BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN MAI PHƯƠNG TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGÔN

TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN MAI PHƯƠNG TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGÔN

TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam

Mã số: 92 22 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. HOÀNG TRỌNG CANH

NGHỆ AN - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì

công trình nào khác.

Tác giả luận án

Nguyễn Mai Phương

MỤC LỤC

Trang

BẢNG CHÚ THÍCH VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

BẢN ĐỒ ĐIỀU TRA TTTTT CUỐI PHÁT NGÔN Ở NAM BỘ

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu ............................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 2

4. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu ...................................................................... 3

5. Đóng góp của luận án .......................................................................................... 4

6. Cấu trúc của luận án ............................................................................................ 4

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT

CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................................................. 5

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu tình thái và TTTT cuối phát ngôn ................... 5

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước .............................................................. 5

1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ............................................................. 10

1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài ................................................................................ 21

1.2.1. Khái niệm “tiểu từ tình thái” và “tiểu từ tình thái cuối phát ngôn” .......... 21

1.2.2. Lý thuyết hoạt động giao tiếp ................................................................. 24

1.2.3. Hành động ngôn ngữ .............................................................................. 27

1.2.4. Phương ngữ Nam Bộ và vấn đề phân tích tiểu từ tình thái cuối phát

ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ .................................................. 36

1.3. Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 42

Chương 2. NHẬN DIỆN TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGÔN VÀ

NGỮ NGHĨA CỦA CHÚNG TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ ..... 44

2.1. Nhận diện TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ ............... 44

2.1.1. Nhận diện tiểu từ tình thái trong phát ngôn về mặt chức năng ................. 44

2.1.2. Nhận diện tiểu từ tình thái về phương diện từ loại ................................... 47

2.1.3. Tiêu chí cụ thể nhận diện TTTT và danh sách TTTT cuối phát ngôn ....... 49

2.2. Ngữ nghĩa của tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người

Nam Bộ ................................................................................................................. 56

2.2.1. Các TTTT đơn được dùng trong giao tiếp của người Nam Bộ .................... 56

2.2.2. Ngữ nghĩa của tổ hợp TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người

Nam Bộ .................................................................................................. 72

2.3. Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 81

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG CÁC TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT

NGÔN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ XÉT THEO HÀNH ĐỘNG

NGÔN NGỮ ............................................................................................................. 82

3.1. Mô tả chức năng ngữ nghĩa các nhóm TTTT .................................................. 82

3.1.1. Phân loại các nhóm TTTT theo phạm trù HĐNT ..................................... 82

3.1.2. Phân loại các nhóm TTTT theo từng tiểu phạm trù HĐNT ...................... 84

3.2. Mô tả các TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ theo

tiêu chí lịch sự ..................................................................................................... 101

3.2.1. Nguyên lí lịch sự ................................................................................... 101

3.2.2. Mô tả cụ thể .......................................................................................... 104

3.3. So sánh nghĩa của các TTTT trong nhóm theo từng HĐNT .............................. 108

3.3.1. Các cặp TTTT trong cùng nhóm xuất hiện trong các HĐNT khác nhau .. 108

3.3.2. Các TTTT trong nhóm xuất hiện trong cùng một HĐNT ....................... 108

3.4. Hiện tượng từ hô gọi đi kèm TTTT............................................................... 111

3.4.1. Từ hô gọi và hiện tượng từ hô gọi đi kèm TTTT ................................... 111

3.4.2. Vai trò của từ hô gọi xuất hiện trước và sau TTTT cuối phát ngôn

trong giao tiếp của người Nam Bộ ........................................................ 112

3.5. Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 115

Chương 4. ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT

NGÔN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ XÉT THEO PHÂN

TẦNG XÃ HỘI VỀ GIỚI TÍNH .......................................................................... 117

4.1. Giới thuyết về vấn đề giới tính và ngôn ngữ ................................................. 117

4.2. Những khác biệt về tần số sử dụng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp

giữa nam và nữ ở Nam Bộ ................................................................................... 119

4.2.1. Sự khác biệt giữa nam và nữ về tần số sử dụng TTTT đơn .................... 119

4.2.2. Sự khác biệt giữa nam và nữ về tần số sử dụng TTTT kết hợp .............. 123

4.3. Sự khác biệt giữa nam và nữ về sử dụng TTTT xét theo tính lịch sự ............. 130

4.4. Sự khác biệt giữa nam và nữ về sử dụng TTTT gắn với một số nhóm hành

động ngôn trung tiêu biểu .................................................................................... 132

4.5. So sánh việc sử dụng TTTT cuối phát ngôn gắn với THG giữa nam và nữ ... 136

4.5.1. Nữ sử dụng THG đi kèm TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của

người Nam Bộ nhiều hơn nam .............................................................. 136

4.5.2. Sự khác nhau giữa nam và nữ trong việc dùng THG kèm trước và sau

TTTT .................................................................................................... 140

4.6. Tiểu kết chương 4 ............................................................................................ 144

KẾT LUẬN ........................................................................................................... 145

CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ

TÀI LUẬN ÁN ...................................................................................................... 149

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 150

BẢNG CHÚ THÍCH VIẾT TẮT

Kí hiệu viết tắt Nội dung viết tắt

HĐ : Hành động

HĐNT : Hành động ngôn trung

NB : Nam Bộ

PNNB : Phương ngữ Nam Bộ

THG : Từ hô gọi

TT : Tiểu từ

TTTT : Tiểu từ tình thái

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Danh sách 40 TTTT cuối câu từ nghiên cứu của 10 tác giả ..................... 51 Bảng 2.2. Danh sách TTTT trong tiếng Việt toàn dân ............................................. 54

Bảng 2.3. Danh sách TTTT đơn toàn dân được dùng ở Nam Bộ ............................. 57

Bảng 2.4. Tỉ lệ tần số sử dụng TTTT “ạ”, “nhé”, “đây”, “chứ”, “hả”, “vậy” ........... 59

Bảng 2.5. Các TTTT biến âm của từ toàn dân ......................................................... 65

Bảng 2.6. Tần số và tỉ lệ % các tổ hợp TTTT toàn dân cuối phát ngôn .................... 75 Bảng 2.7. Tần số và tỉ lệ % các TTTT kết hợp phương ngữ cuối phát ngôn ............ 76

Bảng 3.1. TTTT xuất hiện theo nhóm HĐNT .......................................................... 82

Bảng 3.2. Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ điều khiển .................................... 89

Bảng 3.3. Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ biểu cảm ...................................... 95 Bảng 3.4. Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ tuyên bố ....................................... 97 Bảng 3.5. Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ trình bày ...................................... 99

Bảng 3.6. Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ cam kết ...................................... 101

Bảng 3.7. Bảng số lần và tỉ lệ THG đi kèm TTTT cuối phát ngôn trong một số

HĐNT ................................................................................................... 112

Bảng 3.8. Bảng từ hô gọi xuất hiện trước và sau TTTT cuối phát ngôn ................. 113

Bảng 4.1. Bảng tổng hợp so sánh tần số và tỉ lệ dùng TTTT đơn giữa nam và nữ ..... 120

Bảng 4.2. Tần số sử dụng TTTT kết hợp cuối phát ngôn giữa nam và nữ .............. 124

Bảng 4.3. Tần số sử dụng TTTT kết hợp trong giao tiếp giữa nam và nữ .............. 124

Bảng 4.4. Những khác biệt giữa nam và nữ về sử dụng TTTT gắn với tính lịch sự ... 130

Bảng 4.5. TTTT thực hiện các hành động ngôn trong giao tiếp của nam và nữ ..... 132

Bảng 4.6. Số lượng, tỉ lệ % TTTT thực hiện các HĐNT của nam và nữ trong

giao tiếp ở trường học ........................................................................... 135

Bảng 4.7. Bảng so sánh nam và nữ sử dụng THG kèm TTTT cuối phát ngôn

trong giao tiếp của người Nam Bộ ........................................................ 138

Bảng 4.8. So sánh tần số và tỉ lệ dùng THG kèm trước và sau TTTT giữa nam

và nữ ..................................................................................................... 141

BẢN ĐỒ ĐIỀU TRA TTTTT CUỐI PHÁT NGÔN Ở NAM BỘ

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Tiếng Việt có hệ thống tiểu từ tình thái (TTTT) đa dạng phong phú. Ngoài

những TTTT toàn dân, trong mỗi vùng phương ngữ còn có những TTTT địa phương.

Các TTTT địa phương được dùng trong giao tiếp, qua các ngữ cảnh sử dụng không

những thể hiện các ý nghĩa tình thái đa dạng, tinh tế mà còn mang sắc thái phương

ngữ. Cho nên, tìm hiểu ý nghĩa tình thái tiếng Việt, ngoài nghiên cứu TTTT toàn dân

còn cần tìm hiểu ý nghĩa TTTT phương ngữ; điều này cần thiết không chỉ về ngôn ngữ

mà còn cả mặt văn hóa, xã hội. Nghiên cứu tình thái trong phương ngữ là góp phần

vào việc làm cho bức tranh tình thái của tiếng Việt ngày càng đầy đủ hơn trong sự đa

dạng, phong phú của tiếng Việt.

1.2. Là yếu tố mang chức năng ngữ nghĩa và chức năng dụng học nên khi được

dùng trong giao tiếp, TTTT là một trong các nhân tố thể hiện thói quen vùng miền, ý

thức xã hội về giới, địa vị, tuổi tác, bối cảnh (gia đình hay xã hội),…của người giao tiếp.

Các TTTT cuối phát ngôn là một trong những phương tiện quan trọng để thực tại hóa

câu, biến nội dung mệnh đề dưới dạng nguyên liệu, tiềm năng trở thành một phát ngôn

trong tình huống giao tiếp nhất định. Vì vậy, tìm hiểu số lượng TTTT cuối phát ngôn và

ý nghĩa của chúng trong giao tiếp của người Việt nói chung và người Nam Bộ (NB) nói

riêng là một việc làm cần thiết để bổ sung cho lí thuyết về từ loại trong đó có các TTTT.

Các TTTT cuối phát ngôn trong phương ngữ Nam Bộ (PNNB) gắn với hành động giao

tiếp đã tạo ra sắc thái ngữ nghĩa riêng, mang đậm dấu ấn của địa phương.

1.3. Việc tìm hiểu ngữ nghĩa chức năng của TTTT giúp ta hiểu thêm một lớp từ

vốn tồn tại trong PNNB từ trước đến nay chưa được đi sâu nghiên cứu một cách đầy

đủ giúp hiểu rõ hơn đặc điểm văn hóa độc đáo của người dân phương Nam - vùng đất

tuy non trẻ nhưng ẩn chứa nhiều nét văn hóa đặc sắc, riêng biệt mà các nhà khoa học

đã quan tâm nghiên cứu nhưng chưa phải đã được giải mã đầy đủ một cách căn bản, hệ

thống. Nghiên cứu các TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB không

những cho thấy đặc điểm ngữ nghĩa và cách dùng lớp từ này ở NB mà còn góp phần

làm rõ hơn đặc trưng văn hóa độc đáo của người dân phương Nam - vùng sông nước.

Trên đây là những lí do luận án đi sâu vào tìm hiểu đề tài “TTTT cuối phát

ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ”

2

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

Đối tượng nghiên cứu là các TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người

Việt NB, gồm:

- Các TTTT toàn dân được người NB dùng;

- Các TTTT phương ngữ Nam Bộ.

Phạm vi nghiên cứu:

Nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn mà người NB dùng trong giao tiếp về các

phương diện:

- Đặc điểm ngữ nghĩa, cách dùng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của

người NB, xét theo hành động ngôn ngữ;

- Đặc điểm sử dụng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NBộ xét

theo phân tầng xã hội về giới tính.

Ngữ liệu dùng để nghiên cứu của đề tài là các phát ngôn có chứa các TTTT

đứng cuối của người Việt NB được thu thập trực tiếp từ các cuộc hội thoại của người

dân tại TP. Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, huyện Trần Đề -

Sóc Trăng, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau.

Trên tư liệu 8531 phiếu điều tra điền dã ghi âm, làm phiếu khảo sát trên google

fom chúng tôi đã tách các phát ngôn có TTTT đứng cuối câu để phân tích, mô tả,…

các phát ngôn có TTTT mà chúng tôi khảo sát được thu thập theo giới, nhóm tuổi khác

nhau trong xã hội.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài của luận án hướng đến hai mục đích chính sau:

Làm rõ chức năng ngữ nghĩa của TTTT theo hành động ngôn trung và đặc điểm

sử dụng của TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB theo phân tầng xã hội

về giới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Để thực hiện đề tài này, luận án đặt ra những nhiệm vụ sau:

1). Điền dã khảo sát, thu thập thống kê số lượng, phân loại TTTT đối với những

phát ngôn có các TTTT đứng cuối qua các cuộc giao tiếp trực tiếp và một phần từ văn

bản văn chương, từ điển, google fom;

2). Nhìn lại một cách tổng quan tình hình nghiên cứu TTTT nói chung và trong

PNNB nói riêng; xác định các cơ sở lí thuyết của đề tài;

3

3). Tìm hiểu ý nghĩa khái quát của các TTTT tiếng NB trên cơ sở so sánh đối

chiếu với những TTTT toàn dân để rút ra điểm chung cũng như nét riêng biệt của

TTTT cuối phát ngôn của người NB;

4). Mô tả và phân tích các TTTT tiếng NB trên hai phương diện: ngữ nghĩa -

chức năng gắn với hành động ngôn ngữ trong giao tiếp và đặc điểm sử dụng TTTT

cuối phát ngôn theo phân tầng xã hội về giới của người NB.

4. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phối hợp các phương pháp, thủ pháp nghiên cứu sau:

4.1. Phương pháp nghiên cứu

a. Phương pháp điều tra điền dã

Chúng tôi ghi âm, quay video trực tiếp các cuộc thoại trong sinh hoạt hàng ngày

của các đối tượng và làm fom chia sẻ qua google drive, câu trả lời sẽ được gửi phản

hồi qua mail, qua zalo hoặc facebook, được phân biệt theo các điểm sau:

1). Hoàn cảnh phát ngôn: phát ngôn công khai và trực tiếp;

2). Nội dung phát ngôn: liên quan đến công việc thường ngày trong đời sống

lao động, sinh hoạt của cộng đồng, những suy nghĩ, tình cảm của các thành viên trong

cuộc sống gia đình, bạn bè, đồng nghiệp với nhau;

3). Độ tuổi: thanh niên, trung niên, cao niên;

4). Nghề nghiệp: những người lao động chân tay (công nhân, nông dân), viên

chức, sinh viên, các nhà doanh nghiệp….;

5). Mối quan hệ: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, làng xóm;

6). Giới tính: nam, nữ.

Chúng tôi ghi chép, gỡ băng ghi âm, chuyển thành văn bản, phân loại ghi lại

các cuộc thoại có xuất hiện TTTT.

b. Phương pháp miêu tả

Luận án dùng phương pháp này để miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của

TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB.

c. Phương pháp phân tích diễn ngôn

Phương pháp này được dùng để phân tích các tham thoại gắn với các nhân tố

hội thoại cụ thể, như nhân vật giao tiếp (tuổi tác, giới, nghề, quan hệ), không gian, thời

gian trong từng ngữ cảnh giao tiếp để xác định chính xác, sát thực nghĩa tình thái theo

loại phát ngôn và hành động ngôn ngữ.

4

4.2. Thủ pháp nghiên cứu a. Thủ pháp thống kê phân loại

Chúng tôi quan sát, phân loại số lượng lớn ngữ cảnh có các TTTT để thống kê

phân loại các TTTT và các hành động lời nói có sự xuất hiện của các TTTT trong lời

thoại của người NB.

b. Thủ pháp phân tích, tổng hợp

Trên cơ sở thống kê phân loại, so sánh đối chiếu, chúng tôi tiến hành phân tích

và tổng hợp ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa khái quát của các TTTT, ý nghĩa của chúng

trong các nhóm hành động lời nói, những đặc trưng giới tính thể hiện qua việc sử dụng TTTT cuối phát ngôn của người NB.

c. Thủ pháp so sánh

Với kết quả miêu tả, phân tích, chúng tôi tiến hành so sánh TTTT Nam Bộ với

TTTT toàn dân và phương ngữ khác; so sánh các TTTT tiếng địa phương có âm gần

nhau, so sánh sự xuất hiện của các TTTT trong tham thoại giữa nam giới và nữ giới.

5. Đóng góp của luận án Luận án có những đóng góp sau:

Đây là luận án đi sâu nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn được người NB dùng

trong giao tiếp diễn ra trong đời sống hằng ngày ở NB; luận án tìm hiểu sâu một cách

hệ thống, phân tích chỉ ra đặc điểm ngữ nghĩa và sử dụng của lớp TTTT này trong các

dạng phát ngôn gắn với hành động ngôn ngữ và vai giao tiếp;

Đưa ra số lượng TTTT được dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB,

trong đó có hệ thống TTTT phương ngữ Nam Bộ, chỉ ra những nét khác biệt giữa nam

và nữ trong việc sử dụng TTTT cuối phát ngôn.

6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm bốn chương

như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài Chương 2: Nhận diện tiểu từ tình thái cuối phát ngôn và ngữ nghĩa của chúng

trong giao tiếp của người Nam Bộ

Chương 3: Đặc điểm sử dụng các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn xét theo hành

động ngôn ngữ

Chương 4: Đặc điểm sử dụng các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn xét theo phân

tầng xã hội về giới tính

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu tình thái và TTTT cuối phát ngôn

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

1.1.1.1. Về tình thái

Charles Bally (1932), nhà ngôn ngữ học hàng đầu của Pháp, khi bàn về nghĩa

của câu, đã đưa ra hai thuật ngữ dictum (điều được nói ra - là thành phần cốt lõi của

câu) và modus (phương thức nói - bày tỏ thái độ của người nói đối với điều được nói

ra) để nói về hai thành phần cơ bản trong nội dung ngữ nghĩa của loại đơn vị này và

phân tích mặt logic của câu. Charles Bally cho rằng, câu là hình thức đơn giản nhất

có thể có của việc thông báo ý nghĩ. Và ý nghĩ là phản ánh biểu tượng cùng với việc

xác nhận sự có mặt của nó là thuộc về sự phán đoán, sự đánh giá nó là thuộc về cảm

tính, sự mong muốn (không mong muốn) thuộc về ý chí. Với quan niệm như vậy,

ông lưu ý: không nên quy ý nghĩ về các biểu tượng một cách đơn giản, kiểu biểu

tượng loại trừ mọi sự tham gia tích cực từ phía chủ thể suy nghĩ. Từ đó ông phát biểu

một cách cụ thể: câu hiển ngôn được làm thành từ hai bộ phận. Một bộ phận tương

liên quan với quá trình tạo ra biểu tượng gọi là dictum. Bộ phận thứ hai chứa phần

chủ yếu của câu, không có phần này thì nói chung không thể có câu được, đó chính

là phần diễn đạt tính tình thái, một thao tác tương liên quan được tạo ra bởi chủ thể

có tư duy, gọi là modus. Charles Bally đi đến đánh giá khái quát vai trò của tình thái:

“Tình thái như linh hồn của câu; cũng như ý nghĩ, nó được tạo thành chủ yếu do kết

quả của một thao tác tích cực của chủ thể nói. Cho nên, không thể đem lại cái giá trị

“câu” cho một phát ngôn, nếu trong nó không phát hiện được một chút nào cách diễn

đạt tính tình thái” (dẫn theo [131, tr.27]).

Charles Bally đã rất đúng khi cho tình thái là linh hồn của phát ngôn; nếu không

có tình thái thì nội dung phản ảnh hiện thực của câu chỉ là những mảnh hiện thực vô

hồn như vật liệu rời rạc, khô cứng. Tình thái là phần vô cùng quan trọng không thể

thiếu được của câu, không có tình thái thì không có câu, chỉ có biểu tượng về sự việc.

Tình thái phải được diễn đạt bằng một phương tiện, ngôn ngữ nào đó có thể nhận biết

được (ít nhất là trật tự từ trong câu). Modus được làm thành từ động từ tình thái với

chủ thể tình thái. Tình thái của câu là sự đánh giá của người nói về sự việc được phản

ánh, hai thành phần nội dung này gắn chặt với nhau.

6

Mặc dù đánh giá tình thái là thành phần ý nghĩa quan trọng của phát ngôn

nhưng nhiều nhà nghiên cứu cũng chỉ ra tính phức tạp của phạm trù tình thái.

Benveniste (1966) cho rằng, tình thái “là một phạm trù rộng lớn, khó có thể phạm trù hóa được..., nó gắn với những chờ đợi, mong muốn, đánh giá, thái độ của người nói đối với nội dung phát ngôn, với người đối thoại, với những kiểu mục đích phát ngôn: hỏi, cầu khiến, trần thuật v.v. và có thể được thể hiện bằng những phương tiện đủ loại: thức của động từ, quán ngữ v.v.” (dẫn theo [43, tr.17,18]).

Tán đồng với quan niệm về tình thái của Ch. Bally, Oswld Ducrot (1972) đã khái quát một cách ngắn gọn về hai thành phần ý nghĩa trong phát ngôn: “Các nhà logic và các nhà ngôn ngữ luôn luôn cho là cần thiết phải phân biệt trong một hành động phát ngôn, một nội dung thuộc về sự biểu hiện, đôi khi được gọi là dictum (đặt trong mối quan hệ của vị ngữ đối với chủ ngữ) và một thái độ của chủ thể nói đối với nội dung đó (đó là modus), hay là modalité - tính tình thái)”. Đồng thời tác giả cũng không quên nêu lên tính phức tạp trong việc nhận diện, phân định rạch ròi tình thái với nội dung có liên quan: “Trong nhiều trường hợp không có những tiêu chuẩn xác định để phân biệt những gì gắn với vị ngữ (và là cái nằm trong dictum), với những gì là cái thái độ có liên quan đến sự vị ngữ hóa (và vì thế mà thuộc về modus)” (dẫn theo [131, tr.28]).

Sau khi nêu một cách ngắn gọn quan niệm của mình về tình thái, J.Lyons (1977) định nghĩa: “Tình thái là thái độ của người nói đối với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị hay cái sự tình mà mệnh đề đó miêu tả” [207, tr. 425]. Tác giả còn phân tình thái làm hai loại (tình thái nhận thức và tình thái trách nhiệm) và phân biệt: “Tính thái nhận thức liên quan đến các vấn đề về sự hiểu biết và niềm tin, tình thái trách nhiệm, về phần mình, liên quan đến tính cần thiết và tính khả năng của các hành động được thực hiện bởi những tác thể có trách nhiệm về luận lí” [207, V.5 ; tr. 2516].

Cũng nhìn nghĩa tình thái từ góc nhìn chức năng, M.V.Liapol (1980) nhấn mạnh mối quan hệ phát ngôn với thực tế và thái độ đánh giá của người phát ngôn. Tác giả đã cho rằng: “Tình thái là phạm trù ngữ nghĩa - chức năng thể hiện các dạng quan hệ khác nhau của phát ngôn với thực tế cũng như các dạng đánh giá chủ quan khác nhau đối với điều được thông báo”(dẫn theo [53, tr.12-13]).

Đồng quan điểm với M.V.Liapol, nói đến tình thái, B.Gak (1986) cũng đề cập tới tới hai quan hệ, thái độ người nói đối nội dung được phản ánh và nội dung phát ngôn với thực tế và nhấn mạnh thêm tính chủ quan của chủ thể phát ngôn trong việc phản ánh thực tế thể hiện trong phát ngôn. Tác giả quan niệm: “Phạm trù tình thái phản ánh mối quan hệ của người nói đối với nội dung phát ngôn và nội dung phát ngôn

7

đối với thực tế. Tình thái biểu hiện nhân tố chủ quan của phát ngôn: đó là sự khúc xạ của một phân đoạn thực tế qua nhận thức của người nói” [192, tr.133].

F.R.Palmer (1986) cũng cho rằng tình thái là một phạm trù phức tạp, nên khi bàn đến khái niệm này, tác giả đã đưa ra nhiều đối lập để làm sáng tỏ nó. Trước hết ông phát biểu quan điểm của mình: “Khái niệm tình thái, tuy thế, vẫn chỉ là một khái niệm hết sức mơ hồ... tuy nhiên xét về đại thể thì (cách hiểu tình thái là) “quan điểm thái độ của người nói của Lyons (1977) [207, tr. 452] tỏ ra có nhiều hứa hẹn”. Ông cho rằng không phải bao giờ cũng có thể vạch được một sự phân biệt rõ ràng giữa thức và hệ thống tình thái. Theo sự phân loại của ông, hệ thống tình thái bao gồm tình thái mệnh đề và tình thái sự kiện; trong mỗi loại như vậy, Palmer lại phân ra hai loại tình thái chính. Cụ thể, tình thái mệnh đề bao gồm hai loại tình thái chính là tình thái nhận thức và tình thái hữu chứng; tương tự, tình thái sự kiện cũng được chia thành hai kiểu tình thái chính là tình thái đạo nghĩa và tình thái trạng huống.

Palmer đi đến định nghĩa: “Tình thái là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ hoặc ý kiến của người nói đối với điều được nói đến trong câu” [217, tr. 14]. Đứng trước tính phức tạp, không hề rõ ràng của phạm trù tình thái, F.Kiefer (1994) đã cố gắng phân tích chỉ ra cái thực chất, bản chất của tình thái cũng như những vấn đề quan trọng khác, khi nhìn rộng ra những mối liên quan. Nói về tình thái, tác giả nêu mặt “giá trị”có được của tình thái chính là mối quan hệ giữa nghĩa sự việc được nói đến trong câu và cái môi trường (thế giới thực tại cũng như không thực tại) mà câu đó được ứng dụng vào, chứ không quy nó về mặt “nghĩa” như cách hiểu thông thường. Ông cho rằng liên quan đến tình thái là có thể rất nhiều thứ, và ông gọi đó là “thế giới”. Các thế giới liên quan đến tình thái có thể là thế giới vật lí, hoặc thế giới nhận thức, hoặc thế giới các quan hệ trừu tượng. Tình thái chỉ là một phương diện trong sự tạo lập tương đối. Trong sự tạo lập tính tương đối còn có thể có các mặt khác nữa. Kiefer cũng lưu ý rằng, chỗ quan trọng là cần phân biệt tình thái trong câu với việc diễn đạt một trạng thái tinh thần của người nói; tình thái được tạo thành bởi một ngữ và động từ tình thái đứng trước một mệnh đề chỉ sự việc; còn câu diễn đạt cái trạng thái tinh thần cần được miêu tả của người nói thì đứng trước một danh từ hay một cụm danh từ (danh từ này có thể có một mệnh đề làm thành tố phụ). Tác giả cho rằng: “Thực chất của tình thái là sự thiết lập mối quan hệ về các giá trị của các ý nghĩa của câu với một tập hợp thế giới có thể có” [202, tr. V.5; tr. 2515].

Halliday (1994) là người xem tình thái không phải là một thành phần đơn lẻ mà là một hệ thống (Modality System). Hệ thống tình thái này bao gồm các thành tố được tác giả đặt trong mối quan hệ mang tính phân cực (poliraity). Tính phân cực đó được

8

làm thành do cực “dương tính” (positive) và cực “âm tính” (negative). Và ông cho rằng, tính phân cực tác động đến cả hai lĩnh vực, lĩnh vực thông tin và lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ, giữa hai cực đó là thang độ của các tình thái khác nhau. Theo tác giả: “Tình thái liên quan đến miền nghĩa nằm giữa hai cực có “yes” và không “no” - khu vực trung gian giữa cực khẳng định và cực phủ định” [199, tr.356].

Hệ thống tình thái theo quan niệm của của Halliday gồm có hai kiểu lớn là tình thái hóa (Modalization) và biến thái hóa (Modulation). Mỗi kiểu như vậy lại được ông chia thành hai kiểu nhỏ hơn, theo nội dung khái quát của chúng. Kiểu tình thái hóa gồm có tính khả năng (probality) và tính thường (usuality - hằng tính). Kiểu biến thái hóa gồm có sự bắt buộc (obligation) và sự mong muốn (inclination). Kiểu tình thái hóa được tác giả quan niệm là kiểu câu thực hiện chức năng “thông tin” (information), nó là một mệnh đề (proposition - trong cách phân biệt của chính tác giả), thuộc kiểu thức chỉ định (indicative). Kiểu biến thái hóa là kiểu câu thực hiện chức năng “hàng hóa và dịch vụ” (goods and service), nó là một đề nghị (proposal - phân biệt với mệnh đề), thuộc kiểu thức cầu khiến. Chúng ta có thể thấy rằng, so với quan niệm của nhiều nhà nghiên cứu khác thì kiểu tình thái hóa của Halliday tương tự với kiểu tình thái nhận thức, còn kiểu biến thái hóa thì tương tự với kiểu tình thái trách nhiệm mà nhiều tác giả đã nêu. Điều chú ý nữa là, khi xem xét tình thái, Halliday không chỉ quan tâm phương diện giá trị diễn đạt của yếu tố tình thái, mà còn đặt tính tình thái trong mối quan hệ với ngữ pháp của câu, có tính đến thức của động từ (hoặc thức của câu). Cho nên, kiểu tình thái hóa của ông được liên hệ với cách diễn đạt bằng thức chỉ định, kiểu biến thái hóa được liên hệ với các diễn đạt bằng thức mệnh lệnh của động từ hoặc của câu. Một điểm chốt quan trọng nữa trong nhìn hệ thống về tình thái của Halliday là ông cũng quy tình thái về hai loại là tình thái nhận thức và tình thái trách nhiệm, như quan niệm của nhiều tác giả khác. Ông đã cho rằng: “Trong ngữ nghĩa học xét theo triết học, tính khả năng đã được nhắc đến như là tình thái “nhận thức”, còn sự bắt buộc thì như là tình thái “trách nhiệm” [199, tr. 357].

Trong bài mở đầu tuyển tập Tình thái trong ngữ pháp và trong diễn ngôn (1995), sau khi dẫn ra một số lí do, John Bybee đã đưa ra đề nghị về tên gọi và các nội dung của ba kiểu tình thái mà ông đã đề cập từ năm 1985 là:

“Tình thái hướng tác thể bao gồm tất cả các kiểu nghĩa tình thái đặt các điều kiện trên cơ sở một tác thể liên quan đến việc hoàn tất một hành động được nêu ra bằng vị ngữ chính, chẳng hạn như sự bắt buộc, sự hài lòng, năng lực, sự được phép và tính khả năng, trách nhiệm... Tình thái nhận thức thì vẫn theo định nghĩa truyền thống của nó: các cách nhận thức là các chỉ tố có tầm câu nêu sự đoán chắc của người nói đối

9

với tính đúng của mệnh đề.... Các yếu tố đánh dấu các câu điều khiển, như là câu mệnh lệnh, câu mong mỏi hoặc được phép, những câu giới thiệu các hành động nói mà thông qua chúng một người nói cố gắng điều khiển một người nghe hành động, được gọi là tình thái hướng người nói” [187, tr. 4].

Tình thái hướng tác thể, theo cách gọi thường dùng đó là tình thái trách nhiệm, tình

thái hướng người nói, cách gọi quen thuộc ở Việt Nam là tình thái của hành động nói.

Cùng trong cuốn sách trên, Jennifer Coates có bài “Cách diễn đạt tính khả năng của tình thái cội nguồn và tình thái nhận thức” (“The expression of Root àn Epistemic Possiblity in English”). Ông đã phân biệt tình thái cội nguồn và tình thái nhận thức:

“Tình thái nhận thức liên quan đến các tiền ước hoặc cách đánh giá của người nói về các tính khả năng, và trong đại đa số trường hợp, nó chỉ ra niềm tin hoặc sự thiếu vắng niềm tin của người nói vào tính đúng của mệnh đề được diễn đạt. Tình thái cội nguồn bao gồm các thứ ý nghĩa như là sự được phép và sự bắt buộc, và có cả tính khả năng, tính tất yếu” [187, tr.55].

Như vậy, tuy hướng tiếp cận, quan niệm, phạm vi nghiên cứu tình thái rộng hẹp khác nhau nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu nước ngoài đều cho rằng, tình thái là thành phần nghĩa thể hiện thái độ của người nói đối với hiện thực được phản ánh, hoặc với đối tượng giao tiếp. Tình thái là một phạm trù phức tạp, luôn gắn với thức; có nhiều kiểu loại khác nhau và giữa chúng không có ranh giới rõ ràng. 1.1.1.2. Về tiểu từ tình thái và tiểu từ tình thái cuối phát ngôn Có nhiều tác tác giả nước ngoài đã nghiên cứu TTTT. Ngoài việc bàn về tình thái trong ngôn ngữ nói chung, khi viết về ngữ pháp tiếng Việt (bằng tiếng Nga), các tác giả I. I. Glebova, V.M. Solntsev, Yu. Lekomtsev, Bystrov,... đã có đề cập đến TTTT. Họ phân loại TTTT theo tiêu chí ngữ nghĩa như: TT có tính chất nghi vấn, TT nhấn mạnh, TT chỉ ra sự đối lập. Nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu chuyên sâu về tình thái cũng như những phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt.

Theo Vinogradov, “Thuật ngữ tiểu tố, cũng như những thuật ngữ ngữ pháp khác đã được ngữ pháp Nga mượn lại của các nhà ngữ pháp cổ điển, được dùng theo hai nghĩa, nghĩa chung và nghĩa riêng”. “Tiểu tố của lời nói” trong đó có cả liên từ và giới từ, khác với các từ loại khác. Đó là nghĩa chung. Theo nghĩa này, khái niệm tiểu tố bao gồm toàn bộ các loại được gọi là trợ từ, hình thức từ..., nghĩa là những từ thường không có một nghĩa độc lập, không có nghĩa “thực”, nghĩa vật chất mà chủ yếu là đóng góp những sắc thái bổ sung vào nghĩa của các từ ngữ khác, hoặc giả được dùng để biểu đạt những mối quan hệ ngữ pháp, logic, hay biểu cảm khác nhau” (dẫn theo Walter Ardnt 1995 [185,324]).

10

Còn theo D.Hartmann, ở cuối thể kỷ XX có ba cách hiểu TT: “Theo nghĩa

rộng, TT là “các yếu tố không thể biến đổi được theo nguyên tắc hình thái học”; theo

nghĩa hẹp: “Các yếu tố bất biến không phải là giới từ, liên từ, hoặc phụ từ... nói cách

khác, đó là các TTTT (modal particles), và TT nhấn mạnh (focus particles); theo thực

tiễn phân loại: một tiểu nhóm nằm trong khối các yếu tố bất biến như phụ từ, liên từ, và giới từ” [200, 2953 -2958].

Theo Kiefer: Việc nghiên cứu về TTTT kể từ những năm đầu của thập kỉ 90 tập

trung vào những vấn đề sau: Ngữ pháp và ngữ nghĩa của TTTT: “Cụ thể là đi tìm câu trả

lời thỏa đáng cho những câu hỏi đại loại như: Thái độ cú pháp của TTTT liên quan tới cấu trúc cú pháp nói chung của ngôn ngữ như thế nào? Liệu có thể xác định một ý nghĩa thực

sự cho mỗi TTTT hay không? Nếu có thể xác lập một ý nghĩa đích thực cho mỗi TTTT,

làm sao có thể giải thích việc quan sát được hàng loạt những ý nghĩa khác? Tìm kiếm một

đặc điểm loại hình học cho TTTT liệu có phải là một nhiệm vụ khả thi không?” [202,

2525].

Về TTTT cuối câu, cũng theo Kiefer: tác giả đã chỉ ra, khác các TTTT khác,

TTTT cuối câu là yếu tố không tham gia vào cấu trúc câu nên có ý nghĩa tình thái hóa

câu chứ không phải là tình thái hóa cho bộ phận nào đó trong câu. Tác giả viết: "The

main synatic problem with modal particles, however, is connected with the fact that

these particles can not be easily intergrated into sentence structure. They are certainly

not constituents and they do not enter into any modifier-head relation. And they are

not conjuctions either. Perhaps they can best described as "sentence operator" which

map sentences into modalized sentences." (Kiefer 1992) [202, 2519] (“TTTT cuối câu

không có quan hệ chính phụ với bất cứ từ nào trong câu, là một “tác tử câu” không

tham gia vào cấu trúc ngữ đoạn, xét về ý nghĩa thì tình thái hóa cả câu chứ không tình

thái hóa ngữ đoạn đi trước nó”).

Như vậy, vị trí, chức năng, vai trò của TTTT cuối câu trong quan hệ với cấu

trúc câu ít nhiều cũng đã được các nhà nghiên cứu nước ngoài bàn đến, trong đó vấn đề TTTT trong tiếng Việt đã được một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ ở Nga nói tới nhưng chưa được nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

1.1.2.1. Về tình thái

Ở Việt Nam, tuy tình thái chỉ mới bắt đầu được đề cập đến từ những năm 60

của thế kỷ XX, nhưng cho tới nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trực tiếp

đến vấn đề này ở bình diện lí thuyết cũng như những nghiên cứu trường hợp cụ thể.

11

Cũng như các công trình ở nước ngoài, ở Việt Nam, thời kì đầu nghiên cứu tình

thái chịu ảnh hưởng của logic học; nằm trong xu hướng chung đó, ngữ pháp truyền

thống tiếng Việt cũng có những bất cập trong nghiên cứu tình thái.

Cao Xuân Hạo (1991) cho rằng: “Trong logic học, nội dung của một mệnh đề

được chia làm hai phần. Phần thứ nhất gọi là ngôn liệu (lexis hay dictum), tức các tập hợp

gồm sở thuyết (vị ngữ logic) và các tham tố của nó được xét như một mối liên hệ tiềm

năng, và phần thứ hai gọi là phần tình thái (modalité) là cách thức thực hiện mối liên hệ

ấy, cho biết mối lên hệ là có thật (hiện thực) hay là không có (phủ định nó, coi là phi hiện

thực), là tất yếu hay không tất yếu, là có thể hay không có thể có được” [61, tr. 50].

Trong Việt ngữ học, thời kì đầu, tình thái chưa được nghiên cứu hiệu quả một

phần là do chịu ảnh hưởng của ngữ pháp cấu trúc - ngữ pháp truyền thống. Cao Xuân

Hạo phát biểu: “Ngữ pháp truyền thống, với sự thiên vị cố hữu đối với hình thức diễn

đạt, rất ít khi miêu tả các phương tiện tình thái một cách có hệ thống... nhiều khi,

những từ biểu đạt tình thái được liệt vào loại hư từ, nghĩa là những từ công cụ không

có nghĩa từ vựng mặc dầu nghĩa của các từ tình thái, nếu không muốn dùng các từ này,

phải được diễn tả bằng cả một câu hay một tiểu cú gồm nhiều thực từ” [61, tr. 52].

Theo hướng nghiên cứu chức năng - nghĩa, tình thái trong tiếng Việt càng ngày

càng được nghiên cứu rộng rãi và chuyên sâu. Đã có nhiều công trình của nhiều tác giả

công bố về tình thái trong tiếng Việt; công trình Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại (2003)

của Phạm Hùng Việt là một trong số đó. Trong cuốn sách này, như một tổng kết, ở

chương I, tác giả đã trình bày kỹ lưỡng phần lí thuyết về tính tình thái và đã tổng hợp,

đánh giá, phân những nghiên cứu tình thái hiện nay thành ba hướng: 1) Hướng thu hẹp

khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học, tổ chức nó bởi ba kiểu phán đoán tình thái:

khả năng hiện thực, cần yếu - là những kiểu ở lô gic hình thức; 2) Mở rộng quá mức

khái niệm tình thái thành một phạm trù tổng hợp đa chiều; 3) Cho tình thái là toàn bộ

quan hệ của nội dung của câu nói đối với thực tế [175, tr. 30].

Cùng với Phạm Hùng Việt, Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp (2003) là một trong

các tác giả có nhiều công trình nghiên cứu về tình thái trong tiếng Việt nhất, hai tác giả

cũng đã khái quát các quan điểm nghiên cứu về tình thái trong ba kết luận cơ bản. Ở

đây, chúng tôi xin được rút gọn nhận xét, ý kiến của hai tác giả như sau: “a/. Không

nên quy các kiểu quan hệ tình thái trong ngôn ngữ tự nhiên vào một số phạm trù logic

của tình thái cổ điển”. “b/ Cũng không nên quy tình thái vào những kiểu phương tiện

chỉ nằm trong cơ cấu hình thái cú pháp (chẳng hạn thức)”. “c/. Đặt trong sự đối lập nền

tảng, giữa tình thái và nội dung mệnh đề, bản thân thuật ngữ này chưa đủ xác định, và

12

do đó, có nhiều cách hiểu rộng hẹp khác nhau” [43, tr. 25-26]. Hai tác giả này đã hiểu

khái niệm tình thái theo nghĩa rộng. Tình thái thể hiện mối quan hệ giữa người nói, nội

dung miêu tả trong phát ngôn và thực tế. Một phạm trù những hiện tượng ngữ nghĩa -

chức năng rộng lớn, đa dạng và phức tạp mà đặc trưng chung nhất của chúng là phản

ánh những mối quan hệ khác nhau của một nội dung thông tin miêu tả trong phát ngôn

với thực tế, cũng như những quan điểm thái độ đánh giá và định tính khác nhau của

người nói đối với nội dung miêu tả trong câu, xét trong mối quan hệ với người nghe,

với hoàn cảnh giao tiếp.

Về khái niệm tình thái, trong các công trình nghiên cứu của mình, hầu hết các

tác giả đều dựa theo quan niệm mang tính chung, phổ biến của các nhà nghiên cứu

nước ngoài, nhưng có sự diễn giải thêm để phù hợp hơn với tiếng Việt. Chẳng hạn, Từ

điển giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ học (1996) cho rằng: “Tính tình thái là phạm trù

ngữ pháp - ngữ nghĩa biểu thị quan hệ của người nói đối với phát ngôn, và quan hệ của

nội dung phát ngôn với hiện thực khách quan. Tính tình thái là một phổ niệm ngôn

ngữ, nó thuộc phạm trù cơ bản của các ngôn ngữ tự nhiên. Nội dung của phát ngôn có

thể hiểu như hiện thực, mong muốn hoặc không mong muốn, có thể hoặc không có

thể, tất yếu hoặc ngẫu nhiên... Tính tình thái được biểu hiện bằng các phương tiện ngữ

pháp và từ vựng (hình thái “thức”, từ tình thái, tiểu từ, ngữ điệu). Tính tình thái có thể

chia ra tình thái khách quan và tình thái chủ quan” [178, tr. 297].

Đi kèm với việc nêu lên quan niệm về nghĩa tình thái, các nhà nghiên cứu cũng

thường đồng thời chỉ ra tính đa dạng về phương tiện biểu thị tình thái. Nguyễn Văn

Hiệp đã khái quát: “Có thể nói các phương tiện biểu thị tình thái trong ngôn ngữ tự

nhiên rất đa dạng có thể chia làm hai nhóm lớn là các phương tiện ngữ pháp và các

phương tiện từ vựng” [67, tr.128]. Tác giả đưa ra một danh sách cụ thể gồm 12 nhóm

chính bao quát được các phương tiện từ vựng biểu thị tình thái trong tiếng Việt thường

gặp (Chúng tôi dẫn không đầy đủ, xin lược bớt ví dụ):

“1. Các phó từ làm thành phần phụ của ngữ vị từ: đã, sẽ, đang, từng, vừa,…

2. Các vị từ tình thái tính làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ: toan, định, cố,…

3. Các vị từ chỉ thái độ mệnh đề trong cấu trúc chỉ thái độ mệnh đề: tôi e rằng,

tôi sợ rằng, tôi nghĩ rằng…

4. Các quán ngữ tình thái: ai bảo, nói gì thì nói, ngó bộ, thảo nào,…

5. Các vị từ ngôn hành trong kiểu câu ngôn hành (…) như: ra lệnh, van, xin,

đề nghị,…

6. Các thán từ: ôi, eo ôi, chao ôi, ồ…

13

7. Các tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp đặc ngữ (idiom) tương đương: à, ư,

nhỉ, nhé, thôi, chứ, đi, mất, thật, cũng nên, lại còn, thì chết,…

8. Các vị từ đánh giá và tổ hợp có tính đánh giá: may (là), may một cái (là),…

9. Các trợ từ: đến, những, mỗi, nào, ngay, cả, chính, đích thị, đã, mới, chỉ,…

10. (…..) Những đại từ nghi vấn được dùng trong những câu phủ định – bác bỏ

(p làm gì ?, p thế nào được ?), các liên từ dùng trong câu hỏi (Hay p ?, Hay là p?).

11. Các từ ngữ chêm xen biểu thị tình thái: nó biết cóc gì, mua cha nó

cho rồi,…

12. Kiểu câu điều kiện, giả định: nếu…thì, giá…thì, cứ thì,..”[67, tr. 140-141].

Về chức năng nghĩa của từ tình thái (tình thái từ), hầu như các tác giả đều gặp

nhau về quan niệm và nhận thức chung. Các tác giả sách Từ điển giải thích thuật ngữ

ngôn ngữ học (1996) cho rằng, từ tình thái “đã mất ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ

pháp cụ thể, có chức năng như một công cụ biểu thị tình thái” [178, tr.395]. Đinh Văn

Đức cũng nhìn nhận về nghĩa tình thái như vậy nhưng nói rõ hơn vai trò nghĩa chức

năng dụng học của chúng. Ông cho rằng, tình thái từ “Đó là một tập hợp rất nhỏ về

mặt số lượng từ, nhưng tập hợp ấy lại có một đặc trưng riêng về bản chất ngữ pháp.

Tình thái từ không có ý nghĩa từ vựng và cũng không có ý nghĩa ngữ pháp. Ý nghĩa

của các từ tình thái diễn đạt mối quan hệ giữa người nói với thực tại, nhờ đó góp phần

làm hình thành mục đích phát ngôn” [44, tr.43].

Cũng nói về tình thái, Đỗ Thị Kim Liên (2005) đã đặt thành phần nghĩa tình

thái trong quan hệ với nghĩa mệnh đề và nhấn mạnh tính đa dạng trong biểu hiện của

tình thái không tách rời người nói và tình huống giao tiếp cụ thể. Theo tác giả, “Cần

chỉ rõ nghĩa trong phần nội dung mệnh đề (nghĩa miêu tả) và nghĩa tình thái biểu hiện

trong phát ngôn gắn với lời nói của người nói trong tình huống giao tiếp cụ thể. Nghĩa

tình thái trong lời nói cá nhân hết sức đa dạng và tinh tế, mà nhiệm vụ của người nghe,

người tiếp nhận phát ngôn cần phải nắm bắt những biểu hiện tinh tế đó” [92, tr. 281].

Từ đó, tác giả đã định nghĩa tình thái trong mối quan hệ của người nói với hiện thực

được thông báo: “Tình thái là một bộ phận trong cấu trúc nội dung ngữ nghĩa của phát

ngôn (bên cạnh nghĩa miêu tả) biểu thị cảm xúc, thái độ, sự đánh giá của người nói đối

với hiện thực được thông báo” [92, tr.285].

Như vậy, qua ý kiến của các tác giả, có thể thấy tình thái là một phạm trù phức tạp, có lịch sử nghiên cứu lâu dài và sâu rộng. Tình thái liên quan đến nhiều nhân tố, được biểu hiện trên nhiều phương tiện. Vì vậy, việc các nhà nghiên cứu gặp nhau

trong quan niệm, có được một cách nhìn nhận thống nhất, đơn giản và khái quát về

14

tình thái là vô cùng khó khăn. Đúng như nhận định của F.Palmer (1986): “Việc các

học giả khác nhau đề cập đến tình thái từ và tình thái tính theo rất nhiều cách khác

nhau là một biểu hiện rõ ràng về sự phức tạp của những vấn đề liên quan và về cái khó

của việc đạt tới bất cứ một sự phân tích nào vừa hoàn hảo vừa hoàn toàn đơn giản mà

lại vừa mang tính thuyết phục” [217, tr. 24].

Qua phần điểm lại khuynh hướng, quan niệm, kết quả nghiên cứu tình thái như

trên, chúng ta thấy rằng mặc dù có nhiều cách quan niệm và định nghĩa khác nhau về

tính thái, nhưng nhìn chung ý kiến của các tác giả đều xoay quanh đặc trưng cơ bản

của tình thái, xem tình thái là một phạm trù của những hiện tượng ngữ nghĩa - chức năng rộng lớn, đa dạng và phức tạp mà đặc trưng chung nhất của chúng là phản ánh

những mối quan hệ khác nhau của một nội dung thông tin miêu tả trong phát ngôn với

thực tế, cũng như những quan điểm, thái độ đánh giá và định tính khác nhau của người

nói đối với nội dung miêu tả trong câu, xét trong mối quan hệ với người nghe, với

hoàn cảnh giao tiếp. Tình thái được biểu hiện trên nhiều phương tiện ngữ pháp và

phương tiện từ vựng, chúng khác nhau về tính chất cấu tạo,`vị trí, chức năng nghĩa tình

thái trong câu. Có thể thấy, vấn đề nghĩa tình thái cũng như đặc điểm chức năng sử

dụng của chúng còn rất cần được nghiên cứu bổ sung và điều chỉnh, cụ thể hơn.

1.1.2.2. Về tiểu từ tình thái và tiểu từ tình thái cuối phát ngôn

Các TTTT còn được gọi là tiểu từ diễn ngôn (discourse particles). Khảo sát các

tài liệu viết về ngữ pháp tiếng Việt theo dòng thời gian từ năm 1952 đến nay, chúng tôi

nhận thấy TTTT được nghiên cứu theo những hướng khác nhau và được gọi tên không

hoàn toàn giống nhau giữa các nhà nghiên cứu Việt ngữ học.

Trước hết, về tên gọi, những đơn vị mà hiện nay được nhiều người gọi là TTTT

thì trước đến nay trong nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả, chúng được gọi

tên khác nhau. Sỡ dĩ có trình trạng đó, vấn đề không chỉ đơn giản là cách đặt tên gọi

mà trước hết do quan niệm. Như ta đã biết, tình thái là một phạm trù rất rộng, được

biểu hiện trên nhiều phương tiện ngôn ngữ. Cũng vậy, đối với TTTT đã được hiểu vận dụng với mức độ rộng hẹp khác nhau. Có tác giả tách TTTT thành nhóm riêng nhưng có tác giả nhập chung với tiểu loại từ khác. Vì thế, tiểu loại này được các tác giả gọi rất khác nhau. Bùi Đức Tịnh (1952) gọi TTTT là ngữ khí thán từ; Trương Văn Chình – Nguyễn Hiến Lê (1963) gọi là trợ từ; các tác giả sách Ngữ pháp tiếng Việt (1983, Uỷ ban Khoa học và Xã hội), Đỗ Hữu Châu (1993), Nguyễn Hữu Quỳnh (1996), Nguyễn Thiện Giáp (1998), Nguyễn Tài Cẩn (1999), Lê Biên (1996), Hoàng Phê (2003), Phạm Hùng Việt (2003), Đặng Thanh Hòa (2004),…gọi là trợ từ.

15

Các tác giả: Lê Cận - Phan Thiều (1983), Đinh Văn Đức (1986), Mai Ngọc Chừ

- Vũ Đức Nghiệu - Hoàng Trọng Phiến (1997), Diệp Quang Ban - Hoàng Văn Thung

(1998), Đỗ Thị Kim Liên (1999) gọi loại từ này là tình thái từ. TTTT được Lê Văn Lý

(1968) gọi là phụ từ cảm thán; Cao Xuân Hạo (1991), Trần Thị Ngọc Lang (1995),

Hoàng Trọng Phiến (2003) thì gọi là ngữ khí từ; Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Hữu Quỳnh (1981) gọi là từ đệm; còn Hồ Lê (1993) lại gọi là hậu trợ từ. Các tác giả sách

“Từ điển phương ngữ Nam Bộ” (1994), (Nguyễn Văn Ái - chủ biên) và các tác giả

sách giáo khoa Ngữ Văn 8 (2004) (Nguyễn Khắc Phi - chủ biên) gọi lớp từ này là thán

từ, còn Diệp Quang Ban - Hồng Dân (2000) lại gọi là ngữ thái từ.

Không những có tên gọi khác nhau mà giữa các công trình của các tác giả cũng

có có cách xử lí và miêu tả TTTT ít nhiều khác nhau.

Lê Văn Lý (1868) gọi các từ “ạ, chứ, nhé, nhỉ…” là phụ từ. “Những phụ từ cảm

thán là những phụ từ được dùng để diễn tả một tình cảm, một cảm tưởng, như: vui,

buồn, tức, giận: ngạc nhiên, thỏa mãn, v.v… trong ngôn ngữ tình cảm.” [102, tr. 147].

Trương Văn Chình - Nguyễn Hiến Lê (1963), trong phần trợ từ, tác giả có nói

đến những từ “nhỉ, à, ạ, nhé, ư,…” và gọi chúng là “trợ từ hoặc là tiếng thêm vào lời

ứng đối, nghi ngờ, v.v.” [29, tr.181].

Nhóm các tác giả sau đây cùng xem lớp từ “nhỉ, à, ạ, nhé, ư,…” là trợ từ, dù

rằng ở mỗi tác giả có cách kiến giải riêng.

Nguyễn Tài Cẩn (1999) cho rằng lớp từ “à, ư, nhỉ, nhé,…” là trợ từ, có thể “đưa

tình thái lại cho đoản ngữ, biến đoản ngữ thành câu” [19, tr.333].

Sách Ngữ pháp tiếng Việt do Ủy ban Khoa học và Xã hội biên soạn (1983),

trong phần các từ loại của tiếng Việt, các tác giả cho rằng, lớp từ “nhỉ, ạ, à, hử,…” là

trợ từ. Các tác giả viết “trợ từ là từ biểu thị thái độ… là yếu tố gia thêm vào cho câu để

biểu thị sự ngạc nhiên, nghi ngờ, mỉa mai, vui mừng, lễ phép hay sự khẳng định đặc

biệt” [171, tr.72].

Nguyễn Hữu Quỳnh (1996) thì có cách kiến giải nghĩa ít nhiều khác, ông cho rằng lớp từ này (“chăng, hử, hà, à,…; nhỉ, ư,….; cơ, kia, nhé,…”) là trợ từ; là trợ từ cho câu biểu thị “thái độ hoài nghi; ngạc nhiên; nũng nịu,…” [136, tr.177 – 178].

Nguyễn Thiện Giáp (1998) đã chỉ ra vị trí cụ thể và khái quát nghĩa của chúng đối với câu. Ông cho lớp từ “à, ư, nhỉ, nhé,…” là “trợ từ đứng sau, biểu thị nhiều loại ý nghĩa tình thái” [19, tr.251].

Phạm Hùng Việt cũng gọi lớp từ mà nhiều người gọi là TTTT là trợ từ [176] như cách gọi của Phan Mạnh Hùng [73], Lê Biên [12] và nhiều tác giả khác. Tuy tác

16

giả cũng đồng tình chia lớp trợ từ thành hai nhóm là “trợ từ tình thái và trợ từ nhấn

mạnh” như cách chia của Phan Mạnh Hùng [73] và nhiều tác giả khác, song ông

không tán đồng với Phan Mạnh Hùng “dùng thuật ngữ tình thái để làm tên gọi cho

nhóm trợ từ thứ nhất” (trợ từ câu ) “trong sự đối lập với thuật ngữ nhấn mạnh để làm

tên gọi cho nhóm trợ từ thứ hai” (trợ từ nhấn mạnh), vì theo tác giả, “nhấn mạnh cũng cần được coi là một dạng cụ thể của tình thái” [176, 83].

Đinh Văn Đức (1986) cũng dùng thuật ngữ “trợ từ” nhưng phân biệt với “tiểu

từ” theo cách chia từ tình thái làm hai loại. Theo cách phân loại của Đinh Văn Đức,

“trợ từ” chính là loại mà Phan Mạnh Hùng [73] gọi là “trợ từ nhấn mạnh”, còn “tiểu từ” chính là “trợ từ tình thái” -“trợ từ câu”. Tác giả phân biệt rõ ràng về ý nghĩa và

chức năng của hai nhóm này. Trong khi “các trợ từ biểu đạt ý nghĩa tình thái với mục

đích nhấn mạnh, tăng cường (…), thì “các tiểu từ biểu đạt ý nghĩa tình thái trong mối

quan hệ với mục đích phát ngôn biểu thị cảm xúc của người nói”. [44, tr. 187 - 191].

Trong khi đó, các tác giả, Cao Xuân Hạo [61], Trần Thị Ngọc Lang [85] lại gọi

lớp từ “à, ư, nhỉ, nhé, hở, nghen, v.v,…” là ngữ khí từ.

Nguyễn Hữu Quỳnh (1981), trong phần “Từ loại và phân loại các từ loại” gọi

các từ: chăng, nhỉ, nào, cơ, thôi,… là từ đệm dùng để nhấn mạnh hoặc biểu thị thái độ

khác nhau của người nói, của lời nói,… [136, tr.74]. Tương tự, tác giả Nguyễn Kim

Thản (1996) cũng có cách gọi như trên [145, tr. 96].

Diệp Quang Ban - Hoàng Văn Thung (1998), Đỗ Thị Kim Liên (1999) gọi lớp từ

“ạ, ư, hả, hử, chứ, chăng,…; đi, nào, với,…; thay, sao,…; ạ, nhé, cơ, mà,…” là “tình

thái từ nghi vấn, cầu khiến, cảm thán, biểu thị sắc thái tình cảm”. [89, tr.69]. Diệp

Quang Ban, trong Ngữ pháp tiếng Việt (2005), tiếp tục phân nhỏ lớp TT thành nhiều

nhóm nhỏ, trong đó các từ mà nhiều người gọi là TTTT thì ông gọi là “ngữ thái từ”.

Theo tác giả “ngữ thái từ là những từ dùng để diễn đạt ý của người nói (như: hỏi, ra

lệnh) và thái độ của người nói đối với người nghe. Những ngữ thái từ thường gặp là

“à, thế, đấy, nhé, ư, há,…” [9, tr. 30].

Không chỉ nghiên cứu chung TTTT để chỉ ra các nghĩa và phân loại về mặt từ loại đối với lớp từ này trong hệ thống từ loại tiếng Việt, trong Việt ngữ học, TTTT tiếng Việt toàn dân cũng đã được một số công trình nghiên cứu tương đối chuyên sâu, trên bình diện chung, hệ thống. Ngoài luận án tiến sĩ của Phan Mạnh Hùng (1982) nghiên cứu “Tiểu từ tình thái trong tiếng Việt”, một số tác giả khác như Ngô Thị Minh (2001), Phạm Thị Ly (2003), …cũng đã nghiên cứu một số phương tiện biểu đạt tình thái tiếng Việt, trong đó có đề cập đến TTTT.

17

Vừa nghiên cứu bao quát về tình thái, vừa có những nghiên cứu sâu những

phương diện cụ thể của TTTT tiếng Việt là các nghiên cứu được công bố liên tục của

Nguyễn Văn Hiệp và Lê Đông. Năm 2001, Nguyễn Văn Hiệp đưa ra khung miêu tả

TTTT cuối câu tiếng Việt [64]. Năm 2003, Lê Đông - Nguyễn Văn Hiệp đã đi sâu

miêu tả bản chất ngữ nghĩa - ngữ dụng đích thực của lớp từ TTTT [43]. Đến năm 2005, Nguyễn Văn Hiệp [66] đã có những phân loại tiểu từ tình thái cụ thể, trong đó

có TTTT cuối phát ngôn. Kết quả nghiên cứu của các tác giả này đã trở thành một

trong những cơ sở để các nghiên cứu về sau của người khác tham khảo, vận dụng.

Một trong những kết quả nghiên cứu về TTTT tiếng Việt là việc phân loại TTTT. Có những cách phân loại cụ thể khác nhau, số đơn vị trong mỗi loại cũng

không giống nhau nhưng nhìn chung các tác giả thường dựa trên một trong hai cơ sở:

chức năng nghĩa đối với các loại phát ngôn hoặc vị trí của các từ trong phát ngôn. Lần

đầu tiên, 1949, TTTT tiếng Việt được Trần Trọng Kim [82] dựa vào mục đích giao

tiếp, phân chia một cách cụ thể thành 9 loại, với tổng 14 đơn vị: “1). Để hỏi: a, à, ư,

nhỉ, tá, hử; 2). Để dặn hay nhắc lại điều gì: nhé; 3). Để rủ làm việc gì: nào; 4). Để

cùng làm việc gì: hè; 5). Đề khoe cái gì mình có là nhiều, là tốt, là đẹp: kia; 6). Để tỏ ý

kính trọng khi đáp lại người trên nói: à; 7). Để tỏ ý hoài nghi: ru; 8). Để tỏ ý quyết

chắc: vay; 9). Để làm cho tròn câu: vậy.” Cách phân loại của Trần Trọng Kim và các

cộng sự là một đóng góp đối với nghiên cứu tình thái tiếng Việt, vì đây là lần đầu tiên

nhóm từ này được phân loại cụ thể chi tiết như vậy. Bây giờ nhìn lại, chúng ta có thể

thấy cách phân loại đó không hoàn toàn nhất quán, vì các tiểu loại 1, 2, 3 ,4, 9 chủ yếu

dựa vào chức năng tạo câu, còn các tiểu loại khác lại chủ yếu dựa vào chức năng ngữ

nghĩa, âu điểm chưa thỏa mãn đó cũng là do lịch sử nghiên cứu tiếng Việt, không thể

đặt chúng vào cùng kết quả nghiên cứu thời điểm hiện nay.

Về sau, 1963, Nguyễn Kim Thản [145] đã dựa vào tác dụng của TTTT (mà tác

giả gọi là ngữ khí từ) trong câu, phân nhóm TT này thành hai lọai là: “1) Những ngữ

khí từ phục vụ sự cấu tạo loại hình câu” (bao gồm 3 tiểu nhóm: “a). ngữ khí từ phục vụ việc cấu tạo câu nghi vấn: à, nhỉ, ư; b). ngữ khí từ phục vụ việc cấu tạo câu mệnh lệnh: đi, thôi, nào; c). ngữ khí từ phục vụ việc cấu tạo câu cảm thán: thay”. Thực ra, vai trò của các TT ở đây không hoàn toàn là để tạo câu mà là chức năng tham gia, thực tại hóa nghĩa của câu, như các nhà nghiên cứu thường nói. Theo hướng này, năm 2003, Phạm Hùng Việt, trong công trình Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại [176], xuất phát từ chức năng của trợ từ đối với câu, ông chia trợ từ thành hai nhóm: “nhóm thứ nhất (một số tác giả gọi là trợ từ tình thái) là trợ từ câu, nhóm thứ hai (nhóm được một số tác giả

18

gọi là trợ từ nhấn mạnh) là trợ từ bộ phận câu” [176, tr.83]. Dựa vào khả năng hoạt

động trong các kiểu câu, TTTTT (Phạm Hùng Việt gọi là trợ từ câu) gồm 64 đơn vị,

tác giả chia tiếp nhóm này thành 4 tiểu nhóm:

“Tiểu nhóm 1: Những trợ từ được sử dụng trong câu tường thuật, gồm các trợ

từ: à, ạ, ấy, chắc, chăng, cho, chứ, cơ, đâu, đây, đấy, đó, hết, khối, kia, là, mà, mất, nào, này, nhé, nhỉ, nữa, rồi, sao, sất, thế, thôi, vào, vậy,…Tiểu nhóm 2: Những trợ từ

được sử dụng trong câu nghi vấn: à, chắc, chăng, chứ, hả, kia, nhỉ, phỏng, ru, ta, thế,

ư, vậy…Tiểu nhóm 3: Những trợ từ được sử dụng trong câu cầu khiến: cho, đi, lên,

nào, này, vào, với…Tiểu nhóm 4: Những trợ từ được sử dụng trong câu cảm thán: mất, ru, ta, thay…”[176, tr. 85 - 86]. Có thể thấy cách phân loại này tương đối sát thực tế

tiếng Việt, và danh sách TTTT cũng đầy đủ, mang tính mở, bao gồm cả những từ nằm

ở vùng biên, như tác giả giải thích “vừa mang tính chất của một trợ từ lại vừa mang

tính chất của một từ loại khác như phụ từ, kết từ”[176, tr. 87].

Bên cạnh sự phân loại TTTT theo chức năng - nghĩa là sự phân loại theo vị trí của

chúng trong phát ngôn. Dựa vào đặc điểm thường xuất hiện của các TTTT trong phát

ngôn, Đinh Văn Đức đã chia TTTT (tác giả gọi là tiểu từ) tiếng Việt thành ba nhóm:

“a. Những tiểu từ có thiên hướng đứng đầu các phát ngôn, thường gặp là à, à

mà, thế, ấy thế, thế mà, ấy thế mà, đấy, ấy đấy, đấy nhé, này, này nhé, ái chà, ôi chao,

than ôi, hỡi ơi.

b. Những tiểu từ có thiên hướng đứng ở cuối các phát ngôn: ư, nhỉ, nhé, ấy, vậy,

hả, hử, đấy (ư, à, ạ), cơ, kia (cơ mà, cơ đấy)…

c. Những tiểu từ cả ở đầu cả ở cuối phát ngôn thường gặp là: ấy, đấy, đó, kia, à

vậy…” [44, tr. 191].

Có thể thấy, sự phân chia TTTT tiếng Việt như vậy là phản ánh sát thực thực tế

tiếng Việt và danh sách các đơn vị mà tác giả dẫn ra đều là những TTTT thường xuất

hiện ở các vị trí trong phát ngôn như tác giả nói.

Về nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn trong tiếng Việt, có thể nói, cho tới nay, công trình nghiên cứu về nhóm TTTT đứng cuối phát ngôn như là một đối tượng nghiên cứu độc lập chưa có nhiều.

Một trong những công bố sớm trong tiếng Việt về nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn là luận án phó tiến sĩ của Nguyễn Thị Lương (1996) [99]. Tác giả luận án đã dựa vào nguồn cứ liệu khảo sát trong tác phẩm văn học là các câu có TTTT kết thúc câu, phân tích chỉ ra nghĩa của các từ tình thái và vai trò của chúng đối với câu trong việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ. Do giới hạn của đề tài, chỉ khảo sát TTTT trong một

19

dạng câu cụ thể là câu hỏi, như tên gọi của luận án “Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để

hỏi với việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt” nên loại đơn vị này trong

các loại câu khác còn là mảng trống chưa được làm rõ. Cũng nghiên cứu về TTTT cuối

câu, năm 2001, Lê Thị Hoài Dương đã thực hiện luân văn cao học “Tiểu từ tình thái

cuối câu tiếng Việt với việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài” [39]. Luận văn đã miêu tả nghĩa các TTTT gắn với các kiểu câu với mục đích hướng đến việc dạy nhóm

tiểu từ cuối câu này trong tiếng Việt cho người nước ngoài nên tác giả chủ yếu miêu tả

ngữ nghĩa từng từ tình thái theo dạng từ điển.

Trong một số công trình là luận án tiến sĩ ngôn ngữ của các tác giả khác, như “Tiểu từ tình thái trong tiếng Việt”(1982) của Phan Mạnh Hùng [73], “Một số phương tiện biểu

thị tình thái trong câu ghép tiếng Việt” (2001) của Ngô Thị Minh [106], hay “Đối chiếu

một số phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt và tiếng Anh”(2003) của

Phạm Thị Ly [100],…do phạm vi nghiên cứu nên nhìn chung, nên trong các công trình

này, các TTTT cuối câu không được khảo sát đầy đủ trên các phương diện chức năng

nghĩa gắn với từng loại câu, với các hành động ngôn ngữ cụ thể hoặc chỉ được nhắc đến

như một phương tiện tình thái nằm trong các phương tiện được miêu tả.

Cùng với việc nghiên cứu TTTT toàn dân, TTTT cuối phát ngôn trong các

phương ngữ cũng được một số tác giả nghiên cứu. Năm 2008, với luận án tiến sĩ “Tiểu

từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh” của Hoàng Thúy Hà

[53], lần đầu tiên trong tiếng Việt, TTTT được khảo sát trong phạm vi một phương

ngữ. Tác giả đã nêu danh sách các TTTT toàn dân và địa phương được người Nghệ

Tĩnh dùng cuối phát ngôn cùng với những miêu tả nghĩa và cách dùng các TT phương

ngữ khá cụ thể, tỉ mỉ. Năm 2013, Lê Xinh Tươm khảo sát TTTT sử dụng cuối phát

ngôn của người Nam Bộ [170]. Tác giả luận văn đã miêu tả nghĩa của các TTTT được

dùng phổ biến nhất cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ. Do ít nhiều hạn

chế về ngữ liệu điều tra và quy mô, phạm vi nghiên cứu của một luận văn cao học nên

chức năng nghĩa của các TTTT gắn với các hành động ngôn ngữ cũng như đặc điểm sử dụng xét theo vai xã hội của chúng chưa được miêu tả làm rõ. Ngoài các công trình trên, một số luận văn cao học, bài viết khác cũng đã khảo sát TTTT cuối phát ngôn nhưng theo hướng nghiên cứu việc sử dụng loại đơn vị này trong một số tác phẩm của một nhà văn cụ thể, như luận văn “Tiểu từ tình thái cuối câu trong truyện ngắn Sơn Nam”(2017) của Huỳnh Ngọc Cẩm, bài báo “Vài nét về tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư” (2011) của Ngô Thúy Nga và Nguyễn Hoàng Linh [111].

20

Như vậy, tuy TTTT trong các phương ngữ, trong đó có phương ngữ NB bước

đầu đã được một số tác giả chú ý nhưng các công trình nghiên cứu về chúng còn ít.

TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB cũng chưa được nghiên cứu quy

mô, hệ thống, nghĩa chức năng cũng như đặc điểm sử dụng của chúng chưa được miêu

tả một cách cụ thể, toàn diện trên các phương diện khác nhau. Từ các tổng quan, dẫn dụ trên, có thể nói, việc nghiên cứu các TTTT của các

tác giả đi trước đã có những kết quả đáng kể, tuy vậy vẫn có một số vấn đề cần phải

tiếp tục xem xét:

Thứ nhất, như ta biết, việc xem xét nghĩa của từ không chỉ là trong hệ thống mà còn được đặt trong mối quan hệ của con người - chủ thể sử dụng, thái độ của người

nói, mục đích nói, hoàn cảnh nói năng. TTTT lại là loại tín hiệu rất đặc biệt, thường

được xem là mang tính “động”, hoạt động luôn gắn với các phát ngôn hiện thực hơn là

mang tính “tĩnh”, có thể tồn tại phân lập và dễ dàng miêu tả trong từ điển, nhưng việc

dựa vào ý nghĩa của phát ngôn cụ thể để xác định ý nghĩa của các TTTT được dùng

trong ngữ cảnh, đó là việc rất phức tạp song lại cần thiết, không những có thể phát

hiện ra tính đa sắc thái nghĩa tình thái của các yếu tố mà còn là cơ sở để khái quát hóa

ý nghĩa khái quát của các TTTT.

Thứ hai, mặc dù đã được các nhà nghiên cứu quan tâm từ rất sớm nhưng trong

một thời gian dài, các TTTT là phương tiện để thực tại hoá câu, bị đẩy về phía “lời

nói”, trong khi đó các sự kiện thuộc về “lời nói” thường bị xem nhẹ, không được coi là

đối tượng ưu tiên nghiên cứu của ngôn ngữ học. Vì vậy, cần có sự điều chỉnh trong

việc nghiên cứu lớp TTTT này gắn với các phát ngôn diễn ra trong thực tế giao tiếp

đời sống hơn nữa.

Thứ ba, nội dung thường được gán cho các TTTT này lại rất phức tạp, gồm

nhiều sắc thái nghĩa khác nhau: có nét nghĩa tiềm tàng trong bản thân TTTT, có nét

nghĩa hình thành do sự kết hợp của TTTT với cả cấu trúc, lại có nét nghĩa do cả tình

huống giao tiếp mang lại khi cả cấu trúc được sử dụng. Nói cách khác, ý nghĩa của các phát ngôn hiện thực, tức lực ngôn trung hay hiệu lực tại lời của chúng, ở các mức độ khác nhau, bao giờ cũng biến động theo ngữ cảnh. Vì vậy, nếu chỉ dựa vào ý nghĩa của phát ngôn cụ thể để xác định ý nghĩa của TTTT được dùng trong phát ngôn đó, xem đó là ý nghĩa khái quát của TTTT được dùng trong phát ngôn ấy thì chúng ta đã bỏ qua nhiều ý nghĩa tinh tế do TTTT thể hiện.

Cuối cùng, TTTT là loại từ thể hiện tập trung rõ nhất thái độ của người dùng đối với thực tại được phản ánh và với đối tượng giao tiếp. Mỗi vùng miền, do thói

21

quen sử dụng ngôn ngữ, quan hệ ứng xử trong gia đình và ngoài xã hội mang những

nét văn hóa riêng trong bức tranh đa dạng sắc màu ngôn ngữ - văn hóa của người Việt,

vì vậy dấu ấn đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa phương ngữ từng miền thể hiện ở lớp từ

TTTT cũng sẽ rõ nét. Do đó, việc nghiên cứu TTTT cần được mở rộng, đào sâu cả lớp

TTTT trong các phương ngữ.

Điểm lại ý kiến của những tác giả đi trước nghiên cứu vấn đề TTTT, chúng tôi

nhận thấy TTTT cuối phát ngôn trong tiếng Việt nói chung và TTTT cuối phát ngôn

trong giao tiếp của người Nam Bộ nói riêng cần tiếp tục được nghiên cứu để góp phần

làm phong phú thêm bức tranh TTTT cuối phát ngôn trong bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc của TTTT trong tiếng Việt.

1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài

1.2.1. Khái niệm “tiểu từ tình thái” và “tiểu từ tình thái cuối phát ngôn” 1.2.1.1. Khái niệm tiểu từ tình thái

“Tiểu từ” (partiles) thường được hiểu là “biệt loại của các hư từ, được hợp nhất

lại như một từ loại theo chức năng ngữ nghĩa - cú pháp chung, tạo cho câu hoặc từ có

sắc thái nghĩa hoặc cảm xúc phụ, biểu thị quan hệ của người nói để tách biệt hoặc minh

xác cho một thời điểm hoặc một mặt nào đó trong phát ngôn đó” [179, tr.292].

Nhấn mạnh nghĩa, TTTT được định nghĩa là “Từ dùng để diễn tả một tình cảm,

một cảm tưởng, như: vui, buồn, tức giận, ngạc nhiên, thỏa mãn,.. trong ngôn ngữ tình

cảm” [102, tr.147].

Vừa chú ý chức năng của TTTT trong cấu trúc câu, vừa chỉ ra nghĩa của nhóm

tiểu từ này, sách Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1993)

(gọi TTTT là trợ từ) đã định nghĩa: “Trợ từ là từ biểu thị thái độ. Nó không làm phần

đề, phần thuyết của nồng cốt, cũng không làm chính tố, phụ tố của ngữ. Nó là một yếu

tố thường được gia thêm vào cho câu để biểu thị sự ngạc nhiên, nghi ngờ, mỉa mai, vui

mừng, lễ phép, hay sự khẳng định đặc biệt” [171, tr.72].

So với các tiểu loại, từ loại khác, TTTT tiếng Việt có đặc điểm ngữ pháp, ngữ dụng riêng. “Khác với các từ loại khác, tiểu từ tình thái gắn chặt với việc biểu đạt mục đích phát ngôn, gắn với các kiểu phát ngôn - câu cho nên được sử dụng rất rộng rãi trong khẩu ngữ, có tần số xuất hiện cao trong phong cách nói. Ngay trong việc sử dụng, cũng có thể thấy là khả năng hoạt động của các tiểu từ rất biến báo, cơ động” [44, tr.191]. “Tiểu từ” (biểu thị tình thái của câu) được phân biệt với “trợ từ” (nhấn mạnh cho bộ phận câu): “Các tiểu từ được tách khỏi các trợ từ nhờ những đặc điểm về ngữ nghĩa và ngữ pháp trong khi cùng có chung ý nghĩa tình thái với trợ từ” [41, tr.1- tr.17].

22

Trong ngôn ngữ, TTTT được các nhà nghiên cứu xác định rõ vai trò chức năng của chúng về ngữ nghĩa và nghữ pháp đối với câu cũng như vai trò thể hiện tình cảm thái độ của người nói đối với nội dung phát ngôn, với người nghe và thực tại được phản ánh. Cụ thể:

“Về ngữ nghĩa, các tiểu từ, trong khi biểu đạt ý nghĩa tình thái, thiên về diễn đạt các cảm xúc của người nói trong mối quan hệ với thực tại, do đó tình thái ở đây gắn chặt với các dạng mục đích phát ngôn (tường thuật, nghi vấn, cảm thán, cầu khiến)” (…).

“Về mặt ngữ pháp các tiểu từ thường có vị trí ổn định, đối với cấu trúc câu, các tiểu từ thường đứng đầu câu, hoặc cuối câu, ít chịu ảnh hưởng của những biến đổi của trật tự từ và cấu trúc” (…).

“Các tiểu từ biểu đạt những mối quan hệ phức tạp giữa người nói với nội dung phát ngôn, với người nghe, với thực tại. Chính những quan hệ này đã làm thành nội dung hết sức quan trọng của tính tình thái – điều kiện tạo thành câu” [44, tr. 189- 190]. Về cấu tạo, các nghiên cứu về TTTT cũng chỉ ra loại TT này có hai loại, cấu tạo đơn - một yếu tố (như à, ư, nhỉ, nhé,..) và cấu tạo phức - nhiều yếu tố tình thái kết hợp tạo nên (như đi chứ, đi mà, đi đã,…).

TTTT trong tiếng Việt rất phong phú và có vị trí trong phát ngôn khác nhau. Theo vị trí của TTTT trong phát ngôn, có thể xác định TTTT có ba nhóm: “1). Những tiểu từ có thiên hướng đứng đầu các phát ngôn; 2). Những tiểu từ có thiên hướng đứng ở cuối các các phát ngôn; 3). Những tiểu từ cả ở đầu và cả ở cuối phát ngôn” ([44, tr.191]). Trong Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nguyễn Văn Hiệp đã chỉ ra phương tiện biểu thị tình thái trong tiếng Việt rất phong phú, có 12 kiểu trong đó kiểu thứ 7 là các tiểu từ thái cuối câu và tổ hợp đặc ngữ (idiom) tương đương: à, ư, nhỉ, nhé, thôi, chứ, đi, mất, thật, cũng nên, lại còn, thì chết,.. ([67, tr. 140 - 141]).

Như vậy, có thể hiểu TTTT là tiểu loại từ đặc biệt thuộc hư từ, được sử dụng để biểu đạt ý nghĩa tình thái trong mối quan hệ với mục đích phát ngôn, biểu thị cảm xúc của người nói đối với nội dung, người nghe và thực tại phản ánh trong phát ngôn; nó là yếu tố đi kèm để thực tại hóa nghĩa của câu nhưng không làm thành tố của nồng cốt cũng như thành phần của cụm từ trong câu, vì thế TTTT không /hoặc ít chịu ảnh hưởng của những biến đổi của trật tự từ và cấu trúc.

Phạm vi nghiên cứu của luận án là những TTTT khi chúng xuất hiện ở cuối

phát ngôn trong giao tiếp của người NB.

1.2.1.2. Khái niệm tiểu từ tình thái cuối phát ngôn Quá trình nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn của các nhà Việt ngữ học thể hiện qua các mốc thời gian như chúng tôi đã trình bày ở phần tổng quan (1.1) của đề tài.

23

Qua đó, các khía cạnh khác nhau liên quan đến TTTT cuối phát ngôn cũng đã được các nhà nghiên cứu chỉ ra như sau:

Như ở trên đã nói, phân loại TTTT theo vị trí trong phát ngôn, các nhà nghiên

cứu ngôn ngữ đã phân TTTT thành ba nhóm: nhóm TT có thiên hướng đứng ở đầu

phát ngôn, nhóm TT vừa có thể đứng ở đầu, vừa có thể đứng cuối phát ngôn và nhóm

các TTTT có thiên hướng đứng ở cuối phát ngôn. Các TTTT có thiên hướng đứng ở cuối phát ngôn là những đơn vị như: ư, nhỉ, nhé, ấy, vậy, hả, hử, đấy (ư, à, ạ), cơ, kia

(cơ mà, cơ đấy),…

TTTT cuối phát ngôn là “Từ biểu thị thái độ. Nó không làm phần đề, phần

thuyết của nồng cốt, cũng không làm chính tố, phụ tố của ngữ. Nó là một yếu tố thường được gia thêm vào cho câu để biểu thị sự ngạc nhiên, nghi ngờ, mỉa mai, vui

mừng, lễ phép, hay sự khẳng định đặc biệt”[171, tr.72].

“Ý nghĩa của các TTTT cuối câu diễn đạt mối quan hệ giữa người nói với thực

tại, nhờ đó góp phần làm hình thành mục tiêu phát ngôn” [44, tr.189].

“Là tiểu từ chuyên dùng để biểu thị ý nghĩa tình thái trong quan hệ của chủ thể

phát ngôn với người nghe hay với nột dung phản ánh, hoặc ý nghĩa tình thái gắn với

mục đích phát ngôn”(dẫn theo [9, tr.148].

Các TTTT cuối phát ngôn tiếng Việt là một trong những phương tiện quan

trọng để thực tại hoá câu (cùng với trật tự từ và ngữ điệu), biến nội dung mệnh đề dưới

dạng nguyên liệu, tiềm năng trở thành một phát ngôn có công dụng trong tình huống

giao tiếp nhất định, mang đến cho câu nói cái phẩm chất là công cụ giao tiếp, công cụ

tương tác xã hội. Đây là những thông tin có tác dụng làm chính xác hơn cấu trúc ngữ

nghĩa của câu và kiểu hành động lời nói mà câu nói thể hiện.

<2> Ba về nhé! <4> Ba về đi!

Thử quan sát một số phát ngôn sau: <1> Ba về. <3> Ba về à? <5> Ba đã về đâu.

Các phát ngôn vừa dẫn đều có chung một nội dung mệnh đề là Ba về, song mỗi

phát ngôn lại có một ý nghĩa tình thái riêng.

Phát ngôn <1> không có TTTT đứng cuối, đó là phát ngôn miêu tả. Phát ngôn <2> có từ nhé thể hiện tình thái thông báo, ý chào, tạm biệt với sắc

thái tình cảm thân mật.

Phát ngôn <3> có từ à thể hiện tình thái nghi vấn và sự quan tâm của người nói

đối với người nghe.

Ở phát ngôn <4> có từ tình thái đi thể hiện mệnh lệnh, giục giã.

24

Phát ngôn <5> có từ tình thái đâu nhằm phủ định đối với một nhận đinh đã

được đưa ra ở phát ngôn trước.

Trên đây là một số diễn giải về khái niệm về TTTT cuối phát ngôn. Nhìn vào các phát biểu của tác giả vừa dẫn, chúng ta có thể thấy TTTT là một lớp từ vựng phức tạp. Tùy theo cấu trúc, chức năng, ngữ nghĩa, ngữ dụng của phát ngôn mà TTTT có cách nhấn mạnh khác nhau. TTTT cuối phát ngôn là những hư từ nằm ở cuối phát ngôn nhằm thể hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ giữa người nói với người nghe hay đối với thực tại được phản ánh trong phát ngôn. Các TTTT cuối phát ngôn tiếng Việt là một trong những phương tiện quan trọng để thực tại hoá câu.

1.2.2. Lý thuyết hoạt động giao tiếp 1.2.2.1. Khái niệm giao tiếp Như đều biết, giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin. Hình thức trao đổi thông tin của con người diễn ra theo nhiều hình thức với phương tiện, hoàn cảnh khác nhau. Do vậy, “giao tiếp” cũng được định nghĩa, hiểu và vận dụng với mức độ rộng hẹp khác nhau. Hoạt động giao tiếp diễn ra rất đa dạng, trong đó, giao tiếp ngôn ngữ là hình thức giao tiếp cơ bản, thông dụng, thường xuyên, phổ biến, quan trọng nhất của xã hội loài người. Luận án này nghiên cứu việc sử dụng một phương tiện cụ thể của ngôn ngữ trong giao tiếp, nên chúng tôi dựa vào quan niệm chung của các nhà nghiên cứu về khái niệm giao tiếp ngôn ngữ để làm cơ sở khoa học cho việc thực hiện đề tài.

Theo Berge (1994): “Một cách đơn giản nhất và chung nhất, giao tiếp được hiểu là quá trình thông tin diễn ra giữa ít nhất hai người giao tiếp trao đổi với nhau, gắn với một số ngữ cảnh và một tình huống nhất định” (dẫn theo Diệp Quang Ban [10, tr.18]). Quan niệm trên được Diệp Quang Ban (2009) [10] dẫn và ông nhận xét: “Định nghĩa này sát với việc con người thực hiện các cuộc trao đổi bằng lời trong đời sống thường nhật, nên nó liên quan đến xã hội học và cũng tiện dụng trong nhà trường” [10, tr.18].

Theo Đỗ Hữu Châu, “Với cách hiểu bao quát nhất thì giao tiếp bằng ngôn ngữ là hoạt động diễn ra khi ít nhất có hai người sử dụng một ngôn ngữ tự nhiên để tác động lẫn nhau” [24, tr.96].

Đỗ Kim Liên định nghĩa: “Hoạt động giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ A đến B và theo chiều ngược lại trong một ngữ cảnh nhất định, nhằm một mục đích nhất định và bằng một phương tiện ngôn ngữ nhất định (gọi tắt là giao tiếp)” [92, tr.37].

Các quan niệm về giao tiếp của các tác giả dẫn trên tuy có cách diễn giải khác nhau, dùng thuật ngữ ít nhiều khác nhau nhưng đều có điểm chung cơ bản giống nhau. Giao tiếp ngôn ngữ là hoạt động trao đổi thông tin bằng phương tiện ngôn ngữ giữa các thành viên trong xã hội, diễn ra trong một ngữ cảnh nhất định, nhằm mục đích nhất định. Hoạt động giao tiếp bao gồm nhiều nhân tố.

25

1.2.2.2. Các nhân tố giao tiếp

Hoạt động giao tiếp có nhiều nhân tố. Theo Đỗ Hữu Châu, “các nhân tố giao

tiếp là ngữ cảnh, ngôn ngữ là diễn ngôn” [24, tr.96].

a). Khái niệm ngữ cảnh Hiện nay nội dung khái niệm thuật ngữ “ngữ cảnh” được các nhà nghiên cứu

ngôn ngữ dùng với nội dung, nội hàm rộng hẹp khác nhau. Theo Đỗ Hữu Châu, “Ngữ

cảnh là những nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp nhưng nằm ngoài diễn ngôn.

Ngữ cảnh là một tổng thể những hợp phần sau đây: (…) “nhân vật giao tiếp” và “hiện thực ngoài diễn ngôn”[23, tr. 15- 19].

Như vậy, nội dung khái niệm ngữ cảnh bao chứa hai khái niệm: “nhân vật giao

tiếp” và “hiện thực ngoài diễn ngôn”.

- Nhân vật giao tiếp thường được hiểu là “người tham gia giao tiếp”. Khi giao tiếp, ít nhất phải có hai người tham gia. Nói như Đỗ Hữu Châu, nhân vật giao tiếp là:

“Ai nói với ai? Ai nói và nói cho ai?” [24, tr.96].

- “Hiện thực ngoài diễn ngôn (ngoài ngôn ngữ)”, theo Đỗ Hữu Châu, bao gồm

nhiều hợp phần (chúng tôi xin tóm lược trích nội dung cốt lõi mà tác giả diễn giải):

1). “Hoàn cảnh giao tiếp” (…): là tổng thể các nhân tố “môi trường xã hội - văn

hóa - địa lí cho các cuộc giao tiếp”;

2). “Thoại trường hay hiện trường giao tiếp”: “Đó là không gian, thời gian của

cuộc giao tiếp”;

3). “Hiện thực được nói tới hay hiện thực đề tài” là nội dung giao tiếp “nói về

một hoặc những cái gì đó trong hoàn cảnh giao tiếp”;

4); “Ngữ huống”: “thời điểm cụ thể của cuộc giao tiếp” [24, tr. 106 -121].

Trong các khía cạnh biểu hiện của “ hiện thực ngoài diễn ngôn” theo cách dùng của

Đỗ Hữu Châu thì nội dung (1) “hoàn cảnh giao tiếp” và (2) “thoại trường hay hiện trường

giao tiếp” thường được nhiều người gọi chung là hoàn cảnh giao tiếp (rộng và hẹp).

b). Khái niệm “diễn ngôn”: Cũng theo Đỗ Hữu Châu: “Diễn ngôn là tổ chức, là

chuỗi do các đơn vị của ngôn ngữ kết hợp với nhau theo quy tắc kết học, vừa là sản phẩm, vừa là phương tiện của giao tiếp. Qua diễn ngôn mà người tham gia giao tiếp

tác động lẫn nhau” [24, tr.96]. Nhà ngôn ngữ học Bellert (1971) cũng viết:” Diễn ngôn là chuỗi liên tục những phát ngôn s1,…sn, trong đó việc lí giải nghĩa của mỗi phát ngôn (…) lệ thuộc vào sự lí giải những phát ngôn trong chuỗi (…). Nói cách khác, sự giải thuyết tương đương một phát ngôn tham gia diễn ngôn đòi hỏi phải biết ngữ cảnh đi

trước” (Dẫn theo Diệp Quang Ban [10, tr. 199].

26

Như vậy, có thể nói theo cách quen thuộc, đơn giản, diễn ngôn là ngôn ngữ, phương tiện được dùng khi giao tiếp ngôn ngữ. Nhưng khi nói diễn ngôn là nói tới ngôn ngữ sử dụng, trong quan hệ với ngữ cảnh, với mục đích sử dụng.

1.2.2.3. Khái niệm “phát ngôn” Phát ngôn là khái niệm được đề cập tới khi nói về giao tiếp ngôn ngữ. Như dẫn dụ [10] về định nghĩa của Bellert (1971) về giao tiếp vừa nêu ở trên: “Diễn ngôn là chuỗi liên tục những phát ngôn” trong giao tiếp, gắn với ngữ cảnh và mục đích phát ngôn.

Theo Đỗ Hữu Châu: “Phát ngôn là sản phẩm của sự phát ngôn (énonciation).

Nó là đơn vị thực sự của thông điệp, tức đơn vị của giao tiếp…”. [21, tr.12].

Trong ngôn ngữ học, khái niệm “phát ngôn” có liên quan mật thiết với khái niệm “câu”. “Câu” và “phát ngôn” là hai khái niệm có liên quan với nhau về nội dung, hiện nay chưa được phân biệt rõ ràng trong cách dùng của một số người. Theo Đỗ Thị Kim Liên, “Một lời của chúng ta nói ra ứng với một đơn vị câu được gọi là một phát ngôn” [92, tr. 74]. Nói cách khác, “Phát ngôn là đơn vị của lời nói. Nó được tách ra trong chuỗi lời nói dùng để giao tiếp hàng ngày hoặc tách từ dạng văn bản dùng để chỉ lời nói trực tiếp của các nhân vật hội thoại” [90, tr.82].

Nói chung, phát ngôn được xây dựng trên câu; không có câu thì không có phát ngôn. “Nếu xét trên cấp độ hệ thống cấu trúc thì câu là cái trừu tượng còn phát ngôn là cái cụ thể, câu là bất biến thể, phát ngôn là biến thể, các phát ngôn làm chức năng hiện thực hóa các mô hình cú pháp của câu, đồng thời là phương thức tồn tại của mô hình đó…” [128, tr.14].

Đỗ Hữu Châu cũng cho rằng: “Khái niệm phát ngôn không phủ định khái niệm câu. Nói chung phát ngôn được xây dựng trên câu. Không có câu thì không có phát ngôn. Tuy nhiên câu không trùng với phát ngôn. Một câu có thể ứng với một số phát ngôn” [21, tr.12].

Nếu đặt câu cụ thể vào ngữ cảnh, thì một câu có thể do nhiều người nói, nói trong những hoàn cảnh khác nhau, với những đích khác nhau trong những cuộc giao tiếp khác nhau thì thành những phát ngôn khác nhau. Cùng một câu đồng nhất về cú pháp, về nghĩa của các từ nhưng do bao nhiêu người nói nói ra, nói trong bao nhiêu ngữ cảnh thì ta có bấy nhiêu phát ngôn. Ví dụ: “Cái máy tính của tôi lại hỏng rồi.” Nếu câu đó nói trong ngữ cảnh hai bạn sinh viên đang làm bài tập cùng nhau thì nó là một phát ngôn (Có thể có những ý nghĩa: Đó là lí do tôi chưa gửi bài cho bạn, hay: bây giờ tôi đem máy đi sửa, hoặc: bạn cho tôi mượn máy tính của bạn đi,…), trong ngữ cảnh vợ nói với chồng, thì đó là một phát ngôn khác và nếu do sếp nói với nhân viên lại là một phát ngôn khác nữa….

27

Như vậy câu và phát ngôn có liên hệ, quan hệ với nhau. Với cách dùng thông

thường, trong những trường hợp cụ thể, một câu nào đó có thể gọi là phát ngôn và

ngược lại. Nhưng về mặt thuật ngữ và nội dung khái niệm, câu và phát ngôn có sự

phân biệt với nhau. Căn cứ theo quan niệm của các tác giả nêu trên, trong luận án này,

chúng tôi dùng khái niệm “phát ngôn” trong sự phân biệt với “câu” theo quan niệm ngôn ngữ bao gồm hai phương diện chủ yếu: phương diện hệ thống những đơn vị trừu

tượng khái quát như âm vị, hình vị, từ, câu và phương diện hoạt động thực hiện chức

năng hướng ngoại của hệ thống trong đó những quy tắc điều khiển hoạt động của ngôn

ngữ, những hành động của ngôn ngữ đặc trưng và những sản phẩm cụ thể do các hoạt động của ngôn ngữ tạo ra như phát ngôn, văn bản, diễn ngôn và các đơn vị của hội

thoại. Nói tới phát ngôn là nói tới những “câu” cụ thể trong giao tiếp, xuất hiện trong

một ngữ cảnh nhất định, gắn với người phát ngôn và có tính mục đích nhất định.

1.2.3. Hành động ngôn ngữ 1.2.3.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ

Cũng như mọi hệ thống xã hội khác, hệ thống ngôn ngữ được sinh ra để thực

hiện chức năng hướng ngoại - chức năng làm công cụ giao tiếp. Khi ngôn ngữ được sử

dụng để giao tiếp, tức là ngôn ngữ đang hành chức, hay ngôn ngữ hành chức khi con

người nói năng. Nói năng là một loại hành động (HĐ) tương tự như các HĐ vật lí khác.

Trong ngôn ngữ học, theo truyền thống, từ Jakobson, Benveniste đến Ducrot,

Todorov, Searle..., thuật ngữ “Hành động phát ngôn” thường được hiểu như là HĐ

của người nói, là sử dụng ngôn ngữ vào lúc mà anh ta nói, và kết quả sản sinh ra phát

ngôn. Các đặc tính cơ bản của HĐ phát ngôn mà người nói thể hiện được phản ánh vào

phát ngôn nhờ một bộ máy những công cụ, những chỉ dẫn thuộc phạm vi ngữ dụng,

những toán tử tình thái (trước hết đó là những phương tiện tình thái gắn với cáí tôi của

người nói, chỉ ra mục đích, ý đồ của anh ta, thái độ đánh giá của anh ta đối với những

điều anh ta nói ra, với người đối thoại, với không gian, thời gian giao tiếp v.v..). Do

đó, tất cả các ý nghĩa gắn với người nói vào lúc anh ta phát ngôn đều là thuộc HĐ phát ngôn, xác định đặc tính của HĐ phát ngôn. J. R Searle cho rằng: “sự tạo sinh ra cái sở chỉ của câu trong những điều kiện nhất định chính là hành động ngôn trung, và hành động ngôn trung là đơn vị nhỏ nhất của sự giao tiếp bằng ngôn ngữ” [140, tr. 89]. Đỗ Hữu Châu cũng phát biểu một cách rõ ràng: “Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động, chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ. Một hành động ngôn ngữ được thực hiện khi một người nói (hoặc viết Sp1 nói ra một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc) Sp2 trong ngữ cảnh C.” [23, tr. 88]. Từ

28

các định nghĩa của các tác giả nêu trên, luận án rút ra cách hiểu cụ thể về hành động

ngôn ngữ để làm cơ sở cho việc phân tích miêu tả các TTTT theo các phát ngôn chứa

các hành động ngôn ngữ khác nhau. Hành động ngôn ngữ là hành động con người sử

dụng ngôn ngữ để thực hiện một trong các mục đích: kể, hỏi, yêu cầu, đề nghị, nhận

xét, bày tỏ tình cảm, cảm xúc,…của mình trong một ngữ cảnh cụ thể.

1.2.3.2. Phân loại hành động ngôn ngữ

J. L. Austin là người đầu tiên xây dựng lý thuyết về HĐ lời nói, sau này được

J.R. Searle và một số tác giả khác kế thừa và phát triển. Ông đã chỉ ra: Nói năng tức là

một hành động. Theo Austin, HĐ nói gồm ba loại lớn:

HĐ tạo lời (locutionary act) là hành động vận động các cơ quan phát âm, sử

dụng các yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm, vốn từ, quy tắc kết hợp theo những quan

hệ cú pháp thích hợp để tạo thành những phát ngôn (đúng về hình thức và cấu trúc) rồi

tổ chức các phát ngôn thành diễn ngôn... Nhờ HĐ tạo lời, chúng ta hình thành nên

những biểu thức có nghĩa.

Hành động ở lời (cũng gọi hành động ngôn trung (HĐNT)), (illocutionary act)

là những HĐ người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng gây những

sự tác động trực tiếp, tác động trực tiếp ấy thuộc về ngôn ngữ, gây phản ứng với người

nghe. Sở dĩ ta gọi là HĐNT hay HĐ ở lời vì khi ta nói là đồng thời thực hiện luôn một

HĐ nói trong lời, được gọi là đích ngôn trung hay đích giao tiếp. Nhờ đích giao tiếp

mà các HĐNT được phân biệt với nhau.

HĐ mượn lời (perlocutionary act) là HĐ mượn phương tiện ngôn ngữ, hay nói

cách khác, là mượn các phát ngôn để tạo ra sự tác động hay hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào

đó đối với người nghe. Hiệu quả này không đồng nhất ở những người nghe khác nhau.

Ba HĐ này được thực hiện theo cách thống hợp khi tạo ra một diễn ngôn. Ngữ

dụng học chủ yếu nghiên cứu các HĐNT (ở lời). Do đó, nói các HĐ lời nói cũng là nói

đến HĐNT.

Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã chấp nhận lý thuyết HĐ lời nói của các nhà ngôn ngữ học phương Tây để nghiên cứu tiếng Việt, như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân, Lê Đông... Theo Hoàng Tuệ: “Hành động nói là hành động được thực hiện bằng cách nói ra một cái gì đấy, chẳng hạn như là một sự hứa hẹn, nêu một câu hỏi, đưa ra một tên gọi...” [166, tr.136].

Chẳng hạn, khi ra cần hỏi ai một việc gì, nhờ ai làm một việc gì, hứa làm một việc gì thì ta đều sử dụng lời nói, có nghĩa là ta đang thực hiện HĐ hỏi, HĐ sai khiến,

HĐ hứa tương ứng. Khi ta dùng lời nói, có nghĩa là ta đang thực hiện HĐ trình bày,

29

nhận xét, phủ định. Còn chẳng hạn khi gặp người quen biết ta nói “Chào cô!” hay

“Chào anh!” là ta thực hiện HĐ chào ngay trong lời nói đó. Khi nói lời “Cảm ơn”,

“Xin lỗi” là ta thực hiện HĐ cảm ơn, xin lỗi, v.v.

HĐ được thực hiện trong khi nói như vậy, được gọi là HĐ nói hay HĐ ngôn từ.

Nói năng là một dạng HĐ đặc biệt của con người - HĐ lời nói. Khác với các HĐ vật lí

của con người như vác gạo, cuốc đất, đẩy xe, đóng đinh, xây nhà, tưới cây... để thực

hiện một HĐ lời nói cần phải có ít nhất là hai người hoặc nhiều người, gọi là người nói và người nghe. Khi nói một nội dung gì như ý muốn, xác lập quan hệ cá nhân, tỏ thái

độ,... người nói phải hướng đến người nghe và sau đó đến lượt người nghe có phản ứng

hồi đáp, chúng tạo thành chuỗi diễn ngôn liên tục gồm các cặp thoại nói - nghe. Như

vậy, giao tiếp là một dạng HĐ xã hội của con người được thực hiện bằng ngôn ngữ.

HĐ nói mà con người thực hiện trong giao tiếp hàng ngày có số lượng rất

phong phú và hình thức biểu hiện rất đa dạng. Trong các hoạt động xã hội bằng ngôn

ngữ đó, người nói có thể sử dụng ngôn ngữ để: a). miêu tả lại một hiện tượng, ví dụ: Bầu trời hôm nay thoáng đãng, b); thuật lại một sự việc, như: Hôm nay tại quốc lộ 1A,

đoạn qua địa phận Long An, người dân đã giúp tài xế xe tải gom gần ba tấn cá rô bị

đổ xuống đường; c). bày tỏ một sự nghi vấn, ví dụ: Anh làm được cái này không?; d).

khẳng định, ví dụ: Chắc chắn nó sẽ đến; đ). đưa ra yêu cầu, ví dụ nói: Anh lên tòa nhà

A2 trước nhé!; e). khuyên nhủ, ví dụ: Bạn hãy để Lan suy nhĩ; g). khen ngợi, ví dụ:

Bức tranh này đẹp quá; h). đe dọa, ví dụ: Nhà ngươi hãy đợi đấy!...Ứng với mỗi ví dụ

trên ta có HĐ miêu tả (a), kể (b), (c) nghi vấn, (d) khẳng định, (đ) yêu cầu, (e) khuyên

nhủ, (g) khen ngợi, đe dọa (h) - đó là những HĐ bộ phận trong giao tiếp nói chung,

HĐ bằng ngôn ngữ.

Có nhiều tham tố giúp ta nhận biết một HĐ nói cụ thể, một trong số đó và chủ

yếu là thái độ của người nói trong lời nói thể hiện mục đích của họ. Mục đích của

người nói trong lời nói của họ là đích ngôn trung, tức là cái đích mà người nói muốn thực hiện bằng cách nói ra một lời nào đó. Trong các cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ bình thường, người nói thường để lộ ý định trong HĐ nói của mình để người nghe nắm bắt được.

1.2.3.3. Hành động ngôn trung (hành động ở lời) Như đã nói ở trên, hành động ngôn trung (HĐNT), (illocutionary act) là những

HĐ người nói thực hiện ngay khi nói năng. Đó là HĐ tạo ra một lời tuyên bố, một lời hứa, một lời chào..., khi phát ra một câu nhờ hiệu lực của những quy ước liên quan tới

nó. Hầu như, chúng ta không thể tạo ra những phát ngôn được xem là hợp thức mà

30

chúng lại không có mục đích gì. Chúng ta tạo ra một phát ngôn nhằm một chức năng

nào đó trong ý nghĩ. Đó chính là HĐNT. HĐNT được thực hiện nhờ hiệu lực giao tiếp

của phát ngôn.

HĐNT có nhiều dạng, có nhiều cách thức thể hiện nên có nhiều cách để phân loại. Có hai hướng chính phân loại HĐ lời nói. Hướng phân loại từ vựng hay phân loại theo động từ ngữ vi mà Austin đã đề nghị và hướng phân loại theo HĐ lời nói của Searle.

HĐNT không phải được thực hiện một cách tùy tiện mà phải tuân thủ một số

điều kiện nhất định.

Theo Austin, các điều kiện sử dụng HĐNT là những điều kiện “may mắn” (felicitous conditions) nếu chúng được bảo đảm thì HĐ đó mới “thành công”, đạt hiệu quả. a. Phải có thủ tục có tính chất quy ước và thủ tục này cũng phải có hiệu quả có tình chất quy ước; hoàn cảnh và con người phải thích hợp với những điều kiện quy định trong thủ tục.

b. Thủ tục phải được thực hiện một cách đúng đắn và đầy đủ. c. Thông thường thì những người thực hiện HĐNT phải có ý nghĩ tình cảm, ý định giống như đã được đề ra trong thủ tục, và khi hành động diễn ra thì ý nghĩa tình cảm, ý định đúng như nó đã có (dẫn theo [24, tr.112]).

Theo đó, các ngôn ngữ được chia thành 5 nhóm là: 1. Phán định (verditifs); 2. Hành xử (exercitifs); 3. Ước kết (conmissifs); 4. Ứng xử (behabitives); 5. Trình bày (expositifs).

J.R. Searle gọi điều kiện sử dụng HĐNT là các điều kiện thỏa mãn. Mỗi HĐNT có một hệ những điều kiện thỏa mãn. Rearle đưa ra 4 điều kiện sau: a). Điều kiện nội dung mệnh đề: chỉ ra bản chất nội dung của hành vi. Nội dung mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản (đối với các hành vi khảo nghiệm, xác tín, miêu tả), hay một hàm mệnh đề (đối với các câu hỏi khép kín), tức những câu hỏi chỉ có hai khả năng trả lời “có” hoặc “không” ; “Phải”, “không phải”, v.v... Nội dung mệnh đề có thể là một HĐ của người nói (như hứa hẹn) hay một HĐ của người nghe (lệnh, yêu cầu); b). Điều kiện chuẩn bị: bao gồm những hiểu biết của người phát ngôn về năng lực, lợi ích, ý định của người nghe; c). Điều kiện chân thành: chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của người phát ngôn: nếu là HĐ xác tín; khảo nghiệm đòi hỏi niềm tin vào điều xác tín; mệnh lệnh: đòi hỏi lòng mong muốn; hứa hẹn: đòi hỏi ý định của người nói v.v. d). Điều kiện căn bản: đưa ra sự khiển trách trách nhiệm mà người nói hoặc người nghe bị ràng buộc khi hành vi ở lời đó được phát ra [22, tr. 247 - 248].

Các HĐNT thường được phân chia theo các phạm trù ngữ nghĩa - hành động. Trong đó, cách phân loại của Searle cho đến nay được các nhà nghiên cứu đánh giá

31

cao hơn so với cách phân loại của Austin, thậm chí coi là điển hình nhất. Vì vậy, chúng tôi chọn bảng phân loại của Searle làm cơ sở cho việc nghiên cứu của mình.

Các HĐNT được Searle chia ra thành năm phạm trù (còn gọi là lớp). Mỗi phạm

trù lại gồm những nhóm lớn nhỏ khác nhau. Đó là các phạm trù:

Trình bày (còn gọi là biểu hiện, miêu tả, xác tín). Các HĐNT này có đích là miêu

tả, kể lại, trần thuật lại một sự tình làm cho người nghe biết sự tình đó. Trạng thái tâm lí

là người nói tin rằng nội dung phát ngôn là đúng. Phạm trù trình bày gồm những hành

động như: kể, tự sự, miêu tả, tường thuật, báo cáo, thuyết minh, lập biên bản, tường

trình, tố cáo, khai, khai báo, khoe, kết luận, quy nạp, tổng kết, tóm tắt, dặn, nhắc,...

Điều khiển: Đích ở lời của phạm trù này là đặt người nghe vào trách nhiệm thực

hiện một HĐ nào đó trong tương lai: trạng thái tâm lí là người nói thực sự mong muốn

người nghe thực hiện HĐ trong tương lai được đưa ra. Nội dung mệnh đề nói đến HĐ

trong tương lai mà người nghe phải thực hiện. Trong phạm trù này có các HĐNT như

ra lệnh, sai khiến, bảo, yêu cầu, đề nghị, xin phép, chỉ, khuyên, chỉ thị, kiến nghị,

khuyến nghị, chỉ định, hỏi, cho phép, tra,...

Cam kết (ước kết). Đích ở lời của phạm trù này là nhằm đặt người nói vào trách

nhiệm thực hiện HĐ trong tương lai được nêu ra trong biểu thức ngữ vi. Trạng thái

tâm lí là người nói thực sự có ý định thực hiện HĐ trong tương lai đó. Nội dung mệnh

đề nói đến HĐ trong tương lai mà người nói đưa ra. Thuộc phạm trù này là các HĐNT

hứa, cam đoan, cam kết, giao ước, bảo đảm, thỏa thuận,...

Biểu cảm. Phạm trù này có đích ở lời là bày tỏ trạng thái tâm lí của người nói

như bày tỏ sự vui mừng, sự bực dọc, sự buồn rầu v.v... Trạng thái tâm lí thay đổi tùy

từng HĐNT cụ thể nhưng cơ bản là người nói thực sự có, thưc sự cảm thấy các trạng

thái tâm lí được bày tỏ. Nội dung mệnh đề là một trạng thái tâm lí nào đó của người

nói trước một tình trạng nào đó của chính mình. Phạm trù này gồm các HĐNT cảm

thán, than thở, thán phục, trầm trồ, cảm ơn, xin lỗi, khen, chê...

Tuyên bố. Phạm trù này có đích ở lời là làm cho có hiệu lực điều được nêu ra

trong nội dung mệnh đề của biểu thức ngữ vi. Trạng thái tâm lí là người tuyên bố tin

rằng mình có thẩm quyền tuyên bố và điều mình tuyên bố có hiệu lực ngay khi được

tuyên bố. Nội dung mệnh đề là điều mà hiện thực (kể cả người nghe) phải thay đổi. Đó

là các HĐNT như tuyên bố, tuyên án, buộc tội.

Chúng tôi chọn bảng phân loại của Searle làm cơ sở cho việc nghiên cứu của

luận án vì cách phân loại của ông đến nay được các nhà nghiên cứu đánh giá cao.

Về mặt hiệu lực của HĐNT, có thể chia ra HĐNT trực tiếp và HĐNT gián tiếp.

32

HĐNT trực tiếp: HĐNT trực tiếp là những HĐ thực hiện đúng điều kiện sử

dụng, đúng với các đích ở lời của chúng. Hay nói cách khác, các HĐ có sự tương ứng

giữa cấu trúc bề mặt với hiệu lực mà nó gây nên. Những HĐNT được nhận diện một

cách trực tiếp qua nội dung mệnh đề của phát ngôn, thực hiện đúng với điều kiện thỏa

mãn, đúng với các đích ở lời của chúng, thuộc vào các loại HĐNT trực tiếp, nằm ở tầng nghĩa hiển ngôn (tường minh) của phát ngôn.

Chẳng hạn, muốn thực hiện HĐ cầu khiến, phải thỏa mãn các điều kiện sau:

- Phát ngôn có chứa nội dung mệnh đề: là một HĐ tương lai của người nghe

(đảm bảo điều kiện nội dung mệnh đề).

- Người nói biết rằng người nghe có khả năng thực hiện HĐ mình nêu ra (điều

kiện chân thành).

- Mục đích của người nói là nhằm hướng người nghe đến việc thực hiện lời đề

nghị của mình (điều kiện căn bản).

Chẳng hạn có một HĐ cầu khiến là:

Mẹ ơi, mẹ cho con hai trăm ngàn để mua hai quyển sách nhé! Muốn thực hiện

HĐ cầu khiến này cần phải thỏa mãn các điều kiện sau đây:

- HĐ tương lai của người mẹ: cho con hai trăm ngàn (điều kiện nội dung mệnh đề)

- Người con cho rằng người mẹ có khả năng thực hiện được HĐ tương lai, tức

là có hai trăm ngàn để cho con. Nếu biết rằng người mẹ không có khả năng thực hiện

HĐ tương lai (cho con tiền) thì người con sẽ không nói ra biểu thức trên. Và người con

tin rằng người mẹ sẽ thực hiện HĐ cho mình tiền (điều kiện chuẩn bị).

- Người con chân thành muốn người mẹ thực hiện HĐ cho tiền (điều kiện chân

thành).

- Người con nói ra biểu thức trên đã ràng buộc người nghe vào trách nhiệm

(hướng người mẹ vào thực hiện HĐ cho tiền) (điều kiện căn bản).

HĐNT gián tiếp: HĐNT gián tiếp là HĐ không có sự tương ứng giữa các cấu

trúc phát ngôn trên bề mặt với hiệu lực mà nó gây nên, hay nói một cách khác, HĐ mà trên cấu trúc bề mặt là A nhưng gây một hiệu lực là B.

Trong thực tế, do nhiều lí do người nói sử dụng HĐ lời nói này nhưng nhằm đạt đến hiệu lực của lời của một HĐ khác. Như vậy, hiệu lực ở lời gián tiếp là cái “thêm vào” cho một hiệu lực trực tiếp.

Searle cho rằng cơ chế của HĐNT gián tiếp là ở các điều kiện sử dụng của các HĐNT. Chẳng hạn, đối với trường hợp “hỏi” có hiệu lực gián tiếp là yêu cầu hay mệnh lệnh thì chúng ta có thể phát biểu thành quy tắc như sau:

33

Nếu chúng ta có mong muốn B thực hiện hành động C (điều kiện chân thành)

và chúng ta thấy B hội đủ điều kiện chuẩn bị (tức B có khả năng thực hiện C) thì ta hỏi

B về khả năng thực hiện C, có nghĩa là ta yêu cầu B thực hiện C.

Như vậy, một phát ngôn ngoài cái ý nghĩa được nói ra trực tiếp nhờ các yếu tố

ngôn ngữ kết hợp trên bề mặt còn có thể gợi ra nhiều ý nghĩa khác mà người nghe phải dùng đến thao tác suy ý và dựa vào những yếu tố ngoài ngôn ngữ, văn cảnh, các quy

tắc điều khiển HĐ lời nói, điều khiển lập luận, điều khiển hội thoại,…mới nắm bắt

được chính là ý nghĩa gián tiếp. Ý nghĩa trực tiếp do các yếu tố ngôn ngữ đem lại gọi

là ý nghĩa tường minh (hiển ngôn). Các ý nghĩa nhờ suy ý mới nắm bắt được gọi là ý nghĩa hàm ẩn.

Ngôn ngữ học, trong đó đặc biệt là Ngữ dụng học, quan tâm trước hết đến

những ý nghĩa hàm ẩn mà người nói có ý định thông báo cho người đối thoại biết, vì

những lí do nào đấy không nói rõ ra một cách tường minh.

1.2.3.4. Sự hành chức của tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong HĐNT

a. Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn thực hiện các HĐNT trực tiếp

TTTT tiếng Việt có thể tham gia vào thực hiện các cấu trúc một số loại HĐ lời

nói như: xác tín (khảo nghiệm, miêu tả), điều khiển (ra lệnh, yêu cầu, hỏi, cho phép),

biểu cảm,…

a.1. Các TTTT xuất hiện trong các cấu trúc hành động hỏi: à, ừ, hả, hử, chứ,…

Ví dụ:

<6> Ừ, nhưng con cũng phải lấy vợ đi đã chứ? (Nam Cao, Đời thừa, tr. 35)

<7> Con Mực, vẫn con chó ngày ấy đây à? (Nam Cao, Đời thừa, tr. 8)

<8> Bà không biết một tí gì ư? (Nam Cao, Đôi mắt, tr. 37)

a.2. Các TTTT xuất hiện trong các cấu trúc hành động cầu khiến: đã, đi, nhé,..

Ví dụ:

<9> Ấy, ông ngồi chơi đã! (Nam Cao, Đôi mắt, tr. 85)

<10> Không tiêu được thì vứt đi! (Nam Cao, Đôi mắt, tr. 87) <11> Một cái chổi cùn tôi cũng không để nhé! (Nam Cao, Đôi mắt, tr. 134) a.3. Các TTTT xuất hiện trong các cấu trúc hành động trần thuật: đấy, kia. Ví dụ: <12> Kiểu tóc này hợp với cưng đấy. (Tập truyện ngắn Đôi mắt, Trẻ con không

được ăn thịt chó, tr. 165)

b. Các TTTT cuối phát ngôn thực hiện các HĐNT gián tiếp TTTT có thể tham gia biểu thị một số kiểu sau đây:

34

b1. Hiệu lực: hỏi nhưng gián tiếp là nhắc nhở, thúc giục. Ví dụ:

<13> - Thế hở? Anh cũng phải nghĩ thế kia à?

- Tôi đã nghĩ từ lâu, nhưng chỉ vi chưa tìm được chỗ nào, nên chưa tiện nói ra

(Nam Cao, Sống mòn, tr. 57)

b2. Hiệu lực: hỏi nhưng gián tiếp là cảnh cáo đe nẹt. Ví dụ: <14> Định làm loạn hả?

b3. Hiệu lực: hỏi nhưng gián tiếp là đánh giá, Ví dụ:

Thứ hỏi:

<15> - Có bốn đồng mà mày cũng cưới được vợ à? (Nam Cao, Sống mòn, tr. 34) b4. Hiệu lực: hỏi nhưng gián tiếp là nhắc lại. Ví dụ:

<16> Tan buổi học, San cố lấy vẻ mặt và giọng nói thản nhiên bảo Thứ, như

bảo y một việc rất bình thường:

- Tôi hỏi được chỗ trọ cho chúng mình rồi đấy. Lát nữa, anh thủng thỉnh đi chơi

lên mạn Hải Nam, tạt vào đấy, cho cụ Hải Nam nói chuyện, xem thế nào.

Thứ mở thật to đôi mắt nhìn San: - Trọ ở nhà Hải Nam ấy à? - Phải ạ! Cụ Hải Nam có một thằng con học chúng mình đấy ạ! (Nam Cao,

Sống mòn, tr. 77)

b5. Hiệu lực: hỏi nhưng gián tiếp là bác bỏ. Ví dụ:

<17> Thị Nở xích lại. Đặt bàn tay lên ngực hắn (thị suy nghĩ đến bây giờ mới

xong), thị hỏi hắn:

- Vừa thổ hả? (Nam Cao tác phẩm và lời bình, tr. 48) b6. Hiệu lực: hỏi nhưng gián tiếp là lời chào. Ví dụ:

<18> Nó làm như vừa mới giật mình thức giấc: - Ai?... Ai thế? - Tôi đây. Sao anh tệ thế, anh Mô? - A! cô Hà đấy à? Gì thế? Tôi ngủ mê, chẳng nghe thấy gì. (Nam Cao, Sống

mòn, tr. 37)

b7. Hiệu lực: hỏi nhưng gián tiếp là khẳng định. Ví dụ: <19> Những giác quan của tôi đang lịm đi trong nỗi êm đềm lười biếng ấy thì đột nhiên một tiếng dặng rất gần đánh thức. Tôi giật mình một cái. Mắt tôi mở ra chưa kịp nhận rõ ai thì một tiếng rất quen bảo:

- Vẫn ngủ kia à? - Mẹ… (Nam Cao, Đời thừa, tr. 65)

35

b8. Hiệu lực: hỏi nhưng gián tiếp là mỉa mai, chê trách. Ví dụ:

<20> Mới đầu, Lộ tưởng ngồi như thế, có nghĩa là yên ổn đấy. Nhưng người ta

tồi lắm. người ta nhất định bêu xấu hắn. Trong nhà đám, một chỗ dù kín đáo thế nào,

mà chả có người chạy lại, chạy qua. Mỗi người đi qua, lại hỏi hắn một câu:

- Lộ đấy à, mày? Cũng có người thêm: - Chà! Cỗ to đấy nhỉ? Đắng ấy hóa ra lại… bở! (Nam Cao tác phẩm và lời

bình, tr. 96)

b.9. Hiệu lực: hỏi nhưng gián tiếp là xác nhận. Ví dụ: <21> Khi hắn ngừng nói đã được một lúc khá lâu, Từ mới làm như chợt nhớ ra: - Có lẽ hôm nay đã là mồng hai, mồng ba tây rồi, mình nhỉ? - À phải! hôm nay mồng ba… Giá mình không hỏi tôi thì tôi quên… Tôi phải đi

xuống phố. (Nam Cao tác phẩm và lời bình, tr. 69).

b.10. Hiệu lực: hỏi nhưng gián tiếp là than vãn. Ví dụ:

<22> Trời ơi! Em tôi chết mà còn đóng sưu hở trời? (Ngô Tất Tố, Tắt đèn,

tr.18)

b.11. Hiệu lực: hỏi nhưng gián tiếp là đề nghị kết thúc cuộc thoại. Ví dụ:

<23> Thị Nở xích lại. Đặt bàn tay lên ngực hắn (thụ suy nghĩ đến bây giờ mới

xong), thị hỏi hắn:

- Vừa thổ hả?

Mắt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một loáng rồi lại đờ ra ngay. - Đi vào nhà nhé? (Nam Cao tác phẩm và lời bình, tr. 48) b.12. Hiệu lực: khảo nghiệm nhưng gián tiếp là giải thích. Ví dụ:

<24> Hộ trợn mắt lên. Người hắn bồi hồi. Một lúc lâu hắn mới hỏi được Trung: - Có đích không? - Đích xác rồi. Chính Quyền đưa cái thư điều đình cho chúng tôi xem. Hộ có vẻ hoài nghi: - Không mà lại!... Tôi biết lắm… Nhưng lại đằng này đã, về làm gì vội? chúng

mình làm cốc bia… (Nam Cao tác phẩm và lời bình, tr. 73)

Số lượng các HĐ lời nói trực tiếp mà các TTTT tham gia biểu thị ở trên tuy chưa đầy đủ nhưng cũng đã cho thấy sự đa dạng của tính hiệu lực do các HĐNT gây nên trong đó có sự tham gia của TTTT. Do giới hạn của phạm vi đề tài, trong các chương 2, 3, 4, chúng tôi chỉ đi vào phân tích và mô tả các nhóm HĐNT trực tiếp có sự tham gia của TTTT.

36

1.2.4. Phương ngữ Nam Bộ và vấn đề phân tích tiểu từ tình thái cuối phát

ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ

1.2.4.1. Khái niệm phương ngữ

Phương ngữ nói chung và từ địa phương nói riêng là đề tài khá hấp dẫn đối với

các nhà ngôn ngữ học, và trên thực tế đã có nhiều nghiên cứu đáng kể về đề tài này.

Thuật ngữ phương ngữ (dialect) đã có từ rất sớm trong ngôn ngữ học. Ở Việt

Nam, phương ngữ đồng nghĩa với các thuật ngữ lâu nay đã dùng: tiếng địa phương,

phương ngôn. Theo Hoàng Thị Châu: “Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để

chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác”[27, tr. 29].

Trong giao tiếp hằng ngày ở các vùng miền, chúng ta đều nhận thấy bên cạnh

lớp từ toàn dân còn có lớp từ riêng của từng vùng miền, người ta gọi là từ địa phương.

Theo Ăng ghen, “Phương ngữ (hay phương ngôn) là biến dạng địa phương của

một hệ thống ngôn ngữ đã được hình thành trong quá trình lịch sử”. Đây là một quan

niệm hợp lí, được nhiều người chấp nhận.

Các tác giả có các công trình, bài viết liên quan đến phương ngữ như: Nguyễn

Thiện Chí, Hồng Dân, Cù Đình Tú, Trần Thị Ngọc Lang, Hoàng Thị Châu, Nguyễn

Kim Thản, Hoàng Dũng, Nguyễn Thiện Giáp, Huỳnh Công Tín, Nguyễn Văn

Ái,....đều có những nhìn nhận giống nhau về phương ngữ trong quan hệ với ngôn ngữ

toàn dân. Nhưng mỗi tác giả lại có một khuynh hướng nghiên cứu và cách tìm hiểu

riêng về bức tranh đa dạng của phương ngữ. Ở đây chúng tôi sẽ nêu một vài công trình

tiêu biểu:

Huỳnh Công Tín, trong luận án tiến sĩ Ngữ văn của mình (1999): “Hệ thống

ngữ âm của tiếng Sài Gòn (so với phương ngữ Hà Nội và một số phương ngữ khác ở

Việt Nam)” đã đề cập đến ba khuynh hướng nghiên cứu phương ngữ Nam Bộ.

Khuynh hướng thứ nhất: Nghiên cứu phương ngữ gắn với nghiên cứu ngôn

ngữ. Theo khuynh hướng này có các tác giả: Nguyễn Văn Tu, Cù Đinh Tú, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Tài Cẩn, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Kim Thản...

Trong chương “Những sự khác nhau về thổ âm trong tiếng Việt Nam” (tiếng Bắc và tiếng Nam) thuộc công trình Việt Nam văn học sử yếu (1986), tác giả Dương Quảng Hàm đã miêu tả phương ngữ qua một số hiện tượng sai lệch phổ biến của vùng. Các công trình nghiên cứu tiếng Việt của tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Lê Văn Lý, Nguyễn Kim Thản, Đoàn Thiện Thuật, Cù Đình Tú đều có đề cập đến một số vấn đề của phương ngữ như: Cách phát âm địa phương của tiếng Việt, hay

37

ranh giới và việc phân vùng phương ngữ trong tiếng Việt. Riêng trong “Cơ cấu ngữ

âm tiếng Việt” của Đinh Lệ Thư, Nguyễn Văn Huệ, ngoài phần miêu tả ngữ âm của

tiếng Việt trên từng loại đơn vị của âm tiết, các tác giả còn đề cập đến sự khác biệt

giữa các phương ngữ.

Khuynh hướng thứ hai: Nghiên cứu phương ngữ gắn với yêu cầu chuẩn hóa và ứng dụng tiếng Việt vào cuộc sống xã hội, được các nhà ngôn ngữ tập trung nghiên cứu nhiều hơn và các vấn đề nghiên cứu này cũng được các tác giả khai thác ở nhiều góc độ, có thể kể một số tác giả như: Nguyễn Thiện Chí, Hồng Dân, Nguyễn Văn Ái, Hoàng Dũng, Phạm Văn Hảo, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Kim Thản, Hoàng Tuệ,... Trong bài báo “Chuẩn mực ngữ âm và vấn đề tiếng Việt trong nhà trường”, Vũ Bá Hùng (1994) đã khái quát về sự khác biệt ngữ âm giữa các phương ngữ, đồng thời, xác định chuẩn mực hóa ngữ âm của tiếng Việt; từ đó, đề ra chiến lược chung cho sự giáo dục ngôn ngữ.

Ngoài ra còn có các công trình đáng chú ý khác như: “Từ địa phương và vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ trong nhà trường” của Nguyễn Thiện Chí (1981), “Từ ngữ phương ngôn và vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ tiếng Việt” của Hồng Dân (1981), “Các lớp từ địa phương và chức năng của chúng trong ngôn ngữ văn hóa tiếng Việt” của Nguyễn Quang Hồng (1981)...

Theo nhận xét của Huỳnh Công Tín, hai khuynh hướng trên đều chưa có công trình riêng nghiên cứu một cách khái quát toàn diện về các vấn đề phương ngữ và ứng dụng của nó vào cuộc sống, xã hội. Mặc khác các ý kiến trên nhiều khi có tính chất trùng lập, hoặc mâu thuẫn nhau mà các hội nghị chuẩn hóa chưa có điều kiện giải quyết. Vấn đề chuẩn hóa không phải đơn thuần là ý định chủ quan của một người nghiên cứu mà còn tùy thuộc vào nhiều nhân tố xã hội. Vì vậy, các công trình theo khuynh hướng này vẫn chưa thật sự có cơ sở vững chắc cho việc nghiên cứu vấn đề xã hội của phương ngữ.

Cuối cùng là khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ gắn liền với một số bình diện cụ thể của phương ngữ thuộc những vùng miền khác nhau trên đất nước Việt Nam cũng được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm. Theo khuynh hướng này có các công trình của các tác giả: Trần Thị Ngọc Lang, Vương Hồng Sển, Cao Xuân Hạo, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Văn Ái, Hoàng Thị Châu, Hoàng Cao Cương, Nguyễn Thị Bạch Nhạn, Huỳnh Công Tín, Nguyễn Nhã Bản, Võ Xuân Trang, Hoàng Trọng Canh, Nguyễn Hoài Nguyên...

Một số tác giả khác như Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn chú ý thêm tính hệ thống và các phương diện thể hiện của phương ngữ:

38

“Phương ngữ là hình thức ngôn ngữ có hệ thống từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm riêng biệt được sử dụng ở một phạm vi lãnh thổ hay xã hội hẹp hơn là ngôn ngữ. Là một hệ thống kí hiệu và quy tắc kết hợp có nguồn gốc chung với hệ thống khác được gọi là ngôn ngữ (cho toàn dân tộc) các phương ngữ (có người gọi là tiếng địa phương, phương ngôn) khác nhau trước hết là ở cách phát âm, sau đó là vốn từ vựng” [120, tr. 275].

Tuy nhiên, giữa phương ngữ và ngôn ngữ toàn dân luôn có mối quan hệ hữu cơ. Như chúng ta biết, quá trình hình thành, biến đổi của phương ngữ diễn ra trong lịch sử

là sự phản ánh quy luật phát triển, biến đổi của ngôn ngữ, của tính phân tán, đa dạng

và thống nhất của ngôn ngữ. Quy luật đó của ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển của

xã hội và phương ngữ là một hiện tượng không tách rời của quá trình hình thành và thống nhất của ngôn ngữ dân tộc, nên phương ngữ ra đời cũng gắn liền với điều kiện

lịch sử xã hội của từng quốc gia, trong từng thời kỳ cụ thể.

Tóm lại, giữa phương ngữ và ngôn ngữ toàn dân có mối quan hệ mật thiết, có

sự tác động tương hỗ. Khi nghiên cứu phương ngữ nói chung, từ địa phương nói riêng,

chúng ta một mặt chỉ ra những nét riêng, khác biệt so với ngôn ngữ toàn dân trên một

số phương diện, mặt khác còn có thể thấy được tính đa dạng, bản sắc, nét văn hoá độc

đáo của vùng miền thể hiện qua ngôn ngữ.

1.2.4.2. Phương ngữ Nam Bộ

Nhìn chung theo tiến trình thời gian, chúng ta có thể nhận thấy nửa đầu của thế

kỷ XX, các nghiên cứu về phương ngữ tiếng Việt không nhiều. Sau L.Cadiere (1902,

1911) là nghiên cứu của H. Maspero (1912). Ở hai tác giả này, vấn đề được nêu ra là:

việc phân vùng phương ngữ tiếng Việt và những đặc điểm cụ thể của một phương ngữ/

vùng phương ngữ nào đó.

Mãi đến nửa sau thế kỷ XX, tức là khi nước Việt Nam trở thành một quốc gia

độc lập, có lẽ do vị thế của tiếng Việt, vấn đề phương ngữ và việc phân chia vùng

phương ngữ được nhiều nhà ngôn ngữ học nghiên cứu nhiều hơn. Trên thực tế, vấn đề

phân chia vùng phương ngữ đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, được khảo cứu theo nhiều góc độ khác nhau, đến nay các ý kiến đó vẫn chưa có sự thống nhất. Có thể khái quát thành nhiều khuynh hướng như: Phân chia thành 2 vùng, 3 vùng, 4 vùng phương ngữ và nhiều hơn nữa. Có thể nêu một cách khái lược các ý kiến phân vùng phương

ngữ tiếng Việt như sau:

Các ý kiến theo khuynh hướng phân chia tiếng Việt thành hai vùng phương ngữ

như công trình Nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt của H.Maspero (1912), hoặc một

số tác giả như: M.V Gordina và các đồng sự (1970), I. S. Bustrov và Hoàng Phê

39

(1963)... Các tác giả này đều thừa nhận phương ngữ của hai địa bàn nằm ở hai tuyến

của đất nước: Hà Nội - Sài Gòn. Quan điểm này có tính chất đối trọng về mặt lịch sử,

xã hội, còn tiếng nói nằm ở khu vực giữa hai vùng được lập luận là “có tính chất

chuyển tiếp”. Các ý kiến phân vùng này chủ yếu đặt ngôn ngữ vào các quan hệ ngoài

ngôn ngữ nhiều hơn là các yếu tố ngôn ngữ.

Ý kiến chia tiếng Việt ra làm ba vùng phương ngữ: Bắc, Trung, Nam có phần

đông đảo nhà nghiên cứu hơn. Có thể kể tên một số tác giả như: Hoàng Thị Châu

(1989), Võ Xuân Trang (1997), Đỗ Hữu Châu (1962), M.V. Gordina, I.S.Bustrov

(1984), Phan Kế Bính, Vương Hữu Lễ, Nguyễn Bạt Tụy....Ở các tác giả này dường như đã có cơ sở lý luận thuyết phục hơn các tác giả theo khuynh hướng phân chia khác

là: Đã có sự kết hợp hài hòa giữa các nhân tố góp phần tạo nên phương ngữ: Tính chất

địa lý - xã hội, tính chất ngôn ngữ, ngữ âm - từ vựng. Tuy vậy, Huỳnh Công Tín lại

cho rằng, khuynh hướng phân chia này: “Vẫn chưa nhìn nhận đầy đủ sự khác biệt ngữ

âm trong nội bộ vùng phương ngữ như vùng phương ngữ Nam Bộ” [162, tr.30]. Chúng

tôi cho rằng, điều đó là hiển nhiên, vì trong mỗi vùng phương ngữ lớn lại có nhiều

phương ngữ, thổ ngữ, giữa chúng có sự khác biệt nhất định. Trên bình diện chung khái

quát khó có thể nêu đầy đủ được các biểu hiện của sự khác biệt giữa các phương ngữ

trong một vùng, bởi chỉ có những khảo sát cụ thể từng phương ngữ, thổ ngữ trong

vùng mới chỉ ra hết được.

Một số tác giả theo khuynh hướng phân chia tiếng Việt thành 4 vùng phương

ngữ: Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ, như: L.Cadiere, Nguyễn Kim

Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu, Trần Thị Ngọc Lang, Huỳnh Công

Tín....Cũng theo quan điểm này nhưng Huỳnh Công Tín trong cuốn Từ điển từ ngữ

Nam Bộ đã tiếp tục phân chia PNNB thành ba khu vực nhỏ: Đông Nam Bộ, Sài Gòn

và Tây Nam Bộ [162]. Nhìn chung các tác giả nhóm này đã chỉ ra được sự khác biệt về

mặt ngữ âm khá rõ nét giữa các vùng mà đặc biệt phương ngữ Bắc Trung Bộ và Nam

Trung Bộ, tiêu biểu cho sự phân biệt này là công trình của L.Cadiere.

Ngoài ra, S.C.Thomson (năm 1959) cho rằng không nên chia tiếng Việt ra thành các vùng phương ngữ vì những khác biệt giữa chúng là không rõ ràng. Theo ông, sự chuyển tiếp giữa phương ngữ từ vùng nọ sang vùng kia với tính chất như một “bán phương ngữ”. Ý kiến này dường như ít được sự đồng tình của giới nghiên cứu. Vì chính S.C.Thomson cũng thừa nhận có sự khác biệt trong bản thân cộng đồng người nói tiếng Việt. Nói cách khác, tính đồng ngữ tuyến không diễn ra theo một chiều cố định nào.

40

Từ những ý kiến trên, chúng ta có thể kết luận: Tiếng Việt thống nhất trong thể

đa dạng. Do đó, chúng ta cũng không nên vội vàng kết luận cách phân chia theo người

này là thiếu chính xác, hay của người kia là phù hợp. Vì thực tế, mỗi cách phân chia

đều có những cơ sở riêng của nó. Người của vùng nào thì nói tiếng vùng nấy, và mỗi

vùng, mỗi địa phương như vậy lại có sự khác biệt ít nhiều so với ngôn ngữ toàn dân, ngôn ngữ được dùng phổ biến rộng khắp.

Về ý kiến phân chia ba vùng phương ngữ, chúng tôi thấy hướng phân chia này

đã khắc phục được những hạn chế của hướng phân chia thành hai vùng phương ngữ.

Phân chia tiếng Việt thành 3 vùng phương ngữ cũng là ý kiến chung của nhiều người và phù hợp với thực tế tiếng Việt hiện nay cũng như đối với quan điểm cách nhìn địa -

văn hóa. Hơn nữa, phân chia như vậy cũng có sự trùng khít với cách nhìn dân gian.

Chúng ta thường nghe trong dân gian người ta thường nói là họ hỏi /nói “giọng miền

Bắc”, “giọng miền Trung”, hay giọng “Miền Nam”.

Trong cuốn Phương ngữ học tiếng Việt [27], sau khi nêu quan điểm của mình

về phân chia ba vùng phương ngữ, Hoàng Thị Châu còn phân chia các vùng phương

ngữ lớn thành các phương ngữ; trong đó, vùng phương ngữ Nam (Nam Trung Bộ,

Nam Bộ) được tác giả chia thành 3 phương ngữ nhỏ là Phương ngữ Quảng Nam -

Quảng Ngãi; Giải phương ngữ từ Quy Nhơn đến Bình Thuận và Phương ngữ Nam Bộ [27,

tr. 96]. Đồng tình với quan điểm như vậy, Trần Thị Ngọc Lang cũng đã tiến hành

nghiên cứu từ vựng - ngữ nghĩa PNNB, kết quả nghiên cứu của bà được công bố trong

công trình Phương ngữ Nam Bộ, những khác biệt về từ vựng so với phương ngữ Bắc

Bộ [85]. Đúng như tên gọi của công trình, tác giả đã chỉ ra được sự khác nhau cơ bản

giữa PNNB và phương ngữ Bắc Bộ về từ vựng. Gần đây, trong công trình Nghiên cứu

đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa từ ngữ địa phương Nam Bộ (Trong thơ ca dân gian

Nam Bộ) (2016), Trần Đức Hùng cũng đi sâu nghiên cứu đặc điểm ngữ âm, từ vựng -

ngữ nghĩa từ ngữ địa phương Nam Bộ thể hiện trong thơ ca dân gian Nam Bộ và làm

rõ vai trò, hiệu quả nghệ thuật của lớp từ địa phương này [72]. Trong công trình Tiếng Việt - mấy vấn đề ngữ âm ngữ pháp ngữ nghĩa, Cao Xuân Hạo cũng đề cập đến hai vấn đề âm vị học của PNNB (trong phần đầu của công trình) [62]. Còn Huỳnh Công Tín cũng đã cho xuất bản cuốn: Từ điển từ ngữ Nam Bộ với một số lượng từ ngữ được sưu tập rất phong phú. Như vậy, PNNB - giải phương ngữ từ phía nam Bình Thuận trở vào, không chỉ là kết quả của một sự phân chia phương ngữ Việt mà nó đã trở thành một đối tượng được nghiên cứu trên nhiều bình diện. Đó cũng là cơ sở để chúng tôi thực hiện nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB.

41

Như các nhà nghiên cứu phương ngữ đã chỉ ra, trong phương ngữ, cùng với ngữ

âm, từ địa phương cũng tạo thành hệ thống có sự khác biệt với ngôn ngữ toàn dân.

Tiến hành khảo sát TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB, đối

tượng trực tiếp là khảo sát một lớp từ địa phương cụ thể, do đó, trong luận án này,

chúng tôi dựa vào khái niệm từ địa phương của tác giả Hoàng Trọng Canh: “Từ địa phương là những đơn vị được sử dụng quen thuộc ở một hoặc vài địa phương nhất

định có những nét khác biệt với ngôn ngữ toàn dân” [16, tr. 76].

Cũng dựa vào quan niệm của Hoàng Trọng Canh về “Từ địa phương Nghệ

Tĩnh”, chúng tôi xác định: Từ địa phương Nam Bộ là những từ người dân Nam Bộ quen dùng, dùng một cách tự nhiên, có sự khác biệt nhất định (về âm, nghĩa, ngữ pháp

v.v…) so với từ toàn dân.

1.2.4.3. Vấn đề tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ

Một đặc trưng nổi bật của tiếng Việt là hệ thống TTTT rất phong phú trong đó

có lớp TTTT cuối phát ngôn; chúng được biểu hiện đa dạng, với sự khác nhau ít nhiều

trong các vùng phương ngữ. Lớp TTTT cuối phát ngôn trong trong phương ngữ NB,

cũng rất phong phú; chúng tạo ra sắc thái địa phương góp phần làm giàu thêm tính đa

dạng sắc màu của ngôn ngữ dân tộc. Sự khác nhau giữa TTTT cuối phát ngôn dùng

trong phương ngữ trong tương quan với TTTT toàn dân ở những trường hợp này

không chỉ là hình thức ngữ âm mà quan trọng hơn là ở chức năng biểu thị tình thái và

xác lập các hành vi ngôn ngữ.

Những TTTT cuối phát ngôn góp phần không nhỏ vào việc biểu thị trạng thái

tình cảm, cảm xúc tức thời của người nói và hoàn cảnh xuất hiện câu nói, kiểu như:

- Để biểu thị một sự hợp tác, mong muốn, đồng tình cùng thái độ thân thiện, cởi mở:

“Tui qua nhà máy chở tro dìa cho má Hường nghen!”

- Để biểu thị một thái độ tự vấn, không đoán trước được kết cục của sự việc:

“Nhiều cải non quá, biết lấy cái nào ta?.”

- Hay để biểu thị một trạng thái phân vân. Người nói đã suy nghĩ nhiều nhưng

vẫn chưa tìm ra được câu trả lời:

“Quá trời liếp, biết bao giờ đến liếp cuối lận?” Có thể kể đến một số TTTT thường dùng trong các phát ngôn như: - Cực trần thân hôn? - Đáng đời nghen. - Chừng nào xạ lúa lận? - Lúa trổ đẹp hen!

42

- Khoai nhiều đọt ghê hen!

- Bao nhiêu cái thì đủ ta?

- Mấy bao giống đâu hết rồi cà.

- Mấy trăm đầu khoai giống biến đâu dzậy (vậy) cà?

- Mắc cỡ hà. - Con lấy chục củi đó hén dì Tư.

- Giận nhỏ Lê quá mợi!

Các TTTT địa phương NB không hoàn toàn trùng khít ngữ nghĩa, cũng như

sắc thái biểu cảm với TTTT toàn dân. Bên cạnh ý nghĩa khái quát chung nhất, mỗi TTTT lại còn biểu đạt những sắc thái riêng. Điều này không những thể hiện sự

phong phú, tinh tế của TTTT mà còn cho thấy người NB sử dụng TTTT một cách

biến hóa, linh hoạt. Các TTTT tiếng NB không chỉ xuất hiện trong những HĐNT trực

tiếp mà còn xuất hiện trong các HĐNT gián tiếp. Tùy ngữ cảnh xuất hiện mà TTTT

có một sắc thái ý nghĩa mới mẻ, điều đó đã tạo nên sắc thái riêng biệt, độc đáo của từ

địa phương NB.

Như vậy, TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB là đối tượng cần

được nghiên cứu, và chúng ta thấy có cơ sở khoa học và thực tiễn để nghiên cứu

chúng.

1.3. Tiểu kết chương 1 Như vậy, ở chương 1, luận án đã tổng quan, tóm lược, tập trung vào vấn đề tình

thái mà trọng tâm là TTTT và TTTT cuối phát ngôn theo khuynh hướng quan niệm lí

thuyết và kết quả nghiên cứu được thể hiện qua một số công trình của các nhà nghiên

cứu nổi tiếng mà quan niệm, tư tưởng của họ ảnh hưởng, tác động rõ nhất đến khuynh

hướng nghiên cứu vấn đề này. Qua các công trình nghiên cứu đã tổng quan, luận án

cho thấy tình thái là một phạm trù rộng lớn và phức tạp. Trong ngôn ngữ tình thái

được thể hiện bằng nhiều phương tiện ngữ pháp và từ vựng. Về từ vựng, từ tình thái

cũng đa dạng, chúng được phân biệt với nhau về chức năng nghĩa, vị trí trong câu và quan hệ với các thành phần trong cấu trúc câu. Lớp từ này làm thành những bảng màu cực kỳ phong phú, trong đó có nhóm các TTTT cuối phát ngôn, chúng góp phần thể hiện các sắc thái khác nhau của lời. Đó là thành phần biểu thị thái độ, cảm xúc, sự đánh giá của người nói với người nghe, với nội dung thông báo và quan hệ của nội dung thông báo đối với hiện thực, cho biết hiện thực đó là có thật hay không có thật, là tiềm năng hay đã xảy ra, là giả định ước muốn, đồng tình hay nghi vấn, phủ định hay bác bỏ,v.v.

43

Điểm lại kết quả nghiên cứu của những tác giả đi trước, luận án cho thấy TTTT

cuối phát ngôn trong tiếng Việt nói chung và TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của

người NB nói riêng cần tiếp tục được đào sâu, mở rộng nghiên cứu trên nhiều khía

cạnh nội dung để góp phần làm phong phú thêm bức tranh TTTT cuối phát ngôn trong

bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc của TTTT trong tiếng Việt. Việc thực hiện đề tài của luận án là một nghiên cứu bổ sung cụ thể nhằm đáp ứng một phần yêu cầu đặt ra đó.

Luận án cũng đã xác định các khái niệm và những vấn đề liên quan làm cơ sở

khoa học và thực tiễn cho đề tài, bằng việc giới thuyết khái niệm tình thái, TTTT,

TTTT cuối phát ngôn, giao tiếp, phát ngôn, hành động ngôn ngữ, môi trường hoạt động của nghĩa tình thái, phân loại các nhóm nghĩa tình thái, định vị và làm rõ khái

niệm phương ngữ NB và những vấn đề liên quan.

Luận án xác định: TTTT cuối phát ngôn là những hư từ nằm ở cuối phát ngôn

nhằm thể hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ giữa người nói với người nghe hay đối

với thực tại được phản ánh trong phát ngôn. Các TTTT cuối phát ngôn là một trong

những phương tiện quan trọng để thực tại hoá câu. TTTT cuối phát ngôn là một

phương tiện biểu thị thái độ, cảm xúc của người nói luôn gắn chặt với các hành động

ngôn ngữ được thể hiện trong phát ngôn và các nhân tố giao tiếp cũng như những giá trị xã hội thể hiện ở vai giao tiếp về mặt giới tính, địa vị, nghề nghiệp, quan hệ xã hội.

44

Chương 2

NHẬN DIỆN TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGÔN

VÀ NGỮ NGHĨA CỦA CHÚNG TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ

2.1. Nhận diện TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ

2.1.1. Nhận diện tiểu từ tình thái trong phát ngôn về mặt chức năng

2.1.1.1. Những nhìn nhận chung về chức năng của TTTT

Quan sát trong đời sống, một phát ngôn có hai yếu tố nghĩa: nghĩa biểu hiện và

nghĩa tình thái. Nghĩa tình thái thể hiện cách nhìn, thái độ của người nói hay người viết

kèm theo nội dung biểu hiện trong câu. Điều này cho thấy sự tồn tại một cách tự nhiên

của những phát ngôn biểu thị ý nghĩa tình thái là do chức năng và nhu cầu giao tiếp xã

hội. Nghĩa tình thái gồm nhiều nét nghĩa khác nhau trong đó có những nét nghĩa tồn tại

trong tiểu từ. Các TTTT tạo cho câu phân biệt theo mục đích nói. Có những nét nghĩa

hình thành do sự kết hợp của các tiểu từ với cả cấu trúc, lại có những nét nghĩa được

xác định do tình huống giao tiếp, bởi TTTT hoạt động bao giờ cũng biến chuyển theo

ngữ cảnh, theo quan hệ vai người nói và nội dung của câu.

Các TTTT cuối phát ngôn tiếng Việt là một trong những phương tiện quan

trọng để thực tại hoá câu (cùng với trật tự từ và ngữ điệu), biến nội dung mệnh đề dưới

dạng nguyên liệu, tiềm năng trở thành một phát ngôn có công dụng trong tình huống

giao tiếp nhất định, mang đến cho câu nói cái chức năng là công cụ giao tiếp, công cụ

tương tác xã hội. Đây là những thông tin có tác dụng làm chính xác hơn cấu trúc ngữ

nghĩa của câu và kiểu hành động lời nói mà câu nói thể hiện.

Để nhận diện TTTT, các nhà nghiên cứu có thể dựa vào nhiều tiêu chí khác

nhau nhưng chủ yếu là dựa vào chức năng và vai trò của TTTT trong câu.

Theo Nguyễn Kim Thản: TTTT “Không làm thành phần câu. (...) Tạo hình thức

của các câu nghi vấn, mệnh lệnh, cảm thán hoặc tỏ thái độ của người nói” [145].

Nguyễn Tài Cẩn cho rằng TTTT “Đưa lại cho đoản ngữ không phải một dấu ấn về

phân bố mà về sắc thái tình cảm... Những từ à, ư, nhỉ, nhé có vị trí sau: Đưa lại tính

tình thái cho đoản ngữ, biến đoản ngữ thành câu...” [18]. Trương Văn Chình và

Nguyễn Hiến Lê cũng cho rằng TTTT: “Giúp cho lời nói ý nhị, mạnh mẽ, linh hoạt

thêm, hoặc cho lời nói khỏi cục cằn, cộc lốc” [29]. Tương tự, tác giả Phan Mạnh Hùng

45

nói: TTTT “Không đi vào thành phần của nhóm thực từ. Có thể lược bỏ mà không ảnh

hưởng đến cấu trúc câu. (...) Biểu thị quan hệ của người nói đối với thực tại hoặc đối

với đối tượng của lời” [73]. Đinh Văn Đức đã khái quát vai trò, chức năng của TTTT

“Diễn đạt quan hệ giữa người nói với thực tại, nhờ đó hình thành mục đích phát ngôn”

[44]. Tác giả đã nhận xét cụ thể hơn: “Khác với các từ loại khác, tiểu từ tình thái gắn

chặt với việc biểu đạt mục đích phát ngôn, gắn với các kiểu phát ngôn - câu cho nên

được sử dụng rất rộng rãi trong khẩu ngữ, có tần số xuất hiện cao trong phong cách

nói. Ngay trong việc sử dụng, cũng có thể thấy là khả năng hoạt động của các tiểu từ

rất biến báo, cơ động” [44, tr.191].

Mặc dù có sự khác nhau ít nhiều trong nhìn nhận cụ thể về nghĩa tình thái nhưng

điểm chung của các nhà Việt ngữ học đều khẳng định TTTT là một trong những phương

tiện biểu thị tình thái mà chủ thể của đánh giá tình thái luôn thuộc về người nói. Vai trò

của TTTT là chuyên dùng để biểu thị ý nghĩa tình thái (thái độ, cảm xúc...) xét trong

quan hệ giữa chủ thể phát ngôn với người nghe, với nội dung phản ánh cũng như có

chức năng cấu tạo các dạng hành động nói: nghi vấn, cầu khiến, cảm thán...

Về vị trí ở trong phát ngôn, TTTT có thể đứng đầu các phát ngôn, có thể đứng ở

cuối phát ngôn. Trọng tâm nghiên cứu của luận án này là những TTTT khi chúng xuất

hiện ở cuối phát ngôn.

Chúng ta quan sát các phát ngôn:

<25> Nó đi. <26> Nó đi à ?

<27>Nó đi ư ? <28> Nó đi sao ?

Ví dụ <25> là một phát ngôn mang thông tin miêu tả, chứa nội dung thông

báo. Ba phát ngôn <26>, <27>, <28> đều là phát ngôn nghi vấn. Tuy vậy, chỉ có phát

ngôn <26>, <27> là có sử dụng TTTT cuối câu “à”, “ư”, thể hiện thái độ nghi vấn

ngạc nhiên.

2.1.1.2. Chức năng liên nhân của TTTT

TTTT đảm nhận vai trò biểu đạt nghĩa tình thái. Thành phần nghĩa này chủ yếu

thực hiện chức năng liên nhân. Chức năng liên nhân là chức năng xác lập mối quan hệ

giữa các vai giao tiếp trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể: thân thiện hay xa lạ, thân, sơ

hay ghét bỏ,…

46

Quan hệ liên nhân thuộc bình diện chức năng, tư cách liên nhân tức là tư cách

lời trao đổi. TTTT là phương tiện có khả năng biểu thị nghĩa liên nhân. Chẳng hạn, khi

sử dụng nhé trong ví dụ: Em về nhé! người nói thể hiện tình cảm thân mật đối với

người nghe. Sử dụng nhỉ trong ví dụ: Sao không rẽ qua phải nhỉ? người nói tỏ thái độ

thắc mắc trước một hành động việc làm nào đó của người nghe. Sử dụng chăng trong

ví dụ: Để cao thêm một chút chăng? thể hiện thái độ băn khoăn của người nói đối với

người nghe...

Khi thực hiện chức năng liên nhân, các TTTT đồng thời thể hiện nhiều vai trò

cụ thể khác nhau.

a. Tạo các kiểu phát ngôn theo những mục đích nói khác nhau

TTTT có khả năng tham gia tạo các kiểu phát ngôn theo những mục đích nói

khác nhau, như nghi vấn, cầu khiến, bộc lộ cảm xúc.

a.1. Tạo phát ngôn nghi vấn. Các TTTT tham gia tạo phát ngôn nghi vấn như:

ạ, à, ư, hử, hả, nhỉ, chăng... Ví dụ:

<29> Phải không ạ? Mở cửa nhé?; Có lấy không nào?; Em về hả?...

a.2. Tạo phát ngôn cầu khiến. Các TTTT tham gia tạo phát ngôn cầu khiến như:

đi, nào, thôi... Ví dụ:

<30> Cắm hoa đi!; Cùng đi nào!; Làm hết ba lô đất nữa thôi!

b. Biểu thị quan hệ xã hội

Mối quan hệ xã hội của người nói đối với người nghe cũng được TTTT thể hiện

rõ. Mối quan hệ này không bộc lộ trực tiếp nhưng qua sắc thái tình cảm, qua cách sử

dụng TTTT, vị thế của các nhân vật hội thoại được xác định. Vị thế đó là các quan hệ

xã hội như thứ bậc, tuổi tác, địa vị, dòng tộc…được bộc lộ rất rõ trong văn hoá giao

tiếp của người Việt. Chẳng hạn, từ ạ xuất hiện trong ví dụ: Dạ thưa Bác cháu trồng

cây rồi ạ! chứng tỏ người nghe có vị thế, quyền hạn cao hơn người nói. Từ à xuất hiện

trong ví dụ: Hoa làm như vậy được à? thể hiện mối quan hệ ngang hàng. Từ hả xuất

hiện trong ví dụ: Cái này ai để đây hả? thể hiện người nói có quyền hạn vị thế cao hơn

người nghe.

c. Bộc lộ tình cảm, thái độ

TTTT có khả năng bộc lộ tình thái của câu, tức là biểu lộ tình cảm, cảm xúc của

người nói đối với người nghe, hoặc đối với nội dung thông tin được nêu ra trong câu.

47

Tuy vậy, nghĩa tình thái hết sức phức tạp. Tác giả Diệp Quang Ban đã chỉ ra một số

sắc thái nghĩa thường gặp, như: a) Bày tỏ một hướng khác của ý, hướng không lường

trước, khi dùng kia, như trong: Nó đã đến trễ mà còn trách kia; Nó còn làm xiếc được

kia; Bác hỏi ai kia? b) Bày tỏ sự miễn cưỡng, không thoải mái thì dùng vậy, như

trong: Thôi đành phải lấy hoa hồng vàng vậy; Chị cố gắng chờ hai hôm vậy; Bạn cao

hơn thì bạn lên lấy vậy. c) Bày tỏ sự phân trần, giải thích, nài nỉ thì dùng từ mà (mà

lại, mà lị) như trong: Thứ hai mới nộp bài mà!; Mẹ đã nói mà! Nghỉ có hai ngày lễ mà

lại!; Cả làng biết mà lị!" [9, tr. 554- 555].

d. Chức năng hướng thoại

Một nhiệm vụ cũng hết sức quan trọng của TTTT là hướng thoại khi tham gia

hội thoại. Những người thực hiện cuộc thoại sẽ đưa ra các lời trao - đáp và những lời

trao - đáp ấy bao giờ cũng hướng tới đối tượng cụ thể nào đó. Người được hướng tới

có trách nhiệm lắng nghe, tiếp nhận lời trao và có lời hồi đáp tương ứng. Như vậy,

TTTT bộc lộ tình cảm và vị thế của người tham gia giao tiếp. Đây cũng là một cách

thực hiện chức năng liên nhân trong hội thoại. Ví dụ: - Tôi trao đổi với anh vài phút

được chứ? - Vâng, được ạ!

2.1.2. Nhận diện tiểu từ tình thái về phương diện từ loại

Từ loại là lớp từ có cùng bản chất ngữ pháp, tức cùng ý nghĩa phạm trù, khả năng

kết hợp và khả năng đảm nhận chức năng ngữ pháp trong câu. Trong tiếng Việt, hệ

thống từ loại thường được phân chia thành hai nhóm: thực từ và hư từ, từ đó mỗi nhóm

lại phân chia thành các từ loại cụ thể, nhưng do quan niệm và tiêu chí phân chia không

giống nhau, các từ loại trong mỗi nhóm cũng như số lượng các từ loại cụ thể trong tiếng

Việt không có sự thống nhất trong sự phân chia của các tác giả. Riêng về TTTT, phần

đông các nhà nghiên cứu xem chúng thuộc nhóm hư từ nhưng một số tác giả xem chúng

là một nhóm riêng, bên cạnh nhóm thực từ và nhóm hư từ ([9], [44], [145]).

Nếu như trước năm 1954 các nhà nghiên cứu chưa đưa ra cơ sở để phân định từ

loại, nhưng có thể thấy nghĩa của từ là cơ sở để các tác giả phân chia từ loại. Sau năm

1954, vấn đề phân chia từ loại đã được xem xét một cách kĩ lưỡng hơn. Các nhà

nghiên cứu về từ loại đã căn cứ cả vào mặt ý nghĩa phạm trù lẫn khả năng kết hợp và

chức năng ngữ pháp của từ để phân định từ loại. Nhìn chung, phần đông các tác giả

đều phân từ loại tiếng Việt thành hai loại lớn: thực từ và hư từ. Thực từ, theo cách hiểu

48

chung, là từ có “nghĩa thực” (còn gọi “nghĩa từ vựng”), ý nghĩa của chúng tạo nên mối

liên hệ với sự vật, hiện tượng nhất định. Hư từ, trái lại, là những từ có “nghĩa hư”

(nghĩa ngữ pháp), loại nghĩa mà không thể nhờ nó làm sự liên hệ với sự vật, hiện

tượng nhưng có chức năng chỉ quan hệ ngữ pháp hoặc biểu thị thái độ, tình cảm. Cho

nên khi nói đến “nghĩa hư” là nói đến vai trò ngữ pháp của hư từ [171, tr. 86]. Một số

ít tác giả phân chia từ tiếng Việt thành ba loại, bên cạnh thực từ và hư từ còn có một

lớp từ khác độc lập với chúng. Đó là lớp từ biểu thị tình cảm thái độ của người nói với

nội dung phát ngôn và quan hệ của phát ngôn với thực tại. Nguyễn Kim Thản [145]

gọi đó là ngữ thái từ, nhóm các giả sách Ngữ pháp tiếng Việt (UBKHXH) [171] gọi là

trợ từ và cảm từ, còn Đinh Văn Đức [44] gọi là tình thái từ.

Như vậy, TTTT được phân định từ loại khác nhau. Khuynh hướng thứ nhất coi

TTTT không thuộc nhóm hư từ (như quan niệm của Nguyễn Kim Thản, Đinh Văn Đức

và nhóm tác giả Ngữ pháp tiếng Việt, UBKHXH). Khuynh hướng thứ hai, coi TTTT là

một loại thuộc nhóm hư từ (đây là quan niệm của phần đông các tác giả, như Nguyễn

Đức Dân, Phan Mạnh Hùng, Nguyễn Anh Quế, Hoàng Trọng Phiến, Nguyễn Minh

Thuyết, Diệp Quang Ban, Đỗ Thị Kim Liên,...).

Thuộc khuynh hướng thứ nhất, Nguyễn Kim Thản [145] phân các từ tiếng Việt

thành hai lớp chính: phi ngữ thái từ và ngữ thái từ. Thực từ và hư từ thuộc vào lớp phi

ngữ thái từ; còn ngữ thái từ gồm có ngữ khí từ (gồm có trợ từ và tiểu từ tình thái) và

thán từ. Đinh Văn Đức phân các từ tiếng Việt thành ba tập hợp cơ bản: thực từ, hư từ

và tình thái từ [44, tr.42].

Thuộc vào hướng thứ hai có nhiều tác giả và các tác giả đều nói rõ, TTTT thuộc

nhóm hư từ. Chẳng hạn, Phan Mạnh Hùng phát biểu: “Tiểu từ là hư từ biểu thị thái độ

của người nói đối với thực tại hoặc với đối tượng của phát ngôn” [73, tr.16]. Theo

Diệp Quang Ban: “Tiểu từ tình thái (modal particles) là lớp từ có tính chất hư rất cao,

phần lớn diễn đạt những sắc thái tình cảm rất tế nhị và dễ biến động trong mối quan hệ

với từ, tổ hợp từ mà chúng đi kèm” [9, tr.553].

Như vậy, trong quan niệm của các tác giả đi trước, vấn đề mối quan hệ, vị trí

của TTTT trong hệ thống từ loại tiếng Việt có nhiều điểm còn chưa thống nhất. Một số

tác giả phân định chúng thành một từ loại riêng, ngang bằng với những từ loại khác

như danh từ, động từ, tính từ,.. nhưng nhiều tác giả nhận thấy sự gần gũi về chức năng

49

ngữ nghĩa cũng như ngữ pháp của trợ từ và TTTT nên đã tập hợp chúng vào cùng một

nhóm. Trong luận án này, chúng tôi theo quan niệm xem TTTT thuộc nhóm hư từ.

Bởi, về ý nghĩa, các TTTT có đặc điểm không mang ý nghĩa từ vựng chân thực mà

mang ý nghĩa tình thái; về chức năng, các TTTT không làm thành phần chính và thành

phần phụ của câu mà chỉ xuất hiện trong câu để tạo câu theo mục đích nói: câu cầu

khiến, câu nghi vấn.

2.1.3. Tiêu chí cụ thể nhận diện TTTT và danh sách TTTT cuối phát ngôn

2.1.3.1. Tiêu chí nhận diện và danh sách các TTTT của các tác giả đi trước

Về tiêu chí phân chia cụ thể và số lượng TTTT, ý kiến của các nhà nghiên cứu

Việt ngữ học chưa thật thống nhất, có thể quy về các xu hướng chính như sau.

Nguyễn Anh Quế trong công trình viết về Hư từ tiếng Việt đã đưa ra một số

lượng ngữ khí từ gồm: à, ư, nhỉ, chứ, chăng, hả (hở, hử), đi, đã, thôi, nào, với, thay, ạ,

kia (cơ), vậy, nhé, mà, đây, đấy, này, ấy, đâu [135, 216- 219]). Tác giả đã nhập từ đâu

là đại từ vào nhóm TTTT. Thực chất trong danh sách của Nguyễn Anh Quế thì số

lượng TTTT chỉ còn có 21 từ.

Trong Nghiên cứu Việt ngữ, Glebova (dẫn theo [63, tr 62]) là người đã sớm

nghĩ đến một giải pháp phân loại các TTTT tiếng Việt dựa trên mục đích phát ngôn

điển hình do chúng biểu thị. Theo Glebova, các TTTT cuối câu (mà bà gọi là các “tiểu

từ câu”) được chia ra thành các loại nhỏ như sau:

Loại thứ nhất: Các TT được dùng chủ yếu trong những câu thuộc về một kiểu

chức năng nhất định, gồm hai tiểu nhóm: (a) Các TT dùng trong câu nghi vấn: à, hả,

hử, nhỉ, chăng, ru, chắc hẳn; (b) Các TT dùng trong câu cầu khiến: đi, nào, với, nhé...

Loại thứ hai: Các TT biểu thị quan hệ của người nói đối với hiện thực được

phản ánh, gồm các TT biểu thị các sắc thái biểu cảm, đánh giá: a, kia, vậy, mà, đâu,

đây, đấy, ấy, thế…..

Kế thừa kết quả phân loại của các tác giả đi trước và sau khi cân nhắc những

khả năng tiềm tàng cuả các TTTT cuối câu, Nguyễn Văn Hiệp [63] phân các TTTT

cuối câu thành ba nhóm.

Nhóm 1: Các TTTT được dùng khá ổn định trong một số kiểu hành vi nào đó.

Trong nội bộ nhóm này, có thể tiếp tục phân chia các TT theo kiểu hành vi ngôn ngữ

(hành vi tại lời) mà chúng biểu thị một cách điển hình và đã được ngữ pháp hóa thành

50

các cấu trúc ngôn ngữ tương đối ổn định. Trong nhóm 1 này có 3 tiểu nhóm: Các

TTTT chuyên dùng trong các câu hỏi: à, ư, nhỉ, chăng, phỏng, sao, hả, hẳn, chắc, hà;

Các TTTT chuyên dùng trong câu cầu khiến: đi, xem, với; Các TTTT chuyên dùng

trong câu trần thuật: thật, đấy, đây, rồi, ấy.

Nhóm 2: Các TTTT không có sự ổn định về kiểu hành vi mà chúng biểu thị, tùy

theo nội dung mệnh đề đi kèm (và tất nhiên, tùy theo tình huống được sử dụng) chúng

có thể biểu thị các kiểu hành vi đã được nêu ở nhóm (1) trên đây. Thuộc về nhóm này

là các TTTT cuối câu như: chứ, đã, nhé, vậy, thôi, cơ, kia.

Nhóm 3: Các TTTT không tham gia trực tiếp vào việc hình thành mục đích phát

ngôn mà chỉ thể hiện những nét nghĩa liên quan đến sự thúc dục nói chung hoặc quan

hệ giữa người nói và người nghe. Thuộc về nhóm này là tiểu từ thôi, ạ.

Danh sách TTTT của Nguyễn Văn Hiệp gồm 27 từ. Chúng tôi xem đây là

những TTTT toàn dân và sẽ chọn (có bổ sung) làm cơ sở để so sánh với TTTT trong

phương ngữ Nam Bộ (loại trừ từ phỏng là từ hiện tại ít sử dụng).

Đỗ Thị Kim Liên [92], dựa vào vai trò, chức năng của TTTT đối với các loại

phát ngôn (nghi vấn, mệnh lệnh, cầu khiến, khẳng định, bác bỏ,…) đã phân 20 TTTT

đứng cuối phát ngôn thành bốn nhóm: Nhóm 1: Các TTTT thể hiện thái độ nghi vấn: à,

ư, nhỉ, nhé, nhá, hả... Nhóm 2: Các TTTT thể hiện thái độ thúc giục, mệnh lệnh cầu

khiến: đi, lên, đã, nào, thôi, cái đã… Nhóm 3: Các TTTT đứng cuối phát ngôn trong

câu tường thuật thể hiện thái độ giải trình, giải thích nhằm làm rõ một điều gì đó cho

người nghe: đấy, thôi mà, cơ mà. Nhóm 4: Các TTTT đứng cuối phát ngôn trong câu

tường thuật thể hiện thái độ khẳng định hay bác bỏ: cơ mà, kia mà, mà lại, mà lị...

Diệp Quang Ban [9] gọi TTTT cuối câu là ngữ thái từ và chia chúng thành hai

lớp nhỏ là: Ngữ thái từ tạo kiến trúc thức (là ngữ thái từ làm phần thức chuyên dụng

trong cấu trúc thức) và ngữ thái từ diễn đạt các thái độ (khác với phần thức trong cấu

trúc thức) thường có những sắc thái nghĩa rất tinh tế, và nhiều khi một từ trong nó gồm

nhiều sắc thái nghĩa, không dễ miêu tả. Diệp Quang Ban đưa ra tổng số 26 TTTT (trong

đó các từ đây, ấy, này, nào (vốn là đại từ chỉ định và nghi vấn) cũng được dùng làm ngữ

thái từ với những ý nghĩa rất phức tạp; cụ thể: à, à, a, ư, hử, hở, hả, nhỉ, chăng, phỏng,

đi, nào, thôi, nhé, thay, thật, kia, vậy, mà, mà lại, mà lị, đây, đấy, ấy, này, nào.

Tác giả Nguyễn Kim Thản [145] đưa ra danh sách gồm 37 ngữ khí từ (tên gọi

51

chỉ TTTT mà tác giả sử dụng): - à, ư, nhỉ, hả (hở, hử) chứ, chăng, chắc, hẳn, phỏng,

ru, đi, thôi, nào, với, nhé, thay; - ạ, kia (cơ), vậy, mà, đâu, đây, đấy, thế, ấy, này, nào;

- cái, chính, đích, những, đến, lấy, ngay, ngay cả, cả, tận. Tác giả đã nhập nhóm trợ từ

cái, chính, đích, những, đến, lấy, ngay, ngay cả, cả, tận vào nhóm TTTT. Như vậy,

thực chất trong danh sách TTTT của Nguyễn Kim Thản còn lại 28 từ.

Phạm Thị Ly [100] tổng hợp danh sách gồm 40 TTTT cuối câu từ nghiên cứu

của 10 tác giả được thể hiện qua bảng 2.1 sau:

(Quy ước: (1): L.C Thompson, (2): Emeneau; (3): Solntcev; (4): Bystrov; (5): Glebova;

(6): Ng Kim Thản; (7): Ng Anh Quế: (8): Ng Văn Hiệp; (9): Phạm Hùng Việt; (10): Phạm Thị Ly)

(1)

(2)

(3)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

(10)

(4)

Bảng 2.1. Danh sách 40 TTTT cuối câu từ nghiên cứu của 10 tác giả

TT

TTTT

à

1

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

2

X

X

X

X

X

X

X

X

ấy

3

X

X

X

X

X

X

X

X

chăng

4

X

X

X

X

X

X

X

chắc

5

X

X

X

X

X

chứ

6

X

X

X

X

X

X

X

chưa

7

X

8

X

X

X

X

X

đã

9

X

X

X

X

đâu

10

X

X

X

X

đây

11

X

X

X

X

X

X

đấy

12

X

X

X

X

X

X

X

X

X

đi

13

X

X

X

X

X

X

X

14

X

hả

15

X

X

X

X

X

X

X

hử

16

X

X

hẳn

17

X

X

X

X

kia

18

X

X

X

X

X

X

X

X

kìa

19

X

X

20

không

X

21 mà

X

X

X

X

X

X

X

X

22 mất

X

X

23

nào

X

X

X

X

X

52

X

X

X

X

này

24

X

X

nghe

25

X

X

X

X

X

X

X

X

X

nhé

26

X

X

X

X

X

X

X

X

X

nhỉ

27

X

X

X

X

phỏng

28

X

X

rồi

29

X

X

X

ru

30

X

X

sao

31

X

X

sất

32

X

X

X

X

X

thế

33

X

X

X

X

X

thôi

34

X

X

thật

35

X

X

thay

36

X

X

X

X

X

X

X

ư

37

X

X

X

X

X

X

với

38

X

X

X

X

X

X

vậy

39

X

X

xem

40

Như vậy, nhìn lại tiêu chí nhận diện, cách phân chia và số lượng TTTT giữa các

tác giả trên, chúng ta thấy không có sự trùng khít. Thực tế đó cho thấy tính phức tạp

của lớp từ này, đó là còn chưa nói đến lớp TTTT trong các phương ngữ.

2.1.3.2. Tiêu chí nhận diện của luận án và danh sách TTTT cuối phát ngôn

trong giao tiếp của người Nam Bộ

a. Tiêu chí nhận diện

Từ các tiêu chí và kết quả phân loại từ của nhiều tác giả dẫn trên, luận án rút ra

các tiêu chí để nhận diện TTTT, theo đó TTTT có ba đặc điểm:

- Không có nghĩa từ vựng cũng không mang nghĩa phạm trù ngữ pháp mà chỉ

biểu hiện nghĩa tình thái - biểu thị cảm xúc, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với

nội dung thông báo và quan hệ của nội dung thông báo đối với thế giới khả hữu, cho

biết thế giới khả hữu đó là có thật hay không có thật, là tiềm năng hay đã xảy ra, là giả

định hay ước muốn, đồng tình hay nghi vấn, phủ định hay bác bỏ, hướng đến người

đối thoại mong muốn được cộng hưởng, đồng thuận hay bày tỏ ý kiến riêng khi tham

gia trong hành chức;

- Không sử dụng độc lập để trả lời cho câu hỏi;

53

- Trong câu có thể lược bỏ mà không làm thay đổi nội dung mệnh đề (nội dung lõi

miêu tả) nhưng sự có mặt của chúng tạo nên sắc thái nghĩa khác nhau cho phát ngôn.

Cùng với việc sử dụng các tiêu chí trên, luân án bổ sung, cụ thể hóa, nhấn mạnh

thêm các tiêu chí nhận diện TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB của

luận án là:

- TTTT là yếu tố đi kèm với phát ngôn miêu tả, đứng cuối phát ngôn. Phát ngôn

này giống như một hằng số, chưa thể hiện các tình thái khác nhau (kể cả dạng tường

thuật).

- Yếu tố được xem là TTTT phải thể hiện một thái độ nhất định của người nói

đối với người nghe.

- Yếu tố được xem là TTTT phải gắn với phát ngôn cụ thể xuất hiện trong một

ngữ cảnh, ngữ huống giao tiếp cụ thể.

- TTTT xuất hiện cuối phát ngôn (lõi miêu tả) có tác dụng biến phát ngôn từ

lõi mệnh đề có khả năng phản ánh và tác động, bộc lộ hướng thoại: nghi vấn, cầu

khiến, trần thuật, bác bỏ, từ chối,... Ví dụ: Bạn làm à. / Bạn làm ư. / Bạn làm mà /

Bạn làm vậy.

b. Hệ thống tiểu từ tình thái cuối phát ngôn được dùng trong giao tiếp của

người Nam Bộ

Chúng tôi tìm hiểu hệ thống TTTT cuối phát ngôn trong tiếng Việt toàn dân và

TTTT cuối phát ngôn được dùng trong giao tiếp của người NB trên ba phương diện: số

lượng, sự hành chức và ý nghĩa.

b1. Tiểu từ tình thái toàn dân

Vận dụng các tiêu chí nhận diện TTTT nêu trên, đối chiếu với từ trong Từ điển

tiếng Việt [127] và danh sách các TT nêu trong các công trình của các giả bàn về từ

tình thái mà chúng tôi đã dẫn trong phần tổng quan ở chương 1, luận án xin dẫn bảng

danh sách TTTT toàn dân gồm 29 đơn vị do Hoàng Thúy Hà [53, tr 50 -51] tổng hợp.

Đây là bảng TTTT toàn dân mang đặc điểm như tiêu chí nhân diện đã nêu và danh

sách đầy đủ hơn cả. Sau đây là bảng 2.2, gồm các TTTT toàn dân, kèm theo ví dụ mà

chúng tôi sưu tầm để minh họa:

54

Bảng 2.2. Danh sách TTTT trong tiếng Việt toàn dân

TT TTTT

Ví dụ

Có tiền việc ấy xong nhỉ. Đời trước làm quan cũng thế a? (Nguyễn 1 a Khuyến – Ngân hàng ngữ liệu tiếng Việt) (dẫn theo [53. tr. 50]).

2 Làm hai mà chẳng phải chịu à? (Nam Cao, Sống mòn, tr. 26). à

3 Em phải đi lấy chồng anh ạ! (Nam Cao, Đời thừa, tr. 31). ạ

Chúng tôi vừa nhai kẹo vừa cười cười nói nói, vui như ngày tết mặc áo

4 ấy kép mới và cái quần trúc bâu còn sột soạt chạy thi nhau trên đường để

đến mừng tuổi ấy. (Nam Cao, Đời thừa, tr.17, 18).

5 Bạn quen người ấy chắc. chắc

Cái sữa của thập phương quả có tốt hơn cái sữa của một người 6 chăng chăng? (Nam Cao, Đôi mắt, tr. 23).

7 Có phải con muốn lấy vợ thì để bà liệu cho? (Nam Cao, Đôi mắt, tr. 40). cho

Lương chúng mình ít thế, lấy tiền đâu mà thuê nhà? Em ích kỉ vừa vừa 8 chứ chứ! (Nam Cao, Sống mòn, tr. 30).

9 Thầy bảo con gì cơ? (Nam Cao, Đôi mắt, tr. 94). cơ

Các ông có dám đến không đã? (Nam Cao, Đôi mắt, tr. 60). 10 đã

Cam này coi bộ ngon đây. 11 đây

Ai, chứ với nó còn có họ kia đấy! (Nam Cao, tác phầm và lời bình, 12 đấy tr.25 ).

Thế rồi chúng mình đi. (Nam Cao, Sống mòn, tr. 22). 13 đi

Cô Tư đấy hả? (Nam Cao, Đời thừa, tr. 24). 14 hả

Chứ ông đi gặt hẳn? (Nam Cao, Đôi mắt, tr. 59). 15 hẳn

Nó vẫn mãi thế hử? 16 hử

Ở đây đông quá hỉ? Vui quá hỉ! 17 hỉ

Mặt nó sưng lên bằng cái lệnh, chẳng còn trông thấy mắt, và mụn thì 18 kia đầy lên kia! (Nam Cao, Đôi mắt, tr. 88)

55

Nghỉ những ba tháng kia mà? (Nam Cao, Đời thừa, tr.66) 19 mà

Tôi nói thế chứ đời nào! (Nam Cao, Sống mòn, tr. 27) 20 nào

Vợ chồng nhà tôi làm gì ông mà ông làm khổ vợ chồng nhà tôi thế 21 này này! (Nam Cao, Đôi mắt, tr.123).

Chúng mày cứ đi đi. Cứ đi đi nhé ! (Nam Cao, Đời thừa, tr. 18) 22 nhé

Chết nhỉ? (Nam Cao, Đời thừa, tr.37) 23 nhỉ

Bà nhạc anh không chịu cho anh tiền học nữa. Có thế thôi. (Nam Cao, 24 thôi Sống mòn, tr.28)

25 Sao lại vô lí thế? (Nam Cao, Sống mòn, tr. 8) thế

Mình làm việc đến gần kiệt sức mà tình cảnh cũng không thể hơn thế 26 ư này ư? (Nam Cao, Sống mòn, tr.7)

Tại sao trước mặt y, chúng ta vẫn không thể đùa nghịch tự nhiên vậy? 27 vậy (Nam Cao, Sống mòn, tr.11)

Chị có việc gì cho tôi làm với 28 với

chứ Đừng… phải tội… Yêu chứ lị! (Nam Cao, Đời thừa, tr. 71) 29 lại/lị

b2. Tiểu từ tình thái dùng trong phương ngữ Nam Bộ

Khảo sát các TTTT trong phát ngôn của người NB, chúng tôi gặp các đơn vị

tình thái được dùng có thể là từ nhưng cũng có thể là dạng thức của từ. Nếu đơn vị tình

thái là hình thức biến âm của từ, chúng có nghĩa tương đồng thì chúng tôi xem đó là

dạng thức của một từ; nếu các đơn vị đó khác nghĩa thì chúng tôi xem là hai từ.

Qua khảo sát, thống kê, chúng tôi gặp 87 TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp

của người NB, bao gồm 32 TTTT toàn dân và 55 TTTT PNNB, trong đó có hai dạng:

TTTT đơn và TTTT kết hợp. TTTT đơn: là hiện tượng TTTT xuất hiện trong phát ngôn

dạng cấu tạo đơn tiết. Ví dụ: há, hà, nhen, nghen, hôn, hông…; TTTT kết hợp (tổ hợp,

phối kết): là hiện tượng cuối câu (phát ngôn) các yếu tố kết hợp với nhau tạo thành các

tổ hợp TTTT gồm hai hoặc hơn hai thành tố. Ví dụ: mèn ơi, chớ bộ, thấy mồ,…

Kết quả cụ thể như sau:

- Có 40 TTTT đơn xuất hiện trong giao tiếp của người NB, trong đó có:

56

+ 19 TTTT toàn dân được người NB dùng là à, ạ, cơ, chắc, chớ, chứ, đã, đây,

đấy, đi, mà, nào, nhé, nhỉ, hả /há/ha, thôi, vậy, với, ư.

+ 21 TTTT đơn tiêu biểu cho tiếng NB là: cà, chi, chớ, coi, đa, hà, há, he, hè,

hen, hén, hôn, hông, mợi, nè, nhen, nghe, nghen, lận, ơi, ta.

Trong 40 TTTT đơn được người NB dùng nêu trên, có hai dạng biến thể: a) các biến thể phương ngữ, các yếu tố đều là phương ngữ, chúng tạo thành cặp là: hen/hén; hôn/hông;

nghen/nghe, nhen; he/hè và b) biến thể đều là yếu tố toàn dân: chớ/chứ; hả /há, ha.

- Có 47 TTTT tổ hợp được dùng cuối phát ngôn, trong đó có:

+ 13 TTTT tổ hợp toàn dân là: chắc à, cho mà, cơ mà, cơ đấy, đi mà, nào hả,

thôi à, vậy đi, vậy hả, vậy mà, vậy thôi, với nhé;

+ 34 TTTT tổ hợp PNNB là: à nha, chi dzậy, chớ/chứ gì, chớ sao, đó hả, đó

mà, đó nha, à nhen, hông đây, hông hả, hông hà, hông nè, hông ta, nữa chớ, nữa

đó, nữa hả, nữa hen, rồi đa, rồi nghen, rồi hen, rồi hà, lận nè, rồi há, sao nè, sao há, thôi nghen, thôi nghe, dzậy đó, nè mợi, lận mợi, dzậy nghen, mèn ơi, chớ bộ,

thấy mồ.

Như vậy, TTTT được người NB dùng cuối phát ngôn có số lượng rất phong

phú (87 đơn vị) với hai loại cấu tạo, cấu tạo đơn (40 từ, 45,98%) và cấu tạo tổ hợp (47

đơn vị, 54,02%), gồm cả TTTT toàn dân và TTTT phương ngữ, trong đó TTTT

phương ngữ có số lượng và tỉ lệ gần gấp đôi TTTT toàn dân (55 đơn vị chiếm 63,21%

so với 32 đơn vị, chiếm 36,78%).

2.2. Ngữ nghĩa của tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của

người Nam Bộ

2.2.1. Các TTTT đơn được dùng trong giao tiếp của người Nam Bộ Trong 8531 cuộc thoại của người NB đã điều tra được, chúng tôi tiến hành đối

chiếu các TTTT cuối phát ngôn xuất hiện trong giao tiếp của người NB với các nhóm

TTTT cuối phát ngôn trong tiếng Việt toàn dân, chúng tôi phân ra các tiểu nhóm:

1).TTTT trùng với từ trong tiếng Việt toàn dân; 2). TTTT toàn dân được dùng trong phương ngữ có sự khác biệt ít nhiều về nghĩa; 3). TTTT là biến thể về âm và nghĩa - những TTTT tiêu biểu cho tiếng địa phương NB.

2.2.1.1. Các tiểu từ tình thái đơn toàn dân dùng ở Nam Bộ

a). Nhóm các tiểu từ tình thái đơn trùng với tiếng Việt toàn dân

Khảo sát phát ngôn của người NB, chúng tôi thấy xuất hiện 19 TTTT có âm và

nghĩa như trong tiếng Việt toàn dân là: à, ạ, chắc, cho, chứ, cơ, đã, đây, đấy, đi, mà,

nào, nhé, nhỉ, hả, thôi, vậy, với, ư.

57

Bảng 2.3. Danh sách TTTT đơn toàn dân được dùng ở Nam Bộ

TT TTTT Nghĩa theo từ điển tiếng Việt

1 à Ví dụ từ dùng ở Nam Bộ Ché đi chợ à? Ché có ghé tiệm làm móng (dò) giò à?

2 Con có thể giúp gì cho cô ạ? ạ

3 chắc Lon cá Rô này tám ngàn rưỡi chắc?

4 cho Để tui bơi đằng trước cho. Thím thông cảm cho.

5 chứ

- Vẫn đương long mốt chứ? - Bà quen tay chứ?- Có thế chứ.

6 cơ

7 đã Em thích chè bắp cơ. Đóng cửa sổ lại đã. Mời anh uống nước đã.

8 đây Nó tót bàng đều tay coi ngon đây.

9 đấy Tao với mày mai đi xúc cá lia thia đấy.

Mới vô mánh, nhậu đi. 10 đi

11 mà Tui đã nói mà! Nó đi ba ngày mà! Lì quá mà.

12 nào Làm gì gấp gáp dữ vô đây làm vài li nào! Từ biểu thị ý hỏi thân mật để rõ thêm về điều gì đó Từ biểu thị lễ độ (kính trọng) hoặc thân mật khi nói chuyện với ai Từ biểu thị ý muốn hỏi, tỏ ra nửa tin nửa ngờ, có phần ngạc nhiên Từ biểu thị một đề nghị, một yêu cầu, với mong muốn có sự đồng ý, thông cảm Từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm một điều vừa khẳng định hoặc yêu cầu, cho là không có khẳng năng ngược lại Từ biểu thị ý thân mật Từ biểu thị ý khẳng định hay đề nghị ai làm việc gì đó. Từ biểu thị ý nhấn mạnh về tính chất hiện diện, cụ thể của cái, điều vừa được nói đến. Từ biểu thị ý nhấn mạnh sự băn khoăn của người nói về điều vừa nêu ra như để tự hỏi mình Từ biểu thị ý nhấn mạnh về tính chất xác định, đích xác của điều được nói đến. Từ biểu thị ý mệnh lệnh hoặc đề nghị, thúc dục một cách thân mật. Từ dùng ở cuối câu trong lối nói lửng, biểu thị ý khẳng định - thuyết phục hoặc giải thích, với một hàm ý để cho người đối thoại tự suy ra Từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm về điều vừa nêu ra với người đối thoại, với ý thuyết phục hay ra lệnh

58

Từ biểu thị ý nhấn mạnh một cách

thân mật để người đối thoại chú ý

đến lời nói của mình. Tụi bây tự nhiên nhé. 13 nhé Ăn ca cao nhớ để hột lại nhé.

từ biểu thị ý nhấn mạnh vào lồi đề nghị, dặn dò, bảo ban, hứa hẹn…

một cách thân mật.

Từ biểu thị ý khẳng định nhẹ nhàng

Sao anh Tư lại ở lì trong về điều vừa mới nhận ra và nêu ra để tỏ sự đồng ý với người đối thoại 14 nhỉ `trỏng nhỉ? hoặc để tranh thủ sự đồng ý, biểu thị

ý thân mật

Từ biểu thị ý hỏi về thái độ thân mật, nhằm xác định thêm điều mình Mười hái đậu búng rồi hả? 15 hả

đang nghi vấn.

Từ biểu thị ý nhấn mạnh sự miễn

cưỡng đồng ý hoặc chấp nhận điều Hột rau muống còn bi nhiêu 16 thôi được nói đến, vì người nói thấy cũng thôi.

khó có ý kiến gì thêm được nữa

Từ dùng để nhấn mạnh tính chất cụ Ít quá, tùy theo tình hình sẽ thể của điều muốn hỏi, gắn liền với 17 vậy tính vậy. hiện thực đã biết

Từ biểu thị ý nhấn mạnh một đề nghị. Cho tui hái nhãn lồng với. 18 với

Từ biểu thị ý hỏi, tỏ ra hơi lấy làm lạ Đầy nhóc rồi sao nó vẫn chất 19 ư hoặc còn băn khoăn. thêm ư?

b). Nhóm các TTTT đơn toàn dân dùng trong giao tiếp của người Nam Bộ có sự

khác biệt ít nhiều về nghĩa và cách dùng

Trong danh sách 19 TTTT đơn trùng với tiếng Việt toàn dân về ngữ âm có 6

TTTT ạ, nhé, đây, chứ, hả, vậy khi dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp ở địa phương

NB có khác về nghĩa và cách dùng so với ngôn ngữ toàn dân. Vì thế, chúng tôi miêu tả

về 6 TTTT này trong giao tiếp của người NB.

Theo tư liệu khảo sát hội thoại, chúng tôi thống kê được số lượng 413 lượt dùng

TTTT toàn dân ạ, nhé, đây, chứ, hả, vậy. Kết quả tổng hợp được thể hiện cụ thể ở

bảng 2.4 sau:

59

Bảng 2.4. Tỉ lệ tần số sử dụng TTTT “ạ”, “nhé”, “đây”, “chứ”, “hả”, “vậy”

Tổng Môi trường công sở, Môi trường Tiểu từ TT số trường học gia đình, bạn bè thân tình thái lượt Số lượt Tỷ lệ % Số lượt Tỷ lệ %

1 60 51 85 9 15 ạ

2 62 47 76 15 24 nhé

3 66 48 73 18 27 đây

4 75 56 75 19 25 chứ

5 73 51 70 22 30 hả

6 77 52 68 25 32 vậy

Tổng 413 305 74% 108 26%

Từ kết quả thống kê phân loại tổng hợp ở bảng 2.6 trên, có thể nhận xét các

TTTT toàn dân ạ, nhé, đây, chứ, hả, vậy cũng được người NB dùng cuối phát ngôn

trong giao tiếp ở công sở trường học và trong gia đình, giữa những người bạn thân với

những mức độ phổ biến khác nhau. Các TTTT này chủ yếu được dùng trong giao tiếp

ở môi trường cơ quan trường học (chiếm74 %); ngược lại trong giao tiếp giữa các

thành viên trong gia đình và giữa những người bạn thân, các TTTT ạ, nhé, đây, chứ,

hả, vậy ít được dùng (chiếm 26%).

Trong số 6 TTTT nói trên, mức độ dùng của các từ cũng không như nhau. Trong

cơ quan, trường học, ạ được dùng với tần số cao nhất (85%), các từ nhé, chứ, đây được

dùng với tần số trung bình (74%), hả và vậy được dùng với tỉ lệ thấp nhất (70 và 68%).

Trong giao tiếp gia đình và giữa những người bạn thân, ạ ít được dùng nhất (15%), tiếp

đến là nhé (24%), chứ (25%); được dùng nhiều nhất là vậy (32%), hả (30%).

Xét cụ thể nghĩa và cách dùng của từng TTTT, chúng tôi thấy chúng có những

điểm giống và khác so với cách dùng trong ngôn ngữ toàn dân. Mỗi TTTT trong các

ngữ cảnh khác nhau thường có những chức năng khác nhau. Cụ thể:

TTTT ạ: Ạ khi được dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB ở cơ

quan trường học thường để thể hiện sự kính trọng, lễ phép khi mời, chào hỏi. Ví dụ:

<31> Lan (27 tuổi): Con mời cô dùng cơm ạ!

Bà Phong (47 tuổi): Được rồi con, cảm ơn nhé!

<32> Linh (26 tuổi): Chào chú ạ, chú cần gì ạ?

Ông Thông (54 tuổi): Con chuyển khoản vào số này dùm chú.

60

TTTT “ạ” (trong các hội thoại (31), (32) trên được sử dụng ở phương ngữ NB

trong phạm vi giao tiếp giữa người có tuổi nhỏ, địa vị thấp với người có tuổi hoặc địa

vị cao hơn, trong cơ quan nhà nước. Cách dùng này giống như cách dùng phổ biến ở

các vùng miền khác.

Trong ngôn ngữ toàn dân, TTTT “ạ” được dùng liền sau từ hô gọi. Nó chủ yếu được người ít tuổi, địa vị thấp dùng với người có tuổi hay địa vị cao hơn mình (NB

cũng có cách dùng này). Ngoài ra, ạ cũng có thể được người cao tuổi hoặc có địa vị

dùng trong hoàn cảnh giao tiếp với người tuổi ít hoặc địa vị thấp hơn nhưng là người

thân tình, nhằm thể hiện sự thân tình của người nói và người đối thoại. Ví dụ:

<33> Nam: Lấy bao nhiêu bộ hồ sơ của công ty T, chú?

Ông Khoa: Chỉ hai bộ thôi em ạ.

Nét khác trong giao tiếp của người NB ở cơ quan trường học, khi dùng ạ là

người có địa vị và tuổi cao dùng ạ cuối phát ngôn một cách rất phổ biến và tự nhiên

với đối tượng tuổi và địa vị thấp hơn mình, mặc dù giữa họ chưa có mối quan hệ thân

thiết. Chính cách dùng này góp phần tạo không khí trao đổi ấm cúng, tình cảm, lịch sự.

Chẳng hạn:

<34> Bà Loan: Hợp đồng giữ lại một bản đi em ạ.

Trang: Dạ, con biết rồi cô.

Hay, ạ có thể được người có địa vị và tuổi cao hơn dùng trong phát ngôn hỏi

nhưng gián tiếp là đánh giá, thái độ hoài nghi. Ví dụ:

Bà Loan: Trang nó làm như vậy, nhưng qua ký hợp đồng lần này, cô sợ thua

bên B đó Anh ạ ? (Anh là người ít tuổi hơn bà Loan, không quen thân).

Tương tự, trong tình huống giao tiếp sau, chúng tôi nhận thấy TTTT “ạ” dùng

trực tiếp để hỏi nhưng hàm ý là để kết thúc, khẳng định:

Trang: Vậy gặp nhau lúc 16g30 ạ?

Như vậy, có thể thấy ạ dùng trong giao tiếp của người NB là TTTT đa chức

năng - tùy theo tình huống giao tiếp chúng sẽ biểu thị ý nghĩa khác nhau trong các hành vi khác nhau: ạ (1) là lời chào lịch sự thân mật nhưng ạ (2) là hành động hỏi. Nghĩa và cách dùng của ạ trong hai tình huống giao tiếp này là giống với cách dùng của người các vùng khác. Sự khác biệt của TTTT ạ khi dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp ở cơ quan trường học chỉ là người địa vị, tuổi cao hơn vẫn dùng ạ để giao tiếp với người nhỏ tuổi địa vị thấp hơn mình, nhằm thể hiện sự thân thiện về tình cảm.

Một điểm khác biệt khác nữa về cách dùng ạ trong giao tiếp là ạ không xuất

hiện nhiều ở các tình huống phạm vi giao tiếp gia đình hay giữa bạn bè thân thiết.

61

Phiếu điều tra của chúng tôi cho thấy, trong gia đình, người hàng trên (ông, bà, bác,

chú, cô, dì,…) không dùng TTTT ạ ở cuối phát ngôn để giao tiếp với người nhà thuộc

hàng dưới (con, cháu,…). TTTT ạ cũng được đối tượng hàng dưới trong gia đình dùng

với người nhà thuộc hàng trên, nhưng không nhiều và thường xuyên. Thỉnh thoảng

trong các phiếu điền dã chúng tôi ghi được mới thấy TTTT ạ xuất hiện trong hành

động chào, hỏi của những người nhỏ tuổi với người hàng trên. Trong giao tiếp gia đình

và giữa những người thân thiết, người NB quen dùng các TTTT Nam Bộ có nghĩa

tương đồng với TTTT toàn dân tương ứng. Chẳng hạn:

Tiểu từ tình thái toàn dân Tiểu từ tình thái Nam Bộ

Trời nắng lắm, nhớ đem theo ô con ạ. Trời nắng lắm, nhớ đem theo dù con nhen.

-> Lời dặn dò, tình cảm -> Lời dặn dò, tình cảm

-> Người nói trên hàng, thân mật -> Người nói trên hàng, thân mật

Như vậy, khi giao tiếp mang tính nghi thức nơi công sở, người NB vẫn sử dụng

TTTT toàn dân nhưng khi giao tiếp đời thường họ lại dùng TTTT mang màu sắc NB

để tạo không khí gần gũi, đơn giản, tình cảm, bộc trực:

Trong cơ quan, trường học Ngoài cơ quan trường học

- Cả công sở hồi nãy vui lắm nhé - Cả công sở hồi nãy vui lắm nghen.

-> Trần thuật sự việc -> Trần thuật sự việc

Đối với các TTTT nhé, đây, chứ, hả, vậy, về cơ bản nghĩa TT được dùng như

trong ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cách dùng và phạm vi, môi trường giao tiếp dùng các

TTTT này là có sự phân biệt. Khi giao tiếp mang tính nghi thức nơi công sở người NB

vẫn sử dụng TTTT toàn dân nhưng khi giao tiếp trong cuộc sống đời thường họ lại

dùng TTTT mang màu sắc NB, gần gũi, tình cảm, bộc trực. Trong gia đình, giữa

những người thân nhau trong sinh hoạt đời thường, các TTTT toàn dân này hầu như

không được dùng. Nghĩa và cách dùng của các TTTT toàn dân trong giao tiếp của

người NB như sau:

TTTT nhé

Trong cơ quan, trường học, giữa những người giao tiếp, vai xã hội khác nhau,

tuổi tác, địa vị khác nhau đều dùng được TTTT nhé một cách khá thoải mái, tự nhiên

và không có sự phân biệt về mức độ thân quen hay không thân quen. TTTT nhé được

dùng trong các phát ngôn có hành vi khác nhau, khá đa dạng, nhưng bao giờ cũng thể

hiện sắc thái tình cảm thân mật.

62

- Yêu cầu:

<35> Cô Lan (32 tuổi): Thầy làm bảng lương này nhé!

Thầy Thạnh (32 tuổi): À, sẽ xong ngay mà (Đồng nghiệp).

Ở ví dụ này, người nói và người nghe đồng tuổi, yêu cầu hoàn thành việc một

cách thân thiện.

- Dặn dò:

<36> Tùng (27 tuổi, trưởng phòng bảo vệ): Dượng Hai nhớ khóa cửa kĩ nhé!

Dượng Hai (48 tuổi, thủ kho): Con yên chí, có tới hai ổ khóa.

Người nói ít tuổi dặn dò nhẹ nhàng, lịch sự đối với người lớn tuổi hơn nhưng có

chức vụ thấp hơn.

- Thông báo:

<37> Ông Bảy (57 tuổi): Nhờ có thằng Tín kịp thời kêu xe mà cả tấn sầu riêng

giao kịp thời đó nhé.

Tín (36 tuổi): Ồ, nghề của con mà, quá khen, quá khen.

- Đe nẹt:

<38> Bà Linh (60 tuổi): Lần sau không đóng dấu lung tung nữa nhé!

Liên (22 tuổi): Dạ, xin lỗi, con ghi nhớ.

(Sân Công ty lữ hành Cửu Long)

TTTT đây

- Đây được dùng trong phát ngôn độc thoại, tự hỏi mình nhưng người khác

nghe có thể trả lời hoặc là lời chào tạm biệt.

<39> An: (xuống xe) Thôi, tao đi đây.

Cả nhóm: Đang ngồi chung taxi im lặng.

Loan (lẩm bẩm): Nó giận đi rồi, biết đi đường nào mà lần đây.

(Đồng nghiệp cùng độ tuổi khoảng 25-30)

TTTT chứ:

- “Chứ” được dùng để hỏi

<40> Bình (17 tuổi): Cho tui đi chứ?

Vinh (17 tuổi): Ừ, cùng đi mà.

(Ngữ cảnh: Trong thư viện trường phổ thông)

- Hay khẳng định: Ở dạng hỏi để xác nhận thêm:

<41> Bình: Cuốn sách này đẹp chứ !

Vinh: Thì đẹp.

63

TTTT hả

“Hả” được dùng khi người hỏi muốn xác định lại sự việc mình suy nghĩ (như

tình huống chuông cửa reo inh ỏi):

<42> Cô Hoa: Ai đấy? Ân hả?

Ân: Dạ.

Theo Phạm Hùng Việt: Có một điều kiện dùng trợ từ “hả” nghĩa là xét về mặt

tôn ti, người nói phải có thứ bậc về tuổi tác, địa vị... cao hơn hoặc ngang bằng so với

người đối thoại. Trong trường hợp ngược lại người nói sẽ bị coi là vô lễ, bất

nhã”[176, tr. 166]. Tuy nhiên ở NB, có nét khác biệt, người hàng dưới dùng TTTT

“hả” rất tự nhiên, thoải mái để hỏi người thuộc hàng trên mà không bị xem là vô lễ, bất

nhã. Chẳng hạn:

<43> Vinh (18 tuổi): Ba về rồi hả? Con chờ nãy giờ.

Ba (64 tuổi): Tao vòng qua rước thằng Mận luôn nên mới lâu vậy.

(Ngữ cảnh: Buổi chiều ở một gia đình huyện Cai Lậy).

<44> Hay: Huy (36 tuổi): Dượng Năm đi lên huyện hả?

Dượng Năm (49 tuổi): Bây hả. Đi bơm nước à, tao đi sớm về sớm.

(Ngữ cảnh: Hàng xóm đi ngang qua ruộng chào hỏi nhau)

Đây cũng có thể là lời chào hỏi nhiệt tình theo kiểu xã giao giữa xóm giềng với nhau.

TTTT “hả” được dùng khá nhiều trong sinh hoạt gia đình khi người lớn khó

chịu hay nóng giận với người nhỏ tuổi:

<45> Má (47 tuổi): Má nói hoài sao con không nghe hả?

Con (12 tuổi): (ngồi im, không dám trả lời).

Trong trường hợp người lớn, hàng trên, lớn tiếng la rầy, người hàng dưới không

dùng TTTT “hả” để hỏi lại hay trả lời. Nếu dùng “hả” để hỏi hay tỏ thái độ ngạc nhiên

cũng bị vi phạm phương châm hội thoại. Nhưng hoàn cảnh giao tiếp khác, khi tỏ thái

độ ngạc nhiên, bất ngờ về điều gì đó, người hàng dưới dùng TTTT “hả” với hàng trên

là bình thường. Chẳng hạn như:

<46> Bà Bảy (54 tuổi): Con cân cho dì Bảy 10 kg mướp.

Bông (25 tuổi): Dạ, hả?

Dì Bảy: Sao con?

Bông: Nhiều dữ vậy dì? Nhà có khách sao?

TTTT vậy

- Tỏ ý bất mãn với ý kiến nào đó, hay không đồng tình với sự việc diễn ra:

64

<47> A (22 tuổi): Cơ quan thông báo ngày mai đi tập huấn PCCC.

B (24 tuổi): Tháng trước có đi rồi mà.

A: Thôi vậy. Đành nhờ nội coi con vậy.

(Ngữ cảnh: Căng tin bệnh viện Giồng Trôm).

- Hay thể hiện sự chấp nhận lựa chọn:

<48> Thiên (29 tuổi): Số thứ tự 24 rồi, còn 7 số nữa tới mình.

Thiện (30 tuổi): Thôi, phải chờ vậy.

(Ngữ cảnh: Ngân hàng BIDV huyện Bình Minh).

- Dùng như một câu hỏi nhưng mục đích là nhận xét:

<49> A: Phòng xét nghiệm đằng kia mà đi lâu vậy?

B: Ai đi lâu vậy.

A: Nói bà chứ ai.

(Ngữ cảnh: 02 nữ y tá bệnh viện Tỉnh đang nói chuyện trong ca trực).

- Ca ngợi hay khẳng định, nhấn mạnh, hàm ý phải làm theo:

<50> Cô Loan (27 tuổi): Đẹp quá vậy!

Cô Nguyên (30 tuổi): Em vẽ đó chị.

Cô Loan: Ồ hay quá, theo mẫu này vậy.

(Ngữ cảnh: Phòng giáo viên THPT)

Đi về miệt Cần Thơ hay hầu như các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long chúng tôi

ghi nhận được người miền Nam dùng TTTT “vậy” khá nhiều như ở bảng thống kê 2.2.

Dù vậy, khi nghe giọng nói, âm không còn đúng chuẩn, TTTT “vậy” biến âm thành

“dzậy”. Nhất là khi ghi chép thu thập ở vùng nông thôn, trong sinh hoạt hàng ngày,

chúng tôi thấy người NB đều dùng “dzậy” thay vì dùng “vậy”. Có thể xem đây cũng là

một hiện tượng biến âm của TTTT “vậy”.

c). Nhóm các tiểu từ tình thái là biến thể ngữ âm của từ toàn dân

Biến âm là một hiện tượng phổ quát của ngôn ngữ nhưng ngôn ngữ mỗi dân

tộc, mỗi vùng có mức độ biến âm khác nhau và có những đặc trưng biến âm riêng.

Tiếng Việt nói chung và PNNB nói riêng cũng vậy. PNNB có 7 TTTT là biến âm của

từ toàn dân là: á (à), chớ (chứ), dzậy (vậy), đó (đấy), nha (nhé), nhe (nhé), ha (hả), thể

hiện cụ thể ở bảng tổng hợp 2.5:

65

Bảng 2.5. Các TTTT biến âm của từ toàn dân

TTTT TTTT Nghĩa theo từ điển Ví dụ TT TD biến âm

Bộ hết giận rồi á - (à) (ạ)? 1 à (ạ) á Biểu thị ý hỏi thân mật để rõ thêm về điều gì đó.

Từ biểu thị ý ít nhiều đã khẳng Dòm qua dòm lại thi phải

2 chứ chớ định về điều nêu ra để hỏi, tựa mần được chớ - (chứ) ?

như chỉ là để xác định thêm.

Từ biểu thị ý nhấn mạnh về Mày bẻ lái qua phải, coi

3 đấy đó tính chất hiện diện của người, chừng đất bồi không đó

cái, điều vừa được nói đến. (đấy) !

Từ biểu thị ý nhấn mạnh một Dồn hết đám cam sành vào

4 nhé nha cách thân mật để người đối thoại bị bàng nha - (nhé)!

chú ý đến lời nói của mình.

Từ biểu thị ý nhấn mạnh vào Con chở mợ Hai qua lộ

5 nhé nhe lồi đề nghị, dặn dò, bảo ban, nhe - (nhé).

hứa hẹn… một cách thân mật.

Từ dùng để nhấn mạnh tính Chèn ơi, lụm từ sáng đến

6 vậy dzây chất cụ thể của điều muốn hỏi giờ được nhiêu ? Thôi, tui

gắn liền với hiện thực đã biết lấy trái bàng dzậy (vậy) !

Từ dùng để biểu thị tính thân Má hông dặn cưng ha - 7 hả ha mật khi hỏi một điều gì. (hả) chị Hai

Từ “á” trong PNNB là biến thể ngữ âm của “à” và “ạ” trong ngôn ngữ toàn dân. Ví dụ: Con đi mần công ty á (à)? thì nghĩa của á ở đây là từ biểu thị ý hỏi, hơi lấy làm

lạ hoặc hơi mỉa mai.

- Từ chớ là biến âm của chứ. Từ chứ theo nghĩa từ điển [127] mang hai sắc thái nghĩa tình thái khác nhau. Nghĩa 1) biểu thị ý ít nhiều đã khẳng định về điều nêu ra để hỏi, tựa như chỉ là để xác định thêm”. Nghĩa 2) từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm điều vừa khẳng định hoặc yêu cầu, cho là không có khả năng. Từ chớ mang ý nghĩa thứ nhất của chứ; tuy nhiên, nó biểu hiện nhiều ý nghĩa, nét nghĩa tình thái khác như:

TTTT cuối phát ngôn chớ bổ sung nét nghĩa khẳng định chủ quan về nội dung được đề cập đến trong câu nghi vấn. “Coi bộ ở Cái Thia người ta trồng kiểng được

quá chớ?. “Mận, mày nghe người ta đồn chớ?”. Chớ nhấn mạnh tính chính xác về nội

66

dung của câu nghi vấn nhưng thực chất người nói mong muốn người khác tán thành,

đồng tình với quan điểm với mình. Ở đây, thông qua nội dung nghi vấn, người nói

muốn khẳng định chắc chắn nội dung đã nêu. TTTT chớ còn giúp người nói thể hiện

được tính gần gũi, thân mật, lịch sự trong quá trình giao tiếp. Người nghe cảm thấy

thân thiện nên dễ dàng hồi đáp thông tin cho người nói. TTTT chớ mang nét đặc trưng trong giao tiếp của người phương Nam. Tuy nhiên, giữa chớ và chứ không thể thay thế

được trong một số ngữ cảnh, vì giữa chúng có một số nét nghĩa khác nhau. Chớ được

phát âm với ngữ điệu hơi kéo dài rồi ngừng hẳn. Ngữ điệu được thể hiện có tác dụng

nhấn mạnh nội dung được nói đến. Người NB hay dùng chớ hoặc hông để hỏi, rất ít sử dụng không.

Chớ mang ý đòi hỏi, lời đề nghị, nhắc nhở: “Cắt cả mớ đọt bầu mà, đem theo

bội chớ.” Trong giao tiếp, TTTT chớ luôn được thực hiện ở vai người nói. Mối quan

hệ giữa người nói và người nghe thường ngang nhau. Chớ trong nghi vấn, có ý nghĩa

như để khẳng định và muốn người khác tán thành ý kiến của mình đã nêu. Vấn đề

được đề cập trong phát ngôn là vấn đề mà người nói đã biết chắc chắn.

Ngoài ra, trong giao tiếp, TTTT cuối phát ngôn chớ có thể kết hợp với sao, hoài

sao (đứng trước) và với gì (đứng sau), tạo thành tổ hợp TTTT cuối phát ngôn chớ gì,

sao chớ, hoài sao chớ. “Nó đào một rãnh một phát vá nào cũng không chịu nổi chớ

gì?. “Đốt nhang muỗi lẹ lẹ, chậm là muỗi thui tui sao chớ?”.“Tụi mình đi lợi đằng

đẳng đi, bộ định đứng đây hoài sao chớ?”.

TTTT cuối phát ngôn chớ phối kết thành các tổ hợp từ chớ gì, sao chớ, hoài sao

chớ, còn TTTT cuối phát ngôn chứ thì kết hợp với các từ lị, nhỉ, ạ tạo thành các tổ hợp

từ chứ lị, chứ nhỉ, chứ ạ. Ngược lại, trong thói quen dùng của người NB, chớ không

kết hợp với lị, nhỉ, ạ và chứ thì không kết hợp với sao.

- Từ đó là biến âm của đấy. TTTT đó dùng để biểu thị ý nhấn mạnh về tính chất

xác định, đích xác của điều được nói đến. Nếu phát ngôn tường thuật có đó được thể

hiện với ngữ điệu kết thúc cao và hơi hạ thấp giọng ở vị trí cuối câu, trọng âm được nhấn mạnh ở ngay đó. “Con út nó đi tỉnh hồi mơi, tui cho phép đó”.

Trong giao tiếp, TTTT đó có thể kết hợp với thôi ở phía sau để tạo thành tổ hợp tình thái đó thôi bổ sung cho phát ngôn nét nghĩa biểu thị ý nhấn mạnh về một mức độ nhiều, nhấn mạnh tính chất của sự việc. Ví dụ : “Bà nói làm chi, đám bắp của hai Tới cũng thất trắng đó thôi.”

Từ “ha” là biến thể ngữ âm của “hả”. Ví dụ: Mày không ăn cơm ha Thiện?, thì

nghĩa của ha ở đây là từ biểu thị ý hỏi, mang sắc thái thân mật.

67

Các từ à, chớ, đó, nha, nhe, dzậy, ha đều là biến thể ngữ âm của từ tiếng Việt toàn dân á, chứ, đây, nhé, vậy nên về sắc thái ngữ nghĩa, chúng được hiểu như TTTT toàn dân tương đương. Tuy nhiên, chúng có sự khác biệt nhất định khi dùng để giao tiếp. Giữa TTTT toàn dân và TTTT tiếng NB có sự khác biệt về mặt ngữ âm. Âm hưởng do các TTTT địa phương gợi lên thường tạo sự thân mật, gần gũi. 2.2.1.2. Ý nghĩa của các tiểu từ tình thái đơn phương ngữ Như trên đã đề cập, trong phát ngôn của người Nam Bộ có 21 TTTT đơn khác cả về ngữ âm và ngữ nghĩa so với TTTT trong tiếng Việt toàn dân, vì vậy trọng tâm nghiên cứu của chúng tôi là 21 TTTT đơn này.

Khảo sát hơn 8531 cuộc thoại, chúng tôi so sánh đối chiếu với TTTT toàn dân, kết quả có 21 TTTT đơn phương ngữ cuối phát ngôn là tiếng NB, gồm: cà, chi, chớ, coi, đa, hà, há, he, hè, hen / heng, hén / héng, lận, hôn, hông, mợi, nè, nhen, nghe, nghen / ngheng, ta, ơi.

Chúng tôi xin đưa ra một cách hiểu về ý nghĩa của 21 TTTT này dựa vào ngữ

cảnh giao tiếp mà chúng tôi thu thập được:

(1) TTTT cà có nhiều ý nghĩa ; cà1 dùng với nghĩa hỏi thân mật, thăm dò hành

động của người nói hoặc hỏi nhưng không cần trả lời. Ví dụ:

<51> Sao nó không lấy mớ bông điên điển này cà. <52> Bao giờ dì Hai mới qua lấy bông súng 7 lỗ lận cà. TTTT cà 2 thể hiện sự ngạc nhiên khi tự mình phát hiện sự việc: Như:<53> Bảy tám chục cây số, nó đi nhang vậy cà. Hay: <54> Thằng Út Nữa phát trắng bờ mẫu lên đây vậy cà. (2) TTTT chi: khi là TTTT đứng ở cuối phát ngôn, chi có nghĩa thể hiện sự phủ định của người nói với điều được nói, nhấn mạnh hay bác bỏ ý kiến của người đối thoại có nghĩa phủ định với thái độ coi thường.

Bác Năm Hên: Tại nó đào mương chi.

<55> Ai biểu nó không nghe lời mày chi. <56> Thiếm Ba Vòng: Kì này thằng Tí trúng đậm đám bàng, còn thằng Út tui thua. (3) TTTT chớ có nhiều ý nghĩa. Chớ1 bổ sung nét nghĩa khẳng định chủ quan về nội dung được đề cập đến trong câu nghi vấn. Chớ2 mang ý đòi hỏi, lời đề nghị, nhắc nhở. Ví dụ:

Chớ1: Ủ nước mặn để tưới sầu riêng phải mua thêm cỡ bốn chục thước mủ dầy

dầy chớ.

Chớ2: Ra vườn nhãn có hộc nuôi ong phải đội nón có lưới che mặt chớ! (4) TTTT coi có nhiều ý nghĩa : từ dùng cuối câu được ngầm hiểu như một lời

đề nghị ở dạng nghi vấn mang sắc thái tình thái không có tính bắt buộc.

68

Coi1 : được dùng có ý nhờ vả hay tự nguyện làm gì cho mình hoặc người khác nhưng không phải là yêu cầu hay mệnh lệnh mà là nhờ vả một cách thân mật của

người hàng trên đối với người hàng dưới:

<57> Bà Tí (52 tuổi): Mai, từ sáng giờ chưa bán được cái áo nào.

Qua mở hàng dùm mày coi. Mai (19 tuổi): Có khuyến mãi nè dì.

(Ngữ cảnh: Shop quần áo Xì-tin dâu huyện Châu Thành)

Coi2: Yêu cầu người khác, có ý yêu cầu thử để lựa chọn. <58> A: Cá linh này bao nhiêu chị? B: 300 gram 10 ngàn.

A: Lấy hết nhiêu đây mày coi coi.

B: Có làm hông?

A: Khỏi.

(Nữ trung, nam trung còn trẻ), (Ngữ cảnh: Chợ cá Đồng Tháp).

Coi3: Khẳng định việc làm nào đó có hàm ý thuyết phục: <59> Bác Tám (46 tuổi): Nó cấy lúa xéo xẹo hà.

Dì Tư (36 tuổi): Vậy là được rồi, sao bác Tám khó tính quá, sao sửa lại được?

Bác Tám: Bây để tao thử xem coi!

Trong trường hợp này người hàng dưới không dùng coi để thách thức, nếu dùng

thì người nói sẽ vi phạm phương châm hội thoại đối với người hàng trên.

Coi4: Có ý thách thức: <60> M: Cá này bán sao vậy?

B: Dạ 30 ngàn một kí, rẻ rề hà!

M: Con này nhiêu?

B: Cỡ nửa kí.

M: Gì, nếu nửa kí lấy luôn. Mày cân cho tao coi coi.

(Ngữ cảnh: Chợ cá Bình Trị Đông)

Mày cân cho tao coi . “Coi” ở đây có thể có nghĩa là “xem”.

Còn “Mày cân cho tao coi coi.” Thái độ thách thức, có thể nghĩ thầm chắc là “mày” làm không được, làm gì con cá đó nửa kí….“Coi” ở đây không còn là động từ coi, như các từ nhìn, xem, trông, ngóng, chăm sóc nữa mà là từ tình thái thể hiện thái độ thách thức của người nói.

Ở ngữ cảnh trên, dù người mua có ý thách thức nhưng theo ghi nhận của chúng

tôi, cuộc mua bán vẫn diễn ra vui vẻ, có sự đồng thuận giữa hai bên.

69

(5) TTTT đa: từ biểu thị ý nhấn mạnh điều vừa khẳng định, và có ý thân mật.

Ví dụ:

<61> Ừa, thằng Ninh con ông Chín Râu nhà xóm Ngõ, coi bộ mần ăn được lắm đa.

Cũng là TTTT “đa”, trong phát ngôn của người Thanh Hóa lại được dùng để

hỏi: “Em viền hồi đa? [35. tr.53].

(6) TTTT hà: từ có thể có dạng khẳng định hoặc nghi vấn (thế đấy, thế thôi,

sao, thế sao, vậy sao…). Ví dụ:

<62> Năm Nhàn đưa cho Qua có mấy cọng rau thơm hà.

<63> Qua có nói gì hà.

(7) TTTT há: từ biểu thị ý khẳng định nhẹ nhàng. Ví dụ:

<64> Lấy cái sào cho chị mình há.

<65> Ui, bông điên điển vàng rực há.

(8) TTTT he: từ biểu thị trạng thái khẳng định, hoặc làm giảm nhẹ lời đề nghị.

Ví dụ:

<66> Tụi mình qua đó làm vài chai he.

<67> Dậy he. Mày đi Tây đi U nhiều nên rành he.

(9) TTTT hè: từ biểu thị trạng thái khẳng định. Ví dụ:

<68> Mấy đứa tụi tui lên Ba Chúc hè.

<69> Đợt này qua Lấp Vò mua chiếu, bên đó rẻ hè!..

(10) TTTT heng/ hen: từ biểu thị trạng thái giảm nhẹ lời đề nghị hoặc để thể

hiện một nhận định với sắc thái tình cảm, thân mật. Ví dụ:

<70> Bà may áo dài lẹ lẹ hen.

(11) TTTT héng/hén: “héng” dùng để hỏi nhưng mục đích không phải là hỏi, chờ

nghe trả lời, bởi héng mang ý nghĩa tình thái thể hiện tình cảm thân tình, ngầm ẩn khích

lệ, “lôi kéo” người nghe đồng tình. Như vậy hỏi chỉ là hình thức trên bề mặt. Ví dụ:

<71> A (Bạn nam trong xóm của B): Đi làm cỏ ruộng đi!

B: A đi với tui héng (hén)?

(12) TTTT hôn có hai nghĩa: hôn1 từ dùng để hỏi. Ví dụ: <72> Dọc đường có gặp công an hôn?; hôn2: từ dùng để bày tỏ sự cảm thán. Ví dụ:

<73> Dữ hôn!

Đi miết giờ mới dìa, gặp con Hường chưa?

70

(13) TTTT hông có 3 nghĩa: hông1: từ dùng để hỏi. Ví dụ: <74> Hổm rày, mày có gặp ảnh có chỉ hông?

hông2: từ dùng để bày tỏ sự cảm thán. Ví dụ:

<75> Tới giờ này mới thấy ổng bả tới dữ hông!.

hông3: từ dùng bày tỏ sự phủ định. Ví dụ:

<76> Ổng cứ khen ổng giỏi thiệt hông.

(14) TTTT lận: từ biểu thị nhiều nghĩa, ý khẳng định, nhấn mạnh, hoặc để hỏi

với hàm ý ngạc nhiên. Ví dụ:

<77> Qua bên bểnh tới mấy chục cây số lận! Hay:

Phà chạy qua Vàm Cống ngưng rồi, mấy tháng nay lận.

Lận1 : giúp người nghe cảm nhận xa hơn về khoảng cách so với suy nghĩ chủ quan của người nói, thể hiện sự khẳng định, nhấn mạnh về độ chắc chắn của thông tin

mà người nói vừa phát ngôn.

Lận2 : nhấn mạnh về thời gian. Nếu phát ngôn trên không có TTTT “lận” nội dung chỉ là tường thuật.

Lận3: thể hiện điều mình muốn hỏi pha chút lo lắng: <78> - Hưng:Văn mới lên hả?

- Văn: Ờ, lên hồi 9 giờ nè.

- Hưng: Rồi nào mới dìa lận?

- Văn: Chắc thứ hai dìa, tại làm cuối tuần hông hà.

(15) TTTT mợi: từ phát âm theo kiểu rút gọn, chập hai âm tiết làm một của từ

mày ơi, thể hiện thái độ thân mật, thoải mái trong giao tiếp, người sử dụng là hàng trên

hay ngang hàng, còn hàng dưới không sử dụng được. Ví dụ:

<79> Rẻ lắm, mua dùm đi mợi!

(16) TTTT nè: thể hiện tình thái hóa phát ngôn với ý nhấn mạnh tập trung sự

chú ý của người đối thoại. Ví dụ:

<80> Mọi người mần việc đi nè.

<81> Hùi ui, đi đâu mất tiêu hết trơn vậy nè.

(17) TTTT nhen: từ biểu thị ý mong muốn được sự cộng hưởng, thái độ vui

mừng. Ví dụ:

<82> Tui với bà là chung nhen!

Ngó ngộ vậy mà đẹp quá xá nhen.

TTTT “nhen” có biến âm nghe như “nhôn”. Ví dụ: “Cảm ơn nhôn”.

71

(18) TTTT nghe: từ dùng thể hiện trạng thái tình cảm tỏ ý thân tình với người

tiếp chuyện. Từ này có các có các nghĩa, sắc thái nghĩa khác nhau. Nghe1: thể hiện thái độ thân mật của chủ thể đối với người tiếp nhận. Ví dụ:

<83> A: Bà coi cho thằng nhỏ chút tiền lên Sài Gòn.

B: Tiền nè con, đi nhớ học hành đàng hoàng nghe.(1)

Nghe2: thể hiện thái độ ân cần, quan tâm một hành vi cầu khiến, một lời dặn dò. Ví dụ:

<84> A: Nó đi rồi nó dề, lo gì

B: Có thiếu gì nhớ điện thoại dìa nghe. (2)

Nghe3 : biểu thị ý đe nẹt bảo ban một cách nhẹ nhàng. Ví dụ: A: À, mày đừng có mê điện tử, nếu có thì bỏ cái thói đó nghe! (3)

TTTT nghe còn bổ sung cho phát ngôn nét nghĩa đề nghị buộc người nghe phải

thực hiện lời đề nghị đó. Ví dụ:

<85> Tư Từng: Khói ngúm lên là chuột sẽ chạy ra.

Năm Bảnh: Nè, đi sau lưng tao, đi nhẹ nhẹ nghe!

Nghe mang đậm nét đặc trưng trong giao tiếp của người Nam Bộ, TTTT nghe

có nghĩa tương tự như TTTT “nhé” trong ngôn ngữ toàn dân.

TTTT nghe được dùng với ngữ điệu linh hoạt; biểu hiện thái độ răn đe thì ngữ

điệu kết thúc nhanh, lên giọng; nếu biểu hiện thái độ xin phép thì ngược lại, xuống

giọng, có thể nhẹ nhàng kéo dài giọng nói.

Nghe thường kết hợp với coi, không, hông, vậy thôi để tạo thành tổ hợp TTTT

nghe coi, nghe không, nghe hông, nghe vậy thôi, nghe chưa.

(19) TTTT nghen: từ dùng thể hiện trạng thái tình cảm khi giao tiếp: tỏ ý thân

tình với người tiếp chuyện.

TTTT nghen được dùng rộng rãi trong sinh hoạt hằng ngày của người Nam Bộ,

có thể mang chức năng phát ngôn đánh dấu hành vi hỏi nhưng lại đi kèm với nhiều sắc

thái nghĩa khác nhau, như đề nghị, khẳng định, thân mật, nhắc nhở,… Ví dụ:

<86> Nam nữ đang nói chuyện.

A: Út đi siêu thị mới mở ở thị xã với tui nghen?

B: Để xin phép mẹ hen.

<87> Mẹ nói với con gái.

Mẹ: Con làm bài tập Hóa đi nghen!

Con: Con làm 4 bài nghen?

72

(20) TTTT ta có nhiều nghĩa. Ta1: từ dùng nhấn mạnh sự ngạc nhiên. Ví dụ: <88> Na (21 tuổi): Con tắt nước rồi mà sao nó vẫn chảy tràn lan má ơi!

Mẹ (48 tuổi): Sao kì vậy ta.

(Ngữ cảnh: Buổi chiều tại nhà riêng) Ở đây, TTTT cuối phát ngôn ta biểu thị

thái độ ngạc nhiên của nguời nói.

Ta2: Hỏi kiểu tự vấn mình. Ví dụ: <89> Linh (20 tuổi): Nước cạn xều sao đẩy ghe vô trỏng ta?

(Ngữ cảnh: Tại con lạch nhỏ của nhánh sông Hàm Luông)

Ta3: Hỏi với ý thân mật trong lúc trò chuyện hoặc biểu cảm thân mật: <90> Kiều (17 tuổi): Quyển sách ấy ở đâu ta?

Ân (17 tuổi: Ở kệ “góc đọc sách” đó.

Kiều: Dòm đỉnh ghê ta!

(Ngữ cảnh: cùng nhóm bạn đang đọc sách ở thư viện).

Ta4: Có ý than thở về một vấn đề nào đó có thể tự than hay nhận xét chung cho

một việc làm nào đó (đồng tình với ý kiến). Chẳng hạn:

<91> Dì Tư: Mưa hoài sao rải phân cho đám bầu được ta, sao khổ vậy ta!?

(Ngữ cảnh: ở nhà vào buổi trưa, nhìn trời còn mưa)

Chín (37 tuổi): Chở đầy một xuồng khóm rồi mà dì Tư còn kêu chất thêm nữa

đó bác Tư.

Bác Tư (67 tuổi) quan sát một lúc rồi nói: Vậy khẳm quá ta!

(21) TTTT ơi: TTTT cuối phát ngôn ơi vừa thể hiện hành vi gọi vừa thể hiện

lời can ngăn của chủ thể trước hành động có thể gây nguy hại cho người khác. Ví dụ:

<92> Chạy từ từ cẩn thận ông ơi.”

TTTT cuối phát ngôn ơi ở đây không dùng với nghĩa để gọi mà là nghĩa than vãn

sự tình, biểu thị thái độ biểu cảm, niềm động viên, an ủi. Ngoài ra, TTTT cuối phát ngôn

ơi giúp tăng thêm sắc thái biểu cảm cao cho cả chủ thể lẫn đối tượng tiếp nhận.

<93> A: Ráng qua con trăng này rồi thu hoạch đám trên.

B: Mần riết hết sức, chú tám ơi.

2.2.2. Ngữ nghĩa của tổ hợp TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người

Nam Bộ

2.2.2.1. Kết quả khảo sát

Từ 8531 phiếu điều tra điền dã các cuộc thoại của người Nam Bộ dùng TTTT cuối phát ngôn ở dạng kết hợp, cho thấy: có 4181/8531 (49%) cuộc thoại có dùng tổ

73

hợp TTTT. Như vậy, có thể thấy hiện tượng dùng tổ hợp TTTT cuối phát ngôn trong

giao tiếp của người NB rất phổ biến.

Như ta biết, khác TTTT đơn, các tổ hợp TTTT, do mỗi thành tố trong TTTT kết

hợp có nét sắc thái nghĩa riêng, hướng tác động cũng khác nhau, về lõi miêu tả hoặc về người nghe. Vì thế, khi chúng kết hợp sẽ bổ sung nghĩa cho nhau. Tầm tác động ngữ nghĩa của TTTT phối kết đối với nội dung mệnh đề và với đối tượng giao tiếp so với TTTT đơn thường là đa diện và mạnh mẽ hơn (xin xem [3; tr.179 -183]). Vì vậy, qua

kết quả khảo sát nêu trên, có thể thấy rằng người NB rất ưa dùng TTTT kết hợp cuối phát ngôn; điều đó làm cho giao tiếp của người NB mang sắc thái biểu cảm rất đậm đà. Tiếp tục phân loại tổ hợp TTTT thành hai loại, TTTT toàn dân và TTTT

phương ngữ, chúng tôi tổng hợp được mức độ sử dụng tổ hợp TTTT toàn dân và tổ hợp TTTT phương ngữ cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB. Kết quả chung

về bức tranh sử dụng hai loại tổ hợp TTTT toàn dân và phương ngữ được thể hiện qua sơ đồ sau:

Sơ đồ sử dụng tổ hợp TTTT cuối phát trong giao tiếp của người Nam Bộ

35%

65% Nhìn vào sơ đồ, so sánh tỉ lệ dùng tổ hợp TTTT trong cộng đồng người NB, kết

quả cho thấy, người NB dùng tổ hợp TTTT của ngôn ngữ toàn dân là 35% (1463/4181 lượt), số lượt dùng tổ hợp TTTT phương ngữ NB là 65% (2718/4181 lượt). Như vậy,

chỉ xét 4181 phiếu điền dã khách quan, trên bình diện chung nhất cũng đã cho thấy thói quen, lựa chọn, ưa dùng trong phát ngôn giao tiếp tự nhiên đối với TTTT. Người NB vừa dùng tổ hợp TTTT ngôn ngữ toàn dân vừa dùng tổ hợp TTTT phương ngữ NB ở cuối phát ngôn nhưng tỉ lệ lượt dùng tổ hợp TTTT phương ngữ cao gần gấp đôi TTTT toàn dân. Nếu như TTTT được xem là một trong các phương tiện thể hiện rõ nhất đặc trưng sắc thái ngôn ngữ - văn hóa vùng miền thì đây là một trong các biểu hiện góp phần lí giải ấn tượng của chúng ta về chất NB rất đậm và không trộn lẫn trong giao tiếp của cư dân vùng đất phương Nam mà mỗi khi chúng ta nghe hoặc tham gia hội thoại cùng người NB.

74

2.2.2.2. Ngữ nghĩa các tổ hợp TTTT

a). Các tổ hợp TTTT toàn dân được sử dụng cuối phát ngôn

Trong tiếng Việt toàn dân, TTTT không những xuất hiện ở dạng đơn (1 âm tiết)

như: à, á, ạ, cơ, chắc, cho, chứ, đã, đây, đấy, đi, mà, nào, nhé, nhỉ, hả, thôi, vậy, với,

ư… mà còn ở dạng kết hợp như: đâu à, đây à, đấy à, kia à, cơ à; đâu ạ, đây ạ, đấy ạ,

kia ạ, cơ ạ; đây ư, đấy ư, kia ư, thôi ư; đâu nhỉ, đây nhỉ, đấy nhỉ, kia nhỉ, chứ nhỉ, thôi

nhỉ, thật nhỉ, thế nhỉ; đâu nhé, đây nhé, đấy nhé, kia nhé, thôi nhé, đã nhé, đi nhé, với

nhé, vậy nhé, xem nhé; cơ mà, thôi mà, ấy mà, đi mà, đâu mà, đấy mà, kia mà, với mà;

đấy hả, thôi hả, ấy hả, kia hả, đâu hả; đi nào, đâu nào, đã nào; đâu chăng, đây chăng,

đấy chăng, kia chăng, vậy chăng; đấy phỏng;…

“Có thể thấy rõ sự kết hợp giữa các TTTT với nhau là một sự kết hợp hạn chế.

Chẳng hạn có thể nói đã chứ, đã nào, nhưng không thể nói đã đâu, đã đấy; có thể nói

kia à, kia đấy nhưng không thể nói kia mất, kia với v.v. Liệu có quy luật gì chi phối sự

kết hợp giữa các TTTT cuối câu? Tại sao chúng kết hợp với từ này mà không kết hợp

với từ khác? Một trong những quy luật kết hợp ấy có thể phát biểu như sau: những

TTTT cuối câu có mức độ hư hóa càng cao thì càng có ít khả năng kết hợp với nhau

thành chuỗi, hay nói cách khác, những TTTT được dùng như những “hư từ chính

danh”, tức là không còn thấy rõ mối liên hệ với những từ loại khác có thể là nguồn gốc

của nó, là những TTTT không thể kết hợp với nhau. Đó là các TTTT như: a, à,ạ, ư,

nhỉ, nhé, hả, nào, sất, chăng, phỏng. Trong nhóm này chỉ có nào là có thể có nghi vấn

về nguồn gốc thực từ, nhưng nghĩa của nào tình thái và nào đại từ đã xa nhau đến mức

người ta phải thiên về xu hướng kết luận đó là hai từ đồng âm. Chú ý rằng trong những

câu như Hắn chẳng ưa người nào sất, Anh không lấy cái nào à, Đừng mua quyển sách

nào nhé, Cô ta không yêu người nào ư… thì nào là đại từ phiếm định chứ không hề là

TTTT. Nào với ý nghĩa tình thái thì không tương hợp với bất cứ TTTT nào khác trong

dãy “hư hóa hoàn toàn” đã dẫn trên đây. (dẫn theo [100, tr 131]).

Như liệt kê trên, một yếu tố TTTT có thể kết hợp với những yếu tố khác để tạo

tổ hợp TTTT: phỏng có 1 kết hợp; nào có 3 kết hợp; ư có 4 kết hợp; à, ạ, hả, chăng có

5 kết hợp; nhỉ, mà có 8 kết hợp; nhé có 10 kết hợp. Trong giao tiếp, người NB cũng

dùng một số TTTT kết hợp toàn dân. Sau đây là bảng 2.6. miêu tả tổng hợp các tổ hợp

TTTT toàn dân đã được người NB dùng, cùng thông tin về lượt dùng, tỉ lệ phần trăm,

ví dụ minh họa từ phiếu điều tra và nghĩa theo ngữ cảnh của chúng.

75

Bảng 2.6. Tần số và tỉ lệ % các tổ hợp TTTT toàn dân cuối phát ngôn

TT Tần số Ví dụ TTTT kết hợp Tỉ lệ %

8.19 1 chắc à 120 Tớ làm thử chứ chắc à.

7.31 2 cho mà 106 Nói vậy thôi, ngày mai tôi trả sách cho mà.

2.63 3 cơ mà 39 Cậu đã hứa với tôi cơ mà.

2.34 4 cơ đấy 34 Ồ,thì ra bác Thứ là người cùng làng cơ đấy.

5 đi mà 150 10.23 Nam cho mình mượn sách đó đi mà.

8.19 6 nào hả 120 Thế chốt lại là rẽ đường nào hả ?

7.89 7 thôi à 115 Đừng lo, từ từ nó cũng xong thôi à.

9.94 8 thôi mà 145 Ừ thì nhớ nhờ nhưng từ từ cũng quen thôi mà.

8.48 9 vậy đi 124 Mẹ đã nói lấy xe màu đỏ vậy đi!

7.31 10 vậy hả 107 Ủa, phải đi cong cong vậy hả ?

9.94 11 vậy mà 145 Nó đem đồ cho có vậy mà.

9.36 12 vậy thôi 138 Tôi chỉ có mỗi đôi giày vậy thôi.

8.19 13 với nhé 120 Bác Nam nhớ kêu tôi tập thể dục với nhé!

Tổng cộng 1463 100

Theo kết quả thống kê ở bảng 2.6, chúng ta thấy có 13 tổ hợp TTTT toàn dân

được người Nam Bộ sử dụng, với 1463/4181 lượt. Số lượt dùng và mức độ được sử dụng của các cặp TTTT kết hợp toàn dân là không như nhau. Cụ thể, số lượt dùng và tỉ

lệ % của các kết hợp, sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp là: đi mà (150/10,23%); thôi mà (145/9,94%); vậy mà (145/9,94%); vậy thôi (138/9,36%); vậy đi (124/8,48%); nào

hả (120/8,19%); với nhé (120/8,19%); chắc à (120/8,19%); thôi à (115/7,89%); vậy hả (107/7,31%); cho mà (107/7,31%); cơ mà (39/2,63%); cơ đấy (34/2,34%);

Như vậy, trong số 13 tổ hợp TTTT kết hợp này, dùng nhiều nhất là tổ hợp đi mà (150/10,23%), tiếp đến thôi mà (145/9,94%), vậy mà (145/9,94%), vậy thôi (138/9,36%); các tổ hợp ít được dùng là: vậy hả (107/7,31%), cho mà (107/7,31%), cơ mà (39/2,63%) và dùng ít nhất là cơ đấy (34/2,34%).

Về phạm vi sử dụng, nếu so sánh theo bối cảnh sử dụng, điều khác biệt đặc biệt trong cách sử dụng 13 cặp TTTT kết hợp trên là, hầu như chúng chỉ được sử dụng trong công sở, trường học, cơ quan nhà nước, giữa những người là đồng nghiệp, có

76

quan hệ quen biết, thân quen. Ngược lại, trong giao tiếp giữa các thành viên trong gia

đình cũng như giữa những người bạn thân thiết, những người láng giềng thân tình ở vùng nông thôn, các tổ hợp TTTT toàn dân hầu như không được dùng.

Các cuộc giao tiếp ngoài xã hội, giữa những người cùng cơ quan, công sở, trường học, nhờ thói quen ưa dùng các TTTT toàn dân cuối phát ngôn như vậy cũng góp phần tạo nên không khí giao tiếp, trao đổi vừa lịch sự, cởi mở, lại vừa tình cảm, thân tình.

b). Các tổ hợp TTTT phương ngữ Nam Bộ được sử dụng cuối phát ngôn Qua kết quả điền dã, khảo sát giao tiếp của người NB, như đã nói, ngoài các tổ hợp TTTT toàn dân còn có các tổ hợp TTTT PNNB. Các TTTT phương ngữ vừa xuất

hiện dạng đơn, vừa xuất hiện dạng kết hợp. Các TTTT PNNB (dạng đơn cũng như dạng tổ hợp) là những TTTT được người NB dùng một cách tự nhiên (quen thuộc)

trong giao tiếp hàng ngày, có sự khác biệt nhất định (về âm, nghĩa, thói quen sử dụng) so với TTTT toàn dân. Trong phần này, chúng tôi xin chỉ nói về các tổ hợp TTTT

phương ngữ dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB.

Từ kết quả khảo sát 4181 cuộc thoại mà người Nam Bộ đã dùng tổ hợp TTTT

trong giao tiếp, ngoài 1463 cuộc thoại có dùng 13 cặp tổ hợp TTTT toàn dân cuối phát ngôn, chúng tôi thu được 34 cặp tổ hợp TTTT phương ngữ xuất hiện trong 2718 cuộc

thoại. Các cặp tổ hợp TTTT thuộc phương ngữ, tần số xuất hiện, tỉ lệ phần trăm so với các cặp kết hợp TTTT khác, ví dụ minh họa từ phiếu điều tra và nghĩa theo ngữ cảnh của từng cặp được chúng tôi tổng hợp, thể hiện qua bảng 2.7. sau:

Bảng 2.7. Tần số và tỉ lệ % các TTTT kết hợp phương ngữ cuối phát ngôn

Tần

Tỉ lệ

TT Kết hợp

Ví dụ

%

số

72

2.65 Bà làm sao coi được à nha!

1

à nha

73

2.69

Thím Chín mần theo thằng Bùm chi dzậy.

2

chi dzậy

chớ/chứ

75

2.76

3

Bữa đào mương dùm, nay qua tiếp tao một tay chớ (chứ) gì ?

75

2.76 Xạ lúa phải rải cho đều chớ sao ?

4

chớ sao

Cái mình cây Kèo Nèo nhỏ nhỏ hơn tai

73

2.69

5

đó hả

Tượng đó hả ?

74

2.72

Thím Tám hay thương người đó mà.

6

đó mà

73

2.69 Kiến leo lên bờ rồi, nước sắp lên đó nha.

7

đó nha

77

Chú Năm Rô mua hai chiếc tác ráng luôn à

8

74

2.72

à nhen

nhen.

9

4.08

hông đây 111

Con Bảy nó đi bịnh viện hỗm rày, hông biết có sao hông đây.

77

2.83 Mận, mày có mua tấm chiếu hông hả ?

10 hông hả

118

4.34 Nó làm chuyện gì đâu hông hà.

11 hông hà

119

4.38 Mày thấy tao mặc bộ này đẹp hông nè ?

12 hông nè 13

76

2.80 Hông biết bài tập này có làm hông ta.

hông ta

Đã bảo là hông thích mà Tía còn bắt ưng

72

2.65

14 nữa chớ

nữa chớ

15

72

2.65

nữa đó

Không mần cỏ mía nữa còn phải đi làm giấy tờ nữa đó.

16

74

2.72 Nước lại chững chững nữa hả ?

nữa hả

Qua biền, quẹo phải là thấy đám rau Chột

78

2.87

17 nữa hen

Chạy nữa hen.

2.65 Ổng lại đi hội chợ rồi đa.

18

72

rồi đa

2.69 Đám bí ông Bảy sắp trổ bông rồi nghen.

19

73

rồi nghen

20

74

2.72 Bộ tụi bây lặt bông cỏ xong rồi hen.

rồi hen

21

74

2.72

rồi hà

Dì Sáu đem thêm bao làm gi, con bỏ khoai vô hết rồi hà.

Nước ở ngòai xẻo rặc xuống mấy bực lận

22

2.69

73

lận nè

nè.

23

68

2.50

Thằng Định đổ phân lân trên liếp rồi há?

rồi há

24

73

2.69 Mưa ngập hết giống mới sạ biết sao nè.

sao nè

25

73

2.69

Tình hình con Sáu sao há?

sao há

26

74

2.72 Bơm nước cỡ sắp sắp thôi nghen.

thôi nghen

27

74

2.72

Tụi con làm ba bài tập thôi nghe.

thôi nghe

28

58

2.13 Đó, nó chồng bốn cái ghế dzậy đó.

dzậy đó

29

98

3.61 Nó lấy cây nhỏ xíu nè mợi.

nè mợi

78

Bánh da lợn làm màu lá cẩm, lá dứa, gấc

30

75

2.76

lận mợi

lận mợ.

Ờ, tui nghía ba cái chậu bông (đưa tay chỉ),

31

75

2.76

dzậy nghen

dzậy nghen.

Chị Ba đương long mốt tấm đệm này chắc

69

2.54

32 mèn ơi

tay mèn ơi !

Nè, tui trồng giống mới thanh long ruột

33

110

4.05

chớ bộ

trắng vỏ vàng chớ bộ !

34

119

4.38 Quýt hồng Đồng Tháp nay cao giá thấy mồ !

thấy mồ

Tổng cộng

2718

100

Qua bảng 2.7 chúng tôi thấy có ba dạng kết hợp TTTT phương ngữ:

Dạng 1: TTTT toàn dân kết hợp TTTT phương ngữ (à nha, …). Dạng 2: hai TTTT phương ngữ kết hợp với nhau (hông nè, hông dzậy, hông hà,

dzậy nghen, nè mợi, lận mợi…).

Dạng 3: hai TTTT toàn dân kết hợp với nhau (đó mà, rồi đó,…). Đây là dạng

TTTT kết hợp khá đặc biệt, bởi các yếu tố trong kết hợp đều là yếu tố toàn dân, nhưng với tư cách là một tổ hợp TTTT gồm hai yếu tố thì chúng tôi thấy chúng chỉ xuất hiện

cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB.

Việc kết hợp các TTTT toàn dân với nhau, hay với một TTTT phương ngữ, hoặc TTTT phương ngữ kết hợp với nhau như vậy cho thấy ý thức và thói quen của

người sử dụng ngôn ngữ, khả năng tiếp nhận và sự lan tỏa phương ngữ vào ngôn ngữ toàn dân trong giao tiếp của người NB. Điều đó cũng cho thấy tiếng Việt, trong hệ

thống cũng như trong hành chức là ngôn ngữ thống nhất trong sự đa dạng.

So với tổ hợp TTTT toàn dân, khác biệt của tổ hợp TTTT phương ngữ không

chỉ là số lượng phong phú hơn (gần gấp ba lần) mà còn là ở bối cảnh và đối tượng sử dụng. Nếu như tổ hợp TTTT toàn dân chủ yếu chỉ được dùng giữa các thành viên

trong các cơ quan, công sở, trường học thì hầu như TTTT phương ngữ lại quen dùng trong gia đình, họ tộc và giữa bạn bè thân thiết với nhau.

Về mức độ sử dụng của các kết hợp TTTT phương ngữ, kết quả điều tra phân loại ở bảng trên cho thấy điểm khác biệt về mức độ sử dụng của các tổ hợp TTTT phương ngữ so với các tổ hợp TTTT toàn dân là: số lượt dùng - tỉ lệ lượt dùng của các tổ hợp TTTT phương ngữ tương đối đều nhau, không có từ nào có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ dùng. Các kết hợp TTTT phương ngữ phần nhiều có tỉ lệ lượt dùng gần

79

bằng nhau (trên/ dưới 3%); các kết hợp được sử dụng nhiều nhất cũng chỉ chiếm tỉ lệ

hơn 4% (như: hông hà, hông nè (118/4,34%), hông đây (111/ 4,08%)) và các kết hợp có tỉ lệ lượt dùng thấp nhất cũng đã hơn 2% (chẳng hạn: sao nè, rồi há (68 lần,

2,83%), dzậy đó (58 lần, 2,13%)). Điều đó cũng nói rằng, các tổ hợp TTTT phương ngữ đều là những tổ hợp được dùng quen thuộc với người NB.

Hoạt động giao tiếp hằng ngày giữa các thành viên trong gia đình và ngoài xã hội là quá trình tác động qua lại; để thu hút sự chú ý của người nghe, ngoài nội dung

cần nói thì người nói còn phải biết nhấn mạnh ở những điểm đáng lưu ý. Một trong các cách đó là, người NB hay dùng TTTT cuối phát ngôn, trong đó đặc biệt ưa dùng tổ hợp TTTT để làm thay đổi ngữ điệu câu nói, bằng cách kéo dài, nhấn giọng hơn, nhằm

thể hiện tình cảm rõ ràng hơn.

Trong lời nói, nếu phát ngôn được thể hiện bằng những ngữ điệu khác nhau bởi

các kết hợp TTTT khác nhau thì phát ngôn đó có thể được hiểu theo những nghĩa khác nhau. Đồng thời, nghĩa của phát ngôn sẽ được hiểu khác nhau nếu đặt trong bối cảnh

giao tiếp khác nhau. Dù vậy, việc phân tích nghĩa của chúng gắn với bối cảnh giao tiếp cũng khó mà chỉ ra hết được các sắc thái của TTTT được dùng; chỉ có người trong

cuộc, đã quen dùng thì mới cảm nhận hết ý nghĩa sâu xa, ý nhị của chúng. Tuy nhiên, dựa trên những dấu hiệu hình thức của TTTT được dùng, cũng như trực cảm tự nhiên

của người trong vùng đã quen nghe và dùng một cách tự nhiên các TTTT phương ngữ thì cũng có thấy được phần nào ý nghĩa tình thái của từng tổ hợp tình thái cụ thể. Chúng tôi xin phân tích, so sánh thêm một số tổ hợp TTTT được dùng trong phát ngôn

của người NB để rõ thêm điều này.

TTTT mèn ơi: thể hiện cảm xúc tột độ trước sự việc nào đó (vui, buồn). Ví dụ:

<94> Mới nay mà nước mặn chát, đắng nghét, tiêu mấy cây Sầu Riêng rồi mèn ơi! (Ở đây có thể nguồn gốc mèn ơi là hai từ, nhưng quan sát điền dã, chúng tôi thấy

người NB sử dụng mèn ơi là tổ hợp cố định, đã thành thói quen, không còn thấy hiện tượng sử dụng từng yếu tố đơn tách rời với nghĩa tương tự).

So sánh hai phát ngôn: “gì dzậy gì dzậy, bị ăn đòn như cật bần sóng đánh dzậy mèn ơi (mèn đéc ơi)!” và “Lẩn tha lẩn thẩn cái gì mà để hai cái xuồng đâu đít nhau à nghen…!” là cùng nói về sự tình diễn ra, sự mắc lỗi làm cho người nói ngỡ ngàng, như muốn hỏi để thể hiện sự tức giận nhưng các TTTT kết hợp cuối phát ngôn lại khác nhau và hướng tác động không giống nhau, nên sắc thái nghĩa tình thái là khác nhau.

Nếu mèn ơi thể hiện thái độ cảm xúc xót xa quá sức (trong ngữ cảnh khác, có thể là niềm vui tột độ) thì à nghen lại là thể hiện thái độ trách nhẹ, bởi tìm được nguyên nhân, đã chỉ ra nguyên nhân.

80

TTTT rồi há và sao há cùng dùng trong phát ngôn hỏi, nhưng trật tự các thành tố của chúng trong kết hợp khác nhau thì sắc thái nghĩa tình thái khác nhau. Trong phát ngôn: Thằng Định đổ phân lân trên liếp rồi há ?, TTTT kết hợp này biểu thị ý nhấn mạnh về điều đã biết nhưng vẫn không ngờ lại như thế. Còn sao há trong phát ngôn Tình hình con Sáu sao há ?, tuy cùng biểu thị ý ngạc nhiên trước một điều đã biết nhưng cảm thấy không yên tâm, lo lắng muốn biết cụ thể thêm

Như đã nói, một yếu tố TT có thể kết hợp với nhiều yếu tố TT khác để tạo ra các tổ hợp tình thái phức khác nhau. Do kết hợp với các yếu tố TT khác nhau, nên sự tương tác giữa các yếu tố sẽ tạo nên các sắc thái nghĩa tình thái khác nhau. Ví dụ: phát ngôn “Mày thấy tao mặc bộ này đẹp hông nè ?” và phát ngôn “Hông biết bài tập này có làm hông ta ?”, tương tự “Mặt trời cao trật ót rồi mới bò dậy, đi kịp hông ta?” đều là phát ngôn hỏi, trong các TTTT kết hợp trên đều có chung yếu tố “hông”, song hông nè biểu thị ý hỏi nhưng mang sắc thái khẳng định nội dung, thái độ “khoe” vui .vẻ, thân thiết giữa bạn bè, còn hông ta biểu thị ý tự hỏi bâng quơ, lưỡng lự về một điều gì đó không có quyết định rõ ràng. Tương tự, trong các phát ngôn có chức năng cầu khiến: “Bơm nước cỡ sắp sắp thôi nghen !, “Tụi con làm ba bài tập thôi nghe !” và “Ờ, tui nghía ba cái chậu bông (đưa tay chỉ), dzậy nghen !”, thì thôi nghen biểu thị ý nhấn mạnh sự hạn chế, phạm vi, mức độ của điều vừa nói đến với thái độ dứt khoát; thôi nghe biểu thị ý nhấn mạnh sự hạn chế, phạm vi, mức độ của điều vừa nói đến nhưng nhẹ nhàng, còn dzậy nghen lại biểu thị ý nhấn mạnh, chốt lại vấn đề với thái độ dứt khoát đối với người nghe.

TTTT chớ kết hợp với các yếu tố sao, gì, bộ tạo ra các tổ hợp tình thái. Ngoài nét nghĩa cơ bản của phát ngôn, tổ hợp chớ gì, sao chớ hướng đến người đối thoại nhiều hơn, thể hiện sắc thái biểu cảm và tính thân mật cao hơn so với câu nghi vấn kết thúc bằng chớ.

TTTT chớ bộ: từ dùng có ý phủ định hoặc bác bỏ một điều giả định nào đó.

Ví dụ:

<95> Má Bông: Sao con băm bèo nhuyễn nhừ vậy? Bông: Tại ba kêu con làm vậy chớ bộ. <96> Dũng Lác: Anh Năm bơm đìa đó xong thì tui cũng làm sạch láng bên đây

chớ bộ.

TTTT thấy mồ: từ dùng để biểu thị thái độ biểu cảm quá mức suy nghĩ trước

một sự việc nào đó. Như:

<97> “Đẹp thấy mồ.” Hay: <98> Thiếm Bảy (47 tuổi): Mới vớt xong cả đống bèo này. Mệt thấy mồ. Chín Hấn (con): Má phân ra từng thúng á, để vậy nhìn mắc cười thấy mồ.

81

2.3. Tiểu kết chương 2 Dựa vào các tiêu chí nhận diện TTTT cuối phát ngôn đã xây dựng, khảo sát ngữ liệu điền dã trực tiếp 8531 cuộc thoại của người NB, luận án đã cho thấy số lượng

TTTT được người NB dùng cuối phát ngôn rất phong phú và đa dạng, gồm 87 đơn vị, với hai loại cấu tạo, cấu tạo tổ hợp nhiều hơn cấu tạo đơn (47 đơn vị, 54,02%, so với 40 từ, 45,98%), gồm cả TTTT toàn dân và TTTT phương ngữ, trong đó TTTT phương ngữ có số lượng và tỉ lệ gần gấp đôi TTTT toàn dân (55 đơn vị (21 TTTT đơn, 34

TTTT tổ hợp), chiếm 63,21% so với 32 đơn vị (19 TTTT đơn, 13 TTTT tổ hợp), chiếm 36,78%).

TTTT toàn dân khi dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB có một

số đơn vị có sự khác biệt ít nhiều so với dùng trong ngôn ngữ toàn dân. Tần số sử dụng đối với các từ này không cao và hoàn cảnh giao tiếp, sử dụng chúng cũng hạn chế. Các

TTTT toàn dân chủ yếu được dùng trong cơ quan, trường học, mang tính nghi thức. Trong gia đình cũng như ngoài xã hội, trong bối cảnh giao tiếp tự nhiên, đời thường,

các TTTT toàn dân rất ít khi được dùng; thay vào đó là các TTTT địa phương NB. Một vài điểm khác biệt khác về nghĩa cũng được thể hiện trong cách dùng của người

phương Nam đối với nhóm TTTT này. Trong gia đình, người hàng trên không dùng ạ đối với hàng dưới và người hàng dưới có thể dùng hả cuối phát ngôn khi giao tiếp với

người hàng trên.

Nghĩa của các TTTT đơn phương ngữ rất phong phú và đa dạng. Phần lớn chúng đều có nhiều nghĩa hoặc sắc thái nghĩa khác nhau. Điều đó góp phần làm cho

ngôn ngữ giao tiếp của người NB thêm giàu sắc thái biểu cảm.

Việc sử dụng các tổ hợp TTTT cuối phát ngôn một cách phong phú, đa dạng,

hơn nữa, các tổ hợp TTTT phương ngữ lại được dùng với tần số cao hơn đã góp phần tạo thêm sự phong phú các sắc thái nghĩa tình thái phương ngữ, bên cạnh nghĩa của

nội dung mệnh đề. Điều đó đã giúp cho người NB có thể chuyển tải một cách chính xác, đầy đủ, cụ thể và tinh tế cảm xúc, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với hiện thực được thông báo, tạo nên điểm nhấn, gây ấn tượng sâu sắc đối với người đối thoại. Đồng thời làm cho lời nói của người NB có sự nhấn giọng hay kéo dài giọng ở cuối phát ngôn, tạo nên âm hưởng, giọng điệu riêng, đậm “chất Nam Bộ”.

82

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG CÁC TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGÔN

TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ XÉT THEO HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ

3.1. Mô tả chức năng ngữ nghĩa các nhóm TTTT

3.1.1. Phân loại các nhóm TTTT theo phạm trù HĐNT

Dựa trên các tiêu chí phân loại các HĐNT và 4 định hướng ở chương 1, luận án

tiến hành phân loại, thống kê số lượng các TTTT cuối phát ngôn xuất hiện theo 5

nhóm phạm trù HĐNT. Chúng tôi nhận thấy 5 nhóm phạm trù HĐNT đều có các

TTTT cuối phát ngôn xuất hiện nhưng khả năng xuất hiện của các từ không như nhau.

Mỗi phạm trù lại gồm những nhóm nhỏ TTTT khác nhau.

(1) Trình bày (còn gọi là biểu hiện, miêu tả, xác tín) gồm các hành động điển

hình: kể, thông báo, giải trình, giới thiệu.

(2) Điều khiển gồm các hành động điển hình: dặn, cầu khiến, xua đuổi, mời

mọc, rủ rê, mệnh lệnh, cầu mong, khuyên, hỏi.

(3) Cam kết (ước kết) gồm các hành động điển hình: hứa, thoả thuận.

(4) Biểu cảm gồm các hành động điển hình: cảm ơn, xin lỗi, chúc, chào, khen

ngợi, tiếc, dự định, đoán, ước, trách móc.

(5) Tuyên bố gồm các hành động điển hình: bác bỏ, từ chối.

Chúng tôi khảo sát 5 nhóm phạm trù này trong sự kết hợp với 24 TTTT cuối phát

ngôn tiêu biểu trong PNNB để nhận diện nét riêng về khả năng kết hợp, sắc thái ngữ

nghĩa của mỗi TTTT. Kết quả thống kê cụ thể được thể hiện ở bảng 3.1 dưới đây:

Bảng 3.1. TTTT xuất hiện theo nhóm HĐNT

TT TTTT Tổng

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 164 107 118 101 80 155 150 117 181 246 Trình bày 164 21 40 80 34 Tuyên bố 26 89 Cam kết 14 Biểu cảm 43 28 59 155 44 70 84 Điều khiển 17 50 28 150 22 111 73 cà chi chớ coi đa mèn ơi há hà he hè

83

hen hén lận hôn hông mợi nè nhen nghe nghen ta ơi chớ bộ thấy mồ 24 25 325 75 142 41 54 654 1655 200 156 325 336 534 367 269 640 459 332 145 654 432 242 6510 51 534 134 66 445 54 87 100 1922 32 156 336 45 195 87 24 45 149 93 1645 76 134 145 369 16 158 16 143 22 283 149 902

11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 Tổng Qua bảng thống kê 3.1, chúng tôi thấy có sự khác biệt về khả năng xuất hiện

của 24 TTTT cuối phát ngôn tiêu biểu của PNNB đối với 5 nhóm phạm trù HĐNT.

- Nhóm điều khiển: là nhóm có số lượng các TTTT xuất hiện ở vị trí cuối phát

ngôn chiếm tần số cao nhất (1922 /6510 lần, gồm các từ: chớ, chi, coi, há, he, hè, hen,

luôn, hông, mợi, nè, nhen, nghe, ta, lận).

- Nhóm trình bày: là nhóm có số lượng các TTTT xuất hiện ở vị trí cuối phát

ngôn chiếm tần số thứ hai (1655 /6510 lần, gồm các từ: cà, chi, chớ, đa, hà, hen, lận,

mợi, nè, nghe, nghen, ơi).

- Nhóm biểu cảm: là nhóm có số lượng các TTTT xuất hiện ở vị trí cuối phát

ngôn chiếm tần số cao thứ ba (1645 /6510 lần, gồm các từ: chi, chớ, coi, mèm ơi, hà,

he, hè, hen, hén, hôn, nè, nhen, nghe, nghen, ta, chớ bộ, thấy mồ).

- Nhóm tuyên bố: là nhóm có số lượng các TTTT xuất hiện ở vị trí cuối phát

ngôn chiếm tần số cao thứ tư (902 /6510 lần, gồm các từ: chi, coi, hè, mợi, nè, nghe,

nghen, ơi).

- Nhóm cam kết: là nhóm có số lượng các TTTT xuất hiện ở vị trí cuối phát

ngôn chiếm tần số thứ năm ( 369/6510 lần, gồm các từ: coi, hen, nghe, nghen).

Như vậy, có thể thấy vai trò và khả năng biến đổi linh hoạt về ngữ nghĩa của

TTTT. Trong đó, đặc biệt các từ hen, nghe, nghen, chúng có khả năng xuất hiện

trong cả 5 phạm trù. Sau đây, chúng tôi tiến hành phân loại các nhóm TTTT theo

từng tiểu phạm trù HĐNT.

84

3.1.2. Phân loại các nhóm TTTT theo từng tiểu phạm trù HĐNT

3.1.2.1. Hành động thuộc phạm trù điều khiển

Nhóm hành động thuộc phạm trù điều khiển có số lượng TTTT xuất hiện phổ

biến hơn cả. Trong nhóm này, chúng tôi tách thành hai tiểu nhóm: 1) nhóm điều khiển

đích thực (hướng người nghe thực hiện một HĐ vật lí nào đó trong tương lai) và 2)

nhóm HĐ nghi vấn (hướng người nghe thực hiện HĐ trả lời). (Để hiểu nghĩa các từ chỉ

27 HĐNT, chúng tôi dựa vào Từ điển tiếng Việt [127]).

a. Nhóm điều khiển đích thực

Nhóm điều khiển đích thực gồm các hành động ngôn ngữ như: dặn dò, cầu

khiến, xua đuổi, mệnh lệnh, rủ rê.

(1) Dặn dò

“Dặn dò” là là hành động nói lại cái gì đó. Như vậy, HĐ dặn dò được thực hiện

khi người nói có những hiểu biết hơn người nghe trong một lĩnh vực hữu quan.

Các điều kiện để thực hiện HĐ dặn dò là:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói ở vào thế chủ động, có thái độ

quan tâm đến người nghe và đưa ra lời dặn dò để người nghe thực hiện HĐ nào đó

được xem là cần thiết hơn cả.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Người nghe cảm thấy sẵn sàng tiếp nhận.

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung của lời

là căn dặn, đưa người nghe vào tình huống thực hiện HĐ căn dặn đó.

Có 5 TTTT xuất hiện trong HĐ dặn dò này là: he, hen, nghe, nghen, nè. Ví dụ:

<99> Chạy chiếc ghe qua đầm tôm rồi quành về chòi he!

<100> Ở nhà, nhớ lấy lúa rải cho mấy con ngỗng ăn hen!

<101> Trời đen thui rồi, đi đâu thì mang theo cây dù nghe!

<102> - Một lát con đem cái bồng bột qua cho bà Út mượn nghen!

- Bây lội cẩn thận, coi chừng chỗ này sâu nè!

(2) Cầu khiến

“Cầu khiến” là yêu cầu làm hay không làm việc gì. Ở đây, HĐ cầu khiến

thường được sử dụng khi người nói muốn người nghe thực hiện một điều gì sau khi

nói. Điều kiện để thực hiện HĐ cầu khiến:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói cần thực hiện một điều gì đó mà

thường không thể hay không muốn tự mình.

b). Thái độ phản ứng của người nghe: Người nghe bị ràng buộc trách nhiệm.

85

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung của lời

là cầu hoặc khiến, mong muốn người nghe thực hiện nó, hiệu lực là người nghe hiểu

và thực hiện hoặc không thực hiện thực hiện.

Có 7 TTTT xuất hiện trong HĐ cầu khiến là: chớ, há, hè, hen, nghe, nghen, coi.

Ví dụ:

Bình, xách 5 bao bánh tráng đi giao đi chớ!

<103> Tui tập cho nhỏ lội há!

<104> Chị Tư đi chợ dùm tui hè!

<195> Chiều tối rồi đốt đèn bàn thờ đi hen!

<106> Tới lộ láng cho tui quá giang nghe!

<107> Lấy cho Thím Chín một chục hột vịt coi!

<108> Làm đại ba chục giống mít Thái nghen!

(3) Xua đuổi

“Xua đuổi” là đuổi đi không cho lại gần, với thái độ coi khinh. Như vậy, “xua

đuổi” thuộc HĐ điều khiến nhưng ở mức độ gay gắt làm mất thể diện người nghe.

Kiểu HĐ này xuất hiện ở câu đáp, khi giữa hai nhân vật đối thoại có sự rạn nứt trong

tình cảm hay sự bất hợp tác về một biểu hiện trong ứng xử.

Các điều kiện để thực hiện HĐ xua đuổi là:

a. Sự trải nghiệm của người nói: Người nói ở vào trạng thái bực tức cao độ bởi

một biểu hiện gì đó của người nghe, có liên quan đến thể diện của mình.

b. Thái độ phản ứng của người nghe: Người nghe thấy phật lòng.

c. Nội dung và hiệu lực của người nghe: Người nói đưa ra nội dung của lời là

xua đuổi, buộc người nghe phải thực hiện, hiệu lực là người nghe có thể thực hiện

hoặc không thực hiện yêu cầu của người nói.

Ở HĐ xua đuổi có sự xuất hiện của TTTT chi. Ví dụ:

<109> Qua bênh kia coi mà làm theo, xà quầng xà quầng đây chi!

(4) Mời mọc

“Mời mọc” là mời. Ở đây, HĐ mời mọc có thể xếp vào một tiểu nhóm trong

HĐ điều khiển nhưng HĐ điều khiển đích thực hướng đến mong muốn người nghe

thực hiện một HĐ gì đó, có thể bao chứa cả tính lịch sự lẫn không lịch sự. Còn HĐ

mời mọc người nghe có thể thực hiện HĐ hồi đáp nhưng đó là HĐ lịch sự, chứ không

bao hàm tính bất lịch sự.

86

Các điều kiện để thực hiện hành động mời mọc là:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói ở vào thế chủ động, có khả năng

quyết định về một sự việc gì đó.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Người nghe cảm thấy vui lòng.

c). Nội dung và hiệu lực của HĐ nói đối với người nghe: Người nói đưa ra nội

dung của lời là mời mọc, đưa người nghe vào tình huống thực hiện HĐ yêu cầu đó.

Có 5 TTTT xuất hiện trong HĐ mời là: hà, nè, nghe, nghen, mợi. Ví dụ:

<110> Chở tui dìa dùm đi, sẵn ghé coi mấy chậu bông 10 giờ mới nụ, nhà tui

với nhà ông gần xịt hà!

<111> Bánh tráng nướng có trứng hay hông trứng, chị nướng cho nè!

<112> Sẵn bữa, hai đứa ăn cơm với má nghe!

<113> Mua mớ rau càng cua này dùm chị nghen!

<114> Thôi, còn 2 kí mốt, lấy hết nha, cân rẻ cho mợi!

(5) Mệnh lệnh

“Mệnh lệnh” là lệnh bắt buộc phải thi hành, chấp hành. Như vậy, HĐ mệnh

lệnh thường hướng đến sự bắt buộc người nghe phải thực hiện.

Các điều kiện để thực hiện HĐ này là:

a). Trải nghiệm của người nói: Người nghe và người nói ở trong mối quan hệ

nào đó mà người nói có khả năng thực hiện.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Người nghe có thể tự nguyện hoặc

không tự nguyện...

c). Nội dung người nói đưa ra và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra

nội dung của lời là mong muốn người nghe thực hiện một hành động cụ thể, ngay lập

tức sau khi nói, hiệu lực là người nghe phải thực hiện.

Có 3 TTTT xuất hiện trong HĐ mệnh lệnh là: coi, nè, nghe.

Ví dụ:

<115> Trời chuyển mưa đen xì, bây coi ra gom đống củi dừa lại coi.

<116> Cắt luống theo hàng dọc như vầy nè.

<117> Tất cả đi theo thứ tự từ nhỏ tới lớn nghe.

(6) Rủ rê

“Rủ rê” là rủ. Ở đây, HĐ rủ rê thể hiện mục đích của người nói là muốn người

nghe đồng tình hưởng ứng để cùng thực hiện một hành động nào đó.

87

a). Trải nghiệm của người nói: Người nghe và người nói ở trong mối quan hệ

nào đó mà người nói có khả năng thực hiện.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Người nghe có thể hưởng ứng hoặc

bằng lòng hoặc không bằng lòng.

c). Nội dung người nói đưa ra và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung của lời là mong muốn ở người nghe cùng thực hiện một hành động cụ thể,

hiệu lực là người nghe có thể thực hiện hoặc không thực hiện.

Có 6 TTTT có thể xuất hiện được trong HĐ rủ rê là: há, hen, hông, nè, nghen,

nhen. Ví dụ:

<118> Trang, Trang, tui với bà xuống xóm Đình há!

<119> Bé Tư đi sinh nhật với mình hen!

<120> Qua cồn Thới Sơn coi đời ca tài tử với tụi này hông!

<121> Xòe tay ra tui úm ba la cho bà vé mời, tối nay tui đi với bà nè!

<122> - Ngày mơi tao cùng thằng Bảy đào khoai lang, tao cùng đi với mày nhen.

- À, tao biết con nhỏ hôm bữa tên gì rồi nè. Biết nhà luôn, chiều tao với mày

qua bển làm quen nghen!

(7) Cầu mong

“Cầu mong” là mong ước tha thiết điều may mắn, tốt lành sẽ đến. Như vậy, HĐ

cầu mong thường hướng đến sự mong muốn người nghe thực hiện sự việc có lợi cho

người nói. Các điều kiện để thực hiện hành động cầu mong là:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói và người nghe ở trong mối quan hệ

nào đó mà người nghe có khả năng thực hiện việc có lợi cho người nói.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Người nghe có thể tự nguyện hoặc

không tự nguyện.

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung là mong

muốn ở người nghe thực hiện một HĐ cụ thể hay đạt được một điều gì sau khi nói, hiệu

lực là người nghe thực hiện (hoặc không thực hiện) nhưng cảm thấy đẹp lòng.

Có 3 TTTT có thể xuất hiện trong lời cầu mong là: he, hà, nghen. Ví dụ: <123> Chịu khó lải bông hết giồng này he! <124> Thèm mắm kho bông súng quá hà! <125> Mong sớm quay dìa bà nghen! (8) Khuyên “Khuyên” là nói với thái độ ân cần cho người khác biết điều mình cho là người đó nên làm. Như vậy, khi muốn một điều gì tốt đẹp đối với người nghe, người nói

88

thường dùng HĐ khuyên để thể hiện thái độ quan tâm đối với người nghe. Các điều kiện thực hiện HĐ khuyên:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói dựa vào những hiểu biết của mình

về người nghe, đưa ra lời khuyên nên thực hiện điều gì là tốt nhất.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Người nghe thấy vui lòng. c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung của lời là khuyên, mong muốn người nghe thực hiện nó, hiệu lực là tác động vào ý chí của người nghe nhằm mục đích để người nghe hiểu ra đó là thái độ chân thành của người nói. Có 4 TTTT xuất hiện trong HĐ khuyên bảo là: coi, nè, hen, nhen. Ví dụ: <126> Lúc nào cũng bỏ kẹo bạc hà vô túi để ngậm cho ấm cổ hen! <127> Thôi, hai đứa bớt gây gổ nữa nè! <128> Cái này lỏng le hà, ông vặn vô một chút xem coi! b. Nhóm hành động nghi vấn Nhóm hành động nghi vấn gồm các hành động như: hỏi (9) Hỏi Theo định nghĩa của từ điển “hỏi” là nói ra điều mình đòi hỏi hoặc mong muốn ở người ta với yêu cầu được đáp ứng. Như vậy, HĐ hỏi là HĐ được người nói đưa ra hướng đến người nghe mong muốn ở người nghe một sự hồi đáp nhằm giải trình, làm rõ một điều gì đó.

Khi gặp một sự việc, một tình huống có vấn đề khó khăn hay không hiểu, hay

muốn kiểm tra, người nói thường đưa ra HĐ hỏi.

Các điều kiện để thực hiện HĐ hỏi là: a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói chưa hiểu, chưa rõ, chưa xác định

một điều gì đó.

b). Thái độ và phản ứng của người nghe: Người nghe có thể trả lời đúng hoặc sai. c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung là mong muốn có sự hồi đáp làm sáng tỏ sự nghi vấn đó và hiệu lực là người nghe trả lời bằng ngôn ngữ.

Có 3 TTTT xuất hiện trong HĐ hỏi là: hôn, hông, ta. Ví dụ: <129> Cân miếng thịt này hôn? <130> Đi chở khóm với tui hông? Phải vậy hông ta? Cái vụ chở khóm này làm sao ta? Qua mô tả cả hai tiểu nhóm (a), (b) thuộc phạm trù HĐ điều khiển, chúng tôi rút ra nhận xét khái quát: các TTTT xuất hiện ở phạm trù điều khiển trong 9 HĐNT, thuộc nhóm a/ gồm 8 HĐNT: dặn, cầu khiến, xua đuổi, mời, mệnh lệnh, rủ rê, cầu mong, khuyên và nhóm b/ là HĐ hỏi. Trong đó, từ nghe, nghen, hen xuất hiện ở 6

89

HĐNT: dặn dò, xua đuổi, mệnh lệnh, rủ rê, cầu mong, khuyên, từ hén, hà xuất hiện ở 5 HĐNT: dặn dò, cầu khiến, mời, rủ rê, khuyên; từ coi, nè xuất hiện ở 4 HĐNT: cầu khiến, mời, rủ rê, khuyên; từ hôn, hông xuất hiện ở 3 HĐNT: hỏi, cầu khiến, rủ rê; từ chi xuất hiện ở 11 HĐNT: xua đuổi. Sự xuất hiện của TTTT trong HĐ điều khiển được biểu thị qua bảng tổng hợp chung 3.2.

Bảng 3.2. Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ điều khiển

T Dặn Cầu Xua Mời Mệnh Rủ Cầu TTTT khuyên Hỏi T dò khiến đuổi mọc lệnh rê mong

1 + chi

2 + chớ

3 + + + coi

4 + + hà

5 + + há

6 + + he

7 + hè

8 + + + + hen

9 + hôn

10 + + hông

11 + + + + + nè

12 + + + + nghe

13 + + + + + nghen

14 + + nhen

15 + mợi

16 + ta

3.1.2.2. Hành động thuộc phạm trù biểu cảm

(10) Cảm ơn

“Cảm ơn” là từ dùng trong lời nói lịch sự để bày tỏ sự cảm kích với người đã

làm việc gì đó cho mình, hoặc để nhận lời hay từ chối điều gì, tỏ sự biết ơn (đối với

người đã giúp đỡ mình). Như vậy, HĐ cảm ơn là người nói thực hiện khi người nghe

có biểu hiện gì đó đối với người nói, mà theo người nói là tốt với mình, nên người nói

90

bày tỏ lòng biết ơn đối với HĐ đó; hoặc người nói đưa ra HĐ cảm ơn với mục đích

lịch sự, làm đẹp lòng người nghe. Điều kiện để thực hiện HĐ cảm ơn:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nghe đã làm việc gì đó trong quá khứ

đối với người nói mà người nói đánh giá cao.

b). Thái độ và phản ứng của người nghe: Người nghe thấy đẹp lòng.

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung là bày

tỏ thái độ biết ơn của mình và hiệu lực là làm người nghe cảm thấy hài lòng, người nói

tỏ ra là người có văn hóa ứng xử.

HĐ cảm ơn có 6 TTTT: hè, hen, hén, nghe, nghen, nhen. Ví dụ:

<131> Người giao hàng tới rồi, cảm ơn con nhiều hè.

<132> Cảm ơn anh hen!

<133> Bài tập giải đúng y, cảm ơn mày hén <134> Nhờ em nó mà cả xóm quyên góp hết, cảm ơn chú em nghe!

<135> Cảm ơn chú nhiều nghen!

<136> Ui, hông có gì đâu, tui cảm ơn bà nhiều nhen!

(11) Xin lỗi

“Xin lỗi” là từ dùng để mở đầu lời nói một cách lịch sự khi có việc phải làm

phiền tới người khác, xin được tha thứ vì đã biết lỗi. HĐ này được sử dụng nhằm thực

hiện chức năng ứng xử, chính vì vậy nó được dùng độc lập hoặc dùng kèm HĐ khác

với chức năng đưa đẩy làm tăng tính lịch sự trong lời. Các điều kiện để thực hiện HĐ

xin lỗi là:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói đã có HĐ hay biểu hiện gì đó trong

hiện tại hay trong quá khứ đối với người nghe, theo suy nghĩ của người nói là không

tốt đối với người nghe hoặc không hài lòng, không như ý của người nghe, gây thất

thiệt hoặc tổn thương tình cảm đối với người nghe.

b). Thái độ và phản ứng của người nghe: Người nghe có thể chấp nhận hoặc

không nhưng bị ràng buộc trong quan hệ với người nói.

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung là bày tỏ thái độ biết ơn hoặc hối lỗi về biểu hiện đó của mình đối với người nghe, hiệu lực là mong muốn người nghe tha thứ.

Có 5 TTTT xuất hiện trong HĐ xin lỗi là: hen, nghe, nghen, nhen, nè. Ví dụ: <137> Xin lỗi bạn nghen!

<138> Xin lỗi cưng hen!

91

<139> Tui xin lỗi ông nghe!

<140> Trúc xin lỗi bạn nhen!

<141> Xin lỗi bà nè!

(12) Chúc

“Chúc” là nói ra lời mong ước điều may mắn, tốt đẹp cho người khác.

Như vậy, HĐ chúc được dùng khi người nghe có biểu hiện gì đó mà theo cách

nhìn nhận của người nói là may mắn, thắng lợi, tốt đẹp đối với người nghe.

Các điều kiện để thực hiện HĐ chúc:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Sự việc đã xảy ra trong quá khứ, hoặc chưa

xảy ra, nếu đã xảy ra trong quá khứ thì điều đó là may mắn đối với người nghe, hoặc

nếu xảy ra trong tương lai, theo suy nghĩ của người nói, là tốt đẹp đối với người nghe.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Người nghe thấy đẹp lòng.

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung là bày

tỏ thái độ chia sẻ niềm vui về sự việc đã xảy ra, hoặc mong muốn của mình về biểu

hiện trong tương lai của người nghe, hiệu lực là xác lập mối quan hệ thân mật giữa

người nói và người nghe.

Có 5 TTTT xuất hiện trong HĐ chúc là: hè, hen, nè, nghe, nghen. Ví dụ:

<142> Chúc mừng có con dâu mới hè!

<143> Chúc mừng hai đứa hen!

<144> Chúc cậu Sáu phát tài nghen!

<145> Chúc mày luôn mua mai bán đắt nè!

<146> Chúc năm nay được mùa nghe!

(13) Chào

“Chào” là tỏ thái độ kính trọng hoặc quan tâm đối với ai bằng lời nói hay cử

chỉ, khi gặp nhau hoặc khi từ biệt. Như vậy, HĐ chào được dùng khi hai nhân vật mới

gặp nhau chủ yếu nhằm xác lập quan hệ thân thiện.

Các điều kiện để thực hiện HĐ chào là:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói và người nghe đã quen biết nhau

hoặc mới gặp nhau lần đầu.

b). Thái độ và phản ứng của người nghe: Người nghe thấy đẹp lòng (hoặc không).

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung của lời

là chào, thưa, hiệu lực là nhằm củng cố hoặc xác lập mối quan hệ giữa người nói và

người nghe.

92

Các TTTT xuất hiện trong HĐ chào là: há, he, hè, hôn. Ví dụ:

<147> Dì Tám đi chợ há?

<148> Bác Bảy ra đồng lúa sớn he? <149> Xách xuồng vô rẫy hè? <150> Dữ hôn? Giờ mới tới.

(14) Khen ngợi

“Khen” là nói lên sự đánh giá tốt với ý vừa lòng. Như vậy, HĐ khen được sử

dụng khi người nói có nhận thức tốt đẹp về đối tượng.

Các điều kiện để thực hiện hành động khen:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói vừa chứng kiến một biểu hiện gì đó

của người nghe, mà theo đánh giá của người nói là khác thường, thiên về sự cảm phục.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Người nghe cảm thấy đẹp lòng. c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung của lời

là khen ngợi, hiệu lực là nhằm thừa nhận một sự thực, hoặc củng cố, xác lập mối quan

hệ giữa người nói và người nghe.

Có các TTTT xuất hiện trong HĐ khen ngợi là: hà, hen, nè, mèn ơi, thấy mồ.

Ví dụ:

<151> Áo này ưng ý quá hà!

<152> Mạ lên đều dễ thương hen!

<153> Tía của con hay quá nè!

<154> Ai mà rải mạ đều tay mèn ơi!

<155> Bà mặc áo bà ba tím đẹp thấy mồ!

(15) Tiếc “Tiếc” là cảm thấy day dứt, hụt hẫng trong lòng vì đã mất đi cái gì. Như vậy, HĐ này được sử dụng khi một sự việc, một tình huống đã xảy ra không được như ý

muốn, người nói chỉ phản ánh thái độ tiếc của mình trước sự việc đó.

Các điều kiện thực hiện HĐ tiếc: a). Sự trải nghiệm của người nói: Có sự việc nào đó người nói xem là có giá trị

mà bản thân người nói hoặc người nghe không gặp, không đạt được nó.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: người nghe cảm thông, thấu hiểu

hoặc tìm thấy sự cảm thông thấu hiểu.

c). Nội dung người nói đưa ra và hiệu lực đối với người nghe: Người nói bày tỏ thái độ tiếc về một sự việc gì đó đã xảy ra không như như ý, hoặc không đạt được

được một điều gì đó như ý muốn. Hiệu lực là tạo nên sự cảm thông.

93

Các TTTT xuất hiện trong HĐ này là: hà, hen, thấy mồ.

<156> Xém chút là được gặp má, tiếc quá hà!

<157> Nếu kỹ hơn nữa tao được 10 điểm, tiếc hen! <158> Tại bả cân ăn gian nên không mua, giờ tiếc thấy mồ! (16) Dự định

“Dự định” là định sẽ làm việc gì đó nếu không có gì thay đổi. Như vậy, HĐ dự

định được thực hiện trước một sự việc, một tình huống, nhân vật thường có dự định

trước để xúc tiến HĐ tiếp theo. Dự định chỉ là khả năng, còn sự thực hiện nội dung dự định lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.

Các điều kiện thực hiện HĐ dự định:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói có sự hiểu biết nhất định về đối

tượng, sự việc, trên cơ sở đó sắp xếp sẵn kế hoạch để thực hiện trong tương lai.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Người nghe có thể đồng tình

hoặc không.

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung là dự

định về một số kế hoạch, phương án trong ý nghĩ, hiệu lực là hướng thực hiện theo kế

hoạch đó trong tương lai, hiện tại chưa xảy ra.

TTTT xuất hiện trong HĐ dự định là coi.

Ví dụ:

<159> Dượng Hai đã chỉnh xong đờn cò, tui với bà lên hát cái coi!

(17) Đoán “Đoán” là dựa trên một số dấu hiệu, đặc điểm đã thấy, đã biết mà tìm cách suy ra điều chủ yếu còn chưa rõ hoặc chưa xảy ra. Như vậy, HĐ đoán là sự xét đoán về

một đối tượng, sự việc nào đó có liên quan đến người nghe.

Các điều kiện để thực hiện HĐ đoán:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói chưa có sự hiểu biết gì về đối

tượng, sự việc mà chỉ dựa vào cảm tính bên ngoài.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Người nghe vui lòng chờ đón kết quả. c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung là đoán xét về đối tượng, hiệu lực là nói đúng về đối tượng hoặc thực hiện một nhiệm vụ nào đó có liên quan đến đối tượng một cách chính xác.

Các TTTT xuất hiện trong HĐ đoán là: hè, nè. Ví dụ: <160> Sáng sớm mà sương mù dầy đặt, một chút nắng téc nghen hè.

<161> Dây khoai mỡ sung vậy, Ba Duy thế nào cũng vô đậm nè.

94

(18) Ước

“Ước” là mong có được điều biết là rất khó hoặc không hiện thực. Như vậy, khi

gặp một sự việc, một tình huống có khó khăn, trở ngại, khó vượt qua, người nói

thường thể hiện HĐ ước có những điều kiện thuận lợi hơn để đạt được dự định đó.

Các điều kiện thực hiện HĐ ước là:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói muốn đạt được điều gì đó nhưng

trên thực tế không thể thực hiện chúng trong điều kiện hiện tại.

b). Thái độ và phản ứng của người nghe: Người nghe có thể đồng tình hay phản đối.

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung là ước

muốn có điều gì xảy ra trong tương lai và hiệu lực là người nghe cùng chia sẻ.

Có 3 TTTT xuất hiện trong HĐ ước là: hen, ta. Ví dụ:

<162> Ước gì ra giêng mình cưới được nhỏ Sáu hen!

<163> Ước chi bi giờ ai nhớ mình đi ta.

(19) Trách

“Trách” là nói ra những lời không bằng lòng về người có quan hệ gần gũi nào

đó, cho là đã có hành vi, thái độ không đúng, không hay, không tốt đối với mình hoặc

có liên quan đến mình. Như vậy, Người nói thường sử dụng khi người nghe có biểu

hiện gì đó trong quá khứ, theo người nói, là không tốt, không hay đối với mình. Các

điều kiện thực hiện HĐ trách là:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói không hài lòng về biểu hiện gì đó

của người khác trong quá khứ.

b). Thái độ và phản ứng của người nghe: Người nghe có thể đồng tình hay phản đối.

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nghe đưa ra nội dung là trách

về biểu hiện cụ thể của nguời nghe, hoặc trách cùng người nghe về về biểu hiện cụ thể

của người ở ngôi thứ ba và hiệu lực là người bị trách cảm thấy bị tổn thất tình cảm.

Các TTTT xuất hiện trong HĐ trách là: hen, hén, hà, nè, nghe, chi, chớ bộ. Ví dụ:

<164> Tưởng ông siêng đột xuất hen?

<165> Tưởng mày dọn cỏ hết rồi, ai ngờ mày để một đống hén?

<166> Đi với đứng kiểu gì không hà? <167> Tụi bây cứ canh me hái lén xoài hoài nghe. <168> Ai biểu mày không chịu nghe lời tao chi. <169> Rãnh hả, tao làm ba đầu sáu tay chớ bộ. Tóm lại, TTTT xuất hiện ở phạm trù biểu cảm trong 10 HĐNT: cám ơn, xin lỗi,

chúc, chào, khen, tiếc, dự định, đoán, ước, trách. Từ hen có khả năng xuất hiện trong 7

95

HĐNT cảm ơn, xin lỗi, chúc, khen, tiếc, ước, trách. Từ hè có khả năng xuất hiện trong 4

HĐNT cảm ơn, chúc, chào, đoán. Từ nè có khả năng xuất hiện trong 5 HĐNT xin lỗi, chúc, khen, đoán, trách. Từ hà có khả năng xuất hiện trong 3 HĐNT cảm ơn, xin lỗi, trách. Các từ

còn lại có tần số xuất hiện trong các HĐNT từ 1 đến 2 HĐNT. Kết quả tổng hợp cụ thể sự xuất hiện của các TTTT của HĐ biểu cảm được thể hiện ở bảng 3.3.

Bảng 3.3. Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ biểu cảm

Xin Dự Cám TT TTTT Chúc Chào Khen Tiếc Đoán Ước Trách ơn lỗi định

+ 1 chi

+ 2 coi

+ + + 3 hà

+ 4 há

+ + + + 5 hè

+ + + + + + + 6 hen

+ 7 hôn

+ + + + + 8 nè

+ + + 9 nghe +

+ + +

+ 10 nghen + 11 chớ bộ

+ 12 ta

3.1.2.3. Hành động thuộc phạm trù tuyên bố (20) Bác bỏ

“Bác bỏ” là bác đi, không chấp nhận, không thừa nhận. Như vậy, HĐ bác bỏ

được thực hiện với điều kiện:

- Ở lời trao, người nói đưa ra một HĐ miêu tả, nhận xét kết luận, nghi vấn việc

gì có liên quan đến người nghe.

- Ở lời đáp, người nghe tỏ thái độ không đồng tình, phản đối hoặc mức độ phản đối ngầm ẩn (được thể hiện qua câu đáp của người nghe). Các TTTT hà, nghe, chớ bộ, thấy mồ, xuất hiện trong các trường hợp sau:

<170> - Ủa, tụi thằng Trung, năm Hên đâu không phụ? - Nói làm chi, cuối cùng một mình tui làm không hà.

<171> - Thằng ba đi rồi, đứng mình ênh đó buồn ha. - Tui không có buồn đâu nghe.

96

<172> - Ăn gì ít vậy?(trao)

- Con ăn tới ba chén cơm chớ bộ.(đáp) - Vậy để biểu mợ Tám nhấn nồi cơm.

- Nhấn chi mắc công, còn nhiều thấy mồ.

(21) Từ chối “Từ chối” là không chịu nhận cái được dành cho hoặc được yêu cầu. Như vậy, HĐ từ chối cũng gần giống HĐ bác bỏ, là HĐ được xác lập khi có lời trao. Nhưng

chúng khác nhau ở chỗ, HĐ từ chối là HĐ được tạo lập bởi điều kiện:

a). Phải có người nói đưa ra lời trao, nhưng lời trao đó không thuộc nhóm HĐ miêu tả, tường thuật hay nghi vấn mà thuộc nhóm HĐ đề nghị, cầu khiến, rủ, nhờ. Đến

lượt mình, những động từ thuộc nhóm cầu khiến này lại đòi hỏi các điều kiện: a) chủ thể ý chí (C1) (chủ thể cầu khiến); b) chủ thể thực hiện (C2) (chủ thể tiếp nhận); c) vị

ngữ cầu khiến (HĐ cầu khiến); Hướng: Từ phi hiện thực đến hiện thực, từ hiện tại đến tương lai. Do các điều kiện trên đây mà người nghe có thể thực hiện HĐ theo đề nghị

của A hay không lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố: quan hệ liên nhân giữa hai nhân vật, tính lợi ích từ mỗi phía, sự vi phạm đạo đức theo đánh giá của xã hội, thể diện của

người nói, khả năng hiện thực của hành vi sẽ thực hiện trong tương lai. Chính vì vậy, không phải bao giờ người nghe cũng có thể thực hiện đề nghị của người nói mà người

nghe phải dự đoán trước kết quả sẽ xảy ra trong tương lai, cũng như khả năng thực hiện của chính mình, dẫn đến B sử dụng chiến lược từ chối.

b). Người nghe sử dụng HĐ đáp lời nhưng bản chất là không thực hiện HĐ theo đề

nghị của người nói hoặc trì hoãn việc thực hiện HĐ đề nghị nào đó nên sự từ chối phần nào làm giảm mối quan hệ hợp tác thân thiện giữa người nói và người nghe. Chính vì vậy,

người nghe thường dùng chiến lược nói vòng, nói tránh, hoặc thực hiện một cách miễn cưỡng sau khi đã cân nhắc hậu quả nào sẽ xảy ra nếu từ chối.

Có các TTTT chi, hè, hen, nè, nghen, mợi xuất hiện trong HĐ từ chối, trong đó

chúng tham gia vào nhiều cách từ chối khác nhau:

<173> Thôi, dẹp, tao còn học bài nữa nghe!

<174> Nhớ mặc áo dài đó.

Nghe lời mày chi.

<175> Cho dì Tư 8 cái nia khít đi.

- Đâu được nè.

Con hứa giao xóm trên hết rồi.

<176> Hôm nay mắc đi đám cưới. Bữa khác hen

97

<177> Mơi con Tính ghé đó. Nói với nó mốt đi nghen!

<178> Thôi, tao hông đi đâu mợi.

Như vậy, TTTT xuất hiện ở phạm trù tuyên bố trong 2 HĐNT bác bỏ và từ

chối. Trong đó, TTTT nghe có khả năng xuất hiện ở cả hai HĐNT từ chối và bác bỏ.

Khả năng xuất hiện của các TTTT trong các HĐ tuyên bố được thể hiện qua bảng tổng

hợp 3.4. sau:

Bảng 3.4. Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ tuyên bố

TT TTTT Bác bỏ Từ chối

1 + chi

2 + chớ bộ

3 + hà

4 + + hen

5 + nè

6 + + nghe

7 + nghen

8 + mợi

9 + thấy mồ

3.1.2.4. Hành động thuộc phạm trù trình bày

(22) Kể

“Kể” là nói lại một cách có đầu đuôi cho người khác nghe. Như vậy, HĐ kể là

dùng ngôn ngữ để kể chi tiết về đối tượng, sự vật, nhân vật giúp người nghe hiểu biết

rõ về chúng. Khác HĐ miêu tả, HĐ kể quan tâm đến yếu tố thời gian có liên quan đến

tiến trình diễn biến của sự vật, hiện tượng, con người.

Điều kiện để có hành động kể là:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Có một sự việc nào đó mà người nói đã chứng

kiến (hoặc nghe kể).

b). Người nghe hiểu rõ về sự việc.

c). Nội dung của người nói đưa ra và hiệu lực của người nghe: Sự việc mà

người nói đưa ra, theo chủ quan của người nói, nằm trong sự quan tâm của người nghe

(vì chưa biết), hiệu lực của chúng là cung cấp thông tin.

98

Các TTTT xuất hiện trong HĐ kể là: hà, nè, lận, hết, chớ, đa. Ví dụ:

<179> - Cô giao ba bài tập lận.

- Hôm qua toàn chuyện buồn không đa.

<180> Hồi nãy, đường ngoài đê bị ngập hết luôn hà.

<181> Cái ông 12 ổng giựt mối mua tôm đầm thầy Tư nè.

<182> Đi ra ngoài giờ này là kẹt xe, mình ở lại chờ chút mới tốt chớ.

(23) Thông báo

“Thông báo” là báo cho mọi người biết tin tức bằng lời nói hoặc văn bản. Như

vậy, HĐ thông báo là dùng ngôn ngữ thuật lại về một điều gì đó sẽ xảy ra trong tương

lai hoặc người nói được tiếp nhận từ người khác mà người nói cho rằng sẽ gây hiệu lực

đối với người nghe, vì người nghe chưa biết.

Điều kiện để có HĐ thông báo tương tự điều kiện để có HĐ kể.

Các TTTT xuất hiện trong HĐ thông báo là: chi, hen, nè, nghe, nghen:

<183> Thứ 7 này cả team mình nhớ qua nhà bạn Tín làm bài hen.

<184> - A lô….a lô…nghỉ.

- Nghỉ đâu mà nghỉ, còn 5 lô đóng nút nữa chi.

<185> Xã mình thông báo làm đơn vầy nè.

<186> Mơi cả lớp tập hợp lúc 5g30 nghe.

<187> Bên môi trường nói chủ nhật này có người đến tuyên truyền diệt lăng

quăng nghen.

(24) Giải trình

“Giải trình” là trình bày để giải thích, thuyết minh. Vậy, HĐ trình bày là người

nói trình bày về sự việc nào đó nhằm làm cho người nghe nắm bắt sự việc đầy đủ. HĐ

này thường được thực hiện khi có HĐ trao lời yêu cầu trước đó, hoặc sự việc gì xảy ra

trước đó mà người nghe chưa nắm bắt được nên người nói đã giải trình thêm nhằm làm

cho người nghe nắm bắt đầy đủ hơn. Các điều kiện thể hiện HĐ giải trình là:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Có một sự việc nào đó mà người nói đã chứng

kiến (hoặc nghe kể), hoặc liên quan trực tiếp tới người nói.

b). Người nghe hiểu rõ về sự việc.

c). Nội dung của người nói đưa ra và hiệu lực của người nghe, người nói trình

bày sự việc nào đó, nhằm làm cho người nghe nắm bắt đầy đủ.

Các tiểu từ tình thái xuất hiện trong HĐ giải trình là: hà, nè, cà. Ví dụ:

99

<188> Tôi chỉ thử việc bên Long Giang 3 tháng hà.

<189> Nãy giờ ông Năm lên liếp, rải lân hạ phèn rồi nè.

<190> Tôi đã làm việc này rồi mà cà

(25) Giới thiệu

“Giới thiệu” là biết một vài điều cần biết, như giới thiệu họ tên…Như vậy, HĐ

giới thiệu được sử dụng khi người nói quen biết người được giới thiệu, còn người được

giới thiệu và người nghe mới gặp nhau lần đầu.

Điều kiện để thực hiện HĐ giới thiệu là:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói quen biết người nghe và nghĩ

người được giới thiệu và người nghe mới gặp nhau lần đầu.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Tiếp nhận hoặc không tiếp nhận.

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung của lời là

giới thiệu, hiệu lực là nhằm để người được giới thiệu và người nghe làm quen với nhau.

Tiểu từ tình thái xuất hiện trong HĐ giới thiệu là: nè, ơi. Ví dụ:

<191> Anh Dũng con bác Hai đó chị Ba ơi.

<192> Đây, giống lúa nàng Thơm họ hàng với Trắng Hòa Bình nè.

Tóm lại, trên đây là các TTTT xuất hiện ở 4 HĐNT thuộc phạm trù trình bày:

kể, thông báo, giải trình, giới thiệu. Trong đó, từ nè có khả năng xuất hiện ở 3 HĐNT

kể, thông báo, giải trình; từ hà có khả năng xuất hiện ở 2 HĐNT kể, giải trình; các từ

còn lại chỉ có 1 khả năng xuất hiện ở một HĐNT. Sự xuất hiện của TTTT trong các

HĐ trình bày được thể hiện qua bảng tổng hợp 3.5. sau:

Bảng 3.5. Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ trình bày

TT TTTT Kể Thông báo Giải trình Giới thiệu

1 + chi

2 + + hà

3 + hen

4 + + + nè

5 + nghe

6 + nghen

7 + ơi

8 + đa

100

3.1.2.5. Hành động thuộc phạm trù cam kết

(26) Hứa

“Hứa” là nhận lời với ai đó một cách chắc chắn là sẽ làm việc đó. Như vậy, khi

muốn thực hiện một điều gì tốt đẹp đối với người nghe, người nói thường dùng HĐ

hứa để tạo lập niềm tin đối với người nghe.

Các điều kiện để thực hiện HĐ hứa là:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Người nói, dựa vào những hiểu biết của mình về

người nghe, nên đưa ra lời hứa: Người nói thực hiện điều gì là tốt đối với người nghe.

b). Thái độ và sự phản ứng của người nghe: Người nghe thấy đẹp lòng.

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung của lời

là hứa, hiệu lực là người nghe hiểu, tin đó là thái độ chân thành của người nói.

Các TTTT xuất hiện trong HĐ hứa là: nghe, nghen, hén. Ví dụ:

<193> Thím hứa với con mai sẽ có áo liền, vậy nghe.

<194> Lan hứa rồi, thứ sáu đi làm móng giò, vậy nghen.

<195> Tao hứa mốt sẽ trả mày cuốn sách rồi hén.

(27) Thỏa thuận

“Thỏa thuận” là đồng ý với nhau về điều nào đó có liên quan tới các bên, sau

khi đã bàn bạc, trao đổi. Như vây, HĐ này được dùng khi hai nhân vật quen biết nhau,

đã có quá trình trao đổi và đi đến thống nhất với nhau về một việc nào đó để kết thúc

cuộc thoại.

Điều kiện để thực hiện HĐ thỏa thuận:

a). Sự trải nghiệm của người nói: Hai nhân vật đã có quá trình trao đổi.

b). Thái độ và phản ứng của người nghe: Người nghe thấy đẹp lòng (hoặc không).

c). Nội dung và hiệu lực đối với người nghe: Người nói đưa ra nội dung của lời

là thỏa thuận với người nghe về một vấn đề nào đó.

Các TTTT xuất hiện trong HĐ thỏa thuận là: hen, nghe, nghen. Ví dụ:

<196> Mớ mướp này 10 ngàn, hen.

<197> Cá Bông Lau 2kg/ 1 con. Cân nghen.

<198> Lấy ba chục trứng thôi, nhớ giao đúng giờ nghe.

Có 2 TTTT là nghe, nghen có khả năng xuất hiện trong cả 2 HĐNT hứa và thoả

thuận. Ba từ coi, nghe, nghen cùng có khả năng xuất hiện ở HĐNT hứa. Còn 3 từ hen,

nghe, nghe lại đều cùng có khả năng xuất hiện ở HĐNT thỏa thuận. Sự xuất hiện của

TTTT trong các HĐ cam kết được thể hiện qua bảng tổng hợp 3.6. sau:

101

Bảng 3.6. Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ cam kết

TT TTTT Hứa Thoả thuận

+ 1 hen

+ 2 hén

+ + 3 nghe

+ + 4 nghen

Trên đây, chúng tôi đã tìm hiểu sự xuất hiện của các TTTT cuối phát ngôn

trong giao tiếp của người NB theo các HĐNT. Với sự miêu tả chi tiết, kèm các ví dụ

minh họa như trên, chúng ta có thể thấy vai trò và giá trị của TTTT trong việc thực tại

hóa ý nghĩa các phát ngôn theo các HĐ khác nhau. Cả 27 HĐNT của 5 phạm trù trình

bày, điều khiển, cam kết, biểu cảm, tuyên bố đều có TTTT cuối phát ngôn. Chúng

không những là yếu tố thể hiện tình thái mà còn là thành tố làm cho mục đích của phát

ngôn được thể hiện rõ. Một TTTT có thể xuất hiện trong nhiều HĐNT của một phạm

trù hay nhiều phạm trù khác nhau. Trong đó, có nhiều TTTT xuất hiện với tần số cao

trong nhiều HĐNT của 5 phạm trù như nghe, hen (5 phạm trù), chi, hà, nè, nghen, hè

(4 phạm trù).

3.2. Mô tả các TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ

theo tiêu chí lịch sự

3.2.1. Nguyên lí lịch sự

Trong quá trình giao tiếp ngôn ngữ, giữa con người với nhau đều có quan hệ

mật thiết với tính lịch sự. Lịch sự là sự thể hiện văn minh tiến bộ của loài người.

Nguyên lí lịch sự (principle of politeness) là một nguyên lí đặc biệt quan trọng trong

hoạt động giao tiếp. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu đã công bố đều dựa trên

cơ sở các hiện tượng thể hiện tính lịch sự để xây dựng lí thuyết lịch sự.

Ở nước ngoài, nghiên cứu về tính lịch sự phải kể tên các nhà nghiên cứu tiêu

biểu như: R.Lakoff, G.N.Leech, P.Brown và S. Levison.

R. Lakof (1973) coi “lịch sự như là một phương thức để giảm nhiều sự xung

đột trong diễn ngôn (….); Những chiến lược lịch sự có nhiệm vụ đặc biệt là làm cho

các cuộc tương tác thuận lợi” [203, tr. 163].

G.N.Leech (1983), nhà ngôn ngữ học người Anh, đã dựa trên cơ sở những

thành tựu nghiên cứu của các học giả trước đó để nêu ra nguyên tắc lịch sự trong hội

thoại. Ông cho rằng, nguyên tắc hợp tác chỉ có thể can thiệp vào vấn đề người nói và

102

người nghe nói gì và lí giải ngụ ý của đối phương như thế nào trong quá trình hội

thoại. Theo G.Leech, nguyên lí lịch sự hoạt động dựa trên khái niệm “tổn thất” và “lợi

ích” mà nguyên tắc của nó giảm thiểu tối đa những lối nói bất lịch sự và tăng cường

tối đa những lối nói lịch sự. Từ nguyên tắc này, tác giả đề ra những phương châm

trong giao tiếp lịch sự: khiêm tốn thiện cảm, khéo léo, tán đồng, hào hiệp [210].

Có thể nói, cả R.Lakoff và G.Leech cũng đã nghiên cứu phương châm lịch sự với

tư cách là một phương châm hội thoại và tái khẳng định rằng sự vi phạm phương châm

này cũng tạo ra các hàm ý. Theo R.Lakoff, lịch sự là tôn trọng nhau trong tương tác hội

thoại. Càng tuân thủ nguyên lí lịch sự thì nguy cơ đối mặt với những trở ngại trong giao

tiếp giữa các cá nhân càng được giảm thiểu trong giao tiếp. Vì vậy, để giảm thiểu tính

không lịch sự trong giao tiếp, chúng ta cần thực hiện những nguyên tắc sau: i) không áp

đặt (trong giao tiếp mang tính nghi thức); ii) để ngỏ sự lựa chọn (trong giao tiếp thông

thường) và iii) làm cho người đối thoai cảm thấy thoải mái (trong trò chuyện thân mật).

Còn P. Brown và S. Levinson (1983) đã phát triển và trình bày một cách tương

đối đầy đủ những phương diện căn bản của “thể diện”. Hai ông bàn về nguyên lí lịch

sự đã quan tâm đến phương diện thể diện dương tính (positive face) và thể diện âm

tính (negative face) hay còn gọi là thể diện tích cực và thể diện tiêu cực. Thể diện

dương tính là những điều mà mỗi người muốn mình được khẳng định, được những

người khác tôn trọng. Nói một cách khác, thể diện dương tính được thể hiện ở chỗ mọi

người luôn luôn hoặc có khuynh hướng tự đánh giá cao mình. Thể diện âm tính là

những điều mà mỗi người muốn mình được “coi là người lớn” (competen adult

member) không bị ai cản trở trong HĐ. Nói cách khác, mỗi người có một “không gian

cá nhân” mà những người khác không được xâm phạm. Để chỉ “thể diện âm tính”

người ta còn dùng thuật ngữ “lãnh địa”. Còn thuật ngữ “thể diện” thì dùng để chỉ thể

diện dương [204].

Theo Từ điển tiếng Việt “lịch sự” nghĩa là “có cách cư xử lịch thiệp và biết tuân

theo lề lối chuẩn mực xã hội trong giao tiếp” [127, tr. 54]. Theo Đỗ Hữu Châu: “phép

lịch sự là hệ thống những phương thức mà người nói đưa vào hoạt động nhằm điều hòa

và gia tăng giá trị của đối tác của mình” [24, tr. 280]. Nguyễn Đức Dân (1998) khẳng

định “lịch sự là tôn trọng nhau. Nó là một biện pháp để giảm bớt trở ngại trong tương

tác giao tiếp giữa các cá nhân” [33, tr. 76].

Không những vậy, trong tiếng Việt có một số công trình nghiên cứu về các mô

hình ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của ứng xử lễ độ, xuất hiện theo dòng thời gian như

(Nguyễn Đình Hòa, (1956) Về lời ăn tiếng nói của người Hà Nội (Nguyễn Kim Thản,

103

1987), Về từ chỉ người trong tiếng Việt (Hoàng Trọng Phiến, 1991). Các từ nhỉ, nhé

với phép lịch sự trong giao tiếp (Nguyễn Thị Lương, 1995), Một số tiểu từ tình thái

dứt câu tiếng Việt với phép lịch sự trong giao tiếp (Nguyễn Thị Lương, 1995), Tìm về

bản sắc văn hóa Việt Nam (Trần Ngọc Thêm, 1996), Lời chào với từ chào, lời mời với

từ mời và tính lịch sự Việt Nam (Vũ Tiến Dũng, 1997), Lịch sự và phương thức biểu

hiện tính lịch sự trong câu cầu khiến tiếng Việt (Vũ Thị Thanh Hương, 2000), Dụng

học Việt ngữ (Nguyễn Thiện Giáp, 2000), Đại cương ngôn ngữ học, tập hai Ngữ dụng

học (Đỗ Hữu Châu, 2001),…

Tác giả Nguyễn Văn Hiệp dựa trên những tổng kết về lịch sự của hai tác giả

P.Brown và S.Levinson đã đưa ra 17 chiến lược lịch sự [66]. Trên thực tế, ai cũng có thể

nhận thấy rằng lịch sự là một phạm trù gắn liền với lịch sử phát triển của các nền văn

hóa, trong đó phản ánh các nền nếp văn hóa dân tộc. Do đó, một hành vi lịch sự ở nơi

này lại có thể không phải là thích hợp với cách quan niệm về lịch sự ở một miền đất

khác. Bên cạnh những điểm chung, mỗi dân tộc còn có những điểm khác nhau trong

quan niệm về tính lịch sự trong giao tiếp. Mặt khác, lịch sự cũng gắn với sự phát triển

văn hóa của từng cá nhân. Như vậy, lịch sự được thực hiện bởi từng cá nhân trong từng

nền văn hóa cụ thể. Các chiến lược lịch sự là những phương thức mà mỗi cá nhân ý thức

được trong nền văn hóa của mình và cố gắng thực hiện chúng, nhưng việc thực hiện các

chiến lược lịch sự phải được cộng đồng chấp nhận, nghĩa là phải tuân thủ theo sự khống

chế và qui định của xã hội, mỗi cá nhân, ý thức về tính lịch sự trong giao tiếp sẽ mang

tầm chiến lược, nhưng chiến lược đó chỉ thực thi có hiệu quả khi chúng phù hợp với

cách nghĩ, cách nhìn ở một môi trường xã hội cụ thể. Ngôn ngữ có đời sống của nó, nó

không ngừng được hình thành và phát triển từ chính cuộc sống cộng đồng của nhân dân.

Thực tế là, trong một cộng đồng ngôn ngữ, có những người hoặc những nhóm người

thích dùng cách nói bóng gió xa xôi; cũng có người, có nhóm người thích cách nói

thẳng, nói trực tiếp. NB với những đặc trưng riêng của một vùng đất, đã tạo ra một

truyền thống ngôn ngữ rất năng động, rất phong phú và rất tinh tế. Chiến lược lịch sự

được thể hiện trong các TTTT cuối phát ngôn của PNNB là ưa cách nói trực tiếp, nói

thật lòng mộc mạc nhưng cũng rất tinh tế. Kế thừa nghiên cứu của các tác giả đi trước,

chúng tôi tiếp tục nghiên cứu, vận dụng để khảo sát TTTT. Các chiến lược lịch sự trong

giao tiếp được chúng tôi đánh số thứ tự trình bày như sau:

Chiến lược lịch sự dương tính

(1) Quan tâm chú ý đến nhu cầu, mong muốn, hứng thú của người nghe, tán

dương người nghe.

104

(2) Cường điệu, phóng đại sự đồng thuận, sự thông cảm, sự quan tâm đến

người nghe.

(3) Dùng những từ ngữ chứng tỏ người nói cùng nhóm, cùng hội cùng thuyền

với người nghe.

(4) Tìm kiếm sự đồng tình từ phía người nghe.

(5) Tránh sự bất đồng với người nghe.

(6) Nói đùa để làm vừa lòng người nghe và tỏ ra hợp tác.

(7) Tỏ ra quan tâm đến mong muốn của người nghe.

(8) Gộp người nói và người nghe vào hành động mang tính hợp tác.

(9) Tỏ ra lạc quan.

Chiến lược lịch sự âm tính

(10) Dùng các lối nói gián tiếp có tính quy ước.

(11) Rào đón (hedge).

(12) Không ép buộc người nghe.

(13) Tỏ ra bi quan.

(14) Giảm thiểu thiệt hại của người nghe.

(15) Tỏ ra đề cao, quý trọng người nghe.

(16) Biết xin lỗi.

(17) Dùng cách nói bóng gió, xa xôi.

(18) Nói trực tiếp, nói thật lòng.

Đây là cơ sở quan trọng để chúng tôi xem xét và phân loại 21 TTTT đơn và 3

TTTT kết hợp tiêu biểu cuối phát ngôn của PNNB. Những TTTT nào phù hợp với

những chiến lược trên đây sẽ được coi là lịch sự [+lịch sự], còn những TTTT nào

không phù hợp sẽ được coi là không lịch sự [- lịch sự]. Ngoài ra, còn một số trường

hợp sẽ được coi là không thiên về bên nào, sẽ được coi là trung tính [+/- lịch sự].

3.2.2. Mô tả cụ thể

(1) cà

[+/-lịch sự], mang sắc thái trung hòa vì nó tuân thủ thành công trong chiến lược

(17), (10), nhưng lại có vẻ như vi phạm chiến lược (12). Ví dụ:

Tại sao không đi luôn vậy cà! [-]

Cá Thòi Lòi này mần sao cà? [+]

(2) chi

[- lịch sự], người nói tranh thủ sự đồng tình và mong người nghe phản hồi

nhanh, nó thuộc chiến lược (1), (7). Ví dụ:

105

Thưa bà, tại con Út nó hông nghe lời bà chi [+]

(3) chớ

[- lịch sự]: mang sắc thái lịch sử âm tính, người nói muốn khẳng định có sự

khác biệt, khẳng định ý kiến của mình, có vẻ như không đồng tình điều gì đó. Ví dụ:

Lan phải đem theo nón lá chớ!

(4) đa

[+ lịch sự]: thuộc tính chiến lược (15), (1); khẳng định, khen ngợi thật lòng một

cách khiêm tốn, nhẹ nhàng, tăng cường sự đồng thuận. Ví dụ:

Cái này hay dữ đa!

(5) coi

[+/- lịch sự], thuộc chiến lược (4), (8) nhưng lại vi phạm (12); nó có vẻ như

ngầm lên giọng thách thức và buộc người nghe đồng ý với điều mình yêu cầu. Ví dụ:

Mần gì mà 7 kí, mày cân coi coi! [-]

Mày cân 2 cần xé thử xem coi! [+]

(6) mèn ơi

[+ lịch sự], thuộc chiến lược (9), (2), (18); thể hiện tình cảm, xúc cảm nhấn

mạnh một sự việc nào đó vào thời điểm nhất định nào đó, người nói muốn người nghe

đồng tình với mình, với thái độ vui vẻ, lạc quan. Ví dụ:

Dữ hôn, giờ mới dìa hả bây, trưa trời trưa trật rồi mèn ơi!

(7) há

[+ lịch sự] thuộc chiến lược (11), đề cao ý kiến người nghe với cách nói rào

đón, bày tỏ rõ ràng mong muốn người nghe vui vẻ đồng tình. Ví dụ:

Vậy chút nữa tao qua lấy 2 kg cam há!

(8) hà

[+ lịch sự], thuộc chiến lược (2), người nói quan tâm đến yêu cầu của người ghe

và đồng tình, thông cảm với người nghe, đôi khi lại là thể hiện việc nài nỉ pha chút

nhõng nhẽo, mong người nghe chấp nhận sự việc nào đó. Ví dụ:

Có 9 hột hà! Lấy đỡ nghen!

(9) he

[+ lịch sự], thuộc chiến lược (4), (5), (6), tìm kiếm, tranh thủ sự đồng tình của

người nghe. Ví dụ:

Ngày mai cân luống khoai lang he!

(10) hè

[+ lịch sự]: thuộc chiến lược (2), (9), (3), người nói mong muốn người nghe

106

đồng tình trong cùng một sự tình mà người nghe biết rất rõ, đề cao vai trò của người

nghe. Ví dụ:

Tui mặc màu này đẹp hông hè!

(11) hen

[+ lịch sự ]: thuộc chiến lược (4), (15), người nói không nêu ra một đề nghị

hoặc mong muốn nhưng không áp đặt mà muốn người nghe thoải mái lựa chọn trả lời.

Ví dụ:

Hẹn trên bờ xáng nhen!

(12) hén

[+ lịch sự] người nói muốn sự đồng thuận của người nghe ở mức độ cao, thể hiện

mối quan hệ thân mật, người nghe khó từ chối; thuộc chiến lược (8), (9), (18). Ví dụ:

Kêu bán 3 vuông tôm luôn hén !

(13) lận

[+ lịch sự], thuộc chiến lược (13), (14): người nói không hi vọng sự tình nào đó

hoặc nói để người nghe không lo lắng. Ví dụ:

Còn 8,9 cây số nữa lận !

(14) hôn

[+ lịch sự] người nói đưa ra câu hỏi hoặc đề nghị, thắc mắc hoặc có thể là sự

hỏi để khẳng định mong người nghe giải đáp và khẳng định đồng tình với mình, thuộc

chiến lược (15). Ví dụ:

Bây đã gần 17 tuổi rồi phải hôn?

Khỏe hôn? [+]: hỏi để khẳng định

(15) hông

[+ lịch sự], thuộc chiến lược (4), (6), (9), đây là hành vi hỏi, thể hiện sự thân

mật đôi khi hỏi nhằm xác định và tìm kiếm sự đồng tình từ người nghe. Ví dụ:

Qua bển với Chín hông?

Giờ tao nói có nghe hông?

(16) mợi

[+ lịch sự], thuộc chiến lược (12), không ép buộc người nghe thuận theo người

nói, đó là lời nói thật lòng, thân mật. Ví dụ:

Ngon dữ lắm, mua đi mợi!

Ngày mai nhe mợi [+]: từ chối lịch sự làm mát lòng

(17) nè

[+ lịch sự], thuộc phạm vi các chiến lược (1), (3), (4), (5), (6), (14), có thể xuất

107

hiện trong các phát ngôn có sự khác biệt giữa các ý kiến; tuy nhiên, lời nói của người nói đáng tin cậy, bỏ ngỏ cho sự lựa chọn của người nghe. Ví dụ: Tui thấy cái thúng này mần khéo nè ! Thôi, tui thấy cái số 8 đẹp hơn nè !

(18) nhen [+ lịch sự], phạm vi chiến lược lịch sự, có thể người nói gián tiếp thể hiện sự

phản đối của mình nhưng không làm người nghe giận, rất quý trọng người nghe. Ví dụ:

Đừng lên gác nhen !

(19) nghe [+ lịch sự], thuộc chiến lược trung tính vì người nói sử dụng thể hiện thái độ

thân mật nhưng đôi lúc dùng với thái độ kẻ cả buộc người nghe phải thực hiện. Ví dụ:

Làm hết bài tập rồi mới chơi cầu lông nghe !

(20) nghen [+ lịch sự], thuộc chiến lược lịch sự và được sử dụng phong phú uyển chuyển trong nhiều trường hợp; thường được dùng nêu đề nghị, mong muốn chủ quan, không mang tính đối kháng do người nói có cơ sở chắc chắn, khẳng định hoặc phủ định sự tình mà người nghe chắc chắn sẽ đồng tình với người phát ngôn.

Ví dụ:

Cấy xong bó mạ này mình ăn trưa nghen! Làm một lần này nữa thôi nghen ! Đừng có đi nhiều người quá nghen ! Cái này được à nghen !

(21) ta [+ lịch sự] dùng cách nói bóng gió xa xôi khiến người nghe phải trả lời mặc dù

đôi khi phát ngôn vu vơ. Ví dụ:

Cái này làm sao ta?

(22) ơi [+ lịch sự]: phạm vi chiến lược (18), (16); thể hiện thái độ thẳng thắn, thật lòng,

tăng cường sự đồng thuận của người đang giao tiếp. Ví dụ:

Thôi bỏ qua đi chú Hai ơi!

(23) chớ bộ [+/- lịch sự]: mang sắc thái trung hòa về nghĩa vì có thể vi phạm chiến lược (5),

nhưng tuân thủ chiến lược (18). Ví dụ:

Đang làm chỉ xơ dừa chớ bộ ! Nè, nè, ăn nhiều nhiều đi, làm tới khuya chớ bộ.

108

(24) thấy mồ

[+ lịch sự]: tỏ ý thân mật gần gũi đánh giá cao thái độ nhận thức của người nghe

vì sự đồng tình này. Ví dụ:

Làm nguyên đống rẫy mệt thấy mồ !

Như vậy, có thể thấy TTTT cuối phát ngôn ở NB đại bộ phận được dùng theo

chiến lược lịch sự dương tính (19/ 25 từ, gồm: đa, mèn ơi, há, hà, he, hè, hen, hén, lận,

hôn, hông, mợi, nè, nhen, nghe, nghen, ta, ơi, thấy mồ), 3 từ (cà, coi, chớ bộ) được

dùng với sắc thái trung tính, chỉ có 2 từ (chi, chớ) là được dùng với chiến lược lịch sự

âm tính.

3.3. So sánh nghĩa của các TTTT trong nhóm theo từng HĐNT

Có những TTTT phát âm gần nhau xuất hiện trong cùng một HĐNT và cũng có

những trường hợp không cùng xuất hiện trong một HĐNT.

3.3.1. Các cặp TTTT trong cùng nhóm xuất hiện trong các HĐNT khác nhau

Nhóm 1: hen/ hén

Cặp này xuất hiện trong 5 phạm trù HĐNT. Tuy nhiên hen có mặt trong

HĐNT: cầu khiến, dặn dò, xin lỗi, cảm ơn, khen, từ chối, thông báo, thỏa thuận; trong

khi đó hén không xuất hiện trong những HĐNT này mà chỉ có mặt trong HĐ: hỏi, hứa.

Nhóm 2: hà/ há

TTTT hà xuất hiện ở HĐNT: mời mọc, cầu mong, khen, tiếc, trách, bác bỏ, kể,

giải trình, còn TTTT há lại không xuất hiện trong các HĐ đó mà chỉ có mặt ở HĐNT:

cầu khiến, rủ rê, chào.

3.3.2. Các TTTT trong nhóm xuất hiện trong cùng một HĐNT

Nhóm 1: hen/ hén cùng xuất hiện ở 5 phạm trù HĐNT. Hen/ hén cùng xuất

hiện ở HĐNT: trách.

Nhóm 2: hôn/ hông: cùng xuất hiện ở HĐNT: hỏi

Nhóm 3: nhen, nghe, nghen cùng xuất hiện ở HĐNT: dặn dò, xin lỗi, thông báo.

Trong đó, nhóm nhen, nghe, nghen xuất hiện nhiều nhất (23/27 HĐNT), kế

đến là hen/ hén (16/27 HĐNT), thấp nhất là nhóm hôn/ hông (4/27 HĐNT). Sau đây

chúng tôi so sánh các từ trong nhóm, rút ra nét tương đồng và khác biệt của các tiểu

nhóm TTTT khi xuất hiện cùng HĐNT.

Cặp hen/ hén

Như ví dụ đã đưa:

Tưởng ông siêng đột xuất hen?

Tưởng mày dọn cỏ hết rồi, ai ngờ mày để một đống hén?

109

Hai ví dụ này thuộc HĐ trách.

Cặp TTTT hen/ hén có nét tương đồng và khác biệt sau: a). Nét tương đồng: cặp TTTT hen/ hén xuất hiện trong lời nói khi người nghe có biểu hiện gì đó trong quá khứ mà theo người nói là không hay không tốt. Hen/ hén có trong các HĐNT tạo cho HĐ này có dạng phát ngôn hỏi nhưng nhẹ nhàng, hỏi một cách khéo léo thể hiện thái độ không vừa lòng của người nói mà qua đó người nói muốn người nghe tự nhận ra điều mình cần sửa và thực hiện ngay phần chưa đúng của mình.

b). Nét khác biệt - TTTT hén biểu thị thái độ của người nói không hài lòng, bộc lộ sự bực tức, khó chịu một cách rõ ràng. Sắc thái thể hiện rất khó chịu. Từ ngữ xưng hô trong HĐ này đôi khi khó thể hiện lịch sự. Người nói ở đây là hàng trên, hoặc ngang vai. Người hàng dưới không sử dụng thái độ bực tức khó chịu này với người trên hàng. Người nói giao tiếp trực tiếp với người nghe. Ở đây, người nghe có thể không trả lời hoặc trả lời giọng điệu phát âm nhấn mạnh, nhanh, nếu thái độ giận cao thì cuối phát ngôn kéo dài. - TTTT hen: thể hiện thái độ pha chút mỉa mai, HĐ trách này ở dạng hỏi nhưng không cần trả lời. Từ hen biểu thị ý nghĩa trách nhẹ nhàng không nặng nề như TTTT hén. Cách phát âm nhẹ, giọng lên cao một chút nếu người nói là người hàng trên. Người hàng dưới vẫn sử dụng TTTT hen ở HĐ trách với ý nghĩa bông đùa, trêu ghẹo lẫn nhau.

Cặp TTTT hông/ hôn Cặp này thuộc HĐ hỏi của phạm trù điều khiển nhóm 2: hỏi Các ví dụ ở cặp hông/ hôn: Đi với tui hôn? Phải vậy hôn? Có đi chở khóm với tui hông?

So sánh, đối chiếu, chúng tôi thấy có những điểm tương đồng và khác biệt sau: a). Nét tương đồng: Cả TTTT hông/ hôn thể hiện sự thân mật trong việc phán đoán của người hỏi nhưng chưa chắc chắn người nghe, người đối thoại trả lời. Đồng thời hông/ hôn đều thể hiện điều người nói chưa hiểu, chưa xác định và cần sự hồi đáp từ người nghe, mong mỏi người nghe chấp thuận thoải mái, đôi khi là chờ sự đồng tình ở mức độ cao. Giọng điệu hỏi của hông/ hôn nhẹ nhàng dễ đi vào lòng người hơn từ để hỏi “không” trong tiếng Việt toàn dân.

b). Nét khác biệt - TTTT hôn giúp phát ngôn có nét nghĩa lịch sự trong tình huống nghi vấn mà

người nói không cần câu trả lời; hỏi chỉ để xác định thông tin hoặc thông báo, khẳng

110

định thông tin giúp người nghe cảm thấy điều ấy đúng và yên tâm với sự việc. TTTT

hôn được sử dụng đa dạng hơn TTTT hông ở dạng nghi vấn. TTTT hôn không kết

hợp với từ khác khi trả lời câu hỏi.

- HĐ hỏi có TTTT hôn: có sắc thái hi vọng cao, giọng nũng nịu, trìu mến, đôi

khi là hỏi điều ngược lại nhằm xác định điều mình vừa hiểu là đúng. Đôi khi, đó là sự

giận dỗi. Về địa vị tôn ti, người nói ngang hàng hoặc trên hàng nếu người nói và người

nghe có mối quan hệ thân mật.

- TTTT hông khi dùng để hỏi, người đối thoại có thể dùng phương tiện này để

trả lời ở dạng phủ định hoặc từ chối. Ví dụ: hông làm, hông dìa, hông ăn, hoặc phủ

định với giọng điệu nũng nịu nhưng đó có hàm ý là khẳng định mạnh “Bà có yêu tui

hông?”, “Hông yêu”,“Hổng có yêu”… Trường hợp này giọng điệu phát ngôn thường

kéo dài.

- Ở HĐ hỏi có TTTT hông: sắc thái hỏi không mềm mại, nhẹ nhàng bằng

TTTT hôn, có ý áp đặt, buộc người nghe chấp nhận. Nếu sử dụng giao tiếp với người

có vị trí cao hơn sẽ bị coi là không lịch sự. (Nếu môi trường giao tiếp là công sở, giao

tiếp với người có vị trí trên hàng thường kết hợp với ạ (hông ạ)).

Cặp nghen, nhen, nghe

Cả 3 TTTT này xuất hiện cùng HĐNT: cảm ơn, xin lỗi, thuộc phạm trù cảm ơn.

Ví dụ:

Nhờ em nó mà cả xóm quyên góp hết, cảm ơn chú em nghe!

Cảm ơn chú nhiều nghen!

Ui, hông có gì đâu, tui cảm ơn bà nhiều nhen!

a). Nét tương đồng: Cả 3 TTTT xuất hiện nhằm bày tỏ thái độ, sự thể hiện

người nói là người có văn hóa ứng xử. Người nói bày tỏ lòng biết ơn hoặc sự hối lỗi

của mình đối với người nghe và mong người nghe chấp nhận hay tha thứ.

b). Nét khác biệt

- Ở HĐ cảm ơn: TTTT nghe thể hiện thái độ lịch sự, nhưng có phần khách sáo

đối với người nghe, bởi HĐ của người nghe được người nói đánh giá “quá” cao. Đối

tượng giao tiếp ở vị trí ngang hàng hoặc dưới hàng, mức độ sơ, không thân.

- TTTT nghen: ở HĐ cảm ơn hay xin lỗi TTTT nghen thể hiện trân trọng đối

với người giao tiếp, khi phát ngôn có nghen thì dễ đi vào lòng người. Đối tượng giao

tiếp dưới hàng, ngang hàng, trên hàng, thân hay sơ đều dùng được TTTT này.

- TTTT nhen: TTTT nhen thể hiện mức độ tình cảm thân mật, gần gũi của

111

người cùng trang lứa, lời nói lịch sự thân thiết nhưng không suồn sã, người nghe chấp

nhận ngay những mong muốn của người nói.

Tìm hiểu và phân tích nét tương đồng, nét khác biệt của các TTTT cuối phát

ngôn phát âm gần giống nhau xuất hiện trong cùng HĐNT, chúng tôi thấy rằng, các

TTTT này, ngoài nét nghĩa chung, giữa chúng có nét nghĩa riêng. Nét nghĩa riêng rất

đa dạng và phong phú, biểu thị sự khác biệt về sắc thái biểu cảm trong từng phát ngôn.

Với sự biểu hiện nghĩa cụ thể, rõ ràng, các TTTT nhóm này giúp chuyển tải tư tưởng

tình cảm, bộc lộ ý nghĩa tình thái đa dạng tinh tế cho phát ngôn, làm nổi rõ những suy

nghĩ, những cung bậc tình cảm phong phú của con người NB.

3.4. Hiện tượng từ hô gọi đi kèm TTTT

3.4.1. Từ hô gọi và hiện tượng từ hô gọi đi kèm TTTT

Theo Từ điển tiếng Việt, “Xưng hô là hành động tự xưng mình và gọi người

khác là gì đó khi nói với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau” [127].

Nguyễn Văn Chiến cho rằng: “…Xưng hô là một hành động ngôn ngữ. Hành động

xưng hô thường diễn ra trong hội thoại…” [28]. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng: xưng

là một bộ phận của lời nói, tự xưng (gọi) mình với người đối thoại; hô là gọi người

đang trò chuyện với mình. Chính vì vậy, hô gọi là chỉ hành động của người nói và

chức năng chủ yếu là phát ra từ ngữ nào đó hướng vào người nghe nhằm làm cho

người nghe biết rằng người hô gọi muốn giao tiếp với mình.

Người Nam Bộ thường sử dụng các nhóm từ hô gọi như:

- Xưng hô theo thứ tự sinh: anh hai, anh ba, bác hai, thím năm, út, út chót….

- Danh từ riêng: Thời, Viên, Vi, Trâm,...

- Danh từ thuộc nhóm danh từ chỉ họ hàng thân tộc: nội, ngoại, chú, thiếm, dì,

dượng,…

- Danh từ chỉ chức danh nghề nghiệp: thầy cô, hiệu trưởng, trưởng phòng, phó

phòng, sếp, tổng giám đốc,…

- Các đại từ dùng với chức năng hô gọi: bây, mày, tụi bây, tụi mày,…

Để khảo sát THG đi kèm TTTT từ số liệu điền dã, chúng tôi tập hợp 1.800 tham

thoại của 8.531 phiếu điều tra các cuộc hội thoại ở các tỉnh thành NB xuất hiện TTTT

cuối phát ngôn thuộc tám HĐNN, về tần số và tỉ lệ, chúng tôi thu được kết quả thể

hiện ở bảng 3.7.

112

Bảng 3.7. Bảng số lần và tỉ lệ THG đi kèm TTTT cuối phát ngôn

trong một số HĐNT

Tỷ lệ (%) TT HĐNT có THG đi kèm TTTT Số lần xuất hiện

1 125 13,30 cầu khiến

137 14,55 2 mời

3 98 10,40 rủ rê

4 73 7,75 khuyên

5 146 15,50 dặn dò

6 136 14,40 cảm ơn

7 128 13,60 xin lỗi

8 99 10,50 chúc mừng

942 100 Tổng

Nhìn vào bảng 3.7, chúng ta thấy rằng hiện tượng THG đi kèm TTTT cuối phát

ngôn nhiều nhất ở HĐNT dặn dò: 146/ 942 (15,50%), HĐNT mời, cảm ơn, cầu khiến

tỉ lệ gần bằng nhau. Cụ thể: mời: 137/ 942 (14,55%), cảm ơn: 136/ 942 (14,40%), cầu

khiến: 125/ 942 (13,30%), chúc mừng: 99/ 942 (10,50%), rủ rê: 98/ 942 (10,40%),

khuyên: 73/ 942 (7,75%).

BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN TỪ HÔ GỌI ĐI KÈM TTTT CUỐI PHÁT NGÔN

cảm ơn

cầ u khiến

mời

rủ rê

khuyên

dặ n dò

xi n l ỗi

chúc mừng

10,50%

13,30%

13,60%

14,55%

14,40%

10,40%

15,50%

7,75%

Như vậy, qua bảng khảo sát, chúng ta nhận thấy THG đi kèm TTTT được dùng

khá phổ biến trong các HĐNT khác nhau của người NB.

3.4.2. Vai trò của từ hô gọi xuất hiện trước và sau TTTT cuối phát ngôn

trong giao tiếp của người Nam Bộ

THG được dùng để người nói gọi người giao tiếp với mình; THG thuộc từ xưng

113

hô nên sẽ xuất hiện trong giao tiếp. Khi quan sát cách trò chuyện của người vùng đất

phương Nam, chúng tôi thấy có hai cách dùng THG khá phổ biến; đó là: THG xuất

hiện sau TTTT và THG xuất hiện trước TTTT cuối phát ngôn.

Bảng 3.8. Bảng từ hô gọi xuất hiện trước và sau TTTT cuối phát ngôn

TT HĐNT có các cách thức

cầu khiến mời rủ rê khuyên dặn dò cảm ơn xin lỗi chúc mừng 1 2 3 4 5 6 7 8 Tổng Từ hô gọi xuất hiện trước % SL 12,90 77 13,57 81 11,72 70 6,87 41 16,25 97 14,24 85 14,90 89 9,55 57 100 597 Từ hô gọi xuất hiện sau % 13,90 16,20 8,10 9,30 14,20 14,80 11,30 12,20 100 SL 48 56 28 32 49 51 39 42 354

Nhìn vào bảng chúng ta có thể nhận xét rằng: HĐNT có THG kèm TTTT xuất

hiện trước TTTT có số lượng cao nhất là ở HĐ xin lỗi: 89/ 597 (14,90%); HĐNT có

THG kèm TTTT xuất hiện sau TTTT có số lượng cao nhất là ở HĐ mời: 56/ 354

(16,20%). Cũng qua bảng này, ta thấy hoạt động của THG xuất hiện khá đồng đều ở

các nhóm HĐNT; điều đó cho thấy, không những THG luôn xuất hiện trong giao tiếp

của người NB như một yếu tố tự nhiên tất yếu mà còn là yếu tố thể hiện tính lịch sự và

tình cảm. THG đi kèm với TTTT là một trong các biểu hiện của đặc điểm giao tiếp

trọng tình của người NB.

a). THG xuất hiện trước TTTT cuối phát ngôn

Ví dụ:

<199> Mình tập chạy xe cho Út nghen! (HĐ cầu khiến).

<200> Mua giùm chị mớ rau này, Bảy nghe! (HĐ mời mọc của người bán hàng).

<201> Mai đi coi hát với mày hen! (HĐ rủ rê).

<202> Thôi, cố gắng lên mày ơi! (HĐ khuyên).

<203> Tới nơi nhớ gọi điện báo, con nhen! (HĐ dặn dò).

<204> Cảm ơn mợ ba nghen! (HĐ cảm ơn).

<205> Xin lỗi mày nè! (HĐ xin lỗi).

<206> Chúc mừng Tuyền hen! (HĐ chúc mừng). ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣

114

Nếu THG đứng trước TTTT trong phát ngôn (trong cả 8 nhóm) thì điều người

nói muốn người nghe chú ý ở THG, đồng thời muốn tăng sắc thái của câu, chờ đợi sự

đồng tình của người đối thoại. Như ở ví dụ <199>: Mình tập chạy xe cho Út nghen! Ở

HĐ cầu khiến thể hiện rõ sự chờ đợi sự đồng tình của Út; cũng có thể xem đó là năn

nỉ, thiết tha “cầu” nhiều hơn “khiến”. Tương tự ở ví dụ <200>: Mua giùm mớ rau này

Bảy nghe!, lời mời (của người bán) làm người mua khó từ chối, bởi lời thoại không

những không mang tính áp đặt mà còn thể hiện sự tôn trọng người nghe. Còn ở <206>,

THG đứng trước TTTT làm câu chúc trọn vẹn, đầy đặn hơn.

Qua các ví dụ <199>, <200>, <204>, <205>, <206>, chúng ta thấy có thể có sự

hoán đổi vị trí giữa THG và TTTT ở quá trình thực hiện hội thoại trong giao tiếp

thường ngày trong đời sống. Lúc ấy, sắc thái biểu cảm có ý nghĩa tình thái hiểu theo

cách khác. Riêng <201>, <202>, THG không thể đứng sau TTTT. Chẳng hạn như:

Mai đi coi hát với tao hen! (HĐ rủ rê) “tao hen” thành “hen tao” hay Thôi, cố gắng

lên mày ơi! “mày ơi” thành “ơi mày”. Điều này càng cho thấy vị trí xuất hiện cũng

như có những trường hợp mang tính cố định.

Như vậy, việc kết hợp giữa THG và TTTT cho thấy người NB mặc dù rất xởi

lởi trong giao tiếp nhưng cũng rất chú ý đến lời ăn tiếng nói trong việc vận dụng thể

hiện các mối quan hệ thân - sơ. Và đó cũng là tình cảm thiệt tình, quan tâm, trân trọng

đối với người nghe.

Quả thật, khi THG xuất hiện trước TTTT cuối phát ngôn, ở vị trí này các tiểu từ

có thể thực hiện cùng nhiều vai trò khác nhau; chính vì thế, nó có giá trị chuyển tải đầy

đủ mọi thông điệp, thái độ của người nói.

Khi THG xuất hiện trước TTTT thì trọng tâm phát ngôn sẽ rơi vào đối tượng

được gọi, điều đó cho thấy người nói vô cùng quan tâm đến người nghe; lúc ấy, có thể

điểm nhấn biểu cảm của TTTT sẽ giảm nhẹ hơn một chút.

b). THG xuất hiện sau TTTT cuối phát ngôn

Xét các phát ngôn sau:

<207> Qua Chợ Lách rồi dìa Nghĩa Phụng, đợi ở cây xăng nghen chú Chín!

(HĐ cầu khiến).

<208> Mớ mùng tơi non èo hà, mua dùm nghe dượng Út (HĐ mời mọc).

<209> Một hồi tao với mày xách đờn qua Cồn Thới Sơn chơi đờn ca tài tử hen

mậy (HĐ rủ rê).

<210> Đậu bắp lên tược đừng ngắt ngọn nghen con! (HĐ dặn dò).

<211> Cảm ơn nhiều nghen chị đẹp! (HĐ cảm ơn).

115

<212> Xin lỗi nghen Tùng (HĐ xin lỗi).

<213> Chúc mừng nhen chị (HĐ chúc). <214> Làm dùm nghen chú! Hễ giao tiếp là có xưng hô, THG nằm trong hệ thống từ xưng hô nên việc liên kết THG với TTTT sẽ tạo nghĩa tình thái phong phú hơn. Đến với ví dụ <208>, ngoài việc miêu tả sự tri nhận và kinh nghiệm mớ mùng tơi non èo hà thì vế sau: là lời mời rất lịch sự nhưng nhấn mạnh mối quan hệ: vai THG nhỏ hơn nhưng cũng có thể là người lịch sự dùng THG một cách tế nhị của người hàng trên gọi người dưới hàng theo mối quan hệ sơ (không thân). Còn với ví dụ <214>] Làm dùm nghen chú!, ở đây, nếu là người nói trên hàng thì TTTT cuối phát ngôn nghen thường đứng sau từ hô gọi, ví dụ: Làm dùm chú nghen. Trong trường hợp này, người nói nhấn mạnh “chú” để ngầm ý xác định vai trong giao tiếp cũng có thể nói muốn thể hiện cái uy trong hành động điều khiển mà người nghe phải thực hiện yêu cầu, không thể từ chối, dù là từ chối hết sức lịch sự. Ngược lại, TTTT cuối phát ngôn nghen đứng trước từ hô gọi, chắc chắn người nói vai nhỏ hơn, nên TTTT đứng trước thể hiện lịch sự, nhẹ nhàng, tôn trọng khi yêu cầu người lớn hàng hơn mình.

Vậy, chúng ta thấy rằng, khi THG xuất hiện sau TTTT thì trọng tâm sẽ rơi vào TTTT, nội dung lời nói được chú ý hơn, nhấn mạnh hơn; người nghe cần lưu ý đến thông điệp mà người nói đã phát. Ngữ điệu tuy mạnh nhưng không kém phần lịch sự và sự nhẹ nhàng. Người nghe cảm nhận được sự quan tâm, những tình cảm trân trọng dành cho mình.

Khảo sát các TTTT cuối phát ngôn đi kèm THG trong giao tiếp của người Nam Bộ, chúng tôi thấy việc liên kết các yếu tố này với nhau thực sự có hiệu quả trong việc thể hiện nghĩa tình thái. THG kết hợp TTTT trong các ngữ cảnh tạo sự chú ý, gây ấn tượng mạnh, tạo sắc thái mới mẻ; đồng thời, người nói muốn tìm sự chia sẻ với người nghe, mong muốn người nghe tiếp nhận hay đồng tình.

3.5. Tiểu kết chương 3 Ở chương 3, luận án đã mô tả và phân tích các TTTT có thể nằm trong nhóm HĐ này nhưng cũng có khả năng xuất hiện trong nhóm khác, có vai trò và ý nghĩa khác biệt nhau, đó là hỏi, khẳng định trực tiếp một cách thẳng thắn, bộc trực; hoặc mang hình thức hỏi nhưng lại hàm ẩn chuyển tải HĐ lời nói khác một cách tinh tế, tế nhị. Đó là nét đặc sắc của TTTT trong giao tiếp của người NB. Ở các nhóm TTTT, giữa các từ, bên cạnh có những đặc điểm tương đồng về ý nghĩa, vai trò, và sự hành chức, giữa chúng có những đặc điểm hoàn toàn khác nhau, cũng về ý nghĩa, vai trò và sự hành chức.

116

Khi mô tả và phân loại các nhóm TTTT theo HĐNT, luận án nhận thấy: 5

phạm trù điều khiển, biểu cảm, cam kết tuyên bố, trình bày luôn xuất hiện các TTTT

cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB nhưng có sự khác nhau về khả năng xuất

hiện của từng TTTT. Trong đó, có 27 HĐNT tiêu biểu thuộc 5 phạm trù này xuất hiện

TTTT cuối phát ngôn là kể, thông báo, giải trình, dặn dò, giới thiệu, cầu khiến, xua

đuổi, mời mọc, rủ rê, mệnh lệnh, cầu mong, khuyên, hỏi, hứa, thoả thuận, cảm ơn, xin

lỗi, chúc, chào, khen ngợi, tiếc, dự định, đoán, ước, trách móc, bác bỏ, từ chối.

Khảo sát các TTTT cuối phát ngôn đi kèm THG trong giao tiếp của người NB,

luận án thấy việc liên kết các yếu tố này với nhau có hiệu quả trong việc thể hiện nghĩa

tình thái. THG kết hợp TTTT trong các ngữ cảnh tạo sự chú ý, gây ấn tượng mạnh, tạo

sắc thái mới mẻ; đồng thời, người nói muốn tìm sự chia sẻ với người nghe, mong

muốn người nghe tiếp nhận hay đồng tình.

Việc kết hợp THG kèm TTTT cuối phát ngôn trong phương ngữ NB một cách

tự nhiên, hài hòa, phần nào cho thấy bức tranh giao tiếp trọng tình cảm, nét tinh tế

trong lời ăn tiếng nói của người phương Nam.

117

Chương 4

ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGÔN

TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ

XÉT THEO PHÂN TẦNG XÃ HỘI VỀ GIỚI TÍNH

4.1. Giới thuyết về vấn đề giới tính và ngôn ngữ

Là yếu tố mang chức năng ngữ nghĩa và chức năng dụng học nên khi được

dùng trong giao tiếp, TTTT phương ngữ là một trong các nhân tố không chỉ thể hiện

thói quen vùng miền mà còn là ý thức xã hội về giới, địa vị, tuổi tác, bối cảnh (gia đình

hay xã hội),… của người giao tiếp. Quả thật, trong giao tiếp hằng ngày, người Nam Bộ

nói riêng cũng như người Việt nói chung hầu như trong mọi hoàn cảnh đều sử dụng

tình thái từ, đặc biệt là TTTT cuối phát ngôn, xem nó như một thành tố nói năng

“không thể thiếu”. Và, TTTT cuối phát ngôn là một trong các phương tiện tình thái thể

hiện thói quen, sở thích và cá tính sử dụng ngôn ngữ khác nhau, tạo nên phong cách

ngôn ngữ của mỗi giới.

Giới là một khái niệm mới xuất hiện ở các nước nói tiếng Anh vào cuối những

năm 60 và ở nước ta vào những năm 80 của thế kỷ XX. Cho đến nay, thuật ngữ giới

được hiểu chưa có sự thống nhất trong giới nghiên cứu và còn không ít những sự mơ

hồ và nhầm lẫn trong cách hiểu về giới. Theo cách hiểu thông thường, giới là một

thuật ngữ xã hội học, nói đến vai trò, trách nhiệm và quan hệ xã hội giữa nam và nữ.

Giới đề cập đến việc phân công lao động, phân chia nguồn lực và lợi ích giữa nam và

nữ trong một bối cảnh cụ thể. Giới được hình thành do học và giáo dục, không đồng

nhất, khác nhau ở mỗi nước, mỗi địa phương, thay đổi theo thời gian, theo quá trình

phát triển kinh tế - xã hội. Trong một nền văn hóa nhất định sẽ hình thành những

chuẩn mực nhằm xác định một bé gái hay bé trai, một nam hay một nữ. Trong cách

hiểu chung, nhiều người thường lẫn lộn giữa giới và giới tính, không phải ở mặt thuật

ngữ mà trong thực tế. Nhiều nguời thường đánh đồng những khác biệt giữa nam và nữ

về vai trò giới (do học mà có) với những khác biệt về mặt sinh học (do di truyền mà

có). Đây là hai khái niệm có mối liên quan chặt chẽ nhưng có bản chất khác nhau. Bản

thân sự xuất hiện khái niệm giới nhằm làm rõ sự khác biệt giữa nam và nữ trên hai

khía cạnh: sinh học (giới tính) và xã hội (giới). Theo cách hiểu phổ biến, giới tính là

một khái niệm xuất phát từ môn sinh vật học, chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt

sinh học. Con người sinh ra đã có những đặc điểm về giới tính (bẩm sinh).

118

Theo Từ điển tiếng Việt, giới tính được hiểu là “những đặc điểm chung phân biệt nam với nữ, giống đực với giống cái, nói tổng quát” [127, tr.32]. Trong xã hội, giới tính chi phối đến hầu hết các mặt của đời sống xã hội; có quan hệ mật thiết đến đạo đức, phong tục tập quán xã hội; là cơ sở tự nhiên, là yếu tố tiền đề góp phần tạo nên những phẩm chất nhân cách hoặc những đặc điểm cá tính của con người. Sự khác biệt giới tính luôn phối hợp bổ sung cho nhau nên hoạt động của con người sẽ có thuận lợi hơn nếu như có mối quan hệ cân bằng, hài hòa với người khác giới. Vì vậy, giới tính thường được quan tâm một cách đặc biệt và các cộng đồng trên toàn thế giới đều luôn nỗ lực không ngừng cho cuộc cách mạng bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực (trong đó có sự bình đẳng về ngôn ngữ và trong ngôn ngữ). Cũng có quan niệm cho rằng giới tính là những đặc tính riêng biệt và độc đáo của mỗi giới. Những đặc điểm đó bao gồm hai loại chính: những đặc điểm sinh lý giới tính và những đặc điểm tâm lý xã hội giới tính. Đây chính là cách hiểu ở phạm vi rộng về nội hàm khái niệm giới tính. Nó không chỉ là những đặc điểm con người sinh ra đã có mà nó (sinh lý giới tính) còn bao gồm cả những mong đợi của xã hội về ngoại hình, tính cách, trách nhiệm với cộng đồng… (tâm lý xã hội giới tính) được cho là phù hợp với đặc điểm của từng giới tính. Bởi qua tìm hiểu của chúng tôi, trong nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội, hai thuật ngữ giới và giới tính đều đựợc sử dụng và trong nhiều trường hợp thay thế cho nhau. Theo chúng tôi tìm hiểu, sex và gender trong tiếng Anh có nghĩa tương đương với giới tính và giới. Sex là tình trạng là đực hay là cái. Gender là sự phân chia danh từ hay đại từ thành giống đực và giống cái hoặc là sự phân chia về giới tính. Tác giả R. Lakoff (1979) sử dụng sex and gender. Trong tiếng Việt, Nguyễn Đức Dân (1999), Vũ Thị Thanh Hương (1999), Vũ Tiến Dũng (2003), Trần Thanh Vân (2012) sử dụng giới tính; Lương Văn Hy, Nguyễn Thị Thanh Bình (2000) sử dụng giới; Nguyễn Văn Khang sử dụng giới tính (1989, 2005), sử dụng giới (2012), Phạm Thị Hà (2013) sử dụng giới. Mặc dù việc sử dụng thuật ngữ có khác nhau nhưng nội dung nghiên cứu thì tất cả đều coi nam hay nữ là biến xã hội tác động đến ngôn ngữ [81, tr.18]. Như vậy, trong nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội, hai thuật ngữ giới và giới tính đều đựợc sử dụng và trong nhiều trường hợp thay thế cho nhau. Biểu hiện của nhân tố giới tính trong ngôn ngữ trên bình diện ngữ âm của mỗi giới không chỉ đơn thuần là sự khác nhau về cấu tạo sinh lý mà nó còn có mối quan hệ mật thiết với nhiều yếu tố khác như tâm lý xã hội, bối cảnh văn hóa, địa vị giao tiếp… Trên bình diện âm thanh, giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes đã từng nhận xét người phụ nữ Việt nói như chim hót. Đó là âm thanh ngôn ngữ của nữ giới, vấn đề ngôn ngữ của giới. Trên bình diện từ vựng- ngữ nghĩa: Các nhà nghiên cứu thường xem xét sự khác biệt giới tính được thể hiện qua ngôn ngữ, cụ thể là: Về hình thức cấu tạo từ của nhiều ngôn ngữ: Tiếng Anh, tiếng

119

Nga…. Đặt từ “phụ nữ” trước các danh từ chỉ chức danh, nghề nghiệp; Về mặt ngữ nghĩa, những lớp từ có nét nghĩa đặc thù được mặc định dùng riêng cho mỗi giới hoặc mặc định dùng cho mỗi giới nhưng trong nhiều trường hợp lại đuợc dùng cho cả hai giới. Trên bình diện ngữ pháp: các nhà nghiên cứu thường xem xét ngôn ngữ gắn với thói quen sử dụng ở từng giới. Xét trên bình diện ngữ pháp, tác động của yếu tố giới tính đến sự sử dụng ngôn ngữ còn thể hiện ở một số khía cạnh cách dùng từ loại của mỗi giới, phong cách sử dụng hành động ngôn ngữ ở nam và nữ. Bàn đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính có hai vấn đề thuờng đuợc quan tâm là “ngôn ngữ của mỗi giới” và “ngôn ngữ nói về mỗi giới”. Ngoài ra, cũng cần lưu ý thêm, tuy nghiên cứu về mối quan hệ giữa giới tính và ngôn ngữ hay sự chi phối của nhân tố giới tính đến việc sử dụng ngôn ngữ nhưng cần phải đặt yếu tố giới tính trong mối quan hệ với các nhân tố xã hội khác.

Chúng tôi đồng tình với tác giả Nguyễn Văn Khang về sự khác nhau về giới

tính giữa các giới thể hiện trong ngôn ngữ ở ba vấn đề sau:

- Có sự khác nhau giữa nam và nữ về cấu tạo cơ thể người, như vị trí của phần

“chứa” ngôn ngữ ở trong não cũng như đặc điểm về sinh lí cấu âm của từng giới.

- Ngôn ngữ để nói về mỗi giới có khác nhau, có những từ ngữ chỉ dùng cho giới

này mà không thể dùng cho giới khác.

- Ngôn ngữ được mỗi giới dùng có sự khác nhau: để biểu thị cùng một vấn đề,

nam và nữ có cách sử dụng ngôn ngữ, cách diễn đạt khác nhau [81, tr. 144 -145].

Như vậy, giới tính cũng như các nhân tố phân tầng xã hội khác đều có ảnh hưởng đến thái độ, thói quen sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Điều đó được thể hiện trong phát ngôn; giữa nam và nữ, bên cạnh mặt tương đồng còn có những sự khác biệt nhất định. Vì thế, chúng ta có thể nhận ra bức tranh chung là nam giới và nữ giới sử dụng và tiếp nhận ngôn ngữ, trong đó có yếu tố TTTT dùng cuối phát ngôn có sự khác biệt nhất định.

4.2. Những khác biệt về tần số sử dụng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp

giữa nam và nữ ở Nam Bộ

4.2.1. Sự khác biệt giữa nam và nữ về tần số sử dụng TTTT đơn Trong giao tiếp, người Nam Bộ nói riêng, người Việt nói chung hầu như trong mọi hoàn cảnh đều có sử dụng tình thái từ, xem nó như một thành tố nói năng “không thể thiếu”, nhất là đối với TTTT. Chúng tôi thực hiện việc tìm hiểu sự khác biệt giữa nam và nữ trong việc sử dụng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB dựa trên 4 nhân tố: 1). về tuổi tác: Chúng tôi khảo sát 3 độ tuổi: Thanh niên (từ 16 đến 39 tuổi); Trung niên (40 tuổi đến 60 tuổi); Cao niên (60 tuổi trở lên); 2). về nghề nghiệp khảo sát điền dã: Học sinh, sinh viên; viên chức, công chức,…(trong công sở); công

120

nhân, nông dân (đối tượng điều tra có số lượng cao nhất); 3). về vai giao tiếp: trên hàng, dưới hàng, ngang hàng, thân hay sơ; 4): về không gian giao tiếp: gia đình hay ngoài xã hội; nông thôn và thành thị. Trừ đối tượng nông dân có số lượng điều tra gấp ba các đối tượng nghề nghiệp khác (vì đây là thành phần đông nhất nói tiếng Nam Bộ), mỗi đối tượng theo nghề nghiệp khác, chúng tôi đều điều tra ghi âm số lượng 500 người, trong đó nam/ nữ có số lượng bằng nhau. Tổng số phát ngôn thu được có dùng TTTT là 7655. So sánh 21 TTTT đơn PNNB được nam và nữ dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp, chúng tôi thu được kết quả về tần số dùng của từng từ thể hiện như ở bảng tổng hợp 4.1 sau:

Bảng 4.1. Bảng tổng hợp so sánh tần số và tỉ lệ dùng TTTT đơn giữa nam và nữ

Nam giới Nữ giới Tổng số

TT TTTT % % %

Phát ngôn 156 274 308 260 235 235 170 182 181 175 145 141 117 75 59 80 67 63 47 57 36 Phát ngôn 669 420 371 313 269 263 306 291 225 189 163 145 133 129 131 104 93 95 109 90 84 81.09 60.52 54.64 54.62 53.37 52.81 64.29 61.52 55.41 51.92 52.92 50.70 53.20 63.24 68.95 56.52 58.12 60.13 69.87 61.22 70.00 Phát ngôn 825 694 679 573 504 498 476 473 406 364 308 286 250 204 190 184 160 158 156 147 120 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 18.91 39.48 45.36 45.38 46.63 47.19 35.71 38.48 44.58 48.08 47.08 49.30 46.80 36.76 31.05 43.48 41.88 39.87 30,13 38.78 30.00 nghen hôn hen hông hén nghe ơi nhen mợi lận nè hè he cà há ta coi chớ hà chi đa

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 3063 Tổng 40.01% 4592 59.99% 7655 100%

121

Qua bảng 4.1, chúng ta thấy nữ giới sử dụng TTTT nhiều hơn nam. Cụ thể, nữ

sử dụng 4592 phát ngôn chứa TTTT, chiếm tỉ lệ 59,99%, nam giới sử dụng 3063 phát

ngôn, chiếm tỉ lệ 40,01%. Đối chiếu tất cả TTTT, TTTT nào nữ cũng đều dùng số

lượng phát ngôn tỉ lệ cao hơn. Trong đó, có 10/ 21 TTTT được nữ dùng nhiều hơn

nam từ 60 % trở lên, đặc biệt, TTTT nghen được nữ sử dụng với tỉ lệ cao chênh lệch

lớn nhất so với nam, với 669/825 phát ngôn (tỉ lệ 81,09 % so với 18,91% ). Các TTTT

được nữ dùng cao vượt trội so với nam, chiếm tỉ lệ trên 60% là: nghen (669/825 phát

ngôn; 81,09%), đa (82/117 phát ngôn; 70,09%), %), hà (109/156 phát ngôn; 69,87%),

há (131/190 phát ngôn; 68,95), ơi (306/476 phát ngôn; 64,29%), cà (129/204 phát

ngôn; 63,24%), nhen (291/473 phát ngôn; 61,52%), chi (90/147 phát ngôn; 61,22%),

hôn (420/694 phát ngôn; 60,52%), chớ (95/158 phát ngôn; 60,13%). Một tỉ lệ rất

chênh lệch so với nam. Nữ giới dùng TTTT cuối phát ngôn thường xuyên hơn nam.

Điều đó cho thấy, trong cuộc sống cũng như trong giao tiếp, phụ nữ luôn quan tâm đến

tình cảm nên khi giao tiếp, họ hay dùng TTTT. Như ta biết, TTTT được dùng bao giờ

cũng đi kèm với ngữ điệu, cho nên có thể nói, nữ giới thích tạo ngữ điệu kết hợp

TTTT trong lời thoại, tạo nên ấn tượng, gây được chú ý để thể hiện tình cảm thương

mến, thân mật với người nghe. Đó là một trong những nét trội trong tính cách của nữ

giới nằm trong đặc tính ngôn ngữ - văn hóa ứng xử chung trọng tình của người NB.

Chẳng hạn:

<215> Má dặn con đi công chuyện

Má: Bắp Nâu! Con mở lòi tói ghe nghen.

Con: Má ơi! Chở lá dừa qua lò cốm phải hông?

<216> Cô Tám nói chuyện với cô Hai ngoài ruộng

Cô Tám: Nước rút trọng rồi hén?

Cô Hai: Ừ nhưng vậy ghe vô được hôn?

<217> Thím Tám Thủy gặp Bác Tư Đực

Thím Tám Thủy: Dữ hôn! Đám cỏ voi của anh Tư tốt quá hen!

Bác Tư: Nhờ tui rải phân u rê kịp thời đó chị Bảy.

<218> Bạn của chị Ba: Qua nhà tui hen.

Chị Ba: Ờ, mày chờ chút nghen.

Trong các phát ngôn mà TTTT Nam Bộ được dùng, ngoài chức năng thể hiện hành vi TTTT còn mang chức năng biểu thị ý nghĩa tình thái như TTTT toàn dân nói

chung. Song, có lẽ ít có vùng nào trong các cuộc hội thoại, tỉ lệ phát ngôn có dùng

122

TTTT lại cao như vậy. Kết quả thống kê nêu trên, cùng với kết quả so sánh với nghiên

cứu của Hoàng Thúy Hà [53] về TTTT cuối phát ngôn được dùng trong phương ngữ

Nghệ Tĩnh đã nói lên điều đó. Trong hội thoại, lõi miêu tả dường như luôn đi kèm

phần biểu cảm. Sống tình cảm là nét bản chất của lối sống đã ăn sâu vào máu thịt của

người NB nên phát ngôn thường có yếu tố tình thái đứng cuối, điều đó đã trở thành thói quen giao tiếp rất tự nhiên của mọi người. Thói quen đó trước hết thể hiện ở việc

quen dùng TTTT địa phương hơn là dùng TTTT toàn dân. Ví dụ, những phát ngôn sau,

người giao tiếp có thể dùng các TTTT toàn dân nhưng người NB lại quen dùng các

TTTT địa phương.

<219> A (Bạn gái của B): Đi qua thăm nhỏ Lan hông?

B: Vậy ba giờ đi hén?

Từ hông, hôn, người NB thường dùng để hỏi, họ ít dùng từ “không”, đây là nét

rất riêng đã trở thành quen thuộc mang đậm tính địa phương thể hiện sự gần gũi về

tình cảm trong giao tiếp của cư dân NB.

<220> A (Bạn nam trong xóm của B): Đi làm cỏ ruộng đi!

B: A đi với tui hén?

Trong lời hội thoại trên, “héng” dùng để hỏi nhưng mục đích không phải là hỏi,

chờ nghe trả lời, bởi héng mang ý nghĩa tình thái thể hiện tình cảm thân tình, ngầm ẩn

khích lệ, “lôi kéo” người nghe đồng tình. Như vậy, hỏi chỉ là hình thức trên bề mặt.

<221> Mẹ nói với con gái.

Mẹ: Con làm bài tập Hóa đi nghen.

Con: Con làm 4 bài nghen?

Tiểu từ tình thái “nghen” được dùng rộng rãi trong sinh hoạt hằng ngày của

người NB, có thể mang chức năng phát ngôn đánh dấu hành vi hỏi nhưng lại đi kèm với

nhiều sắc thái nghĩa khác nhau, như đề nghị, khẳng định, thân mật, nhắc nhở,…

Đối với TTTT “hen”, “héng”, trong phát ngôn, dùng hen, héng người hỏi mong

ở người nghe sự đồng ý, ủng hộ. Hai TTTT này được nữ giới sử dụng nhiều. Nếu so với TTTT tiếng Việt toàn dân tương đồng, hen, hén có nghĩa như TTTT “nhé”, ví dụ:

<222> Hai chị em nói chuyện.

A: Mốt mày đương dần công dùm tao hen? B: Dạ, má e cũng nhắc e mấy lần vụ này.

<223> Hai bạn nữ sinh viên nói chuyện. A: Đi thư viện với chị nhé? B: Dạ, chờ em một tẹo.

123

<224> Hai phụ nữ lớn tuổi tại nhà máy ép bàng.

A: Bàng đợt này to hơn đợt trước hén?

B: Ngặt nỗi người ta đặt tui đương bàng nhuyễn, mà phải nhuyễn xamh um chớ.

Cách hỏi có dùng TTTT cuối phát ngôn làm lời thoại mượt mà, tạo nên sự ngọt

ngào dễ chịu cho người đối thoại, không thể không đồng ý mà đáp lại lời người hỏi

một cách thoải mái, thiện cảm. Khảo sát cho thấy nữ giới sử dụng TTTT để hỏi nhiều

hơn nam giới ở vùng đất phương Nam. Tuy nhiên, không phải nam giới không dùng tiểu từ tình thái để hỏi, chẳng hạn:

<225> Nam nữ đang nói chuyện.

A: Út đi siêu thị mới mở ở thị xã với tui nghen?

B: Để xin phép mẹ hen.

Điểm khác biệt giữ nam và nữ trong việc dùng TTTT như đã nói, chỉ là tỉ lệ sử

dụng tiểu từ tình thái ở nam giới thấp hơn nữ giới.

4.2.2. Sự khác biệt giữa nam và nữ về tần số sử dụng TTTT kết hợp Về khái niệm, hay là quan niệm về TTTT kết hợp (hay tổ hợp TTTT, TTTT

phối kết) hiện nay chưa được hiểu và dùng thống nhất trong giới nghiên cứu. Như đã

nói trong mục 2.1.3, TTTT kết hợp (tổ hợp, phối kết) là hiện tượng cuối phát ngôn, các

yếu tố kết hợp với nhau thành các tổ hợp gồm hai hoặc hơn hai âm tiết có chức năng

biểu thị tình thái. Giải thuyết thường thấy ở các tác giả đi trước về tổ hợp TTTT là:

- Coi các kết hợp như vậy là một đơn vị đặc ngữ (idiom) độc lập, trọn vẹn, có

nghĩa riêng biệt, khác biệt với các kết hợp khác và khác biệt với bản thân các TTTT

cấu tạo nên nó.

- Gần đây, có người coi các kết hợp này là các kết hợp có nguyên do ngữ nghĩa,

theo đó mỗi TTTT có đóng góp riêng và giữa chúng có sự phân công chức năng, thể

hiện ở tầm tác động của chúng đối với nội dung mệnh đề và giữa chúng với nhau [67, tr. 224]. Theo chúng tôi, tổ hợp TTTT (kết hợp, phối kết) có hai dạng; đó có thể là những tổ hợp gồm các yếu tố tình thái kết hợp với nhau (kiểu như thôi à, thôi mà, với nhé) và, cũng có thể là những cấu tạo gồm hai hoặc hơn hai yếu tố mà các yếu tố này nếu tách riêng thì có thể không có ý nghĩa tình thái (chẳng hạn yếu tố vậy trong các hợp vậy đi, vậy hả).

Ở chương 2 (mục 2.2.2), chúng tôi đề cập đến việc sử dụng TTTT kết hợp cuối phát ngôn của người NB. Khảo sát 2718 tham thoại có sử dụng tổ hợp TTTT xét theo

giới, chúng tôi thu được kết quả thể hiện ở bảng 4.2

124

Bảng 4.2. Tần số sử dụng TTTT kết hợp cuối phát ngôn giữa nam và nữ

Tổ hợp TTTT Giới tính Số lượng %

997 36.68 Nam

1721 63.32 Nữ

Tổng 2718 100

Nhìn vào bảng thống kê 4.2 chúng ta thấy nữ giới sử dụng TTTT kết hợp trong

phát ngôn nhiều gần gấp đôi nam giới. Cụ thể, nữ sử dụng 1721/2718 lần, chiếm tỉ lệ

63.31%; nam giới sử dụng 997/36.68, chiếm tỉ lệ 36.68%. Kết quả này một lần nữa

khẳng định trong giao tiếp, nữ giới rất chú ý đến sắc thái biểu cảm của lời nói, gây chú

ý, tăng hiệu quả giao tiếp. Khảo sát chi tiết đối với từng TTTT kết hợp, chúng tôi thu

được tần số sử dụng từng TTTT đối với nam và nữ, kết quả thể hiện ở bảng 4.3 sau:

Bảng 4.3. Tần số sử dụng TTTT kết hợp trong giao tiếp giữa nam và nữ

TTTT Nam giới Nữ giới Tần TT số kết hợp Số lượng % Số lượng %

1 72 44.44 40 55.56 32 à nha

2 73 41.10 43 58.90 30 chi dzậy

3 75 42.67 43 57.33 32 chứ/ chớ gì

4 75 40.00 45 60.00 30 chớ sao

5 73 36.99 46 63.01 27 đó hả

6 74 55.41 33 44.59 41 đó mà

7 73 35.62 47 64.38 26 đó nha

8 74 44.59 41 55.41 33 à nhen

9 111 46.85 59 53.15 52 hông đây

10 77 45.45 42 54.55 35 hông hả

11 118 43.22 67 56.78 51 hông hà

12 119 36.13 76 63.87 43 hông nè

13 76 42.11 44 57.89 32 hông ta

125

72 14 34.72 47 65.28 25 nữa chớ

72 15 33.33 48 66.67 24 nữa đó

74 16 35.14 48 64.86 26 nữa hả

78 17 35.90 50 64.10 28 nữa hen

72 18 37.50 45 62.50 27 rồi đa

73 19 36.99 46 63.01 27 rồi nghen

74 20 35.14 48 64.86 26 rồi hen

74 21 33.78 49 66.22 25 rồi hà

73 22 42.47 42 57.53 31 lận nè

68 23 45.59 37 54.41 31 rồi há

73 24 41.10 43 58.90 30 sao nè

73 25 45.21 40 54.79 33 sao há

74 26 54.05 34 45.95 40 thôi nghen

74 27 43.24 42 56.76 32 thôi nghe

58 28 41.38 34 58.62 24 dzậy đó

98 29 43.88 55 56.12 43 nè mợi

75 30 49.33 38 50.67 37 lận mợi

75 31 42.67 43 57.33 32 dzậy nghen

69 18.84 56 81.16 13 32 mèn ơi

33 110 18.18 90 81.82 20 chớ bộ

34 119 17.65 98 82.35 21 thấy mồ

38.96 61.04 Tổng cộng 2718 1059 1659

Nhìn vào bảng 4.3 trên, chúng ta thấy chỉ có hai tiểu từ nữ dùng ít hơn nam

nhưng tỉ lệ chênh lệch không đáng kể (thôi nghen: 45,95% /54,05% và đó mà: 44,59%/

55,41%), 32 tổ hợp TTTT khác, nữ đều dùng với tỉ lệ cao hơn nam. Trong đó, nữ dùng

nhiều hơn nam, chênh lệch cao về tỉ lệ (trên 60%) là các từ: thấy mồ, chớ bộ, mèn ơi,

đó nha, đó hả, nữa đó, nữa hả, nữa mà, nữa chứ, rồi hà, rồi đó, rồi chắc, hông nè,…

126

Ở đây, chúng tôi xin được tìm hiểu ba TTTT kết hợp thấy mồ, chớ bộ, mèn ơi”

cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB, xét theo giới. Ba tổ hợp TTTT này rất

đặc biệt của PNNB bởi chúng mang tính cố định cao, không do các yếu tố tình thái

đơn kết hợp tạo nên. Ba TTTT này đều được nữ dùng với số phát ngôn cao hơn 4,5 lần

nam dùng (cụ thể, tỉ lệ nữ dùng thấy mồ 82,35%, chớ bộ 81,82%, mèn ơi 81,16%).

Chúng tôi đặt 3 TTTT cuối phát ngôn “chớ bộ”, “thấy mồ”, “mèn ơi” vào cả 2 giả

thuyết trên để xem xét một cách cụ thể nghĩa của từng TTTT trong các phát ngôn mà

người NB dùng là một chỉnh thể hay mỗi yếu tố trong đó có đóng góp, tác động riêng.

Chúng tôi thu được kết quả khảo sát thể hiện qua sơ đồ sau:

23,2%

39, 9%

36,9%

Sơ đồ tổ hợp TTTT “thấy mồ, chớ bộ, mèn ơi”được dùng cuối phát ngôn

Thống kê tham thoại từ phiếu ghi 2718 cuộc hội thoại của người NB sử dụng

TTTT cuối phát ngôn, có 298 lượt sử dùng TTTT “chớ bộ”, “thấy mồ”, “mèn ơi”.

Trong đó, thấy mồ chiếm 39.9% (119/298), chớ bộ chiếm 36.9% (110/298), còn lại là

mèn ơi, chiếm 23,2% (69/298). Trong 3 tổ hợp TTTT này thì “thấy mồ” được sử dụng

nhiều nhất, ít nhất là “mèn ơi”.

4.2.2.1. Nghĩa của tổ hợp TTTT “thấy mồ”, “chớ bộ”, “mèn ơi”cuối phát ngôn

trong giao tiếp của người Nam Bộ

TTTT cuối phát ngôn “thấy mồ”

Hai yếu tố trong tổ hợp thấy mồ kết hợp chặt chẽ cố định, có sẵn, mang tính

mặc định trong phát ngôn của người NB. “Thấy mồ” thể hiện nghĩa cảm xúc mạnh về

cái vượt quá sức tưởng tượng. Xét phát ngôn:

<226>- Nữ (trẻ): Tám, Tám, Tám, coi đám bắp đó được không?

- Nữ (trung): Thôi, coi bộ thưa thấy mồ.

- Nữ (trẻ): Ủa,

127

Cái thằng vậy mà coi được ấy bà hen.

- Nữ (bạn) Con thấy trái nào trái nấy bự thấy mồ.

- Nữ (trung): Mày nói dữ.

<227> - Nữ (cao niên): thân): Được gì chớ, nó trớt quớt đâm ngang hông

xuồng bể thấy mồ.

Trong các hội thoại trên, tiểu từ “thấy mồ”xuất hiện trong cả 2 phát ngôn, ngoài

nghĩa đều nhấn mạnh điều cá nhân muốn nói, còn có nghĩa tình thái. Ở phát ngôn

“Thôi, coi bộ thưa thấy mồ” thì “thấy mồ” có nghĩa là chê, trong bụng không muốn

mua đám bắp ấy hoặc không vừa ý với giá cả người bán (người trồng). Ngược lại phát

ngôn “Ủa, con thấy trái nào trái nấy bự thấy mồ” thì “thấy mồ” ở đây lại là khen đám

bắp có trái to, vừa với giá tiền, thực tế không đến độ thưa trái (ít trái) như lời chê của

nữ (trung). Ở <227> thấy mồ có ý đó là lời kết luận, là nhận xét, thái độ bực bội, phản

đối lại việc nhận xét của người hàng xóm (thân) về một người nam giới nào đó.

Tương tự “thấy mồ” có thể dùng với các hành vi khác nhau; nếu người nói “Đẹp

thấy mồ”, đó là khen còn “Xấu thấy mồ”, đó là chê và “Mệt thấy mồ”, đó là than.

“Mồ” ở đây theo ý chủ quan của chúng tôi thì có thể hiểu đó là mồ (mả). Để khen,

chê hay than “thấy mồ”, người NB so sánh (những điều nói tới làm cho người nói như chết

đi), hàm ý nhấn mạnh. TTTT được dùng như dùng từ cực cấp. Do vậy, “thấy mồ” biểu thị ý

nghĩa tình thái cảm xúc cao độ, không tưởng tượng vì sự tình lại thế.

TTTT cuối phát ngôn “chớ bộ”: là tiểu từ có sự kết hợp của yếu tố biểu thị tình

thái trong phát ngôn: “chớ”, kết hợp với “bộ” tạo nên tiểu từ “chớ bộ”. Chúng có ý

nghĩa khẳng định hoặc phủ định điều gì đó mạnh hơn. Nghĩa của “chớ bộ” khác hoàn

toàn với TTTT chớ. Đây là kết hợp “có nguyên do ngữ nghĩa, theo đó mỗi TTTT có

đóng góp riêng và giữa chúng có sự phân công chức năng, thể hiện ở tầm tác động của

chúng đối với nội dung mệnh đề và giữa chúng với nhau” [67, tr. 224 ]. Ví dụ:

<228> - Nam (trung): Lẹ lẹ mợi, qua đám trâm bầu là tới.

- Nam (trung): Cái gì cũng từ từ, tao còn ghé quán bà Tư chớ bộ.

<229> - Nữ (lớn tuổi): Con xách khoai mì cân chưa?

- Nữ (nhỏ tuổi): Ủa, con cân khoai mỡ chớ bộ.

Ở <230> chớ bộ là lời khẳng định, thời gian chạy ghe không thể nhanh hơn

vì còn phải đi công việc khác. Chớ bộ ở <229> là sự phủ định phát ngôn của người

đối thoại.

128

TTTT cuối phát ngôn “mèn ơi”

“Mèn ơi” thể hiện thái độ, biểu cảm (khen/chê) cao độ, trước kết quả sự việc

nào đó được nói đến. Ví dụ:

<231> - Mận (nữ trung): Cái giỏ này đương bàng nhuyễn đẹp ghê mèn ơi…

- Bà Út (nữ trung): Ờ, tui lựa dữ lắm mới được một mớ bàng nhuyễn,

xanh, không bị phèn ăn.

<232> - Thím 9 (nữ trung): Bây dìa hồi nào dzậy?

- Nam (nhỏ tuổi): Dạ, con dìa hồi mơi.

- Thím 9 (nữ trung): Cha, nay cao lớn coi bộ giống cha mày mèn ơi!

Ở <231> “mèn ơi” biểu thị sự thích thú lẫn thán phục khi tìm ra nguyên nhân

của cái giỏ bàng tại sao nó đẹp. Ở <232> “mèn ơi” lại là lời khen và người nói khẳng

định, đồng tình với cách nhìn của mình, nói với thái độ tự tin.

4.2.2.2. Sự khác biệt về cách dùng TTTT “thấy mồ”, “chớ bộ”, “mèn ơi” giữa

nam - nữ trong giao tiếp của người Nam Bộ

Xét trong 2718 cuộc hội thoại có sử dụng tổ hợp TTTT của người NB, chúng

tôi thu được 298 lượt sử dụng TTTT “thấy mồ”, “chớ bộ”, “mèn ơi”. Tần số sử dụng

các từ này giữa nam - nữ có sự khác biệt được thể hiện ở bảng 4.3 trên.

Theo khảo sát, chúng tôi thấy có một đặc điểm chung là khi dùng 3 TTTT này

trong phạm vi giao tiếp gia đình, bạn bè cùng độ tuổi trong bối cảnh vui tươi phấn khởi

thì giọng điệu kéo dài hơn, nhấn mạnh ở cuối phát ngôn. Nhưng trong tâm trạng khó

chịu, không đồng tình thì giọng điệu ngắn, mạnh và ngắt nhịp cuối phát ngôn rất nhanh.

Ngoài ra, sắc thái nghĩa cụ thể của các tổ hợp TTTT “chớ bộ”, “thấy mồ”,

“mèn ơi” là còn phụ thuộc thái độ hợp tác hội thoại của người nói trong hoàn cảnh nói

năng khác nhau. Chẳng hạn:

<232> - Nam (thanh niên): Cô Út hôm nay mặc áo bà ba này đẹp nhôn.

- Nữ (trẻ): Anh Nam nói dữ, Út mắc cỡ thấy mồ.

“Thấy mồ” ở phát ngôn này không còn là khen hay chê nữa mà nó lại là sự

khẳng định. Vừa nghe qua, ta cứ tưởng đấy dường như là phủ định. Nói mắc cỡ “thấy

mồ” nhưng thái độ e ấp, mắc cỡ, đấy như vừa ý với lời khen của người nam kia. Nếu ở

tham thoại <232> giọng nói của nữ ngắn hơn, mạnh hơn thì có thể hiểu theo nghĩa

khác, như thế sẽ không là mắc cỡ hay đồng ý sự việc mà lời từ chối khéo, pha chút bực

mình không đồng ý với cách nói của nam. Trong khi đó, cũng với nội dung này nhưng

129

đổi vai, nam giới không dùng thấy mồ ở cuối câu trả lời mà thường nói “Ờ, cũng đẹp”

hay: “Vậy hả” hay chỉ dùng TTTT đơn. Bởi thế, nữ giới thường dùng TTTT rất linh

hoạt, tùy hoàn cảnh cụ thể, tâm trạng mà sử dụng thích hợp.

TTTT “thấy mồ” được dùng nhiều ở phạm vi gia đình, người thân, cùng trang

lứa. Trong gia đình, người hàng dưới vẫn có thể dùng “thấy mồ” khi giao tiếp với

người hàng trên.

Nam giới ít sử dụng TTTT kết hợp chứ không phải không dùng. Điều này cũng

có thể hiểu rằng “phái mạnh” của người NB cũng khá tình cảm, mềm mỏng trong cách

nói hằng ngày. Tuy nhiên, giọng điệu sử dụng mạnh hơn, rõ hơn, ngắn hơn cách phát

âm của “phái yếu”. Chẳng hạn, ở các ví dụ (263), (264) TTTT “chớ bộ” được dùng

trong đối thoại giữa nam - nữ. Thế nhưng, để gây chú ý và tăng tính thuyết phục trong

cách nói vòng vo thể hiện ý do dự thì giọng cao, còn muốn khẳng định thì giọng đi

xuống như trong cuộc nói chuyện mà chúng tôi ghi âm được:

<233> - Nam (trẻ): Bà Cá Bống kia, bà còn quấn quấn chi nữa, cái bành này

hông làm nữa.

- Nữ (trẻ): lớn giọng: Ờ, ờ, anh có ngon thì anh lên hỏi ổng cái vụ này

coi, tui mắc làm 2 bành chỉ (chỉ xơ dừa) chớ bộ.

<234> - Nam (trẻ): Hết mùa tôm này anh qua nhà bỏ rượu Tía Má nghen!

- Nữ (trẻ): (nhỏ giọng): Thì tui cũng chờ hết mùa tôm chớ bộ.

Trong tham thoại <233> chớ bộ được hiểu không phải là sự phủ định mà là ý

do dự về việc mình đang làm, có đúng hay không, nên làm tiếp hay dừng lại. Nhưng ở

<234> thì lại khẳng định, đồng ý rất duyên của cô gái về lời cầu hôn khéo léo của

chàng trai.

Qua số liệu thống kê thì TTTT “mèn ơi” được nữ trung và nữ cao tuổi dùng khá

nhiều trong phạm vi gia đình.“Mèn ơi” nghĩa không phải là “tiếng thốt ra để biểu lộ sự

ngạc nhiên hay để than thở” như thán từ “trời”, “trời ơi”, hay “trời đất ơi” trong ngôn

ngữ toàn dân. Khảo sát thực tế, tổ hợp TTTT cuối phát ngôn “mèn ơi” được giới chị

em dùng nhiều ở chợ, mua bán hàng gánh như bánh xèo, bánh bột lọc… hay trên

những chiếc xuồng ba lá len lỏi trong kênh rạch. Đi dọc dòng kênh Thoại Ngọc Hầu -

An Giang, trên cánh đồng Thốt Nốt nghe những câu thoại như câu chào buổi sáng của

nông dân NB: Giá lúa hỗm rày bình bình, thằng Bảy chạy đồng mờ con mắt mèn ơi!

Đấy là lời hỏi thăm chân tình, thiệt thà của bà con Nam Bộ. Lời thoại là lời chào hỏi

130

dưới hình thức hỏi thăm, đồng cảm. Cũng nội dung này, nam giới không dùng mèn ơi.

“Giá lúa hỗm rày bình bình, thằng Bảy chạy đồng mờ con mắt.” hoặc dùng TTTT đơn

như: “Giá lúa hỗm rày bình bình, thằng Bảy chạy đồng mờ con mắt luôn!”

4.3. Sự khác biệt giữa nam và nữ về sử dụng TTTT xét theo tính lịch sự

Xét TTTT theo tiêu chí lịch sự mà chúng tôi đã phân tích ở chương 3 và trên cơ

sở chọn các TTTT xuất hiện nhiều ở tiêu chí này, kết quả so sánh cách dùng TTTT

giữa nam và nữ được thể hiện qua số liệu cụ thể ở bảng 4.4 sau:

Bảng 4.4. Những khác biệt giữa nam và nữ về sử dụng TTTT

gắn với tính lịch sự

Giới [+ lịch sự] [- lịch sự] [+/- lịch sự] TTTT

0 0 3 nghen

0 0 3 hôn

0 0 3 hen

0 1 1 hông Nữ 0 0 2 nghe

0 0 3 ơi

0 0 2 hén

Tổng 0 17/18 18/18

3 1 0 chớ

0 2 1 lận Nam 0 1 1 nè

Tổng 2/12 3/12 4/12

Dựa vào bảng thống kê 4.4, chúng ta thấy nữ giới thường sử dụng TTTT gắn

với tiêu chí lịch sự nhiều hơn nam giới.

TTTT nữ sử dụng thường thuộc chiến lược [+ lịch sự]. Chẳng hạn:

<235> (Dì dặn cháu trước khi đi làm).

Con tắt hết máy bơm oxi cho đầm tôm mé trái rồi hãy đi học nghen!

<236> (Em gái hỏi anh trai).

Chủ nhật này về quê anh lên rẫy phụ cha phải hôn?

<237> (Thím Chín nói chuyện với cậu Tám).

Anh Tám khỏi vô thăm má, ở nhà coi dùm em bầy heo hen!

131

<238> (Vợ nói chuyện với chồng).

Anh phơi đồ dùm em phải hông?

<239> (Một người phụ nữ lớn tuổi nói chuyện với người đàn ông lớn tuổi).

Nhớ nhắc bà nhà đi khám bệnh với tui nghe!

<240> (Bạn nữ (trẻ) nói chuyện với bạn nam).

Thôi, đừng buồn nữa, có gì kiếm lại sau mày ơi!

<241> (Nhân viên nữ nói chuyện với cấp trên của mình).

Lấy hết hồ sơ thống kê các hộ đăng kí qua anh duyệt hén!

Tất cả các ví dụ trên đều thuộc chiến lược [+ lịch sự]. Nữ giới sử dụng thường

xuyên TTTT cuối phát ngôn khiến lời nói nhẹ nhàng, dễ gần, tăng thêm hiệu quả cho

sự truyền đạt thông tin. Đồng thời, cách dùng TTTT như vậy đã tạo nên sắc thái biểu

cảm, giọng điệu riêng trong tính cách của nữ giới vùng đất phương Nam. Việc sử dụng

TTTT như vậy là tự nhiên, đã quá đỗi quen thuộc với người Nam Bộ; cho nên, người

trong vùng cũng khó nhận ra nét riêng đó. Khác với nam giới, nữ giới thích nhiều

người khác biết nhu cầu của mình qua lời nói. Trong khi đó, nam giới lại thường bộc

lộ thái độ trực tiếp bằng hành động.

Nam giới thường sử dụng TTTT chớ, lận, nè.

TTTT chớ mang sắc thái lịch sự âm tính [-lịch sự], TTTT lận mang sắc thái

thiên về chiến lược lịch sự trung tính [+ (1)/- (2) lịch sự], TTTT nè vừa được nam sử

dụng thuộc chiến lược lịch sự dương tính [+ (1) lịch sự], vừa được sử dụng với chiến

lược trung tính [+ - (1) lịch sự].

<242> (Người nam trồng củ ấu bán dọc đường qua Vĩnh Long).

Trả giá vầy con trồng ấu sao có lời chớ!

<243> (Người nam lớn tuổi nói chuyện với cô gái đi chợ)

Kiếm hẹ nước là đợi mùa nước trong mới có lận!

<244> (Học sinh nam nói chuyện với nhau)

Làm bài tập này mới đúng nè!

Ở ví dụ <243> người nói có thể vi phạm chiến lược (15), người nói muốn người

nghe chấp nhận và có thể tăng cường sự đồng thuận. Ở <242>, nam giới vi phạm chiến

lược (5), (15) tỏ thái độ không bằng lòng. <242>, nam giới muốn khẳng định ý kiến

của mình, không đồng tình với cách trả giá của người mua, trường hợp này mang sắc

thái lịch sự âm tính.

Như vậy, chúng ta thấy được nam giới hay dùng TTTT ở chiến lược lịch sự

trung tính hoặc chiến lược lịch sự âm tính. Họ nói chuyện ít mềm mại uyển chuyển

132

như nữ giới, có vẻ không chú ý nhiều về vấn đề lịch sự. Tuy nhiên, theo quan sát của

chúng tôi, thái độ nói của nam giới, nhìn chung vẫn rất nhẹ nhàng, hiếm gặp trường

hợp cộc lốc. Điều đó có thể do cấu tạo não bộ, ý thức xã hội muốn thể hiện tính mạnh

mẽ, độc lập. Tuy nhiên, trong thực tế, các cuộc giao tiếp không phải lúc nào cũng

mang tính hợp tác, xung đột có thể sẽ xảy ra. Trong nhiều trường hợp, người nói bất

lịch sự hơn là hợp tác với người đối thoại. Vậy nên, các chiến lược giao tiếp dùng

TTTT với chiến lược lịch sự để duy trì hay thúc đẩy mối quan hệ liên nhân hòa hợp rất

cần trong xã hội. Nam giới NB hay dùng [- lịch sự], phép lịch sự âm tính hướng tới

việc nói tránh hoặc giảm nhẹ những hành động đe doạ, giữ khoảng cách giữa các đối

tác giao tiếp.

4.4. Sự khác biệt giữa nam và nữ về sử dụng TTTT gắn với một số nhóm

hành động ngôn trung tiêu biểu

Dựa vào bảng 4.1, chúng tôi tìm hiểu những TTTT có tần số xuất hiện nhiều

trong hội thoại của nam / nữ để so sánh tỉ lệ dùng theo hành động ngôn trung.

Khảo sát cách dùng TTTT hen, hén, nghen, hôn, hông cuối phát ngôn không

phân biệt tôn ti; kết quả cho thấy, nam và nữ dùng TTTT theo các hành vi giao tiếp

trong gia đình với mục đích rất đa dạng. Trong ngữ cảnh cụ thể, một TTTT có thể

được dùng với hành vi ngôn trung trực tiếp, có thể thực hiện các hành vi ngôn trung

gián tiếp. Sau đây là kết quả khảo sát cụ thể được thể hiện trên bảng tổng hợp 4.5:

Bảng 4.5. TTTT thực hiện các hành động ngôn trong giao tiếp của nam và nữ

Cầu khiến

Chúc

Hành vi

Cảm ơn

Xin lỗi

Mời / rủ rê Dặn dò

mừng

/ hỏi

Giới tính

Sl

%

Sl

%

Sl

%

Sl

%

Sl

%

Sl

%

Nữ

323 55,21 205 72,44 112 53,33 327 51,74 315 53,66 275 52,88

Nam

262 44,79 78 27,56 98 46,67 305 48,26 272 46,34 245 47,12

Xét bảng 4.5 trên ta thấy, nữ và nam đều sử dụng TTTT cuối phát ngôn ở tất cả các hành vi ngôn trung cảm ơn, chúc mừng, xin lỗi, cầu khiến/hỏi, mời/rủ rê, dặn dò. Tuy nhiên, số liệu cho thấy, trong tất các các hành vi ngôn trung trên, tỉ lệ nữ dùng TTTT đều cao hơn nam giới. Phải chăng, điều đó cho thấy, trong mối quan hệ với mọi người trong gia đình, xã hội so với nam, nữ giới luôn có ý thức dùng lời biểu cảm hơn. TTTT đã làm cho lời nói của họ vừa nhẹ nhàng biểu cảm lại vừa tinh tế.

Nhìn vào bảng tổng hợp 4.5 ta thấy nam giới sử dụng TTTT không nhiều như nữ. Xét theo từng hành vi, nhìn chung, các hành vi ngôn trung của nam đều có tỉ lệ

133

dùng TTTT ít hơn nữ và với tỉ lệ thấp đều, dao động trong khoảng từ 44,79 % đến 48, 26 %. Đó là một tỉ lệ có sự chênh lệch không đáng kể. Điều này cho thấy, trong ngôn ngữ sinh hoạt của người NB, dường như không có chuyện bất bình đẳng về giới. Nam và nữ đều sống trọng tình; tư tưởng trọng nam khinh nữ thời phong kiến gần như đã phai mờ, điều đó được thể hiện một cách tự nhiên trong giao tiếp giữa nam và nữ trong gia đình hay ngoài xã hội. Ở đây, chúng ta thấy nếp nhà bình đẳng. Ví dụ:

A (người vợ 26 tuổi): Em dọn cơm cho ông xã rồi đó. B: Cám ơn bà xã nghen.

<245> Hai anh em.

A (người anh): Chúc mừng thằng Út hen! B (người em (nam): Hai thưởng cho em cái gì nghen.

<246> Hai ông cháu nói chuyện.

A (ông): Con bơi sông cẩn thận nghen. B (cháu): Dạ, con lội giỏi mà, chỗ đó nước chảy không xiết.

<247> Hai vợ chồng.

A (Vợ 36 tuổi): Trời ơi! Trưa trời trưa trật rồi, giờ này mới đi mần? B (chồng): Chờ chút, tui đi liền, xin lỗi bà xã hén.

<248> Hai chị em trao đổi.

A (chị 21 tuổi): Ngồi coi truyền hình hoài, giỏi quá hén? B (em 12 tuổi (nam): Em đi học bài liền nè.

<249> Hai vợ chồng chú, thím Tư.

A (Chú Tư): Tui nói ba đi đám giỗ bà có nghe hông? B (Thím Tư): Phải hôn? Hồi nảy tui nghe nói ông đi mà.

<250> Hai vợ chồng ông Năm Lụa.

A (bà Năm): Ông ơi! Ông vô phân gốc nhãn với tui hôn? B (ông Năm): Đợi chút nữa.

Điểm khác khá biệt đặc biệt là ở chỗ, riêng với hành vi chúc mừng, nếu nữ dùng TTTT để thể hiện mục đích này chiếm tới 72,44 % thì nam chỉ dùng 27,56 %. Điều đó khách quan cho thấy, phải chăng, trong gia đình, nam giới không thích khen nhưng ngược lại nữ giới lại rất thích được khen và khen người khác. Ngoài ra, ta còn thấy so với nam, các hành vi cảm ơn, xin lỗi, dặn dò, nữ thường dùng TTTT hơn nam. Điều này cũng phần nào cho thấy các tính cách khác nhau của nam và nữ trong cuộc sống.

Chẳng hạn: <251> Con gái đạt được điểm 10 môn bơi khóa hè. Mẹ: Chúc mừng con nghen!

134

Ba: Biết bơi rồi hả con?

Cô ruột: Ồ, giỏi, thưởng cho chè đậu đỏ. Chúc mừng con nghen!

<252> Hai cha con trao đổi với nhau.

Chị Mai: Tía ơi, thằng hai Lúa nó trúng mùa nếp được 40 bao 1 công đó.

Tía: Ờ, vậy cũng mừng.

<253> Hai chị em trò chuyện.

Em gái (9 tuổi): Chị Hai, em chạy xe đạp được rồi.

Chị Hai (19 tuổi): Giỏi hen!

<254> Thím chín và mợ ba trò chuyện.

Thím chín: Con gái út tui ra nghề may rồi.

Mợ ba: Lẫm rẫm mà con nhỏ giỏi hén!

<255> Gia đình chị Cẩm.

Chị Cẩm: Ngày mai con lên huyện lấy bằng lái xe.

Má chị Cẩm: Đậu hồi nào vậy. Giỏi hôn!

Ba chị Cẩm: Vậy để ba chở con đi.

Qua những dẫn dụ phân tích trên, ta thấy TTTT cuối phát ngôn trở nên rất quen

thuộc với người phương Nam. Họ sử dụng thường xuyên trong lời ăn tiếng nói hàng

ngày. Tiểu từ tình thái xuất hiện tự nhiên trong lời thoại của người NB với mọi lứa

tuổi. Tuy nhiên, người lớn tuổi, nhất là nam giới, tần số sử dụng có ít hơn.

<256> Vợ (32 tuổi) trao đổi với chồng (30 tuổi).

Vợ: Đã nói rồi mà rủ thằng Tí đi nhậu hen?

Chồng: Đi chút về.

Vợ: À, nhớ hen?

Chồng: Thiệt, chút về nghen.

Vợ: Im lặng.

<257> Bất hòa về chuyện con cái.

Vợ: Thằng nhỏ mới 5 tháng ăn dặm sao được?

Chồng: Vậy hen? Nhưng để anh thử.

Vợ (nổi cáu): Thôi nghen, anh đừng chăm con vậy nữa được hông?

Qua một vài ví dụ trên, ta thấy, vai quan hệ xã hội của người nói đối với người

nghe được thể hiện khá rõ. Mối quan hệ giữa vợ và chồng tuy không được bộc lộ trực

tiếp nhưng qua sắc thái tình cảm của TTTT, vị thế của chồng, vợ được xác định. Tùy

vào hoàn cảnh cụ thể mà nữ giới sử dụng lời đối thoại có TTTT một cách linh hoạt

135

mang những sắc thái khác nhau. Nếu theo kiểu nói đúng chuẩn “Công, dung, ngôn,

hạnh” thì xét ở ngữ cảnh khảo sát chúng ta thấy trong lời thoại của nữ giới, người vợ

luôn thể hiện sự uyển chuyển nhẹ nhàng. Kể cả khi không đồng tình với nam giới

(chồng) thì nữ giới tuy cũng thể hiện sự kiên quyết, mạnh mẽ nhưng trong lời nói của

họ, nhờ dùng TTTT nên lời nói dường như “mềm” hơn, tinh tế hơn.

Hay khảo sát giao tiếp của học sinh ở trường Trung học phổ thông (THPT)

Thủ Khoa Huân - Tiền Giang, trường THPT chuyên Tiền Giang, trường THCS Phú

Mỹ - xã Phú Mỹ - Tiền Giang, trường THPT Nguyễn Văn Tiếp - Tiền Giang và 8

trường ở các tỉnh chúng tôi nêu ở chương 1, kết quả cho thấy cách dùng TTTT hen,

hén, nghen, hôn, hông cuối phát ngôn của nam và nữ học sinh theo các hành vi giao

tiếp trong trường học cũng với mục đích rất đa dạng. Trong ngữ cảnh cụ thể, một

TTTT có thể được dùng với hành vi ngôn trung trực tiếp, có thể thực hiện các hành

vi ngôn trung gián tiếp. Sau đây là kết quả khảo sát cụ thể được thể hiện trên bảng

tổng hợp 4.6.

Bảng 4.6. Số lượng, tỉ lệ % TTTT thực hiện các HĐNT của nam và nữ

trong giao tiếp ở trường học

Hành vi

Chúc

Cầu

Cảm ơn

Xin lỗi

Mời /rủ rê Dặn dò

mừng

khiến /hỏi

Sl

%

Sl %

Sl %

Sl %

Sl %

Sl %

Giới tính

Nữ

186 58,12 220 38,19 132 63,77 265 44,92 270 43,41 112 62,92

Nam

134 41,88 356 61,81 75 36,23 325 55,08 352 56,59 66 37,08

Qua số liệu thể hiện ở bảng 4.6 trên, có thể nhận xét trong phát ngôn của lứa

tuổi học trò phương Nam, với tất cả các HĐNT, nam nữ học sinh đều sử dụng TTTT

như với các đối tượng nhiều tuổi hơn, điều này chứng tỏ với mọi lứa tuổi các TTTT

cuối phát ngôn đều được dùng phổ biến đối với các loại phát ngôn khác nhau. So sánh

kết quả khảo sát giữa nam và nữ dùng TTTT thể hiện ở bảng 4.6 với bảng 4.5, chúng

ta thấy kết quả khảo sát TTTT theo giới ở lứa tuổi học sinh, về cơ bản giống như đối

với người thuộc lứa tuổi cao hơn ở đặc điểm: nữ học sinh cũng hay dùng TTTT trong

các phát ngôn chứa hành vi cảm ơn, xin lỗi, dặn dò hơn nam. Điểm khác biệt đáng chú

ý là, nam học sinh dùng nhiều TTTT đối với các phát ngôn chúc mừng, cầu khiến,

mời, rủ rê không những có tỉ lệ lệ cao hơn nam lớn tuổi mà còn cao hơn nữ học sinh.

136

Ví dụ:

Nữ lớp 12: Tao chỉ bài tập Lý cho nhỏ Lan rồi nghen. Nữ lớp 11: Chị giỏi vậy, mà nó hiểu hôn?

Giờ ra chơi. <258> Nữ (cùng tuổi): Đợi tui lâu dữ hén! Nam: Bà với tui xuống căn tin hông? (Nữ không trả lời, cả hai cùng đi) <259> Nữ lớp 12 và nữ lớp 11 trò chuyện. <260> Nam lớp 10 trao đổi với Nữ lớp 10, 11, 12. Nam lớp 10: Có ai ăn bánh tráng trộn hôn? Nữ lớp 10, 11, 12: Ồ, nhờ bịch bánh tráng, em trai đẹp trai hen! Ngoài ra, có một điểm khá lí thú là, theo ghi nhận thực tế quan sát, trong hệ thống trường học (4 trường), ngoài học sinh là người NB nói giọng NB còn có cả học sinh người Bắc mới vào học, tuy các em phát âm vẫn còn nói giọng Bắc nhưng lại dùng TTTT như các bạn người NB.

<261> Khoa (giọng Bắc): Cậu lấy sổ đoàn giúp tớ nghen! Hùng (giọng Nam): Ừ, họp chi đoàn xong tao lấy. <262> Phụng Nghi (giọng Bắc): Chúng ta tập chung ở văn phòng đoàn lúc

9h30. Vậy hén! (kết thúc cuộc họp).

Như vậy, qua khảo sát cách dùng TTTT giữa nam và nữ theo các hành vi ngôn trung, chúng ta thấy có sự khác biệt ít nhiều về tỉ lệ dùng TTTT giữa nữ và nam. Điều đó phần nào cũng phản ánh khách quan đặc điểm giới, tính cách, thái độ ứng xử ngôn ngữ, mức độ quan tâm tới các vấn đề trong cuộc sống giữa nam và nữ học sinh ít nhiều khác nhau. Chúng ta còn nhận thấy môi trường giao tiếp là yếu tố tác động đến ý thức người sử dụng ngôn ngữ rất rõ. Vì TTTT cuối phát ngôn trong PNNB là lớp từ sử dụng rộng rãi quen thuộc trong giao tiếp và chúng là một trong các yếu tố thể hiện rõ nhất lối sống tình cảm của người NB nên người Bắc dù mới vào sinh sống học tập thì khi giao lưu giao tiếp với người địa phương họ cũng rất hay dùng các TTTT Nam Bộ như là một biểu hiện của sự hòa nhập, trân trọng, yêu mến con người và tiếng nói NB. Đó là một trong các cách nhanh chóng tạo nên sự gần gũi thân thiện trong giao tiếp và cuộc sống.

4.5. So sánh việc sử dụng TTTT cuối phát ngôn gắn với THG giữa nam và nữ 4.5.1. Nữ sử dụng THG đi kèm TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người

Nam Bộ nhiều hơn nam

Ở chương 3, chúng tôi khảo sát 1800/ 8531 phiếu điều tra các cuộc hội thoại ở các tỉnh thành Nam Bộ. 1800 tham thoại thuộc các hành động: cầu khiến, mời, rủ rê,

137

khuyên, dặn dò, cảm ơn, xin lỗi, chúc mừng có THG đi kèm TTTT. Trong giao tiếp, ngoài dùng các đại từ nhân xưng tôi, tao,…người Nam Bộ còn dùng danh từ thân tộc như con, cháu, em,… hay các đại từ chỉ sở hữu: ông nhà tui, ông xã tui, ba mẹ tui, chị tui, hoặc gọi theo thứ tự sinh anh Hai, chị Hai, thím Tám, dượng Tư...

Ở chương 4, luận án đi sâu khảo sát so sánh mức độ dùng THG đi kèm

TTTTT giữa nam và nữ xét theo vai trên/ dưới, ngang hàng và mức độ quan hệ

thân/sơ. Kết quả cho thấy nữ dụng THG đi kèm TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ nhiều hơn nam. Cụ thể, trong các HĐ phát ngôn, nữ sử dụng

603/942 phát ngôn chứa THG đi kèm TTTT, chiếm 63,9%, nam dùng 340 phát ngôn,

chỉ chiếm 36,1%. Điểm khác biệt này được thể hiện nhất quán trong tất cả HĐ phát

ngôn về số lượng, tỉ lệ dùng. Cụ thể, số lượng và tỉ lệ phát ngôn nữ dùng so với nam theo từng HĐ là: Cầu khiến: 74 -51 (59,2% - 41,8%), mời: 90 - 47 (65,7% - 34,3%),

rủ rê: 98 - 34 (65,3% - 34,7%), khuyên: 46 -27 (63,0% - 38,0%), dặn dò: 89 - 57 (61,0% - 39,0 %), cảm ơn: 87 - 49 (64,0% - 39,0%), xin lỗi: 86 - 42 (67,2% - 32,8%),

chúc mừng: 66 -33 (66,7% - 33,3%).

Quan sát các ví dụ sau: <263> Xuống bếp lấy cái rế cho Hai để nồi cơm nghen Bảy! (HĐ cầu khiến)

<264> Bỏ qua đi Mười ơi! (HĐ khuyên)

<265> Thôi thôi, tiêu đời rồi, con cột dây lỏng le, chiếc tắc rán trôi sông, xin

lỗi ông Tư nghen! (HĐ xin lỗi)

Ở <263> đây là lời cầu khiến của hàng trên đối với hàng dưới, của người chị

đối với em. Tuy nhiên, nếu là nam, thì người nam thường nói: “Xuống bếp lấy cái rế

cho anh/ tao để nồi cơm”. Hay ở hành động xin lỗi <265>, nữ thường dùng THG kèm

TTTT cuối phát ngôn làm mềm hóa lời xin lỗi mặc dù người nghe đôi khi không chú ý

đến TTTT ở cuối câu. Tuy nhiên, xin lỗi kiểu giải thích lí do lại dùng THG kèm TTTT

thể hiện sự tôn trọng của người nói với người nghe có vị trí cao hơn mình.

Hãy lắng nghe thêm các tham thoại của nữ: Làm dùm em 50 khoanh lá dừa để em bầu giống thím Chín ơi! (HĐ cầu khiến) <266> Con về tới trển nhớ gọi điện cho má Lan nghen! (HĐ dặn dò). Hay: Em cảm ơn sếp Tím nghen! (HĐ cảm ơn). Điều này càng cho thấy rõ hơn mức độ biểu hiện tình cảm của phụ nữ; tình cảm

được bộc lộ rõ ràng, mềm mại

138

Bảng 4.7. Bảng so sánh nam và nữ sử dụng THG kèm TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp

của người Nam Bộ

Nam

Nữ

Vai giao tiếp

Vai giao tiếp

HĐNT có

T

THG đi

Trên hàng

Dưới hàng/ Ngang hàng

Trên hàng

Dưới hàng/ Ngang hàng

T

kèm TTTT

Thân

Thân

Thân

Thân

Sl

%

%

Sl

%

Sl

%

%

Sl

%

Sl

Sl

%

Sl

%

Sl

1

125

18

20.2

15.1

8

11.9

11

12.1

7.9

27

15.1

12

17

12.1

18

13.7

14

cầu khiến

2

137

10

11.2

16.1

10

14.9

12

13.2

11.9

35

19.6

18

19

13.6

18

13.7

15

mời

3

98

8

8.9

8.9

13

14.3

13.2

12

6.7

7.5

6

20

18

12.6

14

10.7

7

rủ rê

4

73

4

4.5

11.9

10

10.9

7.9

14

15.6

5.4

8

12

13

9.3

7

5.3

5

khuyên

5

146

16

17.9

11.3

13

19.4

17

18.7

18.4

19

11.7

28

22

15.7

20

15.3

11

dặn dò

6

136

12

13.5

13.4

13

14.3

13.9

26

12.8

16.1

9

21

21

16.0

19

13.6

15

cảm ơn

7

128

11

12.4

11.9

7

7.7

15.1

27

10.1

17.2

8

23

19

14.5

17

12.1

16

xin lỗi

8

99

10

11.2

7.4

8

8.8

11.8

19

10.6

10.8

5

18

15

10.7

14

10.7

10

chúc mừng

Tổng

942

89

100

100

67

100

91

100

152

100

179

100

140

100

131

100

93

139

Qua bảng tần số sử dụng THG kèm TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của

người NB xét theo giới, vai giao tiếp, chúng tôi nhận thấy:

- Nam giới với vai giao tiếp trên hàng:

+ Mối quan hệ giao tiếp ở mức độ thân: HĐ cầu khiến tỉ lệ 20.2% (18/125), HĐ

mời tỉ lệ 11.2% (10/137), HĐ rủ rê tỉ lệ 8.9% (8/98), HĐ khuyên tỉ lệ 4.5% (4/73), HĐ

dặn dò tỉ lệ 17.9% (16/146), HĐ cảm ơn tỉ lệ 13.5% (12/136), HĐ xin lỗi tỉ lệ 12.4%

(11/128), HĐ chúc mừng tỉ lệ 11.2% (10/99)

+ Mối quan hệ giao tiếp ở mức độ sơ: HĐ cầu khiến tỉ lệ 15.1% (14/125), HĐ

mời tỉ lệ 16.1% (15/137), HĐ rủ rê tỉ lệ 7.5% (7/98), HĐ khuyên tỉ lệ 5.4% (5/73), HĐ

dặn dò tỉ lệ 11.3% (11/146), HĐ cảm ơn tỉ lệ 16.1% (15/136), HĐ xin lỗi tỉ lệ 17.2%

(16/128), HĐ chúc mừng tỉ lệ 10.8% (10/99)

- Nam giới với vai giao tiếp dưới hàng/ ngang hàng:

+ Mối quan hệ giao tiếp ở mức độ thân: HĐ cầu khiến tỉ lệ 11.9% (8/125), HĐ

mời tỉ lệ 14.9% (10/137), HĐ rủ rê tỉ lệ 8.9% (6/98), HĐ khuyên tỉ lệ 11.9% (8/73),

HĐ dặn dò tỉ lệ 19.4% (13/146), HĐ cảm ơn tỉ lệ 13.4% (9/136), HĐ xin lỗi tỉ lệ

11.9% (8/128), HĐ chúc mừng tỉ lệ 7.4% (5/99)

+ Mối quan hệ giao tiếp ở mức độ sơ: HĐ cầu khiến tỉ lệ 12.1% (11/125), HĐ

mời tỉ lệ 13.2% (12/137), HĐ rủ rê tỉ lệ 14.3% (13/98), HĐ khuyên tỉ lệ 10.9%

(10/73), HĐ dặn dò tỉ lệ 18.7% (17/146), HĐ cảm ơn tỉ lệ 14.3% (13/136), HĐ xin lỗi

tỉ lệ 7.7% (7/128), HĐ chúc mừng tỉ lệ 8.8% (8/99)

- Nữ giới với vai giao tiếp trên hàng:

+ Mối quan hệ giao tiếp ở mức độ thân: HĐ cầu khiến tỉ lệ 7.9% (12/125), HĐ

mời tỉ lệ 11.9% (18/137), HĐ rủ rê tỉ lệ 13.2% (20/98), HĐ khuyên tỉ lệ 7.9% (12/73),

HĐ dặn dò tỉ lệ 18.4% (28/146), HĐ cảm ơn tỉ lệ 13.9% (21/136), HĐ xin lỗi tỉ lệ

15.1% (23/128), HĐ chúc mừng tỉ lệ 11.8% (18/99)

+ Mối quan hệ giao tiếp ở mức độ sơ: HĐ cầu khiến tỉ lệ 15.1% (27/125), HĐ

mời tỉ lệ 19.6% (35/137), HĐ rủ rê tỉ lệ 6.7% (12/98), HĐ khuyên tỉ lệ 15.6% (14/73),

HĐ dặn dò tỉ lệ 11.7% (19/146), HĐ cảm ơn tỉ lệ 12.8% (26/136), HĐ xin lỗi tỉ lệ

10.1% (27/128), HĐ chúc mừng tỉ lệ 10.6% (19/99)

- Nữ giới với vai giao tiếp dưới hàng/ ngang hàng:

+ Mối quan hệ giao tiếp ở mức độ thân: HĐ cầu khiến tỉ lệ 12.1% (17/125), HĐ

140

mời tỉ lệ 13.6% (19/137), HĐ rủ rê tỉ lệ 12.6% (18/98), HĐ khuyên tỉ lệ 9.3% (13/73),

HĐ dặn dò tỉ lệ 15.7% (22/146), HĐ cảm ơn tỉ lệ 16.0%(21/136), HĐ xin lỗi tỉ lệ

14.5% (19/128), HĐ chúc mừng tỉ lệ 10.7% (15/99)

+ Mối quan hệ giao tiếp ở mức độ sơ: HĐ cầu khiến tỉ lệ 13.7% (18/125), HĐ

mời tỉ lệ 13.7% (18/137), HĐ rủ rê tỉ lệ 10.7% (14/98), HĐ khuyên tỉ lệ 5.3% (7/73),

HĐ dặn dò tỉ lệ 15.3% (20/146), HĐ cảm ơn tỉ lệ 13.6% (19/136), HĐ xin lỗi tỉ lệ

12.1% (17/128), HĐ chúc mừng tỉ lệ 10.7% (14/99)

Nếu xét vai giao tiếp theo mối quan hệ thân/sơ, ở vai trên hàng hay ngang hàng,

dưới hàng, thì nam giới hay dùng THG đi kèm TTTT đối với vai quan hệ sơ nhiều hơn

đối với quan hệ thân, khác biệt này thể hiện rõ nhất là đối với vai ngang hàng và dưới

hàng (57,6% so với 42,4%). Ở mức độ giao tiếp sơ này, nam thường dùng đại từ xưng

hô em, anh, chị… để kèm TTTT. Theo quan sát ở phiếu điền dã và ghi âm trực tiếp,

chúng tôi thấy: nam ít dùng tên riêng gọi đi kèm TTTT trong mối quan hệ sơ. Có thể, ở

mức độ giao tiếp “sơ” thì cách dùng này an toàn cho tính lịch sự hơn.

Đối với nữ giới, chỉ với vai trên hàng, quan hệ sơ mới được nữ dùng nhiều

phát ngôn có THG kèm TTTT hơn quan hệ thân (54,1% so với 45,9%), nhưng đối

với hàng dưới và ngang hàng thì ở mối quan hệ thân, phát ngôn có THG kèm TTTT

được dùng nhiều hơn đối với quan hệ sơ, song tỉ lệ chênh lêch là không đáng kể

(51,7% so với 48,3%).

Như vậy, trong giao tiếp, nhìn chung nữ và nam đều chú trọng dùng THG kèm

TTTT đối với quan hệ sơ nhiều hơn quan hệ thân, tuy nhiên, so sánh cụ thể hơn thì

khác biệt này được thể hiện rõ hơn đối với người phát ngôn là nam và thêm một điểm

khác nữa giữa nữ và nam là, nếu với nam, phát ngôn có THG kèm TTTT được dùng

nhiều hơn đối với quan hệ sơ, ở vai ngang hàng, dưới hàng thì ngược lại, sự khác biệt

này lại được thể hiện rõ ở phát ngôn của nữ giới đối với vai hàng trên quan hệ sơ.

4.5.2. Sự khác nhau giữa nam và nữ trong việc dùng THG kèm trước và sau

TTTT

Để thấy rõ hơn sự chi phối của từng HĐNT đối với việc dùng THG theo vị trí

xét trong quan hệ với TTTT, chúng tôi thống kê được có 942 lần THG xuất hiện đi

kèm TTTT trong các HĐNT nhưng vị trí không giống nhau. Kết quả thống kê cụ thể

được thể hiện qua bảng tổng hợp 4.8 sau:

141

Bảng 4.8. So sánh tần số và tỉ lệ dùng THG kèm trước và sau TTTT giữa nam và nữ

THG xuất hiện trước THG xuất hiện sau

HĐNT có các TT Nam Nữ Nam Nữ cách thức sl sl sl % sl % sl % sl %

77 1 37 48.1 40 51.9 48 35 72.9 13 27.1 cầu khiến

81 2 30 37.0 51 63.0 56 36 64.3 20 35.7 mời

70 3 25 35.7 45 64.3 28 17 60.7 11 39.3 rủ rê

41 4 20 48.8 21 51.2 32 22 68.8 10 31.2 khuyên

97 5 30 30.9 67 69.1 49 30 61.2 19 38.8 dặn dò

85 6 15 17.6 70 82.4 51 34 66.7 17 33.3 cảm ơn

89 7 39 43.8 50 56.2 39 20 51.3 19 48.7 xin lỗi

57 8 17 29.8 40 70.2 42 30 71.4 12 28.6 chúc mừng

597 213 35,7 384 64,3 345 224 64,9 121 35,1 Tổng 942 63,38% 942 36,62%

Nhìn vào kết quả thống kê thể hiện trên bảng tổng hợp 4.8 chúng ta thấy, sự

khác biệt khá rõ là THG đi kèm trước TTTT chiếm tỉ lệ cao gần gấp đôi kiểu kết hợp

THG đi sau TTTT (63,38% so với 36,62%). Tạo ra sự khác biệt đó thực chất là do sự

khác biệt giữa nam và nữ trong cách dùng TTTT đi kèm THG. Cụ thể, tạo nên sự

khác biệt đó là do nam thiên về dùng THG đi sau TTTT (tỉ lệ gần gấp đôi so với nữ,

64,9% so với 35,1%), ngược lại, nữ lại chủ yếu dùng THG đi trước TTTT (tỉ lệ

64,3% so với 35,7%). Sự khác biệt này tạo thành hệ thống, biểu hiện trên tất cả các

HĐNT. Cả 8 loại phát ngôn, nữ đều dùng THG đi trước TTTT với tỉ lệ cao hơn nam,

trong đó tỉ lệ chênh lệch lớn nhất là ở HĐNT cảm ơn, nữ dùng 82,4%, nam chỉ dùng

17,6%, tiếp đến là HĐNT chúc mừng (70,2% so với 29,8%), HĐNT dặn dò (69,1%

so với 30,9%),…Ngược lại, với tất cả 8 loại phát ngôn có HĐNT khác nhau, nam đều

dùng THG đi sau TTTT với tỉ lệ cao hơn nữ, trong đó tỉ lệ chênh lệch lớn nhất là ở

HĐNT cầu khiến, nam dùng 72,9%, nữ chỉ dùng 27,1%, tiếp đến là HĐNT chúc

mừng (71,4% so với 28,6%), HĐNT khuyên (68,8% so với 31,2%), HĐNT cảm ơn

142

(66,7% so với 33,3%),…Qua bảng số liệu thống kê, chúng ta cũng thấy được phần nào

sự khác nhau giữa nữ và nam về mối tương quan giữa các nhân trố trong phát ngôn,

giữa đối tượng giao tiếp và mục đích phát ngôn. Như một nét trội tạo nên nếp ứng xử

trong giao tiếp, nữ thường chú ý, đề cao nhân tố đối tượng giao tiếp nên rất chú trọng

dùng yếu tố hô gọi trong các phát ngôn, không những đầy đủ mà thường có vị trí ưu

tiên, đặt trước từ tình thái. Ngược lại, nam giới thường chú ý nhiều đến hành động,

mục đích của phát ngôn nên vì thế phải chăng nam có thói quen hay dùng THG đi sau

TTTT, như ngữ liệu thống kê đã cho thấy. Chẳng hạn, qua sát phát ngôn của nam và

ngữ trong hội thoại sau:

<267> Nam: - Xuống Cái Mơn lấy giống Ri 6 có ba loại lận.

Nữ: - Nói vậy chứ tui hông đi thì đừng có rầy anh nghe! Ở đây, muốn

thể hiện ý muốn cầu khiến hay nhờ vả, ngữ điệu nữ nói nhẹ nhàng,

nhấn mạnh THG trước TTTT.

Ví dụ về THG xuất hiện trước TTTT trong phát ngôn của nam - nữ:

Qua bảng tần số 4.8, chúng ta thấy được nữ sử dụng THG trước TTTT nhiều

hơn nam. Cụ thể ở:

Hành động cầu khiến tỉ lệ 51.9% (40/77)

<268> Lên nhà trên lấy cho má cái đồ cắm nhang, Đậm nghe!

Hành động mời: tỉ lệ 63% (51/84)

<269> Mai qua nhà con ăn đám giỗ thiếm Chín nghen!

Hành động rủ rê: tỉ lệ 64.3% (45/70)

<270> Đợt này mình cùng gieo giống D2 ngon nhất thế giới dì Út ha!

Hành động khuyên: tỉ lệ 51.2% (21/41)

<271> Thôi, sức khỏe vầy, đừng có đi làm nhà máy nữa anh Tám ơi!

Hành động dặn dò: tỉ lệ 61.1% (67/97)

<272> Đi mưa nhớ mang theo khăn giấy khô chú Một nghen!

Hành động cảm ơn: tỉ lệ 82.4% (70/85)

<273> Em cảm ơn anh Ti nè!

Hành động xin lỗi: tỉ lệ 56.2% (50/89)

<274> Thôi mà, cho bé trai xin lỗi cu Tũn hen!

Hành động chúc mừng: tỉ lệ 70.2% (40/57)

143

<275> Cô chúc mừng út Chót nhen!

Như vậy, nữ giới luôn mong muốn hành động của mình thể hiện sự gần gũi,

chân thành quan tâm, tôn trọng người nghe. Chính vì thế, mối quan hệ giữa người nói

và người nghe càng thân mật hơn trong mối quan hệ đã rất thân. Cách dùng THG trước

TTTT hi vọng người nghe sẽ vui vẻ, hài lòng hoặc thực hiện theo mong muốn, nguyện

vọng của mình. Cách nói chuyện ở HĐ cầu khiến, rủ rê, mời không có ý áp đặt hay ép

buộc mà vẫn tham khảo hoặc để ngỏ các khả năng lựa chọn cho người nghe. HĐ dặn

dò, xin lỗi, chúc mừng thì rất ấm lòng người giao tiếp.

THG xuất hiện sau TTTT trong phát ngôn của nam, nữ:

Ở cách dùng này thì nam sử dụng THG sau TTTT nhiều hơn nữ. Cụ thể:

Hành động cầu khiến tỉ lệ 72.9% (35/48)

<276> Con lấy cái chổi chà ra đây ngay nghen mẹ thằng Trọng!

Hành động mời tỉ lệ 64.7% (36/56)

<277> Ăn với con cái bánh ít này ngon nè Tám!

Hành động rủ rê tỉ lệ 60.7% (17/28)

<278> Ê, một hồi xách đờn qua nhà tao làm một bản nghe chơi nhen mậy!

Hành động khuyên tỉ lệ 68.8% (22/32)

<279> Nước mặn dìa sớm, con nghĩ đừng xuống giống đợt này hen chú!

Hành động dặn dò tỉ lệ 61.2% (30/49)

<280> Đường sình lán, đi cẩn thận nhen chị Chín!

Hành động cảm ơn tỉ lệ 66.7% (34/51)

<281> Trời đất quỷ thần ơi, bây đem chi nhiều dữ, cảm ơn nghe hai Lúa!

Hành động xin lỗi tỉ lệ 51.3% (20/39)

<282> Tui báo lộn giờ rồi, xin lỗi nghen Út Nhỏ!

Hành động chúc mừng tỉ lệ 71.4% (30/42)

<283> Chúc mừng nhen Năm!

Qua tư liệu điền dã về việc sử dụng THG sau TTTT của nam giới, chúng ta thấy

nội dung câu nói được nhấn mạnh, người nghe phải chú ý nhiều hơn. Điều này cũng

cho thấy người nói chú trọng đến nội dung phát ra đồng thời muốn nhấn mạnh đến HĐ

ngôn ngữ hơn, giữ khoảng cách với đối tượng giao tiếp. Bởi thế, nam giới ít quan tâm

việc trau chuốt phát ngôn, hay nói thẳng, khẳng định, tạo sắc thái phải đồng tình.

144

4.6. Tiểu kết chương 4 Ở chương 4, luận án phân tích cách dùng TTTT cuối phát ngôn của người Nam

Bộ xét theo vai giao tiếp gắn với giới. Kết quả cho thấy:

Về tần số sử dụng TTTT cuối phát ngôn, nam giới sử dụng ít hơn nữ giới. Đặc biệt, đối với TTTT kết hợp, tần số sử dụng TTTT cuối phát ngôn của nữ cao gần gấp đôi nam (63.32% so với 36,68%). Trong đó, các TTTT kết hợp cuối phát ngôn mang tính đặc trưng của PNNB dùng trong giao tiếp đó là TTTT thấy mồ, chớ bộ, mèn ơi” đều được nữ dùng với số phát ngôn cao vượt trội, gấp hơn 4,5 lần so với nam. Tổ hợp TTTT “thấy mồ”, “chớ bộ”, “mèn ơi” thể hiện nét nghĩa khác nhau ở bối cảnh khác nhau và nghĩa của nó cũng khác nhau phụ thuộc vào tâm trạng, bối cảnh của người giao tiếp. Xét theo loại phát ngôn, ba tổ hợp TTTT này không dùng trong phát ngôn cầu khiến, nghi vấn (hỏi) mà chỉ dùng trong phát ngôn tường thuật. Điều đó cho thấy cách dùng của chúng nhằm thể hiện thái độ khẳng định, phủ định, bác bỏ hay thể hiện cảm xúc của chủ thể phát ngôn đối với nội dung sự tình được tường thuật.

Nhìn chung, nam và nữ đều dùng TTTT cuối phát ngôn một cách phổ biến, điều đó cho thấy tính lịch sự, biểu cảm trong giao tiếp được chú trọng và chúng góp phần làm cho các cuộc hội thoại thành công. Điểm khác biệt là, nữ dùng nhiều hơn nam ở [+ lịch sự], còn chiến lược [- lịch sự] thì nam dùng nhiều hơn nữ. Như vậy, nữ giới thường sử dụng TTTT gắn với tiêu chí lịch sự nhiều hơn nam giới.

Phân tích các TTTT được dùng cuối phát ngôn xét theo giới, luận án cho thấy, ở tất cả các hành vi ngôn trung: cảm ơn, chúc mừng, cầu khiến, xin lỗi, mời, rủ rê, dặn dò,…nam và nữ đều dùng TTTT; tuy nhiên, tỉ lệ dùng của nam thấp hơn so với nữ. Nói cách khác, nữ thường dùng TTTT nhiều hơn nam. Trong đó, ở hành vi chúc mừng, TTTT được nữ dùng có tỉ lệ cao vượt trội (72,44%) so với nam. Điều đó phải chăng do nữ hay chú ý kết quả, thành tích, sự thành công cụ thể, nên luôn thể hiện tình cảm quan tâm đến hành động chúc mừng. Riêng đối với học sinh, với các hành vi chúc mừng, cầu khiến, mời, rủ rê, nam lại thường dùng TTTT hơn nữ.

Trong các phát ngôn của người NB, THG thường đi kèm TTTT, nhưng nữ dùng nhiều hơn nam (63,9% so với 36,1%) và nữ phổ biến dùng THG trước TTTT, ngược lại, nam lại hay dùng THG đi sau TTTT. Như vậy, trong giao tiếp nữ rất quan tâm đến người nghe; dùng THG đi trước TTTT, sự biểu cảm của TTTT có thể sẽ giảm nhẹ hơn một chút song bù lại, quan hệ liên nhân gắn bó giữa người nói và người nghe lại gắn bó, thắt chặt hơn. Đối với phát ngôn của nam, dường như trọng tâm biểu cảm sẽ rơi vào TTTT, nội dung lời nói được chú ý hơn, nhấn mạnh hơn, làm cho người nghe lưu ý đến thông điệp, HĐ ngôn ngữ mà người nói đã phát hơn.

145

KẾT LUẬN

Từ cứ liệu thu thập được, qua miêu tả, phân tích việc sử dụng TTTT cuối phát

ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ, luận án rút ra những kết luận sau:

1. Qua một số công trình của các nhà nghiên cứu nổi tiếng trong và ngoài nước

mà quan niệm, tư tưởng của các tác giả này ảnh hưởng, tác động rõ nhất đến khuynh

hướng nghiên cứu vấn đề TTTT, chúng ta thấy, tình thái là một phạm trù rộng lớn và phức tạp, được biểu hiện trên nhiều loại phương tiện ngôn ngữ. Luận án cũng đã xác

định các khái niệm và những vấn đề liên quan làm cơ sở khoa học và thực tiễn cho đề

tài, bằng việc giới thuyết khái niệm tình thái, TTTT, TTTT cuối phát ngôn, giao tiếp,

phát ngôn, hành động nói - môi trường hoạt động của nghĩa tình thái, phân loại các nhóm nghĩa tình thái, vấn đề phương ngữ và PNNB. TTTT cuối phát ngôn là một phương tiện biểu thị thái độ, cảm xúc của người nói luôn gắn chặt với các HĐ ngôn

ngữ được thể hiện trong phát ngôn và các nhân tố tham gia giao tiếp xét về mặt giới

tính, địa vị, nghề nghiệp quan hệ xã hội.

2. Ở chương 2, dựa vào các tiêu chí nhận diện TTTT cuối phát ngôn đã được

xây dựng, khảo sát 8531 cuộc thoại của người NB là ngữ liệu điền dã trực tiếp, luận án

đã xác định được:

2.1. Số lượng TTTT cuối phát ngôn được dùng phong phú và đa dạng, gồm 87

đơn vị, với hai loại cấu tạo, cấu tạo tổ hợp nhiều hơn cấu tạo đơn (47 từ, 54,02% so

với 40 từ, 45,98%), bao gồm TTTT toàn dân và TTTT phương ngữ, trong đó TTTT

phương ngữ có số lượng và tỉ lệ gần gấp đôi TTTT toàn dân (55 đơn vị, chiếm 63,21%

so với 32 đơn vị, chiếm 36,78%).

2.2. Các TTTT phương ngữ NB là những TTTT được người NB dùng một cách

tự nhiên, quen thuộc trong giao tiếp hàng ngày, có sự khác biệt nhất định (về âm,

nghĩa, thói quen sử dụng) so với TTTT toàn dân. Các TTTT phương ngữ vừa xuất hiện dạng đơn, vừa xuất hiện dạng kết hợp. Nghĩa của chúng có thể sẵn có nhưng cũng có thể có những nét nghĩa mới được hình thành do việc tổ hợp của các tiểu từ, đặc biệt là các nghĩa, nét nghĩa được hình thành biến động theo ngữ cảnh do tình huống giao tiếp. 2.3. Nghĩa của các TTTT đơn phương ngữ rất phong phú và đa dạng, bởi phần lớn các từ đều có nhiều nghĩa hoặc sắc thái nghĩa khác nhau. Điều đó góp phần làm

cho ngôn ngữ giao tiếp của người NB thêm giàu sắc thái biểu cảm. Có 6 TTTT đơn toàn dân được dùng ở NB có nghĩa ít nhiều khác với cách dùng trong trong ngôn ngữ

toàn dân.

146

2.4. Các tổ hợp TTTT phương ngữ có số lượng phong phú, gần gấp ba và lượt

dùng gần gấp đôi các tổ hợp TTTT toàn dân; đại bộ phận chúng được dùng trong giao

tiếp gia đình và giữa những người bạn thân thiết, còn các tổ hợp TTTT toàn dân, chủ

yếu được dùng giao tiếp ngoài xã hội, trong các cơ quan công sở, trường học, giữa

những người là đồng nghiệp, quen biết nhau. Việc sử dụng các tổ hợp TTTT cuối phát ngôn một cách phong phú, đa dạng, hơn nữa, các tổ hợp TTTT phương ngữ lại được

dùng nhiều, việc đó đã góp phần tạo thêm sự phong phú các sắc thái nghĩa tình thái

phương ngữ, bên cạnh nghĩa của nội dung mệnh đề miêu tả. Thói quen dùng từ như

vậy đã giúp cho người NB có thể chuyển tải một cách chính xác, đầy đủ, cụ thể và tinh tế cảm xúc, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với hiện thực được thông báo, tạo

nên điểm nhấn mạnh, gây ấn tượng sâu sắc đối với người đối thoại. Đồng thời, làm

cho lời nói của người NB có sự nhấn giọng hay kéo dài giọng ở cuối phát ngôn, tạo

nên âm hưởng, giọng điệu riêng, đậm “chất Nam Bộ”.

3. Năm nhóm phạm trù HĐNT (trình bày, điều khiển, cam kết, biểu cảm, tuyên

bố) đều có các TTTT cuối phát ngôn xuất hiện nhưng khả năng xuất hiện của các từ

không như nhau. Mỗi phạm trù lại gồm những nhóm nhỏ TTTT khác nhau. 27 HĐNT

tiêu biểu thuộc 5 phạm trù này đã dùng TTTT cuối phát ngôn là kể, thông báo, giải

trình, dặn dò, giới thiệu, cầu khiến, xua đuổi, mời mọc, rủ rê, mệnh lệnh, cầu mong,

khuyên, hỏi, hứa, thoả thuận, cảm ơn, xin lỗi, chúc, chào, khen ngợi, tiếc, dự định,

đoán, ước, trách móc, bác bỏ, từ chối. TTTT Nam Bộ có thể xuất hiện trong HĐNT

trực tiếp hoặc gián tiếp.

4. Luận án cũng đã khảo sát việc dùng TTTT của người NB theo tiêu chí lịch

sự. Tính lịch sự trong cách thể hiện trực tiếp làm cho người nghe cảm thấy thể diện

của mình được người đối thoại tôn vinh, dễ dàng chấp nhận các hành động của người

nói, hội thoại vì thế mà thành công. Xét theo quan hệ dọc, đó là mối quan hệ vị thế, có

khoảng cách xã hội giữa hai vai giao tiếp, cho nên việc người giao tiếp NB sử dụng

chiến lược giao tiếp lịch sự là sự lựa chọn khôn ngoan, vừa tránh làm mất thể diện của người đối thoại vừa duy trì được tính lịch sự trong giao tiếp. Lịch sự với tư cách là một nét đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa ứng xử của giao tiếp nên khi giao tiếp, người NB đã dùng một số chiến lược tăng tính lịch sự cho hành động để duy trì hay thúc đẩy mối quan hệ liên nhân hoà hợp trong xã hội.

5. Khảo sát các TTTT cuối phát ngôn đi kèm THG trong giao tiếp của người NB, luận án khẳng định việc liên kết các yếu tố này với nhau có hiệu quả trong việc thể hiện nghĩa tình thái. THG kết hợp TTTT trong các ngữ cảnh tạo sự chú ý, gây ấn

147

tượng mạnh, tạo sắc thái mới mẻ; đồng thời, người nói muốn tìm sự chia sẻ với người

nghe, mong muốn người nghe tiếp nhận hay đồng tình. Khi THG xuất hiện trước

TTTT thì trọng tâm sẽ rơi vào đối tượng được gọi, THG xuất hiện sau TTTT thì trọng

tâm sẽ rơi vào TTTT. Về một khía cạnh khác có liên quan, luận án cũng cho thấy,

trong giao tiếp, người NB thiên về dùng THG đi kèm đứng trước TTTT hơn là dùng THG đi sau TTTT. Việc kết hợp THG kèm TTTT cuối phát ngôn trong PNNB một

cách tự nhiên, hài hòa, phần nào cho thấy bức tranh giao tiếp trọng tình cảm, nét tinh

tế trong lời ăn tiếng nói của người phương Nam.

6. Ở chương 4, luận án phân tích việc dùng TTTT cuối phát ngôn trên các khía cạnh khác nhau, xét theo vai giao tiếp gắn với giới để thấy được mối liên hệ giữa ngôn ngữ và

giới qua việc dùng TTTT cuối phát ngôn của người phương Nam. Kết quả cho thấy:

6.1. Nữ giới dùng TTTT cuối phát ngôn thường xuyên hơn nam. Cụ thể, nữ sử

dụng 5096/8531 phát ngôn chứa TTTT đứng cuối, chiếm tỉ lệ 59,73%, nam giới sử

dụng 3435/8531 phát ngôn chiếm tỉ lệ 40,26%. Điều đó cho thấy trong cuộc sống cũng

như trong giao tiếp, phụ nữ luôn quan tâm đến tình cảm. Nữ giới thích tạo ngữ điệu kết

hợp TTTT trong lời thoại, tạo nên ấn tượng, gây được chú ý để thể hiện tình cảm

thương mến, thân mật với người nghe. Đó là một trong những nét trội trong tính cách

của nữ giới nằm trong đặc tính văn hóa ứng xử chung trọng tình của người NB.

6.2. Phân tích các TTTT được dùng cuối phát ngôn xét theo giới, chúng ta thấy

cách ứng xử đậm tình của người NB được thể hiện rõ ràng trên tất cả các hành vi ngôn

trung cảm ơn, chúc mừng, cầu khiến, xin lỗi, mời, rủ rê, dặn dò…bởi hành vi ngôn

trung nào cũng mang tính tình thái. Tuy nhiên, có sự khác biệt ít nhiều giữa nam và nữ

trong dùng TTTT. Tỉ lệ các phát ngôn của nam có dùng TTTT thấp hơn so với nữ,

điều đó cho phép kết luận nữ thường dùng TTTT nhiều hơn nam. Xét TTTT được

dùng theo các hành vi phát ngôn, giữa nam và nữ cũng có thói quen lựa chọn không

hoàn toàn giống nhau. Nữ hay chú ý đến kết quả của công việc, những thành công,

thành tích, kết quả cụ thể nên với hành vi chúc mừng, TTTT được nữ dùng nhiều nhất, chênh lệch nhất so với nam. Ngoài ra, các hành vi cảm ơn, xin lỗi, dặn dò, mời, rủ rê TTTT cũng được nữ dùng nhiều hơn nam.

6.3. Luận án đã bàn về ý nghĩa tình thái của các tổ hợp TTTT đặc biệt của PNNB “thấy mồ, chớ bộ, mèn ơi” dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB và việc dùng ba tổ hợp này xét theo giới. TTTT “thấy mồ, chớ bộ, mèn ơi” được nữ giới sử dụng nhiều nhất và cao gấp gần 2,6 lần so với nam. Nam giới sử dụng 157/ 563, chiếm tỉ lệ 27.88%. Nữ giới sử dụng 406/563, chiếm tỉ lệ 72.11%.

148

6.4. Trong các phát ngôn của người NB, THG thường đi kèm TTTT, nhưng nữ dùng

nhiều hơn nam (63,9% so với 36,1%) và nữ phổ biến dùng THG trước TTTT, ngược lại, nam lại hay dùng THG đi sau TTTT. Như vậy, trong giao tiếp nữ rất quan tâm đến người nghe; dùng THG đi trước TTTT, sự biểu cảm của TTTT có thể sẽ giảm nhẹ hơn một

chút song bù lại, quan hệ liên nhân gắn bó giữa người nói và người nghe lại gắn bó, thắt chặt hơn. Đối với phát ngôn của nam, dường như trọng tâm biểu cảm sẽ rơi vào

TTTT, nội dung lời nói được chú ý hơn, nhấn mạnh hơn, làm cho người nghe lưu ý

đến thông điệp, HĐ ngôn ngữ mà người nói đã phát hơn.

6.5. So sánh việc dùng TTTT giữa nam và nữ, xét theo tiêu chí lịch sự, luận án cho thấy, nhìn chung, nam và nữ đều dùng TTTT cuối phát ngôn một cách phổ biến,

điều đó chứng tỏ tính lịch sự, biểu cảm trong giao tiếp của người NB được chú trọng

và chúng góp phần làm cho các cuộc hội thoại thành công. Điểm khác biệt là, nữ dùng

nhiều hơn nam ở [+ lịch sự], còn chiến lược [- lịch sự] thì nam dùng nhiều hơn nữ.

Như vậy, nữ giới thường sử dụng TTTT gắn với tiêu chí lịch sự nhiều hơn nam giới.

Tình thái là một phạm trù rộng lớn, biểu hiện trên nhiều loại phương tiện, liên

quan đến nhiều nhân tố trong và ngoài ngôn ngữ. Việc nghiên cứu TTTT cuối phát

ngôn trong giao tiếp của người NB dù đã dựa trên một nguồn ngữ liệu điều tra điền dã

trực tiếp phong phú và được khảo sát trên nhiều phương diện chủ yếu nhưng đây còn

là vấn đề mở, còn nhiều khía cạnh, quan hệ cần được tiếp tục nghiên cứu bổ sung, như

vấn đề so sánh TTTT cuối phát ngôn với các phương tiện tình thái khác của phát ngôn,

hay mở rộng xét TTTT theo phân tầng xã hội ở các quan hệ vai giao tiếp khác v.v.…

Chúng tôi xem đó như là nhiệm vụ thuộc tương lai và hi vọng được trở lại tiếp tục đề

tài này./.

149

CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Mai Phương (2016), “Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa Nam Bộ qua một số

tiểu từ tình thái cuối phát ngôn”, trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và

giáo dục ngôn ngữ trong nhà trường, Kỷ yếu Hội thảo ngữ học toàn quốc 2016,

Nxb Dân Trí, Hà Nội, tr. 1040 - 1048.

2. Nguyễn Mai Phương (2016), “Đặc điểm cách dùng tiểu từ tình thái hen, héng,

nghen, hôn, hông cuối phát ngôn trong phương ngữ Nam Bộ xét theo tuổi tác và

giới tính”, Kỷ yếu hội thảo ngôn ngữ học quốc tế 2016, Nxb ĐHQG Hà Nội,

tr.404 - 411.

3. Nguyễn Mai Phương (2017), “Đại từ “ta”, động từ “coi”chuyển thành tiểu từ tình

thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của phương ngữ Nam Bộ”, Kỷ yếu Hội thảo

ngữ học toàn quốc 2017, Nxb Dân Trí, Hà Nội, tr.1483 - 1488.

4. Nguyễn Mai Phương (2017), “Những khác biệt về nghĩa và cách dùng các tiểu từ

tình thái toàn dân ạ, nhé, đây, chứ, hả, vậy cuối phát ngôn trong giao tiếp của

người Nam Bộ”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nghiên cứu giảng dạy, Việt Nam học,

Nxb ĐHQGTP.HCM, tr. 810 - 818.

5. Nguyễn Mai Phương (2019), “Các tiểu từ tình thái đi, rồi, luôn dùng cuối phát

ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Ngôn ngữ

Việt Nam trong bối cảnh giao lưu, hội nhập và phát triển”, Nxb Dân Trí, tr.1921

- 1929.

6. Nguyễn Mai Phương (2020), “Tiểu từ tình thái phối kết thấy mồ, chớ bộ, mèn ơi

cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ”, Tạp chí Từ điển học và

Bách khoa thư, tr. 90 - 94.

7. Nguyễn Mai Phương (2020), “Ngữ nghĩa và cách sử dụng tổ hợp tiểu từ tình thái

cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời

sống, số 8/ 2020, tr. 29 - 34.

8. Nguyễn Mai Phương (2020), “Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái cuối phát ngôn

trong giao tiếp của người Nam Bộ”, Tạp chí Khoa học, tập 49, số 4B/2020, ĐH

Vinh, tr.43 - 48.

150

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Văn Ái (1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nxb Giáo dục, Thành phố

Hồ Chí Minh.

2. Nguyễn Văn Ái, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Khai (1997), Sổ tay Phương ngữ

Nam Bộ, Nxb Cửu Long.

3. Chu Thị Thủy An, “Cách dùng hai tiểu từ tình thái đã, thôi trong câu cầu khiến

tiếng Việt”, Ngữ học trẻ 99, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, tr.11.

4. Chu Thị Thủy An (2002), Câu cầu khiến tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn,

Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.

5. Diệp Quang Ban (1984), Cấu tạo của câu đơn tiếng Việt, Trường Đại học sư

phạm Hà Nội I.

6. Diệp Quang Ban (1992), “Bàn góp về quan hệ chủ ngữ - vị ngữ và quan hệ phần

đề - phần thuyết”, Ngôn ngữ, số 4, tr.13 -28.

7. Diệp Quang Ban (cb), Hoàng Văn Thung (1996), Ngữ pháp tiếng Việt, (tập 1 &

2), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Diệp Quang Ban (2001), “Ứng dụng cách nhìn dụng học vào việc giải thích một

số yếu tố có mặt trong câu - phát ngôn”, Ngôn ngữ, số 4, tr. 23 - 34.

9. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

10. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb Giáo

dục Việt Nam.

11. Đặng Văn Bình, “Câu viết sai trong bài tập làm văn của học sinh tiểu học-

nguyên nhân và cách sửa”, Ngữ học trẻ 99, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, tr.14.

12. Lê Biên (1993), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

13. Brown R and Gilman A (1976), The pronouns of power and solidarity (Đại từ chỉ

quyền lực và thân hữu), trong Language and Social Context, Edited by P.P ̀ ̀ ̀ ̀ Giglioli, p.p 2̀ 52-282, Bản dịch của Vũ Thị Thanh Hương.

14. Hoàng Trọng Canh (1995), “Một vài nhận xét bước đầu về âm và nghĩa từ địa

phương Nghệ Tĩnh”, Ngôn ngữ, số 1, tr. 17 - 29.

15. Hoàng Trọng Canh (2001), Nghiên cứu đặc điểm lớp từ địa phương Nghệ Tĩnh,

Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Quốc gia, Hà Nội.

16. Hoàng Trọng Canh (2009), Từ địa phương Nghệ Tĩnh về một khía cạnh ngôn ngữ

- văn hóa, Nxb KHXH, Hà Nội.

151

17. Hoàng Trọng Canh (2016), “Từ địa phương Nam Bộ, so sánh với từ địa phương

Nghệ Tĩnh”, Những vấn đề văn học và ngôn ngữ Nam Bộ, Nxb Đại học Quốc gia

TP Hồ Chí Minh, tr. 1096 - 1109.

18. Huỳnh Ngọc Cẩm (2017), Tiểu từ tình thái cuối câu trong truyện ngắn Sơn Nam,

Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Trường ĐH Đồng Tháp.

19. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng Việt (tái bản lần thứ IV), Nxb đại học

Quốc gia, Hà Nội.

20. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb, Giáo dục, Hà Nội.

21. Đỗ Hữu Châu (1983), “Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt động”,

Ngôn ngữ, số 1, tr. 12.

22. Đỗ Hữu Châu (2000), “Tìm hiểu ngôn ngữ qua văn hóa”, Ngôn ngữ, số 10, tr. 14 - 20.

23. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập II, Ngữ dụng học, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

24. Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở ngữ dụng học, tập I, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

25. Đỗ Hữu Châu (2003), Giáo trình ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

26. Hoàng Thị Châu (1970), “Vài nhận xét về quá trình tiêu chuẩn hóa tiếng Việt thể

hiện qua cách dùng từ địa phương trong sách vở báo chí trước và sau cách mạng

tháng Tám”, Ngôn ngữ, số 4, tr. 17 - 26.

27. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội.

28. Nguyễn Văn Chiến (1993), “Từ xưng hô trong tiếng Việt”, Việt Nam những vấn

đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường ĐH Ngoại ngữ

Hà Nội.

29. Trương Văn Chình - Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam,

Huế.

30. Nguyễn Văn Chính (2009), “Tìm hiểu đặc trưng ngữ nghĩa của từ tình thái bèn

trong tiếng việt hiện đại”, Ngôn ngữ, số 11, tr.58-61.

31. Wallace L. Chafe, (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

32. Hồng Dân (1984). “Vấn đề miêu tả từ hư trong việc biên soạn từ điển giải thích”,

Ngôn ngữ, số 2, tr.12 - 27.

33. Nguyễn Đức Dân (1998 ), Ngữ dụng học, T.I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

34. Nguyễn Đức Dân (2013), “Con đường chuyển nghĩa của từ “ĐI”, Những vấn đề

Từ điển học và Bách khoa thư, số 6 (26), tr.42.

152

35. Nguyễn Duy Diện (2014), “Đặc trưng ngữ nghĩa của tiểu từ tình thái cuối phát

ngôn dùng để hỏi trong giao tiếp của người Thanh Hóa”, Ngôn ngữ và đời sống,

số 11 (229), tr.52.

36. Trần Trí Dõi (2001), Ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa xã hội, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

37. Vũ Tiến Dũng (2007), “Tìm hiểu một số biểu thức tình thái diễn đạt tính lịch sự

trong giao tiếp tiếng Việt”, Tiếng Việt và chữ Việt, Ngữ học trẻ 2007, tr.37.

38. Phạm Đức Dương (1983), “Nguồn gốc tiếng Việt: từ tiền Việt - Mường đến Việt

- Mường chung”, trong Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Á, Viện Đông Nam Á, Hà

Nội, tr 76 - 133.

39. Lê Thị Hoài Dương (2001), Tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt với vấn đề dạy

tiếng Việt cho người nước ngoài, Luận văn cao học, Trường Đại học KHXH &

NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.

40. Lê Đông (1991), “Ngữ nghĩa, ngữ dụng của hư từ tiếng Việt: ý nghĩa đánh giá

của các hư từ”, Ngôn ngữ, số 2, tr.1 - 17.

41. Lê Đông (1992), “Ngữ nghĩa, ngữ dụng của hư từ tiếng Việt: siêu ngôn ngữ và hư

từ tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2, tr.41 - 47.

42. Lê Đông - Hùng Việt (1995), “Nhấn mạnh như một hiện tượng ngữ dụng và đặc

trưng ngữ nghĩa- ngữ dụng của một số trợ từ nhấn mạnh trong tiếng Việt”, Ngôn

ngữ, số 2 tr.41-50.

43. Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp (2003), “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học”,

Ngôn ngữ, số 6, tr. 17-26, số 7 tr. 48- 64.

44. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (Từ loại), Nxb ĐH và THCN, Hà Nội.

45. Đinh Văn Đức - Nguyễn Văn Khôi (1986 ), “Một vài nhận xét về sự biến đổi tiểu

từ tình thái trong tiếng Việt (qua cứ liệu một số văn bản từ thế kỉ XV đến nay)”,

Hội nghị lần thứ IV các nước Xã hội chủ nghĩa và ngôn ngữ phương Đông, Hà Nội.

46. Emeneau M.B, Nghiên cứu về ngữ pháp Tiếng Việt, California, 1951 (Bản dịch

tiếng Việt của trường ĐHTH Hà Nội).

47. Lê Sĩ Giáo (chủ biên), (1999), Hoàng Lương, Lâm Bá Nam, Lê Ngọc Thắng, Dân

tộc học đại cương, Nxb Giáo dục.

48. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học

chuyên nghiệp, Hà Nội.

49. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Phân tích hội thoại, Viện Thông tin Khoa học xã hội.

153

50. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Ngữ cảnh và giao tiếp, Viện Thông tin Khoa học

xã hội.

51. Nguyễn Thiện Giáp (2001), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

52. Nguyễn Thiện Giáp (2016), Từ điển khái niệm ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

53. Hoàng Thúy Hà (2008), Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của

người Nghệ Tĩnh, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh, Nghệ An.

54. Phạm Thị Thu Hà (2014), “Ngữ điệu và các tiểu từ cuối câu trong tiếng Chăm

Đông”, Ngôn ngữ, số 6,tr.58-69.

55. Trần Thị Ngọc Hà, Trình Thị Cẩm Giang, Nguyễn Thị Bé Tư (2010), Tiểu từ tình

thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của sinh viên Trường Đại học Đồng Tháp,

Khóa luận tốt nghiệp Sư phạm Ngữ văn, Trường Đại học Đồng Tháp.

56. Nguyễn Thị Hài (2014), “Động từ ngữ vi cầu khiến trong ca dao người Việt”,

Ngôn ngữ và đời sống, số 8, (226), tr. 53.

57. Halliday. M.A.K (1991), “Khái niệm ngữ cảnh trong giáo dục ngôn ngữ”, Ngôn

ngữ, số 4 48- 64.

58. Hoàng Văn Hành (1991), Từ ngữ tiếng Việt trên đường hiểu biết và khám phá,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Hoàng Văn Hành (1994), “Về tính hệ thống của vốn từ tiếng Việt”, Ngôn ngữ”,

số 2. tr.48- 64.

60. Phạm Văn Hảo (1979), “Bàn thêm một số điểm về việc thu thập và định nghĩa về

từ địa phương trong từ điển Tiếng Việt phổ thông”, Ngôn ngữ, số 2, tr 59.

61. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt (Sơ thảo ngữ pháp chức năng), quyển 1, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

62. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

63. Nguyễn Văn Hiệp (2001), “Hướng đến một cách miêu tả và phân loại các tiểu từ

tình thái cuối câu tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 5, tr. 48- 64.

64. Nguyễn Văn Hiệp (2001), “Về một khía cạnh phân tích tầm tác động tình thái”,

Ngôn ngữ, số 11, tr.49- 61.

65. Nguyễn Văn Hiệp (2002), “Về một khía cạnh phát triển tiếng Việt”, Báo cáo tại

Hội thảo khoa học cấp quốc gia Bảo vệ và phát triển tiếng Việt,. Tp Hồ Chí

Minh”, tháng 12/2002.

154

66. Nguyễn Văn Hiệp (2005), “Các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt và chiến lược

lịch sự”, Hội thảo quốc tế ngôn ngữ học liên Á lần thứ VI, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

67. Nguyễn Văn Hiệp (2012), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp (tái bản lần thứ

nhất), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

68. Bùi Thanh Hoa (2012), “Nhóm hư từ tiếng Việt mang ý nghĩa đánh giá cao”, Từ

điển học và bách khoa thư, số 1 (15), tr.9.

69. Nguyễn Chí Hòa (1993), “Thử tìm hiểu phát ngôn hỏi và phát ngôn trả lời

trong sự tương tác lẫn nhau giữa chúng trên bình diện giao tiếp, Ngôn ngữ”,

số 1, tr.48-64.

70. Nguyễn Hoà (2003), Phân tích diễn ngôn: Một số vấn đề lí luận và phương pháp,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

71. Nguyễn Quang Hồng (1981), “Các lớp từ địa phương và chức năng của chúng

trong ngôn ngữ văn hóa”, Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt về mặt từ ngữ, tập 2,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.313 - 320.

72. Trần Đức Hùng (2016), Nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa từ ngữ địa

phương Nam Bộ (Trong thơ ca dân gian Nam Bộ), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn,

Trường Đại học Vinh.

73. Phan Mạnh Hùng (1982), Tiểu từ tình thái trong tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ

văn, Đại học Peterbourg (bản gốc tiếng Nga).

74. Phan Mạnh Hùng (1985), “Các kiểu tổ hợp tiểu từ tình thái tiếng Việt và vấn đề

ranh giới từ”, Ngôn ngữ, số 4, tr 47-63.

75. Ngũ Thiện Hùng (2011), “Ngữ nghĩa - Ngữ dụng của các tác tử tình thái nhận

thức dưới gốc độ lý thuyết quan yếu và lý thuyết tương tác lực”, Ngữ học toàn

quốc 2011, tr.101.

76. Vũ Thị Thanh Hương (1999), “Giới tính và lịch sự”, Ngôn ngữ, số 8 tr.58 - 66.

77. Vũ Thị Thanh Hương (2000), “Gián tiếp và lịch sự trong lời cầu khiến tiếng

Việt”, Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

78. Vũ Thị Thanh Hương (2000). “Lịch sự và phương thức biểu hiện tính lịch sự

trong lời cầu khiến tiếng Việt, Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng

Việt, Nxb Khoa học Xã hội.

155

79. Nguyễn Văn Khang (2003), “Ngôn ngữ tự nhiên và vấn đề chuyển mã trong giao tiếp hội thoại (trên cơ sở tư liệu trạng thái đa ngữ xã hội ở Việt Nam)”, Ngôn

ngữ, số 1, tr. 31- 45.

80. Nguyễn Văn Khang (2006), Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản, Nxb

Khoa học Xã hội.

81. Nguyễn Văn Khang (2012), Ngôn ngữ học xã hội, Nxb Giáo dục Việt Nam. 82. Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm (1949), Việt Nam văn phạm, Tân Việt. 83. Đào Thanh Lan (2005), “Vai trò của hai động từ mong, muốn trong việc biểu thị

ý nghĩa cầu khiến ở tiếng Việt”, Ngữ ngôn, số 7, tr.13-17.

84. Trịnh Cẩm Lan (2007), Sự biến đổi ngôn từ của các cộng đồng chuyển cư đến thủ đô (Nghiên cứu trường hợp cộng đồng Nghệ Tĩnh ở Hà Nội), Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

85. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ, những khác biệt về từ vựng so

với phương ngữ Bắc Bộ, Nxb KHXH Hà Nội.

86. Lưu Vân Lăng (1988), “Về nguyên tắc phân định từ loại tiếng Việt”, Tiếng Việt

và các ngôn ngữ Đông Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

87. Hồ Lê (1979), “Vấn đề logíc ngữ nghĩa và thông tin trong lời nói”, Ngôn ngữ, số 2. 88. Hồ Lê (1992 ), Cú pháp tiếng Việt, quyển II, Nxb, Khoa học xã hội, Hà Nội. 89. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 90. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ nghĩa lời hội thoại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 91. Đỗ Thị Kim Liên (2000), “Tình thái lời hội thoại”, Kỷ yếu HTKH Ngữ học trẻ

2000, Hà Nội.

92. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình ngữ dụng học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 93. Phạm Tùng Linh (2004), “Phương tiện điều chỉnh sự chú ý của người nghe trong

hội thoại Việt ngữ”, Ngôn ngữ, số 3,tr.1-12.

94. Phạm Tùng Linh (2004), “Phương tiện điều chỉnh sự chú ý của người nghe trong

hội thoại Việt ngữ”, Ngôn ngữ, số 10, tr.49 - 58.

95. Nguyễn Văn Lợi (2002), “Thanh điệu một vài thổ ngữ Nghệ An: từ góc nhìn

đồng đại và lịch đại”, Ngôn ngữ, số 3, tr.1 - 12.

96. Lê Đức Luận, “Toán tử tình thái ở hình thức mở đầu lời thoại trong ca dao dân

ca”, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, tr.96.

97. Nguyễn Thị Lương (1995), “Các tiểu từ nhỉ, nhé, với phép lịch sự trong giao tiếp”, Thông báo khoa học, số 4, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

156

98. Nguyễn Thị Lương (1995), “Một số tiểu từ tình thái dứt câu tiếng Việt với phép

lịch sự trong giao tiếp”, Ngôn ngữ, số 2, tr. 38- 54.

99. Nguyễn Thị Lương (1996), Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt, Luận án PTS, Khoa học ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội.

100. Phạm Thị Ly (2003), Đối chiếu một số phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt và tiếng Anh, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Chuyên ngành Ngôn

ngữ, Đại học KHXH và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.

101. Nguyễn Ngọc Lưu Ly (2013), “Về việc chuyển dịch các nhóm phụ từ tình thái

xác tín tiếng Việt sang tiếng Pháp”, Ngôn ngữ, số 6, tr.18-26.

102. Lê Văn Lý (1968), Sơ thảo ngữ pháp tiếng Việt, Trung tâm học liệu Bộ giáo dục,

Sài Gòn.

103. Hoàng Văn Ma (2016), “Nhóm từ biểu hiện tâm lý tình cảm được cấu tạo điển

hình trong các tiếng Tày- Thái”, Những vấn đề từ điển học, tr.60.

104. Trịnh Thị Mai (2006), Đặc điểm cuộc thoại mua bán ở chợ Nghệ Tĩnh, Luận án

Tiến sĩ Ngữ văn, Vinh, Nghệ An.

105. Martinet A (1979), “Về tình hình ngôn ngữ học hiện đại”, Ngôn ngữ, số 1, tr. 18- 29. 106. Ngô Thị Minh (2001), Một số phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong câu

ghép tiếng Việt, Luận án TS Ngữ văn, Hà Nội.

107. Nguyễn Thị Trà My (2017), Đặc điểm ngôn ngữ của người Việt dưới sự tác động

của nhân tố giới tính và nghề nghiệp, Luận án TS Ngôn ngữ học, Hà Nội.

108. Sơn Nam (1997), Cá tính Miền Nam, Nxb Trẻ. 109. Hà Quang Năng (1988), “Đặc trưng ngữ pháp của hiện tượng chuyển từ loại trong tiếng Việt”, Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

110. Hà Quang Năng (1983), “Đặc trưng ngữ nghĩa của hiện tượng chuyển loại từ vựng trong tiếng Việt”, Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

111. Ngô Thúy Nga - Nguyễn Hoàng Linh (2011), “Vài nét về tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư”, Ngữ học toàn quốc, tr.790. 112. Nguyễn Thị Hồng Nga, “Về một phương thức biểu hiện mạch lạc trong một số

truyện ngắn hiện đại”, Ngôn ngữ với văn chương, tr.795.

113. Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Mai Ngọc Chừ (1997), Cơ sở ngôn ngữ học

và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

157

114. Bùi Trọng Ngoãn (2004), Khảo sát các động từ tình thái trong tiếng Việt, Luận

án tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội.

115. Nguyễn Hoài Nguyên (2001), “Đặc trưng ngữ âm phần vần trong phương ngữ

Nghệ Tĩnh”, Những vấn đề lý thuyết văn học và Ngôn ngữ, Nxb Giáo dục Hà

Nội, Hà Nội.

116. Nguyễn Hoài Nguyên, (2002), Miêu tả đặc trưng ngữ âm phương ngữ Nghệ Tĩnh,

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Vinh, Nghệ An.

117. Bùi Văn Nguyên (1977),“Thử tìm hiểu giọng nói Nghệ Tĩnh trong hệ thống

giọng nói chung của cả nước”, Ngôn ngữ, số 4, tr.34 - 41.

118. Nguyễn Thị Nhung (2017), Nghĩa tình thái của câu tiếng Việt và việc vận dụng

trong dạy học Ngữ văn, Nxb Giáo dục Việt Nam.

119. Nguyễn Thị Nhung, “Tình thái phủ định trong câu đối thoại và độc thoại của

truyện Chí Phèo”, Ngôn ngữ và đời sống, số 6(200)-2012, tr.8.

120. Đái Xuân Ninh - Nguyễn Đức Dân - Nguyễn Quang - Vương Toàn (1986), Ngôn

ngữ học: khuynh hướng - lĩnh vực - khái niệm, (tập hai), Nxb KHXH.

121. F R. Palmer, Thức và tình thái, Nguyễn Văn Hiệp, Phan Trang, Nguyễn Khánh

Hà dịch, (2019), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

122. Panfilov V. S (1979), “Các cấp thể và các chỉ tổ tình thái- thể trong tiếng Việt”,

Ngôn ngữ, số 2, tr. 41- 53..

123. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”, Ngôn ngữ, số 2, tr.28- 39.

124. Hoàng Phê (1981), “Ngữ nghĩa của lời”, Ngôn ngữ, số 3+4.

125. Hoàng Phê (1984), “Toán tử logic- tình thái”, Ngôn ngữ, số 4, tr. 41- 53.

126. Hoàng Phê (1989), Logic ngôn ngữ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

127. Hoàng Phê (chủ biên), (2015), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

128. Hoàng Trọng Phiến (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Trung học chuyên

nghiệp, Hà Nội.

129. Nguyễn Văn Phổ (2013), “Về hai từ: thậm chí và ngay cả”, Từ điển học và bách

khoa thư, số 4 (25), tr.91.

130. Nguyễn Văn Phổ (2013), “Có... đâu! Và không...đâu”, Ngôn ngữ, số 4, tr.20-24.

131. Ngô Đình Phương (2008), Hợp phần nghĩa liên nhân của câu trong ngữ pháp

chức năng hệ thống (Trên ngữ liệu Anh và Việt), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

132. Trần Kim Phượng (2016), “Các phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái trong

tiếng Việt”, Ngôn ngữ và đời sống, số 3 (245), tr.1.

158

133. Nguyễn Quang (2002), “Các chiến lược lịch sự dương tính trong giao tiếp”, Ngôn

ngữ, số 11 tr.51-64.

134. Nguyễn Văn Quang (1998), Một số khác biệt giao tiếp lời nói Việt- Mỹ trong

cách khen và tiếp nhận lời khen, Luận án TS Ngữ văn, Trường Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

135. Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

136. Nguyễn Hữu Quỳnh (1996), Tiếng Việt hiện đại, Trung tâm biên soạn từ điển

bách khoa Việt Nam, Hà Nội.

137. Reformatskij A.A (1967), Dẫn luận ngôn ngữ học. (Bản dịch tiếng Việt của Viện

Ngôn ngữ học).

138. Ru dich P. A (1980), Tâm lí học, Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội.

139. Saussure F. de (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Tổ Ngôn ngữ học -

ĐHTH Hà Nội dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

140. Searle John (1964), “Thế nào là một hành động ngôn từ ?”, Ngôn ngữ, văn hóa &

xã hội - một cách tiếp cận liên ngành, tuyển tập dịch (người dịch: Vũ Thanh

Hương, Hoàng Tử Quân; Hiệu đính: Cao Xuân Hạo, Lương Văn Hy, Lý Toàn

Thắng), Nxb Thế giới, Hà Nội.

141. Trương Văn Sinh (1976), “Điểm qua tình hình nghiên cứu phương ngôn tiếng

Việt trong thời gian qua”, Ngôn ngữ, số 3, tr. 52- 60.

142. Lê Xuân Thại (1984), “Về việc hiện thực hóa tiền giả định tổ hợp của động từ và

tính từ (trên cứ liệu tiếng Việt)”, Ngôn ngữ, số 3, tr. 28- 39.

143. Lê Xuân Thại (1985), “Về trợ từ là trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2, tr. 41- 62.

144. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, tập 1, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

145. Nguyễn Kim Thản (1996), Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

146. Nguyễn Kim Thản (1982), Lời ăn tiếng nói của người Hà Nội, Nxb Hà Nội.

147. Nguyễn Thị An Thanh (2006), Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa từ địa phương trong

các phương ngữ tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

148. Lý Toàn Thắng (1992), Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ đại cương, Nxb

Khoa học Xã hội.

149. Lê Văn Tấn - Nguyễn Thị Hưởng (2009), “Về nhóm trợ từ đánh giá ít trong tiếng

Việt hiện đại”, Ngữ học toàn quốc 2009, tr. 240.

159

150. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh.

151. Trần Ngọc Thêm (chủ biên), (2013), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ. Nxb

Văn hóa - Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.

152. Lê Quang Thiêm (1985), “Nhận xét về đặc điểm ngữ nghĩa của một kiểu câu

tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 4, tr. 58- 69.

153. Lê Quang Thiêm (1989), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb Đại học &

THCN, Hà Nội.

154. Lê Quang Thiêm (1988), “Về đặc trưng các kiểu loại ý nghĩa tình thái trong thơ”,

Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

155. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

156. Lê Quang Thiêm (2019), Văn hóa, văn minh và văn hóa truyền thống Hàn, Nxb

ĐHQG TP. Hồ Chí Minh

157. Thompson L.C (1965), Ngữ pháp tiếng Việt, Sài Gòn, (Bản dịch tiếng Việt của

Viện Ngôn ngữ học).

158. Nguyễn Thị Thuận (2002), “Tình thái của những câu chứa 5 động từ tình thái

nên, cần, phải, bị, được”, Ngôn ngữ, số 9, tr. 48- 64.

159. Đoàn Thiện Thuật (2007), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

160. Trần Văn Thung, Thái Kim Đỉnh (1998), Từ điển tiếng Nghệ, Nxb Nghệ An.

161. Nguyễn Minh Thuyết (1986), “Thảo luận về vấn đề xác định hư từ trong tiếng

Việt”, Ngôn ngữ, số 3 tr. 58- 69.

162. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển Từ ngữ Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã hội.

163. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb Giáo dục Hà Nội.

164. Võ Xuân Trang (1981), “Tiếng địa phương với vấn đề chuẩn hóa tiếng Việt về

mặt từ ngữ” trong: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

165. Nguyễn Văn Tu (1968), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

166. Hoàng Tuệ (1962), Giáo trình về Việt ngữ, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

167. Hoàng Tuệ, Phạm Văn Hảo & Lê Đình Tường (1982), “Bàn về vai trò văn hóa xã

hội của tiếng địa phương”, Ngôn ngữ, số 2, tr. 38- 51.

168. Hoàng Tuệ (1988), “Về khái niệm tình thái”, Tiếng Việt, số 1 tr. 118- 164.

169. Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội - văn hoá, Nxb Giáo dục.

170. Lê Xinh Tươm (2013), Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong phương ngữ Nam

Bộ, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

160

171. Ủy ban khoa học Xã hội Việt Nam (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

172. Trần Thanh Vân (2012), Đặc trưng giới tính biểu hiện qua cuộc thoại mua bán ở

chợ Đồng Tháp, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

173. V. V. Vinogradov (1997), “Dẫn luận vào ý nghĩa ngữ pháp của từ “, in trong Dẫn

luận ngôn ngữ học, Minxcơ, (tiếng Nga).

174. Phạm Hùng Việt (1994), “Vấn đề tính tình thái với việc xem xét chức năng ngữ

nghĩa của trợ từ tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2, tr. 48- 64.

175. Phạm Hùng Việt (1996), “Trợ từ tiếng Việt và việc dạy trợ từ cho người nước ngoài”, Hội nghị Quốc tế Tiếng Việt và dạy tiếng Việt cho người nước ngoài,

Hà Nội.

176. Phạm Hùng Việt (2003), Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

177. Xtepanop Ju. X (1984 ), Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, Nxb Đại học

và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

178. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,

Nxb Giáo dục.

179. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Từ điển phương ngữ tiếng Việt, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

180. Mai Thị Hảo Yến (2000), Hội thoại trong truyện ngắn của Nam Cao (các hình thức thoại dẫn), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội. 181. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2000), Hành vi chê với biểu thức, phát ngôn và tham thoại tiếp nhận chê, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội. 182. Yule G. (1997), Dụng học (Bản dịch tiếng Việt của Ái Nguyên, Hồng Nhâm,

Trúc Thanh), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

BẰNG TIẾNG NƯỚC NGOÀI 183. J.L. Austin (1965), How to Do Things with Words, Oxfor University Press, Oxfor

-New York.

184. J.C. Anscombre & O. Ducrot. (1983), L’Arguementation dans Langue, Mardaga. 185. Arndt, Walter (1995), Modal Particles in Russian and German , University of

North Carolina

186. Bach, R, Kand Harnish (1984), Linguistic Communication and Speech Acts. THE

MIT PRESS.

161

187. J. Bybee. And Suzanne Fleischman (ed) (1995), Modality in Grammar and

Discourse, John Benjamins Publishing Company.

188. M. Coulthard (1991), Advances in Spoken Discourse Analysis, Routledge.

189. Ducrot O. (1998), Polifonia y Argumentation, Universidad del Valle Cali.

190. Ducrot O. (1984), Le dire et le dit, Minuit.

191. Ervin Tripp S.M (1986), Analysis of the Interaction of Language topic and

Listener in: “Reading in The Sociology of Language”, Fisherman (cd), the

Hague-Paris.

192. B.Gak. (1986), Teorechitrexkaia Grammatika Franxuizxkovo iazuka, Moxkva.

193. T. Givon. (1993), English Grammar: A Function-based Introduction. Volume I

and Volume 2, John Benjamins PC. Amsterdam/Philadephia. Cambridge U.P.

194. G. Green. (1989), Pragmatics and Natural Language Understanding, LEA London.

195. J.B. Grice (1982), De la Logique a L’argumentation, Geneve: Droze.

196. M.A.K. Halliday (1973), Explorations in the Functions of Language, London:

Edward Arnold.

197. M.A.K. Halliday (1975), Learning How to Mean: Explorations in the

Development of Language, London: Oxford University Press.

198. M.A.K. Halliday and Hasan (1976), Cohesion in English, London: Edward Arnold.

199. M.A.K. Halliday (1994), An Introduction to Functional Grammar, 2th Edition

London: Edward Arnold.

200. Hartmann, D.(1994) “Particles”, In : “ The Encyclopedia of Language and

Linguistics” . Asher (eds) , Pergamon Press.

201. R. Jakobson (1963), Essai de Linguistique generale, Minuit.

202. Kiefer F (1994), Modality, trong Asher (ed): The Encyclopedia of Language and

Linguistics (V.5), Pergamon Press.

203. Lakoff R. (1973), “The logic of Politeness, or Minding yourp’s and q’s in Papers

From the Ninth Regional Meeting Chicago Linguistics Society”, Edited by

Corum C.et al 9,292-305.

204. S.C. Levinson (1983), Pragmatics, Cambridge University Press.

205. M.V. Liapon Modality (1990), trong the Encycopedia of Liunguistic, Moskava.

206. J. Lyons (1968), Introduction to Theoretical Linguistics, 5th Ed. Cambridge.

207. J. Lyons (1977), Element de Semantique, Traduction de J.Durand, Laruous.

208. J. Lyons (1980), Semantique Linguistique, Larousse.

162

209. J. Lyons (1995), Linguistic Semantique. An introduction, Cambridge University

Press.

210. G.N. Leech (1983), Principles of Pragmatics, London: Longman.

211. M. Meyer (1983), Logique, language et argumentation, Hachette.

212. J. Moeschler (1984), Arguementation et conversation, Hati-er Credif.

213. Ch.W. Morris, Foundation of the Theory of Signs. International Encyclopedia of

United Science, Vol 1, No 2, Chicago: University of Chicago Press, 1983.

214. C.K. Orecchioni (1990), Les Interactions Verbales, Tome I, Armand Colin.

215. C.K. Orecchioni (1992), Les Interactions Verbales, Tome II, Armand Colin.

216. C.K. Orecchioni (1994), Les Interactions Verbales, Armand Colin.

217. F.Palmer (1986), Mood and Modality, Cambridge, Cambridge University Press.

218. F. Palmer (1990). Modality and the English Modals. Longman. London and

New York.

219. J. Platt (1987), Communicative Functions of Particles in Singapore English. In

Steele R. And Threadgold T.(eds): Language Topics - Essays in honour of

Micheal Halliday. Amsterdam, John Benjamins Publishing Company.

220. N. Rescher (1968), Topics in Philosophical Logic Dordrecht: Reidel.

221. E. Roulet (1985), Completude Interactive et Mouvement Discursif, Cahier de

linguistic francaise.

222. J.R. Searle (1969), Speech Acts, Cambridge at the University Press.

223. J.R. Searle (1976), “A Classification of Illocutionary acts”, Language in Society,

Vol 5, No 1, PP 1-23.

224. E. Sweetser (1990), From Etymology to Pragmatics - Metaphorical and Cultural

Aspects of Semantic Structure. CUP

225. J. Thomas (1995), Meaning in Interaction: An Introduction to Pragmatics,

Longman Malaysia PP.

226. L.C. Thompson L. C (1965), A Vietnamese Grammar. Seattle and London,

University of Washington Press.