VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ THƢƠNG

TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945

DƢỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ THƢƠNG

TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945

DƢỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI

Ngành: Lí luận Văn học

Mã số: 9 22 01 20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Lý Hoài Thu

2. TS. Lê Thị Hƣơng Thủy

Hà Nội, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn của PGS. TS Lý Hoài Thu và TS. Lê Thị Hương Thủy cùng với sự

góp ý của các nhà khoa học

Các kết quả nghiên cứu của luận án là trung thực và chưa được công bố

trong bất kì công trình nào.

Tác giả luận án

Vũ Thị Thương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................. 7

1.1. Những công trình nghiên cứu khái quát về tiểu thuyết và hồi kí

Tô Hoài ............................................................................................................. 7

1.2. Những công trình nghiên cứu cụ thể về tiểu thuyết và hồi kí Tô

Hoài sau 1945 ................................................................................................ 10

1.2.1. Về các tác phẩm tiểu thuyết cụ thể ............................................... 10

1.2.2. Về các tác phẩm hồi kí cụ thể ....................................................... 17

1.2.3. Những công trình nghiên cứu về sự tương tác giữa tiểu thuyết

và hồi kí Tô Hoài .................................................................................... 20

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 24

Chƣơng 2: VẤN ĐỀ THỂ LOẠI VÀ DIỆN MẠO TIỂU THUYẾT,

HỒI KÍ TÔ HOÀI ......................................................................................... 25

2.1. Đặc trƣng thể loại tiểu thuyết và hồi kí ................................................ 25

2.1.1. Tiểu thuyết nhìn từ một số đặc trưng thể loại ............................... 25

2.1.2. Hồi kí nhìn từ một số đặc trưng thể loại ....................................... 34

2.2. Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài trong dòng chảy văn xuôi Việt Nam

hiện đại ............................................................................................................ 40

2.2.1. Giai đoạn trước 1945 .................................................................... 40

2.2.2. Giai đoạn 1945 đến 1985 .............................................................. 43

2.2.3. Giai đoạn 1986 đến nay ................................................................ 48

2.3. Quan điểm sáng tác và sự đổi mới tƣ duy nghệ thuật của Tô Hoài .. 51

2.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan điểm sáng tác và tư duy

nghệ thuật của Tô Hoài ........................................................................... 51

2.3.2. Quan điểm sáng tác của Tô Hoài .................................................. 53

2.3.3. Sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Tô Hoài ................................... 55

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 59

Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU

1945 TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI ................................................................ 60

3.1. Đặc điểm tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại ............. 60

3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ...................................................... 60

3.1.2. Kết cấu trần thuật .......................................................................... 73

3.1.3. Giọng điệu trần thuật .................................................................... 82

3.2. Đặc điểm hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại ...................... 87

3.2.1. Hình tượng tác giả ......................................................................... 87

3.2.2. Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật ..................................... 98

3.2.3. Giọng điệu trần thuật .................................................................. 107

Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 113

Chƣơng 4: SỰ TƢƠNG TÁC THỂ LOẠI GIỮA TIỂU THUYẾT VÀ

HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945 ..................................................................... 114

4.1. Tƣơng tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam hiện đại và trong văn

xuôi Tô Hoài sau 1945 ................................................................................. 114

4.2. Chất tiểu thuyết trong hồi kí Tô Hoài sau 1945 ................................ 120

4.2.1. Kết cấu trần thuật đa dạng .......................................................... 120

4.2.2. Trần thuật đa điểm nhìn .............................................................. 125

4.3. Chất hồi kí trong tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 ................................ 131

4.3.1.Tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư ................................................... 131

4.3.2. Nghệ thuật trần thuật đậm chất hồi kí ......................................... 140

Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................ 147

KẾT LUẬN .................................................................................................. 148

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ...................... 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Lịch sử văn học Việt Nam ghi dấu nhiều tên tuổi lớn, trong số đó

không thể thiếu Tô Hoài - nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Với

hành trình sáng tác gần 75 năm, gia tài chữ nghĩa “đồ sộ” của ông đã mang đến

nhiều cung bậc cảm xúc cho các thế hệ độc giả Việt Nam. Tô Hoài viết nhiều,

viết khỏe, phong phú về số lượng và đặc sắc về chất lượng. Hai mươi tuổi, ông

đã có những tác phẩm đầu tay được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ

bảy. Trong suốt thời gian cầm bút, ông đã sáng tác trên 150 tác phẩm với nhiều

thể loại gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa, kí (bút kí, hồi kí,

chân dung), kịch bản phim, tản văn, lí luận - kinh nghiệm sáng tác…cùng sự đa

dạng về đề tài: thiếu nhi, đời sống chiến tranh và hòa bình, miền núi và miền

xuôi. Ở lĩnh vực nào, ông cũng tạo được dấu ấn và gặt hái được thành công.

Đóng góp của Tô Hoài được ghi nhận ở cả hai chặng đường trước và sau

Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đặc biệt giai đoạn sau 1945, Tô Hoài đạt

được nhiều thành tựu, số lượng tác phẩm nhiều hơn, thể loại phong phú hơn.

Trước 1945, Tô Hoài chủ yếu viết truyện ngắn và ông cũng sớm thử sức ở thể

loại truyện dài. Đối tượng hướng đến trong sáng tác của nhà văn là thế giới loài

vật, cuộc sống và con người ở vùng quê nội, ngoại thành Hà Nội với các tác

phẩm: Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện dài - 1941), Giăng thề (truyện vừa - 1942),

Quê người (tiểu thuyết - 1942), O chuột (truyện ngắn - 1942), Nhà nghèo (tập

truyện ngắn - 1942), Cỏ dại (hồi kí - 1944)…Sau 1945, đồng hành cùng dân tộc,

Tô Hoài mở rộng phạm vi phản ánh, đi sâu vào cuộc sống của người dân các dân

tộc vùng cao trong kháng chiến chống thực dân Pháp và thành công với nhiều

thể loại. Một số tác phẩm tiêu biểu thời kì này là Truyện Tây Bắc (tập truyện -

1953), Mười năm (tiểu thuyết - 1958), Miền Tây (tiểu thuyết - 1967), Nhật kí

vùng cao (nhật kí - 1969), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (tiểu thuyết - 1971), Tự

truyện (1978), Quê nhà (tiểu thuyết - 1980).…Ở thời kì Đổi mới sau 1986, Tô

Hoài lại khẳng định tên tuổi của mình trên diễn đàn văn xuôi hiện đại với các tác

1

phẩm Những gương mặt (chân dung - 1988), Cát bụi chân ai (hồi kí - 1992),

Chuyện cũ Hà Nội (truyện ngắn - 1998), Chiều chiều (hồi kí - 1999), Ba người

khác (tiểu thuyết - 2006)…Đối với mỗi giai đoạn sáng tác, Tô Hoài đều tạo cho

mình một tiếng nói, cách nhìn, phong cách và một cá tính sáng tạo riêng. Với

khối lượng tác phẩm đồ sộ và sáng tác đa dạng, phong phú về thể loại, Tô Hoài

đã hiện diện như một nhà văn giàu tài năng và sức sáng tạo. Trong “ngôi nhà”

thể loại đó, các nhà nghiên cứu, phê bình đều nhận ra tiểu thuyết và hồi kí là

những thể loại sở trường kết tinh tài năng, tâm huyết nghệ thuật của Tô Hoài và

là hai bộ phận sáng tác chủ yếu trong văn nghiệp của ông. Với các tác phẩm tiêu

biểu được sáng tác sau 1945: Mười năm (tiểu thuyết - 1958), Miền Tây (tiểu

thuyết - 1967), Cát bụi chân ai (hồi kí - 1992), Chiều chiều (hồi kí - 1999), Ba

người khác (tiểu thuyết - 2006), Tô Hoài thực sự đã trở thành cây bút viết tiểu

thuyết, hồi kí độc đáo và hấp dẫn.

1.2. Một trong những hướng tiếp cận văn học mang lại hiệu quả cao và

được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm là tiếp cận từ phương diện thể loại. Thể

loại là dạng thức tồn tại của chỉnh thể tác phẩm văn học. Thể loại giữ vai trò

quan trọng trong định hình kiểu loại sáng tác và nhận diện tác phẩm. Thể loại là

yếu tố thể hiện rõ nhất đặc trưng loại hình văn học và diện mạo, đường nét,

những yêu cầu, quy định bắt buộc về tổ chức, kết cấu, hình thức của một tác

phẩm văn học. Qua hình thức của một thể loại, nhà văn thể hiện thái độ thẩm mĩ

đối với hiện thực, bộc lộ cách cảm thụ, nhìn nhận và “giải minh” về thế giới và

con người. Tiếp cận một hiện tượng văn học từ phương diện thể loại là hướng

nghiên cứu có sức “vẫy gọi”, luôn chứa đựng tính mới, là cách thức nhằm tìm ra

sự độc đáo trong phong cách của từng tác giả đồng thời cũng là một con đường

hứa hẹn có những đóng góp nhất định.

1.3. Ở giai đoạn sau 1945 đặc biệt thời kì Đổi mới, đời sống văn học đương

đại đang có sự đổi mới tư duy nghệ thuật mà tương tác thể loại là một biểu hiện

theo chiều hướng đó. Tương tác thể loại vừa mang tính nội tại, tính tự thân của

quá trình vận động đời sống thể loại vừa cho thấy ý thức đổi mới lối viết của chủ

thể sáng tạo. Sáng tác của Tô Hoài cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tô Hoài

2

một mặt bám sát đặc trưng thể loại mặt khác lại có xu hướng đan xen thể loại:

hồi kí đậm chất tiểu thuyết, tiểu thuyết đậm chất hồi kí. Điều này tạo nên một lối

viết văn xuôi, một kiểu tác giả Tô Hoài khác biệt so với các nhà văn trước và

cùng thời.

Điểm lại lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi nhận thấy đã có nhiều công

trình nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài và sáng tác của ông. Nhìn chung, ở từng

phương diện, các tác giả đều phát hiện được những điểm độc đáo, hấp dẫn, giá

trị và đóng góp của nhà văn trong nền văn xuôi hiện đại của dân tộc. Tuy nhiên,

những công trình nghiên cứu về sáng tác của Tô Hoài chưa quan tâm nhiều tới lí

thuyết thể loại. Vì vậy, tìm hiểu, đánh giá một cách chỉnh thể, hệ thống tiểu thuyết

và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại thông qua nghiên cứu đặc điểm

thể loại tiểu thuyết và hồi kí, sự tương tác giữa tiểu thuyết và hồi kí là việc cần thiết,

bù đắp lại những khoảng trống mà các tác giả khác chưa nghiên cứu.

Từ những cơ sở trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài Tiểu thuyết và hồi kí

Tô Hoài sau 1945 dƣới góc nhìn thể loại. Luận án hoàn thành hi vọng sẽ góp

thêm một cách nhìn nhận, diễn giải, một hướng nghiên cứu chuyên biệt từ góc

nhìn thể loại nhằm khẳng định giá trị, sức hấp dẫn trong tiểu thuyết và hồi kí Tô

Hoài, giúp người đọc có cái nhìn khoa học, khách quan về những đóng góp

nhiều mặt của Tô Hoài đối với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Thực hiện đề tài Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể

loại, luận án nhằm các mục đích sau:

- Làm rõ quan điểm sáng tác và sự đổi mới tư duy nghệ thuật của nhà văn

Tô Hoài ở giai đoạn trước và sau 1945 đặc biệt là từ sau 1986 qua đó làm nổi bật

diện mạo, sự vận động, phát triển và sự kế thừa, tiếp biến nghệ thuật viết tiểu

thuyết, hồi kí ở các giai đoạn.

- Xác định đặc điểm tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể

loại, lí giải sự tương tác thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí; từ đó khẳng định vị

trí, đóng góp, phong cách, tài năng của nhà văn trong tiến trình vận động văn

3

xuôi Việt Nam hiện đại.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án được triển khai với các nhiệm vụ chính sau đây:

- Hệ thống hóa những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết và hồi kí Tô

Hoài nói chung và sau 1945 nói riêng.

- Xác định đặc điểm tiểu thuyết và hồi kí, làm rõ những chặng đường sáng

tác tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài, quan điểm sáng tác và sự đổi mới tư duy nghệ

thuật của nhà văn.

- Xác định đặc điểm của tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể

loại trên một số phương diện cơ bản: nghệ thuật xây dựng nhân vật, kết cấu trần

thuật, giọng điệu trần thuật.

- Xác định đặc điểm của hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại

trên một số phương diện cơ bản: hình tượng tác giả, nghệ thuật khắc họa chân

dung nhân vật, giọng điệu trần thuật.

- Tìm hiểu sự hòa trộn, mờ nhòe ranh giới thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí

Tô Hoài sau 1945, nghiên cứu những dấu hiệu và hiệu quả nghệ thuật của sự

tương tác thể loại.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Khảo sát một số tiểu thuyết và hồi kí tiêu biểu của Tô Hoài sau 1945:

Mười năm (tiểu thuyết - 1958), Miền Tây (tiểu thuyết - 1967), Cát bụi chân ai

(hồi kí - 1992); Chiều chiều (hồi kí - 1999); Ba người khác (tiểu thuyết - 2006).

Trong quá trình nghiên cứu, một số tác phẩm của nhà văn Tô Hoài và các

nhà văn khác sẽ được tham chiếu để so sánh.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án

Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương pháp

4

nghiên cứu cơ bản sau:

4.1. Phương pháp tiểu sử: từ những yếu tố về tiểu sử tác giả sẽ đi sâu vào mối

liên hệ giữa tác giả và tác phẩm để lí giải những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết

và hồi kí, sự tương tác giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945.

4.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học: vận dụng thi pháp học để phân tích các

tác phẩm cụ thể qua đó rút ra những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết và hồi kí

Tô Hoài sau 1945.

4.3. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nhằm phân tích, lí giải sự tác động

qua lại giữa các yếu tố văn hóa và văn học, thời đại, lịch sử, xã hội đến quan

điểm sáng tác và tư duy nghệ thuật của nhà văn.

4.4. Phương pháp so sánh: nhằm rút ra những điểm tương đồng và khác biệt của tiểu

thuyết và hồi kí Tô Hoài ở các giai đoạn sáng tác trên các chiều đồng đại và lịch đại,

sự độc đáo và tương hợp trong phong cách sáng tác với các tác giả cùng thời.

4.5. Phương pháp hệ thống: đặt tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài trong tiến trình

vận động của văn xuôi Việt Nam hiện đại và trong tương quan với các thể loại

khác của nhà văn Tô Hoài.

Ngoài ra, chúng tôi kết hợp vận dụng các phương pháp, thao tác khác khi

cần thiết: thao tác phân tích - tổng hợp, phương pháp loại hình và lí thuyết thể

loại, tự sự học có liên quan.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Luận án là công trình đầu tiên chuyên biệt nghiên cứu hệ thống về tiểu

thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945, dựng lại một cách tương đối đầy đủ diện mạo

và quá trình phát triển của hai thể loại chính trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài

giai đoạn này.

Luận án chỉ ra đặc điểm tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn

thể loại, sự tương tác thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ đó thấy

được dấu ấn phong cách, đặc điểm thi pháp và kĩ thuật tự sự của nhà văn.

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án

6.1. Về mặt lí luận

Với hai thể loại tiểu thuyết và hồi kí, Tô Hoài đã khẳng định được tên tuổi, vị

5

trí, tài năng, phong cách sáng tác của mình. Nghiên cứu tiểu thuyết và hồi kí của Tô

Hoài sau 1945 vừa làm rõ đặc điểm thể loại vừa là sự nhận diện cách hòa trộn, xóa

mờ lằn ranh thể loại, từ đó góp thêm một số kiến thức lí luận thể loại, gợi mở một số

vấn đề đối với thực tiễn sáng tạo và tiếp nhận tiểu thuyết, hồi kí Việt Nam hiện đại.

6.2. Về mặt thực tiễn

Tô Hoài là một trong những tác giả tiêu biểu được giảng dạy trong nhà

trường. Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng trong nghiên

cứu, giảng dạy và học tập văn học Việt Nam ở bậc phổ thông và đại học.

Do vậy, luận án có giá trị lí luận và thực tiễn quan trọng, thiết thực.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án được cấu trúc

thành bốn chương:

Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Chương 2. Vấn đề thể loại và diện mạo tiểu thuyết, hồi kí Tô Hoài

Chương 3. Đặc điểm tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại

6

Chương 4. Sự tương tác thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Những công trình nghiên cứu khái quát về tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài

Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Tô Hoài luôn là một cái tên thu hút

nhiều sự chú ý quan tâm, khám phá từ phía người tiếp nhận, các nhà nghiên cứu,

phê bình nhất là những khoảng trống đối với các nghiên cứu chuyên sâu. Các tác

giả đã tập trung nhận xét, đánh giá về phong cách, nghệ thuật kể chuyện, giọng

điệu Tô Hoài. Phần lớn là ý kiến của các nhà phê bình, nhà văn có tên tuổi như

Phong Lê, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vương Trí Nhàn, Bùi Hiển…Những ý

kiến đều thống nhất khẳng định Tô Hoài là nhà văn có phong cách riêng, độc

đáo, cách kể chuyện hóm hỉnh, thông minh và lối viết đậm đà màu sắc dân tộc.

Tô Hoài là một nhà văn tài năng, sáng tác đa dạng về thể loại, song nhất

thiết phải nói đến tiểu thuyết. Tiểu thuyết là một trong những thể loại làm nên

tên tuổi Tô Hoài và là thể loại đầu tiên tạo nên phong cách riêng của ông. Nếu

tính về số lượng, trong hơn 150 đầu sách thì tiểu thuyết chỉ chiếm khoảng chục

tác phẩm, số lượng nhỏ bé trong toàn bộ sự nghiệp văn chương của ông nhưng

lại là thể loại trải đều qua các chặng đường sáng tác từ khi ông mới “chân ráo

chân ướt” bước vào nghề cho đến khi trở thành “lão làng” trong nền văn chương

nước nhà. Tiểu thuyết Tô Hoài chủ yếu xoay quanh ba vấn đề lớn: thời huyền sử

xa xưa của đất nước, Hà Nội (nội và ngoại thành Hà Nội); miền núi (Tây Bắc,

Việt Bắc). Ở đề tài nào, Tô Hoài cũng tạo được dấu ấn riêng. Tiểu thuyết Tô

Hoài hấp dẫn độc giả bởi cách kể chuyện hóm hỉnh, năng lực quan sát và miêu

tả tinh tế, lối văn giàu hình ảnh và luôn biến đổi nhịp điệu, ngôn ngữ sáng tạo,

linh hoạt. Vì vậy, tiểu thuyết của Tô Hoài đã được nhiều tác giả nghiên cứu.

Trong bài viết Tô Hoài - Nguyễn Sen, khi giới thiệu về Tô Hoài, nhà nghiên cứu

Vũ Ngọc Phan đã có nhận định về phong cách tiểu thuyết: “Tiểu thuyết của Tô

Hoài cũng thuộc loại tả chân như tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan nhưng Tô

Hoài có khuynh hướng về xã hội” [95; tr.53]. Và qua một số tiểu thuyết của Tô

7

Hoài, nhà nghiên cứu khẳng định Tô Hoài “là một nhà tiểu thuyết có con mắt

quan sát sâu sắc” [95; tr.53]. Khi viết Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài, nhà

nghiên cứu Hà Minh Đức đã chỉ ra những nét đặc trưng trong tiểu thuyết của Tô

Hoài: “Có thể nhận thấy trong tiểu thuyết của ông nhiều phác thảo sắc nét,

những bức tranh miêu tả màu sắc, xen lẫn với dòng nội tâm được biểu hiện qua

số phận của nhân vật. Tiểu thuyết của Tô Hoài thường có cấu trúc gọn, nhịp điệu

nhanh và lối kể đậm đà màu sắc dân tộc. Ngòi bút văn xuôi của ông phát triển

linh hoạt và uyển chuyển theo dòng đời và khả năng đi sát các đối tượng miêu tả”

[95; tr.133]. Nhận xét của nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã góp thêm một tiếng

nói khẳng định giá trị tiểu thuyết của nhà văn Tô Hoài trên phương diện nội

dung và nghệ thuật. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ trong bài viết Tô Hoài - Nhà

văn Việt Nam hiện đại cũng đã nhận thấy sức hút của tiểu thuyết Tô Hoài ở tính

dân tộc: “Truyện và tiểu thuyết của anh hấp dẫn bạn đọc nước ngoài bởi một bản

sắc dân tộc rất đậm đà và độc đáo” [95; tr.101]. Độc giả cũng nhận thấy chất

phong tục chính là chất men nồng làm nên sự độc đáo trong tiểu thuyết Tô Hoài

và là một trong những phương diện làm nên phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Khi viết về những phong tục, tập quán ở các miền quê khác nhau, ngòi bút Tô

Hoài trở nên sắc sảo, tinh tế và ông được đánh giá là một trong những nhà văn

viết hay nhất và đặc sắc nhất. Do vậy, trong bài viết Tô Hoài, nhà nghiên cứu

Trần Hữu Tá đã đánh giá: “Tô Hoài có một nhãn quan phong tục đặc biệt nhạy

bén, sắc sảo” [95; tr.160]. Các ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu

như Vũ Ngọc Phan, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trần Hữu Tá…đã khẳng định

giá trị, sức hấp dẫn của tiểu thuyết Tô Hoài và là những gợi mở cho việc nghiên

cứu các tác phẩm tiểu thuyết cụ thể của Tô Hoài sau 1945.

Cùng với tiểu thuyết, hồi kí là thể loại đặc sắc trong sáng tác của Tô Hoài.

Tác phẩm hồi kí của Tô Hoài đã tạo được ấn tượng sâu đậm, có ý nghĩa quan

trọng trong việc tạo nên một diện mạo mới cho sự nghiệp văn học của nhà văn.

Những công trình nghiên cứu về hồi kí Tô Hoài theo thời gian tăng lên đáng kể,

góp phần khẳng định giá trị hồi kí của ông. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức trong

Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài đã chỉ ra tính xác thực là nét đặc sắc trong

8

nghệ thuật viết hồi kí Tô Hoài: “Hồi kí Tô Hoài là dòng hồi tưởng với cách giới

thiệu chắt lọc những sự việc tiêu biểu trong quá khứ. Ông tôn trọng và tạo được

niềm tin ở bạn đọc. Ông không bịa đặt thêm thắt vào những sự việc đã xảy ra

trong quá khứ và biết tôn trọng tính xác thực của người và việc” [95; tr.131].

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại –

chân dung và phong cách đã đánh giá cao về mảng hồi kí, tự truyện của Tô Hoài:

“Tôi cho rằng Tô Hoài sinh ra để viết hồi kí, tự truyện. Dường như ông có một

thứ cảm hứng riêng, có thể gọi là cảm hứng hồi tưởng…” [102; tr.299]. Đồng

thời nhà nghiên cứu khẳng định: “Hồi kí, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở

trường nhất của Tô Hoài...ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của

người viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp

dẫn của cái tôi ấy” [102]. Qua các tác phẩm hồi kí của Tô Hoài, nhà nghiên cứu

Nguyễn Đăng Mạnh đã bị hấp dẫn bởi: “Một cái tôi khôn ngoan, tinh quái, thóc

mách, lọc lõi, rất mực hiểu mình, hiểu người và có đá chút khinh bạc” của Tô

Hoài [102]. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong công trình Tô Hoài và thể

hồi kí đã khẳng định sức mạnh nội lực của Tô Hoài khi viết hồi kí: “Dường như

cả cuộc đời từng trải đã chuẩn bị cho những trang viết hôm nay của ông. Hồi kí

là nơi cả con người tác giả cùng cái triết lí ông mơ hồ cảm thấy và đã theo đuổi

suốt đời cả hai đã có dịp bộc lộ” [117; tr.942]. Trong bài viết Tô Hoài qua Tự

truyện, nhà nghiên cứu Vân Thanh đánh giá cao mảng hồi kí của Tô Hoài được

sáng tác qua cách nhìn của con mắt trẻ thơ: “Tôi cho là Tô Hoài đã thật sự có

đóng góp vào văn học ta mảng sống buồn bã, vật lộn của một thế hệ tuổi thơ -

hoặc được nhìn qua cách nhìn trẻ thơ để nói một cái gì bản chất của cuộc đời cũ”

[95; tr.399]. Nhà nghiên cứu Phạm Việt Chương ấn tượng khi đọc hồi kí của Tô

Hoài chính là giọng điệu trần thuật. Giọng điệu trần thuật là yếu tố tạo cho tác

phẩm tính đa thanh và sức hấp dẫn riêng. Tác giả đã nhận xét: “Tô Hoài sống,

lăn lóc cùng các bạn văn thơ của mình viết về họ bằng bút pháp tả thực. Hiện

thực trần trụi đọng lại thành kỷ niệm. Giọng văn hóm hỉnh mà không khinh bạc,

anh điểm những câu kết gây cho người đọc nụ cười cố quên đi nỗi buồn nào do

anh vừa kể qua” [95; tr.404]. Trong bài viết Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới, nhà

9

nghiên cứu Lý Hoài Thu đã nhận định: “Hồi kí Tô Hoài thể hiện một cái Tôi tự

sự giản dị, tỉnh táo, điềm tĩnh ghi nhận mọi sự và thể hiện nó bằng thứ ngôn ngữ

của văn xuôi - một thứ ngôn ngữ đa dạng, lắm cung bậc và thật nhiều sắc thái.

Cái chất hài hước, sự khôn ngoan minh mẫn, vẻ “đáo để” của người viết cũng

bộc lộ thật sắc nét trên các trang hồi kí” [157]. Các nhà nghiên cứu Hà Minh

Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn, Vân Thanh, Phạm Việt Chương, Lý

Hoài Thu…đã có những nhận định sắc sảo về hồi kí Tô Hoài và làm tiền đề cho

việc nghiên cứu các tác phẩm hồi kí cụ thể của Tô Hoài sau 1945.

1.2. Những công trình nghiên cứu cụ thể về tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài

sau 1945

1.2.1. Về các tác phẩm tiểu thuyết cụ thể

Trong số các tiểu thuyết Tô Hoài sáng tác ở giai đoạn sau 1945, có thể coi

Mười năm (1958), Miền Tây (1967) và Ba người khác (2006) là những tiểu

thuyết tiêu biểu được giới nghiên cứu phê bình và bạn đọc quan tâm. Các tác giả

đã tập trung đưa ra những nhận xét, đánh giá về phương diện nội dung và nghệ

thuật của tác phẩm.

1.2.1.1. Về tiểu thuyết “Mười năm” (1958)

Năm 1958, Tô Hoài cho ra mắt tiểu thuyết Mười năm với những cố gắng

mới nhưng không ngờ lại bị phê phán gay gắt, bị liệt vào loạt tác phẩm “có vấn

đề”. Vậy “vấn đề” là ở chỗ nào? Một số nhà nghiên cứu cho rằng tác phẩm

nghiêng về chủ nghĩa tự nhiên, chưa làm sáng tỏ vai trò của Đảng ở làng Hạ.

Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng tác phẩm đề cập đến những cảnh khiêu

dâm, không phù hợp với bối cảnh lúc bấy giờ. Trong bài viết Tô Hoài, sáu mươi

năm viết…, nhà nghiên cứu Phong Lê đã nhận định: “Những chuẩn bị cho Mười

năm, trên mọi phương diện của vốn sống, tư liệu, cách nhìn và quan niệm nghệ

thuật đáng ra phải là ở một tầm cao, vượt trội lên những gì ông đã viết” [95;

tr.43]. Nhà nghiên cứu thấy rằng: “Mười năm là một tiểu thuyết đáng nói trên cả

hai mặt hay - dở của Tô Hoài” [95; tr.44]. Nhà nghiên cứu Phong Lê bình luận:

“Tôi vẫn thấy ở đây những mặt mạnh của Tô Hoài, qua những chuyện bình

thường và quen thuộc, tạo nên sự sống vĩnh cửu của làng quê và những mặt yếu,

10

ở nơi mà sự sống của ông chưa tới. Giá ông thu hẹp bớt ý định và đừng quá chú

mục nhe nhắm vào một ý đồ quá lớn, như được ngụ ý trong chính cái tên Mười

năm” [95; tr.45]. Nhà nghiên cứu Vân Thanh trong bài viết Sáng tác của Tô

Hoài nhận thấy: “Tiểu thuyết Mười năm (1958) viết trong giai đoạn này bộc lộ

rõ những sai lầm của tác giả” [95; tr.68]. Tác giả đã chỉ ra những mặt hạn chế

của tác phẩm: “Người đọc chưa thấy được những nét chủ yếu của hiện thực như

những mâu thuẫn cơ bản của thời đại, âm mưu và tội ác của phong kiến, thực

dân, phong trào quần chúng, sự lãnh đạo của Đảng, mặc dù tác giả có đề cập

đến…Ngay những nhân vật được xem là tích cực như Lê và Lạp cũng nhiều khi

có một phẩm chất tầm thường. Các nhân vật phụ nữ cũng ít gây cho ta một sự

kính mến, tôn trọng” [95; tr.68]. Trong bài viết Vấn đề của tiểu thuyết “Mười

năm”, nhà nghiên cứu Như Phong đã nhìn nhận nó như một “vấn đề” cần xem

xét lại. Nhà nghiên cứu cho rằng: “Có người muốn khen tác phẩm ấy, thì mãi

mới tìm ra được một số giá trị nhất định nào đó về ngôn ngữ, về bút pháp…Có

người trách móc nó, nhưng phần nhiều là khó chịu vì những chuyện trai gái sắp

chết đói còn ngủ với nhau, con đánh bố, những đoạn tả chị hai Tâm có tính cách

khiêu dâm, tả quần chúng cách mạng thành kệch cỡm…” [95; tr.277]. Nhà

nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thấy rằng: “Nhưng ngay thời ấy, đôi khi ông

cũng cho xen vào ít nhiều khía cạnh “người thường” ở những nhân vật anh hùng.

Như nữ cán bộ cách mạng Hai Tâm đa dâm, lẳng lơ trong tiểu thuyết Mười năm

chẳng hạn. Tác phẩm này vì thế đã từng bị phê phán kịch liệt. Thậm chí dân Hà

Đông còn kéo đến phản đối tác giả, cho là ông đã bôi nhọ người quê mình”

[191]. Có thể nói, Tô Hoài là người đầu tiên sớm nhất đã miêu tả tính dục trong

tiểu thuyết của mình nhưng tác phẩm Mười năm của ông lại nhận được nhiều ý

kiến không tán thành và không được chấp nhận. Có thể thấy, ở giai đoạn đầu,

tiểu thuyết Mười năm đã được tiếp nhận với những cách nhìn, cách đánh giá phê

phán khá nặng nề.

Ngay sau thời kì Đổi mới, trong không khí cởi mở, dân chủ của đời sống

văn học, trong bài viết Cần xác định lại giá trị của “Mười năm”, nhà nghiên

cứu Hà Minh Đức đã góp tiếng nói khách quan, công bằng đánh giá lại tác phẩm,

11

xác định đúng vị trí của nó trong bộ ba tiểu thuyết viết về quê hương của Tô

Hoài cũng như với đời văn của ông và với văn học một thời. Nhà nghiên cứu đã

khẳng định: “Mười năm là một bước phát triển mới của phong cách Tô Hoài.

Qua cuốn sách này ông vừa giữ được mặt mạnh và sự sắc sảo của ngòi bút trước

kia, lại tiếp nhận thêm ánh sáng, cách nhìn và phương pháp sáng tác mới” [95;

tr.307]. Đặc biệt, nhà nghiên cứu nhấn mạnh: “Qua Mười năm, Tô Hoài thể hiện

sâu sắc hiện thực đang vận động cách mạng, đang đổi thay theo cách nhìn và

đánh giá mới với cảm quan nghệ thuật mới mẻ” [95; tr.306]. Nhà nghiên cứu Hà

Minh Đức còn bàn luận thêm: “Nếu bỏ những chi tiết mang màu sắc tự nhiên

chủ nghĩa như cảnh âu yếm của Lạp và Nhàn trong lúc còn đói lả, cảnh Hai Tâm

ve vãn cánh con trai… thì tác phẩm sẽ hoàn thiện hơn” [95; tr.307]. Bên cạnh đó,

nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp cũng đã nhận thấy sự thay đổi tư duy nghệ

thuật của Tô Hoài trong cách thể hiện: “Mười năm là tác phẩm đã chú ý về tư

duy nghệ thuật. Trong khi nhiều cây bút hướng tới cảm hứng sử thi thì Tô Hoài

vẫn chú ý đến cuộc sống thường nhật” [30; tr.119].

Với tiểu thuyết Mười năm, các nhà nghiên cứu đã đánh giá mặt thành công và

mặt hạn chế của tác phẩm. Qua đó, người đọc có cái nhìn toàn diện về tác phẩm.

1.2.1.2. Về tiểu thuyết “Miền Tây” (1967)

Năm 1967, tiểu thuyết Miền Tây được xuất bản, tiếp nối dòng suy nghĩ và

sức sáng tạo của nhà văn về đề tài miền núi. Mặc dù, Miền Tây ra đời sau muộn

nhưng tác phẩm vẫn gặt hái những thành công nhất định. Tác phẩm đã đạt được

giải thưởng Hoa sen của Hội nhà văn Á - Phi năm 1970. Tác phẩm ra đời đã

nhận được nhiều ý kiến nhận xét khác nhau. Các ý kiến chủ yếu tập trung đánh

giá trên phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm.

Về phương diện nội dung, nhà nghiên cứu Phong Lê đã nhận xét: “Đọc

Miền Tây, ở phần đầu, thật tuyệt vời bút pháp khắc họa và tạo dựng khí hậu của

Tô Hoài…Một cái mở đầu thật là ám ảnh trên bức tranh đối sánh của lịch sử -

mới và cũ, trước và sau, xưa và nay mà Tô Hoài muốn tạo dựng” [95; tr.35].

Theo nhà nghiên cứu Vân Thanh, Miền Tây là “một tiểu thuyết miêu tả những

thay đổi lớn lao về mọi mặt của người dân Tây Bắc trong công cuộc xây dựng

chủ nghĩa xã hội” [95; tr.73]. Hai nhà nghiên cứu Phong Lê và Vân Thanh đều

cho rằng tiểu thuyết Miền Tây phản ánh sự thay đổi của người dân Tây Bắc

12

trước và sau Cách mạng 1945. Trong công trình Văn học Việt Nam hiện đại, nhà

nghiên cứu Nguyễn Văn Long lại nhận ra nội dung mới trên một kiểu mô típ cũ

của tác phẩm: “Tiểu thuyết Miền Tây phản ánh những đổi thay trong công cuộc

xây dựng cuộc sống mới của người dân Tây Bắc trong thời kì mới. Tuy vậy, nhà

văn vẫn sử dụng mô típ kiểu cuộc đời cũ khổ đau bất hạnh, cuộc đời mới dưới

ánh sáng của Đảng, của cách mạng con người được hồi sinh” [96; tr.185].

Về phương diện nghệ thuật, các nhà nghiên cứu tập trung bàn luận về bút

pháp, nghệ thuật tả cảnh, ngôn ngữ, phong cách của nhà văn Tô Hoài qua tiểu

thuyết Miền Tây. Trong bài viết Tô Hoài với Miền Tây, nhà nghiên cứu Phan Cự

Đệ đã đưa ra nhận xét có giá trị về phương diện ngôn ngữ của tác phẩm: “Tô

Hoài rất chú trọng học tập lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng đặc biệt là

ngôn ngữ của ca dao và các truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong tiểu thuyết

Miền Tây ta bắt gặp một thứ ngôn ngữ trong sáng, giàu hình tượng của quần

chúng được nâng lên ở một trình độ nghệ thuật mới” [95; tr.344]. Đó là thứ ngôn

ngữ giàu tính địa phương, mang đậm phong cách Tô Hoài. Nhà nghiên cứu

Nguyễn Công Hoan trong bài viết Trau dồi Tiếng Việt lại nhận thấy một thứ

ngôn ngữ được trau chuốt tỉ mỉ, bàng bạc chất thơ trong tiểu thuyết Miền Tây:

“Theo dư luận mà tôi lượm lặt được ở phần lớn độc giả cuốn Miền Tây của Tô

Hoài thì trong ngành truyện nhỏ và truyện dài của ta mấy chục năm nay, chưa có

một tác phẩm nào viết bằng văn xuôi mà gọt giũa tỉ mỉ từng chữ từng câu, làm

cho nhiều trang phảng phất một chất thơ mà nhiều bài thơ còn thua xa” [95;

tr.520]. Trong bài viết Đọc Miền Tây, nhà nghiên cứu Khái Vinh bình luận rằng:

“Miền Tây là cuốn tiểu thuyết viết sinh động có nhiều chương tả cảnh rất hấp

dẫn…Miền Tây bộc lộ một cách dễ thấy một số điểm mạnh và điểm yếu. Sau

Truyện Tây Bắc, Miền Tây là một cố gắng mới rất đáng quý của Tô Hoài trong

việc phản ánh, miêu tả những thay đổi kì diệu của các dân tộc trên vùng cao của

Tổ quốc” [95; tr.360]. Qua nhận xét của nhà nghiên cứu Khái Vinh, người đọc

có thể thấy sự chuyển biến về tư tưởng trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài. Với

Tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức cũng cho

người đọc nhận thấy chất kí sự đậm nét trong tiểu thuyết của Tô Hoài: “Trong

nhiều chương, tác giả vận dụng lối tái hiện trực tiếp của kí sự, dựng lên từng

mảng cuộc sống còn tươi mới trong đó con người tác động lẫn nhau, tham gia

13

vào những sự kiện khác nhau của thực tế xã hội” đồng thời khẳng định tài miêu

tả của nhà văn “giàu chất hội họa và tạo hình” [95; tr.351]. Trong bài viết Tô

Hoài - Nhà văn Việt Nam hiện đại, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ cho rằng: “Miền

Tây là một cuốn tiểu thuyết vừa giàu chất kí sự vừa giàu chất thơ…Đặc điểm

phong cách Tô Hoài là bao giờ cũng cố gắng gắn liền chất hiện thực với màu sắc

lãng mạn, trữ tình thơ mộng” [95; tr.86]. Chất thơ được thể hiện qua bức tranh

thiên nhiên, phong tục tập quán và phẩm chất tốt đẹp của con người miền núi

với ngôn ngữ giàu âm thanh, hình ảnh, nhịp điệu, giọng điệu trữ tình, sâu lắng.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long đã nhận thấy tiểu thuyết của Tô Hoài dung dị,

tự nhiên: “Tiểu thuyết Tô Hoài là hình ảnh của dòng đời tự nhiên, chảy trôi miên

viễn. Cuộc sống hiện ra dưới cái nhìn của Tô Hoài thật dung dị tự nhiên như nó

vốn thế: có một thứ của sinh hoạt đời thường, vặt vãnh, cái tốt đẹp và cái tầm

thường, có đời sống xã hội, vận động của lịch sử và đời sống thế sự, sinh hoạt

phong tục” [73]. Nhà nghiên cứu Phạm Duy Nghĩa đã cho người đọc thấy được

đặc trưng phong cách sáng tác về miền núi của Tô Hoài: “Đời thường, bình dị và

trầm buồn, đó là miền núi của Tô Hoài. Những đặc trưng phong cách này đã

khơi gợi lịch sử nhiều đau thương của miền núi theo một cách riêng, gần gũi và

nhân bản. Nét dịu dàng, sâu lắng, giàu chất thi họa của nó cũng là một đặc sắc

thẩm mĩ, vừa mộc mạc cổ điển vừa có sức sống lâu bền” [73]. Nhà nghiên cứu

Miên Thảo lại cho rằng bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn làm nên sức

hút tiểu thuyết Tô Hoài: “Bằng lối dựng chuyện tài tình, Tô Hoài đã khắc họa

chân dung một cách tài ba về những nhân vật như Giàng Súa, Thào Khay, Vừ

Sóa Tỏa. Trong tác phẩm, bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn song hành

đã làm nên vẻ đẹp rất chân thật mà cũng rất giàu chất thơ mộng, lãng mạn của

núi rừng” [73].

Với tiểu thuyết Miền Tây, hầu hết các ý kiến đều tập trung đánh giá mặt

thành công của tác phẩm trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Điều đó

khẳng định giá trị, sức hấp dẫn của tiểu thuyết Miền Tây.

1.2.1.3. Về tiểu thuyết “Ba người khác” (2006)

Năm 2006, ở tuổi 86, Tô Hoài cho ra mắt tiểu thuyết Ba người khác. Từ

khi Ba người khác được xuất bản, tác phẩm đã gây được sự chú ý và tạo ra nhiều

tranh luận sôi nổi đối với độc giả và giới phê bình, nghiên cứu. Ngay những

14

dòng đầu tiên của tiểu thuyết, người đọc đã bị cuốn hút vào thế giới của những

“rễ và chuỗi”, của cán bộ “đội”. Trong Lời giới thiệu về tiểu thuyết của Nhà xuất

bản Đà Nẵng, tác giả đã viết: “Nội dung không vẽ lại diện mạo của cuộc cải

cách ruộng đất mà đi sâu vào khía cạnh con - người, thế cuộc, qua những nét

sinh hoạt, tác vụ xoay quanh họ. Do có độ lùi cần thiết, tác giả đã nhận chân

những nét bản năng, ấu trĩ, kể cả những sai lầm tội lỗi của những con người cụ

thể (mà họ chưa có ý thức được), ở đội công tác cụ thể, trong bối cảnh nhận thức

chung ở các vùng miền, nhất là nông thôn vùng sâu xa còn nhiều yếu kém” [69;

tr.5-6]. Sau khi xuất bản, tác phẩm trở thành tâm điểm của nhiều cuộc tranh luận,

nhiều diễn đàn. Tuy nhiên, điểm nhấn của những tranh luận này là Toạ đàm về

Ba người khác do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức vào ngày 22 tháng 12 năm 2006.

Hội thảo đã nhận được sự tham gia đông đảo của nhiều tác giả. Có những ý kiến

khen, chê, có những ý kiến tán thành, có những ý kiến trái chiều. Buổi hội thảo

đã tạo nên dấu ấn đặc biệt trong việc đánh giá và nhìn nhận một cách nghiêm túc,

khách quan, công bằng về giá trị cuốn tiểu thuyết Ba người khác.

Nhóm ý kiến thứ nhất là của các nhà nghiên cứu như Lê Sơn, Nguyên Ngọc,

Lại Nguyên Ân, Văn Giá, Văn Long. Hầu hết các ý kiến của các tác giả này đều

đánh giá cao giá trị của tác phẩm. Nhà nghiên cứu Lê Sơn cho rằng: “Đây là một

trong những đỉnh cao của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tái hiện không khí tâm

lý của những người trong cuộc. Đây là lời sám hối và tiếng kêu. Người đọc thấy

cũng có mình ở trong đó. Ba người khác là chúng ta và mặt khác của chúng ta”

[190]. Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc đánh giá lối viết độc đáo của Tô Hoài:

“Cách viết hay, độc đáo về cải cách ruộng đất. Không viết về nông dân mà viết

về ba anh đội…Về bút pháp, văn học chúng ta còn lâu lắm mới thoát ra bút pháp

sử thi. Tô Hoài đã thoát ra từ Cát bụi chân ai, Chiều chiều, nhưng đó là tự

truyện, đến Ba người khác mới là hư cấu. Đó là bút pháp hiện đại, mỉa mai,

dửng dưng, cười cợt, tạo nên sức mạnh của văn học” [190]. Nhà nghiên cứu Lại

Nguyên Ân nhìn nhận tác phẩm ở góc độ tâm lí xã hội: “Sự xuất hiện của những

cuốn sách như thế là một cách giải tỏa một trong những chấn thương của xã hội”

[190]. Nhà nghiên cứu còn khẳng định nét mới trong nghệ thuật của cuốn tiểu

thuyết ở “cách chọn vị thế thể hiện - hóa thân và một nhân vật xưng tôi nào đó

giúp nhà văn trần tình được nhiều hơn và cảm giác tin cậy của người đọc khi

15

đọc ông cũng ngày một nhiều hơn là vì thế” [190]. Nhà nghiên cứu Văn Giá đề

cao giá trị nhân văn của tác phẩm: “Ba người khác là một trong những tác phẩm

thiết yếu để con người phấn đấu làm người lương thiện, nâng cao chất lượng

sống và nhân văn cho con người chúng ta” [190]. Nhà nghiên cứu Văn Long

đánh giá bản lĩnh của Tô Hoài khi nói ra sự thật: “Việc xuất bản sách này là một

sự dũng cảm. Dường như khi người ta đủ mạnh người ta mới dám đưa ra những

sai lầm của mình” [190].

Nhóm ý kiến thứ hai là của các nhà nghiên cứu như Hà Minh Đức, Phan

Thị Thanh Nhàn, Nguyên An. Các nhà nghiên cứu tỏ ra băn khoăn về một số

khía cạnh của tác phẩm. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức cho rằng: “Cái kết hơi

gò, hơi dang dở, không thể nói Tô Hoài nên tìm kết khác, nhưng theo tôi so với

tổng thể thì phần kết chưa được ưng ý. Cuốn Ba người khác nhiều điểm rất hay

nhưng nhiều điểm trình độ tôi chưa tiếp thu được, có khi phải vài năm nữa”

[190]. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Phan Thị Thanh Nhàn tỏ thái độ không

đồng tình về vấn đề tính dục mà Tô Hoài thể hiện trong tác phẩm. Nhà nghiên

cứu cho rằng: “Trong Ba người khác có đến ba nhân vật đều dâm ô cả như thế

nặng quá, liều lượng như thế thì hơi quá” [190]. Nhà nghiên cứu Nguyên An

cũng lên án: “Bác Tô Hoài nhấn mạnh khía cạnh tình dục, bản năng. Điều ấy có

thể thông cảm được nhưng có điều nó nhơ nhớp quá, phi luận quá, viết khiếp

quá” [190]. Với những ý kiến đánh giá trên, người đọc nhận thấy Ba người khác

thể hiện sự cường điệu quá đáng, sự đi xuống của Tô Hoài trong sự “học đòi”

say sưa miêu tả tính dục của văn chương lúc bấy giờ. Tuy nhiên, không phải đến

thời kì này, yếu tố tính dục mới bắt đầu xuất hiện trong sáng tác của Tô Hoài.

Từ tiểu thuyết Mười năm đến Ba người khác vẫn là nhất quán trong cách miêu tả

vấn đề tính dục nhưng trong Mười năm vấn đề tính dục xuất hiện ít hơn, trong

Ba người khác yếu tố tính dục xuất hiện đậm đặc, cụ thể hơn. Tính dục trở thành

một diễn ngôn của nhà văn, là một điểm nhìn gợi dẫn những suy ngẫm về sự tồn

tại của con người trong những chiều kích vốn không dễ nắm bắt. Nếu như trước

đây, khi đề cập đến vấn đề tính dục trong văn chương, người ta cho rằng không

phù hợp. Nhưng ngày nay, vấn đề tính dục càng được đề cập nhiều trong tác

phẩm và là hiện tượng bình thường của đời sống hiện thực.

Như vậy, các công trình, bài viết nghiên cứu về các tiểu thuyết Mười năm

16

(1958), Miền Tây (1967), Ba người khác (2006) ở nhiều góc độ. Các nhà nghiên

cứu đã chỉ ra những giá trị đặc sắc của tiểu thuyết Tô Hoài trên phương diện nội

dung và hình thức. Các công trình này đã đạt được một số kết quả nhất định, góp

phần không nhỏ trong việc nghiên cứu và khám phá văn chương Tô Hoài. Tuy

nhiên, vấn đề thể loại chưa được bàn sâu, chưa được xem như một khía cạnh nổi

bật của ý tưởng, tư duy, phong cách sáng tạo, chi phối đặc điểm tiểu thuyết của

nhà văn sau 1945.

1.2.2. Về các tác phẩm hồi kí cụ thể

Hai hồi kí Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) ra đời đã gây được

sự chú ý của dư luận. Các tác phẩm được đánh giá cao, đặc biệt là ở sức hấp dẫn

trong cách phác họa sinh động những chân dung văn nghệ sĩ qua cái nhìn chân

thực của nhà văn. Tô Hoài đã tái hiện một cách chân thực những vụ án văn

chương, sự thật lịch sử, nhân vật lịch sử trong quá khứ. Nghiên cứu về Cát bụi

chân ai và Chiều chiều của Tô Hoài, nhiều tác giả đã có những bài viết đánh giá

sâu sắc về nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm từ đó khái quát về tầm vóc

hồi kí Tô Hoài trong diện mạo hồi kí Việt Nam hiện đại.

Đi sâu vào đặc trưng nội dung phản ánh của hai cuốn hồi kí, nhà nghiên

cứu Nguyên Ngọc nhận xét: “Tô Hoài có một chủ trương sống và viết theo cách

riêng của ông…Hai cuốn hồi kí của ông (và chắc có thể nhiều quyển tiếp theo

nữa) cứ như là một thứ nhật kí trung thực về xã hội, về con người, về cơ chế xã

hội…về cái vậy mà hóa ra là cả một thời đầy xáo động của xã hội Việt Nam”

[112; tr.180]. Qua bài viết Tổng quan về hồi kí Tô Hoài, nhà nghiên cứu Đặng

Tiến lại nhận thấy: “Chiều chiều mang lại nhiều ánh sáng mới soi chiếu vào một

giai đoạn dài và nhiều truân chuyên trong xã hội và văn học từ 1955 đến nay.

Ngày nay không thể viết phê bình hay lịch sử văn học mà không đi đọc lại Tô

Hoài” [167].

Bên cạnh đó, các tác giả dành nhiều công sức và tâm huyết trong việc nhìn

nhận, đánh giá hình thức của hai tác phẩm. Trong cuộc trao đổi giữa Xuân Sách

và Trần Đức Tiến về Cát bụi chân ai, nhà nghiên cứu Trần Đức Tiến chú ý tới

nghệ thuật xây dựng chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời của nhà văn Tô Hoài ở

một khoảng cách gần: “Có thể nói, bằng cuốn sách của mình, lần đầu tiên ông đã

cho thế hệ cầm bút chúng tôi nhìn một số nhân vật lớn của văn chương nước nhà

17

từ một cự li gần... Bây giờ, qua Tô Hoài, chúng tôi được nhìn gần: một khoảng

cách khá tàn nhẫn nhưng chính vì thế mà chân thực và sâu sắc” [95; tr.413]. Nhà

nghiên cứu Xuân Sách lại nhận thấy sự chân thực làm nên sức hấp dẫn văn

chương Tô Hoài: “Tác phẩm mang đậm chất phong cách Tô Hoài - từ văn phong

đến con người. Thâm hậu mà dung dị, thì thầm mà không đơn điệu nhàm chán,

lan man tí chút nhưng không kề cà vô vị, một chút u mặc với cái giọng khơi

khơi mà nói, ai muốn nghe thì nghe, không bắt buộc nghe rồi hiểu, đừng cật

vấn...Và vì thế, đúng như anh nói, sức hấp dẫn chủ yếu là sự chân thực” [95;

tr.414]. Với bài viết Viết về một cuộc đời và những cuộc đời, nhà nghiên cứu

Đặng Thị Hạnh lại quan tâm tới cấu trúc thời gian và ngôn ngữ trong Cát bụi

chân ai: “Thời gian hồi tưởng như ngẫu hứng, cũng chạy lông bông theo dòng

hoài niệm, móc vào đâu đây, dừng lại một lát rồi lại đi, vấp phải một câu nói, có

khi chỉ là một từ…là đã có thể đổi chiều, đi ngược về trước hoặc lùi về sau, có

khi hàng chục năm” [95; tr.417]. Đồng thời, nhà nghiên cứu chỉ ra sự đa dạng

trong sắc thái ngôn từ và giọng điệu trần thuật: “Sắc thái ngôn từ thật đa dạng.

Có những phát biểu thẳng thừng, những châm biếm trực tiếp, nhưng có loại mà

một số nhà nghiên cứu xếp vào dạng diễn từ hai giọng” [95; tr.423]. Nhà nghiên

cứu Phong Lê lại nhận thấy giọng điệu tự nhiên, nhẩn nha là nét đặc sắc trong

hồi kí Chiều chiều: “Tô Hoài cứ tự nhiên mà kể những gì mình đã biết, đã trải.

Trên cái kho ít thấy dấu hiệu vơi cạn đó, Tô Hoài cứ nhẩn nha dắt bạn đọc cùng

đi với mình, đến với những gì lạ mà quen hoặc quen mà lạ. Và chính khả năng

hoán đổi vị thế ấy làm nên sức hút của văn hồi ức Tô Hoài” [95; tr.40-41]. Bàn

về quan niệm nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng

Mạnh trong công trình Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân dung và phong cách

đã nhận định: “Cát bụi chân ai và Chiều chiều là thế giới vô vàn chuyện vui,

chuyện lạ được phát hiện bởi con mắt tinh quái, sắc sảo và nụ cười hóm hỉnh của

Tô Hoài. Thế giới ấy thể hiện rõ quan niệm “con người là con người” và triết lí

sống của Tô Hoài được sống như chính mình, như một con người bình thường”

[102; tr.25]. Trong công trình Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, nhà

nghiên cứu Trần Hữu Tá đã đánh giá Tô Hoài là cây bút có tiếng khi ông viết

hồi kí ở tuổi đời rất trẻ: “Chùm tác phẩm Cỏ dại, Cát bụi chân ai, Chiều chiều

đã khẳng định ông là một cây bút viết hồi kí có hạng” [141; tr.19]. Nhà nghiên

18

cứu Đoàn Trọng Huy khi nghiên cứu về hồi kí Tô Hoài đã nhận ra rằng: “Sau Tự

truyện là Cát bụi chân ai (1992). Đây là tập hồi kí đan xen với nhau từng mảng

hồi ức và kỉ niệm gắn với đời văn, bạn văn…trong một không gian và thời gian

rộng mở” [80; tr.495]. Nhà nghiên cứu Trần Văn Thọ trong Vài cảm giác với

Chiều chiều lại nhận thấy sức hấp dẫn hồi kí của Tô Hoài ở một phương diện

khác trong giọng điệu trần thuật: “Chiều chiều rất cuốn hút. Những âm thanh

nhún nhảy, đong đưa lúc mau khi thưa, lúc dồn lúc dãi tạo thành một không khí

rất gợi. Dụng văn như Tô Hoài hẳn không dễ. Nó phải tự nhiên không tỏ ra

khiên cưỡng mới có tác dụng. Cái dòng chảy của Chiều chiều là dòng chảy của

tự nhiên, là thứ văn chương lạ đến mức tự nhiên. Tự nhiên dung dị đạt được phải

là bậc thặng thừa của văn chương” [153]. Nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu trong

bài viết Hồi kí và bút kí thời kì Đổi mới cho rằng cái nhìn của Tô Hoài trong hai

cuốn hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều thấm đẫm cảm hứng nhận thức lại:

“Tác giả của Chiều chiều và Cát bụi chân ai, với một cái nhìn tỉnh táo, điềm

đạm, đã nhìn nhận lại Nhân văn - Giai phẩm và những vấn đề văn chương phức

tạp một thời với tất cả tính thời sự và cả tính bi kịch của nó. Bằng sức mạnh của

hồi tưởng, nhà văn đã mạnh dạn, thẳng thắn nói ra những chuyện buồn quá khứ,

những ấu trĩ trong văn học và chính trị một thời giúp người đọc có được một

hình dung và nhận thức tường minh hơn về lịch sử văn học nước nhà những năm

tháng đầy biến động” [158; tr.45]. Yếu tố đặc trưng trong nghệ thuật viết hồi kí

của Tô Hoài là cái nhìn khách quan của người kể chuyện. Trong công trình Tô

Hoài: Sức sáng tạo của một đời văn, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã nhấn

mạnh: “Với những gì được kể trong Chiều chiều và Cát bụi chân ai chúng ta sẽ

không khó nhận ra một Tô Hoài - nhà văn mà cả cuộc đời chỉ tâm niệm một điều:

quan trọng là phải thật, thật với chính mình và thật với cuộc sống” [35; tr.45].

Đóng góp của Tô Hoài về thể hồi kí càng được càng khẳng định hơn trong mối

tương quan với thể kí trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nhà nghiên cứu Lê Dục

Tú đã đánh giá nhà văn Tô Hoài là một trong những gương mặt xuất sắc của kí

đương đại: “Cảm hứng nghiên cứu khám phá, chiêm nghiệm đời sống đã chi

phối đến giọng điệu của nhà văn trần thuật đa thanh, phức điệu vừa thâm trầm,

hóm hỉnh vừa suồng sã thân mật vừa tranh biện triết lí. Lối tư duy này đã đưa Tô

Hoài trở thành một trong những cây bút viết hồi kí hàng đầu của văn học Việt

19

Nam thời kì Đổi mới” [181; tr.17]. Nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan trong bài

viết Tô Hoài và bạn văn qua hồi kí lại chú ý đến cách xây dựng chân dung các

bạn văn, các văn nghệ sĩ cùng thời với Tô Hoài qua lời nhận xét: “Với hai cuốn

hồi kí này, Tô Hoài đã làm sống lại một thời chưa xa với một số những gương

mặt văn sĩ thân quen và về bản thân ông, cả phần dương bản và phần âm bản,

qua đó là đời sống xã hội của một thời kì đầy biến động” [94].

Tưởng nhớ một năm ngày mất của nhà văn Tô Hoài, ngày 18 tháng 7 năm

2015, Công ty Văn hóa Phương Nam phối hợp với Hội Nhà văn Hà Nội đã tổ

chức Hội thảo Tô Hoài - một đời văn để ghi nhận những đóng góp của nhà văn

Tô Hoài. Hội thảo đã nhận được 20 tham luận từ nhiều nhà phê bình, nghiên cứu.

Các bài viết đều có giá trị, khẳng định những cống hiến của Tô Hoài, từ những

trang viết cho thiếu nhi đầy sống động như Dế Mèn phiêu lưu kí, Võ sĩ Bọ Ngựa,

Đám cưới chuột…tới mảng truyện ngắn vùng cao như Miền Tây, Truyện Tây

Bắc. Đặc biệt là đóng góp của Tô Hoài trong mảng hồi kí với các tác phẩm đặc

sắc Cát bụi chân ai, Chiều chiều...Trong số các ý kiến đó, đáng chú ý là nhận

xét của nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan về đặc điểm hồi kí Tô Hoài: “Hồi kí Tô

Hoài chỉ là một mảng nhỏ trong di sản của ông. Viết về bè bạn cũng chỉ là một

phần trong hồi kí. Là nhân chứng sống của nền văn nghệ cách mạng, Tô Hoài

viết từ góc nhìn của người trong cuộc, cung cấp cho bạn đọc những tư liệu thú vị

về một số nhà văn, cũng là những tư liệu quan trọng để người đọc có cơ sở nhìn

kĩ, hiểu sâu về cơ chế và đời sống văn nghệ” [77].

Như vậy, các tác giả thường tập trung nghiên cứu hồi kí Tô Hoài dưới góc

độ của tự sự học, thi pháp học, theo đó thường đi vào các phương diện như ngôn

ngữ, giọng điệu, phong cách…Mặc dù, có rất nhiều công trình nghiên cứu về hồi

kí của Tô Hoài song chưa phải là đã đầy đủ bởi đến nay chưa có một công trình

nghiên cứu toàn diện, hệ thống về đặc điểm hồi kí Tô Hoài sau 1945. Hồi kí là

một thể loại minh chứng cho sức sáng tạo và tài năng của ông. Sáng tác của ông

xứng đáng để nhiều thế hệ bạn đọc và nghiên cứu phê bình khám phá.

1.2.3. Những công trình nghiên cứu về sự tương tác giữa tiểu thuyết và hồi kí

Tô Hoài

Nghiên cứu về sự tương tác giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài đã có một số

ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà phê bình nghiên cứu. Các ý kiến chủ yếu

20

bàn luận về sự xâm nhập của chất tiểu thuyết vào thể hồi kí và ngược lại.

Bàn về sự xâm nhập của chất hồi kí vào thể loại tiểu thuyết, tập trung vào

một số ý kiến của các tác giả như Nguyễn Hữu Sơn, Trần Hoa Minh, Chu Mộng

Long, Trần Viết Thiện, Đỗ Hải Ninh. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn trong

bài viết Ba người khác của nhà văn lớn Tô Hoài và ba dòng suy ngẫm của một

người đọc nhận thấy: “Tư duy tiểu thuyết ở Ba người khác của Tô Hoài in đậm

phong cách truyện kí, trong đó câu chuyện có thể được coi là mảng kí ức trong

cuộc đời nhà văn Tô Hoài, đan xen giữa kí ức và tâm tưởng, kí ức của người

trong cuộc” [190]. Tác giả Trần Hoa Minh nhận thấy Ba người khác như một sự

tiếp nối mạch hồi kí, tự truyện của Tô Hoài: “Lối viết Ba người khác - được gọi

là tiểu thuyết cũng như các hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều luôn là hư hư

thực thực, nhưng ánh mắt và nụ cười tinh ranh của Tô Hoài vẫn như theo dõi và

thích thú vì đang đánh đố, dẫn dụ người đọc chúng ta” [104]. Tác giả Chu Mộng

Long trong bài viết Hai lần đọc “Ba người khác” của Tô Hoài cho rằng: “Thú

thật, đọc lần đầu, tôi không xem Ba người khác là một quyển sách hay với tư cách

là một tiểu thuyết như nó được ghi ở bìa cuốn sách. Nó mang tính chất hồi kí,

giống quyển hồi kí hơn là một tiểu thuyết đúng nghĩa” [192]. Trong chuyên luận

Tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam đương đại, tác giả Trần Viết Thiện lại

nhận thấy: “Sự kết hợp giữa chất hồi kí và tư duy tiểu thuyết đã tạo nên cái nhìn

biến cố cải cách ruộng đất một cách gần gũi, chân thực lại vừa sắc nét. Tác giả Ba

người khác đã khéo léo vận dụng tương tác thể loại để tái dựng bức tranh cuộc

sống một thời đã lùi xa nhưng không hề là câu chuyện xưa cũ, ngược lại, tồn tại

sinh động như những kí ức đầy nhân văn của con người, cho con người hôm nay”

[152; tr.70]. Tác giả Đỗ Hải Ninh trong bài viết Tô Hoài văn chương như là

cuộc đời đã cho rằng: “Từ Cát bụi chân ai, Chiều chiều đến Ba người khác là

hành trình thoát thai từ tự truyện, hồi kí thành tiểu thuyết. Tô Hoài đã lựa chọn

những hình thức tiếp cận đời sống khác nhau (hồi kí, tự truyện, tiểu thuyết)

nhưng về cơ bản vẫn là diễn ngôn về sự thật trong quá khứ. Tô Hoài luôn ngẫm

nghĩ và chọn thời điểm để kể lại những câu chuyện cũ…Tô Hoài không ngại

phơi bày những góc khuất sâu kín nhất của lịch sử và bản thân, bởi với ông, văn

chương chính là cuộc đời” [121].

Bàn về sự xâm nhập của chất tiểu thuyết vào thể hồi kí, tập trung vào một

21

số ý kiến của các nhà nghiên cứu như Nguyễn Đăng Điệp, Lý Hoài Thu, Đỗ Hải

Ninh. Trong bài viết Tô Hoài, người sinh ra để viết, nhà nghiên cứu Nguyễn

Đăng Điệp đã nhấn mạnh chất tiểu thuyết trong hai cuốn hồi kí: “Cái nhìn không

nghiêm trọng hóa là thế mạnh của Tô Hoài, nó khiến cho nhà văn, dù viết thể

loại nào đi chăng nữa, vẫn thổi được vào đó cái chất tiểu thuyết mà M.Bakhtin

từng nói đến. Cái nhìn ấy càng rõ nét hơn trong hai thiên hồi kí Cát bụi chân ai

và Chiều chiều. Đặc sắc trong hồi kí của Tô Hoài theo ý tôi trước hết, là ở nghệ

thuật dựng không khí và giọng điệu, thứ hai, đặt nhân vật trong muôn mặt đời

thường và thứ ba, các chi tiết giàu chất văn xuôi. Thật đấy mà cứ như tiểu thuyết”

[30; tr.120]. Nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu trong bài viết Hồi kí và bút kí thời kí

đổi mới cũng cho rằng hồi kí Tô Hoài giàu chất tiểu thuyết: “Hồi kí của Tô Hoài

giàu chất truyện và chất tiểu thuyết trong cách kết cấu mạch lạc, rõ ràng, mang tính

tự sự, trong giọng điệu “đa âm” và ngôn ngữ chính xác, linh hoạt” [157]. Tác giả

Đỗ Hải Ninh trong bài viết Tô Hoài văn chương như là cuộc đời đã bày tỏ quan

điểm của mình về ranh giới thể loại: “Cát bụi chân ai, Chiều chiều khi thì được

gọi là hồi kí, khi là tự truyện cũng có khi được tiếp nhận như là tiểu thuyết”

[120]. Các ý kiến trên đây là những gợi ý quan trọng để nghiên cứu sự tương tác

thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên, một số luận án, luận văn đã

chọn tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài làm đối tượng nghiên cứu và khảo sát như

một ghi nhận sự đóng góp của nhà văn đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại:

Nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài qua hồi kí (Đoàn Thị Thúy Hạnh - 2001);

Phong cách nghệ thuật Tô Hoài (Mai Thị Nhung - 2005); Phong cách tiểu

thuyết Tô Hoài (Văn Thị Mai - 2007); Cái nhìn không gian và thời gian nghệ

thuật trong hồi kí của Tô Hoài (Qua hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều)

(Nguyễn Hoàng Hà - 2009); Phong cách nghệ thuật Tô Hoài trong hồi kí Chiều

chiều và Cát bụi chân ai (Nguyễn Thị Tỉnh - 2010); Đặc điểm nghệ thuật tự

truyện và hồi kí của Tô Hoài (Nguyễn Thị Ái Vân - 2011); Nhân vật và cốt

truyện trong tiểu thuyết của Tô Hoài (Trần Thị Thu Hà - 2013); Chất trào lộng

trong hồi kí - tự truyện của Tô Hoài (Nguyễn Thị Hoài - 2018)…

Có thể nói, Tô Hoài trong tư cách là một trong những “chủ soái” của văn

học nước nhà thế kỉ XX, sáng tác của ông luôn thu hút sự quan tâm của giới

22

nghiên cứu, phê bình và chiếm được sự yêu thích của độc giả. Các nhà nghiên

cứu, bạn đọc đã dành nhiều sự chú ý, trân trọng những sáng tác mới, có giá trị

của nhà văn. Từ khi xuất hiện, các tác phẩm của Tô Hoài đã luôn được công

chúng độc giả và giới nghiên cứu phê bình tìm đọc, thẩm bình.

Nhìn tổng thể về tình hình nghiên cứu của đề tài, chúng tôi nhận thấy:

Việc nghiên cứu tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể

loại chưa có cái nhìn xuyên suốt, mang tính hệ thống và toàn diện. Vấn đề được

đề cập phần nhiều mang tính “phân lập” cục bộ, chỉ tập trung vào một số tác

phẩm, với một số vấn đề cụ thể hoặc dừng lại ở các ý kiến nhận xét, đánh giá,

nghiên cứu trên một số phương diện: nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ, không gian,

thời gian, tổ chức trần thuật... trong tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài nói chung.

Nhiều tác giả tiến hành khảo sát đặc điểm văn xuôi, phong cách, đặc trưng

tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài nói chung, chưa tập trung vào giai đoạn sau 1945 -

giai đoạn tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Hơn

nữa, một sự khảo sát với quy mô lớn và phạm vi rộng đòi hỏi phải được thực thi

qua những công trình có khuôn khổ và tính vấn đề sâu rộng, phong phú. Có lẽ vì

những trở ngại đó, từ trước đến nay chưa có công trình chuyên biệt tập trung

nghiên cứu một cách toàn diện về tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ góc

nhìn thể loại.

Đặt vấn đề nghiên cứu Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc

nhìn thể loại, luận án sẽ tập trung vào giải quyết những vấn đề sau:

Thứ nhất, luận án nhận diện, mô tả và khái quát diễn trình tiểu thuyết và

hồi kí Tô Hoài giai đoạn sau 1945.

Thứ hai, luận án đi sâu vào nghiên cứu đặc điểm tiểu thuyết và hồi kí Tô

Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại, đặc biệt làm rõ sự tương tác, giao thoa thể

loại giữa tiểu thuyết và hồi kí từ đó khẳng định đây là một đặc trưng nổi bật

23

trong phong cách sáng tác của nhà văn Tô Hoài.

Tiểu kết chƣơng 1

Như vậy, nhìn lại hệ thống các bài viết giới thiệu, nghiên cứu và đánh giá

về tiểu thuyết và hồi kí của Tô Hoài, chúng tôi nhận thấy các tác giả, các nhà

nghiên cứu đã đưa ra những đánh giá, nhận xét về tiểu thuyết, hồi kí Tô Hoài nói

chung và sau 1945 nói riêng trên một số phương diện: nội dung phản ánh, nghệ

thuật trần thuật, phong cách nghệ thuật...Trong đó, các tác giả tập trung đưa ra

những nhận xét về các tác phẩm Mười năm (1958), Miền Tây (1967), Ba người

khác (2006), Cát bụi chân ai (1992), Chiều chiều (1999) trên phương diện nội

dung và nghệ thuật. Các tác giả đã đưa ra những ý kiến đánh giá xác đáng,

khẳng định giá trị tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài giai đoạn sau 1945. Tuy nhiên,

các nhận định, diễn giải từ các công trình nghiên cứu vẫn chủ yếu tập trung vào

một số phương diện quen thuộc và đến nay, chưa có công trình nào đi sâu vào

giải quyết vấn đề mà luận án đặt ra. Những khuyết thiếu này tạo nên khoảng

trống để chúng tôi có thể triển khai đề tài nghiên cứu một cách khả thi và hệ

thống. Vì vậy, kế thừa, tiếp thu từ những nghiên cứu đi trước, chúng tôi thực

hiện đề tài Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại hướng

đến một hình dung cụ thể, đầy đủ về tiểu thuyết và hồi kí của Tô Hoài giai đoạn

sau 1945, từ đó ghi nhận, khẳng định những đóng góp và vị thế của nhà văn Tô

Hoài trong quá trình vận động và phát triển của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại

24

nửa cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI.

Chƣơng 2

VẤN ĐỀ THỂ LOẠI VÀ

DIỆN MẠO TIỂU THUYẾT, HỒI KÍ TÔ HOÀI

2.1. Đặc trƣng thể loại tiểu thuyết và hồi kí

2.1.1. Tiểu thuyết nhìn từ một số đặc trưng thể loại

2.1.1.1. Quan niệm về tiểu thuyết

Tiểu thuyết là thể loại tự sự, có vị trí quan trọng và lịch sử lâu đời trong sự

phát triển của văn học. Tiểu thuyết đã ghi dấu ấn của mình trong kho tàng văn

học thế giới tính từ khi hình thành thể loại. Về quan niệm thể loại tiểu thuyết, đã

có nhiều ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước.

Ở nước ngoài, vào thế kỉ XIX, tác giả V.Kôginôp trong công trình Các loại

hình nghệ thuật đã khẳng định: “Tiểu thuyết, văn học sử thi hiện đại” và coi tiểu

thuyết “là hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ” [87; tr.52]. Tác giả Bêlinxki

cho rằng “Tiểu thuyết là sử thi của đời tư” [10]. Sang thế kỉ XX, trong công

trình Nguyên lí lý luận văn học (tập 2), tác giả L.I.Timôfêep quan niệm: “Tiểu

thuyết là hình thức kể chuyện cỡ lớn có khả năng nói về nhiều thời điểm, miêu

tả được toàn diện hàng loạt nhân vật, phản ánh được những hình thức phức tạp

của mâu thuẫn xã hội” [170]. Tác giả đã nhấn mạnh đến yếu tố thời gian, nhân

vật, hiện thực xã hội trong tiểu thuyết. Tác giả M.Gulaiev trong công trình Lí

luận văn học thì quan niệm: “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn, mô tả đời

sống riêng của con người trong mối quan hệ rộng lớn với xã hội” [40]. Tác giả

G.N.Pôxpêlôp trong công trình Dẫn luận nghiên cứu văn học cũng có ý kiến

tương đồng với tác giả M.Gulaiev về quan niệm tiểu thuyết: “Tiểu thuyết là thể

loại tự sự có quy mô lớn đồng thời tiểu thuyết gắn liền với chủ đề đời tư” [131].

Cả hai tác giả đều nhấn mạnh vai trò của yếu tố con người đời tư đối với sự tồn

tại và phát triển của thể loại tiểu thuyết. Tác giả Lukas trong công trình Lý

thuyết tiểu thuyết đã xác nhận rằng: “Hình thức tiểu thuyết phản ánh một thế

giới trật khớp” [195]. Theo ông, mỗi thời kì lịch sử xã hội, có một hình thức văn

25

chương đi kèm. Các tác giả Sylvan Barnet, Morton Berman, William Burto

trong công trình Nhập môn văn học lại quan niệm: “Tiểu thuyết là thể loại được

viết bằng văn xuôi, có dung lượng lớn, nói về những chuyện thời sự được nhấn

mạnh” [139]. Trong công trình Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, nhà nghiên cứu

M.Bakhtin đã nhận định: “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến

chuyển và còn chưa định hình. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết, chưa hề rắn lại

và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó”

[10; tr.23]. Bên cạnh đó, ông cũng cho rằng: “Cái hôm nay, cái thì hiện tại chưa

hoàn thành như xuất phát điểm cho hoạt động nhận thức, là đặc điểm quan trọng

hàng đầu không thể thiếu được của tư duy tiểu thuyết” [10; tr.16]. Nhà nghiên

cứu M.Kundera trong công trình Nghệ thuật tiểu thuyết lại từ góc độ khác để

nhìn nhận về tiểu thuyết: “Tiểu thuyết không phải là một lời tự thú của tác giả

mà là một cuộc thăm dò cuộc sống con người trong cái thế giới đã trở thành cạm

bẫy” [88; tr.31]; “Tiểu thuyết là một sự chiêm nghiệm về cuộc sống nhìn thấy

thông qua nhân vật tưởng tượng” [88; tr.88-89]. Quan niệm về tiểu thuyết của

các nhà nghiên cứu trên thế giới đã có nhiều đóng góp ở phương diện lí luận văn

học. Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam có thể tiếp thu, bổ sung, tìm một hướng đi

mới cho tiểu thuyết dựa trên những quan niệm của các nhà nghiên cứu trên thế

giới đặc biệt của hai nhà nghiên cứu M.Bakhtin và M.Kundera.

Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan niệm khác nhau về

thể loại tiểu thuyết và nhìn nhận nó ở nhiều góc độ. Tác giả Phạm Quỳnh là

người mở đầu trong việc xây dựng cơ sở lí luận cho thể loại tiểu thuyết hiện đại

ở Việt Nam. Trong công trình Bàn về tiểu thuyết, ông tạm đưa ra một hình dung

về thể loại tiểu thuyết: “Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả

tình tự người ta, phong tục xã hội hay là những sự tích kì, đủ làm cho người đọc

có hứng thú” [150; tr.218]. Cách hiểu của tác giả Phạm Quỳnh đã bao quát được

những đặc điểm và vấn đề quan trọng nhất của thể loại tiểu thuyết: tính chất tự

sự, ngôn ngữ văn xuôi, vai trò của hư cấu sáng tạo. Trong bài viết Theo giòng,

tác giả Thạch Lam nhận thấy: “Tiểu thuyết là một câu chuyện sắp đặt, một sáng

tác của trí tưởng tượng” song nó đòi hỏi phải “hết sức gần sự sống để được linh

26

hoạt và thật như cuộc đời” [150; tr.180]. Tiểu thuyết là một thể loại đặc biệt

nhạy cảm, phản ánh sự đổi thay của con người và cuộc sống. Tác giả Thạch Lam

đã đề cập đến những khía cạnh mà theo ông là quan trọng, trong các khâu: chủ

thể sáng tác, thể loại của tác phẩm và tiếp nhận trong các tầng lớp người đọc.

Đối với nhà văn viết tiểu thuyết, tác giả Thạch Lam đòi hỏi một thái độ chân

thành, tâm huyết trong tâm thế sáng tạo. Người viết phải biết “quan sát và rung

động đúng với cái tâm hồn và bản ngã thật của mình” [150; tr.179]. Trong công

trình Khảo về tiểu thuyết, tác giả Vũ Bằng đã bàn đến việc đổi mới tư duy nghệ

thuật viết tiểu thuyết sao cho đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công chúng.

Tác giả Vũ Bằng phân biệt tiểu thuyết ở hai cấp độ: thể và loại. Về thể, văn tiểu

thuyết có nhiều thể, nhưng về loại có hai loại: truyện “quái đản bất kinh” và

truyện “gần đời thiết thực” [150; tr.192]. Phạm Quỳnh, Thạch Lam, Vũ Bằng là

các tác giả có nhiều đóng góp về việc nhận diện tiểu thuyết Việt Nam trong buổi

đầu, góp phần vào kho tàng lí luận thi pháp tiểu thuyết nửa đầu thế kỉ XX.

Tiếp nối của các nhà nghiên cứu đi trước, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan

trong công trình Nhà văn hiện đại đã bày tỏ quan điểm của mình về tiểu thuyết.

Theo ông, tiểu thuyết trước kia chỉ là những chuyện hoang đường. Bây giờ quan

niệm đó đã thay đổi bởi vì “Tiểu thuyết là một loại rất thích hợp với tính tình

nhân loại” [126]. Trong công trình Nguyên lý văn học, tác giả Nguyễn Lương

Ngọc cho rằng: “Tiểu thuyết là một thể loại mang tính quần chúng, dân chủ hóa

hơn những loại văn khác vì tiểu thuyết có tính chất đại chúng” [114]. Theo tác

giả Nguyễn Đình Thi trong công trình Công việc của người viết tiểu thuyết, tiểu

thuyết là “một trong những sáng tạo kì diệu của con người, đó là một đồ dùng,

một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu

nhau và sống với nhau” [146]. Trong công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại,

nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận định rằng: “Tiểu thuyết là một thể loại văn

học gần gũi nhất với cuộc sống” [28]. Tác giả Doãn Quốc Sỹ trong công trình

Văn học và tiểu thuyết đã tổng hợp các định nghĩa từ các bộ từ điển của ba nước

Mỹ, Pháp, Anh thành quan niệm: “Tiểu thuyết là một loại tản văn thuật sự, trong

đó tác giả hoặc mô tả hoặc kể lại một chuyện tưởng tượng. Những nhân vật,

27

những hành động, những tính tình, những đam mê được trình bày theo những

tình tiết ít nhiều khúc mắc li kì, người đọc luôn luôn có cảm tưởng như truyện

đã hoặc đương xảy ra ngoài đời thật” [138]. Các tác giả trong công trình Từ điển

thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên)

và hai công trình Lí luận văn học (Hà Minh Đức chủ biên và Phương Lựu chủ

biên) đều đồng nhất về quan niệm tiểu thuyết: tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ

lớn, có năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động theo hướng

tiếp cận cả bề rộng lẫn chiều sâu. Quan niệm về tiểu thuyết của các nhà nghiên

cứu ở Việt Nam đã góp phần hoàn thiện hệ thống quan niệm về thể loại trong lí

luận phê bình dân tộc trên hành trình tiếp cận với tư duy lí luận phê bình hiện

đại của thế giới.

Qua các ý kiến của các nhà nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước về quan

niệm tiểu thuyết, chúng tôi cho rằng: Tiểu thuyết là thể loại tự sự, phản ánh bức

tranh rộng lớn của đời sống xã hội, tiểu thuyết có khả năng tiếp cận và miêu tả

hiện thực bằng cảm hứng đa chiều.

2.1.1.2. Đặc trưng thể loại tiểu thuyết

Tiểu thuyết là một thể loại có kiểu tư duy nghệ thuật mang tính tổng hợp

cao. So với các thể loại khác, tiểu thuyết mang trong mình những đặc trưng thể

loại riêng.

Trong tiểu thuyết, nhân vật giữ vai trò quan trọng, là tâm điểm của tác

phẩm. Tác giả Bùi Việt Thắng nhận định: “Nói đến tiểu thuyết là nói đến nhân

vật. Tài nghệ của nhà tiểu thuyết cũng chủ yếu khúc xạ qua nhân vật vì nó là con

đẻ của tinh thần nhà văn” [144; tr.110]. Thông qua nhân vật, người đọc thấy

được bộ mặt xã hội đương thời và những vấn đề muôn thuở của thân phận con

người. Nhân vật trong tiểu thuyết khác với nhân vật sử thi, nhân vật trong truyện

trung đại ở chỗ nhân vật trong tiểu thuyết là “con người nếm trải”, là kiểu nhân

vật số phận, trong khi nhân vật trong các thể loại khác thường là “nhân vật hành

động, nhân vật đạo đức”. Nhân vật trong tiểu thuyết phải trải qua nhiều đấu

tranh, dằn vặt của cuộc đời, chịu nhiều đau khổ, oan nghiệt của số phận. Nhân

vật không chỉ nếm trải những hoàn cảnh sống mà còn nếm trải những cảm xúc

28

của chính mình. Từ một phương diện khác, nhà nghiên cứu M.Bakhtin chỉ ra sự

khác biệt giữa nhân vật trong tiểu thuyết và nhân vật trong các thể loại khác.

M.Bakhtin cho rằng, đối với các thể loại cao thượng thì “Con người thuộc về

quá khứ tuyệt đối, là con người hoàn tất và hoàn chỉnh toàn bộ” [10; tr.74-75],

còn trong tiểu thuyết “Con người không thể hóa thân đến cùng vào cái thân xác

xã hội - lịch sử hiện hữu…bao giờ cũng vẫn còn phần nhân tính dư thừa chưa

được thể hiện, bao giờ cũng vẫn còn nhu cầu về tương lai và vị trí phải có cho

tương lai ấy” [10; tr.81]. M.Bakhtin đã đem đến một quan niệm mới về cách

nhìn nhận con người và phương thức xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết “nhân

vật tiểu thuyết không được “anh hùng” cả theo nghĩa sử thi lẫn theo nghĩa bi

kịch của từ ấy: nó phải kết hợp trong nó cả những nét chính diện lẫn phản diện,

cả thấp kém lẫn cao thượng, cả nực cười lẫn nghiêm trang” [10; tr.31]. Bên cạnh

ý kiến của M.Bakhtin về quan niệm nhân vật thì M.Kundera cũng đưa ra quan

điểm riêng của mình. Ông đã khẳng định sứ mệnh lớn lao của tiểu thuyết là bảo

vệ con người trong thời đại máy móc lên ngôi, tiểu thuyết làm nhiệm vụ thức

tỉnh con người bằng cái hiền minh của sự lưỡng lự. Khi thời đại lãng quên con

người thì M.Kundera là người đầu tiên đã khẳng định vị trí, vai trò của con

người. Nhìn nhận con người trong thời hiện đại nên theo ông, nhân vật là cái tôi

bí ẩn của con người, cái tôi của tác giả mà nhà tiểu thuyết hóa thân để thử

nghiệm. Nhân vật không chỉ được hư cấu, mang tính ẩn dụ mà còn là nhân vật

lịch sử.

Ở Việt Nam, đầu thế kỉ XX, quan niệm về nhân vật trong tiểu thuyết thực

sự mới mẻ và hiện đại. Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh cho rằng nhân vật phải thể

hiện được nhiều chiều tính cách của con người “Người ta là người với những sự

cao quý và hẹn hạ con người” [130]. Tác giả Vũ Bằng quan niệm con người là

tổng thể của những thống nhất, có khi đối lập “Họ cũng là người như chúng ta

không hơn không kém, có một tấm lòng quảng đại, nhưng lại rất có thể có

những điểm hơn kém, có một khối óc quang minh nhưng lại rất có thể xa vào

hầm tội lỗi” [13]. Các nhà phê bình ở đô thị miền Nam, giai đoạn 1954 - 1975

lại quan niệm “nhân vật là là yếu tố không thể thiếu trong tiểu thuyết, ở nhân vật

29

có thể tìm thấy bộ mặt con người. Nhân vật là chiếc cầu nối giữa cuộc đời thực

với cuộc đời có vẻ thực trong tiểu thuyết” [6]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình

quan niệm về nhân vật trong tiểu thuyết đương đại: “Nhân vật vẫn tồn tại, nhưng

nó không còn giống như trong truyền thống, quá trình xây dựng nhân vật trở

thành công cuộc phá hủy chính nó” [16; tr.230-232]. Đặc biệt, nhà nghiên cứu

Đặng Anh Đào đã so sánh nhân vật trong tiểu thuyết truyền thống và tiểu thuyết

phương Tây hiện đại. Nhà nghiên cứu chỉ ra trong tiểu thuyết truyền thống, nhân

vật được kể lại trong một quá trình lịch sử, nhân vật được tái hiện số phận hay

một quãng đời còn trong tiểu thuyết phương Tây thế kỉ XX, nhân vật chỉ còn là

những mảnh đứt đoạn, được nhìn từ nhiều điểm nhìn khác nhau của nhiều nhân

vật trong cùng một tác phẩm. Nhà nghiên cứu cho rằng cái mới của các nhà tiểu

thuyết phương Tây hiện đại “đứng ở góc độ xây dựng nhân vật, chính là ở chỗ:

họ góp phần hủy diệt tính cách nhân vật, hiểu theo nghĩa nhân vật bị cắt thành

nhiều mảnh khó lắp ghép tạo dựng lại” [26; tr.59].

Như vậy, nhân vật là linh hồn của tác phẩm “Nhân vật là nơi duy nhất tập

trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác” (Tô Hoài). Về phía tác giả,

nhân vật là nơi thể hiện một cách tập trung nhất, sâu đậm nhất “quan niệm nghệ

thuật về con người”. Tác giả gửi gắm tâm tư, tình cảm, thông điệp và lí giải mọi

vấn đề của đời sống xã hội thông qua nhân vật. Về phía độc giả, nhân vật là chìa

khóa để nhà văn giải mã những vấn đề hiện thực đặt ra trong tác phẩm.

Cốt truyện là một yếu tố không thể thiếu của thể loại tiểu thuyết. Cốt truyện

được coi như xương sống của một con người, nó chi phối mạnh mạch nguồn

cảm xúc của toàn bộ tác phẩm. Cốt truyện là nơi để nhân vật thể hiện những suy

nghĩ, hành động của mình đồng thời cũng nơi thể hiện tư tưởng, chủ đề mà nhà

văn muốn gửi gắm. Trong văn học truyền thống, cốt truyện giữ vai trò quan

trọng, làm nhiệm vụ bộc lộ tính cách nhân vật, thể hiện xung đột xã hội và

khẳng định phong cách, tài năng của nhà văn “Trong tiểu thuyết, không thể

không có cốt truyện, cho dù hiện nay có xu hướng nhạt hóa cốt truyện thì cũng

không đồng nghĩa với việc không cần, không có cốt truyện, vì tác phẩm vẫn tồn

tại sự kiện, chỉ là không nhất thiết phải có mối quan hệ nhân quả mà thôi” [56].

30

Trong văn học hiện đại, cốt truyện không còn giữ vị trí độc tôn. Nhà nghiên cứu

Đặng Anh Đào trong công trình Đổi mới nghệ thuật phương Tây hiện đại cho

rằng: cốt truyện là xương sống của tiểu thuyết truyền thống tới mức nó đã được

định hình về mặt cấu trúc. Nó bao gồm các phần: trình bày, khai đoạn, phát triển,

đỉnh điểm, kết thúc. Tuy nhiên, do sự nới lỏng độ căng của cốt truyện, đến mức

có thể dẫn đến sự hủy diệt cốt truyện “cốt truyện trong tiểu thuyết hiện đại bị

giảm nhẹ”, do kết cấu lắp ghép của nhiều tiểu thuyết hiện đại. Trong văn xuôi

hậu hiện đại, vai trò của cốt truyện ngày càng mờ nhạt. Tác giả Barry Lewish

nhấn mạnh “Cốt truyện bị nghiền nát thành từng viên nhỏ của biến cố và hoàn

cảnh, nhân vật được phân tán thành một bó khát vọng và nhức nhối” [26].

Bất cứ tiểu thuyết nào cũng cần một kết cấu nhất định. Kết cấu được xem

là sự cấu tạo, tổ chức, sắp xếp liên kết các yếu tố bên trong và bên ngoài của tác

phẩm thành chỉnh thể nghệ thuật. Trong công trình Từ điển thuật ngữ văn học,

các tác giả cho rằng “Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác

phẩm…Kết cấu bao gồm tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không

gian nghệ thuật của tác phẩm, nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các

thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện”

[48; tr.156-157]. Tác giả Iu.Lotman cho rằng mỗi truyện kể đều có thể được xác

định trong một kết cấu hoàn chỉnh nhất định, đó là khung “Khung của tác phẩm

văn học được tạo thành bởi hai yếu tố: mở đầu và kết thúc” [115]. M.Kundera

trong công trình Nghệ thuật tiểu thuyết lại quan niệm về kết cấu của tiểu thuyết

theo cách khác, đó là “một nghệ thuật mới của phép giản lược căn bản, một nghệ

thuật mới trong lối đối âm tiểu thuyết và một nghệ thuật tiểu luận đặc biệt có

tính tiểu thuyết” [88]. Ông cho rằng, kết cấu không chỉ là hình thức mà còn góp

phần biểu đạt nội dung và bộc lộ tài năng của nhà văn.

Nói tới vai trò của kết cấu trong tiểu thuyết, nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh

cho rằng “Nhờ kết cấu mà người đọc mặc dù biết chuyện được kể trong tiểu

thuyết là bịa đặt song vẫn không thể không tin” [130]. Nhà nghiên cứu Phan Cự

Đệ cho rằng kết cấu có vai trò “tổ chức mối liên hệ giữa các yếu tố thuộc nội

dung tác phẩm (tính cách và hoàn cảnh, hành động và biến cố trong cốt truyện)

31

và các yếu tố khác thuộc hình thức (bố cục, hệ thống ngôn ngữ, nhịp điệu)” [28].

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử nhấn mạnh “Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức

tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà

văn tự đặt ra” [135; tr.152]. Người viết tiểu thuyết có thể lựa chọn những kiểu

kết cấu truyền thống như: kết cấu chương hồi, kết cấu tâm lí, kết cấu đơn tuyến,

kết cấu song tuyến, kết cấu đa tuyến, kết cấu tuyến tính…và các kiểu kết cấu

hiện đại: kết cấu lắp ghép, phân mảnh, kết cấu liên hoàn, kết cấu đa tầng, kết cấu

vòng tròn, kết cấu xoắn kép, kết cấu trùng điệp,…Dù nhà văn lựa chọn kiểu kết

cấu nào thì kiểu cấu đó phải tăng sức biểu hiện của đề tài, chủ đề, tăng sức tác

động nghệ thuật, phục vụ tối đa cho nhiệm vụ nghệ thuật, thể hiện nội dung, tư

tưởng và gây ấn tượng mạnh cho người đọc.

Trong tiểu thuyết không thể thiếu vai trò của người kể chuyện. Người kể

chuyện là một dạng hình tượng do tác giả hư cấu, sáng tạo nên, là người đại diện

phát ngôn cho tác giả trong tác phẩm. Trong tiểu thuyết, người kể chuyện giữ

một vai trò quan trọng. Người kể chuyện chính là cầu nối, tạo mối quan hệ

khăng khít giữa nhân vật - người kể chuyện - độc giả. Người kể chuyện có vai

trò giới thiệu, dẫn dắt câu chuyện và điều khiển câu chuyện. Người kể chuyện có

mối quan hệ mật thiết với điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn không chỉ là vị trí,

xuất phát điểm mà từ đó hiện thực được quan sát và được kể lại mà còn là tư

tưởng và kết cấu của tác phẩm nghệ thuật và là nhân tố cơ bản của cấu trúc tác

phẩm nghệ thuật mang giá trị biểu cảm. Điểm nhìn là một khái niệm đã được đề

cập khá sớm, đặc biệt ở Anh và Mĩ. Theo tác giả M.H.Abrahams trong công

trình Từ điển thuật ngữ văn học, điểm nhìn chỉ ra “những cách thức mà một câu

chuyện được kể đến - một hay nhiều phương thức được thiết lập bởi tác giả bằng

ý nghĩa mà độc giả được giới thiệu với những cá tính, đối thoại, những hành

động, sự sắp đặt và những sự kiện mà trần thuật cấu thành trong một tác phẩm

hư cấu” [194; tr.165]. Theo tác giả Cao Kim Lan trong công trình Ma thuật của

truyện kể - Tự sự học và những diễn giải văn học Việt Nam hiện đại thì quan

niệm “điểm nhìn chính là một mánh khóe thuộc về kĩ thuật, một phương tiện để

chúng ta có thể tiến cái đích tham vọng nhất: sức quyến rũ của truyện kể” [91;

32

tr.12]. Trong tiểu thuyết, dù người kể chuyện giấu mình ở ngôi trung gian hay

xưng “tôi” khi đứng ra kể đủ mọi thứ chuyện về mình hoặc về người khác thì đó

vẫn là dạng tiểu thuyết có một điểm nhìn. Một trong những xu hướng tìm tòi,

đổi mới của tiểu thuyết hiện đại liên quan đến người kể chuyện là việc gia tăng

các điểm nhìn. Nhà văn có thể xây dựng nhiều nhân vật kể chuyện, nhiều điểm

nhìn từ nhiều khoảng, góc thời gian và không gian khác nhau, điểm nhìn có thể

dịch chuyển và trao cho nhân vật. Tác giả Mai Hải Oanh cho rằng: “Sự đan xen

và dịch chuyển liên tục điểm nhìn cũng là cách thức để tạo nên tính phức điệu

của tiểu thuyết. Theo đó, văn bản nghệ thuật trở thành một cấu trúc đa tầng, có

khả năng phá vỡ tính đơn âm và cùng lúc vang lên những tiếng nói khác nhau”

[125; tr.219].

Giọng điệu trần thuật cũng là một trong những phương diện cơ bản để xây

dựng người kể chuyện. Giọng điệu trần thuật chính là giọng điệu của người kể

chuyện gắn liền với dụng ý sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Nó giúp xác định

rõ mối quan hệ giữa hành động kể với các sự kiện, tình huống được trình bày

trong truyện kể và thể hiện thái độ, cách đánh giá của người kể chuyện đối với

câu chuyện được kể lại. Qua giọng điệu, thái độ, cảm xúc của người kể chuyện

đối với câu chuyện được kể lại cũng bộc lộ. Nhà nghiên cứu G.Gentte quan

niệm rằng giọng điệu phải trả lời cho câu hỏi ai nói, nó hướng về người phát

ngôn về “hành động nói trong mối liên hệ với chủ thể của nó - chủ thể ấy không

chỉ là kẻ thực hiện hoặc chịu hành động nói, mà còn là người (văn là kẻ đó hoặc

kẻ khác)” [134]. Nhà nghiên cứu Gerald Prince coi giọng điệu là “thái độ của

người trần thuật đối với người nghe chuyện và/hoặc những tình huống và sự

kiện được trình bày bằng cách thể hiện hàm ẩn hoặc công khai thái độ đó trong

hoạt động trần thuật của anh ta” [196; tr.100]. Giọng điệu còn được hiểu “là thái

độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được

miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu

tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay

châm biếm” [48; tr.134]. Nhà văn có thể có nhiều giọng điệu khác nhau nhưng

phải dựa trên một giọng điệu chủ đạo “Giọng điệu trong tác phẩm gắn với cái

33

giọng trời phú của mỗi tác giả nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù

hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng,

có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu”

[48; tr.135]. Sự đa sắc thái giọng điệu là một phương tiện cốt lõi chuyển hiện

thực đời sống vào tác phẩm và thể hiện thái độ của nhà văn trước cuộc sống. Sự

hòa trộn nhiều giọng trong trần thuật đã tạo nên sự phức điệu và sắc thái đa

thanh thể hiện được đặc trưng về tính đối thoại của tiểu thuyết hiện đại. Thay

đổi giọng điệu cũng là thay đổi tâm thế cầm bút, thay đổi tư duy nghệ thuật của

chủ thể sáng tạo.

Như vậy, khi nói tới tiểu thuyết cần phải nói tới nhân vật, cốt truyện, kết cấu,

người kể chuyện. Đó là các đặc trưng cơ bản xác lập nên thể loại tiểu thuyết và là

tiền đề nghiên cứu đặc điểm thể loại tiểu thuyết Tô Hoài giai đoạn sau 1945.

2.1.2. Hồi kí nhìn từ một số đặc trưng thể loại

2.1.2.1. Quan niệm về hồi kí

Trong văn xuôi, bên cạnh tiểu thuyết, hồi kí là một thể loại quan trọng. Hồi

kí là một tiểu loại của kí văn học, gắn với tên tuổi của các nhà hoạt động xã hội,

khoa học, nghệ thuật. “Hồi” có nghĩa là quay lại, trở lại; “kí” có nghĩa là ghi

chép. Hồi kí có nghĩa là ghi lại những sự việc, sự kiện thuộc về quá khứ đã đi

qua, nó là phần hồi ức, kỉ niệm sâu đậm của người viết. Có nhiều quan niệm

khác nhau về thể hồi kí, được trình bày trong một số công trình như Từ điển

thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên),

150 thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân), Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng

Việt (Nguyễn Văn Đạm), Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê). Hầu hết các tác giả

trong các công trình này đều cho rằng: Hồi kí là một thể loại thuộc loại hình kí,

kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc

chứng kiến, có mối quan hệ với thời đại. Trong công trình Kí và giảng dạy kí,

tác giả Hoàng Như Mai viết: “Hồi kí ghi lại những sự việc đã qua, nhưng những

sự việc ấy không phải thuộc vào một thời kì lịch sử xa xôi mà phải gần gũi, có

liên quan khá mật thiết với hiện tại. Hồi kí thường là do những người đang còn

sống kể lại” [100; tr.218]. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử xem hồi kí là “thể loại

34

ghi chép các sự kiện quá khứ đã trải qua do đương sự thực hiện, cũng là một

hình thức văn học riêng tư, mình nói về mình, một dạng tự truyện của tác giả.

Hồi kí cung cấp những tư liệu của quá khứ mà đương thời chưa có điều kiện nói

được” [135; tr.379-380]. Trong công trình Lí luận văn học (Hà Minh Đức chủ

biên), các tác giả quan niệm: “Hồi kí là một thể văn quan trọng. Người viết hồi

kí kể lại những điều mình có dịp quan sát hoặc nghe trực tiếp, những sự việc và

con người để lại ấn tượng sâu sắc, gắn bó với những kỉ niệm riêng, nhưng đồng

thời lại có nội dung xã hội phong phú. Thời điểm câu chuyện xảy ra thuộc về

một quá khứ gần gũi và có nhiều liên hệ với cuộc đời hiện tại” [36; tr.230].

Trong công trình Lí luận văn học (Phương Lựu chủ biên), mặc dù các tác giả

không đưa ra định nghĩa cụ thể về hồi kí nhưng người đọc vẫn hình dung: “Hồi

kí với đặc điểm là chủ thể trần thuật phải là người trong cuộc, kể lại những sự

việc trong quá khứ. Hồi kí có thể nặng về người hay việc, có thể theo dạng kết

cấu - cốt truyện hoặc dạng kết cấu - liên tưởng” [99; tr.436]. Trong công trình Lí

luận văn học, các tác giả Lê Lưu Oanh, Phạm Đăng Dư cho rằng: “Chủ thể trần

thuật trong hồi kí phải là người trong cuộc, người đã sống, trải nghiệm và là

nhân vật chính…Hồi kí có thể là những chuyện đời tư, cá nhân, thường là của

những người phần nào nổi tiếng” [124; tr.219]. Tác giả Nguyễn Ngọc Thiện

trong bài viết Hồi kí văn học trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại cho

rằng: “Hồi kí là một thể tài kí văn học được các nhà văn sử dụng để ghi chép, tái

hiện, trần thuật lại, kể lại từ ngôi thứ nhất - ngôi tác giả với cái tôi của anh ta -

một cách trung thực và chọn lọc những việc đã xảy ra cùng những người có liên

quan với tác giả, với nghề văn và đời sống văn chương trong quá khứ mà bản thân

tác giả đã chứng kiến, cùng sống và tham dự” [151]. Như vậy, có rất nhiều ý kiến

khác nhau của các nhà nghiên cứu về quan niệm hồi kí nhưng chúng tôi cho rằng:

Hồi kí ghi chép lại những sự kiện trong quá khứ, tác giả viết hồi kí thường là có tên

tuổi. Hồi kí gắn với những trải nghiệm của nhà văn, những câu chuyện của họ

hoặc của những người xung quanh qua trường quan sát của chủ thể sáng tác.

So với nhật kí, tự truyện; hồi kí vừa có điểm tương đồng vừa có điểm khác biệt.

Hồi kí và nhật kí đều có điểm giống nhau ở hình thức giãi bày, tâm sự và

35

chú ý đến các sự kiện mang tính chất tiểu sử. Tuy nhiên, giữa hồi kí và nhật kí

cũng có những điểm khác nhau. Về đối tượng sáng tác, nhật kí là loại thông

dụng, phổ biến, tất cả đối tượng nếu có nhu cầu đều có thể viết nhật kí còn tác

giả viết hồi kí thường là có tên tuổi, hồi kí gắn với các nhà hoạt động xã hội,

khoa học, nghệ thuật…Về ngôi trần thuật, nhật kí là thể loại mang tính chất cá

nhân riêng tư, tác giả hay nhân vật của cuốn nhật kí thường ở ngôi thứ nhất,

người viết luôn là trung tâm. Ở hồi kí, ngôi trần thuật có thể là tác giả hoặc trao

cho các nhân vật trong tác phẩm. Về trình tự thời gian, hình thức của nhật kí

theo thời gian tuyến tính. Người viết nhật kí bao giờ cũng tôn trọng trật tự biên

niên của sự việc ghi chép nhật kí. Còn hồi kí kể về những việc đã xảy ra, từ

điểm nhìn hiện tại kể về quá khứ (thời gian ngược chiều). Bên cạnh đó, nhật kí

thường chỉ ghi lại những sự kiện, những cảm nghĩ “vừa mới xảy ra” chưa lâu,

nhật kí có tính thời sự và thường dang dở, ít khái quát, bởi thời gian sống và viết

gần như đồng thời còn hồi kí có tính tổng kết và lí giải. Nếu hồi kí viết ra nhằm

giãi bày, thú nhận với người khác thì nhật kí là lối viết thầm kín cho riêng mình,

có tính riêng tư. Hồi kí có ý định công bố còn nhật kí thì không hoặc chưa.

Hồi kí và tự truyện đều là những thể văn xuôi kể về cá nhân, viết về những

gì thuộc quá khứ nhưng hai thể loại này không hoàn toàn trùng khít. Tác giả nổi

tiếng người Mỹ Gore Vidal đã chỉ ra sự khác nhau: “Một cuốn hồi kí là cách

người ta nhớ về cuộc đời của chính mình, trong khi cuốn tự truyện là lịch sử, đòi

hỏi phải nghiên cứu, ngày tháng, sự kiện được kiểm tra hai lần” [197]. Tác giả

Hoàng Như Mai cũng nhận thấy những điểm khác nhau cơ bản giữa hồi kí và tự

truyện là “tự truyện thiên về kể lại những chuyện thân mật, bình thường nhiều

hơn mà hồi kí thì thiên về những sự kiện có tính lịch sử. Cũng do đặc điểm này,

mà sự hư cấu trong tự truyện có thể xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người

viết. Cho nên nói về giá trị lịch sử thì hồi kí hơn tự truyện, nhưng đứng về tính

chất văn học thì tự truyện có thể hơn hồi kí vì tự truyện thuộc phạm trù của

truyện” [100; tr.218]. Hồi kí và tự truyện khác nhau ở một số điểm cơ bản. Về

đối tượng phản ánh, tâm điểm của hồi kí là thế giới bên ngoài, là cuộc sống và

con người ở một thời kì lịch sử nào đó, là quan sát của cá nhân trước chuyển

36

động của lịch sử. Hồi kí không nhất thiết kể về cái tôi mặc dù tôi là người chứng

kiến. Hồi kí hoàn toàn có thể là chuyện về những người khác do tác giả trực tiếp

chứng kiến hoặc nghe kể lại. Mục đích của hồi kí là cung cấp những tư liệu của

quá khứ mà đương thời chưa có điều kiện để nói ra, hồi kí vừa mang tính hướng

nội và hướng ngoại. Còn tự truyện, mang tính hướng nội, tác giả - người kể

chuyện - nhân vật là một, tự truyện lấy cuộc đời của nhân vật làm đối tượng

chính, khám phá tự họa gương mặt của mình qua hồi ức, tâm điểm của tự truyện

là cái tôi cá nhân của người viết. Về yếu tố sự thật và hư cấu, hồi kí đòi hỏi sự

chính xác của sự kiện và những đánh giá khách quan của người viết hồi kí. Tự

truyện quan tâm đến nhiều hơn giá trị nghệ thuật nên được quyền sử dụng các

chi tiết tiểu sử như chất liệu để tái tạo quá khứ, nhào nặn hiện thực theo mục

đích ý đồ của nhà văn, cho phép nhà văn hư cấu để tạo nên những hình tượng

hoàn chỉnh. Như vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa hồi kí và tự truyện ở chỗ: tư

duy hồi kí là tư duy vừa hướng nội vừa hướng ngoại, tư duy tự truyện là tư duy

hướng nội.

2.1.2.2. Đặc trưng thể hồi kí

Đặc trưng cơ bản của hồi kí là cốt lõi sự thật và giải mã sự thật, không hư

cấu, không có cốt truyện, dựa trên sự hồi tưởng kí ức một cách chân thực. Tác

giả viết hồi kí là người trong cuộc, kể lại những việc đã xảy ra trong quá khứ mà

bản thân mình là người tham dự hoặc chứng kiến thậm chí lấy chất liệu từ cuộc

đời của chính mình nên nội dung phản ánh mang tính xác thực cao. Mặc dù hồi

kí viết về những sự kiện, con người quá khứ nhưng lại giàu tính thời sự ở chỗ nó

hướng tới cái hiện tại chưa hoàn kết và có đường dây liên kết với đời sống

đương đại. Hồi kí góp phần trả lời câu hỏi cho đời sống đương đại và soi sáng

cho hiện tại. Hồi kí là thể loại được nhiều nhà văn lựa chọn sáng tác do đặc

trưng của nó là đáp ứng được tối đa nhu cầu tái hiện bức tranh chân thực đời

sống xã hội, lịch sử một thời đã qua. Phản ánh và bám sát “người thật, việc thật”

trong đời sống xã hội là một nguyên tắc, là “lẽ sống” của hồi kí. Hồi kí tôn trọng

sự thật nhưng không có nghĩa nhà văn sao chụp nguyên xi con người, cuộc sống

ở ngoài đời thực đưa vào trong tác phẩm mà phải là những sự thật có tính đại

37

diện, có độ hấp dẫn nhất định với sự tò mò của độc giả. Hồi kí đảm bảo tính

chân thực theo cách riêng của nhà văn vừa tôn trọng sự thật trong quá khứ, vừa

thành thật với chính suy nghĩ, cảm xúc của chính mình. Việc phản ánh “người

thật, việc thật” trong hồi kí không tách rời với nhu cầu khám phá đời sống tạo

nên cái nhìn đa chiều về cuộc đời và con người. Đây là nét đặc trưng trong sự

thật của hồi kí, là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn riêng của thể loại này. “Người thật,

việc thật” trong cuộc sống và “người thật, việc thật” trong tác phẩm có thể thống

nhất tương ứng nhưng không thể đồng nhất và trùng khít là một. Sự thật xảy ra

trong quá khứ có độ lùi khá xa nên người chứng kiến không thể nhớ lại tường

tận mọi diễn biến sự việc, không thể bao quát hết do vậy hồi kí khó tránh khỏi

tính chủ quan của người kể chuyện. Cách kể chuyện trong hồi kí theo dòng hồi

tưởng của tác giả, tác giả nhớ đến đâu kể đến đó. Tác giả có thể hồi tưởng lại

quá khứ theo trật tự thời gian tuyến tính từ quá khứ xa đến quá khứ gần. Tuy

nhiên, trong tác phẩm hồi kí, dòng hồi ức có thể bị đảo lộn không theo quy luật

khách quan mà chịu sự tác động của ý thức tác giả.

Hình tượng tác giả là vị trí trung tâm nổi bật của hồi kí. Nhà văn là người

sáng tạo ra thế giới nghệ thuật. Mỗi tác phẩm bao giờ cũng lưu lại dấu ấn, phong

cách, tư tưởng, quan điểm thẩm mĩ của nhà văn. Nếu cái tôi thứ nhất của tác giả

là cái tôi trong đời sống hiện thực (tác giả tiểu sử) thì cái tôi muốn nói tới ở đây

là cái tôi tồn tại trong tác phẩm văn học hay còn gọi là “hình tượng tác giả”. Các

tác giả trong công trình Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra nội dung khái quát

về hình tượng tác giả: “Hình tượng tác giả là một phạm trù thể hiện cách tự ý

thức của tác giả về vai trò xã hội và vai trò văn học của mình trong tác phẩm,

một vai trò được người đọc chờ đợi” [48; tr.149]. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn

học, tác giả Lại Nguyên Ân đã đi từ thuật ngữ “tác giả văn học” để làm cơ sở

xem xét khái niệm “hình tượng tác giả”: “Tác giả là người sáng tạo ra tác phẩm

văn học, để lại dấu ấn của mình ở thế giới nghệ thuật do mình sáng tạo ra” [7;

tr.146]. Tác giả tiểu sử và hình tượng tác giả có mối quan hệ chặt chẽ với nhau

nhưng không phải là một. Tác giả tiểu sử như một khái niệm ngoài thi pháp. Tác

giả tiểu sử là con người cụ thể, có lai lịch, số phận, tính cách rõ ràng, trải qua

38

những bước thăng trầm của cuộc đời. Đặc điểm cuộc đời và tài năng nghệ thuật

của tác giả tiểu sử có ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình sáng tạo, in đậm dấu ấn

trong tác phẩm. Tác giả tiểu sử là tiền đề cho việc thể hiện hình tượng tác giả

trong tác phẩm. Hình tượng tác giả là một hiện tượng thẩm mĩ do nhà văn sáng

tạo ra. Trong tác phẩm, nhà văn luôn miêu tả mình trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi đọc

tác phẩm, độc giả sẽ nhận ra hình tượng tác giả là người sáng tạo tổ chức nội dung

và hình thức cái nhìn nghệ thuật theo quan niệm riêng và suy nghĩ của mình về thế

giới khách quan, đó là một kiểu “tác giả hàm ẩn” bên trong tác phẩm.

Hình tượng tác giả được thể hiện qua cái nhìn nghệ thuật, sự tự thể hiện của

tác giả thành hình tượng. Cái nhìn là một năng lực tinh thần đặc biệt của mỗi

nhà văn, là yếu tố giúp phân biệt nhà văn này với nhà văn khác. Cái nhìn gắn

với chiều sâu và mang tính phát hiện của nhà văn. Tài năng của nhà văn thể hiện

ở tính chiều sâu đó. Cái nhìn nghệ thuật thể hiện được tiếng nói của nhà văn,

tiếng nói riêng càng mạnh thì hình tượng tác giả càng rõ nét. Cái nhìn nghệ thuật

là vấn đề then chốt trong sáng tác văn học bởi nó mang đến cách nhìn, khả năng

khái quát, đề xuất những vấn đề cuộc sống. Cái nhìn nghệ thuật là một biểu hiện

trong thế giới nghệ thuật qua đó người đọc nhận ra con người nghệ sĩ của tác giả.

Sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng là phương diện thứ hai của hình

tượng tác giả. Sự tự bộc lộ là trạng thái cảm xúc và những suy nghĩ chân thực

của bản thân con người trước cuộc sống. Người nghệ sĩ hình dung, tự nhận định,

đánh giá chiêm ngưỡng về mình trong tác phẩm nghĩa là họ đã vẽ lên chân dung

tự họa của mình trong tác phẩm theo cách cảm nhận chủ quan. Điều này có ý

nghĩa quan trọng cho việc tìm hiểu hình tượng tác giả. Hình tượng tác giả không

được đồng nhất với bản thân tác giả. Người kể chuyện có thể xưng “tôi” để tự

hình dung, thể hiện mình nhưng người kể chuyện chỉ là một hình thức thể hiện

quan điểm, tư tưởng, phong cách tác giả trong tác phẩm. Do vậy người kể

chuyện thống nhất với tác giả nhưng không đồng nhất với tác giả. Bên cạnh đó,

giọng điệu trần thuật là yếu tố để xác định khuôn mặt nhà văn. Giọng điệu là

một trong những yếu tố quan trọng để khu biệt phong cách tác giả, là “một yếu

39

tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm” [133; tr.142]. Mỗi nhà văn

trong sự đổi mới thể loại cũng làm mới giọng điệu, góp phần cách tân nghệ thuật

tác phẩm.

Như vậy, khi nói tới hồi kí cần phải nói tới cốt lõi sự thật và giải mã sự thật,

hồi kí không hư cấu, không có cốt truyện, dựa trên sự hồi tưởng kí ức một cách

chân thực và trong hồi kí cần có hình tượng tác giả. Đó là các đặc trưng cơ bản

xác lập nên thể hồi kí và là cơ sở để nghiên cứu đặc điểm thể hồi kí Tô Hoài giai

đoạn sau 1945.

2.2. Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài trong dòng chảy văn xuôi Việt Nam hiện đại

2.2.1. Giai đoạn trước 1945

Tô Hoài là nhà văn đã để lại dấu ấn đậm nét phong cách sáng tác của mình

trong suốt tiến trình văn xuôi Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của ông có tầm

ảnh hưởng lớn đến lịch sử phát triển văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XX đầu

thế kỉ XXI. Việc đặt sáng tác tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài trong dòng chảy văn

xuôi Việt Nam hiện đại sẽ giúp độc giả hiểu rõ hơn những đóng góp và thành

tựu của ông trong hai thể loại này.

Tiểu thuyết là một thể loại được xem là “máy cái” của văn học. Trải qua

nhiều chặng đường phát triển, đến nay tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đã có được

những thành tựu lớn. Khởi đầu những năm hai mươi của thế kỉ XX, tiểu thuyết

đã hình thành với các cây bút Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học thời kì đầu…ở

miền Bắc, tiếp đến là các cây bút viết tiểu thuyết ở cả hai miền như Hoàng Ngọc

Phách, Nguyễn Trọng Thuật, Hồ Biểu Chánh…Tuy nhiên, tiểu thuyết Việt Nam

chỉ thực sự khẳng định vị trí của mình và nở rộ từ các cây bút của nhóm Tự lực

văn đoàn (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam) và các nhà văn hiện

thực phê phán (Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,

Tô Hoài…) giai đoạn 1930 - 1945. Nhóm Tự lực văn đoàn đã có công lớn trong

việc đổi mới nền văn học, góp phần quan trọng vào việc xây dựng một nền văn

học Việt Nam hiện đại. Nhóm Tự lực văn đoàn không chỉ thành công đổi mới ở

phương diện nội dung, lên tiếng đòi giải phóng cái tôi cá nhân một cách mạnh

mẽ mà còn hiện đại hóa tiểu thuyết ở nhiều phương diện: ngôn ngữ, kết cấu,

40

nhân vật đặc biệt là nghệ thuật tâm lý xuất sắc. Bên cạnh đó là sự hiện diện của

các cây bút tiểu thuyết hiện thực phê phán. Dòng văn học này đã khắc phục

được giới hạn của tiểu thuyết lãng mạn, xây dựng được những tính cách điển

hình trong những hoàn cảnh điển hình, bộc lộ những xung đột giữa các tính cách,

mâu thuẫn cơ bản của đời sống xã hội, đề cao nguyên tắc khách quan, coi trọng

“sự thực ở đời”. Ngôn ngữ văn chương của họ đã đạt tới trình độ nghệ thuật cao,

vừa chân thực, gần gũi vừa hiện đại. Cả hai nhóm, hai khuynh hướng văn học

giai đoạn này đã gây dựng nên một mô hình tiểu thuyết có ảnh hưởng lâu dài

đến lịch sử tiểu thuyết Việt Nam. Và cho đến những giai đoạn về sau, rất nhiều

tiểu thuyết không vượt qua những đỉnh cao trong hành trình khám phá đời sống

tâm lí và thân phận con người của hai khuynh hướng tiểu thuyết này.

Trước 1945, Tô Hoài là một cây bút văn xuôi hiện thực, bên cạnh một số

gương mặt đáng chú ý của trào lưu văn học hiện thực như Nam Cao, Nguyên

Hồng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. Nguyên Hồng viết về nỗi khốn khổ của

người nghèo. Nam Cao viết về sự bế tắc và tha hóa của người nông dân và cuộc

sống của người trí thức nghèo thành thị. Nguyễn Công Hoan viết về bước đường

cùng của người nông dân. Tô Hoài lại viết về cuộc sống của người dân nội và

ngoại thành Hà Nội. Tô Hoài đến với tiểu thuyết khá sớm. Ngay từ giai đoạn

đầu sáng tác, tiểu thuyết của Tô Hoài rất đậm cảm quan nghệ thuật và giọng

điệu riêng - một cây bút dồi dào sung sức, đứng cạnh Nam Cao, tạo nên dấu ấn

đặc trưng cho trào lưu văn học hiện thực Việt Nam những năm trước Cách mạng.

Khác với tiểu thuyết của các cây bút dòng văn học hiện thực phê phán như Nam

Cao, Nguyên Hồng, tiểu thuyết Tô Hoài ít xung đột xã hội, nghiêng về phong

tục, tập quán. Đằng sau “nhãn quan phong tục”, ngòi bút hiện thực của Tô Hoài

phản ánh được một xã hội đang đói khổ, cùng quẫn, bế tắc do nghề thủ công bị

phá sản với cái nhìn cảm thông, thương xót đầy tính nhân văn. Tô Hoài sáng tác

các tiểu thuyết Quê người (1942), Giăng thề (1942), Xóm giếng (1942) chủ yếu

phản ánh về cuộc sống và con người ở làng Nghĩa Đô - nơi ông sinh ra và lớn

lên với cái nhìn, cảm quan đời thường.

Làng quê trong tiểu thuyết Tô Hoài mang một phong vị riêng độc đáo. Quê

41

người (1942) là tập truyện đầu tay của Tô Hoài, tả những thói tục cùng những

cách sinh hoạt của những người dân sống bằng nghề dệt lĩnh ở vùng Bưởi. Ở tập

truyện này, Tô Hoài tỏ ra là một nhà tiểu thuyết có con mắt quan sát sâu sắc. Tô

Hoài đã dựng lên khá chân thực và sinh động cuộc sống của làng quê Việt Nam

những năm trước Cách mạng. Cả một làng quê tàn tạ, tiêu điều, sa sút. Cảnh

nghèo đói đã khiến Thoại - Bướm phải bỏ làng mà đi, Hời - Ngây phải bán nhà.

Sự tan rã của gia đình và sự tàn tạ của một vùng quê ven thành trong cảnh sống

mù mịt, tối tăm, không có lối thoát là hệ quả tự nhiên của xã hội thuộc địa. Các

tiểu thuyết Giăng thề (1942), Xóm giếng (1942) tiếp tục cảm hứng tái hiện chân

thực và sinh động cuộc sống nghèo khổ của người dân vùng ven thành. Tiểu

thuyết Giăng thề đi sâu vào cuộc sống sinh hoạt nghèo khổ của ba anh nhà giáo.

Họ là những người tri thức nghèo, nghèo cả tiền bạc lẫn chữ nghĩa. Tiểu thuyết

Xóm giếng miêu tả sự tan vỡ của một mối tình do chàng trai nghèo không có sự

nghiệp trong tay. Có thể nhận thấy, ở các tiểu thuyết này, Tô Hoài không cao

giọng, không nhấn mạnh thậm chí không muốn có bất cứ sự can thiệp nào của tư

tưởng chủ quan. Tiểu thuyết của Tô Hoài “cứ tự nhiên mà thủ thỉ cái tiếng nói

hồn nhiên của bản thân sự sống”.

Về thể hồi kí, giai đoạn trước 1945, hồi kí Việt Nam bước vào giai đoạn

hình thành, không có nhiều thành tựu đáng kể. Đặc điểm hồi kí không thực sự

nổi bật, ý thức về thể loại chưa rõ ràng, các cây bút sáng tác hồi kí khá vắng

bóng. Một số tác phẩm được coi là hồi kí ở giai đoạn này tuy nhiên tên gọi của

chúng không thực sự phản ánh đúng bản chất của hồi kí mà thiên về tính tiểu sử,

lí lịch và văn luận thuyết, thậm chí là truyện hư cấu như Ngục trung thư, Phan

Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu), Giấc mộng lớn (Tản Đà). Đa số các hồi kí

trong giai đoạn này được viết theo lối tự truyện hoặc viết theo lối ghi chép,

phóng sự, điều tra, nhật kí như hồi kí Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến. Một số

tác phẩm gây chú ý của giai đoạn này là Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng,

Cai của Vũ Bằng, Cỏ dại của Tô Hoài. Đó là ba hồi kí của ba nhà văn trẻ, thể

nghiệm viết hồi kí ghi lại quãng đường thơ ấu, thanh thiếu niên đã qua của mình.

Cỏ dại (1944) là hồi kí đầu tay của Tô Hoài, được sáng tác khi nhà văn mới

42

ngoài hai mươi tuổi. Tác phẩm đã tái hiện rõ nét thời thơ ấu thấm đẫm nỗi buồn

của nhà văn thông qua nhân vật chính là Cu Bưởi. Cu Bưởi chủ yếu ở gia đình

ông bà ngoại trong ngôi nhà gạch cũ ở vùng Nghĩa Đô. Trong Cỏ dại, nhà văn

không chỉ kể về kí ức tuổi thơ đau buồn và lặng lẽ của Cu Bưởi mà còn vẽ nên

một bức tranh chân thực và sống động của những cảnh đời, tính cách, số phận

con người khác nhau trong những ngày xưa cũ. Với giọng văn thân tình, tự

nhiên, câu chuyện buồn của những cuộc đời cũ thỉnh thoảng vẫn “lóe lên những

nét sống vui ngộ, tinh nghịch, do được nhìn qua con mắt trẻ thơ”. Cỏ dại giúp

người đọc hiểu một cách sinh động những điều đã tạo nên tâm hồn cũng như

những nét đặc sắc trong phong cách Tô Hoài.

Có thể thấy, các tiểu thuyết và hồi kí của Tô Hoài trước 1945 tập trung vào

phản ánh bức tranh hiện thực đời sống ở làng quê ven thành của nhà văn, một

vùng quê đang ngấm dần và mở rộng sự bần hàn, túng đói, thất nghiệp và ly tán,

để cuối cùng là sự vô vọng thậm chí có cả sự chết chóc…Đó không chỉ là bức

tranh hiện thực ở quê hương nhà văn mà rộng hơn đó còn là bức tranh hiện thực

xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám qua đó thấy bút pháp tả thực và

dấu ấn riêng chủ nghĩa hiện thực trong những trang văn của Tô Hoài. Tóm lại,

trước 1945, tiểu thuyết và hồi kí của Tô Hoài đã đạt được thành công nhất định.

Các sáng tác của Tô Hoài đều thấm đượm tính nhân văn và mang dấu ấn khá sâu

đậm về một quãng đời của nhà văn. Xét một cách toàn diện và khách quan, Tô

Hoài là một cây bút hiện thực đáng chú ý trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại

những năm trước Cách mạng.

2.2.2. Giai đoạn 1945 đến 1985

Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 phát triển trong một hoàn cảnh

lịch sử đặc biệt, khi vận mệnh của Tổ quốc đứng trước những thử thách gay gắt,

cả dân tộc cùng nhau sát cánh trong cuộc chiến đấu cho độc lập, tự do, thống

nhất đất nước. Sáng tác của các văn nghệ sĩ cũng chịu ảnh hưởng dưới một nhãn

quan nghệ thuật mới do vậy, tiểu thuyết và hồi kí của Tô Hoài giai đoạn này

cũng nằm trong nguồn mạch, dòng chảy của bối cảnh thời đại và sự phát triển

chung của văn học, văn hóa cách mạng. Hầu hết các tác phẩm trong giai đoạn

43

này đều tập trung tái hiện nhiều sự kiện trọng đại trong lịch sử vẻ vang của dân

tộc. Hiện thực mà văn học phản ánh là hiện thực lịch sử dân tộc, hình ảnh nhân

dân được nâng lên thành biểu tượng cho vẻ đẹp, sức mạnh, khát khao của thời

đại và dân tộc. Đây là nền văn học cách mạng theo khuynh hướng sử thi, thiên

về biểu dương, ngợi ca. Nền văn học này đã sáng tạo một thế giới nghệ thuật,

bao gồm cả bức tranh đời sống và những hình tượng con người - mang một vẻ

đẹp riêng, đậm màu sắc sử thi và chất lãng mạn. Tiểu thuyết sử thi luôn đặt vấn

đề số phận cá nhân trong tương quan với số phận giai cấp, nhân dân và dân tộc.

Mô hình sử thi có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến cấu trúc thể loại tiểu thuyết

Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, 1975 - 1985 và những chặng đường sau đó.

Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, tiểu thuyết xuất hiện muộn và đạt

được những thành tựu bước đầu với bộ ba đoạt Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt

Nam 1951 - 1952 và 1954 - 1955: Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của

Nguyễn Đình Thi, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng. Thời kì 1964 - 1965 có thể

coi đây là thời kì phát triển rực rỡ của tiểu thuyết trong nền văn học mới. Một số

tiểu thuyết tiêu biểu thời kì này là Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Một

chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm,

Người người lớp lớp của Trần Dần, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy

Tưởng, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, bộ Cửa biển của Nguyên Hồng…Trong

thời kì chống Mỹ cứu nước, nền văn học cách mạng trở nên bề thế hơn cả về số

lượng tác phẩm và đội ngũ tác giả. Những cây bút từ thời kì chống Pháp dần

bước vào độ chín, viết nên nhiều tác phẩm có giá trị cả về tư tưởng lẫn nghệ

thuật, góp phần tích cực vào cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất

đất nước. Đồng thời, lực lượng các nhà văn được bổ sung đáng kể, như: Nguyên

Ngọc, Phan Tứ, Lê Văn Thảo, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Trí Huân,

Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy,...Thời kì chống Mỹ cứu nước đã tạo ra

nhiều tiểu thuyết có giá trị như: Dấu chân người lính của Nguyễn Minh

Châu; Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Hòn

Đất của Anh Đức, Con đường xuyên rừng của Lê Văn Thảo…

Tiểu thuyết giai đoạn 1975 – 1985 có đặc điểm “vừa mở rộng đề tài, vừa cố

44

cưỡng lại từ trường của tiểu thuyết sử thi để gia tăng chất thế sự và đời tư” [15].

Mặc dù chưa thật sự đổi mới như văn học sau 1986, nhưng tiểu thuyết giai đoạn

này đã có những dấu hiệu đổi mới, biểu hiện rõ nhất là cảm hứng nhận thức lại

và tinh thần tranh biện đã xuất hiện, ngôn ngữ phân tích trong tiểu thuyết đã bắt

đầu lấn át ngôn ngữ khẳng định, ngợi ca một chiều.

Hồi kí giai đoạn này bắt đầu phát triển nhưng còn lẻ tẻ. Nghệ thuật viết hồi

kí đa phần là khá đơn điệu. Đó là những cuốn hồi kí pha lẫn tiểu luận, phê bình,

tạp bút. Đáng kể ở miền Bắc là các hồi kí văn học Những bước đường tư tưởng

của tôi (Xuân Diệu), Con đường dẫn tôi đến nghề văn (Nguyễn Khải), Bước

đường viết văn (Nguyên Hồng), Đời viết văn của tôi (Nguyễn Công Hoan)…Tác

phẩm hồi kí ở đô thị miền Nam trước 1975 với cảm hứng chủ yếu là hoài niệm,

tự bộc bạch Bốn mươi năm nói láo (Vũ Bằng), Văn thi sĩ tiền chiến (Nguyên

Vỹ), Khúc tiêu đồng (Hà Ngoại). Ở thời kì này, các nhà văn viết hồi kí với tinh

thần dân chủ, khoáng đạt, hiện đại hơn so với giai đoạn trước.

Ở thời kì này, xuất hiện chủ yếu là hồi kí cách mạng. Thể tài hồi kí này

không phản ánh cuộc đời riêng của một người mà hướng đến những vấn đề

mang tính xã hội rộng lớn, gắn liền với sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Hồi kí

cách mạng thiên về hướng ngoại hơn là hướng nội. Những năm 50, một vài hồi

kí xuất hiện như Vừa đi đường vừa kể chuyện (T.Lan), Hai lần vượt ngục (Trần

Đăng Ninh)…Những năm 60, hồi kí cách mạng phát triển mạnh với một số tác

phẩm như Nhân dân ta rất anh hùng (Hoàng Quốc Việt), Nhân dân với cách

mạng (Nhiều tác giả),…Ở thời kì chống Mỹ, hồi kí cách mạng được sáng tác để

sống lại quá khứ hào hùng, cổ vũ tinh thần yêu nước như Con đường cách mạng

(Nhiều tác giả), Đạp lên đầu thù (Nhiều tác giả)…Sau 1975, khi đất nước được

giải phóng, những kỉ niệm về một thời chiến đấu, về đồng đội lại ùa về thôi thúc

người cầm bút viết hồi kí. Đó là các tác phẩm Một trang đáng nhớ (Trần Cung),

Mây trắng đường trường chinh (Nguyễn Văn Khuê)…Có thể nói, người viết hồi

kí cách mạng là những nhân chứng lịch sử. Họ đã sống, trải qua nhiều hoàn cảnh,

tình huống trong đời sống cách mạng Vì thế, những câu chuyện được kể trong

45

hồi kí vừa mang tính chân thực, vừa giàu cảm xúc.

Ở thời kì 1945-1985, một mặt Tô Hoài sáng tác tiểu thuyết theo khuynh

hướng sử thi trong “cơ chế” của phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, mặt

khác lại tách mình ra khỏi dòng chảy đó đi tìm tòi, lựa chọn hướng tiếp cận,

khám phá riêng. Trong khi các nhà văn hiện thực như Nam Cao, Ngô Tất Tố,

Nguyên Hồng chuyển sang giai đoạn mới còn tỏ ra lúng túng trong cách viết và

lối viết thì Tô Hoài có thể bắt kịp thời các vấn đề mới của đời sống và viết tương

đối thành công một số tiểu thuyết và kí, góp phần vào bước chuyển chung của

văn xuôi cách mạng. Nhà văn không dừng lại quẩn quanh nơi vùng quê mình

đang sống mà khởi động một cuộc đi lớn, một hành trình dài theo kháng chiến

và theo đất nước. Tô Hoài đã đặt chân lên mảnh đất Tây Bắc. Tô Hoài coi Tây

Bắc là quê hương thứ hai của mình. Ông viết về Tây Bắc không chỉ bằng tài

năng nghệ thuật, vốn sống phong phú mà còn bằng tình yêu thiết tha, đằm thắm

như tình yêu dành cho chính quê hương mình. Có thể khẳng định rằng: những

thành tựu chủ yếu của Tô Hoài trong quá trình chuyển biến từ một nhà văn hiện

thực phê phán sang nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa tập trung phần lớn vào

đề tài miền núi. Trong số những tác phẩm Tô Hoài viết trong giai đoạn này, có

thể nhận thấy Truyện Tây Bắc (1953) vẫn nằm trong khuynh hướng sử thi mặc

dù Tô Hoài chỉ viết về những sự việc và con người trong một phạm vi hẹp là

vùng miền núi Tây Bắc nhưng vấn đề mà nhà văn đề cập mang ý nghĩa phổ quát

rộng lớn, biểu trưng cho toàn dân tộc. Đây là tập truyện xuất sắc trong văn xuôi

kháng chiến, được giải Nhất về tiểu thuyết năm 1954 - 1955 của Hội Văn nghệ

Việt Nam. Những trang viết của Tô Hoài trong Truyện Tây Bắc đánh dấu bước

phát triển của ông cả về mặt tư tưởng và nghệ thuật. Truyện Tây Bắc bộc lộ rõ

sự nhận thức đúng đắn của Tô Hoài về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cách

mạng, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên hành trình sáng tác của nhà văn.

Hoà bình lập lại, Tô Hoài viết tiểu thuyết Mười năm (1958) với mong

muốn khám phá lại hiện thực của thời kì trước Cách mạng. Nhưng có vẻ, đây là

một cách nhìn “lệch hướng” so với xu hướng chung của nền văn học sử thi lúc

bây giờ. Nếu như trong tiểu thuyết sử thi, các nhân vật thường tiêu biểu, đại diện

46

cho cộng đồng, con người mang sức mạnh của dân tộc, giai cấp, trí tuệ của tập

thể và nội dung thường đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng thì tiểu thuyết Mười

năm của Tô Hoài lại cố gắng đi sâu vào chi tiết đời thường, con người cá nhân,

con người cá tính, cái tôi của người cán bộ dưới góc nhìn đời tư mà nhiều tác

phẩm thời kì này chưa đề cập, phản ánh. Đó là sự đổi mới trong khuynh hướng

sáng tác của nhà văn Tô Hoài nhưng khi tác phẩm ra đời, lập tức bị người ta phê

phán. Tiểu thuyết Mười năm là một thử nghiệm mới, Tô Hoài muốn đề xuất một

quan niệm mới, một cách nhìn mới trên một đề tài quen thuộc. Tiểu thuyết đã

đạt được thành công ở phương diện tái hiện bức tranh đời sống xã hội của một

vùng tơ cửi và ở phương diện xây dựng một số hình tượng nhân vật rõ nét, đầy

sức sống, miêu tả con người mang tính người.

Vào những năm 1960, Tô Hoài muốn thử sức mình ở phương thức mới,

một tư duy mới về phản ánh và khái quát hiện thực, một hiện thực đang đổi thay

và luôn luôn biến động. Tiểu thuyết Miền Tây (1967) ra đời trước một hiện thực

đã định hình: công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền núi Tây Bắc. Tô

Hoài đã thành công với tiểu thuyết Miền Tây bởi cái lạ trong tiểu thuyết: lạ trong

cách xây dựng nhân vật, lạ trong cách thể hiện phong tục, tập quán của người

dân miền núi, lạ trong phương thức miêu tả phong cảnh…Miền Tây là sự đối lập

giữa hai bức tranh: cảnh đời cũ mờ mịt tối tăm của người dân miền núi trong

những năm tháng dài đau khổ và cảnh rực rỡ tươi sáng của Phiềng Sa trong

những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác phẩm đánh dấu sự chuyển biến

về tư tưởng trong sáng tác của nhà văn.

Sau năm 1975, khi đất nước chuyển sang thời kì mới, Tô Hoài dồn sức

sáng tạo vào một nguồn cảm hứng mới, đi sâu khai thác truyền thuyết và dã sử

với bộ ba tiểu thuyết: Đảo hoang (1976), Chuyện nỏ thần (1984), Nhà Chử

(1985). Một bộ ba trọn vẹn nhằm hướng tới gương mặt của dân tộc Việt Nam

trong sâu xa của lịch sử: cải tạo thiên nhiên hoang dã, chống ngoại xâm, khát

vọng một đời sống trong lao động chan hòa, ấm áp tình người.

Ở thời kì này, Tô Hoài đã không viết theo hướng hồi kí cách mạng mà ông

tự tìm cho mình một lối đi riêng, một phương thức thể hiện riêng đó là hồi kí đời

47

tư. Tự truyện (1978) là sự tiếp nối của Cỏ dại giai đoạn trước 1945. Tác phẩm

vẫn còn những dấu vết “Tự nhiên chủ nghĩa” nhưng đã đạt được những thành

công nhất định. Tự truyện được bắt đầu từ ngày nhà văn đi học ở trường Yên

Phụ. Ở đó có biết bao kỉ niệm vui - buồn của bản thân, của đám học trò nghèo

và của thầy giáo với cuộc sống đạm bạc, tẻ nhạt. Tự truyện còn là kí ức vui -

buồn về những người bạn thợ cửi. Đáng chú ý nhất là “một quãng đời” đầy ý

nghĩa mà tác giả được gặp các đồng chí hoạt động cách mạng cùng nhau hoạt

động phong trào.

Như vậy, ở giai đoạn 1945 - 1985, trong những tác phẩm của Tô Hoài, dấu

ấn phong tục vẫn in đậm, vẫn là những bức tranh sinh hoạt đời thường của vùng

quê ven thành - quê hương của tác giả và hướng đến cuộc sống của quê hương

thứ hai - cuộc sống của những người dân ở miền núi Tây Bắc. Thành tựu của Tô

Hoài đạt được ở giai đoạn này chủ yếu tiểu thuyết viết về vùng ngoại thành Hà

Nội và miền núi.

2.2.3. Giai đoạn 1986 đến nay

Từ sau 1986, không khí dân chủ, cởi mở trong đời sống xã hội cùng tinh

thần khuyến khích cảm hứng tự do sáng tạo về văn học nghệ thuật đã cho văn

nghệ sĩ điểm tựa tinh thần vững chắc để tự khẳng định mình. Nhu cầu đổi mới

bùng nổ trong văn xuôi nói riêng và văn học nói chung thành cao trào sôi nổi.

Tiểu thuyết vẫn tiếp tục tiếp cận và miêu tả hiện thực với cảm hứng hướng

ngoại nhưng trong tiểu thuyết truyền thống thì cảm hứng hướng ngoại thời kì

này có sự khác biệt. Cái hiện tại mà tiểu thuyết hướng đến ngày hôm nay “ngổn

ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những bất ngờ”

(Nguyễn Khải) đặc biệt nó là “cái hiện tại chưa hoàn thành” (M.Bakhtin). “Cái

hiện tại chưa hoàn thành” là đặc trưng của tư duy tiểu thuyết thời kì này.

Nguyễn Minh Châu có cách nói giản dị về tư duy tiểu thuyết “Cũng như vài

người thường nói, tôi cũng nghĩ có lẽ chúng ta đang sống trong cái thời của tiểu

thuyết. Bởi vì đời sống luôn luôn nối tiếp và trong cái dòng đời triền miên tuôn

chảy, có những khoảnh khắc cuộc sống thật là đậm đặc. Đó là những phút ở đấy,

con người bộc lộ ra hết” [145]. Nguyễn Minh Châu cũng như Nguyễn Khải đặc

48

biệt chú ý đến những “khoảnh khắc”, “những phút”, nơi cuộc sống và con người

dễ bộc lộ bản chất của nó. Bên cạnh đó, tiểu thuyết thời kì này chủ yếu tiếp cận

và miêu tả hiện thực bằng cảm hứng hướng nội. Sự thay đổi về quan niệm nghệ

thuật khiến cho các nhà văn quan tâm đến nhân tố con người. Tính “thế sự - đời

tư” lấn át dần “tính sử thi” và thời lãng mạn (chữ dùng của Nguyễn Khải) mang

tính độc thoại đã nhường chỗ cho thời của những biến đổi chóng mặt và tinh

thần đối thoại.

Đây cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ, mạnh mẽ nhất của hồi kí văn học từ

trước đến nay. Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 đã xuất hiện thể hồi kí

nhưng chủ yếu là hồi kí cách mạng, không có hồi kí cá nhân. Hồi kí cách mạng

tập trung ca ngợi Đảng, cách mạng, nhân dân, kể về hoạt động cách mạng, khoe

chiến công và thành tích cá nhân, né tránh viết về cái Tôi, không viết về đời

sống riêng tư cá nhân của con người do vậy chưa phải là hồi kí trong “tầm đón

đợi” của người tiếp nhận. Sau 1986, sự thay đổi mạnh mẽ tư duy nghệ thuật của

nhà văn kéo theo sự thay đổi nội dung và nghệ thuật, cách tiếp cận và phản ánh

đời sống, con người đa dạng so với giai đoạn trước. Có thể kể đến một số hồi kí

văn học được dư luận chú ý: Hồi kí của các nhà thơ (Nửa đêm sực tỉnh của Lưu

Trọng Lư, Hồi kí song đôi của Huy Cận, Nhớ lại một thời của Tố Hữu…); hồi kí

của các nhà văn (Chiều chiều, Cát bụi chân ai của Tô Hoài, Nhớ lại của Đào

Xuân Qúy, Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương của Ma Văn Kháng,

Người đàn bà cầm bút của Lê Minh…); hồi kí của các nhà nghiên cứu - phê

bình (Hồi kí của Đặng Thai Mai; Những năm tháng ấy của Vũ Ngọc Phan, Tầm

xuân của Đặng Anh Đào, Cô bé nhìn mưa của Đặng Thị Hạnh…). Ở giai đoạn

này, hồi kí bộc lộ rõ nhất đặc trưng thể loại: tính chân thực của cuộc sống từ góc

nhìn đời tư, cá nhân; sự đào sâu vào bản thể, tâm lí người viết; quan niệm đa

chiều, đa diện; bút pháp đa dạng, linh hoạt, độc đáo.

Trong dòng chảy của hồi kí hiện đại, hồi kí Tô Hoài đã mở ra những khả

năng mới trong việc thể hiện đời mình và đời người, đem đến cho văn học

những màu sắc mới mẻ với hai tác phẩm hồi kí đặc sắc Cát bụi chân ai (1992)

và Chiều chiều (1999). Cát bụi chân ai đã khắc họa chân dung các thế hệ nhà

49

văn tầm cỡ trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Chân dung các văn nghệ sĩ

cùng thời như Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Nguyễn

Huy Tưởng, Phùng Quán, Phan Khôi…được hiện lên từ khoảng cách gần và góc

độ đời tư. Cát bụi chân ai ra đời trong không khí đổi mới của văn học nói riêng

và của đất nước nói chung qua đó độc giả thấy được toàn cảnh bức tranh về đời

sống văn học dân tộc trong một không khí khủng hoảng đầy những trăn trở bộn

bề của các nhà văn thời ấy. Với Chiều chiều, Tô Hoài đưa người đọc về một làng

quê Bắc Bộ với những câu chuyện của thời kì cải cách ruộng đất, thời làm hợp tác

xã cho đến khi đất nước bước vào thời kì Đổi mới và chuyển sang nền kinh tế thị

trường. Bao trùm cả khoảng thời gian dài với nhiều biến động, những trang hồi kí

của Tô Hoài đã khắc họa số phận một số chân dung văn nghệ sĩ là bạn bè của nhà

văn, chân dung tầng lớp quần chúng nhân dân với cảm xúc buồn vui và cả những

điều ngang trái, oái oăm.

Năm 2006, Tô Hoài đã gây bất ngờ với bạn đọc khi cho ra đời tiểu thuyết

Ba người khác. Tuổi đời đã cho ông sự từng trải và sự điềm tĩnh sâu sắc để nhìn

nhận lại cuộc sống và thế sự của một thời đã qua. Viết về cải cách ruộng đất là

đề tài không phải mới nhưng cái hay của Ba người khác ở cách kể chuyện hóm

hỉnh, những chi tiết trần trụi đời thường và đặc biệt là số phận ba người khác

(cuộc đời ba anh cán bộ “đội”: Cự, Đình, Bối với ba ngã rẽ khác nhau). Cải cách

ruộng đất là một vấn đề lớn của lịch sử đất nước nhưng cũng là một đề tài nhạy

cảm đối với văn học. Tô Hoài đã chấp nhận vượt qua thử thách và thành công ở

cuốn tiểu thuyết này. Điều đó khẳng định bản lĩnh và tài năng của nhà văn.

Ở giai đoạn sau 1986, tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài đạt được thành tựu lớn

với các tác phẩm tiêu biểu: Cát bụi chân ai (1992), Chiều chiều (1999), Ba

người khác (2006). Tô Hoài đã có sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con

người và bút pháp nghệ thuật. Các tác phẩm đó đã góp phần làm nên diện mạo

tiểu thuyết, hồi kí Tô Hoài nói riêng và tiểu thuyết, hồi kí hiện đại nói chung. Tô

Hoài được đánh giá là một nhà văn tài năng, “cao tay” trong nghệ thuật viết tiểu

50

thuyết và hồi kí giai đoạn này.

2.3. Quan điểm sáng tác và sự đổi mới tƣ duy nghệ thuật của Tô Hoài

2.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan điểm sáng tác và tư duy nghệ thuật

của Tô Hoài

Gia đình là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng tới quan niệm sáng tác và tư duy

nghệ thuật của Tô Hoài. Tô Hoài sinh ra trong một gia đình lao động nghèo,

kiếm sống chật vật bằng nghề dệt. Từ nhỏ, ông đã sớm cảm nhận được nỗi bất

hạnh và cuộc sống nghèo túng của những người thân trong gia đình “Ông bà

ngoại luôn cãi nhau, chửi nhau, đánh nhau. Bố thì bỏ đi nước Sà Goòng mãi

không trở về, cậu bé Tô Hoài lủi thủi một mình, lớn lên chẳng có nghề ngỗng gì”

[67]. Sự thiếu thốn tình cảm của người cha biền biệt xa nhà và hình ảnh người

mẹ hiền lành, chịu thương, chịu khó, hình ảnh người ông lặng lẽ, hay rượu,

thường xuyên chửi bà đã in đậm dấu ấn tuổi thơ của nhà văn. Cả gia đình hai

bên nội - ngoại đều đói khổ, không có truyền thống văn chương. Chính sự nghèo

đói của gia đình và phải chứng kiến sớm cảnh buồn nhiều hơn vui đã hình thành

tư duy nghệ thuật của Tô Hoài. Vì vậy, trong những trang viết của nhà văn,

người đọc thấy xuất hiện hình ảnh những con người bình thường với cái nhìn

nhân bản và chân thực nhất.

Mỗi nhà văn đều gắn bó với một miền quê trong sáng tác của mình. Nam

Cao có làng Đại Hoàng, Ngô Tất Tố có làng Đông Xá, Tô Hoài có làng Nghĩa

Đô. Tô Hoài sinh ra, lớn lên và thực sự gắn bó với quê ngoại là làng Nghĩa Đô,

phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội). Cả cuộc đời

Tô Hoài gắn bó với quê ngoại, ông bà ngoại và các dì. Làng Nghĩa Đô là một

vùng quê ven đô Hà Nội, là quê hương, là nơi “chôn rau cắt rốn” mà Tô Hoài đã

dành tình cảm tha thiết sâu nặng và ôm trọn theo suốt cuộc đời. Làng Nghĩa Đô

trong tác phẩm của nhà văn không hiện diện với những cảnh cường hào, lí

trưởng đánh đập, giết người, bóc lột người dân mà chỉ là những chuyện làm ăn

của người dân thường, sống bằng các nghề ở làng ven đô như nghề dệt, nghề

làm ruộng. Không gian mà họ đang sống là sự giao thoa giữa quê và tỉnh, giữa

nông thôn và thành thị. Tô Hoài đã xây dựng những con người sống trong môi

51

trường giao thoa ấy. Họ trở thành con người “nửa quê nửa tỉnh”, những cách

sống của họ bắt đầu phức tạp, ảnh hưởng của lối sống thành thị. Họ đã không

giữ được nguyên vẹn nếp sống, xa dần những phong tục, tập quán của làng quê

Nghĩa Đô. Họ là những con người điển hình cho vùng quê ven đô trong thời

điểm giao thoa khi xã hội Việt Nam chuyển dần từ chế độ phong kiến sang xã

hội thực dân nửa phong kiến. Gắn bó với làng Nghĩa Đô, Tô Hoài hiểu quê

hương ông một cách chân tơ kẽ tóc, từ cách sống của người dân tới các nghề

truyền thống (nghề dệt lĩnh đến nghề làm giấy), từ hội hè đình đám đến chợ búa.

Viết về làng Nghĩa Đô, Tô Hoài đã trải rộng tâm hồn mình, thấu hiểu và cảm

nhận mọi sự thay đổi của cuộc sống và con người nơi đây. Đó là lí do vì sao con

người Nghĩa Đô lại trở thành nỗi niềm tha thiết gắn bó trong sáng tác của Tô

Hoài những ngày đầu cầm bút đến như vậy.

Cuộc đời Tô Hoài cũng có nhiều bước thăng trầm. Tô Hoài chỉ học hết bậc

tiểu học. Bước vào tuổi thành niên, ông đã phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống

từ gia sư, thư kí cho tới bán hàng, kế toán hiệu buôn và nhiều khi thất nghiệp,

cuộc sống trở nên vất vả và khó khăn. Ông đã lăn lộn ở trường đời, nếm trải mọi

cay đắng của cuộc đời nên văn ông rất đời thường, giản dị. Năm 1938, ông hoạt

động trong tổ chức hội Ái hữu thợ dệt Hà Đông, Đoàn thanh niên dân chủ Hà

Đông. Năm 1943, ông hoạt động bí mật trong Hội văn hóa cứu quốc. Chính sự

tham gia các hoạt động trong các tổ chức, gặp gỡ các nhà văn cách mạng đã giúp

ông trưởng thành về tư tưởng nhận thức chính trị và lựa chọn khuynh hướng

sáng tác: viết theo chủ nghĩa hiện thực nhưng không lặp lại các nhà văn hiện

thực đi trước. Ông có lối cảm nhận hiện thực theo cách riêng của mình đó là

hiện thực nhìn từ đời thường. Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài làm phóng

viên báo Cứu quốc, được cử đi vào mặt trận phía Nam, vào Nha Trang, lên chiến

trường Tây Nguyên, rồi xuống mặt trận An Khê. Năm 1947-1948, ông lên công

tác ở những vùng người Dao, đi sâu vào vùng căn cứ địa Việt Bắc. Ông làm

công tác báo chí, tuyên truyền, rồi làm cán bộ địa phương, cùng ăn, cùng ở với

đồng bào. Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội chủ lực tiến quân vào miền Tây, tham

dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Những chuyến đi thâm nhập thực tế và trải

nghiệm ở vùng cao đã giúp nhà văn có điều kiện đi sâu vào phong tục, tập quán

52

của người dân. Trong thời kì 1953 - 1956, Tô Hoài đã tham gia phong trào cải

cách ruộng đất, ông được cử làm đội phó đội cải cách ruộng đất. Vì vậy, ông đã

viết các tác phẩm Chiều chiều, Ba người khác với tiếng nói của một người trong

cuộc viết về cải cách.

Thời đại cũng là yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm sáng tác của nhà văn. Tô

Hoài là người đã sống, trải qua các thời kì khác nhau và chứng kiến những biến

cố lớn của lịch sử dân tộc từ thời kì phong kiến nửa thực dân sang thời kì kháng

chiến chống Pháp, đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, kháng chiến chống

Mỹ và thời kì đất nước hòa bình. Hơn ai hết, Tô Hoài hiểu cuộc sống của người

dân trong những năm tháng đất nước bị ngoại xâm. Tô Hoài lớn lên trong hoàn

cảnh đất nước bị nô lệ. Cuộc sống của người dân cơ cực, phong tục, tập quán bị

mai một, làng quê trở nên tiêu điều, khốn khổ. Nhìn những cảnh đời bất hạnh ấy,

nhà văn sớm nặng trĩu nỗi buồn. Và chính trong những năm tháng đen tối đó,

cách mạng đã đến, Tô Hoài đã hòa mình vào không khí thời đại, đem sức phục

vụ cách mạng và phong trào văn nghệ cách mạng. Vì vậy, sáng tác của Tô Hoài

song hành cùng những chặng đường lịch sử của dân tộc, thể hiện tính chân xác

của thời đại, đất nước.

Như vậy, có thể nói gia đình, quê hương, thời đại và hoàn cảnh của bản thân

đã ảnh hưởng lớn đến quan điểm sáng tác và tư duy nghệ thuật của nhà văn. Điều

đó đã tạo nên một gương mặt Tô Hoài không giống với bất cứ nhà văn nào khác.

2.3.2. Quan điểm sáng tác của Tô Hoài

Mỗi nhà văn đến với nghiệp viết văn bằng con đường riêng và sẽ lựa chọn

cho mình một lối viết và hình thành phong cách riêng. Tô Hoài cũng vậy, ông

luôn tìm cho mình một lối đi, một cách biểu hiện tư duy nghệ thuật, một quan

niệm nghệ thuật cho riêng mình. Ông là nhà văn có trách nhiệm với nghề,

nghiêm túc trong lao động nghệ thuật. Ngay từ khi mới vào nghề, Tô Hoài đã

chứng tỏ ý thức sáng tạo nghệ thuật của một nghệ sĩ chân chính. Trong hoàn

cảnh nghề viết văn ở nước ta còn chưa phát triển và mang tính chất nghiệp dư,

Tô Hoài là một trong số ít ỏi những cây bút đã sống với nghề bằng tất cả sự tận

tụy, sự chăm chút của một người làm nghề chuyên nghiệp. Với nhà văn, sống

cũng có nghĩa là viết, viết vừa là nhu cầu, vừa là động lực của cuộc sống vừa là

phương thức tồn tại của chính nhà văn. Ông không viết về những thứ viển vông

53

mà viết về thực tế của cuộc sống và những người xung quanh mình “Đời sống

xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả những sáng tác

của tôi. Ý nghĩa tự nhiên của tôi bao giờ cũng là viết về sự xảy ra quanh làng,

quanh mình” [75; tr.218]. Tuy ông nói, viết về những chuyện quanh làng, quanh

mình nhưng ông cũng không tạo ra một ranh giới để bó buộc mình trong phạm

vi cuộc sống. Chính việc viết về cuộc đời của mình, của những người xung

quanh mình đã khẳng định một hướng nghệ thuật của Tô Hoài. Môi trường xã

hội, nhà trường, sách vở đôi khi tạo cho nhà văn những ảo mộng xa xôi nhưng

kiên định trên lập trường quan điểm nghệ thuật của mình, Tô Hoài đã có một vị

trí vững vàng trong làng văn xuôi Việt Nam hiện đại, đồng thời đã tiếp nhận

được nhiều tư tưởng mới góp phần nâng cao và mở ra trong trang viết một tầm

nhìn tương xứng với vị thế và tư tưởng một nhà văn lớn.

Về thể loại tiểu thuyết, ngay từ những đầu cầm bút, Tô Hoài đã hình thành

cho mình một quan niệm nghệ thuật riêng. Đối với ông, công việc đầu tiên của

người viết tiểu thuyết là phải cố gắng viết gần với sự thật, tiến tới sự thật, giống

như quan điểm của Vũ Trọng Phụng: “Tôi muốn tiểu thuyết phải là sự thực ở

đời” [51; tr.15]. Không chỉ có vậy, trong quá trình sáng tác tiểu thuyết, Tô Hoài

luôn băn khoăn trăn trở thể hiện được tính dân tộc. Theo ông: “Một cuốn tiểu

thuyết ở Việt Nam phải phản ánh con người Việt Nam, tâm hồn tính cách Việt

Nam. Những cái đó không thể vay mượn ở nước ngoài được. Chỉ có chất liệu

đời sống xung quanh ta và của chính ta mới bồi đắp cho tâm hồn nhân vật của ta

được” [51; tr.17]. Bên cạnh đó, Tô Hoài ý thức được bản thể của tiểu thuyết và

cho rằng tiểu thuyết cũng phải có sự đổi mới: “Tôi không phủ nhận giá trị tiểu

thuyết thời trước, nhưng thật là không thể cho tiểu thuyết một nghĩa cố định.

Tiểu thuyết lúc nào cũng phát triển và biến đổi. Tiểu thuyết có một khả năng

tung hoành không bờ” [63; tr.105]. Như vậy, mỗi một nhà văn có một quan

niệm riêng về tiểu thuyết. Dù Tô Hoài bàn về tiểu thuyết chưa nhiều nhưng

những quan điểm về tiểu thuyết của ông có thể xem là điểm tựa dẫn đường trong

hành trình sáng tác tiểu thuyết của mình.

Về thể hồi kí, Tô Hoài chú trọng đến nguyên tắc sự thật: “Mỗi lần viết hồi

kí là mỗi lần đấu tranh tư tưởng để nói ra sự thật, sự thật đó có lẽ nhiều nhà văn

cố gắng đạt cho được nhưng có làm được hay không lại là chuyện khác” [83;

54

tr.23]. Theo Tô Hoài, việc đấu tranh tư tưởng nói lên sự thật không chỉ là cuộc

chiến đấu bên ngoài mà còn là cuộc đấu tranh bên trong. Tô Hoài đã đấu tranh với

chính bản thân mình, đấu tranh để mở rộng tầm mắt cho tất cả sự thật ùa vào, đấu

tranh để dũng cảm nói ra sự thật, kể cả những sự thật tưởng như chỉ có thể “đào sâu

chôn chặt” trong đáy lòng mình. Theo quan niệm của Tô Hoài, muốn viết cho được

hồi kí, người viết rất cần sự dũng cảm và trung thực: “Tôi viết hồi kí là khó khăn

hơn cả sáng tác bởi đó là cuộc đấu tranh tư tưởng để viết” [83; tr.23]. Với những

quan niệm mới về lối viết hồi kí, Tô Hoài đã thể hiện rất sinh động, chân thực

không khí thời đại và số phận con người trên những trang văn của mình.

Tự tìm cho mình một lối đi riêng với một quan niệm nghệ thuật không phải

là hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có nhưng Tô Hoài đã tự tạo được một hướng đi,

một lối viết độc đáo và hấp dẫn. Quan niệm, tư tưởng ấy đã trở thành cốt lõi cơ

bản tạo nên phong cách nghệ thuật của Tô Hoài trong suốt sự nghiệp sáng tác.

2.3.3. Sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Tô Hoài

2.3.3.1. Từ quan niệm nghệ thuật về con người

Quan niệm nghệ thuật về con người là yếu tố không chỉ giúp cho người đọc

hình dung về nhân vật với ngoại hình, tính cách, số phận mà còn xác định được bản

chất của nhân vật và lí tưởng thẩm mĩ mà nhà văn muốn gửi gắm. Mỗi nhà văn có

cách lí giải số phận con người riêng và có những quan niệm khác nhau về con

người. Có thể nhận thấy, điểm chung và thống nhất trong các tiểu thuyết và hồi kí

của Tô Hoài đều hướng đến con người, nhìn con người với cảm quan đời thường,

miêu tả con người trong những sinh hoạt đời thường và dưới góc nhìn đời tư.

Trước 1945, Tô Hoài thường đề cập tới những con người bình thường và

khắc họa họ ở phương diện gần gũi, đời thường. Đó là “Con người chỉ là con

người, hơn nữa họ là dân thường, trong sinh hoạt đời thường”. Đó là những con

người nghèo khổ, lam lũ, những người thợ thủ công, trí thức. Họ là những con

người ở chính quê hương ông - làng Nghĩa Đô. Con người trong thời kì đầu sáng

tác của Tô Hoài đan xen nhiều tâm trạng: niềm vui và nỗi buồn, nụ cười và nước

mắt, rất nhạy cảm và có phần lãng mạn khác với con người nông dân thuần túy

và cũng khác so với con người được mô tả trong sáng tác của các nhà văn hiện

thực cùng thời. Viết về những con người ở nông thôn, Tô Hoài thường khai thác

trong những mối quan hệ giản dị như gia đình, làng xóm, bạn bè, những chuyện

55

sinh hoạt đời thường. Những sáng tác đầu tay của Tô Hoài đậm chất phong tục

nhưng đằng sau bề mặt phong tục ấy là sự tàn lụi của những số phận, kiếp người.

Đó là mụ Hói ốm vẫn phải đi làm, thiếu một cánh tay làm là lập tức thấy vơi

ngay gạo trong chĩnh (Ông Cúm - bà Co - Nhà nghèo). Đó là những thanh niên

khỏe mạnh, giỏi tay nghề phải bỏ làng mà đi như Hời, Thoại, Ngây, Bướm (Quê

người). Đó là những đứa trẻ có số phận bất hạnh: Gái phải ăn đói mặc rách, khổ

sở vì bố mẹ, hàng ngày chửi bới nhau, cuối cùng nó phải chết (Nhà nghèo). Đó

là tuổi thơ tủi nhục của thằng cu Bưởi khi sống ở quê ngoại bên cạnh những

người thân (Cỏ dại)…

Từ sau 1945, quan niệm nghệ thuật về con người của Tô Hoài “có một chất

lượng mới so với quan niệm nghệ thuật về con người ở giai đoạn trước” [95;

tr.442]. Tô Hoài nhìn nhận con người trong hoàn cảnh đất nước đổi mới. Đối

tượng hướng đến trong sáng tác của Tô Hoài không chỉ là những người nông

dân, thợ thủ công ở làng quê Nghĩa Đô - quê hương của tác giả với những công

việc hàng ngày như quay tơ, dệt cửi, chạy chợ mà là những con người mới gắn

với thời đại, cộng đồng. Trong tiểu thuyết Mười năm, các thanh niên làng Hạ

như Lê, Lạp, Trung, Anh, Ba đã tích cực tham gia hoạt động cách mạng. Trong

tiểu thuyết Miền Tây, người dân miền núi Tây Bắc đã giác ngộ cách mạng tự

mình đứng lên đấu tranh để cứu đất cứu mường và cứu chính bản thân mình. Tô

Hoài đã xây dựng một loạt các nhân vật điển hình cho con người mới vùng cao

như bà Giàng Súa, Vừ Sóa Tỏa, Nghĩa, Thào Khay. Số phận bà mẹ Giàng Súa là

một điển hình chân thực về cuộc đời người nông dân đặc biệt là người phụ nữ

miền núi dưới chế độ cũ. Bà là một người mẹ giàu tình cảm, giỏi chịu đựng,

nhẫn nhục nhưng mê tín, chịu nhiều oan khuất đắng cay và hay lo sợ. Cách

mạng đến, bà hăng hái phục vụ cách mạng và kháng chiến. Quan niệm nghệ

thuật của Tô Hoài về người cán bộ cũng khác, nhà văn tập trung phản ánh những

phẩm chất cao quý của họ. Nghĩa, Thào Khay, Thào Mỵ, Huổi Ca, Pàng…là

những cán bộ, thanh niên mới người dân tộc tích cực, có ý chí và quyết tâm xây

dựng cuộc đời mới.

Ở thời kì Đổi mới sau 1986, với sự thay đổi tư duy nghệ thuật và tinh thần

đổi mới “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, con

người đã xuất hiện với cái nhìn đời tư trong các sáng tác Cát bụi chân ai (1992),

56

Chiều chiều (1999), Ba người khác (2006). Đó là con người cá thể trong quan hệ

với chính mình, người khác, xã hội và được miêu tả trong thế lưỡng phân, nhiều

chiều, đa diện. Con người hiện lên đầy đủ mặt tốt, mặt xấu, cái mạnh, cái yếu,

cái bình thường, cái cao cả và có hạnh phúc lẫn khổ đau. Con người trở về “vốn

dĩ đã là như thế”, con người hiện hữu trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Tô

Hoài đã tiếp cận các nhân vật của mình ở khoảng cách gần, từ góc độ đời thường.

Thông qua các nhân vật mà Tô Hoài tạo dựng, mỗi người có thể tìm thấy bóng

dáng cuộc đời mình qua các kiểu nhân vật đa dạng với những khổ đau, nhọc

nhằn bên cạnh niềm vui, hạnh phúc.

Với khoảng cách trước và sau 1945, quan niệm nghệ thuật về con người

trong tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài có sự đổi mới. Quan niệm nghệ thuật về con

người của Tô Hoài là yếu tố chi phối đến cách thể hiện đời sống xã hội, phương

thức xây dựng nhân vật. Khám phá con người, thể hiện con người đa phiến dưới

nhiều góc độ khác nhau, Tô Hoài đã góp phần vào thành tựu chung vào hệ quan

niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.

2.3.3.2. Đến hình thức và bút pháp nghệ thuật

Trước 1945, xuất phát từ quan niệm “Nhà văn là thư kí trung thành của thời

đại”, Tô Hoài cũng như nhiều nhà văn hiện thực khác đã lựa chọn lối viết theo

xu hướng “tả chân”. Để thể hiện được nội dung chi tiết, sát thực những vấn đề

nóng bỏng cuộc sống người dân những năm trước Cách mạng tháng Tám, Tô

Hoài đã không ngần ngại nhìn sâu vào sự thật xót xa. Ông xứng đáng là một nhà

văn hiện thực nhân đạo trong làng văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Sau 1945, Tô Hoài có sự thay đổi về hình thức và bút pháp nghệ thuật. Tiểu

thuyết viết về vùng ngoại thành Hà Nội như Mười năm, dường như là một thử

nghiệm mới, tách khỏi bút pháp sử thi thời kì này. Tiểu thuyết viết về hiện thực đấu

tranh cách mạng ở miền núi với nghệ thuật “khái quát hóa hiện thực cao hơn” (Hà

Minh Đức) thể hiện qua Truyện Tây Bắc, Miền Tây. Sau 1975, nhất là từ 1986 đến

nay, khi văn học tự “cởi trói” hướng tới sự đa dạng thì bút pháp tả thực mới phát

huy tối đa tác dụng. Trong các tác phẩm Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Ba người

khác, Tô Hoài đã nhìn thẳng vào sự thật và sai lầm của một thời đã xa. Hiện thực

được phơi bày một cách trần trụi dưới con mắt hiện thực, tỉnh táo của nhà văn.

Với mục đích phanh phui, mổ xẻ những sai lầm trong quá khứ, Tô Hoài đã

57

khoác lên tiểu thuyết và hồi kí một mặt nạ thể loại. Việc mập mờ, lấp lửng,

không ghi gì hoặc đề Cát bụi chân ai và Chiều chiều là “hồi kí” hoặc Ba người

khác là “tiểu thuyết” giúp cho sự sáng tạo của nhà văn có thể tồn tại và phát huy

sức mạnh, hiệu quả nghệ thuật. Trong bản in lần đầu Cát bụi chân ai (1992) và

Chiều chiều (1999), Tô Hoài không ghi rõ thể loại mà bỏ lửng và chỉ về sau các

nhà biên tập, các nhà báo và nhà nghiên cứu văn học mới gọi nó là hồi kí. Nhà

nghiên cứu Vương Trí Nhàn cho rằng: “Đây không phải là chuyện sơ ý. Ông

muốn để ngỏ mọi chuyện” [193]. Sự để ngỏ là cơ hội để Tô Hoài có thể viết

theo ý muốn, có thể pha thêm chất tiểu thuyết. Tô Hoài nhận ra sự cứng nhắc

của quan niệm cũ về việc viết hồi kí là đóng khung trong yêu cầu “sự thật việc

thật”, ông muốn phá bỏ nó để “phản ánh hiện thực” theo kiểu “điển hình hóa của

tiểu thuyết”. Do vậy, Cát bụi chân ai và Chiều chiều ít nhiều mang dáng dấp

tiểu thuyết.

Khi viết tiểu thuyết Ba người khác (2006), ý tưởng ban đầu ông để là hồi kí

nhưng vì nhận định “Để hồi kí thì phức tạp và khó in” (Tô Hoài trả lời phỏng

vấn Báo Thể thao) nên tác phẩm này được xuất bản gắn mác “tiểu thuyết” mặc

dù nội dung không có gì thay đổi. Tô Hoài đã không định danh thể loại cho tác

phẩm của mình vì một khi dãn nhán “hồi kí” thì sẽ bị trói buộc vào định kiến

thường thấy về thể loại này là tính trung thực, tính xác thực. Tô Hoài chỉ cố

gắng viết tất cả với những gì gọi là sự thật tuy nhiên ông không có ý định xác tín

những điều mình kể mà để một khoảng trống cho độc giả nhận xét, nhìn nhận.

Đây chính là dụng ý của nhà văn Tô Hoài. Khi viết tiểu thuyết Ba người khác,

Tô Hoài cho thấy những dấu hiệu theo kịp dòng tiểu thuyết cách tân mà vẫn giữ

được nét riêng. Nhà văn thay đổi lối viết từ điểm nhìn trần thuật của người kể

chuyện khách quan sang người kể chuyện mang đậm dấu ấn chủ quan. Tác

phẩm chủ yếu sử dụng bút pháp hoạt kê, dựng lại bức tranh vừa ngột ngạt vừa

nhếch nhác của vùng nông thôn Bắc Bộ trong công cuộc cải cách ruộng đất.

Việc thay đổi hình thức và bút pháp nghệ thuật cho thấy nhà văn không

bằng lòng với mô hình phản ánh nghệ thuật trước đây. Với sự thay đổi tư duy

nghệ thuật và xuất phát từ quan niệm tiếp cận và phản ánh sự thật, Tô Hoài cũng

như nhiều các nhà văn khác cùng thời đã không ngại phơi bày “hiện thực trần

58

trụi” của cuộc sống, xóa bỏ lối viết “lí tưởng hóa”, cái nhìn sử thi nhạt dần.

Tiểu kết chƣơng 2

Nói đến đặc trưng của tiểu thuyết là nói tới nhân vật, nghệ thuật dựng

truyện (kết cấu, cốt truyện, người kể chuyện). Nói tới hồi kí là nói tới hình tượng

tác giả đặc biệt là tính chân thực, xác thực và cách kể trong hồi kí theo dòng hồi

tưởng của tác giả là những yếu tố đã tạo nên đặc trưng của hồi kí. Tìm hiểu đặc

trưng thể loại tiểu thuyết và hồi kí là tiền đề lý thuyết, cơ sở để xác định các đặc

điểm cơ bản của tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài giai đoạn sau 1945 dưới góc nhìn

thể loại. Hành trình sáng tác của Tô Hoài trải qua ba giai đoạn: trước 1945; 1945

- 1985; 1986 đến nay. Ở mỗi chặng đường sáng tác, Tô Hoài đã gặt hái được

thành công và ghi những dấu ấn riêng độc đáo trên từng trang viết, từ đó định

hình cho mình một phong cách riêng. Ở giai đoạn trước 1945, Tô Hoài là một

cây bút hiện thực đáng chú ý trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ở giai đoạn

1945 - 1985, thành tựu của Tô Hoài đạt được chủ yếu ở tiểu thuyết viết về vùng

ngoại thành Hà Nội và miền núi. Ở giai đoạn sau 1986, Tô Hoài đã đi sâu vào

miêu tả con người dưới góc nhìn đời tư. Qua các tác phẩm Mười năm (1958),

Miền Tây (1967), Cát bụi chân ai (1992), Chiều chiều (1999), Ba người khác

(2006), Tô Hoài đã cho thấy sự đổi mới tư duy nghệ thuật từ quan niệm về con

người đến hình thức và bút pháp nghệ thuật, qua đó mang đến người đọc một

nhãn quan mới về con người ở hiện tại và quá khứ cùng một phương thức biểu

hiện mới. Tiểu thuyết và hồi kí là hai thể loại tiêu biểu cho văn phong, quan niệm

nghệ thuật và chính là ưu thế, sở trường của nhà văn Tô Hoài. Chính hai thể loại

này đã góp phần khẳng định tài năng, thành công, phong cách và đóng góp của Tô

59

Hoài trong nền văn xuôi cách mạng và văn xuôi đương đại Việt Nam.

Chƣơng 3

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI

SAU 1945 TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI

3.1. Đặc điểm tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại

3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Sức hấp dẫn của một cuốn tiểu thuyết phụ thuộc vào nhân vật và tài năng

xây dựng của nhà văn. Tô Hoài đã từng quan niệm về nhân vật trong tác phẩm

“Nếu ngôn ngữ ví là cái áo của tư duy thì nhân vật là hình thù con người mặc cái

áo ấy”. Theo ông, nhân vật quyết định sự thành bại của tác phẩm “Câu chuyện

thành công thì nhân vật phải đặt ở hàng đầu vì nhân vật hay thì câu chuyện mới

hay” [64; tr.62]. Với “cái nhìn không nghiêm trọng hóa” và quan niệm tạo ra

“những người thường của đời thường”, Tô Hoài đã không có ý định xây dựng

nhân vật với những nét nổi bật về tính cách. Những kiểu người phức tạp, gai góc,

gây ấn tượng mạnh không có mặt trong trang viết của nhà văn. Việc tạo ra

những con người đời thường, Tô Hoài muốn gửi thông điệp đến người đọc “hãy

trân trọng mỗi phẩm chất, cá tính của con người, bởi chính nó mới đúng là cuộc

sống” (tác giả Mai Thị Nhung). Do vậy, nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu

thuyết Tô Hoài sau 1945 khá độc đáo, có những nét riêng biệt so với các nhà văn

trước và cùng thời. Nhân vật được bộc lộ với những “phần dư nhân tính”, được

đặt trong môi trường sinh hoạt và quan hệ đời thường. Nhân vật được khắc họa

qua ngôn ngữ đậm chất đời thường, mang màu sắc địa phương. Có thể nói, đó là

nhân vật của đời thường, là con người trần thế, trần tục.

3.1.1.1. Xây dựng nhân vật có độ “dư”

Theo M.Bakhtin, “tiểu thuyết là phạm vi tiếp xúc tối đa với hiện tại và đời

thường” [10], vì vậy nó đã giúp nhà văn luôn khám phá con người trong sự vận

động, biến đổi, thậm chí có xu hướng bộc lộ cả những “phần dư nhân tính”.

M.Bakhtin cho rằng đặc điểm cơ bản của tư duy tiểu thuyết là “đề tài nhân vật

không tương hợp với số phận hay vị thế của nó. Con người hoặc cao lớn hơn

60

thân phận của mình, hoặc nhỏ bé hơn tính người của mình” [10; tr.80]. Hệ thống

nhân vật trong tiểu thuyết của Tô Hoài sau 1945 trong vị trí và thân phận của

mình đã lộ ra những “độ dư” của nhân cách. Nhân vật trong tiểu thuyết của Tô

Hoài là những người bình thường, đời thường trong xã hội. Nhân vật của ông

không phải là những con người hoàn hảo, mang vẻ đẹp lí tưởng, hiện lên toàn

mặt tốt mà là những con người với biểu hiện của tính người. Nhân vật của nhà

văn bao giờ cũng có hai mặt, tồn tại một “con người bên trong con người”

(Bakhtin). Nhân vật có cả mặt tốt lẫn mặt xấu, cái cao cả và cái thấp hèn, trong

sáng xen lẫn phàm tục. Tô Hoài không bao giờ lí tưởng hoá các nhân vật của

mình, thậm chí ông còn tỏ ra thích quan tâm, “nhòm ngó” đến mặt đời thường

của họ. Nhà văn không có xu hướng nhấn mạnh, tô đậm một mặt nào đó của con

người mà ông miêu tả mặt tốt cũng như mặt xấu của họ. Trước đây, nhiều nhà

văn né tránh không dám đề cập đến những mặt hạn chế của nhân vật trong tác

phẩm nhưng Tô Hoài đã đi trước thời đại về nhận thức con người, ông đã dám

nói thẳng, không kiêng dè và miêu tả rất thực những mặt xấu và những “phần dư”

nhân tính của họ. Tô Hoài đã sớm giải thiêng định đề của văn học hiện thực và

văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa “xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn

cảnh điển hình”, ông quan tâm tới con người thường, phi điển hình hóa.

Tiểu thuyết Mười năm (1958) được coi là dấu hiệu khởi đầu cho sự thành

công của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Mặc dù khi mới ra đời,

nhiều người đã phê phán tác phẩm rơi vào hình thức “tự nhiên chủ nghĩa”, “tầm

thường hóa con người”, sa vào quan niệm “con người trung bình” nhưng đến

thời kì Đổi mới, tác phẩm đã được nhìn nhận lại, đúng với giá trị của nó. Các

nhân vật trong Mười năm được xây dựng theo nguyên tắc “phi sử thi”, phá vỡ

nguyên tắc chung trong việc xây dựng nhân vật theo hướng “sử thi’ thời kì này.

Trong các tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thi, các nhân vật cách mạng

thường được các nhà văn miêu tả với những vẻ đẹp mang tính lí tưởng, một lòng

hướng đến cách mạng và nhiệm vụ cách mạng. Họ là những người đại diện tiêu

biểu cho dân tộc, cộng đồng và là những người mẫu mực, nêu gương. Mặc dù

Mười năm cũng viết về những người cách mạng nhưng họ lại được mô tả như

61

những con người bình thường, có cả phần tốt lẫn phần xấu, có mặt cao cả, có

mặt tầm thường, có hăng hái dũng cảm và cũng có chất tả khuynh. Trong tác

phẩm, các nhân vật Lê, Lạp, Ba, An là những thanh niên cách mạng tích cực, có

lí tưởng, tinh thần yêu nước và có quyết tâm. Họ là những người sôi nổi chống

thuế, tham gia phong trào Ái hữu thợ dệt. Họ thích đọc sách, bàn văn thơ, chính

trị, họ thu nạp ngày càng nhiều thợ cửi, thợ tơ, thợ hồ vào hội Ái hữu. Tuy nhiên,

con người họ vẫn bộc lộ những nhược điểm, hạn chế. Lạp là thợ dệt giỏi, tài hoa,

khỏe mạnh, nhanh nhẹn, tích cực tham gia phong trào cách mạng. Lạp là con

người bình thường như bao con người bình thường khác, cũng khát khao được

yêu đương, bộc lộ những bản năng của mình “Lạp rướn lên, đè má mình vào

một bên nóng hổi của Nhàn. Nhàn để yên. Rồi Lạp nghiêng môi hôn vào má

Nhàn…Hai người ôm nhau trong bóng tối im lặng, không ai thấy ai…Lạp như

mê, như rồ, ghì Nhàn xuống…Hai đứa trần như hai con nhộng trong đống quần

áo tã” [72; tr.109, 117, 121]. Lê cũng là một nhân vật đáng chú ý trong tác phẩm.

Lê là thanh niên khao khát hiểu biết, thích được viết báo, viết sách, thích cả làm

thơ. Lê sôi nổi, nhiệt huyết tham gia phong trào Ái hữu thợ dệt nhưng sau đó lại

bỏ đi Hải Phòng, đồn điền cao su rồi mất tích. Tuy vậy, Lê bộc lộ không ít

những nhược điểm. Anh là một người có nhiều ảo tưởng, nóng nảy và đã không

ít lần đánh lại bố “Lê không sợ bố - Lê điên lên, Lê đã vác sào đuổi đánh

bố…Lê đuổi theo, đá rấp luôn hai đá, ông lão Vựng ngã bổ xuống bãi rác” [72;

tr.27, 42]. Cùng với Lê, Lạp, Ba cùng họ tham gia hoạt động cách mạng nhưng

trong những ngày đói kém, Ba suốt ngày say khướt, đánh bạc rồi đi ăn trộm, ăn

cắp. Kết cục bị bắt, bị gọt gáy và chết trong sự đau đớn “Mặt Ba xám như đất.

Hai con mắt Ba trắng nhả, trô trố như sắp bật con ngươi ra…đằng gáy hoét đỏ

bầm như một lỗ thủng” [72; tr.113-114]. An cũng tích cực sôi nổi tham gia các

hoạt động như các thanh niên ở làng Hạ nhưng An cũng không ít lần bộc lộ tư

tưởng cầu an, cơ hội của kẻ hèn nhát. Khi xây dựng người thanh niên cách mạng

ở làng Hạ, Tô Hoài không vẽ hào quang sử thi cho các nhân vật. Nhà văn không

đặt nhân vật cách mạng lên cao, không lí tưởng hóa và điển hình hóa họ với

những phẩm chất tiêu biểu cao cả đại diện cho tập thể, cộng đồng. Họ không

62

phải là những anh hùng, siêu nhân, cũng phải được thần thánh hóa trở thành

những nhân vật khiến cho chúng ta phải ngưỡng mộ, tôn sùng mà họ hiện lên

hết sức gần gũi, quen thuộc trong những quan hệ đời tư, đời thường, có cả ưu

điểm và hạn chế. Bên cạnh những thanh niên cách mạng ở làng Hạ, những người

phụ nữ nông thôn trong tác phẩm cũng bộc lộ những mặt hạn chế và “phần dư”

nhân tính của mình. Không phải người phụ nữ nào cũng hiền dịu, nết na mà họ

rất đa tình, có phần lẳng lơ. Nhàn là một cô gái hiền lành, chăm chỉ, kín đáo

nhưng trong tình yêu cô lại mạnh bạo. Chị Hai Tâm - người phụ nữ trẻ đẹp và

góa chồng, tháo vát, đảm đang nhưng lại bốp chát, bạo miệng và nhiều lúc lả lơi.

Như vậy, các nhân vật trong những trang viết Mười năm của Tô Hoài hiện lên

với sự đan xen giữa cái tốt và cái xấu, mặt tích cực và mặt hạn chế.

Trong tiểu thuyết Miền Tây (1967), các nhân vật Nghĩa, Thào Khay, Vừ

Sóa Tỏa là những cán bộ cách mạng, người của Đảng. Đó là kiểu nhân vật mới -

gạch nối quan trọng giữa quá trình đấu tranh tự phát và tự giác của người dân

miền núi vùng cao. Họ là những người cán bộ giản dị, gần gũi với bà con, bản

làng. Họ am hiểu các phong tục, tập quán của đồng bào miền núi, biết cách vận

động bà con tin tưởng, bảo vệ và tham gia cách mạng. Tô Hoài một mặt tuân thủ

barem chung trong việc xây dựng nhân vật người cán bộ miền núi vùng cao mặt

khác lại khắc họa họ ở cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Những người cán bộ

trong Miền Tây khác với những người cán bộ (anh Thế trong Đất nước đứng lên,

anh Quyết trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, A Châu trong Vợ chồng

A Phủ), họ không hoàn toàn mang vẻ đẹp lí tưởng. Các nhân vật Nghĩa, Thào

Khay, Vừ Sóa Tỏa là những người cán bộ tiêu biểu có chí tiến thủ, dũng cảm và

nhiệt tình, trách nhiệm trong mọi công việc, hết lòng vì mọi người, vì tập thể.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, họ cũng có mặt hạn chế. Nghĩa - cán

bộ miền xuôi từ vùng trung du lên miền núi công tác, tích cực cống hiến cho

vùng cao. Mặc dù, Nghĩa hết sức yêu thương đồng bào H’mông, nhiệt tình trong

công tác vì quyền lợi các dân tộc miền núi, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng,

nhưng đôi lúc ở anh cũng băn khoăn về tình cảm gia đình, vợ con, vẫn có lúc

ngại khó, suy tính và “mờ nhạt tình cảm” với vùng cao. Thào Khay - cán bộ

63

miền núi là người có rất nhiều ưu điểm nhưng không phải là không có khuyết

điểm. Anh đã từng tham gia chiến dịch Tây Bắc, Điện Biên sau đó được cách

mạng đào tạo trở thành cán bộ y tế. Ngày đầu tiên về làng, Thào Khay đã lao

vào nhiệm vụ của mình: vận động lập trạm xá, chữa bệnh cho con Pàng, đến

từng gia đình người nghiện, bày cách cho họ bỏ thuốc phiện. Bằng sự cố gắng,

tinh thần trách nhiệm của mình, Thào Khay đã làm cho người dân miền núi tin

tưởng vào cán bộ, vào cách mạng và ánh sáng dẫn lối của Đảng. Thào Khay

không chỉ chữa bệnh về sức khỏe mà còn chữa bệnh về tinh thần cho người dân

miền núi. Anh đã bài trừ những nạn mê tín dị đoan vốn tồn tại từ lâu trong tiềm

thức của người dân nơi đây. Thào Khay là người rất hăng hái, tích cực trong

công việc nhưng trong cách đối xử với bà con, gia đình, nhất là đối xử với Thào

Nhìa, anh lại thiếu tế nhị, sâu sắc và bản thân anh đôi khi vẫn còn có chút tự ti

dân tộc. Vừ Sóa Toả - chủ tịch xã lại say mê cái lò rèn hơn công việc của chủ

tịch. Ông lúc nào cũng hăng hái, nói và làm, làm nhiều hơn nói, nhưng đồng thời

cũng thẳng thắn trong việc làm và cả trong suy nghĩ, không ưa sự phức tạp.

Cùng viết về con người miền núi nhưng quan niệm về con người của Tô Hoài

khác với quan niệm về con người mang tính lí tưởng của Nguyên Ngọc và cũng

khác với nhân vật loại hình của Ma Văn Kháng. Cái nhìn về con người ngay từ

những năm đầu Cách mạng của Tô Hoài đã kéo nhân vật sát với đời thực, rất

gần với quan niệm con người đa diện trong văn học Đổi mới.

Trong tiểu thuyết Ba người khác (2006), Tô Hoài lại xây dựng hình ảnh các

anh cán bộ “đội”: Bối, Đình, Cự - điển hình cho những mặt trái, những thói hư

tật xấu, bản năng thấp kém, những “phần dư” nhân cách trong thời kì cải cách

ruộng đất ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Tô Hoài đã miêu tả các anh cán bộ “đội”

với tính cách rất tầm thường, họ không nhận ra những sai lầm trong chỉ đạo vì

vậy mà phạm tội ác. Bản chất xấu xa của những anh “đội” được nhà văn tập

trung ở ba nhân vật Cự - Bối - Đình. Đó là ba kẻ có “máu mặt nhất”, ba “diễn

viên chuyên nghiệp”, ba “diễn vai phản diện”, ba anh “đội” có quyền “nhất đội

nhì giời”. Cự là đại đội trưởng, chỉ đạo và đi đầu trong mọi việc, “tính tình thì

quyết đoán nhưng lại nóng như lửa, gắt gao kỉ luật với mọi người”. Lúc nào Cự

64

cũng tỏ ra uy nghiêm, tác phong quân sự, không dám cợt nhả với mọi người. Cự

luôn sốt sắng và đề cao thành tích, quyết tâm giành thắng lợi vì thành tích của cả

đội nhưng thực chất vì cá nhân mình. Không biết gì về đồng ruộng nhưng Cự

lúc nào cũng hô khẩu hiệu “Vì giai cấp nông dân, quyết chiến quyết thắng”.

Nhưng khi thất bại, Cự lại tóm lấy những điểm yếu, sai trái của Bối để đổ lỗi

cho Bối và sai Bối thay mình hoạt động làm lúa thần kỳ. Cự lợi dụng chức

quyền, cử Bối phụ trách kết nạp Đảng cho bố con Diệc và vợ mình. Cự là nhân

vật tổng hợp tất cả của mặt “dư nhân tính” mà những anh “đội” mang về vùng

quê này. Cự cũng biết ăn vụng bánh đúc ngô như Bối, cũng hủ hóa, dâm ô với

Duyên, Đơm, hơn nữa Cự cũng biết thay đổi hình dạng, biến thiên mình theo

thời cuộc. Đằng sau Cự là anh “đội” Bối. Bối là anh cán bộ “đội” đại diện tiêu

biểu nhất cho sự dối trá với nhiều thói tật, nhiều hành động mang tính chất bản

năng. Đi cải cách nhưng Bối luôn tìm cách ăn vụng, thậm chí ăn cắp để thỏa

mãn những nhu cầu bản năng của mình. Bối sống giữa những an bài của số phận,

giữa những bản năng của bản thân, bằng lòng với những gì mà cuộc đời cố tình

hay vô tình đem cho Bối. Bối đi họp thì giả bộ chăm chú nhưng lúc nào trong

đầu cũng nghĩ đến chuyện đói, chuyện ngủ với các cô “rễ chuỗi”, tính toán làm

sao mà không bị “bại lộ”. Những ngày tháng đi làm cải cách ruộng đất đã tôi

luyện cho anh Bối cách sống hưởng thụ quan cách. Anh ta luôn tìm cách trốn

tránh mọi công việc bằng hành động “lẩn vào xó xỉnh nào để ngủ, giả bộ như

đang nằm suy nghĩ, viết báo cáo”. Bối còn làm tình với các cô “rễ chuỗi” mọi

lúc, mọi nơi. Bối đã kể lại cảnh hủ hóa của mình một cách hả hê, không ngại

ngùng. Bối đã tạo cho mình cách “ăn mặc, đi đứng, nói năng, làm tình như một

thói quen” [69; tr.201]. Đình cũng là một nhân vật đáng chú ý, làm nên diện

mạo bộ ba anh “đội”. Cuộc đời của Đình lúc “lên voi xuống chó”. Anh ta mù

mờ với trại đại đồng cho những người tản cư sau đó Đình làm anh phó phòng

tuyên truyền ở huyện. Tưởng như sau chuyện chết hụt, Đình sẽ từ bỏ những điều

mà anh ta ấp ủ. Nhưng bao nhiêu năm, gặp lại Đình ở thành phố lạ, câu chuyện

về trại đại đồng lại được kể như vừa hôm qua. Bối và Đình là hai nhân vật song

hành, bổ sung cho nhau. Bối chân chất thì Đình ranh mãnh, Bối thật thà thì Đình

65

xảo trá. Trong tiểu thuyết Ba người khác, các nhân vật cán bộ “đội” hiện lên với

sự tha hóa, biến chất, với những sai lầm tội lỗi, những hành động dối trá, những

suy nghĩ u tối và lối sống có phần hoang dã bản năng. Các nhân vật cán bộ “đội”

được Tô Hoài xây dựng đầy khiếm khuyết nhân cách là theo quan niệm của nhà

văn “Con người là con người”. Bên cạnh đó, hình ảnh những người nông dân

như bác Diệc, cố nông Vách…hiện lên với những mặt trái tiêu cực, sống bản

năng, ấu trí, nhếch nhác, khốn cùng, không còn là những người nông dân hiền

lành, cam chịu, nhẫn nhục. Những cô gái nông thôn như Đơm, Duyên trong tiểu

thuyết của Tô Hoài không phải là những cô gái chịu thương, chịu khó, hiền thục,

nết na mà được miêu tả là những cô gái đầy dâm đãng, toan tính, chua ngoa,

đanh đá, đáo để và cũng không kém phần ghen tuông. Viết tiểu thuyết Ba người

khác, Tô Hoài rất giỏi xây dựng nhân vật tập thể, ông là người đầu tiên nhìn

người nông dân và người cán bộ đầy bản năng, khác với các nhà văn khác luôn

nhìn họ với cái nhìn một chiều, có phần đơn giản.

Thông qua xây dựng các nhân vật với “độ dư” của nhân cách, người đọc

nhận ra sự không thuần nhất, sự không tương hợp, sự không trùng khít giữa con

người với tính cách, thân phận của họ. Đồng thời, người đọc nhận ra mặt khác

của các nhân vật và một con người khác bên trong con người của từng nhân vật.

Sự thể hiện nhân vật theo chiều hướng nghiêng về mặt tiêu cực, hạn chế, bộc lộ

“phần dư” nhân cách là cách nhìn mới của nhà văn về con người.

3.1.1.2. Đặt nhân vật trong môi trường sinh hoạt và quan hệ đời thường

Nhân vật bao giờ cũng hoạt động trong một không gian nhất định. Những

không gian sinh hoạt thường gắn với đời sống thường nhật của nhân vật, là môi

trường, là nơi để nhân vật đi lại, thể hiện hoạt động sống. Loại không gian hiện

thực này diễn ra hàng ngày đối với những hành động của nhân vật. Đó là không

gian đường phố, làng quê, gia đình, căn phòng, khu vườn,…Không gian sinh

hoạt đời thường là không gian mà ở đó nhân vật bộc lộ mình một cách tự nhiên,

nhân bản nhất, đầy đủ và rõ nét nhất tính cách của con người trong hiện thực.

Đó là “mảnh đất lí tưởng” để nhân vật vừa bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp vừa

thể hiện những cá tính, thói tật và bản chất của mình. Không gian để nhân vật

66

hoạt động và bộc lộ tính cách trong các tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 là không

gian sinh hoạt đời thường, thế sự, hàng ngày, là không gian sinh hoạt nơi làng

quê ở các vùng miền khác nhau. Đặt nhân vật trong không gian sinh hoạt đời

thường, nhà văn Tô Hoài đã giúp người đọc hiểu thêm về cuộc sống, đặc trưng

văn hóa của từng vùng miền cũng như tư tưởng, tâm hồn, tình cảm và nét riêng

về tính cách của các nhân vật trong các tác phẩm. Tô Hoài không quá cầu kì

trong việc lựa chọn không gian sinh hoạt đời thường, ông viết đơn giản tự nhiên

như những gì diễn ra xung quanh mình, đặt nhân vật trong môi trường sinh hoạt

nơi làng quê, trong mối quan hệ đời thường với gia đình, anh em, họ hàng, xóm

làng, bạn bè, trai gái…Vì vậy, nhân vật trong các tác phẩm của nhà văn thường là

những con người bình thường như người đọc vẫn gặp trong đời sống hàng ngày.

Ở tiểu thuyết Mười năm, Tô Hoài đã xuất phát từ cuộc sống cụ thể của

những con người sống trong một làng thủ công nghiệp ở vùng ngoại thành Hà

Nội - làng Hạ - làng dệt. Vì vậy, nhân vật được miêu tả rõ trong công việc dệt

vải, trong đời sống gia đình, trong tình duyên, trong sự lo toan tính toán hàng

ngày. Dù họ là nhân vật chính, nhân vật thứ yếu, hoạt động từ đầu đến cuối tác

phẩm hay xuất hiện thoáng qua thì vẫn được đặt trong những mối quan hệ đời

thường. Họ là những con người sống thật, cũng có những toan tính nhỏ nhoi vụn

vặt, có đủ thứ nhu cầu và bổn phận riêng như những người đương sống ở ngoài

đời. Họ tham gia hoạt động cách mạng nhưng không thoát ly khỏi cuộc sống lao

động hàng ngày. Họ vẫn phải tích cực lao động, bươn chải với cuộc sống nhọc

nhằn, tìm kế sinh nhai, vẫn phải lo đi dệt cửi mướn để kiếm sống “Lạp phải đi

làm. Lần này không hẹn giắt nữa. Lạp về khung cửi đúng hẹn vì nếu không dệt,

Lạp không có tiền” [72; tr.20]; “Lạp mở quyển điều lệ Ái hữu thợ giày ra, giắt

dưới văng, vừa dệt vừa cúi đọc” [72; tr.23]. Lê cũng vậy, anh chăm chỉ làm việc

“Dệt cửi đều để có tiền tiêu, còn tối ngày phiên thì học chữ anh Chúc” [72;

tr.21]. Trong suốt chiều dài của cuốn tiểu thuyết, nhân vật gắn với sự sống loanh

quanh buộc vào mấy khung cửi, với tiếng thoi chạy lách cách, vang vang đều

đều hàng ngày. Mặc dù ban ngày họ dệt vải, vất vả lao động kiếm sống nhưng

tối đến đám thanh niên làng Hạ lại tụ tập ở nhà anh Ba, không phải để đàn hát

67

hay tán chuyện phiếm mà để bàn chuyện chống thuế “Lại như thói quen, tối đến,

họ họp nhau ở nhà anh Ba, kẻ nằm người ngồi dưới ánh đèn tù mù vàng hoe”

[72; tr.9]. Hay chiều chiều, thợ tơ cửi tụ tập ở ngã ba đường khi phiên chợ lụa

nghỉ dệt “Cái ngã ba đường ngay chỗ cầu ngói ở cửa đình ra, không hẹn mà nên,

từ bao đời là chỗ thợ tơ cửi mấy làng hay tụ tập đấy, mỗi buổi chiều phiên chợ

lụa nghỉ dệt” [86; tr.45]. Nhân vật được khắc họa trong những cảnh sinh hoạt

đời thường đó, nhà văn có dụng ý làm sống lại những cảnh cũ, người xưa đồng

thời cũng góp phần soi sáng thêm về tính cách của những con người đã được ấp

ủ cả đời trong môi trường như vậy. Đặt nhân vật trong những chuyện diễn ra

hàng ngày, Tô Hoài đã thể hiện được bản sắc, thói quen riêng, thói tật nho nhỏ

của họ. Những người phụ nữ như chị Hai Tâm hay nói, bạo miệng, mẹ chồng chị

Hai Tâm thì chua ngoa, đanh đá. Những người đàn ông thì nóng nảy như Lê,

Lạp…Đồng thời những phẩm chất tốt đẹp của họ cũng được bộc lộ. Họ là những

người chân chất, chăm chỉ làm ăn, tích cực, say mê hoạt động cách mạng, giàu

tình yêu thương và rất lạc quan, yêu đời.

Trong tiểu thuyết Miền Tây, nhân vật được khắc họa trong môi trường lao

động thuần phác. Những người dân miền núi quanh năm với công việc ruộng

nương, cuộc sống của họ là cuộc sống lao động chân tay. Chính môi trường đó

đã hình thành nên những con người miền núi với phẩm chất cần cù, hiền lành,

chất phác. Sinh ra và lớn lên trong môi trường lao động thuần phác nên người

dân miền núi thật thà, đơn giản và mộc mạc trong nếp nghĩ và cách làm việc. Bà

Giàng Súa bị dân làng vu là “con ma Giàng Súa”, biết mình luôn oan khuất,

nhưng thấy mọi người luôn xua đuổi, có lúc bà cũng nghĩ “tưởng mình có ma

thật, bà Giàng Súa đã đi lấy sỏi, lấy đá ngậm hàng tháng trong miệng” [73; 12].

Sau bao năm xa cách, gặp lại Thào Nhìa, không tìm được câu trả lời về sự hiện

diện của đứa con hoàn toàn xa lạ, bà lại tin “thằng Nhìa của bà đã hóa hổ chết ở

Nậm Ngù rồi... hồn nó lạc mất rồi” [73; tr.104]. Những người dân miền núi

không nuôi tham vọng gì cao xa, họ chỉ mong được sống ấm no, yên lành trên

nương ruộng bằng chính bàn tay lao động của mình. Cả một đời cay đắng, nhọc

nhằn, có lúc bình yên ngồi nghĩ lại quá khứ, bà mẹ Giàng Súa chỉ mong sao giữ

68

được niềm hạnh phúc bình thường đang có: “Bà Giàng Súa được như bây giờ,

có áo váy đương mặc, có áo váy đương phơi, đã vui lắm rồi. Nhưng bà nghĩ đến

đời Mỵ thì nó phải sướng, nó phải khác…” [73; tr.165]. Nhân vật trong Miền

Tây được đặt trong mối quan hệ giản dị như anh em, xóm làng, trong hoạt động

cách mạng. Họ bộc lộ những phẩm chất của người dân miền núi với bản tính

giản dị, chân chất, mộc mạc dẫu cuộc đời không ít nỗi buồn đau. Thào Mỵ dịu

dàng, chân thực, nhiệt tình xây dựng cuộc sống mới. Pàng thẳng thắn, mạnh mẽ

mà mộc mạc, chân chất. Thào Khay từ cách nhìn, nếp nghĩ cho đến hành động

đều toát lên cái sức sống nhiệt tình, đầy bản sắc của người thanh niên miền núi

trong cuộc đời mới.

Nhân vật trong tiểu thuyết Ba người khác được đặt trong không gian đời

thường của làng quê vùng nông thôn Bắc Bộ thời kì cải cách ruộng đất. Ba anh

“đội” trong tác phẩm đã được Tô Hoài khắc họa trong môi trường công việc,

sinh hoạt hàng ngày và mối quan hệ đời thường. Qua mô tả cách sinh hoạt, cách

làm việc giữa các anh “đội” với nhau, cách làm việc giữa các anh “đội” với các

“rễ, chuỗi”, Tô Hoài đã cho thấy bản chất, mặt trái của ba anh “đội”. Họ đã hiện

nguyên hình là những kẻ dốt nát, dối trá, ham mê thành tích núp sau cái mặt nạ

cán bộ “đội”. Bối, Đình, Cự là ba anh “đội” hăng hái, nhiệt tình trong mọi việc

nhưng cuối cùng lại không hoàn thành nhiệm vụ, mắc những thiếu sót, khuyết

điểm, tội lớn. Họ đi cải cách mọi nhà nhưng không cải cách “chính mình”. Nhân

vật trong Ba người khác còn được đặt trong mối quan hệ trai gái. Những cô gái

nông thôn táo bạo và ngỗ ngược, sẵn sàng dâng hiến thân xác cho những anh

“đội”. Ba anh “đội”: Bối, Đình, Cự thay nhau, nhường nhau làm tình Đơm,

Duyên và các nữ dân quân bất kể trước, sau lúc hội họp, lúc đấu tố, ban đêm hay

ban ngày. Họ làm tình ngay bụi cây bên đường làng, bên đống rạ trong sân.

Thậm chí, họ còn làm tình cô Đơm trước người mẹ tàn tật, làm tình cô Duyên

bên ông bố điếc…Tô Hoài đã miêu tả các anh “đội” đến với nông thôn như gieo

vào đó sự lưu manh, đê tiện. Hành vi hoang dã của họ không chỉ dừng lại ở tính

dục mà còn dịch chuyển thành những quyền lực, tham vọng. Bản chất của họ đã

69

xấu xa nay càng trở nên đểu cáng, hoen ố nhân cách, nhân tính.

Như vậy, Tô Hoài đã đặt nhân vật ở không gian sinh hoạt đời thường - ba

vùng quê khác nhau và trong mối quan hệ đời thường là để nhân vật không hiện

diện với cái nhìn một chiều, đơn giản, nhờ thế mà nhân vật của nhà văn hiện lên

một cách đa diện, sinh động, chân thực và giàu sức sống.

3.1.1.3. Ngôn ngữ khắc họa nhân vật đậm chất đời thường, mang màu sắc địa phương

Đến với nghề văn chương từ trong thực tế cuộc sống lao động của nhân dân

nên Tô Hoài rất coi trọng việc học tập lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân

để đưa vào tác phẩm. Ông tích lũy ngôn ngữ từ mọi miền quê khác nhau, ông

bắt đầu “nhặt chữ” từ làng quê mình “Ảnh hưởng đầu tiên đến với tôi, không nói

về tư tưởng, lập trường chính trị chính là người làng Nghĩa Đô của tôi. Người ta

nói thế nào thì tôi cứ thế mà xào xáo thành văn” [95; tr.429]. Tiếp đến, ông tích

lũy ngôn từ của các miền đất đã qua, đã gắn bó như Thái Bình, Thanh Hóa, miền

núi Tây Bắc. Theo Tô Hoài, ngôn từ của người viết phải phong phú, linh hoạt,

đa dạng. Viết về làng quê phải có từ ngữ của làng quê, viết về miền núi phải có

từ ngữ của miền núi. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Tô Hoài là ngôn ngữ được tích

lũy từ đời sống quần chúng và qua trải nghiệm thực tế. Tô Hoài rất hiếm khi

dùng thứ ngôn ngữ văn chương mượt mà, óng ả, “sặc mùi” sách vở. Chữ nghĩa

của ông xuất phát và cất lên từ đời sống. Tô Hoài không chỉ tích lũy ngôn ngữ

quần chúng mà ông đã biết cách chọn lựa, nâng cao và nghệ thuật hóa để tăng

thêm giá trị của nó. Trong các tác phẩm tiểu thuyết của Tô Hoài, do luôn luôn

tiếp xúc với người lao động ở mọi miền quê nên nhà văn đã khai thác và sử dụng

rất nhiều từ ngữ lời nói hàng ngày của nhân dân. Ngôn ngữ của người lao động

từ cuộc sống đi vào tác phẩm mang theo cả cái xô bồ của cuộc sống đời thường.

Tô Hoài đã tạo nên sự khác biệt trên phương diện ngôn ngữ khắc họa nhân

vật. Trong các tiểu thuyết của ông giai đoạn sau 1945, ngôn ngữ khắc họa nhân

vật vừa dân dã, bình dị, đời thường, mang màu sắc địa phương, đặc trưng của

các vùng quê: ngoại thành Hà Nội, miền núi vùng cao, vùng nông thôn đồng

bằng Bắc Bộ. Ở mỗi một miền quê có những thói quen riêng trong cách sử dụng

ngôn ngữ. Tô Hoài đã từng sống và gắn bó với các miền quê ấy. Ông không chỉ

70

thấu hiểu cuộc đời, số phận của những người dân nơi mà ông đặt chân đến mà

còn sử dụng thuần thục ngôn ngữ của họ. Tiếp thu những lời ăn tiếng nói của

từng phương ngữ vào những trang viết của mình vừa tạo cho lời văn sinh động

vừa đảm bảo tính khách quan của lời nói, tạo nét tự nhiên cho câu chuyện mà

tránh sự gò ép của tác giả.

Nhân vật của Tô Hoài là những con người của đời thường ở các vùng quê

khác nhau. Ông có cách “đời thường hóa” nhân vật của mình. Trước hết, Tô

Hoài dùng những từ nôm na, dân dã để đặt tên cho nhân vật của mình và thể

hiện đặc trưng của từng địa phương. Trong Mười năm, ông đặt tên cho những

người thanh niên cách mạng là Lê, Lạp, Trung, những người phụ nữ như chị Hai

Tâm, bà Hương, Nhàn, Hiền…Hay cách đặt tên rất đặc trưng miền núi như bà

Giàng Súa, ông già người Xá, Thào Mỵ, Thào Khay, Thào Nhìa, Huổi Ca,

Pàng…trong Miền Tây. Trong Ba người khác, Tô Hoài lại đặt tên cho những

người trong gia đình có cùng trường nghĩa để dễ gọi, dễ nhớ như bố là Diệc, con

là Cò, Vó, Đơm. Cách đặt tên cho nhân vật của Tô Hoài cụ thể, gắn với cuộc

sống đời thường, ít có nghĩa tượng trưng.

Ngôn ngữ của các nhân vật mang đặc trưng của từng vùng. Trong Mười

năm xuất hiện từ ngữ của vùng kẻ Bưởi “Anh đã vay lội tiền rồi. Phải tiêu cầm

chừng chứ. Chưa vợ con mà”; “Chị cho tôi giựt tạm một đồng” [tr.25], “Chính

nhà tôi đây làm ba khung cửi mà tôi chỉ rặt chơi với anh em thợ” [tr.38], “Anh

có phong lưu cho giựt vài hào” [tr.50]... Trong Miền Tây, ngôn ngữ của nhân vật

mang bản sắc miền núi vùng cao “Lũ ma nhà Giàng Súa kìa” [tr.32], “Bà ơi, có

phải người Xá và người Mèo trời sinh ra cho làm anh em một nhà không” [tr.50],

“Cán bộ Nghĩa đã đi khắp đất nước rồi, có biết suối Nậm Ngù ở đâu?” [tr.62]…

Ngôn ngữ nhân vật không kiểu cách, sang trọng, chuẩn mực mà suồng sã, bỗ bã

qua cách đối đáp, xưng hô, cách nói chuyện, cách gọi. Khi bực bội, giận dữ thì

người ta gọi nhau bằng: thằng khốn nạn, thằng mất dạy, thằng đểu, con đĩ

dại…Khi tỏ ý coi thường thì gọi là: con ranh, thằng trẻ ranh, nứt mắt,…Khi yêu

nhau, họ gọi nhau bằng những từ ngữ dân dã như: cô ả, anh ả, cu cậu, anh nỡm,

con vợ…Nét tự nhiên, dung dị, đời thường trong ngôn ngữ tiểu thuyết Tô Hoài

71

là một dụng ý nghệ thuật, biến những trang văn thành những trang đời với chất

thô tháp tự nhiên của nó. Với cách sử dụng ngôn ngữ ấy, nhà văn Tô Hoài đã tái

hiện một cách xác thực và gần gũi lối sống của người đương thời, cho thấy khả

năng nắm bắt và thâm nhập đời sống của chính tác giả đồng thời cũng là phương

tiện để nhà văn hướng ngòi bút đến cảm hứng thế sự, đời tư, cảm quan đời

thường, đào sâu số phận, vận mệnh cá nhân.

Cùng với thứ ngôn ngữ khắc họa nhân vật dung dị, tự nhiên, đậm chất đời

thường, Tô Hoài còn vận dụng thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ dân gian đưa vào

trang văn của mình. Trong tiểu thuyết Ba người khác, người đọc bắt gặp hàng

loạt thành ngữ được gán cho lời thoại của nhân vật. Lời của Tư Nhỡ “Cái gì

cũng bảo để xét, rồi mất hút con mẹ hàng lươn” [69; tr.36]. Lời của bác Diệc

“Cảm ơn anh thăm nghèo hỏi khổ” [69; tr.41]. Lời phát biểu của người đoàn ủy

“Chỉ bọn bóc lột mới có xe đạp, mới thảnh thơi ngồi mát ăn bát vàng. Chúng ta

về với nông dân không thể đồng sàng dị mộng” [69; tr.14]. Ngay cả lời của

những anh “đội” được đánh giá là những người “có trình độ văn hoá cao” cũng

không hơn gì những người nông dân kém hiểu biết “Oai chứ. Nhưng miền núi

ngoài này chó ăn đá gà ăn sỏi, còn đâu moi ra lấy cái ăn…” [69; tr.115]. Trong

tiểu thuyết Mười năm, người đọc bắt gặp hàng loạt thành ngữ trong cuộc trò

chuyện của các nhân vật. Lời của chị Hai Tâm “Vội mà đêm cuối phiên bận nhất

thế này lại nghỉ? Khéo dấu đầu hở đuôi!” [72; tr.15]; “Này cứ nghe tớ như thế

mà tươm. Chứ lông bông chỉ tổ rạc cẳng, ngày lắm mối tối nằm không vắt tay

lên trán nghĩ sự đời” [72; tr.23]; “Nói bán giời không văn tự. Anh thì có mà dệt

cơm!” [72; tr.37], “Con gái vùng trong đẹp như tiên sa ấy chứ. Anh Lạp dệt cửi

nhà tôi đấy, đêm ngày [72; tr.38]. Lời của Khiết “Chính nhà tôi đây làm ba

khung cửi mà tôi chỉ rặt chơi với anh em thợ. Thanh niên hãy chơi đã, chẳng vội

làm ăn. Tuổi xuân ba vạn sáu nghìn ngày lo gì, sáu hay chín nghìn” [72; tr.38].

Trong một lần Nhàn nói chuyện với Lạp về việc Hiền - người con gái mà anh

thương thầm sắp đi lấy chồng. Lạp nói lơ lửng: “Ai biết đâu chuyện nhà người

ta! Nhàn cười nhạt, thế ra công anh đắp đập, be bờ; đan lờ thả cá, bây giờ tay ai

hả” [72]. Tô Hoài sử dụng thành ngữ, tục ngữ như là một trong những phương

72

tiện để phản ánh bức tranh hiện thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ tạo ngữ

cảnh cho câu chuyện, tạo nên giọng điệu quen thuộc trong giọng văn của Tô

Hoài và góp phần tái hiện chân thực tính cách, suy nghĩ của nhân vật.

Tô Hoài đã vận dụng, khai thác hiệu quả lời ăn tiếng nói hàng ngày của

người dân quê khiến cho nhiều tiểu thuyết của ông sau 1945 vừa mang nét

chung của ngôn ngữ toàn dân vừa mang dấu ấn địa phương rất đậm nét, tạo nên

những nét riêng biệt về nhân vật ở các vùng quê khác nhau. Sự tham gia của các

yếu tố thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ dân gian trong tác phẩm đã diễn tả súc tích,

ấn tượng những điều mà nhà văn muốn phản ánh.

3.1.2. Kết cấu trần thuật

Kết cấu trong tiểu thuyết có vai trò quan trọng. Nó góp phần bộc lộ chủ đề,

tư tưởng đồng thời định hình phong cách, đặc điểm thi pháp, tạo dấu ấn riêng

cho mỗi nhà văn. Kết cấu vừa giúp nhà văn chuyển tải thông điệp đến người đọc

theo đúng ý tưởng và chiến lược của mình, vừa cho thấy trình độ của nhà văn

trong việc triển khai và tổ chức tác phẩm. Kết cấu trong các tiểu thuyết của Tô

Hoài sau 1945 đã có sự đổi mới rõ rệt từ kiểu kết cấu truyền thống sang kiểu kết

cấu hiện đại. Sự thay đổi về các kiểu kết cấu đã thể hiện ý thức tìm tòi, đổi mới,

thể nghiệm của nhà văn, góp phần đem lại cho tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945

diện mạo mới đáp ứng được với những yêu cầu của thời đại.

3.1.2.1. Kết cấu tuyến tính

Kết cấu tuyến tính là kiểu loại kết cấu được tổ chức theo logic thời gian,

các sự kiện được sắp xếp theo trật tự thời gian, trước sau. Đây là dạng kết cấu

quen thuộc trong văn học truyền thống. Kết cấu theo trình tự thời gian làm cho

câu chuyện diễn ra theo nhịp điệu của cuộc sống thường nhật, lời kể của nhà văn

chậm rãi, thong thả, nhẩn nha, sự việc được kể tuần tự hết sức tự nhiên. Kết cấu

này giúp độc giả dễ theo dõi diễn biến của câu chuyện, không gặp khó khăn

trong việc nắm bắt các sự kiến chính của cốt truyện.

Tiểu thuyết Mười năm (1958) được Tô Hoài xây dựng theo kiểu kết cấu

tuyến tính. Lối kết cấu này đã giúp Tô Hoài phản ánh được hiện thực cách mạng

một cách chân thực, giản dị. Từ hoạt động đấu tranh tự phát đến có tổ chức, dù

73

có lúc tưởng chừng không thể duy trì được nhưng vẫn đi đến thắng lợi của các

thanh niên làng Hạ. Hình thức đấu tranh ban đầu của họ là tổ chức những cuộc

hội họp, đọc sách, viết báo, tổ chức Ái hữu thợ dệt, diễn kịch để tuyên truyền,

dán truyền đơn. Tất cả những hoạt động đó đều thất bại. Sau đó, dưới sự dẫn dắt,

lãnh đạo của Đảng và cách mạng, cuộc đấu tranh của thanh niên làng Hạ đã có

tổ chức thực sự, những người thợ đã thức tỉnh, giác ngộ quyền lợi giai cấp. Họ

đã ý thức được nỗi đau khổ của người dân mất nước, đã tự giác tham gia kháng

chiến. Họ họp cứu quốc, phá kho lương thực, khử Việt gian, tổ chức cướp chính

quyền, thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời.

Đến tiểu thuyết Miền Tây (1967), Tô Hoài vẫn sử dụng lối kết cấu theo trật

tự thời gian. Tô Hoài đã xây dựng câu chuyện trên trục thời gian từ quá khứ đến

hiện tại để thấy được những thay đổi lớn lao về mọi mặt và sự trưởng thành

nhanh chóng của người dân Tây Bắc từ sau khi chính quyền cách mạng thành

lập. Những năm trước Cách mạng 1945, người dân miền núi Tây Bắc bị bóc lột,

đàn áp bởi những tên chúa đất. Họ thiếu thốn về cái ăn, cái mặc, bị đọa đày tinh

thần bởi nạn mê tín dị đoan. Nhưng sau Cách mạng 1945, nhờ có ánh sáng của

Đảng, tương lai và cuộc sống của họ được mở ra, những vùng núi cao đã nghìn

đời khiếp sợ, chìm đắm trong tay thầy cúng và ma quỷ nay không còn nữa. Cuộc

sống tấp nập đông vui hơn. Từng đoàn người các làng lên làm kho, làm trạm xá

và cửa hàng mậu dịch, Châu Yên càng đông hơn. Đổi mới nhất là trong nhà mậu

dịch đầy ắp các mặt hàng phục vụ cho nhu cầu của người dân, chợ Phiềng Sa có

cả lò rèn. Một Phiềng Sa đã hoàn toàn đổi khác. Với lối kết cấu theo trật tự thời

gian, Tô Hoài đã miêu tả sự thay đổi cuộc đời, số phận của những người dân

miền núi vùng cao: cơ cực khi chưa có Đảng, đổi đời khi cách mạng về “Vừ Sóa

Tỏa suốt ba đời đi ở đúc lưỡi cày, bây giờ trở thành chủ tịch xã”, “Thào Khay, con

bà Giàng Súa đã trở thành y sĩ, thành người cán bộ trong Đảng, có chân trong Châu

ủy Châu Mộc”, “Bà Giàng Súa về làng cũ, làm nhà ở thênh thang ngoài núi tranh,

như mọi người. Nhà mới mọc khéo đông đúc tựa bát úp” [73; tr.50].

Như vậy, điểm chung của hai tiểu thuyết Mười năm và Miền Tây là nhà văn

đã xây dựng câu chuyện phát triển theo trật tự tuyến tính, các sự kiện, chi tiết có

74

trật tự trước sau, sự kiện sau là bước phát triển của sự kiện trước. Tuy nhà văn

triển khai kết cấu mang tính chất truyền thống, đơn giản nhưng cách tổ chức hợp

lí, mang lại hiệu quả nghệ thuật cao thể hiện sự đổi thay của cuộc sống và con

người ở các khoảng không gian và thời gian khác nhau.

3.1.2.2. Kết cấu tâm lý

Nghệ thuật xây dựng kết cấu dựa trên diễn biến tâm lý nhân vật đã tạo cho

nhà văn có nhiều cơ hội để đi sâu vào diễn tả, phân tích những diễn biến tinh vi,

phức tạp của đời sống nội tâm con người. Với sự xuất hiện của kiểu kết cấu tâm

lý, những dòng cảm xúc, nội tâm của nhân vật, những vui buồn, sầu tủi, nhớ

mong, hạnh phúc…của con người đã được trải rộng ra trên những trang giấy.

Trong tiểu thuyết Miền Tây, Tô Hoài đã tập trung xoáy sâu vào miêu tả những

trạng thái tâm hồn, suy nghĩ, tâm trạng của bà Giàng Súa, ông già người Xá,

Thào Nhìa…Việc khai thác tâm lý nhân vật ở nhiều khía cạnh, nhiều chiều với

những mâu thuẫn phức tạp là một đặc điểm cơ bản trong nghệ thuật xây dựng

kết cấu của tác phẩm này.

Tô Hoài đã đặt nhân vật vào những cuộc đấu tranh nội tâm, với những day

dứt, với những cảm xúc, suy nghĩ băn khoăn, đan xen giữa những niềm vui và

nỗi buồn. Bà Giàng Súa trong tác phẩm là người có nội tâm phức tạp, đa chiều.

Bà được khắc họa trong hình ảnh của một thân phận u uất, sống vật vờ như một

bóng ma, một người phụ nữ nghèo khổ, chịu nhiều oan khuất đắng cay và hay lo

sợ “Bà Giàng Súa sống mịt mù như trên đời chỉ có bốn mẹ con…Mẹ con cứ vật

vờ như người hủi” [73; tr.13]. Tâm trạng của bà vui buồn lẫn lộn “Mỗi cơn gió

lùa vào rừng sâu đưa theo nhiều tiếng động mới lạ, bà Giàng Súa cứ nghe, lúc

thì náo nức muốn vui, lúc lại càng ảo não” [73; tr.35]. Cuộc đời bà Giàng Súa

chưa có lấy một ngày vui “những thứ mong ước tha thiết từ thời con gái bà chưa

bao giờ biết” [73; tr.104]. Bà luôn sống trong sự đau khổ và mất hết niềm tin

vào cuộc sống. Bà suy ngẫm rồi lại hồi tưởng “Nước mắt đầm đìa mặt mẹ mà

mẹ cũng chẳng biết. Từ lâu, bà Giàng Súa đã nghĩ rằng dù sao thì ngày hôm qua

còn tốt hơn ngày hôm nay và đời người thì ngày càng tàn, tàn lụi như cái củi nào

75

rồi cũng cháy đi thành than” [73; tr.36-37].

Hòa bình trở lại, tưởng như cuộc đời bà Giàng Súa được yên ổn, hạnh phúc

khi chứng kiến sự trưởng thành của những đứa con nhưng bà vô cùng đau đớn,

bàng hoàng, xót xa khi Thào Nhìa - con trai bà trở thành tên biệt kích. Người mẹ

ấy luôn mong ngóng, chờ đợi đứa con trở về “Mỗi buổi sáng, bà Giàng Súa

đứng nhìn xuống núi. Nó đi nửa đêm, nó đi buổi sáng. Khi đêm gió thổi, khi

sáng mặt trời lên đầu núi, lại tưởng ra lúc nó đi” [73; tr. 41] nhưng càng chờ đợi,

bà lại càng thất vọng. Những lúc ấy, cái ấn tượng nặng như núi trong cuộc đời

cũ với bóng ma chài chập chờn hiện ra, ám ảnh, dằn vặt tâm hồn bà “Bây giờ thì

không gì trở lại để nhớ, không còn khi nào ngước nhìn ra chờ đợi. Mặt người

bây giờ âm thầm như rừng sâu. Bà Giàng Súa không chờ, không nhớ, không biết

gì nữa” [73; tr.46]. Qua việc miêu tả tâm trạng của bà Giàng Súa, người đọc như

đang cùng chiêm nghiệm, cùng thấm thía và chia sẻ, cảm thông với nỗi đau của

người phụ nữ miền núi dưới chế độ cũ.

Tô Hoài đã miêu tả tinh tế quá trình diễn biến tâm lí của bà Giàng Súa qua

các chặng đường đời khác nhau. Khi cách mạng đến thì cuộc đời bà Giàng Súa

đã đổi khác, từ một người mẹ chịu nhiều đau thương tủi nhục trở thành người

mẹ chiến sĩ, góp công, góp sức vào cách mạng “Cách mạng đã đem bà Giàng

Súa về và giới thiệu rằng bà Giàng Súa cũng như mọi người, biết yêu đất nước,

ghét thằng Tây, vì thèm được có đất nước sung sướng nên cùng mọi người một

lòng đánh thằng Tây” [73; tr.48]. Tâm hồn bà đã vui trở lại nhưng nét lo âu vẫn

hiển hiện trên khuôn mặt “Vẫn những nét lo âu thường ngày xếp nếp trên mặt bà

Giàng Súa. Nhưng từ đây bà Giàng Súa không cúi mặt nữa. Đi đường, bà Giàng

Súa toàn kể lại những chuyện ngày xưa…Bà Giàng Súa níu lấy cái vui. Mỗi lúc

càng nhiều người đi qua, bà Giàng Súa một vui hơn” [73; tr.163]. Tuy được

sống trong xã hội mới hạnh phúc ấm no, trong lòng bà vẫn có những phút ngậm

ngùi, bâng khuâng thương xót cuộc đời quá khứ đau buồn “Bà Giàng Súa được

như bây giờ, có áo váy đương mặc, có áo váy đương phơi, đã vui lắm rồi.

Nhưng bà nghĩ đến đời Mỵ thì nó phải sướng, nó phải khác…Mỵ, con gái

thương của bà Giàng Súa, nghĩ trộm bóng nó, nó đương là cô con gái Mèo đẹp

76

nhất đất nước bây giờ” [73; tr.165]. Tô Hoài đã đi sâu vào những ý nghĩ, lo lắng

khá phức tạp của bà Giàng Súa. Bà Giàng Súa đã thay đổi thành con người khác,

bà cũng biết ước mơ, khát vọng, niềm vui bé nhỏ mà bình dị, niềm vui bao nhiêu

năm bà mới có được.

Ông già người Xá là một nhân vật bé nhỏ, cũng được nhà văn khắc họa với

những dòng nội tâm, suy nghĩ. Ông là người mê tín và hoài nghi về cách mạng.

Trong suy nghĩ của mình, đã có lần ông có ý định giết cán bộ nhưng khi trông

thấy cán bộ, ông lại nghẹn ngào “Mấy lần muốn cầm dao giết, mấy lần có ý định

lúc khảm thuyền qua suối thì cầm sào đánh vào gáy. Nhưng hễ trông thấy cán bộ,

hễ cầm đến con dao, cái gậy, lại nghẹn ngào, không giơ lên được” [73; tr.92].

Được sự chăm sóc của cán bộ Thào Khay sau một trận ốm, ông già người Xá đã

hiểu ra tấm lòng của cán bộ “Đương rõ ràng một buổi sáng ở nhà mình, không

có vua, không có người của vua, chỉ còn mình với người cứu mình, thì lòng tin,

một lòng tin thầm kín mà sâu sắc lại dâng lên” [73; tr.224]. Tô Hoài đã miêu tả

sự vận động tâm lý của ông già người Xá từ tâm hồn u tối, mê muội, ông đã dần

trở thành người tốt, tin vào cán bộ, vào cách mạng.

Thào Nhìa cũng là nhân vật có một tâm trạng phức tạp. Thào Nhìa là một

kẻ lầm đường, phản bội quê hương đất nước nhưng khi trở về nhà mẹ vẫn bùi

ngùi cảm xúc của một đứa con với những gì thân thương, gần gũi nhất. Trong

con người Thào Nhìa có sự giằng xé nội tâm giữa một bên là “dòng suối hiền

hòa”: “Bước chân Thào Nhìa đi lặng lẽ mà trong đầu thì xôn xao bóng mẹ già và

đất quê” [73; tr.130] và một bên là “cơn lũ hung hăng”: “Nhưng cái miệng nó

toàn lời thằng biệt kích” [73; tr.130]. Đã có lúc Thào Nhìa cũng muốn thú tội và

bày tỏ ý muốn xin mẹ Giàng Súa, anh trai Thào Khay của mình một cơ hội để

quay về nhưng cuối cùng Thào Nhìa đã lựa chọn tự kết liễu cuộc đời của mình

để chấm dứt mọi đau khổ.

Qua kiểu kết cấu tâm lý, biểu hiện tâm trạng của các nhân vật trong tác

phẩm, người đọc thấy được những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan của người dân

miền núi vùng cao với muôn vàn những cái sợ: ma trời, ma đất, ma hồn, ma nhà,

ma rừng, ma người chết và cả ma người sống... “Ma” đối với người dân miền

77

núi là một lực lượng siêu nhiên thần bí, gắn với những gì xấu xa, độc ác, tệ hại

nhất. Do trình độ văn hóa, sản xuất còn thấp kém, người dân miền núi bị lệ

thuộc vào tự nhiên và do bất lực trước những tai họa của tự nhiên mang đến, họ

sinh ra mê tín dị đoan. Nạn mê tín dị đoan là sản phẩm của một lối sống, lối tư

duy lạc hậu, tàn dư của chế độ cũ. Nạn mê tín dị đoan đã tạo nên nỗi sợ hãi triền

miên cho người dân miền núi và bao năm qua đè nặng lên đời sống tinh thần họ.

Họ đã quá tin vào những chuyện ma chài, thần linh, tin một cách mù quáng và

mê muội. Nỗi ám ảnh về “ma” đã khiến cho cuộc sống của họ chịu nhiều đau

khổ và bất hạnh. Gia đình bà Giàng Súa và ông già người Xá là những nạn nhân

điển hình của nạn mê tín, dị đoan. Qua kiểu kết cấu tâm lý, Tô Hoài đã thể hiện

tâm hồn, tính cách của người miền núi. Họ là những người dân miền núi hồn

hậu, chất phác nhưng cũng có những tâm sự, nỗi niềm muốn được chia sẻ.

Ở hai tiểu thuyết Mười năm và Ba người khác, nhân vật không sống một

quãng đời dài và cũng không có nội tâm. Có thể nhận thấy ở hai tác phẩm này,

Tô Hoài không quá chú trọng vào miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật, nếu có

chỉ là những suy nghĩ ngắn gọn, vài dòng độc thoại. Đó là suy nghĩ của nhân vật

Đình khi bị giam trong nhà tù: “Đình cũng tinh tỉnh đôi chút. Càng tỉnh càng

khiếp sợ, có lúc muốn đập đầu chết ngay, có lúc tưởng tự dưng cũng sắp tắt thở.

Làm sao nên nông nỗi này?” [69; tr.99]. Hay là những dòng nội tâm của Lê khi

nhớ về tuổi thơ đau buồn “Thằng bé khốn nạn ngày xưa trở về và trong trí Lê,

Lê buồn lắm…Lê lại thương thân và cám cảnh nhà, ruột xót như bóp muối” [72;

tr.48]. Đó còn là những dòng suy nghĩ của An nhớ về quê hương “An đương mơ

màng về con đường vào làng, như đã đi xa bao nhiêu năm, tha thiết chưa bao giờ

nhớ làng như lúc này…Nghĩ thế thì An nhớ, buồn cồn cào” [72; tr.63].

Như vậy, việc lựa chọn kết cấu tâm lý là điều kiện giúp cho nhà văn có thể

đi sâu vào phần “vi mô” của đời sống con người, giúp người đọc nhận thấy nhân

vật có một nội tâm sâu sắc, đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã

nhận xét: “Kết cấu tác phẩm vừa phóng túng, tự nhiên, vừa chặt chẽ, tạo nên

một thể thống nhất hoàn chỉnh. Một thứ kết cấu dựa theo logic của tâm lý nhân

78

vật hơn là theo sự kiện và cốt truyện” [103].

3.1.2.3. Kết cấu với lối đầu cuối chiếu ứng

Phần mở đầu và kết thúc đóng vai trò quan trọng của một cốt truyện tiểu

thuyết. Nhà văn phải dành nhiều công sức để tạo nên một cách mở đầu và kết

thúc tác phẩm thật độc đáo, ấn tượng, gây chú ý cho người đọc. Mở đầu của một

tác phẩm là yếu tố cốt lõi trong việc khơi gợi sự hứng thú của người đọc. Nó để

lại cho độc giả một ấn tượng kéo dài xuyên suốt quá trình đọc. Kết thúc của tác

phẩm có giá trị tạo nên dư ba, cũng là cách làm cho tác phẩm có sức sống lâu

bền với thời gian “Một tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối

cùng” (Aimatov). Kết thúc không chỉ có ý nghĩa giản đơn là sự dừng lại hay chỉ

là kết thúc câu chuyện, khép lại số phận nhân vật mà kết thúc truyện còn có vai

trò gợi mở ra nhiều vấn đề của cuộc sống, của quá khứ, hiện tại và tương lai

“Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng

người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về

tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng” (tác giả Bùi Việt Thắng). Tô Hoài

hiểu rõ “sức mạnh của cú đấm nghệ thuật là thuộc về đoạn cuối” (D.Phuốc - ma

- nôp) nên ông đã tạo một khoảng trống kết thúc bất ngờ, nhiều sức gợi, gây ấn

tượng sâu xa trong lòng người đọc. Dường như kết thúc truyện còn là một ẩn số

đối với người đọc.

Mở đầu trong các tiểu thuyết của Tô Hoài sau 1945 bắt đầu bằng một sự

kiện diễn ra trong quá khứ, là những cảnh sinh hoạt diễn ra hàng ngày ở một

không gian cụ thể. Kết thúc vẫn là không gian đó nhưng là cuộc sống của con

người ở thì hiện tại, gợi người đọc những liên tưởng và những cảm xúc bất ngờ.

Câu chuyện đã kết thúc như mạch kể của nó nhưng dường như vẫn còn tiếp tục,

miên man trong tâm tưởng của độc giả. Những cuộc đời, số phận của các nhân

vật, của những con người ở các miền quê khác nhau vẫn còn ám ảnh và nhức

nhối trong lòng người đọc. Kết thúc trong tiểu thuyết của Tô Hoài gieo vào lòng

người đọc sự nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống, quy luật đời người và gợi

79

nhiều suy tư, trăn trở.

Mở đầu tiểu thuyết Mười năm là tiếng trống inh ỏi thúc giục đóng thuế, là

cuộc nói chuyện giữa chị Hai Tâm và Lạp về việc đóng thuế. Đó là cảnh sinh

hoạt đời thường vẫn diễn ra ở làng Hạ:

“Tùng... tùng... tùng...

Tiếng trống thúc thuế inh ỏi, ra riết, gay gắt, càng về những ngày cuối càng

gay gắt. Không biết những ai mười tám tuổi trở lên phải chạy đông chạy tây lo

thuế thế nào thì lo, nhưng cứ mỗi lúc từng hồi trống ngoài đình nổi lên liên miên

ba tiếng một thì trẻ con các xóm lại cất cổ nhại theo: tiền... tiền... tiền... tiền...

tiền... tiền...

Chị Hai Tâm đánh xong mẻ suốt ấy rồi vào sửa cửi. Lạp đương lúi húi cắt

cái “rạp” ở cửa gỗ. Chị Hai ngồi vắt vẻo trên đầu song hành, hai tay luồn vào

mặt cửi, vừa gỡ vừa nói đùa:

- Trống gọi tiền anh Lạp đấy. Anh Lạp năm nay đóng thẻ có sản hay thẻ vô sản?

- Tôi bao giờ chẳng vô sản” [72; tr.5].

Kết thúc tác phẩm là cuộc trò chuyện giữa Lạp và Trung. Hai người đến

bên bờ ao, nhìn vào trong vườn về phía mộ của Nhàn và cảm giác mênh mông,

rờn rợn tràn ngập trong lòng Lạp và Lạp bắt đầu suy tư:

“Lạp đã kể Trung nghe cái đêm Lạp từ vùng trong trở về với Nhàn, yêu

Nhàn. Đêm ấy giống đêm nay không. Cũng ông trăng này, nhưng ông trăng đêm

ấy, đục đờ như miệng con mèo gào rồi lặng ngắt.

Trung im lặng. Không ngờ mà lại éo le, thảm thương đến thế. Trung không

nói những câu đùa cợt Lạp như lúc nãy nữa” [72; tr.173].

Kết thúc tác phẩm không còn cảnh người dân làng Hạ phải lo đóng thuế,

cũng không còn khung cảnh làng Dệt. Kết thúc mở ra một tương lai tươi sáng,

cuộc cách mạng đã thắng lợi nhưng hạnh phúc, cuộc đời của Lạp cũng như của

các thanh niên làng Hạ sẽ đi về đâu, sẽ như thế nào, nào ai biết được. Cái kết gợi

cho người đọc những suy tư về tương lai, cuộc sống của những con người vùng

quê ngoại thành Hà Nội.

Mở đầu tiểu thuyết Miền Tây là cảnh những đoàn ngựa thồ hàng của ông

80

khách Sìn lên Phiềng Sa vượt qua những đồi núi chập chùng “Năm nào cũng

vậy, đoàn ngựa buôn của ông khách Sìn về đến Châu Yên, dừng lại, thay tay thồ,

thì vừa xong gặt hái tháng Mười. Các phiên chợ Tết đã đến rồi” [73; tr.5]. Cảnh

đoàn ngựa thồ hàng của ông khách Sìn gợi cho người dân miền núi Tây Bắc bao

nỗi ám ảnh, sợ hãi. Tuy nhiên, kết thúc tác phẩm đã xóa đi những nỗi ám ảnh, lo

sợ của người dân miền núi vùng cao. Đó là những sinh hoạt thường ngày của

người dân vùng cao và cuộc trò chuyện của Mỵ và Nghĩa, là những suy nghĩ của

Nghĩa “Nghĩa cảm thấy một nỗi bồi hồi cùng một thoáng bùi ngùi qua” [73;

tr.354]. Người đọc nhận thấy cuộc sống sinh hoạt nơi vùng cao vẫn diễn ra trong

các bước diễn biến của câu chuyện, mọi thứ vẫn tiếp tục diễn ra không có hồi kết

thúc, mối quan hệ giữa Nghĩa và Mỵ sẽ đi đến đâu. Cách kết thúc gieo vào lòng

người đọc một nỗi buồn man mác về cuộc sống và hạnh phúc của con người.

Mở đầu tiểu thuyết Ba người khác là chuyện tham gia cải cách ruộng đất,

kết thúc là chuyện liên quan đến xóm cũ làng xưa và anh đội năm nao “Ở xóm

Am, xóm Chuôm và cả làng ấy đến bây giờ còn kể một câu chuyện li kì…Hai

anh em Vó và Cò, con bác trưởng thôn Diệc đều tòng quân” [69; tr.249] và

“Chiến sĩ Vó rút dao chém đứt cổ Huỳnh Cự trong đám quân tháo chạy” [69;

tr.250]. Kết thúc truyện là thông tin về cái chết mơ hồ của Huỳnh Cự “Câu

chuyện kì lạ được các xóm kể lại cho mãi, không biết thực hư thế nào” [69;

tr.250]. Tô Hoài đã không áp đặt người đọc vào một khuôn mẫu có sẵn mà để

người đọc tự tìm ra cái kết cho câu chuyện. Kết thúc đã gieo vào lòng người một

thoáng mơ hồ, “như giấc chiêm bao” và gợi cho người đọc bao suy ngẫm về thời

cuộc, về số phận con người của hơn một thế kỉ đã lùi xa. Đây cũng chính là tài

năng của nhà văn khi xây dựng kết cấu câu chuyện và là lựa chọn, ứng xử của

nhà văn Tô Hoài khi viết ra sự thật. Kết cấu với kết thúc bỏ ngỏ đã làm thay đổi

lối tư duy đón nhận theo kiểu khép kín, tĩnh lại và kết thúc có hậu đã tồn tại

trong một thời gian khá dài.

Như vậy, trong các tiểu thuyết của Tô Hoài sau 1945 có sự đan xen, kết

hợp giữa kết cấu truyền thống và kết cấu hiện đại, tạo nên ấn tượng độc đáo, rất

riêng của nghệ thuật kết cấu. Vì vậy, nó khiến cho tác phẩm của Tô Hoài có giá

81

trị và sức sống lâu bền cho đến tận ngày nay.

3.1.3. Giọng điệu trần thuật

Một tiểu thuyết hấp dẫn, lôi cuốn người đọc không chỉ thể hiện ở cách xây

dựng nhân vật, kết cấu đa dạng mà còn thể hiện ở nghệ thuật sử dụng giọng điệu

khi kể chuyện. Mỗi nhà viết tiểu thuyết đều tạo ra cho mình một giọng điệu độc

đáo riêng. Giọng điệu trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan là giọng châm

biếm, hài hước; của Nam Cao là giọng tự vấn, triết lí, chua chát, sâu sắc; của

Nguyên Hồng là giọng cảm thương thiết tha. Giọng điệu trong tiểu thuyết Lê

Lựu là tự trào lẫn thương cảm,…Giọng điệu trong tiểu thuyết của Tô Hoài sau

1945 là giọng điệu dí dỏm, hài hước kết hợp với giọng điệu trữ tình, hoài niệm.

3.1.3.1. Giọng điệu dí dỏm, hài hước

Tiếp cận đời sống và khám phá đời sống trong cái hàng ngày, trong quan

hệ thời sự, đời tư, ngòi bút của Tô Hoài tìm được mảnh đất để phát huy cao độ

tiếng cười hài hước, dí dỏm của mình. Đối với Tô Hoài, ông có cách kể chuyện

rất nhẹ nhàng, rất duyên mà rất hóm hỉnh kiểu…Tô Hoài. Nụ cười đã đi vào tác

phẩm của ông trong cái nhìn hóm hỉnh được xếp vào hạng bậc nhất của văn xuôi

Việt Nam hiện đại “Nụ cười cùng cái nheo mắt vừa lão luyện tinh anh vừa chân

thành thẳng thắn, vừa hài hước duyên dáng lại vừa như xóa đi được cái khoảng

cách giữa ông và người đối diện” [186]. Cái tôi dí dỏm, hài hước của Tô Hoài

được thể hiện qua nghệ thuật kể chuyện, qua cách xây dựng chân dung nhân vật,

qua những cuộc đối thoại giữa các nhân vật với nhau.

Tính cách hài hước, tinh quái cùng với nụ cười tủm tỉm, hóm hỉnh sẵn có

trong con người Tô Hoài đã giúp nhà văn tạo dựng lên bức chân dung biếm họa

nực cười “Chúc đương mặc cái quần tây đen thủi hai miếng mông vá, lúc nào

cũng phải ngồi đứng ngoảnh đít ra phía không có người. Cái áo sơ mi, còn sót

mỗi một khuy, đã giắt kỹ vào trong cạp mà vẫn banh cái ngực gầy hõm ra” [72;

tr.38]. Tiếng chửi của bà Ba chua ngoa - người dân quê không kém phần hài

hước “Cha tiên nhân cái đứa mất tông mất giống, cái đứa giết người cướp của,

mày chứa chấp, mày dụ dỗ con người ta... mày để đứa con trẻ nó khóc sớm khóc

tối... mày giết đứa con trẻ... nó như con gà, mày bắt mất mẹ... mày là quân mẹ

82

mìn... Mày đi đàng xuôi mày chết đàng xuôi, mày đi đàng ngược mày chết đàng

ngược” [72; tr.40]. Lời nói chuyện của các nhân vật cũng hết sức hóm hỉnh, có

phần châm biếm. Lời của chị Hai Tâm “Tôi cứ tính chạy dông như chó dái cả

tháng thế thì hóa ra các anh thiệt đứt đuôi ấy chứ” [72; tr.22]. Lời của Lê “Ngày

nào cũng ngồi phơi mặt giảng giải lý thuyết mà lại đi chim gái. Còn chó gì là Ái

hữu” [72; tr.33].

Ở tiểu thuyết Ba người khác, hình ảnh ăn uống của các anh “đội” hiện lên

thật nực cười qua cách kể của người kể chuyện “Các anh đội bưng hẳn bát tương

để chấm và húp, khỏi phải cúi lom khom và nguồm ngoàm, hay là có nuốt

chửng cả cái không ai trông thấy” [69; tr.16]. Người đọc không thể dừng cười

trước chi tiết đội trưởng Cự lên loa tuyên truyền cấy “lúa thần kì” trong bộ dạng

“đứng xoạc chân, ống quần nâu xắn qua đầu gối” và hô khẩu hiệu hai tiếng

“đòm bào”: “Thưa toàn thể đòm bào, đòm bào đã trông thấy rõ cái bảng “lúa

thần kì” chưa?...”Thưa đòm bào…” [69; tr.169]. Chi tiết mang quạt ra quạt cho

“lúa thần kì” vì “lúa đổ mồ hôi” cũng hết sức hài hước. Họ chỉ nghĩ một điều

đơn giản rằng “Con người đứng chen chân thế này còn đổ mồ hôi, lúa cũng như

người, lúa đổ mồ hôi thì quạt cho nó ráo mồ hôi” [69; tr.171]. Các cán bộ “đội”

đã huy động quạt khắp mọi nơi để quạt cho “lúa thần kì”: “Một lát sau, năm

thước ruộng lúa đã hóa ra hiệu cắt tóc có quạt kéo ở đầu phố, như khi tôi còn

nhỏ” [69; tr.171]. Qua giọng điệu của người kể chuyện, người đọc vừa thấy sự

ngây thơ, ngu dốt về kiến thức nông nghiệp của các anh “đội” đồng thời cũng

thấy được sự giễu cợt, mỉa mai trong đó. Các cuộc họp bí mật của đội được nhà

văn miêu tả bằng giọng hài hước “Chúng tôi như một bọn lén lút cờ gian bạc lận

kéo ra đây đánh xóc đĩa lột nhau giữa nơi hoang phế đồng không mông quạnh”

[69; tr.50]. Giọng điệu hài hước, dí dỏm còn giúp nhà văn thể hiện bản chất của

ba anh “đội” và sự tha hóa của họ “ở đây, người ta ăn ngủ với nhau như gà” [69].

Tiếng cười hài hước không còn nhằm mục đích mua vui, giải trí mà để phê phán,

vạch trần, để ăn năn, để thú tội. Với giọng văn hóm hỉnh, tinh quái, Tô Hoài đã

khơi lại trong tâm trí người đọc những kí ức sâu xa vui có, buồn có về thời kì cải

cách ruộng đất với nhiều sai lầm và đau thương. Tô Hoài đã dám nhìn lại quá

83

khứ, sống lại quá khứ để nhận ra lỗi lầm của mình, để tìm lại cảm giác thanh

thản cho tâm hồn mình ở hiện tại. Người đọc nhận ra nhân cách Tô Hoài - một

con người đầy bản lĩnh, từng trải và hiểu đời.

3.1.3.2. Giọng điệu trữ tình, hoài niệm

Dòng hoài niệm là một trong những yếu tố để tìm về những hồi ức trong

quá khứ của nhà văn Tô Hoài. Giọng trữ tình pha lẫn hoài niệm đã đem lại sức

hấp dẫn cho những trang tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945. Những nét lặng buồn trải

dài đã dẫn người đọc thâm nhập vào cuộc sống xã hội thời kì cải cách ruộng đất

đầy đau thương và nước mắt để từ đó thấu hiểu, cảm thông với số phận, cuộc

sống của người dân miền núi vùng cao trong chế độ cũ và chế độ mới và cuộc

sống của người dân nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

Giọng điệu trữ tình trước hết được thể hiện ở những trang văn viết về thiên

nhiên. Tô Hoài đã đưa người đọc về một làng quê nông thôn đẹp và thơ mộng

“Những khoanh tre xanh ngắt quây xóm làng ven con đê quai. Từng khúc đầm

nước trong veo lác đác đám lá sen già đưa mùi thơm như rơm mới” [69; tr.20].

Không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên nơi nông thôn Bắc Bộ mà Tô Hoài còn hướng

mắt tầm nhìn xa miêu tả vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc. Bức tranh thiên nhiên

Tây Bắc tươi tắn, tràn đầy sự sống, đã làm rung động đến ngây ngất tâm hồn

người đọc: “Ánh nắng nhàn nhạt nghiêng vào, lồng bóng những cây sổ dày lá

ngả trên vệt cỏ xanh dịu. Con đường đỏ nắng trước mặt không bóng người. Một

dòng nước phơ phất rơi trên đá. Một làn mây trắng vương qua, thướt tha như tóc

như tơ” [73; tr.353]. Đó còn là cảnh thiên nhiên Tây Bắc vào lúc sáng sớm thơ

mộng và lãng mạn, thanh bình: “Nắng sớm cuồn cuộn lồng lên từng tảng sương

tan xanh lơ, để lộ những mép núi long lanh sáng”. Tây Bắc còn hiện lên với vẻ

đẹp lung linh, huyền diệu trong những đêm trăng sáng: “Những đêm đầu mùa hè,

mây dày từng mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ trên những cánh rừng tít tắp

chân mây” [73; tr.114]. Tây Bắc còn đẹp ở cảnh sắc mùa xuân và được nhà văn

miêu tả đẹp như một bức họa. Tác phẩm Miền Tây được kết thúc trong cái

khung cảnh đẹp, hòa với lòng người: “Rừng xuân sớm cuộn lên một màu xanh

ngờ ngợ tràn khắp các núi. Hoa blề đỏ vồng như mâm xôi gấc bày trên lá. Hoa

84

ma mủ trắng từng đốm lấm tấm rắc bóng hương xuống mặt đất. Sắp đến độ tra

lúa nương, mặt đất và hốc đá nhả đầy mùi thơm” [73; tr.354]. Với sự tìm tòi

sáng tạo, Tô Hoài đã tạo nên những trang miêu tả thiên nhiên Tây Bắc thật tinh

tế và đặc sắc, nó tạo cho những trang viết của nhà văn đậm màu sắc trữ tình và

chất thơ.

Để tái hiện những kí ức sâu xa về một thời đã qua với nhiều ấu trĩ và sai

lầm, về số phận người nông dân, người cán bộ trong những tháng ngày đi cải

cách ruộng đất, Tô Hoài đã thể hiện bằng giọng điệu trữ tình, hoài niệm. Nhà

văn thể hiện sự đau đớn, xót xa trước số phận bất hạnh của người đàn bà nhỏ bé

- vợ bác Diệc bằng giọng thương cảm. Người đàn bà sinh ra đã bị tàn tật, không

nói không đi được, cái bóng rũ rượi im lìm “Người đàn bà què đã nằm im lẫn

vào đất. Tiếng dế ti tỉ buồn như chấu cắn, như kèn đám ma” [69; tr.31]. Trước

khi miêu tả cái chết của người đàn bà què, Tô Hoài đã gợi lại quá khứ, gợi lại

một thời tuổi thơ “Những cái cối đá, cái cối đá, ngày trước cô bé què đã trèo leo

từ tấm bé…Thời con trẻ của ta ở đằng kia, ở bên kia, ở đau, người tàn tật lồng

lên giằng xé bò tới” [69; tr.199-200]. Cái chết của người đàn bà què thật thương

tâm, gợi cho người đọc về cuộc đời bất hạnh của con người từ lúc sinh ra cho

đến lúc chết. Hình ảnh cô Khoèo - vợ bác Diệc góp thêm một nét chấm phá vào

bức tranh đời sống xã hội buồn bã thời kì đó. Nhà văn còn chua xót, ngậm ngùi

trước sự cam chịu của bác Diệc khi lấy người đàn bà què. Nhà văn chỉ biết cảm

thông mà thôi “Đêm kia, trăng sáng nhàn nhạt như cái đêm hát chèo ngoài bãi

cây đa. Diệc vào trong trái bếp, xốc cái Khoèo lên…Diệc cõng cái Khoèo ra nhà

mới - cái nhà vẫn ở đến tận bây giờ” [69; tr.58]. Hơn ai hết, nhà văn nhìn thấy

được cuộc đời đầy đau khổ của những người dân thấp cổ bé họng trong một xã

hội đầy rối ren lúc bấy giờ.

Bức tranh làng quê đẹp bình dị, thanh bình nhưng cũng hết sức buồn

thương vì cái đói nghèo, lay lắt của những kiếp người mà Tô Hoài đã tạo nên sự

da diết trong tác phẩm. Nhà văn thấu hiểu cuộc sống nghèo đói của người dân

“Những người như cái xác lướt qua trước mặt, chân tay phù mọng vàng nhợt,

đến chỗ họp người ta ngồi xúm lại từng bọn phảng phất chập chờn như những

85

cái bóng…Cũng chẳng biết làm thế nào, ai chết thì chết thôi” [69; tr.141]. Rồi

một chút gì đó mừng vui cho sự sống trở lại sau nạn đói khi nhà văn tả cảnh mùa

gặt: “Lúa của nhà ai, nhưng mà thế là đã thoáng thấy cái sống người rồi. Tiếng

liềm cắt xoèn xoẹt và tiếng cười phảng phất ở đâu” [69; tr.142].

Trong tiểu thuyết Miền Tây, giọng điệu trữ tình tha thiết, sâu lắng được bộc

lộ khi nhà văn Tô Hoài miêu tả tình cảnh của bà Giàng Súa: “Chẳng bao giờ bà

Giàng Súa dám mong có khi được ở lâu một chỗ…Chẳng bao giờ bà Giàng Súa

ước được có cái khung dệt cửi, có cuộn lanh to buộc lưng, có đống phân ngựa

vun cao lù lù góc nhà để đợi đem bón nương lanh. Chẳng bao giờ bà Giàng Súa

nghĩ có những ngày mưa, nghỉ đi nương…” [73; tr.164]. Cách nói: “Chẳng bao

giờ bà Giàng Súa ước”, “Chẳng bao giờ bà Giàng Súa nghĩ” gợi nên một âm

điệu buồn bã như chính cuộc đời tăm tối của bà. Bà nghĩ, ước những điều giản

đơn nhưng sống trong chế độ xã hội cổ hủ, lạc hậu bà không thể có được. Phải là

người thấu hiểu, cảm thông cuộc đời của bà Giàng Súa sâu sắc, Tô Hoài mới có

thể viết những trang văn với sắc thái bùi ngùi, man mác, pha chút bâng khuâng,

xót xa đến như vậy. Tất cả khiến cho giọng điệu trở nên đằm thắm, hấp dẫn hơn

đối với người đọc. Tâm trạng phân định, trăn trở, băn khoăn của cán bộ Nghĩa

trước tình yêu, trước việc lựa chọn khó khăn “ở lại miền núi hay về xuôi” cũng

được nhà văn thể hiện bằng giọng điệu bùi ngùi. Đó là sự giằng xé trong nội tâm

cán bộ Nghĩa: “Nghĩa bồi hồi. Nỗi bồi hồi của người trai được yêu. Nhưng

Nghĩa lại buồn ủ ê. Nghĩa chưa có vợ. Nghĩa chẳng có ai ở đâu chờ đợi, nhưng

Nghĩa không muốn yêu người ở đây. Nghĩa không muốn. Thế là Nghĩa lại vẩn

vơ nghĩ” [73; tr.69]. Đó cũng là điều dễ hiểu khi Nghĩa có sự phân vân như thế.

Giọng điệu hài hước, dí dỏm đan xen hòa quyện với giọng điệu trữ tình,

hoài niệm trong tiểu thuyết Tô Hoài đã góp phần quan trọng trong việc biểu lộ

cái nhìn, thái độ, tình cảm của người kể chuyện. Điều đó tạo nên bức tranh đời

sống muôn màu muôn vẻ ở nông thôn Bắc Bộ và miền núi vùng cao với những

86

số phận con người buồn thương, đau khổ.

3.2. Đặc điểm hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại

3.2.1. Hình tượng tác giả

M.Bakhtin khẳng định: “Không có hình tượng tác giả ở ngoài tác phẩm, tư

tưởng nhà văn chỉ tồn tại trong tác phẩm” [10]. Điều đó cho thấy hình tượng tác

giả luôn tồn tại xuyên thấm trong toàn bộ những yếu tố thuộc về tác phẩm. Vị trí

trung tâm nổi bật trong hồi kí Tô Hoài sau 1945 đó chính là hình tượng tác giả.

Khám phá cái nhìn nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài về đời sống xã hội, đời sống

văn học và sự tự thể hiện tác giả thành hình tượng tác giả giúp người đọc có thể

hình dung ra hình tượng tác giả hiện diện trong tác phẩm.

3.2.1.1. Hình tượng tác giả qua cái nhìn nghệ thuật về đời sống xã hội, văn học

Cái nhìn là một biểu hiện tinh thần đặc biệt của nhà văn. Cái nhìn không

chỉ thể hiện ở bề rộng, mà còn là cái nhìn ở chiều sâu. Khám phá và thể hiện đời

sống, người nghệ sĩ không thể không có cái nhìn nghệ thuật riêng. Nhà nghiên

cứu Trần Đình Sử đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cái nhìn nghệ thuật: “Thiếu

quan tâm đầy đủ tới cái nhìn nghệ thuật của tác giả, người phê bình dễ không

đánh giá đúng cái phong phú của sáng tác”. Môi trường lịch sử, xã hội, văn hóa,

thời đại và cá tính riêng đã chi phối cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà văn

Tô Hoài về đời sống xã hội. Hiện thực đời sống xã hội đã được nhà văn quan sát

tỉ mỉ và ghi chép cẩn thận. Bằng trái tim nhạy cảm của một người nghệ sĩ và với

con mắt tinh tế, sắc sảo, Tô Hoài đã phát hiện rất nhanh các vấn đề của hiện thực

cuộc sống ở những vùng quê tưởng như êm đềm và phẳng lặng. Nếu không có

cái nhìn hiện thực tỉnh táo và một thái độ nghiêm túc thì Tô Hoài khó có thể

phát hiện được hiện thực có vấn đề ở những vùng quê ấy. Tô Hoài đã đưa người

đọc về một làng quê Bắc Bộ với những câu chuyện từ “cải cách ruộng đất” rồi

“sửa sai”, từ “thời bao cấp” “làm hợp tác xã” đến đổi mới sang kinh tế thị

trường. Một bức tranh xã hội thu nhỏ, phức tạp, đầy đủ mọi mặt tốt - xấu, trắng -

đen hiện ra như chính cuộc sống. Điều này tạo cho hồi kí của ông có một sức

hấp dẫn bởi cái muôn màu, phức tạp chứa trong nó. Cái nhìn về hiện thực trong

hồi kí khác so với hiện thực đã được hư cấu, sáng tạo lại trong các thể loại khác

87

của nhà văn Tô Hoài và các tác giả khác ở chỗ hiện thực thuộc về quá khứ

nhưng được nhìn ở thời hiện tại để suy ngẫm, trải nghiệm, nói cái hôm qua để

gián tiếp nói cái hôm nay.

Từ điểm nhìn hiện tại, lùi về một thời kì lịch sử đã xa, Tô Hoài đã tái hiện

sống động đến từng chi tiết về làng quê xóm Đồng trong những ngày tháng của

đợt đi thực tế. Đó là cảnh làng quê nghèo nàn, xơ xác “Những buổi chiều xơ xác

vàng rựa, những ruộng mới vỡ, những lò gạch - bóng con bò và người cày trên bãi

hiện ra gầy cao cao” [70; tr.28-29]. Từ những chi tiết đời thường, Tô Hoài đã ghi

lại cảnh sinh hoạt mang đậm dấu ấn vùng quê nghèo “Đoàn người vác những cái

dặm xuống chuôm sâu. Ở đồng đất này, đàn bà đi đặt lờ cá, đánh te, cày bừa chẳng

khác đàn ông” [70; tr.30]. Ngay hôm đầu tiên đặt chân đến xóm nghèo, Tô Hoài

đã nhận thấy hình ảnh ngôi nhà, tường đều bằng đất và vẻ tạm bợ của một xóm trại

“Nhà nhà đều tường đất, những hốc khoét vào trong tường đựng mọi thứ, cái điếu

cáy, bó đóm, nắm giẻ rách, rổ đậu đãi, niêu tép kho” [70; tr.31]. Bức tranh đời

sống ảm đạm với màu xám buồn tẻ hiện lên trong những trang hồi ức của Tô Hoài

nhưng người đọc vẫn nhận thấy hồn quê phảng phất, thấp thoáng. Cái nghèo đói,

tù túng không làm mất đi vẻ yên bình, êm ả, làm mờ đi những những nét đẹp văn

hóa truyền thống của một làng quê. Tô Hoài dường như có duyên nợ với những

vùng quê nghèo nhà văn đã đi qua hay đã từng sống. Đi đến đâu, Tô Hoài đều

quan sát và cảm nhận phong tục ở nơi đó. Đó là thói quen mỗi sớm đi làm,

người dân chỉ uống bát nước chè xanh đã no. Nhà nông công việc đồng áng phải

làm từ sớm nên thường ăn cơm từ lúc tờ mờ. Con gái như cô Hến chỉ mười lăm

tuổi đã sắp về nhà chồng. Thói tục đất này tự nhiên, mới ăn hỏi mà chàng rể đã

rất năng đến nhà vợ giúp việc gia đình. Chỉ vài ba nét phong tục nhưng cũng đủ

thấy cuộc sống ở vùng quê Thái Bình đơn giản và bình dị đến nhường nào.

Với cái nhìn chân thực, Tô Hoài đã mổ xẻ, phanh phui, nhìn thẳng vào sự thật

để thấy được những khuất lấp và những cảnh oan nghiệt, đau khổ của những con

người sống trong thời kì cải cách ruộng đất. Trong thời kì đó, không ít người rơi

vào vòng oan sai, lao lý. Đó là Dũng – con trai cụ phó làm chi ủy từ thời bóng tối,

bị tố phản động Quốc dân Đảng chui vào Đảng. Đó là lý trưởng Vạn bị tố phải bắt,

88

tự nhận là bí thư Quốc dân đảng cả vùng. Đó là lão Khế bị tố hai mang, thì một

mang Quốc dân đảng. Những cảnh tìm ra địa chủ thật nực cười “Người chỉ có

miếng ruộng loại riêng ra mà chẳng có ruộng đất nhưng bị tố là có tội ác với nông

dân thì cũng cùm ngay, gọi là tên cường hào cá biệt” [70; tr.33]. Việc tìm ra địa

chủ ở vùng này cũng khó vì không ai nghĩ rằng ở đồng đất này người ta tự cày

cuốc khai phá nên cái ăn. Đây là thời kì dối trá tràn lan như tác giả gọi là thời kì

“cây chuối mọc ngược, gà mái đạp gà trống, con cái vạch mặt bố mẹ, con tố cha,

vợ tố chồng” [70; tr.45]. Cái thời kì hợp tác xã hóa con người làm việc theo kẻng,

giờ đi làm, giờ nghỉ được ấn định sẵn nên rốt cục đói thì vẫn hoàn đói, nghèo

vẫn hoàn nghèo, khó khăn vẫn hoàn khó khăn, không thể trách ai được. Những

cuộc đua chen để chạy theo thành tích giữa các hợp tác xã, các tổ sản xuất để

cuối cùng chỉ còn là “trò trẻ ranh” như lời ông Ngải. Không chỉ chạy theo thành

tích, họ còn “trốn thành tích”, “Các xã láng giềng phải nghĩ ra mẹo trốn thành

tích. Các số liệu, thành tích được báo cáo khống, báo chí càng thổi kèn đu đủ

bốc thơm thì các nơi lập đoàn, lập đội kéo đến học tập càng nhiều. Huyện bạn,

tỉnh bạn ba trăm pháo đài huyện cả nước đổ đến. Ở các hội nghị tổng kết trên

huyện các hợp tác xã thi nhau báo cáo không đạt mức thi đua trong khi mấy vụ

trước thi vun vút vượt chỉ tiêu” [70; tr.168]. Chẳng biết đâu là vờ, đâu là thật.

Thật là trớ trêu, hài hước! Làng quê Thái Bình - vùng đồng bằng Bắc Bộ được

nhà văn tái hiện ở cả mặt tốt và mặt xấu, sáng và tối. Tô Hoài đã tiếp cận cuộc

sống trong sự xô bồ, gần gũi nhất. Qua đó giúp người đọc hiểu rõ hơn bức tranh

đời sống xã hội một thời đã qua ở vùng quê nghèo này.

Hiện thực đời sống vào những năm kháng chiến chống Mỹ là bóng dáng

của hiện thực liên quan đến thời kì Tô Hoài làm trưởng ban khu phố. Nhà văn đã

không miêu tả trực diện, tàn khốc của cuộc chiến tranh, không phản ánh những

sự kiện lịch sử mà chủ yếu xoay quanh cuộc sống đời thường của con người

trong những năm tháng đó. Tô Hoài tái hiện cảnh đi sơ tán của người dân

“Người già, con trẻ cứ đi ít lâu, thấy yên yên lại về, nay lại rục rịch đi” [70;

tr.314]. Khi có chiến tranh, có lẽ người dân là chịu thiệt thòi và đau thương nhất.

Cuộc sống của họ không ổn định, nay sơ tán, mai sơ tán. Họ luôn sống trong sự

89

lo lắng, khiếp sợ bởi sự ném bom của đế quốc Mỹ. Ở thời kì này, người lao động

chủ yếu sống bằng tem phiếu, cuộc sống thiếu thốn trăm bề, thậm chí đói ăn

triền miên. Mặc dù vậy, mọi sinh hoạt trong những ngày chống Mỹ vẫn diễn ra

bình thường “Những người đàn bà lúi húi cắt cỏ. Người đàn ông đặt thúng thóc

giống lên đầu gối gieo hạt, một chú bé nằm trên lưng trâu, giữa bãi cỏ” [70]. Rồi

những cảnh vợ chồng cãi nhau, đánh chửi nhau vì nạn mê tín dị đoan: “Con giời

đánh! Con chết chém! Chúng tôi!…Chúng tôi!…Ông bận gì đến cái mê tín của

chúng mày” [70; tr.273]. Cảnh bà Lữ, bà Ải bán hàng ở lề đường bị cán bộ

phòng thương nghiệp khám túi rồi lấy đi tiền, thức ăn khiến bà Lữ uất quá mà

chết, còn bà Ải thì đi kêu oan. Hồi ức trong những năm chống Mỹ với Tô Hoài

là những mảnh vụn vặt, với đủ các sự kiện đang diễn ra. Cái nhìn của Tô Hoài

về Hà Nội thời bấy giờ đã không còn là Hà Nội thanh lịch, hào hoa mà là một

Hà Nội phồn tạp với đủ mọi thứ mùi bẩn thỉu, hôi hám và dơ bẩn. Tất cả ghép

lại thành bức tranh cuộc sống đa diện với những góc tối, khuất lấp. Lối văn táo

bạo đó đã phơi bày hiện thực - một hiện thực sần sùi và gai góc.

Khi đất nước bước vào thời kì Đổi mới, nền kinh tế có nhiều khởi sắc, cuộc

sống của người dân được cải thiện. Tô Hoài trở lại cái xóm Đồng, nơi nhà văn

đã gắn bó trong những năm đi thực tế. Thời gian trở về của nhà văn không rõ là

dấu mốc nào nhưng người đọc vẫn nhận ra dấu ấn của sự thay đổi nơi đây, đó là

sự thay đổi của cảnh vật và con người. Phố xá Thái Bình đã khác xưa, “trước

trông chỉ loi thoi vài ba ngôi nhà…bây giờ nhô lên các nhà trụ sở ủy ban, nhà

thư viện, nhà bảo tàng, khách sạn…Thế là Thái Bình được gấp rút xây đón đầu

một thành phố công nghiệp” [70; tr.496-497]. Đó là sự thay da đổi thịt của vùng

đất Thái Bình, báo hiệu một sự đổi mới hoàn toàn. Cuộc sống con người cũng

không còn nghèo đói như trước. Trước cuộc sống bộn bề, ngổn ngang đan xen

cả bóng tối lẫn ánh sáng, ngòi bút của Tô Hoài đã phát hiện và chỉ ra những điều

cần suy ngẫm đặc biệt nhà văn quan tâm tới phương diện đạo đức của con người

trước những biến thiên của các giá trị giữa thời buổi kinh tế thị trường. Khi đời

sống của người dân khá giả, tiếc thay cũng là lúc những giá trị đạo đức của con

người dần dần bị tha hóa và xuống cấp nghiêm trọng. Chủ tịch, bí thư, xã đội,

90

chân chủ nhiệm, kế toán cũng trộm cắp mà nên giàu có. Thay đổi nhất là anh bí

thư Sự. Vốn là một người đảng viên mẫu mực, nay anh trở thành người nghiện

ngập. Nhà anh giàu có nhất vùng nhưng con cái hỏng ráo “Hai thằng con trai thì

ngồi ăn cơm nhà đá. Còn cái con Soi ra ngoài tàu ngủ với trăm thằng, cả vợ Sự

cũng vậy” [70; tr.523]. Mục đích chuyến trở về xóm Đồng của Tô Hoài là ông

muốn tìm về gặp ông Ngải, người mà nhà văn gắn bó sâu nặng nghĩa tình bao

nhiêu năm. Tô Hoài cảm thấy bỡ ngỡ khi đường vào nhà ông Ngải vừa lạ vừa

quen. Tô Hoài nhận ra ông Ngải bởi cái dáng tựa lưng vào bờ tre nhưng ông đã

già đi nhiều “hai chân duỗi, ống chân tóp như ống giang; da bọc xương, mặt

trắng nhợt” [70; tr.504]. Tính cách của ông Ngải không thay đổi và tình cảm của

ông Ngải dành cho Tô Hoài vẫn như năm xưa. Cuộc hội ngộ thật bất ngờ và ý

nghĩa. Sự trở về của nhà văn đơn giản là sự trở về của tình nghĩa, tình người.

Nhưng sự đổi thay của con người trước những biến thiên của xã hội khiến Tô

Hoài không khỏi băn khoăn, nghĩ ngợi.

Không chỉ có cái nhìn về đời sống xã hội, Tô Hoài còn quan tâm tới đời

sống văn học. Tô Hoài đã đứng trong thời điểm hiện tại khi hoàn cảnh lịch sử đã

thay đổi để chiêm nghiệm về quá khứ và nhận thức về một thời kì “thật đen tối

thật khốn khổ”. Những vụ án văn chương, sự kiện được ông nhìn nhận bằng một

thái độ thẳng thắn, sòng phẳng với cái nhìn trực diện và bình thản. Thời kì chỉnh

huấn Nhân văn - Giai phẩm thực sự ngột ngạt đối với văn nghệ sĩ. Nhân văn -

Giai phẩm là phong trào đòi hỏi tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức ở miền

Bắc. Đây là sự kiện chấn động đời sống văn nghệ sĩ Việt Nam những năm đầu

năm mươi của thế kỉ XX. Nhiều văn nghệ sĩ là những nạn nhân chịu sự tác động

của lịch sử, thời cuộc như Trương Tửu trong hồi kí của Hoàng Minh Châu,

Quách Tấn trong hồi kí của Đào Xuân Quý, Lê Mạc Lân trong hồi kí của Bùi

Ngọc Tấn và một loạt văn nghệ sĩ như Phùng Quán, Đặng Đình Hưng, Trần Đức

Thảo, Kim Lân, Văn Cao…trong hồi kí của Tô Hoài.

Tô Hoài là một trong những nhà văn viết hồi kí sớm nhìn lại “vụ án” văn

chương này. Vụ án được Tô Hoài nhớ lại: “Báo Nhân văn ra được mấy số. Có

dư luận báo chống đối. Người thành phố nghe ngóng và tò mò. Nhưng mà

91

những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài bài báo trên Nhân văn, mà cái

chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của một số giới không phải là người làm báo

Nhân văn trong tình hình nhạy cảm ở các đô thị lúc ấy” [66; tr.58]. Báo Nhân

văn ra đến số 6 bị tịch thu tại nhà in. Nhà xuất bản Minh Đức đóng cửa. Những

cuộc họp kiểm điểm và kỉ luật những cán bộ tham gia viết, hoạt động cho báo

Nhân văn và tập san Giai phẩm liên tiếp diễn ra. Sinh hoạt thường nhật của hội

nhà văn là “bới lông tìm vết” khiến cho đời sống văn nghệ sĩ hết sức nặng nề.

Đây là thời kì mà các nhà văn phải sống một “cuộc sống trong ao mà những con

chẫu chàng thỉnh thoảng ngoi lên mặt nước đờ đẫn nhìn theo mấy cái bọt mình

vừa thở” [66; tr.27]. Không khí bế tắc, chờ đợi đè nặng lên tâm lí của các nhà

văn. Họ viết một cách dè dặt, khiên cưỡng. Những vụ kiểm điểm và hình thức kỉ

luật khiến cho không ít văn nghệ sĩ có tài phải lao đao trong cuộc mưu sinh kiếm

miếng cơm manh áo. Phùng Quán bị kỉ luật ba năm không hội viên. Đặng Đình

Hưng bị ra khỏi biên chế, khai trừ khỏi Đảng. Hai con người tài năng, đức độ

mà cuộc đời không gặp may. Văn Cao bị kỉ luật cảnh cáo, chỉ ở hội nhạc, không

ở hội văn và hội vẽ. Nguyễn Sáng vẽ kí họa trên báo Nhân văn một đầu người ở

cổ có vết khía cắt như cắt, như cái lá mà người ta bảo là chân dung Trần Dần và

cái sẹo còn lại khi anh định tự vẫn. Nguyễn Sáng không được bình bầu huân

chương kháng chiến. Trần Dần, Lê Đạt ra khỏi cơ quan. Hoàng Cầm bị ra khỏi

ban chấp hành, phải thôi việc nhà xuất bản, chuyển công tác về Sở văn hóa Hà

Nội. Đó là một cộng đồng nhà văn phải trả giá nhiều nhất.

Không khí đời sống văn học thời kì này nhiều lúc căng lên như sợi dây đàn.

Tư tưởng quy chụp lúc nào cũng rình rập, sẵn sàng lợi dụng sơ hở của người

cầm bút để tấn công, buộc tội. Câu chuyện của Nguyên Hồng về con hổ do mẹ

ông kể cũng bị quy là có vấn đề “Đời thủa nào mà người ta lại nuôi hổ như nuôi

vịt, dễ hơn nuôi vịt. Ông này muốn nói cái gì, nói ai. Xỏ xiên thế nào đây, không

hiểu. Không hiểu tức là có vấn đề” [66; tr.76]. Hay chuyện Con chó xấu xí của

Kim Lân cũng bị vào tầm kiểm soát, cân nhắc “Con chó cũng như con hổ hiền

lành, không ai tin con chó chỉ là con chó, lại xấu xí nữa” [66; tr.78]. Mấy bài xã

luận của Tô Hoài như Tổ chức phát triển lực lượng sáng tác trước nhất và Góp

92

ý kiến về vấn đề xây dựng con người cũng bị nhận xét là lệch lạc “Thứ nhất là

phải tổ chức học tập và đi vào thực tế đời sống và không phải xây dựng con

người chung chung mà là con người xã hội chủ nghĩa tiến lên cộng sản” [66;

tr.77]. Vài dòng Nguyễn Tuân viết cho nhà văn từ Sa Pa, không đề ngày tháng:

“Khi lên cao, mình có bị ong đốt, mặc dù chẳng có trêu phá gì nó” [66; tr.66].

Cái câu tái bút này, nếu đăng báo, in sách thì cũng lại điêu đứng. Đây là thời kì

đã khiến một nhà văn có tài như Nguyễn Tuân phải thốt lên chua chát: “Này

chúng nó đương đồn ầm lên ông mới nói, nếu ông còn trẻ thì ông bỏ đất này ông

đi” [66; tr.67]. Mặc dù đã qua cơn sóng gió của Nhân văn - Giai phẩm và công

tác chỉnh huấn nhưng hậu quả còn nặng nề với các nhà văn: “Ngổn ngang tâm

sự và tâm trạng, chua chát, mỉa mai, hài hước” [66; tr.99]. Ngô Tất Tố bị một

anh sát phạt trên lớp trong khi đó trước đây anh này bị bác Ngô coi không ra gì.

Ngô Tất Tố quệt nước mũi vào gốc cây, sụt sùi nói: “Làm người khó lắm, bác ạ”

[66; tr.99]. Có những người bị phê bình, cứ tiếp thu thun thút lại còn minh họa

thêm lỗi mình. Có người bỗng thấy mình sai, nhận ngay cũng lại bị cho là nông

cạn, con vẹt. Có người lo quá cả tháng không chợp mắt, như con ma ngồi trước

mặt. Câu chuyện về các nhà văn trong thời kì Nhân văn - Giai phẩm đã cho

người đọc thấy được thực tế của diễn biến đời sống văn chương một thời có thể

gọi là khá u ám. Đồng thời, Tô Hoài khắc họa thêm tính chất bi kịch của một số

văn nghệ sĩ, nạn nhân của một thời đã qua. Ngẫm lại về những con người ấy, cái

còn lại chỉ là nỗi buồn: “Những cuộc đời một mình thui thủi. Mỗi người mỗi

khác, biết hay không biết, nhưng chung một nỗi buồn. Là Trần Đức Thảo, là

Trần Huyền Trân, là Trọng Hứa, là Vạn Lịch hay Platon Hai Thành, ai thấu cho,

mà biết thế nào được” [70; tr.451]. Tô Hoài đã nhìn thẳng vào sự thật, chỉ ra

những sai lầm của cuộc chỉnh huấn tư tưởng nhân văn. Qua đó, Tô Hoài giúp

người đọc nhận ra đời sống văn chương của một thời và những oan khiên đè

nặng lên cuộc đời Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo, Trần Huyền Trân, và

những gian nan của Nguyễn Bính…và một số văn nghệ sĩ khác. Phải ngụp lặn

trong môi trường đó, nắm bắt từng chân tơ kẽ tóc của biến cố thời cuộc và chiêm

nghiệm sâu sắc lẽ đời, Tô Hoài mới có thể nghĩ và dám nói một cách rõ ràng về

93

vụ án văn chương trước kia: “thực ra người ta chỉ đọc a dua rồi đánh đòn hội

chợ. Cấp trên hô người ấy, bài ấy có vấn đề. Tự nhiên người ta cảm thấy có vấn

đề thật và người ta dò tìm từng câu từng chữ” [66; tr.66]. Bằng một sự nhạy bén,

Tô Hoài kể lại sự kiện theo cách của ông, khôn ngoan và khéo léo. Đó chính là

nghệ thuật ứng xử và cá tính của Tô Hoài.

Hiện thực đời sống xã hội, văn học qua cái nhìn nghệ thuật của nhà văn Tô

Hoài hiện ra giống như cuộc đời thực, thấm đẫm, chứa chan tình cảm của người

cầm bút “Không lên giọng, không nhấn mạnh”. Nhà văn không bình luận, không

phán xét về hiện thực đời sống của một thời đã xa mà để người đọc tự suy ngẫm,

chiêm nghiệm, cảm nhận. Hiện thực cuộc sống cứ hiện ra một cách tự nhiên như

nó vốn có. Cái nhìn của nhà văn về đời sống xã hội, văn học qua hai cuốn hồi kí

là cái nhìn chân thực vừa mang đậm dấu ấn lịch sử, vừa nghiêng về cuộc sống

sinh hoạt đời thường. Qua cái nhìn nghệ thuật đó, người đọc thấy hình tượng tác

giả hiện lên như một người thấu hiểu sâu sắc hiện thực của đất nước, am hiểu

mọi ngóc ngách trong cuộc sống ngổn ngang, bộn bề, phức tạp.

3.2.1.2. Sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng

Hồi kí là hồi ức nói về chính cái tôi, nói về bản thân tác giả. Hồi kí là nơi tự

thú, giãi bày những tâm sự của nhà văn với bạn đọc “Quyển sách hồi ức chính là

nơi tự thú mà tác giả không có ý giấu mình dưới bóng dáng của các nhân vật hư

cấu” (Êrenbua). Viết hồi kí là một cuộc đấu tranh tư tưởng. Tô Hoài đã đấu

tranh với chính bản thân mình để tự dựng lên chân dung tinh thần với một tâm

thế nhẹ nhàng, thanh thản và thể hiện cái tôi thành thật với bản thân cũng như

với cuộc đời.

Trong hồi kí văn học thời kì Đổi mới, nhiều nhà văn đã tự dựng hình tượng

tác giả của mình. Đào Xuân Quý trong hồi kí của mình hiện lên là một người

yêu nghề, cần mẫn, chịu khó, ham học hỏi và có ý chí vươn lên. Hoàng Minh

Châu hiện lên trong hồi kí của mình, là một con người nhân hậu, vị tha, luôn yêu

đời khi nhìn người, nhìn cuộc sống và thấu đáo khi suy xét mọi thứ. Anh Thơ

qua chân dung tự họa của mình thấy rõ con đường đi đến nghệ thuật đầy gian

nan và thử thách của nữ sĩ. Điểm khác biệt của Tô Hoài khi khắc họa chân dung

94

tinh thần của mình so với các nhà văn viết hồi kí khác ở chỗ, Tô Hoài không chỉ

khắc họa chân dung mình trong kí ức tuổi thơ, gia đình, hoạt động trong nghề

nghiệp mà trong mối quan hệ với người khác, trong mối quan hệ với các sự kiện

lịch sử xã hội. Đặc biệt, Tô Hoài luôn thành thật với chính mình, ông không hề

che đi, đậy lại những thói xấu, những chuyện “bí mật riêng tư” mà có sao nói

vậy, mở toang tất cả sự thật. Tô Hoài đã dám nhìn thẳng vào con người mình, tự

mổ xẻ, tự kiểm điểm bản thân mình. Tô Hoài dùng những nhận xét của người

khác để nhận xét về mình một cách thẳng thắn, khách quan. Một cái tôi chân

thành không né tránh. Nhà văn đã không ngần ngại kể lại câu chuyện của mình

khi bị Như Phong nhận xét: “Thằng ngoại ô láu cá, văn chương thì đẽo gọt”; hay

Nguyễn Tuân nhận xét: “Chó biết thằng này thế nào là thật! Tao ghét cái cười

mủm mỉm hiền lành, không hiền lành của mày” [66; tr.159]. Ngay cả việc đã

từng bị Nguyên Hồng chửi thẳng vào mặt ông cũng không hề che giấu: “Tiên sư

mày, thằng Câu Tiễn!...”. Và Tô Hoài cũng nhìn nhận về chính bản thân mình:

“Có thể thế. Tôi sinh ra nơi thành phố và làng mạc lẫn lộn, thế lực chánh lí

không khạc ra lửa như trời đất làng Đại Hoàng của Nam Cao, ở quê tôi túi bạc

đâm toạc tờ giấy, có tiền là có cả, bấy lâu tôi lăn lóc trong khóe đời ấy” [66;

tr.234]. Nhờ đó, người đọc nhận ra chân dung Tô Hoài được phác thảo không

giống như bất cứ chân dung nào khác, không thiên vị, không né tránh. Tô Hoài

là con người tài hoa, tinh tường trong cách nhìn nhận, phản ánh và đánh giá.

Tô Hoài đã không ngần ngại thú nhận những phút giây ngập tràn bản năng

tính dục vừa đáng thương vừa buồn cười với nhà thơ Xuân Diệu. Căn bệnh đồng

tính luyến ái là một cái gì rất ghê rợn, ai cũng né tránh. Nhưng Tô Hoài không

hề giấu giếm, ông đã dựng lại những cảm xúc phấn khích, say đắm, đầy chân

thật “Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn,

xuống bẹn...Lần này thì tôi lử lả, tôi nhuôi ra rên ư ử, như con điếm mê tơi

không nhớ nổi người thứ mấy, mấy thứ nữa” [66; tr.170]. Sau những giây phút

mê muội đó, nhà văn sực tỉnh rồi day dứt “Tôi he hé mắt nhớ lại những hứng thú

khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi

sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa...Cho đến khi thấy thật rạng

95

sáng mới rờn rợn” [66; tr.170]. Sự tự thú không phải là để bào chữa cho mình

mà để trân trọng, bênh vực cho Xuân Diệu - một người bạn lớn, một người bạn

tài năng mà cuộc đời lại lắm trớ trêu.

Tô Hoài đã từng thú nhận về cái bản tính lười biếng của mình khi đi cải

cách ruộng đất “ngại ra đồng thì mở lấy túi sổ vờ nghiên cứu, đói thì bảo cô

Đăng con rể trưởng xóm ra chợ mua bánh ngô kẹo bột về ăn, có người đứng dậy

cầm cái chổi đưa mấy nhát quét nhà” [70; tr.7]. Vốn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội

nên Tô Hoài không hiểu biết nhiều về đồng ruộng, “không ước lượng được một

miếng, một sào, một mẫu rộng hẹp thế nào. Thế mà ông đã dạy cho nông dân kể

khổ, đấu địa chủ, rồi thống kê sào, mẫu rồi cắm thẻ chia ruộng” [70; tr.32]. Ông

đã không ngần ngại phơi bày những hiểu biết hạn chế của mình, đó là những lời

từ đáy lòng của một nhà văn luôn thành thật với chính mình và với bạn đọc. Tô

Hoài cứ khơi ra mọi chuyện, ai thích nghe thì nghe, ai tin thì tin…Thế mà người

đọc lại cứ tin một cách tuyệt đối và chua xót cho những vĩ nhân, những nghệ sĩ

nổi tiếng, những “chiến sĩ” trên mặt trận “văn nghệ” lại trở thành “chiến sĩ” trên

mặt trận “gắp phân trâu”. Họ tự biến mình thành giẻ rách, rác rưởi nhưng lại

cảm thấy hào hứng, phấn khởi về những việc mình làm. Tô Hoài kể những

chuyện nhỏ nhặt, tèm nhèm tưởng như không có gì đáng nói vậy mà lại có ý

nghĩa lớn lao. Rời xóm Đồng vào học trường Nguyễn Ái Quốc, Tô Hoài xác

định “vinh dự và nhiệm vụ” nhưng ông cũng không giấu giếm ý nghĩ đơn giản

rằng đây là dịp ông sắp xếp lại mọi cái biết lõm bõm chẳng ra đâu vào đâu. Ông

còn đề nghị cấp trên cho đi học Trường viết văn Gorki ở Matxcơva với hi vọng

bỏ vài năm ăn chắc một ngoại ngữ lại đưa hiểu biết và nhận thức của mình lên

một bước tiến mới. Nhưng cuối cùng thất vọng tràn trề vì một lí do: “Người

sáng tác thì nắm thực tế đời sống đất nước là cần hơn”. Những ý nghĩ ngây thơ

trẻ con của chính nhà văn hiện lên trong trang viết khiến người đọc không khỏi

ngỡ ngàng và bật cười.

Những ngày tháng làm trưởng ban khu phố, Tô Hoài đã kể tường tận mọi

chi tiết công việc của mình từ những việc vụn vặt như đi giải quyết “người lấy

phân trộm xe thồ cứt thối khắp xóm”, chuyện cụ Vi Văn Định tè bậy ở ngoài hè

bị lũ trẻ con trêu đùa, chuyện trẻ con nghịch bấm cái chuông cửa mấy nhà đến

chuyện những đôi vợ chồng đánh, chửi, cãi nhau. Tô Hoài còn làm công tác

96

chống mê tín dị đoan, cấm nuôi lợn trên gác, chống tội hủ hóa, rồi “đi mai phục

bắt gái điếm và những người giặt xi líp thuê cho gái điếm, bắt những anh Hà Nội,

buổi trưa thuê phòng chơi gái, thậm chí làm cả việc trông nom hơn hai trăm cái

hố xí hai ngăn của thành phố”. Dù bất kể công việc gì, Tô Hoài vẫn cần mẫn

như thế, giải quyết mọi việc êm đẹp và chu đáo. Bức chân dung tự họa của nhà

văn Tô Hoài không chỉ là những tháng ngày đi cải cách ruộng đất ở Thái Bình

hay làm trưởng ban khu phố mà còn được thể hiện ở hoạt động nghề nghiệp của

chính mình. Tô Hoài quan niệm viết là không đơn giản, viết là phải tạo nên

những trang văn độc đáo, có tính dư ba, giàu chất lãng mạn. Những cuộc tranh

luận giữa các trường phái về sáng tác tác phẩm Mười năm của Tô Hoài “Mười

năm của tôi - một trong những ấn phẩm cuối cùng của nhà xuất bản Hội Nhà

Văn. Lập tức, các báo mổ xẻ phê bình. Một đòn đánh mạnh và lý lẽ nhất, bài của

Như Phong trong ban biên uỷ báo Nhân Dân in trên báo ấy và bài của Trần Độ

trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Đấy cũng là một quyển sách còn sót lại thúc

đẩy phải đóng cửa nhanh nhà xuất bản này” [66; tr.178]. Nhưng cuối cùng, Tô

Hoài vẫn đứng vững trên lập trường của nhà văn chân chính để sáng tác những

tác phẩm có giá trị hơn thế nữa.

Đọc những trang hồi kí Tô Hoài tự họa về chân dung của mình, người đọc

được tiếp xúc với đầy rẫy những cái bất ngờ thú vị, những cái “à ra thế” trong

đời tư của các nhà văn từ đó người đọc càng hiểu rõ cuộc sống và con người đời

thường của nhà văn. Những góc khuất trong con người cá nhân được nhà văn

phơi bày một cách trần trụi, một bức họa chì, không hề tô màu, tỉa tót. Với cách

khắc họa chân thật, hồi kí Tô Hoài hiện lên cái tôi không lúc nào thôi tự vấn

mình, con người lúc nào cũng đầy mâu thuẫn và trăn trở, tự khinh chính bản

thân mình khi làm những việc sai trái và tội lỗi. Đồng thời, người đọc cũng hiểu

được nhân cách, phẩm chất cao đẹp của người nghệ sĩ chân chính luôn ý thức

vươn lên hoàn thiện mình, vươn tới sự trung thực. Tô Hoài rất giỏi khắc họa

nhân vật, ông không tạo dựng nhân vật ở một mẫu hình nào đó mà xây dựng nên

từ nhiều mẫu hình từ đó tạo ra những tính cách đa diện, nhiều chiều. Qua hồi kí,

người đọc khám phá ra bản thể phức tạp, đầy góc khuất, những dang dở, chưa

trọn vẹn của chính nhà văn Tô Hoài.

Thông qua hình tượng tác giả được thể hiện trong tác phẩm hồi kí Tô Hoài

97

sau 1945, người đọc thấy được tư tưởng nghệ thuật của nhà văn gửi gắm trên

mỗi trang viết đồng thời thấy được sự đổi mới về mặt bút pháp và cái nhìn riêng

của nhà văn về hiện thực đời sống xã hội và văn học của một thời kì đã qua. Qua

đó, người đọc nhận ra phong cách, chân dung riêng của nhà văn Tô Hoài không

lẫn với các nhà văn khác cùng thời đại và khác thời đại của nền văn xuôi Việt

Nam hiện đại.

3.2.2. Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật

Trong hồi kí, nhân vật trung tâm thông thường là nhân vật Tôi, Tô Hoài

phải là nhân vật chính trong hồi kí của mình. Nhưng điểm độc đáo ở đây, Tô

Hoài không chỉ viết về cái tôi, viết cuộc đời của chính mình mà ông còn viết về

những người khác. Ông đã viết về chân dung các văn nghệ sĩ, bạn bè, đồng

nghiệp của mình, viết về những con người nhỏ bé, đời thường mà ông từng tiếp

xúc, gắn bó lâu dài trên những chặng đường lịch sử. Trong hồi kí, nhà văn

không chú ý xây dựng nhân vật điển hình kiểu hư cấu giống như trong tiểu

thuyết. Nhân vật trong hồi kí của ông là những con người thật hiện lên với tất cả

đường nét thô ráp, xù xì, góc cạnh. Con người có số phận, đã có va vấp với đời

sống xã hội, có cả một quá trình hình thành nhân cách nhờ vậy con người hiện

lên đầy cá tính, đa chiều như trong tiểu thuyết.

3.2.2.1. Khắc họa chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời

Ở thời kì Đổi mới, thể loại chân dung văn học phát triển, các nhà văn quan

tâm đến cuộc đời, số phận của văn nghệ sĩ. Vì thế, chân dung các văn nghệ sĩ

được hiện lên trong mối quan hệ đời thường, bạn bè, đồng nghiệp và trong mối

quan hệ với hoạt động văn chương. Anh Thơ dựng chân dung Nguyễn Bính bên

cạnh nhiều văn nghệ sĩ cùng thời như Lưu Trọng Lư, Nguyễn Đình Thi, Phan

Khôi, Kim Lân, Chế Lan Viên…trong hồi kí Từ bến sông Thương. Ma Văn

Kháng khắc họa chân dung Nguyên Hồng trong hồi kí Năm tháng nhọc nhằn,

năm tháng nhớ thương. Huy Cận khắc họa chân dung nhà thơ Xuân Diệu trong

Hồi kí song đôi. Trần Đăng Khoa khắc họa hàng loạt chân dung các nhà văn,

nhà thơ với những câu chuyện đời thường trong Chân dung và đối thoại.

Phục dựng chân dung các văn nghệ sĩ, những người bạn cùng thời là đề tài

“trở đi trở lại” trong hồi kí Tô Hoài. Khi xây dựng chân dung các nhà văn - bạn

bè đồng nghiệp của mình, Tô Hoài không chú trọng đến việc xây dựng “chân

98

dung tinh thần” mà quan tâm đến những chuyện vặt vãnh đời thường, từ vẻ bề

ngoài, ăn mặc, đi đứng, nói năng đến cách sinh hoạt hàng ngày ở phương diện

đời thường. Với lối hành văn tự nhiên mà biến hóa phức tạp một cách thú vị, Tô

Hoài không miêu tả tỉ mỉ chân dung từng nhà văn mà chỉ để họ xuất hiện thoáng

qua nhưng vẫn bộc lộ đầy đủ phẩm chất và thói tật. Tô Hoài quan niệm “con

người là con người”, “Ô hay, người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ”.

Quan niệm đó đã chi phối cái nhìn của nhà văn về người nghệ sĩ. Cùng hoạt

động trong sự nghiệp văn chương nên giữa Tô Hoài và các văn nghệ sĩ có sự “cọ

xát” ở cự li gần. Trong hồi kí Tô Hoài, các văn nghệ sĩ hiện lên phần đời nhiều

hơn là phần nhà văn. Tô Hoài đã đem đến cho người đọc một cái nhìn gần hơn,

“đậm chất người” về các văn nghệ sĩ lớn, có tên tuổi trong làng văn học Việt

Nam như Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Phùng

Quán,…Tô Hoài đã để chân dung các văn nghệ sĩ lăn lộn giữa cái bộn bề phức

tạp của cuộc sống và xuất hiện trong không khí đời thường. Bởi vậy, hình tượng

các nhà văn gần gũi với bạn đọc hơn. Tô Hoài không bôi nhọ, hạ thấp họ hay cố

tình “đập vỡ” những thần tượng của độc giả mà theo quan niệm của Tô Hoài đã

là con người thì có cả mặt tốt lẫn mặt xấu, đã là con người thì phải có diện mạo

riêng, thói thật riêng, sở thích riêng và có những đức tính của những con người

bình thường. Nhà văn đã không thi vị hóa các văn nghệ sĩ và cuộc sống của họ

mà theo quan niệm của Tô Hoài, thực tế hiện thực cuộc sống thế nào thì phản

ánh như thế. Tô Hoài đã đi vào những “ngõ ngách” của đời sống văn chương và

những “khúc đoạn” gập ghềnh số phận của văn nghệ sĩ. Tô Hoài đã giúp cho

người đọc có cái nhìn toàn diện khách quan về cuộc đời cũng như sự nghiệp văn

chương của họ. Thông qua việc khắc họa chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời,

người đọc thấy được phong cách riêng, cá tính riêng của từng văn nghệ sĩ đồng

thời cũng bộc lộ sự cảm thông chân thành với cuộc đời và số phận của họ.

Khi xây dựng chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời, Tô Hoài luôn đặt họ

trên nền hiện thực lịch sử sinh động và không khí thời đại văn học. Biết bao

nhiêu số phận, tính cách văn nghệ sĩ đều được tác giả khéo léo đan chéo trên một

cái nền lịch sử chung sôi động. Những văn nghệ sĩ nổi tiếng như Nguyễn Tuân,

Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Phùng Quán…không ai giống ai trong

cuộc đời hay sự nghiệp nhưng cũng chẳng ai khác ai trong bối cảnh thời đại mà họ

99

đang sống. Những biến động riêng trong cuộc đời mỗi người lại hoà nhịp vào

những biến động chung của số phận dân tộc, đất nước, của dòng lịch sử. Khi đặt

chân dung các văn nghệ sĩ trong bối cảnh thời đại, Tô Hoài muốn khẳng định ý

thức nhìn nhận con người ở nhiều hướng, nhiều chiều và giúp người đọc có cái

nhìn toàn diện về hình ảnh, chân dung các văn nghệ sĩ một cách chân xác và

khách quan. Tô Hoài đã giúp người đọc tiếp cận và khám phá đời sống văn học

của một thời đã qua - một thời mang nhiều dấu ấn lịch sử với những đổi thay

biến thiên của đời sống xã hội và con người. Đến lúc cần nhìn nhận lại, trả lại

chân giá trị cho những tác phẩm, tác giả, hiện tượng văn học từng có những

đánh giá sai lệch, chưa thỏa đáng. Từ đó giúp chúng ta nhận thức lại những đóng

góp của các nhà văn, góp phần đảm bảo tính khách quan và khoa học trong việc

đánh giá giá trị văn chương. Khắc họa chân dung các văn nghệ sĩ trong bối cảnh

thời đại khẳng định sự tìm tòi, đổi mới trong cách thể hiện, tư duy của nhà văn

Tô Hoài.

Tô Hoài đã xây dựng chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời theo dòng hồi

tưởng. Song chân dung nhân vật của Tô Hoài khác chân dung nhân vật của các

nhà văn khác ở chỗ ông không kể về toàn bộ cuộc đời của nhân vật theo một trật

tự thời gian tuyến tính mà chỉ kể ở từng đoạn, từng quãng đời mà nhà văn biết,

thậm chí biết rất kĩ hoặc khắc họa một vài chi tiết, sự kiện tiêu biểu gắn với nhân

vật. Chân dung nhân vật trong hồi kí Tô Hoài có lúc chầm chậm hiện dần lên

qua từng trang viết, có lúc lại lướt qua như một đoạn phim tư liệu quay nhanh.

Tô Hoài còn để cho nhân vật tự xuất hiện, bằng giọng kể đều đều, ít đánh giá,

nhân vật cứ thế được bộc lộ qua những hành vi, nói năng ứng xử. Ngòi bút của

Tô Hoài thiên về cuộc sống đời thường, ông khai thác cả những thói xấu, tầm

thường vặt vãnh của chính mình và các nhà văn khác. Chính điều đó đã tạo nên

sự tò mò, lôi cuốn người đọc qua các tình tiết trên trang văn Tô Hoài.

Nguyễn Tuân là nhân vật được nhiều nhà văn lựa chọn và miêu tả trong

những trang hồi kí với những khía cạnh khác nhau. Trong hồi kí Năm tháng

nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương của Ma Văn Kháng, Nguyễn Tuân hiện lên là

một người coi việc đi “là một nghiệp chương của nghề viết” [86; tr.488] trong

cái thú thẩm mĩ “xê dịch” của ông. Trong hồi ức của Đào Xuân Qúy, Nguyễn

Tuân thuộc lớp nhà văn đi trước, là một người không bao giờ biết “luồn cúi, bợ

100

đỡ, nịnh hót ai dù người đó ở cương vị nào cũng vậy” [132; tr.139]. Trong hồi kí

Cát bụi chân ai của Tô Hoài, Nguyễn Tuân là nhân vật được khắc họa nhiều

nhất trong khoảng thời gian khá dài từ trước năm 45 đến khi mất. Nguyễn Tuân

có một phong cách nghệ thuật độc đáo và đặc sắc. Ông đã bộc lộ cái “tôi” của

mình với lối chơi “ngông” bằng văn chương. Ông đã lấy cái tài giỏi, cái lịch lãm

hơn đời để đặt mình lên trên thiên hạ. Những trang văn Tô Hoài viết về Nguyễn

Tuân phần nào cho người đọc thấy được những cá tính, thói tật trong cuộc sống

đời thường của nhà văn. Và cũng phần nào hiểu được những yếu tố hình thành

nên phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân hiện lên rất khác đời.

Ông có phong cách ăn mặc không giống ai. Cách ăn uống rất cầu kì và tinh tế,

tuyệt nhiên không xô bồ. Ngay cả trong văn chương, từ triết lý đến mỗi câu chữ

cũng khác người. Nguyễn Tuân thuộc chủ nghĩa xê dịch, ông rất thích những

chuyến đi. Ông đi khắp mọi nơi để viết và thỏa mãn cơn đói đi luôn giày vò, trăn

trở của lòng mình. Nhưng rồi hành trình đi ấy đến lúc cũng phải dừng lại. Cát

bụi chân ai đã khép lại kỉ niệm cuối cùng của Tô Hoài về Nguyễn Tuân “Tôi

đến chào khoe với Nguyễn Tuân một chuyến đi còm, nhưng thú vị” [66; tr.294].

Chân dung Nguyễn Tuân hiện lên thật chân thật, sinh động hấp dẫn bằng những

chi tiết “tươi sống” của đời thường, những chi tiết phần lớn do Tô Hoài trực tiếp

quan sát, nắm bắt được ngay trong thực tế giao tiếp và trong sinh hoạt, làm việc

cùng với Nguyễn Tuân. Xây dựng hình ảnh Nguyễn Tuân qua hồi tưởng, Tô

Hoài đã phác hoạ rất đậm nét về những chuyện vụn vặt của cuộc sống, những kỉ

niệm giữa đời thường với Nguyễn Tuân, song không phải vì thế mà người đọc

bớt đi lòng kính trọng và cảm phục Nguyễn Tuân. Từ nhiều góc nhìn khác nhau,

chân dung Nguyễn Tuân hiện ra như một cá thể - đa nhân cách.

Xuân Diệu cũng là một chân dung nhà văn được Tô Hoài phác thảo ở một

góc nhìn mới. Xuân Diệu hiện lên trong mắt người đọc không chỉ là hình ảnh

một nhà thơ mạnh mẽ về bút lực, dồi dào trong cảm xúc, tằn tiện và tính toán

trong sinh hoạt cá nhân mà còn là một người tội nghiệp, cô đơn khi những bí

mật về giới tính của ông bị mở toang. Qua những góc khuất của Xuân Diệu,

người đọc càng cảm thông và yêu quý về con người tài hoa, đầy khát khao trong

tình yêu và cuộc sống. Nguyên Hồng cũng là đối tượng được họa trong hồi kí

của các nhà văn. Nhiều trang hồi kí của Ma Văn Kháng, Bùi Ngọc Tấn, Tô Hoài

101

đã dành ưu ái cho nhà văn của những người cùng khổ. Nguyên Hồng từng được

biết đến với phương châm sáng tác bất hủ: “Tôi sẽ viết, viết về những cảnh đói

khổ, về nơi trái ngược, bất công” [78]. Nguyên Hồng hiện lên trong những trang

hồi kí Tô Hoài là một người giản dị, xuề xòa trong cách ăn mặc và lối sống

nhưng lại là người cẩn trọng với nghề nghiệp. Hồi kí Tô Hoài đã bổ sung vào

kho tư liệu của các nhà văn về những thói thường, những tâm sự u uẩn, những

tâm trạng buồn và một bản lĩnh nghệ sĩ tuyệt vời, đáng kính trọng của Nguyên

Hồng. Bên cạnh đó, Nguyễn Bính cũng được khắc họa không phải trong hình

ảnh của một nhà thơ chân quê mộc mạc, giản dị mà là một Nguyễn Bính của đời

thường gần gũi với những gì thô nhám của cuộc sống. Nguyễn Bính là nhà thơ có

tài trên văn đàn nhưng trong cuộc sống của ông khá nhiều tật: lăng nhăng, phóng

túng, tùy tiện. Tô Hoài thỏa sức tự do miêu tả những thói hư tật xấu của Nguyễn

Bính trên trang viết nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta ghét hay ác cảm với

nhà thơ Nguyễn Bính mà càng hiểu và cảm thông với nhà thơ nhiều hơn.

Đến Chiều chiều, không ít những chân dung văn nghệ sĩ cùng thời xuất

hiện trên trang hồi kí Tô Hoài. Nhưng cách xây dựng nhân vật ở đây không

giống với hồi kí Cát bụi chân ai. Tô Hoài không khắc họa, tỉ mỉ chi tiết cuộc đời,

số phận của các văn nghệ sĩ như Cát bụi chân ai mà chỉ phác họa, điểm qua dăm

ba nét đời thường của mỗi người, mỗi nhân vật. Ấn tượng của Tô Hoài về Trần

Đức Thảo là người rất vụng về và trong hình ảnh cuối đời “ông đi đôi guốc

mộc…gày gùa, mặt và mắt vàng nghệ màu bệnh gan” [70; tr.161]. Đặng Đình

Hưng cũng được Tô Hoài khắc họa song hành cùng Trần Đức Thảo. Đặng Đình

Hưng vướng vào Nhân văn. Ở hội nhạc, ông đã bị ra khỏi biên chế, mất cả đảng

tịch. Đặng Đình Hưng và Trần Đức Thảo là hai con người mà nhà văn Tô Hoài

đã từng tâm sự “Họ đã gặp nhau trong tôi, rồi cuộc đời hai người dài dài phí

hoài mà tôi chứng kiến” [70; tr.151]. Hay một Trần Huyền Trân “cứ mờ dần,

ngụp dần, khô héo đi...người rầu rĩ, càng âm thầm mãi đi” [70; tr.251]. Phùng

Quán xuất hiện trên những trang văn Tô Hoài với những thăng trầm của cuộc

đời. Sự nghiệp văn chương của Phùng Quán không thuận lợi. Phùng Quán từng

“bị kỉ luật ba năm không hội viên Hội nhà văn nhưng rồi ba mươi năm mới có

lời làm lễ giải hạn. Không cấm sáng tác nhưng viết thì không đâu in” [70; tr.98].

Nhưng Phùng Quán vẫn khát khao sáng tác. Bạn bè của Phùng Quán tổng kết

102

sáu chữ cho cái gia đình bi đát: “câu chui, rượu chui, viết chui”. Vào tuổi năm

mươi, Phùng Quán “Thân hình bơ phờ mảnh khảnh, lại ăn mặc kiểu các cụ áo

năm thân rộng nhuộm cậy mầu hoa hiên, bộ râu chuột lưa thưa” [70; tr.100-101].

Tô Hoài cảm thấy đáng buồn, đáng thương cho một người cả đời không may

mắn, cứ lặng lẽ rồi chìm dần. Bên cạnh đó, một loạt các bạn bè, đồng nghiệp của

Tô Hoài được khắc họa như Đào Vũ, Nguyễn Hoạt, Nguyễn Khắc Dực, Mộng

Sơn, Hồ Dzếnh, Hoàng Văn Tiến. Họ chỉ xuất hiện loáng thoáng qua trang viết,

đan xen vào câu chuyện của các nhà văn khác nhưng ở họ cũng neo lại trong

lòng người đọc một ấn tượng không thể nào quên.

Nhà văn Tô Hoài đã vén màn hào quang lấp lánh xung quanh các nhà văn

được thêu dệt bởi bao giai thoại, huyền thoại. Tô Hoài đã rút ngắn “khoảng cách

sử thi”, tiếp cận họ từ góc độ đời tư, cuộc sống riêng tư. Tô Hoài tiếp cận tác

phẩm theo hướng tư duy của tiểu thuyết nên khi xây dựng chân dung các văn

nghệ sĩ cùng thời, nhà văn không có ý định dung tục hóa, tầm thường hóa nhân

vật mà dựng lại chân dung họ ở góc độ con người đời thường, đặt trong “tổng

hòa các mối quan hệ xã hội” và giàu nhân tính nhất. Họ hiện lên một cách đời

thường và chân thật như bao con người bình thường khác. Con mắt tinh đời của

Tô Hoài đã đi từ lớp vỏ bề ngoài, lớp bề mặt để đến với cái giản dị, cốt lõi, tuy

giản đơn mà lại sâu sắc, ẩn sâu bên trong mỗi con người. Tô Hoài đã cho người

đọc hình dung về một lớp các nhà văn có tên tuổi và vị thế trên văn đàn dân tộc.

Họ ở đó, giữa những “nhếch nhác trần ai”, những chi li, tính toán, từ chuyện nhà

cửa, chuyện ăn mặc đến những mối quan hệ đời sống đều được soi rọi dưới lăng

kính sự thật của nhà văn. Họ là những con người mà cuộc đời và số phận cũng

như tâm hồn rất đa dạng, phong phú và đầy trái ngang xen lẫn vị đắng cay. Tô

Hoài đã tạo dựng chân dung các bạn đồng nghiệp của mình dưới góc độ đời

thường với những gì rất “người”. Điều đó làm cho người đọc hiểu và trân quý

những gì họ đã đóng góp cho sự nghiệp văn chương nước nhà. Bởi trước khi là

một vĩ nhân bất cứ ai cũng đều phải là một thường nhân.

3.2.2.2. Khắc họa chân dung con người nhỏ bé, đời thường

Không chỉ khắc họa chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời, những tên tuổi

lớn của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Tô Hoài còn thành công khi xây dựng

chân dung, khắc họa số phận tầng lớp quần chúng nhân dân trong những thời

103

đoạn khốc liệt nhất của lịch sử. Trở về quá khứ, theo dòng hồi tưởng của nhà

văn, người đọc bắt gặp vô số hình ảnh các nhân vật nhỏ bé, đời thường trong xã hội.

Họ chỉ được lướt qua một vài trang viết nhưng đã để lại ấn tượng và dư vị cảm xúc

thật sự lâu dài, thấm thía. Những dòng chữ “chân thực dưới đáy” tràn đầy yêu

thương, trân trọng của Tô Hoài đã để lại cho người đọc niềm cảm xúc sâu xa về

từng con người cụ thể, từng số phận cụ thể. Đó là số phận của những người lao

động, người phụ nữ trong những cơn biến thiên lịch sử. Đó còn là số phận của

những người nông dân, những gia đình trong cơn lốc của cơ chế thị trường.

Trong Cát bụi chân ai, Tô Hoài đã khắc họa thành công chân dung những

con người nhỏ bé. Họ là những người lao động bình thường nhưng lại là những

người có nhiều duyên nợ với Tô Hoài và các bạn văn của ông. Hình ảnh bác

Chữ bán cháo ban đêm hiện lên thật khó khăn và vất vả “Mặt nhăn nhó đăm đăm,

chẳng biết đương phởn hay buồn nỗi hóng khách” [66; tr.10]. Hình ảnh ông

hàng cà phê “bít tất” với dáng người “lom khom, mặt bóng loáng nắng gió đồng

chiêm. Bộ quần áo nâu non nhờ nhệch, dáng ngơ ngơ như đương lẩm nhẩm ai

trả tiền, ai lỉnh mất” [66; tr.11]. Hình ảnh ông chủ Tiểu Lạc Viên hiện lên với

“đôi mắt kính lấp lánh, cái câu “có ngay, có ngay luôn miệng như hát” [66;

tr.82]. Các nhân vật như bác Chữ, ông lão cà phê “bít tất”, ông chủ Tiểu Lạc

Viên được nhà văn khắc họa ở một vài chi tiết nhưng chính họ lại là hiện thân

cho vẻ đẹp lao động và một phong cách ẩm thực rất Hà Nội.

Trong kí ức của nhà văn, hình ảnh các cô gái như Ly Chờ, Thào Mỷ,

Chúng Thị Phà, nơi mảnh đất xa xôi của tổ quốc cũng được Tô Hoài nhắc đến.

Ly Chờ là một cô giáo xinh xinh bé bỏng ở Sà Phìn. Ly Chờ biết đọc, biết viết,

đã quyết tâm xa nhà làm giáo sinh xóa mù chữ. Tuy vậy, cuộc đời Ly Chờ chỉ

những ghập ghềnh và gian truân, hạnh phúc hôn nhân không gặp may mắn “Hai

mươi tuổi đã con bồng con bế…cái đẹp sắc sảo mà bạc phận” [66; tr.210]. Công

việc cũng không thuận buồm xuôi gió “Mới bốn mươi tuổi, Ly Chờ về hưu non.

Cũng phải “chạy” mãi mới được cái sổ hưu” [66; tr.210]. Nói về Ly Chờ, Tô

Hoài không khỏi ngậm ngùi, xót xa - người con gái hồng nhan mà bạc phận. Rồi

đến Thào Mỷ - cán bộ huyện, một phụ nữ dân tộc người Mông tiên tiến. Thào

Mỷ công tác nhanh nhẹn, được làng xóm tin cậy. Cũng giống như Ly Chờ, Thào

Mỷ lận đận trong tình duyên. Thào Mỷ bị ép lấy chồng từ thuở bé theo phong

104

tục. Khi lớn lên “Thào Mỷ bỏ về nhà mình - một việc mà chưa người đàn bà

Mèo nào dám làm” [66; tr.217]. Thào Mỷ lại đeo đuổi những chàng trai trẻ ít

tuổi. Thào Mỷ lấy chồng nhưng cuộc đời thật bất hạnh, liên tục bị chồng đánh

đập và chửi bởi. Từ một cô gái xinh đẹp trở thành một cô gái gầy yếu. Từ một

người phụ nữ mạnh mẽ, quyết đoán trở thành một người phụ nữ yếu đuối “Thào

Mỷ uống rượu từng bát. Rồi khóc. Lại khóc. Khổ lắm. Nó đánh em” [66; tr.218].

Bên cạnh đó, Tô Hoài còn khắc họa số phận cô Chúng Thị Phà - người Tày, quê

ở Tòng Bá, hội trưởng hội phụ nữ huyện. Cô Phà là người phụ nữ can đảm, được

bầu là tấm gương tháo vát trong công việc làm đường. Tuy vậy, cuộc đời cô lắm

“oan khiên, làng xóm đồn cô bỏ thuốc cho chồng ốm chết để được bay nhảy”

[66; tr.221]. Sau này, Phà lấy chồng nhưng lại lấy phải người chồng hay ghen.

Những cô gái tài năng, xinh đẹp đáng nhớ của Tô Hoài, nét ám ảnh còn lại của

họ nằm ở số phận nhiều hơn là cá tính. Họ từ đâu đó trong cuộc đời khổ đau đi

vào tác phẩm và từ tác phẩm lại bước ra cuộc đời, lẫn vào dòng đời trôi chảy

bình dị. Mỗi người phụ nữ xuất hiện trong hồi kí Tô Hoài là một hoàn cảnh, một

tình duyên khác nhau nhưng nhìn chung họ là những người phụ nữ bất hạnh

trong hôn nhân gia đình. Họ không có được tình yêu trọn vẹn và tình duyên gặp

nhiều éo le, trắc trở. Tưởng những họ sẽ được sống trong một cuộc hôn nhân

hạnh phúc nhưng tất cả đều tan biến trong vòng quay của số phận. Dường như,

không có ai có thể đoán định trước được số phận và tương lai của họ.

Trong Chiều chiều, Tô Hoài đã dành nhiều tâm huyết và dụng công khi xây

dựng ông Ngải, người nông dân nghèo, người đã cưu mang Tô Hoài, Phùng

Quán thời cải cách ruộng đất năm 1958. Trong dòng hồi tưởng của nhà văn, ấn

tượng về ông Ngải khi lần đầu tiên gặp ông: “Mặt ông Ngải mai mái, không

trắng, không sạm. Người suốt đời ở ngoài đồng áng mà da không bắt nắng. Cái

nước da nhờn nhợt ấy thì có giống ông Phan Khôi” [70; tr.36]. Cuộc sống của

ông Ngải chỉ quẩn quanh bên bụi tre lép, tất cả mọi việc tha ra đấy mà làm. Ông

Ngải là người nông dân làm ruộng giỏi, khỏe mạnh: “Bàn chân to ngoàm nghiến

từng lượm. Người làm ruộng không cày, không trâu, không kéo đá, cả đời chỉ

cái cuốc và hai bàn tay, hai bàn chân với những nét ác liệt” [70; tr.70]. Ông Ngải

chăm chỉ lao động, cả một đời cần mẫn với công việc đồng áng, dần dà lên được

cái nhà tươm tất. Ông không theo Việt Minh nhưng ông lại tích cực tham gia

105

vào hợp tác xã vì lí do “Cái ruộng nó trần trần ra đấy, làm thì ra thóc chứ ra gạch

à? Có ruộng thì ra thóc, hợp tác cũng là ta cả thôi” [70; tr.76]. Ông Ngải hay làm,

tham công tiếc việc “có lần ông Ngải lên cơn sốt rét mà nhà còn sào ruộng chưa

bừa, ông dậy đùng đùng vác bừa đi” [70]. Một con người vạm vỡ tưởng chừng

không có gì tàn phá nổi, vậy mà bốn mươi năm sau, hình ảnh ông Ngải khiến

chúng ta không khỏi ngậm ngùi, xót xa trước sự tàn phá của thời gian. Bốn mươi

năm trước ông “ngủ giữa bụi tre”, bốn mươi năm sau ông vẫn “ngủ giữa bụi tre”,

trong khi làng xóm thời kinh tế thị trường “cứ đua nhau nhà nhà tầng ba gác”.

Chỉ có khác ông ngày càng già nua, chậm chạp, cũ kĩ hơn. Tô Hoài đã xây dựng

được chân dung ông Ngải có số phận, có đời sống, có cách ứng xử, tâm trạng

riêng nhưng cũng giống như bao người lao động bình dị khác ở xóm Đồng. Ông

Ngải là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân - một ông lão tuổi cao nhưng lúc

nào cũng sáng ngời một vẻ đẹp khỏe khoắn, tiểu biểu cho con người Việt Nam

thật thà, chất phác, hay lam hay làm, gắn bó sâu sắc với đồng rộng, quê hương.

Ông là hiện thân của con người tình nghĩa nhưng lại thiệt thòi, không may mắn

và gắn bó với cuộc sống quẩn quanh. Chân dung ông Ngải là một sự ngậm ngùi

về dòng thời gian trong cuộc đời mỗi người, quy luật đời người không ai có thể

tránh khỏi lúc tuổi xế chiều. Chân dung ông Ngải đã đem đến cho người đọc

hình ảnh khá đậm nét về con người của làng quê trên đất nước Việt Nam.

Chân dung anh bí thư Sự trong cơn lốc của kinh tế thị trường cũng được Tô

Hoài khắc họa thành công. Anh bí thư, anh chủ nhiệm năm nào, nay lại trong

thảm cảnh “Trên cái sập gụ, Sự quấn chăn chùm đầu, đương hí hoáy nạo sái”

[70; tr.324]. Sự bất lực trước gia đình và con cái, anh cố rướn mình chửi một câu

dõng dạc: “Đồ đĩ rạc!”. Sức lực của anh yếu lắm rồi, tất cả sức lực của anh dồn

vào câu chửi sau lưng mụ vợ của mình. Con người một thời là thế, bây giờ thật

bệ rạc. Số phận của anh Sự là hồi chuông cảnh tỉnh cho những kiếp người trong

cơn biến thiên của lịch sử, cũng là câu hỏi còn - mất trong giá trị đạo đức của

con người. Bên cạnh đó, Tô Hoài còn cho người đọc tiếp xúc với bao con người

bình thường khác. Đó là Dương, anh bảo vệ của tổ dân phố. Bề ngoài, Dương tỏ

ra là một người nhiệt tình, trách nhiệm cho dù việc của anh không được hưởng

lương. Nhưng bản chất bên trong Dương là một kẻ khôn khéo, thực dụng, luôn

xuất hiện đúng lúc, đúng chỗ để chuộc lợi, kiếm chác, làm tiền. Đó là anh công

106

an Mùi thật thà, chất phác, không chơi bời. Anh ít chữ nhưng được cái “chịu khó,

không lên điệu vừa khoe vừa giấu dốt” [70; tr.130]. Đó là ông Đại, tổ phó tổ dân

phố. Ông sống giản dị, xuề xòa “Một thân cặm cụi, quanh mình chỉ có một rổ

bát, cái dây vắt quần áo và cái xe đạp treo ngược” [70; tr.195]. Những trang hồi

kí của Tô Hoài đã tái hiện biết bao số phận của con người trước thời cuộc. Họ

chỉ xuất hiện thoáng qua trong vài nét phác họa nhưng những con người bình dị,

đời thường, nhỏ bé ấy lại làm nên sự đậm nhạt trong bức tranh cuộc sống muôn

hình vạn trạng. Mỗi người một vẻ nhưng tựu chung lại buồn nhiều hơn vui. Là

người trong cuộc, nhà văn đã tái hiện những cảnh đời ngang trái của tầng lớp

quần chúng nhân dân giúp cho người đọc hiểu hơn về một giai đoạn lịch sử.

Với cách khắc họa chân dung nhân vật qua hồi ức, đặt họ trên cái nền lịch

sử, Tô Hoài đã thực sự thoát khỏi những hạn chế và ảnh hưởng của cái nhìn sử

thi - lí tưởng hoá hiện thực. Nhân vật của nhà văn ấn tượng từ các bạn văn

chương cùng thời đến những con người bình dị, nhỏ bé ở mọi miền quê khác

nhau. Tất cả đều được khắc họa ở cự li gần và phương diện đời thường. Tô Hoài

đã cố gắng tìm ra một hình thức thể hiện mới, khác so với lối khắc họa nhân vật

trong hồi kí truyền thống, đó là một nhân cách, một tài năng khá độc đáo trong

văn xuôi Việt Nam đương đại.

3.2.3. Giọng điệu trần thuật

Chất giọng là một yếu tố mạnh trong nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài. Dù

Tô Hoài viết tiểu thuyết hay hồi kí, người đọc vẫn nhận thấy sự thống nhất trong

giọng điệu trần thuật đó là giọng điệu dí dỏm, giễu nhại, hài hước và giọng điệu

trữ tình, sâu lắng. Sự đa dạng trong giọng điệu hồi kí biểu hiện cách nhìn, cách

nghĩ, cách đánh giá về đời sống và con người trong nhiều hoàn cảnh, nhiều thời

điểm khác nhau của nhà văn Tô Hoài. Sự chuyển đổi về quan niệm nghệ thuật và

con người, sự chuyển hướng từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn thế sự, nhân bản đời

thường giúp cho nhà văn Tô Hoài cảm nhận cuộc sống ở nhiều cung bậc khác nhau.

Tô Hoài kể mọi chi tiết, sự kiện với nhiều giọng điệu khác nhau. Điều đó đã tạo

nên sự phức điệu, sắc thái đa thanh và bức tranh cuộc sống đa sắc, đa diện.

3.2.3.1. Giọng điệu dí dỏm, giễu nhại, hài hước

Giọng điệu chủ đạo trong hồi kí Tô Hoài sau 1945 là giọng hài hước, dí

dỏm, giễu nhại. Giọng điệu này bắt nguồn từ bản tính của nhà văn và từ sự nhạy

107

cảm, thái độ phản ứng trước những vấn đề của đời sống. Qua những lời kể, bài

viết về Tô Hoài, người đọc luôn ấn tượng về một con người hài hước, hóm hỉnh,

có nụ cười mỉa mai và trào lộng. Từ cảm hứng châm biếm, hài hước, nhà văn đã

vượt qua những “lằn ranh” vốn được coi là những chuẩn mực. Tô Hoài đã khước

từ giọng thành kính, trang nghiêm thay vào đó là giọng hài hước, hóm hỉnh.

Chất dí dỏm, hài hước trong hồi kí Tô Hoài được thể hiện ở cách nói tếu táo, có

phần bỗ bã mà ngôn từ hầu như là lời ăn, tiếng nói hàng ngày của cuộc sống đời

thường. Tô Hoài đã đưa cái chất đời gần gũi vào trong văn chương một cách tự

nhiên, khéo léo. Nhà văn đã “mở ngỏ” trang viết của mình để cuộc sống thường

ngày ùa vào trang sách. Tô Hoài đã tìm tòi, vận dụng một bút pháp nghệ thuật

vừa truyền thống vừa hiện đại tạo cho mình một giọng điệu phức hợp vừa hóm

hỉnh, sâu sắc, vừa tinh tế, nhẹ nhàng. Tô Hoài đã đem đến những trang văn của

mình tiếng cười với nhiều cung bậc, sắc thái khác nhau. Có khi là tiếng cười

mang sắc thái nhẹ nhàng cất lên từ những chuyện hết sức đời thường. Có khi là

tiếng cười hài hước, châm biếm nhằm mục đích phê phán những thói xấu của

con người. Có khi là tiếng cười chua chát trước những nghịch lí của cuộc đời

khiến người đọc phải suy ngẫm, xót xa. Ở Tô Hoài, giọng điệu trần thuật luôn

giữ được bản sắc riêng: giọng hài hước, dí dỏm pha chút tinh quái, mỉa mai. Đây

là chất giọng khá ổn định ở giai đoạn trước và sau Cách mạng, tuy nó xuất hiện

đậm nhạt khác nhau.

Tô Hoài đã sử dụng những từ ngữ xô bồ, bỗ bã, thông tục và đưa vào tác

phẩm của mình một cách hợp lí. Tô Hoài không đưa một cách tùy tiện từ đời

sống ngổn ngang vào sáng tác. Nhà văn đã lựa chọn công phu, cân nhắc kĩ lưỡng

những từ ngữ phù hợp với tính cách nhân vật, bối cảnh xã hội và dụng ý nghệ

thuật của mình. Những từ ngữ thông tục vừa làm cho giọng điệu tác phẩm trở

nên suồng sã, tự nhiên vừa tạo ra những tiếng cười sảng khoái, đậm màu sắc dân

gian. Người đọc đã tìm ra hàng loạt những từ ngữ được diễn đạt hết sức suồng

sã, đời thường trong trang văn Tô Hoài: “- Tắt bố mày đi!”, “Tiên sư cái thành

phố nhà mày, trông mả nhớn mả bé kia kìa...”, “Ôi! Thằng bỏ mẹ!”, “Mấy con

đĩ rỗi hơi và say rượu đang cong cớn tranh nhau xỉa xói, kể lể mắng tưởng tượng

cái thằng phi công Mỹ ngồi ngay trước mặt” [70], “Anh thử đi gắp cứt như tôi

xem việc bằng nhau thế nào?”, “Cha đẻ mẹ mày, đêm hôm nhà đàn bà con gái,

108

bà thì… - Tôi là bộ đội - Bộ đội, đội thúng, đội mẹt cái con đẻ mẹ mày. Nhà tề

đây, có cút không thì bà gọi bảo hoàng nó xuống gông lại…”, “Có chó má nào

đâu”, “không biết bọn con đĩ dại nào kéo đá cờn như ngựa bật cương”

[66]…Với cách sử dụng dày đặc lớp từ ngữ thông dụng, bình dân, Tô Hoài đã

làm cho nhân vật của mình hiện lên với con người “trần trụi” chứ không phải là

“ông này bà nọ”. Nhờ chất giọng suồng sã, tự nhiên, Tô Hoài đã xóa nhòa

khoảng cách giữa văn chương với cuộc đời. Điều này giúp người đọc tiếp cận

với tác phẩm một cách tự nhiên, gần gũi như đang giao tiếp giữa nhân vật với

cuộc đời.

Với cái nhìn lọc lõi, tinh quái, Tô Hoài đã đem đến cho độc giả đi từ bất

ngờ này đến bất ngờ khác. Nhà văn đã phát hiện ra những yếu tố “bất thường”

trong những điều đời thường, dung dị của chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời.

Tô Hoài đã “giải thiêng” những văn nhân thành những thường nhân với đầy đủ

những thứ “nhọ nhem”. Ông giống như một người đang đứng ngoài quan sát và

tủm tỉm cười, cái cười lây sang cả người đọc. Tiếng cười hài hước nhẹ nhàng

hiện ra khi Tô Hoài xây dựng các chân dung văn nghệ sĩ từ chuyện ăn mặc, ăn

uống đến những sinh hoạt đời thường. Khi tạo dựng chân dung Nguyễn Công

Hoan, người đọc không thể nhịn cười khi thấy ông đi dự Quốc khánh với “đôi

giày bóng lộn”. Một cách ăn mặc khác ngày thường. Sau nhiều lần tò mò, hỏi

cặn kẽ, nhà văn mới phát hiện ra đó là đôi giày Nguyễn Công Hoan đi mượn.

Nguyễn Công Hoan không hề cảm thấy xấu hổ mà còn tỏ ra thích thú “Có là

giày đi mượn thì mỗi tiệc mới một đôi khác nhau chứ” [70; tr.105]. Đó chính là

cách “ăn chơi” một thời của văn nghệ sĩ giàu tài năng nhưng lại thiếu thốn về vật

chất. Chuyện ăn uống của các nhà văn cũng đầy hài hước. Kiểu ăn uống của

Xuân Diệu là kiểu ăn để mà sống, để yêu đời. Trong chuyến đi Lào Cai, Xuân

Diệu ăn nhiều quá “đêm ấy đau bụng phải đi cấp cứu” [66] . Xuân Diệu cũng tự

than thở “cái miệng làm khổ cái bụng, mình phải tính tham ăn” [66]. Nhưng sau

đó Xuân Diệu bản tính vẫn không thay đổi “rồi lại cứ thong thả quét sạch mâm

như mọi khi”. Tô Hoài thật khéo khiến cho người ta bật cười vì những chuyện

tủn mủn kiểu như thế. Cái cười hiện ra để thấy những cái đời thường nhất của

văn nghệ sĩ. Không chỉ là chuyện ăn, chuyện mặc, Tô Hoài còn miêu tả những

mối tình của các nhà văn bằng giọng điệu hóm hỉnh, hài hước. Tính Nguyễn

109

Sáng trăng hoa, hay mê gái nhưng lại kiểu quái dị thích và để ý đến những “cô

gái mới lớn”. Người đọc khó lòng để kiểm chế một nụ cười tủm tỉm trước một

họa sĩ có hạng lại tầm trung niên lại thích những cô gái ngây thơ như thế. Ngược

lại, Nguyên Hồng lại ưa theo mẫu người “những bà nạ dòng, má phúng phính

bánh đúc, áo cánh chồi, nhai trầu, môi cắn chỉ là ưng lắm”. Cái đáng cười ở chỗ

sau khi bị vợ cả đánh ghen với mụ hàng xén, nhà văn không tiếc nhan sắc của cô

gái đó mà lại tiếc “mất mẹ nó cái màn”.

Không chỉ là tiếng cười dí dỏm, nhẹ nhàng trên từng trang giấy mà còn là

tiếng cười chua chát, ngậm ngùi, xót xa. Thời kì cải cách ruộng đất đã gây ra

bao khốn khổ dở khóc dở cười cho người dân, ghim lại những vết thương chưa

lành. Cái cười ra nước mắt ở chỗ cán bộ cách mạng phải toan tính tìm ra được

địa chủ. Còn người nông dân thì hăm hở xin lên làm địa chủ “Ông cho em lên

địa chủ ạ?”. Người nông dân đã bất chấp tất cả để được lên làm địa chủ. Cái

nhìn tinh quái và đậm chất nhân văn khiến Tô Hoài không thể làm ngơ trước

những căn bệnh thành tích, thói quen xấu của xã hội. Giọng điệu Tô Hoài vẫn

hóm hỉnh nhưng lúc này nụ cười đã pha trộn sắc thái mỉa mai, phê phán, châm

biếm. Câu chuyện từ một chuyến tham quan ở một xã có thành tích là một minh

chứng: “Đi tham quan về, tôi làm báo cáo và kế hoạch. Trên nhận xét chỉ tiêu

con số còn thấp, còn bảo thủ. Vừa đi tham quan nơi tiên tiến nhất. Tôi nâng bốn

triệu lên sáu triệu tấn gần gấp ba. Ra hội nghị nống lên thành bảy triệu” [70;

tr.58]. Phê phán nhưng vẫn nhẹ nhàng, chỉ bắt đầu từ sự thật khách quan của

cuộc sống đời thường, nhà văn không có ý miệt thị hay nhạo báng lịch sử đã qua.

Nhà văn muốn chúng ta dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật để sống, để làm việc

có trách nhiệm hơn.

Với bản tính hồn nhiên, dí dỏm cùng giọng điệu hài hước tinh quái, suồng

sã tự nhiên cùng quan niệm “cái gì đã là tự nhiên thì mãi mãi”, nhân vật của Tô

Hoài hiện ra với đúng bản chất của nó, con người đầy đủ với những khiếm

khuyết và sai lầm, những góc khuất sâu kín, phức tạp. Tô Hoài đã đem đến cho

người đọc những tiếng cười sảng khoái, thú vị đồng thời biểu lộ được thái độ

của nhà văn trước cuộc sống đời thường

3.2.3.2. Giọng điệu trữ tình, sâu lắng

Cảm hứng chủ đạo tạo nên giọng điệu trữ tình trong hồi kí của Tô Hoài là sự

110

thương cảm, xót xa được thể hiện qua cái tôi nội cảm tìm về quá khứ của nhà văn.

Giọng điệu trữ tình như một sợi dây truyền cảm - đồng cảm của chính nhân vật “tôi”

với những số phận, cuộc đời, con người mà tôi biết, tôi đã chứng kiến. Hồi ức về

những số phận văn nghệ sĩ cùng thời, về những con người nhỏ bé, bình dị qua

giọng điệu trữ tình trở nên gợi cảm hơn. Giọng điệu trữ tình, đượm buồn xót xa bắt

nguồn từ hiện thực đời sống, một cuộc sống tù túng, quẩn quanh khiến con người

bế tắc trong mưu kế sinh nhai những năm trước Cách mạng. Sau Cách mạng, giọng

điệu trữ tình được thể hiện khi nhà văn tìm về quá khứ và bản thân phải đối diện

với qui luật tất yếu của một đời người.

Giọng điệu trữ tình, sâu lắng khi Tô Hoài thể hiện sự thương cảm xót xa trước

số phận của các văn nghệ sĩ, số phận của những người nông dân, những người phụ

nữ ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Tô Hoài thấy xót xa cho Nguyễn Tuân, một

người thích bay nhảy, có thú “xê dịch” mà cuối đời không còn đi được: “Đi đâu, đã

không còn bay nhẩy được, giờ đây thêm cái day dứt, cái bực bội của con người

ngày ngày quanh quẩn mở đóng cửa sổ” [66; tr.292]. Tô Hoài nghĩ về cuộc đời

Nguyễn Bính: “Những cùng quẫn tự chuốc, những thương đau vơ vào, mình lại

đầy ải mình, thân làm tội đời, cả những ngày còn lại này mà vẫn không nguôi” [66;

tr.61]. Tô Hoài “ngậm ngùi với những quãng cách hoài phí đời người” của cuộc đời

Phùng Quán. Tô Hoài ngậm ngùi chua xót khi nói về nghiệp văn của mình:

“Cuộc sống còm cõi, ngòi bút và đồng lương không cho người viết kiếm đủ

miếng ăn, cả đến mặt mũi và con mắt cũng mòn mỏi dần” [66; tr.312] và cảm

thấy “Đời bàn giấy làm nhạt nhẽo cả ngòi bút”. Tất cả những số phận văn chương

ấy qua cái nhìn ấm áp chân tình của Tô Hoài đã gieo vào người đọc một niềm cảm

thương, chia sẻ sâu sắc.

Nhà văn chua chát, đau buồn trước sự bất hạnh của những người phụ nữ xinh

đẹp mà bạc phận như Thào Mỷ, Ly Chờ, Chúng Thị Phà: “Làm sao không buồn,

bao nhiêu hi vọng rồi như thế. Con người hay xã hội hay còn lại những gì. Ảo não,

thê lương…” [66; tr.211]. Giọng điệu trữ tình, đượm buồn xót xa trải dài trong các

trang văn của Tô Hoài. Mỗi trang hồi kí nhà văn “đào sâu” thêm một tầng nữa của

quá khứ mà như tâm tình, đối thoại với hiện tại. Tô Hoài thương xót cho số phận

của ông Ngải. Con người “khỏe khoắn, vạm vỡ” ngày nào tưởng như chẳng có gì

tàn phá nổi thế mà giờ đây chậm chạp ngồi bên bụi tre “như đống đất”, nghe thì

111

phải “nghiêng tai, lối nghe phổ biến của người nghễnh ngãng” mắt thì “hai con mắt

đã toét nhèm viền vải tây điều đã sụp xuống ti hí”. Cái lặng im của tuổi tác, thời

gian hay cái lắng lại của một đời người. Tô Hoài xót xa trước số phận con người

nhỏ bé, xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm như cô Thẹn. Ấn tượng của tác giả về

cô Thẹn “chừng mười ba, mười lăm tuổi…ngồi sau lưng bà kí Đường hát đỡ cho

mẹ, tiếng đàn đáy lắc lư” [70; tr.538] bây giờ trở thành bà lão đau khổ “hàm răng

móm…đốt ngón tay lạnh ngắt…hai con mắt lòa lúc nào cũng ràn rụa nhợt nhạt trên

mi” [70; tr.538]. Tô Hoài đau đớn khi chứng kiến anh bí thư Sự ăn to nói lớn, phát

biểu oang oang trong các cuộc họp giờ đây rụt cổ bên bàn đèn thuốc phiện.

Người đọc nhận thấy trong những trang hồi kí Tô Hoài hiện ra cuộc đời và

con người ở những cung bậc cảm xúc khác nhau, ở cả những giây phút vui sướng,

hạnh phúc cũng như lúc đau buồn, khổ đau. Hai tác phẩm hồi kí được sáng tác dựa

trên cảm hứng nhân văn đời thường và cùng bộc lộ giọng điệu trữ tình, sâu lắng.

Giọng điệu trữ tình trong Cát bụi chân ai là giọng điệu ngậm ngùi, suy ngẫm về số

phận các văn nghệ sĩ cùng thời trong thời kì Nhân văn - Giai phẩm. Giọng điệu trữ

tình trong Chiều chiều là giọng điệu ngậm ngùi, chua xót về số phận người nông

dân, văn nghệ sĩ và thời cuộc trong suốt chiều dài biến thiên, thăng trầm của lịch sử

112

đất nước.

Tiểu kết chƣơng 3

Có thể nói, tiểu thuyết và hồi kí là hai thể loại khẳng định tên tuổi, phong

cách của nhà văn Tô Hoài. Mỗi thể loại có đặc trưng riêng. Với thể loại tiểu

thuyết, Tô Hoài đã khẳng định được ưu thế vượt trội của mình trong nghệ thuật

xây dựng nhân vật (nhân vật bộc lộ phần dư nhân cách, đặt nhân vật trong không

gian sinh hoạt đời thường và mối quan hệ đời thường, ngôn ngữ khắc họa nhân

vật đậm chất đời thường và mang màu sắc địa phương), các kiểu kết cấu từ

truyền thống đến hiện đại (kết cấu tuyến tính, kết cấu tâm lý, kết cấu theo lối

đầu cuối chiếu ứng), nghệ thuật kể chuyện đặc sắc với giọng điệu hài hước, hóm

hỉnh và giọng điệu trữ tình, hoài niệm. Với thể hồi kí, Tô Hoài đã xây dựng nên

hình tượng tác giả qua cái nhìn nghệ thuật về đời sống xã hội ở thời kì cải cách

ruộng đất, về không khí sáng tác văn học căng thẳng thời kì Nhân văn - Giai

phẩm. Không chỉ dựng chân dung tự họa của bản thân, Tô Hoài còn khắc họa

chân dung những con người xung quanh đó là chân dung các văn nghệ sĩ cùng

thời ở cự li gần, ở góc nhìn đời tư, những con người lao động bình dị đến từ mọi

miền quê. Thế giới nhân vật của Tô Hoài hiện lên với tất cả những gì “nhếch

nhác, gai góc, xù xì, bụi bặm” thậm chí khó coi. Những dấu ấn nhân vật để lại

trong trang sách không hề phô trương, hào nhoáng và cũng không hề mờ nhạt.

Tất cả được thể hiện qua giọng điệu hóm hỉnh, tinh quái mà không kém phần trữ

tình, sâu lắng. Đó là sự khác biệt trong phương thức thể hiện và làm nên phong

113

cách độc đáo của nhà văn Tô Hoài.

Chƣơng 4

SỰ TƢƠNG TÁC THỂ LOẠI

GIỮA TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945

4.1. Tƣơng tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam hiện đại và trong văn xuôi

Tô Hoài sau 1945

Trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển, các thể loại văn học vừa

mang tính ổn định, bền vững vừa mang tính vận động, đổi mới. Nhà nghiên cứu

Trần Đình Sử cho rằng: “Thể loại vừa có các yếu tố ổn định, truyền thống; lại

vừa có các yếu tố vận động, đổi mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng

tạo của nhà văn” [135]. Tác giả Pôxpêlôp quan niệm: “Thể loại bao giờ cũng

vừa là nó vừa không phải là nó, nó bao giờ cũng đồng thời vừa cũ kĩ vừa mới

mẻ” [131]. Nhà nghiên cứu M.Bakhtin nhận định: “Thể loại tái sinh và đổi mới

theo từng thời đại phát triển văn học và trong mỗi tác phẩm cụ thể viết theo thể

loại đó” [10]. Lí thuyết về thể loại đã chỉ ra một quy luật khá phổ biến, đó là sự

xâm lấn, thẩu thấm, mờ nhòe giữa các thể loại văn học tạo nên các “lằn ranh”

thể loại, xòa mờ các đường biên của thể loại. Sự tồn tại và phát triển của một

nền văn học phụ thuộc vào sự phát triển, khả năng hồi sinh, đổi mới của các thể

loại. M.Bakhtin đã khẳng định: “Lịch sử văn học trước hết là lịch sử hình thành,

phát triển, tương tác giữa các thể loại” [10; tr.8] đồng thời Bakhtin cũng cho

rằng “Một vấn đề rất quan trọng và lí thú nữa là sự tác động qua lại giữa các thể

loại trong tổng thể thống nhất của văn học từng thời kì” [10; tr.23]. Qua đó có

thể thấy, tương tác thể loại là vấn đề tất yếu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại

nói chung và văn xuôi Tô Hoài nói riêng.

Tương tác thể loại là phương thức để văn học vận động, phát triển và đổi

mới. Tác giả Trần Viết Thiện khẳng định rằng: “Tương tác thể loại là góc độ để

lí giải sự tồn vong của mỗi thể loại đồng thời cũng lí giải về sự sinh thành của

những biến thể thể loại khác nhau tương ứng với những thời đại văn học khác

nhau” [152; tr.203]. Việc thoát khỏi mô hình thể loại, mang thêm yếu tố của thể

114

loại khác vào tác phẩm góp phần nắn lại nòng cốt thể loại tránh được sự khô

cứng đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của các thể loại văn học. Các

nhà văn khi sáng tác một mặt tuân thủ những đặc trưng của thể loại, mặt khác ít

hay nhiều lại có nhu cầu thoát khỏi mô hình thể loại đó. Họ nhìn sang các thể loại

khác, lấy tinh hoa của chúng, tổng hợp kinh nghiệm của hai hay nhiều thể loại tạo

ra những tác phẩm thoát khỏi đặc trưng thể loại nhưng không làm mất đi những

thuộc tính vốn có của các thể loại này trong truyền thống. Vì vậy, tương tác thể

loại “là sự tác động, thâm nhập, thẩu thấm lẫn nhau giữa các thể loại nhưng không

làm thay đổi yếu tố nòng cốt thể loại” [152; tr.13]. Tương tác thể loại là sự thể

hiện quá trình biến đổi thể loại vừa mang tính quy luật vừa thể hiện ý thức thể

nghiệm, đổi mới, sáng tạo của người viết trước đòi hỏi của thực tiễn đời sống

văn học. Các chủ thể sáng tác luôn luôn phải đổi mới thể loại để khẳng định dấu

ấn, cá tính và phong cách sáng tác của mình. Lí giải cho vấn đề tương tác thể

loại, tác giả Lê Hương Thủy cho rằng: “Sự lựa chọn ban đầu về thể loại là một

thực tế tất yếu nhưng trong nhiều trường hợp người viết không có ý định bảo tồn

sự “thuần khiết thể loại” mà hướng tới xóa nhòa những lằn ranh thể loại để làm

mới tác phẩm nghệ thuật. Điều này trước hết xuất phát từ ý thức của chủ thể

sáng tạo, từ nhu cầu làm mới văn chương và tác phẩm. Trên cơ sở ảnh hưởng

của phương thức sáng tác hiện đại, trên phương diện thể loại, đời sống văn học

cũng đã có những chuyển dịch” [161]. Đó cũng là một trong những yếu tố dẫn

đến sự tương tác thể loại trong văn học.

Tương tác thể loại là sự thể hiện những nỗ lực cách tân và đổi mới của văn học.

Hiện tượng các thể loại “gần” nhau, “nhìn sang” nhau, “hợp nhất” vào nhau, hay

việc nhà văn “vận dụng nhiều phương thức” trong khi sáng tác một tác phẩm, có

thể gọi là tương tác thể loại. Trong công trình Văn học thế giới mở, tác giả

Nguyễn Thành Thi quan niệm: “Tương tác thể loại là hiện tượng hai hay nhiều

thể loại của một giai đoạn, một thời kì, một nền văn học, thuộc về một hay nhiều

hệ thống thể loại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, xâm nhập vào nhau, mô phỏng

nhau để cùng biến đổi hoặc hình thành thể loại mới (với một cấu trúc ít nhiều

thay đổi về tố chất thẩm mỹ chủ đạo, giọng điệu, dung lượng và cấu trúc chung

115

của tác phẩm” [147]. Theo tác giả Trần Viết Thiện trong công trình Tương tác

thể loại trong văn xuôi Việt Nam đương đại thì “Tương tác thể loại là sự thâm

nhập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai hay nhiều thể loại của một hoặc

nhiều hệ thống thể loại khác nhau nhằm tạo nên sự vận động và phát triển của

cấu trúc thể loại văn học” [152; tr.2]. Tương tác thể loại là một hiện tượng văn

học vừa phong phú vừa sinh động. Sự tương tác này giúp các thể loại trong tác

phẩm bổ sung, hỗ trợ cho nhau để cùng hướng tới đích đến là giá trị của tác

phẩm qua đó khẳng định tính hấp dẫn, độc đáo của từng tác phẩm và cá tính, tài

năng sáng tạo của từng nhà văn.

Về các cấp độ tương tác thể loại, có thể phân chia thành nhiều cấp độ khác

nhau: loại với loại, loại với thể; thể với thể, thể với loại; yếu tố với yếu tố (theo

cách phân chia của tác giả Nguyễn Thành Thi). Cấp độ thứ nhất là tương tác

giữa loại với loại, tương tác giữa loại với thể như tương tác giữa thể trữ tình và

kịch tạo nên kịch thơ, tương tác giữa thể tự sự và trữ tình tạo nên truyện thơ,

tương tác giữa thể tự sự và kịch tạo nên kịch tự sự. Cấp độ thứ hai là tương tác

giữa thể với thể, tương tác giữa thể với loại như tương tác giữa truyện ngắn và

tiểu thuyết tạo nên truyện ngắn - tiểu thuyết hóa, tương tác giữa tiểu thuyết và

hồi kí tạo nên hồi kí - tiểu thuyết hóa, tiểu thuyết hồi kí, sự tương tác giữa tiểu

thuyết và tự truyện tạo nên tiểu thuyết tự truyện, sự tương tác giữa hồi kí và tự

truyện tạo nên hồi kí tự truyện. Cấp độ thứ ba là tương tác giữa yếu tố với yếu tố

như tương tác giữa các yếu tố thuộc nhóm thể loại sáng tác có hư cấu như tiểu

thuyết, truyện ngắn,…và các yếu tố thuộc nhóm thể loại sáng tác không hư cấu

như hồi kí, kí sự, nhật kí, ghi chép,… tạo nên các thể loại như truyện kí, tự

truyện, tiểu thuyết tự thuật…Sự tương tác này tạo ra những thể loại trung gian,

mang đặc điểm của hai phương thức phản ánh đời sống, hai hình thức kĩ thuật và

chất liệu phản ánh đời sống cũng rất khác nhau.

Ở giai đoạn 1900 - 1930, sự tương tác thể loại chỉ mang tính thử nghiệm,

xuất hiện hiện tượng giao thoa giữa tiểu thuyết và tự truyện như tác phẩm Giấc

mộng lớn của Tản Đà là một ví dụ điển hình. Ở giai đoạn 1930 - 1945, vấn đề

tương tác thể loại hiện diện rõ hơn trong sáng tác của một số nhà văn như tương

116

tác giữa tiểu thuyết và phóng sự trong các tác phẩm Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê của

Vũ Trọng Phụng; Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp… Ở giai đoạn 1945 - 1975,

thực hiện theo yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, bám sát những dấu vết nóng bỏng

của sự kiện, những vấn đề mang tính thời sự – chính trị nên các nhà văn viết tiểu

thuyết phần lớn gần như kí, tiêu biểu nhất là nhà văn Nguyễn Khải. Ở thời kì

Đổi mới, sự tương tác, giao thoa, xóa mờ “lằn ranh” thể loại là một xu hướng

nổi bật trong văn xuôi Việt Nam. Xu hướng tương tác thể loại nhằm mục đích

đáp ứng nhu cầu phản ánh và tái tạo đời sống ngày một đa dạng, phức tạp và có

sự đan xen, đa chiều của nhiều lĩnh vực, nhiều xu hướng. Đặc biệt trong đời

sống văn học đương đại, các đường biên, “lằn ranh” thể loại ngày càng bị xoá

nhoè, mỏng manh. Trong quy luật giao thoa, thẩm thấu giữa các thể loại, ở thời

kì Đổi mới, có thể nhận thấy chất tự truyện thấm đẫm qua nhiều cuốn tiểu thuyết

như Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên, Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, Tuổi thơ dữ

dội của Phùng Quán, Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng…Chất hồi kí đậm

nét trong các tiểu thuyết như Thượng đế thì cười, Một cõi nhân gian bé tí, Vòng

sóng đến vô cùng của Nguyễn Khải…Có thể khẳng định, ở giai đoạn này, tương tác

thể loại hiện lên như một ý thức tự giác, gắn liền với chủ ý của người nghệ sĩ.

Có thể thấy, văn xuôi của Tô Hoài sau 1945 cũng có sự thâm nhập, hòa

trộn, “mờ nhòe” giữa các thể loại trong đó nổi bật lên là sự tương tác thể loại

giữa tiểu thuyết và hồi kí: tiểu thuyết đậm chất hồi kí; hồi kí đậm chất tiểu

thuyết. Sự tương tác này chủ yếu diễn ra trên phương diện hình thức của tác

phẩm. Sự “mờ nhòe” ranh giới thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài không

làm mất đi bản chất, sức mạnh riêng, đặc trưng vốn có của mỗi thể loại mà thể

hiện sự đổi mới tư duy nghệ thuật và khẳng định tính sáng tạo trong phương

thức thể hiện nội dung và hình thức tác phẩm của nhà văn. Xu hướng tương tác

thể loại không chỉ là quy luật tồn tại tất yếu của một thể loại mà là sự lựa chọn

khôn ngoan của tác giả nhằm mang đến cho thể loại sức sống mới, phù hợp với

khả năng tái hiện đời sống xã hội, số phận nhân vật cũng như năng lực tiếp nhận

của bạn đọc. Sự xóa mờ đường biên thể loại một mặt giúp nhà văn Tô Hoài thể

hiện được mục đích, ý đồ của mình mặt khác thể hiện ý thức đổi mới, phong

117

cách sáng tạo của nhà văn.

Sự thâm nhập của thể hồi kí vào thể loại tiểu thuyết là một xu thế chung

của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đặc biệt từ sau 1986. Tiểu thuyết là “cỗ máy

cái” có thể dung nạp vào nó nhiều thể loại khác nhau “Đức tính căn bản của tiểu

thuyết là ăn được mọi thứ, nó đồng hóa mọi loại tác phẩm khác vào mình”

(Ph.Macxô). Và xuất phát từ tiềm năng thể loại “Tiểu thuyết có khả năng tổng

hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác” [36;

tr.196], nó đã “lấn át thể loại này, thu hút thể loại kia vào trong cấu trúc của

mình” [10; tr.27]; “Tiểu thuyết cho phép đưa vào, lắp ghép vào trong nó nhiều

thể loại khác nhau” [10; tr.144] nên tiểu thuyết có thể đưa chất hồi kí vào trong

nó. Nhận định về hiện tượng tương tác thể loại thời kì này, tác giả Lý Hoài Thu

đã viết “Nhìn vào sự vận động và phát triển của hệ thống thể loại trong văn học

thời kì Đổi mới, tuy ranh giới không bị xóa nhòa song sự thâm nhập, pha trộn,

chuyển hóa giữa các thể loại đã trở thành hiện tượng nổi bật. Đáng chú ý là sự

thâm nhập của thể kí vào “lãnh địa” của tiểu thuyết tạo nên một dòng tiểu thuyết

tự truyện có sức thu hút lớn trong đời sống văn học đương đại. Chính từ những

vùng sóng giao thoa này, các thể loại cũ đã có thêm nhiều tố chất mới” [158].

Bên cạnh đó, tác giả Trần Viết Thiện cũng cho rằng “Các thể kí tác động thâm

nhập để mở rộng trường tiếp cận của tiểu thuyết, đến lượt nó, tiểu thuyết cũng

tác động ngược trở lại trong vai trò tiếp sức cho các thể kí…Sự tham gia của thể

kí như một tố chất tạo nên sự tổng hợp thể loại hay sự lai giống rất khó bóc tách.

Nó có giá trị tạo nên những thể loại mới cho đời sống văn học đương đại, tiêu

biểu nhất là tiểu thuyết hồi kí và tiểu thuyết tự truyện” [152; tr.64-65]. Vì vậy,

tiểu thuyết phá bỏ cái khung quy ước thể loại để đưa chất hồi kí vào địa hạt tiểu

thuyết của mình. Chất hồi kí thể hiện trong tiểu thuyết bằng việc tạo ra những

thông số “người thực việc thực” gắn với bản thân tác giả. Cái gọi là “chất hồi kí

trong tiểu thuyết Tô Hoài” chính là tiểu thuyết thu hút vào nó những đặc trưng

ưu tú của hồi kí từ đó giúp nhà văn bộc lộ cách nhìn, cách cảm, cách phản ánh

mới mẻ sâu sắc về hiện thực đời sống, con người và giúp nhà văn dễ dàng đề

cập đến những vấn đề nhạy cảm, những góc khuất, góc kín trong đời sống tâm

118

hồn con người. Sự xâm nhập của thể loại hồi kí vào cấu trúc nội tại của tiểu

thuyết là một đặc điểm đáng ghi nhận của tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945. Nó

khẳng định sự sáng tạo, cách tân đổi mới của nhà văn trong lối viết tiểu thuyết

hiện đại. Tô Hoài đã sử dụng chất liệu đời thường, những chi tiết tiểu sử của nhà

văn, những sự kiện lịch sử có thật diễn ra trong quá khứ nhằm mục đích tăng

tính xác thực cho câu chuyện được kể, nhân vật được khắc họa trong tác phẩm

cũng trở nên gần gũi, chân thực, sắc nét hơn. Mọi chi tiết, sự kiện, con người

được kể qua con mắt cá nhân của Tô Hoài giống như một nhân chứng, như một

tư liệu xác thực, đáng tin cậy. Chất hồi kí thâm nhập vào tiểu thuyết cũng là điều

kiện để nhà văn bộc lộ, giãi bày những nỗi niềm suy tư, trăn trở đồng thời khẳng

định cá tính sáng tạo của chủ thể sáng tạo. Cái tôi tự truyện, cái tôi tự thú, cái tôi

thầm kín được Tô Hoài trần tình, phơi bày trên trang giấy tạo ra được mối quan

hệ tin yêu, thông cảm giữa nhà văn và bạn đọc. Thấp thoáng trong tiểu thuyết Tô

Hoài, người đọc nhận thấy bóng dáng của nhà văn trên từng chặng đường lịch sử

đất nước. Đó là cái tôi hiểu biết, từng trải và giàu trải nghiệm. Cái tôi dường như

biết hết, thấu hiểu và cảm thông với những số phận bất hạnh trong cuộc đời.

Sự thâm nhập của chất tiểu thuyết vào hồi kí cũng là một xu thế chung của

hồi kí Việt Nam hiện đại. Trong sự phát triển của thể hồi kí, ranh giới thể loại là

không tuyệt đối và luôn có sự chuyển hóa, thâm nhập lẫn nhau. Tác giả Trần Thị

Hồng Hoa đã có nhận định: “Sau năm 1975, đặc biệt là từ giai đoạn đổi mới lấy

mốc 1986, chất sử thi đã nhường chỗ cho chất tiểu thuyết, tư duy tiểu thuyết như

một công cụ soi chiếu mọi vấn đề xã hội và bề sâu số phận con người. Chất tiểu

thuyết đã thâm nhập và chi phối mạnh mẽ mọi thể loại trong đó có hồi kí” [57]. Do

vậy, cái gọi là “chất tiểu thuyết trong hồi kí thời kì Đổi mới” chính là “tư duy tự

sự”, cái nhìn suồng sã và tính chất đa thanh của tiểu thuyết” (M.Bakhtin). Nó rất

khác với tư duy có phần mang “chất sử thi” của hồi kí trước thời kì Đổi mới.

Hồi kí Tô Hoài đã thoát ra khỏi kiểu hồi kí truyền thống, tiếp thu vào nó những

ưu điểm, đặc trưng của tiểu thuyết từ đó giúp nhà văn có điều kiện mở rộng

đường biên thể loại, mở rộng trường phản ánh, tái tạo hiện thực đời sống, khắc

họa nhân vật chân thực và điển hình hơn. Hồi kí Tô Hoài thu hút vào trong nó

119

những ưu thế của thể loại tiểu thuyết và đẩy xa, xóa mờ những đặc điểm không

phù hợp nhằm bảo tồn, giữ vững những căn cốt thể loại bên trong. Hồi kí Tô

Hoài dung dị, đời thường mà đậm chất tiểu thuyết. Chất tiểu thuyết không phải

thể hiện ở chỗ tác giả đã tạo dựng những cảnh ngộ, số phận đầy éo le bất hạnh

mà ở việc tác giả đã phản ánh số phận con người và bức tranh đời sống xã hội ở

một cự li gần. Cuộc sống hiện lên trong hồi kí Tô Hoài hết sức đời thường như

bản thân nó đang tồn tại, có cái cao cả, vĩnh hằng, có cái thô nhám, xù xì, góc

cạnh và có sự lam lũ, vất vả, cái nhếch nhác lầm than. Đó là một cuộc sống sinh

động và phức tạp, một cuộc sống chưa trọn vẹn và hoàn tất được Tô Hoài tạo

dựng bằng cái nhìn cảm quan đời thường. Trong hồi kí, Tô Hoài đã tạo dựng

nhân vật của mình như những con người bình thường trong xã hội. Đó là những

con người đã nếm trải, đã có va vấp với đời sống và có cả một quá trình hình

thành nhân cách qua những chặng đường thăng trầm của số phận. Vì thế, nhân

vật trong hồi kí Tô Hoài hiện lên như là những chân dung thân phận con người.

Chính nhờ sự tương tác này, hồi kí Tô Hoài có thêm khả năng chiếm lĩnh hiện

thực, mở ra nhiều mảng không - thời gian rộng lớn. Qua đó, khẳng định tính

hiện đại, năng động, linh hoạt, sự lên ngôi của thể loại kí trong thời kì Đổi mới

và sự thay đổi tư duy nghệ thuật của các nhà văn giai đoạn văn học sau 1975.

4.2. Chất tiểu thuyết trong hồi kí Tô Hoài sau 1945

Có thể nói, ở thời kì Đổi mới “chất tiểu thuyết đã thâm nhập và chi phối

mạnh mẽ mọi thể loại trong đó có hồi kí” (tác giả Trần Thị Hồng Hoa). Trong

hồi kí Tô Hoài sau 1945 đặc biệt là từ sau 1986, người đọc phát hiện ra chất tiểu

thuyết xuất hiện đậm đặc, chi phối các yếu tố hình thức thể hiện, tạo nên sự biến

đổi, đa dạng từ kết cấu trần thuật đến điểm nhìn trần thuật. Chất tiểu thuyết thâm

nhập vào hồi kí Tô Hoài không làm mất đi đặc trưng thể loại mà nhờ đó tạo ra bức

tranh đời sống đa diện và con người đa chiều, sống động như hiện thực vốn có.

4.2.1. Kết cấu trần thuật đa dạng

Trong hồi kí truyền thống, tác phẩm thường được cấu trúc theo trật tự thời

gian tuyến tính và có kết cấu đơn nhất theo dòng hồi tưởng của nhân vật. Tuy

nhiên với việc học tập các kĩ thuật viết tiểu thuyết, các tác phẩm hồi kí của Tô

120

Hoài đã sử dụng nhiều kiểu kết cấu mới lạ, hiện đại và mang đặc trưng kết cấu

tiểu thuyết. Đó là kết cấu vòng tròn và kết cấu lắp ghép. Mỗi kiểu kết cấu thể

hiện ý đồ của nhà văn trong việc bộc lộ nội dung, tư tưởng của tác phẩm.

4.2.1.1. Kết cấu vòng tròn

Kết cấu vòng tròn là kiểu dàn dựng tác phẩm theo lối đầu cuối tương ứng

với sự lặp lại có chủ đích của các hình tượng nghệ thuật ở đầu và cuối tác phẩm,

tạo nên sự tương xứng mở đầu và kết thúc cho tác phẩm. Việc lặp đi lặp lại nhân

vật, hình ảnh, chi tiết, sự kiện, môtip ở đầu và cuối tác phẩm hồi kí là cách để

nhà văn khắc sâu, nhắc nhở, hồi cố một cách riết róng những kỉ niệm, kinh

nghiệm, bài học từ quá khứ. Kết cấu vòng tròn cũng góp phần biểu hiện cái nhìn

của tác giả hồi kí về hiện thực cuộc sống nhiều tầng bậc, đa dạng cần phải trở đi

trở lại, lật đi lật lại mới có thể thấu hiểu và cảm thông. Đồng thời, kiểu kết cấu

này giúp người đọc có thể hiểu hơn về hành động và tính cách nhân vật mà tác

giả không cần thuyết minh nhiều. Điểm đồng nhất trong cách kết cấu của hai hồi

kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều là kiểu vòng tròn.

Trong Cát bụi chân ai, mở đầu và kết thúc là hình ảnh Nguyễn Tuân ở

những trạng thái khác nhau. Mở đầu tác phẩm là ấn tượng của Tô Hoài về

Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ vừa ngông nghênh, vừa kiêu bạc, tài năng vào thập

kỉ bốn mươi “Tôi kém Nguyễn Tuân mười tuổi. Trước kia, tôi không quen

Nguyễn Tuân” [66; tr.5] và Nguyễn Tuân trong trang phục khác thường “Khăn

lượt vố, áo gấm trần, tay chống dọc chiếc quạt thước thay ba toong, chân bít tất

dận giày mõm nhái Gia Định” [66; tr.5]. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh cuối đời

của Nguyễn Tuân “mặt bơ phờ tía tím…rồi Nguyễn Tuân khép mắt” [66; tr.295]

và thông báo của Đào Vũ “Đêm qua nghe đài báo Nguyễn Tuân mất rồi” [66;

tr.296]. Nguyễn Tuân chỉ còn là tro bụi trong cõi hư vô và niềm nhớ tiếc ngẩn

ngơ của bạn bè “Tôi nghĩ như tôi ngồi uống một mình, Nguyễn Tuân đã nằm

yên từ buổi sáng trước hôm ra đây. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi!” [66; tr.296].

Kiểu kết cấu vòng tròn tỏ ra hữu dụng để Tô Hoài xoáy sâu vào thân phận nhà

văn Nguyễn Tuân, nhân vật trung tâm trong hồi kí của mình. Tô Hoài bao phen

cùng sống và làm việc với Nguyễn Tuân nên hiểu Nguyễn Tuân về mọi mặt từ

121

những chuyện sinh hoạt đời thường đến cá tính nghệ thuật, bản sắc văn chương,

tuy tính cách hai người khác xa nhau. Không phải ngẫu nhiên Tô Hoài lựa chọn

Nguyễn Tuân là tấm bản lề mở khép cho một cuốn hồi kí dài. Một mặt là tình

cảm, là tấm lòng nhà văn Tô Hoài dành cho người bạn mình yêu quý, cảm phục,

người bạn tri kỉ với cuộc đời của mình. Mặt khác, chọn Nguyễn Tuân như một

tâm điểm cho hồi kí, Tô Hoài muốn thể hiện sự hợp nhất của những con người

vốn rất khác nhau về tính cách, hoàn cảnh, lối sống, sở trường nhưng lại cùng

hoạt động dưới mái nhà văn nghệ cách mạng và cùng nhau vượt qua rào cản

khách quan và chủ quan để hướng đến mục đích cao nhất. Chân dung Nguyễn

Tuân hiện ra có phần lập dị, khác người mà hết sức thanh cao, một biểu tượng

cho sức sống bất diệt của những giá trị văn hóa lâu bền.

Ở tác phẩm Chiều chiều, mở đầu là hành trình về xóm Đồng, Thái Bình của

nhà văn “Hôm sau, đi Thái Ninh sớm. Cái xóm tôi đến là xóm Đồng” [70; tr.30]

và hình ảnh ông Ngải, người nông dân chất phác khỏe mạnh cần cù “Ông Ngải

luẩn quẩn quanh bụi tre lép, tha việc ra đấy làm, kể cái ấm điếu, ấm nước” [70;

tr.39]. Kết thúc tác phẩm vẫn là hành trình nhà văn trở lại xóm Đồng “Tôi lại về

xóm Đồng…Mỗi khi trở lại những nơi đã từng đến, tôi hay nhớ lại kỉ niệm từ

thuở bé” [70; tr.495] và hình ảnh ông Ngải sau mấy chục năm trời “Pho tượng

Phật nhịn ăn gày giơ xương trên chùa Tây Phương, đấy là ông Ngải” [70; tr.504].

Cùng là hình ảnh xóm Đồng, cùng là hình ảnh ông Ngải ở đầu và cuối tác phẩm

nhưng có sự tương phản giữa cuộc sống và con người trong quá khứ và hiện tại.

Một xóm Đồng trong quá khứ nghèo xác xơ trở thành một xóm Đồng tân tiến

với nhà nhà đương đổi mới trong hiện tại. Một ông Ngải vạm vỡ, khỏe mạnh trở

thành một ông Ngải già nua, chậm chạp.

Kết thúc tác phẩm là sự trở lại xóm Đồng chỉ trong vài ba ngày của nhà văn

nhưng là những dòng tâm sự ngắn ngủi và cảm động như một chuyến hành

hương thực sự. Tình nghĩa con người đã biến xóm Đồng thành quê hương, biến

mỗi người dân vùng thôn quê Thái Bình thành những cố nhân sau bao năm xa

cách. Với kiểu kết cấu vòng tròn, Tô Hoài đặt ra nỗi trăn trở về hành trình ra đi

và trở về, cái còn và mất theo dòng thời gian; cái đã mất trong cái còn giữa cuộc

122

đời này ở mỗi con người. Có những đổi thay khiến lòng người tuy có chút hụt

hẫng, ngỡ ngàng nhưng phấn khởi, vui sướng. Có những đổi thay khiến lòng

người không khỏi ngậm ngùi, xót xa vì luyến tiếc. Nén trong cái vòng tròn quá

khứ là nỗi đau, là sự trăn trở khôn nguôi về cuộc sống, thời cuộc, số phận con

người trong lòng nhà văn Tô Hoài.

Sử dụng kiểu kết cấu vòng tròn ở hai hồi kí, Tô Hoài còn có dụng ý tạo

dựng trong cái vòng tròn đó là bao cảnh đời, bao số phận con người “gập ghềnh,

trắc trở” trong sự biến thiên của lịch sử, đời sống xã hội. Đó là số phận của

những văn nghệ sĩ cùng thời như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Nguyễn Bính,

Nguyên Hồng, Phùng Quán… với không ít những thói tật và một cuộc đời truân

chuyên, bất hạnh, đầy sóng gió. Đó là số phận của tầng lớp quần chúng nhân dân

bình dị đến từ mọi miền quê buồn nhiều hơn vui như Ly Chờ, Thào Mỷ, Chúng

Thị Phà, ông Ngải, anh bí thư Sự...

4.2.1.2. Kết cấu lắp ghép

Kết cấu lắp ghép là kĩ thuật tái lập hiện thực từ những mảnh ghép khác

nhau. Dấu hiệu của lắp ghép là sự thay đổi đột ngột về nội dung, là sự ngắt

quãng, đứt gãy về thời gian và sự dịch chuyển về không gian. Hồi kí truyền

thống thường được kể theo trình tự thời gian, sự kiện nào xảy ra trước thì kể

trước, sự việc nào xảy ra sau kể sau. Tuy nhiên, Tô Hoài đã dùng tư duy của một

nhà văn viết tiểu thuyết vào việc hồi ức lại những sự kiện, nhân vật. Hồi ức

trong hồi kí của nhà văn chạy lan man, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, có lúc

chồng chéo lên nhau. Trong hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Tô Hoài đã

sắp xếp mỗi chương là một sự kiện hay một nhân vật nhưng khi đọc kĩ từng

chương, người đọc nhận ra Tô Hoài đã có những bước chuyển thời gian và

không gian khiến trình tự biên niên bị phá vỡ. Sự đảo lộn trật tự thời gian do ý

định của tác giả muốn chuyển chủ ý của người đọc từ sự kiện xảy ra bên ngoài

sang nội tình bên trong, sâu sắc của nhân vật. Với kiểu kết cấu này, mạch truyện

không được kết nối liên tục mà có sự đứt quãng, đan cài, xáo trộn giữa việc và

người, giữa quá khứ và hiện tại.

Ở hồi kí Cát bụi chân ai, Tô Hoài chia làm sáu chương. Mỗi chương được

123

sắp xếp theo diễn biến của một câu chuyện tương ứng với một mạch của tư duy

tuy nhiên sự kiện và thời gian lại có sự đảo lộn, tạt ngang chồng chéo của những

hồi tưởng. Tô Hoài đã kể các sự kiện không theo trình tự thời gian. Mở đầu là

thời gian đầu thập kỉ 40 - Hà Nội quanh Hồ Gươm, khi đó nhà văn còn trẻ, chưa

quen Nguyễn Tuân, chỉ thấy Nguyễn Tuân đi dạo và hiện lên với cách ăn mặc

khác thường. Tiếp đến, thời điểm những năm 60 - ngã Sáu Hàng Kèn, nơi diễn

ra cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của con người. Quay ngược thời gian là năm

1949 - Chiến dịch sông Thao, nhà văn và Nguyễn Tuân theo tiểu đoàn 54 và nói

về Két - người trung đội trưởng đã hi sinh nằm lại bên kia bờ sông Thao. Sau

1954 – Ngã sáu Hàng Kèn, mỗi người lại tìm về những kỉ niệm của mình.

Ngược dòng lịch sử, theo dòng hồi ức tác giả, người đọc được trở về với không

gian của những năm sau Cách mạng tháng Tám. Trong dòng hồi tưởng của mình,

Tô Hoài lại nhắc tới Aki, người bạn Nhật ở với nhà văn trong chín năm kháng

chiến ở núi Thượng Yên. Không gian “cánh rừng Thượng Yên” đã để lại nhiều ấn

tượng cho Tô Hoài, đó là không gian vô cùng hiểm hóc, ghi dấu nhiều kỉ niệm với

những người bạn của mình trong kháng chiến. Quá khứ và hiện tại đan xen lẫn lộn

theo dòng hồi tưởng khi đứt khi nối, sự kiện cứ ập về hỗn độn, ngổn ngang.

Tô Hoài tái dựng chân dung các văn nghệ sĩ cũng không theo trình tự. Mở

đầu tác phẩm, nhà văn nói về Nguyễn Tuân - một con người tài hoa, cá tính,

khát khao được “xê dịch”. Sang chương hai, Tô Hoài bắt đầu câu chuyện kể về

nhà văn Nguyên Hồng với “đặc sản nem Sài Gòng” làm từ nhân rau bà đẻ lại

chuyển sang câu chuyện của Nguyễn Bính với tuần báo “Trăm hoa” và những

mối tình của thi sĩ. Tiếp đó, nhà văn lại liên tưởng tới Nguyễn Huy Tưởng,

người mà khi về thành phố trở nên lầm lì, đăm chiêu, ít nói. Ở những chương

tiếp theo, nhà văn lại kể về các văn nghệ sĩ cùng thời và những câu chuyện khác.

Theo dòng hồi tưởng, các sự kiện, các tình tiết, chân dung cứ gợi, cứ dồn dập

tưởng chừng người đọc bị choáng ngợp trước cách trần thuật đó.

Hồi kí Chiều chiều được chia làm năm chương: chương một là thời gian

nhà văn đi thực tế ở xóm Đồng - Thái Bình, chương hai là thời gian nhà văn ở

trường Đảng, chương ba là nhà văn làm trưởng khu phố, chương bốn là những

124

chuyến đi nước ngoài của nhà văn, chương năm là sự trở về xóm Đồng. Tưởng

như các lớp sự kiện, thời gian và không gian trong từng chương được phân chia

một cách rõ ràng nhưng người đọc nhận thấy vẫn là kiểu lắp ghép, đan xen,

chồng chéo các sự kiện lên nhau. Nhà văn đang nói đến Nguyễn Sáng không đi

thực tế chỉ vì phải lòng các cô bán kem ở hiệu Tiến Đạt, lại chuyển sang nói về

Nguyễn Khắc Dực, Nguyễn Hoạt, Mộng Sơn, Hồ Zếnh. Nhà văn đang nói về

ông Ngải lại liên tưởng đến ông Phan Khôi vì ông Ngải có nước da nhờn nhợt,

mai mái, không trắng, không sạm như ông Phan Khôi. Nhà văn đang nói về

Phùng Quán lại chuyển sang những ngày đi thực tế ở xóm Đồng rồi chuyển sang

nói về những ngày đi cải cách Hải Dương. Tô Hoài đang kể về người bạn Platon

- người Ucraina, bất chợt nhà văn kể lại sang chợ nông trường ở Pitsunđa và

những người bạn. Tác phẩm được kể theo cách tự nhiên, “lộn xộn” theo cảm xúc

và trí nhớ của nhà văn. Với sự pha trộn của lối kể theo hồi ức của tác giả hồi kí

và vận dụng kĩ thuật lắp ghép trong kết cấu tiểu thuyết đã tạo cho người đọc sự

ngạc nhiên, thích thú và dẫn người đọc đi từ hết bất ngờ này đến bất ngờ khác.

Đọc hai tác phẩm hồi kí của Tô Hoài, người đọc nhận thấy không khác gì một

cuốn tiểu thuyết viết theo phong cách hậu hiện đại. Kiểu kết cấu lắp ghép, cách

trần thuật gián cách chính là dụng ý của nhà văn chủ động trong việc xâu chuỗi kết

nối các yếu tố trong câu chuyện theo mạch ngầm liên kết văn bản. Khi kể chuyện,

nhà văn không gò ép trí nhớ của mình, không cố ý sắp xếp tái tạo các sự kiện mà

để hồi ức diễn ra thật tự nhiên và chảy trôi trên trang giấy. Đây chính là một sự đổi

mới, tìm tòi của nhà văn trong việc thể hiện kết cấu của hồi kí.

4.2.2. Trần thuật đa điểm nhìn

Trong hồi kí truyền thống, các sự kiện được tái hiện từ điểm nhìn của một

người kể chuyện “toàn tri” từ hiện tại nhìn về quá khứ. Các tác phẩm hồi kí theo

xu hướng hiện đại thường lựa chọn điểm nhìn của người kể chuyện “bất toàn tri”

và luân phiên điểm nhìn trần thuật đến những nhân vật khác nhau trong tác

phẩm. Trong hai hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều, điểm nhìn trần thuật

được tổ chức khá đa dạng và linh hoạt, vị trí của người trần thuật xuất phát từ

nhiều điểm nhìn. Có điểm nhìn của nhà văn Tô Hoài từ hiện tại hướng về quá

125

khứ, có điểm nhìn trao cho các nhân vật. Nhờ vậy, người kể chuyện trong tác

phẩm “không đông cứng” mà luôn có sự hoán đổi vị thế. Sự dịch chuyển điểm

nhìn từ bên ngoài vào bên trong, từ người kể chuyện sang nhân vật là một điểm

độc đáo tạo cho hồi kí của Tô Hoài đậm chất tiểu thuyết.

4.2.2.1. Điểm nhìn trần thuật của người kể chuyện

Theo đặc trưng của thể loại, đa phần các hồi kí đều kể chuyện từ ngôi thứ

nhất - một cái tôi thông suốt, kể về mình, kể về những người có mối quan hệ với

mình, kể về những kỉ niệm gây ấn tượng sâu đậm trong hồi ức. Đây là điểm nhìn

của Tôi hiện tại nhìn về quá khứ để đánh giá lại những điều xảy ra trong quá khứ.

Vì vậy, trong hai tác phẩm hồi kí, điểm nhìn trần thuật là nhân vật “tôi” – người

kể chuyện. Mặc dù, ở hai tác phẩm hồi kí người kể chuyện đều xưng tôi ở ngôi

thứ nhất để tường thuật mọi sự việc nhưng cái tôi tác giả vẫn giữ được quan

điểm trần thuật khách quan. Bằng điểm nhìn từ bên ngoài, Tô Hoài cứ khơi khi

kể ra những việc mình đã làm trong cải cách ruộng đất: “Nhưng bây giờ đi làm

cải cách về xã coi như không biết, không được phép biết, không chào hỏi không

bắt tay - không mảy may giao thiệp với tổ chức sẵn có” [70; tr.11]. Tô Hoài cứ

tửng tưng kể theo giọng “vô âm sắc” những chuyện mình đã từng làm, những sai

lầm mình đã gây ra cho cuộc sống của người nông dân thời kì đó. Tô Hoài đi

thực tế nhưng ông chỉ biết làm theo một cách hoàn toàn máy móc không hề hiểu

tính chất của mình đang làm, có lúc ông đã tự nhận mình là kẻ “mồm miệng đỡ

chân tay, tủn mủn hay chế giễu cả những việc giản dị”. Từ điểm nhìn của người

kể chuyện, Tô Hoài đã không ngần ngại phơi bày tính cách, thói tật của các văn

nghệ sĩ, bạn bè đồng nghiệp của mình. Họ hiện lên một cách chân thực bằng cự

li gần, ở phương diện đời thường. Con người họ cũng có những toan tính, đố kị,

những ham muốn thường nhật của “con người” và đằng sau mỗi nghệ sĩ đều có

nỗi đau đớn và bất hạnh với những số phận không giống nhau. Chứng kiến

những cuộc đời đau khổ đó, Tô Hoài không khỏi ngậm ngùi: “Bốn mươi năm

trước với bây giờ khác quá mà không tự biết, cuộc sống xã hội và đời mình.

Tuổi nhiều thì ngại đổi thay, mà chứ như định mệnh không tránh được” [66;

tr.451]. Vẫn giữ thái độ khách quan, Tô Hoài kể về những số phận đầy bi kịch

126

khi nhà văn làm trưởng ban khu phố. Tô Hoài cảm thấy xót xa trước cuộc đời

những đứa trẻ mới sinh ra bị bỏ rơi vứt bên hồ, người phụ nữ bất hạnh như cô

Dung bỏ chồng. Hay cảnh anh Vân ở cái hố xí hai ngăn ngột ngạt bẩn thỉu, anh

bị ho lao cuối cùng chết ở bệnh viện Bạch Mai, vợ anh Vân ẵm con đi ở nơi khác.

Tô Hoài đã đặt điểm nhìn sự kiện và con người từ bên ngoài để kể một cách tự

nhiên chân xác nhất những gì xảy ra trong quá khứ mà cuộc đời nhà văn đã trải qua,

đã chứng kiến. Vì thế, hồi kí của Tô Hoài luôn mang tính khách quan.

Từ điểm nhìn bên ngoài, nhà văn chuyển vào điểm nhìn bên trong. Là

người trong cuộc, Tô Hoài đã kể những tháng ngày học ở trường Nguyễn Ái

Quốc. Mặc dù, Tô Hoài được cử đi học ở một trường nổi tiếng và danh giá

nhưng nhà văn lại cảm thấy đi học chỉ mang hình thức đối phó, không học được

chút kiến thức gì: “Vừa học vừa nhớ lăng nhăng, làm thế nào cho có tri thức. Có

lẽ chẳng bao giờ. Tôi vẫn chỉ là tôi vậy, vậy thôi” [70; tr.121]. Tô Hoài còn bộc

bạch tự nhiên về lần đi thi của mình: “Tôi không còn là trẻ con nộp giấy trắng

như cái năm thi trượt vào trường Bưởi. Tôi cũng không hiền lành chép bài như

chị bạn dạy tôi làm dấm chuối. Thế mà rồi tôi cũng viết được kín vài trang giấy”

[70; tr.121]. Nhà văn đã không ngần ngại kể về góc khuất của những người bạn

đi học tập ở ngôi trường này. Có những ông này bà nọ, ở trung ương hay ở các

tỉnh trốn học đến tài. Có những người không làm bài kiểm tra, nhờ người làm hộ.

Thành phần đi học lớp này đủ kiểu với nhiều mục đích khác nhau “Có người

được đi trau dồi kiến thức, chuẩn bị lên cấp. Có người lão quá, đi học là một ưu

đãi tinh thần rồi về hưu. Có cán bộ chẳng sắp việc nào cho êm, thì hãy gửi đi

học cái đã” [70; tr.124]. Với điểm nhìn bên trong, Tô Hoài đã cho người đọc cái

nhìn khách quan, toàn diện về thực tế của một ngôi trường nổi tiếng, về đời sống

bên trong của những học viên “gương mẫu” khi học tập ở đây. Điểm nhìn bên

trong còn giúp nhà văn thể hiện những suy ngẫm về chính bản thân mình. Tô

Hoài tự nhận mình là: “Tôi chỉ là một người tẻ nhạt và yếu đuối” [70; tr.160],

“Tôi là con ếch Cu Ba, ở rừng thì da xanh thẫm lá rừng, ở ruộng mía thì đổ màu

lá mía, đến mùa hoa, lưng ếch chấm đỏ, chấm vàng cánh hoa rơi” [70; tr.167].

Trong những tháng ngày đi cải cách ruộng đất và ở thời kì Nhân văn - Giai

127

phẩm, nhà văn luôn tự vấn, ăn năn, hối lỗi về những sai lầm khuyết điểm của

mình, tự thấy mình là “Con người bẩn thỉu và đầy rẫy lỗi lầm”. Trần thuật từ

điểm nhìn của nhân vật “tôi”, từ điểm nhìn bên trong là dịp thuận lợi để nhà văn

nói cho đã, cho thỏa những trạng thái tình cảm, những suy nghĩ của mình về con

người và cuộc đời mà nhà văn đã nhiều lần trăn trở, dằn vặt và day dứt.

Như vậy, với điểm nhìn trần thuật của người kể chuyện xưng “tôi”, Tô

Hoài có cơ hội bày tỏ nỗi lòng của mình như một lời sám hối và giúp nhà văn

tái hiện một cách chân thực đời sống và con người trong những năm tháng nhà

văn đi làm cải cách ruộng đất, làm trưởng ban khu phố và khi học ở trường

Nguyễn Ái Quốc.

4.2.2.2. Điểm nhìn trần thuật trao cho nhân vật

Trong hai hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều, không chỉ có điểm nhìn

trần thuật của người kể chuyện, tác giả còn dịch chuyển điểm nhìn sang các

nhân vật và trao cho nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm luân phiên đóng vai

trò người kể chuyện, từng ấy nhân vật bày tỏ cách nhìn riêng của mình về hiện

thực. Tô Hoài đã trao điểm nhìn trần thuật cho các nhân vật như Nguyễn Tuân,

ông cà phê 81, ông Ngải, vợ bí thư Sự…, nhà văn đã để họ tự kể bằng suy nghĩ,

nhận xét, chiêm nghiệm của bản thân mình. Với sự di động điểm nhìn từ người

kể chuyện sang nhân vật, Tô Hoài một mặt muốn tạo nên hiệu quả “khách quan

hóa” hiện tượng được nói tới, mặt khác tạo nên một màu sắc mơ hồ, một giọng

nói đa âm, khó định ở các nhân vật của mình. Sự luân chuyển điểm nhìn trần

thuật khiến câu chuyện quá khứ không đơn điệu, hiện thực đời sống, chân dung

nhân vật trở nên đa diện và sinh động. Sự phối hợp nhiều điểm nhìn làm cho tác

phẩm chuyển từ đơn thanh sang đa thanh, gia tăng tính đối thoại, cùng lúc vang

lên nhiều tiếng nói khác nhau trong cùng một tác phẩm. Sự dịch chuyển điểm

nhìn trần thuật trong Cát bụi chân ai và Chiều chiều thể hiện sự cách tân sáng

tạo trong nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài.

Trong hồi kí Cát bụi chân ai, vô vàn những lời đối thoại, độc thoại cất lên,

vô vàn những cái “tôi” đứng ra kể câu chuyện, đôi khi chỉ kể lại một chi tiết,

một mảnh vụn hay một ý nghĩa nào đó…Nguyễn Tuân là nhân vật ấn tượng xuất

128

hiện từ đầu đến cuối tác phẩm. Có đoạn Tô Hoài đã trao lời kể cho Nguyễn Tuân.

Việc trao điểm nhìn cho nhân vật nguyễn Tuân tạo nên một lợi thế đắc địa, giúp

cho Tô Hoài có điều kiện khắc sâu cái cốt cách thanh cao nhưng cũng rất đời

thường của con người tình nghĩa Nguyễn Tuân. Giao phó nhiệm vụ thuật chuyện,

phán xét cho Nguyễn Tuân, Tô Hoài không cần giới thiệu mà để Nguyễn Tuân

tự bộc bạch những suy nghĩ của mình: “Kể ra mình cũng có tội. Cái tội hay nói

bô bô, không kín võ được như cậu. Mà tớ chẳng có võ gì cả. Cũng không biết

bơi, không biết cưỡi ngựa. Bởi thế mới sinh chuyện. Nhưng cũng không bực

mình vì mọi thứ người ta đổ lên đầu đâu. Mình không nói thì thằng khác nói”

[66; tr.68]. Qua lời trần tình của Nguyễn Tuân, người đọc thấy Nguyễn Tuân là

con người có cá tính mạnh, trung thực, thẳng thắn với lòng mình. Để diễn tả tâm

trạng chán chường trước số phận bạc bẽo và thời điểm “sức cùng lực kiệt” của

Nguyễn Tuân, Tô Hoài đã để cho nhân vật tự bộc bạch tất cả. Nguyễn Tuân đau

đớn, xót xa khi ra nước ngoài, ông cảm thấy mình chỉ là một nhà văn quèn: “Đã

ngỡ ra quang cảnh tưng bừng sách của mình bày bán bát ngát nước trong nước

ngoài. Hàng năm xách vali đi du lịch bằng tiền túi của mình. Phải có cô thư kí

riêng chứ - thuê một cô hay là luyện cho con gái mình làm thư kí. Nhưng đến

Bắc Kinh thăm khu chợ Đông Anh, hai tay đút túi, chỉ để xem hàng…Dần dần

đến bây giờ, thế này đây, cái thằng nhà văn!” [66; tr.283]. Nguyễn Tuân là nhà

văn một đời mộng tưởng về tương lai, về sự nghiệp, về hạnh phúc nhưng cuối

cùng Nguyễn Tuân phải đối diện với thực tại khác xa với mơ ước trong mình.

Nguyễn Tuân còn ngoảnh mặt với cái máy chữ đã từng gắn bó với nghề nghiệp

suốt đời: “Ông xách nó đi cho tôi. Tôi không gán nợ ông đâu nhé. Dưng mà ông

mang đi đâu thì mang. Cho khuất mắt tôi, không có lúc tôi phải đem ra đập nó

mất. Mang đi, mang đi giúp tôi” [66; tr.284]. Đã đến lúc ông coi cái nghề văn

bạc bẽo với cuộc đời với chính mình. Những dòng suy nghĩ của Nguyễn Tuân

cứ tuôn chảy trên trang giấy, người đọc thấy được sự giằng xé nội tâm trong con

người Nguyễn Tuân bằng chính sự phán xét của bản thân. Nguyễn Tuân cảm

thấy tủi hổ chán chường bởi thân phận nghèo túng và sự bạc bẽo của nghề

nghiệp. Những lời ông nói ra với thái độ “phản tư”, cái nhìn mỉa mai tự cười ra

129

nước mắt. Ngoài nhân vật Nguyễn Tuân được coi là trung tâm, Tô Hoài còn

khéo léo, linh hoạt dịch chuyển điểm nhìn sang ông lão cà phê 81 để tạo sự đối

thoại, tranh biện. Theo mạch cảm xúc, Tô Hoài cứ để cho ông lão cà phê 81 kể

về thời trai trẻ làm bồi bàn kiêm nấu nướng cho người Tây, kể về sở thích ăn

uống, thói quen của họ: “Ở Huế làm bồi, tôi kiêm cả chân bếp…Nấu nướng cho

Tây chẳng khó như cao lâu Tàu” [66; tr.29]. Rồi ông cà phê 81 hồn nhiên kể lan

man sang những chuyện phố phường từ Huế lên Bạch Mã đến khi Grapphơi hết

hạn ở Đông Dương về Pháp đem theo cả “thằng bếp giỏi”. Đó là bối cảnh sinh

thái để mạch cảm xúc, mạch hồi tưởng của nhân vật cứ thế tuôn ra, không hề

giấu diếm, không hề ngần ngại.

Trong Chiều chiều, có lúc người kể chuyện hóa thân vào nhân vật ông Ngải,

nhường quyền phát ngôn cho nhân vật, để tạo điểm nhìn từ nhân vật “Tôi bảo

cái tay tôi đã làm nên đồng đất này, tôi biết nuôi nó lúc đói lúc no thế nào. Các

người ai cũng tưởng ai cũng làm, làm thế nào cũng được sao. Cái cày máy có lia

được vào bốn góc ruộng đâu lại phải cần đến thằng cày chìa vôi. Để đấy, vụ này

tôi làm. Thế là tôi lại vác cuốc ra” [70; tr.170]. Cả một đời ông Ngải tự tay lao

động, chăm chỉ cần cù để có cơ ngơi như thế này. Đôi khi người kể chuyện lờ đi

để nhân vật ông Ngải tự bộc lộ suy nghĩ của mình “Ông Ngải tính nhẩm hình

như công điểm nhà ông có dôi ra. Dôi ra thì có lợi chứ sao, nhầm lẫn mới là thiệt.

Nhưng không, nhà mình được, nhà khác mất rồi người ta moi đến thì lòi đuôi.

Cứ phân minh trước sau. “Cả đời tôi chẳng ăn không của ai bao giờ” [70; tr.94].

Lời trần thuật của người kể chuyện trao cho ông Ngải để ông tự bộc lộ bản tính

chân chất, thật thà của người nông dân quanh năm gắn bó với ruộng đồng.

Thông qua điểm nhìn trần thuật của ông Ngải, Tô Hoài đã tạo nên được cái nhìn

khách quan, sâu sắc về cuộc đời và hiện thực đời sống. Bên cạnh đó, Tô Hoài

còn trao lời kể cho vợ bí thư Sự “Lần này tôi làm người đi cho sữa. Tôi cầm đòn

gánh, khua cả vào bụi chuối, làu bàu râm ran…Trong bụi chuối không thấy nhúc

nhích, tôi vào báo được cho trạm, lúc về lại cứ quơ đòn gánh, ca cẩm chửi” [70;

tr.51]. Cách trần thuật hoán đổi vị thế, trao điểm nhìn cho các nhân vật không

những tạo điều kiện cho Tô Hoài thâm nhập sâu sắc vào thế giới bên trong của

130

con người mà còn mở ra khả năng trong việc phản ánh hiện thực cuộc sống và

nắm bắt những cá tính, phẩm chất của những thói tật “của mỗi con người trong

tất thảy các mối quan hệ” và thể hiện rõ quan niệm sáng tác của nhà văn “Con

người là con người, cuộc đời là cuộc đời”.

Như vậy, đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật góp phần làm nên tính đa âm

cho hồi kí Tô Hoài, từ một giọng của người kể đạt đến một sự đan xen, hòa trộn

nhiều giọng trong tác phẩm. Sự luân phiên điểm nhìn trong hồi kí Tô Hoài cho

thấy sự linh hoạt của các kiểu tổ chức miêu tả và bình luận khi tái hiện câu

chuyện. Đồng thời góp phần tạo ra một kết cấu đa tầng bậc cho câu chuyện và

tạo nên một chỉnh thể tác phẩm hấp dẫn. Sự kết hợp nhiều điểm nhìn cho thấy kĩ

thuật tự sự của nhà văn có nét đặc biệt, điều này đã mang đến tính tiểu thuyết

trong hồi kí Tô Hoài, thể hiện ở khối hiện thực chưa hoàn kết trong tác phẩm.

Hồi kí của Tô Hoài có những yếu tố của một tiểu thuyết phức điệu, đa thanh. Cái

độc đáo là nhà văn biết kết hợp các điểm nhìn trong tác phẩm của mình một

cách khéo léo, không phải là sự lắp ghép gượng gạo.

4.3. Chất hồi kí trong tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945

Tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 một mặt vẫn giữ được đặc điểm thi pháp thể

loại, mặt khác sử dụng một số chất liệu của thể hồi kí. Người đọc nhận thấy cái

hao hao giống thật giữa hiện thực trong tác phẩm và hiện thực ngoài đời của của

cuộc sống; giữa con người đời thực của tác giả và nhân vật chính trong tác phẩm

làm cho câu chuyện, sự kiện được kể chân thực và rõ nét hơn. Người kể chuyện dù

ở ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba đều in đậm cái tôi cá nhân của nhà văn. Hiện tượng

tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 đậm chất hồi kí giúp người đọc không chỉ nhận diện

con người tác giả và thời đại qua những chi tiết gắn với tiểu sử, cuộc đời thật mà

còn qua những trải nghiệm sống và sự bộc bạch chân thành của tác giả.

4.3.1.Tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư

Tô Hoài đã tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư, ông vừa cố tình làm cho mọi

người nhận ra ngay lập tức khuôn mặt của mình trong tiểu thuyết nhưng đồng

thời cũng cố tình làm cho hình ảnh nhân vật trong tác phẩm càng khác ông nhiều

131

bao nhiêu càng hay.

4.3.1.1. Từ nguyên mẫu nhà văn đến nhân vật

Nguyên mẫu ngoài đời trở thành nhân vật trong tác phẩm văn học là một

hiện tượng không lạ trong quá trình sáng tác của nhà văn. Nam Cao xây dựng

các nhân vật Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, Lão Hạc, Lang Rận, Trạch Văn Đoành

đều là những nguyên mẫu người thật ở làng Đại Hoàng nghèo, nơi chôn nhau cắt

rốn của nhà văn. Nguyễn Trung Thành trong tác phẩm Rừng xà nu xây dựng

nhân vật Tnú, hình tượng người anh hùng tiêu biểu cho nhân dân Tây Nguyên

dựa trên cuộc đời, số phận và cuộc khởi nghĩa của anh Đề. Anh Đức trong Hòn

đất xây dựng nhân vật chị Sứ dựa trên hình tượng chị Phan Thị Ràng, người phụ

nữ anh hùng An Giang. Bên cạnh những con người thực, cuộc đời thực bất kì ở

đâu đó được nhà văn lựa chọn để đưa vào trong tác phẩm thì cũng có những

nhân vật được nhà văn xây dựng dựa trên những chất liệu đời thực của mình, lấy

từ nguyên mẫu của chính bản thân. Nguyên mẫu và nhân vật vừa có những điểm

tương đồng vừa có những điểm khác nhau. Nhà văn bằng tài năng nghệ thuật,

bàn tay và khối óc dựa trên nguyên mẫu để tạo ra những hình tượng nhân vật

riêng. Khác ở chỗ, nhà văn không bê nguyên con người thực của mình đặt vào

trang viết mà làm nhiệm vụ chọn lọc, hư cấu, sáng tạo một số “chi tiết” làm cho

nhân vật trở thành chỉnh thể nghệ thuật và hoàn mỹ hơn. Vì vậy, người đọc bắt

gặp rất nhiều tiểu thuyết mà nhân vật mang hình bóng của nhà văn. Trong tiểu

thuyết Gia đình bé mọn, nhân vật Mỹ Tiệp từ xuất thân cho tới hoàn cảnh, đam

mê nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình đều mang dáng dấp từ chính thực tế cuộc

đời của nhà văn Dạ Ngân. Nhân vật Chín trong Tiền định có hoàn cảnh xuất thân,

chuyện tình yêu, gia đình song trùng với tiểu sử của nhà văn Đoàn Lê. Nhân vật

Khải trong Mực mài nước mắt có những nét tương đồng về xuất thân, lai lịch,

hoàn cảnh sống với con người đời thực của nhà văn Lan Khai. Nhân vật Dần

trong Sống nhờ của Mạnh Phú Tư có “sơ yếu lí lịch” đời mình gần như trùng

hợp với mảng lí lịch của tác giả: từ cảnh mồ côi ngay từ bụng mẹ cho đến cảnh

mẹ Dần đi thêm bước nữa, cảnh Dần sống trong chuỗi ngày dài đày đọa, bị

khinh rẻ và hành hạ của người thân. Trong Đám cưới không có giấy giá thú,

132

hình ảnh một lớp giáo viên vừa ra trường, sẵn sàng rời thành phố, lên “cắm bản”

trên vùng núi còn lạc hậu, nghèo đói phần nào mang bóng dáng của nhà văn Ma

Văn Kháng và bạn bè của ông.

Việc các nhà văn sử dụng chất liệu đời tư, lấy từ nguyên mẫu của chính bản

thân để xây dựng nhân vật trong tác phẩm đã làm cho nhân vật trở nên chân thực

hơn, tạo niềm tin với người đọc đồng thời như một phương thức nghệ thuật để kí

thác, gửi gắm những tâm sự, chiêm nghiệm, nhìn lại và khám phá chính mình.

Trong các tiểu thuyết của Tô Hoài giai đoạn sau 1945, không có bất cứ một nhân

vật nào mang tên Tô Hoài, không có nhân vật nào có hoàn cảnh, cuộc đời, số

phận hoàn toàn trùng khít với nhà văn nhưng người đọc vẫn nhận ra những điểm

song trùng giữa những sự kiện trong cuộc đời nhân vật và nhà văn, vẫn nhận

thấy thấp thoáng trong từng trang văn bóng dáng của Tô Hoài.

Trong tiểu thuyết Mười năm, người đọc nhận ra bóng dáng của Tô Hoài và

bạn bè của nhà văn đằng sau hình ảnh những người thanh niên làng Hạ như Lê,

Lạp, Trung, An, Ba. Có thể thấy, cuộc đời của nhân vật Lê trong tác phẩm hao

hao giống với cuộc đời của Tô Hoài ngoài đời thực. Nhân vật Lê là hình bóng

của nhà văn Tô Hoài - chàng thanh niên ít học nhưng luôn khao khát được học,

được viết báo, hình bóng của một chàng thanh niên bồng bột, sôi nổi trong các

hoạt động và luôn hướng đến một cuộc sống thanh bình. Viết về ước muốn của

Lê, Tô Hoài như sống lại thời thanh niên của mình, có cái háo hức, say mê “Lê

thèm, Lê thấy khát khao viết” [72; tr.20]; “Lê, Lạp đều là những cậu nhai a, b, c

ở nhà, học vu vơ thế rồi cũng hóa ra đọc được. Họ mê mải lạ lùng, sách gì cũng

được, chuyện gì cũng bàn cãi và đêm ngày gò lưng nằm viết bài, chép thơ, viết

thư tình chẳng gửi cho cô nào cả mà để đọc với nhau” [72; tr.42]. Lê là người

hay trăn trở, suy tư về cuộc sống hiện tại “Cái khung cửi như cái cùm, giam

người và giam hãm tinh thần lại. Phải thoát ra khỏi khung cửi, làm một cái gì to

lớn khác” [72; tr.21]. Lê không muốn hàng ngày quẩn quanh bên cái khung cửi,

Lê muốn thay đổi, đó là sự thay đổi trong tư tưởng, hành động cùng quá trình

giác ngộ cách mạng. Lê khao khát được đi “Lê lại nôn nao, muốn bỏ hết, muốn

bay nhảy ngay. Cái do dự nhất xưa nay là đi đâu, làm gì. Lê sẽ đi Hải Phòng. Lê

133

tưởng tượng ra thành phố cửa bể Hải Phòng. Đấy là nơi hoạt động, nơi tranh đấu.

Hi vọng và chí hướng Lê đặt vào đấy” [72; tr.50-51]. Qua khao khát của nhân

vật Lê, người đọc nhận ra cái khát khao của Tô Hoài một thời: cái tuổi hai mươi

vẫn chưa nguôi khát vọng của một tuổi trẻ ham hoạt động, muốn đi tìm con

đường đấu tranh. Càng đọc tác phẩm, người đọc càng nhận thấy nhiều chi tiết

tiểu sử, sự thật đời tư của Tô Hoài giống với nhân vật Lê. Tô Hoài cũng đã thấm

thía cảnh thất nghiệp, phải đi Hải Phòng tìm việc rồi bị bắt vào lính chẳng khác

gì tình cảnh của anh Lê. Những dấu mốc trong cuộc đời Tô Hoài vào những năm

phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi đều thấy có trong hoạt động của thanh niên

làng Hạ. Bản thân Tô Hoài đã tham gia phong trào bình dân, tham gia Thanh

niên phản đế và phong trào Việt Minh, sống giữa những người thợ dệt như các

nhân vật Lê, Lạp, Trung, An, Ba trong tác phẩm. Dẫu có những nét tương đồng

giữa nhân vật Lê và cuộc đời Tô Hoài ở một vài điểm nhưng hoàn toàn không

trùng khít, người đọc vẫn nhận thấy độ lệch về hoàn cảnh xuất thân của Lê (Lê

nghèo khổ, ở với bố và bị đối xử thậm tệ từ khi còn nhỏ), hoạt động tiếp nối của Lê

sau khi rời làng Hạ: Lê ốm sốt, bị đánh ở Hải Phòng rồi đi đồn điền cao su và bỏ

trốn, Lê sang nước Cao Miên lúc nào không biết. Cuộc đời về sau của Lê cũng

không được nhà văn nói tới mà chỉ thông qua cuộc nói chuyện của Lạp và Trung.

Trong tiểu thuyết Ba người khác, nhân vật Bối là bóng dáng của nhà văn

trong những năm tháng đi cải cách ruộng đất. Đối chiếu giữa nhân vật Bối trong

tác phẩm và con người tiểu sử của nhà văn có những nét tương đồng. Bối được

cử đi cải cách ở Nga Sơn, Thanh Hoá “Một việc tôi nhớ mãi. Có một cố nông

huyện Nga Sơn được lên cán bộ đội đã đi làm cải cách hai đợt” [69; tr.9]; rồi ở

Hải Dương, Hải Phòng “Đợt này, khu vực làm bao trùm cả Hải Dương, Kiến An,

cải cách thẳng, không qua giảm tô” [69; tr.10]; “Chúng tôi được đưa từ Thanh

Hóa ra hỗ trợ chỗ khó” [69; tr.11]; sau đó là Thái Bình “Bên Quỳnh Côi sang

phải không?” [69; tr.12]. Đi cải cách, Bối được cấp trên cử làm đội phó phụ

trách tòa án “Đồng chí đợt này được trên cử làm đội phó phụ trách tòa án, cố

gắng nhé” [69; tr.23]. Trên thực tế, Tô Hoài đã từng tham gia cải cách ruộng đất,

từng làm đội phó đội cải cách, đội phó phụ trách tòa án, đi cải cách ruộng đất ở

134

Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thanh Hóa. Trong tiểu thuyết,

người đọc còn thấy một anh Bối tích cực tham gia cải cách ở địa phương nhưng

lại không có chút hiểu biết gì về đời sống nông thôn, không có kiến thức về

nghiệp vụ và cũng không được tập huấn. Anh ta chỉ làm theo mệnh lệnh cấp trên.

Mọi việc làm, hành động của Bối chỉ là hình thức để che mắt thiên hạ. Theo lời

Tô Hoài, anh Bối mang hình bóng của chính ông vì chẳng biết tí gì về nghề

nông thế nhưng đi cải cách ruộng đất mấy đợt vẫn dạy cho “nông dân kể khổ,

đấu địa chủ, rồi thống kê sào mẫu, rồi cắm thẻ chia ruộng” [70; tr.32]. Nhà văn

từng có lần so sánh: “Tôi chỉ là anh Bối thôi. Anh Bối không biết gì nhưng anh

Bối đi cải cách ba lần nên viết được” [121]. Bên cạnh đó, trong tác phẩm xuất

hiện những chi tiết nhận diện con người Tô Hoài “Năm ấy, tôi ngót ba

mươi…Cách mạng thì vào tự vệ phố, đến lúc kháng chiến, không còn đội tự vệ

nữa, nhưng tự cho mình đã là Việt Minh, tôi đi theo kháng chiến lên Việt Bắc”

[69; tr.16]; “Cũng không có vốn mở hàng quán, tôi xin vào làm phát hành sách

báo”; “Chỉ biết tôi là người trong Hà Nội ra có đôi ba chữ nên anh em trong kho

cho giữ sổ sách văn phòng và kho” [69; tr.17]; “Tôi bây giờ hóa ra quan trọng,

tôi giữ ba sổ chi thu - chẳng học nghề bao giờ cũng được lên chức kế toán

trưởng” [69; tr.18]. Thấp thoáng trong những trang văn kể về quá khứ của nhân

vật Bối, người đọc nhận ra những điểm tương đồng về hoàn cảnh, hoạt động của

nhà văn với nhân vật. Thực tế, bước vào tuổi thành niên, Tô Hoài đã phải làm

nhiều công việc để kiếm sống như bán hàng, kế toán hiệu buôn và sau đó tham

gia kháng chiến.

Tuy nhiên, câu chuyện về nhân vật Bối hoàn toàn không trùng khít với

cuộc đời Tô Hoài. Nhà văn đã sử dụng yếu tố mờ hóa con người đời thực của

mình, mờ hóa “cái tôi” tiểu sử trong cách đặt tên nhân vật (Bối trong truyện),

cấp cho nhân vật một “tấm thẻ căn cước” khác đi so với phần tiểu sử, lai lịch,

nhân thân. Cho dù nhân vật Bối có nét tương đồng với con người đời thực Tô

Hoài thì cũng được “biến tấu” đôi chút. Bối là một kẻ khác, một hư cấu của tiểu

thuyết. Anh đội Bối thừa nhận mình chỉ là kẻ tham ăn, tục uống, dâm dục, lười

nhác, vô trách nhiệm, ấu trĩ, giáo điều như nhiều anh đội khác. Cuối tác phẩm,

135

số phận nhân vật Bối bất ngờ rẽ ngoặt và chuyển hướng xuống dốc. Bối bị thôi

việc vì có đơn tố cáo tội hủ hóa ở địa phương “Tôi được đưa xem cái đơn. Tôi

nảy đom đóm mắt. Những đêm đi gác, ở trong lều, đã chung chạ với ai, nằm

ngồi thế nào, ai bằng lòng, ai bị đè ra, ôi chao, ở những bờ tường, những bụi

duối” [69; tr.223]. Sau đó, Bối sống bằng nghề bơm xe đạp, vạ vật đầu đường xó

chợ một thân một mình “Tôi ở gian ọp ép ấy và vẫn một mình với cái bơm xe”

[69; tr.226]. Cuối cùng Bối làm thuê cho Tư Nhỡ và bị hắn lừa đánh cho thê

thảm “Tư Nhỡ xông đến đấm đạp luôn hồi vào mặt, vào bụng tôi, vừa đánh vừa

rên rỉ kêu” [69; tr.247].

Từ nguyên mẫu ngoài đời đến nhân vật trong tác phẩm là quá trình sáng tạo

nghiêm túc dưới ngòi bút tài tình của nhà văn. Từ những chi tiết cuộc đời thực

của mình, Tô Hoài đã dựng lên hình ảnh nhân vật Lê - người thanh niên cách

mạng nhiệt huyết, sôi nổi; nhân vật Bối - tiêu biểu điển hình cho sự dối trá, lưu

manh, tha hóa của những anh cán bộ “đội” thời cải cách ruộng đất. Thông qua

nhân vật trong các tiểu thuyết, Tô Hoài đã bộc lộ cái tôi cá nhân, vừa là cái tôi

nhà văn ngoài đời, vừa là cái tôi sáng tạo, hư cấu. Việc rút ngắn khoảng cách

giữa nhân vật và nguyên mẫu ngoài đời khiến cho nhân vật của Tô Hoài gần gũi,

chân thực, sống động và đặc biệt là không rơi vào tình trạng “sống nhờ sự kiện”

như những nhân vật cùng thời. Vì thế, tiểu thuyết của Tô Hoài cũng đậm chất

hồi kí hơn.

4.3.1.2. Cái tôi giàu trải nghiệm in đậm trên từng trang viết

Một nhà văn in dấu “cái tôi” của mình trong tiểu thuyết không phải là điều

lạ lùng. “Cái tôi” hiểu theo nghĩa cá nhân riêng tư, bao gồm cuộc đời riêng, với

những suy nghĩ, tình cảm riêng, người đọc vẫn bắt gặp đâu đó trong tiểu thuyết

của các nhà văn xưa nay với mức độ đậm nhạt hoặc dưới này hay dạng khác.

Đọc các tiểu thuyết của Tô Hoài sau 1945, hình ảnh cái tôi giàu trải nghiệm, hết

mực hiểu đời, hiểu người hiện lên trong từng trang viết nhờ đó người đọc nhận

ra một thứ văn gần gũi với đời sống hàng ngày, mang đậm con người và phong

cách của nhà văn.

Tiểu thuyết Mười năm được viết ra từ chính vốn sống, vốn trải nghiệm cụ

136

thể của cuộc đời Tô Hoài vì thế mà những chi tiết, sự kiện trong tác phẩm mang

dấu ấn sự trải nghiệm của chính tác giả. Hình bóng Tô Hoài được hiện lên qua

những cảm xúc yêu thương, gắn bó, tự hào và những đau xót trước những biến

đổi, thăng trầm của mảnh đất ngoại thành Hà Nội mà Tô Hoài thể hiện trong tác

phẩm. Tô Hoài sinh ra và lớn lên tại một làng dệt lĩnh truyền thống nên ông am

hiểu nghề nghiệp của quê hương. Nơi khai sinh của nhà văn được lưu giữ trong

tâm trí người đọc với những âm thanh quen thuộc của làng nghề truyền thống.

Đó là những tiếng dệt cửi lạch cạch “Buổi tối, qua các xóm dệt cửi đầu hôm, inh

ỏi tiếng hát, tiếng thoi chạy lạch cách, tiếng vỏ khổ rập xình xịch” [72; tr.16],

“Chị Hai Tâm guồng tơ ngoài đầu hè, nghe hiệu gõ văng, vào sửa cửi” [72;

tr.21]; “Cũng vừa hay đầy nhịp cửi, Lạp gõ văng rồi bước ra hút thuốc lào” [72;

tr.21]. Nhà văn tự hào về làng nghề với những người thợ dệt tài hoa như Lạp

“Ngày làm mười, mười hai thước cửi ngon, bước ra khung, mặt trời còn đứng

lưng bụi tre” [72; tr.20], “Lạp móc thoi, chúm miệng hút sợi tơ đầu suốt qua lỗ

thoi, ném con thoi thoắt vào rồi lại cắm cúi, băm bổ trước cái vỏ khổ nhoay

nhoáy đưa ra đẩy vào trên mặt lụa mới tinh, mềm nhũn, mỗi lúc một dầy lên”

[72; tr.23]. Nhà văn đã tận mắt chứng kiến cái đói và sự tiêu điều của quê hương

“Làng nào cũng đói nhao, không còn một hạt thóc, người chết đường nhiều hơn

người chết trong nhà” [72; tr.119], “Bói không thấy một hạt gạo. Chỉ có vài mẹt

cám. Cám là thức ăn sống người nhất chợ, ai cũng tranh nhau chen vào” [72;

tr.110]. Là người trong cuộc nên Tô Hoài đã rất đau xót trước sự tan rã của làng

nghề “Những khung cửi, lồng tơ xếp lại. Nhiều nhà túng bán đi” [72; tr.92],

“Những cái khung cửi như bộ xương con trâu” [72; tr.110], “Từ những phiên

chợ mà các đãy lụa cứ phải đeo về kìn kịt và các khung cửi đã bắt đầu ruỗi thợ

ra” [72; tr.110]. Chất liệu thực của vùng quê ngoại thành Hà Nội - nơi Tô Hoài

sinh ra và lớn lên đã được sử dụng một cách tự nhiên qua cảm xúc, ấn tượng của

nhà văn và trở thành hiện thực trong tác phẩm. Do vậy, người đọc nhận thấy ở

Mười năm “in dấu vết những nhân vật trong đó có tác giả và gia đình, bè bạn ở

sự việc, ở hoàn cảnh, ở những kỉ niệm thời thơ ấu và đương thời” [72].

Tiểu thuyết Ba người khác được kể qua qua hồi ức, với tư cách là nhân

137

chứng, là người trong cuộc, Tô Hoài đã tái hiện chân thực những sự kiện lịch sử

- xã hội trong thời kì đặc biệt của dân tộc - thời kì cải cách ruộng đất. Trải qua

thời gian dài để “ngoái lại” và với phương châm nhìn thẳng, nói thẳng sự thật,

nhà văn đã phanh phui, mổ xẻ những sai lầm, những vấn đề khuất lấp trong quá

khứ. Ở Ba người khác, bức tranh thời đại được đan dệt bằng một hệ thống sự

kiện mang tính xác thực. Tô Hoài đã từng tham gia vào cuộc cải ruộng đất nên

hơn ai hết ông hiểu được mặt trái của thời kì cải cách ruộng đất, không khí ngột

ngạt, bức bối, rối loạn thời kì cải cách ruộng đất ở mảnh đất làng quê xưa.

Cải cách ruộng đất là một trong những sự kiện lớn diễn ra ở nông thôn

miền Bắc nửa đầu những năm năm mươi của thế kỉ XX. Cải cách ruộng đất

được coi là một thắng lợi vĩ đại của công cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ.

Đường lối cải cách ruộng đất của Đảng là đúng “đánh đổ địa chủ mang lại ruộng

đất cho nông dân” và giúp đa số “nông dân thoát khỏi áp bức của giai cấp địa

chủ bóc lột”. Song quan niệm về giai cấp còn máy móc, giáo điều và khi thực

hiện lại có những biện pháp cực đoan, sai lầm nên đã xảy ra một số hậu quả

nghiêm trọng. Tô Hoài đã tái hiện không khí xã hội và thực tế thời kì cải cách

ruộng đất với các hoạt động bắt rễ chuỗi, chia ruộng, quả thực, họp tố nông hội,

họp thôn kể khổ... “Chào anh đội, đêm qua anh đội đã bắt được rễ, yên chí rồi

thì hôm nay vào nhà em được chứ? Anh xâu chuỗi em đi. Đố anh tìm được

thằng chuỗi nào hơn em” [69; tr.34], “Theo kế hoạch chung, tối nào cũng họp tố

nông hội, họp thôn kể khổ, đôi khi đấu lưng cả địa chủ đã chết tới sáng” [69;

tr.117], “Những buổi họp bàn chia ruộng, quả thực chưa đâu vào đâu, ai cũng té

tát, hầm hè, tím tái vặc nhau” [69; tr.154]. Bên cạnh đó, hiện thực cải cách ruộng

đất được soi cận cảnh như thước phim quay chậm về những thảm cảnh đã diễn

ra như các cuộc đấu tố, xử lí những tên phản động. Người dân hô hào nhau đi

tịch thu tài sản của địa chủ Thìn. Không khí khẩn trương, nhộn nhịp. Họ hăm hở

tố và bắt địa chủ Thìn. Các thôn phấn khởi rộn rịch lần lượt mít tinh tuyên bố

xóa bỏ giai cấp địa chủ. Ngày hội của bần cố nông cũng là ngày tận thế của địa

chủ Thìn. Trong cuộc đấu tố, nhân dân không còn vai trò chủ nhân tích cực của

lịch sử, họ đã trở thành đám đông thụ động, bạc nhược, mù quáng và thô bạo.

138

Người nông dân còn hừng hực khí thế đi tố cáo tên thủ lĩnh Quốc dân đảng. Họ

là những đám đông mê muội, bị kích động, lợi dụng và làm vật tiêu khiển cho

đội cải cách thời kì này.

Là người trực tiếp tham gia cuộc cải cách ruộng đất, Tô Hoài đã chứng

kiến nhiều nỗi đau khổ của người dân. Người chịu chết, người tự tử, người chạy

trốn…Con rể đấu tố bố vợ, cháu ngoại đấu tố ông ngoại. Duyên là cô “rễ chuỗi”

nhưng tìm mọi thủ đoạn mua chuộc và đòi hỏi cho mình những phần ruộng tốt

nhất. Những giá trị đạo đức bị đảo lộn và tình người dường như đã không còn

tồn tại ở đây. Tất cả còn lại chỉ là sự tiêu điều, xơ xác và những thứ cặn bã của

xã hội. Cảnh làng quê thê lương ảm đạm, đó là một phần hiện thực của bức

tranh nông thôn trong những năm cải cách ruộng đất. Tô Hoài đã viết bằng

chính ngòi bút hiện thực của mình. Ông đã lột tả hết mọi đau khổ cuộc sống của

những người nông dân trong những năm tháng đầy đen tối. Ba người khác là sự

“nhìn lại” quá khứ mặc dù được viết ở thì hiện tại. Tất cả những cuộc đấu tố địa

chủ, tố cáo thủ lĩnh Quốc dân Đảng,…mà nhà văn tái hiện trong tác phẩm là

những sự kiện mà nhà văn sống trong thời kì đó từng chứng kiến và trải qua.

Trong kí ức của nhà văn, cuộc sống của những người dân vùng nông thôn

Bắc Bộ hiện lên với cái đói. Người nông dân phải đem trẻ con đi chợ bán, trong

chợ thì “nháo nhào không biết đâu người ăn mày hay người mua bán” [69; tr.14],

gia đình bác Diệc phải ăn cơm trộn với cám, thức ăn hàng ngày là rắn và chuột.

Người nông dân duy trì cuộc sống bằng tất cả những thức ăn có thể, cầm cự cái

đói qua ngày. Cái đói có sức tàn phá con người ghê gớm khiến “những cẳng tay

cẳng chân đi lại như những cành que” [69; tr.124], “Ai cũng gầy đói hom hem,

nhợt nhạt” [69; tr.145]. Cái đói giúp người đọc nhận ra nỗi cơ cực của bao kiếp

người. Cái đói bao trùm lên không gian không chỉ khiến con người mà dường

như cả làng quê với tre vàng, ngõ vắng cũng trở nên tăm tối, tiêu điều, xác xơ

“Cây đa, cây si ngã ba xóm, những lũy tre và bờ bụi bị phạt trơ ra như những cái

đầu trọc lông lốc…Cả đến những giậu ô rô, giậu duối và bờ xương rồng cũng xơ

xác như tóc cạo dối chẳng còn mấy” [69; tr.25]. Những ngôi nhà hiện lên với

cảnh hoang tàn, rách nát “Cái nhà tranh vách tuềnh toàng ẩm mùi rêu đất” [69;

139

tr.28]; “Gian nhà lợp rạ nát xám xịt như mặt người ấy” [69; tr.26]; “Ba phía

vách tuông ra, huếch hoác, lá khoai non xanh mát mắt phủ kín, dây bì leo chằng

chịt lên cả cột nhà như cái cọc tre” [69; tr.34]. Làng quê trong tiểu thuyết của Tô

Hoài cũng như bao làng quê khác trên mảnh đất Việt Nam nhọc nhằn, gian khó, vất

vả và đói nghèo. Không gian ấy gợi cho người đọc nhớ về cái đói nghèo đến rã rời

trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Lão Hạc của Nam Cao, Vợ nhặt của Kim Lân…

Tô Hoài sinh ra và lớn lên ở vùng đất canh cửi nghèo khó, đã từng tham gia

đấu tranh cùng những người thợ dệt và đã trải qua thời kì cải cách ruộng đất ở

vùng nông thôn Bắc Bộ cho nên nhà văn đã dựa vào những chi tiết hiện thực của

đời sống để làm chất liệu hiện thực trong tác phẩm. Phải là người trải qua,

chứng kiến những sự kiện đó, Tô Hoài mới có thể viết nên những trang văn chân

thực đến như vậy. Nhờ đó mà cốt truyện tiểu thuyết của Tô Hoài hiện lên với

nhiều chi tiết mang tính xác thực, vừa có cái thực của những sự kiện lại vừa có

cái thực của những cảm xúc và trải nghiệm của nhà văn. Tạo dựng hiện thực đời

sống ít nhiều mang dấu vết cá nhân của nhà văn, thể hiện một cái tôi giàu trải

nghiệm ở mỗi chặng khác nhau của cuộc đời nhà văn đồng thời cũng là các thời

kì phát triển lịch sử của dân tộc.

4.3.2. Nghệ thuật trần thuật đậm chất hồi kí

Sự thâm nhập của chất hồi kí vào tiểu thuyết Tô Hoài đã khiến cho kết cấu

trần thuật không theo trật tự thời gian mà theo dòng ý thức của nhân vật, người

kể chuyện với điểm nhìn bên trong - nhân vật xưng “tôi” ở ngôi thứ nhất trong

tiểu thuyết Ba người khác và người kể chuyện ở ngôi thứ ba trong tiểu thuyết

Mười năm mang hình bóng tác giả. Điều này khẳng định những cách tân mới mẻ,

độc đáo trong nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài thời kì Đổi mới.

4.3.2.1. Kết cấu truyện theo dòng ý thức của nhân vật

Khái niệm “Dòng ý thức” lần đầu tiên được nêu ra bởi tác giả người Mỹ

William James. Ông cho rằng, trong kết cấu dòng ý thức chấp nhận những yếu

tố không nằm trong mạch logic trực tiếp của tác phẩm, mà thuộc về mạch ngầm,

về cảm nhận cá nhân. Trong dòng ý thức của nhân vật, mọi hình ảnh, mọi kí ức

hướng đến tâm lý nhân vật luôn xuất hiện một cách tự do, đột ngột, không kiểm

140

soát được trong tư duy của mình. Đối với kiểu kết cấu truyện theo dòng ý thức,

kí ức của nhân vật được sử dụng để thuật lại những sự kiện đã thuộc về “hoài

niệm”, người kể chuyện cũng chính là nhân vật mang kí ức hoặc có điểm nhìn

Ba người khác được viết dựa trên kí ức, hồi ức của nhà văn Tô Hoài, một

của nhân vật.

người đã trực tiếp làm công tác cải cách với tư cách là đội phó đội cải cách kiêm

chánh án tòa án. Vì thế, câu chuyện được kể theo dòng ý thức, hồi tưởng của tác

giả - nhân vật xưng “tôi” - Bối trong truyện. Người kể chuyện xưng “tôi” đã từ

kí ức của chính mình, từ sự đối diện với những sai lầm quá khứ để làm sống lại

một giai đoạn của lịch sử dân tộc – thời kì cải cách ruộng đất. Trong tác phẩm,

nhân vật Bối nhớ đến đâu kể đến đó, dòng hồi ức bị đảo lộn không theo trình tự

thời gian, mạch truyện đi từ hiện tại đến quá khứ rồi trở về hiện tại, lồng ghép, đan

xen với các hồi ức, hồi tưởng về quá khứ của nhân vật, cách kể chuyện chịu sự tác

động của ý thức nhân vật. Sự phá vỡ, thay đổi kết cấu trần thuật là một sự thay đổi

trong cách nhìn hiện thực và thể hiện quan niệm về nghệ thuật của nhà văn.

Tiểu thuyết Ba người khác có năm phần:

Phần 1. Mở đầu truyện, Bối giới thiệu sơ lược về bối cảnh nảy sinh câu

chuyện, kể về lúc nhân vật Bối đi cải cách ở Nga Sơn, Thanh Hóa. Kết thúc đợt

cải cách thứ nhất, Bối tiếp tục kể về đợt cải cách thứ hai “Tổng kết xong, các đội

lại đi đợt mới…Đợt này, khu vực làm bao trùm cả Hải Dương, Kiến An, cải

cách thẳng, không qua giảm tô” [69; tr.10]. Vừa kể quá trình đội cải cách xuống

vùng nông thôn, Bối đan xen, lồng ghép kể về quá khứ của mình “Năm ấy, tôi

ngót ba mươi. Từ tấm bé chỉ ở thành phố. Đến tuổi đi làm kiếm được chân giữ

cửa trông kẻ cắp cho hiệu thịt bò “Sáp phăng giông” phố Tràng Tiền. Cách

mạng thì vào tự vệ phố, kháng chiến thì lên Việt Bắc” [69; tr.16]. Sau đó Bối

trốn tự vệ, tìm lên Nủa tìm vợ con, rồi lần mò lên Thái Nguyên, sang Tuyên

Quang, lên thị xã Bắc Cạn. Cuối cùng Bối xin vào làm phát hành sách báo, giữ

sổ sách văn phòng kho, làm kế toán trưởng. Bối khéo léo, lẩn lút tránh được đi

giảm tô, cải cách. Sau khi kể về hồi ức của mình, Bối quay trở về thực tại, kể về

hiện thực khi tiến hành cải cách tại thôn Am, dò la tin tức nhà bác Diệc, thằng

141

Vách. Bối lại Đan xen vào đó những câu chuyện quá khứ về thân phận, cuộc đời

của thằng Vách, bác Diệc. Kết thúc phần một dừng lại ở chi tiết bác Diệc phải

lấy Khoèo - con gái lão phó Thìn.

Phần 2 và 3. Bối trở lại câu chuyện về thôn Am, kể về Đình đi theo cái trại

đại đồng rồi sau đó Đình bị bắt vì phạm tội Quốc dân đảng đến lúc xét xử, bị kết

tội rồi thoát chết. Ở phần này, Bối hướng đến kể về cuộc gặp gỡ trong tương lai

giữa Bối và Đình “Kể ra hai con người tóc bạc da mồi, đã tả tơi cả, vừa nhận ra

nhau bởi linh cảm, còn những hoàn cảnh và trường hợp đã trải với nhau thì

không thể quên” [69; tr.112]. Gặp lại Đình, thấy cảnh Đình cùng vợ con đi ăn

xin rồi tiếp tục chạy theo giấc mơ đại đồng huyền hão vào vùng kinh tế Lâm

Đồng. Kết thúc câu chuyện về Đình, Bối quay trở lại cuộc cải cách ở thôn Am.

Sau khi Đình bị bắt, Bối được chuyển sang thôn Am làm nhiệm vụ tìm ra địa

chủ và xét xử địa chủ Thìn, chia ruộng đất cho người dân, làm lúa thần kì.

Phần 4. Bối kể về tương lai mười mấy năm sau, Bối trở về cơ quan, có đơn

tố cáo về tội hủ hóa. Sau đó, Bối bị mất việc và làm nghề bơm xe đạp, tình cờ

Bối gặp lại Tư Nhỡ và bị Tư Nhỡ lừa, đánh cho thê thảm.

Phần 5. Bối kể về xóm Am, xóm Chuôm, về anh em Vó và Cò đi tòng

quân. Kết thúc truyện là thông tin về cái chết mơ hồ của Huỳnh Cự.

Kết cấu truyện theo dòng ý thức của nhân vật, song hành trên hai trục quá

khứ và hiện tại rất phù hợp với việc chuyển tải dòng cảm xúc của nhà văn. Sự

đan xen những mảng kí ức với thực tại có hiệu quả nghệ thuật lớn trong việc tái

hiện bức tranh nông thôn thời kì cải cách ruộng đất và gợi nhiều suy nghĩ về số

phận của người nông dân và các anh “đội” thời kì đó. Xuất phát từ những

chuyện đời thường, từ những kỉ niệm, cảm xúc bản thân đã trải qua, Tô Hoài đã

đưa rất nhiều hồi ức vào trong tác phẩm. Vì vậy, mạch kết cấu đi từ hiện tại trở

về quá khứ rồi đến hiện tại, đan xen những hồi ức giúp cho câu chuyện nhà văn

kể trở nên chân thực và sinh động hơn.

4.3.2.2. Người kể chuyện mang hình bóng nhà văn

Có thể nói, bên cạnh những nhân vật mang hình bóng nhà văn, nhân vật

xuất hiện với tư cách người kể chuyện cũng làm cho “cái tôi” của tác giả trong

142

tiểu thuyết thêm đậm đặc. Dường như nhà văn nói về mình gián tiếp qua các

nhân vật chưa đủ mà thấy còn phải trực tiếp bước vào tiểu thuyết. Tiểu thuyết

Ba người khác được kể ở ngôi thứ nhất, người kể chuyện là nhân vật trong câu

chuyện, nhân vật chính xưng “tôi”. Như vậy, khoảng cách giữa nhân vật - người

kể chuyện - tác giả gần như là một, có nghĩa điểm nhìn trần thuật giữa người kể

chuyện - nhân vật - tác giả tương đối trùng khít. Khi nhà văn chọn vai người kể

chuyện ở ngôi thứ nhất, ưu điểm lớn nhất là thể hiện cái tôi cá nhân một cách

trực tiếp, cái tôi tự nghiệm, tự nhận thức. Ở ngôi kể thứ nhất, người đọc nhận

thấy hình bóng nhà văn Tô Hoài hiện lên trên từng trang văn.

Trong tiểu thuyết Ba người khác, Tô Hoài đã đặt vị trí của nhân vật chủ thể

ở ngôi thứ nhất, dưới con mắt của nhân vật Bối. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả

đã sử dụng ngôi kể thứ nhất “Một việc, tôi nhớ mãi…Tôi đã nghe bao chuyện kể

khổ ở hội nghị, ở tổ rễ chuỗi, nhưng chưa khi nào nghe choáng váng ghê rợn đến

thế” [69; tr.10]. Tuy nhiên, nhân vật xưng “tôi” ở đây không phải là Tô Hoài

bằng xương bằng thịt ngoài đời mà đội phó Bối - nhân vật trong truyện. Với vai

trò người kể chuyện, nhân vật “tôi” - Bối trong truyện bằng lời kể chủ quan đã

dẫn dắt người đọc khám phá lần lượt những gì mà nhân vật trải nghiệm, những

điều mà nhân vật đích thân mắt thấy tai nghe. Người đọc cùng nhân vật Bối

được trải qua tất cả mọi cung bậc tham, sân, si, ái, ổ, hỉ, nộ của những ngày cải

cách u ám và thấy được những sai lầm, khuyết điểm của một thời kì lịch sử.

“Tôi” - Bối vừa giữ vai trò dẫn dắt mạch truyện kể vừa trực tiếp tham gia vào

các tình huống truyện làm cho nhân vật tôi thống nhất, xuất hiện từ đầu đến cuối

trong tác phẩm. Cách trần thuật từ lời kể của Bối - nhân vật xưng “tôi” trong

truyện hấp dẫn lôi cuốn người đọc, khiến người đọc tin câu chuyện có thật bởi vì

nhân vật “tôi” kể chuyện mình và những việc mình đã làm tạo cho người đọc

như đang được chứng kiến những điều mà nhân vật thấy và kể lại. Tác phẩm vì

vậy có thể hiểu là câu chuyện của nhân vật xưng “tôi” - Bối trong truyện. Bối là

đội phó đội cải cách ruộng đất, kiêm chánh án đang tự kể về mình và hai người

khác là Cự (đội trưởng) và Đình (cán bộ “đội”). Căn cứ theo lời kể, cách nhìn

của người trong cuộc xưng “tôi” thì Bối, Đình, Cự là ba “gã lưu manh” theo ba

143

kiểu khác nhau. Trước hết, Bối đã tự phanh phui, mổ xẻ bản thân và bộc bạch

hết những điều thầm kín, những tội lỗi của mình và đồng đội, kể cả những nhu

cầu bản năng của chính bản thân, phơi bày mình ra ánh sáng. Bối đã trực tiếp tự

kể về những ngày tham gia cải cách ruộng đất ở địa phương. Mang tiếng là đi

cải cách giúp người nông dân thoát khỏi cảnh đói nghèo nhưng Bối lại luôn nghĩ

đến chuyện ăn uống. Tội tham ăn, tục uống của Bối được Bối kể một cách tỉ mỉ,

chi tiết: “Tôi luồn tay dưới ba lô, thó luôn cả gói, bỏ nhẹm vào cái túi xách của

tôi” [69; tr.22]. Đó là hành động ăn trộm cái bánh đúc của đội trưởng Cự. Trong

truyện, nhiều lần Bối nói về cái tội háu ăn của mình “Tôi háu đói, đã tưởng ra

niềm vui có lẽ được nghỉ và ăn sáng” [69; tr.13]; “Tôi lần vào giường góc nhà

nằm gối đầu lên cái túi. Bụng đói cồn cào rỗng không” [69; tr.137]. Bối đã

không ngần ngại bóc trần cái tội ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, tội trộn mì

chính với đường ở cơ quan. Những chuyện hủ hóa với Đơm, Duyên và những cô

gái dân quân khác cũng được Bối kể một cách trung thực “Tôi lại thọc vào ngực

Đơm như vừa rồi. Lần này Đơm đứng tây ngây, mặt đỏ lịm, để yên cho tay tôi

vân vê” [69; tr.44]; “Các cô nghiến răng cắn áo níu tôi lại…Tôi không còn sức

lê đi nữa, tôi quờ quạng úp vào mặt ngủ trên bụng cô ấy”. Bối kể thật táo tợn về

những chuyện hủ hóa của những con người ở vùng cải cách “Đàn ông đàn bà ở

đây ăn nằm, đùa cợt với nhau như gà, chỗ nào lúc nào cũng được” [69; tr.138].

Bối đi cải cách ruộng đất nhưng hiểu rất lơ mơ về cải cách, Bối cố tìm ra được

những tên địa chủ để ghi thành tích. Bối bắt đầu thấy lo lắng khi không tìm được

địa chủ “Trong những người phải cố, tôi khốn khổ nhất. Rễ chuỗi cả thôn tôi

chưa tố ra được địa chủ. Tôi chưa phân tích tìm ra cái đầu cái đuôi địa chủ ở đâu”

[69; tr.79]. Rồi những lời tự thú của nhân vật Bối khi chưa phải là Đảng viên mà

tổ chức kết nạp cả chục rễ chuỗi vào Đảng “Tôi không kịp nói tôi chưa phải

Đảng viên…Không biết trên có biết không, chẳng có ý kiến gì cả. Tôi làm việc

kết nạp Đảng cho rễ, chuỗi cũng như đi họp, đi làm đồng” [69; tr.140]. Không

chỉ có vậy, Bối còn rất lười và giả vờ chăm chỉ lao động “Tôi toan cứ vào bừa

một nhà nào nghỉ ngơi cái đã” [69; tr.25]; “Làm bộ như tôi đi làm đồng về chưa

kịp rửa ráy, vác cả cào cỏ đến thẳng chỗ họp” [69; tr.48]; “Tôi vác cào cỏ như đi

144

đánh cỏ, tôi loăng quăng ra đồng”.

Không chỉ kể về mình, Bối còn kể về những tội lỗi của Đình và Cự. Kết

cục ba anh “đội” với ba kết cục bi thảm khác nhau. Đình làm trại đại đồng để rồi

thân tàn ma dại vì trại đại đồng sau đó bị nghi là thủ lĩnh của Quốc dân Đảng,

cuối cùng được thả và tìm đến vùng đất mới. Anh Cự đội trưởng cải cách quyền

sinh quyền sát trong tay nhưng cuối cùng lại theo địch, trở thành tên phản bội và

bị tiêu diệt. Cả ba anh “đội” được lên “làm trời”, anh nào cũng như anh nào, từ

Cự đến Bối, Đình. Nấp đằng sau là những ông trời cao hơn, cứ như tên kẻ cắp đi

chống kẻ cắp, những tên hủ hóa đi chống hủ hóa, những kẻ thù địch, phá hoại đi

chống kẻ thù địch. Trước những tội lỗi tày đình của ba anh “đội”, Bối cũng đã

thú nhận “Chúng tôi đều nhơ nhớp cả, không có gì mà nói” [69; tr.222]. Bối đã

tự thú, ăn năn, sám hối về những tội lỗi, khuyết điểm của mình trước tòa án

lương tâm và tòa án của cộng đồng. Anh ta kể lại một cách chân thật, không một

lời thanh minh hay bào chữa để người nghe đưa ra những phán quyết của riêng

mình để cho người đọc tự suy ngẫm, bình luận. Ở đây, nhân vật “tôi” đóng vai

trò là một người đứng quan sát khách quan. Nhân vật “tôi” chỉ làm nhiệm vụ

dẫn dắt toàn bộ câu chuyện mà không hề đưa ra ý kiến quan điểm của bản thân

về các vấn đề được kể trong tác phẩm. Ngay cả khi nhận thấy những sai lầm, tội

lỗi của Cự, Đình hay những nhân vật khác trong truyện, nhân vật “tôi” không

bày tỏ chính kiến hay có lời khuyên giải đối với những sai lầm đó. Và ngay cả

chính bản thân mình cũng vấp phải những sai lầm, khuyết điểm nhưng vẫn cố

tình vi phạm. Qua cái nhìn của nhân vật “tôi” thì Đình và Cự là hai kẻ hồn nhiên

vi phạm, hồn nhiên trước những tội lỗi của mình. Họ không ý thức được tác hại,

hậu quả của những việc mình đã làm, ngang nhiên vi phạm dưới mọi hình thức

“ngụy trang”, “vỏ bọc” khác nhau. Còn nhân vật Bối thì khác. Dù sao trong

lương tâm, Bối vẫn ý thức được hành động của mình, nhận thấy những vụ xét xử,

đấu tố địa chủ có phần khắc nghiệt, sai lầm “Tôi lo sợ vẩn vơ về một người sắp

bắn mà tôi không biết mặt” [69; tr.121]; “Tôi vẫn chưa nguôi cơn hốt hôm xử

bắn địa chủ Thìn” [69; tr.142]. Mặc dù không thể có một hành động nào để can

145

ngăn nhưng Bối vẫn thấy được tác hại nỗi đau mà những dân phải gánh chịu

trong đợt cải cách cũng như hậu quả tai hại mà những người cán bộ cải cách

đem lại cho cuộc sống người nông dân.

Trong tiểu thuyết Mười năm, nhà văn sử dụng người kể chuyện ở ngôi thứ

ba. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba là nhân vật kể chuyện bằng giọng khách

quan, cho người đọc biết được câu chuyện xảy ra thông qua giọng kể của mình

và để người đọc hiểu, nhận xét, đánh giá. Người kể chuyện chỉ làm một việc dẫn

dắt người đọc đi từ đầu câu chuyện cho đến hết bằng chính lời kể của mình. Ưu

điểm của hình thức này là có thể bao quát nhiều vấn đề hiện thực rộng lớn, thể

hiện quan điểm, tư tưởng, cách giải quyết vấn đề mang dấu ấn phong cách nhà

văn một cách trực tiếp qua những bình luận, phân tích, phát ngôn. Người kể

chuyện mặc dù ở ngôi thứ ba nhưng không hề có sự tách biệt với nhân vật,

người đọc nhận ra hình bóng Tô Hoài qua suy nghĩ, ước muốn, hành động của

nhân vật Lê, Lạp, An, Ba trong truyện. Ở đây, người đọc thấy ngay lúc này người

kể chuyện “đứng lẩn vào nhân vật”, lấy thế giới nội tâm nhân vật làm chỗ đứng để

kể chuyện. Đồng thời, qua việc tái hiện những mảng sống của vùng ven thành,

không khí của phong trào cách mạng dậy lên trong tuổi trẻ khát khao một hướng đi,

một lẽ sống, những hình ảnh thê thảm của làng Hạ trong thời kì đói kém, sự tan rã

của một làng nghề canh cửi, người đọc nhận ra hình bóng nhà văn qua cái nhìn của

người trong cuộc, của con người đã từng trải qua những năm tháng ấy.

Như vậy, trong các tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945, người kể chuyện dù ở

ngôi thứ nhất hay thứ ba thì trên mỗi trang viết, người đọc đều thấy được hình

bóng của nhà văn Tô Hoài. Người kể chuyện trần thuật xuyên suốt các tác phẩm

vẫn là nhân vật giàu trải nghiệm. Chính sự gắn bó của Tô Hoài với vùng đất

ngoại thành - nơi Tô Hoài sinh ra và lớn lên, với những miền quê, vùng đất khác

nhau mà ông đã đặt chân đến, với những con người tình nghĩa nơi ấy đã khiến

146

cho nhà văn không giữ được thái độ khách quan trong khi kể.

Tiểu kết chƣơng 4

Tương tác thể loại là vấn đề tất yếu trong văn xuôi nói chung và văn xuôi

Việt Nam hiện đại và sáng tác của Tô Hoài nói riêng. Tương tác thể loại là

phương thức để văn học vận động, phát triển và đổi mới. Tương tác thể loại vừa

thể hiện ý thức đổi mới thể loại của nhà văn đồng thời cũng là phương tiện để

khẳng định dấu ấn, cá tính và phong cách sáng tác của nhà văn. Sự tương tác thể

loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 thể hiện sự đổi mới tư duy nghệ

thuật trong phong cách sáng tác của Tô Hoài. Sự kết hợp giữa kết cấu trần thuật

hiện đại (kết cấu vòng tròn, kết cấu lắp ghép) và trần thuật đa điểm nhìn (điểm

nhìn của người kể chuyện, điểm nhìn trao cho nhân vật) đã tạo nên chất tiểu

thuyết trong hồi kí Tô Hoài. Nhờ vậy, bức tranh đời sống xã hội hiện lên đa

chiều, chân dung nhân vật trở thành những “điển hình hóa” rõ ràng, sinh động,

chi tiết từ diện mạo đến tính cách, hành động. Tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư,

người kể chuyện mang hình bóng tác giả, kết cấu truyện theo dòng ý thức của

nhân vật đã tạo nên chất hồi kí trong tiểu thuyết Tô Hoài. Nhờ vậy, những câu

chuyện đã lùi xa trong quá khứ nhưng không hề xưa cũ mà tồn tại sinh động như

những kí ức đầy nhân văn của con người, cho con người hôm nay và mai sau.

Mặc dù diễn ra sự tương tác nhưng mỗi tác phẩm của Tô Hoài (trong diện khảo

sát của luận án) đều thể hiện đặc điểm của thể loại qua đó người đọc cũng như

các nhà nghiên cứu có thể quy chiếu vấn đề thể loại. Bởi vậy, sáng tác của Tô

Hoài vừa cho thấy quá trình vận động và tương tác thể loại vừa cho thấy những

dấu ấn và cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn Tô Hoài. Sự tương tác thể loại

giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 cho thấy bút lực và tiềm năng sáng

tạo dồi dào, bền bỉ của Tô Hoài. Có thể nói rằng, chính sự tương tác ấy đã góp

phần làm nên diện mạo độc đáo cho tiểu thuyết, hồi kí Tô Hoài trong bức tranh

147

đời sống văn học Việt Nam hiện đại.

KẾT LUẬN

Văn xuôi Việt Nam hiện đại đã ghi dấu sự hiện diện của Tô Hoài với một di sản

khá đồ sộ. Sự nỗ lực trong nghề nghiệp đã khiến ông mau chóng trưởng thành và trở

thành một nhà văn lớn của văn xuôi Việt Nam nửa cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI. Dù

Tô Hoài đã từng thử bút ở nhiều thể loại khác nhau nhưng tiểu thuyết và hồi kí vẫn là

hai thể loại chính, khẳng định vị trí, tài năng và sức sáng tạo của nhà văn.

1. Qua việc tổng quan tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có nhiều

công trình nghiên cứu về sáng tác của Tô Hoài. Những ý kiến đánh giá xác đáng,

khẳng định giá trị tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài giai đoạn sau 1945. Tuy nhiên,

các nhận định, diễn giải từ các công trình nghiên cứu vẫn chủ yếu tập trung vào

một số phương diện quen thuộc và đến nay, chưa có công trình chuyên biệt, đầy

đủ, dày dặn nghiên cứu về vấn đề thể loại, sự tương tác thể loại và chọn thể loại

như một tâm điểm nghiên cứu. Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên

cứu một cách khái quát, tổng thể, hệ thống hai thể loại tiểu thuyết và hồi kí Tô

Hoài giai đoạn sau 1945 dưới góc nhìn thể loại. Vì vậy, nghiên cứu Tiểu thuyết

và hồi kí của Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại vừa làm rõ đặc điểm thể loại

vừa là sự nhận diện cách “hòa trộn”, xóa mờ “lằn ranh” thể loại, từ đó góp thêm

một số kiến thức lí luận thể loại, gợi mở một số vấn đề đối với thực tiễn sáng tạo và

tiếp nhận tiểu thuyết, hồi kí Việt Nam hiện đại. Qua đó, người đọc thấy được nét

khác biệt, đặc sắc trong phong cách sáng tác văn xuôi của Tô Hoài so với các

nhà văn cùng thời, góp thêm một tiếng nói khẳng định vị trí của một nhà văn lão

thành trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

2. Tô Hoài là nhà văn đã có những đóng góp nhiều mặt đối với sự phát triển

của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp sáng tác của ông chia thành ba chặng:

trước 1945, 1945 - 1985, 1986 đến nay. Ở mỗi giai đoạn, tiểu thuyết và hồi kí

Tô Hoài đã đạt được thành tựu quan trọng, đáng chú ý. Ở giai đoạn trước 1945,

Tô Hoài là một cây bút hiện thực đáng chú ý trong nền văn xuôi Việt Nam hiện

đại. Ở giai đoạn 1945 - 1985, thành tựu của Tô Hoài đạt được ở tiểu thuyết viết

về vùng ngoại thành Hà Nội và miền núi với khuynh hướng hiện thực xã hội chủ

148

nghĩa. Ở giai đoạn sau 1986, tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài đã đi sâu vào con

người dưới góc nhìn đời tư. Qua các tác phẩm Mười năm (1958), Miền Tây

(1967), Cát bụi chân ai (1992), Chiều chiều (1999), Ba người khác (2006), Tô

Hoài đã cho thấy sự đổi mới tư duy nghệ thuật từ quan niệm nghệ thuật về con

người đến hình thức và bút pháp nghệ thuật, qua đó mang đến người đọc một nhãn

quan mới về con người ở hiện tại và quá khứ cùng một phương thức biểu hiện mới.

Tô Hoài chính là tấm gương lao động miệt mài, không ngơi nghỉ của một nhà văn

tài năng, có nhiều cống hiến cho nền văn xuôi hiện đại và đương đại.

3. Tiểu thuyết và hồi kí là hai thể loại tiêu biểu cho văn phong, quan niệm

nghệ thuật và chính là ưu thế, sở trường của nhà văn Tô Hoài. Hai thể loại này ở

giai đoạn sau 1945 có đặc điểm riêng. Với tiểu thuyết, Tô Hoài đã khẳng định

được ưu thế vượt trội của mình trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, các kiểu kết

cấu từ truyền thống đến hiện đại, giọng điệu trần thuật đặc sắc. Với thể hồi kí,

Tô Hoài đã xây dựng được hình tượng tác giả qua cái nhìn nghệ thuật về đời

sống xã hội ở thời kì cải cách ruộng đất, về không khí sáng tác văn học căng

thẳng thời kì Nhân văn - Giai phẩm và sự tự thể hiện “cái tôi” tác giả thành hình

tượng tác giả. Nhà văn đã thành công trong việc khắc họa chân dung các văn

nghệ sĩ cùng thời ở cự li gần, ở góc nhìn đời tư, những con người nhỏ bé, đời

thường, bình dị đến từ mọi miền quê. Nổi bật trong hồi kí Tô Hoài sau 1945 là

sự đan xen giữa giọng điệu giễu nhại, hóm hỉnh, hài hước và giọng trữ tình, sâu

lắng. Sự phong phú và đan xen nhiều giọng điệu khác nhau trong hồi kí Tô Hoài

giúp cho nhà văn phản ánh nội dung từ nhiều chiều, nhiều góc độ. Tất cả những

điều đó làm nên sức sống lâu bền và độ hấp dẫn cho những trang tiểu thuyết và

hồi kí của Tô Hoài.

4. Sự biến đổi của tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 diễn ra ở bề mặt

thi pháp thể loại nhưng không làm mất đi đặc trưng riêng mà thể hiện sự năng

động, tươi mới, hiện đại của từng thể loại. Nhìn từ phương thức thể hiện của hồi

kí, người đọc nhận thấy chất tiểu thuyết đã thâm nhập vào hồi kí. Việc sử dụng

các kiểu kết cấu trần thuật và điểm nhìn trần thuật linh hoạt đã góp phần tích cực

và hiệu quả tạo nên âm điệu văn xuôi phức hợp, giàu tính hiện đại. Nhìn từ

149

phương thức thể hiện của tiểu thuyết, người đọc nhận thấy chất hồi kí đã thâm

nhập vào tiểu thuyết. Việc sử dụng những chi tiết tiểu sử, chất liệu đời tư của

nhà văn, người kể chuyện mang hình bóng tác giả, kết cấu truyện theo dòng ý

thức của nhân vật đã góp phần tạo nên cho câu chuyện sinh động như những kí

ức đầy nhân văn của con người, số phận các nhân vật hiện lên một cách gần gũi,

chân thực. Sự tương tác thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 cho

thấy bút lực và tiềm năng sáng tạo dồi dào, bền bỉ của Tô Hoài. Có thể nói rằng,

chính sự tương tác ấy đã góp phần làm nên diện mạo độc đáo cho tiểu thuyết,

hồi kí Tô Hoài trong bức tranh đời sống văn học Việt Nam hiện đại.

Sự cần mẫn, không ngừng học hỏi, tích lũy, tự vượt mình để sáng tạo đã

làm nên bản lĩnh và tài năng nghệ thuật của Tô Hoài. Trong quá trình sáng tác,

nhà văn đã tìm cho mình một lối viết, một giọng điệu, một phong cách nghệ

thuật và con đường riêng. Trên diễn đàn văn xuôi dân tộc, Tô Hoài đã có được

một vị trí trang trọng, xứng đáng, khẳng định vị thế của mình trong hành trình

150

văn xuôi xuyên hai thế kỉ.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Bài viết: Ngôn ngữ trần thuật trong hồi kí “Cát bụi chân ai” và “Chiều chiều”

của Tô Hoài, đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 407 tháng 5/2018

2. Bài viết: Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại - tổng

quan về tình hình nghiên cứu, đăng trên Tạp chí Khoa học trường Đại học Thủ

đô Hà Nội, số 26 tháng 10/2018

3. Bài viết: Chất thơ trong tiểu thuyết Miền Tây của nhà văn Tô Hoài, đăng trên

Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Học viện khoa học xã hội, số 5 năm 2019

4. Bài viết: Chân dung một số nhân vật trong hồi kí Tô Hoài, đăng trên Tạp chí

Khoa học trường Đại học Thủ đô Hà Nội, số 34 tháng 10/2019

5. Bài viết: Chất hồi kí trong tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945, đăng trên Tạp chí

151

Khoa học trường Đại học Thủ đô Hà Nội, số 36 tháng 12/2019

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Kiều Anh (2005), Lí luận về thể loại tiểu thuyết trong nghiên cứu,

phê bình Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn.

2. Phạm Thị Lan Anh (2008), Hồi kí của một số nhà văn Việt Nam hiện đại, Luận

văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

3. Trương Thị Kim Anh (2017), Đôi nét về đổi mới tư duy nghệ thuật trong tiểu

thuyết Việt Nam đương đại, Tạp chí Khoa học, Đại học Đồng Nai, số 07.

4. Thái Phan Vàng Anh (2010), Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt

Nam đương đại, ngày 19/12, nguồn

http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nh

in-van-hoa/giong-dieu-tran-thuat-trong-tieu-thuyet-viet-nam-duong-dai.

5. Thái Phan Vàng Anh (2010), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.

6. Trần Hoài Anh (2009), Tiểu thuyết trong quan niệm của lý luận phê bình

văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975, ngày 30/12, nguồn

https://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11795.

7. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

8. Phạm Đình Ân (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà

Nội.

9. M. Bakhatin (1998), Những vấn đề thi pháp của Đốtxtôiépxki (Người dịch:

Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn), Nxb Giáo dục.

10. M. Bakhatin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh

Cư (tuyển dịch và dịch từ nguyên bản tiếng Nga), Nxb Hội nhà văn.

11. Kate Hamburger (2004), Logic học về các thể loại văn học, Vũ Hoàng Địch,

Trần Ngọc Vương dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Lê Huy Bắc (1998), Giọng điệu và giọng điệu trong văn xuôi Việt Nam

hiện đại, Tạp chí Văn học, số 9.

152

13. Vũ Bằng (1955), Khảo về tiểu thuyết, Phạm Văn Tươi xuất bản, Sài Gòn.

14. Nguyễn Phú Bình (1996), Bản sắc dân tộc miền núi trong “Truyện Tây

Bắc” và “Miền Tây” của Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư

phạm, Thành phố Hồ Chí Minh.

15. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975-1995: Những đổi mới

cơ bản, Nxb Giáo dục.

16. Nguyễn Thị Bình (2013), Đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại: lối viết

hậu hiện đại (trong sách Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam), Nxb Tri thức,

Hà Nội.

17. Lê Thị Biên (2007), Chiều chiều và những đặc sắc về thể tiểu thuyết - tự

truyện của Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.

18. Huyền Chiêu (2014), Nỗi buồn khi đọc lại “Ba người khác” của Tô Hoài,

nguồn: http://tuongtri.com/.

19. Bùi Thị Chuyên (2013), Tiểu thuyết viết về nông thôn sau 1975 (khảo sát

qua tác phẩm của Nguyễn Khắc Trường và Đào Thắng), Luận văn Thạc sĩ Văn

học Việt Nam, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

20. Phạm Việt Chương (1989), Những gương mặt – chân dung văn học Tô

Hoài, Báo Văn Nghệ, số 04.

21. Nguyễn Văn Dân (2012), Con người và văn hóa Việt Nam thời kỳ Đổi mới,

Nxb Khoa học, Hà Nội.

22. Ngô Thị Ngọc Diệp (2013), Hồi kí trong Văn học Việt Nam từ sau Cách

mạng tháng 8/1945 đến nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà

Nội.

23. Lê Tiến Dũng (2002), Lí luận văn học (phần Tác phẩm văn học), Nxb Đại

học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

24. Hoàng Thị Duyên (2018), Đặc trưng cơ bản của nhật kí với tư cách là một

thể loại văn học, ngày 24/9,

nguồnhttp://hpu2.edu.vn/vi/khoa-ngu-van/nghien-cuu-khoa-hoc/dac-trung-co-ba

n-cua-nhat-ki-voi-tu-cach-la-mot-the-loai-van-hoc-109.html.

25. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng Việt,

153

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

26. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện

đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

27. Phan Cự Đệ (1979), Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Đại học và Trung

học chuyên nghiệp.

28. Phan Cự Đệ (chủ biên, 2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

29. Phan Cự Đệ (chủ biên, 2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

30. Nguyễn Đăng Điệp (2004), Tô Hoài, người sinh ra để viết, Tạp chí nghiên

cứu Văn học, số 9.

31. Nguyễn Đăng Điệp (2016), Một số vấn đề Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb

Khoa học xã hội

32. Hà Minh Đức (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học.

33. Hà Minh Đức (1987), Tuyển tập Tô Hoài, tập I, Nxb Văn học.

34. Hà Minh Đức (2007), Tô Hoài đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học.

35. Hà Minh Đức (2010), Tô Hoài: Sức sáng tạo của một đời văn, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

36. Hà Minh Đức (chủ biên, 2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

37. Hoàng Minh Đức (2010), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài

sau 1945, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

38. Hoàng Cẩm Giang (2008), Các khuynh hướng phát triển của tiểu thuyết

Việt Nam đầu thế kỉ XXI từ góc nhìn cấu trúc thể loại, Luận án Tiến sĩ Văn học,

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

39. Hoàng Cẩm Giang (2013), Vấn đề thể loại và ranh giới thể loại trong tiểu

thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI,

https://phebinhvanhoc.com.vn/van-de-the-loai-va-ranh-gioi-the-loai-trong-mot-s

o-tieu-thuyet-viet-nam-dau-the-ki-xxi/.

40. M.Gulaiev (19820, Lí luận văn học, Nxb Đại học và Trung học chuyên

154

nghiệp, Hà Nội.

41. Lê Thị Hà (2007), Nghệ thuật trần thuật trong hồi kí Tô Hoài, Luận văn

Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Vinh.

42. Nguyễn Hoàng Hà (2009), Cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật

trong hồi kí của Tô Hoài (qua hồi kí “Cát bụi chân ai” và “Chiều chiều”), Luận

văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

43. Trần Thị Thu Hà (2013), Nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết của Tô

Hoài, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

44. Trần Thanh Hà (2011), Quan niệm của Milan Kundera về tiểu thuyết qua lí

luận và thực tiễn sáng tác, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội.

45. Xuân Thị Nguyệt Hà (2001), Thủ pháp miêu tả trong tuyển tập “Miền Tây”

của Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

46. Nguyễn Thị Hải (2012), Nhân vật tuổi trẻ trong bộ ba tiểu thuyết của Tô

Hoài: “Quê người” (1942); “Mười năm” (1958); “Quê nhà” (1981), Luận văn

Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

47. Nguyễn Đức Hạnh (2004), Tiểu thuyết Việt Nam thời kì 1965 - 1975 nhìn

từ góc độ thể loại, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

48. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2009), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

49. Lê Thị Thúy Hằng (2010), Khuynh hướng tự thuật trong tiểu thuyết Việt

Nam đầu thế kỷ XXI, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.

50. Dương Thị Thu Hiền (2007), Tô Hoài với hai thể văn: chân dung và tự

truyện, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm, Đại học Thái

Nguyên.

51. Đinh Thị Thu Hiền (2007), Đặc điểm tiểu thuyết Tô Hoài, Luận văn Thạc

sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

52. Lê Minh Hiền (1998), Tìm hiểu hồi kí Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ, Đại học

Sư phạm Hà Nội.

53. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Tập bài giảng nghiên cứu văn học, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

155

54. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn.

55. Đỗ Đức Hiểu (2003), Từ điển Văn học, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội.

56. Đỗ Văn Hiểu, Vận dụng lí thuyết tự sự học vào nghiên cứu hình thái thể

loại tiểu thuyết, ngày 8/5/2017, nguồn

http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Lyluanvanhoc/tabid/104/newstab/2948/D

efault.aspx.

57. Trần Thị Hồng Hoa (2016), Chất tiểu thuyết trong hồi ký thời kỳ Đổi mới,

Hội nghị lý luận phê bình lần thứ IV Văn học 30 năm đổi mới.

58. Trần Thị Hồng Hoa (2017), Hồi kí trong Văn học Việt Nam giai đoạn từ

1975 đến nay nhìn từ đặc trưng thể loại, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn.

59. Mai Thị Khánh Hòa (2017), Giao thoa thể loại trong hồi kí Tô Hoài (qua

Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Chuyện cũ Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn

học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

60. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo

dục Hà Nội.

61. Nguyễn Thị Hoài (2018), Chất trào lộng trong hồi kí - tự truyện của Tô

Hoài, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục, Đại học Sư phạm Hà Nội

62. Tô Hoài (1960), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà

Nội.

63. Tô Hoài (1997), Sổ tay viết văn, Nxb Mới.

64. Tô Hoài (1997), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nxb Văn học, Hà

Nội

65. Tô Hoài (1985), Tự truyện, Nxb Văn học, Hà Nội.

66. Tô Hoài (1992), Cát bụi chân ai, Nxb Hội nhà văn.

67. Tô Hoài (1997), Cỏ dại, Nxb Hội nhà văn

68. Tô Hoài (2005), Giăng thề, Nxb Trẻ.

69. Tô Hoài (2007), Ba người khác, Nxb Đà Nẵng.

70. Tô Hoài (2014), Chiều chiều, Nxb Hội nhà văn.

71. Tô Hoài (2015), Quê người, Nxb Văn học

156

72. Tô Hoài (2015), Mười năm, Nxb Hội nhà văn.

73. Tô Hoài (2015), Miền Tây, Nxb Văn học.

74. Tô Hoài (2015), Quê nhà, Nxb Văn học.

75. Tô Hoài (2005), Hồi kí (Cỏ dại, Tự truyện, Cát bụi chân ai, Những gương

mặt), Nxb Hội nhà văn.

76. Nguyễn Công Hoan (1997), Hỏi chuyện các nhà văn, Nxb Tác phẩm mới.

77. Mai Hoàng (2015), Tô Hoài một đời văn, ngày 20/7, nguồn

https://www.baodanang.vn/channel/5414/201507/to-hoai-mot-doi-van-2429315/

78. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, Nxb Văn học, Hà Nội.

79. Hoàng Thị Huệ (2012), Đa thanh - một đặc điểm giọng điệu của tiểu thuyết

ngắn Việt Nam những năm gần đây, ngày 3/8, nguồn

https://ambn.vn/recruit/3734/dac-diem-da-thanh-trong-giong-dieu-cua-tieu-thuy

et-ngan-viet-nam-hien-dai.html

80. Đoàn Trọng Huy (2006), Tô Hoài, Lịch sử văn học Việt Nam (tập 3), Nxb

Đại học Sư phạm Hà Nội.

81. Nguyễn Quốc Huy (2010), Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Ba người

khác của Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà

Nội.

82. Lại Thị Thu Huyền (2006), Chân dung văn học Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ,

Đại học Sư phạm Hà Nội.

83. Trương Thị Huyền (2007), Đặc trưng của thể loại hồi kí Tô Hoài, Luận

văn Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội

84. Phạm Thu Hương, Kỷ niệm 1 năm ngày mất nhà văn Tô Hoài: Nụ cười của

con người đầy bản lĩnh, ngày 20/10/2015, nguồn

https://anninhthudo.vn/giai-tri/ky-niem-1-nam-ngay-mat-nha-van-to-hoai-nu-cu

oi-cua-con-nguoi-day-ban-linh/622443.antd.

85. Nguyễn Quang Hưng (2016), Đặc điểm hồi kí Văn học Việt Nam từ 1975

đến 2000, Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam, Đại học Huế.

86. Ma Văn Kháng (2009), Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương,

157

Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

87. V.Kôginốp (1963), Các loại hình nghệ thuật, Bùi Thế Khánh dịch, Nxb

Văn hóa nghệ thuật.

88. M. Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Đà

Nẵng.

89. Thạch Lam (1962), Theo giòng, Nxb Đời nay, Sài Gòn.

90. Cao Kim Lan (2015), Tác giả hàm ẩn trong tu từ học tiểu thuyết, Nxb Văn

học.

91. Cao Kim Lan (2019), Ma thuật của truyện kể - Tự sự học và những diễn

giải văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.

92. Phạm Ngọc Lan (2006), Tự truyện và sự thể hiện cái tôi cá nhân trong văn

học Việt Nam hiện đại trong sách Bình luận văn học, Hội nghiên cứu và giảng

dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Sài Gòn.

93. Tôn Phương Lan (2015), Tô Hoài viết về Nguyễn Tuân, ngày 30/7, nguồn

https://nhandan.com.vn/vanhoa/item/27027202-to-hoai-viet-ve-nguyen-tuan.htm

l.

94. Tôn Phương Lan (2015), Tô Hoài và bạn văn qua hồi kí, ngày 19/7, nguồn

http://daidoanket.vn/van-hoa/to-hoai-va-ban-van-qua-hoi-ky-tintuc56302.

95. Phong Lê (giới thiệu), Vân Thanh (tuyển chọn, 2000), Tô Hoài về tác gia

và tác phẩm, Nxb Giáo dục.

96. Nguyễn Văn Long (chủ biên, 2012), Văn học Việt Nam hiện đại (Tập II, Từ

sau Cách mạng tháng Tám 1945), Nxb Đại học Sư phạm.

97. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên, 2009), Văn học Việt

Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục.

98. Nguyễn Văn Long, Tô Hoài và một phong cách tiểu thuyết, ngày

13/10/2009, nguồn

https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/to-hoai-mot-nguoi-ha-noi-bai-2-to-hoai-va-mo

t-phong-cach-tieu-thuyet-n20091012024323970.htm.

99. Phương Lựu (chủ biên, 2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

100. Hoàng Như Mai (1971), Kí và giảng dạy kí, Vấn đề giảng dạy tác phẩm

158

văn học theo loại thể, Nxb Giáo dục.

101. Văn Thị Mai (2007), Phong cách tiểu thuyết Tô Hoài (khảo sát qua các

tiểu thuyết “Quê người”, “Mười năm”, “Ba người khác”), Luận văn Thạc sĩ

Khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

102. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại – chân dung và

phong cách, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

103. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), “Khải luận” in trong Tổng tập văn học Việt

Nam, tập 32, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

104. Trần Hoa Minh, Tô Hoài trở lại với “Ba người khác”, Nguồn:

http://vietbao.vn/Van-hoa/To-Hoai-tro-lai-voi-Ba-nguoi-khac/7501382/181/.

105. Mai Thị Nga (2012), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài, Luận

văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

106. Mạc Thị Nga (2011), Màu sắc tự truyện trong tiểu thuyết Tô Hoài (qua

“Quê người”, “Mười năm”, “Quê nhà”, “Ba người khác”), Luận văn Thạc sĩ

Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

107. Nguyễn Thúy Nga (2006), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài qua hồi kí

“Cát bụi chân ai” và “Chiều chiều”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại

học Sư phạm Hà Nội.

108. Vũ Thùy Nga (2016), Ngôn từ nghệ thuật trong sáng tác của Tô Hoài,

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

109. Nguyễn Dung Nghi (2013), Hình tượng tác giả trong hồi kí Tô Hoài thời

kì đổi mới, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

110. Phạm Duy Nghĩa (2014), Miền núi của Tô Hoài, ngày 11/8, nguồn

http://tonvinhvanhoadoc.vn/mien-nui-cua-to-hoai.html/

111. Nguyên Ngọc dịch (2001), Tiểu luận, Milan Kundera, Nxb Văn hóa

thông tin và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.

112. Nguyên Ngọc (2009), Văn xuôi Việt Nam hiện nay – logic quanh co của

các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng (In trong Văn học Việt Nam

sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy), Nxb Giáo dục.

159

113. Nguyên Ngọc (2009), Tác phẩm, tập 2, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

114. Nguyễn Lương Ngọc (Trần Hữu Tá giới thiệu, biên soạn) (2004), Nguyên

lí văn học in trong Tuyển tập Nguyễn Lương Ngọc, Nxb Đại học Quốc gia

Thành phố Hồ Chí Minh.

115. Lã Nguyên (dịch – 2013), Iu.Lotman: Kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn

từ, ngày 29/3, nguồn

http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=13

678%3Akt-cu-tac-phm-ngh-thut-ngon-t-iu-lotman-phn-1&catid=4188%3Avn--v

n-hc&lang=fr&site=30.

116. Nguyễn Thị Nguyên (2010), Hình tượng tác giả trong hồi kí tự truyện của

Tô Hoài, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn,

Đại học Sư phạm Hà Nội.

117. Vương Trí Nhàn (2002), Tô Hoài và thể hồi kí, Tạp chí Văn học, số 5.

118. Lê Thị Nhiên (2018), Hồi kí cách mạng trong văn học Việt Nam hiện đại,

Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ, tập 54, số 9c.

119. Mai Thị Nhung (2005), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, Luận án Tiến sĩ

Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

120. Đỗ Hải Ninh (2012), Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong Văn

học Việt Nam đương đại, Luận án Tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học xã hội.

121. Đỗ Hải Ninh (2018), Tô Hoài - văn chương như là cuộc đời, ngày 17/5,

nguồn

http://vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/to-hoai-van-chuong-nhu-la-c

uoc-doi-12067_336.html

122. Nguyễn Thị Ninh (2012), Kết cấu tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Luận

án Tiến sĩ Ngữ Văn, Học viện Khoa học xã hội.

123. Nhiều tác giả (2002), Lịch sử văn học Việt Nam tập 3, Nxb Giáo dục.

124. Lê Lưu Oanh, Phạm Đăng Dư (2008), Lí luận văn học, Nxb Đại học Sư

phạm Hà Nội.

125. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam đương

đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

160

126. Vũ Ngọc Phan (2007), Nhà văn hiện đại, Quyển 4, Nxb Tân Dân.

127. Hoàng Phê (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển Ngôn ngữ, Hà

Nội

128. Trần Thị Mai Phương (2009), Nhân vật người kể chuyện trong hồi kí và

tự truyện Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân

văn.

129. Trần Thị Mai Phương (2017), Tư duy nghệ thuật trong hồi kí Văn học

Việt Nam từ 1986 đến nay, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học xã hội

và Nhân văn.

130. Phạm Quỳnh (2003), Luận giải Văn học và Triết học, Nhà xuất bản

Thông tin.

131. G.N.Pôxpêlôp (chủ biên - 1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Người

dịch: Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà, Nxb Giáo dục.

132. Đào Xuân Quý (2002), Nhớ lại, Nxb Thông tin, Hà Nội.

133. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

134. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch

sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

135. Trần Đình Sử (2014), Lí luận văn học tập 2, Nxb Đại học Sư phạm Hà

Nội.

136. Trần Đình Sử (2014), Bakhtin và những vấn đề thi pháp Dostoievski của

ông, ngày 4/3, nguồn

https://trandinhsu.wordpress.com/2014/03/04/bakhtin-va-nhung-van-de-thi-phap

-dostoievski-cua-ong/.

137. Trần Đình Sử (2015), Thể loại nhật kí trong đời sống xã hội và trong văn

học, ngày 5/9, nguồn

https://trandinhsu.wordpress.com/2015/09/05/the-loai-nhat-ki-trong-doi-song-xa

-hoi-va-trong-van-hoc/.

138. Doãn Quốc Sỹ (1972), Văn học và tiểu thuyết, Nxb Sáng tạo, Sài Gòn.

139. Sylvan Barnet, Morton Berman, William Burto (Hoàng Ngọc Hiến dịch

161

và giới thiệu) (1992), Nhập môn văn học, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

140. Trần Hữu Tá (1990), Tô Hoài - Lịch sử Văn học Việt Nam 1945 - 1975,

tập 2, Nxb Giáo dục.

141. Trần Hữu Tá (2001), Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, Nxb

Trẻ.

142. Hoàng Thị Tâm (2016), Đặc điểm nghệ thuật tự truyện của Tô Hoài sau

1986, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (102).

143. Bùi Việt Thắng (2009), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - nhìn từ góc độ

thể loại (In trong Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và

giảng dạy), Nxb Giáo dục.

144. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin

145. Bùi Việt Thắng (2019), Thi pháp tiểu thuyết hiện đại, Nxb Thanh niên.

146. Nguyễn Đình Thi (1964), Công việc của người viết tiểu thuyết, Nxb Văn

học Hà Nội.

147. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học thế giới mở, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh.

148. Nguyễn Thành Thi, Lược đồ Văn học quốc ngữ Việt Nam trước 1945 nhìn

từ quá trình hình thành và tương tác thể loại, ngày 16/4/2013, nguồn

http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=13

829%3A2013-04-15-23-09-32&catid=4188%3Avn--vn

hc&Itemid=278&lang=vi&site=3011.

149. Nguyễn Thành Thi (2019), Về xu hướng tương tác thể loại giữa tiểu

thuyết và truyện ngắn hiện đại, Tạp chí Khoa học Đại học Văn hiến, số 4.

150. Nguyễn Ngọc Thiện (2004), Sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết

hiện đại và lí luận tiểu thuyết hiện đại ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX trong quan

hệ với tiểu thuyết và thi pháp tiểu thuyết của nước ngoài, Việt Nam học - Kỷ

yếu Hội thảo quốc tế lần thứ 2.

151. Nguyễn Ngọc Thiện (2017), Hồi ký văn học trong dòng chảy văn học Việt

Nam hiện đại, ngày 5/12, nguồn

http://vanhocnghethuathatinh.org.vn/hoi-ky-van-hoc-trong-dong-chay-van-hoc-v

162

iet-nam-hien-dai-1512438053.html.

152. Trần Viết Thiện (2016), Tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam đương

đại, Chuyên luận, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

153. Trần Văn Thọ (2006), Vài cảm giác với “Chiều chiều”, Văn nghệ trẻ, số

ra ngày 30.

154. Dương Thị Hiền Thu (2004), Tô Hoài với hai thể văn; chân dung và tự

truyện, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Thái Nguyên.

155. Nguyễn Thị Thu (2013), Số phận con người trong tiểu thuyết của Dương

Hướng, Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam, Đại học Khoa học xã hội và Nhân

văn.

156. Lý Hoài Thu (2002), Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học

thời kì Đổi mới, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 01.

157. Lý Hoài Thu (2006), Đồng cảm và sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội

158. Lý Hoài Thu (2008), Hồi kí và bút kí thời kì Đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu

văn học, số 10.

159. Đỗ Lai Thúy (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp (Lý thuyết chủ nghĩa

hình thức Nga), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

160. Lê Thị Lệ Thủy (2017), Hồi kí văn học (của nhà văn) trong văn học Việt

Nam hiện đại nhìn từ góc độ thể loại, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa

học xã hội và Nhân văn.

161. Lê Hương Thủy (2014), Hiện tượng truyện ngắn tiểu thuyết hóa trong

văn học Việt Nam đương đại, Tạp chí Văn nghệ quân đội.

162. Nguyễn Thị Thu Thủy (2014), Tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên

Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài từ góc nhìn diễn ngôn nghệ thuật, Luận văn Thạc sĩ

Văn học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

163. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

164. Phạm Thị Thanh Thủy (2010), Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài

trước Cách mạng, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

163

văn.

165. Trần Thanh Thủy (2016), Hiện thực đời sống và con người trong hồi kí

“Cát bụi chân ai: của Tô Hoài, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm Hà Nội

2.

166. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời

kì đổi mới, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

167. Đặng Tiến (2012), Tổng quan về Hồi kí của Tô Hoài, ngày 1/10, nguồn

http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-va

n-hoa/tong-quan-ve-hoi-ky-to-hoai.

168. Phan Văn Tiến, Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2015), Lí luận văn học 2 (tác

phẩm và loại thể văn học), Đại học Tây Đô.

169. L.I.Timôfêep (1962) (Lê Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo, Bùi Khánh Thế,

Nguyễn Hải Hà, Minh Hảo, Nhữ Thành dịch), Lí luận văn học tập 1, Nxb Văn

hóa, Viện Văn học, Hà Nội.

170. L.I.Timôfêep (1962) (Lê Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo, Bùi Khánh Thế,

Nguyễn Hải Hà, Minh Hảo, Nhữ Thành dịch), Lí luận văn học tập 2, Nxb Văn

hóa, Viện Văn học, Hà Nội.

171. Nguyễn Thị Tỉnh (2010), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài trong hồi kí

Chiều chiều và Cát bụi chân ai, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm Hà

Nội 2.

172. Todorov (2004), Mikhail Bakhtin - Nguyên lý đối thoại, Người dịch: Đào

Ngọc Chương, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

173. Nguyễn Văn Tổng (2019), Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện

trong văn học Việt Nam thế kỉ XX, Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam, Đại học

Khoa học Huế.

174. Nguyễn Thị Quỳnh Trang (2016), Hiện tượng giao thoa thể loại trong

sáng tác của A.Chekhov (qua khảo sát kịch và truyện ngắn), Luận án Tiến sĩ

Văn học, Học viện Khoa học xã hội.

175. Nguyễn Thu Trang (2009), Chất trữ tình trong hồi kí Tô Hoài, Luận văn

164

Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

176. Phạm Thị Thùy Trang (2015), Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Việt

Nam từ 1986 đến 2000, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí

Minh, số 1 (66).

177. Phạm Thị Thùy Trang (2016), Tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000

nhìn từ lý thuyết tự sự, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và văn hóa, Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh.

178. Khải Trí (2014), Tô Hoài: Bậc thầy của kí họa chân dung đời thường,

ngày 7/7, nguồn

https://vietnamnet.vn/vn/giai-tri/to-hoai-bac-thay-cua-ky-hoa-chan-dung-doi-thu

ong-184627.html.

179. Nguyễn Minh Trường (2015), Truyện viết về đề tài dân tộc và miền núi

giai đoạn 1945-1975, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn.

180. Nguyễn Khắc Trường (2008), Hồi ký đòi hỏi khắt khe về sự thật, Tạp chí

Nghiên cứu văn học, số 8.

181. Lê Dục Tú (2014), Ký Việt Nam đương đại những đổi mới trong nghệ

thuật viết kí, Báo Văn nghệ, số 29.

182. Nguyễn Văn Tùng (2007), Lí luận tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỉ XX, Luận

án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

183. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Nxb

Tri thức.

184. L.X.Vưgốtxki (1981), Tâm lí học nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

185. Nguyễn Thị Ái Vân (2011), Đặc điểm nghệ thuật tự truyện và hồi kí của

Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm, Thành phố Hồ Chí Minh.

186. Quỳnh Vân, Nhà văn Tô Hoài: “Phải nhân lên những điều tốt đẹp”, ngày

nguồn 8/7/2014,

https://baomoi.com/nha-van-to-hoai-phai-nhan-len-nhung-dieu-tot-dep/c/142542

165

99.epi.

187. Hoàng Duy Vũ (2008), Vùng cao trong văn Tô Hoài, ngày 22/4, nguồn

http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c78/n147/Vung-cao-trong-van-To-Hoai.

html.

188. Điêu Thị Tú Uyên (2018), Tiểu thuyết viết về miền núi từ sau đổi mới,

Luận án Tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học xã hội.

189. Đỗ Ngọc Yên, Văn học thời kì chống Pháp và Mỹ, nguồn

http://toquoc.vn/van-hoc-thoi-ky-chong-phap-va-chong-my-99129465.htm.

190. Tọa đàm về Ba người khác của Tô Hoài, ngày 6/1/2007, nguồn

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8936&rb=0102.

191. https://www.vinadia.org/hoi-ky-nguyen-dang-manh/hoi-ky-nguyen-dang-

manh-to-hoai/

192. https://chumonglong-wordpress

com.cdn.ampproject.org/v/s/chumonglong.wordpress.com/2014/07/23/viet-nhan

h-ve-ba-nguoi-khac-cua-to-hoai/amp.

193. http://vuongdangbi.blogspot.com/2009/05/to-hoai-va-hoi-ky.html

TÀI LIỆU NƢỚC NGOÀI

194. Abrams, M.H (1993), A glossary of literary terms (sixth edition),

Harcourt Brace Jovanovich College Publishers, The United States of America.

195. Lukacs, Geory (1988), The theory of novel (Translated from the German

by Anna Bostock), Whitsable Litho Printers Ltd., The United States of

American.

196. Prince, Gerald (2003), Dictionary of narratology (revised edition),

University of Nebraska press: Lincoln and London, The United States of

American

197. https://www.liferichpublishing.com/AuthorResources/Nonfiction/Differe

166

nces-Between-Memoir-AutoBiography.aspx