BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
NGUYỄN XUÂN TUẤN
NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT LIDAR
ỨNG DỤNG KHẢO SÁT PHÂN BỐ NHIỆT ĐỘ VÀ
MẬT ĐỘ KHÍ QUYỂN
LUẬN ÁN TIẾN SỸ VẬT LÝ
HÀ NỘI – 2016
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
……..….***…………
NGUYỄN XUÂN TUẤN
NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT LIDAR
ỨNG DỤNG KHẢO SÁT PHÂN BỐ NHIỆT ĐỘ VÀ
MẬT ĐỘ KHÍ QUYỂN
LUẬN ÁN TIẾN SỸ VẬT LÝ
Chuyên ngành: Quang học
Mã số: 62 44 01 09
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Đinh Văn Trung
2. PGS. TS. Nguyễn Thanh Bình
Hà Nội – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Luận án tiến sĩ Vật lý với tiêu đề “Nghiên cứu và phát triển kỹ thuật LIDAR ứng
dụng khảo sát phân bố nhiệt độ và mật độ khí quyển” được thực hiện tại Học viện Khoa
học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học-Công nghệ Việt Nam dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS Đinh Văn Trung và PGS. TS. Nguyễn Thanh Bình.
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận án là của
riêng tôi và nhóm nghiên cứu do PGS.TS Đinh Văn Trung là người hướng dẫn chính.
Các số liệu và kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố bởi bất kì
tác giả khác.
Tôi cũng xin cam đoan tôi không cố ý nếu có thiếu sót trong việc trích dẫn các kết
quả khoa học từ các bài báo khác trong nội dung luận án. Nếu có thiếu sót nào tôi xin
đính chính ngay.
Cuối cùng tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn nếu có sự thiếu trung thực đối với
các số liệu và kết quả trình bày trong luận án này.
Tác giả luận án
NCS. Nguyễn Xuân Tuấn
LỜI CẢM ƠN
Đề hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh và luận án Tiến sĩ tại Học viện Khoa
học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học-Công nghệ Việt Nam tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy hướng dẫn, thầy giảng dạy, cán bộ trong Viện
Vật lý, cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng nghiệp trong Viện, tôi xin chân thành
cảm ơn tất cả sự hướng dẫn và sự giúp đỡ này.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đinh Văn Trung người thầy, người
hướng dẫn trực tiếp của tôi. Người đã truyền cho tôi lòng say mê khoa học, kinh nghiệm
nghiên cứu quý báu cũng như phong cách làm việc chuyên nghiệp.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Thanh Bình, người thầy, người
đồng hướng dẫn của tôi. Người đã có những chỉ dạy sâu sắc và những kinh nghiệm quý
giá trong công việc nghiên cứu của tôi.
Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới TS. Bùi Văn Hải, TS. Đào Duy Thắng, Th.S
Nguyễn Đình Hoàng và rất nhiều các đồng nghiệp khác trong Viện Vật lý đã cộng tác,
giúp đỡ, chia sẽ với tôi trong công việc nghiên cứu.
Tôi cũng xin cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu và các ý kiến phản biện của
các thành viên trong hội đồng chấm luận án cấp cơ sở và hai phản biển kín để bản luận
án được hoàn thiện hơn.
Tôi cũng xin cảm ơn Trường THPT Đặng Thai Mai, Sở GD-ĐT Thanh Hóa nơi
tôi đang công tác đã cho phép và tạo điều kiện cho tôi được tham gia chương trình nghiên
cứu sinh này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận án
NCS. Nguyễn Xuân Tuấn
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Anh
Tiếng Việt
Ký hiệu
light detection and ranging
Lidar
World Meteology Organization
Tổ chức khí tượng thế giới
WMO
Light Amplification by Stimulated
Khuếch đại ánh sáng bằng
Laser
Emission of Radiation
phát xạ cưỡng bức
Photomultiplier Tube
Ống nhân quang điện
PMT
Avalanche photodiode
Photo diode thác lũ
APD
Analog-to-digital converter
Bộ biến đổi tương tự-số
ADC
Field of view
Thị trường
FOV
DMLP
Dichroic mirror longpass
Gương lưỡng sắc
OD
Optical Depth
Độ sâu quang học
FWHM
Full width at half maximum
Độ rộng ở phần nữa cực đại
Interference Filter
Phin lọc giao thoa
IF
Neutral Density
Phin lọc trung tính
ND
Lens
Thấu kính
L
Intergrated Circuit
Vi mạch tích hợp
IC
BNC
Bayonet Neill–Concelman
Cáp đồng trục
Universal Serial Bus
Cổng kết nối
USB
Signal Noise Ratio
Tỉ số tín hiệu trên nhiễu
SNR
Signal Induced Noise
Nhiễu sinh tín hiệu
SIN
Transitor-Transitor Logic
TTL
Metal oxide semiconductor field
MOSFET
Transitor hiệu ứng trường
effect transistor
MỤC LỤC
Danh mục hình …………………………………………………………………..….....i
Danh mục bảng……………………………………………………………………...….v
Mở đầu …………………………………………………………………………………1
Chương 1
Nguyên lí của lidar xác định mật độ phân tử, nhiệt độ khí quyển ………….……6
1.1 Nguyên lí chung của Lidar…………………………………………………………6
1.2 Khí quyển Trái đất …………………………………………………………………7
1.2.1 Cấu trúc của khí quyển ……………………………………………………7
1.2.2 Thành phần của khí quyển ………………………………………………10
1.3 Tương tác của ánh sáng với khí quyển ……………………………………………10
1.3.1 Tán xạ Rayleigh và sự dập tắt của phân tử ………………………………11
1.3.2 Tán xạ Mie và sự dập tắt của sol khí ……………………………………..13
1.3.3 Tán xạ Raman của phân tử ……………………………………………….14
1.4 Nguyên lí của lidar xác định phân bố nhiệt độ ………………………………..…...16
1.4.1 Xác định phân bố nhiệt độ…………………………………………………..16
1.4.2 Xác định phân bố nhiệt độ từ lidar Rayleigh ……………………….………18
1.4.2.1 Xác định mật độ phân tử khí quyển ……………………………..18
1.4.2.2 Xác định hệ số tán xạ ngược của sol khí ………………………...20
1.4.3 Xác định phân bố nhiệt độ từ lidar Raman ………………………………..22
1.4.4.1 Xác định mật độ phân tử …………. …………………………..…22
1.4.4.2 Xác định hệ số suy hao của sol khí …………………………..…..23
1.4.4 Xác định phân bố nhiệt độ từ lidar đàn hồi-Raman kết hợp ………………24
1.5 Tổng kết chương 1 ……………………………………………………………….…25
Chương 2
Thiết kế và xây dựng các hệ lidar …………………………………….…………..….27
2.1 Hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman ……………………………………………….…...27
2.1.1 Mở đầu ………………………………………………………………….....27
2.1.2 Mô tả hoạt động ………………………………………………………..….30
2.1.3 Đặc trưng ……………………………………………………………….....33
2.1.3.1 Khối phát ……………………………………………………..….33
2.1.3.2 Khối nhận …………………………………………………..…....33
2.1.4 Tối ưu sự sắp xếp cấu hình của hệ lidar ………………………………..…38
2.1.5 Đánh giá độ tin cậy và độ ổn định của hệ lidar …………………….…….41
2.1.6 Đánh giá tỉ số tín hiệu /nhiễu ……………………………………………..44
2.1.7 Thảo luận ………………………………………….………………..……..47
2.2 Hệ lidar Rayleigh - Raman ………………………………………….………48
2.2.1 Phát triển module gated-ống nhân quang điện ……………………………48
2.2.1.1 Mở đầu …………………………………………………….….…48
2.2.1.2 Thiết kế và hoạt động của module gated-PMT ………………….51
2.2.2 Hoạt động và đặc trưng của hệ lidar Rayleigh - Raman ……………….…55
2.2.3 Các phép đo đánh giá ………………………………………………….….58
2.2.4 Thảo luận ………………………………….…………………………...….65
2.3 Kết luận chương 2 ……………………………………………………………….…66
Chương 3
Xác định phân bố mật độ và nhiệt độ khí quyển ……………………………..….…68
3.1 Mở đầu ………………………………………………………………………….….68
3.2 Phép đo nhiệt độ dùng lidar Rayleigh ………………………………………….….70
3.2.1 Xử lý dữ liệu lidar ………………………………………………………70
3.2.1.1 Sơ đồ thuật giải nhiệt độ ………………………………………..71
3.2.1.2 Xác định thừa số tín hiệu lidar hiệu dụng ………………………74
3.2.1.3 Xác định phân bố mật độ phân tử khí quyển …………………….80
3.2.1.4 Xác định phân bố nhiệt độ khí quyển ……………………………84
3.2.2 Phân tích sai số nhiệt độ của lidar Rayleigh …………….………………..86
3.2.3 Thảo luận ………………………………………….………………...……88
3.3 Phép đo nhiệt độ dùng lidar Raman ………………………………………………..89
3.3.1 Xử lý dữ liệu lidar Raman ……………………………………………....90
3.3.1.1 Sơ đồ thuật giải nhiệt độ ………………………………………...90
3.3.1.2 Xác định tín hiệu lidar Raman hiệu dụng …………………….…92
3.3.1.3 Xác định mật độ phân tử khí quyển …………………………..…95
3.3.1.4 Xác định phân bố nhiệt độ khí quyển ………………………...…99
3.2.2 Phân tích sai số nhiệt độ của lidar Raman ………………...……………101
3.3.2 Thảo luận ………………………………………..…………………..….103
3.4 Phép đo nhiệt độ dùng lidar đàn hồi-Raman kết hợp …………………………..…104
3.4.1 Xử lý dữ liệu lidar đàn hồi-Raman kết hợp ……………………………105
3.4.1.1. Sơ đồ thuật giải nhiệt độ ……………………………………....105
3.4.1.2 . Xác định tín hiệu lidar đàn hồi hiệu dụng ……………………..107
3.4.1.3 Xác định mật độ phân tử khí quyển ……………………………110
3.4.1.4 Xác định phân bố nhiệt độ khí quyển ……………………….…112
3.3.2.5 Phân tích sai số nhiệt độ lidar đàn hồi-Raman kết hợp …….…114
3.4.2 Thảo luận ………………………………………….………………….…116
3.5 Kết luận chương 3 ………………………………………………………………...116
Chương 4
Nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng khí quyển tại Hà nội …………...……………..120
4.1 Mở đầu ………………………………………………………………...……….…120
4.2 Nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng tầng đối lưu ………………………………..…121
4.2.1. Cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ của tầng đối lưu…………………………….….121
4.2.2. Mối liên hệ giữa lớp đối lưu hạn và mây Ti tầng cao…………………. ……....127
4.3 Nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng tầng bình lưu khí quyển ………………………128
4.4 Kết luận chương 4 …………………………………………………………..…….131
Kết luận ……………………………………………………………………………....132
Danh mục các công trình khoa học đã công bố ……………………………………134
Tài liệu tham khảo ………………………………………………………………..…136
Phụ lục…………………………………………………………………………………i
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Nguyên lí cơ bản của lidar
Hình 1.2. Cấu trúc của khí quyển theo độ cao
Hình 1.3. Phân bố mật độ ô zôn của bán cầu Bắc
Hình 1.4. Sự biến đổi độ cao của lớp đối lưu hạn từ cực Bắc tới xích đạo
Hình 1.5. Thành phần khí quyển tính theo thể tích
Hình 1.6.
Hình 1.7. Sự phụ thuộc cường độ tán xạ Rayleigh vào góc tán xạ của phân tử [40]. Sự phụ thuộc của cường độ tán xạ Mie vào góc tán xạ ở bước sóng 532
nm với các hạt có bán kính khác nhau. , (a): 0.1 µm, (b): 1 µm, (c): 10
µm, (d): 50 µm, (e): 100 µm, (f): 1000 µm.
Hình 1.8 Phổ tán xạ Raman của một vài phân tử khí quyển ứng dụng trong lidar ở
các bước sóng 355nm, 532 nm ở điều kiện áp suất thường và nhiệt độ
300 0K.
Hình 2.1. Cấu trúc cơ bản của một hệ lidar.
Hình 2.2. Cấu hình đơn tĩnh lưỡng trục của một hệ lidar.
Hình 2.3 Sơ đồ khối của hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman.
Hình 2.4. Ảnh chụp hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman đang hoạt động.
Hình 2.5. Đặc trưng truyền qua và phản xạ của DMLP567.
Hình 2.6. Đặc trưng của FL532-3 nm (a), FL550 nm longpass (b), FL610-10 nm
(c).
Hình 2.7. Đặc trưng độ nhạy quang của cathode và độ khuếch đại của H6780-20.
Hình 2.8. Ảnh của module ống nhân quang điện H6780-20.
Hình 2.9. Sơ đồ mạch điện (a) và ảnh (b) của bộ khuếch đại.
Hình 2.10. Giao diện của phần mềm xử lí và lưu giữ tín hiệu lidar.
Hình 2.11. Phân bố hàm chồng chập của hệ lidar Raman-đàn hồi kết hợp.
Hình 2.12. Tín hiệu Raman tích phân trong 10 phút (a) và tín hiệu Raman hiệu chỉnh
khoảng cách so với mật độ phân tử Ni tơ từ mô hình MSISE-90 (b).
Hình 2.13. Tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách của 6 file liên tiếp theo
thang lôgarít.
Hình 1.14. Tín hiệu lidar đàn hồi được tích phân trong 10 phút (a) và tín hiệu lidar
đàn hồi hiệu chỉnh khoảng cách (logarit) so sánh với mật độ phân tử của
thám không (b).
Hình 2.15. Tỉ số tín hiệu /nhiễu với độ phân giải không gian khác nhau của tín hiệu
lidar đàn hồi (a) và lidar Raman (b) tích phân trong 10 phút.
Hình 2.16. Tỉ số tín hiệu /nhiễu với các độ phân giải thời gian khác nhau của tín hiệu
lidar đàn hồi (a) và tín hiệu lidar Raman (b) với độ phân giải không gian
là 24 m.
Hình 2.17. Minh họa hiệu tượng nhiễu sinh tín hiệu của ống nhân quang điện.
Hình 2.18. Sơ đồ khối của module gated-ống nhân quang điện.
Hình 2.19. Sơ đồ mạch điện của mạch tách sóng và làm trễ.
Hình 2.20. Sơ đồ của mạch phát xung gate và mạch chia thế của PMT.
Hình 2.21. Ảnh của module gated-ống nhân quang điện, (a) đơn vị tạo xung gate và
chia thế, (b) đơn vị tách sóng và làm trễ xung cùng các nguồn nuôi.
Hình 2.22. Sơ đồ khối của hệ lidar tích phân nghiên cứu khí quyển tầng cao.
Hình 2.23. Một phân bố tín hiệu lidar đo được của hệ lidar Rayleigh-Raman.
Hình 2.24. Kết quả của phép đo đánh giá ảnh hưởng của nhiễu sinh ra tín hiệu lên
module gated-ống nhân quang điện, (a): kết quả đo trong trường hợp mây
đậm đặc, (b): tín hiệu ở trên điểm gate ở hai kênh Rayleigh và Raman
trong đó kênh Rayleigh được nhân lên 3 lần.
Hình 2.25 Tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách từ module gated-PMT.
Hình 2.26. Tín hiệu hiệu chỉnh khoảng cách của 10 file liên tiếp dùng module gated-
PMT.
Hình 2.27 Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu lidar (a) và tỉ số tín hiệu /nhiễu (b)
vào độ phân giải thời gian của lidar Rayleigh với độ phân giải không gian
là 24 m.
Hình 2.28 Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu lidar (trái) và tỉ số tín hiệu /nhiễu
(phải) vào độ phân giải không gian của lidar Rayleigh với độ phân giải
thời gian là 10 phút.
Hình 3.1. Sơ đồ tổng quát của thuật giải nhiệt độ khí quyển từ lidar Rayleigh.
Hình 3.2. Mật độ phân tử ozone (a) và hệ số truyền qua một vòng khí quyển của
ozone (b) tại tọa độ lân cận với Hà nội (nguồn: http://igaco-
o3.fmi.fi/ACSO/
Hình 3.3. Tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách (thang logarithm) (a), và độ chênh
lệch tín hiệu lidar (b) trước và sau khi hiệu chỉnh bởi hấp thụ của ô zôn.
Hình 3.4. Tỉ số tán xạ tán xạ tương đối Raer(z) của sol khí, sử dụng mật độ mô hình
khí quyển (màu đen), sử dụng mật độ tính từ tín hiệu lidar không lặp
(mầu đỏ) và lặp (màu xanh).
Hình 3.5. Hệ số truyền qua một vòng khí quyển của sol khí xác định từ lidar, (đen):
sử dụng mật độ mô hình, (đỏ): sử dụng mật độ lidar không lặp, (xanh):
sử dụng mật độ lidar và lặp.
Hình 3.6. Tín hiệu lidar đo được (đỏ) và tín hiệu lidar hiệu dụng (xanh): (a), độ lệch
tương đối giữa tín hiệu đo được và tín hiệu lidar hiệu dụng (b).
Hình 3.7. Mật độ từ tín hiệu lidar đo được (đỏ) và tín hiệu lidar hiệu dụng (xanh).
Hình 3.8. Độ lệch mật độ tương đối (theo %) giữa tín hiệu đo được và hiệu dụng
(a), giữa lidar và mô hình (b).
Hình 3.9. Sai số mật độ phân tử Rayleigh (a), hệ số truyền qua một vòng của phân
mol(z) từ tín hiệu lidar Rayleigh (b).
tử T2
Hình 3.10. Phân bố nhiệt độ xác định từ tín hiệu lidar Rayleigh đo được (xanh) và
từ tín hiệu lidar hiệu dụng (đen) và phân bố nhiệt độ mô hình MSISE-90
(đỏ).
Hình 3.11. Ảnh hưởng của giá trị nhiệt độ tham khảo lên phân bố nhiệt độ. Đường
đỏ: nhiệt độ tham khảo ban đầu, xanh lá cây: ±5%, xanh da trời: ±1%.
Hình 3.12. Sai số nhiệt độ lidar Rayleigh do sol khí (đỏ), hấp thụ ozone (tím), Tref
(xanh da trời), nhiễu (xanh lá cây) và lỗi tổng cộng (đen).
Hình 3.13. Sơ đồ tổng quát của thuật giải nhiệt độ khí quyển từ tín hiệu lidar Raman.
Hình 3.14. Mật độ phân tử ozone (a) và hệ số truyền qua một vòng khí quyển (b) của
ozone trong tầng đối lưu.
Hình 3.15. Hệ số dập tắt của sol khí αaer(z) (a) và hệ số truyền qua khí quyển một
vòng của sol khí xác định bằng tín hiệu lidar Raman tích phân trong 1h.
Hình 3.16. Tín hiệu lidar Raman đo được (đỏ) và Raman hiệu dụng (xanh) 10 phút:
(a), độ lệch tương đối giữa tín hiệu Raman đo được và hiệu dụng (b).
Hình 3.17. Mật độ phân tử Ni tơ xác định từ lidar Raman (a), đỏ: không lặp, xanh:
lặp, đen: thám không vô tuyến, hệ số truyền qua môt vòng khí quyển của
phân tử (b).
Hình 3.18. Mật độ phân tử Ni tơ được xác định từ tín hiệu lidar Raman (a), đỏ: đo
được và xanh: hiệu dụng, lỗi của mật độ phân tử Ni tơ (b).
Hình 3.19 Phân bố mật độ phân tử Ni tơ (a) và độ chênh lệch mật độ lidar-thám
không từ lidar Raman lúc 22 giờ 01 phút ngày 26 tháng 6 năm 2013 tại
Hà nội (b).
Hình 3.20. Phân bố nhiệt độ Raman dùng phương pháp lặp (xanh) và không lặp (đỏ)
so sánh với phép đo thám không vô tuyến (đen).
Hình 3.21. Phân bố nhiệt độ từ tín hiệu lidar Raman đo được (đỏ) và Raman hiệu
dụng (xanh) và thám không vô tuyến (đen).
Hình 3.22. Sai số nhiệt độ của lidar Raman (a) và sai số tính theo % (b).
Hình 3.23. Tín hiệu lidar từ phép đo lidar đàn hồi-Raman kết hợp, (a) là tín hiệu lidar
thô, (b) là tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách.
Hình 3.24. Sơ đồ thuật giải nhiệt độ tổng quát của lidar đàn hồi-Raman kết hợp.
Hình 3.25. Hệ số tán xạ ngược của phân tử, sol khí, tổng cộng (a) và tỉ số tán xạ
ngược tương đối của sol khí Raer(z) (b).
Hình 3.26. Hệ số dập tắt (a) và hệ số truyền qua một vòng của sol khí Taer(z) (b).
Hình 3.27. Tín hiệu lidar đàn hồi đo được và hiệu chỉnh sol khí (a), tín hiệu lidar đàn
hồi đo được và hiệu dụng hiệu chỉnh khoảng cách (b).
Hình 3.28. Mật độ phân tử khí quyển từ tín hiệu lidar (a), lỗi mật độ (b).
Hình 3.29 Độ chênh lệch mật độ phân tử giữa lặp và không lặp(a) và lidar và thám
không vào 20 giờ 10 phút ngày 2 tháng 12 năm 2011 tại Hà nội.
Hình 3.30. Phân bố nhiệt độ khí quyển từ tín hiệu lidar kết hợp đàn hồi-Raman.
Hình 3.31. Độ chênh lệch nhiệt độ tương đối dùng phương pháp lặp và không lặp
(a), giữa lidar và thám không (b).
Hình 3.31. Sai số nhiệt độ của lidar kết hợp đàn hồi-Raman (a) và sai số nhiệt độ
tính theo % (b).
Hình 4.1. Phân bố nhiệt độ và sai số nhiệt độ từ lidar kết hợp đàn hồi-Raman vào
20 giờ 10 phút ngày 2 tháng 12 năm 2011 tại Hà nội.
Hình 4.2. Một số phân bố nhiệt độ trong tháng 12 năm 2011 từ lidar kết hợp đàn
hồi-Raman với các ngày được cho ở trên hình.
Hình 4.3. Một số phân bố nhiệt độ vào mùa hè tại Hà nội năm 2012 như: 25 tháng
4 và 16 tháng 5, vào mùa thu như: 31 tháng 10 và 12 tháng 11.
Hình 4.4. Một số phân bố nhiệt độ của tháng 6 năm 2013 từ lidar Raman (a): ngày
8/6, (b): ngày 12 /6, (c): ngày 19 /6, (d): ngày 26 /6.
Hình 4.5. Phân bố nhiệt độ và sai số từ lidar Raman vào ngày 26 tháng 6 năm 2013
tại Hà nội.
Hình 4.6. Phân bố nhiệt độ và phân bố cường độ tín hiệu hiệu chỉnh khoảng cách
(thang ln) cho thấy mối liên hệ giữa lớp đối lưu hạn và lớp mây Ti tầng
cao.
Hình 4.7. Phân bố nhiệt độ và sai số từ lidar Rayleigh tại Hà nội ngày 26/6/2013.
Hình 4.8. Một số phân bố nhiệt độ tháng 6/2013 từ lidar Rayleigh (a): 20 h 55 phút
ngày 8, (b): 23 giờ 17 phút ngày 12, 21 giờ 13 phút ngày 19, 22 giờ 01
phút ngày 26.
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 Sự phân tầng của khí quyển [46]
Bảng 2.1 Các thông số chính của laser Nd:YAG @ 532 nm [69]
Bảng 2.2 Một vài thông số chính của ống nhân quang điện H6780-20 [20]
Bảng 2.3 Các thông số chính của oscilloscopes picoscope 5204 [19]
Bảng 2.4. Các thông số chính của hệ lidar đàn hồi-Raman kết hợp.
Bảng 2.5 Đặc trưng kỹ thuật của hệ lidar Rayleigh-Raman.
Bảng 2.6 So sánh hệ lidar Rayleigh-Raman ở Việt Nam với một số hệ lidar khác
Mở đầu
Nhiệt độ và mật độ phân tử khí quyển là hai tham số then chốt cần được xác
định trong nghiên cứu khí quyển. Bởi vì chúng đóng vai trò quan trọng trong nhiều
lĩnh vực như: Vật lý khí quyển, Khí tượng, Khí hậu, Hóa học khí quyển... Nhiệt độ
là thông số động lực mô tả trạng thái tức thời của khí quyển có tính địa phương nên
nó xuất hiện trong các bản tin dự báo thời tiết hàng ngày. Phân bố nhiệt độ khí quyển
thẳng đứng chỉ ra cấu trúc và đặc trưng của khí quyển tại nơi khảo sát. Hơn nữa, nhiệt
độ và mật độ là hai tham số đầu vào cơ bản trong các quá trình mô phỏng và mô hình
hóa dự báo thời tiết và khí hậu.
Phân bố nhiệt độ của tầng bình lưu khí quyển (stratosphere) có liên hệ mật
thiết tới nồng độ khí ô zôn (ô zôn) trong tầng khí quyển này. Bởi vì nồng độ khí ô
zôn được cho là yếu tố gây ra sự gia tăng nhiệt độ trong tầng khí quyển này. Sự suy
giảm nồng độ khí ô zôn là một vấn đề có tính thời sự trong nghiên cứu khí quyển. Vì
vậy, khuynh hướng của phân bố nhiệt độ ở tầng bình lưu trong dài hạn có thể cung
cấp thông tin quan trọng về sự biến đổi nồng độ ô zôn trong tầng khí quyển này [77].
Bên cạnh đó, tầng bình lưu và tầng đối lưu của khí quyển có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau thông qua các quá trình liên kết (coupling) và trao đổi (exchange) năng
lượng và xung lượng. Mối liên hệ này có thể chỉ ra sự biến đổi khí hậu trên một diện
rộng. Sự biến đổi khí hậu đã trở thành hiện tượng có thể trông thấy trực tiếp ngày nay
bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan như La Nina, El Nino. Việt Nam là một trong
những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của các quá trình biến đổi khí hậu này. Vì
vậy nghiên cứu xu hướng biến đổi nhiệt độ của khí quyển trở thành một nhu cầu cấp
thiết không chỉ trong khoa học mà cả trong đời sống.
Hai kỹ thuật chủ yếu đang được sử dụng đo đạc nhiệt độ và mật độ khí quyển
hiện nay là kỹ thuật đo đạc trực tiếp và kỹ thuật viễn thám (remote sensing). Kỹ thuật
đo đạc trực tiếp sử dụng các đầu đo gắn trên các thiết bị chuyển động trên không như:
kỹ thuật thám không vô tuyến (balloon-based radiosonde), kỹ thuật dùng tên lửa
1
(rocketsonde), và dùng máy bay. Trong khi đó, kỹ thuật viễn thám sử dụng các nguồn
bức xạ thụ động hoặc các nguồn bức xạ chủ động để xác định phân bố nhiệt độ. Ngày
nay kỹ thuật thám không vô tuyến vẫn là kỹ thuật đo nhiệt độ chủ yếu cung cấp thông
tin cho các bản tin dự báo thời tiết ở Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, kỹ thuật thám không vô tuyến không bao phủ hết tầng bình lưu (độ cao
cực đại đạt được khoảng 30 km do giới hạn của bóng thám không) và kết quả là một
phân bố rời rạc và tọa độ thay đổi do sự trôi của bóng thám không. Số lần đo hạn chế
với 2 lần trong ngày ở Việt Nam. Kỹ thuật đo đạc dùng tên lửa chỉ dùng cho trường
hợp nghiên cứu đặc biệt vì quá đắt đỏ và yêu cầu hạ tầng kỹ thuật cao. Phép đo dùng
máy bay không cho phân bố thẳng đứng ở tại một vị trí quan sát.
Mặc dù phép đo mật độ phân tử và nhiệt độ khí quyển bằng nguồn ánh sáng
đèn flash đã được thực hiện bởi L. Elterman, 1953 [60], tuy nhiên, từ khi laser được
phát minh thì việc ứng dụng chúng vào một kỹ thuật tương tự như radar (radio wave
detection and ranging) trong việc nghiên cứu khí quyển mới bước sang một trang
mới. Với các nguồn laser xung có mật độ công suất cao, lidar (light detection and
ranging) đã trở thành một kỹ thuật viễn thám chủ động tiên tiến trong nghiên cứu khí
quyển. Dựa trên các kết quả quan trắc phân bố thẳng đứng của mật độ phân tử và
phân bố nhiệt độ với độ phân giải thời gian và không gian cao của khí quyển từ lidar,
nhiều hiện tượng và quá trình của khí quyển Trái đất như: sóng trọng lực (gravity
wave), sóng hành tinh (planetary wave), thủy triều khí quyển (atmospheric tide) mới
được nghiên cứu đầy đủ và chi tiết hơn.
Ngày nay, các kỹ thuật lidar đã được phát triển cho việc đo phân bố mật độ
phân tử và nhiệt độ của khí quyển như: kỹ thuật lidar tích phân (integration lidar) [9],
kỹ thuật lidar Raman quay (rotation Raman lidar) [65], kỹ thuật lidar huỳnh quang
cộng hưởng (resonance fluorescence lidar) [7], kỹ thuật lidar hấp thụ vi phân
(diferential absorption lidar) [91], và kỹ thuật lidar phân giải phổ cao (high spectral
resolution lidar) [59]. Kết quả thu được các phân bố có thể bao phủ từ mặt đất tới
tầng nhiệt khí quyển (thermosphere) với thời gian từ vài phút đến hàng tuần quan sát
2
liên tục tại một trạm quan sát có sự kết hợp của nhiều kỹ thuật lidar khác nhau.
Kỹ thuật lidar tích phân sử dụng tán xạ Rayleigh hoặc tán xạ Raman dao động-
quay để xác định phân bố mật độ phân tử khí quyển. Bằng cách lấy tích phân phương
trình thủy tĩnh của khí quyển kết hợp với phương trình khí lý tưởng, phân bố nhiệt độ
có thể được dẫn ra từ phân bố mật độ phân tử sau khi sử dụng một giá trị nhiệt độ
tham khảo ở vị trí biên [88]. Giá trị nhiệt độ tham khảo này có thể nhận được từ một
dữ liệu khác (thám không vô tuyến hoặc mô hình khí quyển). Mật độ phân tử khí
quyển có thể được xác định trực tiếp từ các phân bố tín hiệu lidar như: tín hiệu lidar
Rayleigh, tín hiệu lidar Raman. Trong vùng khí quyển mà mật độ của sol khí (aerosol)
là rất thấp so với mật độ phân tử, dẫn đến đóng góp của tán xạ ngược của sol khí vào
tín hiệu lidar đàn hồi tổng cộng là rất nhỏ thì tín hiệu lidar Rayleigh có thể được dùng
để xác định mật độ phân tử. Khi mở rộng xuống vùng khí quyển chứa sol khí, thì tán
xạ Raman có thể được sử dụng để xác định mật độ phân tử với giả thiết là nồng độ
của phân tử tán xạ Raman là không đổi trong khí quyển, hoặc kết hợp cả hai tín hiệu
lidar Raman và tín hiệu lidar đàn hồi để hiệu chỉnh tán xạ ngược của sol khí trong tín
hiệu lidar đàn hồi, rồi từ đó xác định được mật độ phân tử. Hiện nay, việc mở rộng
kỹ thuật này xuống vùng khí quyển thấp nơi có đối lưu mạnh (dưới 3 km) bị giới hạn
vì giả thiết cân bằng thủy tỉnh của khí quyển có thể không còn tin cậy nữa.
Phép đo mật độ và nhiệt độ của quyển đầu tiên dùng lidar Rayleigh được thực
hiện bởi A. Hauchecorne và M. Chanin [9] bằng cách dùng một giá trị áp suất tham
khảo ở biên. Kết quả thu được phân bố nhiệt độ và mật độ từ 30 km tới tầng trung
lưu thấp (mesosphere). Bằng cách dùng một nhiệt độ tham khảo và lấy tích phân của
cả khối khí quyển, Shibata. T và đồng nghiệp cũng thu được kết quả tương tự [88].
W. N. Chen và đồng nghiệp đã mở rộng phép đo xuống vùng cao của tầng đối lưu
khí quyển (upper troposphere) chứa mật độ sol khí loãng [102]. Nhóm tác giả đánh
giá sai số nhiệt độ của sol khí bằng phương pháp do J. D. Klett đề xuất để hiệu chỉnh
tán xạ của sol khí [101]. Ngày nay, kỹ thuật lidar Rayleigh có thể xác định phân bố
3
nhiệt độ đến vùng thấp của tầng nhiệt khí quyển (thermosphere) [65].
Phép đo phân bố nhiệt độ của khí quyển đầu tiên dùng tán xạ Raman dao động-
quay được thực hiện bởi P. Ketchut và đồng nghiệp và phân bố nhiệt độ đạt được tới
vùng thấp của tầng bình lưu [82]. Evans. K. D và đồng nghiệp kết hợp hai tín hiệu
lidar đàn hồi và Raman đã thu được phân bố nhiệt độ ở vùng trên của tầng đối lưu
[58]. Jan-Bai Nee và đồng nghiệp đã dùng phương pháp được đề nghị bởi W. N. Chen
tính gộp cả nồng độ aerosol và nồng độ phân tử đã thu được phân bố nhiệt độ ở vùng
thấp tầng đối lưu [22]. Các kết quả nghiên cứu trên đã cho thấy kỹ thuật lidar tích
phân có khả năng xác định phân bố mật độ và nhiệt độ từ vùng thấp tầng đối lưu tới
vùng thấp tầng nhiệt của khí khí quyển. Tuy nhiên chưa có một kết quả nghiên cứu
nào sử dụng kỹ thuật lidar tích phân này để xác định phân bố nhiệt độ bao phủ đồng
thời từ tầng đối lưu đến tầng bình lưu.
Mục đích của luận án này là nghiên cứu và phát triển các hệ lidar đo phân bố
nhiệt độ và mật độ phân tử của khí quyển theo phương thẳng đứng sử dụng tín hiệu
tán xạ đàn hồi, tán xạ Raman dao động-quay và kết hợp đồng thời cả hai tán xạ trên.
Mục tiêu đặt ra cho luận án là các phép đo các phân bố này có thể bao phủ liên tục từ
tầng đối lưu đến hết tầng bình lưu.
Luận án tiến sỹ Vật lý với tiêu đề “Nghiên cứu và phát triển kỹ thuật LIDAR
ứng dụng khảo sát phân bố nhiệt độ và mật độ khí quyển” bao gồm 4 chương sau:
Chương 1. Nguyên lý của lidar xác định mật độ và nhiệt độ. Chương đầu tiên của
luận án trình bày nguyên lý của lidar xác định phân bố mật độ phân tử và nhiệt độ
của khí quyển. Phần đầu chương trình bày vắn tắt về nguyên lí chung của kỹ thuật
lidar. Tiếp theo, cấu trúc và thành phần khí quyển được nêu một cách ngắn gọn, tập
trung chủ yếu vào sự biến đổi của mật độ phân tử và nhiệt độ. Ba loại tán xạ do tương
tác của ánh sáng với các thành phần khí quyển như tán xạ Rayliegh, Mie, Raman ứng
dụng trong lidar để xác định nhiệt độ được trình bày và tổng kết. Việc xác định phân
bố nhiệt độ của khí quyển từ điều kiện cân bằng thủy tĩnh và phương trình khí lí tưởng
sẽ được trình bày chi tiết. Cuối cùng, cơ sở lý thuyết của việc xác định mật độ phân
4
tử từ các tín hiệu lidar như: lidar Rayleigh, lidar Raman, lidar kết hợp đàn hồi-Raman
được trình bày đầy đủ. Các phương pháp để hiệu chỉnh tán xạ và hấp thụ của sol khí
ứng dụng trong kỹ thuật lidar đo nhiệt độ cũng sẽ được trình bày và thảo luận chi tiết.
Chương 2. Thiết kế và xây dựng các hệ lidar. Chương này trình bày hai hệ
lidar đã được xây dựng để đo phân bố nhiệt độ và mật độ. Hệ lidar kết hợp đàn hồi-
Raman đo các phân bố trong tầng đối lưu. Hệ lidar Rayleigh-Raman trong đó kênh
Raman đo trong tầng đối lưu và kênh Rayleigh đo tầng bình lưu. Nguyên lý để thiết
kế hệ lidar nhiệt độ được trình bày đầu tiên. Tiếp theo, thiết kế, hoạt động, các tham
số chính và đặc trưng của mỗi hệ được mô tả chi tiết. Cuối cùng các phép đo lidar
đánh giá độ tin cậy và ổn định của phép đo được trình bày và thảo luận chi tiết.
Chương 3. Xác định phân bố mật độ và nhiệt độ. Các thuật toán để rút ra
phân bố mật độ và nhiệt độ từ tín hiệu lidar Rayleigh, Raman, kết hợp cả hai sẽ được
trình bày. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả sẽ được khảo sát. Các hiệu chỉnh trong
các thuật toán này cũng được đánh giá và thảo luận tỉ mỉ. Sai số của các phép đo nhiệt
độ cũng sẽ được trình bày đầy đủ. Kết quả của phép đo lidar cũng sẽ được so sánh
với các dữ liệu thám không và mô hình để kiểm chứng kết quả. Các khả năng phát
triển và giới hạn của từng kỹ thuật lidar cũng sẽ được tác giả thảo luận.
Chương 4. Nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ khí quyển tại Hà
nội. Sử dụng dữ liệu phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ từ các phép đo lidar
tại Hà nội, tác giả chỉ ra cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ của khí quyển tại Hà Nội. Đặc
biệt mối liên hệ giữa lớp đối lưu hạn (tropopause) và mây Ti (cirrus) tầng cao được
xác định đồng thời cũng sẽ được khảo sát và thảo luận . Vị trí của lớp đối lưu hạn và
lớp bình lưu hạn (stratopause) của phép đo một số ngày trong năm sẽ được trình bày
và thảo luận. Việc so sánh kết quả lidar tại Hà Nội với một số kết quả lidar khác cũng
5
sẽ được thảo luận.
Chương 1
Nguyên lý của lidar xác định mật độ phân tử và nhiệt độ
Phân bố nhiệt độ của khí quyển có thể được xác định từ phân bố mật độ phân
tử của khí quyển theo điều kiện cân bằng thủy tĩnh và khí lí tưởng. Trong khi đó,
phân bố mật độ phân tử có thể được xác định từ tín hiệu tán xạ ngược (tín hiệu lidar)
Rayleigh hoặc tín hiệu tán xạ ngược Raman của phân tử trong khí quyển dựa vào
phương trình lidar. Chương này trình bày nguyên lí của việc xác định phân bố mật
độ phân tử và phân bố nhiệt độ của khí quyển từ tín hiệu lidar. Các phương pháp để
hiệu chỉnh suy hao của khí quyển bao gồm suy hao của sol khí, ô zôn, phân tử cũng
sẽ được trình bày. Cuối cùng là tổng kết về ưu điểm và hạn chế của phương pháp
lidar này trong việc xác định phân bố mật độ phân tử và nhiệt độ.
1.1 Nguyên lí chung của kỹ thuật Lidar
Hình 1.1. Nguyên lí cơ bản của lidar (kiểu đơn tĩnh đồng trục) [18].
Nguyên lí cơ bản của kỹ thuật lidar kiểu đơn tĩnh đồng trục (mono-static
6
coaxial) được trình bày ở Hình 1.1. Theo đó, chùm xung laser được phát vào khí
quyển, ánh sáng tán xạ ngược từ sự tương tác của xung laser với các thành phần khí
quyển được tập hợp bởi kính thiên văn. Các tín hiệu tán xạ ngược này được thu bởi
các đầu đo quang học. Phân tích tín hiệu tán xạ ngược này, chúng ta rút ra được các
thông tin về các đối tượng trong khí quyển theo thời gian và khoảng cách. Khoảng
cách R của đơn vị thể tích tán xạ ngược được xác định từ thời gian t lan truyền của
𝑡.𝑐
xung laser tới đầu đo quang học [18]:
2
(1.1) 𝑅 =
Trong đó, c là vận tốc ánh sáng trong không khí. Độ phân giải không gian cực đại R
phụ thuộc vào độ rộng xung laser L, thời gian đáp ứng của hệ điện tử N, và thời gian
𝑐
phản ứng từ sự tương tác của ánh sáng với các thành phần khí quyển W [18]:
2
(1.2) R = (𝜏𝐿 + 𝜏𝑁 + 𝜏𝑊)
thời gian W thường bỏ qua vì quá nhỏ.
1.2 Khí quyển Trái đất
1.2.1 Cấu trúc của khí quyển
Bảng 1.1 Các tầng của khí quyển Trái đất[46].
Độ cao trung Các tầng khí quyển Lớp chuyển tiếp bình (km)
Tầng ngoài (Exosphere) >700 km
Tầng điện li (Thermosphere) 80 to 700 km Đỉnh tầng điện li (thermopause)
Tầng trung lưu (Mesosphere) 50 to 80 km Lớp trung lưu hạn (mesopause)
Tầng bình lưu (Stratosphere) 12 to 50 km Lớp bình lưu hạn (stratopause)
Tầng đối lưu (Troposphere) 0 to 12 km Lớp đối lưu hạn (tropopause)
Khí quyển Trái đất là một lớp khí bao quanh Trái đất và được giữ lại nhờ trọng
lực. Dựa vào sự biến đổi của nhiệt độ (Hình 1.2), khí quyển có thể được chia thành
7
nhiều tầng khí quyển khác nhau như được tổng kết trong Bảng 1.1.
Hình 1.2. Cấu trúc của khí quyển theo độ cao [46].
Tầng ngoài khí quyển là ranh giới giữa khí quyển Trái đất và khoảng không
vũ trụ, nơi các hiện tượng khí tượng không xảy ra. Trong tầng điện li, nhiệt độ tăng
rất nhanh theo độ cao và có thể đạt tới 2000 0C, các phân tử tồn tại dưới dạng ion.
Tầng trung lưu kéo dài từ lớp bình lưu hạn đến lớp trung lưu hạn có nhiệt độ giảm
dần theo độ cao và có thể đạt tới -85 0C. Đây là tầng khí quyển lạnh nhất trong khí
quyển. Mật độ phân tử trong tầng trung lưu là rất thấp và đỉnh tầng khí quyển này
chứa một ít hơi nước. Tầng bình lưu khí quyển được chia tách với tầng đối lưu khí
quyển bởi lớp đối lưu hạn. Trong lớp khí quyển này, nhiệt độ tăng dần theo độ cao
và có thể đạt tới 0 0C. Nhiệt độ tăng dần là do sự tồn tại của lớp ô zôn. Ô zôn hấp thụ
ánh sáng mặt trời ở vùng cực tím làm gia tăng nhiệt độ khí quyển. Hình 1.3 cho thấy
phân bố nồng độ ô zôn trong tầng bình lưu. Mật độ phân tử khí trong tầng khí quyển
này là loãng, có rất ít hơi nước và bụi. Không khí chuyển động theo chiều ngang là
chính và rất ổn định. Đây là tầng khí quyển cao nhất mà các nghiên cứu có thể được
8
thực hiện bởi các máy bay và bóng thám không.
Hình 1.3. Phân bố mật độ ô zôn của bán cầu Bắc [48].
Hình 1.4. Sự biến đổi độ cao của lớp đối lưu hạn từ cực Bắc tới xích đạo [52].
Bên dưới tầng bình lưu, tầng đối lưu là tầng khí quyển thấp nhất tính từ lớp
đối lưu hạn tới bề mặt của Trái đất. Theo tổ chức khí tượng thế giới (WMO), lớp đối
lưu hạn được định nghĩa là nơi có sự thay đổi đột ngột (từ dương sang âm) của tỉ lệ
giảm nhiệt độ (lapse rate) của môi trường, tỉ lệ giảm nhiệt là khoảng 2 0C hoặc ít hơn.
Độ cao của lớp đối lưu hạn thay đổi theo vĩ độ của Trái đất, khoảng 9 km ở vùng cực
và 17 km ở xích đạo và biến đổi theo thời tiết như mô tả ở hình 1.4. Nhiệt độ của tầng
đối lưu giảm dần do mật độ phân tử khí giảm dần và nhiệt độ thấp nhất có thể hạ
xuống – 50 0C. Không khí trong tầng đối lưu chuyển động mạnh theo cả hai phương
9
thẳng đứng và nằm ngang. Sự biến đổi nhiệt độ cao từ bề mặt tới lớp đối lưu hạn đã
làm cho nước có thể tồn tại ở cả ba trạng thái. Trong tầng đối lưu, lớp biên bề mặt
(boundary layer) chịu sự đối lưu mạnh nhất. Nó chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của bề
mặt Trái đất nên thay đổi tính chất rất mạnh theo thời gian và địa điểm. Độ cao của
lớp tiếp xúc bề mặt từ mặt đất đến khoảng 2 km tùy theo thời gian và địa điểm và
điều kiện thời tiết.
1.2.2 Thành phần của khí quyển
Hình 1.5. Thành phần khí quyển tính theo thể tích [46].
Thành phần chính của khí quyển Trái đất là phân tử khí và sol khí, trong đó
các phân tử khí chiếm khối lượng chủ yếu và chi phối các hiện tượng thời tiết và khí
hậu trên Trái đất. Về nồng độ, không khí khô chứa khoảng 78% Ni tơ, 20.95% khí ô
xy, 0.93% là Argon, phần còn lại là các khí khác được cho thấy ở Hình 1.5. Hai chất
khí có nồng độ biến đổi đáng kể nhất trong số các chất khí còn lại là hơi nước và khí
CO2.
1.3. Tương tác của ánh sáng với khí quyển
Khí quyển chứa nhiều thành phần khác nhau có kích thước biến đổi từ kích
thước của nguyên tử và phân tử (khoảng Angstrom d~10-3-10-4μm) đến kích thước
của các hạt sol khí (d~10-2-5 μm), giọt nước hoặc tinh thể băng (d~1-15 μm). Ngày
nay, hầu hết các kỹ thuật lidar đều sử dụng các nguồn laser như là nguồn phát
(transmitter). Chùm laser có thể coi như một nguồn ánh sáng kết hợp, đơn sắc, phân
10
cực tuyến tính. Tương tác của chúng với các thành phần khí quyển có thể được mô tả
dựa trên lý thuyết lan truyền sóng điện từ trong môi trường biến đổi. Nhiều quá trình
có thể xảy ra từ kết quả của sự tương tác của ánh sáng với các thành phần khí quyển
khí quyển như: phản xạ, tán xạ, hấp thụ, nhiễu xạ. Cường độ của ánh sáng sinh ra từ
các quá trình tương tác đó phụ thuộc vào cường độ của ánh sáng kích thích ban đầu,
mật độ của các vật tán xạ, tác động của môi trường, và tiết diện tán xạ của vật được
nghiên cứu.
Trong kỹ thuật lidar, hai quá trình được quan tâm là hấp thụ và tán xạ. Quá
trình tán xạ bao gồm tán xạ đàn hồi và tán xạ phi đàn hồi (tán xạ Raman). Dựa trên
quan hệ giữa kích thước của hạt tán xạ và bước sóng ánh sáng tới thông qua tham số
kích thước tán xạ = D.ms.λ-1, trong đó, D là đường kích của hạt tán xạ, ms là chiết
xuất phức, λ là bước sóng ánh sáng tới. Tán xạ đàn hồi có thể được chia thành tán xạ
Mie và tán xạ Rayleigh (tán xạ của phân tử). Khi << 1 tán xạ Rayleigh là chủ đạo,
trong khi ~ 1 tán xạ Mie chiếm ưu thế so với tán xạ Rayleigh. Khi >> 1 tán xạ trở
thành tán xạ hình học (phản xạ bởi mây).
Đối với kỹ thuật lidar tích phân đo đạc phân bố mật độ và nhiệt độ khí quyển,
các quá trình sau đây được đề cập trong luận án:
(a) Tán xạ Rayleigh và dập tắt (extinction) của phân tử.
(b) Tán xạ Mie và dập tắt của sol khí.
(c) Tán xạ phi đàn hồi Raman dao động-quay của phân tử.
1.3.1. Tán xạ Rayleigh và sự dập tắt của phân tử
Khi một sóng điện từ tới tương tác với phân tử trong khí quyển, nó sinh ra một
lưỡng cực điện bên trong phân tử. Đối với phân tử gồm hai nguyên tử như ni tơ và ô
xy, ten xơ phân cực có thành phần không đổi và đẳng hướng, điều này giải thích cho
sự tái phát xạ ở cùng tần số với sóng điện từ tới. Nếu bước sóng kích thích là lớn hơn
nhiều kích thước của phân tử thì tán xạ Rayleigh sẽ chi phối. Một photon được tái
phát xạ với cùng năng lượng của photon tới. Trong ứng dụng lidar, tán xạ Rayleigh
11
sử dụng hệ số tán xạ ngược của phân tử (molecular scattering coefficient) mol(,z)
[m-1sr-1] để xác định các đại lượng liên quan. Hệ số tán xạ ngược của phân tử được
xác định từ mật độ phân tử khí quyển 𝑛𝑎𝑖𝑟(𝑧) và tiết diện tán xạ ngược vi phân [40]:
𝑑Ω
(1.3) 𝛽𝑚𝑜𝑙(, z) = 𝑛𝑎𝑖𝑟(𝑧) 𝑑𝜎𝑚𝑜𝑙(𝜙,𝜋,𝜆)
Trong các tính toán thực tế một công thức bán thực nghiệm thường dùng để xác định
𝑑𝜎𝑚𝑜𝑙(𝜙,𝜋,𝜆) 𝑑Ω
550
tiết diện tán xạ ngược vi phân ở lớp khí quyển dưới 100 km [63]:
𝑑𝜎𝑚𝑜𝑙(𝜙,𝜋,𝜆) 𝑑Ω
𝜆
= 5.45. 10−32 ( ) 4.09 (1.4)
Trong đó, dσm/dΩ có đơn vị là m2 molecule-1 và bước sóng được tính theo đơn vị nm.
Ví dụ tiết diện tán xạ Rayleigh của phân tử ở bước sóng 532 nm được xác định là
6.23x10-28cm2sr-1.
Sự phụ thuộc cường độ tán xạ vào góc tán xạ được cho thấy ở trên hình 1.6.
Cường độ tán xạ Rayleigh là đối xứng theo hướng phía trước (00) và hướng ngược
lại (1800) .
Hình 1.6. Sự phụ thuộc cường độ tán xạ Rayleigh vào góc tán xạ của phân tử [40].
Hệ số dập tắt phân tử αmol(z) (molecular extinction coefficient) và hệ số tán xạ
8π
ngược của phân tử liên hệ theo biểu thức sau [40]:
3
12
(1.5) αmol(, z) = βmol(, z)
Các đặc trưng của tán xạ Rayleigh trong ứng dụng lidar được tổng kết như sau:
(a) Cường độ tán xạ ngược Rayleigh là tỉ lệ với λ-4 vì vậy cường độ tín hiệu lidar
Rayleigh biến đổi mạnh với bước sóng laser được dùng. Các phân tử khí sẽ tán xạ
ở vùng cực tím mạnh hơn vùng hồng ngoại. Vì vậy, trong ứng dụng lidar Rayleigh
các nguồn laser có bước sóng ngắn sẽ hiệu quả hơn.
(b) Cường độ tán xạ Rayleigh là đối xứng theo các hướng. Cường độ tán xạ theo hai
hướng phía trước và phía sau theo trục của tia laser là cao nhất so với các hướng
còn lại. Vì vậy hệ lidar được thiết kế mà trục thiết bị thu trùng với trục của chùm
laser thì sẽ cho cường độ tán xạ ngược cao nhất.
1.3.2. Tán xạ Mie và sự dập tắt của sol khí
Khí quyển Trái đất chứa một lượng sol khí bao gồm các hạt bụi, khói, sương
mù, giọt nước, tinh thể băng…Các hạt này có kích thước từ 0.01 μm tới 1 cm. Do
kích thước và hình dạng biến đổi cũng như thành phần và phân bố phức tạp, nên
tương tác giữa ánh sáng và sol khí là một vấn đề phức tạp. Trong ứng dụng lidar, lý
thuyết tán xạ Mie được dùng để mô tả tán xạ của ánh sáng đối với sol khí. Sự phụ
thuộc bước sóng trong tán xạ của sol khí có thể được mô tả qua thành phần Angstrom
𝑙𝑜𝑔(
chứa hệ số dập tắt 𝛼𝑎𝑒𝑟(𝜆, 𝑧) [40]:
𝑑𝑙𝑜𝑔(𝛼𝑎𝑒𝑟(𝜆,𝑧)) 𝑑𝑙𝑜𝑔(𝜆)
𝛼𝑎𝑒𝑟(𝜆1,𝑧) 𝛼𝑎𝑒𝑟(𝜆2,𝑧)) 𝜆1 ) 𝑙𝑜𝑔( 𝜆2
(1.6) 𝛾 = − ≅ −
Trong tán xạ Rayleigh (vùng sol khí có nồng độ thấp) thành phần Angstrom biến đổi
trong khoảng từ -3 đến -4. Khi mà sol khí có nồng độ cao hơn, thành phần này ở
khoảng giữa 1 và 0. Trong vùng mây đậm đặc thành phần Angstrom không phụ thuộc
bước sóng. Giá trị của thành phần Angstrom đối với các hạt bụi có kích thước từ 1-3
μm là nhỏ hơn 1 và lớn hơn 1 đối với các hạt có kích thước nhỏ hơn 1 μm.
Sử dụng phần mềm Mieplot version 4305 của Philip Laven [50] chúng ta có
thể xác định được sự phụ thuộc của cường độ tán xạ Mie vào góc tán xạ với các hạt
13
có bán kính khác nhau ở bước sóng 532 nm. Kết quả ở Hình 1.7 chỉ ra rằng:
Hình 1.7. Sự phụ thuộc của cường độ tán xạ Mie vào góc tán xạ ở bước sóng 532 nm
với các hạt có bán kính khác nhau. , (a): 0.1 µm, (b): 1 µm, (c): 10 µm, (d): 50 µm,
(e): 100 µm, (f): 1000 µm.
Cường độ tán xạ Mie ở hướng phía trước (00) lớn hơn đáng kể so với hướng phía
sau (1800) trên cùng một phương. Khi kích thước của hạt tăng thì cường độ của
hướng phía trước cũng tăng theo.
Sự phụ thuộc của cường độ vào góc tán xạ của tán xạ Mie phức tạp hơn nhiều so
với tán xạ của phân tử.
Sự khác nhau giữa thành phần vuông góc và thành phần song song tăng khi kích
thước của hạt tăng.
Sự phụ thuộc của cường độ vào góc tán xạ của tán xạ Mie biến đổi mạnh khi hạt
có kích thước lớn hơn 50 μm.
1.3.3. Tán xạ Raman của phân tử
Khi một chùm ánh sáng tương tác với các thành phần của khí quyển thì ngoài
tán xạ đàn hồi chúng ta còn có thể thu được tán xạ phi đàn hồi (tán xạ Raman). Khác
14
với tán xạ đàn hồi, tán xạ Raman dao động-quay (gọi tắt là tán xạ Raman) làm dịch
chuyển số sóng của ánh sáng tới một lượng |̃|. Nếu phân tử hấp thụ năng lượng,
mức năng lượng cao hơn của phân tử bị kích thích, số sóng của photon tán xạ giảm
đi một lượng 𝜐𝑠̃ = 𝜐𝑖̃ − |Δ𝜐̃|, 𝜐𝑖 là số sóng của photon tới. Quá trình tán xạ Raman
này xuất hiện các vạch Stokes và bước sóng của photon tán xạ tăng (dịch chuyển về
phía đỏ). Nếu phân tử truyền năng lượng cho ánh sáng tới, thì số sóng của photon
tán xạ tăng lên một lượng 𝜐𝑠̃ = 𝜐𝑖̃ + |Δ𝜐̃|, bước sóng của photon tán xạ sẽ giảm đi
(dịch chuyển về phía xanh), quá trình tán xạ Raman này xuất hiện các vạch đối Stokes.
Δ𝐸
Độ dịch năng lượng được xác định bởi biểu thức[40]:
ℎ𝑐
(1.7) Δ𝜐̃ = |𝜐𝑖̃ − 𝜐𝑠̃ | =
đặc trưng cho mỗi phân tử tán xạ. Trong đó Δ𝐸 là độ chênh lệch mức năng lượng
dịch chuyển của phân tử, h là hằng số Plank, và c là tốc độ ánh sáng trong chân không.
Trong ứng dụng lidar, bước sóng gây ra bởi dịch chuyển Raman được xác định [40]:
𝜆𝐿 1−Δ𝜐̃𝜆𝐿
(1.8) 𝜆𝑅 =
λL là bước sóng của laser [cm], Δ𝜐̃ [cm-1] là độ dịch Raman.
Hình 1.8. Phổ tán xạ Raman của một vài phân tử khí quyển ứng dụng trong lidar ở
15
các bước sóng 355 nm và 532 nm ở điều kiện áp suất thường và nhiệt độ 300 0K [84].
Một vài lưu ý trong ứng dụng lidar khi dùng tán xạ Raman có thể được tổng
kết như sau:
Độ dịch Raman là đặc trưng của mỗi phân tử, vì vậy bước sóng Raman thu
được của phân tử kích thích không bị ảnh hưởng bởi các thành phần khí quyển
khác. Với mỗi bước sóng của laser, mỗi phân tử khí quyển có thể sinh ra tán
xạ Raman, vì vậy có thể kết hợp tán xạ đàn hồi và tán xạ phi đàn hồi trong một
hệ lidar nhiều kênh.
Tiết diện tán xạ ngược Raman nhỏ hơn 3-4 bậc so với tán xạ ngược Rayleigh
vì vậy trong ứng dụng Raman lidar yêu cầu các nguồn laser công suất cao,
kính thiên văn (telescope) khẩu độ rộng, phin lọc băng thông hẹp và đầu thu
quang học dùng chế độ đếm photon.
1.4. Nguyên lý của lidar xác định phân bố nhiệt độ
Kỹ thuật lidar xác định phân bố mật độ phân tử trong luận án này sử dụng các tín hiệu
tán xạ ngược bao gồm tán xạ đàn hồi và tán xạ Raman dao động-quay. Từ phân bố
mật độ phân tử, phân bố nhiệt độ khí quyển được rút ra theo giả thiết cân bằng thủy
tĩnh và khí lí tưởng của khí quyển. Trong trường hợp sử dụng tín hiệu lidar đàn hồi
thì yêu cầu cần phải tách tín hiệu tán xạ của sol khí ra khỏi tín hiệu đàn hồi để chỉ
nhận được tán xạ của phân tử (tán xạ Rayleigh). Tuy nhiên tín hiệu chứa cả tán xạ và
suy hao của sol khí nên phải giả thiết về mối liên hệ này. Vì vậy kỹ thuật lidar sử
dụng tín hiệu đàn hồi (gọi là kỹ thuật lidar Rayleigh) chỉ nên áp dụng cho vùng mà
cường độ tán xạ ngược của sol khí là không đáng kể. Trong trường hợp sử dụng tín
hiệu lidar Raman để xác định mật độ phân tử thì chúng ta cần giả thiết thêm về tỉ số
nồng độ không đổi trong thành phần khí quyển của phân tử tán xạ Raman. Do tán xạ
Raman không chứa tín hiệu của sol khí nên kỹ thuật này có thể áp dụng cho vùng khí
quyển mà mật độ sol khí là đáng kể.
1.4.1. Xác định phân bố nhiệt độ
16
Tích phân phương trình thủy tĩnh theo độ cao [18]:
dPa(z) = - m.(z).g(z).dz (1.9)
trong đó, Pa là áp suất khí quyển, (z) là mật độ phân tử khí, g(z) là gia tốc trọng
trường, m là khối lượng phân tử trung bình, áp suất có thể được xác định bởi [18]:
𝑧𝑟𝑒𝑓 𝑃𝑎(𝑧) = 𝑃𝑎(𝑧𝑟𝑒𝑓) + ∫ 𝑚𝜌(𝑧′)𝑔(𝑧′)𝑑𝑧′ 0
(1.10)
trong đó, zref là độ cao tham khảo ở lớp biên của khí quyển. Kết hợp với phương trình
R
khí lí tưởng [18]:
m
(1.11) Pa(z) = ρ(z)T(z)
m
trong đó, R là hằng số khí. Nhiệt độ được xác định bởi phương trình [18]:
zref ∫ g(z')ρ(z')dz' 0
ρ(zref) ρ(z)
Rρ(z)
(1.12) T(z)= T(zref)+
Sử dụng các giá trị tham khảo ban đầu ρ(zref) và T(zref) ở lớp biên cao nhất, nhiệt độ
T(z) có thể được dẫn ra từ các bước liên tiếp từ các giá trị tham khảo này [18]:
ρ(zi) ρ(zi+1)
m R.ρ(zi+1)
(1.13) g̅ρ̅Δz T(zi+1)= T(zi)+
ở đây, zi, zi+1 là độ cao của các khoảng (range bins) liên tiếp trong phân bố không
gian của khí quyển.
(1.14) Δz = 𝑧𝑖+1- 𝑧𝑖
Và g̅ và ρ̅ là gia tốc trọng trường trung bình và mật độ phân tử trung bình ở trong
khoảng zi, and zi+1. g̅ có thể được tính theo công thức xấp xỉ sau đây:
(1.15) g̅=g(zi+zi+1)/2
Trong khi đó mật độ phân tử khí trung bình phải tính đến sự phụ thuộc e mũ theo độ
cao, nên mật độ có thể tính theo công thức xấp xỉ sau [18]:
(1.16) 𝜌(𝑧) = 𝜌(𝑧𝑖)𝑒𝑥𝑝(−𝑏(𝑧 − 𝑧𝑖)) → 𝜌(𝑧𝑖+1) = 𝜌(𝑧𝑖)𝑒𝑥𝑝(−𝑏∆𝑧)
ở đây, b là hằng số, kết quả là [18]:
ρ(z′) ∆z′ dz′
ρ(zi)−ρ(zi+1) b∆z
zi+1 ρ̅ = ∫ zi
(1.17) =
Trong khi đó, từ phương trình (1.16) chúng ta thu được:
(1.18) ln(ρ(zi+1)/ρ(zi)) = −b∆z
17
Và chúng ta nhận được giá trị mật độ phân tử trung bình [18]:
(1.19)
ρ̅ =
ρ(zi)− ρ(zi+1) ln(ρ(zi)/ρ(zi+1))
Cuối cùng, nhiệt độ được xác định bởi công thức sau [18]:
𝑚𝑔((𝑧𝑖+𝑧𝑖+1)/2) 𝑅
𝜌(𝑧𝑖) 𝜌(𝑧𝑖+1)
(𝜌(𝑧𝑖)/𝜌(𝑧𝑖+1))−1 𝑙𝑛(𝜌(𝑧𝑖)/𝜌(𝑧𝑖+1))
(1.20) ∆𝑧 T(𝑧𝑖+1) = 𝑇(𝑧𝑖) +
Phương trình (1.20) chỉ ra rằng phân bố nhiệt độ chỉ phụ thuộc vào tỉ số mật
độ phân tử giữa hai khoảng không gian (range-bin) liên tiếp, do đó nhiệt độ là độc
lập với giá trị mật độ phân tử tham khảo trong công thức tính mật độ trong gần đúng
bậc một. Hơn nữa, phương trình (1.20) cũng chỉ ra rằng độ cao tham khảo zref phải
được chọn ở lớp biên cao nhất hoặc lớp biên thấp nhất ở khoảng độ cao nơi tích phân
được bắt đầu. Phân bố nhiệt độ có thể được tích phân từ trên xuống hoặc từ dưới lên.
Tuy nhiên, nếu tích phân được tính từ dưới lên thì sai số sẽ tăng theo hàm e mũ.
Ngược lại, khi một giá trị tham khảo ở lớp biên cao nhất được chọn và tích phân được
lấy từ trên xuống, sai số nhiệt độ có thể giảm nhanh [16]. T(zref) có thể nhận được từ
phép đo khác hoặc mô hình khí quyển.
1.4.2 Xác định mật độ phân tử từ lidar Rayleigh
1.4.2.1 Xác định mật độ phân tử khí quyển
Số photon tán xạ ngược được mô tả bởi phương trình lidar đàn hồi cho một
z2
(1.21) bước sóng [101]: P(λ, z) = PL(λ) AT𝑂(𝑧) [βmol(λ, z) + βaer(λ, z) ] × exp[−2αatm(λ, z)]
Trong đó, λ là bước sóng laser, PL(λ) là số photon được phát lên bầu trời, P(λ,z) là số
photon tán xạ ngược từ độ cao z, AT là thừa số chuẩn trực hệ thống (bao gồm tiết diện
kính thiên văn và hiệu suất đầu thu), O(z) là hàm chồng chập (overlap function) mô
tả sự sắp xếp của chùm laser và kính thiên văn của hệ lidar, βmol(λ, z) là hệ số tán xạ ngược Rayleigh của phân tử khí, βaer(λ, z) là hệ số tán xạ ngược của sol khí (nó biến
đổi theo phân bố thẳng đứng của sol khí).
18
(1.22) 𝑇𝑟(𝑧) = 𝑒𝑥𝑝[−2𝑎𝑡𝑚(𝜆, 𝑧)]
là hệ số truyền qua hai lần của khí quyển ở bước sóng λ, 𝑎𝑡𝑚(𝜆, 𝑧) là hệ số suy hao
của khí quyển gồm hấp thụ và tán xạ Rayleigh (kí hiệu là “mol”, sol khí (kí hiệu là
“aer”) và ô zôn, đại lượng này có thể được xác định như sau [101]:
(1.23) 𝑎𝑡𝑚(𝜆, 𝑧) = 𝑚𝑜𝑙(𝜆, 𝑧) + 𝑎𝑒𝑟(𝜆, 𝑧) + 𝑂3(𝜆, 𝑧)
𝑧 0
(1.24) 𝑚𝑜𝑙(𝜆, 𝑧) = ∫ 𝜎𝑚𝑜𝑙(𝜆) × 𝜌𝑚𝑜𝑙(𝑧′)𝑑𝑧′
𝑧 0
(1.25) 𝑎𝑒𝑟(𝜆, 𝑧) = ∫ 𝜎𝑎𝑒𝑟(𝜆, 𝑧′) × 𝜌𝑎𝑒𝑟(𝑧′)𝑑𝑧′
𝑧 0
(1.26) 𝑂3(𝜆, 𝑧) = ∫ 𝜎𝑂3(𝜆) × 𝜌𝑂3(𝑧′)𝑑𝑧′
Trong đó, 𝜎𝑚𝑜𝑙(𝜆), 𝜎𝑎𝑒𝑟(𝜆, 𝑧′), 𝜎𝑂3(𝜆) tương ứng là tiết diện phụ thuộc bước sóng của phân tử, sol khí, ô zôn. 𝜌𝑚𝑜𝑙(𝑧) và ρaer(z), 𝜌𝑂3(𝑧) tương ứng là mật độ của phân
tử khí, sol khí, và ô zôn. Tán xạ Rayleigh và tán xạ Mie của sol khí có cùng bước
sóng với bước sóng laser nên chỉ số λ sẽ được bỏ quên trong các công thức sau này.
Mật độ phân tử của khí quyển được rút ra bằng cách biến đổi phương trình
lidar (1.21). Đầu tiên, đại lượng tỉ số tán xạ ngược sol khí Raer(z) được định nghĩa
như sau [101]:
𝛽𝑎𝑒𝑟(𝜆,𝑧) 𝛽𝑚𝑜𝑙(𝜆)
(1.27) 𝑅𝑎𝑒𝑟(𝑧) = 1 +
−1
−1
Và thừa số tín hiệu lidar hiệu dụng được định nghĩa như sau [101]:
(1.28) 𝑃𝑒𝑓𝑓(𝑧) = 𝑃(𝑧) × [𝑅𝑎𝑒𝑟(𝑧) × 𝑒𝑥𝑝(−2𝑎𝑒𝑟(𝜆, 𝑧))] × [𝑒𝑥𝑝(−2𝑂3(𝑧))]
Trong đó (1.29) 𝑇𝑎𝑒𝑟(𝑧) = 𝑒𝑥𝑝(−2𝑎𝑒𝑟(𝜆, 𝑧))
(1.30) 𝑇𝑂3(𝑧) = 𝑒𝑥𝑝(−2𝑂3(𝑧))
Lần lượt là hệ số truyền qua một vòng khí quyển của sol khí và ô zôn. Mật độ phân
tử khí quyển có thể được tính từ phương trình (1.21) sau khi chúng ta thay công thức
−1
hệ số tán xạ ngược Rayleigh (1.3) vào phương trình (1.21) [101]:
19
(1.31) 𝜌𝑚𝑜𝑙(𝑧) = 𝐶 × 𝑃𝑒𝑓𝑓(𝑧) × 𝑧2 × [𝑒𝑥𝑝(−2𝑚𝑜𝑙(𝑧))]
Trong đó, C là thừa số chuẩn hóa. Nó phụ thuộc các tham số của hệ lidar (thông số
chùm laser, tiết diện kính thiên văn, hiệu suất hệ lidar) và các tham số của khí quyển
(kiểu tín hiệu được xác định, độ phân giải không gian và thời gian, sự có mặt của sol
khí). Bởi vì trong công thức, C bao gồm cả hệ số dập tắt của sol khí, nên tích phân
trong tính toán mật độ và nhiệt độ được bắt đầu thực hiện ở những nơi sol khí không
đáng kể. (𝑅𝑎𝑒𝑟(𝑧) ≅ 1). Trong khi C là không biết và không có đủ dữ kiện để xác
định chính xác nên chỉ phân bố mật độ phân tử tương đối được xác định trực tiếp từ
tín hiệu lidar. Để thu được phân bố mật độ phân tử tuyệt đối, C được xác định bằng
cách chuẩn hóa 𝜌𝑚𝑜𝑙(𝑧) với một giá trị mật độ tham khảo ở một độ cao chuẩn hóa
−1
2
𝑧𝑛𝑜𝑟𝑚 mà tín hiệu lidar không chứa sol khí. C được cho bởi phương trình [101]:
] (1.32) 𝐶 = 𝜌𝑚𝑜𝑑(𝑧𝑛𝑜𝑟𝑚) × [𝑃𝑒𝑓𝑓(𝑧𝑛𝑜𝑟𝑚) × 𝑧𝑛𝑜𝑟𝑚 × 𝑒𝑥𝑝[−2𝑚𝑜𝑙(𝑧𝑛𝑜𝑟𝑚)]
Ở đây, 𝜌𝑚𝑜𝑑(𝑧𝑛𝑜𝑟𝑚) là giá trị mật độ phân tử tham khảo ở một độ cao chuẩn hóa nhận
được từ phép đo thám không vô tuyến hoặc từ mô hình khí quyển. Hệ số suy hao
phân tử trong phương trình (1.24) là không biết nhưng nó có thể được tính bằng
phương pháp lặp dựa vào phương trình (1.24) và (3.31). Bước thứ nhất, giá trị
𝑚𝑜𝑙(𝑧) = 0 được giả sử ở tất cả độ cao. Ở bước thứ hai, 𝜌𝑚𝑜𝑙(𝑧) được tính từ phương trình (1.31) từ giá trị 𝑚𝑜𝑙(𝑧) cuối. Trong bước thứ ba, 𝜌𝑚𝑜𝑙(𝑧) dẫn ra từ bước cuối được dùng để tính độ suy hao phân tử mới 𝑚𝑜𝑙(𝑧). Lặp lại bước thứ 2 và thứ 3 cả hai 𝜌𝑚𝑜𝑙(𝑧) và 𝑚𝑜𝑙(𝑧) sẽ hội tụ nhanh sau một vài bước lặp.
1.4.2.2 Xác định hệ số tán xạ ngược của sol khí
Kỹ thuật lidar đàn hồi xác định mật độ phân tử yêu cầu hiệu chỉnh tán xạ và
suy hao của sol khí thông qua tỉ số tán xạ sol khí Raer (z) và hệ số truyền qua của sol
khí Taer(z) . Để xác định được hai đại lượng này chúng ta phải xác định được hệ số
tán xạ ngược 𝛽𝑎𝑒𝑟(𝑧) và hệ số dập tắt của sol khí 𝛼𝑎𝑒𝑟(𝑧). Phương pháp xử lý tín hiệu
lidar đàn hồi để thu được hệ số tán xạ ngược của sol khí được đề xuất bởi J. D. Klett
[54], F.G. Fernald [34], Y. Sasano [107]. Trong trường hợp mà mật độ sol khí là rất
20
lớn so với mật độ phân tử khí quyển thì phương pháp Klett được sử dụng, trường hợp
này thường là được sử dụng trong các nghiên cứu sol khí ở vùng thấp tầng đối lưu.
Y. Sasano bổ xung cho phương pháp này với hằng số lidar biến đổi nhằm giảm sai số
do giả thiết này gây ra. Trong trường hợp mà tán xạ của sol khí là xấp xỉ tán xạ của
phân tử khí quyển thì phương pháp do Fernald để xuất được dùng để đánh giá sự tán
xạ của sol khí. Phương pháp này thường được áp dụng cho các khảo sát sol khí ở
vùng cao của khí quyển như vùng cao của tầng đối lưu và vùng thấp của tầng bình
lưu. Mục này của luận án trình bày phương pháp của Fernald đề xác định hệ số tán
xạ ngược βaer(, z) của sol khí. Theo đó tán xạ của phân tử coi như đã biết bằng cách
sử dụng một phân bố mật độ phân tử tham khảo và giả thiết thêm rằng hệ số dập tắt-
tán xạ ngược (tỉ số lidar) coi như là một hằng số đã biết.
Giả sử hấp thụ của ô zôn được bỏ qua, hệ số tán xạ ngược và hệ số dập tắt của
sol khí và phân tử có thể được viết tương ứng là: 𝛽𝑎𝑡𝑚(𝑧) = 𝛽𝑎𝑒𝑟(𝑧) + 𝛽𝑚𝑜𝑙(𝑧), 𝛼𝑎𝑡𝑚(𝑧) = 𝛼𝑒𝑎𝑟(𝑧) + 𝛼𝑚𝑜𝑙(𝑧). Tỉ số lidar của sol khí được xác định [18]:
αaer(z) βaer(z)
(1.33) Laer(z) =
8π
và tỉ số phân tử:
3
αmol(z) βmol(z)
sr (1.34) = Lmol =
Khác với tỉ số phân tử là một hằng số, tỉ số lidar là phụ thuộc khoảng cách bởi vì nó
phụ thuộc kích thước, hình dạng, và bản chất của hạt sol khí. Vì vậy, tỉ số lidar là
tham số đầu vào cho phương pháp tính này. Nó được tham khảo đối với các loại sol
khí và độ cao khác nhau. Đây chính là sai số hệ thống chủ yếu cho phương pháp này.
Hệ số tán xạ của sol khí được xác định bởi phương trình thông qua Dùng tín
z z0
hiệu hiệu chỉnh khoảng cách (range-corrected lidar signal) S(z) = P(z).z2 [34]:
S(z0)
S(z)exp{−2 ∫ [Laer(z′)−Lmol]βmol(z′)dz′ } z βaer(z0)+βmol(z0)−2 ∫ Laer(z′)S(z)Tr(z′,z0)dz′ 0
(1.35) βaer(z) + βmol(z) =
𝑧 𝑧0
} (1.36) với 𝑇𝑟(𝑧, 𝑧0) = 𝑒𝑥𝑝 {−2 ∫ [𝐿𝑎𝑒𝑟(𝑧′) − 𝐿𝑚𝑜𝑙]𝛽𝑚𝑜𝑙(𝑧′)𝑑𝑧′
Chúng ta cũng có thể tính được hệ số dập tắt từ tỉ số lidar [54]:
21
(1.37) 𝛼𝑎𝑒𝑟(𝑧) = 𝐿𝑎𝑒𝑟(𝑧). 𝛽𝑎𝑒𝑟(𝑧)
Về mặt nguyên lí, tích phân phương trình trong biểu thức (1.35) có thể bắt đầu từ độ
cao tham khảo ở lớp biên dưới (z>z0, hướng lên trên), hoặc lớp biên trên (z xuống dưới). Tuy nhiên, tích phân theo hướng xuống dưới có sai số giảm nhanh [33]. Độ cao tham khảo thường được chọn nơi mà hệ số tán xạ ngược của sol khí là bỏ qua đối với tán xạ phân tử. 1.4.3 Xác định mật độ phân tử từ lidar Raman 1.4.3.1 Xác định mật độ phân tử Trong vùng sol khí có mặt, tín hiệu tán xạ ngược Raman của phân tử Ni tơ có thể được dùng để xác định mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ khí quyển bởi vì tín hiệu tán xạ Raman không chứa tín hiệu tán xạ ngược của sol khí. Phép đo đầu tiên được thực hiện bởi P. Keckhut và đồng nghiệp [24] và thu được phân bố nhiệt độ ở vùng trên tầng đối lưu. Bên cạnh giả sử khí quyển tuân theo cân bằng thủy tĩnh và khí lí tưởng, giả thuyết về nồng độ của phân tử Ni tơ trong khí quyển là cố định. Giả thuyết này gặp phải sai số nhỏ bởi vì nồng độ của phân tử Ni tơ là khá ổn định ở vùng trên tầng đối lưu (khoảng 78%). Khi chùm laser là chồng chập hoàn toàn với thị trường của kính thiên văn, tín z2 βN(λR, z). exp(−[αmol(λ0, λR, z) + αaer(λ0, λR, z)]) (1.38) hiệu tán xạ ngược Raman của phân tử Ni tơ có thể được mô tả bởi phương trình [1]:
P(λR, z) = P(λ0) AT Trong đó, 𝑃(𝜆𝑅, 𝑧) là số photon từ tán xạ ngược Raman của phân tử Ni tơ, 𝑃(𝜆0) là số photon của laser phát, 𝜆0, 𝜆𝑅 là bước sóng laser và bước sóng Raman, AT là thừa
số chuẩn trực của hệ lidar, 𝛽𝑁(𝜆𝑅, 𝑧) là hệ số tán xạ ngược Raman của phân tử Ni tơ dΩ (1.39) được mô tả bởi công thức sau [18]:
βN(λR, z) = ρN (z) dσN(π) 𝑑𝜎𝑁(𝜋)
𝑑Ω với là tiết diện tán xạ ngược Raman độc lập khoảng cách của phân tử Ni tơ, và 𝜌𝑁 (𝑧) là mật độ phân tử Ni tơ. Giả sử hấp thụ của ô zôn là bỏ qua, thừa số tín hiệu −1 lidar hiệu dụng Peff(z) được định nghĩa như sau: 22 (1.40) Peff(z) = P(z) × [exp(−αaer(λ0, λR, z))] Kết hợp phương trình (1.39) và (1.40) và tái sắp xếp lại phương trình lidar (1.38), mật −1 độ phân tử Ni tơ được xác định bởi phương trình: (1.41) ρ𝑁(z) = C × Peff(z) × z2 × [exp(−mol(λ0, λR, z))] Trong đó, C là thừa số chuẩn hóa, nó phụ thuộc vào tham số của hệ lidar và tham số 2 mod(znorm) × [Peff(λR, znorm) × znorm ]−1 × [exp (−αmol(λ0, λR, znorm))] (1.42) C = ρN khí quyển. C được xác định bằng cách chuẩn hóa 𝜌𝑁 (𝑧) với mật độ tham khảo
𝑚𝑜𝑑(𝑧𝑛𝑜𝑟𝑚) giống như trường hợp của tín hiệu Rayleigh. C được xác định bởi
𝜌𝑁
phương trình sau: Phương pháp lặp cũng được dùng để tính mật độ phân tử và hệ số dập tắt của sol khí ở bước sóng laser như đã nêu ở trên. 1.4.3.2 Xác định hệ số suy hao của sol khí Thuật giải dùng tín hiệu tán xạ đàn hồi để xác định hệ số tán xạ ngược và hệ số dập tắt của sol khí ở bước sóng laser yêu cầu giả thiết về hằng số lidar như là một tham số đầu vào. Tuy nhiên, tỉ số lidar phụ thuộc vào tính chất vật lý và hóa học vi mô của sol khí, độ ẩm của không khí, và nó biến đổi rất mạnh theo độ cao và các loại sol khí khác nhau. Kỹ thuật lidar Raman có thể xác định trực tiếp hệ số dập tắt của sol khí ở bước sóng laser chỉ dựa vào tín hiệu tán xạ ngược Raman. Phương pháp được đề xuất bởi A. Ansmann. Bằng cách hiệu chỉnh hệ số truyền qua của phân tử ở phương trình lidar Raman (1.38), số hạng tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng −1 cách hiệu dụng đối với aerosol có thể được xác định: (1.43) 𝑆(𝜆𝑅, 𝑧) = 𝑃(𝜆𝑅, 𝑧) × 𝑧2 × [exp(−mol(λ0, λR, z))] Chèn phương trình (1.43) vào phương trình (1.38), lấy logarit cả hai vế của phương trình và đạo hàm theo z, dùng tín hiệu hiệu chỉnh khoảng cách hiệu dụng và tái sắp d xếp lại phương trình (1.38), hệ số dập tắt toàn phần của sol khí được xác định [2]: dz ρN (z)
S(λR,z) (1.44) ln αaer(λ0, λR, z) = Hệ số dập tắt toàn phần của sol khí này là tổng của hai thành phần ở bước sóng laser và bước sóng Raman: 23 (1.45) αaer(λ0, λR, z) = 𝛼𝑎𝑒𝑟(𝜆0, 𝑧) + 𝛼𝑎𝑒𝑟(𝜆𝑅, 𝑧) Sự phụ thuộc bước sóng của dập tắt gây ra bởi sol khí có thể được mô tả thông qua 𝛾 thành phần Angstrom [2]: 𝛼𝑎𝑒𝑟(𝜆0)
𝛼𝑎𝑒𝑟(𝜆𝑅) ) (1.46) = (𝜆𝑅
𝜆0 ln d
dz (1.47) Cuối cùng, hệ số dập tắt của sol khí được xác định [2]: 1+( ρN (z)
S(λR,z)
γ
λ0
)
λR αaer(λ0, z) = 1.4.4. Xác định mật độ phân tử từ lidar kết hợp đàn hồi-Raman Kỹ thuật lidar Raman xác định hệ số suy hao của sol khí phải sử dụng đạo hàm số nhưng do tín hiệu lidar Raman thăng giáng nên có thể gây ra sai số lớn. Bên cạnh đó giả thiết về tỉ số nồng độ phân tử không đổi trong khí quyển có thể gặp sai số lớn ở vùng thấp của tầng đối lưu do không khí biến động mạnh. Vì vậy, chúng ta có thể sử dụng tín hiệu đàn hồi để xác định mật độ phân tử, đồng thời kết hợp cả hai tín hiệu này để hiệu chỉnh tán xạ và suy hao của sol khí. Hệ số tán xạ ngược có thể được tính trực tiếp từ hai tín hiệu lidar mà không phải giả thiết về tỉ số lidar. Thêm vào đó, hệ số suy hao có thể được xác định mà không cần phải tính đạo hàm số. Hệ số tán xạ ngược của sol khí được xác định từ hai phương trình lidar đàn hồi và Raman [104]: } 𝑒𝑥𝑝{− ∫ [𝛼𝑚𝑜𝑙(𝑧,𝜆𝑅)]𝑑𝑧′ βaer(z)+βmol(z)=[βmol(z0,λ0)] P(z0,λR)P(z,λ0)
P(z0,λ0)P(z,λR) ρN(z)
ρN(z0) } 𝛾
× [𝑃(𝜆𝑅,𝑧)𝑧2.ρN(z0).𝑇𝑚𝑜𝑙(𝑧0)
]
𝑃(𝜆𝑅,𝑧0)𝑧2.ρN(𝑧).𝑇𝑚𝑜𝑙(𝑧) 𝑒𝑥𝑝{− ∫ [𝛼𝑚𝑜𝑙(𝑧,𝜆0)]𝑑𝑧′ 𝑧
𝑧0
𝑧
𝑧0 (1.48) × Trong đó = 1 khi hàm chồng chập O(z) = 1, độ cao tham khảo z0 được chọn khi tán xạ của hạt là có thể được bỏ qua so với tán xạ Rayleigh. Hệ số dập tắt của sol khí được tính từ hệ số tán xạ ngược và tỉ số lidar. Đầu 2 n (Saer, λ0, zi+1) =
βaer tiên hệ số tán xạ ngược mới của hai khoảng liên tiếp zi và zi+1 được xác định [104]: 24 [βmol(λ0, zi) + βaer(λ0, zi)] P(λ0, zi+1)zi+1
2
P(λ0, zi)zi zi
zi+1 αmol(λ0, z′)dz′ } × exp{Saer(zi). [βaer(λ0, zi) + (1.49) × exp {−2 ∫
βaer(λ0, zi+1). dz]} − βmol(λ0, zi+1) Với mỗi giá trị Saer(z) chúng ta có thể thu được một giá trị βaer Trong đó Saer(z) là tỉ số lidar. Tỉ số này thường biến đổi trong khoảng [1 sr,100 sr].
n (Saer, λ0, zi+1) khác
nhau ở độ cao zi. Để thu được tỉ số lidar tối ưu chúng ta đưa ra hàm đánh giá M(Saer(zi),zi). Khi hàm M(Saer(zi),zi) đạt giá trị cực tiểu sẽ tương ứng với giá trị Saer(zi) tối ưu tại zi. [104] n (Saer, zi+1) − βaer(zi)| (1.50) M[Saer(zi), zi] = |βaer Sau đó hệ số dập tắt của sol khí được tính bởi công thức quen thuộc (1.51) 𝛼𝑎𝑒𝑟(𝜆0, 𝑧) = 𝑆𝑎𝑒𝑟(𝑧) ∗ 𝛽𝑎𝑒𝑟(𝜆0, 𝑧) 1.5. Tổng kết chương 1 Kỹ thuật lidar sử dụng tín hiệu lidar đàn hồi, tín hiệu lidar Raman, kết hợp đàn hồi-Raman xác định phân bố nhiệt độ của khí quyển dựa trên điều kiện cân bằng thủy tĩnh và khí lí tưởng có nhiều ưu điểm. Thứ nhất, tín hiệu lidar Rayleigh có cường độ rất mạnh nên phân bố nhiệt độ có khả năng đạt tới độ cao rất lớn (tới tầng nhiệt khí quyển). Từ tầng bình lưu trở lên mật độ không khí biến đổi không nhiều nên hai giả thuyết cân bằng thủy tĩnh và khí lí tưởng sẽ có độ tin cậy cao, chính vì vậy kỹ thuật lidar Rayleigh đã trở thành kỹ thuật chủ yếu nghiên cứu mật độ phân tử và nhiệt độ trong các tầng khí quyển này. Thứ hai, kỹ thuật lidar Rayleigh có thể đo được cả ban đêm và ban ngày, nếu trạm lidar được đặt ở nơi có rất ít mây và trên độ cao của lớp sol khí mặt đất thì chúng ta có thể tập hợp dữ liệu liên tục trong năm. Thứ ba, các kỹ thuật lidar đàn hồi, Raman, kết hợp đàn hồi-Raman không yêu cầu sự phân tích quang phổ phức tạp như các kỹ thuật lidar khác. Thứ tư, kỹ thuật lidar Raman hoặc kỹ thuật lidar kết hợp đàn hồi-Raman có thể nghiên cứu trong vùng chứa sol khí, vì vậy nếu thiết kế các hệ lidar bao gồm nhiều kênh thì phép đo có thể bao phủ cả tầng đối lưu đến hết tầng trung lưu. Tuy nhiên, các kỹ thuật lidar này cũng có một số hạn chế. Thứ nhất, kỹ thuật 25 lidar Raman hoặc lidar đàn hồi-Raman thường phải hoạt động vào ban đêm để tránh bức xạ của mặt trời. Thứ hai, điều kiện cần bằng thủy tĩnh và khí lí tưởng không còn tin cậy trong vùng khí quyển có đối lưu hoặc gió mạnh. Thứ ba, các kỹ thuật lidar này phải sử dụng thêm các dữ liệu tham khảo từ các phép đo khác cũng như phải sử dụng một số giá trị đầu vào khác. Các giá trị này sẽ gây nên sai số hệ thống trong các kết quả của lidar. Thứ tư, các phép tính sử dụng đạo hàm số như việc tính hệ số suy hao của sol khí từ tín hiệu lidar Raman, hay việc áp dụng thuật giải tích phân ngược trong việc tính toán các thông số cũng sẽ gây nên sai số hệ thống trong kết quả. Vì vậy việc tìm kiếm các phương pháp mới để giảm sai số hệ thống trong xác định phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ của các kỹ thuật lidar này vẫn còn đang tiến 26 triển. Chương 2 Hai hệ lidar đã được thiết kế và xây dựng cho nghiên cứu phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ là hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman cho nghiên cứu tầng đối lưu và hệ lidar Rayleigh-Raman cho nghiên cứu tầng đối lưu và tầng bình lưu. Chương này trình bày sự xây dựng và đặc trưng của các hệ lidar này. Hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman đo được đồng thời cả hai tín hiệu lidar tại cùng một độ cao. Trong khi đó, hệ lidar Rayleigh-Raman có thể thu tín hiệu lidar Raman ở tầng đối lưu và tín hiệu lidar Rayleigh ở tầng bình lưu. Khả năng của mỗi hệ lidar được đánh giá thông qua tỉ số tín hiệu /nhiễu. Độ tin cậy của phép đo được đánh giá bằng cách so sánh tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách với giá trị mật độ phân tử từ mô hình khí quyển MSISE- 90 hoặc dữ liệu thám không cùng ngày, cùng địa điểm đo. Độ ổn định của các hệ lidar được đánh giá thông qua việc so sánh giữa các phân bố tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách với nhau. Các thông số cơ bản của các hệ lidar, giới hạn và các khả năng nâng cấp của các hệ lidar này cũng sẽ được trình bày và thảo luận. 2.1 Hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman 2.1.1 Mở đầu 27 Hình 2.1. Cấu trúc cơ bản của một hệ lidar [18]. Sơ đồ khối tổng quát của một hệ lidar được cho thấy trên Hình 2.1 bao gồm hệ phát (transmitter) và hệ nhận tín hiệu (receiver). Hệ phát thường sử dụng một nguồn laser xung, chùm laser thường được định hướng thẳng đứng vào khí quyển bởi một gương lái chùm. Đôi khi chùm laser được mở rộng để giảm độ phân kì và mật độ công suất bởi một mở rộng chùm. Hệ nhận bao gồm một kính thiên văn để tập hợp tín hiệu tán xạ ngược, một phin lọc không gian để giảm tín hiệu phông và ảnh hưởng của tán xạ nhiều lần trong khí quyển, một hệ phân tích quang phổ để lọc lựa được ánh sáng có bước sóng mong muốn, các đầu thu tín hiệu quang học như ống nhân quang điện (PMT) hay photodiode thác lũ (APD) để biến tín hiệu quang thành tín hiệu điện, cuối cùng là hệ xử lý tín hiệu điện tử và máy vi tính để điều khiển và lưu dữ liệu. Hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman nghiên cứu trong tầng đối lưu, nơi có mật độ sol khí cao, nên yêu cầu sử dụng đồng thời cả hai tín hiệu đàn hồi vào tín hiệu tán xạ Raman để xử lí tán xạ ngược và sự dập tắt của sol khí. Vì vậy, hệ lidar phải được thiết kế gồm hai kênh bao gồm kênh đàn hồi và kênh Raman. Do tiết diện tán xạ Raman của phân tử nhỏ hơn 3 đến 4 bậc so với tiết diện tán xạ Rayleigh nên nguồn laser phải có mật độ công suất cao. Tín hiệu Raman yếu yêu cầu các đầu thu hoạt động ở chế độ đếm photon nên các phép đo tín hiệu thường được thực hiện vào ban đêm, vì các phép đo ban ngày bị ảnh hưởng bởi bức xạ mặt trời. Để tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu của kênh Raman kính thiên văn của hệ lidar có tiết diện càng lớn càng tốt. Một vấn đề quan trọng khác là tín hiệu đàn hồi mạnh ở kênh đàn hồi có thể làm ống nhân quang điện bão hòa hoặc phá hủy chế độ đếm photon của ống nhân quang điện, nên trước khi tín hiệu đàn hồi được ghi nhận, cường độ của chúng cần phải được giảm đi bằng cách sử dụng phin lọc trung tính. Thị trường của kính thiên văn trong hệ lidar được xác định là tỉ số giữa đường kính của phin lọc không gian và tiêu cự f của thấu kính dùng làm chuẩn trực chùm ∆ tín hiệu tán xạ ngược [30]: 𝑓 28 (2.1) 𝐹𝑂𝑉 = Giá trị của thị trường của kính thiên văn phải lớn hơn độ phân kì của chùm laser để chùm laser có thể chồng chập hoàn toàn trong kính thiên văn. Tín hiệu tán xạ ngược thường được ghi nhận bởi các ống nhân quang điện. Các đặc trưng chính để lựa chọn ống nhân quang điện là: đáp ứng phổ, đáp ứng tần số, hiệu suất lượng tử, độ khuếch đại, và dòng tối. Ống nhân quang điện hoạt động ở chế độ đếm photon nên yêu cầu hiệu suất lượng tử cao, độ khuếch đại cao, và dòng tối thấp. Chế độ đếm photon cũng yêu cầu một bộ khuếch đại để khuếch đại xung photon trước khi chúng được bộ biến đổi tín hiệu tương tự-số ghi nhận. Một vấn đề quan trọng trong xây dựng các hệ lidar là lựa chọn cấu hình của chúng. Các hệ lidar đo nhiệt độ thường là các hệ đơn-tĩnh, tức là hệ phát và hệ thu ở cùng một vị trí. Chùm laser và trục kính thiên văn thường được thiết kế theo cấu hình lưỡng trục để lợi dụng hiệu ứng chồng chập nhằm giảm cường độ tín hiệu cho kênh tín hiệu đàn hồi ở khoảng cách gần. Cấu hình lưỡng trục là cấu hình mà trục của chùm tia laser và trục của kính thiên văn là song song hoặc gần song song. Cấu hình đơn tĩnh lưỡng trục của một hệ lidar có thể được mô tả ở Hình 2.2. Mối quan hệ không gian của chùm laser và thị trường của kính thiên văn được mô tả bởi hàm chồng chập. Hàm này có giá trị từ 0 tới 1, và nó có thể được xác định bằng giải tích hoặc thực nghiệm. Chúng ta có thể khảo sát các bố trí của chùm laser và kính thiên văn dựa trên tín hiệu lidar. Phân tích hình học chỉ ra rằng độ cao mà chùm laser bắt đầu vào thị trường của kính thiên văn được xác định theo công thức sau [57]: s0min = 2d−dt−dr
θr+2α+θt (2.2) Trong đó, d là khoảng cách giữa trục của chùm laser và trục của kính thiên văn, dt là đường kính của chùm laser, dr là đường kính của kính thiên văn, r là thị trường của kính thiên văn, t là độ phân kì của chùm laser, là góc lệch giữa trục 29 kính thiên văn và chùm laser. Hình 2.2. Cấu hình đơn tĩnh lưỡng trục của một hệ lidar [30]. Độ cao mà chùm laser chồng chập hoàn toàn với thị trường của kính thiên văn (2.3) s0max= 2d+dt-dr
θr+2α-θt có thể được xác định từ hình học theo công thức sau [57]: . Chúng ta Trục của chùm laser và trục của kính thiên văn là song song khi góc = 00 có thể tối ưu hóa sự sắp xếp cấu hình của hệ lidar, dựa trên việc so sánh trực quan các giá trị s0min và s0max tính từ hình học của hệ lidar với phân bố tín hiệu lidar trong một phép đo cụ thể. Dựa trên sơ đồ tổng quát và các yêu cầu kỹ thuật đặt ra ở trên, một hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman cho nghiên cứu phân bố mật độ và nhiệt độ ở tầng đối lưu đã được phát triển. Hệ lidar này được xây dựng theo cấu hình đơn tĩnh lưỡng trục, sử dụng một nguồn laser công suất cao và đầu thu hoạt động ở chế độ đếm photon. 30 2.1.2 Mô tả hoạt động Sơ đồ khối của hệ lidar đàn hồi-Raman kết hợp cho thấy ở Hình 2.3. Hệ lidar xây dựng theo cấu hình đơn tĩnh lưỡng trục bao gồm hai phần là khối phát và khối thu. Khối phát sử dụng một nguồn laser xung Nd: YAG công suất cao (Quantel, France) có bước sóng 532 nm độ rộng xung là 5 ns, tần số lặp lại là 10 Hz. Chùm laser được định hướng thẳng đứng vào khí quyền bởi một gương lái chùm. Hình 2.3. Sơ đồ khối của hệ lidar đàn hồi-Raman kết hợp. Khối thu sử dụng một kính thiên văn loại Schmidt-Cassegrain có đường kính 25 cm và tiêu cự 2.5 m để tập hợp tín hiệu tán xạ ngược. Kính thiên văn cũng được định hướng thẳng đứng để chuẩn trực song song với chùm laser. Ở mặt phẳng tiêu của kính thiên văn, một chặn trường có đường kính 2 mm đóng vai trò như một phin lọc không gian của chùm ánh sáng tán xạ ngược. Chùm ánh sáng tán xạ ngược được chuẩn trực song song bằng một thấu kính có tiêu cự 25 mm. Chùm tín hiệu tán xạ ngược được tách thành hai chùm tín hiệu đàn hồi và Raman bởi một gương lưỡng sắc (dichroic mirror longpass) DMLP 567 (Thorlab, 31 USA). Chùm ánh sáng đàn hồi 532 nm được phản xạ trong khi chùm ánh sáng Raman của Ni tơ 607 nm truyền qua. Ở kênh tín hiệu đàn hồi, cường độ tín hiệu được giảm bớt bằng phin lọc trung tính ND (neutral density filter) với OD = 3 (cường độ giảm đi 1000 lần). Tín hiệu đàn hồi này được lọc bởi một phin lọc giao thoa (interference filter) có bước sóng đỉnh 532 nm và băng thông (FWHM) là 3 nm để loại bỏ tín hiệu phông bên ngoài vùng lọc lựa phổ. Chùm tín hiệu lidar đàn hồi này được hội tụ vào một ống nhân quang điện (PMT) H6780-20 (Hamamatsu, Japan) bởi một thấu kính coated-A. Hình 2.4. Ảnh chụp hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman đang hoạt động. Ở kênh tín hiệu Raman, một phin lọc giao thoa FL550 nm longpass được sử dụng để loại bỏ tín hiệu tán xạ đàn hồi ở bước sóng 532 nm. Tín hiệu sau khi đi qua phin lọc này được lọc tiếp bởi một phin lọc giao thoa có bước sóng đỉnh 610 nm và băng thông 10 nm để loại bỏ ánh sáng khác với bước sóng 610 nm. Chùm tín hiệu lidar Raman này cũng được hội tụ vào một ống nhân quang điện (PMT) H6780-20 (Hamamatsu, Japan) bởi một thấu kính coated-A. Cả hai ống nhân quang điện này đều hoạt động ở chế độ đếm photon để xác định tín hiệu. Tín hiệu từ hai kênh này được khuếch đại bởi một bộ tiền khuếch đại (preamplifier) trước khi chúng được gửi tới một bộ đếm ADC 8 bit Picoscope 5204 (Picotech, UK). Tín hiệu trigger cho bộ ADC này lấy từ một photodiode thu nhận một phần tín hiệu xung laser. Số photon 32 tán xạ ngược được ghi nhận và lưu trong máy tính bởi phần mềm xử lí được xây dựng trong môi trường Labview. Toàn bộ hệ lidar đặt cố định trên một bàn di động như được cho thấy ở Hình 2.4. 2.1.3 Đặc trưng Đặc trưng của hệ lidar kết hợp đàn hồi- Raman được mô tả thông qua các đặc trưng của khối phát và khối thu. 2.1.3.1 Khối phát Khối phát của hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman sử dụng laser xung Nd:YAG (Brilliant model, Quantel, France) phát bước sóng cơ bản 1064 nm. Sau khi nhân tần số laser có bước sóng 532 nm được định hướng thẳng đứng vào khí quyển bởi một gương lái chùm. Một số thông số cơ bản của laser này được cho thấy ở Bảng 2.1. Bảng 2.1 Các thông số chính của laser Nd:YAG @ 532 nm [69]. Tần số lặp lại (Hz) 10 Năng lượng trên xung cực đại (thực tế). (mJ) 100 Độ rộng xung (ns) 5 Độ phân kì (mrad) 0.5 Đường kính chùm (mm) 6 2.1.3.2 Khối thu Khối thu của hệ lidar có chức năng tập hợp tín hiệu tán xạ ngược và lưu giữ chúng. Khối thu bao gồm: kính thiên văn, yếu tố quang học, đầu thu, bộ khuếch đại, bộ biến đổi tương tự-số ADC, phần mềm xử lí và lưu giữ số liệu, máy vi tính. Khối thu sử dụng một kính thiên văn Schmidt-Cassegrain (LX90 model, Meade, USA) có đường kính 10”(25.4 cm), tiêu cự 2500 mm. Ở mặt phẳng tiêu sử dụng một phin lọc không gian có đường kính 2 mm tạo nên thị trường (FOV) của 33 kính thiên văn là 0.8 mrad. Hình 2.5. Đặc trưng truyền qua và phản xạ của DMLP567. [93] Hình 2.6. Đặc trưng của FL532-3 nm (a), FL550 nm (b), FL610-10 nm (c). [93]. Các yếu tố quang học có chức năng lọc lựa phổ để thu được tín hiệu tán xạ ngược có bước sóng mong muốn. Khối phân tích quang học sử dụng một gương lưỡng sắc DMLP567 1” để tách hai chùm tín hiệu 532 nm và 607 nm. Gương lưỡng sắc này có bước sóng cut-off ở 567 nm, hệ số truyền qua trung bình là Tavg>90% ở vùng bước sóng 584-700 nm, hệ số phản xạ trung bình Ravg>90% ở vùng bước sóng 380- 550 nm, ở góc tới 450 (Hình 2.5). Kênh tín hiệu đàn hồi sử dụng phin lọc trung tính có OD =3 (tương ứng với cường độ giảm đi 1000 lần), và phin lọc giao thoa FL532- 3 nm có bước sóng đỉnh ở 532 nm và băng thông là 3 nm. Phin lọc này có hệ số truyền qua > 60% ở bước sóng đỉnh và khóa ánh sáng với bước sóng trong vùng 200-1150 nm (Hình 2.6 a). Trong kênh Raman, một phin lọc 550 longpass được dùng để cắt ánh sáng tán xạ đàn hồi 532 nm. Phin lọc này có bước sóng cut-on ở 550 nm, vùng 34 truyền qua 550-2200 nm, vùng phản xạ 200-533.5 nm (Hình 2.6 b). Một phin lọc giao thoa FL610-10 nm dùng để loại bỏ tiếp ánh sáng phông. Phin lọc này có bước sóng đỉnh là 610 nm và băng thông 10 nm với hệ số truyền qua > 50% ở bước sóng đỉnh và khóa bước sóng ở vùng 200-3000 nm (Hình 2.6 c). Hệ lidar sử dụng hai ống nhân quang điện hoạt động ở chế độ đếm photon trong thu nhận tín hiệu. Cả hai module ống nhân quang điện này được phát triển từ các đầu ống nhân quang điện H6780-20 (Hamamatsu, Japan). Một số thông số cơ bản của ống nhân quang điện này được cho ở bảng 2.2 và đặc trưng đáp ứng phổ và độ khuếch đại được trình bày ở hình 2.7. Bảng 2.2 Một vài thông số chính của ống nhân quang điện H6780-20 [20]. Voltage cung cấp (V) +11.5 to +15.5 Bước sóng đỉnh (nm) 630 Độ nhạy sáng của Cathode (mA/W) 78 Độ khuếch đại 7.5*105 to 106 Dòng tối (s-1) 80 to 400 35 Hình 2.7. Đặc trưng độ nhạy quang của cathode và độ khuếch đại của H6780-20 [20]. Hình 2.8. Ảnh của module ống nhân quang điện H6780-20. Tín hiệu điện từ ống nhân quang điện được khuếch đại trước khi đưa tới bộ biến đổi tương tự số. Module khuếch đại hai kênh được chúng tôi thiết kế và chế tạo dựa trên IC LMH6703MA có độ méo thấp và băng thông cực đại lên tới 1.2 GHz. Hệ số khuếch đại của bộ khuếch đại là 20 lần. Module được kết nối với các thiết bị khác thông qua cáp đồng trục BNC với phối hợp trở kháng 50 có sẵn và hoạt động bởi một nguồn nuôi ± 5 V. Off set của các kênh tín hiệu có thể được điều chỉnh bởi các biến trở. Sơ đồ mạch điện tử và ảnh chụp của module khuếch đại được cho thấy ở Hình 2.9. Hình 2.9. Sơ đồ mạch điện (a) và ảnh (b) của bộ khuếch đại. Bộ biến đổi tương tự-số (ADC) cho việc xử lí và ghi nhận tín hiệu lidar ở chế độ đếm photon sử dụng một dao động kí hai kênh (picoscope 5204, Picotech, United Kingdom) kết nối với máy tính thông qua cổng USB 2.0. Một số thông số cơ bản của 36 dao động kí này được cho thấy ở trong bảng 2.3. Bảng 2.3 Các thông số chính của hệ đếm photon picoscope 5204 [19]. Độ phân giải (bits) 8 Băng thông (MHz) 250 Tốc độ lấy mẫu cực đại (real time) 1GS/s (one channel), 500 MS/s (two channel) Buffer size (MS) 128 Timebase (range) 5 ns/div to 100 s/div Lối ra BNC, 50 Ω Hình 2.10. Giao diện của phần mềm xử lí và lưu giữ tín hiệu lidar, mầu trắng là tín hiệu đàn hồi, mầu đỏ là tín hiệu Raman. Phần mềm điều khiển, xử lí và lưu giữ tín hiệu lidar từ picoscope 5204 được chúng tôi xây dựng trong môi trường Labview. Phần mềm này được xây dựng dựa trên kỹ thuật lấy mẫu đối với chế độ đếm photon. Tín hiệu tán xạ ngược từ một xung laser được xác định như một waveform của chương trình, waveform này được chia thành nhiều các mẫu. Số photon tích lũy trong mỗi mẫu được đếm trong toàn bộ thời 37 gian tích phân. Mỗi mẫu này tương đương với độ phân giải không gian trung bình R=c*t/2. Giá trị này có thể được chọn cố định từ chương trình. Phân bố tín hiệu lidar có thể được lưu giữ trong máy tính dưới định dạng files *.txt. Giao diện phần mềm này được cho thấy ở hình 2.10 và code của chương trình trình bày ở phụ lục 1. Bảng 2.4. Các thông số chính của hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman. Nd:YAG laser Hệ phát Bước sóng 532 nm Năng lượng xung (max.) 100 mJ Tốc độ lặp lại 10 Hz Độ rộng xung 5 ns Độ phân kì 0.5 mrad Hệ nhận Đường kính kính thiên văn 254 mm Thị trường 0.8 mrad Hệ thu nhận tín hiệu Độ phân giải của ADC 8 bit Băng thông 250 MHz 2.1.4 Tối ưu hóa cấu hình của hệ lidar Đối với tán xạ đàn hồi Rayleigh và tán xạ Raman, cường độ tán xạ đạt giá trị cực đại ở hướng phía trước ( = 00) và hướng ngược lại ( = 1800). Vì vậy, để thu được cường độ tín hiệu lidar lớn nhất đối với hệ lidar theo cấu hình đơn tĩnh lưỡng trục thì sự sắp xếp tối ưu của hệ đòi hỏi trục của chùm laser phải song song với trục của kính thiên văn. Sự song song giữa hai trục còn giảm hiệu ứng tán xạ nhiều lần trong việc việc thu nhận tín hiệu lidar. Trước khi sử dụng hệ lidar để tập hợp dữ liệu thì chúng ta phải tối ưu hóa cấu hình giữa chùm laser và truc của kính thiên văn. Chúng ta có thể tối ưu hóa việc sắp xếp của chùm laser và trục của kính thiên văn bằng cách dùng hàm chồng chập O(z). Theo đó khoảng tín hiệu lidar bắt đầu 38 chồng chập và chồng chập hoàn toàn là [s0min;s0max]. Các giá trị này có thể được tính từ hình học của cấu hình hệ lidar theo các công thức (2.2) và (2.3), với giả thiết hai trục song song tức là góc lệch = 00. Bên cạnh đó, các giá trị s0min, s0max này có thể xác định từ phân bố hàm chồng chập được tính trực tiếp từ tín hiệu lidar. So sánh khoảng của hàm chồng chập từ phương pháp hình học và tín hiệu chúng ta có thể điều chỉnh để tối ưu sự sắp xếp của hệ lidar. Hệ lidar đàn hồi-Raman kết hợp được sắp xếp với các thông số có giá trị như sau: khoảng cách giữa trục laser và kính thiên văn d = 422 mm, đường kính chùm laser dt = 6 mm, đường kính kính thiên văn dt = 250 mm, độ phân kì của chùm laser t =0.5 mrad và thị trường của kính thiên văn r =0.8 mrad. Nếu hai trục laser và kính thiên văn là song song thì khoảng tín hiệu chồng chập tương ứng sẽ được tìm ra là s0min = 452 mm, s0max = 2000 m theo công thức (2.2) và (2.3). Các giá trị s0min, s0max có thể xác định từ phân bố hàm chồng chập được xác định trực tiếp từ tín hiệu lidar. Hàm chồng chập O(z) có thể được tính từ tín hiệu lidar theo một số phương pháp. Đối với hệ lidar đàn hồi-Raman kết hợp thì phương pháp do Ulla Wandinger and Albert Ansmann đề xuất được sử dụng để xác định phân bố hàm chồng chập [40]. Theo đó hàm chồng chập O(z) có thể được xác định theo phương pháp lặp. Hàm chồng chập xác định theo phương pháp lặp dựa trên sự khác nhau của hệ số tán xạ ngược của sol khí được tính theo hai phương pháp Klett và phương pháp Raman. Hệ số tán xạ ngược của sol khí được xác định theo phương pháp của Klett chứa thông tin về hàm chồng chập hoàn toàn (O(z) = 1). Theo đó hệ số tán xạ ngược này được xác định sau khi sử dụng một tỉ số lidar biết trước. Hệ số tán xạ ngược của sol khí được xác định theo phương pháp Raman dựa theo tỉ số tín hiệu lidar đàn hồi và lidar Raman nên nó chứa thông tin về hàm chưa chồng chập hoàn toàn. Theo phương pháp lặp, một độ lệch Oi(z) của hàm chồng chập được xác định theo công i thức [56]: (z)
βRaman(z)−βKlett
βRaman(z)− βmol(z) 39 (2.4) ∆Oi(z) = được dùng để hiệu chỉnh tín hiệu lidar đàn hồi ở bước tiếp theo [56]: (2.5) Pi+1(λ0, z) = Pi(λ0, z) (1 + ∆Oi(z)) Cuối cùng, hàm chồng chập được xác định dựa trên tỉ số tín hiệu lúc ban đầu và tín hiệu ở bước lặp cuối cùng [56]: O(z) = P1(λo,z)
Pend(λo,z) (2.6) Với khoảng 10-12 bước lặp đủ để loại ảnh hưởng của hàm chồng chập trong tín hiệu lidar đàn hồi. Hình 2.11 cho thấy phân bố hàm chồng chập của hệ lidar Raman-đàn hồi kết hợp rút ra từ tín hiệu lidar theo phương pháp lặp. Từ phân bố hàm chồng chập chúng ta có thể tìm ra độ cao chùm laser bắt đầu vào thị trường của kính thiên văn có giá trị khoảng 450 m và độ cao chùm laser chồng chập hoàn toàn vào thị trường kính thiên văn khoảng 2000 m. So sánh hai giá trị tính toán hình học và tín hiệu chúng ta thấy trục của chùm laser gần như song song với trục của kính thiên văn. Kết quả đã thể hiện cấu hình tối ưu cho hệ lidar. 40 Hình 2.11. Phân bố hàm chồng chập của hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman. 2.1.5 Đánh giá độ tin cậy và độ ổn định của hệ lidar Hình 2.12. Tín hiệu lidar Raman tích phân trong 10 phút (a), tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách so sánh với mật độ phân tử Ni tơ từ thám không (b). Lidar là một hệ đo đạc từ xa nên để khẳng định phép đo có tin cậy được hay không chúng ta cần phải so sánh tín hiệu lidar với một kết quả của một phép đo tin cậy nào đó. Như đã trình bày và phân tích ở Chương 1, cường độ tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách (cường độ nhân với bình phương khoảng cách) tỉ lệ thuận với mật độ phân tử trong khí quyển. Mà phân tử khí quyển giảm theo độ cao nên tín hiệu lidar cũng phân rã theo theo hướng giảm dần. Vì vậy so sánh tương đối giữa hai phân bố này chúng ta có thể đánh giá độ tin cậy của hệ lidar. Đầu tiên, phân bố tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách và phân bố mật độ phân tử so sánh được lấy logarit. Phân bố mật độ phân tử khí quyển có thể nhận được từ mô hình hoặc được tính dựa trên nhiệt độ và áp suất từ phép đo thám không vô tuyến. Sau đó, phân bố mật độ phân tử được hiệu chỉnh để cùng biên độ với phân bố của tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách tại một độ cao được chọn. Mật độ phân tử khí quyển giảm theo độ cao nên nó có dạng nghiêng xuống theo thang logarit. Vì vậy phân bố của tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng 41 cách cũng phải có dạng tương ứng. Trong khí quyển mật độ phân tử khí Ni tơ tương đối ổn định và chiếm nồng độ cao nhất (khoảng 78%). Tán xạ Raman không chứa tán xạ của sol khí nên có thể được sử dụng để đánh giá độ tin cậy của hệ lidar. Hình 2.12 trình bày kết quả của một phép đo tín hiệu tán xạ Raman của phân tử Ni tơ của hệ lidar kết hợp Raman-đàn hồi. Tín hiệu được tích phân trong 10 phút tương ứng với sự chồng chất của photon tán xạ ngược của 6000 xung laser phát đi. Trong đó hình 2.12 a cho thấy tín hiệu lidar Raman thô với độ phân giải không gian 1.2 m. Hình 2.12 b cho thấy phân bố tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách được rút ra từ tín hiệu lidar Raman thô. Tín hiệu lidar Raman này đã được trừ đi tín hiệu phông rồi nhân với bình phương khoảng cách tương ứng. Độ cao cực đại của phân bố tín hiệu lidar được xác định dựa trên tỉ số tín hiệu trên nhiễu (SNR) lớn hơn 1. Phân bố mật độ phân tử khí Ni tơ khí quyển nhận được từ dữ liệu thám không vô tuyến cùng ngày cũng được vẽ cùng theo thang logarit sau khi đã hiệu chỉnh để có cùng tỉ lệ thang đo. So sánh tương đối hai phân bố này chúng ta thấy chúng có dạng của tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách cũng biến đổi tương ứng giống như phân tử Ni tơ từ mô hình khí quyển. Phần cuối của phân bố tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách có thăng giáng mạnh hơn do tỉ số tín hiệu trên nhiễu giảm khi khoảng cách tăng nhưng phân bố vẫn nghiêng xuống giống như của phân bố phân tử Nit tơ từ mô hình. Điều này đã khẳng định độ tin cậy trong hoạt động của hệ lidar. Để đánh giá độ ổn định của hệ lidar, chúng ta có thể căn cứ vào độ ổn định của kết quả đo tín hiệu. Bởi vì mật độ Ni tơ trong khí quyển không biến đổi nhiều và sự suy giảm theo khoảng cách là tương đối ổn định. Tín hiệu lidar Raman không chứa tín hiệu tán xạ ngược của sol khí nên trong điều kiện khí quyển tương đối ổn định thì tín hiệu Raman của Ni tơ không biến đổi nhiều. Vì vậy, việc so sánh tương đối của nhiều file tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách có thể khẳng định độ ổn định của hệ lidar khi hoạt động. Hình 2.13 trình bày 6 file tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách. Mỗi file được tích lũy trong 10 phút, nên 6 file cho thấy hệ lidar thu nhận tín 42 hiệu trong 1 giờ. Mỗi phân bố tiếp theo được hiệu chỉnh thêm một biên độ bằng nhau để có thể biểu diễn trong một hình vẽ. Kết quả cho thấy các phân bố của 6 đường tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách tương đối giống nhau, điều này chứng tỏ hệ lidar đàn hồi-Raman kết hợp của chúng tôi hoạt động rất ổn định. Hình 2.13. Tín hiệu Raman hiệu chỉnh khoảng cách 6 file liên tiếp theo thang logarit. Hình 1.14. Tín hiệu lidar đàn hồi tích phân trong 10 phút (a), và tín hiệu hiệu chỉnh 43 khoảng cách (thang logarit) so sánh với mật độ phân tử của thám không (b). Đối với kênh tín hiệu đàn hồi, phin lọc trung tính được dùng để giảm cường độ tín hiệu để cho ống nhân quang điện có thể hoạt động ở chế độ đếm photon. Yêu cầu là độ suy hao (OD) của phin lọc trung hòa phải đủ lớn để ống nhân quang điện hoạt động ở chế độ đếm photon, đồng thời khoảng tín hiệu xác định được phải đạt được tối thiểu bằng khoảng đo của tín hiệu lidar Raman. Đối với kênh tín hiệu lidar đàn hồi, do tín hiệu có chứa cả tán xạ ngược của sol khí. Vì vậy, việc so sánh giữa phân bố tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách với mật độ phân tử không những cho phép chúng ta đánh giá độ tin cậy của phép đo ở vùng chứa phân tử khí, mà còn cho chúng ta thấy tán xạ ngược của sol khí so với tán xạ ngược của phân tử. Hình 14a cho thấy phân bố tín hiệu lidar thô của 10 phút tích phân và hình 14b cho thấy tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách từ tín hiệu lidar đàn hổi này. Trong khoảng 5 km chúng ta thấy tán xạ mạnh của sol khí, từ khoảng 5 km tới 15 km phân bố tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách khá phù hợp với phân bố mật độ phân tử của mô hình khí quyển cho thấy tán xạ Rayleigh chi phối trong khoảng này, cường độ tán xạ ngược ở trên khoảng cách 16 km có vùng nhô lên cho thấy tồn tại một lớp mây Ti (Cirrus) tầng cao định xứ ở vùng khí quyển này. 2.1.6 Đánh giá tỉ số tín hiệu /nhiễu Tỉ số tín hiệu /nhiễu (signal-to-noise ratio, SNR) của phép đo lidar là tỉ số giữa cường độ tín hiệu lidar (lidar signal) trên cường độ tín hiệu nhiễu [26]. Nó là một thông số quan trọng của mỗi phép đo lidar phải được đánh giá trước khi sử dụng dữ liệu để phân tích kết quả. Tỉ số tín hiệu /nhiễu cho thấy năng lực của hệ lidar, sự tối ưu của hệ lidar, điều kiện khí quyển thực tế khi đo [28]. Yêu cầu khi phân tích dữ liệu lidar thì giá trị của tỉ số tín hiệu /nhiễu phải lớn hơn 1 mới được chấp nhận [25]. Độ cao mà tỉ số tín hiệu /nhiễu lớn hơn 1 sẽ là độ cao cực đại được chấp nhận đối với các thông số khí quyển dẫn ra từ tín hiệu lidar. Do tín hiệu lidar được xác định ở chế độ đếm photon nên tín hiệu nhiễu tuân theo phân bố Poisson. Vì vậy, chúng ta có tỉ số tín hiệu /nhiễu được xác định bởi biểu thức [14]: 𝑃𝑠𝑖𝑔
𝑃𝑛𝑜𝑖𝑠𝑒 𝑃𝑠𝑖𝑔
√𝑃𝑠𝑖𝑔+2.𝑃𝑏𝑔 44 (2.7) 𝑆𝑁𝑅 = = Trong đó, Psig là cường độ tín hiệu lidar, nó bằng cường độ tín hiệu tổng cộng thu được Ptot trừ đi cường độ tín hiệu phông (background) Pbg [14]: (2.8) Psig = Ptot – Pbg và cường độ tín hiệu của nhiễu Pnoise được xác định bởi biểu thức [14]: (2.9) Pnoise = √𝑃𝑠𝑖𝑔 + 2. 𝑃𝑏𝑔 Trong phân tích dữ liệu lidar để giảm sai số thống kê do tín hiệu nhiễu gây ra cho các đại lượng thì tỉ số tín hiệu /nhiễu càng lớn càng tốt [27]. Theo công thức (2.4) để tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu chúng ta có thể tăng cường độ tín hiệu lidar Psig hoặc giảm tín hiệu phông Pbg hoặc cả hai. Về mặt kỹ thuật để tăng cường độ tín hiệu lidar thì chúng ta phải tăng công suất laser, tăng đường kính của kính thiên văn, tăng hiệu suất của đầu thu và tốc độ và độ phân giải của hệ điện tử. Để giảm cường độ tín hiệu phông thì chúng ta phải sử dụng kính thiên văn có độ mở thị trường nhỏ, các phin lọc giao thoa băng thông hẹp, nhiễu của đầu thu và hệ điện tử thấp. Tuy nhiên, với mỗi hệ lidar thì các thông số này thường là cố định. Tín hiệu phông trở nên lớn hơn trong những phép đo lidar được thực hiện vào ban đêm khi xuất hiện ánh sáng mặt trăng. Vì vậy, trong phân tích dữ liệu để tăng cường độ tín hiệu lidar chúng ta có thể hy sinh độ phân giải thời gian hoặc độ phân giải không gian hoặc cả hai của phép đo lidar tức là phải tăng việc lấy trung bình tín hiệu. Để xác định cường độ tín hiệu phông Pbg chúng ta có thể lấy trung bình cường độ tín hiệu ở một đoạn cuối của phân bố tín hiệu lidar đo được lúc đầu. Ở đoạn này chúng ta có thể chắc chắn rằng không chứa tín hiệu lidar. Vì vậy khoảng cách của phân bố tín hiệu lidar khi đo thường được thiết lập đủ xa để cho một đoạn cuối của nó không chứa tín hiệu lidar. Hình 2.15 cho thấy tỉ số tín hiệu /nhiễu của kênh tín hiệu đàn hồi và Raman của hệ lidar đàn hồi-Raman kết hợp của chúng tôi với các độ phân giải không gian khác nhau được tích phân trong 10 phút. Độ cao cực đại được xác định với tỉ số tín hiệu /nhiễu lớn hơn 1. Kết quả chỉ ra rằng với độ phân giải không gian là 12 m thì tín 45 hiệu lidar Raman đã đạt tới khoảng 18 km, tức là phép đo đã có thể bao phủ hoàn hoàn tầng đối lưu khí quyển. Chúng ta cũng thấy tỉ số tín hiệu /nhiễu của kênh đàn hồi cao hơn đáng kể so với kênh tín hiệu Raman. Khi khoảng cách của độ phân giải không gian tăng lên thì tỉ số tín hiệu /nhiễu ở trường gần tăng nhanh nhưng tỉ số tín hiệu /nhiễu ở trường xa thay đổi không đáng kể. Hình 2.15. Tỉ số tín hiệu /nhiễu với độ phân giải không gian khác nhau của tín hiệu lidar đàn hồi (a) và tín hiệu lidar Raman (b) của lidar được tích phân trong 10 phút. Hình 2.16. Tỉ số tín hiệu /nhiễu với thời gian tích phân khác nhau của tín hiệu lidar 46 đàn hồi (a) và tín hiệu lidar Raman (b) với độ phân giải không gian là 24 m. Hình 2.16 cho thấy tỉ số tín hiệu /nhiễu của hai kênh đàn hồi và Raman của hệ lidar với độ phân giải thời gian khác nhau có cùng độ phân giải không gian là 24 m. Chúng ta thấy ở phép đo 10 phút đầu tiên, mây Ti (cirrus) tầng cao chưa xuất hiện. Tuy nhiên, ở phép đo 10 phút sau đó mây Ti đã xuất hiện rõ nét ở khoảng cách 16 km. Như vậy, việc gia tăng thời gian tích phân sẽ làm giảm thông tin về tình trạng thực tế của khí quyển tại mỗi phép đo. Vì vậy, chúng ta phải dung hòa độ phân giải không gian và độ phân giải thời gian theo nhu cầu nghiên cứu khi chúng ta muốn tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu bằng cách này, điều này cũng dễ hiểu vì khoảng thời gian và khoảng không gian lấy trung bình tín hiệu càng lớn thì thông tin về khí quyển càng ít xác thực hơn. Nếu chúng ta muốn có thông tin càng xác thực về tình trạng khí quyển tại vị trí nghiên cứu thì chúng ta phải lựa chọn khoảng phân giải thời gian càng nhỏ càng tốt. Trong trường hợp này chúng ta có thể hy sinh độ phân giải không gian để tăng tỉ số tín hiệu trên nhiễu. Thay vào đó nếu chúng ta muốn có thông tin càng xác thực về sự phân tầng của khí quyển thì chúng ta phải lựa chọn khoảng phân giải không gian càng nhỏ càng tốt. Trong trường hợp này chúng ta có thể hy sinh độ phân giải thời gian để tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu. Việc lựa chọn tối ưu là khi đảm bảo được nhu cầu nghiên cứu và sai số thống kê do tín hiệu nhiễu gây ra có thể chấp nhận được. 2.1.7 Thảo luận Hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman hai kênh đo phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ khí quyển lần đầu tiên được phát triển thành công ở Việt Nam. Hệ lidar sử dụng nguồn laser xung ở bước sóng 532 nm, độ rộng xung 5 ns, với năng lượng trên xung cực đại là 100 mJ. Khối nhận dùng một kính thiên văn Schmidth-Cassegrain có đường kính 25 cm, thị trường là 0.8 mrad. Kênh tín hiệu Raman hoạt động ở chế độ đếm photon thu tín hiệu tán xạ ngược Raman của phân tử Ni tơ trong khí quyển ở bước sóng 607 nm. Tín hiệu lidar với thời gian tích phân trong 10 phút với độ phân giải không gian 12 m có thể đạt tới 18 km với tỉ số tín hiệu trên nhiễu lớn hơn 1. Kênh tín hiệu lidar đàn hồi cũng hoạt động ở chế độ đếm photon và tín hiệu lidar đàn hồi 47 với độ phân giải không gian 12 m và độ phân giải thời gian 10 phút cũng có thể đạt tới trên 20 km với tỉ số tín hiệu trên nhiễu lớn hơn 1. So sánh tích số công suất-tiết diện của hệ lidar này với các hệ lidar có cấu hình tương tự cho nghiên cứu sol khí, mật độ, nhiệt độ của khí quyển đã được phát triển trên thế giới dựa trên tỉ số tín hiệu /nhiễu đo được [22,40,63]. Kết quả đã cho thấy độ nhạy cao của hệ lidar được phát triển ở Việt Nam. Mặc dù hệ lidar ở Việt Nam đặt ở dưới lớp biên mặt đất phải chịu sự suy hao mạnh của sol khí có mật độ cao và thành phần phức tạp trong lớp khí quyển này. 2.2 Hệ lidar Rayleigh-Raman Hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman sử dụng phin lọc trung tính ở kênh tín hiệu đàn hồi giảm cường độ tín hiệu lidar tới 1000 lần để ống nhân quang điện có thể hoạt động ở chế độ đếm photon, vì vậy khoảng đo bị giới hạn trong tầng đối lưu. Để nghiên cứu khí quyển tầng cao (tầng bình lưu trở lên) chúng tôi đã phát triển một hệ lidar Rayleigh-Raman hai kênh, trong đó kênh Rayleigh đo tín hiệu tán xạ ngược Rayleigh ở tầng bình lưu, nhưng không đo được tín hiệu ở khoảng cách gần do sử dụng gated- PMT module để cắt bỏ khoảng tín hiệu này. Kênh Raman đo tín hiệu tán xạ ngược Raman của phân tử Ni tơ ở tầng đối lưu sử dụng ống nhân quang điện thông thường. Cả hai kênh tín hiệu này cho phép chúng ta thu được phân bố mật độ phân tử và nhiệt độ từ tầng đối lưu đến tầng bình lưu ở cùng một vị trí và thời điểm đo. 2.2.1 Xây dựng module gated-PMT 2.2.1.1 Mở đầu Khi nghiên cứu khí quyển tầng cao (tầng bình lưu trở lên) bằng kỹ thuật lidar, để thu được tín hiệu lidar ở khoảng cách xa các hệ lidar yêu cầu phải dùng các nguồn laser công suất cao và kính thiên văn có tiết diện lớn. Vì tín hiệu lidar suy hao theo bình phương khoảng cách và sự hấp thụ của khí quyển nên phân bố cường độ tín hiệu lidar có chênh lệch cường độ (dynamic range) rất rộng (chênh lệch khoảng từ 6 đến 7 bậc). Tín hiệu rất mạnh ở khoảng cách gần (trường gần) gây ra sự bão hòa cho ống 48 nhân quang điện sử dụng trong hệ lidar. Vì vậy một vấn đề đặt ra trong nghiên cứu khí quyển tầng cao là phải giảm sự chênh lệch cường độ của phân bố tín hiệu lidar bằng cách loại bỏ tín hiệu tán xạ mạnh ở trường gần. Một vài kỹ thuật đã được đề xuất để giải quyết vấn đề này như: sử dụng chopper cơ học [62], sử dụng điện cực ngoài [24], gated điện tử của ống nhân quang điện [28,33,42,43,62,90]. Sử dụng chopper cơ học để cắt bỏ ánh sáng mạnh ở trường gần là giải pháp tin cậy nhất lúc này bởi vì nó khóa toàn bộ ánh sáng tới các đầu thu ở một khoảng cách xác định. Tuy nhiên, các chopper có đáp ứng thời gian dài và độ ổn định thấp khi yêu cầu thời gian đáp ứng nhanh. Việc đồng bộ chopper với hệ lidar yêu cầu điều khiển cơ-điện tử phức tạp và đắt tiền. Nó cũng làm cho hệ lidar cồng kềnh và vận hành khó khăn. Williamson and De Young đã đề xuất một phương pháp là dùng một lưới điện cực kim loại ở ngay trước mặt photocathode của ống nhân quang điện để cắt ánh sáng ở trường gần bằng cách cung cấp xung điện thích hợp vào lưới điện cực này [24]. Phương pháp này đã tỏ ra hiệu quả trong việc loại bỏ tín hiệu mạnh của trường gần. Tuy nhiên phương pháp này yêu cầu chế tạo riêng cho các ống nhân quang điện và không thích hợp cho việc phát triển từ các đầu ống nhân quang điện thương mại. Phương pháp gated điện tử ống nhân quang điện được dùng phổ biến bởi vì chúng có thời gian đáp ứng nhanh, dễ dàng phát triển từ các đầu ống nhân quang điện thương mại và module gate dễ dàng tích hợp với hệ lidar. Nhược điểm chủ yếu của phương pháp gated điện tử là photocathode của ống nhân quang điện phải chịu một cường độ ánh sáng mạnh nên độ nhạy và tuổi thọ của ống nhân quang điện sẽ giảm nhanh [105]. Nhiều phương pháp gate điện tử đã được đề xuất cho các loại ống nhân quang điện khác nhau như: kiểm soát photocathode [28], kiểm soát photocathode và các dynode [42], kiểm soát một số dynode [43,44], kiểm soát chuỗi dynode [90], kiểm soát dynode và anode [62]. Hầu hết các phương pháp này áp dụng cho chế độ tương tự. Tuy nhiên hạn chế của chế độ tương tự là nó không thể xác định được vùng tín 49 hiệu yếu ở khoảng cách xa. Bên cạnh đó việc thu tín hiệu lidar chế độ này còn thường xuyên gặp phải hiện tượng nhiễu sinh ra tín hiệu (signal-induced-noise, SIN) làm cho tín hiệu lidar ở khoảng xa trở nên không còn tin cậy. Hình 2.17. Minh họa hiệu tượng nhiễu sinh tín hiệu của ống nhân quang điện. Hiện tượng nhiễu sinh ra tín hiệu là hiện tượng khi có một cường độ ánh sáng mạnh tới photocathode của ống nhân quang điện, làm sinh ra các electron còn dư chồng chất ở photocathode và các điện cực, do không tham gia hết vào quá trình nhân electron bên trong ống nhân quang điện. Các electron còn dư này lại tiếp tục tham gia vào quá trình nhân electron của các photon trễ hơn đập vào photocathode. Kết quả làm cho cường độ tín hiệu ở khoảng cách xa gia tăng so với tín hiệu lidar thực tế như được minh họa ở Hình 2.17. Hiện tượng nhiễu sinh ra tín hiệu sẽ làm sai lệch kết quả của các đại lượng Vật lý mô tả khí quyển rút ra từ tín hiệu lidar. Vì vậy nó phải được khảo sát cẩn thận trong các trường hợp sử dụng gate điện tử của ống nhân quang điện trong kỹ thuật lidar [106]. Chúng tôi đã xây dựng một module gated-PMT điện tử hoạt động ở chế độ đếm photon để loại bỏ tín hiệu mạnh ở trường gần và thu nhận tín hiệu yếu ở trường xa ứng dụng cho kỹ thuật lidar với khoảng cách loại bỏ có khả năng điều chỉnh được [93]. Gated-PMT module được phát triển dựa trên một đầu ống nhân quang điện loại R7400U (Hamamatsu Photonics, Japan) thương mại và phương pháp kiểm soát chuỗi 50 dynode chẵn. Phương pháp kiểm soát các chẵn dynode chẵn là thích hợp cho chế độ đếm photon do có hai ưu điểm. Thứ nhất, nó duy trì số quang điện tử (photon- electron) sinh ra sau khi có photon đập vào photoncathode, tức là duy trì độ nhạy của photocathode. Thứ hai, nó tránh hiện tượng electron có khả năng quay trở lại đập vào photocathode để sinh ra thêm electron nếu chúng ta lựa chọn phương pháp kiểm soát photocathode. Điều này sẽ giảm thiểu hiện tượng nhiễu sinh ra tín hiệu. Gated-PMT module này có cấu hình compact, dễ dàng tích hợp và đồng bộ với hệ lidar khác nhau. Khoảng cắt bỏ tín hiệu mạnh của trường gần có thể thay đổi được cung cấp khả năng hoạt động linh hoạt theo nhu cầu đo và điểu kiện khí quyển luôn biến đổi. Việc sử dụng các linh kiện thương mại sẵn có mà không yêu cầu chế tạo đặc biệt đã tạo ra một thiết bị có giá thành thấp, dễ dàng có thể phát triển và nâng cấp cho các mục đích nghiên cứu quang học và quang phổ khác nhau. Gated-PMT module hoạt động ở chế độ đếm photon nên nó có thể xác định được tín hiệu yếu ở khoảng cách xa và giảm thiểu hiện tượng hiện tượng nhiễu sinh ra tín hiệu so với hoạt động ở chế độ tương tự. Điều này sẽ làm gia tăng khoảng tín hiện lidar được xác định và độ chính xác trong các thông số khí quyển được rút ra từ tín hiệu lidar. 2.2.1.2 Thiết kế và hoạt động của module gated-PMT Đầu ống nhân quang điện R7400U (Hamamatsu Photonics, Japan) thương mại có 8 điện cực được sắp xếp theo một cấu hình compact. Nguyên lí của gated điện tử dựa trên phương pháp kiểm soát điện thế trên tất cả các điện cực chẵn. Một cao thế được ứng dụng vào cực dương (photocathode) cho phép ống nhân quang điện có thể hoạt động ở chế độ đếm photon. Ở điều kiện thường, đơn vị chia thế (voltage divider) được thiết lập để sự chênh lệch điện áp giữa các điện cực chẵn và lẻ đủ nhỏ để ống nhân quang điện ở trạng thái không hoạt động (normally-off). Sau thời gian trễ tdelay các xung gate được ứng dụng đồng thời vào các điện cực chẵn để cho ống nhân quang điện hoạt động trở lại. Thời gian trễ tdelay này là so với xung trigger cho bộ đếm photon, vì vậy khoảng cách tín hiệu bị cắt bỏ là h = ½*c* tdelay. Giá trị của tdelay được 51 chọn phụ thuộc vào công suất laser phát, điều kiện khí quyển và nhu cầu đo. Sơ đồ khối của module gated-PMT được trình bày ở Hình 2.18. Module được thiết kế gồm hai phần: phần thứ nhất gồm bộ phát xung gate và bộ chia thế được gán vào đầu ống nhân quang điện, phần thứ hai gồm bộ tách sóng và làm trễ xung cùng với các bộ nguồn nuôi. Một phần nhỏ của xung laser truyền vào khí quyển được biến đổi thành xung điện bởi một photodiode nhanh. Các xung điện này cũng là các xung trigger cho việc dành tín hiệu lidar bởi bộ đếm ADC. Các xung điện phát ra từ photodiode được biến đổi thành xung TTL (Transitor-Transitor Logic) bởi một mạch tách sóng nhanh (ultra discriminator). Các xung số này được làm trễ đi một thời gian tdelay bởi một mạch làm trễ (delay time unit). Những xung điện sau khi được làm trễ này được khuếch đại bởi mạch phát xung gate (gate pulse generator) để đạt được điện áp cần thiết. Cuối cùng các xung gate được cấp cho các điện cực chẵn của đầu ống nhân quang điện để nó làm việc ở chế độ đếm photon. Hình 2.18. Sơ đồ khối của module gated-PMT. Hình 2.19 cho thấy sơ đồ mạch điện của bộ tách sóng và làm trễ. Đầu tiên, các xung điện phát từ photodiode được tách và biến đổi thành xung TTL bởi một comparator nhanh U1. Độ rộng của xung TTL này được kiểm soát bởi một D flip- flop và biến trở VR1, tụ điện C1. Độ rộng xung TTL này tỉ lệ với hằng số thời gian t1 = VR1*C1 tương ứng với thời gian làm trễ, nó xác định khoảng tín hiệu trường gần được loại bỏ, và có thể được điều chỉnh thông qua biến trở VR1. Các xung logic này được chia làm hai phần để hình thành nên xung gate. Phần thứ nhất được biến đổi bởi 52 một cổng logic NAND U6A, phần còn lại được dùng để phát xung bởi một timer NE555D và biến trở VR4 và các tụ điện C23, C24. Độ rộng xung được hình thành bởi timer này tỉ lệ với thời gian t2 = VR4*(C23+C24), nó xác định khoảng tín hiệu của module gated-PMT đo được. Hai xung này được kết hợp với nhau bởi cổng logic NAND U5A phát ra các xung tham khảo (reference pulse) với khoảng tín hiệu mạnh bị loại bỏ và khoảng đo tín hiệu xác định. Hình 2.19. Sơ đồ mạch điện của mạch tách sóng và làm trễ. Các xung tham khảo này được đưa tới mạch phát xung gate, mạch này khuếch đại để các xung đạt được điện áp mong đợi. Chúng được khuếch đại thông qua các transitor Q2, Q3 và P-kênh MOSFET transistors IRF9620 tốc độ cao. Các xung gate có điện áp Vg có thể được điều chỉnh lên tới 120 V để cho ống nhân quang điện có thể làm việc ở chế độ đếm photon. Các xung gate này được ứng dụng đồng thời và các điện cực chẵn của ống nhân quang điện thông qua các tụ điện C3, C4, C5, C6. Sơ đồ mạch điện của bộ phát xung gate và mạch chia thế của ống nhân quang điện được cho thấy trên Hình 2.20. Các biến trở của mạch chia thế của ống nhân quang điện cho 53 phép đặt hiệu điện thế giữa các cặp điện cực chẵn-lẻ là nhỏ (khoảng -10V) để tắt ống nhân quang điện ở trạng thái thường. Điện áp của các điện cực lẻ được đạt ở giá trị bình thường, trong khí đó điện áp đặt vào photocathode khoảng -800V cho phép module gated-PMT làm việc ở chế độ đếm photon khi các xung gate được ứng dụng vào chuỗi dynode chẵn. Hình 2.20. Sơ đồ của mạch phát xung gate và mạch chia thế của gated-PMT. Hình 2.21 cho thấy ảnh chụp của gated-PMT module của chúng tôi. Module được thiết kế làm hai phần: phần đầu gồm mạch tạo xung gate và mạch chia thế được gắn đầu ống nhân quang điện, phần thứ hai gồm mạch tách sóng, mạch làm trễ và các nguồn nuôi cho toàn bộ các đơn vị này. Phần đầu được thiết kế riêng để đảm bảo sự gọn nhẹ, compact và dễ dàng tích hợp với hệ lidar giống như các module ống nhân quang điện thông thường. Phần thứ hai được thiết kế chứa màn hình tinh thể lỏng để 54 hiển thị các thông số để có thể dễ dàng điều chỉnh như: khoảng cách gated, khoảng cách đo, cao áp cho đầu ống nhân quang điện. Hai phần được nối với nhau thông qua các cáp nối tín hiệu BNC. Hình 2.21. Ảnh chụp của module gated-ống nhân quang điện, (a) đơn vị tạo xung gate và chia thế, (b) đơn vị tách sóng và làm trễ xung cùng các nguồn nuôi. 2.2.2 Hoạt động và đặc trưng của hệ lidar Rayleigh-Raman Sơ đồ khối của hệ lidar Rayleigh-Raman nghiên cứu tầng cao khí quyển được trình bày ở Hình 2.22. Hệ lidar cũng được thiết kế theo cấu hình đơn tĩnh lưỡng trục. Để hạn chế cường độ tán xạ của trường gần lên kênh đàn hồi, hệ lidar lợi dụng hiệu ứng chồng chập của chùm laser và thị trường của kính thiên văn bằng việc tăng khoảng cách giữa chùm laser và trục của kính thiên văn so với hệ lidar đàn hồi-Raman kết hợp. Hệ lidar cũng sử dụng nguồn laser xung Nd:YAG (Quantel, France) ở bước sóng 532 nm. Hệ thu sử dụng kính thiên văn loại Schmidt-Cassegrain có đường kính 25 cm và tiêu cự 2.5 m để tập hợp tín hiệu tán xạ ngược. Gương lưỡng sắc DMLP 567 được dùng để phân tách hai chùm tín hiệu tán xạ ngược đàn hồi và Raman. Ở kênh tín hiệu đàn hồi, phin lọc trung tính không được dùng nữa. Tín hiệu tán xạ ngược đàn hồi được lọc bởi một phin lọc giao thoa có bước sóng đỉnh là 532 nm và băng thông (FWHM) 1 nm để loại bỏ bước sóng khác. Tín hiệu đàn hồi được ghi nhận bởi module gated-ống nhân quang điện. Module sẽ cắt tín hiệu mạnh ở trường gần đồng thời thu nhận tín hiệu yếu của trường xa ở chế độ đếm photon. Ở kênh tín hiệu Raman, 55 để loại bỏ tín hiệu 532 nm và tín hiệu phông, hai phin lọc giao thoa 550 longpass và phin học giao thoa 610 nm-10nm được kết hợp sử dụng. Module ống nhân quang điện H6780-20 (Hamamatsu, Japan) cũng dùng để ghi nhận tín hiệu Raman. Cả hai tín hiệu được khuếch đại lên 20 lần bởi bộ khuếch đại và được đưa tới bộ ADC 8 bit sử dụng oscilloscope pico 5204 (picotech UK) để xử lí tín hiệu. Dữ liệu lidar cũng được lưu giữ dưới dạng file *.txt bởi phần mềm xây dựng từ chương trình Labview. Hình 2.22. Sơ đồ khối của hệ lidar Rayleigh-Raman. IF: phin lọc giao thoa. Hình 2.23 trình bày một file tín hiệu lidar thô được tích phân trong 10 phút của hệ lidar Rayleigh-Raman nghiên cứu khí quyển tầng cao. Hệ lidar cho thấy hai kênh tín hiệu với tín hiệu lidar Raman của phân tử Ni tơ mầu đỏ không bị gated nên có điểm bắt đầu ở mốc tính thời gian. Trong khi đó tín hiệu tán xạ ngược Rayleigh của phân tử khí quyển mầu trắng bị cắt một khoảng so với vị trí mốc cho thấy cường độ tín hiệu mạnh của trường gần đã bị loại bỏ hoàn toàn. Cường độ tín hiệu lidar Rayleigh thấp hơn tín hiệu lidar Raman đã cho thấy độ nhạy của module trong việc 56 ghi nhận tín hiệu lidar ở chế độ đếm photon. Hình 2.23. Một phân bố tín hiệu lidar đo được của hệ lidar Rayleigh-Raman. Các thông số kỹ thuật cơ bản của hệ lidar Rayleigh-Raman được cho thấy ở bảng 2.5 với kênh Rayleigh sử dụng module gated-PMT, trong khi kênh Raman sử dụng module ống nhân quang điện thông thường H 6780-20. Bảng 2.5. Đặc trưng kỹ thuật của hệ lidar Rayleigh-Raman. Hệ phát Nd:YAG laser Bước sóng 532 nm Năng lượng xung (max.) 100 mJ Tốc độ lặp lại 10 Hz Độ rộng xung 5 ns Độ phân kì 0.5 mrad Hệ thu Đường kính kính thiên văn 254 mm Thị trường 0.8 mrad Hệ đếm photon Kênh Rayleigh Module gated-PMT 57 Kênh Raman PMT H 6780-20 2.2.3 Các phép đo đánh giá Gated-PMT module được tích hợp vào hệ lidar Rayleigh-Raman nên hoạt động của hệ lidar trong việc thu tín hiệu ở kênh đàn hồi thể hiện khả năng hoạt động của module này. Phép đo đầu tiên là kiểm tra xem gated-PMT modulecó bị ảnh hưởng của hiện tượng nhiễu sinh ra tín hiệu hay không khi nó chịu ảnh hưởng của một cường độ tín hiệu rất mạnh ở khoảng cách gần. Tiếp theo chúng ta sẽ đánh giá độ tin cậy và độ ổn định của hệ lidar thông qua khảo sát tín hiệu lidar ở kênh tín hiệu đàn hồi sử dụng module gated-ống nhân quang điện. Cuối cùng tỉ số tín hiệu /nhiễu ở kênh đàn hồi sẽ được đánh giá. Như đã chỉ ra ở trên đối với phương pháp gate điện tử của ống nhân quang điện thì photocathode của ống nhân quang điện phải chịu một cường độ tín hiệu có cường độ rất cao ở khoảng cách gần. Tín hiệu mạnh có thể gây ra hiện tượng nhiễu sinh ra tín hiệu đối với các ống nhân quang điện, vì vậy hiện tượng này phải được khảo sát đầu tiên trước khi sử dụng nó để thu nhận tín hiệu lidar. Để đánh giá ảnh hưởng của tín hiệu rất mạnh ở trường gần nằm trong khoảng tín hiệu bị loại bỏ có gây ra hiện tượng nhiễu sinh ra tín hiệu cho khoảng tín hiệu cần được xác định ở trường xa hay không, một phép đo được thực hiện trong điều kiện khí quyển có mây rất đậm đặc. Các lớp mây rất đậm đặc này phản xạ ánh sáng laser và làm suy hao gần như hoàn toàn ánh sáng tán xạ ngược từ khoảng cách xa ở trên các lớp mây này. Vì vậy ở khoảng cách xa của khí quyển coi như không có tín hiệu tán xạ ngược mà các đầu thu được cho rằng chỉ thu được tín hiệu phông. Trong trường hợp này tín hiệu thu được ở đoạn trên điểm gated của module chỉ là tín hiệu phông của khí quyển và nhiễu điện tử. Nếu cường độ tín hiệu mà gated-PMT modulethu được ở trên điểm gated không bị ảnh hưởng bởi hiện tượng nhiễu sinh ra tín hiệu thì nó phải biến đổi tương đối thẳng giống như tín hiệu phông ở kênh Raman. Ngược lại, nếu bị ảnh hưởng bởi cường độ rất mạnh ở trường gần thì tín hiệu trên điểm gated sẽ suy hao giống như phân bố của tín hiệu lidar trong các phép đo thông thường. Sự đóng góp của hiện 58 tượng nhiễu sinh tín hiệu đã được mô tả ở hình 2.17. Tín hiệu sinh ra từ nhiễu này sẽ đóng góp vào tín hiệu lidar thực làm sai lệch kết quả của các thông số được rút ra từ tín hiệu lidar. Phép đo tín hiệu tán xạ ngược Raman cũng được thực hiện đồng thời với kênh đàn hồi bị gated để chỉ ra sự tồn tại của các lớp mây thông qua sự so sánh giữa phân bố mật độ phân tử Ni tơ từ mô hình và phân bố tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách. Các lớp mây cũng sẽ làm suy hao hoàn toàn tín hiệu lidar Raman cho nên ở trên các lớp mây đầu thu ở kênh Raman có thể chỉ ghi được tín hiệu nhiễu phông. Tín hiệu lidar Raman chỉ phản ánh tán xạ Raman của phân tử Ni tơ và có cường độ yếu nên không có hiện tượng nhiễu sinh ra tín hiệu. Hình 2.24. Kết quả của phép đo đánh giá ảnh hưởng của nhiễu sinh ra tín hiệu lên module gated-ống nhân quang điện, (a): kết quả đo trong trường hợp mây đậm đặc, (b): tín hiệu ở trên điểm gate ở hai kênh Rayleigh và Raman trong đó kênh Rayleigh được nhân lên 3 lần [92]. Kết quả của phép đo đánh giá ảnh hưởng của tín hiệu có cường độ rất mạnh ở khoảng cách gần lên khoảng tín hiệu Rayleigh ở trường xa được thu nhận bởi gated- PMT module được cho thấy trên Hình 2.24. Hình 2.24a chỉ ra rằng ở khoảng cách dưới 5 km tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách biến đổi tương đối đồng nhất 59 giống như mật độ phân tử Ni tơ của mô hình khí quyển (theo thang logarit). Đến khoảng cách gần 5 km một lớp mây đậm đặc đã làm suy sao gần như toàn bộ tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách. Nên kết quả cho thấy hai đường phân bố đã hoàn toàn tách rời nhau và cường độ tín hiệu lidar Raman đã suy hao gần như bằng không. Ở trên 10 km thì cường độ tín hiệu Raman đã bằng với biên độ của mức phông. Ở kênh tín hiệu Rayleigh sử dụng module gated-PMT, điểm gate được thiết lập ở 16 km. Ở dưới điểm gate ống nhân quang điện sẽ chịu một cường độ tán xạ ngược rất mạnh. Lớp mây đậm đặc được cho rằng là có thể chắn hết tín hiệu tán xạ ngược ở điểm gate module nên đầu thu chỉ thu được tín hiệu phông. Sau 10 phút tích phân và độ phân giải không gian là 1.2 m, kết quả cho thấy phân bố tín hiệu thu được ở trên điểm gated có dạng tương đối phẳng như được mô tả ở Hình 2.24b. Tín hiệu từ kênh Rayleigh từ module cũng được so sánh với tín hiệu phông thu được ở kênh Raman trong cùng khoảng cách, kết quả cho thấy biên độ của kênh Rayleigh nhỏ hơn biên độ của kênh Raman đã khẳng định gated-PMT module không bị ảnh hưởng bởi hiện tượng nhiễu sinh ra tín hiệu khi khoảng loại bỏ của module bị ảnh hưởng của một cường độ tán xạ ngược rất mạnh. Module gated - ống nhân quang điện đã cho thấy có thể hoạt động tốt ở chế độ đếm photon trong nghiên cứu khí quyển tầng cao. Module gated-PMT đã thể hiện khả năng tốt trong việc loại bỏ tín hiệu mạnh ở trường gần như đã cho thấy ở Hình 2.24. Gated-PMT module cũng đã chứng tỏ không bị ảnh hưởng của hiện tượng nhiễu sinh tín hiệu như đã khảo sát ở trên. Độ tin cậy của hệ lidar Rayleigh-Raman được đánh giá thông qua tín hiệu lidar Rayleigh giành được bởi module-ống nhân quang điện. Do không có dữ liệu thám không vô tuyến trong vùng khí quyển này nên mật độ phân tử của khí quyển nhận được từ mô hình khí quyển MSISE-90 cùng ngày tại Hà Nội được dùng để so sánh. MSISE-90 là mô hình khí quyển được phát triển bởi NASA cho phép xác định mật độ phân tử và nhiệt độ tại các tọa độ trên Trái đất [6, 45]. Phân bố tín hiệu lidar Rayleigh hiệu chỉnh khoảng cách được so sánh với phân bố mật độ phân tử tại một điểm tham khảo theo thang logarithm. Để so sánh một điểm tham khảo được chọn để hiệu chỉnh phân bố tín hiệu lidar Rayleigh hiệu chỉnh khoảng cách cùng bậc với phân bố mật độ phân tử. 60 Do mật độ phân tử khí quyển suy giảm theo độ cao nên thang logarithm của nó sẽ biến đổi theo dạng gần tuyến tính theo chiều giảm dần. Phân bố tín hiệu lidar Rayleigh hiệu chỉnh khoảng cách cũng phải biến đổi có dạng tương tự thì mới hòa hợp. Vì vậy sự hòa hợp của hai phân bố ở thang cho phép ta khẳng định độ tin cậy của hệ lidar. Kết quả của phép đo cũng khẳng định khả năng loại bỏ tín hiệu mạnh ở khoảng cách gần của module gated-ống nhân quang điện. Hình 2.25. Tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách từ module gated-PMT. Kết quả của phép đo đánh giá độ tin cậy của hệ lidar Rayleigh-Raman được cho thấy ở Hình 2.25. Phép đo được thực hiện ở Hà nội, Việt Nam (21o2’0” Bắc, 105o51’00” Đông, cao 20 m trên mực nước biển). Tín hiệu lidar được tích phân trong vòng 1 giờ tương ứng với số photon được chống chất trong 36000 xung laser và độ phân giải không gian là 120 m. Khoảng loại bỏ tín hiệu (khoảng cách bị gate) được thiết lập ở 20 km. Kết quả cho thấy tín hiệu mạnh ở trường gần trước điểm bị gate đã hoàn toàn bị loại bỏ. Khoảng tín hiệu lidar Rayleigh xác định được đạt tới độ cao 60 km với tỉ số tín hiệu trên nhiễu lớn hơn 9 được cho thấy ở Hình 2.25b. Phân bố tín hiệu lidar Rayleigh hiệu chỉnh khoảng cách so sánh với phân bố mật độ phân tử từ mô hình MSISE-90 đã cho thấy hai phân bố là rất gần nhau như ở Hình 2.25 a. Điều 61 này đã khẳng định độ tin cậy của hệ lidar Rayliegh-Raman. Hình 2.26. Tín hiệu hiệu chỉnh khoảng cách của 10 file liên tiếp dùng module gated-PMT, mỗi phân bố sau sẽ được cộng với một khoảng biên độ để so sánh. Để đánh giá độ ổn định của module theo thời gian 10 file tín hiệu lidar được so sánh tương đối với nhau. Bởi vì tầng bình lưu có nồng độ sol khí không đáng kể và mật độ phân tử biến đổi rất ổn định nên tín hiệu lidar Rayleigh sẽ không thăng giáng nhiều như ở tầng đối lưu. Hình 2.26 cho thấy kết quả của 10 file tín hiệu lidar Rayleigh hiệu chỉnh khoảng cách liên tiếp (theo thang logarit) được so sánh tương đối với nhau. Mỗi file được tích phân trong 10 phút nên 10 file liên tiếp sẽ tương ứng với thời gian hoạt động là 100 phút của module. Mỗi đường sẽ cách nhau cùng một khoảng biên độ xác định để tiện so sánh. Mật độ phân tử từ mô hình khí quyển ở thang lô ga rít cũng được so sánh cùng sau khi đã hiệu chỉnh để có cùng một thang đo ở một điểm được chọn. Kết quả cho thấy 10 phân bố tín hiệu lidar hiệu chỉnh 62 khoảng cách theo thang logarit có dạng gần giống và gần song song với nhau cho thấy sự hoạt động ổn định của gated-PMT modulecũng như hệ lidar này trong một thời gian dài. Kênh tín hiệu lidar Raman của hệ lidar Rayleigh-Raman có các thông số đặc trưng giống như kênh Raman của hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman, vì vậy khả năng của kênh này được đặc trưng bởi tỉ số tín hiệu /nhiễu đã được đánh giá ở hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman. Tỉ số tín hiệu /nhiễu ở kênh Rayleigh phản ánh khả năng của hệ lidar Rayleigh-Raman sử dụng gated-PMT moduletrong việc dành tín hiệu yếu ở khoảng cách xa. Hình 2.27. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu lidar (a) và tỉ số tín hiệu /nhiễu (b) vào độ phân giải thời gian của lidar Rayleigh với độ phân giải không gian là 24 m. Hình 2.27 trình bày sự phụ thuộc cường độ tín hiệu lidar và tỉ số tín hiệu /nhiễu của kênh Rayleigh vào các thời gian tích phân khác nhau với điểm gated được đặt ở 20 km. Độ phân giải không gian được cố định là 24 m. Tỉ số tín hiệu /nhiễu được yêu cầu lớn hơn 1. Chúng ta nhận thấy cường độ tín hiệu và tỉ số tín hiệu /nhiễu tăng nhanh khi chúng ta lấy trung bình tín hiệu theo thời gian. Tuy nhiên khi độ cao tăng thì sự chênh lệch của tỉ số tín hiệu /nhiễu theo các thời gian khác nhau không gia tăng 63 đáng kể, điều này la do suy suy hao nhanh của tín hiệu lidar theo độ cao. Tỉ số tín hiệu /nhiễu của kênh Rayleigh tích phân trong thời gian 10 phút và lấy trung bình trong khoảng không gian là 24 m đạt tới độ cao 54 km. Hình 2.28. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu lidar (trái) và tỉ số tín hiệu /nhiễu (phải) vào độ phân giải không gian của lidar Rayleigh với độ phân giải thời gian là 10 phút. Hình 2.28 trình bày kết quả khảo sát cường độ tín hiệu lidar Rayleigh và tỉ số tín hiệu /nhiễu của kênh Rayleigh phụ thuộc vào các khoảng không gian khác nhau với thời gian lấy trung bình là cố định trong 10 phút. Kết quả cũng cho thấy cường độ tín hiệu và tỉ số tín hiệu /nhiễu tăng nhanh khi khoảng không gian lấy trung bình tín hiệu tăng. Tuy nhiên do tín hiệu suy giảm bậc hai theo độ cao nên tỉ số tín hiệu /nhiễu không chênh lệch nhiều ở độ cao lớn. Với thời gian tích phân trong khoảng 10 phút thì tỉ số tín hiệu /nhiễu có độ phân giải không gian là 12 m có thể đạt tới 51 km. Trong tầng bình lưu khí quyển do không khí tương đối vì vậy chúng ta có thể tăng đồng thời khoảng thời gian và khoảng không gian lấy trung bình tín hiệu để tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu của tín hiệu lidar Rayleigh. Trong các trường hợp khảo sát trên tỉ số tín hiệu /nhiễu được xác định là lớn hơn 1, còn trong các trường hợp xác định các thông số Vật lý thì tỉ số này thường được lấy sao cho sai số do nhiễu tín hiệu gây ra 64 cho đại lượng đó là nhỏ hơn 10%. 2.2.4 Thảo luận Hệ lidar Rayleigh-Raman nghiên cứu khí quyển tầng cao sử dụng nguồn laser có bước sóng 532 nm với tích số công suất (cống suất trung bình của laser) – diện tích (diện tích của kính thiên văn) đã cho thấy độ nhạy cao khi so sánh với một số hệ lidar khác cùng nghiên cứu trong vùng khí quyển này (bảng 2.6). Bảng 2.6. So sánh hệ lidar Rayleigh-Raman ở Việt Nam với một số hệ lidar khác Hệ lidar Haute- Mt. Abu Chung li Nhật Bản Arecibo Hà nội Provence, Ấn Độ Đài Loan [89] Puerto- Việt Pháp [9] [21] [74] Rico [109] Nam công suất 0,8W- 2,6W- 15W- 16W- 7,5W- 1W- – tiết diện 0,5 m2 1 m2 1520 cm2 1963 cm2 1134 cm2 507 cm2 Kết quả tín hiệu lidar Rayleigh của hệ lidar được chúng tôi phát triển có thể đạt tới 60 km với thời gian tích phân trong 1 giờ và độ phân giải không gian là 120 m với tỉ số tín hiệu trên nhiễu lớn hơn 9. Kết quả này có được nhờ việc sử dụng gated- PMT module hoạt động ở chế độ đếm photon trong việc thu tín hiệu lidar ở kênh lidar Rayleigh. Module cho thấy độ nhạy cao và không bị ảnh hưởng bởi hiện tượng nhiễu sinh tín hiệu [93]. Kết quả này cho phép chúng ta bao phủ toàn bộ tầng bình lưu khí quyển tại địa điểm nghiên cứu. Hệ lidar thu tín hiệu được đặt tại Hà nội nơi có mật độ sol khí cao và ở trên mặt đất đã hạn chế độ cao cực đại có thể dành được. Nếu hệ lidar được đặt ở độ cao lớn hơn và có mật độ sol khí ít hơn thì độ cao cực đại có thể gia tăng. Mặc dù tầng thấp khí quyển có thể được nghiên cứu bởi tín hiệu lidar Raman từ hệ lidar này. Tuy nhiên chúng ta hoàn toàn có thể phát triển hệ lidar này thành hệ lidar 3 kênh với sự kết hợp đồng thời hai kênh đàn hồi và Raman cho nghiên cứu tầng đối lưu, còn kênh Rayleigh nghiên cứu tầng bình lưu. Đặc biệt chúng ta có thể phát triển hệ lidar để hoạt động ở chế độ ban ngày ở chế độ đếm photon nếu như sử dụng 65 bộ lọc quang phổ với băng thông rất hẹp. 2.3 Kết luận chương 2 Hai hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman và hệ lidar Raman-Rayleigh cho nghiên cứu phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ đã được phát triển thành công. Hệ lidar kết hợp đàn hồi – Raman có thể bao phủ tầng đối lưu lên tới 20 km và cung cấp dữ liệu gồm hai tín hiệu lidar đàn hồi và tín hiệu lidar Raman tại cùng một khoảng không gian và thời gian. Trong khi đó hệ lidar Rayleigh-Raman cung cấp hai dữ liệu gồm tín hiệu lidar Raman ở tầng đối lưu và tín hiệu lidar Rayleigh đạt tới 60 km ở tầng bình lưu. Hệ lidar kết hợp đàn hồi–Raman với tích số công suất-tiết diện là 1W-507 cm2 có thể dành được đồng thời hai tín hiệu lidar đàn hồi và Raman đạt được độ cao 20 km cho thấy độ nhạy cao do sử dụng đầu đo ống nhân quang điện ở chế độ đếm photon và cấu hình lưỡng trục lợi dụng sự chồng chập của chùm laser và kính thiên văn. Dữ liệu lidar kết hợp đàn hồi và Raman cho phép nghiên cứu đồng thời được tính chất của sol khí và nhiệt độ trong tầng đối lưu và lớp đối lưu hạn. Thêm vào đó, sử dụng đồng thời hai tín hiệu lidar đàn hồi và Raman chúng ta có thể nghiên cứu đồng thời đặc trưng, tính chất và mối liên hệ của mây Ti tầng cao và lớp đối lưu hạn. Các kết quả này là điều mà kỹ thuật thám không vô tuyến không thể có được. Hệ lidar Rayleigh-Raman nghiên cứu khí quyển tầng cao cũng chỉ với tích số công suất – tiết diện là 1W-507 cm2 với kênh Rayleigh đã đạt tới gần 60 km với tín hiệu lidar Rayleigh. Đạt được kết quả này là do kênh Rayleigh sử dụng gated-PMT module hoạt động ở chế độ đếm photon cho phép cắt bỏ tín hiệu mạnh ở khoảng cách gần đồng thời thu được tín hiệu lidar rất yếu. Trong khi đó kênh Raman thu tín hiệu lidar Raman ở khoảng cách bị cắt. Kết quả này cho phép chúng ta nghiên cứu các đặc trưng và hiện tượng khí quyển ở tầng bình lưu, điều mà kỹ thuật thám không vô tuyến không thể thực hiện được. Các phép đo đánh giá của hai hệ lidar đã cho thấy các hệ lidar có độ tin cậy và độ ổn định cao. Tập hợp các dữ liệu lidar kết hợp đàn hồi-Raman, Raman, Rayleigh 66 cho phép bao phủ đồng thời tầng đối lưu đến tầng bình lưu khí quyển. Từ kết quả nghiên cứu mật độ phân tử, nhiệt độ, sol khí tầng cao, mây Ti tầng cao chúng ta có thể rút ra nhiều thông tin khoa học hữu ích về khí quyển. Tuy nhiên hạn chế của các phép đo là địa điểm đo tại Hà Nội, nơi có mật độ sol khí rất cao do ô nhiễm đô thị làm suy hao mạnh tín hiệu lidar, điều này làm giảm độ cao cực đại mà phép đo có thể 67 đạt được. Chương 3 Chương này trình bày cách xác định phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ từ tín hiệu lidar. Ba kỹ thuật lidar đo phân bố nhiệt độ khí quyển được trình bày lần lượt là: lidar Rayleigh đo tầng bình lưu, lidar Raman và lidar kết hợp đàn hồi- Raman đo tầng đối lưu. Thuật giải xử lý tín hiệu lidar để rút ra phân bố mật độ phân tử và phân tử nhiệt độ của từng kỹ thuật lidar được trình bày chi tiết và thảo luận tỉ mỉ. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và độ chính xác của phân bố mật độ và nhiệt độ sẽ được đánh giá và thảo luận để tối ưu hóa kết quả cuối cùng. Sai số mật độ và sai số nhiệt độ của từng kỹ thuật lidar sẽ được trình bày và thảo luận. Cuối cùng là các kết luận và các đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo của từng loại kỹ thuật lidar đo nhiệt độ sẽ được trình bày. 3.1 Mở đầu Chương 2 trình bày kết quả phát triển của hai hệ lidar đã cho chúng ta thấy hai hệ lidar này có thể cung cấp 3 dữ liệu lidar cho việc phân tích để rút ra mật độ phân tử và nhiệt độ khí quyển đó là tín hiệu lidar Rayleigh, tín hiệu lidar Raman và tín hiệu lidar kết hợp đàn hồi-Raman. Lidar Rayleigh có thể bao phủ tầng bình lưu, lidar Raman và lidar kết hợp đàn hồi-Raman có thể bao phủ tầng đối lưu. Như đã chỉ ra ở chương 1, mật độ phân tử khí quyển có thể rút ra trực tiếp từ tín hiệu lidar đàn hồi (phương trình (1.21)) hoặc mật độ phân tử Ni tơ có thể rút ra trực tiếp từ tín hiệu lidar Raman (phương trình (1.38)) bằng việc biến đổi phương trình lidar đàn hồi hoặc Raman. Phân bố nhiệt độ có thể nhận được từ mật độ phân tử thông qua việc kết hợp điều kiện cân bằng thủy tĩnh và phương trình khí lí tưởng của khí quyển. Các thuật giải xác định phân bố mật độ phân tử, phân bố nhiệt độ khí quyển từ các tín hiệu lidar đàn hồi và lidar Raman, tín hiệu lidar kết hợp đàn hồi-Raman sẽ được trình bày và thảo luận. Các giả thiết được sử dụng trong từng trường hợp xử lý tín hiệu lidar để thu được nhiệt độ, các yếu tố ảnh hưởng tới mật độ, nhiệt độ trong xử lý dữ liệu, các 68 sai số gây ra cho phân bố nhiệt độ khí quyển từ phép đo lidar cũng được trình bày và thảo luận chi tiết. Kết quả lidar sẽ được đánh giá độ tin cậy thông qua việc so sánh với kết quả của phép đo thám không vô tuyến hoặc mô hình khí quyển MSISE-90 tại cùng địa điểm và thời gian quan sát [45,49]. Trong tầng bình lưu mật độ của sol khí là rất thấp so với mật độ phân tử khí nên tán xạ Rayleigh của phân tử khí quyển đóng vai trò chi phối, vì vậy mật độ được xác định dựa vào tín hiệu lidar Rayleigh. Mật độ phân tử khí quyển có thể rút ra trực tiếp từ phương trình lidar đàn hồi bằng việc biến đổi phương trình lidar này. Vì chỉ thu được một thành phần tín hiệu lidar nên để xác định hệ số tán xạ ngược và hệ số suy hao của sol khí chúng ta phải dùng một giá trị tỉ số lidar tham khảo. Nồng độ ô zôn trong tầng bình lưu khí quyển tăng cao và đóng vai trò chính gây ra sự suy hao tín hiệu lidar do hấp thụ [67]. Vì không có phép đo trực tiếp nồng độ ô zôn ở tại địa điểm đo [47], nên hệ số hấp thụ của ô zôn ở bước sóng laser được xác định bằng việc sử dụng một phân bố mật độ phân tử ô zôn từ một nguồn dữ liệu tham khảo. Khi mở rộng xuống tầng đối lưu do mật độ sol khí tăng lên làm gia tăng sai số trong việc xác định mật độ phân tử nếu chúng ta chỉ sử dụng tín hiệu lidar đàn hồi để hiệu chỉnh sol khí. Trong vùng khí quyển này chúng ta có thể sử dụng tín hiệu lidar Raman để xác định phân bố mật độ phân tử khí quyển. Mật độ phân tử khí Ni tơ được xác định trực tiếp từ việc biến đổi phương trình lidar Raman. Mật độ phân tử Ni tơ chiếm thành phần chi phối và khá ổn định trong khí quyển, nên chúng ta có thể giả sử mật độ phân tử khí Ni tơ có tỉ lệ không đổi so với mật độ phân tử khí quyển. Do việc xác định phân bố nhiệt độ dựa vào tỉ số của mật độ phân tử ở hai khoảng không gian liên tiếp nên giả thuyết trên không gây ra sai số đáng kể. Áp dụng phương pháp của A. Ansmann, tín hiệu Raman có thể được sử dụng để xác định hệ số suy hao của sol khí sau khi dùng một giá trị mật độ phân tử tham khảo, rồi hệ số suy hao này lại được dùng để xác định mật độ phân tử theo phương pháp lặp. Mặc dù tín hiệu tán xạ Raman không chứa tán xạ của sol khí nhưng trong trường hợp xuất hiện mây và nồng độ sol khí là đậm đặc thì chúng ta có thể gặp phải sai số lớn. Vì vậy, phân bố nhiệt 69 độ xác định bằng phương pháp này nên được giới hạn ở vùng cao của tầng đối lưu. Trong trường hợp kết hợp cả hai tín hiệu lidar đàn hồi và tín hiệu lidar Raman để xác định nhiệt độ khí quyển thì hiệu chỉnh tán xạ và suy hao của sol khí có thể được tính trực tiếp từ hai tín hiệu lidar trên. Trong trường hợp này, mật độ phân tử khí quyển được rút ra từ phương trình lidar đàn hồi và phân bố nhiệt độ có thể được rút ra trong tầng đối lưu. 3.2 Phép đo nhiệt độ dùng lidar Rayleigh 3.2.1 Xử lý dữ liệu lidar Tán xạ Rayleigh của phân tử trong khí quyển được dùng để xác định phân bố nhiệt độ bằng cách lấy tích phân phương trình thủy tĩnh của khí quyển kết hợp với phương trình khí lí tưởng. Kỹ thuật lidar Rayleigh đã trở nên hoàn toàn tin cậy và là kỹ thuật lidar chủ yếu xác định phân bố nhiệt độ khí quyển trong nghiên cứu tầng bình lưu [35,36,37]. Bởi vì trong tầng bình lưu, khí quyển tương đối ổn định nên giả thuyết cân bằng thủy tĩnh là đáng tin cậy. Trong tầng bình lưu mật độ sol khí là rất nhỏ nên đóng góp trong cường độ tán xạ ngược thường được bỏ qua trong một số trường hợp xác định nhiệt độ. Tuy nhiên trong luận án này tán xạ ngược và sự suy hao của sol khí vẫn được đánh giá do có khảo sát sự tồn tại sol khí trong tầng bình lưu sau các vụ phun núi lửa [11,12,16,26,27,60]. Việc đánh giá sự suy hao do hấp thụ ô zôn là nguồn sai số hệ thống chủ yếu do hầu hết các phép đo lidar nhiệt độ không có dữ liệu mật độ ô zôn trực tiếp để sử dụng. Đánh giá ảnh hưởng của hấp thụ ô zôn trong tầng bình lưu tới phép đo nhiệt độ bằng lidar đã được chỉ ra bởi J. R. Sica và đồng nghiệp [86]. Hầu hết các phép đo lidar Rayleigh sau này đều hiệu chỉnh sai số nhiệt độ theo cách này. Theo phương pháp này, một phân bố mật độ phân tử ô zôn tham khảo được dùng để hiệu chỉnh nhiệt độ và đối chiếu với việc không hiệu chỉnh, rồi sử dụng phương pháp làm khớp bình phương tối thiểu để tìm ra công thức toán học cho việc hiệu chỉnh nhiệt độ. Tuy nhiên phương pháp này không đánh giá được ảnh hưởng trực tiếp của hấp thụ ô zôn lên nhiệt độ bởi phân bố mật độ ô zôn là khác nhau tại các vị trí đo. Trong luận án này tác giả sử dụng một mật độ ô zôn tham khảo tại vị trí đo từ phép 70 đo vệ tinh để hiệu chỉnh trong tính toán nhiệt độ. Mục này trình bày việc xử lí tín hiệu lidar Rayleigh để rút ra phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ, các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả nhiệt độ cũng như sai số hệ thống và ngẫu nhiên của nhiệt độ. 3.2.1.1 Sơ đồ thuật giải nhiệt độ Hình 3.1 trình bày sơ đồ tổng quát của thuật giải nhiệt độ khí quyển từ tín hiệu lidar Rayleigh. Các file tín hiệu lidar Rayleigh thô (ban đầu) được lưu trữ trong máy tính thường được lấy trung bình trong khoảng thời gian 10 phút, tương ứng với số photon tán xạ ngược được chồng chất từ 6000 xung laser. Độ phân giải không gian ban đầu (khoảng không gian lấy trung bình tín hiệu lidar - range bin) được đặt ở giá trị 1.2 m. Mỗi file tín hiệu này phải được đánh giá độ tin cậy trước khi được dùng để rút ra các thông số Vật lý mô tả khí quyển. Tín hiệu lidar từ mỗi file được trừ đi tín hiệu phông, sau đó nhân với bình phương khoảng cách để thu được tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách. Tín hiệu phông được xác định bởi tín hiệu thu được ở đoạn xa nhất của phân bố tín hiệu, nơi mà chúng ta chắc chắn không có tín hiệu lidar. Vì tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách tỉ lệ thuận với mật độ phân tử khí quyển, nên chúng ta có thể đánh giá độ tin cậy của phân bố tín hiệu lidar thu được bằng việc so sánh nó với một phân bố mật độ phân tử tham khảo. Mật độ phân tử tham khảo này có thể nhận được từ mô hình khí quyển hoặc từ số liệu của phép đo thám không vô tuyến. Trong trường hợp lidar Rayleigh thì tín hiệu lidar bao phủ hết tầng bình lưu nên độ cao vượt quá của các phép đo của bóng thám không, vì vậy phân bố mật độ khí quyển từ mô hình thường được dùng để làm giá trị so sánh. Bởi vì mật độ phân tử khí quyển giảm theo độ cao nên phân bố tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách cũng phải giảm tương đối giống như giá trị của mật độ phân tử tham khảo. Thông thường chúng ta sử dụng thang lô ga rít cơ số tự nhiên để thuận tiện cho việc so sánh theo dạng biến đổi tuyến tính. Nếu phân bố tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách có xu hướng biến đổi đi ngang hoặc hướng lên thì file tín hiệu lidar này bị ảnh hưởng bởi hiện tượng nhiễu sinh ra tín 71 hiệu, trong trường hợp này file tín hiệu sẽ bị loại bỏ. Ngược lại file tín hiệu lidar biến đổi tương đối đồng nhất với phân bố phân tử khí quyển tham khảo thì nó được chấp nhận cho việc xử lí số liệu. Hình 3.1. Sơ đồ tổng quát của thuật giải nhiệt độ khí quyển từ lidar Rayleigh. Các file tín hiệu lidar thô liên tiếp được lấy trung bình theo thời gian và không gian với nhau để tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu. Số file liên tiếp được lấy trung bình phụ thuộc vào sự dung hòa giữa nhu cầu khảo sát và độ phân giải thời gian yêu cầu. Thêm vào đó, tỉ số tín hiệu /nhiễu của phép đo có thể tăng bằng cách lấy trung bình các khoảng không gian (range-bin) lại với nhau. Việc hy sinh độ phân giải không gian bao nhiêu phụ thuộc vào nhu cầu khảo sát với độ cao cực đại muốn đo. Thông thường 72 độ phân giải thời gian và độ phân giải không gian được hy sinh đồng thời để tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu do tầng bình lưu khí quyển tương đối ổn định. Tín hiệu lidar sau khi được lấy trung bình theo thời gian và không gian được làm trơn bằng phin lọc bình phương tối thiểu theo thang logarit tự nhiên để làm giảm độ méo tín hiệu do sự phân rã nhanh của tín hiệu lidar theo độ cao. Sau đó, file tín hiệu lidar này sẽ được hiệu chỉnh hấp thụ bởi ô zôn bằng cách O3(z).Tiếp chia cho hệ số truyền qua một vòng khí quyển (round-trip) của ô zôn T2 theo file tín hiệu lidar này sẽ được dùng để xác định hệ số dập tắt và hệ số tán xạ ngược của sol khí theo phương pháp Fernald đã được mô tả ở Chương 1. Hệ số tán xạ ngược của sol khí βaer(z) được dùng để xác định tỉ số tán xạ ngược tương đối Raer(z). Hệ số dập tắt của sol khí sẽ cho phép xác định hệ số truyền qua khí quyển một aer(z). Thừa số tín hiệu lidar Rayleigh hiệu dụng Peff(z) được xác vòng của sol khí T2 định sau khi hiệu chỉnh suy hao do tán xạ và dập tắt của sol khí và suy hao của ô zôn từ tín hiệu lidar đo được. Mật độ phân tử khí quyển được xác định từ tín hiệu lidar Rayleigh hiệu dụng theo phương trình (1.31) sau khi sử dụng một giá trị mật độ phân tử khí quyển tham khảo từ mô hình khí quyển tại một độ cao chuẩn hóa. Do lidar Rayleigh có thể bao phủ hầu hết tầng bình lưu nơi mà bóng thám không không thể đạt được, nên trong luận án này mật độ phân tử khí quyển từ mô hình MSISE-90 cùng ngày, cùng tọa độ được dùng làm giá trị của mật độ phân tử tham khảo. Độ cao được dùng để xác định giá trị của mật độ tham khảo thường được chọn tại vị trí mà tỉ số tín hiệu /nhiễu của phép đo lidar đủ lớn để giảm sai số do thăng giáng thống kê của tín hiệu lidar gây ra. Phương pháp Fernald được sử dụng để xác định hệ số tán xạ ngược βaer(z), rồi mật độ phân tử khí được xác định từ tín hiệu lidar Rayleigh hiệu dụng. Phân bố nhiệt độ khí quyển được tính từ phân bố mật độ khí quyển sau khi dùng một giá trị nhiệt độ tham khảo ở khoảng biên cao nhất. Trong luận án này giá trị nhiệt độ tham khảo cũng được lấy từ mô hình khí quyển MSISE-90 ở cùng ngày, cùng vị trí của phép đo. Cuối cùng các nguồn sai số gây ra cho xác định phân bố nhiệt 73 độ khí quyển từ tín hiệu lidar Rayleigh được xác định. 3.2.1.2 Xác định thừa số tín hiệu lidar hiệu dụng Thừa số tín hiệu lidar Rayleigh hiệu dụng được xác định từ tín hiệu lidar đo được bằng cách hiệu chỉnh tán xạ và suy hao của sol khí, suy hao của ô zôn ở tầng bình lưu. Tín hiệu lidar hiệu dụng sẽ chỉ phản ánh tán xạ của phân tử khí quyển. Đầu tiên, suy hao của tín hiệu lidar Rayleigh gây ra bởi hấp thụ của ô zôn sẽ được xác định. Suy hao của ô zôn được xác định từ phân bố mật độ ô zôn, phân bố mật độ này O3(z) của ô zôn. Tín hiệu cho phép xác định hệ số truyền qua một vòng khí quyển T2 sau đó được hiệu chỉnh bằng cách lấy tín hiệu lidar đo được chia cho hệ số truyền qua này. Sau đó tín hiệu lidar được hiệu chỉnh bởi ô zôn sẽ được dùng để xác định hệ số tán xạ ngược và hệ số dập tắt của sol khí. Các hệ số này cho phép xác định tỉ số tán aer (z). xạ ngược sol khí Raer(z) và hệ số truyền qua một vòng khí quyển của sol khí T2 Rồi tín hiệu lidar hiệu dụng Peff(z) được xác định theo công thức (1.40) sau khi hiệu chỉnh suy hao của sol khí và ô zôn từ tín hiệu lidar đo được P(z). Hình 3.2. Mật độ phân tử ô zôn (a) và hệ số truyền qua một vòng khí quyển của ô zôn (b) tại tọa độ lân cận với Hà nội (nguồn: http://igaco-o3.fmi.fi/ACSO/ [47]). Trong tầng bình lưu, mật độ ô zôn tăng cao và gây ra sự gia tăng nhiệt độ trong 74 tầng khí quyển này. Ô zôn cũng gây ra sự suy hao của tín hiệu lidar do hấp thụ. Trong các nghiên cứu lidar trước đây, hấp thụ của ô zôn thường được bỏ qua hoặc giả sử một giá trị sai số nào đó [9, 22, 58, 72], hoặc được hiệu chỉnh bằng toán học [86]. Tuy nhiên, việc hiệu chỉnh bằng toán học có thể gây ra sai số nhiệt độ lớn do phân bố ô zôn không phải là một hàm toán học. Mật độ ô zôn cũng chênh lệch đáng kể tại các tọa độ khác nhau trên trái đất. Vì vậy, trong luận án tác giả xác định hệ số truyền qua O3(z) bằng cách sử dụng một phân bố mật độ ô zôn khí quyển một vòng của ô zôn T2 tham khảo từ phép đo khác tại vị trí của phép đo lidar. Hình 3.2 cho thấy một phân bố mật độ phân tử ô zôn và hệ số truyền qua khí quyển một vòng của ô zôn được sử dụng cho xử lí dữ liệu lidar Rayleigh. Mật độ phân tử ô zôn nhận được từ dữ liệu tham khảo thu được ở tọa độ lân cận với Hà nội. Phân bố mật độ ô zôn chỉ ra mật độ phân tử ô zôn chủ yếu tồn tại chính từ khoảng cách 15 km tới 40 km và đạt giá trị cực đại ở lân cận 25 km. Tương ứng chúng ta có thể nhận ra sự suy hao mạnh của tín hiệu lidar Rayleigh ở trong khoảng khí quyển này. Trong khoảng 15 km – 40 km hệ số truyền qua giảm mạnh từ khoảng 0.99 xuống còn gần 0.96 và trên 40 km thì biến đổi không đáng kể. Hình 3.3. Tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách (thang logarithm) (a), và độ chênh 75 lệch tín hiệu lidar (b) trước và sau khi hiệu chỉnh bởi hấp thụ của ô zôn. Ảnh hưởng của hấp thụ ô zôn tới tín hiệu lidar Rayliegh trong tầng bình lưu được cho thấy trên Hình 3.3. Số photon tán xạ ngược trong một file lấy trung bình trong 10 phút với tỉ số tín hiệu /nhiễu lớn hơn 9 gia tăng đáng kể sau khi hiệu chỉnh hấp thụ của ô zôn (gần 600 photon tức là tương ứng với tỉ số tín hiệu /nhiễu có giá trị khoảng 25). Độ chênh lệch số photon tín hiệu giữa hiệu chỉnh và không hiệu chỉnh sẽ giảm dần theo độ cao do sự suy giảm nhanh của tín hiệu lidar theo độ cao. Độ chênh lệch này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới các giá trị tính toán sau này như: hệ số tán xạ ngược của sol khí, mật độ phân tử và nhiệt độ khí quyển rút ra từ tín hiệu lidar Rayleigh. Kết quả hiệu chỉnh hấp thụ ô zôn của tín hiệu Rayleigh cho thấy không thể bỏ qua hoặc giả sử bằng một hằng số hay là một hàm số. Trong các nghiên cứu nhiệt độ tầng bình lưu bằng các phép đo lidar trước đây, sự tồn tại của sol khí trong tầng bình lưu thường không được khảo sát và sai số nhiệt độ gây ra bởi sol khí thường được giả sử một giá trị nào đó [9, 22, 58, 72]. Tuy nhiên, sự tồn tại của sol khí trong tầng bình lưu sau sự phun núi lửa Pinatubo đã được các phép đo lidar trước khẳng định [11,12,16,26,27,60]. Ảnh hưởng của chúng vẫn được tiếp tục nghiên cứu cho đến tận ngày nay. Các kết quả xác định nhiệt độ trong luận án này đều hiệu chỉnh sự suy hao của sol khí và được thảo luận chi tiết. Tán xạ và dập tắt của sol khí trong tầng bình lưu được xác định theo phương pháp do Fernald đề xuất. Theo phương pháp này một tỉ số lidar Laer tham khảo cho sol khí tầng bình lưu và mật độ phân tử khí quyển tham khảo được sử dụng, sau đó hệ số tán xạ ngược βaer(z) được xác định từ tín hiệu lidar, rồi hệ số dập tắt của sol khí αaer(z) được xác định bằng cách nhân tỉ số lidar này với phân bố hệ số tán xạ ngược của sol khí. Sử dụng hệ số tán xạ ngược βaer(z) chúng ta có thể xác định tỉ số tán xạ ngược sol khí Raer(z) theo công thức (1.27) và sử dụng hệ số dập tắt αaer(z) chúng ta có thể xác định aer(z) theo công thức được hệ số truyền qua một vòng khí quyển gây ra bởi sol khí T2 (1.29). Để loại bỏ sai số do giá trị mật độ phân tử khí quyển tham khảo trong phương pháp Fernald tác giả sử dụng phương pháp lặp. Trong bước thứ nhất, mật độ phân tử khí quyển tham khảo và tín hiệu lidar được ứng dụng để xác định hệ số tán xạ ngược, 76 tỉ số tán xạ sol khí, hệ số truyền qua một vòng của sol khí. Ở bước thứ hai các giá trị này được sử dụng để xác định mật độ phân tử từ tín hiệu lidar. Trong bước thứ ba mật độ phân tử mới từ tín hiệu lại được sử dụng để xác định giá trị của tỉ số tán xạ ngược tương đối và hệ số truyền qua của sol khí. Lặp lại bước thứ 2 và bước 3 các giá trị này sẽ đồng quy nhanh sau một vài bước lặp. Hình 3.4. Tỉ số tán xạ ngược sol khí Raer(z), sử dụng mật độ mô hình khí quyển (màu đen), sử dụng mật độ tính từ tín hiệu lidar không lặp (mầu đỏ) và áp dụng phương pháp lặp (màu xanh). Hình 3.4 trình bày kết quả xác định tỉ số tán xạ ngược sol khí Raer(z) được xác định từ tín hiệu lidar Rayleigh tại Hà nội. Giá trị đầu tiên (mầu đen) sử dụng mật độ phân tử mô hình khí quyển MSISE-90 để xác định, giá trị sau sử dụng mật độ phân tử được tính từ tín hiệu lidar không sử dụng phương pháp lặp (mầu đỏ) và sử dụng phương pháp lặp (mầu xạnh). Chúng ta nhận thấy tại điểm gate-on (khoảng 20 km), 77 cường độ tín hiệu tán xạ ngược của sol khí chiếm khoảng 7% cường độ tín hiệu lidar, tuy nhiên cường độ tín hiệu tán xạ ngược của sol khí đóng góp vào cường độ lidar suy giảm rất nhanh, gần như không đáng kể ở 24.5 km. Kết quả này là tương đối phù hợp với các công bố trước đây từ kết quả đo đạc bằng lidar tại vị trí khác [17]. Kết quả cũng cho thấy sự khác nhau đáng kể khi sử dụng mật độ phân tử xác định từ lidar so với mật độ phân tử tham khảo từ mô hình lên tới 7% tại khoảng cách 20 km và sự chênh lệch giữa áp dụng phương pháp lặp và không lặp lên tới 1%. aer(z) xác định từ lidar, Hình 3.5. Hệ số truyền qua một vòng khí quyển của sol khí T2 (đen): sử dụng mật độ mô hình, (đỏ): sử dụng mật độ lidar không lặp, (xanh): sử dụng mật độ lidar và phương pháp lặp. aer(z) của sol khí Hình 3.5 cho thấy hệ số truyền qua một vòng khí quyển T2 được xác định từ tín hiệu lidar Rayleigh tại Hà nội. Hệ số truyền qua được xác định từ hệ số dập tắt của sol khí αaer(z). Sự dập tắt của sol khí gây ra sự suy hao cỡ khoảng 78 1% tín hiệu lidar Rayleigh ở trên 23 km. Kết quả ứng dụng phương pháp lặp cũng cho thấy độ chính xác trong việc xác định hệ số truyền qua đã tăng khoảng 0.2% so với sử dụng mật độ phân tử khí quyển tham khảo từ mô hình. Việc sử dụng phương pháp lặp và không lặp chênh lệch nhau cỡ khoảng 0.1%. Kết quả xác định tỉ số tán xạ ngược tương đối và hệ số truyền qua của sol khí ở tầng bình lưu đã chỉ ra việc xác định đóng góp của sol khí trong việc tính toán mật độ và nhiệt độ là không thể bỏ qua và không thể giả sử một giá trị cố định bởi các giá trị này biến đổi bởi một phân bố theo độ cao. Việc hiệu chỉnh tín hiệu lidar bởi sol khí giúp chúng ta có thể xác định sai số nhiệt độ do sol khí gây ra. Hình 3.6. Tín hiệu lidar đo được (đỏ) và tín hiệu lidar hiệu dụng (xanh): (a), độ lệch tương đối giữa tín hiệu đo được và tín hiệu lidar hiệu dụng (b). Sử dụng đồng thời hệ số truyền qua một vòng của ô zôn, tỉ số tán xạ ngược sol khí, hệ số truyền qua một vòng của sol khí chúng ta có thể xác định được tín hiệu 79 lidar hiệu dụng Peff(z) từ tín hiệu lidar đo được theo công thức (1.28). Kết quả được trình bày tại Hình 3.6. Kết quả khác nhau rất đáng kể trong vùng từ 20-28 km, nơi có sự tồn tại đồng thời của sol khí và ô zôn. Tín hiệu lidar hiệu dụng sau khi được hiệu chỉnh bởi tán xạ ngược và dập tắt của sol khí đã giảm đi đáng kể trong khoảng từ 20 km tới 42 km. Số photon tán xạ ngược chênh lệch rất lớn trong vùng từ 20 tới 24 km nơi có sự tồn tại của sol khí (cực đại lên tới 4200 photon). Số photon chênh lệch tiếp tục tới trên 42 km do có sự tồn tại của ô zôn và kết thúc ở trên 42 km nơi mà tương ứng với sự suy giảm mạnh của phân tử ô zôn trên vùng khí quyển này. 3.2.1.3 Xác định phân bố mật độ phân tử khí quyển Hình 3.7. Mật độ từ tín hiệu lidar đo được (đỏ) và tín hiệu lidar hiệu dụng (xanh). Mật độ phân tử khí quyển có thể rút ta trực tiếp từ tín hiệu lidar theo phương trình (1.30). Theo đó một giá trị mật độ tham khảo tại một độ cao tham khảo được 80 dùng để xác định phân bố mật độ phân tử khí quyển. Do trong biểu thức xác định mật độ có chứa đồng thời hệ số suy hao của phân tử nên phương pháp lặp được dùng để hiệu chỉnh sự suy hao do phân tử khí quyển gây ra. Phương pháp lặp được thực hiện như sau: trong bước thứ nhất hệ số dập tắt của phân tử được giả sử αmol = 0 [km-1] ở tất cả các độ cao, ở bước thứ hai giá trị αmol = 0 [km-1] được dùng để tính mật độ phân tử theo phương trình (1.30), bước thứ ba mật độ phân tử vừa tính được từ tín hiệu lidar lại được dùng để tính hệ số dập tắt của phân tử αmol theo phương trình (1.37). Lặp lại bước hai và ba các giá trị sẽ đồng quy nhanh sau một vài bước lặp. Hình 3.7 trình bày kết quả phân bố mật độ phân tử tầng bình lưu từ lidar Rayleigh vào lúc 22 giờ 56 phút ngày 26 tháng 6 năm 2013 tại Hà nội. Phân bố bắt đầu ở 20 km và kết thúc ở 59 km với độ phân giải là 120 m. Thời gian tích phân là 1 giờ tương ứng với số photon tán xạ ngược chồng chất từ 3600 xung laser với độ cao cực đại nhận được ở tỉ số tín hiệu /nhiễu lớn hơn 7. Phân bố mật độ phân tử từ mô hình khí quyển MSISE-90 cùng ngày cũng được vẽ trong hình để so sánh. Kết quả cho thấy sự hòa hợp tốt giữa hai phân bố mật độ đã khẳng định độ tin cậy của phép đo lidar Rayleigh chúng tôi. Kết quả cho thấy việc sử dụng tín hiệu lidar hiệu dụng cho kết quả phù hợp hơn với phân bố mật độ phân tử từ mô hình MSISE-90 so với tín hiệu lidar đo được. Kết quả xác định độ lệch tương đối giữa mật độ phân tử tính tín hiệu đo được và hiệu dụng (tính theo phần trăm) cho thấy trên Hình 3.8 (a). Độ lệch tương đối này được xác định theo công thức: |ρhiệu dụng (z)−ρđo được(z)|
ρhiệu dụng(z) (3.1) Rρ(z) = Trong đó 𝜌ℎ𝑖ệ𝑢 𝑑ụ𝑛𝑔 (𝑧) là mật độ phân tử tính từ tín hiệu lidar Rayleigh hiệu dụng, 𝜌đ𝑜 đượ𝑐 (𝑧) là mật độ phân tử tính từ tín hiệu lidar Rayleigh đo được. Kết quả giữa mật độ phân tử tính theo tín hiệu lidar đo được và tín hiệu lidar hiệu dụng cho thấy sự chênh lệch mật độ đáng kể xảy ra trong vùng khí quyển từ 20 km cho đến 40 km. Độ chênh lệch từ khoảng 3.6% đến 2.6%, đây là vùng có sự tồn tại của mật độ sol khí 81 tầng bình lưu và mật độ ô zôn tăng cao. Trong khi đó độ chênh lệch giảm nhanh ở trên 40 km với độ chênh lệch toàn phân bố là lớn hơn 2.5%. Việc khảo sát này cho thấy việc xác định phân bố mật độ phân tử dùng lidar Rayleigh bắt buộc phải đánh giá sự suy hao do ô zôn và sol khí trong tầng bình lưu. Việc giả sử một tỉ lệ sai số nhất định do suy hao của sol khí và ô zôn như trong các công bố trước đây có thể gây ra sai số hệ thống lớn trong nghiên cứu tầng bình lưu bằng lidar Rayleigh [20-24,26]. Hình 3.8. Độ lệch mật độ tương đối (theo %) giữa tín hiệu đo được và hiệu dụng (a), giữa lidar và mô hình (b). Độ chênh lệch tương đối giữa mật độ phân tử giữa hai phép đo lidar và mô hình cùng ngày tại Hà nội cũng được trình bày ở Hình 3.8 b. Độ lệch tương đối này xác định theo công thức: |𝜌𝑙𝑖𝑑𝑎𝑟 (𝑧)−𝜌𝑚ô ℎì𝑛ℎ(𝑧)|
𝜌𝑙𝑖𝑑𝑎𝑟(𝑧) (3.2) 𝑅𝜌(𝑧) = Trong đó 𝜌𝑙𝑖𝑑𝑎𝑟 (𝑧) là mật độ phân tử tính từ tín hiệu lidar Rayleigh, 𝜌𝑚ô ℎì𝑛ℎ (𝑧) là mật độ phân tử từ mô hình phân tử MSISE-90. Độ chêch lệch gia tăng theo độ cao và 82 nhỏ hơn 2% ở dưới 50 km, độ chênh lệch cực đại là 3,8% tại vị trí cực đại của phân bố có thể là do thăng giáng thống kê của tín hiệu lidar khi mà tỉ số tín hiệu /nhiễu của phép đo lidar Rayleigh suy giảm nhanh. Hình 3.9. Sai số mật độ phân tử Rayleigh (a), hệ số truyền qua một vòng của phân tử mol(z) từ tín hiệu lidar Rayleigh (b). T2 Sai số mật độ do nhiễu (noise) của chế độ đếm photon gây ra cũng được trình bày ở trên hình 3.9 a. Sai số này được xác định theo công thức sau [4]: . ∆ρ = ρ
√m.Peff (3.3) Trong đó, ∆ρ là sai số mật độ do nhiễu gây nên, ρ là mật độ tính từ tín hiệu lidar, m là số thời gian lấy trung bình (s), Peff là số photon hiệu dụng tán xạ ngược thu được. Sai số của mật độ phân tử do tín hiệu nhiễu gây ra là rất nhỏ, giá trị cực đại vào khoảng 0.35% và hầu như không đáng kể ở vùng thấp của tầng bình lưu. Sai số mật 83 độ thấp trong tầng bình lưu là do thời gian lấy trung bình lớn và cường độ tín hiệu lidar cao do khoảng không gian lấy trung bình được gia tăng. Kết quả này gợi ý rằng chúng ta có thể hy sinh độ phân giải thời gian và không gian của phép đo để giảm sai số ngẫu nhiên do tín hiệu nhiễu. Phân bố sai số mật độ phân tử gia tăng theo độ cao do tỉ số tín hiệu /nhiễu giảm nhanh theo độ cao. Mật độ phân tử xác định được từ tín hiệu lidar Rayleigh được dùng để xác mol (z). Kết quả này được định hệ số truyền qua một vòng khí quyển của phân tử T2 cho thấy trên Hình 3.9 b. Phân bố hệ số truyền qua này chỉ ra sự khác nhau nhỏ hơn 1.5 % ở vùng cao của tầng bình lưu (trên 40 km). Kết quả này cho thấy ảnh hưởng của hấp thụ phân tử đối với tín hiệu lidar Rayleigh là không lớn trong tầng bình lưu. Điều này là do mật độ phân tử đã giảm so với tầng đối lưu. 3.2.1.4 Xác định phân bố nhiệt độ khí quyển Phân bố nhiệt độ lidar Rayleigh được xác định từ phân bố mật độ phân tử đã trình bày ở trên sau khi chúng ta sử dụng một giá trị nhiệt độ tham khảo ở độ cao cực đại của phân bố. Giá trị nhiệt độ tham khảo này nhận được từ mô hình khí quyển MSISE-90. Phân bố nhiệt độ cũng có cùng độ phân giải không gian và thời gian, độ cao cực đại giống như phân bố mật độ phân tử. Kết quả xác định phân bố nhiệt độ từ tín hiệu lidar Rayleigh được trình bày trên hình 3.10. Nhiệt độ từ mô hình khí quyển MSISE-90 cũng được trình bày trong hình (đường màu đỏ) để tiện cho việc so sánh và đánh giá, nhiệt độ tính từ tín hiệu lidar Rayleigh đo được không hiệu chỉnh suy hao sol khí, ô zôn và phân tử khí quyển được mô tả ở đường mầu xanh. Trong khi đó phân bố nhiệt độ tính từ tín hiệu lidar hiệu dụng được trình bày ở đường mầu đen. Kết quả cho thấy việc hiệu chỉnh suy hao của sol khí (bao gồm cả tán xạ và hấp thụ) và hấp thụ ô zôn và phân tử từ tín hiệu lidar hiệu dụng cho kết quả phân bố nhiệt độ gần với giá trị từ mô hình hơn sử dụng tín hiệu lidar đo được. Trong khoảng hiệu chỉnh tín hiệu lidar từ sol khí (20 km đến 35 km) phân bố nhiệt độ là tương đối trơn hơn so với tín hiệu lidar đo được là do thăng giáng gây ra bởi sol khí đã được loại bỏ. Trong đoạn cuối (từ 40 km tới đỉnh phân bố) của phân bố nhiệt độ xác định 84 từ tín hiệu lidar hiệu dụng có sự gia tăng hơn so với phân bố nhiệt độ xác định từ tín hiệu lidar đo được. Kết quả này là do sự hiệu chỉnh hấp thụ của ô zôn và phân tử mang lại. Điều này một lần nữa chỉ ra rằng việc sử dụng phương pháp lặp trong xác định mật độ phân tử là không thể bỏ qua. Sự hiệu chỉnh này giảm đi sự thăng giáng trong xác định nhiệt độ do thuật giải sử dụng tích phân ngược (backwarkd) gây ra. Hình 3.10. Phân bố nhiệt độ xác định từ tín hiệu lidar Rayleigh đo được (xanh) và từ tín hiệu lidar hiệu dụng (đen) và phân bố nhiệt độ mô hình MSISE-90 (đỏ). Nhiệt độ tham khảo Tref trong xác định phân bố nhiệt độ của lidar Rayleigh có ảnh hưởng đến kết quả xác định phân bố nhiệt độ do áp dụng thuật giải dùng tích phân ngược. Để đánh giá ảnh hưởng của giá trị này tới phân bố nhiệt độ thu được, bốn giá trị nhiệt độ tham khảo tăng, giảm 5% và tăng, giảm 1% so với Tref ban đầu được sử dụng. Kết quả khảo sát sự thay đổi nhiệt độ tham khảo khác nhau cho thấy ở Hình 3.11. Trong trường hợp chênh lệch 5% thì cả ba phân bố khác nhau trong 85 khoảng 20 km tính từ đỉnh (từ 59 km đến 39 km) và đồng quy nhanh ở phần còn lại. Còn trong trường hợp chênh lệch chỉ là 1% thì cả ba đường đồng quy chỉ sau một vài km. Trong các trường hợp sử dụng nhiệt độ tham khảo từ các phép đo trực tiếp (như thám không vô tuyến) thì sai số của các thiết bị đo vào khoảng 1%. Nếu chúng ta sử dụng làm nhiệt độ tham khảo thì sai số của giá trị này ảnh hưởng không đáng kể tới kết quả. Hình 3.11. Ảnh hưởng của giá trị nhiệt độ tham khảo lên phân bố nhiệt độ. Đường đỏ (1): nhiệt độ tham khảo ban đầu, xanh lá cây (2,3): ±5%, xanh da trời (4,5): ±1%. 3.2.2 Phân tích sai số nhiệt độ của lidar Rayleigh Sai số hệ thống của phép đo nhiệt độ khí quyển dùng kỹ thuật lidar Rayleigh bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau: tán xạ và hấp thụ của sol khí, hấp thụ của ô zôn, nhiệt độ 86 tham khảo. Trong khi đó sai số ngẫu nhiên là tín hiệu nhiễu của hệ lidar. Hình 3.12. Sai số nhiệt độ lidar Rayleigh do sol khí (đỏ), hấp thụ ô zôn (tím), Tref (xanh da trời), nhiễu (xanh lá cây) và sai số tổng cộng (đen). Nguồn sai số hệ thống do tán xạ ngược của sol khí có thể được xác định thông qua độ lệch quân phương trung bình của tỉ số tán xạ ngược tương đối Raer(z), trong khi đó nguồn sai số của của suy hao do sol khí được xác định thông qua hệ số truyền qua hai lần của sol khí trong khí quyển. Sai số hệ thống gây ra cho nhiệt độ do sol khí 2
] 2
] 1/2
} được xác định bởi biểu thức sau [103]: (3.4) ∆T ≤ T {[∆Raer
Raer + [∆exp(−2τaer)
exp(−2τaer) Sai số hệ thống gây ra cho nhiệt độ do hấp thụ ô zôn được xác định theo sai số của 2 1
2 hệ số truyền qua khí quyển hai lần do hấp thụ của ô zôn [103]: 87 } (3.5) ∆T ≤ T {[∆exp(−2τ𝑜3)
]
exp(−2τ𝑜3) Sai số hệ thống gây ra cho nhiệt độ do giá trị của nhiệt độ tham khảo được xác định (3.6) bởi biểu thức sau [103]: ρ(zref)
ρ(z) ∆T(z) ≈ ∆T(zref) Hệ lidar Rayleigh thu tín hiệu lidar ở chế độ đếm photon nên tín hiệu nhiễu tuân theo (3.7) phân bố Poisson. Sai số ngẫu nhiên được xác định bởi biểu thức [103]: T(z)
√mP𝑒𝑓𝑓(z) ∆T(z) ≈ Trong đó, m là số xung laser được tích phân, Peff (λ,z) là số photon tán xạ ngược hiệu dụng từ độ cao z. Kết quả xác định sai số nhiệt độ do các nguồn trên được trình bày ở trên hình 3.12, đường đỏ là sai số của sol khí, đường mầu tím là của ô zôn, xanh da trời là của nhiệt độ tham khảo, xanh lá cây là do độ ồn photon, đường mầu đen là tổng các nguồn sai số gây ra. Sai số nhiệt đo do sol khí là lớn nhất trong khoảng dưới 30 km. Càng lên cao thì sai số nhiệt độ gây ra do sai số của nhiệt độ tham khảo, hấp thụ ô zôn, và nhiễu càng gia tăng. Phân bố sai số tổng cộng chỉ ra sai số nhiệt độ cực đại vào khoảng 3.8 K, tức là cỡ hơn 1%. Kết quả xác định chỉ ra sai số do tán xạ ngược của sol khí Raer(z) < 0.0059 (<0.59%), sai số của hấp thụ do sol khí Taer(z) <0.0015 (<0.15%), sai số do hấp thụ ô zôn TO3 < 0.0022 (<0.22%), trong khi đó sai số của nhiệt độ tham khảo được lấy vào khoảng 1% theo sai số của phép đo trực tiếp. Việc khảo sát sol khí và ô zôn của tầng bình lưu trong nghiên cứu nhiệt độ bằng lidar Rayleigh cũng chỉ ra cách làm giảm các nguồn sai số này thay vì giả sử một giá trị nào đó như các công bố trước đây (giả sử sai số nhiệt độ vào khoảng 4% [20-24,26] ). 3.2.3 Thảo luận Kết quả phân bố nhiệt độ lidar Rayleigh bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố là chất lượng tín hiệu (phản ánh thông qua tỉ số tín hiệu /nhiễu) và phương pháp xử lí dữ liệu. Để tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu chúng ta có thể tăng khoảng thời gian và khoảng không gian lấy 88 trung bình tín hiệu. Trong quá trình xử lí dữ liệu lidar Rayleigh các yếu tố ảnh hưởng tối kết quả là các giá trị đầu vào và giá trị tham khảo, thuật giải tích phân ngược. Dữ liệu đầu vào để xác định hệ số tán xạ ngược sol khí và mật độ phân tử từ tín hiệu lidar là mật độ phân tử từ mô hình MSISE-90. Để giảm thiểu ảnh hưởng của nguồn tham khảo này tác giả đã áp dụng phương pháp lặp. Đối với giá trị tham khảo (như nhiệt độ tham khảo) kết quả khảo sát cho thấy nếu sai số là nhỏ hơn 1% thì giá trị này chỉ ảnh hưởng tới khoảng một vài km đầu tiên của phân bố nhiệt độ. Do thuật giả tích phân ngược sử dụng trong xác định hệ số tán xạ ngược sol khí và phân bố nhiệt độ nên kết quả rất nhạy với dữ liệu lidar ở các khoảng không gian khác nhau. Để giảm thiểu ảnh hưởng của thuật giải này tới kết quả chúng ta có thể làm trơn dữ liệu theo thang logarit tự nhiên theo phin lọc bình phương tối thiểu. Kết quả khảo sát các nguồn sai số của lidar Rayleigh đã cho thấy sol khí vẫn ảnh hưởng tới vùng thấp của tầng bình lưu (khoảng dưới 30 km). Vì vậy chúng ta vẫn cần khảo sát ảnh hưởng của nó tới phân bố nhiệt độ lidar Rayleigh. Kết quả khảo sát cũng chỉ ra ảnh hưởng của ô zôn tới kết quả nhiệt độ lidar Rayleigh nên không thể bỏ qua hay giả sử bằng một hàm số được. Việc sử dụng phương pháp lặp để khảo sát ảnh hưởng của hấp thụ phân tử cũng giảm đi sai số hệ thống của kết quả lidar Rayleigh. Kết quả hiệu chỉnh hấp thụ tán xạ và suy hao của sol khí, hấp thụ của ô zôn và hấp thụ của phân tử đã giảm sai số hệ thống so với các phép đo nhiệt độ bằng lidar trước đây. 3.3 Phép đo nhiệt độ dùng lidar Raman Hệ lidar Rayleigh-Raman đo được đồng thời tín hiệu lidar Rayleigh bao phủ tầng bình lưu và tín hiệu lidar Raman bao phủ tầng đối lưu. Nhiệt độ khí quyển có thể được rút ra từ tín hiệu lidar Raman theo phương pháp tương tự như tín hiệu lidar Rayleigh, chi tiết của phương pháp này đã được trình bày ở Chương 1. Mục này của Chương 3 trình bày thuật giải và các nghiên cứu trong xử lí dữ liệu để rút ra phân bố nhiệt độ từ tín hiệu lidar Raman đo được. Các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả nhiệt độ 89 và sai số mật độ và nhiệt độ rút ra từ phương pháp này cũng được khảo sát chi tiết. 3.3.1 Xử lý dữ liệu lidar Raman Khi mở rộng xuống tầng đối lưu do mật độ và sự phức tạp của sol khí gia tăng nên lidar Rayleigh không còn tin cậy nữa. Do đó, tán xạ Raman của phân tử Ni tơ có thể được dùng để xác định mật độ phân tử và nhiệt độ khí quyển. Bởi vì phân tử Ni tơ chiếm nồng độ chi phối (khoảng 78%) và tương đối ổn định trong khí quyển. Tán xạ Raman của phân tử Ni tơ không chứa tán xạ của sol khí, vì vậy sai số hệ thống do tán xạ ngược của sol khí bị loại bỏ. Tuy nhiên, sự dập tắt của sol khí lại là sai số hệ thống chủ yếu của phương pháp này. Sự dập tắt này có thể được xác định trực tiếp từ tín hiệu lidar Raman theo phương pháp do A. Ansmann đề xuất được trình bày ở chương 1. Theo đó hệ số dập tắt của sol khí αaer(z) được xác định và hệ số truyền qua một lần khí quyển của sol khí Taer(z) được xác định. Tín hiệu lidar Raman sau đó sẽ được hiệu chỉnh để xác định mật độ phân tử Ni tơ từ việc biến đổi phương trình lidar Raman. Phương pháp lặp cũng được ứng dụng để loại bỏ ảnh hưởng của mật độ phân tử tham khảo ban đầu trong phương pháp tính mật độ phân tử Ni tơ. Trong tầng đối lưu mật độ ô zôn là rất nhỏ so với tầng bình lưu nên đóng góp suy hao của ô zôn vào độ bất định nhiệt độ là nhỏ. Mặc dù vậy hệ số truyền qua một vòng của ô zôn vẫn được xác định để hiệu chỉnh tín hiệu lidar nhằm thu được tín hiệu lidar Raman hiệu dụng. 3.3.1.1 Sơ đồ thuật giải nhiệt độ Sơ đồ tổng quát của thuật giải nhiệt độ khí quyển từ tín hiệu lidar Raman được trình bày ở hình 3.13. Các file tín hiệu lidar Raman thô được tích phân trong 10 phút tương ứng với sự chồng chất photon của 6000 xung laser phát đi. Độ phân giải không gian ban đầu được đặt ở giá trị 1.2 m. Tín hiệu lidar Raman này cũng được trừ đi phông trước khi xử lý. Tín hiệu sau khi trừ đi phông được nhân với bình phương khoảng cách để thu được tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách. Tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách này tỉ lệ thuận với mật độ phân tử Ni tơ trong khí quyển. Vì vậy sử dụng một điểm tham khảo chúng ta có thể so sánh hai phân bố theo thang logarithm 90 cơ số tự nhiên với nhau để đánh giá độ ô nhiễm mây của tín hiệu lidar Raman. Trong trường hợp file tín hiệu bị ô nhiễm nặng bởi mây thì nó không được dùng để tích phân cho việc xác định nhiệt độ sau này. Hình 3.13. Sơ đồ tổng quát của thuật giải nhiệt độ khí quyển từ tín hiệu lidar Raman. Mặc dù, sự suy hao của sol khí mây có thể được đánh giá theo phương pháp của A. Ansmann và tín hiệu lidar Raman có thể được bồi thường sau đó. Tuy nhiên, hệ số dập tắt của sol khí mây phụ thuộc mạnh vào hình dạng, kích thước, cấu trúc và thành phần theo không gian của sol khí mây. Vì vậy sai số sẽ rất lớn khi chúng ta sử dụng nó để hiệu chỉnh tín hiệu Raman ở vùng thấp của khí quyển. Bên cạnh đó chúng ta còn phải dùng một giá trị tham khảo là thành phần Angstrom nên sai số của hệ số 91 dập tắt cũng rất lớn. Thêm giả thiết về nhiệt độ dựa trên hai giả thiết là khí lí tưởng và cân bằng thũy tĩnh không còn tin cậy nữa. Vì vậy, những file này phản ánh một tình trạng riêng của khí quyển, chúng cần được nghiên cứu riêng. Các file tín hiệu không bị ô nhiễm bởi mây sẽ được tích phân theo thời gian và không gian để thu được một file tín hiệu lidar mới dùng cho xác định phân bố mật độ và nhiệt độ khí quyển. Độ phân giải không gian và độ phân giải thời gian của phân bố mật độ phân tử và nhiệt độ khí quyển được xác định từ độ phân giải không gian và thời gian của file tín hiệu này. Độ cao cực đại của file tín hiệu lidar Raman mới được xác định thông qua sự đánh giá tỉ số tín hiệu /nhiễu. Độ thăng giáng của tín hiệu lidar do sự phân rã nhanh theo khoảng cách được giảm bớt bằng cách làm trơn thông qua phin lọc bình phương tối thiểu. File tín hiệu mới này sẽ được dùng để xác định hệ số dập tắt của sol khí khí quyển theo phương pháp của A. Ansmann. Từ hệ số dập tắt của sol khí chúng ta có thể xác định được hệ số truyền qua khí quyển của sol khí. Sử dụng một phân bố mật độ ô zôn tham khảo chúng ta có thể xác định được hệ số truyền qua của ô zôn. Sử dụng đồng thời hai hệ số truyền qua này chúng ta có thể xác định được tín hiệu lidar Raman hiệu dụng sau khi đã hiệu chỉnh đi sự suy hao của sol khí và ô zôn khí quyển. Tín hiệu lidar Raman hiệu dụng được dùng để xác định mật độ phân tử Ni tơ theo phương trình lidar Raman. Bởi vì tín hiệu lidar Raman bao phủ tầng đối lưu nên dữ liệu từ phép đo thám không vô tuyến cùng ngày và cùng tọa độ được dùng để làm nhiệt độ tham khảo và giá trị so sánh. Phân bố nhiệt độ khí quyển được xác định từ phân bố mật độ phân tử theo phương pháp giống như lidar Rayleigh. Cuối cùng các nguồn sai số nhiệt độ lidar Raman được đánh giá và thảo luận. 3.3.1.2 Xác định tín hiệu lidar Raman hiệu dụng Tín hiệu lidar Raman hiệu dụng được xác định từ tín hiệu lidar Raman đo được sau khi đã hiệu chỉnh sự suy hao của ô zôn và sol khí. Mật độ phân tử ô zôn và hệ số truyền qua khí quyển của ô zôn được trình bày ở trên Hình 3.14. Kết quả cho thấy hệ số truyền qua một vòng khí quyển của ô zôn trong tầng đối lưu là rất nhỏ so với tầng 92 bình lưu. Vì vậy suy hao do ô zôn gây ra đối với tín hiệu lidar Raman sẽ là rất nhỏ. Tuy nhiên trong các phép tính nhiệt độ khi mà thời gian tích phân dài thì sự suy hao này có thể đóng góp gây ra sai số hệ thống cho phân bố nhiệt độ. Hình 3.14. Mật độ phân tử ô zôn (a) và hệ số truyền qua một vòng khí quyển (b) của ô zôn trong tầng đối lưu. Tín hiệu lidar Raman được sử dụng để xác định hệ số dập tắt của sol khí αaer(z) theo phương pháp của A. Ansmann, sau đó hệ số truyền qua của sol khí khí quyển Taer(z) được xác định từ hệ số dập tắt này. Tín hiệu lidar Raman trước khi dùng để xác định hệ số dập tắt sol khí phải được hiệu chỉnh sự suy hao của ô zôn, phân tử, và khoảng cách để tín hiệu lidar Raman chỉ phản ánh tính chất của sol khí. Do phải sử dụng một phân bố mật độ phân tử tham khảo để đánh giá suy hao của phân tử, nên để giảm thiểu ảnh hưởng của nó tới giá trị của hệ số dập tắt sol khí chúng ta có thể ứng dụng phương pháp lặp. Phương pháp lặp được thực hiện như sau: bước thứ nhất, mật độ phân tử từ dữ liệu thám không vô tuyến xác định từ nhiệt độ và áp suất được dùng để hiệu chỉnh tín hiệu lidar Raman cho suy hao phân tử, rồi hệ số dập tắt sol khí được xác định từ tín hiệu này. Bước thứ hai, hệ số dập tắt sol khí này được dùng để xác 93 định tín hiệu lidar Raman hiệu dụng Peff(z) và tín hiệu lidar hiệu dụng này được dùng để xác định mật độ phân tử Ni tơ khí quyển. Trong bước thứ ba, mật độ phân tử mới được xác định từ tín hiệu lidar lại được dùng để xác định hệ số suy hao và truyền qua của sol khí. Lặp lại bước 2 và 3 hệ số truyền qua của sol khí sẽ đồng quy sau một vài bước lặp. Hình 3.15. Hệ số dập tắt của sol khí αaer(z) (a) và hệ số truyền qua khí quyển một vòng của sol khí được xác định bằng tín hiệu lidar Raman tích phân trong 1h. Hình 3.15a trình bày kết quả phân bố hệ số dập tắt sol khí được xác định từ tín hiệu Raman được tích phân trong khoảng 1h. Kết quả của hệ số truyền qua một lần khí quyển của sol khí cũng được trình bày ở hình 3.15b. Hệ số suy hao của sol khí là rất thấp từ khoảng 3 km tới gần 14 km, kết quả sol khí gây ra suy hao cỡ khoảng 1.5% đã cho thấy bầu trời là rất trong. Sự gia tăng ở khoảng cách cao hơn, suy hao cỡ khoảng 4% ở độ cao 19 km có thể do sự tồn tại của lớp mỏng mây Ti tầng cao trong vùng này của một số file tín hiệu lidar Raman. Các tinh thể băng của lớp mây Ti mỏng này là khó nhận biết theo phương pháp của A. Ansmann do phép tính vi phân 94 số. Sự suy hao thấp hơn 4% ở độ cao cực đại của hệ số truyền qua sol khí cho thấy việc lựa chọn điều kiện đo sẽ giúp nâng cao tỉ số tín hiệu /nhiễu trong tính toán nhiệt độ bằng phương pháp này. Kết quả xác định hệ số truyền qua của sol khí đã cho thấy chúng ta không thể bỏ qua suy hao của sol khí trong việc xác định phân bố mật độ phân tử và nhiệt độ bằng kỹ thuật lidar Raman như các công bố trước đây. Sử dụng hệ số truyền qua của ô zôn và hệ số truyền qua sol khí ở trên chúng ta xác định được tín hiệu lidar Raman hiệu dụng. Kết quả được trình bày ở hình 3.16a cho thấy sự khác nhau giữa hai tín hiệu lidar Raman hiệu chỉnh khoảng cách đo được và tín hiệu lidar Raman hiệu dụng. Độ chênh lệch giữa hai tín hiệu lidar đo được và hiệu dụng được xác định ở hình 3.16b. Kết quả cho thấy độ chênh lệch chủ yếu ở khoảng 12 km ban đầu, ở phần sau mặc dù hệ số truyền qua của sol khí là giảm nhưng tín hiệu lidar giảm mạnh nên độ chênh lệch không nhiều. Độ chênh lệch cực đại là 50 photon trung bình trong khoảng thời gian là 1 giờ. Ở trên khoảng 15 km độ chênh lệch tín hiệu lidar giữa đo được và hiệu dụng là nhỏ hơn 5 photon. Hình 3.16. Tín hiệu lidar Raman đo được (đỏ) và Raman hiệu dụng (xanh) trong 10 phút: (a), độ lệch cường độ giữa tín hiệu Raman đo được và hiệu dụng (b). 95 3.3.1.3 Xác định mật độ phân tử khí quyển Mật độ phân tử Ni tơ được xác định từ tín hiệu lidar theo phương trình (1.41). Tuy nhiên vì hệ số suy hao của phân tử khí quyển cũng chưa được biết trong phương trình này nên phương pháp lặp được ứng dụng để đánh giá hệ số suy hao này. Phương pháp lặp được thực hiện như sau: ở bước thứ nhất, hệ số suy hao của phân tử được giả sử là 1 từ đó mật độ độ phân tử Ni tơ được xác định. Trong bước thứ hai, mật độ phân tử vừa được xác định được dùng để xác định hệ số suy hao của phân tử. Bước thứ 3 hệ số suy hao phân tử mới này được dùng để tính mật độ phân tử Ni tơ của khí quyển. Lặp lại bước hai và bước 3 các giá trị sẽ đồng quy sau một vài bước lặp. Hệ số chuẩn hóa trong tính toán mật độ Ni tơ phải sử dụng một giá trị mật độ phân tử tham khảo nhận được từ dữ liệu thám không vô tuyến cùng ngày. Độ cao xác định hệ số chuẩn hóa được xác định tại điểm có tỉ số tín hiệu /nhiễu rất cao. Nó có thể nhận được từ sự so sánh phân bố tín hiệu hiệu chỉnh khoảng cách với mật độ phân tử Ni tơ. Trong hình 3.17 độ cao chuẩn hóa được xác định tại độ cao 12 km. Hình 3.17. Mật độ phân tử Ni tơ xác định từ lidar Raman (a), đỏ: không lặp, xanh: 96 lặp, đen: thám không vô tuyến, hệ số truyền qua môt vòng khí quyển của phân tử (b). Kết quả mật độ phân tử Ni tơ được xác định từ tín hiệu lidar hiệu dụng không ứng dụng và ứng dụng phương pháp lặp so sánh với dữ liệu thám không vô tuyến được trình bày ở Hình 3.17a. Hệ số truyền qua của phân tử khí quyển được xác định từ tín hiệu lidar Raman cũng được trình bày ở hình 3.17b. Kết quả cho thấy mật độ phân tử giữa lặp và không lặp khác nhau đáng kể trong khoảng từ 3 km tới 10 km. Do trong khoảng này độ truyền qua của phân tử khí quyển cũng biến đổi rất mạnh, từ 0.98 đến 0.88 (cỡ khoảng 2% tới 12 %) và hệ số truyền qua này được nhân trong phép tính hệ số chuẩn hóa. Ở phần trên tầng đối lưu, hai phân bố mật độ rất gần nhau do hệ số truyền qua biến đổi nhỏ khoảng từ 0.86 đến 0.84 và cường độ tín hiệu lidar đã giảm nhanh so với khoảng ban đầu. Hình 3.18. Mật độ phân tử Ni tơ được xác định từ tín hiệu lidar Raman (a), đỏ: đo được và xanh: hiệu dụng, sai số của mật độ phân tử Ni tơ (b). Kết quả tính toán mật độ phân tử Ni tơ từ tín hiệu lidar Raman đo được và tín hiệu lidar hiệu dụng so sánh với mật độ phân tử Ni tơ từ phép đo thám không vô tuyến 97 được cho thấy ở Hình 3.18a. Mặc dù sự chênh lệch giữa hai phân bố là không lớn do trong phép đo Raman này hệ số suy hao của sol khí là nhỏ. Tuy nhiên kết quả cho thấy mật độ phân tử Ni tơ tính từ tín hiệu lidar hiệu dụng gần với phép đo thám không vô tuyến hơn. Kết quả sai số mật độ gây ra do tín hiệu nhiễu photon bởi phép đo cũng được cho thấy trên Hình 3.18b. Sai số mật độ gia tăng theo độ cao biến đổi từ 0.01% tới khoảng 0.18% do tỉ số tín hiệu /nhiễu giảm nhanh theo độ cao. Giá trị sai số mật độ phân tử rất thấp do phép tính mật độ đã lấy trung bình theo thời gian 1h và trung bình không gian cao (120m). Hình 3.19. Phân bố mật độ phân tử Ni tơ (a) và độ chênh lệch mật độ lidar-thám không từ lidar Raman lúc 22 giờ 01 phút ngày 26 tháng 6 năm 2013 tại Hà nội (b). Mật độ phân tử Ni tơ khí quyển được rút ra từ tín hiệu lidar Raman vào lúc 22 giờ 01 phút ngày 16 tháng 6 năm 2013 tại Hà nội được cho thấy ở trên Hình 3.19a. Sai số mật độ cũng được vẽ trong hình. Phân bố bắt đầu ở 2 km và kết thúc ở độ cao cực đại là 19,5 km với độ phân giải không gian là 120 m và thời gian tích phân là 1 giờ. Độ 98 cao cực đại nhận được tương ứng với tỉ số tín hiệu /nhiễu là lớn hơn 9. Kết quả của phép đo thám không cùng ngày cũng được cho trong hình. Kết quả cho thấy hai phân bố khá hòa hợp đã khẳng định độ tin cậy của phép đo lidar. Độ chênh lệch mật độ giữa lidar và thám không được cho trong Hình 3.19b. Độ chênh lệch cực đại là 2,8% được tìm thấy ở độ cao 16 km. Độ chênh lệch là lớn hơn 2% ở độ cao thấp nhất và giảm dần theo sự suy giảm của sol khí. Mặc dù tán xạ Raman không chứa sol khí nhưng bị ảnh hưởng bởi hấp thụ của sol khí. Tại vùng sol khí tự do độ chênh lệch là nhỏ hơn 1%. Độ chênh lệch tăng mạnh sau 14 km đến 16 km có thể là do sự tồn tại của lớp mây Ti tầng cao. Sự thăng giáng từ 16 km trở lên có thể là do sự thăng giáng của tín hiệu lidar Raman gây ra. Sự chênh lệch giữa hai phép đo có thể gây ra do sự chênh lệch thời gian đo khác nhau và các yếu tố khác như đã thảo luận ở trên. 3.3.1.4 Xác định phân bố nhiệt độ khí quyển Phân bố nhiệt độ khí quyển được xác định từ phân bố mật độ phân tử Ni tơ của phép đo lidar Raman. Một giá trị nhiệt độ tham khảo từ điểm cao nhất của phân bố nhận được từ dữ liệu thám không vô tuyến. Sau đó phân bố nhiệt độ được xác định từ công thức (1.20) ở Chương 1. Giá trị nhiệt độ tham khảo này là một nguồn sai số hệ thống của phương pháp lidar Raman này. Ảnh hưởng của nó cũng tương tự như đối với lidar Rayleigh đã được khảo sát ở Hình 3.11. Trong trường hợp không có dữ liệu thám không vô tuyến cùng ngày thì giá trị nhiệt độ khí quyển tham khảo có thể nhận được từ mô hình MSISE-90. Sử dụng phân bố phân tử Ni tơ tính từ tín hiệu lidar Raman theo phương pháp lặp và không lặp ở trên chúng ta tính được kết quả phân bố nhiệt độ, kết quả được cho thấy ở Hình 3.19. Phân bố nhiệt độ sử dụng phương pháp lặp cho thấy gần hơn với dữ liệu thám không vô tuyến, trong khi đó phân bố nhiệt độ không ứng dụng phương pháp lặp có độ chênh lệch đáng kể tới tận 12 km. Sự khác nhau này đã chỉ ra việc hiệu chỉnh hấp thụ của phân tử ảnh hưởng rất lớn đến kết quả phân bố mật độ và 99 phân bố nhiệt độ trong tầng đối lưu. Hình 3.20. Phân bố nhiệt độ Raman dùng phương pháp lặp (xanh) và không lặp (đỏ) so sánh với phép đo thám không vô tuyến (đen). Sử dụng phân bố mật độ dùng tín hiệu lidar Raman đo được và tín hiệu lidar Raman hiệu dụng chúng ta tính toán được phân bố nhiệt độ với kết quả được cho thấy ở Hình 3.21. Tín hiệu lidar Raman hiệu dụng cho thấy phân bố nhiệt độ tiệm cận với dữ liệu thám không vô tuyến hơn so với sử dụng tín hiệu lidar đo được, mặc dù sự chênh lệch giữa hai phân bố là không nhiểu. Kết quả này là do sự suy hao của sol khí trong phép đo này là nhỏ có thể do bầu trời trong. Tuy nhiên kết quả này gợi ý rằng trong các phép đo nhiệt độ khác bằng kỹ thuật lidar Raman khi mà điều kiện sol khí đậm đặc hơn thì sự chênh lệch do sol khí gây ra sẽ trở nên đáng kể hơn. Bên cạnh đó suy hao do hấp thụ của ô zôn trong tầng đối lưu cũng là không đáng kể nên ảnh hưởng 100 của nó đến sự chênh lệch cũng không đáng kể. Hình 3.21. Phân bố nhiệt độ từ tín hiệu lidar Raman đo được (đỏ) và Raman hiệu dụng (xanh) và thám không vô tuyến (đen). 3.3.2 Phân tích sai số của nhiệt độ lidar Raman Sai số nhiệt độ khí quyển của phép đo lidar Raman gây ra bởi các nguồn sau: sự suy hao của sol khí, sự suy hao của ô zôn, nhiệt độ tham khảo, sai số thống kê do nhiễu của tín hiệu. Sai số do sự suy hao của sol khí khí quyển có thể được đánh giá thông qua sử dụng biểu thức của hệ số truyền qua của sol khí khí quyển ở biểu thức (3.4). Sai số nhiệt độ này được đánh giá thông qua giá trị độ lệch quân phương trung bình của hệ số truyền qua của sol khí được xác định từ tín hiệu lidar Raman. Tương tự, sai số nhiệt độ Raman do sự hấp thụ của ô zôn khí quyển cũng có thể được đánh giá thông qua độ lệch quân phương trung bình của hệ số truyền qua 101 một vòng của ô zôn được xác định ở biểu thức (3.5). Hình 3.22. Sai số nhiệt độ của lidar Raman (a) và sai số nhiệt độ Raman % (b). Sai số nhiệt độ do nhiệt độ tham khảo của lidar Raman cũng được xác định ở biểu thức (3.6) trong đó sai số nhiệt độ tham khảo từ phép đo thám không vô tuyến là 1% và mật độ phân tử Ni tơ được xác định từ tín hiệu lidar Raman ở trên. Cuối cùng là sai số nhiệt độ do độ nhiễu photon cũng được xác định bởi biểu thức (3.7) như đối với lidar Rayleigh. Kết quả tính toán sai số nhiệt độ lidar Raman do các nguồn sai số trên được cho thấy ở trên hình 3.22a và tính theo % được cho thấy ở Hình 3.22b. Sai số nhiệt độ do suy hao của sol khí là lớn nhất phản ánh đây là nguồn sai số chính trong tầng đối lưu của kỹ thuật lidar này. Sai số nhiệt độ do độ nhiễu photon là nhỏ do thời gian tích phân là rất dài (1 giờ) và khoảng không gian là rộng (120 m). Sai số tổng cộng có giá trị cao nhất là 5.5 K ở độ cao cực đại có thể là do sự tồn tại của lớp mây Ti mỏng ở vùng cao trong một vài file tín hiệu. Sai số nhiệt độ thấp nhất vào khoảng 102 0.8% ở khoảng 10-12km có thể do khoảng này mật độ sol khí là không đáng kể. Giá trị sai số cao nhất của nhiệt độ vào khoảng 2.8% cho thấy đây là một kỹ thuật lidar rất tin cậy trong nghiên cứu phân bố nhiệt độ khí quyển ở vùng trên tầng đối lưu. 3.3.3 Thảo luận Phân bố mật độ phân tử và nhiệt độ của vùng trên tầng đối lưu (từ 3 km trở lên) có thể được xác định bằng kỹ thuật lidar Raman sau một quá trình xử lí tín hiệu số từ tín hiệu lidar Raman thô. Kỹ thuật lidar nhiệt độ này yêu cầu một phân bố mật độ ô zôn tham khảo tại vị trí đo để hiệu chỉnh tín hiệu do hấp thụ ô zôn gây ra nhằm giảm sai số hệ thống. Mặc dù sai số nhiệt độ do hấp thụ ô zôn gây ra được đánh giá là thấp hơn 0.3% do mật độ ô zôn trong tầng đối lưu là thấp nhưng vẫn cần được khảo sát. Kỹ thuật lidar này cũng yêu cầu dữ liệu nhiệt độ và áp suất tham khảo như là một giá trị đầu vào từ phép đo thám không vô tuyến hoặc mô hình khí quyển để xác định hệ số suy hao của sol khí, phân bố mật độ phân tử, phân bố nhiệt độ. Phương pháp lặp đã được ứng dụng để giảm thiểu các giá trị tham khảo ban đầu trong việc xác định hệ số dập tắt của sol khí do hệ số này có thể xác định trực tiếp từ tín hiệu lidar Raman. Mặc dù việc lấy trung bình tín hiệu theo thời gian và không gian làm gia tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu nhằm gia tăng độ cao phân bố nhiệt độ xác định được và làm giảm sai số thống kê. Tuy nhiên trong một số file tín hiệu có thể tồn tại một lớp mây Ti tầng cao mỏng và làm gia tăng sai số nhiệt độ khi hiệu chỉnh tín hiệu lidar bởi suy hao của sol khí. Việc đánh giá lớp mây Ti tầng cao này bằng kỹ thuật lidar Raman là điều không chắc chắn do sự thăng giáng tín nhiệu ở độ cao khi mà tỉ số tín hiệu /nhiễu nhỏ. Lớp mây Ti tầng cao này có thể được nhận biết bởi kỹ thuật lidar kết hợp đàn hồi- Raman. Một hạn chế nữa của kỹ thuật lidar Raman là giả thiết về nồng độ không đổi của phân tử Ni tơ trong thành phần của khí quyển. Giả thiết này có thể gặp sai số đáng kể trong vùng thấp của tầng đối lưu khi mà mức độ phức tạp của các thành phần khí quyển gia tăng. Kết quả cho thấy sai số nhiệt độ cao nhất của lidar Raman là từ sol khí trong khi đó sai số nhiệt độ lớn nhất của lidar Rayleigh là từ nhiệt độ tham khảo, điều này là dễ hiểu do mức độ phức tạp và mật độ phong phú của sol khí gia tăng trong tầng 103 đối lưu khí quyển. 3.4 Phép đo nhiệt độ dùng lidar đàn hồi-Raman kết hợp Hình 3.23. Tín hiệu lidar từ phép đo lidar đàn hồi-Raman kết hợp, (a) là tín hiệu lidar thô, (b) là tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách. Lidar Rayleigh có thể xác định phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ ở tầng bình lưu nơi mà mật độ sol khí là rất thấp vì vậy sai số do sol khí không gây ra sai số lớn đối với nhiệt độ. Trong trường hợp mà tán xạ đàn hồi của phân tử không chiếm ưu thế so với sol khí thì hạn chế của kỹ thuật lidar này là chúng ta không thể tách riêng biệt được tán xạ đàn hồi của sol khí và phân tử. Đặc biệt trong trường hợp tán xạ đàn hồi có cường độ mạnh ở các đám mây thì kỹ thuật lidar Rayleigh trở nên không còn tin cậy. Kỹ thuật lidar Raman thu tín hiệu không chứa tán xạ sol khí nhưng việc hiệu chỉnh suy hao của sol khí từ tín hiệu lidar Raman có thể gặp sai số hệ thống lớn do sử dụng đạo hàm số. Bên cạnh đó kỹ thuật lidar này không chắc chắn trong việc xác định và đánh giá sự tồn tại của lớp mây mỏng tầng cao nên có thể gây ra sai số nhiệt 104 độ. Hình 3.23 cho thấy sự tồn tại về lớp mây Ti mỏng tầng cao từ tín hiệu đàn hồi nhưng không gây ra sự suy hao đáng kể cho tín hiệu lidar Raman. Một sai số hệ thống quan trọng của lidar Raman xác định nhiệt độ là giả thuyết về tỉ lệ cố định của phân tử Ni tơ trong thành phần khí quyển. Kỹ thuật lidar kết hợp đàn hồi-Raman cho phép khắc phục những nhược điểm của hai kỹ thuật lidar trên. Do sử dụng đồng thời cả hai tín hiệu lidar đàn hồi và Raman, nên chúng ta có thể nhận biết và đánh giá sự tồn tại của các lớp mây, đồng thời cung cấp những khả năng xử lí dữ liệu mới nhằm hạn chế những sai số hệ thống của cả hai kỹ thuật lidar trên. Mục này sẽ trình bày về sự xác định phân bố nhiệt độ và mật độ từ hai tín hiệu lidar đàn hồi và lidar Raman đo được đồng thời và các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và sai số. 3.4.1 Xử lý dữ liệu lidar kết hợp đàn hồi-Raman Phép đo nhiệt độ dùng kỹ thuật lidar kết hợp đàn hồi-Raman sử dụng cả hai phương trình lidar đàn hồi và phương trình lidar Raman để xử lí dữ liệu. Mật độ phân tử khí quyển được rút ra dựa vào phương trình lidar đàn hồi. Trước khi sử dụng tín hiệu lidar đàn hồi để xác định mật độ chúng ta phải hiệu chỉnh tín hiệu đàn hồi do tán xạ và suy hao của sol khí cũng như hấp thụ của ô zôn nhằm thu được tín hiệu lidar đàn hồi hiệu dụng. Để xác định các hệ số tán xạ ngược và hệ số suy hao của sol khí, cả hai tín hiệu lidar đàn hồi và Raman được sử dụng đồng thời. Tín hiệu lidar đàn hồi hiệu dụng mới sẽ được dùng để xác định phân bố mật độ phân tử khí quyển giống như đối với lidar Rayliegh bằng cách ứng dụng phương pháp lặp để hiệu chỉnh suy hao của phân tử. 3.4.1.1. Sơ đồ thuật giải nhiệt độ Hình 3.24 trình bày chi tiết sơ đồ thuật giải nhiệt độ của lidar đàn hồi-Raman kết hợp. Các file tín hiệu lidar thô đàn hồi và Raman phải được đánh giá trước khi sử dụng để xác định nhiệt độ nhằm loại bỏ những file không phù hợp. Tín hiệu đàn hồi và Raman sau khi được xử lí sẽ được hiệu chỉnh theo khoảng cách rồi so sánh với dữ liệu thám không vô tuyến để loại bỏ những file bị ảnh hưởng bởi hiệu tượng nhiễu sinh tín hiệu 105 hoặc bị ô nhiễm nặng do mây. Dữ liệu mật độ phân tử và mật độ phân tử Ni tơ khí quyển được tính từ dữ liệu nhiệt độ và áp suất của phép đo thám không vô tuyến cùng ngày. Mật độ phân tử Ni tơ được giả sử chiếm 78% khí quyển. Hình 3.24. Sơ đồ thuật giải nhiệt độ tổng quát của lidar đàn hồi-Raman kết hợp. Các file tín hiệu lidar đàn hồi và Raman phù hợp sẽ được gia tăng trung bình theo thời gian và không gian để tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu. Độ phân giải không gian và thời gian sẽ được xác định từ file tín hiệu được tích phân này. Trước khi sử dụng file tín hiệu lidar này cần được làm trơn bằng phin lọc theo phương pháp bình phương tối thiểu theo thang logarit tự nhiên để giảm độ méo tín hiệu do sự phân rã nhanh của tín hiệu lidar. Tuy nhiên để đảm bảo thông tin trung thực về tán xạ của sol khí số điểm 106 làm trơn cần được tối ưu hóa. File tín hiệu sau khi làm trơn sẽ được dùng để xác định hệ số tán xạ ngược của sol khí βaer(z) theo phương pháp đã trình bày ở Chương 1. Tỉ số tán xạ ngược của sol khí Raer(z) sẽ được xác định từ hệ số tán xạ ngược của sol khí và phân tử. Tín hiệu lidar đàn hồi sau khi hiệu chỉnh bởi tỉ số này sẽ loại bỏ ảnh hưởng tán xạ ngược của sol khí. File tín hiệu đàn hồi và Raman này cũng được dùng để xác định hệ số dập tắt của sol khí αaer(z). Từ hệ số dập tắt này chúng ta có thể tính được aer(z). hệ số truyền qua một vòng của sol khí T2 Sử dụng tỉ số tán xạ ngược của sol khí, hệ số truyền qua một vòng của sol khí và hệ số truyền qua một vòng của ô zôn chúng ta có thể xác định được tín hiệu lidar hiệu dụng chỉ mô tả tán xạ ngược của phân tử khí quyển. Tín hiệu lidar hiệu dụng này cũng cho phép chúng ta đánh giá tỉ số tín hiệu /nhiễu để xác định độ cao cực đại của phép đo. File tín hiệu lidar hiệu dụng này được sử dụng để xác định phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ giống như đối với lidar Rayleigh. 3.4.1.2. Xác định tín hiệu lidar đàn hồi hiệu dụng Hình 3.25. Hệ số tán xạ ngược của phân tử, sol khí, tổng cộng (a) và tỉ số tán xạ 107 ngược tương đối của sol khí Raer(z) (b). Tín hiệu lidar hiệu dụng được xác định từ phương trình (1.28) ở Chương 1 sau khi hiệu chỉnh tán xạ và suy hao của sol khí, hấp thụ của ô zôn. Để xác định được tán xạ của sol khí chúng ta phải xác định được tỉ số tán xạ ngược của sol khí Raer(z) theo công thức (1.27). Từ hai tín hiệu lidar đàn hồi và lidar Raman chúng ta có thể xác định được hệ số tán xạ ngược của sol khí βaer(z). Theo đó hệ số tán xạ ngược Raer(z) được xác định từ βaer(z). Hình 3.25 trình bày kết quả của hệ số tán xạ ngược của sol khí βaer(z) từ hai tín hiệu lidar đàn hồi và lidar Raman (a) và tỉ số tán xạ ngược của sol khí Raer(z) được xác định từ hệ số này. Hệ số tán xạ ngược cho thấy tán xạ sol khí chi phối mạnh ở dưới 4 km so với tán xạ phân tử. Bên cạnh đó một lớp mây Ti tầng cao mỏng tồn tại ở độ cao từ 14.5 km tới 15 km. Tán xạ của lớp mây Ti tầng cao này cho thấy tỉ số thay đổi đột ngột của Raer(z). Tỉ số này cao hơn giá trị sol khí tầng thấp do các tinh thể băng của mây Ti có khả năng phản xạ mạnh hơn nhiều so với tán xạ ngược của sol khí tầng thấp. Thêm vào đó tán xạ của phân tử ở độ cao này đã giảm đi đáng kể so với ở gần mặt đất. Phần ở trên lớp mây Ti tín hiệu lidar đàn hồi đã thăng giáng mạnh do tín hiệu lidar được làm trơn với độ phân giải không gian thấp để giữ lại đặc trưng tán xạ của sol khí, đặc biệt là lớp mây Ti mỏng. Kết quả cho thấy nếu chỉ dùng tín hiệu lidar Raman chúng ta không thể xác định chính xác sự tồn tại của lớp mây Ti mỏng này, do tín hiệu lidar Raman thăng giáng mạnh ở vùng cao tầng đối lưu Từ file tín hiệu lidar này chúng ta cũng xác định được hệ số dập tắt sol khí αaer(z) và từ hệ số dập tắt này chúng ta có thể xác định được hệ số truyền qua một vòng khí quyển của sol khí theo phương pháp đã trình bày ở Chương 1. Kết quả đã trình bày ở Hình 3.26. Phân bố hệ số truyền qua khí quyển sol khí cho thấy tín hiệu lidar đã suy giảm mạnh ở dưới 4 km từ gần 1 tới 0.965 đã cho thấy mật độ cao của sol khí trong vùng khí quyển này. Khoảng từ 4 km tới 14 km hệ số truyền qua sol khí biến đổi không đáng kể đã cho thấy vùng sol khí tự do của tầng đối lưu tại thời điểm đo. Hệ số truyền qua đã bị gãy khúc ở lân cận 14.5 km cho thấy sự tồn tại của lớp 108 mây Ti tầng cao và sự gãy khúc này không mạnh chỉ ra lớp mây mỏng này. Hình 3.26. Hệ số dập tắt (a) và hệ số truyền qua một vòng của sol khí Taer(z) (b). Hình 3.27. Tín hiệu lidar đàn hồi đo được và hiệu chỉnh sol khí (a), tín hiệu lidar đàn 109 hồi đo được và hiệu dụng hiệu chỉnh khoảng cách (b). Đóng góp của tán xạ của sol khí trong phân bố tín hiệu lidar đàn hồi được cho thấy ở Hình 3.27a sau khi chúng ta sử dụng tỉ số tán xạ ngược sol khí Raer(z) để hiệu aer(z), hệ số chỉnh. Sử dụng tỉ số tán xạ ngược Raer,(z), hệ số truyền qua khí quyển T2 truyền qua của ô zôn chúng ta xác định được thừa số tín hiệu lidar hiệu dụng. Kết quả được trình bày ở Hình 3.27b. Tín hiệu lidar hiệu dụng đã được hiệu chỉnh theo khoảng cách và biểu diễn theo thang logarithm cơ số e. Phần tín hiệu ở trên độ cao 14 km đã cho thấy sự thăng giáng mạnh do chúng ta làm trơn tín hiệu với độ phân giải không gian thấp để giữ lại đặc trưng của lớp mây Ti tầng cao. Vùng sol khí tự do từ 5 km tới 14 km cho thấy rõ sự tương đồng của hai phân bố tín hiệu đo được và hiệu dụng. 3.4.1.3. Xác định mật độ phân tử Hình 3.28. Mật độ phân tử khí quyển từ tín hiệu lidar (a), sai số mật độ (b). Sử dụng tín hiệu lidar đàn hồi hiệu dụng ở trên chúng ta xác định được phân bố mật độ phân tử khí quyển. Phương pháp lặp cũng được ứng dụng để hiệu chỉnh 110 suy hao phân tử khí quyển. Hình 3.28a trình bày kết quả phân bố mật độ phân tử từ lidar đàn hồi-Raman kết hợp. Tín hiệu lidar không ứng dụng phương pháp lặp là đường mầu đỏ, sử dụng phương pháp lặp là đường màu xanh da trời, đường mầu đen là của phép đo thám không vô tuyến cùng ngày. Kết quả cho thấy mật độ phân tử từ phép đo lidar khá tương đồng với kết quả thám không vô tuyến. Đối với đường phân bố mật độ không dùng phương pháp lặp chúng ta thấy mật độ phân tử cao hơn đáng kể so với phép đo thám không vô tuyến cho tới độ cao chuẩn hóa là 10 km. Sai số mật độ cũng được trình bày ở Hình 3.28b cho thấy sai số nhiệt độ là nhỏ hơn 0.35% ở độ cao cực đại. . Kết quả này là cao hơn so với kỹ thuật lidar Raman bởi chỉ sử dụng một file tín hiệu có thời gian tích phân khoảng 20 phút và độ phân giải không gian là 105 m với 70 bin không gian được lấy trung bình. Phân bố có độ cao bắt đầu từ khoảng 2 km và kết thúc ở gần 19 km. Hình 3.29. Độ chênh lệch mật độ phân tử giữa lặp và không lặp(a) và lidar và thám 111 không vào 20 giờ 10 phút ngày 2 tháng 12 năm 2011 tại Hà nội. Kết quả đánh giá độ chênh lệch mật độ phân tử giữa ứng dụng và không ứng dụng phương pháp lặp được cho thấy ở Hình 3.29 a, giữa lidar và thám không được cho thấy ở Hình 3.29 b. Độ chênh lệch cao nhất giữa phương pháp lặp và không lặp gây ra do suy hao phân tử cực đại ở độ cao thấp nhất và giảm dần tới độ cao chuẩn hóa. Độ chênh lệch tương đối cực đại vào khoảng 12% ở độ cao thấp nhất. Độ chênh lệch giữa thám không và lidar nhỏ hơn 4% ở dưới 14 km và tăng mạnh tại nơi tồn tại lớp mây Ti tầng cao. Độ chênh lệch tương đối cực đại được tìm thấy là khoảng 8% ở độ cao lân cận 16 km. Sự khác nhau giữa lidar và thám không có thể đến từ các nguyên nhân như thời gian đo khác nhau của hai phép đo. Phép đo của thám không vô tuyến ở đây thực hiện vào buổi chiều. Thứ hai là mật độ phân tử của phép đo thám không được tính từ phương trình khí lí tưởng dựa vào phân bố nhiệt độ và áp suất. Thứ ba là bản chất khác nhau của từng phép đo, độ trôi của bóng thám không so với vị trí cố định của lidar. 3.4.1.4. Xác định phân bố nhiệt độ khí quyển Sử dụng phân bố mật độ phân tử ở trên Hình 3.28 và giá trị nhiệt độ tham khảo từ phép đo thám không vô tuyến ở độ cao cực đại chúng ta xác định được phân bố nhiệt độ từ phép đo lidar kết hợp đàn hồi-Raman. Kết quả được cho thấy ở trên Hình 3.30 với phân bố không ứng dụng phương pháp lặp là đường mầu đỏ, phân bố sử dụng phương pháp lặp là đường mầu xanh, phân bố nhiệt độ của phép đo thám không vô tuyến cùng ngày cũng được vẽ cùng. Phân bố nhiệt độ không ứng dụng phương pháp lặp có chênh lệch tương đối lớn so với phép đo thám không vô tuyến cho thấy độ nhạy của phương pháp theo thuật giải tích phân giật lùi và độ hấp thụ của phân tử khí quyển ảnh hưởng đến kết quả nhiệt độ. Phân bố nhiệt độ xác định từ tín hiệu lidar được tìm thấy là nhỏ hơn so với kết quả thám không, kết quả này chủ yếu là do thời gian đo của lidar thực hiện sau thời gian của phép đo thám không vô tuyến. Sự khác nhau không tuân theo một quy luật nào cho thấy sự phân bố sol khí phức tạp trong khí quyển ảnh hưởng lớn đến kết quả các định nhiệt độ. Vì vậy phương pháp kết hợp 112 lidar đàn hồi – Raman đã thể hiện độ nhạy cao trong xác định phân bố nhiệt độ. Hình 3.30. Phân bố nhiệt độ khí quyển từ tín hiệu lidar kết hợp đàn hồi-Raman. Độ chênh lệch nhiệt độ tương đối RT(z) giữa ứng dụng phương pháp lặp và không ứng dụng phương pháp lặp cho thấy ở trên Hình 3.31a. Độ chênh lệch tương đối này được xác định theo công thức: |Tlặp (z)−Tkhông lặp(z)|
Tlặp(z) (3.8) RT(z) = Trong đó Tlặp (z) là nhiệt độ tính bằng phương pháp lặp, Tkhông lặp(z) là nhiệt độ không ứng dụng phương pháp lặp. Độ chênh lệch bằng không tại giá trị nhiệt độ tham khảo ở độ cao cực đại của phân bố và gia tăng theo sự giảm dần của độ cao. Độ chênh lệch cực đại vào khoảng 8% ở độ cao cực tiểu. Tương tự, độ chênh lệch nhiệt độ tương đối giữa lidar và thám không RT(z) được cho bởi công thức: |Tlidar (z)−Tthám không(z)|
T𝑙𝑖𝑑𝑎𝑟(z) 113 (3.9) RT(z) = Trong đó Tlidar (z) là nhiệt độ tính từ tín hiệu lidar, Tthám không(z) là nhiệt độ của phép đo thám không. Kết quả cho thấy ở Hình 3.31b, độ chênh lệch cực đại được tìm thấy là nhỏ hơn 7.8% ở độ cao gần 18 km. Còn lại độ chênh lệch của phân bố là nhỏ hơn 5%. Sự chênh lệch này là do những nguyên nhân đã chỉ ra ở trên. Hình 3.31. Độ chênh lệch nhiệt độ tương đối dùng phương pháp lặp và không lặp (a), giữa lidar và thám không (b) 3.4.1.5. Phân tích sai số nhiệt độ của lidar kết hợp đàn hồi-Raman Sai số nhiệt độ của lidar kết hợp đàn hồi-Raman cũng do các nguồn sau gây ra: tán xạ và suy hao của sol khí, hấp thụ của ô zôn, nhiệt độ tham khảo, và nhiễu photon. Khác với lidar Rayleigh, lidar kết hợp đàn hồi-Raman không sử dụng tỉ số lidar như là một thông số đầu vào để xác định hệ số tán xạ ngược của sol khí nên không gặp phải sai số hệ thống do giá trị này gây ra trong giá trị Raer(z). Tỉ số lidar cũng được đánh giá khi chúng ta xác định hệ số dập tắt của sol khí nên cũng giảm thiểu sai số 114 hệ thống của giá trị này trong việc đánh giá dập tắt của sol khí trong kết quả nhiệt độ. Nguồn sai số hấp thụ ô zôn cũng được đánh giá như đã trình bày ở hai mục lidar nhiệt độ ở trên. Nguồn sai số nhiệt độ tham khảo được xác định từ sai số của phép đo thám không vô tuyến là 1% ở độ cao cực đại. Độ ồn photon đóng góp cho kết quả nhiệt độ đã được nêu trong biểu thức (3.7). Hình 3.32. Sai số nhiệt độ của lidar kết hợp đàn hồi-Raman (a) và sai số nhiệt độ tính theo % (b). Kết quả các nguồn sai số nhiệt độ lidar kết hợp đàn hồi-Raman được trình bày ở Hình 3.32a. Kết quả cho thấy sai số nhiệt độ do sol khí gây ra rất mạnh ở dưới 4 km. Mật độ tăng và sự phức tạp của sol khí ở vùng khí quyển này đã được chỉ ra bởi aer(z) đã khảo sát trước đó. Sai số nhiệt độ do sol khí đã giảm các giá trị Raer(z) và T2 mạnh ở vùng sol khí tự do và chỉ tăng đôi chút tại lớp mây Ti tầng cao. Sai số nhiệt độ tổng cộng đạt giá trị cực đại gần 11 K ở gần 2 km và giảm nhanh sau 4 km. Ở độ cao cực đại sai số nhiệt độ tổng cộng là nhỏ hơn 4.5 K. Tương ứng sai nhiệt độ theo 115 % cũng được cho thấy ở Hình 3.32b. Sai số nhiệt độ là nhỏ hơn 4.2% và giảm nhanh sau đó. Ở độ cao cực đại sai nhiệt độ là nhỏ hơn 2.5%. Trong vùng sol khí tự do từ khoảng 4 km tới 14 km sai số nhiệt độ là nhỏ hơn 1%. 3.4.2 Thảo luận Lidar đàn kết hợp hồi-Raman cho phép xác định phân bố nhiệt độ và phân bố mật độ khí quyển từ vùng thấp tầng đối lưu tới vùng thấp tầng bình lưu khí quyển. Kết quả nhiệt độ có thể được xác định ngay cả trong vùng có mật độ sol khí đa dạng và phức tạp cũng như trong lớp mây mỏng. Để hiệu chỉnh tán xạ và suy hao của sol khí chúng ta sử dụng đồng thời hai tín hiệu lidar đàn hồi và Raman để xác định tỉ số tán xạ Raer và hệ số truyền qua Taer của sol khí nhằm rút ra được tín hiệu lidar hiệu dụng chỉ chứa tán xạ đàn hồi của phân tử. Việc sử dụng đồng thời cả hai tín hiệu lidar này đã giúp chúng ta có thể tránh được việc sử dụng tỉ số lidar tham khảo như một giá trị đầu vào cho việc tính hệ số tán xạ ngược sol khí. Thông thường yếu tố này làm giảm đi độ tin cậy của phân bố nhiệt độ xác định từ lidar Rayleigh. Việc sử dụng đồng thời cả hai tín hiệu lidar đàn hồi và lidar Raman cũng tránh được việc tính đạo hàm số trong việc xác định hệ số suy hao của sol khí. Đây được biết là yếu tố làm giảm đi độ tín cậy rất lớn đối với lidar Raman do tỉ số tín hiệu /nhiễu yếu của lidar Raman. Kết quả của phân bố nhiệt độ cho thấy sự phù hợp với phép đo thám không vô tuyến tốt hơn so ở vùng khí quyển mà mật độ sol khí thấp. Sự song trùng tốt giữa hai phân bố nhiệt độ cho phép tăng độ tin cậy và chính xác trong nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ ở vùng cao tầng đối lưu. Phân bố nhiệt độ đã chỉ ra sự tin cậy và chính xác ngay cả trong lớp mây đã mở ra khả năng nghiên cứu đồng thời cấu trúc nhiệt độ và tính chất của lớp mây Ti tầng cao bằng một phép đo lidar duy nhất. Sai số nhiệt độ cũng đã chỉ ra ảnh hưởng của sol khí chiếm ưu thế đối với phép đo trong vùng thấp (khoảng từ 5 km trở xuống). 3.5 Kết luận chương 3 Phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ khí quyển có thể được rút ra từ tín hiệu lidar Rayleigh, lidar Raman, hoặc kết hợp cả hai tín hiệu lidar đàn hồi-Raman sau 116 một quá trình xử lí số. Tín hiệu lidar đo được sau khi được hiệu chỉnh bởi các yếu tố sol khí, ô zôn sẽ thu được tín hiệu lidar hiệu dụng chỉ chứa tán xạ ngược của phân tử. Tín hiệu lidar hiệu dụng này được sử dụng để xác định mật độ và sử dụng mật độ chúng ta xác định được phân bố nhiệt độ khí quyển. Kết quả nhiệt độ từ phép đo lidar bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố chính là việc xử lí tín hiệu lidar và dữ liệu tham khảo làm yếu tố đầu vào cho quá trình tính toán. Trong việc xử lí tín hiệu lidar để tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu (SNR) chúng ta thường hy sinh độ phân giải thời gian cũng như không gian bằng việc lấy trung bình không gian và thời gian từ tín hiệu lidar thô. Việc lấy trung bình tín hiệu như vậy thường làm mất đi những thông tin về đặc trưng của khí quyển. Vì vậy việc dung hòa giữa độ cao cực đại và đối tượng đo cần được nghiên cứu kỹ lưỡng. Các phép đo nhiệt độ của luận án này có độ phân giải thời gian nhỏ hơn 1h. Thậm chí lidar đàn hồi- Raman độ phân giải thời gian chỉ còn 20 phút. Độ phân giải không gian thường được đặt lúc ban đầu là 1.2 m. Một yếu tố cũng ảnh hưởng tới kết quả trong việc xử lí là việc làm trơn (smoothing) tín hiệu lidar khi chúng ta muốn giảm đi độ thăng giáng thống kê do sự suy giảm nhanh của tín hiệu lidar theo độ cao. Đối với lidar Rayleigh đo tầng bình lưu việc làm trơn ảnh hưởng không mạnh tới kết quả do mật độ sol khí rất thấp và tầng khí quyển này tương đối ổn định. Nhưng đối với lidar Raman và lidar đàn hồi- Raman kết hợp nghiên cứu tầng đối lưu thì việc làm trơn có thể gây ra những kết quả sai lệch nghiêm trọng. Đối với lidar Raman chúng ta có thể làm mất đi sự tồn tại của các lớp mây mỏng, còn đối với lidar đàn hồi-Raman chúng ta có thể mở rộng các lớp mây này hoặc làm giảm cường độ tán xạ của sol khí. Trong luận án này việc làm trơn được chia thành từng khoảng để làm giảm ảnh hưởng của nó, đối với lidar Raman có 9 khoảng không gian được làm trơn, đối với lidar kết hợp đàn hồi-Raman là 5 khoảng. Lidar cũng như mọi kỹ thuật quan trắc từ xa khác, việc sử dụng các dữ liệu tham khảo để rút ra các thông số là điều không thể tránh khỏi. Dữ liệu mật độ phân tử và nhiệt độ từ mô hình MSISE-90 và thám không vô tuyến cùng ngày cùng địa điểm đã được sử dụng. Tuy các dữ liệu thám không vô tuyến là cùng ngày nhưng 117 không đồng thời với thời gian đo lidar làm giảm đi khả năng đánh giá độ tin cậy của kết quả lidar. Để giảm thiểu và loại bỏ ảnh hưởng của các dữ liệu tham khảo này, trong luận án đã áp dụng phương pháp lặp bằng việc xác định các dữ liệu này bằng tín hiệu lidar rồi sử dụng lại. Riêng đối với giá trị nhiệt độ tham khảo ở độ cao cực đại vẫn là nguồn sai số hệ thống chủ yếu và đã được khảo sát tỉ mỉ trong luận án. Kết quả đã chỉ ra lidar Rayleigh có thể bao phủ từ vùng thấp tầng bình lưu (stratosphere) đến vùng thấp tầng trung bình (mesosphere) (độ cao từ 20 km tới 59 km). Phân bố chứa vùng bình lưu hạn (stratopause) đã mở ra khả năng nghiên cứu cấu trúc cũng như đặc trưng mật độ và nhiệt độ của vùng khí quyển này. Đồng thời cũng mở ra khả năng nghiên cứu mối quan hệ giữa mật độ phân tử ô zôn và nhiệt độ cũng như các vấn đề quan trọng khác như: sóng hành tinh (planetary wave), sóng trọng lực (gravity wave), thủy triều khí quyển (tide)…vốn là những đối tượng được xác định dựa trên cấu trúc mật độ và nhiệt độ. Kết quả của lidar Raman và lidar kết hợp đàn hồi-Raman đã bao phủ từ trên lớp biên mặt đất (plenary boundary layer) tới vùng thấp tầng bình lưu. Từ 3 km đối với lidar Raman và 2 km đối với lidar đàn hồi-Raman kết hợp tới 19 km. Kết quả phân bố nhiệt độ chứa vùng đối lưu hạn (tropopause). Kết quả này đã mở ra khả năng nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ của vùng khí quyển này. Đồng thời kết quả cũng mở ra khả năng nghiên cứu mối quan hệ giữa lớp tropopause này với lớp mây Ti tầng cao do cả hai kết quả được đo một cách đồng thời bởi lidar . Đối với lidar Raman do tán xạ Raman không chứa tán xạ sol khí nên sai số nhiệt độ do sol khí gây ra là nhỏ hơn đối với lidar kết hợp đàn hồi-Raman. Tuy nhiên lidar Raman phải giả thuyết mật độ phân tử Ni tơ có tỉ lệ cố định nên đây là sai số hệ thống mà lidar đàn hồi-Raman không có. Lidar Raman khó nhận biết được sự tồn tại của các lớp mây mỏng, đặc biệt là lớp mây Ti mỏng tầng cao như lidar đàn hồi-Raman kết hợp, việc này có thể dẫn đến sự sai lệch nghiêm trọng trong kết quả nhiệt độ do thuật giải tích phân giật lùi nhiệt độ gây ra. Để giảm thiểu sai số nhiệt độ lidar chúng ta cần nâng cao chất lượng của phép 118 đo mà cụ thể là nâng cao tỉ số tín hiệu /nhiễu. Điều này đòi hỏi cần nghiên cứu không ngừng để nâng cấp hệ lidar tập trung vào việc nâng cao tích số công suất-tiết diện, hệ phân tích quang học cũng như ghi nhận và lưu trữ tín hiệu. Việc tăng tỉ số tín hiệu /nhiễu từ phép đo sẽ làm tăng độ phân giải không gian và thời gian, giúp chúng ta có thông tin xác thực hơn về tình trạng khí quyển. Việc phân tích dữ liệu lidar cũng cung cấp một giá trị trung bình về các thông số mô tả sol khí, mật độ và nhiệt độ tại nơi khảo sát, các giá trị trung bình này có thể được sử dụng làm giá trị tham khảo trong 119 các phân tích dữ liệu lidar sau này. Chương 4 Các kết quả lidar thực hiện tại Hà nội ((2102’0”N, 105051’00”E, độ cao 20 m ở trên bề mặt nước biển) đã cung cấp một số dữ liệu nhiệt độ trong 3 năm 2011, 2012, 2013. Dữ liệu phân bố mật độ và phân bố nhiệt độ cho phép nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng khí quyển tại Hà nội. Chương này trình bày các kết quả nghiên cứu đặc trưng mật độ và nhiệt độ tại Hà nội từ dữ liệu lidar. Từ các phân bố nhiệt độ và mật độ chúng ta có thể chỉ ra cấu trúc và đặc trưng khí quyển tại Hà Nội. Vùng đối lưu hạn (tropopause) từ dữ liệu lidar đàn hồi-Raman kết hợp và lidar Raman được nghiên cứu và thảo luận chi tiết. Từ dữ liệu lidar Rayleigh vùng bình lưu hạn (stratopause) được chỉ ra và được thảo luận. Mối quan hệ giữa lớp mây Ti tầng cao và vùng đối lưu hạn cũng được nghiên cứu và thảo luận. Cuối cùng từ dữ liệu lidar đo được, một số gợi ý về nghiên cứu các đối tượng mới cũng sẽ được trình bày và thảo luận. 4.1 Mở đầu Dựa trên sự biến đổi của nhiệt độ chúng ta có thể chỉ ra cấu trúc của khí quyển với các tầng khác nhau. Nhiệt độ của tầng đối lưu suy giảm theo độ cao do mật độ phân tử suy giảm, nhưng nhiệt độ tăng sau lớp đối lưu hạn do có sự thay đổi nồng độ ô zôn trong khí quyển. Trong tầng bình lưu mật độ ô zôn tăng mạnh làm cho nhiệt độ tăng do hấp thụ ánh sáng mặt trời. Sau lớp bình lưu hạn nhiệt độ giảm dần do sự suy giảm mật độ ô zôn trong khí quyển. Vùng khí quyển cao nhất của tầng bình lưu là lớp bình lưu hạn phân chia tầng bình lưu và tầng trung lưu (mesosphere). Kết quả phân bố nhiệt độ từ lidar Raman và lidar đàn hồi-Raman kết hợp có thể bao phủ từ trên lớp biên mặt đất tới vùng thấp tầng bình lưu (từ 2 km tới 19 km) chứa lớp đối lưu hạn cho phép chúng ta nghiên cứu cấu trúc của tầng đối lưu khí quyển. Chúng ta cũng có thể nghiên cứu đặc trưng của lớp đối lưu hạn dựa trên phân bố nhiệt độ thu được từ lidar. Do nhiệt độ lớp đối lưu hạn là thấp nhất nên nó đóng 120 vai trò như một cái bẫy hơi nước trong vùng khí quyển này, tạo nên những lớp mây Ti tầng cao là các tinh thể băng, vì vậy mối liên hệ giữa lớp mây Ti tầng cao và lớp đối lưu hạn có thể được nghiên cứu bởi các dữ liệu lidar. Kết quả phân bố nhiệt độ và mật độ phân tử từ lidar Rayleigh có thể bao phủ từ vùng thấp tầng bình lưu tới vùng thấp tầng trung lưu khí quyển nên chứa lớp bình lưu hạn (từ 20 km tới 59 km). Kết quả này cho phép chúng ta nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ tại tầng bình lưu. Cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ tại tầng bình lưu khí quyển có liên hệ mật thiết tới phân bố ô zôn, vì vậy kết quả này mở ra hướng nghiên cứu quan trọng trong nghiên cứu khí quyển tầng cao. 4.2 Nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ của tầng đối lưu 4.2.1. Cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ của tầng đối lưu Hình 4.1. Phân bố nhiệt độ và sai số nhiệt độ từ lidar kết hợp đàn hồi-Raman vào 20 121 giờ 10 phút ngày 2 tháng 12 năm 2011 tại Hà nội. Hình 4.1 trình bày phân bố nhiệt độ thu được từ phép đo lidar kết hợp đàn hồi- Raman tại Hà nội vào lúc 20 giờ 10 phút ngày 2 tháng 12 năm 2011. Phân bố nhiệt độ bắt đầu từ 2 km và kết thúc ở gần 19 km với khoảng không gian và khoảng thời gian lấy trung bình tương ứng là 105 m và 20 phút. Phân bố sai số nhiệt độ cũng được vẽ trong hình cho thấy ảnh hưởng của các yếu tố đến kết quả nhiệt độ thu được. Phân bố nhiệt độ của phép đo thám không cùng ngày cùng được vẽ trong hình để so sánh. Sự chênh lệch và các yếu tố dẫn đến sự khác nhau giữa chúng đã được thảo luận ở Chương 3. Từ phân bố nhiệt độ khí quyển đo được bởi lidar trong tầng đối lưu khí quyển chúng ta có thể chỉ ra vị trí cũng như giá trị nhiệt độ thấp nhất của lớp đối lưu hạn. Vị trí của tropopause từ phép đo lidar là 17,5 km với giá trị nhiệt độ là 186 ± 3 K so với các giá trị độ cao và nhiệt độ của thám không vô tuyến lần lượt là 17,1 km và nhiệt độ là 189 ± 1,2 K. Độ chênh lệch độ cao là 400 m giữa hai phép đo lidar và thám không và độ chênh lệch nhiệt độ khoảng 3 K giữa hai phép đo. Sự chênh lệch này là do thời điểm đo khác nhau giữa hai phép đo. Nhiệt độ của lớp đối lưu hạn từ phép đo lidar là thấp hơn và độ cao của lớp đối lưu hạn từ lidar là cao hơn do phép đo lidar thực hiện vào ban đêm. Lớp đối lưu hạn theo định nghĩa ở chương 1 của tổ chức khí tượng thế giới (WMO) có thể được xác định từ trăm mét tới hàng km. Giá trị của phép đo lidar đặt tại Hà nội so sánh với kết quả từ các phép đo lidar khác cũng khá tương đồng. Vị trí lớp đối lưu hạn đo được bởi lidar tại Chung-Li, Đài Loan (24,570N, 121,130E) thực hiện vào năm 2000 công bố độ cao trung bình là 18 km [102]. Sự khác nhau giữa Hà nội và Chung Li là do vị trí và thời gian đo khác nhau. Một vấn đề cũng quan trọng trong nghiên cứu khí quyển, khí tượng là giá trị nhiệt độ trung bình tại một thời điểm (ngày, tuần, tháng, mùa, năm) tại một vị trí. Các giá trị trung bình này không chỉ tạo ra khả năng dự báo mà còn là tham số đầu vào trong các kỹ thuật quan trắc khí quyển khác nhau ví dụ như lidar cũng như được tham khảo trong các mô hình dự báo khí tượng, khí hậu. Kết quả của 5 phân bố nhiệt độ 122 trong tháng 12 năm 2011 từ lidar kết hợp đàn hồi-Raman được cho thấy ở trên hình 4.2 với các ngày lần lượt là: 1/12, 2/12, 11/12, 12/12, 13/12. Các phân bố bao phủ từ 2 km tới gần 20 km trong tầng đối lưu đến vùng thấp tầng bình lưu. Độ chênh lệch cao nhất của các phân bố nhiệt độ trên so với nhiệt độ trung bình từ 5 phân bố là 9 K và độ chênh lệch thấp nhất so với giá trị trung bình tìm được là 4,7 K. Các giá trị trung bình trong tháng có thể được sử dụng như một giá trị tham khảo sau này. Hình 4.2. Một số phân bố nhiệt độ trong tháng 12 năm 2011 từ lidar kết hợp đàn hồi- Raman với các ngày được cho ở trên hình. Tại Hà nội có sự chênh lệch đáng kể giữa nhiệt độ mùa hè và mùa thu, sự chênh lệch nhiệt độ này có thể được thấy ở hình 4.3. Với 4 kết quả đo được thực hiện vào các ngày mùa hè như: 25 tháng 4, 16 tháng 5, vào mùa thu như: 31 tháng 10, và 12 tháng 11 năm 2012. Các kết quả phân bố nhiệt độ đều được tích phân trong khoảng 123 20 phút tương ứng với 1200 xung laser. Phân bố nhiệt độ bắt đầu từ khoảng 2 km và kết thúc ở gần 20 km, tức là trên vùng đối lưu hạn. Độ phân giải không gian đều là 105 m. Tất cả các phép đo đều được kết thúc với tỉ số tín hiệu /nhiễu lớn hơn 6. Kết quả nhiệt độ từ lidar cho thấy phần lớn nhiệt độ thấp hơn so với phép đo thám không, điều này đã được thảo luận ở trên là do các phép đo lidar đều thực hiện vào ban đêm. Kết quả cho thấy vào mùa thu vị trí của lớp đối lưu hạn có xu hướng ở cao hơn so với mùa hè tại Hà nội. Vị trí lớp đối lưu hạn các ngày 25/10, 16/05, 31/10, 12/11 tương 12/11/2012 ứng là 16,5 km, 16,4 km, 17,1 km, 17 km. Hình 4.3. Một số phân bố nhiệt độ vào mùa hè tại Hà nội năm 2012 như: 25 tháng 4 và 16 tháng 5, vào mùa thu như: 31 tháng 10 và 12 tháng 11. Lớp đối lưu hạn nhận được sự quan tâm đặc biệt trong nghiên cứu khí quyển và khí tượng. Lớp đối lưu hạn phân chia khí quyển thành hai tầng đối lưu và tầng 124 bình lưu, liên quan đến sự truyền năng lượng và xung lượng giữa tầng đối lưu vào tầng bình lưu, liên hệ tới mật độ hơi nước, ô zôn, và lớp mây Ti tầng cao…Vị trí của lớp đối lưu hạn thay đổi theo vĩ độ, mang tính địa phương và thời gian, bị chi phối bởi nhiều yếu tố. Do vị trí và nhiệt độ của lớp đối lưu hạn biến đổi theo thời gian và theo địa điểm nên chúng ta cần phải có phép đo liên tục mới có thể rút ra những thông tin khoa học về nó. Vị trí của lớp đối lưu hạn biến đổi theo mùa tiết lộ nhiều thông tin về thời tiết và khí hậu tại nơi khảo sát. Hình 4.4. Một số phân bố nhiệt độ của tháng 6 năm 2013 từ lidar Raman (a): ngày 125 8/6, (b): ngày 12 /6, (c): ngày 19 /6, (d): ngày 26 /6. Kết quả khảo sát một số ngày mùa hè và mùa thu năm 2012 ở Hà nội được cho thấy ở trên Hình 4.3 đã cho thấy sự biến đổi của lớp đối lưu hạn theo mùa. Tuy nhiên sự biến đổi của lớp đối lưu hạn rất phức tạp. Vị trí và nhiệt độ có thể biến thiên trong ngày do các hiện tượng thời tiết và khí hậu trong tầng đối lưu. Kết quả nhiệt độ đo được từ lidar Raman vào một số ngày trong tháng 6 năm 2013 cho thấy ở trên Hình 4.4 đã cho thấy sự biến đổi phức tạp của lớp đối lưu hạn trong cùng một tháng. Các ngày lần lượt là (a): 20 h 55 phút ngày 8, (b): 23 giờ 17 phút ngày 12, 21 giờ 13 phút ngày 19, 22 giờ 01 phút ngày 26. Các phân bố này đều bắt đầu ở khoảng 2 km và kết thúc ở độ cao gần 20 km với khoảng không gian lấy trung bình là 120m. Ở mỗi phân bố nhiệt độ lidar Raman vị trí tropopause được đánh dấu. Các vị trí tìm được lần lượt là (a): 17,2 km, (b): 18,1 km, (c): 17,1 km, (d): 16 km, tương ứng với nhiệt độ lần lượt là: (a): 186 ± 2,6 K, (b): 187,3 ± 3,1 K, (c): 188,5 ± 2,8 K, (d): 192,2 ± 2,3 K. Hình 4.5. Phân bố nhiệt độ và sai số từ lidar Raman vào ngày 26 tháng 6 năm 2013 126 tại Hà nội. Một ưu điểm của kỹ thuật lidar là cung cấp các phép đo phân bố có độ phân giải thời gian và độ phân giải không gian cao. Độ phân giải không gian cao cho phép chúng ta nghiên cứu tính chất vi mô của các đối tượng trong khí quyển. Kết quả khảo sát phân bố nhiệt độ trong tầng đối lưu tại Hà nội bởi lidar kết hợp đàn hồi-Raman và lidar Raman ở Hình 4.1 và Hình 4.5 đã chỉ ra có thể tồn tại hai đỉnh trong vùng đối lưu hạn (double tropopause). Sự tồn tại hai đỉnh trong vùng đối lưu hạn cũng đã được chỉ ra ở phép đo lidar tại Chung Li, Đài Loan năm 2000 [102]. 4.2.2. Mối liên hệ giữa lớp đối lưu hạn và mây Ti tầng cao Hình 4.6. Phân bố nhiệt độ và phân bố cường độ tín hiệu hiệu chỉnh khoảng cách (thang ln) cho thấy mối liên hệ giữa lớp đối lưu hạn và lớp mây Ti tầng cao. Một trong những khả năng của kỹ thuật lidar là nó cho phép đo đạc nhiều đối tượng một cách đồng thời mà kỹ thuật thám không vô tuyến không thực hiện được. 127 Một trong khả năng đó là nghiên cứu mối liên hệ giữa lớp đối lưu hạn với lớp mây Ti tầng cao bằng kỹ thuật lidar kết hợp đàn hồi-Raman. Với sự phân bố cường độ tín hiệu lidar đàn hồi hiệu chỉnh theo khoảng cách chúng ta có thể chỉ ra sự tồn tại của lớp mây Ti này do cường độ tăng đột ngột của chúng. Trong khi đó với phân bố nhiệt độ chúng ta có thể chỉ ra sự tồn tại của lớp đối lưu hạn. Kết quả khảo sát bởi lidar kết hợp đàn hồi-Raman ở Hình 4.6 cho thấy tồn tại một lớp mây Ti mỏng sau 20 phút lấy trung bình tín hiệu lidar đàn hồi. Vị trí lớp mây Ti này vào khoảng 14,5 km tới 15,5 km (độ dày khoảng 1 km) đã phản xạ mạnh tín hiệu laser. Tương ứng tồn tại một đỉnh của lớp đối lưu hạn tại khoảng độ cao khí quyển này. Lớp đối lưu hạn này như một cái bẫy hơi nước làm xuất hiện một lớp mây Ti tầng cao gồm các tinh thể băng. Kết quả khảo sát phân bố nhiệt độ bằng lidar kết hợp đàn hồi- và lidar Raman trong tầng đối lưu đã chỉ ra kỹ thuật lidar có thể cung cấp các phân bố nhiệt độ với độ phân giải không gian và độ phân giải thời gian cao với độ tin cậy cao. Kỹ thuật lidar có thể nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng của tầng đối lưu dựa trên các phân bố nhiệt độ thu được. Từ các phân bố nhiệt độ này chúng ta có thể chỉ ra sự tồn tại của lớp đối lưu hạn với độ phân giải không gian cao. Lidar kết hợp đàn hồi-Raman có thể nghiên cứu đồng thời phân bố nhiệt độ và lớp mây Ti tầng cao đã cung cấp khả năng nghiên cứu mối quan hệ giữa hai đối tượng này. Phân bố nhiệt độ trong tuần tháng, mùa năm cho phép chúng ta có thể rút ra những thông tin khoa học quan trọng và các tham số đầu vào trong việc xây dựng các mô hình thời tiết, khí hậu. 4.3 Nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ tầng bình lưu Kết quả xác định phân bố nhiệt độ từ phân bố mật độ phân tử trong tầng bình lưu từ lidar Rayleigh cho thấy ở trên Hình 4.7, phân bố sai số tổng cộng của lidar Rayleigh cũng được vẽ trên hình. Phân bố nhiệt độ từ mô hình MSISE-90 cùng ngày tại Hà nội cũng được vẽ cùng để so sánh. Phân bố sai số ở dưới 29 km là do sự tồn tại của lớp sol khí tầng cao, trong khi đó sai số nhiệt độ ở phần trên của phân bố là do nhiệt độ tham khảo và nhiễu tín hiệu photon. Phân bố nhiệt độ bắt đầu ở 20 km và 128 kết thúc ở 59 km với thời gian lấy trung bình tín hiệu là 1 giờ và khoảng không gian lấy trung bình là 120 m. Phân bố nhiệt độ thu được từ lidar Rayleigh đã bao phủ hoàn toàn tầng bình lưu và đạt tới vùng thấp tầng trung lưu chứa lớp bình lưu hạn. Hình 4.7. Phân bố nhiệt độ và sai số từ lidar Rayleigh tại Hà nội ngày 26/6/2013. Kết quả của một số phép đo nhiệt độ tại Hà nội vào một số ngày trong tháng 6 năm 2013 được cho thấy ở trên Hình 4.8. Các kết quả đo lần lượt là: (a): 20 h 55 phút ngày 8, (b): 23 giờ 17 phút ngày 12, 21 giờ 13 phút ngày 19, 22 giờ 01 phút ngày 26. Các phân bố này cũng có cùng các thông số mô tả giống như đối với phân bố nhiệt độ ở Hình 4.7 nhưng sai số nhiệt độ không được vẽ cùng. Phân bố nhiệt độ của mô hình MSISE-90 cùng ngày cũng được vẽ cùng để so sánh. Các phân bố nhiệt độ từ lidar chỉ ra cấu trúc tầng bình lưu và tiết lộ đặc trưng của lớp bình lưu hạn (stratopause). Vị trí và nhiệt độ của lớp bình lưu hạn được chỉ ra cho chúng ta thấy cấu trúc giữa hai tầng khí quyển là tầng bình lưu và tầng trunglưu. 129 Ví trí của lớp bình lưu hạn được đánh dấu (*) mầu xanh dương trên phân bố nhiệt độ. Kết quả vị trí của stratopause được tìm thấy lần lượt là (a): 45,7 km, (b): 47,7 km, (c): 50 km, (d): 47,3 km, với nhiệt độ tương ứng lần lượt là (a): 268,6 ± 3.0 K, (b): 267,4 ± 2,6 K, (c): 266,1 ± 2,1 K, (d): 265,1 ± 2.0 K. Kết quả cho thấy vị trí của stratopause dao động trong khoảng 4 km với các phân bố nhiệt độ khác nhau trong tháng 6 năm 2013. Điều này cho thấy lớp bình lưu hạn có thể dao động trong một khoảng rất rộng, so sánh với mô hình chúng ta cũng thấy được điều này. Hình 4.8. Một số phân bố nhiệt độ tháng 6/2013 từ lidar Rayleigh (a): 20 h 55 phút 130 ngày 8, (b): 23 giờ 17 phút ngày 12, 21 giờ 13 phút ngày 19, 22 giờ 01 phút ngày 26. 4.4 Kết luận chương 4 Cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ của khí quyển có thể được chỉ ra bởi phân bố nhiệt độ đo được từ lidar. Trong đó sự phân tầng giữa tầng đối lưu và tầng bình lưu tại Hà nội có thể được chỉ ra bởi phân bố nhiệt độ đo được từ lidar đàn hồi-Raman kết hợp và lidar Raman thông qua vị trí của lớp đối lưu hạn. Sự phân tầng của tầng bình lưu và tầng trung lưu tại Hà nội có thể được chỉ ra bởi phân bố nhiệt độ đo được từ lidar Rayleigh thông qua vị trí của lớp bình lưu hạn. Kết quả phân bố nhiệt độ đã chỉ ra vị trí của lớp đối lưu hạn tại Hà nội dao động thấp nhất là 16,4 km tới độ cao cực đại là 17,1 km thông qua một số kết quả trong năm 2012 và từ 16 km tới 18,1 km trong năm 2013, với nhiệt độ thấp nhất tìm được là 186 K và nhiệt độ cao nhất là 192,2 K. Kết quả lidar cũng chỉ ra khả năng tồn tại của hai đỉnh của lớp đối lưu hạn dựa trên khả năng phân giải cao. Kết quả của lidar kết hợp đàn hồi-Raman cũng chỉ ra mối liên hệ giữa lớp đối lưu hạn với lớp mây Ti tầng cao với kết quả một lớp mây Ti đo được tồn tại ở 14,5 km tới 15,5 km. Phân bố nhiệt độ trung bình trong tháng tại Hà nội có thể tìm được thông qua 5 ngày đo khác nhau trong năm 2011. Kết quả cho thấy độ chênh lệch cực đại cho thấy các phân bố so với giá trị trung bình là 9 K. Kết quả từ lidar Rayleigh đã chỉ ra sự tồn tại của lớp bình lưu hạn dao động trong khoảng 4 km từ độ cao 45,7 km tới 50 km thông qua các phép đo trong tháng 6 năm 2013. Nhiệt độ lớp bình lưu hạn được xác định dao động thấp nhất từ 261,1 K tới 268,6 K trong tháng 6 năm 2013. Kết quả từ phân bố mật độ và nhiệt độ từ phép đo lidar đã mở ra nhiều nghiên cứu tiếp theo như mối liên hệ giữa đặc trưng nhiệt độ và phân bố mật độ ô zôn, sóng trọng lực, sóng hành tinh , thủy triều khí quyển trong tầng bình lưu. Mối liên hệ giữa 131 mây Ti tầng cao với đối lưu hạn trong tầng đối lưu. Luận án tiến sỹ Vật lý với tiêu đề “Nghiên cứu và phát triển kỹ thuật LIDAR ứng dụng khảo sát phân bố nhiệt độ và mật độ khí quyển” đã đạt được những kết quả khoa học sau: Thiết kế và xây dựng thành công hai hệ lidar bao gồm: hệ lidar kết hợp đàn hồi-Raman và hệ lidar Rayleigh-Raman, ứng dụng tán xạ đàn hồi, tán xạ Raman hoặc kết hợp cả hai để khảo sát phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ khí quyển. Cả hai hệ lidar sử dụng nguồn laser công suất cao ở bước sóng 532 nm và kính thiên văn có đường kính 25 cm, với tín hiệu tán xạ ngược được ghi nhận ở chế độ đếm photon và dữ liệu được lưu trữ trên máy vi tính. Phân bố nhiệt độ đo được bởi lidar Raman hoặc lidar kết hợp đàn hồi-Raman bắt đầu từ vùng thấp tầng đối lưu đến vùng thấp tầng bình lưu (từ 2 km đến gần 20 km) chứa lớp đối lưu hạn. Phân bố nhiệt độ đo được bởi lidar Rayleigh bắt đầu từ vùng thấp tầng bình lưu đến vùng thấp tầng trung lưu (từ 20 km đến 59 km) chứa lớp bình lưu hạn. Thiết kế và xây dựng thành công module gated-PMT sử dụng đầu ống nhân quang điện loại R7400U thương mại cho phép loại bỏ tín hiệu mạnh ở trường gần đồng thời ghi nhận tín hiệu yếu ở trường xa trong chế độ đếm photon với khoảng cách loại bỏ có thể điều chỉnh được. Module có thiết kế compact, dễ dàng tích hợp với các hệ lidar hay các hệ ghi nhận tín hiệu quang học yếu. Phân bố mật độ phân tử và phân bố nhiệt độ khí quyển xác định từ tín hiệu lidar đàn hồi, tín hiệu lidar Raman, kết hợp cả hai đàn hồi-Raman được xác định thông qua các chương trình xử lí số trong môi trường Matlab. Các thuật giải xử lí tín hiệu lidar để xác định nhiệt độ được tối ưu hóa thông qua việc hiệu chỉnh sol khí, ô zôn, hấp thụ phân tử. Ảnh hưởng của các giá trị tham khảo tới kết quả được giảm thiểu bằng sử dụng phương pháp lặp. Xác định được cấu trúc tầng đối lưu khí quyển tại Hà nội từ dữ liệu phân bố 132 nhiệt độ đo được của lidar Raman và lidar kết hợp đàn hồi-Raman. Đặc trưng nhiệt độ của tầng đối lưu được khảo sát thông qua các giá trị như nhiệt độ trung bình, sự biến đổi nhiệt độ của lớp đối lưu hạn. Xác định được sự tồn tại hai đỉnh của lớp đối lưu hạn dựa trên khả năng phân giải không gian cao của kỹ thuật lidar. Vị trí theo tháng, theo mùa của lớp đối lưu hạn tại Hà nội cũng được khảo sát từ dữ liệu phân bố nhiệt độ thu được của lidar. Xác định được đồng thời vị trí lớp đối lưu hạn và vị trí cũng như độ dày của lớp mây Ti tầng cao từ lidar đàn hồi-Raman kết hợp. Lớp mây Ti tầng cao tồn tại từ độ cao 14,5 km tới 15,5 km. Đây là kết quả mà phép đo thám không vô tuyến không thể thực hiện được. Kết quả này cho phép nghiên cứu mối liên hệ giữa lớp đối lưu hạn và lớp mây Ti tầng cao. Xác định được cấu trúc khí quyển với sự phân tầng khí quyển của tầng bình lưu với tầng trung lưu thông qua dữ liệu lidar Rayleigh đo được tại Hà nội. Vị trí và đặc trưng nhiệt độ của lớp bình lưu hạn được khảo sát từ dữ liệu lidar Rayleigh đo được đã cho thấy lớp bình lưu hạn tồn tại từ độ cao 45,7 km tới 50 km. Với các kết quả nghiên cứu và xây dựng các hệ lidar khảo sát phân bố mật độ và nhiệt độ khí quyển của luận án, chúng ta có thể tiến hành xây dựng các trạm lidar quan trắc khí quyển liên tục tại nhiều địa điểm khác nhau trên cả nước. Dữ liệu lidar quan trắc được có thể phục vụ cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng khác như: 133 Vật lý khí quyển, khí tượng, dự báo khí hậu và kiểm soát môi trường… 1. Nguyen Xuan Tuan, Dinh Van Trung, Nguyen Thanh Binh and Bui Van Hai (2010), “Designing and studying characteristics of the sodium lidar”, Proceedings’s Advance Optics, Photonics, Spectroscopy and Applications VI, Publish House for Science and Technology, pp. 361-364, ISSN: 1859-4271. 2. Bui Van Hai, Nguyen Xuan Tuan, Dao Duy Thang, Dinh Van Trung and Nguyen Thanh Binh (2012), “Monitoring the boundary layer over Hanoi using a compact lidar system”, Proceedings’s The Second Academic Conference On Natural Science For Master And Phd Students From Cambodia, Laos, Malaysia & Vietnam, pp 389-392, ISBN: 978-604-913-088-5. 3. Nguyen Xuan Tuan, Dinh Van Trung, Dao Duy Thang, Bui Van Hai (2012), “Gated – photomultiplier tube for uses in lidar to study the upper atmosphere”, Proceedings’s The Second Academic Conference On Natural Science For Master And Phd Students From Cambodia, Laos, Malaysia & Vietnam, Publish House for Science and Technology, pp. 393-396, ISSN: 978-604-913-088-5. 4. Bui Van Hai, Nguyen Xuan Tuan, Nguyen Dinh Hoang, Dinh Van Trung (2013), “Monitoring the boundary layser over Hanoi using a compact lidar system with a high power diode laser at 905 nm”, Proceedings’s Advances in Applied and Engingeering Physcics, pp. 521-527, ISBN: 978-604-913-232-2. 5. Bui Van Hai, Dinh Van Trung, Nguyen Xuan Tuan, Nguyen Dinh Hoang, Dam Trung Thong and Nguyen Thanh Binh (2013), “Determination of atmospheric aerosol extintion profiles with a raman lidar system over Hanoi”, Proceeding’s Advances in optics Photonics Spectroscopy & Applications VII, Publish House for Science and Technology, pp. 518-522, ISSN 1859-4271. 6. Nguyen Xuan Tuan, Dinh Van Trung, Bui Van Hai, Dam Trung Thong (2013), “Development of a rayleigh lidar systemn for studying characteristics of 134 tratosphere above hanoi”, Proceeding’s Advances in optics Photonics Spectroscopy & Applications VII, Publish House for Science and Technology, pp. 489-492, ISSN 1859-4271. 7. Nguyen Xuan Tuan, Dinh Van Trung, Nguyen Thanh Binh, and Bui Van Hai (2013), “Development of a Raman lidar system for measuring atmospheric temperature profile in Hanoi”, Proceedings’s Advances in Applied and Engingeering Physcics, pp. 180-185, ISBN: 978-604-913-232-2. 8. Bui Van Hai, Dinh Van Trung, Nguyen Xuan Tuan, Dao Duy Thang and Nguyen Thanh Binh (2012), “Monitoring cirrus clouds and tropopause height over hanoi using a compact lidar system”, Communication in Physics, Vol. 22, No. 4, pp. 357-364. 9. Nguyen Xuan Tuan, Dinh Van Trung, Nguyen Thanh Binh, and Bui Van Hai (2014), “Measurement of the upper troposphereic density and temperature profiles in Hanoi using a Raman Lidar”, Communications in Physics, Vol. 24, No. 3S2, pp. 52-62, DOI:10.15625/0868-3166/24/3S2/0. 10. Nguyen Xuan Tuan, Dinh Van Trung, Nguyen Thanh Binh, and Bui Van Hai (2014), “Measurements of the Stratospheric Density and Temperature Profiles in Hanoi by a Rayleigh Lidar”, Communications in Physics, Vol. 24, No. 3, pp. 247- 256, DOI:10.15625/0868-3166/24/3/3690. 11. Tuan Nguyen Xuan, Hai Bui Van, Trung Dinh Van (2014), “Normally off-gated photomultiplier tube module in photon-counting mode for use in lidght detection and ranging measurements”, Applied Remote Sensing, Vol 8, pp. 083536-1- 135 083536-8, DOI:10.1117/1.JRS.8 .083536. 1. A. Ansmann, M. Riebesell, U. Wandinger, C. Weitkamp, W. Lahmann, and W. Michaelis (1992), “Combined Raman elasticbackscatter LIDAR for vertical profiling of moisture, aerosol extinction, backscatter, and LIDAR ratio” Applied Physics B 55, pp. 18 –28. 2. A. Ansmann, U. Wandinger, M. Riebesell, C. Weitkamp, and W. Michaelis (1992), “Independent measurement of exctintion and backscatter profiles in cirrus cloud by using a combined Raman elastic-backscatter lidar”, Applied Optics 31 (33), pp. 7113-7131. 3. A. C. Povey, R. G. Grainger, D. M. Peters, and J. L. Agnew (2014), “Retrieval of aerosol backscatter, extinction, and lidar ratio from Raman lidar with optimal estimation,” Atmos. Meas. Tech. 7, pp. 757–776. 4. A. Comeron, F. Rocadenbosh, M. A. Lopez, A. Rodinguez, C. Munoz, D. Garcia-Vizcaino, and M. Sicard (2004), “Effects of noise on lidar data inversion with the backward algorithm”, Apllied Optics 43, pp. 2572-2577. 5. A. D. Egorov, I. A. Potapova, and Yu. B. Rzhonsnitskaya (2007), “The treatment of low-power lidar signals”, Journal of Optical Technology 74 (10), pp. 665-668. 6. A. E. Hedin (1991), “Extension of the MSIS thermospheric model into the middle and lower atmosphere,” J. Geophys. Res. 96 (A2), pp. 1159–1172. 7. A. J. Gibson, L. Thomas & S. K. Bhattachacharyya (1979), “Laser observations of the ground-state hyperfine structure of sodium and of temperatures in the upper atmosphere”, Nature 281, pp. 131 – 132. 8. Adam, M. (2012), “Notes on Rayleigh scattering in lidar signals”. Applied. Optics 51 (12), pp. 2135-2149. 9. Alain Hauchenorne, Marie Lise Chanin (1980), “Density and temperature profiles obtained by lidar between 35 and 70 km”, Geophysical Research 136 Letter 7 (8), pp. 565-568. 10. Albert Ansmann, Maren Riebesell, and Claus Weikamp (1990), “Measurement of atmospheric aerosol exctintion profiles with a Raman lidar”, Optics Letters 15 (13), pp. 746-748. 11. Ansmann, A., et al. (1997), "Evolution of the Pinatubo aerosol: Raman lidar observations of particle optical depth, effective radius, mass, and surface area over Central Europe at 53.4 N." Journal of the atmospheric sciences 54 (22), pp. 2630-2641. 12. Antuna, Juan Carlos, et al. (2002) "Lidar validation of SAGE II aerosol measurements after the 1991 Mount Pinatubo eruption." Journal of Geophysical Research: Atmospheres (1984–2012) 107 (D14), pp. ACL-3. 13. Argall, P. S. (2007), “Upper altitude limit for Rayleigh lidar”, Ann. Geophys., 25 (1), pp. 19-25. 14. B. Heese, H. Flentje, D. Althausen, A. Ansmann, and S. Frey (2010), “Ceilometer lidar comparison: backscatter coefficient retrieval and signal-to- noise ratio determination”, Atmos. Meas. Tech. 3, pp. 1763–1770. 15. Böckmann, Christine, et al. (2004), "Aerosol lidar intercomparison in the framework of the EARLINET project. 2. Aerosol backscatter algorithms." Applied Optics 43 (4), pp. 977-989. 16. Bourassa, A. E., Robock, A., Randel, W. J., Deshler, T., Rieger, L. A., Lloyd, N. D., Llewellyn, E. J., and Degenstein, D. (2012), “A. Large volcanic aerosol load in the stratosphere linked to Asian Monsoon transport”. Science 337 (6090), pp. 78-81. 17. Bui Van Hai, Dinh Van Trung, Nguyen Xuan Tuan, Dao Duy Thang, and Nguyen Thanh Binh (2012), “Monitoring cirrus clouds and tropopause height over Hanoi using a compact lidar system”, Communication in Physics 22 (4), pp. 357-364 18. C. Weitkamp (2005), Lidar - Range-resolved optical remote sensing of the atmosphere, Springer, New York. 137 19. Catalog of picoscope 5000 series, Picotech, United Kingdom. 20. Catalog of PMT H6780-20, Hamamatsu, Japan. 21. Chandra, H., et al. (2005), "A Rayleigh lidar study of the atmospheric temperature structure over Mt. Abu, India." J. Ind. Geophys. Union 9 (4), pp: 279-298. 22. Chih-Wei Chiang, Subrata Kumar Das, Jan-Bai Nee, Shun-xing Hu, Huan- ling Hu, (2009), “Simultaneous measurement of humidity and temperature in the lower troposphere over Chung-L, Taiwan”, Journal of Atmospheric and Solar-Terrestrial Physics 71, pp. 1389–1396. 23. Cooney, J. A, (1972), “Measurements of atmospheric temperature profile by Raman backscatter”, Journal Applied Meteorology 11, pp. 108-112. 24. Cynthia K. Williamson and Russell De Young (2000), “Method for the reduction of signal –induced noise in photomultiplier tubes”, Applied Optics. 39 (12), pp. 1973-1979. 25. D. Muller, U. Wandinger, and A. Ansmann (1999), “Microphysiccal particle parameters from extinction and backscatter lidar data by inversion with regulation: simulation”, Apllied Optics 38, pp. 2358-2368. 26. D. P. Donovan, J. A. Whiteway, and A. I. Carswell (1993), “Correction for nolinear photon-counting effects in lidar systems”, Applied Optics 32 (33), pp. 6742-6753. 27. D'Altorio, Alfonso, et al. (1992), "Simultaneous stratospheric aerosol and ô zôn lidar measurements after the Pinatubo volcanic eruption." Geophysical research letters 19 (4), pp. 393-396. 28. David J. Benard and Ellen Boehmer (1994), “Control Circuit for Arbitrary Gating of Side – on Photomultiplier”, Applied Spectroscopy 48 (10), pp. 1293- 1295. 29. David N. Whiteman (1999), “Application of statistical methods to the 138 determination of slope in lidar data”, Applied Optics 38 (15), pp. 3360-3369. 30. David W. Roberts and Gary G. Gimmestad (2002), "Optimizing lidar dynamic range by engineering the crossover region", Proc. SPIE 4723, Laser Radar Technology and Applications VII, 120; doi:10.1117/12.476403. 31. De Graaf, Martin, Apituley Arnoud, Donovan David P (2013), “Feasibility study of integral property retrieval for tropospheric aerosol from Raman lidar data using principal component analysis”, Applied Optics 52(10), pp. 2173- 2186. 32. Derek A. Long (2002), The Raman Effect A Unified Treatment of the Theory of Raman Scattering by Molecules, John Wiley & Sons. 33. F. Cairo, F. Congeduti, M. Poli, S. Centurioni, G. Di Donfrancesco (1996), “A survey of the signal induced nose in photomultiplier detection of wide dynamics luminous signals”, Review of Scientific Instruments 67 (9), pp. 3274-3280. 34. F. G. Fernald (1984), “Analysis of atmospheric lidar observations: some comments”, Applied Optic 23, pp. 652. 35. F. Mao, W. Gong, and C. Li (2013), “Anti-noise algorithm of lidar data retrieval by combining the ensemble Kalman filter and the Fernald method”, Optics Express, 21(7), pp. 8286-8297. 36. F. Rocadenbosh and A. Comeron (1999), “Error analysis for the lidar backward inversion algorithm”, Applied Optics 38, pp. 4461-4474. 37. Feiyue Mao, Wei Wang, Qilong Min, and Wei Gong (2015), “Approach for selecting boundary value to retrieve Mie-scattering lidar data based on segmentation and two-component fitting methods”, Optics Express 23 (11), pp. A604-A613. 38. Frank Träger (2007), Springer Handbook of Lasers and Optics, pp 1165- 139 1203 Springer, New York, DOI: 10.1007/978-0-387-30420-5. 39. G. Fiocco, G. Benedetti-Michelangeli, K. Maischberger and E. Madona (1971), “Measurement of Temperature and Aerosol to Molecule Ratio in the Troposphere by Optical Radar”, Nature 229, pp. 78-79. 40. Gilles Larcheveque (2002), Development of the Jungfraujoch multi- wavelength lidar system for continuous observations of the aerosol optical properties in the free troposphere, Doctor of Philosophy thesis, Lausanne EPFL. 41. Gong, Wei, et al. (2015), "Improved method for retrieving the aerosol optical properties without the numerical derivative for Raman–Mie lidar." Optics Communications 349, pp. 145-150. 42. Grigori P. Kokhanenko, Ioganes E. Penner, and Vitalii S. Shamanaev (2002), “Expanding the dynamic range of lidar receiver by the method of dynode- signal collection”, Applied Optics 41 (24), pp. 5073-5077. 43. Guy M. Hagen, Guangzhong Gao, Deborah A. Roess, and B. George Barisas (2005), “Flexible normally on photomultiplier gating strategy for reducing post-gate artifacts”, Rev. Sci. Instruments 76, pp. 083117 (1-5),. 44. H. Sang Lee, G. K. Schwemmer, C. Laurence Korb, M. Dombrowski, and Coorg Prasad (1990), “Gated photomultiplier response characterization for DIAL measurements”, Applied Optics 29 (29), pp. 3303-3315. 45. http://ccmc.gsfc.nasa.gov/modelweb/models/nrlmsise00.php. 46. http://en.wikipedia.org/wiki/Atmosphere_of_Earth. 47. http://igaco-o3.fmi.fi/ACSO/. 48. http://modis-atmos.gsfc.nasa.gov/. 49. http://omniweb.gsfc.nasa.gov/vitmo/msis_vitmo.html. 50. http://www.philiplaven.com. 51. http://www.srh.noaa.gov/jetstream//global/images/jetstream3.jpg. 140 52. https://www.espo.nasa.gov/solveII/implement.html. 53. Inaba. H. and T. Kobayashi (1972), “Laser-Raman Radar -Laser-Raman scattering methods for remote detection and analysis of atmospheric pollution”, Opto-Electronics 4, pp. 101-123. 54. J. D. Klett (1981), “Stable analytical inversion solution for processing lidar returns”, Applied Optic 20, pp. 211. 55. Jaya Khanna, Justin Bandoro, R. J. Sica, and C. Thomas McElroy (2012), “New technique for retrieval of atmospheric temperature profiles from Rayleigh-scatter lidar measurements using nonlinear inversion”, Applied Optics 51 (33), pp. 7945-7952. 56. Juan Luis Guerrero-Rascado, Maria João Costa, Daniele Bortoli, Ana Maria Silva, Hassan Lyamani, and Lucas Alados-Arboledas (2010), “Infrared lidar overlap function: an experimental determination”, Optics Express 18 (19), pp. 20350- 20359. 57. K. Sassen and G. C. Dodd (1982), “Lidar crossover function and mis- alignment effects,” Applied Optic 21, pp. 3162–3165. 58. Keith D. Evans, S. Harvey Melfi, Richard A. Ferrare, and David N. Whiteman (1997), “Upper tropospheric temperature measurements with the use of a Raman lidar”, Applied Optics 36, No. 12, pp. 2594-2602. 59. Korb, C. Laurence, Chi Y. Weng, (1982), “A Theoretical Study of a Two- Wavelength Lidar Technique for the Measurement of Atmospheric Temperature Profiles”, J. Appl. Meteor 21, pp. 1346–1355. 60. Labitzke, K., and M. P. McCormick. (1992), "Stratospheric temperature increases due to Pinatubo aerosols." Geophysical Research Letters 19 (2), pp. 207-210. 61. Leblanc, T., I. S. McDermid, A. Hauchecorne, and P. Keckhut (1998), “Evaluation of optimization of lidar temperature analysis algorithms using 141 simulated data”, J. Geophys. Res. 103 (D6), pp. 6177-6187. 62. Li Yan, Yang Hong Ru, Li XU Dong, Wu Lei, Yu Bin (2009), “The principles and design of range – gain – control gated PMT”, Proc. of SPIE, Vol. 7382, 73825C9(1-6). 63. Loan Balin (2004), Measurement and analysis of aerosols, cirrus-contrails, water vapor and temperature in the upper troposphere with the Jungfraujoch lidar system, Doctor of Philosophy thesis, Lausanne EPFL. 64. Luc R. Bissonnette (1986), “Sensitivity analysis of lidar inversion algorithms”, Applied Optics 25 (13), pp. 2122- 2125. 65. M. Alpers, R. Eixmann, C. Fricke-Begemann, M. Gerding, and J. Hoffner 2004), “Temperature lidar measurements from 1 to 105 km altitude using resonance, Rayleigh, and rotational Raman scattering,” Atmos. Chem. Phys. 4, pp. 783-800. 66. M. Gerding, J. Höffner, J. Lautenbach, M. Rauthe, and F. J. Lübken, (2008), “Seasonal variation of nocturnal temperatures between 1 and 105 km altitude at 54° N observed by lidar,” Atmos. Chem. Phys. 8, pp. 7465–7482. 67. M. Griggs (1968), “Absorption coefficients of ô zôn in the ultraviolet and visible regions,” J. Chem. Phys. 49, pp. 857–859. 68. M. Matsumoto and N. Takeuchi (1994), “Effects of misestimated far-end boundary values on two common lidar inversion solution”, Applied Optics 25, pp. 6451-6456. 69. Manual of Quantel Nd:YAG laser. Quantel, France. 70. Mariana Adam (2005), Development of lidar techniques to estimate atmospheric optical properties, Doctor of Philosophy thesis, Johns Hopkins University. 71. Measures. R. M. (1984), Laser Remote Sensing Fundamentals and Applications, John Wiley and Sons, New-York. 72. Micheal R. Gross, Thomas J. McGee, Richard S. Ferrare, Upendra N. Singh, 142 and Patrick Kimvilakani (1997), “Temperature measurements made with a combined Rayleigh-Mie and Raman lidar”, Applied Optics 36 (24), pp. 5987- 5995. 73. Micheal Sicard, Adolfo Comeron, Francisco Rocadenbosh, Alejandro Rodriguez, and Constantino Munoz (2009), “Quasi-analytical determination of noise-induced error limits in lidar retrieval of aerosol backscatter coefficient by the elastic, two-component algorithm”, Applied Optics 48 (2), pp. 176-182. 74. Nee, J. B., et al. (2002), "Middle atmospheric temperature structure over two tropical locations, Chung Li (25 N, 121 E) and Gadanki (13.5 N, 79.2 E).", Journal of atmospheric and solar-terrestrial physics 64(12), pp. 1311- 1319.. 75. Nguyen Xuan Tuan, Dinh Van Trung, Nguyen Thanh Binh, and Bui Van Hai (2014), “Measurements of the Stratospheric Density and Temperature Profiles in Hanoi by a Rayleigh Lidar”, Communications in Physics 24 (3), pp. 247- 256, DOI:10.15625/0868-3166/24/3/3690. 76. Nguyen Xuan Tuan, Dinh Van Trung, Nguyen Thanh Binh, and Bui Van Hai (2014), “Measurement of the upper troposphereic density and temperature profiles in Hanoi using a Raman Lidar”, Communications in Physics 24 (3S2), pp. 52-62, DOI:10.15625/0868-3166/24/3S2/0. 77. P. Keckhut, A. Hauchecorne, and M. L. Chanin (1993), “A critical review of the database acquired for the long-term surveillance of the middle atmosphere by the French Rayleigh lidars,” J. Atmos. Ocean. Tech. Vol. 10, pp. 850–867. 78. P. R. Bevington, D. K. Robinson (1992), Data reduction and error analysis for physics sciences, McGraw-Hill, New York. 79. Pappalardo, Gelsomina, et al. (2004), "Aerosol lidar intercomparison in the framework of the EARLINET project. 3. Raman lidar algorithm for aerosol extinction, backscatter, and lidar ratio." Applied Optics 43 (28), pp. 5370- 143 5385. 80. Pavlo A. Molchanov, Vincent M.Contarino, Brian M. Concannon, Olha V.Asmolova, Yulia Y. Podobna (2006), “Nanosecond Gated PMT for LIDAR-RADAR Applications”, Proc. of SPIE, Vol. 6294, 62940H (1-10). 81. Philip. B. Russel, Thomas. J. Swissier, and M. Pattick. Mc Cormick (1979), “Methodology for error analysis and simulation of lidar aerosol measurements”, Applied Optics 18 (22), pp. 3783-3797. 82. Philippe Keckhut, M. L. Chanin, and A. Hauchecorne (1990), “Stratosphere temperature measurement using Raman lidar”, Applied Optics 29 (34), pp. 5182-5186. 83. Ravil Agishev, Barry Gross, Fred Moshary, Alexander Gilerson, Samir Ahmed (2006), “Simple approach to predict APD/PMT lidar detector performance under sky background using dimensionless parametrization”, Optics and Lasers in Engineering 44, pp. 779–796. 84. Robert Schwarz (2002), Development of a Lidar for measuring the atmospheric transmission for GeV-TeV astronomy with the 17 m MAGIC telescope, Diplomat thesis, Max Planck Institute for Physics. 85. Savitzky, A., and M. J. E. Golay (1964), “Smoothing and differentiation of data by simplified least squares procedures”, Anal. Chem. 36(8), pp. 1627-&. 86. Sica, R. J., Z. A. Zylawy, and P. S. Argall (2001), “Ô zôn Corrections for Rayleigh-Scatter Temperature Determinations in the Middle Atmosphere”, J.Atmos.Ocean. Tech. 18(7), pp. 1223-1228. 87. Sica, R. J., Z. A. Zylawy, and P. S. Argall (2001), “Ozone Corrections for Rayleigh-Scatter Temperature Determinations in the Middle Atmosphere”, J.Atmos.Ocean. Tech., 18 (7), pp. 1223-1228. 88. Su, J., Wu, Y., McCormick, M. P., Lei, L., & Lee III, R. B. (2014). “Improved method to retrieve aerosol optical properties from combined elastic 144 backscatter and Raman lidar data”, Applied Physics B, 116(1), pp. 61-67. 89. T. Shibata, M. Kobuchi, M. Maeda (1986), “Measurements of density and temperature profiles in the middle atmosphere with a XeF lidar”, Applied Optics 25, pp. 685-688 90. Takashi Fujii, Tetsuo Fukuchi (2005), Laser remote sensing, Taylor & Francis, Boca Raton. 91. Tetsuo Iwata, Tsuyoshi Takasu, Tsuyoshi Miyata, Tsutomu Araki (2002), “Combination of a gated photomultiplier tube and a phase sensitive detector for use in an intensive pulsed background light situation”, Optical Review 9 (1), pp. 18-24. 92. Theopold, F. A., and J. Bösenberg (1993), “Differential absorption lidar measurements of atmospheric temperature profiles: Theory and experiment”, J. Atmos. Ocean. Technol. 10, pp. 165-179. 93. Tuan Nguyen Xuan, Hai Bui Van, Trung Dinh Van (2014), “Normally off- gated photomultiplier tube module in photon-counting mode for use in lidght detection and ranging measurements”, Applied Remote Sensing, Vol 8, pp. 083536-1- 083536-8, DOI:10.1117/1.JRS.8 .083536. 94. Thorlabs Inc, Newton, New Jersey, USA. 95. Uchino. Osamu, Mc. Cormick, M. Patrick, Swissler, Thomas J. (1986), “Temperature retrievals by Rayleigh backscatter lidar signals”, Applied Optics 25 (17), pp. 2868-2870. 96. Ulla Wandinger and Albert Ansmann (2002), “Experimental determination of the lidar overlap profile with Raman lidar”, Applied Optics 41 (3), pp. 511- 514. 97. V. A. Kovalev (2003), “Stable near-end solution of the lidar equation for clear atmospheres,” Applied Optics 42 (3), pp. 585-591. 98. V. A. Kovalev, W. M.Hao, C. Wold, and M. Adam (2007), “Experimental method for the examination of systematic distortions in lidar data”, Applied 145 Optics 46, pp. 6710-6718. 99. Valery Shcherbakov (2007), “Regularized algorithm for Raman lidar data processing”, Applied Optics 46 (2), pp. 4879-4889. 100. Vladimir A. Kovalev (2015), Solution in LIDAR profiling of the atmosphere, John Wiley & Sons Inc., New Jersey. 101. Vladimir A. Kovalev, William E. Eichinger (2004), Elastic Lidar, Theory, Practice, and Analysis Methods, John Wiley & Sons Inc., New Jersey. 102. W. N. Chen, C. C. Tsao, J. B. Nee (2004), “Rayleigh lidar temperature measurements in the upper troposphere and lower stratosphere”, Journal of Atmospheric and Solar-Terrestrial Physics 66, pp. 39–49 103. Whiteman, David N (2003), “Examination of the traditional Raman lidar technique. I. Evaluating the temperature-dependent lidar equations”, Applied Optics 42 (15), pp. 2571-2592, 104. Wolfram Hergert, Thomas Wriedt (2012), The Mie Theory: Basics and Applications, Springer, New York. 105. Wei Gong, Wang, W., Mao, F., & Zhang, J. (2015). “Improved method for retrieving the aerosol optical properties without the numerical derivative for Raman–Mie lidar”, Optics Communications, 349, pp. 145-150. 106. Y.B. Acharya, A. Jayaraman (2006), “Optimized signal to noise ratio of a PMT based detector system in Mie-Lidar”, Measurement 39, pp. 51–56. 107. Y.B. Acharya, S. Sharma, H. Chandra (2004), “Signal induced noise in PMT detection of lidar signals”, Measurement 35, pp. 269-276. 108. Yasuhiro Sasano, Edward V. Browell, and Syed Ismail (1985), “Error caused by using a constant extinction/backscattering ratio in the lidar solution”, Applied Optic 24, pp. 3929-3932. 109. Yiyun. Y. Gu, Chester. S. Gardner, Paul. A. Castleberg, George. C. Papen, and Micheal. C. Kelley (1997), “Validation of the Lidar in space technology experiment: stratospheric tempaerature and aerosol measurements”, Applied 146 Optics 36 (21), pp. 5148-5157. PHỤ LỤC Phụ lục 1: Chương trình ghi nhận tín hiệu lidar ở chế độ đếm photon được phát triển trên môi trường labview. 1.1 Giao diện chương trình 1.2 Module live i 1.3 module vẽ số liệu 1.4 module chuyển đổi số liệu ii 1.5 module lưu số liệu 1.6 Module đếm photon Phụ lục 2: Chương trình xác định phân bố nhiệt độ từ tín hiệu lidar Rayleigh. function [zo,po,dpo] = gate_rayleigh_1h(A,sm1,sm2,sm3,b,smax) iii 2.1 hàm xử lí tín hiệu lidar để thu được tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách t = A(:,1); c = 3*1e+8;z0 = 1/2*c*t*1e-12; p0 = A(:,2);n0 = length(p0);tr = 5;
tri = round(tr*n0/100);k = 1;
for i = tri:1:n0
z1(k) = z0(i)-z0(tri); p1(k) = p0(i); k = k+1;
end
n1 = length(p1);st1 = round(n1/10);
for i =1:1:st1
if p1(i)>0
p1(i) = 0;
end
end
ma1 = max(p1);
for i = 1:1:n1
if p1(i)==ma1
st2 = i;
break
end
end
for i = 1:1:st2
if p1(i)>0
p1(i) = 0;
end
end
vi = 200;st3 = vi+st2;
for i = 1:1:st3-1
if p1(i)>0
p1(i) = 0;
end
end
display('gate height [km]') zgate = z1(st3) p2 = p1(st3:n1);z2 = z1(st3:n1);n2 = length(p2);
p2 = smooth(p2,sm1,'loess');
k = 1;
for i = 1:b:n2-b
dc = 0; cd = 0;
for j = i:1:i+b-1
dc = dc + z2(j); cd = cd + p2(j);
end
z3(k) = 2*dc/b - z2(i); p3(k) = cd; k = k+1;
end
n3 = length(p3);bg = mean(p0(0.95*n0:n0));p4 = p3-bg;p5 = smooth(p4,sm2,'loess');
snr = p5./sqrt(p5+2*bg);snr = smooth(snr,21);
for i = 1:n3
if snr(i) iv v end
sg = 6.2259*1e-38;dz = (zo(2)-zo(1));bt1 = md*sg; lm = 8*pi/3; znorm = 35;
for i = 1:1:n0
if zo(i)>=35
n1 = i;
break
end
end
la(n1) = lm;bt1 = bt1(1:n1);zo = zo(1:n1);po = po(1:n1);
for i = 1:1:n1-1
la(i) = 48;
end
F1(n1) = 0;
for i = n1:-1:2
F1(i-1) = ((la(i-1)-lm).*bt1(i-1)+(la(i)-lm).*bt1(i))*dz;
end
num(n1) = 1;
for i = n1:-1:2
num(i-1) = (po(i-1).*exp(F1(i-1)));
end
ba1(n1) = bt1(n1); %non-iterative backscattering coefficient%
for i = n1:-1:2
ba1(i-1) = num(i-1)./(po(i)./ba1(i)+(la(i).*po(i)+la(i-1).*po(i-1).*exp(F1(i-1)))*dz);
end
for i = 1:1:n1
if ba1(i)<=bt1(i);
n2 = i;
break
end
end
ba1 = ba1(1:n2);bt1 = bt1(1:n2);po = po(1:n2);zo = zo(1:n2);
R1 = ba1./bt1;baer1 = ba1-bt1;ea1 = la(1)*baer1;ael1 = cumsum(ea1);T1 = exp(-2*ael1);
po = po';p1 = po./(R1.*T1;mdref = md(n2);poref = p1(n2);C0 = mdref/porefd0 = C0*p1;
tmol = (8*pi/3)*sg*d0;tl = cumsum(tmol*dz);Tr = exp(-2*tl);C1 = (d0(n2)/poref)*Tr(n2);
d01 = C1*(p1./Tr);d1 = d0; d2 = d01;dmax = max(abs(d1-d2));num = 0;
while dmax>10
d1 = d2; mdref1 = d1(n2); tmol1 = (8*pi/3)*sg*d1; tl1 = cumsum(tmol1*dz);
Tr1 = exp(-2*tl1); C2 = (mdref1*Tr1(n2))/poref; d2 = C2*(p1./Tr1); dmax =
max(abs(d1-d2)); num = num+1;
end
bt2 = sg*d2;F2(n2) = 0;
for i = n2:-1:2
F2(i-1) = ((la(i-1)-lm).*bt2(i-1)+(la(i)-lm).*bt2(i))*dz;
end
num2(n2) = 1;
for i = n2:-1:2
num2(i-1) = (po(i-1).*exp(F2(i-1))); vi vii function [zo,po,mdn] = gate_raman_tem_1h(A,sm,b,radio,smax)
t = A(:,1); c = 3*1e+8; z0 = 1/2*c*t*1e-12;p0 = A(:,3); n0 = length(p0);tr = 5;
trigger = round(tr/100*n0);k=1;
for i = trigger:1:n0;
z1(k) = z0(i)-z0(trigger); p1(k) = p0(i);
k = k+1;
end
n1 = length(p1);n1n = round((1/5)*n1);mean1 = mean(p1(0.9*n1:n1)); viii 3.1 hàm xử lí tín hiệu lidar để thu được tín hiệu lidar hiệu chỉnh khoảng cách max1 = max(p1(n1n:n1));
for i = n1n:1:n1
if p1(i)== max1
m1 = i;
break
end
end
for i = m1:-1:n1n
if p1(i)<1.2*mean1
m2 = i;
break
end
end
p2 = p1(1:m2-50);n2 = length(p2);z2 = z1(1:n2);
for i = 1:1:n2
if p2(i)==max(p2)
min2 = i;
break
end
end
p2 = p2(min2:n2);z2 = z2(min2:n2);n2 = length(p2);p2 = smooth(p2,sm,'loess');
k=1;
for i = 1:b:n2-b-1
dc = 0; cd = 0;
for j = i:1:i+b-1
dc = dc + z2(j); cd = cd + p2(j);
end
z3(k) = 2*dc/b - z2(i); p3(k) = cd; k = k+1;
end
n3 = length(p3);p3 = smooth(p3,sm,'lowess');p3 = p3';bg = mean(p0(0.95*n0:n0));
p4 = p3-b*bg;n3r = round(0.1*n3);noi = sqrt(p4+2*bg);snr = p4./noi;
snr = mooth(snr,31,'loess');
for i = n3r:1:n3
if snr(i) ix x function [bm,ba,bt,Ra] = beta_wei(z0,p0e,p0r,atm,radio)
n0 = length(z0); [md1,mdN1,Ta1,Trmol1] = msis_atmosphere(z0,atm);
[md2,mdN2,Ta2,Trmol2] = radio_sonde(z0,radio);p0es = p0e./(z0.*z0);
p0rs = p0r./(z0.*z0);zref = 10;
for i = 1:1:n0
if z0(i)>=zref
nref= i; break
end
end
sigmae = 6.2259*1e-38;sigmar = 3.6736*1e-38;bm = md2*sigmae*1e+15; tmole =
(8*pi/3)*sigmae*md2*dz*1e+15;tle = cumsum(tmole);
tmolr = (8*pi/3)*sigmar*md2*dz*1e+15;tlr = cumsum(tmolr);Tmole = exp(-tle);
Tmolr = exp(-tlr);Tmol = exp(-1.876*tle);zsm = 13;
for i = 1:1:n0
if z0(i)>=zsm
nsm = i;
break
end
end
sm = 21;p0es1 = p0es(1:nsm);p0rs1 = p0rs(1:nsm);p0r1 = p0r(1:nsm);
p0esm = smooth(p0es1,sm,'loess');p0rsm = smooth(p0rs1,sm,'loess');
p0rm = smooth(p0r1,sm,'loess');p0esref = mean(p0esm(nref-3:nref+2));
p0rsref = mean(p0rsm(nref-3:nref+2));p0rref = mean(p0rm(nref-3:nref+2));
bmref = bm(nref);Tmolref = Tmol(nref);
sh1= (p0es.*Tmolr*p0rsref*bmref)./(p0esref*p0rs.*Tmole);
sh2 = (p0r*Tmolref)./(p0rref*Tmol);bt = sh1.*sh2;ba = bt - bm;Ra = bt./bm;
4.2 Hàm xác định hệ số suy hao của sol khí
function [alpha,Taer,sa] = ext_wei(z0,bm,bt,Tmol,p0)
n0 = length(z0);dz = z0(2)-z0(1);sa0 = linspace(1,10,10);n1 = length(sa0);ba = bt-bm;
for j=1:1:n1
for i = 1:1:n0-1
bam(i+1,j) = (p0(i+1)./p0(i)).*(bt(i)).*Tmol(i+1).*exp(sa0(j).*(ba(i)+ba(i+1))*dz)-
bm(i+1);
end
end
bam(1,:)=ba(1);
for i = 1:1:n0
ma(i,:) = abs(bam(i,:)-ba(i));
end
for i = 1:1:n0
mins(i) = min(ma(i,:));
end
for i = 1:1:n0 xi for j=1:1:n1
if ma(i,j) == mins(i)
sa(i) = sa0(j);
end
end
end
alpha = sa.*ba;
for i=1:1:n0
if alpha(i)<0
alpha(i)=0;
end
end
al = cumsum(alpha*dz);Taer = exp(-2*al); xiiThiết kế và xây dựng các hệ lidar
Xác định phân bố mật độ và nhiệt độ khí quyển
Nghiên cứu cấu trúc và đặc trưng nhiệt độ khí quyển tại Hà nội
Kết luận
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
Tài liệu tham khảo
p5 = p5(1:n5);p5 = p5';z5 = z3(1:n5);p6 = p5.*z5.*z5;p6l = log(p6);
p6l = smooth(p6l,sm3,'loess');p6 = exp(p6l);dpo(n5) = 1;
for i = n5:-1:2
dpo(i-1) = p6(i-1)./p6(i);
end
po = p6; zo = z5;
2.2 hàm xác định hệ số truyền qua của ozone từ mật độ ozone.
function [po3,dp3] = ozone_correction_1h(O3,B,zo,po)
pr = O3(:,1); z0 = O3(:,2); p0 = O3(:,3); n0= length(z0);n1 = length(p0);z1 = zo;
n2 = length(z1);
for i = 1:1:n2-1
p1(i) = interp1(z0,p0,z1(i),'linear');
end
p1(n2) = p1(n2-1;za = B(:,1);md = B(:,3)+B(:,4);md = md*1e+6;na = length(za);
for i=1:1:n2-1
md1(i) = interp1(za,md,z1(i),'linear');
end
md1(n2) = md1(n2-1;p2 = (46/48)*(1e-6)*p1.*md1;sig = 2.2*1e-25; dz1 = (z1(2)-
z1(1))*1e+3; to = sig*dz1*p2;
for i = 1:1:n2-1
to(i+1) = to(i)+to(i+1);
end
T = exp(-2*to;p3 = po;n3 = length(p3);
for i = 1:1:n3
if p3(i)>0
st = i;
break
end
end
p4 = p3./T;po3 = p4;
for i = n3:-1:1
if i>st
dp(i-1) = p4(i)./p4(i-1);
else
dp(i) = 0;
end
end
dp3 = dp;
2.3 hàm xác định hệ số tỉ số tán xạ và hệ số truyền qua của sol khí
function [Rm,Rni,Ri,Tm,Tni,Ti,d0,d3] = aer_RT(zo,po)
n0 = length(po);atm = 'atmosphere_model_msis90-21may2013.txt';
B = load(atm);za = B(:,1);mda = (B(:,3)+B(:,4)); mda = mda*(1e+15)
for i =1:1:n0
md(i) = interp1(za,mda,zo(i),'linear');
end
ba2(n2) = bt2(n2);
for i = n2:-1:2
ba2(i-1) = num2(i-1)./(po(i)./ba2(i)+(la(i).*po(i)+la(i-1).*po(i-1).*exp(F2(i-1)))*dz);
end
R2 = ba2./bt2;baer2 = ba2-bt2;ea2 = la(1)*baer2;ael2 = cumsum(ea2);T2 = exp(-2*ael2);
R01 = R1; R02 = R2; T01 = T1; T02 = T2;Rmax = max(abs(R01-R02)); Tmax =
max(abs(T01-T02));p2 = po./(R02.*T02);num = 0;
while (Rmax>1e-4)&(Tmax>1e-4)
R01 = R02; T01 = T02; d2ref = d2(n2); p2ref = p2(n2); tmol2 = (8*pi/3)*sg*d2;
tl2 = cumsum(tmol2*dz); Tr3 = exp(-2*tl2); C3 = (d2ref/p2ref)*Tr3(n2);
d3 = C3*(p2./Tr3); bt3 = sg*d3; F3(n2) = 0;
for i = n2:-1:2
F3(i-1) = ((la(i-1)-lm).*bt3(i-1)+(la(i)-lm).*bt3(i))*dz;
end
num3(n2) = 1;
for i = n2:-1:2
num3(i-1) = (po(i-1).*exp(F3(i-1)));
end
ba3(n2) = bt3(n2);
for i = n2:-1:2
ba3(i-1) = num3(i-1)./(po(i)./ba3(i)+(la(i).*po(i)+la(i-1).*po(i-1).*exp(F3(i-1)))*dz);
end
R02 = ba3./bt3; baer3 = ba3-bt3; ea3 = la(1)*baer3; ael3 = cumsum(ea3);
T02 = exp(-2*ael3); Rmax = max(abs(R01-R02)); Tmax = max(abs(T01-T02)); num =
num+1;
end
Rm = R1; Tm = T1; Rni = R2; Tni = T2; Ri = R02; Ti = T02;
2.4 Hàm xác định mật độ phân tử khí
function [d0,d2] = density_Rayleigh_1h(B,z0,p0)
za = B(:,1);mda = B(:,3)+B(:,4); n0= length(p0);
for i = 1:1:n0
md(i) = interp1(za,mda,z0(i),'linear');
end
zr = 40; %referenece height%
for i = 1:1:n0
if z0(i)>=zr
vt = i;
break
end
end
mdref = mean(md(vt-3:vt+3));p0ref = mean(p0(vt-3:vt+3));sigma = 6.23*(1e-28;
dz0 = (z0(2)-z0(1))*1e+5;C1 = mdref/p0ref;d0 = C1*p0; tmol2 = (8*pi/3)*sigma*d0;tl2 =
cumsum(tmol2*dz0);Tr2 = exp(-2*tl2);C2 = (d0(vt)/p0ref)*Tr2(vt);d01 = C2*(p0./Tr2);
d1 = d0; d2 = d01;dmax = max(abs(d1-d2));
num = 0;
while dmax>10
d1 = d2; tmol3 = (8*pi/3)*sigma*d1; tl3 = cumsum(tmol3*dz0); Tr3 = exp(-2*tl3);
C3 = (d01(vt)*Tr3(vt))/p0ref; d2 = C3*(p0./Tr3); dmax = max(abs(d1-d2));
num = num+1;
end
2.5 Hàm xác định nhiệt độ
function [T] = tem_Rayleigh(amt,z0,d0,Tref)
n0 = length(d0);za = amt(:,1);Ta = amt(:,6);
for i = 1:1:n0
Ta0(i) = interp1(za,Ta,z0(i),'linear');
end
G = 6.67*1e-11; ME = 5.9737*1e+24; R = 6384*1e+3;
for i = n0:-1:2
dz0(i) = ((z0(i)+z0(i-1))/2)*1e+3; %dz0 [m]%
end
dz0(1) = dz0(2);
for i = n0:-1:1
g(i) = G*ME/((R+dz0(i))^2);%gravity accelation%
end
%second factor%
for i = n0:-1:2
ts(i-1) = (d0(i)./d0(i-1))-1;
end
for i = n0:-1:2
ms(i-1) = log(d0(i)./d0(i-1));
end
for i = n0-1:-1:1
tp(i) = ts(i)./ms(i);
end
M = 28.95949*1e-3; Rg = 8.3144;dz = (z0(3)-z0(2))*1e+3;T(n0) = Tref;
for i = n0:-1:2
T(i-1) = (d0(i)./d0(i-1)).*T(i)+(M/Rg)*(dz)*g(i-1).*tp(i-1);
end
Phụ lục 3: Chương trình xác định phân bố nhiệt độ từ tín hiệu lidar Raman.
for i = 1:1:n5
Ta(i) = interp1(zr,Tr,z5(i),'linear');
end
for i = 1:1:n5
pai(i) = interp1(zr,pa,z5(i),'linear');
end
kb = 1.3806488*1e-23;md = (pai./(Ta*kb))*1e-6; mdl = log(md);mdN = 0.78*md;
mNl = log(mdN);dds = mNl-p5l;mindds = min(dds);
for i = 1:1:n5
if dds(i) == mindds
vt = i;
break
end
end
mdn = mNl-mindds;po = p5; zo = z5;
3.2 Hàm xác định hệ số truyền qua của sol khí
function [taer,Tar] = aer_extinction_raman(z0,p0,sm,radio)
n0 = length(p0;C = load(radio);zr = C(:,3);zr=zr*1e-3;Tr = C(:,5);pa = C(:,4)*1e+2;
Tr = Tr+273.15;Tr = Tr';
for i = 1:1:n0
Ta(i) = interp1(zr,Tr,z0(i),'linear');
end
for i = 1:1:n0
pai(i) = interp1(zr,pa,z0(i),'linear');
end
kb = 1.3806488*1e-23;md = (pai./(Ta*kb))*1e-6; mdN = 0.78*md;sig0 = 52.19*1e-28;
dz1 = (z0(2)-z0(1))*1e+5;dz2 = (z0(2)-z0(1));tmol0 = sig0*dz1*md;tmol =
cumsum(tmol0);
Trmol = exp(-1.876*tmol;ozone1 = 'ozone_20N_19dec2012.txt';O3 = load(ozone1);
percent= 'pecent_ozone_20N_19dec2012.txt';PO3 = load(percent);
atmosphere = 'msise-90_26june2013.txt';
B = load(atmosphere);[do3,To3] = ozone(O3,PO3,B,z0,p0);
p1 = p0./(Trmol.*To3);p1 = smooth(p1,sm,'loess');dp = log(mdN./p1*(1e+10));
for i = 1:n0-1
taer(i) = (dp(i) - dp(i+1))/1.876*dz2;
end
taer(n0)=taer(n0-1);
for i = 1:1:n0
if taer(i)<0
taer(i) = -taer(i);
end
end
ta = cumsum(taer);Tar = exp(-1.876*ta);
Phụ lục 4: Chương trình xác định phân bố nhiệt độ từ lidar đàn hồi-Raman kết hợp.
4.1 hàm xác định hệ số tán xạ ngược