỉ có thể phát triển xuất khẩu những ngành tạo
ra giá trị gia tăng thấp, tham gia vào công đoạn gia, công lắp ráp, chế biến thô.
Thứ tư, Việt Nam ở trong khu vực cạnh tranh gay gắt để thu hút FDI và thị
trường xuất khẩu, đặc biệt là các nước như Trung Quốc và Thái Lan.
Kết luận chƣơng 2
Chính sách xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua chưa khuyến
khích phát triển xuất khẩu theo hướng bền vững, mới có tác dụng khai thác lợi
thế so sánh sẵn có chứ chưa phát huy lợi thế cạnh tranh trên cơ sở nâng cao giá trị
gia tăng. Mặc dầu có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, cơ cấu xuất khẩu đã có sự
cải thiện nhất định, nhưng nhìn chung, xuất khẩu của Việt Nam theo các tiêu chí
PTBV chưa thật rõ nét. Chất lượng xuất khẩu chưa cao, tiềm ẩn nguy cơ suy
giảm tốc độ tăng trưởng trong dài hạn. Chạy theo thành tích xuất khẩu, Việt Nam
đang phải đối phó với các vấn đề môi trường và xã hội. Xuất khẩu còn thâm dụng
tài nguyên thiên nhiên và gây ô nhiễm môi trường. Xuất khẩu còn chứa đựng
nguy cơ làm phân hóa giàu nghèo, bất ổn xã hội do chia sẻ lợi ích từ xuất khẩu
chưa thật hợp lý.
142
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU BỀN
VỮNG Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
3.1 BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƢỚC ẢNH HƢỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN
XUẤT KHẨU BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
3.1.1 Bối cảnh quốc tế
Thứ nhất, cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông
tin tiếp tục phát triển nhảy vọt, thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức và làm
biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sở hữu trí tuệ có vai trò ngày
càng quan trọng. Trình độ làm chủ thông tin, tri thức có ý nghĩa quyết định tương
lai phát triển của các nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, các lợi thế
so sánh quốc tế của các quốc gia không ngừng biến đổi. Chu trình luân chuyển
vốn, thay đổi công nghệ và sản phẩm ngày càng được rút ngắn, đòi hỏi các quốc
gia cũng như các doanh nghiệp phải điều chỉnh rất nhanh để thích ứng [70,tr.111-
112]. Xu thế này cũng đặt ra nhiều vấn đề buộc các nước phải điều chỉnh chính
sách phát triển.
Những xu hướng mới nói trên sẽ có những tác động đối với phát triển bền
vững nói chung và xuất khẩu bền vững ở nước ta trong những năm tới:
(i) Việc lựa chọn mô hình tăng trưởng xuất khẩu phải tính đến những thay
đổi về chất của lực lượng sản xuất hiện nay. Một mặt cần tạo dựng nền tảng kinh
tế - kỹ thuật cho việc tăng trưởng xuất khẩu bền vững. Mặt khác cần phải có
những bước đột phá về mặt thể chế để tận dụng những cơ hội do nền kinh tế tri
thức đang hình thành hiện nay để phát triển xuất khẩu những mặt hàng xuất khẩu
có hàm lượng tri thức cao, mang lại giá trị gia tăng lớn.
(ii) Với nền kinh tế mạng toàn cầu hiện nay, cần thiết phải đẩy nhanh cải
cách trong nước, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển xuất khẩu bền vững.
Trước hết là tạo dựng mối quan hệ hợp lý giữa các chủ thể kinh doanh để tham
143
gia hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu, xây dựng một hệ thống thị trường mở và
linh hoạt, nhiều chiều, phân định rõ vai trò giữa nhà nước và các đối tượng kinh
doanh, tham gia rộng rãi vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực. Đây là
những điều kiện cơ bản để tạo môi trường cho chất lượng tăng trưởng nói chung
và xuất khẩu nói riêng.
(iii) Xu hướng vận động nhanh của nền kinh tế mạng đòi hỏi mọi quốc gia
phải luôn luôn đổi mới để tận dụng cơ hội và hạn chế rủi ro. Với trình độ phát
triển thấp như hiện nay, Việt Nam cần phải coi việc nhập cuộc nhanh, trên một
quy mô lớn và với tốc độ cao vào hệ thống phân công lao động quốc tế hiện đại là
yếu tố quan trọng để xác định phương hướng phát triển kinh tế nước ta. Tham gia
vào chuỗi giá trị toàn cầu, vào những khâu tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất là định
hướng phát triển xuất khẩu bền vững của nước ta.
Thứ hai, tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra
ngày càng sâu sắc, các thể chế thương mại quốc tế ngày càng hoàn thiện tạo điều
kiện cho việc thâm nhập lẫn nhau của các nền kinh tế thông qua việc tham gia
của mỗi nước vào các định chế kinh tế, thương mại đa phương, khu vực và và
song phương. Tự do hóa thương mại với việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan, thuận lợi hóa việc dịch chuyển vốn, lao động... mở rộng khả năng
tiếp cận thị trường, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, do đó tăng
khả năng cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu. Sức ép cạnh tranh từ quá
trình tự do hóa thương mại buộc các nước, nhất là các nước đang và kém phát
triển phải đẩy mạnh cải cách trong nước để tận dụng cơ hội phát triển kinh tế.
Đây là tác động tích cực dài hạn của tự do hóa thương mại đối với tăng trưởng
kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng. Tuy nhiên, quá trình tự do tựu thương
mại cũng đặt ra những thức đối với phát triển xuất khẩu bền vững. Trước hết là
áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các nước trong việc tiếp cận thị trường
xuất khẩu. Thứ hai là yếu tố bất định của nền kinh tế gia tăng như biến động giá
cả, môi trường kinh doanh, khủng hoảng tài chính gây rủi ro cho các doanh
144
nghiệp. Thứ ba, gia tăng xu hướng bảo hộ của các nước phát triển và áp đặt luật
chơi trái với nguyên tắc thương mại tự do để hạn chế thương mại các nước đang
phát triển như áp thuế chống bán phá giá, rào cản kỹ thuật,...
Để hội nhập thành công, tất cả các nước trên thế giới đều phải điều chỉnh
chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương mại
hàng hoá, dịch vụ, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật giữa các quốc gia ngày
càng tự do hơn. Các nước đang phát triển như nước ta cần chủ động lựa chọn
phát triển những ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Nâng cao
chất lượng tăng trưởng xuất khẩu đóng vai trò quyết định trong việc tận dụng cơ
hội của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong điều kiện HNKTQT hiện nay, các quan hệ kinh tế quốc tế trở nên
hết sức đa dang và phức tạp. Những nước mới hội nhập như Việt Nam phải lệ
thuộc ở mức độ lớn bởi các quan hệ kinh tế nói trên. Việt Nam đang phải lệ thuộc
ở mức độ lớn vào thị trường thế giới. Đầu vào cho xuất khẩu của một số ngành
hàng chủ lực nước ta gần như lệ thuộc vào nhập khẩu. Thị trường xuất khẩu của
Việt Nam lại phụ thuộc vào một số nước như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Do đó,
trong quan hệ kinh tế đối ngoại, Việt Nam cần có chính sách đối tác linh hoạt và
mềm dẻo, nhất là trong quan hệ với các nước lớn.
Thứ ba, quá trình tự do hoá thương mại ngày càng sâu sắc trong bối cảnh
gia tăng các vấn đề môi trường toàn cầu. Phát triển xuất khẩu sẽ lệ thuộc rất
nhiều vào những yếu tố môi trường. Xu thế gắn bó giữa hoạt động xuất khẩu với
việc giữ gìn và tôn tạo môi trường sinh thái ngày càng phổ biến trên thế giới đòi
hỏi các nước phải nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường đảm bảo
phát triển bền vững. Đây là một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển
như Việt Nam, nơi đang còn thiếu các công cụ thể chế và điều kiện vật chất để
đáp ứng các yêu cầu nói trên.
145
Một số xu hướng thương mại môi trường quốc tế nổi bật có ảnh hưởng đến
khả năng xuất khẩu của nước ta trong những năm tới là:
- Thu nhập của người tiêu dùng được nâng cao nên nhu cầu về hàng hoá và
dịch vụ thân thiện với môi trường cũng ngày càng cao. Cùng với xu hướng này
các tiêu chuẩn môi trường áp dụng đối với chúng cũng cao hơn. Đây sẽ là thách
thức đối với hàng hoá xuất khẩu của các quốc gia, nơi có hệ thống tiêu chuẩn môi
trường thấp hơn.
- Bắt đầu từ vòng đàm phán Doha, Tổ chức thương mại thế giới sẽ đưa các
vấn đề môi trường được thông qua tại hội nghị Bộ trưởng thương mại ở
Singapore năm 1996 vào nội dung các cuộc đàm phán thương mại ở cấp song
phương và đa phương. Đây sẽ là trở ngại lớn đối với các nước đang trong quá
trình đàm phán gia nhập như Việt Nam và các nước thành viên thuộc các nước
đang phát triển đang xuất khẩu nhiều mặt hàng nhạy cảm với môi trường như
nông sản, thực phẩm, dệt may, da giày...
- Sự tăng cường chính sách bảo hộ với những hàng rào kỹ thuật tinh vi của
các nước công nghiệp phát triển tạo ra nhiều khó khăn mới cho phát triển xuất
khẩu. Xu hướng tăng cường hàng rào bảo hộ đang gia tăng ở các nước phát triển,
đặc biệt là sau hội nghị Cancun, đang là sức ép đối với các nước đang phát triển,
những nước xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản. Chính vì vậy, việc nâng cao khả
năng đáp ứng các tiêu chuẩn và quy định môi trường đang là thách thức đối với
những nước xuất khẩu nhiều mặt hàng thô, sơ chế như Việt Nam.
Hiện nay một số nước đã áp dụng các phương tiện hiện đại để kiểm tra
chất lượng hàng hoá nhập khẩu. Chẳng hạn, Canada đã có những máy móc phát
hiện dư lượng kháng sinh trong thực phẩm chính xác đến 0,1 phần nghìn. Do đó,
quy định về dư lượng kháng sinh đối với tôm có thể thay đổi xuống mức thấp hơn
hiện nay là 0,3 phần nghìn. Ngày 15/5/2003 Hoa kỳ đã thông qua đạo Luật công
cộng (Public Law) theo đó sẽ cấm nhập khẩu tôm khai thác bằng các phương tiện
146
có thể ảnh hưởng đến sự sống của loại rùa biển. Ước tính Thái Lan sẽ thiệt hại
khoảng 30 triệu USD/năm [31,tr.18].
- Tự do hóa thương mại sẽ thúc đẩy nhanh quá trình hài hoà các tiêu chuẩn
khu vực và quốc tế. Xu hướng này buộc các nước phải điều chỉnh quy định và áp
dụng thống nhất các tiêu chuẩn để thuận lợi hóa cho thương mại. Đây chính là cơ
hội để tạo ra môi trường trao đổi thương mại công bằng và bình đẳng hơn.
Những xu hướng thương mại môi trường nói trên sẽ có tác động nhiều mặt
đối với khả năng mở rộng xuất khẩu các mặt hàng nhạy cảm nước ta. Về mặt tích
cực, chúng sẽ buộc các doanh nghiệp nước ta đẩy mạnh cải cách để thích ứng với
môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nâng cao khả năng cạnh tranh để đáp
ứng các yêu cầu môi trường ngày càng cao. Tuy nhiên doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam sẽ đối mặt với ngày càng nhiều hơn những khó khăn trong việc đáp ứng các
yêu cầu môi trường. Trước hết là cạnh tranh với các nước xuất khẩu các mặt hàng
tương tự sẽ gay gắt hơn, chi phí cao hơn để cải thiện các vấn đề môi trường, luật lệ
quốc tế ngày càng khắt khe hơn đối với trao đổi thương mại.
Thứ tư, khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới đang gây cản
trở việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững nói chung và xuất khẩu nói
riêng. Hiện nay chưa có những dự báo nào chính xác về những hậu quả của cuộc
khủng hoảng này nhưng tất cả các quốc gia trên thế giới đang phải điều chỉnh
chiến lược phát triển kinh tế của mình.
Khủng hoảng tài chính và suy thóa kinh tế toàn cầu làm sụt giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các nước định hướng xuất khẩu. Suy giảm tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu kéo theo các vấn đề môi trường, xã hội, ảnh hưởng đến
phát triển bền vững như thu nhập, việc làm, đổi mới công nghệ theo hướng thân
thiện môi trường. Suy giảm kinh tế toàn cầu làm gia tăng áp lực cạnh tranh của
Việt Nam với các nước khác như Trung Quốc, ASEAN trên các thị trường xuất
khẩu chủ yếu như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản... Với hạn chế về nguồn lực tăng
147
trưởng, Việt Nam sẽ rất khó khăn để cải thiện chất lượng tăng trưởng kinh tế nói
chung và xuất khẩu nói riêng.
Trong tình trạng suy thoái kinh tế thế giới, các nước có xu hướng áp dụng
các biện pháp bảo hộ nền kinh tế của mình. Trong bối cảnh đó, việc thực hiện các
cam kết thương mại nhằm đẩy mạnh hơn nữa tự do hóa thương mại sẽ khó khăn
hơn. Một minh chứng rõ ràng là vòng đàm phán Doha khó có thể kết thúc thành
công. Tương tự như vậy, các cam kết thương mại khu vực và song phương cũng
sẽ khó thực hiện theo lộ trình. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận thị
trường của hàng hóa xuất khẩu nước ta.
3.1.2 Tình hình trong nƣớc
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường, đời
sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện đáng kể. Những thành tựu to lớn và
quan trọng của 20 năm đổi mới và hội nhập làm cho thế và lực của nước ta lớn
mạnh lên nhiều, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng cao và bền vững trong những
năm tiếp theo. Việt Nam đã đề ra định hướng chiến lược tăng trưởng nhanh và
bền vững trong giai đoạn tới với các mục tiêu phát triển bền vững. Các mục tiêu
phát triển bền vững đã được thể hiện trong các chương trình, kế hoạch, chiến
lược phát triển của Việt Nam là định hướng cho phát triển bền vững các lĩnh vực,
các ngành nói chung và xuất khẩu nói riêng.
Thứ hai, quá trình cải cách, đổi mới tiếp tục được đẩy mạnh. Trong hơn 20
năm qua, xuất khẩu là động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Công nghiệp hóa
theo hướng xuất khẩu đã trở thành định hướng chiến lược. Định hướng phát triển
này đang được duy trì và tiếp tục đẩy mạnh trong những năm tới. Chương trình
hành động của Chính phủ Việt Nam trong những năm vừa qua và những năm tới
tập trung chủ yếu vào các nội dung chủ yếu vào việc thay đổi mô hình tăng
trưởng, chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng, dựa chủ yếu vào các yếu tố lợi thế
so sánh sẵn có sang khai thác các yếu tố cạnh tranh trên cơ sở công nghệ cao,
148
chất lượng cao của nguồn nhân lực và tính hiện đại của cơ sở hạ tầng kinh tế xã
hội. Đây là cơ sở để duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, nâng cao chất
lượng xuất khẩu.
Thứ ba, Việt Nam đã cam kết thực hiện chiến lược phát triển bền vững
trong thế kỷ 12. Việt Nam đã ban hành Chiến lược phát triển bền vững (Chương
trình Nghị sự 21). Đây là căn cứ chiến lược để Việt Nam thực hiện các mục tiêu
PTBV. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-
2020 cũng đề ra mục tiêu là tăng trưởng nhanh đi đôi với bền vững, đảm bảo chất
lượng tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường và công bằng xã hội.
Thứ tư, trong những năm tới, Việt Nam sẽ đẩy mạnh hội nhập sâu hơn vào
nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đang thực hiện các cam kết gia nhập
WTO, các hiệp định thương mại khu vực và song phương như ACFTA, AFTA,
BTA với Hoa Kỳ... Điều này sẽ tạo thuận lợi cho Việt Nam mở rộng thị trường
xuất khẩu, nâng cao chất lượng tăng trưởng nếu tận dụng được các yếu tố cạnh
tranh của quá trình hội nhập thông qua việc cải cách thể chế, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, cải thiện kết cấu hạ tầng. Tuy nhiên, nếu không nhanh chóng
thay đổi mô hình tăng trưởng, Việt Nam sẽ bị kẹt trong bẫy “lao động rẻ”, ở vào
khâu tạo ra giá trị gia tăng ít nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu và nguy cơ tụt hậu
sâu hơn là rất lớn. Nếu không chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xuất khẩu
theo hướng sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẽ dẫn đến việc khai thác quá mức
nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng kém hiệu quả các yếu tố đầu vào phục
vụ cho xuất khẩu. Điều này sẽ ảnh hưởng đến phát triển xuất khẩu bền vững
trong tương lai.
Thứ năm, tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế cùng với việc đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã và đang tác động mạnh lên môi
trường. Quá trình phát triển kinh tế bằng con đường công nghiệp hoá đòi hỏi các
nhu cầu về năng lượng, nguyên liệu ngày càng lớn, kéo theo chất lượng môi
trường sống ngày càng xấu đi, nếu không có biện pháp hữu hiệu ngay từ đầu. Mặt
149
khác, quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá ở nhiều khu vực, vùng lãnh
thổ lại không quán triệt đầy đủ các quan điểm phát triển bền vững, tức là chưa
tính toán đầy đủ các yếu tố môi trường trong phát triển kinh tế - xã hội.
Theo dự kiến, tốc độ tăng trưởng GDP phải đạt xấp xỉ 7%/năm và được
duy trì liên tục đến năm 2010. Theo tính toán của các chuyên gia nước ngoài, nếu
GDP tăng gấp đôi thì có nguy cơ chất thải tăng gấp 3 đến 5 lần.
Từ các mục tiêu của kịch bản tăng trưởng kinh tế nêu trên có thể thấy nếu
như trình độ công nghệ sản xuất, cơ cấu sản xuất và trình độ quản lý sản xuất,
quản lý môi trường không được cải tiến thì sự tăng trưởng sẽ kéo theo tăng khai
thác, tiêu thụ tài nguyên năng lượng, dẫn đến khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, tạo ra sự gia tăng các loại chất thải gây sức ép lên môi trường.
Thứ năm, ổn định chính trị xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia được giữ
vững, hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới là những điều kiện quan trọng để
thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Thứ sáu, những bất cập hiện tại của nền kinh tế gây khó khăn cho việc thực
hiện mục tiêu phát triển bền vững nói chung và xuất khẩu nói riêng. Đó là:
- Thể chế kinh tế chậm được cải thiện, nhất là các thể chế KTTT như vấn
đề sở hữu, tính đồng bộ của thị trường, vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước...
Khu vực kinh tế nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa thực sự theo cơ chế thị
trường và mở cửa hội nhập. Khu vực tư nhân chưa được quan tâm đúng mức, vẫn
còn sự phân biệt đối xử. Yếu kém về thể chế kinh tế thị trường là “nút thắt” lớn
nhất hạn chế tăng trưởng nhanh và bền vững.
- Trình độ lao động thấp, số lượng đông nhưng chuyên môn kém, kinh
nghiệm quản lý còn yếu. Hạn chế này sẽ ảnh hưởng đến việc tiếp nhận công nghệ
hiện đại, khả năng liên kết, liên doanh trong kinh doanh với đối tác bên ngoài.
Trong bối cảnh thế giới đang có sự chuyển dịch cơ cấu hướng về những ngành
150
sản xuất có hàm lượng tri thức cao, sự yếu kém này có thể nói là nguyên nhân
chính gây nên tình trạng cạnh tranh yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam kém phát triển. Điều này sẽ hạn chế
việc hấp thụ các nguồn lực cho tăng trưởng nhanh và bền vững, nhất là nguồn
vốn FDI, làm tăng chí phí sản xuất. Yếu kém về cơ sở hạ tầng hiện nay là một
trong những hạn chế đối với tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu.
- Tình trạng tham nhũng tràn lan đang có nguy cơ làm giảm lòng tin của
các nhà đầu tư, hiệu quả kinh tế và nảy sinh các vấn đề xã hội phức tạp như bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập, lòng tin của nhân dân.
- Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn thấp kém. Kiến thức
và nhận thức về môi trường và phát triển bền vững chưa được nâng cao cho các
nhà ra quyết định, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và cộng đồng. Năng lực
quản lý môi trường chưa đáp ứng yêu cầu. Hiện trạng về công tác quản lý môi
trường đang có nhiều vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý Nhà nước
về bảo vệ môi trường, hệ thống tổ chức quản lý hiện nay còn nhiều bất cập về
nhân lực, vật lực và trang bị kỹ thuật và cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa các
bộ/ngành và địa phương; đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường còn quá ít và
thiếu tập trung, hệ thống chính sách, luật pháp còn chưa đồng bộ, thiếu tính hệ
thống, các chính sách công cụ kinh tế trong quản lý môi trường còn ít được áp
dụng.
Tóm lại, bối cảnh quốc tế và trong nước trong những năm tới vừa thuận lợi
vừa khó khăn cho Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát
triển xuất khẩu bền vững nói riêng.
Về thuận lợi:
- Quá trình toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất tạo cơ
hội để Việt Nam nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu sang các nhóm hàng
151
có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thâm nhập sâu hơn vào những khâu có
giá trị cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.
- Quá trình tự do hóa thương mại tiếp tục được thúc đẩy tạo thuận lợi cho
Việt Nam cơ hội mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của thị trường các nước.
- Quá trình tái cơ cấu kinh tế thế giới sau khủng hoảng tài chính là sức ép
để Việt Nam đẩy mạnh cải cách, chuyển đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu,
thích ứng với sự biến đổi nhu cầu ngày càng cao hơn của thị trường thế giới.
- Nỗ lực quốc tế giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu sẽ buộc nước ta
thay đổi mô hình tăng trưởng hạn chế ô nhiễm và khai thác tài nguyên không tái
tạo.
- Những cải cách trong nước nhằm phát triển kinh tế nhanh và bền vững sẽ
tạo thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao chất lượng,
hiệu quả xuất khẩu.
Về khó khăn:
- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gia tăng sức ép cạnh tranh, các
nước đẩy mạnh cải cách. Do đó, nếu Việt Nam không nhanh chóng cải thiện sức
cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, để duy trì nhịp độ tăng trưởng, chúng ta lại
tiếp tục phải dựa vào tài nguyên, gây áp lực lên môi trường sinh thái.
- Sau khủng hoảng tài chính, cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài sẽ khốc
liệt hơn, nếu không cải thiện được môi trường đầu tư, Việt Nam sẽ có ít hơn cơ
hội để nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu dựa vào vốn bên ngoài.
- Nền kinh tế nước ta đang gặp phải những khó khăn trong việc chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả như năng lực
điều hành nền kinh tế còn yếu, yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực và cơ sở
hạ tầng, tình trạng tham nhũng, chạy theo thành tích ngắn hạn... Không khắc phục
152
được những vấn đề nêu trên, việc đảm bảo phát triển xuất khẩu bền vững là rất
khó khăn.
3.2 QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn tới là phát triển
nhanh phải đi đôi với phát triển bền vững. Tăng trưởng về số lượng phải đi liền
với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong khi
khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng các yếu tố
phát triển theo chiều sâu. Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá,
phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo
nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá
đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Phải
rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển,
không gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường. Phát triển kinh tế phải đi đôi với việc
bảo đảm ổn định chính trị -xã hội; ổn định chính trị - xã hội là tiền đề, điều kiện
để phát triển nhanh và bền vững [9]. Đây là quan điểm định hướng cho các
ngành, các lĩnh vực xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển bền vững.
Chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 và định
hướng đến 2020 cũng đã đề ra mục tiêu, quan điểm phát triển xuất khẩu theo
hướng bền vững với nội dung cơ bản là: “nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo công ăn việc làm,
thu ngoại tệ; chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng,
gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công
nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; mở rộng và đa dạng hóa thị
trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế
giới”[68].
153
Trên cơ sở quan điểm về phát triển kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng
của Đảng và Chính phủ, quan điểm phát triển xuất khẩu bền vững ở Việt Nam
trong thời gian tới cần tập trung vào việc đảm bảo chất lượng tăng trưởng, giải
quyết các vấn đề môi trường xã hội, trên cơ sở phát huy nội lực, tận dụng cơ hội
hội nhập KTQT, sự ổn định môi trường chính trị, xã hội.
3.2.1 Phát triển xuất khẩu trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế so sánh và
lợi thế cạnh tranh, đảm bảo tốc độ và chất lƣợng tăng trƣởng cao, góp phần
tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững
Trong những năm tới, xuất khẩu vẫn là động lực chính của tăng trưởng
kinh tế Việt Nam. Vì vậy, cần phải kiên trì định hướng công nghiệp hóa hướng
vào xuất khẩu. Đây là chủ trương cần được quán triệt trong hoạch định chính
sách phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới. Trong bối cảnh hiện nay, khi
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu làm sụt giảm tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu, nhiều quan điểm cho rằng, cần chuyển định hướng phát triển kinh tế
dựa vào xuất khẩu sang thay thế nhập khẩu và phát triển thị trường nội địa. Thực
tế cho thấy là nhiều nước trên thế giới đã làm như vậy thông qua các biện pháp
như tăng cường bảo hộ thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng... Đối với Việt
Nam, một nước đang ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, thị trường trong nước
chưa phát triển, cần tranh thủ nguồn lực bên ngoài, nhất là FDI, để nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển xuất khẩu là con đường để Việt Nam thâm
nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế
giới.
Tuy vậy, để phát triển xuất khẩu bền vững, cần giải quyết hài hòa mối quan
hệ phát triển sản xuất thay thế nhập khẩu, phát triển thị trường trong nước và phát
triển xuất khẩu với phương châm là thị trường trong nước là cơ sở để mở rộng thị
trường ngoài nước, củng cố sản xuất và tiêu dùng trong nước là điều kiện để
doanh nghiệp đứng vững ở thị trường ngoài nước. Chẳng hạn, đẩy mạnh nhập
khẩu cạnh tranh để nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, phát triển các
154
ngành công nghiệp phụ trợ là điều kiện để nâng cao chất lượng hàng hóa xuất
khẩu. Đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng hàng hóa của thị trường
trong nước sẽ hạn chế đầu tư dàn trải cho xuất khẩu, có điều kiện để tập trung đầu
tư vào những lĩnh vực nước ta có lợi thế.
Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng tăng trưởng xuất khẩu cần phải nhanh
chóng thay đổi mô hình tăng trưởng. Trong những năm qua, tăng trưởng xuất
khẩu của Việt Nam chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có về tài
nguyên và lao động rẻ. Lợi thế nói trên hiện tại và một vài năm tới vẫn đang phát
huy tác dụng. Tuy nhiên, dễ dàng nhận thấy rằng, nguồn lực tự nhiên ngày càng
cạn kiệt. Những hạn chế mang tính cơ cấu về lợi thế tự nhiên như khả năng khai
thác, đánh bắt, nuôi trồng sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong dài
hạn. Đó là chưa kể đến những tác động tiêu cực đến môi trường được xem như
một hạn chế cản trở tăng trưởng xuất khẩu. Lợi thế lao động rẻ cũng ngày càng
giảm dần trong bối cảnh chênh lệch tiền lương lao động ở nước ta và các nước
giảm dần và nhu cầu cao trên thị trường thế giới về những hàng hóa có hàm
lượng công nghệ và khoa học ngày càng cao. Do đó dựa vào mô hình tăng trưởng
theo chiều rộng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh sẵn có, xuất khẩu Việt Nam
khó có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng ở mức cao. Bên cạnh đó, cạnh tranh
quốc tế trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu cũng là áp lực phải nhanh chóng
chuyển sang mô hình tăng trưởng mới. Một yếu tố hết sức quan trọng cần phải
quan tâm trong công tác hoạch định chiến lược xuất khẩu của Việt Nam là cơ cấu
thị trường thế giới những thập niên gần đây đã thay đổi căn bản. Nhu cầu về các
sản phẩm thô và sơ chế ngày càng giảm, trong khi thị trường các sản phẩm và
dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao ngày càng tăng. Một trong những nguyên
nhân của các quốc gia thành công trong phát triển kinh tế những năm gần đây là
nắm bắt được xu thế vận động của thị trường thế giới để điều chỉnh cơ cấu kinh tế
nhằm tạo ra những ngành kinh tế và sản phẩm đáp ứng các nhu cầu của thị
trường.
155
Mô hình tăng trưởng mới là mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, dựa vào
việc khai thác lợi thế cạnh tranh động để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả xuất khẩu trên cơ sở đẩy mạnh cải cách thể chế, sử dụng công nghệ tiên tiến,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại. Chuyển từ
phát triển xuất khẩu theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, từ việc dựa
chủ yếu vào lợi thế so sánh sẵn có (tĩnh) sang lợi thế cạnh tranh động là nhân tố
quyết định chất lượng tăng trưởng xuất khẩu: duy trì được tốc độ tăng trưởng cao,
nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu,
phù hợp với xu hướng biến đổi của thị trường, do đó, hạn chế được rủi ro khi thị
trường thế giới biến động bất lợi. Thực hiện định hướng phát triển xuất khẩu theo
chiều sâu cũng là giải pháp để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, khắc phục nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế quốc gia, đảm bảo nền kinh
tế độc lập, tự chủ.
Trong giai đoạn tới, chất lượng phát triển phải là mục tiêu hàng đầu. Cần
khắc phục tư tưởng coi trọng số lượng, chạy theo thành tích cục bộ và ngắn hạn.
Nhiều chỉ tiêu xuất khẩu trong giai đoạn vừa qua chỉ phản ánh về mặt số lượng
mà chưa phản ánh được hiệu quả đầu tư, các tác động về mặt xã hội, môi trường.
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, trong thời gian qua, nước ta đã đầu tư quá
mức cho xuất khẩu mà không tính đến hiệu quả của nó. Điều này dẫn đến sự hao
phí nguồn lực, sử dụng không hiệu quả vốn đầu tư, làm nảy sinh hành vi tiêu cực
như tham nhũng, gian lận thương mại. Cần phải tính toán xem mỗi một đô la giá
trị xuất khẩu mà ta mang về đem lại bao nhiêu lợi nhuận đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế. Chủ trương phát triển xuất khẩu là đúng đắn, tuy nhiên nếu không
có chiến lược phát triển đúng hướng, tập trung vào các ngành có lợi thế mà đầu
tư dàn trải, tràn lan thì chúng ta không thể có được các sản phẩm có vị thế cạnh
tranh quốc tế. Thực tế cho thấy, trong hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam chưa có
được những thương hiệu hàng hóa và doanh nghiệp có uy tín quốc tế, ngoại trừ
một số sản phẩm có được sự nổi tiếng do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên.
156
3.2.2 Phát triển xuất khẩu trên cơ sở khai thác hợp lý tài nguyên thiên
nhiên, hạn chế ô nhiễm môi trƣờng và cạn kiệt tài nguyên, nâng cao khả năng
đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trƣờng của hàng hóa xuất khẩu
Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường ở nước ta trong những
năm tới là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi
trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được các vườn quốc gia, khu bảo tồn
thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh học; khắc phục suy
thoái và cải thiện chất lượng môi trường [8]. Đây là định hướng phát triển bền
vững về môi trường cho các ngành kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng.
Trên cơ sở mục tiêu phát triển bền vững về môi trường của nước ta trong
thời gian tới, quan điểm phát triển xuất khẩu và bảo vệ môi trường được khái
quát ở những khía cạnh sau đây:
Trước hết, tăng trưởng xuất khẩu phải trên cơ sở khai thác hợp lý và sử
dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Cần nhận thức đầy đủ rằng, bảo tồn và phát
triển tài nguyên thiên nhiên là cơ sở của sự phát triển bền vững. Đối với Việt
Nam, một đất nước được thiên nhiên ưu đãi, có trình độ phát triển thấp, khai thác
hợp lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên tạo thuận lợi để tích lũy ban đầu cho công
cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Lợi thế về điều kiện tự nhiên đã tạo thuận
lợi cho Việt Nam xếp thứ hạng cao hiện nay về xuất khẩu một số sản phẩm như
gạo (thứ hai thế giới), cà phê (thứ hai thế giới), hạt tiêu (số một thế giới), hạt điều
(thứ ba thế giới). Một số mặt hàng khác như dầu thô, thủy sản đang có lợi thế
cạnh tranh tuyệt đối trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, chúng ta chưa khai thác một cách hợp lý tài
nguyên thiên nhiên. Tăng trưởng xuất khẩu một số mặt hàng như cà phê, hạt điều,
cao su, chè kéo theo sự suy giảm diện tích rừng và đa dạng sinh học. Tương tự,
khai thác thủy sản theo lối hủy diệt, quá mức làm suy giảm nghiêm trọng sinh
quyển biển. Tăng diện tích nuôi trồng thủy sản cùng với giảm diện tích rừng ngập
157
mặn. Tăng trưởng xuất khẩu của nước ta đang tiềm ẩn nguy cơ cạn kiệt tài
nguyên và mất cân bằng sinh thái. Khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên sẽ
làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai và gây nên những hệ lụy
đối với môi trường và xã hội.
Thứ hai, tăng trưởng xuất khẩu phải đi đôi với việc hạn chế ô nhiễm môi
trường. Trong những năm tới Việt Nam phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Quá trình này sẽ khuyến khích khai thác tài nguyên và sử dụng
ngày càng nhiều năng lượng và nguyên liệu đầu vào. Xuất khẩu trong giai đoạn
tới sẽ tập trung vào tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, chế tạo. Nếu không có
những biện pháp kiểm soát ô nhiễm, môi trường sinh thái nước ta sẽ ô nhiễm
nghiêm trọng. Ô nhiễm môi trường còn làm giảm khả năng xuất khẩu và ảnh
hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu.
Thứ ba, phát triển xuất khẩu trong giai đoạn tới phải chú trọng nâng cao
khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường của hàng hóa xuất khẩu,
áp dụng các quy trình và phương pháp sản xuất thân thiện với môi trường. Xu
hướng áp dụng các tiêu chuẩn môi trường trong thương mại quốc tế ngày càng
phổ biến để giải quyết các vấn đề toàn cầu và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
Các tiêu chuẩn môi trường đối với sản phẩm, quy trình chế biến ngày càng được
các nước áp dụng rộng rãi và ở mức cao hơn như những rào cản kỹ thuật trong
buôn bán quốc tế. Việt Nam xuất khẩu nhiều mặt nhạy cảm với môi trường và an
toàn như nông sản, thủy sản. Đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường
phải được nhìn nhận như là một biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh của hàng
hóa và cải thiện môi trường trong nước.
Thứ tư, phát triển xuất khẩu bền vững ở nước ta trong giai đoạn tới phải
dựa trên cơ sở khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường lâu bền.
Từng bước thực hiện nguyên tắc "mọi mặt: kinh tế, xã hội và môi trường đều
cùng có lợi", trong đó ưu tiên cho phát triển kinh tế. Cần khắc phục quan điểm
158
cực đoan trong việc khai thác các nguồn lợi tự nhiên. Bảo tồn thiên nhiên quá
mức sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, công cuộc xóa đói giảm nghèo
và hậu quả là gây khó khăn cho việc quản lý tài nguyên. Khai thác hợp lý và có
chính sách quản lý môi trường linh hoạt sẽ khuyến khích người hưởng lợi có ý
thức chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát triển chúng
để khai thác bền vững trong tương lai. Tuy nhiên khai thác quá mức tài nguyên
để đạt được sự tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn sẽ dẫn đến suy thoái và cạn kiệt
tài nguyên, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các thế hệ tương lai.
3.2.3 Phát triển xuất khẩu góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội nhƣ
xóa đói giảm nghèo, tạo nhiều việc làm đảm bảo công bằng xã hội, chia sẻ lợi
ích hợp lý giữa các thành phần tham gia vào xuất khẩu
Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội được đề ra trong Chiến lược phát
triển bền vững của Việt Nam là “đạt được kết quả cao trong việc thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức
khoẻ nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành
và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo
giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công
bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong một
xã hội, duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hoá dân tộc, không
ngừng nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần” [9].
Quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu
của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai.
Tạo lập điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình
đẳng để phát triển, được tiếp cận tới những nguồn lực chung và được phân phối
công bằng những lợi ích công cộng, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và
văn hoá tốt đẹp cho những thế hệ mai sau, sử dụng tiết kiệm những tài nguyên
không thể tái tạo lại được, gìn giữ và cải thiện môi trường sống, phát triển hệ
159
thống sản xuất sạch và thân thiện với môi trường; xây dựng lối sống lành mạnh,
hài hoà, gần gũi và yêu quý thiên nhiên.
Trên cơ sở mục tiêu phát triển bền vững về xã hội của nước ta trong giai
đoạn tới, quan điểm phát triển xuất khẩu bền vững về mặt xã hội được thể hiện ở
một số những điểm sau đây:
Thứ nhất, phát triển xuất khẩu góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm
nghèo, tạo việc làm. Các cấp các ngành, địa phương cần quán triệt quan điểm này
trong hoạch định chính sách phát triển trong giai đoạn tới. Hơn 70% dân số sống
ở nông thôn, dựa chủ yếu vào nguồn lợi tự nhiên. Phát triển xuất khẩu các mặt
hàng nông sản, thủy sản trong thời gian qua đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn,
nhất là những vùng trồng cà phê, cao su (Tây Nguyên), lúa gạo, thủy sản (Đồng
bằng Sông Cửu Long). Xuất khẩu các mặt hàng sử dụng nhiều lao động như dệt
may, da giày, thủy công mỹ nghệ, điện tử, đồ gỗ... thu hút một lượng lao động
lớn, cải thiện đời sống của người dân lao động. Mặc dù, xuất khẩu của nước ta
trong thời gian quan chưa thể hiện được xu hướng công nghiệp hóa, nhưng đóng
góp về mặt xã hội là rất to lớn.
Thứ hai, phát triển xuất khẩu đóng góp vào nâng cao chất lượng lao động,
trình độ quản lý. Cần nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng
nâng cao tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến và giá trị gia tăng cao để cải thiện
nguồn nhân lực, thu hút lao động nông nghiệp. Chất lượng lao động và trình độ
quản lý của các doanh nghiệp nước ta còn hạn chế. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân hạn chế tăng trưởng xuất khẩu bền vững. Kinh nghiệm quốc tế cho
thấy, chính sách đào tạo nguồn nhân lực và khuyến khích sử dụng người có trình
độ chuyên môn cao là một trong yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng tăng
trưởng xuất khẩu.
Thứ ba, cần có chính sách để giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong
quá trình công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu. Trước hết, là giải quyết các vấn
đề xã hội do tập trung lao động (nhất là lao động nữ) ở một số ngành như da giày,
160
dệt may. Đây là một vấn đề bức xúc mà chưa được sự quan tâm của các ngành.
Trước hết, cần là tạo môi trường sinh sống ổn định cho người lao động như nhà ở
các dịch vụ phục vụ đời sống hàng ngày của người lao động. Thứ hai, là cải thiện
môi trường lao động để đảm bảo sức khỏe và an toàn cho công nhân. Thứ ba, là
cần tính đến những vấn đề khác như việc xây dựng gia đình của công nhân, cuộc
sống con cái của họ sau này...
Thứ tư, cần có chính sách chia sẻ lợi ích thu được từ xuất khẩu một cách
hợp lý giữa những nhóm xã hội, nhất là trong việc sử dụng tài nguyên thiên
nhiên. Xử lý tốt vấn đề này sẽ tăng hiệu quả xuất khẩu, khai thác hợp lý tài
nguyên và tránh được các xung đột xã hội có liên quan. Đây cũng là một vấn đề
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Hiện nay, chúng ta chưa có một thiết chế hữu hiệu để kiểm soát phân phối
thu nhập giữa các bên tham gia vào chuỗi giá trị. Thực tế cho thấy, người lao
động, phần lớn là người sản xuất (nông dân) bị thua thiệt trong phân phối thu
nhập. Người được hưởng lợi nhiều nhất là các nhà hoạch định chính sách, môi
giới, nhà xuất khẩu trung gian. Trường hợp người trồng cà phê, trồng lúa, cá tra...
bị các thương lái ép giá trong trường hợp có biến động thị trường còn khá phổ
biến ở nước ta. Một vấn đề nữa là chia sẻ lợi ích giữa những người dân bản địa,
nơi có tài nguyên đa dạng sinh học. Những người khai thác là những người ở nơi
khác đến. Trường hợp dễ nhận thấy là những đầm nuôi tôm, rừng trồng cà phê,
chè... Mở rộng diện tích trồng cà phê, nuôi tôm ở vùng có rừng tự nhiên và ngập
mặn làm mất đi nguồn lợi sinh sống của người dân bản địa. Họ phải đi sâu vào
các cánh rừng khác và tiếp tục phá hoại môi trường. Như vậy, chia sẻ lợi ích giữa
các nhóm xã hội không còn là vấn đề xã hội mà còn là vấn đề môi trường.
Vấn đề chênh lệch giàu nghèo ở nước ta hiện nay cũng có nguyên nhân từ
việc chia sẻ không công bằng lợi ích từ xuất khẩu. Trong nền kinh tế thị trường,
khác nhau về năng lực dẫn đến khác nhau về thu nhập là vấn đề tất yếu khách
quan. Tuy nhiên, một bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng bằng cách dựa vào
161
khai thác nguồn lợi tự nhiên một cách phi pháp, trục lợi bằng những cách thức
kinh doanh thiếu lành mạnh. Kinh doanh xuất khẩu mang lại lợi nhuận cao và
cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ phân hóa nhanh chóng giàu nghèo.
Thứ năm, cần có quan điểm tổng thể, dài hạn trong quản lý và khai thác tài
nguyên. Trước hết là đảm bảo lợi ích quốc gia, sự phát triển cân đối giữa các
vùng và hài hòa lợi ích của các thế hệ. Khắc phục cách nhìn cục bộ địa phương,
tư duy ngắn hạn, nhiệm kỳ trong quản lý và khai thác tài nguyên. Tài nguyên
quốc gia là tài sản chung của toàn dân, các công dân các thế hệ khác nhau có
quyền được hưởng lợi. Không xử lý tốt vấn đề lợi ích trong khai thác và sử dụng
tài nguyên sẽ làm nảy sinh nguy cơ xung đột xã hội, giảm niềm tin của nhân dân
vào chính sách của đảng và nhà nước.
3.2.4 Phát triển kinh tế thị trƣờng, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là
điều kiện để phát triển xuất khẩu bền vững
Phát triển kinh tế thị trường là một trong những điều kiện quan trong nhất
để phát triển kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng. Cải cách kinh tế theo định
hướng thị trường góp phần giải phóng sức sản xuất, thu hút sự tham gia của các
thành phần kinh tế vào phát triển xuất khẩu. Cơ chế thị trường, xét về dài hạn,
đảm bảo phân phối thu nhập một cách hợp lý và công bằng hơn. Nhiều nghiên
cứu thực nghiệm cho thấy, cải cách kinh tế theo hướng thị trường góp phần cải
thiện môi trường hơn là cơ chế tập trung trước đây [39,tr.114]. Áp lực cạnh tranh,
nhu cầu của người tiêu dùng, các chính sách BVMT của chính phủ buộc doanh
nghiệp phải tuân thủ các quy định môi trường, áp dụng các phương thức sản xuất
tiên tiến.
Thực tế ở Việt Nam cho thấy, cải cách kinh tế thị trường ở nước ta trong
những năm qua đã tạo điều kiện cho tăng trưởng xuất khẩu và bảo vệ môi trường.
Các chính sách của chính phủ như mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu, khuyến
162
khích phát triển khu vực tư nhân, tạo thuận lợi cho danh nghiệp nước ngoài,... đã
khơi dậy tiềm năng xuất khẩu của đất nước.
Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề quan trọng để phát triển xuất
khẩu bền vững. Cam kết mở cửa thị trường, cải cách trong nước phù hợp với
nguyên tắc của hệ thống thương mại đa phương (WTO), các định chế thương mại
khu vực và song phương tạo điều kiện mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường, nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu nhờ các yếu tố cạnh tranh động
do cải cách thể chế. Nền kinh tế mở, xét về dài hạn, giải quyết hiệu quả hơn vấn
đề xã hội và môi trường so với nền kinh tế đóng và bao cấp [39,tr.117].
Một trong những thành tựu của quá trình đổi mới là Việt Nam đã mở rộng
quan hệ thương mại với hầu hết các nước trên thế giới, tạo ra các khu vực thị
trường rộng lớn cho hàng hóa xuất khẩu, biến tiềm năng xuất khẩu thành cơ hội
thực sự. Như đã phân tích trong chương 2, xuất khẩu đã trở thành động lực tăng
trưởng kinh tế chủ yếu của nước ta hơn 20 năm qua. Hội nhập còn giúp nước ta
nhận được sự tài trợ của các tổ chức quốc tế để giải quyết các vấn đề như ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo vệ môi trường, xóa đói nghèo, phát triển nguồn nhân lực.
Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam nhấn mạnh “gắn chặt việc
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển bền vững đất nước. Phát triển các quan hệ song phương và đa phương,
thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực; tiếp thu có chọn lọc những tiến bộ
khoa học công nghệ, tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển bền vững. Chú
trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh. Chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi trường do quá trình
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra” [9].
Các quan hệ kinh tế quốc tế hiện nay rất đa dạng và phức tạp với nhiều cấp
độ khác nhau. Nền kinh tế nước ta càng hội nhập, càng phụ thuộc và gắn bó chặt
chẽ với nền kinh tế thế giới. Những biến động của kinh tế thế giới sẽ ảnh hưởng
đến kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng. Xuất khẩu của nước ta vừa phụ
thuộc vào đầu vào cho xuất khẩu (nguyên liệu, công nghệ, quản lý) từ các nước,
vừa phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu, nhất là các thị trường phát triển EU, Hoa
163
Kỳ, Nhật bản. Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược
đối tác linh hoạt và mền dẻo. Đối với thị trường nhập khẩu, cần chú trọng đến
những đối tác như Trung Quốc, ASEAN, Nhập Bản, Hàn Quốc. Đẩy mạnh quan
hệ hợp tác thương mại với Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản như là những thị trường xuất
khẩu mục tiêu dài hạn.
3.2.5 Ổn định chính trị - xã hội là tiền đề, điều kiện để phát triển xuất
khẩu bền vững
Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam nêu rõ mối quan hệ giữa phát
triển bền vững với bảo đảm ổn định chính trị, xã hội. Một trong nguyên tắc phát
triển bền vững là “kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và
bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội [9].
Môi trường chính trị, xã hội ổn định của Việt Nam trong những năm qua là
nhân tố quan trọng đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Môi trường chính
trị ổn định là một trong những yếu tố hấp dẫn đầu tư nước ngoài vào nước ta
trong những năm qua. Chính trị, xã hội ổn định cũng là yếu tố làm tăng niềm tin
của các nhà đầu tư trong nước.
3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU BỀN VỮNG TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
3.3.1 Các giải pháp chung
3.3.1.1 Tiếp tục đổi mới tư duy và nhận thức về phát triển nhanh và
bền vững
Đổi mới tư duy và nhận thức về phát triển nhanh và bền vững là một trong
những yếu tố quyết định sự phát triển của Việt Nam trong những năm tới. Điều
này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra chủ trương, chính sách và định
hướng chính sách phát triển của đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
164
Trước hết, chuyển từ tư duy phát triển kinh tế theo chiều rộng sang tư duy
phát triển theo chiều sâu, tư duy theo số lượng sang tư duy chất lượng, hiệu quả.
Từ đó, trong các chính sách phát triển phải tập trung vào các biện pháp nâng cao
chất lượng của sự phát triển. Đảm bảo chất lượng, hiệu quả là giải pháp quyết
định sự phát triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, chuyển từ tư duy và nhận thức ngắn hạn, cục bộ, nhiệm kỳ trong
phát triển kinh tế sang tư duy và nhận thức một cách tổng thể, dài hạn. Đảm bảo
lợi ích quốc gia, cộng đồng là cơ sở để phát triển bền vững. Khắc phục những tư
tưởng cục bộ địa phương, chạy theo lợi ích ngắn hạn trong quản lý và điều hành
nền kinh tế. Cách nhìn nhận này phải được quán triệt trong việc đề ra các chính
sách tăng trưởng, cơ chế quản lý môi trường và giải quyết các vấn đề xã hội. Tư
tưởng cục bộ, ngắn hạn, tâm lý chờ đợi, nặng về xử lý tình huống trong phát triển
và hội nhập là một trong những nguyên nhân làm trì trệ trong tư duy, do dự trong
hành động của các cấp lãnh đạo, các bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp. Tư
tưởng cục bộ, cơ hội, ngắn hạn sẽ dẫn đến việc níu kéo cơ chế bao cấp, bảo hộ là
lực cản đối với quá trình trình phát triển và hội nhập.
Thứ ba, cần có tư duy toàn cầu về phát triển kinh tế, chuyển từ tư duy quốc
gia sang tư duy toàn cầu. Kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO là một bộ
phận của nền kinh tế thế giới. Sự thay đổi tình hình thế giới sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến kinh tế Việt Nam. Những biến động của kinh tế Việt Nam cũng sẽ ảnh
hưởng đến kinh tế thế giới, được thế giới chú ý quan tâm. Tư duy toàn cầu đòi
hỏi việc lựa chọn cơ cấu kinh tế phải tính đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn
cầu, chuỗi giá trị toàn cầu, theo sự phân công lao động quốc tế. Do đó phải
thường xuyên theo dõi biến động thị trường thế giới, nghiên cứu dự báo tình hình
thị trường thế giới.
Thứ tư, chuyển từ tư duy hành chính, mệnh lệnh sang tư duy kinh tế - kỹ
thuật. Thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực, chẳng hạn như WTO, không chấp
nhận các biện pháp quản lý hành chính trong thương mại quốc tế. Mọi quy định
165
phải được luật hoá, thuế hoá, tiêu chuẩn hoá, phải “đo” được và được sự chấp
nhận quốc tế.
Thứ năm, đổi mới tư duy về quản lý nhà nước. Luật pháp trong nước phải
phù hợp với quy tắc quốc tế, theo thông lệ quốc tế. Điều hành tư pháp phải căn cứ
yếu tố quốc tế, nắm vững luật pháp quốc tế. Chuyển quản lý theo ngành dọc sang
quản lý theo chiều ngang, tăng cường tính liên kết, hợp tác, tăng cường cơ chế
phối hợp các bộ/ngành. Chú trọng quản lý liên ngành.
Thứ sáu, tư duy mới về một số khái niệm như an ninh, chủ quyền quốc gia,
độc lập tự chủ, bản sắc văn hoá dân tộc, cạnh tranh, hợp tác phải được nghiên
cứu, hiểu và là làm rõ trong điều kiện toàn cầu hoá... Chẳng hạn, trong bối cảnh
hội nhập sâu, độc lập tự chủ phải được hiểu là vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị
toàn cầu, là sức mạnh thu hút của quốc gia đó đối với phần còn lại của thế giới.
Như vậy, để có độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá, các quốc gia phải chủ
động hội nhập để tìm cho mình một vị thế nhất định trong nền kinh tế thế giới. Vị
thế này được đánh giá thông qua hình ảnh của đất nước, chất lượng và sức cạnh
tranh của hàng hóa nói chung và xuất khẩu nói riêng. Cách hiểu độc lập tự chủ về
kinh tế của ta hiện nay thiên về phòng thủ, đối phó, đóng cửa do đó dẫn đến tâm
lý chung (cả Chính phủ và doanh nghiệp) là do dự, chần chừ, lo sợ và do vậy
thường ở vào thế bị động.
Thứ bảy, nhận thức về việc phát huy nội lực và ngoại lực. Cách hiểu nội
lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên chúng ta
vẫn chưa nhận thức đúng về phát huy nội lực và ngoại lực. Coi hội nhập chỉ là cơ
hội, là yếu tố bên ngoài chứ không phải là động lực, là yếu tố quyết định quá
trình phát triển. Cách hiểu tách biệt “nội lực - ngoại lực” được nhấn mạnh trong
khi xem nhẹ sự kết hợp chúng thành một sức mạnh phát triển thống nhất dẫn tới
chỗ làm giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực, làm giảm sức thu hút đối với vốn
nước ngoài. Điều này thấy rất rõ ở sự tách biệt của khu vực kinh tế nhà nước và
khu vực tư nhân với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
166
3.3.1.2 Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa
Để tăng trưởng nhanh và bền vững kinh tế nói chung và xuất khẩu nói
riêng, giải pháp mang tính quyết định là nâng cao năng lực thể chế: năng lực
trong xây dựng khung khổ chính sách pháp luật, năng lực trong việc tổ chức và
điều hành kinh tế. Năng lực cạnh tranh quốc gia là yếu tố quyết định quá trình
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đảm bảo phát huy hiệu quả các nguồn lực. Một
số hướng quan trọng cần tập trung giải quyết trong thời gian tới là:
- Tiếp tục hoàn thiện một số chính sách vĩ mô nhằm tạo ra môi trường kinh
doanh bình đẳng, có hiệu quả, thúc đẩy cạnh tranh và tạo lòng tin để các doanh
nghiệp và nhân dân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất. Khuyến khích kinh tế tập
thể và tư nhân phát triển lâu dài. Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả sản xuất của doanh nghiệp nhà nước. Tích cực thu hút đầu tư nước ngoài.
- Hình thành đồng bộ các loại hình thị trường, các công cụ điều tiết thị
trường như cơ chế giá, thuế, tiều lương, tỷ giá... Sự đồng bộ của các loại trường,
đưa các yếu tố như giá, tiền lương, tỷ giá, thuế theo cơ chế thị trường sẽ hạn chế
được sự phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế, chẳng hạn như áp thuế chống
bán phá giá, phát huy tốt hơn các nguồn lực cho phát triển xuất khẩu.
- Duy trì sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô bằng cách hoàn thiện các
chính sách tài chính, cân đối ngân sách, ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, ngăn
chặn suy giảm kinh tế.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm từng bước hình thành nền hành
chính có hiệu lực, trong sạch, có đầy đủ năng lực đáp ứng nhu cầu của phát triển
bền vững. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực và đạo đức tốt.
167
3.3.1.3 Chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng là yêu cầu bức xúc hiện nay ở nước ta.
Nội dung chuyển đổi mô hình tăng trưởng là:
- Chuyển nền kinh tế từ tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng sang phát
triển chủ yếu theo chiều sâu trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các thành tựu khoa
học và công nghệ tiên tiến để tăng năng suất lao động và nâng cao sức cạnh tranh
của các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói
chung và hiệu quả của vốn đầu tư nói riêng.
- Chuyển nền kinh tế từ khai thác và sử dụng tài nguyên dưới dạng thô
sang chế biến tinh xảo hơn, nâng cao giá trị gia tăng từ mỗi một đơn vị tài nguyên
được khai thác. Chuyển dần sự tham gia thị trường quốc tế bằng những sản phẩm
thô sang dạng các sản phẩm chế biến tinh và dịch vụ. Chú trọng nâng cao hàm
lượng khoa học, công nghệ của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ.
- Triệt để tiết kiệm các nguồn lực trong phát triển, sử dụng có hiệu quả
nguồn tài nguyên khan hiếm và hạn chế tiêu dùng lấn vào phần của các thế hệ
mai sau.
3.3.1.4 Phát triển khoa học và công nghệ
Phát triển khoa học và công nghệ là một trọng những giải pháp quyết định
nâng cao chất lượng tăng trưởng xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu về phát triển bền
vững. Gia tăng hàm lượng khoa học và công nghệ trong sản phẩm là yếu tố quyết
định cạnh tranh trong thương mại quốc tế. Vì vậy, một số giải pháp cần thực hiện
trong thời gian tới là:
- Ưu tiên nhập khẩu công nghệ tiến tiến, công nghệ nguồn, nhập khẩu bằng
sáng chế phát minh về để ứng dụng, tăng cường hợp tác quốc tế để học hỏi kinh
nghiệm và phối hợp nghiên cứu triển khai.
- Xây dựng trung tâm công nghệ cao thu hút đầu tư nước ngoài của các
công ty đa quốc gia để từng bước rút ngắn khoảng cách về công nghệ với các
168
nước trong khu vực. Trước hết, cần tập trung đầu tư cho hai khu công nghệ cao ở
thành phố Hồ Chí Minh và Láng Hòa Lạc.
- Phát triển thị trường khoa học công nghệ nhằm tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tiếp cận và tăng tính thanh khoản các nguồn vốn đầu tư cho R&D,
đổi mới sản phẩm, đổi mới công nghệ.
- Thực hiện cơ chế khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành
phần kinh tế đầu tư phát triển khoa học, công nghệ, thành lập tổ chức R&D, tham
gia nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất và đời
sống; tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học,
công nghệ, cạnh tranh bình đẳng. Thực hiện cơ chế đánh giá thường kỳ hoạt động
khoa học, công nghệ và tổ chức khoa học, công nghệ.
3.3.1.5 Chính sách đối với các thành phần kinh tế
Chính sách khuyến khích xuất khẩu đối với các thành phần kinh tế cần
được tiếp tục chú trọng và tăng cường. Tiếp tục tạo thuận lợi cho các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài, tiếp sức cho các doanh nghiệp tư nhân, cải cách khu
vực kinh tế nhà nước. Cụ thể:
- Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính
chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Kinh nghiệm cải cách kinh tế ở các
nước trước đây có nền kinh tế tập trung cho thấy khó khăn lớn nhất trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế là đưa các doanh nghiệp nhà nước tham gia vào hệ
thống kinh doanh toàn cầu. Do đó, cần phải tiếp tục tăng cường cải cách, đổi mới
một cách toàn diện các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính tự chủ,
hiệu quả, và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước. Các giải pháp
lớn là cổ phần hoá, sáp nhập, bán, cho thuê.
- Khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân, nhất là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ phải được coi là nhiệm vụ lâu dài và then chốt để chuyển dịch
cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu. Theo hướng này các chính sách phải tạo điều
169
kiện thuận lợi cho việc thành lập doanh nghiệp, nới lỏng quy định về điều kiện
kinh doanh, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, trước hết là
trong lĩnh vực xác định giá cả, quảng cáo, quản lý nhân sự, quản lý tài chính tiền
lương, chế độ khuyến khích, thành lập chi nhánh và văn phòng đại diện. Xoá bỏ
các trở ngại hành chính quan liêu, tăng cường tính minh bạch. Mở rộng cạnh
tranh trong xây dựng và cung cấp các dịch vụ hạ tầng. Tạo điều kiện thuận lợi để
khu vực tư nhân dễ dàng tiếp cần các dịch vụ hỗ trợ như tín dụng, thông tin, tư
vấn.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh lâu dài
và hiệu quả ở nước ta. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố quan trọng nâng cao
năng lực công nghệ của nền kinh tế. Trước hết là hoàn thiện khung khổ pháp lý,
thuận lợi hóa các thủ tục đầu tư. Thứ hai là cải thiện kết cấu hạ tầng như giao
thông, cảng biển, hệ thống thông tin, cung cấp điện, ngân hàng,... Thứ ba là
chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng cao.
- Tăng cường khả năng liên kết ngành kinh tế, xây dựng các tập đoàn kinh
tế mạnh cũng là một giải pháp để nâng cao chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và xuất khẩu. Để nâng cao chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xuất
khẩu cần có chính sách khuyến khích phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh làm
trụ cột cho nền kinh tế đồng thời làm chỗ dựa cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh đó cần tạo dựng môi trường thuận lợi cho sự
liên kết ngành như cải thiện môi trường đầu tư, hạn chế độc quyền, cải cách chế
độ tín dụng, dỡ bỏ các rào cản hành chính đối với doanh nghiệp.
3.3.1.6 Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng cường
hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ
Một trong nhân tố có tính quyết định đối với sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nói chung và xuất khẩu nói riêng là phát triển nguồn nhân lực. Chính
sách phát triển nguồn nhân lực phải hướng tới hai mục đích. Một là, tạo ra đội
ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao để tiếp cận với nền công nghiệp hiện
170
đại. Hai là, để thực hiện mục tiêu của công nghiệp hoá là chuyển dịch mạnh hơn
nữa cơ cấu lao động từ lao động nông nghiệp năng suất thấp sang làm công
nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Đối với chiến lược công nghiệp
hoá hướng vào xuất khẩu thì chất lượng lao động càng có ý nghĩa to lớn hơn.
Chất lượng nguồn nhân lực sẽ quyết định chất lượng tăng trưởng xuất khẩu có
bền vững hay không. Một số giải pháp cần phải thực hiện trong thời gian tới là:
- Xây dựng chiến lược đào tạo dài hạn và đào tạo lại để có một lực lượng
lao động và cán bộ quản lý có trình độ cao thích ứng với đòi hỏi của hội nhập. Có
chính sách trọng dụng nhân tài, đãi ngộ hợp lý đối với người lao động, nhất là
những người có nhiều cống hiến cho đất nước.
- Nhà nước là nòng cốt, đồng thời phát huy mọi tiềm năng để đào tạo đồng
bộ nguồn nhân lực theo một cơ cấu tương quan hợp lý giữa đội ngũ cán bộ quản
lý, cán bộ kỹ thuật và thợ lành nghề; chú trọng đội ngũ cán bộ chuyên sâu, cán bộ
nghiên cứu khoa học đầu ngành để tiếp cận nền kinh tế tri thức phục vụ cho việc
phát triển có hiệu quả các ngành công nghiệp nặng, đặc biệt là công nghiệp công
nghệ cao.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại lực lượng cán bộ, công nhân kỹ
thuật. Nâng cao hợp tác giữa doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo, trường học để
phối hợp nhịp nhàng giữa khả năng đào tạo và nhu cầu nhân lực sản xuất, giảm
tình trạng thừa lao động giản đơn, thiếu lao động kỹ thuật. Nâng cao trình độ và
tính năng động của cán bộ các cấp, các ngành.
- Cải cách hệ thống tiền lương theo tiêu chí công bằng và theo năng lực,
chất lượng và hiệu quả làm việc; đồng thời, việc thiết lập một hệ thống bảo hiểm
xã hội, thất nghiệp với sự tham gia của nhiều người lao động (cả bắt buộc và tự
nguyện) và các thành tố khác của mạng lưới an sinh xã hội nhằm tạo động lực
khuyến khích người lao động gắn kết vớí công việc và giảm thiểu rủi ro là điều
tối quan trọng trong quá trình chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam .
171
3.3.1.7 Phát triển kết cấu hạ tầng
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, phát triển cơ sở hạ tầng là một trong những
điều kiện tiên quyết để đẩy phát triển kinh tế bền vững nói chung và xuất khẩu
bền vững nói riêng. Cơ sở hạ tầng tốt mới tận dụng được cơ hội của toàn cầu hóa
và tự do hoá thương mại. Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng sẽ hạn chế thu hút đầu tư,
làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kết quả là làm giảm năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế. Việt Nam đang đứng trước thách thức to lớn về
phát triển cơ sở hạ tầng. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như hiện nay, yếu
kém về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các độ thị lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội sẽ dẫn đến sự phát triển kinh tế không bền vững. Chính vì vậy, một trong
những ưu tiên trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững là thu hút
đầu tư trong và ngoài nước để cải thiện cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ: giao
thông, cung cấp điện, bến cảng, kho tàng, văn phòng… Các giải pháp nâng cấp
cơ sở hạ tầng là khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân và nước ngoài vào lĩnh
vực này.
3.3.1.8 Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
Cam kết quốc tế về thương mại thực chất là cam kết về phát triển thị
trường nhằm tạo môi trường cho cạnh tranh phát triển. Vì vậy, đẩy mạnh hội
nhập sẽ thúc đẩy cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Kinh nghiệm quốc tế cũng chứng tỏ một quốc gia càng có độ mở cao, hội nhập
sâu càng có điều kiện phát triển, càng có điều kiện để điều chỉnh cơ cấu phù hợp
với biến đổi của thị trường thế giới. Kinh nghiệm gia nhập WTO của Trung Quốc
và hai năm gia nhập WTO của Việt Nam chứng tỏ hội nhập là sự lựa chọn đúng,
tạo ra những thuận lợi để phát triển kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng. Một
số biện pháp cần thực hiện là:
- Thực hiện tốt các cam kết Việt Nam đã ký kết, nhất là các cam kết gia
nhập WTO và cam kết trong ASEAN Cộng. Tổ chức tham gia một các hiệu quả
vào các vòng đàm phán thương mại thế giới.
172
- Đổi mới cơ chế và tổ chức điều phối liên ngành trong việc đàm phán và
thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Trước hết là kiện toàn bộ máy của
Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế.
- Tăng cường năng lực và hoạt động của các cơ quan ngoại giao, thương vụ
để dự báo và xử lý các trường hợp biến cố đối với thị trường xuất khẩu. Đào tạo
đội ngũ cán bộ trong đàm phán vững vàng về chính trị, thành thạo nghiệp vụ, giỏi
ngoại ngữ.
3.3.2 Các giải pháp đảm bảo tăng trƣởng xuất khẩu cao và bền vững
3.3.2.1 Chính sách đầu tư và chuyển đổi cơ cấu xuất khẩu
Thứ nhất, tập trung đầu tư để chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo
hướng gia tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến dựa vào lợi thế lao động và
công nghệ để tăng lợi thế về quy mô, đồng thời nhanh chóng chuyển sang phát
triển các ngành sản xuất xuất khẩu dựa vào vốn và kỹ thuật cao để gia tăng giá
trị. Trong giai đoạn từ nay đến 2015 tập trung phát triển các ngành kinh tế sử
dụng nhiều lao động. Từng bước xây dựng nền tảng để phát triển những ngành
kinh tế dựa vào công nghệ cao và tri thức, đặc biệt chú trọng phát triển các ngành
dịch vụ như thông tin, tài chính, du lịch, giáo dục và đào tạo.
Thứ hai, từng bước giảm thiểu việc bảo hộ các ngành thay thế nhập khẩu
mà khuyến khích đầu tư vào các ngành định hướng xuất khẩu. Chính sách bảo hộ
nên được cân nhắc kỹ, tập trung theo một số ngành và chỉ bảo hộ trong thời gian
nhất định. Việc lựa chọn các ngành này phải dựa trên cơ sở phân tích liệu các
ngành này có tiềm năng trở thành ngành có hiệu quả và phát triển những lợi thế
so sánh năng động hay không (hay nói cách khác là dựa trên cơ sở ngành non
trẻ). Vấn đề quan trọng cần được lưu tâm là phải có các biện pháp chuyển đổi
một cách hiệu quả các nhân tố sản xuất (vốn, lao động, kỹ năng quản lý) từ các
ngành thay thế nhập khẩu sang khu vực xuất khẩu.
173
Thứ ba, thu hút đầu tư nước ngoài là một trong biện pháp để nâng cao hiệu
quả xuất khẩu và cải thiện năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu. Trong giai đoạn
Việt Nam cần nâng cao vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu, cần cân nhắc lựa chọn
các dự án đầu tư có thể thay đổi năng lực công nghệ của nền kinh tế, hạn chế các
dự án đầu tư có công nghệ lạc hậu. Vấn đề đặt ra là không phải tăng vốn đầu tư
đơn thuần mà công nghệ, kinh nghiệm quản lý phải được chuyển giao đến các
doanh nghiệp trong nước như một số nước, mà điển hình là Trung Quốc đã làm.
Nếu tăng FDI mà doanh nghiệp Việt Nam vẫn đứng ngoài hệ thống kinh doanh
toàn cầu (các TNC) thì lợi ích có được từ việc thu hút FDI rất hạn chế và về thực
chất là nền kinh tế chưa hội nhập đầy đủ. Từ trước đến nay chúng ta thu hút FDI
bằng các biện pháp khuyến khích, ưu đãi và dòng FDI chủ yếu tập trung vào các
ngành có lợi thế về lao động rẻ. Kinh nghiệm các nước cho thấy lợi ích thu được
từ việc thu hút FDI theo cách như vậy rất hạn chế đối với nước nhận đầu tư. Vấn
đề đặt ra là cải thiện môi trường kinh doanh, tạo dựng thị trường hấp dẫn cho các
doanh nghiệp FDI, cải cách doanh nghiệp trong nước theo hướng thích nghi với
cạnh tranh và hợp tác. Cần hạn chế thu hút các dự án đầu tư nước ngoài có công
nghẹ lạc hậu, sử dụng nhiều tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường.
Thứ tư, khuyến khích đầu tư trong nước phải hướng tới việc cơ cấu lại nền
kinh tế, phát triển những ngành có lợi thế cạnh tranh. Nghiên cứu khả năng cạnh
tranh của các ngành khác nhau theo mức giá thế giới (xét theo tiêu chí giá trị gia
tăng). Trên cơ sở đó xây dựng chiến lược phát triển những ngành có lợi thế cạnh
tranh. Hết sức cân nhắc trong việc lựa chọn các dự án đầu tư, nhất là đầu tư vào
những ngành không hiệu quả (tốn kém nhiều nguồn lực hơn để sản xuất ra một
sản phẩm cụ thể so với chi phí nhập khẩu sản phẩm tương tự). Đánh giá lại các
ngành hiện nay đang sản xuất với chi phí cao hơn giá thế giới và đặt ra những vấn
đề về tái cơ cấu, trước hết cần rà soát lại các ngành tập trung nhiều vốn. Tập
trung phát triển những ngành hàng, mặt hàng trong nước trong nước có sẵn
nguyên liệu lâu nay không hoặc ít đầu tư trong khi nhu cầu trong nuớc rất lớn.
174
3.3.2.2 Hoàn thiện chính sách thương mại theo hướng thuận lợi hóa
cho xuất khẩu
Chính sách thương mại nên được thực hiện theo hướng đa phương hoá và
đa dạng hoá các quan hệ kinh tế, thương mại. Những hướng chính đề điều chỉnh
chính sách thương mại là giảm bảo hộ đối với những ngành kém hiệu quả để từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành, khắc phục tình trạng thiên lệch
bất lợi cho xuất khẩu, áp dụng hiệu quả các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ
xuất khẩu, nới lỏng các quy định về hải quan, tăng cường công tác xúc tiến
thương mại. Trong thời gian tới, cải cách chính sách thương mại cần được tập
trung theo các hướng sau đây:
- Chính sách quản lý thương mại nhất là chính sách thuế phải được minh
bạch hoá, có khả năng dự đoán hơn, bao gồm cả các biện pháp cải tiến sự phối
hợp giữa các cơ quan liên quan đến hoạch định và triển khai chính sách thương
mại. Chính phủ nên công bố, phổ biến thông tin kinh tế, thương mại đầu tư và
thông báo cho các nước thành viên cũng như các doanh nghiệp trong nước về hệ
thống luật pháp, chính sách kinh tế, thương mại của Việt Nam và các nước đối
tác.
- Giảm bảo hộ có hiệu lực cho sản xuất trong nước để khắc phục tình trạng
thiên lệch bất lợi cho xuất khẩu. Từng bước đơn giản hoá hệ thống thuế quan;
thuế quan hóa các biện pháp phi thuế quan, đặc biệt là những biện pháp cấm nhập
bất cập và quota thuần túy chỉ mang tính chất bảo hộ.
- Đơn giản hoá thủ tục hải quan, thực hiện các hiệp định quốc tế về hải
quan. Thực thi Hiệp định về trị giá tính thuế hải quan. Ban hành nghị định về
xuất xứ hàng hóa. Tăng cường bảo hộ nhập khẩu hàng hóa theo tiêu chuẩn và kỹ
thuật (được WTO thừa nhận) nhằm hạn chế máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu có
tác động không nhỏ đến hiệu quả vay nợ nước ngoài và tính cạnh tranh ngành và
sản phẩm hàng hóa Việt Nam.
175
- Từng bước giảm bớt sự hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp
thương mại nhà nước và các DNNN khác. Điều này có thể thực hiện bằng cách
đẩy nhanh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tham gia hoạt động xuất nhập
khẩu. Kinh nghiệm khuyến khích xuất khẩu ở châu Á cho thấy cần phải khuyến
khích phát triển tất cả mọi ngành xuất khẩu có lợi thế so sánh chứ không nên lựa
chọn một số ngành nào đó (được coi là chiến lược và then chốt);
- Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu thông qua việc ưu đãi thuế, tín
dụng, lãi suất, trợ cấp cần được tăng cường và thực hiện hiệu quả hơn, cụ thể là
hỗ trợ yếu tố đầu vào sản phẩm, đầu ra sản phẩm và khuyến khích phát triển thể
chế (các khu chế xuất, các khu trung tâm thương mại và các dự án đầu tư vào hạ
tầng). Các biện pháp này có khả năng thành công hơn nếu thực hiện dưới dạng
can thiệp ngầm (hơn là trực tiếp), để giảm thiểu nguy cơ của những hành động trả
đũa, như các khoản thuế quan đối trọng lại về phía các nước nhập khẩu;
3.3.2.3 Chính sách tài chính hỗ trợ xuất khẩu
- Cải cách hệ thống tài chính để theo kịp đà phát triển của nền kinh tế: từ
kinh nghiệm về hệ thống tài chính các nước Đông Á, Việt Nam cần quản lý chặt
chẽ hệ thống tài chính, xác lập quan hệ trên cơ sở đánh giá đúng nội dung kinh
doanh của doanh nghiệp. Thẩm định kỹ càng các dự án, tránh cho vay bừa bãi, ít
tính toán hoặc không tính toán được dẫn đến rủi ro; đồng thời thẩm định chính
xác, nắm được tình hình doanh nghiệp sẽ tránh được tình trạng ngân hàng có vốn
nhưng sợ rủi ro nên không cho vay, doanh nghiệp có dự án và thời cơ nhưng
không được vay kịp thời để tiến hành sản xuất - kinh doanh làm giảm hiệu quả
đồng vốn.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu bằng cách cung cấp cho họ khả năng
tiếp cận tín dụng chính thức, cả tín dụng đầu tư lẫn tín dụng vốn lưu động. Theo
kinh nghiệm Đông Á, thì ở giai đoạn cất cánh của công nghiệp hoá nhờ xuất
khẩu, sự sẵn sàng cung cấp vốn lưu động có tính quyết định thành công của xuất
khẩu. Việc khó khăn trong tiếp cận thị trường tín dụng chính thức dẫn đến các
176
nhà xuất khẩu tư nhân nhỏ thường phải chuyển sang thị trường tài chính phi
chính phủ nhiều rủi ro và mạo hiểm.
- Hoàn thiện chính sách ưu đãi tín dụng đối với hoạt động xuất khẩu. Hỗ
trợ tài chính có điều kiện và có thời hạn với các doanh nghiệp có khả năng cạnh
tranh và xuất khẩu thông qua việc phát triển phong phú các hình thức tín dụng
xuất khẩu trước và sau khi giao hàng.
- Thực hiện cơ chế giám sát hoạt động tài chính của các DNNN để đảm
bảo tình trạng tài chính lành mạnh, hạn chế tối đa việc phát sinh nợ xấu. Từng
bước xây dựng, phát triển và đa dạng hoá thị trường vốn. Việt Nam nên xây dựng
và phát triển hơn nữa thị trường vốn bằng cách thành lập, khuyến khích và hỗ trợ
thành lập các tổ chức và kinh doanh vốn dài hạn như công ty đầu tư, quỹ đầu tư,
quỹ bảo hiểm rủi ro, ngân hàng bảo lãnh, ngân hàng cầm cố, các quỹ hưu trí, quỹ
tương hỗ.
- Sử dụng linh hoạt chính sách tỷ giá hối đoái để khuyến khích xuất khẩu.
Cần nghiên cứu tính toán phương án giảm giá đồng tiền Việt Nam để kích thích
xuất khẩu trong điều kiện đã ngăn chặn được lạm phát.
3.3.2.4 Tận dụng cơ hội của hội nhập để đẩy mạnh xuất khẩu
Cam kết quốc tế về thương mại thực chất là cam kết về phát triển thị
trường nhằm tạo môi trường cho cạnh tranh phát triển. Vì vậy, đẩy mạnh hội
nhập sẽ thúc đẩy cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Kinh nghiệm quốc tế cũng chứng tỏ một quốc gia càng có độ mở cao, hội nhập
sâu càng có điều kiện phát triển, càng có điều kiện để điều chỉnh cơ cấu phù hợp
với biến đổi của thị trường thế giới. Một số hướng chủ yếu:
- Tranh thủ cơ hội do mở cửa thị trường để tận dụng tối đa lợi thế so sánh
truyền thống nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế về tài
nguyên và lao động rẻ. Nâng cao năng suất và chất lượng hàng nông sản xuất
khẩu như thủy sản, gạo, cà phê, điều, chè, rau quả, cao su. Đầu tư mở rộng sản
177
xuất và đổi mới công nghệ để khai thác lợi thế nhờ quy mô đối với các mặt hàng
sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, điện tử,... Phát triển thị trường mới,
ký kết các FTA. Đa dạng hóa mặt hàng và chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu.
- Tận dụng cơ hội của việc gia nhập WTO để tạo ra lợi thế cạnh tranh mới
đối với hàng xuất khẩu. Tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trong
nước và ngoài nước là giải pháp có tính quyết định trong việc phát triển xuất
khẩu sau khi gia nhập WTO. Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, phát
triển khu vực tư nhân. Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Hoàn thiện
hệ thống thể chế hỗ trợ thị trường.
- Chuẩn bị đối phó với các vấn đề tranh chấp thương mại, trước hết là việc
áp thuế chống bán phá giá của các nước đối với hàng xuất khẩu Việt Nam. Để đối
phó và giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp, về phía nhà nước, cần thực hiện
một số giải pháp như cung cấp thông tin, hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp về cách
phòng tránh và xử lý các vụ kiện bán phá giá, nâng cao năng lực chuyên môn của
các cơ quan tư vấn, điều trần và xử lý các các vụ tranh chấp thương mại, trước
hết là các cơ quan quản lý canh tranh, thành lập các cơ quan nghiên cứu sâu và cụ
thể hơn về các tranh chấp thương mại và các phương án xử lý để tư vấn cho các
doanh nghiệp khi bị kiện, hoặc muốn khởi kiện, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường để minh bạch hoá, công khai hoá hoạt động của doanh nghiệp, để các chi
phí sản xuất phản ánh đúng chi phí thị trường, không làm bóp méo thương mại.
- Tính tới các phương án khai mở thị trường bên ngoài ngay sau khi gia
nhập WTO. Nghiên cứu xác định ngay các đối tác có thể sớm đàm phán, ký kết
Hiệp định tự do song phương: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc...;
Nghiên cứu phương án tận dụng những lợi thế của AFTA, Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN- Trung Quốc; Nghiên cứu khả năng hình thành Cộng đồng kinh tế
Đông Á và sự đóng góp tham gia của Việt Nam.
178
- Áp dụng có hiệu quả các biện pháp trợ cấp phù hợp với quy định của
WTO. Nghiên cứu của Bộ Thương mại trong khuôn khổ dự án “Việt Nam trong
WTO: Những xu hướng tương lai về các chính sách trợ cấp” trong lĩnh vực công
nghiệp và nông nghiệp Việt Nam cho thấy cam kết bãi bỏ một số hình thức trợ
cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh xuất
khẩu một số mặt hàng. Với tư cách là nước đang phát triển, Việt Nam được áp
dụng một số loại trợ cấp thuộc “ Hộp xanh lục” và “Hộp đỏ”. Đó là các loại trợ
cấp liên quan đến hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng, đào
tạo nguồn nhân lực...
2.3.2.5. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, tăng cường
công tác thu thập và phổ biến thông tin cũng như công tác dự báo để định hướng
cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu. Nghiên cứu thành lập Quỹ xúc tiến thương
mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong
các hoạt động hội chợ, trưng bày, triển lãm... Thực hiện hiệu quả Chương trình
xúc tiến xuất khẩu trọng điểm để đẩy mạnh tiểu thụ nông sản hàng hoá cho dân,
từ điều tra, quy hoạch đến tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Củng cố tổ chức và
vai trò các cơ quan đại diện ngoại giao, ngoại thương của ta ở nước ngoài tham
gia các hoạt động môi giới, trợ giúp tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế...
3.3.3 Các giải pháp giải quyết hài hoà giữa tăng trƣởng xuất khẩu và bảo
vệ môi trƣờng
- Nâng cao nhận thức về môi trường đối với các cơ quan quản lý và doanh
nghiệp. Cần trang bị kiến thức về quản lý môi trường và nâng cao nhận thức về
tầm quan trọng của công tác BVMT trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền
vững cho các nhà hoạch định chính sách và doanh nghiệp. Điều này phải được
kiểm định trong việc đưa ra và thực hiện các chính sách phát triển xuất khẩu,
chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Các biện pháp là mở các
179
khóa đào tạo về môi trường và phát triển bền vững, tăng cường công tác thông
tin.
- Bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường ngay từ khâu xây dựng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án đầu tư. Kiên quyết không cho phép đưa vào
xây dựng, vận hành, khai thác các cơ sở chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về bảo
vệ môi trường. Trước hết, là điều chỉnh chiến lược phát triển xuất khẩu có tính
đến các yếu tố môi trường. Cần phân tích một cách khoa học giữa mục tiêu tăng
trưởng xuất khẩu và những thiệt hại môi trường do việc tăng cường xuất khẩu
gây ra. Điều này còn thiếu vắng trong chiến lược xuất khẩu hiện nay.
- Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các quy trình và công nghệ sản xuất thân
thiện môi trường. Thúc đẩy phát triển công nghệ, nhất là công nghệ thân thiện
môi trường. Có chính sách ưu đãi đối với nhập khẩu các máy móc thiết bị và
công nghệ hiện đại, các công nghệ sạch, ít gây ô nhiễm môi trường và đặc biệt là
các công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu các quy trình sản xuất thân
thiện môi trường và đưa vào áp dụng tại các doanh nghiệp như quy trình rau an
toàn, thịt an toàn, nuôi trông thủy sản an toàn... Bên cạnh đó cần hỗ trợ doanh
nghiệp có được các chứng chỉ môi trường đối với hàng hóa xuất khẩu như thành
lập các trung tâm kiểm định, tư vấn kỹ thuật, hỗ trợ tài chính để có được chứng
nhận môi trường từ các quỹ như quỹ môi trường, quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Nhà nước
cần tăng cường hơn nữa hỗ trợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nơi đang
gặp nhiều khóa khăn trong công tác BVMT. Trước hết, là hỗ trợ về thông tin; hỗ
trợ kỹ thuật, chẳng hạn như hỗ trợ xây dựng chiến lược kinh doanh thân thiện
môi trường; tạo ra sự sẵn có của các nguồn nguyên liệu đầu vào; tăng cường sự
hợp tác giữa các doanh nghiệp DNVVN với các doanh nghiệp khác có kinh
nghiệm trong việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường, hỗ trợ doanh
nghiệp áp dụng mô hình quản lý môi trường tiên tiến như ISO 14000, HACCP...
- Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia theo hướng phù hợp với tiêu chuẩn quốc
tế. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
180
việc thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu môi trường
trong nước cũng như nâng cao sức cạnh tranh, uy tín doanh nghiệp khi tham gia
hội nhập quốc tế. Một hệ thống tiêu chuẩn môi trường được xây dựng trên cơ sở
khoa học, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, tính đến điều kiện đặc thù của các
doanh nghiệp trong nước sẽ là công cụ hữu hiệu để quản lý môi trường, khuyến
khích các doanh nghiệp áp dụng để hoạt động kinh doanh có hiệu quả và bảo vệ
môi trường. Trước hết là các quy định tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thứ hai là các tiêu chuẩn về quy trình sản xuất thên thiện môi trường (PPM). Thứ
ba là các quy định và tiêu chuẩn về bao bì, đóng gói, nhãn môi trường và nhãn
sinh thái...
- Hoàn thiện một số chính sách môi trường và xuất khẩu: Nghiên cứu và
bổ sung vào danh mục các mặt hàng hạn chế hoặc cấm xuất khẩu những hàng hóa
nguy hiểm đối với môi trường, chi tiết hoá danh mục các mặt hàng này. Sửa đổi,
bổ sung các sắc thuế và biểu thuế xuất khẩu nhằm khuyến khích xuất khẩu đồng
thời hạn chế khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên. Chính sách miễn giảm
thuế xuất khẩu và nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất để xuất khẩu cần được
cân nhắc kỹ lưỡng để hạn chế việc lạm dụng gây hậu quả đối với môi trường.
Trong điều kiện nước ta đang có lợi thế về các mặt hàng có nguồn gốc đa dạng
sinh học, chính sách khuyến khích không hợp lý sẽ dẫn đến khai thác quá mức tài
nguyên.
- Áp dụng các nguyên tắc, công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động BVMT: Áp dụng rộng rãi nguyên
tắc "người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường thì phải bồi hoàn". Xây
dựng tiêu chí phát triển bền vững về môi trường. Hoàn thiện và xây dựng các hệ
thống tiêu chuẩn môi trường quốc gia, ngành phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Khuyến khích các ngành xuất khẩu gây ô nhiễm thành lập quỹ bảo vệ môi
trường, góp phần giảm tác động môi trường của quá trình hội nhập và phát triển
kinh tế, đồng thời hỗ trợ những dự án đầu tư xử lý ô nhiễm và bảo đảm những
181
yêu cầu quốc tế về bảo vệ môi trường. Áp dụng rộng rãi các công cụ kinh tế trong
quản lý môi trường và phát triển bền vững. Tăng cường công tác quản lý môi
trường, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm về BVMT. Tăng
cường cơ chế chia sẻ thông tin về các vấn đề môi trường tới các đối tượng có liên
quan đến hoạt động xuất khẩu như cơ quan quản lý, nhà sản xuất, nhà xuất khẩu
và cộng đồng địa phương.
- Khuyến khích sự tham gia của của cộng đồng vào công tác bảo vệ môi
trường, tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường. Xã hội hóa công tác
BVMT. Có chính sách hỗ trợ đối với cộng đồng nơi có đặc tính đa dạng sinh học
cao để họ vừa khai thác vừa bảo tồn và phát triển chúng. Tranh thủ sự hỗ trợ kỹ
thuật quốc tế trong việc xây dựng và áp dụng các mô hình sản xuất thân thiện môi
trường.
- Cần có chính sách hỗ trợ và kiểm soát đặc biệt đối với một số ngành mà
việc phát triển có tác động trực tiếp đến môi trường như nông nghiệp, khai thác
và xuất khẩu thuỷ hải sản, lâm sản, khoáng sản...
3.3.4 Các giải pháp đảm bảo hài hoà giữa tăng trƣởng xuất khẩu và
giải quyết các vấn đề xã hội
Để hạn chế những tác động xã hội của phát triển xuất khẩu cần tập trung
vào giải quyết một số vấn đề sau đây:
- Xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích bình đẳng trong thương mại. Trước hết là
cơ chế chia sẻ lợi ích trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên. Cần thiết phải
điều chỉnh thuế đối với một số tài nguyên như đất, rừng, khoáng sản. Chẳng hạn,
thuế đối với đất rừng ngập mặn để nuôi tôm phải cao hơn đất canh tác nông
nghiệp. Khắc phục tình trạng độc quyền trong sản xuất và độc quyền trong phân
phối để hạn chế các nhà đầu cơ trục lợi gây thiệt hại cho người sản xuất.
- Thiết lập hệ thống an sinh xã hội rộng khắp để giải quyết các vấn đề liên
quan đến bất bình đẳng thu nhập, mất việc làm, phá sản, rủi ro thương mại. Có
182
chính sách hỗ trợ đặc biệt đối với dân cư các vùng sâu, vùng xa và những đối
tượng chính sách. Giải quyết vấn đề mất việc làm và thay đổi ngành nghề của
người lao động. Hình thành mạng lưới an ninh xã hội nhằm giải quyết các nhu
cầu của những người không có khả năng tự lo cho mình và có các chương trình
đầu tư xã hội để giúp mọi người được đào tạo những kỹ năng cần phải có trong
một nền kinh tế hiện đại. Nhà nước cần sử dụng vai trò điều tiết phân phối lại thu
nhập xã hội để hỗ trợ những người bị thất nghiệp (Quỹ bảo hiểm xã hội, Quỹ trợ
cấp thất nghiệp….) và có chính sách tái đào tạo nghề nghiệp giúp người lao động
bị mất việc có thể chuyển sang nghề khác.
- Hỗ trợ các ngành hàng xuất khẩu thu hút nhiều lao động như thủy sản,
nông sản, dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ trong trường hợp có biến
động xấu hạn chế xuất khẩu để tránh người nông dân và người lao động mất thu
nhập, việc làm. Trường hợp Chính phủ hỗ trợ tài chính cho những người nuôi cá
tra là một chính sách đúng cần duy trì và áp dụng rộng rãi. Kinh nghiệm quốc tế
cho thấy, nông nghiệp là lĩnh vực bị tác động nhiều nhất trong điều kiện hội nhập
và phát triển kinh tế thị trường, nhất là sau khi gia nhập WTO. Vấn đề này lại
càng quan trọng đối với những nước như Việt Nam với trên 2/3 dân số là nông
dân. Sự bất ổn định của thị trường nông sản thế giới, các rào cản kỹ thuật, môi
trường, chính sách bảo hộ của các nước phát triển, trình độ kỹ thuật nông nghiệp
thấp là những áp lực đối với lĩnh vực nước ta sau khi gia nhập. Chính vì vậy,
Chính phủ phải có chính sách hỗ trợ nông dân. Trước hết, là áp dụng các biện
pháp trợ cấp mà WTO không cấm để hỗ trợ phát triển nông nghiệp như kỹ thuật,
đào tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng. Có chính sách ưu tiên cho phát triển nông
nghiệp và nông thôn, đặc biệt là nông thôn vùng sâu, vùng xa như tăng đầu tư từ
ngân sách cho nông nghiệp, giảm đóng góp cho nông dân, đầu tư xây dựng hệ
thống an sinh xã hội ở nông thôn. Cần nhận thức rằng giải quyết vấn đề nông
nghiệp và nông thôn có vai trò hết sức quan trọng trong việc ổn định chính trị -
xã hội, an ninh kinh tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các nước càng phát triển
thì trợ cấp cho nông nghiệp càng nhiều.
183
- Áp dụng các biện pháp để cải thiện môi trường cho người lao động, vừa
đáp ứng yêu cầu của nhà nhập khẩu nhất là trong các ngành dệt may, da giày (áp
dụng tiêu chuẩn SA 8000). Bên cạnh đó cần phát huy vai trò của các tổ chức
công đoàn trong đấu tranh vì lợi ích của người lao động, nhất là trong các doanh
nghiệp có vốn FDI.
- Tăng cường công tác dự báo thị trường để hạn chế tối đa thiệt hại đối với
người sản xuất. Trường hợp hạn chế xuất khẩu gạo trong năm 2008 do khả năng
dự báo hạn chế đã gây thiệt hại to lớn đối với người trồng lúa.
*
* *
Để thực hiện được các giải pháp nói trên, trước hết cần nâng cao nhận thức
của các cấp lãnh đạo và doanh nghiệp về PTBV; có chính sách phân bổ nguồn
lực một cách hợp lý; xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ cả về kinh tế, môi
trường, xã hội, nâng cao tính chất liên ngành trong các chính sách PTBV; tăng
cường sự phối hợp giữa các bộ ngành trong việc đề xuất, xây dựng và thực thi
chính sách; tăng cường sự kiểm soát, giám sát việc thực thi chính sách PTBV.
Để gắn kết các yếu tố phát triển XKBV cần xây dựng và triển khai đồng bộ
một số cơ chế. Một cơ chế thích hợp để đảm bảo phát triển xuất khẩu bền vững
cần được xây dựng trên cơ sở 1) hài hòa lợi ích của các nhóm xã hội 2) ưu tiên
cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa và
từng bước cải thiện chất lượng môi trường và các vấn đề xã hội và 3) thực hiện
nguyên tắc dân chủ trong việc đưa ra các chủ trương phát triển xuất khẩu, thực thi
chính sách phát triển xuất khẩu và giám sát hoạt động xuất khẩu theo hướng bền
vững. Một số kiến nghị của tác giả luận án cho vấn đề này là:
- Lựa chọn một mô hình tăng trưởng xuất khẩu hợp lý dựa trên việc kết
hợp hài hòa các mục tiêu tăng trưởng, môi trường và xã hội. Đó là mô hình xuất
khẩu dựa trên cơ sở khai thác các lợi thế cạnh tranh thông qua việc hoàn thiện thể
184
chế kinh tế thị trường, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, chất lượng lao động và dành
ưu tiên cho phát triển khoa học, công nghệ. Cơ cấu xuất khẩu được lựa chọn ở
đây là tăng tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo dựa vào công nghệ và chất lượng lao
động cao. Quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu này phải trải qua nhiều giai
đoạn, trong mỗi giai đoạn dành ưu tiên nhất định cho các mục tiêu PTBV, phải
chấp nhận sự đánh đổi giữa các mục tiêu.
- Thiết lập cơ chế cho việc lồng ghép các vấn đề môi trường, xã hội vào
các chính sách phát triển kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng, đưa các vấn đề
này vào trong giai đoạn đầu của các chiến lược, quy hoạch , dự án… Cơ chế này
phải khuyến khích sự tham gia của các tầng lớp xã hội như giới nghiên cứu,
doanh nghiệp, người dân. Những dự án lớn, có ảnh hưởng đến môi trường, xã
hội, văn hóa như án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên cần phải được sự đồng thuận
của toàn xã hội.
- Thiết lập cơ chế để tăng cường sự phối hợp của các bộ ngành, địa phương
trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến PTBV.
Các bộ/ngành kinh tế phải thực sự quan tâm đến các vấn đề xã hội và môi trường
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch của mình. Các bộ như tài Nguyên và
Môi trường, Lao động, Thương binh và Xã hội cần phối hợp chặt chẽ với các
bộ/ngành kinh tế để điều chỉnh chính sách kịp thời theo hướng PTBV.
- Thiết lập một cơ chế kiểm tra, giám sát liên ngành trong việc thực hiện
các mục tiêu PTBV, đặc biệt là việc chấp hành các quy định về BVMT, chia sẻ
lợi ích từ xuất khẩu.
185
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Phát triển xuất khẩu bền vững là một yêu cầu bức thiết đối với nước ta
trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế. Đảm bảo xuất khẩu bền vững sẽ có những đóng góp vào định hướng phát triển
kinh tế nhanh và bền vững của Việt Nam trong giai đoạn tới. Đây cũng chính là
chủ đề của Đề tài luận án tiến sỹ kinh tế của nghiên cứu sinh với mục đích làm rõ
cơ sở lý luận của xuất khẩu bền vững, đánh giá thực trạng xuất khẩu bền vững
của Việt Nam theo các tiêu chí PTBV, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp
định hướng chính sách phát triển xuất khẩu bền vững ở Việt Nam trong những
năm tới.
Từ nghiên cứu này, tác giả luận án đưa ra một số kết luận như sau:
1. Phát triển bền vững nền kinh tế đòi hỏi phát triển bền vững tất cả các
lĩnh vực, trong đó phát triển xuất khẩu bền vững là một trong những lĩnh vực cấu
thành sự bền vững đó. Đối với những nước công nghiệp hóa định hướng xuất
khẩu, phát triển XKBV đóng vai trò to lớn để thực hiện mục tiêu PTBV.
2. Đảm bảo xuất khẩu bền vững cần phải duy trì nhịp độ tăng trưởng xuất
khẩu cao và ổn định, chất lượng xuất khẩu ngày càng được nâng cao và đáp ứng
yêu cầu về sự hài hòa giữa các mặt của sự phát triển: kinh tế, xã hội, môi trường.
Tuy nhiên, trong những giai đoạn phát triển nhất định, việc kết hợp hài hòa giữa
chất lượng tăng trưởng xuất khẩu và các mục tiêu ổn định kinh tế, xã hội và môi
trường có những đặc thù riêng, trong nhiều trường hợp phải đánh đổi giữa các
mục tiêu, đặc biệt là về môi trường. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa,
tăng trưởng xuất khẩu đi liền với khai thác tài nguyên và nảy sinh các vấn đề xã
hội. Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng xuất khẩu bền vững phải hướng tới việc hạn
chế những tác động về mặt môi trường và xã hội, tức là chuyển đổi mô hình tăng
trưởng từ khai thác các yếu tố sẵn có sang khai thác lợi thế cạnh tranh.
3. Xuất khẩu bền vững phụ thuộc vào một số nhân tố chủ yếu như tự do
hóa thương mại, chính sách phát triển xuất khẩu của quốc gia, năng lực cạnh
186
tranh của doanh nghiệp, chất lượng của nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng, trình độ
công nghệ, môi trường văn hóa, chính trị... Thể chế cũng là yếu tố quan trọng của
XKBV. Thất bại của các nước về đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và
BVMT, công bằng xã hội có nguyên nhân sâu xa từ chất lượng thể chế. Đẩy
mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những điều kiện quan trọng để phát
triển XKBV. Nền kinh tế hội nhập, xét về dài hạn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững hơn nền kinh tế đóng và bao cấp. Kinh nghiệm quốc tế cho
thấy, chạy theo thành tích tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu có thể dẫn đến sự hủy
hoại môi trường và bất ổn về xã hội. Việt Nam cần rút ra những bài học để tránh
lặp lại những sai lầm mà các nước khác đã gặp phải.
4. Tính bền vững của xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 1995-2008
chưa thật rõ nét. Mặc dù xuất khẩu trong giai đoạn này đã có những đóng góp
đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết một số vấn đề xã hội và môi trường.
Đóng góp lớn nhất là duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, trở thành động lực chủ
yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao
động, đặc biệt là lao động nông nghiệp. Tuy nhiên, phân tích của tác giả luận án
chỉ ra rằng phát triển xuất khẩu của nước ta trong những năm qua chưa thật bền
vững. Chất lượng tăng trưởng chưa thật sự vững chắc do chậm chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu xuất khẩu như
hiện nay đang chứa đựng những nguy cơ gây mất ổn định khi thị trường thế giới
biến động bất thường. Phát triển xuất khẩu của Việt Nam còn thâm dụng nhiều tài
nguyên thiên nhiên và suy thoái môi trường. Nảy sinh một số vấn đề xã hội phức
tạp cần giải quyết như chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm xã hội tham gia
xuất khẩu, chia sẻ lợi ích chưa hợp lý giữa những người tham gia xuất khẩu.
Nguyên nhân chính của sự thiếu bền vững này là do Việt Nam chậm thay đổi mô
hình tăng trưởng, chạy theo lợi ích ngắn hạn và cục bộ, yếu kém về thể chế kinh
tế, chính trị, trình độ công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực.
187
5. Việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đang là thách thức đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam, những nước đang ở giai đoạn đầu của
công nghiệp hóa, phát triển kinh tế dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và
nguồn lao động rẻ, những nước đang đối mặt với các vấn đề như đói nghèo và
việc làm. Bên cạnh đó, bối cảnh quốc tế đang có những diễn biến phức tạp, khó
lường, áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt. Càng hội nhập sâu, áp lực đối với
XKBV càng lớn. Nếu không có những giải pháp giải quyết các vấn đề nội tại
hiện nay của nền kinh tế như thể chế kinh tế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và tư
duy về phát triển bền vững thì việc đạt được mục tiêu phát triển kinh tế nhanh và
bền vững sẽ rất khó khăn.
6. Phát triển xuất khẩu bền vững ở Việt Nam trong những năm tới là đòi
hỏi cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nước. Để phát triển xuất khẩu bền vững,
trước hết cần đổi mới tư duy về phát triển bền vững; nhanh chóng chuyển đổi mô
hình tăng trưởng sang khai thác các yếu tố lợi thế cạnh tranh trên cơ sở sử dụng
nguồn nhân lực có chất lượng, công nghệ hiện đại và đẩy mạnh cải cách thể chế
kinh tế; hạn chế khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường,
nhất là trong xuất khẩu khoáng sản, thủy sản, nông sản, dệt may, da giày; Nhà
nước cần có các biện pháp để hạn chế rủi ro cho các nhà xuất khẩu như bảo hiểm
xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu và cơ chế chia sẻ lợi ích hợp lý giữa các nhóm xã
hội liên quan đến xuất khẩu.
7. Trong khuôn khổ một luận án tiến sỹ kinh tế, nghiên cứu sinh đã cố
gắng xây dựng khung khổ lý thuyết về xuất khẩu bền vững và đánh giá xuất khẩu
ở Việt Nam theo các tiêu chí phát triển bền vững. Đề tài luận án là một chủ đề
tương đối rộng và phức tạp. Chẳng hạn, các nội dung bền vững về môi trường và
bền vững về xã hội của XKBV cần được phân tích sâu sắc hơn. Qua nghiên cứu
này, tác giả luận án kiến nghị tiếp tục nghiên cứu các nội dung của xuất khẩu bền
vững và áp dụng mô hình xuất khẩu bền vững để nghiên cứu các nhóm hàng xuất
khẩu và lĩnh vực kinh tế khác.
188
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Hồ Trung Thanh (2009), Tác động tự do hóa thương mại đến nghèo đói và
môi trường ở Việt Nam, Tạp chí Thương mại, Số 22/2009, tr.12 và số
23/2009, tr.13-14.
2. Hồ Trung Thanh (2009), Xuất khẩu và công tác điều hành xuất khẩu năm
2008 - Thực trạng và những vấn đề đặt ra, Tạp chí quản lý Nhà nước, số 156,
tháng 1/2009, tr. 17-22.
3. Hồ Trung Thanh (2007), Rào cản môi trường trong thương mại quốc tế đối
với một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, Tạp chí bảo vệ môi trường, Số
4/2007, tr. 28-31.
4. Hồ Trung Thanh (2006), Phát triển thương mại và những vấn đề môi trường
sinh thái ở nước ta hiện nay, Tạp chí quản lý Nhà nước, Số 131, tháng
12/2006, tr. 33-38.
5. Hồ Trung Thanh (2005), Tác động của việc hình thành Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN - Trung Quốc đối với các vấn đề thương mại - môi trường của Việt
Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế “Quan hệ ASEAN - Trung Quốc với
phát triển thị trường và thương mại Việt Nam”, Đại học Thương mại, Hà Nội,
tháng 10/2005, tr.377-383.
189
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN (2004), Nghị quyết số 41-NQ/TW
ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, http://222.255.31.179: 8080/tiengviet/
tulieuvankien/vankiendang.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2009), Tác động hội nhập đối với nền kinh tế
sau hai năm Việt Nam gia nhập WTO, Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình
Chính phủ, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Kinh nghiệm xây dựng và thực hiện
chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững của Trung Quốc,
www.mpi.gov.vn.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006) Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam
và một số nước Đông Á, Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia,
www.mpi.gov.vn.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, Cơ
quan phát triển quốc tế Đan Mạch, Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển
(2006), Đại cương về phát triển bền vững, Dự án VIE/01/021, Viện nghiên cứu
sư phạm, Hà Nội.
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2005), Kế hoạch hành động
về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật của Việt Nam, Hà Nội.
7. Bộ Tài Nguyên và Môi trường (2003), Chiến lược bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”, www.monre.gov.vn.
8. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2004), Chiến lược bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
9. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Định hướng chiến lược phát triển
bền vững ở Việt Nam, (Chương trình nghị sự 21) được ban hành kèm theo Quyết
190
định số 153/2004/QĐ-TTg, ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ,
http://www.monre.gov.vn/monreNet/.
10. Bộ Thương mại (2002), Chiến lược xuất nhập khẩu Việt Nam thời kỳ
2001-2010, www.moit.gov.vn.
11. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (2008), Vượt qua khủng
khoảng để tiếp tục cất cánh, http//:www.fetp.edu.vn.
12. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (2008), Thay đổi cơ cấu:
Giải pháp kích thích có hiệu lực duy nhất, http//:www.fetp.edu.vn.
13. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (2008), Nguyên nhân sâu xã
về mặt cơ cấu của bất ổn vĩ mô, http//:www.fetp.edu.vn.
14. CIEM, UNDP (2003), Chính sách phát triển kinh tế: Kinh nghiệm và
bài học của Trung Quốc, Tập I, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
15. CIEM, UNDP (2004), Chính sách phát triển kinh tế: Kinh nghiệm và
bài học của Trung Quốc, Tập III, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
16. CIEM-FES (2004), Kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam, Thông tin chuyên
đề, số 7, Hà Nội.
17. Cục bảo vệ Môi trường (2005), Báo cáo hiện trạng môi trường Việt
Nam năm 2005, Hà Nội.
18. Cục Môi trường (2002), Hành trình vì sự phát triển bền vững 1972-
1992-2002. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. David Dapice (2002), Thành công và thất bại: Lựa chọn đường đi
đúng cho sự tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, http//:www.fetp.edu.vn.
20. David Dapice (2003), Nền kinh tế Việt Nam: Câu chuyện thành công
hay tính hai mặt dị thường? Một phân tích SWOT, http//:www.fetp.edu.vn.
21. David Dapice (2008), Lựa chọn thành công: Bài học từ Đông Á cho
Việt Nam, http//:www.fetp.edu.vn.
22. Diamond J. (2007), Sụp đổ, Nxb Tri thức, Hà Nội.
191
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX, http://222.255.31.179:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang.
24. Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình kinh tế quốc tế,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
25. Đặng Như Toàn (1996), Kinh tế môi trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Đinh Văn Ân (2005), Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội
tốc độ nhanh, bền vững chất lượng cao ở Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
27. Hội đồng lý luận TW (2007), Khi Việt Nam đã vào WTO, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Hồ Trung Thanh (2003), Cơ sở khoa học giải quyết mối quan hệ giữa
các chính sách thương mại và chính sách môi trường đảm bảo phát triển thương
mại bền vững, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Thương mại, Hà Nội.
29. Hồ Trung Thanh (2004), Tác động đến môi trường do nuôi trồng thủy
sản ở nước ta hiện nay, Tạp chí Thương mại, số 45, tháng 11/2004.
30. Hồ Trung Thanh (2005), Báo cáo hiện trạng môi trường của các hoạt
động thương mại Việt Nam giai đoạn 2001-2005, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ
Thương mại, Hà Nội.
31. Hồ Trung Thanh (2006), Phát triển thương mại và những vấn đề môi
trường sinh thái ở nước ta hiện nay, Tạp chí quản lý nhà nước, số 131, tháng
12/2006.
32. Hồ TrungThanh (2008), Các quy định về môi trường của một số nước
đối với các nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
33. Joseph E.Stiglitz và Shahid Yusuf (2002), Suy ngẫm lại sự thần kỳ
Đông Á, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Koos Neefjes (2003), Môi trường và sinh kế: Các chiến lược phát triển
bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh (2001), Quản lý môi trường cho sự
phát triển bền vững, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
192
36. Manfred Schreiner (2002), Quản lý môi trường, con đường kinh tế dẫn
đến nền kinh tế sinh thái, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
37. MUTRAP (2008), Đánh giá tác động tổng thể khi Việt Nam trở thành
thành viên WTO đến thay đổi xuất nhập khẩu và thể chế, Hà Nội.
38. Nans-Rimbert Hemmer (2002), Toàn cầu hóa với các nước đang phát
triển, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
39. Ngân hàng thế giới (1999), Xanh hoá công nghiệp: Vai trò mới của
cộng đồng, thị trường và Chính phủ. Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân
hàng thế giới, www.worlbank.org.vn.
40. Ngân hàng thế giới (2001), Việt Nam: Đẩy mạnh đổi mới để tăng
trưởng xuất khẩu, www.worldbank.org.vn.
41. Ngân hàng thế giới (2002), Báo cáo phát triển 2003, Việt Nam thực
hiện cam kết, www.worldbank.org.vn.
42. Ngân hàng Thế giới (2002), Toàn cầu hoá, tăng trưởng và đói nghèo,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
43. Ngân hàng thế giới (2003), Chất lượng tăng trưởng nhìn từ Đông Á,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
44. Ngân hàng Thế giới (2006), Báo cáo phát triển Thế giới 2006, 2005,
Công bằng và phát triển, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
45. Ngân hàng thế giới (2003), Diễn biến môi trường Việt Nam năm 2003,
Hà Nội.
46. Nguyễn Chu Hồi (2003), Một số vấn đề về phát triển bền vững đối với
ngành thuỷ sản Việt Nam, Chương trình Nghị sự 21 cho Việt Nam, Hà Nội
47. Nguyễn Đức Khiển (2002), Quản lý môi trường, Nxb Lao động, Hà
Nội.
48. Nguyễn Thế Chinh (2003), Giáo trình kinh tế & quản lý môi trường,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
49. Nguyễn Văn Lịch (2005), Nghiên cứu cán cân thương mại trong điều
kiện công nghiệp hóa ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
193
50. Nguyễn Văn Nam (2006), Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
51. Nguyễn Văn Thanh (2001), Thương mại công bằng, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Văn Thường (2005) Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: những rào
cản cần vượt qua, Tạp chí Lý luận chính trị, Hà Nội.
53. Nguyễn Văn Tiến (2003), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế
mở, Nxb Thống kê, Hà Nội.
54. Phạm Đức Thành, Trương Duy Hòa (2002), Kinh tế các nước Đông
Nam Á: Thực trạng và Triển vọng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
55. Phạm Quang Thao (1998), Thương mại - Môi trường và phát triển bền
vững, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
56. Peter Nolan (2005), Trung Quốc trước ngã ba đường, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
57. Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam (1996), Luật khoáng sản,
http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/.
58. Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam (2004), Luật bảo vệ và phát
triển rừng, http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/.
59. Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam (2004), Luật Thủy sản,
http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/.
60. Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Luật Bảo vệ môi
trường, http://www.monre.gov.vn/monreNet/.
61. Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Luật Thương mại,
http://www.moit.gov.vn/web/guest/vanban.
62. Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam (2007), Luật đa dạng sinh
học, http://www.monre.gov.vn/monreNet/.
63. Ruffor (2003), Một nghề còn lắm bất trắc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
194
64. Thaddeus C. Trzyna (2001), Thế giới bền vững: định nghĩa và trắc
lượng phát triển bền vững, Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học -
công nghệ, Hà Nội.
65. Thời báo Kinh tế Việt Nam (2008), Kinh tế Việt Nam 2007-2008, Hà
Nội.
66. Thủ tướng Chính phủ (1993), Pháp lệnh thú y,
http://www.chinhphu.vn/portal/
67. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định 46 về Kế hoạch phát triển
xuất khẩu giai đoạn 2001-2006, http://www.moit.gov.vn/web/guest/vanban/
68. Thủ tướng chính phủ (2002), Chiến lược xuất nhập khẩu Việt Nam giai
đoạn 2001-2010, http://www.moit.gov.vn/web/guest/vanban/
69. Thủ tướng chính phủ (2002), Nghị định của Chính phủ số 11/2002/NĐ-
CP ngày 22/1/2002, http://www.chinhphu.vn/portal/
70. Trần Đình Thiên (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam:
Phác thảo lộ trình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Trần Văn Thọ (2006), Biến động kinh tế Đông Á và con đường công
nghiệp hoá, Nhà xuất bản Trẻ, TP HCM.
72. Trương Quang Học (2008), Từ phát triển đến phát triển bền vững nhìn
từ góc độ giáo dục và nghiên cứu khoa học, Bài viết đăng trong cuốn sách "Khoa
học Phát triển: Lý luận và Thực tiễn ở Việt Nam", Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.207-
226.
73. Vương Trung Minh (2004), Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới, Nxb Lao động, Hà Nội.
74. Veena Jha (2001), Tiếp cận môi trường trong thương mại ở Việt Nam,
Tài liệu của Liên hợp quốc, Hà Nội
75. Viện nghiên cứu Lâm nghiệp (2003), Hiện trạng sử dụng đất và độ che
phủ rừng toàn quốc đến ngày 31/12/2002, Báo cáo quốc gia về rừng ngập mặn,
Hà Nội.
195
76. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2001), Kinh tế Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
77. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2002), Khả năng chịu
đựng thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của Việt Nam, Nxb Lao động, Hà
Nội.
78. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2004), Kinh tế Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
79. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2008), Kinh tế Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
80. Viện Nghiên cứu Thương mại (2004), Các quy định về môi trường của
EU đối với nhập khẩu hàng nông thủy sản và khả năng đáp ứng của Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2007), Các cam kết gia
nhập Tổ chức thương mại Thế giới của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
82. www.gso.gov.vn
83. www.vi.wikipedia.org
84. www.monre.gov.vn
85. www.moit.gov.vn
86. www.agroviet.gov.vn
87. www.mpi.gov.vn
88. www.molisa.gov.vn
Tiếng Anh
89. Baumol W., Oates M. (1998), The Theory of Environmental Polic,
Oxford University Press.
90. Chen M. (1998), Monitoring and Enforcement of Environmental
Policy, Owen Graduate School of Management, Vanderbilt University, August.
196
91. Cline, William (2004), “The world trade policy and poverty”
International Institute of economics, Washington.
92. Dasgupta S., Laplante B. and N. Mamingi N. (1999), Trade Policy
Responses to Environmental Performance in Developing Countries. World Bank.
93. ESCAP (2002), Trade Effect of Eco-Labelling.
94. Hanrahan D., Keene M., Shaman D. and Wheeler D. (1998),
Developing Partnerships for Effective Pollution Management, Environment
Matters at the World Bank, Annual Review.
95. Ian Coxhead (2006), International Trade and the Natural Resource
“curse” in Southeast Asia: does China’ growth threaten Regional Development,
University of Wisconsin.
96. International Trade Centre (2007) Competitivnes Report 2007.
97. International Trade Centre (2008), Statistics Database 2008.
98. IISD-UNEP (2002), Environment and Trade - A Handbook.
99. Veena Jha (2001), Greening Trade in Vietnam, United Nations.
100. Weiss, john (2002), Industrialization and Globalization: Theory
Evidence form developing countries, Routledge, London and New York.
101. World Bank (2000), Indonesia's Public Information Program For
Environmental Management.
102.World Bank (2001), World Development Report 200, Development and
the Environment, Washington/Oxford: IBRD/Oxford University Press.
103. World Bank (2002), Vietnam Environment Monitor 2002.
104.UNCTAD (2008), Staticstics Handbook 2008.
197
PHỤ LỤC
Chủ đề
Phụ lục 1: Các chỉ tiêu PTBV về kinh tế của Liên hiệp quốc
Chủ đề nhánh
Chỉ tiêu
1. GDP bình quân đầu người
Hiện trạng kinh tế
2. Tỷ lệ đầu tư trong GDP
Thương mại
3. Cán cân thương mại hàng hoá dịch vụ
4. Tỷ lệ nợ trong GNP
Tình trạng tài chính
5. Tổng viện trợ ODA hoặc nhận viện trợ ODA so với GNP
Công bằng
Tiêu dùng vật chất
6. Mức độ sử dụng vật chất
7. Tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người hàng năm
Sử dụng năng lượng
8. Tỷ lệ tiêu dùng nguồn năng lượng có thể tái sinh
9. Mức độ sử dụng năng lượng
10. Xả thải rắn của công nghiệp và đô thị
11. Chất thải nguy hiểm
Xả thải và quản lý xả thải
12. Chất thải phóng xạ
Mẫu hình sản xuất và tiêu dùng
13. Chất thải tái sinh
Giao thông vận tải
14. Khoảng cách vận chuyển theo đầu người theo một cách thức vận chuyển
Nguồn: [5,tr.61]
198
Phụ lục 2: Nhóm chỉ tiêu phát triển bền vững về kinh tế của Việt Nam
Chỉ tiêu
Chỉ thị
- Tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội GDP
- Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp và xây dựng
Chỉ tiêu 1: Tăng trƣởng của nền kinh tế
- Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp
- Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ
- Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP
- Tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP
- Tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP
Chỉ tiêu 2: Cơ cấu kinh tế
- Tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước trong GDP
- Tỷ trọng khu vực kinh tế tập thể trong GDP
- Tỷ trọng khu vực kinh tế tư nhân trong GDP
- Sử dụng tổng sản phẩm trong nước (tích luỹ - tiêu dùng)
- Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người
- Quỹ tiêu dùng bình quân đầu người
- Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách
Chỉ tiêu 3: Các cân đối lớn trong nền kinh tế
- Tỷ lệ chi ngân sách so với tổng thu, trong đó chi cho phát triển và chi thường xuyên, cơ cấu các khoản thu - chi
- Tỷ lệ huy động GDP cho đầu tư phát triển toàn xã hội, cơ cấu nguồn vốn huy động và cơ cấu đầu tư.
- Chỉ số giá tiêu dùng
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp
- Cơ cấu sản xuất trong các ngành công nghiệp
- Tỷ lệ giá trị các sản phẩm sản xuất trong các doanh nghiệp công nghệ cao và công nghệ sạch trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp
Chỉ tiêu 4: Về sản xuất công nghiệp
- Tốc độ đổi mới công nghệ trong sản xuất công nghiệp theo hướng PTBV (công nghệ sạch, công nghệ cao)
- Khối lượng sản xuất một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu như năng lượng, khai khoáng, vật liệu xây dựng, sản phẩm
199
chế biến, chế tạo máy móc, thiết bị
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp
- Cơ cấu sản xuất trong các ngành nông lâm ngư nghiệp
- Tỷ lệ giá trị các sản phẩm sản xuất bằng các phương pháp công nghệ sinh học và công nghệ sạch trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp
- Tốc độ đổi mới và áp dụng quy trình công nghệ, quy trình sản xuất nông lâm ngư nghiệp theo hướng CNH-HĐH
Chỉ tiêu 5: Sản xuất nông, ngƣ lâm, nghiệp
- Khối lượng sản xuất một số sản phẩm nông, lâm ngư nghiệp chủ yếu như tổng sản lượng lương thực có hạt, sản lượng lương thực bình quân đầu người, các sản phẩm cây công nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản
- Các chỉ tiêu về phát triển hạ tầng cơ sở ở nông thôn như tổng số xã có dịch vụ y tế, có điện nước sinh hoạt, có trung tâm thương mại, có đường ô tô đến trung tâm, có điểm văn hoá, có trạm bưu điện
- Tốc độ tăng trưởng giá trị các ngành dịch vụ
- Cơ cấu các ngành dịch vụ, trong đó tỷ trọng các ngành dịch vụ công nghệ cao
- Khối lượng vận chuyển, luân chuyển hàng hoá, hành khách, giá trị doanh thu vận tải
- Các chỉ tiêu dịch vụ bưu chính viễn thông, số máy điện thoại/100 dân, số người sử dụng internet, tỷ lệ xã có điện thoại, giá trị doanh thu ngành bưu chính viễn thông
Chỉ tiêu 6: Các ngành thƣơng mại, dịch vụ
- Các chỉ tiêu dịch vụ du lịch: lượng khách du lịch quốc tế, lượng khách du lịch nội địa, giá trị doanh thu xã hội về hoạt động du lịch
- Tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hoá, dịch vụ trên thị trường
- Giá trị kim ngạch xuất khẩu, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu
- Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu đã qua chế biến
- Giá trị kim ngạch nhập khẩu, cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu
Nguồn: [5,tr.153]
200
Phụ lục 3: Các chỉ tiêu PTBV về môi trƣờng của Liên hiệp quốc
Tên chỉ thị môi trƣờng
Tên chỉ thị môi trƣờng
Mã số chỉ thị
Tên chủ đề
Stt chỉ thị
1
Chất lượng không khí
NO2 SO2 TSP INDOR
2
ECORISK
Đa dạng sinh học
PRTBRD
PRTMAM
PRTAMPH
Các hệ thống môi trường
3
Đất
NBI ANTH10
ANTH40
4
Chất lượng nước
5
Trữ lượng nước
WQ_DO WQ_EC WQ_PH WQ_SS WATAVIL GRDAVIL
Nồng độ NO2 đo trên dân số đô thị Nồng độ SO2 đo trên dân số đô thị Nồng độ TSP đo trên dân số đô thị Mức độ ô nhiễm không khí trong nhà do sử dụng nhiên liệu rắn Tỷ lệ diện tích quốc gia nằm trong vùng sinh thái bị đe dọa nguy hiểm Tỷ lệ các loài chim bị đe doạ trong tổng số các loài chim sinh sản nhanh trong mỗi quốc gia Tỷ lệ các loài động vật có vú trong tổng số các loài động vật có vú sinh sản nhanh trong mỗi quốc gia Tỷ lệ các loài động vật lưỡng cư bị đe doạ trong tổng số các loài động vật lưỡng cư sinh sản nhanh trong mỗi quốc gia Chỉ thị đa dạng sinh học quốc gia Tỷ lệ diện tích đất (gồm cả đất ngập nước) chịu tác động rất yếu do hoạt động của con người trên tổng số diện tích Tỷ lệ diện tích đất (gồm cả đất ngập nước) chịu tác động rất mạnh do hoạt động của con người trên tổng số diện tích Nồng độ ôxi hòa tan Độ dẫn điện Nồng độ phospho Chất rắn lơ lửng Lượng nước sạch sẵn có/đầu người Lượng nước ngầm lục địa sẵn có/đầu người
6
COALKM Mức tiêu thụ than đá/diện tích đất cư
Giảm ô nhiễm không khí
NOXKM
SO2KM
VOCKM
trú Lượng phát thải NOx từ sản xuất, sinh hoạt/diện tích đất cư trú Lượng phát thải SO2 từ sản xuất, sinh hoạt/diện tích đất cư trú Lượng phát thải VOC từ sản xuất, sinh hoạt/diện tích đất cư trú
201
CARSKM Mật độ phương tiện giao thông/diện
7
FOREST
Giảm sức ép lên hệ sinh thái
ACEXC
8
GR2050
Giảm áp lực dân số
9
Mức độ giảm áp lực môi trường
10
TFR EFPC RECYCLE HAZWST BODWAT
Giảm sức ép tiêu thụ và xả thải Giảm sức ép lên nguồn nước
FERTHA
PESTHA
WATSTR
tích đất cư trú Tốc độ thay đổi độ che phủ rừng trung bình hàng năm từ 1990-2000 Mức độ vượt tiêu chuẩn axít hoá do lắng tụ lưu huỳnh từ sản xuất, sinh hoạt (mưa axít) Tỷ lệ tăng dân số dự báo trong thời kỳ 2004-2050 Tổng tỷ lệ tăng dân số tự nhiên “Dấu vết sinh thái “/đầu người(*) Tỷ lệ tái sử dụng chất thải Mức độ tái sinh chất thải nguy hại Lượng nước thải công nghiệp ô nhiễm chất hữu cơ (BOD)/lượng nước sạch sẵn có Lượng phân bón hoá học sử dụng/ hecta đất trồng trọt Lượng thuốc BVTV sử dụng/hecta đất trồng trọt Tỷ lệ diện tích các khu vực có sức ép gay gắt về nguồn nước OVERFSH Nguy cơ đánh bắt cạn kiệt nguồn tài
11
Quản lý tài nguyên thiên nhiên
FORCENT
WEFSUB
IRRSAL
12
AGSUB DISINT
Sự lành mạnh của môi trường
DISRES
U5MORT
13
UND_NO WATSUP
Mức độ giảm rủi ro cho con người
14
DISCAS
DISEXP
nguyên cá Tỷ lệ diện tích rừng trên tổng số diện tích rừng được công nhận là quản lý bền vững Mức trợ cấp từ Diễn đàn kinh tế thế giới Tỷ lệ diện tích đất bị nhiễm mặn được rửa mặn/tổng diện tích đất trồng trọt Các trợ cấp về nông nghiệp Tỉ lệ tử vong do bệnh lây nhiễm đường ruột Tỉ lệ trẻ em tử vong do các bệnh hô hấp Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/1.000 trẻ em sơ sinh Tỷ lệ dân số thiếu ăn/tổng dân số Tỷ lệ dân số được hưởng nguồn nước sạch Trung bình số người chết/triệu người do lũ lụt, lốc xoáy, hạn hán Chỉ thị rủi ro môi trường dự báo
Nguồn sống cơ bản của con người Giảm rủi ro môi trường và thiệt hại do thiên tai Quản lý môi GASPR
15
Tỷ giá so sánh về giá xăng so với giá
202
trường
GRAFT GOVEFF PRAPEA
WEFGOV
trung bình thị trường thế giới Đánh giá mức độ tham nhũng Hiệu lực của Chính phủ Tỷ lệ đất được bảo vệ pháp lý trên tổng diện tích đất Tài trợ quản lý môi trường của Diễn dàn kinh tế thế giới LAW Hiệu lực cuả Pháp luật AGENDA21 Các sáng kiến Agenda 21 quốc gia/1
CIVLIB CSDMIS
IUCN
KNWLDG
Năng lực thể chế và xã hội
16
Hiệu quả sinh thái
POLITY ENEFF RENPC
17
DJSGI ECOVAL
Phản ứng của khu vực tư nhân
ISO14
WEFPRI
triệu người dân Quyền chính trị và quyền công dân Tỷ lệ các chỉ thị thiếu giữa các chỉ thị PTBV khuyến nghị từ Hội nghị Rio de Janero đến bảng chỉ thị PTBV của Hội nghị Johaneshburg Số lượng tổ chức thành viên trong Hiệp hội bảo tồn thế giới/triệu người dân Năng lực phát minh tri thức về khoa học, công nghệ và chính sách môi trường Đánh giá mức độ dân chủ Hiệu quả năng lượng Tỷ lệ sản xuất năng lượng thủy điện và các nguồn năng lượng có thể tái sinh trên tổng số lượng năng lượng tiêu thụ Chỉ thị bền vững nhóm Đao Jôn Tốc độ cải tiến hiệu quả sinh thái của các công ty, hãng chủ đạo trong quốc gia Số lượng các công ty ứng dụng ISO 14001/tỷ đô la GDP (PPP) Tài trợ của Diễn đàn kinh tế thế giới cho việc cải tiến môi trường trong khu vực tư nhân RESCARE Mức độ tham gia vào các chương
18
Khoa học và công nghệ
INNOV DAI PECR
ENROL
trình thực hiện trách nhiệm của Hiệp hội các Nhà máy sản xuất hoá chất Chỉ thị đổi mới công nghệ Chỉ thị truy cập thông tin Tỷ lệ hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục sơ cấp cho nữ giới Tỷ lệ huy động trẻ em đến lớp ở cả 3 cấp học
RESEARCH Số nhà nghiên cứu/triệu dân
203
EIONUM
19
Số lượng các thành viên tham gia vào các tổ chức môi trường đa Chính phủ
FUNDING Mức đóng góp vào Quỹ các dự án
môi trường và viện trợ phát triển song phương hay đa phương
Quản lý môi trường toàn cầu
Mức độ tham gia vào nỗ lực hợp tác quốc tế
PARTICIP Mức độ tham gia vào các cam kết
20
CO2GDP
Mức phát thải khí thải nhà kính
CO2PC
21
SO2EXP POLEXP
Giảm áp lực môi trường toàn cầu
quốc tế về môi trường Mức phát thải khí thải cacbon/tỷ đô la GDP Mức phát thải khí thải cacbon/đầu người Mức xuất khẩu khí SO2 Tỷ lệ hàng hoá và nguyên liệu thô gây ô nhiễm đã nhập khẩu/tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu
Nguồn: Dự án VIE/01/012, Đại cương về phát triển bền vững, Viện nghiên cứu sư
phạm, Hà Nội, 2006.
204
Phụ lục 4: Bộ chỉ thị đánh giá PTBV về tài nguyên môi trƣờng của
Việt Nam
Các chỉ thị (EIs) Các chỉ thị môi trƣờng dự kiến (EVs) 1. Nguy cơ thoái hoá đất
Chủ đề (EIC) 1. Thoái hoá đất, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất
2. Hiệu quả sử dụng đất 3. Năng lực sử dụng bền vững tài nguyên đất
2. Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước
4. Chất lượng nước mặt 5. Chất lượng nước ngầm 6. Cải thiện chất lượng môi trường nước mặt và nước ngầm
7. Năng lực sử dụng bền vững tài nguyên nước
3. Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản
8. Năng lực khai thác bền vững tài nguyên khoáng sản 9. Hiệu quả sử dụng tài nguyên khoáng sản
4. Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và
1. Tỷ lệ diện tích đất (gồm cả đất ngập nước) chịu tác động rất mạnh do hoạt động của con người trên tổng số diện tích, (%) 2. Diện tích đất bị nhiễm mặn, phèn/tổng diện tích đất trồng trọt, (%) 3. Tốc độ tăng sử dụng phân bón hoá học, thuốc BVTV/5 năm gần nhất, (%/năm) 4. Tốc độ tăng năng suất sử dụng đất nông nghiệp/5 năm gần nhất, (%/năm) 5. Diện tích đất chưa sử dụng, (%) 6. Tốc độ tăng cơ cấu sử dụng đất phi nông nghiệp (II), (%/năm) 7. Tốc độ tăng dân số/5 năm gần nhất, (%/năm) 8. Chỉ thị chất lượng nước mặt theo TCVN 5942-1995, (%) 9. Chỉ thị chất lượng nước ngầm theo TCVN 5944-1995, (%) 10. Tỷ lệ nước thải đô thị, công nghiệp, du lịch và bệnh viện được xử lý đạt tiêu chuẩn, (%) 11. Tốc độ tăng tỷ lệ hộ dân có hố xí và chuồng trại hợp vệ sinh/5 năm gần nhất, (%/năm) 12. Tốc độ tăng khai thác nước ngầm/5 năm gần nhất, (%/năm) 13. Tốc độ tăng khai thác nước mặt/5 năm gần nhất, (%/năm) 14. Tốc độ tăng tỷ lệ hộ dân được hưởng nguồn nước sạch/5 năm gần nhất (%/năm) 15. Tốc độ tăng sản lượng khai thác khoáng sản/5 năm gần nhất, (%/năm) 16. Chỉ thị chất lượng không khí trong khai thác và vận chuyển khoáng sản, (%) 17. Tỷ lệ thu hồi một số khoáng sản chính/tổng trữ lượng một số khoáng sản chính, (%) 18. Tốc độ tăng tỷ suất sản lượng khoáng sản/ 1.000 tỷ VNĐ GDP/5 năm gần nhất, (%/năm) 19. Chỉ thị chất lượng nước biển ven bờ TCVN 5943-1995, (%) 20. Tỷ lệ nước thải đô thị, công nghiệp, bệnh
10. Chất lượng nước biển ven bờ 11. Cải thiện chất
205
phát triển tài nguyên biển
lượng môi trường biển, ven biển, hải đảo
12. Năng lực phát triển bền vững tài nguyên biển
5. Bảo vệ và phát triển rừng
13. Cải thiện chất lượng rừng
14. Năng lực phát triển rừng
6. Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp
15. Chất lượng không khí đô thị 16. Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị 17. Chất lượng không khí KCN 18. Giảm ô nhiễm không khí ở các KCN
7. Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại
19. Giảm ô nhiễm do chất thải rắn và chất thải nguy hại
20. Năng lực quản lý chất thải rắn
8. Bảo tồn đa dạng sinh học
21. Năng lực bảo tồn đa dạng sinh học 22. Năng lực bảo vệ đa dạng sinh học 23. Giảm nhẹ biến đổi khí hậu
9. Các hoạt động làm giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu,
viện và khu du lịch ven biển được xử lý đạt tiêu chuẩn, (%) 21. Tốc độ tăng dân số vùng ven biển/5 năm gần nhất, (%/năm) 22. Tốc độ tăng đánh bắt thuỷ hải sản/5 năm gần nhất, (%/năm) 23. Tốc độ tăng sản lượng nuôi trồng thuỷ hải sản/5 năm gần nhất, (%/năm) 24. Độ che phủ rừng, (%) 25. Tốc độ tăng khai thác rừng/5 năm gần nhất, (%/năm) 26. Tốc độ trồng rừng/5 năm gần nhất, (%/năm) 27. Độ che phủ rừng bão hoà, (%) 28. Chỉ thị chất lượng không khí tại các đô thị lớn theo TCVN 5937, 38 – 2005, (%) 29. Tốc độ tăng dân số đô thị/5 năm gần nhất, (%/năm) 30. Tỷ lệ diện tích cây xanh đô thị, (%) 31. Chỉ thị chất lượng không khí tại các KCN theo TCVN 5937, 38 – 2005, (%) 32. Tỷ lệ các doanh nghiệp, KCN áp dụng tiêu chuẩn ISO 14.001, (%) 33. Tổng tỷ lệ diện tích cây xanh trong các doanh nghiệp và KCN, (%) 34. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt và công nghiệp được thu gom, xử lý hợp vệ sinh, (%) 35. Tỷ lệ chất thải nguy hại công nghiệp và y tế được thu gom, xử lý hợp vệ sinh, (%) 36. Tỷ lệ diện tích bãi rác hợp vệ sinh/tổng diện tích đất, (%) 37. Tỷ lệ diện tích cụm xử lý chất thải nguy hại/ tổng diện tích đất, (%) 38. Tỷ lệ diện tích đất các khu bảo tồn thiên nhiên/Tổng diện tích đất, (%) 39. Độ che phủ cây xanh, (%) 40. Chỉ thị đa dạng sinh học, (%) 41. Tỷ lệ diện tích vùng các hệ sinh thái cần được phục hồi đa dạng sinh học, (%) 42. Tỷ lệ phát thải khí thải cacbon/Tổng tải lượng ô nhiễm khí thải dự báo, (%) 43. Tỷ lệ phát thải bụi lơ lửng và khí axít/Tổng tải lượng ô nhiễm khí thải dự báo, (%) 44. Tỷ lệ sử dụng năng lượng than, củi/tổng sản lượng năng lượng sử dụng, (%)
24. Hạn chế ảnh hưởng có hại của
206
biến đổi khí hậu
phòng và giảm nhẹ hậu quả thiên tai
25. Năng lực phòng chống và giảm nhẹ hậu quả do thiên tai, sự cố
26. Năng lực khai thác năng lượng
10. Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên năng lượng
27. Hiệu quả sử dụng tiết kiệm và bền vững năng lượng
45. Chỉ thị quản lý môi trường trên diện rộng – AEQM, (%) 46. Chỉ thị rủi ro môi trường dự báo, (%) 47. Tỷ lệ tổn thất về người và tài sản do thiên tai, rủi ro, sự cố môi trường gây ra được quy đổi ra tiền/GDP trong 5 năm gần nhất, (%/năm) 48. Tốc độ tăng tổng số lượng năng lượng sản xuất thương mại/5 năm gần nhất, (%/năm) 49. Tỷ lệ hộ dân được sử dụng điện, (%) 50. Tỷ lệ sản xuất năng lượng thủy điện và các nguồn năng lượng có thể tái sinh/tổng số lượng năng lượng tiêu thụ, (%) 51. Tốc độ tăng tỷ suất tiêu thụ năng lượng/1.000 tỷ VNĐ GDP/5 năm gần nhất, (%/năm)
Nguồn: Dự án VIE/01/012, Đại cương về phát triển bền vững, Viện nghiên cứu sư
phạm, Hà Nội, 2006.
.
207
Phụ lục 5: Các chỉ tiêu PTBV về xã hội của Liên hiệp quốc
Chủ đề
Chủ đề nhánh
Chỉ tiêu
1. % dân số sống dưới mức nghèo khổ
Nghèo đói
2. Chỉ số Gini về bất cân đối thu nhập
Công bằng
3. Tỷ lệ thất nghiệp
Công bằng về giới
4. Tỷ lệ lương trung bình của nữ so với nam
Tình trạng dinh dưỡng
5. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em
6. Tỷ lệ chết dưới 5 tuổi
Tỷ lệ chết
7. Kỳ vọng sống của trẻ mới sinh
Điều kiện vệ sinh
8. % dân số có thiết bị vệ sinh phù hợp
Y tế
Nước sạch
9. Dân số được sử dụng nước sạch
10. % dân số tiếp cận được các dịch vụ y tế ban đầu
Tiếp cận dịch vụ y tế
11. Tiêm chủng cho trẻ em
12. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai
13. Phổ cập tiểu học đối với trẻ em
Cấp giáo dục
Giáo dục
14. Tỷ lệ người trưởng thành đạt mức giáo dục cấp II
Biết chữ
15. Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành
Nhà ở
Điều kiện sống
16. Diện tích nhà ở bình quân đầu người
An ninh
Tội phạm
17. Số tội phạm trong 100.000 dân số
18. Tỷ lệ tăng dân số
Dân số
Thay đổi dân số
19. Dân số thành thị chính thức và cư trú không chính thức
Nguồn: [5,tr.54]
208
Phụ lục 6: Nhóm chỉ tiêu về lĩnh vực xã hội của Việt Nam
Chỉ tiêu
Chỉ thị
- Tỷ lệ hộ nghèo chung theo chuẩn quốc tế
- Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia
- Số hộ thoát khỏi đói nghèo
- Khoảng cách nghèo
- Tỷ lệ tiêu dùng của nhóm nghèo nhất/tổng tiêu dùng xã hội
- Tỷ lệ hộ nghèo về lương thực thực phẩm theo chuẩn quốc tế
- Tỷ lệ % xã nghèo có đường ô tô đến trung tâm xã
- Tỷ lệ % xã nghèo có công trình thuỷ lợi nhỏ
- Tỷ lệ % xã nghèo có trạm y tế xã
- Tỷ lệ % xã nghèo có trường tiểu học, nhà trẻ, lớp mẫu giáo
Chỉ tiêu 1: Về xoá đói, giảm nghèo
- Tỷ lệ % xã nghèo có trường trung học cơ sở
- Tỷ lệ % xã nghèo có chợ xã/liên xã
- Tỷ lệ % xã nghèo có bưu điện văn hoá xã
- Tỷ lệ % xã nghèo có trạm truyền thanh
- Tỷ lệ % xã nghèo có điện
- Tỷ lệ hộ nghèo đô thị tiếp cận các dịch vụ thiết yếu trong khu vực đô thị
- Tỷ lệ % hộ nghèo được tiếp cận nước sạch
- Tỷ lệ % xã nghèo và các quận, huyện có hệ thống nước sinh hoạt bảo đảm vệ sinh
- Tổng số việc làm được tạo ra hàng năm, năng suất lao động
- Tỷ lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới
- Tỷ lệ hộ nghèo được tiếp cận tín dụng, vay vốn tạo việc làm
- Tỷ lệ lao động được đào tạo so với tổng số lao động, cơ cấu trình độ tay nghề của lao động
Chỉ tiêu 2: Lao động và việc làm
- Tổng số lao động kỹ thuật cao được đào tạo hàng năm
- Biến động cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ
- Tỷ trọng lao động hoạt động trong các ngành (nông nghiệp, công
209
nghiệp, dịch vụ)
- Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao động trong độ tuổi ở nông thôn
- Tỷ lệ lao động trong độ tuổi chưa có việc làm ở khu vực thành thị
- Tỷ lệ học sinh đi học mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở đúng tuổi
- Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học
- Tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi 15-24
Chỉ tiêu 3: Phổ cập giáo dục
- Số tỉnh thành phố trong toàn quốc, số huyện quận trong tỉnh thành phố, số xã, phường trong quận, huyện hoàn thành việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở
- Số học sinh cao đẳng, đại học, trên đại học tuyển mới hàng năm
- Tuyển mới công nhân kỹ thuật
- Tốc độ đổi mới công nghệ trong các ngành kinh tế chủ yếu: khai khoáng, luyện kim, hoá chất, năng lượng, công nghiệp chế biến, chế tạo cơ khí...
Chỉ tiêu 4: Khoa học và công nghệ
- Tỷ trọng các doanh nghiệp công nghệ cao trong tổng các doanh nghiệp của từng ngành kinh tế chủ yếu
- Số đề tài nghiên cứu được đưa vào ứng dụng trong các ngành kinh tế có hiệu quả
- Tỷ lệ tăng dân số, dân số trung bình thành thị, nông thôn
- Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh
- Tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi
- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
- Số giường bệnh/1000 dân
- Số y, bác sĩ/1000 dân
- Tỷ lệ xã có trạm y tế, tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ
Chỉ tiêu 5: Y tế, văn hoá, xã hội
- Tỷ lệ số bệnh viện kỹ thuật cao trong tổng số các bệnh viện từ tuyến tỉnh trở lên
- Tỷ lệ người bị nhiễm HIV/AIDS trong tổng dân số
- Tỷ lệ gia đình đạt chuẩn gia đình văn hoá. Tỷ lệ làng, xóm, khu phố đạt chuẩn văn hoá quốc gia, tỷ lệ xã phường có nhà văn hoá
- Tỷ lệ các hộ gia đình xem được, nghe được Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam
Nguồn: [5,tr.169]
210
Phụ lục 7: Những mốc quan trọng trong chính sách hội nhập của Việt Nam
1987: Quốc hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài
1988: Quyền sử dụng ngoại tệ được tự do hoá. Phá giá đồng tiền Việt Nam. Xây dựng biểu thuế quan thương mại
1989: Cho phép các nhà sản xuất hàng xuất khẩu bán hàng cho mọi công ty ngoại thương. Thống nhất tỷ giá hối đoái. Bãi bỏ hầu hết chế độ hạn ngạch và trợ cấp xuất khẩu từ ngân sách
1991: Miễn thuế nhập khẩu cho sản xuất hàng xuất khẩu. Các công ty tư nhân được phép trực tiếp tham gia vào thị trường quốc tế 1992: Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài sửa đổi theo hướng giảm phân biệt đối xử giữa các liên doanh và các doanh nghiệp do nước ngoài sở hữu 1994: Việt Nam trở thành quan sát viên của Hiệp định GATT. Thực hiện tỷ giá hối đoái thị trường liên ngân hàng 1995: Nới lỏng quản lý hạn ngạch xuất khẩu gạo. Việt Nam gia nhập ASEAN 1996: Thuế suất nhập khẩu cao nhất giảm xuống còn 80% 1997: Thông qua Luật Thương mại có giá trị hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1998. Cấm nhập khẩu đường. áp dụng và sau đó dỡ bỏ lệnh cấm nhập tạm thời một số hàng hoá tiêu dùng 1998: Thuế suất nhập khẩu tối đa giảm xuống còn 60%; hầu như việc nhập khẩu hàng tiêu dùng được quản lý bằng các biện pháp thuế quan thay cho các biện pháp hạn ngạch. Điều chỉnh luật thuế suất – nhập khẩu, đưa ra 3 hạng mục thuế, các điều khoản chống bán phá giá và thuế đền bù. Các doanh nghiệp trong nước được phép trực tiếp tham gia xuất khẩu mà không cần phải xin giấy phép xuất nhập khẩu tại Bộ Thương mại theo nghị định 57/1998/NĐ - CP. 1999: Kế hoạch hành động về khu vực tư nhân với sự hỗ trợ của sáng kiến Miazawa 2000: Luật doanh nghiệp cho phép mọi pháp nhân xuất khẩu hầu hết các mặt hàng không phải xin gấy phép. Xoá bỏ hạn chế định lượng nhập khẩu với 8 trong số 19 mặt hàng. Ký hiệp định thương mại Việt Mỹ 2001: Thông qua nghị định sửa đổi luật thương mại. Ban hành quyết định 46/CP về kế hoạch xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2001-2005. Giảm yêu cầu kết hối từ 50% xuống 40%. Xoá bỏ hạn chế định lượng đa phương đối với tất cả các doãng thuế của các nhóm mặt hàng: rượu, clinke, giấy, gạch lát, kính xây dựng, một số loại thép và dầu thực vật, Ký hiệp định khung ACFTA 2002: Đề ra danh mục thuế suất. Nghị quyết trung ương 5 thông qua những chính sách và cơ chế thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự phát triển của khu vực tư
211
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn tài liệu khác nhau của tác giả
nhân. Giảm yêu cầu kết hối từ 40% xuống 30%. Pháp lệnh 41-2002-PL- UBTVQH10 quy định về đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Quyết định 94/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hành động phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể. 2003: Từ 1/7/2003 có thêm 1.416 mặt hàng được đưa vào danh mục cắt giảm tạm thời theo cam kết với AFTA; thực hiện chương trình non-visa với 5 nước thành viên ASEAN; ký kết các Hiệp định bảo hộ đầu tư với Nhật Bản và Hiệp định Hàng không với Hoa Kỳ. Kết thúc phiên thứ 6, 7 đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. 2004: Thông qua Luật Cạnh tranh, Luật đất đai sửa đổi, kết thúc phiên 8, 9 trong đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, Hiệp định bảo hộ đầu tư với Nhật Bản có hiệu lực. EU xoá bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Thống nhất chế độ một giá đối với hàng không và điện lực. 2005: Thông qua Luật đầu tư mới trên cơ sở Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Thông qua Luật Bảo vệ môi trường mới. 2006: Quyết định số 263/2006/QĐ-TTg ngày 15/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN giai đoạn 2006-2010. 2007: Việt Nam trở thành thành viên thứ 151 của Tổ chức Thương mại Thế giới. Ban hành Nghị quyết 08/2007/TW về một số giải pháp phát triển kinh tế nhanh và bền vững sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới và Nghị quyết 16/CP về Chương trình hành động triển khai nghị quyết 08/TW. 2008: Chính phủ đề ra các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế do khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Xây dựng chiến lược FTA.
212
Năm
Phụ lục 8: Xuất nhập khẩu, cán cân thƣơng mại giai đoạn 1991-2008
Kim
ngạch XK
Tốc độ tăng XK (%)
Tốc độ tăng NK (%)
Tỷ lệ nhập siêu/XK (%)
CCTM (triệu USD)
(triệu USD)
Kim ngạch NK (triệu USD)
1991
2.087
-13,2
-15,1
-251
12,0
2.338
40
8,7
-1,5
1992
2.580
23,7
2.540
-939
54,4
31,5
1993
2.985
15,7
3.924
-1.771
48,5
43,6
1994
4.054
35,8
5.825
-2.706
40,0
49,6
1995
5.449
34,4
8.155
-3.888
36,6
53,6
1996
7.255
33,2
11.143
-2.407
4,0
26,2
1997
9.185
26,6
11.592
-2.139
-0,8
22,8
1998
9.360
1,9
11.499
-201
2,1
1,7
1999
11.541
23,3
11.742
-1.154
33,2
8,0
2000
14.482
25,5
15.636
-1.135
3,4
7,5
2001
15.027
3,8
16.162
-3.028
21,8
18,1
2002
16.705
11,2
19.733
-5.106
27,9
25,3
2003
20.149
20,6
25.256
-5.450
26,5
20,6
2004
26504
31,5
31.954
-4.648
15,4
14,4
2005
32.233
21,6
36.881
-4.805
20,1
12,1
2006
39.605
22,1
44.410
-12.400
35,5
25,7
2007
48,400
21,5
60,800
-17.00
28,6
29,1
2008
62,900
29,5
79,900
Nguồn: [78,81].
213
Phụ lục 9: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu, thời kỳ 2001-2008
Mặt hàng
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
62.000
15.027 16.706 20.176 26.500 32.200 39.605 48.400
Tổng kim ngạch (triệu USD)
Dầu thô (nghìn tấn)
16,73 2
16.87 0
17.14 3
19.50 1
17.96 7
16.41 9
15.08 1
13.87 4
1.975
2.752
3.687
4.386
4.806
5.834
7.784
9.120
Hàng dệt may (triệu USD)
1.559
1.867
2.268
2.692
3.005
3.592
3.963
4.767
Giày dép (triệu USD)
1.778
2.023
2.200
2.360
2.741
3.358
3.792
4.510
Thuỷ sản (triệu USD)
Gạo (nghìn tấn)
3.721
3.236
3.810
4.063
5.250
4.643
4.500
4.530
595
492
672
1.075
1.442
1.708
2.178
2.638
Điện tử, máy tính (triệu USD)
335
435
567
1.139
1.517
1.933
2.364
2.929
Gỗ và sản phẩm gỗ (triệu USD)
Cao su (nghìn tấn)
308
455
432
513
587
708
719
756
Cà phê (nghìn tấn)
931
722
749
976
892
981
1.194
1.324
4.292
6.047
7.261
11.63 6
17.98 7
29.30 7
32.53 5
19.52 1
Than đá (nghìn tấn)
235
331
367
516
565
509
672
41 5
Hàng thủ công mỹ nghệ (triệu USD)
154
186
263
389
520
706
883
894
Dây điện và cáp điện (triệu USD)
44
62
82
105
109
153
214
12 7
Hạt điều (nghìn tấn)
134
153
186
261
350
710
843
45 2
Sản phẩm nhựa (triệu USD)
330
201
151
179
234
299
327
25 9
Rau quả (triệu USD)
57
78
74
111
109
86
78
11 7
Hạt tiêu (nghìn tấn)
68
77
59
104
88
106
114
109
Chè (nghìn tấn)
Nguồn: [78,81].
214
Phụ lục 10: Xuất khẩu và tăng trƣởng kinh tế Việt Nam thời kỳ 1991-2008
Năm
Tốc độ tăng XK (%)
GDP (triệu USD)
Tốc độ tăng GDP (%)
XK so GDP (%)
Kim ngạch XK (triệu USD)
1991
2.087
13,2
15.620
6,0
13,4
1992
2.580
23,7
15.620
6,0
13,4
1993
2.985
15,7
16.970
8,6
15,2
1994
4.054
35,8
19.960
8,8
20,3
1995
5.449
34,4
21.850
9,5
24,9
1996
7.255
33,2
23.880
9,3
30,4
1997
9.185
26,6
25.840
8,2
35,5
1998
9.360
1,9
27.340
5,8
34,2
1999
11.541
23,3
28.650
4,8
40,3
2000
14.482
25,5
31.216
6,7
47,3
2001
15.027
3,8
32.489
6,8
46,0
2002
16.705
11,2
35.081
7,04
47,7
2003
20.149
20,6
39.797
7,24
53,0
2004
26504
31,5
45.358
7,7
57,7
2005
32.233
21,6
53.114
7,5
60,3
2006
39.605
22,1
61.022
7,4
65,5
2007
48,400
21,5
71.215
8,48
67,9
2008
62,900
29,5
89.040
6,18
70,0
Nguồn: [78,81]
215
Phụ lục 11: So sánh năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam và Trung
Quốc
HS
Mô tả hàng hoá
RCA Việt Nam
RCA Trung Quốc
2001 2005 2001 2005
0 Tất cả các sản phẩm
0,5
0,3
0,9
0,3
01 Động vật sống
0,2
02 Thịt và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ
0,4
0,2
0,5
03 Cá và động vật giáp xác, động vật thân mềm và động
11,8 10,5
1,4
1
vật thuỷ sinh không xương sống khác...
04 Sữa và các sản phẩm từ sữa; trứng chim và trứng gia
0,2
0,2
0,1
0,1
cầm;Mật ong tự nhiên
05 Các sản phẩm gốc động vật
2,5
0,7
4,4
2,6
0,2
0,2
0,1
0,1
06 Cây sống và các loại cây trồng khác; củ, rễ và các loại tương tự; cành hoa rời và các loại cành lá
07 Rau và một số loại củ, thân củ, rễ ăn được
1,3
1,1
1,8
1,2
08 Quả và quả hạch ăn được; vỏ quả thuộc chi cam quýt
2,9
3,1
0,3
0,3
hoặc các loại dưa...
09 Cà phê, chè, chè Paragoay và các loại gia vị...
21,6 17,3
1
0,7
4,6
6,8
0,7
0,4
10 Ngũ cốc
11 Các sản phẩm xay xát; malt; tinh bột; inulin; gluten
1,3
2,6
0,4
0,3
lúa mì...
12 Hạt và quả có dầu; các loại ngũ cốc, hạt và quả khác;
0,9
0,4
1
0,6
13 Nhựa cánh kiến đỏ; gôm, nhựa cây, các chất nhựa và
0,7
0,3
0,7
0,4
các chất chiết xuất từ thực vật
8,3
4,1
2,2
1,6
14 Nguyên liệu thực vật dùng để tết bện; các sản phẩm thực vật chưa được chi tiết hoặc ghi ở nơi khác...
15 Mỡ và dầu động vật hoặc thực vật và các sản phẩm
0,5
0,1
0,1
0,1
tách từ chúng
16 Các chế phẩm từ thịt, cá hay động vật giáp xác, động
6,2
5,8
2,9
2,3
vật thân mềm
17 Đường và các loại kẹo đường
0,4
0,1
0,2
0,2
216
0
0
0,1
0,1
18 Ca cao và các chế phẩm từ ca cao 19 Chế phẩm từ ngũ cốc, bột, tinh bột hoặc sữa; các loại
0,8
0,8
0,5
0,3
bánh...
20 Rau, quả, quả hạch và các phần ăn được khác của cây
0,6
0,8
1,7
1,3
21 Chất chiết suất, tinh chất
0,9
0,4
0,5
0,3
22 Đồ uống, rượu và giấm
0,1
0,1
0,4
0,2
23 Bột mịn, bột thô và bột viên, từ thịt hoặc phụ phẩm
0,2
0,1
0,3
0,2
dạng thịt sau giết mổ
24 Thuốc lá đã chế biến và các chất thay thế thuốc lá lá
0,2
0,2
0,4
0,3
đã chế biến khác
25 Muối; lưu huỳnh; đất và đá; thạch cao, vôi và xi
0,4
0,7
1,8
1,1
măng.
26 Quặng sắt và tinh quặng sắt
0,6
0,7
0,1
0,2
27 Mineral fuels,
2,5
1,8
0,3
0,2
28 Hoá chất vô cơ; các hợp chất vô cơ hay hữu cơ của
0,1
0,1
1,6
1,3
kim loại quí, kim loại đất hiếm
0,6
29 Hoá chất hữu cơ
0,2
0,1
0,7
0,1
30 Sản phẩm thuốc
0,1
0
0
0,5
31 Phân bón
0,6
0,2
0
32 Thuốc nhuộm
0
0
0,8
0,6
33 Tinh dầu, các chất tựa nhựa; nước hoa, mỹ phẩm
0,2
0,3
0,3
0,3
hoặc các chế phẩm dùng cho vệ sinh
34 Xà phòng, chất hữu cơ hoạt động bề mặt, các chế
0,6
0,7
0,5
0,4
phẩm dùng để giặt, rửa,
35 Casein, các muối của casein và các chất dẫn xuất
0,2
0,3
0,4
0,5
casein khác
36 Diêm, chất nổ
0,2
0,1
4,3
2,4
37 Các tấm dùng chụp ảnh (dùng thay phim) và phim
0,1
0,1
0,6
0,7
chụp ảnh dạng phẳng
0,1
0,1
0,8
0,5
38 Các sản phẩm hoá chất
0,2
0,3
0,8
0,7
39 Plastic và các sản phẩm bằng plastic...
1,5
1,6
0,7
0,7
40 Cao su và các sản phẩm bằng cao su...
0,3
0,6
0,9
0,8
41 Da sống (trừ da lông) và da thuộc....
217
42 Các sản phẩm bằng da thuộc
5,3
5,1
6,3
4,3
43 Da lông và da lông nhân tạo; các sản phẩm làm từ da
0,1
0,1
2,8
4,5
lông và da lông nhân tạo
44 Gỗ và các mặt hàng bằng gỗ; than từ gỗ
0,9
1
0,8
0,9
45 Lie và các sản phẩm bằng lie
0
0,1
0,1
0,1
24,4 21,2 11,7
8,4
Sản phẩm làm từ rơm, cỏ giấy hoặc từ các loại vật liệu tết bện khác
46
47 Bột giấy từ gỗ hoặc từ vật liệu xơ sợi xenlulo khác;
0
0
0
0
giấy loại hoặc cáctông
48 Giấy và các tông; các sản phẩm làm bằng bột giấy,
0,2
0,2
0,3
0,4
bằng giấy hoặc bằng các tông
49 Sách, báo, tranh ảnh và các sản phẩm khác của công
0,1
0,1
0,4
0,4
nghiệp in
50 Tơ tằm
2,7
2,8
8,6
5,7
51 Lông cừu, lông động vật loại mịn hoặc loại thô
0
0,1
2,1
1,9
52 Bông
0,3
0,4
2,3
2,1
53 Xơ dệt gốc thực vật khác; sợi giấy và vải dệt thoi từ
0,7
1
3,8
2,3
sợi giấy...
54 Sợi filament nhân tạo
0,6
0,7
1,2
2,2
55 Sợi tơ tổng hợp
0,7
0,1
2,7
2,1
0,9
0,8
0,8
0,8
Mền xơ bằng nguyên liệu dệt và các sản phẩm của nó; các loại xơ dệt
56
57 Thảm và các loại hàng dệt trải sàn khác
0,3
0,3
1,4
1,1
58 Các loại vải dệt thoi đặc biệt; các loại vải dệt chần sợi
0,4
0,4
2,3
3,2
vòng; hàng ren; thảm
59 Các loại vải dệt đã được ngâm tẩm, tráng, phủ hoặc
0,1
0,2
0,8
1,4
ép lớp
60 Các loại hàng dệt kim hoặc móc
0,1
0,3
2,1
2,5
61 Quần áo và hàng may mặc phụ trợ, dệt kim hoặc móc
1,6
4,1
3,7
3,3
62 Quần áo và hàng may mặc phụ trợ, không dệt kim
5,2
6,4
4,2
3,2
hoặc móc...
3,2
2,6
4,5
4,1
63 Các mặt hàng dệt đã hoàn thiện khác; bộ vải; Quần áo dệt cũ và các loại hàng dệt cũ khác; vải vụn...
64
4,8
3,8
Giày, dép và các sản phẩm tương tự; các bộ phận của 21,7 21,8
218
các sản phẩm trên…
65 Mũ và các vật đội đầu khác và các bộ phận của
4,3
9,4
4,6
4,4
chúng..
66 Ô, dù che, ba toong, gậy tay cầm có thể chuyển thành
0,3
0,7
10,3
7,9
ghế, roi gậy điều khiển
67 Lông vũ và lông tơ chế biến, các sản phẩm bằng lông
0,5
0,3
8,7
6,2
vũ hoặc lông tơ
68 Sản phẩm làm bằng đá, thạch cao, xi măng, amiăng,
0,4
0,6
1,5
1,3
mica hoặc các vật liệu tương tự...
69 Đồ gốm, sứ
3,5
3,2
2
2,2
70 Thuỷ tinh và các sản phẩm bằng thuỷ tinh
0,3
0,3
1
1,3
71 Ngọc trai tự nhiên, nuôi cấy, đá quí
0,3
0,2
0,5
0,4
72 Gang và thép
0
0,1
0,5
0,7
73 Các sản phẩm bằng sắt hoặc thép...
0,3
0,4
1,5
1,5
74 Đồng và các sản phẩm bằng đồng...
0,1
0
0,4
0,5
75 Niken và các sản phẩm bằng niken...
0
0
0,1
0,2
76 Nhôm và các sản phẩm bằng nhôm...
0
0,1
0,5
0,8
78 Chì và các sản phẩm bằng chì...
0,1
0,5
3,6
2,1
79 Kẽm và các sản phẩm bằng kẽm.
0,2
0,3
2,6
0,6
80 Thiếc và các sản phẩm bằng thiếc...
3,8
1,5
4,7
0,9
81 Kim loại cơ bản khác; gốm kim loại; các sản phẩm
0,4
0,4
2,4
2,5
của chúng
82 Dụng cụ, đồ nghề, dao, kéo và bộ đồ ăn làm từ kim
0,5
0,8
1,9
1,8
loại cơ bản
83 Hàng tạp hoá làm từ kim loại cơ bản...
0,3
0,4
1,6
1,8
84 Lò phản ứng hạt nhân, nồi hơi, máy và trang thiết bị
0,1
0,2
0,9
1,4
cơ khí; các bộ phận của chúng...
85 Máy điện và thiết bị điện
0,4
0,4
1,3
1,7
0
0
4,4
3,7
86 Đầu máy xe lửa hoặc xe điện, thiết bị chạy trên đường xe lửa hay xe điện và bộ phận của chúng;
87 Xe cộ trừ thiết bị chạy trên đường xe lửa hoặc xe
0,1
0,1
0,2
0,2
điện, và các bộ phận và phụ tùng của chúng
88 Phương tiện bay, tàu vũ trụ và các bộ phận của chúng
0
0
0,1
0,1
219
89 Tàu thuỷ, thuyền và các kết cấu nổi...
0
0
1
0,9
0,1
0,2
0,8
1,1
90
Dụng cụ, thiết bị và máy quang học, nhiếp ảnh, điện ảnh, đo lường, kiểm tra độ chính xác, y tế hoặc phẫu thuật
91 Đồng hồ cá nhân và đồng hồ thời gian khác và các bộ
0,4
0,2
1,9
1,1
phận của chúng...
92 Nhạc cụ; các bộ phận và phụ tùng
0,4
0,4
2,6
2,6
93 Vũ khí và đạn; các bộ phận và phụ tùng của chúng..
0
0
0,1
0,1
94 Đồ nội thất (giường, tủ, bàn ghế...); bộ đồ giường,
2,6
4,9
2,2
2,4
đệm, khung đệm, nệm
95 Đồ chơi, dụng cụ dùng cho các trò chơi và thể thao
0,9
0,8
4,8
4,2
96 Các sản phẩm công nghiệp chế tạo khác
1,4
1,4
2,8
2,7
97 Các tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm và đồ cổ...
0,1
0,1
0
0
99 Các mặt hàng khác
0,1
0,1
0,1
0,1
Nguồn: Trung tâm thương mại thế giới (ITC), theo số liệu của Comtrade
220
Phụ lục 12: Thay đổi về cơ cấu nhập khẩu của Trung Quốc với Việt
Nam và các nƣớc ASEAN
2002
2007
1996
Hàng công nghiệp
Hàng công nghiệp
Hàng công nghiệp
Nông sản và nông sản chế biến
Chế phẩm quặng, nguyên liệu thô
Nông sản và nông sản chế biến
Chế phẩm quặng, nguyên liệu thô
Nông sản và nông sản chế biến
Chế phẩm quặng, nguyên liệu thô
Thái Lan
49,1
48,2
1,3
76,1
17,0
6,4
75,8
18,2
6,0
Malaysia
60,8
33,9
5,0
79,3
13,1
7,6
76,1
14,3
9,6
Philippin
44,4
26,0
29,5
93,5
3,1
3,4
91,2
4,3
4,5
Indonesia
35,8
17,0
46,2
53,8
25,8
20,1
60,4
25,4
14,2
Brunay
na
na
na
na
na
100,0
na
na
100,0
Singapo
59,2
1,6
39,1
84,4
1,1
14,4
81,8
0,9
17,3
Việt Nam
4,2
41,7
53,4
11,2
18,1
68,8
12,3
20,1
67,6
Miama
3,6
87,9
8,5
4,0
84,9
10,1
6,2
82,4
11,4
Lào
3,8
95,2
2,1
96,4
3,2
96,8
na
na
na
na
na
na
Cămpuchia
58,3
41,1
58,5
41,4
54,3
45,7
50,4
22,4
26,6
74,2
12,3
13,2
75,8
10,0
14,2
Tổng ASEAN
Châu Á
86,8
4,1
8,1
87,7
2,7
9,0
85,7
3,1
11,2
Thế giới
82,7
8,0
7,3
83,7
6,1
9,3
84,1
5,2
10,7
Nguồn: Thống kê thương mại của Liên Hợp Quốc
221