BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

BÙI VĂN LỢI

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM

TỪ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KY XX ĐẾN ĐẾN 1945

(DIỆN MẠO VÀ ĐẶC ĐIỂM)

Chuyên nghành : Văn học Việt Nam

Mẵ số : 5.04.33

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học : GS. NGUYỄN ĐÌNH CHU

HÀ NỘI – 1998

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

BÙI VĂN LỢI

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM

TỪ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KY XX ĐẾN ĐẾN 1945

(DIỆN MẠO VÀ ĐẶC ĐIỂM)

Chuyên nghành : Văn học Việt Nam

Mẵ số : 5.04.33

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học : GS. NGUYỄN ĐÌNH CHU

HÀ NỘI – 1998

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận án này chúng tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ tận tình của:

Ban Giáo hiệu, Ban chủ nhiệm và toàn bộ CBGD Khóa Văn, Phòng nghiên cứu Khoa

học Trƣờng Đại học Sƣ phạm Quy Nhơn.

Ban Giám hiệu, Ban chủ nhiệm Khoa văn, Phòng Quản lý Khoa học Trƣờng Đại học

Sƣ Phạm – Đại học Quốc Gia Hà Nội.

Nhân đây tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất.

Tôi xin chân thành cảm ơn GS, Nguyễn Đăng Mạnh, GS, Hà Minh Đức – Viện trƣởng

Viện Học Văn học, GS, Phong lê, GS, Phan Cự Đệ, PGS, Nguyễn Hoành Khung, PGS,

Nguyễn Văn Long – Chủ nhiệm bộ môn VHVN II, PGS, PTS. Trần Đặng Xuyến – Chủ

nhiệm Khoa Văn, Trƣờng ĐHSP Hà Nội, PGS, PTS, Đoàn Trọng Huy, PTS. Lê Quang

Hƣng, PTS Nguyễn Thị Bình, PGS, Thành Thế Thái Bình, PGS, PTS. Kiều Thu Hoạch, PGS,

PTS. Trần Thị Băng Thanh, PTS. Đỗ Đức Tín và các đồng chí trong tổ Văn Học Việt Nam II

của Trƣờng ĐHSP Hà Nội đã góp nhiều ý kiến quí báu, giúp đỡ tôi tận tình trong quá trình

hoàn thành luận án.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đối với GS. Nguyễn

Đình Chủ, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, dìu dắt và động viên tôi rất nhiều trong quá trình học

tập, nghiên cứu và thực hiện luận án này.

Cuối cùng, tôi chân thành cảm ơn gia đình bạn, bè gần xa đã cổ vũ, động viên, giúp

đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận án.

Hà Nội ngày 26 tháng 11 năm 1989

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Bùi Văn Lợi

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng tôi, các số liệu, kết quả nêu trong

luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

BÙI VĂN LỢI

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài .......................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề: ................................................................................................... 2

3. Nhiệm vụ và giới hạn của đề tài ...................................................................... 10

4. Phƣơng pháp nghiên cứu. ................................................................................ 11

5. Kết cấu của luận án và khả năng ứng dụng của công trình .............................. 13

NÔI DUNG LUẬN ÁN .............................................................................................. 16

CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU KHÁI NIỆM TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ .................... 16

1. Nói qua về tiểu thuyết và sự khác nhau giữa tiểu thuyết trung đại và tiểu

thuyết hiện đại ở Việt Nam. ............................................................................................. 16

2. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử ........................................................................... 23

2.1. Thế nào là tiểu thuyết lịch sử. ................................................................... 23

2.2. Sự khác biệt giữa tiểu thuyết lịch sử đối với khoa học lịch sử ................. 26

2.3. Sự khác biệt của tiểu thuyết lịch sử với một số chủng loại khác tiểu thuyết

...................................................................................................................................... 30

CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ VẬN ĐỘNG CỦA THỂ LOẠI

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945

.............................................................................................................................................. 32

2.1.Nguyên nhân ra đời và phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam ở nửa đầu

thế kỷ XX ......................................................................................................................... 32

2.1.1. Từ yêu cầu của cuộc sống dân tộc: ........................................................ 32

2.1.2. Từ yêu cầu của văn học Việt Nam trên con đƣờng hiện đại hóa: .......... 41

2.1.3. Từ những tiền đề văn học đã có ............................................................. 46

2.1.4. Từ ảnh hƣởng của văn học nƣớc ngoài. ................................................. 61

2.2. Những chặng đƣờng phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế

kỷ XX đến 1945. .............................................................................................................. 71

2.2.1. Chặng thứ nhất: từ đầu thế kỷ XX đến 1930. ........................................ 72

2.2.2. Chặng thứ 2 : Từ 1930 đến 1945. .......................................................... 80

Tiểu kết: ............................................................................................................... 86

CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VỀ NỘI DUNG ............................. 87

3.1 .Cảm hứng hứng chủ đạo trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX

.......................................................................................................................................... 87

3.1.1. Cảm hứng lịch sử và dân tộc .................................................................. 88

3.1.2. Cảm hứng thế sự. ................................................................................... 95

3.1.3. Cảm hứng đạo lý. ................................................................................... 99

3.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu

thế kỷ XX đến 1945 ....................................................................................................... 105

3.2.1. Quan niệm về ngƣời anh hùng cứu nƣớc. ............................................ 107

3.2.2. Quan niệm về ngƣời phụ nữ................................................................. 111

3.2.3. Điểm độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời: ................... 115

Tiểu kết .............................................................................................................. 126

CHƢƠNG 4: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT ..................................... 127

4.1. Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hƣ cấu nghệ thuật trong tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 ..................................................... 127

4.1.1. Hƣ cấu từ những sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử. .......................... 129

4.1.2. Những nhân vật và sự kiện hoàn toàn do trí tƣởng tƣởng của nhà văn tạo

nên. ............................................................................................................................. 138

4.2. Nghệ thuật kết cấu ...................................................................................... 140

4.2.1. Dạng kết cấu theo trình tự thời gian .................................................... 145

4.2.2. Dạng kết cấu theo hai tuyến nhân vật. ................................................. 147

4.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 152

4.3.1. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua việc giới thiệu tiểu sử và miêu tả

ngoại hình................................................................................................................... 153

4.3.2. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua miêu tả hành động................. 158

4.3.3. Nghệ thuật sử dụng đối thoại và độc thoại nội tâm để thể hiện tính cách

nhân vật. ..................................................................................................................... 159

4.3.4. Miêu tả thiên nhiên để khắc họa tâm trang nhân vật. .......................... 171

4.4. Nghệ thuật trần thuật ................................................................................... 172

4.5.Nghệ thuật diễn đạt và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. ................................. 178

4.5.1. Nghệ thuật diễn đạt. ............................................................................. 178

4.5.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. ............................................................. 180

Tiểu kết: ............................................................................................................. 183

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 184

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 189

PHỤ LỤC .................................................................................................................. 206

MỞ ĐẦU

1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài

1.1. Mục đích của đề tài:

Tiểu thuyết văn xuôi tiếng Việt là một thể loại sinh sau đẻ muộn nhƣng lại có một tốc

độ phát triển lớn và sớm có những thành tựu đáng kể. Đây là một thể loại đóng vai trò quan

trọng (vai trò chủ công) trong quá trình cách tân và hiện đại nền văn học nƣớc nhà. Thế

nhƣng, việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết lại chƣa toàn diện và chƣa có hệ thống. Với tiểu

thuyết trƣớc 1945, việc nghiên cứu chủ yếu đang dừng lại ở thể loại tiểu thuyết hiện thực phê

phán là chính và cũng là chỉ với những tác phẩm xuất hiện sau 1930. Gần đây, có một vài

công trình vào việc tái hiện lại diện mạo tiểu thuyết của giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến

1932, nhƣng cũng chỉ mới giới hạn trong phạm vi của Nam Bộ [48].

Nhiều chủng loại tiểu thuyết nhƣ: tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết ái tình, tiểu thuyết

phong tục, tiểu thuyết xã hội, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết kiếm hiệp,

tiểu thuyết lịch sử .v.v…. nhìn chùng, còn bị bỏ sót không nghiên cứu theo hƣớng chuyên

sau. Vì thế, khi chọn nghiên cứu đề tài về tiểu thuyết lịch sử. Chúng tôi hy vọng góp sức khắc

phục một phần khiếm khuyết nói trên và nhằm góp phần thêm vào việc nhận diện lại bộ mặt

thực của tiểu thuyết nói riêng, văn học nói chung của giai đoạn 1900 - 1945 một cách toàn

diện hơn.

1.2. Ý nghĩa của đề tài:

- Ý nghĩa quan trọng nhất của đề tài là khôi phục lại diện mạo dòng tiểu

1

thuyết lịch sử Việt Nam từ 1900 - 1945 với lực lƣợng sáng tác, số lƣợng tác phẩm và những

thành tựu của nó trong quá trình cách tân và hiện đại hóa nền văn học nƣớc nhà, đặc biệt về

phƣơng diện tiểu thuyết (trên con đƣờng chuyển biến từ tiểu thuyết chƣơng hồi sang tiểu

thuyết hiện đại).

- Trong việc nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn này ngoài việc nghiên

cứu chung, đánh giá chung, luận án sẽ đi sâu nghiên cứu và giới thiệu một số tác phẩm, tác

giả tiêu biểu với hy vọng khẳng định tại vị trí một số nhà văn và từ đó cũng là một cách góp

phần làm sang tỏ hơn nữa quá trình phát triển của lịch sử văn hóa phài thể hiện độ kết tinh ở

tác giả, tác phẩm.

- Luận án không nhằm mục đích nghiên cứu lý luận, nhƣng trong quá trình tìm hiểu

diện mạo và đặc điểm của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn này, cũng hy vọng sẽ có ít

nhiều đóng góp về mặt lý thuyết, xung quanh vấn đề thế nào là tiểu thuyết lịch sử.

- Ý nghĩa thực tiễn: nếu luận án đƣợc thực hiện thành công có thể dùng làm tài liệu

tham khảo cho sinh viên ở các bậc Cao đẳng Sƣ phạm và Đại học Sƣ phạm về cƣơng lĩnh văn

học lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX đến 1945.

2. Lịch sử vấn đề:

- Trƣớc năm 1975, chƣa thấy có một công trình nào nói về tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam từ 1900 – 1945. Chỉ đến sau 1945 thì ở miền Bắc, trong công trình nghiên cứu về văn

học lịch sử Việt Nam tập III của nhóm Lê Quý Đôn có giới thiệu một phần về Nguyễn Tử

Siêu với tƣ cách là một nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử và trong năm thì các cuốn “Văn học

thời thuộc Pháp” của Văn Siêu và cuốn “Văn học Việt Nam giản ƣớc tân biên” của Phạm Thế

Ngũ

2

có đề cập đến tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn này, nhƣng chỉ dừng lại ở mức độ giới

thiệu sơ lƣợc.

Trong cuốn “Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại” tập 1, Phan Cƣ Đệ cũng có nói đến

tiểu thuyết lịch sử việt Nam nửa đầu thế kỷ XX với những nhận định khá đích đáng: “ Trong

thời kỳ 1990 - 1930, tiểu thuyết lịch sử là một hình thái mới của văn học yêu nƣớc và cách

mạng. Tiểu thuyết lịch sử tuy viết về quá khứ nhƣng lại mang một ý nghĩa rất hiện đại…

chính đó là nhiệm vụ của các nhà văn khi họ khai thác những đề tài lịch sử”. [61, 37]

Từ sau năm1975, lại có một số công trình nghiên cứu đề cập đến tiểu thuyết lịch sử

nhƣng mức độ đề cập cũng chỉ có tính chất điểm xuyết.

Trong lời giới thiệu cuốn sách “Ngô Tất Tố tác phẩm” tập I, Nhà xuất bản văn học -

Hà Nội - 1961, hai tác giả Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức đã có đề cập tới tiểu thuyết lịch sử

của Ngô Tất Tố qua các cuốn “Lịch sử Đề Thám”(1935). “Vua Hàm Nghi và việc kinh

thành thất thủ” (1935) và cuốn “Gia đình Tổng trấn tả quân Lê Văn Duyệt” (1937) với

những nhận định rất khái quát: “Ngô Tất Tố đã phản ánh trung thành những sự thật lịch sử

của cuộc kháng chiến chống Pháp thời kì đầu do các sĩ phu yêu nƣớc lãnh đạo. Trong điều

kiện nền văn học công khai còn còn bị kiểm duyệt ngặt nghèo mà nêu lên đƣợc những trang

sử đáng tự hào của dân tộc ta thì đó là một thái độ dũng cảm rất đáng đƣợc ca ngợi của nhà

viết tiểu thuyết lịch sử” [62, 64].

Trong lời giới thiệu cuốn “Tuyển tập Nguyễn Huy Tƣởng” Tập 1 – Nhà xuất bản Văn

học Hà nội 1984, Hà Minh Đức đã đề cập tới tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tƣởng qua cuốn

“Đêm hội Long Trì” và “An Tƣ” cũng với những nhận định khái quát nhƣ sau:

“Những sự kiện lịch sử lớn lao đã đƣợc làm sống dậy chân thực, hào hùng trong tác

phẩm của Nguyến Huy Tƣởng. Có thể nói chất sử thi đã nảy nở

3

trong cảm hứng lịch sử sâu sắc về đất nƣớc trong những giờ phút trọng đại với những trang

viết nhiều khói lửa về một dân tộc anh hùng” [72, 22]

- Hà Minh Đức và Phan cự Đệ trong chuyên luận nghiên cứu Nguyễn Huy Tƣởng đã

dành một chƣơng viết về”tiểu thuyết và kịch lịch sử của Nguyễn Huy Tƣởng trƣớc cách

mạng tháng Tám”. Trong đó hai tác đã đề cập đến tính chân thực lịch sử trong tiểu thuyết lịch

sử của Nguyễn Huy Tƣởng:

“Riêng Nguyễn Huy Tƣởng, trong tác phẩm của mình đã tỏ ra khá trung thành với

tinh thần của những thời đại quá khứ đã xa xƣa. Để xây dựng những vở kịch và tiểu thuyết

của mình, Nguyễn Huy Tƣởng rất chú ý tìm tòi, nghiên cứu những tài liệu lịch sử, những tác

phẩm của nhà văn quá khứ” [69, 22].

Trong tất cả những cuốn tiểu thuyết lịch sử Việt Nam XX thì cuốn “Trùng Quang tâm

sử” của Phan Bội Châu đƣợc các nhà nghiên cứu lƣu tâm nhiều nhất. Cũng trong cuốn “Tiểu

Thuyết Việt Nam hiện đại” tập I, Phan Cự Đệ đã coi: “Trùng Quang Tâm sử” của Phan Bội

Châu là “truyện khởi nghĩa chống quân Minh (đầu thế kỷ 15) của một số anh hùng hào kiệt ở

miền Nghệ An lấy danh nghĩa nhà Trần để mƣu khôi phục đất nƣớc. Nhƣng tác phẩm này

đồng thời lại là một tiểu thuyết lịch sử có luận đề, luận đề về cách mạng Việt Nam. Ngƣời

viết luôn luôn hƣớng về hiện đại, kêu gọi đồng bào trong nƣớc nổi dậy làm cách mạng”. [61,

37, 38]. Nguyễn Đình Chú trong bài viết: “Tìm hiểu quan niệm anh hùng của Phan Bội

Châu” đã đề cập đến những hình tƣợng ngƣời anh hùng trong cuốn “Trùng Quang tâm sử”

với những nhận định trân trọng. Theo ông, đây là “lần đầu tiên trong văn học nƣớc nhà có

một tác phẩm viết về tập thể anh hùng… Phan Bội Châu đã dựng lên mấy nhân vật phụ nữ

cũng anh hùng tuyệt đẹp nhƣ ai”.[34 - 19]

4

Sau bài viết của Nguyễn Đình Chú, Nguyến Đổng Chi đã viết bài “Bàn thêm về quan

niệm anh hùng của Phan Bội Châu”, đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 111 tháng 6 năm

1968, nhằm bổ sung về những suy nghĩ về quan niệm anh hùng của Phan Bội Châu trong

cuốn “Trùng Quang tâm sử”.

Năm 1979, Nguyễn Phƣơng Chi đã viết bài “Trùng Quang tâm sử” hay là hình ảnh

của cuộc kháng chiến chống Trung Quốc của quân dân nhà Hậu Trần, qua con mắt ngƣời sĩ

phu chống pháp”. [25, 122 - 132]. Trong bài viết này, tác giả Nguyễn Phƣơng Chi đã chỉ ra

đƣợc những đóng góp của Phan Bội Châu trên cả 2 phƣơng diện nội dung và nghệ thuật.

Ngoài ra, tác giả còn chỉ ra đƣợc những đóng góp của Phan Bội Châu trong việc xây dựng

những nhân vật anh hùng. Tiếp theo bài viết này, Nguyễn Phƣơng Chi còn viết bài: ”Từ tiểu

thuyết “Trung Quang tâm sử” nghĩ về đề tài lịch sử chống Trung Quốc xâm lƣợc qua một số

sáng tác hiện nay”. Đăng trên tạp chí Văn học số 4 năm 1980. Ở bài viết này, tác giả Nguyễn

Phƣơng Chi đã nghiên cứu “Trùng Quang tâm sử” từ góc nhìn thể loại - thể loại tiểu thuyết

lịch sử và từ đề tài lịch sử. Đây là 1 trong những hƣớng nghiên cứu về cuốn “Trùng Quang

tâm sử” của Phan Bội Châu.

Nguyến Khắc Việt trong cuốn “Apereu sur la literature Vietnamienne” (Hà Nội,

1976) ở mục viết về “thơ và những bƣớc đầu của tiểu thuyết và sân khấu” [205], sau khi đã

nhắc tới những nhà tiểu thuyết nhƣ Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách có nhắc tới Nguyễn

Tử Siêu với tƣ cách là một nhà tiểu thuyết lịch sử.

Nguyễn Đình Chú, trong bài viết: “Các thế hệ nhà văn trong ngót 100 năm soi lại lịch

sử” in ở tác phẩm: “Văn học Việt Nam trên những chặng đƣờng chống phong kiến Trung

Quốc xâm lƣợc” Nhà xuất bản khoa học xã hội - 1981 đã nêu lên đóng góp của Nguyễn Tử

Siêu trong những cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về đề tài chống phong kiến phƣơng

5

Bắc bằng một ý thức và một cảm hứng dân tộc sâu nặng qua cuốn “Trần Nguyên chiến kỷ”,

“Việt Thanh chiến sử”, “Hai Bà đánh giặc”, “Vua Bố cái”, “Lê Đại Hành” v.v… Nguyễn

Đình Chú đã nêu lên những nhận định, đánh giá sơ bộ về tiểu thuyết Nguyễn Tử Siêu:

“Nguyễn Tử Siêu là nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử, trong đó phần lớn lấy đề tài từ các cuộc

khởi nghĩa chống phong kiến Tàu… Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Tử Siêu thƣờng dựa vào

nội dung lịch sử do các sử sách ghi lại rồi tƣởng tƣợng thêm thắt ít nhiều. Đặc biệt là thƣờng

pha màu sắc kiếm hiệp vào nhân vật, sự kiện” [36 - 580]

Năm 1984, khi biên soạn lại cuốn hợp tuyển văn học Việt Nam thời kỳ 1920 - 1945

“NXB Văn học - 1984”, Nguyễn Đình Chú đã chọn in một chƣơng trong tác phẩm “Trần

Nguyên chiến kỷ” của Nguyễn Tử Siêu. Nhƣ thế là so với Hợp tuyển văn học Việt Nam tập

IV, in năm 1962 cũng do Nguyễn Đình Chú biên soạn, Nguyễn Tử Siêu đã có hai tác phẩm

đƣợc tuyển chọn trích đăng: “Việt Thanh chiến sử” và “Trần Nguyên chiến kỷ”.

Kiều Thu Hoạch trong cuốn “Văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên cứu” ở bài

viết: “Vai trò của chuyện kể dân gian đối với sự hình thành các thể loại tự sự trong Văn học

Việt Nam”, đã đề cập đến tuyển thuyết lịch sử trong mối quan hệ với văn học dân gian. Theo

ông: “Truyện lịch sử đã kế thừa về mặt đề tài chống ngoại xâm, ca ngợi các anh vị anh hùng

dân tộc và phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nƣớc, tinh thần độc lập tự chủ và ý thức tự hào

dân tộc, vốn là những tƣ tƣởng cốt lõi trong thần thoại truyền thuyết dân gian từ ngàn xƣa.

Ngay đến đầu thế kỷ XX này những tƣ tƣởng cốt lõi ấy vẫn còn tƣơi thắm nhƣ sợi chỉ đỏ

xuyên suốt trong các cuốn tuyết thuyết lịch sử của nhiều tác giả nhƣ: “Hậu Trần dật sử” (còn

gọi là Trùng Quan tâm sử), viết bằng chữ Hán của Phan Bội Châu và hàng chục cuốn tiểu

thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ hồi đầu thế kỷ nhƣ “Lê Đại Hành” và “Tiếng sấm đêm đông”

của Nguyễn Tử Siêu, “Ngọn cờ vàng” của Đinh Gia Thuyết… Những tác phẩm này đã góp

phần tích cực vào việc cổ vũ phong trào yêu nƣớc đang sôi sục của

6

nhân dân ta lúc bấy giờ, bởi thế thực dân Pháp đã kiểm soát gắt gao và phải ra lệnh cấm xuất

bản, phát hành thể loại tiểu thuyết lịch sử”. [97].

Tác giả Nguyễn Huệ Chi và Lê Chí Dũng trong cuốn “Từ điển văn học” tập II, khi nói

về tác giả Nguyễn Tử Siêu, đã nêu lên những nhận định nhƣ sau: “Cùng với Đinh Gia

Thuyết” (..1935) Nguyễn Tử Siêu nổi tiếng là ngƣời viết nhiều tiểu thuyết lịch sử nhất trong

khoảng cuối những năm 20. Cố gắng rời bỏ nhanh chóng thị hiếu tâm thƣờng của lớp độc giả

thành thị lúc ấy về loại tiểu thuyết tình ái và luân lý cổ lỗ để chuyển sang khai thác đề tài lịch

sử, ý nguyện của tác giả có phần chính đáng và nghiêm túc: “Bồi đắp đƣợc chút đỉnh về cái

quan niệm đối với Tổ quốc nhắc mọi ngƣời nhớ đến cái nghĩa vụ đối với đất nƣớc, khuyên

thanh niên mình: “họa chăng cũng là ngƣời trong một nƣớc bây giờ gặp lúc nƣớc nạn mà

mình tuyệt nhiên không hỏi chi đến thì mặt mũi nào mà trông thấy giang sơn giống nòi”. Với

những quan niêm nhƣ vậy, có thể nói Nguyễn Tử Siêu đã kế tục một cách hợp pháp và khéo

che dấu đƣợc một cái vỏ lịch sử, những tƣ tƣởng ái quốc, ái quần, ái chủng của phong trào

duy tân 30 năm đầu thế kỷ trong phần thơ sang tác của mình. Hầu hết tiểu thuyết lịch sử của

Nguyễn Tử Siêu đều có giá trị làm sống lại những trang sử chống xâm lăng vẻ vang của dân

tộc ta, mang lại cho chúng ta một ý nghĩa hiện đại: từ lịch sử mà đặt câu hỏi cho hiện nay,

khêu gợi trong ngƣời dân long yêu nƣớc, tình đồng bào,niềm tự hào về quá khứ chói lọi của

cha ông” [22,95]

Hai tác giả Trần Đình Hƣợu và Lê Chí Dũng, trong cuốn “Văn học Việt Nam giai

đoạn thời 1900 - 1930”, ở chƣơng viết về truyện ngắn và tiểu thuyết có nói đến tiểu thuyết

lịch sử của hai tác giả: Đinh Gia Thuyết với tác phẩm “Ngọn cờ vàng” và Nguyễn Tử Siêu

với tác phẩm “Hai Bà đánh giặc”. Riêng đối với tác giả Nguyễn Tử Siêu, hai tác giả của cuốn

sách đã dành cho ông những nhận định khá trân trọng.

7

“Nguyễn Tử Siêu đã viết nhiều tiểu thuyết lịch sử hơn cả… Ý nguyện của ông rất rõ

rằng: bồi đắp đƣợc chút đỉnh về cái quan niệm đối vơi đất nƣớc (Hai Bà đánh giặc)… cũng

nhƣ Đinh Gia Thuyết, Nguyễn Tử Siêu có ý thức dùng lịch sử để kêu gọi lòng yêu nƣớc tình

đồng bào” [107, 334]

Ngoài những công trình kể trên, trong luận văn tốt nghiệp sau đại học với đề tài

“Bƣớc đầu tìm hiểu thơ văn của Nguyễn Tử Siêu” của Nguyễn Thị Phin cũng có dành riêng

cho một chƣơng nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Tử Siêu.

Trong luận án phó tiến sĩ khoa học với đề tài: “Sự hình thành và vận động của thể loại

tiểu thuyết văn xuôi tiếng Việt, Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến 1932”, [49], tác giả

Tôn Thất Dụng đã đề cập đến tiểu thuyết lịch sử của một số tác giả ở Nam Bộ nhƣ Nguyễn

Chánh Sắt, Tân Dân Tử và Phạm Minh Kiên một cách rất sơ lƣợc.

Trong luận án thạc sĩ khoa học ngữ văn, Bùi Văn Lợi đã nghiên cứu tiểu thuyết lịch

sử của Nguyễn Tử Siêu trên hai phƣơng diện chính: nội dung và thi pháp.

Gần đây, vào tháng 12/1955, trong hội thảo khoa học (nhà văn - Lƣơng y Nguyễn Tử

Siêu 1888 - 1965) do Sở Văn hóa thông tin tỉnh Hà Tây tổ chức ngoài những báo cáo viết về

Nguyễn Tử Siêu với tƣ cách là một lƣơng y còn nhiều bài viết nói về tiểu thuyết lịch sử của

ông nhƣ: “Nguyễn Tử Siêu: cụ là ai? ”của giáo sƣ Nguyễn Tử Siêu và tiểu thuyết lịch sử”

Việt Thanh chiến sử”; của Nguyễn Huệ Chi và Vũ Thanh, “Nguyễn Tử Siêu và tiểu thuyết

lịch sử của ông” của nghiên cứu sinh Bùi Văn Lợi. “Về tiểu thuyết lịch sử “Việt Thanh chiến

sử” của Nguyễn Tử Siêu” của, Nguyễn Đặng Na, “Trần Nguyên chiến kỷ - Trang sử vẻ vang

của một thời chống ngoại xâm oanh liệt qua ngòi bút tiểu thuyết của Nguyễn Tử Siêu” của

Trịnh Thu Tiết, và bài “nguyễn Tử Siêu với những

8

cảm hứng lịch sử và luân lý trong một số tiểu thuyết những năm hai mƣơi” của Lê Lƣu Oanh.

Trên đây, chúng tôi đã trình bày tổng quan về tình hình nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử

bằng văn xuôi của Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945. Từ thực tế tình hình

nghiên cứu đó, bƣớc đầu có thể nêu lên một số nhận xét nhƣ sau:

1) Việc nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 chƣa

đƣợc quan tâm đúng mực, các công trình chỉ dừng lại ở mức độ nào đó, thảng hoặc mới có

một số nhận định khái quát rất chùng và sơ lƣợc về dòng tiểu thuyết này. Thực tế, chƣa có

một công tình ở cấp vĩ mô theo hƣớng chuyên luân, có hệ thống nhằm khảo sát một cách

công phu, sâu sắc về quá trình hình thành và phát triểu của chủng loại tiểu thuyết lịch sử, và

tìm ra những đặc điểm cơ bản của nó về nội dung và nghệ thuật.

2) Còn có rất nhiều tác giả viết về tiểu thuyết lịch sử ở giai đoạn này chƣa hề đƣợc

nhắc tới, thậm chí có tác giả có thành tựu về chủng loại này vẫn bị bỏ quên.

3) Nguyên nhân của tình hình nghiên cứu đó có thể do quan điểm văn chƣơng chƣa

thống nhất. Một số câu tình hình nghiên cứu đó có thể do quan điểm văn chƣơng chƣa thống

nhất. Một số nhà nghiên cứu trong quan điểm về tiểu thuyết ít nhiều rơi vào sự phiến diện.

Họ cho rằng chỉ có tiểu thuyết lãng mạn, tiểu thuyết hiện thực với là tiểu thuyết. Trong khi

bản thân tiểu thuyết lại là một số loại đa chủng loại. Tất nhiên, cũng có thể do bản thân chủng

loại tiểu thuyết lịch sử Việt Nam chƣa kết tinh vào một số tác giả có tầm cỡ nhƣ Vũ Trọng

Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng của dòng văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1932 - 1945,

Thế nhƣng, ngay ở phƣơng diện này cũng cần có một cách nhìn nhận đánh giá khách quan

hơn, khoa học hơn và thỏa đáng hơn để đƣa tiểu thuyết lịch sử Việt Nam về với vị trí xứng

đáng của nó trong nền văn

9

học Việt Nam nói chung và thể loại tiểu thuyết Việt Nam cận hiện đại nói riêng.

3. Nhiệm vụ và giới hạn của đề tài

3.1. Nhiệm vụ của đề tài:

Từ tình hình nghiên cứu đã nêu trên, trong điều kiện tƣ liệu và khả năng cho phép,

chúng tôi xác định nhiệm vụ của luận án là:

3.1.1. Tìm hiểu những điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa với tƣ cách động lực thúc đẩy

sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết câu tiểu thuyết, lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ

XX đến 1945. Mặt khác tìm hiểu những gì thuộc yếu tố tiền thân của tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945.

3.1.2. Khôi phục diện mạo của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ

XX đến 1945 bao gồm cả 2 loại viết bằng chữ Quốc ngữ chữ Hán.

3.1.3. Tìm hiểu một số đặc điểm về nội dung và hình thức của tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945. Từ đó, đánh giá những mặt thành công và hạn chế câu tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, trên hai phƣơng diện nội dung, thi

pháp nghệ thuật.

3.1.4. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nêu trên, luận án sẽ có nhiệm vụ tìm hiểu một số

khái niệm nhƣ: tiểu thuyết lịch sử là gì? Sự khác biệt đặc trƣng tiểu thuyết lịch sử với đặc

trƣng của một số chủng loại tiểu thuyết khác nhƣ tiểu thuyết hiện thực, tiểu thuyết xã hội, tiểu

thuyết trinh thám, tiểu thuyết kiếm hiệp, nhằm tạo công cụ cho quá trình xử lý nội dung đề

tài.

3.2. Giới hạn của đề tài.

10

- Đối tƣợng khảo sát của luận án là những tác phẩm thuộc tiểu thuyết lịch sử văn xuôi

bằng chữ Hán và tiếng Việt xuất hiện ở Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ XX đến 1945

hiện đang có trong thƣ viện cả nƣớc. Nhƣng tác phẩm này có đặc điểm chung là dựa vào

những sự kiện lịch sử trong quá khứ hoặc hiện tại, thuộc chính sử, cũng nhƣ đã sử dụng trí

tƣởng tƣợng, hƣ cấu để tạo nên tác phẩm. Nó mang đặc trƣng của tiểu thuyết nói chung và đã

đƣợc các nhà nghiên cứu từ trƣớc tới nay thừa nhận. Luận án không khảo sát những truyện

ngắn lịch sử, cũng nhƣ không khảo sát nhƣng tác phẩm tiểu thuyết lịch sử bằng thơ.

- Những tác phẩm đƣợc chọn để khảo sát là những tác phẩm ra đời từ những năm đầu

thế kỷ XX (bắt đầu từ 1900 đến 1945). Sở dĩ chúng tôi chọn thời gian này bởi vì đây là giai

đoạn chuyển tiếp từ tiểu thuyết chƣơng hồi sang tiểu thuyết hiện đại. Ý đồ và mục đích luận

án muốn tìm xem tiểu thuyết lịch sử Việt Nam có vai trò nhƣ thế nào trong quá trình chuyển

biến này nói riêng,trong quá trình cách tân và hiện đại hóa của nền văn học Việt Nam nói

chung.

4. Phương pháp nghiên cứu.

4.1.Phương pháp văn học sử.

Đây là một đề tài văn học sử nghiên cứu về một chủng loại của tiểu thuyết, thuộc thể

loại văn xuôi tự sự. Vì vậy, phƣơng pháp chủ yếu đƣợc sử dụng ở công trình này là phƣơng

pháp nghiên cứu văn học sử về thể loại. Khi nghiên cứu khảo sát tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945 theo phƣơng pháp này bắt buộc chúng tôi phải đặt đối

tƣợng nghiên cứu là tiểu thuyết lịch sử trong mối quan hệ xã hội lịch sử. Mặt khác là trong

mối quan hệ với quá trình vận động và phát triển của các chủng loại tiểu thuyết khác của nền

văn học Việt Nam cùng thời nói chung. Chúng tôi quan niệm

11

rằng: sự hình thành và phát triển của chủng loại tiểu thuyết lịch sử Việt Nam không thể tách

rời với sự phát triển của một số chủng loại khác của tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này cũng

nhƣ tiến trình của lịch sử văn học Việt Nam nói chung.Tất nhiên với phƣơng pháp văn học sử

điều quan trọng nhất vẫn là phát hiện đƣợc quá trình vận động, phát triển tự thân của chủng

loại tiểu thuyết lịch sử trong giai đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1945 kèm theo đó là việc đánh

giá những thành tựu mà nó đạt đƣợc.

Đề tài nghiên cứu về chủng loại tiểu thuyết lịch sử nằm trong thể loại tiểu thuyết.

Nhƣng trong một chủng loại lại bao gồm nhiều tác giả và tác phẩm.Vì thế, ngoài việc sử dụng

phƣơng pháp văn học sử, luận án còn sử dụng phƣơng pháp phân tích thể loại, phƣơng pháp

phân tích tác giả,phân tích tác phẩm với ý thức né tránh đƣợc càng nhiều càng tốt phƣơng

pháp xã hội học dung tục.

4.2.Các phương pháp hỗ trợ:

+ Phƣơng pháp so sánh văn học.

- Luận án sử dụng phƣơng pháp so sánh lịch đại để so sánh tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam giai đoạn 1900 đến 1945 với tiểu thuyết lịch sử Việt Nam bằng văn xuôi ở các giai đoạn

văn học trƣớc đó và sau đó để thấy sự kế thừa và phát triển, cũng nhƣ những mặt còn hạn chế

của dòng tiểu thuyết này.

So sánh đồng đại: là so sánh tiểu thuyết lịch sử với một số chủng loại tiểu thuyết hiện

thực phê phán.

+ Ngoài những phƣơng pháp, luận án còn sử dụng phƣơng pháp thống, chỉnh thể. Đặt

mỗi nhà văn trong toàn bộ dòng tiểu thuyết lịch sử đánh giá, đặt từng tiểu thuyết trong quá

trình sang tác của mỗi nhà văn để thấy sự tiến bộ hay chững lại của nhà văn trên địa hạt này.

12

5. Kết cấu của luận án và khả năng ứng dụng của công trình

5. Kết cấu của luận án.

Để khôi phục lại điện mạo và bƣớc đầu làm rõ đƣợc những đặc điểm của tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam từ 1900 đến 1945, chúng tôi kết cấu luận án gồm những phần sau đây:

Phần thứ nhất: Mở đầu

Phần này gồm có các mục: mục đích, ý nghĩa của đề tài, lịch sử vấn đề, nhiệm vụ và

giới hạn của đề tài, phƣơng pháp nghiên cứu, kết cấu của luận án, đóng góp của luận án và

khả năng ứng dụng của công trình.

Phần thứ hai: Nội dung của luận án, đƣợc chia là 4 chƣơng.

Chương 1: Giới thuyết khái niệm tiểu thuyết lịch sử.

Trong chƣơng này luận án giới thiệu khái niệm tiểu thuyết lịch sử và nêu lên những

đặc điểm khu biệt giữa tiểu thuyết lịch sử với một số chủng loại khác của tiểu thuyết nhƣ:

tiểu thuyết hiện thực, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết kiếm hiệm v.v … nhằm tạo công cụ nhận

thức tự giác, có giới hạn cho việc khảo sát nội dung của đê tài.

Chương 2: Khảo sát quá trình hình thành và vận động của chủng loại tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945: Trƣớc hết là tìm hiểu nguyên nhân ra

đời, tồn tại và phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến

1945. Sau đó, tìm hiểu những chặng đƣờng phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai

đoạn này.

Chương 3: Trình bày một số đặc điểm về nội dung. Ở chƣơng này luận án cố gắng

làm rõ cảm hứng chủ đạo, quan niệm nghệ thuận về con ngƣời quan niệm về ngƣời anh hùng,

quan niệm về ngƣời phụ nữ, điểm độc đáo trong quan điểm nghệ thuật về con ngƣời của tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam từ 1990 - 1945.

13

Chương 4: Trình bày một số dặc điểm về nghệ thuật:

Về mặt nghệ thuật, luận án sẽ khảo sát một số phƣơng diện quan hệ giữa tính chất

thực lịch sử và sự hƣ cấu nghệ thuật, nghệ thuật cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ

thuật trần thuật, nghệ thuật diễn và sứ dụng ngôn ngữ.

5.2. Đóng góp của luận án:

5.2.1. Luận án góp phần tái hiện lại diện mạo của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu

thế kỷ XX đến 1945 - Một dòng tiểu thuyết cơ bản đang giới nghiên cứu phê bình và độc giả

lãng quên. Từ những kết quả nghiên cứu luận án tiến tới chứng minh sự xuất hiện của tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam những đầu năm đầu thế kỷ XX và bắt đầu phát triển từ năm 1920 đến

1945.

5.2.2.1 Luận án sẽ góp phần tìm hiểu một số đặc điểm về nội dung và thủ pháp của

tiểu thuyết lịch sử Việt Nam, Từ những kết quả nghiên cứu đó, luận án sẽ xác định sự đóng

góp tích cực của dòng tiểu thuyết nói riêng, của cả nền văn học Việt Nam trong giai đoạn

này nói chung và cũng từ đó xác định cho dòng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam một vị trí trong

toàn bộ văn mạch dân tộc.

5.2.3. Luận án cố gắng khôi phục lại vị trí chân dung của một số nhà văn tiểu biểu,

viết về tiểu thuyết lịch sử từng bị lãng quên. Ngoài ra, luận án còn khai thác sâu thêm nội

dung tƣ tƣởng cũng nhƣ nghệ thuật của một số cuốn tiểu thuyết lịch sử vốn đã có tiếng, để đề

xuất đƣa vào giảng dạy trong nhà trƣờng phổ thông nhằm tăng cƣờng và làm phong phú hơn

nữa giá trị dòng văn học yêu nƣớc giai đoạn văn học đầu thế kỷ XX.

5.2.4. Đây là một công trình nghiên cứu văn học sử, vì vậy, kết quả công trình sẽ có

góp phần vào việc khắc phục những khiếm khuyết , những chỗ trống của các công trình

nghiên cứu văn học sử giai đoạn đầu thế kỷ, góp

14

phần nhỏ làm cho bộ mặt của văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 hiện lên toàn

diện, rõ nết và đúng với tình hình thực tế của nó hơn.

5.3. Khả năng ứng dụng của công trình:

Theo chúng tôi, sự ra đời, hình thành và phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

giai đoạn này đã góp phần không nhỏ vào quá trình cách tân và hiện đại hóa nền văn học

nƣớc nhà, Không những thế, trong một giai đoạn lịch sử nhất định, dòng tiểu thuyết này đã

có những đóng góp đáng kể trong việc khích lệ và cổ vũ lòng yêu nƣớc, ý thức tự cƣờng, tự

tôn dân tộc, góp phần giáo dục mọi ngƣời tinh thần cứu nƣớc, bảo vệ dân tộc, bảo vệ giống

nòi thông qua những tấm gƣơng của những vị anh hùng và truyền thống quý báu của cha ông.

Cho đến nay, những giá trị đó văn chƣa hề bị phai nhạt. Cần phải đƣợc làm sống dậy để giáo

dục thế hệ trẻ hiện tại và tƣơng lai. Vì vậy, trong điều kiện viết lại các giáo trình văn học sử

Việt Nam giai đoạn văn học 1990 - 1945 thì những kết quả đạt đƣợc của luận án sẽ có ý

nghĩa thật sự đối với các nhà nghiên cứu.

Từ kết quả của luận, chúng tôi mạnh dạn đề nghị các nhà biên soạn sách giáo khoa

đƣa một số tác phẩm tiểu biểu của dòng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam vào trong nhà trƣờng

PTTH để giáo dục lòng yêu nƣớc, truyền thống quý báu của dân tộc ta cho học sinh, ngoài

cuốn “Trung quan tâm sử” của Phan Bội Châu hay “ Đêm hội Long Trì” của Nguyễn Huy

Tƣởng.

Do điều kiện tƣ liệu cũng nhƣ do khả năng của ngƣời thực hiện luận án còn có hạn, và

gặp khó khăn về sức khỏe nên công trình chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót đang

kể, kính mong các nhà nghiên cứu góp ý chỉ dẫn cho những thiếu sót của luận án. Tôi xin

chân thành cảm ơn trƣớc.

15

NÔI DUNG LUẬN ÁN

CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU KHÁI NIỆM TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ

Nhiệm vụ trung tâm của luận án là nghiên cứu về chủng loại tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến năm 1945. Do đó, luận án không thể không đề cập

đến khái niệm tiểu thuyết lịch sử, với mức yêu cầu không phải là chuyên sâu lý luận mà chỉ là

những nét cơ bản mang tính đặc thù của tiểu thuyết lịch sử, để từ đó làm công cụ cho việc

nghiên cứu tìm hiểu sự hình thành, vận động và phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ

đầu thế kỷ XX đến năm 1945 theo góc nhìn văn học sử.

1. Nói qua về tiểu thuyết và sự khác nhau giữa tiểu thuyết trung đại và tiểu

thuyết hiện đại ở Việt Nam.

Xin nói qua đôi điều về tiểu thuyết và sự khác nhau giữa tiểu thuyết trung đại và tiểu

thuyết hiện đại ở Việt Nam đề từ đó nói về tiểu thuyết lịch sử.

Tiểu thuyết là một “phạm trù lịch sử”. Nó luôn luôn biến động và chƣa định hình. Nó

xuất hiện vào một thời điểm nhất định của lịch sử văn học, sau đó biến đổi và dần dần đƣợc

thay thế. Vì vậy mà nhà văn Tô Hoài đã khẳng định rằng: “không thể cho tiểu thuyết một

định nghĩa cố định. Tiểu thuyết lúc nào cũng phát triển và biến đổi. Tiểu thuyết có một khả

năng tung hoành không bờ”. M.Bakhtin trƣớc đó cũng cho rằng: “Tiểu thuyết là thể loại là

văn chƣơng duy nhất đang chuyển biến và còn chƣa định hình. Những lực lƣợng cấu thành

thể loại này còn đang hoạt động trƣớc mắt chúng ta, thể loại tiểu thuyết ra đời và trƣởng

thành dƣới ánh sáng thanh thiên bạch nhật của lịch sử. Nòng cốt thể loại tiểu thuyết chƣa hề

rắn lại và chúng ta chƣa thể dự đoán đƣợc khả năng uyển chuyển của nó”[8, 21].

16

Vì vậy đƣa ra một định nghĩa đúng, hoàn chỉnh về tiểu thuyết thật không dễ. Từ trƣớc

tới nay, trên thế giới, không biết bao nhiêu nhà lý luận, nhà sáng tác tiêu biểu nhƣ, Bakhtin ở

Nga, Lucas ở Hungari, … đã đƣa ra những định nghĩa khá nổi tiếng về tiểu thuyết, kể cả

nhiều từ điển nhƣ: Funk and wagralcs Slandard refrence Encyclopdia, ở Mỹ (1863), Grand

larousse enecylopédique, ở Pháp (1964), Oxford English Dictionnary, ở Anh (1967) cũng đã

có những định nghĩa về tiểu thuyết. Ở mỗi định nghĩa đều có những nội dung đúng đắn,

những hạt nhân hợp lý. Nhƣng tất cả thì không dễ gì đã thống nhất hoàn toàn với nhau.

Ở Việt Nam, từ Nguyễn Trọng Quản trong lời tựa truyện “Thầy Lazaro phiền”

(1886), Tòa soạn Nông cổ mín đàm (1960) trong cuộc tổ chức “thì viết truyện”, Trƣờng Duy

toản trong lời tựa “Phan Yên ngoại sử - tiết phụ gian truân” (1910), Trần Thiện Trung

trong lời tựa “Hoàn Tố Anh hàm oan” (1910), Tiếp đó là Hồ Biểu Chánh, Phạm Quỳnh,

trúc Hà, D.C (chƣa rõ là ai). Đặng Trần Phất, Bùi Xuân Ngọc, Trọng Khiêm, Tản Đà, Hoàng

Ngọc Phách, nguyễn Văn Ngọc, Thiếu Sơn, Nhất Linh, Khái Hƣng, thạch Lam, Vũ Đình

Long, Vũ Trọng Phùng, Lƣu Lƣ, hải Triều, Vũ Ngọc Phan, V.L (chƣa rõ là ai), Đinh Gia

Trinh… và sau này nữa là Nguyễn Văn Trung, thành Lãng ở trong Nam, Phan Cự Đệ,

Nguyễn Đình Thi, nguyễn Huy Tƣởng, các tác giả “Thuật ngữ nghiên cứu văn học”, các tác

giả giáo trình lý luận văn học của Đại học Sƣ Phạm và Đại học Tổng hợp ở miền Bắc đều đã

đƣa ra không biết bao nhiêu lời giới thiệu về tiểu thuyết. Và cũng giống nhƣ trên thế giới,

định nghĩa nào cũng có điều hay, nhƣng cũng không dễ gì đã thống với nhau, Ở đây, chúng

tôi muốn ghi nhận những nét lớn tƣơng đối đã thống nhất là:

- Tiểu thuyết khác với anh hùng ca, với truyện ngụ ngôn bởi cách nhìn nhận cuộc

sống của tiểu thuyết thiên về góc độ đời tƣ với yêu cầu tái hiện cuộc sống nhƣ một thực tại

dạng sinh thành. Nó là một thể loại gần gũi với

17

cuộc sống nhất. Tiểu thuyết tuy là giả tƣởng nhƣng lại tạo dựng một bầu không khí xác thực,

bởi chất liệu của tiểu thuyết là đề tài, là biến cố, là nhân vật đều gần gũi với cuộc sống thực.

Đấy chính là một đặc trƣng có tính chất thẩm mỹ và là cơ bản của tiểu thuyết. Song, cái nhìn

đời tƣ của tiểu thuyết theo sự biến động của lịch sử khá linh hoạt. Chính vì thế, có lúc tiểu

thuyết có thể kết hợp với những chủ đề thế sự, phong tục hoặc truyền thống lịch sử đã hình

thành nên những chủng loại khác của tiểu thuyết nhƣ: tiểu thuyết phong tục, tiểu thuyết lịch

sử đề thế sự, phong tục hoặc truyền thống lịch sử hình thành nên những chủng loại khác của

tiểu thuyết nhƣ: tiểu thuyết phong tục, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết tâm lý v.v… “Tiểu

thuyết có khả năng mô tả một cách quy mô, toàn diện thế giới khách quan rộng lớn, có thể tái

hiện những xung đột căng thẳng đày kịch tính trong hành động và ngôn ngữ con ngƣời, một

mặt khác lại có thể đi sâu vào những biểu hiện rất nhỏ, rất tinh tế của đời sống tâm lý bên

trong. Tính chất kịch và tính chất trữ tình không làm giảm mất tính chất khách quan và qui

mô rộng lớn, sử thi, nó là cái chủ yếu của tiểu thuyết” [56, 28].

- Tiểu thuyết về cơ bản là sản phẩm của trí tƣởng tƣợng. Một tác phẩm tiểu thuyết

đích thực có giá trị phải là sản phẩm của trí tƣởng tƣợng phong phú của nhà văn: “Tiểu thuyết

phải đƣợc coi là một sản phẩm của tƣởng tƣởng, cho dù nhà văn xƣng tôi và nói về mình…

Nhƣng thực tại của thể nhất của cuộc sống khi qua ngƣỡng cửa của tiểu thuyết cũng chỉ còn

là tƣởng tƣợng nhƣ tiểu thuyết”.

- Với tiểu thuyết, tình tiết ít nhiều là éo le và nhân vật phải có cả tính cốt truyện của

tiểu thuyết luôn luôn đƣợc xây dựng bằng những tình tiết éo le chính những tình tiết đó nêu

rõ cái sắc thái riêng biệt của tiểu thuyết, chúng phân biệt tiểu thuyết khác với truyện ký (a

story) hay một truyện ngụ ngôn (a fable). Bởi vì những tình tiết ở đây đã đƣợc kết cấu ở một

mức độ cao hơn tinh vi hơn, vì không chỉ thuật lại sự việc một cách đơn thuần theo thứ tự

hơn tinh vi hơn, vì không chỉ thuật lại sự việc một cách đơn thuần theo thứ tự thời gian mà

đã biết phối hợp chúng theo một hệ thống nhân quả khăng khít.

18

Với tiểu thuyết, tình tiết dù éo le đến mấy cũng chƣa đủ gây hứng thú. Tiểu thuyết căn

bản phải trình bày cá tính nhân vật thể hiện qua những tình tiết đó. Chính đó mới là sự khác

nhau căn bản giữa tiểu thuyết với truyện trinh thám, thể truyền kỳ, hay truyện ngụ ngôn

.v.v… vì lẽ đó mà Herny Jemes đã khẳng định tầm quan trọng của nhân vật và cá tính nhân

vật trong tiểu thuyết nhƣ sau:

“Nhân vật là gì nếu không do biến cố tình tiết tạo thành? Biến cố tình tiết là gì nếu

không do nhân vật biểu trƣng?” [165, 136].

Nhƣ vậy, một tác phẩm đƣợc thừa nhận là cuốn tiểu thuyết thực sự phải hội tụ đủ cả

hai yếu tố vừa chú ý đến tình tiết, vừa chú ý đến việc xây dựng cả tính của nhân vật.

Một nét đặt trƣng khác của tiểu thuyết là tính chất văn xuôi của đời sống. Đây cũng là

nét đặc thù của tiểu thuyết. chúng ta có thể bắt gặp trong những tác phẩm tiểu thuyết những

cuộc đời thật với tất cả những đƣờng nét xù xì, thô ráp và góc cạnh của nó, những tƣ tƣởng

thâm thúy, những suy nghĩ sâu xa về cuộc đời, những tình cảm trong sáng cao đẹp xuất phát

từ một lý tƣởng xã hội mà nhân vật tôn thờ và nhà văn theo đuổi. Tiểu thuyết miêu tả mọi yếu

tố ngổn ngang của cuộc đời, bao gồm cả cái cao thƣợng lẫn cái thấp hèn, cái vĩ đại lẫn cái

tầm thƣờng, cái nghiêm túc lẫn cái lố bịch, cái bi lẫn cái hài, cái thiện lẫn cái ác với đặc trƣng

này, tiểu thuyết là một thể loại dân chủ nhất. tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách giữa ngƣời trần

thuật và nội dung trần thuật. tiểu thuyết hƣớng về miêu tả hiện thực nhƣ cái đƣơng thời của

ngƣời trần thuật. Nó cho phép tác giả có thể tỏ thái độ thân mật, thậm chí có thái độ suồng sã

với nhân vật của mình, hoặc có những lời bình hay những lời bàn bạc trực tiếp, gián tiếp

thông qua ngôn ngữ của ngƣời trần thuật.

Tóm lại: tiểu thuyết là một thể loại văn học có khả năng khái quát tổng hợp cao nhất

những hiện tƣợng của đời sống. Chính khả năng tổng hợp

19

này đã khiến cho tiểu thuyết có khả năng miêu tả cuộc sống nhƣ một thực tại cùng thời cho

dù đề tài và chất liệu có thể lấy từ quá khứ. Vì thế, tiểu thuyết cũng là một thể loại không

đứng yên mà luôn luôn biến đổi (với đặc điểm này bắt buộc luận án phải khảo sát đối tƣợng

nghiên cứu trong tƣ thế vận động và phát triển).

*

* *

Trên đây là những đặc điểm tiêu biểu nhất của tiểu thuyết. Song con đƣờng hình

thành tiểu thuyết hiện đại của Việt Nam, bản thân nó vẫn còn có những đặc điểm khác đánh

dấu giai đoạn quá độ từ truyện kể dân gian truyện ngụ ngôn sang truyện Nôm, từ trạng thái

ảnh hƣởng tiểu thuyết cổ trung đại sang tiểu thuyết hiện đại. Vì thế đã có ý kiến cho rằng:

“Quá trình hình thành của truyện và văn xuôi nói chung cũng là quá trình tách rời giai đoạn

lịch sử và văn học. Tính lịch sử bớt đi, tính chất sáng tạo và hƣ cấu nghệ thuật tăng lên, cũng

là quá trình đi từ những chuyện lạ, hoang đƣờng đến những chuyện bình thƣờng trong cuộc

sống hàng ngày của quần chúng. Về mặt này tiểu thuyết Trung Quốc và Việt Nam có một

điểm giống nhau: có thể nói hai nguồn gốc chính của tiểu thuyết là nguồn gốc dân gian và

nguồn gốc lịch sử [61 ,63]. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX đến1945

đã là một trạng thái phản ánh một cách đầy đủ đặc điểm này. Trong phần sau của luận án

chúng tôi sẽ cố gắng làm sáng rõ đặc điểm đó.

1.2. Sự khác nhau cơ bản giữa tiểu thuyết trung đại với tiểu thuyết hiện đại:

Trong phần mục đích yêu cầu của luận án đã nêu rõ: luận án không chỉ tìm hiểu

nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1900 đến 1945 trên hai phƣơng điện cơ bản: diện

mạo và đặc điểm mà còn chỉ rõ sự đóng góp của tiểu thuyết lịch sử trong quá trình cách tân

và hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết.

20

nói riêng. Từ đó, xác định vị trí và sự đóng góp tích cực của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai

đoạn này đối với văn mạch dân tộc. Muốn làm rõ mục đích ấy thì luận án không thể không

phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa hai loại tiểu thuyết truyền thống và tiểu thuyết hiện đại:

luận án coi đây là cơ sở lý luận quan trọng để chỉ ra quá trình chuyến biến của tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam từ dạng tiểu thuyết truyền thống (chƣơng hồi) sang tiểu thuyết hiện đại ở cả hai

phƣơng diện nội dung và hình thức:

“Theo quan điểm của các nhà văn, nhà nghiên cứu đầu thế kỷ XX là sự khác biệt giữa

hai loại tiểu thuyết cổ (truyền thống) đƣợc viết theo quan điểm mỹ học phƣơng Đông và tiểu

thuyết mới (hiện đại) đƣợc sáng tác theo quan điểm mỹ học phƣơng Tây. Nhƣ vậy, hiện đại

hóa tiểu thuyết cũng có nghĩa là Âu hóa tiểu thuyết”. [193, 37].

Đây là một vấn đề lý luận quan trọng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu từ trƣớc tới nay

quan tâm trong đó có: Vũ Bằng (Khảo về tiểu thuyết), Thanh Lãng (Bảng lƣợc đồ văn học

Việt Nam), Phan Cự Đệ (Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại). Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Đặng

Mạnh (Tài liệu bồi dƣỡng dạy sách giáo khoa lớp 11 CCGD môn Văn học). Ngoài ra còn có

ý kiến của một số tác giả khác nhƣ Doãn Quốc Sĩ, Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Văn Trung, Đặng

Anh Đào v.v … Đặc biệt là ý kiến của Lƣơng Duy Thứ trong tác phẩm “Để hiểu 8 bộ tiểu

thuyết cổ Trung Quốc”, khi tác giả bàn về lý luận của tiểu thuyết cƣơng hồi.

Từ những ý kiến của những nhà nghiên cứu nêu trên, luận án bƣớc đầu nêu lên một số

điểm khác biệt cơ bản giữa tiểu thuyết truyền thống và tiểu thuyết hiện đại nhƣ sau:

- Về mặt văn tự: tiểu thuyết thống đƣợc sáng tác bằng thể văn vần, bằng chữ Nôm

hoặc chữ Hán. Trong khi đó tiểu thuyết mới hiện đại là đƣợc viết bằng dạng văn xuôi và bằng

chữ Quốc ngữ.

21

Về mặt kết cấu: tiểu thuyết truyện thống kết cấu theo kiểu chƣơng hồi của tiểu thuyết

chƣơng hồi Trung Quốc. Đó là kiểu cấu theo trình tự thời gian đơn tuyến và một hƣớng. Kiểu

kết cấu này có nguồn gốc sâu xa từ quan niệm của ngƣời xƣa về thời gian và không gian, về

mối quan hệ giữa chủ thể riêng biệt và quanh một nhân vật chính theo trình tự thời gian. Thời

gian là cái trục chính để dẫn dắt sự kiện, biến cố trƣớc và sau theo đúng thời gian lịch sử.

Ngƣợc lại, trong tiểu thuyết hiện đại cốt truyện cô đọng hơn và không nhất thiết theo trình tự

ghời gian nghiêm ngặt, một chiều.

- Nếu nhƣ ở tiểu thuyết truyền thống, cốt truyện và sự kiện có vai trò đặc biệt quan

trọng thì trong tiểu thuyết hiện đại nhân vật trở thành trung tâm. Tâm lý nhân vật và quá trình

phát triển tính cách của nhân vật trở thành đối tƣợng miêu tả chủ yếu. Nếu trong tiểu thuyết

truyền thống, phổ biến là lối kết thúc có hậu theo kiểu tiên nghiệm, khép kín thì trong tiểu

thuyết hiện đại ta thƣờng bắt gặp lời kết thúc bỏ ngỏ, nhà văn tôn trọng sự thận, tôn trọng sự

phát triển của logic tính cách.

- Về phƣơng diện ngôn ngữ: Nếu nhƣ ngôn ngữ của tiểu thuyết truyền thống chứa

đựng rất nhiều điền tích, điển cổ, nhiều từ Hán - Việt, nhiều hình ảnh ƣớc lệ tƣợng trƣng với

vô số những câu văn biền ngẫu thì trong tiểu thuyết hiện đại ngôn ngữ có tính chất dân chủ,

với ngôn ngữ của đời sống thƣờng ngày.

- Về nghệ thuật trần thuật.

Trong tiểu thuyết truyền thống các tác giả thƣờng đứng ở ngôi thứ ba để kể chuyện.

Trƣớc khi kể có mấy câu thơ giới thiệu, có khi mang tính chất bình luận, nhắc lại những đoạn

đã kể một cách sơ lƣợc. Kết thúc mỗi đoạn hay mỗi hồi thƣờng dùng câu: “Muốn biết việc

thế nào xin xem hồi sau phân giản”… Đọc tiểu thuyết cổ chúng ta hay gặp những chữ “rằng”

xuất hiện trong lối kể

22

nhƣ: Lê Đại hành hỏi rằng: Phùng Chính ung dung tâu rằng, Bích Hà trong nhà nói rằng.

Còn trong tiểu thuyết hiện đại có lối trần thuật với nhiều điểm nhìn linh hoạt hơn. Có

khi tác giả đứng ở ngôi thứ nhất mà thuật chuyện.

Tóm lại: tiểu thuyết truyền thống (tiểu thuyết cổ điển viết theo lối hồi chƣơng) và tiểu

thuyết hiện đại có sự khác nhau cơ bản về phƣơng diện nội dung và hình thức nghệ thuật.

Song, điều căn bản là tiểu thuyết truyền thống khác với tiểu thuyết hiện đại ở quan điểm thẩm

mỹ, giữa cảnh nhìn nhận, đánh giá, miêu tả cuộc sống và khác nhau về thi pháp thể loại. Có

thể nói tiểu thuyết hiện đại đã phá vỡ hầu hết những quy phạm cũ và đã mở ra một hƣớng

phát triển mới cho tiểu thuyết.

2. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử

2.1. Thế nào là tiểu thuyết lịch sử.

Tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm mang trọn đặc trƣng của tiểu thuyết nhƣng lại

lấy nội dung lịch sử làm đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Ở đây, tác giả dựa vào

những sự kiện trong quá khứ, hƣ cấu, tƣởng tƣợng thêm để tạo nên tác phẩm nhằm gây hứng

thú cho ngƣời đọc. Tiểu thuyết tuy mƣợn đề tài và lấy cảm hứng từ lịch sử nhƣng không hề

né tránh, xã rời với nhiệm vụ thực tại, thời thế hiện tại. Đúng nhƣ Biêlinxki đã khẳng định:

“Chúng ta hỏi và chúng ta chất vấn những cái đã qua để chúng ta giải thích cho hiện tại và

chỉ ra tƣơng lai cho chúng ta”. Mặc dầu lấy những sự kiện những nhân vật trong lịch sử

nhƣng các tác giả của tiểu thuyết lịch sử không chỉ trình bày trong cái tƣ thế lịch sử mà còn

cho chúng ta biết nhiều mặt khác của đời sống con ngƣời, thậm chỉ cả những mặt sinh hoạt

mang tính chất đời tƣ của nhân vật.

23

Gần đây, khi tìm hiểu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam bằng chữ Hán, Trần Nghĩa đã nêu

lên một định nghĩa về tiểu thuyết lịch sử: “Tiểu thuyết lịch sử cũng gọi là “lịch sử diễn nghĩa”

gồm nhiều tác phẩm viết về đề tài lịch sử thông qua việc miêu tả nhân vật và sự kiện, tái hiện

một cách nghệ thuật diện mạo xã hội và xu thế phát triển của lịch sử một thời, nhằm mang lại

cho ngƣời đọc những khơi gợi bổ ích và mỹ cảm văn học. Về phƣơng diện bút pháp, một mặt

phải dựa vào lịch sử khi miêu tả các nhân vật và sự kiện chủ yếu nhằm đạt tới tính chân thực

lịch sử, nhƣng mặt khác vẫn cho phép hƣ cấu trong chừng mực thích hợp, nhằm phát huy trí

tƣởng tƣợng làm cho sự chân thực lịch sử đƣợc thăng hoa thành chân thực nghệ thuật” [146 -

11].

Thế nhƣng hƣ cấu của tiểu thuyết lịch sử phải dựa trên cơ sở của sự thật lịch sử, hƣ

cấu có mức độ, không cho phép quá đà và sự hƣ cấu này có khả năng đạt tới một sự chân

thật, chân thật hơn cả sự thật ngoài đời hay sự thật đã diễn ra trong chính sử. Chính cái “thật

hơn” ấy là cái thật đã mang tính nghệ thuật, thông qua sự cụ thể hóa và khái quát hóa vốn là

đặc trƣng của thể loại tiểu thuyết. Chính nó đã làm nên sức mạnh truyền cảm, chinh phục

mạnh mẽ tâm hồn và trí tuệ của độc giả khi họ đọc tiểu thuyết lịch sử. Vì thế ngƣời biết đọc

tiểu thuyết lịch sử phải biết tìm cái mà nhà văn muốn trao gửi trong tác phẩm. Phải chăng đó

là “cái tâm” chứ không phải là phƣơng tiện trao gửi - hành vi văn chƣơng.

Về phƣơng diện đề tài: có ngƣời cho rằng đề tài trong tiểu thuyết lịch sử thƣờng đơn

giản. Thực ra không phải nhƣ vậy, bởi lẽ “chủ đề thƣờng đơn giản không phải là nét riêng

của tiểu thuyết lịch sử. Chủ đề đơn giản hay phức tạp ở tiểu thuyết lịch sử cũng nhƣ ở tiểu

thuyết khác đó là những vấn đề của cuộc sống mà tác giả gửi gắm vào trong tác phẩm nhiều

hay ít, do dung lƣợng của tác phẩm quyết định” [54, 52]. Tác phẩm tiểu thuyết lịch sử không

chỉ là sự diễn giải của nhà văn về một số sự kiện của quá khứ hay những bức tranh về phong

tục tập quán v.v... mà điều quan trọng là nhà văn phải đi sâu

24

vào giải quyết những vấn đề quan trọng của con ngƣời, những vấn đề thiết thân đối với con

ngƣời, phải có một quan điểm nghệ thuật về con ngƣời tiến bộ. Không những thế nhà văn

phải tập trung thể hiện con ngƣời trong mối quan hệ với cuộc sống. Và nhƣ vậy về thực chất,

công việc của ngƣời viết tiểu thuyết lịch sử không khác với công việc của ngƣời viết tiểu

thuyết nói chung.

Điều khác nhau giữa nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử với nhà văn viết tiểu thuyết thông

thƣờng là ở chỗ: môi trƣờng của nhân vật tiểu thuyết lịch sử không giống môi trƣờng của

nhân vật ở các tiểu thuyết khác. Môi trƣờng của các tiểu thuyết lịch sử thuộc về thời quá khứ

đòi hỏi nhà viết tiểu thuyết lịch sử phải tìm cách dựng lại qua một quá trình nghiên cứu công

phu. Vì thế nhà tiểu thuyết lịch sử phải có sự hiểu biết lịch sử nhƣ một nhà sử học. Phƣơng

thức khái quát cuộc sống của nhà tiểu thuyết lịch sử cũng khác hẳn: “Nhà tiểu thuyết lịch sử

dựng lại những bức tranh sinh hoạt của từng cá nhân, từng địa phƣơng riêng lẻ nhƣng qua đó

cho thấy đƣợc tình trạng chung của nhiền ngƣời, nhiều nơi trong xã hội” [54, 53].

Không nên quan niệm rằng nhà tiểu thuyết lịch sử chỉ cung cấp những chi tiết những

sự kiện lịch sử làm cho ngƣời đọc có khái niệm sơ lƣợc về thời cuộc mà vì theo yêu cầu thể

hiện con ngƣời là chính nên nhà tiểu thuyết lịch sử phải miêu tả trình bày mối liên hệ diễn

biến thời cuộc và diễn biến trong đời sống tâm lý của nhân vật trong truyện, đặc biệt là đối

với nhân vật chính. Mỗi sự kiện mà nhà văn miêu tả phải là một cơ hội để nhân vật bộc lộ

những khía cạnh của tính cách, hay thể hiện một chặng trong quá trình chuyển biến của cuộc

đời nhân vật. Vấn đề quan trọng là nhà viết tiểu thuyết lịch sử phải làm cho ngƣời đọc hiểu

con ngƣời trong một hoàn cảnh nhất định. Muốn vậy nhà văn phải đi sâu vào miêu tả khắc

họa tính cách nhân vật để cho tƣ tƣởng, tình cảm của nhân vật thấm sâu vào tâm hồn của

ngƣời đọc. Về phƣơng diện này, nhà tiểu thuyết lịch sử cũng không khác những nhà tiểu

thuyết thuộc nhƣũng chủng loại khác là mấy. Cũng nhƣ những nhà tiểu thuyết khác, nhà tiểu

25

thuyết lịch sử khi xây dựng nhân vật cũng phải chú ý đến đời tƣ của nhân vật trong khi thuật

lại một thời dĩ vãng. Yếu tố đời tƣ của nhân vật trong một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử càng

đậm đà càng nhiều thì tính chất văn chƣơng và tính tiểu thuyết của tác phẩm càng cao và

ngƣợc lại. Trong tiểu thuyết lịch sử ngƣời đọc cũng có thể bắt gặp mọi sự việc diễn ra trong

cuộc đời. Nhà văn tiểu thuyết lịch sử làm sao dựng lại cuộc sống trong tiểu thuyết càng sinh

động càng phong phú và có khi còn thật hơn cả cuộc sống thật ở ngoài đời thì tác phẩm mới

có giá trị. Khi viết một tiểu thuyết, nhà tiểu thuyết lịch sử không cho phép mính sao chép lịch

sử cũng nhƣ nhƣũng nhà tiểu thuyết của chủng loại khác, không đƣợc cho phép mình sao

chép hiện thực một cách giản đơn, mà đòi hỏi mọi nhà văn phải có sự sáng tạo. Sáng tạo là

một đặc trƣng của nghệ thuật và cũng là đặc trƣng của thể loại tiểu thuyết: “Cái khuynh

hƣớng của tiểu thuýet bấy giờ là rất gần gũi với sự sống để đƣợc linh họat nhƣ cuộc đời”. Vì

vậy, cái khó của nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử, ví nhƣ viết về đề tài lịch sử là chiến tranh thì

phải kết hợp chặt chẽ việc miêu tả chiến tranh (những biến cố của lịch sử, những hình ảnh

sinh động của cuộc chiến) với việc miêu tả tính cách và diễn biến tâm trạng của nhân vật lịch

sử trong cuộc chiến tranh đó. Về phƣơng diện này, LepTônxtôi là tác giả có nhiều thành công

hơn cả.

2.2. Sự khác biệt giữa tiểu thuyết lịch sử đối với khoa học lịch sử

Nhà nghệ sĩ (nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử) khác với nàh sử học ở chỗ họ phải làm

sống lại những tài liệu lịch sử bằng trí tƣởng tƣợng, bằng hƣ cấu nghệ thuật.

Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử vô cùng cần thiết đối với nhà nghệ sĩ thế nhƣng sự

nghiên cứu ấy không thể thay thế sự sáng tạo: “có khi nhà nghệ sĩ chỉ cần một vài khoảng

khắc trong suốt cuộc đời của nhân vật lịch sử, có khi nhà nghệ sĩ đƣa vào trong tác phẩm

những điều phi lịch sử không quan trọng, thậm chí một chừng mực nào đó có quyền vi phạm

sự đúng đắn về mặt

26

sự kiện bởi vì tác giả chỉ cần sự đúng đắn lý tƣởng mà thôi” [70 - 273]. Còn tác phẩm lịch sử

thì lại chỉ cần sự đúng đắn chính xác của từng sự kiện, từng chi tiết và từng hành động cụ thể

của nhân vật, với những thời gian, không gian hoàn toàn xác định.

Nhà sử học và nhà văn tiểu thuyết lịch sử đều vẽ lại bức tranh của một thời đại đã qua

nhƣng đối tƣợng của họ lại rất khác nhau: “Nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử có quyền hƣ cấu,

hoặc có thể hƣ cấu những nhân vật mà trong lịch sử không có. Mặt khác, nhà tiểu thuyết sẽ

không làm tròn nhiệm vụ của mình nếu anh ta bao giờ cũng trình bày nhân vật tuy không

đƣợc nhắc đến trong các tác phẩm lịch sử, nhƣng đối với nhà tiểu thuyết lịch sử thì những

điều đó lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng” [70 - 27]. Nói về sự khác nhau giữa nhà sử học và

nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử, Lucas có viết: “Trong lĩnh vực xây dựng tiểu thuyết lịch sử,

tài năng của tác giả bộc lộ qua việc phản ánh những nguyên nhân dẫn đến sự thật trong trái

tim con ngƣời. Những sự thật mà các biến động của nó đã bị giới sử học bỏ qua. Các nhân vật

của tiểu thuyết lịch sử phải sinh động hơn cả các nhân vật lịch sử vì nhân vật của tiểu thuyết

lịch sử đƣợc trao cho sự sống còn của các nhân vật lịch sử thì đã sống” [140 - 30 - 31].

Nguyễn Đình Thi cũng đã có sự phân biệt khá rạch ròi giữa ngƣời viết tiểu thuyết lịch sử với

nhà lịch sử:

“Nếu mục đích chính của ngƣời viết là kể lại các sự việc thì đó là viết lịch sử, hoặc

viết ký sự. Ngƣời viết lịch sử khi trình bày một nhân vật thì trƣớc hết nêu lên kết quả các việc

làm của nhân vật ấy. Ngƣời viết tiểu thuyết khi nhằm vào một nhân vật lịch sử thì trƣớc hết

nhìn vào con ngƣời của nhân vật ấy và phải miêu tả con ngƣời trong toàn bộ đời sống của nó,

cả trong đời công lẫn đời riêng, trong việc làm, lời nói, trong tâm tƣ tình cảm v.v... “[182 -

150]. Nguyễn Lƣơng Bích trong bài giới thiệu “Quận He khởi nghĩa” cũng nêu lên một quan

niệm về tiểu thuyết lịch sử: “tiểu thuyết lịch sử còn là một phƣơng tiện tốt nhất để phổ biến

lịch sử trong quần chúng. Nó đem kiến thức

27

đến cho ngƣời đọc, không bằng sử liệu, không bằng lý luận phân tích mà con đƣờng tình

cảm. Nó dùng nghệ thuật sáng tạo, dùng hình ảnh văn học để rung động ngƣời đọc, làm cho

ngƣời đọc hiểu lịch sử thông qua sự thƣởng thức cái hay, cái đẹp của văn học nghệ thuật”. Vũ

Ngọc Phan cũng đã có sự phân biệt khá rõ ràng giữa lịch sử, ký sự và tiểu thuyết lịch sử:

“Khi viết một quyển lịch sử nhà chép sử không lƣu tâm đến những việc cá nhân

không ảnh hƣởng đến xã hội; nhƣng khi viết những bài lịch sử ký sự nhà văn có thể viết một

cách tỷ mỷ những việc cá nhân không ảnh hƣởng gì đến dân chúng chỉ có cái thi vị riêng của

nó thôi. Không những thế, khi viết một quyển lịch sử ký sự, nhà văn lại cần phải lƣu tâm đến

những việc tƣ lắm lối ấy cũng gần nhƣ lối chép dã sử vậy. Còn nhƣ viết lịch sử tiểu thuyết,

nhà văn chỉ phải căn cứ vào vài việc con con đã qua, rồi vẽ vời cho ra một chuyện lớn, cốt

giữ cho mọi việc đừng trái với thời đại, còn không cần phải toàn sự thật. Một nhà phê bình đã

nửa khen nửa chê Alexandre Dumas nhƣ sau: “Alexandre Dumas đã hiếp dâm lịch sử mà đẻ

ra những đứa con hoang, khỏe hơn cả những đứa con chính thức”. (II a violé I’ histoire et lui

a donné des batards plus vivants que ses cnfants légitimes). Nhƣng nhà văn tiểu thuyết lịch sử

có biệt tài nƣớc Pháp đã đáp lại: “Lịch sử đối với tôi là gì? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo

các bức họa của tôi thôi (Qu’est ce que I’ histoire? C’est’ un clou auquel j’accroche mes

tableaux)” [158, 541].

Theo quan điểm của Lucas thì trong tiểu thuyết lịch sử, nhà văn không đơn thuần kể

lại các sự kiện lịch sử mà là thi vị hóa những con ngƣời đóng vai trò trong các sự kiện đó.

Nhiệm vụ của ngƣời viết tiểu thuyết lịch sử là phải làm sống lại, tái hiện lại động cơ xã hội và

con ngƣời đã làm cho các nhân vật trong lịch sử tƣ duy, cảm xúc và hành động nhƣ chính

trong thực tế lịch sử, có nghĩa là: “Nhiệm vụ của tiểu thuyết lịch sử là chứng minh sự tồn tại

của hoàn cảnh và nhân vật lịch sử bằng công cụ nghệ thuật” [140 - 30 - 31].

28

Tân Dân Tử một tác giả viết tiểu thuyết của Nam Bộ đã có sự phân biệt nhƣ sau:

“Một tác giả viết tiểu thuyết lịch sử thì sự khác nhau cơ bản giữa một tác phẩm lịch sử

đại lƣợc chỉ tóm tắt những sự lớn lao mà không nói cặn kẽ mảy múng. Còn chuyện mảy

múng đều trải ra nhƣ một cách tự nhiên hiển hiển trƣớc mắt.

Lịch sử đại lƣợc có nói đến nhân vật xuyên sơn, quốc gia hƣng phế, mà không tả diện

mạo, ngôn ngữ, tả tính hỉ nộ, ái ố, trí náo tinh thần, tả tơi phong cảnh, cỏ hoa, cửa nhà, đài

các, nhành chim lá gió, nhạc suối kèn ve, làm cho độc giả ngồi xem quyển sách miệng đọc

câu văn mà dƣờng nhƣ hóa thân đi du lịch, xem thấy một phong cảnh, một nhân vật nào đó,

khiến cho kẻ đọc ấy dễ cảm xúc vào lòng, dễ quan niệm vào trí”. [201, 8].

Cách miêu tả lịch sử của nghệ sĩ khác với sử gia:

“Tuy cả hai đều dựa vào sử liệu, sử gia giới thiệu nhân vật nhƣ danh nhân, anh hùng.

Nghệ sĩ tả nhân vật lịch sử nhƣ con ngƣời trong tính nhất quán, trong mối quan hệ phức tạp

của nó với các mặt của đời sống, sử gia ghi lại biến cố lịch sử. Nghệ sĩ miêu tả biến cố đó đã

xảy ra nhƣ thế nào. Khi miêu tả một trận đánh, nghệ sĩ không sáng tạo ở việc xử trí lực lƣợng

hai bên, diễn biến chiến sự mà chú ý đến tâm trạng những ngƣời tham dự cuộc chiến” [181,

26].

Tóm lại: giữa tiểu thuyết lịch sử và sử học có liên quan với nhau nhƣng đã có sự khác

nhau căn bản: ở tiểu thuyết lịch sử nhà văn có quyền hƣ cấu do đặc trƣng mang tính chất thể

loại của tiểu thuyết lịch sử quy định. Trong khi đó bút pháp của chính sử chỉ có một con

đƣờng duy nhất là trung thành, chính xác với “sự thực”. Nói cách khác, phận sự của nhà sử

học là “truyền tín”, quý ở “cái chân” còn phận sự của nhà tiểu thuyết lịch sử là

29

truyền kỳ, quý ở truyền. Ngòi bút của nhà sử học là “thực lục” còn ngòi của nhà tiểu thuyết là

“hƣ bút”. Ở tiểu thuyết, nhà văn thƣờng hƣ hóa cái thực hóa cái hƣ. Nó khêu gợi trí tƣởng

tƣợng và tăng cƣờng tính mỹ cảm văn học.

2.3. Sự khác biệt của tiểu thuyết lịch sử với một số chủng loại khác tiểu thuyết

Để làm rõ hơn thế nào là tiểu thuyết lịch sử, chúng tôi muốn so sánh thêm ít nhiều sự

khác nhau giữa tiểu thuyết lịch sử với một số chủng loại tiểu thuyết khác theo quan niệm phổ

biến và cụ thể ở Việt Nam lâu nay:

Trƣớc hết là với tiểu thuyết hiện thực:

Nếu nhƣ tiểu thuyết lịch sử tập trung phản ánh những hiện thực xã hội hiện thực lịch

sử thuộc về quá khứ nhằm chứng minh cho sự tồn tại của hoàn cảnh lịch sử và thiên về cảm

hứng lãng mạn, thì tiểu thuyết hiện thực, (Tiêu biểu nhƣ: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bƣớc

đƣờng cùng” của Nguyễn Công Hoan, “Chí Phèo” của Nam Cao v.v...) phản ánh những vấn

đề thuộc về xã hội rộng lớn, những vấn đề bức xúc của xã hội hiện đại, vạch trần bản chất

xấu của chế độ xã hội đƣơng thời và nói lên nỗi khổ của con ngƣời sống dƣới chế độ xã hội

ấy.

Tiểu thuyết lịch sử với tiểu thuyết phong tục:

Tiểu thuyết lịch sử có điểm giống với tiểu thuyết phong tục. Tiểu thuyết phong tục

thiên về phong tục, vốn là sản phẩm mang tính lịch sử của một cộng đồng. Nhƣng trong tiểu

thuyết phong tục yếu tố lịch sử không thuộc bình diện trực tiếp của miêu tả, trong khi tiểu

thuyết lịch sử lại lấy lịch sử làm đối tƣợng miêu tả trực tiếp. Phạm vi phản ánh của tiểu thuyết

lịch sử nhìn chung rộng lớn hơn tiểu thuyết phong tục ngay trong khi cả hai đều hƣớng về

quá khứ. Bởi lẽ, phong tục chỉ là một phƣơng diện trong rất nhiều phƣơng diện của lịch sử.

Trong tiểu thuyết phong tục, nhà văn vẫn phản ánh tâm lý nhân vật và dựng nên những bức

tranh của hiện thực nhƣng tác giả xoáy sâu vào việc phản

30

ánh hiện thực có chứa đựng phong tục của một vùng hya của một dân tộc.

Tiểu thuyết lịch sử với tiểu thuyết kiếm hiệp và trinh thám:

Tiểu thuyết trinh thám phản ánh tài năng suy đoán thông minh của các nhà thám tử

trong việc khám phá các vụ án, khám phá những mặt bí mật, bí hiểm trong cuộc sống. Trong

tiểu thuyết kiếm hiệp, nhà văn có đƣa vào những chuyện lịch sử nhƣng lại không tái hiện lịch

sử nhằm mục đích giáo dục mà thƣờng chú ý miêu tả tài nghệ của một cá nhân nhằm kích

thích trí tò mò, huy động trì tƣởng tƣợng của ngƣời đọc. Có khi nhà tiểu thuyết kiếm hiệp đã

kỹ vĩ hóa hành động của nhân vật nhằm thỏa mãn hứng thú và sự tò mò của ngƣời đọc.

Ngƣợc lại trong tiểu thuyết lịch sử có thể có những yếu tố kiếm hiệp nhƣng mục đích

lại nhằm nuôi dƣỡng cảm hứng, nuôi dƣỡng nhận thức lịch sử cho ngƣời đọc qua tính chất

hiệp sĩ của nhân vật.

Tiểu thuyết lịch sử với truyện truyền kỳ:

Truyện truyền kỳ viết ra nhằm để thỏa mãn trí tò mò của ngƣời đọc. Loại tiểu thuyết

này, ra đời và phát triển trên cơ sở của loại truyện chí quái nhƣng khác với truyện chí quái, ở

đây tác giả sử dụng “hƣ bút” hoàn toàn chủ động và có ý thức. Nếu công việc của tiểu thuyết

chí quái là ghi lại những chuyện nghịch dị, khác đời về ngƣời, vật, thần thánh có ý nghĩa

khuyên răn thì công việc của tác giả viết truyện truyền kỳ lại là sáng tác, mƣợn những câu

chuyện hiếm thấy để gửi gắm tâm sự của mình. Trong tiểu thuyết lịch sử có sử dụng những

yếu tố truyền kỳ nhƣng không nhiều.

Cuối cùng là sự khác nhau giữa tiểu thuyết lịch sử với truyện bút ký, hay còn gọi là

tiểu thuyết “chí nhân” bao gồm những mẩu chuyện ngắn có liên quan đến các anh hùng dân

tộc, các danh nhân văn hóa, danh nhân lịch sử đƣợc ghi chép lại không phải do “hƣ bút” mà

bằng “tín bút”, có nghĩa là thấy sao ghi vậy, nghe sao chép vậy không thêm không bớt, chứ

không phải có thể hƣ cấu phần nào nhƣ tiểu thuyết lịch sử.

31

CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ VẬN ĐỘNG CỦA THỂ

LOẠI TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ

KỶ XX ĐẾN 1945

2.1.Nguyên nhân ra đời và phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam ở

nửa đầu thế kỷ XX

2.1.1. Từ yêu cầu của cuộc sống dân tộc:

Sau khi đặt xong bộ máy chính quyền ở Việt Nam, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện

âm mƣu và chính sách Pháp hóa đối với dân tộc ta. Trƣớc hết bọn chúng thực hiện âm mƣu

khai thác thuộc địa một cách triệt để nhằm mục đích bù vào những thiệt hại do hai cuộc đại

chiến thế giới (1914 - 1918, 1939 - 1945) và hai cuộc khủng hoảng kinh tế (1929 - 1933 và

1935 - 1939) đã làm ảnh hƣởng trực tiếp đến nền kinh tế của nƣớc Pháp. Với những phƣơng

tiện và chính sách khai thác mới, bọn tƣ sản Pháp ngày càng cắm sâu cái vòi bạch tuộc vào

mạch máu sinh mệnh của ngƣời Việt Nam. Qui mô khai thác ngày càng rộng lớn và thâm

độc: “Năm 1895, chúng bắt đầu đặt vốn vào Đông Dƣơng 80 triệu đồng. Hai năm sau, chúng

đặt thêm 20 triệu nữa. Bao nhiêu thuế khóa chúng vơ vét đƣợc ở thuộc địa, chúng đã xây

dựng thêm những công trình nhằm phục vụ cho việc bóc lột tƣ sản Pháp” [131- 91- 92].

Mục đích của Pháp là khai thác nguồn nguyên liệu ở thuộc địa để cung cấp cho những

công trình công nghiệp ở chính quốc. Công ty mỏ than Hòn Gai thành lập năm 1888, một

năm sau, tổng sản lƣợng than ở Đông Dƣơng đã lên tới 260.000 tấn. Từ năm 1890 đến 1904

các công trình khai thác than càng đƣợc đẩy mạnh. Bọn tƣ sản Pháp đã triệt để lợi dụng

nguồn nhân công rẻ mạt

32

ở nƣớc ta vì sự phá sản ở nông thôn để thực hiện công cuộc khai thác các mỏ thiếc mỏ đồng,

nhằm mục đích xuất khẩu để cung cấp cho các nhà máy ở bên Pháp. Đời sống của giai cấp

công nhân Việt Nam vô cùng cực khổ.

Song song với những âm mƣu khai thác thuộc địa ở trên, thực dân Pháp còn thực hiện

một thủ đoạn bóc lột hết sức dã man. Đó là việc đặt ra chính sách thuế khóa đánh vào đầu

nhân dân. Thời kỳ này, cấu kết với bọn quan lại phong kiến, bọn thực dân đã đặt ra hàng trăm

thứ thuế. Thuế trực thu, thuế giản thu và cứ mỗi năm lại tăng lên vùn vụt mà không hề có

ngạch nhất định.

Với những âm mƣu và chính sách thâm độc đó của Pháp, đời sống của ngƣời dân Việt

Nam ngày càng trở nên cơ cực, bần hàn, không có lối thoái. Trong một lá thƣ viết cho toàn

quyền Đông Dƣơng năm 1906, Phan Chu Trinh đã nói lên nỗi khổ cực ấy của ngƣời dân Việt

Nam với những lờì lẽ vô cùng thống thiết:

“Trong khoảng vài mƣơi năm nay, các bậc đại thần còn ăn dầm nằm dìa ở triều đình,

chỉ biết chiếu lệ cho xong việc, quan lại ở các tỉnh chỉ lo cho vững thần thế mà hà hiếp, bóp

nặn ở chốn hƣơng thôn. Bọn cùng dân bị nặn bóp mãi mà máu mủ ngày một khổ, không còn

đƣờng sinh kế nữa”.

Chính quá trình khai thác thuộc địa ngày một tăng cƣờng cùng với việc đẩy nhanh sự

phát triển kinh tế tƣ bản chủ nghĩa ở một số đô thị lớn nhƣ Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà

Nẵng, Sài Gòn v.v... đã làm cho sự phân hóa giai cấp trong xã hội Việt Nam diễn ra vô cùng

sâu sắc và nhanh chóng, làm xuất hiện nhiều giai cấp và tầng lớp mới trong xã hội. Trƣớc hết

là sự xuất hiện giai cấp tƣ sản. Đây là một lực lƣợng mới đƣợc hình thành trong cuộc chiến

tranh thế giới lần thứ nhất và cũng là lực lƣợng đáng lẽ ra phải đƣợc đóng vai trò “ông chủ”

mới của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ nhƣng thực tế đã bị tƣ bản nƣớc ngoài (chủ yếu là Pháp)

chèn ép, kìm hãm. Tiếp đó là sự hình thành giai cấp vô sản. Đây chính là con đẻ của giai

nông dân nhƣng đã bị

33

tƣớc đoạt hết ruộng đất, bị bần cùng hóa phải kéo nhau ra thành phố để kiếm sống và đã trở

thành những ngƣời thợ làm thuê trong các nhà máy và công xƣởng. Có ngƣời đi vào hầm mỏ,

có ngƣời đi vào các đồn điền cao su ở Nam Bộ để bán sức lao động của mình với giá rẻ mạt.

Cuối cùng là sự xuất hiện tầng lớp tiểu tƣ sản và dân nghèo thành thị. Lực lƣợng này ngày

càng trở nên đông đảo theo sự mở rộng đô thị và tăng cƣờng nhanh chóng bộ máy chính

quyền thực dân phong kiến ở Việt Nam. Trong khi đó, ở nông thôn giai cấp địa chủ vẫn lộng

hành. Chính bọn này đã làm cho đời sống của ngƣời nông dân sống “nơi bùn lầy nƣớc đọng”

ngày càng bị bần cùng hóa đến mức thảm hại (Chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô

Tất Tố, anh Pha trong tác phẩm “Bƣớc đƣờng cùng” của Nguyễn Công Hoan là những điển

hình nghệ thuật phản ánh hiện thực đó).

Song song với âm mƣu, những thủ đoạn và những chính sách bóc lột vơ vét về mặt

kinh tế, thực dân Pháp còn tiến hành nhiều chủ trƣơng và biện pháp chính trị vừa mang tính

chất cải cách lƣơng vừa thể hiện sự giả dối bịp bợm, nhằm mục đích củng cố địa vị thống trị

của chúng ở Đông Dƣơng. Chúng ra sức tuyên truyền cho tƣ tƣởng thỏa hiệp và đầu hàng

Pháp nhƣ: “Pháp Việt đề huề”. Mặt khác, chúng còn truyền bá tƣ tƣởng văn minh phƣơng

Tây, du nhập những tƣ tƣởng văn hóa phản động, đồi trụy khiêu dâm của phƣơng Tây vào

Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng lại ngăn chặn mọi ảnh hƣởng tích cực của cách mạng thế giới

vào Việt Nam. Đồng thời, chúng còn đẩy mạnh chính sách ngu dân và tƣ tƣởng nô dịch đối

với quần chúng nhân dân. Chúng không ngừng rêu rao quan điểm: Thực dân Pháp sang Việt

Nam với sứ mệnh “Khai hóa văn minh” đêm ngọn đuốc văn minh của nƣớc mẹ Đại Pháp

sang truyền bá cho nhân dân Việt Nam. Một mặt, chúng cho in lại một số ít văn chƣơng cũ

(tất nhiên là chúng loại trừ những bài có tƣ tƣởng yêu nƣớc, chống ngoại xâm) để làm ra vẻ

bảo vệ những giá trị văn hóa của nền văn minh Việt Nam bấy lâu nay bị lu mờ vì nền Hán

học. Mặt khác, chúng xây dựng và thiết lập một hệ

34

thống giáo dục trong đó tiếng Pháp đã lấn át hẳn tiếng mẹ để (tiếng Việt) và đặt chữ Hán vào

thế giờ đây chỉ còn là một thứ trò chơi đồ cổ với một số ít ngƣời nữa mà thôi. Nội dung

chƣơng trình của chế độ học đƣờng này là đào tạo những tên tay sai trung thành cho chế độ

nhà nƣớc bảo hộ của nƣớc mẹ Đại Pháp.

Rõ ràng là, thực dân Pháp cùng với công cuộc khai thác, bóc lột kinh tế đã tìm mọi

cách thực hiện chính sách ngu dân cực kỳ thâm độc, chinh phục tinh thần làm băng hoại ý chí

của ngƣời dân Việt Nam. Trong thực tế bi đát đó, “cái vạ chết lòng” nhƣ lời của Phan Bội

Châu là một hiện thực tâm lý khá rõ nét trên đất nƣớc ta. Và nhƣ thế là một thời đại, vận

mạng của dân tộc đã đặt ra vấn đề là làm sao - bằng mọi giá, mọi cách hạn chế, chấm dứt

đƣợc “cái vạ chết lòng” này, một điều hoàn toàn không dễ. Những ngƣời Việt Nam chân

chính có tâm huyết với vận nƣớc, vận dân đã tìm mọi cách đáp ứng mọi yêu cầu đó của thời

đại. Trƣớc hết họ phải nói trắng ra cho mọi ngƣời biết. Nhất là những ngƣời còn có chút

lƣơng tâm hiểu rõ sự thật đau xót đó, để tự thức tỉnh. Những nhà cách mạng đầu thế kỷ nhƣ

Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đã dùng văn chƣơng làm việc này một cách xuất sắc và dũng

cảm.

Trong bức thƣ ngỏ, gửi toàn quyền Đông Dƣơng, năm 1906, Phan Chu Trinh đã thống

thiết nói đến sự hƣ hỏng về đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam hồi đó, dƣới sự thống trị của

bọn quan lại thuộc địa và Nam Triều:

“Chao ôi! một dân tộc đến 20 triệu ngƣời, kẻ có học thức cũng đến vài mƣơi vạn, mà

tối tăm mù mịt, mềm yếu, ƣơn hèn, không đủ sức bênh vực đƣợc nhau để tìm cách sinh tồn,

lại ù ù cạc cạc, không biết rằng mình ở vào cái thế giới cƣờng quyền thịnh hành “hơn đƣợc,

kém thua” này, mà còn có cái mơ tƣởng hão huyền nhƣ thế, dân trí cũng đáng thƣơng vậy…”

[143]

Ngƣời dân Việt Nam lúc bấy giờ không ít đã bị đẩy đến tình trạng: “Ngu xuẩn nhƣ

trâu ngựa, tha hồ cho ngƣời chằng trói, cho ngƣời đánh đập.

35

Có miệng mà không dám kêu, gần chết mà không giám than thở”. [140]

Sĩ khí hết sức đồi bại, chỉ lo nịnh hót, làm quan để đƣợc hƣởng giàu sang phú quí, ăn

chơi phè phỡn, Phan Bội Châu cũng đã viết:

“…Nƣớc Nam độ bốn mƣơi năm nay, vận nƣớc một ngày một suy, suốt từ trên xuống

dƣới, chỉ biết lƣời biếng vui chơi. Pháp luật chế độ không còn cái gì ra trò, nhân tài cũng tiểu

diệt đi mất cả. Ngƣời trên thì làm xấu để đƣợc thăng thật… ngƣời dƣới thì đem của mua

quan… ngƣời này làm ngƣời kia bắt chƣớc lâu rồi thành thói quen. Những ngƣời đỗ đạt

muốn cầu bổ bán thì nịnh hót luồn cúi ở các nhà quyền quí, những ngƣời ở nhà thì ỷ thần, cậy

thế hà hiếp bóp nặn ở trong làng, ngoài việc trai gái, ăn uống thì không còn biết việc gì…”

[143].

Có thể nói: tâm lý của con ngƣời Việt Nam lúc này đã bị phân hóa theo chiều hƣớng

ngày càng phức tạp. Trạng thái xấu nhất là một số ngƣời thì có tƣ tƣởng cam chịu đầu hàng,

làm tay sai cho giặc. Trạng thái thứ hai là một số ngƣời thì ngày càng xa lánh với nhiệm vụ

chính trị của thời đại chạy vào con đƣờng mƣu danh cầu lợi để mong một cuộc sống vinh

thân phi gia. Trạng thái thứ ba là lâm vào “cái vạ chết lòng”:

Than ôi ! Cái vạ chết lòng

Xác kia chết đó, còn mong nỗi gì.

- Hình tƣợng Tổ quốc giờ đây trở thành một nỗi đau xót, nỗi day dứt khôn nguôi đối

với những ngƣời mang nặng trong mình tình yêu Đất nƣớc. Ngay cả những ngƣời nhƣ Phan

Bội Châu một thời có những niềm hào hứng cao độ về vận mệnh của dân tộc thì giờ đây cũng

phải thốt lên rằng:

“Biết bao công của người xưa

Giang sông tất núi, dạ dưa, ruột tằm”.

36

Còn đối với Tản Đà - một con ngƣời đã từng mang nặng những lời thề non nƣớc thì

giờ đây Tổ quốc chỉ còn là một bức “dƣ đồ rách” mà thôi. Nhà thơ day dứt vì chƣa tìm đƣợc

một con đƣờng để cứu vãn cho dân tộc:

“Khoan khoan để đấy rồi ta liệu

Để đấy rồi ta sẽ liệu bồi”

Cùng với việc nói toạc, nói thẳng ra cái sự thật đau lòng đó là việc làm sống lại những

trang sử hào hùng của dân tộc để ngƣời dân biết tự hào, biết nuối tiếc, biết noi gƣơng. Ở

phƣơng diện này cũng không đâu bằng dòng văn học yêu nƣớc của các nhà yêu nƣớc. Đặng

Nguyên Cẩn trong tác phẩm “Lên núi Lam thành hoài cổ” đã dựng lại những gƣơng anh hùng

từ Nguyễn Biểu:

“Quan Ngự Sử một lòng trung nghĩa

Sang cầu phong mà tháo lệ băng thanh”

đến Lê Lợi:

“Lê Thái Tổ Lam Sơn tích phấn

Một con dao nổi giận yên dân

Phất nghĩa kỳ quét sạch bụi trần

Còn cổ miều linh thần còn rạng thấy”

(Đăng Lam thành sơn hoài cổ phú)

Trần Quí Cáp khi đi qua Đà Nẵng nhìn thấy cảnh:

“Bến bờ thuyền tới theo cờ lạ, Quan ải xe qua suốt dặm dài” thì đau lòng nghĩ tới:

“Chiến họa vì sao nảy đất này?” để rồi trong tâm hồn ông xuất hiện một khao khát:

“Ước gì lại nối vua Hưng Đạo

Cùng dấy sông Đằng trận thứ hai”

37

Rồi ra, Mai Lão Bang trong tác phẩm “Khuyên đồng tâm”, Ngô Quý Siêu trong tác

phẩm “Địa dƣ lịch sử nƣớc nhà” cũng đã tiếp tục cái cảm hứng dân tộc.

Một tác giả khuyết danh trong tác phẩm “Kinh đạo nam”, Lƣơng Ngọc Quyến trong

bài thơ Cảm tác cũng nói tới cảm hứng dân tộc.

Tản Đà trong “Lịch sử anh hùng nƣớc ta”, Á Nam Trần Tuấn Khải trong thơ “Vịnh

Hƣng Đạo Vƣơng”, “Thăng Long hoài cổ”, “Chơi thành Cổ Loa”, “Hai chữ nƣớc nhà”… đều

đã rất nhiệt tâm trong việc làm sống dậy ý thức dân tộc.

Đáng chú ý là trong thời kỳ này, ở nƣớc ngoài, nhà cách mạng kiểu mới Nguyễn Ái

Quốc trong khi viết những tác phẩm để vạch trần tố cáo bộ mặt thực của thực dân Pháp và

bọn vua chúa tay sai trên đất nƣớc mình, cũng đã làm sống dậy hình ảnh Bà Trƣng trong tƣ

thế là ngƣời phán xét, buộc tội (Lời than văn của Bà Trƣng Trắc).

Cùng với trào lƣu chung của một số loại hình văn học nhƣ trên đã nói, đầu những năm

40, thể loại kịch lịch sử cũng xuất hiện với ý thức kêu gọi tinh thần dân tộc: “Một số vở kịch

của phong trào sinh viên và truyền bá quốc ngữ đã thể hiện đƣợc tinh thần dân tộc mạnh mẽ

(“Trƣng Vƣơng khởi nghĩa”, “Đêm Lam Sơn”, “Hội nghị Diên Hồng”). Hai vở kịch đáng chú

ý nhất là vở “Hội nghị Diên Hồng” do sinh viên Hà Nội diễn (1944), sau khi diễn xong bị

thực dân Pháp cấm, và vở “Đêm Lam Sơn” do sinh viên Sài Gòn diễn (7/1943). Hai vở kịch

tuy chƣa đặt ra vấn đề dân tộc đúng đắn nhƣng ít nhiều đã đề cập đến tinh thần yêu nƣớc, ý

thức giành độc lập dân tộc mà từ trƣớc tới giờ kịch công khai không dám nói đến” .

[69,49,50].

Nguyễn Huy Tƣởng đã viết vở kịch lịch sử “Cột đồng Mã Viện”, ca ngợi lòng yêu

nƣớc của ngƣời dân Giao Chỉ chống lại bọn phong kiến Mã

38

Viện,.Đặc biệt, vở kịch “Vũ Nhƣ Tô” đã đƣợc Nguyễn Huy Tƣởng, viết với một quan điểm

nghệ thuật tiến bộ. Tác giả “đã thấy đƣợc vai trò sáng tạo của quần chúng. Một mặt khác,

chính quần chúng là lực lƣợng quyết định sự thay đổi các triều đại lịch sử”. [69,59]

Sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết lịch sử ở đầu thế kỷ chính cũng nhằm tham gia

thực hiện yêu cầu đó của thời đại, và cũng là nằm trong mạch cảm xúc thiêng liêng chung đó

của văn học thời đại. Việc làm này là hoàn toàn tự giác, có ý thức rõ rệt, đƣợc thể hiện qua

các lời tuyên ngôn nghệ thuật của nhiều tác giả. Phan Bội Châu trong cuốn “Trùng Quang

tâm sử” đã viết:

“Ôi! rực rỡ biết bao ! tổ tiên ta vĩ đại và hiển hách biết dƣờng nào!... Theo tôi, chuyện

của các bậc tiền liệt ngày xƣa, ta sẽ tƣởng nhớ tới tổ tiên ta sinh ra ta trong thời gian đó,

không một ai không anh hùng. Dòng dõi anh hùng và hậu nhân anh hùng chính là chúng ta thì

sao có thể quên đƣợc ? dậy! dậy! dậy! Quốc dân ta ơi! Đồng bào ta ơi!... Thân dù chết mà

nƣớc còn thì của cải của ta, con cháu của ta, họ hàng thân yêu của ta, danh dự ngày mai của

ta vẫn còn vĩnh viễn bất diệt… Tất cả hàng vạn ngƣời đều đồng lòng nhƣ vậy để ngăn ngừa

ngoại địch thì kẻ địch nào mà chẳng bị bẻ gãy, để đánh trả kẻ thù thì kẻ thù nào mà chẳng bị

tiêu diệt” [16 - 290].

Nguyễn Tử Siêu trong lời mở đầu của cuốn “Tiếng sấm đêm đông” đã viết:

“Than ôi ! Trời xanh, mây tối đất đỏ cây sầu, nghìn năm nƣớc cũ, mấy cuộc bể dân!

Vắt tay nằm nghĩ cơ trời, đau lòng cố quốc, cầm bút chép thiên vẵng sử, ai kẻ đồng cừu?”

[166-3], trong lời tựa cuốn tiểu thuyết “Lê Đại Hành” Nguyễn Tử Siêu lại viết:

Than ôi ! Nước non Hồng lạc, trải nghìn năm mấy cuộc bể đâu

Nòi giống Rồng tiên, qua mấy kiếp hết thân trâu ngựa

39

Khóc than luống vậy

Đày đọa không cùng

Nghĩ đến công bình Bắc dẹp Nam, người xưa khôn thấy.

Tưởng những nỗi sớm Tần tôi Sở, cuộc thế như trêu

Ngậm tăm khôn nhẽ làm câm

Cái chốc đã đành giả điếc

Viết mấy chữ tỏ lòng kỷ niệm, hỏi đồng bào rằng nhục hay vinh

Ghi vài lời gợi chút trần tình, tùy duyệt giả dù khen hay trách” [165].

Tân Dân Tử trong lời tựa cuốn “Giọt máu chung tình” cũng viết: “Hỏi thử Trƣơng

Lƣơng, Hàn Tín, Hạng Vũ thì sử tích làu thông, còn hỏi lại ai là ngƣời anh hùng hào kiệt

trong nƣớc thì ngẩn ngơ chẳng biết…

…Nhƣ vậy thì trong xứ ta chỉ biết khen ngợi, sùng bái ngƣời anh hùng liệt nữ trong

xứ mình, chỉ biết xƣng tụng cái oai danh ngƣời ngoại bang mà vùi lấp cho lu mờ cái tinh thần

của ngƣời bổn quốc” [198 -12].

Có thể nói rằng hầu hết những cây bút tiểu thuyết lịch sử đều có tâm huyết đối với

dân tộc và đều có ý thức muốn sáng tác tiểu thuyết lịch sử để khích lệ ý thức tự tôn, tự hào

dân tộc, nêu cao tinh thần trách nhiệm của mỗi một ngƣời dân với vận mệnh của nƣớc nhà

trong những lúc nguy nan,cố gắng đƣa ngƣời đọc nhập cuộc, tin tƣởng vào cuộc chiến đấu

một mất một còn cho nền độc lập tự do của dân tộc. Đó là động lực tinh thần cơ bản thúc đẩy

cho các tác giả viết tiểu thuyết lịch sử. Sau này, Nguyễn Huy Tƣởng đã tâm sự rằng: “Tôi đi

tìm chân lý từ những sách triết học, từ thuyết nhân nghĩa của đạo Nho, đến thuyết từ bi bác ái

của đạo Phật, tôi rơi vào chủ nghĩa sức mạnh của Nietzsche, bởi vì tôi nghĩ đối với một dân

tộc yếu hèn thì sức mạnh là con đƣờng giải thoát. Tôi vùi đầu vào trong đống sách lịch sử để

lấy cái vinh

40

quang của ông cha mà bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc cho mình. Tôi chuẩn bị viết vấn đề ca

ngợi lịch sử, ca ngợi dân tộc, kích động lòng yêu nƣớc của đồng bào” (Chúng tôi nhấn mạnh

BVL). [202,14]

Nhƣ vậy, sự ra đời của tiểu thuyết lịch sử là một tất yếu khách quan, nó xuất phát từ

yêu cầu của cuộc sống dân tộc. Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thời đại. Trong hoàn

cảnh lịch sử cụ thể lúc bấy giờ, để vƣợt qua lƣỡi kéo kiểm duyệt khắt khe của thực dân Pháp

không còn cách nào hơn là mƣợn chuyện đời xƣa để nói bóng gió chuyện ngày nay, tái hiện

lại quá khứ vẻ vang anh hùng của dân tộc để nhắc nhở hậu thế đừng quên cái nhục mất nƣớc

và đừng quên trách nhiệm của mình trƣớc vận mệnh sống còn của dân tộc.

2.1.2. Từ yêu cầu của văn học Việt Nam trên con đường hiện đại hóa:

Sau khi nổ phát súng tấn công vào Đà Nẵng, thực dân Pháp đã đẩy mạnh công việc

khai thác thuộc địa trên đất nƣớc ta. Thời kỳ đầu, từ 1858 cho đến thế kỷ XIX, bọn chúng chủ

yếu hoạt động về mặt quân sự. Thế nhƣng, bƣớc sang đầu thế kỷ XX, bọn chúng thực sự đẩy

mạnh quá trình khai thác thuộc địa về mặt kinh tế. Sau hai lần khai thác thuộc địa của Pháp

trƣớc và sau đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 -1918) thì cơ sở xã hội Việt nam đã có

những biến đổi sâu sắc. Do quá trình khai thác thuộc địa ngày càng đƣợc đẩy mạnh nên

những thành phố và những trung tâm kinh tế, văn hóa của xã hội thực dân nửa phong kiến đã

mọc lên. Chính sự ra đời của những trung tâm này đã làm xuất hiện nhiều tầng lớp xã hội mới

nhƣ tƣ sản, tiểu tƣ sản (bao gồm viên chức, học sinh, sinh viên và dân nghèo thành thị) và

giai cấp công nhân. Những tầng lớp xã hội này có một nhu cầu văn hóa và một nhu cầu thẩm

mỹ mới và cũng chính hoàn cảnh này đã tạo nên một công chúng văn học mới ngày càng

đông đảo và đòi hỏi một thứ văn học mới đáp ứng với nhu cầu nhận thức và thẩm mỹ của họ.

Nhìn chung văn học của thời kỳ này là văn học của

41

các đô thị và nhân vật trung tâm trong đời sống văn hóa là tầng lớp trí thức Tây học. Thông

qua tầng lớp này mà ảnh hƣởng của các trào lƣu tƣ tƣởng, văn hóa, văn học của thế giới hiện

đại ngày càng thấm sâu in đậm vào ý thức của ngƣời viết văn và ngƣời đọc sách Việt Nam.

Thật vậy “trong xã hội thƣơng mại, nhu cầu văn hóa tất dẫn đến những hoạt động kinh doanh

văn hóa. Vì thế nghề in, nhà xuất bản, ngƣời làm báo theo kỹ thuật hiện đại phát triển khá

mạnh, viết văn cũng trở thành một nghề kiếm sống tuy rất chật vật. Nhà văn và công chúng

có quan hệ gắn bó hơn. Phê bình văn học ra đời và phát triển trên báo chí... đời sống văn học

trở nên sôi nổi hơn, khẩn trƣơng hơn” Vũ Ngọc Phan trong cuốn “Nhà văn hiện đại” đã

khẳng định: “ở nƣớc ta một năm đã có thể kể nhƣ 30 năm của ngƣời”.

Tất cả những điều kiện trên đã giải thích vì sao nền văn học Việt Nam đã nhanh

chóng hiện đại hóa. Đây là một yếu tố tất yếu khách quan của lịch sử văn học dân tộc trong

một thời đại mới. Trên phƣơng diện văn học nhƣ mọi ngƣời đã biết đây là giai đoạn mà văn

học Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ trên con đƣờng cách tân và hiện đại hóa với một

tốc độ hết sức mau lẹ và đạt đƣợc những thành tựu đáng kể, rất đáng tự hào. Chính quá trình

hiện đại hóa này đã làm cho diện mạo văn học ngày càng phong phú, đa dạng và đi theo quỹ

đạo, quy luật phát triển của văn học thế giới. Nói đến sự thay đổi phạm trù văn học theo

hƣơng hiện đại trƣớc hết phải nói đến một sự cách tân đồng bộ toàn diện trong đó có sự thay

đổi về phạm trù sáng tác, về phƣơng thức tồn tại và phổ biến của văn học, phƣơng tiện văn

học, về quan điểm nghệ thuật, về đề tài, về ngôn ngữ học, về thể loại cùng với hệ thống thi

pháp của chúng. Riêng ở nƣớc ta nói đến sự cách tân văn học còn phải nói đến cả phƣơng

diện văn tự để sáng tác văn học. Sự thay đổi phạm trù văn học theo hƣớng hiện đại hóa bắt

đầu từ thay đổi hình thái xã hội Việt Nam từ chế độ phong kiến

42

sang chế độ thực dân nửa phong kiến. Đặc trƣng của chế độ xã hội thực dân nửa phong kiến

thời kỳ này nhƣ trên đã nói chính là sự có mặt của quá trình sản xuất tƣ bản chủ nghĩa mang

hình thức thuộc địa. Chính quá trình sản xuất tƣ bản chủ nghĩa này đã gây nên những biến

đổi lớn không chỉ trong cơ cấu xã hội mà còn là sự thay đổi trong tâm lý sống, cách sống và

nhịp điệu sống của xã hội. Nó có sức chi phối cách sống, cảm nghĩ, cách cảm của nhà văn và

vì thế nó có thể làm thay đổi cả ý thức hệ trong văn học. Mỗi hình thái xã hội đều có một ý

thức riêng. Tuy nhiên ý thức hệ và đời sống tƣ tƣởng của xã hội không phải là một. Đời sống

tƣ tƣởng là mặt bằng của đời sống, nó len lỏi vào trong mọi ngóc ngách thuộc đời sống của

mỗi con ngƣời. Còn ý thức hệ chỉ là ngọn cờ tƣ tƣởng của thời đại. Trong thời đại phong

kiến, ý thức hệ là chủ nghĩa tôn quân. Có thể nói chủ nghĩa tôn quân là sản phẩm và cũng là

đặc trƣng của ý thức hệ phong kiến. Ý thức hệ phong kiến thƣờng thiên về quan điểm cộng

đồng. Nó không hề đặt ra vấn đề cá nhân. Thậm chí cá nhân trong xã hội thƣờng bị phủ nhận.

Khi Nguyễn Trãi viết thay cho Lê Lợi: “Ta đây đất Lam Sơn dấy nghĩa” có nghĩa là “quân”

đại diện cho nhân dân, mang tính chất tƣợng trƣng. Sống trong xã hội phong kiến, con ngƣời

bỏ quên cái tôi cá nhân của mình thì mới đƣợc coi là con ngƣời có đạo đức. Vì thế trong văn

học thời trung đại, về cơ bản văn học chƣa phát hiện đƣợc cái tôi. Còn đặc trƣng của ý thức

hệ tƣ sản là sự trỗi dậy của cái tôi cá nhân (individu). Cá nhân là một phẩm chất đồng thời

cũng là một giá trị nhân văn mới của con ngƣời và thời đại.

Chính sự thay đổi về ý thức hệ đã kéo theo sự chuyển đổi phạm trù trong văn học...

Văn học thời kỳ này đã có sự chuyển biến từ phạm trù trung đại sang phạm trù hiện đại. Dấu

hiệu của sự chuyển đổi phạm trù trƣớc hết thể hiện ở sự chuyển đổi quan điểm thẩm mỹ trong

văn học. Sự phân biệt về hệ thống quan điểm, chức năng, bản chất, nguồn gốc, đối tƣợng,

nhiệm vụ của văn học ngày càng minh bạch hơn. Trƣớc đây, các nhà nho thƣờng có quan

43

niệm gắn văn học với “đạo” với “mệnh trời” để rồi đề ra một thiên chức cho văn học là “văn

dĩ tải đạo”, “văn dĩ minh đạo”. v.v... Cùng vì thế mà cái đẹp trong văn học trung đại cũng

đƣợc quan niệm khác hẳn : cái đẹp là cái toàn diện hoàn toàn tuyệt đối trong sự thống nhất

với cái tôi, đối lập với cái xấu và bao trùm lên tất cả là cái hữu ích. Không những thế, trong

văn học trung đại cái đẹp nội dung thƣờng đƣợc đề cao hơn cái đẹp về hình thức. Và “thế giới

quan luôn luôn đƣợc nhìn qua con mắt đạo lý, vì mọi nhân vật, sự việc đều đƣợc đánh giá

thông qua quan điểm đạo đức xã hội, bằng những chuẩn mực đạo đức quen thuộc trung -

hiếu, tiết - nghĩa, xấu - tốt, thiện - ác..v...v”. Thì giờ đây văn học hiện đại cũng hƣớng về sự

kiếm tìm cái đẹp. Những cái đẹp ở đây là cái đẹp tồn tại trong cuộc sống đa dạng, phong phú,

mang hơi thở của đời thƣờng và có một nội dung nhân văn mới mẻ... Như vậy từ đầu thế kỷ

XX, Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện một quan niệm mới về văn học và một quan niệm

thẩm mỹ khác với trước. Một phạm trù văn học mới thật sự ra đời - phạm trù văn học

hiện đại. Từ phạm trù văn học hiện đại này; văn học yêu cầu phải đổi mới về hệ thống

thể loại. Những thể loại văn học không còn đáp ứng với nhu cầu nhận thức, nhu cầu tình cảm

và quan điểm thẩm mỹ của một lực lƣợng công chúng mới. Vì vậy, đòi hỏi nhiều thể loại mới

ra đời nhƣ: tiểu thuyết, thơ trữ tình, kịch nói, phóng sự ..v.v... Trong đó, thể loại tiểu thuyết là

thể loại chủ công. Bởi vì: “Muốn làm mới dân một nƣớc, cần phải làm đổi mới tiểu thuyết

nƣớc đó. Cho nên muốn mới đạo đức trƣớc hết phải mới tiểu thuyết. Muốn mới học thuật

trƣớc hết phải mới tiểu thuyết. Cho đến muốn mới dân tộc nhân cách trƣớc hết phải mới tiểu

thuyết. Vì sao vậy ? Vì tiểu thuyết có một sức mạnh chi phối ngƣời ta. [117,14].

Quan niệm của Mộc Khê có phần nào thái quá nhƣng phần nào cũng nói lên đƣợc vai

trò vị trí của tiểu thuyết trong quá trình cách tân và hiện đại hóa văn học. Tất nhiên vấn đề

hiện đại hóa tiểu thuyết trƣớc hết vẫn

44

là vấn đề đổi mới về phƣơng diện nội dung. Vì vậy, thời kỳ này tiểu thuyết thƣờng hƣớng về

nhiều phƣơng diện, nhiều vấn đề của xã hội nhƣ vấn đề tâm lý, vấn đề phong tục, vấn đề hiện

thực cuộc sống, hiện thực xã hội, vấn đề lịch sử, vấn đề đời tƣ... Mặt khác yêu cầu hiện đại

hóa tiểu thuyết còn đặt ra vấn đề đa chủng loại. Vì lẽ đó thời kỳ này, tiểu thuyết Việt Nam

phát triển rầm rộ với nhiều khuynh hƣớng khác nhau đã đành mà còn có nhiều chủng loại,

nhiều khuynh hƣớng khác nhau. Trƣớc hết phải kể đến khuynh hƣớng tiểu thuyết thế sự với

những tác phẩm tiêu biểu nhƣ: “Cuộc tang thƣơng”, “Cành lê điểm tuyết” của Đặng Trần

Phất, “Kim Anh lệ sử” của Trọng Khiêm, “Con nhà giàu”, “Con nhà nghèo”, “Ngọn cỏ gió

đùa”, “Khóc thầm”, “Tiền bạc, bạc tiền”... của Hồ Biểu Chánh. Khuynh hƣớng này phát triển

khá nhanh ở Nam Bộ. Nó đã bao quát và phản ánh phần nào hiện thực của cuộc sống, đặt nền

tảng và tiền đề cho những sáng tác của các khuynh hƣớng hiện thực về sau ở miền Bắc đạt

đƣợc những thành tựu cao nhƣ: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bƣớc đƣờng cùng” của Nguyễn

Công Hoan, “Giông tố”, “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, “Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng, “Sống

mòn” của Nam Cao.v...v.

Khuynh hƣớng thứ hai là khuynh hƣớng thiên về đời tƣ với cảm hứng lãng mạn. Tác

phẩm tiêu biểu là “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách, tiếp đó là hàng loạt tác phẩm của nhòm

“Tự lực văn đoàn” nhƣ “hồn bƣớm mơ tiên”, “Nửa chừng xuân”, “Đoạn tuyệt”, “Lạnh lùng”,

“Bƣớm trắng”. v.v..

Để góp phần đa chủng loại thể loại tiểu thuyết theo yêu cầu của hiện đại hóa văn học,

tiểu thuyết lịch sử cũng ra đời và phát triển với một đội ngũ nhà văn khá đông đảo. Bƣớc đầu

cũng đã có những tác phẩm gây đƣợc tiếng vang trong công chúng độc giả nhƣ: “Tiếng sấm

đêm đông”, “Trần Nguyên chiến kỷ”, “Việt Thanh chiến sử” của Nguyễn Tử Siêu, “Giọt máu

chung

45

tình” của Tân Dân Tử hay “Đêm hội Long trì” của Nguyễn Huy Tƣởng ..v...v..

Cũng nhƣ các nhà văn ở những khuynh hƣớng khác, xuất phát từ tinh thần yêu nƣớc,

tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc, cacá nhà văn viết tiểu thuyết bƣớc giai đoạn này muốn đóng

góp một cái gì đó thật sự cho văn học trên con đƣờng hiện đại hóa, cho cuộc đấu tranh giải

phóng dân tộc bằng chính tài trí của mình. Trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể lúc bấy giờ (chế độ

kiểm duyệt của Pháp quá khắt khe), và để phù hợp với khả năng của họ, không gì tốt hơn là

bằng hoạt động văn chƣơng: “Cầm bút chép thiên vãng sử”. Lúc bấy giờm các nhà văn tìm

đến với tiểu thuyết lịch sử là để tìm những kẻ “đồng cừu” nhƣ Nguyễn Tử Siêu đã nói, nhƣng

mặt khác họ cũng mong tìm cho mình một cơ hội để bày tỏ tấm lòng thủy chung son sắt đối

với dân tộc, đối với tổ tiên.

Nhƣ vậy, tiểu thuyết lịch sử ra đời cũng là nằm trong yêu cầu đa chủng loại của tiểu

thuyết và công cuộc hiện đại hóa văn học, vừa là đòi hỏi tự thân vừa là điều kiện để tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ra đời và phát triển.

Đồng thời đến lƣợt nó, tiểu thuyết lịch sử ít nhiều cũng đã tham gia tiến trình hiện đại

hóa thể loại tiểu thuyết Việt Nam nói riêng và của nền văn học Việt Nam giai đoạn này nói

chung (chúng tôi sẽ trình bày rõ hơn vấn đề này ở chƣơng 3 và chƣơng 4 của luận án).

2.1.3. Từ những tiền đề văn học đã có

Sự ra đời của tiểu thuyết lịch sử, ngoài sự thúc đẩy của nhữung yếu tố thời đại, còn có

sự tham gia tích cực của những yếu tố văn hóa và văn học truyền thống sau đây:

2.1.3.1. Truyền thuyết lịch sử

46

Kho tàng truyện kể dân gian Việt Nam bao gồm các loại truyện kể nhƣ thần thoại, cổ

tích và các truyền thuyết lịch sử đã xuất hiện từ rất sớm, trƣớc khi có chữ viết và văn học

thành văn... Trong thể loại truyền thuyết lịch sử, có nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc của

dân tộc, nguồn gốc giống nòi, có truyền thuyết ca ngợi những nhân vật anh hùng trong sự

nghiệp đấu tranh chống xâm lăng để giữ gìn độc lập cho dân tộc. Mỗi khi đất nƣớc có xâm

lăng thì truyền thuyết lịch sử lại càng phát triển, nở rộ và phát huy tác dụng hơn bao giờ hết.

Truyền thuyết lịch sử dân gian đƣợc xây dựng trên cơ sở của một cốt lõi lịch sử có

thật. Nhƣng nó đƣợc chắp thêm đôi cánh của “thơ và mộng”. Có nghĩa là nó đƣợc hƣ cấu và

hoang đƣờng hóa một phần nào đấy. Yếu tố hƣ cấu và hoang đƣờng nhằm tăng thêm vẻ đẹp

và sự oai hùng của nhân vật lịch sử mà nhân dân kính trọng, ngƣỡng mộ. Đồng thời, yếu tố

hƣ cấu còn làm tăng thêm tính chất thú vị và hấp dẫn của truyền thuyết. Về mặt này truyền

thuyết lịch sử đáng đựoc coi như là tiền thân xa xưa của tiểu thuyết lịch sử.

Kết cấu của truyền thuyết lịch sử cũng gần với kết cấu của thần thoại và cổ tích. Đó là

lối kết cấu theo kiểu thời gian đơn tuyến - một hƣớng. Phần giới thiệu lai lịch và tiểu sử nhân

vật của truyền thuyết lịch sử thƣờng đƣợc hƣ cấu, lạ hóa theo hƣớng thần kỳ, quái dị : Thánh

Gióng là con của một ngƣời đàn bà xấu xí với một vị thần khổng lồ (ông Đổng). Đinh Bộ

Lĩnh là con của Rái Cá. Bà Trƣng thì lại mất một cách đột ngột sau một đêm ngủ say và hồn

bay lên trời làm phúc thần. Bà Triệu Ẩu sau khi đánh trận xong thì lên núi Tùng Sơn chết,

linh hồn của Bà quyện vào thanh gƣơm và bay lên trời v.v...

Có thể nói: truyền thuyết lịch sử là thể loại gắn với thể loại tiểu thuyết lịch sử về

phƣơng diện nội dung, tƣ tƣởng thẩm mỹ cũng nhƣ hình thức viết truyện. Nhiều tác giả tiểu

thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã kế thừa

47

những thành tựu của truyền thuyết và phần nào đó đã dựa vào những truyền thuyết lịch sử về

những anh hùng chống xâm lăng nhƣ Phù Đổng Thiên Vƣơng, Truyền Thuyết An Dƣơng

Vƣơng, truyền thuyết Bà Trƣng, Bà Triệu, Mai Hắc Đế, Lý Nam Đế, Đinh Tiên Hoàng, Trần

Hƣng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Lê Lợi, Quang Trung v.v... để sáng tác nên những tác

phẩm của mình. Chẳng hạn, lấy cơ sở từ truyền thuyết về Trƣng Trắc, Triệu Thị Trinh, Trần

Hƣng Đạo, Phạm Ngũ Lão và dĩ nhiên còn dựa vào những nguồn thƣ tịch cổ khác, Nguyễn

Tử Siêu đã sáng tạo nên tác phẩm “Hai Bà đánh giặc”, “Vua Bà Triệu Ẩu”, “Trần Nguyên

chiến kỷ” v.v... Đinh gia Thuyết sáng tác “Ngọn cờ vàng” v.v...

Ngoài ra, còn có thể kể ra biết bao trƣờng hợp tƣơng tự trong quá trình hình thành và

phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam ở giai đoạn này. Rõ ràng: “Thể loại truyện lịch sử

đã kế thừa về mặt đề tài chống ngoại xâm, ca ngợi các anh hùng dân tộc và phát huy mạnh

mẽ chủ nghĩa yêu nƣớc, tinh thần độc lập tụ chủ và ý thức tự hào dân tộc, vốn là những tƣ

tƣởng cốt lõi trong thần thoại, truyền thuyết dân gian Việt Nam từ ngàn xƣa. Ngay đến đầu

thế kỷ XX này, những tƣ tƣởng cốt lõi ấy vẫn còn tƣơng thắm nhƣ sợi chỉ đỏ xuyên suốt

trong nhiều cuốn tiểu thuyết lịch sử của nhiều tác giả nhƣ Hậu Trần dật sử (con gọi là Trùng

Quang tâm sử) viết bằng chữ Hán của Phan Bội Châu và hàng chục cuốn tiểu thuyết lịch sử

bằng chữ quốc ngữ hồi đầu thế kỷ” [97, 93].

2.1.3.2. Truyện văn xuôi tự sự ghi chép bằng chữ Hán (phần có liên quan đến lịch

sử):

Ngoài truyền thuyết lịch sử về anh hùng trong thể loại truyện kể dân gian, sự ra đời

của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam cũng không thể tách rời khỏi thể loại truyện văn xuôi tự sự

Việt Nam thời trung đại, nhất là những truyện về lịch sử và truyện danh nhân từ thể kỷ XI trở

đi. Vào khoảng thể kỷ XI đến thế kỷ XII, thể loại văn xuôi tự sự bằng chữ Hán có liên quan

đến lịch sử đã

48

bắt đầu xuất hiện trong dòng văn học Việt Nam. Mở đầu cho thể loại này là tác phẩm “Ngoại

sử ký” (Những điều ghi chép về lịch sử ngoài chính sử) của Đỗ Thiện và tác phẩm “Báo cực

truyền” của một tác giả vô danh(1).

Hiện nay, hai tác phẩm này không còn nữa. Nhƣng căn cứ vào nội dung mà những tác

giả đời sau còn dẫn lại, đặc biệt là những mẩu chuyện mà Lý Tế Xuyên đã sử dụng để biên

soạn cuốn “Việt điện U Linh tập” thì chúng ta cũng có thể hình dung đƣợc phần nào nội dung

cũng nhƣ thể loại hai cuốn sách này. “Ngoại sử ký” là một tập sách ghi chép lại những truyện

kể dân gian về lịch sử và những nhân vật lịch sử (cũng có thể gọi đó là dã sử truyền miệng

dân gian). “Việc làm của Đỗ Thiện vô hình chung đã khiến cho nhiều truyện dân gian truyền

miệng có dịp đƣợc sƣu tầm và ghi chép thành văn bản, đồng thời đã góp phần vào việc xây

dựng tác phẩm tự sự trong văn học đƣơng thời” [97; 75] và dòng truyện ký lịch sử cũng nhƣ

tiểu thuyết ở những thời đại sau đó.

Còn tác phẩm “Báo cực truyện” là một cuốn sách ghi chép lại những câu chuyện thần

thoại, truyền thuyết dân gian mang màu sắc tín ngƣỡng và tôn giáo. Có thể nói đây là hai tác

phẩm có vai trò khơi nguồn cho thể loại truyện ký đoản thiên trong nền văn xuôi tự sự Việt

nam bao gồm những chuyện kinh dị, quái dị có chịu ảnh hƣởng ít nhiều những huyền thoại

dân gian và thể tài nhân vật ký có liên quan nhất định tới hình thức tiểu thuyết lịch sử về sau,

nhất là những gì chúng có liên quan đến lịch sử.

Bƣớc sang thể kỷ XIV, tác phẩm “Việt Điện U Linh tập” của Lý Tế Xuyên đã ghi

chép lại một số truyện ký về các vị thần có công đối với đất

(1) Việc xác định thời gian ra đời của hai tác phẩm này đều vẫn chƣa có một ý kiến thống nhất. Nguyễn Đăng Na cho rằng: “Báo cực truyện” xuất hiện vào thế kỷ XI và Ngoại Sử ký xuất hiện vào thế kỷ XII [145, 22] còn Kiều Thu Hoạch thì cho rằng hai tác phẩm này xuất hiện không sớm hơn thế kỷ XII [97, 73].

49

nƣớc (còn goi là những truyện linh thiêng huyền diệu ở đất Việt). Tác phẩm đƣợc viết theo

bút pháp của thần tích, thần phả trong đó có những truyện tiêu biểu nhƣ: “Bố Cái, Phu Hựu,

Chƣơng Tín, Sùng nghĩa đại vƣơng; Bảo quốc, trấn linh, địa bang, Quốc đô thàh hoàng đại

vƣơng”; “Xung thiện dũng liệt, chiêm ứng, uy tín đại vƣơng”..v.v..

Tiếp tục công việc của Lý Tế Xuyến, Trần Thế Pháp thời nhà Trần và tiếp đó là Kiều

Phú, Vũ Quỳnh ở đầu đời Lê thế kỷ XV đã ghi chép nhữung truyện dân gian quái dị trong tập

sách mang tên “Lĩnh nam chích quái” trong đó có nhiều truyện có liên quan đến lịch sử nhƣ:

“Họ Hồng Bàng”, “Đổng Thiên Vƣơng”, “Rùa vàng”, “Thần núi Tản Viên”, “Hà Ô Lôi”. Rõ

ràng hai tác phẩm “Việt Điện u linh” và “Lĩnh Nam chích quái” đã thu thập đƣợc nhiều

truyền thuyết nói về nguồn gốc dân tộc, về công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc của các Vua

Hùng. Nội dung tác phẩm đã thể hiện đƣợc ý thức cộng đồng, dân tộc đậm đà. Một đặc trƣng

dễ thấy ở hai tác phẩm này là tƣ tƣởng chủ để của truyện thƣờng gắn với lịch sử của dân tộc

mà đặc biệt là lịch sử chống ngoại xâm hơn là gắn với chủ đề đấu tranh chống thiên nhiên.

Đặc trƣng này sẽ đƣợc kế thừa với tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, và điều

đó chứng tỏ rằng những tác phẩm này đã có vai trò “đặt nền móng đầu tiên cho thể loại

truyện lịch sử ở các thời đại sau” [97,77].

Tiếp theo đó, tác phẩm kế tục khuynh hƣớng này một cách xuất sắc là “Công dƣ tiệp

ký” của Vũ Phƣơng Đề. Mặc dù, lúc bấy giờ tác phẩm chƣa có đƣợc một vị trí và vai trò lớn

trong văn xuôi tự sự nhung nó lại có tác dụng khá rõ nét đối với một số nhà văn viết tiểu

thuyết lịch sử ở đầu thế kỷ XX. Minh chứng rõ nhất là Nguyễn Tử Siêu đã dựa vào truyện

“Đinh Tiên Hoàng” trong “Công dƣ tiệp ký” để sáng tác cuốn tiểu thuyết lịch sử “Đinh Tiên

Hoàng” xuất bản năm 1929.

50

Bƣớc sang giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, thể loại truyện ký lịch sử đƣợc

(……)

Có thể kể ra một số tác phẩm tiểu biểu sau đây:

- Đại Nam ký sự (Truyện lạ nƣớc Nam).

- Dị nhân lƣợc chí (Lƣợc ghi về những nhân vật kỳ lạ)

- Bản quốc dị văn lục

- Sử Nam chí dị

Ngoài ra, còn có một số tác phẩm khác cùng loại hình với những tác phẩm kể trên

nhƣng lại là những tác phẩm khuyết danh nhƣ: Trần Lê ngoại truyện (Truyện dã sử thời Trần

- Lê), Hậu Lê tiết nghĩa lục (truyền về những nhân vật tiết nghĩa thời Hậu Lê), Lĩnh Nam

nhân vật chí (ghi chép về những nhân vật cõi Lĩnh Nam), Thiên Nam sự tích (những sự tích ở

nƣớc Nam), hay “Truyện ký trích lục” (tập truyện ký chọn lọc). Nhìn toàn cục, có thể nhận

thấy rằng hầu hết những truyện quái dị hay truyền kỳ của ta đều đậm đà tính lịch sử hơn tính

chất hƣ cấu hoang đƣờng, quái đản nhƣ trong tiểu thuyết “chí quái” của Trung Quốc. Một số

cuốn tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX nhƣ “Đinh Tiên Hoàng”, “Vua Bố Cái”,

“Hai Bà đánh giặc”, “Lê Đại Hành”.v.v... của Nguyễn Tử Siêu, “Ngọn Cờ Vàng” của Đinh

Gia Thuyết đã sử dụng khá nhiều yếu tố kinh dị, kì quái mà các tác giả đã tiếp thu từ những

truyện lịch sử hay truyện danh nhân thời đại.

2.1.3.3. Loại truyện thiền sư:

Cùng với thể loại truyện ký lịch sử, truyền kỳ. v.v... thời trung đại ở Việt Nam còn

xuất hiện thể loại truyện thiền sƣ viết về các vị thiền sƣ trong lịch sử. Về cơ bản loại truyện

này tuân theo hình thức ghi chép tiểu sử các nhà sƣ theo mô hình kết cấu: sự ra đời, cuộc đời

tu hành và trở về với cõi Phật

51

(tịch diệt). Nhƣng trong truyện, các tác giả đã sử dụng nhiều yếu tố văn chƣơng nhƣ hƣ cấu,

lạ hóa và những yếu tố thân kỳ, phép tu thuật thần kỳ, tịch diệt thần kỳ của các nhà sƣ, gần

với tính chất văn chƣơng. Loại truyện thiền sƣ thƣờng miêu tả cốt truyện theo phƣơng pháp

ghi chép biên niên sử, tuân theo diễn biến của các sự kiện và tuyến tính thời gian thƣờng là

thuận chiều theo trật tự thời gian năm tháng. Trong mỗi cuộc đời của các vị thiền sƣ từ “sinh”

đến “tử lại chứa chấp biết bao biến cố, sự kiện tạo nên tính quy phạm mang cấu trúc đặc

trƣng của loại hình tiểu truyện thiền sƣ nhƣ:

- Sinh ra bao giờ cũng có giấc mơ lạ, điềm lạ, điềm lành. v.v...

- Miêu tả cuộc đời, các tác giả thƣờng dùng các mô típ lạ hóa xu hƣớng “nhập thế” và

“xuất thế’ cùng với hình ảnh của các nhà tu hành.

- Nói về quy tịch (quy hóa thuận với lẽ tự nhiên, cái chết chính là “trở về”, là sự “tái

sinh”)

Những đặc điểm cấu trúc mang tính chất loại hình của các tiểu truyện này phần nào

có sự giao tiếp với thể tài liệt truyện, thần tích, thần phả, bia ký danh nhân, truyện ký lịch sử

và tiểu thuyết lịch sử. Tác phẩm tiêu biểu của loại truyền thiền sƣ là “Thiền uyển tập anh”.

Đây là tác phẩm viết về sự tích của 68 vị thiền sƣ nổi tiếng và các tông phái thiền học vào

cuối thời Bắc thuộc cho đến đời Đinh - Lê - Lý và một số thuộc đời Trần thế kỷ XIII. Có thể

nói đây là một tập chân dung văn học có tính chất dã sử và mang đậm màu sắc dân gian.

Trong tác phẩm này có nhiều truyện nổi tiếng đƣợc lan truyền nhƣ: “Đại sƣ Khuông Việt”,

“Thiền sƣ Đạo Huệ”, “Thiền sƣ Đạo Hạnh, “Thiền sƣ Vạn Hạnh”, “Ni sƣ Diệu Nhân”.v.v...

Đây là một tác phẩm có giá trị trên nhiều phƣơng diện: triết học, lịch sử văn hóa. Đặc biệt nó

còn ý nghĩa tỏng viẹc tàng trữ những giá trị văn chƣơng đóng góp nên sự hình thành, phát

triển của dòng văn xuôi tự sự trong đó có chủng loại tiểu thuyết lịch sử.

52

2.1.3.4. Thể loại thần phả, thần tích

Ngoài loại truyện thiền sƣ, đến nửa sau thế kỷ XVI, ở Việt Nam xuất hiện loại thần

phả, còn gọi là ngọc phả, phả ký, sự tích các vị thần lƣƣ giữ ở các đền làng đựoc viêt bằng

chữ Hán. Hiện nay ở kho sách Hán Nôm do Viện Hán Nôm quản lý còn có 535 cuốn thần

phả. Một số lớn thần phả đƣợc viết ở thời địa Hồng Đức.

Về nội dung, thần phả đƣợc coi là một cuốn sử về một nhân vật lịch sử đƣợc phong

thần, đƣợc nhân dân thở phụng từ thời đại Hùng Vƣơng trở đi: Thần phả ba anh em thần Tản

Viên, hai anh em thần Linh Sơn Đại Vƣơng, và Uy Lôi đại Vƣơng làng Thƣợng Linh (Vũ

Bản, Hà Nam Ninh), thần phả về tƣớng quân Cao Hựu ở làng Vàng (Hợp Hƣng – Vũ Bản)...

tƣớng quân Câu Mang ở làng Bịch.v..v... “Ngọc phả pháp vu thánh Đậu đại vƣơng” viết về

bà Phan Thị Đậu ngƣời làng Đắc Lục đã giúp Đinh Bộ Lĩnh trong một cơn hoạn nạn thất trạn

qua làng Đắc Lục (Liêu Bảo) trong một đêm dông v.v.. Ngoài ra, còn có mảng thần phả viết

về Triệu Việt Vƣơng ở làng Thiên Đăng, Vũ Bản, thần phả viết về tƣớng quân Đinh Lôi,

tƣớng quân Lƣơng Báo..v.v..

Về hình thức: thần phả chủ yếu dựa trên những sự thật lịch sử. Nhƣng để tôn vinh các

vị thần linh, khi miêu tả, các tác giả thần phả đã không chỉ chú ý đến tính chính xác, chân

thực của các sự kiện, hiện tƣợng lịch sử mà thƣờng là còn thần thánh hóa, hƣ cấu một số phần

phụ. Cách diễn đạt các thần phả là tuân theo logich lịch sử, theo lối biên niên, theo một

“khuôn mẫu lý lịch” của một nhân vật lịch sử nhƣng lại đƣợc thần thoại hóa, mô típ hóa theo

dạng văn học dân gian. Cũng vì lẽ đó ông Bùi Văn Tam đã xếp loại thần phả vào loại hình

văn học dân gian. Cách biên soạn theo hình thức này ít nhiều cũng có liên

53

quan tới thể loại tiểu thuyết lịch sử Việt Nam ở giai đoạn sau đó. Chúng ta dễ dàng tìm thấy

dấu vết của thần phả ngay trong một số tác phẩm nhƣ: “Vua Bà Triệu Ẩu”, “Đinh Tiên

Hoàng”, “Hai Bà đánh giặc”, “Trần Nguyễn chiến kỷ” của Nguyễn Tử Siêu, “Ngọn cờ vàng”

của Đinh Gia Thuyết, “Lịch sử Đề Thám” của Ngô Tất Tố v.v...

2.1.3.5. Thể liệt truyện trong một số công trình sử học.

Ngoài thể loại truyện nói trên, trong những công trình sử học của các nhà viết sử có

chen thể loại liệt truyện. Tác phẩm tiêu biểu là “Đại việt thông sử” của Lê Quý Đôn. Trong

tác phẩm này, ngoài những phần “Đế Kỷ đệ nhất”, “Đế Kỷ đệ nhị” hay “Nghệ văn chí” còn

có phần liệt truyện viêt về hậu phi, công thần, nghịch thần, chƣ thần v.v... Đây là phần mà tác

giả biên soạn theo thể tài truyện ký. Một thể tài đầu tiên xuất hiện ở nƣớc ta. Đặc trƣng của

thể loại này : vừa có yếu tố khách quan trung thƣc của sử học vừa xen lẫn yếu tố văn chƣơng

mà trong các cuốn sử khác nhƣ “Đại Việt sử ký toàn thƣ” của Ngô Sĩ Liên trƣớc đó chƣa có.

Trong phần “Hậu phi truyện” , Lê Quý Đôn đã sử dụng những yếu tố lạ hóa, những yếu tố

thần kỳ để nói về của các vợ vua. Trong truyện “Ngô Hòang hâu” (vợ Thái Tông, mẹ của vua

Thánh Tông), Lê Quý Đôn viết: “...bà thƣờng cầu tự một hôm nằm thấy thƣợng đế ban cho

một vị tiên đồng bèn có mang. Hôm sinh nở lại nằm mơ đến chỗ Thƣợng đế thấy Thƣợng đế

sai một tiên đồng xuống làm con trai bà, tiên đồng dùng giằng không chịu đi ngay, Thƣợng

đế giận, phải cầm cái hốt ngọc đánh vào trán chảy cả máu. Bà giật mình tỉnh dây, bèn sinh ra

vua Thánh Tông. Trân trán vua còn hằn rõ vết sẹo giống nhƣ đã thấy trong mộng” [68,125].

Trong truyện “Nguyễn Xí” về cơ bản Lê Quý Đôn trung thành với chính sử trong khi

viết về cong trạng của Nguyễn Xí igống nhƣ trong tộc phả của dòng họ Nguyễn Dình ở xã

Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An sau này đã ghi lại [101]. Nhìn chung cách viết Đại

Việt thông sử của Lê Quý Đôn

54

linh hoạt hơn, đa dạng hơn, không đi theo một công thức hay một quy phạm ngặt nghèo nhƣ

ở thể loại tiểu thuyết thiền sƣ hay thần tích thần phả.

Trong phần liệt truyện, Lê Quý Đôn đã phân thành nhiều loại nhƣ Hậu phi truyện

(Truyện về vợ của các đời vua: Thái Tông Nguyễn Hoàng Hậu, Thánh Tông Nguyễn Hoàng

Hâu, Hiến Tông Nguyễn Hoàng Hâu), Chƣ Thần truyện (viết về lê Lại, Đinh Liệt, Lê Lang,

Nguyễn Xi, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo)v.v... Trong điều kiện thƣ tịch hiện có về sử

học, có thể nói cuốn sách “Đại việt thông sử” của Lê Quý Đôn đã đặt nền móng cho thể loại

ký sự lịch sử, chắc hẳn phải có ảnh hƣởng tới sự ra đời của loại tiểu thuyết lịch sử sau này.

2.1.3.6. Thể loại tiểu thuyêt lịch sử chương hôi bằng chữ Hán:

Đây là bộ phận trực tiếp liên quan đến sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết lịch sử

Việt Nam đầu thế kỷ nên chúng tôi muốn nói kỹ hơn.

Trƣớc hết là khẳng định rằng: ở Việt nam cũng có một truyền thống về truyện và tiểu

thuyết. Tiểu thuyết lịch sử Viẹt Nam từ cuối thể kỷ XIX trở về trƣớc hầu hết đƣợc sáng tác

bằng chữ Hán. “Hoan châu ký” của Nguyễn Cảnh Thi (1696), viết về công cuộc tùng hƣng

của nhà Lê sau khi họ Mạc tiếm ngôi cùng với những đóng góp to lớn về mặt võ cong của

dòng họ Nguyễn Cảnh ở Hoan Châu. Cuốn “Nam triều công nghiệp diễn chí” của Nguyễn

Bảng Trung đã mô tả lại 133 năm Trịnh Nguyễn phân tranh kể từ lúc Nguyễn Hoàng vào trấn

giữ vùng đất Thuậ Hóa cho đến khi chúa Nguyễn mất. Trong tác phẩm này, Nguyễn Bảng

Trung đã dành một phần nói về công lao của chú Nguyễn trong việc tiếp tục mở mang kiến

tạo một phần đất nƣớc thuộc phúa Nam nƣớc ta. Cuồn “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô

Gia văn phái là một cuốn tiểu thuyết lịch sử xuất sắc phản ánh đựoc quy luật dẫn đến sự sụp

đổ của chế độ phong kiến Lê Tịnh và phong trào nông dân khởi nghĩa ở nƣớc ta thế kỷ XVIII

- phong trào Tây Sơn Nguyễn Huệ đã đánh

55

bại 3 tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn. Đặc biệt phong trào khởi nghĩa Tây Sơn với

cuộc hành quân thần tốc và đã tập tan mƣu đồ xãm lƣợc Việt Nam của nhà Thanh - bƣớc đầu

đƣa giang sơn về trong một mối. Cuốn “Hoàng Việt Long hƣng chí” của Ngô Giáp Đậu

(1904) là cuốn sách bổ sung cho cuốn “Hoàng Lê nhât thống chí”, Ngô Giáp Đậu đã bổ sung

thêm và tô đậm chân dung của chúa Nguyễn mà trong “Hoàng Lê nhất thống chí” mới chỉ nói

đến một cách sơ lƣợc và mờ nhạt: tác phẩm này tập trung dựng lại hình ảnh Nguyễn Ánh xóa

bỏ nhà Tây Sơn nhân những lục đục không tự dàn xếp đƣợc trong nội bộ triều đình Nguyễn

Quang Toản. Không những thế, cuốn tiểu thuyết này còn dựng lại cả mấy năm tại vị của

Nguyễn Ánh, nhằm tạo cho câu chuyện “phục hƣng” của nhà Nguyễn có một dáng vóc trọn

vẹn.

- Về nội dung:

Mặc dù số luơnựg tác phẩm chƣa có nhiều, nhƣng nội dung mà tiểu thuyết lịch sử

Việt Nam trƣớc thế kỷ XX đề cập tới khá đa dạng:

+ Phản ánh những bƣớc ngoặt lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

đất nƣớc.

+ Cùng với việc phản ánh những bƣớc ngoặt quan trọng trong lịch sử để hun đúc lòng

tự hào dân tộc, tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này còn tập trung ca ngợi những danh nhân lịch sử,

những vị anh hùng có công trong sự nghiệp giữ nƣớc và dựng nƣớc.

Bên cạnh việc ca ngợi những vị vua anh minh có đủ nhân - trí - dũng, tài cao đức

trọng, các tác giả không quên đề cập tới những vị hôn quân bạo chúa, nêu tấm gƣơng phản

diện nhằm nhắc nhở, cảnh tỉnh những kẻ phản nƣớc, hại dân, mƣu quyền lợi bất chính - Tiêu

biểu là vua tôi nhà Hồ hay vua Lê thời Lê Mạt

- Về mặt nghệ thuật:

56

Nhìn chung tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này thƣờng lấy việc tả thực làm chính. Yếu tố

hƣ cấu đã có nhƣng còn ít và mờ nhạt. Nó lấy “sử thực” làm gốc, nhƣng không bê nguyên xi

lịch sử mà đã có sự cân nhắc chọn lọc, gạt bỏ những sự kiện, sự việc không cần thiết. Các tác

giả đã phải lƣu tâm, tìm kiếm, tham khảo các nguồn tƣ liệu khác nhƣ truyền thuyết dân gian,

dã sử, những tƣ liệu phi chính sử để bổ sung thêm, làm cho câu truyện có sức sống nghệ thuật

và đậm đà hơi thở của cuộc sống (tăng tính tiểu thuyết cho tác phẩm) và nhƣ thế lịch sử đã

đƣợc các nhà văn biến thành tiểu thuyết thông qua sự tƣởng tƣợng hƣ cấu của chủ thể nghệ

thuật. Tiêu biểu nhất là tác phẩm “Hoàng Lê Nhất Thống chí”. Ở đậy, các tác giả họ Ngô đã

biết kết hợp một cách hợp lý giữa sử với văn làm cho tác phẩm đạt tới đỉnh cao rực rỡ có thể

sánh ngang các bộ tiểu thuyết lịch sử ƣu tú của các nƣớc trong khu vực.

Ở tác phẩm “Hoan Châu ký”, “Việt Lam xuân thu”, cũng vậy các tác giả tuy có dựa

vào chính sử, nhƣng vẫn quan tâm thích đáng hơn đến việc hƣ cấu nghệ thuật, tái hiện lịch sử

bằng nghệ thuật.

Trong tác phẩm “Nam Triều công nghiệp diễn chí” và “Hoàng Lê nhất thống chí”, đã

có phần hƣ cấu nhƣng chƣa rõ rệt. Bút pháp nghệ thuật về cơ bản chƣa thoát khỏi lối viết của

các nhà viết sử, yếu tố tiểu thuyết chƣa đậm đà. Tiểu thuyết đối với họ chỉ đƣợc coi là “chí

truyện”, bổ sung một phần nào đó cho “quốc sử”, mà đã là “quốc sử” thì đòi hỏi tính xác thực

phải cao, không thể “hƣ cấu”, “vẽ vời”, thêu dệt hay dựng chuyện. Tất nhiên, hƣ cấu nghệ

thuật trong tiểu thuyết lịch sử là cần thiết nhƣng phải là sự hƣ cấu dựa trên cơ sở của sự thực

lịch sử. Đặc trƣng của tiểu thuyết lịch sử không cho phép nhà văn bịa đặt lịch sử một cách

quá đà hoặc xuyên tạc lịch sử. Vì dụ: trong tác phẩm “Việt Lam xuân thu” kể rằng: “nghĩa

quân Lam Sơn lúc đầu đã liên kết với giặc Minh để diệt trừ nhà Hồ. Sau khi diệt xong nhà Hồ

mới quay lại đánh quân Minh để giải phóng đất nƣớc”. Viết nhƣ vậy là đã xuyên

57

tạc lịch sử, chứ không phải là sự hƣ cấu nghệ thuật theo cách viết của tiểu thuyết lịch sử.

Nhìn chung hầu hết các tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này đều đƣợc viết theo kiểu cấu kết

chƣơng hồi, theo mạch thời gian đơn tuyến và một hƣớng. Tác phẩm đƣợc tách ra thành

nhiều mảng do nhiều “hồi” và nhiều “tiết” có quan hệ vừa khép vừa mở, vừa gián đoạn vừa

liên tục hợp lại mà thành. Lối kết cấu này giống hệt lối kết cấu của tiểu thuyết lịch sử Trung

Hoa nhƣ “Tam quốc chí”, “Đông chu liệt quốc”v.v... Mở đầu mỗi hồi đều có những câu thơ

mào đàu giống nhƣ để đặt tên cho từng hồi, các câu thơ kết thúc một hồi đƣợc chuyển tiếp

bằng hai từ “Chính thị” (Thật là, quả là), các công thức cố định quen thuộc để chuyển ý,

chuyển việc, chuyển đoạn, chuyển hồi... nhƣ “Thả thuyết”, “Khƣớc thuyết”, “Tái thuyết” (Lại

nói), hay “Vị tri... nhƣ hà, thả thính hạ hồi phân giải” (Không biết...ra sao, hãy nghe (xem)

hồi sau phân giải”, hay “...bất đề” (“..không nói đến nữa” hoặc “bất tái thoại” Không cần nói

thêm nữa).

Tác phẩm “Hoan châu ký” có 16 tiết. Tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”, “Việt

Lam xuân thu”, “Hoàng Việt Long hƣng chí” lại đƣợc viết theo hồi. “Hoàng Lê nhât thống

chí” có 17 hồi, “Việt Lam xuân thu” có 60 hồi, “Hoàng Việt Long hƣng chí” 34 hồi. Riêng

tác phẩm “Nam Triều công nghiệp diễn chí” lại chia quyển mà không chia hồi nhƣng ở mỗi

quyển đuề có câu “Vị tri tứ phƣơng nhập Nam Triều báo tin nhƣợc hà, thả khán hạ hôi phân

giải”. Ở quyển 7 và quyển 8 có những câu tƣơng tự nhƣ vậy. Vì thế, ta có thể nghĩ rằng mỗi

quyển tác giả đã xem nhƣ một hồi. Có nghĩa là “Nam triều công nghiệp diễn chí” có tám

quyển và cũng là 8 hồi.

Trong tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này mỗi “hồi”, mỗi “tiết” có độ dài xấp xỉ nhau. Ở

đó, kể lại những câu chuyện tƣơng đối hoàn chỉnh. Mở đầu mỗi “hồi” hoặc “tiết” là hai câu

đối ngẫu, mỗi câu từ 7 đến 16 chữ. Chỉ riêng

58

tác phẩm “Nam triều công nghiệp diễn chí” mỗi hồi đƣợc mở đầu bằng một bài từ

hoặc một bài thơ thất ngôn đƣờng luật, trừ hồi thứ 2 và hồi thứ 7.

Ngoài kiểu trình bày nói trên, trong một số tác phẩm, tác giả thƣờng xen phần bình

luận văn học đƣợc gọi là “Bình điểm” nhƣ “độc pháp” là lời tổng luận về nội dung hoặc giải

thích nhấn mạnh một số điểm chủ yếu, hoặc nêu chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm thƣờng đặt

ngay ở đầu sách (đầu hồi 1 của “Hoàng Lê Nhất Thống chí”, trong bài tự đặt ở hồi 1 của tác

phẩm “Việt Lam xuân thu”). “Hồi bình” là những lời bình luận viết cho từng hồi một và đặt ở

sau “hồi mục”. “Giáp bình” là những lời bình luận viết xen trong từng hồi từng tiết (Xuất

hiện nhiều nhất ở “Việt Lam xuân thu”) còn “My phê” là lời bình luận viết ngay trên khoảng

giấy trắng đầu trang sách.

Tất cả những thủ pháp nghệ thuật nêu trên đã làm cho tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này

có một gƣơng mặt khác với sử. Nó góp phần làm cho truyện từ “Khế mạnh, giáp cổ, đầu

tranh, phục tuyến đến khai, thừa, chuyển, hợp đều trở nên xảo diệu, tinh kỳ và mang tính

nghệ thuật cao”.

...Tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này đã có những thành công nhất định trong nghệ thuật

xây dựng hình tƣợng nhân vật, miêu tả các sự kiện lịch sử lớn. Các nhà văn đã khắc họa

thành công hình tƣợng những ngƣời anh hùng dân tộc nhƣ: Quang Trung trong “Hoàng Lê

nhất thống chí”; Lê Lợi trong tác phẩm “Việt Lam xuân thu”; Ngoài ra các tác giả còn xây

dựng ít nhiều thành công hình tƣợng võ tƣớng, văn nhân có công trong sự nghiệp cứu nƣớc

nhƣ Nguyễn Trãi, Lê Thiện trong “Việt Lam xuân thu”; Nguyễn Cảnh Mô, Nguyễn Quyện

trong “Hoan Châu ký”; Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến trong tác phẩm

“Nam Triều công nghiệp diễn chí”; Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm trong “Hoàng Lê Nhất

Thống chí”; Võ Tánh, Lê Tông Chu, Lê Văn Duyệt, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân trong

“Hoàng Việt long hƣng chí”. Không những thế các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử thời kỳ

59

này còn xây dựng đƣợc những hình tƣợng nhân vật phản diện nổi bật nhƣ: Hồ Quý Ly(1)

Trƣơng Phụ trong “Việt Lam xuân thu”, Tôn Sỹ Nghị, Nguyễn Hữu Chỉnh trong tác phẩm

“Hoàng Lê Nhất Thống chí” .v.v...

Ngoài việc xây dựng những hình tƣợng nhân vật, các tác giả còn miêu tả nhiều trận

đánh lịch sử, khắc họa đậm nét trong tâm trí ngƣời đọc nhƣ trận vua Trần quyết chiến với

quân giặc Mộc Thạnh ở sông Sinh Quyết trong tác phẩm “Việt Lam xuân thu” (hồi 24) hay

trận Lê Thiện đánh tan quân Vƣơng Thông ở Tích Giang trong tác phẩm (“Việt Lam xuân

thu” hồi 52), hay trận chúa Trịnh đánh nhau với chúa Nguyễn tại lũy Trấn Ninh năm 1672

(“Nam triều công nghiệp diễn chí”) hay cuộc tấn công của Quang Trung đại phá quân Thanh,

giải phóng thành Thăng Long 1789 ở đồn Ngọc Hồi (“Hoàng Lê Nhất Thống chí”, hồi thứ

14).

Nhìn chung tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XX trở về trƣớc đƣợc viết bằng

chữ Hán. Đề tài chủ yếu mà tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này hƣớng tới là đề tài chống xâm

lƣợc, ca ngợi những vị anh hùng dân tộc hoặc phản ánh những bƣớc ngoặt trong lịch sử giữ

nƣớc và dựng nƣớc của cha ông ta. Nó kế thừa những đề tài mang tính truyền thống của văn

học dân gian và truyện Nôm qua từng thời kỳ lịch sử. Và đến lƣợt mình nhiều tác phẩm tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX cũng đã kế thừa những thành tựu của tiểu thuyết

lịch sử bằng chữ Hán từ thế kỷ XX trở về trƣớc. Nguyễn Tử Siêu viết “Việt Thanh chiến sử”,

Phan Trần Chúc viết tác phẩm “Vua Quang Trung”, Nguyễn Triệu Luật viết “Bà Chúa Chè”,

“Chúa Trịnh Khải”, Nguyễn Huy Tƣởng viết “Đêm hội Long trì”, Khái Hƣng viết “Tiêu Sơn

tráng sĩ” v.v... chắc chắn, ít nhiều đều có dựa vào “Hoàng Lê Nhất Thống chí”

(1) Về nhân vật Hồ Quý Ly gần đây, giới sử học đã có cách nhìn khác, không nên án một chiều.

60

Tóm lại, từ xa xƣa, ở Việt Nam đã có một truyền thống đáng chú ý về truyện lịch sử,

truyện danh nhân, những thần tích, thần phả và tiểu thuyết lịch sử chƣơng hồi viết bằng chữ

Hán. Chính những di sản quý báu này là mảnh đất màu mỡ, là những phƣơng diện góp phần

nuôi dƣỡng, kích thích sự ra đời và phát triển của dòng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu

thế kỷ XX. Có thể ngày nay, chúng ta chƣa đủ sức chứng minh rằng : trong khi viết tiểu

thuyết lịch sử, các tác giả nhƣ Nguyễn Tử Siêu, Tân Dân Tử, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn

Huy Tƣởng, Lan Khai, Ngô Tất Tố, Phạm Minh Kiên .v.v... đã trực tiếp khai thác nhƣũng

thành quả của văn học quá khứ đó một cách cụ thể ra sao. Nhƣng điều vẫn có thể nói đƣợc là

sự ra đời của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ cũng là nhờ có sự thừa hƣởng những

thành tựu của văn học quá khứ từ các phƣơng diện : cảm hứng lịch sử, nội dung lịch sử, thi

pháp văn xuôi tự sự trên cả hai loại hình: truyền miệng và thành văn

2.1.4. Từ ảnh hưởng của văn học nước ngoài.

Vào những năm cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ mới bắt đầu hình

thành và phát triển ở Việt Nam. Vì thế truyện và tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ của ta

chƣa có nhiều. Cuối thế kỷ XX, ngƣời ta mới thấy xuất hiện lác đác ở Nam Bộ một số tác

phẩm văn xuôi bằng tiếng Việt nhƣ: bài ký “Chuyến đi thăm Bắc Kỳ năm Ất Dậu” (1876),

“Kiếp phong trần” (1882) của Trƣơng Vĩnh Ký, truyện “Thầy Lazarô phiền” của Nguyễn

Trọng Quản sáng tác 1887, “Chuyện giải buồn” (1886) của Huỳnh Tịnh Của. Bƣớc sang đầu

thế kỷ XX, mới thấy xuất hiện thêm một số truyện và tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ trong đó

có tác phẩm “Hoàng Tố Anh hàm oan”, “Kim Lâm Liên” (1910 ) của Trần Thiện Trung,

“Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân” (1910) của Trƣơng Duy Toản. Muộn hơn một ít có

tác phẩm “Nghĩa

61

hiệp kỳ duyên” (1920) của Nguyễn Chánh Sắt v.v... Nhìn chung, truyện và tiểu thuyết bằng

văn xuôi tiếng Việt của Việt Nam thời kỳ này đang ở vào thời kỳ chập chững với những bƣớc

đi ban đầu có tính chất thể nghiệm về phƣơng diện loại hình. Cho nên, chúng chƣa đủ sức để

lôi cuốn và thu hút độc giả Việt Nam. Trong khi đó, việc giao lƣu, tiếp xúc với văn hóa và

văn học nƣớc ngoài lại càng ngày càng phát triển nhanh chóng, góp phần đắc lực trong việc

đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa tiểu thuyết nói riêng và toàn bộ nền văn học Việt Nam nói

chung. Xét về nguyên nhân ra đời của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, ngoài

những tiêu đề nhƣ trên đã nói không thể không nói đến nguồn ảnh hƣởng từ văn học nƣớc

ngoài.

2.1.4.1. Ảnh hưởng của truyện và tiểu thuyết Trung Hoa

2.1.4.1.1. Tình hình dịch thuật truyện và tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa

Trong quá trình mở rộng quan hệ giao lƣu văn hóa với nƣớc ngoài thì phong trào dịch

thuật truyện và tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa chiếm một vị trí khá quan trọng. Một phần vì

“mảnh đất sáng tác của ta hãy còn là một dải đất trống. Truyện Tàu tung hoành đƣợc cũng do

vào thời đó những phƣơng tiện giải trí của ngƣời dân còn hiếm hoi” [81, 244-249]. Vì lẽ đó

mà truyện Tàu đã nhanh chóng đi sâu vào đời sống văn hóa và trở thành món ăn tinh thần của

ngƣời Việt Nam. Nó thực sự đi vào những sinh hoạt văn hóa, xã hội và để lại những tác động

không phải là nhỏ. Ngay về sau mà Vƣơng Hồng Sến vẫn còn thừa nhận rằng: “Truyện Tàu

dạy tôi nhiều điều xử thế nên tôi gọi nó là một nghệ thuật chứ không phải chơi... Ngoài ra,

truyện Tàu có đầy gƣơng tốt, truyện Tàu là một vùng rừng thật lớn, một biển sâu và rộng,

khai thác không bao giờ hết và cạn cùng”. [164, 97].

Thật vậy, lúc bấy giờ ngƣời dân Việt Nam rất thích đọc truyện Tàu và họ đã tìm thấy

trong một số nhân vật tiêu biểu của truyện những đức tính phù

62

hợp với cốt cách, tâm hồn của ngƣời Việt Nam nhƣ trung, hiếu, tiết, nghĩa, dũng cảm, kiên

cƣờng ..v.v... cũng vì lẽ đó mà thời kỳ này Nam Bộ đã có một phong trào dịch thuật truyện

Tàu khá rầm rộ. Tính từ năm 1904 đến 1910 bƣớc đầu thấy đã có 46 truyện Tàu đƣợc dịch và

lƣu hành ở Nam Bộ. Và trong khoảng từ đầu thế kỷ XX đến 1932, ở Nam Bộ đã có tới 30 tác

giả tham gia dịch chuyện chữ Tàu sang chữ Quốc ngữ: Một số dịch giả tiêu biểu là: Huỳnh

Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Phùng Hoàng Sang, Nguyễn An Khƣơng, Nguyễn Liên Phong,

Lê Sum, Trần Thị Sĩ, Nguyễn Bá Thời, Nguyễn Công Kiều, Trần Phong Sắc, Phan Thị

Phƣợng v.v... và tính trong thời gian này, số lƣợng truyện Tàu đƣợc dịch ra chữ Quốc ngữ lên

tời hàng trăm cuốn... Trong số đó có những cuốn truyện và tiểu thuyết nổi tiếng nhƣ: “Tam

Quốc chí tục dịch”, “Đông Chu liệt quốc”, “Thủy hử”, “Tây du ký”, “Kim cổ kỳ quan”,

“Nhạc phi”, “Đông Hớn”, “Tây Hớn”, “Chinh Đông chinh Tây”, “Hán Sở tranh hùng”, “La

thông tảo bắc”, “Tiết Đinh San chinh Tây”.v.v...

Ở miền Bắc, phong trào dịch thuật truyện và tiểu thuyết Trung Hoa tuy có chậm hơn ở

Nam Bộ, nhƣng rồi cũng diễn ra sôi nổi. Do thị hiếu của công chúng độc giả từng miền có

khác nhau nên khuynh hƣớng lựa chọn những tác phẩm của ngƣời Hoa để dịch ở miền Bắc có

màu sắc khác với ở Nam bộ. Trên tờ Đông Dƣơng tạp chí và Nam Phong ngoài những tác

phẩm tiêu biểu mà miền Nam đã dịch nhƣ: Tây Sƣơng Ký, Thủy Hử, Đông Chu liệt quốc,

Tam quốc chí diễn nghĩa v.v..., các dịch giả miền Bắc còn tuyển chọn dịch thêm những

truyện ngắn hoặc những đoản thiên tiểu thuyết mà chủ đề mang tính chất đạo lý hay ca ngợi

những tấm gƣơng thực hiện tốt lý tƣởng của nho giáo. TÍnh riêng trong khoảng thời gian từ

1917 đến năm 1930, trên Nam Phong đã có tới 25 truyện ngắn Trung Hoa đƣợc dịch ra chữ

Quốc ngữ. Ngƣời dịch nhiều nhât là Tùng Văn Nguyễn Đôn Phục với những tác phẩm tiêu

biểu: “Vợ thầy Cử Lƣ” (NP - số 25), “Câu chuyện tình trong giấc mộng” (NP - số 183),

63

“Câu chuyện bán cam” (Np - số 61), “Quý Phi diễm tử” (NP – 155-158) “Tây Thi diễm tử”

(NP - 114 - 117), “Bể trầm chìm nổi” (NP - 187), “Gƣơng đẹp đàn bà” (NP - 165 - 177)...

Ngoải ra ông còn dịch tác phẩm “Đàn bà Đông phƣơng” (NP - 101 - 112) gồm 18 tiểu truyện.

Ngoài Nguyễn Đôn Phục còn có những dịch giả khác nhƣ Trịnh Xuân Nham, Ngạc Đình,

Đông Châu, Nguyễn Hữu Tiên, và những dịch phẩm khác gây đƣợc ấn tƣợng mạnh đối với

độc giả Việt Nam lúc bấy giờ nhƣ: “Truyện chàng Đại Nam” (NP- số 9), “Lão hàng rƣợu”

(NP - số 26), “Bỏ nhà chuộc bạn” (Np - số 44) v.v...

Truyện và tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa không chỉ hấp dẫn đối với độc giả Việt Nam

bằng nội dung đạo lý, ca ngợi khí tiết hay những tấm gƣơng liệt nữ hoặc ca ngợi những

chuyện tình yêu trong khuôn khổ của lễ giáo phong kiến mà nó còn hấp dẫn bởi tính nghệ

thuật đặc sắc. Đại bộ phận truyện và tiểu thuyết của Trung Hoa lúc bấy giờ đƣợc dịch sang

Việt Nam đều viết theo kiểu chƣơng hồi. Đây là một thể loại thuộc loại hình văn hóa Trung

cổ, xuất hiện và phát triển mạnh nhất trong khoảng thời gian từ thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ

XIX. Cũng nhƣ các loại hình văn học Trung cổ, truyện và tiểu thuyết Trung Hoa mang đặc

điểm văn, sử, triết bất phân. Về phƣơng diện nghệ thuật: Những sự kiện chủ yếu và nhân vật

chính của tác phẩm thƣờng phát triển theo trình tự thời gian đơn tuyến và một hƣớng. Thời

gian là cái trục chính để dẫn dắt những biến cố, những sự việc và trình bày số phận của nhân

vật. Những sự kiện chủ yếu thƣờng đƣợc trình bày theo thời gian lịch sử (Có khi là sử biên

niên). Kết cấu bề ngoài đƣợc chia thành từng hồi, từng chƣơng, mở đầu mỗi hồi hay mỗi

chƣơng đều có câu thơ mào đầu và kết thúc bằng câu: “vị ti.... nhƣ hà, thả thính hạ hồi phân

giải” chuyển tiếp ở mỗi đoạn thƣờng có câu: “Lại nói về...” Cách kết cấu này nhằm mục đích

gây hứng thú cho ngƣời đọc, lôi cuốn ngƣời đọc vào những chƣơng và những hồi tiếp theo.

Ngoài ra, “trong khi sáng tạo hành động nhân vật, các tác giả của truyện và tiểu thuyết cổ

điển

64

Trung Hoa ít khi đứng ở vị trí thứ 3 để giới thiệu nhân vật mà từ hành động của bản thân

nhân vật, tác giả khắc họa tính cách nhân vật” [58,4].

Trong quá trình xây dựng nhân vật các tác giả rất chú trọng hành động trong tính cách

của nhân vật. Tính cách và bộ mặt tinh thần của nhân vật đều do hành động của nhân vật tự

nói lên... Tác giả ít khi xen vào những lời bình, lời bàn để giải thích thêm cho nhân vật, các

tác giả thƣờng cố gắng tạo nên những mối xung đột sâu sắc giữa lực lƣợng mới và cũ, giữa

lực lƣợng tiến bộ và lực lƣợng phản động làm địa bàn cho nhân vật hoạt động. Trong nhiều

tác phẩm, tác giả đã sử dụng những yếu tố thần linh, kỳ quái mà một số nhà nghiên cứu văn

học bây giờ gọi là yếu tố “kỳ” và “ảo”, nhằm tăng thêm sức hấp dẫn của tác phẩm.

Nhìn chung, tình hình dịch thuật truyện và tiểu thuyết Trung Hoa ngày càng phát triển

đều khắp trên cả hai miền Nam, Bắc. Công chúng độc giả ngày càng thích đọc truyện Tàu.

Trong đó, loại truyện và tiểu thuyết anh hùng hảo hán, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết nghĩa

hiệp, kiếm hiệp, trinh thám đƣợc độc giả ƣa thích và chú ý nhiều hơn là loại truyện tình lãng

mạn hay truyện tài tử giai nhân và tình hình dịch thuật đó quả nhiên đã có ảnh hƣởng khá lớn

đến quá trình hình thành phát triển của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ trong đó có

chủng loại tiểu thuyết lịch sử, cũng nhƣ trƣớc đây khi chƣa có việc dịch thuật thì bằng

phƣơng tiện văn tự chữ Hán, nó đã ảnh hƣởng chi phôi, góp phần tích cực cho loại tiểu thuýet

chữ Hán Việt Nam ra đời và ít nhiều phát triển ở thời kỳ trung đại.

2.1.4.1.2. Ảnh hưởng của truyện Tàu đối với sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Cũng cần nói thêm ở đầu thế kỷ XX, truyện Tàu xâm nhập sâu rộng vào Việt Nam

không chỉ bằng dịch thuật mà còn bằng con đƣờng trực tiếp đón nhận nguyên bản. Tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam ở giai đoạn sáng tác đầu tiên

65

này hầu hết chịu ảnh hƣởng của truyện Tàu, đặc biệt là một số tác phẩm tiểu thuyết lịch sử

nhƣ “Tam quốc chí diễn nghĩa”, “Thủy Hử”, “Đông Hớn”, “Tây Hớn”, “Đông Chu liệt

quốc”.v.v... chứng cớ là : Trong nhiều tác phẩm, các tác giả thƣờng dẫn theo những điển tích,

điển cố trong truyện Tàu và cũng đặc biệt là tác phẩm “Tam quốc chí diễn nghĩa” của La

Quán Trung. Ngƣời đọc dễ dàng nhận thấy ảnh hƣởng của truyện và tiểu thuyết lịch sử Trung

Hoa ngay trên bề mặt kết cấu chƣơng hồi của một số tác phẩm nhƣ “Trùng Quang tâm sử”

của Phan Bội Châu, “Tiếng sấm đêm đông”, “Vua bố cái”, “Lê Đại Hành”, “Đinh Tiên

Hoàng”, “Vua bà Triệu Ẩu”, “Hai bà đánh giặc”, “Trần Nguyên chiến kỷ” của Nguyễn Tử

Siêu, “Ngọn cờ vàng” của Đinh Gia Thuyết, “Việt Nam Lý Thƣờng Kiệt”, “Việt Nam anh

kiệt” của Phạm Minh Kiên, Những tác phẩm nhƣ : “Gia Long tẩu quốc”, “Giọt máu chung

tình” của Tân Dân Tử, “Ái tình và sự nghiệp”, “Cái hột mận” của Lan Khai, “Vua Quang

Trung”, “Chúa Trịnh Khải” của Phan Trần Chúc, “Bà chúa chè” của Nguyễn Triệu Luật.v.v...

tuy không chia thành chƣơng, hồi nhƣng không hẳn đã không còn dấu vết chƣơng hồi trong

tiểu thuyết nói chung tiểu thuyết lịch sử nói riêng của Trung Hoa xét từ góc độ nhìn thể loại.

Hầu hết những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX cũng đều sử

dụng lối kết cấu theo mạch thời gian đơn tuyến và một hƣớng. Đây là một lối kết cấu vốn đã

có từ truyện kể dân gian, truyện Nôm và một số tacá phẩm tiểu thuyết lịch sử của Việt Nam

viết bằng chữ Hán thời trung đại. Nhƣng nguồn gốc sâu xa thì nó đã chịu sự chi phối khá

nhiều của truyện và tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa.

Không chỉ thế, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ còn chịu ảnh hƣởng của truyện

và tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa ở cách miêu tả ngoại hình nhân vật để qua đó khắc họa tính

cách nhân vật. Trong việc miêu tả ngoại hình

66

nhân vật, các tác giả của truyện và tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa thƣờng hay sử dụng yếu tố

kỳ lạ “tức là cái lạ, cái khác biệt, phi thƣờng, xuất chúng” [10,42]. Chúng ta có thể lấy ý kiến

sau đây của Lỗ Tấn nói về “Tam quốc chí” để giải thích cho hiện tƣợng này : “Tam quốc bảy

thực ba hƣ. Song cái hay của nó lại chính là ba phần hƣ ấy. Đó chính là tài năng tổ chức nghệ

thuật của các tác giả, là cách trình bày xây dựng nhân vật theo quan niệm mỹ học “nắm bắt

cái thần”. Có lẽ vì thế mà La Quán Trung đã miêu tả Lƣu Bị - một ông Vua nhân đức : “mình

cao bẩy thƣớc rƣỡi, tai dài chấm vai, tay dài quá gối, mắt trông thấy đƣợc tai, mặt đẹp nhƣ

ngọc, môi đỏ nhƣ son”. Còn Quan Vũ thì “mình cao chín thƣớc, râu dài hai thƣớc, mặt nhƣ

hai quả táo chắp, môi đỏ nhƣ son, mắt phƣợng mày ngài, oai phong lẫm liệt”, và Trƣơng Phi

thì “mình cao tám thƣớc, đầu báo mặt tròn, râu hùm hàm én, tiếng vang nhƣ sấm, dáng nhƣ

ngựa phi”v..v... Tiếp thu nghệ thuật miêu tả ngoại hình đó của La Quán Trung, Nguyễn Tử

Siêu trong tác phẩm “Tiếng xấm đêm đông” đã miêu tả Ngô Quyền - vị anh hùng dân tộc:

“Mình cao chín thƣớc, mặt to, tai nhớn, mũi cao, mồm rộng, hai mày to đen, hai mắt tròn và

sáng quắc, oai phong lẫm liệt, nhƣ một vị thiên thần hạ giáng [166 - 47]. Trong tác phẩm

“Vua Bố Cái” đã miêu tả Đỗ Luân - một vị tƣớng của ta không khác gì Quan Vũ: “mặt trắng

nhƣ mũi ngọc, môi đỏ nhƣ son Tàu, lông mày thƣa mà dài, mắt trong mà đen, đầu đội khăn

lƣợt thâm, mình mặc áo giáp tím, tay cầm trƣờng thƣơng, vai đeo kinh nổ” [167, 55]. Không

chỉ học tập nghệ thuật miêu tả nhân vật, trong nhiều tác phẩm của mình, Nguyễn Tử Siêu và

cả Đinh Gia Thuyết, Phạm Minh Kiên, Nguyễn Huy Tƣởng còn học cách miêu tả các trận

đánh nhau giữa quân ta với kẻ thù xâm lƣợc giống nhƣ những trận giao chiến đƣợc miêu tả

trong “Tam Quốc chí diễn nghĩa” hay “Thủy Hử”...

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX còn chịu ảnh hƣởng khá rõ nét về

nghệ thuật trần thuật. Kiểu hình tƣợng ngƣời trần thuật đứng ở ngôi thứ 3 để dẫn dắt câu

chuyện, hay giới thiệu nhân vật, kể lại sự kiện xảy

67

ra một cách khách quan và đằng sau hình tƣợng ngƣời trần thuật; ngƣời kể chuyện chính là

tác giả. Ngƣời kể chuyện thƣờng xuất hiện ở đầu hồi với những câu nói dƣờng nhƣ đã trở

thành công thức nhƣ : “Hãy nói về”, “lại nói về”v.v... Sau đó ngƣời kể lại hòa vào nhân vật

để cho nhân vật đối thoại, trong khi các sự kiện, sự việc cứ tiếp tục tiếp diễn và phát triển. Có

khi ngƣời kể chuyện xen vào những lời bình phẩm bằng những câu thơ của ngƣời khác nhƣ:

đời sau có thơ rằng: hay: “Vậy có thơ rằng: ... Kiểu trần thuật này thƣờng thấy trong những

cuốn tiểu thuyết lịch sử và nhiều cuốn tiểu thuyết cổ điển của Trung Hoa. Chúng ta cũng dễ

dàng tìm thấy dấu vết của lối trần thuật đó trong những cuốn tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn

Tử Siêu và một số nhà văn khác. Chẳng hạn Nguyễn Tử Siêu đã sử dụng cụm từ “Lại nói về”

trong tác phẩm “Hai Bà đánh giặc” 25 lần, “Vua Bố Cái” 17 lần, “Lê Đại Hành” 15 lần,

“Trần Nguyễn chiến kỷ” 9 lần và “Việt Thanh chiến sử” 1 lần.

Một nét ảnh hƣởng khác nữa là nhiều tiểu thuýet lịch sử Việt Nam ở giai đoạn này, đã

sử dụng nhiều điển tích, điển cố lấy từ truyện và tiểu thuyết lịch sử của Trung Quốc.

Tóm lại: do sự giao lƣu văn hóa, do tình hình lịch sử cụ thể và thực trạng văn tự (lúc

bấy giờ tuy chữ Hán đã ở vào thời mạt vận nhƣng không phải là không còn), ảnh hƣởng của

truyện Tàu nhất là tiểu thuyết lịch sử đối với tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

là một sự thật khách quan. Trong đó ở giai đoạn sáng tác đầu (1900 - 1930), thì ảnh hƣởng rất

rõ nét. Về sau thì nói chung sự ảnh hƣởng đó có xu hƣớng giảm dần và thay vào đó là ảnh

hƣởng của tiểu thuyết hiện đại phƣơng Tây hiện đang xâm nhập vào Việt Nam bằng nhiều

con đƣờng khác nhau. Dĩ nhiên nói riêng đối với tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thì ảnh hƣởng

của tiểu thuyết phƣơng Tây không thể địch nổi ảnh hƣởng của tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa.

2.1.4.2. Ảnh hưởng của truyện và tiểu thuyết phương Tây

68

Phong trào dịch thuật truyện và tiểu thuyết phƣơng Tây đặc biệt là tiểu thuyết của

Pháp cũng diễn ra sôi nổi trên cả hai miền Nam, Bắc, chủ yếu bắt đầu từ trong đại chiến thế

giới lần thứ nhất.

Ở Nam Bộ - phong trào dịch thuật truyện và tiểu thuyết phƣơng Tây ở Nam Bộ cũng

sớm hơn ở miền Bắc với những bản dịch của Trƣơng Minh Ký, Trần Chánh Chiếu, Đỗ

Quang Dẫu, Nguyễn Văn Của... Những tác phẩm chính của văn học phƣơng Tây lúc bấy giờ

đƣợc dịch và giới thiệu ở Nam Bộ là: “Le conte de Monte Cristo” của A.Dumas (Tiền căn

báo hậu) 1907 do Trần Chánh Chiếu dịch, “Contes des mille et une nuits” (Truyện nghìn lẻ

một đêm) do Đinh Thái Sơn dịch, “Les trois mousquetaires” (Ba chàng ngự lâm pháo thủ) do

Trần Chánh Chiếu dịch và 50 truyện ngụ ngôn của La Fontaire do Đỗ Quang Đậu dịch v.v...

Ở miền Bắc: Những tác phẩm dịch của phƣơng Tây lúc bấy giờ đƣợc đăng tải chủ yếu

trên hai tờ báo “Đông Dƣơng tạp chí” và tờ “Nam Phong tạp chí”. Trên tờ Đông Dƣơng tạp

chí, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh còn dịch và giới thiệu một số tiểu thuyết phƣơng Tây

nhƣ : “Mai nƣơng lệ cốt” của Able Prevost, truyện “Ba chàng ngự lâm pháo thủ” (Les trois

mousquetaires) của A. Dumas, “Những kẻ khốn nạn” (Les misésrables) của V. Hugô v.v...

Riêng trên tờ “Nam Phong tạp chí”, đã có 24 truyện ngắn phƣơng Tây đƣợc chọn dịch và giới

thiệu. Trong số đó đại đa số là truyện của Pháp. Những truyện tiêu biểu có thể kể tên nhƣ

“Truyện cái gậy song” (NP số 7 - 9 -1918) của Alfred de Vigny, “Ngƣời hủi ở thành ốc” (NP

số 37-1920) của Xavier de Maistre, “Truyện ngƣời lính bằng tuyết” (NP số 2 -1917) của

Georges d’ Espables, “Tự nguyện hóa chồng” (NP số 5 – 1917) của Paul D’ivoi, “Truyện một

thầy Bà La môn” (NP số 46, 1921) của Voltaire, “Truyện anh chàng đi khắp thiên hạ để học

run” Truyện dân gian Đức (NP

69

số 46 – 1921), “Truyện anh chàng Man Nông” của Voltaire (NP số 44 -1921) v.v...

Có thể nói : ở miền Bắc Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh là hai ngƣời dịch nhiều

truyện và tiểu thuyết phƣơng Tây hơn cả. Trên Nam Phong tạp chí riêng Phạm Quỳnh dịch

2/3 trong số 24 truyện. Văn phong dịch thuật của Phạm Quỳnh khá lƣu loát, càng về sau càng

thanh thoát hấp dẫn ngƣời đọc. Những tác phẩm dịch của ông đã góp phần tạo nên những

khuôn mẫu về kết cấu, sự mẫu mực về hành văn cho các nhà văn lúc bấy giờ học tập để sáng

tác những ánh văn xuôi tự sự bằng tiếng Việt tỏng đó có tiểu thuyết lịch sử.

Tiểu thuyết hiện đại phƣơng Tây ảnh hƣởng tới văn học nói chung và tiểu thuýet nói

riêng ở nƣớc ta không chỉ bằng con đƣờng dịch thuật mà còn bằng con đƣờng giáo dục trong

nhà trƣờng Pháp - Việt. Lúc ấy chƣơng trình về văn học phƣơng Tây trong đó có tiểu thuyết

phƣơng Tây đã ngày càng có vị trí trong nhà trƣờng Việt Nam nhất là ở bậc trung học, đại

học. Bấy giờ ngƣời Việt Nam biết nhiều, nhiều nhà văn phƣơng tây nổi tiếng nhƣ: A. Dumas

- V. Hugo, A.Thairiet, H. Malot, H.Balzac, W.Scott, A.Prévost v.v...

Tóm lại: ảnh hƣởng của văn học phƣơng Tây đối với sự hình thành và phát triển của

tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX chủ yếu là ở vào giai đoạn sáng tác từ 1930 trở đi

và xét riêng trong phạm vi tiểu thuyết lịch sử thì ảnh hƣởng này không thể địch nổi ảnh

hƣởng của tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc nhƣ trên đã nói. Ảnh hƣởng của nó ở đây chủ yếu

cũng chỉ trên phƣơng diện hình thức nghệ thuật trong đó có nghệ thuật kết cấu truyện, thi

pháp viết truyện. Đúng là nhƣ thế, do ảnh hƣởng của tiểu thuyết phƣơng Tây, càng ngày các

nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam càng xa dần với lối kết cấu chƣơng hồi, kết thúc

có hậu để đi vào lối kết cấu theo diễn biến tâm lý nhân vật, lối kết thúc không có hậu và

thƣờng bỏ ngỏ. Trong quá trình trần thuật

70

các nhà văn cũng dần dần cố gắng dấu mình đi, ít xuất đầu lộ diện với những lời bình, lời bàn

xen vào những đoạn văn miêu tả, tuy bóng dáng của tác giả vẫn thấp thoáng xuất hiện từ đầu

đến cuối tác phẩm. Khoảng cách giữa tác giả và nhân vật do đó ngày càng giảm dần. Câu văn

ngày càng hiện đại, trong sáng hơn, ít có những câu văn biền ngẫu. Những từ “rằng”, “mà”,

“là”, “thì” giảm đi rõ rệt.

Về phƣơng diện nội dung, ảnh hƣởng mang tính chất gián tiếp hơn là trực tiếp, không

nhƣ đối với tiểu thuyết Trung Hoa mặc dù sự ảnh hƣởng gián tiếp là rất quan trọng. Chúng

tôi muốn nói đến lối viết tiểu thuyết lịch sử gắn với khuynh hƣớng hiện thực chủ nghĩa, với

khuynh hƣớng coi trọng việc miêu tả tâm lý nhân vật trong một số tiểu thuyết lịch sử giai

đoạn sau 1935 nhƣ : “Đêm hội Long Trì”, “An Tƣ”, “Bà Chúa Chè”, “Ai lên phố Cát”, “Cái

hột mận”, “Vua Quang Trung” v.v... hẳn là ít nhiều có chịu sự ảnh hƣởng của tiểu thuyết

phƣơng Tây - nhƣng xin đƣợc nhắc lại đây là ảnh hƣởng gián tiếp trong việc tạo dựng nội

dung.

2.2. Những chặng đường phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ

đầu thế kỷ XX đến 1945.

Bƣớc sang đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam bắt đầu phát triển mạnh mẽ

hơn với tƣ cách là một thể loại mới của văn học. Quá trình vận động và phát triển của tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam từ 1900 đến 1945, có thể chia làm 2 chặng : từ đầu thế kỷ đến 1930

và từ 1930 đến 1945.

Việc phân chia thành hai chặng, với mốc thời gian nhƣ trên chỉ có ý nghĩa tƣơng đối.

Bởi vì, tiểu thuyết vốn là một thể loại có đặc trƣng nhƣ Bakhtin đã nói là luôn luôn không ổn

định và biến đổi không ngừng. Sự biến đổi của thể loại đó đã diễn ra theo tiến trình lịch sử và

tuân theo quy luật riêng của nó. Vì thế, những đặc trƣng thể loại tồn tại trong những tác phẩm

ở chặng

71

đầu vẫn tiếp tục xuất hiện, vẫn đƣợc lặp lại trong những tác phẩm tiêu biểu ở chặng sau:

2.2.1. Chặng thứ nhất: từ đầu thế kỷ XX đến 1930.

Đây là giai đoạn mà tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trừ “Trùng Quang tâm sử” của Phan

Bội Châu là viết bằng chữ Hán còn nữa đều là bằng văn xuôi tiếng Việt đang độ hình thành.

Vì thế, số lƣợng tác giả tham gia viết tiểu thuyết lịch sử còn ít. Số lƣợng tác phẩm cũng chƣa

nhiều, thế nhƣng, ở thời kỳ này, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam lại có những tác phẩm có giá trị

nhƣ “Trùng Quang tâm sử” của Phan Bội Châu và gây đƣợc tiếng vang nhƣ “Tiếng sấm đêm

đông” của Nguyễn Tử Siêu. “Tiếng sấm đêm đông” là tác phẩm có nội dung yêu nƣớc, tích

cực. Thấy không có lợi cho chúng, thực dân Pháp đã ra lệnh cấm lƣu hành, thu hồi các tác

phẩm và quản thúc, theo dõi tác giả rất chặt chẽ. Mặc dầu vậy, tiếp ngay đó, Nguyễn Tử Siêu

vẫn cho ra đời liên tiếp một số tác phẩm nhƣ “Đinh Tiên Hoàng” (1929); “Vua Bố Cái”

(1929); “Lê Đại Hành” (1929). Năm 1930, Ngô Văn Triện viết tác phẩm “Hùng Vƣơng diễn

nghĩa” nội dung lại xuyên tạc lịch sử. Ở miền Nam, thời kỳ này cũng xuất hiện một số cây

bút tiểu thuyết lịch sử nhƣ Tân Dân Tử viết “Giọt máu chung tình” (1926); “Gia Long tẩu

quốc” (1930), “Gia Long phục quốc” (1930); “Hoàng tử Cảnh nhƣ Tây” (1930); Nguyễn

Chánh Sắt viết “Việt Nam Lê Thái Tổ” (1929), “Việt nam Lý trung hƣng” (1929), Phạm

Minh Kiên viết “Việt Nam Lý Thƣờng Kiệt”, “tiền Lê vận mạt” v.v…

- Về mặt nội dung : Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này tuy chƣa nhiều nhƣng đã có nội

dung phong phú và tập trung vào chủ đề chính sau đây:

+ Phản ánh những sự kiện quan trọng trong lịch sử giữ nước và cứu nước của dân tộc

72

Đây là chủ đề nổi bật của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này. Xoay quanh chủ đề này,

có cuốn tiểu thuyết lịch sử “Trùng Quang tâm sử” của Phan Bội Châu (1). Tác phẩm kể lại

cuộc nổi dậy đầy khí thế hào hùng của nhân dân ta do Trần Quý Khoáng lãnh đạo, chống lại

ách đô hộ của nhà Minh vào đầu thế kỷ XV tại trại Trùng Quang, Nghệ An. Trong tác phẩm

này, Phan Bội Châu đã ca ngợi những vị anh hùng bất khuất trong sự nghiệp đánh giặc cứu

nƣớc. Đồng thời đã nêu lên nhiều quan niêm mới mẻ, tiến bộ về đất nƣớc, về con ngƣời, đặc

biệt là ngƣời phụ nữ, ngƣời anh hùng. Ngƣời anh hùng ở đây mang tính chất dân chủ, kết hợp

khá đẹp giữa sức mạnh tập thể và sức mạnh cá nhân, giữa tính chất hữu danh và tính chất vô

danh, tính chất phi thƣờng và tính chất bình thƣờng. Mặc dù lấy đề tài từ những sự thực lịch

sử cho phù hợp với đặc trƣng thể loại tiểu thuyết, với mục đích sáng tác, tƣ tƣởng nghệ thuật

và phù hợp với tâm lý của con ngƣời ở thời đại ông. Trong sự thật lịch sử, ông Khoáng là một

ngƣời thuộc tôn thất nhà Trần. Ông đứng lên đánh quân Minh là để khôi phục ngôi vua nhằm

mục đích “nối nghiệp nhà Trần” theo tƣ tƣởng trung quân chính thống. Đồng thời, trong lịch

sử, cuộc khởi nghĩa do Trần Quý Khoáng lãnh đạo cũng bắt đầu từ trại của quan “Trấn thủ

Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân”. Nhƣng trong tác phẩm “Trùng Quang tâm sử”, cuộc khởi

nghĩa lại bắt đầu từ trại Trùng Quang. Và điều cơ bản là những con ngƣời tụ nghĩa đƣợc Phan

xây dựng lại là những con ngƣời vì lòng yêu nƣớc, lòng căm thù giặc chứ không phải là vì

lòng trung nghĩa nhƣ trong lịch sử. Vai trò quyết định cuộc khởi nghĩa là : nhân dân, là cả

những ngƣời anh hùng hữu danh và vô danh, chứ không chỉ là những ngƣời quý tộc, những

nhà nho căm ghét quân

(1) Về thời điểm sáng tác của cuốn “Trùng Quang tâm sử”, đến nay vẫn chƣa có ý kiến thống nhất. Giáo sƣ Đặng Thái Mai cho rằng tác phẩm đƣợc sáng tác vào năm 1900, Giáo sƣ Nguyễn Đình Chú cho rằng tác phẩm đƣợc sáng tác năm 1913, Giáo sƣ Chƣơng Thâu lại cho rằng tác phẩm đƣợc sáng tác vào năm 1918, La Sĩ Thăng thì lại cho rằng tác phẩm đƣợc sáng tác năm 1921. Hiện nay chúng tôi chƣa có đủ điều kiện để xác định chính xác thời điểm sáng tác của tác phẩm này. Quan điểm của chúng tôi nghiêng về ý kiến của nhà nghiên cứu Chƣơng Thâu.

73

giặc hay vì lòng trung nghĩa mà bất đắc chí với triều đình nhƣ Nguyễn Cảnh Chân trong lịch

sử.

Tác phẩm “Tiếng sấm đêm đông” là cuốn tiểu thuyết lịch sử đầu tay của Nguyễn Tử

Siêu viết về chuyện Dƣơng Đình Nghệ và Ngô Quyền hai lần đánh tan giặc Nam Hán. Tác

giả đã dành một số trang ca ngợi ngƣời anh hùng dân tộc Ngô Quyền. Nội dung tác phẩm thể

hiện lòng yêu nƣớc, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, khích lệ ý thức trách nhiệm của ngƣời

dân đối với vận mệnh đất nƣớc, thể hiện nỗi “đau lòng cố quốc” của tác giả nên thực dân

Pháp đã ra lệnh cấm lƣu hành.

Tác phẩm “Vua bố cái”, đƣợc Nguyễn Tử Siêu sáng tác năm 1929, viết về chuyện

Phùng Hƣng, ngƣời làng Đƣờng Lâm tỉnh Sơn Tây đánh đuổi quân đô hộ nhà Đƣờng. Ở đây,

tác giả đã đề cao tinh thần dân tộc, ý thức tự tôn và lòng tự hào dân tộc. Trong tác phẩm,

nhiều lần tác giả nhắc đến cội nguồn “con Lạc cháu Hồng”, không chỉ vì niềm tự hào mà còn

là lời kêu gọi thiết tha đối với mọi ngƣời dân Việt Nam, hãy hƣớng về tổ quốc. Theo tác giả,

sự lầm đƣờng lạc lối của một số ngƣời cam tâm làm tay sai cho giặc là nỗi đau chung cho tất

cả những ai thuộc về nòi giống con Lạc cháu Hồng. Mỗi khi nói về điều đó, tác giả đã thể

hiện niềm xót xa đau đớn : “Ai ngờ con Rồng cháu Tiên mà có lúc quên cả hổ nhục đi làm

chim mồi chó săn cho ngƣời, đến lúc gƣơm kề vào cổ mới biết cùng nhau quay đầu về tổ,

đáng thƣơng xót là nhƣờng nào [167,29]. Cảm xúc quá mãnh liệt, tác giả đã thốt lên bằng

những lời chỉ trích, lời bình luận đầy tâm huyết : “Tử Siêu xin thƣa với ông Phả Lặc rằng”

đến lúc gƣơm kể cổ mới biết quay đầu về tổ” ấy cũng là sớm tỉnh ngộ lắm đấy! Lại còn có

hạng chết chôn xuống đất rồi mà vẫn không tỉnh ngộ không những thế mà con cháu lại theo

mà không tỉnh ngộ nốt, lãng đi đến hai ba đời những hạng ấy mới đáng ngán chứ ! Chỉ tiếc

ông không kịp trông thấy

74

thôi! [167- 21]. Đây là một điểm độc đáo vƣợt ra ngoài đặc trƣng của thể loại tiểu thuyết

(trong tác phẩm tiểu thuyết các tác giả thƣờng dấu mình đi để tạo tính khách quan), nhƣng lại

thể hiện tinh thần và ý chí sâu sắc về dân tộc về giống nòi của tác giả. Chính tinh thần này đã

truyền cho tác phẩm một giọng điệu trữ tình tha thiết, vừa đau xót, vừa rất cảm động, khích lệ

mạnh mẽ tinh thần yêu nƣớc ở ngƣời đọc: “Là ngƣời sống cách hồi vua Bố Cái khởi binh đến

1000 năm nghĩ tới nhân tâm hồi ấy còn đau lòng; song hồi tƣởng đối với nhân tâm đời nay

càng thêm khó nói” [167, 16]. Cũng trong tác phẩm này, Nguyễn Tử Siêu đã xây dựng thành

công hình tƣợng ngƣời anh hùng Phùng Hƣng, hiện thân cho trí tuệ và phẩm chất đạo đức của

nhân dân : bình tĩnh, mƣu lƣợc, sáng suốt và vô cùng dũng cảm. Chính cái tên gọi “Bố Cái

Đại Vƣơng” vừa thể hiện lòng tự hào, niềm kính yêu vừa thể hiện sự khâm phục, sự ngƣỡng

mộ của quần chúng nhân dân đối với ngƣời anh hùng vì nƣớc:

“Đến khi Phùng Công băng hà, nhân dân ta nhớ cái ân đức sâu xa của Ngài, tôn Ngài

lên làm “Bố Cái - Đại Vƣơng”. Hai chữ bố cái là tiếng gọi ngày xƣa, cũng nhƣ ta bây giờ gọi

“cha mẹ”, nghĩa là tôn Ngài nhƣ cha mẹ vậy. Ôi! Vinh hạnh thay” [167,61].

Cũng trong năm 1929, Nguyễn Tử Siêu còn ra mắt bạn đọc cuốn “Lê Đại Hành”, nói

về chuyện vua Lê Đại Hành đánh đuổi quân nhà Tống, giữ vững nền độc lập cho dân tộc, Lê

Đại Hành đã lên ngôi vua bằng tinh thần khẳng khái, bằng tài đức, Lê Đại Hành đã chiếm

đƣợc lòng tin yêu của binh lính. Từ đó, Lê Đại Hành đã tập hợp đƣợc một tập thể ngƣời anh

hùng nhƣ Phan Cự Lạng, Phùng Chính, Phùng Hƣng, Nhƣ Tùng, Bích Hà và hàng vạn ngƣời

lính vô danh khác có lòng yêu nƣớc nồng nàn, có tinh thần sẵn sàng chiến đấu một mất một

còn với kẻ thù xâm lƣợc để bảo vệ giang sơn Tổ quốc.

75

Chính sức mạnh tổng hợp của khối đoàn kết toàn dân ấy đã đập tan mọi ý đồ xâm

lƣợc của kẻ thù :

“Thề giữ nơi giang khẩu

Tài thi cõi chiến trường

Vua tôi cùng kế sách

Non nước khỏi tai ương”

- Một chủ để khác cũng đƣợc các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này khai

thác đó là việc ca ngợi những tấm gƣơng anh dũng, những bậc trai tài gái sắc đã cống hiến

cho sự nghiệp giữ nƣớc của dân tộc. Tiêu biểu cho mảng đề tài này là tác phẩm “Giọt máu

chung tình” của Tân Dân Tử viết (1926)(1). Tác phẩm viết về sự tích của một trang hồng nhan

liệt nữ với một trang niên thiếu anh hùng là con của một vị khai quốc công thần trong đời

Cao Hoàng trung hƣng phục nghiệp. Tác giả đã đề cao lòng yêu nƣớc, tình nghĩa thủy chung,

có ý tƣởng bảo tồn những nề nếp tốt đẹp của cha ông. Điều làm cho ngƣời đọc cảm động và

bất ngờ nhất clà đến hồi kết cuộc, hai nhân vật nòng cốt, chính diện của truyện - Võ Đông Sơ

và Bạch Thu Hà không đƣợc sum họp hạnh phúc sau những ngày gian nan xa cách, mà cả hai

đều từ biệt cõi trần. Chàng thì “lấy một lòng ái quốc liều thân danh mà trả nợ nƣớc nhà”.

Nàng thì “nguyện đổ giọt máu chung tình, xuống địa phủ mà đền ơn tri ngộ”. [129 - 11].

bìa sách ghi 1926, nhƣng ở trong thì lại ghi 1925)

Về tên gọi và thể loại tác phẩm: Bản in lần thứ nhất có nhan đề “Giọt máu chung tình, Tòng Đình Thảm kịch. Nhƣng về sau Phạm Văn Cƣờng ở Chợ Lớn tái bản lại thì lại lấy nhan đề là “Giọt máu chung tình” bỏ mất 4 từ “Tòng Đình thảm kịch” và lạ ghi là “Lịch sử tiểu thuyết”. Trong bản in lần đầu chỉ thấy ghi tiểu thuyết mà thôi. Năm 1989, NXB Tổng hợp Tiềng Giang tái bản lại thì lại lấy tên “Giọt máu chung tình” (Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà) và cũng ghi “Tiểu thuyết lịch sử”.

(1) Về thời gian ra đời của cuốn sách cũng có chỗ khác nhau, Nhà in Nguyễn Văn Viết Sài Gòn (ngoài

76

Ngoài những tác giả xuất sắc nêu trên, ở miền Nam giai đoạn này còn có Phạm Minh

Kiên, một số tác giả vừa viết tiểu thuyết thế sự vừa viết tiểu thuyết lịch sử. Phạm Minh Kiên

đã viết 2 tác phẩm “Việt Nam anh kiệt” (1927) và “Việt Nam Lý trung hƣng” (1929), ca ngợi

những vị anh hùng có công trong cuộc chống ngoại xâm của dân tộc.

+ Phản ánh những vấn đề nội trị.

Thời kỳ này, bên cạnh đè tài chống giặc ngoại xâm, giữ gìn giang sơn tổ quốc, các tác

giả còn đề cập tới đề tài nội trị. Ở miền Nam Tân Dân Tử viết tác phẩm “Gia Long tẩu quốc”,

phản ánh cuộc giao tranh ác liệt giữa tập đoàn Nguyễn Ánh và tập đoàn Tây Sơn vào cuối thế

kỷ XVIII:

“Đất nƣớc Việt Nam ta ném nhằm lúc triều Lê vận mạt, chúa Nguyễn thời suy, ngoài

Bắc Hà chúa Trịnh tranh quyền, trong Nam thì Tây Sơn dấy loạn, làm cho một giải đất nằm

dọc theo mé biển Đông Dƣơng này từ sông Nhị Hà tới Cửu Long Giang thành ra một xứ rầm

rầm lửa giặc đao binh, sinh linh đồ thán, kẻ thì phải chịu mùa màng thất bát, ngƣời thì lại bị

nghèo khổ lênh đênh, nay chạy chỗ này mai trốn chỗ khác, thảm khốc biết dƣờng nào”.

[199,1]. Ngoài tác phẩm “Gia Long tẩu quốc”, thời gian này, Tân Dân Tử còn viết “Gia Long

phục quốc” và “Hoàng tử Cảnh nhƣ Tây”. Ở ngoài Bắc, Nguyễn Tử Siêu viết tác phẩm “Đinh

Tiên Hoàng” (1929), phản ánh thực trạng xã hội Việt Nam ở giai đoạn lịch sử đầy biến động

phức tạp. Chính sự đổ nát, sự nhu nhƣợc của triều đình nhà Ngô đã đẩy nƣớc ta vào thảm họa

12 sứ quân. Một đất nƣớc mà “trên triều thì mất hết kỷ cƣơng, dƣới dân chịu toàn thống khổ”.

Trƣớc thảm cảnh đó, Đinh Bộ Lĩnh đã xuất hiện nhƣ một vị anh hùng, đứng ra thống nhất

toàn bộ giang sơn, củng cố lại đất nƣớc, ngăn chặn kịp thời nạn ngoại xâm đang lăm le ập

đến nƣớc ta. Đinh Bộ Lĩnh đã trở thành niềm tin yêu, niềm hy vọng của nhân dân cả nƣớc, trở

thành ngƣời anh hùng vị cứu tinh dân tộc.

77

Nhìn chung ở giai đoạn này, các tác giả tập trung vào đề tài chống ngoại xâm nhiều

hơn là đề tài nội trị. Hiện tƣợng này có nguyên nhân lịch sử cụ thể của nó. Đây là thời kỳ đất

nƣớc ta đang chịu ách đô hộ của thực dân Pháp. Nhiều phong trào yêu nƣớc đang đƣợc dấy

lên sôi nổi, nhƣ phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục, Việt Nam Quang phục hội,

phong trào “Ái quốc dân chủ” 1926 -1928, Việt Nam Quốc dân đảng.v.v… đang lần lƣợt

đƣợc diễn ra. Chính phong trào yêu nƣớc và cách mạng này đã kích lệ và cổ vũ các nhà văn

viết tiểu thuyết lịch sử. Vì thế tiểu thuyết lịch sử viết về đề tài chống ngoại xâm có nhiều

thành công và có tiếng vang hơn cả.

+ Về mặt nghệ thuật:

Quy mô tác phẩm: ở thời kỳ này, tác phẩm chƣa có qui mô lớn lắm trừ một vài tác

phẩm: “Tiếng sấm đêm đông”, dày 107 trang, có 53 nhân vật; “Lê Đại Hành” dày 56 trang,

có 32 nhân vật chính diện và phản diện; “Đinh Tiên Hoàng” 83 trang, có 63 nhân vật chính

diện và phản diên; “Vua Bố Cái” 63 trang, có 39 nhân vật; “Trùng quang tâm sử” dày 140

trang dịch, có gần 50 nhân vật; “Việt Nam Lý Thƣờng Kiệt” dày 230 trang có 60 nhân vật;

“Giọt máu chung tình” dày 250 trang có 27 nhân vật; “Gia Long tẩu quốc” dày 378 trang có

57 nhân vật.

Kết cấu nghệ thuật: hầu hết tác phẩm tiểu thuyết lịch sử Việt Nam ở giai đoạn này đều

còn chịu ảnh hƣởng của thi pháp tiểu thuyết cổ điển - chủ yếu là tiểu thuyết chƣơng hồi mà

các nhà văn đã tiếp thu đƣợc từ tiểu thuyết lịch sử chữ Hán của dân tộc hoặc tiểu thuyết cổ

điển Trung Quốc nói chung. Về kết cấu bố cục thƣờng theo kiểu kết cấu thời gian đơn tuyến

và một hƣớng. Hầu hết các tác phẩm đều kết thúc có hậu, trừ tác phẩm “Giọt máu chung

tình” của Tân Dân Tử. Ở tác phẩm này, Tân Dân Tử không đi theo lối kết cấu có hậu thƣờng

thấy trong các truyện cổ điển của Việt Nam hay của Trung Hoa mà tác giả lại viết theo một

lối kết cấu đặc biệt gần với lối kết cấu của tiểu

78

thuyết hiện đại của phƣơng Tây, Chính lối kết cấu này đã gây đƣợc một ấn tƣợng mạnh mẽ

và “có tác dụng nâng cao tâm hồn ngƣời đọc mà Tân Dân Tử dƣờng nhƣ đã ký thác vào đôi

câu liền chạm trên hai thạch trụ trƣớc miếu thờ Võ Đông Sơ và Bạch Thu Hà”:

“Phận đấng anh hùng, một thác đền ơn non nƣớc Việt

Tấm gƣơng liệt nữ, ngàn thu danh rạng đất trời Nam” [198,11].

+ Xây dựng nhân vật: Nhân vật trong những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử giai đoạn

này đƣợc các tác giả xây dựng thiên về hành động là hcính, thông qua hành động để bộc lộ

tính cách. Tâm lý nhân vật còn ít đƣợc miêu tả và chƣa rõ nét. Yếu tố độc thoại nội tâm đã

bắt đầu xuất hiện ở một vài tác phẩm nhƣng còn mờ nhạt. Nhìn chung, các tác giả đang chịu

ảnh hƣởng khá đậm nét cách miêu tả nhân vật trong tiểu thuyết cổ Trung Hoa. Nhƣ “Tam

Quốc chí diễn nghĩa” của La Quán Trung hay trong “Thủy Hử” của Thi nại Âm v.v… Dĩ

nhiên, cũng là còn tiếp thu cách miêu tả của tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hán của Việt Nam

giai đoạn trƣớc đó nhƣ “Hoàng Lê Nhất Thống chí” hay “Việt Lam xuân thu”.v.v…

+ Hành văn và ngôn ngữ : Hầu hết các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này còn

chịu ảnh hƣởng của lối văn cổ điển. Câu văn vẫn chịu ảnh hƣởng câu văn biến ngẫu. Trong

tác phẩm vẫn sử dụng không ít điển tích điển cố và thêm nhiều yếu tố phi lịch sử hoặc những

yếu tố huyền thoại, những chi tiết mang màu sắc kiếm hiệp ly kỳ nhằm hấp dẫn lôi cuốn

ngƣời đọc, ví dụ : đoạn kể Phùng Hải đánh trăn cứu dân làng, Triệu Ức đánh nhau với Phùng

Công trong tác phẩm “Vua Bố Cái” [167, 36], hay đoạn tả Phùng Khuông đánh nhau với

Bích Hà: “…Nghĩ vậy, liền tuốt đôi đoản kiếm cài ở sau lƣng, nhảy vụt ra, đi thẳng chém vào

đầu ngƣời thiếu nữ… Ngƣời thiếu nữ nhanh mắt, tay trái giơ ngang thiết côn lên đỡ lấy đoản

kiếm của Phùng Khuông, tay trái rút ngay thanh kiếm dắt ở sau lƣng ra, dùng miếng “Hắc

dao - xuất đổng dâm

79

thẳng ngay vào ngực Phùng Khuông, Phùng Khuông vội nghiêng mình tránh đƣợc mũi kiếm,

thời lại bị thiết côn của ngƣời thiếu nữ đáp xuống đúng đầu… Phùng Khuông vừa đỡ đƣợc

thiết côn thì lại bị thanh kiếm chém sang… Một chiếc thiết côn, cùng một thanh đoản kiếm

của ngƣời thiếu nữ lúc bấy giờ, thật nhanh nhƣ mƣa sa, giá táp, không còn đỡ ra đƣợc miếng

nào để đánh lại đƣợc” [164, 17,18]. Trong tác phẩm, mật độ dùng những từ nhƣ “thì”, “mà”,

“là”, “rằng” tƣơng đối nhiều. Xin nêu một vài ví dụ điển hình : trong tác phẩm “Đinh Tiên

Hoàng”, Nguyễn Tử Siêu đã dùng : 129 từ rằng, trong tác phẩm “Giọt máu chung tình”, Tân

Dân đã dùng 161 từ rằng, 765 từ thì, 402 từ là và 523 từ mà. Trong tác phẩm “Việt Nam Lý

Thƣờng Kiệt”, Phạm Minh Kiên đã dùng 1596 từ “thì”, 964 từ “mà”, 669 từ “là” và 626 từ

“rằng”.

Nhìn chung về phƣơng diện nghệ thuật hầu hết các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử thời

kỳ này tuy giữa các tác giả ở miền Bắc và miền Nam có sự khác nhau ít nhiều nhất là về mặt

ngôn ngữ, hành văn, nhƣng đều chịu ảnh hƣởng của tiểu thuyết cổ điển, tiểu thuyết chƣơng

hồi. Riêng ở một số tác phẩm đã hé mở xu hƣớng thoát ly ảnh hƣởng của tiểu thuyết chƣơng

hội, bƣớc đầu đã có sự đổi mới theo hƣớng tiểu thuyết hiện đại. Biểu hiện rõ nhất là ở hình

thức kết cấu. Cuối mỗi chƣơng mỗi hồi các tác giả không dùng câu : “Vị tri hƣ thực nhƣ hà,

thả thính hạ hồi phân giải” nhƣ ở một số cuốn tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa đặc biệt là tiểu

thuyết lịch sử bằng chữ Hán của Việt Nam giai đoạn trƣớc đó.

2.2.2. Chặng thứ 2 : Từ 1930 đến 1945.

Đây là thời kỳ tiểu thuyết lịch sử Việt Nam phát triển mạnh mẽ nhất và có nhiều

thành tựu mới, nhƣng cũng khá phức tạp. Đội ngũ nhà văn tham gia viết tiểu thuyết lịch sử

đông đảo hơn trƣớc. Đặc biệt trong quan điểm chính trị, tƣ tƣởng nghệ thuật cũng nhƣ thi

pháp của họ cũng không đồng nhất. Vẫn có

80

những nhà văn tiểu thuyết lịch sử với động cơ yêu nƣớc và tinh thần tự hào, tự tôn

dân tộc nhƣ Nguyễn Tử Siêu, trƣớc đã viết nay càng viết khỏe hơn với các tác phẩm “Trần

Nguyên chiến kỷ” (1935), “Việt Thanh chiến sử” (1935), “Hai Bà đánh giặc” (1936), “Vua

Bà Triệu Ẩu” (1936), “Mai Hắc Đế”, “Lý Nam Đế”. Riêng hai tác phẩm “Mai Hắc Đế”, “Lý

Nam Đế” cũng đã bị thực dân Pháp cấm lƣu hành. Nguyễn Huy Tƣởng viết “Đêm Hội Long

Trì”, “An Tƣ”, Chu Thiên viết “Lê Thái Tổ” (1941), và “Bà Quận Mỹ” (1942). Nhƣng cũng

có nhà văn quay về với quá khứ lịch sử để trốn tránh thực tại, thi vị hóa hiện thực lịch sử thời

xa xƣa để đối lập với thực tại mà mình đang sống nhƣ Khái Hƣng với tác phẩm “Tiêu Sơn

tráng sĩ”, Một số ít nhà văn lại sa vào tội xuyên tạc lịch sử, nhƣ Nguyễn Tế Mỹ với tác phẩm

“Hai Bà Trƣng khởi nghĩa”… Hay còn có nhà văn lại ca ngợi nhân vật lịch sử không đáng

đƣợc ca ngợi nhƣ Lê Chiêu Thống trong tác phẩm “Bánh xe khứ quốc” của Phan Trần Chúc.

Đây là bảng thống kê số lƣợng tác giả tác phẩm thời kỳ này so với thời kỳ trƣớc đó.

Thời gian Tác giả Tác phẩm

- Giai đoạn trƣớc 1930 6 14

- Từ 1930 đến 1945 10 33

Tổng số 16 47

- Về phƣơng diện đề tài: đề tài chống xâm lƣợc vẫn đƣợc tiếp tục phát triển và tiêu

biểu vẫn là Nguyễn Tử Siêu với “Trần Nguyên chiến kỷ”; “Hai Bà đánh giặc”; “Vua Bà

Triệu Ẩu”, “Việt Thanh chiến sử”, “Mai Hắc Đế”, Đinh Gia Thuyết với “Ngọn cờ vàng”,

Trần Trung Viên với “Cầu vồng Yên Thế” Nguyễn Huy Tƣởng với “An Tƣ”. Phan Trần

Chúc với “Vua Quang Trung”. Đề tài thời này vẫn gắn liền với nội dung ca ngợi những cuộc

kháng

81

chiến thần thánh của nhân dân ta chống kẻ thù xâm lƣợc, ca ngợi những vị anh hùng có công

trong cuộc kháng chiến vĩ đại nhƣ Hai Bà Trƣng, Bà Triệu, Lê Lợi, Trần Hƣng Đạo, Mai Hắc

Đế, Lý Nam Đế, Hoàng Hoa Thám.v.v…

Tác phẩm “Trần Nguyên chiến kỷ”, ca ngợi Trần Hƣng Đạo - vị anh hùng của dân tộc

đã ba lần đánh tan quân Nguyên. Tác phẩm dày 224 trang chia gồm 15 hồi. Với tác phẩm

này, Nguyễn Tử Siêu đã đƣa ngƣời đọc trở về với hiện thực vô cùng oanh liệt của dân tộc ta

trong những năm cuối thế kỷ XIII. Quân và dân ta dƣới sự lãnh đạo của Trần Hƣng Đạo đã ba

lần đánh thắng quân xâm lƣợc Nguyên Mông, làm nên một kỳ tích vô cùng vẻ vang trong lịch

sử dân tộc. Nguyên nhân làm nên những chiến thắng hào hùng đó là sức mạnh khối đoàn kết

toàn dân, là sức mạnh hào hùng của tinh thần yêu nƣớc, là ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập

tự do cho dân tộc. Cuốn “Việt Thanh chiến sử”, ca ngợi vị anh hùng dân tộc Quang Trung

Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lƣợc nhà Thanh. Cuốn “Vua Bà Triệu Ẩu” ca ngợi Triệu Thị

Trinh, nữ anh hùng dân tộc đã đánh đuổi quân xâm lƣợc nhà Hán. Cuốn “Hai Bà đánh giặc”

ca ngợi Hai Bà Trƣng đã đánh thắng quân xâm lƣợc nhà Tần “trả thù nhà đền nợ nƣớc”. Ở

thời kỳ này, Nguyễn Tử Siêu hƣớng mạnh tới, tập trung hơn, rõ nét hơn, chung quanh đề tài

chống xâm lƣợc: “Có thể nói ông là ngƣời cung cấp cho tiểu thuyết lịch sử Việt Nam một chủ

đề sáng rõ, rồi đây sẽ là chủ đề quán xuyến trong toàn bộ thể loại tiểu thuyết lịch sử dân tộc

cho đến tận những năm 80 của thế kỷ này. Về điểm này, Phan Bội Châu là ngƣời có công

khởi đầu, nhƣng Nguyễn Tử Siêu là ngƣời tiếp nối và hoàn thiện [24 - 19]. Đề tài chống xâm

lƣợc đã phát triển ở năm 1935 - 1936 với tác phẩm của Nguyễn Tử Siêu nhƣng sau đó bị

chựng lại mãi đến sau năm 1940, mới có “An Tƣ” của Nguyễn huy Tƣởng. Chƣa rõ tại sao lại

có sự đứt nối nhƣ thế trong khi ở thời kỳ 1936 - 1939, không khí xuất bản sách báo có phần

đƣợc nới rộng hơn chút ít. Có thể là lúc này, trong phong trào dân chủ,

82

các nhà văn đang mải mê với loại đề tài xã hội trƣớc mắt mang ý nghĩa dân chủ chăng. Năm

1941, Chu Thiên viết tác phẩm “Lê Thái Tổ” và cho đến năm 1944 Trần Thanh Mại mới viết

tác phẩm “Ngô Vƣơng Quyền”. Trong khi đó đề tài nội trị ở giai đọa này so với trƣớc lại phát

triển nhanh hơn với một đội ngũ sáng tác mới nhƣ Phan Trần Chúc, Nguyễn Triệu Luật,

Nguyễn Huy Tƣởng, Lan Khai, Ngô Tất Tố…

Ở mảng đề tài nội trị, các tác giả đã cố gắng đi sâu khai thác những sự kiện những

tình huống lịch sử tƣơng đồng với thời đại mà các nhà văn đang sống với một tƣ tƣởng nghệ

thuật tích cực : vạch trần, phê phán bản cahát xấu xa dâm loạn và sự tàn ác đến cực điểm của

bọn vua quan phong kiến : “Cái hột mận”, “Ai lên phố Cát” của Lan Khai, “Đêm hội Long

Trì” của Nguyễn Huy Tƣởng, “Chúa Trịnh Khải”, “Bà Chúa Chè” của Nguyễn Triệu

Luật.v.v…

- Về phƣơng diện thi pháp : thời kỳ này cũng rất phức tạp và đa dạng. Có nhà văn vẫn

tiếp tục chịu ảnh hƣởng của lối viết của tiểu thuyết cổ điển (tiểu thuyết chƣơng hồi), nhƣng

cũng có nhà văn đã bắt đầu đổi mới cách viết theo kiểu của những cuốn tiểu thuyết lịch sử

hiện đại phƣơng Tây lúc bấy giờ đã ít nhiều đƣợc có mặt ở Việt Nam. Khuynh hƣớng lãng

mạn mà một trong những biểu hiện rõ nhất là việc đƣa tình yêu lứa đôi vào để giữ vai trò

tọng yếu của tác phẩm. Tình yêu trong trắng và đau xót của Quỳnh Hoa và Bảo Kim trong

“Đêm hội Long trì” của An Tƣ và Trần Thông trong tác phẩm “An Tƣ” của Nguyễn Huy

Tƣởng; của Bội Ngọc và Lý Công Uẩn trong tác phẩm “Cái hột mận” của Lan Khai; của

Ngọc Nƣơng với Tràn Viễn Mƣu trong “Việt Thanh chiến sử”, của Trần Nguyên công chúa

với Phạm Ngũ Lão trong “Trần Nguyên chiến kỷ” của Nguyễn Tử Siêu là những dẫn chứng

tiêu biểu.

83

Tính chất lãng mạn còn đƣợc thể hiện ở câu văn đầy chất trữ tình đi sâu vào tính cách

và thế giới nội tâm của nhân vật, ở việc lãng mạn hóa một số nhân vật anh hùng.

Ngoài ra, tính chất lãng mạn còn đƣợc thể hiện trong việc xử lý mối quan hệ giữa lịch

sử và hƣ cấu nghệ thuật. Hầu hết các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này khá trung thành

với sự thực lịch sử. Họ đã lấy “sự thực” làm gốc nhƣng trong quá trình sáng tác, họ không bê

nguyên xi lịch sử. Có khi nhà văn chỉ chọn một sự việc một chi tiết nào đó rồi hƣ cấu, tƣởng

tƣợng thêm khá nhiều để tạo thành tác phẩm. Điển hình là tác phẩm “Đêm hội Long Trì” của

Nguyễn Huy Tƣởng. Ở đây, tác giả chỉ chọn một chi tiết điển hình trong một đêm hội để xây

dựng thành kết cấu câu chuyện. Hay trong tác phẩm “Việt Thanh chiến sử”, Nguyễn Tử Siêu

lại chọn mối tình đầy oan trái của Ngọc Nƣơng và Trần Viễn Mƣu để xây dựng cốt truyện,

dẫn dắt câu chuyện đƣa ngƣời đọc đến với chiến thắng lẫy lừng của quân và dân nhà Tây Sơn

Nguyễn Huệ với hai mƣơi vạn quân Thanh ở Ngọc Hồi, Đống Đa.v.v...

Chính khuynh hƣớng này đã làm cho tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này giảm đi tính chất

lịch sử, tính sử thi tăng thêm tính chất tiểu thuyết nhiều hơn. Vì thế tác phẩm càng gây đƣợc

sức hấp dẫn đối với ngƣời đọc của thời hiện đại và cũng mang hơi thở đậm đà của cuộc sống

hơn. Và nhƣ thế “bản thân lịch sử đã đƣợc tái hiện một cách nghệ thuật hơn”. Nó là lời

“thông báo thời sự” đƣợc khoác bộ áo lịch sử. Lịch sử với tƣ cách là chất liệu nghệ thuật

trong tiểu thuyết sử thi thời kỳ này đã đƣợc sử dụng nhƣ một thứ vũ khí tinh thần hữu hiệu

nhằm vào thực tại xã hội, đánh thức nhân tâm và cổ vũ lòng ngƣời.

- Về qui mô tác phẩm : thời kỳ này tiểu thuyết lịch sử Việt Nam có quy mô lớn hơn

thời kỳ trƣớc 1930 về số trang và cũng là về số lƣợng nhân vật, “Trần Nguyên chiến kỷ” dày

244 trang, chia làm 15 hồi có 43 nhân vật

84

“Vua Bà Triệu Ẩu”, dày 156 trang có 100 nhân vật. “Việt Thanh chiến sử” dày 159

trang có 53 nhân vật. “Hai Bà đánh giặc” dày 383 có 114 nhân vật. “Ái tình và sự nghiệp”

dày 145 trang có 34 nhân vật. “Chúa Trịnh Khải” dày 129 trang có 62 nhân vật. “Vua Quang

Trung” dày 219 trang có 68 nhân vật. “Thế kỷ 18 bằng Quận công” dầy 157 trang có 122

nhân vật. “Ai lên Phố Cát” dày 131 trang có 23 nhân vật. “Đêm hội Long trì” dày 143 trang

có 31 nhân vật. “Bà Chúa Chè” dày 195 trang có 32 nhân vật...

Rõ ràng về số lƣợng nhân vật và độ dày của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam chƣa đạt

đƣợc số lƣợng nhân vật trong những tác phẩm tiểu thuyết nhƣ Tam Quốc Chí diễn nghĩa của

La Quán Trung hay “Chiến tranh và hòa bình” của LépTônxtôi nhƣng so với những tác phẩm

tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hán giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX trở về trƣớc thì tiểu thuyết lịch

Bảng thống kê, số trang, tổng số nhân vật, nhân vật chính diện.

và nhân vật phản diện trong một số tác phẩm tiêu biểu

sử thời kỳ này nói chung có quy mô lớn hơn:

Nhân vật Tổng số Nhân vật Tên tác phẩm Số trang chính nhân vật phản diện diện

- Trung Quang Tâm Sử 27 24 3 132

- Tiếng sấm đêm đông (1928) 35 15 20 107

- Lê Đại Hành (1929) 32 19 13 59

- Đinh Tiên Hoàng (1929) 63 15 48 84

-Vua Bố Cái (1929) 28 16 12 61

- Giọt máu chung tình (1926) 22 14 8 250

- Gia Long tẩu quốc 44 31 13 379

- Trần Nguyên chiến kỷ (1935) 43 27 16 244

- Vua Bà Triệu Ẩu (1936) 100 40 60 156

- Hai Bà đánh giặc (1936) 114 71 43 383

85

- Ái tình và sự nghiệp 145 34 22 12

- Chúa Trịnh Khải 129 62 40 22

- Vua Quang Trung 219 68 40 28

- Thế kỷ 18 bằng Quận Công 157 122 75 47

- Đêm hội Long trì 143 31 5 26

- An Tƣ 117 44 10 34

- Bà Chúa Chè 195 32 20 12

- Ai lên Phố Cát 131 23 15 8

- Về chất lƣợng: có thể nói rằng ở chặng thứ 2 này tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đã có

một bƣớc tiến khá rõ nét về nội dung cũng nhƣ hình thức nghệ thuật. Ở chặng này, đã có

những tác phẩm gây đƣợc tiếng vang lớn trong công chúng độc giả nhƣ tác phẩm “Trần

Nguyên chiến kỷ”, “Việt Thanh chiến sử” của Nguyễn Tử Siêu hay tác phẩm “Đêm hội Long

Trì” của Nguyễn Huy Tƣởng. Riêng tác phẩm “Đêm hội Long trì” hiện nay đã đƣợc dựng

thành phim, chiếu rộng rãi trên phạm vi cả nƣớc và đƣợc nhiều khán giả yêu thích.

Tiểu kết:

Có thể nói rằng càng về sau thì đề tài có nội dung yêu nƣớc chống xâm lƣợc càng

giảm và thay vào đó là đề tài nội trị. Hiện tƣợng này có thể vẫn phải giải thích bằng lý do

kiểm duyệt khắt khe của thực dân Pháp. Lúc bấy giờ “thực dân Pháp thẳng tay đàn áp tiểu

thuyết lịch sử - mặc dù kiểm duyệt trƣớc khi in, những nghị định tịch thu, nghị định chống

tàng trữ, lƣu hành vẫn ra nhƣ bƣơm bƣớm để không có quyển nào chót lọt bán cho đến hết

trọn. Nhất là ở Trung bộ, hễ thấy mặt tiểu thuyết lịch sử là chúng cấm. Ngƣời ta từng thấy

cấm lƣu hành, tàng trữ một quyển tiểu thuyết mà tác giả chƣa viết lấy một chữ nào, cấm chỉ

vì một nhà báo bạn tác giả đã nhạy miệng giới thiệu dự định của tác giả” [158 239]

86

CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VỀ NỘI DUNG

3.1 .Cảm hứng hứng chủ đạo trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ

XX

Muốn sáng tạo nên những áng văn chƣơng, những tác phẩm nghệ thuật, ngƣời nghệ sĩ

phải có cảm xúc, cảm hứng thực sự trong tâm hồn. Cảm hứng có vai trò vô cùng quan trọng

trong sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Không có cảm hứng, nhà văn không thể nào sáng tạo đƣợc

những tác phẩm có giá trị. L.Tônxtôi cũng tâm sự với vợ rằng : Không có xúc động thì nghề

văn của chúng ta không nhích lên đƣợc. Chính cảm hứng của ngƣời nghệ sĩ sẽ làm nên cái

hồn của tác phẩm. Cảm hứng càng cao, càng mãnh liệt, càng sâu sắc thì tác phẩm càng có giá

trị và ngƣời đọc càng yêu thích tác phẩm. Yếu tố cảm hứng có vai trò vô cùng quan trọng

trong việc hình thành chủ đề của tác phẩm: “Khi tƣ tƣởng của ngƣời viết không dứt khoát,

không rõ ràng, không mãnh liệt thì không thể nào thổi bùng lên ngọn lửa chủ đề tƣ tƣởng của

tác phẩm dự định viết” [14].

Cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật là một tình cảm mạnh mẽ mang tính tư tưởng.

Nó thể hiện một phần tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn. Đó chính là sự ham muốn tích cực

trong con ngƣời nhà văn, thôi thúc tác giả hành động. Cảm hứng trong tác phẩm trước hết là

sự say mê khẳng định chân lý, lý tƣởng mà nhà văn theo đuổi hoặc phủ định những sự xấu

xa tiêu cực đối lập hoàn toàn với lý tƣởng mà nhà văn ca ngợi trong cuộc sống. Nó đƣợc cụ

thể hóa ở thái độ của ngƣời nghệ sĩ đồng tình, ca ngợi nhân vật chính diện hay phê phán, tố

cáo những thế lực đen tối, những nhân vật phản diện, những hiện tƣợng thấp hèn phi đạo đức

v.v...

87

Vì thế, cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm sẽ chi phối hệ thống nghệ thuật biểu

hiện cảm xúc của tác phẩm nhƣ việc lựa chọn đề tài, chủ đề, kết cấu và nghệ thuật xây dựng

hình tƣợng nhân vật. Nó “chính là năng lƣợng tình cảm của tác phẩm đƣợc tập trung nén lại

chỉ chờ độc giả đề bùng cháy lên” [176, II, 52].

Mỗi một tác phẩm, mỗi một dòng văn học, thấm chí mỗi một thể loại văn học đều có

một niềm say mê riêng, một niềm cảm xúc riêng, và tất nhiên tùy bản chất tâm hồn của tác

giả mà niềm cảm hứng đƣợc biểu hiện trong từng tác phẩm, từng dòng văn học khác nhau.

Vậy thì với tiểu thuyết lịch sử cảm hứng chủ đạo là gì ?

3.1.1. Cảm hứng lịch sử và dân tộc

Nhƣ trên đã nói, trong những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, xã hội phong

kiến Việt Nam đang bƣớc nhanh trên con đƣờng suy vong dẫn đến chỗ sụp đổ, nhƣờng chỗ

cho một chế độ xã hội mới - chế độ thực dân nửa phong kiến ra đời. Hoàn cảnh ấy đã làm

lung lạc tinh thần của ngƣời Việt Nam và đã dẫn tới “cái vạ chết lòng”. Tình trạng phi dân

tộc, phản dân tộc đã trở thành một nguy cơ, một thảm họa và tiểu thuyết lịch sử Việt Nam ra

đời là có nhiều lý do nhƣung trƣớc hết là có lý do để góp phần cứu vãn đời sống tinh thần của

dân tộc và nhƣ thế thì cảm hứng lịch sử và dân tộc ít nhiều gắn với cảm hứng lãng mạn cũng

đã trở thành cảm hứng chủ đạo nhất của tiểu thuyết lịch sử.

+ Về với quá khứ, bằng cảm hứng dân tộc các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử, không

thể không nói đến nỗi đau xót của mình trƣớc hiện thực dân tộc bị dày xéo, bị đắm chìm

trong cảnh nô lệ lầm than.

Nỗi đau xót xa đó thể hiện qua đề tài, qua cốt truyện, qua những hình tƣợng nhân vật,

qua những lời đối thoại hay độc thoại nội tâm của nhân vật, kể cả những lời bình, lời bàn trực

tiếp của các tác giả. Trong lời tựa của tác phẩm

88

“Tiếng sấm đêm đông”, Nguyễn Tử Siêu đã thốt lên bằng tất cả nỗi lòng của mình:

“...Đau lòng tổ quốc, cầm bút chép thiên vãng sử

Ai kẻ đồng cừu ?” [166,3]

Trong “Vua Bố Cái”, Nguyễn Tử Siêu sau khi phản ánh hiện thực khổ cực của ngƣời

dân Việt Nam phải cống nộp cho nhà Đƣờng biết bao vàng bạc châu báu và của ngon vật lạ,

đã nói lên những xúc động thực sự trong tâm hồn bằng những lời thống thiết nhất : “Than ôi!

ấy là cái tình hình thống khổ của tổ tiên ta cách hơn một nghìn năm nay ! Cùng chung một

giọt máu đào, những ngƣời cay đắng lòng nào yên vui. Ta thật không thể vì cố nhân mà ngậm

ngùi rơi lệ vậy” [167, 5].

+ Từ nỗi đau vì dân tộc bị bọn giặc ngoại bang dày xéo, các nhà văn viết tiểu thuyết

lịch sử đã khơi dậy ý thức trách nhiệm của ngƣời dân đất Việt trong việc đấu tranh chống lại

kẻ thù xâm lƣợc. Cũng trong “Tiếng sấm đêm đông”, Nguyễn Tử Siêu đã để cho nhân vật cô

Huệ nói lên ý thức trách nhiệm và tấm lòng yêu nƣớc của mình: “... thƣa anh, ngƣời ta sở dĩ

gọi là ngƣời đƣợc là vì biết có tình đồng loại, nghĩa quốc gia. Bởi thế nhƣng các bậc chí - sĩ,

quân - nhân gặp cơn quốc gia luân táng, tộc loại lầm than, thời bằng nuốt giận ngậm đau mà

tự lấy làm hổ thẹn, không mấy khi dám vác mặt trong thấy ngƣời khác. Hiện nay, nƣớc ta bị

giặc Hán chiếm cƣớp, chia đất nƣớc làm quận, huyện, băt nhân dân làm tôi đòi, bề ngoài thì

giả nhân giả nghĩa, bề trong thời đặt than tàn. Em là phận gái, nghĩ đến những nông nổi ấy

mà cam gan thẹn mặt, chỉ những muốn có đƣợc ăn thịt nằm da quân giặc Hán ấy mới lấy làm

cam tâm” [166, 16].

Không những thế, Nguyễn Tử Siêu còn để cho cô Huệ dùng những lời lẽ đầy tâm

huyết để thức tỉnh lƣơng tâm của những kẻ lầm đƣờng lạc lối, cam tâm làm tay sai cho giặc:

“...Vậy mà anh cứ quanh năm theo chân nấp bóng,

89

đón ý nghe hơi, coi quân Hán nhƣ cha mẹ, thờ quân Hán nhƣ thần thánh, không tự biết lấy

thế làm nhục, lại còn vênh váo tự đắc, hà hiếp đồng loại; em không hiểu cái tâm can anh làm

sao mà khác ngƣời đến thế ?!... Này anh ơi! xin anh mau tỉnh ngộ. Dù anh không thể cứu

đƣợc nƣớc, yên đƣợc dân nhƣng anh cũng đừng làm nhƣ con mọt hại nƣớc, con trành hịa dân

nhƣ thế [166,16].

Xuất phát từ tấm lòng yêu nƣớc cao độ và ý thức trách nhiệm rất lớn đối với dân tộc

nên lời lẽ của cô Huệ càng khẩn thiết. Vì thế, nó có sức lôi cuốn và hấp dẫn lòng ngƣời đến

kỳ lạ : “Em sáng hôm nay đã định đem chuyện ấy nói với anh, nhƣng anh không thể cho em

nói mà đi ngay. Vậy giờ e lại xin viết bức thƣ này để thƣa với anh. Em sở dĩ cấu kết muốn

nói với anh nhƣ thế chẳng qua cũng chỉ vì em sợ di nhục đến tổ tiên, bêu xấu với đồng loại

đấy mà thội. Anh ơi! Xin anh mau tỉnh ngộ...” [166, 16, 17].

+ Cảm hứng lịch sử và dân tộc còn thể hiện ở lòng nhiệt thành ca ngợi những cuộc

kháng chiến vĩ đại của quân dân ta đánh thằng kẻ thù xâm lƣợc.

Những sự kiện lịch sử lớn nhƣ Hội nghị Diên Hồng hay cuộc hội quân ở bến Bình

Than và những trận đánh lẫy lừng nhƣ Đông Bộ Đầu, Vân Đồn, Bạch Đằng, Chƣơng Dƣơng,

Vạn Kiếp đã đƣợc Nguyễn Tử Siêu, Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tƣởng ghi lại bằng một niềm

tự hào, một lòng ngƣỡng mộ chân thành. Đây là khí thế của cuộc hội quân ở bến Bình Than

hiện lên qua cảm hứng lịch sử của Nguyễn Tử Siêu :

“Ngài (tức Trần Hƣng Đạo) liền lên bờ, cƣỡi lên lƣng voi, cầm cờ lệnh phất một cái,

tức thời quân trên bộ đứng dàn ra thành một hình bán nguyệt, rồi cứ theo tiếng trống cái mà

đi lên, đi lui, rẽ ngang, rẽ dọc, phân chia, giải giáo, khất khúc quanh co, có lúc nhƣ mây tụ, có

lúc nhƣ khói tan, có lúc nhƣ muôn đóa hoa tản tác trong mây bay, điểm chấm phô bày trên

mặt đất. Một lúc ngọn cờ trên tay Ngài phất một cái tức thời muôn quân lại đứng xếp hành

nhƣ trƣớc,

90

cơ nào đội ấy (….) [70]

Còn đây là cảm hứng ca ngợi một trận phản công của quân tƣớng nhà Trần đánh vào

Thăng Long:

“Thuyền đi tới đâu, lửa cháy tới đấy, chỉ trong chớp măt, ba nghìn chiến thuyền đều

bị lửa bén tới, ngọn lửa bốc cao lên đến hơn 10 trƣợng” [170].

Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, cảm hứng về vận mệnh của dân tộc, vì cuộc sống

đau khổ lầm than của nhân dân, vì nỗi nhục mất nƣớc và lòng căm thù sâu sắc đối với bọn

giặc xâm lƣợc và bè lũ tay sai bán nƣớc là cảm hứng chủ đạo, cảm hứng tích cực của những

cây bút có tâm huyết đối với dân tộc, đối với giống nòi... Đó cũng là nguồn cảm hứng chủ

đạo của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX này. Trong “Giọt máu chung tình”,

Tân Dân Tử đã mƣợn lời của Bạch Thu Hà để nói lên cảm hứng dân tộc của mình :

“Cái phận sự chúng ta đây phải thƣơng tƣởng nƣớc non nhƣ cha mẹ, trìu mến xứ sở

nhƣ vợ chồng. Chúng ta nhờ ngọn rau tấc đất của Việt Nam đặng chôn lớn trƣởng thành,

chúng ta nhờ cái phong thổ nƣớc non Việt Nam mà lặng an cƣ lạc nghiệp, nay lang quân là

con trai của Việt Nam ra mà gánh vác một phần nghĩa vụ của nƣớc non trên vai. Vậy thì tôi

xin để một cái danh giá trƣợng phu rõ ràng cho lang quân, tôi muốn để cho Lang quân thong

thả mà làm trai Việt Nam cho rõ mặt phi thƣờng, đặng để chút phƣuơng danh nơi lịch sử”

[198, 90 - 91].

Cuốn tiểu thuyết lịch sử “An Tƣ” của Nguyễn Huy Tƣởng nói về mối tình tan vỡ của

công chúa An Tƣ với Chiêm Thành Vƣơng, nhƣng nội dung chính của tác phẩm lại ca ngợi

tinh thần yêu nƣớc, lòng dũng cảm của quân dân nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống

quân Nguyên xâm lƣợc.

91

+ Cảm hứng ca ngợi những cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lƣợc gần nhƣ tất yếu

đã gắn với cảm hứng ca ngợi những vị anh hùng dân tộc, những con ngƣời ƣu tú của dân tộc

đã có công trong sự nghiệp cứu nƣớc, giải phóng dân tộc, trong những chiến công đó : Đó là

Nguyễn Xí, Đặng Dung, Đặng Tất trong tác phẩm “Trùng Quang tâm sử” của Phan Bội

Châu, Võ Đông Sơ, Bạch Thu Hà, Triệu Dõng, Lê Đạt, Lê Công trong “Giọt máu chung tình”

của Tân Dân Tử, Dƣơng Đình Nghệ, Ngô Quyền, Chƣơng Nhƣợc Lƣơng, Trần Nhƣ Hổ, Lƣu

Hữu Nhiếp trong “Tiếng sấm đêm đông”, Đinh Liễu trong “Đinh Tiên Hoàng”, Lê Đại Hành,

Phùng Khuông, Phùng Chính, Phạm Cự Lang trong “Lê Đại Hành”, Triệu Thị Trinh, Triệu

Quốc Đạt, Triệu Quốc Thành, Dƣơng Cự Xuân, Chiếng Vân trong tác phẩm “Vua bà Triệu

Ẩu”, Trƣng Trắc, Lê Chân, Trƣng Nhị, Đỗ Tiến Mai, Lê Mậu trong “Hai Bà đánh giặc”; Trần

Thủ Độ, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Bình Trọng, Trần Khánh

Dƣ, Yết Kiêu, Dã Tƣợng, Lê Phụ Trần, Cao Mạng, Đại Hành, Phạm Ngũ Lão, Trƣơng Hán

Siêu v.v... trong “Trần Nguyên chiến kỷ”, Nguyễn Huệ, Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm, Đặng

Viễn, Trần Văn Lung, Nguyễn Thiếp, Phan Văn Lâu trong “Việt Thanh chiến sử” của

Nguyễn Tử Siêu; Lý Thƣờng Kiệt, Trịnh Hoài Bảo, Hồ Kỳ, Mai Văn Sĩ trong “Việt Nam Lý

Thƣờng Kiệt” của Phạm Minh Kiên; Trần Bình Trọng, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão,

Trần Hƣng Đạo, Trần Quốc Toản trong “An Tƣ” của Nguyễn Huy Tƣởng; Tôn Thất Thuyết,

Phan Đình Phùng, Lê Trực, Đinh Công Tráng, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Thiện Thuật trong

tác phẩm “Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ” và Đề Thám trong “Lịch sử Đề

Thám” của Ngô Tất Tố... Ngoài ra còn có biết bao vị anh hùng và những ngƣời dân bình

thƣờng nữa nhƣ : Nhật Nƣơng, Viễn Mƣu, Xã

92

Thuần Trong “Việt Thanh chiến sử”; Bếp Hàn, Phạm Bích Hà, Phạm Nhƣ Tùng trong “Lê

Đại Hành” của Nguyễn Tử Siêu v.v...

Khi ca ngợi những ngƣời anh hùng, các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử cũng đã ca

ngợi tổ tiên, giống nòi đã sản sinh ra những ngƣời anh hùng ấy với một niềm tự hào thực sự.

Phan Bội Châu trong “Trùng quang tâm sử” từng viết: “Tổ tiên chúng ta từ xƣa không một ai

không anh hùng. Vậy thì hậu thân anh hùng là ai ? Là chính chúng ta vậy”. Nòi giống Rồng

Tiên ta bây giờ chƣa đến kỳ tiêu diệt, giang sơn Hồng Lạc ta bấy giờ chƣa đến lúc luân vong,

nên mới thác sinh ra những bậc vua thánh, tôi hiền để cứu với trăm họ ra khỏi vòng lửa đỏ

than đen, khiến cho đồng bào ta ngày nay đọc đến đoạn lịch sử ấy cũng phải động lòng khởi

kinh mà bất giác vỗ tay cƣời ha hả mà reo lên rằng:

Sung sƣớng thay! Vinh hạnh thay! Đồng bào Nam Việt ta đƣợc sinh ra vào đời nhà

Trần” [170, 103-104].

+ Các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử trong khi ca ngợi những cuộc kháng chiến thần

thánh, ca ngợi những vị anh hùng, ca ngợi giống nòi, thƣờng cũng gắn cảm hứng với sự căm

thù cao độ đối với bọn giặc xâm lăng. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Tử Siêu đã gọi

chúng là “tàn tặc” là “quân vô đạo”, là “chó sói”, là “tặc tƣớng”. Nhân vật Phạm Ngũ Lão

trong tác phẩm “Trần Nguyên chiến kỷ” đã gọi tƣớng giặc Toa Đô mà mắng rằng: “Bớ quân

vô đạo! Lòng tham của chúng bay không biết đến đâu là cùng. Nƣớc tao đối với nƣớc mày

không can thiệp gì, cớ sao bay cứ sinh sự hoài mãi! Đất cát tổ tiên nào của chúng bay ở đây,

mà chúng bay cứ quyến luyến không rời bỏ. Này, ta bảo, chúng bay liệu hồn thời kéo quân

về, đừng để phải nhọc sức quân ta”. [170,105].

Trong tác phẩm “Việt Nam Lý Thƣờng Kiệt”, với cảm hứng dân tộc sâu sắc, Phạm

Minh Kiên đã lên án kẻ thù xâm lƣợc bằng những lời lẽ hết sức gay gắt : “Này Lƣu Gi ! chúa

tôi nhà ngƣơi đều chứa một lòng tham vô hạn, hàng

93

trăm hàng tháng kéo qua xâm loạn nƣớc ta, giựt tiền, cƣớp của dân ta. Bọn ngƣơi tàn nhẫn

cho tới bắt con đoạt vợ của dân lành, thật là cái lòng đại gian đại ác của bọn ngƣơi không thể

nào mà trạng ra cho hết đặng. Bấy lâu dân ta chịu trăm việc đắng cay, muôn ngàn khổ sở

cũng do tay bọn ngƣơi mà ra. Ta nói thiệt cho các ngƣơi biết, cái thù không đội trời chung

kia, ta chứa để đầy lòng. Nay ta quyết kéo đại binh vấn tội chú tôi nhà ngƣơi để báo thù rửa

hận cho dân ta bị ép bấy lâu và làm cho bọn ngƣơi biết sức một lần, kẻo bọn ngƣơi khinh khi

nƣớc ta không có ngƣời hào kiệt”. [118,152-153].

+ Không chỉ tố cáo bọn giặc xâm lƣợc, các tác giả còn tỏ thái độ căm ghét với bọn tay

sai bán nƣớc cầu vinh nhƣ Trần Di Ái trong “Trần Nguyên chiến kỷ”, Lê Chiêu Thống, Trần

Ích Tắc trong “Việt Thanh chiến sử” của Nguyễn Tử Siêu. Trong tác phẩm “Tiếng sấm đêm

đông”, trƣớc sự hèn mạt của Thủ Tài, Nguyễn Tử Siêu đã thốt lên: “Than ôi ! Thủ Tài là một

kẻ nam nhi, chỉ vì ham mê hia chữ danh lợi mà đem thân làm nô lệ cho ngƣời, không biết lấy

làm nhục, đến nỗi lại đem cả ngƣời con gái hiến cho ngƣời, kết cục lại không khỏi cái nạn

vong gia táng mệnh. Ngƣời đến nhƣ Thủ Tài còn gọi là ngƣời đƣợc nữa ru” [166,52]. Ngô

Quyền trong tác phẩm “Tiếng sấm đêm đông” đã chỉ mặt Công Tiễn mà mắng rằng : “Làm

con đã bất hiếu, làm tôi lại bất trung, mày là giống ngƣời hay giống gi hử Công Tiễn”

[166,99]. Không những thế, tác giả đã để cho Ngô Quyền trừng trị bọn bán nƣớc một cách

đích đáng : “có gan ăn cƣớp, không có gan chịu đòn, những phƣờng chó má hèn nhát nhƣ thế

còn để làm gì cho bẩn mắt ngƣời trông. Tức thời truyền lệnh lấy vải tƣới dầu cuốn vào Công

Tiễn để chờ đốt tế lễ Vƣơng Công” [166,99].

+ Quay về với quá khứ lịch sử, bằng cảm hứng dân tộc, bằng sự ngợi ca nhiệt tình đối

với cuộc kháng chiến thần thánh, ca ngợi những vị anh hùng dân tộc, cũng nhƣ căm giận phê

phán bọn cƣớp nƣớc bán nƣớc các nhà văn viết

94

tiểu thuyết lịch sử vẫn là muốn đánh thức hiện tại, nêu một tấm gƣơng lớn nhằm khích lệ

những ngƣời đƣơng thời. Trong những tác phẩm của mình, các nhà văn tận dụng mọi cơ hội

để ám chỉ thời cuộc, khích lệ lòng tự tôn và tự hào dân tộc, lòng căm ghét đối với kẻ thù cƣớp

nƣớc, mặc dù lúc nào cũng phải thanh minh rằng đây là chuyện của lịch sử mà thôi. Phải

chăng trong hoàn cảnh bị kiểm duyệt gắt gao, các nhà văn có tâm huyết với dân tộc muốn

góp một tiếng nói của mình nhằm nhóm lên ngọn lửa sục sôi vì nƣớc đang âm ỉ cháy trong

lòng nhân dân. Nhiều lúc, họ đã bộc lộ ý đồ đó qua tác phẩm của mình : “Than ôi! Vận nƣớc

suy vi... giả sử vua tôi hồi bấy giờ không cùng lòng sắt đá mà chƣa thấy sóng cả đã ngã tay

chèo, mới thấy gian nguy đã quên hẳn giống nòi, rồi đƣa tổ quốc giang san cung kính biếu lại

cho quân thù, thì đồng bào ta lúc bấy giờ chẳng phải mua chuộc mà kiếp ngựa trâu sẽ tự

nhiên đƣa đến” [170]. Trong tác phẩm “Tiếng sấm đêm đông” Nguyễn Tử Siêu đã ca ngợi

công đức của Dƣơng Đình Nghệ và Ngô Quyền với một giọng văn vô cùng sảng khoái và đầy

cảm phục: “vì có ông Dƣơng Đình Nghệ mới đuổi bỏ đƣợc quân Hán lấy lại đƣợc Giao Châu

mà cứƣ thoát dân ra khỏi vòng nƣớc lửa. Vì có ông Ngô Vƣơng Quyền mà mới giết đƣợc đứa

bán nƣớc là Kiều Công Tiễn, đánh một trận ở Bạch Đằng làm cho tuyệt tích quân Hấn mà

gây nên nền độc lập để cho đời sau.... Ôi! Lẫm liệt thay cái anh hùng của hai ông, to tát thay

cái công đức của hai ông, thật không khác một tiếng sấm giữa lúc đêm đông làm cho tan hết

khí đông hiu hắt, mà thu hồi lấy cái ngày xuân đầm ấm cho nƣớc tổ Việt Nam ta vậy”

[166,1].

3.1.2. Cảm hứng thế sự.

Do sự cốt yếu của bản thân cuộc sống đƣợc miêu tả nên trong tác phẩm nghệ thuật,

cảm hứng cũng đƣợc biểu hiện ở những biến thể khác nhau. Vì vậy, bƣớc sang thời kỳ sáng

tác 1930 - 1945, trong tiểu thuyết lịch sử xuất hiện cảm hứng thế sự. Đây là một nguồn cảm

hứng vùa mang tính đặc biệt vừa có liên quan mật thiết với cảm hứng lịch sử dân tộc. Cũng

nhƣ trong

95

cảm hứng lịch sử và dân tộc vẫn đã có liên quan mật thiết với cảm hƣng thế sự. Khái niệm

thế sự ở đây đƣợc hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm thái độ căm thù trƣớc những vấn đề về thời

cuộc, về những sự éo le, rắc rối, nhố nhăng phi lý, thối nát trong cuộc đời. Trong đó có sự

tranh giành quyền lực của bọn quan chúa, của những thế lực phong kiến, những kẻ có quyền

lực tỏng xã hội. Mỗi khi quay về với quá khứ lịch sử dân tộc, bằng cảm hứng thế sự, các nhà

văn đã thể hiện sự xót xa đau đớn khi nhìn thấy tình hình đất nƣớc bị chia cắt, tan tác điêu

linh. Trong tác phẩm “Gia Long tẩu quốc”, Tân Dân Tử đã thốt lên: “Đất Việt ba kỳ, trời nam

một góc, hoang thƣơng mấy độ, cuộc hƣng vong đƣờng thể chiêm bao” [199,1].

Nhà văn không thể nén nổi cảm xúc của mình trƣớc cảnh: “nƣớc Việt Nam ta nén

nhằm lúc triều Lê vận mạt, chúa Nguyễn thời suy, trong Nam thì Tây Sơn dấy loạn, làm cho

một dải đất nằm dọc theo mé biển Đông Dƣơng này từ sông Nhị Hà tới Cửu Long Giang

thành ra một xứ rần rần lửa giặc binh dao, sanh linh đồ thám, kẻ thì phải chịu mùa màng thất

phát, ngƣời thì nghèo khổ điêu linh, nay chạy đầu này mai trốn chỗ khác, thảm khổ biết

đƣờng nào”. [199,1].

Tiếp tục dòng cảm hứng thế sự, trong tác phẩm: “Ái tình và sự nghiệp”, thông qua

mối tình giữa Mạc Kính Hoàn và Phƣơng Lan quận chúa, Lan Khai lên án gay gắt cuộc chiến

tranh giữa các thế lực phong kiến ở thế kỷ XVIII. Chế độ phong kiến Việt Nam thời kỳ này là

một chết độ mục nát, vua Lê bất tài, chúa Trịnh thì dựa vào thế lực của mình để thâu tóm

quyền hành. Khắp nơi quan lại phong kiến xƣng bá xƣng hùng nổi lên nhan nhản. Tiêu biểu

là bọn Mạc vƣơng xƣng bá ở Cao Bằng nhằm khôi lại thế lực huy hoàng một thời của tổ phụ.

Còn ở miền Nam lúc này bọn Nguyễn Phúc Nguyên, cũng tự xƣng Vƣơng để chống lại thế

lực của vua Lê, chúa Trịnh. Ngoài cảm hứng trên, Lan Khai còn thể hiện cảm hứng ca ngợi

một tình yêu vƣợt ra ngoài lễ giáo phong kiến. Tác giả đã để cho Mạc Kính Hoàn vì tình yêu

say đắm với

96

Phƣơng Lan mà lại bỏ đi một cơ hội cƣớp lại sự nghiệp của tổ phụ mình. Đây là một khuynh

hƣớng cảm hứng thể hiện một giá trị nhân bản mới mẻ ở thời điểm lịch sử này. Không những

thế, thông qua mối tính này, Lan Khai còn lên án tố cáo các thế lực phong kiến trong việc

xƣng bá xƣng vƣơng và tranh giành quyền lực để sinh ra những cuộc nội chiến, khiến cho

huynh đệ tƣơng tàn, nhân dân lầm than, khổ cực. Nguyễn Huy Tƣởng trong tác phẩm “Đêm

hội Long Trì”, với cảm hứng thế sự, đã tố cáo vạch trần sự thối nát của triều đình phong kiến:

vua thì vô lại, dâm ô nhƣ Lê Tƣơng Dực: “Có lần dân chúng nghe vua đóng chiến thuyền,

tƣởng là vua săp đi chinh Đông phạt Tây, mở mang bờ cõi, ngờ đâu vua lại dùng chiến

thuyền để cho bọn cung nữ tập trận ở Hồ Tây” [201]. Còn Quốc Cữu, Phò mã của nhà vua thì

nhƣ Đặng Mậu Lân - một tên vũ phu cực kỳ dâm dật và vô cùng tàn bạo. Nguyễn Huy Tƣởng

đã không ngần ngại dựng lại những cảnh tƣởng mà Đặng Mậu Lân thƣờng bắt con gái nhà

lành ngang nhiên hãm hiếp giữa ban ngày bất chấp cả luật lệ: “Sau Đặng Lân lại còn một

toán năm ngƣời võ sĩ khiêng một chiếc giƣờng thấy bảo màu bát tiện. Ở trong, ngƣời ta nhận

thấy đôi gối uyên ƣơng, nệm gấm, chân gấm hƣơng thơm bay ngào ngạt. Khi thấy cửa phủ

Đặng Lân mở rộng và có cờ quạt ở trong rƣớc ra mấy ngƣời hàng phố kêu lên mấy tiếng thấy

thanh:

- Cậu Trời đấy !

Tức thì ngƣời ta chạy tán loạn, nhất là những đàn bà con gái” [202, 31 - 32]. Những

hành động phi nhân tính trên của Đặng Lân đủ cho ta thấy rằng xã hội phong kiến lúc bấy giờ

đã cực kỳ mục nát, không còn kỷ cƣơng pháp luật gì nữa. Đồng thời, tác giả cũng không ngần

ngại vạch ra những sự thật trớ trêu của thời cuộc khi bọn vua chúa quan lại đặt ra pháp luật

của triều đình nhƣng chính bọn chúng lại là kẻ bất chấp pháp luật, thậm chí còn chà đạp lên

pháp luật một cách thô bạo nhất.

97

Bằng cảm hứng thế sự xen kẽ với cảm hứng dân tộc, trong tác phẩm “Gia đình Tổng

trấn Tả quân Lê Văn Duyệt”, Ngô Tất Tố đã tố cáo bản chất tàn nhẫn của bọn vua chúa

phong kiến đặc biệt là vua tôi nhà Nguyễn. Ngô Tất Tố đã miêu tả lòng căm thù cao độ của

quần chúng đối với vua chúa Nguyễn vì chúa đã đang tâm “Cõng rắn về cắn gà nhà”, “Rƣớc

voi về dày mả tổ”, đem quân xâm lƣợc nƣớc ngoài về dày xéo đất nƣớc, sát hại đồng bào.

Tác giả đã để cho quần chúng nhân dân chửi thẳng vào mặt chúa một cách thậm tệ : “Ủa, đức

chúa đã rƣớc quân Xiêm qua đây, để chúng giết hại làng tôi, bắt vợ tôi, chém con tôi, tôi

khong chạy mau cũng bị chúng nó giết nữa. Lúc này ngƣời còn hòng vào nhà tôi mà đòi ân

sao? Tiếc rằng tôi có một mình, không thể bắt luôn đức chúa đem nộp cho bọn Tây Sơn, cơm

đâu mà thết những ngƣời làm hại tôi một cách đau đớn!” [192]. Trong “Cái hột mận” với một

cảm hứng thế sự nồng nhiệt, Lan Khai đã xây dựng nhân vật Ngọa Triều hoàng đế là một tên

vua hoang dâm vô độ, một tên bạo chúa khét tiếng. Ngay từ nhỏ hắn đã thể hiện một bản tính

ham mê sắc đẹp đến điên loạn. Khi làm vua, hắn ăn chơi sa đọa đến mức mắc bệnh không

ngôi lên đƣợc, hắn cứ phải nằm mà thị triều. Lớn lên, hắn giết anh để lên ngôi vua. Không

những thế hắn còn tru di cả dòng họ Lý chỉ vì một giấc mơ hết sức vô lý : vua Ngọa Triệu

nằm mộng thấy mình ăn quả lê mà bên trong lại là hột mận. Theo lời quan giải mộng thì điểm

gỡ ấy báo hiệu ngôi nhà Lê phải mất vào tay họ Lý. Riêng tƣớng quân Lý Công Uẩn đƣợc

Dƣơng Hậu cứu thoát. Chính khát vọng tranh giành quyền lực cuồng loạn của bọn vua chúa

đã làm cho đất nƣớc điêu linh nhân dân lầm than khổ cực, đến mức tác giả không kìm nổi

cảm xúc của mình và đã thốt lên với một sự bất bình cao độ : “Vô lý thật, đem sự tan tóc của

bao nhiêu nhà, đem sinh mệnh của bao nhiêu ngƣời, đổi lấy chút thỏa lòng của một kẻ hung

ác...” [111,22].

98

Dƣới ngòi bút của Lan Khai những mâu thuẫn trong triều đình nhà Lê đã lên đến cực

điểm. Trong triều đinh, vua chúa quan lại nghi ngờ lẫn nhau, giết hại lẫn nhau. Điển hình là

việc Dƣơng Phi, vì ham muốn xác thịt đã gây nên cái chết oan uổng của quan Thái sƣ. Tất cả

những sự việc, những chi tiết mà Lan Khai đã phản ánh đã đem đến cho tác phẩm một giá trị

hiện thực sâu sắc, góp phần lên án và tố cáo chế độ.

Trong “Bà Chúa Chè”, Nguyễn Triệu Luật đã thông qua cuộc đời của một cô gái hái

chè xinh đẹp bỗng chốc trở thành Vƣơng Phi có quyền nghiêng thiên hạ để phản ánh sự sụp

đổ tất yếu của triều đình họ Trịnh, đồng thời phản ánh tất cả những mâu thuẫn, những rối ren

lục đục của một chế độ xã hội phong kiến đang trên con đƣờng tan rã : trên triều thì mất hết

kỷ cƣơng, dƣới dân chịu toàn thống khổ. Sống trong cái xã hội ấy, Đặng Thị Huệ không thể

là “con công sống giữa đàn gà”, là con “phƣợng hoàng” sống giữa cuộc đời trần trụi. Để có

đƣợc sự đổi đời nàng đã phải trả một cái giá quá đắt. Xã hội lừa lọc thì nàng cũng phải sống

lọc lừa, xã hội xảo trá thì nàng cũng phải xảo trá. Xã hội ấy “muốn chôn vùi bao nhiêu áng

thanh xuân mơn mởn” [124,9], vì vậy nàng lại cố sức chống cự và vùng vẫy. Cũng vì thế, dù

tàn bạo hay bắt buộc phải tàn bạo nàng cũng chiếm đƣợc sự cảm thông nhất định ở ngƣời

đọc, một sự cảm thống cho “ức vạn ngƣời đàn bà, đời ấy qua đời khác, phải bắt buộc làm vật

hy sinh cho sự ích kỷ của các vua chúa” [124,9]. Và cũng từ đó, ngƣời đọc có phần “xót

thƣơng đến cả những lỗi lầm những mƣu mô phản trắc, những ganh tỵ nhỏ nhen của hạng đàn

không hiểu đuợc cảnh ngộ thê thảm của chính mình [138,9]. Bằng cảm hứng thế sự nhƣ vậy,

Nguyễn Triệu Luật đã thể hiện tấm lòng nhân đạo đối với con ngƣời.

3.1.3. Cảm hứng đạo lý.

Cảm hứng đạo lý vốn là một thực trạng cảm hứng mang ý nghĩa tƣ tƣởng, thẩm mỹ đã

có truyền thống lâu đời trong lịch sử văn học Việt Nam

99

thời trung đại, một khi mà quan điểm “văn dĩ tải đạo”, “văn dĩ minh đạo”, “văn dĩ quán đạo”,

“thi ngôn chí” từng là quan điểm nghệ thuật chủ đạo của việc sáng tác văn chƣơng. Sang đầu

thế kỷ XX này, nguồn cảm hứng đạo lý này so với trƣớc có phần vơi cạn, hoặc có sự biến

dạng, biến tƣớng bởi quan điểm đạo lý không chỉ bị hao hụt mà còn có nhiều thay đổi theo

thời đại, nhƣng dù vậy vậy thì quan điểm đạo lý - từ đó cảm hứng đạo lý vẫn tồn tại. Đặc biệt

là với một số tác giả ở Nam Bộ nhƣ Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình, Trần Thiện Trung, Tân Dân

Tử... Tiểu thuyết lịch sử từng lấy cảm hứng dân tộc và thế sự làm nguồn cảm hứng chủ đạo

nhƣng không phải không in rõ dấu ấn của cảm hứng đạo lý. Đạo lý ở ngay trong cảm hứng

dân tộc và cảm hứng thế sự, mặc dù không đồng nhất. Đạo lý ở ngay trong cảm hứng dân tộc

và cảm hứng thế sự mặc dù không phải là sự đồng nhất. Trong những tác phẩm trực tiếp lấy

cảm hứng dân tộc làm nội dung chủ đạo thì chính đây vẫn có sự gắn bó sâu sắc của cảm hứng

dân tộc và cảm hứng đạo lý. Bởi tất cả các tác giả viết về đề tài dân tộc, về các cuộc chiến

tranh vệ quốc trong lich sử đều đã không chỉ bộc lộ cảm xúc, cảm hứng dân tộc mà còn bộc

lộ cảm hứng đạo lý. Với họ, đạo lý cao nhất, thiêng liêng nhất chính là yêu nƣớc là nêu cao

tinh thần căm thù giặc, là ý chí quyết chiến, quyết thắng với kẻ thù. Ai làm ngƣợc với điều đó

là phản dân tộc nhƣng cũng là phản đạo lý. Thậm chí, trƣớc hết là phản đạo lý. Đây là 1 quan

điểm tự giác trong sự gắn kết nhƣng không đồng nhất.

Riêng trong một số tác phẩm tiểu thuyết lịch sử ở Nam Bộ, ngoài cảm hứng dân tộc

và cảm hứng thế sự, các nhà văn còn xen vào cảm hứng đạo lý một cách trực tiếp do đó rất rõ

nét. Thông qua những mẩu chuyện tình yêu của những bậc trai tài gái sắc, các nhà văn đã

ngợi ca những phẩm chất của những con ngƣời vì nghĩa, sẵn sàng xả thân để thủ nghĩa. Tinh

thần vì nghĩa đã trở thành những điểm sáng chi phối hành động của các nhân vật chính nghĩa

trong tác phẩm. chính cảm hứng này đã làm cho tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ thƣờng đậm đà

tính chất đạo lý. Trong tác phẩm “Giọt máu chung tình” của Tân Dân Tử, nhân vật Bạch Thu

Hà xuất phát từ tinh thần vì nghĩa đã trả lời.

100

Võ Đông Sơ rằng: “Vậy xinh chớ lấy sự luân thƣờng lễ nghĩa mà xem thƣờng một chuyện

giỡn mận, chơi đào và chớ tƣởng sự trộm phấn mến hƣơng mà mang đƣờng tội lỗi. Còn nhƣ

quan nhơn đem sự nặng tình nghĩa mà tƣởng đến phận đào tơ liễu yếu thì tôi rất cảm tạ muôn

vàn [198,70 - 71]. Cái đạo lý mà Tân Dân Tử ca ngợi ở đây chính là lòng yêu nƣớc, tinh thần

xả thân vì nƣớc của những đấng năm nhi và đạo vợ chồng thủy chung của những ngƣời phụ

nữ. Nhân vật Thu Hà đã thể hiện lòng trung nghĩa của mình: “Lang quân ơi! Lang quân đã

biết lấy một lòng ái quốc liều thân danh mà trả nợ nƣớc nhà. Vậy thì thiếp thân đây cũng

nguyện đổ một giọt máu chung tình, xuống địa ngục đặng đền ơn tri ngộ”. [198,241]. Không

những thế, Tân Dân Tử còn muốn thông qua hình tƣợng nhân vật, mƣợn lời của nhân vật để

nói đến cái đạo lý làm ngƣời. Trong tác phẩm, tác giả đã thể hiện nỗi đau xót xa khi thấy con

ngƣời bị tha hóa về nhân cách, trở thành những kẻ tán tận lƣơng tâm. Đây là lời của Võ Đông

Sơ nói với một tên đạo chính:

“Ôi ! Tên cƣờng bạo kia ơi ! Ta ứa nƣớc mắt mà khóc dùm cho cái linh hồn mi đã

chết rồi, cái xác thịt tuy còn chạy chạy đi đi trong cõi thế gian này song cái lƣơng tâm mi đã

mất, duy còn một hơi thở thoi thóp đó mà thôi. Nếu mi chẳng biết cải ác tùng lƣơng, khử tà

quy chính, thì cây đao pháp luật nó sẽ kề nơi cổ mi, mà làm cho mi đầu một nơi mình một

ngã”. [198,32].

Không những thế, Tân Dân Tử còn thể hiện một ý tƣởng muốn cứu vƣớt con ngƣời

đƣa những con ngƣời bị tha hóa trở lại thành những con ngƣời lƣơng thiện bình thƣờng. Thiết

tƣởng, ở đây, Tân Dân Tử đã thể hiện một tƣ tƣơng nhân đạo, thể hiện một khát vọng phục

thiên của những con ngƣời đầy thiện tâm. Tƣ tƣởng này gần với tƣ tƣởng của những nhà văn

hiện thực phê phán giai đoan 1930 - 1945 nhƣ Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan,

khi tác giả viết: “Ớ! Tên kia ơi - vậy ta xin khuyên ngƣơi một lời chót này nữa: là ngƣời hãy

mau mau cải ác tùng lƣơng, khử tà quy chính,

101

đặng lo mà làm ăn công nghệ, lo mà buôn bán sanh nhai, lo giúp đỡ đồng bào mà cạnh tranh

quyền lợi, làm sao cho ra một ngƣời ích nƣớc lợi nhà mà đứng đợi với vũ trụ sơn hà cho khỏi

mang tiếng nhục nhơ nòi giống” [198, 31].

Cảm hứng đạo lý không chỉ đƣợc thể hiện thông qua những lời nói của nhân vật mà

có lúc còn đƣợc thể hiện ở việc miêu tả những tình huống để nhân vật thể hiện tƣ tƣởng đạo

lý, tƣ tƣởng vì nghĩa của mình. Tiêu biểu là hành động của Võ Đông Sơ đánh tên cƣớp để

cứu Bạch Thu Hà, hành động của Triệu Dõng đánh hổ để cứu Thu Hà và Triệu Nƣơng trong

tác phẩm “Giọt máu chung tình”. Chúng ta dễ dàng tìm thấy những hành động nhƣ vậy ở một

số nhân vật nhƣ Tiểu Đồng, Ngƣ Ông, ông Quán trong tác phẩm: “Lục Vân Tiên” của

Nguyễn Đình Chiểu ở giai đoạn trƣớc đó, của Vƣơng Thế Trân đánh bọn cƣớp Trịnh Cao để

cứu mẹ con Khả Ái trong tác phẩm “Phan yên ngoại sử”, hay Triệu Lƣơng giải thoát cho Kim

Huê ra khỏi thanh lâu trong tác phẩm “Oán Hồng quần Phùng Kim Huê ngoại sử”, Cao Sĩ

Quý cứu Liên Tử Tâm khỏi chết đuối trong tác phẩm “Cô Ba Trà” hay hành động của Lục

Tặc, Năm Mạnh trong tác phẩm “Châu về hiệp phố” và một số nhân vật khác trong tiểu

thuyết bằng văn xuôi tự sự của Nam bộ trƣớc và cùng thời kỳ này.

Ở loại cảm hứng đạo lý gắn với thế sự này cũng thấy rõ hơn là với các tác giả Nam

bộ. Tìm hiểu tình hình sáng tác ở Nam Bộ từ Nguyễn Đình Chiểu trở đi cho đến Hồ Biểu

Chánh, chúng ta cũng sẽ hiểu tại sao các nhà văn Nam Bộ quan tâm nhiều hơn, trực tiếp hơn

về vấn đề đạo lý. Tại sao cảm hứng đạo lý thể hiện trong tác phẩm của họ rõ nét hơn, trực

tiếp hơn.

Nhƣ vậy, dòng cảm hứng đạo lý trong những tiểu thuyết lịch sử của Nam bộ sâu đậm

hơn và đƣợc các tác giả đặt ra một cách có ý thức hơn và trực diện hơn ở những cuốn tiểu

thuyết lịch sử ở miền Băc. Điều này chứng tỏ rằng các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử của

Nam bộ đã phần nào cùng chung dòng cảm hứng đạo lý trong tiểu thuyết văn xuôi tự sự tiếng

Việt ở Nam Bộ với

102

những tác giả tiêu biểu nhƣ Hồ Biểu Chánh, Lê Hoàng Mƣu, Nguyễn Chánh Sắt... nói chung.

Tóm lại, cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là

cảm hứng lịch sử và dân tộc, cảm hứng thế sự và đạo lý trong đó, nổi trội hơn cả là cảm hứng

lịch sử và dân tộc. Tuy nhiên, khi quay về với quá khứ lịch sử cụ thể, với một ý đồ nghệ thuật

khác nhau, với một ý đồ nghệ thuật khác nhau, với một sự đánh giá và nhận thức về lịch sử

khác nhau thì cảm hứng dân tộc đậm đà, lai láng hơn cả. Trong mƣời cuốn tiểu thuyết lịch sử

của ông đã có 9 cuốn viết với cảm hứng lịch sử dân tộc dạt dào. Duy chỉ có cuốn Đinh Tiên

Hoàng viết với cảm hứng thế sự. Điều ấy giải thích lý do vì sao một số tác phẩm lịch sử của

Nguyễn Tử Siêu lại bị thực dân Pháp cấm lƣu hành và bọn chúng đã quản thúc tác giả một

cách ngặt nghèo nhƣ trên đã nói.

Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên từ đầu thế kỷ XX đến 1930, tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam thƣờng nghiêng về cảm hứng lịch sử và dân tộc, ít có tác phẩm viết với cảm hứng thế

sự. Từ 1930 - 1945, cảm hứng lịch sử và dân tộc trong tiểu thuyết lịch sử vẫn phát triển

nhƣng có chiều hƣớng giảm dần nhƣờng chỗ cho cảm hứng lịch sử và thế sự. Nguyên nhân

của hiện tƣợng này có thể là do thực dân Pháp kiểm duyệt và khủng bố khá gắt gao đối với bộ

phận văn học yêu nƣớc. Bởi lẽ, chúng quan niệm rằng, nói đến dân tộc tức là kích động lòng

yêu nƣớc và cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng, động viên quần chúng đứng dậy đấu tranh.

Điều ấy hoàn toàn bất lợi đối với chúng. Tuy nhiên, ở thời kỳ này có những cuốn tiểu thuyết

lịch sử vừa có cảm hứng dân tộc vừa có cảm hứng thế sự nhƣng vẫn đƣợc công khai lƣu hành

nhƣ một cuốn sách của dòng văn học hợp pháp. Tiêu biểu là cuốn “Tiêu Sơn tráng sĩ” của

Khái Hƣng, Sở dĩ có hiện tƣợng này là vì tác giả “Tiêu Sơn tráng sĩ” đã đứng trên lập trƣờng

quan điểm của chủ nghĩa lãng mạn, với cảm hứng dân tộc mập

103

mờ. Vì thế, từ khi ra đời cho đến nay nó đã gây nên nhiều cuộc tranh luận sôi nổi. Trong lần

tái bản năm 1951, nhà xuất bản Thăng Long đã ca ngợi tinh thần yêu nƣớc, tinh thần bất

khuất của những tráng sĩ Tiêu Sơn: “Những tráng sĩ Tiêu Sơn đã nêu cao tấm gƣơng tranh

đấu, kiên quyết hi sinh cho lý tƣởng để đánh đổ bạo quyền và áp bức. Tinh thần dũng cảm

của những tráng sĩ Tiêu Sơn có thể tƣợng trƣng cho tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam

trong những cuộc khởi nghĩa trong lịch sử”. Trong lần tái bản năm 1957 ngƣời giới thiệu của

cuốn sách lại ca ngợi lòng yêu nƣớc của các tráng sĩ Tiêu Sơn trong việc phò Lê Chiêu Thống

để chống lại Tây Sơn: “Trong quãng đời ấy, họ đã tận tụy hy sinh cho một lý tƣởng, lòng yêu

nƣớc. Lòng yêu nƣớc của họ đồng nhất với lòng yêu triều đại cũ và đƣợc coi là có chính

nghĩa vì xuất phát từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và mƣời năm kháng chiến chống quân Minh

xâm lƣợc. Lòng trung thành, chí khẳng khái, cái nhiệt tình và tinh thần dũng cảm của họ đáng

mến phục biết chừng nào”. Trong khi đó, trong lời giới thiệu cuốn “Tiêu Sơn tráng sĩ” tái bản

năm 1989 (Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp), Phan Cự Đệ lại cho rằng: “Không thể

gọi những đảng viên Tiêu Sơn là những nhà yêu nƣớc chân chính, cuộc khởi nghĩa của họ là

“chính nghĩa” là “tƣợng trƣng cho tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam”. Bởi vì họ đã

bênh vực cho một triều đại thối nát đi ngƣợc lại với quyền lợi của dân tộc” [64,6].

Chúng tôi cũng tán thành nhận định trên, nhƣng thiết tƣởng cũng cần phải xem xét kỹ

lƣỡng hơn thái độ Khái Hƣng đối với lịch sử dân tộc nhƣ thế nào. Tác giả của “Tiêu Sơn

tráng sĩ” có “lý tƣởng hóa một lớp tráng sĩ phò vệ nhƣng vẫn không dấu nổi lòng khâm phục

khi nói về chiến công đại phá quân Thanh của ngƣời anh hùng áo vải Nguyễn Huệ” [106,6].

Không những thế, một số ít đảng viên Tiêu Sơn còn tỉnh táo nhƣ Trịnh Oán (con

Trịnh Bồng) thì đã lấy bài học bán nƣớc nhục nhã của Lê Chiêu Thống ra để răn đe những kẻ

đang có mƣu toan sang cầu viện Trung Quốc.

104

hoặc liên minh với Nguyễn Ánh để đánh lại Tây Sơn.Ở đây, tác giả của “Tiêu Sơn tráng sĩ”

cũng đã bộc lộ quan điểm về lòng yêu nƣớc riêng của mình : “Không có lòng yêu nƣớc

thƣơng dân mà chỉ nghĩ đến quyền lợi một mình mình, của một đảng mình thời dẫu có lên

làm vua làm chúa nữa cũng chẳng ra gì, huống chi nhiều khi còn phạm thêm cái tội rƣớc voi

về dầy mồ” [106,7].

Rõ ràng, cảm hứng dân tộc, thế sự và đạo lý ít nhiều mang tính chất lãng mạn trong

những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1900 đến 1945 rất đa dạng và phong phú với

nhiều biến thể của nó. Chính tính chất đa dạng này của cảm hứng đã làm nên tính chất phong

phú đa dạng trong diện mạo, hệ thống đề tài cũng nhƣ quan niệm nghệ thuật về con ngƣời

trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX này.

3.2. Quan niệm nghệ thuật về con người của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

từ đầu thế kỷ XX đến 1945

Trong lịch sử văn học thế giới, quá trình cách tân và hiện đại hóa văn học thƣờng gắn

liền với sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Tất nhiên, quá trình đổi mới này phải

diễn ra một cách toàn diện, đồng bộ và liên tục. Ở đó, những yếu tố mới và yếu tố cũ thƣờng

đan xen và hỗ trợ cho nhau. Yếu tố mới đƣợc hình thành trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những

mặt tích cực của yếu tố cũ. Mỗi khi văn học có sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con

ngƣời, thì nội dung phản ánh và nghệ thuật phản ánh nội dung đó cũng có sự thay đổi cho

phù hợp với quan điểm nghệ thuật về con ngƣời của từng nhà văn.

Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX đến 1945 là giai đoạn văn học có sự chuyển tiếp từ

văn học trung đại sang nền văn học đƣợc cách tân và hiện đại hóa trên nhiều phƣơng diện.

Trong đó, sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con ngƣời đóng vai trò chủ đạo. Đây là giai

đoạn mà văn học có sự chuyển

105

tiếp từ “văn chƣơng ngôn chí”, “văn dĩ tải tạo”, “văn chƣơng thủ tạc”, “văn chƣơng tỏ lòng”,

sang “Văn chƣơng phản ánh hiện thực”. “văn chƣơng tuyên truyền cổ vũ tinh thần cách

mạng, kêu gọi tinh thần đấu tranh cách mạng”.

Mặt khác, chính đặc trƣng của thể loại tiểu thuyết nói chung và chủng loại tiểu thuyết

lịch sử nói riêng đã mở ra một khả năng mới trong nội dung phản ánh và làm phong phú nghệ

thuật biểu hiện, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con

ngƣời. Đối với thể loại tiểu thuyết, tác giả thƣờng dấu mình đi và nhân vật chính là cái loa

phát ngôn cho tƣ tƣởng nghệ thuật của tác giả.

Vì thế, khoảng cách giữa nhân vật với tác giả viết tiểu thuyết dần dần bị xóa bỏ. Hiện

thực trong tiểu thuyết thƣờng xuyên bị biến đổi, phong phú và vô cùng phức tạp nhƣ nó đang

sinh thành, đang tồn tại. Đặc biệt tiểu thuyết còn tạo cho nhà văn một khả năng nhìn nhận con

ngƣời ở góc nhìn đời tƣ. Chính những đặc trƣng này của tiểu thuyết đã tạo điều kiện cho nhà

tiểu thuyết có cái nhìn đổi mới hơn, có nhiều phƣơng hƣớng xây dựng linh hoạt, linh diệu

hơn và tạo ra một khả năng khám phá sâu sắc hơn về con ngƣời so với những thể loại khác.

Thế nhƣng, trong thể loại tiểu thuyết, con đƣờng chiếm lĩnh, khám phá con ngƣời ở

từng chủng loại cũng khác nhau, liên quan đến sự khác nhau trong tƣ tƣởng nghệ thuật của

từng nhà văn và trong quan điểm nghệ thuật của từng dòng văn học: tiểu thuyết tâm lý tập

trung khám phá và tìm hiểu con ngƣời tâm lý với những biến thái phức tạp trong tâm lý và

tình cảm: “Nó đi vào thế giới nội tâm phong phú của con ngƣời”. Trong khi đó, tiểu thuyết

hiện thực khám phá tìm hiểu con ngƣời trong các mối quan hệ xã hội phức tạp. Tiểu thuyết

phong tục đi vào tìm hiểu con ngƣời trong các mối quan hệ giữa con ngƣời với phong tục tập

quán của một địa phƣơng, một xứ sở, một dân

106

tộc... Tiểu thuyết lịch sử cũng có cách chiếm lĩnh riêng về con ngƣời, mà trƣớc hết là con

ngƣời trong quá khứ.

3.2.1. Quan niệm về người anh hùng cứu nước.

Đối tƣợng quan tâm của tiểu thuyết lịch sử là con ngƣời lịch sử, con ngƣời trong quá

khứ, có mối quan hệ chặt chẽ với dân tộc, với cộng đồng, với giai tầng. Phản ánh, khám phá,

tìm hiểu những con ngƣời này, các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử tập trung ca ngợi những

nét tính cách vĩ đại, phi thƣờng của họ. Đó là lý tƣởng dựng nƣớc, giữ nƣớc, coi khinh danh

lợi, dám xả thân vì sự nghiệp cứu nƣớc, cứu dân, có lòng căm thù giặc sâu sắc. Chính lòng

căm thù là động lực tinh thần giúp họ nâng cao nhiệt tình chiến đấu. Trong chiến đấu, họ là

những con ngƣời kiên cƣờng, dũng mãnh, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cho sự

nghiệp cứu nƣớc. Vì thế, dƣới con mắt của những nhà sử học, họ là những con ngƣời phi

thƣờng, những vĩ nhân của thời đại. Thế nhƣng, do tâm lý của thời đại lịch sử, do đặc trƣng

của thể loại tiểu thuyết, các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử lại quan tâm thêm đến những mặt

đời thƣờng ở những con ngƣời đƣợc coi là phi thƣờng ấy. Cách quan niệm mới mẻ này về

con ngƣời của các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử còn xuất phát từ dụng ý: không muốn làm

cho ngƣời đọc tâm lý rợn ngợp trƣớc ngƣời xƣa. Mặt khác, muốn “độc giả thêm tin vào lịch

sử và tin rằng bản thân mình cũng có thể làm đƣợc nhƣ tổ tiên” [23,20].

Nhƣ đã nêu ở trên, đề tài chủ yếu của tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này hƣớng tới là đề

tài chống xâm luợc. Vì thế, trong tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này, các nhà văn đã thể hiện một

quan điểm nghệ thuật về con ngƣời anh hùng cứu nƣớc. Họ đã xây dựng đƣợc những hình

tƣợng ngƣời anh hùng. Có thể nói rằng: hình tƣợng ngƣời anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã đánh dấu một bƣớc trƣởng thành mới của văn học Việt Nam

từ

107

chỗ phản ánh ngƣời anh hùng phi thƣờng đến chỗ phản ánh ngƣời anh hùng bình thƣờng.

Theo quan niệm của các nhà tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này, đã là ngƣời chân chính thì

phải có lý tƣởng cao đẹp. Đó là lý tƣởng dựng nƣớc và giữ nƣớc, phải tỏ lòng nhiệt tình yêu

nƣớc cao độ, dám coi khinh danh lợi, dám xả thân vì sự nghiệp cứu nƣớc và phải có lòng căm

thù giặc sâu sắc. Lòng căm thù là động lực tinh thần góp phần nâng cao nhiệt tình chiến đấu ở

ngƣời anh hùng phải trải qua nhiều gian nan thử thách, kể cả sự hy sinh tính mạng của mình.

Nhân vật Triệu Thị Trinh trong tác phẩm “Ngọn cờ vàng” của Đinh Gia Thuyết đã

nói: “em chỉ muốn cƣỡi luồng gió to, phá làn sóng bạc, giêt sạch đàn cá kình nơi biển cả, cứu

cho loài ngƣời khỏi phải đắm đuối chứ không khi nào chịu cong lƣng cúi cổ, cam chịu almf

con đòi vợ lẽ ngƣời ta” [185. 32].

Theo quan niệm của các nhà văn tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này thì đã là ngƣời anh

hùng phải vừa có ý chí, vừa có tài thao lƣợc, vừa có lòng dũng cảm. Trong tác phẩm “Trần

Nguyên chiến kỷ”, Nguyễn Tử Siêu đã ca ngợi lòng dũng cảm của Phạm Ngũ Lão và Yết

Kiêu trong một trận quyết tử với quân xâm lƣợc Nguyên Mông: “Nói rồi, hô quân bổ vây tứ

phía, Phạm Ngũ Lão cùng Dã Tƣợng, Yết Kiêu xông vào chém giết, quân Nguyên vừa thoát

khỏi hang hùm, lại gặp ngay miệng báo, thời hồn phách đã bay lên mây rồi còn hơi sức đâu

mà đánh, nên tức khắc tan vỡ ngay” [170,118].

Không chỉ ca ngợi lòng dũng cảm của ngƣời anh hùng, Nguyễn Tử Siêu còn ca ngợi

tài thao lƣợc đầy mƣu trí của Trần Hƣng Đạo với một giọng văn đầy sảng khoái: “Hƣng Đạo

Vƣơng thấy quân Nguyên đổ ra nhiều quá liền lập tức rút cờ lệnh phất sang tả, rồi lại phất

sang hữu, tức thời bên tả Dã Tƣợng, Yết Kiêu, bên hữu Cao Mang, Đại Hành dẫn hai cánh

quân trợ chiến cho Quốc Toản. Trống trận vang trời, tiếng reo dậy đất, hai quân loạn chiến

cũng

108

đã khá lâu mà không bên nào giữ phần thủ thắng. Hƣng Đạo Vƣơng lầy làm nóng ruột, liền

sai Lê Phụ Trần dẫn một đội quân ra đằng sau trận Nguyên mà đánh tập hậu. Hƣng Đạo

Vƣơng thân đánh trống trận, nên quân tƣớng đều ra sức đánh rất hăng” [170, 120].

Trong quá trình khắc họa phẩm chất ngƣời anh hùng, các nhà văn nhấn mạnh thái độ

của ngƣời anh hùng trƣớc cái chết: chết có ích, không chết vô vị, chết trong chiến đấu, không

chết trong vòng tay của vợ. Mặc dù vậy, về phƣơng diện tâm hồn, ở ngƣời anh hùng vẫn có

sự kết hợp hài hòa giữa cái tôi cá nhân (indivivu) với cái ta, cái chung của dân tộc, lý tƣởng.

Nhân vật Phấn trong “Trùng Quang tâm sử” đã nói trƣớc tập thể rằng: “Không dấu gì các

đồng chí, bình sinh Phấn tôi chỉ mê có hai điều : anh hùng và con gái đẹp”. Phải chăng đây

“chính là sản phẩm của những yếu tố mới có tính chất hiện đại trong ý thức hệ mang màu sắc

dân chủ tƣ sản ít nhiều đã chớm lên trong tác giả cách mạng họ Phan” [45].

Sự kết hợp hài hòa ấy còn thể hiện trong việc xây dựng tình yêu ở một số nhân vật

lịch sử: tình yêu giữa Phạm Ngũ Lão với Trần Nguyên công chú trong “Trần Nguyên chiến

kỷ”, Bích Hà với Phùng Chính trong “Lê Đại Hành” v.v..của Nguyễn Tử Siêu, giữa An Tƣ

với Trần Thông trong tác phẩm “An Tƣ” của Nguyễn Huy Tƣởng, giữa Võ Đông Sơ và Bạch

Thu Hà trong tác phẩm “Giọt máu chung tình” của Tân Dân Tử, giữa Mạch Kính Hoàn và

Phƣơng Lan trong tác phẩm “Ái tình và sự nghiệp”, giữa Vũ Mật và Lan Anh trong tác phẩm

“Ai lên phố Cát” của Lan Khai.

Đặc biệt, trong tác phẩm “Trùng Quang tâm sử”, Phan Bội Châu đã xây dựng thành

công ngƣời anh hùng với tính chất tập thể. Đây là một hình tƣợng mà trong văn học Việt

Nam cuối thế kỷ XIX trở về trƣớc đã có nhƣng chƣa hoàn thiện.

109

Từ sau cách mạng tháng 8/1945, với phƣơng pháp sáng tác mới - phƣơng pháp sáng

tác hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta đã xây dựng đƣợc nhiều hình tƣợng ngƣời anh

hùng và những tập thể anh hùng… Thế nhƣng ngƣời anh hùng đây thƣờng dựa trên sức mạnh

của tập thể, đại diện cho tập thể, sống và lớn lên từ trong tập thể và đƣợc tập thể xây dựng

thành ngƣời anh hùng mang phẩm chất của quần chúng cách mạng, của cả dân tộc và thời

đại, khác với tập thể những ngƣời anh hùng trong “Trùng Quang tâm sử”. Đó là một tập thể

gồm nhiều anh hùng hợp lại tạo ra và làm nên một sức mạnh chung. Rõ ràng hình tƣợng

ngƣời anh hùng trong tác phẩm “Trùng Quang Tâm sử” chƣa vƣơn tới đƣợc những đặc điểm

của ngƣời anh hùng trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa sau này, nhƣng về cơ bản, Phan

Bội Châu đã có một bƣớc tiến khá xa so với văn học Trung đại trong tƣ tƣởng nghệ thuật

cũng nhƣ hình thức thể hiện ngƣời anh hùng. Trên cơ sở đó, Phan Bội Châu đã xây dựng

đƣợc một tập thể anh hùng đông đảo, đủ các tầng lớp trong xã hội, đủ mọi thành phần giai

cấp, có anh hùng vô danh, có anh hùng hữu danh, có tính cách chung và tính cách riêng.

Đặc biệt, trong tác phẩm “Trùng Quang tâm sử”, Phan Bội Châu không hề có ý định

xây dựng một nhân vật chính diện nào nhƣ một điển hình là cá nhân anh hùng, chi phối và lấn

át những anh hùng khác. Mỗi nhân vật của Phan Bội Châu đều là anh hùng, tuy mức độ đâm

nhạt khác nhau nhƣng đều rất nổi bật. Họ đều là những con ngƣời sống có lý tƣởng chân

chính, lấy sự đóng góp của bản thân mình cho cuộc đấu tranh chung của dân tộc làm lẽ sống,

làm mục đích cao cả của đời mình. Ở họ còn có chung lòng yêu nƣớc nồng nàn, lòng căm thù

giặc sâu sắc, quyết xả thân vì sự nghiệp cách mạng vì độc lập tự do cho dân tộc… Họ vốn

xuất thân từ nhân dân lao động, tất cả đều đã chịu sự áp bức bóc lột vô cùng tàn tệ của giặc

Ngô. Trong những cuốn tiểu

110

thuyết lịch sử của Nguyễn Tử Siêu, của Đinh Gia Thuyết, của Nguyễn Huy Tƣởng, những

nhân vật nhƣ Trần Hƣng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Triệu Thị Trinh, Lê Đại Hành, Phùng Hƣng…

đều có chung những phẩm chất nhƣ vậy.

3.2.2. Quan niệm về người phụ nữ.

Nhƣ đã trình bày ở phần giới thuyết về tiểu thuyết lịch sử: đối tƣợng của tiểu thuyết

lịch sử là những vấn đề của lịch sử và con ngƣời của lịch sử. Vì thế, quan niệm về con ngƣời

trong tiểu thuyết lịch sử hết sức phong phú và đa dạng. Tiểu thuyết lịch sử không chỉ quan

tâm đến những bậc anh hùng cứu nƣớc thuộc đấng mày râu mà còn quan tâm đến những nhân

vật phụ nữ. Việc quan tâm đến ngƣời phụ nữ trong văn học không phải là mới. Bởi lẽ, vấn đề

này vẫn thƣờng đƣợc đặt ra khá đậm nét trong văn học dân gian và văn học viết thời trung

đại. Cái mới nằm ngay trong quan niệm của tiểu thuyết lịch sử về ngƣời phụ nữ và thái độ

của các nhà văn đối với hiện tƣợng này. Trong văn học dân gian và văn học viết thời trung

đại, ngƣời phụ nữ bị bao thế lực xã hội áp bức, đè nén và đe dọa. Cho dù đối tƣợng đó là ai,

là bọn quan lại phong kiến, là những thế lực đen tối, hay những nguời chồng hƣ hỏng thì

nguời phụ nữ đều bị bác đãi và bị khinh rẻ một cách thậm tệ. Đến nỗi đại thi hào Nguyễn Du

đã phải thốt lên:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Vì thế, trong văn học dân gian và văn học viết ở thời trung đại mỗi khi viết về ngƣời

phụ nữ, các tác giả thƣờng dành cho một nội dung nhân quyền sâu sắc. Nhiều tác phẩm đã đề

cập đến những khát vọng về quyền sống, quyền làm mẹ, làm vợ của ngƣời phụ nữ. Tiêu biểu

là tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ, “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn và

dịch

111

giả Đoàn Thị Điểm (?), “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ Xuân Hƣơng,

“Truyện Kiều” và thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Du, thơ của Nguyễn Văn Siêu v.v…

Trong văn học phê phán giai đoạn 1930 - 1945 cũng đề cập đến với ngƣời phụ nữ thế

nhƣng các nhà văn hiện thực phê phán chỉ mới chú trọng phản ánh nỗi đau khổ về vật chất và

tinh thần của ngƣời phụ nữ. Tiêu biểu là chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn”, bà cụ Tý trong

tác phẩm “Một bữa no”, ngƣời đàn bà trong tác phẩm “Đòn chồng” của Nam Cao, Tám Bính

trong tác phẩm “Bỉ Vỏ” của Nguyên Hồng v.v… Còn ở Hoàng Ngọc Phách - tác giả mở đầu

cho dòng tiểu thuyết lãng mạn của Việt Nam - trong tác phẩm “Tố Tâm”, thì không nói đến

quyền làm mẹ, làm vợ của ngƣời phụ nữ mà lại quan tâm đến khát vọng về một tình yêu lý

tƣởng, đòi đƣợc yêu và đƣợc lấy ngƣời mình yêu của phụ nữ. Tiếp theo Hoàng Ngọc Phách,

các tác giả Nhất Linh, Khái Hƣng, Hoàng Đạo của nhóm Tự lực Văn Đoàn cũng đã đi sâu

vào phản ánh những nỗi đau của ngƣời phụ nữ. Nhƣng đó là nỗi đau của những phụ nữ bị

ràng buộc, bị hành hạ bởi sự khắt khe hà khắc của lễ giáo phong kiến trong lĩnh vực tình yêu

hay trong mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu. (“Hồn bƣớm mơ tiên”, “Nửa chừng

xuân”, “Gia đình”, “Đoạn tuyệt”…). Còn trong tiểu thuyết lịch sử, các nhà văn lại nói đến nỗi

đau xót của ngƣời phụ nữ trƣớc nỗi nhục mất nƣớc và nỗi đau của họ khi thấy chồng mình

làm những việc hại dân, phản nƣớc. Nhân vật Đặng Thị (vợ Trần Di Ái), trong “Trần Nguyên

chiến kỷ” là một con ngƣời bình thƣờng. Thế nhƣ khi biết tin chồng mình đi theo quân

Nguyên trở về Thăng Long thì bà vô cùng đau khổ, dằn vặt trong tâm hồn. Cuối cùng bà đã

chọn con đƣờng tự vẫn để khỏi nhìn thấy mặt ngƣời chồng bán nƣớc của mình. Hành động

của Đặng Thị đã thể hiện lòng yêu nƣớc và tinh thần tự trọng rất cao của ngƣời phụ nữ Việt

Nam. Nhân vật Lan Anh trong tác phẩm “Ai lên Phố Cát” của Lan Khai đã chết ngất đi khi

112

nghĩ rằng Vũ Mật (ngƣời yêu của cô) có hành động phản quốc. Ngƣời phụ nữ trong tiểu

thuyết lịch sử thời kỳ này cũng có những khát vọng và hạnh phúc lứa đôi. Nhƣng họ lại mong

muốn đƣợc lấy một ngƣời chồng có lý tƣởng anh hùng, có tinh thần vì nƣớc vì dân. Nhân vật

Trần Nguyên công chúa trong tác phẩm “Trần Nguyên chiến kỷ” đã nói lên khát vọng đó:

“Con nghĩ ở đời mà có đƣợc một ngƣời vừa thiếu niên vừa anh hùng nhƣ Phạm Ngũ Lão thật

là rất hiếm, vì thế con không khỏi đựoc tấm lòng ngƣỡng mộ nhƣng con lại tự nghĩ đã đành

rằng Phạm Ngũ Lão là một bậc anh hùng nhƣng không biết tâm tính ra sao, có thể xứng là

một ngƣời tri kỷ…” [170,142].

Ngoài ra, ngƣời phụ nữ trong tiểu thuyết lịch sử giai đoạn đầu thế kỷ XX đến 1945

còn có một khát vọng khác nữa. Đó là khát vọng đƣợc trực tiếp cống hiến, đƣợc trực tiếp

tham gia vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và đòi đƣợc bình đẳng với nam giới trên

lĩnh vực này. Đồng thời, các tác giả của dòng tiểu thuyết lịch sử còn khẳng định quan điểm

tiến bộ : ngƣời phụ nữ cũng có thể trở thành anh hùng. Nhân vật Chí trong “Trùng Quang tâm

sử” đã nói: “Những sự nghiệp anh hùng có phải chỉ mình đàn ông làm đƣợc mà thôi đâu…

Ngƣời ta chỉ sợ không có chí, nếu có chí thì đàn bà cũng chả thua gì đàn ông” [16].

Trong văn học trung đại, ngƣời phụ nữ với tƣ tƣởng “Tứ đức tam tòng” không thể nói

đƣợc câu nói nhƣ cô Chí.

Với tƣ tƣởng tiến bộ ấy, trong tác phẩm “Trùng Quang tâm sử”, Phan Bội Châu đã để

cho nhân vật nữ xuất hiện với đầy đủ tƣ cách, phẩm chất và hành động của ngƣời anh hùng :

có nhiệt tình yêu nƣớc, có ý chí đấu tranh, có lòng dũng cảm trong chiến đấu chẳng thua kém

gì nam giới. Điển hình là hình ảnh cô Triệu, xuất thân từ một hoàn cảnh nghèo đói, côi cút,

nhƣng luôn luôn có ý định tìm cách thoát ra khỏi cảnh tối tăm ấy để tự nguyện đứng vào hàng

ngũ của những ngƣời anh hùng cứu nƣớc của trại Trùng Quang. Đó còn là một

113

cô Chí quyết tìm trả bằng đƣợc mối thù cho cha và thề lấy đƣợc “cái đầu của tên tuyên sứ

giặc Ngô”, làm lẽ sống làm lý tƣởng của đời mình. Để thực hiện đƣợc lý tƣởng ấy, Chí đã

phải làm ngƣời hành khất phải đầy đọa tấm thân mình để tìm bằng đƣợc những ngƣời đồng

lòng, đồng chí hƣớng.

Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù gay go quyết liệt nhất, bi đát nhất, Chí vẫn giữ đƣợc

khí tiết và phẩm chất trung thành với đồng đội đồng chí, sẵn sàng coi cái chết nhẹ tựa lông

hồng. Chí đã sẵn sàng “đập đầu vào đá” để chứng minh cho ý chí và tấm lòng trung thực của

mình. Qua nhân vật này, Phan Bội Châu đã bộc lộ một quan điểm tiến bộ về ngƣời anh hùng,

về phụ nữ, về quyền bình đẳng giữa ngƣời phụ nữ và nam giới trong sự nghiệp cứu nƣớc, cứu

nhà: “Cái lòng thƣơng nƣớc giữ nòi có phải độc quyền của nam giới đâu”.

Cùng với Phan Bội Châu, thời kỳ này còn có những tác giả khác cũng xây dựng

những nhân vật phụ nữ anh hùng. Nguyễn Tử Siêu có hàng loạt tác phẩm viết về ngƣời anh

hùng nhƣ “Vua Bà Triệu Ẩu” viết về Triệu Thị Trinh, “Hai Bà đánh giặc” viết về hai ngƣời

anh hùng Trƣng Trắc và Trƣng Nhị. Hoặc có nghĩa khí nhƣ Tiết Thị Huệ trong tác phẩm

“Tiếng sấm đêm đông” vốn là một con ngƣời bình thƣờng, nhƣng có lòng yêu nƣớc nên khi

thấy cha và anh mình đi theo quân Tàu thì đã can ngăn bằng những lời lẽ vô cùng thống thiết:

“Này anh, thế sao giặc Nam Hán nó lấy nƣớc An Nam của anh mà không thấy anh tức?

Không những anh không tức, anh lại còn đi xu phụng nó là vì sao? … [166,15]. Ngọc Nƣơng

trong “Việt Thanh chiến sử”, trƣớc khi tự vẫn còn viết thƣ cho Viễn Mƣu để báo cho Viễn

Mƣu biết tình hình quân giặc sắp sang xâm lƣợc nƣớc ta: “vậy cứ xét cái tình thế nƣớc ta hiện

nay thật là nguy lắm, chàng nên kịp đem cái cơ sự ấy mà báo với Ngô Tổng trấn để ngài kịp

bày kế đề phòng… Than ôi! Nƣớc nhà mất hay còn, đứa thất phu cũng có trách nhiệm. Trần

Lang nên cố lên…! Cố lên!” [171,13].

114

Nhân vật Bích Hà trong “Lê Đại Hành” chỉ là một lƣơng dân bình thƣờng nhƣng đã

tâu với nhà vua rằng: “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ có lòng thƣơng đến cha con thần thiếp mà phán

cho thần thiếp kết duyên với Phùng Vệ Úy, cánh bèo trôi dạt may gặp dòng trong, cha con

thần thiếp dù nát thịt, mòn xƣơng không đền đƣợc cái đức cao sâu của bệ hạ, duy thần thiếp

trộm nghĩ: Việt quốc sự hiện còn đƣơng cơn nguy ngập, phận làm ngƣời đều không nên nghĩ

đến thân gia. Thần thiếp tuy là phận nữ nhi, nhƣng cũng là kẻ lê dân trong nƣớc Cồ Việt. Vậy

việc nhân duyên xin thánh thƣợng hãy lƣợng hoãn cho đến khi quốc sự yên rồi sẽ nói đến…”

[168,27]. Có thể nói lòng yêu nƣớc, ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nƣớc không

chỉ thấm sâu ở những vị anh hùng dân tộc có tăm tiếng trong lịch sử mà còn in đậm vào gan

ruột của những ngƣời phụ nữ bình thƣờng. Đó chính là sức mạnh để dân tộc ta có thể chiến

thắng bất kỳ một kẻ thù xâm lƣợc nào.

Với quan niệm tiến bộ về ngƣời anh hùng, về ngƣời phụ nữ trong công cuộc chống

giặc cứu nƣớc, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn 1900 đến 1945 đã có một đóng góp

đáng kể về phƣơng diện nội dung, góp phần nhất định vào quá trình hiện đại hóa văn học

Việt Nam đặc biệt ở loại hình tiểu thuyết.

3.2.3. Điểm độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con người:

Điểm độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 là sự quan tâm chú ý đến tính chất bình thƣờng, ở ngƣời anh

hùng phi thƣờng… Ở họ có nhiều mối quan hệ đan xen tạo nên tính phức tạp, đa dạng trong

cuộc sống. Nhƣng nổi bật nhất vẫn là mối quan hệ giữa cá nhân với gia đình. Con ngƣời ở

đây đã đƣợc khám phá nhìn nhận thiên về góc nhìn đời tƣ. Đó là những suy nghĩ, những trằn

trọc, những trăn trở, buồn vui, hờn giận và kể cả những khát vọng cá nhân. Ngoài ra, con

ngƣời trong quan niệm của các nhà văn viết tiểu thuyết

115

lịch sử còn đƣợc nhìn nhận từ những phạm trù đối nghịch về nhân cách đấu tránh giữa cái cao

thƣợng và cái thấp hèn, giữa cái thiện và cái ác, giữa bội bạc và lòng thủy chung, giữa tình

yêu và sự căm hờn, giữa tình cảm đối với dân tộc và phản dân tộc. Chính nhờ sự quan tâm

đến những mặt bình thƣờng, đời thƣờng ở các nhân vật lịch sử, nhân vật anh hùng vốn trƣớc

đây thƣờng thêm vào tính chất phi thƣờng, siêu phàm trong văn Trung đại, hay trong các

công trình lịch sử học nhƣ: Bà Trƣng, Bà Triệu, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Hƣng Đạo Vƣơng,

Trần Quốc Tuấn, Quang Trung Nguyễn Huệ, Mai Hắc Đế, Lý Thƣờng Kiệt v.v… Tất nhiên,

trong văn học Trung đại , đây đó, con ngƣời bình thƣờng và những yếu tố đời tƣ của những

nhân vật lịch sử cũng đã bắt đầu đƣợc đặt ra nhất là trong hệ thống truyện Nôm. Nhƣng đến

văn học giai đoạn đầu thế kỷ XX trở đi thì những mặt đời thƣờng trong con ngƣời lịch sử mới

đƣợc các nhà tiểu thuyết lịch sử quan tâm nhiều hơn và trở thành một quan điểm thẩm mỹ

thực sự. Vấn đề này không chỉ là ý đồ nghệ thuật của nhà văn mà nó vốn cũng là một chủng

loại con trong thể loại tiểu thuyết thƣờng hƣớng tới và phản ánh những chuyện đời thƣờng.

Nhân vật trong tiểu thuyết nói chung thƣờng là những con ngƣời đời thƣờng, con ngƣời nếm

trải. Những con ngƣời ấy, ngoài lý tƣởng chung còn có một cuộc sống riêng tƣ với những

mối quan hệ xã hội vô cùng phức tạp, phong phú và đa dạng.

Vì thế, trong mỗi tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, yếu tố đời thƣờng của nhân vật càng

nhiều thì yếu tố tiểu thuyết càng đậm đà, lúc đó tính chất lịch sử và yếu tố sử thi trong tác

phầm càng giảm để tác phẩm càng có sức lôi cuốn, hấp dẫn ngƣời đọc nhiều hơn, và nhƣ thể

tiểu thuyết lịch sử càng có khả năng phản ánh những mặt phong phú phức tạp của đời sống

hơn. Tiêu biểu là “Bà

116

chúa chè” của Nguyên Triệu Luật. Bà chúa chè là tên của Đặng Thị Huệ, cung phi của chúa

Trịnh Đô Vƣơng - Trịnh Sâm. Đặng Thị Huệ, một nhà nho nghèo, nhƣng lại có một khát

vọng “đảo hành nghịch thi” cái cuộc sống khổ cực của mình. Nguyễn Triệu Luật đã nắm bắt

đƣợc cái khát vọng ấy và đã diễn tả nỗi trằn trọc băn khoăn trong tâm hồn Đặng Thị Huệ:

“Tối hôm ấy nàng trằn trọc mãi không ngủ” nàng khuyên cha không nên băn khoăn mà chính

nàng lại băn khoăn rối rít hơn cha. Tâm trạng ngƣời ta thật nhiều lúc trái ngƣợc nhƣ thế.

Ngƣời đang yêu nói với ngƣời yêu: mình quên tôi đi, ghét tôi đi… Nhƣng giá ngƣời ta có

quên mình, ghét mình thì lại không bằng lòng. Nàng lại bảo cha nàng cứ bình tĩnh, nhƣng giá

cha nàng cứ bình chân nhƣ vại thì nàng lại buồn, rằng chẳng ai chia sẻ đắng cay.

Nàng băn khoăn mãi không thôi. Nàng băn khoăn mãi mấy chữ nàng vừa sực nhớ ban

chiều: nhật mộ đồ viễn. Ngũ Tử Tƣ thì mới nhật mộ đồ viễn, mới là trời tà đƣờng xa, chứ cha

con mình bây giớ đây thì nhật mộ đồ cùng nữa cũng có. Đƣờng xa còn phải đảo hành nghịc

thi nữa là đồ cùng. Rồi ta cũng phải bắt chƣớc họ Ngũ mà thôi. Mình kém gì thiên hạ mà chịu

khổ mãi, chịu khó dấm dúi mãi ở sƣờn đồi này ? nhan sắc mình có mà mình chịu bỏ thân

trong hang tối, trong khi những kẻ xấu nhƣ ma, ngu nhƣ lợn, hƣ thân mất nết, đƣợc cƣỡi đầu

cƣỡi cổ mình; đạo trời còn gì là công bằng nữa”. Chúng tôi nhấn mạnh BVL [138,36 - 37].

Xuất phát từ những suy nghĩ tính toán, những ý đồ của mình, Đặng Thị Huệ đã khôn khéo lợi

dụng cái mƣu trí trời đã phú bẩm để thoát ly cái cảnh ngộ, bƣớc một bƣớc từ cô gái hái chè

vùng Lim lên đến địa vị một bà Vƣơng Phi có quyền nghiêng thiên hạ, thực hiện một quan

điểm nhân sinh rất khác lạ: “Thà rằng hưởng nhiều mà chết non còn hơn chết già mà khổ sở”

[138,190]. Những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật, thể hiện một quan niệm sống mang ý nghĩa

nhân bản vừa mang tính chất thực dụng nhƣ thế này không có trong văn học trung đại. Chỉ

sang thời kỳ cận hiện đại từ 1900 đến 1945 khi văn học phƣơng Tây thâm nhập ngày càng

sâu

117

rộng vào đời sống văn hóa tinh thần của con ngƣời Việt Nam, khi cái chủ nghĩa cá nhân tƣ

sản xuất hiện thì cái quan niệm này mới xuất hiện. Trong “phong trào thơ mới” 1930 -1945,

Xuân Diệu “một nhà thơ mới nhất của phong trào thơ mới” cũng đã thể hiện quan điểm nhân

sinh tƣơng tự:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”

Ngoài ra, một số tác phẩm khác của dòng tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này đã có sự

chú ý đúng mức đến đời tƣ của nhân vật lịch sử. Đó là sự hoang dâm tàn bạo của Đặng Lân

trong tác phẩm Đêm Hội Long Trì của Nguyễn Huy Tƣởng; là Lê Long Đỉnh trong tác phẩm

“Tiền Lê vận mạt” của Phạm Minh Kiên... Đó còn là sự đố kị ghen ghét của thái úy Lê Niềm

đối với sự thành đạt của Lê Nhơn Trung trong tác phẩm “Nặng gánh cang thƣờng” của Hồ

Biểu Chánh, là sự ghen tuông ích kỉ của Ngọc Hoan tỏng tác phẩm “Bà chúa chè” của

Nguyễn Triệu Luật...

Một mặt, trong tác phẩm của mình, các nhà viết tiểu thuyết lịch sử phản ánh những

phẩm chất vốn có của ngƣời anh hùng nhƣ : tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cƣờng sẵn sàng

xung phong và chết nơi chiến trận vì sự nghiệp cứu nƣớc. Nhƣng mặt khác, các tác giả cũng

miêu tả những tình cảm khác rất đời thƣờng của ngƣời anh hùng nhƣ những giây phút ngƣời

anh hùng đứng trƣớc ngƣời con gái mà mình mến mộ hoặc đã từng trộm nhớ thầm yêu.

Nguyễn Tử Siêu nắm bắt và đã phản ánh đƣợc nét tâm lý độc đáo của nhân vật Phùng Chính

trong tác phẩm “Lê Đại Hành”:

- “Phùng Chính vốn là một bậc chính quân tử, bình sinh chƣa từng phạm tới những

thói mây mƣa trăng gió bao giờ. Dù ở vào tỏng đám muôn tía ngàn hồng, vẻ diễm lệ đua khoe

ở trƣớc mắt, mà trong lòng Phùng Chính vẫn phẳng im nhƣ nƣớc lặng... Duy từ lúc trông thấy

Bích Hà thì tinh thần phiêu đãng, hầu nhƣ không còn tự chủ đƣợc nữa... Đến lúc nghe thấy

những lời Vua

118

phán bảo anh mình và Nhƣ Tùng thì bất giác mừng quá ! Ngoài thời mặt đỏ bừng bừng, trong

thời trống ngực nổi lên nhƣ thời trống trận, hai đầu gối cứ run cầm cập cố giữ lại cũng không

đƣợc. Trong bụng tự nghĩ: mình bấy lâu chỉ những lăn lƣng vào trong những áng mƣa tên,

rừng giáo, thƣờng một ngày giết hàng hai, ba trăm quân giặc mà trong bụng cứ nghe nhƣ

càng hăng hái, càng bạo dạn lên gấp bội phần. Một cái thói “run” thật mình chƣa từng mắc

phải bao giờ... Vậy mà bây giờ bỗng lại cứ run lên thế này mới lạ chứ”... [168 -26].

Phạm Ngũ Lão trong tác phẩm “Trần Nguyên chiến kỷ”, khi gặp Trần Nguyên Công

chúa cũng xuất hiện những tình cảm nhân bản của con ngƣời rất đời thƣờng, bình thƣờng chứ

không chỉ là một Phạm Ngũ Lão phi thƣờng với bao chiến công hiển hách nhƣ lịch sử đã

từng ghi :

“... Bấy giờ Phạm Ngũ Lão mới biết là Công chúa cũng có tình riêng nhƣ mình, và rất

lấy làm cảm cái tấm lòng chung tình của Công chúa nhƣng trong bụng vẫn còn thấp thỏm sợ

rằng chƣa chắc Hƣng Đạo Vƣơng đã bằng lòng gả cho. Từ đó trở đi, Phạm Ngũ Lão lúc nào

cũng canh cánh ở trong lòng một sự mừng, một khối lo. Ngày đêm thƣờng vơ vẩn, có khi

quên mất cả ngủ lẫn ăn, suýt nữa thời cũng nhiễm thành một bệnh tƣơng tƣ nhƣ Công chúa”

[170,14].

- Trong tác phẩm “Cái hột mận”, Lan Khai với một quan điểm nghệ thuật về con

ngƣời rất mới, đã đƣa nhân vật Ngọa Triều từ một địa vị một ông vua trở về con ngƣời đời

thƣờng với những ham mê tình dục đến điên cuồng và vô cùng tàn ác của hắn: “Thực tế, nhà

Vua từ lúc thoáng nom thấy thiếu nữ trên sông, thấy bản thân mình nhƣ đổi mới, hơn nữa,

thấy mình trở nên vớ vẩn, cũng ghen tuông một cách vô nghĩa lý nhƣ một anh cuồng si chƣa

biết mùi đời. Và sau những giây phút xuất hiện những tình yêu rất đỗi con ngƣời

119

ấy thì: “Vua Ngọa Triều suốt ngày đêm mơ tƣởng Bội Ngọc, sự thèm thuồng của Vƣơng Giả,

lần ấy là lần thứ nhất, không thực hiện đƣợc nhƣ lòng.

Ngài bực tức lắm, tuy trên mặt Rồng vẻ thờ ơ vẫn y nguyên nhƣ pho tƣợng đá. Sự

căm hờn lặng lẽ khiến viên Cửu môn đô đôc phải rơi đầu vì tội đã bắt đƣợc Phạm Thái Sƣ mà

còn để Bội Ngọc trốn thoát. Ngài lại truyền lệnh tra tấn Phạm Thái Sƣ bằng tất cả mọi thứ

cực hình nhƣug vị lão thần vẫn quyết định cắn răng.

Trƣớc thái độ gan góc ấy, Vua Ngọa Triều cảm thấy nỗi mệt nhọc của những lớp sóng

kình không lay chuyển hòn đá tảng, đã tức giận, nhà Vua càng tức giận không biết chừng

nào! ô hay, sự ham muốn của một ông Vua độc đoán, nhƣ một mũi tên do tay thiện xạ bắn ra,

lại có thể không trúng đích đƣợc sao?

Đó là điều bạo chúa không ngờ, ngạc nhiên Vua Ngọa Triều lúc ấy cảm thấy mình chỉ

là một con ngƣời [111-108].

Nhƣ vậy, với quan niệm nghệ thuật về con ngƣời tiến bộ, các nhà văn viết tiểu thuyết

lịch sử giai đoạn này thể hiện những khát vọng đời thƣờng ở con ngƣời cá thể, thể hiện cái tôi

cá nhân với những ham muốn, khát thèm về phƣơng diện tình yêu. Nhiều lúc cái tôi cá nhân

này không chỉ vƣợt ra khỏi lễ giáo phong kiến mà nó còn vƣợt ra khỏi những thế lực vô cùng

lớn để đòi đƣợc giải phóng thực sự. Nhân vật Đặng Thị Huệ từ khi chú Trịnh Đô Vƣơng bị

bệnh sợ gió đã dan díu với Quận Huy, bất chấp cả luật lệ của triều đình, để lại sự xấu xa, lƣu

danh trong sử sách muôn đời :

Trăm quan có mắt như mờ

Để cho Huy Quận vào sờ chính cung

Đó là chuyện của lịch sử. Còn trong tác phẩm “Bà chúa Chè”, với quan niệm nghệ

thuật của một nhà tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Triệu Luật lại coi đó

120

là hiện tƣợng con ngƣời và Đặng Thị Huệ cũng là một con ngƣời bình thƣờng với những giá

trị nhân bản đích thực: “Đã hai năm, nàng trông thấy Chúa Tĩnh Đô cái khí của một ngƣời

già, cái khí phách bạc nhƣợc mà từ linh hồn, tình cảm đến cái thân thể gân cốt sắp là những

thứ bỏ đi. Thế rồi đồng thời nàng đƣợc luôn luôn trông thấy cái sức lực cƣờng tráng, cái khí

phách tuổi trẻ anh hùng, cái chí quật cƣờng của một ngƣời hết sức che chở, hết sức trung

thành với nàng. Thế là tự nhiên nàng so sánh, cân nhắc rồi tự nhiên đem lòng yêu dấu”.

Và nàng mong đợi: “Con ngƣời ấy, sao hôm nay mãi chƣa thấy vào”.

Khi Quận Huy vào thì Đặng Thị Huệ đã vứt bỏ địa vị cung phi và hành động theo

tiếng gọi bản năng của một con ngƣời đa tình, một con ngƣời trụy lạc:

“Khi chỉ còn hai ngƣời Tuyên Phi nói:

-Thiếp mong chàng mãi. Hãy để quân quốc trọng sự đó.

Tuyên Phi toan đứng dậy, Huy Quận gạt đi...” [138, 156-108].

Nhƣ thế, ở đây, do cái ý thức cá nhân cực đoạn đòi hỏi đƣợc giải phóng bản năng tự

do nên Đặng Thị Huệ đã bất chấp cả đạo đức, thậm chí cô còn dũng cảm vƣợt qua cả một mối

quan hệ xã hội ở mức độ cao nhất với cƣơng vị của một Vƣơng Phi. Hành vi của Đặng Thị

Huệ gần giống với những hành vi của Hiền trong “Trống mái”, và của Nhung trong tác phẩm

“Lạnh lùng” và đều thể hiện một tình cảm rất thực của con ngƣời tự nhiên, mang ý nghĩa

nhân bản trong dòng văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 -1945.

Cùng xuất phát từ quan niệm nghệ thuật mới về con ngƣời mà Lan Khai trong tác

phẩm “Cái hột mận” đã để cho nhân vật của mình nêu lên một quan điểm: “Mà ta cũng không

dám trách tƣớng quân: ngƣời dù là một bậc danh

121

tƣớng nữa, bao giờ cũng là ngƣời...” Từ quan điểm đó mà Dƣơng Hậu đã mạnh dạn tỏ tình và

có ý sàm sỡ với Lý Công Uẩn:

“Dƣơng Hậu không để cho Công Uẩn kịp nói, nàng đặt vội bàn tay thơm tho lên

miệng Công Uẩn”. Sau khi không thuyết phục đƣợc Lý Công Uẩn, Dƣơng Hậu đành truyền

lệnh cho nội giám giam Công Uẩn xuống ngục: “Nhƣng không hiểu sao lúc căm hờn chàng

nhất, Hậu càng yêu mến khát khao chàng”.

Nhìn cổ tay Công Uẩn bị kẹp chặt trong lỗ chiếc còng gỗ hình chữ nhật nàng có cảm

giác bùi ngùi đau đớn, nàng thở dài, đoạn nói nửa nhƣ với mình nửa với Công Uẩn.

Đàn ông thực là giống đáng giận! Họ bạc bẽo và mù cả! [111, 157-159].

Những tình cảm, suy nghĩ của Dƣơng Hậu đã thể hiện trƣớc mặt Lý Công Uẩn là

những tình cảm, suy nghĩ rất thật của con ngƣời trong tình yêu và trong khi yêu. Chính những

chi tiết này đã tăng thêm tính tiểu thuyết của tác phẩm “Cái hột mận” và làm cho tác phẩm

gần với cuộc sống đời thƣờng hơn. Đồng thời chất lãng mạn của tác phẩm cũng thể hiện rõ

nét hơn:

“Tha thứ cho chàng?... Trời ơi! Chàng nói lạ! Có chăng chàng tha cho thiếp đừng bắt

thiếp phải khổ vì chàng nữa.

Trong khi Dƣơng Hậu nói, hai giọt nƣớc mắt dần dần đọng lại khóe mắt nàng đoạn từ

từ lăn xuống hai gò má đỏ hây hây... hơi thở của nàng dồn dập thoảng lên mặt Công Uẩn nhƣ

một thứ hƣơng ngát say sƣa”. [135,57,159].

Một điểm độc đáo khác thể hiện sự chuyển biến, sự đổi mới của tiểu thuyết lịch sử

trong quan niệm về con ngƣời đó là việc thể hiện tình yêu lứa đôi của con ngƣời cá nhân.

Chúng ta biết rằng, ngay trong văn học từ thế kỷ VXII đến thế kỷ XIX, con ngƣời cá

nhân đã xuất hiện với nhu cầu hƣởng hạnh phúc lứa đôi, đòi giải

122

phóng cái tôi cá nhân trong lĩnh vực tình yêu trƣớc sự rằng buộc khắt khe của lễ giáo phong

kiến. Thế nhƣng, đó cũng mới chỉ là những biểu hiện riêng lẻ của sự vùng vẫy của cái tôi cá

nhân trong khuôn khổ của lễ giáo phong kiến. Kết quả, cái tôi cá nhân của con ngƣời vẫn bị

thất bại trƣớc hoàn cảnh. Nàng Chinh Phụ trong “Chinh Phụ ngâm” của Đặng Trần Côn và

Đoàn Thị Điểm (?) nàng Dao Tiên trong “hoa Tiên” của Nguyễn Huy Tự đã bộc lộ những

khao khát hạnh phúc, nhƣng cuối cùng tâm hồn họ cũng đành chịu chết khô, chết héo trong

sự chờ đợi mỏi mòn. Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thể hiện một sự bứt

phá dũng cảm và quyết liệt hơn của cái tìm tòi cá nhân trong khi yêu. Nàng đã đạp tung cả

bức tƣờng kiên cố của lễ giáo phong kiến để đến tự tình với ngƣời yêu, gảy đàn cho ngƣời

yêu nghe:

“Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”

(Truyện Kiều)

Nhà thơ Hồ Xuân Hƣơng đã nêu lên một quan điểm mới về tình yêu, tình cảm lứa đôi

trong sự ý thức và đề cao quyền sống cá nhân, nhất là quyền sống, quyền làm ngƣời phụ nữ

và nàh thơ đã thể hiện sự uất ức, thể hiện một khát vọng giải phóng cho ngƣời phụ nữ, đồng

thời lên án chế độ phong kiến nghiệt ngã đối với ngƣời phụ nữ trong hạnh phúc lứa đôi:

“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”

Bƣớc sang những năm 20 đầu thế kỷ, trong văn học lãng mạn đã xuất hiện cái tôi cá

thể (individu) – cái tôi ngoài cuộc đời ngang nhiên bƣớc vào văn học không một chút ngƣợng

ngùng và không cần dấu diếm – Thơ Tản Đà và tác phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách đã

thể hiện cái tôi cả thể của con ngƣời.

Trong thơ Tản Đà, con ngƣời cá nhân, cái tôi đã có nhu cầu tách khỏi cái cƣơng

thƣờng,đạo lý của xã hội phong kiến, nhƣng nó lại chƣa đủ sức

123

mạnh để tìm cho mình một chỗ đứng vững chắc trong xã hội. Theo Xuân Diệu, cái tôi cá

nhân trong thơ Tản Đà là cái tôi “chơi vơi, man mác, vô định”.

Với tác phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách thì quyền sống của ngƣời phụ nữ đã có

đƣợc quan niệm khác trƣớc. Đó là quyền sống thiêng liêng, quyền đƣợc yêu và quyền đƣợc

lựa chọn ngƣời yêu. Nó thể hiện một ý thức độc lập, rất nhân bản về hạnh phúc lứa đôi. Có

thể đây là “một phẩm chất mới của cái tôi văn hóa thời hiện đại”. Thế nhƣng, những quan

điểm đó của Hoàng Ngọc Phách cũng còn rất mỏng manh, chƣa có những điều kiện để đảm

bảo cho sự chiến thắng trong tình yêu và cuối cùng Tố Tâm đánh phải chấp nhận sống với

một ngƣời chông tốt mà mình không yêu để rồi ôm ấp một thất vọng về một tình yêu lý

tƣởng, một sự ngoại tình trong cõi tâm hồn. Ở Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách đã thể hiện đƣợc

sự xung đột xã hội, đại diện cho một quan điểm, một triết lý nhân sinh nhƣ cái tôi cá nhân

trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và Thơ mới. Đó là quá trình phá vỡ những rằng buộc khắt

khe của chế độ đại gia đình phong kiến, để khẳng định quyền sống của con ngƣời cá nhân về

mặt xã hội. Mặt khác, văn học lãng mạn giai đoạn này đã khẳng định ý thức cá nhân bằng con

đƣờng tình yêu. Không những thế, con ngƣơờ cá nhân trong văn học lãng mạn còn thể hiện

một nhu cầu giải phóng bản năng bất chấp các quan hệ xã hội.

Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, dòng tiểu thuyết lịch sử cũng thể hiện một quan niệm mới

về tình yêu. Nhƣng khác với “Tự lực văn đoàn” thể hiện con ngƣời đi vào tình yêu nhằm mục

đích thoát ly, trốn tránh hiện thực sống, muốn tìm cho mình một con đƣờng hƣởng thụ riêng.

(Xét về mặt chính trị thì sự “thóat ly” đó không thoát khỏi tính chất tiêu cực) thì tiểu thuyết

lịch sử thể hiện tình yêu lứa đôi, quan niệm hạnh phúc trong tình yêu là nhằm khẳng định

124

vai trò tích cực của cá nhân của tình yêu đôi lứa (......)

đồng, với đất nƣớc, với vận mệnh nhân dân. Tình yêu ở đây nhiều lúc đóng vai trò là

động lực tinh thần khiến con ngƣời vƣợt qua thử thách để hòan thành nhiệm vụ đối với dân

tộc. Vì vây, nếu nhƣ tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là sự hƣởng thụ cá nhân, tất

cả vì cái tôi mà không vì cái chung của đất nƣớc của dân tộc thì tình yêu trong tiểu thuyết lịch

sử sẵn sàng hy sinh hạh phúc cá nhân cho hạnh phúc chung của dân tộc. Tình yêu đƣợc đƣa

vào trong tiểu thuyết lịch sử nhƣ một tiêu chuẩn nhằm thử thách tinh thần ý chí nghị lực và

đạo đức của những con ngƣời anh hùng dân tộc. Có khi các nhà văn hƣớng tới miêu tả tình

yêu của những ông Vua, bà Chúa nhƣ : tình yêu giữa Đặng Thị Huệ với chúa Tĩnh Đô Vƣơng

trong tác phẩm “Đêm Hội Long Trì” của Nguyễn Huy Tƣởng, hay tình yêu giữa những bậc

gái sắc trai tài hay ngƣời anh hùng cứu nƣớc: An Tƣ với Trần Thông trong tác phẩm “An Tƣ”

của Nguyễn Huy Tƣởng, Ngọc Hân công chúa với ngƣời anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trong

tác phẩm “Vua Quang Trung” của Phan Trần Chúc. Tình yêu giữa Trần Nguyên công chúa

với Phạm Ngũ Lão trong tác phẩm “Trần Nguyên chiến kỷ” của Nguyễn Tử Siêu. Tình yêu

của Quỳnh Dao và Bảo Kim trong “Đêm hội Long trì” của Nguyễn Huy Tƣởng, tình yêu giữa

Ngọc Nƣơng với Trần Viễn Mƣu trong tác phẩm “Việt Thanh chiên sử”, giữa Bích Hà với

Phùng Chính trong tác phẩm “Lê Đại Hành” của Nguyễn Tử Siêu v.v….

Lan Khai trong tác phẩm “Ai lên phố Cát”, cũng phát biểu một quan điểm rất nhân

bản về tình yêu của con ngƣời anh hùng:

“Thƣơng xót và bênh vực dân chúng, chỉ là cái phận sự của ngƣời anh hùng, Nhƣng

bên trong ngƣời anh hùng còn có một ngƣời, một ngƣời tầm thƣờng nhƣ trăm vạn ngƣời

khác, cần phải yêu và cần đƣợc yêu” [110-32].

125

Phải chăng đây là một quan điểm có phần mới mẻ, ít thấy ở các nhà tiểu thuyết lịch sử

thời Trung đại cũng nhƣ các nhà sử học lúc bấy giờ.

Nhìn chung, tình yêu lứa đôi trong tiểu thuyết lịch sử thời kỳ đầu chịu chi phối của

chủ nghĩa yêu nƣớc đã đành nó còn ít nhiều chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng vì nghĩa: tác giả

Nguyễn Tử Siêu trong tác phẩm “Trần Nguyên chiến kỷ” đã để cho Trần Nguyên công chúa

phát biểu một quan điểm của mình về tình yêu:

“Con thiết tƣởng làm tấn thân con gái, mà còn kén đƣợc một ngƣời vừa là anh hùng

vừa là tri kỷ, thời mới đƣợc một ngƣời vừa thiếu niên vừa anh hùng nhƣ Phạm Ngũ Lão thật

là hiếm. Vì thế con không khỏi đƣợc tấm lòng ngƣỡng mộ. Nhƣng con lại nghĩ đã đành rằng

Phạm Ngũ Lão là một bậc anh hùng, nhƣng không biết tâm tính ra sao, có thể xứng làm một

ngƣời tri kỷ?” [170,142].

Không những thế, tác giả còn ca ngợi Trần Hƣng Đạo lúc bấy giờ là một con ngƣời có

tƣ tƣởng tiến bộ, sẵn sàng xóa bỏ cái tục lệ môn đăng hộ đối từ ngàn xƣa:

“Đƣợc, việc ấy mẹ bằng lòng lắm, mẹ sẽ nói với Vƣơng Phụ con, thế nào Vƣơng Phụ

con cũng bằng lòng. Con nên biết Vƣơng Phụ con có phải là ngƣời ƣa cái tục môn đăng hộ

đối đâu” [170,143].

Tiểu kết

Phải chăng đây là yếu tố hiện đại hóa và lý tƣởng hóa nhân vật lịch sử ở gian đoạn

này. Đồng thời, đây cũng là chỗ đóng góp của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam bằng văn xuôi,

chữ Hán và chủ yếu là bằng tiếng Việt từ đầu thế kỷ XX đến 1945 đối với quá trình cách tân

và hiện đại hóa văn học. Nó góp phần vào quá trình chuyển biến văn học từ phạm trù văn học

Trung đại sang phạm trù văn học hiện đại trên cả hai phƣơng diện nội dung và thi pháp.

126

CHƢƠNG 4: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT

4.1. Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong

tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945

Chúng ta biết rằng tiểu thuyết lịch sử dựa trên lịch sử, thế nhƣng nó lại có những đặc

điểm riêng biệt của một tác phẩm nghệ thuật. Một trong những đặc điểm quan trọng nhất là

ngƣời nghệ sĩ phải làm sống lại những tài liệu lịch sử bằng trí tƣởng tƣợng, bằng quyền hƣ

cấu và sáng tạo nghệ thuật của mình. Xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa lịch sử và hƣ cấu

nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử có nhiều ý kiến tranh luận, chƣa thống nhất, thậm chí có

những ý kiến đối lập nhau. Alêcxăng-Duy-ma (Alexandre Dumas) một nhà tiểu thuyết lịch sử

nổi tiếng nƣớc Pháp cho rằng: “Lịch sử đối với tôi là gì? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo

các bức họa của tôi mà thôi”. Ở nƣớc ta, ý kiến này đƣợc Trần Thanh Mại tán thành và đề

cao. Nhƣng ở Liên Xô (cũ), thì quan niệm này bị Putskin, Bi-ê-lin xki, và Đa-brô-lui-bôp phê

phán gay gắt. Còn A.Tônxtôi thì cho rằng: “Bộ tiểu thuyết của tôi chính xác nhƣ một tác

phẩm nghiên cứu lịch sử và đó chính là sức mạnh của nó”. Chúng tôi cho rằng việc nghiên

cứu lịch sử là rất cần thiết đối với ngƣời nghệ sĩ vì anh ta có nhiệm vụ phải phản ánh trung

thành một hiện thực lịch sử và làm sống lại những nhân vật lịch sử vừ sinh động vừa có tác

dụng lôi cuốn ngƣời đọc. Thế nhƣng sự nghiên cứu ấy không thể thay thế sự tƣởng tƣợng, hƣ

cấu và sáng tạo của các nhà văn. Bởi vì, “Có khi nhà nghệ sĩ chỉ cần có một vài khoảnh khắc

trong đời sống của nhân vật lịch sử, có khi nghệ sĩ đƣa vào tác phẩm những điều phi lịch sử

không quan trọng, thậm chí trong một chừng mực nào đó, có quyền vi

127

tâm sự đúng đắn về mặt sự kiện lịch sử bởi vì tác giả chỉ cần đúng đắn lý tƣởng mà thôi”

[70,27].

Nhƣ vậy, một tác phẩm viết về đề tài lịch sử đƣợc công nhận là một tác phẩm nghệ

thuật, một cuốn tiểu thuyết hay không, tùy thuộc vào mức độ hƣ cấu và khả năng tƣởng tƣợng

của nhà văn trên cơ sở những sự kiện và nhân vật lịch sử theo đúng đặc trƣng và nguyên tắc

thể loại.

Tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của các tác giả họ Ngô về thể hiện ảnh hƣởng

rõ lối viết của tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Quốc nhƣ “Tam quốc chí diễn nghĩa”, “Đông

Chu liệt quốc”, “Thủy Hử”, v.v... Mỗi tác phẩm đều mở đầu bắng hai câu thơ mào đặt tên cho

từng hồi và kết thúc bằng câu : “Không biết... ra sao, hãy xem hồi sau phân giải”. Nhƣng nội

dung lại là một bộ truyện chí, ghi chép toàn sự thật không thiên vị. Tuy vậy, các tác giả của

“Hoàng lê nhất thống chí” vẫn tỏ ra có một khả năng nghệ thuật rất cao trong việc cá thể hóa

tính cách nhân vật. Tác giả không chỉ kể lại những việc mà nhân vật đã làm (nhƣ cách kể

trong một số truyện cổ tích, truyện Nôm) mà chỉ biết nhấn mạnh đến cách nhân vật làm

những việc đó nữa”. Có nghĩa là xung quanh những sự thực lịch sử làm nòng cốt các tác giả

đã thêm thắt những chi tiết, những câu đối thoại của nhân vật để cho câu chuyện trở nên hành

động và thuyết phục - chính cái phần văn học (phần hƣ cấu, tƣởng tƣợng) đã làm cho chúng

ta hiểu sâu sắc hơn phần lịch sử chứa đựng trong tác phẩm. Chính tác phẩm “Hoàng Lê nhất

thống chí” có đóng góp to lớn trong quá trình hình thành thể loại tiểu thuyết trong lịch sử Văn

học Việt Nam, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết hiện thực. Các nhà nghiên

cứu Đỗ Đức Dục, Phan Cự Đệ cho rằng “Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm mở đầu

cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam: “Chủ nghĩa hiện thực ở phƣơng Tây bắt

đầu với những tác phẩm của Sếchxipia và Secvăngtex... ở Việt Nam bắt đầu với “Hoàng Lê

nhất thống chí” và “Truyện Kiều”. Sau đó

128

chủ nghĩa hiện thực đƣợc phát triển rực rỡ với các trào lƣu văn học hiện thực phê phán và văn

học hiện thực xã hội chủ nghĩa” [61,50].

Theo chúng tôi, chất hiện thực trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” vẫn chiếm

ƣu thế, yếu tố lịch sử vẫn lấn át yếu tố văn chƣơng. Sở dĩ có đặc điểm này là vì “Hoàng Lê

nhất thống chí” vẫn nằm trong phạm trù văn học trung đại, trong trạng thái văn học trung đại,

trong trạng thái văn - sử - triết bất phân.

4.1.1. Hư cấu từ những sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử.

Bƣớc sang thế kỷ XX, trong những tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết lịch sử, vấn đề

hƣ cấu từ những nhân vật lịch sử đã có nhiều sáng tạo mới mẻ khác nhiều so với cuốn

“Hoàng Lê nhất thống chí”. Tiêu biểu là cuốn “Trùng Quang tâm sử” của Phan Bội Châu.

Đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về cuộc kháng chiến chống quân Minh thời Hậu Trần

ở thế kỷ thứ XV, với tên tuổi của những vị anh hùng nổi tiếng trong lịch sử nhƣ: Lê Lợi,

Nguyễn Cảnh Chân, Trần Quý Khoáng, Đặng Tất, Nguyễn Xý v.v...

Nhƣng, trong tác phẩm, ta thấy Phan Bội Châu đã bất chấp lịch sử. Tác giả đã tô vẽ và

hƣ cấu cho nhân vật lịch sử rất nhiều, từ lời nói, thái độ sống đến quan niệm nhân sinh. Ngoài

ra, lại còn hƣ cấu và tƣởng tƣợng ra nhiều nhân vật khác không hề có trong lịch sử. Nội dung

của tác phẩm viết về khung cảnh lịch sử của cuộc kháng chiến chống quân Minh vào cuối thế

kỷ XIV đầu thể kỷ XV. Nhƣng hễ có cơ hội là tác giả lại muốn nhắc nhở ngƣời đọc đừng

xem câu chuyện này nhƣ một câu chuyện ngày xƣa. Nếu đi sâu vào nghiên cứu tác phẩm thì

chúng ta dễ dàng nhận thấy những lời lẽ, ngôn ngữ, điệu bộ của các nhân vật không phải

ngôn ngữ, điệu bộ của cacá nhân vật của con ngƣời đang sống ở thể kỷ XV. Về vấn đề này,

có ngƣời cho rằng trại Trùng Quang trong tác phẩm là hình bóng của “Duy tân hội” và những

nhân vật trong tác phẩm có những nét giống bạn bè và đồng chí cùng hoạt động với Phan lúc

bấy giờ. Đó là những con ngƣời giàu lòng yêu nƣớc, cháy bỏng lòng căm thù

129

giặc, sẵn sàng đem tính mạng của mình lấy lại non sông gấm vóc từ tay kẻ thù xâm lƣợc. Tất

cả những chi tiết “phản lịch sử”, “phi lịch sử” ấy đều nằm trong ý đồ nghệ thuật của tác giả

“Trùng Quang tâm sử”. Phan Bội Châu muốn phản ánh cuộc chiến đấu của phong trào yêu

nƣớc, trong đó, quần chúng và những ngƣời anh hùng vô danh có vai trò vô cùng quan trọng,

quyết định sự thành bại của cuộc chiến đấu chứ không phải do thiên định hay một lực lƣợng

thần bí, siêu việt nào khác. Từ đó, Phan muốn đúc kết thành một quan điểm mới về ngƣời anh

hùng, về tập thể anh hùng.

Vì thế, những nhân vật vốn có trong lịch sử nhƣ Đặng Tất, Nguyễn Xý, Nguyễn Cảnh

Chân, đi vào tác phẩm “chỉ là một cái tên với những nét đại thể nào đó mà thôi”. Họ đƣợc

nhà văn hƣ cấu xây dựng thành những con ngƣời bình dị trong cuộc sống đời thƣờng nhƣ ông

Võ, cu Chìm, anh Phấn...

Nguyễn Xý trong lịch sử đƣợc ghi ở bản “Tộc phả -Di huấn- phụ lục” của hội đồng

gia tộc họ Nguyễn Đình ở Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An khác nhiều so với

Nguyễn Xý trong tác phẩm “Trùng Quang tâm sử” .

Trong lịch sử ghi thân thế gia đình của Cƣơng quốc công Nguyễn Xý vốn là một gia

đình làm nghề muối, còn trong tác phẩm “Trùng Quang tâm sử”, Phan Bội Châu viết rằng:

Nguyễn Xý sinh ra trong một gia đình nông dân.

Về đời tƣ, trong lịch sử ghi: bản thân Xýa chín tuổi đã mồ côi cha mẹ nên phải theo

anh trai về ở với Lê Lợi (anh trai của Nguyễn Xý là Nguyễn Biên đã đƣợc Lê Lợi nhận làm

con nuôi) và đƣợc Lê Lợi giao cho nuôi dạy đần chó hơn một trăm con: “Bằng hiệu lệnh,

ngƣời đã huấn luyện điều khiển đàn chó ăn uống, đi đứng, tiến lùi, hàng ngũ đâu ra đấy, đức

Lê Lợi rất yêu mến và ngợi khen:

130

... và cai quản quân sĩ, ngày hay có việc làm phi thƣờng thì ắt mai sau sẽ có hành động phi

thƣờng:

Về tính cách phi thƣờng của Nguyễn Xý trong tác phẩm “Trùng Quang tâm sử” đƣợc

Phan miêu tả khác:

Khi nghe cha mình kể tội ác của giặc Ngô thì cậu bé tám tuổi đã tức giận đến mức “

mắt đỏ bừng, tóc dựng ngƣợc thét lớn rằng: “Thề giết hết quân giặc ấy”. Từ đó trở đi Nguyễn

Xý ham chơi trò đánh trận giả với trẻ con hơn cả việc học hành. Nhƣ vậy, sự phi thƣờng

trong tính cách của ông Xý đƣợc Phan miêu tả nhất quán từ nhỏ đến lớn. Điều này thống nhất

trong quan điểm nghệ thuật mới về con ngƣời, về ngƣời anh hùng nhƣng có cái gốc là yêu

nƣớc và căm thù giặc (cái tâm đối với đất nƣớc với nhân dân), khác với ông Xý trong lịch sử

đã ghi.

Về những chiến công của Nguyễn Xý thì trong lịch sử và trong “Trùng Quang tâm

sử” cũng có sự khác nhau:

Trong lịch sử ghi rằng : cuộc khởi nghĩa của Trần Nguỗi và Trần Quý Khoáng bắt đầu

từ 1407 - 1413. Lúc đó, Nguyễn Xý mới lên 10 tuổi. Lúc ấy đang luyện tập và chăm sóc đàn

chó săn của Lê Lợi, chứ thể tham gia cuộc khởi nghĩa đƣợc. Đến năm 21 tuổi ngƣời mới

tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cùng với anh trai là nguyễn Biện, và ngƣời đã lập đƣợc

chiến công đầu tiên cùng với nghĩa quân ở vùng thƣợng lƣu sông Chu. Trong khi đó, “Trùng

Quang tâm sử” lại viết rằng : vì đột nhập vào trại giam tù cứu nạn, nên Nguyễn Xý phải lánh

nạn và sống một cuộc đời của những trang lục lâm hảo hán trƣớc khi tham gia khởi nghĩa.

Đây là một chi tiết hoàn toàn không có trong cuộc đời của Cƣơng quốc công Nguyễn Xý -

một dũng tƣớng của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn – cũng là ngƣời lập đƣợc nhiều chiến

công hiển

131

hách góp phần to lớn vào cuộc khởi nghĩa kháng chiến chống quân xâm lƣợc nhà Minh.

Những chiến công ấy của Nguyễn Xý trong tác phẩm “Trùng Quang tâm sử” đã đƣợc

Phan Bội Châu miêu tả nhƣ những chiến công của những ngƣời anh hùng “thảo dã” (Lƣơng

Sơn Bạc) trong Thủy Hử của Thi Nại Am, hay trong các truyền thuyết dân gian. Và có một số

nét giống cách đánh du kịch của những ngƣời cách mạng trong “Việt Nam quang phục hội”

của Phan Bội Châu sau này.

Nhƣ thế, giữa Nguyễn Xý trong lịch sử và Nguyễn Xý trong “Trùng quang tâm sử” có

sự khác nhau rõ rệt:

Nếu Nguyễn Xý trong lịch sử là một con ngƣời uy nghi lẫm liệt, một dũng tƣớng xuất

sắc, xứng đáng là “Đệ nhất công thần” của triều đình thời Lê Sơ thì trong tác phẩm “Trùng

Quang tâm sử”, Nguyễn Xý là một con ngƣời dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi, ngang tàng nhƣng

lại rất dân dã, có những phẩm chất gần với những thanh niên yêu nƣớc đầu thể kỷ XX hơn là

Nguyễn Xí trong lịch sử. Điều đó chứng tỏ rằng Phan Bội Châu đã hƣ cấu nhân vật Nguyễn

Xí trong lịch sử thành một nhân vật Nguyễn Xí nhằm minh họa cho những quan niệm: những

cái bình thƣờng có thể trở thành phi thƣờng, những ngƣời bình thƣờng có thể trở thành anh

hùng nhƣ Phan đã từng viết: “dòng dõi anh hùng, hậu thân anh hùng chính là chúng ta”. Việc

hƣ cấu nghệ thuật đó nhằm mục đích kêu gọi và thức tỉnh những con ngƣời Việt Nam hãy

tỉnh dậy để “nâng một thế hệ, một dân tộc lên ngang tầm với những bộ mặt rạng rỡ trong lịch

sử”.

Một số nhân vật khác trong “Trùng Quang tâm sử” nhƣ Đặng Tất, Nguyễn Cảnh

Chân, Trần Quý Khoáng cũng khác với những nhân vật trong lịch sử, Đặng Tất và Nguyễn

Cảnh Chân trong lịch sử là những ngƣời có công lớn dựng lên cơ nghiệp của nhà Trần thời

Trung Hƣng. Thế nhƣng sau khi

132

giúp vua khôi phục lại nhà Trần hai ông bị Nguyễn Mộng và Nguyễn Quí gièm pha và bị vua

giết chết. Trong “Đại Việt sử ký toàn thƣ” quyển 9, Ngô Sĩ Liên đã chép nhƣ sau: “Vua may

thoát vòng vây hãm nguy hiểm cần ngƣời cứu giúp nạn nƣớc. Đƣợc cha con Đặng Tất có tài

làm tƣớng, cha con Nguyễn Cảnh Chân giỏi bày mƣu lƣợc đủ để lập công, khôi phục dựng

đƣợc cơ nghiệp Trung Hƣng với trận thằng Bô Cô, thế nƣớc lại nổi. Thế mà nghe lời gièm

pha ly gián của bọn hoạn quan, một lúc giết hại hai ngƣời bề tôi phò tá. Tự mình chặt bỏ tay

chân vây cánh của mình thì làm sao nên việc đƣợc.... Ôi! Nêu lúc đó gọi hai đại thần đến, dẫn

hai đứa ấy ra kể tội gièm pha vu hãm đại thần rồi chém chúng đi thì uy lênh đƣợc thi hành”

[126, 222].

Thế nhƣng, trong tác phẩm “Trùng Quang tâm sử” Phan Bội Châu lịa miêu tả Đặng

Tất nhƣ một viên thổ quan hiền lành: “Tuy chịu tƣớc phẩm của giặc Ngô nhƣng trong lòng

vẫn nhớ Tổ quốc” [16,127], chứ không phải là một viên đại Tri châu quyền thế nghiêng trời

đã cứu vua Giản Định Đế khỏi sự lùng bắt của Trƣơng phụ và đã từng “tiến con gái mình

xung vào hậu cung, đƣợc vua phong làm Quốc Công cùng mƣu việc khôi phục đất nƣớc” nhƣ

trong lịch sử.

Còn trong “Trùng Quang tâm sử” Phan Bội Châu viết : Đặng Tất sau khi đƣợc tuyên

truyền giác ngộ về tôn chỉ dấy binh của cuộc khởi nghĩa Trùng Quang thì đã vùi lòng “đem

quân đến hội, quân lính cộng có năm nghìn ngƣời và đƣợc cử làm đại sứ trấn thủ thành Thuận

Hóa” [16-139].

Nhân vật Trần Quý Khoáng cũng đƣợc Phan Bội Châu hƣ cấu và sáng tạo. Trong lịch

sử đó là một ông vua, cháu nội của Nghệ Tông gọi Giản Định Đế bằng chú. Khi quân Minh

sang xâm lƣợc nƣớc ta ông đƣợc Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Chân đòn về và phò lên làm

vua. Một ông vua “gặp thời loạn lác gắng trí mƣu việc khôi phục giang sơn nhƣng trời không

giúp nhà Trần nữa, nuốt hận mà chết, thƣơng thay” [126-288].

133

Trong “Trùng Quang tâm sử”, dƣới ngòi bút của Phan Bội Châu, ông vua này không

có công trạng gì đối với cuộc khởi nghĩa ngoài việc đong góp: “một trăm gian nàh trại... vài

nghìn mẫu ruộng để làm chỗ đứn chân tạm thời cho Đảng...” Dù ông là ngƣời rất “đau lòng vì

quốc sử, ôm ấp chí lớn”.

Cái chí lớn của ông thực hiện đƣợc là nhờ sự đóng góp của mọi tầng lớp trong xã hội

mà nên. Đặc biệt là sự đồng tâm hợp lực và sức mạnh vĩ đại của quần chúng nhân dân mà đại

diện là ông Xý, ông Võ, cô Triệu, cô Chí, cô Liên, cu Chìm, anh Hạnh.v.v... Đó là những con

ngƣời vô danh không tên tuổi đã đƣợc Phan xây dựng với những nét bút trang trọng nhất nằm

trong ý đồ và quan điểm nghệ thuật xây dựng ngƣời anh hùng của Phan, phù hợp với lý tƣởng

và quan điểm nghệ thuật mới về con ngƣời của nhà văn, nhƣng đồng thời cũng đáp ứng đƣợc

tâm lý của đại đa số quần chúng nhân dân đƣơng thời khi Phan viết tác phẩm.

Ngoài việc hƣ cấu nhân vật, trong một số tiểu thuyết lịch sử khác, các tác giả còn hƣ

cấu những chi tiết, những sự kiện để góp phần khắc họa tính cách nhân vật. Trong chính sử,

không thấy chuyện Lê Đại Hành dùng khổ nhục kể để đánh lừa Hậu Nhân Bảo, nguyên soái

của quân Tống, đồng thời cũng thấy đƣợc Lê Đại Hành cho thuyền chở dầu của Hầu Nhân

Bảo và cũi nhốt Tôn Toàn Hƣng xuôi dòng để làm rối loạn lòng quân của đô đốc Lƣu Trƣng.

Nhờ diệu kế này mà Lê Đại Hành đã phá vỡ nốt thủy quân sau khi đánh tan quân bộ của giặc.

Hình thức khổ nhục kế mà Lê Đại Hành đã sử dụng không khác gì kế của Chu Du, Hoàng Cái

dùng để phá quân Tào ở sông Xích Bích trong truyện “Tam Quôc chí diễn nghĩa” của La

Quán Trung. Không chỉ thế, trong tác phẩm Lê Đại Hành, Nguyễn Tử Siêu còn dựng ra hai

cuộc do thám địch tình rất dũng cảm của Phùng Khuông và Phùng Chính. Đồng thời trên đà

của những diễn biến các sự kiện, Nguyễn Tử Siêu còn tạo ra hai nữ tƣớng đó là Hầu Tú Kiều

con của Hầu Nhân Bảo và Bích Hà. Trong cuộc đấu tài, Bích Hà đã đánh bại ngƣời nữ tƣờng

Trung nguyên làm cho cô

134

ấy nổi tự ái đâm cổ mà chết. Mục đích của việc hƣ cấu nghệ thuật này là nhằm đề cao tài

nghệ của ngƣời con gái Việt Nam - Bích Hà, với tinh thần đề cao dân tộc, tự tôn dân tộc. Mặt

khác, với mục đích đề cao dân tộc, tác giả đã xóa đi những vết dơ mà lịch sử đã ghi lại. Trong

tác phẩm Lê Đại Hành, Nguyễn Tử Siêu đã khẳng đinh rằng Lê Đại Hành bị bắt ép làm vua

chứ không hề có ý làm vua, đồng thời Lê Đại Hành không có tƣ tình gì với Dƣơng Thái hậu.

Tác giả viết rằng: “Lê Hoàn nghe quân sĩ rao hô tôn mình thì đứng ngây ngƣời ra không biết

nghĩ thế nào, còn Thái hậu nghe tin thì ngẩn ngƣời ra, sau lại đổi ngay sắc mặt vui vẻ mà

rằng: đó là mệnh trời cƣỡng sao đƣợc và ta cũng nên lấy việc nƣớc làm trọng mới phải”

[168,13].

Trong tác phẩm “Chúa Trịnh Khải”, để nhằm mục đích ca ngợi những phẩm chất đạo

đức tốt đẹp của ngƣời anh hùng Nguyễn Huệ, Nguyễn Triệu Luật đã hƣ cấu một số chi tiết

khác hẳn với lịch sử nhƣ chi tiết tên Trang đƣa Trịnh Tông đến nộp cho Nguyễn Huệ:

Trong cuốn “Lê Quý ký sự” viết:

“Tên nghịch Trang ngƣời Hạ Lôi ở bên, biết rõ, bèn đem vài chục tên gian ác bao vây

chúa Trịnh. Quán phải khóc lóc dụ bảo Trang nhƣng Trang không nghe. Trang đem chúa

Trinh đi. Chúa đƣa dao đâm cổ, nhƣng vết thƣơng còn nhỏ không chết, liên lấy ngón tay móc

cho to ra, chúa chết. Thấy thế lực mình không ngăn cản đƣợc việc Trang làm, Quán vật mình

xuống đất, kêu khóc ầm ĩ, Nghịch Trang đƣa tử thi chúa Trịnh đến kinh đô - Huệ sai đặt ở

ngoài củă Tuyên Vũ, khâm liệm vào quan tài rồi chôn cất”.

Trong quyển “Việt sử thông giám cƣơng mục” lại viết:

“...Trần Quán đƣợc tin vội vàng chạy trốn vừa lạy vừa khóc nói:”Làm lầm lỡ chúa

đến thế này là tội ở tôi”. Nhân đem nghĩa lớn dụ bảo Trang, Trang nói: “Sợ thầy không bẳng

sợ giặc, yêu chú không bằng yêu mình” bèn giải Trịnh Khải đi nộ cho giặc. Văn Huệ sai sắm

đủ áo quan khâm liệm tống táng”.

135

Nhƣ vậy, trong các quyển sử và kể cả tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” đều ghi và

nói rõ cách đối xử khá nặng nề cảu Tây Sơn đối với Trịnh Tông: phơi xác Tông ở ngoài cửa

Tuyên Vũ cho thiện hạ biết rồi sau mới chôn, cho dù sau đó có tổ chức chôn một cách trọng

thể.

Còn trong tác phẩm “Chúa Trịnh Khải”, Nguyễn Triệu Luật đã hƣ cấu một số chi tiết

để khẳng định thái độ khoan hồng, đại lƣợng của Nguyễn Huệ: “Long- Nhƣơng tƣớng quân

nhà Tây Sơn là Nguyễn huệ vỗ vào thi thể Trịnh Vƣơng:

- Đáng tiếc ! Ngƣời đẹp trai thể này! Thật đáng tiếc. Nếu sớm biết hàng ta thì cũng

đƣợc giàu sang! Sao mà thân làm tội đời nhƣ thế này!

Đoạn cho khâm liệm đúng lễ đối với một bậc vƣơng giả, sai lấy cỗ xe Tiểu long bình

đƣa đến nơi an táng ở trại Phƣơng Liệt, gần mộ Cung - quốc – công Trịnh Cán” [139, 123-

124].

Nhƣ vậy Nguyễn Triệu Luật muốn lý tƣởng hóa và ca ngợi những phẩm chất của vua

Tây Sơn, ngƣời anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.

Trong tác phẩm “Đêm hội Long Trì”, để bộc lộ thái độ căm ghét và căm thù cao độ

của mình đối với Đặng Lân, Nguyễn Huy Tƣởng đã hƣ cấu, tô đậm thêm tính cách của Đặng

Lân và phóng đại sự độc ác, dâm loạn của tên “Quốc cữu” này: trống thành đã điểm canh ba,

chợt có tiếng quát tháo cảu Cậu Trời và những tiếng chửi rủa thô tục: sau cuộc say sƣa, Lân

sực tỉnh dậy, nhƣ có ý hối hận về những cử chỉ vừa qua, thầm nghĩ:

- Chết chửa, Quỳnh Hoa mà trông thấy, ta còn thể thống gì nữa !

Ả thiếu phụ trong lúc mơ màng, ôm lấy Cậu Trời, Lân tực giận nghiến răng, rút con

dao găm sáng loáng trong bọc ra, đâm thẳng tay xuống ngực thiếu phụ. Ả chỉ kịp kêu:

- Trời ơi! Chết tôi rồi!

136

(...) bên” [201,12].

Có thể nói ở tác phẩm “Đêm hội Long trì”, với ngòi bút của một nhà tiểu thuyết lịch

sử, Nguyễn Huy Tƣởng đã khắc họa thành công nhân vật Đặng Lân, làm cho Đặng Lân ở đây

độc ác hơn, dâm dật hơn, hiện nguyên hình là một con thú đội lốt ngƣời, khác nhiều với Đặng

Lân trong lịch sử và Đặng Lân trong “Hoàng Lê nhất thống chí”.

Trong tác phẩm “Cái hột mận”, để tố cáo tội ác tàn bạo của tên vua Ngọc Triều, Lan

Khai đã hƣ cấu một số chi tiết không có trong lịch sử, hoặc phóng đại tô điểm thêm : điển

hình là sự việc vua Ngọa Triều hành hạ nhà sƣ:

“Vẫy tay ra hiệu cho lính hầu áp giải nhà sƣ lại gần Ngự tọa, bạo chúa khẽ rút con dao

chuôi vàng và từ từ chống lên đầu nhà sƣ. Rồi điểm nhiên ngày rọc mía!...

Con dao lập lòe lên xuống, vỏ mía tách rơi lả tả trên vai kẻ thụ hình… thỉnh thoảng,

con dao trong tay nhà vua lại sƣớc lên vỏ mía và bập mạnh xuống cái đầu trọc lóc. Một vết

thƣơng toác ra. Một dòng máu đỏ chảy luễ loại xuống trán, xuống gáy, xuống mặt, nhuộm đỏ

tấm áo cà sa đã cũ màu…” [111, 132- 134].

Sau đó tác giả miêu tả hành động tàn ác của nhà vua giết chết nhà sƣ:

“Vua Ngọa Triều thét lên một tiếng. Một làn chớp nhoáng lóe ra khiến mọi ngƣời

quáng mắt. Đầu nhà sƣ vọt xuống thềm, bỏ lại trên nền một vệt máu hồng…” [111, 132-134].

Xây dựng nhân vật Đặng Lân (“Đêm hội Long Trì”), vua Ngọa Triều (“Cái hột

mận”), các tác giả đã để lại một ấn tƣợng sâu sắc trong lòng ngƣời đọc. Tuy vậy, khi đi vào

hƣ cấu hoặc tô đậm những nét tính cách ở những nhân vật phản diện, các tác giả của dòng

tiểu thuyết lịch sử - giai đoạn này chỉ

137

nhấn mạnh mặt dâm ác đầy thú tính của chúng mà chƣa chú ý đầy đủ đến những mặt bản chất

khác trong tính cách của nhân vật nhƣ sự đàn áp, bóc lột tàn tệ của chúng đối với ngƣời nông

dân v.v… Nhƣ nếu không có những sáng tạo nhƣ thế thì những cuốn tiểu thuyết lịch sử, hẳn

chỉ còn trơ lại những cái xác lịch sử khô khan không tình cảm, thái độ và sẽ giảm đi sức hấp

dẫn của tiểu thuyết.

4.1.2. Những nhân vật và sự kiện hoàn toàn do trí tưởng tưởng của nhà văn tạo

nên.

Trong tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này, bên cạnh những nhân vật có thật trong lịch sử

đƣợc các nhà văn hƣ cấu ít nhiều còn có loại nhân vật do nhà văn tƣởng tƣợng hoàn toàn.

Những nhân vật này không có thật trong lịch sử. Đây là một đặc điểm khác với tiểu thuyết

lịch sử từ thế kỷ XX trở về trƣớc. Bởi vì mục đích của các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử là

muốn mƣợn lịch sử trong quá khứ để giáo dục truyền thống yêu nƣớc, truyền thống anh hùng,

nâng cao tinh thần chiến đấu trong quảng đại quần chúng, nhằm giải quyết nhiệm vụ giải

phóng dân tộc đang đƣợc dựng nên hết sức cấp bách. Vì vậy, những hình tƣợng mà các nhà

văn viết tiểu thuyết lịch sử đặt ra trong tác phẩm giai đoạn này có ý nghĩa thực sự và có một

sức sống nội tại rất lớn lao. Những nhân vật đó đã tách rời nhà văn bƣớc vào cuộc đời và trở

thành những nhân vật khách quan mang ý nghĩa điển hình. Nó đại diện cho một tầng lớp, một

giai cấp có khi là quảng đại quần chúng nhân dân. Tiêu biểu là nhân vật Nguyễn Mại trong

tác phẩm “Đêm hội Long trì” của Nguyễn Huy Tƣởng. Đây là một nhân vật không có thật

trong lịch sử. Nguyễn Huy Tƣởng đã xây dựng Nguyễn Mại đại diện cho công lý quần chúng.

Dƣới ngòi but của Nguyễn Huy Tƣởng, Nguyễn Mại là một ông quan mẫu mực luôn luôn lo

lắng đến đời sống của nhân dân. Một ông quan đã từng “Thức suốt đêm xem hết những công

văn, nhữn đơn từ, giấy má, trong số đó có hàng 30 đơn khiếu nại Đặng

138

Lân về tội hãm hiếp và giết ngƣời lấy của. Chàng thảo một tập hồ sơ dày đề nghị một chƣơng

trình cải cách tuần phòng rất chu đáo và xin nghiêm trị tất cả mọi ngƣời trái phép, bất luận

hoàng thân quốc thích… Nguyễn Mại còn sai treo một cái biển và một cái trống lớn ngoài

cổng nhà và bá cáo cho nhân dân ai có điều gì muốn kêu từ việc trộm cắp đến những điều oan

ức, thì cứ tới nha hộ thành mà đánh trống xin vào, chàng sẽ xét cho ra nhẽ” [69, 57-58].

Việc để cho Đặng Lân chết nhục nhã dƣới lƣỡi gƣơm Nguyễn Mại bất chấp mọi tai

họa nguy hiểm, đối đầu với cái chết đã “thể lòng mong muốn của nhân dân “trừ một mối họa

lớn” cho mọi ngƣời. Hành động đó thể hiện khát vọng của quần chúng nhân dân. Trong lịch

sử, Đặng Lân không chết vì lƣỡi gƣơm chính nghĩa của Nguyễn Mại. Sách “Tang thƣơng

ngẫu lục” chép rằng: sau khi giết chết nội giám Sử theo hầu, Đặng Lân bị tống ngục và bị đầy

ra ở An Quảng bỏ ngục rồi nhịn ăn mà chết”.

Vì thế, cảnh Trịnh Sâm xử Nguyễn Mại về tội giết quốc cữu Đặng Lân mà bên ngoài

quần chúng đứng chật ních cả phủ chúa và nghe tin chúa tha bổng cho Nguyễn Mại ngƣời đại

diện cho công lý của nhân dân thì họ hò reo và hô tô:

“Quan Hộ được tha, vương gia muôn tuổi!

Tiếng reo vang lừng mênh mông như sóng” [202,183]

Song ở đây, vai trò của quân chúng nhân dân còn yếu và mờ nhat. Quần chúng nhân

dân chƣa đóng vai trò quyết định. Trong lịch sử, họ chƣa là chủ nhân của lịch sử. Trong tác

phẩm “Cái hột mận”, Lan Khai đã khắc phục đƣợc hạn chế này của Nguyễn Huy Tƣởng. Ở

đay, quần chúng nhân đã thực sự xuống đƣờng và họ đã biểu dƣơng sức mạnh của mình, làm

cho kẻ thù phải khiếp sợ:

139

“Rồi, thốt nhiên, toàn thành sáng rực nhƣ một cái bể lửa: nhân dân thắp đèn đuốc, để

kéo nhau đi đón chào đội quân chiến thắng... Thực là cả một lớp sóng ngƣời gồm đủ cả các

hạng và cũng điên cuồng lên bởi cảm xúc mãnh liệt. Dƣới ánh đèn ngũ sắc, ngƣời ta nhận

thấy, sát cánh nhau, những vƣơng hầu khanh tƣớng kiêu ngạo và rực rỡ, những nho sĩ áo

xanh, bọn dẫn lộ của quần chúng, những dân gian quần nâu áo vải. Hết thảy đều hát to những

khúc hùng hồn, reo hô vạn tuế và đốt những tràng pháo dài dằng dặc” [111,141-142].

Đây là một quan điểm mới về vai trò của quần chúng trong lịch sử. Quan điểm này

vƣợt xa quan điểm của các nhà văn viết ký sự và tiểu thuyết lịch sử từ thế kỷ XIX trở về

trƣớc, gần với các quan điểm của Đảng ta. Các tác giả đã thấy đƣợc vai trò sáng tạo của quần

chúng và khẳng định quần chúng là nguời làm nên lịch sử, là lực lƣợng quyết định sự thay

đổi các triều đại lịch sử. Tuy nhiên, việc thể hiện vai trò của quần chúng đối với lịch sử ở mỗi

tác giả còn có những thiếu sót nhất định. Ở những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử thuộc giai

đoạn đầu, các tác giả chƣa đánh giá đúng mức vai trò của quần chúng. Có tác giả miêu tả họ

nhƣ lực lƣợng tự phát, chƣa nâng lên thành ý thức tự giác. Điển hình là tác phẩm “Việt

Thanh chiến sử” của Nguyễn Tử Siêu với nhân vật Ngọc Nƣơng, và nhân vật Mạnh Lân.

Chính việc sáng tạo những nhân vật phi lịch sử này đã làm thay đổi nghệ thuật kết cấu của tác

phẩm, thay đổi phƣơng thức xây dựng nhân vật, làm cho tính tiểu thuyết của tác phẩm càng

đậm đà, góp phần lôi cuốn và hấp dẫn ngƣời đọc nhiều hơn.

4.2. Nghệ thuật kết cấu

“Kết cấu là toàn bộ tổ chức, phức tạp bao gồm mọi mối quan hệ giữa chỉnh thể và bộ

phận, giữa bộ phận và bộ phận trong một tác phẩm văn học. Bất kỳ một tác phẩm nào cũng

có kết cấu. Kết cấu là một trong những nhân tố trọng yếu thể hiện giá trị nghệ thuật của tác

phẩm”. [153, 345].

140

Kết cấu trong một tác phẩm văn học phụ thuộc vào đặc trƣng nghệ thuật, quan điểm

nghệ thuật, quan điểm nghệ thuật mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu nhằm làm nổi bật

nội dung tác phẩm và tạo ấn tƣợng mạnh mẽ cho ngƣời đọc.

Xét về phƣơng diện hình thức và căn cứ vào thực tế sáng tạo nghệ thuật, chúng ta có

thể thấy nhiều loại kết cấu nhƣ kết cấu theo trình tự thời gian đơn tuyến và một hƣớng, kết

cấu tuyến đọc, kết cấu tuyến ngang, kết cấu theo diễn biến tâm lý nhân vật.v.v...

Trong thực tế, nhất là trong những tác phẩm tiểu thuyết có dung lƣợng lớn, các loại

kết cấu tren thƣờng phối hợp và đan xen vào nhau để tạo thành một hệ thống kết cấu phức

tạp.

Kết cấu các tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn 1900 - 1945 tƣơng đối đa dạng và

phức tạp: vừa có loại kết cấu theo kiểu chƣơng hồi vừa có kiểu kết cấu của tiểu thuyết hiện

đại phƣơng Tây.

Ở giai đoạn đầu (từ đầu thế kỷ đến 1930) nhƣ đã nói hầu hết tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam kết cấu theo kết cấu của tiểu thuyết chƣơng hồi. Đây là một biện pháp kết cấu cổ điển

mà chúng ta bắt gặp trong những truyện kể dân gian hay một số truyện Nôm hoặc tiểu thuyết

Việt Nam bằng chữ Hán nhƣ “Việt Lam xuân thu”, “Hoàng Lê nhất thống chí”, “Hoàng Việt

Long hƣng chí”, và phần lớn tác phẩm tiểu thuyết cổ của Trung Hoa nhƣ: “Tam quốc chí diễn

nghĩa”, “Thủy Hử”, “Hồng lâu mộng”, “Tây Du Ký” v.v... Theo lối kết cấu này, toàn bộ câu

chuyện đƣợc tách ra thành nhiều “hồi” nhiều “tiết” có mối quan hệ vừa “khép” vừa “mở”,

vừa “giãn cách” vừa “liên tục”. Lối kết cấu này giúp tác giả lắp ghép, xâu chuỗi các sự kiện

lịch sử, những con ngƣời lịch sử lại với nhau thành một chỉnh thể. Mỗi “chƣơng”, mỗi “hồi”,

mỗi “tiết” có thể gói gọn một sự kiện, một câu chuyện, có khi giới thiệu về chân dung của

một nhân vật lịch sử mà nàh văn muốn nhấn mạnh. Ở đầu mỗi “chƣơng” mỗi

141

“hồi”, tác giả tóm tắt những sự kiện chính bằng hai câu thơ hoặc một cụm từ: tác phẩm

“Trùng Quang tâm sử” có 22 tiết, đầu mỗi tiết là một cụm từ gồm 4 chữ dùng để khái quát

nội dung. Ví dụ: tiết thứ nhất “Bỏ nhà cứu bạn”, tiết thứ hai “Vì ngạo với giầy phải ở tù”, tiết

thứ 4 “Tỏ mặt anh thƣ”, tiết thứ mƣời chín “nhìn ngắm sông núi”, tác phẩm “Ngọn cờ vàng”

của Đinh Gia Thuyết cũng có kết cấu tƣơng tự nhƣ “Trùng Quang tâm sử”. Tác phẩm gồm 16

tiết, mỗi tiết mở đầu bằng một cụm từ gồm 4 chữ. Ví dụ: tiết I: “Trai già nở ngọc”, tiết II:

“Gà sống nuôi con”, tiết III “Giấc mộng kỳ khôi”, tiết XVI “Bà Vƣơng trúng kế”, tác phẩm

“Giọt máu chung tình” của Tân Dân Tử lại chia thành hồi. Tác phẩm có 18 hồi và mở đầu

mỗi hồi bằng 2 câu thơ 7 chữ hoặc chữ tóm tắt nội dung của hồi đó.

Ví dụ: Hồi thứ nhất:

Thành Bình Định thuật sơ sự tích

Võ Đông Sơ lướt dặm quan hà

[198,15]

Hồi thứ hai:

Dẫn lại lịnh tráng sĩ bán gươm vàng

Kết lương bằng Đông Sơ trao lượng bạc

[198,16]

và hồi 18:

Dọn Tùng đình phối hiệp cuộc nhơn duyên

Lập miếu võ để thờ người trung liệt

[198,242].

Nhƣng kết thúc mỗi hồi không có câu “vị tri hƣ thực nhƣ hà, thả thính hạ hồi phân

giải” nhƣ trong tiểu thuyêt lịhc sử cổ điển của Trung Hoa. Tác

142

phẩm “Vua Bố cái” có 6 chƣơng. Ở đầu mỗi chƣơng, tác giả mở đầu bằng cả một đoạn thơ

lục bát. Ví dụ: chƣơng thứ tƣ:

“Nước non chẳng phụ người đời

Có công mài sắt có ngày nên kim

Dù cho bảy nổi ba chìm,

Lòng son đã quyết, gan lim càng bền”

[167, 30].

Tác phẩm “Lê Đại Hành” có 4 chƣơng và đầu mỗi chƣơng tác giả tóm tắt bằng hai

câu thơ 5 chữ:

Chƣơng I: Cửa ải đùn mây tối

Trong triều đổi áo vàng

[168, 14].

Chƣơng II: Liều mình thăm miệng hổ

Bán nƣớc nƣớc giậy lòng lang

[168,14]

Chƣơng III: Thế giữ nơi giang khẩn

Tài thi cõi chiến trƣờng

[168,32]

Chƣơng IV: Vua tôi cùng kế sách

Non nƣớc khỏi tai ƣơng

[168,45]

143

Tác phẩm “Tiếng sấm đêm đông” của Nguyễn Tử Siêu lại chia thành 15 chƣơng và

đầu mỗi chƣơng cũng có 2 câu thơ 7 chữ để tóm tắt nội dung của từng chƣơng.

Ví dụ. Chƣơng 1.

Trời Nam Việt quan tàu cai trị,

Đất Chi Châu hào kiệt ngầm mƣu [166,3]’

Và chƣơng thứ 15.

Thoát nô lệ nƣớc Nam thành độc lập

Lên bảo vị Ngô Quyền dựng nghiệp Vƣơng [166,107].

Riêng tác phẩm Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Tử Siêu viết 10 chƣơng nhƣng mỗi

chƣơng tác giả không mở đầu bằng những câu thơ nhƣ tác phẩm “Lê Đại Hành”, “Vua Bố

Cái”.

Lối kết cấu này giúp độc giả có thể đoán biết đƣợc những nét chính của chuyện.

Riêng ở tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn này, kết thúc mỗi chƣơng mỗi hồi không thấy

có những câu hỏi chuyển hồi hay chuyển đoạn nhƣ “Chƣa biết thắng thua thế nào, xem hồi

sau phân giải” hay “không biêt ngƣời ấy là ai, xem hồi sau sẽ rõ” thƣờng thấy trong tiểu

thuyết lịch sử cổ điển Trung Hoa và tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hán của Việt Nam từ cuối

thế kỷ XIX trở về trƣớc.

Càng về sau, trong những tác phẩm nhƣ “Hai Bà đánh giặc”, “Trần Nguyên chiến

kỷ”, “Việt Thanh chiến sử”, “Đêm hội Long trì”, “Ai lên phố Cát”, “An Tƣ”, “Cái hột mận”,

“Bà Chúa Chè”, “Vua Quang Trung”, các tác giả xa dần với lối kết cấu trên để từng bƣớc

vƣơn tời một hình thức kết cấu của tiêur thuyết hiện đại ở một vài phƣơng diện chính. Có khi

tác giả vẫn tiếp tục sử dụng kết cấu chƣơng hồi nhƣng đã có những nét đổi mới. Nhƣ không

lấy cốt truyện làm chính mà lại lấy việc xây dựng tính cách nhân vật

144

hay diễn biến tâm lý, nhân vật làm nòng cốt cho câu truyền. Ở “Việt Thanh chiến sử” Nguyễn

Tử Siêu đã lấy mối tình cay đăng, oan khốc, chua xót của Ngọc Nƣơng và Trần Viễn Mƣu

làm điểm xuất phát của kết cấu tác phẩm. Hoặc chỉ lấy một sự việc, một tình huống tiêu biểu

từ đó xây dựng thành cốt truyện nhƣ trong “Đêm hội Long trì” của Nguyễn Huy Tƣởng.

Hoặc lấy cuộc đời của một nhân vật làm trung tâm cho cả cốt truyện nhƣ “Bà Chúa Chè” của

Nguyến Triệu Luật hya “Cái hột mận”, “Ai lên phố Cát” của Lan Khai v.v.. Lối kết cấu này

là lối kết cấu hiện đại thƣờng thấy ở những tác phẩm tiểu thuyết của phƣơng Tây, lúc bấy giờ

cũng đã du nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đƣờng.

Nhìn chung, kết cấu trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1900 đến 1945 có hai dạng

chính và đan xen nhau để làm nên kết cấu tổng thể của tác phẩm:

4.2.1. Dạng kết cấu theo trình tự thời gian

Ở loại kết cấu này, thời gian là cái trục chính để dẫn dắt sự kiện, biến cố cũng nhƣ số

phận của các nhân vật trung tâm. Ở giai đoạn này từ 1900 đến 1930, hầu hết tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam kết cấu theo một trình tự thời gian nhƣng các tác giả lại cấu trúc theo một hình

thức ít nhiều đổi mới so với tiểu thuyết truyền thống hoặc tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa...

Các tác giả thƣờng lấy câu chuyện về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm làm cốt lõi và đã

gắn kết các sự kiện, các nhân vật lịch sử xoay quanh cái trục lõi ấy một cách có hệ thống.

Phạm Quỳnh cho rằng : “Kết cấu của tiểu thuyết chƣơng hồi là kết cấu đƣờng thẳng”. Kết cấu

đƣờng thẳng thƣờng chi phối nòi bút của một số tác giả ở gian đoạn sáng tác đầu tiên mà tiểu

biểu là Nguyễn Tử Siêu. Theo kiểu kết cấu này, mở đầu tác giả giới thiệu một sự kiện, có khi

là một sự kiện có thực trong lịch sử (tác phẩm “Vua Bà Triệu Ẩu”, “Hai Bà đánh giặc”, “Vua

Bố Cái”); có khi là một sự kiện do chính nhà văn hƣ cấu và sáng tạo nhƣ

145

trong tác phẩm “Đinh Tiên Hoàng”. Ở tác phẩm này, Nguyễn Tử Siêu lại bắt đầu bằng sự

kiện cha của Mạnh Lân bị quân Nguyễn Thủ Tiệp bức hại. Từ đó xuất phát từ lòng căm hận,

Mạnh Lân đã luyện tập binh thƣ, võ nghệ để chuẩn bị trả thù cho cha. Sau đó, chàng gặp

đƣợc vị anh hùng đang nuôi ý chí dẹp loạn 12 sứ quân là Đinh Bộ Linh, Mạnh Lân đã cùng

Đinh Bộ Lĩnh tiêu diệt đƣợc Nguyễn Thủ Tiệp, để vừa trả thù cho cha vừa trọn nghĩa với

nƣớc.

Đây là thể loại kết cấu theo tuyến dọc. Trong khi đó tiểu thuyết Trung Hoa phần lớn

lại kết cấu theo tuyến ngang. Kết cấu tuyến dọc có ƣu điểm làm nổi rõ chủ đề tƣ tƣởng của

tác phẩm. Tác phẩm kết cấu theo kiểu này trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam không tồn tại

độc lập mà nó thƣờng kết hợp với một số dạng kết cấu khác.

Khi sử dụng kết cấu thời gina, câu chuyện đƣợc kể lại theo quá trình tự thời gian của

sử biên niên chính xác đến ngày, tháng, năm. Ví dụ: “ngày 12 tháng 9 năm Kỷ Tỵ (948), ông

Đinh Bộ Lĩnh rời đại đội nhân mã từ Bố Hải để về đóng ở hẳn Hoa Lƣ” [169,38], hay “tháng

Giêng, mùa xuân năm Mậu Thìn (908) Vạn Thắng Vƣơng lên ngôi Hoàng đế, đổi tên nƣớc là

Đại Cồ Việt, đặt đầu năm niên hiệu là Thái bình...” [169,83]. Cách viết này khiến cho ngƣời

đọc càng tin tƣởng vào sự kiện lịch sử mà tác giả đƣa vào tác phẩm, làm cho sự kiện lịch sử

tăng thêm sức thuyết phục. Đây là lối kết cấu thời gian đơn tuyến, một hƣớng đã thƣờng gặp

ở một số tiểu thuyết văn xuôi tiếng Việt của Hồ Biểu Chánh, Bửu Dình, Trần Trung Viên,

Phạm Minh Kiên đƣơng thời, một số truyện Nôm khuyết danh cũng nhƣ một số tiểu thuyết

bằng chữ Hán của Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX trở về trƣớc. Sử dụng lối kết cấu này, tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam hầu hết kết thúc câu chuyện một cách có hậu (trù “Giọt máu chung

tình” của Tân Dân Tử, “Chúa Trịnh Khải” của Phan Trần Chúc). Các nhân vật lịch sử về cuối

tác phẩm thƣờng đƣợc phong vƣơng, phong

146

tƣớc. Nếu là cuộc kháng chiến thì toàn thắng nhất định về ta, điển hình là các tác phẩm:

“Trần Nguyên chiến kỷ”, “Việt Thanh chiến sử”. “Hai Bà đánh giặc”, “Vua bà Triệu Ẩu”,

“Vua Bố Cái”, “Đinh Tiên Hoàng” v.v...

4.2.2. Dạng kết cấu theo hai tuyến nhân vật.

Đề tài mà tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 hƣớng tới là đề tài

chống xâm lƣợc và đề tài nội trị. Vì thế, trong tác phẩm, các nhà văn thƣờng xây dựng nhân

vật thành 2 tuyến: chính diện và phản diện. Hai hệ thống này đối lập và xung đột với nhau

kịch liệt. Hệ thống nhân vật chính diện bao gồm những ngƣời có lòng yêu nƣớc, dám xả thân

vì sự nghiệp cứu nƣớc, cứu dân nhƣ: Trƣng Trắc, Bà Nàng (Trƣng Nhị), Thi Sách. Lê Mậu.

Đỗ Tiểu Mai, Ái Nƣơng... trong tác phẩm “Hai bà đánh giặc”. Đó là Phùng Hƣng (Bố Cái đại

vƣơng), Phùng Hải trong tác phẩm “Vua Bố Cái”, Lê Đại Hành, Phạm Cự Lang... trong tác

phẩm “Lê Đại Hành”, Nguyễn Huệ, Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Long trong tác

phẩm “Việt Thanh chiến sử”, Trần Cảnh (Vua Thái Tôn), Trần Khoán (Vua Thánh Tông),

Trần Sâm (Vua Nhân Tôn), Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Khánh Dƣ, Yết kiêu... trong

tác phẩm “Trần Nguyên chiến kỷ”, Triệu Thị Trinh, Triệu Quốc Đạt, Triệu Quốc Thành, Lê

Huân... trong tác phẩm “Vua bà Triệu Ẩu”, Lý Công Uẩn, quan thái sƣ Phạm Cự Lang, Bội

Ngọc trong tác phẩm “Cái hột mận” của Lan Khai, An Tƣ, Chiêm Thành Vƣơng Trần Thông;

Thánh Tông Thƣợng Hoàng, Quốc công Trần Hƣng Đạo, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải,

Vua Thiệu Bảo trong tác phẩm “An Tƣ” của Nguyễn Huy Tƣởng. Vua Lý Nhân Tông, Lý

Thƣờng Kiệt, Trịnh Hoài Bảo, Hồ Kỳ, Mai Văn Sĩ, Trần Thiết Liệt trong tác phẩm “Việt

Nam Lý Thƣờng Kiệt” của Phạm Minh Kiên, Võ Đông Sơ, Bạch Thu Hà, Triệu Đông, Lê

Đạt, Triệu Nƣơng, Hoàng Nhứt Long trong

147

“Giọt máu chung tình” của Tân Dân Tử. Thái độ của các nhà văn là ngợi ca. Khi ca ngợi Trần

Bình Trọng, Nguyễn Tử Siêu đã viết: “Ôi ! đáng phục thay cho ông Trần Bình Trọng! Đáng

kính thay ông Trần Bình Trọng...!”

Thật là : Nước Việt, khôn toan đành một thác

Tiếng thơm lưu lại dưới ngàn thu”.

[169,103].

Trong tác phẩm “Việt Nam Lý Thƣờng Kiệt” Phạm Minh Kiên đã ca ngợi Lý Thƣờng

Kiệt: “Trong cái thời buổi đó, có một chàng thanh niên tráng sĩ tên là Lý Thƣờng Kiệt, học

rộng tài cao, tính nết đoan trang, nói năng hòa nhã, tuổi mới đôi mƣơi, hình dung lẫm liệt,

mắt lớn miệng rồng, mày dài trán cao, giọng nói nhƣ chuông, tƣớng đi nhƣ cọp, cả huyện

Thọ Xƣơng ngƣời đều ngợi khen”. [118,6].

Tân Dân Tử trong “Giọt máu chung tình” lại ca ngợi nhân vật chính diện bằng một

bút pháp độc đáo và linh hoạt hơn. Bạch Thu Hà đã nghĩ về Võ Đông Sơ: “Võ Đông Sơ là

ngƣời đã thi ân cứu mạng của mình trong lúc gặp thằng cƣờng đạo ở Quan Âm Các và lại là

một ngƣời hào hoa phong nhã đáng mặt thiên tài nếu ta thị bàng quang, mà điềm nhiên đi,

chẳng những mình là kẻ vô tình, để anh mình hại một vị anh hùng tuấn kiệt thì lòng này sao

nỡ”. [198,17]. Khi ca ngợi nhân vật Phùng Hƣng trong “Vua Bố Cái” Nguyễn Tử Siêu đã viết

“Than ôi! nƣớc Nam ta ở vào quãng đời thứ bảy ấy không có đức Đô quân Phùng Hƣng ra

tay cứu nƣớc thời lại đƣợc nhƣ thế ƣ” [167,61].

Đối lập với những nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) là hệ thống nhân vật phản

diện bao gồm bọn giặc xâm lƣợc và bè lũ tay sai bán nƣớc (đề tài chống xâm lƣợc) nhƣ : Hứa

Chế Hanh, Triệu Uông, Chƣơng Sĩ Long, Lý Hằng, Lƣu Mao, Lƣu Tiến, Tôn Sĩ Nghị, Sầm

Nghi Đống, Hắc Phi Yến, Hứa Phú, Lƣu Đức, Mã Kỳ, Trần Tiến trong tác phẩm “Việt Thanh

chiến sử”, Hốt

148

Tất Liệt, A Bát Cống, Toa Đô, Ô Mã Nhi, Thoát Hoan, Thiết Mộc Nhĩ, Sài Thung, Ngột

Lƣơng Hợp Thái, Mộng Kha, A Loa Đài, Quí Do... trong tác phẩm “Hai Bà đánh giặc”; Lã

Đại, Lục Dậu, Hồ Dân, Lã Phần, Cao Chánh Bình, Kiều Đình Trƣởng, Quan huyện Hà Năng,

Quan châu Úy Phong Châu trong tác phẩm “Vua Bố Cái”, Thoát Hoan, Ô Mã Nhi trong “An

Tƣ” của Nguyễn Huy Tƣởng.

Mỗi khi nói đến kẻ thù xâm lƣợc, các tác giả đã bộc lộ lòng căm thù cao độ. Đôi khi,

tác giả không kìm nổi sự căm tức và đã chửi thẳng vào mặt chúng:

“Mày là một đứa tàn tặc bên Trung Quốc sang đây chiếm cứ nƣớc ta, chỉ quen hút

máu mủ dân ta cho no béo lấy một mình, chứ đâu còn có ân huệ gì mà dám nhận là phụ mẫu.

Mày thật là quân vô liêm sỉ, không tự biết mình. Ta giờ hãy lấy đầu mày cho hết khoe

khoang. [169,80].

Trong tác phẩm “Vua Bố Cái”, Nguyễn Tử Siêu đã thể hiện sự căm tức, khinh bỉ đối

với tên giặc Cao Chánh Bình - một viên tƣớng của nàh Đƣờng bằng những câu thơ tự ông

sáng tác:

“Những mong hút máu người ta

Cho thật no béo, cho nhà giàu sang

Ngỡ đâu giờ phút tai ương

Bỗng ông được bỏ thịt xương nước người.

Cho hay những giống tham tài

Hại người bằng bõ khi người hại ta”

[167, 59]

Ngoài ra, các tác giả còn lên án, tố cáo và vạch trần bộ mặt thối nát của bọn quan lại

phong kiến (đề tài nội trị). Các tác giả đã xây dựng khá thành công loại nhân vật phản quốc

tiêu biểu nhƣ Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc, Đỗ

149

Cảnh Hƣng v.v... Loại nhân vật này thƣờng là những kẻ táng tận lƣơng tâm chỉ mong cho bọn

giặc ngoại bang tràn vào để rồi “cõng rắn cắn gà nhà” hay “rƣớc voi về dày mả tổ”. Nguyễn

Tử Siêu đã tỏ rõ thái độ lên án gay gắt và mỉa mai sâu sắc:

“Tiếc thay cũng thể mày râu nhỉ ?

Uống nước sao không nhớ đến nguồn” [151,104]

Trong tác phẩm “Việt Thanh chiến sử”, Nguyễn Tử Siêu đã phỉ báng Lê Chiêu

Thống: “Nƣớc Nam từ khi có đế vƣơng đến giờ, không bao giờ thấy vua nào hèn hạ đến thế.

Tiếng là vua mà bất cứ việc gì cũng phải bẩm đến quan Tây Đốc, thế thì có khác gì nội thuộc

rồi không...?” [171].

Có khi tác giả đã cảnh cáo một cách nghiêm khắc bọn chúng: “Mày là ngƣời Giao Chỉ

mà định là công sói cho quân nhà Hán, để làm hại ngƣời Giao Chỉ, cái tâm địa mày nhƣ thế,

những còn đáng làm ngƣời nữa không?” [159].

Ngoài ra trong tác phẩm “Cái hột mận”, Lan Khai đã khắc họa thành công nhân vật

“Ngọa Triều”, điển hình cho một ông vua độc ác và dâm dật. Trong tác phẩm “Bà Chúa Chè”

của Nguyễn Triệt Luật, “Đêm hội Long trì” của Nguyễn Huy Tƣởng đã khắc họa thành công

2 nhân vật phản diện tiêu biểu đó là Đặng Thị Huệ và Đặng Lân.

Ngoài hai tuyến nhân vật nói trên, các nhà văn còn xây dựng cho mỗi tuyết

một loại nhân vật phụ trỡ khá nổi bật. Loại nhân vật phụ trợ cho nhân vật chính diện thƣờng

là những con ngƣời bình thƣờng nhƣng lại có lòng yêu nƣớc cao độ và có một nhân cách cao

thƣợng nhƣ Bếp Hàn trong tác phẩm “Lê Đại Hành”, Đặng Thị vợ Trần Di Ái, hai ngƣời hầu

của Trần Ích Tắc trong tác phẩm “Trần Nguyên chiến kỷ”. Nhân vật Đặng Thị đƣợc Nguyễn

Tử Siêu miêu tả có một đời sống nội tâm sâu sắc. Nhân vật Bếp hàn trong tác phẩm

150

“Lê Đại Hành” khi nghe tin chủ mình theo giặc đã tìm mọi cách để can ngăn. Là một ngƣời

hắn không có chữ nghĩa nhƣung Bếp Hàn đã nói lên những điều vô cùng tâm huyết thể hiện

tấm lòng yêu nƣớc cao độ: “Việc quan lớn săp đi hàng giặc Tống đã rành rành ra đó, tôi có là

gỗ đâu mà không biết. Xin quan lớn cứ cắt lƣỡi, chém đầu tôi ngay, nhƣng xin quan lớn đừng

có đi hàng giắc mà xấu hổ chết mất... Khốn nạn ! quân giặc Tống mà quan lớn lại gọi là

Thiên Triều ? Cứ nhƣ ý tôi đã là nƣớc Việt, thời dù có sống chết cũng là ngƣời nƣớc Việt Cổ

chứ chả phải đi theo quân chó nào sất, xin quan lớn đừng đi đâu. Triều đình mà mất chức của

quan lớn, thời quan lớn về quách nhà quê, ở nàh có chán ruộng cũng thừa sung sƣớng còn

việc gì phải đi làm đầy tớ cho quân giặc, không những nhục mà còn bị mang tiếng là phản

quốc nữa” [168-30].Sau khi không ngăn đƣợc ông chủ Bếp Hàn đã tự vẫn. Hành động nghĩa

khí của Đặng Thị và Bếp Hàn thể hiện lòng yêu nƣớc, tinh thần tự tôn dân tộc. Nguyễn Tử

Siêu đã tỏ lòng ca ngợi chân thành: “Thƣơng hại thay, thân phận một anh bếp mà dám liều

mình để ngăn chủ. Cái gƣơng trong ấy há chỉ để cảm với ngƣời trong nƣớc thôi ru” [168, 30].

Không kìm nổi cảm xúc, Nguyễn Tử Siêu còn làm thơ ca ngợi:

“Thân phận tuy hèn, bụng chẳng hèn

Yêu nói là nghĩa há cần khen

Kẻ sang ví cũng lòng như Bếp

Non nước còn đâu nỗi đảo điên” [168,30].

Rõ ràng các tác giả tiểu thuyết trong thời kỳ này rất có ý thức trong việc xây dựng

nhƣũng nhân vật phụ trợ. Điều mà các tác giả muốn nói với ngƣời đọc ở đây là ngay cả

những ngƣời xuất thân từ tầng lớp thấp nhất trong cả xã hội nhƣ Bếp Hàn, hai ngƣời hầu của

Ích Tắc, anh em Phả Lặc, Nhật Nƣơng, Phùng Khuông, Phùng Chính... trong “Lê Đại Hành”;

Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu... trong tác phẩm “Trần Nguyên chiến kỷ”, nếu họ có lòng yêu

nƣớc nồng nàn

151

họ có thể góp phần mình vào công cuộc đánh giặc cứu nuớc và tiếng thơm họ vẫn mãi mãi

lƣu truyền trong sử sách.

Tóm lại: về cơ bản, tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này viết theo lối kết cấu tiểu thuyết

chƣơng hồi truyền thống. Đặc điểm cơ bản của lối kết cấu này là sự cứng nhắc của cốt truyện,

những gây hấp dẫn về tình tiết, sự kiện nhiều lúc là sự phát triển của lôgíc nội tại trong tính

cách của nhân vật. Ở giai đoạn sau 1930 đến 1945, một số tác phẩm đã vƣợt ra khỏi ảnh

hƣởng của lối kết cấu ấy để vƣơn tời kết cấu của tiểu thuyết hiện đại phƣơng Tây. Kết cấu

theo lý tính cách nhân vật, lấy nhân vật và quá trình phát triển tính cách nhân vật làm nồng

cốt, kết thục không cần có hậu. Tiêu biểu là “Việt Thanh chiến sử” của Nguyễn Tử Siêu, “Cái

hột mận” của Lan Khai, “Bà chúa chè” của Nguyễn Triệu Luật, “Vua Quang Trung” của

Phan Trần Chúc, “Ai lên phố Cát” của Lan Khai

Chính kết cấu theo loại này đã gây hứng thú cho ngƣời đọc nhiều hơn. Góp phần làm

tăng thêm tính tiểu thuyết và làm giảm đi tính chất sử thi của tác phẩm. Phải chăng đây cũng

là phần đóng góp của tiểu thuyết lịch sử từ thế kỷ XX đến 1945 cho thể loại tiểu thuyết đang

trên con đƣờng hình thành và hiện đại hóa.

4.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Văn học không chỉ khám phá, phản ánh hiện thực khách quan, văn học còn là sự hiểu

biết, khám phá về con ngƣời “Không thể lý giải một hệ thống thơ văn mà bỏ qua con ngƣời

thể hiện trong đó... Vấn đề quan niệm nghệ thuật về con ngƣời thực chất là vấn đề tính năng

động của nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực, lý giải con ngƣời bằng các phƣơng tiện

nghệ thuật” [176,97].

152

Vì thế, trong tác phẩm văn học, đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết, xây dựng nhân vật là

một trong những nhiệm vụ mà nhà văn phải quan tâm nhiều nhất. Bởi vì, nhân vật không chỉ

thể hiện tƣ tƣởng, chủ đề của tác phẩm mà nhân vật còn thể hiện quan điểm nghệ thuật vè con

ngƣời của nhà văn ở thời điểm lịch sử ấy. Những nhà văn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại đã

có nhữung phƣơng thức tìm hiểu chiếm lĩnh và thể hiện con ngƣời khác nhau và cũng đã để

lại những nhân vật điển hình bất hủ, khác nhau.

Nhìn chung, các nhà văn của dòng tiểu thuyết lịch sử giai đoạn 1900 đến 1945 cũng

có một cách khám phá, hiểu biết và sáng tạo về con ngƣời trên cơ sở của tƣ tƣởng yêu nƣớc,

lòng tự hào tự tôn dân tộc (trừ một vài nhà văn cố tình bôi nhọ và xuyên tạc lịch sử) và một

quan niệm nghệ thuật về con ngƣời nhƣ trên đã nói.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử giai đoan này về cơ bản chứu

thoát khỏi cách xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết truyền thống của Việt Nam và tiểu thuyết

cổ điển Trung Hoa. Tựu trung có mấy cách xây dựng cơ bản sau:

4.3.1. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua việc giới thiệu tiểu sử và miêu tả

ngoại hình.

Hầu hết những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến

1930 và một số tác phẩm thuộc giai đoạn sau đó đã chịu ảnh hƣởng cách xây dựng nhân vật

của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Vì thế trong quá trình xây dựng nhân vật, các nhà văn

thƣờng dùng thủ pháp giới thiệu tiểu sử nhân vật và ngay ở đó, ít nhiều tác giả đã hé mở tính

cách của nhân vật. Khi giới thiệu Phùng Hƣng (“Vua Bố Cái”), Nguyễn Tử Siêu đã viết:

“Ông Phùng Hƣng ngƣời làng Đƣờng Lâm (tức làng Can Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn

Tây bây giờ), vốn dòng quan Lang. Ông có tƣ chất thông minh tuyệt thế, lại có sức lực nhƣ

thần. Từ lúc bé ông đã sẵn đeo một tấm lòng yêu

153

dân, quý nƣớc, đén lúc nhớn tuổi, ông thấy quan Tần cai trị dân ta một cách cực kỳ nghiêm

khắc, ông lại càng thấy căm giặc, nên cái trì phục quốc cứu dân lại càng gấp lên bội phần

[167, 11]. Khi giới thiệu nhân vật Phùng Hải, Nguyễn Tử Siêu viết : “Nguyên lại Phùng Hải

năm ấy 16 tuổi, tính nóng nhƣ lửa, sức khỏe vô cùng, nhƣng lại phải cái nết lƣời học, hễ nói

đến học là nhƣ bò thấy nhà táng. Tuy vậy mà rất sợ anh, hễ anh bảo thế nào cũng phải

nghe...” [167,13].

Còn khi giới thiệu nhân vật Lê Đại Hành tỏng tác phẩm cùng tên, Nguyễn Tử Siêu đã

viết: “Vua Lê Đại Hành là ai ? Ngài tên húy Lê Hoàn, ngƣời làng Bắc Thái, huyện Thanh

Liêm, tỉnh Nam Hà bấy giờ. Ngƣời có chí anh hùng, có tài thao lƣợc, bình nhật thƣờng lấy

cƣú dân hộ quốc làm cái đích cho thân...” [168,5].

Trong “Bà chúa chè” Nguyễn Triệu Luật đã dùng thủ pháp giới thiệu tiểu sử để giới

thiệu Đặng Thị Huệ khi còn nhỏ với độc giả :

“Mới tý tuổi đầu đã vất vả. Thế mới biết không gì bằng có mẹ. Bố nó là học trò lại

gặp cảnh gà trống nuôi con, thành ra con bé phải gánh vác cả. Sáng mờ đất đã phải lên đồi hái

chè, rồi về thổi cơm. Cơm xong, đi bán, trƣa về nộp tiền cho ông quản rồi thì băm bèo naúa

cám, vá áo... thôi thì trăm công nghìn việc” [138,24]. Cách giới thiệu nhân vật theo kiểu sử

học, ít nhiều xen kẽ lời tinh của tác giả đã có tác dụng dẫn dắt tình cảm của ngƣời đọc, làm

cho ngƣời đọc ngay từ đầu đã có ấn tƣợng tốt đẹp hoặc ai cảm đối với nhân vật chính diện và

thêm tin tƣởng ở tính chất lịch sử của nhân vật.

Ngoài cách giới thiệu nhân vật bằng giới thiệu tiểu sử, ở giai đoạn đầu trong một số

tác phẩm, tác giả còn dùng dã sử để giới thiệu nhân vật. Cách giới thiệu này nhằm tạo cho

nhân vật tính chất ly kỳ, hấp dẫn ngƣời đọc. Nhƣng việc sử dụng yếu tố ly kỳ trong tác phẩm

các nhà văn tiểu thuyết lịch sử Việt Nam không đến mức biến nhân vật thành những nhân vật

hoang đƣờng,

154

thần bí, phi thực tế nhƣ tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa : “Vị thiếu niên lƣơng quân ấy là ông

Trần Quốc Tuấn, mà quốc dân ta bấy lâu vẫn quen gọi là “Đức THánh Trần” vậy trong thánh

tích có chép rằng : “Quốc Tuấn sinh ngày 10 thàng chạp năm Nhâm Tý, là con An Sinh

Vƣơng Trần Liễu, anh ruột vua Thái Tôn”. Khi sắp sinh, bà mẹ nằm mộng thấy có một vị

thần nhân, mình vàng, tƣớng ngọc, tự xƣng là Thanh tiên đồng tử, vâng lênh Thƣợng đế ban

cho kiếm ấn và tam bảo ngũ tài xin giáng sinh làm con. Nói dứt lời biến mất. Tức thời tỉnh

mộng sinh ra Quốc Tuấn mùi thơm sực nức đầy nhà. Quốc Tuấn mới đầy tuổi đã biết nói đủ

điều, lên 6 tuổi đã biết bày bát trận đồ và làm thơ ngũ ngôn. Khi lớn lên, trang mạo khôi ngô,

thông minh tuyệt thế...” [170,9].

Có khi tác giả đƣa những yếu tố ly kỳ hay dùng dã sử để giới thiệu nhân vật (nhân vật

Đinh Bộ Lĩnh trongt ác phẩm “Đinh Tiên Hoàng” nhƣng lại khuyên ngƣời đọc : “Giở lên là

lời truyền tụng, hƣ, không co thể nào, hay giở cũng chƣa dám ức đoán. Duy có một điều

ngƣời nƣớc ta vốn sẵn cái sùng bái anh hùng, nên đối với những bậc anh hùng đời trƣớc mà

có công đức lƣu truyền ở nhân gian, thời hẵng thêu dệt thêm ra, bằng những thuyết kỳ dị, cho

phân biệt với ngƣời đời. Cứ suy cái tâm lý ấy thời cũng không phải là điều dở hẳn. Duy ta

nên nhớ, đối vơi bậc anh hùng đời trƣớc, ta chỉ nên sùng bài ở cái sự nghiệp tề khốn tà nguy,

hâm mộ những cái tâm địa thanh thiên bạch nhật... Còn những việc kỳ dị khác thời chỉ nên

coi là một nơi “đàm tiếu” cho tiêu khiển những lúc tửu hậu, trà dƣ mà thôi. Có nhƣ thế thời

cái hòai bão “huy thánh, hy hiền của ta mới khỏi sai đƣờng lạc lối” [169,34].

Theo chúng tôi, đây là một quan niệm tiến bộ của các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử

thời kỳ này, xuất phát từ mục đích muốn dùng lịch sử ngày xƣa để giáo dục con ngƣời hiện

đại. Qua đó, ta càng khẳng định mục đích, động cơ tốt đẹp và cái tâm trong sáng của họ.

155

Ngoài việc sử dụng biện pháp giới thiệu tiểu sử hay dùng dã sử để xây dựng nhân vật,

các nàh văn còn sử dụng biện pháp miêu tả ngoại hình nhân vật. Đây là một thủ pháp truyến

thống đƣợc dùng phổ biến trong văn học phƣơng Đông theo quan niệm “Nhìn mặt mà bắt

hình dong’ mà ta thƣờng bắt gặp ở một số truyện Nôm và số tiểu thuyết lịch sử Việt nam

bằng chữ Hán giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX trở về trƣớc nhƣ “Hoàng Lê Nhất thống chí”,

1904, “Nam triều công nghiệp diễn chí” v.v... hay một số tác phẩm tiểu thuyết cổ điển của

Trung Hoa nhƣ “Hồng lâu mộng”, “Đông Chu liệt quốc”, “Tam Quốc Chí diễn nghĩa”.v.v...

Cách miêu tả ngoại hình của nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt nam thời kỳ đầu

(1900- 1930) là cách miêu tả ngoại hình nhân vật theo bút pháp ƣớc lệ của văn chƣơng cổ

điển. Trong tác phẩm “Đinh Tiên Hoàng”, Nguyễn Tử Siêu đã miêu tả Đinh Bộ Lĩnh : “Đến

lúc Bộ Lĩnh đi gần đến nơi, trong thấy ông đầu đội khăn, mình vận áo đỏ, tay cầm họa kích,

vai đeo kính cung, mặt đỏ nhƣ long thần, mắt nhanh nhƣ lửa điện. Dƣời cƣỡi con ngựa trá

mặt, mình dài, chân cao chẳng khác gì Ô Chuy, Xích Thố của Hạng Vũ, Quan Công”.

[169,56].

Trong tác phẩm “Lê Đại Hành” - Nguyễn Tử Siêu đã miêu tả Phùng Chính “Lúc đó

Nhƣ Tùng trông thấy Phùng Chính, mặt nhƣ mũ ngọc, môi tựa bôi son, mày đen mắt biếc, khí

phách hiên ngang trông lại có phần xuất sắc hơn Phùng Khuông nhiều”. [168,25].

Cách miêu tả phần nào đó còn mang tính ƣớc lệ:

“Phùng Khuông bấy giờ đã trông rõ đƣợc mặt ngừoi con gái, mày ngài, mắt phƣợng,

má phấn, moi son, trong vẻ tú mị yêu kiều lại có hàm cái khí sắc, oai nghiêm lẫm liệt”

[168,17].

156

Cách giới thiệu nhân vật kiểu này không khác gì cách miêu tả nhân vật trong “Tam

Quốc Chí diễn nghĩa” của La Quán Trung. Hạ Hầu Đôn, một viên tƣớng giỏi nổi tiếng của

Tào Tháo đã đặc La Quán Trung miêu tả: “Lại có ngƣời nữa nƣớc Bái, tên là Hạ Hầu Đôn,

tên tự là Nguyễn Nhƣợng, nguyên là dòng dõi Hạ Hầu ngày xƣa: từ nhỏ đã tập voi, đến năm

14 tuổi đã theo thầy tập võ. Có ngƣời chửi thầy, Đôn giết ngay ngừoi ấy, rồi trốn sang nơi

khác ở...” Hoa Hùng dƣới con mắt của Đổng Trác là một tƣớng : “thân cao chín thƣớc, mình

hổ, lƣng lang, đầu beo, tay vƣợn. Tƣớng ấy ngƣời Quan Tây họ Hoa tên Hùng”...

Đến thời kỳ thứ 2 (1930 - 1945); cách miêu tả nhân vật qua ngoại hình của các nhà

văn đã bắt đầu có sự đổi mới theo cách miêu tả nhân vật của tiểu thuyết hiện đại. Trong tác

phẩm “Bà chúa chè”, Nguyễn Triệu Luật đã miêu tả Đặng Thị Huệ không khác gì cách miêu

tả của Khái Hƣng, Nhất Linh trong những tác phẩm - tiểu thuyết lãng mạn: “Mặt nàng trái

xoan, đôi mắt hơi xếch, điểm bộ lòng đen đen ngời, cái vẻ sáng nhƣ gƣơng sắc nhƣ dao của

khóe mắt đƣợc cái sắc thần của lòng đen làm dịu lại. Thật là sáng nhƣ tia chớp mà êm đềm

nhƣ nƣớc hồ thu. Nàng cúi gầm mặt xuống, thì nhƣ đem cả làn thu ba chìm tận đáy lòng mà

nàng ngƣớc mắt lên thì nhƣ đem hết tinh hoa bật lên một tia sáng làm chóa mắt ngƣời xem

[138,44]. Để khắc họa tính cách tàn bạo, gian ác của Đặng Lân, Nguyễn Huy Tƣởng đã viết :

“Một ngƣời chạy vào. Ấy là một gã trai trẻ, ngƣời tầm thƣớc mắt diều hâu, lông mày rậm, râu

tỉa nhiều nhƣng cạo nhẵn, ăn mặc rất sang. Đi sau là một lũ gia nhân, thẩy đều cầm dao, cầm

gậy. Chỉ một bƣớc, ngƣời trai tre đã nhảy tới, chân giẫm lên mông ngƣời thiếu phụ, cƣời nói:

- Trói cổ đem nó về phủ cho ta” [201,55]

157

Cách miêu tả nhân vật theo kiểu kết hợp ngoại hình với hành động khiến cho nhân vật

bộc lộ tính cách rõ hơn và gây ấn tƣợng mạnh hơn cho ngƣời đọc.

4.3.2. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua miêu tả hành động

Cũng nhƣ một số chuyện kể, chuyện Nôm và tiểu thuyết lịch sử chƣơng hồi bằng chữ

Hán giai đoạn trƣớc đó, nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1900 đến 1945 chủ

yếu là con ngƣời hành động. Thông qua việc miêu tả hành động, tác giả đã bộc lộ tính cách

của nhân vật. Tất nhiên mức độ miêu tả hành đọng nhân vật ít nhiều ở mỗi thời kỳ sáng tác có

khác nhau. Ở thời kỳ đầu, nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thƣờng xuất hiện với

hàng loạt hành động. Nhà văn miêu tả hành động để khắc họa tính cách là chủ yếu, đã có

miêu tả tâm lý nhƣng chƣa đạt tới độ sâu sắc và có những thành tựu nhƣ ở giai đoạn sau.

Thông qua hành động, ngƣời đọc có thể thấy đƣợc một số tính cách nào đó. Để khắc họa bản

chất kiên cƣờng và tấm lòng tận trung với nƣớc của Phạm Ngũ Lão trong “Trần Nguyên

chiến kỷ”, Nguyễn Tử Siêu đã viết : “Ngƣời ấy vẫn cứ ngồi im nhƣ không, quân tiền hộ tức

mình lấy giáo đâm thủng vào đầu gối mà ngƣời ấy cũng không nhúc nhích... Ngƣời thiếu niên

nghe tiếng ngƣời hỏi bấy giờ mới biết đùi mình bị đâm nhƣng vẻ mặt vẫn thản nhiên nhƣ

không mà đứng dậy rũ áo và ông lại trứoc xe vái chào” . [170,77].

Để khắc họa phẩm chất khẳng khái, lòng yêu nƣớc và lòng tự trọng cao của nhân vật

Đặng Thị vợ Trần Di Ái, Nguyễn Tử Siêu đã miêu tả hành động tự vẫn của Đặng Thị khi vừa

nghe tin chồng mình phản bội:

“Phu nhân mặt đỏ bừng bừng, tay đập xuống bàn mà thét lên rằng: thật à! Tên phản

quốc về thật à ? Ngƣời nhà đâu bay! Đóng chặt cửa ngoài lại cho tao hễ đứa nào mở thì bà

đánh cho sặc gạch đó! Nói rồi truyền con hầu lấy nƣớc rửa mặt, quấn khăn khoác áo chỉnh tề

lại bàn thờ thắp hƣơng, châm nến rồi ra lạy phục trƣớc hƣơng án vừa khóc vừa nói...”

[170,64].

158

Vì nhân vật xuất hiện trong hành động và bằng hành động nên ngôn ngữ nhân vật

trong tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này cũng thiên về thẻ hiện hành động sự việc hơn là thể hiện

nội tâm. Nhân vật Đức Mẹ trong tác phẩm “Hai Bà đánh giặc” khi nghe tin chồng bị giặc giết

thì: “Hai má cứ đỏ bừng bừng nhƣ một đóa hồng phản chiếu với ánh nắng chiều hôm... hai

mắt lấp lánh nhƣ muốn bắn ra mấy tia lửa nắng... đứng phắt dậy, rút thanh kiếm cài ở đâu

giƣờng” [172, 342].

Bút pháp tả này không trực tiếp miêu tả tâm lý, tính cách của nhân vật. Vì thế mà

ngƣời đọc phải tự suy tƣởng nhƣ một qui luật tất yếu trong tiếp nhận nghệ thuật để thấy đƣợc

nội tâm và tính cách của nhân vật. Tính cách, tâm trạng của nhân vật đƣợc thể hiện ngay trên

bề mặt của hành động. Chính vì chƣa quan tâm đúng mức tới nội tâm của nhân vật nên nhân

vật trong tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này còn giản đơn, giữa hành động trƣớc và hành động sau

không thấy có những đoạn gấp khúc của những luồng suy nghĩ tính cách. Nhân vật trƣớc sau

gần nhƣ một, ít khi đi chệch khỏi những nét tính cách, những nét tâm lý đã đƣợc nhà văn xác

định từ đầu, trừ một số nhân vật lƣỡng tính nhƣ Trần Danh Án, hai tên nô tỳ ngƣời nhà Trần

Ích Tắc, hay Đặng Thị vợ Trần Di Ái v.v...

Nhìn chung, ở giai đoạn đầu các nhà văn dùng biện pháp miêu tả hành động để khắc

họa tính cách nhân vật nhiều hơn. Ở giai đoạn sau biện pháp này giảm dần, thay vào đó là

biện pháp miêu tả tâm lý nhân vật, dùng độc thoại nội tâm để khắc họa tính cách nhân vật mà

chúng tôi sẽ trình bày sau. Tuy nhiên ở tiểu thuyết lịch sử, phƣơng pháp này chƣa đạt tới

những thành tựu nhƣ trong tiểu thuyết của nhóm “Tự lực Văn đoàn” giai đoạn 1930 -1945

4.3.3. Nghệ thuật sử dụng đối thoại và độc thoại nội tâm để thể hiện tính cách nhân

vật.

159

4.3.1.1. Đối thoại:

Khác với nhà sử học, để khắc họa tính cách của nhân vật, ngoài việc giới thiệu tiểu sử,

miêu tả ngoại hình hay thông qua hành động và cử chỉ của nhân vật, các nhà văn viết tiểu

thuyết lịch sử còn sử dụng hình thức đối ngoại giữa các nhân vật. Những tác phẩm tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu từ 1900 đến 1930 sử dụng hình thức này khá phổ biến, số lần

đối thoại trong từng tác phẩm tƣơng đối cao. Trong tác phẩm “Tiếng sấm đêm đông” để ca

ngợi lòng yêu nƣớc và nhắc nhở ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của dân tộc, Nguyễn

Tử Siêu đã dựng nên màn đối thoại giữa Tiết Thị Huệ và Thủ Kim: “... Kịp lúc ra đến nơi,

thấy Thủ Kim đƣơng đứng vớ vẩn ở trƣớc mấu trậu hoa, cô liền thừa thế hỏi rằng:

- Thƣa anh, anh xem hoa đấy à ?

Thủ Kim vốn không phải là ngƣời thích hoa, lúc đó đứng vớ vẩn trƣớc mấy chậu hoa

cũng chỉ là ngẫu nhiên mà thôi... Giờ bỗng thấy cô em hỏi, thời cũng làm ra bộ ta đây là

ngƣời phong nhã... Liền tủm tỉm cƣời đáp rằng:

- Ừ, anh đƣơng xem hoa, tính anh thích hoa lắm, em có cùng thích nhƣ anh không ?...

- Em là con gái, đâu đƣợc những cái tính phong nhã nhƣ anh. Nhƣng chẳng hay anh

thích lắm hay thích vừa ?

- Úi chà, anh thích lắm !

- Nếu vậy thời mấu chậu hoa này là mấy chậu hoa của anh đấy nhỉ ?

- Em rõ khéo vớ vẩn lắm ! Chả của anh thời của ai ?...

- Thế ngộ có ngƣời nó tự tiện đến lấy hết hoa của anh, thời anh có bằng lòng không ?

- Anh thì lại đánh cho chết đi, chứ lại bằng lòng !

160

- Sao lại đánh chết ngƣời ta, hử anh ?

- Ơ kìa nay sao em hỏi ngơ ngẩn thế ? vì là hoa của anh mà nó tự tiện lấy, thời anh

đánh chết chứ sao ?

Cô Huệ vừa cƣời, vừa ra dáng ngơ ngẩn mà lẩm nhẩm rằng:

- À thế ra là hoa của anh,cho nên anh không cho ngƣời ngoài lấy nó !... Thế giờ em lại

hỏi anh nhé? ... Cái nhà này là của ai ? anh nói cho em nghe...

Thủ Kim cƣời mà rằng:

- Của anh chứ của ai...?

- Thế có ngƣời nó tự tiện đến ở, nó lại tự tiện lấy hết, các đồ vật trong nhà, thời có

đƣợc không ?

- Anh thì chôn sống, chứ lại đƣợc !

Cô làm ra bộ kinh ngạc mà rằng:

- Sao thế hử anh ?

Thủ Kim nhìn vào cô mà rằng:

- Em dễ thƣờng hóa dại hay sao mà cứ hỏi ngơ ngẩn thế ?

Cô cũng cƣời mà rằng:

- Vâng, em hóa dại. Nhƣng vì sao, anh hãy nói cho em nghe ?

- Vì là nhà của anh, thời ngƣời khác không đƣợc có quyền đến ở và lấy đồ, chứ sao?...

Cô lại gật đầu mà lẩm bẩm rằng:

- À, thế ra tại nhà của anh, nên ngƣời khác không có quyền đến ở và lấy của đấy ...!

161

Bấy giờ Thủ Kim tay đƣơng cầm mấy chùm quán châu lan (sói), để lên mũi ngửi lấy

ngửi để, làm ra bộ ngƣời biết hoa. Cô cũng giả vờ xin một chùm để xem, rồi lại nói rằng:

- Giờ em lại hỏi anh câu này nhé !

- Ừ, em cứ hỏi...

- Thế chẳng hay anh là ngƣời nƣớc nào đấy nhỉ ?...

- Thế thời Annam cũng là nƣớc của anh đấy nhỉ ?...

- Chứ lại gì ?... mà cứ phải hỏi...

Bây giờ cô liền nghiêm nét mặt mà nói rằng:

- Này anh, thế sao giặc Nam Hán nó lấy nƣớc An Nam của anh mà không thấy anh

tức? không những anh không tức, anh lại còn đi su phụng nó là vì sao ? ...”[166,14-15]

Trong tác phẩm “Trần Nguyên chiến kỷ”, để làm nổi bật bản chất phản quốc của Trần

Di Ái và ca ngợi tinh thần vì nƣớc vì dân của Nguyễn Phúc, Nguyễn Tử Siêu, đã dựng cuộc

đối thoại tay ba giữa Trần Di Ái, Nguyễn Phúc và Lê Tuấn:

“Bỗng một hôm có chiếu chỉ truyền đến sứ quán, phong cho Di Ái làm Nam Quốc

Vƣơng...

Di Ái thấy chỉ, phân vân vẫn không biết nghĩ ra sao... Lê Tuấn, Lê Mục thời đều hớn

hở mừng rỡ giục Di Ái vào tạ ơn. Di Ái mặc mũ áo toan đi. Bỗng nghe bỗng nghe có tiếng

kêu to ở phía dƣới nhà bếp rằng:

162

- Xin tƣớng công nghĩ lại đã ! Xin tƣớng công nghĩ lại đã ! Dứt lời, Nguyễn Phúc lật

đật chạy từ dƣới bếp lên quỳ xuống trƣớc Di Ái mà nói to lên rằng:

- Xin tƣớng công đừng đi đâu vội, dừng tạ tùng gì vội, oán đấy chứ phải ân đâu mà

tạ...? Xin tƣớng công nghĩ lại cho...

Di Ái tần ngần mà rằng:

Ta đƣợc thiên triều Hoàn đế cho làm Nam Quốc Vƣơng kia đấy mà! Đây chính là đại

ân, cớ sao nhà ngƣơi lại bảo là đại oán.

Nguyên Phúc nghiêm mặt mà rằng:

- Cách làm ngƣời cốt phải ăn ở cho có thủy chung, đạo làm tôi phải giữ cho hết chung

hết ngĩa. Hiện nay tƣớng công là phận kẻ bầy tôi, lại mấy năm trời ơn vua lộc nƣớc, hƣởng

biết bao sự sung sƣớng, vẻ vang. Cổ nhân có câu “mặc áo đội nón của ngƣời thời phải lo lắng

việc ngƣời!”. Lại có câu: “Kẻ trung thần dù chết cũng không đổi lòng, ngƣời liệt nữ dù chết

cũng không đổi tiết”. Vậy xin tƣớng công dù sao cũng phải giữ tiết thần tử cho trọn...

Nguyễn Phúc vừa nói đến đấy Lê Tuấn liền nói vung hô rằng:

- Anh này rõ gàn lắm! Tƣớng công bây giờ lên làm vya thơi sau này anh lại chả đƣợc

làm quan hay sao?

Nguyễn Phúc trừng mắt lên mà rằng:

- Các ông làm một chức phủ sứ cùng đi với tƣớng tôi, tôi tƣởng rằng các ông phải

giúp đạt lấy điều hay lẽ phải. Ngờ đâu các ông lại chỉ một đƣờng ham chuộng danh lợi, đã

không ngăn thì cho lại cháy lửa thêm dầu?. Vậy chẳng hay các ông có đều làm tôi nhà Trần

cả đấy không? Trên đầu hiện đang sờ sờ còn vua mà dám khuyên bảo ngƣời đồng liêu với

mình lên làm vua thời không hiểu tâm can các ông để ở đâu.

163

Nguyễn Phúc nói bấy nhiêu lời làm cho Lê Tuấn, Lê Mục thẹn đỏ cả mặt, không biết

nói lại nhƣ thế nào [170, 56].

Chỉ một đoạn đối thoại ngắn mà Nguyễn Tử Siêu đã để cho 3 nhân vật bộc lộ 3 tính

cách:

Di Ái hiện nguyên hình là một tên bán nƣớc hại dân, Lê Tuấn, Lê Mục là những kẻ

nhu nhƣợc, vì mƣu cầu lợi ích cá nhân mà rắp tâm theo Di Ái để làm hại đất nƣớc. Còn

Nguyễn Phúc thì trung thực, giàu nghĩa khí, giàu lòng yêu nƣớc , trung quân.

Trong tác phẩm “Việt Thanh chiến sử”. khi ca ngợi tấm lòng thủy chung của Ngọc

Nƣơng đối với ngƣời chồng chƣa cƣới Nguyễn Tử Siêu đã sử dụng đoạn đối thoại giữa Ngọc

Nƣơng với ngƣời lão bộc là Xã Thuần:

“...Ngọc Nƣơng không đợi cho xã Thuần nói hêt câu; nói ngắt ngay;

- Phải, tôi quyết chết, nhƣng chết thời có hề chi.

Chƣa hêt lời, Xã Thuần đã bƣng mặt “huhu” khóc. Ngọc Nƣơng lại với ay bƣng

miệng Xã Thuần lại mà rằng:

- Ô hay bác định làm lỡ việc của tôi à?

Bác đã cam đoan với tôi rồi cơ mà!

Xã Thuần không đợi cho Ngọc Nƣơng nói dứt lời, vội vàng làm bộ quả quyết mà

rằng:

- Không! Không cô làm điều phải tôi đau giám ngăn. Nhƣng... chỉ vì cái tính tôi

không thể rứt đƣợc nên tôi sao có thể cần đƣợc giọt lệ.

Xã Thuần nói đến đây, bỗng dừng lại, chừng gần dập bã trầu lại nói tiếp: Nếu... nếu

để vậy mà chết... thôi... thôi thật đang tiếc.

Ngọc Nƣơng không hiểu ý nói của Xã Thuần liền hỏi:

164

- Bác nói tiếc... tiếc cái gì hử?

- Hay là bác bảo tôi tiếc “của” tiếc “chồng” tiếc cái đời sung sƣớng nhƣ những ngƣời

khác.

Xã Thuần vội gạt đi mà rằng...

- Không, nếu cô tƣởng tôi nghĩ thế, chẳng hóa ra cô vẫn không biết tôi sao ?...

- Tôi vẫn bác là ngƣời trung chính, nhƣng vì tôi thấy bác nói đến tiếng “ tiếc” tôi

không hiểu là “ tiếc” gì nên mới nói nhƣ thế...

Xã Thuần nghiêm nghị nói:

- Cô chết đã đành, tôi không giám ngăn, nhƣng tôi sở dĩ nói “ tiếc” là tiếc không thể

giết chết đƣợc cái thằng gian tặc ngay từ lúc này, cho đỡ lòng căm tức...”[171, 17-18]

Chính từ cuộc đối thoại này mà Ngọc Nƣơng đã có thêm can đảm để giết chết tên gian

tặc Triệu Uông rồi mới tự vẫn.

Có thể nói rằng: ở giai đoạn sáng tác trƣớc 1930, các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử

đã dùng ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật tƣơng đối nhiều. nhƣng ở giai

đoạn này hình thức đối thoại còn giản đơn.

Những cuộc đối thoại giữa Từ Mục và Lê Hoàn trong tác phẩm “Lê Đại Hành” [168,

11-12]; giữa Phùng Khuông với Bích Hà [168,18], hay đoạn đối thoại giữa Phùng Khuông

với Nhƣ Tùng [168, 21 - 22], hay đoạn trong tác phẩm “Vua Bố Cái” [167,51]; giữa Hồ Lửa

và Thi Sách trong tác phẩm “Hai Bà đánh giặc” [172,315], nhìn chung là còn đơn giản.

Bƣớc sang giai đoạn thứ hai từ 1930 - 1945, các nhà văn vẫn tiếp tục dùng đối thoại

để khắc họa tính cách những hình thức đối thoại ở đây đã có sự đổi mới, cách tân theo đối

thoại của tiểu thuyết hiện đại. Điển hình là những

165

cuộc đối thoại trong tác phẩm “Cái hột mận” của Lan Khai, “Đêm hội Long Trì” của Nguyễn

Huy Tƣởng, “Bà chúa chè” của Nguyễn Triệu Luật, cuộc đối thoại giữa Đặng Thị Huệ với

ông Đỗ (Bố của ĐặngThị Huệ) [138, 35 - 36], cuộc đối thoại giữa Đặng Thị Huệ với Chúa

Trịnh Sâm [13, 112 - 114], cuộc nói đối thoại giữa Quỳnh Hoa và Chúa Trịnh Đô Vƣơng

[201, 122 - 123] trong tác phẩm “Đêm hội Long Trì” của Nguyễn Huy Tƣởng. Những cuộc

đối thoại trong tác phẩm thời kỳ này phức tạp hơn.

4.3.1.2. Độc thoại nội tâm và miêu tả tâm lý nhân vật.

Ngoài việc sử dụng hình thức đối thọai để phác họa tính cách nhân vật, tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam còn khắc họa tính cách nhân vật bằng miêu tả diễn biến tâm lý và độc thoại

nội tâm của nhân vật.

Dùng độc thoại nội tâm để miêu tả tâm lý nhân vật là một phƣơng thức hữu hiệu để

khắc họa tính cách nhân vật. chính sự am hiểu về đời sống nội tâm, am hiểu những quy luật

tâm lý sâu kín bên trong con ngƣời đã tạo cơ sở cho nhà văn lý giải sự tồng tại của tính cách

nhân vật”. L. Tônxtôi đã từng khẳng định rằng:

“Mục đích của nghệ thuật - nếu như có nghệ thuật và nó có mục đích - và để làm rõ

và nói hết được sự thật về tâm hồn con người, nói hết được những bí mật mà không thể nói

hết được bằng những lời lẽ giản đơn... Nghệ thuật là cái kính hiển vi dẫn dắt nghệ sĩ đến

những bí mật của tâm hồn mình và đưa những bí mật này ra cho tất cả mọi người viết”.

Tính cách nhân vật đƣợc bộc lọ từ nhiều phƣơng diện trong đó có hiện tƣợng độc

thoại nội tâm. Vì thế, qua những màn độc thoại đó ta có thể nắm bắt tính cách một cách dễ

dàng và bên cạnh độc thoại nội tâm, còn là việc miêu tả tâm lý nhân vật. Trong văn họ cổ, các

nhà văn ít chú ý đến việc miêu tả tâm lý nhân vật. Vì thế, tính cách của nhân vật thƣờng “giản

đơn, nhất biến, một

166

chiều”. Có thể nói rằng sự xuất hiện thủ pháp miêu tả tâm lý nhân vật một cách trực tiếp qua

độc thoại nội tâm đã đánh dấu một bƣớc tiến của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ tiểu thuyết

chƣơng hồi sang hƣớng tiểu thuyết hiện đại.

Ở giai đoạn này, các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử Việt Nam ngoài việc phản ánh

miêu tả các sự kiện lịch sử một cách trung thực, để hấp dẫn ngƣời đọc, để làm cho nhân vật

của mình mang đậm màu sắc đời sống, họ đã đƣa ra những hoàn cảnh tâm lý để nhân vật tự

bộc lộ mình: Tình yêu. Mỗi cuộc tình có một màu sắc riêng không cuộc tình nào giống cuộc

tình nào và cũng không bao giờ trùng lặp nhƣng nhờ có độc thoại nội tâm, nhờ có sự mổ xẻ

tâm lý tinh vi mà trong tình yêu nhân vật có thể thể hiện mức độ tình cảm, thể hiện quan

điểm đạo đức và lý tƣởng của mình. Trong tác phẩm “Trần Nguyên chiến kỷ”, Nguyễn Tử

Siêu đã miêu tả tâm trạng của Phạm Ngũ Lão khi Ngũ Lão bắt đầu đem lòng yêu Trần

Nguyên Công Chúa:

“Tục ngữ có câu: “Nhời nói không cánh mà bay” thực tế công viêc của Hƣng Đạo

Vƣơng và phu nhân nói chƣa bao lâu đã lọt vào tai Phạm Ngũ Lão, Phạm Ngũ Lão sƣớng quá

nghĩ thầm trong bụng: nếu trăm năm quả có duyên gì, thời cái đời ta nhân đƣợc hoàn toàn vĩ

đại. từ đó , ngày nào cũng cứ ngong ngóng chờ tin tức, chờ đến hơn nửa tháng mà chẳng thấy

tin tức gì khác lạ bấy giờ Phạm Ngũ Lão tự lòng hỏi...” [170, 146]. Không những thế,

Nguyễn Tử Siêu còn miêu tả những tƣ tƣởng của Phạm Ngũ Lão:

“Hƣng Đạo Vƣơng cũng lui vào trong nhà đi nghỉ, Ngũ Lão thấy bấy giờ chán nản

quá dỗi, bất đắc dĩ phải lủi thui ra về. Một mình lững thững ở trên đƣờng cái thỉnh thoảng lại

ngoảnh trông trở lại Vƣơng phủ, có ý dò xem họa có thấy ngƣời ý trung nhân của mình

chăng. Nhƣng đó là một tấm lòng si của Phạm Ngũ Lão chứ có khi nào một vị công chúa mà

lại thậm thụt ra ngoài cửa công đƣờng để trông thấy đƣợc. Ngũ Lão cứ đi đƣợc vài ba bƣớc

thì thời dừng lại, có lúc chân không xuống đất, bị vấp phải đá ngã xuống làm cho trẻ

167

con hàng phố cƣời ầm cả lên. Ngũ Lão bấy giờ mới tỉnh lại, biết là dáng điệu của mình ngẩn

ngơ quá. Liền vội vàng rảo chân đi thẳng về nhà “[170, 147].

Những đoạn miêu tả tâm trạng nhân vật nhƣ vậy không có trong chính sử. Nó đã góp

phần khacsws họa tính cách nhân vật và làm cho nhân vật gần gũi với cuộc sống đời thƣờng

hơn, sống động hơn, tính chất văn chƣơng của tác phẩm cũng đậm đà hơn. Ở điểm này,

Nguyễn Tử Siêu ít nhiều có thể sánh vai với các nhà tiểu thuyết lãng mạn đƣơng thời nhƣ

Nhất Linh, khi tả tâm trạng của Trƣơng trong tác phẩm “Bƣớm trắng”.

“Trƣơng bƣớc chậm lai vì chàng nhận thấy mình đi nhanh quá tuy không có việc gì

vội vã cũng không nhất định đi đến đâu. Từ lúc nãy, vô cớ chàng thấy lòng vui một cách đột

ngột khác thƣờng nên tự nhiên chàng đi nhanh làm nhƣ bƣớc đi cần phải ăn nhịp với lỗi vui

trong lòng” (Bƣớm trắng). Hay đoạn Nhất Linh miêu tả tâm lý của Trƣơng trong sự ám ảnh

của căn bệnh lao qua độc thoại:

Hôm nào phải hỏi lại đốc tờ xem họ nói mình sống hay chết cho ngã ngũ hẳn ra...

Nhƣng anh nào lại chịu nói thật, mà mình hiểu thế quái nào đƣợc họ nói thật hay không”.

Những đoạn văn miêu tả nội tâm của nhân vạt đã làm cho nhân vật lịch sử giàu sức

chuyển tải, hấp dẫn và lôi cuốn ngƣời đọc: “Ngũ Lão trông thấy quang cảnh ấy biết chính là

có Nguyên công chúa ở trong lầu nhƣng vì có bức rèm buông phủ nên dù có là mắt thần cũng

không nhìn qua đƣợc bức rèm ấy để mà trông thấy nhan sắc ý trung nhân. Trong tâm khảm

Phạm Ngũ Lão lúc bấy giờ giận lây cho cả bức rèm, chỉ muốn xé bỏ bức rèm ấy làm trăm

mảnh mới cam lòng. Chính đƣơng lúc bối rối, ngơ ngẩn nhƣ vậy thời Hƣng Đạo Vƣơng lúc

thức dậy” [170, 148]

Và đây là tâm trạng của Trần Viễn Mƣu khi nhận đƣợc tin Ngọc Nƣơng đi mất:

168

“Viễn Mƣu biết tin nghĩ thầm trong bụng: Quái thật ! thế mà mƣời ngƣời nhƣ một ai

cũng nói Ngọc Nƣơng là ngƣời đoan chính... sao bấy giờ lại đi đâu. Đi theo trai chăng?

Không có lẽ, chính hôm ta làm ăn hỏi, mắt ta có trông thấy vẻ mặt Ngọc Nƣơng đoan trang

mà thùy mị, đi đứng rất ngay ngắn, nói năng rất dịu dàng thật không một chút gì là cái vẻ

lẳng lơ... Ngƣời thế mà hƣ, thế còn hạng ngƣời thế nào mới không hƣ?”

Viễn Mƣu nghĩ đến đây, bỗng cau mày lại nói một mình: “Biết mƣời biết một, biêt

lòng làm sao.”[171].

Còn đây là tâm trạng của Nhƣ Tùng khi gặp Phùng Chính liền nghĩ thầm trong bụng:

“Trông ngƣời này thật là một bậc thiếu niên anh hùng, nếu ta mà đƣợc ngƣời này làm

rể thì con ta cũng không uổng” là một đời nữ kiệt, mà ta đây cũng đƣợc tỏ tấm lòng vì con

gây dựng” [168, 15].

Tron tác phẩm “Đêm hội Long Trì” Nguyễn Huy Tƣởng đã dùng nhiều đoạn độc

thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng đau xót của Quỳnh Hoa:

“Trời ơi, sao lại có cơ sự này? Tôi làm gì nên tội? Trời hỡi trời! chết đi cho hết kiếp là

hơn. Phụ Vƣơng ơi ! sao Phụ Vƣơng lại lạ lùng đến thế. Lòng từ bi của Phụ Vƣơng ở đâu?”[

201, 104].

Đọc những dòng độc thoại nội tâm trên, ngƣời đọc thấy đƣợc tâm trạng đau xót giằng

xé của Quỳnh Hoa. Sự dày xé giữa tình yêu và nghĩa vụ của một ngƣời con có hiếu đối với

cha mẹ.

Hay đoạn độc thoại xen lẫn đối thoại của Chúa Trính Sâm. Qua đó Nguyễn Huy

Tƣởng phần nào muốn khẳng định một nét nhân bản nào đó ở con ngƣời Trịnh Sâm, khác hẳn

với Trinh Sâm ở trong sử sách đã ghi:

169

“Chúa thở dài, vừa bằng lòng lại vừa hối hận. Ngài vừa thƣơng lại vừa giận con quá

phục tùng. Nén nỗi đau Chúa phán:

- Thế mới là con gái cha chứ.

- Cha là chúa tể muôn dân, cha sẽ gây dựng cho Đặng Lân, và tự khắc con sẽ đƣợc

sung sƣớng:

Quận chúa đau xót đến con tim. Nàng nghĩ Phụ Vƣơng lầm lắm. Có phải chỉ có thế

mà con sung sƣớng đâu?”[201, 106].

Điều sung sƣớng và hành phúc đối với Quỳnh Hoa là đƣợc yêu và lấy ngƣời mình yêu

đó là Bảo Kim.

Trong tác phẩm “Đêm hội Long Trì”, Nguyễn Huy Tƣởng còn dùng nhiều loại độc

thoại nội tâm để bộc lộ tính cách của Đặng Thị Huệ, của Bảo Kim [201, 111, 112]. Những

đoạn độc thoại nhƣ vậy trong tác phẩm “Đêm hội Long Trì” có trình độ nghệ thuật khá cao,

có thể so sánh với độ nghệ thuật của những cuốn tiểu thuyết hiện đại đƣơng thời nhƣ “Nửa

chừng xuân” của Khải Hƣng, “Bƣớm trắng” của Nhất Linh hoặc “Sống mòn” của Nam Cao.

Tất nhiên những màn độc thoại nhƣ thế không phải là phổ biến trong tất cả những

cuốn tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kỳ này. Tuy thế nó vẫn là một minh chứng thể hiện sự

sáng tạo, cách tân theo hƣớng hiện đại hóa và đây chính là những đóng góp đích thực của tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam vào quá tình cách tân và hiện đại hóa của thể loại tiểu thuyết nói

riêng và văn học Việt Nam nói chung. Nó cũng cũng xứng đáng là một trong những cái bản

lề trong quá trình chuyển biến từ tiểu thuyết cổ điển sang tiểu thuyết hiên đại ở thời điểm

giao thời.

170

4.3.4. Miêu tả thiên nhiên để khắc họa tâm trang nhân vật.

Để tăng thêm tính tiểu thuyết cho tác phẩm của mình các nhà văn viết tiểu thuyết lịch

sử thời kỳ này còn sử dụng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên để khắc họa tính cách và tâm trạng

nhân vật. Tâm trạng của Đinh Bộ Lĩnh đƣợc tác giả đặt trong cảnh sắc thiên nhiên:

“Bấy giờ thuộc về tiết cuối thu, gió vàng lạnh thổi, lá đỏ bƣớm bay, đá núi mặt gầy,

cây rừng đầu trọc, một cái vẻ thanh u sầu trƣớc chẳng khác linh hồn kẻo cao nhân bậc dật sĩ

đã mƣợn hình sơn thủy của tạo hóa mà hiện ra chốn nhân gian”[169, 38].

Khung cảnh một buổi chiều tàn tạ, úa vàng trong đoạn văn sau đây không chỉ thể hiện

tâm trạng lo sợ hãi hùng của Khuất Lặc, khi hán bị Đinh Bộ Lĩnh đuổi kịp mà còn thể hiện số

phận bi đát thảm hại đến tận cùng của một tên xâm lƣợc:

“Bấy giờ mặt trời đã gác núi, ánh nắng vàng đỏ quốc một phƣơng trời, chiếu vào

ngƣời khiến cho ai ấy đều hiện ra một cái khí sắc vàng úa... Ngoảnh lại trông lên dãy núi Ba

Vì, trên đỉnh ngọn thời mây thời phủ kín, dƣới ngang đèo thời hơi sƣơng. Trời đất bốc lên

một làn trắng toát; chẳng khác thơ tạo hóa kia đã vì dãy núi mà xây nên một bức bạch

thành”.[169, 87].

Để diễn tả trạng vui mừng của Định Tiên Hoàng khi đã bình định đƣợc loan 12 sứ

quân, trên đƣờng về Hoa Lƣ, Nguyễn Tử Siêu đã miêu tả cảnh sắc:

“Ở dọc đƣờng, mây tiễn gió đùa, hoa chào cỏ đón, giang sơn muôn dặm đều biểu hiện

ra cái vẻ tƣơi cƣời” [169, 99].

Cảnh vật ở đây không chỉ diễn tả tâm trạng mà còn thấm đậm hồn ngƣời. trong tác

phẩm “Tiếng sấm đêm đông”, Nguyễn Tử Siêu đã miêu tả thiên nhiên gắn với mục đích quân

sự nhƣng ngƣời đọc vẫn có cảm giác thiên

171

nhiên ở đây rất sống động: “Cách thành Chi Châu hơn một trăm dặm, có một...? núi tên là

Uất Tú Sơn, cây cối rậm rạp, khe đá hiểm trở, thế núi tản ra đến 8 dặm, thật là một nơi thiên

hiểm, rất tiện lợi cho sự dụng binh.

Bấy giờ về khoảng trung tuần tháng tám năm Đinh Hợi (927), một hôm bóng chiều tà

tà, ánh nắng chiếu ngang vào các lá cây trên đỉnh núi trông lấp bóng hình nhƣ rát vàng; rƣới

sƣờn núi tiếng suối chảy róc rách, xen lẫn với tiếng chim kêu ríu rít trên cành, nghe rất là êm

đềm khoan khoái”[166,7]

Tuy nhiên cách miêu tả thiên nhiên này còn ảnh hƣởng tới cách miêu tả thiên nhiên

trong tiểu thuyết cổ điển. Ở giai đoạn sau, nhà văn đã có những cách tân, vƣơn tới cách miêu

tả để thể hiện tâm trạng nhân vật của tiểu thuyết hiện đại(Tác phẩm “Đêm hội Long Trì” của

Nguyễn Huy Tƣởng, “Cái hột mận” của Lan Khai, “Bà Chúa Chè”, “Chúa Trinh Khải” Của

Nguyễn Triệu Luật, Luật, “Vua Quan Trung” của Phan Trần Chúc v.v... Với cách của một

nhà văn lãng mạn, trong cuốn tiểu thuyết lịch sử “Tiêu Sơn tráng sĩ”, Khai Hƣng đã miêu tả

thiên nhiên bằng một bút pháp khác hẳn:

Một buổi chiều, tâm hồn ngây ngất, chàng thanh niên bỏ lỏng dây cƣơng để mặc ngựa

theo con đƣờng hẻm, cỏ rậm, muốn mang đi đâu tùy ý. Chàng đƣa con mắt mỏi mệt nhìn sắc

trời tà đỏ ửng mà đoái tƣởn lại thời ấu niên tới chân một quả đồi. Ở lƣng chừng có một ngôi

chùa. Tiếng chuông đổ hồi từ trên cao đổ xuống, gieo vào lòng khách chinh phu, làm cho ...?

Ngon nửa bùng cháy”[106, 59].

Rõ ràng thiên nhiên ở đây không chỉ chứa đầy tâm trạng mà còn diễn tả diễn biến tâm

trạng của nhân vật.

4.4. Nghệ thuật trần thuật

Trong tiểu thuyết, ngƣời kể truyện giữ vai trò quan trọng. Với tƣ cách

172

là ngƣời kể truyện, nhà văn có điều kiện thâm nhập sâu vào mọi hoàn cảnh ...? sự kiện đƣợc

phản ánh. Không phải trong bất kỳ tác phẩm văn học nào cũng có ngƣời nhân vật kể

truyện.Ví dụ: trong kịch, sự đánh giá, quan sát các nhân vật đƣợc lồng vào ngôn ngữ , hành

động và thái độ của nhân vật. Trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945,

hình tƣợng nhân vật ngƣời kể chuyện chiếm một vị trí quan trọng và khá nổi bật. hầu nhƣ

nhân vật ngƣời kể chuyện xuất hiện từ đầu đến cuối trang sách để giới thiệu nhân vật, dẫn dắt

các sự kiện, tham gia bàn luận thêm về nhân vật, giúp ngƣời đọc hiểu thêm về nhân vật, đánh

giá đúng nhân vật theo cách đánh giá đúng nhân vật theo cách đánh giá riêng của tác giả. Ở

giữa mỗi đoạn miêu tả hay thuật chuyện, các tác giả thƣờng sen vào lẫn những lời bàn, có khi

bằng những đoạn thơ do chính tác giả sáng tác hay lấy từ trong văn học dân gian trong truyện

Kiều hoặc với tƣ cách mình là “duyệt giả”. “đồ gàn” thậm chí nhƣ Nguyễn Tự Siêu thì có khi

còn nói thẳng ra là: “Tử Siêu” để ca ngợi một nhân vật anh hùng hay tỏ rõ thái độ căm thù

đối với quân giặc hoặc mỉa mai một kẻ có tâm địa phản cuốc, hại dân. Đây là hiện tƣợng nằm

ngoài đặc điểm chung của thể loại tiểu thuyết. Bởi vì, trong tiểu thuyết, để đảm bảo tính

khách quan, tác giả thƣờng dấu mình đi. Sở dĩ ở tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Tử Siêu và

một số tác giả khác thuộc dòng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX xuất hiện

hiện tƣợng này là vì, họ muốn dùng tác phẩm của mình để thức tỉnh đồng bào, khích lệ lòng

tự tôn, tự hào dân tộc, chỉ cho mọi ngƣời thấy đƣợc nỗi nhục mất nƣớc, từ đó kêu gọi mọi

ngƣời đứng nên cứu nƣớc, cứu nhà. Xuất phát từ một động cơ tích cực nhƣ vây, cho nên

nhiều lúc tác giả không kìm đƣợc nỗi cảm xúc của mình, mở đầu tác phẩm “Trần Nguyên

chiến kỷ”, với tƣ cách là ngƣời kể chuyện, tự coi mình là “bỉ nhân”, tác giả nói rõ mục đích

và đông cơ sáng tác của mình:

“Ôi ! trong nƣớc bậc anh hùng mà bao cái phong công vĩ liệt của bậc anh hùng ấy.

Quốc dân lại coi thƣờng hờ hững chỉ tâm tâm, niệm niệm về

173

những việc về tróc quỷ, trừ tà, thƣợng đồng, ốp bóng, siêu hình, thắt cổ, cắt lƣỡi... thật cũng

đáng ngán cho tấm lòng sùng mộ anh hùng của Quốc dân ta vậy!...

Nay “Bỉ nhân” xin kính cẩn đem hết bao cái sự nghiệp anh hùng của Đức Thánh Trần

mà tƣờng thuật ra đây, mục đích cốt để thức tỉnh tấm lòng sung mộ anh hùng của quốc dân,

cho quốc dân biết rằng Đức Thánh Trần sở dĩ đƣợc bậc anh hùng là ở sự “Hộ quốc, an dân,

tận trung, toàn hiếu”, đáng nêu gƣơng sáng cho muôn đời bắt chƣớc” [170, 23]

Nhiều lúc, xuất phát từ lòng sủng ái ngƣời anh hùng cứu nƣớc, Nguyễn Tử siêu không

kìm nổi cảm xúc của mình, tác giả đã thể hiện thái độ ca ngợi nhiệt thành, đôi khi có vẻ nhƣ

là quá mức. Đây là lời tác giả ca ngợi Trần Thụ Độ:

“Ôi! Nếu không có Trần Thủ Độ thời lấy ai dẹp tan đƣợc Nguyễn Nộm, Đoàn

Thƣợng, cho trong nƣớc khỏi gây thêm một phen đỉnh cách ? Nếu không có Thủ Độ thời lấy

ai bày mƣu, định kế dẹp tan quân Mông Cổ ở bến Đông Bộ, thu phục thành Thăng Long

khiến cho giặc Mông Cổ mà tán đởm kinh hồn, trải mấy năm trời không giám rình mò ngấp

nghé ! ... Ta bây giờ là kẻ hậu sinh. Cách đời ông Trần Thủ Độ đã đến hơn sáu trăm năm

nhƣng mỗi khi đọc đến câu “Đầu tôi chƣa rơi xuống đất xin Bệ hạ đừng lo” của ông nói với

vua Thái Tôn thời ấy hãy còn nhƣ có cái khí bồng bột ở trên hàng mực đen giấy trắng, mà cái

trung can, nghĩa dởm của ông đối với Tổ tông, triều đình, với giang sơn, giống nòi lại nhƣ

hiển hiện ra trƣớc mắt, đủ khiến cho ta phải sùng bái, phải tƣởng nhớ, phải hƣơng hoa đỉnh

chúc, phải hồi cố đến giang sơn, đến nòi giống mà nuốt lệ chau mày” [170,35 - 36].

Khi ca ngợi Trần Bình Trọng, tác giả đã dùng hai câu thơ do ông tự sáng tác:

“Việc nước, khôn toan dành một thác

Tiếng thơm lưu lại dưới ngàn thu” [170, 130]

174

Trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Tử Siêu, chúng ta thấy Nguyễn Tử Siêu thƣờng

xen kẽ miêu tả và bình luận để làm rõ tính cách của nhân vật, nhất là những nhân vật lƣỡng

tính. Trong tác phẩm “Việt Thanh Chiến Sử”, để diễn tả tâm trạng day dứt của Trần Danh

Án, một con ngƣời mang một tấm lòng có chung nhƣng lại chọn nhầm chủ, Nguyễn Tử Siêu

đã viết:

“Lê Chiêu Thống sai Trần Danh Án lên cửa ải Nam Quan để tiếp sứ. Khi ông đi qua

thành Cổ Phao, tức là thành cũ của nhà Mạc hồi xƣa, ngắm thấy phong cảnh tiêu điều, bỗng

súc động đến mối thƣơng tâm, liền ứng khẩu ngâm một bài thơ Đƣờng luật rằng:

Cổ Phao thành “cổ” phải đây rồi,

Ngoảnh lại que nhà khuất lẻo khơi,

Đã trót làm trai toan nghiệp nhớn

Quản chi việc mọn phí công toi

Giang sơn sá kể là đâu tá,

Võ chu chi nhường để phận ai

Này chuyện lạ đời đời biết chửa?

Sứ thần , nón rách, áo mê tơi !”

Sau đó Nguyễn Tử Siêu đã tiếp bằng một lời bình:

“Than ôi! Một tấm cô trung, hai hàng tuyết lệ, thâm tình nhƣ vẽ kịch tiết khôn lang,

ngƣời sau xem đến thơ ông tƣởng đến thân thế ông, âu cũng nên cảnh hoài mà hứng khởi

vậy” [171, 49 - 50]

Có những lúc lòng tự hào, tự tôn, dân tộc lên đến cực điểm. Nguyễn Tử Siêu không

nén nổi cảm xúc của mình đã thốt nên với tất cả sự sung sƣớng trong lòng “Ôi ! Kỳ thay,

sƣớng thay ! Ai bảo là ngƣời An Nam, giòng quốc chí mà cũng có lúc có cái oai thanh oai liệt

đến thế !” [170, 157]

175

Ngoài việc ca ngợi những nhân vật tận trung tận nghĩa với nƣớc, thông lời bình của

nhân vật ngƣời kể chuyện, Nguyễn Tử Siêu còn lên án bọn vong ân phản quốc và kêu gọi

lƣơng tâm ở mỗi con ngƣời.

“Kỳ thay!Quái thay! Những lời nói Bếp Hàn, học ai mà biết đƣợc thế? Nghe ai mà

biết đƣợc thế ? Mỗi chữ một giọt máu, mỗi câu một lƣỡi gƣơm đủ làm tỉnh cho bọn vong ân

bội quốc hồi bấy giờ... Xem ...? ông nọ ông kia mới là quý, mà cứ gì thằng Bếp mới là khinh

? ngƣời ta cốt còn ở thiên lƣơng thôi vậy” [168, 29]

Trong tác phẩm “Việt Thanh Chiến Sử”, nhân vật ngƣời kể chuyện tự xƣng là “đồ

gàn” để nói nên quan điểm và thái độ của chính tác giả.

“Phụ mấy lời bình của đồ gàn:

Non sông gấm vóc mà để cho Mãn Thanh chiếm đoạt sự đó thật tƣởng không phải là

ở trong ý liệu của vua Chiêu Thống. Cho nên vua Quang ...? không quá trách vua Chiêu

Thống mà chỉ phàn nàn là nƣớc không có không có trời. Than ôi ! Một nƣớc gót hai mƣơi

triệu ngƣời mà từ xƣa có lẽ đều hãm cái hổ nhục ngƣời khôn có ! ...” [171, 126]

Càng yêu nƣớc, Nguyễn Tử Siêu càng căm thù bọn giặc xâm lƣợc. Mỗi nói đến bon

chúng Nguyễn Tử Siêu đã thể hiện một thái độ mỉa mai, căm bằng những lời bình bằng thơ

nhƣng lại nói rằng: Bởi thế có ngƣời đã làm câu thơ vịnh quân sĩ của Ngột Lƣơng Hợp Thai:

“Vì không đánh được, phải buông tha

Tiếng “phật” mà tâm vốn vẫn xà

Làm cỏ chẳng xem tay độc ác,

Thăng Long dân chúng tội gì a”[170, 30].

176

Ở đây, ngƣời kể chuyện đã xuất hiện một cách trực tiếp nhƣng lại đóng vai trò nhƣ

một nhân vật khách quan. Tác giả nói là “có ngƣời đã làm mấy câu thơ...” nhƣng lại là thơ

củ chính tác giả. Vì vậy, nhân vật ngƣời kể chuện ở đây không chỉ đƣợc sử dụng nhƣ một

phƣơng tiện để bộc lộ tƣ tƣởng chủ đề mà còn là ý thức, là thái độ và tâm huyết của chính

nhà văn. Vì thế, tác phẩm của Nguyễn Tử Siêu có sức lôi cuốn và hấp dẫn ngƣời đọc hơn.

Đối với bọn bán nƣớc cầu vinh, hay những loại ngƣời có bản chất xấu xa, đồi bại,

Nguyễn Tử Siêu cũng tỏ rõ một thái độ thẳng thắn, dứt khoát và vô cùng quyết liệt.

Nói về Hồ Quý - một con ngƣời vì tham lam tiền bạc mà chà đạp lên cả tình nghĩa

anh em, Nguyễn Tử Siêu đã tỏ rõ thái độ mỉa mai cay nghiệt bằng phụ mấy câu tặng bác Hồ

Quý:

“Quản chi niêm sỉ cốt cầu danh

Cái kế như ai kể cũng sành

Hiến vợ, hiến con cùng một phái

Đời sau âu hẳn học từ anh”

Trong tiểu thuyết lịch sử của mình, Nguyễn Tử Siêu không chỉ sử dụng nhân vật kể

chuyện để nhận xét, đánh giá nhân vật lịch sử hay sự kiện mà có lúc tác giả còn sử dụng

những lời bàn của nhân vật ngƣời kể chuyện để kêu gọi lƣơng tâm, thức tỉnh lƣơng tâm

những con ngƣời đƣơng thời. những đoạn bình chú nhƣ vậy làm cho ý nghĩa thời sự, ý nghĩa

hiện đại của tác phẩm đƣợc tăng cƣờng. Nó thực sự là lời “Thông báo thời sự” đƣợc khoác bộ

áo lịch sử.

“Vì có một lạng bạc mới cho nhớ đến ngƣời cùng nòi giống, nhân tâm bại hoại đến

thế là cùng ! Ta là ngƣời bây giờ, cách hồi vua Bố Cái khởi binh đã đến hơn một nghìn năm,

nghĩ đến nhân tâm hồi ấy mà đau lòng; song hồi

177

tƣởng lại đến nhân tâm ngay đời bây giờ lại càng khó nói. Ôi ! Hỏi giời, giời có biết hay

không ? Hỡi giời ! ...”[167, 46]

Việc sử dụng nhân vật ngƣời kể chuyện và vận dụng phƣơng thức vừa kể vừa bình

luận là một độc đáo trong nghệ thuật nghệ thuật viết tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Tử Siêu

và các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn 1900 - 1945. Hình thức nghệ thuật

này đƣợc các nhà tiểu thuyết lịch sử Việt Nam mà tiêu biểu là Nguyễn Tử Siêu tiếp thu từ đặc

điểm truyền thống của đặc điểm truyện kể dân gian Việt Nam và truyện kể phƣơng đông.

Những lời nghị luận, lời bình của tác giả đac góp phần làm rõ thêm chủ đề tƣ tƣởng của tac

phẩm và ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Tuy nhiên phƣơng pháp này cũng có những hạn chế

nhất định. Nó dễ gây cho ngƣời đọc một tâm lý khó chịu khi mạch của câu chuyện đang phát

triển tự nhiên bị ngừng lại, để xen kẽ những lời bình. Càng về sau hình thức nghệ thuật này

càng giảm dần, chứng tỏ nghệ thuật của tiểu thuyết lịch sử đã dần dần thoát ly ảnh hƣởng của

nối viết của tiểu thuyết truyền thống để tiếp cận với cách viết của tiểu thuyết hiện đại.

4.5.Nghệ thuật diễn đạt và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.

4.5.1. Nghệ thuật diễn đạt.

Có thể nói rằng: nghệ thuật diễn đạt trong tiểu thuyết lịch sử của Việt Nam thời kỳ

đầu còn chịu ảnh hƣởng nhiều cách diễn đạt của tiểu thuyết cổ điển và tiểu thuyết chƣơng hồi

truyền thống. Trong những tác phẩm nhƣ: “Giọt máu chung tình”, “Tiếng sấm đêm đông”,

“Vua Bố Cái”, “Đinh Tiên Hoàng”, “Lê Đại Hành”, “Hai Bà đánh giặc”... những câu văn

biền ngẫu còn chiếm một tỷ lệ khá nhiều và khá phổ biến. Ví dụ: “Cƣơng ô thấm thoát, trời

đã xế chiều, ngọn Kim Phong phƣơng phất gió hiu hiu nhƣ giục khách thừa lƣơng đoạn cảnh”

[198, 25] hay: “Nguyên tên Vƣơng Bích này là ngƣời hƣởng thừa phụ ấm, vì cũng một tay

lãng hạnh phon tình, ngày lân la tửu đếm trà đình, tối ngả ngớn hoa hồn nguyệt phách” [198,

104]. Hay: “Một

178

tiếng khuyên ình, chuyện vui tạm dứt, giấc nồng đón khách, vào nƣớc Hoa Lƣ, tiếng gà dồn

dập chốn hoang nhƣ, cùng nhau chỉ nẻo Hoa Lƣ ruổi về...” [168,22].

Và đây là một đoạn văn biện ngẫu, tác giả miêu tả cảnh vật để diễn tả tâm trạng của

Hợp Thai một tƣớng lĩnh của nhà Nguyễn:

“Sƣơng sa mặt đất, mây rãn bên trời, xao xác tiếng gà . Vo ve lũ nhặng. Cái cảnh âm

u của đêm đông dằng dặc nhƣờng nhƣ đã chán cõi nhân thế mà từ từ quy ẩn, để nhƣờng cho

vừng hồng nhật, lại bƣớc lên mà quản lý cõi Diêm phù...” [170,22].

Đoạn văn vừa mang tính chất biền ngẫu, vừa mang phong cách cổ điển với việc sử

dụng những điển tích, điển cố.

Thời kỳ này, để chạy theo thị hiếu của ngƣời đọc, một số tác giả giới thiệu về nhân

vật Hầu Tú Kiều con của Hầu Nhân Bảo:

“...Lại có con của Hầu Nhân Bảo tên là Hầu Tú Kiều mới 28 tuổi, rất giỏi về nghề phi

đao. Luyện đƣợc một bộ “Thiết Ngọc Đao”, tất cả 36 chiếc, mỗi chiếc dài 6 tấc, nặng 5 lạng,

cắt vào sắt nhƣ bổ vào bùn, thái vào đá vụn nhƣ cám ! ... Tú Kiều thƣờng lấy dao ấy, nhằm

thẳng vào đàn chim đang bay mà ném, định ném con chim nào thời trúng con chim ý...Cho

nên ở vùng Hoài Bắc ngƣời ta thƣờn gọi Tú Kiều là “Thần dao...? cô” [170, 16-17].

Hay đoạn văn miêu tả cuộc đụng độ tay đôi giữa Phùng Khuông và Bích Hà:

“.. Nghĩ vậy, Phùng Khuông liền tuốt đôi đoản kiếm cài ở sau lƣng nhảy vụt ra, rơ

thẳng chém vào đầu ngƣời thiếu nữ... Ngƣời thiếu nữ

179

nhanh mắt tay trái dơ ngay thiết côn lên đỡ lấy đoản kiếm của Phùng Khuông, tay phải rút

ngay thành kiếm dắt ở “sau” lƣng ra, dùng miếng “Hắc Đao xuất đổng” đâm thẳng vào ngực

Phùng Khuông, Phùng Khuông vội nghiêng mình tránh đƣợc mũi kiếm, thời lại bị thiết côn

của ngƣời thiếu nữ đánh thẳng xuống đỉnh đầu...”

Sở dĩ Nguyễn Tử Siêu phải sử dụng những đoạn văn mang màu sắc kiếm hiệp vào

trong tác phẩm là vì trong thời kỳ lịch sử lúc bấy giờ tiểu thuyết kiếm hiệp phát triển khá

mạnh. Nguyễn Tử Siêu muốn tăng sức hấp dẫn lôi cuốn cho cuốn tiểu thuyết của mình.

Chứng tỏ Nguyễn Tử Siêu là ngƣời hiểu biết rộng, ông am hiểu nhiều loại hình văn học.

Điều đáng chú ý là các tác giả tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này đã đem vào thể loại mới

những cách thức diễn đạt mà không dễ gì bắt gặp trong văn học lúc bấy giờ. Đó là cách viết

giản dị, chân thực, gọn gàng. Bên cạch những trang diễn đạt thiên về lối kể chuyện lúc ấy.

Trong tác phẩm của Nguyễn Tử Siêu đã có những đoạn miêu tả tình huống, sự kiện rất sinh

động, hợp lý gây hứng thú cho ngƣời đọc Nhƣ đoạn Phùng Khuông gặp Bích Hà trong tác

phẩm “Lê Đại Hành”, Hƣng Đạo Vƣơng gặp Phạm Ngũ Lão trong tác phẩm “Trần Nguyên

chiến kỷ”...

4.5.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.

Ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX mang dấu ấn khá

đậm nét ngôn ngữ của tiểu thuyết chƣơng hồi truyền thống. Đặc điểm ngôn ngữ của tiểu

thuyết chƣơng hồi là tác giả thƣờng sử dụng những từ nhƣ: “Chính trị” (thật là, quả là) để kết

thúc một hồi và chuyển sang hồi khác. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các công thức cố định

quen thuộc để chuyển ý, chuyển việc, chuyển đoạn, chuyển hồi

180

nhƣ: chuyện rằng (thoại thuyết), lại nói (tái thuyết), không nói đến nữa (bất đề), không nói

thêm nữ (bất tại thoại hạ)... Ví dụ trong tác phẩm “Vua Bố Cái” Nguyễn Tử Siêu siêu đã sử

dụng 165 từ “rằng”. trong tác phẩm “Đinh Tiên Hoàng”tác giả sử dụng 129 từ “rằng”.

Trong đó, từ “mà rằng” 54 từ, “hỏi rằng” 6 từ, “luôn rằng” 4 từ, “nghe rằng” 1 từ,

“thƣa rằng” 1 từ, “tính rằng” 1 từ, “đáp rằng” 1 từ, “lại rằng”1 từ, “gọi rằng” 1 từ, “rằng” 35

từ, “nói rằng” 36 từ.

Tác phẩm “Vua bà Triệu Ẩu Bà” tác giả sử dụng 70 từ “rằng”. Trong tác phẩm “Việt

Thanh chiến sử” tác giả sử dụng 59 từ “mà rằng” 1 từ 16 từ “nói rằng" , một từ “lại nói”, và 1

từ “không cần nói thêm nữa”, 1 từ không cần phải nói lại nữa”....

Tác phẩm “Chúa Trịnh Khải” tác giả đã sử dụng 45 từ “rằng" , 22 từ “mà”, 240 từ

“là” và 175 từ “thì”. Tác giả “Gia Long tẩu quốc”, ân Dân Tử sử dụng 725 từ “rằng" , 986 từ

“mà”, 952 từ “là” và 1023 từ “thì”.

Tác phẩm “Ai lên phố cát”, Lan Khai sử dụng 7 từ “mà”, 9 từ “rằng", 218 từ “là” và

134 từ “thì”.

Tác phẩm “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” Khái Hƣng sử dụng 592 từ “mà”, 9 từ “rằng" , 719 từ

"là” và 722 từ “thì”. Sau đây, chúng tôi xin nêu một bảng thống kê về tỷ lệ sử dụng từ “rằng"

, “thì”, “là”, “mà” trong một số tác phẩm tiêu biểu:

181

Bảng thống kê về tỷ lệ sử dụng từ “rằng" , “thì”, “là”, “mà” trên tổng số trang trong một số tác phẩm

tiêu biểu

Từ “rằng”

Từ “mà”

Từ “là”

Từ “thì”

Số

Số

TÊN TÁC PHẨM

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ

trang

TT

SL

SL

SL

SL

%

%

%

lệ %

Trung Quang Tâm Sử

123

121

0.9

125

0.9

306

2.3

305

1

Lê Đại Hành (1929)

149

2.5

207

3.5

120

2.6

6

59

2.2

2

Đinh Tiên Hoàng (1929)

129

1.5

72

0.8

83

0.9

10

84

0.1

3

Vua Bố Cái (1929)

165

2.7

281

4.6

296

4.8

6

61

0.1

4

Gia Long tẩu quốc

379

725

1.9

986

2.6

952

2.5

1023

0.09

5

Trần Nguyên chiến kỷ (1935)

244

196

0.8

497

2.0

454

1.8

2.6

71

6

Việt Thanh chiến xử

935

59

0.06

453

0.4

445

0.9

0.2

16

7

Vua Bà Triêu Ẩu (1936)

156

70

0.4

148

0.9

325

2.0

874

5.6

8

0.05

21

Hai Bà đánh giặc (1936)

383

65

0.1

228

0.5

391

1.0

9

0.6

90

10 Ái tình và sự nghiệp

145

20

0.1

101

0.6

240

1.6

11

Chúa Trịnh Khải

129

0.03

122

0.9

240

1.8

175

1.3

5

12

Thế Kỷ 18 bằng Quận Công

157

0.05

229

1.4

451

2.8

247

1.5

9

13 An Tƣ

117

0.03

169

1.4

321

2.7

156

1.3

4

14

Bà Chúa Chè

195

65

0.3

188

0.9

325

1.6

267

1.3

15 Ai lên Phố Cát

131

9

0.06

7

0.05

218

1.6

134

1.0

16

Tiêu Sơn tráng sĩ

386

70

0.1

592

1.5

719

1.8

722

1.8

182

Qua những số liệu thống kê ở trên, chúng ta thấy rằng: càng về sau tỷ lệ sử dụng từ

“rằng” càng giảm đi. Điều đó chúng tỏ các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử của Việt Nam giai

đoạn này đã dần dần thoát khỏi lối viết văn cổ điển để vƣơn tới lối viết văn cổ đại hơn.

Trong một số tác phẩm tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này đã sử dụng đã sử dụng nhiều

từ địa phƣơng và sử dụng nhiều ngôn ngữ bình dân. Một số tác giả đã sử dụng từ địa phƣơng

Miền Bắc cho nên trong quá trình sử dụng ngôn ngữ tác phẩm còn có nhiều lỗi chính tả. Viết

sai do lẫn lộn giữa các âm “ch” và “tr”, “l” và “n”, “s” và “x”, giữa “g” và “d”...

Tiểu kết:

Mặc dù có một vài hạn chế nhất định về diễn đạt cũng nhƣ sai sót về lỗi chính tả

nhƣng đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ chữ quốc ngữ đang ở buổi đầu hình thành thì nghệ

thuật sử dụng ngôn từ của các tác giả tiểu thuyết lịch Việt Nam giai đoạn này đã có một đóng

góp cho sự phát triển của chữ quốc ngữ cũng nhƣ sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt

Nam những năm hai mƣơi đầu thế kỷ này.

Nhƣ vậy, với những thành tựu về nội dung cũng nhƣ về thi pháp, tiểu thuyết lịch sử

Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 hoàn toàn có thể chẳng đƣợc mình. Nó đã có đóng góp

lớn cho quá trình phát triển của loại tiểu thuyết nói riêng và đã góp phần làm phong phú them

diện mạo của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ. Mặt khác, nó còn góp phần thúc đẩy nhanh

chóng quá trình hiện đại hóa nền văn học nƣớc nhà đặc biệt đối với thể loại tiểu thuyết.

183

KẾT LUẬN

Trong giai đoạn văn học từ 1900 đến 1945, cùng với sự ra đời của một số chủng loại

tiểu thuyết nhƣ tiểu thuyết tâm lý, tieur thuyết hiện thực, tiểu thuyết kiếm hiệp, tiểu thuyết

lãng mạn còn có sự ra đời của dòng tiểu thuyết lịch sử với một đội ngũ tác giả khá đông đảo

và một khối lƣợng tác phẩm đáng kể. Trong đó có những tác phẩm đã gây đƣợc tiếng vang

lớn trong công chúng độc giả và có những tác phẩm có nội dung yêu nƣớc tích cực khiến cho

thực dân pháp phải ra lệnh cấm lƣu hành.

1. Đề tài mà các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này khai thác chủ yếu là đề

tài đấu tranh chống xâm lƣợc. Bằng cảm hứng lịch sử và dân tộc sâu sắc, với một ý đồ nghệ

thuật tích cực, các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này thông qua tác phẩm của mình

đã muốn đánh thức lòng tự hào, tự tôn dân tộc, kêu gọi đồng bào hãy nhớ lấy cái nhiệm vụ

đối với nƣớc nhà.

Nội dung của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đã phản ánh khá trung

thành lịch sử của nhiều thời đại trong quá khứ cùng với chân dung của nhiều nhân vật anh

hùng có thật trong lịch sử. Bằng tài năng có đƣợc, các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử đã làm

sống lại nhiều nhân vật lịch sử và dựng lại hình ảnh của nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại của

dân tộc ta. Nhƣ vậy, họ đã sử dụng lịch sử nhƣ một chất liệu nghệ thuật, một thứ vũ khí tinh

thần hữu hiệu để nhằm vào thực tại lúc bấy giờ. Với tƣ cách là một chủng loại của tiểu

thuyết, tiểu lịch sử đã đem tới cho văn học thời đại một nội dung tích cực. Trong hoàn cảnh

lịch sử lúc bấy giờ, nó xứng đáng là trợ thủ đắc lực cho cách mạng trong công cuộc giải

phóng dân tộc: và “Chúng ta có thể coi tiểu thuyết lịch sử ở giai đoạn này là một hình thái

mới của văn chương yêu nước”. [156, 241]. (Chúng tôi nhấn mạnh BVL)

184

2. Trong tiểu thuyết lịch sử của mình, các nhà văn đã thể hiện một quan điểm nghệ

thuật mới mẻ về con ngƣời, về nhân vật lịch sử và về ngƣời anh hùng: ngoài việc quan tâm

phản ánh con ngƣời của lịch sử, con ngƣời trong mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng với

giai tầng, các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này còn chú ý đến tính chất bình thƣờng

ở ngƣời anh hùng phi thƣờng. Ở họ không chỉ có mối quan hệ xã hội mà còn có nhiều mối

quan hệ đời tƣ khác, đan xen lẫn nhau tạo nên tính đa dạng, phức tạp trong cuộc sống. Nhƣng

nổi trội nhất vẫn là mối quan hệ giữa cá nhân với dân tộc, giữa cá nhân với gia đình và cá

nhân trong tình yêu. Khác với những tác phẩm lịch sử, những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử

thời kỳ này còn có thêm phần nhìn nhân vật lịch sử từ góc nhìn đời tư. Đó là những băn

khoăn, những lo âu, những lỗi vui, buồn kể cả những khát vọng cá nhân rất nhân bản của con

ngƣời. Không những thế con ngƣời trong tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này còn đƣợc nhìn

nhận từ nhiều phạm trù đối lâp về nhân cách: giữa cái cao thƣợng và cái thấp hèn, giữa lƣơng

thiện và phi lƣơng thiện, giữa hiền lành và độc ác, giữa những tình cảm đối với dân tộc và

những tình cảm phi dân tộc, phản dân tộc. Vì thế, nội dung tƣ tƣởng của tác phẩm không chỉ

khích lệ lòng tự hào, tự tôn dân tộc, vun đúc lòng yêu nƣớc mà còn đem đến cho ngƣời đọc

một bài học về đạo đức, về nhân cách.

Chính sự quan tâm đến mặt đời thƣờng, bình thƣờng ở những con ngƣời phi thƣờng

trong lịch sử đã làm cho tác phẩm tiểu thuyết tăng thêm màu sắc của đời sống, đồng thời làm

cho tính lịch sử, cũng nhƣ tính sử thi trong tác phẩm giảm đi đáng kể. Chứng tỏ một quan

điểm tiến bộ của các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này về các nhân vật lịch sử vốn

trƣớc đây đƣợc coi là nhân vật vĩ đại, siêu phàm trong lịch sử hay trong văn học Trung đại.

Đây cũng chính là sự khác nhau cơ bản của tiểu thuyết lịch sử và tác phẩm lịch sử khi cả hai

đều phản ánh về một đối tƣợng trong lịch sử quá khứ.

185

3. Các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này đã có thành công đáng kể trong

việc sử dụng chất liệu lịch sử để xây dựng tiểu thuyết. Một mặt trong quá trình sáng tác họ đã

cố gắng giữ gìn tính chân thực lịch sử và đã né tránh đƣợc các khuynh hƣớng chuyển dịch

lịch sử một cách đơn thuần vào trong tác phẩm. Mặt khác, các nhà văn đã phát huy trí tƣởng

tƣợng phong phú, hƣ cấu một phần nào đó những sự kiện nhằm lôi cuốn, hấp dẫn ngƣời đọc

tin vào lịch sử và nghĩ rằng bản thân mình cũng có thể làm đƣợc nhƣ cha ông ta ngày trƣớc.

mức độ hƣ cấu nghệ thuật ngày càng tăng chứng tỏ tính chất văn chƣơng trong tiểu thuyết

lịch sử càng đậm đà và yếu tố lịch sử, yếu tố sử thi càng giảm.

Đây cũng chính là điểm sáng tạo, điểm đóng góp về phƣơng diện thể loại của dòng

tiểu thuyết lịch sử cho thể loại tiểu thuyết Việt Nam đang trên con đƣờng hiện đạih hóa cùng

với quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc giai đoạn này.

Ở thời kỳ đầu (giai đoạn sáng tác trƣớc 1930), tiểu thuyết lịch sử Việt Nam còn chịu

ảnh hƣởng của cách xây dựng nhân vật theo tiểu thuyết chƣơng hồi. Nhân vật trong tiểu

thuyết lịch sử thời kỳ này còn đơn giản và sơ lƣợc. Nhân vật thiên về hành động hơn là thể

hiện tâm lý, tình cảm. Nhân vật thƣờng xuất hiện trong hành động và thông qua hành động để

bộc tính cách hơn là bộc lộ nội tâm. Càng về sau, trong quá trình xây dựng nhân vật, các nhà

văn đã hƣớng tới việc miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật, hƣớng tới việc thể hiện sự đa

dạng, phức tạp, phong phú trong cuộc sống của nhân vật - điều mà các nhà văn Hiện thực phê

phán, và Tự lực văn đoàn sau này đạt tới đỉnh cao. Đây là một thành tịu và cũng là một đóng

góp đáng kể của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Khiến cho tiểu thuyết lịch

sử giai đoạn này xứng đáng là một trong những đầu nối, “bản lề” giữa hai đoạn từ văn xuôi

cổ điển xang văn xuôi đang trên bƣớc đƣờng đƣợc hiện đại hóa.

186

Thời kỳ đầu, nghệ thuật diễn đạt của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam còn chịu ảnh hƣởng

của lối văn phong cổ điển, của lối thuật chuyện theo truyện cổ chƣơng hồi, nhiều câu văn

mang tính chất biền ngẫu. Nhƣng càng về sau các nhà văn càng xa dần với lối diễn thuật cũ

để vƣơn tới một lối diễn thuật mới: diễn tả nhiều hơn. Cách viết giản dị, giàu hình ảnh, ngôn

ngữ sinh động có sức chuyển tải tƣ tƣởng lớn, có khi thuật cả ý nghĩ và diễn biến tâm lý, tình

cảm của nhân vật. Đặc biệt ở một số tác phẩm thuộc giai đoạn sau, tác giả đã dùng ngôn ngữ

độc thoại nội tâm để khắc họa tính cách nhân vật. Phải chăng đây là những đóng góp có ý

nghĩa của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam cho sự phát triển ngôn ngữ dân tộc trong buổi đầu

hình thành và đang từng bƣớc đƣợc hiện đại hóa.

4. Đóng góp của luận án là ở chỗ đã khôi phục lại diện mạo của dòng tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 vốn về cơ bản cũng bị bỏ quên, đồng thời bƣớc đầu

chỉ ra đƣợc những đặc điểm cơ bản về nội dung và thi pháp của dòng văn học này. Ở từng

phƣơng diện, luận án đã cố gắng đƣa ra một số ý kiến mới, có căn cứ khoa học và có thể

minh chứng đƣợc.

Những luận điểm, những ý kiến và một vài hƣớng tiếp cận cụ thể của luận án hy vọng

sẽ đƣa lại những lợi ích nhất định cho việc nghiên cứu và việc giảng dạy giai đoạn văn học

1900 - 1945 ở các trƣờng Cao đẳng, trƣờng Đại học sƣ phạm và khả dĩ kể cả trƣờng Đại học

tổng hợp.

5. Ứng dụng của công trình: Từ kết quả của luận án đƣợc chấp nhận, chúng tôi kính

đề nghị các nhà văn học sử giai đoạn 1900 - 4945 nên đƣa dòng tiểu thuyết lịch sử vào tiến

trình lịch sử văn học dân tộc để dân tộc để diện mạo văn học giai đoạn này toàn diện hơn,

đúng nhƣ nó tồn tại.

Chúng tôi hy vọng khi điều kiện cho phép sẽ nghiên cứu đề tài này một cách toàn diện

và sâu sắc hơn về những gì đã đƣợc nói lên ở trạng thái bƣớc đầu trong luận án. Đồng thời có

thể so sánh tiểu thuyết lịch sử Việt Nam với tiểu thuyết lịch sử một số nƣớc trong khu vực và

trên thế giới để thấy đƣợc nét

187

đặc thù, độc đáo của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.

Luận án đƣợc hoàn thành trong điều kiện tƣ liệu thiếu thốn, lại không đƣợc tiếp thu và

thừa kế nhiều thành quả nghiên cứu của các bậc tiền bối. Vì vậy, chắc chắn rằng luận án

không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Chúng tôi chân thành mong đợi sự góp ý,

chỉ giáo của các giáo sƣ và các nhà nghiên cứu để có thể mở rộng và đi sâu hơn nghiên cứu

tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - một đối tƣợng mới đƣợc khám phá và tìm

hiểu.

188

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Bốn phƣơng, Sài Gòn 1951.

2. Nguyễn Thế Anh, Kinh tế xã hội Việt Nam dưới các Vua triều Nguyễn, Trình

bày, Sài Gòn 1968

3. Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ, Lửa thiêng, Sài Gòn 1970.

4. Quốc Anh, Nông cổ phím đàn và cuộc thi tiểu thuyết trong lịch sử văn học. Tạp

chí văn học số 3/1978, trang 41.

5. Lại Nguyên Ân, Vấn đề về thể loại sử thi của văn học hiện đại, tạp chí văn học số

1/1980 trang 82-91

6. Thái Bạch, thi văn quốc cấm thời Pháp thuộc, Khai trí, Sài Gòn , 1968.

7. M. Bakhtin, Một số khía cạnh phương pháp luận cần lưu ý khi nghiên cứu văn

học quá khứ. Tạp chí Văn học số 4/180, trang 139-144

8. M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dị. Trƣờng viết văn

Nguyễn Du. Hà Nội. 1992.

9. M. Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đốtxtôiepxki, Trần Đình Sử dịch, Nxb Giáo

dục, Hà Nội 1993.

10. Trần Lê bảo, Đặc điểm kết cấu Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung,

Luận án Khoa học ngữ văn, Hà Nội 1992.

11. Vũ Bằng, Khảo về tiểu thuyết. Nxb Phạm Văn Tươi, Sài Gòn 1955.

189

12. Bêliaep, Những phương pháp và thủ thuật nghiên cứu hình tượng nhân vật,

(Bản đánh máy), Phong tƣ liệu trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội I.

13. Nguyễn Công Bình, Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc, Văn sử

địa, Hà Nội 1954.

14. Nguyễn Minh Châu, Sổ tay viết văn, Văn nghệ quân đội, Hà Nội 1971.

15. Phạm Tú Châu, Đọc lại Hoàng Lê nhất thống chí, tạp chí văn học số 2/1979.

16. Phan Bội Châu, Toàn tập, Tập 2. Nxb Thuận Hóa, Huế 1990

17. Phan Bội Châu, Toàn tập, Tập 3. Nxb Thuận Hóa, Huế 1990

18. Nam Chi, Tìm hiểu truyền thống văn học phản ánh tính chất anh hùng của

dân tộc, Tạp chí văn học số 2/1972.

19. Nguyễn Đổng Chi, Bàn thêm về quan niệm anh hùng của Phan Bội Châu

(trong cuốn: Nhà yêu nƣớc và nhà văn Phan Bội Châu). Nxb KHXH, Hà Nội 1970.

20. Nguyễn Huệ Chi, Phan Bội Châu nhà văn, (in trong cuốn “Nhà yêu nƣớc và nhà

văn Phan Bội Châu”), Nxb KHXH, Hà Nội 1970.

21. Nguyễn Huệ Chi, Mấy vẻ mặt thơ ca Việt Nam thời cổ cận đại, Tác phẩm Mới,

Hà Nội 1983.

22. Nguyễn Huệ Chi, Lê Chí Dũng, Từ điển văn học, Tập 2, Nxb KHXH Hà Nội

1984.

23. Nguyễn Huệ Chi, Vấn đề phân kỳ văn học sử Việt Nam. Tạp chí Văn học số 3.

1985. Trang 59.

190

24. Nguyễn Huệ Chi, Vũ Thanh, Những đóng góp của Nguyễn Tử Siêu cho loại

hình tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ, Tạp chí văn học số 5. 1996

25. Nguyễn Phương Chi, Trùng quang tâm sử hay là hình ảnh cuộc kháng chiến

chống Trung Quốc xâm lược của quân dân nhà Hậu Trần qua con mắt một sĩ phu chống

Pháp, Tạp chí văn học số 5. 1979 trang 122, 132.

26. Nguyễn Phương Chi, Từ tiểu thuyết “Trùng Quan tâm sử” nghĩa về đề tài lịch

sử chống Trung Quốc xâm lược qua một số tác hiện nay. Tạp chí văn học số 4/1980

27. Trường Chinh, Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, Nxb Sự Thật. Hà Nội

1970.

28. Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ, Ra khơi. Sài Gòn 1972.

29. Trường Chinh, Nhân dọc Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng, Độc lập, Số 8/1957

30. Trường Chinh, Bùi Văn Ba, Lương Duy Thứ, Văn học Trung Quốc, Tập 3.

NXb Giáo dục, Hà Nội 1971.

31. Trường Chinh, Dòng văn học yêu nước và cách mạng Việt Nam trong những

năm đầu thế kỷ XX đã tiếp thu ảnh hưởng của văn học nước ngoài như thế nào ? Tạp chí

Văn học tháng 12/1969, trang 66.

32. Trường Chinh (Chủ biên), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà

Nội, 1971.

33. Nguyễn Đình Chú, Thơ văn Phan Bội Châu, Giáo trình Đại học Sƣ phạm và Đại

học Tổng hợp (in roneo), Hà Nội 1958.

191

34. Nguyễn Đình Chú, Tìm hiểu quan niệm anh hùng của Phan Bội Châu, Tạp chí

văn học số 12/1967.

35. Nguyễn Đình Chú, Văn thơ Phan Bội Châu, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1976.

36. Nguyễn Đình Chú, Các thế hệ nhà văn trong ngót 100 năm kế tiếp nhau soi lại

lịch sử, (trong cuốn: “Văn học Việt Nam trên những chặng đƣờng chống phong kiến Trung

Quốc xâm lƣợc”), Nxb KHCH, Hà Nội 1981.

37. Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Khâm, Văn tuyển văn học Việt Nam 1958.1930 Nxb

Giáo dục, Hà Nội 1981

38. Nguyễn Đình Chú, Phan Bội Châu (trong cuốn “Từ điển văn học”) Nxb KHXH,

Hà Nội 1983.

39. Nguyễn Đình Chú, Cách nhìn nhận đúng văn học thời kỳ 1930 - 1945, Nhìn lại

một số hiện tượng văn học, Báo GVND số đặc biệt 7/1985.

40. Nguyễn Đình Chú, Về giai đoạn văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. 1945, Tài

liệu bồi dƣỡng văn học lớp 11, Vụ giáo viên, Hà Nội 1991

41. Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Tử Siêu cụ là ai ? Tản Viên Sơn, Hội văn học nghệ

thuật Hà Tây, Hà Tây 1996.

42. Nguyễn Đình Chú, Sự áp đảo của phương Tây đối với phương Đông trên

phương diện văn hóa tinh thần truyền thống, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội 1996

43. Phan Trần Chúc, Bánh xe khứ quốc, Nxb đời mới, Thụy ký. 1941.

44. Hống Chương, 120 năm báo chí Việt Nam. Nxb Tp. Hồ Chí Minh. Tp.HCM

1985

192

45. Ngô Văn Chương, Văn sử Việt Nam cận đại (1862 - 1945), Nhóm nghiên cứu

Văn Sử Việt Nam trƣờng ĐHSP Huế, Huế 1974.

46. Trương Đăng Dung, Văn học dịch và những vấn đề của Lý luận Văn học so

sánh. Tạp chí văn học số 1. 1991.

47. Trương Đăng Dung, Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mỹ học của Lucas,

Tạp chí văn học số 5. 1994.

48. Tôn Thất Dụng, Sự thay đổi về hình thức thể loại của thể loại tiểu thuyết văn

xuôi tiếng Việt ở Nam bộ (giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX), Thông báo khoa học

Trƣờng ĐHSP Hà Nội I, số 3/ 1992 trang 46, 48.

49. Tôn Thất Dụng, Sự hình thành và vận động của thể loại tiểu thuyết văn xuôi

tiếng Việt ở Nam bộ từ cuối thế kỷ XIX đến 1932, Luận án Phó tiến sĩ khoa học ngữ văn, Hà

Nội 1992.

50. Tôn Thất Dụng, Thể loại tiểu thuyết trong quan niệm của các nhà văn ở Nam

bộ đầu thế kỷ XX, Tạp chí Văn học số 2/1993, Trang 36 - 39.

51. Thành Duy, Tính dân tộc trong văn học, Khoa học, Hà Nội 1982.

52. Nguyên Dữ, Truyền kỳ mạn lục, (Ngô Văn Triệu dịch), Tổng tập tiểu thuyết chữ

Hán Việt Nam, Tập I, Nxb thế giới, Hà Nội 1997

53. Triêu Dương, Con người Việt Nam qua thơ văn yêu nước cách mạng đầu thế

kỷ XX, Nxb Văn học, Hà Nội 1989.

54. Tiêu Dương, Mấy ý kiến về tiểu thuyết lịch sử nhân dọc cuốn “Quận tre khởi

nghĩa”. Tạp chí Văn học số 8/1964.

55. Đặng Anh Đào, Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết. Tạp chí Văn học số

6/1992, trang 52 - 54.

193

56. Đặng Anh Đào, Sự tự do tiểu thuyết, một khía cạnh của thi pháp. Tạp chí Văn

học số 3/1993 trang 44 - 46.

57. Đặng Anh Đào, Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Giáo

dục, Hà nội 1995.

58. Trần Xuân Đề, Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1965.

59. Trần Xuân Đề, Trần Quý Nha, Công dư tiệp ký, Tô Nam, Nguyễn Đình Diệm

dịch, Nxb Quốc gia giáo dục, Sài Gòn 1961 - 1962.

60. Phan Cự Đệ, Hiện thực và lý tưởng, hiện thực và lãng mạn trong tiểu thuyết

VN hiện đại, Tạp chí VH số 4/1971.trang 26.

61. Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb ĐH và THCN Hà Nội, 1974.

Tập 1,2.

62. Phan Cự Đệ, Lời giới Thiệu Ngô Tất Tố (Toàn tập),Tập 1, Nxb Văn học, Hà

Nội, 1975.

63. Phan Cự Đệ, Hà Văn Đức, Nguyễn Hoành Khung, Văn học Việt Nam (1930 -

1945), Nxb ĐH và THCN, Hà Nội 1988, Tập 1.

64. Phan Cự Đệ, Lời giới thiệu Tiêu Sơn tráng sĩ (tái bản). Nxb ĐH và THCN, Hà

Nội 1989.

65. Phan Cự Đệ, Bạch Năng Thi, Văn học Việt Nam 1930 - 1945. Nxb Giáo dục Hà

Nội, Tập 1.

66. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí

Dũng, Hà Văn Đức, Văn học Việt Nam 1930 - 1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội 1997.

67. Lê Quí Đôn, Đại Việt thông sử, Toàn tập, tập III, Nxb KHXH, Hà Nội 1978.

194

68. Lê Quí Đôn, Toàn tập, Nxb KHXH, Hà Nội 1978.

69. Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Huy Tưởng, Nxb Văn học, Hà Nội 1966,

trang 27.

70. Hà Minh Đức, Nhà văn và tác phẩm văn học. Nxb Hà Nội 1971.

71. Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội 1974.

72. Hà Minh Đức, Lời giới thiệu “Tuyển tập Nguyễn Huy Tưởng”, Nxb Văn học

Hà Nội 1984.

73. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán, Cơ sở lý luận văn học, Nxb ĐH và THCN Hà Nội

1985. Tập 2

74. Hà Minh Đức (chủ biên), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1993.

75. Hà Minh Đức (chủ biên), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1997.

76. Trọng Đức, Hình tượng nhân vật anh hùng qua một số tác phẩm Văn học cổ

Việt Nam, Tạp chí Văn học số 1/1988.

77. Sehaffer Johne, Tiểu thuyết xuất hiện ở Nam Kỳ, Võ Thế Uyên dịch, Tạp chí

văn học số 8/1994.

78. Văn Giá, Quan niệm về tiểu thuyết trong khoa học nghiên cứu văn học giai

đoạn 1932 - 1945, Tạp chí văn học số 8/1994, Trang 25 - 29.

79. Hoàng Minh Giám, Diễn văn khai mạc lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Phan

Bội Châu. Nhà yêu nước nhà văn Phan Bội Châu. Nxb KHXH, Hà Nội 1970.

80. Bằng Giang, Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 - 1930, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh, 1992.

195

81. Bằng Giang, Truyện Tàu với một số tiểu thuyêt gia đầu tiên Việt Nam, Tạp chí

kiến thức ngày nay số 106/1993, trang 244 - 249.

82. Trần Văn Giàu, Lịch sử Việt Nam... Nam kỳ chống Pháp, Nxb Xây dựng, Hà

Nội 1965,Quyển 1

83. Trần Văn Giàu (chủ biên), Lược chuyện các tác giả Việt Nam, Nxb khoa học

xã hội, Hà Nội, Hà nội 1972, Tập 1, 2.

84. Trần Văn Giàu, Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam, Tư tưởng yêu

nước, Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1983.

85. Gorky.M, Bàn về văn học, Nxb Văn học, Hà Nội 1970, tập 1, 2.

86. Nguyễn Hải Hà, Thi pháp tiểu thuyết Tônxtôi, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1992.

87. Trúc Hà, Lược khảo về sự tiến hóa của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết, Báo

Nam Phong số 7/1932.

88. Nguyễn Phan Hách, Ngày gặp lại, Nxb Văn học Hà Nội 1972.

89. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu tái bản, Sài

Gòn 1968

90. Đặng Thị Hạnh, Tiểu thuyết Huygô, Nxb Đại học và THCN Hà Nội 1987

91. Lê Thị Đức Hạnh, Những đóng góp về phương diện tiểu thuyết của Từ Ngọc,

Nguyễn Lân, Tạp chí Văn học số 8/1994, trang 15, 18

92. Hoàng Ngọc Hiến, Văn học - Học văn, Trƣờng viết văn Nguyễn Du, Hà Nội

1992.

93. Hoàng Ngọc Hiến, Năm bài giảng văn về thể loại, Trƣờng viết văn Nguyễn Du,

Hà Nội 1992.

196

94. Đỗ Đức Hiền, Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội và Mũi Cà Mau,

1993.

95. Bùi Viết Hoa, Kalovala - Bộ sử thi của dân tộc Phần Lan, Tạp chí văn học số

6/1992

96. Kiều Thu Hoạch, Nguyễn Đức Vân, Hoàng Lê Nhất Thống Chí (Bản dịch),

Nxb Giáo dục Hà Nội 1978.

97. Kiều Thu Hoạch, Văn hóa dân gian, những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa

học xã hội Hà Nội, 1989, trang 74 - 95.

98. Tô Hoài, Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Nxb Văn học Hà Nội, 1960.

99. Phan Thị Hoàn, Phạm Quỳnh 1892 - 1992. Tuyển tập và di cảo, An Tiêm, Pari,

1992.

100. Phan Kế Hoành, Huỳnh Lý, Bước đầu tìm hiểu kịch nói Việt Nam trước

cách mạng tháng Tám, Nxb Văn học Hà Nội 1978.

101. Hội đồng gia tộc họ Nguyễn Đình, Cương Quốc Cương Nguyễn Xí (Tộc phả -

Di huấn - Phụ lục), Nghi hợp - Nghi Lộc - Nghệ An 1993.

102. Phạm Đình Hổ, Vũ Trung tùy bút, Nguyễn Hữu Tiến dịch, Tổng tập tiểu thuyết

chữ Hán Việt Nam, tập II, Nxb Thế giới Hà Nội 1997.

103. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án,Tang thương ngẫu lục, Ngô Văn Triện dịch, Tổng

tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập II, Nxb Thế giới Hà Nội 1997.

104. Nguyên Hồng, Sức sống các ngòi bút, Nxb Văn học, Hà Nội 1961.

105. Hợp tuyển tuyển, thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1958 - 1900), Nxb

Văn học Hà Nội 1970.

197

106. Khái Hưng, Tiêu Sơn tráng sĩ, Ngày nay, 1970.

107. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng, Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 -

1930, Nxb ĐH và THCN Hà Nội 1983.

108. Trần Đình Hượu, Vấn đề chọn mấy mốc trong phân kỳ lịch sử văn học Việt

Nam đầu thế kỷ XX, tạp chí văn học số 3/1985trang 41-45

109. Đỗ Văn Hỷ, Người xưa bàn về văn chương, Nxb KHXH Hà Nội 1993.

110. Lan Khai, Ai lên phố Cát, Phổ thông bán nguyệt sah số 4.

111. Lan Khai, Cái hột mận, Nhà in Hoa Tiên, trang 141 - 142.

112. Lan Khai, Chiếc ngai vàng, Phổ thông bán nguyệt số 9.

113. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam (thế kỷ

X - nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà nội 1997

114. Kharapchencô M.B, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn

học, Tác phẩm mới Hà Nội 1979.

115. Kharapchencô M.B, Sáng tác nghệ thuật hiện thực con người, Nxb KHXH

Hà Nội 1984.(ngƣời dịch: Nguyễn Hải Hà, Lại Nguyên Ân, Duy Lập).

116. Hoàng Đức Khoa, Truyện và tự truyện của Phan Bội Châu. Luận án phó tiến

sĩ khoa học Ngữ văn, Hà Nội 1995.

117. Mộc Khuê, Ba mươi năm văn học. Nxb Tân Việt, Hà Nội 1942.

118. Phạm Minh Kiên, Việt Nam Lý Thường Kiệt. Tín Đức, Thƣ xã, Sài Gòn 1929.

119. Trần Trọng Kim, Nho giáo. (trong “Bắc tân văn” (2 tập)), Hà Nội 1930-1933

198

120. Thanh Lang, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Nxb Tính Bằng, Sài Gòn, 1967,

Tập 5

121. Thăng Lăng, Phê bình văn học thế hệ 32, Phong trào văn hóa 1973.

122. Đặng Thanh Lê, Nghiên cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong mối quan

hệ với khu vực, Tạp chí VH số 1,2,8/1992.

123. Huy Liên, Tìm hiểu một vài đặc điểm về thi pháp Sô Lô Khốp trong bộ tiểu

thuyết sử thi “Sông Đông êm đềm”, Tạp chí Văn học số 5/1984.

124. Lưu Liên, Tiểu thuyết - Một thể loại Năng động đầy triển vọng, Tạp chí Văn

học số 4/1982, tr. 68 - 77.

125. Lưu Liên, Tiểu thuyết - Một thể loại Năng động đầy triển vọng, Tạp chí Văn

học số 4/1987.

126. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH Hà Nội 1985, Quyển 9.

127. Nhất Linh, Viết và đọc tiểu thuyết. Sài Gòn đời nay, 1972.

128. Trần Huy Liệu, Lịch sử 80 năm chống Pháp, Văn sử địa Hà Nội 1957. Tập 1.

129. Trần Huy Liệu, Lịch sử Việt Nam, Hà Nội , 1968. Tập 1.

130. Nguyễn Văn Long ,“Việt Nam lịch đại anh hùng cứu quốc sử ca” của Nguyễn

Tử Siêu trong dòng diễn ca của lịch sử văn học Việt Nam, Hội thảo khoa học, Hội văn học

nghệ thuật Hà Tây,1996.

131. Nguyễn Lộc, Lịch sử văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. Nxb Đại học và

trung học chuyên nghiệp, Hà Nội 1976.

199

132. Bùi Văn Lợi, Về tiểu thuyết lịch sử và vấn đề giảng dạy tiểu thuyết Việt Nam

trong nhà trường phổ thông, Tạp chí lý luận khoa học giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo ,

số 8/1998.

133. Bùi Văn Lợi, Đóng góp của tiểu thuyết lịch sử Trùng Quang tâm sử” vào quá

trình hiện đại hóa văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, Thông báo khoa học, trƣờng ĐHSP

- ĐHQGHN, số 2/1997

134. Bùi Văn Lợi, Về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, Thông tin khoa

học xã hội, Trung tâm KHXH và nhân văn quốc gia, Viện thông tin KHXH, Số 1/1998.

135. Bùi Văn Lợi, Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết lịch sử

Việt Nam đầu thế kỷ XX đến năm 1945, Thông báo khoa học trƣờng Đại học sƣ phạm, Đại

học quốc gia Hà Nội , số 4/1997.

136. Bùi Văn Lợi, Bùi Văn Lợi, Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu

thuyết lịch sử của Nguyễn Tử Siêu, Thông báo khoa học trƣờng Đại học sƣ phạm, Đại học

quốc gia Hà Nội, số 4/1997.

137. Bùi Văn Lợi, Nguyễn Tử Siêu và những đóng góp của ông cho loại hình tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đến 1945, Thông báo khoa học trƣờng

ĐHSP - DDHQGHN, số 5/1997.

138. Nguyễn Triệu Luật, Bà Chúa Chè, Hoa Tiên 1938.

139. Nguyễ Triệu Luật, Chúa Trịnh Khải, Nxb Tân Dân, Hà Nội 1939, trang 123 -

124.

140. Lucas , Tiểu thuyết lịch sử, Nxb Budapest 1977, trang 80 - 81.

141. Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Số phận của tiểu thuyết (biên dịch), Tác

phẩm mới, Hà Nội 1983.

200

142. Đặng Thai Mai, Trùng Quan tâm sử, Nxb Văn họ Hà Nội 1971.

143. Đặng Thai Mai, Thơ văn yêu nước cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nxb

Sự thật, Hà Nội 1988.

144. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1920 - 1945),

Nxb Văn học, Hà Nội 1987, Quyển 1, tập 5.

145. Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại, Nxb Giáo dục - Hà

Nội 4/1997.

146. Trần Nghĩa, Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tạp chí Hán Nôm số 3/1997; số

4/1997.

147. Đặng Việt Ngoạn, Một hiện tượng văn học đầu thế kỷ Đặng Trần Phất, Tạp

chí văn học, Số 5/1997.

148. Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu

Hoạch dịch và giới thiệu , Nxb Văn học, Hà Nội 1984.

149. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn sử giản ước tân biên, Quốc học tùng thƣ, Sài

gòn, 1964, Quyển 3.

150. Phạm Xuân Nguyên, Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết, Tạp chí văn học số

2/1991, trang 69 - 73.

151. Vương Trí Nhàn, Đặng Trần Phất và những bước đột phá trong một thể loại

mới: tiểu thuyết, Tạp chí VH, số 5/1994.

152. Nhiều tác giả, Từ điển văn học, Tập I - II, Nxb KHXH, Hà Nội 1983 - 1984.

153. Nhiều tác giả, Thuật ngữ nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1992

201

154. Nhiều tác giả, Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Nxb Thế giới , Hà Nội

1997

155. Nhiều tác giả, Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến

Trung Quốc xâm lược, Nxb KHXH, Hà Nội .

156. Nhóm Lê Quý Đôn, Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, Xây dựng, Hà Nội

1957 - 1959.

157. Tiến sĩ N.L.Nikulin, Sự phản ánh những mối giao tiếp văn hóa với Châu Âu

trong Văn học Việt Nam thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, Tạp chí văn học số 6/1981.

158. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn Việt Nam hiện đại, Tân dân Hà Nội 1942.

159. Hoàng Phê (chủ biên),Từ điển tiếng Việt, Nxb KHXH Hà Nội 1988.

160. Nam Phong,1921,N0, 43, trang 15.

161. G.N pôxpêlop (chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục Hà

Nội 1988

162. Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Lĩnh nam trích quái, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc

San dịch và giới thiệu, Nxb Văn hóa - Viện văn học, Hà Nội 1960.

163. Riptin.B.L, Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ của phương

đông theo phương pháp loại hình, Lê Sơn dịch, T/c Văn học số 2/1974, tr.107 - 123.

164. Vương Hồng Sến, Xem truyện tàu , Hiếu Cổ đặc san,Sài gòn 1970.

165. Doãn Quốc Sĩ, Văn học và tiểu thuyết Sáng tạo, Sài gòn 1972, Tập 2.

202

166. Nguyễn Tử Siêu, Tiếng sấm đên đông, Nhà in Nhật Nam - Thi Quán, Hà Nội

1928.

167. Nguyễn Tử Siêu, Vua Bố Cái, Nhà in Nguyễn Kinh, Hải Phòng 1929.

168. Nguyễn Tử Siêu, Lê Đại Hành, Nhà in Nguyễn Kinh, Hải Phòng 1929.

169. Nguyễn Tử Siêu, Đinh Tiên Hoàng, Nhà in Nhật Nam Hà Nội 1929.

170. Nguyễn Tử Siêu, Trần Nguyên chiến kỷ, Nhà in Nhật Nam Hà Nội 1935.

171. Nguyễn Tử Siêu, Việt Thanh chiến sử, Nhà in Nhật Nam, Hà Nội 1935

172. Nguyễn Tử Siêu, Hai Bà đánh giặc, Nhà in Nhật Nam, Hà Nội 1936.

173. Nguyễn Tử Siêu, Vua Bà Triệu Ẩu, Nhà in Nhật Nam, Hà Nội 1936.

174. Nguyễn Hữu Sơn, Vấn đề con người cá nhân tron văn học cổ nhìn từ góc độ

văn học lý thuyết, Tạp chí Văn học số 3/1993, trang 7, 11

175. Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, Tác phẩm mới, Hà Nội 1983.

176. Trần Đình sử, Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1987, tập 2.

177. Trần Đình Sử, Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Vụ giáo viên, Hà Nội

1993.

178. Bùi Duy Tân, Vấn đề loại trong văn học Việt Nam thời cổ, Tạp chí Văn học số

3/ 1976, tr 70 - 80.

179. Bùi Duy Tân, Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học

Việt Nam thời trung đại: tiếp nhận - cách tân - sáng tạo, T/c văn học, Số 1/1992, tr. 9 - 12.

180, Bùi Duy Tân (chủ biên), Tổng tập văn học Việt Nam, Tập VII, Nxb KHXH,

Hà Nội 1997.

203

181. Lỗ Tấn, Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Lƣơng Duy Tâm dịch, Lƣơng

Duy Thứ hiệu đính, Nxb Văn hóa, Hà Nội 1996.

182. Nguyễn Đình Thi, Công việc của người viết tiểu thuyết, Nxb Văn học Hà Nội

1964.

183. Tung Thiên, Tiểu thuyết hiện đại, Thời mới, Sài gòn 1963.

184. Thiền uyển tập anh, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch và giới thiệu, Nxb

văn học, Hà Nội 1990.

185. Đinh Gia Thuyết, Ngọn Cờ Vàng, Nhà in thực nghiệp Hà Nội 1934.

186. Lương Duy Thứ, Để hiểu 8 bộ tiểu thuyết Trung Quốc, Nxb KHXH Mũi Cà

Mau 1990.

187. Hoàng Tiến, Nguyễn Huy tưởng với đề tài Hà Nội, tạo chí văn họ số 6/1984.

188. Timôfêéf. L.I, Nguyên lý lý luận văn học, Tập II, nhiều ngƣời dịch, Nxb văn

hóa - Viện văn học Hà Nội 1962.

189. Hoàng Trinh, Văn học so sánh và vấn đề tiếp nhận văn học 1931, Tạp chí văn

học, Số 4/1980, trang 88 - 93.

190. Ngô Tất Tố, Lịch sử đề thám, Hà Nội 1935.

191. Ngô Tất Tố , Vua Hàm Nghi và việc kinh thành thất thủ, Hà Nội 1935.

192. Ngô Tất Tố, Gia đình tổng chấn tả quân Lê Văn Duyệt, Hà Nội 1937.

193. Trần Thị Trâm, Tố Tâm và vị trí của tác phẩm trong quá trình phát triển của

tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Luận án P.T.S Khoa học ngữ văn Hà Nội 1996.

204

194. Ngô Văn Triệu, Hùng Vương diễn nghĩa, Nhà in France Asiatique, Hà Nội

1930

195. Nguyễn Văn Trung, Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết. Nam Sơn, Sài gòn 1965.

196. Nguyễn Văn Trung, Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên, Trƣờng

ĐHSP.TP. HỒ CHÍ MINH 1987.

197.Lê Thị Dục Tú, Miêu tả nội tâm trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Tạp chí

văn học, số 8/1994.

198. Nguyễn Dân Tử, Giọt máu trung tình,Nxb tổng hợp Tiền Giang 1989.

199. Nguyễn Dân Tử, Gia Long tẩu quốc, Nxb tổng hợp Tiền Giang 1989.

100. Nguyễn Huy Tưởng, Sát thát, Tri Tân 1941

101. Nguyễn Huy Tưởng, Đêm hội Long Trì, Tri Tân 1942

102. Nguyễn Huy Tưởng, Tuyển tập, Nxb Văn học Hà Nội 1984

103. Kiệt sử thông giám cương mục, tập 18, Nxb sử học, Hà Nội 1960

104.Lý Tế Xuyên, Việt diệt u linh, Trịnh Đình Rƣ dịch, Đinh Gia Khánh Hiệu đính

và giới thiệu, Nxb Văn học , Hà Nội 1972.

TÀI LIỆU TIẾNG PHÁP:

Nguyễn Khắc Việt, Áper cu sur la littérature Vietnamienne, Nxb Văn học Hà Nội

205

PHỤ LỤC

DANH MỤC TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM

(xếp thứ tự A, B, C, theo tên tác giả)

TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945

Tên tác phẩm STT Tên tác giả

1 Trung Quang Tâm Sử Phan Bội Châu

2 Tĩnh Đỗ Vƣơng Phan Trần Chúc

3 Vua Hàm Nghi Phan Trần Chúc

4 Vua Quang Trung Phan Trần Chúc

5 Bánh xe Khứ Quốc Phan Trần Chúc

6 Giọt Máu Sau Cùng Phan Trần Chúc

7 Thế Kỷ 18 bằng quận công Phan Trần Chúc

8 Tiêu sơn tráng sĩ Khái Hƣng

9 Ai lên Phố Cát Lan Khai

10 Ái tình vì sự nghiệp Lan Khai

11 Chiếc ngai vàng Lan Khai

12 Cái hột mận Lan Khai

13 Việt Nam Lý Thƣờng Kiệt Phạm Minh Kiên

14 Lê Triều Lý Thị Phạm Minh Kiên

15 Tiền Lê vận mạt Phạm Minh Kiên

16 Việt nam Lý Trung Hƣng Phạm Minh Kiên

17 Loạn kiêu binh Nguyễn Triệu Luật

18 Hòm dựng ngƣời Nguyễn Triệu Luật

19 Bà Chúa Chè Nguyễn Triệu Luật

20 Chúa Trịnh Khải Nguyễn Triệu Luật

21 Ngô Vƣơng Quyền Trần Thanh Mai

206

22 Phan Đình Phùng Đào Trinh Nhất

23 Vua Bố Cái Nguyễn Tử Siêu

24 Hai Bà đánh giặc Nguyễn Tử Siêu

25 Vua bà Triệu Ẩu Nguyễn Tử Siêu

26 Đinh Tiên Hoàng Nguyễn Tử Siêu

27 Lê Đại Hành Nguyễn Tử Siêu

28 Mai Hắc Đế Nguyễn Tử Siêu

29 Lý Nam Đế Nguyễn Tử Siêu

30 Tiếng sấm đêm đông Nguyễn Tử Siêu

31 Trần Nguyên Chiến Công Nguyễn Tử Siêu

32 Việt Thanh Chiến Sử Nguyễn Tử Siêu

33 Lê Thái Tổ Chu Thiên

34 Bà Quận Mỹ Chu Thiên

35 Ngọn cờ lau Đinh Gia Thuyết

36 Ngọn cờ vàng Đinh Gia Thuyết

37 Vua Hàm Nghi với việc Kinh thành thất thủ Ngô Tất Tố

38 Lịch sử Đề Thám Ngô Tất Tố

39 Gia Định tổng trấn tả quân Lê Văn Duyệt Ngô Tất Tố

40 Hùng vƣơng diễn nghĩa Ngpp Văn Triện

41 Hoàng tử Cảnh di tây Tân Dân Tử

42 Giọt máu trung tình Tân Dân Tử

432 Gia Long tẩu quốc Tân Dân Tử

44 Gia Long phục quốc Tân Dân Tử

45 Đêm hội Lông Trì Nguyễn Huy Tƣởng

46 An Tƣ Nguyễn Huy Tƣởng

47 Cầu vồng Yên Thế Trần Trung Viên

207