VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ THƢƠNG
TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945
DƢỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ THƢƠNG
TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945
DƢỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI
Ngành: Lí luận Văn học
Mã số: 9 22 01 20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Lý Hoài Thu
2. TS. Lê Thị Hƣơng Thủy
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS Lý Hoài Thu và TS. Lê Thị Hương Thủy cùng với sự
góp ý của các nhà khoa học
Các kết quả nghiên cứu của luận án là trung thực và chưa được công bố
trong bất kì công trình nào.
Tác giả luận án
Vũ Thị Thương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................. 7
1.1. Những công trình nghiên cứu khái quát về tiểu thuyết và hồi kí
Tô Hoài ............................................................................................................. 7
1.2. Những công trình nghiên cứu cụ thể về tiểu thuyết và hồi kí Tô
Hoài sau 1945 ................................................................................................ 10
1.2.1. Về các tác phẩm tiểu thuyết cụ thể ............................................... 10
1.2.2. Về các tác phẩm hồi kí cụ thể ....................................................... 17
1.2.3. Những công trình nghiên cứu về sự tương tác giữa tiểu thuyết
và hồi kí Tô Hoài .................................................................................... 20
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 24
Chƣơng 2: VẤN ĐỀ THỂ LOẠI VÀ DIỆN MẠO TIỂU THUYẾT,
HỒI KÍ TÔ HOÀI ......................................................................................... 25
2.1. Đặc trƣng thể loại tiểu thuyết và hồi kí ................................................ 25
2.1.1. Tiểu thuyết nhìn từ một số đặc trưng thể loại ............................... 25
2.1.2. Hồi kí nhìn từ một số đặc trưng thể loại ....................................... 34
2.2. Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài trong dòng chảy văn xuôi Việt Nam
hiện đại ............................................................................................................ 40
2.2.1. Giai đoạn trước 1945 .................................................................... 40
2.2.2. Giai đoạn 1945 đến 1985 .............................................................. 43
2.2.3. Giai đoạn 1986 đến nay ................................................................ 48
2.3. Quan điểm sáng tác và sự đổi mới tƣ duy nghệ thuật của Tô Hoài .. 51
2.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan điểm sáng tác và tư duy
nghệ thuật của Tô Hoài ........................................................................... 51
2.3.2. Quan điểm sáng tác của Tô Hoài .................................................. 53
2.3.3. Sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Tô Hoài ................................... 55
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 59
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU
1945 TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI ................................................................ 60
3.1. Đặc điểm tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại ............. 60
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ...................................................... 60
3.1.2. Kết cấu trần thuật .......................................................................... 73
3.1.3. Giọng điệu trần thuật .................................................................... 82
3.2. Đặc điểm hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại ...................... 87
3.2.1. Hình tượng tác giả ......................................................................... 87
3.2.2. Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật ..................................... 98
3.2.3. Giọng điệu trần thuật .................................................................. 107
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 113
Chƣơng 4: SỰ TƢƠNG TÁC THỂ LOẠI GIỮA TIỂU THUYẾT VÀ
HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945 ..................................................................... 114
4.1. Tƣơng tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam hiện đại và trong văn
xuôi Tô Hoài sau 1945 ................................................................................. 114
4.2. Chất tiểu thuyết trong hồi kí Tô Hoài sau 1945 ................................ 120
4.2.1. Kết cấu trần thuật đa dạng .......................................................... 120
4.2.2. Trần thuật đa điểm nhìn .............................................................. 125
4.3. Chất hồi kí trong tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 ................................ 131
4.3.1.Tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư ................................................... 131
4.3.2. Nghệ thuật trần thuật đậm chất hồi kí ......................................... 140
Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................ 147
KẾT LUẬN .................................................................................................. 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ...................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Lịch sử văn học Việt Nam ghi dấu nhiều tên tuổi lớn, trong số đó
không thể thiếu Tô Hoài - nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Với
hành trình sáng tác gần 75 năm, gia tài chữ nghĩa “đồ sộ” của ông đã mang đến
nhiều cung bậc cảm xúc cho các thế hệ độc giả Việt Nam. Tô Hoài viết nhiều,
viết khỏe, phong phú về số lượng và đặc sắc về chất lượng. Hai mươi tuổi, ông
đã có những tác phẩm đầu tay được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ
bảy. Trong suốt thời gian cầm bút, ông đã sáng tác trên 150 tác phẩm với nhiều
thể loại gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa, kí (bút kí, hồi kí,
chân dung), kịch bản phim, tản văn, lí luận - kinh nghiệm sáng tác…cùng sự đa
dạng về đề tài: thiếu nhi, đời sống chiến tranh và hòa bình, miền núi và miền
xuôi. Ở lĩnh vực nào, ông cũng tạo được dấu ấn và gặt hái được thành công.
Đóng góp của Tô Hoài được ghi nhận ở cả hai chặng đường trước và sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đặc biệt giai đoạn sau 1945, Tô Hoài đạt
được nhiều thành tựu, số lượng tác phẩm nhiều hơn, thể loại phong phú hơn.
Trước 1945, Tô Hoài chủ yếu viết truyện ngắn và ông cũng sớm thử sức ở thể
loại truyện dài. Đối tượng hướng đến trong sáng tác của nhà văn là thế giới loài
vật, cuộc sống và con người ở vùng quê nội, ngoại thành Hà Nội với các tác
phẩm: Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện dài - 1941), Giăng thề (truyện vừa - 1942),
Quê người (tiểu thuyết - 1942), O chuột (truyện ngắn - 1942), Nhà nghèo (tập
truyện ngắn - 1942), Cỏ dại (hồi kí - 1944)…Sau 1945, đồng hành cùng dân tộc,
Tô Hoài mở rộng phạm vi phản ánh, đi sâu vào cuộc sống của người dân các dân
tộc vùng cao trong kháng chiến chống thực dân Pháp và thành công với nhiều
thể loại. Một số tác phẩm tiêu biểu thời kì này là Truyện Tây Bắc (tập truyện -
1953), Mười năm (tiểu thuyết - 1958), Miền Tây (tiểu thuyết - 1967), Nhật kí
vùng cao (nhật kí - 1969), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (tiểu thuyết - 1971), Tự
truyện (1978), Quê nhà (tiểu thuyết - 1980).…Ở thời kì Đổi mới sau 1986, Tô
Hoài lại khẳng định tên tuổi của mình trên diễn đàn văn xuôi hiện đại với các tác
1
phẩm Những gương mặt (chân dung - 1988), Cát bụi chân ai (hồi kí - 1992),
Chuyện cũ Hà Nội (truyện ngắn - 1998), Chiều chiều (hồi kí - 1999), Ba người
khác (tiểu thuyết - 2006)…Đối với mỗi giai đoạn sáng tác, Tô Hoài đều tạo cho
mình một tiếng nói, cách nhìn, phong cách và một cá tính sáng tạo riêng. Với
khối lượng tác phẩm đồ sộ và sáng tác đa dạng, phong phú về thể loại, Tô Hoài
đã hiện diện như một nhà văn giàu tài năng và sức sáng tạo. Trong “ngôi nhà”
thể loại đó, các nhà nghiên cứu, phê bình đều nhận ra tiểu thuyết và hồi kí là
những thể loại sở trường kết tinh tài năng, tâm huyết nghệ thuật của Tô Hoài và
là hai bộ phận sáng tác chủ yếu trong văn nghiệp của ông. Với các tác phẩm tiêu
biểu được sáng tác sau 1945: Mười năm (tiểu thuyết - 1958), Miền Tây (tiểu
thuyết - 1967), Cát bụi chân ai (hồi kí - 1992), Chiều chiều (hồi kí - 1999), Ba
người khác (tiểu thuyết - 2006), Tô Hoài thực sự đã trở thành cây bút viết tiểu
thuyết, hồi kí độc đáo và hấp dẫn.
1.2. Một trong những hướng tiếp cận văn học mang lại hiệu quả cao và
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm là tiếp cận từ phương diện thể loại. Thể
loại là dạng thức tồn tại của chỉnh thể tác phẩm văn học. Thể loại giữ vai trò
quan trọng trong định hình kiểu loại sáng tác và nhận diện tác phẩm. Thể loại là
yếu tố thể hiện rõ nhất đặc trưng loại hình văn học và diện mạo, đường nét,
những yêu cầu, quy định bắt buộc về tổ chức, kết cấu, hình thức của một tác
phẩm văn học. Qua hình thức của một thể loại, nhà văn thể hiện thái độ thẩm mĩ
đối với hiện thực, bộc lộ cách cảm thụ, nhìn nhận và “giải minh” về thế giới và
con người. Tiếp cận một hiện tượng văn học từ phương diện thể loại là hướng
nghiên cứu có sức “vẫy gọi”, luôn chứa đựng tính mới, là cách thức nhằm tìm ra
sự độc đáo trong phong cách của từng tác giả đồng thời cũng là một con đường
hứa hẹn có những đóng góp nhất định.
1.3. Ở giai đoạn sau 1945 đặc biệt thời kì Đổi mới, đời sống văn học đương
đại đang có sự đổi mới tư duy nghệ thuật mà tương tác thể loại là một biểu hiện
theo chiều hướng đó. Tương tác thể loại vừa mang tính nội tại, tính tự thân của
quá trình vận động đời sống thể loại vừa cho thấy ý thức đổi mới lối viết của chủ
thể sáng tạo. Sáng tác của Tô Hoài cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tô Hoài
2
một mặt bám sát đặc trưng thể loại mặt khác lại có xu hướng đan xen thể loại:
hồi kí đậm chất tiểu thuyết, tiểu thuyết đậm chất hồi kí. Điều này tạo nên một lối
viết văn xuôi, một kiểu tác giả Tô Hoài khác biệt so với các nhà văn trước và
cùng thời.
Điểm lại lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi nhận thấy đã có nhiều công
trình nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài và sáng tác của ông. Nhìn chung, ở từng
phương diện, các tác giả đều phát hiện được những điểm độc đáo, hấp dẫn, giá
trị và đóng góp của nhà văn trong nền văn xuôi hiện đại của dân tộc. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu về sáng tác của Tô Hoài chưa quan tâm nhiều tới lí
thuyết thể loại. Vì vậy, tìm hiểu, đánh giá một cách chỉnh thể, hệ thống tiểu thuyết
và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại thông qua nghiên cứu đặc điểm
thể loại tiểu thuyết và hồi kí, sự tương tác giữa tiểu thuyết và hồi kí là việc cần thiết,
bù đắp lại những khoảng trống mà các tác giả khác chưa nghiên cứu.
Từ những cơ sở trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài Tiểu thuyết và hồi kí
Tô Hoài sau 1945 dƣới góc nhìn thể loại. Luận án hoàn thành hi vọng sẽ góp
thêm một cách nhìn nhận, diễn giải, một hướng nghiên cứu chuyên biệt từ góc
nhìn thể loại nhằm khẳng định giá trị, sức hấp dẫn trong tiểu thuyết và hồi kí Tô
Hoài, giúp người đọc có cái nhìn khoa học, khách quan về những đóng góp
nhiều mặt của Tô Hoài đối với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể
loại, luận án nhằm các mục đích sau:
- Làm rõ quan điểm sáng tác và sự đổi mới tư duy nghệ thuật của nhà văn
Tô Hoài ở giai đoạn trước và sau 1945 đặc biệt là từ sau 1986 qua đó làm nổi bật
diện mạo, sự vận động, phát triển và sự kế thừa, tiếp biến nghệ thuật viết tiểu
thuyết, hồi kí ở các giai đoạn.
- Xác định đặc điểm tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể
loại, lí giải sự tương tác thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí; từ đó khẳng định vị
trí, đóng góp, phong cách, tài năng của nhà văn trong tiến trình vận động văn
3
xuôi Việt Nam hiện đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án được triển khai với các nhiệm vụ chính sau đây:
- Hệ thống hóa những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết và hồi kí Tô
Hoài nói chung và sau 1945 nói riêng.
- Xác định đặc điểm tiểu thuyết và hồi kí, làm rõ những chặng đường sáng
tác tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài, quan điểm sáng tác và sự đổi mới tư duy nghệ
thuật của nhà văn.
- Xác định đặc điểm của tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể
loại trên một số phương diện cơ bản: nghệ thuật xây dựng nhân vật, kết cấu trần
thuật, giọng điệu trần thuật.
- Xác định đặc điểm của hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại
trên một số phương diện cơ bản: hình tượng tác giả, nghệ thuật khắc họa chân
dung nhân vật, giọng điệu trần thuật.
- Tìm hiểu sự hòa trộn, mờ nhòe ranh giới thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí
Tô Hoài sau 1945, nghiên cứu những dấu hiệu và hiệu quả nghệ thuật của sự
tương tác thể loại.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Khảo sát một số tiểu thuyết và hồi kí tiêu biểu của Tô Hoài sau 1945:
Mười năm (tiểu thuyết - 1958), Miền Tây (tiểu thuyết - 1967), Cát bụi chân ai
(hồi kí - 1992); Chiều chiều (hồi kí - 1999); Ba người khác (tiểu thuyết - 2006).
Trong quá trình nghiên cứu, một số tác phẩm của nhà văn Tô Hoài và các
nhà văn khác sẽ được tham chiếu để so sánh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương pháp
4
nghiên cứu cơ bản sau:
4.1. Phương pháp tiểu sử: từ những yếu tố về tiểu sử tác giả sẽ đi sâu vào mối
liên hệ giữa tác giả và tác phẩm để lí giải những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết
và hồi kí, sự tương tác giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945.
4.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học: vận dụng thi pháp học để phân tích các
tác phẩm cụ thể qua đó rút ra những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết và hồi kí
Tô Hoài sau 1945.
4.3. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nhằm phân tích, lí giải sự tác động
qua lại giữa các yếu tố văn hóa và văn học, thời đại, lịch sử, xã hội đến quan
điểm sáng tác và tư duy nghệ thuật của nhà văn.
4.4. Phương pháp so sánh: nhằm rút ra những điểm tương đồng và khác biệt của tiểu
thuyết và hồi kí Tô Hoài ở các giai đoạn sáng tác trên các chiều đồng đại và lịch đại,
sự độc đáo và tương hợp trong phong cách sáng tác với các tác giả cùng thời.
4.5. Phương pháp hệ thống: đặt tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài trong tiến trình
vận động của văn xuôi Việt Nam hiện đại và trong tương quan với các thể loại
khác của nhà văn Tô Hoài.
Ngoài ra, chúng tôi kết hợp vận dụng các phương pháp, thao tác khác khi
cần thiết: thao tác phân tích - tổng hợp, phương pháp loại hình và lí thuyết thể
loại, tự sự học có liên quan.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên chuyên biệt nghiên cứu hệ thống về tiểu
thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945, dựng lại một cách tương đối đầy đủ diện mạo
và quá trình phát triển của hai thể loại chính trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài
giai đoạn này.
Luận án chỉ ra đặc điểm tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn
thể loại, sự tương tác thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ đó thấy
được dấu ấn phong cách, đặc điểm thi pháp và kĩ thuật tự sự của nhà văn.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lí luận
Với hai thể loại tiểu thuyết và hồi kí, Tô Hoài đã khẳng định được tên tuổi, vị
5
trí, tài năng, phong cách sáng tác của mình. Nghiên cứu tiểu thuyết và hồi kí của Tô
Hoài sau 1945 vừa làm rõ đặc điểm thể loại vừa là sự nhận diện cách hòa trộn, xóa
mờ lằn ranh thể loại, từ đó góp thêm một số kiến thức lí luận thể loại, gợi mở một số
vấn đề đối với thực tiễn sáng tạo và tiếp nhận tiểu thuyết, hồi kí Việt Nam hiện đại.
6.2. Về mặt thực tiễn
Tô Hoài là một trong những tác giả tiêu biểu được giảng dạy trong nhà
trường. Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng trong nghiên
cứu, giảng dạy và học tập văn học Việt Nam ở bậc phổ thông và đại học.
Do vậy, luận án có giá trị lí luận và thực tiễn quan trọng, thiết thực.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án được cấu trúc
thành bốn chương:
Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Vấn đề thể loại và diện mạo tiểu thuyết, hồi kí Tô Hoài
Chương 3. Đặc điểm tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại
6
Chương 4. Sự tương tác thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những công trình nghiên cứu khái quát về tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài
Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Tô Hoài luôn là một cái tên thu hút
nhiều sự chú ý quan tâm, khám phá từ phía người tiếp nhận, các nhà nghiên cứu,
phê bình nhất là những khoảng trống đối với các nghiên cứu chuyên sâu. Các tác
giả đã tập trung nhận xét, đánh giá về phong cách, nghệ thuật kể chuyện, giọng
điệu Tô Hoài. Phần lớn là ý kiến của các nhà phê bình, nhà văn có tên tuổi như
Phong Lê, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vương Trí Nhàn, Bùi Hiển…Những ý
kiến đều thống nhất khẳng định Tô Hoài là nhà văn có phong cách riêng, độc
đáo, cách kể chuyện hóm hỉnh, thông minh và lối viết đậm đà màu sắc dân tộc.
Tô Hoài là một nhà văn tài năng, sáng tác đa dạng về thể loại, song nhất
thiết phải nói đến tiểu thuyết. Tiểu thuyết là một trong những thể loại làm nên
tên tuổi Tô Hoài và là thể loại đầu tiên tạo nên phong cách riêng của ông. Nếu
tính về số lượng, trong hơn 150 đầu sách thì tiểu thuyết chỉ chiếm khoảng chục
tác phẩm, số lượng nhỏ bé trong toàn bộ sự nghiệp văn chương của ông nhưng
lại là thể loại trải đều qua các chặng đường sáng tác từ khi ông mới “chân ráo
chân ướt” bước vào nghề cho đến khi trở thành “lão làng” trong nền văn chương
nước nhà. Tiểu thuyết Tô Hoài chủ yếu xoay quanh ba vấn đề lớn: thời huyền sử
xa xưa của đất nước, Hà Nội (nội và ngoại thành Hà Nội); miền núi (Tây Bắc,
Việt Bắc). Ở đề tài nào, Tô Hoài cũng tạo được dấu ấn riêng. Tiểu thuyết Tô
Hoài hấp dẫn độc giả bởi cách kể chuyện hóm hỉnh, năng lực quan sát và miêu
tả tinh tế, lối văn giàu hình ảnh và luôn biến đổi nhịp điệu, ngôn ngữ sáng tạo,
linh hoạt. Vì vậy, tiểu thuyết của Tô Hoài đã được nhiều tác giả nghiên cứu.
Trong bài viết Tô Hoài - Nguyễn Sen, khi giới thiệu về Tô Hoài, nhà nghiên cứu
Vũ Ngọc Phan đã có nhận định về phong cách tiểu thuyết: “Tiểu thuyết của Tô
Hoài cũng thuộc loại tả chân như tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan nhưng Tô
Hoài có khuynh hướng về xã hội” [95; tr.53]. Và qua một số tiểu thuyết của Tô
7
Hoài, nhà nghiên cứu khẳng định Tô Hoài “là một nhà tiểu thuyết có con mắt
quan sát sâu sắc” [95; tr.53]. Khi viết Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài, nhà
nghiên cứu Hà Minh Đức đã chỉ ra những nét đặc trưng trong tiểu thuyết của Tô
Hoài: “Có thể nhận thấy trong tiểu thuyết của ông nhiều phác thảo sắc nét,
những bức tranh miêu tả màu sắc, xen lẫn với dòng nội tâm được biểu hiện qua
số phận của nhân vật. Tiểu thuyết của Tô Hoài thường có cấu trúc gọn, nhịp điệu
nhanh và lối kể đậm đà màu sắc dân tộc. Ngòi bút văn xuôi của ông phát triển
linh hoạt và uyển chuyển theo dòng đời và khả năng đi sát các đối tượng miêu tả”
[95; tr.133]. Nhận xét của nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã góp thêm một tiếng
nói khẳng định giá trị tiểu thuyết của nhà văn Tô Hoài trên phương diện nội
dung và nghệ thuật. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ trong bài viết Tô Hoài - Nhà
văn Việt Nam hiện đại cũng đã nhận thấy sức hút của tiểu thuyết Tô Hoài ở tính
dân tộc: “Truyện và tiểu thuyết của anh hấp dẫn bạn đọc nước ngoài bởi một bản
sắc dân tộc rất đậm đà và độc đáo” [95; tr.101]. Độc giả cũng nhận thấy chất
phong tục chính là chất men nồng làm nên sự độc đáo trong tiểu thuyết Tô Hoài
và là một trong những phương diện làm nên phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Khi viết về những phong tục, tập quán ở các miền quê khác nhau, ngòi bút Tô
Hoài trở nên sắc sảo, tinh tế và ông được đánh giá là một trong những nhà văn
viết hay nhất và đặc sắc nhất. Do vậy, trong bài viết Tô Hoài, nhà nghiên cứu
Trần Hữu Tá đã đánh giá: “Tô Hoài có một nhãn quan phong tục đặc biệt nhạy
bén, sắc sảo” [95; tr.160]. Các ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu
như Vũ Ngọc Phan, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trần Hữu Tá…đã khẳng định
giá trị, sức hấp dẫn của tiểu thuyết Tô Hoài và là những gợi mở cho việc nghiên
cứu các tác phẩm tiểu thuyết cụ thể của Tô Hoài sau 1945.
Cùng với tiểu thuyết, hồi kí là thể loại đặc sắc trong sáng tác của Tô Hoài.
Tác phẩm hồi kí của Tô Hoài đã tạo được ấn tượng sâu đậm, có ý nghĩa quan
trọng trong việc tạo nên một diện mạo mới cho sự nghiệp văn học của nhà văn.
Những công trình nghiên cứu về hồi kí Tô Hoài theo thời gian tăng lên đáng kể,
góp phần khẳng định giá trị hồi kí của ông. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức trong
Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài đã chỉ ra tính xác thực là nét đặc sắc trong
8
nghệ thuật viết hồi kí Tô Hoài: “Hồi kí Tô Hoài là dòng hồi tưởng với cách giới
thiệu chắt lọc những sự việc tiêu biểu trong quá khứ. Ông tôn trọng và tạo được
niềm tin ở bạn đọc. Ông không bịa đặt thêm thắt vào những sự việc đã xảy ra
trong quá khứ và biết tôn trọng tính xác thực của người và việc” [95; tr.131].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại –
chân dung và phong cách đã đánh giá cao về mảng hồi kí, tự truyện của Tô Hoài:
“Tôi cho rằng Tô Hoài sinh ra để viết hồi kí, tự truyện. Dường như ông có một
thứ cảm hứng riêng, có thể gọi là cảm hứng hồi tưởng…” [102; tr.299]. Đồng
thời nhà nghiên cứu khẳng định: “Hồi kí, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở
trường nhất của Tô Hoài...ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của
người viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp
dẫn của cái tôi ấy” [102]. Qua các tác phẩm hồi kí của Tô Hoài, nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Mạnh đã bị hấp dẫn bởi: “Một cái tôi khôn ngoan, tinh quái, thóc
mách, lọc lõi, rất mực hiểu mình, hiểu người và có đá chút khinh bạc” của Tô
Hoài [102]. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong công trình Tô Hoài và thể
hồi kí đã khẳng định sức mạnh nội lực của Tô Hoài khi viết hồi kí: “Dường như
cả cuộc đời từng trải đã chuẩn bị cho những trang viết hôm nay của ông. Hồi kí
là nơi cả con người tác giả cùng cái triết lí ông mơ hồ cảm thấy và đã theo đuổi
suốt đời cả hai đã có dịp bộc lộ” [117; tr.942]. Trong bài viết Tô Hoài qua Tự
truyện, nhà nghiên cứu Vân Thanh đánh giá cao mảng hồi kí của Tô Hoài được
sáng tác qua cách nhìn của con mắt trẻ thơ: “Tôi cho là Tô Hoài đã thật sự có
đóng góp vào văn học ta mảng sống buồn bã, vật lộn của một thế hệ tuổi thơ -
hoặc được nhìn qua cách nhìn trẻ thơ để nói một cái gì bản chất của cuộc đời cũ”
[95; tr.399]. Nhà nghiên cứu Phạm Việt Chương ấn tượng khi đọc hồi kí của Tô
Hoài chính là giọng điệu trần thuật. Giọng điệu trần thuật là yếu tố tạo cho tác
phẩm tính đa thanh và sức hấp dẫn riêng. Tác giả đã nhận xét: “Tô Hoài sống,
lăn lóc cùng các bạn văn thơ của mình viết về họ bằng bút pháp tả thực. Hiện
thực trần trụi đọng lại thành kỷ niệm. Giọng văn hóm hỉnh mà không khinh bạc,
anh điểm những câu kết gây cho người đọc nụ cười cố quên đi nỗi buồn nào do
anh vừa kể qua” [95; tr.404]. Trong bài viết Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới, nhà
9
nghiên cứu Lý Hoài Thu đã nhận định: “Hồi kí Tô Hoài thể hiện một cái Tôi tự
sự giản dị, tỉnh táo, điềm tĩnh ghi nhận mọi sự và thể hiện nó bằng thứ ngôn ngữ
của văn xuôi - một thứ ngôn ngữ đa dạng, lắm cung bậc và thật nhiều sắc thái.
Cái chất hài hước, sự khôn ngoan minh mẫn, vẻ “đáo để” của người viết cũng
bộc lộ thật sắc nét trên các trang hồi kí” [157]. Các nhà nghiên cứu Hà Minh
Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn, Vân Thanh, Phạm Việt Chương, Lý
Hoài Thu…đã có những nhận định sắc sảo về hồi kí Tô Hoài và làm tiền đề cho
việc nghiên cứu các tác phẩm hồi kí cụ thể của Tô Hoài sau 1945.
1.2. Những công trình nghiên cứu cụ thể về tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài
sau 1945
1.2.1. Về các tác phẩm tiểu thuyết cụ thể
Trong số các tiểu thuyết Tô Hoài sáng tác ở giai đoạn sau 1945, có thể coi
Mười năm (1958), Miền Tây (1967) và Ba người khác (2006) là những tiểu
thuyết tiêu biểu được giới nghiên cứu phê bình và bạn đọc quan tâm. Các tác giả
đã tập trung đưa ra những nhận xét, đánh giá về phương diện nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm.
1.2.1.1. Về tiểu thuyết “Mười năm” (1958)
Năm 1958, Tô Hoài cho ra mắt tiểu thuyết Mười năm với những cố gắng
mới nhưng không ngờ lại bị phê phán gay gắt, bị liệt vào loạt tác phẩm “có vấn
đề”. Vậy “vấn đề” là ở chỗ nào? Một số nhà nghiên cứu cho rằng tác phẩm
nghiêng về chủ nghĩa tự nhiên, chưa làm sáng tỏ vai trò của Đảng ở làng Hạ.
Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng tác phẩm đề cập đến những cảnh khiêu
dâm, không phù hợp với bối cảnh lúc bấy giờ. Trong bài viết Tô Hoài, sáu mươi
năm viết…, nhà nghiên cứu Phong Lê đã nhận định: “Những chuẩn bị cho Mười
năm, trên mọi phương diện của vốn sống, tư liệu, cách nhìn và quan niệm nghệ
thuật đáng ra phải là ở một tầm cao, vượt trội lên những gì ông đã viết” [95;
tr.43]. Nhà nghiên cứu thấy rằng: “Mười năm là một tiểu thuyết đáng nói trên cả
hai mặt hay - dở của Tô Hoài” [95; tr.44]. Nhà nghiên cứu Phong Lê bình luận:
“Tôi vẫn thấy ở đây những mặt mạnh của Tô Hoài, qua những chuyện bình
thường và quen thuộc, tạo nên sự sống vĩnh cửu của làng quê và những mặt yếu,
10
ở nơi mà sự sống của ông chưa tới. Giá ông thu hẹp bớt ý định và đừng quá chú
mục nhe nhắm vào một ý đồ quá lớn, như được ngụ ý trong chính cái tên Mười
năm” [95; tr.45]. Nhà nghiên cứu Vân Thanh trong bài viết Sáng tác của Tô
Hoài nhận thấy: “Tiểu thuyết Mười năm (1958) viết trong giai đoạn này bộc lộ
rõ những sai lầm của tác giả” [95; tr.68]. Tác giả đã chỉ ra những mặt hạn chế
của tác phẩm: “Người đọc chưa thấy được những nét chủ yếu của hiện thực như
những mâu thuẫn cơ bản của thời đại, âm mưu và tội ác của phong kiến, thực
dân, phong trào quần chúng, sự lãnh đạo của Đảng, mặc dù tác giả có đề cập
đến…Ngay những nhân vật được xem là tích cực như Lê và Lạp cũng nhiều khi
có một phẩm chất tầm thường. Các nhân vật phụ nữ cũng ít gây cho ta một sự
kính mến, tôn trọng” [95; tr.68]. Trong bài viết Vấn đề của tiểu thuyết “Mười
năm”, nhà nghiên cứu Như Phong đã nhìn nhận nó như một “vấn đề” cần xem
xét lại. Nhà nghiên cứu cho rằng: “Có người muốn khen tác phẩm ấy, thì mãi
mới tìm ra được một số giá trị nhất định nào đó về ngôn ngữ, về bút pháp…Có
người trách móc nó, nhưng phần nhiều là khó chịu vì những chuyện trai gái sắp
chết đói còn ngủ với nhau, con đánh bố, những đoạn tả chị hai Tâm có tính cách
khiêu dâm, tả quần chúng cách mạng thành kệch cỡm…” [95; tr.277]. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thấy rằng: “Nhưng ngay thời ấy, đôi khi ông
cũng cho xen vào ít nhiều khía cạnh “người thường” ở những nhân vật anh hùng.
Như nữ cán bộ cách mạng Hai Tâm đa dâm, lẳng lơ trong tiểu thuyết Mười năm
chẳng hạn. Tác phẩm này vì thế đã từng bị phê phán kịch liệt. Thậm chí dân Hà
Đông còn kéo đến phản đối tác giả, cho là ông đã bôi nhọ người quê mình”
[191]. Có thể nói, Tô Hoài là người đầu tiên sớm nhất đã miêu tả tính dục trong
tiểu thuyết của mình nhưng tác phẩm Mười năm của ông lại nhận được nhiều ý
kiến không tán thành và không được chấp nhận. Có thể thấy, ở giai đoạn đầu,
tiểu thuyết Mười năm đã được tiếp nhận với những cách nhìn, cách đánh giá phê
phán khá nặng nề.
Ngay sau thời kì Đổi mới, trong không khí cởi mở, dân chủ của đời sống
văn học, trong bài viết Cần xác định lại giá trị của “Mười năm”, nhà nghiên
cứu Hà Minh Đức đã góp tiếng nói khách quan, công bằng đánh giá lại tác phẩm,
11
xác định đúng vị trí của nó trong bộ ba tiểu thuyết viết về quê hương của Tô
Hoài cũng như với đời văn của ông và với văn học một thời. Nhà nghiên cứu đã
khẳng định: “Mười năm là một bước phát triển mới của phong cách Tô Hoài.
Qua cuốn sách này ông vừa giữ được mặt mạnh và sự sắc sảo của ngòi bút trước
kia, lại tiếp nhận thêm ánh sáng, cách nhìn và phương pháp sáng tác mới” [95;
tr.307]. Đặc biệt, nhà nghiên cứu nhấn mạnh: “Qua Mười năm, Tô Hoài thể hiện
sâu sắc hiện thực đang vận động cách mạng, đang đổi thay theo cách nhìn và
đánh giá mới với cảm quan nghệ thuật mới mẻ” [95; tr.306]. Nhà nghiên cứu Hà
Minh Đức còn bàn luận thêm: “Nếu bỏ những chi tiết mang màu sắc tự nhiên
chủ nghĩa như cảnh âu yếm của Lạp và Nhàn trong lúc còn đói lả, cảnh Hai Tâm
ve vãn cánh con trai… thì tác phẩm sẽ hoàn thiện hơn” [95; tr.307]. Bên cạnh đó,
nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp cũng đã nhận thấy sự thay đổi tư duy nghệ
thuật của Tô Hoài trong cách thể hiện: “Mười năm là tác phẩm đã chú ý về tư
duy nghệ thuật. Trong khi nhiều cây bút hướng tới cảm hứng sử thi thì Tô Hoài
vẫn chú ý đến cuộc sống thường nhật” [30; tr.119].
Với tiểu thuyết Mười năm, các nhà nghiên cứu đã đánh giá mặt thành công và
mặt hạn chế của tác phẩm. Qua đó, người đọc có cái nhìn toàn diện về tác phẩm.
1.2.1.2. Về tiểu thuyết “Miền Tây” (1967)
Năm 1967, tiểu thuyết Miền Tây được xuất bản, tiếp nối dòng suy nghĩ và
sức sáng tạo của nhà văn về đề tài miền núi. Mặc dù, Miền Tây ra đời sau muộn
nhưng tác phẩm vẫn gặt hái những thành công nhất định. Tác phẩm đã đạt được
giải thưởng Hoa sen của Hội nhà văn Á - Phi năm 1970. Tác phẩm ra đời đã
nhận được nhiều ý kiến nhận xét khác nhau. Các ý kiến chủ yếu tập trung đánh
giá trên phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm.
Về phương diện nội dung, nhà nghiên cứu Phong Lê đã nhận xét: “Đọc
Miền Tây, ở phần đầu, thật tuyệt vời bút pháp khắc họa và tạo dựng khí hậu của
Tô Hoài…Một cái mở đầu thật là ám ảnh trên bức tranh đối sánh của lịch sử -
mới và cũ, trước và sau, xưa và nay mà Tô Hoài muốn tạo dựng” [95; tr.35].
Theo nhà nghiên cứu Vân Thanh, Miền Tây là “một tiểu thuyết miêu tả những
thay đổi lớn lao về mọi mặt của người dân Tây Bắc trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội” [95; tr.73]. Hai nhà nghiên cứu Phong Lê và Vân Thanh đều
cho rằng tiểu thuyết Miền Tây phản ánh sự thay đổi của người dân Tây Bắc
12
trước và sau Cách mạng 1945. Trong công trình Văn học Việt Nam hiện đại, nhà
nghiên cứu Nguyễn Văn Long lại nhận ra nội dung mới trên một kiểu mô típ cũ
của tác phẩm: “Tiểu thuyết Miền Tây phản ánh những đổi thay trong công cuộc
xây dựng cuộc sống mới của người dân Tây Bắc trong thời kì mới. Tuy vậy, nhà
văn vẫn sử dụng mô típ kiểu cuộc đời cũ khổ đau bất hạnh, cuộc đời mới dưới
ánh sáng của Đảng, của cách mạng con người được hồi sinh” [96; tr.185].
Về phương diện nghệ thuật, các nhà nghiên cứu tập trung bàn luận về bút
pháp, nghệ thuật tả cảnh, ngôn ngữ, phong cách của nhà văn Tô Hoài qua tiểu
thuyết Miền Tây. Trong bài viết Tô Hoài với Miền Tây, nhà nghiên cứu Phan Cự
Đệ đã đưa ra nhận xét có giá trị về phương diện ngôn ngữ của tác phẩm: “Tô
Hoài rất chú trọng học tập lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng đặc biệt là
ngôn ngữ của ca dao và các truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong tiểu thuyết
Miền Tây ta bắt gặp một thứ ngôn ngữ trong sáng, giàu hình tượng của quần
chúng được nâng lên ở một trình độ nghệ thuật mới” [95; tr.344]. Đó là thứ ngôn
ngữ giàu tính địa phương, mang đậm phong cách Tô Hoài. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Công Hoan trong bài viết Trau dồi Tiếng Việt lại nhận thấy một thứ
ngôn ngữ được trau chuốt tỉ mỉ, bàng bạc chất thơ trong tiểu thuyết Miền Tây:
“Theo dư luận mà tôi lượm lặt được ở phần lớn độc giả cuốn Miền Tây của Tô
Hoài thì trong ngành truyện nhỏ và truyện dài của ta mấy chục năm nay, chưa có
một tác phẩm nào viết bằng văn xuôi mà gọt giũa tỉ mỉ từng chữ từng câu, làm
cho nhiều trang phảng phất một chất thơ mà nhiều bài thơ còn thua xa” [95;
tr.520]. Trong bài viết Đọc Miền Tây, nhà nghiên cứu Khái Vinh bình luận rằng:
“Miền Tây là cuốn tiểu thuyết viết sinh động có nhiều chương tả cảnh rất hấp
dẫn…Miền Tây bộc lộ một cách dễ thấy một số điểm mạnh và điểm yếu. Sau
Truyện Tây Bắc, Miền Tây là một cố gắng mới rất đáng quý của Tô Hoài trong
việc phản ánh, miêu tả những thay đổi kì diệu của các dân tộc trên vùng cao của
Tổ quốc” [95; tr.360]. Qua nhận xét của nhà nghiên cứu Khái Vinh, người đọc
có thể thấy sự chuyển biến về tư tưởng trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài. Với
Tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức cũng cho
người đọc nhận thấy chất kí sự đậm nét trong tiểu thuyết của Tô Hoài: “Trong
nhiều chương, tác giả vận dụng lối tái hiện trực tiếp của kí sự, dựng lên từng
mảng cuộc sống còn tươi mới trong đó con người tác động lẫn nhau, tham gia
13
vào những sự kiện khác nhau của thực tế xã hội” đồng thời khẳng định tài miêu
tả của nhà văn “giàu chất hội họa và tạo hình” [95; tr.351]. Trong bài viết Tô
Hoài - Nhà văn Việt Nam hiện đại, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ cho rằng: “Miền
Tây là một cuốn tiểu thuyết vừa giàu chất kí sự vừa giàu chất thơ…Đặc điểm
phong cách Tô Hoài là bao giờ cũng cố gắng gắn liền chất hiện thực với màu sắc
lãng mạn, trữ tình thơ mộng” [95; tr.86]. Chất thơ được thể hiện qua bức tranh
thiên nhiên, phong tục tập quán và phẩm chất tốt đẹp của con người miền núi
với ngôn ngữ giàu âm thanh, hình ảnh, nhịp điệu, giọng điệu trữ tình, sâu lắng.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long đã nhận thấy tiểu thuyết của Tô Hoài dung dị,
tự nhiên: “Tiểu thuyết Tô Hoài là hình ảnh của dòng đời tự nhiên, chảy trôi miên
viễn. Cuộc sống hiện ra dưới cái nhìn của Tô Hoài thật dung dị tự nhiên như nó
vốn thế: có một thứ của sinh hoạt đời thường, vặt vãnh, cái tốt đẹp và cái tầm
thường, có đời sống xã hội, vận động của lịch sử và đời sống thế sự, sinh hoạt
phong tục” [73]. Nhà nghiên cứu Phạm Duy Nghĩa đã cho người đọc thấy được
đặc trưng phong cách sáng tác về miền núi của Tô Hoài: “Đời thường, bình dị và
trầm buồn, đó là miền núi của Tô Hoài. Những đặc trưng phong cách này đã
khơi gợi lịch sử nhiều đau thương của miền núi theo một cách riêng, gần gũi và
nhân bản. Nét dịu dàng, sâu lắng, giàu chất thi họa của nó cũng là một đặc sắc
thẩm mĩ, vừa mộc mạc cổ điển vừa có sức sống lâu bền” [73]. Nhà nghiên cứu
Miên Thảo lại cho rằng bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn làm nên sức
hút tiểu thuyết Tô Hoài: “Bằng lối dựng chuyện tài tình, Tô Hoài đã khắc họa
chân dung một cách tài ba về những nhân vật như Giàng Súa, Thào Khay, Vừ
Sóa Tỏa. Trong tác phẩm, bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn song hành
đã làm nên vẻ đẹp rất chân thật mà cũng rất giàu chất thơ mộng, lãng mạn của
núi rừng” [73].
Với tiểu thuyết Miền Tây, hầu hết các ý kiến đều tập trung đánh giá mặt
thành công của tác phẩm trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Điều đó
khẳng định giá trị, sức hấp dẫn của tiểu thuyết Miền Tây.
1.2.1.3. Về tiểu thuyết “Ba người khác” (2006)
Năm 2006, ở tuổi 86, Tô Hoài cho ra mắt tiểu thuyết Ba người khác. Từ
khi Ba người khác được xuất bản, tác phẩm đã gây được sự chú ý và tạo ra nhiều
tranh luận sôi nổi đối với độc giả và giới phê bình, nghiên cứu. Ngay những
14
dòng đầu tiên của tiểu thuyết, người đọc đã bị cuốn hút vào thế giới của những
“rễ và chuỗi”, của cán bộ “đội”. Trong Lời giới thiệu về tiểu thuyết của Nhà xuất
bản Đà Nẵng, tác giả đã viết: “Nội dung không vẽ lại diện mạo của cuộc cải
cách ruộng đất mà đi sâu vào khía cạnh con - người, thế cuộc, qua những nét
sinh hoạt, tác vụ xoay quanh họ. Do có độ lùi cần thiết, tác giả đã nhận chân
những nét bản năng, ấu trĩ, kể cả những sai lầm tội lỗi của những con người cụ
thể (mà họ chưa có ý thức được), ở đội công tác cụ thể, trong bối cảnh nhận thức
chung ở các vùng miền, nhất là nông thôn vùng sâu xa còn nhiều yếu kém” [69;
tr.5-6]. Sau khi xuất bản, tác phẩm trở thành tâm điểm của nhiều cuộc tranh luận,
nhiều diễn đàn. Tuy nhiên, điểm nhấn của những tranh luận này là Toạ đàm về
Ba người khác do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức vào ngày 22 tháng 12 năm 2006.
Hội thảo đã nhận được sự tham gia đông đảo của nhiều tác giả. Có những ý kiến
khen, chê, có những ý kiến tán thành, có những ý kiến trái chiều. Buổi hội thảo
đã tạo nên dấu ấn đặc biệt trong việc đánh giá và nhìn nhận một cách nghiêm túc,
khách quan, công bằng về giá trị cuốn tiểu thuyết Ba người khác.
Nhóm ý kiến thứ nhất là của các nhà nghiên cứu như Lê Sơn, Nguyên Ngọc,
Lại Nguyên Ân, Văn Giá, Văn Long. Hầu hết các ý kiến của các tác giả này đều
đánh giá cao giá trị của tác phẩm. Nhà nghiên cứu Lê Sơn cho rằng: “Đây là một
trong những đỉnh cao của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tái hiện không khí tâm
lý của những người trong cuộc. Đây là lời sám hối và tiếng kêu. Người đọc thấy
cũng có mình ở trong đó. Ba người khác là chúng ta và mặt khác của chúng ta”
[190]. Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc đánh giá lối viết độc đáo của Tô Hoài:
“Cách viết hay, độc đáo về cải cách ruộng đất. Không viết về nông dân mà viết
về ba anh đội…Về bút pháp, văn học chúng ta còn lâu lắm mới thoát ra bút pháp
sử thi. Tô Hoài đã thoát ra từ Cát bụi chân ai, Chiều chiều, nhưng đó là tự
truyện, đến Ba người khác mới là hư cấu. Đó là bút pháp hiện đại, mỉa mai,
dửng dưng, cười cợt, tạo nên sức mạnh của văn học” [190]. Nhà nghiên cứu Lại
Nguyên Ân nhìn nhận tác phẩm ở góc độ tâm lí xã hội: “Sự xuất hiện của những
cuốn sách như thế là một cách giải tỏa một trong những chấn thương của xã hội”
[190]. Nhà nghiên cứu còn khẳng định nét mới trong nghệ thuật của cuốn tiểu
thuyết ở “cách chọn vị thế thể hiện - hóa thân và một nhân vật xưng tôi nào đó
giúp nhà văn trần tình được nhiều hơn và cảm giác tin cậy của người đọc khi
15
đọc ông cũng ngày một nhiều hơn là vì thế” [190]. Nhà nghiên cứu Văn Giá đề
cao giá trị nhân văn của tác phẩm: “Ba người khác là một trong những tác phẩm
thiết yếu để con người phấn đấu làm người lương thiện, nâng cao chất lượng
sống và nhân văn cho con người chúng ta” [190]. Nhà nghiên cứu Văn Long
đánh giá bản lĩnh của Tô Hoài khi nói ra sự thật: “Việc xuất bản sách này là một
sự dũng cảm. Dường như khi người ta đủ mạnh người ta mới dám đưa ra những
sai lầm của mình” [190].
Nhóm ý kiến thứ hai là của các nhà nghiên cứu như Hà Minh Đức, Phan
Thị Thanh Nhàn, Nguyên An. Các nhà nghiên cứu tỏ ra băn khoăn về một số
khía cạnh của tác phẩm. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức cho rằng: “Cái kết hơi
gò, hơi dang dở, không thể nói Tô Hoài nên tìm kết khác, nhưng theo tôi so với
tổng thể thì phần kết chưa được ưng ý. Cuốn Ba người khác nhiều điểm rất hay
nhưng nhiều điểm trình độ tôi chưa tiếp thu được, có khi phải vài năm nữa”
[190]. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Phan Thị Thanh Nhàn tỏ thái độ không
đồng tình về vấn đề tính dục mà Tô Hoài thể hiện trong tác phẩm. Nhà nghiên
cứu cho rằng: “Trong Ba người khác có đến ba nhân vật đều dâm ô cả như thế
nặng quá, liều lượng như thế thì hơi quá” [190]. Nhà nghiên cứu Nguyên An
cũng lên án: “Bác Tô Hoài nhấn mạnh khía cạnh tình dục, bản năng. Điều ấy có
thể thông cảm được nhưng có điều nó nhơ nhớp quá, phi luận quá, viết khiếp
quá” [190]. Với những ý kiến đánh giá trên, người đọc nhận thấy Ba người khác
thể hiện sự cường điệu quá đáng, sự đi xuống của Tô Hoài trong sự “học đòi”
say sưa miêu tả tính dục của văn chương lúc bấy giờ. Tuy nhiên, không phải đến
thời kì này, yếu tố tính dục mới bắt đầu xuất hiện trong sáng tác của Tô Hoài.
Từ tiểu thuyết Mười năm đến Ba người khác vẫn là nhất quán trong cách miêu tả
vấn đề tính dục nhưng trong Mười năm vấn đề tính dục xuất hiện ít hơn, trong
Ba người khác yếu tố tính dục xuất hiện đậm đặc, cụ thể hơn. Tính dục trở thành
một diễn ngôn của nhà văn, là một điểm nhìn gợi dẫn những suy ngẫm về sự tồn
tại của con người trong những chiều kích vốn không dễ nắm bắt. Nếu như trước
đây, khi đề cập đến vấn đề tính dục trong văn chương, người ta cho rằng không
phù hợp. Nhưng ngày nay, vấn đề tính dục càng được đề cập nhiều trong tác
phẩm và là hiện tượng bình thường của đời sống hiện thực.
Như vậy, các công trình, bài viết nghiên cứu về các tiểu thuyết Mười năm
16
(1958), Miền Tây (1967), Ba người khác (2006) ở nhiều góc độ. Các nhà nghiên
cứu đã chỉ ra những giá trị đặc sắc của tiểu thuyết Tô Hoài trên phương diện nội
dung và hình thức. Các công trình này đã đạt được một số kết quả nhất định, góp
phần không nhỏ trong việc nghiên cứu và khám phá văn chương Tô Hoài. Tuy
nhiên, vấn đề thể loại chưa được bàn sâu, chưa được xem như một khía cạnh nổi
bật của ý tưởng, tư duy, phong cách sáng tạo, chi phối đặc điểm tiểu thuyết của
nhà văn sau 1945.
1.2.2. Về các tác phẩm hồi kí cụ thể
Hai hồi kí Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) ra đời đã gây được
sự chú ý của dư luận. Các tác phẩm được đánh giá cao, đặc biệt là ở sức hấp dẫn
trong cách phác họa sinh động những chân dung văn nghệ sĩ qua cái nhìn chân
thực của nhà văn. Tô Hoài đã tái hiện một cách chân thực những vụ án văn
chương, sự thật lịch sử, nhân vật lịch sử trong quá khứ. Nghiên cứu về Cát bụi
chân ai và Chiều chiều của Tô Hoài, nhiều tác giả đã có những bài viết đánh giá
sâu sắc về nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm từ đó khái quát về tầm vóc
hồi kí Tô Hoài trong diện mạo hồi kí Việt Nam hiện đại.
Đi sâu vào đặc trưng nội dung phản ánh của hai cuốn hồi kí, nhà nghiên
cứu Nguyên Ngọc nhận xét: “Tô Hoài có một chủ trương sống và viết theo cách
riêng của ông…Hai cuốn hồi kí của ông (và chắc có thể nhiều quyển tiếp theo
nữa) cứ như là một thứ nhật kí trung thực về xã hội, về con người, về cơ chế xã
hội…về cái vậy mà hóa ra là cả một thời đầy xáo động của xã hội Việt Nam”
[112; tr.180]. Qua bài viết Tổng quan về hồi kí Tô Hoài, nhà nghiên cứu Đặng
Tiến lại nhận thấy: “Chiều chiều mang lại nhiều ánh sáng mới soi chiếu vào một
giai đoạn dài và nhiều truân chuyên trong xã hội và văn học từ 1955 đến nay.
Ngày nay không thể viết phê bình hay lịch sử văn học mà không đi đọc lại Tô
Hoài” [167].
Bên cạnh đó, các tác giả dành nhiều công sức và tâm huyết trong việc nhìn
nhận, đánh giá hình thức của hai tác phẩm. Trong cuộc trao đổi giữa Xuân Sách
và Trần Đức Tiến về Cát bụi chân ai, nhà nghiên cứu Trần Đức Tiến chú ý tới
nghệ thuật xây dựng chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời của nhà văn Tô Hoài ở
một khoảng cách gần: “Có thể nói, bằng cuốn sách của mình, lần đầu tiên ông đã
cho thế hệ cầm bút chúng tôi nhìn một số nhân vật lớn của văn chương nước nhà
17
từ một cự li gần... Bây giờ, qua Tô Hoài, chúng tôi được nhìn gần: một khoảng
cách khá tàn nhẫn nhưng chính vì thế mà chân thực và sâu sắc” [95; tr.413]. Nhà
nghiên cứu Xuân Sách lại nhận thấy sự chân thực làm nên sức hấp dẫn văn
chương Tô Hoài: “Tác phẩm mang đậm chất phong cách Tô Hoài - từ văn phong
đến con người. Thâm hậu mà dung dị, thì thầm mà không đơn điệu nhàm chán,
lan man tí chút nhưng không kề cà vô vị, một chút u mặc với cái giọng khơi
khơi mà nói, ai muốn nghe thì nghe, không bắt buộc nghe rồi hiểu, đừng cật
vấn...Và vì thế, đúng như anh nói, sức hấp dẫn chủ yếu là sự chân thực” [95;
tr.414]. Với bài viết Viết về một cuộc đời và những cuộc đời, nhà nghiên cứu
Đặng Thị Hạnh lại quan tâm tới cấu trúc thời gian và ngôn ngữ trong Cát bụi
chân ai: “Thời gian hồi tưởng như ngẫu hứng, cũng chạy lông bông theo dòng
hoài niệm, móc vào đâu đây, dừng lại một lát rồi lại đi, vấp phải một câu nói, có
khi chỉ là một từ…là đã có thể đổi chiều, đi ngược về trước hoặc lùi về sau, có
khi hàng chục năm” [95; tr.417]. Đồng thời, nhà nghiên cứu chỉ ra sự đa dạng
trong sắc thái ngôn từ và giọng điệu trần thuật: “Sắc thái ngôn từ thật đa dạng.
Có những phát biểu thẳng thừng, những châm biếm trực tiếp, nhưng có loại mà
một số nhà nghiên cứu xếp vào dạng diễn từ hai giọng” [95; tr.423]. Nhà nghiên
cứu Phong Lê lại nhận thấy giọng điệu tự nhiên, nhẩn nha là nét đặc sắc trong
hồi kí Chiều chiều: “Tô Hoài cứ tự nhiên mà kể những gì mình đã biết, đã trải.
Trên cái kho ít thấy dấu hiệu vơi cạn đó, Tô Hoài cứ nhẩn nha dắt bạn đọc cùng
đi với mình, đến với những gì lạ mà quen hoặc quen mà lạ. Và chính khả năng
hoán đổi vị thế ấy làm nên sức hút của văn hồi ức Tô Hoài” [95; tr.40-41]. Bàn
về quan niệm nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Mạnh trong công trình Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân dung và phong cách
đã nhận định: “Cát bụi chân ai và Chiều chiều là thế giới vô vàn chuyện vui,
chuyện lạ được phát hiện bởi con mắt tinh quái, sắc sảo và nụ cười hóm hỉnh của
Tô Hoài. Thế giới ấy thể hiện rõ quan niệm “con người là con người” và triết lí
sống của Tô Hoài được sống như chính mình, như một con người bình thường”
[102; tr.25]. Trong công trình Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, nhà
nghiên cứu Trần Hữu Tá đã đánh giá Tô Hoài là cây bút có tiếng khi ông viết
hồi kí ở tuổi đời rất trẻ: “Chùm tác phẩm Cỏ dại, Cát bụi chân ai, Chiều chiều
đã khẳng định ông là một cây bút viết hồi kí có hạng” [141; tr.19]. Nhà nghiên
18
cứu Đoàn Trọng Huy khi nghiên cứu về hồi kí Tô Hoài đã nhận ra rằng: “Sau Tự
truyện là Cát bụi chân ai (1992). Đây là tập hồi kí đan xen với nhau từng mảng
hồi ức và kỉ niệm gắn với đời văn, bạn văn…trong một không gian và thời gian
rộng mở” [80; tr.495]. Nhà nghiên cứu Trần Văn Thọ trong Vài cảm giác với
Chiều chiều lại nhận thấy sức hấp dẫn hồi kí của Tô Hoài ở một phương diện
khác trong giọng điệu trần thuật: “Chiều chiều rất cuốn hút. Những âm thanh
nhún nhảy, đong đưa lúc mau khi thưa, lúc dồn lúc dãi tạo thành một không khí
rất gợi. Dụng văn như Tô Hoài hẳn không dễ. Nó phải tự nhiên không tỏ ra
khiên cưỡng mới có tác dụng. Cái dòng chảy của Chiều chiều là dòng chảy của
tự nhiên, là thứ văn chương lạ đến mức tự nhiên. Tự nhiên dung dị đạt được phải
là bậc thặng thừa của văn chương” [153]. Nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu trong
bài viết Hồi kí và bút kí thời kì Đổi mới cho rằng cái nhìn của Tô Hoài trong hai
cuốn hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều thấm đẫm cảm hứng nhận thức lại:
“Tác giả của Chiều chiều và Cát bụi chân ai, với một cái nhìn tỉnh táo, điềm
đạm, đã nhìn nhận lại Nhân văn - Giai phẩm và những vấn đề văn chương phức
tạp một thời với tất cả tính thời sự và cả tính bi kịch của nó. Bằng sức mạnh của
hồi tưởng, nhà văn đã mạnh dạn, thẳng thắn nói ra những chuyện buồn quá khứ,
những ấu trĩ trong văn học và chính trị một thời giúp người đọc có được một
hình dung và nhận thức tường minh hơn về lịch sử văn học nước nhà những năm
tháng đầy biến động” [158; tr.45]. Yếu tố đặc trưng trong nghệ thuật viết hồi kí
của Tô Hoài là cái nhìn khách quan của người kể chuyện. Trong công trình Tô
Hoài: Sức sáng tạo của một đời văn, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã nhấn
mạnh: “Với những gì được kể trong Chiều chiều và Cát bụi chân ai chúng ta sẽ
không khó nhận ra một Tô Hoài - nhà văn mà cả cuộc đời chỉ tâm niệm một điều:
quan trọng là phải thật, thật với chính mình và thật với cuộc sống” [35; tr.45].
Đóng góp của Tô Hoài về thể hồi kí càng được càng khẳng định hơn trong mối
tương quan với thể kí trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nhà nghiên cứu Lê Dục
Tú đã đánh giá nhà văn Tô Hoài là một trong những gương mặt xuất sắc của kí
đương đại: “Cảm hứng nghiên cứu khám phá, chiêm nghiệm đời sống đã chi
phối đến giọng điệu của nhà văn trần thuật đa thanh, phức điệu vừa thâm trầm,
hóm hỉnh vừa suồng sã thân mật vừa tranh biện triết lí. Lối tư duy này đã đưa Tô
Hoài trở thành một trong những cây bút viết hồi kí hàng đầu của văn học Việt
19
Nam thời kì Đổi mới” [181; tr.17]. Nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan trong bài
viết Tô Hoài và bạn văn qua hồi kí lại chú ý đến cách xây dựng chân dung các
bạn văn, các văn nghệ sĩ cùng thời với Tô Hoài qua lời nhận xét: “Với hai cuốn
hồi kí này, Tô Hoài đã làm sống lại một thời chưa xa với một số những gương
mặt văn sĩ thân quen và về bản thân ông, cả phần dương bản và phần âm bản,
qua đó là đời sống xã hội của một thời kì đầy biến động” [94].
Tưởng nhớ một năm ngày mất của nhà văn Tô Hoài, ngày 18 tháng 7 năm
2015, Công ty Văn hóa Phương Nam phối hợp với Hội Nhà văn Hà Nội đã tổ
chức Hội thảo Tô Hoài - một đời văn để ghi nhận những đóng góp của nhà văn
Tô Hoài. Hội thảo đã nhận được 20 tham luận từ nhiều nhà phê bình, nghiên cứu.
Các bài viết đều có giá trị, khẳng định những cống hiến của Tô Hoài, từ những
trang viết cho thiếu nhi đầy sống động như Dế Mèn phiêu lưu kí, Võ sĩ Bọ Ngựa,
Đám cưới chuột…tới mảng truyện ngắn vùng cao như Miền Tây, Truyện Tây
Bắc. Đặc biệt là đóng góp của Tô Hoài trong mảng hồi kí với các tác phẩm đặc
sắc Cát bụi chân ai, Chiều chiều...Trong số các ý kiến đó, đáng chú ý là nhận
xét của nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan về đặc điểm hồi kí Tô Hoài: “Hồi kí Tô
Hoài chỉ là một mảng nhỏ trong di sản của ông. Viết về bè bạn cũng chỉ là một
phần trong hồi kí. Là nhân chứng sống của nền văn nghệ cách mạng, Tô Hoài
viết từ góc nhìn của người trong cuộc, cung cấp cho bạn đọc những tư liệu thú vị
về một số nhà văn, cũng là những tư liệu quan trọng để người đọc có cơ sở nhìn
kĩ, hiểu sâu về cơ chế và đời sống văn nghệ” [77].
Như vậy, các tác giả thường tập trung nghiên cứu hồi kí Tô Hoài dưới góc
độ của tự sự học, thi pháp học, theo đó thường đi vào các phương diện như ngôn
ngữ, giọng điệu, phong cách…Mặc dù, có rất nhiều công trình nghiên cứu về hồi
kí của Tô Hoài song chưa phải là đã đầy đủ bởi đến nay chưa có một công trình
nghiên cứu toàn diện, hệ thống về đặc điểm hồi kí Tô Hoài sau 1945. Hồi kí là
một thể loại minh chứng cho sức sáng tạo và tài năng của ông. Sáng tác của ông
xứng đáng để nhiều thế hệ bạn đọc và nghiên cứu phê bình khám phá.
1.2.3. Những công trình nghiên cứu về sự tương tác giữa tiểu thuyết và hồi kí
Tô Hoài
Nghiên cứu về sự tương tác giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài đã có một số
ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà phê bình nghiên cứu. Các ý kiến chủ yếu
20
bàn luận về sự xâm nhập của chất tiểu thuyết vào thể hồi kí và ngược lại.
Bàn về sự xâm nhập của chất hồi kí vào thể loại tiểu thuyết, tập trung vào
một số ý kiến của các tác giả như Nguyễn Hữu Sơn, Trần Hoa Minh, Chu Mộng
Long, Trần Viết Thiện, Đỗ Hải Ninh. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn trong
bài viết Ba người khác của nhà văn lớn Tô Hoài và ba dòng suy ngẫm của một
người đọc nhận thấy: “Tư duy tiểu thuyết ở Ba người khác của Tô Hoài in đậm
phong cách truyện kí, trong đó câu chuyện có thể được coi là mảng kí ức trong
cuộc đời nhà văn Tô Hoài, đan xen giữa kí ức và tâm tưởng, kí ức của người
trong cuộc” [190]. Tác giả Trần Hoa Minh nhận thấy Ba người khác như một sự
tiếp nối mạch hồi kí, tự truyện của Tô Hoài: “Lối viết Ba người khác - được gọi
là tiểu thuyết cũng như các hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều luôn là hư hư
thực thực, nhưng ánh mắt và nụ cười tinh ranh của Tô Hoài vẫn như theo dõi và
thích thú vì đang đánh đố, dẫn dụ người đọc chúng ta” [104]. Tác giả Chu Mộng
Long trong bài viết Hai lần đọc “Ba người khác” của Tô Hoài cho rằng: “Thú
thật, đọc lần đầu, tôi không xem Ba người khác là một quyển sách hay với tư cách
là một tiểu thuyết như nó được ghi ở bìa cuốn sách. Nó mang tính chất hồi kí,
giống quyển hồi kí hơn là một tiểu thuyết đúng nghĩa” [192]. Trong chuyên luận
Tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam đương đại, tác giả Trần Viết Thiện lại
nhận thấy: “Sự kết hợp giữa chất hồi kí và tư duy tiểu thuyết đã tạo nên cái nhìn
biến cố cải cách ruộng đất một cách gần gũi, chân thực lại vừa sắc nét. Tác giả Ba
người khác đã khéo léo vận dụng tương tác thể loại để tái dựng bức tranh cuộc
sống một thời đã lùi xa nhưng không hề là câu chuyện xưa cũ, ngược lại, tồn tại
sinh động như những kí ức đầy nhân văn của con người, cho con người hôm nay”
[152; tr.70]. Tác giả Đỗ Hải Ninh trong bài viết Tô Hoài văn chương như là
cuộc đời đã cho rằng: “Từ Cát bụi chân ai, Chiều chiều đến Ba người khác là
hành trình thoát thai từ tự truyện, hồi kí thành tiểu thuyết. Tô Hoài đã lựa chọn
những hình thức tiếp cận đời sống khác nhau (hồi kí, tự truyện, tiểu thuyết)
nhưng về cơ bản vẫn là diễn ngôn về sự thật trong quá khứ. Tô Hoài luôn ngẫm
nghĩ và chọn thời điểm để kể lại những câu chuyện cũ…Tô Hoài không ngại
phơi bày những góc khuất sâu kín nhất của lịch sử và bản thân, bởi với ông, văn
chương chính là cuộc đời” [121].
Bàn về sự xâm nhập của chất tiểu thuyết vào thể hồi kí, tập trung vào một
21
số ý kiến của các nhà nghiên cứu như Nguyễn Đăng Điệp, Lý Hoài Thu, Đỗ Hải
Ninh. Trong bài viết Tô Hoài, người sinh ra để viết, nhà nghiên cứu Nguyễn
Đăng Điệp đã nhấn mạnh chất tiểu thuyết trong hai cuốn hồi kí: “Cái nhìn không
nghiêm trọng hóa là thế mạnh của Tô Hoài, nó khiến cho nhà văn, dù viết thể
loại nào đi chăng nữa, vẫn thổi được vào đó cái chất tiểu thuyết mà M.Bakhtin
từng nói đến. Cái nhìn ấy càng rõ nét hơn trong hai thiên hồi kí Cát bụi chân ai
và Chiều chiều. Đặc sắc trong hồi kí của Tô Hoài theo ý tôi trước hết, là ở nghệ
thuật dựng không khí và giọng điệu, thứ hai, đặt nhân vật trong muôn mặt đời
thường và thứ ba, các chi tiết giàu chất văn xuôi. Thật đấy mà cứ như tiểu thuyết”
[30; tr.120]. Nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu trong bài viết Hồi kí và bút kí thời kí
đổi mới cũng cho rằng hồi kí Tô Hoài giàu chất tiểu thuyết: “Hồi kí của Tô Hoài
giàu chất truyện và chất tiểu thuyết trong cách kết cấu mạch lạc, rõ ràng, mang tính
tự sự, trong giọng điệu “đa âm” và ngôn ngữ chính xác, linh hoạt” [157]. Tác giả
Đỗ Hải Ninh trong bài viết Tô Hoài văn chương như là cuộc đời đã bày tỏ quan
điểm của mình về ranh giới thể loại: “Cát bụi chân ai, Chiều chiều khi thì được
gọi là hồi kí, khi là tự truyện cũng có khi được tiếp nhận như là tiểu thuyết”
[120]. Các ý kiến trên đây là những gợi ý quan trọng để nghiên cứu sự tương tác
thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên, một số luận án, luận văn đã
chọn tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài làm đối tượng nghiên cứu và khảo sát như
một ghi nhận sự đóng góp của nhà văn đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại:
Nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài qua hồi kí (Đoàn Thị Thúy Hạnh - 2001);
Phong cách nghệ thuật Tô Hoài (Mai Thị Nhung - 2005); Phong cách tiểu
thuyết Tô Hoài (Văn Thị Mai - 2007); Cái nhìn không gian và thời gian nghệ
thuật trong hồi kí của Tô Hoài (Qua hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều)
(Nguyễn Hoàng Hà - 2009); Phong cách nghệ thuật Tô Hoài trong hồi kí Chiều
chiều và Cát bụi chân ai (Nguyễn Thị Tỉnh - 2010); Đặc điểm nghệ thuật tự
truyện và hồi kí của Tô Hoài (Nguyễn Thị Ái Vân - 2011); Nhân vật và cốt
truyện trong tiểu thuyết của Tô Hoài (Trần Thị Thu Hà - 2013); Chất trào lộng
trong hồi kí - tự truyện của Tô Hoài (Nguyễn Thị Hoài - 2018)…
Có thể nói, Tô Hoài trong tư cách là một trong những “chủ soái” của văn
học nước nhà thế kỉ XX, sáng tác của ông luôn thu hút sự quan tâm của giới
22
nghiên cứu, phê bình và chiếm được sự yêu thích của độc giả. Các nhà nghiên
cứu, bạn đọc đã dành nhiều sự chú ý, trân trọng những sáng tác mới, có giá trị
của nhà văn. Từ khi xuất hiện, các tác phẩm của Tô Hoài đã luôn được công
chúng độc giả và giới nghiên cứu phê bình tìm đọc, thẩm bình.
Nhìn tổng thể về tình hình nghiên cứu của đề tài, chúng tôi nhận thấy:
Việc nghiên cứu tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể
loại chưa có cái nhìn xuyên suốt, mang tính hệ thống và toàn diện. Vấn đề được
đề cập phần nhiều mang tính “phân lập” cục bộ, chỉ tập trung vào một số tác
phẩm, với một số vấn đề cụ thể hoặc dừng lại ở các ý kiến nhận xét, đánh giá,
nghiên cứu trên một số phương diện: nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ, không gian,
thời gian, tổ chức trần thuật... trong tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài nói chung.
Nhiều tác giả tiến hành khảo sát đặc điểm văn xuôi, phong cách, đặc trưng
tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài nói chung, chưa tập trung vào giai đoạn sau 1945 -
giai đoạn tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Hơn
nữa, một sự khảo sát với quy mô lớn và phạm vi rộng đòi hỏi phải được thực thi
qua những công trình có khuôn khổ và tính vấn đề sâu rộng, phong phú. Có lẽ vì
những trở ngại đó, từ trước đến nay chưa có công trình chuyên biệt tập trung
nghiên cứu một cách toàn diện về tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ góc
nhìn thể loại.
Đặt vấn đề nghiên cứu Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc
nhìn thể loại, luận án sẽ tập trung vào giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, luận án nhận diện, mô tả và khái quát diễn trình tiểu thuyết và
hồi kí Tô Hoài giai đoạn sau 1945.
Thứ hai, luận án đi sâu vào nghiên cứu đặc điểm tiểu thuyết và hồi kí Tô
Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại, đặc biệt làm rõ sự tương tác, giao thoa thể
loại giữa tiểu thuyết và hồi kí từ đó khẳng định đây là một đặc trưng nổi bật
23
trong phong cách sáng tác của nhà văn Tô Hoài.
Tiểu kết chƣơng 1
Như vậy, nhìn lại hệ thống các bài viết giới thiệu, nghiên cứu và đánh giá
về tiểu thuyết và hồi kí của Tô Hoài, chúng tôi nhận thấy các tác giả, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra những đánh giá, nhận xét về tiểu thuyết, hồi kí Tô Hoài nói
chung và sau 1945 nói riêng trên một số phương diện: nội dung phản ánh, nghệ
thuật trần thuật, phong cách nghệ thuật...Trong đó, các tác giả tập trung đưa ra
những nhận xét về các tác phẩm Mười năm (1958), Miền Tây (1967), Ba người
khác (2006), Cát bụi chân ai (1992), Chiều chiều (1999) trên phương diện nội
dung và nghệ thuật. Các tác giả đã đưa ra những ý kiến đánh giá xác đáng,
khẳng định giá trị tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài giai đoạn sau 1945. Tuy nhiên,
các nhận định, diễn giải từ các công trình nghiên cứu vẫn chủ yếu tập trung vào
một số phương diện quen thuộc và đến nay, chưa có công trình nào đi sâu vào
giải quyết vấn đề mà luận án đặt ra. Những khuyết thiếu này tạo nên khoảng
trống để chúng tôi có thể triển khai đề tài nghiên cứu một cách khả thi và hệ
thống. Vì vậy, kế thừa, tiếp thu từ những nghiên cứu đi trước, chúng tôi thực
hiện đề tài Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại hướng
đến một hình dung cụ thể, đầy đủ về tiểu thuyết và hồi kí của Tô Hoài giai đoạn
sau 1945, từ đó ghi nhận, khẳng định những đóng góp và vị thế của nhà văn Tô
Hoài trong quá trình vận động và phát triển của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại
24
nửa cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI.
Chƣơng 2
VẤN ĐỀ THỂ LOẠI VÀ
DIỆN MẠO TIỂU THUYẾT, HỒI KÍ TÔ HOÀI
2.1. Đặc trƣng thể loại tiểu thuyết và hồi kí
2.1.1. Tiểu thuyết nhìn từ một số đặc trưng thể loại
2.1.1.1. Quan niệm về tiểu thuyết
Tiểu thuyết là thể loại tự sự, có vị trí quan trọng và lịch sử lâu đời trong sự
phát triển của văn học. Tiểu thuyết đã ghi dấu ấn của mình trong kho tàng văn
học thế giới tính từ khi hình thành thể loại. Về quan niệm thể loại tiểu thuyết, đã
có nhiều ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước.
Ở nước ngoài, vào thế kỉ XIX, tác giả V.Kôginôp trong công trình Các loại
hình nghệ thuật đã khẳng định: “Tiểu thuyết, văn học sử thi hiện đại” và coi tiểu
thuyết “là hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ” [87; tr.52]. Tác giả Bêlinxki
cho rằng “Tiểu thuyết là sử thi của đời tư” [10]. Sang thế kỉ XX, trong công
trình Nguyên lí lý luận văn học (tập 2), tác giả L.I.Timôfêep quan niệm: “Tiểu
thuyết là hình thức kể chuyện cỡ lớn có khả năng nói về nhiều thời điểm, miêu
tả được toàn diện hàng loạt nhân vật, phản ánh được những hình thức phức tạp
của mâu thuẫn xã hội” [170]. Tác giả đã nhấn mạnh đến yếu tố thời gian, nhân
vật, hiện thực xã hội trong tiểu thuyết. Tác giả M.Gulaiev trong công trình Lí
luận văn học thì quan niệm: “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn, mô tả đời
sống riêng của con người trong mối quan hệ rộng lớn với xã hội” [40]. Tác giả
G.N.Pôxpêlôp trong công trình Dẫn luận nghiên cứu văn học cũng có ý kiến
tương đồng với tác giả M.Gulaiev về quan niệm tiểu thuyết: “Tiểu thuyết là thể
loại tự sự có quy mô lớn đồng thời tiểu thuyết gắn liền với chủ đề đời tư” [131].
Cả hai tác giả đều nhấn mạnh vai trò của yếu tố con người đời tư đối với sự tồn
tại và phát triển của thể loại tiểu thuyết. Tác giả Lukas trong công trình Lý
thuyết tiểu thuyết đã xác nhận rằng: “Hình thức tiểu thuyết phản ánh một thế
giới trật khớp” [195]. Theo ông, mỗi thời kì lịch sử xã hội, có một hình thức văn
25
chương đi kèm. Các tác giả Sylvan Barnet, Morton Berman, William Burto
trong công trình Nhập môn văn học lại quan niệm: “Tiểu thuyết là thể loại được
viết bằng văn xuôi, có dung lượng lớn, nói về những chuyện thời sự được nhấn
mạnh” [139]. Trong công trình Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, nhà nghiên cứu
M.Bakhtin đã nhận định: “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến
chuyển và còn chưa định hình. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết, chưa hề rắn lại
và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó”
[10; tr.23]. Bên cạnh đó, ông cũng cho rằng: “Cái hôm nay, cái thì hiện tại chưa
hoàn thành như xuất phát điểm cho hoạt động nhận thức, là đặc điểm quan trọng
hàng đầu không thể thiếu được của tư duy tiểu thuyết” [10; tr.16]. Nhà nghiên
cứu M.Kundera trong công trình Nghệ thuật tiểu thuyết lại từ góc độ khác để
nhìn nhận về tiểu thuyết: “Tiểu thuyết không phải là một lời tự thú của tác giả
mà là một cuộc thăm dò cuộc sống con người trong cái thế giới đã trở thành cạm
bẫy” [88; tr.31]; “Tiểu thuyết là một sự chiêm nghiệm về cuộc sống nhìn thấy
thông qua nhân vật tưởng tượng” [88; tr.88-89]. Quan niệm về tiểu thuyết của
các nhà nghiên cứu trên thế giới đã có nhiều đóng góp ở phương diện lí luận văn
học. Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam có thể tiếp thu, bổ sung, tìm một hướng đi
mới cho tiểu thuyết dựa trên những quan niệm của các nhà nghiên cứu trên thế
giới đặc biệt của hai nhà nghiên cứu M.Bakhtin và M.Kundera.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan niệm khác nhau về
thể loại tiểu thuyết và nhìn nhận nó ở nhiều góc độ. Tác giả Phạm Quỳnh là
người mở đầu trong việc xây dựng cơ sở lí luận cho thể loại tiểu thuyết hiện đại
ở Việt Nam. Trong công trình Bàn về tiểu thuyết, ông tạm đưa ra một hình dung
về thể loại tiểu thuyết: “Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả
tình tự người ta, phong tục xã hội hay là những sự tích kì, đủ làm cho người đọc
có hứng thú” [150; tr.218]. Cách hiểu của tác giả Phạm Quỳnh đã bao quát được
những đặc điểm và vấn đề quan trọng nhất của thể loại tiểu thuyết: tính chất tự
sự, ngôn ngữ văn xuôi, vai trò của hư cấu sáng tạo. Trong bài viết Theo giòng,
tác giả Thạch Lam nhận thấy: “Tiểu thuyết là một câu chuyện sắp đặt, một sáng
tác của trí tưởng tượng” song nó đòi hỏi phải “hết sức gần sự sống để được linh
26
hoạt và thật như cuộc đời” [150; tr.180]. Tiểu thuyết là một thể loại đặc biệt
nhạy cảm, phản ánh sự đổi thay của con người và cuộc sống. Tác giả Thạch Lam
đã đề cập đến những khía cạnh mà theo ông là quan trọng, trong các khâu: chủ
thể sáng tác, thể loại của tác phẩm và tiếp nhận trong các tầng lớp người đọc.
Đối với nhà văn viết tiểu thuyết, tác giả Thạch Lam đòi hỏi một thái độ chân
thành, tâm huyết trong tâm thế sáng tạo. Người viết phải biết “quan sát và rung
động đúng với cái tâm hồn và bản ngã thật của mình” [150; tr.179]. Trong công
trình Khảo về tiểu thuyết, tác giả Vũ Bằng đã bàn đến việc đổi mới tư duy nghệ
thuật viết tiểu thuyết sao cho đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công chúng.
Tác giả Vũ Bằng phân biệt tiểu thuyết ở hai cấp độ: thể và loại. Về thể, văn tiểu
thuyết có nhiều thể, nhưng về loại có hai loại: truyện “quái đản bất kinh” và
truyện “gần đời thiết thực” [150; tr.192]. Phạm Quỳnh, Thạch Lam, Vũ Bằng là
các tác giả có nhiều đóng góp về việc nhận diện tiểu thuyết Việt Nam trong buổi
đầu, góp phần vào kho tàng lí luận thi pháp tiểu thuyết nửa đầu thế kỉ XX.
Tiếp nối của các nhà nghiên cứu đi trước, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan
trong công trình Nhà văn hiện đại đã bày tỏ quan điểm của mình về tiểu thuyết.
Theo ông, tiểu thuyết trước kia chỉ là những chuyện hoang đường. Bây giờ quan
niệm đó đã thay đổi bởi vì “Tiểu thuyết là một loại rất thích hợp với tính tình
nhân loại” [126]. Trong công trình Nguyên lý văn học, tác giả Nguyễn Lương
Ngọc cho rằng: “Tiểu thuyết là một thể loại mang tính quần chúng, dân chủ hóa
hơn những loại văn khác vì tiểu thuyết có tính chất đại chúng” [114]. Theo tác
giả Nguyễn Đình Thi trong công trình Công việc của người viết tiểu thuyết, tiểu
thuyết là “một trong những sáng tạo kì diệu của con người, đó là một đồ dùng,
một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu
nhau và sống với nhau” [146]. Trong công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại,
nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận định rằng: “Tiểu thuyết là một thể loại văn
học gần gũi nhất với cuộc sống” [28]. Tác giả Doãn Quốc Sỹ trong công trình
Văn học và tiểu thuyết đã tổng hợp các định nghĩa từ các bộ từ điển của ba nước
Mỹ, Pháp, Anh thành quan niệm: “Tiểu thuyết là một loại tản văn thuật sự, trong
đó tác giả hoặc mô tả hoặc kể lại một chuyện tưởng tượng. Những nhân vật,
27
những hành động, những tính tình, những đam mê được trình bày theo những
tình tiết ít nhiều khúc mắc li kì, người đọc luôn luôn có cảm tưởng như truyện
đã hoặc đương xảy ra ngoài đời thật” [138]. Các tác giả trong công trình Từ điển
thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên)
và hai công trình Lí luận văn học (Hà Minh Đức chủ biên và Phương Lựu chủ
biên) đều đồng nhất về quan niệm tiểu thuyết: tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ
lớn, có năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động theo hướng
tiếp cận cả bề rộng lẫn chiều sâu. Quan niệm về tiểu thuyết của các nhà nghiên
cứu ở Việt Nam đã góp phần hoàn thiện hệ thống quan niệm về thể loại trong lí
luận phê bình dân tộc trên hành trình tiếp cận với tư duy lí luận phê bình hiện
đại của thế giới.
Qua các ý kiến của các nhà nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước về quan
niệm tiểu thuyết, chúng tôi cho rằng: Tiểu thuyết là thể loại tự sự, phản ánh bức
tranh rộng lớn của đời sống xã hội, tiểu thuyết có khả năng tiếp cận và miêu tả
hiện thực bằng cảm hứng đa chiều.
2.1.1.2. Đặc trưng thể loại tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thể loại có kiểu tư duy nghệ thuật mang tính tổng hợp
cao. So với các thể loại khác, tiểu thuyết mang trong mình những đặc trưng thể
loại riêng.
Trong tiểu thuyết, nhân vật giữ vai trò quan trọng, là tâm điểm của tác
phẩm. Tác giả Bùi Việt Thắng nhận định: “Nói đến tiểu thuyết là nói đến nhân
vật. Tài nghệ của nhà tiểu thuyết cũng chủ yếu khúc xạ qua nhân vật vì nó là con
đẻ của tinh thần nhà văn” [144; tr.110]. Thông qua nhân vật, người đọc thấy
được bộ mặt xã hội đương thời và những vấn đề muôn thuở của thân phận con
người. Nhân vật trong tiểu thuyết khác với nhân vật sử thi, nhân vật trong truyện
trung đại ở chỗ nhân vật trong tiểu thuyết là “con người nếm trải”, là kiểu nhân
vật số phận, trong khi nhân vật trong các thể loại khác thường là “nhân vật hành
động, nhân vật đạo đức”. Nhân vật trong tiểu thuyết phải trải qua nhiều đấu
tranh, dằn vặt của cuộc đời, chịu nhiều đau khổ, oan nghiệt của số phận. Nhân
vật không chỉ nếm trải những hoàn cảnh sống mà còn nếm trải những cảm xúc
28
của chính mình. Từ một phương diện khác, nhà nghiên cứu M.Bakhtin chỉ ra sự
khác biệt giữa nhân vật trong tiểu thuyết và nhân vật trong các thể loại khác.
M.Bakhtin cho rằng, đối với các thể loại cao thượng thì “Con người thuộc về
quá khứ tuyệt đối, là con người hoàn tất và hoàn chỉnh toàn bộ” [10; tr.74-75],
còn trong tiểu thuyết “Con người không thể hóa thân đến cùng vào cái thân xác
xã hội - lịch sử hiện hữu…bao giờ cũng vẫn còn phần nhân tính dư thừa chưa
được thể hiện, bao giờ cũng vẫn còn nhu cầu về tương lai và vị trí phải có cho
tương lai ấy” [10; tr.81]. M.Bakhtin đã đem đến một quan niệm mới về cách
nhìn nhận con người và phương thức xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết “nhân
vật tiểu thuyết không được “anh hùng” cả theo nghĩa sử thi lẫn theo nghĩa bi
kịch của từ ấy: nó phải kết hợp trong nó cả những nét chính diện lẫn phản diện,
cả thấp kém lẫn cao thượng, cả nực cười lẫn nghiêm trang” [10; tr.31]. Bên cạnh
ý kiến của M.Bakhtin về quan niệm nhân vật thì M.Kundera cũng đưa ra quan
điểm riêng của mình. Ông đã khẳng định sứ mệnh lớn lao của tiểu thuyết là bảo
vệ con người trong thời đại máy móc lên ngôi, tiểu thuyết làm nhiệm vụ thức
tỉnh con người bằng cái hiền minh của sự lưỡng lự. Khi thời đại lãng quên con
người thì M.Kundera là người đầu tiên đã khẳng định vị trí, vai trò của con
người. Nhìn nhận con người trong thời hiện đại nên theo ông, nhân vật là cái tôi
bí ẩn của con người, cái tôi của tác giả mà nhà tiểu thuyết hóa thân để thử
nghiệm. Nhân vật không chỉ được hư cấu, mang tính ẩn dụ mà còn là nhân vật
lịch sử.
Ở Việt Nam, đầu thế kỉ XX, quan niệm về nhân vật trong tiểu thuyết thực
sự mới mẻ và hiện đại. Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh cho rằng nhân vật phải thể
hiện được nhiều chiều tính cách của con người “Người ta là người với những sự
cao quý và hẹn hạ con người” [130]. Tác giả Vũ Bằng quan niệm con người là
tổng thể của những thống nhất, có khi đối lập “Họ cũng là người như chúng ta
không hơn không kém, có một tấm lòng quảng đại, nhưng lại rất có thể có
những điểm hơn kém, có một khối óc quang minh nhưng lại rất có thể xa vào
hầm tội lỗi” [13]. Các nhà phê bình ở đô thị miền Nam, giai đoạn 1954 - 1975
lại quan niệm “nhân vật là là yếu tố không thể thiếu trong tiểu thuyết, ở nhân vật
29
có thể tìm thấy bộ mặt con người. Nhân vật là chiếc cầu nối giữa cuộc đời thực
với cuộc đời có vẻ thực trong tiểu thuyết” [6]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình
quan niệm về nhân vật trong tiểu thuyết đương đại: “Nhân vật vẫn tồn tại, nhưng
nó không còn giống như trong truyền thống, quá trình xây dựng nhân vật trở
thành công cuộc phá hủy chính nó” [16; tr.230-232]. Đặc biệt, nhà nghiên cứu
Đặng Anh Đào đã so sánh nhân vật trong tiểu thuyết truyền thống và tiểu thuyết
phương Tây hiện đại. Nhà nghiên cứu chỉ ra trong tiểu thuyết truyền thống, nhân
vật được kể lại trong một quá trình lịch sử, nhân vật được tái hiện số phận hay
một quãng đời còn trong tiểu thuyết phương Tây thế kỉ XX, nhân vật chỉ còn là
những mảnh đứt đoạn, được nhìn từ nhiều điểm nhìn khác nhau của nhiều nhân
vật trong cùng một tác phẩm. Nhà nghiên cứu cho rằng cái mới của các nhà tiểu
thuyết phương Tây hiện đại “đứng ở góc độ xây dựng nhân vật, chính là ở chỗ:
họ góp phần hủy diệt tính cách nhân vật, hiểu theo nghĩa nhân vật bị cắt thành
nhiều mảnh khó lắp ghép tạo dựng lại” [26; tr.59].
Như vậy, nhân vật là linh hồn của tác phẩm “Nhân vật là nơi duy nhất tập
trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác” (Tô Hoài). Về phía tác giả,
nhân vật là nơi thể hiện một cách tập trung nhất, sâu đậm nhất “quan niệm nghệ
thuật về con người”. Tác giả gửi gắm tâm tư, tình cảm, thông điệp và lí giải mọi
vấn đề của đời sống xã hội thông qua nhân vật. Về phía độc giả, nhân vật là chìa
khóa để nhà văn giải mã những vấn đề hiện thực đặt ra trong tác phẩm.
Cốt truyện là một yếu tố không thể thiếu của thể loại tiểu thuyết. Cốt truyện
được coi như xương sống của một con người, nó chi phối mạnh mạch nguồn
cảm xúc của toàn bộ tác phẩm. Cốt truyện là nơi để nhân vật thể hiện những suy
nghĩ, hành động của mình đồng thời cũng nơi thể hiện tư tưởng, chủ đề mà nhà
văn muốn gửi gắm. Trong văn học truyền thống, cốt truyện giữ vai trò quan
trọng, làm nhiệm vụ bộc lộ tính cách nhân vật, thể hiện xung đột xã hội và
khẳng định phong cách, tài năng của nhà văn “Trong tiểu thuyết, không thể
không có cốt truyện, cho dù hiện nay có xu hướng nhạt hóa cốt truyện thì cũng
không đồng nghĩa với việc không cần, không có cốt truyện, vì tác phẩm vẫn tồn
tại sự kiện, chỉ là không nhất thiết phải có mối quan hệ nhân quả mà thôi” [56].
30
Trong văn học hiện đại, cốt truyện không còn giữ vị trí độc tôn. Nhà nghiên cứu
Đặng Anh Đào trong công trình Đổi mới nghệ thuật phương Tây hiện đại cho
rằng: cốt truyện là xương sống của tiểu thuyết truyền thống tới mức nó đã được
định hình về mặt cấu trúc. Nó bao gồm các phần: trình bày, khai đoạn, phát triển,
đỉnh điểm, kết thúc. Tuy nhiên, do sự nới lỏng độ căng của cốt truyện, đến mức
có thể dẫn đến sự hủy diệt cốt truyện “cốt truyện trong tiểu thuyết hiện đại bị
giảm nhẹ”, do kết cấu lắp ghép của nhiều tiểu thuyết hiện đại. Trong văn xuôi
hậu hiện đại, vai trò của cốt truyện ngày càng mờ nhạt. Tác giả Barry Lewish
nhấn mạnh “Cốt truyện bị nghiền nát thành từng viên nhỏ của biến cố và hoàn
cảnh, nhân vật được phân tán thành một bó khát vọng và nhức nhối” [26].
Bất cứ tiểu thuyết nào cũng cần một kết cấu nhất định. Kết cấu được xem
là sự cấu tạo, tổ chức, sắp xếp liên kết các yếu tố bên trong và bên ngoài của tác
phẩm thành chỉnh thể nghệ thuật. Trong công trình Từ điển thuật ngữ văn học,
các tác giả cho rằng “Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác
phẩm…Kết cấu bao gồm tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không
gian nghệ thuật của tác phẩm, nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các
thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện”
[48; tr.156-157]. Tác giả Iu.Lotman cho rằng mỗi truyện kể đều có thể được xác
định trong một kết cấu hoàn chỉnh nhất định, đó là khung “Khung của tác phẩm
văn học được tạo thành bởi hai yếu tố: mở đầu và kết thúc” [115]. M.Kundera
trong công trình Nghệ thuật tiểu thuyết lại quan niệm về kết cấu của tiểu thuyết
theo cách khác, đó là “một nghệ thuật mới của phép giản lược căn bản, một nghệ
thuật mới trong lối đối âm tiểu thuyết và một nghệ thuật tiểu luận đặc biệt có
tính tiểu thuyết” [88]. Ông cho rằng, kết cấu không chỉ là hình thức mà còn góp
phần biểu đạt nội dung và bộc lộ tài năng của nhà văn.
Nói tới vai trò của kết cấu trong tiểu thuyết, nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh
cho rằng “Nhờ kết cấu mà người đọc mặc dù biết chuyện được kể trong tiểu
thuyết là bịa đặt song vẫn không thể không tin” [130]. Nhà nghiên cứu Phan Cự
Đệ cho rằng kết cấu có vai trò “tổ chức mối liên hệ giữa các yếu tố thuộc nội
dung tác phẩm (tính cách và hoàn cảnh, hành động và biến cố trong cốt truyện)
31
và các yếu tố khác thuộc hình thức (bố cục, hệ thống ngôn ngữ, nhịp điệu)” [28].
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử nhấn mạnh “Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức
tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà
văn tự đặt ra” [135; tr.152]. Người viết tiểu thuyết có thể lựa chọn những kiểu
kết cấu truyền thống như: kết cấu chương hồi, kết cấu tâm lí, kết cấu đơn tuyến,
kết cấu song tuyến, kết cấu đa tuyến, kết cấu tuyến tính…và các kiểu kết cấu
hiện đại: kết cấu lắp ghép, phân mảnh, kết cấu liên hoàn, kết cấu đa tầng, kết cấu
vòng tròn, kết cấu xoắn kép, kết cấu trùng điệp,…Dù nhà văn lựa chọn kiểu kết
cấu nào thì kiểu cấu đó phải tăng sức biểu hiện của đề tài, chủ đề, tăng sức tác
động nghệ thuật, phục vụ tối đa cho nhiệm vụ nghệ thuật, thể hiện nội dung, tư
tưởng và gây ấn tượng mạnh cho người đọc.
Trong tiểu thuyết không thể thiếu vai trò của người kể chuyện. Người kể
chuyện là một dạng hình tượng do tác giả hư cấu, sáng tạo nên, là người đại diện
phát ngôn cho tác giả trong tác phẩm. Trong tiểu thuyết, người kể chuyện giữ
một vai trò quan trọng. Người kể chuyện chính là cầu nối, tạo mối quan hệ
khăng khít giữa nhân vật - người kể chuyện - độc giả. Người kể chuyện có vai
trò giới thiệu, dẫn dắt câu chuyện và điều khiển câu chuyện. Người kể chuyện có
mối quan hệ mật thiết với điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn không chỉ là vị trí,
xuất phát điểm mà từ đó hiện thực được quan sát và được kể lại mà còn là tư
tưởng và kết cấu của tác phẩm nghệ thuật và là nhân tố cơ bản của cấu trúc tác
phẩm nghệ thuật mang giá trị biểu cảm. Điểm nhìn là một khái niệm đã được đề
cập khá sớm, đặc biệt ở Anh và Mĩ. Theo tác giả M.H.Abrahams trong công
trình Từ điển thuật ngữ văn học, điểm nhìn chỉ ra “những cách thức mà một câu
chuyện được kể đến - một hay nhiều phương thức được thiết lập bởi tác giả bằng
ý nghĩa mà độc giả được giới thiệu với những cá tính, đối thoại, những hành
động, sự sắp đặt và những sự kiện mà trần thuật cấu thành trong một tác phẩm
hư cấu” [194; tr.165]. Theo tác giả Cao Kim Lan trong công trình Ma thuật của
truyện kể - Tự sự học và những diễn giải văn học Việt Nam hiện đại thì quan
niệm “điểm nhìn chính là một mánh khóe thuộc về kĩ thuật, một phương tiện để
chúng ta có thể tiến cái đích tham vọng nhất: sức quyến rũ của truyện kể” [91;
32
tr.12]. Trong tiểu thuyết, dù người kể chuyện giấu mình ở ngôi trung gian hay
xưng “tôi” khi đứng ra kể đủ mọi thứ chuyện về mình hoặc về người khác thì đó
vẫn là dạng tiểu thuyết có một điểm nhìn. Một trong những xu hướng tìm tòi,
đổi mới của tiểu thuyết hiện đại liên quan đến người kể chuyện là việc gia tăng
các điểm nhìn. Nhà văn có thể xây dựng nhiều nhân vật kể chuyện, nhiều điểm
nhìn từ nhiều khoảng, góc thời gian và không gian khác nhau, điểm nhìn có thể
dịch chuyển và trao cho nhân vật. Tác giả Mai Hải Oanh cho rằng: “Sự đan xen
và dịch chuyển liên tục điểm nhìn cũng là cách thức để tạo nên tính phức điệu
của tiểu thuyết. Theo đó, văn bản nghệ thuật trở thành một cấu trúc đa tầng, có
khả năng phá vỡ tính đơn âm và cùng lúc vang lên những tiếng nói khác nhau”
[125; tr.219].
Giọng điệu trần thuật cũng là một trong những phương diện cơ bản để xây
dựng người kể chuyện. Giọng điệu trần thuật chính là giọng điệu của người kể
chuyện gắn liền với dụng ý sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Nó giúp xác định
rõ mối quan hệ giữa hành động kể với các sự kiện, tình huống được trình bày
trong truyện kể và thể hiện thái độ, cách đánh giá của người kể chuyện đối với
câu chuyện được kể lại. Qua giọng điệu, thái độ, cảm xúc của người kể chuyện
đối với câu chuyện được kể lại cũng bộc lộ. Nhà nghiên cứu G.Gentte quan
niệm rằng giọng điệu phải trả lời cho câu hỏi ai nói, nó hướng về người phát
ngôn về “hành động nói trong mối liên hệ với chủ thể của nó - chủ thể ấy không
chỉ là kẻ thực hiện hoặc chịu hành động nói, mà còn là người (văn là kẻ đó hoặc
kẻ khác)” [134]. Nhà nghiên cứu Gerald Prince coi giọng điệu là “thái độ của
người trần thuật đối với người nghe chuyện và/hoặc những tình huống và sự
kiện được trình bày bằng cách thể hiện hàm ẩn hoặc công khai thái độ đó trong
hoạt động trần thuật của anh ta” [196; tr.100]. Giọng điệu còn được hiểu “là thái
độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được
miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu
tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay
châm biếm” [48; tr.134]. Nhà văn có thể có nhiều giọng điệu khác nhau nhưng
phải dựa trên một giọng điệu chủ đạo “Giọng điệu trong tác phẩm gắn với cái
33
giọng trời phú của mỗi tác giả nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù
hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng,
có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu”
[48; tr.135]. Sự đa sắc thái giọng điệu là một phương tiện cốt lõi chuyển hiện
thực đời sống vào tác phẩm và thể hiện thái độ của nhà văn trước cuộc sống. Sự
hòa trộn nhiều giọng trong trần thuật đã tạo nên sự phức điệu và sắc thái đa
thanh thể hiện được đặc trưng về tính đối thoại của tiểu thuyết hiện đại. Thay
đổi giọng điệu cũng là thay đổi tâm thế cầm bút, thay đổi tư duy nghệ thuật của
chủ thể sáng tạo.
Như vậy, khi nói tới tiểu thuyết cần phải nói tới nhân vật, cốt truyện, kết cấu,
người kể chuyện. Đó là các đặc trưng cơ bản xác lập nên thể loại tiểu thuyết và là
tiền đề nghiên cứu đặc điểm thể loại tiểu thuyết Tô Hoài giai đoạn sau 1945.
2.1.2. Hồi kí nhìn từ một số đặc trưng thể loại
2.1.2.1. Quan niệm về hồi kí
Trong văn xuôi, bên cạnh tiểu thuyết, hồi kí là một thể loại quan trọng. Hồi
kí là một tiểu loại của kí văn học, gắn với tên tuổi của các nhà hoạt động xã hội,
khoa học, nghệ thuật. “Hồi” có nghĩa là quay lại, trở lại; “kí” có nghĩa là ghi
chép. Hồi kí có nghĩa là ghi lại những sự việc, sự kiện thuộc về quá khứ đã đi
qua, nó là phần hồi ức, kỉ niệm sâu đậm của người viết. Có nhiều quan niệm
khác nhau về thể hồi kí, được trình bày trong một số công trình như Từ điển
thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên),
150 thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân), Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng
Việt (Nguyễn Văn Đạm), Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê). Hầu hết các tác giả
trong các công trình này đều cho rằng: Hồi kí là một thể loại thuộc loại hình kí,
kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc
chứng kiến, có mối quan hệ với thời đại. Trong công trình Kí và giảng dạy kí,
tác giả Hoàng Như Mai viết: “Hồi kí ghi lại những sự việc đã qua, nhưng những
sự việc ấy không phải thuộc vào một thời kì lịch sử xa xôi mà phải gần gũi, có
liên quan khá mật thiết với hiện tại. Hồi kí thường là do những người đang còn
sống kể lại” [100; tr.218]. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử xem hồi kí là “thể loại
34
ghi chép các sự kiện quá khứ đã trải qua do đương sự thực hiện, cũng là một
hình thức văn học riêng tư, mình nói về mình, một dạng tự truyện của tác giả.
Hồi kí cung cấp những tư liệu của quá khứ mà đương thời chưa có điều kiện nói
được” [135; tr.379-380]. Trong công trình Lí luận văn học (Hà Minh Đức chủ
biên), các tác giả quan niệm: “Hồi kí là một thể văn quan trọng. Người viết hồi
kí kể lại những điều mình có dịp quan sát hoặc nghe trực tiếp, những sự việc và
con người để lại ấn tượng sâu sắc, gắn bó với những kỉ niệm riêng, nhưng đồng
thời lại có nội dung xã hội phong phú. Thời điểm câu chuyện xảy ra thuộc về
một quá khứ gần gũi và có nhiều liên hệ với cuộc đời hiện tại” [36; tr.230].
Trong công trình Lí luận văn học (Phương Lựu chủ biên), mặc dù các tác giả
không đưa ra định nghĩa cụ thể về hồi kí nhưng người đọc vẫn hình dung: “Hồi
kí với đặc điểm là chủ thể trần thuật phải là người trong cuộc, kể lại những sự
việc trong quá khứ. Hồi kí có thể nặng về người hay việc, có thể theo dạng kết
cấu - cốt truyện hoặc dạng kết cấu - liên tưởng” [99; tr.436]. Trong công trình Lí
luận văn học, các tác giả Lê Lưu Oanh, Phạm Đăng Dư cho rằng: “Chủ thể trần
thuật trong hồi kí phải là người trong cuộc, người đã sống, trải nghiệm và là
nhân vật chính…Hồi kí có thể là những chuyện đời tư, cá nhân, thường là của
những người phần nào nổi tiếng” [124; tr.219]. Tác giả Nguyễn Ngọc Thiện
trong bài viết Hồi kí văn học trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại cho
rằng: “Hồi kí là một thể tài kí văn học được các nhà văn sử dụng để ghi chép, tái
hiện, trần thuật lại, kể lại từ ngôi thứ nhất - ngôi tác giả với cái tôi của anh ta -
một cách trung thực và chọn lọc những việc đã xảy ra cùng những người có liên
quan với tác giả, với nghề văn và đời sống văn chương trong quá khứ mà bản thân
tác giả đã chứng kiến, cùng sống và tham dự” [151]. Như vậy, có rất nhiều ý kiến
khác nhau của các nhà nghiên cứu về quan niệm hồi kí nhưng chúng tôi cho rằng:
Hồi kí ghi chép lại những sự kiện trong quá khứ, tác giả viết hồi kí thường là có tên
tuổi. Hồi kí gắn với những trải nghiệm của nhà văn, những câu chuyện của họ
hoặc của những người xung quanh qua trường quan sát của chủ thể sáng tác.
So với nhật kí, tự truyện; hồi kí vừa có điểm tương đồng vừa có điểm khác biệt.
Hồi kí và nhật kí đều có điểm giống nhau ở hình thức giãi bày, tâm sự và
35
chú ý đến các sự kiện mang tính chất tiểu sử. Tuy nhiên, giữa hồi kí và nhật kí
cũng có những điểm khác nhau. Về đối tượng sáng tác, nhật kí là loại thông
dụng, phổ biến, tất cả đối tượng nếu có nhu cầu đều có thể viết nhật kí còn tác
giả viết hồi kí thường là có tên tuổi, hồi kí gắn với các nhà hoạt động xã hội,
khoa học, nghệ thuật…Về ngôi trần thuật, nhật kí là thể loại mang tính chất cá
nhân riêng tư, tác giả hay nhân vật của cuốn nhật kí thường ở ngôi thứ nhất,
người viết luôn là trung tâm. Ở hồi kí, ngôi trần thuật có thể là tác giả hoặc trao
cho các nhân vật trong tác phẩm. Về trình tự thời gian, hình thức của nhật kí
theo thời gian tuyến tính. Người viết nhật kí bao giờ cũng tôn trọng trật tự biên
niên của sự việc ghi chép nhật kí. Còn hồi kí kể về những việc đã xảy ra, từ
điểm nhìn hiện tại kể về quá khứ (thời gian ngược chiều). Bên cạnh đó, nhật kí
thường chỉ ghi lại những sự kiện, những cảm nghĩ “vừa mới xảy ra” chưa lâu,
nhật kí có tính thời sự và thường dang dở, ít khái quát, bởi thời gian sống và viết
gần như đồng thời còn hồi kí có tính tổng kết và lí giải. Nếu hồi kí viết ra nhằm
giãi bày, thú nhận với người khác thì nhật kí là lối viết thầm kín cho riêng mình,
có tính riêng tư. Hồi kí có ý định công bố còn nhật kí thì không hoặc chưa.
Hồi kí và tự truyện đều là những thể văn xuôi kể về cá nhân, viết về những
gì thuộc quá khứ nhưng hai thể loại này không hoàn toàn trùng khít. Tác giả nổi
tiếng người Mỹ Gore Vidal đã chỉ ra sự khác nhau: “Một cuốn hồi kí là cách
người ta nhớ về cuộc đời của chính mình, trong khi cuốn tự truyện là lịch sử, đòi
hỏi phải nghiên cứu, ngày tháng, sự kiện được kiểm tra hai lần” [197]. Tác giả
Hoàng Như Mai cũng nhận thấy những điểm khác nhau cơ bản giữa hồi kí và tự
truyện là “tự truyện thiên về kể lại những chuyện thân mật, bình thường nhiều
hơn mà hồi kí thì thiên về những sự kiện có tính lịch sử. Cũng do đặc điểm này,
mà sự hư cấu trong tự truyện có thể xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người
viết. Cho nên nói về giá trị lịch sử thì hồi kí hơn tự truyện, nhưng đứng về tính
chất văn học thì tự truyện có thể hơn hồi kí vì tự truyện thuộc phạm trù của
truyện” [100; tr.218]. Hồi kí và tự truyện khác nhau ở một số điểm cơ bản. Về
đối tượng phản ánh, tâm điểm của hồi kí là thế giới bên ngoài, là cuộc sống và
con người ở một thời kì lịch sử nào đó, là quan sát của cá nhân trước chuyển
36
động của lịch sử. Hồi kí không nhất thiết kể về cái tôi mặc dù tôi là người chứng
kiến. Hồi kí hoàn toàn có thể là chuyện về những người khác do tác giả trực tiếp
chứng kiến hoặc nghe kể lại. Mục đích của hồi kí là cung cấp những tư liệu của
quá khứ mà đương thời chưa có điều kiện để nói ra, hồi kí vừa mang tính hướng
nội và hướng ngoại. Còn tự truyện, mang tính hướng nội, tác giả - người kể
chuyện - nhân vật là một, tự truyện lấy cuộc đời của nhân vật làm đối tượng
chính, khám phá tự họa gương mặt của mình qua hồi ức, tâm điểm của tự truyện
là cái tôi cá nhân của người viết. Về yếu tố sự thật và hư cấu, hồi kí đòi hỏi sự
chính xác của sự kiện và những đánh giá khách quan của người viết hồi kí. Tự
truyện quan tâm đến nhiều hơn giá trị nghệ thuật nên được quyền sử dụng các
chi tiết tiểu sử như chất liệu để tái tạo quá khứ, nhào nặn hiện thực theo mục
đích ý đồ của nhà văn, cho phép nhà văn hư cấu để tạo nên những hình tượng
hoàn chỉnh. Như vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa hồi kí và tự truyện ở chỗ: tư
duy hồi kí là tư duy vừa hướng nội vừa hướng ngoại, tư duy tự truyện là tư duy
hướng nội.
2.1.2.2. Đặc trưng thể hồi kí
Đặc trưng cơ bản của hồi kí là cốt lõi sự thật và giải mã sự thật, không hư
cấu, không có cốt truyện, dựa trên sự hồi tưởng kí ức một cách chân thực. Tác
giả viết hồi kí là người trong cuộc, kể lại những việc đã xảy ra trong quá khứ mà
bản thân mình là người tham dự hoặc chứng kiến thậm chí lấy chất liệu từ cuộc
đời của chính mình nên nội dung phản ánh mang tính xác thực cao. Mặc dù hồi
kí viết về những sự kiện, con người quá khứ nhưng lại giàu tính thời sự ở chỗ nó
hướng tới cái hiện tại chưa hoàn kết và có đường dây liên kết với đời sống
đương đại. Hồi kí góp phần trả lời câu hỏi cho đời sống đương đại và soi sáng
cho hiện tại. Hồi kí là thể loại được nhiều nhà văn lựa chọn sáng tác do đặc
trưng của nó là đáp ứng được tối đa nhu cầu tái hiện bức tranh chân thực đời
sống xã hội, lịch sử một thời đã qua. Phản ánh và bám sát “người thật, việc thật”
trong đời sống xã hội là một nguyên tắc, là “lẽ sống” của hồi kí. Hồi kí tôn trọng
sự thật nhưng không có nghĩa nhà văn sao chụp nguyên xi con người, cuộc sống
ở ngoài đời thực đưa vào trong tác phẩm mà phải là những sự thật có tính đại
37
diện, có độ hấp dẫn nhất định với sự tò mò của độc giả. Hồi kí đảm bảo tính
chân thực theo cách riêng của nhà văn vừa tôn trọng sự thật trong quá khứ, vừa
thành thật với chính suy nghĩ, cảm xúc của chính mình. Việc phản ánh “người
thật, việc thật” trong hồi kí không tách rời với nhu cầu khám phá đời sống tạo
nên cái nhìn đa chiều về cuộc đời và con người. Đây là nét đặc trưng trong sự
thật của hồi kí, là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn riêng của thể loại này. “Người thật,
việc thật” trong cuộc sống và “người thật, việc thật” trong tác phẩm có thể thống
nhất tương ứng nhưng không thể đồng nhất và trùng khít là một. Sự thật xảy ra
trong quá khứ có độ lùi khá xa nên người chứng kiến không thể nhớ lại tường
tận mọi diễn biến sự việc, không thể bao quát hết do vậy hồi kí khó tránh khỏi
tính chủ quan của người kể chuyện. Cách kể chuyện trong hồi kí theo dòng hồi
tưởng của tác giả, tác giả nhớ đến đâu kể đến đó. Tác giả có thể hồi tưởng lại
quá khứ theo trật tự thời gian tuyến tính từ quá khứ xa đến quá khứ gần. Tuy
nhiên, trong tác phẩm hồi kí, dòng hồi ức có thể bị đảo lộn không theo quy luật
khách quan mà chịu sự tác động của ý thức tác giả.
Hình tượng tác giả là vị trí trung tâm nổi bật của hồi kí. Nhà văn là người
sáng tạo ra thế giới nghệ thuật. Mỗi tác phẩm bao giờ cũng lưu lại dấu ấn, phong
cách, tư tưởng, quan điểm thẩm mĩ của nhà văn. Nếu cái tôi thứ nhất của tác giả
là cái tôi trong đời sống hiện thực (tác giả tiểu sử) thì cái tôi muốn nói tới ở đây
là cái tôi tồn tại trong tác phẩm văn học hay còn gọi là “hình tượng tác giả”. Các
tác giả trong công trình Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra nội dung khái quát
về hình tượng tác giả: “Hình tượng tác giả là một phạm trù thể hiện cách tự ý
thức của tác giả về vai trò xã hội và vai trò văn học của mình trong tác phẩm,
một vai trò được người đọc chờ đợi” [48; tr.149]. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn
học, tác giả Lại Nguyên Ân đã đi từ thuật ngữ “tác giả văn học” để làm cơ sở
xem xét khái niệm “hình tượng tác giả”: “Tác giả là người sáng tạo ra tác phẩm
văn học, để lại dấu ấn của mình ở thế giới nghệ thuật do mình sáng tạo ra” [7;
tr.146]. Tác giả tiểu sử và hình tượng tác giả có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
nhưng không phải là một. Tác giả tiểu sử như một khái niệm ngoài thi pháp. Tác
giả tiểu sử là con người cụ thể, có lai lịch, số phận, tính cách rõ ràng, trải qua
38
những bước thăng trầm của cuộc đời. Đặc điểm cuộc đời và tài năng nghệ thuật
của tác giả tiểu sử có ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình sáng tạo, in đậm dấu ấn
trong tác phẩm. Tác giả tiểu sử là tiền đề cho việc thể hiện hình tượng tác giả
trong tác phẩm. Hình tượng tác giả là một hiện tượng thẩm mĩ do nhà văn sáng
tạo ra. Trong tác phẩm, nhà văn luôn miêu tả mình trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi đọc
tác phẩm, độc giả sẽ nhận ra hình tượng tác giả là người sáng tạo tổ chức nội dung
và hình thức cái nhìn nghệ thuật theo quan niệm riêng và suy nghĩ của mình về thế
giới khách quan, đó là một kiểu “tác giả hàm ẩn” bên trong tác phẩm.
Hình tượng tác giả được thể hiện qua cái nhìn nghệ thuật, sự tự thể hiện của
tác giả thành hình tượng. Cái nhìn là một năng lực tinh thần đặc biệt của mỗi
nhà văn, là yếu tố giúp phân biệt nhà văn này với nhà văn khác. Cái nhìn gắn
với chiều sâu và mang tính phát hiện của nhà văn. Tài năng của nhà văn thể hiện
ở tính chiều sâu đó. Cái nhìn nghệ thuật thể hiện được tiếng nói của nhà văn,
tiếng nói riêng càng mạnh thì hình tượng tác giả càng rõ nét. Cái nhìn nghệ thuật
là vấn đề then chốt trong sáng tác văn học bởi nó mang đến cách nhìn, khả năng
khái quát, đề xuất những vấn đề cuộc sống. Cái nhìn nghệ thuật là một biểu hiện
trong thế giới nghệ thuật qua đó người đọc nhận ra con người nghệ sĩ của tác giả.
Sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng là phương diện thứ hai của hình
tượng tác giả. Sự tự bộc lộ là trạng thái cảm xúc và những suy nghĩ chân thực
của bản thân con người trước cuộc sống. Người nghệ sĩ hình dung, tự nhận định,
đánh giá chiêm ngưỡng về mình trong tác phẩm nghĩa là họ đã vẽ lên chân dung
tự họa của mình trong tác phẩm theo cách cảm nhận chủ quan. Điều này có ý
nghĩa quan trọng cho việc tìm hiểu hình tượng tác giả. Hình tượng tác giả không
được đồng nhất với bản thân tác giả. Người kể chuyện có thể xưng “tôi” để tự
hình dung, thể hiện mình nhưng người kể chuyện chỉ là một hình thức thể hiện
quan điểm, tư tưởng, phong cách tác giả trong tác phẩm. Do vậy người kể
chuyện thống nhất với tác giả nhưng không đồng nhất với tác giả. Bên cạnh đó,
giọng điệu trần thuật là yếu tố để xác định khuôn mặt nhà văn. Giọng điệu là
một trong những yếu tố quan trọng để khu biệt phong cách tác giả, là “một yếu
39
tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm” [133; tr.142]. Mỗi nhà văn
trong sự đổi mới thể loại cũng làm mới giọng điệu, góp phần cách tân nghệ thuật
tác phẩm.
Như vậy, khi nói tới hồi kí cần phải nói tới cốt lõi sự thật và giải mã sự thật,
hồi kí không hư cấu, không có cốt truyện, dựa trên sự hồi tưởng kí ức một cách
chân thực và trong hồi kí cần có hình tượng tác giả. Đó là các đặc trưng cơ bản
xác lập nên thể hồi kí và là cơ sở để nghiên cứu đặc điểm thể hồi kí Tô Hoài giai
đoạn sau 1945.
2.2. Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài trong dòng chảy văn xuôi Việt Nam hiện đại
2.2.1. Giai đoạn trước 1945
Tô Hoài là nhà văn đã để lại dấu ấn đậm nét phong cách sáng tác của mình
trong suốt tiến trình văn xuôi Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của ông có tầm
ảnh hưởng lớn đến lịch sử phát triển văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XX đầu
thế kỉ XXI. Việc đặt sáng tác tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài trong dòng chảy văn
xuôi Việt Nam hiện đại sẽ giúp độc giả hiểu rõ hơn những đóng góp và thành
tựu của ông trong hai thể loại này.
Tiểu thuyết là một thể loại được xem là “máy cái” của văn học. Trải qua
nhiều chặng đường phát triển, đến nay tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đã có được
những thành tựu lớn. Khởi đầu những năm hai mươi của thế kỉ XX, tiểu thuyết
đã hình thành với các cây bút Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học thời kì đầu…ở
miền Bắc, tiếp đến là các cây bút viết tiểu thuyết ở cả hai miền như Hoàng Ngọc
Phách, Nguyễn Trọng Thuật, Hồ Biểu Chánh…Tuy nhiên, tiểu thuyết Việt Nam
chỉ thực sự khẳng định vị trí của mình và nở rộ từ các cây bút của nhóm Tự lực
văn đoàn (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam) và các nhà văn hiện
thực phê phán (Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,
Tô Hoài…) giai đoạn 1930 - 1945. Nhóm Tự lực văn đoàn đã có công lớn trong
việc đổi mới nền văn học, góp phần quan trọng vào việc xây dựng một nền văn
học Việt Nam hiện đại. Nhóm Tự lực văn đoàn không chỉ thành công đổi mới ở
phương diện nội dung, lên tiếng đòi giải phóng cái tôi cá nhân một cách mạnh
mẽ mà còn hiện đại hóa tiểu thuyết ở nhiều phương diện: ngôn ngữ, kết cấu,
40
nhân vật đặc biệt là nghệ thuật tâm lý xuất sắc. Bên cạnh đó là sự hiện diện của
các cây bút tiểu thuyết hiện thực phê phán. Dòng văn học này đã khắc phục
được giới hạn của tiểu thuyết lãng mạn, xây dựng được những tính cách điển
hình trong những hoàn cảnh điển hình, bộc lộ những xung đột giữa các tính cách,
mâu thuẫn cơ bản của đời sống xã hội, đề cao nguyên tắc khách quan, coi trọng
“sự thực ở đời”. Ngôn ngữ văn chương của họ đã đạt tới trình độ nghệ thuật cao,
vừa chân thực, gần gũi vừa hiện đại. Cả hai nhóm, hai khuynh hướng văn học
giai đoạn này đã gây dựng nên một mô hình tiểu thuyết có ảnh hưởng lâu dài
đến lịch sử tiểu thuyết Việt Nam. Và cho đến những giai đoạn về sau, rất nhiều
tiểu thuyết không vượt qua những đỉnh cao trong hành trình khám phá đời sống
tâm lí và thân phận con người của hai khuynh hướng tiểu thuyết này.
Trước 1945, Tô Hoài là một cây bút văn xuôi hiện thực, bên cạnh một số
gương mặt đáng chú ý của trào lưu văn học hiện thực như Nam Cao, Nguyên
Hồng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. Nguyên Hồng viết về nỗi khốn khổ của
người nghèo. Nam Cao viết về sự bế tắc và tha hóa của người nông dân và cuộc
sống của người trí thức nghèo thành thị. Nguyễn Công Hoan viết về bước đường
cùng của người nông dân. Tô Hoài lại viết về cuộc sống của người dân nội và
ngoại thành Hà Nội. Tô Hoài đến với tiểu thuyết khá sớm. Ngay từ giai đoạn
đầu sáng tác, tiểu thuyết của Tô Hoài rất đậm cảm quan nghệ thuật và giọng
điệu riêng - một cây bút dồi dào sung sức, đứng cạnh Nam Cao, tạo nên dấu ấn
đặc trưng cho trào lưu văn học hiện thực Việt Nam những năm trước Cách mạng.
Khác với tiểu thuyết của các cây bút dòng văn học hiện thực phê phán như Nam
Cao, Nguyên Hồng, tiểu thuyết Tô Hoài ít xung đột xã hội, nghiêng về phong
tục, tập quán. Đằng sau “nhãn quan phong tục”, ngòi bút hiện thực của Tô Hoài
phản ánh được một xã hội đang đói khổ, cùng quẫn, bế tắc do nghề thủ công bị
phá sản với cái nhìn cảm thông, thương xót đầy tính nhân văn. Tô Hoài sáng tác
các tiểu thuyết Quê người (1942), Giăng thề (1942), Xóm giếng (1942) chủ yếu
phản ánh về cuộc sống và con người ở làng Nghĩa Đô - nơi ông sinh ra và lớn
lên với cái nhìn, cảm quan đời thường.
Làng quê trong tiểu thuyết Tô Hoài mang một phong vị riêng độc đáo. Quê
41
người (1942) là tập truyện đầu tay của Tô Hoài, tả những thói tục cùng những
cách sinh hoạt của những người dân sống bằng nghề dệt lĩnh ở vùng Bưởi. Ở tập
truyện này, Tô Hoài tỏ ra là một nhà tiểu thuyết có con mắt quan sát sâu sắc. Tô
Hoài đã dựng lên khá chân thực và sinh động cuộc sống của làng quê Việt Nam
những năm trước Cách mạng. Cả một làng quê tàn tạ, tiêu điều, sa sút. Cảnh
nghèo đói đã khiến Thoại - Bướm phải bỏ làng mà đi, Hời - Ngây phải bán nhà.
Sự tan rã của gia đình và sự tàn tạ của một vùng quê ven thành trong cảnh sống
mù mịt, tối tăm, không có lối thoát là hệ quả tự nhiên của xã hội thuộc địa. Các
tiểu thuyết Giăng thề (1942), Xóm giếng (1942) tiếp tục cảm hứng tái hiện chân
thực và sinh động cuộc sống nghèo khổ của người dân vùng ven thành. Tiểu
thuyết Giăng thề đi sâu vào cuộc sống sinh hoạt nghèo khổ của ba anh nhà giáo.
Họ là những người tri thức nghèo, nghèo cả tiền bạc lẫn chữ nghĩa. Tiểu thuyết
Xóm giếng miêu tả sự tan vỡ của một mối tình do chàng trai nghèo không có sự
nghiệp trong tay. Có thể nhận thấy, ở các tiểu thuyết này, Tô Hoài không cao
giọng, không nhấn mạnh thậm chí không muốn có bất cứ sự can thiệp nào của tư
tưởng chủ quan. Tiểu thuyết của Tô Hoài “cứ tự nhiên mà thủ thỉ cái tiếng nói
hồn nhiên của bản thân sự sống”.
Về thể hồi kí, giai đoạn trước 1945, hồi kí Việt Nam bước vào giai đoạn
hình thành, không có nhiều thành tựu đáng kể. Đặc điểm hồi kí không thực sự
nổi bật, ý thức về thể loại chưa rõ ràng, các cây bút sáng tác hồi kí khá vắng
bóng. Một số tác phẩm được coi là hồi kí ở giai đoạn này tuy nhiên tên gọi của
chúng không thực sự phản ánh đúng bản chất của hồi kí mà thiên về tính tiểu sử,
lí lịch và văn luận thuyết, thậm chí là truyện hư cấu như Ngục trung thư, Phan
Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu), Giấc mộng lớn (Tản Đà). Đa số các hồi kí
trong giai đoạn này được viết theo lối tự truyện hoặc viết theo lối ghi chép,
phóng sự, điều tra, nhật kí như hồi kí Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến. Một số
tác phẩm gây chú ý của giai đoạn này là Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng,
Cai của Vũ Bằng, Cỏ dại của Tô Hoài. Đó là ba hồi kí của ba nhà văn trẻ, thể
nghiệm viết hồi kí ghi lại quãng đường thơ ấu, thanh thiếu niên đã qua của mình.
Cỏ dại (1944) là hồi kí đầu tay của Tô Hoài, được sáng tác khi nhà văn mới
42
ngoài hai mươi tuổi. Tác phẩm đã tái hiện rõ nét thời thơ ấu thấm đẫm nỗi buồn
của nhà văn thông qua nhân vật chính là Cu Bưởi. Cu Bưởi chủ yếu ở gia đình
ông bà ngoại trong ngôi nhà gạch cũ ở vùng Nghĩa Đô. Trong Cỏ dại, nhà văn
không chỉ kể về kí ức tuổi thơ đau buồn và lặng lẽ của Cu Bưởi mà còn vẽ nên
một bức tranh chân thực và sống động của những cảnh đời, tính cách, số phận
con người khác nhau trong những ngày xưa cũ. Với giọng văn thân tình, tự
nhiên, câu chuyện buồn của những cuộc đời cũ thỉnh thoảng vẫn “lóe lên những
nét sống vui ngộ, tinh nghịch, do được nhìn qua con mắt trẻ thơ”. Cỏ dại giúp
người đọc hiểu một cách sinh động những điều đã tạo nên tâm hồn cũng như
những nét đặc sắc trong phong cách Tô Hoài.
Có thể thấy, các tiểu thuyết và hồi kí của Tô Hoài trước 1945 tập trung vào
phản ánh bức tranh hiện thực đời sống ở làng quê ven thành của nhà văn, một
vùng quê đang ngấm dần và mở rộng sự bần hàn, túng đói, thất nghiệp và ly tán,
để cuối cùng là sự vô vọng thậm chí có cả sự chết chóc…Đó không chỉ là bức
tranh hiện thực ở quê hương nhà văn mà rộng hơn đó còn là bức tranh hiện thực
xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám qua đó thấy bút pháp tả thực và
dấu ấn riêng chủ nghĩa hiện thực trong những trang văn của Tô Hoài. Tóm lại,
trước 1945, tiểu thuyết và hồi kí của Tô Hoài đã đạt được thành công nhất định.
Các sáng tác của Tô Hoài đều thấm đượm tính nhân văn và mang dấu ấn khá sâu
đậm về một quãng đời của nhà văn. Xét một cách toàn diện và khách quan, Tô
Hoài là một cây bút hiện thực đáng chú ý trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại
những năm trước Cách mạng.
2.2.2. Giai đoạn 1945 đến 1985
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 phát triển trong một hoàn cảnh
lịch sử đặc biệt, khi vận mệnh của Tổ quốc đứng trước những thử thách gay gắt,
cả dân tộc cùng nhau sát cánh trong cuộc chiến đấu cho độc lập, tự do, thống
nhất đất nước. Sáng tác của các văn nghệ sĩ cũng chịu ảnh hưởng dưới một nhãn
quan nghệ thuật mới do vậy, tiểu thuyết và hồi kí của Tô Hoài giai đoạn này
cũng nằm trong nguồn mạch, dòng chảy của bối cảnh thời đại và sự phát triển
chung của văn học, văn hóa cách mạng. Hầu hết các tác phẩm trong giai đoạn
43
này đều tập trung tái hiện nhiều sự kiện trọng đại trong lịch sử vẻ vang của dân
tộc. Hiện thực mà văn học phản ánh là hiện thực lịch sử dân tộc, hình ảnh nhân
dân được nâng lên thành biểu tượng cho vẻ đẹp, sức mạnh, khát khao của thời
đại và dân tộc. Đây là nền văn học cách mạng theo khuynh hướng sử thi, thiên
về biểu dương, ngợi ca. Nền văn học này đã sáng tạo một thế giới nghệ thuật,
bao gồm cả bức tranh đời sống và những hình tượng con người - mang một vẻ
đẹp riêng, đậm màu sắc sử thi và chất lãng mạn. Tiểu thuyết sử thi luôn đặt vấn
đề số phận cá nhân trong tương quan với số phận giai cấp, nhân dân và dân tộc.
Mô hình sử thi có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến cấu trúc thể loại tiểu thuyết
Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, 1975 - 1985 và những chặng đường sau đó.
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, tiểu thuyết xuất hiện muộn và đạt
được những thành tựu bước đầu với bộ ba đoạt Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt
Nam 1951 - 1952 và 1954 - 1955: Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của
Nguyễn Đình Thi, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng. Thời kì 1964 - 1965 có thể
coi đây là thời kì phát triển rực rỡ của tiểu thuyết trong nền văn học mới. Một số
tiểu thuyết tiêu biểu thời kì này là Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Một
chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm,
Người người lớp lớp của Trần Dần, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy
Tưởng, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, bộ Cửa biển của Nguyên Hồng…Trong
thời kì chống Mỹ cứu nước, nền văn học cách mạng trở nên bề thế hơn cả về số
lượng tác phẩm và đội ngũ tác giả. Những cây bút từ thời kì chống Pháp dần
bước vào độ chín, viết nên nhiều tác phẩm có giá trị cả về tư tưởng lẫn nghệ
thuật, góp phần tích cực vào cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Đồng thời, lực lượng các nhà văn được bổ sung đáng kể, như: Nguyên
Ngọc, Phan Tứ, Lê Văn Thảo, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Trí Huân,
Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy,...Thời kì chống Mỹ cứu nước đã tạo ra
nhiều tiểu thuyết có giá trị như: Dấu chân người lính của Nguyễn Minh
Châu; Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Hòn
Đất của Anh Đức, Con đường xuyên rừng của Lê Văn Thảo…
Tiểu thuyết giai đoạn 1975 – 1985 có đặc điểm “vừa mở rộng đề tài, vừa cố
44
cưỡng lại từ trường của tiểu thuyết sử thi để gia tăng chất thế sự và đời tư” [15].
Mặc dù chưa thật sự đổi mới như văn học sau 1986, nhưng tiểu thuyết giai đoạn
này đã có những dấu hiệu đổi mới, biểu hiện rõ nhất là cảm hứng nhận thức lại
và tinh thần tranh biện đã xuất hiện, ngôn ngữ phân tích trong tiểu thuyết đã bắt
đầu lấn át ngôn ngữ khẳng định, ngợi ca một chiều.
Hồi kí giai đoạn này bắt đầu phát triển nhưng còn lẻ tẻ. Nghệ thuật viết hồi
kí đa phần là khá đơn điệu. Đó là những cuốn hồi kí pha lẫn tiểu luận, phê bình,
tạp bút. Đáng kể ở miền Bắc là các hồi kí văn học Những bước đường tư tưởng
của tôi (Xuân Diệu), Con đường dẫn tôi đến nghề văn (Nguyễn Khải), Bước
đường viết văn (Nguyên Hồng), Đời viết văn của tôi (Nguyễn Công Hoan)…Tác
phẩm hồi kí ở đô thị miền Nam trước 1975 với cảm hứng chủ yếu là hoài niệm,
tự bộc bạch Bốn mươi năm nói láo (Vũ Bằng), Văn thi sĩ tiền chiến (Nguyên
Vỹ), Khúc tiêu đồng (Hà Ngoại). Ở thời kì này, các nhà văn viết hồi kí với tinh
thần dân chủ, khoáng đạt, hiện đại hơn so với giai đoạn trước.
Ở thời kì này, xuất hiện chủ yếu là hồi kí cách mạng. Thể tài hồi kí này
không phản ánh cuộc đời riêng của một người mà hướng đến những vấn đề
mang tính xã hội rộng lớn, gắn liền với sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Hồi kí
cách mạng thiên về hướng ngoại hơn là hướng nội. Những năm 50, một vài hồi
kí xuất hiện như Vừa đi đường vừa kể chuyện (T.Lan), Hai lần vượt ngục (Trần
Đăng Ninh)…Những năm 60, hồi kí cách mạng phát triển mạnh với một số tác
phẩm như Nhân dân ta rất anh hùng (Hoàng Quốc Việt), Nhân dân với cách
mạng (Nhiều tác giả),…Ở thời kì chống Mỹ, hồi kí cách mạng được sáng tác để
sống lại quá khứ hào hùng, cổ vũ tinh thần yêu nước như Con đường cách mạng
(Nhiều tác giả), Đạp lên đầu thù (Nhiều tác giả)…Sau 1975, khi đất nước được
giải phóng, những kỉ niệm về một thời chiến đấu, về đồng đội lại ùa về thôi thúc
người cầm bút viết hồi kí. Đó là các tác phẩm Một trang đáng nhớ (Trần Cung),
Mây trắng đường trường chinh (Nguyễn Văn Khuê)…Có thể nói, người viết hồi
kí cách mạng là những nhân chứng lịch sử. Họ đã sống, trải qua nhiều hoàn cảnh,
tình huống trong đời sống cách mạng Vì thế, những câu chuyện được kể trong
45
hồi kí vừa mang tính chân thực, vừa giàu cảm xúc.
Ở thời kì 1945-1985, một mặt Tô Hoài sáng tác tiểu thuyết theo khuynh
hướng sử thi trong “cơ chế” của phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, mặt
khác lại tách mình ra khỏi dòng chảy đó đi tìm tòi, lựa chọn hướng tiếp cận,
khám phá riêng. Trong khi các nhà văn hiện thực như Nam Cao, Ngô Tất Tố,
Nguyên Hồng chuyển sang giai đoạn mới còn tỏ ra lúng túng trong cách viết và
lối viết thì Tô Hoài có thể bắt kịp thời các vấn đề mới của đời sống và viết tương
đối thành công một số tiểu thuyết và kí, góp phần vào bước chuyển chung của
văn xuôi cách mạng. Nhà văn không dừng lại quẩn quanh nơi vùng quê mình
đang sống mà khởi động một cuộc đi lớn, một hành trình dài theo kháng chiến
và theo đất nước. Tô Hoài đã đặt chân lên mảnh đất Tây Bắc. Tô Hoài coi Tây
Bắc là quê hương thứ hai của mình. Ông viết về Tây Bắc không chỉ bằng tài
năng nghệ thuật, vốn sống phong phú mà còn bằng tình yêu thiết tha, đằm thắm
như tình yêu dành cho chính quê hương mình. Có thể khẳng định rằng: những
thành tựu chủ yếu của Tô Hoài trong quá trình chuyển biến từ một nhà văn hiện
thực phê phán sang nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa tập trung phần lớn vào
đề tài miền núi. Trong số những tác phẩm Tô Hoài viết trong giai đoạn này, có
thể nhận thấy Truyện Tây Bắc (1953) vẫn nằm trong khuynh hướng sử thi mặc
dù Tô Hoài chỉ viết về những sự việc và con người trong một phạm vi hẹp là
vùng miền núi Tây Bắc nhưng vấn đề mà nhà văn đề cập mang ý nghĩa phổ quát
rộng lớn, biểu trưng cho toàn dân tộc. Đây là tập truyện xuất sắc trong văn xuôi
kháng chiến, được giải Nhất về tiểu thuyết năm 1954 - 1955 của Hội Văn nghệ
Việt Nam. Những trang viết của Tô Hoài trong Truyện Tây Bắc đánh dấu bước
phát triển của ông cả về mặt tư tưởng và nghệ thuật. Truyện Tây Bắc bộc lộ rõ
sự nhận thức đúng đắn của Tô Hoài về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cách
mạng, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên hành trình sáng tác của nhà văn.
Hoà bình lập lại, Tô Hoài viết tiểu thuyết Mười năm (1958) với mong
muốn khám phá lại hiện thực của thời kì trước Cách mạng. Nhưng có vẻ, đây là
một cách nhìn “lệch hướng” so với xu hướng chung của nền văn học sử thi lúc
bây giờ. Nếu như trong tiểu thuyết sử thi, các nhân vật thường tiêu biểu, đại diện
46
cho cộng đồng, con người mang sức mạnh của dân tộc, giai cấp, trí tuệ của tập
thể và nội dung thường đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng thì tiểu thuyết Mười
năm của Tô Hoài lại cố gắng đi sâu vào chi tiết đời thường, con người cá nhân,
con người cá tính, cái tôi của người cán bộ dưới góc nhìn đời tư mà nhiều tác
phẩm thời kì này chưa đề cập, phản ánh. Đó là sự đổi mới trong khuynh hướng
sáng tác của nhà văn Tô Hoài nhưng khi tác phẩm ra đời, lập tức bị người ta phê
phán. Tiểu thuyết Mười năm là một thử nghiệm mới, Tô Hoài muốn đề xuất một
quan niệm mới, một cách nhìn mới trên một đề tài quen thuộc. Tiểu thuyết đã
đạt được thành công ở phương diện tái hiện bức tranh đời sống xã hội của một
vùng tơ cửi và ở phương diện xây dựng một số hình tượng nhân vật rõ nét, đầy
sức sống, miêu tả con người mang tính người.
Vào những năm 1960, Tô Hoài muốn thử sức mình ở phương thức mới,
một tư duy mới về phản ánh và khái quát hiện thực, một hiện thực đang đổi thay
và luôn luôn biến động. Tiểu thuyết Miền Tây (1967) ra đời trước một hiện thực
đã định hình: công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền núi Tây Bắc. Tô
Hoài đã thành công với tiểu thuyết Miền Tây bởi cái lạ trong tiểu thuyết: lạ trong
cách xây dựng nhân vật, lạ trong cách thể hiện phong tục, tập quán của người
dân miền núi, lạ trong phương thức miêu tả phong cảnh…Miền Tây là sự đối lập
giữa hai bức tranh: cảnh đời cũ mờ mịt tối tăm của người dân miền núi trong
những năm tháng dài đau khổ và cảnh rực rỡ tươi sáng của Phiềng Sa trong
những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác phẩm đánh dấu sự chuyển biến
về tư tưởng trong sáng tác của nhà văn.
Sau năm 1975, khi đất nước chuyển sang thời kì mới, Tô Hoài dồn sức
sáng tạo vào một nguồn cảm hứng mới, đi sâu khai thác truyền thuyết và dã sử
với bộ ba tiểu thuyết: Đảo hoang (1976), Chuyện nỏ thần (1984), Nhà Chử
(1985). Một bộ ba trọn vẹn nhằm hướng tới gương mặt của dân tộc Việt Nam
trong sâu xa của lịch sử: cải tạo thiên nhiên hoang dã, chống ngoại xâm, khát
vọng một đời sống trong lao động chan hòa, ấm áp tình người.
Ở thời kì này, Tô Hoài đã không viết theo hướng hồi kí cách mạng mà ông
tự tìm cho mình một lối đi riêng, một phương thức thể hiện riêng đó là hồi kí đời
47
tư. Tự truyện (1978) là sự tiếp nối của Cỏ dại giai đoạn trước 1945. Tác phẩm
vẫn còn những dấu vết “Tự nhiên chủ nghĩa” nhưng đã đạt được những thành
công nhất định. Tự truyện được bắt đầu từ ngày nhà văn đi học ở trường Yên
Phụ. Ở đó có biết bao kỉ niệm vui - buồn của bản thân, của đám học trò nghèo
và của thầy giáo với cuộc sống đạm bạc, tẻ nhạt. Tự truyện còn là kí ức vui -
buồn về những người bạn thợ cửi. Đáng chú ý nhất là “một quãng đời” đầy ý
nghĩa mà tác giả được gặp các đồng chí hoạt động cách mạng cùng nhau hoạt
động phong trào.
Như vậy, ở giai đoạn 1945 - 1985, trong những tác phẩm của Tô Hoài, dấu
ấn phong tục vẫn in đậm, vẫn là những bức tranh sinh hoạt đời thường của vùng
quê ven thành - quê hương của tác giả và hướng đến cuộc sống của quê hương
thứ hai - cuộc sống của những người dân ở miền núi Tây Bắc. Thành tựu của Tô
Hoài đạt được ở giai đoạn này chủ yếu tiểu thuyết viết về vùng ngoại thành Hà
Nội và miền núi.
2.2.3. Giai đoạn 1986 đến nay
Từ sau 1986, không khí dân chủ, cởi mở trong đời sống xã hội cùng tinh
thần khuyến khích cảm hứng tự do sáng tạo về văn học nghệ thuật đã cho văn
nghệ sĩ điểm tựa tinh thần vững chắc để tự khẳng định mình. Nhu cầu đổi mới
bùng nổ trong văn xuôi nói riêng và văn học nói chung thành cao trào sôi nổi.
Tiểu thuyết vẫn tiếp tục tiếp cận và miêu tả hiện thực với cảm hứng hướng
ngoại nhưng trong tiểu thuyết truyền thống thì cảm hứng hướng ngoại thời kì
này có sự khác biệt. Cái hiện tại mà tiểu thuyết hướng đến ngày hôm nay “ngổn
ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những bất ngờ”
(Nguyễn Khải) đặc biệt nó là “cái hiện tại chưa hoàn thành” (M.Bakhtin). “Cái
hiện tại chưa hoàn thành” là đặc trưng của tư duy tiểu thuyết thời kì này.
Nguyễn Minh Châu có cách nói giản dị về tư duy tiểu thuyết “Cũng như vài
người thường nói, tôi cũng nghĩ có lẽ chúng ta đang sống trong cái thời của tiểu
thuyết. Bởi vì đời sống luôn luôn nối tiếp và trong cái dòng đời triền miên tuôn
chảy, có những khoảnh khắc cuộc sống thật là đậm đặc. Đó là những phút ở đấy,
con người bộc lộ ra hết” [145]. Nguyễn Minh Châu cũng như Nguyễn Khải đặc
48
biệt chú ý đến những “khoảnh khắc”, “những phút”, nơi cuộc sống và con người
dễ bộc lộ bản chất của nó. Bên cạnh đó, tiểu thuyết thời kì này chủ yếu tiếp cận
và miêu tả hiện thực bằng cảm hứng hướng nội. Sự thay đổi về quan niệm nghệ
thuật khiến cho các nhà văn quan tâm đến nhân tố con người. Tính “thế sự - đời
tư” lấn át dần “tính sử thi” và thời lãng mạn (chữ dùng của Nguyễn Khải) mang
tính độc thoại đã nhường chỗ cho thời của những biến đổi chóng mặt và tinh
thần đối thoại.
Đây cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ, mạnh mẽ nhất của hồi kí văn học từ
trước đến nay. Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 đã xuất hiện thể hồi kí
nhưng chủ yếu là hồi kí cách mạng, không có hồi kí cá nhân. Hồi kí cách mạng
tập trung ca ngợi Đảng, cách mạng, nhân dân, kể về hoạt động cách mạng, khoe
chiến công và thành tích cá nhân, né tránh viết về cái Tôi, không viết về đời
sống riêng tư cá nhân của con người do vậy chưa phải là hồi kí trong “tầm đón
đợi” của người tiếp nhận. Sau 1986, sự thay đổi mạnh mẽ tư duy nghệ thuật của
nhà văn kéo theo sự thay đổi nội dung và nghệ thuật, cách tiếp cận và phản ánh
đời sống, con người đa dạng so với giai đoạn trước. Có thể kể đến một số hồi kí
văn học được dư luận chú ý: Hồi kí của các nhà thơ (Nửa đêm sực tỉnh của Lưu
Trọng Lư, Hồi kí song đôi của Huy Cận, Nhớ lại một thời của Tố Hữu…); hồi kí
của các nhà văn (Chiều chiều, Cát bụi chân ai của Tô Hoài, Nhớ lại của Đào
Xuân Qúy, Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương của Ma Văn Kháng,
Người đàn bà cầm bút của Lê Minh…); hồi kí của các nhà nghiên cứu - phê
bình (Hồi kí của Đặng Thai Mai; Những năm tháng ấy của Vũ Ngọc Phan, Tầm
xuân của Đặng Anh Đào, Cô bé nhìn mưa của Đặng Thị Hạnh…). Ở giai đoạn
này, hồi kí bộc lộ rõ nhất đặc trưng thể loại: tính chân thực của cuộc sống từ góc
nhìn đời tư, cá nhân; sự đào sâu vào bản thể, tâm lí người viết; quan niệm đa
chiều, đa diện; bút pháp đa dạng, linh hoạt, độc đáo.
Trong dòng chảy của hồi kí hiện đại, hồi kí Tô Hoài đã mở ra những khả
năng mới trong việc thể hiện đời mình và đời người, đem đến cho văn học
những màu sắc mới mẻ với hai tác phẩm hồi kí đặc sắc Cát bụi chân ai (1992)
và Chiều chiều (1999). Cát bụi chân ai đã khắc họa chân dung các thế hệ nhà
49
văn tầm cỡ trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Chân dung các văn nghệ sĩ
cùng thời như Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Nguyễn
Huy Tưởng, Phùng Quán, Phan Khôi…được hiện lên từ khoảng cách gần và góc
độ đời tư. Cát bụi chân ai ra đời trong không khí đổi mới của văn học nói riêng
và của đất nước nói chung qua đó độc giả thấy được toàn cảnh bức tranh về đời
sống văn học dân tộc trong một không khí khủng hoảng đầy những trăn trở bộn
bề của các nhà văn thời ấy. Với Chiều chiều, Tô Hoài đưa người đọc về một làng
quê Bắc Bộ với những câu chuyện của thời kì cải cách ruộng đất, thời làm hợp tác
xã cho đến khi đất nước bước vào thời kì Đổi mới và chuyển sang nền kinh tế thị
trường. Bao trùm cả khoảng thời gian dài với nhiều biến động, những trang hồi kí
của Tô Hoài đã khắc họa số phận một số chân dung văn nghệ sĩ là bạn bè của nhà
văn, chân dung tầng lớp quần chúng nhân dân với cảm xúc buồn vui và cả những
điều ngang trái, oái oăm.
Năm 2006, Tô Hoài đã gây bất ngờ với bạn đọc khi cho ra đời tiểu thuyết
Ba người khác. Tuổi đời đã cho ông sự từng trải và sự điềm tĩnh sâu sắc để nhìn
nhận lại cuộc sống và thế sự của một thời đã qua. Viết về cải cách ruộng đất là
đề tài không phải mới nhưng cái hay của Ba người khác ở cách kể chuyện hóm
hỉnh, những chi tiết trần trụi đời thường và đặc biệt là số phận ba người khác
(cuộc đời ba anh cán bộ “đội”: Cự, Đình, Bối với ba ngã rẽ khác nhau). Cải cách
ruộng đất là một vấn đề lớn của lịch sử đất nước nhưng cũng là một đề tài nhạy
cảm đối với văn học. Tô Hoài đã chấp nhận vượt qua thử thách và thành công ở
cuốn tiểu thuyết này. Điều đó khẳng định bản lĩnh và tài năng của nhà văn.
Ở giai đoạn sau 1986, tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài đạt được thành tựu lớn
với các tác phẩm tiêu biểu: Cát bụi chân ai (1992), Chiều chiều (1999), Ba
người khác (2006). Tô Hoài đã có sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con
người và bút pháp nghệ thuật. Các tác phẩm đó đã góp phần làm nên diện mạo
tiểu thuyết, hồi kí Tô Hoài nói riêng và tiểu thuyết, hồi kí hiện đại nói chung. Tô
Hoài được đánh giá là một nhà văn tài năng, “cao tay” trong nghệ thuật viết tiểu
50
thuyết và hồi kí giai đoạn này.
2.3. Quan điểm sáng tác và sự đổi mới tƣ duy nghệ thuật của Tô Hoài
2.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan điểm sáng tác và tư duy nghệ thuật
của Tô Hoài
Gia đình là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng tới quan niệm sáng tác và tư duy
nghệ thuật của Tô Hoài. Tô Hoài sinh ra trong một gia đình lao động nghèo,
kiếm sống chật vật bằng nghề dệt. Từ nhỏ, ông đã sớm cảm nhận được nỗi bất
hạnh và cuộc sống nghèo túng của những người thân trong gia đình “Ông bà
ngoại luôn cãi nhau, chửi nhau, đánh nhau. Bố thì bỏ đi nước Sà Goòng mãi
không trở về, cậu bé Tô Hoài lủi thủi một mình, lớn lên chẳng có nghề ngỗng gì”
[67]. Sự thiếu thốn tình cảm của người cha biền biệt xa nhà và hình ảnh người
mẹ hiền lành, chịu thương, chịu khó, hình ảnh người ông lặng lẽ, hay rượu,
thường xuyên chửi bà đã in đậm dấu ấn tuổi thơ của nhà văn. Cả gia đình hai
bên nội - ngoại đều đói khổ, không có truyền thống văn chương. Chính sự nghèo
đói của gia đình và phải chứng kiến sớm cảnh buồn nhiều hơn vui đã hình thành
tư duy nghệ thuật của Tô Hoài. Vì vậy, trong những trang viết của nhà văn,
người đọc thấy xuất hiện hình ảnh những con người bình thường với cái nhìn
nhân bản và chân thực nhất.
Mỗi nhà văn đều gắn bó với một miền quê trong sáng tác của mình. Nam
Cao có làng Đại Hoàng, Ngô Tất Tố có làng Đông Xá, Tô Hoài có làng Nghĩa
Đô. Tô Hoài sinh ra, lớn lên và thực sự gắn bó với quê ngoại là làng Nghĩa Đô,
phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội). Cả cuộc đời
Tô Hoài gắn bó với quê ngoại, ông bà ngoại và các dì. Làng Nghĩa Đô là một
vùng quê ven đô Hà Nội, là quê hương, là nơi “chôn rau cắt rốn” mà Tô Hoài đã
dành tình cảm tha thiết sâu nặng và ôm trọn theo suốt cuộc đời. Làng Nghĩa Đô
trong tác phẩm của nhà văn không hiện diện với những cảnh cường hào, lí
trưởng đánh đập, giết người, bóc lột người dân mà chỉ là những chuyện làm ăn
của người dân thường, sống bằng các nghề ở làng ven đô như nghề dệt, nghề
làm ruộng. Không gian mà họ đang sống là sự giao thoa giữa quê và tỉnh, giữa
nông thôn và thành thị. Tô Hoài đã xây dựng những con người sống trong môi
51
trường giao thoa ấy. Họ trở thành con người “nửa quê nửa tỉnh”, những cách
sống của họ bắt đầu phức tạp, ảnh hưởng của lối sống thành thị. Họ đã không
giữ được nguyên vẹn nếp sống, xa dần những phong tục, tập quán của làng quê
Nghĩa Đô. Họ là những con người điển hình cho vùng quê ven đô trong thời
điểm giao thoa khi xã hội Việt Nam chuyển dần từ chế độ phong kiến sang xã
hội thực dân nửa phong kiến. Gắn bó với làng Nghĩa Đô, Tô Hoài hiểu quê
hương ông một cách chân tơ kẽ tóc, từ cách sống của người dân tới các nghề
truyền thống (nghề dệt lĩnh đến nghề làm giấy), từ hội hè đình đám đến chợ búa.
Viết về làng Nghĩa Đô, Tô Hoài đã trải rộng tâm hồn mình, thấu hiểu và cảm
nhận mọi sự thay đổi của cuộc sống và con người nơi đây. Đó là lí do vì sao con
người Nghĩa Đô lại trở thành nỗi niềm tha thiết gắn bó trong sáng tác của Tô
Hoài những ngày đầu cầm bút đến như vậy.
Cuộc đời Tô Hoài cũng có nhiều bước thăng trầm. Tô Hoài chỉ học hết bậc
tiểu học. Bước vào tuổi thành niên, ông đã phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống
từ gia sư, thư kí cho tới bán hàng, kế toán hiệu buôn và nhiều khi thất nghiệp,
cuộc sống trở nên vất vả và khó khăn. Ông đã lăn lộn ở trường đời, nếm trải mọi
cay đắng của cuộc đời nên văn ông rất đời thường, giản dị. Năm 1938, ông hoạt
động trong tổ chức hội Ái hữu thợ dệt Hà Đông, Đoàn thanh niên dân chủ Hà
Đông. Năm 1943, ông hoạt động bí mật trong Hội văn hóa cứu quốc. Chính sự
tham gia các hoạt động trong các tổ chức, gặp gỡ các nhà văn cách mạng đã giúp
ông trưởng thành về tư tưởng nhận thức chính trị và lựa chọn khuynh hướng
sáng tác: viết theo chủ nghĩa hiện thực nhưng không lặp lại các nhà văn hiện
thực đi trước. Ông có lối cảm nhận hiện thực theo cách riêng của mình đó là
hiện thực nhìn từ đời thường. Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài làm phóng
viên báo Cứu quốc, được cử đi vào mặt trận phía Nam, vào Nha Trang, lên chiến
trường Tây Nguyên, rồi xuống mặt trận An Khê. Năm 1947-1948, ông lên công
tác ở những vùng người Dao, đi sâu vào vùng căn cứ địa Việt Bắc. Ông làm
công tác báo chí, tuyên truyền, rồi làm cán bộ địa phương, cùng ăn, cùng ở với
đồng bào. Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội chủ lực tiến quân vào miền Tây, tham
dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Những chuyến đi thâm nhập thực tế và trải
nghiệm ở vùng cao đã giúp nhà văn có điều kiện đi sâu vào phong tục, tập quán
52
của người dân. Trong thời kì 1953 - 1956, Tô Hoài đã tham gia phong trào cải
cách ruộng đất, ông được cử làm đội phó đội cải cách ruộng đất. Vì vậy, ông đã
viết các tác phẩm Chiều chiều, Ba người khác với tiếng nói của một người trong
cuộc viết về cải cách.
Thời đại cũng là yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm sáng tác của nhà văn. Tô
Hoài là người đã sống, trải qua các thời kì khác nhau và chứng kiến những biến
cố lớn của lịch sử dân tộc từ thời kì phong kiến nửa thực dân sang thời kì kháng
chiến chống Pháp, đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, kháng chiến chống
Mỹ và thời kì đất nước hòa bình. Hơn ai hết, Tô Hoài hiểu cuộc sống của người
dân trong những năm tháng đất nước bị ngoại xâm. Tô Hoài lớn lên trong hoàn
cảnh đất nước bị nô lệ. Cuộc sống của người dân cơ cực, phong tục, tập quán bị
mai một, làng quê trở nên tiêu điều, khốn khổ. Nhìn những cảnh đời bất hạnh ấy,
nhà văn sớm nặng trĩu nỗi buồn. Và chính trong những năm tháng đen tối đó,
cách mạng đã đến, Tô Hoài đã hòa mình vào không khí thời đại, đem sức phục
vụ cách mạng và phong trào văn nghệ cách mạng. Vì vậy, sáng tác của Tô Hoài
song hành cùng những chặng đường lịch sử của dân tộc, thể hiện tính chân xác
của thời đại, đất nước.
Như vậy, có thể nói gia đình, quê hương, thời đại và hoàn cảnh của bản thân
đã ảnh hưởng lớn đến quan điểm sáng tác và tư duy nghệ thuật của nhà văn. Điều
đó đã tạo nên một gương mặt Tô Hoài không giống với bất cứ nhà văn nào khác.
2.3.2. Quan điểm sáng tác của Tô Hoài
Mỗi nhà văn đến với nghiệp viết văn bằng con đường riêng và sẽ lựa chọn
cho mình một lối viết và hình thành phong cách riêng. Tô Hoài cũng vậy, ông
luôn tìm cho mình một lối đi, một cách biểu hiện tư duy nghệ thuật, một quan
niệm nghệ thuật cho riêng mình. Ông là nhà văn có trách nhiệm với nghề,
nghiêm túc trong lao động nghệ thuật. Ngay từ khi mới vào nghề, Tô Hoài đã
chứng tỏ ý thức sáng tạo nghệ thuật của một nghệ sĩ chân chính. Trong hoàn
cảnh nghề viết văn ở nước ta còn chưa phát triển và mang tính chất nghiệp dư,
Tô Hoài là một trong số ít ỏi những cây bút đã sống với nghề bằng tất cả sự tận
tụy, sự chăm chút của một người làm nghề chuyên nghiệp. Với nhà văn, sống
cũng có nghĩa là viết, viết vừa là nhu cầu, vừa là động lực của cuộc sống vừa là
phương thức tồn tại của chính nhà văn. Ông không viết về những thứ viển vông
53
mà viết về thực tế của cuộc sống và những người xung quanh mình “Đời sống
xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả những sáng tác
của tôi. Ý nghĩa tự nhiên của tôi bao giờ cũng là viết về sự xảy ra quanh làng,
quanh mình” [75; tr.218]. Tuy ông nói, viết về những chuyện quanh làng, quanh
mình nhưng ông cũng không tạo ra một ranh giới để bó buộc mình trong phạm
vi cuộc sống. Chính việc viết về cuộc đời của mình, của những người xung
quanh mình đã khẳng định một hướng nghệ thuật của Tô Hoài. Môi trường xã
hội, nhà trường, sách vở đôi khi tạo cho nhà văn những ảo mộng xa xôi nhưng
kiên định trên lập trường quan điểm nghệ thuật của mình, Tô Hoài đã có một vị
trí vững vàng trong làng văn xuôi Việt Nam hiện đại, đồng thời đã tiếp nhận
được nhiều tư tưởng mới góp phần nâng cao và mở ra trong trang viết một tầm
nhìn tương xứng với vị thế và tư tưởng một nhà văn lớn.
Về thể loại tiểu thuyết, ngay từ những đầu cầm bút, Tô Hoài đã hình thành
cho mình một quan niệm nghệ thuật riêng. Đối với ông, công việc đầu tiên của
người viết tiểu thuyết là phải cố gắng viết gần với sự thật, tiến tới sự thật, giống
như quan điểm của Vũ Trọng Phụng: “Tôi muốn tiểu thuyết phải là sự thực ở
đời” [51; tr.15]. Không chỉ có vậy, trong quá trình sáng tác tiểu thuyết, Tô Hoài
luôn băn khoăn trăn trở thể hiện được tính dân tộc. Theo ông: “Một cuốn tiểu
thuyết ở Việt Nam phải phản ánh con người Việt Nam, tâm hồn tính cách Việt
Nam. Những cái đó không thể vay mượn ở nước ngoài được. Chỉ có chất liệu
đời sống xung quanh ta và của chính ta mới bồi đắp cho tâm hồn nhân vật của ta
được” [51; tr.17]. Bên cạnh đó, Tô Hoài ý thức được bản thể của tiểu thuyết và
cho rằng tiểu thuyết cũng phải có sự đổi mới: “Tôi không phủ nhận giá trị tiểu
thuyết thời trước, nhưng thật là không thể cho tiểu thuyết một nghĩa cố định.
Tiểu thuyết lúc nào cũng phát triển và biến đổi. Tiểu thuyết có một khả năng
tung hoành không bờ” [63; tr.105]. Như vậy, mỗi một nhà văn có một quan
niệm riêng về tiểu thuyết. Dù Tô Hoài bàn về tiểu thuyết chưa nhiều nhưng
những quan điểm về tiểu thuyết của ông có thể xem là điểm tựa dẫn đường trong
hành trình sáng tác tiểu thuyết của mình.
Về thể hồi kí, Tô Hoài chú trọng đến nguyên tắc sự thật: “Mỗi lần viết hồi
kí là mỗi lần đấu tranh tư tưởng để nói ra sự thật, sự thật đó có lẽ nhiều nhà văn
cố gắng đạt cho được nhưng có làm được hay không lại là chuyện khác” [83;
54
tr.23]. Theo Tô Hoài, việc đấu tranh tư tưởng nói lên sự thật không chỉ là cuộc
chiến đấu bên ngoài mà còn là cuộc đấu tranh bên trong. Tô Hoài đã đấu tranh với
chính bản thân mình, đấu tranh để mở rộng tầm mắt cho tất cả sự thật ùa vào, đấu
tranh để dũng cảm nói ra sự thật, kể cả những sự thật tưởng như chỉ có thể “đào sâu
chôn chặt” trong đáy lòng mình. Theo quan niệm của Tô Hoài, muốn viết cho được
hồi kí, người viết rất cần sự dũng cảm và trung thực: “Tôi viết hồi kí là khó khăn
hơn cả sáng tác bởi đó là cuộc đấu tranh tư tưởng để viết” [83; tr.23]. Với những
quan niệm mới về lối viết hồi kí, Tô Hoài đã thể hiện rất sinh động, chân thực
không khí thời đại và số phận con người trên những trang văn của mình.
Tự tìm cho mình một lối đi riêng với một quan niệm nghệ thuật không phải
là hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có nhưng Tô Hoài đã tự tạo được một hướng đi,
một lối viết độc đáo và hấp dẫn. Quan niệm, tư tưởng ấy đã trở thành cốt lõi cơ
bản tạo nên phong cách nghệ thuật của Tô Hoài trong suốt sự nghiệp sáng tác.
2.3.3. Sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Tô Hoài
2.3.3.1. Từ quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật về con người là yếu tố không chỉ giúp cho người đọc
hình dung về nhân vật với ngoại hình, tính cách, số phận mà còn xác định được bản
chất của nhân vật và lí tưởng thẩm mĩ mà nhà văn muốn gửi gắm. Mỗi nhà văn có
cách lí giải số phận con người riêng và có những quan niệm khác nhau về con
người. Có thể nhận thấy, điểm chung và thống nhất trong các tiểu thuyết và hồi kí
của Tô Hoài đều hướng đến con người, nhìn con người với cảm quan đời thường,
miêu tả con người trong những sinh hoạt đời thường và dưới góc nhìn đời tư.
Trước 1945, Tô Hoài thường đề cập tới những con người bình thường và
khắc họa họ ở phương diện gần gũi, đời thường. Đó là “Con người chỉ là con
người, hơn nữa họ là dân thường, trong sinh hoạt đời thường”. Đó là những con
người nghèo khổ, lam lũ, những người thợ thủ công, trí thức. Họ là những con
người ở chính quê hương ông - làng Nghĩa Đô. Con người trong thời kì đầu sáng
tác của Tô Hoài đan xen nhiều tâm trạng: niềm vui và nỗi buồn, nụ cười và nước
mắt, rất nhạy cảm và có phần lãng mạn khác với con người nông dân thuần túy
và cũng khác so với con người được mô tả trong sáng tác của các nhà văn hiện
thực cùng thời. Viết về những con người ở nông thôn, Tô Hoài thường khai thác
trong những mối quan hệ giản dị như gia đình, làng xóm, bạn bè, những chuyện
55
sinh hoạt đời thường. Những sáng tác đầu tay của Tô Hoài đậm chất phong tục
nhưng đằng sau bề mặt phong tục ấy là sự tàn lụi của những số phận, kiếp người.
Đó là mụ Hói ốm vẫn phải đi làm, thiếu một cánh tay làm là lập tức thấy vơi
ngay gạo trong chĩnh (Ông Cúm - bà Co - Nhà nghèo). Đó là những thanh niên
khỏe mạnh, giỏi tay nghề phải bỏ làng mà đi như Hời, Thoại, Ngây, Bướm (Quê
người). Đó là những đứa trẻ có số phận bất hạnh: Gái phải ăn đói mặc rách, khổ
sở vì bố mẹ, hàng ngày chửi bới nhau, cuối cùng nó phải chết (Nhà nghèo). Đó
là tuổi thơ tủi nhục của thằng cu Bưởi khi sống ở quê ngoại bên cạnh những
người thân (Cỏ dại)…
Từ sau 1945, quan niệm nghệ thuật về con người của Tô Hoài “có một chất
lượng mới so với quan niệm nghệ thuật về con người ở giai đoạn trước” [95;
tr.442]. Tô Hoài nhìn nhận con người trong hoàn cảnh đất nước đổi mới. Đối
tượng hướng đến trong sáng tác của Tô Hoài không chỉ là những người nông
dân, thợ thủ công ở làng quê Nghĩa Đô - quê hương của tác giả với những công
việc hàng ngày như quay tơ, dệt cửi, chạy chợ mà là những con người mới gắn
với thời đại, cộng đồng. Trong tiểu thuyết Mười năm, các thanh niên làng Hạ
như Lê, Lạp, Trung, Anh, Ba đã tích cực tham gia hoạt động cách mạng. Trong
tiểu thuyết Miền Tây, người dân miền núi Tây Bắc đã giác ngộ cách mạng tự
mình đứng lên đấu tranh để cứu đất cứu mường và cứu chính bản thân mình. Tô
Hoài đã xây dựng một loạt các nhân vật điển hình cho con người mới vùng cao
như bà Giàng Súa, Vừ Sóa Tỏa, Nghĩa, Thào Khay. Số phận bà mẹ Giàng Súa là
một điển hình chân thực về cuộc đời người nông dân đặc biệt là người phụ nữ
miền núi dưới chế độ cũ. Bà là một người mẹ giàu tình cảm, giỏi chịu đựng,
nhẫn nhục nhưng mê tín, chịu nhiều oan khuất đắng cay và hay lo sợ. Cách
mạng đến, bà hăng hái phục vụ cách mạng và kháng chiến. Quan niệm nghệ
thuật của Tô Hoài về người cán bộ cũng khác, nhà văn tập trung phản ánh những
phẩm chất cao quý của họ. Nghĩa, Thào Khay, Thào Mỵ, Huổi Ca, Pàng…là
những cán bộ, thanh niên mới người dân tộc tích cực, có ý chí và quyết tâm xây
dựng cuộc đời mới.
Ở thời kì Đổi mới sau 1986, với sự thay đổi tư duy nghệ thuật và tinh thần
đổi mới “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, con
người đã xuất hiện với cái nhìn đời tư trong các sáng tác Cát bụi chân ai (1992),
56
Chiều chiều (1999), Ba người khác (2006). Đó là con người cá thể trong quan hệ
với chính mình, người khác, xã hội và được miêu tả trong thế lưỡng phân, nhiều
chiều, đa diện. Con người hiện lên đầy đủ mặt tốt, mặt xấu, cái mạnh, cái yếu,
cái bình thường, cái cao cả và có hạnh phúc lẫn khổ đau. Con người trở về “vốn
dĩ đã là như thế”, con người hiện hữu trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Tô
Hoài đã tiếp cận các nhân vật của mình ở khoảng cách gần, từ góc độ đời thường.
Thông qua các nhân vật mà Tô Hoài tạo dựng, mỗi người có thể tìm thấy bóng
dáng cuộc đời mình qua các kiểu nhân vật đa dạng với những khổ đau, nhọc
nhằn bên cạnh niềm vui, hạnh phúc.
Với khoảng cách trước và sau 1945, quan niệm nghệ thuật về con người
trong tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài có sự đổi mới. Quan niệm nghệ thuật về con
người của Tô Hoài là yếu tố chi phối đến cách thể hiện đời sống xã hội, phương
thức xây dựng nhân vật. Khám phá con người, thể hiện con người đa phiến dưới
nhiều góc độ khác nhau, Tô Hoài đã góp phần vào thành tựu chung vào hệ quan
niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
2.3.3.2. Đến hình thức và bút pháp nghệ thuật
Trước 1945, xuất phát từ quan niệm “Nhà văn là thư kí trung thành của thời
đại”, Tô Hoài cũng như nhiều nhà văn hiện thực khác đã lựa chọn lối viết theo
xu hướng “tả chân”. Để thể hiện được nội dung chi tiết, sát thực những vấn đề
nóng bỏng cuộc sống người dân những năm trước Cách mạng tháng Tám, Tô
Hoài đã không ngần ngại nhìn sâu vào sự thật xót xa. Ông xứng đáng là một nhà
văn hiện thực nhân đạo trong làng văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Sau 1945, Tô Hoài có sự thay đổi về hình thức và bút pháp nghệ thuật. Tiểu
thuyết viết về vùng ngoại thành Hà Nội như Mười năm, dường như là một thử
nghiệm mới, tách khỏi bút pháp sử thi thời kì này. Tiểu thuyết viết về hiện thực đấu
tranh cách mạng ở miền núi với nghệ thuật “khái quát hóa hiện thực cao hơn” (Hà
Minh Đức) thể hiện qua Truyện Tây Bắc, Miền Tây. Sau 1975, nhất là từ 1986 đến
nay, khi văn học tự “cởi trói” hướng tới sự đa dạng thì bút pháp tả thực mới phát
huy tối đa tác dụng. Trong các tác phẩm Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Ba người
khác, Tô Hoài đã nhìn thẳng vào sự thật và sai lầm của một thời đã xa. Hiện thực
được phơi bày một cách trần trụi dưới con mắt hiện thực, tỉnh táo của nhà văn.
Với mục đích phanh phui, mổ xẻ những sai lầm trong quá khứ, Tô Hoài đã
57
khoác lên tiểu thuyết và hồi kí một mặt nạ thể loại. Việc mập mờ, lấp lửng,
không ghi gì hoặc đề Cát bụi chân ai và Chiều chiều là “hồi kí” hoặc Ba người
khác là “tiểu thuyết” giúp cho sự sáng tạo của nhà văn có thể tồn tại và phát huy
sức mạnh, hiệu quả nghệ thuật. Trong bản in lần đầu Cát bụi chân ai (1992) và
Chiều chiều (1999), Tô Hoài không ghi rõ thể loại mà bỏ lửng và chỉ về sau các
nhà biên tập, các nhà báo và nhà nghiên cứu văn học mới gọi nó là hồi kí. Nhà
nghiên cứu Vương Trí Nhàn cho rằng: “Đây không phải là chuyện sơ ý. Ông
muốn để ngỏ mọi chuyện” [193]. Sự để ngỏ là cơ hội để Tô Hoài có thể viết
theo ý muốn, có thể pha thêm chất tiểu thuyết. Tô Hoài nhận ra sự cứng nhắc
của quan niệm cũ về việc viết hồi kí là đóng khung trong yêu cầu “sự thật việc
thật”, ông muốn phá bỏ nó để “phản ánh hiện thực” theo kiểu “điển hình hóa của
tiểu thuyết”. Do vậy, Cát bụi chân ai và Chiều chiều ít nhiều mang dáng dấp
tiểu thuyết.
Khi viết tiểu thuyết Ba người khác (2006), ý tưởng ban đầu ông để là hồi kí
nhưng vì nhận định “Để hồi kí thì phức tạp và khó in” (Tô Hoài trả lời phỏng
vấn Báo Thể thao) nên tác phẩm này được xuất bản gắn mác “tiểu thuyết” mặc
dù nội dung không có gì thay đổi. Tô Hoài đã không định danh thể loại cho tác
phẩm của mình vì một khi dãn nhán “hồi kí” thì sẽ bị trói buộc vào định kiến
thường thấy về thể loại này là tính trung thực, tính xác thực. Tô Hoài chỉ cố
gắng viết tất cả với những gì gọi là sự thật tuy nhiên ông không có ý định xác tín
những điều mình kể mà để một khoảng trống cho độc giả nhận xét, nhìn nhận.
Đây chính là dụng ý của nhà văn Tô Hoài. Khi viết tiểu thuyết Ba người khác,
Tô Hoài cho thấy những dấu hiệu theo kịp dòng tiểu thuyết cách tân mà vẫn giữ
được nét riêng. Nhà văn thay đổi lối viết từ điểm nhìn trần thuật của người kể
chuyện khách quan sang người kể chuyện mang đậm dấu ấn chủ quan. Tác
phẩm chủ yếu sử dụng bút pháp hoạt kê, dựng lại bức tranh vừa ngột ngạt vừa
nhếch nhác của vùng nông thôn Bắc Bộ trong công cuộc cải cách ruộng đất.
Việc thay đổi hình thức và bút pháp nghệ thuật cho thấy nhà văn không
bằng lòng với mô hình phản ánh nghệ thuật trước đây. Với sự thay đổi tư duy
nghệ thuật và xuất phát từ quan niệm tiếp cận và phản ánh sự thật, Tô Hoài cũng
như nhiều các nhà văn khác cùng thời đã không ngại phơi bày “hiện thực trần
58
trụi” của cuộc sống, xóa bỏ lối viết “lí tưởng hóa”, cái nhìn sử thi nhạt dần.
Tiểu kết chƣơng 2
Nói đến đặc trưng của tiểu thuyết là nói tới nhân vật, nghệ thuật dựng
truyện (kết cấu, cốt truyện, người kể chuyện). Nói tới hồi kí là nói tới hình tượng
tác giả đặc biệt là tính chân thực, xác thực và cách kể trong hồi kí theo dòng hồi
tưởng của tác giả là những yếu tố đã tạo nên đặc trưng của hồi kí. Tìm hiểu đặc
trưng thể loại tiểu thuyết và hồi kí là tiền đề lý thuyết, cơ sở để xác định các đặc
điểm cơ bản của tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài giai đoạn sau 1945 dưới góc nhìn
thể loại. Hành trình sáng tác của Tô Hoài trải qua ba giai đoạn: trước 1945; 1945
- 1985; 1986 đến nay. Ở mỗi chặng đường sáng tác, Tô Hoài đã gặt hái được
thành công và ghi những dấu ấn riêng độc đáo trên từng trang viết, từ đó định
hình cho mình một phong cách riêng. Ở giai đoạn trước 1945, Tô Hoài là một
cây bút hiện thực đáng chú ý trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ở giai đoạn
1945 - 1985, thành tựu của Tô Hoài đạt được chủ yếu ở tiểu thuyết viết về vùng
ngoại thành Hà Nội và miền núi. Ở giai đoạn sau 1986, Tô Hoài đã đi sâu vào
miêu tả con người dưới góc nhìn đời tư. Qua các tác phẩm Mười năm (1958),
Miền Tây (1967), Cát bụi chân ai (1992), Chiều chiều (1999), Ba người khác
(2006), Tô Hoài đã cho thấy sự đổi mới tư duy nghệ thuật từ quan niệm về con
người đến hình thức và bút pháp nghệ thuật, qua đó mang đến người đọc một
nhãn quan mới về con người ở hiện tại và quá khứ cùng một phương thức biểu
hiện mới. Tiểu thuyết và hồi kí là hai thể loại tiêu biểu cho văn phong, quan niệm
nghệ thuật và chính là ưu thế, sở trường của nhà văn Tô Hoài. Chính hai thể loại
này đã góp phần khẳng định tài năng, thành công, phong cách và đóng góp của Tô
59
Hoài trong nền văn xuôi cách mạng và văn xuôi đương đại Việt Nam.
Chƣơng 3
ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI
SAU 1945 TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI
3.1. Đặc điểm tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Sức hấp dẫn của một cuốn tiểu thuyết phụ thuộc vào nhân vật và tài năng
xây dựng của nhà văn. Tô Hoài đã từng quan niệm về nhân vật trong tác phẩm
“Nếu ngôn ngữ ví là cái áo của tư duy thì nhân vật là hình thù con người mặc cái
áo ấy”. Theo ông, nhân vật quyết định sự thành bại của tác phẩm “Câu chuyện
thành công thì nhân vật phải đặt ở hàng đầu vì nhân vật hay thì câu chuyện mới
hay” [64; tr.62]. Với “cái nhìn không nghiêm trọng hóa” và quan niệm tạo ra
“những người thường của đời thường”, Tô Hoài đã không có ý định xây dựng
nhân vật với những nét nổi bật về tính cách. Những kiểu người phức tạp, gai góc,
gây ấn tượng mạnh không có mặt trong trang viết của nhà văn. Việc tạo ra
những con người đời thường, Tô Hoài muốn gửi thông điệp đến người đọc “hãy
trân trọng mỗi phẩm chất, cá tính của con người, bởi chính nó mới đúng là cuộc
sống” (tác giả Mai Thị Nhung). Do vậy, nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu
thuyết Tô Hoài sau 1945 khá độc đáo, có những nét riêng biệt so với các nhà văn
trước và cùng thời. Nhân vật được bộc lộ với những “phần dư nhân tính”, được
đặt trong môi trường sinh hoạt và quan hệ đời thường. Nhân vật được khắc họa
qua ngôn ngữ đậm chất đời thường, mang màu sắc địa phương. Có thể nói, đó là
nhân vật của đời thường, là con người trần thế, trần tục.
3.1.1.1. Xây dựng nhân vật có độ “dư”
Theo M.Bakhtin, “tiểu thuyết là phạm vi tiếp xúc tối đa với hiện tại và đời
thường” [10], vì vậy nó đã giúp nhà văn luôn khám phá con người trong sự vận
động, biến đổi, thậm chí có xu hướng bộc lộ cả những “phần dư nhân tính”.
M.Bakhtin cho rằng đặc điểm cơ bản của tư duy tiểu thuyết là “đề tài nhân vật
không tương hợp với số phận hay vị thế của nó. Con người hoặc cao lớn hơn
60
thân phận của mình, hoặc nhỏ bé hơn tính người của mình” [10; tr.80]. Hệ thống
nhân vật trong tiểu thuyết của Tô Hoài sau 1945 trong vị trí và thân phận của
mình đã lộ ra những “độ dư” của nhân cách. Nhân vật trong tiểu thuyết của Tô
Hoài là những người bình thường, đời thường trong xã hội. Nhân vật của ông
không phải là những con người hoàn hảo, mang vẻ đẹp lí tưởng, hiện lên toàn
mặt tốt mà là những con người với biểu hiện của tính người. Nhân vật của nhà
văn bao giờ cũng có hai mặt, tồn tại một “con người bên trong con người”
(Bakhtin). Nhân vật có cả mặt tốt lẫn mặt xấu, cái cao cả và cái thấp hèn, trong
sáng xen lẫn phàm tục. Tô Hoài không bao giờ lí tưởng hoá các nhân vật của
mình, thậm chí ông còn tỏ ra thích quan tâm, “nhòm ngó” đến mặt đời thường
của họ. Nhà văn không có xu hướng nhấn mạnh, tô đậm một mặt nào đó của con
người mà ông miêu tả mặt tốt cũng như mặt xấu của họ. Trước đây, nhiều nhà
văn né tránh không dám đề cập đến những mặt hạn chế của nhân vật trong tác
phẩm nhưng Tô Hoài đã đi trước thời đại về nhận thức con người, ông đã dám
nói thẳng, không kiêng dè và miêu tả rất thực những mặt xấu và những “phần dư”
nhân tính của họ. Tô Hoài đã sớm giải thiêng định đề của văn học hiện thực và
văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa “xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn
cảnh điển hình”, ông quan tâm tới con người thường, phi điển hình hóa.
Tiểu thuyết Mười năm (1958) được coi là dấu hiệu khởi đầu cho sự thành
công của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Mặc dù khi mới ra đời,
nhiều người đã phê phán tác phẩm rơi vào hình thức “tự nhiên chủ nghĩa”, “tầm
thường hóa con người”, sa vào quan niệm “con người trung bình” nhưng đến
thời kì Đổi mới, tác phẩm đã được nhìn nhận lại, đúng với giá trị của nó. Các
nhân vật trong Mười năm được xây dựng theo nguyên tắc “phi sử thi”, phá vỡ
nguyên tắc chung trong việc xây dựng nhân vật theo hướng “sử thi’ thời kì này.
Trong các tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thi, các nhân vật cách mạng
thường được các nhà văn miêu tả với những vẻ đẹp mang tính lí tưởng, một lòng
hướng đến cách mạng và nhiệm vụ cách mạng. Họ là những người đại diện tiêu
biểu cho dân tộc, cộng đồng và là những người mẫu mực, nêu gương. Mặc dù
Mười năm cũng viết về những người cách mạng nhưng họ lại được mô tả như
61
những con người bình thường, có cả phần tốt lẫn phần xấu, có mặt cao cả, có
mặt tầm thường, có hăng hái dũng cảm và cũng có chất tả khuynh. Trong tác
phẩm, các nhân vật Lê, Lạp, Ba, An là những thanh niên cách mạng tích cực, có
lí tưởng, tinh thần yêu nước và có quyết tâm. Họ là những người sôi nổi chống
thuế, tham gia phong trào Ái hữu thợ dệt. Họ thích đọc sách, bàn văn thơ, chính
trị, họ thu nạp ngày càng nhiều thợ cửi, thợ tơ, thợ hồ vào hội Ái hữu. Tuy nhiên,
con người họ vẫn bộc lộ những nhược điểm, hạn chế. Lạp là thợ dệt giỏi, tài hoa,
khỏe mạnh, nhanh nhẹn, tích cực tham gia phong trào cách mạng. Lạp là con
người bình thường như bao con người bình thường khác, cũng khát khao được
yêu đương, bộc lộ những bản năng của mình “Lạp rướn lên, đè má mình vào
một bên nóng hổi của Nhàn. Nhàn để yên. Rồi Lạp nghiêng môi hôn vào má
Nhàn…Hai người ôm nhau trong bóng tối im lặng, không ai thấy ai…Lạp như
mê, như rồ, ghì Nhàn xuống…Hai đứa trần như hai con nhộng trong đống quần
áo tã” [72; tr.109, 117, 121]. Lê cũng là một nhân vật đáng chú ý trong tác phẩm.
Lê là thanh niên khao khát hiểu biết, thích được viết báo, viết sách, thích cả làm
thơ. Lê sôi nổi, nhiệt huyết tham gia phong trào Ái hữu thợ dệt nhưng sau đó lại
bỏ đi Hải Phòng, đồn điền cao su rồi mất tích. Tuy vậy, Lê bộc lộ không ít
những nhược điểm. Anh là một người có nhiều ảo tưởng, nóng nảy và đã không
ít lần đánh lại bố “Lê không sợ bố - Lê điên lên, Lê đã vác sào đuổi đánh
bố…Lê đuổi theo, đá rấp luôn hai đá, ông lão Vựng ngã bổ xuống bãi rác” [72;
tr.27, 42]. Cùng với Lê, Lạp, Ba cùng họ tham gia hoạt động cách mạng nhưng
trong những ngày đói kém, Ba suốt ngày say khướt, đánh bạc rồi đi ăn trộm, ăn
cắp. Kết cục bị bắt, bị gọt gáy và chết trong sự đau đớn “Mặt Ba xám như đất.
Hai con mắt Ba trắng nhả, trô trố như sắp bật con ngươi ra…đằng gáy hoét đỏ
bầm như một lỗ thủng” [72; tr.113-114]. An cũng tích cực sôi nổi tham gia các
hoạt động như các thanh niên ở làng Hạ nhưng An cũng không ít lần bộc lộ tư
tưởng cầu an, cơ hội của kẻ hèn nhát. Khi xây dựng người thanh niên cách mạng
ở làng Hạ, Tô Hoài không vẽ hào quang sử thi cho các nhân vật. Nhà văn không
đặt nhân vật cách mạng lên cao, không lí tưởng hóa và điển hình hóa họ với
những phẩm chất tiêu biểu cao cả đại diện cho tập thể, cộng đồng. Họ không
62
phải là những anh hùng, siêu nhân, cũng phải được thần thánh hóa trở thành
những nhân vật khiến cho chúng ta phải ngưỡng mộ, tôn sùng mà họ hiện lên
hết sức gần gũi, quen thuộc trong những quan hệ đời tư, đời thường, có cả ưu
điểm và hạn chế. Bên cạnh những thanh niên cách mạng ở làng Hạ, những người
phụ nữ nông thôn trong tác phẩm cũng bộc lộ những mặt hạn chế và “phần dư”
nhân tính của mình. Không phải người phụ nữ nào cũng hiền dịu, nết na mà họ
rất đa tình, có phần lẳng lơ. Nhàn là một cô gái hiền lành, chăm chỉ, kín đáo
nhưng trong tình yêu cô lại mạnh bạo. Chị Hai Tâm - người phụ nữ trẻ đẹp và
góa chồng, tháo vát, đảm đang nhưng lại bốp chát, bạo miệng và nhiều lúc lả lơi.
Như vậy, các nhân vật trong những trang viết Mười năm của Tô Hoài hiện lên
với sự đan xen giữa cái tốt và cái xấu, mặt tích cực và mặt hạn chế.
Trong tiểu thuyết Miền Tây (1967), các nhân vật Nghĩa, Thào Khay, Vừ
Sóa Tỏa là những cán bộ cách mạng, người của Đảng. Đó là kiểu nhân vật mới -
gạch nối quan trọng giữa quá trình đấu tranh tự phát và tự giác của người dân
miền núi vùng cao. Họ là những người cán bộ giản dị, gần gũi với bà con, bản
làng. Họ am hiểu các phong tục, tập quán của đồng bào miền núi, biết cách vận
động bà con tin tưởng, bảo vệ và tham gia cách mạng. Tô Hoài một mặt tuân thủ
barem chung trong việc xây dựng nhân vật người cán bộ miền núi vùng cao mặt
khác lại khắc họa họ ở cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Những người cán bộ
trong Miền Tây khác với những người cán bộ (anh Thế trong Đất nước đứng lên,
anh Quyết trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, A Châu trong Vợ chồng
A Phủ), họ không hoàn toàn mang vẻ đẹp lí tưởng. Các nhân vật Nghĩa, Thào
Khay, Vừ Sóa Tỏa là những người cán bộ tiêu biểu có chí tiến thủ, dũng cảm và
nhiệt tình, trách nhiệm trong mọi công việc, hết lòng vì mọi người, vì tập thể.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, họ cũng có mặt hạn chế. Nghĩa - cán
bộ miền xuôi từ vùng trung du lên miền núi công tác, tích cực cống hiến cho
vùng cao. Mặc dù, Nghĩa hết sức yêu thương đồng bào H’mông, nhiệt tình trong
công tác vì quyền lợi các dân tộc miền núi, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng,
nhưng đôi lúc ở anh cũng băn khoăn về tình cảm gia đình, vợ con, vẫn có lúc
ngại khó, suy tính và “mờ nhạt tình cảm” với vùng cao. Thào Khay - cán bộ
63
miền núi là người có rất nhiều ưu điểm nhưng không phải là không có khuyết
điểm. Anh đã từng tham gia chiến dịch Tây Bắc, Điện Biên sau đó được cách
mạng đào tạo trở thành cán bộ y tế. Ngày đầu tiên về làng, Thào Khay đã lao
vào nhiệm vụ của mình: vận động lập trạm xá, chữa bệnh cho con Pàng, đến
từng gia đình người nghiện, bày cách cho họ bỏ thuốc phiện. Bằng sự cố gắng,
tinh thần trách nhiệm của mình, Thào Khay đã làm cho người dân miền núi tin
tưởng vào cán bộ, vào cách mạng và ánh sáng dẫn lối của Đảng. Thào Khay
không chỉ chữa bệnh về sức khỏe mà còn chữa bệnh về tinh thần cho người dân
miền núi. Anh đã bài trừ những nạn mê tín dị đoan vốn tồn tại từ lâu trong tiềm
thức của người dân nơi đây. Thào Khay là người rất hăng hái, tích cực trong
công việc nhưng trong cách đối xử với bà con, gia đình, nhất là đối xử với Thào
Nhìa, anh lại thiếu tế nhị, sâu sắc và bản thân anh đôi khi vẫn còn có chút tự ti
dân tộc. Vừ Sóa Toả - chủ tịch xã lại say mê cái lò rèn hơn công việc của chủ
tịch. Ông lúc nào cũng hăng hái, nói và làm, làm nhiều hơn nói, nhưng đồng thời
cũng thẳng thắn trong việc làm và cả trong suy nghĩ, không ưa sự phức tạp.
Cùng viết về con người miền núi nhưng quan niệm về con người của Tô Hoài
khác với quan niệm về con người mang tính lí tưởng của Nguyên Ngọc và cũng
khác với nhân vật loại hình của Ma Văn Kháng. Cái nhìn về con người ngay từ
những năm đầu Cách mạng của Tô Hoài đã kéo nhân vật sát với đời thực, rất
gần với quan niệm con người đa diện trong văn học Đổi mới.
Trong tiểu thuyết Ba người khác (2006), Tô Hoài lại xây dựng hình ảnh các
anh cán bộ “đội”: Bối, Đình, Cự - điển hình cho những mặt trái, những thói hư
tật xấu, bản năng thấp kém, những “phần dư” nhân cách trong thời kì cải cách
ruộng đất ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Tô Hoài đã miêu tả các anh cán bộ “đội”
với tính cách rất tầm thường, họ không nhận ra những sai lầm trong chỉ đạo vì
vậy mà phạm tội ác. Bản chất xấu xa của những anh “đội” được nhà văn tập
trung ở ba nhân vật Cự - Bối - Đình. Đó là ba kẻ có “máu mặt nhất”, ba “diễn
viên chuyên nghiệp”, ba “diễn vai phản diện”, ba anh “đội” có quyền “nhất đội
nhì giời”. Cự là đại đội trưởng, chỉ đạo và đi đầu trong mọi việc, “tính tình thì
quyết đoán nhưng lại nóng như lửa, gắt gao kỉ luật với mọi người”. Lúc nào Cự
64
cũng tỏ ra uy nghiêm, tác phong quân sự, không dám cợt nhả với mọi người. Cự
luôn sốt sắng và đề cao thành tích, quyết tâm giành thắng lợi vì thành tích của cả
đội nhưng thực chất vì cá nhân mình. Không biết gì về đồng ruộng nhưng Cự
lúc nào cũng hô khẩu hiệu “Vì giai cấp nông dân, quyết chiến quyết thắng”.
Nhưng khi thất bại, Cự lại tóm lấy những điểm yếu, sai trái của Bối để đổ lỗi
cho Bối và sai Bối thay mình hoạt động làm lúa thần kỳ. Cự lợi dụng chức
quyền, cử Bối phụ trách kết nạp Đảng cho bố con Diệc và vợ mình. Cự là nhân
vật tổng hợp tất cả của mặt “dư nhân tính” mà những anh “đội” mang về vùng
quê này. Cự cũng biết ăn vụng bánh đúc ngô như Bối, cũng hủ hóa, dâm ô với
Duyên, Đơm, hơn nữa Cự cũng biết thay đổi hình dạng, biến thiên mình theo
thời cuộc. Đằng sau Cự là anh “đội” Bối. Bối là anh cán bộ “đội” đại diện tiêu
biểu nhất cho sự dối trá với nhiều thói tật, nhiều hành động mang tính chất bản
năng. Đi cải cách nhưng Bối luôn tìm cách ăn vụng, thậm chí ăn cắp để thỏa
mãn những nhu cầu bản năng của mình. Bối sống giữa những an bài của số phận,
giữa những bản năng của bản thân, bằng lòng với những gì mà cuộc đời cố tình
hay vô tình đem cho Bối. Bối đi họp thì giả bộ chăm chú nhưng lúc nào trong
đầu cũng nghĩ đến chuyện đói, chuyện ngủ với các cô “rễ chuỗi”, tính toán làm
sao mà không bị “bại lộ”. Những ngày tháng đi làm cải cách ruộng đất đã tôi
luyện cho anh Bối cách sống hưởng thụ quan cách. Anh ta luôn tìm cách trốn
tránh mọi công việc bằng hành động “lẩn vào xó xỉnh nào để ngủ, giả bộ như
đang nằm suy nghĩ, viết báo cáo”. Bối còn làm tình với các cô “rễ chuỗi” mọi
lúc, mọi nơi. Bối đã kể lại cảnh hủ hóa của mình một cách hả hê, không ngại
ngùng. Bối đã tạo cho mình cách “ăn mặc, đi đứng, nói năng, làm tình như một
thói quen” [69; tr.201]. Đình cũng là một nhân vật đáng chú ý, làm nên diện
mạo bộ ba anh “đội”. Cuộc đời của Đình lúc “lên voi xuống chó”. Anh ta mù
mờ với trại đại đồng cho những người tản cư sau đó Đình làm anh phó phòng
tuyên truyền ở huyện. Tưởng như sau chuyện chết hụt, Đình sẽ từ bỏ những điều
mà anh ta ấp ủ. Nhưng bao nhiêu năm, gặp lại Đình ở thành phố lạ, câu chuyện
về trại đại đồng lại được kể như vừa hôm qua. Bối và Đình là hai nhân vật song
hành, bổ sung cho nhau. Bối chân chất thì Đình ranh mãnh, Bối thật thà thì Đình
65
xảo trá. Trong tiểu thuyết Ba người khác, các nhân vật cán bộ “đội” hiện lên với
sự tha hóa, biến chất, với những sai lầm tội lỗi, những hành động dối trá, những
suy nghĩ u tối và lối sống có phần hoang dã bản năng. Các nhân vật cán bộ “đội”
được Tô Hoài xây dựng đầy khiếm khuyết nhân cách là theo quan niệm của nhà
văn “Con người là con người”. Bên cạnh đó, hình ảnh những người nông dân
như bác Diệc, cố nông Vách…hiện lên với những mặt trái tiêu cực, sống bản
năng, ấu trí, nhếch nhác, khốn cùng, không còn là những người nông dân hiền
lành, cam chịu, nhẫn nhục. Những cô gái nông thôn như Đơm, Duyên trong tiểu
thuyết của Tô Hoài không phải là những cô gái chịu thương, chịu khó, hiền thục,
nết na mà được miêu tả là những cô gái đầy dâm đãng, toan tính, chua ngoa,
đanh đá, đáo để và cũng không kém phần ghen tuông. Viết tiểu thuyết Ba người
khác, Tô Hoài rất giỏi xây dựng nhân vật tập thể, ông là người đầu tiên nhìn
người nông dân và người cán bộ đầy bản năng, khác với các nhà văn khác luôn
nhìn họ với cái nhìn một chiều, có phần đơn giản.
Thông qua xây dựng các nhân vật với “độ dư” của nhân cách, người đọc
nhận ra sự không thuần nhất, sự không tương hợp, sự không trùng khít giữa con
người với tính cách, thân phận của họ. Đồng thời, người đọc nhận ra mặt khác
của các nhân vật và một con người khác bên trong con người của từng nhân vật.
Sự thể hiện nhân vật theo chiều hướng nghiêng về mặt tiêu cực, hạn chế, bộc lộ
“phần dư” nhân cách là cách nhìn mới của nhà văn về con người.
3.1.1.2. Đặt nhân vật trong môi trường sinh hoạt và quan hệ đời thường
Nhân vật bao giờ cũng hoạt động trong một không gian nhất định. Những
không gian sinh hoạt thường gắn với đời sống thường nhật của nhân vật, là môi
trường, là nơi để nhân vật đi lại, thể hiện hoạt động sống. Loại không gian hiện
thực này diễn ra hàng ngày đối với những hành động của nhân vật. Đó là không
gian đường phố, làng quê, gia đình, căn phòng, khu vườn,…Không gian sinh
hoạt đời thường là không gian mà ở đó nhân vật bộc lộ mình một cách tự nhiên,
nhân bản nhất, đầy đủ và rõ nét nhất tính cách của con người trong hiện thực.
Đó là “mảnh đất lí tưởng” để nhân vật vừa bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp vừa
thể hiện những cá tính, thói tật và bản chất của mình. Không gian để nhân vật
66
hoạt động và bộc lộ tính cách trong các tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 là không
gian sinh hoạt đời thường, thế sự, hàng ngày, là không gian sinh hoạt nơi làng
quê ở các vùng miền khác nhau. Đặt nhân vật trong không gian sinh hoạt đời
thường, nhà văn Tô Hoài đã giúp người đọc hiểu thêm về cuộc sống, đặc trưng
văn hóa của từng vùng miền cũng như tư tưởng, tâm hồn, tình cảm và nét riêng
về tính cách của các nhân vật trong các tác phẩm. Tô Hoài không quá cầu kì
trong việc lựa chọn không gian sinh hoạt đời thường, ông viết đơn giản tự nhiên
như những gì diễn ra xung quanh mình, đặt nhân vật trong môi trường sinh hoạt
nơi làng quê, trong mối quan hệ đời thường với gia đình, anh em, họ hàng, xóm
làng, bạn bè, trai gái…Vì vậy, nhân vật trong các tác phẩm của nhà văn thường là
những con người bình thường như người đọc vẫn gặp trong đời sống hàng ngày.
Ở tiểu thuyết Mười năm, Tô Hoài đã xuất phát từ cuộc sống cụ thể của
những con người sống trong một làng thủ công nghiệp ở vùng ngoại thành Hà
Nội - làng Hạ - làng dệt. Vì vậy, nhân vật được miêu tả rõ trong công việc dệt
vải, trong đời sống gia đình, trong tình duyên, trong sự lo toan tính toán hàng
ngày. Dù họ là nhân vật chính, nhân vật thứ yếu, hoạt động từ đầu đến cuối tác
phẩm hay xuất hiện thoáng qua thì vẫn được đặt trong những mối quan hệ đời
thường. Họ là những con người sống thật, cũng có những toan tính nhỏ nhoi vụn
vặt, có đủ thứ nhu cầu và bổn phận riêng như những người đương sống ở ngoài
đời. Họ tham gia hoạt động cách mạng nhưng không thoát ly khỏi cuộc sống lao
động hàng ngày. Họ vẫn phải tích cực lao động, bươn chải với cuộc sống nhọc
nhằn, tìm kế sinh nhai, vẫn phải lo đi dệt cửi mướn để kiếm sống “Lạp phải đi
làm. Lần này không hẹn giắt nữa. Lạp về khung cửi đúng hẹn vì nếu không dệt,
Lạp không có tiền” [72; tr.20]; “Lạp mở quyển điều lệ Ái hữu thợ giày ra, giắt
dưới văng, vừa dệt vừa cúi đọc” [72; tr.23]. Lê cũng vậy, anh chăm chỉ làm việc
“Dệt cửi đều để có tiền tiêu, còn tối ngày phiên thì học chữ anh Chúc” [72;
tr.21]. Trong suốt chiều dài của cuốn tiểu thuyết, nhân vật gắn với sự sống loanh
quanh buộc vào mấy khung cửi, với tiếng thoi chạy lách cách, vang vang đều
đều hàng ngày. Mặc dù ban ngày họ dệt vải, vất vả lao động kiếm sống nhưng
tối đến đám thanh niên làng Hạ lại tụ tập ở nhà anh Ba, không phải để đàn hát
67
hay tán chuyện phiếm mà để bàn chuyện chống thuế “Lại như thói quen, tối đến,
họ họp nhau ở nhà anh Ba, kẻ nằm người ngồi dưới ánh đèn tù mù vàng hoe”
[72; tr.9]. Hay chiều chiều, thợ tơ cửi tụ tập ở ngã ba đường khi phiên chợ lụa
nghỉ dệt “Cái ngã ba đường ngay chỗ cầu ngói ở cửa đình ra, không hẹn mà nên,
từ bao đời là chỗ thợ tơ cửi mấy làng hay tụ tập đấy, mỗi buổi chiều phiên chợ
lụa nghỉ dệt” [86; tr.45]. Nhân vật được khắc họa trong những cảnh sinh hoạt
đời thường đó, nhà văn có dụng ý làm sống lại những cảnh cũ, người xưa đồng
thời cũng góp phần soi sáng thêm về tính cách của những con người đã được ấp
ủ cả đời trong môi trường như vậy. Đặt nhân vật trong những chuyện diễn ra
hàng ngày, Tô Hoài đã thể hiện được bản sắc, thói quen riêng, thói tật nho nhỏ
của họ. Những người phụ nữ như chị Hai Tâm hay nói, bạo miệng, mẹ chồng chị
Hai Tâm thì chua ngoa, đanh đá. Những người đàn ông thì nóng nảy như Lê,
Lạp…Đồng thời những phẩm chất tốt đẹp của họ cũng được bộc lộ. Họ là những
người chân chất, chăm chỉ làm ăn, tích cực, say mê hoạt động cách mạng, giàu
tình yêu thương và rất lạc quan, yêu đời.
Trong tiểu thuyết Miền Tây, nhân vật được khắc họa trong môi trường lao
động thuần phác. Những người dân miền núi quanh năm với công việc ruộng
nương, cuộc sống của họ là cuộc sống lao động chân tay. Chính môi trường đó
đã hình thành nên những con người miền núi với phẩm chất cần cù, hiền lành,
chất phác. Sinh ra và lớn lên trong môi trường lao động thuần phác nên người
dân miền núi thật thà, đơn giản và mộc mạc trong nếp nghĩ và cách làm việc. Bà
Giàng Súa bị dân làng vu là “con ma Giàng Súa”, biết mình luôn oan khuất,
nhưng thấy mọi người luôn xua đuổi, có lúc bà cũng nghĩ “tưởng mình có ma
thật, bà Giàng Súa đã đi lấy sỏi, lấy đá ngậm hàng tháng trong miệng” [73; 12].
Sau bao năm xa cách, gặp lại Thào Nhìa, không tìm được câu trả lời về sự hiện
diện của đứa con hoàn toàn xa lạ, bà lại tin “thằng Nhìa của bà đã hóa hổ chết ở
Nậm Ngù rồi... hồn nó lạc mất rồi” [73; tr.104]. Những người dân miền núi
không nuôi tham vọng gì cao xa, họ chỉ mong được sống ấm no, yên lành trên
nương ruộng bằng chính bàn tay lao động của mình. Cả một đời cay đắng, nhọc
nhằn, có lúc bình yên ngồi nghĩ lại quá khứ, bà mẹ Giàng Súa chỉ mong sao giữ
68
được niềm hạnh phúc bình thường đang có: “Bà Giàng Súa được như bây giờ,
có áo váy đương mặc, có áo váy đương phơi, đã vui lắm rồi. Nhưng bà nghĩ đến
đời Mỵ thì nó phải sướng, nó phải khác…” [73; tr.165]. Nhân vật trong Miền
Tây được đặt trong mối quan hệ giản dị như anh em, xóm làng, trong hoạt động
cách mạng. Họ bộc lộ những phẩm chất của người dân miền núi với bản tính
giản dị, chân chất, mộc mạc dẫu cuộc đời không ít nỗi buồn đau. Thào Mỵ dịu
dàng, chân thực, nhiệt tình xây dựng cuộc sống mới. Pàng thẳng thắn, mạnh mẽ
mà mộc mạc, chân chất. Thào Khay từ cách nhìn, nếp nghĩ cho đến hành động
đều toát lên cái sức sống nhiệt tình, đầy bản sắc của người thanh niên miền núi
trong cuộc đời mới.
Nhân vật trong tiểu thuyết Ba người khác được đặt trong không gian đời
thường của làng quê vùng nông thôn Bắc Bộ thời kì cải cách ruộng đất. Ba anh
“đội” trong tác phẩm đã được Tô Hoài khắc họa trong môi trường công việc,
sinh hoạt hàng ngày và mối quan hệ đời thường. Qua mô tả cách sinh hoạt, cách
làm việc giữa các anh “đội” với nhau, cách làm việc giữa các anh “đội” với các
“rễ, chuỗi”, Tô Hoài đã cho thấy bản chất, mặt trái của ba anh “đội”. Họ đã hiện
nguyên hình là những kẻ dốt nát, dối trá, ham mê thành tích núp sau cái mặt nạ
cán bộ “đội”. Bối, Đình, Cự là ba anh “đội” hăng hái, nhiệt tình trong mọi việc
nhưng cuối cùng lại không hoàn thành nhiệm vụ, mắc những thiếu sót, khuyết
điểm, tội lớn. Họ đi cải cách mọi nhà nhưng không cải cách “chính mình”. Nhân
vật trong Ba người khác còn được đặt trong mối quan hệ trai gái. Những cô gái
nông thôn táo bạo và ngỗ ngược, sẵn sàng dâng hiến thân xác cho những anh
“đội”. Ba anh “đội”: Bối, Đình, Cự thay nhau, nhường nhau làm tình Đơm,
Duyên và các nữ dân quân bất kể trước, sau lúc hội họp, lúc đấu tố, ban đêm hay
ban ngày. Họ làm tình ngay bụi cây bên đường làng, bên đống rạ trong sân.
Thậm chí, họ còn làm tình cô Đơm trước người mẹ tàn tật, làm tình cô Duyên
bên ông bố điếc…Tô Hoài đã miêu tả các anh “đội” đến với nông thôn như gieo
vào đó sự lưu manh, đê tiện. Hành vi hoang dã của họ không chỉ dừng lại ở tính
dục mà còn dịch chuyển thành những quyền lực, tham vọng. Bản chất của họ đã
69
xấu xa nay càng trở nên đểu cáng, hoen ố nhân cách, nhân tính.
Như vậy, Tô Hoài đã đặt nhân vật ở không gian sinh hoạt đời thường - ba
vùng quê khác nhau và trong mối quan hệ đời thường là để nhân vật không hiện
diện với cái nhìn một chiều, đơn giản, nhờ thế mà nhân vật của nhà văn hiện lên
một cách đa diện, sinh động, chân thực và giàu sức sống.
3.1.1.3. Ngôn ngữ khắc họa nhân vật đậm chất đời thường, mang màu sắc địa phương
Đến với nghề văn chương từ trong thực tế cuộc sống lao động của nhân dân
nên Tô Hoài rất coi trọng việc học tập lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân
để đưa vào tác phẩm. Ông tích lũy ngôn ngữ từ mọi miền quê khác nhau, ông
bắt đầu “nhặt chữ” từ làng quê mình “Ảnh hưởng đầu tiên đến với tôi, không nói
về tư tưởng, lập trường chính trị chính là người làng Nghĩa Đô của tôi. Người ta
nói thế nào thì tôi cứ thế mà xào xáo thành văn” [95; tr.429]. Tiếp đến, ông tích
lũy ngôn từ của các miền đất đã qua, đã gắn bó như Thái Bình, Thanh Hóa, miền
núi Tây Bắc. Theo Tô Hoài, ngôn từ của người viết phải phong phú, linh hoạt,
đa dạng. Viết về làng quê phải có từ ngữ của làng quê, viết về miền núi phải có
từ ngữ của miền núi. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Tô Hoài là ngôn ngữ được tích
lũy từ đời sống quần chúng và qua trải nghiệm thực tế. Tô Hoài rất hiếm khi
dùng thứ ngôn ngữ văn chương mượt mà, óng ả, “sặc mùi” sách vở. Chữ nghĩa
của ông xuất phát và cất lên từ đời sống. Tô Hoài không chỉ tích lũy ngôn ngữ
quần chúng mà ông đã biết cách chọn lựa, nâng cao và nghệ thuật hóa để tăng
thêm giá trị của nó. Trong các tác phẩm tiểu thuyết của Tô Hoài, do luôn luôn
tiếp xúc với người lao động ở mọi miền quê nên nhà văn đã khai thác và sử dụng
rất nhiều từ ngữ lời nói hàng ngày của nhân dân. Ngôn ngữ của người lao động
từ cuộc sống đi vào tác phẩm mang theo cả cái xô bồ của cuộc sống đời thường.
Tô Hoài đã tạo nên sự khác biệt trên phương diện ngôn ngữ khắc họa nhân
vật. Trong các tiểu thuyết của ông giai đoạn sau 1945, ngôn ngữ khắc họa nhân
vật vừa dân dã, bình dị, đời thường, mang màu sắc địa phương, đặc trưng của
các vùng quê: ngoại thành Hà Nội, miền núi vùng cao, vùng nông thôn đồng
bằng Bắc Bộ. Ở mỗi một miền quê có những thói quen riêng trong cách sử dụng
ngôn ngữ. Tô Hoài đã từng sống và gắn bó với các miền quê ấy. Ông không chỉ
70
thấu hiểu cuộc đời, số phận của những người dân nơi mà ông đặt chân đến mà
còn sử dụng thuần thục ngôn ngữ của họ. Tiếp thu những lời ăn tiếng nói của
từng phương ngữ vào những trang viết của mình vừa tạo cho lời văn sinh động
vừa đảm bảo tính khách quan của lời nói, tạo nét tự nhiên cho câu chuyện mà
tránh sự gò ép của tác giả.
Nhân vật của Tô Hoài là những con người của đời thường ở các vùng quê
khác nhau. Ông có cách “đời thường hóa” nhân vật của mình. Trước hết, Tô
Hoài dùng những từ nôm na, dân dã để đặt tên cho nhân vật của mình và thể
hiện đặc trưng của từng địa phương. Trong Mười năm, ông đặt tên cho những
người thanh niên cách mạng là Lê, Lạp, Trung, những người phụ nữ như chị Hai
Tâm, bà Hương, Nhàn, Hiền…Hay cách đặt tên rất đặc trưng miền núi như bà
Giàng Súa, ông già người Xá, Thào Mỵ, Thào Khay, Thào Nhìa, Huổi Ca,
Pàng…trong Miền Tây. Trong Ba người khác, Tô Hoài lại đặt tên cho những
người trong gia đình có cùng trường nghĩa để dễ gọi, dễ nhớ như bố là Diệc, con
là Cò, Vó, Đơm. Cách đặt tên cho nhân vật của Tô Hoài cụ thể, gắn với cuộc
sống đời thường, ít có nghĩa tượng trưng.
Ngôn ngữ của các nhân vật mang đặc trưng của từng vùng. Trong Mười
năm xuất hiện từ ngữ của vùng kẻ Bưởi “Anh đã vay lội tiền rồi. Phải tiêu cầm
chừng chứ. Chưa vợ con mà”; “Chị cho tôi giựt tạm một đồng” [tr.25], “Chính
nhà tôi đây làm ba khung cửi mà tôi chỉ rặt chơi với anh em thợ” [tr.38], “Anh
có phong lưu cho giựt vài hào” [tr.50]... Trong Miền Tây, ngôn ngữ của nhân vật
mang bản sắc miền núi vùng cao “Lũ ma nhà Giàng Súa kìa” [tr.32], “Bà ơi, có
phải người Xá và người Mèo trời sinh ra cho làm anh em một nhà không” [tr.50],
“Cán bộ Nghĩa đã đi khắp đất nước rồi, có biết suối Nậm Ngù ở đâu?” [tr.62]…
Ngôn ngữ nhân vật không kiểu cách, sang trọng, chuẩn mực mà suồng sã, bỗ bã
qua cách đối đáp, xưng hô, cách nói chuyện, cách gọi. Khi bực bội, giận dữ thì
người ta gọi nhau bằng: thằng khốn nạn, thằng mất dạy, thằng đểu, con đĩ
dại…Khi tỏ ý coi thường thì gọi là: con ranh, thằng trẻ ranh, nứt mắt,…Khi yêu
nhau, họ gọi nhau bằng những từ ngữ dân dã như: cô ả, anh ả, cu cậu, anh nỡm,
con vợ…Nét tự nhiên, dung dị, đời thường trong ngôn ngữ tiểu thuyết Tô Hoài
71
là một dụng ý nghệ thuật, biến những trang văn thành những trang đời với chất
thô tháp tự nhiên của nó. Với cách sử dụng ngôn ngữ ấy, nhà văn Tô Hoài đã tái
hiện một cách xác thực và gần gũi lối sống của người đương thời, cho thấy khả
năng nắm bắt và thâm nhập đời sống của chính tác giả đồng thời cũng là phương
tiện để nhà văn hướng ngòi bút đến cảm hứng thế sự, đời tư, cảm quan đời
thường, đào sâu số phận, vận mệnh cá nhân.
Cùng với thứ ngôn ngữ khắc họa nhân vật dung dị, tự nhiên, đậm chất đời
thường, Tô Hoài còn vận dụng thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ dân gian đưa vào
trang văn của mình. Trong tiểu thuyết Ba người khác, người đọc bắt gặp hàng
loạt thành ngữ được gán cho lời thoại của nhân vật. Lời của Tư Nhỡ “Cái gì
cũng bảo để xét, rồi mất hút con mẹ hàng lươn” [69; tr.36]. Lời của bác Diệc
“Cảm ơn anh thăm nghèo hỏi khổ” [69; tr.41]. Lời phát biểu của người đoàn ủy
“Chỉ bọn bóc lột mới có xe đạp, mới thảnh thơi ngồi mát ăn bát vàng. Chúng ta
về với nông dân không thể đồng sàng dị mộng” [69; tr.14]. Ngay cả lời của
những anh “đội” được đánh giá là những người “có trình độ văn hoá cao” cũng
không hơn gì những người nông dân kém hiểu biết “Oai chứ. Nhưng miền núi
ngoài này chó ăn đá gà ăn sỏi, còn đâu moi ra lấy cái ăn…” [69; tr.115]. Trong
tiểu thuyết Mười năm, người đọc bắt gặp hàng loạt thành ngữ trong cuộc trò
chuyện của các nhân vật. Lời của chị Hai Tâm “Vội mà đêm cuối phiên bận nhất
thế này lại nghỉ? Khéo dấu đầu hở đuôi!” [72; tr.15]; “Này cứ nghe tớ như thế
mà tươm. Chứ lông bông chỉ tổ rạc cẳng, ngày lắm mối tối nằm không vắt tay
lên trán nghĩ sự đời” [72; tr.23]; “Nói bán giời không văn tự. Anh thì có mà dệt
cơm!” [72; tr.37], “Con gái vùng trong đẹp như tiên sa ấy chứ. Anh Lạp dệt cửi
nhà tôi đấy, đêm ngày [72; tr.38]. Lời của Khiết “Chính nhà tôi đây làm ba
khung cửi mà tôi chỉ rặt chơi với anh em thợ. Thanh niên hãy chơi đã, chẳng vội
làm ăn. Tuổi xuân ba vạn sáu nghìn ngày lo gì, sáu hay chín nghìn” [72; tr.38].
Trong một lần Nhàn nói chuyện với Lạp về việc Hiền - người con gái mà anh
thương thầm sắp đi lấy chồng. Lạp nói lơ lửng: “Ai biết đâu chuyện nhà người
ta! Nhàn cười nhạt, thế ra công anh đắp đập, be bờ; đan lờ thả cá, bây giờ tay ai
hả” [72]. Tô Hoài sử dụng thành ngữ, tục ngữ như là một trong những phương
72
tiện để phản ánh bức tranh hiện thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ tạo ngữ
cảnh cho câu chuyện, tạo nên giọng điệu quen thuộc trong giọng văn của Tô
Hoài và góp phần tái hiện chân thực tính cách, suy nghĩ của nhân vật.
Tô Hoài đã vận dụng, khai thác hiệu quả lời ăn tiếng nói hàng ngày của
người dân quê khiến cho nhiều tiểu thuyết của ông sau 1945 vừa mang nét
chung của ngôn ngữ toàn dân vừa mang dấu ấn địa phương rất đậm nét, tạo nên
những nét riêng biệt về nhân vật ở các vùng quê khác nhau. Sự tham gia của các
yếu tố thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ dân gian trong tác phẩm đã diễn tả súc tích,
ấn tượng những điều mà nhà văn muốn phản ánh.
3.1.2. Kết cấu trần thuật
Kết cấu trong tiểu thuyết có vai trò quan trọng. Nó góp phần bộc lộ chủ đề,
tư tưởng đồng thời định hình phong cách, đặc điểm thi pháp, tạo dấu ấn riêng
cho mỗi nhà văn. Kết cấu vừa giúp nhà văn chuyển tải thông điệp đến người đọc
theo đúng ý tưởng và chiến lược của mình, vừa cho thấy trình độ của nhà văn
trong việc triển khai và tổ chức tác phẩm. Kết cấu trong các tiểu thuyết của Tô
Hoài sau 1945 đã có sự đổi mới rõ rệt từ kiểu kết cấu truyền thống sang kiểu kết
cấu hiện đại. Sự thay đổi về các kiểu kết cấu đã thể hiện ý thức tìm tòi, đổi mới,
thể nghiệm của nhà văn, góp phần đem lại cho tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945
diện mạo mới đáp ứng được với những yêu cầu của thời đại.
3.1.2.1. Kết cấu tuyến tính
Kết cấu tuyến tính là kiểu loại kết cấu được tổ chức theo logic thời gian,
các sự kiện được sắp xếp theo trật tự thời gian, trước sau. Đây là dạng kết cấu
quen thuộc trong văn học truyền thống. Kết cấu theo trình tự thời gian làm cho
câu chuyện diễn ra theo nhịp điệu của cuộc sống thường nhật, lời kể của nhà văn
chậm rãi, thong thả, nhẩn nha, sự việc được kể tuần tự hết sức tự nhiên. Kết cấu
này giúp độc giả dễ theo dõi diễn biến của câu chuyện, không gặp khó khăn
trong việc nắm bắt các sự kiến chính của cốt truyện.
Tiểu thuyết Mười năm (1958) được Tô Hoài xây dựng theo kiểu kết cấu
tuyến tính. Lối kết cấu này đã giúp Tô Hoài phản ánh được hiện thực cách mạng
một cách chân thực, giản dị. Từ hoạt động đấu tranh tự phát đến có tổ chức, dù
73
có lúc tưởng chừng không thể duy trì được nhưng vẫn đi đến thắng lợi của các
thanh niên làng Hạ. Hình thức đấu tranh ban đầu của họ là tổ chức những cuộc
hội họp, đọc sách, viết báo, tổ chức Ái hữu thợ dệt, diễn kịch để tuyên truyền,
dán truyền đơn. Tất cả những hoạt động đó đều thất bại. Sau đó, dưới sự dẫn dắt,
lãnh đạo của Đảng và cách mạng, cuộc đấu tranh của thanh niên làng Hạ đã có
tổ chức thực sự, những người thợ đã thức tỉnh, giác ngộ quyền lợi giai cấp. Họ
đã ý thức được nỗi đau khổ của người dân mất nước, đã tự giác tham gia kháng
chiến. Họ họp cứu quốc, phá kho lương thực, khử Việt gian, tổ chức cướp chính
quyền, thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời.
Đến tiểu thuyết Miền Tây (1967), Tô Hoài vẫn sử dụng lối kết cấu theo trật
tự thời gian. Tô Hoài đã xây dựng câu chuyện trên trục thời gian từ quá khứ đến
hiện tại để thấy được những thay đổi lớn lao về mọi mặt và sự trưởng thành
nhanh chóng của người dân Tây Bắc từ sau khi chính quyền cách mạng thành
lập. Những năm trước Cách mạng 1945, người dân miền núi Tây Bắc bị bóc lột,
đàn áp bởi những tên chúa đất. Họ thiếu thốn về cái ăn, cái mặc, bị đọa đày tinh
thần bởi nạn mê tín dị đoan. Nhưng sau Cách mạng 1945, nhờ có ánh sáng của
Đảng, tương lai và cuộc sống của họ được mở ra, những vùng núi cao đã nghìn
đời khiếp sợ, chìm đắm trong tay thầy cúng và ma quỷ nay không còn nữa. Cuộc
sống tấp nập đông vui hơn. Từng đoàn người các làng lên làm kho, làm trạm xá
và cửa hàng mậu dịch, Châu Yên càng đông hơn. Đổi mới nhất là trong nhà mậu
dịch đầy ắp các mặt hàng phục vụ cho nhu cầu của người dân, chợ Phiềng Sa có
cả lò rèn. Một Phiềng Sa đã hoàn toàn đổi khác. Với lối kết cấu theo trật tự thời
gian, Tô Hoài đã miêu tả sự thay đổi cuộc đời, số phận của những người dân
miền núi vùng cao: cơ cực khi chưa có Đảng, đổi đời khi cách mạng về “Vừ Sóa
Tỏa suốt ba đời đi ở đúc lưỡi cày, bây giờ trở thành chủ tịch xã”, “Thào Khay, con
bà Giàng Súa đã trở thành y sĩ, thành người cán bộ trong Đảng, có chân trong Châu
ủy Châu Mộc”, “Bà Giàng Súa về làng cũ, làm nhà ở thênh thang ngoài núi tranh,
như mọi người. Nhà mới mọc khéo đông đúc tựa bát úp” [73; tr.50].
Như vậy, điểm chung của hai tiểu thuyết Mười năm và Miền Tây là nhà văn
đã xây dựng câu chuyện phát triển theo trật tự tuyến tính, các sự kiện, chi tiết có
74
trật tự trước sau, sự kiện sau là bước phát triển của sự kiện trước. Tuy nhà văn
triển khai kết cấu mang tính chất truyền thống, đơn giản nhưng cách tổ chức hợp
lí, mang lại hiệu quả nghệ thuật cao thể hiện sự đổi thay của cuộc sống và con
người ở các khoảng không gian và thời gian khác nhau.
3.1.2.2. Kết cấu tâm lý
Nghệ thuật xây dựng kết cấu dựa trên diễn biến tâm lý nhân vật đã tạo cho
nhà văn có nhiều cơ hội để đi sâu vào diễn tả, phân tích những diễn biến tinh vi,
phức tạp của đời sống nội tâm con người. Với sự xuất hiện của kiểu kết cấu tâm
lý, những dòng cảm xúc, nội tâm của nhân vật, những vui buồn, sầu tủi, nhớ
mong, hạnh phúc…của con người đã được trải rộng ra trên những trang giấy.
Trong tiểu thuyết Miền Tây, Tô Hoài đã tập trung xoáy sâu vào miêu tả những
trạng thái tâm hồn, suy nghĩ, tâm trạng của bà Giàng Súa, ông già người Xá,
Thào Nhìa…Việc khai thác tâm lý nhân vật ở nhiều khía cạnh, nhiều chiều với
những mâu thuẫn phức tạp là một đặc điểm cơ bản trong nghệ thuật xây dựng
kết cấu của tác phẩm này.
Tô Hoài đã đặt nhân vật vào những cuộc đấu tranh nội tâm, với những day
dứt, với những cảm xúc, suy nghĩ băn khoăn, đan xen giữa những niềm vui và
nỗi buồn. Bà Giàng Súa trong tác phẩm là người có nội tâm phức tạp, đa chiều.
Bà được khắc họa trong hình ảnh của một thân phận u uất, sống vật vờ như một
bóng ma, một người phụ nữ nghèo khổ, chịu nhiều oan khuất đắng cay và hay lo
sợ “Bà Giàng Súa sống mịt mù như trên đời chỉ có bốn mẹ con…Mẹ con cứ vật
vờ như người hủi” [73; tr.13]. Tâm trạng của bà vui buồn lẫn lộn “Mỗi cơn gió
lùa vào rừng sâu đưa theo nhiều tiếng động mới lạ, bà Giàng Súa cứ nghe, lúc
thì náo nức muốn vui, lúc lại càng ảo não” [73; tr.35]. Cuộc đời bà Giàng Súa
chưa có lấy một ngày vui “những thứ mong ước tha thiết từ thời con gái bà chưa
bao giờ biết” [73; tr.104]. Bà luôn sống trong sự đau khổ và mất hết niềm tin
vào cuộc sống. Bà suy ngẫm rồi lại hồi tưởng “Nước mắt đầm đìa mặt mẹ mà
mẹ cũng chẳng biết. Từ lâu, bà Giàng Súa đã nghĩ rằng dù sao thì ngày hôm qua
còn tốt hơn ngày hôm nay và đời người thì ngày càng tàn, tàn lụi như cái củi nào
75
rồi cũng cháy đi thành than” [73; tr.36-37].
Hòa bình trở lại, tưởng như cuộc đời bà Giàng Súa được yên ổn, hạnh phúc
khi chứng kiến sự trưởng thành của những đứa con nhưng bà vô cùng đau đớn,
bàng hoàng, xót xa khi Thào Nhìa - con trai bà trở thành tên biệt kích. Người mẹ
ấy luôn mong ngóng, chờ đợi đứa con trở về “Mỗi buổi sáng, bà Giàng Súa
đứng nhìn xuống núi. Nó đi nửa đêm, nó đi buổi sáng. Khi đêm gió thổi, khi
sáng mặt trời lên đầu núi, lại tưởng ra lúc nó đi” [73; tr. 41] nhưng càng chờ đợi,
bà lại càng thất vọng. Những lúc ấy, cái ấn tượng nặng như núi trong cuộc đời
cũ với bóng ma chài chập chờn hiện ra, ám ảnh, dằn vặt tâm hồn bà “Bây giờ thì
không gì trở lại để nhớ, không còn khi nào ngước nhìn ra chờ đợi. Mặt người
bây giờ âm thầm như rừng sâu. Bà Giàng Súa không chờ, không nhớ, không biết
gì nữa” [73; tr.46]. Qua việc miêu tả tâm trạng của bà Giàng Súa, người đọc như
đang cùng chiêm nghiệm, cùng thấm thía và chia sẻ, cảm thông với nỗi đau của
người phụ nữ miền núi dưới chế độ cũ.
Tô Hoài đã miêu tả tinh tế quá trình diễn biến tâm lí của bà Giàng Súa qua
các chặng đường đời khác nhau. Khi cách mạng đến thì cuộc đời bà Giàng Súa
đã đổi khác, từ một người mẹ chịu nhiều đau thương tủi nhục trở thành người
mẹ chiến sĩ, góp công, góp sức vào cách mạng “Cách mạng đã đem bà Giàng
Súa về và giới thiệu rằng bà Giàng Súa cũng như mọi người, biết yêu đất nước,
ghét thằng Tây, vì thèm được có đất nước sung sướng nên cùng mọi người một
lòng đánh thằng Tây” [73; tr.48]. Tâm hồn bà đã vui trở lại nhưng nét lo âu vẫn
hiển hiện trên khuôn mặt “Vẫn những nét lo âu thường ngày xếp nếp trên mặt bà
Giàng Súa. Nhưng từ đây bà Giàng Súa không cúi mặt nữa. Đi đường, bà Giàng
Súa toàn kể lại những chuyện ngày xưa…Bà Giàng Súa níu lấy cái vui. Mỗi lúc
càng nhiều người đi qua, bà Giàng Súa một vui hơn” [73; tr.163]. Tuy được
sống trong xã hội mới hạnh phúc ấm no, trong lòng bà vẫn có những phút ngậm
ngùi, bâng khuâng thương xót cuộc đời quá khứ đau buồn “Bà Giàng Súa được
như bây giờ, có áo váy đương mặc, có áo váy đương phơi, đã vui lắm rồi.
Nhưng bà nghĩ đến đời Mỵ thì nó phải sướng, nó phải khác…Mỵ, con gái
thương của bà Giàng Súa, nghĩ trộm bóng nó, nó đương là cô con gái Mèo đẹp
76
nhất đất nước bây giờ” [73; tr.165]. Tô Hoài đã đi sâu vào những ý nghĩ, lo lắng
khá phức tạp của bà Giàng Súa. Bà Giàng Súa đã thay đổi thành con người khác,
bà cũng biết ước mơ, khát vọng, niềm vui bé nhỏ mà bình dị, niềm vui bao nhiêu
năm bà mới có được.
Ông già người Xá là một nhân vật bé nhỏ, cũng được nhà văn khắc họa với
những dòng nội tâm, suy nghĩ. Ông là người mê tín và hoài nghi về cách mạng.
Trong suy nghĩ của mình, đã có lần ông có ý định giết cán bộ nhưng khi trông
thấy cán bộ, ông lại nghẹn ngào “Mấy lần muốn cầm dao giết, mấy lần có ý định
lúc khảm thuyền qua suối thì cầm sào đánh vào gáy. Nhưng hễ trông thấy cán bộ,
hễ cầm đến con dao, cái gậy, lại nghẹn ngào, không giơ lên được” [73; tr.92].
Được sự chăm sóc của cán bộ Thào Khay sau một trận ốm, ông già người Xá đã
hiểu ra tấm lòng của cán bộ “Đương rõ ràng một buổi sáng ở nhà mình, không
có vua, không có người của vua, chỉ còn mình với người cứu mình, thì lòng tin,
một lòng tin thầm kín mà sâu sắc lại dâng lên” [73; tr.224]. Tô Hoài đã miêu tả
sự vận động tâm lý của ông già người Xá từ tâm hồn u tối, mê muội, ông đã dần
trở thành người tốt, tin vào cán bộ, vào cách mạng.
Thào Nhìa cũng là nhân vật có một tâm trạng phức tạp. Thào Nhìa là một
kẻ lầm đường, phản bội quê hương đất nước nhưng khi trở về nhà mẹ vẫn bùi
ngùi cảm xúc của một đứa con với những gì thân thương, gần gũi nhất. Trong
con người Thào Nhìa có sự giằng xé nội tâm giữa một bên là “dòng suối hiền
hòa”: “Bước chân Thào Nhìa đi lặng lẽ mà trong đầu thì xôn xao bóng mẹ già và
đất quê” [73; tr.130] và một bên là “cơn lũ hung hăng”: “Nhưng cái miệng nó
toàn lời thằng biệt kích” [73; tr.130]. Đã có lúc Thào Nhìa cũng muốn thú tội và
bày tỏ ý muốn xin mẹ Giàng Súa, anh trai Thào Khay của mình một cơ hội để
quay về nhưng cuối cùng Thào Nhìa đã lựa chọn tự kết liễu cuộc đời của mình
để chấm dứt mọi đau khổ.
Qua kiểu kết cấu tâm lý, biểu hiện tâm trạng của các nhân vật trong tác
phẩm, người đọc thấy được những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan của người dân
miền núi vùng cao với muôn vàn những cái sợ: ma trời, ma đất, ma hồn, ma nhà,
ma rừng, ma người chết và cả ma người sống... “Ma” đối với người dân miền
77
núi là một lực lượng siêu nhiên thần bí, gắn với những gì xấu xa, độc ác, tệ hại
nhất. Do trình độ văn hóa, sản xuất còn thấp kém, người dân miền núi bị lệ
thuộc vào tự nhiên và do bất lực trước những tai họa của tự nhiên mang đến, họ
sinh ra mê tín dị đoan. Nạn mê tín dị đoan là sản phẩm của một lối sống, lối tư
duy lạc hậu, tàn dư của chế độ cũ. Nạn mê tín dị đoan đã tạo nên nỗi sợ hãi triền
miên cho người dân miền núi và bao năm qua đè nặng lên đời sống tinh thần họ.
Họ đã quá tin vào những chuyện ma chài, thần linh, tin một cách mù quáng và
mê muội. Nỗi ám ảnh về “ma” đã khiến cho cuộc sống của họ chịu nhiều đau
khổ và bất hạnh. Gia đình bà Giàng Súa và ông già người Xá là những nạn nhân
điển hình của nạn mê tín, dị đoan. Qua kiểu kết cấu tâm lý, Tô Hoài đã thể hiện
tâm hồn, tính cách của người miền núi. Họ là những người dân miền núi hồn
hậu, chất phác nhưng cũng có những tâm sự, nỗi niềm muốn được chia sẻ.
Ở hai tiểu thuyết Mười năm và Ba người khác, nhân vật không sống một
quãng đời dài và cũng không có nội tâm. Có thể nhận thấy ở hai tác phẩm này,
Tô Hoài không quá chú trọng vào miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật, nếu có
chỉ là những suy nghĩ ngắn gọn, vài dòng độc thoại. Đó là suy nghĩ của nhân vật
Đình khi bị giam trong nhà tù: “Đình cũng tinh tỉnh đôi chút. Càng tỉnh càng
khiếp sợ, có lúc muốn đập đầu chết ngay, có lúc tưởng tự dưng cũng sắp tắt thở.
Làm sao nên nông nỗi này?” [69; tr.99]. Hay là những dòng nội tâm của Lê khi
nhớ về tuổi thơ đau buồn “Thằng bé khốn nạn ngày xưa trở về và trong trí Lê,
Lê buồn lắm…Lê lại thương thân và cám cảnh nhà, ruột xót như bóp muối” [72;
tr.48]. Đó còn là những dòng suy nghĩ của An nhớ về quê hương “An đương mơ
màng về con đường vào làng, như đã đi xa bao nhiêu năm, tha thiết chưa bao giờ
nhớ làng như lúc này…Nghĩ thế thì An nhớ, buồn cồn cào” [72; tr.63].
Như vậy, việc lựa chọn kết cấu tâm lý là điều kiện giúp cho nhà văn có thể
đi sâu vào phần “vi mô” của đời sống con người, giúp người đọc nhận thấy nhân
vật có một nội tâm sâu sắc, đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã
nhận xét: “Kết cấu tác phẩm vừa phóng túng, tự nhiên, vừa chặt chẽ, tạo nên
một thể thống nhất hoàn chỉnh. Một thứ kết cấu dựa theo logic của tâm lý nhân
78
vật hơn là theo sự kiện và cốt truyện” [103].
3.1.2.3. Kết cấu với lối đầu cuối chiếu ứng
Phần mở đầu và kết thúc đóng vai trò quan trọng của một cốt truyện tiểu
thuyết. Nhà văn phải dành nhiều công sức để tạo nên một cách mở đầu và kết
thúc tác phẩm thật độc đáo, ấn tượng, gây chú ý cho người đọc. Mở đầu của một
tác phẩm là yếu tố cốt lõi trong việc khơi gợi sự hứng thú của người đọc. Nó để
lại cho độc giả một ấn tượng kéo dài xuyên suốt quá trình đọc. Kết thúc của tác
phẩm có giá trị tạo nên dư ba, cũng là cách làm cho tác phẩm có sức sống lâu
bền với thời gian “Một tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối
cùng” (Aimatov). Kết thúc không chỉ có ý nghĩa giản đơn là sự dừng lại hay chỉ
là kết thúc câu chuyện, khép lại số phận nhân vật mà kết thúc truyện còn có vai
trò gợi mở ra nhiều vấn đề của cuộc sống, của quá khứ, hiện tại và tương lai
“Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng
người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về
tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng” (tác giả Bùi Việt Thắng). Tô Hoài
hiểu rõ “sức mạnh của cú đấm nghệ thuật là thuộc về đoạn cuối” (D.Phuốc - ma
- nôp) nên ông đã tạo một khoảng trống kết thúc bất ngờ, nhiều sức gợi, gây ấn
tượng sâu xa trong lòng người đọc. Dường như kết thúc truyện còn là một ẩn số
đối với người đọc.
Mở đầu trong các tiểu thuyết của Tô Hoài sau 1945 bắt đầu bằng một sự
kiện diễn ra trong quá khứ, là những cảnh sinh hoạt diễn ra hàng ngày ở một
không gian cụ thể. Kết thúc vẫn là không gian đó nhưng là cuộc sống của con
người ở thì hiện tại, gợi người đọc những liên tưởng và những cảm xúc bất ngờ.
Câu chuyện đã kết thúc như mạch kể của nó nhưng dường như vẫn còn tiếp tục,
miên man trong tâm tưởng của độc giả. Những cuộc đời, số phận của các nhân
vật, của những con người ở các miền quê khác nhau vẫn còn ám ảnh và nhức
nhối trong lòng người đọc. Kết thúc trong tiểu thuyết của Tô Hoài gieo vào lòng
người đọc sự nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống, quy luật đời người và gợi
79
nhiều suy tư, trăn trở.
Mở đầu tiểu thuyết Mười năm là tiếng trống inh ỏi thúc giục đóng thuế, là
cuộc nói chuyện giữa chị Hai Tâm và Lạp về việc đóng thuế. Đó là cảnh sinh
hoạt đời thường vẫn diễn ra ở làng Hạ:
“Tùng... tùng... tùng...
Tiếng trống thúc thuế inh ỏi, ra riết, gay gắt, càng về những ngày cuối càng
gay gắt. Không biết những ai mười tám tuổi trở lên phải chạy đông chạy tây lo
thuế thế nào thì lo, nhưng cứ mỗi lúc từng hồi trống ngoài đình nổi lên liên miên
ba tiếng một thì trẻ con các xóm lại cất cổ nhại theo: tiền... tiền... tiền... tiền...
tiền... tiền...
Chị Hai Tâm đánh xong mẻ suốt ấy rồi vào sửa cửi. Lạp đương lúi húi cắt
cái “rạp” ở cửa gỗ. Chị Hai ngồi vắt vẻo trên đầu song hành, hai tay luồn vào
mặt cửi, vừa gỡ vừa nói đùa:
- Trống gọi tiền anh Lạp đấy. Anh Lạp năm nay đóng thẻ có sản hay thẻ vô sản?
- Tôi bao giờ chẳng vô sản” [72; tr.5].
Kết thúc tác phẩm là cuộc trò chuyện giữa Lạp và Trung. Hai người đến
bên bờ ao, nhìn vào trong vườn về phía mộ của Nhàn và cảm giác mênh mông,
rờn rợn tràn ngập trong lòng Lạp và Lạp bắt đầu suy tư:
“Lạp đã kể Trung nghe cái đêm Lạp từ vùng trong trở về với Nhàn, yêu
Nhàn. Đêm ấy giống đêm nay không. Cũng ông trăng này, nhưng ông trăng đêm
ấy, đục đờ như miệng con mèo gào rồi lặng ngắt.
Trung im lặng. Không ngờ mà lại éo le, thảm thương đến thế. Trung không
nói những câu đùa cợt Lạp như lúc nãy nữa” [72; tr.173].
Kết thúc tác phẩm không còn cảnh người dân làng Hạ phải lo đóng thuế,
cũng không còn khung cảnh làng Dệt. Kết thúc mở ra một tương lai tươi sáng,
cuộc cách mạng đã thắng lợi nhưng hạnh phúc, cuộc đời của Lạp cũng như của
các thanh niên làng Hạ sẽ đi về đâu, sẽ như thế nào, nào ai biết được. Cái kết gợi
cho người đọc những suy tư về tương lai, cuộc sống của những con người vùng
quê ngoại thành Hà Nội.
Mở đầu tiểu thuyết Miền Tây là cảnh những đoàn ngựa thồ hàng của ông
80
khách Sìn lên Phiềng Sa vượt qua những đồi núi chập chùng “Năm nào cũng
vậy, đoàn ngựa buôn của ông khách Sìn về đến Châu Yên, dừng lại, thay tay thồ,
thì vừa xong gặt hái tháng Mười. Các phiên chợ Tết đã đến rồi” [73; tr.5]. Cảnh
đoàn ngựa thồ hàng của ông khách Sìn gợi cho người dân miền núi Tây Bắc bao
nỗi ám ảnh, sợ hãi. Tuy nhiên, kết thúc tác phẩm đã xóa đi những nỗi ám ảnh, lo
sợ của người dân miền núi vùng cao. Đó là những sinh hoạt thường ngày của
người dân vùng cao và cuộc trò chuyện của Mỵ và Nghĩa, là những suy nghĩ của
Nghĩa “Nghĩa cảm thấy một nỗi bồi hồi cùng một thoáng bùi ngùi qua” [73;
tr.354]. Người đọc nhận thấy cuộc sống sinh hoạt nơi vùng cao vẫn diễn ra trong
các bước diễn biến của câu chuyện, mọi thứ vẫn tiếp tục diễn ra không có hồi kết
thúc, mối quan hệ giữa Nghĩa và Mỵ sẽ đi đến đâu. Cách kết thúc gieo vào lòng
người đọc một nỗi buồn man mác về cuộc sống và hạnh phúc của con người.
Mở đầu tiểu thuyết Ba người khác là chuyện tham gia cải cách ruộng đất,
kết thúc là chuyện liên quan đến xóm cũ làng xưa và anh đội năm nao “Ở xóm
Am, xóm Chuôm và cả làng ấy đến bây giờ còn kể một câu chuyện li kì…Hai
anh em Vó và Cò, con bác trưởng thôn Diệc đều tòng quân” [69; tr.249] và
“Chiến sĩ Vó rút dao chém đứt cổ Huỳnh Cự trong đám quân tháo chạy” [69;
tr.250]. Kết thúc truyện là thông tin về cái chết mơ hồ của Huỳnh Cự “Câu
chuyện kì lạ được các xóm kể lại cho mãi, không biết thực hư thế nào” [69;
tr.250]. Tô Hoài đã không áp đặt người đọc vào một khuôn mẫu có sẵn mà để
người đọc tự tìm ra cái kết cho câu chuyện. Kết thúc đã gieo vào lòng người một
thoáng mơ hồ, “như giấc chiêm bao” và gợi cho người đọc bao suy ngẫm về thời
cuộc, về số phận con người của hơn một thế kỉ đã lùi xa. Đây cũng chính là tài
năng của nhà văn khi xây dựng kết cấu câu chuyện và là lựa chọn, ứng xử của
nhà văn Tô Hoài khi viết ra sự thật. Kết cấu với kết thúc bỏ ngỏ đã làm thay đổi
lối tư duy đón nhận theo kiểu khép kín, tĩnh lại và kết thúc có hậu đã tồn tại
trong một thời gian khá dài.
Như vậy, trong các tiểu thuyết của Tô Hoài sau 1945 có sự đan xen, kết
hợp giữa kết cấu truyền thống và kết cấu hiện đại, tạo nên ấn tượng độc đáo, rất
riêng của nghệ thuật kết cấu. Vì vậy, nó khiến cho tác phẩm của Tô Hoài có giá
81
trị và sức sống lâu bền cho đến tận ngày nay.
3.1.3. Giọng điệu trần thuật
Một tiểu thuyết hấp dẫn, lôi cuốn người đọc không chỉ thể hiện ở cách xây
dựng nhân vật, kết cấu đa dạng mà còn thể hiện ở nghệ thuật sử dụng giọng điệu
khi kể chuyện. Mỗi nhà viết tiểu thuyết đều tạo ra cho mình một giọng điệu độc
đáo riêng. Giọng điệu trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan là giọng châm
biếm, hài hước; của Nam Cao là giọng tự vấn, triết lí, chua chát, sâu sắc; của
Nguyên Hồng là giọng cảm thương thiết tha. Giọng điệu trong tiểu thuyết Lê
Lựu là tự trào lẫn thương cảm,…Giọng điệu trong tiểu thuyết của Tô Hoài sau
1945 là giọng điệu dí dỏm, hài hước kết hợp với giọng điệu trữ tình, hoài niệm.
3.1.3.1. Giọng điệu dí dỏm, hài hước
Tiếp cận đời sống và khám phá đời sống trong cái hàng ngày, trong quan
hệ thời sự, đời tư, ngòi bút của Tô Hoài tìm được mảnh đất để phát huy cao độ
tiếng cười hài hước, dí dỏm của mình. Đối với Tô Hoài, ông có cách kể chuyện
rất nhẹ nhàng, rất duyên mà rất hóm hỉnh kiểu…Tô Hoài. Nụ cười đã đi vào tác
phẩm của ông trong cái nhìn hóm hỉnh được xếp vào hạng bậc nhất của văn xuôi
Việt Nam hiện đại “Nụ cười cùng cái nheo mắt vừa lão luyện tinh anh vừa chân
thành thẳng thắn, vừa hài hước duyên dáng lại vừa như xóa đi được cái khoảng
cách giữa ông và người đối diện” [186]. Cái tôi dí dỏm, hài hước của Tô Hoài
được thể hiện qua nghệ thuật kể chuyện, qua cách xây dựng chân dung nhân vật,
qua những cuộc đối thoại giữa các nhân vật với nhau.
Tính cách hài hước, tinh quái cùng với nụ cười tủm tỉm, hóm hỉnh sẵn có
trong con người Tô Hoài đã giúp nhà văn tạo dựng lên bức chân dung biếm họa
nực cười “Chúc đương mặc cái quần tây đen thủi hai miếng mông vá, lúc nào
cũng phải ngồi đứng ngoảnh đít ra phía không có người. Cái áo sơ mi, còn sót
mỗi một khuy, đã giắt kỹ vào trong cạp mà vẫn banh cái ngực gầy hõm ra” [72;
tr.38]. Tiếng chửi của bà Ba chua ngoa - người dân quê không kém phần hài
hước “Cha tiên nhân cái đứa mất tông mất giống, cái đứa giết người cướp của,
mày chứa chấp, mày dụ dỗ con người ta... mày để đứa con trẻ nó khóc sớm khóc
tối... mày giết đứa con trẻ... nó như con gà, mày bắt mất mẹ... mày là quân mẹ
82
mìn... Mày đi đàng xuôi mày chết đàng xuôi, mày đi đàng ngược mày chết đàng
ngược” [72; tr.40]. Lời nói chuyện của các nhân vật cũng hết sức hóm hỉnh, có
phần châm biếm. Lời của chị Hai Tâm “Tôi cứ tính chạy dông như chó dái cả
tháng thế thì hóa ra các anh thiệt đứt đuôi ấy chứ” [72; tr.22]. Lời của Lê “Ngày
nào cũng ngồi phơi mặt giảng giải lý thuyết mà lại đi chim gái. Còn chó gì là Ái
hữu” [72; tr.33].
Ở tiểu thuyết Ba người khác, hình ảnh ăn uống của các anh “đội” hiện lên
thật nực cười qua cách kể của người kể chuyện “Các anh đội bưng hẳn bát tương
để chấm và húp, khỏi phải cúi lom khom và nguồm ngoàm, hay là có nuốt
chửng cả cái không ai trông thấy” [69; tr.16]. Người đọc không thể dừng cười
trước chi tiết đội trưởng Cự lên loa tuyên truyền cấy “lúa thần kì” trong bộ dạng
“đứng xoạc chân, ống quần nâu xắn qua đầu gối” và hô khẩu hiệu hai tiếng
“đòm bào”: “Thưa toàn thể đòm bào, đòm bào đã trông thấy rõ cái bảng “lúa
thần kì” chưa?...”Thưa đòm bào…” [69; tr.169]. Chi tiết mang quạt ra quạt cho
“lúa thần kì” vì “lúa đổ mồ hôi” cũng hết sức hài hước. Họ chỉ nghĩ một điều
đơn giản rằng “Con người đứng chen chân thế này còn đổ mồ hôi, lúa cũng như
người, lúa đổ mồ hôi thì quạt cho nó ráo mồ hôi” [69; tr.171]. Các cán bộ “đội”
đã huy động quạt khắp mọi nơi để quạt cho “lúa thần kì”: “Một lát sau, năm
thước ruộng lúa đã hóa ra hiệu cắt tóc có quạt kéo ở đầu phố, như khi tôi còn
nhỏ” [69; tr.171]. Qua giọng điệu của người kể chuyện, người đọc vừa thấy sự
ngây thơ, ngu dốt về kiến thức nông nghiệp của các anh “đội” đồng thời cũng
thấy được sự giễu cợt, mỉa mai trong đó. Các cuộc họp bí mật của đội được nhà
văn miêu tả bằng giọng hài hước “Chúng tôi như một bọn lén lút cờ gian bạc lận
kéo ra đây đánh xóc đĩa lột nhau giữa nơi hoang phế đồng không mông quạnh”
[69; tr.50]. Giọng điệu hài hước, dí dỏm còn giúp nhà văn thể hiện bản chất của
ba anh “đội” và sự tha hóa của họ “ở đây, người ta ăn ngủ với nhau như gà” [69].
Tiếng cười hài hước không còn nhằm mục đích mua vui, giải trí mà để phê phán,
vạch trần, để ăn năn, để thú tội. Với giọng văn hóm hỉnh, tinh quái, Tô Hoài đã
khơi lại trong tâm trí người đọc những kí ức sâu xa vui có, buồn có về thời kì cải
cách ruộng đất với nhiều sai lầm và đau thương. Tô Hoài đã dám nhìn lại quá
83
khứ, sống lại quá khứ để nhận ra lỗi lầm của mình, để tìm lại cảm giác thanh
thản cho tâm hồn mình ở hiện tại. Người đọc nhận ra nhân cách Tô Hoài - một
con người đầy bản lĩnh, từng trải và hiểu đời.
3.1.3.2. Giọng điệu trữ tình, hoài niệm
Dòng hoài niệm là một trong những yếu tố để tìm về những hồi ức trong
quá khứ của nhà văn Tô Hoài. Giọng trữ tình pha lẫn hoài niệm đã đem lại sức
hấp dẫn cho những trang tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945. Những nét lặng buồn trải
dài đã dẫn người đọc thâm nhập vào cuộc sống xã hội thời kì cải cách ruộng đất
đầy đau thương và nước mắt để từ đó thấu hiểu, cảm thông với số phận, cuộc
sống của người dân miền núi vùng cao trong chế độ cũ và chế độ mới và cuộc
sống của người dân nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
Giọng điệu trữ tình trước hết được thể hiện ở những trang văn viết về thiên
nhiên. Tô Hoài đã đưa người đọc về một làng quê nông thôn đẹp và thơ mộng
“Những khoanh tre xanh ngắt quây xóm làng ven con đê quai. Từng khúc đầm
nước trong veo lác đác đám lá sen già đưa mùi thơm như rơm mới” [69; tr.20].
Không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên nơi nông thôn Bắc Bộ mà Tô Hoài còn hướng
mắt tầm nhìn xa miêu tả vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc. Bức tranh thiên nhiên
Tây Bắc tươi tắn, tràn đầy sự sống, đã làm rung động đến ngây ngất tâm hồn
người đọc: “Ánh nắng nhàn nhạt nghiêng vào, lồng bóng những cây sổ dày lá
ngả trên vệt cỏ xanh dịu. Con đường đỏ nắng trước mặt không bóng người. Một
dòng nước phơ phất rơi trên đá. Một làn mây trắng vương qua, thướt tha như tóc
như tơ” [73; tr.353]. Đó còn là cảnh thiên nhiên Tây Bắc vào lúc sáng sớm thơ
mộng và lãng mạn, thanh bình: “Nắng sớm cuồn cuộn lồng lên từng tảng sương
tan xanh lơ, để lộ những mép núi long lanh sáng”. Tây Bắc còn hiện lên với vẻ
đẹp lung linh, huyền diệu trong những đêm trăng sáng: “Những đêm đầu mùa hè,
mây dày từng mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ trên những cánh rừng tít tắp
chân mây” [73; tr.114]. Tây Bắc còn đẹp ở cảnh sắc mùa xuân và được nhà văn
miêu tả đẹp như một bức họa. Tác phẩm Miền Tây được kết thúc trong cái
khung cảnh đẹp, hòa với lòng người: “Rừng xuân sớm cuộn lên một màu xanh
ngờ ngợ tràn khắp các núi. Hoa blề đỏ vồng như mâm xôi gấc bày trên lá. Hoa
84
ma mủ trắng từng đốm lấm tấm rắc bóng hương xuống mặt đất. Sắp đến độ tra
lúa nương, mặt đất và hốc đá nhả đầy mùi thơm” [73; tr.354]. Với sự tìm tòi
sáng tạo, Tô Hoài đã tạo nên những trang miêu tả thiên nhiên Tây Bắc thật tinh
tế và đặc sắc, nó tạo cho những trang viết của nhà văn đậm màu sắc trữ tình và
chất thơ.
Để tái hiện những kí ức sâu xa về một thời đã qua với nhiều ấu trĩ và sai
lầm, về số phận người nông dân, người cán bộ trong những tháng ngày đi cải
cách ruộng đất, Tô Hoài đã thể hiện bằng giọng điệu trữ tình, hoài niệm. Nhà
văn thể hiện sự đau đớn, xót xa trước số phận bất hạnh của người đàn bà nhỏ bé
- vợ bác Diệc bằng giọng thương cảm. Người đàn bà sinh ra đã bị tàn tật, không
nói không đi được, cái bóng rũ rượi im lìm “Người đàn bà què đã nằm im lẫn
vào đất. Tiếng dế ti tỉ buồn như chấu cắn, như kèn đám ma” [69; tr.31]. Trước
khi miêu tả cái chết của người đàn bà què, Tô Hoài đã gợi lại quá khứ, gợi lại
một thời tuổi thơ “Những cái cối đá, cái cối đá, ngày trước cô bé què đã trèo leo
từ tấm bé…Thời con trẻ của ta ở đằng kia, ở bên kia, ở đau, người tàn tật lồng
lên giằng xé bò tới” [69; tr.199-200]. Cái chết của người đàn bà què thật thương
tâm, gợi cho người đọc về cuộc đời bất hạnh của con người từ lúc sinh ra cho
đến lúc chết. Hình ảnh cô Khoèo - vợ bác Diệc góp thêm một nét chấm phá vào
bức tranh đời sống xã hội buồn bã thời kì đó. Nhà văn còn chua xót, ngậm ngùi
trước sự cam chịu của bác Diệc khi lấy người đàn bà què. Nhà văn chỉ biết cảm
thông mà thôi “Đêm kia, trăng sáng nhàn nhạt như cái đêm hát chèo ngoài bãi
cây đa. Diệc vào trong trái bếp, xốc cái Khoèo lên…Diệc cõng cái Khoèo ra nhà
mới - cái nhà vẫn ở đến tận bây giờ” [69; tr.58]. Hơn ai hết, nhà văn nhìn thấy
được cuộc đời đầy đau khổ của những người dân thấp cổ bé họng trong một xã
hội đầy rối ren lúc bấy giờ.
Bức tranh làng quê đẹp bình dị, thanh bình nhưng cũng hết sức buồn
thương vì cái đói nghèo, lay lắt của những kiếp người mà Tô Hoài đã tạo nên sự
da diết trong tác phẩm. Nhà văn thấu hiểu cuộc sống nghèo đói của người dân
“Những người như cái xác lướt qua trước mặt, chân tay phù mọng vàng nhợt,
đến chỗ họp người ta ngồi xúm lại từng bọn phảng phất chập chờn như những
85
cái bóng…Cũng chẳng biết làm thế nào, ai chết thì chết thôi” [69; tr.141]. Rồi
một chút gì đó mừng vui cho sự sống trở lại sau nạn đói khi nhà văn tả cảnh mùa
gặt: “Lúa của nhà ai, nhưng mà thế là đã thoáng thấy cái sống người rồi. Tiếng
liềm cắt xoèn xoẹt và tiếng cười phảng phất ở đâu” [69; tr.142].
Trong tiểu thuyết Miền Tây, giọng điệu trữ tình tha thiết, sâu lắng được bộc
lộ khi nhà văn Tô Hoài miêu tả tình cảnh của bà Giàng Súa: “Chẳng bao giờ bà
Giàng Súa dám mong có khi được ở lâu một chỗ…Chẳng bao giờ bà Giàng Súa
ước được có cái khung dệt cửi, có cuộn lanh to buộc lưng, có đống phân ngựa
vun cao lù lù góc nhà để đợi đem bón nương lanh. Chẳng bao giờ bà Giàng Súa
nghĩ có những ngày mưa, nghỉ đi nương…” [73; tr.164]. Cách nói: “Chẳng bao
giờ bà Giàng Súa ước”, “Chẳng bao giờ bà Giàng Súa nghĩ” gợi nên một âm
điệu buồn bã như chính cuộc đời tăm tối của bà. Bà nghĩ, ước những điều giản
đơn nhưng sống trong chế độ xã hội cổ hủ, lạc hậu bà không thể có được. Phải là
người thấu hiểu, cảm thông cuộc đời của bà Giàng Súa sâu sắc, Tô Hoài mới có
thể viết những trang văn với sắc thái bùi ngùi, man mác, pha chút bâng khuâng,
xót xa đến như vậy. Tất cả khiến cho giọng điệu trở nên đằm thắm, hấp dẫn hơn
đối với người đọc. Tâm trạng phân định, trăn trở, băn khoăn của cán bộ Nghĩa
trước tình yêu, trước việc lựa chọn khó khăn “ở lại miền núi hay về xuôi” cũng
được nhà văn thể hiện bằng giọng điệu bùi ngùi. Đó là sự giằng xé trong nội tâm
cán bộ Nghĩa: “Nghĩa bồi hồi. Nỗi bồi hồi của người trai được yêu. Nhưng
Nghĩa lại buồn ủ ê. Nghĩa chưa có vợ. Nghĩa chẳng có ai ở đâu chờ đợi, nhưng
Nghĩa không muốn yêu người ở đây. Nghĩa không muốn. Thế là Nghĩa lại vẩn
vơ nghĩ” [73; tr.69]. Đó cũng là điều dễ hiểu khi Nghĩa có sự phân vân như thế.
Giọng điệu hài hước, dí dỏm đan xen hòa quyện với giọng điệu trữ tình,
hoài niệm trong tiểu thuyết Tô Hoài đã góp phần quan trọng trong việc biểu lộ
cái nhìn, thái độ, tình cảm của người kể chuyện. Điều đó tạo nên bức tranh đời
sống muôn màu muôn vẻ ở nông thôn Bắc Bộ và miền núi vùng cao với những
86
số phận con người buồn thương, đau khổ.
3.2. Đặc điểm hồi kí Tô Hoài sau 1945 từ góc nhìn thể loại
3.2.1. Hình tượng tác giả
M.Bakhtin khẳng định: “Không có hình tượng tác giả ở ngoài tác phẩm, tư
tưởng nhà văn chỉ tồn tại trong tác phẩm” [10]. Điều đó cho thấy hình tượng tác
giả luôn tồn tại xuyên thấm trong toàn bộ những yếu tố thuộc về tác phẩm. Vị trí
trung tâm nổi bật trong hồi kí Tô Hoài sau 1945 đó chính là hình tượng tác giả.
Khám phá cái nhìn nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài về đời sống xã hội, đời sống
văn học và sự tự thể hiện tác giả thành hình tượng tác giả giúp người đọc có thể
hình dung ra hình tượng tác giả hiện diện trong tác phẩm.
3.2.1.1. Hình tượng tác giả qua cái nhìn nghệ thuật về đời sống xã hội, văn học
Cái nhìn là một biểu hiện tinh thần đặc biệt của nhà văn. Cái nhìn không
chỉ thể hiện ở bề rộng, mà còn là cái nhìn ở chiều sâu. Khám phá và thể hiện đời
sống, người nghệ sĩ không thể không có cái nhìn nghệ thuật riêng. Nhà nghiên
cứu Trần Đình Sử đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cái nhìn nghệ thuật: “Thiếu
quan tâm đầy đủ tới cái nhìn nghệ thuật của tác giả, người phê bình dễ không
đánh giá đúng cái phong phú của sáng tác”. Môi trường lịch sử, xã hội, văn hóa,
thời đại và cá tính riêng đã chi phối cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà văn
Tô Hoài về đời sống xã hội. Hiện thực đời sống xã hội đã được nhà văn quan sát
tỉ mỉ và ghi chép cẩn thận. Bằng trái tim nhạy cảm của một người nghệ sĩ và với
con mắt tinh tế, sắc sảo, Tô Hoài đã phát hiện rất nhanh các vấn đề của hiện thực
cuộc sống ở những vùng quê tưởng như êm đềm và phẳng lặng. Nếu không có
cái nhìn hiện thực tỉnh táo và một thái độ nghiêm túc thì Tô Hoài khó có thể
phát hiện được hiện thực có vấn đề ở những vùng quê ấy. Tô Hoài đã đưa người
đọc về một làng quê Bắc Bộ với những câu chuyện từ “cải cách ruộng đất” rồi
“sửa sai”, từ “thời bao cấp” “làm hợp tác xã” đến đổi mới sang kinh tế thị
trường. Một bức tranh xã hội thu nhỏ, phức tạp, đầy đủ mọi mặt tốt - xấu, trắng -
đen hiện ra như chính cuộc sống. Điều này tạo cho hồi kí của ông có một sức
hấp dẫn bởi cái muôn màu, phức tạp chứa trong nó. Cái nhìn về hiện thực trong
hồi kí khác so với hiện thực đã được hư cấu, sáng tạo lại trong các thể loại khác
87
của nhà văn Tô Hoài và các tác giả khác ở chỗ hiện thực thuộc về quá khứ
nhưng được nhìn ở thời hiện tại để suy ngẫm, trải nghiệm, nói cái hôm qua để
gián tiếp nói cái hôm nay.
Từ điểm nhìn hiện tại, lùi về một thời kì lịch sử đã xa, Tô Hoài đã tái hiện
sống động đến từng chi tiết về làng quê xóm Đồng trong những ngày tháng của
đợt đi thực tế. Đó là cảnh làng quê nghèo nàn, xơ xác “Những buổi chiều xơ xác
vàng rựa, những ruộng mới vỡ, những lò gạch - bóng con bò và người cày trên bãi
hiện ra gầy cao cao” [70; tr.28-29]. Từ những chi tiết đời thường, Tô Hoài đã ghi
lại cảnh sinh hoạt mang đậm dấu ấn vùng quê nghèo “Đoàn người vác những cái
dặm xuống chuôm sâu. Ở đồng đất này, đàn bà đi đặt lờ cá, đánh te, cày bừa chẳng
khác đàn ông” [70; tr.30]. Ngay hôm đầu tiên đặt chân đến xóm nghèo, Tô Hoài
đã nhận thấy hình ảnh ngôi nhà, tường đều bằng đất và vẻ tạm bợ của một xóm trại
“Nhà nhà đều tường đất, những hốc khoét vào trong tường đựng mọi thứ, cái điếu
cáy, bó đóm, nắm giẻ rách, rổ đậu đãi, niêu tép kho” [70; tr.31]. Bức tranh đời
sống ảm đạm với màu xám buồn tẻ hiện lên trong những trang hồi ức của Tô Hoài
nhưng người đọc vẫn nhận thấy hồn quê phảng phất, thấp thoáng. Cái nghèo đói,
tù túng không làm mất đi vẻ yên bình, êm ả, làm mờ đi những những nét đẹp văn
hóa truyền thống của một làng quê. Tô Hoài dường như có duyên nợ với những
vùng quê nghèo nhà văn đã đi qua hay đã từng sống. Đi đến đâu, Tô Hoài đều
quan sát và cảm nhận phong tục ở nơi đó. Đó là thói quen mỗi sớm đi làm,
người dân chỉ uống bát nước chè xanh đã no. Nhà nông công việc đồng áng phải
làm từ sớm nên thường ăn cơm từ lúc tờ mờ. Con gái như cô Hến chỉ mười lăm
tuổi đã sắp về nhà chồng. Thói tục đất này tự nhiên, mới ăn hỏi mà chàng rể đã
rất năng đến nhà vợ giúp việc gia đình. Chỉ vài ba nét phong tục nhưng cũng đủ
thấy cuộc sống ở vùng quê Thái Bình đơn giản và bình dị đến nhường nào.
Với cái nhìn chân thực, Tô Hoài đã mổ xẻ, phanh phui, nhìn thẳng vào sự thật
để thấy được những khuất lấp và những cảnh oan nghiệt, đau khổ của những con
người sống trong thời kì cải cách ruộng đất. Trong thời kì đó, không ít người rơi
vào vòng oan sai, lao lý. Đó là Dũng – con trai cụ phó làm chi ủy từ thời bóng tối,
bị tố phản động Quốc dân Đảng chui vào Đảng. Đó là lý trưởng Vạn bị tố phải bắt,
88
tự nhận là bí thư Quốc dân đảng cả vùng. Đó là lão Khế bị tố hai mang, thì một
mang Quốc dân đảng. Những cảnh tìm ra địa chủ thật nực cười “Người chỉ có
miếng ruộng loại riêng ra mà chẳng có ruộng đất nhưng bị tố là có tội ác với nông
dân thì cũng cùm ngay, gọi là tên cường hào cá biệt” [70; tr.33]. Việc tìm ra địa
chủ ở vùng này cũng khó vì không ai nghĩ rằng ở đồng đất này người ta tự cày
cuốc khai phá nên cái ăn. Đây là thời kì dối trá tràn lan như tác giả gọi là thời kì
“cây chuối mọc ngược, gà mái đạp gà trống, con cái vạch mặt bố mẹ, con tố cha,
vợ tố chồng” [70; tr.45]. Cái thời kì hợp tác xã hóa con người làm việc theo kẻng,
giờ đi làm, giờ nghỉ được ấn định sẵn nên rốt cục đói thì vẫn hoàn đói, nghèo
vẫn hoàn nghèo, khó khăn vẫn hoàn khó khăn, không thể trách ai được. Những
cuộc đua chen để chạy theo thành tích giữa các hợp tác xã, các tổ sản xuất để
cuối cùng chỉ còn là “trò trẻ ranh” như lời ông Ngải. Không chỉ chạy theo thành
tích, họ còn “trốn thành tích”, “Các xã láng giềng phải nghĩ ra mẹo trốn thành
tích. Các số liệu, thành tích được báo cáo khống, báo chí càng thổi kèn đu đủ
bốc thơm thì các nơi lập đoàn, lập đội kéo đến học tập càng nhiều. Huyện bạn,
tỉnh bạn ba trăm pháo đài huyện cả nước đổ đến. Ở các hội nghị tổng kết trên
huyện các hợp tác xã thi nhau báo cáo không đạt mức thi đua trong khi mấy vụ
trước thi vun vút vượt chỉ tiêu” [70; tr.168]. Chẳng biết đâu là vờ, đâu là thật.
Thật là trớ trêu, hài hước! Làng quê Thái Bình - vùng đồng bằng Bắc Bộ được
nhà văn tái hiện ở cả mặt tốt và mặt xấu, sáng và tối. Tô Hoài đã tiếp cận cuộc
sống trong sự xô bồ, gần gũi nhất. Qua đó giúp người đọc hiểu rõ hơn bức tranh
đời sống xã hội một thời đã qua ở vùng quê nghèo này.
Hiện thực đời sống vào những năm kháng chiến chống Mỹ là bóng dáng
của hiện thực liên quan đến thời kì Tô Hoài làm trưởng ban khu phố. Nhà văn đã
không miêu tả trực diện, tàn khốc của cuộc chiến tranh, không phản ánh những
sự kiện lịch sử mà chủ yếu xoay quanh cuộc sống đời thường của con người
trong những năm tháng đó. Tô Hoài tái hiện cảnh đi sơ tán của người dân
“Người già, con trẻ cứ đi ít lâu, thấy yên yên lại về, nay lại rục rịch đi” [70;
tr.314]. Khi có chiến tranh, có lẽ người dân là chịu thiệt thòi và đau thương nhất.
Cuộc sống của họ không ổn định, nay sơ tán, mai sơ tán. Họ luôn sống trong sự
89
lo lắng, khiếp sợ bởi sự ném bom của đế quốc Mỹ. Ở thời kì này, người lao động
chủ yếu sống bằng tem phiếu, cuộc sống thiếu thốn trăm bề, thậm chí đói ăn
triền miên. Mặc dù vậy, mọi sinh hoạt trong những ngày chống Mỹ vẫn diễn ra
bình thường “Những người đàn bà lúi húi cắt cỏ. Người đàn ông đặt thúng thóc
giống lên đầu gối gieo hạt, một chú bé nằm trên lưng trâu, giữa bãi cỏ” [70]. Rồi
những cảnh vợ chồng cãi nhau, đánh chửi nhau vì nạn mê tín dị đoan: “Con giời
đánh! Con chết chém! Chúng tôi!…Chúng tôi!…Ông bận gì đến cái mê tín của
chúng mày” [70; tr.273]. Cảnh bà Lữ, bà Ải bán hàng ở lề đường bị cán bộ
phòng thương nghiệp khám túi rồi lấy đi tiền, thức ăn khiến bà Lữ uất quá mà
chết, còn bà Ải thì đi kêu oan. Hồi ức trong những năm chống Mỹ với Tô Hoài
là những mảnh vụn vặt, với đủ các sự kiện đang diễn ra. Cái nhìn của Tô Hoài
về Hà Nội thời bấy giờ đã không còn là Hà Nội thanh lịch, hào hoa mà là một
Hà Nội phồn tạp với đủ mọi thứ mùi bẩn thỉu, hôi hám và dơ bẩn. Tất cả ghép
lại thành bức tranh cuộc sống đa diện với những góc tối, khuất lấp. Lối văn táo
bạo đó đã phơi bày hiện thực - một hiện thực sần sùi và gai góc.
Khi đất nước bước vào thời kì Đổi mới, nền kinh tế có nhiều khởi sắc, cuộc
sống của người dân được cải thiện. Tô Hoài trở lại cái xóm Đồng, nơi nhà văn
đã gắn bó trong những năm đi thực tế. Thời gian trở về của nhà văn không rõ là
dấu mốc nào nhưng người đọc vẫn nhận ra dấu ấn của sự thay đổi nơi đây, đó là
sự thay đổi của cảnh vật và con người. Phố xá Thái Bình đã khác xưa, “trước
trông chỉ loi thoi vài ba ngôi nhà…bây giờ nhô lên các nhà trụ sở ủy ban, nhà
thư viện, nhà bảo tàng, khách sạn…Thế là Thái Bình được gấp rút xây đón đầu
một thành phố công nghiệp” [70; tr.496-497]. Đó là sự thay da đổi thịt của vùng
đất Thái Bình, báo hiệu một sự đổi mới hoàn toàn. Cuộc sống con người cũng
không còn nghèo đói như trước. Trước cuộc sống bộn bề, ngổn ngang đan xen
cả bóng tối lẫn ánh sáng, ngòi bút của Tô Hoài đã phát hiện và chỉ ra những điều
cần suy ngẫm đặc biệt nhà văn quan tâm tới phương diện đạo đức của con người
trước những biến thiên của các giá trị giữa thời buổi kinh tế thị trường. Khi đời
sống của người dân khá giả, tiếc thay cũng là lúc những giá trị đạo đức của con
người dần dần bị tha hóa và xuống cấp nghiêm trọng. Chủ tịch, bí thư, xã đội,
90
chân chủ nhiệm, kế toán cũng trộm cắp mà nên giàu có. Thay đổi nhất là anh bí
thư Sự. Vốn là một người đảng viên mẫu mực, nay anh trở thành người nghiện
ngập. Nhà anh giàu có nhất vùng nhưng con cái hỏng ráo “Hai thằng con trai thì
ngồi ăn cơm nhà đá. Còn cái con Soi ra ngoài tàu ngủ với trăm thằng, cả vợ Sự
cũng vậy” [70; tr.523]. Mục đích chuyến trở về xóm Đồng của Tô Hoài là ông
muốn tìm về gặp ông Ngải, người mà nhà văn gắn bó sâu nặng nghĩa tình bao
nhiêu năm. Tô Hoài cảm thấy bỡ ngỡ khi đường vào nhà ông Ngải vừa lạ vừa
quen. Tô Hoài nhận ra ông Ngải bởi cái dáng tựa lưng vào bờ tre nhưng ông đã
già đi nhiều “hai chân duỗi, ống chân tóp như ống giang; da bọc xương, mặt
trắng nhợt” [70; tr.504]. Tính cách của ông Ngải không thay đổi và tình cảm của
ông Ngải dành cho Tô Hoài vẫn như năm xưa. Cuộc hội ngộ thật bất ngờ và ý
nghĩa. Sự trở về của nhà văn đơn giản là sự trở về của tình nghĩa, tình người.
Nhưng sự đổi thay của con người trước những biến thiên của xã hội khiến Tô
Hoài không khỏi băn khoăn, nghĩ ngợi.
Không chỉ có cái nhìn về đời sống xã hội, Tô Hoài còn quan tâm tới đời
sống văn học. Tô Hoài đã đứng trong thời điểm hiện tại khi hoàn cảnh lịch sử đã
thay đổi để chiêm nghiệm về quá khứ và nhận thức về một thời kì “thật đen tối
thật khốn khổ”. Những vụ án văn chương, sự kiện được ông nhìn nhận bằng một
thái độ thẳng thắn, sòng phẳng với cái nhìn trực diện và bình thản. Thời kì chỉnh
huấn Nhân văn - Giai phẩm thực sự ngột ngạt đối với văn nghệ sĩ. Nhân văn -
Giai phẩm là phong trào đòi hỏi tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức ở miền
Bắc. Đây là sự kiện chấn động đời sống văn nghệ sĩ Việt Nam những năm đầu
năm mươi của thế kỉ XX. Nhiều văn nghệ sĩ là những nạn nhân chịu sự tác động
của lịch sử, thời cuộc như Trương Tửu trong hồi kí của Hoàng Minh Châu,
Quách Tấn trong hồi kí của Đào Xuân Quý, Lê Mạc Lân trong hồi kí của Bùi
Ngọc Tấn và một loạt văn nghệ sĩ như Phùng Quán, Đặng Đình Hưng, Trần Đức
Thảo, Kim Lân, Văn Cao…trong hồi kí của Tô Hoài.
Tô Hoài là một trong những nhà văn viết hồi kí sớm nhìn lại “vụ án” văn
chương này. Vụ án được Tô Hoài nhớ lại: “Báo Nhân văn ra được mấy số. Có
dư luận báo chống đối. Người thành phố nghe ngóng và tò mò. Nhưng mà
91
những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài bài báo trên Nhân văn, mà cái
chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của một số giới không phải là người làm báo
Nhân văn trong tình hình nhạy cảm ở các đô thị lúc ấy” [66; tr.58]. Báo Nhân
văn ra đến số 6 bị tịch thu tại nhà in. Nhà xuất bản Minh Đức đóng cửa. Những
cuộc họp kiểm điểm và kỉ luật những cán bộ tham gia viết, hoạt động cho báo
Nhân văn và tập san Giai phẩm liên tiếp diễn ra. Sinh hoạt thường nhật của hội
nhà văn là “bới lông tìm vết” khiến cho đời sống văn nghệ sĩ hết sức nặng nề.
Đây là thời kì mà các nhà văn phải sống một “cuộc sống trong ao mà những con
chẫu chàng thỉnh thoảng ngoi lên mặt nước đờ đẫn nhìn theo mấy cái bọt mình
vừa thở” [66; tr.27]. Không khí bế tắc, chờ đợi đè nặng lên tâm lí của các nhà
văn. Họ viết một cách dè dặt, khiên cưỡng. Những vụ kiểm điểm và hình thức kỉ
luật khiến cho không ít văn nghệ sĩ có tài phải lao đao trong cuộc mưu sinh kiếm
miếng cơm manh áo. Phùng Quán bị kỉ luật ba năm không hội viên. Đặng Đình
Hưng bị ra khỏi biên chế, khai trừ khỏi Đảng. Hai con người tài năng, đức độ
mà cuộc đời không gặp may. Văn Cao bị kỉ luật cảnh cáo, chỉ ở hội nhạc, không
ở hội văn và hội vẽ. Nguyễn Sáng vẽ kí họa trên báo Nhân văn một đầu người ở
cổ có vết khía cắt như cắt, như cái lá mà người ta bảo là chân dung Trần Dần và
cái sẹo còn lại khi anh định tự vẫn. Nguyễn Sáng không được bình bầu huân
chương kháng chiến. Trần Dần, Lê Đạt ra khỏi cơ quan. Hoàng Cầm bị ra khỏi
ban chấp hành, phải thôi việc nhà xuất bản, chuyển công tác về Sở văn hóa Hà
Nội. Đó là một cộng đồng nhà văn phải trả giá nhiều nhất.
Không khí đời sống văn học thời kì này nhiều lúc căng lên như sợi dây đàn.
Tư tưởng quy chụp lúc nào cũng rình rập, sẵn sàng lợi dụng sơ hở của người
cầm bút để tấn công, buộc tội. Câu chuyện của Nguyên Hồng về con hổ do mẹ
ông kể cũng bị quy là có vấn đề “Đời thủa nào mà người ta lại nuôi hổ như nuôi
vịt, dễ hơn nuôi vịt. Ông này muốn nói cái gì, nói ai. Xỏ xiên thế nào đây, không
hiểu. Không hiểu tức là có vấn đề” [66; tr.76]. Hay chuyện Con chó xấu xí của
Kim Lân cũng bị vào tầm kiểm soát, cân nhắc “Con chó cũng như con hổ hiền
lành, không ai tin con chó chỉ là con chó, lại xấu xí nữa” [66; tr.78]. Mấy bài xã
luận của Tô Hoài như Tổ chức phát triển lực lượng sáng tác trước nhất và Góp
92
ý kiến về vấn đề xây dựng con người cũng bị nhận xét là lệch lạc “Thứ nhất là
phải tổ chức học tập và đi vào thực tế đời sống và không phải xây dựng con
người chung chung mà là con người xã hội chủ nghĩa tiến lên cộng sản” [66;
tr.77]. Vài dòng Nguyễn Tuân viết cho nhà văn từ Sa Pa, không đề ngày tháng:
“Khi lên cao, mình có bị ong đốt, mặc dù chẳng có trêu phá gì nó” [66; tr.66].
Cái câu tái bút này, nếu đăng báo, in sách thì cũng lại điêu đứng. Đây là thời kì
đã khiến một nhà văn có tài như Nguyễn Tuân phải thốt lên chua chát: “Này
chúng nó đương đồn ầm lên ông mới nói, nếu ông còn trẻ thì ông bỏ đất này ông
đi” [66; tr.67]. Mặc dù đã qua cơn sóng gió của Nhân văn - Giai phẩm và công
tác chỉnh huấn nhưng hậu quả còn nặng nề với các nhà văn: “Ngổn ngang tâm
sự và tâm trạng, chua chát, mỉa mai, hài hước” [66; tr.99]. Ngô Tất Tố bị một
anh sát phạt trên lớp trong khi đó trước đây anh này bị bác Ngô coi không ra gì.
Ngô Tất Tố quệt nước mũi vào gốc cây, sụt sùi nói: “Làm người khó lắm, bác ạ”
[66; tr.99]. Có những người bị phê bình, cứ tiếp thu thun thút lại còn minh họa
thêm lỗi mình. Có người bỗng thấy mình sai, nhận ngay cũng lại bị cho là nông
cạn, con vẹt. Có người lo quá cả tháng không chợp mắt, như con ma ngồi trước
mặt. Câu chuyện về các nhà văn trong thời kì Nhân văn - Giai phẩm đã cho
người đọc thấy được thực tế của diễn biến đời sống văn chương một thời có thể
gọi là khá u ám. Đồng thời, Tô Hoài khắc họa thêm tính chất bi kịch của một số
văn nghệ sĩ, nạn nhân của một thời đã qua. Ngẫm lại về những con người ấy, cái
còn lại chỉ là nỗi buồn: “Những cuộc đời một mình thui thủi. Mỗi người mỗi
khác, biết hay không biết, nhưng chung một nỗi buồn. Là Trần Đức Thảo, là
Trần Huyền Trân, là Trọng Hứa, là Vạn Lịch hay Platon Hai Thành, ai thấu cho,
mà biết thế nào được” [70; tr.451]. Tô Hoài đã nhìn thẳng vào sự thật, chỉ ra
những sai lầm của cuộc chỉnh huấn tư tưởng nhân văn. Qua đó, Tô Hoài giúp
người đọc nhận ra đời sống văn chương của một thời và những oan khiên đè
nặng lên cuộc đời Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo, Trần Huyền Trân, và
những gian nan của Nguyễn Bính…và một số văn nghệ sĩ khác. Phải ngụp lặn
trong môi trường đó, nắm bắt từng chân tơ kẽ tóc của biến cố thời cuộc và chiêm
nghiệm sâu sắc lẽ đời, Tô Hoài mới có thể nghĩ và dám nói một cách rõ ràng về
93
vụ án văn chương trước kia: “thực ra người ta chỉ đọc a dua rồi đánh đòn hội
chợ. Cấp trên hô người ấy, bài ấy có vấn đề. Tự nhiên người ta cảm thấy có vấn
đề thật và người ta dò tìm từng câu từng chữ” [66; tr.66]. Bằng một sự nhạy bén,
Tô Hoài kể lại sự kiện theo cách của ông, khôn ngoan và khéo léo. Đó chính là
nghệ thuật ứng xử và cá tính của Tô Hoài.
Hiện thực đời sống xã hội, văn học qua cái nhìn nghệ thuật của nhà văn Tô
Hoài hiện ra giống như cuộc đời thực, thấm đẫm, chứa chan tình cảm của người
cầm bút “Không lên giọng, không nhấn mạnh”. Nhà văn không bình luận, không
phán xét về hiện thực đời sống của một thời đã xa mà để người đọc tự suy ngẫm,
chiêm nghiệm, cảm nhận. Hiện thực cuộc sống cứ hiện ra một cách tự nhiên như
nó vốn có. Cái nhìn của nhà văn về đời sống xã hội, văn học qua hai cuốn hồi kí
là cái nhìn chân thực vừa mang đậm dấu ấn lịch sử, vừa nghiêng về cuộc sống
sinh hoạt đời thường. Qua cái nhìn nghệ thuật đó, người đọc thấy hình tượng tác
giả hiện lên như một người thấu hiểu sâu sắc hiện thực của đất nước, am hiểu
mọi ngóc ngách trong cuộc sống ngổn ngang, bộn bề, phức tạp.
3.2.1.2. Sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng
Hồi kí là hồi ức nói về chính cái tôi, nói về bản thân tác giả. Hồi kí là nơi tự
thú, giãi bày những tâm sự của nhà văn với bạn đọc “Quyển sách hồi ức chính là
nơi tự thú mà tác giả không có ý giấu mình dưới bóng dáng của các nhân vật hư
cấu” (Êrenbua). Viết hồi kí là một cuộc đấu tranh tư tưởng. Tô Hoài đã đấu
tranh với chính bản thân mình để tự dựng lên chân dung tinh thần với một tâm
thế nhẹ nhàng, thanh thản và thể hiện cái tôi thành thật với bản thân cũng như
với cuộc đời.
Trong hồi kí văn học thời kì Đổi mới, nhiều nhà văn đã tự dựng hình tượng
tác giả của mình. Đào Xuân Quý trong hồi kí của mình hiện lên là một người
yêu nghề, cần mẫn, chịu khó, ham học hỏi và có ý chí vươn lên. Hoàng Minh
Châu hiện lên trong hồi kí của mình, là một con người nhân hậu, vị tha, luôn yêu
đời khi nhìn người, nhìn cuộc sống và thấu đáo khi suy xét mọi thứ. Anh Thơ
qua chân dung tự họa của mình thấy rõ con đường đi đến nghệ thuật đầy gian
nan và thử thách của nữ sĩ. Điểm khác biệt của Tô Hoài khi khắc họa chân dung
94
tinh thần của mình so với các nhà văn viết hồi kí khác ở chỗ, Tô Hoài không chỉ
khắc họa chân dung mình trong kí ức tuổi thơ, gia đình, hoạt động trong nghề
nghiệp mà trong mối quan hệ với người khác, trong mối quan hệ với các sự kiện
lịch sử xã hội. Đặc biệt, Tô Hoài luôn thành thật với chính mình, ông không hề
che đi, đậy lại những thói xấu, những chuyện “bí mật riêng tư” mà có sao nói
vậy, mở toang tất cả sự thật. Tô Hoài đã dám nhìn thẳng vào con người mình, tự
mổ xẻ, tự kiểm điểm bản thân mình. Tô Hoài dùng những nhận xét của người
khác để nhận xét về mình một cách thẳng thắn, khách quan. Một cái tôi chân
thành không né tránh. Nhà văn đã không ngần ngại kể lại câu chuyện của mình
khi bị Như Phong nhận xét: “Thằng ngoại ô láu cá, văn chương thì đẽo gọt”; hay
Nguyễn Tuân nhận xét: “Chó biết thằng này thế nào là thật! Tao ghét cái cười
mủm mỉm hiền lành, không hiền lành của mày” [66; tr.159]. Ngay cả việc đã
từng bị Nguyên Hồng chửi thẳng vào mặt ông cũng không hề che giấu: “Tiên sư
mày, thằng Câu Tiễn!...”. Và Tô Hoài cũng nhìn nhận về chính bản thân mình:
“Có thể thế. Tôi sinh ra nơi thành phố và làng mạc lẫn lộn, thế lực chánh lí
không khạc ra lửa như trời đất làng Đại Hoàng của Nam Cao, ở quê tôi túi bạc
đâm toạc tờ giấy, có tiền là có cả, bấy lâu tôi lăn lóc trong khóe đời ấy” [66;
tr.234]. Nhờ đó, người đọc nhận ra chân dung Tô Hoài được phác thảo không
giống như bất cứ chân dung nào khác, không thiên vị, không né tránh. Tô Hoài
là con người tài hoa, tinh tường trong cách nhìn nhận, phản ánh và đánh giá.
Tô Hoài đã không ngần ngại thú nhận những phút giây ngập tràn bản năng
tính dục vừa đáng thương vừa buồn cười với nhà thơ Xuân Diệu. Căn bệnh đồng
tính luyến ái là một cái gì rất ghê rợn, ai cũng né tránh. Nhưng Tô Hoài không
hề giấu giếm, ông đã dựng lại những cảm xúc phấn khích, say đắm, đầy chân
thật “Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn,
xuống bẹn...Lần này thì tôi lử lả, tôi nhuôi ra rên ư ử, như con điếm mê tơi
không nhớ nổi người thứ mấy, mấy thứ nữa” [66; tr.170]. Sau những giây phút
mê muội đó, nhà văn sực tỉnh rồi day dứt “Tôi he hé mắt nhớ lại những hứng thú
khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi
sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa...Cho đến khi thấy thật rạng
95
sáng mới rờn rợn” [66; tr.170]. Sự tự thú không phải là để bào chữa cho mình
mà để trân trọng, bênh vực cho Xuân Diệu - một người bạn lớn, một người bạn
tài năng mà cuộc đời lại lắm trớ trêu.
Tô Hoài đã từng thú nhận về cái bản tính lười biếng của mình khi đi cải
cách ruộng đất “ngại ra đồng thì mở lấy túi sổ vờ nghiên cứu, đói thì bảo cô
Đăng con rể trưởng xóm ra chợ mua bánh ngô kẹo bột về ăn, có người đứng dậy
cầm cái chổi đưa mấy nhát quét nhà” [70; tr.7]. Vốn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội
nên Tô Hoài không hiểu biết nhiều về đồng ruộng, “không ước lượng được một
miếng, một sào, một mẫu rộng hẹp thế nào. Thế mà ông đã dạy cho nông dân kể
khổ, đấu địa chủ, rồi thống kê sào, mẫu rồi cắm thẻ chia ruộng” [70; tr.32]. Ông
đã không ngần ngại phơi bày những hiểu biết hạn chế của mình, đó là những lời
từ đáy lòng của một nhà văn luôn thành thật với chính mình và với bạn đọc. Tô
Hoài cứ khơi ra mọi chuyện, ai thích nghe thì nghe, ai tin thì tin…Thế mà người
đọc lại cứ tin một cách tuyệt đối và chua xót cho những vĩ nhân, những nghệ sĩ
nổi tiếng, những “chiến sĩ” trên mặt trận “văn nghệ” lại trở thành “chiến sĩ” trên
mặt trận “gắp phân trâu”. Họ tự biến mình thành giẻ rách, rác rưởi nhưng lại
cảm thấy hào hứng, phấn khởi về những việc mình làm. Tô Hoài kể những
chuyện nhỏ nhặt, tèm nhèm tưởng như không có gì đáng nói vậy mà lại có ý
nghĩa lớn lao. Rời xóm Đồng vào học trường Nguyễn Ái Quốc, Tô Hoài xác
định “vinh dự và nhiệm vụ” nhưng ông cũng không giấu giếm ý nghĩ đơn giản
rằng đây là dịp ông sắp xếp lại mọi cái biết lõm bõm chẳng ra đâu vào đâu. Ông
còn đề nghị cấp trên cho đi học Trường viết văn Gorki ở Matxcơva với hi vọng
bỏ vài năm ăn chắc một ngoại ngữ lại đưa hiểu biết và nhận thức của mình lên
một bước tiến mới. Nhưng cuối cùng thất vọng tràn trề vì một lí do: “Người
sáng tác thì nắm thực tế đời sống đất nước là cần hơn”. Những ý nghĩ ngây thơ
trẻ con của chính nhà văn hiện lên trong trang viết khiến người đọc không khỏi
ngỡ ngàng và bật cười.
Những ngày tháng làm trưởng ban khu phố, Tô Hoài đã kể tường tận mọi
chi tiết công việc của mình từ những việc vụn vặt như đi giải quyết “người lấy
phân trộm xe thồ cứt thối khắp xóm”, chuyện cụ Vi Văn Định tè bậy ở ngoài hè
bị lũ trẻ con trêu đùa, chuyện trẻ con nghịch bấm cái chuông cửa mấy nhà đến
chuyện những đôi vợ chồng đánh, chửi, cãi nhau. Tô Hoài còn làm công tác
96
chống mê tín dị đoan, cấm nuôi lợn trên gác, chống tội hủ hóa, rồi “đi mai phục
bắt gái điếm và những người giặt xi líp thuê cho gái điếm, bắt những anh Hà Nội,
buổi trưa thuê phòng chơi gái, thậm chí làm cả việc trông nom hơn hai trăm cái
hố xí hai ngăn của thành phố”. Dù bất kể công việc gì, Tô Hoài vẫn cần mẫn
như thế, giải quyết mọi việc êm đẹp và chu đáo. Bức chân dung tự họa của nhà
văn Tô Hoài không chỉ là những tháng ngày đi cải cách ruộng đất ở Thái Bình
hay làm trưởng ban khu phố mà còn được thể hiện ở hoạt động nghề nghiệp của
chính mình. Tô Hoài quan niệm viết là không đơn giản, viết là phải tạo nên
những trang văn độc đáo, có tính dư ba, giàu chất lãng mạn. Những cuộc tranh
luận giữa các trường phái về sáng tác tác phẩm Mười năm của Tô Hoài “Mười
năm của tôi - một trong những ấn phẩm cuối cùng của nhà xuất bản Hội Nhà
Văn. Lập tức, các báo mổ xẻ phê bình. Một đòn đánh mạnh và lý lẽ nhất, bài của
Như Phong trong ban biên uỷ báo Nhân Dân in trên báo ấy và bài của Trần Độ
trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Đấy cũng là một quyển sách còn sót lại thúc
đẩy phải đóng cửa nhanh nhà xuất bản này” [66; tr.178]. Nhưng cuối cùng, Tô
Hoài vẫn đứng vững trên lập trường của nhà văn chân chính để sáng tác những
tác phẩm có giá trị hơn thế nữa.
Đọc những trang hồi kí Tô Hoài tự họa về chân dung của mình, người đọc
được tiếp xúc với đầy rẫy những cái bất ngờ thú vị, những cái “à ra thế” trong
đời tư của các nhà văn từ đó người đọc càng hiểu rõ cuộc sống và con người đời
thường của nhà văn. Những góc khuất trong con người cá nhân được nhà văn
phơi bày một cách trần trụi, một bức họa chì, không hề tô màu, tỉa tót. Với cách
khắc họa chân thật, hồi kí Tô Hoài hiện lên cái tôi không lúc nào thôi tự vấn
mình, con người lúc nào cũng đầy mâu thuẫn và trăn trở, tự khinh chính bản
thân mình khi làm những việc sai trái và tội lỗi. Đồng thời, người đọc cũng hiểu
được nhân cách, phẩm chất cao đẹp của người nghệ sĩ chân chính luôn ý thức
vươn lên hoàn thiện mình, vươn tới sự trung thực. Tô Hoài rất giỏi khắc họa
nhân vật, ông không tạo dựng nhân vật ở một mẫu hình nào đó mà xây dựng nên
từ nhiều mẫu hình từ đó tạo ra những tính cách đa diện, nhiều chiều. Qua hồi kí,
người đọc khám phá ra bản thể phức tạp, đầy góc khuất, những dang dở, chưa
trọn vẹn của chính nhà văn Tô Hoài.
Thông qua hình tượng tác giả được thể hiện trong tác phẩm hồi kí Tô Hoài
97
sau 1945, người đọc thấy được tư tưởng nghệ thuật của nhà văn gửi gắm trên
mỗi trang viết đồng thời thấy được sự đổi mới về mặt bút pháp và cái nhìn riêng
của nhà văn về hiện thực đời sống xã hội và văn học của một thời kì đã qua. Qua
đó, người đọc nhận ra phong cách, chân dung riêng của nhà văn Tô Hoài không
lẫn với các nhà văn khác cùng thời đại và khác thời đại của nền văn xuôi Việt
Nam hiện đại.
3.2.2. Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật
Trong hồi kí, nhân vật trung tâm thông thường là nhân vật Tôi, Tô Hoài
phải là nhân vật chính trong hồi kí của mình. Nhưng điểm độc đáo ở đây, Tô
Hoài không chỉ viết về cái tôi, viết cuộc đời của chính mình mà ông còn viết về
những người khác. Ông đã viết về chân dung các văn nghệ sĩ, bạn bè, đồng
nghiệp của mình, viết về những con người nhỏ bé, đời thường mà ông từng tiếp
xúc, gắn bó lâu dài trên những chặng đường lịch sử. Trong hồi kí, nhà văn
không chú ý xây dựng nhân vật điển hình kiểu hư cấu giống như trong tiểu
thuyết. Nhân vật trong hồi kí của ông là những con người thật hiện lên với tất cả
đường nét thô ráp, xù xì, góc cạnh. Con người có số phận, đã có va vấp với đời
sống xã hội, có cả một quá trình hình thành nhân cách nhờ vậy con người hiện
lên đầy cá tính, đa chiều như trong tiểu thuyết.
3.2.2.1. Khắc họa chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời
Ở thời kì Đổi mới, thể loại chân dung văn học phát triển, các nhà văn quan
tâm đến cuộc đời, số phận của văn nghệ sĩ. Vì thế, chân dung các văn nghệ sĩ
được hiện lên trong mối quan hệ đời thường, bạn bè, đồng nghiệp và trong mối
quan hệ với hoạt động văn chương. Anh Thơ dựng chân dung Nguyễn Bính bên
cạnh nhiều văn nghệ sĩ cùng thời như Lưu Trọng Lư, Nguyễn Đình Thi, Phan
Khôi, Kim Lân, Chế Lan Viên…trong hồi kí Từ bến sông Thương. Ma Văn
Kháng khắc họa chân dung Nguyên Hồng trong hồi kí Năm tháng nhọc nhằn,
năm tháng nhớ thương. Huy Cận khắc họa chân dung nhà thơ Xuân Diệu trong
Hồi kí song đôi. Trần Đăng Khoa khắc họa hàng loạt chân dung các nhà văn,
nhà thơ với những câu chuyện đời thường trong Chân dung và đối thoại.
Phục dựng chân dung các văn nghệ sĩ, những người bạn cùng thời là đề tài
“trở đi trở lại” trong hồi kí Tô Hoài. Khi xây dựng chân dung các nhà văn - bạn
bè đồng nghiệp của mình, Tô Hoài không chú trọng đến việc xây dựng “chân
98
dung tinh thần” mà quan tâm đến những chuyện vặt vãnh đời thường, từ vẻ bề
ngoài, ăn mặc, đi đứng, nói năng đến cách sinh hoạt hàng ngày ở phương diện
đời thường. Với lối hành văn tự nhiên mà biến hóa phức tạp một cách thú vị, Tô
Hoài không miêu tả tỉ mỉ chân dung từng nhà văn mà chỉ để họ xuất hiện thoáng
qua nhưng vẫn bộc lộ đầy đủ phẩm chất và thói tật. Tô Hoài quan niệm “con
người là con người”, “Ô hay, người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ”.
Quan niệm đó đã chi phối cái nhìn của nhà văn về người nghệ sĩ. Cùng hoạt
động trong sự nghiệp văn chương nên giữa Tô Hoài và các văn nghệ sĩ có sự “cọ
xát” ở cự li gần. Trong hồi kí Tô Hoài, các văn nghệ sĩ hiện lên phần đời nhiều
hơn là phần nhà văn. Tô Hoài đã đem đến cho người đọc một cái nhìn gần hơn,
“đậm chất người” về các văn nghệ sĩ lớn, có tên tuổi trong làng văn học Việt
Nam như Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Phùng
Quán,…Tô Hoài đã để chân dung các văn nghệ sĩ lăn lộn giữa cái bộn bề phức
tạp của cuộc sống và xuất hiện trong không khí đời thường. Bởi vậy, hình tượng
các nhà văn gần gũi với bạn đọc hơn. Tô Hoài không bôi nhọ, hạ thấp họ hay cố
tình “đập vỡ” những thần tượng của độc giả mà theo quan niệm của Tô Hoài đã
là con người thì có cả mặt tốt lẫn mặt xấu, đã là con người thì phải có diện mạo
riêng, thói thật riêng, sở thích riêng và có những đức tính của những con người
bình thường. Nhà văn đã không thi vị hóa các văn nghệ sĩ và cuộc sống của họ
mà theo quan niệm của Tô Hoài, thực tế hiện thực cuộc sống thế nào thì phản
ánh như thế. Tô Hoài đã đi vào những “ngõ ngách” của đời sống văn chương và
những “khúc đoạn” gập ghềnh số phận của văn nghệ sĩ. Tô Hoài đã giúp cho
người đọc có cái nhìn toàn diện khách quan về cuộc đời cũng như sự nghiệp văn
chương của họ. Thông qua việc khắc họa chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời,
người đọc thấy được phong cách riêng, cá tính riêng của từng văn nghệ sĩ đồng
thời cũng bộc lộ sự cảm thông chân thành với cuộc đời và số phận của họ.
Khi xây dựng chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời, Tô Hoài luôn đặt họ
trên nền hiện thực lịch sử sinh động và không khí thời đại văn học. Biết bao
nhiêu số phận, tính cách văn nghệ sĩ đều được tác giả khéo léo đan chéo trên một
cái nền lịch sử chung sôi động. Những văn nghệ sĩ nổi tiếng như Nguyễn Tuân,
Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Phùng Quán…không ai giống ai trong
cuộc đời hay sự nghiệp nhưng cũng chẳng ai khác ai trong bối cảnh thời đại mà họ
99
đang sống. Những biến động riêng trong cuộc đời mỗi người lại hoà nhịp vào
những biến động chung của số phận dân tộc, đất nước, của dòng lịch sử. Khi đặt
chân dung các văn nghệ sĩ trong bối cảnh thời đại, Tô Hoài muốn khẳng định ý
thức nhìn nhận con người ở nhiều hướng, nhiều chiều và giúp người đọc có cái
nhìn toàn diện về hình ảnh, chân dung các văn nghệ sĩ một cách chân xác và
khách quan. Tô Hoài đã giúp người đọc tiếp cận và khám phá đời sống văn học
của một thời đã qua - một thời mang nhiều dấu ấn lịch sử với những đổi thay
biến thiên của đời sống xã hội và con người. Đến lúc cần nhìn nhận lại, trả lại
chân giá trị cho những tác phẩm, tác giả, hiện tượng văn học từng có những
đánh giá sai lệch, chưa thỏa đáng. Từ đó giúp chúng ta nhận thức lại những đóng
góp của các nhà văn, góp phần đảm bảo tính khách quan và khoa học trong việc
đánh giá giá trị văn chương. Khắc họa chân dung các văn nghệ sĩ trong bối cảnh
thời đại khẳng định sự tìm tòi, đổi mới trong cách thể hiện, tư duy của nhà văn
Tô Hoài.
Tô Hoài đã xây dựng chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời theo dòng hồi
tưởng. Song chân dung nhân vật của Tô Hoài khác chân dung nhân vật của các
nhà văn khác ở chỗ ông không kể về toàn bộ cuộc đời của nhân vật theo một trật
tự thời gian tuyến tính mà chỉ kể ở từng đoạn, từng quãng đời mà nhà văn biết,
thậm chí biết rất kĩ hoặc khắc họa một vài chi tiết, sự kiện tiêu biểu gắn với nhân
vật. Chân dung nhân vật trong hồi kí Tô Hoài có lúc chầm chậm hiện dần lên
qua từng trang viết, có lúc lại lướt qua như một đoạn phim tư liệu quay nhanh.
Tô Hoài còn để cho nhân vật tự xuất hiện, bằng giọng kể đều đều, ít đánh giá,
nhân vật cứ thế được bộc lộ qua những hành vi, nói năng ứng xử. Ngòi bút của
Tô Hoài thiên về cuộc sống đời thường, ông khai thác cả những thói xấu, tầm
thường vặt vãnh của chính mình và các nhà văn khác. Chính điều đó đã tạo nên
sự tò mò, lôi cuốn người đọc qua các tình tiết trên trang văn Tô Hoài.
Nguyễn Tuân là nhân vật được nhiều nhà văn lựa chọn và miêu tả trong
những trang hồi kí với những khía cạnh khác nhau. Trong hồi kí Năm tháng
nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương của Ma Văn Kháng, Nguyễn Tuân hiện lên là
một người coi việc đi “là một nghiệp chương của nghề viết” [86; tr.488] trong
cái thú thẩm mĩ “xê dịch” của ông. Trong hồi ức của Đào Xuân Qúy, Nguyễn
Tuân thuộc lớp nhà văn đi trước, là một người không bao giờ biết “luồn cúi, bợ
100
đỡ, nịnh hót ai dù người đó ở cương vị nào cũng vậy” [132; tr.139]. Trong hồi kí
Cát bụi chân ai của Tô Hoài, Nguyễn Tuân là nhân vật được khắc họa nhiều
nhất trong khoảng thời gian khá dài từ trước năm 45 đến khi mất. Nguyễn Tuân
có một phong cách nghệ thuật độc đáo và đặc sắc. Ông đã bộc lộ cái “tôi” của
mình với lối chơi “ngông” bằng văn chương. Ông đã lấy cái tài giỏi, cái lịch lãm
hơn đời để đặt mình lên trên thiên hạ. Những trang văn Tô Hoài viết về Nguyễn
Tuân phần nào cho người đọc thấy được những cá tính, thói tật trong cuộc sống
đời thường của nhà văn. Và cũng phần nào hiểu được những yếu tố hình thành
nên phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân hiện lên rất khác đời.
Ông có phong cách ăn mặc không giống ai. Cách ăn uống rất cầu kì và tinh tế,
tuyệt nhiên không xô bồ. Ngay cả trong văn chương, từ triết lý đến mỗi câu chữ
cũng khác người. Nguyễn Tuân thuộc chủ nghĩa xê dịch, ông rất thích những
chuyến đi. Ông đi khắp mọi nơi để viết và thỏa mãn cơn đói đi luôn giày vò, trăn
trở của lòng mình. Nhưng rồi hành trình đi ấy đến lúc cũng phải dừng lại. Cát
bụi chân ai đã khép lại kỉ niệm cuối cùng của Tô Hoài về Nguyễn Tuân “Tôi
đến chào khoe với Nguyễn Tuân một chuyến đi còm, nhưng thú vị” [66; tr.294].
Chân dung Nguyễn Tuân hiện lên thật chân thật, sinh động hấp dẫn bằng những
chi tiết “tươi sống” của đời thường, những chi tiết phần lớn do Tô Hoài trực tiếp
quan sát, nắm bắt được ngay trong thực tế giao tiếp và trong sinh hoạt, làm việc
cùng với Nguyễn Tuân. Xây dựng hình ảnh Nguyễn Tuân qua hồi tưởng, Tô
Hoài đã phác hoạ rất đậm nét về những chuyện vụn vặt của cuộc sống, những kỉ
niệm giữa đời thường với Nguyễn Tuân, song không phải vì thế mà người đọc
bớt đi lòng kính trọng và cảm phục Nguyễn Tuân. Từ nhiều góc nhìn khác nhau,
chân dung Nguyễn Tuân hiện ra như một cá thể - đa nhân cách.
Xuân Diệu cũng là một chân dung nhà văn được Tô Hoài phác thảo ở một
góc nhìn mới. Xuân Diệu hiện lên trong mắt người đọc không chỉ là hình ảnh
một nhà thơ mạnh mẽ về bút lực, dồi dào trong cảm xúc, tằn tiện và tính toán
trong sinh hoạt cá nhân mà còn là một người tội nghiệp, cô đơn khi những bí
mật về giới tính của ông bị mở toang. Qua những góc khuất của Xuân Diệu,
người đọc càng cảm thông và yêu quý về con người tài hoa, đầy khát khao trong
tình yêu và cuộc sống. Nguyên Hồng cũng là đối tượng được họa trong hồi kí
của các nhà văn. Nhiều trang hồi kí của Ma Văn Kháng, Bùi Ngọc Tấn, Tô Hoài
101
đã dành ưu ái cho nhà văn của những người cùng khổ. Nguyên Hồng từng được
biết đến với phương châm sáng tác bất hủ: “Tôi sẽ viết, viết về những cảnh đói
khổ, về nơi trái ngược, bất công” [78]. Nguyên Hồng hiện lên trong những trang
hồi kí Tô Hoài là một người giản dị, xuề xòa trong cách ăn mặc và lối sống
nhưng lại là người cẩn trọng với nghề nghiệp. Hồi kí Tô Hoài đã bổ sung vào
kho tư liệu của các nhà văn về những thói thường, những tâm sự u uẩn, những
tâm trạng buồn và một bản lĩnh nghệ sĩ tuyệt vời, đáng kính trọng của Nguyên
Hồng. Bên cạnh đó, Nguyễn Bính cũng được khắc họa không phải trong hình
ảnh của một nhà thơ chân quê mộc mạc, giản dị mà là một Nguyễn Bính của đời
thường gần gũi với những gì thô nhám của cuộc sống. Nguyễn Bính là nhà thơ có
tài trên văn đàn nhưng trong cuộc sống của ông khá nhiều tật: lăng nhăng, phóng
túng, tùy tiện. Tô Hoài thỏa sức tự do miêu tả những thói hư tật xấu của Nguyễn
Bính trên trang viết nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta ghét hay ác cảm với
nhà thơ Nguyễn Bính mà càng hiểu và cảm thông với nhà thơ nhiều hơn.
Đến Chiều chiều, không ít những chân dung văn nghệ sĩ cùng thời xuất
hiện trên trang hồi kí Tô Hoài. Nhưng cách xây dựng nhân vật ở đây không
giống với hồi kí Cát bụi chân ai. Tô Hoài không khắc họa, tỉ mỉ chi tiết cuộc đời,
số phận của các văn nghệ sĩ như Cát bụi chân ai mà chỉ phác họa, điểm qua dăm
ba nét đời thường của mỗi người, mỗi nhân vật. Ấn tượng của Tô Hoài về Trần
Đức Thảo là người rất vụng về và trong hình ảnh cuối đời “ông đi đôi guốc
mộc…gày gùa, mặt và mắt vàng nghệ màu bệnh gan” [70; tr.161]. Đặng Đình
Hưng cũng được Tô Hoài khắc họa song hành cùng Trần Đức Thảo. Đặng Đình
Hưng vướng vào Nhân văn. Ở hội nhạc, ông đã bị ra khỏi biên chế, mất cả đảng
tịch. Đặng Đình Hưng và Trần Đức Thảo là hai con người mà nhà văn Tô Hoài
đã từng tâm sự “Họ đã gặp nhau trong tôi, rồi cuộc đời hai người dài dài phí
hoài mà tôi chứng kiến” [70; tr.151]. Hay một Trần Huyền Trân “cứ mờ dần,
ngụp dần, khô héo đi...người rầu rĩ, càng âm thầm mãi đi” [70; tr.251]. Phùng
Quán xuất hiện trên những trang văn Tô Hoài với những thăng trầm của cuộc
đời. Sự nghiệp văn chương của Phùng Quán không thuận lợi. Phùng Quán từng
“bị kỉ luật ba năm không hội viên Hội nhà văn nhưng rồi ba mươi năm mới có
lời làm lễ giải hạn. Không cấm sáng tác nhưng viết thì không đâu in” [70; tr.98].
Nhưng Phùng Quán vẫn khát khao sáng tác. Bạn bè của Phùng Quán tổng kết
102
sáu chữ cho cái gia đình bi đát: “câu chui, rượu chui, viết chui”. Vào tuổi năm
mươi, Phùng Quán “Thân hình bơ phờ mảnh khảnh, lại ăn mặc kiểu các cụ áo
năm thân rộng nhuộm cậy mầu hoa hiên, bộ râu chuột lưa thưa” [70; tr.100-101].
Tô Hoài cảm thấy đáng buồn, đáng thương cho một người cả đời không may
mắn, cứ lặng lẽ rồi chìm dần. Bên cạnh đó, một loạt các bạn bè, đồng nghiệp của
Tô Hoài được khắc họa như Đào Vũ, Nguyễn Hoạt, Nguyễn Khắc Dực, Mộng
Sơn, Hồ Dzếnh, Hoàng Văn Tiến. Họ chỉ xuất hiện loáng thoáng qua trang viết,
đan xen vào câu chuyện của các nhà văn khác nhưng ở họ cũng neo lại trong
lòng người đọc một ấn tượng không thể nào quên.
Nhà văn Tô Hoài đã vén màn hào quang lấp lánh xung quanh các nhà văn
được thêu dệt bởi bao giai thoại, huyền thoại. Tô Hoài đã rút ngắn “khoảng cách
sử thi”, tiếp cận họ từ góc độ đời tư, cuộc sống riêng tư. Tô Hoài tiếp cận tác
phẩm theo hướng tư duy của tiểu thuyết nên khi xây dựng chân dung các văn
nghệ sĩ cùng thời, nhà văn không có ý định dung tục hóa, tầm thường hóa nhân
vật mà dựng lại chân dung họ ở góc độ con người đời thường, đặt trong “tổng
hòa các mối quan hệ xã hội” và giàu nhân tính nhất. Họ hiện lên một cách đời
thường và chân thật như bao con người bình thường khác. Con mắt tinh đời của
Tô Hoài đã đi từ lớp vỏ bề ngoài, lớp bề mặt để đến với cái giản dị, cốt lõi, tuy
giản đơn mà lại sâu sắc, ẩn sâu bên trong mỗi con người. Tô Hoài đã cho người
đọc hình dung về một lớp các nhà văn có tên tuổi và vị thế trên văn đàn dân tộc.
Họ ở đó, giữa những “nhếch nhác trần ai”, những chi li, tính toán, từ chuyện nhà
cửa, chuyện ăn mặc đến những mối quan hệ đời sống đều được soi rọi dưới lăng
kính sự thật của nhà văn. Họ là những con người mà cuộc đời và số phận cũng
như tâm hồn rất đa dạng, phong phú và đầy trái ngang xen lẫn vị đắng cay. Tô
Hoài đã tạo dựng chân dung các bạn đồng nghiệp của mình dưới góc độ đời
thường với những gì rất “người”. Điều đó làm cho người đọc hiểu và trân quý
những gì họ đã đóng góp cho sự nghiệp văn chương nước nhà. Bởi trước khi là
một vĩ nhân bất cứ ai cũng đều phải là một thường nhân.
3.2.2.2. Khắc họa chân dung con người nhỏ bé, đời thường
Không chỉ khắc họa chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời, những tên tuổi
lớn của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Tô Hoài còn thành công khi xây dựng
chân dung, khắc họa số phận tầng lớp quần chúng nhân dân trong những thời
103
đoạn khốc liệt nhất của lịch sử. Trở về quá khứ, theo dòng hồi tưởng của nhà
văn, người đọc bắt gặp vô số hình ảnh các nhân vật nhỏ bé, đời thường trong xã hội.
Họ chỉ được lướt qua một vài trang viết nhưng đã để lại ấn tượng và dư vị cảm xúc
thật sự lâu dài, thấm thía. Những dòng chữ “chân thực dưới đáy” tràn đầy yêu
thương, trân trọng của Tô Hoài đã để lại cho người đọc niềm cảm xúc sâu xa về
từng con người cụ thể, từng số phận cụ thể. Đó là số phận của những người lao
động, người phụ nữ trong những cơn biến thiên lịch sử. Đó còn là số phận của
những người nông dân, những gia đình trong cơn lốc của cơ chế thị trường.
Trong Cát bụi chân ai, Tô Hoài đã khắc họa thành công chân dung những
con người nhỏ bé. Họ là những người lao động bình thường nhưng lại là những
người có nhiều duyên nợ với Tô Hoài và các bạn văn của ông. Hình ảnh bác
Chữ bán cháo ban đêm hiện lên thật khó khăn và vất vả “Mặt nhăn nhó đăm đăm,
chẳng biết đương phởn hay buồn nỗi hóng khách” [66; tr.10]. Hình ảnh ông
hàng cà phê “bít tất” với dáng người “lom khom, mặt bóng loáng nắng gió đồng
chiêm. Bộ quần áo nâu non nhờ nhệch, dáng ngơ ngơ như đương lẩm nhẩm ai
trả tiền, ai lỉnh mất” [66; tr.11]. Hình ảnh ông chủ Tiểu Lạc Viên hiện lên với
“đôi mắt kính lấp lánh, cái câu “có ngay, có ngay luôn miệng như hát” [66;
tr.82]. Các nhân vật như bác Chữ, ông lão cà phê “bít tất”, ông chủ Tiểu Lạc
Viên được nhà văn khắc họa ở một vài chi tiết nhưng chính họ lại là hiện thân
cho vẻ đẹp lao động và một phong cách ẩm thực rất Hà Nội.
Trong kí ức của nhà văn, hình ảnh các cô gái như Ly Chờ, Thào Mỷ,
Chúng Thị Phà, nơi mảnh đất xa xôi của tổ quốc cũng được Tô Hoài nhắc đến.
Ly Chờ là một cô giáo xinh xinh bé bỏng ở Sà Phìn. Ly Chờ biết đọc, biết viết,
đã quyết tâm xa nhà làm giáo sinh xóa mù chữ. Tuy vậy, cuộc đời Ly Chờ chỉ
những ghập ghềnh và gian truân, hạnh phúc hôn nhân không gặp may mắn “Hai
mươi tuổi đã con bồng con bế…cái đẹp sắc sảo mà bạc phận” [66; tr.210]. Công
việc cũng không thuận buồm xuôi gió “Mới bốn mươi tuổi, Ly Chờ về hưu non.
Cũng phải “chạy” mãi mới được cái sổ hưu” [66; tr.210]. Nói về Ly Chờ, Tô
Hoài không khỏi ngậm ngùi, xót xa - người con gái hồng nhan mà bạc phận. Rồi
đến Thào Mỷ - cán bộ huyện, một phụ nữ dân tộc người Mông tiên tiến. Thào
Mỷ công tác nhanh nhẹn, được làng xóm tin cậy. Cũng giống như Ly Chờ, Thào
Mỷ lận đận trong tình duyên. Thào Mỷ bị ép lấy chồng từ thuở bé theo phong
104
tục. Khi lớn lên “Thào Mỷ bỏ về nhà mình - một việc mà chưa người đàn bà
Mèo nào dám làm” [66; tr.217]. Thào Mỷ lại đeo đuổi những chàng trai trẻ ít
tuổi. Thào Mỷ lấy chồng nhưng cuộc đời thật bất hạnh, liên tục bị chồng đánh
đập và chửi bởi. Từ một cô gái xinh đẹp trở thành một cô gái gầy yếu. Từ một
người phụ nữ mạnh mẽ, quyết đoán trở thành một người phụ nữ yếu đuối “Thào
Mỷ uống rượu từng bát. Rồi khóc. Lại khóc. Khổ lắm. Nó đánh em” [66; tr.218].
Bên cạnh đó, Tô Hoài còn khắc họa số phận cô Chúng Thị Phà - người Tày, quê
ở Tòng Bá, hội trưởng hội phụ nữ huyện. Cô Phà là người phụ nữ can đảm, được
bầu là tấm gương tháo vát trong công việc làm đường. Tuy vậy, cuộc đời cô lắm
“oan khiên, làng xóm đồn cô bỏ thuốc cho chồng ốm chết để được bay nhảy”
[66; tr.221]. Sau này, Phà lấy chồng nhưng lại lấy phải người chồng hay ghen.
Những cô gái tài năng, xinh đẹp đáng nhớ của Tô Hoài, nét ám ảnh còn lại của
họ nằm ở số phận nhiều hơn là cá tính. Họ từ đâu đó trong cuộc đời khổ đau đi
vào tác phẩm và từ tác phẩm lại bước ra cuộc đời, lẫn vào dòng đời trôi chảy
bình dị. Mỗi người phụ nữ xuất hiện trong hồi kí Tô Hoài là một hoàn cảnh, một
tình duyên khác nhau nhưng nhìn chung họ là những người phụ nữ bất hạnh
trong hôn nhân gia đình. Họ không có được tình yêu trọn vẹn và tình duyên gặp
nhiều éo le, trắc trở. Tưởng những họ sẽ được sống trong một cuộc hôn nhân
hạnh phúc nhưng tất cả đều tan biến trong vòng quay của số phận. Dường như,
không có ai có thể đoán định trước được số phận và tương lai của họ.
Trong Chiều chiều, Tô Hoài đã dành nhiều tâm huyết và dụng công khi xây
dựng ông Ngải, người nông dân nghèo, người đã cưu mang Tô Hoài, Phùng
Quán thời cải cách ruộng đất năm 1958. Trong dòng hồi tưởng của nhà văn, ấn
tượng về ông Ngải khi lần đầu tiên gặp ông: “Mặt ông Ngải mai mái, không
trắng, không sạm. Người suốt đời ở ngoài đồng áng mà da không bắt nắng. Cái
nước da nhờn nhợt ấy thì có giống ông Phan Khôi” [70; tr.36]. Cuộc sống của
ông Ngải chỉ quẩn quanh bên bụi tre lép, tất cả mọi việc tha ra đấy mà làm. Ông
Ngải là người nông dân làm ruộng giỏi, khỏe mạnh: “Bàn chân to ngoàm nghiến
từng lượm. Người làm ruộng không cày, không trâu, không kéo đá, cả đời chỉ
cái cuốc và hai bàn tay, hai bàn chân với những nét ác liệt” [70; tr.70]. Ông Ngải
chăm chỉ lao động, cả một đời cần mẫn với công việc đồng áng, dần dà lên được
cái nhà tươm tất. Ông không theo Việt Minh nhưng ông lại tích cực tham gia
105
vào hợp tác xã vì lí do “Cái ruộng nó trần trần ra đấy, làm thì ra thóc chứ ra gạch
à? Có ruộng thì ra thóc, hợp tác cũng là ta cả thôi” [70; tr.76]. Ông Ngải hay làm,
tham công tiếc việc “có lần ông Ngải lên cơn sốt rét mà nhà còn sào ruộng chưa
bừa, ông dậy đùng đùng vác bừa đi” [70]. Một con người vạm vỡ tưởng chừng
không có gì tàn phá nổi, vậy mà bốn mươi năm sau, hình ảnh ông Ngải khiến
chúng ta không khỏi ngậm ngùi, xót xa trước sự tàn phá của thời gian. Bốn mươi
năm trước ông “ngủ giữa bụi tre”, bốn mươi năm sau ông vẫn “ngủ giữa bụi tre”,
trong khi làng xóm thời kinh tế thị trường “cứ đua nhau nhà nhà tầng ba gác”.
Chỉ có khác ông ngày càng già nua, chậm chạp, cũ kĩ hơn. Tô Hoài đã xây dựng
được chân dung ông Ngải có số phận, có đời sống, có cách ứng xử, tâm trạng
riêng nhưng cũng giống như bao người lao động bình dị khác ở xóm Đồng. Ông
Ngải là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân - một ông lão tuổi cao nhưng lúc
nào cũng sáng ngời một vẻ đẹp khỏe khoắn, tiểu biểu cho con người Việt Nam
thật thà, chất phác, hay lam hay làm, gắn bó sâu sắc với đồng rộng, quê hương.
Ông là hiện thân của con người tình nghĩa nhưng lại thiệt thòi, không may mắn
và gắn bó với cuộc sống quẩn quanh. Chân dung ông Ngải là một sự ngậm ngùi
về dòng thời gian trong cuộc đời mỗi người, quy luật đời người không ai có thể
tránh khỏi lúc tuổi xế chiều. Chân dung ông Ngải đã đem đến cho người đọc
hình ảnh khá đậm nét về con người của làng quê trên đất nước Việt Nam.
Chân dung anh bí thư Sự trong cơn lốc của kinh tế thị trường cũng được Tô
Hoài khắc họa thành công. Anh bí thư, anh chủ nhiệm năm nào, nay lại trong
thảm cảnh “Trên cái sập gụ, Sự quấn chăn chùm đầu, đương hí hoáy nạo sái”
[70; tr.324]. Sự bất lực trước gia đình và con cái, anh cố rướn mình chửi một câu
dõng dạc: “Đồ đĩ rạc!”. Sức lực của anh yếu lắm rồi, tất cả sức lực của anh dồn
vào câu chửi sau lưng mụ vợ của mình. Con người một thời là thế, bây giờ thật
bệ rạc. Số phận của anh Sự là hồi chuông cảnh tỉnh cho những kiếp người trong
cơn biến thiên của lịch sử, cũng là câu hỏi còn - mất trong giá trị đạo đức của
con người. Bên cạnh đó, Tô Hoài còn cho người đọc tiếp xúc với bao con người
bình thường khác. Đó là Dương, anh bảo vệ của tổ dân phố. Bề ngoài, Dương tỏ
ra là một người nhiệt tình, trách nhiệm cho dù việc của anh không được hưởng
lương. Nhưng bản chất bên trong Dương là một kẻ khôn khéo, thực dụng, luôn
xuất hiện đúng lúc, đúng chỗ để chuộc lợi, kiếm chác, làm tiền. Đó là anh công
106
an Mùi thật thà, chất phác, không chơi bời. Anh ít chữ nhưng được cái “chịu khó,
không lên điệu vừa khoe vừa giấu dốt” [70; tr.130]. Đó là ông Đại, tổ phó tổ dân
phố. Ông sống giản dị, xuề xòa “Một thân cặm cụi, quanh mình chỉ có một rổ
bát, cái dây vắt quần áo và cái xe đạp treo ngược” [70; tr.195]. Những trang hồi
kí của Tô Hoài đã tái hiện biết bao số phận của con người trước thời cuộc. Họ
chỉ xuất hiện thoáng qua trong vài nét phác họa nhưng những con người bình dị,
đời thường, nhỏ bé ấy lại làm nên sự đậm nhạt trong bức tranh cuộc sống muôn
hình vạn trạng. Mỗi người một vẻ nhưng tựu chung lại buồn nhiều hơn vui. Là
người trong cuộc, nhà văn đã tái hiện những cảnh đời ngang trái của tầng lớp
quần chúng nhân dân giúp cho người đọc hiểu hơn về một giai đoạn lịch sử.
Với cách khắc họa chân dung nhân vật qua hồi ức, đặt họ trên cái nền lịch
sử, Tô Hoài đã thực sự thoát khỏi những hạn chế và ảnh hưởng của cái nhìn sử
thi - lí tưởng hoá hiện thực. Nhân vật của nhà văn ấn tượng từ các bạn văn
chương cùng thời đến những con người bình dị, nhỏ bé ở mọi miền quê khác
nhau. Tất cả đều được khắc họa ở cự li gần và phương diện đời thường. Tô Hoài
đã cố gắng tìm ra một hình thức thể hiện mới, khác so với lối khắc họa nhân vật
trong hồi kí truyền thống, đó là một nhân cách, một tài năng khá độc đáo trong
văn xuôi Việt Nam đương đại.
3.2.3. Giọng điệu trần thuật
Chất giọng là một yếu tố mạnh trong nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài. Dù
Tô Hoài viết tiểu thuyết hay hồi kí, người đọc vẫn nhận thấy sự thống nhất trong
giọng điệu trần thuật đó là giọng điệu dí dỏm, giễu nhại, hài hước và giọng điệu
trữ tình, sâu lắng. Sự đa dạng trong giọng điệu hồi kí biểu hiện cách nhìn, cách
nghĩ, cách đánh giá về đời sống và con người trong nhiều hoàn cảnh, nhiều thời
điểm khác nhau của nhà văn Tô Hoài. Sự chuyển đổi về quan niệm nghệ thuật và
con người, sự chuyển hướng từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn thế sự, nhân bản đời
thường giúp cho nhà văn Tô Hoài cảm nhận cuộc sống ở nhiều cung bậc khác nhau.
Tô Hoài kể mọi chi tiết, sự kiện với nhiều giọng điệu khác nhau. Điều đó đã tạo
nên sự phức điệu, sắc thái đa thanh và bức tranh cuộc sống đa sắc, đa diện.
3.2.3.1. Giọng điệu dí dỏm, giễu nhại, hài hước
Giọng điệu chủ đạo trong hồi kí Tô Hoài sau 1945 là giọng hài hước, dí
dỏm, giễu nhại. Giọng điệu này bắt nguồn từ bản tính của nhà văn và từ sự nhạy
107
cảm, thái độ phản ứng trước những vấn đề của đời sống. Qua những lời kể, bài
viết về Tô Hoài, người đọc luôn ấn tượng về một con người hài hước, hóm hỉnh,
có nụ cười mỉa mai và trào lộng. Từ cảm hứng châm biếm, hài hước, nhà văn đã
vượt qua những “lằn ranh” vốn được coi là những chuẩn mực. Tô Hoài đã khước
từ giọng thành kính, trang nghiêm thay vào đó là giọng hài hước, hóm hỉnh.
Chất dí dỏm, hài hước trong hồi kí Tô Hoài được thể hiện ở cách nói tếu táo, có
phần bỗ bã mà ngôn từ hầu như là lời ăn, tiếng nói hàng ngày của cuộc sống đời
thường. Tô Hoài đã đưa cái chất đời gần gũi vào trong văn chương một cách tự
nhiên, khéo léo. Nhà văn đã “mở ngỏ” trang viết của mình để cuộc sống thường
ngày ùa vào trang sách. Tô Hoài đã tìm tòi, vận dụng một bút pháp nghệ thuật
vừa truyền thống vừa hiện đại tạo cho mình một giọng điệu phức hợp vừa hóm
hỉnh, sâu sắc, vừa tinh tế, nhẹ nhàng. Tô Hoài đã đem đến những trang văn của
mình tiếng cười với nhiều cung bậc, sắc thái khác nhau. Có khi là tiếng cười
mang sắc thái nhẹ nhàng cất lên từ những chuyện hết sức đời thường. Có khi là
tiếng cười hài hước, châm biếm nhằm mục đích phê phán những thói xấu của
con người. Có khi là tiếng cười chua chát trước những nghịch lí của cuộc đời
khiến người đọc phải suy ngẫm, xót xa. Ở Tô Hoài, giọng điệu trần thuật luôn
giữ được bản sắc riêng: giọng hài hước, dí dỏm pha chút tinh quái, mỉa mai. Đây
là chất giọng khá ổn định ở giai đoạn trước và sau Cách mạng, tuy nó xuất hiện
đậm nhạt khác nhau.
Tô Hoài đã sử dụng những từ ngữ xô bồ, bỗ bã, thông tục và đưa vào tác
phẩm của mình một cách hợp lí. Tô Hoài không đưa một cách tùy tiện từ đời
sống ngổn ngang vào sáng tác. Nhà văn đã lựa chọn công phu, cân nhắc kĩ lưỡng
những từ ngữ phù hợp với tính cách nhân vật, bối cảnh xã hội và dụng ý nghệ
thuật của mình. Những từ ngữ thông tục vừa làm cho giọng điệu tác phẩm trở
nên suồng sã, tự nhiên vừa tạo ra những tiếng cười sảng khoái, đậm màu sắc dân
gian. Người đọc đã tìm ra hàng loạt những từ ngữ được diễn đạt hết sức suồng
sã, đời thường trong trang văn Tô Hoài: “- Tắt bố mày đi!”, “Tiên sư cái thành
phố nhà mày, trông mả nhớn mả bé kia kìa...”, “Ôi! Thằng bỏ mẹ!”, “Mấy con
đĩ rỗi hơi và say rượu đang cong cớn tranh nhau xỉa xói, kể lể mắng tưởng tượng
cái thằng phi công Mỹ ngồi ngay trước mặt” [70], “Anh thử đi gắp cứt như tôi
xem việc bằng nhau thế nào?”, “Cha đẻ mẹ mày, đêm hôm nhà đàn bà con gái,
108
bà thì… - Tôi là bộ đội - Bộ đội, đội thúng, đội mẹt cái con đẻ mẹ mày. Nhà tề
đây, có cút không thì bà gọi bảo hoàng nó xuống gông lại…”, “Có chó má nào
đâu”, “không biết bọn con đĩ dại nào kéo đá cờn như ngựa bật cương”
[66]…Với cách sử dụng dày đặc lớp từ ngữ thông dụng, bình dân, Tô Hoài đã
làm cho nhân vật của mình hiện lên với con người “trần trụi” chứ không phải là
“ông này bà nọ”. Nhờ chất giọng suồng sã, tự nhiên, Tô Hoài đã xóa nhòa
khoảng cách giữa văn chương với cuộc đời. Điều này giúp người đọc tiếp cận
với tác phẩm một cách tự nhiên, gần gũi như đang giao tiếp giữa nhân vật với
cuộc đời.
Với cái nhìn lọc lõi, tinh quái, Tô Hoài đã đem đến cho độc giả đi từ bất
ngờ này đến bất ngờ khác. Nhà văn đã phát hiện ra những yếu tố “bất thường”
trong những điều đời thường, dung dị của chân dung các văn nghệ sĩ cùng thời.
Tô Hoài đã “giải thiêng” những văn nhân thành những thường nhân với đầy đủ
những thứ “nhọ nhem”. Ông giống như một người đang đứng ngoài quan sát và
tủm tỉm cười, cái cười lây sang cả người đọc. Tiếng cười hài hước nhẹ nhàng
hiện ra khi Tô Hoài xây dựng các chân dung văn nghệ sĩ từ chuyện ăn mặc, ăn
uống đến những sinh hoạt đời thường. Khi tạo dựng chân dung Nguyễn Công
Hoan, người đọc không thể nhịn cười khi thấy ông đi dự Quốc khánh với “đôi
giày bóng lộn”. Một cách ăn mặc khác ngày thường. Sau nhiều lần tò mò, hỏi
cặn kẽ, nhà văn mới phát hiện ra đó là đôi giày Nguyễn Công Hoan đi mượn.
Nguyễn Công Hoan không hề cảm thấy xấu hổ mà còn tỏ ra thích thú “Có là
giày đi mượn thì mỗi tiệc mới một đôi khác nhau chứ” [70; tr.105]. Đó chính là
cách “ăn chơi” một thời của văn nghệ sĩ giàu tài năng nhưng lại thiếu thốn về vật
chất. Chuyện ăn uống của các nhà văn cũng đầy hài hước. Kiểu ăn uống của
Xuân Diệu là kiểu ăn để mà sống, để yêu đời. Trong chuyến đi Lào Cai, Xuân
Diệu ăn nhiều quá “đêm ấy đau bụng phải đi cấp cứu” [66] . Xuân Diệu cũng tự
than thở “cái miệng làm khổ cái bụng, mình phải tính tham ăn” [66]. Nhưng sau
đó Xuân Diệu bản tính vẫn không thay đổi “rồi lại cứ thong thả quét sạch mâm
như mọi khi”. Tô Hoài thật khéo khiến cho người ta bật cười vì những chuyện
tủn mủn kiểu như thế. Cái cười hiện ra để thấy những cái đời thường nhất của
văn nghệ sĩ. Không chỉ là chuyện ăn, chuyện mặc, Tô Hoài còn miêu tả những
mối tình của các nhà văn bằng giọng điệu hóm hỉnh, hài hước. Tính Nguyễn
109
Sáng trăng hoa, hay mê gái nhưng lại kiểu quái dị thích và để ý đến những “cô
gái mới lớn”. Người đọc khó lòng để kiểm chế một nụ cười tủm tỉm trước một
họa sĩ có hạng lại tầm trung niên lại thích những cô gái ngây thơ như thế. Ngược
lại, Nguyên Hồng lại ưa theo mẫu người “những bà nạ dòng, má phúng phính
bánh đúc, áo cánh chồi, nhai trầu, môi cắn chỉ là ưng lắm”. Cái đáng cười ở chỗ
sau khi bị vợ cả đánh ghen với mụ hàng xén, nhà văn không tiếc nhan sắc của cô
gái đó mà lại tiếc “mất mẹ nó cái màn”.
Không chỉ là tiếng cười dí dỏm, nhẹ nhàng trên từng trang giấy mà còn là
tiếng cười chua chát, ngậm ngùi, xót xa. Thời kì cải cách ruộng đất đã gây ra
bao khốn khổ dở khóc dở cười cho người dân, ghim lại những vết thương chưa
lành. Cái cười ra nước mắt ở chỗ cán bộ cách mạng phải toan tính tìm ra được
địa chủ. Còn người nông dân thì hăm hở xin lên làm địa chủ “Ông cho em lên
địa chủ ạ?”. Người nông dân đã bất chấp tất cả để được lên làm địa chủ. Cái
nhìn tinh quái và đậm chất nhân văn khiến Tô Hoài không thể làm ngơ trước
những căn bệnh thành tích, thói quen xấu của xã hội. Giọng điệu Tô Hoài vẫn
hóm hỉnh nhưng lúc này nụ cười đã pha trộn sắc thái mỉa mai, phê phán, châm
biếm. Câu chuyện từ một chuyến tham quan ở một xã có thành tích là một minh
chứng: “Đi tham quan về, tôi làm báo cáo và kế hoạch. Trên nhận xét chỉ tiêu
con số còn thấp, còn bảo thủ. Vừa đi tham quan nơi tiên tiến nhất. Tôi nâng bốn
triệu lên sáu triệu tấn gần gấp ba. Ra hội nghị nống lên thành bảy triệu” [70;
tr.58]. Phê phán nhưng vẫn nhẹ nhàng, chỉ bắt đầu từ sự thật khách quan của
cuộc sống đời thường, nhà văn không có ý miệt thị hay nhạo báng lịch sử đã qua.
Nhà văn muốn chúng ta dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật để sống, để làm việc
có trách nhiệm hơn.
Với bản tính hồn nhiên, dí dỏm cùng giọng điệu hài hước tinh quái, suồng
sã tự nhiên cùng quan niệm “cái gì đã là tự nhiên thì mãi mãi”, nhân vật của Tô
Hoài hiện ra với đúng bản chất của nó, con người đầy đủ với những khiếm
khuyết và sai lầm, những góc khuất sâu kín, phức tạp. Tô Hoài đã đem đến cho
người đọc những tiếng cười sảng khoái, thú vị đồng thời biểu lộ được thái độ
của nhà văn trước cuộc sống đời thường
3.2.3.2. Giọng điệu trữ tình, sâu lắng
Cảm hứng chủ đạo tạo nên giọng điệu trữ tình trong hồi kí của Tô Hoài là sự
110
thương cảm, xót xa được thể hiện qua cái tôi nội cảm tìm về quá khứ của nhà văn.
Giọng điệu trữ tình như một sợi dây truyền cảm - đồng cảm của chính nhân vật “tôi”
với những số phận, cuộc đời, con người mà tôi biết, tôi đã chứng kiến. Hồi ức về
những số phận văn nghệ sĩ cùng thời, về những con người nhỏ bé, bình dị qua
giọng điệu trữ tình trở nên gợi cảm hơn. Giọng điệu trữ tình, đượm buồn xót xa bắt
nguồn từ hiện thực đời sống, một cuộc sống tù túng, quẩn quanh khiến con người
bế tắc trong mưu kế sinh nhai những năm trước Cách mạng. Sau Cách mạng, giọng
điệu trữ tình được thể hiện khi nhà văn tìm về quá khứ và bản thân phải đối diện
với qui luật tất yếu của một đời người.
Giọng điệu trữ tình, sâu lắng khi Tô Hoài thể hiện sự thương cảm xót xa trước
số phận của các văn nghệ sĩ, số phận của những người nông dân, những người phụ
nữ ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Tô Hoài thấy xót xa cho Nguyễn Tuân, một
người thích bay nhảy, có thú “xê dịch” mà cuối đời không còn đi được: “Đi đâu, đã
không còn bay nhẩy được, giờ đây thêm cái day dứt, cái bực bội của con người
ngày ngày quanh quẩn mở đóng cửa sổ” [66; tr.292]. Tô Hoài nghĩ về cuộc đời
Nguyễn Bính: “Những cùng quẫn tự chuốc, những thương đau vơ vào, mình lại
đầy ải mình, thân làm tội đời, cả những ngày còn lại này mà vẫn không nguôi” [66;
tr.61]. Tô Hoài “ngậm ngùi với những quãng cách hoài phí đời người” của cuộc đời
Phùng Quán. Tô Hoài ngậm ngùi chua xót khi nói về nghiệp văn của mình:
“Cuộc sống còm cõi, ngòi bút và đồng lương không cho người viết kiếm đủ
miếng ăn, cả đến mặt mũi và con mắt cũng mòn mỏi dần” [66; tr.312] và cảm
thấy “Đời bàn giấy làm nhạt nhẽo cả ngòi bút”. Tất cả những số phận văn chương
ấy qua cái nhìn ấm áp chân tình của Tô Hoài đã gieo vào người đọc một niềm cảm
thương, chia sẻ sâu sắc.
Nhà văn chua chát, đau buồn trước sự bất hạnh của những người phụ nữ xinh
đẹp mà bạc phận như Thào Mỷ, Ly Chờ, Chúng Thị Phà: “Làm sao không buồn,
bao nhiêu hi vọng rồi như thế. Con người hay xã hội hay còn lại những gì. Ảo não,
thê lương…” [66; tr.211]. Giọng điệu trữ tình, đượm buồn xót xa trải dài trong các
trang văn của Tô Hoài. Mỗi trang hồi kí nhà văn “đào sâu” thêm một tầng nữa của
quá khứ mà như tâm tình, đối thoại với hiện tại. Tô Hoài thương xót cho số phận
của ông Ngải. Con người “khỏe khoắn, vạm vỡ” ngày nào tưởng như chẳng có gì
tàn phá nổi thế mà giờ đây chậm chạp ngồi bên bụi tre “như đống đất”, nghe thì
111
phải “nghiêng tai, lối nghe phổ biến của người nghễnh ngãng” mắt thì “hai con mắt
đã toét nhèm viền vải tây điều đã sụp xuống ti hí”. Cái lặng im của tuổi tác, thời
gian hay cái lắng lại của một đời người. Tô Hoài xót xa trước số phận con người
nhỏ bé, xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm như cô Thẹn. Ấn tượng của tác giả về
cô Thẹn “chừng mười ba, mười lăm tuổi…ngồi sau lưng bà kí Đường hát đỡ cho
mẹ, tiếng đàn đáy lắc lư” [70; tr.538] bây giờ trở thành bà lão đau khổ “hàm răng
móm…đốt ngón tay lạnh ngắt…hai con mắt lòa lúc nào cũng ràn rụa nhợt nhạt trên
mi” [70; tr.538]. Tô Hoài đau đớn khi chứng kiến anh bí thư Sự ăn to nói lớn, phát
biểu oang oang trong các cuộc họp giờ đây rụt cổ bên bàn đèn thuốc phiện.
Người đọc nhận thấy trong những trang hồi kí Tô Hoài hiện ra cuộc đời và
con người ở những cung bậc cảm xúc khác nhau, ở cả những giây phút vui sướng,
hạnh phúc cũng như lúc đau buồn, khổ đau. Hai tác phẩm hồi kí được sáng tác dựa
trên cảm hứng nhân văn đời thường và cùng bộc lộ giọng điệu trữ tình, sâu lắng.
Giọng điệu trữ tình trong Cát bụi chân ai là giọng điệu ngậm ngùi, suy ngẫm về số
phận các văn nghệ sĩ cùng thời trong thời kì Nhân văn - Giai phẩm. Giọng điệu trữ
tình trong Chiều chiều là giọng điệu ngậm ngùi, chua xót về số phận người nông
dân, văn nghệ sĩ và thời cuộc trong suốt chiều dài biến thiên, thăng trầm của lịch sử
112
đất nước.
Tiểu kết chƣơng 3
Có thể nói, tiểu thuyết và hồi kí là hai thể loại khẳng định tên tuổi, phong
cách của nhà văn Tô Hoài. Mỗi thể loại có đặc trưng riêng. Với thể loại tiểu
thuyết, Tô Hoài đã khẳng định được ưu thế vượt trội của mình trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật (nhân vật bộc lộ phần dư nhân cách, đặt nhân vật trong không
gian sinh hoạt đời thường và mối quan hệ đời thường, ngôn ngữ khắc họa nhân
vật đậm chất đời thường và mang màu sắc địa phương), các kiểu kết cấu từ
truyền thống đến hiện đại (kết cấu tuyến tính, kết cấu tâm lý, kết cấu theo lối
đầu cuối chiếu ứng), nghệ thuật kể chuyện đặc sắc với giọng điệu hài hước, hóm
hỉnh và giọng điệu trữ tình, hoài niệm. Với thể hồi kí, Tô Hoài đã xây dựng nên
hình tượng tác giả qua cái nhìn nghệ thuật về đời sống xã hội ở thời kì cải cách
ruộng đất, về không khí sáng tác văn học căng thẳng thời kì Nhân văn - Giai
phẩm. Không chỉ dựng chân dung tự họa của bản thân, Tô Hoài còn khắc họa
chân dung những con người xung quanh đó là chân dung các văn nghệ sĩ cùng
thời ở cự li gần, ở góc nhìn đời tư, những con người lao động bình dị đến từ mọi
miền quê. Thế giới nhân vật của Tô Hoài hiện lên với tất cả những gì “nhếch
nhác, gai góc, xù xì, bụi bặm” thậm chí khó coi. Những dấu ấn nhân vật để lại
trong trang sách không hề phô trương, hào nhoáng và cũng không hề mờ nhạt.
Tất cả được thể hiện qua giọng điệu hóm hỉnh, tinh quái mà không kém phần trữ
tình, sâu lắng. Đó là sự khác biệt trong phương thức thể hiện và làm nên phong
113
cách độc đáo của nhà văn Tô Hoài.
Chƣơng 4
SỰ TƢƠNG TÁC THỂ LOẠI
GIỮA TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945
4.1. Tƣơng tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam hiện đại và trong văn xuôi
Tô Hoài sau 1945
Trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển, các thể loại văn học vừa
mang tính ổn định, bền vững vừa mang tính vận động, đổi mới. Nhà nghiên cứu
Trần Đình Sử cho rằng: “Thể loại vừa có các yếu tố ổn định, truyền thống; lại
vừa có các yếu tố vận động, đổi mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng
tạo của nhà văn” [135]. Tác giả Pôxpêlôp quan niệm: “Thể loại bao giờ cũng
vừa là nó vừa không phải là nó, nó bao giờ cũng đồng thời vừa cũ kĩ vừa mới
mẻ” [131]. Nhà nghiên cứu M.Bakhtin nhận định: “Thể loại tái sinh và đổi mới
theo từng thời đại phát triển văn học và trong mỗi tác phẩm cụ thể viết theo thể
loại đó” [10]. Lí thuyết về thể loại đã chỉ ra một quy luật khá phổ biến, đó là sự
xâm lấn, thẩu thấm, mờ nhòe giữa các thể loại văn học tạo nên các “lằn ranh”
thể loại, xòa mờ các đường biên của thể loại. Sự tồn tại và phát triển của một
nền văn học phụ thuộc vào sự phát triển, khả năng hồi sinh, đổi mới của các thể
loại. M.Bakhtin đã khẳng định: “Lịch sử văn học trước hết là lịch sử hình thành,
phát triển, tương tác giữa các thể loại” [10; tr.8] đồng thời Bakhtin cũng cho
rằng “Một vấn đề rất quan trọng và lí thú nữa là sự tác động qua lại giữa các thể
loại trong tổng thể thống nhất của văn học từng thời kì” [10; tr.23]. Qua đó có
thể thấy, tương tác thể loại là vấn đề tất yếu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
nói chung và văn xuôi Tô Hoài nói riêng.
Tương tác thể loại là phương thức để văn học vận động, phát triển và đổi
mới. Tác giả Trần Viết Thiện khẳng định rằng: “Tương tác thể loại là góc độ để
lí giải sự tồn vong của mỗi thể loại đồng thời cũng lí giải về sự sinh thành của
những biến thể thể loại khác nhau tương ứng với những thời đại văn học khác
nhau” [152; tr.203]. Việc thoát khỏi mô hình thể loại, mang thêm yếu tố của thể
114
loại khác vào tác phẩm góp phần nắn lại nòng cốt thể loại tránh được sự khô
cứng đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của các thể loại văn học. Các
nhà văn khi sáng tác một mặt tuân thủ những đặc trưng của thể loại, mặt khác ít
hay nhiều lại có nhu cầu thoát khỏi mô hình thể loại đó. Họ nhìn sang các thể loại
khác, lấy tinh hoa của chúng, tổng hợp kinh nghiệm của hai hay nhiều thể loại tạo
ra những tác phẩm thoát khỏi đặc trưng thể loại nhưng không làm mất đi những
thuộc tính vốn có của các thể loại này trong truyền thống. Vì vậy, tương tác thể
loại “là sự tác động, thâm nhập, thẩu thấm lẫn nhau giữa các thể loại nhưng không
làm thay đổi yếu tố nòng cốt thể loại” [152; tr.13]. Tương tác thể loại là sự thể
hiện quá trình biến đổi thể loại vừa mang tính quy luật vừa thể hiện ý thức thể
nghiệm, đổi mới, sáng tạo của người viết trước đòi hỏi của thực tiễn đời sống
văn học. Các chủ thể sáng tác luôn luôn phải đổi mới thể loại để khẳng định dấu
ấn, cá tính và phong cách sáng tác của mình. Lí giải cho vấn đề tương tác thể
loại, tác giả Lê Hương Thủy cho rằng: “Sự lựa chọn ban đầu về thể loại là một
thực tế tất yếu nhưng trong nhiều trường hợp người viết không có ý định bảo tồn
sự “thuần khiết thể loại” mà hướng tới xóa nhòa những lằn ranh thể loại để làm
mới tác phẩm nghệ thuật. Điều này trước hết xuất phát từ ý thức của chủ thể
sáng tạo, từ nhu cầu làm mới văn chương và tác phẩm. Trên cơ sở ảnh hưởng
của phương thức sáng tác hiện đại, trên phương diện thể loại, đời sống văn học
cũng đã có những chuyển dịch” [161]. Đó cũng là một trong những yếu tố dẫn
đến sự tương tác thể loại trong văn học.
Tương tác thể loại là sự thể hiện những nỗ lực cách tân và đổi mới của văn học.
Hiện tượng các thể loại “gần” nhau, “nhìn sang” nhau, “hợp nhất” vào nhau, hay
việc nhà văn “vận dụng nhiều phương thức” trong khi sáng tác một tác phẩm, có
thể gọi là tương tác thể loại. Trong công trình Văn học thế giới mở, tác giả
Nguyễn Thành Thi quan niệm: “Tương tác thể loại là hiện tượng hai hay nhiều
thể loại của một giai đoạn, một thời kì, một nền văn học, thuộc về một hay nhiều
hệ thống thể loại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, xâm nhập vào nhau, mô phỏng
nhau để cùng biến đổi hoặc hình thành thể loại mới (với một cấu trúc ít nhiều
thay đổi về tố chất thẩm mỹ chủ đạo, giọng điệu, dung lượng và cấu trúc chung
115
của tác phẩm” [147]. Theo tác giả Trần Viết Thiện trong công trình Tương tác
thể loại trong văn xuôi Việt Nam đương đại thì “Tương tác thể loại là sự thâm
nhập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai hay nhiều thể loại của một hoặc
nhiều hệ thống thể loại khác nhau nhằm tạo nên sự vận động và phát triển của
cấu trúc thể loại văn học” [152; tr.2]. Tương tác thể loại là một hiện tượng văn
học vừa phong phú vừa sinh động. Sự tương tác này giúp các thể loại trong tác
phẩm bổ sung, hỗ trợ cho nhau để cùng hướng tới đích đến là giá trị của tác
phẩm qua đó khẳng định tính hấp dẫn, độc đáo của từng tác phẩm và cá tính, tài
năng sáng tạo của từng nhà văn.
Về các cấp độ tương tác thể loại, có thể phân chia thành nhiều cấp độ khác
nhau: loại với loại, loại với thể; thể với thể, thể với loại; yếu tố với yếu tố (theo
cách phân chia của tác giả Nguyễn Thành Thi). Cấp độ thứ nhất là tương tác
giữa loại với loại, tương tác giữa loại với thể như tương tác giữa thể trữ tình và
kịch tạo nên kịch thơ, tương tác giữa thể tự sự và trữ tình tạo nên truyện thơ,
tương tác giữa thể tự sự và kịch tạo nên kịch tự sự. Cấp độ thứ hai là tương tác
giữa thể với thể, tương tác giữa thể với loại như tương tác giữa truyện ngắn và
tiểu thuyết tạo nên truyện ngắn - tiểu thuyết hóa, tương tác giữa tiểu thuyết và
hồi kí tạo nên hồi kí - tiểu thuyết hóa, tiểu thuyết hồi kí, sự tương tác giữa tiểu
thuyết và tự truyện tạo nên tiểu thuyết tự truyện, sự tương tác giữa hồi kí và tự
truyện tạo nên hồi kí tự truyện. Cấp độ thứ ba là tương tác giữa yếu tố với yếu tố
như tương tác giữa các yếu tố thuộc nhóm thể loại sáng tác có hư cấu như tiểu
thuyết, truyện ngắn,…và các yếu tố thuộc nhóm thể loại sáng tác không hư cấu
như hồi kí, kí sự, nhật kí, ghi chép,… tạo nên các thể loại như truyện kí, tự
truyện, tiểu thuyết tự thuật…Sự tương tác này tạo ra những thể loại trung gian,
mang đặc điểm của hai phương thức phản ánh đời sống, hai hình thức kĩ thuật và
chất liệu phản ánh đời sống cũng rất khác nhau.
Ở giai đoạn 1900 - 1930, sự tương tác thể loại chỉ mang tính thử nghiệm,
xuất hiện hiện tượng giao thoa giữa tiểu thuyết và tự truyện như tác phẩm Giấc
mộng lớn của Tản Đà là một ví dụ điển hình. Ở giai đoạn 1930 - 1945, vấn đề
tương tác thể loại hiện diện rõ hơn trong sáng tác của một số nhà văn như tương
116
tác giữa tiểu thuyết và phóng sự trong các tác phẩm Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê của
Vũ Trọng Phụng; Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp… Ở giai đoạn 1945 - 1975,
thực hiện theo yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, bám sát những dấu vết nóng bỏng
của sự kiện, những vấn đề mang tính thời sự – chính trị nên các nhà văn viết tiểu
thuyết phần lớn gần như kí, tiêu biểu nhất là nhà văn Nguyễn Khải. Ở thời kì
Đổi mới, sự tương tác, giao thoa, xóa mờ “lằn ranh” thể loại là một xu hướng
nổi bật trong văn xuôi Việt Nam. Xu hướng tương tác thể loại nhằm mục đích
đáp ứng nhu cầu phản ánh và tái tạo đời sống ngày một đa dạng, phức tạp và có
sự đan xen, đa chiều của nhiều lĩnh vực, nhiều xu hướng. Đặc biệt trong đời
sống văn học đương đại, các đường biên, “lằn ranh” thể loại ngày càng bị xoá
nhoè, mỏng manh. Trong quy luật giao thoa, thẩm thấu giữa các thể loại, ở thời
kì Đổi mới, có thể nhận thấy chất tự truyện thấm đẫm qua nhiều cuốn tiểu thuyết
như Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên, Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, Tuổi thơ dữ
dội của Phùng Quán, Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng…Chất hồi kí đậm
nét trong các tiểu thuyết như Thượng đế thì cười, Một cõi nhân gian bé tí, Vòng
sóng đến vô cùng của Nguyễn Khải…Có thể khẳng định, ở giai đoạn này, tương tác
thể loại hiện lên như một ý thức tự giác, gắn liền với chủ ý của người nghệ sĩ.
Có thể thấy, văn xuôi của Tô Hoài sau 1945 cũng có sự thâm nhập, hòa
trộn, “mờ nhòe” giữa các thể loại trong đó nổi bật lên là sự tương tác thể loại
giữa tiểu thuyết và hồi kí: tiểu thuyết đậm chất hồi kí; hồi kí đậm chất tiểu
thuyết. Sự tương tác này chủ yếu diễn ra trên phương diện hình thức của tác
phẩm. Sự “mờ nhòe” ranh giới thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài không
làm mất đi bản chất, sức mạnh riêng, đặc trưng vốn có của mỗi thể loại mà thể
hiện sự đổi mới tư duy nghệ thuật và khẳng định tính sáng tạo trong phương
thức thể hiện nội dung và hình thức tác phẩm của nhà văn. Xu hướng tương tác
thể loại không chỉ là quy luật tồn tại tất yếu của một thể loại mà là sự lựa chọn
khôn ngoan của tác giả nhằm mang đến cho thể loại sức sống mới, phù hợp với
khả năng tái hiện đời sống xã hội, số phận nhân vật cũng như năng lực tiếp nhận
của bạn đọc. Sự xóa mờ đường biên thể loại một mặt giúp nhà văn Tô Hoài thể
hiện được mục đích, ý đồ của mình mặt khác thể hiện ý thức đổi mới, phong
117
cách sáng tạo của nhà văn.
Sự thâm nhập của thể hồi kí vào thể loại tiểu thuyết là một xu thế chung
của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đặc biệt từ sau 1986. Tiểu thuyết là “cỗ máy
cái” có thể dung nạp vào nó nhiều thể loại khác nhau “Đức tính căn bản của tiểu
thuyết là ăn được mọi thứ, nó đồng hóa mọi loại tác phẩm khác vào mình”
(Ph.Macxô). Và xuất phát từ tiềm năng thể loại “Tiểu thuyết có khả năng tổng
hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác” [36;
tr.196], nó đã “lấn át thể loại này, thu hút thể loại kia vào trong cấu trúc của
mình” [10; tr.27]; “Tiểu thuyết cho phép đưa vào, lắp ghép vào trong nó nhiều
thể loại khác nhau” [10; tr.144] nên tiểu thuyết có thể đưa chất hồi kí vào trong
nó. Nhận định về hiện tượng tương tác thể loại thời kì này, tác giả Lý Hoài Thu
đã viết “Nhìn vào sự vận động và phát triển của hệ thống thể loại trong văn học
thời kì Đổi mới, tuy ranh giới không bị xóa nhòa song sự thâm nhập, pha trộn,
chuyển hóa giữa các thể loại đã trở thành hiện tượng nổi bật. Đáng chú ý là sự
thâm nhập của thể kí vào “lãnh địa” của tiểu thuyết tạo nên một dòng tiểu thuyết
tự truyện có sức thu hút lớn trong đời sống văn học đương đại. Chính từ những
vùng sóng giao thoa này, các thể loại cũ đã có thêm nhiều tố chất mới” [158].
Bên cạnh đó, tác giả Trần Viết Thiện cũng cho rằng “Các thể kí tác động thâm
nhập để mở rộng trường tiếp cận của tiểu thuyết, đến lượt nó, tiểu thuyết cũng
tác động ngược trở lại trong vai trò tiếp sức cho các thể kí…Sự tham gia của thể
kí như một tố chất tạo nên sự tổng hợp thể loại hay sự lai giống rất khó bóc tách.
Nó có giá trị tạo nên những thể loại mới cho đời sống văn học đương đại, tiêu
biểu nhất là tiểu thuyết hồi kí và tiểu thuyết tự truyện” [152; tr.64-65]. Vì vậy,
tiểu thuyết phá bỏ cái khung quy ước thể loại để đưa chất hồi kí vào địa hạt tiểu
thuyết của mình. Chất hồi kí thể hiện trong tiểu thuyết bằng việc tạo ra những
thông số “người thực việc thực” gắn với bản thân tác giả. Cái gọi là “chất hồi kí
trong tiểu thuyết Tô Hoài” chính là tiểu thuyết thu hút vào nó những đặc trưng
ưu tú của hồi kí từ đó giúp nhà văn bộc lộ cách nhìn, cách cảm, cách phản ánh
mới mẻ sâu sắc về hiện thực đời sống, con người và giúp nhà văn dễ dàng đề
cập đến những vấn đề nhạy cảm, những góc khuất, góc kín trong đời sống tâm
118
hồn con người. Sự xâm nhập của thể loại hồi kí vào cấu trúc nội tại của tiểu
thuyết là một đặc điểm đáng ghi nhận của tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945. Nó
khẳng định sự sáng tạo, cách tân đổi mới của nhà văn trong lối viết tiểu thuyết
hiện đại. Tô Hoài đã sử dụng chất liệu đời thường, những chi tiết tiểu sử của nhà
văn, những sự kiện lịch sử có thật diễn ra trong quá khứ nhằm mục đích tăng
tính xác thực cho câu chuyện được kể, nhân vật được khắc họa trong tác phẩm
cũng trở nên gần gũi, chân thực, sắc nét hơn. Mọi chi tiết, sự kiện, con người
được kể qua con mắt cá nhân của Tô Hoài giống như một nhân chứng, như một
tư liệu xác thực, đáng tin cậy. Chất hồi kí thâm nhập vào tiểu thuyết cũng là điều
kiện để nhà văn bộc lộ, giãi bày những nỗi niềm suy tư, trăn trở đồng thời khẳng
định cá tính sáng tạo của chủ thể sáng tạo. Cái tôi tự truyện, cái tôi tự thú, cái tôi
thầm kín được Tô Hoài trần tình, phơi bày trên trang giấy tạo ra được mối quan
hệ tin yêu, thông cảm giữa nhà văn và bạn đọc. Thấp thoáng trong tiểu thuyết Tô
Hoài, người đọc nhận thấy bóng dáng của nhà văn trên từng chặng đường lịch sử
đất nước. Đó là cái tôi hiểu biết, từng trải và giàu trải nghiệm. Cái tôi dường như
biết hết, thấu hiểu và cảm thông với những số phận bất hạnh trong cuộc đời.
Sự thâm nhập của chất tiểu thuyết vào hồi kí cũng là một xu thế chung của
hồi kí Việt Nam hiện đại. Trong sự phát triển của thể hồi kí, ranh giới thể loại là
không tuyệt đối và luôn có sự chuyển hóa, thâm nhập lẫn nhau. Tác giả Trần Thị
Hồng Hoa đã có nhận định: “Sau năm 1975, đặc biệt là từ giai đoạn đổi mới lấy
mốc 1986, chất sử thi đã nhường chỗ cho chất tiểu thuyết, tư duy tiểu thuyết như
một công cụ soi chiếu mọi vấn đề xã hội và bề sâu số phận con người. Chất tiểu
thuyết đã thâm nhập và chi phối mạnh mẽ mọi thể loại trong đó có hồi kí” [57]. Do
vậy, cái gọi là “chất tiểu thuyết trong hồi kí thời kì Đổi mới” chính là “tư duy tự
sự”, cái nhìn suồng sã và tính chất đa thanh của tiểu thuyết” (M.Bakhtin). Nó rất
khác với tư duy có phần mang “chất sử thi” của hồi kí trước thời kì Đổi mới.
Hồi kí Tô Hoài đã thoát ra khỏi kiểu hồi kí truyền thống, tiếp thu vào nó những
ưu điểm, đặc trưng của tiểu thuyết từ đó giúp nhà văn có điều kiện mở rộng
đường biên thể loại, mở rộng trường phản ánh, tái tạo hiện thực đời sống, khắc
họa nhân vật chân thực và điển hình hơn. Hồi kí Tô Hoài thu hút vào trong nó
119
những ưu thế của thể loại tiểu thuyết và đẩy xa, xóa mờ những đặc điểm không
phù hợp nhằm bảo tồn, giữ vững những căn cốt thể loại bên trong. Hồi kí Tô
Hoài dung dị, đời thường mà đậm chất tiểu thuyết. Chất tiểu thuyết không phải
thể hiện ở chỗ tác giả đã tạo dựng những cảnh ngộ, số phận đầy éo le bất hạnh
mà ở việc tác giả đã phản ánh số phận con người và bức tranh đời sống xã hội ở
một cự li gần. Cuộc sống hiện lên trong hồi kí Tô Hoài hết sức đời thường như
bản thân nó đang tồn tại, có cái cao cả, vĩnh hằng, có cái thô nhám, xù xì, góc
cạnh và có sự lam lũ, vất vả, cái nhếch nhác lầm than. Đó là một cuộc sống sinh
động và phức tạp, một cuộc sống chưa trọn vẹn và hoàn tất được Tô Hoài tạo
dựng bằng cái nhìn cảm quan đời thường. Trong hồi kí, Tô Hoài đã tạo dựng
nhân vật của mình như những con người bình thường trong xã hội. Đó là những
con người đã nếm trải, đã có va vấp với đời sống và có cả một quá trình hình
thành nhân cách qua những chặng đường thăng trầm của số phận. Vì thế, nhân
vật trong hồi kí Tô Hoài hiện lên như là những chân dung thân phận con người.
Chính nhờ sự tương tác này, hồi kí Tô Hoài có thêm khả năng chiếm lĩnh hiện
thực, mở ra nhiều mảng không - thời gian rộng lớn. Qua đó, khẳng định tính
hiện đại, năng động, linh hoạt, sự lên ngôi của thể loại kí trong thời kì Đổi mới
và sự thay đổi tư duy nghệ thuật của các nhà văn giai đoạn văn học sau 1975.
4.2. Chất tiểu thuyết trong hồi kí Tô Hoài sau 1945
Có thể nói, ở thời kì Đổi mới “chất tiểu thuyết đã thâm nhập và chi phối
mạnh mẽ mọi thể loại trong đó có hồi kí” (tác giả Trần Thị Hồng Hoa). Trong
hồi kí Tô Hoài sau 1945 đặc biệt là từ sau 1986, người đọc phát hiện ra chất tiểu
thuyết xuất hiện đậm đặc, chi phối các yếu tố hình thức thể hiện, tạo nên sự biến
đổi, đa dạng từ kết cấu trần thuật đến điểm nhìn trần thuật. Chất tiểu thuyết thâm
nhập vào hồi kí Tô Hoài không làm mất đi đặc trưng thể loại mà nhờ đó tạo ra bức
tranh đời sống đa diện và con người đa chiều, sống động như hiện thực vốn có.
4.2.1. Kết cấu trần thuật đa dạng
Trong hồi kí truyền thống, tác phẩm thường được cấu trúc theo trật tự thời
gian tuyến tính và có kết cấu đơn nhất theo dòng hồi tưởng của nhân vật. Tuy
nhiên với việc học tập các kĩ thuật viết tiểu thuyết, các tác phẩm hồi kí của Tô
120
Hoài đã sử dụng nhiều kiểu kết cấu mới lạ, hiện đại và mang đặc trưng kết cấu
tiểu thuyết. Đó là kết cấu vòng tròn và kết cấu lắp ghép. Mỗi kiểu kết cấu thể
hiện ý đồ của nhà văn trong việc bộc lộ nội dung, tư tưởng của tác phẩm.
4.2.1.1. Kết cấu vòng tròn
Kết cấu vòng tròn là kiểu dàn dựng tác phẩm theo lối đầu cuối tương ứng
với sự lặp lại có chủ đích của các hình tượng nghệ thuật ở đầu và cuối tác phẩm,
tạo nên sự tương xứng mở đầu và kết thúc cho tác phẩm. Việc lặp đi lặp lại nhân
vật, hình ảnh, chi tiết, sự kiện, môtip ở đầu và cuối tác phẩm hồi kí là cách để
nhà văn khắc sâu, nhắc nhở, hồi cố một cách riết róng những kỉ niệm, kinh
nghiệm, bài học từ quá khứ. Kết cấu vòng tròn cũng góp phần biểu hiện cái nhìn
của tác giả hồi kí về hiện thực cuộc sống nhiều tầng bậc, đa dạng cần phải trở đi
trở lại, lật đi lật lại mới có thể thấu hiểu và cảm thông. Đồng thời, kiểu kết cấu
này giúp người đọc có thể hiểu hơn về hành động và tính cách nhân vật mà tác
giả không cần thuyết minh nhiều. Điểm đồng nhất trong cách kết cấu của hai hồi
kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều là kiểu vòng tròn.
Trong Cát bụi chân ai, mở đầu và kết thúc là hình ảnh Nguyễn Tuân ở
những trạng thái khác nhau. Mở đầu tác phẩm là ấn tượng của Tô Hoài về
Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ vừa ngông nghênh, vừa kiêu bạc, tài năng vào thập
kỉ bốn mươi “Tôi kém Nguyễn Tuân mười tuổi. Trước kia, tôi không quen
Nguyễn Tuân” [66; tr.5] và Nguyễn Tuân trong trang phục khác thường “Khăn
lượt vố, áo gấm trần, tay chống dọc chiếc quạt thước thay ba toong, chân bít tất
dận giày mõm nhái Gia Định” [66; tr.5]. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh cuối đời
của Nguyễn Tuân “mặt bơ phờ tía tím…rồi Nguyễn Tuân khép mắt” [66; tr.295]
và thông báo của Đào Vũ “Đêm qua nghe đài báo Nguyễn Tuân mất rồi” [66;
tr.296]. Nguyễn Tuân chỉ còn là tro bụi trong cõi hư vô và niềm nhớ tiếc ngẩn
ngơ của bạn bè “Tôi nghĩ như tôi ngồi uống một mình, Nguyễn Tuân đã nằm
yên từ buổi sáng trước hôm ra đây. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi!” [66; tr.296].
Kiểu kết cấu vòng tròn tỏ ra hữu dụng để Tô Hoài xoáy sâu vào thân phận nhà
văn Nguyễn Tuân, nhân vật trung tâm trong hồi kí của mình. Tô Hoài bao phen
cùng sống và làm việc với Nguyễn Tuân nên hiểu Nguyễn Tuân về mọi mặt từ
121
những chuyện sinh hoạt đời thường đến cá tính nghệ thuật, bản sắc văn chương,
tuy tính cách hai người khác xa nhau. Không phải ngẫu nhiên Tô Hoài lựa chọn
Nguyễn Tuân là tấm bản lề mở khép cho một cuốn hồi kí dài. Một mặt là tình
cảm, là tấm lòng nhà văn Tô Hoài dành cho người bạn mình yêu quý, cảm phục,
người bạn tri kỉ với cuộc đời của mình. Mặt khác, chọn Nguyễn Tuân như một
tâm điểm cho hồi kí, Tô Hoài muốn thể hiện sự hợp nhất của những con người
vốn rất khác nhau về tính cách, hoàn cảnh, lối sống, sở trường nhưng lại cùng
hoạt động dưới mái nhà văn nghệ cách mạng và cùng nhau vượt qua rào cản
khách quan và chủ quan để hướng đến mục đích cao nhất. Chân dung Nguyễn
Tuân hiện ra có phần lập dị, khác người mà hết sức thanh cao, một biểu tượng
cho sức sống bất diệt của những giá trị văn hóa lâu bền.
Ở tác phẩm Chiều chiều, mở đầu là hành trình về xóm Đồng, Thái Bình của
nhà văn “Hôm sau, đi Thái Ninh sớm. Cái xóm tôi đến là xóm Đồng” [70; tr.30]
và hình ảnh ông Ngải, người nông dân chất phác khỏe mạnh cần cù “Ông Ngải
luẩn quẩn quanh bụi tre lép, tha việc ra đấy làm, kể cái ấm điếu, ấm nước” [70;
tr.39]. Kết thúc tác phẩm vẫn là hành trình nhà văn trở lại xóm Đồng “Tôi lại về
xóm Đồng…Mỗi khi trở lại những nơi đã từng đến, tôi hay nhớ lại kỉ niệm từ
thuở bé” [70; tr.495] và hình ảnh ông Ngải sau mấy chục năm trời “Pho tượng
Phật nhịn ăn gày giơ xương trên chùa Tây Phương, đấy là ông Ngải” [70; tr.504].
Cùng là hình ảnh xóm Đồng, cùng là hình ảnh ông Ngải ở đầu và cuối tác phẩm
nhưng có sự tương phản giữa cuộc sống và con người trong quá khứ và hiện tại.
Một xóm Đồng trong quá khứ nghèo xác xơ trở thành một xóm Đồng tân tiến
với nhà nhà đương đổi mới trong hiện tại. Một ông Ngải vạm vỡ, khỏe mạnh trở
thành một ông Ngải già nua, chậm chạp.
Kết thúc tác phẩm là sự trở lại xóm Đồng chỉ trong vài ba ngày của nhà văn
nhưng là những dòng tâm sự ngắn ngủi và cảm động như một chuyến hành
hương thực sự. Tình nghĩa con người đã biến xóm Đồng thành quê hương, biến
mỗi người dân vùng thôn quê Thái Bình thành những cố nhân sau bao năm xa
cách. Với kiểu kết cấu vòng tròn, Tô Hoài đặt ra nỗi trăn trở về hành trình ra đi
và trở về, cái còn và mất theo dòng thời gian; cái đã mất trong cái còn giữa cuộc
122
đời này ở mỗi con người. Có những đổi thay khiến lòng người tuy có chút hụt
hẫng, ngỡ ngàng nhưng phấn khởi, vui sướng. Có những đổi thay khiến lòng
người không khỏi ngậm ngùi, xót xa vì luyến tiếc. Nén trong cái vòng tròn quá
khứ là nỗi đau, là sự trăn trở khôn nguôi về cuộc sống, thời cuộc, số phận con
người trong lòng nhà văn Tô Hoài.
Sử dụng kiểu kết cấu vòng tròn ở hai hồi kí, Tô Hoài còn có dụng ý tạo
dựng trong cái vòng tròn đó là bao cảnh đời, bao số phận con người “gập ghềnh,
trắc trở” trong sự biến thiên của lịch sử, đời sống xã hội. Đó là số phận của
những văn nghệ sĩ cùng thời như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Nguyễn Bính,
Nguyên Hồng, Phùng Quán… với không ít những thói tật và một cuộc đời truân
chuyên, bất hạnh, đầy sóng gió. Đó là số phận của tầng lớp quần chúng nhân dân
bình dị đến từ mọi miền quê buồn nhiều hơn vui như Ly Chờ, Thào Mỷ, Chúng
Thị Phà, ông Ngải, anh bí thư Sự...
4.2.1.2. Kết cấu lắp ghép
Kết cấu lắp ghép là kĩ thuật tái lập hiện thực từ những mảnh ghép khác
nhau. Dấu hiệu của lắp ghép là sự thay đổi đột ngột về nội dung, là sự ngắt
quãng, đứt gãy về thời gian và sự dịch chuyển về không gian. Hồi kí truyền
thống thường được kể theo trình tự thời gian, sự kiện nào xảy ra trước thì kể
trước, sự việc nào xảy ra sau kể sau. Tuy nhiên, Tô Hoài đã dùng tư duy của một
nhà văn viết tiểu thuyết vào việc hồi ức lại những sự kiện, nhân vật. Hồi ức
trong hồi kí của nhà văn chạy lan man, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, có lúc
chồng chéo lên nhau. Trong hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Tô Hoài đã
sắp xếp mỗi chương là một sự kiện hay một nhân vật nhưng khi đọc kĩ từng
chương, người đọc nhận ra Tô Hoài đã có những bước chuyển thời gian và
không gian khiến trình tự biên niên bị phá vỡ. Sự đảo lộn trật tự thời gian do ý
định của tác giả muốn chuyển chủ ý của người đọc từ sự kiện xảy ra bên ngoài
sang nội tình bên trong, sâu sắc của nhân vật. Với kiểu kết cấu này, mạch truyện
không được kết nối liên tục mà có sự đứt quãng, đan cài, xáo trộn giữa việc và
người, giữa quá khứ và hiện tại.
Ở hồi kí Cát bụi chân ai, Tô Hoài chia làm sáu chương. Mỗi chương được
123
sắp xếp theo diễn biến của một câu chuyện tương ứng với một mạch của tư duy
tuy nhiên sự kiện và thời gian lại có sự đảo lộn, tạt ngang chồng chéo của những
hồi tưởng. Tô Hoài đã kể các sự kiện không theo trình tự thời gian. Mở đầu là
thời gian đầu thập kỉ 40 - Hà Nội quanh Hồ Gươm, khi đó nhà văn còn trẻ, chưa
quen Nguyễn Tuân, chỉ thấy Nguyễn Tuân đi dạo và hiện lên với cách ăn mặc
khác thường. Tiếp đến, thời điểm những năm 60 - ngã Sáu Hàng Kèn, nơi diễn
ra cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của con người. Quay ngược thời gian là năm
1949 - Chiến dịch sông Thao, nhà văn và Nguyễn Tuân theo tiểu đoàn 54 và nói
về Két - người trung đội trưởng đã hi sinh nằm lại bên kia bờ sông Thao. Sau
1954 – Ngã sáu Hàng Kèn, mỗi người lại tìm về những kỉ niệm của mình.
Ngược dòng lịch sử, theo dòng hồi ức tác giả, người đọc được trở về với không
gian của những năm sau Cách mạng tháng Tám. Trong dòng hồi tưởng của mình,
Tô Hoài lại nhắc tới Aki, người bạn Nhật ở với nhà văn trong chín năm kháng
chiến ở núi Thượng Yên. Không gian “cánh rừng Thượng Yên” đã để lại nhiều ấn
tượng cho Tô Hoài, đó là không gian vô cùng hiểm hóc, ghi dấu nhiều kỉ niệm với
những người bạn của mình trong kháng chiến. Quá khứ và hiện tại đan xen lẫn lộn
theo dòng hồi tưởng khi đứt khi nối, sự kiện cứ ập về hỗn độn, ngổn ngang.
Tô Hoài tái dựng chân dung các văn nghệ sĩ cũng không theo trình tự. Mở
đầu tác phẩm, nhà văn nói về Nguyễn Tuân - một con người tài hoa, cá tính,
khát khao được “xê dịch”. Sang chương hai, Tô Hoài bắt đầu câu chuyện kể về
nhà văn Nguyên Hồng với “đặc sản nem Sài Gòng” làm từ nhân rau bà đẻ lại
chuyển sang câu chuyện của Nguyễn Bính với tuần báo “Trăm hoa” và những
mối tình của thi sĩ. Tiếp đó, nhà văn lại liên tưởng tới Nguyễn Huy Tưởng,
người mà khi về thành phố trở nên lầm lì, đăm chiêu, ít nói. Ở những chương
tiếp theo, nhà văn lại kể về các văn nghệ sĩ cùng thời và những câu chuyện khác.
Theo dòng hồi tưởng, các sự kiện, các tình tiết, chân dung cứ gợi, cứ dồn dập
tưởng chừng người đọc bị choáng ngợp trước cách trần thuật đó.
Hồi kí Chiều chiều được chia làm năm chương: chương một là thời gian
nhà văn đi thực tế ở xóm Đồng - Thái Bình, chương hai là thời gian nhà văn ở
trường Đảng, chương ba là nhà văn làm trưởng khu phố, chương bốn là những
124
chuyến đi nước ngoài của nhà văn, chương năm là sự trở về xóm Đồng. Tưởng
như các lớp sự kiện, thời gian và không gian trong từng chương được phân chia
một cách rõ ràng nhưng người đọc nhận thấy vẫn là kiểu lắp ghép, đan xen,
chồng chéo các sự kiện lên nhau. Nhà văn đang nói đến Nguyễn Sáng không đi
thực tế chỉ vì phải lòng các cô bán kem ở hiệu Tiến Đạt, lại chuyển sang nói về
Nguyễn Khắc Dực, Nguyễn Hoạt, Mộng Sơn, Hồ Zếnh. Nhà văn đang nói về
ông Ngải lại liên tưởng đến ông Phan Khôi vì ông Ngải có nước da nhờn nhợt,
mai mái, không trắng, không sạm như ông Phan Khôi. Nhà văn đang nói về
Phùng Quán lại chuyển sang những ngày đi thực tế ở xóm Đồng rồi chuyển sang
nói về những ngày đi cải cách Hải Dương. Tô Hoài đang kể về người bạn Platon
- người Ucraina, bất chợt nhà văn kể lại sang chợ nông trường ở Pitsunđa và
những người bạn. Tác phẩm được kể theo cách tự nhiên, “lộn xộn” theo cảm xúc
và trí nhớ của nhà văn. Với sự pha trộn của lối kể theo hồi ức của tác giả hồi kí
và vận dụng kĩ thuật lắp ghép trong kết cấu tiểu thuyết đã tạo cho người đọc sự
ngạc nhiên, thích thú và dẫn người đọc đi từ hết bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Đọc hai tác phẩm hồi kí của Tô Hoài, người đọc nhận thấy không khác gì một
cuốn tiểu thuyết viết theo phong cách hậu hiện đại. Kiểu kết cấu lắp ghép, cách
trần thuật gián cách chính là dụng ý của nhà văn chủ động trong việc xâu chuỗi kết
nối các yếu tố trong câu chuyện theo mạch ngầm liên kết văn bản. Khi kể chuyện,
nhà văn không gò ép trí nhớ của mình, không cố ý sắp xếp tái tạo các sự kiện mà
để hồi ức diễn ra thật tự nhiên và chảy trôi trên trang giấy. Đây chính là một sự đổi
mới, tìm tòi của nhà văn trong việc thể hiện kết cấu của hồi kí.
4.2.2. Trần thuật đa điểm nhìn
Trong hồi kí truyền thống, các sự kiện được tái hiện từ điểm nhìn của một
người kể chuyện “toàn tri” từ hiện tại nhìn về quá khứ. Các tác phẩm hồi kí theo
xu hướng hiện đại thường lựa chọn điểm nhìn của người kể chuyện “bất toàn tri”
và luân phiên điểm nhìn trần thuật đến những nhân vật khác nhau trong tác
phẩm. Trong hai hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều, điểm nhìn trần thuật
được tổ chức khá đa dạng và linh hoạt, vị trí của người trần thuật xuất phát từ
nhiều điểm nhìn. Có điểm nhìn của nhà văn Tô Hoài từ hiện tại hướng về quá
125
khứ, có điểm nhìn trao cho các nhân vật. Nhờ vậy, người kể chuyện trong tác
phẩm “không đông cứng” mà luôn có sự hoán đổi vị thế. Sự dịch chuyển điểm
nhìn từ bên ngoài vào bên trong, từ người kể chuyện sang nhân vật là một điểm
độc đáo tạo cho hồi kí của Tô Hoài đậm chất tiểu thuyết.
4.2.2.1. Điểm nhìn trần thuật của người kể chuyện
Theo đặc trưng của thể loại, đa phần các hồi kí đều kể chuyện từ ngôi thứ
nhất - một cái tôi thông suốt, kể về mình, kể về những người có mối quan hệ với
mình, kể về những kỉ niệm gây ấn tượng sâu đậm trong hồi ức. Đây là điểm nhìn
của Tôi hiện tại nhìn về quá khứ để đánh giá lại những điều xảy ra trong quá khứ.
Vì vậy, trong hai tác phẩm hồi kí, điểm nhìn trần thuật là nhân vật “tôi” – người
kể chuyện. Mặc dù, ở hai tác phẩm hồi kí người kể chuyện đều xưng tôi ở ngôi
thứ nhất để tường thuật mọi sự việc nhưng cái tôi tác giả vẫn giữ được quan
điểm trần thuật khách quan. Bằng điểm nhìn từ bên ngoài, Tô Hoài cứ khơi khi
kể ra những việc mình đã làm trong cải cách ruộng đất: “Nhưng bây giờ đi làm
cải cách về xã coi như không biết, không được phép biết, không chào hỏi không
bắt tay - không mảy may giao thiệp với tổ chức sẵn có” [70; tr.11]. Tô Hoài cứ
tửng tưng kể theo giọng “vô âm sắc” những chuyện mình đã từng làm, những sai
lầm mình đã gây ra cho cuộc sống của người nông dân thời kì đó. Tô Hoài đi
thực tế nhưng ông chỉ biết làm theo một cách hoàn toàn máy móc không hề hiểu
tính chất của mình đang làm, có lúc ông đã tự nhận mình là kẻ “mồm miệng đỡ
chân tay, tủn mủn hay chế giễu cả những việc giản dị”. Từ điểm nhìn của người
kể chuyện, Tô Hoài đã không ngần ngại phơi bày tính cách, thói tật của các văn
nghệ sĩ, bạn bè đồng nghiệp của mình. Họ hiện lên một cách chân thực bằng cự
li gần, ở phương diện đời thường. Con người họ cũng có những toan tính, đố kị,
những ham muốn thường nhật của “con người” và đằng sau mỗi nghệ sĩ đều có
nỗi đau đớn và bất hạnh với những số phận không giống nhau. Chứng kiến
những cuộc đời đau khổ đó, Tô Hoài không khỏi ngậm ngùi: “Bốn mươi năm
trước với bây giờ khác quá mà không tự biết, cuộc sống xã hội và đời mình.
Tuổi nhiều thì ngại đổi thay, mà chứ như định mệnh không tránh được” [66;
tr.451]. Vẫn giữ thái độ khách quan, Tô Hoài kể về những số phận đầy bi kịch
126
khi nhà văn làm trưởng ban khu phố. Tô Hoài cảm thấy xót xa trước cuộc đời
những đứa trẻ mới sinh ra bị bỏ rơi vứt bên hồ, người phụ nữ bất hạnh như cô
Dung bỏ chồng. Hay cảnh anh Vân ở cái hố xí hai ngăn ngột ngạt bẩn thỉu, anh
bị ho lao cuối cùng chết ở bệnh viện Bạch Mai, vợ anh Vân ẵm con đi ở nơi khác.
Tô Hoài đã đặt điểm nhìn sự kiện và con người từ bên ngoài để kể một cách tự
nhiên chân xác nhất những gì xảy ra trong quá khứ mà cuộc đời nhà văn đã trải qua,
đã chứng kiến. Vì thế, hồi kí của Tô Hoài luôn mang tính khách quan.
Từ điểm nhìn bên ngoài, nhà văn chuyển vào điểm nhìn bên trong. Là
người trong cuộc, Tô Hoài đã kể những tháng ngày học ở trường Nguyễn Ái
Quốc. Mặc dù, Tô Hoài được cử đi học ở một trường nổi tiếng và danh giá
nhưng nhà văn lại cảm thấy đi học chỉ mang hình thức đối phó, không học được
chút kiến thức gì: “Vừa học vừa nhớ lăng nhăng, làm thế nào cho có tri thức. Có
lẽ chẳng bao giờ. Tôi vẫn chỉ là tôi vậy, vậy thôi” [70; tr.121]. Tô Hoài còn bộc
bạch tự nhiên về lần đi thi của mình: “Tôi không còn là trẻ con nộp giấy trắng
như cái năm thi trượt vào trường Bưởi. Tôi cũng không hiền lành chép bài như
chị bạn dạy tôi làm dấm chuối. Thế mà rồi tôi cũng viết được kín vài trang giấy”
[70; tr.121]. Nhà văn đã không ngần ngại kể về góc khuất của những người bạn
đi học tập ở ngôi trường này. Có những ông này bà nọ, ở trung ương hay ở các
tỉnh trốn học đến tài. Có những người không làm bài kiểm tra, nhờ người làm hộ.
Thành phần đi học lớp này đủ kiểu với nhiều mục đích khác nhau “Có người
được đi trau dồi kiến thức, chuẩn bị lên cấp. Có người lão quá, đi học là một ưu
đãi tinh thần rồi về hưu. Có cán bộ chẳng sắp việc nào cho êm, thì hãy gửi đi
học cái đã” [70; tr.124]. Với điểm nhìn bên trong, Tô Hoài đã cho người đọc cái
nhìn khách quan, toàn diện về thực tế của một ngôi trường nổi tiếng, về đời sống
bên trong của những học viên “gương mẫu” khi học tập ở đây. Điểm nhìn bên
trong còn giúp nhà văn thể hiện những suy ngẫm về chính bản thân mình. Tô
Hoài tự nhận mình là: “Tôi chỉ là một người tẻ nhạt và yếu đuối” [70; tr.160],
“Tôi là con ếch Cu Ba, ở rừng thì da xanh thẫm lá rừng, ở ruộng mía thì đổ màu
lá mía, đến mùa hoa, lưng ếch chấm đỏ, chấm vàng cánh hoa rơi” [70; tr.167].
Trong những tháng ngày đi cải cách ruộng đất và ở thời kì Nhân văn - Giai
127
phẩm, nhà văn luôn tự vấn, ăn năn, hối lỗi về những sai lầm khuyết điểm của
mình, tự thấy mình là “Con người bẩn thỉu và đầy rẫy lỗi lầm”. Trần thuật từ
điểm nhìn của nhân vật “tôi”, từ điểm nhìn bên trong là dịp thuận lợi để nhà văn
nói cho đã, cho thỏa những trạng thái tình cảm, những suy nghĩ của mình về con
người và cuộc đời mà nhà văn đã nhiều lần trăn trở, dằn vặt và day dứt.
Như vậy, với điểm nhìn trần thuật của người kể chuyện xưng “tôi”, Tô
Hoài có cơ hội bày tỏ nỗi lòng của mình như một lời sám hối và giúp nhà văn
tái hiện một cách chân thực đời sống và con người trong những năm tháng nhà
văn đi làm cải cách ruộng đất, làm trưởng ban khu phố và khi học ở trường
Nguyễn Ái Quốc.
4.2.2.2. Điểm nhìn trần thuật trao cho nhân vật
Trong hai hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều, không chỉ có điểm nhìn
trần thuật của người kể chuyện, tác giả còn dịch chuyển điểm nhìn sang các
nhân vật và trao cho nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm luân phiên đóng vai
trò người kể chuyện, từng ấy nhân vật bày tỏ cách nhìn riêng của mình về hiện
thực. Tô Hoài đã trao điểm nhìn trần thuật cho các nhân vật như Nguyễn Tuân,
ông cà phê 81, ông Ngải, vợ bí thư Sự…, nhà văn đã để họ tự kể bằng suy nghĩ,
nhận xét, chiêm nghiệm của bản thân mình. Với sự di động điểm nhìn từ người
kể chuyện sang nhân vật, Tô Hoài một mặt muốn tạo nên hiệu quả “khách quan
hóa” hiện tượng được nói tới, mặt khác tạo nên một màu sắc mơ hồ, một giọng
nói đa âm, khó định ở các nhân vật của mình. Sự luân chuyển điểm nhìn trần
thuật khiến câu chuyện quá khứ không đơn điệu, hiện thực đời sống, chân dung
nhân vật trở nên đa diện và sinh động. Sự phối hợp nhiều điểm nhìn làm cho tác
phẩm chuyển từ đơn thanh sang đa thanh, gia tăng tính đối thoại, cùng lúc vang
lên nhiều tiếng nói khác nhau trong cùng một tác phẩm. Sự dịch chuyển điểm
nhìn trần thuật trong Cát bụi chân ai và Chiều chiều thể hiện sự cách tân sáng
tạo trong nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài.
Trong hồi kí Cát bụi chân ai, vô vàn những lời đối thoại, độc thoại cất lên,
vô vàn những cái “tôi” đứng ra kể câu chuyện, đôi khi chỉ kể lại một chi tiết,
một mảnh vụn hay một ý nghĩa nào đó…Nguyễn Tuân là nhân vật ấn tượng xuất
128
hiện từ đầu đến cuối tác phẩm. Có đoạn Tô Hoài đã trao lời kể cho Nguyễn Tuân.
Việc trao điểm nhìn cho nhân vật nguyễn Tuân tạo nên một lợi thế đắc địa, giúp
cho Tô Hoài có điều kiện khắc sâu cái cốt cách thanh cao nhưng cũng rất đời
thường của con người tình nghĩa Nguyễn Tuân. Giao phó nhiệm vụ thuật chuyện,
phán xét cho Nguyễn Tuân, Tô Hoài không cần giới thiệu mà để Nguyễn Tuân
tự bộc bạch những suy nghĩ của mình: “Kể ra mình cũng có tội. Cái tội hay nói
bô bô, không kín võ được như cậu. Mà tớ chẳng có võ gì cả. Cũng không biết
bơi, không biết cưỡi ngựa. Bởi thế mới sinh chuyện. Nhưng cũng không bực
mình vì mọi thứ người ta đổ lên đầu đâu. Mình không nói thì thằng khác nói”
[66; tr.68]. Qua lời trần tình của Nguyễn Tuân, người đọc thấy Nguyễn Tuân là
con người có cá tính mạnh, trung thực, thẳng thắn với lòng mình. Để diễn tả tâm
trạng chán chường trước số phận bạc bẽo và thời điểm “sức cùng lực kiệt” của
Nguyễn Tuân, Tô Hoài đã để cho nhân vật tự bộc bạch tất cả. Nguyễn Tuân đau
đớn, xót xa khi ra nước ngoài, ông cảm thấy mình chỉ là một nhà văn quèn: “Đã
ngỡ ra quang cảnh tưng bừng sách của mình bày bán bát ngát nước trong nước
ngoài. Hàng năm xách vali đi du lịch bằng tiền túi của mình. Phải có cô thư kí
riêng chứ - thuê một cô hay là luyện cho con gái mình làm thư kí. Nhưng đến
Bắc Kinh thăm khu chợ Đông Anh, hai tay đút túi, chỉ để xem hàng…Dần dần
đến bây giờ, thế này đây, cái thằng nhà văn!” [66; tr.283]. Nguyễn Tuân là nhà
văn một đời mộng tưởng về tương lai, về sự nghiệp, về hạnh phúc nhưng cuối
cùng Nguyễn Tuân phải đối diện với thực tại khác xa với mơ ước trong mình.
Nguyễn Tuân còn ngoảnh mặt với cái máy chữ đã từng gắn bó với nghề nghiệp
suốt đời: “Ông xách nó đi cho tôi. Tôi không gán nợ ông đâu nhé. Dưng mà ông
mang đi đâu thì mang. Cho khuất mắt tôi, không có lúc tôi phải đem ra đập nó
mất. Mang đi, mang đi giúp tôi” [66; tr.284]. Đã đến lúc ông coi cái nghề văn
bạc bẽo với cuộc đời với chính mình. Những dòng suy nghĩ của Nguyễn Tuân
cứ tuôn chảy trên trang giấy, người đọc thấy được sự giằng xé nội tâm trong con
người Nguyễn Tuân bằng chính sự phán xét của bản thân. Nguyễn Tuân cảm
thấy tủi hổ chán chường bởi thân phận nghèo túng và sự bạc bẽo của nghề
nghiệp. Những lời ông nói ra với thái độ “phản tư”, cái nhìn mỉa mai tự cười ra
129
nước mắt. Ngoài nhân vật Nguyễn Tuân được coi là trung tâm, Tô Hoài còn
khéo léo, linh hoạt dịch chuyển điểm nhìn sang ông lão cà phê 81 để tạo sự đối
thoại, tranh biện. Theo mạch cảm xúc, Tô Hoài cứ để cho ông lão cà phê 81 kể
về thời trai trẻ làm bồi bàn kiêm nấu nướng cho người Tây, kể về sở thích ăn
uống, thói quen của họ: “Ở Huế làm bồi, tôi kiêm cả chân bếp…Nấu nướng cho
Tây chẳng khó như cao lâu Tàu” [66; tr.29]. Rồi ông cà phê 81 hồn nhiên kể lan
man sang những chuyện phố phường từ Huế lên Bạch Mã đến khi Grapphơi hết
hạn ở Đông Dương về Pháp đem theo cả “thằng bếp giỏi”. Đó là bối cảnh sinh
thái để mạch cảm xúc, mạch hồi tưởng của nhân vật cứ thế tuôn ra, không hề
giấu diếm, không hề ngần ngại.
Trong Chiều chiều, có lúc người kể chuyện hóa thân vào nhân vật ông Ngải,
nhường quyền phát ngôn cho nhân vật, để tạo điểm nhìn từ nhân vật “Tôi bảo
cái tay tôi đã làm nên đồng đất này, tôi biết nuôi nó lúc đói lúc no thế nào. Các
người ai cũng tưởng ai cũng làm, làm thế nào cũng được sao. Cái cày máy có lia
được vào bốn góc ruộng đâu lại phải cần đến thằng cày chìa vôi. Để đấy, vụ này
tôi làm. Thế là tôi lại vác cuốc ra” [70; tr.170]. Cả một đời ông Ngải tự tay lao
động, chăm chỉ cần cù để có cơ ngơi như thế này. Đôi khi người kể chuyện lờ đi
để nhân vật ông Ngải tự bộc lộ suy nghĩ của mình “Ông Ngải tính nhẩm hình
như công điểm nhà ông có dôi ra. Dôi ra thì có lợi chứ sao, nhầm lẫn mới là thiệt.
Nhưng không, nhà mình được, nhà khác mất rồi người ta moi đến thì lòi đuôi.
Cứ phân minh trước sau. “Cả đời tôi chẳng ăn không của ai bao giờ” [70; tr.94].
Lời trần thuật của người kể chuyện trao cho ông Ngải để ông tự bộc lộ bản tính
chân chất, thật thà của người nông dân quanh năm gắn bó với ruộng đồng.
Thông qua điểm nhìn trần thuật của ông Ngải, Tô Hoài đã tạo nên được cái nhìn
khách quan, sâu sắc về cuộc đời và hiện thực đời sống. Bên cạnh đó, Tô Hoài
còn trao lời kể cho vợ bí thư Sự “Lần này tôi làm người đi cho sữa. Tôi cầm đòn
gánh, khua cả vào bụi chuối, làu bàu râm ran…Trong bụi chuối không thấy nhúc
nhích, tôi vào báo được cho trạm, lúc về lại cứ quơ đòn gánh, ca cẩm chửi” [70;
tr.51]. Cách trần thuật hoán đổi vị thế, trao điểm nhìn cho các nhân vật không
những tạo điều kiện cho Tô Hoài thâm nhập sâu sắc vào thế giới bên trong của
130
con người mà còn mở ra khả năng trong việc phản ánh hiện thực cuộc sống và
nắm bắt những cá tính, phẩm chất của những thói tật “của mỗi con người trong
tất thảy các mối quan hệ” và thể hiện rõ quan niệm sáng tác của nhà văn “Con
người là con người, cuộc đời là cuộc đời”.
Như vậy, đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật góp phần làm nên tính đa âm
cho hồi kí Tô Hoài, từ một giọng của người kể đạt đến một sự đan xen, hòa trộn
nhiều giọng trong tác phẩm. Sự luân phiên điểm nhìn trong hồi kí Tô Hoài cho
thấy sự linh hoạt của các kiểu tổ chức miêu tả và bình luận khi tái hiện câu
chuyện. Đồng thời góp phần tạo ra một kết cấu đa tầng bậc cho câu chuyện và
tạo nên một chỉnh thể tác phẩm hấp dẫn. Sự kết hợp nhiều điểm nhìn cho thấy kĩ
thuật tự sự của nhà văn có nét đặc biệt, điều này đã mang đến tính tiểu thuyết
trong hồi kí Tô Hoài, thể hiện ở khối hiện thực chưa hoàn kết trong tác phẩm.
Hồi kí của Tô Hoài có những yếu tố của một tiểu thuyết phức điệu, đa thanh. Cái
độc đáo là nhà văn biết kết hợp các điểm nhìn trong tác phẩm của mình một
cách khéo léo, không phải là sự lắp ghép gượng gạo.
4.3. Chất hồi kí trong tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945
Tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 một mặt vẫn giữ được đặc điểm thi pháp thể
loại, mặt khác sử dụng một số chất liệu của thể hồi kí. Người đọc nhận thấy cái
hao hao giống thật giữa hiện thực trong tác phẩm và hiện thực ngoài đời của của
cuộc sống; giữa con người đời thực của tác giả và nhân vật chính trong tác phẩm
làm cho câu chuyện, sự kiện được kể chân thực và rõ nét hơn. Người kể chuyện dù
ở ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba đều in đậm cái tôi cá nhân của nhà văn. Hiện tượng
tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945 đậm chất hồi kí giúp người đọc không chỉ nhận diện
con người tác giả và thời đại qua những chi tiết gắn với tiểu sử, cuộc đời thật mà
còn qua những trải nghiệm sống và sự bộc bạch chân thành của tác giả.
4.3.1.Tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư
Tô Hoài đã tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư, ông vừa cố tình làm cho mọi
người nhận ra ngay lập tức khuôn mặt của mình trong tiểu thuyết nhưng đồng
thời cũng cố tình làm cho hình ảnh nhân vật trong tác phẩm càng khác ông nhiều
131
bao nhiêu càng hay.
4.3.1.1. Từ nguyên mẫu nhà văn đến nhân vật
Nguyên mẫu ngoài đời trở thành nhân vật trong tác phẩm văn học là một
hiện tượng không lạ trong quá trình sáng tác của nhà văn. Nam Cao xây dựng
các nhân vật Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, Lão Hạc, Lang Rận, Trạch Văn Đoành
đều là những nguyên mẫu người thật ở làng Đại Hoàng nghèo, nơi chôn nhau cắt
rốn của nhà văn. Nguyễn Trung Thành trong tác phẩm Rừng xà nu xây dựng
nhân vật Tnú, hình tượng người anh hùng tiêu biểu cho nhân dân Tây Nguyên
dựa trên cuộc đời, số phận và cuộc khởi nghĩa của anh Đề. Anh Đức trong Hòn
đất xây dựng nhân vật chị Sứ dựa trên hình tượng chị Phan Thị Ràng, người phụ
nữ anh hùng An Giang. Bên cạnh những con người thực, cuộc đời thực bất kì ở
đâu đó được nhà văn lựa chọn để đưa vào trong tác phẩm thì cũng có những
nhân vật được nhà văn xây dựng dựa trên những chất liệu đời thực của mình, lấy
từ nguyên mẫu của chính bản thân. Nguyên mẫu và nhân vật vừa có những điểm
tương đồng vừa có những điểm khác nhau. Nhà văn bằng tài năng nghệ thuật,
bàn tay và khối óc dựa trên nguyên mẫu để tạo ra những hình tượng nhân vật
riêng. Khác ở chỗ, nhà văn không bê nguyên con người thực của mình đặt vào
trang viết mà làm nhiệm vụ chọn lọc, hư cấu, sáng tạo một số “chi tiết” làm cho
nhân vật trở thành chỉnh thể nghệ thuật và hoàn mỹ hơn. Vì vậy, người đọc bắt
gặp rất nhiều tiểu thuyết mà nhân vật mang hình bóng của nhà văn. Trong tiểu
thuyết Gia đình bé mọn, nhân vật Mỹ Tiệp từ xuất thân cho tới hoàn cảnh, đam
mê nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình đều mang dáng dấp từ chính thực tế cuộc
đời của nhà văn Dạ Ngân. Nhân vật Chín trong Tiền định có hoàn cảnh xuất thân,
chuyện tình yêu, gia đình song trùng với tiểu sử của nhà văn Đoàn Lê. Nhân vật
Khải trong Mực mài nước mắt có những nét tương đồng về xuất thân, lai lịch,
hoàn cảnh sống với con người đời thực của nhà văn Lan Khai. Nhân vật Dần
trong Sống nhờ của Mạnh Phú Tư có “sơ yếu lí lịch” đời mình gần như trùng
hợp với mảng lí lịch của tác giả: từ cảnh mồ côi ngay từ bụng mẹ cho đến cảnh
mẹ Dần đi thêm bước nữa, cảnh Dần sống trong chuỗi ngày dài đày đọa, bị
khinh rẻ và hành hạ của người thân. Trong Đám cưới không có giấy giá thú,
132
hình ảnh một lớp giáo viên vừa ra trường, sẵn sàng rời thành phố, lên “cắm bản”
trên vùng núi còn lạc hậu, nghèo đói phần nào mang bóng dáng của nhà văn Ma
Văn Kháng và bạn bè của ông.
Việc các nhà văn sử dụng chất liệu đời tư, lấy từ nguyên mẫu của chính bản
thân để xây dựng nhân vật trong tác phẩm đã làm cho nhân vật trở nên chân thực
hơn, tạo niềm tin với người đọc đồng thời như một phương thức nghệ thuật để kí
thác, gửi gắm những tâm sự, chiêm nghiệm, nhìn lại và khám phá chính mình.
Trong các tiểu thuyết của Tô Hoài giai đoạn sau 1945, không có bất cứ một nhân
vật nào mang tên Tô Hoài, không có nhân vật nào có hoàn cảnh, cuộc đời, số
phận hoàn toàn trùng khít với nhà văn nhưng người đọc vẫn nhận ra những điểm
song trùng giữa những sự kiện trong cuộc đời nhân vật và nhà văn, vẫn nhận
thấy thấp thoáng trong từng trang văn bóng dáng của Tô Hoài.
Trong tiểu thuyết Mười năm, người đọc nhận ra bóng dáng của Tô Hoài và
bạn bè của nhà văn đằng sau hình ảnh những người thanh niên làng Hạ như Lê,
Lạp, Trung, An, Ba. Có thể thấy, cuộc đời của nhân vật Lê trong tác phẩm hao
hao giống với cuộc đời của Tô Hoài ngoài đời thực. Nhân vật Lê là hình bóng
của nhà văn Tô Hoài - chàng thanh niên ít học nhưng luôn khao khát được học,
được viết báo, hình bóng của một chàng thanh niên bồng bột, sôi nổi trong các
hoạt động và luôn hướng đến một cuộc sống thanh bình. Viết về ước muốn của
Lê, Tô Hoài như sống lại thời thanh niên của mình, có cái háo hức, say mê “Lê
thèm, Lê thấy khát khao viết” [72; tr.20]; “Lê, Lạp đều là những cậu nhai a, b, c
ở nhà, học vu vơ thế rồi cũng hóa ra đọc được. Họ mê mải lạ lùng, sách gì cũng
được, chuyện gì cũng bàn cãi và đêm ngày gò lưng nằm viết bài, chép thơ, viết
thư tình chẳng gửi cho cô nào cả mà để đọc với nhau” [72; tr.42]. Lê là người
hay trăn trở, suy tư về cuộc sống hiện tại “Cái khung cửi như cái cùm, giam
người và giam hãm tinh thần lại. Phải thoát ra khỏi khung cửi, làm một cái gì to
lớn khác” [72; tr.21]. Lê không muốn hàng ngày quẩn quanh bên cái khung cửi,
Lê muốn thay đổi, đó là sự thay đổi trong tư tưởng, hành động cùng quá trình
giác ngộ cách mạng. Lê khao khát được đi “Lê lại nôn nao, muốn bỏ hết, muốn
bay nhảy ngay. Cái do dự nhất xưa nay là đi đâu, làm gì. Lê sẽ đi Hải Phòng. Lê
133
tưởng tượng ra thành phố cửa bể Hải Phòng. Đấy là nơi hoạt động, nơi tranh đấu.
Hi vọng và chí hướng Lê đặt vào đấy” [72; tr.50-51]. Qua khao khát của nhân
vật Lê, người đọc nhận ra cái khát khao của Tô Hoài một thời: cái tuổi hai mươi
vẫn chưa nguôi khát vọng của một tuổi trẻ ham hoạt động, muốn đi tìm con
đường đấu tranh. Càng đọc tác phẩm, người đọc càng nhận thấy nhiều chi tiết
tiểu sử, sự thật đời tư của Tô Hoài giống với nhân vật Lê. Tô Hoài cũng đã thấm
thía cảnh thất nghiệp, phải đi Hải Phòng tìm việc rồi bị bắt vào lính chẳng khác
gì tình cảnh của anh Lê. Những dấu mốc trong cuộc đời Tô Hoài vào những năm
phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi đều thấy có trong hoạt động của thanh niên
làng Hạ. Bản thân Tô Hoài đã tham gia phong trào bình dân, tham gia Thanh
niên phản đế và phong trào Việt Minh, sống giữa những người thợ dệt như các
nhân vật Lê, Lạp, Trung, An, Ba trong tác phẩm. Dẫu có những nét tương đồng
giữa nhân vật Lê và cuộc đời Tô Hoài ở một vài điểm nhưng hoàn toàn không
trùng khít, người đọc vẫn nhận thấy độ lệch về hoàn cảnh xuất thân của Lê (Lê
nghèo khổ, ở với bố và bị đối xử thậm tệ từ khi còn nhỏ), hoạt động tiếp nối của Lê
sau khi rời làng Hạ: Lê ốm sốt, bị đánh ở Hải Phòng rồi đi đồn điền cao su và bỏ
trốn, Lê sang nước Cao Miên lúc nào không biết. Cuộc đời về sau của Lê cũng
không được nhà văn nói tới mà chỉ thông qua cuộc nói chuyện của Lạp và Trung.
Trong tiểu thuyết Ba người khác, nhân vật Bối là bóng dáng của nhà văn
trong những năm tháng đi cải cách ruộng đất. Đối chiếu giữa nhân vật Bối trong
tác phẩm và con người tiểu sử của nhà văn có những nét tương đồng. Bối được
cử đi cải cách ở Nga Sơn, Thanh Hoá “Một việc tôi nhớ mãi. Có một cố nông
huyện Nga Sơn được lên cán bộ đội đã đi làm cải cách hai đợt” [69; tr.9]; rồi ở
Hải Dương, Hải Phòng “Đợt này, khu vực làm bao trùm cả Hải Dương, Kiến An,
cải cách thẳng, không qua giảm tô” [69; tr.10]; “Chúng tôi được đưa từ Thanh
Hóa ra hỗ trợ chỗ khó” [69; tr.11]; sau đó là Thái Bình “Bên Quỳnh Côi sang
phải không?” [69; tr.12]. Đi cải cách, Bối được cấp trên cử làm đội phó phụ
trách tòa án “Đồng chí đợt này được trên cử làm đội phó phụ trách tòa án, cố
gắng nhé” [69; tr.23]. Trên thực tế, Tô Hoài đã từng tham gia cải cách ruộng đất,
từng làm đội phó đội cải cách, đội phó phụ trách tòa án, đi cải cách ruộng đất ở
134
Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thanh Hóa. Trong tiểu thuyết,
người đọc còn thấy một anh Bối tích cực tham gia cải cách ở địa phương nhưng
lại không có chút hiểu biết gì về đời sống nông thôn, không có kiến thức về
nghiệp vụ và cũng không được tập huấn. Anh ta chỉ làm theo mệnh lệnh cấp trên.
Mọi việc làm, hành động của Bối chỉ là hình thức để che mắt thiên hạ. Theo lời
Tô Hoài, anh Bối mang hình bóng của chính ông vì chẳng biết tí gì về nghề
nông thế nhưng đi cải cách ruộng đất mấy đợt vẫn dạy cho “nông dân kể khổ,
đấu địa chủ, rồi thống kê sào mẫu, rồi cắm thẻ chia ruộng” [70; tr.32]. Nhà văn
từng có lần so sánh: “Tôi chỉ là anh Bối thôi. Anh Bối không biết gì nhưng anh
Bối đi cải cách ba lần nên viết được” [121]. Bên cạnh đó, trong tác phẩm xuất
hiện những chi tiết nhận diện con người Tô Hoài “Năm ấy, tôi ngót ba
mươi…Cách mạng thì vào tự vệ phố, đến lúc kháng chiến, không còn đội tự vệ
nữa, nhưng tự cho mình đã là Việt Minh, tôi đi theo kháng chiến lên Việt Bắc”
[69; tr.16]; “Cũng không có vốn mở hàng quán, tôi xin vào làm phát hành sách
báo”; “Chỉ biết tôi là người trong Hà Nội ra có đôi ba chữ nên anh em trong kho
cho giữ sổ sách văn phòng và kho” [69; tr.17]; “Tôi bây giờ hóa ra quan trọng,
tôi giữ ba sổ chi thu - chẳng học nghề bao giờ cũng được lên chức kế toán
trưởng” [69; tr.18]. Thấp thoáng trong những trang văn kể về quá khứ của nhân
vật Bối, người đọc nhận ra những điểm tương đồng về hoàn cảnh, hoạt động của
nhà văn với nhân vật. Thực tế, bước vào tuổi thành niên, Tô Hoài đã phải làm
nhiều công việc để kiếm sống như bán hàng, kế toán hiệu buôn và sau đó tham
gia kháng chiến.
Tuy nhiên, câu chuyện về nhân vật Bối hoàn toàn không trùng khít với
cuộc đời Tô Hoài. Nhà văn đã sử dụng yếu tố mờ hóa con người đời thực của
mình, mờ hóa “cái tôi” tiểu sử trong cách đặt tên nhân vật (Bối trong truyện),
cấp cho nhân vật một “tấm thẻ căn cước” khác đi so với phần tiểu sử, lai lịch,
nhân thân. Cho dù nhân vật Bối có nét tương đồng với con người đời thực Tô
Hoài thì cũng được “biến tấu” đôi chút. Bối là một kẻ khác, một hư cấu của tiểu
thuyết. Anh đội Bối thừa nhận mình chỉ là kẻ tham ăn, tục uống, dâm dục, lười
nhác, vô trách nhiệm, ấu trĩ, giáo điều như nhiều anh đội khác. Cuối tác phẩm,
135
số phận nhân vật Bối bất ngờ rẽ ngoặt và chuyển hướng xuống dốc. Bối bị thôi
việc vì có đơn tố cáo tội hủ hóa ở địa phương “Tôi được đưa xem cái đơn. Tôi
nảy đom đóm mắt. Những đêm đi gác, ở trong lều, đã chung chạ với ai, nằm
ngồi thế nào, ai bằng lòng, ai bị đè ra, ôi chao, ở những bờ tường, những bụi
duối” [69; tr.223]. Sau đó, Bối sống bằng nghề bơm xe đạp, vạ vật đầu đường xó
chợ một thân một mình “Tôi ở gian ọp ép ấy và vẫn một mình với cái bơm xe”
[69; tr.226]. Cuối cùng Bối làm thuê cho Tư Nhỡ và bị hắn lừa đánh cho thê
thảm “Tư Nhỡ xông đến đấm đạp luôn hồi vào mặt, vào bụng tôi, vừa đánh vừa
rên rỉ kêu” [69; tr.247].
Từ nguyên mẫu ngoài đời đến nhân vật trong tác phẩm là quá trình sáng tạo
nghiêm túc dưới ngòi bút tài tình của nhà văn. Từ những chi tiết cuộc đời thực
của mình, Tô Hoài đã dựng lên hình ảnh nhân vật Lê - người thanh niên cách
mạng nhiệt huyết, sôi nổi; nhân vật Bối - tiêu biểu điển hình cho sự dối trá, lưu
manh, tha hóa của những anh cán bộ “đội” thời cải cách ruộng đất. Thông qua
nhân vật trong các tiểu thuyết, Tô Hoài đã bộc lộ cái tôi cá nhân, vừa là cái tôi
nhà văn ngoài đời, vừa là cái tôi sáng tạo, hư cấu. Việc rút ngắn khoảng cách
giữa nhân vật và nguyên mẫu ngoài đời khiến cho nhân vật của Tô Hoài gần gũi,
chân thực, sống động và đặc biệt là không rơi vào tình trạng “sống nhờ sự kiện”
như những nhân vật cùng thời. Vì thế, tiểu thuyết của Tô Hoài cũng đậm chất
hồi kí hơn.
4.3.1.2. Cái tôi giàu trải nghiệm in đậm trên từng trang viết
Một nhà văn in dấu “cái tôi” của mình trong tiểu thuyết không phải là điều
lạ lùng. “Cái tôi” hiểu theo nghĩa cá nhân riêng tư, bao gồm cuộc đời riêng, với
những suy nghĩ, tình cảm riêng, người đọc vẫn bắt gặp đâu đó trong tiểu thuyết
của các nhà văn xưa nay với mức độ đậm nhạt hoặc dưới này hay dạng khác.
Đọc các tiểu thuyết của Tô Hoài sau 1945, hình ảnh cái tôi giàu trải nghiệm, hết
mực hiểu đời, hiểu người hiện lên trong từng trang viết nhờ đó người đọc nhận
ra một thứ văn gần gũi với đời sống hàng ngày, mang đậm con người và phong
cách của nhà văn.
Tiểu thuyết Mười năm được viết ra từ chính vốn sống, vốn trải nghiệm cụ
136
thể của cuộc đời Tô Hoài vì thế mà những chi tiết, sự kiện trong tác phẩm mang
dấu ấn sự trải nghiệm của chính tác giả. Hình bóng Tô Hoài được hiện lên qua
những cảm xúc yêu thương, gắn bó, tự hào và những đau xót trước những biến
đổi, thăng trầm của mảnh đất ngoại thành Hà Nội mà Tô Hoài thể hiện trong tác
phẩm. Tô Hoài sinh ra và lớn lên tại một làng dệt lĩnh truyền thống nên ông am
hiểu nghề nghiệp của quê hương. Nơi khai sinh của nhà văn được lưu giữ trong
tâm trí người đọc với những âm thanh quen thuộc của làng nghề truyền thống.
Đó là những tiếng dệt cửi lạch cạch “Buổi tối, qua các xóm dệt cửi đầu hôm, inh
ỏi tiếng hát, tiếng thoi chạy lạch cách, tiếng vỏ khổ rập xình xịch” [72; tr.16],
“Chị Hai Tâm guồng tơ ngoài đầu hè, nghe hiệu gõ văng, vào sửa cửi” [72;
tr.21]; “Cũng vừa hay đầy nhịp cửi, Lạp gõ văng rồi bước ra hút thuốc lào” [72;
tr.21]. Nhà văn tự hào về làng nghề với những người thợ dệt tài hoa như Lạp
“Ngày làm mười, mười hai thước cửi ngon, bước ra khung, mặt trời còn đứng
lưng bụi tre” [72; tr.20], “Lạp móc thoi, chúm miệng hút sợi tơ đầu suốt qua lỗ
thoi, ném con thoi thoắt vào rồi lại cắm cúi, băm bổ trước cái vỏ khổ nhoay
nhoáy đưa ra đẩy vào trên mặt lụa mới tinh, mềm nhũn, mỗi lúc một dầy lên”
[72; tr.23]. Nhà văn đã tận mắt chứng kiến cái đói và sự tiêu điều của quê hương
“Làng nào cũng đói nhao, không còn một hạt thóc, người chết đường nhiều hơn
người chết trong nhà” [72; tr.119], “Bói không thấy một hạt gạo. Chỉ có vài mẹt
cám. Cám là thức ăn sống người nhất chợ, ai cũng tranh nhau chen vào” [72;
tr.110]. Là người trong cuộc nên Tô Hoài đã rất đau xót trước sự tan rã của làng
nghề “Những khung cửi, lồng tơ xếp lại. Nhiều nhà túng bán đi” [72; tr.92],
“Những cái khung cửi như bộ xương con trâu” [72; tr.110], “Từ những phiên
chợ mà các đãy lụa cứ phải đeo về kìn kịt và các khung cửi đã bắt đầu ruỗi thợ
ra” [72; tr.110]. Chất liệu thực của vùng quê ngoại thành Hà Nội - nơi Tô Hoài
sinh ra và lớn lên đã được sử dụng một cách tự nhiên qua cảm xúc, ấn tượng của
nhà văn và trở thành hiện thực trong tác phẩm. Do vậy, người đọc nhận thấy ở
Mười năm “in dấu vết những nhân vật trong đó có tác giả và gia đình, bè bạn ở
sự việc, ở hoàn cảnh, ở những kỉ niệm thời thơ ấu và đương thời” [72].
Tiểu thuyết Ba người khác được kể qua qua hồi ức, với tư cách là nhân
137
chứng, là người trong cuộc, Tô Hoài đã tái hiện chân thực những sự kiện lịch sử
- xã hội trong thời kì đặc biệt của dân tộc - thời kì cải cách ruộng đất. Trải qua
thời gian dài để “ngoái lại” và với phương châm nhìn thẳng, nói thẳng sự thật,
nhà văn đã phanh phui, mổ xẻ những sai lầm, những vấn đề khuất lấp trong quá
khứ. Ở Ba người khác, bức tranh thời đại được đan dệt bằng một hệ thống sự
kiện mang tính xác thực. Tô Hoài đã từng tham gia vào cuộc cải ruộng đất nên
hơn ai hết ông hiểu được mặt trái của thời kì cải cách ruộng đất, không khí ngột
ngạt, bức bối, rối loạn thời kì cải cách ruộng đất ở mảnh đất làng quê xưa.
Cải cách ruộng đất là một trong những sự kiện lớn diễn ra ở nông thôn
miền Bắc nửa đầu những năm năm mươi của thế kỉ XX. Cải cách ruộng đất
được coi là một thắng lợi vĩ đại của công cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ.
Đường lối cải cách ruộng đất của Đảng là đúng “đánh đổ địa chủ mang lại ruộng
đất cho nông dân” và giúp đa số “nông dân thoát khỏi áp bức của giai cấp địa
chủ bóc lột”. Song quan niệm về giai cấp còn máy móc, giáo điều và khi thực
hiện lại có những biện pháp cực đoan, sai lầm nên đã xảy ra một số hậu quả
nghiêm trọng. Tô Hoài đã tái hiện không khí xã hội và thực tế thời kì cải cách
ruộng đất với các hoạt động bắt rễ chuỗi, chia ruộng, quả thực, họp tố nông hội,
họp thôn kể khổ... “Chào anh đội, đêm qua anh đội đã bắt được rễ, yên chí rồi
thì hôm nay vào nhà em được chứ? Anh xâu chuỗi em đi. Đố anh tìm được
thằng chuỗi nào hơn em” [69; tr.34], “Theo kế hoạch chung, tối nào cũng họp tố
nông hội, họp thôn kể khổ, đôi khi đấu lưng cả địa chủ đã chết tới sáng” [69;
tr.117], “Những buổi họp bàn chia ruộng, quả thực chưa đâu vào đâu, ai cũng té
tát, hầm hè, tím tái vặc nhau” [69; tr.154]. Bên cạnh đó, hiện thực cải cách ruộng
đất được soi cận cảnh như thước phim quay chậm về những thảm cảnh đã diễn
ra như các cuộc đấu tố, xử lí những tên phản động. Người dân hô hào nhau đi
tịch thu tài sản của địa chủ Thìn. Không khí khẩn trương, nhộn nhịp. Họ hăm hở
tố và bắt địa chủ Thìn. Các thôn phấn khởi rộn rịch lần lượt mít tinh tuyên bố
xóa bỏ giai cấp địa chủ. Ngày hội của bần cố nông cũng là ngày tận thế của địa
chủ Thìn. Trong cuộc đấu tố, nhân dân không còn vai trò chủ nhân tích cực của
lịch sử, họ đã trở thành đám đông thụ động, bạc nhược, mù quáng và thô bạo.
138
Người nông dân còn hừng hực khí thế đi tố cáo tên thủ lĩnh Quốc dân đảng. Họ
là những đám đông mê muội, bị kích động, lợi dụng và làm vật tiêu khiển cho
đội cải cách thời kì này.
Là người trực tiếp tham gia cuộc cải cách ruộng đất, Tô Hoài đã chứng
kiến nhiều nỗi đau khổ của người dân. Người chịu chết, người tự tử, người chạy
trốn…Con rể đấu tố bố vợ, cháu ngoại đấu tố ông ngoại. Duyên là cô “rễ chuỗi”
nhưng tìm mọi thủ đoạn mua chuộc và đòi hỏi cho mình những phần ruộng tốt
nhất. Những giá trị đạo đức bị đảo lộn và tình người dường như đã không còn
tồn tại ở đây. Tất cả còn lại chỉ là sự tiêu điều, xơ xác và những thứ cặn bã của
xã hội. Cảnh làng quê thê lương ảm đạm, đó là một phần hiện thực của bức
tranh nông thôn trong những năm cải cách ruộng đất. Tô Hoài đã viết bằng
chính ngòi bút hiện thực của mình. Ông đã lột tả hết mọi đau khổ cuộc sống của
những người nông dân trong những năm tháng đầy đen tối. Ba người khác là sự
“nhìn lại” quá khứ mặc dù được viết ở thì hiện tại. Tất cả những cuộc đấu tố địa
chủ, tố cáo thủ lĩnh Quốc dân Đảng,…mà nhà văn tái hiện trong tác phẩm là
những sự kiện mà nhà văn sống trong thời kì đó từng chứng kiến và trải qua.
Trong kí ức của nhà văn, cuộc sống của những người dân vùng nông thôn
Bắc Bộ hiện lên với cái đói. Người nông dân phải đem trẻ con đi chợ bán, trong
chợ thì “nháo nhào không biết đâu người ăn mày hay người mua bán” [69; tr.14],
gia đình bác Diệc phải ăn cơm trộn với cám, thức ăn hàng ngày là rắn và chuột.
Người nông dân duy trì cuộc sống bằng tất cả những thức ăn có thể, cầm cự cái
đói qua ngày. Cái đói có sức tàn phá con người ghê gớm khiến “những cẳng tay
cẳng chân đi lại như những cành que” [69; tr.124], “Ai cũng gầy đói hom hem,
nhợt nhạt” [69; tr.145]. Cái đói giúp người đọc nhận ra nỗi cơ cực của bao kiếp
người. Cái đói bao trùm lên không gian không chỉ khiến con người mà dường
như cả làng quê với tre vàng, ngõ vắng cũng trở nên tăm tối, tiêu điều, xác xơ
“Cây đa, cây si ngã ba xóm, những lũy tre và bờ bụi bị phạt trơ ra như những cái
đầu trọc lông lốc…Cả đến những giậu ô rô, giậu duối và bờ xương rồng cũng xơ
xác như tóc cạo dối chẳng còn mấy” [69; tr.25]. Những ngôi nhà hiện lên với
cảnh hoang tàn, rách nát “Cái nhà tranh vách tuềnh toàng ẩm mùi rêu đất” [69;
139
tr.28]; “Gian nhà lợp rạ nát xám xịt như mặt người ấy” [69; tr.26]; “Ba phía
vách tuông ra, huếch hoác, lá khoai non xanh mát mắt phủ kín, dây bì leo chằng
chịt lên cả cột nhà như cái cọc tre” [69; tr.34]. Làng quê trong tiểu thuyết của Tô
Hoài cũng như bao làng quê khác trên mảnh đất Việt Nam nhọc nhằn, gian khó, vất
vả và đói nghèo. Không gian ấy gợi cho người đọc nhớ về cái đói nghèo đến rã rời
trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Lão Hạc của Nam Cao, Vợ nhặt của Kim Lân…
Tô Hoài sinh ra và lớn lên ở vùng đất canh cửi nghèo khó, đã từng tham gia
đấu tranh cùng những người thợ dệt và đã trải qua thời kì cải cách ruộng đất ở
vùng nông thôn Bắc Bộ cho nên nhà văn đã dựa vào những chi tiết hiện thực của
đời sống để làm chất liệu hiện thực trong tác phẩm. Phải là người trải qua,
chứng kiến những sự kiện đó, Tô Hoài mới có thể viết nên những trang văn chân
thực đến như vậy. Nhờ đó mà cốt truyện tiểu thuyết của Tô Hoài hiện lên với
nhiều chi tiết mang tính xác thực, vừa có cái thực của những sự kiện lại vừa có
cái thực của những cảm xúc và trải nghiệm của nhà văn. Tạo dựng hiện thực đời
sống ít nhiều mang dấu vết cá nhân của nhà văn, thể hiện một cái tôi giàu trải
nghiệm ở mỗi chặng khác nhau của cuộc đời nhà văn đồng thời cũng là các thời
kì phát triển lịch sử của dân tộc.
4.3.2. Nghệ thuật trần thuật đậm chất hồi kí
Sự thâm nhập của chất hồi kí vào tiểu thuyết Tô Hoài đã khiến cho kết cấu
trần thuật không theo trật tự thời gian mà theo dòng ý thức của nhân vật, người
kể chuyện với điểm nhìn bên trong - nhân vật xưng “tôi” ở ngôi thứ nhất trong
tiểu thuyết Ba người khác và người kể chuyện ở ngôi thứ ba trong tiểu thuyết
Mười năm mang hình bóng tác giả. Điều này khẳng định những cách tân mới mẻ,
độc đáo trong nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài thời kì Đổi mới.
4.3.2.1. Kết cấu truyện theo dòng ý thức của nhân vật
Khái niệm “Dòng ý thức” lần đầu tiên được nêu ra bởi tác giả người Mỹ
William James. Ông cho rằng, trong kết cấu dòng ý thức chấp nhận những yếu
tố không nằm trong mạch logic trực tiếp của tác phẩm, mà thuộc về mạch ngầm,
về cảm nhận cá nhân. Trong dòng ý thức của nhân vật, mọi hình ảnh, mọi kí ức
hướng đến tâm lý nhân vật luôn xuất hiện một cách tự do, đột ngột, không kiểm
140
soát được trong tư duy của mình. Đối với kiểu kết cấu truyện theo dòng ý thức,
kí ức của nhân vật được sử dụng để thuật lại những sự kiện đã thuộc về “hoài
niệm”, người kể chuyện cũng chính là nhân vật mang kí ức hoặc có điểm nhìn
Ba người khác được viết dựa trên kí ức, hồi ức của nhà văn Tô Hoài, một
của nhân vật.
người đã trực tiếp làm công tác cải cách với tư cách là đội phó đội cải cách kiêm
chánh án tòa án. Vì thế, câu chuyện được kể theo dòng ý thức, hồi tưởng của tác
giả - nhân vật xưng “tôi” - Bối trong truyện. Người kể chuyện xưng “tôi” đã từ
kí ức của chính mình, từ sự đối diện với những sai lầm quá khứ để làm sống lại
một giai đoạn của lịch sử dân tộc – thời kì cải cách ruộng đất. Trong tác phẩm,
nhân vật Bối nhớ đến đâu kể đến đó, dòng hồi ức bị đảo lộn không theo trình tự
thời gian, mạch truyện đi từ hiện tại đến quá khứ rồi trở về hiện tại, lồng ghép, đan
xen với các hồi ức, hồi tưởng về quá khứ của nhân vật, cách kể chuyện chịu sự tác
động của ý thức nhân vật. Sự phá vỡ, thay đổi kết cấu trần thuật là một sự thay đổi
trong cách nhìn hiện thực và thể hiện quan niệm về nghệ thuật của nhà văn.
Tiểu thuyết Ba người khác có năm phần:
Phần 1. Mở đầu truyện, Bối giới thiệu sơ lược về bối cảnh nảy sinh câu
chuyện, kể về lúc nhân vật Bối đi cải cách ở Nga Sơn, Thanh Hóa. Kết thúc đợt
cải cách thứ nhất, Bối tiếp tục kể về đợt cải cách thứ hai “Tổng kết xong, các đội
lại đi đợt mới…Đợt này, khu vực làm bao trùm cả Hải Dương, Kiến An, cải
cách thẳng, không qua giảm tô” [69; tr.10]. Vừa kể quá trình đội cải cách xuống
vùng nông thôn, Bối đan xen, lồng ghép kể về quá khứ của mình “Năm ấy, tôi
ngót ba mươi. Từ tấm bé chỉ ở thành phố. Đến tuổi đi làm kiếm được chân giữ
cửa trông kẻ cắp cho hiệu thịt bò “Sáp phăng giông” phố Tràng Tiền. Cách
mạng thì vào tự vệ phố, kháng chiến thì lên Việt Bắc” [69; tr.16]. Sau đó Bối
trốn tự vệ, tìm lên Nủa tìm vợ con, rồi lần mò lên Thái Nguyên, sang Tuyên
Quang, lên thị xã Bắc Cạn. Cuối cùng Bối xin vào làm phát hành sách báo, giữ
sổ sách văn phòng kho, làm kế toán trưởng. Bối khéo léo, lẩn lút tránh được đi
giảm tô, cải cách. Sau khi kể về hồi ức của mình, Bối quay trở về thực tại, kể về
hiện thực khi tiến hành cải cách tại thôn Am, dò la tin tức nhà bác Diệc, thằng
141
Vách. Bối lại Đan xen vào đó những câu chuyện quá khứ về thân phận, cuộc đời
của thằng Vách, bác Diệc. Kết thúc phần một dừng lại ở chi tiết bác Diệc phải
lấy Khoèo - con gái lão phó Thìn.
Phần 2 và 3. Bối trở lại câu chuyện về thôn Am, kể về Đình đi theo cái trại
đại đồng rồi sau đó Đình bị bắt vì phạm tội Quốc dân đảng đến lúc xét xử, bị kết
tội rồi thoát chết. Ở phần này, Bối hướng đến kể về cuộc gặp gỡ trong tương lai
giữa Bối và Đình “Kể ra hai con người tóc bạc da mồi, đã tả tơi cả, vừa nhận ra
nhau bởi linh cảm, còn những hoàn cảnh và trường hợp đã trải với nhau thì
không thể quên” [69; tr.112]. Gặp lại Đình, thấy cảnh Đình cùng vợ con đi ăn
xin rồi tiếp tục chạy theo giấc mơ đại đồng huyền hão vào vùng kinh tế Lâm
Đồng. Kết thúc câu chuyện về Đình, Bối quay trở lại cuộc cải cách ở thôn Am.
Sau khi Đình bị bắt, Bối được chuyển sang thôn Am làm nhiệm vụ tìm ra địa
chủ và xét xử địa chủ Thìn, chia ruộng đất cho người dân, làm lúa thần kì.
Phần 4. Bối kể về tương lai mười mấy năm sau, Bối trở về cơ quan, có đơn
tố cáo về tội hủ hóa. Sau đó, Bối bị mất việc và làm nghề bơm xe đạp, tình cờ
Bối gặp lại Tư Nhỡ và bị Tư Nhỡ lừa, đánh cho thê thảm.
Phần 5. Bối kể về xóm Am, xóm Chuôm, về anh em Vó và Cò đi tòng
quân. Kết thúc truyện là thông tin về cái chết mơ hồ của Huỳnh Cự.
Kết cấu truyện theo dòng ý thức của nhân vật, song hành trên hai trục quá
khứ và hiện tại rất phù hợp với việc chuyển tải dòng cảm xúc của nhà văn. Sự
đan xen những mảng kí ức với thực tại có hiệu quả nghệ thuật lớn trong việc tái
hiện bức tranh nông thôn thời kì cải cách ruộng đất và gợi nhiều suy nghĩ về số
phận của người nông dân và các anh “đội” thời kì đó. Xuất phát từ những
chuyện đời thường, từ những kỉ niệm, cảm xúc bản thân đã trải qua, Tô Hoài đã
đưa rất nhiều hồi ức vào trong tác phẩm. Vì vậy, mạch kết cấu đi từ hiện tại trở
về quá khứ rồi đến hiện tại, đan xen những hồi ức giúp cho câu chuyện nhà văn
kể trở nên chân thực và sinh động hơn.
4.3.2.2. Người kể chuyện mang hình bóng nhà văn
Có thể nói, bên cạnh những nhân vật mang hình bóng nhà văn, nhân vật
xuất hiện với tư cách người kể chuyện cũng làm cho “cái tôi” của tác giả trong
142
tiểu thuyết thêm đậm đặc. Dường như nhà văn nói về mình gián tiếp qua các
nhân vật chưa đủ mà thấy còn phải trực tiếp bước vào tiểu thuyết. Tiểu thuyết
Ba người khác được kể ở ngôi thứ nhất, người kể chuyện là nhân vật trong câu
chuyện, nhân vật chính xưng “tôi”. Như vậy, khoảng cách giữa nhân vật - người
kể chuyện - tác giả gần như là một, có nghĩa điểm nhìn trần thuật giữa người kể
chuyện - nhân vật - tác giả tương đối trùng khít. Khi nhà văn chọn vai người kể
chuyện ở ngôi thứ nhất, ưu điểm lớn nhất là thể hiện cái tôi cá nhân một cách
trực tiếp, cái tôi tự nghiệm, tự nhận thức. Ở ngôi kể thứ nhất, người đọc nhận
thấy hình bóng nhà văn Tô Hoài hiện lên trên từng trang văn.
Trong tiểu thuyết Ba người khác, Tô Hoài đã đặt vị trí của nhân vật chủ thể
ở ngôi thứ nhất, dưới con mắt của nhân vật Bối. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả
đã sử dụng ngôi kể thứ nhất “Một việc, tôi nhớ mãi…Tôi đã nghe bao chuyện kể
khổ ở hội nghị, ở tổ rễ chuỗi, nhưng chưa khi nào nghe choáng váng ghê rợn đến
thế” [69; tr.10]. Tuy nhiên, nhân vật xưng “tôi” ở đây không phải là Tô Hoài
bằng xương bằng thịt ngoài đời mà đội phó Bối - nhân vật trong truyện. Với vai
trò người kể chuyện, nhân vật “tôi” - Bối trong truyện bằng lời kể chủ quan đã
dẫn dắt người đọc khám phá lần lượt những gì mà nhân vật trải nghiệm, những
điều mà nhân vật đích thân mắt thấy tai nghe. Người đọc cùng nhân vật Bối
được trải qua tất cả mọi cung bậc tham, sân, si, ái, ổ, hỉ, nộ của những ngày cải
cách u ám và thấy được những sai lầm, khuyết điểm của một thời kì lịch sử.
“Tôi” - Bối vừa giữ vai trò dẫn dắt mạch truyện kể vừa trực tiếp tham gia vào
các tình huống truyện làm cho nhân vật tôi thống nhất, xuất hiện từ đầu đến cuối
trong tác phẩm. Cách trần thuật từ lời kể của Bối - nhân vật xưng “tôi” trong
truyện hấp dẫn lôi cuốn người đọc, khiến người đọc tin câu chuyện có thật bởi vì
nhân vật “tôi” kể chuyện mình và những việc mình đã làm tạo cho người đọc
như đang được chứng kiến những điều mà nhân vật thấy và kể lại. Tác phẩm vì
vậy có thể hiểu là câu chuyện của nhân vật xưng “tôi” - Bối trong truyện. Bối là
đội phó đội cải cách ruộng đất, kiêm chánh án đang tự kể về mình và hai người
khác là Cự (đội trưởng) và Đình (cán bộ “đội”). Căn cứ theo lời kể, cách nhìn
của người trong cuộc xưng “tôi” thì Bối, Đình, Cự là ba “gã lưu manh” theo ba
143
kiểu khác nhau. Trước hết, Bối đã tự phanh phui, mổ xẻ bản thân và bộc bạch
hết những điều thầm kín, những tội lỗi của mình và đồng đội, kể cả những nhu
cầu bản năng của chính bản thân, phơi bày mình ra ánh sáng. Bối đã trực tiếp tự
kể về những ngày tham gia cải cách ruộng đất ở địa phương. Mang tiếng là đi
cải cách giúp người nông dân thoát khỏi cảnh đói nghèo nhưng Bối lại luôn nghĩ
đến chuyện ăn uống. Tội tham ăn, tục uống của Bối được Bối kể một cách tỉ mỉ,
chi tiết: “Tôi luồn tay dưới ba lô, thó luôn cả gói, bỏ nhẹm vào cái túi xách của
tôi” [69; tr.22]. Đó là hành động ăn trộm cái bánh đúc của đội trưởng Cự. Trong
truyện, nhiều lần Bối nói về cái tội háu ăn của mình “Tôi háu đói, đã tưởng ra
niềm vui có lẽ được nghỉ và ăn sáng” [69; tr.13]; “Tôi lần vào giường góc nhà
nằm gối đầu lên cái túi. Bụng đói cồn cào rỗng không” [69; tr.137]. Bối đã
không ngần ngại bóc trần cái tội ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, tội trộn mì
chính với đường ở cơ quan. Những chuyện hủ hóa với Đơm, Duyên và những cô
gái dân quân khác cũng được Bối kể một cách trung thực “Tôi lại thọc vào ngực
Đơm như vừa rồi. Lần này Đơm đứng tây ngây, mặt đỏ lịm, để yên cho tay tôi
vân vê” [69; tr.44]; “Các cô nghiến răng cắn áo níu tôi lại…Tôi không còn sức
lê đi nữa, tôi quờ quạng úp vào mặt ngủ trên bụng cô ấy”. Bối kể thật táo tợn về
những chuyện hủ hóa của những con người ở vùng cải cách “Đàn ông đàn bà ở
đây ăn nằm, đùa cợt với nhau như gà, chỗ nào lúc nào cũng được” [69; tr.138].
Bối đi cải cách ruộng đất nhưng hiểu rất lơ mơ về cải cách, Bối cố tìm ra được
những tên địa chủ để ghi thành tích. Bối bắt đầu thấy lo lắng khi không tìm được
địa chủ “Trong những người phải cố, tôi khốn khổ nhất. Rễ chuỗi cả thôn tôi
chưa tố ra được địa chủ. Tôi chưa phân tích tìm ra cái đầu cái đuôi địa chủ ở đâu”
[69; tr.79]. Rồi những lời tự thú của nhân vật Bối khi chưa phải là Đảng viên mà
tổ chức kết nạp cả chục rễ chuỗi vào Đảng “Tôi không kịp nói tôi chưa phải
Đảng viên…Không biết trên có biết không, chẳng có ý kiến gì cả. Tôi làm việc
kết nạp Đảng cho rễ, chuỗi cũng như đi họp, đi làm đồng” [69; tr.140]. Không
chỉ có vậy, Bối còn rất lười và giả vờ chăm chỉ lao động “Tôi toan cứ vào bừa
một nhà nào nghỉ ngơi cái đã” [69; tr.25]; “Làm bộ như tôi đi làm đồng về chưa
kịp rửa ráy, vác cả cào cỏ đến thẳng chỗ họp” [69; tr.48]; “Tôi vác cào cỏ như đi
144
đánh cỏ, tôi loăng quăng ra đồng”.
Không chỉ kể về mình, Bối còn kể về những tội lỗi của Đình và Cự. Kết
cục ba anh “đội” với ba kết cục bi thảm khác nhau. Đình làm trại đại đồng để rồi
thân tàn ma dại vì trại đại đồng sau đó bị nghi là thủ lĩnh của Quốc dân Đảng,
cuối cùng được thả và tìm đến vùng đất mới. Anh Cự đội trưởng cải cách quyền
sinh quyền sát trong tay nhưng cuối cùng lại theo địch, trở thành tên phản bội và
bị tiêu diệt. Cả ba anh “đội” được lên “làm trời”, anh nào cũng như anh nào, từ
Cự đến Bối, Đình. Nấp đằng sau là những ông trời cao hơn, cứ như tên kẻ cắp đi
chống kẻ cắp, những tên hủ hóa đi chống hủ hóa, những kẻ thù địch, phá hoại đi
chống kẻ thù địch. Trước những tội lỗi tày đình của ba anh “đội”, Bối cũng đã
thú nhận “Chúng tôi đều nhơ nhớp cả, không có gì mà nói” [69; tr.222]. Bối đã
tự thú, ăn năn, sám hối về những tội lỗi, khuyết điểm của mình trước tòa án
lương tâm và tòa án của cộng đồng. Anh ta kể lại một cách chân thật, không một
lời thanh minh hay bào chữa để người nghe đưa ra những phán quyết của riêng
mình để cho người đọc tự suy ngẫm, bình luận. Ở đây, nhân vật “tôi” đóng vai
trò là một người đứng quan sát khách quan. Nhân vật “tôi” chỉ làm nhiệm vụ
dẫn dắt toàn bộ câu chuyện mà không hề đưa ra ý kiến quan điểm của bản thân
về các vấn đề được kể trong tác phẩm. Ngay cả khi nhận thấy những sai lầm, tội
lỗi của Cự, Đình hay những nhân vật khác trong truyện, nhân vật “tôi” không
bày tỏ chính kiến hay có lời khuyên giải đối với những sai lầm đó. Và ngay cả
chính bản thân mình cũng vấp phải những sai lầm, khuyết điểm nhưng vẫn cố
tình vi phạm. Qua cái nhìn của nhân vật “tôi” thì Đình và Cự là hai kẻ hồn nhiên
vi phạm, hồn nhiên trước những tội lỗi của mình. Họ không ý thức được tác hại,
hậu quả của những việc mình đã làm, ngang nhiên vi phạm dưới mọi hình thức
“ngụy trang”, “vỏ bọc” khác nhau. Còn nhân vật Bối thì khác. Dù sao trong
lương tâm, Bối vẫn ý thức được hành động của mình, nhận thấy những vụ xét xử,
đấu tố địa chủ có phần khắc nghiệt, sai lầm “Tôi lo sợ vẩn vơ về một người sắp
bắn mà tôi không biết mặt” [69; tr.121]; “Tôi vẫn chưa nguôi cơn hốt hôm xử
bắn địa chủ Thìn” [69; tr.142]. Mặc dù không thể có một hành động nào để can
145
ngăn nhưng Bối vẫn thấy được tác hại nỗi đau mà những dân phải gánh chịu
trong đợt cải cách cũng như hậu quả tai hại mà những người cán bộ cải cách
đem lại cho cuộc sống người nông dân.
Trong tiểu thuyết Mười năm, nhà văn sử dụng người kể chuyện ở ngôi thứ
ba. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba là nhân vật kể chuyện bằng giọng khách
quan, cho người đọc biết được câu chuyện xảy ra thông qua giọng kể của mình
và để người đọc hiểu, nhận xét, đánh giá. Người kể chuyện chỉ làm một việc dẫn
dắt người đọc đi từ đầu câu chuyện cho đến hết bằng chính lời kể của mình. Ưu
điểm của hình thức này là có thể bao quát nhiều vấn đề hiện thực rộng lớn, thể
hiện quan điểm, tư tưởng, cách giải quyết vấn đề mang dấu ấn phong cách nhà
văn một cách trực tiếp qua những bình luận, phân tích, phát ngôn. Người kể
chuyện mặc dù ở ngôi thứ ba nhưng không hề có sự tách biệt với nhân vật,
người đọc nhận ra hình bóng Tô Hoài qua suy nghĩ, ước muốn, hành động của
nhân vật Lê, Lạp, An, Ba trong truyện. Ở đây, người đọc thấy ngay lúc này người
kể chuyện “đứng lẩn vào nhân vật”, lấy thế giới nội tâm nhân vật làm chỗ đứng để
kể chuyện. Đồng thời, qua việc tái hiện những mảng sống của vùng ven thành,
không khí của phong trào cách mạng dậy lên trong tuổi trẻ khát khao một hướng đi,
một lẽ sống, những hình ảnh thê thảm của làng Hạ trong thời kì đói kém, sự tan rã
của một làng nghề canh cửi, người đọc nhận ra hình bóng nhà văn qua cái nhìn của
người trong cuộc, của con người đã từng trải qua những năm tháng ấy.
Như vậy, trong các tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945, người kể chuyện dù ở
ngôi thứ nhất hay thứ ba thì trên mỗi trang viết, người đọc đều thấy được hình
bóng của nhà văn Tô Hoài. Người kể chuyện trần thuật xuyên suốt các tác phẩm
vẫn là nhân vật giàu trải nghiệm. Chính sự gắn bó của Tô Hoài với vùng đất
ngoại thành - nơi Tô Hoài sinh ra và lớn lên, với những miền quê, vùng đất khác
nhau mà ông đã đặt chân đến, với những con người tình nghĩa nơi ấy đã khiến
146
cho nhà văn không giữ được thái độ khách quan trong khi kể.
Tiểu kết chƣơng 4
Tương tác thể loại là vấn đề tất yếu trong văn xuôi nói chung và văn xuôi
Việt Nam hiện đại và sáng tác của Tô Hoài nói riêng. Tương tác thể loại là
phương thức để văn học vận động, phát triển và đổi mới. Tương tác thể loại vừa
thể hiện ý thức đổi mới thể loại của nhà văn đồng thời cũng là phương tiện để
khẳng định dấu ấn, cá tính và phong cách sáng tác của nhà văn. Sự tương tác thể
loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 thể hiện sự đổi mới tư duy nghệ
thuật trong phong cách sáng tác của Tô Hoài. Sự kết hợp giữa kết cấu trần thuật
hiện đại (kết cấu vòng tròn, kết cấu lắp ghép) và trần thuật đa điểm nhìn (điểm
nhìn của người kể chuyện, điểm nhìn trao cho nhân vật) đã tạo nên chất tiểu
thuyết trong hồi kí Tô Hoài. Nhờ vậy, bức tranh đời sống xã hội hiện lên đa
chiều, chân dung nhân vật trở thành những “điển hình hóa” rõ ràng, sinh động,
chi tiết từ diện mạo đến tính cách, hành động. Tiểu thuyết hóa chất liệu đời tư,
người kể chuyện mang hình bóng tác giả, kết cấu truyện theo dòng ý thức của
nhân vật đã tạo nên chất hồi kí trong tiểu thuyết Tô Hoài. Nhờ vậy, những câu
chuyện đã lùi xa trong quá khứ nhưng không hề xưa cũ mà tồn tại sinh động như
những kí ức đầy nhân văn của con người, cho con người hôm nay và mai sau.
Mặc dù diễn ra sự tương tác nhưng mỗi tác phẩm của Tô Hoài (trong diện khảo
sát của luận án) đều thể hiện đặc điểm của thể loại qua đó người đọc cũng như
các nhà nghiên cứu có thể quy chiếu vấn đề thể loại. Bởi vậy, sáng tác của Tô
Hoài vừa cho thấy quá trình vận động và tương tác thể loại vừa cho thấy những
dấu ấn và cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn Tô Hoài. Sự tương tác thể loại
giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 cho thấy bút lực và tiềm năng sáng
tạo dồi dào, bền bỉ của Tô Hoài. Có thể nói rằng, chính sự tương tác ấy đã góp
phần làm nên diện mạo độc đáo cho tiểu thuyết, hồi kí Tô Hoài trong bức tranh
147
đời sống văn học Việt Nam hiện đại.
KẾT LUẬN
Văn xuôi Việt Nam hiện đại đã ghi dấu sự hiện diện của Tô Hoài với một di sản
khá đồ sộ. Sự nỗ lực trong nghề nghiệp đã khiến ông mau chóng trưởng thành và trở
thành một nhà văn lớn của văn xuôi Việt Nam nửa cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI. Dù
Tô Hoài đã từng thử bút ở nhiều thể loại khác nhau nhưng tiểu thuyết và hồi kí vẫn là
hai thể loại chính, khẳng định vị trí, tài năng và sức sáng tạo của nhà văn.
1. Qua việc tổng quan tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có nhiều
công trình nghiên cứu về sáng tác của Tô Hoài. Những ý kiến đánh giá xác đáng,
khẳng định giá trị tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài giai đoạn sau 1945. Tuy nhiên,
các nhận định, diễn giải từ các công trình nghiên cứu vẫn chủ yếu tập trung vào
một số phương diện quen thuộc và đến nay, chưa có công trình chuyên biệt, đầy
đủ, dày dặn nghiên cứu về vấn đề thể loại, sự tương tác thể loại và chọn thể loại
như một tâm điểm nghiên cứu. Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên
cứu một cách khái quát, tổng thể, hệ thống hai thể loại tiểu thuyết và hồi kí Tô
Hoài giai đoạn sau 1945 dưới góc nhìn thể loại. Vì vậy, nghiên cứu Tiểu thuyết
và hồi kí của Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại vừa làm rõ đặc điểm thể loại
vừa là sự nhận diện cách “hòa trộn”, xóa mờ “lằn ranh” thể loại, từ đó góp thêm
một số kiến thức lí luận thể loại, gợi mở một số vấn đề đối với thực tiễn sáng tạo và
tiếp nhận tiểu thuyết, hồi kí Việt Nam hiện đại. Qua đó, người đọc thấy được nét
khác biệt, đặc sắc trong phong cách sáng tác văn xuôi của Tô Hoài so với các
nhà văn cùng thời, góp thêm một tiếng nói khẳng định vị trí của một nhà văn lão
thành trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
2. Tô Hoài là nhà văn đã có những đóng góp nhiều mặt đối với sự phát triển
của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp sáng tác của ông chia thành ba chặng:
trước 1945, 1945 - 1985, 1986 đến nay. Ở mỗi giai đoạn, tiểu thuyết và hồi kí
Tô Hoài đã đạt được thành tựu quan trọng, đáng chú ý. Ở giai đoạn trước 1945,
Tô Hoài là một cây bút hiện thực đáng chú ý trong nền văn xuôi Việt Nam hiện
đại. Ở giai đoạn 1945 - 1985, thành tựu của Tô Hoài đạt được ở tiểu thuyết viết
về vùng ngoại thành Hà Nội và miền núi với khuynh hướng hiện thực xã hội chủ
148
nghĩa. Ở giai đoạn sau 1986, tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài đã đi sâu vào con
người dưới góc nhìn đời tư. Qua các tác phẩm Mười năm (1958), Miền Tây
(1967), Cát bụi chân ai (1992), Chiều chiều (1999), Ba người khác (2006), Tô
Hoài đã cho thấy sự đổi mới tư duy nghệ thuật từ quan niệm nghệ thuật về con
người đến hình thức và bút pháp nghệ thuật, qua đó mang đến người đọc một nhãn
quan mới về con người ở hiện tại và quá khứ cùng một phương thức biểu hiện mới.
Tô Hoài chính là tấm gương lao động miệt mài, không ngơi nghỉ của một nhà văn
tài năng, có nhiều cống hiến cho nền văn xuôi hiện đại và đương đại.
3. Tiểu thuyết và hồi kí là hai thể loại tiêu biểu cho văn phong, quan niệm
nghệ thuật và chính là ưu thế, sở trường của nhà văn Tô Hoài. Hai thể loại này ở
giai đoạn sau 1945 có đặc điểm riêng. Với tiểu thuyết, Tô Hoài đã khẳng định
được ưu thế vượt trội của mình trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, các kiểu kết
cấu từ truyền thống đến hiện đại, giọng điệu trần thuật đặc sắc. Với thể hồi kí,
Tô Hoài đã xây dựng được hình tượng tác giả qua cái nhìn nghệ thuật về đời
sống xã hội ở thời kì cải cách ruộng đất, về không khí sáng tác văn học căng
thẳng thời kì Nhân văn - Giai phẩm và sự tự thể hiện “cái tôi” tác giả thành hình
tượng tác giả. Nhà văn đã thành công trong việc khắc họa chân dung các văn
nghệ sĩ cùng thời ở cự li gần, ở góc nhìn đời tư, những con người nhỏ bé, đời
thường, bình dị đến từ mọi miền quê. Nổi bật trong hồi kí Tô Hoài sau 1945 là
sự đan xen giữa giọng điệu giễu nhại, hóm hỉnh, hài hước và giọng trữ tình, sâu
lắng. Sự phong phú và đan xen nhiều giọng điệu khác nhau trong hồi kí Tô Hoài
giúp cho nhà văn phản ánh nội dung từ nhiều chiều, nhiều góc độ. Tất cả những
điều đó làm nên sức sống lâu bền và độ hấp dẫn cho những trang tiểu thuyết và
hồi kí của Tô Hoài.
4. Sự biến đổi của tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 diễn ra ở bề mặt
thi pháp thể loại nhưng không làm mất đi đặc trưng riêng mà thể hiện sự năng
động, tươi mới, hiện đại của từng thể loại. Nhìn từ phương thức thể hiện của hồi
kí, người đọc nhận thấy chất tiểu thuyết đã thâm nhập vào hồi kí. Việc sử dụng
các kiểu kết cấu trần thuật và điểm nhìn trần thuật linh hoạt đã góp phần tích cực
và hiệu quả tạo nên âm điệu văn xuôi phức hợp, giàu tính hiện đại. Nhìn từ
149
phương thức thể hiện của tiểu thuyết, người đọc nhận thấy chất hồi kí đã thâm
nhập vào tiểu thuyết. Việc sử dụng những chi tiết tiểu sử, chất liệu đời tư của
nhà văn, người kể chuyện mang hình bóng tác giả, kết cấu truyện theo dòng ý
thức của nhân vật đã góp phần tạo nên cho câu chuyện sinh động như những kí
ức đầy nhân văn của con người, số phận các nhân vật hiện lên một cách gần gũi,
chân thực. Sự tương tác thể loại giữa tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 cho
thấy bút lực và tiềm năng sáng tạo dồi dào, bền bỉ của Tô Hoài. Có thể nói rằng,
chính sự tương tác ấy đã góp phần làm nên diện mạo độc đáo cho tiểu thuyết,
hồi kí Tô Hoài trong bức tranh đời sống văn học Việt Nam hiện đại.
Sự cần mẫn, không ngừng học hỏi, tích lũy, tự vượt mình để sáng tạo đã
làm nên bản lĩnh và tài năng nghệ thuật của Tô Hoài. Trong quá trình sáng tác,
nhà văn đã tìm cho mình một lối viết, một giọng điệu, một phong cách nghệ
thuật và con đường riêng. Trên diễn đàn văn xuôi dân tộc, Tô Hoài đã có được
một vị trí trang trọng, xứng đáng, khẳng định vị thế của mình trong hành trình
150
văn xuôi xuyên hai thế kỉ.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Bài viết: Ngôn ngữ trần thuật trong hồi kí “Cát bụi chân ai” và “Chiều chiều”
của Tô Hoài, đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 407 tháng 5/2018
2. Bài viết: Tiểu thuyết và hồi kí Tô Hoài sau 1945 dưới góc nhìn thể loại - tổng
quan về tình hình nghiên cứu, đăng trên Tạp chí Khoa học trường Đại học Thủ
đô Hà Nội, số 26 tháng 10/2018
3. Bài viết: Chất thơ trong tiểu thuyết Miền Tây của nhà văn Tô Hoài, đăng trên
Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Học viện khoa học xã hội, số 5 năm 2019
4. Bài viết: Chân dung một số nhân vật trong hồi kí Tô Hoài, đăng trên Tạp chí
Khoa học trường Đại học Thủ đô Hà Nội, số 34 tháng 10/2019
5. Bài viết: Chất hồi kí trong tiểu thuyết Tô Hoài sau 1945, đăng trên Tạp chí
151
Khoa học trường Đại học Thủ đô Hà Nội, số 36 tháng 12/2019
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Kiều Anh (2005), Lí luận về thể loại tiểu thuyết trong nghiên cứu,
phê bình Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn.
2. Phạm Thị Lan Anh (2008), Hồi kí của một số nhà văn Việt Nam hiện đại, Luận
văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
3. Trương Thị Kim Anh (2017), Đôi nét về đổi mới tư duy nghệ thuật trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại, Tạp chí Khoa học, Đại học Đồng Nai, số 07.
4. Thái Phan Vàng Anh (2010), Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại, ngày 19/12, nguồn
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nh
in-van-hoa/giong-dieu-tran-thuat-trong-tieu-thuyet-viet-nam-duong-dai.
5. Thái Phan Vàng Anh (2010), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
6. Trần Hoài Anh (2009), Tiểu thuyết trong quan niệm của lý luận phê bình
văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975, ngày 30/12, nguồn
https://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11795.
7. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
8. Phạm Đình Ân (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
9. M. Bakhatin (1998), Những vấn đề thi pháp của Đốtxtôiépxki (Người dịch:
Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn), Nxb Giáo dục.
10. M. Bakhatin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh
Cư (tuyển dịch và dịch từ nguyên bản tiếng Nga), Nxb Hội nhà văn.
11. Kate Hamburger (2004), Logic học về các thể loại văn học, Vũ Hoàng Địch,
Trần Ngọc Vương dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Lê Huy Bắc (1998), Giọng điệu và giọng điệu trong văn xuôi Việt Nam
hiện đại, Tạp chí Văn học, số 9.
152
13. Vũ Bằng (1955), Khảo về tiểu thuyết, Phạm Văn Tươi xuất bản, Sài Gòn.
14. Nguyễn Phú Bình (1996), Bản sắc dân tộc miền núi trong “Truyện Tây
Bắc” và “Miền Tây” của Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư
phạm, Thành phố Hồ Chí Minh.
15. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975-1995: Những đổi mới
cơ bản, Nxb Giáo dục.
16. Nguyễn Thị Bình (2013), Đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại: lối viết
hậu hiện đại (trong sách Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam), Nxb Tri thức,
Hà Nội.
17. Lê Thị Biên (2007), Chiều chiều và những đặc sắc về thể tiểu thuyết - tự
truyện của Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
18. Huyền Chiêu (2014), Nỗi buồn khi đọc lại “Ba người khác” của Tô Hoài,
nguồn: http://tuongtri.com/.
19. Bùi Thị Chuyên (2013), Tiểu thuyết viết về nông thôn sau 1975 (khảo sát
qua tác phẩm của Nguyễn Khắc Trường và Đào Thắng), Luận văn Thạc sĩ Văn
học Việt Nam, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
20. Phạm Việt Chương (1989), Những gương mặt – chân dung văn học Tô
Hoài, Báo Văn Nghệ, số 04.
21. Nguyễn Văn Dân (2012), Con người và văn hóa Việt Nam thời kỳ Đổi mới,
Nxb Khoa học, Hà Nội.
22. Ngô Thị Ngọc Diệp (2013), Hồi kí trong Văn học Việt Nam từ sau Cách
mạng tháng 8/1945 đến nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà
Nội.
23. Lê Tiến Dũng (2002), Lí luận văn học (phần Tác phẩm văn học), Nxb Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
24. Hoàng Thị Duyên (2018), Đặc trưng cơ bản của nhật kí với tư cách là một
thể loại văn học, ngày 24/9,
nguồnhttp://hpu2.edu.vn/vi/khoa-ngu-van/nghien-cuu-khoa-hoc/dac-trung-co-ba
n-cua-nhat-ki-voi-tu-cach-la-mot-the-loai-van-hoc-109.html.
25. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng Việt,
153
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
26. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện
đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
27. Phan Cự Đệ (1979), Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp.
28. Phan Cự Đệ (chủ biên, 2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
29. Phan Cự Đệ (chủ biên, 2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
30. Nguyễn Đăng Điệp (2004), Tô Hoài, người sinh ra để viết, Tạp chí nghiên
cứu Văn học, số 9.
31. Nguyễn Đăng Điệp (2016), Một số vấn đề Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb
Khoa học xã hội
32. Hà Minh Đức (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học.
33. Hà Minh Đức (1987), Tuyển tập Tô Hoài, tập I, Nxb Văn học.
34. Hà Minh Đức (2007), Tô Hoài đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học.
35. Hà Minh Đức (2010), Tô Hoài: Sức sáng tạo của một đời văn, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
36. Hà Minh Đức (chủ biên, 2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
37. Hoàng Minh Đức (2010), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài
sau 1945, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
38. Hoàng Cẩm Giang (2008), Các khuynh hướng phát triển của tiểu thuyết
Việt Nam đầu thế kỉ XXI từ góc nhìn cấu trúc thể loại, Luận án Tiến sĩ Văn học,
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
39. Hoàng Cẩm Giang (2013), Vấn đề thể loại và ranh giới thể loại trong tiểu
thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI,
https://phebinhvanhoc.com.vn/van-de-the-loai-va-ranh-gioi-the-loai-trong-mot-s
o-tieu-thuyet-viet-nam-dau-the-ki-xxi/.
40. M.Gulaiev (19820, Lí luận văn học, Nxb Đại học và Trung học chuyên
154
nghiệp, Hà Nội.
41. Lê Thị Hà (2007), Nghệ thuật trần thuật trong hồi kí Tô Hoài, Luận văn
Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Vinh.
42. Nguyễn Hoàng Hà (2009), Cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật
trong hồi kí của Tô Hoài (qua hồi kí “Cát bụi chân ai” và “Chiều chiều”), Luận
văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
43. Trần Thị Thu Hà (2013), Nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết của Tô
Hoài, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
44. Trần Thanh Hà (2011), Quan niệm của Milan Kundera về tiểu thuyết qua lí
luận và thực tiễn sáng tác, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội.
45. Xuân Thị Nguyệt Hà (2001), Thủ pháp miêu tả trong tuyển tập “Miền Tây”
của Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
46. Nguyễn Thị Hải (2012), Nhân vật tuổi trẻ trong bộ ba tiểu thuyết của Tô
Hoài: “Quê người” (1942); “Mười năm” (1958); “Quê nhà” (1981), Luận văn
Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
47. Nguyễn Đức Hạnh (2004), Tiểu thuyết Việt Nam thời kì 1965 - 1975 nhìn
từ góc độ thể loại, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
48. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2009), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
49. Lê Thị Thúy Hằng (2010), Khuynh hướng tự thuật trong tiểu thuyết Việt
Nam đầu thế kỷ XXI, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
50. Dương Thị Thu Hiền (2007), Tô Hoài với hai thể văn: chân dung và tự
truyện, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm, Đại học Thái
Nguyên.
51. Đinh Thị Thu Hiền (2007), Đặc điểm tiểu thuyết Tô Hoài, Luận văn Thạc
sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
52. Lê Minh Hiền (1998), Tìm hiểu hồi kí Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ, Đại học
Sư phạm Hà Nội.
53. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Tập bài giảng nghiên cứu văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
155
54. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn.
55. Đỗ Đức Hiểu (2003), Từ điển Văn học, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội.
56. Đỗ Văn Hiểu, Vận dụng lí thuyết tự sự học vào nghiên cứu hình thái thể
loại tiểu thuyết, ngày 8/5/2017, nguồn
http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Lyluanvanhoc/tabid/104/newstab/2948/D
efault.aspx.
57. Trần Thị Hồng Hoa (2016), Chất tiểu thuyết trong hồi ký thời kỳ Đổi mới,
Hội nghị lý luận phê bình lần thứ IV Văn học 30 năm đổi mới.
58. Trần Thị Hồng Hoa (2017), Hồi kí trong Văn học Việt Nam giai đoạn từ
1975 đến nay nhìn từ đặc trưng thể loại, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn.
59. Mai Thị Khánh Hòa (2017), Giao thoa thể loại trong hồi kí Tô Hoài (qua
Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Chuyện cũ Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn
học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
60. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục Hà Nội.
61. Nguyễn Thị Hoài (2018), Chất trào lộng trong hồi kí - tự truyện của Tô
Hoài, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục, Đại học Sư phạm Hà Nội
62. Tô Hoài (1960), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà
Nội.
63. Tô Hoài (1997), Sổ tay viết văn, Nxb Mới.
64. Tô Hoài (1997), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nxb Văn học, Hà
Nội
65. Tô Hoài (1985), Tự truyện, Nxb Văn học, Hà Nội.
66. Tô Hoài (1992), Cát bụi chân ai, Nxb Hội nhà văn.
67. Tô Hoài (1997), Cỏ dại, Nxb Hội nhà văn
68. Tô Hoài (2005), Giăng thề, Nxb Trẻ.
69. Tô Hoài (2007), Ba người khác, Nxb Đà Nẵng.
70. Tô Hoài (2014), Chiều chiều, Nxb Hội nhà văn.
71. Tô Hoài (2015), Quê người, Nxb Văn học
156
72. Tô Hoài (2015), Mười năm, Nxb Hội nhà văn.
73. Tô Hoài (2015), Miền Tây, Nxb Văn học.
74. Tô Hoài (2015), Quê nhà, Nxb Văn học.
75. Tô Hoài (2005), Hồi kí (Cỏ dại, Tự truyện, Cát bụi chân ai, Những gương
mặt), Nxb Hội nhà văn.
76. Nguyễn Công Hoan (1997), Hỏi chuyện các nhà văn, Nxb Tác phẩm mới.
77. Mai Hoàng (2015), Tô Hoài một đời văn, ngày 20/7, nguồn
https://www.baodanang.vn/channel/5414/201507/to-hoai-mot-doi-van-2429315/
78. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
79. Hoàng Thị Huệ (2012), Đa thanh - một đặc điểm giọng điệu của tiểu thuyết
ngắn Việt Nam những năm gần đây, ngày 3/8, nguồn
https://ambn.vn/recruit/3734/dac-diem-da-thanh-trong-giong-dieu-cua-tieu-thuy
et-ngan-viet-nam-hien-dai.html
80. Đoàn Trọng Huy (2006), Tô Hoài, Lịch sử văn học Việt Nam (tập 3), Nxb
Đại học Sư phạm Hà Nội.
81. Nguyễn Quốc Huy (2010), Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Ba người
khác của Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà
Nội.
82. Lại Thị Thu Huyền (2006), Chân dung văn học Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ,
Đại học Sư phạm Hà Nội.
83. Trương Thị Huyền (2007), Đặc trưng của thể loại hồi kí Tô Hoài, Luận
văn Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội
84. Phạm Thu Hương, Kỷ niệm 1 năm ngày mất nhà văn Tô Hoài: Nụ cười của
con người đầy bản lĩnh, ngày 20/10/2015, nguồn
https://anninhthudo.vn/giai-tri/ky-niem-1-nam-ngay-mat-nha-van-to-hoai-nu-cu
oi-cua-con-nguoi-day-ban-linh/622443.antd.
85. Nguyễn Quang Hưng (2016), Đặc điểm hồi kí Văn học Việt Nam từ 1975
đến 2000, Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam, Đại học Huế.
86. Ma Văn Kháng (2009), Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương,
157
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
87. V.Kôginốp (1963), Các loại hình nghệ thuật, Bùi Thế Khánh dịch, Nxb
Văn hóa nghệ thuật.
88. M. Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Đà
Nẵng.
89. Thạch Lam (1962), Theo giòng, Nxb Đời nay, Sài Gòn.
90. Cao Kim Lan (2015), Tác giả hàm ẩn trong tu từ học tiểu thuyết, Nxb Văn
học.
91. Cao Kim Lan (2019), Ma thuật của truyện kể - Tự sự học và những diễn
giải văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.
92. Phạm Ngọc Lan (2006), Tự truyện và sự thể hiện cái tôi cá nhân trong văn
học Việt Nam hiện đại trong sách Bình luận văn học, Hội nghiên cứu và giảng
dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Sài Gòn.
93. Tôn Phương Lan (2015), Tô Hoài viết về Nguyễn Tuân, ngày 30/7, nguồn
https://nhandan.com.vn/vanhoa/item/27027202-to-hoai-viet-ve-nguyen-tuan.htm
l.
94. Tôn Phương Lan (2015), Tô Hoài và bạn văn qua hồi kí, ngày 19/7, nguồn
http://daidoanket.vn/van-hoa/to-hoai-va-ban-van-qua-hoi-ky-tintuc56302.
95. Phong Lê (giới thiệu), Vân Thanh (tuyển chọn, 2000), Tô Hoài về tác gia
và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
96. Nguyễn Văn Long (chủ biên, 2012), Văn học Việt Nam hiện đại (Tập II, Từ
sau Cách mạng tháng Tám 1945), Nxb Đại học Sư phạm.
97. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên, 2009), Văn học Việt
Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục.
98. Nguyễn Văn Long, Tô Hoài và một phong cách tiểu thuyết, ngày
13/10/2009, nguồn
https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/to-hoai-mot-nguoi-ha-noi-bai-2-to-hoai-va-mo
t-phong-cach-tieu-thuyet-n20091012024323970.htm.
99. Phương Lựu (chủ biên, 2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
100. Hoàng Như Mai (1971), Kí và giảng dạy kí, Vấn đề giảng dạy tác phẩm
158
văn học theo loại thể, Nxb Giáo dục.
101. Văn Thị Mai (2007), Phong cách tiểu thuyết Tô Hoài (khảo sát qua các
tiểu thuyết “Quê người”, “Mười năm”, “Ba người khác”), Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
102. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại – chân dung và
phong cách, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
103. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), “Khải luận” in trong Tổng tập văn học Việt
Nam, tập 32, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
104. Trần Hoa Minh, Tô Hoài trở lại với “Ba người khác”, Nguồn:
http://vietbao.vn/Van-hoa/To-Hoai-tro-lai-voi-Ba-nguoi-khac/7501382/181/.
105. Mai Thị Nga (2012), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài, Luận
văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
106. Mạc Thị Nga (2011), Màu sắc tự truyện trong tiểu thuyết Tô Hoài (qua
“Quê người”, “Mười năm”, “Quê nhà”, “Ba người khác”), Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
107. Nguyễn Thúy Nga (2006), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài qua hồi kí
“Cát bụi chân ai” và “Chiều chiều”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại
học Sư phạm Hà Nội.
108. Vũ Thùy Nga (2016), Ngôn từ nghệ thuật trong sáng tác của Tô Hoài,
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
109. Nguyễn Dung Nghi (2013), Hình tượng tác giả trong hồi kí Tô Hoài thời
kì đổi mới, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
110. Phạm Duy Nghĩa (2014), Miền núi của Tô Hoài, ngày 11/8, nguồn
http://tonvinhvanhoadoc.vn/mien-nui-cua-to-hoai.html/
111. Nguyên Ngọc dịch (2001), Tiểu luận, Milan Kundera, Nxb Văn hóa
thông tin và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
112. Nguyên Ngọc (2009), Văn xuôi Việt Nam hiện nay – logic quanh co của
các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng (In trong Văn học Việt Nam
sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy), Nxb Giáo dục.
159
113. Nguyên Ngọc (2009), Tác phẩm, tập 2, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
114. Nguyễn Lương Ngọc (Trần Hữu Tá giới thiệu, biên soạn) (2004), Nguyên
lí văn học in trong Tuyển tập Nguyễn Lương Ngọc, Nxb Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
115. Lã Nguyên (dịch – 2013), Iu.Lotman: Kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn
từ, ngày 29/3, nguồn
http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=13
678%3Akt-cu-tac-phm-ngh-thut-ngon-t-iu-lotman-phn-1&catid=4188%3Avn--v
n-hc&lang=fr&site=30.
116. Nguyễn Thị Nguyên (2010), Hình tượng tác giả trong hồi kí tự truyện của
Tô Hoài, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn,
Đại học Sư phạm Hà Nội.
117. Vương Trí Nhàn (2002), Tô Hoài và thể hồi kí, Tạp chí Văn học, số 5.
118. Lê Thị Nhiên (2018), Hồi kí cách mạng trong văn học Việt Nam hiện đại,
Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ, tập 54, số 9c.
119. Mai Thị Nhung (2005), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, Luận án Tiến sĩ
Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
120. Đỗ Hải Ninh (2012), Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong Văn
học Việt Nam đương đại, Luận án Tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học xã hội.
121. Đỗ Hải Ninh (2018), Tô Hoài - văn chương như là cuộc đời, ngày 17/5,
nguồn
http://vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/to-hoai-van-chuong-nhu-la-c
uoc-doi-12067_336.html
122. Nguyễn Thị Ninh (2012), Kết cấu tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Luận
án Tiến sĩ Ngữ Văn, Học viện Khoa học xã hội.
123. Nhiều tác giả (2002), Lịch sử văn học Việt Nam tập 3, Nxb Giáo dục.
124. Lê Lưu Oanh, Phạm Đăng Dư (2008), Lí luận văn học, Nxb Đại học Sư
phạm Hà Nội.
125. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
160
126. Vũ Ngọc Phan (2007), Nhà văn hiện đại, Quyển 4, Nxb Tân Dân.
127. Hoàng Phê (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển Ngôn ngữ, Hà
Nội
128. Trần Thị Mai Phương (2009), Nhân vật người kể chuyện trong hồi kí và
tự truyện Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn.
129. Trần Thị Mai Phương (2017), Tư duy nghệ thuật trong hồi kí Văn học
Việt Nam từ 1986 đến nay, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn.
130. Phạm Quỳnh (2003), Luận giải Văn học và Triết học, Nhà xuất bản
Thông tin.
131. G.N.Pôxpêlôp (chủ biên - 1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Người
dịch: Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà, Nxb Giáo dục.
132. Đào Xuân Quý (2002), Nhớ lại, Nxb Thông tin, Hà Nội.
133. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
134. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch
sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
135. Trần Đình Sử (2014), Lí luận văn học tập 2, Nxb Đại học Sư phạm Hà
Nội.
136. Trần Đình Sử (2014), Bakhtin và những vấn đề thi pháp Dostoievski của
ông, ngày 4/3, nguồn
https://trandinhsu.wordpress.com/2014/03/04/bakhtin-va-nhung-van-de-thi-phap
-dostoievski-cua-ong/.
137. Trần Đình Sử (2015), Thể loại nhật kí trong đời sống xã hội và trong văn
học, ngày 5/9, nguồn
https://trandinhsu.wordpress.com/2015/09/05/the-loai-nhat-ki-trong-doi-song-xa
-hoi-va-trong-van-hoc/.
138. Doãn Quốc Sỹ (1972), Văn học và tiểu thuyết, Nxb Sáng tạo, Sài Gòn.
139. Sylvan Barnet, Morton Berman, William Burto (Hoàng Ngọc Hiến dịch
161
và giới thiệu) (1992), Nhập môn văn học, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
140. Trần Hữu Tá (1990), Tô Hoài - Lịch sử Văn học Việt Nam 1945 - 1975,
tập 2, Nxb Giáo dục.
141. Trần Hữu Tá (2001), Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, Nxb
Trẻ.
142. Hoàng Thị Tâm (2016), Đặc điểm nghệ thuật tự truyện của Tô Hoài sau
1986, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (102).
143. Bùi Việt Thắng (2009), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - nhìn từ góc độ
thể loại (In trong Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và
giảng dạy), Nxb Giáo dục.
144. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin
145. Bùi Việt Thắng (2019), Thi pháp tiểu thuyết hiện đại, Nxb Thanh niên.
146. Nguyễn Đình Thi (1964), Công việc của người viết tiểu thuyết, Nxb Văn
học Hà Nội.
147. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học thế giới mở, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
148. Nguyễn Thành Thi, Lược đồ Văn học quốc ngữ Việt Nam trước 1945 nhìn
từ quá trình hình thành và tương tác thể loại, ngày 16/4/2013, nguồn
http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=13
829%3A2013-04-15-23-09-32&catid=4188%3Avn--vn
hc&Itemid=278&lang=vi&site=3011.
149. Nguyễn Thành Thi (2019), Về xu hướng tương tác thể loại giữa tiểu
thuyết và truyện ngắn hiện đại, Tạp chí Khoa học Đại học Văn hiến, số 4.
150. Nguyễn Ngọc Thiện (2004), Sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết
hiện đại và lí luận tiểu thuyết hiện đại ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX trong quan
hệ với tiểu thuyết và thi pháp tiểu thuyết của nước ngoài, Việt Nam học - Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế lần thứ 2.
151. Nguyễn Ngọc Thiện (2017), Hồi ký văn học trong dòng chảy văn học Việt
Nam hiện đại, ngày 5/12, nguồn
http://vanhocnghethuathatinh.org.vn/hoi-ky-van-hoc-trong-dong-chay-van-hoc-v
162
iet-nam-hien-dai-1512438053.html.
152. Trần Viết Thiện (2016), Tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam đương
đại, Chuyên luận, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
153. Trần Văn Thọ (2006), Vài cảm giác với “Chiều chiều”, Văn nghệ trẻ, số
ra ngày 30.
154. Dương Thị Hiền Thu (2004), Tô Hoài với hai thể văn; chân dung và tự
truyện, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Thái Nguyên.
155. Nguyễn Thị Thu (2013), Số phận con người trong tiểu thuyết của Dương
Hướng, Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam, Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn.
156. Lý Hoài Thu (2002), Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học
thời kì Đổi mới, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 01.
157. Lý Hoài Thu (2006), Đồng cảm và sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội
158. Lý Hoài Thu (2008), Hồi kí và bút kí thời kì Đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu
văn học, số 10.
159. Đỗ Lai Thúy (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp (Lý thuyết chủ nghĩa
hình thức Nga), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
160. Lê Thị Lệ Thủy (2017), Hồi kí văn học (của nhà văn) trong văn học Việt
Nam hiện đại nhìn từ góc độ thể loại, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn.
161. Lê Hương Thủy (2014), Hiện tượng truyện ngắn tiểu thuyết hóa trong
văn học Việt Nam đương đại, Tạp chí Văn nghệ quân đội.
162. Nguyễn Thị Thu Thủy (2014), Tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên
Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài từ góc nhìn diễn ngôn nghệ thuật, Luận văn Thạc sĩ
Văn học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
163. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
164. Phạm Thị Thanh Thủy (2010), Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài
trước Cách mạng, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
163
văn.
165. Trần Thanh Thủy (2016), Hiện thực đời sống và con người trong hồi kí
“Cát bụi chân ai: của Tô Hoài, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm Hà Nội
2.
166. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời
kì đổi mới, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
167. Đặng Tiến (2012), Tổng quan về Hồi kí của Tô Hoài, ngày 1/10, nguồn
http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-va
n-hoa/tong-quan-ve-hoi-ky-to-hoai.
168. Phan Văn Tiến, Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2015), Lí luận văn học 2 (tác
phẩm và loại thể văn học), Đại học Tây Đô.
169. L.I.Timôfêep (1962) (Lê Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo, Bùi Khánh Thế,
Nguyễn Hải Hà, Minh Hảo, Nhữ Thành dịch), Lí luận văn học tập 1, Nxb Văn
hóa, Viện Văn học, Hà Nội.
170. L.I.Timôfêep (1962) (Lê Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo, Bùi Khánh Thế,
Nguyễn Hải Hà, Minh Hảo, Nhữ Thành dịch), Lí luận văn học tập 2, Nxb Văn
hóa, Viện Văn học, Hà Nội.
171. Nguyễn Thị Tỉnh (2010), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài trong hồi kí
Chiều chiều và Cát bụi chân ai, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm Hà
Nội 2.
172. Todorov (2004), Mikhail Bakhtin - Nguyên lý đối thoại, Người dịch: Đào
Ngọc Chương, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
173. Nguyễn Văn Tổng (2019), Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện
trong văn học Việt Nam thế kỉ XX, Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam, Đại học
Khoa học Huế.
174. Nguyễn Thị Quỳnh Trang (2016), Hiện tượng giao thoa thể loại trong
sáng tác của A.Chekhov (qua khảo sát kịch và truyện ngắn), Luận án Tiến sĩ
Văn học, Học viện Khoa học xã hội.
175. Nguyễn Thu Trang (2009), Chất trữ tình trong hồi kí Tô Hoài, Luận văn
164
Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
176. Phạm Thị Thùy Trang (2015), Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Việt
Nam từ 1986 đến 2000, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, số 1 (66).
177. Phạm Thị Thùy Trang (2016), Tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000
nhìn từ lý thuyết tự sự, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và văn hóa, Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh.
178. Khải Trí (2014), Tô Hoài: Bậc thầy của kí họa chân dung đời thường,
ngày 7/7, nguồn
https://vietnamnet.vn/vn/giai-tri/to-hoai-bac-thay-cua-ky-hoa-chan-dung-doi-thu
ong-184627.html.
179. Nguyễn Minh Trường (2015), Truyện viết về đề tài dân tộc và miền núi
giai đoạn 1945-1975, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn.
180. Nguyễn Khắc Trường (2008), Hồi ký đòi hỏi khắt khe về sự thật, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, số 8.
181. Lê Dục Tú (2014), Ký Việt Nam đương đại những đổi mới trong nghệ
thuật viết kí, Báo Văn nghệ, số 29.
182. Nguyễn Văn Tùng (2007), Lí luận tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỉ XX, Luận
án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
183. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Nxb
Tri thức.
184. L.X.Vưgốtxki (1981), Tâm lí học nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
185. Nguyễn Thị Ái Vân (2011), Đặc điểm nghệ thuật tự truyện và hồi kí của
Tô Hoài, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm, Thành phố Hồ Chí Minh.
186. Quỳnh Vân, Nhà văn Tô Hoài: “Phải nhân lên những điều tốt đẹp”, ngày
nguồn 8/7/2014,
https://baomoi.com/nha-van-to-hoai-phai-nhan-len-nhung-dieu-tot-dep/c/142542
165
99.epi.
187. Hoàng Duy Vũ (2008), Vùng cao trong văn Tô Hoài, ngày 22/4, nguồn
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c78/n147/Vung-cao-trong-van-To-Hoai.
html.
188. Điêu Thị Tú Uyên (2018), Tiểu thuyết viết về miền núi từ sau đổi mới,
Luận án Tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học xã hội.
189. Đỗ Ngọc Yên, Văn học thời kì chống Pháp và Mỹ, nguồn
http://toquoc.vn/van-hoc-thoi-ky-chong-phap-va-chong-my-99129465.htm.
190. Tọa đàm về Ba người khác của Tô Hoài, ngày 6/1/2007, nguồn
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8936&rb=0102.
191. https://www.vinadia.org/hoi-ky-nguyen-dang-manh/hoi-ky-nguyen-dang-
manh-to-hoai/
192. https://chumonglong-wordpress
com.cdn.ampproject.org/v/s/chumonglong.wordpress.com/2014/07/23/viet-nhan
h-ve-ba-nguoi-khac-cua-to-hoai/amp.
193. http://vuongdangbi.blogspot.com/2009/05/to-hoai-va-hoi-ky.html
TÀI LIỆU NƢỚC NGOÀI
194. Abrams, M.H (1993), A glossary of literary terms (sixth edition),
Harcourt Brace Jovanovich College Publishers, The United States of America.
195. Lukacs, Geory (1988), The theory of novel (Translated from the German
by Anna Bostock), Whitsable Litho Printers Ltd., The United States of
American.
196. Prince, Gerald (2003), Dictionary of narratology (revised edition),
University of Nebraska press: Lincoln and London, The United States of
American
197. https://www.liferichpublishing.com/AuthorResources/Nonfiction/Differe
166
nces-Between-Memoir-AutoBiography.aspx