BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
---------------
ĐỖ THỊ HƯƠNG BƯỞI
TÍN HIỆU THẨM MỸ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA “MẮT”
TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT
VÀ THƠ CA VIỆT NAM 1945 -1975
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------
ĐỖ THỊ HƯƠNG BƯỞI
TÍN HIỆU THẨM MỸ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA “MẮT”
TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT
VÀ THƠ CA VIỆT NAM 1945-1975
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Trọng Phiến
HÀ NỘI - 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nghiên cứu, số liệu trình bày trong luận án là trung
thực, những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Đỗ Thị Hương Bưởi
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Tổ Ngôn ngữ, Khoa Ngữ văn,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã chỉ bảo, hướng dẫn, góp ý tận tình đối với tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Trân trọng cảm ơn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi được học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin chân thành bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc đến Thầy
giáo - Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Trọng Phiến, người Thầy đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các Thầy, Cô là các nhà nghiên
cứu chuyên ngành Ngôn ngữ học, hiện đang công tác tại Hội Ngôn ngữ học Việt
Nam, Viện Ngôn ngữ học - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Khoa Ngôn ngữ học -
Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQGHN, Viện Từ điển học và Bách khoa thư
Việt Nam… đã quan tâm và có những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận án.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân yêu trong gia đình, đồng
nghiệp đã động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Mặc dù bản thân tôi đã rất nỗ lực, cố gắng, nhưng khó tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót, vì vậy, tôi kính mong Quý Thầy, Cô đóng góp ý kiến để luận án được
hoàn thiện hơn.
Hà Nội, 15 tháng 02 năm 2021
Người viết
Đỗ Thị Hương Bưởi
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ................................................. v
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
I. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 2
III. Đối tượng, ngữ liệu nghiên cứu ............................................................................. 2
IV. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 4
V. Những đóng góp của luận án ................................................................................... 7
VI. Bố cục của luận án ................................................................................................. 8
NỘI DUNG ................................................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN .... 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 9
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu về tín hiệu thẩm mỹ ..................................................... 9
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ trong ca dao và thơ ca Việt Nam
1945 -1975 ........................................................................................................... 19
1.2. Cơ sở lí luận......................................................................................................... 23
1.2.1. Lý thuyết trường nghĩa .............................................................................. 23
1.2.2. Lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ ...................................................................... 35
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................... 56
CHƯƠNG 2. KHẢO SÁT TÍN HIỆU THẨM MỸ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA
“MẮT” TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT VÀ THƠ CA VIỆT NAM
1945 - 1975 .................................................................................................................................. 58
2.1. Dẫn nhập .............................................................................................................. 58
2.2. Thống kê, phân loại THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao
người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 .............................................................. 58
iv
2.3. Hình thức ngôn ngữ biểu đạt của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho
tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975 ........................................... 64
2.3.1. Hằng thể của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao
người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975 ......................................................... 65
2.3.2. Các biến thể của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao
người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975 ........................................................ 66
2.4. Tổng hợp kết quả khảo sát .................................................................................. 78
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................... 84
CHƯƠNG 3. Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA TÍN HIỆU THẨM MỸ “MẮT”
TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT VÀ THƠ CA VIỆT NAM
1945 -1975 .......................................................................................................... 86
3.1. Dẫn nhập .............................................................................................................. 86
3.2. Nghĩa từ vựng (nghĩa gốc) của mắt .......................................................................... 86
3.3. Sơ lược về ý nghĩa biểu trưng của THTM mắt trong đời sống văn hóa, văn học 87
3.4. Ý nghĩa biểu trưng của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao
người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 .............................................................. 93
3.4.1. THTM “mắt” biểu trưng cho đặc điểm hình thức của con người............. 94
3.4.2. THTM “mắt” thể hiện đời sống tâm hồn của con người ........................102
3.4.3. THTM “mắt” biểu trưng cho trí tuệ của con người ................................141
Tiểu kết chương 3 .....................................................................................................147
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ................................................................................................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 152
PHỤ LỤC .............................................................................................................................. PL-1
v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
1 BTKH Biến thể kết hợp
2 BTTV Biến thể từ vựng
3 BTQH Biến thể quan hệ
4 CBH Cái biểu hiện
5 CĐBH Cái được biểu hiện
6 HT Hằng thể
7 KH Kí hiệu
8 TH Tín hiệu
9 THNN Tín hiệu ngôn ngữ
10 THTM Tín hiệu thẩm mỹ
11 THVC Tín hiệu văn chương
12 Ts Tần số xuất hiện
13 YNBT Ý nghĩa biểu trưng
14 YNTM Ý nghĩa thẩm mỹ
15 VD Ví dụ
1 MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Tín hiệu thẩm mỹ là một trong những phương tiện biểu hiện quan trọng nhất
của hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Với tư cách là một
phương tiện đặc thù nhằm truyền tải những thông tin thẩm mỹ, ngôn ngữ trong tác
phẩm văn chương vừa được sử dụng như những THTM, vừa là cái biểu đạt cho các
THTM. Đến lượt mình, tác phẩm văn chương cũng chính là THTM.
Nghiên cứu THTM là một công việc cần thiết đối với người làm công tác
nghiên cứu văn học nói chung, nghiên cứu ngôn ngữ nói riêng. Tác phẩm văn chương
tồn tại với tư cách là một hệ thống tín hiệu. Để hiểu và đánh giá đúng đắn, có cơ sở
khoa học một tác phẩm văn học cụ thể rất cần sự khảo sát, đánh giá hệ thống các tín
hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm đó.
Nghiên cứu THTM đã có nhiều công trình, riêng THTM thuộc trường nghĩa
“mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975 chưa được
nghiên cứu. Lựa chọn THTM “mắt” làm đối tượng nghiên cứu vì mắt là nét đẹp tiêu
biểu của người con gái Việt Nam, mắt gợi tả tâm hồn, tình cảm của con người Việt
Nam trong ca dao và thơ ca, ghi lại đặc điểm tâm hồn, tư duy văn hóa văn học của con
người Việt Nam ở thời kì xã hội phong kiến và xã hội hiện đại; mắt trở thành một hình
tượng thẩm mỹ đã đi vào tâm thức con người Việt Nam như một thứ cửa sổ chiếu dọi
tâm hồn con người.
2. Về trường từ vựng - ngữ nghĩa, nhiều vấn đề đã được các nhà nghiên cứu
quan tâm, giải quyết: các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người, từ chỉ tên riêng của người,
chỉ quan hệ thân tộc, xưng hô, chỉ y phục; chỉ sự vật, chỉ động vật, thực vật; chỉ hiện
tượng tự nhiên, khí tượng, chỉ hướng vận động; chỉ màu sắc…
Một số công trình không chỉ dừng ở trong phạm vi ngôn ngữ, mà còn xem xét
các mối tương giao giữa ngôn ngữ học với sử học, văn hóa học, xã hội học… Một số
công trình đã quan tâm nghiên cứu khả năng hành chức của một trường nghĩa trong
thực tế sử dụng ngôn ngữ, trong tác phẩm văn học. Đó là các vấn đề như: các tính từ
chỉ màu sắc trong thơ Tố Hữu, các từ chỉ hiện tượng tự nhiên - khí tượng trong ca
dao và thơ Nguyễn Trãi, chỉ không gian trong ca dao, chỉ cây cối trong thơ Việt
Nam, trường nghĩa “lửa”, “nước” trong tiếng Việt…, chỉ “động vật” trong truyện
đồng thoại Việt Nam…
2 Nghiên cứu trường nghĩa trong thực tế sử dụng ngôn ngữ (trong đời sống, trong
tác phẩm văn học) cũng là xem xét ngôn ngữ trong hoạt động hành chức để thấy được
giá trị của ngôn ngữ đối với đời sống con người.
3. Từ cách tiếp cận ngôn ngữ học, chúng tôi chọn đề tài THTM thuộc trường
nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975 nhằm
phát hiện giá trị ý nghĩa thẩm mỹ “mắt” trong tri nhận mang tính tư duy văn hóa dân tộc,
trong đời sống tâm hồn dân tộc ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Thực hiện luận án này sẽ
đóng góp ngữ liệu cụ thể vào lý thuyết THTM và gợi mở cách phân tích ngôn ngữ đối
với việc giảng dạy ngôn ngữ văn chương trong nhà trường hiện nay.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu
- Vận dụng lý thuyết về THTM để khảo sát tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường
nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975 góp
phần tìm hiểu đặc điểm sử dụng ngôn ngữ, thi pháp ca dao, thi pháp thơ ca Việt
Nam 1945-1975.
- Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp vào việc giảng dạy, học tập ca dao, thơ ca
Việt Nam trong nhà trường phổ thông. Những năm qua, cùng với yêu cầu chung của
công cuộc cải cách giáo dục, những yêu cầu về việc đổi mới phương pháp giảng dạy,
phân tích tác phẩm văn học cũng được đặt ra cấp bách trong nhà trường phổ thông.
2. Nhiệm vụ
Luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau đây:
- Hệ thống hóa, có phản biện các lý thuyết về trường nghĩa, tín hiệu thẩm mỹ có
liên quan đến đề tài THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người
Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975.
- Thống kê, phân loại THTM thuộc trường nghĩa “mắt” kho tàng ca dao người
Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975, xác định tần số xuất hiện, phân tích các cách kết
hợp của các nhóm THTM hằng thể và các biến thể.
- Tìm hiểu ý nghĩa thẩm mỹ của THTM “mắt”, chỉ ra được nét thống nhất và
khác biệt về cách sử dụng và ý nghĩa thẩm mỹ của THTM thuộc trường nghĩa “mắt”
trong ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975.
III. Đối tượng, ngữ liệu nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca
Việt Nam 1945-1975.
3 Trường nghĩa “mắt” là một trong những trường nghĩa hoạt động rất phong phú
trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Ở trường nghĩa này, chúng tôi chỉ tập trung vào tìm
hiểu các từ có chức năng kiến tạo nghĩa thẩm mĩ được dùng để biểu thị các hình
tượng nghệ thuật trong ca dao và thơ ca. Đây là một trường từ vựng ngữ nghĩa có số
lượng nhiều trong các tiểu trường chỉ cơ thể người trong tiếng Việt và có các nghĩa
biểu trưng phong phú.
Không phải mọi tín hiệu ngôn ngữ thuộc trường nghĩa “mắt” nào cũng được đưa
vào thơ đều trở thành chất liệu thơ, thành THTM. Ngay những THTM xuất hiện trong
văn chương, tần suất, ý nghĩa của chúng cũng khác nhau ở từng giai đoạn, từng tác
giả, từng thời kì sáng tác của cùng một tác giả. Vì thế, hàm lượng giá trị thẩm mỹ của
chúng không đồng đều nhau và trong tiến trình vận động chung của cả hệ thống, các
đại lượng trong bản thân mỗi THTM ấy cũng không ngừng biến đổi. Đối tượng khảo
sát có tính đa dạng, phức tạp nên chúng tôi chỉ tập trung vào những đơn vị có tần suất
cao nhất trong toàn bộ kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975.
Và, ở thơ ca Việt Nam 1945 -1975, chúng tôi chỉ chọn tác phẩm thơ của một số nhà
thơ tiêu biểu.
3. Ngữ liệu nghiên cứu
Tài liệu khảo sát về ca dao là cuốn Kho tàng ca dao người Việt do Nguyễn
Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (1995) [116] gồm bốn tập. Ngoài ra chúng tôi
còn tham khảo thêm một số tài liệu khác như: Hợp tuyển ca dao Việt Nam của Hội văn
hoá dân gian Việt Nam, Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Việt Nam do Vũ Ngọc Phan chủ
biên (2009) [74]. Ngữ liệu có được là 1.122/11.825 bài có tín hiệu “mắt”.
Tài liệu khảo sát về thơ Việt Nam 1945 - 1975 là cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ
XX, phần thơ ca Việt Nam 1945-1975, quyển bốn, tập VII [117], VIII [118], IX [119]
của nhóm tác giả PGS.TS. Lưu Khánh Thơ (chủ biên), PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp,
PGS.TS. Nguyễn Bích Thu, ThS. Đoàn Ánh Dương biên soạn và tuyển chọn. Trong
đó, luận án sẽ tập trung nghiên cứu THTM thuộc trường nghĩa “mắt” của các tác giả
tiêu biểu cho thời kỳ này là: Tố Hữu, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Vũ Cao, Nông Quốc
Chấn, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy. Về tiêu chí lựa chọn, chúng tôi hướng đến tác giả
ở các phạm vi khác nhau: có tác giả tiêu biểu cho cả hai thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ, có tác giả trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, có tác giả là
gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ chống Mỹ, có tác giả là gương mặt đại diện cho
đồng bào dân tộc thiểu số. Ngữ liệu thơ có 306 bài trong tổng số 415 bài thơ có xuất
hiện tín hiệu “mắt”.
4 IV. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi vận dụng các phương pháp chính sau đây:
1- Phương pháp phân tích thành tố nghĩa: luận án vận dụng phương pháp này
nhằm nhận diện tín hiệu “mắt” trong tổ chức câu ca dao, thơ ca đồng thời làm cơ sở
cho việc phân tách THTM thuộc trường nghĩa “mắt” thành các THTM trong các tiểu
trường. Ngoài ra, đây cũng là phương pháp được vận dụng để phân tích các hướng
chuyển nghĩa của từ của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người
Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
2 - Phương pháp phân tích trường nghĩa: áp dụng lí thuyết trường vào việc
nghiên cứu nghĩa, là biểu hiện của xu hướng ngôn ngữ học hiện đại nhằm xác định hệ
thống ngữ nghĩa của ngôn ngữ. Trong luận án này, phương pháp phân tích trường
nghĩa sẽ được bàn kĩ hơn trong Chương I khi chúng tôi làm rõ các lí thuyết về trường
nghĩa. Phương pháp phân tích trường nghĩa được vận dụng trước hết nhằm xác định
các đơn vị ngôn ngữ thuộc trường nghĩa “mắt”, nhận diện từ ngữ trung tâm, ngoại vi
của mỗi tiểu trường. Trên cơ sở đó tìm ra đặc điểm hoạt động cũng như ý nghĩa thẩm
mỹ của THTM “mắt” trong ca dao và thơ ca; đồng thời phát hiện mối liên hệ giữa
nghĩa gốc và nghĩa chuyển của “mắt” (còn gọi là nghĩa gốc và nghĩa phái sinh).
3 - Phương pháp phân tích ngôn cảnh
Ngôn cảnh là một môi trường phi ngôn ngữ trong đó ngôn ngữ được sử dụng.
Các nhà ngôn ngữ phân biệt hai loại ngôn cảnh: ngôn cảnh tình huống và ngôn cảnh
văn hóa. Ngôn cảnh tình huống là ngôn cảnh của một hiện tượng ngôn ngữ, của một
văn bản, của một trường hợp cụ thể của ngôn ngữ. Ngôn cảnh văn hóa là ngôn cảnh
của ngôn ngữ với tư cách là một hệ thống các quan hệ được lựa chọn. Ngôn cảnh tình
huống là thế giới xã hội và tâm lí mà trong đó, ở một thời điểm nhất định người ta sử
dụng ngôn ngữ. Nó có thể bao gồm sự hiểu biết về vị trí, thời gian và không gian, sự
hiểu biết về phép xã giao trong xã hội và sự hiểu biết về mã ngôn ngữ được dùng (nói
hoặc viết), sự hiểu biết về nội dung giao tiếp và bối cảnh giao tiếp (trường học, nhà
máy, phòng thí nghiệm…). Ngôn cảnh tình huống bao gồm cả sự chấp nhận ngầm của
người nói và người nghe về tất cả các quy ước, các niềm tin và các tiền đề được coi là
đương nhiên của các thành viên trong cộng đồng. Ngôn cảnh văn hóa bao gồm hàng
loạt nhân tố văn hóa như phong tục, tập quán, chuẩn tắc hành vi, quan niệm giá trị, sự
kiện lịch sử, những tri thức về tự nhiên và xã hội, chính trị và kinh tế. Tiền ước là
những hiểu biết chung về lịch sử, văn hóa, tập quán, khả năng lĩnh hội thông tin bằng
tiếng nước ngoài (hoặc tiếng mẹ đẻ) của những người tham gia giao tiếp. Tri thức nền
5 là sự hiểu biết và khả năng cảm nhận các hiện tượng văn hóa của cả hai bên người
nói và người nghe, là cơ sở đảm bảo thành công cho việc giao tiếp bằng ngôn ngữ
[30, tr.44].
M.A.K. Halliday cho rằng sự lựa chọn hình thức ngôn ngữ bị chi phối bởi môi
trường văn hóa. Vì thế, ông kết hợp ngôn ngữ với xã hội để nghiên cứu. Theo ông biến
thể ngôn ngữ có liên quan đến ngôn cảnh … nghĩa của từ và nghĩa của câu bị quy định
bởi ngôn cảnh. Ngôn cảnh lại chi phối bởi chế độ xã hội. Chế độ xã hội chi phối hệ
thống hành vi, trong đó có hành vi ngôn ngữ [Dẫn theo 30, tr.45].
Phương pháp phân tích ngôn cảnh được vận dụng trong luận án nhằm giải thích
nghĩa hàm ẩn còn gọi là nghĩa biểu trưng của “mắt”. Ở đây chúng tôi dùng thao tác
phân tích theo trục hệ hình (thay thế) và trục kết hợp. Từ đó xem xét nghĩa ẩn dụ của
THTM “mắt”.
Phương pháp phân tích ngữ cảnh ngôn ngữ để tìm hiểu những biến thể quan
hệ của THTM “mắt” trong mỗi lần xuất hiện so với THTM hằng thể.
4 - Phương pháp miêu tả: là hệ thống những thủ pháp nghiên cứu được vận
dụng để thể hiện đặc tính của các hiện tượng ngôn ngữ trong một giai đoạn phát triển
nào đó.
Phương pháp miêu tả quan sát, miêu tả ngôn ngữ như một hệ thống - cấu trúc ở
mọi bình diện, cấp độ, thuộc tính…của các đơn vị ngôn ngữ, những mối liên hệ, quan
hệ, cách thức tổ chức và trật tự tôn ti… trên nguyên tắc: phân biệt đơn vị ngôn ngữ
(khách quan) và đơn vị phân tích (chủ quan do người nghiên cứu đặt ra).
Trong luận án này, phương pháp miêu tả được vận dụng để quan sát, miêu tả
THTM “mắt” với các đơn vị định danh cho mắt, các đặc tính của mắt, các mô hình cấu
trúc ngôn ngữ của các biến thể kết hợp của mắt. Đây là phương pháp chính cùng với
phương pháp phân tích thành tố nghĩa để giải quyết các vấn đề của luận án. Từ những
nguồn ngữ liệu đã thu thập, chúng tôi tiến hành phân tích miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa
và nghĩa biểu trưng của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người
Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
5 - Dựa trên các phương pháp nghiên cứu được vận dụng, luận án đã sử dụng
một số thủ pháp nghiên cứu sau:
- Thủ pháp thống kê: trong bất kì một công trình nghiên cứu nào có sử dụng
một khối lượng tư liệu lớn, người ta không thể bỏ qua việc xử lí các số liệu về mặt
thống kê toán học. Những khái niệm cơ bản cần được nắm vững khi dùng thủ pháp
này là: tần số, tần xuất, độ phân bố, độ dài văn bản, hạng… Số lần xuất hiện của một
6 yếu tố nào đó trong văn bản được khảo sát là tần số của yếu tố ấy. Đem tần số chia cho
tổng số các yếu tố của văn bản ta sẽ được xác suất của yếu tố đó. Khi so sánh hai
yếu tố với nhau, yếu tố nào có tần số lớn hơn thì có hạng lớn hơn. Độ phân bố dùng
để nghiên cứu tính phổ biến của một yếu tố, từ có độ phân bố lớn hơn là từ được
dùng rộng rãi hơn, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau hơn. Một từ xuất hiện với tần
số không cao nhưng được phân bố rộng rãi ở nhiều tác giả, nhiều tác phẩm vẫn quan
trọng hơn một từ có tần số cao nhưng chỉ tập trung ở một nhà văn, một tác phẩm hay
một thể loại.
Luận án đã dùng các thao tác thống kê nhằm phát hiện tần số xuất hiện và khả
năng hoạt động của mắt trong ca dao và thơ ca ở những văn cảnh xuất hiện cụ thể,
dưới dạng hằng thể, biến thể các tiểu trường, gồm các từ gọi tên mắt và các bộ phận
của mắt, các từ chỉ hoạt động trạng thái, tính chất của mắt; vận dụng các khái niệm tần
số, tần xuất, độ phân bố...
- Thủ pháp thay thế: thay thế một đơn vị ngôn ngữ bằng một đơn vị ngôn ngữ
khác cùng cấp độ trong khi cấu trúc vẫn giữ nguyên. Đây là một phép thử để xem xét
khi yếu tố biểu đạt này thay thế yếu tố khác trong cùng một cấp độ có làm thay đổi
hình thức biểu đạt không. Hai đơn vị ngôn ngữ có thể sử dụng trong những cấu trúc
tương tự, trong cùng ngữ cảnh và có cùng tiêu chí phân bố gọi là hai đơn vị có khả
năng thay thế cho nhau.
Trong luận án, thủ pháp thay thế được vận dụng khi nghiên cứu các mô hình
cấu trúc, các kiểu kết hợp của THTM “mắt” để thấy được cách dùng THTM “mắt” có
sự phù hợp góp phần biểu đạt ý nghĩa thẩm mỹ trong các ngôn cảnh cụ thể.
- Thủ pháp phân loại, hệ thống hoá nhằm phân xuất các nhóm, các loạt đơn vị
ngôn ngữ và các phạm trù vốn có đối với đơn vị ngôn ngữ nào đó; bao gồm việc xác
định, phân chia, phân loại thành các nhóm, các loại, hệ thống con, hệ thống lớn các
đơn vị ngôn ngữ và cả việc xác định các phạm trù, các mặt, các thuộc tính của các đơn
vị này.
Trong luận án này, chúng tôi dùng thủ pháp phân loại, hệ thống hoá để phân
xuất THTM “mắt” thành các tiểu trường, các nhóm nhỏ (ví dụ: nhóm hằng thể, biến
thể từ vựng, biến thể kết hợp... để thuận lợi cho việc nghiên cứu khả năng hoạt động
của THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
- Thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp: nguyên tắc chung của thủ pháp này là
phân chia cấu trúc phức tạp ra thành những bộ phận tối đa chủ yếu là ở hai phần: phần
7 hạt nhân và phần phụ thuộc, tức phần cơ bản và phần kèm theo. Phân tích thành tố trực
tiếp có giá trị đối với việc phân tích những kết cấu phức tạp cho nên nó được vận dụng
trước hết vào cú pháp
Thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp được chúng tôi vận dụng trong việc
nghiên cứu kết cấu cú pháp trong các mô hình cấu trúc là các kiểu kết hợp của THTM
“mắt”. Ở đây, tổ hợp của các từ, các nhóm từ có mối liên hệ trực tiếp với THTM
“mắt” được xem như một kết cấu. Mỗi mô hình kết cấu được thể hiện như một chuỗi
các đơn vị giữ vai trò nhất định trong ngữ pháp. Các bộ phận của mỗi mô hình kết cấu
có thể là từ (định danh mắt hoặc các hoạt động, trạng thái của mắt) hoặc các nhóm từ,
các đơn vị nhỏ được hiểu là các thành tố trực tiếp của nó. Phân tích thành tố trực tiếp
không cho ta một bức tranh tĩnh về mô hình cấu trúc các kiểu kết hợp của THTM
“mắt” mà cho ta một sự phân tích động, được xây dựng như một chuỗi các bước phân
tích mô hình kết hợp của THTM “mắt”
- Ngoài ra, luận án còn sử dụng thao tác so sánh hai thể loại văn bản: ca dao
và thơ ca.
Có 2 loại so sánh thường được sử dụng trong nghiên cứu ngôn ngữ: (1) So
sánh bên trong 1 ngôn ngữ (đơn vị, phạm trù thuộc các cấp độ, bình diện khác
nhau…); (2) so sánh bên ngoài 2 hoặc nhiều hơn 2 ngôn ngữ. Trong luận án, chúng tôi
sử dụng chủ yếu loại so sánh bên trong 1 ngôn ngữ (đơn vị, phạm trù thuộc các cấp độ,
bình diện khác nhau…); ở cấp độ đơn vị từ vựng đối với những từ thuộc trường nghĩa
“mắt” trong hai loại hình văn học: văn học dân gian và văn học viết, trong kho tàng ca
dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
V. Những đóng góp của luận án
5.1. Về ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề về
chức năng ngôn ngữ, bản chất TH ngôn ngữ, trường nghĩa và THTM, ngôn ngữ văn
chương...
Đây cũng là công trình đầu tiên khảo sát cụ thể các đơn vị đại diện của trường
từ vựng - ngữ nghĩa “mắt” trong thơ ca dân tộc từ bình diện ngôn ngữ thông thường
đến bình diện ngôn ngữ nghệ thuật, từ các ý nghĩa thông thường trong hệ thống, đến
các ý nghĩa nghệ thuật cụ thể, mới mẻ, sinh động.
5.2. Về ý nghĩa thực tiễn
Luận án đã chỉ ra những nghĩa biểu trưng của mắt - cửa sổ tâm hồn của người
Việt Nam trong sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Luận
8 án cung cấp thêm ngữ liệu của THTM “mắt” vào việc nghiên cứu từ vựng - ngữ nghĩa
tiếng Việt và sự phát triển tư duy thẩm mỹ của con người Việt Nam.
Những kết quả đó còn đóng góp vào việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập ca
dao, thơ ca Việt Nam trong nhà trường phổ thông. Đặc biệt có thể coi những ngữ liệu,
những biện giải trong luận án như là những tham khảo cung cấp thêm cách nhìn mới từ
góc độ bản chất ngôn ngữ - văn hóa - nghệ thuật của các từ - THTM “mắt” giúp biên
soạn phần mục này trong một cuốn từ điển về Ngôn ngữ - Văn hóa - Dân tộc học.
VI. Bố cục của luận án
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu và cách triển khai đề tài, luận án được kết cấu
thành ba chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận.
Chương 2: Khảo sát tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng
ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
Chương 3: Ý nghĩa biểu trưng của tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa “mắt”
trong kho tàng ca dao người Việt và trong thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
- THTM “mắt” biểu trưng cho đặc điểm hình thức của con người.
- THTM “mắt” biểu trưng cho đời sống tâm hồn của con người.
- THTM “mắt” biểu trưng cho trí tuệ của con người.
9 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Lịch sử nghiên cứu về tín hiệu thẩm mỹ Gần đây vấn đề tín hiệu thẩm mỹ đã được nhiều học giả trong và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu. Đã có một số công trình hướng đến việc nghiên cứu các THTM trong tác phẩm văn học có tính xâu chuỗi trong hàng loạt tác phẩm, trong tiến trình lịch sử văn học góp phần cho người đọc hình dung được đặc điểm hình thức, ngữ nghĩa của THTM đó trong tiến trình lịch sử văn học cũng như đặc trưng văn hóa của dân tộc được thể hiện qua việc sử dụng các THTM đó. Có thể kể đến các công trình như: THTM chỉ không gian trong ca dao, hoa trong thơ Dương Thuấn, trăng trong thơ
Hàn Mặc Tử, cây trong thơ Việt Nam… 1.1.1.1. Các nghiên cứu về tín hiệu thẩm mỹ trên thế giới Khái niệm tín hiệu thẩm mỹ (còn gọi là ký hiệu thẩm mỹ) ra đời gắn với khuynh hướng cấu trúc trong nghiên cứu mỹ học và nghệ thuật những năm giữa thế kỉ XX với các công trình của Iu.A.Philipiep [50] , M.B.Khrapchenco [57]. Ngoài ra còn nhiều tác giả khác bàn đến THTM như: R. Jacobson [53], [54], [52]; R.C. Hjelmslev
[82]; R.Barther [9], Iu.M.Lotman [51], A.Belưi, V.I.Proopp, M.Bakhtin, B.X.Likhasôp, E.Cassires, S.Langer, …
Cho đến nay, chúng tôi chưa tìm thấy một định nghĩa nào trọn vẹn và hoàn chỉnh về Tín hiệu thẩm mỹ (THTM). Thuật ngữ “aesthetic signal”, “signe esthetique” được dịch là THTM và Kí hiệu thẩm mỹ (KHTM). Sử dụng KHTM có các tác giả: M.B.Khrapchenco, Kasêvich, Cassirer, Langer… Các tác giả dùng THTM: Stêpanôp,
Philipiep…
Tuy nhiên, về tên gọi có thể khác nhau nhưng nội hàm khái niệm nhìn chung đều thống nhất về chức năng. Đó là những yếu tố thuộc phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Chúng dù có tính chất vật thể hay phi vật thể thì cũng có ý nghĩa thẩm mỹ (YNTM) và việc sử dụng chúng phải nhằm mục đích thẩm mỹ.
Trước hết phải nói tới quan niệm của các nhà ngôn ngữ học tiêu biểu của thế kỉ
XX như R.Jakobson, R.Barthes, Yu.Lotman, Tz.Todorov, R.C.Hjelmslev… về THTM. Vinogradop đã xem ngôn ngữ trong tác phẩm văn học như là một tổng thể các tín hiệu thẩm mỹ, được cấu tạo lại từ ngôn ngữ chung. Vì vậy, những vấn đề bản chất của ngôn ngữ nghệ thuật không tách rời những vấn đề của tín hiệu học và lí thuyết cấu trúc - chức năng. Theo R.C.Hjelmslev [Dẫn theo 20, tr.441] nếu coi hệ thống tín hiệu
10 ngôn ngữ tự nhiên là hệ thống cơ sở (hệ thống tín hiệu thứ nhất) thì hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật là hệ thống tín hiệu thứ hai, được xây dựng trên cơ sở hệ thống thứ nhất, có
sự biến đổi về bản chất tín hiệu: hệ thống thứ nhất là hệ thống vật biểu (biểu nghĩa trực tiếp), hệ thống thứ hai là hệ thống hàm nghĩa (biểu nghĩa gián tiếp). Như vậy, có thể miêu tả bản chất tín hiệu học của ngôn ngữ nghệ thuật như sau: Âm thanh Cái biểu đạt: -------------------------------- Ý nghĩa sự vật - lôgic
Cái được biểu đạt: Ý nghĩa thẩm mỹ
Ngôn ngữ nghệ thuật: ------------------------------------------------ R.Jakobson trong Những vấn đề thi pháp học [52], đặc biệt là với bài viết Ngôn ngữ học và thi học [54] đã bước đầu chỉ ra sự khác biệt về chức năng của tín hiệu ngôn ngữ trong các phạm vi giao tiếp. R.Jakobson nhấn mạnh vào chức năng thơ (chức năng thẩm mỹ) của ngôn ngữ như là “sự định hướng của thông báo (bằng các kí hiệu ngôn
ngữ) vào chính bản thân nó” [R.Jakobson, dẫn theo 20; tr.442] tạo nên đặc trưng của hình thức biểu hiện mang tính thẩm mỹ. Trong bài nghiên cứu Thơ là gì [R.Jakobson, dẫn theo 20; tr.442], R.Jakobson cũng khẳng định, trong thơ ca, đặc biệt là thơ ca hiện đại, mọi tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên đều có thể được sử dụng và cấu tạo lại, biến đổi về bản chất tín hiệu và chức năng để thực hiện vai trò biểu đạt những ý nghĩa hình tượng - thẩm mỹ theo mục đích của tác giả, trong đó hình thức tổ chức của các yếu tố ngôn từ
trong thơ không chỉ là phương tiện biểu đạt mà còn có một giá trị tự thân (giá trị mỹ học của bản thân hình thức). Trong Cơ sở kí hiệu học [9], R.Barthes đã phân tích giá trị của các tín hiệu trên các mối quan hệ bản chất nhất: quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, quan hệ trên trục lựa chọn (hệ hình) và quan hệ trên trục kết hợp (tuyến tính) của ngôn ngữ [R.Barthes, dẫn theo 20, tr.443 ].
Yu.M.Lotman cho rằng “văn học nói bằng một ngôn ngữ đặc biệt được xây chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên với tính cách là một hệ thống cấp hai” [Dẫn theo 69, tr.64]. Về tương quan tín hiệu ngôn ngữ (THNN) với THTM - THVC đã được L.Hjelmslev thể hiện trong quan niệm về thứ ngôn ngữ liên hội dựa theo sơ đồ [ Dẫn theo 72, tr.28]:
11
Cbh Âm thanh TH ngôn ngữ Cđbh Ý nghĩa ngôn ngữ Cbh
THTM
Ý nghĩa thẩm mỹ Cđbh
Từ sơ đồ trên có thể hiểu hai mặt CBH và CĐBH của THNN lại trở thành CBH cho một CĐBH mới là ý nghĩa thẩm mỹ của THTM trong tác phẩm văn học. Sự khác biệt có tính “vượt cấp” này là do vai trò quyết định của chủ thể sáng tạo khiến cho “giữa cách dùng ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ nhà văn có một vực thẳm không qua được” [Ch.Bally, dẫn theo 86, tr.9]. P.Guiraud có bàn về sự sáng tạo lại ngôn ngữ tự nhiên trong tác phẩm văn học cũng tương đồng với các ý kiến trên.
Trong Thi pháp học, Tz.Todorow đã chỉ rõ tầm quan trọng của những mối quan hệ trong văn bản và liên văn bản trong việc xác định giá trị của văn bản nghệ thuật như một sự liên kết, tương tác tín hiệu thẩm mỹ ở nhiều cấp độ khác nhau...[Tz.Todorow, Dẫn theo 20, tr.444].
Trong quan niệm của trường phái kí hiệu học Mĩ, THTM được xác định là tín hiệu trong nghệ thuật, là “tín hiệu miêu tả hoặc tạo hình” trong quan niệm của Ch.Morris, Ch.Pierce. Họ xem nghệ thuật như một “ngôn ngữ đặc biệt”, khác với mọi phương tiện truyền thống khác. Tính cấu trúc, tính phổ quát và sự tương ứng với các quan hệ giá trị được họ xem là những đặc tính cơ bản của THTM.
Tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật là một tín hiệu phức hợp. Quan niệm này cũng thống nhất với Roland Bather khi cho rằng đây chính là trường hợp mà “hệ thống thứ nhất sẽ được dùng làm bình diện hoặc làm cái biểu đạt cho hệ thống thứ hai”. Các tác giả cũng thống nhất với R.C.Hjelmslev khi gọi loại kí hiệu học này là ký hiệu học hàm biểu; hệ thống thứ nhất là phương diện vật biểu, hệ thống thứ hai là phương diện hàm biểu. Mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật không phải là mối quan hệ mang tính võ đoán mà là mối quan hệ có lí do. Trước hết có một mối tương quan chặt chẽ giữa ý nghĩa sự vật logic của một từ trong ngôn ngữ nghệ thuật và ý nghĩa của hình tượng này.
Trường phái Prague với R.Jacobson đã quan tâm đến ngữ pháp và âm vị trên bình diện kết học, Jacobson lưu ý đặc biệt đến tương quan giữa kết học với những vấn đề biểu nghĩa. Vận dụng những phương pháp ngôn ngữ vào nghiên cứu thi ca, nhà nghiên cứu xác định chức năng “nội chỉ” như mục đích tự thân đặc thù của thơ ca và đưa ra phương thức xác định “chức năng thi ca” là “đem nguyên tắc tương đương của trục tuyển lựa (trục ngữ nghĩa) chiếu lên trục kết hợp”. Phát triển ý tưởng vốn bắt nguồn từ Saussure- xem hoạt động kí hiệu học như hiện tượng giao tiếp, Jacobson đưa
12 ra hồ sơ hoạt động biểu nghĩa với 6 thành tố: Ngữ cảnh (contex) - Thông điệp (mesage) - Người phát (addresser) - Người nhận (addressee) - Tiếp xúc (contact) - Mã (code). Với mô hình này, thực chất, Jacobson đã triển khai cả những vấn đề dụng học (Pragmatics) vốn chưa được quan tâm nhiều trong kí hiệu học trước đó [R.Jacobson, Dẫn theo 56, tr.13].
Iu.M.Lotman, người sáng lập nên Trường phái kí hiệu học Tartu-Moskva từ đầu những năm 1960 đã quan tâm tới việc xác định hệ thống mã của “ngữ pháp học văn hóa” - mô tả cấu trúc của những phương tiện kí hiệu văn hóa trong nhiều lĩnh vực khác nhau và trong mọi thời đại [Iu.M.Lotman, Dẫn theo 56, tr.14]. Nhà nghiên cứu chủ trương lấy văn bản làm trung tâm kiến tạo thế giới kí hiệu và xác định ba đặc điểm của nó là tính biểu thị, tính phân giới và tính cấu trúc, đồng thời mở rộng quan niệm về văn bản ra toàn bộ các lĩnh vực văn hóa, coi văn hóa nói chung cũng là một văn bản vô cùng phức tạp. Từ lí thuyết lấy văn bản làm trung tâm, từ cuối những năm 1970, Iu.M. Lotman khai sinh cho kí hiệu học văn hóa và đi đến khái niệm kí hiệu quyển như “toàn bộ không gian kí hiệu học xem như một cơ cấu thống nhất” [Iu.M.Lotman, Dẫn theo 56, tr.15].
Lotman cũng cho rằng “Trong thế giới biểu tượng đa dạng của tác phẩm thi ca, chúng ta tìm thấy một sự tổ chức ổn định nào đó, những yếu tố cố kết vừa là đại diện cho sự thống nhất trong sáng tác đa diện của nhà thơ, vừa mang lại cho tác phẩm của ông ta dấu ấn của một cá nhân” [51].
Các nhà nghiên cứu hậu cấu trúc Pháp từ những năm 1960 có những điểm tương đồng với bước đi của Lotman và các nhà nghiên cứu Nga trong những cố gắng khắc phục tính giản lược của khuynh hướng kí hiệu học cấu trúc thuần túy, củng cố quan niệm về sự chồng xếp nhiều mã trong mối quan hệ đối thoại giữa các chủ thể phát, nhận, và ngữ cảnh, truyền thống văn hóa, cũng như bối cảnh tiếp xúc... Như vậy, các tác giả trên đã thống nhất ở điểm: một THTM cần hội đủ các điều kiện: 1, cbh: các hình thức vật chất (chất liệu) nghệ thuật; 2, cđbh: YNTM; 3, chủ thể sáng tạo (thế giới phát ngôn, tạo ngôn - tác giả; thế giới tiếp nhận, thụ ngôn – công chúng, bạn đọc); 4, thuộc về một hệ thống THTM nhất định. Trong Ký hiệu, hay biểu tượng cũng chứa đựng yếu tố văn hóa dân tộc, thời đại và dấu ấn của cá nhân người sáng tác. 1.1.1.2. Các nghiên cứu về Tín hiệu thẩm mỹ ở Việt Nam
Ở nước ta, vấn đề tín hiệu và tín hiệu thẩm mỹ đã được nhiều nhà nghiên cứu như Hoàng Tuệ, Hoàng Trinh, Đào Thản, Phan Ngọc, Đái Xuân Ninh, Trần Đình Sử, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Lai, Lại Nguyên Ân, Phương Lựu, Hoàng Trọng Phiến, Bùi Minh Toán, Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Trương Thị Nhàn, Phạm Thị Kim Anh… gần đây nhất có công trình Ký hiệu và liên ký hiệu của Lê Huy Bắc…
13
Người đặt cơ sở nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ là tác giả Đỗ Hữu Châu. Trong bài viết “Những luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các sự kiện văn học” [14], Đỗ Hữu Châu cho rằng: cách tiếp cận văn học của ngôn ngữ học trước đây xuất phát từ quan điểm thông thường: phương tiện của văn học là ngôn ngữ, cụ thể hơn là từ, câu, ngữ âm… nghĩa là các sự kiện tự nhiên của các ngôn ngữ tự nhiên.
Từ sự phân tích ý nghĩa thực sự của phương tiện nghệ thuật, Đỗ Hữu Châu cũng đưa ra những kiến giải cụ thể hơn về THTM ngôn ngữ: THTM là phương tiện sơ cấp (primaire) của văn học. Ngôn ngữ thực sự của văn học là ngôn ngữ - THTM, cú pháp - THTM. Rồi các tín hiệu thẩm mỹ đó mới được thể hiện bằng các tín hiệu ngôn ngữ thông thường (và cú pháp thông thường)... Nói một cách tổng quát, các đơn vị ngôn ngữ thông thường là cái biểu hiện của các THTM và ngữ pháp thông thường là CBH của ngữ pháp THTM [13, tr.779, 780]. Theo Đinh Trọng Lạc thì Tín hiệu ngôn ngữ - văn học ấy đóng vai trò là hệ thống tín hiệu thứ nhất làm cơ sở cho hệ thống thứ hai - THTM [59, tr.137]. Trần Ngọc Thêm cho rằng đó là sự mã hóa hai bậc [89, tr.163]. Nguyễn Lai cũng đề cập vấn đề này trong công trình của mình [63, tr.23-50].
Trong Nhập môn ngôn ngữ học, các tác giả Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán xuất phát từ quan niệm về Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, xuất phát từ ngôn ngữ toàn dân nhưng được tổ chức và cấu tạo lại, thực hiện chức năng thẩm mỹ trong toàn bộ cấu trúc của tác phẩm và trong quan hệ với những nhân tố của hoạt động sáng tác và tiếp nhận văn chương [20].
Theo tác giả Mai Ngọc Chừ, những mối liên hệ ngữ đoạn chính là các kết hợp ngôn từ trong văn cảnh cụ thể mà phải dựa trên những kết hợp này chúng ta mới có thể định tính được ý nghĩa và giá trị phong cách của các sự kiện lời nói. Trong phạm vi ngôn ngữ nghệ thuật, đi vào những kết hợp khác nhau, một tín hiệu có sự biến đổi rõ rệt về ý nghĩa và giá trị phong cách. Tác giả nêu ra ví dụ: trong thơ Hàn Mạc Tử, với các kết hợp khác nhau, "trăng" biểu đạt những ý nghĩa mới, hoàn toàn khác biệt với những liên tưởng thông thường, bộc lộ một giá trị phong cách độc đáo: Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn?; Áo ta rách rưới trời không vá/ Mà bốn mùa trăng mặc vải trăng... Trong những mối liên hệ rất khác nhau, thậm chí mang tính chất bất thường trên ngữ đoạn, tác giả và độc giả đều có thể hướng tới những chiều kích mới của đời sống (bao gồm cả hiện thực và tưởng tượng). Cũng chỉ trong những kết hợp cụ thể (ở mọi cấp độ), diện mạo phong cách của các tín hiệu ngôn ngữ trong các sự kiện lời nói mới có thể được bộc lộ trọn vẹn [20; tr.444].
Cũng theo các tác giả, những kết quả nghiên cứu của tín hiệu học đã cung cấp cho phong cách học một cơ sở quan trọng để xác định giá trị của các tín hiệu ngôn ngữ đã được lựa chọn và tổ chức trong cấu trúc của tác phẩm văn học phải được xác định
14 dựa trên bản chất tín hiệu và đặc trưng chức năng của ngôn ngữ trong phạm vi này, đồng thời phải xem xét văn bản nghệ thuật như là tổng thể các tín hiệu thẩm mỹ trong các mối quan hệ đặc thù. Tuy nhiên, từ quan điểm của phong cách học, cần đặc biệt chú ý đến vai trò của chủ thể (tác giả) trong việc lựa chọn, tổ chức các THTM để tạo nên cấu trúc văn bản nghệ thuật - không phải như những mô hình phổ quát mà như những thực thể riêng biệt, những sự kiện phong cách khác biệt về giá trị. Ngôn ngữ nghệ thuật sử dụng các yếu tố ngôn ngữ tự nhiên nhưng tất cả các THNN trong tác phẩm văn học đều được biến đổi về bản chất tín hiệu học và đặc trưng chức năng. Ví dụ:
a) Trong giao tiếp hàng ngày: Trời trở gió đông nên năm nay hoa đào nở sớm,
không chờ đến Tết được...
b) Trong Truyền Kiều (Nguyễn Du): Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào
năm ngoái còn cười gió đông.
Xét mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, tín hiệu hoa đào trong hai ngữ cảnh trên được dùng để biểu đạt hai đối tượng khác nhau. Cách lựa chọn và tổ chức tín hiệu trong hai ngữ cảnh trên cũng khác nhau: lời nói thông thường a), cấu trúc thơ b). Về chức năng, hoa đào trong trường hợp (a) chỉ mang chức năng thông báo - chiếu vật cụ thể, hoa đào trong trường hợp (b) không chỉ thực hiện chức năng thông báo - chiếu vật mà trước hết thực hiện chức năng thẩm mĩ: cấu tạo lời thơ, xây dựng hình tượng. Vì vậy, hoa đào trong lời nói hằng ngày và hoa đào trong thơ hoàn toàn khác biệt về bản chất và chức năng tín hiệu học. Đồng thời, từ hoa đào trong thơ Thôi Hộ đến hoa đào trong Truyện Kiều của Nguyễn Du rồi đến Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái của Nguyễn Khuyến... ta thấy có những sự kiện phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có những nét khu biệt về đặc trưng dân tộc, thời đại và chủ thể [20; tr.446].
Bùi Minh Toán trong “Ngôn ngữ với văn chương” đã đưa ra quan niệm về THTM trong văn chương là loại tín hiệu có chức năng thẩm mỹ: biểu hiện cái đẹp, truyền đạt và bồi dưỡng cảm xúc về cái đẹp. Nó cũng cần có hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt, nhưng cái được biểu đạt là ý nghĩa thẩm mỹ [98, tr.146]. Cũng theo tác giả, trong nghệ thuật văn chương, chất liệu là ngôn ngữ hằng ngày của con người, là các tín hiệu ngôn ngữ. Nhưng khi sáng tác, người nghệ sĩ đã dùng chất liệu ngôn ngữ để tạo ra các tín hiệu thẩm mỹ trong văn chương. Mỗi tín hiệu trong văn chương cũng có ý nghĩa và chức năng thẩm mỹ của nó [98, tr.147]. Về mối quan hệ giữa THNN và THTM, tác giả Bùi Minh Toán đồng quan niệm với Đỗ Hữu Châu khi chia sẻ ý kiến của L.Hjemslev khi cho rằng: “Trong tác phẩm văn học, cả cái hợp thể cái biểu hiện và cái được biểu hiện của ngôn ngữ thông thường trở thành cái biểu hiện cho một cái được biểu hiện mới” [98, tr.149]. Với quan niệm như thế, Bùi Minh Toán
15 đưa ra sơ đồ về mối quan hệ giữa THNN và THTM và quan hệ giữa hai mặt trong từng loại tín hiệu đó như sau:
Tín hiệu thẩm mỹ trong văn chương Cái biểu đạt Cái được biểu đạt
Ý nghĩa thẩm mỹ
Cái biểu đạt của tín hiệu ngôn ngữ Âm thanh (chữ viết) Cái được biểu đạt của tín hiệu ngôn ngữ Ý nghĩa ngôn ngữ
Tác giả cũng nêu rõ THTM có thể tồn tại ở hai dạng thức: hằng thể và biến thể. Theo đó, hằng thể là dạng đơn giản nhất về mặt hình thức (thường biểu hiện bằng một từ). Mỗi hằng thể tập hợp quanh mình hàng loạt biến thể để tạo nên hệ thống. Biến thể là dạng biểu hiện tuy khác biệt về hình thức biểu đạt (cái biểu đạt) với hằng thể nhưng cùng chung hoặc có mối liên hệ mật thiết về ý nghĩa với hằng thể [98, tr.149]. Tác giả cũng chỉ ra nguồn gốc và phương thức xây dựng THTM trong văn chương, các cấp độ, tính chất của THTM trong tác phẩm văn chương... Quan điểm này của Bùi Minh Toán cũng là những gợi ý để chúng tôi triển khai nghiên cứu đề tài của Luận án.
Trong công trình Ngôn ngữ văn chương [69], các tác giả Hoàng Trọng Phiến và Hoàng Kim Ngọc với cái nhìn từ ngôn ngữ học và văn học đã cho rằng “Tính thẩm mỹ của ngôn ngữ văn chương phải được nghiên cứu theo cách nhìn của tín hiệu thẩm mỹ có cơ sở từ tín hiệu ngôn ngữ nói chung” [69, tr.57]. Các tác giả thống nhất với Lại Nguyên Ân trong quan niệm về THTM: “Là những hệ thống vật chất truyền tải các thông báo. Đại diện cho các hình thái hoạt động vật chất và các mối quan hệ của con người, các hệ thống ngôn ngữ kí hiệu ở nghệ thuật trở thành “vật tải” các nội dung khách quan can dự vào quá trình phản ánh thực tại bằng nghệ thuật” [107, tr.127]. Từ đó, các tác giả khẳng định: THTM thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện nội dung thẩm mỹ, phục vụ cho một tư tưởng thẩm mỹ nhất định, được nhận thức bởi một chủ thể thẩm mỹ nhất định. Quan điểm của Hoàng Kim Ngọc và Hoàng Trọng Phiến nêu trên và những ví dụ về tính biểu trưng của THTM được trình bày trong công trình cũng là những định hướng cho chúng tôi tìm hiểu THTM “mắt” trong luận án này.
Luận án Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mỹ - không gian trong ca dao của tác giả Trương Thị Nhàn [72] đã xác lập được một hệ thống khái niệm, đặc trưng và các điều kiện của THTM, tạo ra cơ sở lí thuyết vững chắc về THTM để ứng dụng vào các tác phẩm cụ thể. Tác giả đã đưa ra khái niệm về THTM và đã chỉ ra 9 đặc trưng của THTM bao gồm: tính đẳng cấu, tính tác động, tính biểu hiện, tính biểu cảm, tính biểu trưng, tính trừu tượng và cụ thể, tính truyền thống và cách tân, tính hệ thống, tính cấp độ.
Phạm Thị Kim Anh với “Tín hiệu thuộc trường nghĩa cây trong thơ Việt Nam” (1) cũng dựa trên các ý kiến đã kế thừa và bổ sung thêm một số vấn đề về khái niệm
16 THTM. Tác giả cũng thống nhất quan điểm cho rằng THTM là yếu tố thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện của nghệ thuật [2, tr.20]. Nói đến phương tiện nghệ thuật là nói đến 2 mặt thể chất và tinh thần. Mặt thể chất là những hình thức vật chất được sử dụng trong mỗi ngành nghệ thuật. Mặt tinh thần bao gồm nhiều loại nội dung ý nghĩa, nhiều tầng khái quát hóa, trừu tượng hóa có tính thẩm mĩ [13]. Phạm Thị Kim Anh cũng dẫn ra ý kiến của Đỗ Hữu Châu: THTM là phương tiện sơ cấp (primaire) của văn học. Tác giả cũng thống nhất: một THTM cần hội đủ các điều kiện: 1, cbh: các hình thức vật chất (chất liệu) nghệ thuật; 2, cđbh: YNTM; 3, chủ thể sáng tạo (thế giới phát ngôn, tạo ngôn - tác giả; thế giới tiếp nhận, thụ ngôn - công chúng bạn đọc); 4, thuộc về một hệ thống THTM nhất định.
Tác giả đưa ra thêm cách hiểu của mình để phân biệt 2 thuật ngữ. “Kí hiệu” thiên về hình thức biểu hiện, nhẹ về lượng tin; giữa người phát và người nhận đã có sự thống nhất chặt chẽ về CĐBH ; lượng tin của nó chỉ có tính đơn trị - cho ra một nghĩa duy nhất, ổn định, không được phân biệt nữa. Thuật ngữ “kí hiệu” hay được sử dụng trong lĩnh vực khoa học tự nhiên - kĩ thuật. “Tín hiệu” nặng về tải tin, về giao tiếp, lượng tin - CĐBH chưa được định hình tuyệt đối mà có tính chất đa trị, còn tiếp tục mở rộng phát triển; sự thống nhất nhau về CĐBH của tín hiệu giữa người phát - người nhận chỉ có tính tương đối. Mức độ võ đoán trong quan hệ giữa CBH và CĐBH ở “tín hiệu” là cao hơn hẳn “kí hiệu”. Tác giả cũng khẳng định, “biểu trưng”, “biểu tượng” (symbol) gần nghĩa với “tín hiệu” hơn “kí hiệu” và thuật ngữ “tín hiệu” thường được sử dụng trong các ngành khoa học xã hội. Sau khi đưa ra một số ý kiến khác nhau, tác giả khẳng định: về tên gọi có thể khác nhau nhưng nội hàm khái niệm nhìn chung đều thống nhất trên các phương diện: dù là KHTM hay THTM cũng đều là những yếu tố thuộc phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Chúng dù có tính chất vật thể hay phi vật thể thì cũng có YNTM và việc sử dụng chúng phải nhằm mục đích thẩm mĩ.
Trong công trình Ký hiệu và liên ký hiệu [4], tác giả Lê Huy Bắc cho rằng: Ký hiệu tồn tại như một sự tổng hòa các mối quan hệ văn hóa. Không thể có bất cứ một ký hiệu nào nằm ngoài văn hóa. Theo đó, ký hiệu không hề và không thể tồn tại như một thực thể độc lập tuyệt đối, mang một nghĩa tự trị đơn nhất. Ngay từ lúc ra đời, ký hiệu luôn được tri nhận trong các mối quan hệ văn hóa nhất định. Một ký hiệu vì thế đã trở thành một tổ hợp ký hiệu trước và sau nó. Vậy nên, nó luôn là một liên ký hiệu” (Lời giới thiệu trang bìa cuối sách). Lê Huy Bắc đưa ra định nghĩa về Ký hiệu: Ký hiệu là hệ thống khái niệm mang nghĩa về các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội, được con người sáng tạo, mã hóa, để chuyển tải thông điệp, phục vụ giao tiếp thông qua một “hệ nghĩa” nhất định trong từng bối cảnh cụ thể [4, tr 12]. Tác giả cũng đưa ra một mô hình khái niệm như sau:
17
Ký hiệu (sign) Nghĩa (meaning)
Mã xã hội (Social code) Cái biểu đạt (Signfy)/Hình thức (Form) Cái được biểu đạt (signfied)/Nội dung (Content)
Trong mô hình trên, tác giả đưa ra quan niệm giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt phải có sự mã hóa. Cái biểu đạt chỉ là tín hiệu của bất cứ sự vật hiện tượng nào tồn tại mà con người có thể tri nhận bằng các giác quan. Cái biểu đạt đó chỉ trở thành cái được biểu đạt, mang nghĩa khi nhận được sự quy ước mã của cộng đồng… Như thế bản thân cái “được biểu đạt” đã mang “nghĩa” nhờ sự mã hóa từ cái biểu đạt. “Nghĩa” từ sự kết hợp của cái biểu đạt/cái được biểu đạt trong những ngữ cảnh sử dụng sẽ có một hoặc nhiều nghĩa khác, trùng với hoặc là khác nó.
Trong mô hình trên, Lê Huy Bắc quan niệm, nghĩa có cả trong “cái biểu đạt”, trong sự “mã hóa” và cả trong “cái được biểu đạt”. Muốn xây dựng “cái biểu đạt” thì trước hết cần có “nghĩa”, có nội dung của nó. Muốn “mã hóa” thì cần phải xác định nghĩa trước thì mới có thể tiến hành quy ước mã. Đương nhiên, “cái được biểu đạt” luôn là “nghĩa”. Vì “nghĩa” có mặt ở mọi nơi như thế nên bất kỳ một ký hiệu nào về bản chất cũng đều là liên ký hiệu.
Quan niệm của Lê Huy Bắc về Ký hiệu cũng là những gợi ý để chúng tôi tiếp cận một cách nhiều chiều và đầy đủ hơn khi làm rõ hơn khái niệm, ý nghĩa cũng như hoạt động của THTM được nghiên cứu trong luận án.
Trong công trình Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học [46], Đỗ Việt Hùng - Nguyễn Thị Ngân Hoa đã đưa ra quan niệm về tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật (theo nghĩa hẹp) được xây dựng trên cơ sở tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên. Ngôn ngữ nghệ thuật lấy ngôn ngữ tự nhiên làm chất liệu biểu hiện. Do đó nếu coi ngôn ngữ tự nhiên là hệ thống tín hiệu nguyên cấp (hệ thống tín hiệu thứ nhất) thì ngôn ngữ nghệ thuật là hệ thống tín hiệu thứ cấp (hệ thống tín hiệu thứ hai). Cái biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật bao gồm cả hình thức ngữ âm và ý nghĩa sự vật lô gic của ngôn ngữ tự nhiên. Cái được biểu hiện là các lớp ý nghĩa hình tượng.
Hai tác giả cũng đề cấp đến hai phương thức cơ bản cấu tạo lại các THTM là ẩn dụ và hoán dụ. Các tác giả cũng cho rằng hoán dụ hay ẩn dụ không phải chỉ là thủ pháp chuyển nghĩa các THTM ở cấp độ từ vựng mà có thể chi phối toàn bộ cấu trúc văn bản. Toàn bộ các tín hiệu ngôn ngữ đều được cấu tạo lại trong sự ảnh hưởng của những thủ pháp này. Việc giải mã các THTM trong trường hợp đó, bắt buộc phải dựa trên đặc điểm trường nghĩa của hệ thống tín hiệu. Các tác giả cho rằng trường nghĩa của các THTM là một trong những dấu hiệu chỉ dẫn mối liên hệ giữa cấu trúc chìm và cấu trúc nổi của tác phẩm. Các phương thức tổ chức lại THTM như ẩn dụ, hoán dụ
18 chính là những kiểu quan hệ cơ bản giữa các cấp độ của cái được biểu đạt: tương đồng hay kế cận.
Về tính chất của THTM trong ngôn ngữ văn học, các tác giả đề cập các tính chất: tính nhân loại, tính dân tộc, tính lịch sử; tính phi vật thể và phi trực quan; tính hình tuyến. Hai chức năng cơ bản của THTM trong tác phẩm văn chương là chức năng biểu hiện và chức năng tác động. Các tác giả cho rằng, trong phạm vi một thể loại văn học, ở bình diện chủ thể, giá trị biểu hiện và những ý nghĩa của các THTM phải được xét đến ở hai dạng biến thể: biến thể từ vựng - ngữ nghĩa và biến thể kết hợp. Xét các biến thể từ vựng - ngữ nghĩa của các THTM tức là tìm hiểu thao tác lựa chọn của người viết dựa trên mối quan hệ hệ hình (quan hệ hàng dọc, liên tưởng, là quan hệ giữa các yếu tố có thể thay thế cho nhau được trong cùng vị trí của chuỗi lời nói) để từ đó đánh giá về tính hệ thống của THTM trong tác phẩm văn học. Các biến thể kết hợp đánh dấu thao tác phối hợp trên trục tuyến tính của tác giả trong sự biểu hiện hình tượng nghệ thuật.
Mai Thị Kiều Phượng trong chuyên luận Tín hiệu thẩm mỹ trong ngôn ngữ văn học [78] đã giới thiệu một hệ thống những khái niệm, nguyên tắc và phương pháp để vận dụng lí thuyết tín hiệu học vào việc nghiên cứu vấn đề ngữ nghĩa của ngôn ngữ văn học nghệ thuật thuộc bình diện dụng học dưới dạng phác thảo mang tính đại cương hướng về tầm nhìn khoa học liên ngành.
Ngoài ra, có thể kể đến các công trình: Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật của Đào Thản [44]; các luận án “Tìm hiểu vấn đề tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Huy Cận” của Bùi Thị Hồng, “Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Xuân Quỳnh” của Lê Thị Tuyết Hạnh, Đặc điểm ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử từ góc nhìn tín hiệu thẩm mỹ của Lưu Văn Din [25]; Tín hiệu thẩm mỹ và vấn đề nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm văn chương [70] các luận văn và nhiều bài viết khác cũng góp phần khẳng định thế mạnh của hướng nghiên cứu này.
Ngoài các thuật ngữ Ký hiệu, Tín hiệu, Tín hiệu thẩm mỹ, thuật ngữ biểu tượng, mối quan hệ giữa biểu tượng và văn hóa cũng được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, nghiên cứu văn chương quan tâm. Có thể kể đến Đỗ Hải Phong với Lịch sử tiếp cận kí hiệu học như phương pháp nghiên cứu văn hóa, Trần Lê Bảo với Giải mã biểu tượng như một cách thức hữu hiệu trong việc tiếp cận văn hóa và văn học [56, tr.132], Lê Lưu Oanh, Nguyễn Thị Châm với “Biểu tượng văn học dưới cái nhìn tự sự học theo lí thuyết của Iu.M.Lotman”; chuyên khảo Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy của Nguyễn Đức Tồn [47] cũng đặt ra vấn đề về quan hệ hữu cơ giữa văn hóa và ngôn ngữ, phương pháp nghiên cứu đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, đặc trưng văn hóa - dân tộc của sự chuyển nghĩa và nghĩa biểu trưng...
19
Bùi Văn Ba với Tìm hiểu ngôn ngữ thân thể [56, tr.40]; Đặng Lưu với Tín hiệu thẩm mỹ trong ngôn ngữ văn chương và sự bất cập của một số hướng tiếp cận [ …, tr.41]; Đỗ Văn Hiểu với Kí hiệu học giới/giới tính [56, tr.69]; Nguyễn Linh Chi với Mẫu gốc như kí hiệu giải mã văn chương [56, tr.102]; Lê Nguyên Cẩn với Phân tích văn bản nhìn từ góc độ kí hiệu học [56, tr.121]; Lê Thị Diễm Hằng với Giao tiếp văn học nhìn từ lí thuyết kí hiệu học văn hóa [56, tr.157]; Trần Văn Toàn với Những vấn đề của nghiên cứu văn học nhìn từ tiến trình kí hiệu hóa và lí thuyết diễn ngôn [56, tr.169] là những quan niệm rất cụ thể về kí hiệu, tín hiệu thẩm mĩ, mối quan hệ giữa kí hiệu, biểu tượng và văn hóa.
Các ý kiến trao đổi trên đây sẽ là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu, xác định hệ thống lý thuyết về THTM (từ quan niệm về THTM, đặc điểm, tính chất, hai phương thức cấu tạo ...THTM) và vận dụng lý thuyết này vào đề tài khi nghiên cứu THTM “mắt” để tìm ra các đơn vị ngôn ngữ với vai trò là THTM hằng thể, biến thể; khả năng hoạt động, các mô hình cấu trúc, các ý nghĩa của THTM “mắt” ...
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ trong ca dao và thơ ca Việt Nam 1945 -1975 Là một loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống, ca dao đã thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực, nhiều chuyên ngành. Trong lĩnh vực ngôn ngữ, việc lấy ca dao làm đối tượng nghiên cứu cũng không phải là ít. Điều này xuất phát từ đặc trưng của ca dao là tính ổn định, tính mô típ, tính hằng thể cao nên rất thuận lợi cho việc áp dụng những phương pháp của ngôn ngữ học vào nghiên cứu. Việc áp dụng lý thuyết về trường nghĩa và tín hiệu thẩm mĩ để tìm hiểu ca dao đã có không ít công trình lớn nhỏ. Có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp như:
Từ năm 1991, trong bài viết về “Giá trị biểu trưng nghệ thuật của các vật thể nhân tạo trong ca dao cổ truyền Việt Nam” [71], tác giả Trương Thị Nhàn đã phân chia thế giới vật thể nhân tạo trong ca dao thành các tiểu nhóm (chính là các tiểu trường) rồi từ đó đi đến phân tích cơ chế hình thành nghĩa biểu trưng của thế giới vật thể nhân tạo. Luận án tiến sĩ của tác giả Trương Thị Nhàn: Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ của tín hiệu thẩm mỹ không gian trong ca dao [72] cũng đã vận dụng các cơ sở lí thuyết về tín hiệu, về hệ thống, trường nghĩa, về ngôn ngữ liên hội để xem xét các tín hiệu thẩm mỹ văn chương không gian trong ca dao. Một số bài viết như: “Giá trị biểu trưng của nhóm từ thuộc trường nghĩa chim chóc trong ca dao người Việt” [41] hay “Thế giới động vật thủy sinh và đời sống văn hóa người Việt trong ca dao” [42] Đỗ Thị Hòa đã vận dụng lý thuyết về trường nghĩa để tập hợp thành trường nghĩa chim chóc và trường nghĩa động vật thủy sinh trong ca dao để từ đó tìm giá trị biểu trưng của các trường nghĩa này. Đặc biệt trong Luận án tiến sĩ “Thế giới động vật trong ca dao cổ truyền người Việt [44] cũng của Đỗ Thị Hòa, tác giả đã khảo sát và miêu tả toàn bộ các dạng biến thể của thế giới động vật
20 trên bình diện ngôn ngữ nghệ thuật trong kho tàng ca dao cổ truyền người Việt. Tác giả cũng đã phân tích các đặc điểm ứng xử của người Việt trong các bình diện quan hệ xã hội và tự nhiên qua hình ảnh thế giới động vật trong ca dao. Qua đó tác giả đi đến giải mã các phạm trù ý nghĩa biểu trưng quan trọng trên hệ thống các bài ca dao cụ thể.
Gần đây cũng có một số luận án nghiên cứu về THTM trong ca dao. Có thể kể đến Nguyễn Thị Vân Anh với công trình Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mỹ trong ca dao Nam - Trung bộ [3] đã tiến hành tìm hiểu các tín hiệu ngôn ngữ thẩm mỹ trong ca dao Nam Trung Bộ trong trường nghĩa hiện tượng tự nhiên, trường nghĩa vật thể nhân tạo, trường nghĩa thực vật và trường nghĩa động vật. Từ đó, chỉ ra được mối quan hệ gắn bó giữa con người với môi trường cũng như vai trò của tự nhiên trong tư duy nghệ thuật của những sáng tác dân gian. Cũng từ đó chỉ ra những đặc trưng của các tín hiệu thẩm mỹ trong ca dao Nam Trung Bộ và nhận ra dấu ấn văn hóa của vùng đất này. Trần Mạnh Tiến có công trình “Về biểu tượng trong thơ ca dân gian các dân tộc thiểu số miền núi phía bắc” [56, tr.192] đã tìm hiểu các hình tượng có tính khái quát cao trở thành biểu tượng như hoa, nước, con đường, chim én, con nai, con gà, cá, cau trầu vôi, đàn tính, cây chuối, quả trứng, mẹ Hoa... trong thơ ca dân tộc Tày; các biểu tượng trong thơ ca dân gian Cao Lan như: hoa, con đường, chim, cá, cây, trăng, núi...; biểu tượng trong thơ dân tộc Mông về thực vật như: cây lanh, cây tre, lá ngón, cỏ tranh, ngải cứu, cây rau rớn, cây ngô, về loài vật như con chim, con ngựa; đồ vật như cây khèn, cái ô, cái giường, cái áo, cái khăn, cái kim, sợi chỉ, chiếc thắt lưng... Từ việc tìm hiểu các nét chung, nét riêng của các biểu tượng trong thơ ca dân gian mỗi dân tộc thiểu số, tác giả có đưa ra những nhận xét khái quát: “cùng một biểu tượng có thể cùng có ở các dân tộc hoặc có ở dân tộc này nhưng không có ở dân tộc kia, hàm lượng ý nghĩa biểu tượng từng dân tộc có thể sâu rộng khác nhau”... [56, tr.199]. Khám phá biểu tượng trong văn học là hành trình trở về cội nguồn văn hóa từng dân tộc. Nét tương đồng phản ánh quy luật phổ biến của tư duy, nét khác biệt phản ánh truyền thống văn hóa riêng của từng dân tộc.
Một số khóa luận, luận án tiến sĩ khác cũng bàn về THTM trong ca dao như: Lê Thị Lâm với Tín hiệu thẩm mỹ hoa và đặc trưng tư duy văn hóa của người Việt trong ca dao [64]; Đào Thị Dương với Một số tín hiệu thẩm mỹ trong ca dao Việt Nam [29] , Nguyễn Thị Thu Quế với Trường từ vựng tên gọi động vật thủy sinh và tín hiệu thẩm mỹ được tạo nên trong ca dao [79].Nguyễn Thị Ngọc Điệp với bài viết “Đôi nét về nhóm biểu tượng hoa trong ca dao” [23] và luận án Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt [24].
Các công trình nghiên cứu của Chu Xuân Diên, Đinh Gia Khánh [55] đã tìm hiểu các "mẫu đề" (mô típ) được lặp đi lặp lại mang nghĩa cố định trong ca dao, dân ca
21 Việt Nam. Những biểu tượng: con cò, mận, đào, thuyền, bến đã được phân tích trong các công trình của Vũ Ngọc Phan, Phan Đăng Nhật, Nguyễn Xuân Kính [58]. Nguyễn Xuân Lạc với Môtip nghệ thuật dân gian: Cái cầu trong ca dao [60]; Nguyễn Thị Ngân Hoa với Biểu tượng chiếc áo trong đời sống tinh thần người Việt qua thơ ca [37]; Hà Công Tài và Biểu tượng trưng trong thơ ca dân gian [84].
Ngoài ra có thể kể đến nhiều công trình nghiên cứu về ca dao nói chung như: “Về một phương diện nghệ thuật trong ca dao tình yêu” của Trần Thị An [1], “Ngôn ngữ ca dao Việt Nam” của Mai Ngọc Chừ [19], Vũ Thị Thu Hương (tuyển chọn và biên soạn) “Ca dao Việt Nam - những lời bình” [49]; Nguyễn Xuân Kính với Thi pháp ca dao [58]; Hữu Đạt với Đặc điểm phong cách ngôn ngữ thơ và ca dao [21]; Chu Xuân Diên với bài viết Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian [22]; Nguyễn Xuân Lạc với Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường [61] ... Riêng THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt thì chưa được đề cập hệ thống, toàn diện trong công trình nghiên cứu, chuyên khảo nào. Những bài viết, luận văn, luận án và các công trình nghiên cứu của tác giả trên đây đã gợi ý cho chúng tôi trong việc đi tìm hiểu Tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt, một vấn đề còn bỏ ngỏ.
Đối với thơ ca Việt Nam 1945-1975 đã có một số công trình nghiên cứu, luận án, luận văn nghiên cứu về các THTM. Trong luận án tiến sĩ “Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam”[39], Nguyễn Thị Ngân Hoa từ góc độ ngôn ngữ với lý thuyết về biểu tượng đã nghiên cứu biểu tượng trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam nói chung và một số loại biểu tượng trang phục trong thơ cách mạng như: cái khăn, cái áo, cái nón, ... trên một số phương diện. Tác giả xác định những biến thể điển hình, sự chuyển biến từ bình diện văn hóa đến bình diện ngôn ngữ thơ ca, sự phân hóa những hướng nghĩa chủ yếu. Trong bài viết “Biểu tượng chiếc áo trong đời sống tinh thần người Việt qua thơ ca” [37], tác giả Nguyễn Thị Ngân Hoa đã chỉ ra rằng: trong thơ ca thời kì 1945-1975, biểu tượng cái áo lại trở về với đời sống thực, nhập vào sự phát triển của dòng biểu tượng thuộc về đất. Chiếc áo với sắc màu nồng ấm của đất đai trong chiếc áo tứ thân của bà bầm (Tố Hữu). Có khi cái áo lại mang ý nghĩa là số đông, là sức mạnh, là khó nhận dạng: Đông Trường Sơn, cô gái ba sẵn sàng xanh áo - Tây Trường Sơn, bộ đội màu áo xanh” (Phạm Tiến Duật)...
Trong luận án tiến sĩ Tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa cây trong thơ Việt Nam [2], Phạm Thị Kim Anh đã nghiên cứu THTM thuộc trường nghĩa cây như tre, liễu, thông, cỏ, lúa, lau, bèo, rêu trong các giai đoạn thơ Việt Nam, trong đó có thơ cách mạng 1945 - 1975 và thơ đương đại. Tác giả đã chỉ ra rằng “Nét nổi bật nhất trong tín hiệu văn chương cây, loài cây nói chung trong thơ cách mạng ấy là chúng
22 được mang những ý nghĩa mới, được miêu tả với một chất lượng mới góp phần thể hiện một cái tôi mới, cái tôi cộng đồng, khẳng định cái chung của mọi người trong sự nghiệp xây đắp một xã hội mới” [2, tr.176]. Từ sự phân tích, nghiên cứu trường hợp cụ thể, Phạm Thị Kim Anh đã đưa ra nhận xét: “cùng với việc cách tân hệ thống THTM có sẵn, văn chương nghệ thuật phải tạo ra một hệ thống THTM mới để đáp ứng được những đòi hỏi của tâm lí nghệ thuật trong thời đại mới” [2, tr.184].
Trong bài viết “Thơ dân tộc thiểu số nhìn từ kí hiệu học văn hóa”, TS Lê Thị Bích Hồng (Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội) [56, tr.239] đã chỉ ra một số biểu tượng thường thấy trong tác phẩm của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam như Mẹ Hoa - Mẹ, hoa, lều nương, núi đá, nước, mặt trời, rằm tháng bảy, muối - muối Cụ Hồ...
Tác giả Thái Phan Hoàng Anh có bài viết “Thơ Hoàng Cầm - nhìn từ mã nhan đề” [56] đã xem xét nhan đề như một loại “kí hiệu kết nối với nhiều kí hiệu thẩm mỹ khác và là kí hiệu trung tâm, châu tuần mọi lớp nghĩa được biểu đạt, nghĩa tiềm ẩn của thi phẩm. Từ mã nhan đề, độc giả còn có thể nhận diện các mã hóa ẩn hiện trong văn bản tác phẩm, gắn với con người xã hội, con người thi sĩ, con người hữu thức, con người vô thức, … của nhà thơ” [56, tr.326]. “Nhan đề là một kí hiệu thẩm mỹ quan trọng” [56, tr.32]. Từ đó, tác giả đã đi sâu tìm hiểu Kí hiệu thẩm mỹ nhan đề trong việc thể hiện cảm quan văn hóa phương Đông, cảm xúc lịch sử, những huyền thoại, đặc biệt là câu chuyện huyền thoại về tình yêu.
Võ Tấn Quyên với khóa luận Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mỹ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh [80] đã tìm hiểu các hiện tượng tự nhiên xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh và chỉ ra rằng tín hiệu ngôn ngữ thẩm mỹ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên vừa mang những đặc điểm chung vừa mang những đặc điểm riêng, độc đáo thể hiện phong cách, cá tính sáng tạo riêng của Xuân Quỳnh...
Trần Thị Thái với Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu [85] đã tìm hiểu một số tín hiệu thẩm mĩ trong việc biểu đạt hình tượng Bác Hồ, anh bộ đội. Trong hình tượng Bác Hồ, tác giả quan tâm đến các THTM hằng thể “Bác”, BTKH chỉ bộ phận cơ thể người: mái tóc, chòm râu, má, bàn tay, bóng, chân... chưa chú ý nhiều đến đôi mắt Bác. Trong hình tượng “anh bộ đội” tác giả cũng đã nhắc tới THTM “mắt” nhưng cũng chỉ nghiên cứu với tư cách là một trong rất nhiều THTM thể hiện hình tượng anh bộ đội, chưa dành nhiều dung lượng cho THTM này.
Có thể kể đến khóa luận Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ“Mùa xuân - Trái tim” trong thơ tình Xuân Diệu của Đỗ Ngọc Thư [91]; Trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ màu sắc trong thơ Tố Hữu của Nguyễn Thị Hòa [43]; Trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ bộ phận cơ thể người trong thơ Chế Lan Viên của Nguyễn Chí Trung [100]; Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Xuân Quỳnh [35] của Lê Thị Tuyết Hạnh ...
23
Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu chuyên luận, bài viết, tuyển tập bàn đến giá trị của thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 nói chung. Chẳng hạn: Lý Hoài Thu với Thơ Hữu Thỉnh - một hướng tìm tòi và sáng tạo từ dân tộc đến hiện đại [93, tr.478]; Trần Đình Sử với “Con người trong văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945 [93, tr.611]; Phong Lê với Phác thảo Văn học Việt Nam hiện đại (thế kỷ XX) [66]; Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) với Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Quyển Năm, tập VII [90], IX [91], X [92], XI [94], XII [95] (lý luận - phê bình 1945-1975); tập XIII [96], tập XIV [93] (lý luận - phê bình 1975-2000); Giảng văn văn học Việt Nam [7], Giảng văn văn học Việt Nam hiện đại [70], Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam [83]. Về tác giả Xuân Quỳnh có thể kể đến: Ngân Hà với Nữ sĩ Xuân Quỳnh - Cuộc đời để lại [34]; Vân Long với Xuân Quỳnh - Thơ và đời [68]; Vũ Kim Tuyến với Thơ Xuân Quỳnh và những lời bình [102]; Thùy Trang với Xuân Quỳnh - Tác phẩm và lời bình [99]. Về tác giả Tố Hữu có các công trình như: Tố Hữu- về tác gia và tác phẩm [65], Thơ Tố Hữu - những lời bình [48], Thơ Tố Hữu [103]…Các tác giả khác: Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường: Quang Dũng - Chính Hữu [8], Nhà văn trong nhà trường: Quang Dũng [104]…
Có thể nói có một khối lượng đồ sộ những tác phẩm, công trình nghiên cứu về thơ ca 1945-1975, chung có, riêng từng tác giả có, thẩm định những giá trị về nội dung, nghệ thuật. Một điều dễ thấy là đa số các công trình trên về thơ ca 1945 -1975 chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ văn học. Cũng đã có một số công trình quan tâm khảo sát, tìm hiểu các THTM, hình tượng, biểu tượng nghệ thuật trong thơ ca 1945 - 1975... Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu, bài viết nào chuyên sâu nghiên cứu THTM thuộc trường nghĩa mắt trong thơ ca 1945-1975.
Vì vậy, trong luận án này chúng tôi tập trung nghiên cứu THTM thuộc trường
nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975. 1.2. Cơ sở lí luận 1.2.1. Lý thuyết trường nghĩa 1.2.1.1. Khái niệm trường nghĩa
Lí thuyết về trường nghĩa (semantic field theory) - một lí thuyết nhằm chứng minh tính hệ thống của từ vựng [18, tr. 183] ra đời trên cơ sở những luận điểm về ngôn ngữ học đã được hình thành từ trước đó. Đầu tiên, phải kể đến giả thuyết về “tính tương đối ngôn ngữ” mà hai người được coi là có đóng góp lớn trong việc nghiên cứu là Sapir (1921) và Whorf (1956). Tiếp theo đó, những nghiên cứu tìm hiểu về ngữ nghĩa của ngôn ngữ mà tiêu biểu là công trình của Talmy (1981), Langacker (1987) và Lakoff (1987) đã góp phần tìm ra nhân tố cho hệ thống khái niệm về trường nghĩa.
Sau khi xuất hiện vào những năm 20 - 30 của thế kỷ XX, khái niệm về trường
24 nghĩa (semantic fields) nhanh chóng được phổ biến và đạt được những thành tựu quan trọng. Lí thuyết về trường nghĩa gắn với tên tuổi các nhà nghiên cứu ngôn ngữ như G. Ipsen, J.Trier, Weisgerber, W. Porzig v.v. Tư tưởng cơ bản của lí thuyết này là khảo sát từ vựng một cách hệ thống. Chẳng hạn, Weisgerber cho rằng: “sự phân chia ngữ nghĩa của hệ thống ngôn ngữ được xác định không phải bởi những mối quan hệ có thực trong thực tế khách quan, mà được xác định bởi những nguyên tắc nằm trong bản thân ngôn ngữ, trong kết cấu ngữ nghĩa của nó (Meyer gọi là NHỮNG YẾU TỐ KHU BIỆT) [Dẫn theo 31, tr. 432].
Mối quan hệ giữa các yếu tố trong trường nghĩa luôn được các nhà nghiên cứu chú ý mà tiêu biểu là J. Trier - người đề xướng lí thuyết trường nghĩa. Tác giả cho rằng: “Mỗi một từ có ý nghĩa chỉ là vì có các từ khác có liên hệ trực tiếp với nó”. J.rier cũng đã sử dụng thuật ngữ “trường ngôn ngữ” (Sprachliche Felder) “để diễn tả mối quan hệ về nghĩa giữa các từ” và quan niệm “ý nghĩa từ vựng chính là khái niệm”; do đó, trường nghĩa còn được gọi là trường khái niệm [dẫn theo 33, tr. 184, 187]. Tuy nhiên, “sự không phân biệt ý nghĩa với khái niệm, các lớp ý nghĩa, từ với khái niệm và quan niệm quá dứt khoát về ranh giới giữa các trường khái niệm và các vùng khái niệm của từ với nhau” là nguyên nhân khiến giá trị lí thuyết “trường” của J.Trier chỉ dừng ở mức độ những gợi ý [16, tr.874].
G.Ipsen là người đầu tiên trong lịch sử ngành ngôn ngữ học dùng khái niệm trường nghĩa [Grzegorz 121, tr.190, Dẫn theo 88, tr.8], ông cho rằng “trường nghĩa bao hàm những từ có những mối quan hệ với nhau về hình thái và về nghĩa” [G. Ipsen 120, Dẫn theo 88]. Một nhà nghiên cứu khác là Weisgerber cho rằng các trường có ba mặt, không phải hai mặt như của J.Trier [32]. Ông cho rằng khái niệm là cầu nối trung gian giữa chủ thể và hiện tượng khách quan. Ông chia các trường thành trường một tầng và trường nhiều tầng. Trường một tầng là kết quả của cái mà chúng ta nhìn xuất phát từ một quan điểm duy nhất. Ngược lại, trường nhiều tầng là trường có từ hai quan điểm trở lên. Khi nghiên cứu trường các “tội lỗi, khuyết tật” ông nêu ra hai “góc nhìn”: mức độ trách nhiệm của người gây ra; các chuẩn mực bị xâm phạm. Trách nhiệm có 7 mức độ và chuẩn mực cũng có 7 [16,tr. 875].
Đối lập với quan niệm của J.Trier và một số nhà nghiên cứu dựa vào quan hệ dọc của ngôn ngữ để xây dựng lí thuyết trường nghĩa (trường đẳng lập/paratactic field), W.Porzig - nhà ngôn ngữ học người Đức lại dựa vào quan hệ ngang giữa các tín hiệu ngôn ngữ để đề xuất lí thuyết về trường nghĩa (trường từ vựng - cú pháp/syntactic field). Theo ông, khái niệm về trường nghĩa dựa trên cơ sở về nghĩa giữa các cặp từ có mối quan hệ ngữ đoạn với nhau. W.Porzig cho rằng, ý nghĩa của các từ có thể được chỉ ra một cách độc lập trong những trường hợp sử dụng cú pháp khác biệt. Khả năng kết hợp về mặt cú pháp của một từ, tức là khả năng cùng một số từ khác kết hợp thành một
25 cấu trúc cú pháp là bằng chứng cho ý nghĩa độc lập của từ. Như vậy, xuất hiện cùng các động từ là các danh từ chủ thể tương ứng (như “wierhern” – “pfern” (“hí” - “ngựa”); “bellen” – “hund” (“sủa” – “chó”)) [dẫn theo 31, tr. 438]); hoặc nếu không theo quy luật này, tức là dùng từ theo lối chuyển nghĩa, chuyển nghĩa từ vựng từ trường nghĩa gốc sang trường nghĩa mới. Ví dụ:
(1) “Cái ghế biết nói, cái ghế cười khanh khách, con mèo thủ thỉ trò chuyện, con mèo hối hận vì lười lao động, chim đi thăm quan nhà máy, hai chú gà ri cãi nhau…” [45, tr.12]
Những biến thể ngôn ngữ (BTNN) như nói, cười, thủ thủ trò chuyện, hối hận, lao động, đi tham quan, cãi nhau trong ví dụ (1) vốn chỉ hoạt động của con người đã được sử dụng chỉ hoạt động của con vật nhằm mục đích nhân hóa.
Tương tự, một tính từ cũng chỉ chọn danh từ bổ ngữ phù hợp như “điếc - tai”, “mù - mắt”, “cụt - đuôi”, “gẫy - cánh” v.v. Những đơn vị có khả năng kết hợp với động từ hoặc tính từ đã được ngầm định trong chính bản thân đơn vị đó. Với cách nhìn như vậy, Porzig xác định sự sắp xếp của những từ có đặc điểm ngữ pháp giống nhau (có khả năng kết hợp giống nhau với các từ khác) tạo thành trường từ vựng - cú pháp.
Với những nghiên cứu, bổ sung từ các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học về con đường do J.Trier khai phá, lí thuyết về trường nghĩa hiện nay được “chấp nhận như là sự cụ thể hóa lí thuyết về tính hệ thống của ngôn ngữ trong lĩnh vực từ vựng” [16, tr.879]. Trên cơ sở quan điểm của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài đi trước, các nhà Việt ngữ học đã đề xuất quan điểm về trường nghĩa căn cứ vào thực tế sử dụng tiếng Việt, tiêu biểu trong số đó là các tác giả Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán, Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ Việt Hùng...
Nhìn từ góc độ người tiếp nhận và sử dụng ngôn ngữ, tác giả Nguyễn Thiện Giáp nhận thấy, mỗi người luôn “tiếp nhận từ vựng gắn bó chặt chẽ với việc tập hợp các đơn vị từ vựng theo từng nhóm có quan hệ gần gũi về nghĩa.” [33, tr.185]. Do vậy, theo quan niệm của Nguyễn Thiện Giáp, trường nghĩa là phạm vi những đơn vị từ vựng có quan hệ lẫn nhau về nghĩa (có chung một thành tố nghĩa), trong đó đơn vị từ vựng có thể là một từ vị hay một ngữ vị” [33, tr.184].
Đỗ Hữu Châu cho rằng “Những quan hệ về ngữ nghĩa giữa các từ sẽ hiện ra khi đặt các từ (nói cho đúng là ý nghĩa của từ) vào những hệ thống con thích hợp. Nói cách khác, tính hệ thống về ngữ nghĩa trong từ vựng thể hiện qua quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng” [16, tr. 587].
Từ đó, Đỗ Hữu Châu định nghĩa “Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là những tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa” [16, tr. 588].
26
Như vậy, mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ với nhau phải được xem xét trong hệ thống trường nghĩa. Các nét nghĩa trong trường có các mối quan hệ với nhau, đan xen và quy định lẫn nhau. Các yếu tố cấu thành trường có những nét nghĩa chung (ngoài nét nghĩa khác biệt). Ngược lại, mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các trường với nhau phải được xem xét trong hệ thống trường lớn hơn. Điều này càng khẳng định tính hệ thống trong ngữ nghĩa của ngôn ngữ.
Đối với quan hệ ngữ nghĩa trong trường nghĩa thì “chúng ta có thể phân định một cách tổng quát những quan hệ ngữ nghĩa trong từ vựng thành những quan hệ ngữ nghĩa giữa các trường nghĩa và những quan hệ ngữ nghĩa trong lòng mỗi trường” [16, tr. 588].
Như vậy, Đỗ Hữu Châu đã phân lập trường nghĩa dựa trên cơ sở ý nghĩa của từ. Từ khi ra đời đến nay, lý thuyết này đã được vận dụng nghiên cứu nhiều kiểu trường nghĩa: Trường nghĩa thời gian, trường nghĩa màu sắc, trường nghĩa thực vật, trường nghĩa động vật…
Đối với trường nghĩa “mắt”, luận án chọn quan niệm của tác giả Đỗ Hữu Châu và những tác giả có cùng quan niệm về việc phân lập trường nghĩa căn cứ vào “sự đồng nhất về ngữ nghĩa xét theo một phương diện nào đấy” [16, tr.872], “cơ sở phân lập trường là ý nghĩa của từ” [16, tr.880]. Nghĩa là, đặc trưng ngữ nghĩa chung là cơ sở để tập hợp các đơn vị trong một trường nghĩa, còn đặc trưng ngữ nghĩa riêng của các đơn vị sẽ là dấu hiệu để khu biệt chúng với nhau. Và “vấn đề quan hệ ngữ nghĩa trong một trường cũng là vấn đề phân hóa nó thành những trường và những nhóm nhỏ hơn” [16, tr.888]. Ngoài ra, luận án cũng chú ý đến khả năng “phân định một cách tổng quát những quan hệ ngữ nghĩa trong từ vựng thành những quan hệ ngữ nghĩa giữa các trường nghĩa và những quan hệ ngữ nghĩa trong lòng mỗi trường” [16, tr.588].
1.2.1.2. Đặc điểm của trường nghĩa
Cấu trúc nghĩa của trường nghĩa có tính hệ thống, tính tầng bậc, tính giao thoa, hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa... Tuy nhiên, luận án chỉ đưa ra một số đặc điểm tiêu biểu có liên quan đến các vấn đề luận án cần giải quyết.
- Tính tầng bậc Hệ thống ngữ nghĩa của trường nghĩa tồn tại một kiểu quan hệ điển hình là một trường có thể phân cấp ra thành các trường nhỏ hơn. Trong đó, có những trường có quan hệ trái ngược nhau, có những trường có quan hệ bình đẳng đối với nhau và có những trường có quan hệ đan xen, lồng vào nhau. Ngược lại, có những trường có quan hệ tôn ti, cấp bậc đối với nhau. Trường lớn có thể bao hàm trong nó một vài hay nhiều trường nhỏ. Trường cấp trên chi phối các trường cấp dưới. Nói cách khác, các trường có thể độc lập hoàn toàn, có thể giao nhau và cũng có thể bao chứa lẫn nhau, tùy theo điều kiện chúng có hay không có những từ thuộc vùng ngoại vi đối với nhau. Ví dụ:
27 trường “mắt” là trường tối cao, dưới bậc cao có các tiểu trường bậc 1, dưới bậc 1 là bậc 2, dưới bậc 2 là bậc 3, tiếp tục phân chia cho đến khi còn lại từng nhóm hoặc từng từ cụ thể. Chính vì trường có đặc tính tầng bậc mà trong phần phân xuất các từ, chúng tôi đã xác lập được các trường cấp dưới trong lòng các trường cấp trên cũng như các trường đồng cấp với nhau. Chúng tạo ra các tầng bậc song song nhau, đan xen lẫn nhau và lồng ghép vào nhau.
Trường “mắt” được chúng tôi sơ đồ hóa như sau:
“Mắt”
Biến thể kết hợp
Hằng thể (mắt)
Trường tối cao Bậc 1
Biến thể từ vựng: Con mắt, Đôi mắt, Khóe ba, thu nhãn, mục
Bậc 2
Các bộ phận của mắt: Hoạt động của mắt: Hình dáng của mắt:
Màu sắc của mắt: (Mắt) đen Mắt xanh (Mắt) đỏ (lòm) Mắt ngọc Mắt huyền Mắt biếc (Mắt) màu gio Mắt trắng…
Mắt bé mắt nhỏ mắt tròn xoe Mắt lá răm Mắt lươn Mắt bồ câu Mắt phượng Mắt thỏ Mắt chuồn chuồn…
Thấy Trông Ngó Nhìn Ngước Khóc Xem Tìm Soi Coi… Con ngươi Ánh mắt Lông mày Màu mắt Mí mắt Tròng mắt Hốc mắt Đuôi mắt Khóe mắt Đáy mắt Mi/hàng mi…
Trạng thái của mắt: (Mắt) long lanh (Mắt) lúng liếng Mắt toét (Mắt) lim dim Mắt lơ mơ Mắt bần thần (Mắt) lờ đờ.. - Tính giao thoa: Các từ không đơn thuần có một nghĩa mà trong mỗi từ có thể có nhiều nghĩa. Mỗi nghĩa có thể thuộc một trường, miền khác nhau tạo ra hiện tượng giao thoa trong các trường. Vì vậy, một từ có thể thuộc về một trường hay nhiều trường khác nhau và những từ chỉ thuộc một trường nghĩa chiếm tỉ lệ không lớn. Ngoài những từ trung tâm,
28 điển hình của trường còn các từ nằm vùng ngoại vi. Các từ này không chỉ nằm ở một trường mà có thể nằm ở những trường khác nhau. Đây chính là sự giao thoa giữa các trường với nhau. Chính vì đặc điểm này mà trong phần phân xuất các từ vào các tiểu trường của chúng tôi có xuất hiện những hiện tượng giao thoa giữa các tiểu trường. Chẳng hạn các từ chuồn chuồn, lươn, bồ câu là cùng trường nghĩa động vật và dường như chẳng liên quan gì đến mắt. Nhưng trong các trường hợp: “Mắt chuồn chuồn”, “mắt lươn”, “mắt bồ câu” thì thuộc trường nghĩa “mắt”, gọi tên các hình dáng khác nhau của mắt và cũng chỉ ra một phần đặc điểm, tính cách của con người theo quan niệm dân gian: trông mặt mà đặt hình dong. 1.2.1.3. Phân loại trường nghĩa a. Cơ sở phân loại trường Về tiêu chí xác lập trường nghĩa đã được Đỗ Hữu Châu nêu rõ: Tiêu chí để phân lập các trường từ vựng ngữ nghĩa là tiêu chí ngôn ngữ. Ông cho rằng: “Không thể bắt đầu sự phân lập bằng các phạm vi sự vật, hiện tượng mà con người có thể biết từ ngoài ngôn ngữ, cũng không thể bắt đầu bằng các vùng khái niệm đã có trong tư duy” [16, tr.880]. Như vậy, cơ sở để phân phối trường nghĩa chính là ý nghĩa của từ.
Cơ sở nhận diện và phân tích trường nghĩa: các đơn vị từ vựng của một trường nghĩa phải có nét nghĩa chung. Để xác lập được một trường từ vựng - ngữ nghĩa, chúng ta sẽ tìm ra các trường hợp điển hình, tức những trường hợp mang và chỉ mang cái đặc trưng từ vựng - ngữ nghĩa mà chúng ta lấy làm cơ sở. Những từ điển hình cho trường lập thành tâm của trường. Những từ có thể đi vào một số trường lập thành vùng ngoại vi của các trường đang xem xét [16, tr.882].
Nếu như đã phân biệt ý nghĩa biểu vật và ý nghĩa biểu niệm thì cơ sở để phân lập trường (trường trực tuyến) là sự đồng nhất nào đó trong ý nghĩa biểu vật và ý nghĩa biểu niệm của các từ. Đỗ Hữu Châu cho rằng: có thể phân ra hai loại trường từ vựng - ngữ nghĩa lớn: trường biểu vật và trường biểu niệm. Hai loại này không loại trừ lẫn nhau và có liên hệ với nhau nhưng về nguyên tắc phải phân biệt chúng với nhau. Mỗi loại trường này có cách chi phối riêng hoạt động của từ trong giao tiếp, trong sự tạo lập nên thông điệp [16, tr.880].
Cơ sở để lập trường biểu vật phải xuất phát từ ý nghĩa biểu vật của từ. Tất cả các ý nghĩa biểu vật nào cùng có chung một phạm trù nghĩa (biểu vật) thì có thể được đưa vào một trường. Tiêu chí để xác lập các trường biểu vật chỉ là sự đồng nhất ở một phạm trù nghĩa (biểu vật). Các nghĩa phạm trù khác sẽ được sử dụng để phân lập các trường lớn thành các trường bộ phận theo các cấp loại khác nhau. Chúng ta chọn các danh từ làm gốc. Các danh từ này phải có tính khái quát cao, gần như là các tên gọi của các phạm trù biểu vật như người, động vật, thực vật, khí tượng,…Các danh từ này
29 có tác dụng hạn chế ý nghĩa của từ về mặt biểu vật, là những ý nghĩa cụ thể, thu hẹp nghĩa của từ.
Trong luận án này, danh từ “mắt” làm trung tâm tập hợp hàng loạt các từ khác có chung một phạm trù nghĩa (biểu vật) về “mắt” tạo nên trường biểu vật: đôi mắt, con ngươi, lông mày, lông mi, mí mắt, tròng mắt, nước mắt…
Cơ sở để phân lập các trường biểu niệm cũng giống như các nguyên tắc phân lập các trường biểu vật. Nhưng cũng có thể phân lập theo sự đồng nhất của toàn bộ cấu trúc biểu niệm gồm những nét nghĩa phạm trù. Để xác lập trường nghĩa biểu niệm ta chọn một cấu trúc biểu niệm làm gốc, trên cơ sở đó thu thập các từ có chung cấu trúc biểu niệm gốc đó. Ví dụ (VD) 1: Cấu trúc biểu niệm (hoạt động) (đưa mắt hướng vào đâu để thấy)…tạo nên một trường biểu niệm gồm các từ: nhìn, trông, ngó, liếc, dòm, nhòm...
Cơ sở để xác lập trường nghĩa tuyến tính là mối quan hệ trên trục ngữ đoạn của các đơn vị ngôn ngữ. Để lập một trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc rồi tìm tất cả những từ có quan hệ với từ gốc đó về nghĩa và có thể kết hợp với từ gốc đó thành những chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ. “Các từ trong một trường tuyến tính là những từ thường xuất hiện với từ trung tâm trong các loại ngôn bản” [16, tr.600]. VD 2: Từ “mắt” tạo nên một trường nghĩa tuyến tính: mắt xanh, mắt đẹp, đau mắt, con mắt đen sì, đôi mắt nhìn như chớp lửa đêm dông, đôi mắt sắc sảo...
Một từ khi được nhắc tới thường gợi ra trong chúng ta một loạt các từ khác. Đó chính là liên tưởng. Nói cách khác, tập hợp các từ được gợi ra từ mối liên tưởng với một từ trung tâm gọi là trường liên tưởng và mỗi từ có những sự liên tưởng riêng không giống các từ khác. Chính vì thế mà trường liên tưởng mang tính chủ quan, phụ thuộc vào điều kiện, môi trường sống, thời đại sống, trải nghiệm của mỗi cá nhân. Vì thế, mỗi cá nhân sẽ có trường liên tưởng khác nhau. Do đó nó mang tính chủ quan, cá thể cao. VD 3: Đối với người Việt, từ “trăng” có thể gợi lên một trường liên tưởng là: ngày rằm, trung thu, đi lễ chùa, cây đa thằng cuội, chị Hằng, một tháng,… VD 4: Đối với người Việt, từ “mắt” có thể gợi lên một trường liên tưởng là: đôi mắt, cách nhìn, cách đánh giá, quan điểm, sự xem xét, phán đoán, sự quan tâm, cửa sổ tâm hồn, chớp lửa đêm dông, dao cau...
Từ sự xem xét trên có thể xác lập trường dựa vào các tiêu chí cơ bản sau: Thứ nhất: Xác lập trường nghĩa phải dựa vào ý nghĩa của ngôn ngữ. Ý nghĩa của ngôn ngữ xét một mặt nào đó chính là ý nghĩa của từ. Như vậy, là dựa vào các ý nghĩa của từ làm cơ sở để tập hợp các từ thành trường.
30
Thứ hai: Phải tìm được từ điển hình (trung tâm) chỉ mang các đặc trưng từ vựng - ngữ nghĩa của trường đó. Chính nó sẽ tạo ra một “lực” nghĩa “thu hút, hấp dẫn” các từ khác vào trong một trường. Theo tiêu chí này, trường nghĩa có ranh giới tương đối, có thể độc lập hoặc giao nhau, bao hàm lẫn nhau, có những trường hợp điển hình (trung tâm) và những trường hợp kém điển hình (ngoại vi).
Thứ ba: Dựa vào ý nghĩa biểu vật và biểu niệm và sự đồng nhất ở những nghĩa phạm trù (biểu vật và biểu niệm) của từ để xác lập trường biểu vật và trường biểu niệm. Dựa vào ngữ nghĩa của từ trung tâm và các từ kết hợp theo trục ngang để xác lập trường tuyến tính, dựa vào sự liên tưởng mà một từ trung tâm gợi ra để xác lập trường liên tưởng của từ đó.
Thứ tư: với trường biểu vật, tiêu chí xác lập cũng chỉ là sự đồng nhất ở một nét
nghĩa biểu vật.
Thứ năm: với trường nghĩa biểu niệm, tiêu chí xác lập cũng chỉ là sự đồng nhất
ở một nét nghĩa biểu niệm.
Từ cơ sở phân lập trên, hệ thống từ vựng ngữ nghĩa của một ngôn ngữ có thể
Thứ sáu: với trường tuyến tính, là dựa hẳn vào ngữ nghĩa từ trung tâm. Từ này phải đáp ứng được yêu cầu về quan hệ ngữ nghĩa ngữ pháp của các từ trong trường [16, tr.884-885]. Thứ bảy: dùng để xác lập trường liên tưởng, cơ sở tạo lập trường này là các nghĩa ngữ dụng (meanings in use) của từ trung tâm. Đó là những nghĩa mới được tạo ra trong quá trình từ hành chức, chưa đi vào hệ thống. Từ trung tâm khi cùng xuất hiện với loạt các từ nào đó trong nhiều ngữ cảnh trùng lặp sẽ có hiện tượng đẳng cấu ngữ nghĩa. Khi đó, chúng sẽ tạo thành một trường nghĩa liên tưởng mà các từ có quan hệ với nhau nhờ những mối liên tưởng ngữ nghĩa nào đó. được phân lập ra các loại trường nghĩa. b. Các loại trường nghĩa Đỗ Hữu Châu đã phân chia trường nghĩa thành hai loại: trường nghĩa ngang (trường nghĩa tuyến tính) và trường nghĩa dọc (trường nghĩa trực tuyến). Căn cứ vào kiểu loại ý nghĩa của từ để phân ra trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm trong trường nghĩa trực tuyến. Ngoài ra còn căn cứ vào đặc trưng liên tưởng để xác lập trường nghĩa liên tưởng [16, tr.588]. - Trường nghĩa biểu vật (trường biểu vật)
Trường biểu vật là một tập hợp từ có cùng hạt nhân về ý nghĩa biểu vật. Từ điển hình của trường thường là các danh từ có tính khái quát cao, gần như là tên gọi của các phạm trù biểu vật. Chẳng hạn, trường nghĩa về mắt ta sẽ có tập hợp các từ đồng nhất về phạm vi biểu vật như: + Cấu tạo của mắt: mi, mí, lòng đen, con ngươi, giác mạc,…
31
+ Hình dáng của mắt: tròn, dài, lá răm, mắt lươn, ti hí,… + Màu sắc của mắt: đen, nâu, trắng, xanh, huyền,… + Trạng thái của mắt: tinh, mờ, mù, lòa,… + Hoạt động của mắt: mở, nhắm, giương, trợn, nhìn, ngắm,…
Trong luận án này, THTM thuộc trường nghĩa “mắt” được chúng tôi phân tích chủ yếu ở phương diện trường nghĩa biểu vật. Các trường biểu vật rất khác nhau về số lượng, cách thức tổ chức các đơn vị, miền phân bố ở từng ngôn ngữ. Vì từ có tính nhiều nghĩa biểu vật, do đó một từ có thể nằm trong nhiều trường khác nhau, các từ có thể “thẩm thấu”, “giao thoa” nhau khi một số từ của trường này cùng nằm trong trường kia. Quan hệ của các từ đối với một trường biểu vật không giống nhau. Có những từ gắn rất chặt với trường (những từ, ngữ điển hình) có những từ, ngữ gắn lỏng lẻo hơn. Căn cứ vào tính chất, quan hệ giữa từ với trường, chúng ta hiểu rằng có một lõi trung tâm quy định những đặc trưng ngữ nghĩa của trường, gồm những từ điển hình cho nó. Ngoài cái lõi của trường là các lớp từ khác mỗi lúc một đi xa khỏi lõi, liên hệ với trường mờ nhạt đi. VD 5: Trong trường nghĩa mắt ta thấy có những từ không chỉ thuộc về trường nghĩa mắt mà còn thuộc về nhiều trường nghĩa khác nhau như từ “xanh”, “ đen” còn thuộc về trường nghĩa màu sắc; từ “hạt nhãn”, “lá răm” còn thuộc về trường nghĩa thực vật ...
Các trường nghĩa khác nhau có thể có một số lượng từ nhất định chung nhau. Các
trường nghĩa đó gọi là trường nghĩa giao nhau. - Trường nghĩa biểu niệm (trường biểu niệm)
Trường biểu niệm là một tập hợp từ có chung cấu trúc biểu niệm là các ý nghĩa biểu niệm của từ. Cũng như trường biểu vật, trường biểu niệm lớn có thể phân thành các trường nhỏ hơn với những miền, những mật độ khác nhau. Do từ có nhiều nghĩa biểu niệm cũng giao thoa, thẩm thấu vào nhau, cũng có lõi trung tâm là các từ điển hình và các lớp ngoại vi là các từ kém điển hình. Để xác lập một trường biểu niệm chúng ta dựa vào một cấu trúc nghĩa biểu niệm làm gốc đồng nhất nào đó trong nghĩa biểu niệm.
Chẳng hạn, có cấu trúc nghĩa biểu niệm: (hoạt động) (đưa mắt hướng vào đâu để thấy) ta sẽ xác lập được trường biểu niệm với các từ: nhìn, trông, ngó, liếc, ngắm, dòm/nhòm, thấy…
Các từ cùng trường nghĩa biểu niệm có thể rất khác nhau về trường biểu vật. Chẳng hạn, các từ “trườn”, “bay” đều thuộc về trường biểu niệm (hoạt động), (dời chỗ của người hoặc vật) song chúng lại thuộc về những trường biểu vật khác nhau: từ “trườn” thuộc trường nghĩa biểu vật của rắn, còn từ “bay” lại thuộc trường nghĩa biểu vật của chim.
32 - Trường nghĩa tuyến tính (trường nghĩa ngang)
Trường tuyến tính xuất phát từ tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ, các tín hiệu phải lần lượt kế tiếp thành một chuỗi chứ không thể đồng thời xuất hiện được, do đó quan hệ ngữ đoạn còn gọi là quan hệ hàng ngang hay quan hệ tuyến tính. Muốn có quan hệ ngữ đoạn với nhau, các yếu tố phải cùng thực hiện một chức năng về ngôn ngữ hoặc về nội dung giao tiếp. Thông qua các kết hợp ngữ đoạn các từ trung tâm sẽ bộc lộ các ý nghĩa từ vựng - ngữ pháp của chúng. Để lập một trường tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc rồi tìm tất cả những từ có mối quan hệ tương hợp về nghĩa với từ gốc đó và có thể kết hợp với nó thành những chuỗi tuyến tính chấp nhận được trong giao tiếp ngôn ngữ. VD 6: trường tuyến tính của “mắt” là tập hợp tất cả những từ có thể kết hợp ở trước và sau nó để tạo nên các sản phẩm lời nói: đen, nâu, trắng, đưa, liếc…
Trường tuyến tính của từ ăn là các từ: cơm, cháo, phở, chực, mày, tham, bẩn,
bám, gian, hối lộ, diện, cắp, đòn, nấu…
Trường tuyến tính của từ sách là các từ: dày, mỏng, thiếu nhi, khoa học, lậu,
quý, hiếm, đọc, xem, viết, bán, in…
Cùng với các trường nghĩa dọc, trường nghĩa ngang (trường tuyến tính) góp phần làm sáng tỏ những quan hệ và cấu trúc ngữ nghĩa của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những đặc điểm hoạt động của từ. Ở luận án này, trường nghĩa tuyến tính thể hiện ở sự kết hợp của “mắt” (hay biến thể của chúng) với các từ chỉ đặc điểm, tính chất, trạng thái của “mắt”… Và chính ở trường này giá trị biểu trưng của “mắt” được biểu hiện cụ thể. - Trường nghĩa liên tưởng (trường liên tưởng)
Trường liên tưởng là tập hợp các từ biểu thị các sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất… có quan hệ liên tưởng với một từ trung tâm. Các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện thực hóa, sự cố định bằng các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm. Các từ trong một trường liên tưởng trước hết là những từ cùng nằm trong trường trực tuyến và trường tuyến tính, tức là những từ có quan hệ cấu trúc đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung tâm. Trong trường liên tưởng còn có nhiều từ khác được liên tưởng tới do xuất hiện đồng thời với từ trung tâm trong những ngữ cảnh có chủ đề tương đối đồng nhất, lặp đi lặp lại. Điều này khiến cho các trường liên tưởng vừa có tính dân tộc, tính thời đại vừa có tính cá nhân. Chính vì vậy, các trường liên tưởng không có tính ổn định. Trong trường liên tưởng có những từ có ý nghĩa biểu vật giống nhau, nhưng cũng có những từ khác nhau về nghĩa. Có thể thấy mỗi trường liên tưởng đều được thiết lập dựa trên một mối tương đồng hay một sự giống nhau nào đó không liên quan tới khả năng chiếm giữ cùng một vị trí trên chuỗi lời nói, không liên quan tới khả năng thay thế cho nhau.
33 VD 7: trường liên tưởng do từ “mặt trời” gợi ra, như sau:
nóng
hành tinh
sáng
sao
lặn
buổi sáng
MẶT TRỜI
hoàng hôn
bình minh
ấm
phía đông
ban ngày
vũ trụ
nắng
mặt trăng
Hình vẽ dựa theo Guo Changhong [122, tr.53]. Như vậy, mỗi trường liên tưởng là một tập hợp các từ xuất hiện khi có một từ kích thích. Mỗi từ đều có thể trở thành từ trung tâm của một trường liên tưởng. Trường liên tưởng có tính chủ quan cao nên không ổn định, không giúp ích cho việc phát hiện những quan hệ cấu trúc ngữ nghĩa nội tại nhưng lại có hiệu lực cao trong giải thích việc dùng từ, đặc biệt là việc dùng từ trong các tác phẩm văn học. Khi thưởng thức và nghiên cứu văn học nhiều khi phải viện đến trường liên tưởng để lý giải các hiện tượng ý tại ngôn ngoại “sấm bên Đông động bên Tây, tuy rằng bên đấy nhưng đây động lòng”, hay chuỗi kết hợp bất thường, mơ hồ về nghĩa trong thơ ca hay các biểu tượng, biểu trưng văn học, chẳng hạn: Mắt em là một dòng sông/Thuyền anh bơi lội trong dòng mắt em (Lưu Trọng Lư).
Cần nói thêm, các nghiên cứu về ngữ cảnh từ trước đến nay mới chỉ đề cập đến ngữ cảnh của từ, của diễn ngôn chứ chưa đề cập đến ngữ cảnh của trường nghĩa. Song, khi hành chức, từ nào cũng thuộc về một trường ngữ nghĩa nhất định, nằm trong một diễn ngôn nhất định được xét theo một phương diện nhất định. Cho nên lí thuyết về ngữ cảnh của từ, của diễn ngôn theo chúng tôi cũng có thể tạm được xem như là lí thuyết về ngữ cảnh của trường nghĩa. Việc tìm hiểu ngữ cảnh của trường nghĩa “mắt”, chủ yếu được tiến hành theo định hướng ấy.
Đặt từ vào các trường liên tưởng tức là vào các ngữ cảnh, xét từ với tư cách là một thực thể lịch sử - giao tiếp nghệ thuật, tư cách THTM ta có thể minh định được lịch sử phát triển tâm lý xã hội luôn gắn liền với hoạt động tạo nghĩa, luận nghĩa các THTM. Đó là những gợi dẫn cần thiết phải tìm hiểu lí luận về THTM được trình bày tiếp dưới đây.
1.2.1.4. Hiện tượng chuyển trường Ngôn ngữ có tính đa trị (quy luật tiết kiệm) là dùng cái hữu hạn để biểu thị cái vô hạn. Quy luật này có mặt ở tất cả các cấp độ của ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Về mặt từ vựng, quy luật này thể hiện ở chỗ, cùng một hình thức âm thanh có thể diễn đạt được nhiều nội dung khác nhau. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng đa
34 nghĩa từ vựng, tính đa nghĩa của từ được coi là quy luật phổ quát trong ngôn ngữ. Sự chuyển biến ý nghĩa của từ tạo ra từ đa nghĩa. Từ ban đầu chỉ có một nghĩa biểu vật. Trong quá trình sử dụng chúng được gán thêm nghĩa biểu vật mới. Do đó, từ ngày càng có thêm nhiều nghĩa biểu vật. Do nhu cầu giao tiếp của xã hội đòi hỏi nên ngôn ngữ phải kịp thời sáng tạo ra những phương tiện mới hoặc dùng phương tiện sẵn có với ý nghĩa mới để biểu thị những sự vật, hiện tượng và những nhận thức mới xuất hiện trong xã hội, nhằm thay thế những cách diễn đạt, những tên gọi cũ đã mất, không còn khả năng gợi tả bộc lộ cảm xúc và gây ấn tượng sâu sắc ở người nghe. Thay đổi ý nghĩa của từ và đa dạng hóa nghĩa biểu vật của từ đã làm cho ngôn ngữ đa dạng và phong phú hơn, để đáp ứng kịp thời những nhu cầu giao tiếp trong sự biến đổi liên tục của xã hội loài người.
Các đơn vị ngôn ngữ trong hành chức luôn ở trạng thái vận động, biến đổi và chuyển hóa. Những biến đổi đó ban đầu xuất phát từ những cá nhân đơn lẻ, dần dần xã hội thừa nhận và sử dụng rộng rãi. Vấn đề tính nhiều nghĩa và sự chuyển biến ý nghĩa của từ cũng gắn liền với vấn đề trường nghĩa. Bởi vì, có những từ có nhiều nghĩa biểu vật nên chúng có thể nằm trong nhiều trường biểu vật hay trong nhiều trường nhỏ phụ thuộc vào số lượng các ý nghĩa biểu vật của những từ ấy. Sự chuyển nghĩa của từ thường kéo theo sự chuyển trường nghĩa (Khi nói đến chuyển trường tức là đã chuyển nghĩa, còn chuyển nghĩa chưa chắc đã chuyển trường. Ở luận án này, chúng tôi nghiên cứu hiện tượng chuyển trường của từ, không nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa của từ cùng trường). Những từ cùng một trường nghĩa thường có hướng chuyển nghĩa giống nhau. Khi các từ này xuất hiện trong ngữ cảnh với nghĩa mới, chúng vẫn giữ được một sắc thái nghĩa nào đó của nghĩa gốc. Điều đó làm cho các từ thêm phong phú về nội dung biểu đạt. Hiện tượng này góp thêm phần khẳng định tính đa trị trong ngôn ngữ. VD 8: Từ “mắt” có nghĩa gốc chỉ cơ quan để nhìn của con người hay động vật. Trong hoạt động hành chức, từ “mắt” chuyển nghĩa và chuyển sang các trường khác:
+ Chuyển sang trường nghĩa đồ vật, sự vật: mắt kính, mắt xích, mắt tre, mắt lưới, mắt cáo, mắt gà, mắt bão, mắt gió, mắt thuyền… + Chuyển sang trường nghĩa thể hiện bản chất, tính cách con người: mắt trắng môi thâm, mắt cú da lươn, mắt lươn… + Chuyển sang trường nghĩa trạng thái sức khỏe của con người: mắt hột, mắt lòa chân chậm, mắt bù lạch, mắt nổ đóm đóm…
Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp chuyển nghĩa đều chuyển trường. Có những trường hợp chỉ chuyển nghĩa trong trường nên không xảy ra hiện tượng chuyển trường.
35 VD 9: vẫn là từ “mắt” với nghĩa gốc như ở trên nhưng đã được chuyển nghĩa để chỉ các bộ phận khác của cơ thể người: mắt cá chân, …
Khi hiện tượng chuyển trường nghĩa diễn ra đối với hàng loạt các từ thuộc cùng một trường nghĩa và hướng đến cùng một trường nghĩa khác thì đó chính là một quá trình thể hiện một ẩn dụ ý niệm trong sự tri nhận của cộng đồng ngôn ngữ (từ miền nguồn sang miền đích). Chẳng hạn, hàng loạt các từ thuộc trường nghĩa “tiền bạc” (mất, còn, tiêu, tốn, tiết kiệm, lãng phí, tận dụng, sử dụng, quỹ...) đều chuyển sang sử dụng trong trường nghĩa “thời gian”. Đó chính là một ẩn dụ ý niệm trong sự tri nhận của người Việt: THỜI GIAN LÀ TIỀN BẠC. 1.2.2. Lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ Tín hiệu thẩm mỹ (THTM) trong tác phẩm văn học được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ để thể hiện những ý nghĩa thẩm mỹ, vừa thuộc phạm trù ngôn ngữ vừa thuộc phạm trù nghệ thuật. Vì vậy, nghiên cứu một THTM cũng phải tìm hiểu nó trên cơ sở ngôn ngữ học và mỹ học. 1.2.2.1. Cơ sở ngôn ngữ học
THTM xét về mặt bản chất cũng là một loại tín hiệu, hơn thế là một loại tín hiệu được xây dựng bằng chất liệu ngôn ngữ, vì thế THTM cần được xem xét trong phạm trù chung - phạm trù tín hiệu và trong mối quan hệ hữu cơ với hệ thống THNN được sử dụng làm phương tiện thể hiện trong tác phẩm văn học. a. Tín hiệu (ký hiệu): THTM vốn là một loại tín hiệu cho nên nó cũng mang những đặc trưng của tín hiệu (TH) nói chung. Vậy tín hiệu là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau về tín hiệu: Theo P.Guiraud: "Một tín hiệu là một kích thích mà tác động của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh ký ức của một kích thích khác" [Dẫn theo 16; tr.706]. Định nghĩa của P.Guiraud được xem là rộng là bởi vì nó bao gồm cả những tín hiệu hiểu theo nghĩa hẹp, cả những tín hiệu “nhận biết” và những tín hiệu “giao tiếp” có bản năng của loài vật.
Theo cách hiểu này, tất cả những hình thức vật chất có khả năng gợi ra hình ảnh đều được coi là tín hiệu, không phân biệt nguồn gốc tự nhiên hay nguồn gốc nhân tạo, có chức năng giao tiếp hay phi giao tiếp. Trong hệ thống đèn giao thông, màu đỏ báo hiệu dừng, màu vàng chuẩn bị, màu xanh được phép đi. Trong tự nhiên, một đám mây đen báo hiệu trời sắp mưa, một đêm nhiều sao báo hiệu hôm sau trời sẽ nắng to... Các nhà lý thuyết về thông tin gọi đó là những yếu tố mang "tin" (thông tin). Các nhà nghiên cứu nghĩa học gọi đó là những yếu tố mang nghĩa...
Theo A.Schaff định nghĩa tín hiệu theo nghĩa hẹp: “Một sự vật vật chất hay thuộc tính của nó, một hiện tượng thực tế sẽ trở thành tín hiệu nếu như trong quá trình giao tiếp, nó được các nhân vật giao tiếp sử dụng trong khuôn khổ của một ngôn ngữ
36 để truyền đạt một tư tưởng nào đó về thực tế, tức về thế giới bên ngoài hay về những cảm thụ nội tâm…” [Dẫn theo 16; tr.707].
Định nghĩa của A. Schaff hẹp là vì ông chỉ thừa nhận tín hiệu có chức năng giao tiếp được sử dụng trong hệ thống với tư cách như một ngôn ngữ để trao đổi tư tưởng tình cảm giữa con người. Nếu như tín hiệu không có chức năng giao tiếp thì không được xem là tín hiệu. Ví dụ như vũ điệu của loài ong không đủ điều kiện để trở thành tín hiệu, nó chỉ là tín hiệu “giao tiếp” không ý thức [16; tr.707]. F. De.Saussure cho rằng cả hợp thể cái biểu đạt và cái được biểu đạt thì mới là tín hiệu. Sự tương quan giữa cái được biểu hiện (Signifié) và cái biểu hiện (Signifiant) là cốt lõi của kí hiệu (tín hiệu) [Dẫn theo 28; tr.61]. Charles Sander Peirce lại cho rằng mô hình cấu trúc của tín hiệu tương tác giao tiếp phi ngôn ngữ trong quá trình liên tưởng. Theo ông, kí hiệu học được sắp xếp bởi một cấu trúc tam vị, các thành tố luôn có sự tương tác lẫn nhau. Những khía cạnh này gồm sự đại diện, đối tượng, sự biểu thị và nền móng đã làm nên “ý nghĩa mà các kí hiệu đã biểu thị thông qua chúng; mối quan hệ giữa chúng quyết định nghiêm ngặt tiến trình căn bản của kí hiệu học” [Dẫn theo 56; tr.133]. Theo Ch.W.Morris, TH có 3 mặt: kết học (syntaxtics) - quan hệ giữa các TH; nghĩa học (semantics) - quan hệ giữa TH với CĐBH và dụng học (pragmatics) - quan hệ giữa TH với người sử dụng (người lí giải). Như vậy, Morris và trước ông, Ch.S.Peirce đã đưa thêm vào cấu trúc TH nhị diện một nhân tố thứ ba nữa là cách lí giải - (interpretant) (theo Peirce) hay người sử dụng (interpreter), người lí giải (theo Morris). Cái mới của Morris ở đây là cần phải thấy được tính thống nhất biện chứng giữa hai mặt nội tại và ngoại tại của một TH [Dẫn theo 2; tr.19].
Dựa trên các ý kiến này, Đỗ Hữu Châu đã trình bày một cách sáng tỏ, cụ thể về những điều kiện cơ bản để một "kích thích" (hình thức vật chất tác động) được coi là một tín hiệu bằng việc xác định 4 nhân tố cần phải có với một TH:
+ Phải có một hình thức cảm tính (cái biểu hiện), tức là tín hiệu phải cho phép
con người cảm nhận được bằng giác quan;
+ Phải có một nội dung nghĩa (cái được biểu hiện), “một tín hiệu là một khái
niệm về quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt (ý nghĩa)”;
+ Phải được nhận thức bởi một chủ thể nào đó (đối tượng của thông tin) + Phải nằm trong hệ thống tín hiệu nhất định. Như vậy, hiểu khái niệm tín hiệu theo nghĩa rộng hay hẹp thì tín hiệu vẫn là một khái niệm quan hệ, không phải là một khái niệm vật tự thân. Có nghĩa là một sự vật (hay thuộc tính của vật chất hoặc hiện tượng) muốn trở thành tín hiệu phải nằm trong quan hệ với những sự vật khác [16; tr.707].
37
Từ những cách định nghĩa trên chúng tôi xin được đưa ra một quan niệm làm cơ sở cho luận án: Tín hiệu là một yếu tố bao hàm hai mặt: cái biểu hiện (CBH) và cái được biểu hiện (CĐBH), đồng thời cũng là một yếu tố chỉ có thể xác định được trong mối tương quan với chủ thể nhận thức và với hệ thống mà nó tham gia. b. Tín hiệu ngôn ngữ b.1. Khái niệm Theo F.de Sausure, mỗi TH gồm có 2 mặt là cái biểu hiện (CBH), tức hình thức vật chất cảm tính, và cái được biểu hiện (CĐBH), tức nội dung ý nghĩa; từ đó ông xác định tín hiệu ngôn ngữ như sau: “Tín hiệu ngôn ngữ kết liền hai thành phần mà nên, nó gắn liền làm một không phải một sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với một hình ảnh âm thanh” (image acouslique) [Dẫn theo 28; tr.71], hai yếu tố này gắn bó khăng khít với nhau và đã có cái này là có cái kia. Trong đó, khái niệm về sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất... mà âm thanh đó gọi tên phản ánh được gọi là cái được biểu hiện và hình ảnh âm thanh được gọi là cái biểu hiện.
Trong Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng [16; tr.722], Đỗ Hữu Châu coi ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu sơ cấp được xây dựng với những thể chất tinh thần và vật chất, đó là những âm thanh do bộ máy cấu âm của con người làm ra. Ông cũng đặc biệt lưu ý vấn đề chức năng và đặc tính đa chức năng của các THNN so với các hệ thống nói chung và tín hiệu mang chức năng giao tiếp nói riêng. Ngôn ngữ không chỉ thuần tuý mang chức năng giao tiếp mà còn là công cụ để tư duy, để tổ chức xã hội, để duy trì sự sống con người, còn mang chức năng thi pháp... THNN vì vậy vừa là tín hiệu giao tiếp vừa có thể là tín hiệu nhận thức, tín hiệu biểu hiện...
Từ những khía cạnh chức năng khác nhau của ngôn ngữ có thể xác định ý nghĩa "tín hiệu" của chúng trên tất cả đơn vị mang nghĩa (đơn vị hai mặt), như từ, cụm từ, câu, văn bản; một từ, ngữ, câu nói nào đó có thể vừa mang những thông tin về sự vật, hiện tượng được nói tới, vừa bộc lộ những đặc điểm về địa phương, nghề nghiệp, trạng thái tâm lý của người nói... Chẳng hạn, khi nghe lời đối thoại sau:
“- Rau ở đây ngon quá bà nhỉ. - Vâng cô ạ. Rau của làng tôi bán khắp ngoài phố. Hạt thóc bây giờ có được là bao đâu cô. Chúng tôi sống bằng đất màu là chính cô ạ. Mớ rau mớ cỏ nhì nhằng vậy mà cũng sống tốt cô ạ.” [6]
Qua lời đối thoại của bà lão bán rau không chỉ thấy được thông tin về chuyện những mớ rau ngon mà còn thấy đặc điểm về nghề nghiệp làm ruộng nơi cuộc sống của những người dân quê phải trông chờ vào mớ rau mớ cỏ, cuộc sống thanh đạm, mặc dù vậy con người cũng hết sức tự hào về mảnh đất quê mình với nhịp sống hồn hậu thân thương.
38
Giá trị của tín hiệu ngôn ngữ phải bao gồm quan hệ hai mặt: CBĐ và CĐBĐ (tức hình thức và nội dung) và phải ở trong một hệ thống nhất định. Từ quan hệ này, nghiên cứu THNN có thể định vị từ ba mối quan hệ chính: quan hệ giữa các tín hiệu với tín hiệu, quan hệ giữa tín hiệu với thực tế, quan hệ giữa tín hiệu với nhân vật giao tiếp. Từ ba quan hệ này hình thành ba bình diện nghiên cứu: kết học, nghĩa học và dụng học. THTM “mắt” trong luận án này cũng được xét theo cách hiểu trên. 1.2.2.2. Cơ sở mĩ học a. Tín hiệu thẩm mỹ (ký hiệu thẩm mỹ) a.1. Khái niệm Điểm chung nhất trong quan niệm của các nhà nghiên cứu là việc thừa nhận THTM là yếu tố thuộc hệ thống phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Đó là "những phương tiện nghệ thuật được tập trung theo một hệ thống tác động thẩm mỹ, được ta tiếp nhận như là những TH đặc biệt, có khả năng kích thích mạnh mẽ thế giới tinh thần của chúng ta", theo cách nói của Iu.A.Philippiep trong "Những tín hiệu của thông tin thẩm mỹ" [50], M.B.Khrapchenco [57] đã cụ thể hoá những phương tiện này, đó là những nhân hoá, ẩn dụ cố định, phúng dụ, tượng trưng, những hình tượng nghệ thuật đã được "mài mòn" và được "cố định hoá" về mặt nghĩa phù hợp với hoạt động, chức năng mà mọi người trong cộng đồng giao tiếp hiểu và công nhận. Nói đến "phương tiện của nghệ thuật" phải tính đến hai mặt: mặt thể chất và mặt tinh thần. Mặt thể chất có thể dễ dàng nhận biết và phân định qua sự nhận biết các chất liệu (hình thức vật chất) được sử dụng trong mỗi ngành nghệ thuật: đường nét, màu sắc trong hội hoạ, âm thanh có nhịp điệu trong âm nhạc, ngôn ngữ trong văn học. Còn mặt tinh thần thì trừu tượng và phức tạp, bao hàm nhiều loại nội dung, nhiều lớp ý nghĩa, nhiều tầng khái quát hoá, trừu tượng hoá mang tính thẩm mỹ [13].
Mặt tinh thần có thể gắn với hình thức vật chất trong một nội dung hiện thực cụ thể nào đó, nhưng cái làm nên giá trị nghệ thuật lại nằm ở sức khái quát của nội dung hình tượng "đồ sộ hơn rất nhiều so với ý nghĩa của bản thân thực tế, cuộc sống..." [50] Không thể đánh đồng phương tiện và chất liệu trong nghệ thuật cũng như không thể phân định THTM chỉ căn cứ trên chất liệu. Trong văn học, không thể đánh đồng phương tiện - THTM với ngôn ngữ thông thường được sử dụng làm chất liệu của tác phẩm. Chính vì vậy, Yu.M.Lotman đã viết: “Văn học nói bằng một thứ ngôn ngữ đặc biệt, thứ ngôn ngữ được xây chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên với tư cách là hệ thống cấp hai [570, tr.64].
Như vậy có sự chuyển hóa các kí hiệu ngôn ngữ phổ thông thành các yếu tố của tín hiệu nghệ thuật, nói cách khác, THNN nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở ngôn ngữ tự nhiên.
39
Theo Đỗ Hữu Châu thì "Với tư cách là thể chất của tác phẩm văn học, ngôn ngữ văn học có thể được coi là một hệ thống tín hiệu bao gồm các tín hiệu thông thường và các THTM. THTM phân biệt với các THNN tự nhiên ở chỗ ý nghĩa của nó không bao giờ chỉ dừng lại ở phạm vi tái tạo hiện thực mà phải là một tư tưởng, một ý nghĩ nào đó của người nghệ sĩ", nó phải là một khái quát nghệ thuật về tư tưởng.
Trên cơ sở phân tích trong phần 1.1.1 của Luận án, chúng tôi lưu ý đến các ý kiến bàn về mối quan hệ giữa kí hiệu, biểu tượng và văn hóa của Iu.M.Lotman, ở Việt Nam có các ý kiến của Đỗ Hải Phong, Lê Bảo, Nguyễn Đức Tồn, Lê Lưu Oanh, Nguyễn Thị Châm... Chúng tôi cũng đồng tình khi có tác giả cho rằng: Từ khi được con người trao gửi, kí thác, quy ước về những ý nghĩa, giá trị, quan hệ người thì biểu tượng kết tinh và lưu giữ trong mình những dấu ấn văn hóa. Cùng với sự tồn tại của biểu tượng, các giá trị văn hóa, bản sắc hóa sẽ được di truyền qua thời gian và không gian... Biểu tượng kết tinh nhiều ý nghĩa và giá trị bất biến trong tâm thức văn hóa của nhân loại, đến lượt mình, chúng được trao gửi vai trò lưu giữ và chuyển giao văn hóa trong không gian và thời gian [Dẫn theo 56, tr.145]. Cũng có thể nói như vậy về THTM.
Chúng tôi cũng thấy rằng văn học, nghệ thuật là tấm gương phản ánh hiện thực, thời đại, một hình thái ý thức xã hội đặc thù và góp phần tạo ra môi trường sống mang tính thẩm mỹ [27, tr.13]. Vì vậy dù muốn hay không những tác phẩm đó cũng mang dấu ấn văn hóa của con người thời đại đó. Và THTM trong tác phẩm văn học, nghệ thuật đó cũng sẽ mang dấu ấn của văn hóa thời đại đó, bị chi phối bởi phong cách sáng tác của cá nhân/tập thể sáng tạo nên tác phẩm đó.
Cùng với các kiến giải vừa trình bày ở trên, chúng tôi đề xuất định nghĩa có tính
tác nghiệp về THTM như sau:
THTM là TH thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện của các ngành nghệ thuật, bao gồm toàn bộ những yếu tố của hiện thực, của tâm trạng (những chi tiết, những sự vật, hiện tượng, những cảm xúc… trong đời sống hiện thực và tâm trạng) được lựa chọn, xây dựng và sáng tạo trong tác phẩm vì mục đích thẩm mỹ, trong đó cái biểu đạt của THTM là những yếu tố thuộc hệ thống phương tiện vật chất (chất liệu - các yếu tố của chất liệu ngôn ngữ với văn chương, các yếu tố của chất liệu màu sắc với hội họa; âm thanh nhịp điệu với âm nhạc…) được sử dụng trong các ngành nghệ thuật và CĐBĐ của THTM là những nội dung tinh thần mang tính thẩm mỹ. Đó là những hình dung về cuộc sống, đặc điểm tâm hồn, nhận thức trí tuệ, tư duy văn hóa của con người.
a.2. Điều kiện để một tín hiệu ngôn ngữ trở thành một tín hiệu thẩm mỹ Điều kiện thứ nhất: để các yếu tố hiện thực trở thành THTM là phải đảm bảo có một cái biểu hiện mang tính vật chất, phải mang một "vỏ vật chất" nhất định. Đó là
40 các hình thức vật chất (chất liệu) được sử dụng trong các ngành nghệ thuật: âm thanh, nhịp điệu trong âm nhạc, đường nét, màu sắc trong hội họa, ngôn ngữ trong văn học...
Điều kiện thứ hai: điều kiện về nội dung. THTM phải đảm bảo mang một nội dung tinh thần - cái được biểu hiện không giống với bản thân hiện thực được nói tới. "Con mèo con chó có lông - Cây tre có mắt nồi đồng có quai". Nếu chỉ có thế thì không phải là nghệ thuật. Những tín hiệu: "Con chó con mèo" ...ở đây chưa cho phép nghĩ đến một cái gì hơn thế. VD 10:
Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được…
(Sóng – Xuân Quỳnh)
Con sóng là một THTM được Xuân Quỳnh lựa chọn đưa vào tác phẩm của mình để thể hiện nhiều ý nghĩa thẩm mỹ. Ở đây con sóng ngoài ý nghĩa tả thực còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ nỗi lòng của người con gái đang yêu. VD 11: Trong mắt mẹ, cha thấy hoàng hôn đang rủ xuống … Nhìn vào mắt con, cha lại càng thương mẹ (Nhìn vào ánh mắt, Đào Ngọc Phong) [76]
Ở đây “mắt” là vật chứa tình yêu thương, đau xót của người cha khi nhìn đôi mắt của người vợ phút lâm chung và mắt con là vật chứa tình yêu trời bể của cha với con…
Điều kiện thứ ba: về chủ thể lý giải, một yếu tố hiện thực trở thành THTM là do vai trò của sự liên tưởng trong tư duy của chủ thể tiếp nhận. Những nội dung ý nghĩa thẩm mỹ có được tiếp nhận, được mở rộng, được đổi mới hay không qua các thời đại, các cộng đồng, các cá nhân... phụ thuộc ở những điều kiện về lịch sử, về tâm lý, xã hội, cá nhân liên quan đến sự liên tưởng của chủ thể tiếp nhận. Một dải yếm xưa không còn ngân nga về một tình yêu nồng nàn như trong câu ca dao:
Ước gì sông rộng một gang Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
chính là do ngày nay trong lớp trẻ "dải yếm" đã thành xa lạ.. Điều kiện thứ tư: nó phải nằm trong hệ thống nào? Một yếu tố hiện thực được coi là THTM chỉ khi nó tham gia vào hệ thống thực hiện chức năng thẩm mỹ, tham gia vào một chỉnh thể nhất định vì mục đích thẩm mỹ. Mỗi hệ thống (chỉnh thể) có những đặc điểm cụ thể riêng về thể chất, về cấu trúc, chức năng, với những kiểu quan hệ đem lại giá trị cụ thể riêng cho THTM trong mỗi lần xuất hiện.
41
Chẳng hạn có thể thấy ngay trong đoạn thơ sóng được trích dẫn ở trên, nếu hình ảnh sóng không được đặt trong chỉnh thể bài thơ của Xuân Quỳnh thì sóng không thể trở thành tín hiệu thẩm mỹ. Không nằm trong một hệ thống, sóng chỉ mang nghĩa chỉ một hiện tượng tự nhiên. Khi vào trong một chỉnh thể, sóng được mang thêm ý nghĩa thẩm mĩ mới, tức tín hiệu sóng lúc này đã thực hiện chức năng thẩm mỹ. Khi đó sóng đã trở thành tín hiệu thẩm mỹ. 1.2.2. 3. Tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm văn chương a. Chất liệu của THTM văn chương * THTM văn chương được xây dựng từ chất liệu ngôn ngữ tự nhiên
Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền (Ca dao)
Hai câu ca dao này đều gồm các tín hiệu ngôn ngữ. Đó là các từ được dùng trong giao tiếp hàng ngày… Nhưng khi đi vào nghệ thuật thì tín hiệu ngôn ngữ được chuyển hóa thành THTM. Ở câu ca dao này hai từ “thuyền”, “bến” trở thành THTM.
“Thuyền”: cái biểu đạt gồm 4 âm: th, uy, ê, n và thanh “huyền”; cái được biểu đạt chỉ vật thể do con người làm ra bằng tre, gỗ, có thể chuyển động trên mặt nước dùng chở người hoặc sự vật.
“Bến”: cái biểu đạt gồm 3 âm: b, ê, n và thanh “sắc”; cái được biểu đạt: vị trí trên
bờ sông, bờ biển; chỉ vị trí neo đậu của tàu thuyền trên bờ sông, bờ biển.
Khi đi vào sử dụng những từ này lại mang nghĩa mới; người đọc người nghe lĩnh hội và biết được ý nghĩa thẩm mỹ nhất định: biểu hiện những con người có quan hệ tình cảm gắn bó ngay cả trong trạng thái xa rời, chia cách. Ý nghĩa thẩm mỹ này có được do tín hiệu ngôn ngữ làm cơ sở.
Cơ sở 1: hai vật thể này trong quan hệ tương tác, bến sinh ra để cho thuyền, thuyền
phải có bến để cập bờ, bến dùng mục đích là để cho thuyền cập bờ.
Cơ sở 2: Bến thì cố định, thuyền di động vì thế có thể xa cách. Cơ sở 3: Dù xa cách, nhưng chỉ là tạm thời, có một ngày thuyền phải trở về với bến. Từ những cơ sở như vậy, tác giả ca dao đã xây dựng thành một THTM: đó là quan hệ tình cảm gắn bó giữa con người với con người, giữa hai người nam và nữ. Trên thực tế hai người này cũng có mối quan hệ chế định lẫn nhau giống như thuyền và bến. Vì thế thuyền và bến cùng nói về con người. Đây là tín hiệu thẩm mỹ.
Cũng giống như các loại hình nghệ thuật khác, THTM trong tác phẩm văn chương
cũng gồm hai loại: THTM đơn và THTM phức.
42 * Sự chuyển hóa THNN thành THTM văn chương
Tín hiệu ngôn ngữ là tổng thể hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Khi xây dựng THTM trong tác phẩm văn học, tổng thể hai mặt này chỉ đóng vai trò là cái biểu đạt của THTM. Còn cái được biểu đạt là ý nghĩa thẩm mỹ, đây là yếu tố mới nảy sinh trong THTM văn chương. VD 12: “thuyền” có cái biểu đạt là vỏ ngữ âm, cái được biểu đạt là ý nghĩa sự vật. Tất cả hai mặt cái biểu đạt và cái được biểu đạt này đều trở thành cái biểu đạt cho THTM “thuyền” trong câu ca dao, cái được biểu đạt lúc này là ý nghĩa thẩm mỹ mới xuất hiện trong văn cảnh của câu ca dao chỉ quan hệ tình cảm con người.
- Sự giống và khác nhau giữa THNN và THTM văn chương: + Giống: cả hai đều là tín hiệu, đều có hai mặt: CBĐ và CĐBĐ. CBĐ luôn là các yếu tố vật chất, con người có thể cảm nhận được bằng giác quan. Trong văn chương, THTM cũng có tính hình tuyến như THNN. CĐBĐ của THNN cũng lần lượt được biểu đạt trong các tác phẩm văn chương. Đọc tác phẩm văn học cũng phải lần lượt từ đầu đến cuối.
+ Điểm khác biệt: Khác biệt thứ nhất: Ở THNN thông thường thì quan hệ hai mặt mang tính võ đoán cao. Còn THTM thì quan hệ giữa hai mặt mang tính có lí do. Do đó, có thể giải thích được mối quan hệ của THTM với ý nghĩa thẩm mỹ mà nó được biểu hiện.
Trở lại ví dụ trên, “thuyền” trong mối quan hệ với cái được biểu đạt (sự vật) thì không có lí do; còn khi trở thành THTM thì có thể lí giải được. “Thuyền” chỉ người con trai, “bến” chỉ người con gái; thuyền và bến được dùng để chỉ quan hệ tình cảm. CBĐ và CĐBĐ là có lí do. Tính có lí do này do người đọc tạo nên, nhưng người nghe có thể hiểu được.
Khác biệt thứ hai: nằm trong bản thân CĐBĐ của THTM, ý nghĩa thẩm mỹ là loại nghĩa thể hiện cái đẹp, vươn tới cái đẹp trong cuộc sống con người, được con người đánh giá là tích cực theo những chuẩn mực nhất định. b. Các cấp độ của tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm văn chương
Đỗ Hữu Châu phân biệt THTM ở hai cấp độ cơ bản:
* Cấp độ cơ sở (TH đơn): THTM ứng với một chi tiết, một sự vật hiện tượng thuộc thế giới khách quan: mặt trời, con thuyền, nỗi nhớ v.v... Đó là các TH cơ sở có chức năng tham gia cấu tạo nên THTM ở cấp độ cao hơn. CBH - TH ở cấp cơ sở này có thể tương ứng với đơn vị từ trong TH ngôn ngữ tự nhiên. * Cấp độ xây dựng (TH phức): Là loại THTM ứng với nhiều sự vật, hiện tượng... được xây dựng từ những TH đơn nhưng ý nghĩa không phải là kết quả của phép cộng đơn giản các TH đơn. CBH của THVC-TH ở cấp xây dựng này có thể tương ứng với các đơn vị câu, đoạn, văn bản trong hệ thống các TH ngôn ngữ tự nhiên.
43
Theo quan niệm của Bùi Minh Toán [98, tr.152]: từ một tác phẩm nhỏ (như một câu ca dao hay tục ngữ) đến một tác phẩm lớn, đồ sộ (như một thiên tiểu thuyết nhiều tập), các THNN có thể phân biệt theo hai cấp độ: vi mô (tín hiệu đơn) và vĩ mô (tín hiệu phức). Về cơ bản quan niệm của Bùi Minh Toán thống nhất với quan niệm của Đỗ Hữu Châu, tuy nhiên có cụ thể hơn về các khía cạnh của cấp độ. Chẳng hạn trong THTM vi mô (tín hiệu đơn), Bùi Minh Toán cho rằng tổng thể hai mặt của các từ trong ngôn ngữ thông thường khi được nhà nghệ sĩ lựa chọn và chuyển hóa sẽ trở thành một THTM đơn với các ý nghĩa thẩm mỹ nhất định. Tiêu biểu nhất là các từ được gọi là nhãn tự. THTM vi mô có thể chỉ hiện diện trong một câu, ở một từ. Ví dụ, trong câu tục ngữ: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, có những THTM vi mô tiêu biểu như mực, đèn, đen, sáng, gần. Những tín hiệu này có ý nghĩa thẩm mỹ và phối hợp với nhau để tạo nên ý nghĩa thẩm mỹ của cả câu tục ngữ: sống ở môi trường có những cái xấu, cái tiêu cực thì sẽ bị ảnh hưởng và có thể trở nên xấu xa; còn sống ở môi trường tốt, tích cực thì sẽ được tiếp nhận cái tốt và trở nên tốt đẹp.
Trong THTM vĩ mô (tín hiệu phức), Bùi Minh Toán đã chỉ rõ sự đồng nhất về các cấp độ cấp độ tín hiệu. Theo ông, một bức tượng Phật tọa trên một tòa sen gồm nhiều THTM đơn: tòa sen, nét mặt, cặp mắt, đôi tay, trang phục…, mỗi tín hiệu nói về một phương diện trong phẩm chất đức độ, điểm nhìn, của đức Phật. Toàn bộ bức tượng là một THTM vĩ mô. Cũng theo Bùi Minh Toán, trong một tác phẩm văn chương, THTM ở tầm vĩ mô thường được gọi là hình tượng nghệ thuật. Lúc đó, THTM vĩ mô bao trùm cả tác phẩm hay một bộ phận trong tác phẩm chứ không chỉ tồn tại trong một câu hay một đoạn. Ví dụ, toàn bộ bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là một THTM vĩ mô. Bao trùm toàn bộ bài thơ là hình tượng sóng - THTM vĩ mô thể hiện ý nghĩa thẩm mỹ: trạng thái xúc cảm và tâm lí của người con gái trong tình yêu đôi lứa. Góp phần tạo nên tín hiệu lớn này là rất nhiều THTM vi mô trong bài thơ, ngay từ những tín hiệu đầu tiên: dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ, sống, sóng, bể… Từ tất cả các tín hiệu vi mô, tác giả đã khéo léo cấu tứ, phối hợp chúng với nhau để tạo nên THTM vĩ mô. Từ những tín hiệu ngôn ngữ nói về các trạng thái của sóng biển (dữ dội, dịu êm…), nói về nơi khởi nguồn của nó (gió), nói về những con sóng trên mặt nước, dưới lòng sâu, những con sóng bên bờ đến những con sóng ngoài khơi…, tất cả nhằm đến đích thẩm mỹ là trạng thái tình cảm, cảm xúc của người con gái trong tình yêu. Do đó, tín hiệu thẩm mỹ vĩ mô bao trùm bài thơ là tín hiệu sóng đã có giá trị thẩm mỹ cao đẹp.
Đối với các tác phẩm tự sự, THTM vĩ mô là những hình tượng nhân vật xuất hiện trong toàn bộ tác phẩm hay ở một phần cuả tác phẩm. Trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, hình tượng Chí Phèo là một THTM vĩ mô: từ những tín hiệu ngôn ngữ nói về hình dáng bên ngoài, cử chỉ, hành động, trạng thái tâm lí… đều tổng hợp để tạo
44 nên THTM thể hiện điển hình văn học về người nông dân bị tha hóa trước Cách mạng tháng Tám: tuy bị biến dạng cả về nhân hình, nhân tính, nhưng người nông dân vẫn tiềm tàng bản tính lương thiện, vẫn khát khao được sống cuộc đời bình dị, lương thiện. Có thể thấy mối quan hệ giữa THTM vi mô và vĩ mô là đồng thời tồn tại trong tác phẩm văn chương. Các tín hiệu vi mô là những tế bào phối hợp thành một chỉnh thể là THTM vĩ mô. Khi tiếp nhận và lĩnh hội tác phẩm văn chương, độc giả không chỉ lĩnh hội các THTM vi mô, mà còn tiến tới lĩnh hội THTM vĩ mô.
Việc nghiên cứu THTM thuộc trường nghĩa mắt cũng được tiến hành xem xét
cả ở hai cấp độ tín hiệu cấp cơ sở (tín hiệu đơn), và cấp xây dựng (tín hiệu phức). c. Phương thức cấu tạo tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm văn chương
Có hai phương thức cơ bản để xây dựng THTM: phương thức ẩn dụ, phương
thức hoán dụ. * Phương thức ẩn dụ: là phương thức chuyển nghĩa lấy tên gọi của đối tượng này làm tên gọi cho đối tượng khác dựa trên mối quan hệ tương đồng, tức là giống nhau một nét nghĩa nào đó giữa hai đối tượng. VD: tóc chỉ bộ phận cơ thể người nhưng lại có thể được dùng để chỉ sợi kim loại trong bóng điện tròn; mối quan hệ giữa hai nghĩa này dựa trên sự ương đồng giữa hai đối tượng: sợi mảnh. Vì vậy đây là cách nói ẩn dụ.
Phương thức ẩn dụ trong ngôn ngữ không nhằm thể hiện một ý nghĩa thẩm mỹ. Trong nghệ thuật văn chương, phương thức ẩn dụ để xây dựng THTM và biểu hiện ý nghĩa thẩm mỹ xuất phát từ quan hệ tương đồng. Nhà văn đã phát hiện ra trong sự vật, hiện tượng tiềm ẩn một mối quan hệ tương đồng với ý nghĩa thẩm mỹ định biểu hiện và dùng từ ngữ vốn là tên gọi sự vật, hiện tượng đó để làm chất liệu xây dựng THTM.
- THNN dùng để xây dựng THTM đơn (từ, ngữ cố định) thì ta có ẩn dụ tu từ. - THNN dùng để xây dựng THTM phức (bao trùm cả tác phẩm).
VD 13: Trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, hình tượng sóng là một THTM phức, là sóng thực nhưng cũng có thể là sóng lòng. Nhà thơ đã phát hiện ra mối quan hệ tương đồng giữa sóng biển và trạng thái tâm lí tình cảm của người con gái trong yêu đương (một sự tương đồng về nhiều mặt: trạng thái sôi nổi hoặc lặng lẽ, nơi khởi nguồn, sự thể hiện ở mọi nơi, mọi lúc…). Từ đó, tác giả dùng các tín hiệu ngôn ngữ thuộc trường từ vựng sóng biển để xây dựng THTM sóng.
Tương tự vậy, các nhân vật trong tác phẩm tự sự cũng là những THTM phức. Trong tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài, nhân vật dế mèn có nhiều nét tương đồng với con người: thích đi đây đi đó, có lúc nông nổi. Đó cũng là tính cách của những chàng trai mới lớn: tự kiêu, hào hiệp có lúc muốn che chở cho người khác.
Như vậy, với phương thức ẩn dụ, để xây dựng THTM, tác giả cần trải qua một
quá trình với nhiều công đoạn:
45 - Quan sát, nhận thức, cảm nhận, phát hiện ra đối tượng hàm chứa sự tương
đồng với ý nghĩa thẩm mỹ định thể hiện.
- Lựa chọn và sử dụng từ ngữ (tín hiệu ngôn ngữ) gọi tên đối tượng trong
hiện thực.
- Chuyển hóa THNN thành THTM: giữ nguyên cái biểu đạt, nhưng chuyển cái
được biểu đạt của THNN thành cái được biểu đạt của THTM (ý nghĩa thẩm mỹ). * Phương thức hoán dụ: là phương thức chuyển nghĩa lấy tên gọi của đối tượng này dùng cho đối tượng khác dựa trên mối quan hệ tương cận. Quan hệ tương cận không chỉ là sự gần gũi về không gian, mà còn là mối quan hệ gắn bó với nhau, luôn đi đôi với nhau, kéo theo nhau hay tồn tại song song với nhau trong thực tế.
- THNN cũng dùng phương thức hoán dụ. Chẳng hạn: Nhà tôi có năm miệng
ăn, “miệng” là một hoán dụ tu từ láy bộ phận chỉ toàn thể.
- THTM cũng được xây dựng theo phương thức hoán dụ: có hai trường hợp: + THTM đơn: liên quan đến các từ dùng phương thức hoán dụ để tạo nên
(Việt Bắc – Tố Hữu) Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
THTM thì ta có hoán dụ tu từ. VD 14: Áo chàm đưa buổi phân ly THTM áo chàm là kết quả của phương thức hoán dụ, lấy bộ phận để chỉ toàn thể, lấy trang phục để chỉ người. Áo chàm là một thứ trang phục truyền thống của dân tộc chàm sống ở Việt Bắc. Cách nói này đã mang thêm ý nghĩa thẩm mỹ mới: từ màu chàm bình dị, bền bỉ khó phai, mà nói tới người Việt Bắc giản dị, cần cù nhưng thủy chung với cách mạng với kháng chiến, những ân tình cách mạng sâu nặng của người cán bộ kháng chiến với quê hương cách mạng… Như vậy dựa trên phương thức hoán dụ, mối liên tưởng tương cận, từ yếu tố ngôn ngữ ban đầu, người nghệ sỹ đã tạo ra THTM với nhiều ý nghĩa biểu trưng và biểu cảm phong phú trong tác phẩm nghệ thuật của mình.
+ THTM phức: trường hợp các nhân vật trong tác phẩm văn học, mỗi nhân vật tiêu biểu cho cả một lớp người, có mối quan hệ giữa cái bộ phận và cái toàn thể; tác giả phải khái quát hóa từ rất nhiều cá thể trong hiện thực khách quan để tạo nên những nhân vật điển hình tiêu biểu cho một lớp người. VD 15: Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là tiêu biểu cho một bộ phận người nông dân bị tha hóa trước Cách mạng tháng Tám. Nhà văn Nam Cao đã lấy nguyên mẫu từ những con người có thực, nhưng không phải một con người cụ thể nào mà dựa trên sự quan sát nhiều đối tượng cá thể có biểu hiện tha hóa để từ đó khái quát nên một Chí Phèo điển hình cho một loại người. Nói vậy không có nghĩa nhân vật Chí Phèo chỉ có tính chung. Giữa rất nhiều tên lưu manh do bị tha hóa: Binh Chức,
46 Năm Thọ (Chí Phèo), Trạch Văn Đoành, cu Lộ (Tư cách mõ) Chí Phèo không thể trộn lẫn bởi cá tính sinh động, độc đáo; biểu hiện từ dáng vẻ bề ngoài, cách uống rượu, tiếng chửi, cho đến cách tỏ tình…Với những biểu hiện chung – riêng ấy, nhân vật Chí Phèo đã trở thành một THTM mang nhiều YNTM độc đáo.
Hai phương thức cơ bản để xây dựng THTM: hoán dụ, ẩn dụ đã tạo nên những THTM đơn, phức. Khi xây dựng THTM, nhà văn cần phát hiện ra mối quan hệ tương đồng hoặc tương cận. Đó là nguồn gốc của THTM. Khi tiếp cận với tác phẩm văn học, người đọc cũng lại phát hiện ra quan hệ tương đồng hay tương cận để lí giải về YNTM. d. Tính chất của THTM trong tác phẩm văn chương
THTM trong ngôn ngữ văn học là kiểu tín hiệu đặc biệt, được tổ chức lại từ THTM nguyên cấp (sự vật, hình ảnh, hoạt động…) và THNN được coi là tín hiệu bậc hai, xét trong mối quan hệ với THTM nguyên cấp. Như vậy có thể nói, THTM là một hệ thống trung gian chuyển hóa và đồng nhất cả hai hệ thống tín hiệu nói trên.
Theo TS. Nguyễn Thị Ngân Hoa [46, tr.73], xét ở bình diện văn hóa, THTM là
Vì vậy, khi xét THTM trong ngôn ngữ văn học cần phải xét những đặc trưng văn hóa của các THTM nguyên cấp: tính nhân loại và tính dân tộc, tính truyền thống và tính hiện đại. Ngoài ra còn phải xét những thuộc tính của THTM được đồng hóa trong THTM với tư cách là chất liệu của văn học: tính phi vật thể, tính hình tuyến của THTM – ngôn từ… * Tính nhân loại, tính dân tộc, tính lịch sử của THTM văn chương cấp độ biểu hiện của các mẫu gốc và các biểu tượng của những nền văn hóa nhất định.
Mẫu gốc chính là các yếu tố ăn sâu vào đời sống tinh thần, trong chiều sâu vô thức của cả cộng đồng, mang tính nhân loại được biểu hiện thông qua các hình tượng huyền thoại. Mỗi nền văn hóa đều có những mẫu gốc đặc trưng mang tính dân tộc nhưng vẫn nằm trong mối liên hệ sâu xa vói nội dung của văn hóa nhân loại. VD 16: Nước được coi là “siêu mẫu” trong văn hóa toàn nhân loại. Từ đó có thể hình thành những hệ biểu tượng làm nên đặc trưng của các cộng đồng văn hóa.
+ Trong thần thoại Hy Lạp, nước gắn liền với biểu tượng “biển” - ngọn nguồn
phát sinh tình yêu, sắc đẹp, nghệ thuật (nơi đã sinh ra nàng Aphrodite).
+ Trong kinh Cựu ước, nước được biểu hiện như là nguồn sống đồng thời như
sự trừng phạt, sự nhấn chìm (Đại hồng thủy).
+ Trong văn hóa Trung Hoa, nước là trạng thái vô cực, không có đỉnh, hỗn mang, gợi lên sự biến hóa, trôi chảy, dòng nước, biển nước cũng được hiểu như dòng đời, biển đời, là thời gian làm suy biến hay bồi đắp.
+ Đối với các tác giả trong văn học Việt Nam nước được hiểu rất đa dạng. Huy Cận trong bài Tràng giang biểu hiện nước qua hình ảnh tràng giang (sông dài) như là
47 biểu tượng dòng thời gian, dòng đời, và cụ thể hơn là biểu tượng về con sông đất nước, giang sơn. Đối với Hàn Mạc Tử, giếng nước lại là cõi của sự chết, là vực thẳm – nơi trăng, biểu tượng của cái đẹp sẽ bị sa giáng trong tăm tối, hỗn loạn [46, tr.78].
Chúng ta biết rằng, các yếu tố hiện thực xuất hiện ở một dân tộc nhất định, trong một nền văn hoá nhất định đều chịu sự chi phối của nền văn hoá dân tộc đó. Chính vì vậy, THTM có những nét chung nhưng cũng có những nét riêng cho mỗi dân tộc. THTM chung của nhân loại khi đi vào các dân tộc có thể có những biến đổi riêng theo các dân tộc đó. Ví như THTM “bùn lầy” đều có ở trong thơ Pháp và trong thơ Việt Nam. Tuy nhiên, ở trong thơ Việt, khi nói đến “bùn lầy” tức là nói đến sự vất vả, sự khốn quẫn của người nông dân về đời sống kinh tế. Chẳng hạn: “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Trong thơ Charles Baudelaire, “bùn” được dùng với nghĩa chỉ sự đồi bại về đạo đức, về sự bẩn thỉu của nhân cách: “Ở nơi đây bùn lầy đã được tạo nên bằng nước mắt của chúng ta”.
Các THTM đều được khai thác từ hiện thực nên qua chúng, người ta có thể nghe được hơi thở của dân tộc mình. Trong hiện thực, dòng sông mang ý nghĩa ngăn cách vì vậy trong văn học THTM dòng sông thường có ý nghĩa cách trở. Để diễn tả những cuộc chia tay, người ta thường dùng THTM “dòng sông”:
Đưa người ta không đưa qua sông Sao có tiếng sóng ở trong lòng”
(Thâm Tâm). Sự chuyển hóa từ mẫu gốc, hệ biểu tượng đến các tín hiệu và các hình ảnh cụ thể là quá trình biểu hiện rõ tính nhân loại cũng như đặc trưng văn hóa dân tộc mang tính truyền thống và sự sáng tạo chủ thể. * Tính phi vật thể và phi trực quan của THTM trong tác phẩm văn chương
Tính phi vật thể, phi trực quan của THTM trong văn chương biểu hiện ở chỗ người ta không thể trực tiếp cảm nhận bằng giác quan cơ thể các THTM có trong tác phẩm, mà những THTM đó chỉ hiện lên thông qua sự liên tưởng, tưởng tượng của người đọc, người nghe. Hình tượng (tín hiệu) Thúy Kiều, Từ Hải…chỉ hiện lên trong trí tưởng tượng của người đọc mà không thể sờ thấy, nhìn thấy, nghe thấy. Đây là một sự thay đổi về chất so với các biểu tượng cảm tính, trực quan nguyên cấp; là bản chất của THTM. Có người nói: cái chủ yếu trong âm nhạc là cái không nghe thấy được, còn trong nghệ thuật tạo hình là cái không nhìn thấy được, không sờ mó được.
Chức năng tác động của THTM văn chương khác hẳn với những tín hiệu mang tính kích thích trực tiếp, khác ở chỗ nó không nhằm vào việc tạo nên những phản ứng tức thời theo những thông điệp nhất định. Tác động thẩm mỹ là sự tác động đến khả năng tự ý thức, thấu hiểu bản chất tinh thần của đối tượng và của chính mình trong khát vọng hướng tới sự hoàn thiện toàn mỹ.
48 * Tính hình tuyến của THTM trong ngôn ngữ văn học
Tính hình tuyến của ngôn ngữ là trong quá trình hiện thực hóa, các yếu tố của ngôn ngữ xuất hiện lần lượt cái nọ sau cái kia tạo thành chuỗi. Tính hình tuyến của ngôn ngữ cho phép tạo ra quan hệ nối kết các đơn vị ngôn ngữ theo trình tự thời gian, tức là theo quan hệ ngang (quan hệ ngữ đoạn). Quan hệ ngữ đoạn là quan hệ giữa các yếu tố, các đơn vị ngôn ngữ nối tiếp nhau trên trục ngang, theo tuyến tính. Trên trục ấy chỉ có những đơn vị đồng loại mới có thể trực tiếp kết hợp với nhau, ví dụ như là âm vị với âm vị, hình vị với hình vị, từ với từ và câu với câu; không có sự kết hợp hình vị với âm vị, hình vị với câu… Những mối quan hệ ngữ đoạn đảm bảo ý nghĩa nhất định cho các từ ngữ mà tác giả sử dụng cũng như định hướng cho sự tiếp nhận của người đọc. Trong những mối quan hệ tuyến tính cụ thể tập hợp những khả năng gợi ra ý nghĩa của các biểu tượng văn hóa được định hình trong một số ý nghĩa xác định hoặc mở rộng các ý nghĩa này bởi những liên hệ ngữ đoạn của tín hiệu.
Trong ngôn ngữ văn học, các THTM phải được tổ chức lại dựa trên tính hình tuyến chặt chẽ của ngôn từ. Có nghĩa là, các tín hiệu thẩm mỹ được cấu tạo, tổ chức, sắp xếp dựa trên sự xuất hiện lần lượt của các chuỗi đơn vị ngôn ngữ. Những mối quan hệ ngữ đoạn đảm bảo một ý nghĩa nhất định cho các từ ngữ mà các tác giả sử dụng cũng như định hướng cho sự tiếp nhận của người đọc.
Biểu hiện của tính hình tuyến: trong mối liên hệ tuyến tính của tín hiệu, những quan hệ của đối tượng được biểu hiện theo những cách khác nhau: tuân thủ cấu trúc theo những quy tắc ngữ nghĩa - cú pháp hay phá vỡ cấu trúc, thay đổi những quy tắc ngữ nghĩa - cú pháp này.
Do luôn luôn hạn chế trong một trình tự tuyến tính chặt chẽ; các hình ảnh, trạng thái được biểu hiện qua THTM của tác phẩm văn học đều được hình tuyến hóa, thời gian hóa, sự kiện hóa. Chẳng hạn, tín hiệu thẩm mỹ sen lần lượt hiện lên theo trật tự tuyến tính như sau: nơi chốn - cấu tạo - màu sắc - hương thơm…: Trong đầm gì đẹp bằng sen - Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng - Nhị vàng, bông trắng, lá xanh - Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn (Ca dao).
Tính hình tuyến vừa là ưu thế vừa là hạn chế của tín hiệu thẩm mỹ văn chương. Bản thân trật tự tuyến tính đã là trật tự mang nghĩa, định hướng tiếp nhận cho người đọc. Nhưng cũng vì trật tự tuyến tính mà THTM bị hạn chế trong khả năng biểu hiện về không gian, THTM không thể hiện lên đồng thời toàn diện ngay trong trí tưởng tượng của người đọc, buộc người đọc phải theo trật tự tuyến tính mà lần lượt hình dung về đối tượng…Vậy khi sáng tác, các nhà văn đã khắc phục tính hình tuyến như thế nào? Những cách khắc phục đó có thể kể đến như:
49 + Cách tổ chức các cấu trúc cú pháp hoàn toàn độc lập trong thơ Đường luật tạo
nên khả năng trình bày những hình ảnh đồng hiện.
+ Những phép đối, phép lặp, phép đảo trật tự từ nhằm khắc phục tính hình tuyến,
tính thời gian hóa để tạo nên khả năng biểu hiện không gian của THTM. VD 17: Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Thu ẩm - Nguyễn Khuyến
Nghệ thuật đối được sử dụng trong hai câu thơ kết hợp với tiểu đối trong câu hai: ngõ tối đêm sâu/đóm lập lòe đã giúp người đọc hình dung ra một cảnh đêm thu ở đồng bằng Bắc bộ yên tĩnh, sâu thẳm. Không gian cảnh vật được nhìn từ năm gian nhà cỏ rồi mở rộng kéo dài hun hút đến các ngõ xóm trong đêm sâu, khơi gợi một cảm giác yên tĩnh lạ lùng. Cái tối của ngõ, của đêm càng được tô đậm bởi cái lập lòe của đom đóm…Như vậy, nhờ phép đối, câu thơ của Nguyễn Khuyến không chỉ tái hiện được thời gian mà còn tái tạo được cả không gian đồng hiện của các sự vật trong đêm thu Bắc bộ.
+ Trong thơ hiện đại, thơ tự do: các thủ pháp bắc cầu , đối, lặp, đảo trật tự vẫn có tác dụng tạo ra những điểm nhấn đồng hiện cả trong không gian và thời gian, vượt ra khỏi tính tuần tự đều đặn của chuỗi ngôn từ.
Những trình bày về quan hệ tuyến tính của THTM là cơ sở để luận án nhận
+ Trong tác phẩm tự sự: khắc phục bằng các thủ pháp tạo nên độ chênh giữa thời gian trần thuật và thời gian sự kiện: đảo trình tự thời gian, tạo sự lệch pha giữa tỉ lệ thời gian sự kiện và thời gian trần thuật, phá vỡ phạm trù thời của động từ. VD 18: Trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã không đi theo trật tự hành trình số phận của Chí mà có sự đảo ngược thời gian, đưa đoạn đời một Chí Phèo say rượu lưu manh lên đầu tác phẩm, sau đó mới quay về quá khứ lật lại nguồn gốc lai lịch và hành trình trở thành lưu manh của Chí…tạo ra tính chất đồng hiện về thời gian, người đọc hứng thú và có cái nhìn toàn diện hơn về nhân vật. diện, miêu tả, phân tích ý nghĩa của THTM “mắt”. * Tính biểu trưng của THTM văn chương Tính biểu trưng là đặc tính của THTM trong các lĩnh vực nghệ thuật nói chung, xét trong mối quan hệ hai mặt CBH và CĐBH. Đó là mối quan hệ "có lý do", liên quan đến năng lực biểu trưng hoá của các yếu tố, các chi tiết, các sự vật hiện tượng được đưa vào làm THTM trong tác phẩm. Theo Từ điển tu từ phong cách học của Nguyễn Thái Hòa [109, tr.103], “Tính biểu trưng là khả năng gợi ra một đối tượng khác ngoài sự thể hiện cụ thể của dấu hiệu đó và được cộng đồng chấp nhận”. Ch.S.Pierce cho rằng: "biểu trưng có quan hệ với đối tượng của nó chỉ qua một nghĩa có tính chất ước lệ mà người ta gán cho nó trong một hoàn cảnh nào đó... Nghĩa
50 đó là do con người trong cộng đồng đặt ra thôi” [Dẫn theo 31; tr.186]. Biểu trưng, một mặt có tính hình tượng cụ thể, cái biểu hiện của nó là một đối tượng nào đó được quy chiếu từ hiện thực. Mặt khác, là ý nghĩa xã hội nào đó được cả cộng đồng chấp nhận. Tính chất ước lệ chung cho CBH này chính là tính có lí do trong THTM nói chung. Đặc tính này còn cho thấy lối tư duy, quan niệm xã hội... gắn với một cộng đồng nào đấy, từ đó hình thành nên một quan niệm xã hội được cả cộng đồng chấp nhận.
Cũng do tính biểu trưng, hiệu lực, giá trị của THTM phụ thuộc vào cách tri nhận, cách giải thích theo một thiên hướng nào đấy, một “mật ước” nào đấy của một cộng đồng mà có khi trái ngược với cộng đồng khác. Biểu trưng hoa sen với cộng đồng Ấn Độ giáo, Phật giáo như Nhật Bản, Việt Nam được hiểu theo ý nghĩa đạo đức trong trắng, tiết độ, cứng rắn, một hình ảnh đức hạnh, biểu hiện của người hiền.... Nhưng với cộng đồng từ Địa Trung Hải đến Ấn Độ và Trung Hoa, hoa sen “trước hết là bộ phận sinh dục, là âm hộ mẫu gốc, bảo đảm cho các cuộc sinh thành và tái sinh truyền lưu mãi mãi... Văn chương diễm tình Trung Hoa dùng từ “sen” để chỉ đích danh âm hộ và gọi các cô nàng đĩ thõa là Sen Vàng” [111, tr. 810]. Các yếu tố hiện thực phải mang trong nó những "phẩm chất" nhất định làm tiền đề cho sự so sánh, liên tưởng, khái quát hoá, trừu tượng hoá ... trong tư duy nghệ thuật. VD 19: Để biểu trưng cho làng quê Việt Nam, phải tính đến "cây đa", "bến nước", "sân đình"... Để biểu trưng cho cái lớn lao, vĩnh hằng, phải tính đến "trời xanh", "biển rộng", "núi cao", "sông dài"...
Hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam thường gắn với thân phận thấp bé: Con cò mà đi ăn đêm, Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
hoặc đức tính chịu thương chịu khó:
Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Có khi lại được hiểu là thân phận người phụ nữ...
THTM trong tác phẩm văn chương cũng thể hiện tính biểu trưng rất rõ trong các tác phẩm cụ thể. Tìm hiểu tính biểu trưng của THTM cũng là cơ sở để giải mã ý nghĩa thẩm mỹ trong tác phẩm văn chương.
Ngoài các tính chất trên, THTM trong tác phẩm văn chương còn có các đặc tính khác giống như các THTM thuộc các lĩnh vực nghệ thuật nói chung như: tính truyền thống và cách tân, tính hệ thống, tính trừu tượng và cụ thể, tính đẳng cấu… Trong đó, tính phi vật thể và phi trực quan, tính hình tuyến là những tính chất đặc thù nhất phân biệt THTM văn chương với các loại THTM thuộc các lĩnh vực nghệ thuật khác.
51 e. Chức năng của THTM trong tác phẩm văn chương
Để đạt đến một mục đích thẩm mỹ cao nhất, nghệ thuật phải là sự thanh lọc cảm xúc và nhận thức của cả tác giả và độc giả. THTM với tư cách là chất liệu trong tác phẩm văn học đã thực hiện được các chức năng: chức năng biểu hiện, chức năng tác động định hướng. Cụ thể: * Chức năng biểu hiện của THTM trong tác phẩm văn chương
Đối tượng mà tác phẩm văn học biểu hiện không phải là một đối tượng mang tính khách quan mà luôn là một đối tượng đã được chủ quan hóa, tinh thần hóa ở các mức độ khác nhau dù trong tác phẩm tự sự, trữ tình, kịch, văn học viết hay văn học truyền miệng. Cho nên cái cốt yếu mà ngôn ngữ nghệ thuật biểu hiện không phải là đặc điểm, thuộc tính hay trạng thái của đời sống mà là toàn bộ thế giới cảm xúc và tri nhận về đời sống ấy, trạng thái ấy, đặc điểm ấy của một của thể nhất định.
Các cách thực hiện chức năng biểu hiện của THTM: + Biểu hiện trực tiếp: những trạng thái nội tâm sâu kín nhất gắn kết con người với bản chất chân chính của các sự vật với sự tồn tại của cái toàn thể lí tưởng, vượt qua mọi giới hạn về vật chất, tinh thần trong trường hợp thơ trữ tình thuần túy.
+ Biểu hiện gián tiếp: thông qua sự tăng cường làm mạnh lên cái đẹp hiện hữu, tái tạo những những hiện tượng của đời sống dưới hình thức tập trung, thanh lọc và lí tưởng hóa trong hầu hết các loại thơ trữ tình và bi kịch.
+ Biểu hiện gián tiếp nhưng thông qua những phản xạ của thực tại cần có, thực tại mang tính lí tưởng khỏi đời sống mang tính hiện hữu không tương ứng. Đây là cách biểu hiện của ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự, hài kịch, thơ trào phúng. Trong các tác phẩm này, cái phi lí đáng hủy diệt đã bộc lộ cũng như hé mở cái đáng có, cái đáng được hiện hữu với tư cách như một sự đối lập với thực tại được miêu tả. Chẳng hạn, cái thế giới lố lăng mà sự giả dối khoác lác lên ngôi văn minh, anh hùng cứu quốc và tiết hạnh khả phong trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng đều là một phản đề với cái đáng lẽ phải có trong đời sống con người. Từ thực tại tầm thường, vô nghĩa lí ấy, nhà văn đã khao khát hướng tới một thực tại tốt đẹp hơn, không phải chỉ như một lí tưởng trừu tượng, một ý niệm tuyệt đối nhưng bất lực, mà là một sự hiện hữu của lí tưởng trong một thực thể xứng hợp.
Như vậy, chức năng biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật hoàn toàn thống hợp với chức năng thẩm mỹ, với nhiệm vụ chung của tác phẩm văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung: tác động đến thế giới bên ngoài nghệ thuật làm biểu hiện cái thực tại lí tưởng, làm cho thế giới vật chất thấm nhuần giá trị tinh thần và vĩnh cửu hóa cái đẹp mang tính cá thể của nó.
52 * Chức năng tác động của THTM trong tác phẩm văn chương
Ở đây chủ yếu nói tới tác động của THTM tới độc giả - một trong những nhân
vật giao tiếp tiềm năng của hoạt động sáng tạo nghệ thuật.
Tác động không phải chủ yếu đến những ấn tượng trực quan cảm tính của người tiếp nhận cũng như không phải là sự lây lan các trạng thái cảm xúc thông thường, mà đó là những trạng thái cảm xúc có khả năng thanh lọc những cảm xúc thông thường trở thành những giá trị tinh thần cần phải có, xứng đáng được hiển lộ trong thế giới tâm hồn con người; “từ cảm xúc do hình thức đến một cái gì tiếp sau đó” [Dẫn theo 46, tr. 108,109].
Tri giác cảm tính, yếu tố trước tiên của quá trình lĩnh hội, là yếu tố tối thiểu trong quá trình tác động đến tưởng tượng, cảm xúc và cả quá trình nhận thức thẩm mỹ ở người đọc.
Quá trình tác động thẩm mỹ chính là sự kích thích những năng lực tưởng tượng và cảm xúc một cách có định hướng rõ rệt nhằm cung cấp cho con người một khả năng tự ý thức, tự soi chiếu cái bản thể của mình. Chẳng hạn: “Việt Nam đất nước ta ơi - Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn - Cánh cò bay lả rập rờn - Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều…(Nguyễn Đình Thi). Đoạn thơ đem đến sự tri giác cảm tính, cảm nhận và hình dung được những mức độ nhất định: cảnh sắc tươi đẹp, thanh bình của đất nước, quê hương. Đây là cấp độ rung cảm thẩm mỹ sơ đẳng. Từ đó mà đưa dẫn người đọc đến một sự cảm thụ cao hơn: cảm nhận tình yêu, niềm tự hào về quê hương, đất nước, ý thức về trách nhiệm với đất nước của bản thân mỗi người.
“Khả năng tác động đến quá trình tự ý thức, tự hoàn thiện của con người thông qua ngôn ngữ nghệ thuật cũng là ranh giới phân biệt những cái đẹp trong nghệ thuật, như một sự hướng tới cái hài hòa tận thiện, tận mỹ và cái đẹp tự nhiên, với những cấp độ biểu hiện bất toàn của nó” [46, tr. 111]. h. Hằng thể và các biến thể của THTM trong tác phẩm văn chương
THTM được xem xét dưới hai dạng hằng thể và các biến thể.
* Hằng thể của THTM trong tác phẩm văn chương
Hằng thể là dạng thể hiện đơn giản, phổ biến và tiêu biểu nhất của một tín hiệu nói chung và THTM nói riêng. THTM hằng thể (điển dạng) là loại THTM mà cái biểu đạt của nó không thay đổi trong mỗi lần xuất hiện. Ví dụ: hằng thể "mắt". * Biến thể của THTM trong tác phẩm văn chương
Trong hoạt động hành chức, tín hiệu có rất nhiều dạng thức tồn tại khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh, tình huống giao tiếp, đó là biến thể (hiện dạng) của chính tín hiệu ấy. THTM cũng vậy, cái biểu đạt không hoàn toàn giống nhau trong mỗi lần xuất hiện. Trên thực tế, nghiên cứu các THTM chủ yếu là nghiên cứu các biến thể của nó. Có thể quan niệm biến thể của THTM là THTM trong các "lần xuất hiện" của nó. Và ở
Trong tục ngữ, ca dao; cái áo đồng nhất với chủ thể, áo là vật làm tin, là cái
53 mỗi lần xuất hiện, THTM được diễn đạt bởi một hình thức CBĐ - biến thể, đồng thời được đặt trong một tương quan mới, với những mối quan hệ mới với hệ thống, với các yếu tố cùng xuất hiện trong hệ thống mà nó tham gia, và được cảm nhận trong một "vầng cảm xúc" mới... Quan hệ hằng thể - biến thể giữa THTM với mỗi lần xuất hiện của nó như vậy bao hàm cả quan hệ giữa CBĐ - hằng thể với CBĐ - biến thể, giữa CĐBĐ - hằng thể với CĐBĐ - biến thể, giữa THTM với những biến thể do quan hệ, do cảm xúc... Trong một ngành nghệ thuật, từ một mẫu gốc các THTM trước hết chuyển hóa vào các thể loại, bị quy định bởi những đặc điểm loại hình khác nhau. Ở cấp độ này, chúng ta có các biến thể loại hình của THTM. Chẳng hạn, biểu tượng trang phục trong văn hóa người Việt chuyển hóa thành các THTM trong nhiều ngành nghệ thuật khác nhau: sân khấu, hội họa, âm nhạc, văn học… Trong lĩnh vực văn học, trang phục lại có các biến thể loại hình theo một số thể loại nhất định: trang phục trong cổ tích, trong ca dao, thơ trữ tình… thay thế đối tượng là thân phận của đối tượng... Yêu nhau cởi áo cho nhau VD 22: Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.
Áo chàm đưa buổi phân li (Việt Bắc, Tố Hữu)
(Ca dao) Trong thơ ca Việt Nam thời kì 1945 - 1975; biểu tượng cái áo lại trở về đời sống thực, nhập vào sự phát triển của dòng biểu tượng thuộc về đất - ... sắc màu nồng ấm của đất đai cây cỏ [46, tr. 253]. VD 23: - Trong phạm vi một thể loại văn học, ở bình diện chủ thể, giá trị biểu hiện và những ý nghĩa của các THTM được xét dưới hai dạng biến thể: Biến thể từ vựng - ngữ nghĩa và biến thể kết hợp. Biến thể từ vựng (BTTV)
Biến thể từ vựng là những hình thức diễn đạt khác nhau (các tên gọi khác nhau) biểu đạt cùng một đối tượng. Xét theo quan điểm ngữ nghĩa học đó là các từ đồng nghĩa, gần nghĩa hay các từ cùng một trường nghĩa - trường nghĩa biểu vật, có thể thay thế cho nhau. Chẳng hạn, mắt có các biến thể: khóe thu ba, làn thu thủy... Xét các biến thể từ vựng - ngữ nghĩa của các THTM là tìm hiểu thao tác lựa chọn của người viết dựa trên mối quan hệ hệ hình để từ đó đánh giá về tính hệ thống của THTM trong văn học.
54 VD 24:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Tràng giang – Huy Cận)
Từ chiều và từ hoàng hôn đều cùng chỉ thời gian cuối ngày. Đây được xem là những biến thể từ vựng của THTM. Tuy nhiên mỗi lần sử dụng không chỉ đơn giản để tránh sự trùng lặp mà nó còn mang thêm những ý nghiã thẩm mĩ mới. Hoàng hôn trong kết hợp khói hoàng hôn tạo ra ý vị cổ điển cho một câu thơ hiện đại.
Biến thể kết hợp (BTKH) Cùng một THTM nhưng có sự biến đổi để tạo nên những tình cảm, cảm xúc khác nhau ở trước và sau nó. Trong ngôn ngữ, đây là kết quả của tính hình truyến; khi trở thành THTM trong tác phẩm văn học thì từ ngữ cũng biến đổi ít nhiều trong quan hệ với từ ngữ đi trước và đi sau. Có thể nói biến thể kết hợp là biến thể của các THTM cùng hiện diện trong lời nói. Khi xuất hiện trong những tổ hợp khác nhau THTM ít nhiều biến đổi để tạo nên những tình cảm, cảm xúc khác nhau. VD 25:
tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy
Đàn ghi ta của Lorca – Thanh Thảo
Vẫn là tiếng ghi ta nhưng xuất hiện trong bốn lần với những cảm xúc thẩm mỹ rất khác nhau. Khi là những cung bậc của yêu thương: tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, là tình yêu đất nước và con người Tây Ban Nha, là khát vọng tự do được biểu đạt qua hình ảnh tượng trưng: màu nâu là màu của đất đai, của làn da rám nắng Tây Ban Nha, màu mắt của người yêu, màu xanh là màu của cây cỏ, của bầu trời xanh tự do…Khi là cung bậc của đau thương nuối tiếc trong niềm đồng cảm liên tài: tiếng ghi ta tròn – bọt nước – vỡ tan”. Và cũng tiếng đàn ghi ta ấy bỗng hóa thành thân phận, sinh mệnh người chơi đàn: “tiếng ghi ta ròng ròng - máu chảy”…
Chính những biến thể kết hợp này đã mang lại những ý nghĩa thẩm mỹ mới,
khẳng định sức sáng tạo của người nghệ sĩ.
Từ bình diện bản thể chuyển sang bình diện biểu hiện (THTM, các biến thể từ vựng – ngữ nghĩa và biến thể kết hợp) ý nghĩa của một biểu tượng đã chuyển từ một
55 trường những khả năng, những năng lượng tiềm ẩn, những trầm tích chưa được khai mở thành những hình ảnh sống động, cụ thể. Nếu như ở cấp độ bản thể của các biểu tượng ta có một mẫu số chung, một tiềm năng sáng tạo của toàn nhân loại, của cả cộng đồng thì ở cấp độ biểu hiện, tiềm năng ấy đã được hiện thực hóa qua những kết quả sáng tạo nhất định, là sự cụ thể hóa ý nghĩa của biểu tượng, hoặc phát triển ý nghĩa đó, với một trình độ khác nhau giữa những chủ thể sáng tạo, khẳng định sức sáng tạo của người nghệ sĩ ngôn từ.
Biến thể kết hợp là những ngữ đoạn có tác dụng cụ thể hóa cho hằng thể. Biến thể kết hợp được tạo thành bởi chính bản thân tín hiệu được sử dụng trong các ngữ cảnh mà nó kết hợp với các yếu tố phụ trợ khác trên trục tuyến tính. Khi xuất hiện trong những tổ hợp khác nhau, tín hiệu sẽ có những thay đổi để tạo hiệu quả khác nhau về giá trị biểu đạt. Chẳng hạn: mắt lá răm, mắt bồ câu, mắt phượng, … Giữa mắt (thuộc trường nghĩa chỉ bộ phận cơ thể người) với lá răm (thuộc trường nghĩa thực vật), bồ câu, phượng (thuộc trường nghĩa động vật)… dường như chẳng liên quan gì đến nhau, nhưng khi kết hợp lại thành một tổ hợp, nó lại mang nghĩa mới khác hơn với chính các yếu tố đó ban đầu: vừa thể hiện vẻ đẹp hình thức của con người vừa thể hiện quan niệm của dân gian“Trông mặt mà đặt hình dong”.
Tóm lại, những kiến giải trên đây sẽ là cơ sở cho các phân tích ở các chương
sau của luận án.
Trong chương này, chúng tôi đã trình bày một cách hệ thống và cơ bản nhất, khái quát nhất về các vấn đề về lịch sử nghiên cứu THTM, THTM trong ca dao và thơ ca Việt Nam 1945 -1975; về trường nghĩa, tín hiệu, tín hiệu ngôn ngữ, THTM, YNTM, đặc trưng của THTM trong nghệ thuật nói chung, THTM trong tác phẩm văn chương nói riêng…
56 Tiểu kết chương 1
Về trường nghĩa, chúng tôi làm rõ khái niệm, đặc điểm ngữ nghĩa, phân loại các tiểu trường. Trong luận án này, chúng tôi đã vận dụng quan điểm của Đỗ Hữu Châu về trường nghĩa:“Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là những tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa” [16, tr. 588]. Chúng tôi cũng thống nhất với Đỗ Hữu Châu và những tác giả có cùng quan niệm về việc phân lập trường nghĩa sự đồng nhất về ngữ nghĩa xét theo một phương diện nào đấy” [16, tr.872], “cơ sở phân lập trường là ý nghĩa của từ” [16, tr.880]. Nghĩa là, đặc trưng ngữ nghĩa chung là cơ sở để tập hợp các đơn vị trong một trường nghĩa, còn đặc trưng ngữ nghĩa riêng của các đơn vị sẽ là dấu hiệu để khu biệt chúng với nhau. Và “vấn đề quan hệ ngữ nghĩa trong một trường cũng là vấn đề phân hóa nó thành những trường và những nhóm nhỏ hơn” [16, tr.888]. Ngoài ra, luận án cũng chú ý đến khả năng “phân định một cách tổng quát những quan hệ ngữ nghĩa trong từ vựng thành những quan hệ ngữ nghĩa giữa các trường nghĩa và những quan hệ ngữ nghĩa trong lòng mỗi trường” [16, tr.588].
Về tín hiệu, tín hiệu ngôn ngữ, chúng tôi nhận thức được rằng: Tín hiệu là một yếu tố bao hàm hai mặt: cái biểu hiện và cái được biểu hiện, đồng thời cũng là một yếu tố chỉ có thể xác định được trong mối tương quan với chủ thể nhận thức và với hệ thống mà nó tham gia.
Chúng tôi cũng thống nhất quan niệm của F.de Sausure khi xác định tín hiệu ngôn ngữ: “Tín hiệu ngôn ngữ kết liền thành một không phải một sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với một hình ảnh âm thanh”. Chúng tôi cũng thấy rằng giá trị của tín hiệu ngôn ngữ phải bao gồm quan hệ hai mặt: CBĐ và CĐBĐ (tức hình thức và nội dung) và phải ở trong một hệ thống nhất định.
Về tín hiệu thẩm mỹ, chúng tôi nhận thấy rằng: THTM là TH thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện của các ngành nghệ thuật, bao gồm toàn bộ những yếu tố của hiện thực, của tâm trạng (những chi tiết, những sự vật, hiện tượng, những cảm xúc… trong đời sống hiện thực và tâm trạng) được lựa chọn, xây dựng và sáng tạo trong tác phẩm vì mục đích thẩm mĩ, trong đó cái biểu đạt của THTM là những yếu tố thuộc hệ thống phương tiện vật chất (chất liệu - các yếu tố của chất liệu ngôn ngữ với văn chương, các yếu tố của chất liệu màu sắc với hội họa; âm thanh nhịp điệu với âm
57 nhạc…) được sử dụng trong các ngành nghệ thuật và CĐBĐ của THTM là những nội dung tinh thần mang tính thẩm mỹ. THTM cũng chứa đựng yếu tố văn hóa dân tộc, thời đại và dấu ấn của cá nhân người sáng tác. Tín hiệu ngôn ngữ là tổng thể hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Khi xây dựng THTM trong tác phẩm văn học, tổng thể hai mặt này chỉ đóng vai trò là cái biểu đạt của THTM. Còn cái được biểu đạt là ý nghĩa thẩm mỹ, đây là yếu tố mới nảy sinh trong THTM văn chương. Trong tác phẩm văn chương THTM có hai cấp độ cơ bản: cấp độ cơ sở (TH đơn), và cấp độ xây dựng (TH phức). Có hai phương thức cơ bản để xây dựng THTM: phương thức ẩn dụ, phương thức hoán dụ. THTM trong tác phẩm văn chương có các tính chất như: tính phi vật thể và phi trực quan, tính hình tuyến, tính biểu trưng... và hướng đến hai chức năng chủ yếu: chức năng biểu hiện và chức năng tác động. Trong tác phẩm văn chương, THTM được biểu hiện thành các hằng thể và các biến thể từ vựng, biến thể kết hợp.
Những điều được trình bày ở trên chính là cơ sở lí luận định hướng cho luận án trong việc thu thập, thống kê cũng như tiếp cận và tìm hiểu giá trị của tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975.
58 Chương 2. KHẢO SÁT TÍN HIỆU THẨM MỸ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA “MẮT” TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT VÀ THƠ CA VIỆT NAM 1945 - 1975
2.1. Dẫn nhập
Trong chương này, chúng tôi tìm hiểu các phương tiện ngôn ngữ làm thành bình diện hình thức vật chất biểu đạt (gồm các đơn vị thuộc về cái biểu hiện (CBH), sự kết hợp của các đơn vị CBH) của các THTM thuộc trường nghĩa mắt. Ở phương diện này, chúng tôi xem xét cụ thể các yếu tố: danh từ làm tên gọi mắt/các bộ phận của mắt (các đơn vị cùng xuất hiện trên trục dọc với từ mắt, từ làm tên gọi mắt, các bộ phận của mắt); tính từ, động từ kết hợp và cụ thể hóa các đặc điểm, trạng thái, hoạt động của mắt; từ ngữ chỉ các đối tượng cùng xuất hiện với mắt (các đơn vị trên trục ngang) trong cùng một dòng thơ (có thể cùng một khổ thơ, bài thơ) biểu hiện các quan hệ ý nghĩa của mắt.
Trên cơ sở thống kê phân loại THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975, chúng tôi tìm ra tần số xuất hiện của các loại biến thể, các mô hình cấu trúc, các kiểu kết hợp của THTM “mắt” trong ca dao người Việt và thơ ca 1945-1975, thấy được điểm giống và khác trong cách sử dụng THTM để tạo ra những ý nghĩa thẩm mỹ trong sáng tác nghệ thuật thuộc hai giai đoạn lịch sử khác nhau của đất nước. Trong chương này, chúng tôi cũng đề cập một cách sơ bộ những ý nghĩa thẩm mỹ của THTM “mắt” để làm minh chứng cho hoạt động của THTM này trong đời sống giao tiếp bằng ngôn ngữ. 2.2. Thống kê, phân loại THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 Để có cơ sở phân định THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 thành từng nhóm, chúng tôi dựa vào ý kiến của các tác giả Diệp Quang Ban [5, tr. 468], Lê Biên [10, tr.24-112], Đinh Văn Đức [26, tr.45-171], Nguyễn Hữu Quỳnh [81, tr.129] về các tiêu chí phân định từ loại ngữ pháp tiếng Việt. Trường nghĩa mắt trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945- 1975 trước hết được coi là một trường biểu vật. Đây là một tập hợp những danh từ (mắt, đôi mắt, cặp mắt, nước mắt, tròng mắt, hốc mắt, đáy mắt…) phản ánh một bộ phận cơ thể người. Tập hợp này còn được coi là một trường biểu niệm trên cơ sở chúng có chung các nghĩa vị của từ trung tâm là mắt. Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt [113, tr.798]; khái niệm mắt được giải thích như sau: (d). 1. Cơ quan để nhìn của người hay động vật; thường được coi là biểu tượng của cái nhìn của con người. Nhìn tận mắt. Nháy mắt. Trông đẹp mắt. Vui mắt...
59
Dựa theo các nghĩa vị trên, trước hết, chúng tôi tiến hành phân lập các từ trong hệ thống từ vựng gồm có 89 mục từ có ít nhất 01 nét nghĩa chỉ mắt (trong đó danh từ gọi tên mắt ..., động từ chỉ các hoạt động, trạng thái của mắt..., tính từ chỉ tính chất, đặc điểm của mắt...). Đây là những từ gần trung tâm (tiêu điểm) mắt như những từ đặc trưng của THTM mắt: nhìn, trông, thấy, ngó, …; trong thực tế sử dụng những từ này nhiều khi không cần đi kèm các TH hằng thể mắt nhưng người ta vẫn liên tưởng ngay đến các đặc điểm, tính chất, trạng thái của mắt. Ngoài ra, những đơn vị từ vựng không có nét nghĩa về mắt trong từ điển nhưng luận án vẫn đưa về trường nghĩa mắt để nghiên cứu. Đó là những từ ngoại biên xa trung tâm chỉ được dùng trong ngữ cảnh nhất định khi đi kèm với BTTV mắt với tư cách như những BTKH của THTM mắt như: xoa, dùi, đưa đẩy, thiêu, đốt, (mắt) bần thần, (mắt) rụt rè, (mắt) lừ đừ... Đó là những đơn vị khi đi cùng với hằng thể mắt hoặc xuất hiện trong từng văn cảnh cụ thể để làm rõ đặc điểm, trạng thái, tính chất của mắt. Số lượng các đơn vị này tương đối nhiều, có 84 đơn vị (chủ yếu là nhóm các tính từ, sau đến các động từ), chẳng hạn: (mắt) trầm tư, (mắt) u ẩn, (mắt) bần thần, (mắt) biển khơi… Theo phân loại THTM, các đơn vị này được xếp vào các BTKH của THTM mắt. Khi xem xét cả hai trường hợp này, chúng tôi áp dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp, xem xét các từ trung tâm để tìm ra quy luật, những trường hợp ngoại biên để thấy được cách sử dụng độc đáo. Trong khi tìm hiểu, chúng tôi căn cứ vào nghĩa vị của THTM thuộc trường nghĩa mắt trong từ điển vừa phải căn cứ vào tiêu chí phân loại của THTM để phân lập các nhóm đối tượng nghiên cứu. Theo lí thuyết Nguyên mẫu (Prototypes) của Eleanor Rosch, “Nguyên mẫu” là một bản miêu tả một trường hợp điển hình của một khái niệm riêng biệt nào đó. Như vậy, khái niệm “chim” được thể hiện bằng một con chim điển hình như họa mi chẳng hạn theo hình thái của một loạt đặc tính hay hình ảnh thị giác [Dẫn theo 2, tr.59]. Như thế, một vật thể là chim hay không phải là chim ở một mức độ nào đó tùy theo nó tương đồng như thế nào với nguyên mẫu. Tương ứng và gần với nguyên mẫu “chim” nhất là họa mi, sáo, đại bàng. Xa nguyên mẫu “chim” nhất là đà điểu, chim cánh cụt…” [Hudson, 123, tr.77-79]. Do đó, dựa vào nguyên mẫu, có thể dung nạp cả những trường hợp chỉ tương ứng với nguyên mẫu một mức độ nào đó. Ở đây, có vấn đề điển hình và kém điển hình hay là có vấn đề trung tâm và ngoại vi khi định nghĩa một khái niệm [2, tr.60]. Áp dụng lí thuyết Nguyên mẫu như đã nêu ở trên, chúng tôi phân loại 173 đơn vị tập hợp được trong hệ thống từ vựng tiếng Việt thành hai nhóm. Nhóm các THTM trung tâm, điển hình nhất cho mắt (kí hiệu C1) gồm 89 đơn vị và nhóm các THTM ngoại biên, kém điển hình (kí hiệu C2) gồm 84 đơn vị.
60
Nhóm C1: trước hết là từ mắt được coi là nguyên mẫu và những đơn vị - danh từ, động từ có ý nghĩa gần với từ mắt nhất, thể hiện được nét đặc trưng, thuộc tính mà khi nhắc đến nó, người ta hình dung ngay đến mắt và các thuộc tính của mắt: - Các BTTV con mắt, đôi mắt, khóe thu ba. - Các BTKH chỉ bộ phận của mắt: con ngươi, ánh mắt, lông mày, mi mắt, mí mắt, tròng mắt, hốc mắt, đuôi mắt, khóe mắt, màu mắt, tầm nhìn, cái nhìn, tầm mắt, nước mắt, lệ, lụy, châu… Mỗi từ ở đây mặc dù có cấu tạo khác nhau nhưng đều có một nghĩa biểu vật chung nhất: tên gọi mắt/các bộ phận của mắt (các đơn vị cùng xuất hiện trên trục dọc với từ mắt, từ làm tên gọi mắt, các bộ phận của mắt). - Các BTKH chỉ hoạt động của mắt: nhìn, trông, ngó, liếc, khóc, ngủ, thức, ngắm, dòm/nhòm… (không căn cứ vào sự xuất hiện nhiều hay ít của THTM mà xét tiêu điểm hay ngoại vi) mà căn cứ vào nét nghĩa về mắt mà nó thể hiện. Đó là các từ ngữ chỉ đặc điểm, trạng thái, hoạt động của mắt; từ ngữ chỉ các đối tượng cùng xuất hiện với mắt giúp biểu hiện các quan hệ ý nghĩa của mắt… Đây là những trường hợp gần với mắt điển hình nhất. Khi tìm hiểu khả năng liên tưởng tự do thử phản ứng nhanh của người bản ngữ tìm từ chỉ mắt và các đặc điểm, trạng thái hoạt động của mắt qua phỏng vấn trực tiếp, hầu hết các ý kiến đều đưa ra các trường hợp này. Nhóm C2: là các từ ngoại biên xa trung tâm. Kém điển hình vì chúng chỉ mắt với các đặc điểm, tính chất, hoạt động của mắt theo một mức độ nào đó, trong một ngữ cảnh nhất định khi đi kèm với hằng thể mắt thì nó mới mang ý nghĩa chỉ mắt và các đặc điểm của mắt. Nghĩa là khi không đi kèm với mắt, chuyển sang ngữ cảnh khác, nó sẽ không còn mang nghĩa chỉ mắt nữa. Các từ ngoại biên càng xa trung tâm càng có mối quan hệ lỏng lẻo. Tuy nhiên không vì thế mà ý nghĩa thẩm mỹ lại kém đi. Đôi khi chính những từ này lại có khả năng diễn tả tinh tế những khía cạnh đời sống. Ví dụ: mắt long lanh, mắt lóng lánh, mắt bần thần, mắt lung linh, mắt linh lợi, mắt lờ đờ, mắt lừ đừ, mắt lim dim, mắt lơ mơ, mắt trong lành, mắt hoang dại, mắt sắc, mắt rụt rè, mắt đẹp, mắt trừng (trợn), mắt tráo trâng, mắt trầm tư, mắt ướt, mắt sáng, mắt sáng trong, mắt sáng bừng, mắt sáng ngời, mắt sáng quắc, mắt mờ, mắt mù, mắt đom đóm, mắt lòa, mắt lóa, mắt ngơ ngác, mắt nghiêng, mắt rộng vời/xa vời/vời, mắt đắng, mắt mỏi, mắt nheo cười, mắt u ẩn, mắt biển khơi, mắt đau buồn, mắt yêu đời, mắt đầm ấm, mắt khoan dung, mắt dại, mắt u buồn, mắt viền, mắt thân yêu, mắt bình thản, mắt vui ấm, mắt nheo cười, mắt chan chứa nhân tình, mắt hiền, mắt tươi, lông mày rậm, mi trường, mắt thâm quầng, tròng mắt cay, mi mọng, (ánh mắt) lạ kỳ… VD 26: Này các chị các anh, đi trên đường, có thấy Nước non mình, đâu cũng đẹp như tranh Gương mặt người, ai cũng sáng, long lanh Những đôi mắt trong lành vui ấm lạ! (Trên đường thiên lý, Tố Hữu)
61
Vách hầm rưng rưng - nước mắt Nước mắt đất Nhỏ trên khuôn mặt như trái hồng ươm Nhỏ vào tiếng khóc mềm như chồi non … (Bài thơ tặng con, Nguyễn Duy) VD 27:
Tổng số
Hai nhóm THTM “mắt” điển hình và kém điển hình do có nét nghĩa biểu vật và biểu niệm trong hệ thống khác nhau nên trong hành chức nghệ thuật cụ thể, chúng cũng có những YNTM khác nhau. Vấn đề này sẽ được trình bày cụ thể ở chương 3. Các đơn vị từ vựng thuộc trường nghĩa “mắt” trong hệ thống bao gồm tên gọi mắt, tên gọi các bộ phận của mắt, từ chỉ các hoạt động, trạng thái, tính chất đặc điểm, màu sắc, thuộc tính của mắt và các bộ phận của mắt… có tất cả là 173 đơn vị. Trong đó các từ chỉ hoạt động, trạng thái, tính chất đặc điểm, màu sắc, thuộc tính của mắt và các bộ phận của mắt có 169 đơn vị (04 đơn vị còn lại thuộc nhóm hằng thể và BTTV). Xét về số lượng lẫn những đặc trưng cơ bản, đây là tiểu trường nghĩa lớn nhất, quan trọng nhất trong trường nghĩa mắt và là đối tượng nghiên cứu chính của luận án. Theo ngữ liệu thống kê mắt xuất hiện 2.323 lần trong 1.122 / 11.825 bài ca dao trong tuyển tập Kho tàng ca dao người Việt. Mắt xuất hiện 1.681 lần trong 306/415 bài thơ của 08 tác giả được khảo sát trong tuyển tập. Như vậy, tổng số có 1.428/12.240 bài thơ và ca dao có xuất hiện THTM “mắt”. Bảng 2.1. Tần số xuất hiện của THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và trong thơ ca 1945 - 1975 Số bài xuất hiện THTM 1.122 306 1.428 Số lần xuất hiện THTM 2. 323 1681 4.004 Kho tàng ca dao người Việt Thơ ca Việt Nam 1945-1975 Tổng số 11.825 415 12.240
Dựa vào tiêu chí phân loại THTM chúng tôi phân xuất trường nghĩa “mắt” thành hai nhóm: THTM hằng thể và các biến thể như trong chương I chúng tôi đã trình bày. Hằng thể là dạng thể hiện đơn giản, phổ biến và tiêu biểu nhất của một tín hiệu nói chung và THTM nói riêng. THTM hằng thể là loại THTM mà cái biểu đạt của nó không thay đổi trong mỗi lần xuất hiện. Ví dụ: hằng thể "mắt". Biến thể của THTM là THTM trong các "lần xuất hiện" của nó. Và ở mỗi lần xuất hiện, THTM được diễn đạt bởi một hình thức CBĐ - biến thể, đồng thời được đặt trong một tương quan mới, với những mối quan hệ mới với hệ thống, với các yếu tố cùng xuất hiện trong hệ thống mà nó tham gia, và được cảm nhận trong một "vầng cảm xúc" mới... Quan hệ hằng thể - biến thể giữa THTM với mỗi lần xuất hiện của nó như vậy bao hàm cả quan hệ giữa
62 CBĐ - hằng thể với CBĐ - biến thể, giữa CĐBĐ - hằng thể với CĐBĐ - biến thể, giữa THTM với những biến thể do quan hệ, do cảm xúc... Trong biến thể, chúng tôi tìm hiểu hai loại: biến thể từ vựng (BTTV) và biến thể kết hợp (BTKH). Chẳng hạn: về biến thể từ vựng chúng tôi khảo sát và thống kê những từ cùng trường nghĩa có thể thay thế cho từ mắt trong mỗi lần sử dụng khác nhau. Trong biến thể kết hợp, chúng tôi phân xuất thành các nhóm từ bộ phận: danh từ, động từ, tính từ có thể trực tiếp kết hợp với mắt hoặc xuất hiện một mình để miêu tả cụ thể các đặc điểm, tính chất, hoạt động, trạng thái của mắt (Trong “Kho tàng ca dao người Việt” các tác giả đưa ra cả những dị bản, chúng tôi chỉ thống kê ở bản được dùng phổ biến nhất). Trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975, các THTM có tần số xuất hiện và giá trị thẩm mỹ không đều nhau. Vì vậy, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những tín hiệu có tần số xuất hiện cao nhất, được các tác giả nhắc đến nhiều nhất, tín hiệu có hàm lượng ngữ nghĩa thẩm mỹ cao nhất. Chúng được coi như là những TH nguyên cấp quan trọng nhất đại diện cho cả trường nghĩa mắt trong ca dao và trong thơ ca. Theo đó, chúng tôi chọn ra được 12 tín hiệu có tần số xuất hiện cao nhất hoặc là những đơn vị đặc trưng nhất cho các đặc điểm, hoạt động, trạng thái của mắt làm đối tượng nghiên cứu chính. Đó là các tín hiệu hằng thể mắt xuất hiện 188 lần trong thơ ca Việt Nam; 19 lần trong ca dao người Việt, con mắt xuất hiện 47 lần trong ca dao người Việt, 22 lần trong thơ ca VN; đôi mắt xuất hiện 04 lần trong ca dao và 27 lần trong thơ ca; nước mắt xuất hiện 103 lần trong ca dao, 42 lần trong thơ ca; ngoài ra còn có các BTKH: thấy xuất hiện 577 lần trong ca dao, 161 lần trong thơ ca; trông xuất hiện 479 lần trong ca dao, 83 lần trong thơ ca; ngó xuất hiện 253 lần trong ca dao, 23 lần trong thơ ca; nhìn xuất hiện 98 lần trong ca dao, 230 lần trong thơ ca; khóc xuất hiện 31 lần trong ca dao, 48 lần trong thơ ca VN; xem xuất hiện 85 lần trong ca dao, 42 lần trong thơ ca; ngủ xuất hiện 81 lần trong thơ ca; thức xuất hiện 37 lần trong thơ ca.
Có 21 tín hiệu chỉ xuất hiện trong kho tàng ca dao người Việt, nhưng lại không xuất hiện trong thơ ca 1945 -1975. Đó là các THTM: mắt bồ câu, mắt lá răm, mắt phượng, mắt trắng, mắt ngọc, con ngươi, (mắt) lúng liếng, lụy, châu, giọt (nước mắt), (nước mắt) thấm bâu, (nước mắt) ròng ròng, (nước mắt) nhỏ sa, (nước mắt) đầm đầm như mưa,(nước mắt) sụt sùi, (nước mắt) lai láng, coi…
VD 28: - Những người con mắt lá răm,
Lông mày lá liễu, đáng trăm quan tiền.
VD 29: - Cầm vàng ném xuống vực sâu
Mất vàng không tiếc, tiếc đôi mắt bồ câu hữu tình.
63
(Huế tháng Tám, Tố Hữu)
Ngược lại có 116 tín hiệu có trong thơ ca nhưng lại không xuất hiện trong ca dao. Chẳng hạn: mắt bé, mắt nhỏ, mắt tròn xoe, mắt chuồn chuồn, mắt huyền, mắt biếc, mắt đen, mắt màu gio, mắt trong, mi mắt, mí mắt, tròng mắt, khóe mắt, đuôi mắt, hốc mắt, đáy mắt, màu mắt, tầm nhìn, cái nhìn, mắt trong lành, mắt lung linh, mắt linh lợi, mắt lơ mơ, mắt bần thần, mắt hoang dại, mắt trừng, mắt đẹp, mắt sáng, mắt xa vời, mắt nheo cười, mắt đầm ấm, mắt khoan dung, mi trường… Như vậy, so với ca dao, số lượng biến thể của thơ ca phong phú hơn nhiều. VD 30: VD 31: Huế trầm mặc hôm nay sao khác khác Những mắt huyền ngơ ngác hỏi thầm nhau Chân nôn nao như khách đợi mong tàu Bước dò bước, không biết sau hay trước? Hồ nghe đêm hội ới a lại xót mắt Em mi trường khép bóng
(Theo đuổi, Hoàng Cầm)
Trong thơ ca Việt Nam 1945-1975, nhóm các BTKH là các động từ tuy chỉ có 59 biến thể nhưng tần số xuất hiện tới 1.083 lần chiếm 64,43 % trong tổng số lần xuất hiện của THTM “mắt”; BTKH là các tính từ có 128 biến thể nhưng chỉ xuất hiện 244 lần, chiếm 14,52% trong tổng số, BTKH là các danh từ chỉ mắt và các bộ phận của mắt có số lượng biến thể ít nhất là 22 biến thể, xuất hiện tương đối nhiều với 354 lần, chiếm 21,05 %.
Như vậy, tổng số có 01 hằng thể và 173 biến thể, trong đó có 03 BTTV, 170 BTKH của THTM thuộc trường nghĩa mắt xuất hiện trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975. Thuộc nhóm các BTKH, THTM chỉ hoạt động của mắt có 52 biến thể, BTKH chỉ nước mắt có 29 biến thể, chỉ hình dáng của mắt có 10 biến thể, chỉ màu sắc của mắt có 10 biến thể, chỉ các bộ phận của mắt có 14 biến thể, chỉ trạng thái của mắt có 57 biến thể.
Đối với việc xác lập trường nghĩa tuyến tính cho cả tập hợp và từng đơn vị trong tập hợp, chúng tôi phân lập dựa vào từ trung tâm mắt. Từ mắt sẽ thể hiện các nét nghĩa biểu vật, biểu niệm cụ thể khi đứng trong các chuỗi kết hợp ngữ đoạn. Và các nghĩa này được xem như là các nghĩa chung, nghĩa khái quát chi phối toàn bộ cách thức kết hợp ngữ nghĩa của trường tuyến tính mắt. Từ đó, chúng tôi tiến hành thống kê tất cả các dạng thức kết hợp của mắt. Các dạng thức kết hợp ấy là các từ, ngữ đứng trước và sau mắt trong câu thơ giúp biểu hiện ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa thẩm mỹ của mắt theo công thức [x + mắt, mắt + x]. Chúng sẽ được quy về từng nhóm dựa theo ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp chung, khái quát. Chẳng hạn: “Đôi con mắt
64 em lúng liếng, dạ anh say lừ đừ” (Ca dao), “Đôi mắt người Sơn Tây - U ẩn chiều lưu lạc” (Quang Dũng); “Em gái nhìn đôi mắt tròn xoe” (Phạm Tiến Duật). Những từ ngữ được tìm hiểu về các phương diện trên là: đôi, con, nhìn (kết hợp trước); em, tròn xoe, lúng liếng, u ẩn (kết hợp sau).
Việc nghiên cứu trường tuyến tính của các từ chỉ hoạt động, trạng thái của mắt khi đứng một mình không đi kèm với mắt cũng tiến hành như đối với mắt. Ví dụ nghiên cứu trường tuyến tính của từ khóc, từ nhìn, từ trông cũng vậy. “Anh về em những trông chừng”; “Trông bể, bể rộng, trông rừng, rừng xanh” (Ca dao); “Người đi rừng núi trông theo bóng Người” (Tố Hữu). Những từ ngữ kết hợp trước và sau trông sẽ được xem xét về các phương diện trên.
Để làm rõ hơn nghĩa của từ/THTM, có trường hợp chúng tôi còn dựa vào cả những từ ngữ cùng xuất hiện với nó trong đoạn thơ, văn bản thơ. Nhờ mối quan hệ tương tác ngữ nghĩa với các TH khác, nghĩa của THTM được xét sẽ được cụ thể hóa. Với loạt các thao tác trên, chúng tôi đã lần lượt phân lập được các trường tuyến tính bậc nhỏ hơn (do từ mắt làm trung tâm) và các trường tuyến tính bậc nhỏ hơn (do từ làm tên gọi các đặc điểm, trạng thái, tính chất của mắt làm trung tâm).
Nhiệm vụ chủ yếu của chương hai này chính là phân lập, miêu tả các yếu tố ngôn ngữ làm thành bình diện cbh, bình diện kết học của các đơn vị trong trường nghĩa mắt, đi đến định hình được trường biểu vật, trường biểu niệm, trường tuyến tính của mắt. Từ việc phân lập đó kết hợp với lý thuyết về THTM chúng tôi sẽ xác định được các BTTV, BTKH của THTM mắt. Việc phân tích, bình luận ngữ nghĩa của các yếu tố, các quan hệ… ở chương này chỉ được đề cập rất sơ bộ và khi thật cần thiết. Sau đây là những kết quả nghiên cứu cụ thể: 2.3. Hình thức ngôn ngữ biểu đạt của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975 Như trên đã trình bày, trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975 có 12 TH có tần số (TS) cao nhất làm đại diện. 12 TH này nằm ở nhóm các danh từ và động từ, không nằm ở tính từ. Trong đó, cao nhất là các TH thuộc nhóm động từ với số lượng 08 TH (thấy, trông, xem, ngó, nhìn, khóc, ngủ, thức), sau đó đến nhóm các danh từ 04 TH (mắt, đôi mắt, con mắt, nước mắt). Trong thực tế sử dụng, mỗi TH sẽ còn được cụ thể hóa, đa dạng, phức tạp hóa bằng hệ thống các biến thể của THTM. Những biến thể xuất hiện trong đoạn/bài thơ có vai trò ngữ nghĩa quan trọng với TH được xét. Ví dụ, để hiểu YNTM của mắt trong câu ca dao: “Mắt người lóng lánh như sao trên trời”, ngoài việc tìm hiểu các tín hiệu văn chương (THVC) xuất hiện cùng mắt trên dòng thơ, cần thiết phải xét đến các THVC đồng hiện trên đoạn thơ, bài thơ: Nhấp nhánh, Nhớ người lắm lắm, người ơi… THTM mắt cùng xuất hiện với các TH trên đẳng cấu với nhau trong YNTM chung: Đôi mắt
65 đẹp long lanh đầy ánh sáng của người con gái hiện ra với nỗi nhớ thương cháy bỏng của một chàng trai si tình đã tạo ra bức chân dung đẹp lạ lùng: VD 32:
Nhấp nhánh là nhấp nhánh ơi Mắt người lóng lánh như sao trên trời Nhớ người lắm lắm người ơi.
(Ca dao) Các BTQH đồng hiện trong dòng thơ, đoạn thơ, văn bản thơ đối với toàn bộ kho tàng ca dao người Việt và 08 tác giả của thơ ca Việt Nam 1945-1975 như thế sẽ có số lượng vô cùng lớn, quan hệ ngữ nghĩa ngữ pháp cũng sẽ hết sức phức tạp. Việc thống kê, phân loại chúng vì thế vượt quá khuôn khổ của luận án. Bởi vậy chúng tôi chỉ đề cấp đến những trường hợp có vai trò bổ sung ý nghĩa quan trọng đối với TH được xét khi tìm hiểu ý nghĩa biểu trưng của THTM “mắt” trong chương ba. 2.3.1. Hằng thể của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975
Cái biểu đạt của THTM thuộc trường nghĩa mắt trước hết thể hiện ra bằng tín hiệu ngôn ngữ mắt, một danh từ trong hệ thống ngôn ngữ, khi đi vào ca dao và thơ ca, mắt đã trở thành tín hiệu thẩm mỹ, xuất hiện: 19 lần trong kho tàng ca dao người Việt trong tổng số 2 323 lần xuất hiện của THTM mắt; xuất hiện 188 lần trong sáng tác của nhóm tác giả được nghiên cứu của thơ ca Việt Nam 1945-1975 trong tổng số 1681 lần xuất hiện của THTM mắt.
Bảng 2.3. Tần số xuất hiện của hằng thể “mắt”:
Tổng số Tín hiệu thẩm mĩ
Kho tàng ca dao người Việt 19 Thơ ca Việt Nam 1945 -1975 188 207 Mắt
Kết quả khảo sát cho thấy, THTM “mắt” xuất hiện trong ca dao chủ yếu dưới dạng các biến thể, tín hiệu hằng thể xuất hiện không nhiều. Điều này cũng cho thấy, các tác giả rất chú ý dùng những biến thể tạo ra những cách diễn đạt phong phú. Và giữa hai loại hình thơ ca, hằng thể “mắt” xuất hiện trong thơ ca hơn gấp nhiều lần so với trong ca dao tuy tổng số bài thơ được khảo sát của thơ ca Việt Nam 1945-1975 ít hơn rất nhiều so với kho tàng ca dao người Việt. Có thể trong ngôn ngữ thơ ca hiện đại, các tác giả có cách diễn đạt mộc mạc, đi thẳng vào vấn đề do tính đại chúng của văn học giai đoạn này chi phối.
Hằng thể “mắt” không phải lúc nào cũng đi một mình mà thường xuất hiện kèm theo các biến thể kết hợp tạo ra những nét nghĩa vừa cụ thể vừa giàu tính biểu trưng, biểu cảm: VD 33:
Con dao vàng rọc lá trầu vàng Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa (Ca dao)
66
Con dao vàng ứng với lá trầu vàng là tương xứng, phù hợp, may mắn, cũng giống như nàng gặp anh. Vì vậy mà "mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa". Hằng thể mắt xuất hiện đồng thời với các BTKH liếc, đưa là những hành động của đôi mắt đã thể hiện đúng sắc thái tình cảm của nàng và anh. Cái liếc mắt sắc ngọt táo bạo của anh hay cái đưa tình dịu dàng kín đáo của nàng đã khiến trái tim lỗi nhịp trong khoảnh khắc vô cùng ấy. 2.3.2. Các biến thể của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975
THTM mắt khi đi vào thực tế sử dụng trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975 lại có nhiều biến thể khác nhau. Trong từng văn cảnh cụ thể, cấu trúc ngôn ngữ của THTM có thể biến đổi nhưng ý nghĩa biểu đạt thì không đổi, mà chỉ được bổ sung bằng các nét nghĩa khác làm phong phú thêm cho nét nghĩa cơ bản. Nhờ vào các biến thể này, THTM không bị khô cứng, sáo mòn mà luôn được biến đổi một cách linh hoạt. Các yếu tố hằng thể khiến THTM mang giá trị của những ý nghĩa thẩm mỹ ổn định. Các biến thể đem lại cho THTM sự tươi mới, đa dạng, đáp ứng nhu cầu biểu đạt và biểu cảm của con người. VD 34:
Hoa thơm hoa ở trên cây Đôi con mắt em lúng liếng dạ anh say lừ đừ. (Ca dao)
Hằng thể mắt kết hợp với lúng liếng đã tạo nên một nghĩa thẩm mỹ mới rất biểu cảm. Theo Vũ Nho [74], mắt em lúng liếng tạo nên sóng mắt, như sóng biển làm cho anh chóng mặt. Rồi anh say, say lử, say lừ đừ. Ở đây có cái say thuần tuý sinh lý vì "chóng mặt" nhưng ai dám bảo không có cái say tâm lý - say tình. Mà say tình mới là cái chính. Chàng trai, say không chỉ ở con mắt nhìn mà say ở trong tim. Rõ ràng về ý nghĩa BTKH lúng liếng đã tạo ra nét mới về nghĩa. 2.3.2.1. Biến thể từ vựng (BTTV)
Biến thể từ vựng (BTTV): là tập hợp những từ gần nghĩa hoặc cùng trường nghĩa có thể thay thế cho nhau. Ở đây các biến thể từ vựng - ngữ nghĩa của THTM thuộc trường nghĩa mắt được các tác giả sử dụng chủ yếu ở ba biến thể từ vựng như: con mắt, đôi mắt, khóe thu ba.
Bảng 2.3. Tần số xuất hiện của những biến thể từ vựng của THTM “mắt”:
Kho tàng ca dao người Việt Thơ ca Việt Nam 1945- 1975 Tổng số Tín hiệu thẩm mĩ Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%)
Khóe thu ba Con mắt Đôi mắt Tổng số: Tần số xuất hiện 2 47 2 51 4 92 4 100 Tần số xuất hiện 0 22 27 50 0 44,9 55,1 100 2 69 29 100
67
Trong số các biến thể từ vựng của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” xuất hiện trong kho tàng ca dao người Việt thì con mắt xuất hiện: 47 lần, đôi mắt xuất hiện 2 lần, khóe thu ba xuất hiện 2 lần. Biến thể con mắt xuất hiện với tần số cao chứng tỏ thói quen sử dụng của người bình dân. Nếu đôi mắt thiên về số lượng thì con mắt thiên về tính chất động của nó (theo từ điển, con có nét nghĩa chỉ từng đơn vị động vật hoặc một số vật thể khác: con gà, con mắt [115, tr.437]. Điều đó đã thể hiện cách nhìn dân gian, tư duy dân gian thời kỳ đầu hình thành ngôn ngữ thường đem gán những vật thể con, cái, … trong thế giới động vật, sự vật bắt gặp hàng ngày để gán cho các sự vật trừu tượng, khó mô phỏng. Bởi lẽ ngôn ngữ trong ca dao là ngôn ngữ đời thường của quần chúng nhân dân, nhưng đã được sử dụng theo phương thức trữ tình của thơ ca, do đó đã mang tính chất nghệ thuật hóa một phần… Đó là lí do khiến cho ngôn ngữ trong ca dao vừa giống, vừa khác với ngôn ngữ thông thường… [101, tr 34]. VD 35:
Trên thu ba dưới lại thu ba Con mắt lóng lánh chẳng tu được nào.
(Ca dao)
VD 36:
Em chả tham nhà ngói tày đình Tham về ngọn núi rập rình trên tay Chả tham nhà ngói anh đâu Tham về con mắt bồ câu liếc người. (Ca dao)
Tần số xuất hiện các BTTV trong thơ ca Việt Nam 1945 - 1975: con mắt xuất
hiện: 22 lần, đôi mắt xuất hiện 27 lần, không xuất hiện lần nào BTTV khóe thu ba.
Một điều khác biệt so với văn học viết trung đại, qua khảo sát chúng tôi cũng thấy rằng ở kho tàng ca dao người Việt cũng như trong thơ ca Việt Nam hiện đại, không lần nào xuất hiện làn thu thủy, một BTTV của THTM “mắt” từng xuất hiện trong văn học viết trung đại (Làn thu thủy, nét xuân sơn - Truyện Kiều, Nguyễn Du). Điều đó cũng thể hiện xu hướng đại chúng của văn học cách mạng, các nhà thơ tìm về cách diễn đạt đại chúng, gần gũi với đời thường gần gũi với cách diễn đạt bình dân trong ca dao.
Trong các ví dụ trên cho thấy so với hằng thể, các biến thể từ vựng của THTM “mắt” đã đem đến cách diễn đạt mới hơn, sắc màu biểu trưng và biểu thái phong phú hơn. Những biến thể từ vựng này cũng ít khi đứng một mình mà thường xuất hiện đồng thời với các BTKH với những ý nghĩa cụ thể hơn trong mỗi lần xuất hiện. VD 37:
Đôi mắt người Sơn Tây U ẩn chiều lưu lạc Thương vườn ruộng khôn khuây… (Mắt người Sơn Tây, Quang Dũng)
68
Ở đây, BTTV đôi mắt đi kèm với BTKH u ẩn tạo ra nét riêng của mắt người Sơn Tây. U ẩn là sâu kín, ẩn giấu nỗi buồn, tâm tư trong lòng, không bộc lộ ra. Đôi mắt em đã trở thành ấn tượng đặc biệt cho một miền đất anh qua, để rồi người đi mà hồn còn vương lại một ánh mắt chất chứa tình người tình quê thời chiến tranh loạn lạc, sầu nhớ khôn khuây. 2.3.2.2. Biến thể kết hợp (BTKH) Tiến hành khảo sát các BTKH của THTM “mắt”, chúng tôi thống kê tất cả các câu thơ có liên quan đến các danh từ, động từ, tính từ có thể trực tiếp kết hợp với mắt hoặc xuất hiện một mình để miêu tả cụ thể các đặc điểm, tính chất, hoạt động, trạng thái của mắt và trong mỗi lần xuất hiện chúng sẽ mang thêm những ý nghĩa biểu đạt mới làm phong phú thêm ý nghĩa thẩm mỹ của THTM “mắt”.
Có thể tổng hợp tần số xuất hiện các biến thể kết hợp như dưới đây. Bảng 2.3. Tần số xuất hiện của các biến thể kết hợp của THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975
Ca dao người Việt Thơ ca Việt Nam 1945 -1975 Nhóm
Số lượng biến thể Tần số xuất hiện Số lượng biến thể
Hình dáng của mắt Màu sắc của mắt Các bộ phận của mắt Nước mắt Trạng thái của mắt Hoạt động của mắt Tổng 04 04 09 16 06 21 54 9 11 7 347 24 855 2 253 06 08 13 19 56 46 148 Tần số xuất hiện 17 22 47 87 115 1039 1327
Khảo sát các biến thể kết hợp của THTM “mắt” chúng tôi chia tách ra thành 06
a) Tiểu trường chỉ hình dáng của mắt: - Ca dao: mắt bồ câu, mắt lá răm, mắt phượng, mắt ti hí - mắt lươn.
Những người ti hí mắt lươn, Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người.
tiểu trường dựa trên những nét nghĩa chung. Cụ thể như sau: VD 38:
- Thơ ca Việt Nam 1945-1975: mắt tròn, mắt bé, mắt nhỏ, mắt lươn, mắt thỏ,
mắt chuồn chuồn. VD 39:
... Cô gái Chăm Pa xinh đẹp nhất làng Da xanh tái mà mắt tròn rạng rỡ,
(Hang đèn chín ngọn, Phạm Tiến Duật)
69
- Ca dao: mắt xanh, mắt trắng, mắt đỏ, mắt ngọc.
b) Tiểu trường chỉ màu sắc của mắt: VD 40:
Hỡi cô thắt dải lưng xanh, Ngày ngày thấp thoáng bên mành chờ ai? Trước đường xe ngựa bời bời, Bụi hồng mù mịt ai người mắt xanh!
- Thơ ca Việt Nam 1945-1975: mắt đỏ, mắt xanh, mắt huyền, mắt biếc, mắt
Không gì thương bằng đôi mắt đen Của người yêu nhìn ta đăm đắm (Những ngọn đèn, Tố Hữu)
(sẫm) đen, mắt màu gio, (màu) mắt trong. VD 41:
c) Tiểu trường chỉ các bộ phận của mắt: - Ca dao: con ngươi, lông mày, chân mày, ánh mắt.
VD 42: Những người con mắt lá răm,
Lông mày lá liễu, đáng trăm quan tiền.
(Bài thơ tặng con, Nguyễn Duy)
- Thơ ca Việt Nam 1945-1975: lông mày, mi/hàng mi/ bóng mi, mí mắt, tròng mắt, hốc mắt, đuôi mắt, khóe mắt, đáy mắt, màu mắt, tầm mắt, tầm nhìn, cái nhìn, ánh mắt. VD 43: VD 44: Bà ru con, ru hỡi, ru hời... Màu xanh ngây thơ khép hờ trong mi mắt Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương Mắt tròn cối xay ... Về đuôi mắt xưa nước suối Cam Lồ không mát Thương nước chảy đôi dòng...
(Nước sông Thương, Hoàng Cầm)
d) Tiểu trường chỉ nước mắt (một thuộc tính của mắt):
Rủ nhau đánh cá Đồng Nai, Cá kia chẳng được một ngày đến trưa, Sầu em nước mắt như mưa...
- Ca dao: nước mắt, lệ, lụy, châu, giọt, thấm bâu, nhỏ sa, tuôn, rưng rưng, ròng ròng, ướt đầm, lai láng, lã chã, sụt sùi, chứa chan, đầm đầm như mưa… VD 45:
- Thơ ca Việt Nam 1945-1975: nước mắt, lệ, rưng rưng, (nước mắt/lệ) rơi, (lệ) chảy, trào (nước mắt), ứa (nước mắt), chắt ra (nước mắt), lau (nước mắt),
(Huế tháng Tám, Tố Hữu)
70 hứng lệ, (lệ) khô ráo, tuôn, (nước mắt) nóng, đầm đìa, đằm, giàn giụa, lã chã, chứa chan, lệ) tràn. VD 46: VD 47:
Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi! Nước mắt ta trào, búp mí, tràn môi Cổ ta ré trăm trận cười, trận khóc! ... Đâu đó chiều xanh bên ngõ trúc Vợ hiền đang nựng chút con thơ Nghẹn ngào đôi mắt rưng rưng lệ Anh nhỉ! Muôn đời ơn Tự Do.
(Một mùa thu tới, Quang Dũng)
e) Tiểu trường chỉ trạng thái, tính chất của mắt:
- Ca dao: long lanh, lúng liếng, lờ đờ, lim dim. VD 48:
Hoa thơm hoa ở trên cây Đôi con mắt em lúng liếng dạ anh say lừ đừ. (Ca dao)
... Mình về với Bác đường xuôi Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường! (Việt Bắc, Tố Hữu)
- Thơ ca Việt Nam 1945-1975: long lanh, lóng lánh, bần thần, lung linh, linh lợi, lờ đờ, lừ đừ, lim dim, lơ mơ, trong lành, hoang dại, sắc, rụt rè, đẹp, trừng (trợn), tráo trâng, trầm tư, ướt, sáng, sáng trong, sáng bừng, sáng ngời, sáng quắc, mờ, mù, đom đóm, lòa, lóa, ngơ ngác, nghiêng, rộng vời/xa vời/vời, đắng, mỏi, u ẩn, biển khơi, hoang dại, đau buồn, yêu đời, đầm ấm, khoan dung, dại, u buồn, viền, thân yêu, bình thản, vui ấm, nheo cười, chan chứa nhân tình, hiền, tươi, lông mày rậm, mi trường, mắt thâm quầng, tròng mắt cay, mi mọng, (ánh mắt) lạ kỳ… VD 49:
.. Tôi như đứa trẻ thơ chỉ biết nhìn ngắm mãi Vầng trán cao đôi mắt hiền linh lợi.
(Mấy lời con gửi Bác, Vũ Cao)
VD 50:
f) Tiểu trường chỉ hoạt động của mắt:
+ Ca dao: nhìn, trông, ngó, xem, thấy, khóc, gặp, ngước, nhắm, mắt, khóc, nom,
Thấy anh như thấy mặt trời,
tìm, xem, liếc, hóng, dòm, soi, ngắm, trừng, coi. VD 51:
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao.
71 VD 52: Ngó ra sông cái, ngó ngoái thấy đình,
VD 53:
Hạc chầu thần còn đủ cặp, huống chi mình muốn lẻ đôi! Con dao vàng rọc lá trầu vàng, Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa.
+ Thơ ca Việt Nam 1945-1975: thấy, trông, nhắm mắt, gặp, ngước, nhìn, ngó, gặp, ngắm, khóc, nom, tìm, xem, trừng, soi, nhắm, thức/thao thức, ngủ, ghé, chớp, dòm/nhòm, khép, ngủ, ghé, chớp, nhắm (nhìn), nhằm, dán, dõi, mở, (nhìn) thiêu, (nhìn) đốt, khép, nhắm (nhìn), nghẹn, bịt (mắt), giương (mắt), xoa (mắt), bừng (mắt), (mắt) trồi ra, chợp mắt, thổn thức, nức nở, nghẹn ngào, rọi, trợn mắt, (mắt) cứa, (mắt) dùi, đưa đẩy, đưa (mắt), lườm, trố mắt, trố mắt, (lông mày) dựng, cau/chau mày. VD 54 VD 55:
... Người phải lui, cho Dân tiến, Nước còn Dân là chủ, không làm nô lệ nữa! Hãy mở mắt: quanh hoàng cung biển lửa Đã dâng lên, ngập Huế đỏ cờ sao Mở mắt trông: Trời đất bốn phương chào Một dân tộc đã ào ào đứng dậy! (Huế tháng Tám, Tố Hữu) Mười mấy mùa xuân, nay trở về Nhìn người nhìn ruộng nhìn làng quê Như cây nở lộc hoa đua sắc Ta đọc bài thơ, xuân có nghe!
(Mùa xuân trên quê hương, Nông Quốc Chấn)
Nhìn một cách tổng quát, số lượng biến thể xuất hiện ở mỗi tiểu trường trong thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 nhiều hơn trong ca dao. Điều đó cho thấy trải qua hành trình hàng nghìn năm, ngôn ngữ tiếng Việt ngày càng phát triển để đáp ứng tốt hơn nhu cầu biểu đạt của con người trong cuộc sống, nó cũng cho thấy con người hiện đại có tư duy ngôn ngữ đa dạng, phong phú hơn, biết sáng tạo ra, lựa chọn các đơn vị ngôn ngữ để diễn đạt những sắc thái tâm trạng phức tạp và tinh tế hơn.
Xuất hiện nhiều nhất là tiểu trường chỉ trạng thái của mắt với tổng số 58 biến thể. Trong ca dao, trạng thái của mắt chỉ xuất hiện 06 biến thể với tần số 24 lần, đó là các biến thể: mắt long lanh (3 lần), mắt lúng liếng (2 lần), mắt lừ đừ (5 lần), mắt lim dim (4 lần), mắt sắc như dao (8 lần), mắt toét (2 lần): Nhớ ai con mắt lim dim VD 56: Chân đi thất thểu như chim tha mồi (Ca dao) Thương ai con mắt lừ đừ VD 57: Sầu riêng nhớ mãi đến giừ chưa nguôi. (Ca dao)
72
Trong thơ ca 1945 - 1975, trạng thái của mắt lại được biểu hiện cực kỳ sinh động với tổng số 56 BTKH, gấp gần 10 lần so với ca dao; tuy nhiên tần số xuất hiện lại khiêm tốn với 115 lần. Có 32 BTKH chỉ xuất hiện duy nhất một lần không lặp lại, có những biến thể xuất hiện một số lần chỉ ở một tác giả thể hiện lối tư duy và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Đó là các biến thể (mắt) u ẩn trong thơ Quang Dũng, mi trường, mi mọng, (mắt) tráo trâng, mắt trầm tư, mắt nghiêng, khóc âm y, khóc rì rầm, khóc sấm sút, ngủ lăn lóc trong thơ Hoàng Cầm… Hai BTKH chỉ trạng thái của mắt xuất hiện trong ca dao mà không có trong thơ ca với những bài thơ được xét: mắt lúng liếng, mắt toét.
Tiếp sau trạng thái của mắt là tiểu trường chỉ hoạt động của mắt với tổng số 48 biến thể, trong đó có 17 biến thể và 1769 lần xuất hiện trong ca dao, 46 biến thể với tần số xuất hiện 1039 lần trong thơ ca Việt Nam 1945 - 1975. Trong thơ ca số lượng biến thể chỉ hoạt động của mắt nhiều hơn hai lần so với ca dao và có tới 17 biến thể chỉ xuất hiện duy nhất 01 lần, là các biến thể như: nhắm (nhìn), nghé, chợp (mắt), đưa (mắt), lườm...02 biến thể xuất hiện trong ca dao mà không xuất hiện trong các bài thơ được nghiên cứu là coi và liếc. Sự xuất hiện với số lượng lớn các BTKH thuộc tiểu trường chỉ hoạt động của mắt cho thấy trong thực tế mắt được chú ý nhiều ở vai trò tác dụng của cơ quan thị giác đối với cuộc sống con người, là con mắt để quan sát, khám phá thế giới, những trông, ngó, nhìn, liếc… Tuy nhiên, những hành động của mắt còn có tác dụng thể hiện những tâm trạng cảm xúc của con người. Một cái liếc ngang mà biết được nỗi yêu ghét: Yêu nhau con mắt liếc qua - Ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra (Ca dao).
Nhiều khi những hoạt động của mắt lại được dùng giống như một mô típ, một công thức để người ta lắp vào đấy những ý tình cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, đối tượng tâm tình: VD 58:
(Ca dao)
VD 59:
Anh xuôi em vẫn trông chừng Trông mây, mây tản, trông rừng, rừng xanh Anh xuôi em đứng cửa ngăn Hai hàng nước mắt chảy quanh má hồng ... Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền. (Việt Bắc - Tố Hữu)
73
Như vậy, bản thân hành động của mắt nhiều khi không phải là đích miêu tả mà đã trở thành một cách thức để giãi bày tâm trạng con người. Điều này cũng tương tự khi tìm hiểu các BTKH khác của THTM thuộc trường nghĩa “mắt”.
Trong các BTKH, có những động từ là những thuộc tính đặc trưng cho mắt,
xuất hiện với tần số lớn trong ca dao và thơ ca hiện đại như: thao thức, ngủ, nhìn...
Trong thơ ca kháng chiến, từ khóc vẫn mang nghĩa thông thường: 1) không kìm nén được cảm xúc, nỗi đau đớn, sự khó chịu mà ứa nước mắt hoặc phát ra tiếng than buồn thảm. 2) tỏ lòng thương tiếc với người thân bị chết. VD 60:
… Con đói lả ôm lưng mẹ khóc Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi Kiếp người cơm vãi cơm rơi Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi! (Ba mươi năm đời ta có Đảng – Tố Hữu)
VD 61:
Nhưng nhiều khi khóc trong thơ ca kháng chiến để thể hiện niềm vui: ... Cho chúng con giữa vui này được khóc Hôn mỗi đứa em, ôm mỗi mẹ già Như lòng Bác, mỗi khi Bác đọc Đồng bào miền Nam, mắt kính bỗng nhoà (Toàn thắng về ta - Tố Hữu)
Trong các BTKH thuộc tiểu trường chỉ các hoat động của mắt, ở một số từ ngoại biên, có những từ xuất hiện trong thơ ca Việt Nam 1945 -1975 vốn không dùng chỉ mắt nhưng trong ngữ cảnh cụ thể lại được dùng để chỉ mắt, ví dụ: (mắt) cứa, (mắt) dùi, (mắt) đưa đẩy, chọc (mù mắt), nuốt (nước mắt), mắt tìm hỏi chuyện, mắt biết nói (Tố Hữu), xoa mắt đắng, (mắt) trồi ra… Có tới 35 động từ không xuất hiện trong ca dao nhưng lại xuất hiện trong thơ ca 1945-1975: mở, ghé, nghé, chớp, nhằm, khép… Đặc biệt là sự xuất hiện của BTKH mắt cười với tần số 05 lần xuất hiện và thường được dùng để nói về Bác Hồ: VD 62:
Và mỗi trận, mỗi mùa vui thắng lợi Đôi mắt Bác hiện lên cười phấn khởi (Sáng tháng Năm - Tố Hữu)
Tần số xuất hiện nhiều sau tiểu trường chỉ hoạt động của mắt là tiểu trường chỉ nước mắt. Trong ca dao, tiểu trường chỉ nước mắt có 16 biến thể và 347 lần xuất hiện, trong đó nếu xét nước mắt như một THTM trong tổ hợp chúng tôi thấy: hằng thể nước mắt xuất hiện 103 lần, ba BTTV là: lệ: 21 lần, lụy: 56 lần và, châu: 19 lần, còn lại là các BTKH như giọt, rưng rưng, tuôn, ướt đầm như mưa… Có những biến thể chỉ dùng riêng cho nước mắt: đầm, cầm, rơi, lã chã, rưng rưng… bởi nhắc đến nó, người ta hình dung luôn đến nước mắt.
74
Thực ra nước mắt cũng là một bộ phận của mắt, nhưng chúng tôi đã tách thành một nhóm riêng để khảo sát và tìm hiểu ý nghĩa biểu trưng. Tần số xuất hiện của BTKH này tương đối nhiều, đặc biệt trong ca dao có 16 biến thể nhưng xuất hiện tới 347 lần, trong khi ở thơ ca có 19 biến thể xuất hiện 87 lần.
Cuộc đời người bình dân xưa có nhiều nỗi cay đắng, ở nhiều giai đoạn lịch sử, họ phải chịu nhiều bất công, vòng cương tỏa nặng nề của lễ giáo phong kiến, chiến tranh, giặc giã, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, … Có phải vì thế mà nước mắt người bình dân nhiều khi thấm ướt cả những lời ca vốn trong trẻo, nặng nghĩa nặng tình: VD 63:
Chàng ngó thiếp rưng rưng hột luỵ Thiếp ngó chàng lã chã châu rơi Nguyện cùng chứng có đất trời Giúp chàng đi thú cho rồi hạn vua.
(Ca dao) BTKH nước mắt thường xuất hiện trong phần lớn những bài ca dao tình yêu:
nước mắt của nhớ thương, nước mắt của chia ly, của duyên phận lỡ làng: VD 64:
Anh về nước mắt nhỏ ròng Thấu thiên, thấu địa, thấu lòng anh chăng?
(Ca dao)
VD 65:
Anh về em ở hai nơi Cắn răng cách mặt cơ trời khó toan Dầu lòng phân rẽ anh sẽ xuống thoàn Thương ai rớt luỵ can tràng quặn đau Nhìn nhau luỵ nhỏ thấm bâu Than trời, trách đất cớ đâu phân lìa
(Ca dao) Đối với thơ ca 1945-1975, nhóm BTKH nước mắt có số lượng các biến thể nhiều hơn trong ca dao: 16 biến thể của ca dao và 19 biến thể của thơ ca 1945-1975. Tần số xuất hiện của các biến thể này là 87 lần ít hơn rất nhiều so với trong ca dao; tỷ lệ xuất hiện giữa các biến thể gần tương đương, không có sự phân biệt quá lớn như ở ca dao. VD 66:
... Đâu đó chiều xanh bên ngõ trúc Vợ hiền đang nựng chút con thơ Nghẹn ngào đôi mắt rưng rưng lệ Anh nhỉ! Muôn đời ơn Tự Do.
(Một mùa thu tới - Quang Dũng)
75 VD 67:
Chiều cơm suông Năm ngón tay lằn mông trẻ nhỏ Trăng lên chém đầu ngọn gió Cành si bưng chậu máu chát chao Cuối năm rì rầm tiếng khóc Chàng ôi ngựa tía võng đào Là nước mắt của nỗi niềm xưa cũ… ( Hoàng Cầm)
Trong thơ ca, nước mắt xuất hiện chủ yếu nói lên nỗi cay đắng khổ cực khi nhớ lại đoạn đời đau thương của người dân nô lệ, và niềm vui khi dành được độc lập tự do, nỗi mừng tủi… VD 68:
(Bà mẹ Việt Bắc - Tố Hữu)
VD 69: ... Phên nan gió lọt lạnh lùng Ngọn lửa bập bùng, mé khóc rưng rưng Nghẹn ngào chuyện cũ nửa chừng... Về đến đây rồi Hà Nội ơi!
Người đi kháng chiến tám năm trời Hôm nay về lại đây Hà Nội Giàn giụa vui lên ướt mắt cười!... (Lại về - Tố Hữu)
Nước mắt trong thơ ca 1945 -1975 còn là yếu tố làm nên sức mạnh chiến đấu và
chiến thắng kẻ thù, là nguồn động lực để con người vươn lên phía trước VD 70:
... Trắng khăn tang, em chẳng khóc đâu Hỡi em gái mất cha mất mẹ Nước mắt rơi, làm nhoà mặt quân thù Em phải bắn, trúng đầu giặc Mỹ. (Việt Nam máu và hoa – Tố Hữu)
Nước mắt được chưng cất từ đau thương để làm nên sức mạnh:
VD 71:
Bưng lưng cơm, điện trong phòng bật sáng Nhớ bà mẹ ở Nam Hoành, nước mắt trào ra ... Nửa phần đất giặc phải ngừng ném bom Nhớ câu nói của mẹ, câu nói như chắt ra từ nước mắt - Thà ăn muối suốt đời Còn hơn là có giặc! (Nhớ bà mẹ ở Nam Hoành – Phạm Tiến Duật)
76 Có tiếng khóc rất lạ:
VD 72:
VD 73:
... Tiên ông khóc sấm sút Ối... ôi... thôi Ngựa đã phi xa rồi … Còn trơ cụ Tiên Nhợt nhạt nằm co dưới gầm rêu ướt (Chân trời tua tủa mảnh chai - Hoàng Cầm) … Hoàng phi bện dây đay chằng lụa thủng Từng đêm vuốt bụng Nổi vết bào thai Khóc âm y trước lúc ra đời
(Gái hậu Lê - Hoàng Cầm)
Tiểu trường chỉ các bộ phận của mắt có tần số xuất hiện thấp hơn hẳn so với hai tiểu trường của các BTKH chỉ hoạt động của mắt và nước mắt. Trong ca dao người Việt có 09 biến thể và 07 lần xuất hiện, trong thơ ca 1945-1975 có 13 biến thể và xuất hiện 47 lần. Hình dáng của mắt có 04 biến thể, 09 lần xuất hiện trong kho tàng ca dao người Việt, 06 biến thể với 17 lần xuất hiện trong thơ ca Việt Nam 1945-1975. Màu sắc của mắt có 04 biến thể và 10 lần xuất hiện trong ca dao người Việt, có 08 biến thể với 22 lần xuất hiện trong thơ ca Việt Nam 1945-1975. Đáng lưu ý là tiểu trường của các BTKH chỉ trạng thái của mắt có 06 biến thể và 24 lần xuất hiện trong kho tàng ca dao người Việt, trong thơ ca Việt Nam 1945-1975 tiểu trường này có số lượng biến thể nhiều nhất với 56 biến thể và 115 lần xuất hiện. Ở những BTKH này, THTM “mắt” góp phần thể hiện vẻ đẹp hình thức của con người (điểm khác so với các BTKH chỉ nước mắt và các hoạt động của mắt) và các ý nghĩa biểu trưng cho tâm hồn, trí tuệ của con người. Các bộ phận của mắt như lông mày (3 lần), con ngươi (3 lần), ánh mắt (01 lần) trong ca dao. Trong thơ ca, các bộ phận của mắt ngoài 03 biến thể xuất hiện như trong ca dao còn có thêm 11 BTKH như: mi/hàng mi/bóng mi, mí mắt, tròng mắt, hốc mắt, đuôi mắt, khóe mắt, đáy mắt, màu mắt, tầm mắt, tầm nhìn, cái nhìn. Sự xuất hiện nhiều biến thể như vậy vừa đáp ứng nhu cầu diễn đạt mới vừa thể hiện tư duy ngôn ngữ của các tác giả thơ ca 1945-1975 đa dạng hơn các tác giả dân gian.
BTKH chỉ màu sắc của mắt đã được cả các tác dân gian cũng như thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 quan tâm. Trong kho tàng ca dao, màu sắc của mắt xuất hiện với các biến thể như: mắt xanh (5 lần), mắt đỏ (lòm), (mắt) trắng (2 lần), mắt ngọc (2 lần); trong đó biến thể mắt trắng, mắt ngọc không hề xuất hiện trong thơ ca Việt Nam 1945 – 1975. Những màu mắt này ít khi được dùng với ý nghĩa tả thực mà thường mang một ý nghĩa biểu trưng:
77 VD 74: Ngồi mà dựa bóng đèn xanh
Mắt xanh xanh biếc nhớ ngành thanh xuân
VD 75:
(Ca dao) Vách thành cao lắm khó dòm Nhớ em anh khóc đỏ lòm con ngươi (Ca dao)
Trong thơ ca, màu mắt được các tác giả thể hiện rất phong phú, có những màu mắt xuất hiện giống như trong ca dao: (Mắt/tròng mắt) (sẫm) đen, mắt xanh; có những màu mắt không hề xuất hiện trong ca dao: mắt huyền, mắt biếc, mắt màu gio, mắt trong…, thậm chí màu mắt mang tên quê hương: mắt người Sơn Tây cho đến màu mắt không thể gọi thành tên mà được gọi bằng danh từ chung nhất: màu mắt lạ…cho thấy tư duy ca dao đơn giản hơn, cách diễn đạt cũng giản dị hơn khác với lối tư duy thơ đầy cá tính sáng tạo có cái nhìn đa dạng, tinh tế, trí tưởng tượng phong phú về hiện thực của các nhà thơ hiện đại: VD 76:
... Mây ở đầu ô Hẹn những chân trời xa lạ Qua một ngọn cột đèn Chiều tối lại bừng con mắt đỏ Cành bàng mái cũ khẳng khiu
(Mây đầu ô - Quang Dũng)
VD 77:
Đã nhiều lần em đến nơi đây Và em biết nhiều lần em đã đến ... Các thủy thủ có màu mắt lạ Và những con tàu không bao giờ quen (Thành phố lạ - Xuân Quỳnh)
Hình dáng của mắt được biểu hiện qua những cách nói: mắt lá răm (3 lần), mắt bồ câu (2 lần), mắt phượng (2 lần), mắt ti hí - mắt lươn (2 lần) vừa thể hiện đặc điểm hình thức của con người vừa thể hiện quan niệm của dân gian “Trông mặt mà đặt hình dong”: VD 78:
Thương em con mắt lá răm Lông mày lá liễu thương năm nhớ đời.
(Ca dao)
VD 79:
Những người ti hí mắt lươn, Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người.
(Ca dao)
78
Trong thơ ca, hình dáng của mắt chủ yếu thiên về bộc lộ tâm trạng cụ thể trong một ngữ cảnh cụ thể, nét nghĩa “Trông mặt mà đặt hình dong” đã giảm đi, những đôi mắt lươn, mắt bé chủ yếu dùng để chỉ bọn người xấu, kẻ thù: VD 80:
... Gió vào lay tóc xõa bên đầu Cụ tiên đến nhìn, chầm chậm gật đầu ... Lão Tiên chỉ một chiều gọi tới Tươi cười đưa đẩy mắt lươn
(Chân trời tua tủa mảnh chai – Hoàng Cầm)
VD 81:
.. Hấp hay mắt bé loài vua chúa Chẳng thể vời theo tiếng hát cao
(Khi mùa xuân trở về – Hoàng Cầm)
Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ nói chung, trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975 nói riêng, các yếu tố ngôn ngữ có sự chuyển nghĩa đa dạng, miêu tả hình dáng của mắt nhưng là đề cập đến phẩm chất, tính cách con người; đề cập tới màu sắc, hoạt động, trạng thái của mắt nhưng là để nói lên diễn biến tâm trạng, cảm xúc của con người… 2.4. Tổng hợp kết quả khảo sát
Kết quả khảo sát THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975 xét trong tương quan giữa hằng thể và các biến thể thể hiện trong thống kê sau:
Tần số xuất hiện của THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975
Ca dao người Việt
THTM “mắt” Số lượng Số lượng
Hằng thể Biến thể từ vựng Biến thể kết hợp Tổng số: 1 3 54 58 Số lần xuất hiện 19 51 2 253 2.323 Thơ ca Việt Nam 1945 -1975 Số lần xuất hiện 188 49 1327 1564 1 3 148 152
Mắt là một danh từ đơn tiết, gọi tên một bộ phận cơ thể người. Khi đi vào thực tế sử dụng, mắt thường xuất hiện trong các tổ hợp mắt + x… với vai trò làm trung tâm. Mắt sẽ được cụ thể hóa về các phương diện nhờ các yếu tố phụ nghĩa cho nó chính là các BTKH và tạo ra các kiểu kết hợp khác nhau. Trong đó, mắt làm yếu tố chính mang nghĩa chỉ bộ phận cơ thể người, các yếu tố chỉ nghĩa về các phương diện hành động, trạng thái của mắt…
79
Khảo sát 175 đơn vị kiểu mắt theo mô hình mắt + x..., chúng tôi thấy có 6 phương diện được đề cập đến: hình dáng của mắt, màu sắc của mắt, các bộ phận của mắt (nước mắt), hoạt động của mắt, trạng thái của mắt, tính chất của mắt. Mỗi phương diện lại được gọi tên bằng một hoặc một số mô hình khác nhau. Cụ thể: a) Hình dáng của mắt được thể hiện bằng mô hình: Mắt + yếu tố chỉ hình dáng. Trong ca dao có 05 biến thể xuất hiện 10 lần: mắt bồ câu, mắt lá răm, mắt phượng, mắt ti hí - mắt lươn. Thơ ca Việt Nam 1945-1975 có 05 biến thể xuất hiện 16 lần, đó là các biến thể như: mắt tròn, mắt bé, mắt nhỏ, mắt lươn, mắt thỏ, mắt chuồn chuồn. Như vậy, số lượng biến thể như nhau nhưng chỉ có một biến thể giống nhau: mắt lươn.
Các BTKH nói về hình dáng của mắt về cơ bản để thể hiện cách đánh giá bản chất của đối tượng, mắt lươn xuất hiện cả trong ca dao và thơ ca với cùng một sắc thái ý nghĩa tiêu cực. VD 82:
Những người ti hí mắt lươn, Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người.
VD 83:
(Ca dao) ... Lão Tiên chỉ một chiều gọi tới Tươi cười đưa đẩy mắt lươn (Chân trời tua tủa mảnh chai, Hoàng Cầm)
b) Màu sắc của mắt được biểu hiện bằng mô hình: Mắt + yếu tố chỉ màu sắc (tính từ): Trong ca dao có 04 biến thể xuất hiện 11 lần, đó là các biến thể: mắt xanh, mắt trắng, mắt đỏ, mắt ngọc. Trong thơ ca Việt Nam 1945-1975 có 08 biến thể xuất hiện 22 lần, đó là các biến thể: mắt đỏ, mắt xanh, mắt huyền, mắt biếc, mắt (sẫm) đen, mắt màu gio, (màu) mắt trong. VD 84:
Cầu đây có gái bán hàng Có đôi rùa đá, có nàng bán cau
Mắt xanh tươi thắm môi trầu Miệng cười lúm má cho cầu thêm xinh
(Ca dao)
Không gì thương bằng đôi mắt đen Của người yêu nhìn ta đăm đắm (Những ngọn đèn, Tố Hữu)
VD 85: Các BTKH: mắt xanh, đôi mắt đen, … thậm chí thu hẹp phạm vi biểu vật của tín hiệu, nhưng lại mở rộng phạm vi biểu niệm, đưa đến cho THTM “mắt” những ý nghĩa biểu trưng phong phú và biểu cảm.
c) Trạng thái, tính chất của mắt được miêu tả bằng mô hình: Mắt + yếu tố trực tiếp chỉ đặc điểm, trạng thái (tính từ) như mắt long lanh, mắt lúng liếng, mắt lim
80 dim, mắt bần thần… Qua khảo sát có 56 đơn vị có kết hợp kiểu này. Trong đó, ca dao có 06 đơn vị, xuất hiện 24 lần, thơ ca 54 đơn vị, xuất hiện 107 lần. Hai biến thể chỉ xuất hiện trong ca dao, không có trong thơ ca: mắt lúng liếng, mắt toét; 50 biến thể chỉ xuất hiện trong thơ ca mà không có trong ca dao, chẳng hạn: mắt hoang dại, mắt trâm tư, mắt sáng… Trạng thái của mắt được biểu hiện bằng một số từ ngữ với các nét nghĩa: - Trạng thái độ sáng (đặc điểm sinh học): có 17 đơn vị: mắt sáng, mắt sáng trong, mắt sáng bừng, mắt sáng ngời, mắt sáng quắc, mắt mờ, mắt mù, mắt lòa, mắt lóa, mắt toét, mắt ướt, mi trường, lông mày rậm, mắt thâm quầng, tròng mắt cay, mi mọng, mắt viền. Trong đó ca dao chỉ có 01 đơn vị mắt toét và BTKH này không xuất hiện trong thơ ca. VD 86: Một yêu mắt toét ba vành
Hai yêu miệng nói cười tình hơn ma (Ca dao)
- Trạng thái về tâm trạng, thái độ, tính cách: có 22 biến thể và các biến thể này đều không xuất hiện trong ca dao: mắt trừng trợn, mắt tráo trâng, mắt trầm tư, mắt bần thần, mắt rụt rè, mắt ngơ ngác, mắt u buồn, mắt đau buồn, mắt yêu đời, mắt đầm ấm, mắt khoan dung, mắt thân yêu, mắt nhìn vui ấm, mắt bình thản, mắt chan chứa nhân tình, mắt nheo cười, mắt hiền, mắt/mày tươi, mắt hoang dại, mắt biển khơi, mắt u ẩn, ánh mắt lạ kỳ.
- Trạng thái độ linh hoạt: có 09 biến thể: mắt long lanh, mắt lóng lánh, mắt lúng liếng, mắt lung linh, mắt linh lợi, mắt lờ đờ, mắt lơ mơ, mắt lim dim, mắt sắc như dao. Trong đó, ca dao xuất hiện 05 đơn vị, thơ ca xuất hiện 08 đơn vị. d) Hoat động của mắt được biểu hiện bằng mô hình: Mắt + Y (động từ) hoặc 0 + Y (động từ) + B. Trong đó: Y là các hoạt động của mắt, B là đối tượng tiếp nhận hoạt động. VD 87:
(Ca dao)
Anh xuôi em vẫn trông chừng Trông mây, mây tản, trông rừng, rừng xanh Ai lên ải Bắc ngày xưa ấy Khóc tiễn cha đi mấy dặm trường Hôm nay biên giới mùa xuân dậy Núi trắng hoa mơ cờ đỏ đường... VD 88:
(Mục Nam Quan, Tố Hữu)
Cấu trúc này là phổ biến và chiếm số lượng lớn nhất trong thực tế hoạt động của THTM thuộc trường nghĩa “mắt”. Tổng số có 52 biến thể, trong đó ca dao: 17 biến thể và 1.794 lần xuất hiện, 35 biến thể không xuất hiện; trong thơ ca Việt Nam
81 1945-1975: 50 biến thể với 1050 lần xuất hiện, 02 biến thể không xuất hiện trong thơ ca là coi, liếc. Hằng thể mắt nhiều khi không trực tiếp xuất hiện mà chỉ có các động từ miêu tả hoạt động của mắt và đối tượng tiếp nhận hoạt động. Đó là trường hợp: 0+ Y + B (ở cả 02 ví dụ 62 và 63). BTKH của mắt trong cấu trúc này ngoài một số trường hợp miêu tả trạng thái hoạt động của con người thì thường hướng tới lớp nhĩa biểu trưng cho vẻ đẹp tâm hồn con người, cho những chuyển động nội tâm của con người. Ở đây có các BTKH là động từ rất đặc trưng cho THTM “mắt”: nhìn, trông, ngó, xem, thức, ngủ, khóc… Trong loại cấu trúc này cũng xảy ra hiện tượng: Danh hóa động từ, chẳng hạn: ngủ -> giấc ngủ,cái ngủ, cái áo ngủ; nhìn -> cái nhìn, điểm nhìn, cách nhìn… Có động từ không phải thuộc tính của mắt nhưng lại được dùng chỉ mắt như động từ cười trong kết hợp mắt cười để thể hiện đặc điểm của mắt và bộc lộ tâm trạng con người (?) Việc sử dụng những động từ, trạng thái của mắt nhiều khi đã trở thành một thứ ngôn ngữ thân thể với tư cách là “cái được biểu đạt” trong số phận thăng trầm của con người mà nó phân hưởng và gánh chịu. Nhưng cũng có khi những hoạt động, trạng thái của mắt – ngôn ngữ thân thể là “cái biểu đạt”, lúc này “cái được biểu đạt” tương ứng với nó là tư tưởng, tình cảm của con người…
Có động từ chỉ xuất hiện trong một số tác giả mà không xuất hiện ở các tác giả
khác, xem đây như một sự sáng tạo ngôn từ của tác giả...
e) Ngoài ra các đặc điểm của mắt còn được biểu hiện bằng mô hình so sánh (kể cả so sánh ngầm) A + như + B; trong đó: A là mắt và các thuộc tính của mắt, B là đối tượng được lựa chọn đem ra so sánh. Nhiều trường hợp A không xuất hiện, lúc đó ta có so sánh ngầm. Cấu trúc này xuất hiện tương đối nhiều trong ca dao, bởi lẽ ví von so sánh là cách nói quen thuộc của tác giả dân gian. VD 89:
Trời sinh con mắt là gương Càng yêu mến lắm càng thương nhớ nhiều
(Ca dao)
VD 90:
... Vầng trán em mang trời quê hương Mắt em như giếng nước thôn làng Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm Em đã bao ngày em nhớ thương?...
(Mắt người Sơn Tây – Quang Dũng)
Với cấu trúc này, THTM được đặt trong tương quan với với các yếu tố khác thông qua các yếu tố so sánh: là, như, khác gì, …Ở đây, mắt được cụ thể hóa thông qua hình ảnh đối sánh là cơ sở để tạo ra ý nghĩa biểu trưng. Cấu trúc so sánh đã đem lại THTM cách diễn đạt tinh tế phù hợp với việc thể hiện tâm tình của con người.
82
Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi! Nước mắt ta trào, búp mí, tràn môi Cổ ta ré trăm trận cười, trận khóc! Ta ôm nhau, hôn nhau từng mái tóc (Huế tháng Tám, Tố Hữu)
h) Mô hình A (nước mắt) + B (tính từ, động từ…) Như trên đã trình bày, nước mắt cũng là một bộ phận của mắt, nhưng do tần số xuất hiện của BTKH này tương đối nhiều, nên chúng tôi đã tách thành một nhóm từ đứng riêng để thuận tiện cho việc khảo sát và tìm hiểu ý nghĩa thẩm mỹ. Tổng số có 29 biến thể; trong đó xuất hiện trong ca dao có 16 biến thể với tần số 347 lần, thơ ca có 19 biến thể với tần số xuất hiện 87 lần; 10 biến thể có mặt trong ca dao mà không xuất hiện trong thơ ca: lụy, châu, giọt, nhỏ sa, đầm đầm như mưa, lai láng, thấm bâu, ròng ròng, sụt sùi, ướt đầm; 13 biến thể chỉ xuất hiện trong thơ ca không xuất hiện trong ca dao: trào (nước mắt), (nước mắt) rơi, (nước mắt) đầm đìa, giàn giụa, lau (nước mắt), (nước mắt/lệ) chảy, ứa (nước mắt), chắt ra (nước mắt), hứng (lệ), (nước mắt) nóng, đằm, (lệ) tràn, (lệ) khô ráo. VD 91: i) Mô hình A (mắt) + B (yếu tố chỉ vị trí, địa danh…) Trong trường hợp này, những yếu tố phụ nghĩa cho mắt vốn là những yếu tố chỉ vị trí như Sơn Tây, Sài Sơn, biển Đông … nhưng khi đi vào tổ hợp, nghĩa chỉ vị trí đã bị mờ đi; nghĩa chính của tổ hợp này là nghĩa sắc thái: ấn tượng cảm xúc về một miền quê, kiểu mắt – kiểu tâm hồn… Cấu trúc này chỉ có trong thơ ca 1945-1975 mà không có trong ca dao. Số lượng cụ thể minh chứng cho kiểu mô hình này cũng không nhiều: 03 BTKH Mắt người Sơn Tây (xuất hiện 02 lần), Đôi mắt Sài Sơn (xuất hiện 01 lần), Con mắt biển Đông (xuất hiện 01 lần) và dường như chỉ xuất hiện duy nhất trong một tác phẩm cụ thể của một tác giả cụ thể. Nó hiện ra như một ám ảnh, ấn tượng sâu sắc với tác giả. Mỗi tên làng, tên đất, tên biển đều gắn liền với mỗi miền quê và con người nơi đó. Vì thế mà địa danh trong thơ ca đã trở thành một thứ địa chỉ tâm hồn mang hàm ý biểu trưng nghệ thuật. VD 92:
Ôi những xe bò ắp bánh chưng Quân ta năm mới buổi lên đường! Dân đến liên hoan chiều lửa trại Đôi mắt Sài Sơn sao vấn vương?
(Nhớ một bóng núi - Quang Dũng)
VD 93:
Đêm nay vừa tắt chớp bom Mùi đá cháy, mùi thép nung, mùi thuốc nổ Còn sặc sụa trong từng hơi đảo thở
83
Tôi ngước trông: Con mắt biển Đông vẫn điềm nhiên rạng mở Và tiếng hát từ lòng đảo nhỏ Mượt mà như mái tóc chải khoan thai
(Tiếng hát đảo đèn - Nguyễn Duy)
Ngoài ra, cũng phải kể thêm trường hợp đôi mắt người quan họ không được định danh trực tiếp song cứ lặp lại trong nhiều tác phẩm của Hoàng Cầm như một ấn tượng miền quê không thể trộn lẫn, chẳng hạn: VD 94:
(Đêm Kim - Hoàng Cầm)
VD 95:
Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc Con không cười Con thoảng nhớ thoảng quên Hình nhân má điệp tóc mực tàu Mắt nghiêng dựa liếp Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu Bỗng đến tuổi hai mươi Chị Tư lấy chồng xa phương trời Nhớ giọng người gầy như nhánh mai Từ đó anh Năm không hát nữa Riêng mắt anh mang tình một thuở Long lanh tiếng nguyệt đêm trường (Khi mùa xuân trở về - Hoàng Cầm)
VD 96:
Đến sư nữ chùa Thầy cũng mang một đôi mắt quan họ như vậy: Mắt sư nữ chùa Thầy thoắt mang màu xanh xứ Lạng ... Núi xuân nghiêng đầu Sông xuân vừa chợp mắt (Đi xa - Hoàng Cầm)
Tuy không xuất hiện nhiều nhưng đây cũng là một cấu trúc làm nên sự khác biệt của THTM thuộc trường nghĩa mắt của thơ ca hiện đại so với kho tàng ca dao người Việt.
84 Tiểu kết chương 2
Trong chương hai chúng tôi đã thu được kết quả như sau: a) Khảo sát THTM “mắt” ở hai dạng: hằng thể và biến thể. Trong dạng biến thể, chúng tôi đã khảo sát và tìm hiểu hai loại: BTTV và BTKH. Tổng hợp chung có tất cả là 173 đơn vị, trong đó: 01 hằng thể, 03 BTTV, 169 BTKH. Chúng tôi xem xét số lượng biến thể và tần số xuất hiện của từng loại, có sự đối sánh để từ đó bước đầu đưa ra những nhận xét khái quát về giá trị và ý nghĩa thẩm mỹ của THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975. Trong đó các BTKH của THTM “mắt” xuất hiện trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca với số lượng và tần số lớn nhất. Tổng số có 169 biến thể; trong đó, ca dao có 51 biến thể, xuất hiện 2.193 lần; thơ ca có 149 biến thể (38 biến thể trùng với ca dao) với 1.329 lần trong thơ ca Việt Nam 1945-1975 áp đảo so với hằng thể và các BTTV. Điều này cho thấy khả năng hoạt động của THTM dưới dạng BTKH là vô cùng phong phú, từ THTM hằng thể trung tâm, phát triển thành các BTKH với những ý nghĩa thẩm mỹ hết sức đa dạng. Xem xét giá trị của THTM mắt là chủ yếu tìm hiểu các biến thể của nó trong mỗi lần xuất hiện khác nhau. b) Khảo sát 173 đơn vị kiểu mắt (hoặc BTTV của mắt) + x…; chúng tôi thấy có các phương diện được đề cập đến: hình dáng của mắt, màu sắc của mắt, hoạt động của mắt, trạng thái của mắt, tính chất của mắt. Mỗi phương diện lại được gọi tên bằng những mô hình khác nhau. Đây chính là cơ sở cho việc luận giải giá trị của THTM mắt trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca 1945 – 1975.
Trong loại cấu trúc của BTKH mắt + X (X là động từ) + B (đối tượng tác động) xảy ra hiện tượng: Danh hóa động từ, chẳng hạn: ngủ -> giấc ngủ, cái áo ngủ. Có động từ không phải thuộc tính của mắt nhưng lại được dùng chỉ mắt như mắt cười. c) Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy có một số điểm khác biệt về hình thức ngôn ngữ của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong thơ ca Việt Nam 1945 -1975 so với ca dao người Việt:
- Có sự chênh lệch khá lớn giữa số lượng BTKH trong ca dao và thơ ca, thể hiện tư duy thẩm mỹ và sự phát triển ngôn ngữ của dân tộc. Đặc biệt là các BTKH chỉ trạng thái của mắt (ca dao có 06 đơn vị, xuất hiện 24 lần, thơ ca 54 đơn vị, xuất hiện 107 lần). Trong thơ ca Việt Nam 1945 -1975 có nhiều BTKH chỉ xuất hiện duy nhất một lần không lặp lại, có những biến thể xuất hiện một số lần ở một tác giả thể hiện lối tư duy và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
- Thực tế cho thấy có những tín hiệu xuất hiện trong ca dao, nhưng lại không xuất hiện trong thơ ca, tổng số các biến thể chỉ có trong ca dao mà không có trong thơ ca là 21: đó là các THTM: mắt bồ câu, mắt lá răm, mắt phượng, mắt toét, lụy, châu,
85 giọt (nước mắt), ,(nước mắt) sụt sùi, … Ngược lại có những THTM có trong thơ ca nhưng lại không xuất hiện trong ca dao, tổng số các biến thể chỉ có thơ ca mà không có trong ca dao là 116: đó là các THTM: mắt bé, mắt nhỏ, mắt tròn xoe, mắt chuồn chuồn, hốc mắt, đáy mắt, màu mắt, mắt bần thần, mắt hoang dại, mắt nheo cười, mắt đầm ấm, … Như vậy, so với ca dao, số lượng biến thể của thơ ca phong phú hơn nhiều, thể hiện sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc và tư duy thẩm mỹ của các nhà thơ hiện đại cũng như con người thời đại, trải qua mấy nghìn năm lịch sử, con người Việt Nam đã sáng tạo ra các đơn vị từ vựng mới để đáp ứng tốt hơn nhu cầu bộc lộ cách nhìn, thế giới tâm hồn và thực tại cuộc sống phong phú.
- Có cấu trúc ngôn ngữ chỉ xuất hiện trong thơ ca mà không có trong ca dao. Đó
là mô hình A (mắt) + B (yếu tố chỉ vị trí, địa danh…)
Kết quả khảo sát THTM thuộc trường ngĩa “mắt” cho thấy: về sinh học, mắt là bộ phận quan trọng, là cửa sổ tâm hồn con người; về mặt tín hiệu thẩm mỹ, mắt không chỉ là đối tượng miêu tả mà còn là phương tiện biểu hiện “cách nhìn”, “cách cảm” của người nghệ sĩ dân gian và tác giả thơ ca Việt Nam.
86 Chương 3. Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA TÍN HIỆU THẨM MỸ “MẮT” TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT VÀ THƠ CA VIỆT NAM 1945 -1975
3.1. Dẫn nhập
Khi nói về ý nghĩa biểu trưng, Tzvetan Todorov có viết:“chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt; hoặc giản đơn hơn… cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt” [Dẫn theo 111, tr. XXVII]. Tiếp theo quan niệm này, chúng tôi sẽ tìm hiểu ý nghĩa thẩm mỹ của THTM “mắt” ở hai phương diện: nghĩa thông thường của mắt và ý nghĩa biểu trưng của THTM mắt ở các khía cạnh: góp phần thể hiện hình thức, đời sống nội tâm và trí tuệ con người.
Nghĩa biểu trưng của THTM “mắt” là ý (sense) hàm ẩn nhờ liên tưởng mà nhận biết được. Đó cũng là “ý tại ngôn ngoại” của ngôn ngữ văn chương. Nghĩa biểu trưng có liên quan đến “tiền ước” của cộng đồng. Tiền ước là những hiểu biết chung (có tính bách khoa) của tác giả và độc giả về văn hóa, tập quán. Nói đến “mắt” ngoài nhận thức vật chất sinh học còn có sự liên tưởng đến hoạt động tinh thần, đến “mắt” là: cửa sổ tâm hồn, là vật chứa các ý niệm được ẩn dụ hóa. Chẳng hạn, tác phẩm “Đôi mắt” của Nam Cao thể hiện quan niệm sống, ý thức chính trị của nhân vật. Tác phẩm “Dưới mắt tôi” của nhà phê bình văn học Trương Chính thể hiện quan niệm nghệ thuật của chính tác giả. Với văn chương nói chung, thơ ca nói riêng, “mắt” là điểm nhìn của tác giả sáng tạo. Nhờ vào “tiền ước” nói trên mà có sự đồng sáng tạo của giao tiếp văn chương.
3.2. Nghĩa từ vựng (nghĩa gốc) của mắt Khi nghiên cứu những giá trị của một THTM, vấn đề có tính nguyên tắc là luôn phải bám sát vào nghĩa cơ sở (nghĩa tự thân, nghĩa miêu tả) của tín hiệu trong hệ thống ngôn ngữ. Xét theo tính hệ thống, thành phần nghĩa này chính là mặt hằng thể của tín hiệu có tính đặc thù khái quát, trừu tượng bất biến. Thể chất, tinh thần của tín hiệu thẩm mỹ dù có độ giãn nở xa rộng đến mấy cũng không thể hoàn toàn thoát li, cắt đứt khỏi “đầu mối” - nghĩa cơ sở này. Kết quả khảo sát ý nghĩa biểu trưng của các tín hiệu đã chứng tỏ điều đó, với THTM thuộc trường nghĩa mắt cũng vậy.
Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt [113, tr.798]; khái niệm mắt được giải thích như sau: (d). 1. Cơ quan để nhìn của người hay động vật; thường được coi là biểu tượng của cái nhìn của con người. Nhìn tận mắt. Nháy mắt. Trông đẹp mắt. Vui mắt...
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới [111, tr.568], “Mắt (oeil) là cơ quan của thị giác, con mắt đương nhiên được hầu hết mọi dân tộc coi là biểu tượng tri giác trí tuệ. Ta cần xem xét lần lượt từ con mắt thân thể, có chức năng tiếp nhận ánh sáng,
87 đến con mắt trên trán là con mắt thứ ba của thần Civa và cuối cùng, là con mắt của trái tim: cả hai đều tiếp nhận ánh sáng tinh thần.
Theo các tu sĩ dòng thánh Victo, một mắt là tình yêu, mắt kia là chức năng trí tuệ. Nghĩa là nhãn quan nội tâm phải thống nhất cả hai mặt như thế. Con mắt của con người như là một biểu tượng của tri thức, tri giác siêu nhiên…Người Ai Cập coi con mắt là một biểu tượng thiêng liêng ... tỏa ra khí thiêng, là con mắt tỏa ánh sáng làm trong sạch [111, tr.570].
Như vậy, theo sự luận giải của hai cuốn từ điển trên, mắt đã được cắt nghĩa trên hai phương diện: nghĩa đen và nghĩa ẩn dụ (nghĩa biểu tượng). Chúng tôi có thể tóm lược lại như sau: mắt là một bộ phận dùng để nhìn của người (hoặc động vật); mắt còn là biểu tượng cho sự nhìn nhận của con người về thế giới, qua đó thể hiện tâm hồn và trí tuệ của con người… Những nghĩa này cũng là cơ sở để các tác giả dân gian trong ca dao và các nhà thơ hiện đại khai triển các ý nghĩa thẩm mỹ của THTM “mắt”. Từ một tín hiệu ngôn ngữ thông thường, khi đi vào nghệ thuật, vào thơ ca, ca dao, mắt đã trở thành một THTM, tín hiệu văn chương. Khi đó, toàn bộ cái khối thông thường kia lúc này đã trở thành CBĐ cho THTM. CĐBĐ (YNTM) của THTM một mặt toát lên từ toàn khối đó, một mặt được bộc lộ qua mỗi lần xuất hiện của nó trong hệ thống THTM. Nói cách khác nó còn gia tăng biến đổi trong quá trình hành chức nghệ thuật của tín hiệu. Quá trình đó tạm quy về loại biến thể sử dụng như đã trình bày ở chương 2.
Trong quá trình vận động, các YNTM sẽ phân hóa thành hai loại, loại trở nên cố định, trừu tượng, khái quát hóa có thể gọi là YNTM có tính hằng thể, nguyên mẫu, điển dạng và loại YNTM mới xuất hiện trong mỗi lần sử dụng có tính cụ thể, hiện dạng, sinh động mang đậm dấu ấn chủ quan, sáng tạo, có thể gọi là những YNTM có tính biến thể. Việc xác định, phân loại cho các YNTM hằng thể - biến thể, cũ mới này cũng là những thử thách khó khăn đối với người nghiên cứu.
Để khám phá các loại ý nghĩa này của THTM thuộc trường nghĩa “mắt”, một mặt chúng tôi luôn luôn dựa vào nghĩa cơ sở, bám sát vào các tổ hợp ngôn ngữ có THTM “mắt” (như đã xét ở chương 2), một mặt phải tìm hiểu mắt có ý nghĩa như thế nào trong môi trường tâm lí nghệ thuật nói chung của mỗi thời đại…Qua đó thấy được độ giao thoa và sự phát triển trong ý nghĩa thẩm mỹ của THTM được xét. 3.3. Sơ lược về ý nghĩa biểu trưng của THTM mắt trong đời sống văn hóa, văn học
Trong các bộ phận cơ thể người, đôi mắt nắm giữ vai trò quan trọng nhất trong cuộc sống. Tất cả những màu sắc tươi xanh của sự sống, của thiên nhiên, cây cỏ, và "sắc màu” của tình cảm con người đều tác động đến mỗi chúng ta qua "chiếc cửa sổ" độc đáo đó.
Đôi mắt đã đi vào đời sống văn hóa của người Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới như một biểu tượng giàu ý nghĩa tâm linh. Đối với người Á đông, đó là
88 bức tượng Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát, thường được nhớ đến ở dạng nghìn mắt nghìn tay, trong mỗi bàn tay có một con mắt. Nghìn tay nghìn mắt ấy là biểu thị cho sự thấu cảm, cứu độ chúng sinh vô biên của ngài.
Và cả thế giới cũng từng phải cúi đầu trước đôi mắt trong sáng, nhân từ vô biên của Đức Mẹ, đôi mắt Người là biểu tượng cho vẻ đẹp toàn thiện, toàn bích vô song, hội tụ và thấu suốt tất cả những thương yêu của những người mẹ trên thế giới…
Như vậy, trong đời sống tâm linh, đôi mắt đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp
thánh thiện, khơi dậy Đức tin và Tình yêu, có sức cảm hóa vô biên.
Trong lịch sử và trong văn học cổ Trung Hoa, Tứ Đại mỹ nhân thời cổ là Điêu Thuyền, Chiêu Quân, Dương Quý Phi, và Tây Thi. Bốn giai nhân đều là những trang tuyệt sắc, điểm chung nhất của họ là đều có những đôi mắt rất quyến rũ và mê hồn có thể làm thay đổi cả lịch sử. Chính làn sóng mắt của Điêu Thuyền đã làm say mê đắm đuối hai bố con gian hùng Đổng Trác và Lã Bố (đời nhà Hán), đến nỗi Lã Bố vì ghen đã giết Đổng Trác, người cha nuôi của mình. Đôi mắt tuyệt trần của mỹ nhân đã làm thay đổi cả bánh xe lịch sử … Một Ngô Phù Sai vì say đắm nhan sắc và đôi mắt huyền mộng của Tây Thi mà bị chết dưới tay vua Câu Tiễn nước Việt. Một Đường Minh Hoàng cũng say mê sắc nước hương trời của Dương Quí Phi mà mất nước. Chiêu Quân với danh hiệu "trầm ngư lạc nhạn" (cá lặn chim sa), có đôi mắt rất đẹp đã làm cho vua Hán hối hận và luyến tiếc trong giây phút biệt ly cống Hồ... Bốn tuyệt thế giai nhân với những đôi mắt "thần diệu" đã một thời làm khuynh đảo thành trì, thay đổi cả lịch sử. Quả thực là "Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy đôi mắt của giai nhân" (Phạm Thái trong Tiêu Sơn Tráng Sĩ - tiểu thuyết Khái Hưng) [67].
Trong văn học Việt Nam, khó mà có một số liệu thống kê đầy đủ và toàn diện về tần số xuất hiện của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong văn học từ xưa tới nay. Không chỉ xuất hiện với tư cách là những hằng thể, THTM “mắt” trong văn học cũng có một số biến thể từ vựng tạo nên những cách biểu hiện phong phú, sinh động, đem đến cho tín hiệu thẩm mỹ này sự cuốn hút, lạ lùng. Người ta có thể gọi tên THTM này như: làn thu thủy, khóe thu ba…
Để nói về sắc đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã miêu tả:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Truyện Kiều - Nguyễn Du
"Làn thu thủy" nghĩa là con mắt long lanh trong trẻo như dòng nước mùa thu.
"Xuân sơn" là núi mùa xuân xanh thắm, ví với lông mày người con gái đẹp.
Tiểu trường các BTKH chỉ màu sắc của đôi mắt cũng được các nghệ sỹ quan sát, khai thác để biểu đạt ý nghĩa thẩm mỹ, giống như một cách khám phá thế giới nội tâm con người. Mỗi màu sắc khác nhau biểu đạt một đặc điểm riêng về tính cách, một trạng thái cảm xúc khác: lúc dịu dàng, lúc thật nồng nàn đắm đuối, lúc sắc sảo thông
89 minh, lúc ngây thơ trong sáng, lúc sầu muộn chia ly… Đó là những đôi mắt xanh, mắt biếc, mắt huyền, mắt nhung, mắt nâu…
Trước hết phải kể đến những đôi mắt xanh. Trong Truyện Kiều, Từ Hải biết tiếng
"Bấy lâu nghe tiếng má đào
Thuý Kiều là người tài sắc, chàng đến tìm Kiều ở thanh lâu và hỏi nàng: VD 97: Mắt xanh chẳng để ai vào có không ? Một đời được mấy anh hùng Bỏ khi cá chậu chim lồng mà chơi!"
Đó có phải đôi mắt xanh của cái nhìn tinh tường nhận biết rõ người quân tử mà
lựa chọn?
Màu mắt tím cũng thấp thoáng trong thơ ca như một hình ảnh tượng trưng cho
Mắt em tím để hồn anh mơ mộng Đêm tương tư tha thiết bóng hình ai Hoa tàn phai mùi hương xưa phảng phất Em đi rồi ngàn nỗi nhớ vây quanh
vẻ đẹp dịu dàng sâu thẳm, đầy mộng mơ pha trộn với nỗi buồn thấm thía khó diễn tả: VD 98: (Mắt Tím - Bảo Cường, [Dẫn theo 67]) Màu mắt biếc xuất hiện trong một số tác phẩm như là một hình ảnh của những
tâm hồn trong sáng ngây thơ: VD 99:
Ta biết người buồn sáng hôm nay Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay, Em nhỏ ngây thơ, đôi mắt biếc Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay (Tống biệt hành - Thâm Tâm) Ngoài ra còn có mắt lụa, mắt ngọc, mắt nai… cho đến cả những màu mắt khó đoán định xuất hiện như một ấn tượng cảm giác đó là ánh mắt liêu trai... Như vậy thì màu sắc của mắt là một đặc điểm được các nghệ sỹ nắm bắt cốt thể hiện vẻ đẹp của con người ở cả vẻ ngoài và nội tâm. Mỗi màu sắc mang lại một thần thái, một vẻ đẹp riêng.
Một trong những thuộc tính của THTM “mắt” được nhiều nghệ sĩ quan tâm, đó là nước mắt … Thi sĩ Xuân Diệu đã nói đến những giọt nước mắt đau thương của nhân loại : VD 100:
Trăm ngàn kiếp lệ cuốn theo sông Biển chứa long lanh sóng vạn trùng Trái đất ba phần tư nước mắt Đi như giọt lệ giữa không trung (Lệ - Xuân Diệu)
90 Mỗi tác giả mang đến cho dòng nước mắt một cung bậc nỗi niềm riêng, khi là
nước mắt của nhớ thương: Ai làm Nam Bắc phân kỳ VD 101: Cho hai dòng lệ đầm đìa nhớ thương (Ca dao)
Lúc là nước mắt của chia ly đau đớn: Nỗi mình thêm tức nỗi nhà, Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
VD 102: (Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Anh tưởng chỉ cần trông thấy thôi Là em hiểu rõ lòng anh rồi. Mối tình chan chứa trong đôi mắt, Anh biết làm sao nói những lời…
Mắt đã đi vào thơ ca như một THTM với những biến thể rất phong phú đem lại những hình ảnh thơ ca đẹp đẽ giàu cuốn hút với những ý nghĩa thẩm mỹ đa dạng. Mắt là cả một thế giới của đôi lứa yêu đương, từ những cảm xúc đầu đời trong sáng: VD 103:
(Hờ hững - Tế Hanh) Đến niềm yêu trong cảm xúc đồng điệu vô biên: Đôi mắt em lặng buồn Nhìn thôi mà chẳng nói Tình đôi ta vời vợi Có nói cũng không cùng … VD 104: (Lưu Trọng Lư)
Những đôi mắt giai nhân đã trở thành nỗi ám ảnh trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Bính, đó hầu hết là những đôi mắt đẹp, là đôi mắt nhung, đôi mắt, mắt biếc, mắt xanh, đôi mắt trong. Đặc biệt có trường hợp mắt đã trở thành THTM vĩ mô trong một số tác phẩm của Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính từng trăn trở với một đôi mắt nhung
Bao năm đi giữa kinh thành Bao năm lẻ bóng, lẻ hình, lẻ đôi. Cả kinh thành có những ai? Cả kinh thành có một người mắt nhung!
VD 105:
Người ơi cứu vớt tôi cùng Dành đôi mắt đẹp cho lòng rất đơn Tôi còn mơ ước gì hơn!
91
Hai tay người chắp phím đờn cho tôi Phải chăng tôi đã yêu rồi? Hồn xin qùy dưới mắt người từ đây
Đêm qua buồn quá tôi say Đã mơ một giấc mơ đầy mắt nhung!
(Mắt nhung - Nguyễn Bính)
Bốn lần đôi mắt người đẹp xuất hiện, trong đó THTM “mắt nhung” xuất hiện trong khổ thơ đầu và chốt lại trong những chữ cuối cùng của bài thơ như một ấn tượng khó quên, một cái nhìn đầy luyến tiếc, xa xăm. Nghĩa của từ “mắt nhung” không có trong từ điển, có thể dựa vào nghĩa của nhung (dt) hàng dệt bằng tơ hay bằng sợi bông, có tuyết mượt phủ kín sợi dọc sợi ngang; cũng thường để ví cái mượt mà, êm dịu, gây cảm giác dễ chịu [113; tr.936] để hình dung đôi “mắt nhung”. Đó là đôi mắt đen nhung huyền sâu kín, êm dịu với đôi lông mày lá liễu, hàng mi cong... đủ làm trái tim đa tình của thi sĩ thổn thức. Từ đôi mắt để nói về vẻ đẹp huyền bí, quý phái của người con gái xinh đẹp tài hoa. Đó là một cô gái có gốc gác hoàng tộc: Tôn Nữ Hoàng Trân từng khiến cho thi sĩ:“Bao năm đi giữa kinh thành/Bao năm lẻ bóng, lẻ hình, lẻ đôi/Cả kinh thành có những ai?/Cả kinh thành có một người mắt nhung”. Lần khác, đôi mắt cũng trở thành niềm ám ảnh đi suốt chiều dọc bài thơ như một THTM vĩ mô, mỗi lần xuất hiện với một đặc điểm là một THTM vi mô: đôi mắt đẹp nhìn, Mắt em sáng mãi chòm sao trên trời, con mắt vì tôi thức ròng...đôi mắt em xinh, Mắt em sực tỉnh, Mắt em giếng ngọt, Mắt em giếng ngọt mơ màng trăng thanh, đôi mắt vẫn tròn ánh sao, Mắt em rót sáng thêm vào mắt anh, mắt mình rối trông, Đẹp sao đôi mắt tiễn chồng...
Vẫn là đôi mắt em đi suốt dọc bài thơ, đi suốt hành trình nỗi nhớ... Và đây là nỗi nhớ với một ánh mắt phương trời:
VD 106:
Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Giữa những chặng đường hành quân đất nước đầy gian lao, bỗng hiện ra đôi mắt của người yêu như ngôi sao xanh của hi vọng và niềm tin vẫn cháy sáng suốt những đêm dài. Mắt người yêu đã trở thành một THTM đậm đà chất nhân văn tạc nên chân dung tâm hồn con người Việt Nam của những năm kháng chiến chống Pháp.
Nguyễn Trọng Hoàn cũng tha thiết với một ánh mắt đau đáu trông mong. Giữa dòng đời vội vã gặp nhau, bao đắm say hóa đá níu chân người. Da diết quá khi bao điều không thể nói. Cách trở vời vợi khi giữa hai người yêu nhau có cả một dòng đời ngăn cách. Chỉ biết gửi niềm thương nhớ vào ánh mắt dõi theo nhau:
92 VD 107:
Có bao giờ trở lại nữa không con đường ấy - nỗi buồn tinh khiết ấy ? Ơi ánh mắt... với dòng đời trôi chảy phương trời thành đau đáu trông mong
(Gửi một chiều không đến - Và em khi ấy)
Từ đôi mắt, bao cung bậc của tình yêu được gửi gắm: từ những thoáng rung
động đầu đời đến những cảm xúc mãnh liệt của trái tim, yêu thương, hờn giận …
Không chỉ có vậy, đôi mắt đã nói nên những trăn trở xúc động của con người về cuộc sống. Từ đôi mắt mà gửi cả nỗi niềm nhân sinh đầy day dứt khắc khoải; nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết thành ca khúc dựa trên một bài thơ của Bùi Giáng: VD 108: Còn hai con mắt khóc người một con còn hai con mắt một con khóc người. Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp. Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai tình trong hai tay một hôm biến mất. Con mắt còn lại là con mắt ai con mắt còn lại nhìn tôi thở dài. Con Mắt Còn Lại (ý thơ Bùi Giáng, nhạc Trịnh Công Sơn)
Con mắt đã trở thành nơi gửi gắm những nỗi niềm nhân thế, những trải nghiệm trước thăng trầm của cuộc đời. Con mắt kia khóc người, thương vay. Con mắt này để nhìn lại cuộc đời mình, những hơn - còn, được - mất, trả - vay, và có cả tiếng thở dài trước những bi kịch nhân sinh…
Đôi mắt cũng là biểu tượng hình ảnh của quê hương yêu dấu ngàn trùng. Ai
cũng có một quê hương để thương để nhớ: VD 109: Mắt người mang cả quê hương Lòng ta mang cả đoạn trường tháng năm (Hoài Khanh)
Ánh mắt quê hương phải chăng là ánh mắt mẹ hiền trông con thấu suốt cả một đời:
VD 110:
Heo hút một khung trời gió Nắng se gốc dạ trên đồng. Mẹ ngồi tựa cửa trông con… Mẹ tôi lặng lẽ bên đời
Từ trông vốn là một động từ chỉ hoạt động của mắt, ở đây được dùng với ý nghĩa mong, ngóng chờ, là lo lắng, thương yêu... Hiện ra một khung cảnh chiều quê, hun hút cái gió heo may trở mùa. Ngoài đồng những gốc rạ khô lại, rẽo rét. Con đường xa tít tắp… Một bờ lưng cong nghiêng cả dáng chiều buồn. Ôi ánh mắt Người làm
93 nhói buốt trái tim những đứa con tha phương… Liệu có lúc nào vì những thăng trầm, biến cải của cuộc đời, ta đã quên ánh mắt mẹ hiền suốt một đời lo toan ấy? Nắng mưa mòn gót chân trên đồng VD 110:
(Hình dung - Nguyễn Trọng Hoàn)
Đôi mắt gắn liền với tên gọi địa danh như nét riêng biệt mỗi miền quê: Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi mắt Huế, Đôi mắt Pleiku … tín hiệu thẩm mỹ trở thành tín hiệu tình yêu cũng là dấu ấn sâu sắc của con người với miền đất quê hương. Và đây là đôi mắt Pleiku mênh mang biển hồ, chếnh choáng men say trong ca khúc của nhạc sĩ Nguyễn Cường: VD 111: Em đẹp thế Pleiku ơi Trái tim tôi muốn vỡ tan rồi Không dám nhìn vào đôi mắt ấy Đôi mắt Pleiku biển đầy Có hàng thông xanh trong ánh mắt em Có dòng Sê Gian trong đôi mắt em Tôi uống rượu cần say men say men Có ngọn lửa nào đang nhen chơi vơi (Đôi Mắt Pleiku - Nguyễn Cường)
Chính đôi mắt em đã mang cả hồn quê hương. Sử dụng các biến thể kết hợp trong mỗi lần xuất hiện của THTM “mắt”, tác giả tạo ra những ý nghĩa vô cùng phong phú gợi nhiều liên tưởng đẹp đẽ. Trong đôi mắt em có màu trong xanh của biển hồ, của dòng Sê Gian cuộn chảy, cái mơn mởn tươi xanh của hàng thông, có men say của rượu cần, có ngọn lửa tình đang nhen…Ta yêu em như yêu đất Pleiku xinh đẹp, ta yêu Pleiku như yêu em, yêu một cô gái có sức sống dào dạt. Ôi đôi mắt em làm ta ngây ngất…
Có thể nói, từ xưa tới nay, mắt đã trở thành một biểu tượng đẹp giàu ý nghĩa tâm linh, ý nghĩa nhân văn. Riêng đối với tác phẩm văn học, nhiều tác giả đã chọn đôi mắt như một THTM để biểu đạt vẻ đẹp của con người từ hình thức đến tâm hồn với rất nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau: tình yêu đôi lứa, tình cảm quê hương, những day dứt nhân sinh … Đây cũng là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu ý nghĩa biểu trưng của THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975. 3.4. Ý nghĩa biểu trưng của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 “Trong nghệ thuật, một phong cảnh là một tâm trạng”. Những hình ảnh của thơ đã bao hàm một nhận thức, một thái độ tình cảm hoặc suy nghĩ… Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến chung quang nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra chung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy [45, tr.838]. Cũng có
94 thể nói như vậy về THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975. Ý nghĩa biểu trưng của “mắt” rất phong phú và đa dạng. Căn cứ vào ngữ liệu khảo sát, chúng tôi đề cập đến một số nghĩa biểu trưng dựa trên hai cơ chế: ẩn dụ và hoán dụ như sau: 3.4.1. THTM “mắt” biểu trưng cho đặc điểm hình thức của con người
Trước hết tín hiệu thẩm mỹ “mắt” thể hiện đặc điểm hình thức của con người. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, tiểu trường các BTTV, BTKH chỉ hình dáng, màu sắc, trạng thái của mắt với số lượng biến thể phong phú đã góp phần thể hiện đặc điểm hình thức của con người trong ca dao và thơ ca.
Trước hết là các BTTV. Trong ca dao xuất hiện biến thể “thu ba" tức là sóng nước mùa thu, dùng để ví đôi mắt sáng lóng lánh của người con gái đẹp “khóe thu ba” [113, tr.1225], chẳng hạn: “Trên thu ba dưới lại thu ba - Con mắt lóng lánh chẳng tu được nào” (Ca dao). Sử dụng liên tiếp ba biến thể, hai BTTV thu ba và con mắt, BTKH chỉ trạng thái của mắt lóng lánh, lặp lại hai lần thu ba để cốt tả cho được vẻ đẹp trong sáng tuyệt vời của người con gái. Cách nói hoán dụ lấy bộ phận chỉ toàn thể, lấy đôi mắt đẹp để tả vẻ đẹp hình thức, tâm hồn người con gái, đó là ý nghĩa thẩm mỹ của THTM “mắt” trong câu ca dao.
Con mắt liếc tình tứ thật khó quên:
Miệng cười như thể hoa ngâu
VD 112: Cổ tay em trắng như ngà Con mắt em liếc như là dao cau Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
(Ca dao) Sử dụng BTTV con mắt và BTKH liếc đặt trong mô hình so sánh A + như + B, vẻ đẹp của cô gái trong bài ca được tái hiện sinh động. Cùng với cổ tay trắng tròn như ngà voi, miệng cười như hoa ngâu tươi tắn mà ý nhị; cái khăn chít mỏ quạ như hoa sen thanh tao, thì Con mắt em liếc như là dao cau thật ấn tượng. Không dùng đôi mắt mà dùng con mắt thật sống động. Có thể quan sát câu ca dao theo hệ hình:
Con mắt /em /liếc/ như là /dao cau Đôi mắt/cô/nhìn /.../dao thái rau ..../nữ/trông /.../dao phát rẫy .../ngó/...
Không phải là nhìn, ngó, trông, dòm..., liếc nghĩa là đưa mắt nhìn rất nhanh sang một bên vừa ý nhị duyên dáng vừa tình tứ, sắc sảo. So sánh cái sắc ngọt của dao cau như cái liếc mắt sắc ngọt tình tứ của cô gái là một cách ví von đậm chất dân gian, làm nổi bật cái đẹp bề ngoài cũng như vẻ duyên dáng, tình tứ, sắc sảo của người thôn nữ xưa.
95
Mô hình so sánh A + như + B được sử dụng trong hầu hết các bài ca dao thể hiện đặc điểm hình thức con người; hình ảnh so sánh B, có khi cụ thể, có khi trừu tượng, ước lệ, phiếm chỉ. Chẳng hạn; VD 113:
Nhác trông con mắt đáng trăm, Miệng cười đáng chục, hàm răng đáng nghìn Nhác trông con mắt ưa nhìn Đáng trăm cũng chuộng, đáng nghìn cũng mua.
(Ca dao)
Vào cái thời mà người ta phải “đi vay đi tạm - được một quan tiền” để khởi nghiệp một gia tài thì cách nói phiếm chỉ con mắt đáng trăm quan tiền ấy là một sự đánh giá rất cao hàm chứa sự ngợi ca, trân trọng và biết bao nhiêu là mong ước. Lặp lại hai lần “Nhác trông con mắt” như là thông điệp chính của bài ca nhấn mạnh vào đôi mắt - ấn tượng gây ra nhiều cảm xúc nhất. Để rồi khẳng định“Đáng trăm cũng chuộng, đáng nghìn cũng mua”; đôi mắt của người đẹp còn đáng giá hơn cả một gia sản, là vô giá!
Tiểu trường chỉ hình dáng của mắt được thể hiện qua mô hình: mắt + yếu tố chỉ hình dáng được dùng nhiều để thể hiện hình thức của con người trong ca dao và thơ ca. Ở tiểu trường này có hiện tượng đáng lưu ý về cấu trúc ngôn ngữ của tín hiệu: yếu tố mắt + các yếu tố vốn dùng để chỉ động vật hoặc thực vật (chẳng hạn: bồ câu, phượng, ngài, lá răm…) để nói về hình dáng đôi mắt của con người. Đó là các biến thể con mắt bồ câu, mắt phượng mày ngài, mắt lá răm…
Mắt bồ câu (dt) mắt nhỏ mà xếch, tròng đen to rất đẹp [110, tr.550]. Trong kho tàng ca dao người Việt, mắt bồ câu xuất hiện 07 lần, được nói tới như một THTM góp phần thể hiện vẻ đẹp hình thức của người con gái: VD 114: Cầm vàng ném xuống vực sâu
Mất vàng không tiếc, tiếc đôi mắt bồ câu hữu tình.
(Ca dao)
Không nhất thiết khi nói đến đôi mắt bồ câu là cứ phải hiểu đúng hoàn toàn như nghĩa từ điển, bởi lẽ nhiều khi tác giả dân gian dùng cách nói ước lệ để thể hiện thái độ, cảm xúc, có thể là muốn khen đôi mắt đẹp, vẻ xinh của người.
Nhiều khi mắt bồ câu lại là một tín hiệu thẩm mỹ thể hiện hình thức ưa nhìn, vẻ
tuấn tú, hữu tình của một chàng trai nào đó đủ khiến bao cô gái phải mất ăn mất ngủ: VD 115:
Em chả tham nhà ngói tày đình Tham về ngọn núi rập rình trên tay Chả tham nhà ngói anh đâu Tham về con mắt bồ câu liếc người (Ca dao)
96
Mắt phượng (phụng): mắt giống chim phượng, nhỏ và xếch lên [110, tr.551]. Mắt phượng thường đi với mày ngài. Mày ngài: Gốc từ chữ “nga my”. Nga là con bướm ngài do con tằm hóa ra, có đôi mày cong và đẹp. Mày con gái đẹp thường được ví như mày con ngài [114, tr.238]. Mắt phượng mày ngài thể hiện nét đẹp quý phái, thanh tú của người con gái đẹp. VD 116:
- Thấy em mắt phượng môi son Mày ngài da tuyết đào non trên cành Vậy nên anh muốn tự tình Hỏi em quê quán tính danh là gì? - Em như tố nữ trong tranh Anh như ngòi bút chấm cành hoa mai Tiếc thay mắt phượng mày ngài Hồng nhan thế vậy, nỡ hoài tấm thân.
(Ca dao) Ngày xưa, những người con gái có đôi mắt lá răm được dân gian rất ca tụng. Xuất hiện 02 lần và cùng một kết hợp: BTTV con mắt + lá răm đã thể hiện vẻ đẹp của đối tượng và sự đánh giá rất cao của dân gian: VD 117: - Thương em con mắt lá răm
Lông mày lá liễu thương năm nhớ đời.
(Ca dao)
- Những người con mắt lá răm Đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
(Ca dao)
Mắt lá răm: hình dáng của mắt giống lá răm [112, tr.414], là mắt một mí nhưng lớn, đuôi dài mà sắc, ướt. Có lẽ mắt phượng hơi khác mắt lá răm một chút là mắt phượng đuôi xếch lên. Mắt lá răm con gái không bén như dao cau, không huyền mộng như mắt bồ câu, đó là đôi mắt đăm đắm buồn, man mác yêu thương, ở con mắt đó có cái gì đó sâu lắng đọng lại, quyến luyến. Như thế, mắt lá răm không chỉ đẹp mê hồn ở khuôn hình của mắt mà cái đẹp còn toát ra từ sức quyến rũ, đa tình sâu thẳm.
Tiểu trường của các BTKH chỉ trạng thái của mắt được miêu tả qua mô hình: mắt + yếu tố chỉ đặc điểm, trạng thái của mắt nhiều khi cũng được dùng để gợi tả hình thức con người.
Con mắt long lanh là cụm từ nói lên một đặc điểm của mắt, xuất hiện 03 lần trong kho tàng ca dao người Việt. Long lanh: (t) có ánh sáng phản chiếu trên vật trong suốt tạo vẻ sinh động [113, tr.744]. Như vậy có thể hiểu con mắt long lanh là con mắt trong sáng, sinh động, linh hoạt. Người có con mắt long lanh thường mang vẻ trẻ trung, trong sáng, giàu sức sống.
97 VD 118:
… Một yêu thuốc cuộn hoa chanh Hai yêu tóc vấn ra vành ống tơ Ba yêu biết uống trà Ô Bốn yêu chén rượu đầy hồ mười phân Năm yêu con mắt long lanh Sáu yêu má phấn như tranh mới đề… (Ca dao)
Mắt toét thường được hiểu như một trạng thái bệnh lý về mắt với sắc thái tiêu cực. Khi đi vào ca dao, đơn vị ngôn ngữ này trở thành BTKH chỉ trạng thái của mắt góp phần biểu hiện đặc điểm hình thức con người. BTKH mắt toét xuất hiện 02 lần trong ca dao và không có mặt trong các bài thơ được xem xét. Bằng giọng điệu hài hước, cách nói trái ngược mà biết bao tình tứ, mắt toét ba vành được dùng để tả vẻ ngoài đáng yêu của người con gái với sắc thái ý nghĩa tích cực. VD 119:
Một yêu mắt toét ba vành Hai yêu miệng nói cười tình hơn ma...
(Ca dao) Cũng có khi, BTKH mắt toét còn được dùng để nói về đôi mắt xấu xí, vẻ ngoài xộc xệch của một nhan sắc tầm thường với một ý nghĩa thẩm mỹ mới: yếu tố hài hước, đùa vui: VD 120: Thôi tôi biết vợ anh rồi
Vợ anh toét mắt bán xôi chợ chùa.
(Ca dao) Con mắt lúng liếng: mắt đưa qua đưa lại rất nhanh. Đôi mắt lúng liếng nhìn đầy vẻ tình tứ [113, tr.765]. Con mắt lúng liếng vừa có điểm giống con mắt long lanh ở vẻ trong sáng linh hoạt, lại vừa có nét riêng của vẻ đa tình, đầu mày cuối mắt khi cô gái đã gặp được chàng trai vừa ý. Xuất hiện chỉ 02 lần trong ca dao và không lần nào xuất hiện trong thơ ca nhưng đôi mắt lúng liếng không dễ làm người ta bỏ qua. Đôi mắt đẹp “lúng liếng” đó ở dưới đôi lông mày lá liễu thanh tú thì các chàng trai không uống rượu cũng “say lừ đừ”: VD 121: Hoa thơm hoa ở trên cây
Đôi mắt em lúng liếng, dạ anh say lừ đừ.
(Ca dao)
Tiểu trường của các BTKH chỉ màu sắc của mắt được biểu hiện qua mô hình: Mắt + yếu tố chỉ màu sắc (chẳng hạn: mắt xanh, mắt đen, mắt ngọc…) cũng góp phần thể hiện hình thức con người.
Mắt xanh xuất hiện trong ca dao với tần số 05 lần, con số không phải là nhiều nhưng cũng mang nhiều ý nghĩa thẩm mỹ. Mắt xanh: mắt nhìn, biểu trưng cho sự đánh
98 giá lựa chọn của người con gái. Màu mắt xanh được tác giả dân gian cũng như thơ ca sau này chú ý tái hiện như là vẻ đẹp tươi trẻ của tuổi thanh xuân, đôi mắt xanh của cái nhìn tinh tường.
Mắt xanh bắt nguồn từ chữ "thanh nhãn", tức tròng mắt màu xanh đen, còn chung quanh là màu trắng. Theo Tấn thư: Nguyễn Tịch sống đời nhà Tấn, học rộng tài cao, văn chương giỏi lại có tài nhìn người, ai vừa ý mình thì ông nhìn bằng mắt xanh, ai không vừa ý thì nhìn bằng mắt trắng. Thơ Bạch Cư Dị đời Đường cũng có câu: “Duy yếu chủ nhân thanh nhàn đãi, cầm thi đàm tiếu tự tương lai” (Chỉ cần chủ nhân dùng con mắt xanh mà đối xử, việc đánh đàn làm thơ trò chuyện với nhau sẽ tự đến). Và từ đó "mắt xanh" chỉ sự lựa chọn hay hài lòng [114; tr.238,239]. Trong kho tàng ca dao người Việt, mắt xanh cũng được dùng với ý nghĩa như vậy. Đó là cặp mắt xanh của cái nhìn tinh tường lựa chọn tri âm: VD 122: Hỡi cô thắt dải lưng xanh
Ngày ngày thấp thoáng bên mành trông ai? Trước đường xe ngựa bời bời
Bụi đường mờ mịt ai người mắt xanh!
(Ca dao)
Cầu đây có gái bán hàng
Màu mắt xanh còn là biểu tượng cho cái đẹp trẻ trung, nồng nàn ... Một màu mắt tạo ra sự linh diệu ngập tràn cảm xúc. Cô gái bán cau kia có đôi mắt xanh tươi trẻ cùng với môi trầu tươi thắm, má lúm đồng tiền khiến cả cái cầu nơi cô bán hàng cũng thêm xinh: VD 123: Có đôi rùa đá, có nàng bán cau
Mắt xanh tươi thắm môi trầu Miệng cười lúm má cho cầu thêm xinh
(Ca dao)
VD 124:
- Ngồi mà dựa cột nhà vàng Mình vàng vàng võ nhớ chàng kim âu - Ngồi mà dựa bóng đèn xanh
Mắt xanh xanh biếc nhớ ngành thanh xuân
(Ca dao) Tiểu trường các BTKH chỉ hoạt động của mắt với mô hình: Mắt + Y (động từ)
hoặc 0 + Y (động từ) + B cũng góp phần thể hiện đặc điểm hình thức con người. VD 125:
Gái một con trông mòn con mắt Gái hai con con mắt liếc ngang Ba con cổ ngẳng răng vàng Bốn con quần áo đi ngang khét mù…
(Ca dao)
99
Trông và liếc vốn là hai hành động của mắt, thông qua các hoạt động này con người nhìn nhận, đánh giá về thế giới và con người. Từ trông mòn con mắt đối với gái một con đến con mắt liếc ngang với gái hai con thì vừa là nói sự thay đổi vẻ ngoài của người phụ nữ do những vất vả, tảo tần chăm sóc cuộc sống gia đình vừa là thái độ người trông, liếc. Trông: nhìn để nhận biết, mòn: là bị mất dần từng ít một trên bề mặt, do cọ xát nhiều [113]; trông mòn con mắt: chờ đợi da diết, đăm đăm trông ngóng [115; tr.1717]. Thế nghĩa là người trông thì mắt nhìn chăm chú không rời, còn người được trông thì phải rất xinh đẹp, mặn mà. Liếc: đưa mắt nhìn nghiêng sang một bên. Dù không bằng gái một con nhưng gái hai con vẫn còn đủ đằm thắm để người ta phải chú ý tới, phải liếc ngang mà trầm trồ...
Trong thơ ca 1945 - 1975, không xuất hiện BTTV khóe thu ba, BTKH mắt bồ câu, mắt lá răm như trong ca dao. Trong tiểu trường của các BTKH chỉ màu sắc của mắt được biểu hiện qua mô hình: Mắt + yếu tố chỉ màu sắc, thơ ca không xuất hiện các biến thể mắt trắng, mắt ngọc như trong ca dao. Ngoài các BTKH: mắt xanh, mắt đen, mắt đỏ giống ca dao, trong thơ ca xuất hiện thêm các biến thể mắt huyền, mắt biếc, mắt màu gio cũng góp phần thể hiện hình thức con người.
Màu mắt xanh xuất hiện 06 lần trong thơ ca, cũng mang nghĩa như trong ca dao,
ở đây là màu mắt của sự trẻ trung, duyên dáng: VD 126:
… Nắng gấm Ba Vì phủ khắp Lục Đầu giang Mồ hôi đá Tam Thanh gói lụa sông Hồng Mắt sư nữ chùa Thầy thoắt mang màu xanh xứ Lạng Tay búp măng người yểu điệu Thăng Long nâng một dãy Cai Kinh chạy tắp đến Cao Bằng (Đi xa, Hoàng Cầm)
Đến mắt sư nữ cũng mang màu xanh xứ Lạng. Xứ Lạng là một vùng đất nhiều núi đồi, sông suối, bốn mùa cây cối xanh tươi. Nói đến màu xanh xứ Lạng là nói tới vẻ đẹp đầy sức sống của một miền đất, sự trẻ trung, đáng yêu của con người. Đôi mắt sư nữ được so sánh với màu xanh xứ Lạng để nhấn mạnh vẻ tươi xanh, trẻ trung đầy sức sống, đáng yêu... Màu mắt đen không xuất hiện trong ca dao nhưng có mặt trong thơ ca 07 lần và đều có tác dụng gợi tả vẻ đẹp bề ngoài vừa nói lên tâm hồn đẹp đẽ, trong sáng của con người. Chẳng hạn: VD 127:
... Chào cô em gái, nữ dân quân Súng vác ngang vai, đẹp tuyệt trần Lóng lánh mắt đen nhìn biển biếc Trưa hè đứng gác, giữ ngày xuân (Từ Cu ba, Tố Hữu)
100
Trong câu thơ xuất hiện cùng lúc 03 BTKH lóng lánh, mắt đen, nhìn có tác dụng đặc tả vẻ ngoài của đôi mắt cũng như vẻ đẹp tâm hồn của cô nữ dân quân. Lóng lánh: tt. Có ánh sáng phản chiếu tựa như mặt hồ dưới ánh trăng, không liên tục nhưng đều đặn, vẻ sinh động, đẹp mắt [113; tr.746]; ở đây lại được đảo lên trước mắt đen nhấn mạnh sự trong sáng, linh hoạt của đôi mắt. Với vài ba nét phác họa, trong đó ấn tượng nhất là đôi mắt khổ thơ là bức ký họa sinh động một "bông hồng thép" trên quốc đảo. Trong đôi mắt đen lóng lánh ấy, trong cái nhìn biển biếc ấy, qua cơ chế ẩn dụ, người ta thấy có vẻ đẹp của sự trẻ trung giàu sức sống, ý chí tự lực, tự cường, niềm tin vào bản thân, vào cuộc đời của những con người đang ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quả thực, Tố Hữu đã mang đến cho bài thơ hơi thở cuộc sống, nét đẹp, nét đáng yêu về đất nước, con người Cu ba. Đồng thời, gieo vào người đọc một niềm tin tươi sáng, một sự nhìn nhận biện chứng về thế giới quan và nhân sinh quan cộng sản.
Màu mắt huyền không xuất hiện trong ca dao và cũng chỉ xuất hiện 02 lần trong
số các bài thơ được khảo sát, chẳng hạn: VD 128:
Huế trầm mặc hôm nay sao khác khác Những mắt huyền ngơ ngác hỏi thầm nhau Chân nôn nao như khách đợi mong tàu Bước dò bước, không biết sau hay trước?
(Huế tháng Tám, Tố Hữu) Ở đây từ huyền được dùng như một tính từ nói lên đặc điểm của mắt; huyền: có màu đen như than huyền đen nhánh [113; tr.609] hoặc nghĩa là sâu kín, huyền diệu [115]. Cứ theo nghĩa ấy mà suy ra thì mắt huyền là đôi mắt đen, sâu kín huyền diệu. Ở trong khổ thơ này nghĩa gốc đó vẫn được sử dụng và mang thêm nghĩa chuyển dựa trên cơ chế ẩn dụ và hoán dụ. Lấy mắt mà chỉ người, lấy màu đen huyền diệu, sâu kín để nói về người con gái đẹp, nhiều mơ mộng, đài các, dáng vẻ yểu điệu thục nữ của đất cố đô. Quả thực từ màu mắt huyền, Tố Hữu vừa thể hiện đặc điểm hình thức con người, chất Huế trầm mặc và đài các, kiêu sa, nhập nhoà giữa xưa và nay; vừa thể hiện sự am tường, tình yêu với mảnh đất quê mẹ; tâm thế, niềm vui ngỡ ngàng “mắt huyền ngơ ngác” của con người trước sự thành công của cách mạng tháng Tám, niềm vui độc lập tự do.
Tiểu trường các BTKH chỉ hình dáng của mắt cũng được các nhà thơ quan tâm để hiện đặc điểm hình thức con người. THTM (mắt) tròn/tròn xoe cũng không xuất hiện trong ca dao nhưng lại có mặt trong thơ ca 09 lần. Đó vừa là khuôn hình của mắt, đồng thời là vẻ đẹp trong sáng ngây thơ. Chẳng hạn: VD 129:
Cô nhìn đăm đăm - Uống đi, bộ đội! Uống mừng đầu xuân Đường xa đỡ mỏi.
101
Tôi trông màu rượu Màu tím hoa cà Lại nhìn đôi mắt Sáng tròn như hoa.
(Ngang dốc núi, Vũ Cao)
Chén rượu quê màu tím hoa cà, đó là màu hiện thực, màu của thứ rượu nếp cẩm, nếp nương được ủ thành rượu, nên có màu tím hoa cà. Nhưng đến đôi mắt: Sáng tròn như hoa thì thật ấn tượng. Đôi mắt tròn, trong sáng, đẹp đẽ với ánh nhìn như chứa đựng nụ cười tươi thắm của cô gái trẻ miền sơn cước đã hút hồn anh lính trẻ… Hoặc: VD 130:
... Cô gái Chăm Pa xinh đẹp nhất làng Da xanh tái mà mắt tròn rạng rỡ, Em cầm bùi nhùi đi đâu đánh lửa Hở em? Huyện có gần không?
(Hang đèn chín ngọn, Phạm Tiến Duật)
Đối lập với vẻ ngoài da xanh tái là cặp mắt tròn rạng rỡ. Cơ chế hoán dụ được vận dụng, lấy bộ phận để chỉ toàn thể, lấy mắt để nói vẻ đẹp hình thức cũng là vẻ đẹp của tâm hồn trong sáng, trẻ trung yêu đời của cô gái Chăm Pa.
Thơ ca 1945 - 1975 cũng đã nhiều lần dùng cách nói ví von so sánh của ca dao
để biểu hiện đặc điểm hình thức của con người: VD 131:
... Vầng trán em mang trời quê hương Mắt em như giếng nước thôn làng Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm Em đã bao ngày em nhớ thương?...
(Mắt người Sơn Tây, Quang Dũng)
“Giếng nước thôn làng”, một hình ảnh quen thuộc trong tâm thức người Việt gợi tả sự thân thương, trong mát. Lấy hình ảnh này để nói về đôi mắt em là để tả vẻ đẹp trong sáng, hồn hậu thân thương, đủ gợi nhớ trong lòng người. ... Anh làm thơ, chắc có nhiều thú vị? VD 132: Hồ Giáo ơi, con mắt đẹp như sao... (Gặp anh Hồ Giáo, Tố Hữu) Ở hai ví dụ nêu trên, các tác giả đã lựa chọn đối tượng đem ra so sánh là giếng nước thôn làng, sao là những vật thể phát sáng hoặc phản chiếu ánh sáng, đã từng xuất hiện trong ca dao để tả đôi mắt trong sáng, long lanh của con người, cũng là những đôi mắt chứa chan tình đời, niềm tin yêu cuộc sống.
Tố Hữu có câu thơ về Trần Thị Lý rất sắc sảo và nhìn thấy một vẻ đẹp đặc biệt
ở người con gái ấy.
102
Đôi mắt em nhìn như chớp lửa đêm dông Thịt da em hay là sắt là đồng
VD 133: (Người con gái Việt Nam) Sử dụng triệt để biện pháp so sánh trong nhiều câu thơ liên tục, đặc biệt là đôi mắt người con gái ấy: nhìn như chớp lửa đêm dông. Lấy“chớp lửa đêm dông” mà so sánh với ánh mắt với cái nhìn là để tả đôi mắt với ánh sáng xé rách màn đêm, xua tan mây mù, chứa đựng ý chí gang thép, tinh thần gan dạ và tâm hồn rực sáng niềm tin vào lí tưởng cách mạng. Nhà thơ đã thể hiện cảm động, khâm phục trước vẻ đẹp kiên cường của một người con gái góp phần làm nên chân dung đất nước.
Như vậy, nhờ THTM “mắt” thông qua sự xuất hiện của hằng thể mắt và các biến thể: BTTV và BTKH, đặc điểm hình thức của con người đã được thể hiện đa dạng, sinh động. Tuy nhiên, cấn thấy rõ ý nghĩa này không phải là loại nghĩa duy nhất trong các THTM được xét, mà cùng với nó còn thể hiện các loại ý nghĩa thẩm mỹ khác, có điều ở đây, nó hiện ra như một loại ý nghĩa nổi bật nhất.
Trong ca dao, THTM “mắt” thiên về ca ngợi vẻ đẹp hình thức của người con gái thôn quê trẻ trung, trong sáng, đầy sức quyến rũ, cao quý. Tín hiệu thẩm mỹ “mắt” như một điểm nhấn thần tình khắc họa vào thời gian vĩnh cửu chân dung người con gái thôn quê Việt Nam. Trong thơ ca 1945 - 1975, vấn đề hình thức con người được thể hiện qua THTM “mắt” cũng được quan tâm thể hiện bằng những hình thức ngôn ngữ phong phú hơn với số lượng biến thể nhiều hơn. Tuy nhiên có một số biến thể được xem như nét đặc trưng cho lối tư duy dân gian không xuất hiện trong thơ ca (ví dụ: mắt lá răm, mắt bồ câu, khóe thu ba…). Thơ ca cũng đã kế thừa nhiều cách nói quen thuộc của ca dao, đó là việc sử dụng các biến thể đã từng xuất hiện trong ca dao, những lối ví von so sánh… Nét mới trong khi sử dụng THTM thuộc trường nghĩa “mắt” để thể hiện đặc điểm hình thức con người của thơ ca Việt Nam so với ca dao về mặt ý nghĩa thẩm mỹ. Đó là hiện thực mới, tư duy mới, con người mới. Vì thế ý nghĩa thẩm mỹ còn mang thêm những màu sắc biểu cảm phong phú hơn: không chỉ ngợi ca, tin tưởng, yêu mến, tự hào mà còn khâm phục yêu tin, kính trọng. Từ chân dung một con người mà tìm về chân dung của cả một thế hệ con người Việt Nam, chân dung Đất nước. 3.4.2. THTM “mắt” thể hiện đời sống tâm hồn của con người
"Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn" (Eyes are the window to the soul). Câu danh ngôn này được lưu truyền từ rất lâu, bắt nguồn từ câu nói của nhà hiền triết La Mã, Marcus Tullius Cicero: "Ut imago est animi voltus sic indices oculi." (The face is a picture of the mind as the eyes are its interpreter) - Khuôn mặt là chân dung của tâm hồn mà đôi mắt làm công việc diễn giải [111; tr.19]. Tâm hồn con người là cả một thế giới mà nhiều khi ngay cả bản thân mình cũng chưa hiểu hết được, lý trí cũng không
103 thể kiểm soát hết, thế mới có thêm cả một cõi gọi là tiềm thức. Nhờ đôi mắt nhiều cảm xúc của con người dù ở dạng thức mong manh mơ hồ nhất đã được bày tỏ, bộc lộ Cùng với những tín hiệu thẩm mỹ khác, THTM “mắt” đã góp phần biểu đạt đời sống tâm hồn con người hết sức phong phú từ mộc mạc, giản dị đến tinh tế, tài hoa… 3.4.2.1. THTM “mắt” biểu đạt những cung bậc tâm trạng của tình yêu đôi lứa
Tình yêu là một dạng tình cảm đặc biệt của con người. Nhờ nó mà sự sống của con người mới trở nên có ý nghĩa. Tín hiệu thẩm mỹ “mắt” được các tác giả từ ca dao cho đến thơ Việt Nam 1945 - 1975 sử dụng như là một trong những phương tiện hiệu quả góp phần bộc lộ nội tâm yêu phong phú, đời sống tâm hồn dào dạt của con người Việt Nam từ xưa tới nay. 3.4.2.1.1. THTM “mắt” biểu trưng cho những cung bậc tâm trạng của tình yêu đôi lứa trong ca dao a) THTM “mắt” với những lời tỏ tình trong ca dao
Bắt đầu bằng những lời tỏ tình của ca dao và thơ ca, THTM “mắt” cũng nhiều khi đem đến cho người đọc, người nghe nhiều bất ngờ của cách diễn tả. Đôi mắt là nơi thể hiện tình cảm, đôi mắt nói hộ nhiều điều không thể nói, một thứ ngôn ngữ không lời sâu sắc nhiều ý nghĩa.
Đến với ca dao, có một anh con trai đã tỏ tình như thế này:
VD 134: Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng Ước gì anh lấy được nàng Để anh mua gạch Bát Tràng về xây… Xây dọc anh lại xây ngang Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân. Có rửa thì rửa chân tay Đừng rửa lông mày chết cá ao anh...
(Ca dao)
Không kể đến cách nói đầu cuối không thống nhất: ở câu 6 tác giả nói về “xây hồ”, nhưng đến câu 8 lại thành “ao” bộc lộ cái tâm trạng bối rối khi đứng trước người con gái đẹp. Sử dụng BTKH là một bộ phận của mắt được nhắc tới đầy thiện cảm trong cách nói quá: Đừng rửa lông mày chết cá ao anh. Xây cả một cái hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân, yêu chiều và trân trọng đến thế vì em xinh đẹp nết na, nhưng rửa chân tay thì được mà không thể rửa lông mày sợ chết cá ao anh. Có gì mâu thuẫn ở đây? Nói quá để đùa vui nhưng biết bao yêu thương và trân trọng: tại vì em có đôi mắt đẹp, nét mày thanh tú quá mà ta không thể cầm lòng nổi. Lấy bộ phận để chỉ toàn thể lấy “lông mày” để nói đôi mắt đẹp dựa trên cơ chế hoán dụ người ta có thể phát hiện ra ý nghĩa thẩm mỹ tinh tế. Thật tình tứ và ngọt ngào trước cách ngỏ lời như thế!
104
Người bình dân xưa gắn cuộc đời mình với lũy tre, với xóm làng, với dòng sông, cánh đồng, mái đình làng cong cong... Những nơi ấy đã trở thành không gian của tình yêu, của hò hẹn, của giãi bày tương tư: VD 135:
Gặp nhau giữa cánh đồng này Bốn mắt liếc lại, lông mày đưa ngang Bây giờ được thở được than Bắt con chim đậu bỏ đàn chim bay Bây giờ anh nắm được tay Anh yêu vì nết, anh say vì tình.
(Ca dao) Sử dụng liên tiếp 4 THTM đặt trong một trục tuyến tính với cấu trúc cân xứng: x (mắt/bộ phận của mắt: lông mày) + động từ (liếc, đưa) trong câu ca dao: Bốn mắt liếc lại, lông mày đưa ngang, tác giả của bài ca đã bộc lộ được trạng huống nội tâm cuả đôi lứa: tình trong như đã mà chưa có dịp bày tỏ. Người con trai và người con gái ấy có thể đã gặp gỡ rồi quen biết nhau trong lao động, sinh hoạt, tình cảm nảy sinh mà không dám thổ lộ vì bao thứ trói buộc của lễ giáo khắt khe, cha mẹ ngăn cấm…Nhưng để có được cái dũng khí:
Bây giờ anh nắm được tay Anh yêu vì nết, anh say vì tình.
Chính là Bốn mắt liếc lại - thứ ngôn ngữ của tình yêu. Nếu dùng “nhìn”, “ngó”... sẽ mất đi cái sắc sảo, mạnh dạn, thấu hiểu, đầy tình ý của liếc lại và đưa ngang. Làm sao có thể dấu nổi sóng tình dâng lên trong mắt với cái “liếc lại” của bốn mắt gặp nhau?
Lí do để người ta thương nhau thì có nhiều. Có thể người ta yêu vì nết, say vì tình. Vậy cái nết và cái tình ấy cụ thể như thế nào, một chàng trai đa tình khác đã kể ra những mười thương: VD 136: Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên Ba thương má lúm đồng tiền Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua Năm thương cổ yếm đeo bùa Sáu thương nón thượng quai thao dịu dàng Bảy thương nét ở khôn ngoan Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh Chín thương em ở một mình Mười thương con mắt đưa tình với anh
(Ca dao)
105
Đi từ một thương cho tới mười thương, chàng trai đã đề cao cái đẹp hoàn thiện từ hình thức bên ngoài cho tới vẻ đẹp bên trong tâm hồn: tóc bỏ đuôi gà, ăn nói mặn mà có duyên, má lúm đồng tiền, răng nhánh hạt huyền kém thua, nét ở khôn ngoan…nhưng ấn tượng sau cùng, cái lẽ thương thứ mười có lẽ là lí do chốt lại quan trọng nhất, chính là ấn tượng về đôi mắt:
Mười thương con mắt đưa tình với anh
Ở đây không chỉ còn là cái đẹp khách quan ai cũng thấy, con mắt đã trở thành tín hiệu của tình yêu, là đôi mắt xanh của sự ưng ý, đồng tình, cái cớ để ngỏ lời. Nhờ con mắt đưa tình với anh (thật táo bạo và tình tứ) mà vẻ đẹp hình thức trở nên hấp dẫn, vẻ đẹp tâm hồn mới trở nên quến rũ làm say lòng người đến thế.
Nam nữ thụ thụ bất thân, nên có yêu nhau thật, muốn đứng gần đâu dễ. Thế mới
có chuyện: VD 137:
Yêu nhau đứng ở đàng xa Con mắt liếc lại bằng ba đứng gần Anh còn son, em cũng còn son Ước gì ta được làm con một nhà (Ca dao)
Đứng ở đàng xa là khoảng cách thực giữa hai người yêu nhau. Nhưng nhờ con mắt liếc lại mà từ ở đàng xa đã trở thành bằng ba đứng gần. Từ liếc: đưa mắt nhìn nghiêng sang một bên vừa ý nhị duyên dáng vừa tình tứ, sắc sảo, khác với trông, nhìn; cường độ của liếc mạnh hơn, thời gian nhanh hơn vì phải nhìn vội vàng để tránh sự chú ý của người khác, một cái liếc ngang mà chứa đựng bao ý tình chỉ những người trong cuộc mới dễ dàng nhận ra. Con mắt liếc lại ấy đã nối liền khoảng cách thực xa xôi giữa hai người yêu nhau vào trong một không gian tâm tưởng gần gũi yêu thương. Hình thức là so sánh tương đồng “bằng” nhưng cái so sánh lại là bội số của cái đem ra so sánh “bằng ba đứng gần”. Đó là cách nói khẳng định tình yêu thắm thiết nồng nàn mà đôi mắt đã trở thành cây cầu của hai trái tim, tín hiệu thẩm mỹ đã trở thành tín hiệu tình cảm, thứ ngôn ngữ không lời sâu sắc, tinh tế.
Mượn đôi mắt để bày tỏ tình yêu đã không phải xa lạ trong cách nói của người bình dân. Nhưng không phải lúc nào đôi mắt cũng được dùng một cách định danh, trực tiếp. Nhiều khi những hoạt động, trạng thái của mắt cũng là cái cớ để đôi lứa bày tỏ tâm tình, trao gửi tình cảm. VD 138: Hòn đá hoa lát cửa tam quan
Người khôn đứng đó, người ngoan đi tìm Tìm em như thể tìm chim Chim ăn bể bắc anh tìm bể đông Tìm bể đông thấy lông chim nhạn Tìm bể cạn thấy vạn chim bay
106
Trông nam rồi lại ngóng tây Bốn phương non nước cỏ cây mịt mù. (Ca dao)
Trong kho tàng ca dao người Việt, từ thấy xuất hiện 577 lần, trông xuất hiện 479 lần, ngóng xuất hiện 16 lần. 03 THTM thuộc tiểu trường chỉ hoạt động của mắt xuất hiện trong những trạng huống khác nhau. Chàng trai trong bài ca đang đi kiếm tìm người tâm đầu ý hợp, người ngoan đi tìm người khôn. Nhưng nghịch lý là ở chỗ: Người khôn đứng đó, người ngoan đi tìm. Em thì đứng đó mà anh phải bỏ bao công sức tìm hết bể đông, bể cạn, trông nam ngóng tây. Hành trình ấy gian nan biết bao không chỉ bởi không gian bốn phương mịt mù. Nghịch lý tiếp tục được khai thác triệt để làm rõ cái nghịch lý của lẽ đời, cái gian nan của duyên phận: em - chim ăn bể bắc mà anh lại tìm bể đông, đến bể đông tìm chim mà lại chỉ có lông chim nhạn, đến bể cạn tìm chim thì chỉ thấy có vạn chim bay có mà như không. Mô hình x “mắt” + động từ “tìm” xuất hiện liên tiếp trong những câu thơ liền kề nhau đã thể hiện hành trình gian nan đi tìm hạnh phúc, tìm tình yêu. Ở tận cùng của mỗi ngả hướng ấy lại gắn liền với trông, ngóng. Từ trông và ngóng ở đây vừa có nét nghĩa của tìm lại vừa có ý nghĩa là sự dõi theo, mong ngóng, chờ đợi đến thiết tha, mòn mỏi. Kể lể việc kiếm tìm gian nan ấy phải chăng cũng là một cách ngỏ lời, diễn tả mức độ tha thiết của khao khát hạnh phúc, sự trân trọng đối với người con gái mà anh thương yêu. Và dẫu không nói ra, ý tình của chàng trai ấy có điểm gặp gỡ với lời tỏ tình mạnh mẽ, thẳng thắn sau đây: VD 139:
Đầu giồng có cây duối, cuối giồng có cây đa Ngã ba đường có cây tơ hồng Con gái chưa chồng cái lòng hừng hực Con trai chưa vợ ruột thắt như tranh Ngó lên mây trắng trời xanh Ai ai cũng vậy, ưng anh cho rồi.
(Ca dao)
Ngó cũng có nét nghĩa là trông, nhìn. Mây trắng trời xanh là cái chuyện đương nhiên rồi, là quy luật của tự nhiên. Vậy thì cái chuyện con gái – con trai, và nhất là ai ai cũng vậy thôi, em còn kén chọn làm gì - hãy ưng anh cho rồi, cũng là chuyện hợp lẽ tự nhiên, đúng quy luật tình cảm con người.
Từ nom cũng là một cách nói đưa đẩy của ca dao để bày tỏ chân tình: Nom vườn tre nở xanh non
VD 140: Hỏi vườn tre ấy có còn măng không? - Cầm sào mà đợi nước lên Cầm duyên đợi bạn cho nên đến giừ.
(Ca dao)
107
Cả bài ca là một ẩn dụ và hành động của mắt: “nom” cũng là dựa trên cách nói ẩn dụ để gợi ra ý nghĩa thẩm mỹ. Cái cớ anh con trai tìm ra: đó là việc nom thấy vườn tre nở xanh non. Nom nghĩa là trông, để ý nhìn, ngó đến [113; tr.945]. Vì anh trông thấy cái vườn tre xanh non cho nên anh mới hỏi nàng rằng vườn có còn măng không. Vậy cái việc nom thấy vườn tre đã trở thành cái cớ để anh chàng ướm hỏi. Đó là chưa kể đến sự phi lý: vườn tre sao lại nở xanh non ví như em đến thì khoe độ xuân sắc, xinh tươi. Ở đây động từ nom cùng với hình ảnh vườn tre tạo ra lời tỏ tình hết sức tế nhị, duyên dáng.
Lời tỏ tình nhiều khi được đáp lại bằng thái độ mạnh mẽ nói lên cái sức sống dào dạt của người lao động với những ý nghĩa nhân sinh táo bạo trái ngược với những khuôn khổ lễ giáo truyền thống. Người con gái đã không còn e lệ như vẻ ngoài (người con gái xưa thường rất rụt rè, e lệ) nhưng khi đã gặp người vừa ý thì do tình yêu thôi thúc, họ trở nên mạnh dạn, họ có thể tỏ tình trước với người con trai một cách hồn nhiên, nhưng không kém phần kín đáo: VD 141: Xin anh anh ngả ô ra
Để em xem mặt coi già hay non
Trên đầu anh đội khăn tròn Đôi mắt anh liếc như con dao cầu Hỏi thăm quê họ chàng đâu
Cho em làm lễ vào hầu mẹ cha. (Ca dao)
Có lẽ cái chuyện anh già hay non không phải là điều cốt lõi, kể cả việc trên đầu anh đội khăn tròn. Bởi tất cả chỉ là vẻ hình thức bên ngoài. Đến đôi mắt thì đã trở thành ấn tượng quyết định để cô gái đi tiếp lời tỏ tình, hỏi đến quê quán rồi bắt vào cái chuyện cho phép làm lễ vào hầu mẹ cha. Tại vì anh có đôi mắt liếc như con dao cầu. Dao cầu hay là dao cau? Có thể đây là cách đọc chệch âm cho phù hợp vần nhịp. Sử dụng BTTV đôi mắt và BTKH chỉ hoạt động của mắt: “liếc”, cách nói so sánh “Đôi mắt anh liếc như con dao cầu” thể hiện thần thái của đôi mắt: thanh tú, hữu tình, mạnh dạn đầy nam tính với cái liếc mắt sắc ngọt đứng tim… đã có thể chinh phục được cô gái.
Cũng mạnh dạn không kém, một cô gái khác đã bộc lộ nguyện ước kết tóc xe tơ
với chàng trai mình ưng ý: VD 142: Hôm qua em đi chợ trời
Thấy ông Nguyệt Lão đang ngồi ở trên Tay thì cầm bút cầm nghiên Tay cầm tờ giấy đang biên rành rành Biên ta rồi lại biên mình Biên đây lấy đấy, biên mình lấy ta
108 Chẳng tin lên hỏi trăng già Trăng già cũng bảo rằng ta lấy mình Chẳng tin lên hỏi thiên đình Thiên đình cũng bảo rằng mình lấy ta Quyết liều một trận phong ba Để cho thiên hạ người ta trông vào Quyết liều một trận mưa rào Để cho thiên hạ trông vào đôi ta.
(Ca dao) Thấy: (1) nhận biết được bằng mắt nhìn; (2) nhận biết được bằng giác quan nói chung, có cảm giác, cảm thấy; (3) nhận ra được, biết được qua nhận thức [113; tr.1190]. Trông: (1) nhìn để nhận biết, (2) để ý nhìn ngó coi sóc, (3) mong, (4) hướng đến với lòng hi vọng, mong đợi [113; tr.1332]. Ở đây cùng là hoạt động của mắt để nhìn, nhưng “trông” và “thấy” được dùng với vai nghĩa có sự khác nhau. “Thấy” là động từ (hành động - chủ ý) có ý nghĩa trải nghiệm (qua nhận thức, qua cảm giác) khác với“trông” là động từ (hành động - chủ ý) vai nghĩa chú trọng hơn đến bản thân hành động nhìn. Như vậy, từ cái việc thấy ông Nguyệt lão ở chợ trời đã chứng kiến, trải nghiệm cái việc ta lấy mình là có lý (cái cớ phi lý hết sức) nhưng lại thật có lý khi muốn khẳng định mối lương duyên trời định. Nếu không tin thì cứ hỏi cả thiên đình. Vì thế ta quyết lấy mình để thiên hạ phải trông vào, chấp nhận, ngưỡng mộ, vui mừng trước hạnh phúc của ta của mình.
Có cô con gái còn thể hiện bản lĩnh của mình trong lời tỏ tình thật táo bạo:
VD 143:
Đấy còn không, đây cũng còn không Đấy kén vợ đẹp, đây trông chồng màu. Chuộng chuối, chuối lại cao tàu Thương anh, anh lại ra màu làm cao Xin đừng bắc bậc làm cao Phèn chua em đánh nước nào cũng trong (Ca dao)
Trông: nhìn để nhận biết; ở đây là mong ước, chờ đợi, là kén chọn. Nếu anh kén vợ đẹp, thì em cũng kén chồng tài (chồng màu có thể hiểu là người chồng toàn diện, tài giỏi, tương xứng với vợ đẹp ở vế trước). Vậy thì đôi ta cũng vừa đôi phải lứa, anh còn kén chọn, làm cao với em làm gì.
Không hiếm khi lời tỏ tình cũng trở nên gai góc, đáo để, giọng trêu đùa khiêu khích mà giống như một sự thử lòng; đòi hỏi người nghe có một bản lĩnh vững vàng, sự đối đáp thông minh: VD 144: Hoa kia tươi tốt rườm rà
Tuy rằng tươi tốt khi mà ong châm - Anh ở trong ấy mà ra?
109 Cớ sao anh biết vườn hoa chị tàn? Hoa tàn nhưng nhị chưa tàn
Muốn xem, chị vén bức màn cho xem.
(Ca dao) Trong ca dao đối đáp giao duyên, số lần chủ động tấn công của các chàng trai rất nhiều và số lần bị phản công trở lại một cách quyết liệt cũng không ít. Ở bài ca dao này kẻ chủ động tấn công lại bị phản công truy kích, dồn vào thế bị động, bất ngờ. Cái sự xem của đôi mắt không chỉ đơn giản là hành động nhìn, trông; ở đấy có cả sự thách thức đáo để chứng tỏ bản lĩnh, tài ứng đối, cũng như sức sống khỏe khoắn dào dạt của con người trước cuộc đời. Cái cớ bắt chuyện của chàng trai đã bị phủ định, bị vạch mặt là kẻ bịa đặt, hơn thế còn bị thách thức:
Muốn xem, chị vén bức màn cho xem.
Có thể bài ca ra đời trong một cuộc hát đối đáp phân chia cao thấp tài trí,
nhưng sau hội hát biết đâu là khai mở cho những mối tình sâu sắc, nồng nàn? Có nàng con gái chưa chồng, biết bao chàng trai say mê mà cũng vẫn chưa lọt vào mắt xanh. Có phải đâu đã là gái già. Thế nhưng tìm mọi cách tỏ tình mà chưa được nàng ưng thuận thành ra bực mình, một chàng trai đã lên tiếng: Đi đâu mà chẳng lấy chồng, VD 145: Người ta lấy hết, chổng mông mà gào, Gào rằng: đất hỡi, trời ơi! Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng, Ông trời ngoảnh lại liền trông, Mày hay kén chọn, ông không cho mày. (Ca dao)
Người ta có thể hiểu bài ca theo những cách khác nhau khi đặt nó vào trong những văn cảnh khác nhau. Nếu hiểu bài ca theo văn cảnh nêu trên, thì biến thể kết hợp trông của THTM “mắt” đã thể hiện thái độ của ông trời đối với cô gái kén chọn. Trông ở đây là sự quan sát, nhìn nhận thấu hiểu đi đến quyết định của ông trời: vì cô kén chọn cho nên ông trời mới trừng phạt: ông không cho mày chút chồng! Chàng trai đã mượn giọng của ông trời để cảnh báo cô gái kiêu sa kia đừng có kén làm gì nữa, hãy chọn một tấm chồng - chọn anh đây, nếu không người ta lấy hết em biết lấy ai?
Tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa mắt đã đi vào ca dao và và trở thành một trong những tín hiệu tỏ tình được sử dụng nhiều nhất trong kho tàng ca dao Việt Nam. Có thể nói, trong cuộc sống hàng ngày có bao cách tỏ tình thì ca dao có bấy nhiêu cách bày tỏ tình cảm và THTM “mắt” đã giúp bao lứa đôi thể hiện lòng mình ngay cả những điều khó nói nhất.
110 b) THTM “mắt” biểu trưng cho những cung bậc của tình yêu nhớ thương, hờn giận, khắc khoải…
Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ nhất là yêu trong xa cách - yêu là nhớ và còn nhớ là còn yêu, nhớ thương là sự sống của tình yêu! Đôi mắt của tình yêu - nỗi nhớ nhiều khi biểu hiện cũng thật đa dạng qua các BTKH chỉ trạng thái của mắt: con mắt lừ đừ, con mắt lim dim, mỏi mắt…và tha thiết hơn nỗi nhớ hóa thành những giọt nước mắt… Nỗi nhớ sâu thẳm cháy ruột cháy gan "Nhớ ai bổi hổi bồi hồi - Như đứng đống
lửa như ngồi đống than" đã hiện lên con mắt: VD 147: - Nhớ ai con mắt lim dim
Chân đi thất thểu như chim tha mồi - Thương ai con mắt lừ đừ Sầu riêng nhớ mãi đến giừ chưa nguôi.
(Ca dao)
Con mắt lim dim, con mắt lừ đừ là trạng thái của mắt biểu hiện ra bên ngoài. Lim dim: mắt nhắm chưa khít, còn hơi hé mở [113; tr.735], lừ đừ: chậm chạp nặng nề, không linh hoạt [113; tr.768]. Lấy BTTV “con mắt” kết hợp với các BTKH lim dim, lừ đừ đã biểu hiện trạng thái của mắt cũng là trạng thái của nội tâm. Khi ngủ cũng không yên, lúc thức cũng mơ màng không tỉnh táo, mất hết vẻ linh hoạt thường thấy, con người đắm chìm trong nội tâm yêu chỉ những nhớ và thương.
Nhiều khi phóng đại nỗi thương nhớ, con mắt được mô tả như một trạng thái
bệnh lí“đỏ lòm con ngươi”: VD 148: Vách thành cao lắm khó dòm
Nhớ em anh khóc đỏ lòm con ngươi
(Ca dao)
Khóc đến đỏ lòm con ngươi, khóc làm thay đổi màu mắt thì chắc phải khóc lâu, nước mắt nhiều. Hoạt động và trạng thái của con mắt ở đây đã chuyển hóa thành trạng thái tâm lí, chẳng qua là vì yêu, thương nhớ quá đấy thôi mới thành ra như thế. Nước mắt: Trong kho tàng ca dao người Việt, biến thể nước mắt xuất hiện 347 lần, với 16 biến thể trong đó có nhiều từ ngữ để diễn tả nước mắt như nước mắt hồng: 09, lụy: 56, châu: 19, lệ: 21, giọt: 08… Có thể nói tâm trạng của con người nhiều khi đã hoá thân thành những giọt nước mắt. Khóc để vơi đi nỗi buồn phiền da diết, để trút bỏ nỗi niềm u uất trong lòng. Nước mắt của niềm vui, nước mắt của nỗi buồn… Trong tình yêu nước mắt còn là một cách bày tỏ những cung bậc của yêu thương, đợi chờ, hờn giận, nhớ nhung, khổ đau, chia li.
Đó là những giọt nước mắt của nhớ thương nhiều đến hằng hà sa số được ví
như cơn mưa ngoài trời:
VD 149: - Anh về em nỏ dám đưa
111 - Nhớ ai em những khóc thầm Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa… Hai hàng châu lệ như mưa tháng mười. (Ca dao)
Sử dụng triệt để cấu trúc so sánh: mắt/thuộc tính của mắt (như) mưa/mưa tháng mười. Ai mà đếm được giọt mưa - giọt nước mắt? Bởi thế có ai mà đếm được niềm thương nhớ theo nước mắt chảy hoài. Không ví nước mắt với mưa mùa hạ, mà lại ví với mưa tháng mười. So sánh không chỉ cho thấy số lượng nhiều vô kể giọt mưa – giọt nhớ mà còn đem lại cảm giác. Mưa tháng mười không ào ào mạnh mẽ như mưa mùa hạ, nhưng mưa lâu, mưa dầm thấm thía trong cái rét ngọt đầu đông. Tình yêu sâu đậm và thấm thía trong nước mắt - cơn mưa tháng mười ấy! Xung quanh những nỗi nhớ nỗi thương và những giọt nước mắt có đến hàng trăm bài ca, vẫn là biến thể kết hợp của THTM “mắt”, nhưng mỗi bài lại ít nhiều có dáng dấp riêng của nó trong cách kết hợp với các từ ngữ đi kèm: VD 150:
- Bao giờ chả lại gần nem Ra về nước mắt ướt nhèm trông theo. - Anh xa em anh ăn cơm với cá Em xa anh, em chan nước mắt thay canh (Ca dao)
Yêu mà phải xa nên càng nhớ, hơn nữa cái sự xa cách ấy lại dự cảm nhiều chia ly, ngăn cản nên đôi khi nỗi nhớ gắn liền với nước mắt. THTM ở dạng biến thể nước mắt có lúc là nước mắt đầm đầm như mưa, có lúc lại là chan nước mắt thay canh, nước mắt không khô, nước mắt ướt nhèm, rồi ướt cả khăn xéo điều… VD 151: - Thấy nhau nước mắt không khô
Thương nhau không biết khi mô cho thành. - Anh ra về em đứng chực cửa ngăn Hai hàng luỵ nhỏ, ướt khăn xéo điều.
- Anh về nước mắt nhỏ ròng Thấu thiên, thấu địa, thấu lòng anh chăng? (Ca dao)
Nước mắt không chỉ dành cho phái nữ, người con trai khi yêu cũng trở nên mau
nước mắt vì thương nhớ. Có chàng trai lại cường điệu đến mức này: VD 152: Anh thương em trong chừng một tháng
Khi nào gió thổi rung cây
Nước mắt lai láng hai mươi tám đêm ngày Mây bay về vùng Sơn liệu đó với đây ra kết nguyền.
112 (Ca dao)
Lai láng đã là nhiều đến tràn trề, thế mà nước còn chảy ở một thời gian dài đằng đẵng hai mươi tám đêm ngày. Nhưng tại sao lại là hai mươi tám ngày đêm? Thực ra đây là cách diễn đạt tương đối cho phù hợp với vần nhịp của bài ca. Thương em trong chừng một tháng thì cũng một tháng ấy nước mắt nhớ thương cũng lai láng suốt đêm ngày. Như vậy dùng biến thể kết hợp của THTM “mắt” đã thể hiện được tình cảm sâu nặng của đôi lứa.
Đó còn là nước mắt hứa hẹn thủy chung. Chàng đi lính chia ly chỉ biết cùng ngó nhìn nhau, kẻ rưng rưng hột lụy, người lã chã rơi châu. Hai biến thể kết hợp của mắt được đặt trong thế đối ngẫu đã bộc lộ sự đồng cảm, thấu hiểu nỗi niềm cách biệt và ngầm ước nguyện thủy chung của đôi lứa: VD 153:
Chàng ngó thiếp rưng rưng hột luỵ Thiếp ngó chàng lã chã châu rơi Nguyện cùng chứng có đất trời Giúp chàng đi thú cho rồi hạn vua.
(Ca dao)
Cũng là nước mắt của cảnh biệt ly, đôi lứa nhìn nhau mà như lọt thỏm vào một không gian mịt mùng, xa nhau biết có ngày nào còn gặp lại, vì thế mà giọt lệ không ngừng tuôn rơi: VD 154:
(Ca dao)
VD 155:
Đưa nhau giọt lệ không ngừng Ngó sông, sông rộng, ngó rừng, rừng cao. Lại có cả những giọt nước mắt chua xót hoài nghi: Lâu nay chồng vợ vui chung Nay mình về dưới bữa nào mình lên Ngày nay nhơn nghĩa không nên Giá anh về dưới còn lên nỗi gì? Hai hàng châu ngọc lâm li Em đành phụ nghĩa còn gì bớ em?
(Ca dao) Ca dao tương tư có hàng trăm bài, nhưng mỗi bài một dáng vẻ. Chữ thương, chữ nhớ cũng được nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần trong ca dao tình yêu, nhưng mỗi lần nghe lại đều thấy hay, thấy mới, không mòn cũ. Bởi lẽ những chữ nhớ thương thì chung, nhưng nghĩa lại riêng. Tình yêu là chuyện muôn đời, nhưng đến mỗi người thì tình yêu luôn là mới mẻ, làm thao thức rộn ràng biết bao trái tim. Mắt cũng đã trở thành tín hiệu thẩm mỹ thể hiện những cung bậc sắc thái của tình yêu như vậy. Bài ca Khăn thương…đã từng đi vào câu chuyện tình yêu của rất nhiều đôi lứa:
113
VD 156:
Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất? Khăn thuơng nhớ ai Khăn vắt lên vai ? Khăn thương nhớ ai Khăn chùi nước mắt? Ðèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt? Mắt thương nhớ ai Mắt ngủ không yên? Ðêm qua em những lo phiền. Lo vì một nỗi chưa yên mọi bề...
(Ca dao) Đây là một bài ca dao tương tư rất độc đáo bởi nội dung và nghệ thuật của nó không trùng với bất kì một bài ca dao nào khác. Hai từ thương, nhớ được dùng liền nhau, gắn với đại từ ai tạo thành một cụm từ điệp và điệp đến năm lần, mỗi lần được dùng với một chủ ngữ riêng và một câu hỏi mới. Cùng với khăn, đèn; mắt cũng là một chủ ngữ của thương, nhớ. Mắt đã là một hoán dụ lấy bộ phận để chỉ toàn thể, nói mắt là nói người. Vì yêu thương nhung nhớ mà mắt ngủ không yên. Nếu khăn, đèn là những vật dụng quen thuộc của người phụ nữ trong cuộc sống hàng ngày thì mắt lại nằm trong một trường nghiã khác hẳn, là một bộ phận quan trọng của cơ thể người. Ba chủ ngữ nhưng cũng chỉ là một chủ thể. Có điều mỗi lần sử dụng một chủ ngữ lại mang một sắc thái ý nghĩa khác nhau, ở cả mức độ và nội dung ý nghĩa. Gửi nỗi nhớ vào chiếc khăn với các trạng thái: xuống, lên, rơi, vắt là tâm trạng ngổn ngang trăm mối, nỗi nhớ trải ra ở nhiều chiều không gian. Nhưng phải đợi đến khăn chùi nước mắt thì nỗi nhớ đã đi từ không gian bên ngoài đến cuộc sống nội tâm, cái không gian lòng người vô tận. Ca dao xưa đã từng có nỗi nhớ như thế: VD 157: Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
(Ca dao)
Hoặc cũng là chiếc khăn để lau nước mắt:
VD 158: Trông anh đã mấy thu tròn
Khăn lau nước mắt đã mòn con ngươi.
(Ca dao) Mượn đèn để bộc lộ tâm trạng, nỗi nhớ của cô gái lại kéo dài theo thời gian,
trăn trở với ngày và đêm:
Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt
114
Nhưng dù có gợi cảm sâu sắc đến mức nào, thì khăn, đèn cũng vẫn là cách nói gián tiếp để bộc lộ tâm trạng, nhân cách hóa những sự vật vô tri vô giác để thể hiện những cung bậc của nỗi nhớ. Đến mắt thì đã là cách nói trực tiếp, cô gái đã không nén nổi, hỏi mắt mà cũng để hỏi lòng mình: Mắt thương nhớ ai Mắt ngủ không yên?
Nỗi nhớ được thể hiện bằng tín hiệu thẩm mỹ mắt, cái cửa sổ tâm hồn của con người đau đáu cả một trời thương nhớ. Thì ra cứ nhắm mắt lại hình ảnh thân thương của người yêu lại hiện ra, vì thế làm sao ngủ yên. Ở trong đôi mắt ấy có cả thời gian đằng đẵng của sự thao thức, người ta thường nói Thức lâu mới biết đêm dài, làm sao có thể đo đếm được. Và một không gian sâu thẳm bao la, dậy sóng của nỗi nhớ thương khi một mình đối diện với lòng mình, năm canh vò võ…
Như thế dùng đôi mắt và cả một thuộc tính của mắt - nước mắt, tâm trạng của người con gái trong tình yêu và trước duyên phận đã được bày tỏ một cách hết sức tinh tế. Cùng chung nỗi niềm ấy cô gái trong một bài ca dao khác cũng: VD 159:
Nhợ xa cần nhợ lại nằm khoanh Chim kêu rủ rỉ, nhớ tới anh, em khóc mùi.
Khóc mùi là khóc thầm, khóc trong thao thức thâu đêm. Có biết bao bài ca viết
về nước mắt của kẻ tương tư, kể làm sao cho hết: VD 160: Nhớ anh em chỉ nằm dài
Cơm ăn thì nghẹn, nước mắt chảy hoài không khô.
(Ca dao)
VD 161: Sự đời nước mắt soi gương
Càng yêu nhau lắm càng thương nhớ nhiều.
(Ca dao)
Theo Xuân Diệu: Câu ca dao nói: “Trời sinh con mắt là gương” cũng đã hay; nhưng câu này còn hay hơn nhiều. Thay biến thể từ vựng con mắt bằng biến thể kết hợp chỉ một thuộc tính của mắt: nước mắt và so sánh nước mắt với gương có thể soi được đã tăng thêm ý nghĩa cụ thể và biểu cảm cho câu ca ca dao. Trong cái xã hội cũ đau đớn kia, sự đời nước mắt soi gương, nước mắt của những kẻ yêu nhau đã chảy hoài, nhiều đến nỗi có thể soi mình trong những giọt nước mắt ấy, và nhìn trong nước mắt thấy bóng hình của nhau, thấy niềm thương nhớ nhau! Trong thực tại vật chất, có ai soi nước mắt bao giờ, nhưng trong thực tế tinh thần, càng yêu mến lắm thì càng thương nhớ nhiều, những chữ nước mắt soi gương thấm thía, sâu sắc biết bao mà cũng triết lí dường nào.
Một điều tuyệt vời của ca dao, cũng như của văn học dân gian nói chung, ở đó là tâm hồn, điệu sống hồn hậu, lạc quan của nhân dân. Và ở những bài ca tương tư, mặc dù người ta vẫn thấy nhiều nước mắt, nhưng ở đó là nước mắt của yêu thương, của khao
115 khát yêu thương, dào dạt tình đời, tình người, tình yêu cuộc sống thiết tha, là khúc hát trữ tình lạc quan của người bình dân xưa. Trông, ngóng, ngó: Những câu ca dao dưới đây tuy không nói trực tiếp về mắt nhưng chính là nói về mắt, nói về "hoạt động nhìn" của người đang yêu: trông , ngóng, ngó… Mang sẵn trong lòng niềm mong nhớ, con người đang yêu nhìn vào đâu cũng thấy dấu ấn của tương tư, mong mỏi, thương yêu: VD 162:
- Qua cầu ngả nón trông cầu, Cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu Qua đình nghiêng nón trông đình Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu!
(Ca dao)
Người con gái trông thấy những nhịp cầu, mái đình mà vận vào lòng mình. Trông ở đây chủ yếu và trước hết là hoạt động nhìn của mắt, là cái nhìn trống vắng của nỗi lòng tương tư, nhận thức thế giới bên ngoài để đối sánh lòng mình. Mỗi nhịp cầu là sự lặp lại cấu trúc của nhịp cầu khác. Sự lặp đi lặp lại đó khiến cho cái số nhiều có giới hạn của nhịp cầu trong cuộc sống thực trở thành cái số nhiều vô hạn của tổng thể cái cầu trong con mắt người tương tư. Cái vô hạn mà cô gái cảm thấy đó cho phép liên hệ cái cầu với nỗi sầu trong lòng người con gái. Cũng vậy mái đình có bao nhiêu ngói đếm làm sao hết, nỗi thương mình (thương anh) cũng không thể nào kể hết được. Những câu kiểu "em đứng em trông", "trông cá cá lặn trông sao sao mờ" là rất
phổ biến: VD 163:
- Ngày ngày em đứng em trông Trông non non ngất trông sông sông dài Trông mây mây kéo ngang trời Trông trăng trăng khuyết trông người người xa. (Ca dao)
VD 164:
- Thương ai em đứng em trông Nhớ ai mỏi mắt bến sông đợi chờ. - Bốn mùa xuân hạ thu đông Thiếp ngồi dệt vải những trông bóng chàng. Dừa xanh trên bến Tam Quan Dừa bao nhiêu trái trông chàng bấy nhiêu !
(Ca dao)
Từ một hoạt động nhìn của mắt, trông đã được dùng chuyển nghĩa, là chờ đợi, mong ngóng đến mòn mỏi. Từ cái việc Ngày ngày em đứng em trông như một thói quen, một hoạt động nhìn của mắt. Thế rồi đến trông non, sông, mây, trăng đã có cái gì bất ổn. Khác thường ngay hành động trông: lâu ở thời gian ngày ngày, rộng ở
116 không gian là đối tượng hướng tới đều cao lớn, dài rộng, … Ánh mắt thấu suốt thời gian, không gian ấy chở nặng nỗi suy tư. Tất cả đều xa xôi mịt mù. Cũng giống như việc trông người người xa, càng trông mong càng chẳng thấy. Thì ra tất cả sự việc nói ở trước chỉ là tạo cớ để nói cho được sự mong ngóng đến mòn mỏi thiết tha của cô gái đang yêu. Sự trông mong đến mỏi mòn thường gắn liền với một thời gian “đêm”, một thời gian tâm tưởng vò võ của những tương tư. Có lúc là đêm tha thẩn trông cá, trông sao, trông nhện giăng tơ: VD 165:
Buồn trông con nhện giăng tơ
Buồn trông chênh chếch sao mai
Đêm qua ra đứng bờ ao Trông cá, cá lặn, trông sao sao mờ Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai? Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ (Ca dao)
Có lúc là đêm nằm mà lưng chẳng bén giường, chỉ trông, mong ngóng cho
trời mau sáng: VD 166: Đêm nằm lưng chẳng bén giường Trông cho mau sáng ra đường gặp anh (Ca dao)
Ở những câu ca dao trên rõ ràng không có một chữ nhớ, không nói đến sự nhớ một cách trực tiếp, nhưng qua cách cấu tứ, và đặc biệt việc sử dụng những biến thể kết hợp của mắt: trông, mỏi mắt …ta vẫn có thể nhận biết được chủ đề của nó nhằm nói về nỗi nhớ người yêu.
Ngó: cũng có nghĩa là nhìn, là quan tâm, để ý [113; tr.878]; nhưng còn mang thêm một ý nghĩa cụ thể, là cái nhìn không trực diện, chỉ nhìn ngang hoặc ngoái lại nhìn. Có trường hợp ngó diễn tả cái đắm đuối, rụt rè của chàng trai thôn quê với mối tình thầm kín: VD 167:
Ngó em chẳng dám ngó lâu Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi!
(Ca dao)
Cái ngó ấy là cái nhìn của kẻ tình si đầy mong ước và khát khao hạnh phúc mà
Chuyện thức ngủ của đôi mắt cũng là thao thức nhớ nhung của tình yêu:
không dám bày tỏ. VD 168: Người đâu thao thức năm canh Ngủ đi không ngủ để tình thức theo
c) THTM “mắt” biểu trưng cho những tình yêu không thành trong ca dao
117
Yêu nhau mà không lấy được nhau. Cảnh ngộ ấy đã đi vào ca dao thông qua THTM “mắt” vừa thể hiện xúc động, thấm thía những mối tình thắm thiết, trái ngang vừa thể hiện thái độ chống đối lại những lễ giáo phong kiến hà khắc đã đàn áp họ về mặt tinh thần chia rẽ những lứa đôi: VD 169: Gặp nhau đây khôn hỏi lỡ chào Hai tay nghiêng nón, nước mắt trào như mưa
Ôi người tình cũ ngày xưa
Dẫu có xa nhau đi nữa cũng đợi đón đưa đôi lời
(Ca dao)
Nhiều khi xa nhau mà không biết vì đâu, đau xót, họ chỉ còn biết nhìn nhau
Sử dụng cấu trúc so sánh nước mắt trào như mưa, động từ trào: tràn ra do dâng lên quá miệng của vật đựng [113; tr.1311]. Nước mắt nhiều đến tuôn trào như mưa. Đó là nước mắt nhớ thương, đau khổ, xót xa tuôn trào. Nói sao cho hết những yêu thương cả một đời dồn lại Ôi người tình cũ ngày xưa kẻ đấy người đây… biết phải làm sao! lụy nhỏ than trời trách đất: VD 170:
Anh về em ở hai nơi Cắn răng cách mặt cơ trời khó toan Dầu lòng phân rẽ anh sẽ xuống thoàn Thương ai rớt luỵ can tràng quặn đau Nhìn nhau luỵ nhỏ thấm bâu Than trời, trách đất cớ đâu phân lìa...
(Ca dao)
Đôi lứa phải xa nhau vì bao nhiêu lí do: cha mẹ ép gả, vì yêu đơn phương mà
Sau khi nêu ra tình cảnh của anh và em “ở hai nơi” bởi “cơ trời khó toan”, nỗi thương đau được nâng lên theo từng mức độ và đỉnh điểm của cảm xúc: nỗi đau chuyển hóa thành nước mắt - lụy, lụy nhỏ thấm bâu (thấm: (chất lỏng) chuyển động vào trong một môi trường xốp hoặc qua một màng mỏng [113; tr.1180]; bâu: cổ áo, túi áo [113; tr.80] nước mắt rơi (rớt: rơi ra một vài giọt; nhỏ cũng có thể hiểu là rơi với tốc độ chậm, nhẹ) thấm ướt cả cổ áo em, anh. Sử dụng một loạt các biến thể: BTTV, BTKH của THTM “mắt” trên một trục tuyến tính, bài ca đã thể hiện nỗi đau đớn khi đôi lứa phải cách xa. Có điều nước mắt ở đây rơi trong lặng lẽ “nhỏ”, “thấm bâu”, nỗi đau dường như cuộn xoáy vào tim, chất chứa ở chiều sâu, tiết chế trong biểu hiện. không dám bày tỏ…nước mắt lưng tròng tuôn rơi: VD 171: Chạy lên đường thì tâm tâm
Chạy xuống đường thì niệm niệm Nước mắt lưng tròng nhỏ hạt tuôn châu
118 Hai đứa mình ăn nói đã lâu
Bữa ni ai bày mưu cho bậu mà bậu dứt bỏ mấy câu ân tình
(Ca dao)
THTM “mắt” xuất hiện qua biến thể “nước mắt” kết hợp với các từ chỉ trạng thái của nước mắt theo mức độ tăng dần từ lưng tròng: nước mắt ứa ra bao quanh tròng mắt cho đến nhỏ hạt tuôn châu: nước mắt rơi xuống thành hạt, thành dòng nhiều và liên tục [112; tr.80]. Đó cũng là hành trình cảm xúc, của nỗi đau đi từ kìm nén bên trong đến bộc lộ ra bên ngoài.
Tình yêu không thành có thể vì xuất phát từ tình yêu đơn phương,
Đối với người phụ nữ xưa, sự nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến trói chặt họ trọng tam tòng tứ đức, với những quan niệm trói buộc cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, số phận họ không tự định đoạt được. Biết bao lời than thân, trách phận cho tình yêu không thành cũng cất lên từ đấy. VD 172: - Giơ tay bắt lươn, lươn trườn vô cỏ
Bắt quạ, quạ bỏ quạ bay Kể từ ngày chàng bỏ thiếp đây Bưng bát cơm đôi hàng luỵ nhỏ, dạ buồn thay hỡi buồn.
- Gió đẩy đưa phơ phất ngọn cờ
Anh đây lỡ vận tại chờ duyên em Làm thơ nước mắt nhỏ lem Tương tư sầu muộn vè em có chồng.
(Ca dao)
Hai hàng luỵ nhỏ thấm bâu
Ở những bài ca về tình yêu không thành, THTM “mắt” chủ yếu xuất hiện qua biến thể nước mắt. Trong thực tế nước mắt là một thuộc tính của mắt, thứ dịch điều tiết. Nhưng nước mắt cũng thể hiện tâm trạng con người, vui cũng khóc, buồn người ta cũng khóc. Ở đây, nước mắt của chia ly, của tình yêu không thành vì thế có vị đau vị xót, làm day dứt trái tim người đọc. Điều khá đặc biệt, dù đau xót, dù nói trong lụy nhỏ thấm bâu, đôi lứa vẫn gửi lại cho nhau lời nguyện cầu hạnh phúc: VD 173: Duyên em cực đã đành phận, em cũng vọng cầu cho anh nên
(Ca dao) d) THTM “mắt” biểu trưng cho tình yêu chung thủy trong ca dao
Người Việt xưa vốn rất trọng nghĩa tình. Dầu bao trắc trở nhưng chung thủy vẫn là một thứ đáng trân trọng và ngợi ca trong tình yêu. Cô gái đã lựa chọn bạn đời bằng đôi mắt của trái tim chung tình, sang giàu và sự trẻ trung không thể lay chuyển: VD 174: Trai tân đang đứng đang chờ
Ai bưng mắt lại em lại vơ cha dòng
119
- Cha dòng áo rách em thương Trai tân quần lượt, áo lương không dùng.
(Ca dao)
Và dù có bị ngăn cấm, lời thề sắt son của đôi lứa vẫn cất lên trong nước mắt:
VD 175:
Hai hàng nước mắt tuôn rơi Khóc lên thì sợ bạn cười đôi ta Việc này tại mẹ cùng cha Tại chú cùng bác ông bà anh em Mặc ai chia rẽ phận duyên Đôi ta cứ giữ lời nguyền sắt son.
(Ca dao)
Tuy gian khổ, người lao động vẫn giữ cho có được hạnh phúc trong tình yêu. Từ trong cuộc sống lao động, họ càng gắn bó keo sơn trong thứ tình yêu chung thủy, mặn nồng. Vẫn là giọt nước mắt nhưng là nước mắt của sự chia sẻ đầy tình nghĩa vợ chồng chung thủy: VD 176:
Đầu đội chúa vai mang cốt mẹ Tay dìu dắt cha già Gặp mặt đây nước mắt nhỏ sa Thì tay trong túi bà ba Lấy cái khăn mu soa anh chặm Đạo vợ chồng ngàn dặm không quên.
(Ca dao) Như vậy có thể nói với THTM “mắt”, ca dao đã trở thành nơi lưu giữ hầu hết mọi cung bậc của tình yêu đôi lứa một cách sống động đầy xúc cảm: từ lời tỏ tình đến nồng nàn nhung nhớ, đau khổ chia ly, chung thủy… Có thể nói tín hiệu thẩm mỹ “mắt” trong ca dao đã góp phần “ghi lại những chặng đường của tình yêu, các khía cạnh của tình yêu, các trạng thái tình cảm của nam nữ thanh niên với những trắc trở, khó khăn do đời sống và chế độ phong kiến gây nên. Ca dao trữ tình là thiên tình ca muôn điệu” [74]. Trong khi thể hiện các cung bậc của tình yêu, các THTM “mắt” chủ yếu xuất hiện dưới dạng các BTKH với các cấu trúc: mắt + X (X là động từ) + B (đối tượng tác động) có tần suất hoạt động phong phú, linh hoạt bậc nhất trong các kiểu kết hợp của THTM “mắt” khi thể hiện các cung bậc của tình yêu trong ca dao. Cấu trúc A (nước mắt) + B (tính từ, động từ…) thường để nói về những tình yêu không thành trong ca dao, tuy nhiên nước mắt nhiều khi cũng gắn với nỗi nhớ, mừng vui (lẽ đời vui cũng khóc, buồn cũng khóc); ...
120 3.4.2.1.2. THTM “mắt” biểu trưng cho những cung bậc tình yêu trong thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 Trong thơ ca 1945 - 1975 do yêu cầu của lịch sử (30 năm với ba nhiệm vụ lớn: kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc), cái tôi - tình cảm cá nhân phải lùi về tuyến sau nhường chỗ cho cái ta - tình cảm công dân gắn liền trách nhiệm với Tổ quốc và Nhân dân. Đó cũng là điều dễ hiểu khi số phận dân tộc được đặt lên trên hết. Những tình cảm riêng tư, trong đó có tình yêu đôi lứa vẫn có mặt trong thơ ca. Đây là tình yêu thời chiến tranh với gương mặt riêng của nó [66]. Thời chống pháp, tình yêu đôi lứa xuất hiện trong thơ ca vừa vắng vẻ, ít ỏi, vừa khó được chấp nhận công khai như Màu tím hoa sim của Hữu Loan. Đến thời chống Mỹ, tình cảm này xuất hiện dồi dào hơn trong trang thơ của những nhà thơ đồng thời là chiến sỹ. Và dù được nói tới không nhiều, tình yêu vẫn được đề cập tới ở nhiều cung bậc, sắc thái như bản chất vốn có của nó. THTM “mắt” cũng được các nhà thơ quan tâm sử dụng như một phương tiện bộc lộ nội tâm yêu phong phú đó. Có khi chỉ là một đôi mắt nhìn bắt gặp giữa cơn mưa mang theo chút xao xuyến:
VD 177: Nhớ mưa Thuận Thành Long lanh mắt ướt
(Mưa Thuận Thành, Hoàng Cầm)
Long lanh: có ánh sáng phản chiếu trên vật trong suốt, tạo vẻ sinh động [113,
tr.744]. Ở đây mắt ướt bởi mưa Thuận Thành, nước mưa vương trên mắt long lanh hay mắt ai sáng long lanh, có lẽ là cả hai. Chính đôi mắt long lanh tạo ra ấn tượng đẹp về cơn mưa Thuận Thành, như một điểm nhấn của cảm xúc, như một thoáng rung động về tình yêu.
Đó có thể là chút vấn vương trong lòng người chiến sĩ với một ánh mắt đọng lại
trên đường hành quân: VD 178:
Ôi những xe bò ắp bánh chưng Quân ta năm mới buổi lên đường! Dân đến liên hoan chiều lửa trại Đôi mắt Sài Sơn sao vấn vương? (Nhớ một bóng núi, Quang Dũng)
“Đôi mắt Sài Sơn” một kiểu mô hình mắt + địa danh được dùng chuyển nghĩa theo cơ chế hoán dụ, lấy vật chứa để biểu thị cho vật được chứa, lấy địa danh để chỉ người sống ở đó... Đôi mắt người Sài Sơn, tâm hồn người Sài Sơn đầy vấn vương, lưu luyến người đi như một ấn tượng về một tình yêu đầy u ẩn, người đi mà hồn còn vương lại.
THTM “mắt” cũng đã chắp cánh cho tình yêu bay xa cùng lời ru chở đầy khát
vọng ra khơi:
121
VD 179:
Biển hay tình em đó Gọi lòng anh bay xa Ôi vũ trụ bao la Khi nào ta đi hết? Ngủ ngon anh! Để mai bình minh đến Buồm chúng ta lại tung cánh ra khơi (Ru, Xuân Quỳnh)
Trong hoàn cảnh chiến tranh, loạn lạc có một người lính đã gặp một ánh mắt để
rồi mang theo bao thương nhớ: VD 180:
... Vầng trán em mang trời quê hương Mắt em như giếng nước thôn làng Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm Em đã bao ngày em nhớ thương?... Từ độ thu về hoang bóng giặc Điêu tàn ơi lại nối điêu tàn Đất đá ong khô nhiều suối lệ Em đã bao ngày lệ chứa chan? Đôi mắt người Sơn Tây U ẩn chiều lưu lạc Thương vườn ruộng khôn khuây…
(Mắt người Sơn Tây, Quang Dũng)
Đây là bài thơ duy nhất trong tổng số 415 bài thơ được nghiên cứu mà ở đó, THTM “mắt” đã trở thành một THTM xuyên suốt, ám ảnh trong cả bài thơ. Trước hết, hằng thể mắt xuất hiện trong mô hình so sánh: Mắt em như giếng nước thôn làng, lấy mắt em ví với giếng nước thôn làng làm nổi bật vẻ đẹp trong sáng, trẻ trung của người con gái. Rồi THTM “mắt” lại hiện ra trong các biến thể, BTTV: đôi mắt, các BTKH: lệ, chứa chan, u ẩn. Lệ cũng là nước mắt, là một thuộc tính của mắt, cũng là dạng biểu thị vật chất cho trạng thái tinh thần với những khổ đau, buồn thương. Ấn tượng đọng nhất là đôi mắt u ẩn của người Sơn Tây, của em: đôi mắt sâu kín như ẩn giấu nỗi buồn, tâm tư trong lòng, thầm kín, không bộc lộ ra [113, tr.1385]. Và vì thế anh làm sao hiểu thấu. Tình đơn phương thì ai đã nói với ai điều gì, đành nhờ đôi mắt để gửi gắm và khơi mở tâm tư. Giấc mơ tình chỉ như sương khói thoảng qua, mà lòng người vẫn giăng mắc nỗi sầu khiến câu thơ như vọng về từ xa xăm.
THTM “mắt” còn mang theo tiếng vọng của mối tình tan vỡ:
VD 181:
Bỗng đến tuổi hai mươi Chị Tư lấy chồng xa phương trời
122
Nhớ giọng người gầy như nhánh mai Từ đó anh Năm không hát nữa Riêng mắt anh mang tình một thuở Long lanh tiếng nguyệt đêm trường…
(Khi mùa xuân trở về, Hoàng Cầm)
VD 182:
Đôi khi nhờ mắt để nói về những mối tình trái ngang của em - chị: Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng Chị thẩn thơ đi tìm Đồng chiều Cuống rạ
Chị bảo Đứa nào tìm được lá diêu bông Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày em tìm thấy lá Chị chau mày Đâu phải lá diêu bông
Mùa đông sau em tìm thấy Lá Chị lắc đầu trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới chị Em tìm thấy lá Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con Em tìm thấy lá Xoè tay phủ mặt chị không nhìn ...
(Lá diêu bông, Hoàng Cầm)
Cùng với sự xuất hiện liên tiếp của hình tượng lá diêu bông hư ảo là sự có mặt của một loạt động từ tìm, trông, thấy, những BTKH của THTM “mắt”. Câu chuyện tình buồn kết nối với hành trình đi tìm lá diêu bông, tìm tình yêu: tìm mãi mà không thấy, đến lúc thấy rồi thì chị đã theo chồng… Tình yêu, hạnh phúc như một trò chơi đuổi bắt, thả hình bắt bóng mà thôi…
Một đôi mắt sắc, đa tình quyến rũ cứa vào tim nhau trong một sự ví von rất lạ,
rất Hoàng Cầm - mắt nứa: VD 183: Khi cọc cầu ao dứ mắt chuồn chuồn Buồn ngủ rã rời cánh mỏng
123
... Khấn thầm như gặp Chị mắt nứa cứa tay Em vẫy đón đầu làng (Đợi mùa - Hoàng Cầm)
Tình yêu gắn với chia li mất mát, đau thương của chiến tranh và THTM “mắt”
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông bờ có con đường quen. Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói Núi vẫn đôi mà anh mất em! (Núi đôi, Vũ Cao)
THTM mắt nứa chỉ xuất hiện duy nhất 01 lần trong thơ Hoàng Cầm thể hiện một lối so sánh rất riêng. Nứa là một loài cây thường mọc thành bụi, thẳng đứng, dùng làm nhà, đan lát... thân nứa tách ra sắc như dao, có thể dùng để cắt được những vật mềm, làm cây chông, bẫy thú... Nói mắt nứa đem hai sự vật không liên quan gì để tạo ra một BTKH-danh từ gọi tên một kiểu mắt. Đó là một đôi mắt sắc như dao nứa. Cách nói của Hoàng Cầm rất giống với cách nói dân gian: mắt dao cau vừa đặc tả đôi mắt đẹp, sắc sảo, đa tình của người thiếu nữ vừa nói hậu quả mà đôi mắt đó gây ra: nhớ đôi mắt chị mà tim em nhức nhối vừa yêu thương vừa đau xót vì mối tình trái ngang. đã nói lên điều đó: VD 184: Với mô hình x (mắt) + động từ (ngước nhìn), tác giả đã dùng động từ này theo hai nghĩa: chỉ hành động của nhân vật anh bộ đội khi trở về quê hương nghe tin sét đánh người con gái anh yêu không còn nữa. Hành động ấy còn chứa đựng tâm trạng nhớ thương, đau xót... tầng nghĩa hàm ẩn này được tạo ra từ cơ chế ẩn dụ. Không gì thương bằng đôi mắt đen VD 185: Của người yêu nhìn ta đăm đắm
(Những ngọn đèn, Tố Hữu) Trên những nẻo đường hành quân đất nước, bỗng hiện ra trong tâm tư người lính đôi mắt người yêu dấu: đôi mắt đen... nhìn ta đăm đắm. THTM xuất hiện tới 04 lần qua hai loại biến thể BTTV và BTKH: đôi mắt (BTTV), đen/nhìn/đăm đắm (BTKH) vừa gợi ra đặc điểm của đôi mắt (đen) vừa tả cái nhìn (đăm đắm) yêu thương, nhung nhớ. Mắt em đã mở ra trong hồn ta cả một trời nhung nhớ. THTM “mắt” ở đây vừa được sử dụng trong cơ chế hoán dụ: tả mắt để tả người; vừa thể hiện cơ chế ẩn dụ: nói mắt để nói tình yêu, nỗi nhớ. Đây cũng chính là hành trang không thể thiếu của mỗi người lính Việt Nam ra trận: hành trang của tình yêu và nỗi nhớ. Nó làm nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.
Như vậy, dù hoàn cảnh chiến tranh chi phối, nhưng tình yêu cũng đã đi vào thơ ca như một điều tự nhiên nhất trong tình cảm con người. Ở đó, có những rung động
124 thoáng qua, có những cảm xúc yêu đương hạnh phúc, chút buồn man mác của những mối tình đơn phương hay nỗi đau mất mát do chiến tranh gây ra… Điều này đã góp phần làm nên chất nhân văn đáng quý trong nền văn học kháng chiến. Có thể khẳng định rằng, THTM “mắt” đã được các tác giả sử dụng để thể hiện những diễn biến tinh tế nhất của cảm xúc con người, tình cảm nhân văn nhất của con người Việt Nam ra trận.
a) THTM “mắt” là biểu tượng cho tình yêu gia đình, yêu quê hương, đất
So với ca dao, THTM “mắt” trong thơ ca dùng để biểu trưng cho tình yêu đôi lứa xuất hiện với tần số ít hơn, các trạng thái bộc lộ tình yêu cũng không phong phú như trong ca dao. Nỗi đau mất mát trong tình yêu chiến tranh thường xuất phát từ yếu tố lịch sử đất nước, còn trong ca dao xuất phát từ nhiều yếu tố song nguyên nhân nổi bật do lễ giáo phong kiến, sự ngăn cấm của cha mẹ, hoàn cảnh cuộc sống của người bình dân. 3.4.2.2. THTM “mắt” là biểu tượng cho tình yêu gia đình, yêu quê hương, đất nước nước trong ca dao
Trước hết là tình cảm gia đình, rồi từ tình cảm gia đình phát triển thành tình yêu làng xóm, yêu quê hương, đất nước. Đó là đôi mắt đầy âu lo thấu suốt một đời của những người mẹ tảo tần: VD 186:
Miệng ru mắt nhỏ hai hàng Nuôi con càng lớn mẹ càng thêm lo. (Ca dao)
Đến lượt mình, những người con luôn ghi nhớ, tâm niệm:
VD 187:
Lên chùa thấy Phật muốn tu Về nhà thấy mẹ, công phu chưa đền. (Ca dao)
Ánh mắt dõi về quê mẹ của những người con gái lấy chồng xa quê đã trở
Thấy ở đây vừa là hành động tiếp nhận của mắt, vừa là sự thấu hiểu, trải nghiệm của chủ thể. Như thế, ý nghĩa thẩm mỹ này đã được tạo ra qua phương thức ẩn dụ, lấy hành động cụ thể để biểu thị cho một trạng thái tinh thần. thành nỗi ám ảnh trong ca dao: VD 188: - Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều - Chiều chiều ra ngõ ngó xuôi Ngó không thấy mẹ, ngùi ngùi nhớ thương. - Chiều chiều xách giỏ hái rau Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần. (Ca dao)
125
Thương cha, thương mẹ nhiều khi không còn nén được trong một ánh mắt, ca
Ba câu ca dao trên đều có một kiểu kết cấu giống nhau. Chiều chiều, thời gian lặp đi lặp lại, là thời gian tâm tưởng. Chữ ngó là cái nhìn xa xôi, đăm đắm hướng về quê mẹ, trong ánh mắt ấy chứa đựng biết bao nỗi nhớ, nỗi thương. Ánh mắt đã nói lên trăn trở cội nguồn, mang theo cả một phương trời đau đáu trông mong. dao cũng thường dùng nước mắt để biểu lộ thế giới nội tâm: VD 189: - Cha già tuổi đã dư trăm Chạnh lòng nhớ tới, đằm đằm luỵ sa.
- Thương mẹ nhớ cha như kim đâm vào dạ
Nghĩ đến chừng nào luỵ hạ tuôn rơi. (Ca dao)
Bằng đôi mắt, người bình dân quan sát được những vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, bộc lộ niềm say mê tự hào về đất nước, quê hương. Khác với thơ ca bác học, lòng yêu đất nước của nhân dân Việt Nam hòa với lòng yêu đồng ruộng, cảnh chợ, con đò, với những sinh hoạt văn hóa dân gian đậm đà bản sắc dân tộc; trong tình yêu ấy, nhân dân nói lên những cái đặc biệt, những cái phong phú của từng miền, những cái lớn lao của sông núi, của thác, của rừng… VD 190: Mồng sáu đi chợ Chìa chơi Rạng ngày mồng tám xem bơi cửa Hàn. (Ca dao) Đôi mắt đã thấu suốt những phong cảnh giang sơn hùng vĩ của Tổ quốc quê
hương. Đó là Lạng Sơn với những phong cảnh nổi tiếng: VD 191:
Đường lên xứ Lạng bao xa? Cách một trái núi với ba quãng đồng Ai ơi, đứng lại mà trông: Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ.
(Ca dao) Cái khoảnh khắc để đưa ra lời nhắn nhủ Ai ơi, đứng lại mà trông cũng là phút giây dạt dào của niềm xúc động tự hào, trông nhìn, cảm nhận để thấy xứ Lạng xinh đẹp có bao thắng cảnh: chùa Nhị Thanh, Tam Thanh nổi tiếng, có đá Vọng Phu …
Thăng Long - Hà Nội, thủ đô nghìn năm văn hiến nơi hội tụ hồn thiêng đất nước cũng đã đi vào ca dao như một niềm tự hào của con người đất Việt. Hồ Hoàn kiếm là một đầm nước trong xanh, nằm giữa thủ đô và được coi là một thắng cảnh. Giữa hồ có đền Ngọc Sơn (tức núi Ngọc), có cầu Thê Húc (cầu mà ánh mặt trời ban mai đậu lại). Lối vào cầu có Đài Nghiên, Tháp Bút, do nhà thơ Nguyễn Siêu xây dựng vào giữa thế kỷ XIX… Về hồ Hoàn Kiếm, ca dao có câu:
126 VD 192:
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ, Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn. Hỏi ai gây dựng nên non nước này (Ca dao) Từ xem xuất hiện trong kho tàng ca dao 85 lần, xuất hiện nhiều hơn trong những câu ca viết về phong cảnh đất nước. Xem ở đây là cái nhìn chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn những cảnh sắc phong phú còn in dấu tích của những huyền thoại của Hà Nội - Thăng Long. Đất nước Việt Nam tươi đẹp ở núi rừng sông bể và cả ở những cánh đồng phì nhiêu thẳng cánh cò bay. Một cô gái thôn quê đã nhìn thấy và cảm thấy cái đẹp của sự giàu có trù phú: VD 193: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát, Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
THTM “mắt” nhiều khi cũng thể hiện nỗi lòng của người dân mất nước, là
Từ ngó (động từ) có nghĩa là nhìn; là để mắt đến, để ý đến; thò đầu hoặc vươn cổ ra để nhìn, để quan sát [113, tr.878]. Ở đây có thể hiểu ngó trên cả ba nghĩa như vậy. Lặp lại hai lần động từ “ngó” thể hiện hành động lặp đi lặp lại, thể hiện cả sự tập trung chú ý. Và ngó đâu cũng thấy bát ngát mênh mông rồi mênh mông bát ngát, cách dùng đảo ngữ không chỉ nhấn mạnh mà còn mở rộng không gian đến vô cùng. Ngó nhìn cánh đồng, phong cảnh quê hương mà yêu thương dâng lên dào dạt. nước mắt tủi thương cho phận nước: VD 194: Nghĩ đời mà tủi cho đời Nín đi cũng tức, nói thời luỵ sa Từ Tây bảo hộ nước ta Mấy thầy tú, cử nằm nhà chồm hôm Chữ lễ, chữ nghĩa thì hắt xuống sông Chưa a chữ â lại bồng trên tay Trắng đen lẫn lộn thiệt hay Tiếc công mẹ cấy cha cày nuôi con Dốc lòng vẽ đặng mày son Trước hiển vinh cha mẹ, sau thân con được chút tình Ngày nay quan lại sử kinh Kẻ la tinh, người quốc ngữ, bỏ chữ mình thất cơ Ngồi buồn họa phú ngâm thơ Ngâm thơ hoạ phú bơ vơ một mình. (Ca dao)
127 Đôi mắt đã trở thành phương tiện bày tỏ thái độ đau xót trước vận nước, bị
b) THTM “mắt” là biểu tượng cho tình yêu gia đình, yêu quê hương, đất
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!
Pháp xâm lăng và sự đổi thay của số phận, đạo đức, văn hóa dân tộc. Trong khi thể hiện ý nghĩa thẩm mỹ về tình cảm với gia đình, quê hương, đất nước trong ca dao, THTM “mắt” ít xuất hiện trong các BTTV mà xuất hiện chủ yếu dưới dạng các BTKH thuộc tiểu trường các động từ chỉ hoạt động của mắt. Người bình dân xưa với con mắt nhìn đời đã khám phá hiện thực về đất nước, quê hương vào trong ca dao, từ đó bộc lộ tâm tình, cảm thức thẩm mỹ sâu kín... nước và nhân dân trong thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 * Tính cảm với Tổ quốc, Đất nước và Nhân dân Với tư tưởng xuyên suốt: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy [90, tr.30], thơ ca giai đoạn này hướng đến Đất Nước, Tổ quốc và Nhân dân như một nhiệm vụ trọng tâm của những người cầm bút. THTM “mắt” cũng góp phần thể hiện điều đó. Trước hết là cảm hứng về Tổ quốc. Nói Tổ quốc là nói đến tình yêu nước, một thứ tình cảm vừa thiêng liêng vừa bền vững trong suốt trường kỳ lịch sử mấy nghìn năm, kể từ khi hình thành đất nước. Là tình cảm bền vững nhưng tình yêu nước cũng có sự phát triển theo lịch sử, vì thử thách đặt ra cho dân tộc là có khác nhau qua thời gian. Nếu tình yêu nước truyền thống đã giúp cho dân tộc lấy lại đất nước sau và trong hai nghìn năm; sang thời đại mới, kẻ thù mới buộc dân tộc phải tìm đến một chủ nghĩa yêu nước mới: dân chủ và cách mạng. Từ 1945 - 1975, ba mươi năm, hai cuộc chiến tranh tiếp nối, với những thử thách có thể xem là lớn nhất lịch sử để đến với mục tiêu độc lập, thống nhất và tự do trọn vẹn... THTM “mắt”, một TH nghệ thuật trong thơ ca 1945 - 1975 cũng không nằm ngoài quỹ đạo ấy. Các tác giả đã vẽ nên chân dung tinh thần của Tổ quốc Việt Nam, diện mạo tư tưởng của con người Việt Nam trong thời điểm ấy. Tổ quốc đối với hầu hết các nhà thơ thời kì này có thể là “mọi người”, “trăm nơi”, “vạn nhà”, là “xóm làng”, là quê hương, là non nước, là đất nước, là Tổ quốc ... và phải chính xác và cụ thể hơn bằng chính tên gọi “Việt Nam”, tên gọi Tổ quốc đã ngân lên trong một cảm xúc thiêng liêng, thành kính, và tự hào. Tố Hữu đã bao quát nhìn Tổ quốc, xem Tổ quốc là gì, ở đâu: VD 195: BTKH “trông” được lặp lại tới 05 lần trong hai dòng thơ với hai kiểu kết hợp: trông + yếu tố thời gian nghìn xưa/mai sau; trông + yếu tố chỉ không gian Bắc/Nam/địa cầu. Trông: nhìn để biết; để ý nhìn để coi sóc, giữ gìn; mong... Đặt ý nghĩa đó vào trong câu thơ, THTM “trông” đã góp phần thể hiện nhu cầu của lý trí: xác định vị trí của đất nước trong lịch sử, trong hiện tại và tương lai, và trong mối quan hệ với
128 anh em bè bạn quốc tế... từ đó thể hiện cảm xúc tự hào, nhận ra vị thế của đất nước, những suy tư, trăn trở về ý thức trách nhiệm của con người với đất nước...
Đôi mắt mỗi người như thu vào tâm hồn mình hình ảnh của Tổ quốc bao la:
VD 196:
... Tôi lại nhìn, như đôi mắt trẻ thơ Tổ quốc tôi, chưa đẹp thế bao giờ! Xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển Xanh trời, xanh của những giấc mơ...
(Vui thế hôm nay..., Tố Hữu)
Đất nước đẹp như tranh và đẹp nhất ở mỗi người là đôi mắt trong lành vui ấm lạ:
... Này các chị các anh, đi trên đường, có thấy Nước non mình, đâu cũng đẹp như tranh Gương mặt người, ai cũng sáng, long lanh Những đôi mắt trong lành vui ấm lạ! (Trên đường thiên lý, Tố Hữu)
Sử dụng BTTV đôi mắt và 02 BTKH nhìn và trẻ thơ đặt trong thủ pháp so sánh “Tôi lại nhìn, như đôi mắt trẻ thơ” tác giả đã thể hiện niềm hân hoan trong ngày đại thắng của dân tộc. “Nhìn”: đưa mắt vào đâu để thấy, để mắt tới; quan tâm chú ý, xem xét, xét đoán để thấy và biết được.... Nhìn như đôi mắt trẻ thơ nghĩa là nhìn bằng đôi mắt trong sáng đầy háo hức ngỡ ngàng trước những điều mới mẻ. Trong ngày đại thắng của dân tộc, con người nhìn vào không gian nào cũng thấy mới mẻ, tươi đẹp. Từ đôi mắt, con người quan sát, thu cả đất nước vào trong tâm hồn mình, để rồi từ đó phải thốt lên: Tổ quốc tôi, Chưa đẹp thế bao giờ! Ở đây, THTM “mắt” xuất hiện qua hai biến thể: BTKH “nhìn” và BTTV “đôi mắt”. Cả hai biến thể vừa được dùng với nghĩa đen vừa được dùng theo nghĩa hàm ẩn dựa trên cơ chế ẩn dụ. “Nhìn” vừa là đưa mắt hướng vào đâu để thấy vừa là sự cảm nhận bằng tâm tưởng về vẻ đẹp giàu đầy sức sống đất nước. BTTV đôi mắt vừa hiểu theo nghĩa là bộ phận cơ thể người vừa có ý nghĩa là cách nhìn cách cảm nhận về thế giới bên ngoài, về đất nước. Con người đã hiểu rõ hơn, sâu hơn về Tổ quốc: “...Ôi Tổ quốc! Giang sơn hùng vĩ - Đất anh hùng của thế kỷ hai mươi”. VD 197: Trong thơ ca Việt Nam 1945 - 1975: tràn ngập hình ảnh được nâng lên thành biểu tượng; dáng đứng Bến Tre, dáng đứng Việt Nam, lửa đèn, ngọn đèn đứng gác, con đường ra trận… Mắt cũng trở thành biểu tượng cho quê hương, đất nước trong những năm tháng đau thương mà hào hùng ấy…. Tình yêu nước được thể hiện qua sự xuất hiện các địa danh, ẩn chứa bên trong biết bao yêu thương và gắn bó giữa đất và người. Ở nội dung này, THTM mắt trong thơ ca 1945 - 1975 thể hiện qua mô hình độc đáo không xuất hiện trong ca dao: mô hình A (mắt) + B (yếu tố chỉ vị trí, địa danh…)
129
Như chương hai đã trình bày, trong trường hợp này, những yếu tố phụ nghĩa cho mắt vốn là những yếu tố chỉ vị trí như Sơn Tây, Sài Sơn, biển Đông … nhưng khi đi vào tổ hợp, nghĩa chỉ vị trí đã bị mờ đi; nghĩa chính của tổ hợp này là nghĩa sắc thái: ấn tượng cảm xúc về một miền quê, kiểu mắt - kiểu tâm hồn. Số lượng cụ thể minh chứng cho kiểu mô hình này cũng không nhiều: 03 BTKH mắt người Sơn Tây (xuất hiện 02 lần), đôi mắt Sài Sơn (xuất hiện 01 lần), con mắt biển Đông (xuất hiện 01 lần) và dường như chỉ xuất hiện duy nhất trong một tác phẩm cụ thể của một tác giả cụ thể. Nó hiện ra như một ám ảnh, ấn tượng sâu sắc với tác giả. Trước hết là đôi mắt Sài Sơn: VD 198:
Ôi những xe bò ắp bánh chưng Quân ta năm mới buổi lên đường! Dân đến liên hoan chiều lửa trại Đôi mắt Sài Sơn sao vấn vương?
(Nhớ một bóng núi - Quang Dũng)
Sài Sơn là một xã thuộc huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Nơi đây có địa danh Chùa Thầy nổi tiếng. Sài Sơn cũng là quê hương cách mạng từ những ngày đầu năm 1930. Quê hương Sài Sơn là một trong những vùng quê thanh bình, yên ả của xứ Đoài gắn bó với Quang Dũng. Đôi mắt Sài Sơn: lấy địa danh Sài Sơn mà định danh cho đôi mắt đã thu hẹp ý nghĩa biểu vật nhưng lại tăng tính cụ thể, biểu cảm, thẩm mỹ. Không còn là đôi mắt chung chung mà trở thành biểu tượng cho một miền quê: đôi mắt người Sài Sơn, ánh mắt người Sài Sơn, tâm hồn, tình yêu của người Sài Sơn vấn vương, đau đáu trong nỗi nhớ của người chiến sĩ Quang Dũng.
Ở bài Mắt người Sơn Tây, tác giả sáng tác năm 1949 trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp đi vào hồi quyết liệt, khói lửa chiến tranh mịt mù. Ở đây, THTM mắt xuất hiện như một THTM phức kết nối các hình ảnh chi tiết, xúc cảm trong bài thơ để tạo ra một vùng cảm xúc mới. Ngoài tiêu đề nhấn mạnh đến Mắt người Sơn Tây, trong bài thơ tác giả còn nhắc đi nhắc lại hai lần hình tượng đôi mắt. Quang Dũng đã hư cấu hoàn cảnh hai người đồng hương Sơn Tây, giữa “ta” và “em” chạy giặc vô tình gặp nhau. Ông đã nhìn vẻ đẹp của người con gái ấy hòa lẫn với vẻ đẹp quê hương yêu dấu: “Vầng trán em mang trời quê hương/ Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương”. Đôi mắt ẩn giấu nỗi buồn của em đã trở thành nét riêng biệt không thể trộn lẫn của người Sơn Tây khắc khoải, tha thiết tâm tư người lính. THTM đã trở thành tín hiệu của tình yêu và nỗi nhớ quê hương. Không chỉ buồn dìu dịu mà đôi mắt người Sơn Tây còn u uẩn (tt) sâu kín, ẩn giấu nỗi buồn, tâm tư trong lòng, không bộc lộ ra chất chứa bao nỗi niềm của con người thời loạn lạc:
130
VD 199:
Đôi mắt người Sơn Tây U uẩn chiều lưu lạc Buồn viễn xứ khôn khuây
Và đây là con mắt biển Đông - con mắt quê hương:
VD 200:
Đảo nhỏ, Long Châu Đêm thẳm sâu - đảo càng nhỏ bé ... Đêm nay vừa tắt chớp bom Mùi đá cháy, mùi thép nung, mùi thuốc nổ Còn sặc sụa trong từng hơi đảo thở Tôi ngước trông: Con mắt biển Đông vẫn điềm nhiên rạng mở Và tiếng hát từ lòng đảo nhỏ Mượt mà như mái tóc chải khoan thai
(Tiếng hát đảo đèn - Nguyễn Duy)
Kẻ thù “Toan chọc mù con mắt biển khơi” phá hủy hòn đảo nhỏ bằng bom đạn. Thế nhưng sau trận bom, hòn đảo nhỏ như “Con mắt biển Đông vẫn điềm nhiên rạng mở”. So sánh hòn đảo nhỏ như con mắt biển đông là cách nói so sánh nhân hóa đưa vật thể thiên nhiên lên vị trí của con người. Hòn đảo nhỏ vẫn hiên ngang đứng vững trong bom đạn chứng minh sự trường tồn của đất nước như một quy luật tất yếu. Qua THTM này, tác giả còn thể hiện tình cảm tha thiết, tự hào đối với sức sống bất diệt, anh dũng của quê hương.
Trường hợp đôi mắt người quan họ không được định danh trực tiếp song cứ lặp lại trong nhiều tác phẩm của Hoàng Cầm như một ấn tượng miền quê không thể trộn lẫn, chẳng hạn: VD 201:
Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc Con không cười Con thoảng nhớ thoảng quên Hình nhân má điệp tóc mực tàu Mắt nghiêng dựa liếp Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu (Đêm Kim - Hoàng Cầm)
Đó là đôi mắt “lúng liếng” thật tình tứ, đôi mắt rất quan họ xuất hiện cùng bóng dáng người mẹ, người chị, người em mà ở họ đều có chung một cảm nhận: “Một cô gái Kinh Bắc có nhan sắc óng ả, kiều diễm, có dáng đi đài các, uyển chuyển, thanh tao... xuyên suốt nhiều tác phẩm của Hoàng Cầm, chẳng hạn:
131
VD 202:
Mắt nhìn trong mắt Nón nghiêng tăm tắp Ngày mai ai chắc được gần ai ? ... Bấy nhiêu con mắt Cùng hát một câu Nghe giọng biết người chung thuỷ. ... Mà đôi mắt còn trong Mà tay còn rứt mạnh sợi cỏ
(Quan họ mở đầu - Hoàng Cầm)
Kể cả đôi mắt của một sư nữ cũng trở nên xuân sắc đầy chất quan họ đến
Mắt sư nữ chùa Thầy thoắt mang màu xanh xứ Lạng ... Núi xuân nghiêng đầu Sông xuân vừa chợp mắt
(Đi xa - Hoàng Cầm)
không ngờ: VD 203: Như vậy, THTM “mắt” đã góp phần dựng lên chân dung một đất nước, Tổ quốc Việt Nam vừa chung vừa riêng, vừa giàu đẹp bao la trong cảm nhận một thời con người phát hiện ra đất nước vừa cụ thể sâu sắc gắn bó trong cảm nhận riêng của mỗi người với mảnh đất quê hương.
Đã có một Tổ quốc Việt Nam, thì sẽ có những con người Việt Nam - những con người làm ra lịch sử, quyết định vấn đề Việt Nam. Đó là những con người bình thường giản dị nhưng lại là những con người anh hùng mang tầm vóc phi thường, với đặc điểm chung của con người thời đại: tinh thần yêu nước và lẽ sống cách mạng: Sống cũng vì cách mạng anh em ta - Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà!”. THTM “mắt” cũng góp phần tạc vào văn học chân dung những con người Việt Nam như thế. Trước hết là hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh - con người Việt Nam đẹp nhất. Có cả một mạch thơ ca viết về Bác và nhiều bài trong số đó đạt đến giá trị vĩnh cửu. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ đề cập tới các tác phẩm của các tác giả trong phạm vi nghiên cứu.
Trong suốt trường kì kháng chiến, Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già kính yêu của cả dân tộc đã trở thành niềm tin, chỗ dựa cho nhân dân cả nước. Bác trở thành một nguồn thơ lớn, bởi Bác là biểu trưng thiêng liêng cho lòng yêu nước và ý chí chống ngoại xâm, của sự tỏa sáng những phẩm chất cao đẹp: Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta. Ta bỗng lớn ở bên Người một chút” (Sáng tháng Năm, Tố Hữu). Bên cạnh những chi tiết, hình ảnh đặc tả chân dung Hồ Chí Minh: chiếc áo nâu, đôi dép cao su, vầng trán… thì đôi mắt hiện ra như một ấn tượng kích hoạt đặc biệt hội tụ vẻ đẹp tâm hồn trí tuệ, tình yêu và ý chí của Người. Trong
132 415 bài thơ được nghiên cứu, có 55 lần xuất hiện THTM nói về đôi mắt Hồ Chí Minh. Tác giả có tần số xuất hiện THTM về đôi mắt Bác nhiều nhất là Tố Hữu với 45 lần, trong đó 07 lần xuất hiện tín hiệu hằng thể mắt, 04 lần xuất hiện BTTV đôi mắt và 34 lần xuất hiện ở các BTKH. Ở các tác giả khác như: Vũ Cao có 05 lần, Nông Quốc Chấn 04 lần, Hoàng Cầm 01 lần. Điều đáng lưu ý là cả 08 tác giả đều có thơ về Bác, tuy nhiên, chỉ những THTM “mắt” trực tiếp tái hiện hình ảnh đôi mắt Bác Hồ mới được xem xét. Như vậy, bốn tác giả có THTM mắt và không xuất hiện lần nào BTTV con mắt, các BTKH gồm các động từ, tính từ miêu tả đặc điểm riêng có của đôi mắt Hồ Chí Minh: (mắt) cười, (đôi mắt) mẹ hiền, linh lợi, ngời/ sáng ngời, tươi, thức, trông, dõi…Mỗi một THTM lại mang đến một đặc điểm mới cho đôi mắt Bác, khơi mở một vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh.
Đầu tiên là BTTV đôi mắt gợi ra một ấn tượng khái quát về ngoại hình và nội
Có nhiều ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh! Nhìn đôi mắt, bộ râu, ta nhớ nhớ Giống Cụ Già trước đến bản ta! (Bộ đội ông Cụ, Nông Quốc Chấn)
tâm để nhân dân cả nước nhận ra Người - Hồ Chí Minh: VD 204: Từng đặc điểm của đôi mắt - tâm hồn Bác được các nhà thơ tái hiện trong mỗi lần xuất hiện của THTM “mắt”. Đôi mắt của Bác xuất hiện trong thơ Tố Hữu như một ấn tượng đặc biệt chứa đựng tư tưởng, tâm hồn Người. Trong bài thơ “Sáng tháng Năm”, Tố Hữu viết:
… Và mỗi trận, mỗi mùa vui thắng lợi Đôi mắt Bác hiện lên cười phấn khởi
Và:
Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười Quên tuổi già, tươi mãi tuổi đôi mươi...
Trong cái sáng tháng Năm có thật ấy, như Tố Hữu nói, ông “lần đầu” cảm nhận được cốt cách của “Ông Cụ”: gần gũi, dung dị, ấm áp. Hai lần THTM “mắt” xuất hiện trong đoạn thơ đều chung một ấn tượng:“đôi mắt Bác Hồ cười”, “cười phấn khởi”. Cười vốn là hành động thuộc tính của miệng, ở đây lại dùng cho “mắt” để tỏ rõ sự vui vẻ, phấn khởi khi tiếp nhận tin chiến thắng “Và mỗi trận, mỗi mùa vui thắng lợi”... Ở đây cũng là một đặc điểm riêng có của Bác, đôi mắt nheo cười với tia nhìn ấm áp. Đôi mắt hay cũng chính là đặc điểm tâm hồn Hồ Chí Minh: hồn hậu, gần gũi giàu yêu thương. Khi viết về Bác, THTM “mắt cười” xuất hiện trong thơ Tố Hữu 2/5 (03 lần khác: 01 lần nói về Lê Nin, 01 lần nói về đôi mắt người Hà Nội, 01 lần nói về đôi mắt Huế). Hoàng Cầm có nhắc đến chi tiết mắt cười 01 lần, Nguyễn Duy nhắc đến 01 lần nhưng không phải viết về Bác.
133
... Người đứng trên đài, lặng phút giây Trông đàn con đó, vẫy hai tay Cao cao vầng trán... ngời đôi mắt Độc lập bây giờ mới thấy đây!
Trên đường dài, hai cánh đỡ ta đi... Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh
Đôi mắt sáng ngời xuất hiện 02 lần trong thơ Tố Hữu và không xuất hiện ở các tác giả khác trong các bài thơ được nghiên cứu. Ở “Việt Bắc”, đoạn viết về Bác ngắn nhưng vô cùng đẹp: Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời - Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường - Nhớ Người những sớm tinh sương - Ung dung yên ngựa trên đường suối reo - Nhớ chân Người bước lên đèo - Người đi, rừng núi trông theo bóng Người”. Ấn tượng đậm nét ở đây là đôi “mắt sáng ngời” không chỉ là đặc điểm hình thức bên ngoài với ánh mắt sáng long lanh mà còn thể hiện tầm trí tuệ, tầm tư tưởng lớn Hồ Chí Minh: tư tưởng sáng suốt, tầm nhìn thấu 6 cõi, tâm hồn trong sáng, thanh cao. VD 205: (Theo chân Bác, Tố Hữu) Ở trường hợp này, THTM đôi mắt sáng ngời đã được dùng đảo ngữ, yếu tố ngời được đảo lên trước đôi mắt và được rút gọn thành phần, còn lại là: ngời đôi mắt. Nói như thế là để nhấn mạnh yếu tố ngời, tô đậm ấn tượng về đôi mắt sáng trong của Người. Đôi mắt mẹ hiền/hiền xuất hiện 01 lần trong thơ Tố Hữu, 01 lần trong thơ Vũ Cao và cũng không xuất hiện ở các tác giả khác trong phạm vi các tác phẩm được nghiên cứu. VD 206: (Sáng tháng Năm, Tố Hữu)
Ôi người cha đôi mắt mẹ hiền sao! ... Tôi như đứa trẻ thơ chỉ biết nhìn ngắm mãi Vầng trán cao đôi mắt hiền linh lợi.
(Mấy lời con gửi Bác, Vũ Cao)
Đôi mắt mẹ hiền là sự kết hợp hai yếu tố thuộc hai phạm trù: đôi mắt và mẹ hiền tạo ra cụm danh từ, trong đó mẹ hiền trở thành định ngữ cho danh từ trung tâm đôi mắt. Cách nói so sánh ngầm đôi mắt Bác như đôi mắt mẹ hiền tưởng không có cách nói nào giản dị và trân trọng hơn. Nếu trái tim người mẹ là kỳ quan của thế giới thì đôi mắt người mẹ/đôi mắt mẹ hiền là cửa sổ để nhìn thấu và cảm nhận được trái tim/tình yêu/tâm hồn của người mẹ. Đôi mắt/tâm hồn/trái tim Hồ Chí Minh cũng là đôi mắt/ trái tim người mẹ hiền với tình yêu thương bao la. Như vậy, nếu đôi mắt sáng ngời biểu trưng cho trí tuệ, tư tưởng sáng suốt, tâm hồn trong sáng, thanh cao thì đôi mắt mẹ hiền là biểu trưng cho tâm hồn dịu dàng, trái tim nhân hậu, tình yêu bao la của Bác Hồ kính yêu.
134
Có trường hợp, trạng thái của mắt cũng thể hiện cảnh ngộ, bản lĩnh thép, chất tình bát ngát của trái tim nhân ái bao la: đó là THTM mắt mờ chỉ xuất hiện 01 lần trong thơ Tố Hữu và để nói về Bác: VD 207: ... Lại thương nỗi: đoạ đày thân Bác Mười bốn trăng tê tái gông cùm Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc Mà thơ bay... cánh hạc ung dung!
(Theo chân Bác, Tố Hữu)
Đoạn thơ nhắc đến thời kì Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Mười bốn trăng tê tái gông cùm là mười bốn trăng Bác bị đầy ải trong thân phận nột tù nhân, nhưng Bác vẫn sống như một chiến sĩ kiên trung, hơn nữa là một thi sĩ. Ở đây mắt mờ vừa là trạng thái thể chất với những gian khổ thử thách mà người đã trải qua, đặt trong văn cảnh bài thơ, vừa thể hiện cho bản lĩnh thép, ý chí kiên cường vượt lên gian khổ của Người.
Hoạt động của mắt không chỉ thể hiện một hoạt động thể chất mà còn bộc lộ sự
quan tâm, tình yêu thương mà Người dành cho nhân dân: VD 208:
Muôn nỗi đời như ảnh trắng đen Bâng khuâng đêm lạnh, thức bên đèn Một hòn gạch nóng nung tâm huyết Mẩu bánh mì con nuôi chí bền. ..Nhớ sao giữa chiến trường lửa đạn Người đứng trông ta đánh diệt đồn ...Người đứng trên đài, lặng phút giây Trông đàn con đó, vẫy hai tay Cao cao vầng trán... Ngời đôi mắt Độc lập bây giờ mới thấy đây! (Theo chân Bác, Tố Hữu)
THTM “mắt” ở dạng BTKH nhiều khi được sử dụng để thể hiện tình cảm, niềm
tin, sự kính yêu của nhân dân dành cho Bác: VD 209:
Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
(Việt Bắc, Tố Hữu)
Nhìn, trông vừa là hành động cụ thể vừa hàm ẩn niềm yêu tin, trông cậy, hi
vọng mà nhân dân cả nước đặt nơi Bác. Cụ Hồ đã trở thành chỗ dựa cho cả dân tộc.
135 VD 210:
Tôi soi mình trong mỗi vật đơn sơ. Ngắm ảnh Bác trên liếp gỗ giữa nhà Tôi thấy Bác gần hơn bao giờ hết
(Về thăm nhà Bác, Nguyễn Duy)
Các BTKH soi, ngắm, thấy ở đây vừa là hoạt động của mắt vừa là cảm nhận, trải nghiệm cảm xúc của nhà thơ khi đến thăm ngôi nhà Bác ở, thấy Bác gần hơn trong tâm hồn và trái tim.
BTKH thuộc tiểu trường nước mắt xuất hiện 42 lần trong tổng số 415 bài thơ được nghiên cứu, và xuất hiện 04 lần để nói về Bác trong hai trạng huống: nước mắt của Bác và nước mắt của niềm kính yêu, tiếc thương vô hạn của dân tộc trước sự ra đi của Bác. Đi kèm các từ thuộc trường nước mắt có thể kể thêm BTKH chỉ hoạt động khóc... cũng góp phần thể hiện ý nghĩa đó.
Từng có bao lần Bác thao thức vì nhớ nước thương nhà, bao đêm không ngủ vì thương đồng bào, thương đoàn dân công... Nước mắt Người đã từng nhòa mắt kính vì đồng bào miền Nam. Và đây là một trường hợp cụ thể: VD 211:
Nước mắt/lệ hay là tình thương yêu mà Bác dành cho đồng bào, đồng chí như tấm lòng của một người cha, một mẹ hiền, như chính Tố Hữu từng thốt lên: “Bác để tình thương cho chúng con”, hoặc “Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta - Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa ...”. Bởi vậy, sự ra đi của Bác sẽ là nỗi mất mát lớn lao cho cả dân tộc: VD 212:
... "Lê Lương đã chết"... hai hàng lệ Ướt má Cha già, thấm áo xanh (Khóc anh Lê Lương, Hoàng Cầm)
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa...
(Bác ơi, Tố Hữu)
BTKH “nước mắt” ở đây là nước mắt của nỗi đau thương, mất mát của nhà thơ cũng như của cả dân tộc trước sự ra đi của Bác. Kết hợp động từ tuôn: chảy ra thành luồng, thành dòng nhiều và lên tục biến thể nước mắt diễn tả mức độ nỗi đau thương quá lớn đối với mỗi người Việt Nam. Tố Hữu khóc Bác cũng là khóc cho mình, cùng mọi người, giúp mọi người, bằng thơ. VD 213:
Thôi đập rồi chăng? một trái tim Đỏ như sao Hoả, sáng sao Kim! Muốn oà nức nở bên em nhỏ Nước mắt ta đành nuốt, lặng im. (Theo chân Bác, Tố Hữu)
136 Hoặc:
Hang Cốc Bó giọt giọt nước hang rơi Hay mắt chúng con tràn lệ? ... Hôm nay các con về với Bác Bác đã nhắm mắt rồi!
(Bác Hồ sống mãi với chúng con, Nông Quốc Chấn)
Hình tượng Hồ Chí Minh đã trở thành một hình tượng xuyên suốt trong nhiều tác phẩm của các tác giả mà THTM “mắt” đã góp phần khắc họa nên bức chân dung tinh thần, tư tưởng, nhân cách của bậc đại nhân, đại trí, đại dũng ấy. Từ đôi mắt Bác, THTM đã bộc lộ những ý nghĩa thẩm mỹ cao đẹp, làm toát lên vẻ đẹp trí tuệ, vẻ đẹp tâm hồn với tình yêu thương bao la, nhân hậu, vẻ đẹp một con người phi thường ngay trong những gì giản dị nhất: một ánh mắt hiền từ sáng trong, một tia nhìn ấm áp... Từ đôi mắt của Người cho ta thấy Bác không chỉ là một nhân vật lịch sử, Bác là một người đã sống một cuộc sống sôi nổi nhất, đẹp nhất, Bác đã khơi dậy sự sống ở mọi người, Bác tiếp tục sống trong ta và muôn đời sau.
Như vậy, trong khi thể hiện hình tượng Hồ Chí Minh, THTM “mắt” xuất hiện với những BTKH độc đáo ít khi lặp lại trong thơ ca. Đây cũng là một hình tượng gắn liền với THTM “mắt” xuất hiện xuyên suốt nhiều tác phẩm, ở nhiều tác giả. Hiện tượng này không gặp trong ca dao.
Hình ảnh người lính là một trong những chân dung đẹp nhất của con người Việt Nam kháng chiến. Họ đều mang trong mình phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ, lí tưởng, cách mạng cao đẹp, anh dũng, gan dạ, lòng yêu nước sâu sắc, căm thù giặc mãnh liệt, tinh thần chiến đấu dũng cảm, bất khuất. THTM “mắt” đã góp phần khắc họa vẻ đẹp ấy.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đó còn là hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn xuất hiện cùng với
Họ xuất thân từ nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, có người là nông dân mặc áo lính, có người là trí thức, công nhân.... Họ tập hợp dưới cờ Tổ quốc vì tình yêu đất nước với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. VD 214: (Tây Tiến - Quang Dũng) Mắt trừng được biểu hiện qua mô hình “mắt” + động từ để chỉ một đặc điểm của mắt cũng là đặc điểm của nội tâm con người. “Trừng”: mở to mắt và nhìn xoáy vào [113, tr.1349], ở đây có thể được hiểu là tập trung cao độ vào một điểm - hướng về nơi biên cương của Tổ quốc cũng là mục đích chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến, là khát vọng lập công của những chàng trai “xếp bút nghiên lên đường đi đánh giặc”. những chiếc xe không kính độc đáo trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
137 Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. VD 215:
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật) Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái
BTKH nhìn (đưa mắt về một hướng nào đó để thấy, để mắt tới, quan tâm, chú ý tới [113, tr.926] được lặp lại 05 lần, thấy (nhận biết được bằng mắt nhìn, nhận biết bằng giác quan nói chung, cảm thấy [113, tr.1190]) lặp lại 03 lần, nhìn thấy lặp lại 02 lần. Các BTKH này đã thể hiện hoạt động của mắt cũng là tư thế tác nghiệp của người lính lái xe, quan sát: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” để chuẩn bị cho xe lăn bánh, bắt đầu bước vào trận chiến. Và kết quả của hành động nhìn ấy: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng - Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim - Thấy sao trời và đột ngột cánh chim - Như sa, như ùa vào buồng lái”. Gió thổi được cảm nhận gió vào xoa - thiên nhiên tinh nghịch trong cảm nhận lãng mạn nhưng cũng rất hiện thực bởi hệ quả mắt đắng - cảm giác cay xè vì gió thốc vào mặt, vào mắt khi không có cửa kính chắn gió. Nhìn đường thì thấy con đường chạy thẳng vào tim vừa là cái nhìn hiện thực cũng lại vừa là lãng mạn. Đó là một con đường cụ thể, đường mịt mù khói lửa, từng ngày từng giờ đang phải hứng chịu bom rơi đạn nổ mà quân thù đánh phá ác liệt. Cái nhìn lãng mạn mang tính biểu tượng: con đường ấy được nhìn - cảm nhận: con đường ra tiền tuyến, con đường đến với Tổ quốc chạy thẳng vào trái tim! Đó là sự khẳng định một lẽ sống cao đẹp, tình yêu cháy bỏng với Tổ quốc. Thế nên mới có chuyện: Đường ra trận mùa này đẹp lắm! THTM “mắt” đã góp phần thể hiện chân dung người lính lái xe Trường Sơn vừa hiên ngang bất khuất vừa lãng mạn, bay bổng, lạc quan, tin tưởng vào tương lai đất nước.
Còn đây là những người lính mà chỉ được nhận biết qua dấu chân để lại:
Các anh hành quân xuyên qua giấc ngủ Để lại trên đường dấu chân đẫm sương
VD 216:
Già trẻ hỏi nhau, lòng rưng rưng: - Các anh đi, nửa đêm? hay gà gáy? Chỉ thấy dấu chân như chào ở lại (Bàn chân người lính, Nguyễn Duy)
138
Và đây THTM “mắt” còn góp phần đặc tả tư thế hi sinh bất khuất của
Khi mọi người còn đang nghỉ ngơi - “giấc ngủ”, thì cũng là lúc các anh tiếp tục cuộc chiến đấu “hành quân xuyên qua”. Động từ “thấy” được dùng ở đây như là sự nhận biết, thấu hiểu và hơn nữa là sự trân trọng, thương yêu, cảm động của người ở lại khi nhìn thấy dấu chân các anh, cảm nhận được sự gian khổ thầm lặng của các anh - người chiến sĩ vì nhân dân quên mình. người lính:
... Những đồng chí chèn lưng cứu pháo Nát thân, nhắm mắt, còn ôm... Những bàn tay xẻ núi lăn bom Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Tố Hữu) Nhắm mắt ở đây là cách nói giảm, nói tránh về sự hi sinh. Những câu thơ nhắc đến mất mát thương đau mà không ồn ào, to tát. Người lính ấy đã lấy thân mình chèn lưng kéo pháo, nát thân, mắt nhắm nhưng vẫn trong tư thế làm nhiệm vụ chiến đấu. Những cái chết đã hóa thành bất tử, để Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân (Lê Anh Xuân)!
- Răng mà khóc, con ơi... Gánh cực quằn vai đã trút hết rồi Đất quê kiểng lẽ nào tang thương mãi Đau khổ quá chừng, lòng chai sạn lại
THTM “mắt”cũng góp phần khắc họa hình ảnh những bà mẹ kháng chiến. Đó là những bà Bủ, bà Bầm, là “bà mẹ Việt Bắc”, những người tưởng chừng cả đời chỉ biết gắn bó với cây rau rừng, với củ mài, củ sắn không biết đến đấu tranh, đến chính trị nhưng bằng tình cảm yêu quê hương, đất nước của một người con đất Việt, họ đã ý thức được trách nhiệm với cuộc kháng chiến của dân tộc. Có người không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng đã hiến dâng chồng và con trai mình cho đất nước, đó là một sự hy sinh thầm lặng và cao cả. Đây là một bà mẹ Triệu Phong vững vàng trong gian khó: VD 217: Mười năm nay mẹ không khóc nữa rồi Nay con về, đừng khóc, con ơi... Nhưng Nước mắt Người lại rơi nóng vai tôi
(Bà mẹ Triệu Phong, Nguyễn Duy)
Liên tục trong một đoạn thơ ngắn, BTKH nước mắt và khóc vốn cùng thuộc về một trường nghĩa nói về hoạt động và hệ quả của hoạt động của mắt được sử dụng lặp lại. Khóc: chảy nước mắt do đau đớn, khó chịu hay xúc động mạnh [113, tr.654]. Ở
139 đây khóc được dùng để nói về trạng thái của con người trải qua khó khăn đau thương. Nhưng nó cũng nói lên khả năng chịu đựng vượt lên hoàn cảnh của con người với hai lần phủ định: không khóc, đừng khóc.
Hình ảnh “bà má Hậu Giang”, người má kiên trung nuôi giấu cán bộ, bất chấp hiểm nguy một mình bám trụ với mảnh đất chết, “lom khom đi lượm củi khô” nấu cơm cho Việt minh... đã khắc sâu trong tâm trí của người đọc. Trong kháng chiến, những người chiến sĩ cộng sản đã không thể cầm được nước mắt trước lời nhắn nhủ của má: VD 218: Má già nhắm mắt rưng rưng: Các con ơi! Ở trong rừng U Minh Má có chết một mình má chết Cho các con trừ hết quân Tây! (Bà má Hậu Giang, Tố Hữu)
“Nhắm mắt hành động của mắt, đồng thời cũng thể hiện quyết tâm, liều mình
hy sinh vì đàn con bộ đội.
Hình ảnh những người con gái Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là hình tượng khá trọn vẹn và có tính chất lí tưởng: đó là những cô gái Trường Sơn bám chốt mở đường, cô nữ pháo thủ gan dạ, cô nữ sinh sông Hương hăng hái tham gia chiến đấu, nữ y sĩ lăn lộn giữa rừng để nghiên cứu căn bệnh sốt rét, cô gái đồng chiêm đảm đang cần mẫn… Họ là những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại, họ đi san đường, xẻ núi, lấp hố bom... đếm bom để đảm bảo an toàn cho từng chuyến xe ra mặt trận. Xuất hiện trong thơ nhiều khi là những con nguời cụ thể có tên tuổi rõ ràng. Đây là chị La Thị Tám, cô gái đếm bom trên ngã ba Đồng Lộc đã được phong anh hùng: VD 219: ... Vẫn từng đoàn, từng đoàn xe qua Và bóng em vươn cao, trông xa Điểm mặt quân thù đếm từng tội ác Không một trái bom rơi ra ngoài mắt
Trăm trái bom không rơi ra ngoài mắt Ngàn trái bom không rơi ra ngoài mắt Trong mắt em: con đường thẳng đi xa Vui rộn ràng từng đoàn xe qua - Giữa ngã ba tròng trành sao em đứng vững? - Bởi mắt em chỉ một tầm nhìn thẳng Lòng em chỉ một con đường!
(Ngã ba - con mắt - tấm lòng, Nguyễn Duy)
140
Hằng thể mắt được lặp lại 05 lần trong một đoạn thơ ngắn có tác dụng diễn tả sự tập trung cao độ, tinh thần trách nhiệm, sự kiên định, tư thế bất khuất của cô gái đếm bom. Giữa trận địa bom đạn, cô gái ấy vẫn một tầm nhìn thẳng, quan sát, đếm từng quả bom. Với chị, mỗi một quả bom được đếm là một nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho tuyến đường huyết mạch, cho những đoàn xe nối nhau ra mặt trận, là tính mạng của đồng đội. Mang nhiệm vụ và trọng trách ấy nên “Giữa ngã ba tròng trành” bởi bom dội, bởi sự sống và cái chết cách nhau gang tấc, mà em vẫn đứng vững!
Và còn biết bao người con gái vô danh khác đã cống hiến, hi sinh tuổi thanh xuân của mình cho đất nước “Em đứng bên đường như quê hương - Vai áo bạc quàng súng trường” (Lá đỏ, Nguyễn Đình Thi). Họ đã hóa thân vào đất mẹ Tổ Quốc nên dù “vùi trong cát” hay “nằm yên trong đất” họ vẫn là “những trái tim như ngọc sáng ngời”. Như vậy với tư cách nhà văn - chiến sĩ, sử dụng thơ ca như là vũ khí phục vụ sự nghiệp cách mạng, các tác giả thơ ca 1945-1975 đã viết về đất nước, nhân dân vừa khái quát vừa cụ thể. Bằng THTM “mắt”, các tác giả khám phá sức mạnh và phẩm chất tốt đẹp của quần chúng công nông binh; những con người đại diện cho tinh hoa, khí phách, phẩm chất, ý chí toàn dân tộc, tiêu biểu cho lí tưởng dân tộc thời đại cách mạng. THTM “mắt” cũng góp phần khám phá con người ở khía cạnh trách nhiệm, bổn phận, lẽ sống lớn, tình cảm lớn; thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của kháng chiến theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. c. Điểm giống và khác giữa ca dao và thơ ca trong việc thể hiện tình yêu quê hương đất nước qua THTM “mắt”
Trong cảm hứng về quê hương đất nước, tổ quốc và nhân dân THTM “mắt” trong ca dao và thơ ca 1945 - 1975 đã thể hiện nhiều cung bậc cảm xúc phong phú, góp phần khắc họa bức chân dung con người Việt Nam qua các thời kì lịch sử. Điểm thống nhất chung đó là cảm hứng về đất nước qua THTM “mắt” luôn gắn với những gì thân thương bình dị nhất với đời sống con người, từ đôi mắt mà quan sát khám phá vẻ đẹp của quê hương, đất nước, thể hiện cảm xúc yêu thương, tự hào... Những ý nghĩa thẩm mỹ ấy có khi được cảm nhận trực tiếp qua ý nghĩa tường minh, có khi được bộc lộ gián tiếp qua ý nghĩa hàm ẩn được rút ra dựa trên hai cơ chế ẩn dụ và hoán dụ. Các biến thể của THTM “mắt” xuất hiện nhiều ở các biến thể kết hợp, nhất là sử dụng các từ thuộc tiểu trường chỉ hoạt động của mắt: nhìn, nhìn thấy, xem, trông...
Trong ca dao: từ THTM “mắt” cho thấy những cảm nhận, cách thể hiện của người bình dân về vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước gắn liền với hình ảnh đồng quê với những hình ảnh đã trở thành mô típ quen thuộc: cây đa, bến nước, con đò; lòng yêu đất nước của nhân dân Việt Nam hòa với lòng yêu đồng ruộng, cảnh chợ, con đò, với những sinh hoạt văn hóa dân gian đậm đà bản sắc dân tộc. Trong tình yêu ấy, nhân dân
141 nói lên những cái đặc biệt, những cái phong phú của từng miền, những cái lớn lao của sông núi, của thác, của rừng…
Điểm khác biệt của thơ ca 1945 - 1975: “Trong hành trình từ 1945 - 1975, Tổ quốc ta, dân tộc ta đã vươn lên đến những tầm vóc phi thường” (Tổ quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên [11]. THTM “mắt” đã góp phần thể hiện được hình ảnh đất nước và con người Việt Nam bình thường và cũng rất phi thường ấy. Đó là sự xuất hiện một loạt các hình ảnh nhân dân trong đấu tranh cách mạng, con người Việt Nam trong suốt hai cuộc kháng chiến, hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh là kết tinh những gì đẹp nhất của con người thời đại, hình ảnh người lính, những bà mẹ kháng chiến, những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn…
Chất trữ tình cách mạng, trữ tình công dân được xem là một phẩm chất đặc biệt trong thơ ca 1945 - 1975 đã quy chiếu cách xây dựng hình tượng và sử dụng THTM trong đó có THTM “mắt” đem đến một diện mạo mới cho thơ ca cũng như những sắc thái ý nghĩa thẩm mỹ mới, tăng sức chứa cho THTM “mắt”.
Xuất hiện các THTM “mắt” gắn liền với tên gọi của địa danh cụ thể, kiểu tâm
hồn cụ thể như: mắt người Sơn Tây, đôi mắt Sài Sơn, con mắt biển Đông. Làm nên sự khác biệt đó phải kể đến từ hoàn cảnh lịch sử: + Thời đại ca dao: xã hội phong kiến, cảm hứng về quê hương, đất nước đã được quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề quyền sống con người, quyền sống hạnh phúc lại chiếm ưu thế hơn. Vì vậy số lượng các tác phẩm về quê hương, đất nước khiêm tốn hơn, tần số xuất hiện của THTM “mắt” trong loại ý nghĩa thẩm mỹ này, do vậy, cũng hạn chế hơn.
+ Thời 1945-1975: 30 năm đất nước đi qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt và 10 năm xây dựng XHCN ở miền Bắc, phẩm chất được huy động cao nhất của con người Việt Nam là lòng yêu nước biểu hiện trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Những gì thuộc về cá nhân phải nhường lại cho tư cách công dân; số phận đất nước được đặt lên trên hết, lòng yêu nước được xem như một phẩm chất cần yếu nhất của con người... Tất cả những điều đó đã chi phối tư tưởng thẩm mỹ của văn học giai đoạn này. Tần số xuất hiện của THTM “mắt” biểu trưng cho tình yêu đất nước vì thế chiếm ưu thế nhất trong tổng số lần xuất hiện của nó ở các tác phẩm thuộc phạm vi nghiên cứu. 3.4.3. THTM “mắt” biểu trưng cho trí tuệ của con người
“Qua thực tế đấu tranh gian khổ, khó khăn trên một đất nước có nhiều thiên tai địch họa, nhân dân Việt Nam đã rút được nhiều kinh nghiệm quý báu ở những cuộc chống thiên nhiên, chống xâm lăng, chống áp bức bóc lột trong xã hội và có những nhận xét khá sâu sắc về cuộc đời. Óc nhận xét và phê bình ấy của nhân dân Việt Nam đã biểu hiện bằng lời ca, truyền từ đời nọ sang đời kia và từ địa phương này sang địa phương khác .
142 Nhiều câu đã trở thành châm ngôn cho toàn thể dân tộc” [74]. Điều này có lẽ đúng với cả ca dao và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
3.4.3.1. THTM “mắt” trong ca dao biểu trưng cho trí tuệ của con người Trong ca dao, nhân dân đã biểu hiện nhiều nhận xét như những kinh nghiệm quý báu về cuộc sống, về cách đánh giá con người, có khi thì “Trông mặt mà bắt hành dong”, khi lại“tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Trên khuôn mặt, đôi mắt bộc lộ rõ nhất suy tư, tình cảm, thái độ đối với khách quan bên ngoài, phẩm chất, tính cách con người. Cũng bởi lẽ đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cho nên qua đôi mắt thể hiện cách đánh giá con người, cách nhìn thế giới. Từ đôi mắt mà nhận ra bản chất, quy luật của cuộc sống; sự hiểu biết về tâm hồn, phẩm chất con người, qua đôi mắt mà nhận xét về tính tình, về đạo đức con người.
Màu mắt phân biệt người khôn kẻ dại; tinh thần, tâm hồn con người cũng ánh
lên từ đó: VD 220:
Người khôn con mắt đen sì Người dại con mắt nửa chì nửa thau
“Con mắt đen sì”như hạt nhãn ấy toát lên sự trong trẻo hồn nhiên khi ở một đứa trẻ. Nếu ở một cô gái thì đó là sự duyên dáng, thông minh. Còn với một người lớn tuổi thì là sự khôn ngoan, chín chắn. Còn con mắt “nửa chì nửa thau”: lẫn lộn hai màu đen trắng không rõ ràng, nhờ nhờ, đùng đục nhìn vào đờ đẫn thiếu sự khôn ngoan. VD 221:
Còn đây là con mắt trắng: Con lợn mắt trắng thời nuôi Những người mắt trắng đánh hoài đuổi đi.
(Ca dao)
Nào là “mắt trắng môi thâm”; Rồi thì “đàn bà mắt trắng hai chồng”. Theo quan niệm dân gian người mắt trắng - tròng đen thì nhỏ, lòng trắng lại rộng; thường không đẹp về ngoại hình mà phước phận bạc bẽo, không tốt về phẩm chất, có tâm địa hẹp hòi, hay so đo tính toán, độc ác…
Hoạt động của mắt cũng bộc lộ người khôn, kẻ dại:
VD 222:
Người khôn con mắt dịu hiền Người dại con mắt láo liên nhìn trời!
(Ca dao)
VD 223:
VD 224:
Số lượng con mắt cũng bộc lộ phẩm chất con người: Dữ như tê giác, ác như bà một mắt (Ca dao) Độ sáng của con mắt phân định thông minh hay ngu dốt: Trán cao, mắt sáng phân minh Là người học rộng, công danh tuyệt vời
(Ca dao)
143
Hình dáng của mắt cũng nói lên tính cách, vì thế mắt và các thuộc tính của mắt cũng góp phần thể hiện cách đánh giá nhìn nhận của dân gian về con người và cuộc sống. VD 225:
Những người ti hí mắt lươn, Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người. (Ca dao)
Rồi lại “đàn ông mắt lươn hai vợ”...
Mắt lươn: (dt) Mắt nhỏ ti hí và chỉ có một mí không mở to ra được, theo cách nhìn nhận dân gian, ở những người có đôi mắt ti hí thường gian ngoan xảo quyệt không đáng tin tưởng. Cách đánh giá này một mặt nào đó là cách đánh giá thiên về kinh nghiệm lưu truyền, nhưng một mặt nào đó còn mang nặng tư tưởng mê tín quá chú trọng đến vẻ ngoài để đánh giá bản chất con người.
Độ chính xác của những đúc kết trên là bao nhiêu, thật khó có thể kiểm nghiệm,
bởi trong thực tế đâu phải trường hợp nào cũng đúng như vậy.
Cũng là con mắt lá răm mà nhiều khi theo quan niệm dân gian lại là đôi mắt của
kẻ có nhiều tật xấu, và cái tật xấu nhất là cái thói đa tình trăng hoa: VD 226:
Những người con mắt lá răm Ve trai như chớp hay nằm với trai (Ca dao)
Nhưng phần nhiều những nhận xét của quần chúng nhân dân thì mắt lá răm lại
là nét đẹp của phụ nữ: VD 227:
Những người con mắt lá răm Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền (Ca dao)
Chuyện thức ngủ của đôi mắt nhiều khi được ca dao nhắc tới để ngụ ý hay gửi gắm một điều suy ngẫm về cuộc sống, về lẽ đời. Nhận thức được thời gian đời người ngắn ngủi, vì thế phải biết tranh thủ làm những việc có ích. Những kẻ lười biếng cuộc sống sẽ ngắn lại: VD 228:
Đời người có một gang tay Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang
(Ca dao) Nhận biết được bản chất mỗi con người đâu phải là chuyện dễ dàng, một sớm một chiều. Bởi lẽ bình thường không gặp khó khăn thử thách gì trong cuộc sống thì ai cũng như ai. Nhưng khi gặp khó khăn hoạn nạn mới biết đâu là người tốt đâu là người xấu, đâu thật sự là bạn của ta: VD 229:
Thức lâu mới biết đêm dài Ở lâu mới biết là người có nhân
144
(Ca dao) Từ việc quan sát đôi mắt với các đặc điểm như hình dáng, màu sắc cho đến cả những chuyện thức, ngủ của đôi mắt cũng được nhân dân khái quát lên thành những triết lý sống, cách nhìn nhận sự việc, con người.
Tuy nhiên, cuộc sống xã hội càng nhiều chiều, tâm lý, tính cách con người càng khó nắm bắt. Vì vậy, những kinh nghiệm dân gian có câu, có lúc còn chưa chính xác hoàn toàn, chỉ mang tính tương đối. Nhưng những quan niệm dân gian đó vẫn có giá trị như những bài học, những lời khuyên hữu ích để nhắc nhở, mách bảo cho ta biết “tùy mặt gửi lời/ tùy người gửi của”... 3.4.3.2. THTM “mắt” biểu trưng cho trí tuệ của con người trong thơ ca việt Nam 1945 -1975
THTM “mắt” trong thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 cũng biểu trưng cho trí tuệ của con người, tính triết lí, nhân sinh quan cuộc đời. Từ THTM “mắt”, thơ ca Việt Nam 1945-1975 thể hiện sự nhận thức sâu sắc về đất nước, nhân dân về bộ mặt quân xâm lược; thể hiện cái nhìn lạc quan cách mạng, đi trong hiện tại gian khổ thấy trước viễn cảnh độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Đó là nhân sinh quan cách mạng, tâm hồn lộng gió tinh thần thời đại cách mạng của người chiến sĩ - thi sĩ đã chi phối cách lựa chọn ngôn ngữ nói chung và THTM “mắt” nói riêng.
Trước hết là nhận thức về chế độ phong kiến đã không còn vai trò lịch sử.
Trong bài Huế tháng Tám, Tố Hữu viết: VD 230: ... Đức Kim Thượng đêm nay trong ngọc điện Ngự lên lầu, trông lên cao xao xuyến Muôn vì sao... Lạnh lẽo thấm hoàng bào Người rùng mình, tưởng đứng đỉnh cù lao
... Người phải lui, cho Dân tiến, Nước còn Dân là chủ, không làm nô lệ nữa! Hãy mở mắt: quanh hoàng cung biển lửa Đã dâng lên, ngập Huế đỏ cờ sao Mở mắt trông: Trời đất bốn phương chào Một dân tộc đã ào ào đứng dậy! Huế tháng Tám, Tố Hữu
Ba động từ: trông lên, mở mắt, mở mắt trông chỉ các thang độ hành vi: có tính miêu tả trông lên, có tính khuyến cáo; hãy mở mắt, mở mắt trông... khẳng định nhận thức của con người về thực tế lịch sử: một dân tộc đang trỗi dậy mạnh mẽ!
Nhận thức về bộ mặt quân xâm lược:
VD 231: ... Nó giật mái tranh Nó tìm lục khắp
145
(Bà mẹ Việt Bắc, Tố Hữu) Lấc láo nhìn quanh Như thằng ăn cắp
Ba BTKH của mắt được sử dụng để miêu tả hành động của bọn giặc: tìm, lấc láo, nhìn; trong đó chỉ cần một động từ lấc láo cũng đủ để bóc trần bản chất của bọn ăn cướp. Lấc láo: nhìn đảo quanh vẻ dò la, gian giảo, hơn nữa còn được đặt trong thế so sánh với “Như thằng ăn cắp” càng nhấn mạnh bản chất của bọn giặc cướp nước. VD 232: Niềm tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng, vào Bác: ... Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền...
Nhìn là đưa mắt đưa mắt về một hướng nào đó để thấy, là để mắt, quan tâm chú ý tới, là xem xét để thấy và biết được...[113, tr.926-927]; “trông” ở đây không chỉ là hành động của mắt nhìn để nhận biết mà chủ yếu được hiểu là hướng đến với lòng hi vọng, mong đợi được giúp đỡ [113, tr.1332]. Nhân dân cả nước đã đặt niềm tin tưởng, hi vọng vào vị lãnh tụ Hồ Chí Minh. Người đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho cả dân tộc trong những ngày u ám quân thù, đau đớn giống nòi. Một niềm tin như thế rất cần thiết với một dân tộc nhỏ bé khi phải đối mặt với những tên thực dân, đế quốc lớn.
Nhận rõ một tương lai tất thắng của dân tộc:
Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi! Nước mắt ta trào, búp mí, tràn môi Cổ ta ré trăm trận cười, trận khóc!
(Huế tháng Tám, Tố Hữu) Một loạt các BTKH xuất hiện: Nước mắt ta trào, búp mí, tràn, trận khóc ...
VD 233: Nước mắt: nước do tuyến ở mắt tiết ra khi khóc hay khi mắt bị kích thích mạnh. Ở đây trong tâm trạng của con người khi đất nước thoát khỏi gông xiềng nô lệ, trong niềm vui tự do, độc lập có cả nỗi bùi ngùi nhớ lại những cay đắng của cuộc đời nô lệ, xúc động đến nghẹn lời, nước mắt và nụ cười, niềm vui và nỗi đau... Các BTKH trào, búp mí, tràn (môi) đã cụ thể hóa trạng thái, độ mạnh (trào), mức độ cao (búp mí), cường độ (tràn môi) của nước mắt cùng chung sắc thái ý nghĩa chỉ mức độ cao. Ở đây, BTKH của mắt cho thấy tâm trạng con người, gương mặt một dân tộc trong ngày vui độc lập VD 234: Huế không buồn nữa, Huế ta ơi Mắt ướt trăm năm đã hé cười Nghìn mảnh tương lai về phấp phới Truyền đơn cờ đỏ gió tung trời.
146 (Quê mẹ, Tố Hữu)
Đứng trên đỉnh cao thời đại mà nhìn rõ lịch sử, hiện tại và tương lai:
Mắt ướt là dạng biểu hiện của khóc, biểu trưng cho những đau khổ trong quá khứ, đối lập với hiện tại là hé cười. Cười vốn là thuộc tính của miệng, ở đây được dùng để chỉ ánh mắt, tâm trạng của con người được biểu hiện qua ánh mắt, là niềm vui dâng lên trong mắt khi quê hương được giải phóng. VD 235: Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!
(Bài ca mùa xuân 1961, Tố Hữu)
THTM “mắt” đã góp phần xác lập xác lập vị thế của một con người từ đó xác lập vị thế của đất nước, dân tộc: “mắt”, “nhìn”, “trông”. Dùng “mắt” để “nhìn” chứ không cần phải “ngước” (là cái nhìn hướng lên cao) đã có thể nhìn thấy “bốn hướng”, có thể “Trông lại nghìn xưa”, “trông tới mai sau”, “Trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu” cho thấy thế đứng của con người trên tầm cao. Từ điểm nhìn cao, xa, rộng “bốn hướng” ấy, không chỉ cho thấy thế đứng vật chất mà còn là thế sống của con người, thế đứng của dân tộc – một sự nhận thức mới mẻ của con người về đất nước, thời đại.
Tìm hiểu về thơ ca 1945 -1975, người ta thấy trong cái hùng có đôi mắt, trong cái bi có đôi mắt, trong cái vui có đôi mắt, trong cái đẹp có đôi mắt, trong hiện tại có đôi mắt , trong quá khứ kỉ niệm có đôi mắt, trẻ con có đôi mắt trẻ con, người yêu có đôi mắt của người yêu… Và từ đôi mắt, con người thể hiện nhân sinh quan cánh mạng, tính triết lí, nhân sinh quan cuộc đời.
147 Tiểu kết chương 3
Thứ nhất: Tìm hiểu giá trị của THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam ở hai dạng hằng thể và biến thể là chủ yếu đi tìm hiểu ý nghĩa mới nằm ngoài ý nghĩa từ điển của THTM này. Có thể nói mỗi lần xuất hiện THTM “mắt” lại mang một ý nghĩa thẩm mĩ mới. Tuy nhiên trong phạm vi của một luận án chúng tôi giới hạn tìm hiểu một số ý nghĩa biểu trưng tiêu biểu nhất của THTM “mắt”. Mắt biểu trưng cho đặc điểm hình thức của con người; từ mắt mà thấy được đời sống nội tâm vô cùng phong phú, dạt dào của con người Việt Nam; mắt cũng góp phần thể hiện vẻ đẹp trí tuệ, cách nhìn nhận, khám phá, đánh giá về tự nhiên, con người, cuộc sống, lịch sử. Thứ hai: Điểm khác biệt về mặt ý nghĩa thẩm mĩ của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong thơ ca 1945 - 1975 là ở chỗ: dựa trên nền tảng ý nghĩa thẩm mĩ trong ca dao, trong thơ ca các ý nghĩa thẩm mĩ bám sát tinh thần thời đại với chủ nghĩa yêu nước và cách mạng của một thời kỳ lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc: - Nếu trong ca dao khía cạnh về tình yêu đôi lứa được thể hiện rất phong phú ở hầu hết các cung bậc cảm xúc, thì trong thơ ca 1945 - 1975 khía cạnh tình cảm này ít được thể hiện, con người cá nhân tạm nhường chỗ cho những tình cảm công dân, trách nhiệm với đất nước. - Trong loại ý nghĩa biểu trưng về tình cảm với quê hương, đất nước, nhân dân, THTM mắt trong thơ ca đã bộc lộ một cách phong phú, sâu sắc, mãnh liệt và xúc động hơn bao giờ hết, bởi đây là thời kỳ con người cần phát huy cao độ trách nhiệm với đất nước và nhân dân. - Thơ ca Việt Nam 1945 - 1975 vẫn tiếp tục kế thừa ý nghĩa thẩm mĩ của THTM “mắt” trong việc thể hiện trí tuệ của nhân dân. Tuy nhiên, do nhận thức của thời đại, cái nhìn biện chứng, THTM “mắt” còn thể hiện sự nhận thức sâu sắc về đất nước và nhân dân, về kẻ thù; nhìn thấy tương lai tất thắng của dân tộc, khẳng định viễn cảnh độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc.
Khi một biểu tượng còn sống, “nó là cách biểu hiện tốt nhất một sự kiện; nó chỉ sống khi nó ứ đầy ý nghĩa” [Dẫn theo 111, tr. XXV]. Cũng có thể nói như vậy về THTM “mắt”, ý nghĩa thẩm mĩ không chỉ dừng lại ở việc luận giải của luận án này, chúng tôi chỉ xem đây như một gợi ý. Bởi lẽ, vượt qua sức hấp dẫn thẩm mĩ, lối tư duy logic, đối với mỗi người đọc THTM “mắt” vẫn có khả năng khơi tạo những ý nghĩa thẩm mĩ mới. Thế giới tâm hồn, khả năng tưởng tượng và tiếp nhận, những dự cảm và cảm xúc, trải nghiệm… của mỗi chúng ta sẽ tạo ra một sự sống mới cho THTM thuộc trường nghĩa mắt trong ca dao, thơ ca và các loại hình nghệ thuật khác.
148 KẾT LUẬN
1. Tín hiệu thẩm mĩ “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt
Nam 1945 - 1975 là một đề tài liên quan đến vấn đề vận dụng ngôn ngữ học vào
nghiên cứu văn học nói chung và THTM trong văn học nói riêng. Với đề tài này,
chúng tôi đã vận dụng, kế thừa thành tựu của các công trình nghiên cứu đi trước về tín
hiệu thẩm mĩ. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã vận dụng để tìm hiểu và làm rõ một số vấn
đề về lý thuyết tín hiệu, tín hiệu ngôn ngữ, tín hiệu thẩm mĩ trong nghệ thuật nói chung
và tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn học nói riêng; các vấn đề về trường nghĩa.
Trong mỗi vấn đề lý thuyết, chúng tôi đã cố gắng làm sáng tỏ những khái niệm, những
đặc trưng cơ bản, vận dụng phân tích những dẫn chứng nhằm diễn giải và nhận thức
sâu sắc hơn các vấn đề lý thuyết.
- Luận án này đã đưa ra một cách khái quát nhất khái niệm về THTM và điều kiện
để một THNN trở thành một THTM. THTM là toàn bộ những yếu tố, những chi tiết của
hiện thực đời sống khách quan (bao gồm cả TH ngôn ngữ) và tâm trạng được đưa vào tác
phẩm vì mục đích thẩm mĩ. Điều kiện để một THNN trở thành một THTM là phải đảm bảo
có một cái biểu hiện mang tính vật chất chứa đựng một nội dung tinh thần - cái được biểu
hiện, nó phải nằm trong một chỉnh thể nhất định vì mục đích thẩm mĩ và được lý giải bởi
một chủ thể tiếp nhận.
Từ những hiểu biết chung về THTM, chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về THTM
trong tác phẩm văn chương trên các phương diện: chất liệu, phương thức chuyển hóa,
nguồn gốc, phương thức cấu tạo, các tính chất và chức năng, các biến thể của THTM
trong tác phẩm văn chương.
Chúng tôi tiến hành khảo sát tần số xuất hiện, phân lập THTM “mắt” thành các
tín hiệu hằng thể và các biến thể kết hợp được sử dụng phân tích ý nghĩa biểu trưng
của THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
Luận án đã sử dụng các phương pháp phân tích ngôn ngữ học và các thao tác thống kê,
phân tích ngữ liệu để tìm ra quy luật hoạt động cũng như tìm hiểu ý nghĩa thẩm mĩ của
“mắt”. Đó là phương pháp phân tích THTM theo thành tố trực tiếp dựa vào các mô
hình kết hợp, phương pháp nghiên cứu trường hợp, phương pháp miêu tả, ... và một số
thao tác phân tích ngôn ngữ: thống kê, so sánh...
2. Kết quả đạt được:
Thứ nhất: Khảo sát THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca
Việt Nam 1945 - 1975 vận dụng các vấn đề về lý thuyết THTM, chúng tôi đã tiến hành
149 khảo sát THTM “mắt” ở hai dạng: hằng thể và biến thể. Trong dạng biến thể, chúng tôi
đã tiến hành khảo sát và tìm hiểu hai loại: BTTV và BTKH. Tổng hợp chung có tất cả
là 173 đơn vị, trong đó: 01 hằng thể, 03 BTTV, 169 BTKH. Chúng tôi xem xét số
lượng biến thể và tần số xuất hiện của từng loại, có sự đối sánh để từ đó bước đầu đưa
ra những nhận xét khái quát về giá trị và ý nghĩa thẩm mĩ của THTM “mắt” trong kho
tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975.
Trong đó, các BTKH của THTM “mắt” xuất hiện trong kho tàng ca dao và
thơ ca với số lượng và tần số lớn nhất: Các BTKH của THTM thuộc trường nghĩa
“mắt” có tần số xuất hiện rất lớn với 51 biến thể và 2 193 lần xuất hiện trong ca dao,
149 biến thể với 1329 lần trong thơ ca Việt Nam 1945-1975 áp đảo so với hằng thể và
các BTTV. Điều này cho thấy khả năng hoạt động của THTM dưới dạng BTKH là vô
cùng phong phú, từ THTM hằng thể trung tâm, phát triển phong phú thành các BTKH
với những ý nghĩa thẩm mĩ hết sức đa dạng. Xem xét giá trị của THTM “mắt” là chủ
yếu tìm hiểu các biến thể của nó trong mỗi lần xuất hiện khác nhau.
Khảo sát 173 đơn vị theo mô hình mắt (hoặc BTTV của mắt) + x… ; chúng
tôi thấy có các phương diện được đề cập đến: hình dáng của mắt, màu sắc của mắt,
hoạt động của mắt, trạng thái của mắt, tính chất của mắt. Mỗi phương diện lại được
gọi tên bằng những mô hình khác nhau. Đây chính là cơ sở cho việc luận giải giá trị
của THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca 1945 – 1975
Trong loại cấu trúc của BTKH Mắt + Y (Y là động từ) + B (đối tượng tác
động) xảy ra hiện tượng: Danh hóa động từ, chẳng hạn: ngủ -> giấc ngủ, cái áo ngủ,
cái nhìn. Có động từ không phải thuộc tính của mắt nhưng lại được dùng chỉ mắt như
mắt cười: niềm vui chiến thắng.
Thứ hai: THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam
1945 - 1975 có các ý nghĩa biểu trưng tiêu biểu. Ca dao cũng như thơ ca không đi sâu
vào miêu tả nhằm tái hiện hiện thực mà thường tập trung cho mục đích biểu trưng,
dùng một số khuôn mẫu nhất định để miêu tả. Điều đó lí giải vì sao số lượng hằng thể
và các biến thể của THTM “mắt” tuy không nhiều nhưng tần số xuất hiện của chúng là
khá lớn như số liệu đã khảo sát. Vì vậy, việc tìm hiểu ý nghĩa thẩm mĩ của THTM
“mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975 chủ yếu là đi
vào tìm hiểu giá trị biểu trưng của nó. Có khi nào ca dao và thơ ca miêu tả mắt bằng
các biến thể kết hợp như: mắt long lanh, mắt xanh, …hoặc những tìm, ngó, trông,
liếc… thì điều quan trọng không phải là đi tìm hiểu con mắt xanh ngoài đời thế nào
hoặc nước mắt đầm đầm như mưa thì thế nào, cái sự ngó, trông, liếc thế nào mà chính
150 là tìm hiểu những ý tình gửi gắm trong đó, đấy là cách ca dao và thơ ca bày tỏ tâm
trạng con người. Như thế hằng thể, các biến thể của THTM “mắt” đã trở thành
những kiểu mẫu những mô típ tả tình, bộc lộ thế giới tinh thần của con người.
Nếu đi một mình, mắt sẽ mang nghĩa sở chỉ cơ thể người. Khi đi vào ca dao và
thơ ca, mắt đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ với những ý nghĩa phái sinh là ý nghĩa biểu
trưng. Qua sự phân tích tìm hiểu cho thấy: Mắt là biểu trưng cho đặc điểm hình
thức của con người. Mắt cũng biểu đạt cho thế giới tâm hồn, tình cảm; cho vẻ đẹp
trí tuệ, thể hiện sự khám phá, đánh giá đối với con người, cuộc sống, thời đại.
Trong ba loại ý nghĩa biểu trưng, thì ý nghĩa biểu trưng cho vẻ đẹp tâm hồn
con người của THTM “mắt” là loại ý nghĩa được đề cập nhiều nhất trong kho
tàng ca dao người Việt và thơ ca 1945 -1975.
Thứ ba: Giữa ca dao và thơ ca có những điểm khác biệt nhất định trong việc
sử dụng THTM thuộc trường nghĩa “mắt”. Ngoài sự kế thừa ca dao, THTM “mắt”
trong thơ ca 1945 -1975 có những đặc điểm sau:
- Số lượng các BTKH phong phú hơn, nhất là các BTKH chỉ trạng thái của
mắt, điều đó cho thấy sự phát triển trong tư duy ngôn ngữ của dân tộc, con người sáng
tạo ra những đơn vị ngôn ngữ mới để thể hiện nhu cầu diễn đạt phong phú và thế giới
nội tâm tinh tế, phức tạp của mình. Có một số biến thể chỉ xuất hiện trong ca dao mà
không có trong thơ ca (BTTV) làn thu thủy, BTKH: mắt lá răm, mắt bồ câu, mắt
toét…) , ngược lại có nhiều biến thể không có trong ca dao nhưng lại xuất hiện nhiều
trong thơ ca: mắt huyền, mắt hoang dại, mắt trầm tư...
- Có mô hình cấu trúc của THTM chỉ xuất hiện trong thơ ca 1945 -1975 mà
không xuất hiện trong ca dao, đó là mô hình: A (mắt) + B (yếu tố chỉ vị trí, địa danh).
- Các loại ý nghĩa thẩm mĩ biểu trưng cho tình yêu đôi lứa của THTM “mắt”
trong thơ ca 1945 - 1975 không phong phú như trong ca dao. Ngược lại chất trữ tình
công dân, tình cảm với đất nước, nhân dân lại được thể hiện sâu sắc, sinh động và
phong phú mang đậm âm hưởng của thời đại: đau thương mà hào hùng. Chất trí tuệ
trong thơ ca 1945 - 1975 thể hiện cái nhìn biện chứng về đất nước, nhân dân, kẻ thù và
tương lai của đất nước.
151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đỗ Thị Hương Bưởi, 2013, Tìm hiểu Tín hiệu thẩm mỹ mắt trong kho tàng
ca dao người Việt, Kỉ yếu hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc 2013, NXB
ĐHSPHN.
2. Đỗ Thị Hương Bưởi, 2017, Tín hiệu thẩm mỹ mắt trong kho tàng ca dao
người Việt, Từ điển học & Bách khoa thư, Viện Từ điển và Bách khoa thư
Việt Nam, số 6.
3. Đỗ Thị Hương Bưởi, 2019, Khảo sát tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa
mắt trong kho tàng ca dao cổ người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 – 1975,
Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 9
152 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Trần Thị An, 1990, “Về một phương diện nghệ thuật trong ca dao tình yêu”, Tạp
chí Văn học số 6.
2. Phạm Thị Kim Anh (2005), Tín hiệu thuộc trường nghĩa cây trong thơ Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSPHN.
3. Nguyễn Thị Vân Anh,(2015), Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ trong ca dao Nam -
Trung bộ, LATS, ĐHQG T.p Hồ Chí Minh.
4. Lê Huy Bắc (2018), Ký hiệu và liên ký hiệu, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
5. Diệp Quang Ban (2008), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB GD, H.
6. Y Ban, (2010), Đất làng Cam, Truyện ngắn hay 2010, NXB Thời đại.
7. Lê Bảo, Hà Minh Đức, (1997), Giảng văn văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, H.
8. Lê Bảo (1999), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường: Quang Dũng - Chính Hữu,
NXBGD, tp.HCM.
9. Barthes, R. (1964), Cơ sở kí hiệu học, NXB Bách khoa Hà Nội
10. Lê Biên (1998), Từ loại tiếng Việt hiện đại, NXB Giáo dục
11. Trần Thị Phú Bình (2001), Tố Hữu về tác gia và tác phẩm, NXBGD
12. Bộ VHTT-TT (1992), Mấy vấn đề văn hóa và phát triển Việt Nam hiện nay,
(1992), Bộ VHTT-TT xuất bản, Hà Nội, .
13. Đỗ Hữu Châu (1990), Những luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các sự kiện
văn học, T/c Ngôn ngữ, số 10.
14. Đỗ Hữu Châu (1990), Những luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các sự kiện
văn học, Tạp chí ngôn ngữ, số 2.
15. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB Giáo dục, Hà Nội.
16. Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu Tuyển tập, T1: Từ vựng - Ngữ nghĩa, NXB Giáo
dục, Quảng Nam.
17. Đỗ Hữu Châu (2005), Đỗ Hữu Châu Tuyển tập, T2: Đại cương - Ngữ dụng học - ngữ
pháp văn bản, NXB Giáo dục, Quảng Nam.
18. Đỗ Hữu Châu (2007), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb, ĐHQG, HN
19. Mai Ngọc Chừ, (1991), Ngôn ngữ ca dao Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 5.
20. Mai Ngọc Chừ (2007), Nhập môn ngôn ngữ học, NXBBGD, H.
21. Hữu Đạt, (1996), Đặc điểm phong cách ngôn ngữ thơ và ca dao, Tạp chí Ngôn
ngữ số 4.2008
153 22. Chu Xuân Diên, (1981), Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian, Tạp chí
Văn học, số 5
23. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), “Đôi nét về nhóm biểu tượng hoa trong ca dao”,
Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 4, tr.46 - 49, 52
24. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống
người Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư pham Thành phố Hồ Chí Minh .
25. Lưu Văn Din, (2013), Đặc điểm ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử từ góc nhìn tín hiệu
thẩm mĩ, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Đà Nẵng.
26. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (Từ loại), NXB ĐH và THCN.
27. Hà Minh Đức (chủ biên), (1997), Lí luận văn học, NXBGD
28. Đinh Văn Đức (2012), Ngôn ngữ học đại cương - Những nội dung quan yếu,
NXBGD Việt Nam.
29. Đào Thị Dương, 2015, Một số tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao Việt Nam, Luận văn
thạc sỹ, ĐHQG Hà Nội.
30. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, NXB Giáo
dục.
31. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 Khái niệm ngôn ngữ học, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
32. Nguyễn Thiện Giáp (2012), Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ngôn
ngữ, NXB GD, H.
33. Nguyễn Thiện Giáp (2014), Nghĩa học Việt ngữ, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà
Nội.
34. Ngân Hà, (2001), Nữ sĩ Xuân Quỳnh - Cuộc đời để lại, NXB Phụ nữ.
35. Lê Thị Tuyết Hạnh, (1990), Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Xuân Quỳnh, luận
văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm.
36. Nguyễn Đức Hạnh, (2001), Một số biểu tượng thơ dân gian trong thơ Việt Nam
hiện đại, Tạp chí Văn học, số 3.
37. Nguyễn Thị Ngân Hoa, (2001), Biểu tượng chiếc áo trong đời sống tinh thần
người Việt qua thơ ca, Tạp chí Ngôn ngữ, số 8.
38. Nguyễn Thái Hòa, (2005), Từ điển tu từ-phong cách-thi pháp học, NXB Giáo dục.
39. Nguyễn Thị Ngân Hoa, (2005), Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục
trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm.
40. Nguyễn Thái Hòa (2006), Giáo trình Phong cách học tiếng Việt, NXB Đại học Sư
phạm.
154 41. Đỗ Thị Hòa (2007), “Giá trị biểu trưng của trường nghĩa “chim chóc” trong ca
dao người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 6, tr.18 – 23.
42. Đỗ Thị Hòa (2008), “Thế giới động vật thủy sinh và đời sống văn hóa Việt trong
ca dao”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, tr.16 - 24.
43. Nguyễn Thị Hòa (2008), Trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ màu sắc trong thơ Tố
Hữu, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
44. Đỗ Thị Hòa, (2010), Thế giới động vật trong ca dao cổ truyền người Việt, LATS,
ĐHSPHN.
45. Tô Hoài (1999), Tuyển tập văn học thiếu nhi, Tập 2 (Tập “Dế mèn, chim gáy bồ nông),
NXB Văn học, Hà Nội.
46. Đỗ Việt Hùng - Nguyễn Thị Ngân Hoa (2003), Giáo trình Phân tích phong cách
ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, NXB ĐHSP.
47. Đỗ Việt Hùng, (2013), Ngữ nghĩa học - Từ bình diện hệ thống đến hoạt động,
NXB ĐHSP.
48. Mai Hương (tuyển chọn), (2000), Thơ Tố Hữu - Những lời bình, NXB Văn hóa -
Thông tin, H.
49. Vũ Thị Thu Hương (2000) “Ca dao Việt Nam - Những lời bình”, NXB Văn hóa
thông tin, H.
50. Iu.A.Philip (1971), Những tín hiệu của thông tin thẩm mĩ, NXB Khoa học, M.
(Bản dịch và đánh máy Thư viện ĐHSPHN).
51. Iu.M.Lotman (Lã Nguyên dịch) (24-12-2012), Biểu tượng - “gene của truyện kể”,
http://tapchisonghuong.com.vn
52. Jakobson, R.(1973), Những vấn đề thi pháp học bản dịch của Trần Bá Dĩnh.
53. Jakobson, R (1996), Thơ là gì? Tạp chí Văn học số 12.
54. Jakobson, R (2001), Ngôn ngữ học và thi học, Tạp chí Ngôn ngữ số 14.
55. Đinh Gia Khánh (2010), Văn học dân gian là một nghệ thuật nguyên hợp, trích
VHVN thế kỷ XX, tr.279.
56. Khoa Ngữ văn (2016) Kí hiệu học - Từ lí thuyết đến ứng dụng trong nghiên cứu
và dạy học Ngữ văn, Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc gia (2016), Trường Đại học
sư phạm Hà Nội, NXB Giáo dục Việt Nam.
57. Khrapchenco M.B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học,
NXB Tác phẩm mới.
58. Nguyễn Xuân Kính, (2006), Thi pháp ca dao, Khoa học xã hội, H.
59. Đinh Trọng Lạc – Nguyễn Thái Hòa (1993), Phong cách học tiếng Việt, NXBGD.
155 60. Nguyễn Xuân Lạc, (1994), Môtip nghệ thuật dân gian: Cái cầu trong ca dao, Tạp
chí Văn học dân gian, số 2
61. Nguyễn Xuân Lạc, (1998), Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường,
NXBGDVN.
62. Nguyễn Lai (1991), Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, NXB Khoa học xã hội.
63. Nguyễn Lai, (1996), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, NXBGD, H.
64. Lê Thị Lâm, (2014), THTM hoa và đặc trưng tư duy văn hóa của người Việt trong
ca dao, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Tây Bắc.
65. Phong Lan, (2001), Tố Hữu- về tác gia và tác phẩm, NXB Văn học, H.
66. Phong Lê, (2014), Phác thảo Văn học Việt Nam hiện đại (thế kỷ XX), In lần thứ 3,
NXB Trí thức, H.
67. Vương Ngọc Long (2003), Đôi mắt trong thi ca, Tập san Chuyên nghiệp Dược
khoa số 4.
68. Vân Long, (2004), Xuân Quỳnh – Thơ và đời, NXB Văn hóa thông tin
69. Hoàng Kim Ngọc, Hoàng Trọng Phiến, (2011), Ngôn ngữ văn chương, NXB
ĐHQG, H.
70. Nguyễn Văn Long (chủ biên), (2000), Giảng văn văn học Việt Nam hiện đại, NXB
Đại học Quốc gia, H.
71. Trương Thị Nhàn (1991), Giá trị biểu trưng nghệ thuật của các vật thể nhân tạo
trong ca dao cổ truền Việt Nam, Tạp chí văn hóa dân gian, số 3.
72. Trương Thị Nhàn (1995), Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ của THTM - Không gian
trong ca dao, Luận án Phó tiến sĩ, ĐHSPHN.
73. Trương Thị Nhàn, (2011), Tín hiệu thẩm mĩ và vấn đề nghiên cứu tín hiệu thẩm mĩ
trong tác phẩm văn chương
http://csdlkhoahoc.hueuni.edu.vn/data/article/TRƯƠNG_THỊ_NHÀN_-
_NHỮNG_VẤN_ĐỀ_VỀ_THTM._....
74. Vũ Nho (2015), Con mắt với tình yêu trong ca dao,
vunhonb.blogspot.com/2015/08/con-mat-voi-tinh-yeu.html
75. Vũ Ngọc Phan (2009), Tục ngữ - ca dao - dân ca Việt Nam, NXB Văn hóa Hà Nội.
76. Đào Ngọc Phong, 2020, Báo Văn nghệ số 7, 15/2/2020.
77. Đào Ngọc Phong, 2020, Nhìn vào ánh mắt, Báo Văn nghệ số 7, 15/2/2020.
78. Mai Thị Kiều Phượng (2008), Trong chuyên luận Tín hiệu thẩm mỹ trong ngôn
ngữ văn học, NXB Khoa học xã hội.
156 79. Nguyễn Thị Thu Quế, (2014), Trường từ vựng tên gọi động vật thủy sinh và tín
hiệu thẩm mĩ được tạo nên trong ca dao, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Tây Bắc.
80. Võ Tấn Quyên, 2015, Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ thuộc trường nghĩa hiện tượng
tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh, Đại học Quy Nhơn, Khóa luận tốt nghiệp.
81. Nguyễn Hữu Quỳnh (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Từ điển Bách khoa.
82. R.C. Hjelmslev, L. (1973), Ngôn ngữ, ĐHTH
83. Trần Đình Sử (tuyển chọn), (1999), Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam, NXB
Hà Nội.
84. Hà Công Tài, (2013), Biểu tượng trưng trong thơ ca dân gian, Tạp chí văn học, số 5
85. Trần Thị Thái, (2011), Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu, Khóa luận tốt
nghiệp, ĐHQG Hà Nội.
86. Đào Thản (1993), Hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc của tiếng Việt trong liên hệ với
mấy điều phổ quát, T/c Ngôn ngữ số 2.
87. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
88. Nguyễn Văn Thạo, (2017), Trường nghĩa là “lửa” và “nước” trong tiếng Việt,
LATS, ĐHSPHN.
89. Trần Ngọc Thêm, (1981), Suy nghĩ về một phương pháp phân tích văn bản thơ, T/c
Văn học số 5.
90. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), (2008), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Lý luận -
phê bình 1945-1975, Quyển Năm, tập VII, NXB Văn học Hà Nội.
91. Thư 2008 Đỗ Ngọc Thư, (2008), Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ “M
92. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), (2009), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Quyển Năm,
tập IX (lý luận - phê bình 1945-1975), NXB Văn học, H.
93. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), (2009), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Quyển Năm,
tập X (lý luận - phê bình 1945-1975), NXB Văn học, H.
94. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), (2010), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Lý luận - phê
bình 1975-2000; Quyển Năm, tập XIV, NXB Văn học Hà Nội.
95. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), (2010), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Quyển Năm,
tập XI (lý luận - phê bình 1945-1975), NXB Văn học, H.
96. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), (2010), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Quyển Năm,
tập XII (lý luận - phê bình 1945-1975), NXB Văn học, H.
97. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), (2010), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Quyển Năm,
tập XIII (lý luận - phê bình 1975-2000), NXB Văn học, H.
157 98. Bùi Minh Toán (2017), Ngôn ngữ với văn chương, NXB ĐHSPHN.
99. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy,
NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
100. Thùy Trang, (2013), Xuân Quỳnh – Tác phẩm và lời bình, NXB Văn học, H.
101. Trung 2004 Nguyễn Chí Trung (2004), Trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ bộ phận
cơ thể người trong thơ Chế Lan Viên, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
102. Hoàng Tiến Tựu (2001), Bình giảng ca dao, NXBGD.
103. Vũ Kim Tuyến, (2000), Thơ Xuân Quỳnh và những lời bình, NXB Văn hóa thông
tin
104. Chế Lan Viên (giới thiệu)..., (1971), Thơ Tố Hữu, NXBGD
105. Hoài Việt, 2000, Nhà văn trong nhà trường: Quang Dũng, NXBGD, tp.HCM.
106. Nguyễn Thị Xuân Yến, (2010), Về tính hệ thống và tính dân tộc của tín hiệu
thẩm mỹ trong văn học, Thứ ba, 11.05.2010, 09:32pm (GMT+7) nhavan.vn
Từ điển
107. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQGHN.
108. Lê Bá Hán,Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, (2007) Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục.
109. Nguyễn Thái Hòa (2005), Từ điển tu từ phong cách học, NXB Giáo dục, H.
110. Hoàng Long - Gia Huy - Quý An, 2007, Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ,
NXB Từ điển bách khoa.
111. Jean Chevalier - Alain Gheerbrant, 2002, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
NXB Đà Nẵng, trường viết văn Nguyễn Du.
112. Đỗ Thị Kim Liên, (2015), Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam trong hành chức,
NXB Khoa học xã hội.
113. Hoàng Phê (chủ biên), (2010), Từ điển tiếng Việt, NXB Từ điển bách khoa.
114. Nguyễn Ngọc San - Đinh Văn Thiện (1998), Từ điển Điển cố văn học trong nhà
trường, NXB GD.
115. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin.
158 Tư liệu trích dẫn
116. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên), (1995), Kho tàng ca dao người
Việt, NXB Văn hóa thông tin, H.
117. Lưu Khánh Thơ (chủ biên), Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Bích Thu, Đoàn Ánh
Dương (biên soạn và tuyển chọn), (2010), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, phần thơ
ca Việt Nam 1945-1975, quyển bốn, tập VII, NXB Văn học.
118. Lưu Khánh Thơ (chủ biên), Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Bích Thu, Đoàn Ánh
Dương (biên soạn và tuyển chọn), (2010), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, phần thơ
ca Việt Nam 1945-1975, quyển bốn, tập VIII, NXB Văn học.
119. Lưu Khánh Thơ (chủ biên), Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Bích Thu, Đoàn Ánh
Dương (biên soạn và tuyển chọn), (2010), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, phần thơ
ca Việt Nam 1945-1975, quyển bốn, tập IX, NXB Văn học.
Tiếng nước ngoài
120. G. Ipsen (1932), Der neue Sprachbegriff, “Zeitschrift fur Deutschkund”, Leipzig
– Berlin.
121. Grzegorz A. Kleparski, Angelina Rusinek (2007), The tradition of field theory
and the study of lexical semantic change, Zeszyt, volume 47, pp. 187-205;
122. Guo, Changhong (2010) The application of the semantic field theory in college
English vocabulary instruction, Chinese journal of applied linguistics, volume 33,
no 3. pp. 50-62.
123. Hudson, R.A. (1991), Word meanings, Routlege.
PL-1 PHỤ LỤC
PHỤ LỤC I
Tần số xuất hiện của những biến thể từ vựng của THTM “mắt”
trong kho tàng ca dao cổ người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975
Kho tàng ca dao
Thơ ca Việt Nam 1945-1975
người Việt
Tần số
Tần số
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Tín hiệu thẩm mĩ
xuất hiện
xuất hiện
Con mắt
47
22
44,9
92
Đôi mắt
2
27
55,1
4
Khóe thu ba
2
4
Nửa mắt
1
Tổng số:
51
49
100
100
PHỤ LỤC II
Tần số xuất hiện của các biến thể kết hợp của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong
kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975
Thơ ca Việt Nam 1945-1975
Kho tàng ca dao
Nhóm
người Việt
Số lượng
Tần số xuất
Số lượng biến
Tần số xuất
biến thể
thể
hiện
hiện
Hình dáng của mắt
05
05
16
10
Màu sắc của mắt
08
22
04
11
Các bộ phận của mắt
03
13
47
7
Nước mắt
19
87
16
347
Trạng thái của mắt
06
56
115
24
Hoạt động của mắt
46
1039
16
1767
Tổng:
148
1327
54
2 253
PL-2
PHỤ LỤC III:
Hệ thống các BTKH của THTM “mắt”
trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975
TT
Kho tàng ca dao người
Thơ ca Việt Nam
Việt
1945 -1975
Đặc điểm
Tín hiệu thẩm mỹ
Tỷ lệ
của mắt
Số lần
Tỷ lệ
Số lần xuất
xuất
xuất hiện
xuất hiện
hiện
hiện
1
Mắt bé
2
2
(mắt) nhỏ
1
3
(mắt) tròn xoe
9
4
Mắt chuồn chuồn
2
Hình dáng
5
2
Mắt lươn
2
của mắt
7
2
Mắt bồ câu
9
2
Mắt phượng
10
1
Mắt thỏ
11
3
Mắt lá răm
12
(Mắt/tròng mắt) (sẫm)
7
đen
13
5
Mắt xanh
6
14
2
3
(Mắt) đỏ (lòm)
16
2
(Màu mắt) lạ
Màu sắc
17
2
Mắt trắng
của mắt
18
2
Mắt ngọc
19
Mắt huyền
1
20
Mắt biếc
1
21
(Mắt) màu gio
1
22
(màu mắt) trong
1
23
3
Con ngươi
24
1
Ánh mắt
9
25
3
Lông mày
6
Các bộ phận
của mắt
26
Mi/hàng mi/bóng mi
11
27
Mí mắt
2
28
Tròng mắt
3
PL-3
TT
Kho tàng ca dao người
Thơ ca Việt Nam
Việt
1945 -1975
Đặc điểm
Tín hiệu thẩm mỹ
Tỷ lệ
của mắt
Số lần
Tỷ lệ
Số lần xuất
xuất
xuất hiện
xuất hiện
hiện
hiện
29
Hốc mắt
2
30
Đuôi mắt
2
31
Khóe mắt
2
32
Đáy mắt
2
33
Màu mắt
2
34
Tầm mắt
3
35
Tầm nhìn
1
36
Cái nhìn
2
37
(Mắt) long lanh
3
6
38
Mắt lóng lánh
1
39
(Mắt) lúng liếng
2
40
Mắt trong lành
1
41
(Mắt) lung linh
1
42
Mắt linh lợi
3
43
(Mắt) lờ đờ, lừ đừ
5
2
45
(Mắt) lim dim
4
4
46
Mắt lơ mơ
1
47
Mắt bần thần
2
48
(Mắt) sắc (như dao)
8
2
Trạng thái
49
Mắt toét
2
của mắt
50
Mắt rụt rè
1
51
Mắt đẹp
4
52
Mắt trừng (trợn)
5
53
Mắt tráo trâng
1
54
Mắt trầm tư
1
55
Mắt ướt
3
56
Mắt sáng
5
57
Mắt sáng trong
1
58
Mắt sáng bừng
1
59
Mắt sáng ngời
2
60
Mắt sáng quắc
1
PL-4
TT
Kho tàng ca dao người
Thơ ca Việt Nam
Việt
1945 -1975
Đặc điểm
Tín hiệu thẩm mỹ
Tỷ lệ
của mắt
Số lần
Tỷ lệ
Số lần xuất
xuất
xuất hiện
xuất hiện
hiện
hiện
61
Mắt mờ
1
62
Mắt mù
1
63
Mắt đom đóm
1
64
Mắt lòa
1
65
Mắt lóa
1
66
Mắt ngơ ngác
3
67
Mắt nghiêng
1
68
Mắt rộng vời/
4
xa vời/vời
69
Mắt đắng
1
70
Mắt mỏi
4
71
Mắt nheo cười
7
72
Mắt u ẩn
1
73
Mắt biển khơi
2
74
Mắt u buồn
1
75
Mắt đau buồn
1
76
Mắt yêu đời
1
77
Mắt đầm ấm
3
78
Mắt khoan dung
3
79
2
Mắt dại
80
Mắt hoang dại
1
81
Mắt viền
1
81
Mắt thân yêu
1
82
Mắt bình thản
2
83
Mắt/nhìn vui ấm
2
84
(Mắt) nheo cười
7
85
Mắt chan chứa nhân
1
tình
86
Mắt (mẹ) hiền
4
87
Mắt/mày tươi
2
88
Lông mày rậm
1
PL-5
TT
Kho tàng ca dao người
Thơ ca Việt Nam
Việt
1945 -1975
Đặc điểm
Tín hiệu thẩm mỹ
Tỷ lệ
của mắt
Số lần
Tỷ lệ
Số lần xuất
xuất
xuất hiện
xuất hiện
hiện
hiện
1
Mi trường
89
1
Mắt thâm quầng
90
1
Tròng mắt cay
91
1
Mi mọng
92
1
(ánh mắt) lạ kỳ
93
52
1039
Tổng
PL-6 PHỤ LỤC VI:
Hệ thống các BTKH của THTM “mắt”
trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975
TT
Kho tàng ca dao người Việt
Thơ ca Việt Nam 1945-1975
Tín hiệu thẩm mỹ
Đặc điểm của mắt
Tỷ lệ xuất hiện
Số lần xuất hiện 103 21 56 19 8 40 30 28 11 9 6
Số lần xuất hiện 42 10 2 7
Tỷ lệ xuất hiện
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
4
Nước mắt Lệ Lụy Châu Giọt Nhỏ sa Đầm đầm (như mưa) Tuôn Rưng rưng Lai láng (nước mắt/lệ) thấm bâu Trào (nước mắt) Lã chã (nước mắt/lệ) rơi
12 13 14
5 1 4
4
Ròng ròng
15
Nước mắt (Dịch trong mắt)
3
Chứa chan
16
1
3
Sụt sùi
17
Đầm đìa
18
3
2
Ướt đầm
19
Giàn giụa
20
2
Lau (nước mắt)
21
2
(lệ) chảy Ứa (nước mắt) Chắt ra (nước mắt) Hứng lệ (nước mắt) nóng
22 23 24 25 26
1 1 1 1 1
27 28 29
Đằm (lệ) tràn (lệ) khô ráo
Tổng
347
1 1 1 87
PL-7
PHỤ LỤC V:
Hệ thống các BTKH của THTM “mắt”
trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975
TT
Kho tàng ca dao người
Thơ ca Việt Nam 1945 -
Việt
1975
Đặc điểm
Tín hiệu thẩm
của mắt
mỹ
Số lần xuất
Tỷ lệ
Số lần
Tỷ lệ
xuất hiện
xuất hiện
xuất hiện
hiện
577
1
Thấy
161
479
2
Trông
83
253
3
Ngó
23
98
4
Nhìn
230
56
5
Gặp
65
31
6
Khóc
48
85
7
Xem
42
81
8
Tìm
107
42
9
Soi
18
34
10
Coi
27
11
Liếc
2
12
Ngước
4
12
13
Nom
2
Hoạt động
6
14
Ngắm
17
của mắt
7
15
Dòm/nhòm
3
1
16
Nhắm mắt
20
03
17
Trừng
1
18
Ngủ
81
19
Thức/thao thức
37
20
Dán
16
21
Mở
14
22
Ghé/ Nghé
12
23
Chớp
10
24
Nhằm
7
25
Khép
7
26
(Mắt) cười
27
(mắt) trồi ra
3
5
PL-8
TT
Kho tàng ca dao người
Thơ ca Việt Nam 1945 -
Việt
1975
Đặc điểm
Tín hiệu thẩm
của mắt
mỹ
Số lần xuất
Tỷ lệ
Số lần
Tỷ lệ
hiện
xuất hiện
xuất hiện
xuất hiện
28
Ngóng
3
29
Giương (mắt)
2
30
Trợn mắt
2
31
Cau/chau mày
2
32
Dõi
2
33
Thổn thức
2
34
Nghẹn ngào
2
35
Cầm (nước mắt)
2
36
Nhắm (nhìn)
1
37
(nhìn) thiêu
1
38
(nhìn) đốt
1
39
Nghé
1
40
Bịt (mắt)
1
41
Xoa (mắt)
1
42
Bừng (mắt)
1
43
Chợp mắt
1
44
Nức nở
1
45
Rọi
1
46
Trố mắt
1
47
(mắt) dùi
1
48
Đưa đẩy
1
49
Đưa (mắt)
1
50
Lườm
1
51
(Mắt) cứa
1
52
1
(Lông mày) dựng
1794
1039
PL-9 PHỤ LỤC VI
THỐNG KÊ ĐỘNG TỪ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA “MẮT”
Trong thơ Vũ Cao, Hoàng Cầm, Nông Quốc Chấn, Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn
Duy, Quang Dũng, Xuân Quỳnh
TT
Tính từ
Vũ Cao
Hoàng Cầm
Nguyễn Duy
Quang Dũng
Xuân Quỳnh
Tổng số
Tố Hữu
Nông Quốc Chấn
Phạm Tiến Duật
1
1
1
1
1
2 3
1
1
3
1
1
7
4
1
1
1
3
1 1
1 1
5 6 7
1
1
2
1 1
1 1
1
1
1 1 1 1 2
8 9 10 11 12 13
nghẹn
2
1
1
4
1 1 1 1 1 3
1 3 1
1
1
1 1 1 1 3 6 1
14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
2
1
3
1
7
25 26 27
(nước mắt)Chứa chan (nước mắt) nóng (nước mắt) rưng rưng (nước mắt) đầm đìa Đằm (nước mắt) (Nước mắt) lã chã Nước mắt giàn giụa Lệ khô/ráo (lệ) tràn (khóc) mềm (khóc) xót xa (khóc) nức nở (khóc) ngào/nghẹn (khóc) rì rầm (khóc) sấm sút (Khóc) âm y (khóc) đỏ Mi mọng (mắt) đỏ (mắt) xanh (mắt) biếc (tròng mắt/mắt) (sẫm) đen Mắt màu gio (mắt) huyền (màu mắt) trong
1
1
1
1 1 1
TT
Tính từ
Vũ Cao
Hoàng Cầm
Tố Hữu
Nguyễn Duy
Quang Dũng
Xuân Quỳnh
Tổng số
PL-10 Nông Quốc Chấn
Phạm Tiến Duật
1
2
2 1
28 29 30
chuồn
1
2
1
1 1 1 3
4
1
2 2 1 9 1 1
1
1 1 1 1
31 32 33 34 35 36 37
trừng
2
1
5
1
1
2 1 2 1 1 1 2 0 2 1 1 1 1 1 3
1
1
1 1 1 1 3
1
4 1 1 1 6 1 1 1 3 1 5 1 1 1 2 1 1 1 1 1 1 2 2 3 1 4
1 1 1
38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63
(màu mắt) lạ (mắt) thỏ (mắt) chuồn (mắt) lươn (mắt) bé (mắt) nhỏ (mắt) tròn (xoe) (ánh mắt) lạ kỳ (mắt) tráo trâng (mắt) (trừng/trợn) (mắt) đẹp (Đẹp) mắt Mắt trầm tư (mắt) lóng lánh (mắt) long lanh (mắt) đom đóm (mắt) lung linh (mắt) trong lành (mắt) ướt Ướt mắt (mắt) sáng (mắt) u ẩn (mắt) sáng trong (mắt) sáng bừng (mắt) sáng ngời Ngời đôi mắt (mắt) sáng quắc Mắt lòa (mắt) mù lòa mắt Mắt lóa (mắt) sắc (mắt) lừ đừ (mắt) ngơ ngác Mắt nghiêng Mắt rộng vời/ xa
1 1
0 1 0 3 1 1 2 2 1 1 1
TT
Tính từ
Vũ Cao
Hoàng Cầm
Nguyễn Duy
Quang Dũng
Xuân Quỳnh
Tổng số
Tố Hữu
PL-11 Nông Quốc Chấn
Phạm Tiến Duật
1 2 1 1 1
2 1 1 1 1 1 1 1 3
1 1 1 1 1 5 1 1 1 1 1 1 1 1 1
1
1 2
1
1 1 1
1 4 4 3 2 2 1 1 7 2 1 1 1 3 3 1 1 1 4 1 1
64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85
1
1
1 2
1
1
2 2 1 1
86 87 88 89 90
1
2
2
5
vời/vời Mắt đắng (mắt) mỏi (mắt) (mẹ) hiền (mắt) linh lợi (mắt) bần thần (mắt) dại (con mắt) rụt rè (Mắt) thâm quầng (mắt) (nheo) cười (mắt) biển khơi (mắt) u buồn (mắt) đau buồn (mắt) yêu đời (mắt) đầm ấm (mắt) khoan dung (mắt) hoang dại (mắt) viền (mắt) thân yêu (mắt/mi) lim dim (mắt) lơ mơ (mắt) mờ (mắt) chan chứa nhân tình (mắt) bình thản Mày/mắt tươi (tròng mắt) cay (nhìn) đưa đón (nhìn) đăm đắm/ đăm đăm (nhìn) chăm chú (nhìn) vơi đầy (nhìn) lấc láo (nhìn) cong (nhìn) nghe nghé (Soi/nhìn) rõ (nhìn) nghiêng (nhìn) sáng
1
91 92 93 94 95 96 97 98
1 1
1 1 0
1 1 0 1
1 1 1
2 1 1 1 1 2 2 1
TT
Tính từ
Vũ Cao
Hoàng Cầm
Tố Hữu
Nguyễn Duy
Quang Dũng
Xuân Quỳnh
Tổng số
PL-12 Nông Quốc Chấn
Phạm Tiến Duật
99
1
7
8
100
1
2
1
1
2 2
2 1 2
bâng
101 102 103 104
1
1
1
1
khủng
105 106
1
1
thăm
107
2
2
(thấy, nhìn, ngắm, trông) ngẩn ngơ (tầm nhìn/nhắm) thẳng (nhìn/ngó) lặng (nhìn) săm soi Nhìn/mắt vui ấm (nhìn) khuâng (nhìn) mải mê (nhìn) khiếp (Nhìn) thẳm/thẳm Nhìn bát ngát Mải (trông) (trông) ngơ ngác (ngủ) hiền (ngủ) yên (ngủ) lâu (ngủ) say ngủ) khì (ngủ) ngon (giấc) (ngủ) thiu thiu (ngủ) lăn lóc (ngủ) xôn xao (Khép) hờ Lông mày rậm Ngút mắt (mi) trường (nhắm) nghiền (thấy) ngỡ ngàng (Lông mày) dựng (tìm) tha thẩn