BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

ĐỖ THỊ HƢỜNG

TÍNH TRỮ TÌNH

TRONG TRUYỆN NGẮN IVAN BUNIN

Chuyên ngành : Văn học nƣớc ngoài

Mã số

: 9220242

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Hải Phong

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên

cứu, các số liệu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng được

bảo vệ ở bất kỳ học vị nào.

Tác giả luận án

NCS. Đỗ Thị Hƣờng

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS. Đỗ Hải Phong –

người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học nước ngoài, Khoa

Ngữ văn và phòng Sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận

lợi cho tôi trong thời gian học tập, nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các anh chị em đồng nghiệp của tôi ở

Viện Văn học, cô giáo tiếng Nga của tôi và gia đình đã luôn ở bên động viên tinh thần và

giúp đỡ tôi trong thời gian tôi thực hiện luận án.

Tác giả luận án

Đỗ Thị Hường

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1.Lí do chọn đề tài.............................. ................................... .......................................1

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi tư liệu nghiên cứu ................................................................ 3

4. Phương pháp nghiên cứu … ..................................................................................... 5

5. Giới thuyết khái niệm………… ......................................................................... …..6

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài……… ................................................. ...13

7. Đóng góp mới của luận án……… ......................................................................... .13

8. Cấu trúc luận án.. ............................................................................................. …...14

9. Lưu ý ................................................................................................................... …14

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU… .................................... .15

1.1. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở Nga… ............... .15

1.2. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở phương Tây.. . …22

1.3. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở Việt Nam… ....... 25

CHƢƠNG 2: ẤN TƢỢNG LỜI VĂN TRỮ TÌNH…… ..................................... ...31

2.1. Gia tăng biểu cảm lời văn … ............................................................................... 31

2.1.1. Cảm xúc hóa đối thoại …… ............................................................................ .32

2.1.2. Độc thoại hóa đối thoại và phối cảm lời kể với lời độc thoại .......................... 37

2.2. Tăng cường nhạc tính lời văn …… .................................................................... .41

2.2.1. Phép điệp tạo nhạc tính……………………… ................................. …………42

2.2.2. Lời văn xen thơ, nhạc…………………… ................................................... …53

2.3. Thi vị hóa ngôn từ…… .................................................................................... …59

2.3.1. Phong vị dân gian………………………… ..................................... …………59

2.3.2. Vẻ đẹp ngôn từ của đức tin và tư tưởng………… .................................. …….63

CHƢƠNG 3: CHỦ THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG TRỮ TÌNH.. ............................ ……74

3.1. Chủ thể trữ tình - Người kể chuyện “chủ quan” ..................... ........................... .74

3.1.1. Người kể chuyện toàn tri “thâu tóm” cảm xúc........... .................................... ..75

3.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất– nhân vật “trải nghiệm” cảm xúc… ....... …...78

3.1.3. Luân chuyển người kể chuyện, thống nhất xúc cảm… ........................... …….81

3.2. Nước Nga trong miền hoài niệm……………… .......................................... …...84

3.2.1. Thiên nhiên Nga trong vẻ đẹp vĩnh hằng……… .................................. ………85

3.2.2. Điền trang – thế giới của kỷ niệm…………… ....................................... ……..90

3.3. Vẻ đẹp nữ vĩnh hằng………………………… ...................................... ………..98

3.3.1. Những bức chân dung “ấn tượng”……….……… ............................... ………98

3.3.2. Những tâm hồn Nga cứu rỗi………………… ............................... …………104

3.3.2.1. Tình yêu cứu rỗi……………………………… ........................... …………105

3.3.2.2. Lí tưởng cứu rỗi………………………………… .......................... ……….109

CHƢƠNG 4: CỐT TRUYỆN TRỮ TÌNH VÀ CẢM THỨC BI HOÀI ............ 114

4.1. Những mô thức cảm xúc – sự kiện ………… .............................................. ….114

4.1.1. Cảm xúc tiếc nuối – dòng chảy “hoài niệm”…… ..................................... .....114

4.1.2. Cảm xúc mãnh liệt – khoảnh khắc “hiện tại”……… ................................. …117

4.1.3. Cảm xúc “an phận” – vòng đời “tĩnh lặng”… ..................................... ……...119

4.1.4. Vòng tuần hoàn cảm xúc – sự kiện……… ........................ ……………….....122

4.2. Cốt truyện hành trình tâm trạng… ................................................................... ..127

4.2.1. Chuỗi cốt truyện tâm trạng tuyến tính… .................................................. …..127

4.2.2. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi tuyến tính .......................................... ………132

4.2.3. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi sự kiện… .......................................... …….....135

4.3. Cảm thức bi hoài – nguồn mạch trữ tình truyện ngắn Bunin ............................ 138

4.3.1. Cái đẹp và cảm thức bi hoài………… ....................................... …………….139

4.3.2. Tình yêu trong cảm thức bi hoài…… ......................................... ……………142

4.3.3. Khoảnh khắc cảm thức bi hoài……........................................ ………………144

KẾT LUẬN…………… ........................................................................ …………..148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Một trong những thước đo khẳng định vị thế văn học hiện nay là giải Nobel văn

học. Nước Nga, với 5 lần được vinh danh, xứng đáng là một nền văn học danh tiếng. Điều

đặc biệt là, người khởi đầu cho “chuỗi giải thưởng Nobel văn học của Nga” Ivan Bunin

vốn là một người Nga lưu vong. Và cũng rất đặc biệt, “khác với các nhà văn Nga lưu

vong đợt đầu tiên, các tác phẩm của Bunin đã được xuất bản ở Liên Xô ngay dưới thời

chính quyền Xô viết” [34; tr. 15]. Nói cách khác, Bunin đã được “trở về” Tổ quốc bằng

chính những sáng tác rất Nga của mình. Điều đó khẳng định vị thế, vai trò và sức mạnh

của văn chương Bunin ở ngay chính nước Nga quê hương ông và trên thế giới.

Ivan Alekseevitr Bunin (1870 – 1953) là nhà văn, nhà thơ Nga, viện sĩ danh dự

Viện Hàn lâm Peterburg (1909), giải Nobel Văn học (1933). Bunin được biết đến trước

hết là một nhà thơ, nhưng giải Nobel được trao cho ông vì những sáng tác văn xuôi “kế

tục truyền thống vĩ đại của kỷ nguyên rực rỡ thế kỷ XIX ở những điểm khả thủ cho sự

phát triển”, vì “tài năng xuất chúng và siêu việt của riêng ông, nó làm nên dấu ấn của kiệt

tác cho văn nghiệp của ông” [186]. Có thể nói người viết văn xuôi mang đậm cốt cách thi

sĩ Bunin đã làm rạng danh cho văn học Nga bằng những tác phẩm được cả thế giới

ngưỡng mộ: Làng, Sukhodol, Quý ông từ San Francisco đến, Tình yêu của Mittia, Cuộc

đời Arseniev và những truyện ngắn tuyệt phẩm Những quả táo Antonov, Say nắng, Hơi

thở nhẹ, Chiếc cốc đời, Ngày thứ Hai chay tịnh…. Bằng những trang văn của mình, nhà

văn “đơn độc trong một kỷ nguyên nhiều biến động” [186] đưa người đọc về với thế giới

thuần Nga của thế kỷ trước với những khung cảnh cổ kính xa xưa, trầm mặc, với không

gian nông thôn ngập tràn hương thơm của táo Antonov, những con đường rợp bóng cây

xanh hay làn hơi thở nhẹ lan đi “dưới bầu trời đầy mây, trong gió xuân lành lạnh”…

Ở Việt Nam, tác phẩm của Bunin được dịch từ cuối thập niên 80 của thế kỉ XX.

Năm 1987, dịch giả Hà Ngọc đã giới thiệu với độc giả Việt những truyện ngắn: Hơi thở

nhẹ, Quý ông từ San Francisco đến, Chiếc cốc đời, Canh khuya, Những quả táo

Antonov… Sau đó, các dịch giả Phan Hồng Giang, Thái Bá Tân bổ sung thêm nhiều tác

phẩm nổi tiếng khác: Trên biển đêm khuya, Rusya, Natali, Lần gặp cuối cùng, Một

2

chuyện tình nhỏ, Kavkaz… Gần đây nhất, dịch giả Nguyễn Thị Kim Hiền đã giới thiệu

những truyện ngắn Galia Ganskaya, Con quạ, Tania, Ở Paris. Vì thế, không khó để tiếp

cận và yêu thích Bunin. Với chúng tôi, tình yêu với Bunin và những truyện ngắn đậm chất

trữ tình của ông cũng xuất phát từ những áng văn đẹp đẽ và sâu lắng đã được chuyển ngữ

ấy.

Bunin trưởng thành trong giai đoạn “Phục Hưng” của văn chương Nga - Thế kỷ

Bạc với rất nhiều trường phái mới xuất hiện. Những người đương thời với Bunin đều dấn

thân vào các cuộc phiêu lưu với chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa đỉnh

cao… Khi viết văn xuôi, Bunin vẫn kế thừa truyền thống vĩ đại của chủ nghĩa hiện thực

Nga, với Lev Tolstoy, Anton Chekhov... đồng thời “âm thầm” đổi mới nó bằng những kỹ

thuật và thủ pháp tự sự của “chủ nghĩa hiện đại”, gia thêm cho nó xúc cảm của một nhà

thơ, để người đọc thậm chí có ấn tượng văn xuôi Bunin “trữ tình hơn cả thơ trữ tình của

chính nhà văn” [theo Gleb Struve - 194; tr. 424]. Các tác phẩm văn xuôi của Bunin, đặc

biệt là truyện ngắn giống như những bài thơ văn xuôi bề mặt thì nhẹ nhàng thanh khiết

nhưng lại chứa đựng “mạch ngầm trữ tình” bên trong, mà nếu khám phá được mạch ngầm

ấy sẽ phần nào hiểu và cảm được tâm hồn Nga rất Nga của nhà văn lưu vong trên đất

Pháp. Tuy nhiên chính “mạch ngầm trữ tình” này khiến cho việc “tiếp cận” truyện ngắn

của ông không dễ dàng như thưởng thức chúng. Cần có cả cái nhìn tự sự và trữ tình kết

hợp với trực giác nghệ thuật khi đi sâu nghiên cứu truyện ngắn Bunin nói riêng và văn

xuôi Bunin nói chung.

Câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để giúp người khác cũng thấy được sức quyến rũ của

truyện ngắn Bunin, làm thế nào để làm nổi bật cái hay, cái tài của nhà văn, làm thế nào để

chỉ ra được “chất” Bunin? Đó là điều không dễ dàng. Chúng tôi lựa chọn đề tài Tính trữ

tình trong truyện ngắn của Ivan Bunin, gắng sức trả lời những câu hỏi khó khăn trên, để

bày tỏ tình yêu với văn học Nga, với nhà văn Ivan Bunin, góp một tiếng nói vào việc giới

thiệu, nghiên cứu Bunin ở Việt Nam, đồng thời mong muốn có những đóng góp nhất định

vào việc nghiên cứu, giảng dạy về hiện tượng giao thoa thể loại trong văn học nói chung.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3

Mục đích nghiên cứu của chúng tôi trong luận án này là làm sáng tỏ tính trữ tình

trong truyện ngắn Ivan Bunin, từ khái niệm tính trữ tình cho đến những yếu tố biểu hiện

tính trữ tình trong truyện ngắn (cả những yếu tố thuộc về nội dung tư tưởng và hình thức

nghệ thuật); qua đó xác định mối liên hệ của tính trữ tình với chiều sâu tư tưởng cũng như

phong cách nghệ thuật của nhà văn, hay nói cách khác là làm rõ “chất” Bunin trong văn

xuôi Nga và thế giới, xác định những đóng góp của Bunin cho sự phát triển của văn học

thế giới, cũng như tiếng vọng sáng tác của ông vào đời sống văn học đương đại.

Để thực hiện được mục đích trên, chúng tôi đề ra những nhiệm vụ cụ thể sau:

- Xác định những yếu tố tạo ấn tượng trữ tình trên bình diện tổ chức ngôn từ, hình

tượng sự vật như sự gia tăng xúc cảm, tăng cường nhạc tính, thi vị hóa lời văn trong

truyện ngắn Bunnin.

- Tìm hiểu đặc trưng biểu hiện của các dạng thức chủ thể trữ tình (người kể

chuyện, nhân vật) và những đối tượng chủ yếu khơi dậy xúc cảm trữ tình trong truyện

ngắn của Bunin; qua đó phần nào xác định cảm hứng chủ đạo kết nối tác giả - nhân vật –

người đọc trong tác phẩm.

- Làm sáng tỏ các mô thức thức cảm xúc – sự kiện, cũng như các kiểu cốt truyện

trữ tình trong tổ chức trần thuật của truyện ngắn Bunin; xác định cảm thức bi hoài toát lên

từ các truyện ngắn Bunin như nguồn mạch trữ tình chủ yếu bắt nguồn từ cảm quan nghệ

thuật của nhà văn; từ đó xác định phong cách truyện ngắn trữ tình của nhà văn cũng như

những đóng góp của Bunin trong cách tân thể loại truyện ngắn.

3. Đối tƣợng, phạm vi tƣ liệu nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các truyện ngắn của Ivan Bunin. Cụ thể

hơn, chúng tôi đi sâu nghiên cứu tính trữ tình như nét đặc trưng cho phong cách truyện

ngắn của Bunin để thấy được tài năng cùng phong cách nghệ thuật tinh tế trong cá tính

sáng tạo của nhà văn, phần nào chỉ ra được cơ chế hòa hợp của chất trữ tình trong tác

phẩm tự sự. Đặc biệt, qua việc tìm hiểu tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin, chúng tôi

muốn khẳng định “truyền thống trữ tình” trong sáng tác của các nhà văn Nga từ cổ điển

cho đến hiện đại. Đây cũng là một giá trị riêng của nền văn học đồ sộ này.

4

3.2. Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu

Truyện ngắn chiếm một số lượng rất lớn trong sự nghiệp của Ivan Bunin. Suốt

cuộc đời cầm bút, ông đã để lại 21 tập truyện ngắn và truyện vừa. Trong số đó mới chỉ có

34 truyện ngắn được dịch sang tiếng Việt. Đây là một con số rất khiêm tốn. Trong quá

trình thực hiện luận án, chúng tôi ưu tiên đi sâu nghiên cứu những truyện ngắn theo chúng

tôi là tiêu biểu nhất cho phong cách của Bunin (kết hợp với đánh giá của các nhà nghiên

cứu trong và ngoài nước thông qua các sách, tạp chí và dựa trên tiêu chí những tác phẩm

được chọn dịch ở phương Tây và Việt Nam). Đó là những tác phẩm nằm trong các tập:

Những truyện ngắn 1892-1901; Những truyện ngắn, truyện vừa 1902-1910; Những

truyện ngắn, truyện vừa 1911-1914; Nước vô biên (1914-1926), Ngữ pháp tình yêu

(1914-1926), Cây thần/ Cây Thiên Chúa (1927-1931), Những lối đi dưới hàng cây sẫm

tối (1938-1953), Những truyện ngắn những năm cuối đời (1931-1952). Ngoài ra còn có

những truyện ngắn không được đưa vào các tuyển tập xen kẽ giữa các giai đoạn trên.

Văn bản chúng tôi sử dụng trong luận án:

-Văn bản tiếng Nga: Бунин И.А. (2006) Полное собрание сочинений в ХIII

томах, “Воскресенье”, Москва [99]. Truyện ngắn của Bunin tập trung ở các tập 1, 2, 3,

4, 5, 6 gồm 188 tác phẩm.

- Văn bản tiếng Việt:

+ I.A.Bunin, Tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, H., 2002 (Phan Hồng Giang giới

thiệu, Hà Ngọc, Phan Hồng Giang, Thái Bá Tân, Hữu Việt, Đoàn Tuấn dịch từ nguyên

bản tiếng Nga).

+ Ivan Bunin, Những lối đi dưới hàng cây tăm tối, Nxb Văn học - Nhã Nam, H.,

2006. In lại từ Ivan Bunin, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học; H., 1987 (Hà Ngọc dịch

và giới thiệu).

+ Ivan Bunin, Hơi thở nhẹ, Nxb Hội Nhà văn, H., 2006. In lại từ Ivan Bunin, Nàng

Lika, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, H., 1988 (Phan Hồng Giang dịch và

giới thiệu).

+ Truyện ngắn Bunin trên Tạp chí Văn học nước ngoài số 6/2003.

+ Truyện ngắn Bunin trên Tạp chí Văn học nước ngoài số 10/2011.

5

+ Truyện ngắn của Ivan Bunin trên internet (Nguyễn Thị Kim Hiền dịch).

- Văn bản tiếng Anh:

+ Bunin I. (2007), Collected Stories, Ivan R.Dee Chicago Publisher, Chicago,

USA, (Graham Heltlinger translated).

+ Bunin I. (2008), Dark Avenues, Oneworld Classic publisher, London, United

Kingdom, (Hugh Aplin translated).

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án triển khai hướng tiếp cận chủ đạo là tiếp cận hệ thống kết hợp với tiếp

cận lịch sử - văn hóa. Chúng tôi xem xét các truyện ngắn của Bunin không chỉ như các

tiểu hệ thống với tính chỉnh thể của nó, mà còn nghiên cứu loại hình hóa các tác phẩm này

trong toàn bộ hệ thống sáng tác của Bunin với các mối quan hệ bên trong và bên ngoài

liên quan đến các vấn đề tiểu sử, bối cảnh văn hóa – xã hội – lịch sử. Sáng tác của Ivan

Bunin trải qua hai giai đoạn được phân định rõ ràng: trước và sau Cách mạng Tháng

Mười. Chúng tôi xem xét cả hai giai đoạn sáng tác truyện ngắn này cùng với mảng sáng

tác thơ trong cùng một hệ thống phong cách nghệ thuật tuy có những nét đặc trưng riêng,

có biến đổi, song vẫn có thể xác định được đặc điểm chung làm nên một thế giới nghệ

thuật nhất quán.

Cơ sở lí thuyết cho nghiên cứu của chúng tôi là vấn đề vừa mang tính chất khoa

học vừa mang tính chất mĩ học: tính trữ tình. Xem xét những vấn đề nội hàm của thuật

ngữ trên cả hai phương diện cho phép chúng tôi có một cái nhìn vừa bao quát vừa cụ thể

về đặc trưng này trong văn học, cụ thể ở đây là truyện ngắn của Bunin. Truyện ngắn của

Bunin dù đậm tính trữ tình, vẫn thuộc thể loại tự sự. Bởi thế đối tượng đặc biệt này cần

được soi chiếu từ góc độ lí thuyết tự sự. Chúng tôi kết hợp vận dụng hướng nghiên cứu

thi pháp học với lí thuyết trần thuật học hiện đại làm nền tảng cho những nghiên cứu

của mình. Theo chúng tôi, việc sử dụng các lí thuyết này trong việc nghiên cứu truyện

ngắn của Ivan Bunin là hợp lí và khả thi, bởi những truyện ngắn của Bunin, dù được coi

là tiếp nối truyền thống hiện thực cổ điển của văn học Nga thế kỷ XIX, vẫn rất mới mẻ và

hiện đại.

Trong luận án, chúng tôi còn sử dụng những thao tác nghiên cứu cụ thể sau:

6

- Thống kê – phân loại: khảo sát, thống kê, phân loại các dạng thức người kể

chuyện, các mô thức cảm xúc trữ tình, các dạng thức cốt truyện và các dạng thức điệp

trong tác phẩm.

- Phân tích – tổng hợp (văn học và ngôn ngữ học): được sử dụng trong việc làm rõ

giá trị cũng như chức năng thẩm mĩ cùng ý nghĩa của những thủ pháp, những phương

thức nghệ thuật của Bunin trong truyện ngắn.

- So sánh – đối chiếu: là thao tác cần thiết trong việc xác định nét đặc trưng của

tính trữ tình trong văn xuôi Bunin với tính trữ tình của các nhà văn trước ông, những nhà

văn cùng thời và những nhà văn sau ông.

5. Giới thuyết khái niệm

5.1. Khái niệm “tính trữ tình”

Điểm mấu chốt trong đề tài Tính trữ tình trong truyện ngắn Ivan Bunin là xác định

nội hàm khái niệm tính trữ tình và đặc trưng tính trữ tình trong truyện ngắn, trên cơ sở đó

phân tích, lí giải những biểu hiện của tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin. Đây là một

việc làm không dễ dàng, bởi trong các Từ điển tiếng Việt, Từ điển thuật ngữ văn học ở

Việt Nam, khái niệm tính trữ tình không được các nhà nghiên cứu, biên soạn đưa vào

thành một mục từ độc lập. Chúng ta chỉ gặp thuật ngữ “trữ tình”, “thơ trữ tình”, “nhân vật

trữ tình”. Vì vậy, để xác định nội hàm khái niệm tính trữ tình, chúng tôi dựa vào nội dung

khái niệm tương đương trong các từ điển tiếng Nga và tiếng Anh, từ đó trình bày cách

hiểu về thuật ngữ tính trữ tình cũng như những biểu hiện cơ bản của tính trữ tình trong

truyện ngắn nói chung và truyện ngắn Ivan Bunin nói riêng.

Theo các từ điển Thuật ngữ Văn học – Mĩ học Nga – Pháp – Việt, Từ điển Anh –

Nga, Từ điển Anh – Việt, thuật ngữ tính trữ tình/tính chất trữ tình tương đương với thuật

ngữ лиризм trong tiếng Nga và lyricism trong tiếng Anh. Thực tế, лиризм và lyricism

được các từ điển trên giải thích sang tiếng Việt tương đương với thuật ngữ tính chất trữ

tình, (tính chất) trữ tình, tính trữ tình. Ở đây, chúng tôi thống nhất sử dụng ba thuật ngữ

tính trữ tình - лиризм - lyricism trong cùng một nội hàm ý nghĩa mà chúng tôi sẽ giải

thích cụ thể dưới đây.

7

Trước hết, chúng tôi chủ ý lựa chọn thuật ngữ tính trữ tình chứ không phải thuật

ngữ chất trữ tình hay tính chất trữ tình. Căn cứ vào nghĩa từ nguyên của “tính”, “chất” và

“tính chất” theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh (“Tính: Nguyên lí sở dĩ sinh ra

người – Bản nguyên về tinh thần của người – Bản chất của người hoặc của vật”. Tính

được dùng với nội hàm ý nghĩa cụ thể hơn, đầy đủ hơn so với chất (với nghĩa tính chất)

và tính chất (với nghĩa bản tính) [1; tr. 400]), chúng tôi nhận thấy: Tính là bản chất, thuộc

tính của con người hoặc sự vật, giúp phân biệt con người này với con người khác, sự vật

này với sự vật khác. Tính về cơ bản đồng nghĩa với chất và tính chất, tuy nhiên thuật ngữ

tính gợi ra sự liên kết cao độ trong hệ thống của các yếu tố, thiên về định tính và khái

quát, còn thuật ngữ chất và tính chất thiên về sự thống kê cụ thể các yếu tố của hệ thống,

thiên về tính định lượng và tổng kết. Tính mang nội hàm khái niệm danh từ (xét về mặt từ

loại) cao hơn chất và tính chất (thiên về nội hàm tính từ). Do đó dùng thuật ngữ tính sẽ

chỉ ra được mức độ liên kết sâu sắc mang bản chất của các yếu tố làm nên sự vật, đồng

thời cho thấy sự sáng tạo, khoa học và khái quát cao hơn trong nghiên cứu một đối tượng

khoa học.

Tìm hiểu nội hàm khái niệm của thuật ngữ tính trữ tình - лиризм và lyricism,

chúng tôi nhận thấy thuật ngữ này được nhìn nhận dưới nhiều góc độ ý nghĩa phong phú,

nhưng tương đối thống nhất.

Trong tiếng Anh (American English) lyricism được hiểu theo hai nghĩa: 1. Đặc

điểm hay phong cách trữ tình, thường trong thơ. 2. Cảm xúc trữ tình, nhiệt tình, đặc biệt

khi cảm xúc không bị kiềm chế hay khi cảm xúc thái quá [The Random House

Unabridged Dictionary, 189]. British Dictionary cũng xác định lyricism là: 1. Phẩm chất,

đặc tính hay phong cách của thơ ca trữ tình. 2. Sự dạt dào của tình cảm hay lòng nhiệt tình

[Collins English Dictionary, 189].

Còn trong Từ điển Nga - Nga, лиризм được giải thích: 1. Sự xúc cảm, sự tha thiết,

xúc động của thơ ca (trong tác phẩm nghệ thuật). 2. Bản chất trữ tình, tâm trạng/ tư tưởng

trữ tình [110; tập 2, tr. 187]. Từ điển Tiếng Nga của Ozhegov thì khẳng định лиризм. 1.

Đặc trưng trữ tình, nội dung trữ tình. 2. Sự nhạy cảm với cảm xúc của tâm trạng, sự mềm

mại và tinh tế của cảm xúc [144; tr. 279]. Như vậy, bản thân thuật ngữ tính trữ tình trong

8

các ngôn ngữ nước ngoài cũng nhấn mạnh khía cạnh tình cảm, cảm xúc được biểu hiện

mạnh mẽ, tinh tế, nhạy cảm đặc biệt trong các tác phẩm nghệ thuật, phổ biến là thơ ca.

Với tư cách là một thuật ngữ văn học, лиризм được định nghĩa như sau: Là một

phạm trù thẩm mĩ, một dạng đặc trưng đặc biệt của tư duy nghệ thuật, trong đó nổi trội là

sự/nỗi xúc cảm thầm kín và riêng tư của con người [150]. Đặc biệt, cảm xúc, cảm giác,

tâm trạng của nhân vật và của tác giả tác phẩm văn học thuộc “phạm trù лиризм” được

biểu lộ một cách trực tiếp và mở [89].

Theo các từ điển ngôn ngữ Nga và các từ điển thuật ngữ văn học của Nga, nghĩa

của лиризм xuất phát từ лирика, лиризм gần với thuật ngữ лиричность (chất trữ tình).

Theo chúng tôi khảo sát, thuật ngữ лиризм được sử dụng với ý nghĩa chủ động hơn, phổ

quát hơn, mang tính quan niệm của tác giả hơn là thuật ngữ лиричность được sử dụng để

chỉ chất trữ tình thường không mang tính đặc thù cho một phong cách. Bởi vậy, chúng tôi

lựa chọn лиризм thay vì лиричность. Tìm hiểu từ nguyên của лиризм, chúng tôi cũng

khảo sát nội hàm ý nghĩa của thuật ngữ лирика để từ đó đưa ra được những nét đặc trưng

được coi là tiêu chí cho tính trữ tình лиризм.

Trước hết, trong Từ điển Nga - Nga, лирика có ba ý nghĩa: 1. Một trong ba

loại/phương thức cơ bản của văn học nghệ thuật, trong đó thực tế được phản ánh một cách

sâu sắc thông qua những cảm xúc tha thiết, tư tưởng và tâm trạng của tác giả. Là yếu tố

cảm xúc trong tác phẩm của một nhà văn. 2. Một thể loại văn học, cụ thể thơ trữ tình. 3. Tính đa cảm, đa tình, dễ cảm, dễ xúc động [110; tập 2; tr. 186].

Trong các Từ điển thuật ngữ văn học, лирика được phân tích trên các khía cạnh:

- Trữ tình là sự biểu hiện của cảm xúc, nhân vật chính của nó là tình cảm, nó sẽ

hiển thị những xúc cảm của trái tim, tất cả những giai điệu của âm nhạc tâm hồn.

- Nhà thơ trữ tình trong tính chủ quan của mình buộc phải hiểu mình và làm mê

đắm những người khác, làm mê đắm tất cả mọi người; đó chính là một trong những nét

quyến rũ nhất của anh ta: nói về mình, kể về mình, anh ta cũng đồng thời nói với chúng

ta, anh ta làm cho độc giả cũng hiểu tình cảm của anh ta; tâm hồn nhà thơ-tâm hồn nhân

loại, và ở đây cái chủ quan hòa làm một với vẻ đẹp kỳ diệu của cái khách quan.

- Trong một bài thơ trữ tình, đặc biệt quan trọng là âm nhạc của câu thơ, giai điệu;

âm nhạc và giai điệu này thấm vào ngôn từ của bài thơ đó. Và thứ âm nhạc này không

9

đơn giản giống như hành động đệm đàn, hay thậm chí chỉ là một yếu tố phụ bên ngoài, có

thể có hoặc không. Không, nó là một phần không thể thiếu của bài thơ, một trong những

yếu tố quan trọng nhất thuộc về bản chất bên trong của thơ. Shiller cho rằng âm nhạc

trong nhiều bài thơ trữ tình của ông xuất hiện trong tâm hồn của ông trước khi văn bản

thành hình. Đáng chú ý là, khi tính trữ tình thẩm thấu/thâm nhập vào không chỉ những câu

thơ, mà còn văn xuôi, nó sẽ biểu lộ/ làm nên tính giai điệu rõ rệt, và nó gắn tất cả vào

cùng một bản nhạc.

- Nhà thơ trữ tình cảm nhận được chất thơ trong chính mình và trong cả thế giới

rộng lớn bên ngoài, do đó trong thơ của mình, anh ta giải quyết được các vấn đề phổ quát

của thế giới và chính mình, thống nhất thực tế khách quan và thực tại tâm lí thành một thể

thống nhất hữu cơ.

Những sự phân tích trên của các học giả người Nga (Iu.Podolsky và N.Iu.Rusova)

trong Từ điển thuật ngữ Văn học [94], [150] cho thấy một cái nhìn tổng thể về phương

thức trữ tình như là một trong ba phương thức biểu hiện cơ bản nhất của văn học, đồng

thời tập trung khẳng định thể loại thơ trữ tình với tư cách là thể loại biểu hiện tính trữ tình

đậm đặc nhất.

Ở Việt Nam, thuật ngữ “trữ tình” cũng được giải thích rất cụ thể thông qua cách

kết hợp nghĩa từ nguyên với lịch sử phát triển của các hình thái, các phương thức biểu đạt

của văn học. Trữ tình là “một trong ba phương thức thể hiện đời sống (bên cạnh tự sự và

kịch), làm cơ sở cho một loại tác phẩm văn học. Nếu tự sự thể hiện tư tưởng, tình cảm của

tác giả bằng con đường tái hiện lại một cách khách quan các hiện tượng đời sống, thì trữ

tình lại phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con

người tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với

thế giới và nhân sinh” [33; tr. 373]. Những nét đặc trưng nhất của phương thức trữ tình

được các nhà nghiên cứu nhấn mạnh trên các khía cạnh:

- Nguyên tắc chiếm lĩnh hiện thực: nguyên tắc chủ quan là nhân tố cơ bản quy định

những đặc điểm cốt yếu của tác phẩm trữ tình.

- Tác phẩm trữ tình thể hiện tâm trạng. Do đó nó thường không có cốt truyện, hiểu

theo nghĩa chặt chẽ của từ này và dung lượng thường ngắn.

10

- “Cái tôi” trữ tình giữ vị trí đặc biệt quan trọng vì nó là nguồn trực tiếp duy nhất

của nội dung tác phẩm. “Cái tôi” trữ tình thường xuất hiện dưới dạng nhân vật trữ tình.

- Xúc cảm trong tác phẩm trữ tình bao giờ cũng là xúc cảm đương đại. Ngay cả khi

tác phẩm trữ tình nói về quá khứ, về những chuyện đã qua, xúc cảm trữ tình vẫn thể hiện

như một trạng thái sống động, một quá trình đang diễn ra.

- Tác phẩm trữ tình thâm nhập vào những chân lí phổ biến nhất của tồn tại con

người như sống, chết, tình yêu, lòng chung thủy, ước mơ, tương lai, hi vọng.

- Lời văn của tác phẩm trữ tình phải hàm súc, giàu nhịp điệu.

Tác phẩm trữ tình bao gồm thơ trữ tình và văn xuôi trữ tình. Tuy nhiên, thơ trữ tình

vẫn chiếm ưu thế và thể hiện được đầy đủ nhất những đặc trưng của thể loại này. Căn cứ

vào các đặc điểm trên, các tác phẩm được coi là trữ tình trước hết phải là các tác phẩm

giàu xúc cảm, ngôn từ giàu hình ảnh và nhịp điệu, bộc lộ ý thức cá nhân sâu sắc của tác

giả trước các vấn đề mang tính phổ quát về sự tồn tại con người, đồng thời lôi cuốn người

đọc hòa vào dòng xúc cảm, suy tưởng về những vấn đề ấy,.

Trong cuốn Tính trữ tình của văn xuôi Nga những năm 30 của thế kỷ XIX nhà

nghiên cứu V. Ostaptseva, viện dẫn ý kiến của M. Kniazeva trong luận án Tính trữ tình

như một loại hình cảm hứng chủ đạo, đặc biệt nhấn mạnh chủ quan tính, khẳng định tính

trữ tình trước hết là “khởi nguồn mang tính cá nhân được ý thức, được biểu lộ qua nhân

vật trữ tình, và công khai thể hiện chủ quan tính của tác giả” [145; tr. 4]. Cũng cùng quan

điểm với Ostaptseva, Luo Sichen trong bài viết Phạm trù tính trữ tình trong văn xuôi của

Bunin (khía cạnh ngôn ngữ) dẫn ý kiến của Epishkin khẳng định hai nét nghĩa của tính trữ

tình: “sự xúc động, cảm xúc, sự chân tình trong tác phẩm nghệ thuật” và “tâm trạng trữ

tình” [128; tr. 419]. Tác giả bài viết cũng liệt kê cụ thể những dấu hiệu của tính trữ tình:

cảm xúc của tác giả trong tác phẩm; tâm trạng trữ tình của tác giả thể hiện trong tác phẩm;

lời của chủ thể trữ tình hay nhân vật; yếu tố kết cấu và ngôn ngữ của văn bản thơ ca phục

vụ cho việc truyền đạt tâm trạng trữ tình; tinh thần trữ tình thể hiện trong những tác phẩm

văn xuôi của tác giả làm cho chúng gần với thi ca về phương diện xúc cảm – hình tượng

[128; tr. 419].

Từ tất cả những lí giải trên về thuật ngữ лирика, лиризм, lyricism chúng tôi đưa ra

cách hiểu của mình về thuật ngữ tính trữ tình: tính trữ tình là một phạm trù thẩm mĩ, một

11

dạng đặc trưng đặc biệt của tư duy nghệ thuật, trong đó nổi trội là nỗi xúc cảm thầm kín

và riêng tư của con người được thể hiện trực tiếp và cảm nhận một cách tương đối thống

nhất trong mối quan hệ đồng điệu tác giả - nhân vật - người đọc. Cụ thể hơn, những tiêu

chí của tính trữ tình trong tác phẩm gồm có: tình cảm, cảm xúc là yếu tố quan trọng hàng

đầu, nhân vật trữ tình nói về mình nhưng biểu lộ được tất cả những gì thầm kín nhất, sâu

sắc nhất, phổ quát nhất cho toàn nhân loại, âm nhạc và nhịp điệu là thành tố không thể

thiếu, thiên nhiên và thế giới bên ngoài hòa hợp với thế giới bên trong tâm hồn con người

và quan trọng nhất là tác giả, trong tính chủ quan của mình “buộc phải hiểu mình và làm

mê đắm những người khác, làm mê đắm tất cả mọi người”, cuốn người đọc vào dòng xúc

cảm của mình và của nhân vật trong tác phẩm. Sự thống nhất xúc cảm của ba chủ thể

thẩm mỹ này làm nên sự quyến rũ đậm tính trữ tình cho tác phẩm.

5.2. Đặc trƣng tính trữ tình trong truyện ngắn

Như đã phân tích ở trên, phương thức trữ tình, theo cấu trúc ngôn từ, bao hàm

trong nó cả thể loại thơ và văn xuôi. Thực tế, rất nhiều sáng tác của các cây bút văn xuôi

mang đậm yếu tố trữ tình và thường được gọi chung là văn xuôi trữ tình. V.I. Maslovsky

trong Từ điển Bách khoa toàn thư văn học (1987) của Nga có xem xét văn xuôi trữ tình -

лирическая проза như “một biến thể phong cách của văn xuôi nghệ thuật”, trong đó

“đồng thời tồn tại cả những yếu tố loại hình của tự sự, cũng như trữ tình. Thừa hưởng từ

tự sự những biểu hiện nhất định của cốt truyện, nhiều nhân vật, những yếu tố tính cách

hoá nhân vật và lời văn không vần điệu ngoại trừ một số ít trường hợp. Thừa hưởng từ trữ

tình,- sự góp mặt của chủ thể trần thuật (tác giả, người kể chuyện, nhân vật), điểm nhấn

cực đoan của những tình tiết hay những từ ngữ cụ thể biểu cảm, và cả sự tăng cường vai

trò quan trọng đặc biệt của những leitmotiv chủ đạo, trong bối cảnh cốt truyện suy yếu,

những leitmotiv này trở thành yếu tố kiến tạo. Sự thẩm thấu vào nhau của chất tự sự và

trữ tình trong văn xuôi trữ tình được bảo đảm bởi vai trò đặc biệt của chủ thể trần thuật,

về nguyên tắc, trở thành trung tâm kết cấu tác phẩm. Những yếu tố tự sự (sự kiện, tính

cách) hoà trong dòng chảy dào dạt của những liên tưởng, trữ tình ngoại đề, dường như

dịch chuyển vào bên trong tâm thức trần thuật và được hoàn kết bởi chỉnh thể tâm thức

12

đó” [121; tr. 185]. Như vậy, văn xuôi trữ tình là sự hài hòa của văn xuôi và thơ, của tính

tự sự và tính trữ tình.

Ở đây chúng tôi muốn nói đến truyện ngắn, thể loại tiêu biểu thuộc phương thức tự

sự trong tương quan với thơ, là thể loại tiêu biểu thuộc phương thức trữ tình. Đặc trưng

của truyện ngắn là “khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ

nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người”. Nhân vật truyện ngắn thường hiện thân

cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội, hoặc trạng thái tồn tại của con người.

Truyện ngắn thường có kết cấu đơn tầng, đơn tuyến, thường được xây dựng theo nguyên

tắc “liên tưởng” hoặc “tương phản” chứ không đa tầng, nhiều tuyến. Cốt truyện của

truyện ngắn thường là một lát cắt của cuộc sống thường ngày, diễn ra trong thời gian và

không gian hạn chế với chức năng khám phá một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình

người. Yếu tố quan trọng nhất trong truyện ngắn là những chi tiết cô đọng, giàu ý nghĩa

biểu đạt và nhiều ẩn ý [33; tr. 371]. Còn đặc trưng của thơ là “hình thức sáng tác văn học

phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những xúc cảm mạnh mẽ bằng ngôn ngữ

hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” [33; tr. 309]. Truyện ngắn trữ tình, như

một bộ phận của văn xuôi trữ tình, cũng mang đặc trưng cơ bản nhất của thể loại này, đó

là sự chi phối của cảm xúc tới các yếu tố của phương thức tự sự như đã nói ở trên, đặc

biệt là cốt truyện và ngôn từ. Nếu văn xuôi trữ tình là sự hài hòa của văn xuôi và thơ, của

tính tự sự và tính trữ tình thì truyện ngắn trữ tình cũng chứa đựng trong nó sự hài hòa đó.

Do đó, xem xét tính trữ tình trong truyện ngắn, trước hết chúng tôi khẳng định bản chất tự

sự của thể loại này và xem xét sự “biến đổi” của chúng dưới tác động của những đặc

trưng của tính trữ tình như là phong cách, là “chất”, là “cá tính sáng tạo” của nhà văn.

Tính trữ tình trong truyện ngắn, như vậy, nói một cách chính xác, là sự hòa hợp

của yếu tố thơ trong văn xuôi, của phương thức trữ tình trong phương thức tự sự, của cảm

xúc trong cốt truyện, tình huống, của âm điệu, nhịp điệu trong lời văn, của cái chủ quan

trong cái khách quan của hiện thực. Vì thế, bên cạnh việc làm rõ những đặc trưng tự sự,

cần làm rõ cả những yếu tố trữ tình được biểu hiện trong tác phẩm (tình cảm chủ đạo,

nhân vật, ngôn ngữ...) và nguyên tắc liên kết, hòa hợp những yếu tố đó của tác giả.

Trong luận án Những hình thức và chức năng của tính trữ tình trong văn xuôi

I.A.Bunin những năm 1920, tác giả Elena Kapinos khẳng định quan điểm của Shmid về

13

những tiêu chí của tính trữ tình trong văn xuôi, khiến nó gần với thơ: “cự tuyệt kết cấu

tuyến tính”, “biểu tượng của cảnh và các chi tiết”, “nguyên tắc liên kết các thành tố”, “lắp

ghép”, “giàu ẩn ý”, “sự đa dạng của nhịp điệu và hình ảnh”, “kết hợp hình tượng tạo hình

– hội họa – cảm xúc với sự tổng hợp nhiều nghệ thuật khác”, “sự tương tác các thành tố

khác nhau trong thể loại” [118]. Nhà nghiên cứu Ostaptseva trong cuốn Tính trữ tình của

văn xuôi Nga những năm 30 của thế kỷ XIX [145] cũng đã tổng kết những yếu tố làm nên

tính trữ tình trong một tác phẩm văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Đó là: tính

chủ quan hay tính cá nhân; thiên nhiên và sự hợp nhất con người – thiên nhiên; sự hài hòa

giữa cái hữu hạn – cái vô hạn, giữa thời gian – vĩnh hằng, khoảnh khắc – vĩnh cửu; cảm

xúc và các motif cảm xúc; nhịp điệu (ngữ âm, cú pháp, kết cấu khung); các thủ pháp âm

nhạc; các ngụ ý, biểu tượng, “âm bản” – “ý nghĩa ngầm” của văn bản. Về cơ bản, trong

quan điểm của các tác giả nói trên đều có những sự trùng hợp nhất định, góp phần tạo nên

sự thống nhất cao độ trong việc xác định những yếu tố làm nên tính trữ tình trong truyện

ngắn. Có thể nói đó là những tiêu chí cơ bản giúp một tác phẩm nghệ thuật tự sự mang

đậm dấu ấn trữ tình. Tuy nhiên, đối với từng nhà văn, từng tác phẩm, những biểu hiện của

tính trữ tình lại không hoàn toàn giống nhau, điều đó phụ thuộc vào cá tính, khí chất và tài

năng của mỗi người.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

- Ý nghĩa khoa học: Luận án sẽ đóng góp vào việc nghiên cứu chuyên sâu một tác

gia lớn của văn học thế giới - Ivan Bunin, góp phần mở rộng và khơi sâu những nghiên

cứu về văn học Nga ở Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu tính trữ tình trong truyện

ngắn của Bunin, luận án cho thấy ý nghĩa của hiện tượng giao thoa, tổng hoà giữa các thể

loại tự sự và trữ tình như biểu hiện quan trọng trong khuynh hướng sáng tạo nghệ thuật

của chủ nghĩa hiện đại đầu thế kỷ XX, góp phần xác lập phương pháp nghiên cứu tính trữ

tình trong văn xuôi nước ngoài. Phương pháp, những kết quả và kinh nghiệm nghiên cứu

của luận án có thể ứng dụng vào nghiên cứu văn xuôi trữ tình trong văn học Việt Nam.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án sẽ là công trình tham khảo hữu ích đối với sinh viên,

học viên các ngành ngữ văn cả trong quá trình nghiên cứu khoa học, học tập và giảng dạy,

góp phần vào công cuộc đổi mới nghiên cứu và dạy học ngữ văn trong nhà trường. Đây

14

cũng là tài liệu tham khảo cho các giáo viên văn học trong việc mở rộng vốn tri thức về

các nhà văn Nga hiện đại, về văn học Nga thế kỷ XX. Từ đó, mở rộng vốn hiểu biết về

một nền văn học vĩ đại của thế giới cho đối tượng học sinh, bồi đắp tình yêu thiên nhiên,

văn hóa và cái đẹp, nuôi dưỡng sự phong phú của tâm hồn.

7. Đóng góp mới của luận án

Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam đi sâu nghiên cứu trực tiếp tính trữ tình

trong truyện ngắn của Ivan Bunin một cách có hệ thống.

Luận án là sự kết hợp một cách mới mẻ và hứa hẹn nhiều thành tựu của thi pháp

học, trần thuật học hiện đại và lí thuyết về tính trữ tình.

Luận án là công trình đầu tiên chỉ ra những nét đặc trưng phong cách của nhà văn

Nga đầu tiên đạt giải Nobel Ivan Bunin, giúp người đọc hiểu thêm về một cây bút kiệt

xuất của truyện ngắn Nga và thế giới, góp thêm vào danh sách những tác giả văn học Nga

được đọc và được nghiên cứu ở Việt Nam.

8. Cấu trúc luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4

chương:

- Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu

- Chương 2: Ấn tượng lời văn trữ tình

- Chương 3: Chủ thể và đối tượng trữ tình

- Chương 4: Cốt truyện trữ tình và cảm thức bi hoài

9. Lƣu ý

Những trích dẫn chúng tôi đưa vào trong luận án gồm cả những tác phẩm của

Bunin đã được dịch ra tiếng Việt và cả những tác phẩm chưa được dịch. Những văn bản

ghi nguồn trích từ bộ Toàn tập Bunin bằng tiếng Nga đều do chúng tôi tự dịch. Tương tự

với những tài liệu tham khảo bằng tiếng Nga và tiếng Anh được trích dẫn trong luận án.

15

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

So với các nhà văn Nga hải ngoại khác, Bunin được “trở về” Tổ quốc tương đối

sớm hơn. Sau khi Bunin qua đời (1953), cuốn Toàn tập Bunin đầu tiên và đầy đủ nhất

(tính đến thời điểm đó) được xuất bản ở Nga năm 1965 dưới sự chủ trì và đấu tranh kiên

định của nhà thơ A.Tvardovsky đã minh chứng cho điều này. Từ đó đến nay, sức hấp dẫn

của Bunin ở Nga và trên thế giới không hề giảm, số lượng những tác phẩm của ông và

những công trình nghiên cứu về ông được xuất bản và công bố cả ở trong và ngoài nước

Nga rất phong phú.

Ở Việt Nam, 14 truyện ngắn đầu tiên của Bunin được dịch sang tiếng Việt năm

1987 (Nàng Lika được in cùng tập truyện ngắn nhưng thực chất là trích tiểu thuyết Cuộc

đời Arseniev). Đến nay có thêm 20 truyện khác được dịch và công bố (chưa tính những

tác phẩm nhiều hơn một người dịch). Số lượng các tác phẩm bổ sung sau gần 30 năm như

vậy là không nhiều. Số lượng các công trình nghiên cứu trên các báo, tạp chí, sách tham

khảo, giáo trình cũng không thực sự chuyên sâu, tất cả chỉ dừng ở mức giới thiệu.

Trong quá trình thực hiện luận án Tính trữ tình trong truyện ngắn Ivan Bunin,

trong khả năng ngoại ngữ của mình, chúng tôi đã tích cực tìm kiếm các tư liệu (sách, báo,

tạp chí, internet) về Ivan Bunin, về truyện ngắn và tính trữ tình trong văn chương của ông

trong khối lượng đồ sộ các công trình nghiên cứu về nhà văn bằng tiếng Nga và tiếng

Anh. Các tài liệu chúng tôi khai thác được cho thấy một cái nhìn toàn diện về Bunin từ

các khía cạnh: tiểu sử, giải Nobel, vị trí và tầm ảnh hưởng, những nghiên cứu cụ thể về

thơ, truyện ngắn và truyện vừa, tiểu thuyết. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài của mình,

chúng tôi chỉ đề cập những tư liệu liên quan đến truyện ngắn Bunin cũng như những tư

liệu có giá trị lí giải những ảnh hưởng tới quá trình sáng tác truyện ngắn của nhà văn.

Chúng tôi lưu ý đặc biệt tới những tư liệu nghiên cứu có liên quan hay đề cập trực tiếp tới

vấn đề tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin.

1.1. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở Nga

Ở Nga, Ivan Bunin là một trong số những nhà văn Nga thế kỷ XX được giới phê

bình, nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Những công trình nghiên cứu mới nhất cho thấy hứng

16

thú đối với sáng tác của nhà văn không hề suy giảm trong gần hai thập kỷ đương đại của

thế kỷ XXI.

Trước hết phải kể đến những công trình nghiên cứu về tiểu sử I.Bunin. Trang

web bunin.niv.ru với các chuyên mục Tiểu sử, Gia đình, công trình Di sản văn học, tập 84

quyển 1 (1973), cuốn I.A.Bunin – Những chất liệu cho tiểu sử: từ 1870 đến 1917 (1983)

của A.Baboreko, hồi ức Cuộc đời Bunin những năm 1870-1906 (1989) của

V.N.Muromtseva-Bunina, tập hồi ức Bunin và Kuznetsova (2006) cùng hàng loạt cuốn

tiểu sử Bunin của O.Volkov, N.Zakharov, N.Karghina, E.Lavrenova, S.Mussky,

M.Roshin, E.Stepanyan, I.Yanin... đã khắc họa chân dung con người nghệ sĩ nhẹ nhàng,

tinh tế, khoan hòa nhưng rất cứng cỏi, kiên cường của nhà văn, hé lộ bản chất tâm hồn,

chính kiến, quan niệm nghệ thuật và cá tính của nhà văn qua các quan hệ gia đình, xã hội,

những mối quan hệ tình cảm riêng tư, cung cấp những tư liệu như nhật kí, thư từ trao đổi

của Bunin với các văn nghệ sĩ cùng thời, hồi ức của những người thân thiết của nhà văn...

Những công trình này phần nào đưa ra những gợi mở lí giải cá tính sáng tạo, đồng thời hé

lộ bản chất tính trữ tình trong truyện ngắn của nhà văn.

Có một số công trình nghiên cứu đề cập đến cảm quan nghệ thuật của Bunin như

luận án Hiện tượng học nghệ thuật của Ivan Bunin (2001) của Kristian Shlegel, công trình

Thế giới của người nghệ sĩ trong văn xuôi Bunin những năm 1910 (2005) của

L.P.Pozhiganova và Văn xuôi Bunin như một hiện tượng triết học nghệ thuật (2012) của

N.V.Prasheruk. Đáng chú ý hơn cả là luận án Hiện tượng học nghệ thuật của Ivan Bunin

được triển khai trên hai khía cạnh lớn Thế giới hiện tượng của Bunin và Thế giới nghệ

thuật của Bunin. Tác giả luận án đi sâu tìm hiểu quan điểm của Bunin về tôn giáo, về

Thiên Chúa, về mối quan hệ nghệ thuật với đạo đức, về mối quan hệ tâm hồn và thể xác

với nghệ thuật. Từ những quan điểm đó tác giả luận án đi sâu vào thế giới quan của Bunin

trong thơ ca và những hình tượng hiện tượng học trong văn xuôi của ông. Nhà nghiên cứu

khẳng định Bunin không phải là một nhà văn triết học như Lev Tolstoy và Dostoevsky,

“triết học” của Bunin chính là niềm tin chân thành vào cuộc sống, là niềm đam mê vô bờ

với cuộc sống: “Tác phẩm của Bunin hoàn toàn thấm nhuần một niềm tin chân thực vào

cuộc sống, tình yêu, cái đẹp và xúc cảm. Có lẽ, niềm đam mê với cuộc sống của ông là vô

bờ. Có lần ông đã nói về nguyên cớ của điều này: „Tôi phá hủy không gian, thời gian và

17

những khuôn mẫu, tất cả cuộc sống của tôi, một cách có ý thức và không có ý thức. Đó là

niềm đam mê vô bờ bến của tôi đối với cuộc sống, và tôi không chỉ sống cuộc sống hồn

nhiên của mình, mà còn sống cuộc sống của hàng ngàn người khác đang sống ở thời điểm

hiện tại, và những người đã khuất sau màn sương mù hàng trăm năm‟” [172]. Niềm tin đó

được hiện thực hóa bằng những khát khao vĩnh cửu đến từ các chủ đề tình yêu, niềm đam

mê cái đẹp vĩnh cửu và đặc biệt là cái chết. Đó đều là những vấn đề liên quan đến tính trữ

tình trong sáng tác của nhà văn.

Trong kho tàng tư liệu về Bunin ở Nga, có một loạt công trình đi sâu nghiên cứu

mối quan hệ của Bunin với những văn nghệ sĩ nổi tiếng đương thời, thực chất là tiếp cận

từ quan điểm văn học so sánh. Đó là những công trình: A.Ninov, M.Gorky và Ivan

Bunin. Lịch sử mối quan hệ. Những vấn đề sáng tác (1973); Valery Geideko, Anton

Chekhov và Ivan Bunin (1976); Maxim D. Shrayer, Vladimir Nabokov và Ivan Bunin:

Một sự tái thiết/tái cấu trúc trích trong Văn học Nga, tập 43 (1998); Gavriil Simonov,

Liudmila Kovaliova-Ogorodnova, Bunin và Rakhmaninov (2006); N.V.Prasheruk, Văn

xuôi của Ivan Bunin trong cuộc đối thoại với văn xuôi cổ điển Nga (2016)... Những công

trình này so sánh Bunin với các nhà văn trước và cùng thời với ông, tuy không trực tiếp

nhấn mạnh tính trữ tình của Bunin, song lại có nhiều gợi mở cho việc khám phá những

chủ đề, những vấn đề nghệ thuật trong từng tác phẩm cụ thể của Bunin và các nhà văn

khác.

Những công trình nghiên cứu ở Nga về văn xuôi Bunin phần nhiều khẳng định

những cách tân của nhà văn trong khuôn khổ “chủ nghĩa hiện thực mới”. Trong cuốn Ivan

Bunin và văn xuôi của ông (1887—1917) nhà nghiên cứu N.M.Kucherovsky khẳng định

giá trị những tác phẩm viết về nông thôn và làng quê Nga của Bunin. Theo nhà nghiên

cứu, đây là một mảng sáng tác quan trọng làm nên một trong những nhà văn Nga vĩ đại

nhất của thế kỷ XX. Kucherovsky phân tích diễn tiến cái nhìn của nhà văn về người nông

dân Nga: từ bi quan cho đến thấm nhuần đức tin và hy vọng. Cũng theo ông, đây có thể là

kết quả của quá trình tiếp xúc giữa Bunin và Gorky. Trong cuốn Lịch sử văn học Nga tập

4: Văn học Nga cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX (1881-1917), Ivan Bunin được xếp vào

khu vực văn xuôi hiện thực những năm 1910 và được dành hẳn một chương riêng

(chương 19) do nhà nghiên cứu L.V.Krutukova viết. Đáng chú ý nhất là trong nghiên cứu

18

của mình, Krutukova khẳng định Bunin là một trong những cây bút chủ chốt nhất của văn

xuôi hiện thực Nga những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cũng như O. Mikhailov

và một số nhà nghiên cứu khác, Krutukova xếp Bunin vào danh sách những nhà văn “tân

hiện thực” (Неореализм) cùng với các cây bút A.Kuprin, A.Tolstoi, Sergeev-Tsensky,

Zaitsev, A.Remizov. Trong cuốn Văn xuôi của Bunin: những khía cạnh thi pháp,

V.Zakharova đặt Bunin trong bối cảnh Thế kỷ Bạc, trong tương quan với truyện ngắn

Chekhov – nhìn từ khía cạnh “chủ nghĩa hiện thực được nâng lên thành biểu tượng”. Từ

đó, có những nhận xét thú vị về đặc trưng của văn xuôi Bunin, một thứ văn xuôi “có sự

tổng hòa thường xuyên nhất của „đa thức‟ thể loại tự sự và thể loại trữ tình, đặc biệt là

những sáng tác giai đoạn đầu” [112; tr. 15]. Nhà nghiên cứu đi sâu phân tích những đặc

điểm cụ thể của truyện ngắn Bunin giai đoạn những năm 1890 và khẳng định “sự suy yếu

của cốt truyện sẽ được bù đắp bởi sự năng động của cảm xúc trữ tình, sự hiện hữu của

hiệu ứng hướng tâm mạnh mẽ sẽ tạo ra một thứ văn chương mới: văn xuôi hiện thực mới”

[112; tr. 16]. Những phân tích của Zakharova tập trung vào “hiệu ứng hướng tâm mạnh

mẽ” thực chất chính là đã đề cập tới tính trữ tình như điểm cốt lõi làm nên cá tính văn

xuôi Bunin, đồng thời làm thay đổi diện mạo văn xuôi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Những công trình cung cấp những gợi ý về tính trữ tình, về dấu ấn trữ tình trong

văn xuôi Bunin nói chung và truyện ngắn Bunin nói riêng ở Nga tuy chưa có nhiều,

nhưng chính là những tư liệu tham khảo quý báu đối với chúng tôi.

S.N.Broitman và D.M.Magomedova trong cuốn Văn học Nga giao thời thế kỷ

(những năm 1890 đến đầu những năm 1920) tập 1 (2000) dành 46 trang viết trong phần II

(Những tác gia và hiện tượng văn học tiêu biểu) cho Ivan Bunin. Các nhà nghiên cứu

cũng khẳng định “một chủ nghĩa hiện thực mới” đã xuất hiện trong văn xuôi của Bunin,

thứ chủ nghĩa hiện thực liên quan chặt chẽ với thi ca. Các nhà nghiên cứu đã “tạm” đưa ra

ba “típ” truyện mang tính chất trữ tình của Bunin với đại diện tiêu biểu của các “típ”:

Vượt đèo, Sương mù, Trên thành phố...; Những quả táo Antonov, Bi kí...; Mùa thu,

Meliton, Những cây thông... [92; tr. 552].

Trong cuốn sách Một tài năng nghiêm cẩn (Ivan Bunin. Cuộc đời. Số phận. Sáng

tác - 1976), Oleg Mikhailov viết về thời thơ ấu, về quá trình trở thành một nhà văn nghèo,

về những người cùng thời với Bunin (Gorky, Kuprin, Shmelev, Aleksei Tolstoy), về thơ

19

Bunin, những “ca khúc” về nước Nga. Ông nhấn mạnh vai trò của Bunin trong cuộc đấu

tranh vì chủ nghĩa hiện thực và đổi mới nó, biến chủ nghĩa hiện thực cổ điển đã “lạc hậu”

so với thời đại mới trở nên hiện đại và tân kỳ hơn. Khẳng định Bunin chính là đại diện

xuất sắc nhất của chủ nghĩa Tân hiện thực, Mikhailov còn nhấn mạnh “lối thoát” khỏi sự

cũ kỹ của văn xuôi khi ấy chính là âm nhạc. Lối văn xuôi của Bunin chính là lối văn xuôi

đậm chất âm nhạc hay nói cách khác, Bunin là người tạo nên cái gọi là âm nhạc của văn

xuôi [133; tr. 60]. Những nhận xét này đã trở thành tiền đề rất quan trọng để chúng tôi

nghiên cứu Tính trữ tình trong truyện ngắn của Ivan Bunin.

L.A.Smirnova trong I.A.Bunin cuộc đời và sự nghiệp (1991) tập trung khai thác

mảng sáng tác về Tổ quốc của Bunin: từ thơ cuối thế kỷ XIX đến văn xuôi những năm

1910 về số phận làng quê Nga, từ thiên nhiên của vũ trụ và sự đối lập với thế giới văn

minh đến sáng tác những năm 1920 – sự nhận thức tâm hồn con người, về nước Nga từ

xa. Nhà nghiên cứu khẳng định: “Con đường sáng tác của Bunin, cũng giống như con

đường sáng tác của Chekhov, đó là cuộc kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống”. Chương viết về

mối liên hệ giữa thơ ca và văn xuôi thời kỳ đầu của Bunin trong công trình này thực chất

đã xác lập cơ sở cho vấn đề tính trữ tình trong truyện ngắn của nhà văn giai đoạn đầu. Đặc

biệt nhà nghiên cứu nhấn mạnh thiên nhiên chính là yếu tố kết nối tâm hồn con người,

thiên nhiên làm giàu tâm hồn con người và thiên nhiên là chất xúc tác làm nên chất trữ

tình cho cả thơ và văn xuôi Bunin: “Những không gian tự do, những hình thức và sắc màu

duy nhất của thiên nhiên khơi dậy niềm tin về sự giàu có và nhạc điệu của tâm hồn” [155;

tr. 232].

Trong bài viết Phạm trù tính trữ tình trong văn xuôi của I.A.Bunin (khía cạnh ngôn

ngữ), Luo Sichen, xuất phát từ ý kiến của nhà văn bản học T.M.Dviniatina: “Trong văn

xuôi của mình, Bunin hoàn toàn là một thi sĩ, giống như trong những vần thơ” [128; tr.

417], khẳng định “Tính trữ tình đã tồn tại trong cách diễn đạt vốn có của Bunin và trong

ngôn ngữ văn xuôi” [128; tr. 421], xác lập khái niệm phạm trù trữ tình, tổng kết lại những

nét biểu hiện chính yếu của phạm trù trữ tình trên bề mặt ngôn từ (nhạc tính, sự thi vị hóa

hình ảnh thực tế cuộc sống, tính chủ quan, sự suy yếu của trần thuật) và đi đến kết luận:

“Như vậy, tính trữ tình hiện diện trong văn xuôi Bunin là hệ quả của sự tương tác giữa âm

nhạc và văn xuôi, thơ và văn xuôi, cá tính cá nhân và thế giới, sự trần thuật và thơ ca,

20

được chuyển tải một cách nghiêm ngặt và được tổ chức bằng phương tiện ngôn ngữ”

[128; tr. 422]. Đáng tiếc, những biểu hiện của phạm trù trữ tình không được phân tích qua

những dẫn chứng cụ thể, có những yếu tố có dẫn chứng nhưng không nhiều và chưa được

phân tích kỹ.

R.Khusainov trong bài viết Tính trữ tình của văn xuôi Bunin trong con mắt các

nhà phê bình (2014) đã hệ thống hoá ý kiến của các nhà nghiên cứu Nga và nước ngoài

viết về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin và đi đến kết luận: “Bunin có thể được coi là

người sáng lập văn xuôi trữ tình, dù trước đó những tác phẩm trữ tình đã đóng vai trò

quan trọng” [168; tr. 62]. Khusainov lưu ý đến ý kiến của K.Zaitseva về sự xoá mờ ranh

giới, hoà quyện chất thơ với văn xuôi của Bunin giai đoạn đầu: “Nếu trong thơ của

Bunin… ranh giới giữa thơ và văn xuôi dần dần mờ nhòe, thì trong văn xuôi của Bunin

bắt đầu nhận thấy những chuyển động, mà có thể nói, có thể hồi tưởng: trong đó xuất hiện

nhịp điệu thực sự bên trong và logic thực sự của âm nhạc” [168; tr. 63]. Nhận định của

Khusainov về văn xuôi giai đoạn đầu của Bunin là thứ văn xuôi không có cốt truyện với

cảm xúc, thiên nhiên, “thi pháp hơi thở” được lưu ý nhấn mạnh: “Nguyên nhân đặc biệt

này (như vừa kể trên – ĐTH), đã không thể chia cắt, mà còn thắt chặt văn xuôi Bunin với

thơ trữ tình của ông” [168; tr. 63]. Kết lại bài viết, Khusainov một lần nữa khẳng định

tính trữ tình chính là đặc điểm cơ bản của văn xuôi Bunin, cả giai đoạn trước cách mạng

và sau khi nhà văn rời khỏi Tổ quốc. Đó là sự tiếp nối truyền thống của các nhà văn hiện

thực thế kỷ XIX.

Một số nhà nghiên cứu ở Nga đề cao cảm xúc, nhạc điệu, giai điệu, nghệ thuật mô

tả… trong văn xuôi Bunin nói chung và truyện ngắn nói riêng, coi đó là những điểm quan

trọng làm nên tính trữ tình trong văn xuôi của ông. Natalia Dudinova, trong bài viết Tính

trữ tình và sự thật tồn tại trong văn xuôi giai đoạn đầu của Bunin, sau khi đưa ra những

luận điểm về thiên nhiên, về cảm xúc, về nỗi nhớ trong truyện ngắn Bunin, đã nhận định:

“Tính trữ tình Bunin có thể coi lạc quan, mô tả - súc tích, song chính xác và được cụ thể

hóa bằng những chi tiết nghệ thuật” [109; tr. 45]. Khi nói về nguyên tắc trữ tình của

Bunin, Lipin nhấn mạnh: “Nét bản chất khác của tính trữ tình văn xuôi Bunin là nó được

triển khai từ chính cảm nhận và miêu tả thực tại. Khởi nguồn trữ tình trở thành cơ sở nền

tảng cho cả khâu lựa chọn chất liệu lẫn khâu tổ chức soi chiếu. Nhà văn chỉ tái hiện những

21

gì đã trở thành xúc cảm, thành một phần “không thể thiếu”, “phần máu thịt” của tâm hồn

[168; tr. 63]. Đồng quan điểm với Lipin, Izmailov viết: “Mọi nơi và mọi thứ đối với ông

(Bunin – ĐTH) hợp nhất làm một trong tâm trạng của ông, tình yêu của ông, nỗi buồn

chán, sự tức giận… Nó sẽ liên kết tất cả tạo thành âm điệu trữ tình” [168; tr. 63].

Luận án tiến sĩ khoa học của E.V.Kapinos Những hình thức và chức năng của tính

trữ tình trong văn xuôi I.A.Bunin những năm 1920 (2014) tiếp cận vấn đề từ góc độ thi

pháp học, triết-mĩ học. Trong luận án, nhà nghiên cứu chỉ khảo sát một giai đoạn sáng tác

ngắn ngủi của Bunin - những năm 1920. Tác giả công trình đi sâu nghiên cứu những vấn

đề lớn: Thế giới của nhà văn và thế giới của các nhân vật: thi pháp trữ tình của những

hình thức nhỏ; Cái ―tôi‖ tác giả trong những hình thức trữ tình: tiểu sử và thi pháp; Sử

liệu học Bunin trong bối cảnh những học thuyết triết học đầu thế kỷ XX. Nhìn vào cấu

trúc của luận án có thể thấy, xuất phát từ luận điểm cho rằng trong văn xuôi trữ tình sự

thống nhất nghệ thuật được đảm bảo không phải bởi động lực sự kiện cốt truyện mà bởi

sự chuyển động của cảm xúc, cái “tôi” trữ tình có vị thế quyết định trong lời nói, Kapinos

tập trung nghiên cứu vai trò, vị thế của cái “tôi” trữ tình trong những dạng thức cụ thể,

tiến tới khẳng định vận động hội tụ các dạng thức cụ thể của cái “tôi” trữ tình “đa diện”

này làm thành cả một “quầng sáng” hút vào chiều sâu truyện kể trong văn xuôi Bunin:

“Cái tôi trần thuật trong văn xuôi Bunin làm ta liên tưởng đến nhân vật trữ tình, “cái tôi

trữ tình” trong văn xuôi Bunin không đơn tính, mà “đa diện”, nó không giống như một

điểm sáng, mà như cả một chòm sao hội tụ các điểm sáng vào quầng sáng bên trong chính

mình” [118]. Tác giả công trình cũng chỉ ra nền tảng trữ tình của Bunin chính là hồi ức

của nhà văn, “hồi ức xác định phong cách Bunin”, đặc biệt hồi ức ấy được hỗ trợ bởi triết

học Bergson: “Kí ức liên hệ nhân vật „tôi‟, đưa „tôi‟ đắm mình trong đó và cũng đưa „tôi‟

thoát khỏi đó” [118]. Từ những tiêu chí được xác định như cơ sở cho tính trữ tình trong

văn xuôi từ cuốn sách của Shmid Văn xuôi như thơ, Elena Kapinos xác định những yếu

tố trữ tình trong văn xuôi Bunin đầu thế kỷ XX: “liên kết phông nền”, “motif hình ảnh”,

“ý tưởng”, “ngữ cảnh thể loại”, “mối liên hệ phức tạp giữa các sự vật – sự kiện và sự liên

kết nhịp điệu” [118].

Trong số các tài liệu tiếng Nga mà chúng tôi bao quát được, còn có một vài luận

văn tốt nghiệp của sinh viên Nga trôi nổi trên mạng internet như Vai trò của Bunin trong

22

văn học dân tộc thế kỷ XIX-XX [102], Văn xuôi trữ tình của Bunin và sự phát triển của nó

[127]... Mặc dù đây đó trong những luận văn “khuyết danh” này có những chỗ phân tích,

kiến giải thú vị, song đối với chúng tôi, những tài liệu này, phần nhiều chỉ có ý nghĩa

thuần tuý tham khảo thêm.

Nhìn chung, qua các tài liệu nghiên cứu tiếng Nga, có thể thấy đã có một vài bài

viết, công trình đề cập đến các motif trữ tình, đến chất thơ trong văn xuôi, đến âm nhạc

trong văn xuôi của Bunin. Tuy nhiên, hầu hết các công trình đó, hoặc chỉ đề cập tới tính

trữ tình trong văn xuôi Bunin một cách khái quát, hoặc chỉ đi sâu vào một khía cạnh đơn

lẻ (chẳng hạn như ngôn ngữ), hoặc chỉ nghiên cứu biểu hiện của tính trữ tình ở một giai

đoạn nhỏ trong sáng tác văn xuôi của Bunin. Vấn đề tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin

nhìn một cách toàn diện trong toàn bộ hệ thống sáng tác Bunin qua các lớp ngôn từ, trần

thuật, nhân vật, căn nguyên tính trữ tình… vẫn đòi hỏi phải được đào sâu nghiên cứu và

diễn giải.

1.2. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở phƣơng Tây

Rất nhiều nhà văn Nga khi sống và làm việc ở một quốc gia khác đã nhanh chóng

hòa nhập với nhịp sống mới, sáng tác bằng ngôn ngữ bản địa để phục vụ độc giả mới

(Nabokov, Brodsky...). Tuy nhiên, có rất nhiều nhà văn lại chọn cách hành xử khác. Họ tự

tạo ra cho mình một “pháo đài”, họ chỉ viết bằng tiếng Nga và hầu như không có sự giao

du với “thế giới” bên ngoài (Solzhenitsyn). Không cực đoan như A.Solzhenitsyn, nhưng

Bunin cũng là một người khá “bảo thủ”. Ông luôn luôn khẳng định “Làm sao chúng ta có

thể quên Tổ quốc?... Tôi là một người Nga. Điều đó dù bao nhiêu năm cũng không mất đi

được...” [17; tr. 6]. Ở nước Pháp nhưng Bunin vẫn sáng tác bằng tiếng Nga, đề tài ông

viết là những con người, cảnh vật, sự kiện thuộc về nước Nga trong trí nhớ của ông. Điều

đó làm ông khác biệt với những nhà văn phương Tây, nhưng cũng khiến cho ông phần

nào “cách biệt” với độc giả nơi đây. Trong bài Người được vinh danh chốn tha hương,

John Bayley dẫn lời nhà nghiên cứu người Mĩ Andrew Wachtel: “Bunin - nhà văn vĩ đại

của Nga kén người đọc... là tiếng nói cuối cùng của tầng lớp quý tộc văn hóa truyền thống

Nga” [179; tr. 7]. Tuy “kén người đọc”, song Bunin vẫn thu hút độc giả Phương Tây như

23

một “hiện tượng” đặc biệt, số lượng các công trình nghiên cứu ở Phương Tây về sáng tác

của nhà văn không hề nhỏ.

Các nhà nghiên cứu phương Tây đánh giá rất cao tính chất truyền thống Nga trong

sáng tác của Bunin. Họ coi nhà văn chính là người đã “đem lại vinh quang cho truyền

thống cổ điển Nga” [190; tr. 654], họ cũng khẳng định Bunin là người xa lạ với chủ nghĩa

tượng trưng và các chủ nghĩa khác của Văn học Nga thế kỷ Bạc. Nói về vai trò của Bunin

trong khu vực văn học Nga hải ngoại, Gleb Struve viết: “Ông là niềm tự hào lớn của nền

văn học Nga ở hải ngoại… Cái chết của Bunin được xem như dấu chấm hết cho nền văn

học Nga một cách tượng trưng...”. Bunin là nhà văn “đã hoàn thành những tác phẩm thật

xuất sắc và trong bất kì trường hợp nào thì đó cũng là những tác phẩm lớn nhất” [71; tr.

29]. Các nhà nghiên cứu phương Tây đặc biệt rất hứng thú với việc so sánh và khai thác

mối liên hệ giữa Ivan Bunin với các nhà văn Nga khác: Lev Tolstoy, Chekhov, Turghenev

và Nabokov. Họ khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa tác phẩm của Bunin và Lev

Tolstoy, nhất là hai tác phẩm Làng và Ivan Ilych, đồng thời nhấn mạnh: “Ảnh hưởng lớn

nhất đến Bunin là Tolstoy và Chekhov. Chekhov biết Bunin rất rõ, ông đã tiên đoán

Bunin sẽ là một nhà văn lớn trong tương lai. Nhưng Tolstoy quan trọng với Bunin hơn cả,

không chỉ là nhà tiểu thuyết Bunin ngưỡng mộ mà còn là một người hướng đạo xã hội cho

Bunin” [188; tr. 768]. Với Turghenev, nhà nghiên cứu F.D.Reeve khẳng định Bunin là

người táo bạo hơn, khi Bunin dám viết về những “thứ” tình yêu mà Turghenev không

dám, mặc dù họ tìm thấy trong sáng tác của Bunin nhiều cốt truyện có nguồn gốc từ

Turghenev. Thậm chí Reeve còn khẳng định: “Không có gì băn khoăn khi tác phẩm của

Lermontov được coi là ánh bình minh của văn học cổ điển Nga, còn tác phẩm của Bunin

thì được xem như ánh sáng rực rỡ trong đêm tối” [190; tr. 656]. Còn với Nabokov, nhiều

nhà nghiên cứu coi Nabokov là “người kế nghiệp của Bunin”, đặc biệt khi đọc tác phẩm

Mashenka của ông (Reeve). Karshan thì khẳng định hình ảnh Lolita của Nabokov có mối

liên hệ với Olya trong Hơi thở nhẹ của Bunin, còn nhân vật quý ông trong Quý ông từ San

Francisco đến lại ngầm ý liên hệ với Nabokov.

Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây còn có những khám phá thú vị về truyện ngắn

Bunin. Nhà nghiên cứu Andrei Rogachevsky trong bài Sự đầu thai của Bunin đã nhắc đến

ảnh hưởng của Phật giáo đối với Bunin. Ông phân tích bài viết của Marullo, Thomas

24

Gaiton nói về vấn đề này If you see the Buddha: Studies in the fiction of Ivan Bunin. Đây

là một phát hiện rất thú vị, bởi trước đó chúng ta chỉ mới biết Bunin là người mộ đạo, ông cả đời tuân theo giáo lí Chính Thống giáo1 Nga.

Về đề tài chính trong truyện ngắn Bunin, các nhà nghiên cứu phương Tây nhấn

mạnh các đề tài: cái chết và tình yêu, hồi ức và hoài niệm. Trong bài Chức năng của chủ

đề cái chết trong tác phẩm Ivan Bunin, nhà nghiên cứu A.F.Zweers đã khẳng định: “Cái

chết và tình yêu có liên quan mật thiết với nhau trong truyện ngắn Bunin. Cả hai trở thành

nền tảng của truyện ngắn Bunin, đó là hành động hướng tới sự sống” [197; tr. 161]. Đề tài

thứ hai các nhà nghiên cứu nhấn mạnh ở Bunin đó là hoài niệm. Trong bài Tưởng nhớ

Ivan Bunin, Liubov Tsarvskaya viết: “Khi Bunin bắt đầu sáng tác trở lại, ông viết theo

phong cách hoàn toàn khác với những gì đã thể hiện ở Nga. Tình yêu và kỷ niệm đã quyết

định những nội dung cơ bản trong tác phẩm của ông thời kỳ lưu vong” [195]. Cũng giống

L.Tsarvskaya, D.J.Richard trong bài Kỉ niệm và quá khứ: Một đề tài trong sáng tác của

Ivan Bunin đã nhấn mạnh: “Suốt quãng đời trưởng thành, Bunin (giống như những nhân

vật chính trong các câu chuyện của mình), bị thu hút bởi những di tích của nước Nga cổ

xưa. Những ngôi nhà thờ, tu viện, những thái ấp rộng lớn và điền trang vùng nông thôn,

những cuốn sách và tranh chân dung cũ, những truyền thuyết cổ đại, hay thậm chí những

hồi tưởng về các sự kiện đã qua đều được mô tả rõ nét, đa dạng trong tác phẩm của ông.

Thực tế, những chuyến hành trình nhà văn trải qua ở Nga và nhiều vùng đất trên thế giới

hướng tới khám phá thế giới nhiều hơn khám phá thực tại” [191]. Có thể thấy, những đề

tài tình yêu, cái chết, mối liên hệ với tôn giáo, hồi ức… đều là những vấn đề giới hạn bản

thân Bunin vào cái tôi bên trong của mình, hướng đến thế giới nội tâm chứ không phải

vươn ra thế giới bên ngoài, dù rằng có thể bối cảnh của câu chuyện ấy là thế giới rộng lớn

của nước Nga và bên ngoài nước Nga. Điều đó cũng cho thấy sự chi phối của tâm trạng,

của xúc cảm trữ tình đến quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.

Các nhà nghiên cứu phương Tây đặc biệt nhấn mạnh khả năng “đi sâu vào tâm hồn

1 Chính Thống giáo là một nhánh của Thiên Chúa giáo (gồm các nhánh lớn như Công giáo La Mã, Chính Thống giáo phương Đông (Nga), Tin Lành…). Chính Thống giáo phát triển và trở thành một trong những tôn giáo chính ở Nga cho đến ngày nay. Trong luận án, từ Thiên Chúa giáo và Chính Thống giáo đều được chúng tôi dùng với nghĩa đã được xác định như trên.

con người, diễn tả sâu sắc tâm lí của người Slav” (Graham Gettlingle), khẳng định thơ của

25

ông “giàu màu sắc, âm thanh, hương thơm và giai điệu, đặc biệt thiên nhiên trong thơ ông

mang tính nữ, hướng về Eva” (F.D.Reeve). Về truyện ngắn của Bunin, theo các nhà

nghiên cứu phương Tây, có thể chia làm hai giai đoạn: giai đoạn trước 1917 (truyện ngắn

những năm 1900, 1911, 1913, 1915) và giai đoạn sau đó với hai nhịp độ khác nhau – một

thì kịch tính, dồn dập; một thì chậm rãi, êm lặng. Một số nhà nghiên cứu như Karshan còn

đề cập đến truyện cực ngắn của Bunin “với giới hạn chỉ trong 100 chữ nhưng lại thách

thức chúng ta khám phá” [188; tr. 766]. Điều này liên quan đến khả năng sử dụng ngôn từ

của Bunin. Chính Gorky đã gọi Bunin là “người thành thạo đến tận tâm hồn của mọi từ

ngữ” [190; tr. 658]. Những nghiên cứu này tuy không trực tiếp đề cập đến tính trữ tình

trong văn xuôi Bunin nhưng những vấn đề được đưa ra phân tích, bình luận lại là những

vấn đề liên quan đến các phương thức biểu hiện tính trữ tình trong tác phẩm của Bunin

mà chúng tôi đã xem xét trong phần giới thuyết. Vì vậy, có thể thấy đây là những ý kiến

quan trọng góp phần củng cố thêm nhận định của chúng tôi về đặc trưng văn chương của

Ivan Bunin.

Có thể nói, hành trình khám phá Bunin là một hành trình không dễ dàng. Các nhà

nghiên cứu phương Tây đã “nhìn” Bunin từ một góc độ riêng. Đặc biệt, họ rất nhạy cảm

khi nói về mối liên hệ của ông với những nhà văn trước và cùng thời; họ cũng rất chú

trọng đến những đề tài chính trong sáng tác của ông. Vấn đề ngôn ngữ tác phẩm của

Bunin đã được đề cập tới, song yếu tố âm nhạc, chất trữ tình chưa được chỉ ra và nghiên

cứu trực tiếp.

1.3. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở Việt Nam

Mặc dù đã được dịch ở nước ta từ 1987 nhưng Ivan Bunin lại chưa được nghiên

cứu nhiều và chuyên sâu. Trái ngược với ở nước Nga và trên thế giới, ở Việt Nam chưa

có một cuốn chuyên luận nào viết về Ivan Bunin. Những tài liệu về Bunin chúng tôi thu

thập được phần nhiều là những bài giới thiệu ngắn gọn về tác giả và các tác phẩm được

tuyển ở đầu các tập truyện ngắn dịch, trong các từ điển văn học, một vài bài viết của các

nhà nghiên cứu trên các tạp chí văn chương và một số bản dịch các bài viết về nhà văn

Nga đầu tiên đạt giải Nobel này của một số nhà nghiên cứu nước ngoài. Trong một số

cuốn giáo trình lịch sử văn học Nga cho sinh viên, Ivan Bunin cũng chỉ được giới thiệu

26

với dung lượng hạn chế. Điều này dường như tỉ lệ nghịch với số lượng các truyện ngắn và

thơ đã được dịch sang tiếng Việt của ông. Lí do phải chăng xuất phát từ chính sự “đơn

giản” nhưng “cực kỳ sâu sắc” của bản thân các truyện ngắn và thơ Bunin?: “Đọc tác

phẩm của Bunin không những phải chăm chú, mà còn phải có văn hóa rộng, phải tập

trung cả trí tuệ và tâm hồn, phải có khả năng suy nghĩ về nước Nga, về quá khứ, hiện tại

và tương lai của nó, về mối liên quan của cuộc sống hằng ngày, của cuộc sống “riêng” với

những sự kiện xã hội lịch sử có quy mô” [15; tr. 7]. Trong lời giới thiệu cho mục truyện

ngắn và tiểu luận trên Tạp chí Văn học nước ngoài số kỷ niệm 50 năm ngày mất của

Bunin, dịch giả Phạm Quốc Ca đã viết: “Trí tuệ lớn nhất của một nhà tư tưởng nhân văn

và trái tim của một nhà nghệ sĩ ngôn từ đã hòa quyện trong tài năng văn chương của ông

khiến ngay cả nhiều nhà văn vĩ đại cũng phải kính nể” [17; tr. 5]. Có lẽ, đây là lí do Bunin

đã “làm khó” rất nhiều nhà nghiên cứu nước ta và trên thế giới.

Đánh giá về vị trí của Bunin trong văn học Nga, nhiều nhà nghiên cứu khẳng định

tầm quan trọng của ông trong sự phát triển văn hóa, văn học Nga, trong giai đoạn văn học

Nga thế kỷ Bạc và đặc biệt trong sự kế thừa, tiếp nối truyền thống Lev Tolstoy, Anton

Chekhov đồng thời mở ra hướng đi mới cho sáng tác văn học Nga đương thời.

Cuốn Giáo trình Lịch sử văn học Nga của các tác giả Đỗ Hồng Chung, Nguyễn

Kim Đính, Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Trường Lịch, Huy Liên, Hoàng Ngọc Hiến xếp

Bunin vào dòng văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng, đánh giá ông là người “trải

qua quãng đường còn nhiều trắc trở hơn cả con đường của Kuprin” [22; tr. 483]. Trong

Lời giới thiệu Tuyển tập truyện ngắn Bunin (1987), dịch giả Hà Ngọc dẫn lời nhà nghiên

cứu Mikhailov khẳng định Bunin là “cả một chương của sự phát triển văn học Nga trong

thế kỷ chúng ta” [15; 7]. Nhà nghiên cứu Vũ Công Hảo nhận định: “Sẽ là một khiếm

khuyết không thể bỏ qua nếu không nói đến những đóng góp to lớn của Ivan Bunin (1870

– 1953) cho văn học hiện thực Nga đầu thế kỷ XX cũng như cho toàn bộ nền văn học thế

giới” [34; tr. 9]. Nói về “Những chuyển biến của tư duy nghệ thuật trong văn xuôi Nga

cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, nhà nghiên cứu Phạm Gia Lâm cho rằng Bunin là người

đã đưa những thể nghiệm mới mẻ, táo bạo của chủ nghĩa ấn tượng vào văn chương hiện

thực, đem lại màu sắc hấp dẫn cho dòng văn học này: “Bunin thể nghiệm kết hợp những

truyền thống hiện thực chủ nghĩa với những biện pháp nghệ thuật mới và những nguyên

27

tắc kết cấu gần với chủ nghĩa ấn tượng” [46; tr. 14]. Đồng tình với Phạm Gia Lâm, nhà

nghiên cứu Đỗ Hải Phong trong Giáo trình Văn học Nga viết: “Bunin bắt đầu sự nghiệp

sáng tác bằng chủ nghĩa hiện thực theo „kiểu Chekhov‟, nhưng kết thúc sự nghiệp sáng

tác bằng khuynh hướng gần với chủ nghĩa ấn tượng” [61; tr. 10-11]. Tác giả Vũ Công

Hảo cũng nhận định: “Chịu ảnh hưởng chủ nghĩa trực giác của Henri Bergson, sáng tác

của ông, đặc biệt trong thời kỳ lưu vong, là dòng ý thức tự nhiên và bất tận về cảnh vật và

con người Nga” [34; tr. 9].

Là một trong những người dịch Bunin đầu tiên ở nước ta, dịch giả Phan Hồng

Giang không ngại ngần xếp Bunin vào danh sách những tác gia văn học Nga thế kỷ XIX-

XX đỉnh cao làm nên “tập đại thành” của văn học thế giới tự cổ chí kim, cùng với

Pushkin, Lermontov, Dostoevsky, Lev Tolstoy, Gogol, Chekhov, Kuprin... Ông viết: “có

thể coi ông (Bunin) như là người đại diện tiêu biểu xuất sắc cuối cùng của chủ nghĩa hiện

thực cổ điển Nga, người đã đem lại cho văn chương những giá trị vĩnh hằng của cái Đẹp,

- cái đẹp của thiên nhiên, của lòng người, của nghệ thuật ngôn từ, và cao hơn tất cả là của

Đời sống con người” [16; tr. 5]. Hà Văn Lưỡng trong Đặc trưng nghệ thuật của truyện

ngắn Ivan Bunin cũng đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của cái đẹp thiên nhiên trong truyện

ngắn Bunin, coi đó là một biểu hiện đặc trưng của nghệ thuật truyện ngắn tâm lí của nhà

văn Nga. Còn Đào Ngọc Chương thì lại nhìn Ivan Bunin từ đề tài “trở về” trong sự đối

sánh với các cây bút Nobel khác: Ernest Hemingway, Cao Hành Kiện. Theo tác giả, với

Bunin, quan trọng nhất vẫn là cuộc trở về nước Nga, trở về tình yêu, trở về thanh xuân

bằng kí ức. Từ đó, tác giả khẳng định: “Truyện ngắn của Ivan Bunin lãng đãng màu sắc

thơ mộng của thiên nhiên, nông thôn Nga, và cũng thế, tâm hồn Nga. Đọc truyện ngắn

của Bunin, ta như đi lạc vào miền dịu ngọt mà buồn thương của nỗi lòng, và chợt nhận ra

tất cả cứ mơ màng một giấc mộng, ngay cả ở những truyện mà sự kiện lộ ra mười mươi”

[23; tr. 57].

Như vậy, có thể thấy, ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu và các dịch giả cũng đã

nhận thấy vị trí to lớn và tầm ảnh hưởng sâu sắc của Bunin tới văn học Nga nói riêng và

văn học thế giới nói chung. Đi sâu vào truyện ngắn Bunin, nhiều nhà khoa học cũng có

những phát hiện rất xác đáng về phong cách sáng tác của nhà văn. Đặc biệt, các tác giả đã

nhận ra chất trữ tình – yếu tố làm nên những truyện ngắn trữ tình là “thương hiệu” của

28

riêng Bunin. Dịch giả Phan Hồng Giang viết trong Lời giới thiệu tuyển tập Bunin: “Giới

thiệu Bunin với đông đảo bạn đọc lần này, chúng tôi chọn dịch những truyện mang nặng

tính chất trữ tình, các truyện được dịch ở đây đều có thể gọi là những truyện tình yêu”

[16; tr. 11]. Trước đó, ông cũng đã khẳng định tính chất “liên ngành” trong sáng tác của

nhà văn: “Sau này Bunin đã không thành nhạc sĩ, không thành họa sĩ, nhưng cái chất tạo

hình – biệt tài tả cảnh và khắc họa chân dung – cái chất nhạc trong thứ văn xuôi mượt mà

dịu ngọt thì còn lưu lại mãi trong các văn phẩm của Bunin, đưa ông vào số nhà văn ít ỏi

trong văn học Nga đạt đến uy tín tuyệt đối về sử dụng ngôn từ” [16; tr. 6]. Nhà nghiên

cứu Đào Tuấn Ảnh trong cuốn Từ điển văn học bộ mới cũng nhận định chất nhạc chính là

nét đặc sắc của truyện ngắn Bunin: “Đến những năm 90 của thế kỷ XIX, hệ thống văn

xuôi Bunin đã định hình, trong đó chất nhạc, nhịp điệu làm cho văn của ông đặc biệt cô

đọng. Bản thân Bunin coi những tìm tòi về nhạc điệu và ẩn dụ hóa văn xuôi là sự tiếp nối

sáng tác thi ca của mình” [36; tr. 172]. Cùng ý kiến với hai nhà nghiên cứu Đào Tuấn

Ảnh, Phan Hồng Giang, dịch giả Hà Ngọc coi “mỗi truyện ngắn của ông (Bunin) vừa là

một áng văn xuôi lại vừa là một bài thơ” [15; tr. 7].

Gần đây nhất, hai cuốn sách nghiên cứu về văn học Nga thế kỷ XX và văn học Nga

hải ngoại ở Việt Nam – Giáo trình Văn học Nga thế kỷ XX của Vũ Công Hảo và Văn học

Nga hải ngoại: Quá trình – Đặc điểm – Tiếp nhận của Phạm Gia Lâm đã có những trang

viết khá đầy đủ về Ivan Bunin, đặc biệt cả hai nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh đến thuật

ngữ “trữ tình” như là một định danh không thể thay thế khi nói đến truyện ngắn Bunin.

Tác giả Vũ Công Hảo trong Giáo trình Văn học Nga thế kỷ XX khi phân tích đặc sắc nghệ

thuật của Bunin đã đi theo hướng phân tích riêng biệt đặc sắc nghệ thuật thơ ca, truyện

ngắn trữ tình và tiểu thuyết của nhà văn. Riêng trong mục “truyện ngắn trữ tình” nhà

nghiên cứu khẳng định: “Các truyện ngắn của ông thường có cốt truyện đơn giản, lối kết

thúc mở đầy bất ngờ, đặc biệt, có sự hòa trộn khó tách bạch giữa „chất đục đời thường‟

của cuộc sống và „chất thơ bi thảm‟ của tâm hồn Nga” [35; tr. 124]. Trong những phân

tích cụ thể về các tác phẩm tiêu biểu của Bunin, Vũ Công Hảo nhấn mạnh: “Ở những câu

chuyện hiện thực đến trần trụi như thế, vẫn đầy ắp chất thơ, chất trữ tình của một tư tưởng

lớn, một tâm hồn nhạy cảm biết yêu thương cuộc sống, nâng niu con người, biết trân

trọng thậm chí cả những đổi thay nhỏ nhất của cảnh sắc” [35; tr.127].

29

Văn học Nga hải ngoại: Quá trình – Đặc điểm – Tiếp nhận của nhà nghiên cứu

Phạm Gia Lâm thực sự là một cuốn sách tham khảo chuyên sâu có giá trị. Trong Chương

6 viết riêng về Ivan Bunin tác giả công trình khẳng định tính chất “triết luận-trữ tình”

chính là nét đặc trưng cho phong cách nghệ thuật của Bunin. Với nhà nghiên cứu sáng tác

của Bunin có thể chia làm hai giai đoạn lớn, tương ứng với sự thay đổi đối tượng triết

luận-trữ tình: “Triết luận-trữ tình về cuộc sống, con người Nga trong sáng tác trước Cách

mạng tháng Mười” và “Triết luận-trữ tình về tình yêu và hoài niệm về nước Nga trong

sáng tác thời kỳ lưu vong”. Cả hai luận điểm này đều được nhà nghiên cứu phân tích làm

rõ bằng những sáng tác tiêu biểu nhất của Bunin trong hai giai đoạn: Những quả táo

Antonov (giai đoạn trước Cách mạng tháng Mười) và Những tháng ngày đáng nguyền

rủa, Bông hồng của Jerihone, Mối tình của Mitya, Cuộc đời Arseniev, Ngày thứ Hai chay

tịnh, Sự giải thoát của Tolstoy (giai đoạn sau Cách mạng tháng Mười)… Có thể nói

những kiến giải của tác giả trong chương sách này đã gợi mở và đem lại cho chúng tôi

nhiều suy ngẫm và đối sánh thú vị.

Trong các nhà trường Đại học, những năm gần đây, Bunin cùng các sáng tác của

ông đã được lựa chọn làm đề tài cho nhiều Luận văn Thạc sĩ. Đáng chú ý là các luận văn:

Chủ nghĩa ấn tượng trong truyện ngắn Ivan Bunin (Hà Hồng Nhung, 2005), Các mô hình

tượng trưng trong văn xuôi Bunin (Đặng Thu Hương, 2008), Mô tả trong truyện ngắn

Ivan Bunin (Đỗ Thị Thu Hương, 2009), Chủ nghĩa ấn tượng và nhân vật nữ trong truyện

ngắn I.A.Bunin (Hoàng Thị Mỵ, 2009), Tính sinh động của sự miêu tả trong truyện ngắn

Ivan Bunin - So sánh với đặc tính tương ứng trong truyện ngắn G.G.Márquez (Nguyễn

Thị Vân Anh, 2010), Hoài niệm trong truyện ngắn Ivan Bunin (Bành Thị Lê Hương,

2011). Các luận văn trên chủ yếu tập trung nghiên cứu về nghệ thuật miêu tả (thiên nhiên,

đồ vật, nhân vật) trong truyện ngắn của Bunin. Những luận văn viết về chủ nghĩa ấn

tượng hay hoài niệm trong truyện ngắn Bunin cũng dành dung lượng lớn cho nghệ thuật

miêu tả và chất hội họa trong truyện ngắn của ông. Đây đó có một vài trang các tác giả

luận văn nhắc đến âm nhạc (phần Hợp âm của thế giới hoài niệm trong mục Sự gần gũi

của truyện ngắn hoài niệm với âm nhạc và điện ảnh ấn tượng trong luận văn Hoài niệm

trong truyện ngắn của Ivan Bunin), tuy nhiên tác giả luận văn chỉ dừng lại ở việc thống kê

30

các loại hình âm thanh thiên nhiên, sinh hoạt trong tác phẩm chứ chưa chỉ ra cụ thể đặc

tính cũng như nhịp điệu của truyện ngắn Bunin.

Như vậy, ở Việt Nam, dù được dịch từ những năm 1980 nhưng số lượng các công

trình chuyên sâu về Bunin khá hiếm hoi. Đặc biệt, vấn đề tính trữ tình – cái làm nên nét

riêng cho Bunin vẫn chưa thực sự được nghiên cứu. Kế thừa thành quả nghiên cứu của

những người đi trước, kết hợp với những kiến giải của riêng mình, chúng tôi hi vọng sẽ

đem đến cho người đọc cái nhìn đầy đủ nhất về yếu tố làm nên bản sắc truyện ngắn Ivan

Bunin.

Tiểu kết chương 1:

Qua việc điểm lại những khuynh hướng, những công trình cơ bản trong nghiên cứu

Ivan Bunin và truyện ngắn của ông qua các tài liệu nghiên cứu tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng

Việt, chúng tôi thấy đã có một vài tư liệu đề cập đến các motif trữ tình, đến chất thơ và

âm nhạc trong văn xuôi của Bunin. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một số nhận định khái quát,

một số công trình bao quát toàn bộ sáng tác của nhà văn, hoặc một số công trình đi sâu

nghiên cứu chỉ một hay một vài khía cạnh liên quan đến tính trữ tình trong truyện ngắn

Bunin, nhiều công trình giới hạn phạm vi nghiên cứu lại chỉ là một giai đoạn sáng tác đơn

lẻ nào đấy của nhà văn. Tính trữ tình triển khai qua chất nhạc, nhịp điệu, điểm nhấn ngôn

từ, qua hệ thống chủ thể trữ tình, nhân vật, qua cảm quan nghệ thuật thể hiện qua truyện

ngắn của của Bunin chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống. Coi truyện ngắn

Bunin là một thể thống nhất từ trước và sau Cách mạng tháng Mười, chúng tôi đi sâu tìm

hiểu các biểu hiện của phong cách trữ tình trong truyện ngắn Bunin qua những yếu tố thi

pháp cơ bản nhất, đi từ ấn tượng ngôn từ bề mặt cho tới căn nguyên trữ tình sâu xa làm

nên cảm quan trữ tình của nhà văn. Chúng tôi mong muốn công trình của mình sẽ có

những đóng góp, bổ khuyết cho thực trạng nghiên cứu tính trữ tình trong truyện ngắn Ivan

Bunin ở Việt Nam.

31

CHƢƠNG 2

ẤN TƢỢNG LỜI VĂN TRỮ TÌNH

Với bất kỳ một tác phẩm văn học nào, đặc biệt là tác phẩm trữ tình, ấn tượng lời

văn – bề mặt ngôn từ luôn tác động đến người đọc trước tiên. Nhà văn, muốn đưa người

đọc say theo dòng cảm xúc của mình, trước hết phải sử dụng ngôn từ giàu sức mê đắm.

Đó phải là thứ ngôn ngữ đẹp, biểu cảm, giàu nhạc tính. Trong Lời vinh danh đọc vào ngày

trao giải thưởng Nobel cho Bunin, Per Hallström (thư kí thường trực viện Hàn lâm Thụy

Điển) đã đánh giá rất cao ngôn từ nghệ thuật của Bunin: “Ông hoàn thiện năng lực tập

trung và sự giàu có của diễn đạt - trong mô tả về cuộc sống thực dựa trên một sự chính

xác hiếm có của sự quan sát. Nghệ thuật nghiêm ngặt giúp ông chống lại mọi sự cám dỗ

coi nhẹ thực tế do sức quyến rũ của ngôn từ; dù là nhà thơ trữ tình, ông không bao giờ tô

vẽ những gì ông thấy mà diễn tả nó một cách trung thực nhất. Với ngôn ngữ giản dị của

mình, ông đã tạo nên một nét duyên, theo ý kiến của đồng bào ông, như thứ nước uống

quý giá mà ta có thể thưởng thức thậm chí qua bản dịch” [186]. Với chúng tôi, “nét

duyên” trong ngôn ngữ giản dị mà chính xác và giàu giá trị biểu đạt, biểu cảm của Bunin

chính là ấn tượng trữ tình đầu tiên không thể không nhắc tới khi tiếp xúc với kho tàng

truyện ngắn của nhà văn. Ấn tượng đó được tạo nên từ các thủ pháp gia tăng sức biểu cảm

cho lời văn, tăng cường nhạc tính và thi vị hoá hệ thống từ vựng trong truyện ngắn.

2.1. Gia tăng biểu cảm lời văn

Thông thường, trong các thể loại tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng, ngôn từ

tác phẩm thường bao gồm lời tả, kể và đối thoại. Tùy thuộc vào phong cách truyện ngắn

của từng nhà văn, mỗi loại hình lời văn ấy sẽ mang đặc trưng riêng. Đọc truyện ngắn của

Bunin chúng tôi nhận thấy, để tạo âm hưởng trữ tình đậm nét cho truyện ngắn của mình,

nhà văn đã gia tăng sức biểu cảm cho lời văn: cảm xúc hóa đối thoại, độc thoại hóa đối

thoại và phối cảm lời kể - lời độc thoại.

Theo khảo sát của chúng tôi, đối thoại trong truyện ngắn Bunin thường có xu

hướng kéo dài như những lời độc thoại hay những dòng trữ tình ngoại đề cảm xúc và triết

lí của nhà văn. Đặc biệt, lời kể của người kể chuyện đôi khi hòa trộn với lời độc thoại. Cá

32

biệt, có những tác phẩm không có đối thoại, chỉ có độc thoại giãi bày cảm xúc của nhân

vật.

2.1.1. Cảm xúc hóa đối thoại

Đối thoại là thủ pháp quan trọng trong các tác phẩm tự sự và kịch nhằm giúp nhân

vật bộc lộ tâm tư tình cảm và quan điểm sống. Đối thoại cũng là một cách nhà văn gửi

gắm tư tưởng chủ đề trong tác phẩm và phản ánh sự phát triển của ngôn ngữ nghệ thuật

thời đại. Trong truyện ngắn Bunin, chúng tôi nhận thấy có hai dạng đối thoại: đối thoại

tương tác xã hội và đối thoại giãi bày cảm xúc. Đối thoại tương tác xã hội là những đối

thoại qua lại giữa con người với con người trong tác phẩm nhằm thể hiện những quan hệ

xã hội, thái độ quan điểm, những tranh luận, những bàn bạc nhằm đạt tới thống nhất một

vấn đề gì đó thuộc công việc, các quan hệ xã giao. Đối thoại tương tác xã hội thường ít đề

cập đến những vấn đề riêng tư của con người. Những vấn đề thuộc về tình cảm, các mối

quan hệ gia đình, tình yêu… lại thuộc về một dạng đối thoại khác. Chúng tôi gọi đó là đối

thoại cảm xúc. Chúng tôi nhận thấy số lượng các đối thoại tương tác xã hội đơn thuần

trong truyện ngắn Bunin xuất hiện rất ít, và nếu có xuất hiện thì cũng là những đối thoại

rất ngắn. Thông thường, những đối thoại tương tác xã hội xuất hiện nhiều trong các tác

phẩm có tình huống là những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên giữa những con người xa lạ trong

hành trình cuộc đời. Họ gặp nhau ngắn ngủi, trao đổi với nhau những thông tin vắn tắt và

cơ bản, nhưng ấn tượng, cảm xúc đến với họ lại rất lớn lao và mãnh liệt. Khi ấy, những

đối thoại tương tác xã hội đã nhường chỗ cho những đối thoại giãi bày cảm xúc. Sự

chuyển đổi các dạng đối thoại trong cùng một tác phẩm đã tăng thêm tính chất trữ tình và

“mềm mại” cho tác phẩm. Như vậy, có thể nhận thấy trong truyện ngắn Bunin có khuynh

hướng tối giản đối thoại tương tác xã hội và nối dài đối thoại giãi bày cảm xúc. Đó chính

là biểu hiện cảm xúc hóa đối thoại, gia tăng chất trữ tình cho lời văn.

Những đối thoại tương tác xã hội, hay đơn giản là những đối thoại đơn thuần cung

cấp thông tin chiếm số lượng rất ít trong truyện ngắn Bunin. Đôi khi nhân vật tự lờ đi

những thông tin ấy, với họ quan trọng hơn cả là cảm xúc ở thời điểm đó. Trong Say nắng,

nguyên tác hơn 6 trang [99 – tập 4; 334-340], chỉ có duy nhất một cuộc đối thoại đúng

33

nghĩa với sự tương tác của cả hai nhân vật, và cuộc đối thoại ấy cũng vẻn vẹn có bảy câu

thoại với ba lượt lời.

“-Ta xuống đi…

- Xuống đâu? – nàng ngạc nhiên hỏi.

- Xuống bến này.

- Để làm gì?

Chàng nín lặng. Nàng lại áp mu bàn tay vào bên má nóng bừng.

- Có mà điên…

- Ta xuống đi, - chàng nhắc lại như ngây như dại. – Anh van em…

- Ôi chao, thôi thì tùy anh muốn làm gì tùy anh, - nàng vừa nói vừa quay mặt đi.”

[15; tr. 204]

Trong đoạn đối thoại, chàng trung úy không trả lời thẳng vào câu hỏi của thiếu phụ

về mục đích xuống bến. Tuy nhiên, ngay chính người hỏi dường như cũng không cần

chàng nêu rõ thông tin ấy, cơn say nắng đã khiến người thiếu phụ dừng cuộc truy vấn của

mình, thả mình vào xúc cảm. Nội dung thông tin bị bỏ lửng nửa chừng, nhường chỗ cho

sự hoà điệu của lời cầu xin và nhượng bộ. Trong Say nắng, còn có hai cuộc đối thoại nửa

chừng khác. Đối thoại nửa chừng ở đây chỉ có một người nói, còn người kia yên lặng

đồng tình.

“- Hình như em say hay sao ấy… Anh ở đâu ra thế nhỉ? Cách đây ba tiếng đồng

hồ thậm chí em không hề biết là có anh trên đời này. Thậm chí em cũng chẳng biết anh từ

đâu lên nữa. Từ Samara ư? Cũng chẳng sao… Đây là em chóng mặt hay chúng ta đang

quành đi đâu ấy nhỉ?” [15; tr. 203]; “- Không, không, anh yêu ạ, - đáp lại lời chàng van

xin được cùng đi theo thêm nữa, nàng bảo, - không, anh phải ở lại đến chuyến tàu sau.

Nếu chúng ta cùng đi, mọi chuyện sẽ hỏng mất. Em sẽ đâm ra rất khó xử mất thôi. Em lấy

danh dự nói với anh rằng em hoàn toàn không phải con người mà anh có thể nghĩ về em.

Cái điều thậm chí giống với việc mới xảy ra, đối với em chưa hề có và sẽ không bao giờ

có nữa cả. Hệt như em đã bị rối trí hay sao ấy… Hoặc nói đúng hơn, là cả hai chúng ta

đều đã bị một cái gì giống như say nắng ấy…” [15; tr. 206].

Trong đối thoại khuyết vế, những câu hỏi phần nhiều mang tính tu từ, có khuynh

hướng trở thành cảm thán. Thiếu phụ thực chất chủ yếu thể hiện những xúc cảm chân thật

34

về cơn “say nắng” bất ngờ, dằn vặt về những cảm giác “tội lỗi”, song lại luôn tìm kiếm sự

đồng cảm từ phía người đối thoại.

Cũng là cuộc gặp tình cờ trên một chuyến tàu thủy, cũng là một thiếu phụ cô đơn

và một anh chàng si tình, ở Những tấm danh thiếp những đối thoại tương tác xã hội của

người thiếu phụ và anh chàng nhà văn có dài hơn. Tuy nhiên, nếu trong Say nắng, người

thiếu phụ dường như rất hạn chế bộc lộ những thông tin riêng tư về mình thì người thiếu

phụ trong Những tấm danh thiếp lại chủ động kể cho anh chàng nhà văn hào hoa những

thông tin ấy, thậm chí trong lời kể còn “cố tình” giãi bày cảm xúc về hoàn cảnh bản thân,

về cuộc hôn nhân nhàm tẻ và cả ước mong cháy bỏng được một lần “sống khác”:

“- Có chồng rồi. Và than ôi, chẳng phải là năm đầu tiên…

- Sao lại than ôi?

- Em dại dột nhảy ào đi lấy chồng quá sớm. Ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy chốc

cuộc đời sẽ trôi qua!

- Ồ, cái đó thì còn lâu.

- Than ôi, chẳng lâu la gì đâu! Mà em còn chưa biết mùi đời, chưa biết mảy may!

- Ôi chao, chồng em là con người rất tốt, rất lành, nhưng tiếc một nỗi là chẳng có

gì thú vị cả… Ông ấy làm thư kí phòng quản thủ điền thổ huyện nhà…

- Anh biết không, - nàng bỗng bảo, - ta vừa mới nói đến những giấc mơ, vậy anh

có biết hồi còn là nữ sinh trung học, em đã ước mơ điều gì hơn hết không? Ước mơ đặt in

những tấm danh thiếp ấy! Hồi đó gia đình em nghèo túng hẳn đi, phải bán nốt phần trang

trại còn lại để dọn vào thành phố, thế là em hoàn toàn chẳng còn ai để mà trao danh thiếp

nữa cả, mà đó là điều em đã xiết bao mơ ước! Ngu ngốc kinh khủng…” [15; tr. 258-259-

260].

Người thiếu phụ trẻ bất mãn với cuộc hôn nhân của mình, nàng thổ lộ tất cả những

điều thầm kín riêng tư lẽ ra không nên nói cho người ngoài. Nàng xót xa “chưa biết mùi

đời, chưa biết mảy may” (“еще ничего, ничего не испытала в жизни”). Sự thiếu thốn

cảm xúc, nỗi khát khao trong tâm hồn người thiếu phụ được đánh thức bởi một chàng trai

sẵn sàng “thương hại, thương hại cho cách cư xử buông thả của nàng, và cùng với lòng

35

thương hại là một niềm trìu mến và một dục vọng khoái cảm hòng lợi dụng cái ngây ngô,

cái thiếu từng trải một cách muộn màng của nàng” [15; tr. 259].

Ở hai tác phẩm trên, dường như những lời giãi bày được “cố ý” kéo dài ra đều

thuộc về những người phụ nữ. Điều này cũng dễ hiểu bởi phụ nữ luôn có xu hướng tâm

sự, kể lể, kêu gọi sự thông cảm, thương yêu… Có thể gặp xu hướng này trong rất nhiều

truyện ngắn khác của Bunin: Cuộc đời tươi đẹp, Tanhia, Một truyện tình nho nhỏ, Bình cà

phê thứ hai, Rusya, Stepa, Sự trả thù… Có những tác phẩm, người giãi bày lại là những

người đàn ông, họ không thể tự tha thứ cho bản thân mình vì một lỗi lầm nào đó trong

quá khứ. Đó là những lời thú nhận của người họa sĩ trong Galia Ganskaya, của nhân vật

nhạc sĩ trong Ida, của người chủ cũ trong Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối, của người

cha đỡ đầu trong Mẹ đỡ đầu, của chàng trai trẻ bất hạnh Nikanor Matveits trong Cuộc đời

tươi đẹp…

Nhân vật nữ Nastasia luôn bị ám ảnh bởi cuộc chuyện trò với cậu chủ cũ của mình

sau khi đã móc túi hết số tiền của cậu ta rồi bỏ đi. Có lẽ, đó là sự day dứt duy nhất của

một người phụ nữ mạnh mẽ, luôn tự làm chủ được bản thân mình:

“- Nastia ơi, số phận đã khiến tôi què quặt, mà bản tính tôi cũng dở điên dở dại: lúc

tôi vui về một tai nạn nào đó, lúc thì lại buồn rượi, nhất là mùa hè, những khi nóng nực,

bụi bậm như thế này, - thà là tôi tự tử đi cho rồi! Nếu tôi chết, người ta sẽ chôn tôi ở nghĩa

trang Chernoslobodskoie, đời đời kiếp kiếp bụi sẽ bay qua bờ rào mà phủ lên mộ tôi!

- Sao cậu cứ quá đỗi buồn phiền về chuyện đó làm gì, cậu Nikanor Matveits? Mình

có cảm biết được cái đó nữa đâu.

- Đúng là mình sẽ không cảm biết được nữa, - cậu ta nói, - và tai họa ở chỗ là mình

nghĩ đến cái đó từ lúc mình hãy còn sống…” [15; tr. 87].

Những lời nói của cậu bé què quặt giống như một chân lí ngậm ngùi: điều đáng sợ

nhất không phải cái chết, mà là ý thức về cái chết và sự tồn tại vô nghĩa của mình trong

cõi thế ngay khi còn đang sống. Chính những lời nói đầy buồn bã và trầm tư của cậu bé

đáng thương đã khiến không khí câu chuyện trở nên trầm buồn hơn. Những lời tâm sự

giãi bày của người chủ cũ khi gặp lại cô hầu gái năm xưa trong Những lối đi dưới hàng

cây sẫm tối sau những lời nói xã giao tưởng như vô thưởng vô phạt lại chứa đựng nỗi

niềm của một người luôn tự giấu kín tâm sự vì xấu hổ và sĩ diện:

36

“- Ôi, lúc ấy sao cô xinh tươi thế! – ông lắc đầu nói. – Sao cô nồng nàn thế, tuyệt

vời thế! Vóc người đẹp biết bao, cặp mắt đẹp biết bao! Mọi người đều phải nhìn ngắm cô,

cô còn nhớ chứ?

- Còn nhớ, thưa ngài. Mà cả ngài cũng rất đẹp trai nữa. Và vì vậy tôi đã hiến dâng

ngài sắc đẹp của tôi, mối tình nồng nàn của tôi. Làm sao lại có thể quên điều đó được.

- Chao ôi! Mọi sự đều qua đi. Mọi sự đều bị lãng quên đi.

- Mọi sự đều qua đi, nhưng không phải mọi sự đều lãng quên đi cả đâu” [15; tr.

232].

Lời thoại tràn ngập những câu cảm thán, từ ngữ biểu cảm (Ах, как хороша ты

была!.. Какой стан, какие глаза!...), cùng hiện tượng lặp từ, lặp ý nửa như phản bác

thông tin, nửa như cùng chung xúc cảm (– А! Все проходит. Все забывается. – Все

проходит, да не все забывается...). Qua các vế đối thoại xúc cảm kết nối các nhân vật

với nhau và với người đọc giả định.

Sự giãi bày của những người đàn ông trong tác phẩm của Bunin ban đầu xuất phát

từ những đối thoại tương tác xã hội, để rồi từ những đối thoại xã giao các nhân vật dần

dần bày tỏ suy nghĩ và tâm sự của mình. Trên biển đêm khuya cũng là tác phẩm ghi lại

một cuộc gặp gỡ tình cờ của hai người đàn ông, những người đã từng có chung một niềm

đam mê, chung khát khao yêu đương mãnh liệt với một người phụ nữ. Một trong số họ

giành được tình yêu của cô gái ấy, còn người kia thì không. Giờ đây, ngẫu nhiên gặp lại

nhau trên chuyến tàu, họ chia sẻ với nhau tất cả những cảm giác về tình yêu bị phản bội,

về sự hữu hạn trong cuộc sống con người, về cách họ trải qua nỗi đau… Có những đoạn

đối thoại dịch ra tiếng Việt hơn một trang giấy, nhân vật không chỉ đang giãi bày với

người khác mà như đang tự sự với chính bản thân mình. Với anh ta giãi bày cho người

khác cũng là tự biện hộ cho mình. Dường như cảm xúc khát khao giãi bày ấy chỉ đến khi

nhân vật tìm được đối tượng lắng nghe dù rằng đối tượng ấy với anh ta trước kia là tình

địch, là “kẻ thù”.

Như vậy, trong truyện ngắn của Bunin, đối thoại về cơ bản được nối dài theo

hướng cảm xúc hóa, nhân vật dường như không chỉ đang trao đổi thông tin với người

khác mà đang tâm sự với chính mình, giãi bày để tự tìm cách xoa dịu nỗi đau, sự ám ảnh,

ẩn ức của cả cuộc đời. Chính những đối thoại giãi bày ấy gia tăng tính trữ tình, khiến cho

37

câu chuyện được kể trong tác phẩm không chỉ là câu chuyện của riêng nhân vật mà là câu

chuyện được cảm thông, được chia sẻ bởi cả nhà văn và người đọc.

2.1.2. Độc thoại hóa đối thoại và phối cảm lời kể với lời độc thoại

Trong nhiều truyện ngắn của mình, Bunin để cho nhân vật có những phút giây tự

đối diện với bản thân, tự bộc lộ những tâm sự chất chứa trong lòng. Tuy nhiên, trong lời

chuyện trò thông thường, nhân vật dường như rất ngại bộc lộ nỗi lòng trực tiếp. Họ chỉ

“dám” làm việc ấy một cách gián tiếp: viết thư, ghi nhật kí. Những bức thư tình, những

trang nhật kí, những lời tâm sự giãi bày của nhân vật luôn là những xúc cảm mãnh liệt và

chân thực nhất, có sức thuyết phục lớn lao nhất đối với người đọc. Hình thức viết thư

cũng như nhật ký phổ biến trong nhiều truyện ngắn của Bunin như Chuyện tình của người

gù, Một truyện tình nho nhỏ, Hơi thở nhẹ, Đứa con trai, Người bạn không quen biết, Cây

thần… (Theo thống kê của chúng tôi 23/100 truyện ngắn của Bunin được khảo sát có sử

dụng các dạng thức độc thoại này). Đây là những phương thức hữu hiệu của Ivan Bunin

trong việc lôi cuốn và làm mê đắm người đọc trong cảm xúc và bằng cảm xúc. Thực chất

sự phổ biến của cả hai dạng thức lời văn này thể hiện khuynh hướng độc thoại hóa đối

thoại gia tăng sức biểu cảm cho lời văn trong truyện ngắn Bunin.

Viết thư là hình thức giao tiếp ở khoảng cách xa, thường là để bộc lộ những xúc

cảm riêng tư thầm kín khó nói trực tiếp. Trong Chuyện tình của người gù, một chàng gù

rất háo hức và sung sướng nhận được lá thư tỏ tình và hẹn hò của một cô gái. Anh chàng

may mắn phấn khích chờ đợi đến ngày hẹn bởi lá thư tình của cô gái không đề tên là lá

thư tình đầu tiên trong đời anh nhận được. Đến ngày hẹn anh chàng sắm sửa bảnh bao

như một chú rể, hồi hộp và hạnh phúc chờ đến khi được gặp mặt nàng. Cô gái mà anh chờ

đợi tuy rất quyến rũ, đẹp đẽ nhưng lại khiến anh hụt hẫng, bẽ bàng: cô bị gù. Có lẽ bởi thế

cho nên cô gái chỉ đủ tự tin viết thư cho chàng trai thay vì chủ động đến gặp và tỏ tình:

“Hãy đến khu vườn hoa công cộng tại quảng trường Nhà Thờ Lớn vào thứ bảy,

ngày 5 tháng 4, lúc 7 giờ tối. Em trẻ, giàu có và không bị ai ngăn cấm. Và tại sao em phải

giấu giếm tình cảm này thêm nữa – Em yêu anh từ rất lâu rồi. Yêu vẻ u sầu của anh, biểu

cảm tự hào của anh, trí thông minh và vẻ quý tộc của anh, nỗi cô đơn của anh, em hi

38

vọng rằng anh sẽ tìm được sự thân thiết nơi em… Em sẽ mặc một bộ vét màu ghi, tay trái

cầm ô lụa màu hoa oải hương, tay phải cầm một bó hoa violet” [99 – tập 5; tr. 321].

Nhân vật nữ trong Một truyện tình nho nhỏ đã trút bầu tâm sự vào những trang viết

cho anh chàng người yêu mà nàng say đắm nhưng không được toại nguyện. Thực tế đọc

những dòng tâm sự của nàng, người đọc có cảm giác đó không chỉ đơn thuần là thư, đó

còn là những dòng nàng tự than khóc, thương xót cho bản thân. Nàng tự trách mình không

đủ dũng cảm để đấu tranh cho tình yêu, không dám phá bỏ hôn ước định sẵn dù trong

lòng không muốn, để rồi khi dấn thân vào cuộc hôn nhân không tình yêu, nàng thực sự

tuyệt vọng. Những lời nàng viết ra là để giãi bày, để đánh thức dậy yêu thương và trân

trọng ở người con trai, cũng là tự chuộc lỗi cho bản thân. Nàng đã rất dũng cảm, dù sự

dũng cảm ấy giờ đây không giải thoát được nàng.

“Anh thân yêu, - nàng viết cho tôi bốn tháng sau ngày đó, - anh đừng kết tội em,

rằng em đã biến đi mà không báo trước cho anh. Hắn mạnh hơn em gấp nghìn lần. Em đã

tỏ ra hèn yếu, bỏ lỡ mất giây phút khủng khiếp khi còn kịp quyết định phá bỏ tất cả. Bây

giờ thì em hầu như đã chẳng còn hi vọng nào gặp lại được anh. Mà thử hỏi làm sao chúng

ta có thể gặp nhau được? Em có cảm giác rằng em hoàn toàn, hoàn toàn không tự lừa dối

mình về tình cảm của anh đối với em. Đối với anh, đó chỉ là một cuộc gặp ngẫu nhiên,

một chuyện tình nho nhỏ, không hơn. Nhưng không sao: xin thề với anh, rằng nếu trong

đời em đã yêu ai đấy, thì người đó chính là anh…

Tình yêu là gì, cái tình yêu đã được ca ngợi hàng vạn, hàng triệu lần ấy? Cũng có

thể vấn đề không phải ở chính bản thân tình yêu. Trong thư của một nhà văn đã chết, cách

đây không lâu em có đọc câu này: “Tình yêu là cái ta muốn nhưng không đạt được, và

không hề có”. Vâng, vâng, không bao giờ có thể có! Nhưng không hề gì. Em đã yêu và

hiện đang yêu anh…” [16; tr. 583].

Đó là phần đầu trong lá thư dài cô gái gửi chàng trai – tình yêu của đời mình. Cô

gái biết tự biện minh cho mình là cách duy nhất cô được sống với tình yêu ấy. Lời triết lí

về tình yêu của cô là lời triết lí của những “kẻ thất bại” trong tình yêu. Người đọc thêm

đồng cảm với cô gái yếu mềm, tuyệt vọng nhưng dám sống thật với cảm xúc của mình.

Viết nhật kí trong truyện ngắn Bunin nhiều khi là hình thức giãi bày tâm sự, tự nhủ,

hay đối thoại với chính mình, gần với độc thoại nội tâm. Trong một số truyện ngắn của

39

mình, Bunin để cho nhân vật viết nhật kí để bộc lộ tâm trạng, suy nghĩ cũng như thái độ,

quan điểm của họ. Nhật kí đã thay họ nói lên nỗi lòng mình, nỗi lòng mà họ không dủ

dũng khí hoặc không muốn hay không thể nói ra dưới dạng thức khác. Những dòng nhật

kí của cô bé Olia Mesherskaia mới mười lăm tuổi trong Hơi thở nhẹ làm cho anh chàng sĩ

quan kazak bất ngờ, đến mức không chịu nổi đã nhẫn tâm bắn gục cô bé trên sân ga.

Người đọc bất ngờ trước những lời thú nhận vừa có chút bằng lòng, vừa có chút tiếc nuối,

vừa có chút hối hận… của cô bé: “Bây giờ đã là hai giờ đêm. Mình đã ngủ thiếp đi, nhưng

rồi đã tỉnh dậy ngay… Từ nay mình đã là đàn bà rồi đấy! (…) Bây giờ mình chẳng hiểu

sao lúc ấy chuyện lại có thể xảy ra như thế, mình điên mất rồi. Chưa bao giờ mình nghĩ

mình lại là con người như vậy! Giờ đây mình chỉ còn có một lối thoát… Mình cảm thấy

ghê tởm ông ta đến mức không sao chịu nổi!...” [15; tr. 196-198]. Thực chất, nhật kí hay

những ghi chép cho riêng mình của nhân vật trong truyện ngắn Bunin không liệt kê chi

tiết sự việc đã diễn ra hay dự định của nhân vật, mà tập trung nhấn mạnh ấn tượng, xúc

cảm về sự việc. Phần nhiều đó là những lời tự nhủ, tự vấn của nhân vật, là độc thoại nội

tâm trực tiếp.

Trong một tác phẩm tự sự, độc thoại nội tâm của nhân vật luôn là những lời nói

bộc lộ đầy đủ nhất cảm xúc của họ. Đó cũng là khi nhân vật dễ được yêu hoặc bị ghét

nhất. Trong truyện ngắn, độc thoại thường xuất hiện hạn chế và khá là ngắn, nó dường

như là những phút giây cảm xúc tạm lắng đọng sau sự dàn trải tâm trạng trong cả tác

phẩm. Điều này đặc biệt đúng trong những tác phẩm có người kể chuyện ngôi thứ nhất.

Khảo sát truyện ngắn của Bunin, chúng tôi thấy thực tế không nhiều tác phẩm có độc

thoại, đặc biệt là độc thoại nội tâm của nhân vật, và số lượng độc thoại trong một tác

phẩm cũng không nhiều. Song hiện tượng lời độc thoại của nhân vật xen lẫn, hòa quyện

với lời người kể chuyện trong một dòng xúc cảm lại rất phổ biến. Chúng tôi gọi hiện

tượng này trong truyện ngắn Bunin là sự phối cảm lời kể - lời độc thoại.

Say nắng là tác phẩm tiêu biểu của Bunin có sự phối cảm này. Sau khi đưa nữ nhân

vật ra bến để nàng đi chuyến tàu trước, nhân vật ở lại đợi chuyến tàu sau. Trở về khách

sạn, lúc đầu, chàng cảm thấy nhẹ nhõm nhưng sau đó, những nỗi buồn, sự dồn nén của

nỗi cô đơn, sự trống trải đã xâm chiếm tâm hồn chàng. Lời người kể chuyện bộc lộ nỗi

trống vắng, chàng tự từ biệt mối tình của mình trong dòng suy tưởng – xúc cảm: “Tấm

40

bình phong đã được gạt sang bên, nhưng giường vẫn chưa được dọn dẹp gì. Và chàng

cảm thấy mình lúc này quả là không còn đủ sức để nhìn vào chiếc giường ấy nữa (…)

Phải, thế là “câu chuyện phiêu lưu dọc đường” ấy đã kết thúc rồi! Nàng đã ra đi – và giờ

đây nàng đã xa vời, có lẽ đang ngồi trong phòng khách có cửa kính màu trắng hoặc là

đang ngồi trên boong tàu mà nhìn ra con sông bao la óng ánh dưới ánh nắng, nhìn những

bè gỗ ngược chiều, những bãi bồi màu vàng, nơi trời nước xa xăm ngời sáng, nhìn ra toàn

bộ cái cảnh bát ngát mênh mang của con sông Volga ấy… Và vĩnh biệt em, vĩnh biệt em

đời đời, mãi mãi nhé… Bởi một lẽ giờ đây họ còn gặp nhau vào đâu được nữa? – “Ta

không sao có thể, - chàng nghĩ, - ta không sao có thể tự dưng mà đến cái thành phố đó,

nơi có chồng nàng, có đứa con gái ba tuổi của nàng, nói chung là toàn bộ gia đình của

nàng và toàn bộ cuộc sống thường ngày của nàng”” [15; tr. 207]. Trong tác phẩm không

phải một lần chàng trung úy đau đáu tâm trạng hướng về người con gái xa lạ và mối tình

sét đánh này. Sự phối cảm hòa lời kể với độc thoại nội tâm trong dòng cảm xúc dâng trào:

“Quái lạ thật! – chàng nghĩ bụng, đứng dậy và lại xoay ra đi đi lại lại trong phòng, cố

không nhìn vào chiếc giường ở đằng sau tấm bình phong. – Mình làm sao thế này nhỉ?

Mà nàng có gì đặc biệt và thật ra thì cái gì đã xảy ra? Quả vậy, hệt như ta bị say nắng thế

nào rồi ấy! Và điều chủ yếu là: vắng nàng, giờ đây ta làm thế nào để qua được cả một

ngày trời ở cái nơi hẻo lánh này?”, “Nhưng cái chính ở chỗ là, - chàng nghĩ bụng, - sẽ

không bao giờ ta có thể thổ lộ ra được! Và ta sẽ làm gì, sẽ làm sao để sống qua được cái

ngày vô tận này, với những nỗi nhớ nhung ấy, với nỗi đau khổ không sao giải quyết được

ấy, trong cái thành phố nhỏ nhoi mà Chúa đã lãng quên ngay trên con sông Volga ngời

sáng này mà con tàu màu hồng ấy đã đem nàng đi theo!” (…) “Phải kiếm cho được kế

thoát thân, dùng cách gì đó khiến mình bị cuốn hút và lãng quên đi, đi biệt một nơi nào

đó. Chàng bèn kiên quyết đội chiếc mũ lưỡi trai lên đầu, cầm lấy roi ngựa, lê cựa giày

lách cách mà rảo bước trên hành lang trống trải, rồi chạy vội xuống cầu thang dốc ngược

mà ra cổng… Ừ nhưng mà ta đi đâu nhỉ?” [15; tr. 208-209]. Rõ ràng, ở trong đoạn văn

trích dẫn trên, bên cạnh những lời độc thoại nội tâm chất chứa tâm trạng nặng trĩu của

chàng trung úy, người kể chuyện ngôi thứ ba đã hòa vào tâm trạng của nhân vật, thấu hiểu

nỗi băn khoăn của chàng, và dường như người kể chuyện đồng cảm ấy đã hòa vào lời bộc

41

bạch nỗi niềm của chàng. Sự phối cảm lời kể của người kể chuyện với lời độc thoại của

nhận vật khiến cho cả câu chuyện trở thành một dòng tâm trạng thống nhất.

Không chỉ Say nắng, những trang viết có hiện tượng phối cảm lời kể - lời độc thoại

như trên có thể tìm thấy trong những truyện ngắn như Những tấm danh thiếp, Natali, Hơi

thở nhẹ, Cỏ gầy, Ngày cuối cùng, Canh khuya... Hiện tượng độc đáo này gia tăng sức biểu

cảm, tạo ấn tượng thống nhất tâm trạng, thực chất là biểu hiện của tính trữ tình xuyên suốt

trong các truyện ngắn của Bunin.

2.2. Tăng cƣờng nhạc tính lời văn

Nói về văn xuôi Bunin nói chung và truyện ngắn Bunin nói riêng, các nhà nghiên

cứu đều khẳng định đó là một thứ văn xuôi thấm đẫm chất nhạc. Nhà nghiên cứu

Mikhailov trong cuốn Một tài năng nghiêm cẩn: Ivan Bunin. Cuộc đời. Số phận. Sáng tác

đã khẳng định văn xuôi của Bunin chính là “lối thoát” cho sự cũ kỹ của văn xuôi Nga, và

chìa khóa của “lối thoát” ấy là âm nhạc: “Lối văn xuôi của Bunin chính là lối văn xuôi

đậm chất âm nhạc hay nói cách khác, Bunin chính là người tạo nên cái gọi là âm nhạc của

văn xuôi” [133; tr. 60].

Các từ điển thuật ngữ văn học, các nhà nghiên cứu đều khẳng định trong các thể

loại trữ tình, đặc biệt là thơ trữ tình, nhạc tính là một trong những yếu tố quan trọng nhất

thuộc về bản chất của thi ca. Nhà nghiên cứu Luo Sichen trong bài Phạm trù tính trữ tình

trong văn xuôi của Bunin (khía cạnh ngôn ngữ) khẳng định “trong thơ, tính trữ tình liên

hệ chặt chẽ với thuộc tính ngôn ngữ của nó” [128; tr. 419]. Tác giả đưa ra những thuộc

tính cụ thể của ngôn ngữ làm cơ sở cho lời nhận xét của mình, trong đó nhạc tính được

coi là thuộc tính hàng đầu. Đồng thời, nhà nghiên cứu cũng dẫn giải những thủ pháp

chính được Bunin sử dụng để tận dụng và tăng cường thuộc nhạc tính lời văn: phép lặp

lại âm đầu và sự trùng âm/ sự tương ứng một phần các âm (аллитерация и ассонанс)

(với dẫn chứng từ Ngày thứ Hai chay tịnh: “мы оба были богаты” và Natali: “Боюсь,

что мы с тобой за столом и при Натали недостаточно просты”; vận dụng tiết tấu của

thơ, ví dụ như kết hợp từ trong Ngày thứ Hai chay tịnh: “вечер был мирный,

солнечный, с инеем в деревьях” hay trong Say nắng: “конечно, последняя фраза

опять очень странна”; sử dụng những thủ pháp của thơ như: ẩn dụ (“в небе уже высоко

42

блещет бриллиатовое семизвездие Стожар”), phóng đại (“развиваться не по дниям, а

по часам”) hay nhân hóa (“где оно (солнце) радостно блистало весь день”). Tuy

nhiên, thủ pháp quan trọng nhất tạo nên nhạc tính cho tác phẩm chính là sự lặp lại của

phức hệ âm thanh (thủ pháp điệp) ở cấp độ ngữ âm (giữa các âm của các từ trong một

câu, chẳng hạn như sự lặp lại tổ hợp âm то, ст: “Боюсь, что мы с тобой за столом и

при Натали недостаточно просты” trong Natali hay tổ hợp âm по trong Quý ông từ San

Francisco đến: “Жизнь в Неаполе тотчас же потекла по заведенному порядку”) và ở

các cấp độ cao hơn: giữa các câu trong một đoạn, giữa các đoạn trong một tác phẩm...

Nhạc tính lời văn kết nối và gắn tất cả nhân vật – người đọc – tác giả hoà nhập vào

dòng xúc cảm trữ tình thống nhất. Ở đây, chúng tôi tập trung khảo sát hai phương thức

chủ yếu được sử dụng để âm nhạc hóa ngôn từ: phép điệp tạo nhạc tính và khuynh hướng

xen thơ, nhạc vào lời văn nhằm tô đậm tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin.

2.2.1. Phép điệp tạo nhạc tính

Trong cảm nhận của chúng tôi, nhạc tính trữ tình trong truyện ngắn của Bunin thể

hiện trước hết qua sự gia tăng phép điệp ngôn từ. “Phép điệp là thủ pháp quen thuộc trong

ngôn ngữ nghệ thuật, được đánh dấu bằng sự lặp lại của những âm thanh giống nhau hay

những kết cấu cú pháp giống nhau theo một logic nhất định nào đó” [110, tập 3, tr. 163].

Từ điển Bách khoa thư văn học đưa ra cụ thể hơn những dạng thức khác nhau của phép

điệp: lặp lại nguyên dạng các từ ngữ, lặp lại các từ ngữ với sự suy yếu các mức độ giống

nhau của âm thanh. Theo đó có các hình thức điệp âm điệu, điệp ngữ cú (điệp khúc) và

điệp hình ảnh (một trong những motif, sự kiện…) [121; tr. 283].

Trên bề mặt ngôn từ truyện ngắn Bunin, có thể thấy phép điệp, cụ thể như điệp âm

trong từ, ngữ, điệp tổ chức câu, điệp kết cấu ngữ đoạn và điệp hình tượng sự vật, được sử

dụng như một hiện tượng phổ biến nhằm tăng cường nhạc tính cho lời văn, cũng là góp

phần thể hiện tính trữ tình đậm đặc trong tác phẩm.

Đọc truyện ngắn của Bunin, thậm chí qua bản dịch, người đọc sẽ cảm thấy rất thích

thú và ngạc nhiên với những câu văn, đoạn văn, thậm chí có những tác phẩm có âm điệu

du dương như lời hát, nhịp nhàng như lời thơ. Đó là bởi nhà văn đã sử dụng phép điệp

ngữ âm – cú pháp (điệp âm, từ ngữ, tổ chức câu) tạo ra những câu văn xuôi mượt mà và

43

ngân nga: “Кукушка выскакивает из часов и насмешливо-грустно кукует над тобою

в пустом доме. И понемногу в сердце начинает закрадываться сладкая и странная

тоска...” [99 – tập 1; tr. 417). Ở đây chúng tôi nhận thấy những âm điệu lặp lại rất nhịp

nhàng: Кукушка- кукует, из-и, в пустом доме-в сердце, сладкая и странная тоска đã

gây ra một hiệu ứng âm nhạc tuyệt vời. Sự kết hợp của âm điệu và từ ngữ trong những

câu văn như trên đã tạo ra những nhạc điệu êm ái trước hết trong lòng của nhân vật, và

đồng thời tạo ra xúc cảm tương tự nơi người đọc. Bức tranh thiên nhiên mùa thu trong

Lần gặp gỡ cuối cùng dưới con mắt nhìn của đôi tình nhân sắp chia xa Storesnhev và

Vera được chuyển tải bằng thứ ngôn ngữ giàu nhạc điệu: “Луна садилась. Белый

рыхлый туман стоял под скатом полей, мертвенно синея. Далеко за ним занималась

багряная заря. Далеко, в холодном, потемневшем лесу, пел петух в сенцах

караульщика” [99 – tập 3; tr. 216]). Còn đây là những lời nói chan chứa tình cảm của

anh chàng Storesnhev đối với người yêu của mình: “Я о тебе, с восторгом, с

благоговением, всегда только как о жене думал. А когда нас свела судьба? И чем ты

мне стала? Женой разве? А была молодость, радость, чистота, темный румянец,

батистовая косоворотка... Приезжать к вам каждый день, видеть твое платье,

тоже батистовое, легкое, молодое, видеть твои голые руки, почти черные от

солнца и от крови наших предков, татарские сияющие глаза – не видящие меня

глаза! – желтую розу в угольных волосах, твою тогда глупую, изумленную какую-

то, но прелестную улыбку” [99 – tập 3; tr. 216]. Cách lặp lại cấu trúc vị ngữ và ngữ

điệu hỏi trong những câu văn trên giúp cho câu văn vừa nhịp nhàng vừa trầm buồn lắng

đọng. Nhạc điệu của câu văn phải chăng cũng là nhịp điệu của tâm hồn chàng trai

Storesnhev đang mơ màng trong những câu hỏi day dứt đan xen giữa kí ức tình yêu đẹp

và hiện tại buồn bã. Trong Chiếc đu cũng xuất hiện rất nhiều câu văn được điệp cấu trúc

tạo ra nhịp điệu mượt mà đầy chất thơ: “А вон первая звезда и молодой месяц и небо

над озером зеленое-зеленое – живописец, посмотрите, какой тонкий серпик! Месяц,

месяц, золотые рога...”, “Первая звезда, молодой месяц, зеленое небо, запах росы,

запах из кухни, – верно, опять мои любимые битки в сметане! – и синие глаза и

прекрасное счастливое лицо...” [99 – tập 6; tr.188]. Sự cộng hưởng của cấu trúc điệp

kết hợp với những tổ hợp ngôn ngữ cảm thán đầy đáng yêu đã làm nên những trang văn

44

chan chứa chất thơ của niềm hạnh phúc ngất ngây. Nếu trong Chiếc đu là hạnh phúc của

tình yêu lứa đôi thì nhạc điệu hạnh phúc trong Ngày thứ Hai chay tịnh là nhạc điệu của

niềm hạnh phúc sùng tín: “Ах, как было хорошо! Везде лужи, воздух уж мягкий, на

душе как-то нежно, грустно и все время это чувство родины, ее старины... Все

двери в соборе открыты, весь день входит и выходит простой народ, весь день

службы...Ох, уйду я куда-нибудь в монастырь, в какой-нибудь самый глухой,

вологодский, вятский!” [99 – tập 6; tr. 196].

Bên cạnh những tác phẩm dài với cốt truyện tự sự là chủ đạo, Bunin có khá nhiều

tác phẩm “không có cốt truyện” được viết dưới dạng những bài thơ văn xuôi. Có thể kể

đến Sách, Nhà mồ, Bernard, Người mù… Đó là những truyện cực ngắn, cũng có thể coi là

những dòng tản văn đầy chất thơ và chất trữ tình. Chất thơ đến từ những câu văn mang

kết cấu điệp giàu nhịp điệu, chẳng hạn: “Взгляни и на меня, почувствуй любовь и ко

мне; тебе все родственно в этом мире в это прекрасное утро - значит, родствен и я;

а раз родствен, ты не можешь быть безчувствен к моему одиночеству и моей

беспомощности, ибо моя плоть, как и плоть всего мира, едина с твоей, ибо твое

ощущение жизни есть ощущение любви, ибо всякое страдание есть наше общее

страдание, нарушающее нашу общую радость жизни, то есть ощущение друг друга

и всего сущего!” [Слепой, 99 – tập 4; tr. 236]. Thực tế, trong truyện ngắn của Bunin

không khó để tìm ra những câu văn mang âm điệu, đặc biệt là những câu văn miêu tả

thiên nhiên: “Здесь, в этих молчаливых горных долинах, стояла прозрачная тишина

первых весенних дней, красота бледно-ясной лазури, черных голых деревьев,

прошлогодних коричневых листьев, слежавшихся в кустах, первых фиалок, диких

тюльпанов. Здесь еще только начинали зеленеть горные скаты, отдыхая от стужи и

снега. Здесь хрустально чист и свеж был воздух, как бывает он чист и свеж только

ранней весной...И казалось мне тогда, что ничего не нужно в жизни, кроме этой

весны и дум о счастье”. [Маленький роман, 99 – tập 2; tr. 270]. Rõ ràng, những câu

văn giàu nhịp điệu ấy đã cộng hưởng không nhỏ với tiếng nhạc lòng của những nhân vật

trong tác phẩm đưa người đọc thâm nhập sâu hơn vào thế giới nội tâm của họ, cùng thấu

hiểu, cùng đồng cảm với những xúc cảm trữ tình ấy.

45

Không chỉ điệp ngữ âm – cú pháp, nhiều truyện ngắn của Bunin được xây dựng

theo lối điệp kết cấu ngữ đoạn. Những giấc mộng của Trang là một ví dụ tiêu biểu. Sự

lặp lại đến ba lần kết cấu đan xen: hiện thực – giấc mơ của Trang về những tháng ngày

lang thang trên biển với vị thuyền trưởng đã tạo nên một kết cấu trùng điệp mang đậm

tính nhạc. Tác phẩm giống như một bản hòa tấu ba chương, mỗi chương lại là sự tương

phản của quá khứ - hiện tại. Kết lại mỗi chương là xúc cảm, là suy tưởng của chú chó

Trang đến từ Trung Hoa. Từ những đan xen trùng điệp ấy nhịp điệu của tác phẩm đã được

định hình: đó là nhịp điệu của tâm hồn con người đã trải qua tất cả những cung bậc hạnh

phúc, khổ đau, vui sướng, cô độc; của tâm hồn chú chó khôn ngoan trước những biến

động xảy ra với người chủ của mình – cũng là những cung bậc xúc cảm ngạc nhiên, lo

lắng, ghen tị, bình thản…; là nhịp điệu của những suy tưởng mang tính triết lí về cuộc

đời, về tình yêu, về con người, về cái chết của cả người chủ và chú chó Trung Hoa.

Những nhịp điệu ấy cứ tuần hoàn lặp lại tạo nên sự nhịp nhàng thú vị. Không chỉ có

Những giấc mộng của Trang, có rất nhiều tác phẩm của Bunin được xây dựng theo lối

điệp kết cấu như thế này. Đó có thể là kết cấu tuần hoàn đầu cuối tương ứng như trong

Hơi thở nhẹ hay trong Quý ông từ San Francisco đến, Rusya, Ở một phố thân quen, Bà

lão, Quán trọ ven sông, Ida, Galia Ganskaya…; là lối viết tuần hoàn của những lượt lời

đối thoại một cách đăng đối như trong Trên biển đêm khuya, Bình cà phê thứ hai, Sự trả

thù, Mẹ đỡ đầu…

Về cơ bản, phép điệp được sử dụng trong văn xuôi Bunin là điệp tương đồng (cả

trên cấp độ từ, cấu trúc câu, hình ảnh…). Tuy nhiên cũng có những tác phẩm thủ pháp

điệp được sử dụng theo một cách khác – điệp tương phản. Trong Quý ông từ San

Francisco đến hình ảnh con tàu Atlantida ở đầu và cuối tác phẩm là một sự lặp lại đầy

dụng ý của tác giả. Ở đầu tác phẩm, con tàu lướt đi trong niềm hân hoan và hi vọng của vị

khách đến từ nước Mĩ. Trên con tàu ấy, gia đình vị khách ăn uống, tận hưởng chuyến du

lịch đến Châu Âu… Lúc đi, vị quý ông đến từ San Francisco cũng là một trong số đó,

nhưng lúc về, ông lại nằm sâu dưới hầm tàu đen ngòm, trong “một chiếc quan tài tẩm

nhựa”. Lúc đi, ông được mọi người trên tàu trọng vọng, từ nhân viên cho đến những hành

khách đi cùng; còn lúc về, “người ta đã giấu không cho những người đang sống biết đến

ông”. Lúc đi, ông hân hoan vì được nghỉ dưỡng sau một quãng thời gian làm việc vất vả;

46

ông háo hức hi vọng vào đám cưới của cô con gái yêu; lúc về, ông không còn biết gì hết,

như thế có lẽ tốt hơn, bởi nếu biết chắc ông sẽ vô cùng đau khổ bởi hầm tàu thì ảm đạm

và nóng bức, còn những con người trên boong tàu thì ham phù du và giả dối, y như ông

trước kia. Sự lặp lại những tình tiết lúc về trên con tàu nổi tiếng đã đưa vị quý ông sang

Châu Âu nhưng có sự đảo ngược thái độ và vị thế của nhân vật chính là một nét sáng tạo

thú vị của Bunin. Tác phẩm giống như một bản nhạc dài kết thúc bằng điệp khúc buồn.

Đại diện cho những truyện ngắn được xây dựng từ kết cấu điệp đối thoại là Trên

biển đêm khuya. Cả tác phẩm là sự kết nối của hai mươi bảy lượt lời của hai nhân vật mà

tác giả gọi là người lên trước và người lên sau. Họ chủ động trò chuyện với nhau bởi họ

có cùng mối quan tâm tới một người phụ nữ, dù người phụ nữ ấy đã chết. Một điều thú vị

là ở đây những lượt lời được diễn ra rất đăng đối, có trật tự: lượt lời của người lên trước –

lượt lời của người lên sau hoặc ngược lại, đặc biệt họ đều rất tôn trọng nhau, mỗi lượt lời

đều có lời đáp tương ứng. Đan xen giữa những lượt lời đối thoại liên tiếp ấy là những

khoảng lặng – giống như những quãng nghỉ ngắn – là lúc những người đối thoại tạm nghỉ

ngơi để nắn nót lại suy nghĩ của mình. Trong tác phẩm có năm khoảng lặng vô thanh như

thế, hầu như mỗi khoảng lặng đều được báo trước theo chủ ý của tác giả: “Hai vị hành

khách cùng im lặng”, “Và cả hai lại im lặng”, “Hai người lại im lặng”... Rõ ràng, với

Bunin, sự cân đối đã tạo nên một nét trữ tình tự nhiên của tác phẩm. Tương tự như với

Trên biển đêm khuya, Bình cà phê thứ hai cũng là một truyện ngắn được lặp lại bảy lượt

lời đối thoại giữa hai nhân vật chính: nữ người mẫu (đồng thời là người tình, người nội

trợ) của anh chàng họa sĩ ở Znamenka và chính chàng họa sĩ. Cuộc trò chuyện của đôi

tình nhân theo kết cấu lượt lời đối xứng cũng tạo ra kết cấu đăng đối nhịp nhàng. Lối kết

cấu này còn được lặp lại trong Sự trả thù (29 lượt lời), Ở Paris (38 lượt lời), Trẻ và Già (9

lượt lời), Bản Ballad (17 lượt lời), Muza (Nàng thơ) (2 cuộc đối thoại lớn đăng đối với

nhau: cả hai cuộc đối thoại đều diễn ra giữa Muza và tôi, một khi Muza tìm đến tôi làm

quen và một khi Muza bỏ tôi để đến với người bạn của tôi)… Đây có lẽ là một nét đặc

biệt của những truyện ngắn Bunin bởi như chúng tôi đã nhấn mạnh ở phần Đối thoại,

Bunin không phải một nhà văn thích đối thoại và tranh cãi, phần lớn đối thoại (nếu có)

đều nhằm giãi bày tình cảm nội tâm. Điều này khiến cho những truyện ngắn được kết cấu

theo lối đối thoại tuần hoàn cũng mang một nhịp điệu nội tâm rất ấn tượng.

47

Trong nhiều tác phẩm của mình, Bunin còn xây dựng tác phẩm theo kết cấu

“chương hồi”. Đó là lối kết cấu phân chia từng chương, đoạn giống như các chương, đoạn

của một bản nhạc. Nét đặc biệt tạo nhịp điệu cho những tác phẩm viết theo lối này là các

chương, đoạn được phân chia khá đều nhau, mỗi đoạn có âm điệu khá đa dạng. Có bản

nhạc thiên về trầm buồn như Cỏ gầy (9 đoạn), Lần gặp gỡ cuối cùng (4 đoạn), Chiếc cốc

đời (12 đoạn)…, có bản nhạc đan xen cả vui lẫn buồn như Những quả táo Antonov (4

đoạn), Những cây thông (3 đoạn)… Đây có lẽ là một thủ pháp quen thuộc của Bunin bởi

từ những sáng tác văn xuôi đầu tiên, ông đã chủ ý coi trọng tính nhạc, đưa tính nhạc trở

thành một nét đặc trưng cho tác phẩm của mình. Những chú chim đen (tên một tác phẩm

trong tập truyện ngắn cùng tên sáng tác từ 1907-1911) được ông gắn cụm từ “tổ khúc”,

với hàm ý coi đó là “trường ca – hành trình”. Bản trường ca ấy được sáng tác theo kết cấu

chương hồi đặc sắc với 5 đoạn khá cân đối. Cũng được xây dựng theo kết cấu “chương

hồi” như Những chú chim đen, nhưng Mùa xuân cuối cùng lại có những nét thú vị hơn.

Tác phẩm được gắn kết bởi 10 đoạn, mỗi đoạn lại được xây dựng theo cấu trúc của một

bài thơ văn xuôi theo các chủ đề khác nhau. Mỗi bài thơ văn xuôi dù mang phong cách

đối thoại hay miêu tả, tự sự thì những câu văn được sử dụng đều khá ngắn gọn, cân đối,

hàm súc. Điểm thú vị là luôn có một câu chủ đề gắn ở đầu mỗi đoạn mang chức năng như

tiêu đề của bài thơ văn xuôi xinh xắn ấy: Tuần lễ thứ sáu, vẫn hoàn toàn còn mùa đông;

Ảm đạm, lạnh lẽo; Không, đã mùa xuân rồi; Rét nhẹ, và mặt trời đang sưởi ấm; Ngày thứ

Hai tuần Thánh; Ngày thứ Năm thanh sạch; Mưa cả ngày; Ngày thứ bảy tuyệt vời; Buổi

tối mùa xuân… Ở một vài tác phẩm khác, nhịp điệu của tác phẩm được tạo nên từ nhịp

điệu của sự vật: nhịp điệu của mưa trong Mùa xuân cuối cùng, nhịp điệu của thánh ca –

lời của Chúa trong Bài hát của Chúa, nhịp điệu của những giai điệu piano trong Âm nhạc

hay nhịp điệu đều đều êm ái từ lời cầu kinh của bà lão Mashenka cùng câu chuyện tình

yêu huyền bí mà bà kể lại trong đêm trong Bản Ballad…

Trong truyện ngắn Bunin còn phổ biến hiện tượng điệp hình tượng sự vật. Có

những hình ảnh, thanh âm, hương vị cứ trở đi trở lại trong kí ức nhân vật như dấu ấn lưu

giữ quá khứ, tạo nên những ám ảnh nghệ thuật khôn nguôi. Ở những tác phẩm như Những

quả táo Antonov, Chiếc cốc đời, Cỏ gày, Hoa hồng Ierikhon, Những cây thông, Con

48

đường mới, Đôi hài… chúng được kết cấu theo lối tạo dựng biểu tượng hàm chứa xúc

cảm trữ tình của nhà văn, từ đó lôi cuốn rung động trữ tình nơi người đọc.

Trong Những quả táo Antonov hình tượng trái táo lặp đi lặp lại trong 4 phần của

tác phẩm với những dạng thức khác nhau từ mùi vị cho đến hương thơm không chỉ là sợi

chỉ đỏ xuyên suốt nối kết các phần mà còn tạo nhịp điệu trữ tình cho tác phẩm ấy.

Có một điều thú vị là, quả táo trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới cũng là

một hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng đặc biệt. Quả táo biểu tượng cho một thế giới khác

[20; tr. 849]. Đó là thiên đường, là nơi ở huyền thoại của các anh hùng vua chúa sau khi

thực hiện xong nghĩa vụ trên trần thế. Không phải ngẫu nhiên ở đầu tác phẩm, Bunin viết:

“Nếu táo Antonov sai quả thì công việc nông thôn sẽ tốt”, “Táo Antonov được mùa, cả

năm thảy đều vui”. Rõ ràng, trong quan niệm dân gian Nga, táo Antonov là một biểu

tượng cho sự giàu có, hạnh phúc. Thậm chí, nó còn là biểu tượng cho chính nước Nga bởi

khắp đâu đâu trên đất nước này cũng có sự hiện diện của táo. Còn đến phần bốn, nhà văn

khẳng định đã không còn táo Antonov. Phải chăng thiên đường trước kia nay đã mất?

Hiện thực này càng rõ ràng hơn khi liên hệ với thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Thế giới

tươi đẹp gắn với táo Antonov chiếm lĩnh cả ba phần không gian, thiên đường đã mất

không còn táo Antonov chỉ có mặt trong một phần. Táo Antonov đã không còn, nay chỉ

còn lại hương thơm dịu ngọt của chúng. Đó cũng là hương thơm dịu ngọt của quá khứ.

Câu hỏi ám ảnh người đọc có lẽ là câu hỏi về tương lai của táo Antonov, về tương lai của

nước Nga. Nhưng tác giả không trả lời được câu hỏi ấy. Thời gian sẽ trả lời.

Như vậy, táo Antonov chính là biểu tượng cho nông thôn Nga, rộng hơn là nước

Nga. Hình ảnh táo Antonov thăng trầm theo bước thăng trầm của nông thôn Nga phần nào

phản ánh lịch sử nước Nga đương thời: sự tan rã của những tổ ấm quý tộc thời xưa, sự

thất thế của những địa chủ nhỏ chốn nông thôn, sự suy sụp của làng quê Nga ngày mùa

thất bát. Bước chuyển của lịch sử làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của nông thôn Nga và

thật thú vị là bước chuyển ấy lại được gửi gắm trong hình ảnh của trái táo Antonov.

Táo Antonov không chỉ gợi ra hình ảnh làng quê Nga với vẻ đẹp của một thời đã

qua nay chỉ còn vang bóng, mà còn giống như hương thơm kết nối thế giới thực tại và tâm

tưởng. Hương thơm ấy đặc biệt đến nỗi chỉ cần gợi nhắc là tất cả hồi ức đẹp sẽ hiện về, sẽ

dâng trào trong tâm hồn con người, giống như hương thơm của “mẩu bánh Madeleine

49

nhúng trong chén trà nóng một ngày đông lạnh” trong Đi tìm thời gian đã mất (tập 1 –

Bên phía nhà Swann) của M.Proust.

Táo Antonov – biểu tượng của làng quê Nga, nước Nga vừa như một hình ảnh giàu

chất hội họa vừa như một nốt nhạc được cất lên ở những cung bậc khác nhau của cảm xúc

tạo ra nhịp điệu trữ tình lúc vui lúc buồn cho tác phẩm. Trong bản nhạc điệu ấy có tiếng

cười ngày được mùa, “tiếng táo đổ rào rào vào thưng”, tiếng lao xao của buổi sớm mai

thu hoạch táo, tiếng thở dài lúc không còn táo nữa… Như thế, có thể thấy, với Những quả

táo Antonov, trong tâm hồn của nhà văn Bunin, lúc nào hình ảnh nước Nga cổ xưa, nước

Nga của những tháng ngày táo Antonov được mùa luôn hiển hiện. Đó là bản nhạc đàn của

tâm tưởng đã được nhà văn hiện thực hóa bằng ngôn từ.

Hoa hồng Ierikhon được lấy làm tiêu đề cho tác phẩm của Bunin. Trong truyện cực

ngắn này, nhà văn đã nhắc lại hình ảnh hoa hồng đến 5 lần, như một biểu tượng cho sự

hồi sinh của vạn vật từ cõi chết, quan trọng hơn, là sự hồi sinh của trái tim, của tâm hồn,

của cả nỗi buồn và sự dịu dàng, đặc biệt là tình yêu của con người khi con người được

tắm mình trong quá khứ. Điều đó kỳ diệu y như việc một cây hoa hồng được tìm thấy

dưới lớp cát đá sa mạc đã khô cằn, xám ngắt, không có sinh khí bung nở ngay khi được

đặt trong nước. Theo nhà văn, điều đó kỳ diệu đến mức Hoa hồng Ierikhon được coi là

biểu tượng của niềm tin vào sự sống đời đời, sự hồi sinh của kẻ chết. Có lẽ bởi thế nó mới

được đặt trong quan tài của những lăng mộ phương Đông cổ đại. Thực tế, trong Từ điển

biểu tượng văn hóa thế giới ý nghĩa chung nhất của biểu tượng hoa hồng là sự hiển lộ:

“sinh ra từ trong nước nguyên thủy, bông hoa vươn lên và nở trên mặt nước” [20; tr. 428];

là sự phục sinh-tái sinh thần bí: “Hoa hồng và màu của nó, là những biểu tượng bậc nhất

của sự tái sinh và sự thụ giáo những điều thần bí” [20; tr. 429]. Đặc biệt cây hồng – cái

được tái sinh được dẫn chứng từ sách Giảng dạy: “Ta đã vươn cao…như cây hoa hồng

thành Ierikhon, ta tươi đẹp như cây ô liu lộng lẫy trên cánh đồng” [20; tr. 430]. Thêm nữa,

hoa hồng còn là biểu tượng cho Đức Mẹ Đồng trinh, cho sự sinh sôi nảy nở, cho sự cứu

rỗi của người Nga Chính Thống giáo. Có lẽ, khi sáng tạo hình tượng hoa hồng trong tác

phẩm này, Ivan Bunin cũng đã hàm ý gửi gắm những ý nghĩa sâu xa và đẹp đẽ như vậy.

Rõ ràng, sự lặp lại của hình tượng hoa hồng Ierikhon trong tác phẩm với sức mạnh hồi

sinh kỳ diệu của nó, đặc biệt trong sự liên hệ với những cung bậc của tâm hồn con người

50

đã khiến tác phẩm văn xuôi cực ngắn này của Bunin giống như một thi phẩm giàu nhịp

điệu, giàu tính trữ tình triết lí. Những câu văn: “Và trái tim những người nghèo được hân

hoan, được an ủi: trong thế giới không có sự chết chóc, không có sự diệt vong bất cứ thứ

gì cả, những thứ đã từng có lúc nào đó tồn tại! Không có sự chia ly và mất mát, miễn là

Tâm hồn tôi, Tình yêu, Kí ức của tôi vẫn còn đang sống!”, “Hoa hồng Ierikhon. Trong

nguồn nước sống của trái tim, trong hơi ẩm thuần khiết của tình yêu, tôi đắm chìm cả thân

cành và cội rễ của quá khứ của tôi – và lại một lần nữa thảo mộc quý giá của tôi đã sống

qua ngày đoạn tháng một cách tuyệt diệu. Hãy rời xa! Những giờ phút không thể tránh

khỏi, khi làn hơi ẩm này khô cạn, trái tim cằn cỗi và khô héo đi – và lớp bụi của sự lãng

quên mãi mãi che phủ Hoa hồng Ierikhon của tôi.” [99 – tập 4; tr. 63] có lẽ sẽ đọng lại

mãi dư âm nhịp nhàng của nó trong lòng người đọc.

Đôi hài (nguyên bản: Лапти, số ít лапоть – (chiếc) giày bện, giày đan, thảo hài) là

một truyện ngắn đặc biệt của Bunin. Vẫn là xúc cảm trữ tình nhưng tác phẩm không nằm

trong mạch truyện tình yêu hay triết lí của nhà văn. Tác phẩm gây xúc động người đọc bởi

hình ảnh trở đi trở lại của đôi hài màu đỏ đầy ám ảnh. Hình ảnh đôi hài đỏ lặp lại trong

tác phẩm 5 lần gắn với ước mong cháy bỏng của đứa trẻ trong lúc sốt cao, mê sảng. Trời

bão tuyết dữ dội, tiếng khóc đòi hài hòa lẫn với tiếng than khóc thảm thiết của người mẹ

bất lực nhìn con ốm nặng mà không thể làm gì khiến người đọc xót xa. Người lão bộc già,

không đành tâm nhìn cậu chủ nhỏ ốm nặng mà không được thực hiện ước nguyện, đã

quyết tâm ra đi trong trời giông bão. Có một điều đặc biệt là hình ảnh đôi hài đỏ trong lời

cầu xin của cậu bé luôn xuất hiện cùng với tiếng khóc đầy đau khổ, xót xa và khẩn khoản

của cậu. Tiếng khóc của cậu bé cũng đồng thời là lời than khóc đầy tuyệt vọng của người

mẹ. Câu chuyện kết thúc đầy ám ảnh với hình ảnh một đôi hài trẻ con còn mới và một ve

thuốc nhuộm màu đỏ nằm trong ngực áo người lão bộc già đã chết cóng trước khi về được

đến nhà. Hình ảnh đôi hài màu đỏ tạo cho tác phẩm dư vị buồn bã xót xa về sự nhỏ bé của

con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, về sức mạnh của tình yêu thương, lòng nhân hậu

và sự trung thành. Không phải ngẫu nhiên hình ảnh đôi hài đỏ cứ ám ảnh nhân vật và

người đọc khi tiếp cận tác phẩm này. Bản thân Bunin, có lẽ cũng đã thấu hiểu những ý

nghĩa văn hóa ẩn sau đôi hài đỏ ấy. Trong Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, hài (giầy)

trong các truyền thuyết phương Tây thường mang ý nghĩa tang tóc: người hấp hối đang ra

51

đi. Ý nghĩa này liên hệ mật thiết tới hình ảnh chú bé ốm rất nặng đang trong cơn mê sảng

trong tác phẩm. Có lẽ, đứa bé cũng linh cảm được sự chia xa của nó với mẹ nên khẩn

khoản cầu xin mẹ một đôi hài đỏ, đến nỗi khi người mẹ không thể đáp ứng được lời khẩn

cầu vô cùng đơn giản nhưng lại vô cùng khó khăn vì trời bão tuyết quá lớn chú bé buông

lời trách mẹ: “Mẹ, cho con đi! Mẹ, mẹ ơi, sao mẹ lại tiếc con!”. Thêm vào hình ảnh đôi

hài gợi đến bước đường đời đã dừng lại của chú bé, màu đỏ cũng gia tăng sự ám ảnh đầy

xót xa. Màu đỏ theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (đặc biệt là màu đỏ sẫm) là màu

của linh hồn, của sự sống thiêng liêng và bí ẩn lạ thường. Màu đỏ ám ảnh trong tác phẩm

gắn với hình ảnh đôi hài mang ý nghĩa tang tóc càng khắc sâu thêm tình cảnh đau lòng

của đứa bé, nỗi khổ tâm và sự tuyệt vọng của người mẹ. Trong Thiên Chúa giáo nói

chung, màu đỏ là màu gợi nhớ đến Máu Thánh Chúa và máu của các vị tử đạo, vì thế, các

vị giáo hoàng thường mang giày đỏ. Xét một khía cạnh nào đó, hình ảnh chú bé con đòi

đôi hài đỏ gợi liên tưởng tới hình ảnh thiên thần về trời trên đôi hài đỏ. Đó là một hình

ảnh vừa thực vừa gợi liên tưởng tôn giáo rất rõ nét. Thế là một thiên thần nhỏ đã từ biệt

cõi thế, và nỗi tiếc nuối lớn nhất chính là hành trang trên đường về nước trời - đôi hài đỏ.

Và cũng vì đôi hài nhỏ xinh ấy mà người nông dân trung thành đã sẵn sàng đánh đổi cả

tính mạng của mình.

Trong Những cây thông, hình ảnh cây thông được lặp lại trong cả 3 đoạn của tác

phẩm, đặc biệt là đoạn thứ ba, khi trận bão tuyết đã qua đi. Điều thú vị là hình ảnh cây

thông gắn liền với một nhân vật được nói đến nhiều nhất trong tác phẩm người quá cố

Mitrofan. Có một sự đối sánh giữa hai nhân vật này – cây thông và Mitrofan. Mitrofan là

một người đàn ông cao và gầy, nhưng thể trạng rất tốt với những bước đi nhanh nhẹn, đầu

hơi ngửa ra sau và đôi mắt màu ngọc lam xám đầy sống động. Mitrofan đã từng là một

người nông dân-thợ săn đích thực. Mỗi khi Mitrofan xuất hiện ông lại mang theo không

khí tươi mát của rừng. Mitrofan gắn bó với rừng, sống cả đời trong túp lều bên rừng, tự

nhiên và mộ đạo. Ngay cả trước khi chết, biết mình không thể sống thêm nữa ông cũng

dịu dàng và thản nhiên chấp nhận Đừng hòng vịn cỏ mà lên! Hình ảnh của Microfan còn

xuất hiện nhiều lần trong trí nhớ của những người ở lại, trong sự tiếc nuối và lo lắng cho

đám tang của ông. Kết thúc phần một của tác phẩm là hình ảnh người nông dân Mitrofan

nằm trong túp lều nhỏ phủ đầy tuyết, trong âm vang của những lời thánh ca, chờ đợi được

52

mồ yên mả đẹp ngày mai. Cây thông ở phần này xuất hiện đầy kiên cường trong bão

tuyết, dù rằng trận bão tuyết dữ dội đã làm nó ủ rũ phần nào. Phần thứ hai của tác phẩm là

hình ảnh cây thông kiêu hãnh và hiên ngang, trên đỉnh của những cây thông ấy là những

chiếc vương miện màu lá cây xanh tươi, tự hào tỏa sáng dưới ánh mặt trời. Và những cây

thông bất diệt như đang giăng những biểu ngữ của bài ca sự sống trường tồn. Tất cả

những người đưa tang Mitrofan đã tới, họ yên lặng và bình thản đưa Mitrofan tới nơi an

nghỉ cuối cùng, với sự trợ giúp của một thân cây thông. Và dưới bóng những cây thông ấy

là sự yên nghỉ của Mitrofan, của con người sống cả đời tự nhiên và mộ đạo. Hình ảnh

người kể chuyện lặng yên bên ngôi mộ của người nông dân – thợ săn Mitrofan, tận hưởng

cái bình yên của tuyết, của mùa đông, lắng tai nghe và cảm nhận mùi tuyết tinh tế, mùi

cây thông kim tươi tắn đầy sức sống, đã nghe được cả tiếng nói bất tận của cây thông về

một cuộc sống vĩnh hằng, uy nghiêm. Phần ba của câu chuyện kết thúc bằng một thanh

âm vô biên mà bình thản của tạo hóa, về một lẽ sinh tử thường thấy của con người nhưng

để lại dư vị sâu lắng và bình an. Hóa ra cái chết không thể khuất phục trước tinh thần

sống bền bỉ và kiên cường của con người – của cây thông vững vàng trước giông bão dữ

dội. Thực tế, trong văn hóa (của cả phương Đông và phương Tây) cây thông đều là biểu

trưng cho sự trường sinh, cho sức mạnh không gì lay chuyển nổi do đã được rèn luyện

qua những khó khăn gian khổ thường ngày. Hình ảnh cây thông – Mitrofan được lặp đi

lặp lại đã tạo ra nhạc điệu âm vang ấy cho tác phẩm.

Cũng tương tự Cây thông, hình ảnh con đường mới vừa có thật vừa trừu tượng liên

tục xuất hiện trên hành trình của nhân vật tôi trong cả 3 phần của tác phẩm cùng tên (Con

đường mới sáng tác năm 1901), vượt qua những thành phố, những nhà ga, những khu

rừng vừa là hành trình khám phá “vẻ đẹp và tất cả nỗi buồn sâu sắc về cảnh quan nước

Nga, một thứ kết nối không thể tách rời với đời sống Nga” vừa là hành trình nhân vật tôi

tự khám phá và giải thoát bản thân khỏi những giới hạn hẹp hòi từ cuộc sống xung quanh

mình - “Đi đi, chúng tôi (những con đường mới) luôn ở trước mặt anh” vừa như một lời

mời gọi, vừa như một sự đau đáu không chỉ cho tương lai của chính tôi, mà còn là hành

trình kiếm tìm tương lai cho nước Nga, cho thanh niên quý tộc Nga thời ấy. Hình ảnh

những con đường cứ kế tiếp nhau trong hành trình có thực và tâm tưởng của nhân vật tôi

đã tạo ra âm điệu day dứt, bàng bạc nỗi trầm buồn cho tác phẩm.

53

Ở nhiều tác phẩm của Bunin có những hình tượng sự vật tuy không xuất hiện với

tần suất dày đặc như táo Antonov, hoa hồng Ierikhon, cây thông, đôi hài… nhưng chính

tính chất biểu tượng trên nguyên lí ẩn dụ của nó đã mang lại sắc thái trữ tình đặc biệt của

một kiểu điệp hình tượng ngầm ẩn rất đặc sắc riêng thấy ở nhà văn Nga đầu tiên đạt giải

Nobel. Đó là hình tượng cỏ gầy trong Cỏ gầy, hình tượng cốc đời trong Chiếc cốc đời với

ý nghĩa biểu trưng về sự hữu hạn của cuộc đời cũng như sức sống, sự phục tùng của con

người. Đó là hình tượng hơi thở nhẹ trong Hơi thở nhẹ, hình tượng nắng trong Say nắng,

mùa thu lạnh trong Mùa thu lạnh... Có một điểm thú vị là ở những tác phẩm được xây

dựng theo lối điệp hình tượng, những hình tượng chủ đạo đều được lấy làm nhan đề của

tác phẩm. Có lẽ, đây chính là cách thu nhỏ thế giới ý nghĩa vào một dòng tiêu đề ngắn

ngủi, để từ dòng tiêu đề ngắn ngủi ấy lại mở ra một thế giới hình ảnh đầy sống động với

sức quyến rũ tư tưởng lớn lao. Có thể nói đến một “thi pháp nhan đề” nghệ thuật của

Bunin được xây dựng nên từ ấn tượng khoảnh khắc (Say nắng, Hơi thở nhẹ, Mùa thu

lạnh…), ấn tượng cuộc đời (Meliton, Những giấc mộng của Trang, Quý ông từ San

Francisco đến…) và những ấn tượng tạo biểu tượng nêu trên.

Những hiện tượng lặp ngữ âm – cú pháp, kết cấu lặp ngữ đoạn, những hình tượng

sự vật được điệp và nhấn xuyên suốt trong tác phẩm của Bunin có tác dụng lớn lao trong

việc tạo dựng nhạc tính cho tác phẩm. Trong chuỗi ngôn từ lời văn trên bề mặt tác phẩm,

trong dãy các hình tượng được kết lại (montage) trong dòng hồi ức của nhân vật hay

người kể chuyện, chúng là những “chủ âm”, “âm át” (dominant) tạo giai điệu, nhịp điệu

và ý nghĩa cho bản hòa âm tác phẩm của Bunin.

2.2.2. Lời văn xen thơ, nhạc

Nhạc tính trong tác phẩm của Bunin không chỉ được tạo nên từ thủ pháp điệp ngữ

âm – cú pháp, ngữ đoạn – tổ khúc hay điệp hình tượng sự vật, ở nhiều tác phẩm, Bunin

chủ động đưa những câu hát, bài thơ vào tác phẩm văn xuôi tạo ra những bản nhạc thấm

đậm hương vị trữ tình (37/100 tác phẩm được khảo sát). “Yêu em, anh mơ tưởng tới

những người trăm năm trước/ Đã từng mơ tưởng và yêu nhau ngay tại chốn này/ Và đêm

đêm trong khu vườn vắng lặng anh dạo bước/ Dưới ánh những ngôi sao trăm năm trước

vẫn còn đây” - Những vần thơ đầy xúc cảm trong Lần gặp gỡ cuối cùng ấy, Storesnhev

54

viết dành tặng Vera dưới sự chứng kiến của những bậc tiền bối của hai người, viết trong

sự thôi thúc của tình yêu, của tình thương và cả trách nhiệm, cả niềm hi vọng về sự tiếp

nối thế hệ: “Tình yêu của các cụ kỵ chúng ta, những bức chân dung của các cụ trong các

khung hình bầu dục có giấy xanh viền trong, giấy thếp vàng bọc ngoài… Tượng thánh

Guri, Simon và Aviv, những đấng phù hộ độ trì cho các gia tộc lâu đời của chúng ta… Tất

cả những cái đó là dành để cho ai, nếu không phải cho anh và cho em?”. Để rồi khi cô gái

rời bỏ mình, trong ngày gặp lại, tất cả những vần thơ tha thiết ấy, những mơ ước đẹp đẽ

đã bị sụp đổ ấy lại càng khoét sâu trong lòng nỗi đau: “Em ra đi để làm gì, và để theo ai?

Người đó có thuộc dòng giống, thuộc bộ tộc của mình chăng?” [15; tr. 96].

Cũng là hồi ức, cũng là những kỷ niệm đẹp đã qua, trong lòng nhân vật tôi trong Ở

một phố thân quen đã vang lên những câu thơ dịu dàng khi đang dạo bước trên đường phố

Paris một tối mùa xuân: “Ở một phố thân quen,/ Tôi nhớ ngôi nhà cổ,/ Có cầu thang tối

đen,/ Và mành che cửa sổ…/ Ở đấy ngọn đèn mờ/ Tận đêm khuya chưa tắt…” [16; tr.

591]. Khung cảnh thiên nhiên nơi xứ xa, những kỷ niệm tình yêu êm đềm vọng về khiến

tôi như trẻ lại, và có lẽ vì thế mà tâm hồn cũng cất lên tiếng nhạc lòng hưởng ứng. Và

sung sướng thay, đó là tiếng nhạc lòng của những rung cảm yêu đương: “Chao, cô gái dịu

hiền/ Giữa đêm khuya yên ả/ Chờ gặp tôi ngoài hiên,/ Mái tóc dài để xõa” (…) “Rồi nàng

ôm hôn tôi/ Ngây thơ như đứa trẻ/ Nàng khẽ nói và cười:/ „Ta trốn đi đâu nhé?‟” [16; tr.

592-593]. Trong tác phẩm, những câu thơ như làn điệu trữ tình ấy cứ lặp đi lặp lại trong

tâm trí của chàng trai, xé tan màn đêm giá lạnh, đem lại hơi ấm và xúc cảm mùa xuân –

xúc cảm tình yêu.

Trong Giấc mơ mùa đông, một truyện ngắn khác của Bunin, những vần thơ tuyết

trắng như chắp thêm đôi cánh, tiếp thêm động lực cho nhân vật trong cuộc hành trình mùa

đông: “Ngựa bay như thêm cánh/ Thảo nguyên nuốt mặt trời/ Cánh đồng tuyết trước mặt/

Sẫm lại màu lá xanh/ Gió tiếp gió như lửa/ Đốt cháy má, mày người” [99 – tập 4; tr. 154].

Những câu thơ thể hiện sự mạnh mẽ của con người giữa khung cảnh thiên nhiên vừa nên

thơ vừa khắc nghiệt đã cho thấy sự lạc quan, tinh thần quật cường của con người trong

cuộc “đối đầu” với thiên nhiên. Ở Bản Ballad, thiên nhiên mùa đông lại hiện lên đẹp đẽ

và nên thơ, âm điệu những câu ballad trữ tình cứ vang ngân trong tâm trí Mashenka như

là những hồi ức đẹp nhất về chuyện tình của Chúa tể loài Sói: “Gió lạnh thét gào trên đỉnh

55

núi/ Xoay tít nơi đồng cỏ trắng phau/ Tiết trời đáng ghét và bão tuyết/ Ập đến chôn sâu

đường cái quan” [99 – tập 6; tr. 18]. Giai điệu tuyết trắng trong ngày bão được

A.F.Merzlyakov ghi lại đã trở thành giai điệu tâm tưởng của Mashenka. Những đêm đông

giá rét, những đêm không ngủ, những đêm chia sẻ tâm sự, câu chuyện nhuốm màu huyền

thoại và bản ballad ấy lại âm vang một cách tự nhiên như là một phần không thể thiếu của

câu chuyện. Câu chuyện của Mashenka lại được gia thêm sắc màu trữ tình khi âm nhạc

cũng cất lên giai điệu của nó: “Ngọn lửa tình yêu bùng cháy mọi vương quốc/ Người yêu

người trên khắp nẻo địa cầu…” [99 – tập 6; tr. 19].

Cũng vẫn là thơ tình, nhưng những câu thơ trong Mối tình đầu (Từ kí ức tuổi thơ)

lại ngân vang những giai điệu của mùa xuân tình yêu ngọt ngào: “Cái gì đang ngân vang,

ngân vang ở đằng xa kia, hỡi nhà thơ?/ Và vì đâu nơi xa xăm ấy vẫn gọi đầy ám ảnh,/ Và

vì đâu con sông này cứ rộng mãi rộng mãi,/ Có phải từ đó mùa xuân bắt đầu?” [99 – tập

2; tr. 400]. Còn gì đẹp hơn, tình tứ hơn kí ức tuổi thơ và tình yêu đầu đời bắt nguồn cùng

mùa xuân của đất trời? Dường như đắm chìm vào những câu thơ ấy, vào không khí mùa

xuân ấy, vào tiếng gọi ám ảnh ấy nhân vật tôi tìm thấy nơi trú ngụ cho nỗi buồn đặc biệt

trong tâm hồn mình. Còn nhân vật nữ trong Mùa thu lạnh chắc chắn sẽ không bao giờ có

thể quên được những vần thơ của Fet – những vần thơ nồng ấm tình cảm nhưng chan

chứa nỗi buồn chia ly được vị hôn phu của cô bất chợt đọc lên trong ngày cuối cùng họ

được ở bên nhau trước khi chàng trai ra trận và hi sinh: “Ôi mùa thu lạnh quá!/ Hãy quàng

khăn và khoác áo đi em…” “Hãy nhìn lên giữa tán thông đen/ Một đám lửa dường như

đang bừng cháy…” [16; tr. 567].

Không chỉ thi ca, âm nhạc cũng cất lên giai điệu trữ tình của nó trong truyện ngắn

Bunin, hòa thêm sắc màu ngọt ngào quyến rũ cho vẻ đẹp tâm hồn các nhân vật. Đây là

những câu hát đầy tình tứ mà chàng trai trong Chiếc đu đã tự biên khi nghe thấy tiếng

bước chân người yêu ngoài bao lơn: “Thần tiên nào bằng ta,/ Vua chúa nào bằng ta,/ Mỗi

khi ta được thấy đôi mắt thẫn thờ,/ Tấm thân thon thả và những bím tóc đen nhánh của

nàng”. Khúc aria ấy đâu chỉ được chàng dạo một lần trên phím piano, nó vang lên khắp

không gian căn phòng khi nàng bước vào, nó biến thành những lời tình tứ đầy thi vị khi

họ cùng dạo bước trong vườn chiều, khi chiếc đu trong vườn cùng chắp thêm đôi cánh

cho tâm hồn họ bay cao. Những lời ca tình yêu trong truyện ngắn Bunin dường như luôn

56

được ưu ái. Trong Natali, nhà văn cũng để cho những cô gái xinh đẹp, trẻ trung của mình

ca lên lời ca ấy: “Giữa cái đêm dạ hội ồn ào, tình cờ… em đã gặp anh…” [16; tr. 498].

Không chỉ Sonia trong Natali vui vẻ hát ca, Tanhia – cô hầu gái thơm hương táo chốn

làng quê cũng cất lên những lời hát yêu đời, tươi vui, sung sướng sau phút ân ái vụng

trộm đầy hạnh phúc với cậu chủ: “Em đi ra vườn/ Ra vườn tươi xanh/ Ra vườn tươi xanh

dạo chơi/ Đón người em yêu mến…” [19; tr. 117]. Cô bé Katya trong Bình cà phê thứ hai

cũng cất tiếng hát vang những lời thơ của Lermontov đã được phổ nhạc với tâm trạng

hạnh phúc ngất ngây: “Một đám mây nhỏ xinh đã ngủ, đám mây màu vàng…/ Trên ngực

của vách đá khổng lồ…” [99 – tập 6; tr. 163].

Không chỉ có những lời hát yêu đương được ca vang trong truyện ngắn của Bunin,

ở nhiều tác phẩm những lời hát còn như một niềm mơ ước, một khát khao, một lời tâm sự

những mong vơi bớt nỗi buồn. Đặc biệt, những lời hát này thường mang âm hưởng dân ca

Nga. Lời ca bình minh của ông già Pavel Antonych bên cô bé Tanhia hòa cùng tiếng đàn

ghi ta nhẹ nhàng đã mang lại niềm vui thơ trẻ cho cả hai, cái niềm vui giúp Pavel bớt cô

đơn, và giúp cô bé Tanhia quên đi cái đói, quên đi tiếng khóc trong những lời hát của mẹ

vì không có gì cho đàn con ăn: “Bình minh là của tôi, bình minh yêu dấu/ Bình minh là

ánh sáng rực rỡ của tôi!” [Tanka; 99 – tập 1; tr. 273]. Những câu hát của cậu bé Nikanor

Matveits què quặt ốm đau quanh năm trong Cuộc đời tươi đẹp với nhịp điệu vui tươi của

điệu nhảy polka là niềm mơ ước không tưởng của cậu: “Nhanh lên em hỡi nhanh chân

lên/ Điệu polka anh sẽ nhảy cùng em/ Dễ dàng khi bước theo nhịp vũ/ Thổ lộ mối tình

chứa trong tim”… Giai điệu tươi vui hòa theo tiếng đàn gió du dương của cậu bé dường

như lại càng khắc sâu thêm nỗi đau của một con người tàn tật khát khao được nhảy múa,

khát khao được yêu đương – thứ tình yêu lứa đôi thực sự, dù đó chỉ là thứ tình yêu cậu

buộc phải cầu xin ở một người hầu gái. Những câu hát vốn tươi vui như thế qua giọng ca

của cậu bé bỗng trở nên xót xa và đầy thương cảm. Cũng vẫn là điệu polka nhưng điệu

polka trong Ngày thứ Hai chay tịnh lại ngập tràn niềm vui, sự sôi nổi, niềm hứng khởi. Và

đặc biệt nhất là niềm vui, sự hứng khởi ấy lại đến từ một cô gái vốn thờ ơ với những thú

vui của cuộc sống xa xỉ, dù hằng ngày cô vẫn nếm trải tất cả những thú vui ấy. Tiếng đàn

phong cầm khàn khàn ồn ã, tiếng hát chẳng lấy gì làm hay của người đàn ông nhảy polka

hòa lẫn với niềm vui của nàng thật sự là một điệu nhạc bất ngờ với tôi: “Nhanh lên, ta hãy

57

nhanh lên/ Polka sẽ nhảy cùng em điệu này!” [16; tr. 559]. Trong Những quả táo

Antonov, những lời ca ở cuối tác phẩm lại là những lời ca buồn, được cất lên bằng một

giọng vừa ngang tàng vừa ủ dột và tuyệt vọng hòa trong tiếng đàn ghi ta: “Hoàng hôn

xuống, gió chiều lộng thổi/ Cánh cổng kia ta mở toang hoang, -” “Cánh cổng ta mở toang

hoang,/ Để cho tuyết trắng phủ đường ta đi…” [15; tr. 48].

Cũng vẫn là lời ca buồn, những giai điệu bài hát của bác Meliton vang lên trong

đêm lại càng não nề, buồn thảm như chính cuộc đời tẻ nhạt và cô độc của bác. Lời ca não

nề ấy qua giọng hát í éo đàn bà của Meliton như được cộng hưởng cùng tâm trạng của bác

mà càng tha thiết hơn, càng buồn rười rượi hơn: “nàng đã chết, đã vĩnh biệt, ôi, cùng với

mối tình xưa…” [15; tr. 54]. Ở Những cây thông, nhân vật tôi trong đêm trước ngày đưa

tiễn Mitrofan về đất mẹ đã không thể ngủ được, giai điệu của lời ru quen thuộc từ thời thơ

ấu vang lên êm ái, ngân nga khắp một buổi tối dài khiến tôi không thể không hát theo:

“Giấc mơ đến bên hiên nhà,/ Còn giấc ngủ đậu trên cánh cửa…-” [99 – tập 1; tr. 433].

Trong tác phẩm này, bên cạnh lời hát ru đầy êm ái còn có những lời cầu kinh trầm trầm và

những lời thánh ca trang trọng tạo không khí kính cẩn thiêng liêng. Đó là những âm thanh

hướng đến Chúa Trời, hướng đến sự vô biên của cõi tâm linh trước và trong ngày chôn

cất Mitrofan. Một điều khá thú vị là những lời thánh ca, những lời cầu Chúa, những lời

nguyện trong tác phẩm của Bunin không ít. Phải kể đến Bản Ballad, Bài hát của Chúa,

Nơi đất khách, Ngày thứ Hai chay tịnh, Meliton, Chiếc cốc đời… Không chỉ thế, ở nhiều

tác phẩm khác, nhân vật của Bunin còn thường xuyên chơi nhạc cụ: ghi ta, piano. Có

những khi họ vừa chơi đàn vừa hát (như nhân vật Pavel Antonych trong Tanka hay tiếng

đàn ghi ta vang lên vào thời khắc hoàng hôn cuối thu gợi nỗi buồn mênh mang trong

Những quả táo Antonov, tiếng đàn dương cầm trong Chiếc đu…), nhưng cũng có khi

Bunin để cho nhân vật được thả hồn say sưa trong những khúc nhạc cổ điển du dương êm

ái, được đắm mình trong không gian âm nhạc không lời, để những thanh âm không lời ấy

cộng hưởng với tâm trạng. Đó là khi nhân vật trong Âm nhạc sống hết mình trong thanh

âm của Betthoven, hay khi nàng trong Ngày thứ Hai chay tịnh dạo khúc mở đầu chầm

chậm, tuyệt diệu và mơ màng của bản Xô nát Ánh trăng cho người tình của mình nghe…

Một điểm thú vị là những khúc nhạc hay những bài thơ được nhân vật của Bunin yêu

thích trong tác phẩm đều là những bài thơ, khúc nhạc rất đỗi nhẹ nhàng, êm ái, chứa chan

58

cảm xúc của nhân vật, đặc biệt những khúc nhạc, những bài thơ ấy gắn liền với những

xúc cảm ngẫu hứng, thoáng qua nhưng để lại ấn tượng rất mạnh với nhân vật: lời ca và

tiếng đàn của cậu bé Nikanor Matveits trong Cuộc đời tươi đẹp chỉ vang lên một lần duy

nhất khi cậu bé “yêu” và đủ dũng cảm bày tỏ tình cảm của mình với người yêu là nhân vật

tôi – cô hầu gái Nastasia của cậu, nàng trong Ngày thứ Hai chay tịnh cũng ngẫu hứng

nhảy điệu polka có lẽ là lần đầu trong đời với một người đàn ông xa lạ thuộc hội Cây nhà

lá vườn mà từ trước nàng vốn coi thường, lời hát của Pavel Antonych cùng tiếng đàn ghi

ta của ông chỉ vang lên trong bình minh cô bé Tanhia ghé chơi… Có lẽ, sự dịu dàng, hài

hòa và xúc cảm ấn tượng mà âm nhạc trong những tác phẩm của Bunin đem đến cho nhân

vật, cho người đọc, xét một khía cạnh nào đó, theo “lí thuyết về âm nhạc ấn tượng”, cũng

có thể coi đó là thứ âm nhạc mang màu sắc ấn tượng. Và những vần thơ xúc cảm ấn tượng

kết hợp với những giai điệu xúc cảm ấn tượng đã góp phần làm nên chất trữ tình ấn tượng

cho ngôn ngữ truyện ngắn của Bunin.

Vậy là, nhờ những giai điệu của thi ca và âm nhạc được các nhân vật ngân nga

trong tác phẩm mà những truyện ngắn của Bunin như càng trở nên trữ tình hơn, thi vị

hơn, hấp dẫn hơn đối với bạn đọc. Ở mỗi truyện ngắn, với những cung bậc cảm xúc khác

nhau, thơ ca và âm nhạc được trích dẫn cũng rất phong phú và đa dạng, cho thấy tâm hồn

nhạy cảm và tinh tế ở một nhà viết truyện ngắn đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng.

Nhà nghiên cứu Zakharova đề cập đến motif những khoảng lặng trong văn xuôi

Bunin trong cuốn Văn xuôi của Iv.Bunin: những khía cạnh thi pháp [112]. Theo nhà

nghiên cứu, tiền đề của những khoảng lặng trong văn xuôi Bunin chính là khát vọng kiếm

tìm sự hài hòa giữa con người và thế giới, đặc biệt là khát vọng hòa nhập tâm linh con

người và Thiên Chúa. Nhà nghiên cứu khảo sát tập thơ Lá rụng, truyện ngắn – tiểu luận

Bài ca của chim sơn ca, tiểu luận Đêm để làm cơ sở cho luận điểm của mình. Đó là những

phút giây thư thái của con người trong những buổi sớm mai, khi không gian vang lên

tiếng chim sơn ca, khi con người tạm đắm chìm trong suy tư để chữa lành vết thương cho

tâm hồn, để cân bằng cái hữu hạn của loài người và vô hạn của vũ trụ. Đặc biệt, trong tiểu

luận Đêm, cái tĩnh lặng vô biên của đêm chính là thời khắc con người cảm nhận được sự

hòa hợp không tách rời của bản thân và vũ trụ vô biên. Nhà nghiên cứu viết về vai trò của

khoảng lặng này: “Quan niệm về sự im lặng như một trạng thái hòa hợp thanh bình giữa

59

con người và thế giới – như một trạng thái của hạnh phúc. Thái độ suy tư trầm ngâm với

thiên nhiên cho phép Bunin sớm cảm nhận được quy chế im lặng đặc biệt này đối với con

người và thế giới, cho phép nhà văn trẻ thấu hiểu được sự xao động của nó luôn là chiều

sâu của tâm linh, lịch sử trí nhớ và đời sống nhân dân” [112; tr. 59]. Có thể thấy, khoảng

lặng cũng là một điểm nhấn trong việc kết hợp với những giai điệu để tạo nên tính nhạc

cho truyện ngắn. Tuy nhiên, theo chúng tôi, những khoảng lặng đơn thuần mang giá trị

tạo nhịp điệu trong truyện ngắn Bunin không nhiều. Những khoảng lặng ấy hòa nhập với

những độc thoại trữ tình, những suy tư triết lí đầy xúc cảm, những thủ pháp chuyển đổi

phân đoạn trong truyện ngắn, những dòng miêu tả đơn thuần mà chúng tôi đã phân tích ở

trên.

2.3. Thi vị hóa ngôn từ

Ngôn từ trong truyện ngắn Ivan Bunin bao gồm nhiều trường từ vựng đa dạng,

phong phú, được tổ chức thành hệ thống thống nhất. Mỗi trường từ vựng có khu vực ngữ

nghĩa đặc trưng riêng, nhưng điểm chung là chúng được tổ chức theo khuynh hướng thi vị

hóa, nghĩa là được sử dụng với dụng ý kiến tạo tính trữ tình cho tác phẩm. Xúc cảm trữ

tình trong truyện ngắn Bunin không bao giờ dung tục, tình cảm của tác giả - nhân vật, dù

có thể xuất phát từ những mê đắm nhục cảm, bao giờ cũng hướng tới cái đẹp thuần khiết,

thiêng liêng, giàu chất thơ. Hệ thống trường nghĩa của các lớp ngôn từ trong truyện ngắn

Bunin có thể gắn với một chủ đề cụ thể nào đó trong tác phẩm, song đều được soi chiếu từ

ý thức về những gì đẹp và thiêng liêng nhất đối với nhà văn. Với Bunin, ý thức về cội

nguồn dân tộc và đức tin tôn giáo tạo nên vẻ đẹp thanh khiết, cao cả, giàu chất thơ cho

những xúc cảm trữ tình cụ thể trong từng tác phẩm. Thi vị hóa ngôn từ, đối với Bunin, có

nghĩa là tạo khu vực giao thoa trường nghĩa của những từ ngữ cụ thể - cảm tính, bộc lộ

tình cảm giới tính chẳng hạn, với ngôn từ dân gian đậm chất thơ thuần khiết và với hệ

thống ngôn từ liên quan đến đức tin và tư tưởng cao cả.

2.3.1. Phong vị dân gian

Xuất thân quý tộc nhưng gia cảnh sa sút, Bunin sớm có những gắn bó rất thân thiết

với những người nông dân, những người làm công nghèo xung quanh mình. Nhà văn am

60

hiểu ngôn ngữ, lối sống, tính cách và ước mong của họ. Ông tìm thấy tinh thần cội nguồn

dân tộc, chất Nga thuần chất trong lời ăn tiếng nói, sáng tác dân gian lưu truyền trong

cuộc sống của họ. Bunin có khuynh hướng chuyển tải trường từ vựng và những kết hợp

ngôn từ mang phong vị dân gian vào những truyện ngắn của mình như một cách thi vị hóa

xúc cảm trữ tình hướng tới thể hiện tinh thần cội nguồn dân tộc đó. Vào năm 1913 khi

chuẩn bị xuất bản cuốn Gioan người bán rong, Bunin đã viết: “Trong cuốn sách này sẽ có

những loại câu chuyện khác nhau – những truyện tình yêu, “quý tộc” và thậm chí, nếu

muốn, “cả những truyện triết học”. Nhưng những người nông dân sẽ lại ở vị trí đầu tiên –

hay đúng hơn, không phải nông dân theo nghĩa hẹp của từ này, mà là tâm hồn nông dân –

tâm hồn Nga, tâm hồn Slav” [Dẫn theo 105; tr. 14] như O.Vasilets trong công trình Thần

thoại và dân gian trong những truyện ngắn của Bunin nhận định: “Sự thấm nhuần một

cách sâu sắc những sáng tác dân gian Nga là chìa khóa dẫn Bunin vào tâm hồn nhân dân”

[105; tr. 29].

Những yếu tố văn hóa dân gian Nga trong truyện ngắn của Bunin khá phong phú,

nhất là trong những tác phẩm viết về đề tài nước Nga và đề tài người nông dân. Đó có thể

là những tác phẩm có sự xuất hiện của những nhân vật quen thuộc của truyện cổ tích hoặc

thần thoại Nga, cũng có thể là sự xuất hiện của những bài ca dân gian, những thành ngữ

cổ của Nga hay Ukraina, những lối nói dân gian quen thuộc (bông phèng, bóng gió, nhắc

nhở…) hay có những tác phẩm tác giả đi vào miêu tả cuộc sống và lối suy nghĩ, tâm hồn,

niềm tin của những người mugic và những người phụ nữ Nga.

Hệ thống ngôn từ dân gian sinh động và phong phú trong tác phẩm của Bunin

trước hết thể hiện qua lời văn tràn ngập những thành ngữ, tục ngữ dân gian Nga và

Ukraina. Trong Cỏ gầy, chúng tôi nhận thấy những thành ngữ mang đạo lí dân gian được

sử dụng rất linh hoạt: “Хомут да дуга, я тебе больше не слуга!” (“Cổ ngựa với cả càng

xe, không còn đầy tớ cho ngươi, ta thề!”), “Богатый как бык рогатый…” (“Giàu như

bò có sừng!”), “Чужой кусок не сладок!/А богатая была, умней барыни слыла!”

(“Miếng ăn kẻ khác, nào có ngọt ngào!/Ngày nào giàu có, ngày nào còn khôn ngoan hơn

cả tiểu thư cơ đấy!”), “Худая трава из поля вон!” (“Cỏ gầy thì bay khỏi bãi”). Thành

ngữ mang đạo lí dân gian cũng được sử dụng nhiều trong Những cây thông: “Волка ноги

кормят” (“Sói sống nhờ chân” – Có làm thì mới có ăn), “была бы шея – хомут

61

найдется!” (“Có cổ ắt tìm được ách”), “За траву не удержишься!” (“Đừng hòng vịn cỏ

mà lên!”)…

Trong nhiều truyện ngắn Bunin viết về đề tài người nông dân, đề tài nước Nga còn

có những bài dân ca Nga và Ukraina. Trong phần nói về lời văn xen thơ, nhạc, chúng tôi

đã trích dẫn những bài hát được lồng vào các truyện ngắn Tanhia, Tanka, Cuộc đời tươi

đẹp, Ngày thứ Hai chay tịnh, Những quả táo Antonov, Meliton, Những cây thông… Đó

chính là những minh chứng rõ nhất cho sự am tường văn hóa dân gian và vận dụng nó

trong sáng tác của Bunin, đồng thời cũng thể hiện tình yêu sâu sắc đối với nước Nga, văn

hóa Nga của nhà văn. Trong một số tác phẩm khác, Bunin quan tâm đến cả những bài dân

ca Ukraina. Bài hát trong Nơi cuối trời là sự hồi tưởng lại về “sự vĩ đại – sự buồn bã của

tâm hồn”: “як на Чорному морi, на бiлому каменi сидить ясен сокiл – бiлозiрець,

жалiбленько квихлить – проквиляе…” [99 – tập 1; tr. 298]; còn bài hát trong Rodion

người chơi đàn lia lại là những tiếng hát da diết như tiếng khóc của Rodion về sự sống,

cái chết. Nhà văn đưa những bài dân ca Nga hay Ukraina vào tác phẩm của mình như sự

nhấn mạnh tinh thần cội nguồn của các dân tộc Đông Slav – các dân tộc Nga cổ.

Những bài ca dân gian được lồng vào các truyện ngắn của Bunin phản ánh rất rõ

nét những đặc trưng tâm hồn của người nông dân, đặc biệt người phụ nữ nông dân Nga.

Trong Cỏ gầy, bác Averki trước khi từ giã cõi đời đã hình dung ra cảnh con gái than khóc

bên nấm mộ của mình sau khi qua đời. Lời than khóc của cô con gái giống như lời hát,

bày tỏ lòng xót thương đối với người cha xấu số, cho thấy phần nào sự hi sinh, tình cảm

sâu nặng của người ở lại với người ra đi, khiến người ra đi ấm lòng: “Bố ơi bố, bố nỡ lòng

nào bỏ lại chúng con mà đi thế này, bố ơi? Ai sẽ vì chúng con mà buồn phiền, ai sẽ chăm

lo săn sóc chúng con? Bố ơi bố, rồi đây đi qua sân nhà bố nào ai sẽ là người ra đón con,

nào ai sẽ là người hỏi han con! Bố ơi, thường ngày con đi qua là bố vẫn ra đón con, bố

vẫn hỏi han con mà! Hỡi sấm sét, hãy rền vang! Hỡi chớp, hãy lóe lên! Hỡi đất mẹ ẩm

ướt, hãy rẽ ra! Hỡi những cơn gió táp, hãy nổi lên đi, hãy thổi bay tấm khăn liệm thêu kim

tuyến, hãy mở mặt cho bố tôi!” [15; tr. 148]. Theo O.Vasilets, nghi thức khóc trong tang

lễ vốn là một nghi thức dân gian lâu đời, cũng là một thể loại dân gian cổ xưa xuất hiện từ

thế kỷ XI của các dân tộc Slav trong các nghi lễ tôn thờ thần sấm sét Perun – причеть. Đó

62

là lí do vì sao trong lời kể lể khóc lóc của cô con gái bác Averki có cả những tiếng kêu

gào đến thần sấm, thần sét, đến chớp, gió, đất mẹ…

Nếu như lời than khóc của cô con gái bác Averki có thể lí giải là dấu vết của nghi

thức dân gian thì những lời hát của mẹ cô bé Tanhia trong truyện ngắn Tanka lại chất

chứa tâm sự về số phận của người phụ nữ nông thôn Nga và ước mong đau đáu của người

mẹ về tương lai của con gái mình: “Người mẹ hát bằng một giọng khe khẽ những bài hát

“cổ xưa” mà bà đã được nghe thời còn con gái, và Tanka thường muốn khóc sau khi nghe

những lời hát ấy. Trong túp lều gỗ tối tăm, ngoài kia là bão tuyết, Maria nhớ lại tuổi trẻ

của mình, nhớ lại những ngày cắt cỏ nóng nực và những buổi hoàng hôn, khi bà bước đi

trong đám các cô gái trên đường ra cánh đồng với những bài hát ngân vang, còn mặt trời

đã đậu xuống sau ruộng lúa mạch đen, và những hạt bụi vàng sa xuống xuyên qua những

bông lúa mạch, phản chiếu những luồng ánh sáng cuối cùng của nó… Bài hát nói với con

gái của bà, rằng bình minh sẽ ló dạng, tất cả sẽ qua đi nhanh chóng và rồi những nỗi buồn

và những mối lo lắng quê mùa sẽ lại đến, sẽ ở lại mãi”. [99 – tập 1; tr. 268]

Không chỉ có hình ảnh của những thần sấm, thần sét… trong thần thoại, những

nhân vật tiêu biểu của truyện cổ tích Nga cũng xuất hiện trong nhiều tác phẩm của Bunin.

Đó là phù thủy Baba Yaga nổi tiếng trong các truyện cổ tích dân gian Nga (trong Những

cây thông): “Và con người cũng ở những túp lều đó ư? Không phải Baba-Yaga đã từng

sống trong cái chòi canh tối om đó sao? «Căn nhà gỗ, căn nhà gỗ, ở sau cánh rừng, và

trước mặt ta! Nơi trú ẩn của kẻ lãng du trong đêm»” [99 – tập 1; tr. 432]. Theo lí giải của

văn hóa dân gian, Baba Yaga là một nhân vật ngoại giáo, Baba Yaga được coi là Tổ mẫu,

là người có ảnh hưởng tích cực tới các vị thần Slav, là người bảo vệ dòng dõi và truyền

thống, trẻ em… Tuy nhiên, sau quá trình du nhập của Thiên Chúa giáo, Baba Yaga cũng

như những vị thần đa thần giáo khác đều bị biến đổi về hình ảnh và chức năng, trở thành

những kẻ độc ác, xấu xa, ngoại hình xấu xí, làm khiếp sợ trẻ nhỏ.

Ở một số tác phẩm khác, Bunin đưa vào những nhân vật người kể chuyện đặc biệt,

cách kể của họ khiến cho câu chuyện được kể giống như những câu chuyện cổ tích dân

gian Nga. Có thể kể đến người kể chuyện cổ tích Yakov Demidych trong Cây thần và

người chơi đàn lia Rodion trong Rodion người chơi đàn lia. Về Rodion, Bunin viết: “Đức

Chúa Trời ban cho tôi niềm hạnh phúc nhìn thấy và nghe thấy nhiều điều từ những kẻ

63

hành hương, mà cuộc sống của họ đã từng có ước mơ và ca hát, linh hồn của họ đã từng ở

rất gần ngày của Bogdan, ngày của Siech, và thậm chí xa xôi hơn, là ngày của truyện cổ

Slav hoang đường”. Quan điểm nghệ thuật của người kể chuyện Yakov Demidych thể

hiện qua cuộc đối thoại sau:

“- …Мы и сказки твои любим. (Chúng ta yêu cả những truyện cổ tích của anh)

- Это правда, я их хорошо выдумываю. (Đúng là tôi đã bịa ra chúng thật hay)

- Да разве ты их сам выдумываешь? (Lẽ nào anh tự bịa ra chúng?)

-А кто же? Я хоть и чужое говорю, а выходит, все равно, что

выдумываю.(Còn ai nữa? Dù tôi nói lời người khác, thì cũng là tôi bịa ra đấy)

- Это как же так? (Sao lại thế được?)

- А так. Раз я эту сказку сказываю, значит, я своѐ говорю” (Đúng thế đấy. Khi

tôi kể một truyện cổ tích, có nghĩa là tôi cũng đang nói về chính mình).

Cách thức bắt đầu câu chuyện cũng được miêu tả rất tỉ mỉ: “Anh bắt đầu câu

chuyện vui lúc đầu còn gượng gạo, nhưng nhanh chóng nhập vào câu chuyện, mắt, lông

mày nhướn lên, nhanh chóng thay đổi biểu cảm, khi là nông dân, khi là người Moskva

kiêu căng, khi là con chó ren rén đến gần chủ, sau đó như người đột ngột hét lên, như thể

phải chịu cơn đau bất thình lình, lại như lao đến, làm một phát vào bắp đùi, đôi chân cào

cào cỏ,- lao đến, chạy đi,- rồi phủ phục xuống, trườn người về phía trước, cười với những

cô gái tưởng tượng” [99– tập 3; tr. 283]. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy bóng dáng của

những người kể chuyện cổ tích này trong Gioan người bán rong, Những câu chuyện cổ

tích, Mối bận tâm…

Như vậy, có thể thấy ngôn từ dân gian và những yếu tố văn hóa dân gian Nga

không chỉ tạo chất thơ, tạo phong vị dân gian cho truyện ngắn Ivan Bunin, mà còn kết nối

thế giới xúc cảm trong từng truyện với tinh thần cội nguồn dân tộc thiêng liêng và tràn

ngập chất thi ca hồn nhiên.

2.3.2. Vẻ đẹp ngôn từ của đức tin và tư tưởng

Nhiều nhà nghiên cứu đều nói tới ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa dân túy, đặc

biệt là ảnh hưởng của chủ nghĩa Tolstoy tới sáng tác của Bunin. Chính bản thân Bunin đã

hơn một lần khẳng định tầm quan trọng của Tolstoy với mình: “Không có ai trước tôi

64

khiến tôi khâm phục, thán phục ngoài Tolstoy”, “Với tôi Chúa trời là Tolstoy” [154; tr.

271]. Ảnh hưởng đó đầu tiên xuất phát từ anh trai – cũng là người thầy của Bunin những

năm tháng đầu đời. Ở những sáng tác thời kỳ đầu của nhà văn, còn thấy rõ những ảnh

hưởng này: lối sống của người nông dân, nạn đói, sự tan rã của những cách ứng xử lỗi

thời trong gia đình nông dân ở các tác phẩm Trong trang ấp, Tanka, Tin tức từ Tổ quốc…

Đặc biệt, có thể tìm thấy “những ảnh hưởng quan trọng thuộc về nguyên tắc trong quan

điểm sống của Tolstoy giai đoạn sau như: việc hoàn thành bổn phận trước Chúa hay thậm

chí trước “tầng lớp bần cố nông” của người chủ không quen biết” [92; tr. 546] ở nhiều

truyện ngắn. Meliton là tác phẩm ghi lại rất rõ những ảnh hưởng và cả những cảm nhận

của Bunin trước thực tế này. Hệ thống từ vựng được sử dụng trong tác phẩm là hệ thống

từ vựng vừa mang dấu ấn Chính Thống giáo, vừa mang dấu ấn nông dân-nô lệ: lính hầu

của vua Nikolai (николаевский служака), chiếc áo sơ mi nông dân (чистая

крестьянская рубаха), phủ phục “dưới các tượng thánh” (лечь “под святые”), nhà gỗ

(избa), giầy bện bằng sợi vỏ cây (лыковые лапти), sơ mi kiểu cổ (замашная рубаха),

chiếc chòi canh (караулка), những bó cỏ và những vành hoa gì đó treo dưới mái nhà

(пучки каких-то трав и венчиков в ее сенцах под крышей), nơi biệt cư để đan tu

(скит), nhà nguyện (часовенки), cánh đồng (поле), đôi càng trượt tuyết (полозья)…

Meliton có thể được coi là một bản đàn trầm buồn thậm chí là một tiếng thở dài vừa nhẹ

nhõm vừa bất lực của người kể chuyện. Nhân vật chính trong tác phẩm là Meliton, một

người gác rừng từng phục vụ trong quân đội triều đại Nikolai. Công việc của bác thực sự

chẳng có gì, cũng chẳng vất vả và đặc biệt gì, nhưng người kể chuyện – người chủ lại hết

sức quan tâm tới bác ta: tới thăm, hỏi han, thậm chí ái ngại trước tình cảnh của một người

già như bác – một thân một mình, sống khắc khổ, lầm lì buồn bã. Người kể chuyện đặc

biệt ấn tượng với “sự phục tùng dịu dàng”, với lòng kính Chúa vô bờ và nỗi buồn rầu

thường trực trong bác. Cuộc sống với bác Meliton là chuỗi ngày sống để ăn năn tội lỗi,

sống để chờ đến ngày Chúa gọi thì sẵn sàng nằm xuống. Và cuộc sống ấy lại có sức hấp

dẫn kỳ lạ với người kể chuyện, khiến anh ta cảm động và đầy thương mến người lính già.

Tác phẩm ban đầu có tên là Bi kịch trào phúng. Có lẽ ấn tượng đầu tiên về tác phẩm là sự

thương cảm, thương cảm cho một kiếp người sống “khắc khổ thiêng liêng, xa lánh người

đời” và tự tước bỏ đi mọi niềm vui trong cuộc sống của mình. Tuy nhiên, bên cạnh sự

65

thương cảm là tiếng cười nhẹ nhàng mà chua chát. Hóa ra những người nông dân thời ấy

thật đáng thương. Họ không còn biết sống nữa, thực chất họ chỉ đang tồn tại, tồn tại vì

một lí tưởng tâm linh thâm căn cố hữu – phục tùng Chúa, sợ Chúa nổi giận. Dường như

người kể chuyện ở cuối tác phẩm cũng bất lực trước sự khắc khổ, sự phục tùng, sự sợ hãi

đến không dám nhận bất cứ sự quan tâm nào từ chủ của bác Meliton. Lời từ biệt lần cuối

cùng, việc ra đi trong đêm rét buốt chứ không ở lại như trước, cái ngoảnh mặt đi của

người kể chuyện – người chủ vừa như một sự tôn trọng Meliton và lí tưởng của bác, vừa

như một sự mặc kệ đầy hữu ý. Tác phẩm được sáng tác từ 1900 nhưng đến 1930 mới

hoàn thành, có lẽ khi hoàn thiện tác phẩm nhà văn không chỉ tỏ bày sự tôn trọng với

Tolstoy và những nhân vật nông dân đáng kính của ông cùng lí tưởng của họ, không chỉ

bày tỏ sự trân trọng niềm tin tôn giáo mà còn muốn đối thoại với chính những người nông

dân, với chính quan điểm của Tolstoy mà giờ nhà văn đã nhìn thấu đáo hơn. Tác phẩm vì

thế còn là một cuộc đối thoại câm lặng với Tolstoy, với Chính Thống giáo trong cách nhìn

người nông dân. Không chỉ có Meliton, Những cây thông cũng thuộc vào dòng đối thoại

này của Bunin. Mitrofan, nhân vật của Những cây thông tự nhận mình là một cố nông,

làm việc theo lệnh, hoàn thành công việc, sống một mình trong rừng, cầu nguyện nơi

những gốc cây và đến ngày thì nghỉ lễ. Đặc biệt những cột mốc trong sự kiện của họ luôn

gắn liền với những ngày lễ thuộc lịch tôn giáo: ngày lễ thánh Piotr, ngày Chúa Cứu Thế

thứ nhì, ngày Thứ bảy vĩ đại, Cuộc sống ấy cứ tiếp diễn cho đến ngày cuối cùng. Lời từ

chối của Mitrofan khi được đề nghị gọi bác sĩ lúc bị ốm Đừng hòng vịn cỏ mà lên! đã cho

thấy sự bình thản của người sắp chết. Thậm chí việc những người thân thiết của Mitrofan

trong đám tang không hề đau buồn, than khóc cũng khẳng định “niềm vui” trong ngày về

với Chúa của những người nông dân xưa. Đó vừa như một sự hài hòa, cân bằng nỗi đau –

cái chết – sự thanh thản, nhưng cũng vừa như một sự bất lực, xót xa nơi người kể chuyện.

Những cây thông, Meliton đã gợi chúng tôi nhớ đến những tác phẩm khác với hệ thống từ

vựng mang đậm sắc màu tôn giáo (đặc biệt là tầm ảnh hưởng của lịch tôn giáo) cũng

mang giọng điệu vừa chấp nhận vừa đối thoại này: Cỏ gầy, Chiếc cốc đời, Ngày cuối

cùng, Trong trang ấp, Tanka, Đôi hài…

Ở những tác phẩm như: Hơi thở nhẹ, Hoa hồng Ierikhon, Ngày thứ Hai chay tịnh,

Gioan người bán rong, Bài hát của Chúa, Quý ông từ San Francisco đến… sắc màu

66

Thiên Chúa giáo cũng được khắc họa đậm nét qua hệ thống từ vựng tôn giáo phong phú:

nghĩa địa (кладбище), thánh giá (крест), lễ cầu kinh (обедня), tu viện (монастырь),

vòng hoa (венок), medalyon (медальон), bản Thánh vịnh Miserere («Miserere»), tượng

Đức Mẹ (Матерьи Божок), thánh lễ Misa (месса), quỷ dữ (дьявол), sự phục sinh

(воскресение), sự sống đời đời (жизнь вечная), chân đồi hoang vắng của Sinai

(безлюдный синайский предгорье), xứ Giude sa mạc (пустыня Иудейский), linh hồn

(душа), Chúa Trời (бог), ma quỷ (жупел Пятиградия), lễ tống tiễn mùa đông

(масленица), ngày Chủ nhật tha tội (прошеное воскресенье), ngày Thứ hai trong trắng

(чистый понедельник), tu viện Novodevitri (Новодевичий монастырь), nghĩa trang

Rogogioskoe (Рогожскoe кладбище), nơi ly giáo (раскольничье), tổng giám mục

(архиепископ), thầy phó tế (диакон), chân nến Ba ngôi (рипида), bình hương

(трикирия)... Qua hệ thống từ vựng và sự kết hợp của những từ vựng ấy người đọc thấy

được sự hồi sinh mạnh mẽ của cái đẹp – cái bất tử trong Hơi thở nhẹ qua làn hơi giá mùa

xuân lành lạnh lan tỏa khắp không gian đất trời, là sự hồi sinh kỳ diệu của hoa hồng

Ierikhon trong nước của sự sống, là sự hiện diện của Nữ tính vĩnh hằng, của Đức Mẹ cứu

rỗi trong Ngày thứ Hai chay tịnh hay trong Quý ông từ San Francisco đến, là hình ảnh

Đức Jesus Kito gần gũi mà thiêng liêng trong Gioan người bán rong, Bài hát của Chúa…

Đặc biệt, hệ thống từ vựng này được tổ chức dưới dạng thức trữ tình ngoại đề lồng ghép

trong câu chuyện về nhân vật tạo ra một sự đối sánh thú vị giữa số phận nhân vật trong

tác phẩm và nhân vật trong đoạn trữ tình ngoại đề đó. Quý ông từ San Francisco đến là

một trong những tác phẩm có đoạn trữ tình ngoại đề đối sánh số phận nhân vật như thế:

“Cách đây hai nghìn năm, trên hòn đảo này đã từng sống một con người hoàn toàn chìm

đắm trong những hành vi tàn ác và bẩn thỉu của mình, một con người không hiểu vì đâu

mà đã từng ngự trị hàng triệu sinh linh, một con người mà chính bản thân ông ta cũng đã

quẫn trí vẽ cái vô nghĩa của quyền lực ấy và luôn sợ rằng có ai đó sẽ ám sát mình nên đã

làm đủ mọi sự tàn bạo vượt qua bất kỳ mức độ nào” – “Biết rằng ông già từ San Francisco

tới vốn định cùng đi với họ, nhưng nay ông đã chết rồi, và thay vì ông ta chỉ khiến họ

khiếp sợ khi nghĩ đến cái chết thì nay ông cũng đã được đi Neapon rồi, nên các du khách

bèn yên chí ngủ say…” [16; tr. 236-237]; “Đức Mẹ ngự trong xiêm áo bằng thạch cao

trắng phau phau, đội một chiếc vương miện đã ố vàng do dầm mưa dãi nắng… Hai người

67

dân vùng núi Abrutsio ngả mũ, đưa chiếc khèn lên môi, - và thế là người ta thấy tuôn trào

những khúc nhạc vừa hồn nhiên, vừa hiền lành lại vừa mừng vui ca ngợi mặt trời, ca ngợi

buổi sáng, ca ngợi Người, ca ngợi Đức Mẹ trinh khiết vẹn toàn đã bênh vực cho mọi kẻ

khổ đau trong cái thế giới độc ác mà tuyệt vời này, ca ngợi người con đã từ Người mà lọt

lòng ra trong hang đá Betlihem, trong nơi nương náu nghèo nàn của người chăn cừu, ở xứ

Giudea xa xôi” – “Còn thi hài của ông già từ San Francisco tới thì đang trên con đường về

nhà, về nơi mồ yên mả đẹp, về với bến bờ của Thế giới mới…” [16; tr. 239]; “Rồi cả đêm

hôm sau, và đêm hôm sau nữa, con tàu vẫn đi, và nó lại đi trong cơn bão tuyết điên cuồng

tràn qua đại dương lúc ấy đang rền vang như một buổi thánh lễ Misa an táng và đang trôi

dạt giữa những con sóng bạc đầu phủ khăn xô trắng xóa. Vô vàn những con mắt lửa của

con tàu chỉ thấp thoáng ẩn hiện dưới làn tuyết trắng trong con mắt của Quỷ dữ đang náu

mình trên những vách núi cheo leo ở Gibrantar, trên cái cổng đá giữa hai thế giới này mà

dõi nhìn theo con tàu đang mất hút trong đêm sâu và trong bão tuyết. Quỷ dữ to sừng

sững như một mỏm núi, nhưng con tàu còn to hơn nó, con tàu có nhiều tầng, nhiều ống

khói, là tác phẩm của niềm kiêu hãnh của Con Người Mới với trái tim cũ” [16; tr. 240].

Số phận của vị quý ông đến từ San Francisco được nhìn trong sự đối sánh với vị vua bạo

chúa đã từng ở khách sạn nơi ông ở, với hình ảnh của bức tượng Đức Mẹ trên đảo, với

bóng dáng của Quỷ dữ xuất hiện trong đoạn văn đưa quý ông về lại nơi ông ta đã ra đi. Sự

đối sánh thú vị trong đoạn trữ tình ngoại đề còn được Bunin gợi ra qua sự xuất hiện đầy

trần tục của Đức Mẹ và đầy kỳ bí của Quỷ dữ. Tất cả cho thấy cái nhìn vừa thương xót

vừa mỉa mai của nhà văn đối với nhân vật được ông miêu tả trong tác phẩm. Cái chết bất

đắc kỳ tử đau đớn của nhân vật khác hẳn với những cái chết thanh thản đã được chuẩn bị

trước của những nhân vật nông dân như Meliton, Averki hay Mitrofan. Rõ ràng ở đây “có

một sự kỳ thị nhất định” đối với nhân vật “không thuộc biên độ của nước Nga”. Cái chết

của nhân vật vị quý ông trong tác phẩm này gợi cho chúng ta liên tưởng tới cái chết của

Ivan Ilich trong tác phẩm cùng tên của Tolstoy. Nhân vật của Tolstoy đau đớn, dằn vặt

mình trong quá trình đến với cái chết và luôn đau đớn trước cái chết. Thực chất, đó là sự

bất tuân phục giáo hội, sự trả giá cho việc sẵn sàng thụ hưởng mà quên đi việc cứu rỗi

tâm linh của chính mình. Đó là một sự tôn vinh đức tin tôn giáo chân chính, cũng là mâu

thuẫn mà chính những nhà văn như Tolstoy hay Bunin luôn khát khao muốn dung hòa,

68

muốn kiếm tìm sự hòa hợp. Nhà nghiên cứu Prasheruk trong công trình Văn xuôi Bunin

trong cuộc đối thoại với văn học Nga cổ điển [148] lưu ý tới những liên hệ mật thiết giữa

một số nhân vật của Bunin và nhân vật của Tolstoy: Natali trong Natali của Bunin đầy “tự

nhiên” và “bản năng” trong tâm hồn với sức hấp dẫn không thể cưỡng lại đã gợi nhắc tới

nhân vật Natasha trong Chiến tranh và hòa bình của Tolstoy. Theo nhà nghiên cứu, cả hai

nhân vật này đều gợi nhớ tới hình tượng mặt trăng. Nếu mặt trăng trong tác phẩm của

Tolstoy là ánh sáng rực rỡ, là sự kiếm tìm vẻ đẹp lí tưởng trong thực tế thì mặt trăng trong

tác phẩm của Bunin lại gợi liên tưởng tới bi kịch của tình yêu thực sự. Nhà nghiên cứu

khẳng định thêm trong những cuộc gặp của tôi với Sonia, vầng trăng không xuất hiện.

Vậy là chỉ có Natali là nhân vật phải chịu bi kịch bởi khi tinh thần phục tùng nhục thể thì

khi ấy nhân vật phải chết. Nhà nghiên cứu cũng nhận thấy sự tương đồng giữa nhân vật

Gasha trong Natali với Katya Maslova trong Phục sinh với luận điểm về “tình yêu tội ác”

đầy thú vị. Vấn đề là tôn giáo và sự phục tùng tôn giáo có thực sự cứu rỗi con người? Cụ

thể ở đây là người phụ nữ.

Prasheruk đồng thời tìm thấy những ảnh hưởng và cả những đối thoại văn chương

của Bunin với Turghenev khi đọc những truyện ngắn của ông. Nhà nghiên cứu phát hiện

ra hơi hướng Turghenev ở Bunin qua những tác phẩm: Bi kí, Trong trang ấp, Những quả

táo Antonov, Sukhodol, Lần gặp gỡ cuối cùng, Ngày thứ Hai chay tịnh… Nhà nghiên cứu

đưa ra những đối sánh thú vị trong việc miêu tả thiên nhiên, hình ảnh thân thể trinh nữ và

hình ảnh ngôi nhà tối của hai tác giả. Prasheruk phát hiện thấy Bunin “tái hiện” lại cấu

trúc và một số hình ảnh miêu tả chủ đạo của Turghenev trong tác phẩm của mình, nhưng

khuynh hướng kết thúc tác phẩm và suy ngẫm của ông về vấn đề được miêu tả lại hoàn

toàn trái ngược với nhà văn tiền bối. Đó chính là sự đối thoại ngầm ẩn rất đặc biệt của hai

cây bút văn xuôi trữ tình lớn của nước Nga: “Trong tác phẩm của Bunin, đặc biệt là

những tác phẩm viết về mảnh vỡ tình yêu thì vấn đề người phụ nữ, sự giải phóng phụ nữ

là vấn đề quan trọng, trung tâm của sự giải phóng ấy chính là phụ nữ quyết định tất cả.

Kết thúc tác phẩm của Bunin là hình ảnh cuộc sống thường nhật với thiên nhiên mùa thu

lạnh lẽo là chủ đạo. Còn trong tác phẩm của Turghenev kết thúc tác phẩm là hi vọng vào

ngày mai tươi sáng với thiên nhiên mùa hè đầy sức sống, ấm áp. Tác phẩm cũng mang

69

màu sắc lãng mạn tươi hồng khi nhân vật luôn có kế hoạch rõ ràng hứa hẹn thành công ở

ngày mai” [148; tr.25].

Theo một số người đương thời, “Bunin không tán thành về hình thức, kết cấu,

phong cách và nội dung những tác phẩm của Dostoevsky”. Lí do là bởi “ông sợ các chủ

đề trong tác phẩm của Dostoevsky sẽ gây ảnh hưởng xấu tới trẻ con” [148; tr. 28]. Tuy

nhiên, một số nhà nghiên cứu lại tìm ra những dấu ấn của Dostoevsky trong sáng tác của

Bunin. Đó có thể là chủ đề “sự biểu hiện của đam mê” (Lotman) trong Làng và Sukhodol

của Bunin với Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky, là sự “nhại” Tội ác và hình phạt

(Dostoevsky) của Tai mắt (Bunin), là cách thức biểu hiện tâm lí khủng khiếp hỗn loạn của

Dostoevsky trong Những tháng ngày khủng khiếp (Bunin), là kiểu tái hiện sự kiện “chơi

lại tòa án” của Anh em nhà Karamazov trong Vụ việc Eleghin. Có thể nói, những ngôn từ

được sử dụng trong tác phẩm chính là những dấu hiệu rõ nhất cho thấy sự ảnh hưởng

cũng như “đối thoại” này.

Đối thoại tư tưởng với những nhà văn “nặng ký” nhất về tầm tư tưởng trong thời

đại hoàng kim của văn học Nga như Turghenev, Dostoevsky, Tolstoy... không chỉ cho

thấy sự khác biệt về tư tưởng của Bunin với những nhà văn này, mà còn là minh chứng

cho khuynh hướng gia tăng tính trữ tình - triết luận trong hệ thống ngôn từ truyện ngắn

của Bunin. Những đối thoại tư tưởng như vậy làm cho nhiều truyện ngắn xúc cảm của

Bunin không chìm khuất trong bình diện cụ thể cảm tính, mà mang nặng suy tư về nhân

thế, bản thể và đức tin của con người.

Mặc dù là một nhà văn Nga, sinh ra và lớn lên trong cái nôi ảnh hưởng của Chính

Thống giáo nhưng trong các sáng tác của Bunin, nhất là những sáng tác từ 1910 đến 1920

nhiều nhà nghiên cứu của cả Nga và phương Tây đều nhận thấy ảnh hưởng của Phật giáo

lên truyện ngắn của ông. Nhà nghiên cứu Julian W. Connolly còn khẳng định “mối liên hệ

trực tiếp với văn hóa Phật giáo của Bunin diễn ra trong chuyến thăm Ceylon năm 1911

của nhà văn” [183; tr. 12]. Nhà nghiên cứu cũng chỉ ra và phân tích dấu vết của Phật giáo

trong những sáng tác của Bunin: những truyện ngắn Quý ông từ San Francisco đến, Vụ

việc Elaghin, Nước vô biên, Những giấc mộng của Trang, Đêm (1925)… và một vài

truyện vừa khác. Cuộc sống và sự tồn tại, cái có ích và sự phù phiếm… là những yếu tố

dễ dàng tìm thấy trong những truyện ngắn có yếu tố Phật giáo của Bunin. Và các tác

70

phẩm này, một cách ngẫu nhiên đều là tác phẩm kết thúc bằng cái chết của các nhân vật.

Vị quý ông từ San Francisco đến chết trên hành trình hưởng thụ sau chuỗi ngày lao động

không mệt mỏi, cô diễn viên trẻ tài năng xinh đẹp Marya Iosifovna Sosnovskaya chết khi

đang ở độ tuổi rực rỡ nhất của mình trong một vụ án mà người ta không biết kết luận thế

nào (Vụ việc Elaghin), viên thuyền trưởng chết sau những chuỗi ngày sống không làm gì

cả lang thang hết quán ăn rẻ tiền nọ đến quán rượu kia, đánh mất chuỗi ngày hạnh phúc

bên vợ và con gái đã thành dĩ vãng… Từ những câu chuyện ấy có thể thấy: “Chìa khóa

song đề của sáng tác Bunin, cũng như trung tâm sức mạnh nghệ thuật của ông nằm trong

dục vọng không cưỡng lại được của nhân vật của ông để theo đuổi lợi ích vật chất và tinh

thần, là thứ mà, khi những nhân vật này nhận ra một cách muộn màng, cuối cùng chỉ

mang lại nỗi đau đớn” [181; tr. 6]. Rõ ràng, nhân vật của Bunin không được miêu tả trong

hành trình thực hiện dục vọng của họ (ở đây là hành trình kiếm tìm và tận hưởng những

hạnh phúc trần thế: danh tiếng, tiền bạc, tình yêu…) nhân vật chỉ được nhà văn nói đến

khi họ đang trên hành trình thụ hưởng thành quả của quá trình ấy, hoặc khi họ nhận ra tất

cả những gì họ đã khát khao, đã lao vào theo đuổi chỉ là phù phiếm. Vị quý ông từ nước

Mĩ kiếm tiền không nghỉ làm gì, để cuối cùng chưa kịp tận hưởng hạnh phúc bình thường

của đời người đã bị đối xử tệ bạc như một kẻ bệnh dịch? Viên thuyền trưởng cả đời theo

đuổi và vun đắp tình yêu với cô vợ đẹp, với đứa con xinh xắn làm gì, để cuối cùng chết

trong cảnh cô độc bên một con chó? Cô diễn viên tài năng đuổi theo danh vọng phù

phiếm mà lãng quên tình yêu-tình người thực thụ để rồi chết bởi một phát súng định mệnh

khi không biết “lựa chọn cái chết như thế nào”. Rõ ràng, giống như nhân vật trong Nước

vô biên đã nhận ra “tất cả nỗi đau của con người đều là kết quả của những dục vọng: dục

vọng tình yêu, sự giàu có, sự bất tử…” [183; tr. 13]. Ở từng truyện cụ thể, dấu vết của

Phật giáo có thể rõ ràng qua những câu nói (câu nói của viên thuyền trưởng với Trang

rằng bản năng con người luôn muốn cưỡng lại những lời dạy của Phật giáo và Đạo giáo:

“Chẳng lẽ tất cả những hòa thượng của mi ngu ngốc hơn ta với mi hay sao? A, mà các vị

ấy nói thế nào về tình yêu đối với cõi trần thế và với mọi thứ vật chất nói chung – từ tia

sáng mặt trời, con sóng ngoài biển, từ không khí đến đàn bà, trẻ con, đến mùi hương của

bông hoa xiêm gai trắng muốt! Hoặc mi có biết „Đạo‟, thứ người Trung Hoa các người

bày đặt ra đấy không?” [17; tr. 29]), có thể không được đề cập cụ thể nhưng phơi bày qua

71

định mệnh mỉa mai và trớ trêu của con người cả đời làm nô lệ cho mình (Quý ông từ San

Francisco đến), qua mối bận tâm với những vinh hoa phù phiếm của con người (Vụ việc

Elaghin). Những tác phẩm này, vì thế, trở nên phong phú và hấp dẫn hơn với bạn đọc,

nhờ vào sự đa dạng trong việc sử dụng ngôn từ tạo ra giọng điệu trữ tình được toát ra từ

những sắc màu triết luận, tình cảm đan xen của tác giả và nhân vật.

Không chỉ có Phật giáo, nhiều tác phẩm của Bunin còn mang đậm dấu ấn Đạo giáo

(Những giấc mộng của Trang), Hồi giáo (Cái chết của nhà tiên tri). Điểm đặc biệt là

những sắc màu này thường không tồn tại một cách đơn lẻ mà lại hòa quyện vào nhau

trong cùng một tác phẩm; thậm chí, còn hòa quyện với tinh thần Thiên Chúa giáo nói

chung của phương Tây. Có thể nhận thấy sự kết hợp của Phật giáo, Đạo giáo và Thiên

Chúa giáo trong Những giấc mộng của Trang. Ngay cái tên nhan đề Những giấc mộng

của Trang đã gợi liên tưởng sâu sắc tới Trang Tử - nhà tư tưởng lỗi lạc của Đạo giáo, xuất

thân Trung Hoa của Trang, hóa thân của Trang là một chú chó “vô vi” quan sát sự đời, rồi

những triết lí mà Trang và ông chủ phát biểu về Đạo trong tác phẩm lại càng khẳng định

điều ấy. Thêm nữa, trước cái chết của chủ, Trang nhận ra một chân lí thứ ba quan trọng

nhất: trước Chúa, tất cả đều bình đẳng như nhau.

Câu chuyện Cái chết của nhà tiên tri lại mang những dấu ấn của tư tưởng Hồi

giáo. Những cuộc đối thoại mang tính thử thách của nhà tiên tri với thiên thần về lẽ sống

còn, về thân xác, về nỗi sợ hãi, về sự bất tử, về Chúa… đã chứng minh sự thông thái và

xứng đáng của nhà tiên tri là người thay mặt Đức Alla – Đức Chúa Trời nơi trần thế, kế

tục sự nghiệp của tiên tri Mohamed… Điều kỳ diệu là vị tiên tri có khả năng nhìn thấy

chính mình, thấy cuộc sống của mình sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ trên cõi thế. Và cái

tên Sheikh Saadi vang lên trong điệp khúc ngân vang của những lời cầu nguyện: “Hòa

bình và niềm vui cho tất cả những người đang sống!” [99 – tập 3; tr. 65].

Theo Connolly, “sự hợp nhất của Phật giáo và những yếu tố của Thiên Chúa giáo

là một điểm quan trọng trong các sáng tác của Bunin những năm 1920, khi mà ông bắt

đầu tìm kiếm sự hội tụ của những giá trị tôn giáo và triết học phương Đông và phương

Tây. Vượt ra ngoài những yếu tố này ông đã thực sự cho thấy được sự mới mẻ, kinh

nghiệm và năng lực cá nhân mình” [183; tr. 17]. Và thú vị hơn, từ những câu chuyện

Bunin xây dựng cho người đọc, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra một nhận định vừa mỉa

72

mai vừa hài hước nhưng lại rất có lí, trao thêm cho truyện ngắn Bunin một cung bậc âm

điệu khác, trao thêm cho người đọc một cách cảm nhận khác về những đối thoại tôn giáo,

triết học về Budda, về Tolstoy, về Solomon… trong tác phẩm: “Đầu tiên thì Solomon và

Budda ôm chặt lấy thế giới với những khao khát vĩ đại nhất; sau đó với những đam mê vĩ

đại họ nguyền rủa những cám dỗ của nó. Đầu tiên họ đều là những kẻ có tội vĩ đại, sau đó

họ là những kẻ thù vĩ đại của những tội lỗi ấy” [Đêm, 1925, dẫn theo 183; tr. 18].

Như vậy, với hệ thống ngôn từ mang đậm dấu ấn tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo,

Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Bunin đã làm phong phú thêm cho những truyện ngắn giàu

xúc cảm cụ thể cảm tính của mình, gia thêm cho chúng những sắc điệu triết luận vừa thần

bí vừa thiêng liêng, vừa sâu lắng vừa hài hước, vừa nhẹ nhàng vừa thâm trầm thú vị. Đặc

điểm này trong sáng tác của Bunin góp phần nâng mạch nguồn xúc cảm lên tầm trữ tình -

triết lý. Nếu coi tác phẩm của Bunin là một bản hợp âm thì bản hợp âm ấy bao gồm nhiều

sắc điệu tư tưởng phương Đông, phương Tây, truyền thống, phi truyền thống, song chúng

được hợp nhất hài hòa trong chỉnh thể trữ tình không chỉ dừng ở những xúc cảm cụ thể

cảm tính mà hướng tới đức tin cao cả, thiêng liêng về sự tồn tại bản thể của thế giới con

người.

Tiểu kết chương 2:

Ấn tượng trữ tình đầu tiên đến với người đọc từ thế giới truyện ngắn của Bunin là

thông qua tổ chức ngôn từ trên bề mặt văn bản các tác phẩm.

Trong chương này, chúng tôi đã nghiên cứu các thủ pháp gia tăng tính trữ tình cho

lời văn với khuynh hướng cảm xúc hóa đối thoại, độc thoại hóa đối thoại, phối cảm lời kể,

lời độc thoại; khảo sát các thủ pháp tăng cường nhạc tính lời văn với phép điệp từ bình

diện ngữ âm đến điệp cú pháp, kết cấu, ngữ đoạn, điệp hình tượng sự vật tạo nhịp điệu và

nhấn những “chủ âm” xuyên suốt dòng hồi ức của nhân vật, đan xen thơ, nhạc vào lời

văn; và cuối cùng là làm rõ khuynh hướng thi vị hóa lời văn qua việc điểm phong vị dân

gian vào hệ thống ngôn từ, tạo ấn tượng thiêng liêng qua vẻ đẹp hệ thống ngôn từ của đức

tin và tư tưởng. Đức tin và những tư tưởng cụ thể bắt nguồn từ cảm quan nghệ thuật của

nhà văn chúng tôi sẽ làm rõ hơn ở các chương sau. Ở đây, chúng tôi chỉ xem xét những

biểu hiện trên bề mặt ngôn từ tạo ấn tượng thi vị trữ tình cho truyện ngắn Bunin. Nhìn từ

73

góc độ đó, có thể khẳng định, hệ thống ngôn từ nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn

ngay từ bề mặt của nó thực sự đã thấm đẫm xúc cảm, thấm đẫm chất nhạc, chất thi ca vừa

hồn nhiên dân dã, vừa cao cả, thiêng liêng.

Các sắc thái xúc cảm trên bề mặt ngôn từ trong truyện ngắn Bunin được tổ chức

như trong một bản hoà âm, đan quyện vào nhau để hoà với âm hưởng chủ đạo tạo nên

chất trữ tình mê đắm. Ngôn từ trong truyện ngắn Bunin đã tạo nên một thứ “văn xuôi như

thơ” (V.Shmid). Chính chất trữ tình đa sắc điệu từ bề mặt ngôn từ tác phẩm đã lôi cuốn

bạn đọc ngay từ lần đầu tiếp xúc. Có lẽ, đây cũng là điểm đặc biệt khiến tác phẩm của

Bunin thực sự ấn tượng: có thể đọc, có thể cảm, có thể yêu nhưng thật khó liệt kê hết các

sắc điệu của những ấn tượng mình đã cảm nhận. Nó là một sự mời gọi xúc cảm trong việc

tìm đến từng câu từng chữ của tác phẩm. Và khi đã bước chân vào thế giới ấy, thật khó để

không ngâm nga, thích thú thụ hưởng những thanh âm mà ngôn từ trữ tình của tác phẩm

ấy mang lại. Có lẽ bởi thế cho nên ngôn từ nghệ thuật của Bunin mới được nhà nghiên

cứu Prince Mirky đánh giá đẹp như hoặc hơn cả ngôn từ nghệ thuật của một số cây bút

văn xuôi kinh điển của văn học Nga: “Có lẽ chỉ có Bunin là nhà văn hiện đại mà nghệ

thuật ngôn từ của “những nhà văn cổ điển” như Turghenev và Goncharov cũng phải thán

phục” [194; tr. 424].

74

CHƢƠNG 3

CHỦ THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG TRỮ TÌNH

Truyện ngắn của Bunin quyến rũ và hấp dẫn người đọc bởi dư vị cảm xúc ngọt

ngào chan chứa. Xúc cảm xuất phát từ tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của những chủ thể trữ

tình trong tác phẩm đến với người đọc vẹn nguyên và cuốn hút. Chủ thể trữ tình

(лирический субъект) là “chủ thể lời văn, còn đồng thời là chủ thể điểm nhìn chủ đạo

(bao quát) về thế giới và đánh giá nó trong tác phẩm trữ tình nghệ thuật” [164; tr.112].

Chủ thể trữ tình hay chủ thể xúc cảm trong truyện ngắn Bunin có thể là người kể chuyện

(narrator), đồng thời có thể là nhân vật chính (hero), nhân vật với “vai trò” chủ thể hành

động và cảm nhận (actor) [39; tr. 249]. Trong truyện ngắn của Bunin, đối tượng mà các

chủ thể trữ tình đau đáu hướng tới qua các câu chuyện của mình, suy cho cùng, là những

hình ảnh ấn tượng của nước Nga thiêng liêng có thể đang chìm vào quá vãng, mà không

thể mất đi trong tâm tưởng, hay những người con gái Nga đẹp như biểu tượng nữ tính

vĩnh hằng, dù đa phần bất hạnh.

3.1. Chủ thể trữ tình - ngƣời kể chuyện “chủ quan”

Đọc truyện ngắn của Bunin chúng tôi nhận thấy dường như người kể chuyện nào

(ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba) cũng đều phảng phất bóng dáng của nhà văn – một người

đàn ông lịch lãm, chững chạc, tinh tế và sống cảm tính – hết mình vì những xúc cảm của

bản thân. Chỉ có hai truyện ngắn (trong tổng số những truyện ngắn của Bunin được chúng

tôi khảo sát) có người kể chuyện là nữ - nhân vật nữ xưng “tôi”. Đó là Cuộc đời tươi đẹp

và Mùa thu lạnh. Bởi thế, những câu chuyện được kể là những câu chuyện rất giàu cảm

xúc. Các nhà nghiên cứu Nga gọi người kể chuyện trong văn xuôi của ông là “người kể

chuyện nhược hóa” với lí giải cụ thể: “Hơn nữa trong những truyện ngắn giai đoạn những

năm 1895 – 1900 mong muốn của nhà văn một cách rõ rệt làm nhược hóa nền tảng trần

thuật của cốt truyện tự sự và tìm kiếm nguyên tắc kết nối sự kiện khác, những phép phối

cảnh mở rộng ý nghĩa mới” [92; tr. 552]. Thậm chí có những “truyện ngắn không có cốt

truyện từ ngôi thứ nhất, tự trình bày bản thân trên quan điểm “thứ nhất” về những phác

thảo hiện thực” (V.D.Levin), chẳng hạn như truyện ngắn Canh khuya. Điều này cho thấy

75

ý thức về sự gần gũi giữa cái tôi của người kể chuyện trong tác phẩm với tác giả ngoài đời

thực. Chính điều này giúp chúng tôi nhận định về người kể chuyện trong truyện ngắn của

Bunin là “người kể chuyện trữ tình chủ quan” như một chủ thể trữ tình qui chiếu vào cái

tôi trữ tình của tác giả - người sáng tác.

3.1.1. Người kể chuyện toàn tri “thâu tóm” cảm xúc

Trong các tác phẩm được kể từ ngôi thứ ba, người kể chuyện ẩn danh, không xác

định nhân cách cụ thể, thường có khuynh hướng là người kể chuyện toàn tri. Điều đó có

thể có ngoại lệ, song trong truyện ngắn của Bunin, người kể chuyện dạng này thường bao

giờ cũng là toàn tri, có thể biết hết không chỉ những gì tồn tại “ở đây, bây giờ” bên ngoài

nhân vật, mà còn hiểu thấu cả thế giới xúc cảm, tâm trạng bên trong nhân vật, hơn thế còn

có thể trực tiếp biểu lộ xúc cảm, tâm trạng, thái độ với các nhân vật, tạo xúc cảm nền, rồi

đóng vai trò “thâu tóm” các mạch cảm xúc của các chủ thể trữ tình, hướng vào cảm hứng

chủ đạo của toàn tác phẩm. Người kể chuyện toàn tri thâu tóm cảm xúc xuất hiện trong đa

số truyện ngắn của Bunin (57/100 truyện được khảo sát): Lần gặp gỡ cuối cùng, Ngày

cuối cùng, Cỏ gầy, Quý ông từ San Francisco đến, Hơi thở nhẹ, Chiếc cốc đời, Đứa con

trai, Những giấc mộng của Trang, Ở Paris, Đôi hài, Trên biển đêm khuya, Say nắng,

Những tấm danh thiếp, Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối, Zoyka và Valeria, Ngữ pháp

tình yêu, Tanhia… Ở giai đoạn sáng tác sau năm 1917, dạng thức người kể chuyện này

chủ yếu xuất hiện trong những truyện ngắn mini hầu như không có cốt truyện nhằm mục

đích biểu lộ dòng xúc cảm, đồng thời triển khai mạch triết luận: Sách, Nhà mồ, Người mù,

Âm nhạc, Hy vọng, Marya,…

Ngày cuối cùng, Cỏ gầy, Chiếc cốc đời là những truyện ngắn được kể lại bằng thái

độ bình thản, điềm đạm của một người từng trải, đã qua nhiều sự kiện, đã từng chứng kiến

những mất mát, những nỗi đau của cuộc đời. Tuy nhiên, ẩn sâu bên trong sự bình thản đó

là những xúc cảm chân thành đồng điệu với xúc cảm của các nhân vật. Ngày cuối cùng là

nỗi buồn trước cảnh mất mát cơ nghiệp của bác Voiekov và sự bồn chồn sốt sắng của

người mua lại cơ nghiệp ấy – bác Rostovsev. Người kể chuyện bình thản kể lại từng hành

động của nhân vật: tàn phá nốt những gì còn lại của cơ ngơi xưa, nhớ tiếc quá khứ và xấu

hổ với tổ tiên, sai người giết chết những con chó nòi borzoi quý còn lại, sự sĩ diện trước

76

những người từng làm công với mình. Thực tế, ngay mở đầu tác phẩm, người kể chuyện

đã bày tỏ sự đồng cảm với những mất mát to lớn của bác Voiekov: “Thôi thế là xong: gia

súc bán cho người ta, chủ mới đã dong đi, những cỗ xe ngựa, yên cương, đồ đạc bán cho

người ta, chủ mới cũng đã chở đi, cổng lò rèn và kho chứa củi, cửa vựa thóc và chuồng

ngựa đều đã mở toang hoang: đâu đâu cũng đều trống rỗng, trơ trụi; trong sân thảy cũng

đều hết sạch trơn cả rồi.” [15; tr. 103]. Cụm từ “thôi thế là xong” là sự nuối tiếc, sự đau

xót của một người cả đời phấn đấu gìn giữ cơ nghiệp của tổ tiên nhưng thất bại. Nhân vật

được miêu tả trong sự tuyệt vọng, trong nỗi xấu hổ, trong xúc cảm nhỏ nhen của người

nông dân mà người kể chuyện đã thâu tóm được. Người kể chuyện cũng rất tinh ý, đã

nắm bắt được cảm xúc của người tiểu thị dân lần đầu tiên mua được một cơ ngơi thực sự.

Tâm trạng háo hức bị dập tắt bởi những hành động nhỏ nhen của người chủ cũ. Nhận nhà

lúc đã khuya, vội vàng nhìn ngắm cơ ngơi, bác Rostovsev nhanh chóng thất vọng. Người

kể chuyện nắm được cái tâm lí hồi hộp và chờ mong ấy, miêu tả rất chính xác cả sự tức

giận, cả nỗi hoài nghi, cả nỗi lo lắng của một nhà đầu tư, cả cái tâm lí tự trấn an mình,

rằng “chưa chi mình đã mất tinh thần”. Người kể chuyện toàn tri ở đây không chỉ dẫn dắt

câu chuyện, mà còn “đi guốc trong bụng” nhân vật, thâu tóm những xúc cảm của câu

chuyện bằng cách nắm bắt tâm lí và miêu tả nó rất chính xác. Sự thâu tóm tâm lí tinh tế ấy

còn xuất hiện trong Cỏ gầy, Chiếc cốc đời… Người kể chuyện tỏ ra am hiểu tâm lí của

nhân vật người nông dân nghèo trước cái đói, cố gắng ăn bằng hết những gì đang có dù

không thể ăn được, am hiểu nỗi sợ hãi cái chết nhưng luôn bằng lòng trước Chúa bởi cái

chết, bởi ngày cuối cùng là Chúa quyết định. Trong Chiếc cốc đời người kể chuyện hiểu

tường tận tâm lí của cha Kiro cao ngạo, sĩ diện, không chấp nhận thua kém người khác,

tâm lí của bà Sanhia yếu đuối, nhu nhược, của lão Goridontov hả hê dù rất thực dụng…

Những giấc mộng của Trang hoàn toàn được kể từ người kể chuyện toàn tri. Thực tế,

Trang là một con chó, nên dù được nhân hóa Trang cũng khó có thể tự trải nghiệm, suy

nghĩ, nói năng và bộc lộ cảm xúc. Người kể chuyện vừa dẫn chuyện, vừa hòa vào điểm

nhìn bên trong của Trang, vừa hướng đạo để tạo mạch xúc cảm – suy tưởng. Nhờ thế,

cảm xúc trong câu chuyện không chỉ chân thực, thuyết phục mà còn có tính khuynh

hướng rõ rệt, tạo nên ấn tượng trữ tình.

77

Trên chuyến tàu đêm khuya, người kể chuyện trong Say nắng hòa vào xúc cảm yêu

đương say đắm của nhân vật người đàn ông với người phụ nữ trên con tàu, cuốn vào cơn

“say nắng” của họ trong một khách sạn tỉnh lẻ ven sông, rồi say cùng nhân vật trong xúc

cảm ngây ngất khi tiễn nàng lên tàu, để rồi trống rỗng hụt hẫng khi người con gái rời xa

mình. Người kể chuyện toàn tri không chỉ đồng cảm từ bên ngoài với những xúc cảm rất

chân thật của viên thiếu úy, mà còn như cảm hiểu từ bên trong, từ đáy sâu tâm hồn nhân

vật: “Vừa sung sướng lại vừa kinh hoàng, con tim chàng lặng đi khi chàng nghĩ rằng chắc

hẳn toàn thân nàng đã rắn chắc lại và ngăm đen đi dưới tấm xiêm bằng vải gai này sau

một tháng ròng nằm dưới ánh mặt trời phương Nam trên làn cát biển nóng bỏng” [15; tr.

204]; “Và đại thể là chàng trung úy đã dễ dàng thể theo lời nàng. Với tâm tình nhẹ nhõm

và sung sướng, chàng đưa chân nàng ra tận bến tàu” [15; tr. 206]…

Với những truyện có khuynh hướng thủ tiêu bề mặt sự kiện, chủ yếu là miêu tả,

khơi gợi xúc cảm và triết lí, rõ ràng, vai trò thâu tóm và thể hiện cảm xúc của người kể

chuyện toàn tri lại càng rõ ràng. Người kể chuyện lúc này đóng vai trò là Chúa Trời, là

nhà tiên tri rao giảng triết lí và truyền xúc cảm cho người đọc. Vì thế, những triết lí được

đưa ra khách quan và giàu sức thuyết phục, xúc cảm trong những câu chuyện cũng mang

tính chất thiêng liêng và trân trọng hơn. Đọc Người mù, Nhà mồ, Bức chân dung, 100

rupees, Hy vọng, Trẻ và Già… chúng ta sẽ thấy rõ điều này.

Trong Trẻ và Già, câu chuyện về cuộc đời của con người với ba mươi năm đầu

sống theo cách của con người, mười lăm năm tiếp theo là theo cách của một con lừa,

mười lăm năm nữa theo cách một con chó và mười lăm năm cuối là của một con khỉ nhăn

nheo, già nua, ốm yếu được người kể chuyện biết tuốt kể lại qua lời của một người được

coi là “già” về tuổi tác. Cuộc đối thoại giữa họ kết thúc khi người già ấy khẳng định “Tôi

không phải một con lừa, không phải một con chó, vậy tại sao tôi lại phải là một con khỉ?

Tại sao tôi phải già?” [99 – tập 6; tr. 232]. Việc để cho người kể chuyện toàn tri thâu tóm

sự việc, cảm xúc trong những tác phẩm mang đậm tính triết lí như vậy tập trung sức nặng

trải nghiệm suy tưởng vào một mối, tăng cường xúc cảm – triết luận trữ tình cho tác

phẩm. Giống như những truyện ngắn kể từ ngôi thứ ba nói chung, có lúc người kể chuyện

nhập vào vị thế nhân vật, phát biểu cảm xúc và suy nghĩ từ bên trong, câu chuyện nhờ đó

vẫn lôi cuốn độc giả bằng cảm xúc chân thực. Song truyện kể từ ngôi thứ ba của Bunin lại

78

không tạo ấn tượng gián cách với nhân vật, người đọc, ngược lại nó tập trung tạo ấn

tượng giao cảm trữ tình. Truyện kể từ ngôi thứ ba của Bunin không hề có ý vị mỉa mai

nước đôi với giọng điệu trữ tình. Đây là điểm khác biệt của nhà văn với người tiền bối

A.Chekhov.

3.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất – nhân vật “trải nghiệm” cảm xúc

Trong các sáng tác của Bunin, số lượng các tác phẩm được kể từ ngôi thứ nhất,

xưng “tôi” rất nhiều (35/100 truyện được khảo sát) , đặc biệt là những sáng tác sau Cách

mạng tháng Mười. Dường như sau Cách mạng, khi đã sống và làm việc ở nước ngoài, nhà

văn chủ yếu viết về những trải nghiệm của chính bản thân mình. Nhân vật “tôi” – trí thức,

nghệ sĩ, quý tộc kể về câu chuyện của chính anh ta (Những quả táo Antonov, Natali, Con

quạ, Canh khuya, Cuộc đời tươi đẹp, Ngày thứ Hai chay tịnh, Mùa thu lạnh, Một truyện

tình nho nhỏ, Ở một phố thân quen, Kavkaz…) để hoài nhớ nước Nga, hoài nhớ những kỷ

niệm tình yêu và cả những buồn đau. Trong những truyện ngắn này, người kể chuyện là

nhân vật nam chính – nhân vật tình yêu trong tác phẩm tự kể câu chuyện tình của mình.

Bởi thế, xúc cảm trong những câu chuyện được kể là những xúc cảm được nhân vật trực

tiếp trải nghiệm. Chúng tôi gọi người kể chuyện trong những sáng tác này là người kể

chuyện ngôi thứ nhất – nhân vật “trải nghiệm” cảm xúc.

Natali kể câu chuyện về mối tình tay ba giữa ba nhân vật tôi – Natali và Sonia.

Trong tác phẩm tôi trực tiếp kể lại chuyện tình của mình. Đầu tiên là cảm giác sung sướng

“cảm thấy cái hạnh phúc được bắt đầu sống một cuộc sống trẻ trung, đầy tự do phóng

khoáng”, rồi sau đó là một chuỗi những xúc cảm: dằn vặt, băn khoăn, hối hận. Về nghỉ hè,

gặp gỡ cả hai cô gái, tôi tỏ rõ sự băn khoăn lúng túng giữa hai cô nàng với hai kiểu tình

yêu khác nhau. Sonia thì mạnh bạo, quyết liệt, mong muốn chiếm hữu, Natali thì dịu

dàng, trong sáng và thuần khiết. Tôi bị quyến rũ ngay lập tức bởi nét đẹp thuần khiết và

sự đoan trang của Natali, nhưng không thể từ chối sức quyến rũ bạo liệt đến từ Sonia, để

rồi vuột mất mối tình thực sự của mình: “Mỗi lúc tôi lại càng thêm ngạc nhiên, thêm sợ

hãi: vì lẽ gì mà ông trời trừng phạt tôi như vậy, vì lẽ gì mà cùng một lúc đem đến cho tôi

hai mối tình rất khác nhau và cùng say đắm như nhau, - cái đẹp phụng thờ đầy đau đớn

đối với Natali và cái đắm đuối về thể xác với Sonia” [16; tr. 503]. Trải qua những biến cố

79

của cuộc đời, tôi gặp lại Natali, nối lại tình xưa với nàng, rồi chứng kiến cái chết của nàng

khi nàng sinh non bên hồ Genève. Tôi mỗi lần đứng trước cơ hội hạnh phúc đều do dự để

rồi tự đánh mất quyền được hạnh phúc, quyền được bao bọc người mình thương yêu.

Diễn tiến cảm xúc của nhân vật tôi trong tác phẩm với những cung bậc khác nhau để lại

nỗi xúc động và nuối tiếc trong lòng người đọc đồng cảm.

Một truyện tình nho nhỏ cũng là một kỷ niệm tình yêu được nhân vật tôi kể lại.

Câu chuyện ban đầu được tôi kể bằng giọng điệu có vẻ bình thản, người kể chuyện dường

như không bày tỏ cảm xúc của mình, người bày tỏ cảm xúc là nàng, người yêu của tôi:

“Chưa dứt lời, nàng ôm tôi, buồn rầu và âu yếm nhìn vào mắt tôi, dừng lại mấy giây rồi

hôn tôi, một lần, hai lần…” [16; tr. 582]. Thế nhưng đến cuối tác phẩm, tôi càng ngày

càng bộc lộ rõ hơn xúc cảm nội tâm của mình. Những cảm xúc ấy bộc lộ qua thái độ với

những lời thổ lộ trong lá thư nàng gửi, đến từ những yêu đương thực sự đã thức dậy sau

chuỗi ngày tưởng rằng “đó chỉ là một cuộc gặp ngẫu nhiên, một chuyện tình nho nhỏ,

không hơn” [16; tr. 583]. Có lẽ đó là sức mạnh của những khoảnh khắc mãnh liệt trong

tình yêu. Nhưng bất hạnh là khi tình yêu được nhận ra cũng là lúc người yêu đã không

còn nữa, và cái “chuyện tình nhỏ” ấy mãi là chuyện tình nhỏ trong hồi ức hạnh phúc: “Và

khi ấy tôi có cảm giác rằng trong đời, tôi không cần gì hơn ngoài mùa xuân ấy và những

suy nghĩ về hạnh phúc” [16; tr. 590]. Câu chuyện tình yêu trong tác phẩm xuất phát từ

những tình cảm yêu đương trong trẻo của người trong cuộc có một kết thúc buồn. Chàng

trai chấp nhận bàn tay sắp đặt của số phận và tưởng niệm tình yêu của mình bằng cảm xúc

của bản thân. Truyện để lại dư vị man mác trong lòng người đọc.

Con quạ bắt đầu bằng lời miêu tả “Cha tôi giống y như con quạ” và xúc cảm buồn

bã của chàng trai khi nhìn hình ảnh người cha của mình. Xúc cảm ấy phần nào lí giải

những mâu thuẫn trong cuộc sống giữa hai người, cách họ nói chuyện, ứng xử với nhau,

cách họ giành lấy tình yêu cho mình. Nhân vật tôi yêu người gia sư của em gái từ lần gặp

đầu tiên khi về quê nhà nghỉ hè. Tình yêu của họ phải trốn tránh cái nhìn soi mói của

người cha, cái nhìn của một “con quạ”. Cha của tôi cũng mong muốn được lấy cô gia sư

làm vợ, bởi thế luôn lo sợ và tìm cách ngăn cấm tình cảm của hai người: “Nhưng nàng

càng cố thờ ơ với tôi thì những cái liếc xéo mà cha tôi ném về phía tôi lại càng băng giá

hơn: không chỉ riêng ông, mà ngay cả tôi cũng hiểu và cảm thấy rằng, đằng sau sự cố

80

gắng nhức nhối không để ý đến tôi, mà chỉ nghe cha tôi nói chuyện và trông chừng cô bé

Lilia tuy ít nói nhưng hiếu động và hay cáu giận, đang ẩn giấu một nỗi lo sợ khác, - nỗi sợ

hãi sung sướng trong niềm hạnh phúc chung của chúng tôi là được ở bên nhau.” [19; tr.

108]. Người kể chuyện xưng tôi kể lại giây phút hạnh phúc của mình bị bố bắt gặp: “Và

nàng ngước khuôn mặt đẫm nước mắt lên ôm chầm lấy tôi trong một nụ hôn dài đến

nghẹn cả thở. Tôi ép nàng sát vào mình và kéo lại gần chiếc đi văng – tôi đâu còn hiểu và

nhớ được gì trong giây phút ấy? Nhưng ngoài ngưỡng cửa thư phòng đã nghe tiếng hắng

giọng khe khẽ: tôi ngó qua vai nàng – cha tôi đang đứng đó nhìn chúng tôi.” [19; tr. 110].

Câu chuyện kết thúc khi nhân vật tôi (sau khi đã từ chối quyền thừa kế và tìm được một

việc làm tốt) nhìn thấy cha mình và cô gia sư cùng vào rạp hát sau khi đã thành vợ thành

chồng. Hình ảnh “con quạ” trong ý thức của chàng trai trẻ với xúc cảm tiêu cực qui chiếu

vào người cha. Ở đây, người kể chuyện xưng tôi tự mỉa mai chính người cha của mình, từ

hình dáng bên ngoài “lưng gù gù như con quạ” cho đến hành động, tính cách. Cái cách

mà người cha tán tỉnh và lấy lòng cô gia sư, đe dọa cậu con trai (nhân vật tôi) và cuối

cùng chiếm hữu cô gái ấy gợi liên tưởng tới motif ác điểu bắt cóc người đẹp về làm vợ

trong những câu chuyện cổ tích. Thêm nữa, vẻ ngoài của người cha: “con quạ” lại đối lập

đầy hữu ý với người vợ trẻ xinh đẹp của ông: “con công”. Như vậy, xúc cảm của người kể

chuyện xưng tôi trong tác phẩm tuy được biểu lộ kín đáo nhưng cũng rất tinh tế.

Cuộc đời tươi đẹp là lời bày tỏ đầy tự tin và lạc quan của nữ nhân vật Nastasia

Semionovna về cuộc đời mình. Cô nông dân đã phấn đấu bằng trí tuệ và sự lanh lẹ để

vươn lên địa vị một bà chủ giàu có. Trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, cũng không ít

đau khổ, buồn thương nhưng người kể chuyện vẫn luôn vui vẻ lạc quan. Tuy nhiên, dư âm

đọng lại của tác phẩm là nỗi buồn, một nỗi buồn man mác không tên nhưng da diết: “Mà

quả vậy, ở chỗ chúng tôi, ở nhà của gia đình Samokhvalov ấy mà, thường là rất buồn khi

mọi người đều đi ngủ trưa cả rồi và khi gió cuốn cái thứ bụi ấy đến! Và cậu ta cũng tự tử

vào cái lúc nóng nực ghê người, vào cái lúc tối tăm nhất. Thành phố của chúng tôi quả là

buồn khủng khiếp. Mới đây tôi có đến Tula và thấy không sao so sánh được!” [16; tr.

101]. Có thể thấy, những nhân vật nữ kể chuyện xưng tôi ít ỏi trong tác phẩm của Bunin

là những người rất mạnh mẽ. Họ có thể tỏ ra bình thản khi vượt qua những biến cố của

cuộc đời mình. Song, cuối cùng, họ vẫn không sao vượt thoát được nỗi buồn đến từ hoài

81

niệm. Mùa thu lạnh mở đầu bằng tâm trạng nặng nề của người con gái trước ngày tiễn

người yêu ra trận: “Tất cả mọi chuyện trong tâm hồn tôi đều trở nên nặng nề”, tiếp tục với

nỗi buồn khôn tả: “Tôi đi lại trong phòng, tay đặt sau lưng, không biết mình nên làm gì,

hoặc khóc òa lên hoặc thét to với hết giọng của mình…” khi người yêu ra đi. Rồi những

xúc cảm buồn thương đến khi người yêu hi sinh: “Và nhiều, rất nhiều cảm xúc trong

những năm tháng đó, có cảm tưởng sao lâu đến thế, khi ta chủ ý nghĩ về chúng…” và

những xúc cảm ấy cứ theo đuổi nhân vật đến cuối cuộc đời. Buổi chiều thu lạnh chia tay

ấy mãi là xúc cảm vĩnh cửu lưu lại trong lòng nhân vật, đồng thời cuốn cả người đọc vào

những suy tư đau xót khôn nguôi.

Ở một phố thân quen, Kavkaz là những câu chuyện về bản lĩnh vững vàng, về cái

tôi nam tính có vẻ bất cần và thờ ơ trước nỗi đau, niềm mong mỏi của người khác. Những

người kể chuyện xưng tôi này coi những mối tình đã qua chỉ như giấc mơ, như hồi ức

chợt hiện trong đó mình đóng vai trò chủ động. Trái lại, nhân vật tôi – chàng trai trong

Ngày thứ Hai chay tịnh lại bị động trước người bạn gái của mình. Mọi xúc cảm của anh

đều phụ thuộc vào tâm trạng của nàng: nàng vui – chàng sung sướng, nàng khó chịu –

chàng cũng buồn rầu. Nhưng đau khổ nhất là khi anh chàng kể lại ngày tháng hạnh phúc

nhất cũng là ngày tháng hụt hẫng và buồn đau nhất. Nàng hiến dâng cho chàng rồi bỏ đi

tu. Xúc cảm trong câu chuyện kéo người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác theo diễn

tiến tâm trạng thất thường của nàng và chàng. Để khi câu chuyện kết thúc, đọng lại là nỗi

thương cảm, tiếc nuối … Truyện ngắn của Bunin, như vậy, với các nhân vật kể chuyện có

những trải nghiệm khác nhau trong tình yêu, trong những biến cố cuộc sống với những

nét diễn biến tâm trạng rất chân thực đã mang đến cho người đọc những sự đồng cảm, sự

trân trọng và có thể cả những xúc cảm trái chiều. Song khuynh hướng chung vẫn là cuốn

được người đọc vào những trải nghiệm tâm trạng của người kể chuyện tạo dựng sự thống

nhất xúc cảm với nhân vật và sau nó là cái tôi trữ tình của tác giả.

3.1.3. Luân chuyển người kể chuyện, thống nhất xúc cảm

Trong những truyện ngắn của Bunin, có những tác phẩm xuất hiện hai người kể

chuyện: người kể chuyện từ ngôi thứ ba toàn tri dẫn dắt mở đầu, sau đó tới lượt nhân vật

chính trong tác phẩm tự kể câu chuyện của mình (8/100 truyện được khảo sát). Shmid khi

82

phân tích sự luân chuyển ba lớp người kể chuyện trong Tập truyện ông Belkin của

Pushkin đã gọi đó là sự xuất hiện của những người kể chuyện đa tầng, và lối kể chuyện ấy

được coi là lối kể đa tầng [173; tr. 80]. Theo chúng tôi, so với Pushkin, lối kể đa tầng của

Bunin có sự linh hoạt hơn về mặt biểu cảm. Hơi thở nhẹ, Đứa con trai, Một truyện tình

nho nhỏ, Galia Ganskaya, Rusya,… là những truyện như thế. Cá biệt, có tác phẩm, câu

chuyện có sự chuyển đổi giữa người kể chuyện ngôi thứ nhất gián tiếp (người nghe

chuyện – tác giả dùng ngôi “chúng tôi”) và người kể chuyện ngôi thứ nhất trực tiếp xưng

“tôi”, người trực tiếp kể lại câu chuyện. Ida là tác phẩm tiêu biểu nhất cho lối kể này.

Buồn, tiếc nuối pha chút sĩ diện hão cố che giấu là tâm trạng của nhân vật người

nhạc sĩ già trong Ida. Trong buổi tiệc cuối năm, người nhạc sĩ vẫn không nguôi ngoai nỗi

buồn về quá khứ. Mượn cớ kể câu chuyện của người khác, ông thổ lộ tâm sự của chính

mình, tự nhận thấy sự ngốc nghếch, vô tâm, sự kém nhạy cảm ở mình: “Các bạn thân

mến, mặc dù cái bụng tôi no, nhưng trong lòng tôi lúc này vẫn thấy buồn. Tôi buồn bởi vì

sáng nay khi thức dậy tôi bỗng nhớ đến một câu chuyện nhỏ xảy ra cách đây đúng ba

năm, vào ngày thứ hai của lễ Giáng sinh với một người bạn của tôi, kẻ mà sau này mới vỡ

nhẽ ra là một tên ngốc thật sự” [17; tr. 15]. Những xúc cảm của người nhạc sĩ già biến đổi

theo lời kể của ông, và xúc cảm của người kể chuyện cũng biến đổi theo những biến đổi

xúc cảm ấy. Trước lời thú nhận của Ida, người nhạc sĩ cảm thấy sợ hãi: “Ông nhạc sĩ im

lặng và ngước cặp mắt có vẻ như ngạc nhiên và sợ hãi lên nhìn chúng tôi”. Xúc cảm

chuyển sang sự băn khoăn, băn khoăn giữa niềm hạnh phúc và sự bất ngờ đến sững sờ:

“Và cái chính, cái chính là: có thể trả lời thế nào trước lời thú nhận vô cùng bất ngờ, đáng

sợ và hạnh phúc ấy, trước khuôn mặt hơi tai tái và biến dạng (vì bối rối, vì cái gì tương tự

như nụ cười) đang ngước lên một cách tin tưởng, chờ đợi ấy?”. Người kể chuyện xưng

“chúng tôi” im lặng, ngạc nhiên trước cặp mắt sáng long lanh và khuôn mặt đỏ ửng của

người nhạc sĩ. Rồi như tự xấu hổ với mình, ông tự trả lời: “Có những khoảnh khắc mà ta

không nên thốt ra một lời nào. Và may mắn thay, vinh dự thay cho người bạn đường của

chúng ta, chàng không nói một lời nào”. Thực tế, đó là sự thôi thúc của một sự gắn bó vô

hình mà mối tình vô hình đã đeo đuổi ông suốt cuộc đời. Ngay ở trong sự tiếc nuối và

buồn bã của mình, ông cũng vẫn tự cao: “Nhưng nói chung về chuyện này thế là đủ, - ông

nhạc sĩ bỗng đổi hẳn giọng, nói rất to với sự vui vẻ giả tạo”. Cuối tác phẩm, khi đã say

83

mềm, khi không còn bị lí trí kiềm tỏa, những xúc cảm thật nhất trong ông trỗi dậy: “Ông

nhạc sĩ thì cứ nhảy một cách im lặng, trông đầy vẻ điên rồ và phấn khích, ông nhảy một

cách nhẹ nhàng kỳ lạ so với thân hình ông…và ông nhạc sĩ bất ngờ cởi chiếc mũ lông trên

đầu ra rồi hét vang khắp quảng trường, nước mắt giàn giụa trên má: - Mặt trời của tôi!

Người tình của tôi! U-ra!” [17; tr. 21].

Trong Đứa con trai nhân vật người kể chuyện thâm nhập và diễn tả tinh tế diễn

biến tâm lí của bà Maro, từ khi là một cô gái mới lấy chồng, khi trở thành một người vợ,

một người mẹ, một bà chủ mẫu mực, cho đến khi trái tim đức hạnh của bà rung động thật

sự trước mối tình nồng nhiệt của một chàng trai trẻ - sự rung động mà bà luôn cố tự nhủ

đó là mối tình mẹ - con. Để rồi, những tháng ngày xa vắng “đứa con trai” đã khiến bà dở

sống dở chết, và cuối cùng, vào cái ngày tâm trạng của bà khoan khoái bất ngờ cũng là

ngày bà được thấy “đứa con trai” lần cuối, cũng là ngày bà tự kết liễu cuộc đời mình. Từ

điểm nhìn của mình, người kể chuyện toàn tri thâu tóm sự kiện, tổ chức cách kể (đoạn

cuối, khi bà Maro gặp Emin lần cuối cùng trong đời và quyết định tự sát, câu chuyện

được kể bằng lời của Emin) từ đó nắm bắt và thâu tóm cảm xúc của các nhân vật trong

câu chuyện. Người kể chuyện thấu hiểu xúc cảm tự lừa dối mình, không dám thừa nhận

tình yêu ở bà Maro, thấu hiểu nỗi ám ảnh của sự xa cách và mối tình tội lỗi, thấu hiểu

những khát khao trỗi dậy mãnh liệt ở một con người cả đời luôn giữ mình trong sạch, thấu

hiểu cả những hồi quang hạnh phúc cuối cùng trước khi một con người từ giã cõi đời. Từ

điểm nhìn toàn tri, người kể chuyện thay đổi điểm nhìn sang Emin để cậu trai trẻ tự kể về

bi kịch cuộc đời mình và cái chết của bà Maro. Đó là một sự chuyển đổi cảm xúc và lối kể

tinh tế: cái chết – tình yêu, sự khủng khiếp – điều đẹp đẽ lại một lần nữa song hành với

nhau. Một khi tình cảm mẹ - con chuyển hóa thành tình yêu lứa đôi tội lỗi, nó không thể

tồn tại trong con người đức hạnh như bà Maro được nữa. Người kể chuyện để các nhân

vật tự kể về bi kịch của mình và đứng ngoài quan sát nhằm thâu tóm trọn vẹn mọi diễn

tiến cảm xúc. Vì thế, không có sự gián cách xúc cảm của nhân vật – người đọc – người kể

chuyện. Hơi thở nhẹ cũng có sự chuyển đổi ngôi kể tinh tế và chân thực như vậy. Rusya là

một câu chuyện tình, được kể từ hai người kể chuyện: người kể chuyện biết tuốt và người

kể chuyện nhân vật. Người kể chuyện toàn tri kể câu chuyện về một đôi vợ chồng trên

chuyến tàu tốc hành Moskva - Sevastopol, tàu chạy qua một ga nhỏ gợi nhắc kỷ niệm của

84

người chồng. Từ đó, người chồng kể lại câu chuyện tình của chính mình với những xúc

cảm nâng niu, trân trọng. Người đọc bị cuốn vào câu chuyện tình nên thơ và lãng mạn đó,

vào những rung động đầu đời trong sáng, chân thực đó, và có lẽ sự đồng cảm là dư vị

ngọt ngào còn lại sau khi đọc tác phẩm. Galia Ganskaya bắt đầu từ khung cảnh thiên

nhiên mùa xuân Paris, Odessa, từ đó gợi nhớ đến những người tình, những mối tình, và đó

cũng là bối cảnh để người kể chuyện xưng tôi – ông họa sĩ già kể lại câu chuyện về mối

tình đáng nhớ nhất của mình, mối tình với Galia Ganskaya. Tác phẩm kết thúc bằng xúc

cảm thực sự bất ngờ của người họa sĩ trước cái chết của Galia: “Tôi định dùng súng tự tử,

- ông họa sĩ lặng lẽ nhồi thuốc vào tẩu và nói khẽ, - suýt nữa thì tôi phát điên…” [19; tr.

108].

Như vậy, người kể chuyện trong truyện ngắn của Bunin, dù là người kể chuyện

ngôi thứ ba toàn tri hay người kể chuyện ngôi thứ nhất trực tiếp trải nghiệm, người kể

chuyện ngôi thứ nhất gián tiếp viết lại câu chuyện, tất cả đều đầy ắp cảm xúc trước những

câu chuyện được họ kể lại. Đặc biệt, sự chuyển đổi ngôi kể trong nhiều tác phẩm đã làm

tăng hiệu ứng tình cảm, gia tăng tính trữ tình cho truyện ngắn. Và tất cả những người kể

chuyện này, ít nhiều đều mang bóng dáng người đàn ông Nga lịch lãm, nhẹ nhàng, tinh tế,

khát khao yêu và được yêu, nhưng đôi khi yếu mềm, không đủ sức mạnh để vượt qua định

kiến và số phận, có lúc lại vô tâm đến mức không nhận ra tình cảm của mình, để rồi đến

lúc vuột mất tình yêu lại bị ám ảnh cả đời.

Rõ ràng, nhân vật người kể chuyện trong truyện ngắn của Bunin với thái độ, cảm

xúc, giọng điệu của mình đã tạo nên một sức quyến rũ khó cưỡng cho tác phẩm của ông.

Đặc biệt, xúc cảm lại càng đong đầy khi những chủ thể trữ tình ấy kể cho người đọc nghe

những câu chuyện về vẻ đẹp vĩnh hằng chỉ còn trong ký ức của nước Nga, của những

người con gái Nga…

3.2. Nƣớc Nga trong miền hoài niệm

Sinh ra và trải qua thời thơ ấu trong vị thế của một cậu bé quý tộc Nga tỉnh lẻ giàu

tình cảm mến thương với đồng ruộng, với những người nông dân, những điền chủ nhỏ có

cuộc đời bình thản mà hiếu khách; lớn lên trở thành một nhà thơ với tâm hồn tinh tế, giàu

xúc cảm lại gặp phải những biến cố lịch sử quan trọng gây ra những khoảng hụt hẫng tâm

85

hồn khiến dù yêu, dù thương, dù đau đáu về nước Nga Bunin cũng không thể ở lại, để rồi

cả đời luôn canh cánh khát vọng trở về. Đến Pháp, sống giữa Paris hoa lệ Bunin dường

như vẫn không hòa nhập được với cuộc sống mới, với không khí nghệ thuật ngập tràn tại

mảnh đất này. Ông chỉ viết về nước Nga, con người Nga, tâm hồn Nga, tính cách Nga,

cảnh sắc thiên nhiên Nga… - cái nước Nga mà khi còn là một chàng trai trẻ, trái tim nhạy

cảm của chàng trai ấy đã rung lên những nhịp đập xao xuyến bồi hồi. Đó là hình bóng của

nước Nga cổ xưa, nước Nga đẹp thuần khiết và thánh thiện, nước Nga đẹp cả trong những

tháng ngày đau thương, buồn bã… Cả cuộc đời, và cho đến trước khi từ giã cõi đời, nhà

văn vẫn không ngừng nhắc: “Làm sao chúng ta có thể quên Tổ quốc?... Tôi là một người

Nga. Điều đó dù bao nhiêu năm cũng không mất đi được…” [17; tr. 6]. Nước Nga thực sự

đã trở thành đối tượng trữ tình, trở thành nhân vật quan trọng trong thế giới nhân vật của

nhà văn. Truyện ngắn của Bunin chính là tấm gương soi kí ức vĩnh cửu về cảnh sắc thiên

nhiên và những nét đẹp văn hóa, tinh thần của nước Nga cổ xưa được nhà văn nâng niu,

trân trọng.

3.2.1. Thiên nhiên Nga trong vẻ đẹp vĩnh hằng

Trước hết, không thể phủ nhận, những bức tranh thiên nhiên nước Nga được miêu

tả trong truyện ngắn của Bunin (ngay cả những bức tranh buồn) đều nằm trong số những

bức tranh thiên nhiên đẹp nhất của văn học Nga. Thiên nhiên Nga bốn mùa đi vào trang

văn của Bunin như những bức tranh được chạm khắc bằng ngôn từ: những cánh đồng,

thảo nguyên Nga bao la, vầng trăng dịu dàng in bóng trên nền tuyết trắng mênh mông,

những cây bạch dương vàng rực, hương táo thơm, tiếng chim họa mi... Những bức tranh

ấy không chỉ đẹp, mà còn thấm đẫm xúc cảm yêu thương.

Dường như mùa thu luôn được ưu ái trong truyện ngắn của Bunin. Trong truyện

Hy vọng ông viết: “Có một sự quyến rũ không gì sánh được trong những ngày mùa thu

xám trời và mát mẻ” [99 – tập 2; tr. 210]. Điểm thú vị là những bức tranh mùa thu thường

gắn liền với thiên nhiên nông thôn nước Nga. Mùa thu mộc mạc, thanh khiết và phảng

phất nét hồn nhiên, bình thản của đồng quê. Đó có thể là không gian thôn quê lúc chớm

thu, lúc thu đã vào độ rực rỡ nhất hay lúc cuối thu chuyển sang đông.

86

Không thể không kể tới nét quyến rũ, nên thơ và trong trẻo của mùa thu tháng Tám

ở nước Nga trong Những quả táo Antonov. Đó là một mùa thu tốt lành với nhiều dấu hiệu

báo trước mùa thu và mùa đông sẽ tốt trời: “Tôi hồi tưởng lại một mùa thu sớm, đẹp trời,

trong tháng tám đã có những trận mưa nhỏ ấm áp và những trận mưa này dường như cố

tình rơi xuống cho dân cày cấy, rơi xuống đúng lúc, vào giữa tháng, khi sắp sửa có ngày

lễ thánh Lavrenti (…) Tôi nhớ một khu vườn lớn đã khô và thưa lá, toàn bộ màu vàng

óng; nhớ những lối đi giữa hai hàng cây phong, mùi thơm nhẹ nhàng của lá rụng và cả

mùi táo Antonov, mùi mật ong và mùi của tiết thu tươi mát. Không khí trong trẻo đến nỗi

hệt như hoàn toàn không có nó nữa…” [15; tr. 11]. Người kể chuyện hân hoan chiêm

ngưỡng bức tranh vườn thu nước Nga đẹp thuần khiết và hứa hẹn một vụ mùa bội thu.

Trong Bi kí (Эпитафия), Bunin lại khắc họa hình ảnh mùa thu chốn thảo nguyên.

Vẫn là một mùa thu đẹp, quyến rũ và tốt lành nhưng đặc trưng sự vật đã khác: “Mùa thu

sáng sủa và êm đềm đến với chúng tôi, thanh bình và dễ chịu như thể, sẽ không có những

ngày cuối cùng chói chang. Mùa thu làm ra bầu trời xanh và sâu thẳm, sạch sẽ và dịu

dàng. Khi ấy, có thể phân biệt được ngọn đồi ở xa nhất trong thảo nguyên, nổi bật lên trên

bình nguyên vàng óng trải rộng bao la của rơm rạ. Mùa thu nhuộm cây bạch dương trong

sắc áo vàng rực. Còn cây bạch dương hân hoan đến mức không nhận thấy bằng cách nào

chỉ trong một thời gian ngắn, lá rụng theo lá rời khỏi cây, cho đến khi cuối cùng lớp phục

trang đẹp đẽ ấy không còn, chỉ còn lại thân cây trơ trụi trên thảm lá vàng rực. Vì mùa thu

quyến rũ, cây bạch dương đã hạnh phúc và đã phục tùng và tất cả đều sáng rực, ánh sáng

được phát ra cả từ ánh vàng phản chiếu dưới những đám lá khô. Còn những cái màng

nhện khẽ khàng bay bên cạnh cây bạch dương trong ánh nắng mặt trời, khẽ khàng đậu

xuống trên ruộng rơm rạ đã khô, giòn… Và dân gian gọi chúng một cách đẹp đẽ và dịu

dàng – sợi Đức Mẹ” [99 – tập 1; tr. 420-421]. Qua cách miêu tả của người kể chuyện,

người đọc cảm nhận được niềm xúc cảm gắn bó thân thương ẩn sau mỗi chi tiết sự vật,

đồng thời bao trùm lên cả bức tranh thu. Bức tranh thiên nhiên lôi cuốn độc giả hoà vào

xúc cảm trữ tình của cả nhân vật và tác giả.

Trong Lần gặp gỡ cuối cùng, ngày thu không còn vẻ tươi vui rực rỡ, đêm thu cũng

không có những đống lửa anh đào ấm cúng, chỉ có trăng thu, sương thu, khí thu lạnh lẽo

hòa vào tâm trạng buồn bã của chàng trai Storesnhev trong lần cuối gặp gỡ người mình

87

suốt đời yêu thương: “Mặt trăng đang treo trên những nội cỏ hoang vắng bàng bạc sương

đêm phía bên phải… Cảnh thu buồn mà đẹp xiết bao! (…) Sau khu rừng mở ra một

khoảng đồng không mông quạnh. Trên một triền dốc, giữa những ruộng rạ kiều mạch, có

một khu vườn tược tồi tàn với dăm ba công trình phụ, một mái nhà tranh. Dưới ánh trăng

tất cả cái cảnh đó sao mà buồn vậy!” [15; tr. 92]. Có thể gặp rất nhiều bức tranh mùa thu

vương vấn tâm trạng của tác giả và nhân vật… trong nhiều truyện ngắn khác của Bunin:

Mùa thu lạnh, Mùa thu cuối cùng, Những tấm danh thiếp, Mùa thu, Hy vọng…

Mùa đông, mùa hạ và mùa xuân nước Nga cũng đi vào trang văn Bunin với những

nét vẽ ấn tượng. Và trong những khung cảnh thiên nhiên ấy luôn hiện hữu tâm trạng của

con người. Ở Cỏ gầy, Bunin miêu tả cảm xúc vui sướng hiếm hoi của bác Averki khi mùa

đông đến. Dường như mùa đông làm sự sống bừng lên trong con người chỉ còn chờ ngày

về với Chúa: “Chao ôi, trong mùa đông bao giờ ta cũng có cảm giác hân hoan, quen thuộc

từ lâu! Trận mưa tuyết đầu mùa! Đồng ruộng trắng xóa cả ra và chìm ngập trong bão

tuyết, - nó còn đóng tắc nghẽn trong các khe nhà tới hàng nửa năm kia mà! Trên cánh

đồng tuyết, trong bão tuyết là hoang sơ, nhưng trong nhà là ấm cúng, là bình yên. Người

ta sẽ quét sạch sẽ những nền nhà bằng đất mấp mô, người ta sẽ kỳ cọ, chùi rửa những

chiếc bàn, người ta sẽ đốt lò cho ấm bừng lên bằng loạt rơm mới, - thú quá!” [15; tr. 144].

Trong Con đường mới, Bunin không chỉ miêu tả mà còn khẳng định mùa đông

nước Nga là vẻ u sầu của nước Nga: “Con đường mới sẽ dẫn tất cả đi xa hơn trong cái

mới đó, những khía cạnh mới của nước Nga mà tôi chưa từng biết, và từ đó tôi cảm nhận

mình đã sống thực hơn những gì tôi đã cảm nhận trong thời niên thiếu của mình: tất cả vẻ

đẹp và tất cả vẻ buồn sâu sắc của cảnh quan Nga, như một sự kết nối không thể tách rời

với đời sống Nga. (…) Ngày mùa đông trong rừng rất ngắn, và giờ đây hoàng hôn xanh

dần sau ô cửa sổ, và một nỗi buồn mơ hồ, xao xuyến, không có lí do – nỗi buồn rất Nga

cứ dần dần len lỏi vào trong trái tim” [99 – tập 1; tr. 446]. Nỗi buồn ấy từ thiên nhiên phủ

bàng bạc lên cảnh vật, phủ lên cả tâm trạng con người, cuốn người đọc vào cái thế giới

tinh tế, nhẹ nhàng, mà quyến rũ.

Còn đây là thiên nhiên Nga trong tháng Năm – với tiếng hót của chim họa mi gọi

mùa hè: “Vào những buổi hoàng hôn sáng sủa trong tháng Năm, tôi thường cưỡi ngựa dạo

chơi trong vùng Zakaz quê nhà. Con ngựa men theo con đường hẹp giữa những rặng liễu

88

và phỉ tử tươi mát. Bốn chung quanh đâu đấy đều tươi non, xanh rờn, tiếng họa mi thánh

thót đáp lời nhau hót dịu dàng và rành rọt ở hai bên đường. Mặt trời đã lặn từ lâu, nhưng

khu rừng còn chưa im ắng: tiếng chim ngói còn rầm rì ở gần đâu đây, những con chim

gáy vẫn gáy xa xa…” (Meliton) [15; tr. 39]. Đó là những tháng ngày nhàn nhã chốn rừng

quê. Nhìn lại quá khứ, Bunin dường như luôn tìm thấy những xúc cảm thân quen và gần

gũi, và thường niềm vui của con người lao động bình dị trong một khoảnh khắc nào đó cứ

quyến luyến nhà văn: “Có một cái gì đó hết sức đặc biệt trong những đêm ấm áp và sáng

sủa ở các huyện lỵ Nga dạo cuối hè. Thật là bình yên, thật là thư thái biết bao! Một ông

lão mang chiếc mõ cầm canh đi khắp cái thị trấn vui tươi ấy vào ban đêm; nhưng cụ đi chỉ

để tìm vui thú cho mình có gì phải canh gác đâu, bởi những con người tốt bụng, hãy cứ

ngủ yên, canh gác cho các người là sự phù hộ của Chúa, là bầu trời rạng rỡ vời vợi mà

ông lão thỉnh thoảng lại ngước nhìn lên khi đi giữa lòng đường đã được sưởi ấm qua một

ngày, và chỉ họa hoằn lắm cụ mới gióng lên một hồi mõ ngân vang và nhịp nhàng để làm

vui” (Canh khuya) [15; tr. 220-221]. Và trong những khung cảnh xưa cũ ấy, không ít lần

nhà văn đem chúng ra so sánh với thiên nhiên Paris nơi ông sống khi rời xa Tổ quốc: “Ở

Paris đêm đến thường ẩm ướt, tối tăm, trên bầu trời mù mịt thường hồng lên một ráng mù

sương, con sông Seine chảy một dòng đen kịt dưới những nhịp cầu, nhưng phía dưới cầu

cũng lủng lẳng những cột tia sáng óng ánh phản chiếu những ánh đèn trên cầu, có điều đó

là những tia sáng ba màu; trắng, xanh và đỏ, - màu cờ nước Nga.”(Canh khuya) [15; tr.

216-217]. Đó là niềm hạnh phúc của con người trưởng thành được sống lại kỷ niệm của

những tháng ngày còn là cậu thanh niên mới biết yêu. Dường như trong thiên nhiên nước

Nga được miêu tả luôn chất chứa kỷ niệm, hồi ức, tình cảm của tác giả. Bởi thế trong

khung cảnh thiên nhiên nước Pháp xa lạ, người viết vẫn nhìn thấy trong sắc cờ nước Pháp

dáng dấp của nước Nga thân yêu.

Mùa hè ở Nga có những cơn mưa rào dữ dội. Cảm giác nằm nghe mưa trong buổi

tối yên tĩnh có lẽ cũng là cảm giác gây nhớ gây thương khi ở xa: “Mùa hè, một điền trang

ở phía Tây của khu rừng. Mưa rào mát lạnh và u sầu đổ xuống cả ngày trời, tiếng ồn của

nó không ngớt gõ lên mái nhà lợp ván gỗ. Trong một ngôi nhà tranh tối tranh sáng yên

tĩnh, buồn chán, những con ruồi đang nằm trú trên trần nhà… Trên trời, trong làn khói

mờ, một cánh cò dật dờ đầy băn khoăn: lông sẫm đen lại, thân gầy guộc đi, với đôi cánh

89

và đuôi rũ xuống, đứng bên mép cái tổ của nó ở trên ngọn của cây bạch dương trăm

tuổi…, và đôi lúc phẫn nộ, lo lắng, nhảy lên gõ gõ cái mỏ cứng vào thân gỗ: cái gì thế

này, đại hồng thủy, đại hồng thủy thật rồi!” (Mối tình đầu) [99 – tập 5; tr. 328].

Mùa xuân ở nông thôn Nga được đặc trưng bởi hương đất ẩm lạnh và mùi cỏ non,

xen lẫn hương hoa táo dịu ngọt: “Có mùi hoa đấy, nhưng chỉ phảng phất. Nồng nặc hơn

vẫn là mùi đất ẩm lạnh và mùi cỏ non tươi.” (Ngày cuối cùng) [15; tr. 112]. Đêm xuân

tràn đầy sức sống trái ngược với cõi lòng tan nát của bác Rostovtsev khi tiếp nhận cơ ngơi

tan hoang của người chủ cũ. Trong Mùa xuân cuối cùng không khí của buổi bình minh

mùa xuân rất dễ chịu: “Gió đã ngừng thổi. Bầu trời đã quang quẻ, luồng ánh sáng vàng

phía tây mở rộng mãi ra. Không khí mát mẻ, mùi hương của đất sực lên từ những cánh

đồng mùa xuân. Mặt trời ló ra – và chiếu rọi lên khu vườn trơ trọi: những cành tử đinh

hương sáng rực lên, nhìn rõ cả những thân cây lá kim cằn cỗi” [99 – tập 4; tr. 138].

Mùa xuân nước Nga còn là hình ảnh của mặt trời tươi rói, nước lũ xuân tràn trề sau

tan băng: “Ở đó rừng bắt đầu, và đồng cỏ bao la nhường chỗ cho những khe suối hẹp,

những hòn đá và những dòng nước mùa xuân ngổn ngang” [99 – tập 2; tr. 397]. Trong kí

ức của người kể chuyện, chuyến đi chơi với “tình yêu đầu tiên” thời thơ ấu là một chuyến

đi vui buồn lẫn lộn với những tình cảm giận hờn con trẻ trong không khí thấm đẫm hơi

xuân, tràn đầy sức sống. Các cô bé cậu bé Mitia, Petia, Leva mê mải trải nghiệm những

xúc cảm của tuổi thơ trong khung cảnh mùa xuân thảo nguyên thơ mộng: “Trong không

khí ấm áp của hoàng hôn sẫm tối đã cảm nhận được mùi hương tươi mới của hoa và cỏ

thảo nguyên đẫm sương. Thỉnh thoảng từ một nơi nào đó trong “đêm” vọng đến âm thanh

của tiếng nhạc ngựa... Tất cả chìm đắm trong những ý tưởng yên lặng nào đó, chìm đắm

vào những ruộng lúa mì bên đường, và cả thảo nguyên yên lặng, cũng yên lặng như đêm

của cánh đồng mùa xuân tối tăm…” [99 – tập 2; tr. 405].

Như thế, thiên nhiên nước Nga đẹp và vấn vương cảm xúc của nhân vật trữ tình lôi

cuốn người đọc theo từng bước chân khám phá và trải nghiệm. Người đọc dường như cảm

nhận được những khoảnh khắc biến chuyển của đất trời sang thu, cỏ cây cựa mình khi

xuân đến, cảm nhận được cái lạnh lẽo giá buốt trong những đêm trăng mùa đông tuyết

sáng, cảm nhận được cái ẩm ướt mát lạnh ngập tràn hương hoa táo và tiếng họa mi hót

đêm hè. Thiên nhiên nước Nga là vẻ đẹp vĩnh cửu của nước Nga mà dù bất cứ lúc nào, ở

90

bất cứ nơi đâu không một người con nào của Tổ quốc Nga có thể lãng quên. Chẳng thế

mà cả khi đã sống giữa thiên nhiên Provence yên bình và tươi đẹp của nước Pháp hay khi

còn ở Paris hoa lệ, Bunin vẫn chỉ viết về cảnh sắc thiên nhiên nước Nga, mối tình sâu

đậm và day dứt nhất cuộc đời ông. Những bức tranh thiên nhiên của Bunin quyến rũ

người đọc bởi nghệ thuật tái hiện hình ảnh đậm chất tạo hình, với những đường nét ấn

tượng.

Có thể khẳng định, với Bunin, nước Nga là không gian lưu giữ kỷ niệm, lưu giữ

những khoảnh khắc mà cả đời nhà văn không thể lãng quên. Nước Nga là nơi ông đã gắn

bó già nửa cuộc đời mình, nơi ông đã trải qua những tháng ngày đẹp đẽ yên ấm thời thơ

ấu, nơi ông đã có những tháng ngày hạnh phúc lứa đôi, nơi ông đã bước những bước

thành công đầu tiên trên con đường văn học, cũng là nơi ông đã buồn bã, cay đắng trước

những bất hạnh của số phận. Tất cả làm thành một miền kí ức với ngập tràn cung bậc xúc

cảm: vui, buồn, nhớ thương, giận hờn, khắc khoải, day dứt… Tất cả những mâu thuẫn

trong tinh thần của nhà văn, tất cả những cung bậc cảm xúc của ông đều trở thành những

kỉ niệm đẹp, mà nơi lưu giữ những kỉ niệm ấy không đâu khác chính là những không gian

thân thuộc của nước Nga trước cách mạng, nước Nga mà ông yêu tha thiết.

Để lại ấn tượng sâu sắc nhất, thân thuộc nhất chính là điền trang Nga: nơi vừa lưu

giữ những nét đẹp văn hóa của nước Nga cổ xưa với những sinh hoạt văn hóa của những

người dân quê, những địa chủ nhỏ, những con người xưa cũ mến thương, vừa gắn liền với

những cuộc gặp gỡ thoáng qua, những câu chuyện tình dở dang nhưng sâu đậm.

3.2.2. Điền trang – thế giới của kỷ niệm

Nhiều truyện ngắn của Bunin trước năm 1917 gắn với bối cảnh nước Nga với

những nét đẹp văn hóa trang trại, nông thôn cổ truyền. Có thể kể đến những tác phẩm

như: Những quả táo Antonov, Cỏ gầy, Meliton, Tania, Cuộc đời tươi đẹp, Trong trang ấp,

Natali, Styopa, Ngày cuối cùng, Mùa xuân cuối cùng, Tanka, Những cây thông, Mối tình

đầu (từ hồi ức thời thơ ấu)… Trong những tác phẩm này, không gian bối cảnh chủ đạo là

những điền trang của các địa chủ với những căn nhà gỗ truyền thống đặc trưng của nước

Nga. Điền trang Nga là khung cảnh sống gần gũi giao hòa với thiên nhiên, cả ở nếp sống

yêu lao động, chan hòa với nông dân và nhất là đời sống tinh thần phong phú: “Nhà cửa

91

của điền trang gắn chặt với những vườn cây lâu đời, với những ao cá có thác nước, với

những dãy nhà ngang dùng làm bếp núc, kho chứa, với những chuồng ngựa chuồng chó.

Nếp sống điền trang gắn chặt với thiên nhiên, với nghề làm ruộng, với việc săn bắn, với

những tập tục dòng họ và với đời sống nông dân.” [67; tr. 653]. Tất cả những nét đặc

trưng rất riêng đó của điền trang Nga đã được Bunin tái hiện trong tác phẩm của mình

một cách đầy đủ và hết sức trân trọng.

Trong Cỏ gầy, Bunin chủ yếu khắc họa những sinh hoạt của người nông dân Nga

thời xưa: trong ngày lễ, trong vụ gặt và khi mùa đông đến. Không gian tác phẩm xê dịch

từ ngôi nhà địa chủ nơi bác Averki làm thuê cho đến ngôi nhà gỗ nghèo nàn của bác ở

thôn quê và cái lán trữ lúa, cái sân phơi lúa nho nhỏ ở ngoài đồng.

Trong ngày lễ thánh Piotr, mặc dù mệt mỏi và ốm yếu, bác Averki vẫn cố lấy hết

hơi sức để “hưởng thụ” dịp lễ sung túc cuối cùng: ăn mặn với những món đặc trưng của

ngày lễ tết - thịt cừu, súp, những món ăn ngọt, bánh mì nướng… Trong khi những tay thợ

trẻ đã say sưa nốc cạn rượu và nói cười vui vẻ thì bác Averki quay trở lại bếp, xin được

nằm trên bếp lò nghỉ ngơi. Hình ảnh người nông dân khốn khổ nằm còng queo trên bếp lò

dù ốm dù khỏe, dù mưa dù rét đã trở thành một hình ảnh quen thuộc của làng quê Nga

thưở xưa. Trở về nhà, bác không nằm trong căn nhà gỗ của hai vợ chồng, mà ra nằm ở cái

sân phơi lúa nhỏ ngoài đồng bởi “từ lâu bác đã có nguyện vọng được nằm tự do tự tại, yên

tĩnh, ở nơi không khí trong lành ngoài đồng áng” [15; tr.126]. Ở lán đập lúa, bác Averki

được sống với thiên nhiên, gặp gỡ những người nông dân hàng xóm của bác, được thấy

hết những sắc màu cuộc sống thôn dã: “Tôi ở làng hệt như ở nơi thiên đường vậy! Chính

ở đó mà tôi mới lại sức được đôi chút, mới ra hồn người… Cơ ngơi ở ngoài đồng, vườn

tược ở ngoài đồng, … Ở ngoài đồng kia, cứ bước chân ra khỏi cửa là y như trông thấy

một cái gì đó: hoặc là lũ thanh niên đàn đúm với nhau, hoặc là người ta bắt mối với một

mụ đàn bà nào đó…” [15; tr. 138]. Đến khi cái chết cận kề, cũng là những ngày đông giá

lạnh, bác Averki mới chịu trở về căn nhà gỗ hạnh phúc của hai vợ chồng, nơi có ngưỡng

cửa cao, khung cửa thấp, nơi có tấm phản in dấu thời gian, nơi người ta đốt lò ấm áp bằng

rơm mới. Ở đó, bác đã giã biệt cõi đời: “Bác qua đời trong một ngôi nhà gỗ yên tĩnh, tối

tăm, mà ở ngoài ô cửa sổ bé nhỏ của ngôi nhà ấy trận tuyết đầu mùa đang nổi lên mờ

trắng, êm ả đến nỗi bà lão không hề hay biết gì cả” [15; tr. 149].

92

Meliton là một truyện ngắn nông thôn đặc biệt của Bunin. Không gian trong tác

phẩm là ngôi nhà gỗ biệt lập của bác gác rừng Meliton. Nhân vật tôi trong tác phẩm gọi

đó là nơi biệt cư để đan tu với căn nhà gỗ nhỏ xinh, với trường kỷ cũ kỹ, với giường treo

lêu đêu, tất cả đều được trải cỏ khô: “Bác Meliton thắp đèn trong căn nhà gỗ để trải cỏ

khô lên một chiếc trường kỷ cho tôi nằm, - và lúc bấy giờ, dưới mái nhà cũ kỹ xệ xuống,

hai ô cửa sổ nhỏ đã ánh lên như hai con mắt bằng vàng. (…) Ở một góc nhà, cạnh lối ra

vào, có bố trí một cái gì đó giống như một chiếc giường treo đặt trên những chân giường

cao lêu đêu bằng củi bạch dương.”[15; tr. 43]. Không gian ở đây được thu nhỏ trong một

căn nhà gỗ tối tăm bên một chòi canh nhỏ của bác gác rừng, mọi sinh hoạt của bác gác

rừng Meliton gắn liền với ngôi nhà gỗ phủ cỏ khô, với căn bếp nhỏ bên bờ ao, với chú

chó Krutik khôn ngoan. Đây là nơi bác Meliton lặng lẽ sống những tháng ngày nhàn tẻ

cuối đời, cũng là nơi tôi đến tìm những phút giây bình yên, để được lắng nghe thiên

nhiên, lắng nghe lòng mình.

Trong Những quả táo Antonov, không gian sinh hoạt mang đậm sắc màu văn hóa

Nga cổ xưa được Bunin khắc họa một cách đầy đủ và đặc sắc. Đó là khu điền trang của

những người nông dân và những người tiểu thị dân Nga yêu lao động. Những tập tục rất

hay của việc thu hái táo cũng được nhà văn nhớ lại một cách hân hoan: “Khắp khu vườn

âm vang tiếng người nói, tiếng xe ngựa tải kẽo kẹt. Ấy là những nhà tiểu thương, những

thị dân trồng vườn đã thuê được những người nông dân trẩy táo xuống để đến đêm đưa về

tỉnh, - và nhất định là phải đi vào ban đêm kia, bởi vì lúc bấy giờ, nằm trên xe, nhìn lên

bầu trời đầy sao, nghe phảng phất mùi nhựa chưng trong không khí tươi mát và nghe cả

một đoàn xe dài thận trọng kẽo kẹt trên con đường lớn trập trùng, thì thật tuyệt vời. Bác

nông dân được giao việc đổ táo, cứ cắn rau ráu hết quả này đến quả khác, nhưng tục lệ

xưa nay vẫn vậy, nên người thị dân chẳng hề ngăn lại, mà còn bảo: - Đổ xuống, ăn cho no

đi, không có việc gì làm nữa đâu! Đổ xong, mọi người sẽ uống mật ong.” [15; tr. 12]. Nhà

văn tái hiện lại không gian của khu vườn, căn nhà của những người tiểu thị dân cùng

những sinh hoạt của họ, từ những sinh hoạt bình dị hàng ngày đến những sinh hoạt đặc

biệt vào những dịp lễ tết hay hội chợ. Những miêu tả ấy không được viết theo cách liệt kê

thông thường mà lần lượt hiện ra tự nhiên theo logic của dòng cảm xúc. Ngôi nhà tiểu thị

dân với một chỗ để đun bếp là nơi sinh hoạt của con người: “Ở đây buổi trưa người ta nấu

93

món cháo mỡ cực ngon, buổi chiều thì đun samovar và một làn khói xanh lơ thường trải

thành một vệt dài giữa những hàng cây trong toàn bộ khu vườn. Còn vào những ngày lễ

tết thì bên cạnh mái nhà tranh này là cả một phiên hội chợ” [15; tr. 12].

Sẽ là không hoàn tất khi bức tranh sinh hoạt thôn quê thiếu đi sắc màu của đêm.

Vẫn là những hương vị ngọt ngào bình yên của cuộc sống thôn dã: “Trời tối dần. Và lại

có hương vị mới xuất hiện: trong vườn có đống lửa nhen lên, thế là mùi khói thơm nức

của những cành anh đào tỏa ra nồng nặc.” [15; tr. 14]. Quanh đống lửa anh đào đó, “vang

lên tiếng cười nói, thỉnh thoảng lại có cả tiếng nhảy múa rậm rịch”. Cuộc gặp gỡ trong

đêm của tôi và bác gác rừng Nikolai cũng được miêu tả trong nhịp điệu hàng ngày của

cuộc sống thôn quê: giản dị, lặng lẽ nhưng cũng rất nên thơ. Những cuộc gặp gỡ như thế,

là hình ảnh về một cuộc sống tươi đẹp và thanh bình đáng mơ ước: “Và ta nhìn mãi vào

cái khoảng sâu xanh thẳm của bầu trời đầy những chòm sao, kỳ cho tới khi chóng mặt

mới thôi. Lúc bấy giờ ta mới thấy rùng mình, đút vội tay vào những ống tay áo, chạy

nhanh theo con đường giữa những hàng cây mà trở về nhà… Sao lạnh và nhiều sương

đêm đến thế, và sống ở trên đời sung sướng biết bao!...” [15; tr. 16]. Với nhân vật tôi, lúc

ấy, sung sướng nhất là được làm một người nông dân: “Và tôi còn nhớ rằng hồi ấy đôi khi

mình tưởng chừng làm một người nông dân là một điều hấp dẫn hiếm có”, được đi ngựa

mỗi sáng chói chang ánh nắng, được ngủ trên những đống rơm ngoài sân phơi, được mặc

áo sơ mi kiểu cách và sạch sẽ vào ngày lễ, được có một cô vợ khỏe mạnh và đẹp đẽ, được

ăn trưa ở nhà ông bố vợ có râu dài…

Sẽ là thiếu sót nếu chỉ miêu tả thế giới đáng mơ ước của những người nông dân.

Đóng vai là một cậu chủ, Bunin hình dung lại cuộc sống của những người điền chủ trước

kia, những quý tộc bậc trung, một cuộc sống mà theo ông “có rất nhiều điểm chung với

nếp sống của một người nông dân giàu có, đứng về mặt khả năng quán xuyến việc nhà

cũng như về mức phong lưu nông thôn theo kiểu cổ”. Khung cảnh thiên nhiên, cuộc sống

sinh hoạt ở trang trại của bà dì Anna Gherasimovna cũng là một cuộc sống yên bình, trầm

lặng như thế. Những trang viết miêu tả khu điền trang này của Bunin là những tư liệu đầy

đủ nhất về vẻ đẹp văn hóa của những điền trang Nga: “Khu điền trang không lớn, nhưng

thảy đều cũ kỹ, vững vàng, chung quanh bao bọc bởi những cây bạch dương và miên liễu

cổ thụ. Những công trình xây dựng trong trang trại rất nhiều, không đồ sộ, nhưng rất tiện

94

lợi cho việc nhà, và hệt như tất cả đều được gắn bó với nhau bằng những thân gỗ sồi sẫm

màu dưới những mái rơm… Khu vườn của dì tôi nổi tiếng là rậm rạp, có nhiều chim họa

mi, chim gáy và nhiều táo, còn ngôi nhà của dì thì nổi tiếng vì cái mái nhà. Ngôi nhà ấy ở

ngay đầu sân, sát cạnh vườn, được ôm ấp bởi những cành gia… Trên mi cao của những

mái thềm này bao giờ cũng đậu đầy những con bồ câu được ăn no, trong khi đó hàng ngàn

con sẻ bay rào rào như mưa từ mái nhà này sang mái nhà khác…Và khách sẽ cảm thấy

ấm cúng xiết bao trong cái tổ ấm dưới bầu trời thu xanh ngắt ấy!” [15; tr. 22-23]

Trong căn nhà trăm tuổi ấy mọi thứ bài trí đều ghi dấn ấn của một thời vàng son đã

qua: “Tất cả các buồng phòng – buồng người hầu, phòng lớn, phòng khách, - thảy đều

lạnh lẽo và tối tăm; đó là do nhà có vườn bao bọc chung quanh, mà các ô kính phía trên

của các cửa sổ lại đều là kính màu, màu xanh sẫm và màu hoa cà. Trong nhà đâu đấy đều

yên tĩnh và sạch sẽ, mặc dù những chiếc ghế bành, những chiếc bàn khảm và những tấm

gương viền những khung bằng vàng chật hẹp và xoắn tròn kia hình như chưa bao giờ xê

dịch đi đâu cả.” [15; tr. 23]

Một sinh hoạt văn hóa khác cũng được tôi nhắc đến trong hành trình tâm tưởng của

mình, đó là thú đi săn. Cuộc đi săn được miêu tả trong tác phẩm gắn liền với điền trang

của người anh vợ tôi – Akseni Semenưts. Những buổi đi săn bắt đầu từ cuối tháng Chín

đầu tháng Mười, khi công việc đồng áng đã tạm yên ổn, đồng lúa đã bắt đầu xanh mướt

lúa thu non. Sau bữa cơm trưa đầy hưng phấn trong một ngôi nhà lớn, “một căn phòng lớn

đầy ánh nắng và đầy khói thuốc lá tỏa ra từ những chiếc tẩu và những điếu thuốc lá”, tôi

cùng tham gia với đoàn người huyên náo của Akseni Semenưts, háo hức được hít căng

lồng ngực trẻ không khí lạnh của một ngày quang tạnh và ẩm ướt về chiều, được cưỡi con

ngựa Kirghizia hung dữ, mạnh mẽ và lùn tè, được cảm nhận “tiếng vó ngựa giẫm soàn

soạt lên những bức thảm sâu mà nhẹ của đám lá rụng đen ngòm, mỗi tiếng động đều

truyền lên vang dội cả khoảng rừng vắng vẻ, ẩm ướt và tươi mát”. Với tư cách là người

quan sát, cuộc đi săn chủ yếu được ghi lại từ những ấn tượng của tôi về âm thanh và cảm

giác. Cuộc đi săn kéo dài ít nhất 2 ngày. Và cũng là một điều thú vị, khi bỗng nhiên trong

rừng đoàn đi săn gặp được khu điền trang của một điền chủ độc thân nào đó mà họ hầu

như không quen biết, tá túc lại thậm chí vài ngày. Mọi người om sòm ầm ỹ và đánh chén

lu bù như những người bạn thân thiết. Tất cả đều thân ái.

95

Bunin còn để cho tôi miêu tả những khoảnh khắc ngọt ngào của một người khám

phá bí ẩn của khu trang trại trong rừng. Nếu như ngủ quên không kịp đi săn, tôi sẽ được

tận hưởng cảm giác đặc biệt dễ chịu của không khí tĩnh mịch trong khu nhà yên ắng, được

dạo chơi trong vườn, được nếm mùi táo thơm ngon lạ thường, được đọc những cuốn sách

cha ông để lại từ thời xa xưa và cứ đắm chìm vào cái thế giới ấy mãi không thôi, thế giới

của những mùi thơm cổ xưa đầy quyến rũ, thế giới của những triết gia quý tộc, và thế giới

của những hồi tưởng về những người phụ nữ xinh đẹp đã từng sống trong điền trang:

“Những bức chân dung của họ đang nhìn tôi từ trên tường, những mái đầu nhỏ nhắn, đẹp

một cách quý phái, được chải búi theo kiểu cổ xưa, đang cụp những làn mi dài một cách

thùy mị và yểu điệu xuống những cặp mắt buồn và dịu dàng…”.

Cũng trong Những quả táo Antonov, Bunin đã khắc họa lại khung cảnh tiêu điều ở

chính những trang trại trước kia vốn đông vui, trù phú. Đó thế giới thực tại nghèo túng,

buồn bã: “Đã không còn mùi thơm của táo Antonov trong các trang trại, các cụ già ở

Vysenki đã chết cả, dì Anna Gherasimovna đã qua đời, Akseni Semenưts đã tự sát bằng

súng ngắn… Giờ đây là vương quốc của những người ít đất đai, nghèo đi đến cùng

cực!...”. Nhưng với một người yêu nông thôn Nga, gắn bó tuổi thơ với những trang trại

Nga yên bình thì “Cuộc sống ít đất cũng vẫn cứ đẹp”. Trong con mắt của tôi, cái thế giới

nông thôn với thiên nhiên nguyên sơ, với những nếp sinh hoạt xưa cũ còn sót lại, với

những ngày cuối thu “gió reo vang và vi vút nơi miệng súng” vẫn đáng yêu, đáng trân

trọng biết bao. Thế giới hiện tại không còn táo Antonov, không còn những trang trại rộng

lớn, không còn những buổi đi săn đông đúc và ồn ào với những chú chó borzoi dẫn

đường, nhưng vẫn có những điền chủ nhỏ, những trang trại nhỏ xinh xắn, vẫn có những

buổi sáng tháng Mười tinh khôi, mát mẻ, vẫn có những buổi đi săn trong rừng mùa rét với

những con chó săn thường, vẫn có những tiếng hát nông dân cất lên trong những buổi đập

lúa, sinh hoạt tập thể dù những tiếng hát ấy giờ không thanh thản, tươi vui mà đã pha màu

sắc trầm, buồn. Điều lôi cuốn tôi trong cái buổi trở về thôn quê ấy là vẫn thấy những ấm

áp của tình người chốn nông thôn, và vẫn rưng rưng xúc động khi đi dạo trong rừng giữa

chiều đông giá rét chợt bắt gặp cảnh sum họp đầm ấm với những sinh hoạt vẫn như ngày

xưa: “Bụng đói cật rét, sẩm chiều tôi trở lại điền trang, và trong lòng sao bỗng ấm áp và

hân hoan khi thấy Vysenki đã thấp thoáng ánh lửa và từ điền trang đã thấy tỏa ra mùi

96

khói, mùi gia cư. Tôi còn nhớ trong nhà tôi vào lúc đó mọi người thường thích „nói mò‟,

không thắp đèn lên mà cứ nói chuyện với nhau trong cảnh chạng vạng. Vào nhà, tôi thấy

cửa rả đã được đóng thêm khung nẹp mùa đông cả rồi, và điều đó lại càng khiến cho tôi

thêm yên trí với cảnh mùa đông.” [15; tr. 34]. Nỗi xúc động dường như dâng cao hơn khi

chợt nghe tiếng ca buồn trong ngôi nhà nông dân lúc hoàng hôn: “những ô cửa sổ chái

bên của ngôi nhà đã lóe sáng trong đêm đông tăm tối. Ở đó, trong cái chái của ngôi nhà

nhỏ bé ấy, người ta thấy những làn khói tròn bay chơi vơi, những cây nến mỡ lợn cháy lờ

mờ, một cây đàn ghi ta đang được lên dây…

Hoàng hôn xuống, gió chiều lộng thổi

Cánh cổng kia ta mở toang hoang,…

Một giọng nam cao cất lên từ lồng ngực của ai đó. Và những người khác rời rạc,

làm ra vẻ đùa cợt bắt giọng hát theo với điệu ngang tàng ủ dột và tuyệt vọng:

Cánh cổng ta mở toang hoang

Để cho tuyết trắng phủ đường ta đi…‖

Những quả táo Antonov có thể nói là truyện ngắn xuất sắc nhất của Bunin về nông

thôn Nga. Ở đó, không gian nước Nga xưa cũ (cả trong quá khứ sung túc, êm đềm và khi

đã suy thoái, khủng hoảng) – với hình ảnh những khu điền trang và những con người

trong các hoạt động lao động, sinh hoạt văn hóa đều được tái hiện sống động. Trong một

truyện ngắn khác – Ngày cuối cùng, hình ảnh những căn nhà gỗ, cổng lò rèn, cửa vựa thóc

và kho chứa củi toang hoang; hình ảnh những căn phòng trang trọng trước kia treo ảnh

thánh với giấy dán tường bong tróc… trong trại ấp tan hoang sau khi phá sản của bác

nông dân Voiekov cũng được Bunin khắc họa rõ nét. Ông không chỉ trân trọng hình ảnh

làng quê lúc sung túc, an vui, nhà văn còn khắc khoải đau đáu trước một nước Nga cổ xưa

nay đã trở nên hoang phế. Phải yêu nước Nga thế nào mới có thể vẽ lại bức tranh về Tổ

quốc mình chân thực đến thế. Tình yêu của Bunin dành cho nước Nga không thay đổi cả

khi đất nước ấy đã trở thành “vương quốc nghèo đi đến cùng cực”. Đọc tác phẩm, ấn

tượng về một nước Nga cổ xưa trong khuôn hình của cả những trại ấp từng tươi vui giờ

tàn tạ chắc chắn sẽ rất đậm sâu trong tâm trí bạn đọc. Và có lẽ, góc nhìn như muốn vĩnh

cửu hóa những cái đẹp một thời vang bóng của nước Nga chính là dấu ấn riêng của

Bunin.

97

Trong kho tàng truyện ngắn của Bunin, không ít tác phẩm Bunin viết về những

mối tình chốn làng quê. Đó có thể là mối tình nguyên sơ, trong trẻo của chàng gia sư với

cô nàng Rusya, là mối tình câm lặng nhưng nặng sâu của anh chàng tôi với Natali, là mối

tình ban phát vụng trộm của cậu chủ Piot Nhikolaich trong Tania, là mối tình đẫm nước

mắt chia ly của Storesnhev và Vera trong Lần gặp gỡ cuối cùng, là mối tình của Stepa với

cô hầu gái trong truyện ngắn cùng tên, là lửa tình mới nhen nhưng bị dập tắt của chàng

thanh niên tôi với cô gia sư cùng tuổi Elena Nicolaievna trong Con quạ… Làng quê nước

Nga trong những truyện ngắn này không được tác giả chủ định khắc họa ở khía cạnh sinh

hoạt lao động hay sinh hoạt văn hóa, làng quê hiện ra qua con mắt và tâm sự của những

người đang yêu. Trong Lần gặp gỡ cuối cùng Storesnhev rời nhà đến khu điền trang đã cũ

kỹ, ẩm mốc và đượm dấu tích thời gian của Vera, một khu nhà dường như sắp sửa hoang

phế hoàn toàn bởi lần gặp gỡ đêm nay của họ là lần gặp gỡ cuối cùng trước khi Vera ở

hẳn nơi thành phố: “Chàng thúc ngựa tiến vào sân. Căn nhà tối om… Trên bậc thềm, một

con chó săn đã già nằm khoanh tròn, ghếch mõm lên chân… Storesnhev bước vào phòng

ngoài cùng, ở đây từ buồng xép xông ra một mùi hố xí đã cũ. Trong tiền sảnh tối mù mịt.

Các khung kính toát mồ hôi lạnh, nhuốm một ánh vàng.” [15; tr. 92-93]. Khu điền trang

của Vera đã mất hết sức sống trong đêm, tàn tạ hệt như ngôi nhà của bác Voiekov khi bác

bị phá sản và phải bán cho người khác. Và dường như tình yêu của Storesnhev vốn đã

được nhen lên mãnh liệt từ mười lăm năm trước khi cả hai còn là những chàng trai cô gái

mới chập chững vào đời đã vụt tắt, con đường chung của họ cũng tối om như căn nhà

hoang lạnh ấy.

Trong khu điền trang rộng lớn của bà tiểu chủ Kadakova có một căn phòng làm

việc thông với phòng khách, nơi dành cho Piot và ngay cạnh đó là một căn buồng không

cửa sổ dành cho tôi tớ. Trong căn buồng không cửa sổ tối tăm ấy, Tanhia cô hầu gái và

cậu chủ Piot Nhikolaich đã có những giây phút hạnh phúc bên nhau. Đối với Tanhia, đó là

những giây phút hạnh phúc, nhưng cũng là những kỷ niệm nhói đau, bởi cô bé biết, với

Piot, mình chỉ là một “người tình thoáng qua”. Khu điền trang cổ kính, căn phòng cũ kỹ

rồi sẽ rơi vào quên lãng bởi “thôn quê dường như trở nên nghèo nàn và thô kệch một cách

vô vọng” không còn hấp dẫn chàng trai trẻ, bởi tuyết rơi làm cho cả khu trang trại và cánh

đồng trở nên mờ đục, mênh mông, buồn tẻ và Tanhia cũng không còn là cái cớ cho chàng

98

gắn bó với nơi này nữa - Piot nóng lòng muốn trở về Moskva. Ở cả hai tác phẩm, dường

như không gian căn phòng của những khu điền trang ấy từ không gian khởi nguồn tình

yêu đã trở thành nơi in dấu những kỷ niệm buồn thương của tình yêu. Sự biến chuyển

không gian như thế ta có thể bắt gặp trong Natali, Rusya, Mối tình đầu… Trong Natali,

không gian điền trang của gia đình Sonia với những căn phòng lộng gió, với khu vườn

tuyệt đẹp và dãy hành lang ngắm trăng nên thơ đã chứng kiến những rung động tình yêu

thật sự của nhân vật tôi với Natali, và cũng đồng thời chứng kiến tình yêu chiếm hữu của

Sonia với tôi. Đó là nơi bắt đầu và cũng là nơi kết thúc những cảm tình với tôi mà Natali

đã nhen nhóm trong lòng, để rồi nàng chấp nhận lấy một người khác nhằm quên đi mối

tình mới nhen mà sâu đậm ấy. Cũng giống Natali, ngôi nhà của Rusya cùng với hồ súng

nơi khuôn viên căn nhà, khu vườn đẹp đẽ và những căn phòng ghi dấu kỷ niệm của anh

chàng gia sư và Rusya nhanh chóng trở thành dĩ vãng tình yêu của họ, bởi mẹ của cô

không muốn cho cô thuộc về bất cứ người nào khác. Trong những tác phẩm này, để cho

nhân vật tiếc nuối khi nhắc về những nơi chốn ấy, dường như Bunin gián tiếp thừa nhận

sự bất lực và yếu đuối của mình khi không thể mạnh mẽ sống hết mình cho tình yêu.

Đáng tiếc là những điều này được nhận ra quá muộn, khi tất cả chỉ còn là quá khứ.

3.3. Vẻ đẹp nữ vĩnh hằng

3.3.1. Những bức chân dung “ấn tượng”

Bunin là nhà văn đa tài. Bên cạnh viết văn, làm thơ, ông còn vẽ tranh. Những nét

vẽ của ông mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa ấn tượng. Chính các nhà nghiên cứu cũng

khẳng định dấu ấn của chủ nghĩa ấn tượng trong văn xuôi của nhà văn. Sự ra đời và phát

triển những nét ấn tượng trong hội họa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một trường phái

hội họa mới, đả phá tất cả mọi quy tắc của hội họa tả thực thế kỷ XIX, đưa người xem từ

các xưởng tranh cũ kỹ khép kín đến với những rung động trước những biến chuyển tế vi

của thiên nhiên vũ trụ. Đam mê hội họa, Bunin đã thâu nhận tất cả những nét tươi mát,

đẹp đẽ ấy và đưa chúng vào trong các sáng tác của mình, đặc biệt là trong cách miêu tả

những nhân vật tình yêu. Các nhân vật nữ của Bunin thường được khắc họa chân dung

bằng một vài nét vẽ tươi mát và đẹp đẽ ấy. Họ thường được nhận ra bởi mái tóc, màu mắt,

đôi bàn tay, xiêm áo quyến rũ hay những hương thơm ấn tượng. Một điểm rất đặc biệt là

99

với một số nhân vật, Bunin còn miêu tả họ trong nét quyến rũ của vẻ đẹp thân thể với

những đường nét thanh tân và làn da mịn màng.

Rất nhiều nhân vật nữ của Bunin gây ấn tượng với người đọc bởi đôi mắt. Olia

Mesherskaia, cô bé mười lăm tuổi xinh đẹp rực rỡ như một đóa hoa nở rộ hấp dẫn người

đối diện bởi vóc dáng thon thả, đôi chân thẳng, bộ ngực tròn căng, dáng vẻ yêu kiều,

khoan thai, đỏm dáng và đặc biệt là đôi mắt sáng long lanh, đôi mắt mà qua lời Olia ca

tụng đẹp mê hồn: “cặp mắt phải đen nhưng phải sôi lên đen nhánh như nhựa đường… -

đôi hàng mi phải đen như bóng đêm, nước da phải mịn màng và luôn ửng hồng lên, vóc

người phải mảnh mai, đôi tay phải dài hơn bình thường” [15; tr. 200]. Đôi mắt ấy đã từng

khiến cho biết bao cậu học sinh mê mẩn, thậm chí có người từng quyên sinh vì sự thay

đổi thất thường ở cô. Đặc biệt, ở Olia có một điều mà nhiều người khác không có, đó là

hơi thở nhẹ. Chính hơi thở nhẹ là nét đẹp ấn tượng của Olia, cùng với đôi mắt long lanh

giúp cô trở thành trung tâm của mọi sự chú ý ở nhà và cả ở trường. Nhưng cũng chính đôi

mắt long lanh ấy là căn nguyên bất hạnh của cô thiếu nữ xinh đẹp, cá tính.

Cũng giống như Olia trẻ trung và đầy sức sống, nhân vật Natali và Sonia trong

truyện ngắn Natali cũng được khắc họa trước hết ở đôi mắt đẹp đầy quyến rũ. Qua con

mắt của Sonia, bạn và cũng là tình địch của nàng, Natali vẫn rất xinh đẹp: “Natali có một

cái đầu rất đáng yêu, mái tóc nó óng vàng như người ta vẫn thường nói và một đôi mắt

đen láy. Thậm chí không thể gọi là mắt được, phải gọi là những mặt trời đen như cách nói

của người Ba Tư. Hàng lông mi thì tất nhiên là rất dài và cũng đen, nước da trên mặt, trên

vai đẹp lạ lùng và bao nhiêu cái đẹp khác nữa.” [16; tr. 487]. Mỗi lần gặp Natali, nhân vật

tôi như lặn ngụp trong cặp mắt sáng long lanh đen láy, trong mái tóc vàng óng hòa hợp

một cách diệu kỳ với hàng mi đen dài. Vẻ đẹp của Natali hiền dịu, nhẹ nhàng dường như

trái ngược với vẻ đẹp mạnh mẽ, cá tính của Sonia: “Nàng ngồi hơi nghiêng mình về phía

tôi, dưới ánh đèn, tôi nhìn thấy cánh tay nàng rám nắng, đôi mắt nàng xanh xanh tim tím

nhìn tôi như giễu cợt và mái tóc màu hạt dẻ rất dày và mềm mại của nàng” [16; tr. 488].

Cũng là một vẻ đẹp châu Á đặc biệt nàng trong Ngày thứ Hai chay tịnh cũng sở

hữu đôi mắt đen quyến rũ: “Còn nàng thì lại có một vẻ đẹp kiểu Ấn Độ, Ba Tư nào đó:

khuôn mặt nàng ngăm ngăm mầu hổ phách, mớ tóc nàng đẹp tuyệt vời mà lại có phần dữ

dội vì vừa đen lại vừa rậm, đôi hàng lông mày của nàng vừa mềm mại lại vừa bóng lên

100

như lông hắc điêu, đôi mắt nàng đen như một loại than mềm dịu, miệng nàng quyến rũ

với đôi môi đỏ thắm mịn màng, chung quanh điểm những lông tơ màu sẫm.” [16; tr. 541].

Dường như đôi mắt ấy biểu trưng cho tính cách của nàng: vừa bí ẩn vừa lạnh lùng, vừa

quyết liệt nhưng cũng đầy mê hoặc. Kết thúc tác phẩm, sau khi đền đáp lại mối cuồng si

của chàng nàng bỏ đi tu, và khi chàng đến tìm nàng, thứ duy nhất giúp chàng nhận ra

nàng đó là đôi mắt, nhưng giờ đây đôi mắt ấy không còn mềm dịu nữa mà đã trở thành

“cặp mắt tối tăm” nhìn vào nơi tăm tối. Bởi lẽ, tình yêu của họ khi ấy cũng rơi vào sự tăm

tối của chia ly, của sự sụp đổ tâm hồn người đàn ông đã si mê nàng.

Khi sắp ra chiến trường, ấn tượng đọng lại trong chàng trai về người bạn gái của

mình trong Mùa thu lạnh đó là đôi mắt, một đôi mắt lúng liếng chan chứa tình cảm. Cũng

nhớ về cô bạn gái, đúng hơn là cô bạn gái của vợ, nhân vật người chồng trong Ida nhớ

trước tiên đến “cái bao tay bằng lông chồn của cô ta, màu da khuôn mặt cô và đôi mắt

tím, đôi tay đẹp tuyệt vời của cô, chiếc váy Anh của cô” [17; tr. 16]. Đôi mắt cũng là nét

đẹp không thể quên của Nadezhda khi ông chủ Nicolai Alekseevich nhớ về cô: “Vâng,

ngày ấy đúng là cô đẹp, đẹp thật! – ông vừa nói vừa lắc đầu. – Cô sôi nổi, cô tuyệt vời

làm sao! Rồi dáng người, rồi đôi mắt!” [16; tr. 600]. Galia Ganskaya trong tác phẩm cùng

tên được khắc họa là một cô bé duyên dáng hiếm thấy với “khuôn mặt nhỏ nhắn và những

búp tóc vàng sẫm buông dọc theo hai má” [19; tr. 104]. Càng lớn, Galia càng xinh đẹp,

lúc này khi gặp lại Galia, ấn tượng về nàng là ấn tượng về một thiếu nữ có “đôi mắt màu

ngọc xanh nước biển của nàng ngời lên lấp lánh” [19; tr. 105]. Còn đôi mắt huyền và mái

tóc đen với bím tóc quấn quanh của Rusya hiện lên thật kỳ ảo trong chàng gia sư, khiến

chàng ngay cả khi đã lấy vợ, cũng không thể quên.

Như vậy, có thể thấy, đối với Bunin, đôi mắt chính là ấn tượng đầu tiên của ông

khi tiếp xúc với một cô gái. Đôi mắt ấy dù xanh biếc màu nước biển hay tím ngắt lạ kỳ,

dù long lanh, lung liếng hay đen huyền quyến rũ thì đều sáng rực, đều có sức hấp dẫn

không thể cưỡng nổi. Có một điểm rất thú vị, đó là hầu hết các nhân vật quyến rũ Bunin

bằng đôi mắt đều là những cô nàng còn rất trẻ, những cô thiếu nữ tuổi mới đôi tám: Olia

Mesherskaia đang học trung học, Sonia, Natali cũng đang trong kỳ nghỉ hè, Galia mới

mười bốn tuổi khi tác giả gặp lần đầu, Rusya cũng chỉ đôi tám, nhân vật nàng trong Ở một

phố thân quen và Ngày thứ Hai chay tịnh thì đang học đại học. Có lẽ, ở những cô gái ấy

101

cái đẹp, sự quyến rũ chính là ở đôi mắt trong sáng, long lanh, linh lợi, hồn nhiên, mơ

màng nhưng đầy sức sống của tuổi xuân mới chớm. Những đôi mắt biết nói ấy là cả một

trời bí mật khơi gợi khám phá. Thêm một nét đẹp quyến rũ nữa ở những cô gái mới đôi

tám, đó là vẻ đẹp của mái tóc. Mái tóc của Olia Mesherskaia trong Hơi thở nhẹ dù lúc rối

tung hay lúc được chải kỹ lưỡng cũng vẫn làm tôn lên khuôn mặt xinh đẹp rực rỡ của cô.

Mái tóc ấy đã có lần khiến cô gặp rắc rối: “Thưa madame, em không có lỗi gì, nếu em có

bộ tóc đẹp, Olia trả lời và hai bàn tay cô khẽ chạm vào mái đầu chải rất đẹp của mình.”

[16; tr. 246]. Dường như Bunin dụng tâm miêu tả đôi mắt trong sự hài hòa màu sắc với

mái tóc của các cô thiếu nữ: Sonia với mái tóc màu hạt dẻ và đôi mắt màu xanh xanh tím

tím, Natali với đôi mắt đen láy và mái tóc vàng óng, Galia thì kiêu hãnh và đỏm dáng với

“Mái tóc màu hung của nàng búi cao lên đỉnh đầu và cài bằng chiếc lược đồi mồi, làn tóc

mai loăn xoăn trên trán, đôi mắt lấp lánh vui tươi…” [19; tr. 107], nàng trong Ngày thứ

Hai chay tịnh với mắt đen tóc đen đầy quyền lực và bí ẩn… Đó là vẻ đẹp đặc trưng của

thanh xuân, của những nét đẹp trong sáng tuyệt vời.

Trong nhiều tác phẩm, đặc biệt là những tác phẩm miêu tả những nét đẹp thoáng

qua trong cuộc hành trình, Bunin đặc biệt ấn tượng với vẻ đẹp thân thể của những người

phụ nữ, và tình yêu nơi những người phụ nữ ấy luôn gắn liền với niềm hạnh phúc về thể

xác, về sự dâng hiến trọn vẹn trong tình yêu. Ở Bunin, tình yêu là thứ đáng quý nhất bởi

nó trần thế nhất. Vẻ đẹp của những tấm thân ngà ngọc luôn đi đôi với vẻ đẹp của những

lớp áo xiêm, của làn da mịn màng và quyến rũ. Đôi khi, vẻ đẹp thân thể ấy được gợi ra từ

một đôi bàn tay, hay một đôi gót chân thon nhỏ…

Cơn say nắng của anh chàng trung úy trong truyện ngắn cùng tên được gợi lên từ

cái cười không kiểu cách đáng yêu, từ đôi cánh tay nhỏ và khỏe, rám nắng và đặc biệt là

từ tấm thân quyến rũ sau làn xiêm áo mỏng: “Trái tim anh như thắt lại đầy ghê sợ và sung

sướng đến ngất ngây khi nghĩ rằng đằng sau tấm xiêm áo bằng lụa nhẹ mỏng kia, toàn

thân nàng hiện lên chắc lẳn, nước da bánh mật sau một tháng nằm phơi nắng mặt trời

phương Nam trên bãi cát biển nóng.” [16; tr. 272-273]. Ngay cả sau khi đã yêu và được

yêu, chàng trung úy không thể quên người thiếu phụ đã đem lại hạnh phúc cho mình:

“Anh còn nhớ nàng như in, nhớ cái mùi da rám nắng và tấm áo lụa nhẹ bồng bồng, tấm

thân chắc lẳn, nhớ cái giọng vang vang, giản dị, đầy sức sống của nàng…” [16; tr. 277].

102

Cũng giống chàng trung úy trong Say nắng, tình yêu ở nhà văn trẻ đến từ dáng vẻ

đôi bàn chân mảnh khảnh của người thiếu phụ: “Trên mình nàng là một chiếc áo khoác

mỏng mà phía dưới người ta thấy lộ ra đôi chân mảnh khảnh.” [16; tr. 459], để rồi sau đó

nàng thiếu phụ tự nguyện hiến dâng cho chàng, không ngại để lộ tấm thân trần của mình:

“Nàng cởi cúc và giẫm lên tấm xiêm đã từ mình nàng tụt xuống mặt sàn, và với thân hình

cân đối như một cô bé con, nàng chỉ còn mặc độc một chiếc áo lót mỏng tang hở cả vai và

tay, và một chiếc quần lót trắng.” [16; tr. 465]. Trong Ở một phố thân quen, cơn say tình

ái cũng khiến cho chàng trai ngất ngây trước vẻ đẹp ngọc ngà của người con gái: “Tôi vứt

vội xuống đâu đó chiếc áo khoác, chiếc mũ lưỡi trai, rồi ngồi lên giường, bế nàng vào

lòng, và qua làn vải của váy áo nàng, tôi cảm thấy hết cái ấm áp của cơ thể nàng, cảm

thấy hết thịt da nàng…” [16; tr. 592]. Ở những tác phẩm khác, ấn tượng áo xiêm và thân

thể cũng là những ấn tượng khó phai với Bunin. Rusya được nhớ tới với chiếc áo

xaraphan màu vàng đã cũ, Natali gây ấn tượng với tôi bằng một chiếc váy nhỏ bằng vải

lanh và chiếc áo sơ mi cổ thêu kiểu Uren, đằng sau tấm xiêm ấy là “tấm thân nàng thơ trẻ,

hoàn thiện biết bao nhiêu, dường như còn là một cô bé. Dưới làn vải chiếc tay áo sơ mi có

những đường chỉ thêu xanh đỏ bên vai, tôi nhìn thấy cánh tay yếu ớt thanh thanh của

nàng, nhìn thấy những hàng lông tơ mịn màng trên nước da vàng vàng trăng trắng rất đẹp

của nàng và nghĩ rằng: điều gì sẽ đến với tôi nếu tôi dám khẽ chạm đôi môi lên làn da

ấy!” [15; tr. 501]. Say mê Natali, trộm liếc nhìn nàng, tôi nhìn thấy được cả “hình bóng

đôi chân nàng qua tấm váy mỏng được mặt trời rọi chiếu, nhìn thấy gót chân thon nhỏ

hiện lên qua bít tất mỏng màu xám trong suốt…” [16; tr. 501]. Galia Ganskaya trong bộ

xiêm áo mới, dưới cái nhìn của chàng họa sĩ, đã trở thành một thiếu nữ mảnh mai xinh

đẹp đến mức khiến cho người ta kinh ngạc: “Nàng không còn là một đứa trẻ, không còn là

một thiên thần bé bỏng, trong bộ trang phục mùa xuân màu xám nhạt mới tinh, nàng đã là

một thiếu nữ mảnh mai xinh đẹp đến mức khiến cho người ta kinh ngạc.” [19; tr. 105].

Trong Ngày thứ Hai chay tịnh, hơn một lần tôi ca ngợi vẻ đẹp thể xác đầy sang trọng và

quyến rũ của nàng trong một khát khao được chiếm lĩnh vẻ đẹp ấy: “Tôi bước vào, thấy

nàng đứng thẳng người bên chiếc piano với bộ điệu hơi có vẻ diễn kịch, mình bận một

chiếc xiêm nhung đen khiến nàng trông như thon thả hơn và long lanh hơn với vẻ lộng lẫy

của mình; với mái tóc đen nhánh được chải chuốt theo kiểu ngày hội; với màu hổ phách

103

ngăm đen của đôi tay trần, đôi vai trần và của phần ngực trên mịn màng đầy đặn; với đôi

hoa tai kim cương lấp lánh xuôi theo cặp má phủ dưới một làn phấn nhẹ nhàng; với cặp

mắt màu than mịn và đôi môi màu nhung đỏ thắm” [16; tr. 557]. Lần gặp gỡ cuối cùng

của Vera và Storesnhev là sự nhắc nhớ những yêu đương xa xăm, là sự đắm say trong

những phút giây yêu đương nồng cháy cuối cùng. Và trong những phút giây ấy, khuôn

mặt, làn da, mái tóc và đặc biệt là xiêm áo và tấm thân yêu kiều của nàng được cảm nhận

rất rõ: “Gương mặt Vera trông dịu dàng, làn da mịn màng thoa phấn. Nàng khẽ cọ má vào

môi anh rồi hôn rất lâu lên môi anh bằng đôi môi mềm mại. Cây thánh giá nhỏ lấp loáng

trên ngực nàng để hở. Nàng mặc chiếc áo mỏng tang – chiếc áo nàng rất quý, chỉ dành

cho những dịp hệ trọng nhất, chiếc áo duy nhất…” [16; tr. 107].

Trong truyện ngắn của mình, Bunin bao giờ cũng ghi lại ấn tượng riêng về một nét

đặc biệt ở những người phụ nữ ông từng gặp, từng yêu. Nếu ở Olia Mesherskaia là hơi

thở nhẹ thì ở nhân vật nàng trong Ở một phố thân quen là “khuôn mặt giản dị, chất phác,

đôi mắt sáng như của một cô gái nông dân, đôi môi đầy âu yếm như thường thấy ở những

người phụ nữ mềm yếu”. Vẻ gợi cảm của đôi môi cũng là nét đặc biệt ở Galia Ganskaya

với “làn môi thơ trẻ hé mở lấp lánh”, ở Ida cũng là “làn môi hé mở đầy quyến rũ”. Nhân

vật anh chàng gia sư năm nào trên chuyến tàu đi qua miền thương nhớ lại không thể quên

được vẻ khả ái của Rusya nhờ những nốt ruồi nhỏ trên mình nàng. Có một chi tiết rất đặc

biệt thường được Bunin nhắc đến mỗi khi nhớ về người phụ nữ mình yêu dấu. Đó là

hương thơm tỏa ra từ thân thể họ, hương thơm gợi nhớ, hương thơm lưu giữ vẻ đẹp, hình

bóng của cái đẹp, hương thơm lưu giữ kỷ niệm tình yêu. Chàng trung úy đã không thể

quên mùi nước hoa Anh Cát Lợi, cũng như không thể quên sự hiện diện của nàng tại căn

phòng họ đã bên nhau. Hương thơm của nàng trong Ngày thứ Hai chay tịnh là hương

thơm nhẹ nhàng từ mái tóc đậm mùi “Moskva, Astrakhan, Ba Tư, Ấn Độ”. Hương thơm

của cô gái trinh bạch trong Canh khuya mà nhân vật tôi theo đuổi là hương thơm của

“mùi mái tóc thiếu nữ và cổ của em, mùi chiếc xiêm bằng vải gai của em” [16; tr.448].

Hương thơm của Tanhia trong truyện ngắn cùng tên là sự quyến rũ của “mùi nông dân”

thoang thoảng hương táo: “Ôi, cái mùi nông dân tỏa ra từ mái tóc, từ hơi thở, từ đôi má

lạnh buốt thơm thơm hương táo của nàng!” [19; tr. 116]. Hương thơm giúp Storesnhev

gợi nhớ về Vera là hương của dầu cây vécbena (dầu sả). Hương thơm ấy dù lẫn với mùi

104

yên cương, mùi ngựa nhưng chàng trai vẫn cảm thấy nó trên con đường trở về nhà và anh

đã khóc, những giọt nước mắt nhớ nhung, yêu thương, hờn giận.

Truyện ngắn của Bunin là truyện ngắn về những người con gái đẹp – trước hết là

vẻ đẹp thân thể gợi cảm mang màu sắc “hiện sinh”. Có thể khẳng định điều ấy qua những

phân tích của chúng tôi ở trên. Tuy nhiên, vẻ đẹp ngoại hình ấy khi cộng hưởng với vẻ

đẹp tâm hồn càng khiến cho những cô gái Nga, những người phụ nữ Nga trong truyện

ngắn Bunin đẹp hơn, quyến rũ hơn, khó quên hơn.

3.3.2. Những tâm hồn Nga cứu rỗi

Là một đất nước có vị trí địa lí đặc biệt trên thế giới, nước Nga nhanh chóng xác

lập cho mình một vị thế đặc biệt về văn hóa và tính cách. Người Nga, dân tộc Nga luôn tự

coi mình là một thực thể độc lập hoàn toàn với Châu Âu và cả Châu Á – châu lục mà hơn

một nửa diện tích đất nước nằm trong đó. Người Nga tự gọi mình là nước Nga và Châu

Âu, dân tộc Nga được khẳng định mang tính chất phương Đông nhất trong các dân tộc

Châu Âu, Chính Thống giáo của Nga cũng là Chính Thống giáo mang đậm dấu ấn

phương Đông. Ngay cái tên Chính Thống giáo cũng cho thấy niềm tự hào của một dân tộc

được Chúa chọn, dân tộc bảo tồn trong nó những đặc điểm nguyên thủy đáng trân trọng

nhất của Kito giáo. Các nhà triết học Nga, trước hết là Berdiaev, Soloviev và sau này, các

nhà thơ, nhà văn Nga luôn coi trọng điểm khác biệt trong tính cách, tâm hồn Nga so với

các dân tộc Châu Âu nói riêng và các dân tộc khác trên thế giới nói chung.

Berdiaev khẳng định tôn giáo Nga là thứ tôn giáo nữ tính: “Đó không hẳn là tôn

giáo của Đức Kito, mà đúng hơn là tôn giáo của Đức Mẹ, tôn giáo của mẹ đất, nữ thánh

linh soi rọi đời sống xác thịt… Mẹ đất đối với dân tộc Nga là nước Nga. Nước Nga trở

thành Đức Mẹ” [11; tr 206]. Ông cũng cho rằng bản tính Nga là “nữ tính, thụ động và dễ

bảo”, “Sự thống trị độc tôn của tố chất phương Đông ở Nga luôn luôn là nô lệ cho yếu tố

tự nhiên nữ tính” [11; tr. 213]. Nhà triết học Soloviev cũng khẳng định cái được gọi là Nữ tính Vĩnh hằng trong tác phẩm nổi tiếng thế giới Siêu lí tình yêu [69] của mình. Nữ tính

Vĩnh hằng chính là hình ảnh về người yêu lí tưởng của Soloviev được xây dựng bằng cảm

hứng tôn thờ người yêu kết hợp với trải nghiệm thần bí triết học. Nhà triết học tôn thờ Nữ

tính Vĩnh hằng, tôn thờ người yêu lí tưởng, coi đó là con đường cứu rỗi, con đường vươn

105

tới sự bất tử, vươn tới thần thánh: con đường thần – nhân tính. Không chỉ Berdiaev và

Soloviev, B.P.Vysheslavtsev cũng nói về “sự thống nhất chính diện, vẻ đẹp vũ trụ nữ tính,

có hồn” của Eros Nga, thứ Eros đặc biệt chỉ có thể tìm được sự đồng cảm ở tâm hồn

Italia: “Rất ít người có thể hiểu được khát vọng của truyện cổ tích, thơ, triết học Nga một

cách sâu sắc như người Italia, bởi vì tâm hồn Italia hiểu được tình yêu đối với nữ tính

trong sáng của Dante, tình yêu vĩnh cửu đối với Dzhordano Bruno vĩ đại và tình yêu đối

với Phrantxiska Asizski” [82; tr. 496]. Nhà nghiên cứu Vysheslavtsev còn khẳng định sự

đối lập của tính khắc nghiệt trong kiến trúc gotic của các nhà thờ Kito giáo với sự tôn thờ

cái đẹp, Đức Mẹ và nữ tính kì diệu. Rõ ràng, các nhà triết học, phê bình văn học của Nga

đều đang dùng lí thuyết để khẳng định một vẻ đẹp được coi là vĩnh hằng của văn học Nga

từ xưa đến nay, đó là tính nữ cứu rỗi. Dù nhìn ở khía cạnh nào, vẻ đẹp của tính nữ cứu rỗi

này cũng đã làm nên nét đặc trưng không thể nhầm lẫn của văn học Nga với các nền văn

học khác trên thế giới, dù rằng chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy sự tôn thờ cái đẹp, đặc

biệt là cái đẹp nữ tính trong bất kỳ một tác phẩm văn học nào.

Nhìn lại những tác phẩm viết về nhân vật nữ của Bunin, có thể thấy những nhân

vật nữ trong các tác phẩm ấy đều là những phiên bản của tính nữ cứu rỗi, phiên bản của

Đức Mẹ, dù vẻ đẹp bên ngoài của họ có phải là vẻ đẹp của Đức Mẹ hay không (trong

những tác phẩm của Bunin có lẽ chỉ có Rusya trong tác phẩm cùng tên là được miêu tả có

vẻ đẹp ngoại hình của Đức Mẹ). Tính nữ cứu rỗi ấy có thể là tình yêu, có thể là lí tưởng.

Họ đại diện cho tình yêu Nga và tâm hồn Nga vĩnh cửu.

3.3.2.1. Tình yêu cứu rỗi

Các nhân vật nữ trong truyện ngắn tình yêu của Bunin, đa phần là những người trẻ,

kể cả những mối tình thoáng qua – những thiếu phụ cũng chỉ vừa bước sang tuổi ba mươi.

Thế nhưng, những nhân vật trẻ trung ấy lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc đời

của các nhân vật khác. Họ chính là điểm tựa tinh thần của những nhân vật ấy. Họ cứu rỗi

các nhân vật khác bằng tình yêu của mình, lí tưởng của mình, thậm chí bằng cả cái chết.

Đọc truyện ngắn của Bunin chúng tôi nhận thấy có những nhân vật mang trong

mình tình yêu cứu rỗi (N.Berdiaev gọi là “bản nguyên nữ có chức năng cứu rỗi)”. Đó là

những nhân vật bằng tình yêu của mình đem đến niềm hạnh phúc cho những nhân vật

106

nam trong tác phẩm. Những người phụ nữ đó chưa chắc đã là người vợ chính thức, nhưng

mối tình của họ thì lại để lại dấu ấn đậm sâu khiến cho các chàng trai không thể quên suốt

cả cuộc đời.

Trước tiên phải kể đến mối tình thời thanh xuân đầy lãng mạn và say mê của nhân

vật tôi trong Rusya. Ngày còn trẻ, khi làm gia sư cho một cậu bé tại một điền trang kiểu

biệt thự, tôi đã yêu và say mê cô nàng Rusya xinh đẹp và thuần khiết, chị gái của cậu bé.

Mối tình của hai người đến tự nhiên như bắt buộc phải có giữa một nơi khung cảnh thiên

nhiên tuy hoang sơ nhưng buồn tẻ, “chẳng có chỗ nào là cảnh đẹp”. Khi đã trưởng thành,

đi qua nơi ấy, nhân vật tôi thừa nhận mình đã “phải lòng kinh khủng” cô gái. Sáng sáng

nàng nội trợ, chàng kèm học cho em trai nàng, trưa đến cả nhà đi ngủ sau bữa trưa, chỉ có

nàng và chàng còn thức. Chàng say mê nghiên cứu lịch sử, văn chương và những thứ “cao

siêu” khác, còn nàng thì vẽ tranh. Tình yêu đến từ những trưa vắng người như thế. Rồi họ

có những đêm bơi thuyền cùng nhau, cùng ngắm trăng, cùng tận hưởng niềm hạnh phúc

lứa đôi. Đến khi bị mẹ nàng phát hiện, họ buộc phải chia tay nhau, với nàng đó là một sự

lựa chọn đau đớn bởi giờ đây nàng đã yêu chàng say đắm: “Vậy mà giờ đây em cứ yêu

anh đến nỗi đối với em không có gì đáng yêu hơn nữa cả, kể cả cái mùi bên trong chiếc

mũ lưỡi trai này: mùi đầu anh và mùi của cái thứ nước hoa gớm ghiếc của anh!” [15; tr.

252]. Còn chàng thì mãi sau này vẫn không thể quên được nàng, dù chàng đã có vợ, thậm

chí, nỗi nhớ nhung, sự lơ đễnh của chàng còn khiến vợ chàng phát ghen: “Cô gái biệt

thự… Sẽ không có cô gái nào đáng yêu bằng cô gái mà ta yêu” [15; tr. 252]. Dường như

với mỗi con người sống trong cuộc đời, có một người để yêu, để được yêu hết mình là

điều tuyệt vời nhất. Và tuyệt vời gì hơn khi đó là mối tình đầu? Với Rusya, Bunin đã

khẳng định điều ấy. Người con gái trong Canh khuya cũng là một mối tình khắc cốt ghi

tâm của nhân vật tôi, dù cô gái ấy không may đã từ giã cõi đời từ khi còn rất sớm. Ngày

trở về nước Nga, trở về thị trấn quen thuộc xưa kia, tất cả những kỷ niệm đẹp của tình yêu

đã trở về: cái đêm hẹn hò khi xung quanh là đám cháy sáng rực, chàng đã dũng cảm cầm

tay nàng, rồi khu vườn nhà nàng khi hai người tâm sự trong đêm …tất cả ngự trị trong tôi

như những kỷ niệm đẹp nhất cuộc đời. Và những kỷ niệm ấy là chốn đi về, là niềm an ủi

chàng trong những ngày sống xa Tổ quốc.

107

Những mối tình đậm sâu và day dứt của những nhân vật họa sĩ và nhạc sĩ trong

Galia Ganskaya và Ida lại là những lời sám hối của lương tâm họ mỗi khi nhớ về quá

khứ. Galia Ganskaya mới mười sáu tuổi, ngập tràn sức sống, xinh đẹp, quyến rũ, và cũng

rất bồng bột. Tình yêu của nàng với anh chàng họa sĩ trẻ là tình yêu của sự dâng hiến hết

mình, và sự dâng hiến ấy đòi hỏi được đáp trả tương xứng. Đó không phải sự đáp trả bằng

vật chất, mà bằng tình cảm. Vì vậy, khi biết chàng họa sĩ định rời đi Ý, nàng đã không

chịu đựng được. Sự quyên sinh của nàng khi thuyết phục chàng không được như một

tiếng sét giáng xuống đầu chàng. Ngay lúc ấy chàng đã định tự tử theo nàng. Cho đến khi

trở thành một họa sĩ thành danh, đến khi không còn trẻ nữa, đã có thể ngồi và kể lại một

cách bình thản câu chuyện đau buồn ấy, người họa sĩ thú nhận: “Có lẽ, trong chúng ta,

mỗi một người đều có một kỷ niệm đặc biệt quý giá về tình yêu, hoặc một chuyện tình tội

lỗi nặng nề nào đó. Vậy thì, có lẽ chính Galia Ganskaya là hồi ức tuyệt đẹp nhất, mà cũng

là tội lỗi nặng nề nhất của tôi, mặc dầu, có trời chứng giám, dù thế nào đi nữa thì cũng

không phải là tôi cố ý.” [19; tr. 104].

Sau khi chia tay Ida ở sân ga, sau khi được nàng thổ lộ mối tình, người nhạc sĩ đã

ngộ ra một chân lí, và trong phút bốc đồng nhất của mình, đã chia sẻ những suy nghĩ ấy:

“Hãy uống vì tất cả những người yêu chúng ta, vì tất cả những ai mà lũ người ngu ngốc

chúng ta không đánh giá được họ, vì tất cả những ai mà chúng ta đã từng được hạnh phúc,

sung sướng với họ, rồi sau đó phải chia tay và vĩnh viễn biến mất trong cuộc đời ta,

nhưng dù sao vẫn mãi mãi gắn với nhau bởi mối liên hệ đáng sợ nhất trên thế giới!” [17;

tr. 21]. Truyện ngắn của Bunin là những cung bậc của sự tiếc nuối, day dứt, hối hận như

thế, bởi lẽ những người đàn ông trong Một truyện tình nho nhỏ, Natali, Ở một phố thân

quen, Tania, Stepa… không đủ can đảm để nói ra và hành động. Tuy nhiên, ở đây, chúng

tôi muốn nhấn mạnh những nhân vật nữ hi sinh tất thảy vì tình yêu. Họ hi sinh mà không

đòi hỏi gì, họ chấp nhận những lời hứa hẹn như thứ bảo bối của cuộc đời. Bằng lòng bao

dung và sự hi sinh vô điều kiện, họ chính là người cứu vớt linh hồn cho những người đàn

ông. Trong Một chuyện tình nhỏ, những bức thư đầy tình cảm chân thành và mãnh liệt của

cô gái đã đánh thức trái tim yêu ở chàng trai, nhen lên trong lòng chàng nỗi đau của tình

yêu bị đánh cắp: “Tôi lấy bức thư của nàng đọc lại một lần nữa, và cảm thấy trái tim nhói

đau trong lồng ngực: „Ôi, em yêu, em tuyệt diệu! Biết làm gì bây giờ? Làm gì?‟” [16; tr.

108

588-589]. Những câu hỏi vang lên trong vô vọng, bởi nàng đã đi quá xa, và nàng không

còn có thể yêu chàng được nữa. Chính chàng lúc này cũng nhận ra rằng: “Chiếc chuông

nhỏ vẫn rung đều đều, đơn điệu, như muốn nói rằng con đường đang đi sẽ còn dài, rằng

quá khứ đã vĩnh viễn trôi qua, và phía trước là một cuộc đời mới đang chờ đợi.” [16; tr.

589]. Như thế, tình yêu của những người con gái thực sự không chỉ cứu rỗi tâm hồn, tình

yêu ấy còn cứu rỗi cả cuộc đời thực của họ, giúp họ bước tiếp trong cuộc sống.

Nhân vật tôi trong Natali nhận được tình yêu và sự quan tâm của ba người phụ nữ.

Mối tình với Sonia dường như là sự thỏa mãn về xác thịt, tình yêu với Natali nhằm thỏa

mãn khát khao chinh phục và sự ngưỡng mộ thờ phụng về mặt tinh thần, còn mối tình với

Gasha là sự thay thế cho Natali và Sonia, dù rằng nàng đáng yêu như một bé con. Gasha

có một đứa con với tôi nhưng nàng nhất định không chịu làm đám cưới, chấp nhận thân

phận của một cô hầu gái. Tôi đi du ngoạn, nhưng bóng hình của Natali cùng mối tình đầu

đời vẫn không thể phai nhòa. Cuối tác phẩm, họ lại ở bên nhau, dù nàng đã từng là vợ của

người khác: “Bây giờ thì anh lại bên em và bên em mãi mãi. Nhưng mình sẽ ít gặp nhau

thôi anh nhé – làm sao mà em, người vợ không ai biết của anh, lại có thể trở thành tình

nhân của anh trước mắt mọi người?” [16; tr. 536, 537]. Vậy là, tình yêu của người con gái

yếu đuối mong manh Natali có một sức mạnh vô bờ, khiến nàng sẵn sàng hi sinh tất thảy

cho anh ta, dù chấp nhận đánh đổi bằng cái chết. Kết thúc tác phẩm Natali chết vì sinh

con cho tôi, cái chết không hề ai biết. Vậy là cả Sonia, cả Gasha, cả Natali, vì tình yêu sẵn

sàng hi sinh con người, hạnh phúc cá nhân của mình. Sự bao dung của họ đã cứu rỗi cho

những cậu chủ đa tình và mềm yếu, thiếu quyết đoán. Nhân vật tôi trong tác phẩm này gợi

nhớ tới nhân vật Nikolai Alekseevich trong Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối. Yêu cậu

chủ của mình từ khi còn thanh xuân, cho đến tận khi về già Nadezhda vẫn không thể quên

mối tình ấy, bà không lấy chồng, bởi với bà không gì quý bằng tình yêu. Bị ruồng rẫy, bà

đã toan tự tận, nhưng lòng bao dung của tình yêu đã chiến thắng. Ngày gặp lại, bà tự hào

vì tình yêu và sự bao dung ấy của mình: “Hồi ấy cũng như sau này, đối với tôi ông là quý

nhất trần đời. Chính vì vậy tôi không sao có thể tha thứ cho ông được.” [15; tr. 233]. Lí lẽ

về tình yêu bất tử bất chấp sự đối xử của đối phương đã cứu rỗi linh hồn Nikolai

Alekseevich, ít nhất, ông không phải dằn vặt cả đời vì suýt chút nữa có người vì ông mà

không giữ mạng sống của mình. Có lẽ, sự hi sinh của nhân vật Nadezhda cũng là sự hi

109

sinh của cô bé Tanhia trẻ trung, ngây thơ và đáng thương. Bunin đã thông qua các nhân

vật ấy tôn vinh những người phụ nữ bé nhỏ suốt đời bao dung, chở che, hi sinh vì tình yêu

và người mình yêu.

Lí tưởng về tình yêu cứu rỗi có lẽ rõ nhất ở Những tấm danh thiếp và Say nắng.

Với Những tấm danh thiếp, anh chàng nhà văn trẻ tuổi và mạnh khỏe, nồng nhiệt đã khơi

dậy con người bản năng yêu đương ở người thiếu phụ, đưa người thiếu phụ ấy đi hết

những cảm xúc của cuộc ái ân, những cảm xúc mà trước kia, dù đã lấy chồng, nàng không

thể có được. Còn với anh chàng nhà văn, những tưởng mối tình với người thiếu phụ chỉ là

cuộc tình chớp nhoáng qua đường, vậy mà nó lại trở thành miền kí ức đẹp đẽ, sống mãi cả

cuộc đời. Cả hai người, như vậy đều cần đến nhau, cứu rỗi cho cuộc sống hiện tại nhàm tẻ

của người kia. Với Say nắng, người thiếu phụ mà anh chàng trung úy gặp trên đường đi

thực sự là người phụ nữ cứu rỗi cho tâm hồn thiếu thốn tình yêu của anh. Sự yêu kiều, sức

cuốn hút kỳ lạ và khoảnh khắc say nắng ngẫu nhiên của tình yêu đã đưa họ đến với nhau,

nàng đồng ý xuống bến với chàng, dâng hiến cho chàng trong một đêm hè nóng bức ở

một thị trấn huyện lỵ xa lạ, để rồi coi đó là cơn say nắng duy nhất trong đời: “Cái điều

thậm chí giống với việc mới xảy ra, đối với em chưa hề có và sẽ không bao giờ có nữa cả.

Hệt như em đã bị rối trí hay sao ấy… Hoặc nói đúng hơn, là cả hai chúng ta đều đã bị một

cái gì giống như say nắng ấy…” [15; tr. 206]. Với chàng, đó thực sự là điều kỳ diệu. Để

rồi khi nàng đã đi khỏi, chàng “hoảng sợ vì tuyệt vọng” và “cảm thấy đau lòng, cảm thấy

toàn bộ cuộc sống sau đây của mình không có nàng thì sẽ vô dụng biết bao nhiêu”. Tất cả

những gì về nàng chàng sẽ nhớ mãi, từ dáng hình, mùi hương, giọng nói của nàng cho đến

khoái cảm về mọi cái đáng yêu của người phụ nữ mà lần đầu chàng được sống, quan

trọng hơn là “một cảm giác hoàn toàn mới lạ, kỳ dị, khó hiểu về một sự gắn bó đặc biệt

giữa hai người đã choán hết tâm trí chàng, đeo đuổi chàng đến hết cuộc đời”…

3.3.2.2. Lí tưởng cứu rỗi

Trong những truyện ngắn của Bunin có những nhân vật nữ còn rất trẻ nhưng đã có

lí tưởng rất cao cả. Ở đây là lí tưởng tôn giáo, là khát vọng hướng tới cái vĩnh cửu tuyệt

đối của con người. Và điểm đặc biệt là, khát vọng ấy, lí tưởng ấy lại được xây dựng trong

110

hình thức của một câu chuyện tình đầy kỳ bí và hấp dẫn. Chúng tôi muốn nói tới tác phẩm

Ngày thứ Hai chay tịnh.

Mới đọc tác phẩm, chúng ta sẽ thấy ấn tượng đầu tiên là ấn tượng về một câu

chuyện tình. Hai nhân vật chính, chàng trai và cô gái đều là những người cực kỳ giàu có,

cuộc sống của họ chỉ gói gọn trong những hoạt động hưởng thụ: đi ăn, đi dạo chơi, đi xem

kịch, xem hát… Xen kẽ giữa những hoạt động ấy là những buổi tối đi học, những ngày

nằm dài đọc sách, chơi nhạc… Đôi nhân vật ấy đều rất xinh đẹp, tương xứng với nhau.

Chàng trai rất muốn cưới cô gái, còn cô gái thì cứ lần lữa với lí do chưa chuẩn bị tinh thần

làm vợ. Tình yêu của họ cũng rất trong trắng, không hề có màu sắc nhục dục, dù trong

những tác phẩm của mình, Bunin không ngại đề cập đến khía cạnh này. Cho đến một

“Ngày thứ Hai chay tịnh” – ngày thứ hai trước khi bước vào mùa chay, thời điểm các giáo

dân cầu nguyện, sám hối, dọn lòng đón lễ Phục Sinh, nàng quyết định trao thân cho chàng

để rồi sau đó hoàn toàn biến mất khỏi cuộc đời chàng, biến mất khỏi cuộc sống trần tục.

Vì quá yêu, khi đã đủ can đảm để chấp nhận sự thật, chàng đi tìm nàng, nhận ra nàng giữa

những bóng áo trắng nữ tu để rồi lặng lẽ quay gót trở về. Tác phẩm kết thúc để lại dư vị

tiếc nuối lẫn lộn đan xen trong lòng người đọc. Tuy nhiên, đọc kỹ tác phẩm, chúng ta sẽ

nhận ra những hành động rất hợp lí mang tính chất chuẩn bị của nhân vật nàng trước khi

đưa ra quyết định cuối cùng, đặc biệt là những hành động kỳ quặc của nàng trong ngày

“Chủ nhật tha tội” và “Ngày thứ Hai chay tịnh”: nàng vời chàng đến để cùng nhau đi

thăm tu viện, thăm nghĩa trang, thăm đan viện, dự buổi “cây nhà lá vườn” của nhà hát

kịch – việc mà trước kia nàng không bao giờ muốn làm. Khi trở về nhà, lần đầu tiên

chàng được nàng cho phép ở lại ban đêm, lần đầu tiên chàng được phép đi đến tận cùng

tình yêu với nàng để rồi sáng hôm sau, nàng chính thức rời xa chàng. Chỉ đến khi ấy, nhớ

lại những lời nàng đã nói, những việc nàng đã làm, chàng mới biết lí tưởng thực sự của

nàng. Đó là được phụng sự Chúa, phụng sự Đức Mẹ chứ không phải là tình yêu của

chàng, thứ tình yêu trần thế mà nàng đã tiếp nhận một cách thờ ơ.

Ngày thường nàng thích đọc sách, chàng mang đến cho nàng những sách văn học

thời thượng, nàng đọc, nhưng với thái độ dửng dưng; cái nàng thực sự thích là biên niên

sử Nga, truyện cổ tích Nga; ngày thường, chàng dẫn nàng đi thăm thú thiên nhiên, đi nghe

hát, đi xem kịch, nàng vẫn tận hưởng với con mắt sành sỏi, nhưng nơi nàng thực sự muốn

111

đến, thực sự thoải mái và thích thú khi ở đó là tu viện, là nhà thờ. Với nàng, quán rượu

thật vô nghĩa: “Cứ hết quán rượu nọ đến quán rượu kia làm gì…”. Nàng thú nhận, những

ngày chàng không đến với nàng, không đưa nàng đến các hiệu ăn, nàng thường đến các

nhà thờ, nghe ca đoàn, hòa cùng giọng hát với họ. Với nàng, chàng không phải là mục

đích sống, mục đích sống của nàng là Đức Chúa: “Đức Chúa là đấng ngự trị cuộc sống

của con…” [16; tr. 548]. Bởi thế, nàng nhất quyết không chấp nhận làm vợ chàng. Có một

điểm đặc biệt trong suy nghĩ của nhân vật nàng, đó là, với nàng, nước Nga gắn liền với

các tu viện, thứ làm cho nước Nga chính là nước Nga là các tu viện: “Vậy mà giờ đây cái

nước Nga ấy chỉ còn lại trong những tu viện phương Bắc nào đó. Và cả trong những bài

ca ở nhà thờ nữa. Gần đây em có đến thăm tu viện Zatsatievski - ở đấy họ hát những bài

thánh vịnh thật tuyệt vời, anh không tưởng tượng được đâu! Thế mà ở tu viện Tsudovưi

lại còn tuyệt hơn cơ. Năm ngoái cứ đến Tuần Chịu nạn là em lên đấy suốt. Chao ôi, thích

thật đấy! Khắp nơi là nội cỏ, không khí quả là hiền dịu, trong lòng sao thấy êm ái, hiu hiu

buồn và lúc nào cũng cảm thấy tình quê hương, thấy cái cổ kính của đất nước…Trong nhà

chính tòa có bao nhiêu cửa đều mở ra hết, những người dân thường ra ra vào vào cả ngày,

suốt ngày người ta đều làm lễ… Ôi, nếu như em được đi biệt đến một tu viện nào đó, đến

một nơi cực kỳ thâm sơn cùng cốc nào đó, như Vologda hay Viatka chẳng hạn!” [16; tr.

553-554]. Điều đó cũng có nghĩa, để nói về cái gì đó Nga thật Nga, thì chính là tôn giáo,

ở đây là Chính Thống giáo với truyền thống tôn thờ Đức Mẹ, coi trọng Đức Mẹ, coi trọng

và tôn thờ phụ nữ, những người cứu rỗi bao dung và trinh trắng. Hành động của nhân vật

nàng trong tác phẩm rõ ràng đã được suy nghĩ sâu sắc và chuẩn bị kỹ càng. Trước khi trở

thành nữ tu, nàng đã dâng hiến cho chàng con người trần tục nhất của mình, đền đáp lại

tấm chân tình của chàng. Từ sau giờ phút ấy, thân thể nàng, tâm hồn nàng, con người

nàng thuộc về Chúa, và nàng là một con chiên thực sự của Chúa, của Đức Mẹ, nàng đi tu

để bảo vệ và cứu rỗi cho mọi người, cho nước Nga. Lí tưởng cao cả của nàng đưa nàng

trở thành một Thánh nữ - mang trong mình sức mạnh và quyền năng của Đức Mẹ.

Nhìn lại lịch sử văn học Nga, chúng ta thấy rất nhiều nhà văn Nga đã xây dựng

hình ảnh của những người phụ nữ - Thánh Mẫu. Họ có thể mang trong mình một hoặc cả

hai đặc điểm của Đức Mẹ: trong trắng, nhân hậu hoặc đau khổ, sầu muộn hoặc cả hai.

Hiện tượng này dường như đã thành một hệ thống trong văn học Nga từ xưa đến nay.

112

Chúng ta hãy nhớ đến Tachiana của Puskin và năng lực thức tỉnh của tính Nga thuần khiết

ở nàng với thế giới thượng lưu Nga, với ông chồng chức tướng già nua của nàng và đặc

biệt với Evgeni Onegin, nhớ đến Maria Bolkonskaya với tấm lòng bao dung của Đức Mẹ

trong Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy, nhớ đến Sonia với lòng đau khổ tột độ và

sự hi sinh cao cả cho Raskolnikov trong Tội ác và hình phạt, nhớ đến Olenka trong

Dusechka của Chekhov, nhớ đến tình cảm và những điều Lara đã làm cho Zhivago và

Pasha trong Bác sĩ Zhivago của Pasternak, nhớ đến Margarita trong Nghệ nhân và

Margarita của Bulgakov, Matriona trong Sân nhà Matriona của Solzhenitsyn, Sonia

trong Sonechka của Ludmila Ulitskaya... Tất cả họ đều mang những phẩm chất cao quý

của Đức Mẹ. Đối với những người đàn ông trong tác phẩm, họ dường như là Đấng Cứu

Rỗi. Còn những người đàn ông hết mực tôn thờ, yêu kính họ. Rõ ràng, trong một số tác

phẩm, ở một khía cạnh nào đó, họ đã trở thành niềm xác tín của những nhân vật nam

chính. Đối với người Nga, niềm tin rất quan trọng. Trở lại với truyện ngắn Bunin, niềm

tin chính là vũ khí giúp Nastasia Semionovna trong Cuộc đời tươi đẹp đạt được cuộc sống

lí tưởng như mình mong đợi: “Đời tôi vốn dĩ tươi đẹp, cái gì mong ước tôi cũng đều đạt

như sở nguyện. Này nhé, cả bất động sản tôi cũng có, - ngôi nhà thì ông già nhà tôi đã

sang tên cho tôi ngay sau ngày cưới rồi, - tôi lại có thêm mấy con ngựa, một đôi bò cái, và

chúng tôi lại còn có cả cơ ngơi buôn bán nữa kia”. [15; tr. 49]. Tuy nhiên, ở tác phẩm này,

Nastasia đã từ chối quyền năng cứu rỗi của mình với người con trai ruột và với cậu con

trai què quặt của nhà chủ cô đã từng làm thuê – người hết lòng yêu và tôn sùng cô để “cứu

rỗi” cuộc sống của chính mình: lấy chồng mới, hưởng một cuộc sống “bồng lai tiên cảnh”

hiếm có trong “thời buổi này”. Vậy là, các nhân vật nữ của Bunin đã được nhìn từ rất

nhiều góc độ khác nhau trong tác phẩm: từ góc độ thi pháp cho đến góc độ chức năng,

góc độ văn hóa, tôn giáo. Bunin đã cho thấy tình yêu với nước Nga một lần nữa qua

những hình tượng nhân vật này. Theo nhà nghiên cứu Phạm Gia Lâm trong cuốn Văn học

Nga hải ngoại: Quá trình – Đặc điểm – Tiếp nhận, những truyện ngắn của Bunin sau

Cách mạng tháng Mười đã được nâng lên một tầm cao mới khi hình tượng nước Nga

trong những truyện ngắn ấy không còn hiển hiện một cách trực diện mà đã ẩn sâu vào

mạch ngầm triết lí, gợi tham chiếu đến mẫu gốc Sofia (Nữ tính vĩnh hằng). Cũng qua việc

phân tích chi tiết tác phẩm Ngày thứ Hai chay tịnh nhà nghiên cứu khẳng định: “ý thức

113

nghệ thuật của Bunin đã bảo tồn được mối liên hệ với kí ức huyền thoại và lịch sử trong

nền văn hóa của dân tộc Nga” [47; tr. 250].

Như vậy có thể thấy trong những tác phẩm của mình Ivan Bunin luôn khắc khoải

về những người phụ nữ Nga – những người mang trong mình vẻ đẹp bất tử của Đức Mẹ,

từ cái đẹp gợi cảm bên ngoài đến cái đẹp phảng phất màu sắc tôn giáo trong tâm hồn. Với

Bunin, rõ ràng những người phụ nữ Nga chính là biểu tượng đầy sức gợi về sự thuần

khiết, về sự cứu rỗi, về nỗi sầu muộn hạnh phúc rất đỗi tự nhiên nhưng cũng mang màu

sắc tuân phục rất rõ. Vẻ đẹp nữ mang đậm màu sắc Chính Thống giáo ấy khác hoàn toàn

với vẻ đẹp nồng nàn quyến rũ rất đời của những nhân vật nữ trong văn học Pháp (Balzac,

Hugo, Flaubert) hay vẻ đẹp Khả Ái chỉ để chiêm ngưỡng của những nhân vật nữ trong

văn học Nhật (Kawabata, gần đây là Banana). Đó là sự khác biệt về triết lí văn hóa, về đời

sống tôn giáo chủ đạo và cả về cảm quan tâm hồn của mỗi nhà văn.

Tiểu kết chương 3:

Bunin là một nhà văn đặc biệt trong cách cảm nhận và tái hiện thế giới. Cách cảm

nhận ấy trước hết thể hiện qua điểm nhìn và các dạng thức biểu hiện của các chủ thể trữ

tình – người kể chuyện toàn tri “thâu tóm” cảm xúc hay người kể chuyện ngôi thứ nhất

“trải nghiệm” cảm xúc. Cách cảm nhận ấy còn thể hiện qua sự lựa chọn hệ qui chiếu vào

những đối tượng xúc cảm, đối tượng trữ tình thể hiện vẻ đẹp vừa cụ thể cảm tính vừa

thiêng liêng, cao cả. Trong vô vàn những sự vật hiện tượng, trong vô vàn những con

người đã gặp trên đường đời các chủ thể trữ tình trong truyện ngắn Bunin chỉ đau đáu

hướng về nước Nga, thiên nhiên Nga, con người Nga, đặc biệt là những người phụ nữ ông

từng gặp, từng rung động, từng yêu, từng say mê. Tính trữ tình trong truyện ngắn của

Bunin trước hết biểu hiện qua những cảm xúc dạt dào về nước Nga với thiên nhiên đẹp

như tranh vẽ, với những sự vật mang ý nghĩa biểu tượng giàu giá trị hoài niệm và những

người phụ nữ Nga yêu kiều, quyến rũ với tình yêu và tâm hồn cứu rỗi. Phảng phất sau

hình dung về các chủ thể trữ tình và đối tượng xúc cảm của họ, chân dung nhà văn hiện

lên như một con người tình cảm, tinh tế, luôn sống với quá khứ trong hoài niệm và gắng

lưu giữ ý niệm về cái đẹp, tình yêu, tâm hồn trong sáng, lí tưởng như những giá trị vĩnh

cửu.

114

CHƢƠNG 4

CỐT TRUYỆN TRỮ TÌNH VÀ CẢM THỨC BI HOÀI

Trong văn xuôi trữ tình, bề mặt sự kiện của cốt truyện thường có khuynh hướng

suy yếu, nhường chỗ cho dòng xúc cảm, tâm trạng, suy tưởng. Truyện ngắn Bunin, dù là

viết về tình yêu, cái chết hay đơn giản chỉ là tái hiện thiên nhiên thì tất cả đều được hiện

lên trong cảm xúc và bằng cảm xúc. Cảm xúc chi phối cách nhà văn lựa chọn chi tiết, sự

kiện, cảm xúc len lỏi trong từng tình tiết của cốt truyện. Nói cách khác, Bunin coi trọng

sự kiện tinh thần với những biến động về tâm trạng hơn là sự kiện thực tế với những diễn

biến thông thường. Thế giới tự sự - trữ tình trong truyện ngắn Bunin được cấu thành từ

những mô thức cảm xúc – sự kiện, thể hiện khuynh hướng tổ chức cốt truyện tâm trạng.

Thế giới của những truyện kể trữ tình Bunin toát lên cảm thức bi hoài (elegism,

элегическое). Cảm thức bi hoài chi phối mọi xúc cảm trữ tình trong truyện ngắn Bunin,

xuyên suốt thế giới nghệ thuật của nhà văn, quyết định khuynh hướng thể loại cho sáng

tác của ông.

4.1. Những mô thức cảm xúc – sự kiện

Đọc Bunin, chúng tôi nhận thấy sự tương đồng thú vị giữa một hoặc một vài cảm

xúc chủ đạo với những khung sự kiện nhất định hay những cách thức tổ chức dòng sự

kiện trong truyện ngắn của nhà văn Nga này. Chúng tôi gọi sự tương đồng giữa những

dòng cảm xúc – sự kiện đó là những mô thức cảm xúc – sự kiện.

4.1.1. Cảm xúc tiếc nuối – dòng chảy hoài niệm

Bunin là nhà văn tôn thờ cái đẹp, trong mỗi sáng tác, ông đều muốn lưu giữ những

nét đẹp ấy, để nó được sống cuộc sống vĩnh cửu của mình. Ở xa quê hương, nhà văn tiếc

nhớ rất nhiều thứ: vẻ đẹp đã qua giờ chỉ còn vang bóng của chốn thôn quê, những điền

trang Nga, sự lạc quan, vô tư lự của những người dân Nga hồn hậu, cái đẹp rực rỡ thanh

xuân của những cô gái tuổi đôi tám, mối tình đẹp đẽ mà câm nín và thậm chí là cảm giác

hối hận tiếc nuối vì đã vô tình giết chết cái đẹp… Và những cảm xúc tiếc nuối này đều

đến từ những câu chuyện viết về nỗi hoài nhớ quá khứ qua hồi tưởng của nhân vật.

Những tác phẩm tiêu biểu cho mô thức cảm xúc này có thể kể đến: Những quả táo

115

Antonov, Những giấc mộng của Trang, Meliton, Bà lão, Galia Ganskaya, Ida, Ở một phố

thân quen, Canh khuya, Mối tình đầu, Quán trọ ven sông…

Những quả táo Antonov là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Bunin.

Cả tác phẩm là hành trình trở về “nước Nga cổ xưa” trong tâm tưởng của nhân vật tôi.

Truyện được Bunin chia làm bốn phần, gắn liền với hình dung về nước Nga nông thôn

trong kí ức của tôi. Trong bốn phần của truyện, có đến ba phần nhà văn dành để miêu tả

nước Nga của quá khứ với những nét đẹp thiên nhiên và sinh hoạt văn hóa một thời đã

qua: “Tôi hồi tưởng lại một mùa thu sớm, đẹp trời…”. Trong phần thứ tư, một nước Nga

khác – nước Nga của hiện tại được tái hiện đầy chân thực, từ cảm giác và bằng cảm giác:

“Trong trang trại của các điền chủ nay đã không còn mùi thơm của táo Antonov nữa rồi”.

Rõ ràng, trong tác phẩm, có một thế giới của quá khứ - hồi tưởng và một thế giới của hiện

tại – nay. Mô hình hai thế giới đã xuất hiện và bước đầu đóng đinh phong cách của Bunin.

Tuy nhiên, cả quá khứ và hiện tại, thực tế đều được tái hiện qua bộ lọc kí ức của tác giả.

Vì thế cho nên ở một khía cạnh nào đó những truyện ngắn được viết từ hồi tưởng của tác

giả được coi là những truyện ngắn dòng chảy hoài niệm.

Thế giới tác phẩm là thế giới Nga cổ xưa. Nhà văn ưu ái những gì thuộc về quá

khứ. Câu chuyện mà nhân vật tôi của Bunin kể đều là những ấn tượng trôi theo dòng kí

ức. Có những câu chuyện diễn ra trong kí ức đơn giản, nhưng cũng có những câu chuyện

được hồi tưởng từ chính sự hồi tưởng của kí ức đơn giản ấy (Khung cảnh thiên nhiên,

cuộc sống sinh hoạt ở trang trại của bà dì Anna Gherasimovna được miêu tả là một cuộc

sống yên bình, trầm lặng. Cuộc sống ấy, theo tôi, là cuộc sống gợi nhắc chế độ nông nô đã

qua từ lâu. Như vậy, kí ức được tái hiện hai lần – kí ức trong kí ức). Thế giới qua hồi

tưởng hiện ra thật đẹp, một vẻ đẹp thanh bình, trầm tĩnh. Có âm thanh, có sự náo nhiệt

(cuộc đi săn cùng đoàn người anh vợ Akseni Semenưts) nhưng qua bộ lọc của tác giả

những thanh âm náo nhiệt ấy bỗng dịu lại, yên ả để thản nhiên hòa vào dòng kí ức. Ở

phần thứ tư, cũng là phần cuối cùng của tác phẩm, thế giới ―thực tại‖ đối lập hoàn toàn

với thế giới quá khứ ở những phần trước cũng đã được vẽ lại chân thực: sự nghèo đi,

những sinh hoạt đã ít náo nhiệt hơn, tiếng hát trầm buồn... Và trong những hoài nhớ của

tác giả, dù ở phần nào, hình ảnh những quả táo Antonov, hương thơm của táo – hương

thơm của quá khứ cứ vấn vương, trở đi trở lại. Có thể nói, hình ảnh táo Antonov, hương

116

thơm của táo Antonov đã trở thành sợi chỉ đỏ kết nối hai thế giới và các phần của thế giới

ấy trong tác phẩm.

Mô hình hai thế giới trong dòng chảy hoài niệm không chỉ xuất hiện trong Những

quả táo Antonov mà hiện hữu trong rất nhiều các tác phẩm khác của Bunin. Và cũng

giống như Những quả táo Antonov, hai thế giới trong tác phẩm của Bunin không phải là

thế giới vật chất hiện hữu cụ thể, mà là thế giới của tâm tưởng. Đó là không gian được tái

hiện lại qua trí nhớ và bằng trí nhớ. Không gian ấy kết nối với nhau một cách logic trên

một hành trình không đứt quãng. Có thể kể đến hành trình khám phá tâm hồn bí ẩn và

trầm lặng của người gác rừng Meliton hay hành trình trở về thăm lại nước Nga trong đêm

của tôi trong Canh khuya.

Nếu dòng chảy hoài niệm trong Những quả táo Antonov và Những giấc mộng của

Trang, Bà lão… có sự đan xen của hai thế giới quá khứ - thực tại thì trong những tác

phẩm như Ida, Tanhia, Galia Ganskaya, Rusya,… dường như thực tại chỉ là cái cớ, là

điểm tựa của quá khứ. Và chính câu chuyện của quá khứ mới là thứ gây thương nhớ, gợi

xúc cảm với người đọc. Câu chuyện về Galia Ganskaya của ông họa sĩ trong tác phẩm

cùng tên là sự hối hận vô cùng về một câu chuyện tình xảy ra đã lâu, khi ông họa sĩ vẫn

còn là một chàng họa sĩ trẻ tài năng, bồng bột và khao khát xê dịch. Với ông, đó đã là một

“chuyện xa xưa lắm rồi”, đến nỗi có thể kể lại một cách hoàn toàn cởi mở, nhưng rõ ràng,

câu chuyện về cô bé Galia cứ day dứt trong ông để mỗi khi mùa xuân đến, dù đang ở

Paris ông lại nghĩ về Odessa, nghĩ về Odessa thì câu chuyện về Galia lại hiện về, ám ảnh.

Cái chết của cô gái trẻ Galia như một kí ức đau buồn khoét sâu vào sự hối hận của người

họa sĩ. Cũng giống như Galia, Rusya ở lại trong miền nhớ của nhân vật nam trên chuyến

tàu để rồi khi tàu lướt qua vùng đất ấy, những kí ức lại ùa về, trong sáng, đẹp đẽ. Nỗi nhớ

xen lẫn niềm tiếc nuối về mối tình đẹp nhất, người con gái đẹp nhất đã sống dậy trong kí

ức chàng trai. Hiện tại được tái hiện qua cuộc đối thoại không dài, chỉ là cái phông nền

của kỷ niệm và tâm trạng. Hóa ra, nhân vật anh chàng gia sư thời trẻ bồng bột, táo bạo và

“nhút nhát, yếu đuối” với suy nghĩ về mối tình nơi điền trang là cuộc dạo chơi tình cảm

thì đến khi trưởng thành lại là một người chững chạc, chín chắn và luôn trân trọng những

kí ức đẹp của quá khứ. Hóa ra, mối tình thoáng qua ấy, người con gái biệt thự thời ấy lại

chính là người con gái duy nhất anh yêu. Hiện tại trong Tanhia là những lời thú nhận thật

117

lòng của anh chàng tiểu chủ đa tình về quá khứ tình trường oanh liệt: “Vào thuở xa xưa

ấy, anh thường phung phí bản thân một cách vô tâm, sống lang bạt đây đó, có nhiều mối

quan hệ tình ái và những cuộc gặp gỡ tình cờ - và anh cũng đã xếp mối quan hệ tình cảm

giữa anh và nàng vào loại ấy.” [19; tr. 111]. Tuy nhiên, nếu như người họa sĩ, nhạc sĩ và

người gia sư biệt thự khi xưa luôn tiếc nuối, day dứt về những sự việc đã xảy ra, về những

tháng ngày hạnh phúc đã qua thì chàng tiểu chủ Piot Nhikolaich lại bình thản kể về câu

chuyện tình của mình. Trong câu chuyện ấy, có niềm thương mến với cô gái nông dân bé

nhỏ Tanhia, có cả “lòng biết ơn thú vật” đối với niềm hạnh phúc bất ngờ mà Tanhia đã

trao cho chàng. Có lẽ, câu chuyện hạnh phúc lứa đôi với cô gái nông dân cũng để lại trong

anh chàng đào hoa những cảm xúc khó phai. Bởi trong câu chuyện, Piot nhiều lần nhắc

đến hương thơm đặc biệt của cô gái, thứ đã quyến rũ anh, khiến anh nhớ mãi. Đó là

hương táo thơm, hương đồng quê toát ra từ người nàng. Trong câu chuyện không hề có

một từ tiếc nuối, day dứt, nhưng có lẽ, xúc cảm nuối tiếc một thời tuổi trẻ nhiều chiến tích

cũng là xúc cảm của Piot Nhikolaich mỗi khi nhớ về.

Vậy là, dòng chảy hoài niệm chính là dòng chảy của cảm xúc nhớ nhung, tiếc nuối,

thậm chí day dứt của những nhân vật nam mỗi khi vô tình hay hữu ý được gợi nhắc tới kỷ

niệm. Hoài niệm là phương thức hữu hiệu lưu giữ lại những vẻ đẹp của quá khứ, những

mối tình đẹp mà phải đến khi đánh mất nó người ta mới nhận ra. Dòng chảy quá khứ

trong tác phẩm của Bunin là dòng chảy lưu giữ những vẻ đẹp vĩnh cửu của nước Nga, của

những người phụ nữ Nga, của những trái tim Nga yêu đương say đắm.

4.1.2. Cảm xúc mãnh liệt – khoảnh khắc “hiện tại”

Truyện ngắn khoảnh khắc là truyện ngắn lấy cơ sở là một sự kiện, một thời điểm,

một thời khắc ngắn ngủi của các nhân vật. Đó là thời “hiện tại” của tác phẩm, câu chuyện

xảy ra với nhân vật được người kể chuyện hoặc chính nhân vật kể lại ngay tại thời điểm

nó xảy ra. Và cũng bởi thời điểm của truyện kể là thời hiện tại nên tất cả những cung bậc

cảm xúc trong những tác phẩm này đều ở cấp độ mãnh liệt nhất: yêu mãnh liệt, buồn vô

hạn, giận hờn ghê gớm…Đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Vera và Storesnhev trước khi

hai người chính thức xa nhau, là thời khắc chia tay tổ ấm đã gắn bó từ bao đời của bác

quý tộc Voeikov - thời khắc bác thị dân Rostovsev tiếp nhận tổ ấm quý tộc ấy, là thời

118

khắc nhân vật tôi trong truyện ngắn Canh khuya không thể quên, đã nhớ và kể lại, là phút

giây ái ân nồng cháy của chàng trung úy và nhân vật nàng trong Say nắng, của nhà văn trẻ

và người thiếu phụ trong Những tấm danh thiếp, là giây phút Klara đồng ý “làm quen”

với Irakly Meladze để rồi chỉ rất nhanh sau đó nàng chết và chàng trai bị bắt khi trên

đường bỏ trốn về quê… Trong những thời khắc ấy nhân vật khóc, cười, yêu, ghét và bộc

lộ tâm trạng, thái độ, tình cảm cũng như suy nghĩ của mình.

Những khoảnh khắc cảm xúc mãnh liệt của các nhân vật trong truyện ngắn của

Bunin, theo khảo sát của chúng tôi chủ yếu là những khoảnh khắc tình yêu. Và những tác

phẩm xuất sắc nhất được xây dựng trên cơ sở khoảnh khắc tình yêu đều là những sáng tác

sau Cách mạng tháng Mười: Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối, Những tấm danh thiếp,

Klara, Ở Paris, Mẹ đỡ đầu, Một truyện tình nho nhỏ…và đặc biệt là Say nắng. Một cuộc

gặp gỡ ngắn ngủi, một đêm hè say mê, yêu và được yêu để rồi biết rằng sẽ không bao giờ

tìm lại được tình yêu ấy, có lẽ là nỗi buồn khôn xiết của một cuộc hành trình tình yêu đã

được thu ngắn lại. Khi nàng ra đi, cảm xúc thiếu vắng tràn ngập tâm hồn chàng, chế ngự

con tim chàng, không cho chàng một phút giây yên ổn nào, chàng đi khắp nơi trong thị

trấn nhỏ nhưng không thể nguôi ngoai nỗi nhớ nàng. Sự nhớ nhung, căng thẳng trong

chàng đã ở mức cao nhất: “Anh cởi bỏ bộ quân phục rồi nhìn vào gương: khuôn mặt anh,

- như bao khuôn mặt sĩ quan bình thường khác, đen xạm đi vì nắng, có bộ ria mép khô

cứng vì nóng, đôi mắt xanh biếc, dường như sáng thêm bên nước da sạm nắng, giờ đây lộ

rõ những nét căng thẳng điên dại” [16; tr. 282]. Thời gian của câu chuyện kéo dài có một

ngày một đêm mà qua tâm trạng nhớ nhung, thiếu vắng quay quắt của chàng trung úy

tưởng như “mười năm đã trôi qua”: “Viên sĩ quan lặng ngồi trong căn phòng trống trải

bốn phía trên boong tàu và anh cảm thấy mình già thêm chục tuổi” [16; tr. 284]. Bunin để

cho nhân vật trải nghiệm hạnh phúc và khổ đau chỉ trong một cuộc gặp ngẫu nhiên, phải

chăng ông muốn con người sống phải biết trân trọng những phút giây hiện tại, trân trọng

những phút được yêu, được sống, trân trọng những gì ngắn ngủi nhưng đẹp đẽ? Triết lí về

tình yêu và sự tồn tại được gửi gắm qua một truyện ngắn xinh xắn thật sâu sắc. Rõ ràng,

những phút giây được yêu, được hạnh phúc dù ngắn ngủi cũng là những phút giây khiến

người ta không thể nào quên. Những phút giây ấy đến một lúc nào đó sẽ thực sự trở thành

niềm tin và lẽ sống cho cả cuộc đời con người. Trong Chiếc đu, khoảnh khắc tình tự trong

119

ánh trăng chiều chính là khoảnh khắc hạnh phúc ngập tràn của hai nhân vật chính: “Phải,

dường như trong đời em sẽ không khi nào có được hạnh phúc hơn buổi chiều nay…” [16;

tr. 574].

Vậy là qua những truyện ngắn của mình, Bunin đã cho thấy sức mạnh lớn lao của

khoảnh khắc trong cuộc đời con người. Những khoảnh khắc ấy là thứ có sức mạnh vô

biên, có sức sống vĩnh cửu, đủ để cứu vớt tâm hồn, thậm chí cứu vớt cả cuộc đời. Trong

những khoảnh khắc ngắn ngủi và bất ngờ ấy, con người bột phát những trạng thái tình

cảm mạnh mẽ nhất, tự nhiên nhất, chân thực nhất. Ghi lại những khoảnh khắc của cuộc

đời bằng nghệ thuật ngôn từ, Bunin cũng giống như các nhà họa sĩ ấn tượng lưu giữ

những khoảnh khắc tuyệt đẹp của thiên nhiên, con người bằng cây cọ; giống như những

nhạc sĩ thiên tài lưu giữ một nét thanh âm độc nhất vô nhị của cuộc sống bằng nốt nhạc.

Tất cả đều hướng tới một tôn chỉ duy nhất: sống hiện sinh để được vĩnh cửu.

4.1.3. Cảm xúc “an phận” – vòng đời “tĩnh lặng”

Chúng tôi gọi những tác phẩm viết về cuộc đời, số phận của các nhân vật chính

theo một trật tự tuyến tính hầu như không đan xen quá khứ, hiện tại, không có sự kiện gây

đột biến tạo ra bước ngoặt cho câu chuyện là những tác phẩm được viết theo mô hình sự

kiện dòng chảy cuộc đời. Trong những câu chuyện này hầu hết các nhân vật đều an phận

và bằng lòng với cuộc đời của mình, dù cuộc đời ấy với một số người không được như ý

họ. Tiêu biểu cho mô hình này của Bunin là những truyện ngắn: Cuộc đời tươi đẹp, Cỏ

gầy, Chiếc cốc đời, Mùa thu lạnh, Con quạ,…

Trong Cuộc đời tươi đẹp, những sự kiện của cuộc đời nữ nhân vật chính được kể

lại một cách liền mạch theo đúng diễn trình thời gian: khi còn nhỏ ở với bố, khi đã trở

thành thiếu nữ mong muốn lấy được một ông chồng thị dân, khi chồng chết một mình đi

làm thuê tìm kế sinh nhai, khi đã thành bà chủ và khi lấy được người chồng thứ hai. Cuộc

đời của Nastasia cứ êm đẹp diễn ra theo đúng kế hoạch và sự tính toán của người phụ nữ

nhanh nhẹn, thông minh và thực dụng này. Mạch truyện gần như không có xáo trộn và

những biến cố đặc biệt. Có chăng là những khoảnh khắc xao lòng của nữ nhân vật chính

trước cái chết của các nhân vật nam: cái chết của cậu con trai thứ hai nhà chủ, sự mất tích

120

của đứa con trai ruột. Tuy nhiên, đúng như nhan đề câu chuyện, Cuộc đời tươi đẹp là một

dòng chảy êm đềm, tĩnh lặng của một nhân vật biết tự làm chủ số phận của mình.

Cũng là dòng chảy cuộc đời, nếu như Nastasia của Cuộc đời tươi đẹp biết tự làm

chủ số phận mình thì các nhân vật Xelikhov, cha Kiro, bà lão Sanhia trong Chiếc cốc đời

và nhân vật Averki của Cỏ gầy lại hoàn toàn thụ động và chờ đợi số phận. Họ được miêu

tả là những người già cả, đã trải qua hầu hết những biến cố cuộc đời: từ khi còn là thanh

niên “mải mê chinh chiến và yêu đương”, khi lấy vợ và có cơ ngơi riêng của mình cho

đến khi già lão, chuẩn bị nhắm mắt xuôi tay và thời điểm từ giã cõi đời. Mỗi người họ khi

đến với cuộc đời đều mong muốn một cuộc đời nhàn hạ, sung sướng, vui vẻ. Có người

trong số họ đạt được nguyện ước, cũng có người trong số họ vẫn mang nặng suy tư,

nhưng điểm chung là họ chấp nhận số phận, chấp nhận sự an bài của Chúa như thể đó là

điều bất khả kháng. Qua những câu chuyện ấy, Bunin khẳng định: cuộc đời mỗi người là

một chiếc cốc, có mật ngọt hay không, có chứa đựng hạnh phúc hay không mỗi người tự

quyết định. Bởi thế, họ cần biết trân trọng chiếc cốc đời của mình. Khi mật ngọt – lạc thú

của cuộc đời không còn có ý nghĩa gì với họ thì cuộc đời của họ sẽ chấm dứt. Bởi thế, cái

chết của họ không tạo ra biến cố hay bước ngoặt trong câu chuyện, nó là sự kết thúc của

một vòng đời tuần hoàn mà con người sẵn sàng chấp nhận.

Trong văn học Nga, Bunin được coi là người kế tục truyền thống hiện thực của

Lev Tolstoy và Anton Chekhov. Những truyện ngắn dòng đời như Chiếc cốc đời gợi

người đọc nhớ tới Bộ ba nhỏ - Người trong bao, Khóm phúc bồn tử, Về tình yêu của

Chekhov. Tuy nhiên, cùng là miêu tả cuộc đời nhân vật với những sự kiện thường nhật

cũng như cái chết của anh ta nhưng truyện ngắn của Chekhov mang đậm màu sắc kịch

tính và tính chất giễu cợt, phê phán, cảnh tỉnh xã hội (Người trong bao) còn truyện ngắn

của Bunin hầu như tác giả không bộc lộ thái độ của mình, các sự kiện của cuộc đời cứ thế

diễn ra, số phận của nhân vật được định đoạt bởi một thế lực vô hình, triết lí nhân sinh

cũng như tư tưởng của tác giả phần lớn do nhân vật tự nhận ra, hoặc được toát ra từ số

phận nhân vật. Kết thúc tác phẩm cùng là cái chết nhưng cái chết trong truyện ngắn của

Chekhov gợi ra bi kịch, đọng lại trong tác phẩm là nỗi buồn, sự day dứt còn trong truyện

ngắn của Bunin, cái chết không gợi cảm giác bi lụy mà tự nhiên như một sự kiện đời

thường. Trong cách kể về cái chết vẫn có niềm hi vọng, sự lạc quan, vẫn chan chứa cảm

121

xúc trữ tình về con người và cuộc đời. Những truyện ngắn dòng chảy cuộc đời như thế

này trong sáng tác của Bunin, nhất là những sáng tác sau Cách mạng không nhiều trong

đó Mùa thu lạnh là tác phẩm tiêu biểu nhất.

Mùa thu lạnh bắt đầu bằng câu chuyện tình của một đôi trai gái đã đính ước chuẩn

bị đến ngày cưới. Tuy nhiên, khi quân Đức tuyên chiến với Nga, chàng trai tình nguyện ra

trận. Ngày lên đường vào cuối tháng Chín, còn đám cưới thì được ấn định vào mùa xuân.

Không ai can thiệp vào quyết định của chàng trai, không ai tỏ bày ý kiến, cô gái cũng

không níu kéo chàng trai của mình, bố mẹ cô gái cũng không sốt ruột cho con gái họ.

Dường như với họ, quyết định của chàng trai là một lẽ tự nhiên, và họ chấp nhận việc có

thể chàng trai sẽ không bao giờ trở về bởi chiến tranh quá khốc liệt. Chàng trai buồn bã

chia tay người yêu, trong lòng vang lên câu hỏi: “Nếu như anh chết, dù sao em sẽ không

quên anh ngay chứ?”. Cô gái sợ hãi với ý nghĩ “Nếu như anh chết thật thì sao? Và lẽ nào

trong một thời gian ngắn nào đó sẽ quên anh – dù sao thì tất cả cuối cùng rồi cũng lãng

quên?”, cô khẩn nài anh đừng nói đến cái chết bởi nếu anh chết, cô gái sẽ không chịu

đựng nổi. Tuy nhiên, chàng trai đã rất bình thản dặn dò cô gái: “Anh chợt lặng im rồi từ

tốn nói: - Thôi được, nếu anh chết, anh sẽ đợi em ở đó. Em hãy sống và sống thật vui trên

thế gian này, rồi sau đó hãy đến với anh.” [16; tr. 568]. Một tháng sau ngày lên đường,

chàng trai hi sinh. Nhà văn bình thản kể về cuộc đời cô gái ba chục năm sau với rất nhiều

sự kiện, với “rất nhiều những cảm xúc trong những năm tháng đó, có cảm tưởng sao lâu

đến thế, khi ta chủ ý nghĩ về chúng, hồi tưởng lại trong kí ức tất cả những gì kỳ diệu, mơ

hồ, không thể nhận thức bằng trí óc hay trái tim, cái đó gọi là quá khứ.” Đến ngày trở về

với Chúa, cô lại hạnh phúc vì tin rằng ở nơi xa xưa kia, người chồng chưa cưới thuở xưa

vẫn đang đợi mình: “Và tôi tin, một niềm tin cháy bỏng, rằng ở một nơi nào đó anh vẫn

đang đợi tôi, với tất cả tình yêu và tuổi trẻ thuở nào, như trong chiều thu lạnh lẽo ngày

xưa.” [16; tr. 570].

Tuy nhiên, như đã khẳng định, nhà văn của tình yêu Bunin coi trọng hơn những

khoảnh khắc, những ấn tượng, những cảm giác của nhân vật. Bởi thế cho nên, trong

những truyện ngắn dòng chảy cuộc đời sau Cách mạng tháng Mười của Bunin, vẫn có

những khoảnh khắc không thể nào quên, những khoảnh khắc cứu rỗi cả cuộc đời của nhân

vật chính. Trong Mùa thu lạnh, đó là khoảnh khắc buổi chiều thu bên nhau trước ngày

122

chia tay chàng trai ra chiến trường. Sau này, khi đã trải qua biết bao biến cố cuộc đời, trải

qua những vui, buồn… người con gái ấy vẫn khẳng định sức mạnh tinh thần mãnh liệt của

buổi chiều thu lạnh. Đó là tất cả những gì cô có trong cuộc đời: “Nhưng, hồi tưởng lại tất

cả những gì tôi đã trải qua từ bấy đến giờ, tôi luôn tự hỏi mình: ừ nhỉ, dẫu sao thì mình đã

có cái gì trong cuộc đời? Và tôi tự trả lời: chỉ có mỗi buổi chiều thu lạnh ấy.” [16; tr.

571]. Cũng giống như người con gái trong Mùa thu lạnh, với nhân vật nàng trong Một

truyện tình nho nhỏ, khoảnh khắc dạo bước bên nhân vật tôi trong rừng một buổi chiều

mưa với cái hôn hạnh phúc thực sự đã trở thành khoảnh khắc hạnh phúc nhất đời của cô

gái, cuộc đời mà cô coi như đã bỏ đi bởi cô phải lấy người mà mình không yêu. Nụ hôn,

cái nắm tay, sự tình tứ trong buổi chiều mưa ấy là ánh sáng duy nhất trong cuộc đời đau

buồn, ốm đau, tẻ nhạt bên người chồng cô căm ghét nhưng không đủ dũng cảm để từ bỏ.

Thực tế, có thể nói, đây cũng chính là nét đặc sắc nhất của truyện ngắn Bunin so với

truyện ngắn của những nhà văn trữ tình cùng thời với ông như Kuprin, Paustovsky

(Kuprin thiên về những truyện ngắn mang phong cách quý tộc hoặc cổ tích; Paustovsky

viết nhiều về những huyền thoại đời thường). Dù thế nào chăng nữa, ấn tượng đọng lại

trong những truyện ngắn vòng đời “tĩnh lặng” của Bunin vẫn là những xúc cảm bình lặng

về những nhân vật cam chịu, an phận, bằng lòng với số mệnh mà không dám đấu tranh

chống lại nó. Và Bunin, dường như qua những câu chuyện ấy một lần nữa cho thấy cái

tạng của mình, bóng dáng của mình – một nhà văn khát khao được trở về Tổ quốc, nhưng

không đủ sức mạnh và dũng khí để trở về.

4.1.4. Vòng tuần hoàn cảm xúc - sự kiện

Trong những sáng tác của Bunin, dòng sự kiện dường như tĩnh tại, êm đềm, ít đột

biến và cảm xúc của người đọc đối với tác phẩm ấy về cơ bản không có sự thay đổi. Tuy

nhiên trong một số truyện ngắn, những xúc cảm của người đọc được biến đổi theo sự biến

đổi của dòng chảy sự kiện: trước và sau khi sự kiện đột biến trong tác phẩm xảy ra, nhân

vật, và cả người đọc đã có sự thay đổi trong cảm xúc, trong cách nhìn nhận về nhân vật.

Nếu trong Những quả táo Antonov, mô hình trần thuật hai thế giới là điểm sáng

chủ đạo thì trong Quý ông từ San Francisco đến, các sự kiện lại được sắp xếp theo một

chuỗi vòng tuần hoàn: tĩnh tại – đột biến – tĩnh tại. Nếu trong Những quả táo Antonov,

123

cảm xúc chủ đạo trong tác phẩm là hoài niệm, nhớ nhung, tiếc nuối thì trong Quý ông từ

San Francisco đến cảm xúc của nhân vật đã có sự biến đổi từ vui vẻ, sung sướng, ngập

tràn hi vọng sang đau khổ, buồn tủi, thất vọng tràn trề. Người đọc cũng đi từ cung bậc hồi

hộp đến bất ngờ trước cái chết của vị thương gia và cảm xúc hụt hẫng pha chút thương

cảm khi kết thúc câu chuyện.

Sự kiện chính của truyện ngắn là chuyến du lịch của gia đình vị quý ông đến từ

San Francisco. Vì thế câu chuyện sẽ được trình bày dưới dạng thức của chuyến đi – sự

phiêu lưu, hứa hẹn sự thú vị. Người đọc tuy được giới thiệu trước về hành trình của nhân

vật khá dài ngày và hấp dẫn: sang châu Âu, châu Á, châu Phi rồi quay trở về châu Mĩ

nhưng sự vận động của không gian và thời gian của chuyến đi lại dễ dàng làm cho họ thất

vọng. Chuyến đi chỉ dừng lại ở một điểm là nước Ý rồi nhanh chóng đến điểm cuối –

châu Mĩ. Trong cả chuyến đi dài ngày ấy, dường như không có điểm nhấn, không có kịch

tính, không có biến động trong các sự kiện. Tất cả chỉ dừng lại ở một vài hành động lặp đi

lặp lại: ăn, ngủ, trang điểm, đi dạo, khiêu vũ, chơi bài… Những hành động này không chỉ

lặp đi lặp lại trên chuyến tàu từ châu Âu sang châu Mĩ mà còn lặp đi lặp lại khi cả gia

đình ba người của vị quý ông đến từ San Francisco đặt chân lên nước Ý. Gần như không

có một biến cố nào khác xen vào chuỗi sự kiện đã được xác định trước đó. Chính vì thế,

nhịp điệu trần thuật diễn ra vô cùng chậm rãi, buồn tẻ. Bởi vậy, chúng tôi gọi những sự

kiện trong Quý ông từ San Francisco đến là sự kiện tĩnh tại. Từ tĩnh tại cần phải hiểu theo

nghĩa “sự chậm rãi, gần như không có biến động, không có kịch tính”.

Sự kiện bao trùm tác phẩm là nhịp sinh hoạt đều đặn xoay quanh việc ăn, chơi, du

ngoạn của gia đình ba người trong những không gian khép kín: trên tàu, trong khách sạn.

Ngay cả khi đến Capri - thiên đường nước Ý với thời tiết tuyệt đẹp mọi thứ vẫn không

thay đổi. Ở Capri, các nhân vật đến từ nước Mĩ cũng được đón tiếp như những vị thượng

khách, họ ở trong những căn phòng dành cho vua chúa với rất nhiều người phục vụ. Họ

ăn trong phòng ăn lộng lẫy tại khách sạn và chờ đón màn vũ hội sôi động của những vũ

công nổi tiếng nhất nước Ý bấy giờ. Như vậy, chúng ta thấy rằng, không gian tuy có sự

thay đổi về mặt địa lí nhưng tính chất thì không thay đổi. Vẫn là không gian khép kín, bó

buộc nhân vật vào tính chất sang trọng của nó và hầu như không có sự giao hòa với thiên

nhiên. Bởi thế cho nên, chúng tôi gọi không gian trong tác phẩm là không gian đóng

124

khung, không gian tĩnh tại (về bản chất không thay đổi). Đấy cũng là một trong những lí

do khiến chúng tôi nhận định tính chất của sự kiện trong tác phẩm là sự kiện tĩnh tại.

Duy nhất trong tác phẩm có một biến cố xảy đến khiến người đọc sững sờ. Biến cố

ấy khiến cho mạch không gian, thời gian tuần hoàn của những sự kiện ăn, chơi, nghỉ gắn

với gia đình ba người đến từ Mĩ bị dừng lại. Cái chết của vị quý ông sau chuyến đi bão

táp từ Napoli đến Capri đã làm đảo lộn tất cả. Nếu trước kia ông được trọng vọng thì giờ

chiếc quan tài của ông chịu nhiều nỗi nhục nhã khi phải lang thang từ bến cảng này đến

bến cảng khác để trở về Thế giới mới. Sự kiện này được coi như một bước đột biến làm

thay đổi tính chất không, thời gian và thái độ của các nhân vật khác trong tác phẩm. Bởi

thế, chúng tôi gọi đó là sự kiện đột biến.

Như vậy, trong tác phẩm có hai loại sự kiện gắn với hành trình rất dài của nhân vật

chính. Sự kiện tĩnh tại gắn với chu trình ăn – chơi – nghỉ của quý ông đến từ San

Francisco và sự kiện đột biến là cái chết của ông. Hai sự kiện này diễn tiến theo trình tự

thời gian tuyến tính và được kể lại bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ ba, người đứng

ngoài và nắm bắt toàn bộ câu chuyện cũng như thái độ, cách đánh giá của các nhân vật

khác trong tác phẩm về nhân vật chính. Sự biến đổi không, thời gian theo sự biến đổi của

sự kiện cho thấy tính thống nhất trong tác phẩm. Thông qua đặc trưng này, người đọc

nhận ra quan niệm của Bunin về trần thuật gắn liền với đặc điểm các nhân vật. Dường

như với nhà văn, thế giới của nước Nga, của con người Nga, của thiên nhiên Nga mới

thực sự là thế giới đáng sống, đáng yêu, thế giới với sinh khí của thiên nhiên và những nét

đẹp tinh thần khác của con người. Thế giới bên ngoài nước Nga – châu Âu và châu Mĩ

(Thế giới mới) vẫn là một cái gì đó quá đỗi xa lạ và thực dụng, nhà văn không thể thích

nghi. Với nhà văn, tình yêu với nước Nga, con người Nga, thiên nhiên Nga đã trở thành

hòn đá tảng tinh thần không gì lay chuyển nổi.

Ngoài Quý ông từ San Francisco đến, những truyện ngắn của Bunin viết theo

phương thức trần thuật tĩnh tại – đột biến còn có Đứa con trai, Hơi thở nhẹ, Một truyện

tình nho nhỏ, Zoyka và Valeria… Ở những tác phẩm này, những sự kiện của cuộc sống

hằng ngày cứ lặp đi lặp lại trong hành trình của nhân vật. Nếu không có những sự kiện

đột biến xảy đến, người đọc sẽ hình dung câu chuyện dường như tĩnh tại, không vận

động, dù rằng nhân vật vẫn lớn khôn, trưởng thành, vẫn bị cuốn vào vòng quay cuộc đời.

125

Trong Đứa con trai, nếu không có sự xuất hiện của Emin, cuộc đời bà Maro chắc sẽ vẫn

là chuỗi ngày êm đẹp bên chồng và các con gái, bà vẫn sẽ đều đặn đến nhà thờ, đều đặn

đến bệnh viện làm phước, và vẫn là một người phụ nữ được tôn kính về đức hạnh. Sự

xuất hiện của Emin làm xáo động cuộc đời bình lặng của bà, dẫn bà tới quyết định táo

bạo, cũng là biến cố cắt đứt mạch tĩnh tại của câu chuyện – bà Maro tự sát. Cảm xúc bất

ngờ đến sững sờ trước hành động của người đàn bà đoan trang, mực thước gieo vào lòng

người đọc sự hụt hẫng và xót thương. Hụt hẫng vì một người phụ nữ đã chết, lại chết vì

tình yêu, còn xót thương vì cái giá phải trả quá đắt cho con người dám sống thật với xúc

cảm của mình. Có lẽ, câu chuyện còn gợi lên sự mỉa mai, dành cho Emin về sự nhút nhát

khi đối mặt với thực tế, về những lời hoa mĩ và sáo rỗng của một anh chàng mới lớn thích

thể hiện. Cách kết thúc tác phẩm đột ngột bằng cái chết của các nhân vật chính không chỉ

cắt đứt mạch tuần hoàn tĩnh tại, tạo nên nét độc đáo cho những truyện ngắn của Bunin,

mà quan trọng hơn, thể hiện rõ những tư tưởng, những triết lí về tình yêu, cái chết, cái đẹp

của nhà văn. Zoyka và Valeria sẽ không có biến cố đặc biệt nếu như Valeria tỏ tình với

Titov thành công. Để rồi sau khi không được chấp nhận trong tình yêu, cô nàng đã tự

buông xuôi bản thân mình, hiến thân cho người mình không yêu. Câu chuyện khép lại khi

Levisky lên đường ra ga trở về Moskva, trở về với sự bình yên vốn có của câu chuyện, dù

rằng tâm hồn đã có những vết gợn.

Ở trên, chúng tôi đã phân tích làm rõ những nét đặc sắc trong những mô thức cảm

xúc chính tương ứng với các mô hình trần thuật của truyện ngắn Ivan Bunin: cảm xúc tiếc

nuối gắn với những truyện ngắn dòng chảy “hoài niệm”, cảm xúc mãnh liệt gắn với

những truyện ngắn khoảnh khắc, cảm xúc “an phận” gắn với chuỗi sự kiện vòng đời “tĩnh

lặng” và sự chuyển biến các cung bậc cảm xúc gắn liền với mô thức sự kiện “tĩnh tại – đột

biến – tĩnh tại”. Ở giai đoạn sau Cách mạng tháng Mười, Ivan Bunin thiên về những

truyện ngắn ấn tượng, truyện ngắn khoảnh khắc, truyện ngắn cảm giác mà Say nắng là đại

diện tiêu biểu. Điểm đặc biệt là, tất cả những khoảnh khắc, những ấn tượng mà nhà văn sử

dụng làm chất liệu trong truyện ngắn của mình đều đến từ kho hoài niệm của ông, thậm

chí đến từ trải nghiệm của chính nhà văn. Đó có thể là hoài niệm về thiên nhiên, về con

người, về một sự kiện nào đó. Không gian của hoài niệm có thể là nước Nga “xưa cũ” của

nhà văn, cũng có thể là không gian Paris hoa lệ, nhưng những nhân vật trong các truyện

126

ngắn khoảnh khắc hoài niệm ấy đều là những con người mang cốt cách và tâm hồn Nga

(người họa sĩ trong Galia Ganskaya, nhân vật ông và nàng trong Ở Paris…). Hoài niệm

cũng chính là nét riêng khu biệt Bunin với những nhà văn trữ tình khác, đặc biệt là

Konstantin Paustovsky, Mikhail Prisvin và Iuri Kazakov.

Như đã khẳng định, Paustovsky viết nhiều về những huyền thoại đời thường, và

những huyền thoại đời thường ấy thường kết thúc bằng niềm vui, hạnh phúc. Nhà văn

cũng không chủ trương xây dựng cốt truyện ly kỳ, kịch tính mà nhấn mạnh đặc biệt vào

cảm xúc. Các tình huống được xây dựng chủ yếu để làm nổi bật cảm xúc nhân vật (Lẵng

quả thông, Cây tường vi, Cầu vồng trắng, Chuyến xe đêm, Vườn nhà bà…), cũng có

những truyện ngắn nhà văn xây dựng tình huống nhằm thể hiện triết lí… (Bức điện, Bình

minh tuyết phủ, Bụi quý, Kho vàng, Những chú bé…). Nhưng ở Paustovsky cảm xúc hạnh

phúc quá trọn vẹn, dường như không có những dang dở, tiếc nuối. Nhà văn viết nhiều về

quá trình tâm lí, cảm xúc (khác với Bunin nhấn mạnh về ấn tượng, đôi khi người đọc khó

tìm được lí do vì sao nhân vật lại hành động như vậy, chỉ có thể dùng yếu tố ấn tượng và

khoảnh khắc để lí giải). Cùng thời với Bunin ngoài Paustovsky còn phải kể đến Mikhail

Prisvin. Tuy nhiên, nét trữ tình của Prisvin thể hiện ở những trang văn thấm đẫm cảm xúc

về thiên nhiên Nga. Nhà văn thâm nhập vào đời sống của tự nhiên và ca ngợi nó, tạo ra

“niềm hân hoan vô tận của những khám phá không ngừng nghỉ” (Paustovsky) về tạo hóa.

Cảm xúc của tác phẩm đến từ những ngỡ ngàng của con người trước vẻ lung linh, rực rỡ

kỳ diệu của vũ trụ (tác phẩm Giọt rừng). Trái tim nhà văn đặt trọn vẹn vào những trang

văn đậm chất thơ về thiên nhiên. Sau Bunin, trong văn học Nga vẫn có những nhà văn trữ

tình. Có thể kể đến Iuri Kazakov. Học tập Bunin ở “tính nhạc, sự chính xác về vần điệu”

nhưng Kazakov khác với người tiền bối của mình ở cách xây dựng sự kiện và cách miêu

tả thiên nhiên. Nhà văn đặt thiên nhiên vào cuộc xung đột của những nhân vật có tâm hồn

tinh tế với thế giới hiện thực thô thiển, từ đó đề cao cảm giác của con người đối với sự tồn

tại của thiên nhiên và khẳng định những giá trị vĩnh cửu (tập truyện Mùa thu trong rừng

sồi). Như vậy, có thể khẳng định nét độc đáo trong xây dựng hệ thống sự kiện của Bunin

làm nên dấu ấn riêng của ông so với những nhà văn cùng thời và sau ông, đó là sự hiện

diện của hệ thống những sự kiện hoài niệm – thực tại, những sự kiện tĩnh tại – đột biến,

những sự kiện dòng đời – khoảnh khắc; sự hiện diện của những nhân vật và tính cách Nga

127

đơn thuần, của những ấn tượng và triết lí về cuộc sống, về tình yêu, về cái chết được xây

dựng cả trong những truyện ngắn trước và sau Cách mạng tháng Mười.

4.2. Cốt truyện hành trình tâm trạng

Truyện ngắn, với tư cách là một thể loại của tự sự mang trong nó đặc trưng cơ bản

nhất của thể loại này, đó là tính tự sự, là sự xuất hiện của những sự kiện, của cốt truyện.

Tuy nhiên, như đã khẳng định ở phần giới thuyết, truyện ngắn trữ tình là sự hòa hợp của

cảm xúc với yếu tố cơ bản của phương thức tự sự - cốt truyện vì thế cho nên khi xem xét

truyện ngắn của Bunin với tư cách là truyện ngắn trữ tình chúng tôi cũng xem xét cốt

truyện của những tác phẩm này dưới một góc nhìn mới – góc nhìn trữ tình. Theo

S.N.Broitman và D.M.Magomedova trong cuốn Văn học Nga giao thời thế kỷ (những

năm 1890 đến đầu những năm 1920) tập 1, truyện ngắn của Bunin được tổ chức theo kiểu

“kết cấu tuyến tính nguyên vẹn, liên tục trong cốt truyện, di chuyển trọng tâm „hình thức

không gian‟ sang đặc sắc về sự tương đồng của các nhân vật và sự kiện” [92; tr. 554]. Cụ

thể, trong truyện ngắn của Bunin, không gian thường cố định, không có sự vận động

nhiều, các sự kiện cũng không đầy ắp, nhưng mỗi sự kiện lại rất có ý nghĩa, đặc biệt là

với tâm trạng nhân vật. Các tác giả cũng nghiên cứu và chỉ ra một số tác phẩm có cốt

truyện theo tuyến song song rất thú vị. Có lẽ, tính nguyên vẹn, liên tục trong cốt truyện ở

truyện ngắn của Bunin được thể hiện rõ nhất trong hành trình tâm trạng của các nhân vật.

Quả thật, khi đi sâu tìm hiểu truyện ngắn của Bunin chúng tôi nhận thấy cốt truyện

trong truyện ngắn của ông không phải là kiểu cốt truyện giàu kịch tính và sự kiện như

truyện ngắn truyền thống, cốt truyện của Bunin chủ yếu là kiểu cốt truyện hành trình tâm

trạng. Đó là những truyện ngắn lấy nền tảng là tâm trạng nhân vật, các sự kiện được tổ

chức theo diễn tiến của tâm trạng. Có ba loại cốt truyện hành trình tâm trạng trong truyện

ngắn của Bunin: chuỗi cốt truyện tâm trạng tuyến tính, chuỗi cốt truyện tâm trạng phi

tuyến tính và chuỗi cốt truyện tâm trạng phi sự kiện.

4.2.1. Chuỗi cốt truyện tâm trạng tuyến tính

Cốt truyện tâm trạng tuyến tính là những tác phẩm được viết theo dòng thời gian

tuyến tính của sự kiện và tâm trạng nhân vật, không hoặc hầu như không có sự đan xen,

128

xáo trộn của quá khứ, hiện tại, tương lai. Chúng tôi thống kê được 43/100 truyện ngắn

Bunin được khảo sát diễn tiến theo cốt truyện tuyến tính. Tuy nhiên, đọc truyện ngắn của

ông chúng tôi nhận thấy các tác phẩm có cốt truyện tâm trạng tuyến tính không thuần nhất

một kiểu mà khá phong phú trong việc tổ chức sự kiện và cốt truyện: cốt truyện tâm trạng

tuyến tính đơn chiều, cốt truyện tâm trạng tuyến tính song song với hai dạng thức: song

song tương đồng và tương phản.

Trước hết, những truyện ngắn cốt truyện hành trình tâm trạng tuyến tính đơn chiều

là những truyện ngắn được tổ chức theo hành trình tâm trạng của nhân vật theo hướng

thuần nhất một chiều, không có sự biến đổi theo những chiều hướng khác nhau. Tiêu biểu

cho kiểu cốt truyện này là những tác phẩm: Những quả táo Antonov, Cuộc đời tươi đẹp,

Chiếc cốc đời, Mẹ đỡ đầu, Lần gặp gỡ cuối cùng, Meliton, Klara…

Trong những tác phẩm có cốt truyện tuyến tính đơn chiều ở trên tâm trạng của

nhân vật chính được diễn tiến cùng chiều với sự kiện. Những quả táo Antonov đi từ tâm

trạng hân hoan vui sướng với vụ táo bội thu ở ba phần đầu tác phẩm đến nỗi buồn, sự tiếc

nuối ở phần cuối câu chuyện. Song song với diễn tiến của “sự nghèo đi” là nỗi buồn của

nhân vật, nỗi buồn của tác phẩm và người kể chuyện để rồi kết thúc tác phẩm là dư vị

man mác đọng lại. Cuộc đời tươi đẹp là hành trình tâm trạng đầy tự tin, quyết liệt, mạnh

mẽ của một cô gái “khôn ngoan, tháo vát và nhẫn tâm” biết làm chủ cuộc đời của mình.

Lần gặp gỡ cuối cùng kể về hành trình đẫm nước mắt và tâm trạng buồn bã, thất vọng,

chán nản của đôi trai gái Storesnhev – Vera sau 15 năm yêu và gắn bó. Diễn tiến tâm

trạng cũng là diễn tiến thời gian tuyến tính của cốt truyện: đêm, Storesnhev đến gặp người

yêu lòng nặng trĩu nỗi buồn, càng về khuya, họ tận hưởng những giây phút bên nhau,

nhưng niềm hạnh phúc không đủ để che lấp đi những đau khổ, dằn vặt về những dùng

dằng chia xa của hai người trong khoảng thời gian 15 năm, về nỗi thất vọng tràn trề bởi

hiện thực đã được quyết định để rồi sáng ngày hôm sau chia tay, cả hai dường như cố lạnh

lùng để che giấu nỗi đau, sự cô đơn, niềm lưu luyến bên trong. Mẹ đỡ đầu là diễn biến

tâm trạng một cách tự nhiên theo dòng sự kiện được miêu tả trong tác phẩm. Một thiếu

phụ xinh đẹp bên chồng và các con trong mùa hè ở khu nhà nghỉ dưỡng ngoại ô Moskva.

Ở cạnh họ còn có bạn của người chồng. Người chồng đi làm cả ngày đến tối mới về với

gia đình. Bunin miêu tả hành trình tâm lí của người vợ khi ở nhà cùng người bạn của

129

chồng. Và “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, người bạn của chồng thiếu phụ đã tỏ tình với

người thiếu phụ. Một cách kín đáo và ý nhị, người thiếu phụ đã đáp lại lời hẹn của anh

bạn. Tác phẩm kết thúc ở lời hẹn của thiếu phụ về một nơi chỉ có hai người là một kết

thúc mở, vừa gợi ra sự băn khoăn về mối quan hệ của cả hai qua kết quả của buổi gặp gỡ

ấy, vừa gợi ra những suy nghĩ về tình yêu, tình bạn, về những phút giây được gọi là say

nắng trong cuộc đời… Klara lại là quãng thời gian ngắn ngủi nhân vật Irakly Meladze

làm quen, tán tỉnh, và chạy trốn khỏi Klara. Diễn biến tâm trạng của nhân vật đi từ tò mò,

vui vẻ, háo hức đến bất ngờ, thất vọng và hụt hẫng, tiếc nuối (khi nhận thấy thực ra Klara

đã lớn tuổi), và cuối cùng thì hoang mang, bỏ chạy. Về cơ bản, những truyện ngắn của

Bunin là những truyện ngắn tâm trạng tuyến tính đơn chiều. Dòng tâm trạng của nhân vật

được gợi ra từ những biến cố có giá trị biểu đạt cao tạo ra sự đồng nhất cảm xúc với

người đọc. Đó chính là cách Bunin tạo ra sức hút cho những truyện ngắn mang đậm tính

trữ tình của mình.

Bên cạnh những tác phẩm có cốt truyện tuyến tính đơn thuần, nhiều tác phẩm của

Bunin có cốt truyện hành trình tâm trạng được tổ chức theo kiểu song song tương đồng.

Đó là những truyện ngắn Ở Paris, Một truyện tình nho nhỏ, Zoyka và Valeria, Kavkaz…

Ở Paris lấy bối cảnh chính là Paris hoa lệ, một quán ăn của người Nga, nhân vật

chính cũng là những người Nga: một người đàn ông trung niên, một “vị tướng về hưu”

của Bạch quân và một thiếu phụ Nga chừng ba mươi tuổi, sống một mình ở Pháp. Cốt

truyện đơn giản, chỉ xoay quanh hai nhân vật và sự kiện: cuộc gặp giữa hai người. Tình

cảm giữa hai người phát sinh và dần nảy nở từ những cuộc gặp gỡ lúc đầu vô tình, sau là

cố ý của người đàn ông. Tình yêu đến với người đàn ông trung niên khi ông chợt nhận ra

sự hiện diện của nàng làm sáng bừng cả căn phòng, nàng quá đẹp làm ông ngất ngây. Sau

ba cuộc gặp, ông đã nhanh chóng nhận ra đây là cuộc gặp gỡ hạnh phúc mà mình hằng

mong đợi, nhưng niềm hạnh phúc nhanh chóng đan xen với nỗi buồn, sự tiếc nuối: “Chỉ

có điều là muộn quá. Muộn quá rồi.” [19; tr. 123]. Còn nàng, sau ba cuộc gặp, nhận ra ở

ông có nét gì đó rất quen thuộc. Họ nhanh chóng về sống chung một nhà trong niềm hạnh

phúc của cả hai. Niềm hạnh phúc của họ dễ dàng lôi cuốn dòng cảm xúc và sự tò mò của

người đọc. Dường như họ đã tìm thấy nhau, sưởi ấm cho nhau giữa nơi đất khách quê

người. Người đàn ông nhận ra mình không còn sống được bao lâu nữa đã tìm cách gửi hết

130

tiền vào tài khoản đứng tên nàng. Làm xong việc ấy, ông ra đi thanh thản. Cái chết của

ông làm nàng sững sỡ, tình yêu và lòng ham sống của nàng giờ như đã chết rồi, dù trời

Paris đang là những ngày xuân đáng sống. Bất ngờ nhất là khi trở về nhà, nàng phát hiện

ra, ông chính là người chồng trước kia mình đã từng từ bỏ để đi theo một chàng trai trẻ.

Câu chuyện đơn giản tưởng như không có bất ngờ, ấy vậy mà lại đưa người đọc từ bất

ngờ này đến bất ngờ khác. Hai cuộc đời của những người Nga lưu vong cùng sống ở

Paris: ông cay đắng với vết thương lòng bị vợ bỏ; nàng cay đắng vì bị một “cậu bé”, thực

ra là một gã ma cô lừa… Hai nhân vật tồn tại song song, hai câu chuyện tưởng như hai

điểm song song trên đường đời. Tuy nhiên, chỉ đến khi người đàn ông chết, hai câu

chuyện của họ, hai cuộc đời song song của họ mới thực sự gặp nhau, hòa làm một. Cái

chết của người đàn ông, có thể nói là sợi dây cột chặt nàng vào ông. Từ nay, nàng phải

sống thay ông. Bunin miêu tả sự gắn kết vô hình giữa hai con người tưởng như xa lạ, với

hành trang là nỗi niềm đau đáu về nhau.

Zoyka và Vleria là hành trình tâm trạng song đôi của những đôi trai gái: Zoyka –

Levisky, Levisky – Valeria, Valeria – Titov. Sự phức tạp trong quan hệ, mối tình của

người này với người kia không được đền đáp, sự bế tắc trong tâm trạng của họ đã tạo ra

những cuộc phiêu lưu tình ái thú vị. Cũng là chuyện tình tay ba, Kavkaz là cuộc phiêu lưu

tâm trạng của nhân vật tôi – nàng và hắn (chồng nàng). Tôi luôn bình thản dù là người thứ

ba, nàng luôn lo âu sợ sệt khi phải rời xa tôi, khi phải nghĩ cách đối phó với hắn, hắn – lẽ

ra phải ở thế thượng phong thì lại cũng lo âu, sợ sệt, tìm cách bám theo nàng, đuổi theo

nàng và tôi, sợ nàng và tôi phát hiện. Cuộc rượt đuổi của ba người, thực chất là của hai vợ

chồng nàng – hắn tạo ra cốt truyện song song trong cả sự kiện và tâm trạng.

Trong truyện ngắn của Bunin, có những tác phẩm tâm trạng cũng như cuộc đời của

các nhân vật được miêu tả tương phản nhau tạo ra những cốt truyện hành trình song song

đối lập thú vị. Hơi thở nhẹ, Quý ông từ San Francisco đến, Đứa con trai, Con quạ, Ngày

thứ Hai chay tịnh… là những tác phẩm tiêu biểu nhất cho kiểu cốt truyện này.

Trong Hơi thở nhẹ, hai tuyến cốt truyện song song được định hình khá rõ ràng:

tuyến cốt truyện về nhân vật Olia Mesherskaia và tuyến cốt truyện về bà giáo chủ nhiệm

của Olia. Mỗi tuyến cốt truyện là một hành trình tâm trạng của nhân vật và người đọc: từ

niềm vui trước cái vui tươi hồn nhiên của cô bé Olia xinh đẹp đến những bất ngờ về

131

những sự kiện xảy ra với cô bé trong cuộc đời riêng, sự tiếc nuối trước cái chết của một

vẻ đẹp đang độ rực rỡ; từ sự ngạc nhiên đến nỗi xót xa thương cảm cho số phận một bà

giáo già luôn lấy cuộc đời người khác làm lẽ sống cho mình. Hai tuyến nhân vật song

song, hai câu chuyện cuộc đời và hai tâm trạng hoàn toàn trái ngược của hai người phụ nữ

cũng hoàn toàn trái ngược nhau về tuổi tác và tính cách: một già – một trẻ, một giáo viên

– một học sinh, một vô tư, hồn nhiên, sôi nổi, yêu đời – một khắc khổ, nghiêm nghị, âm

thầm. Hai tuyến nhân vật song song, hai cuộc sống của hai con người trái ngược cũng bắt

đầu và kết thúc trái ngược nhau. Dường như cuộc sống của bà giáo già chỉ thực sự bắt đầu

khi cuộc sống của Olia kết thúc. Đó là sự tương phản trớ trêu của số phận. Ở đây Bunin

đã đưa ra một quan hệ nhân quả phi thực tế, một sự tiếp nối đầy hiện sinh của sự sống,

tuổi trẻ, cái đẹp trong hai hình thức rất đặc biệt: trong cuộc sống của bà giáo già và trong

làn hơi thở nhẹ mùa xuân. Đứa con trai cũng là một truyện ngắn được viết theo hành trình

song song tương phản của cuộc đời hai nhân vật: bà Maro và cậu bé Emin. Giống như

Hơi thở nhẹ, dường như cái chết của bà Maro đã thức tỉnh, đã thực sự đem lại sự sống cho

anh chàng Emin. Sự hấp dẫn của tác phẩm đến từ những đối nghịch trong cách nhìn nhận

các nhân vật cũng như hành xử của họ. Cốt truyện diễn tiến theo dòng tuyến tính của cảm

xúc nhân vật đã để lại nhiều dư vị ấn tượng.

Ngày thứ Hai chay tịnh là sự đan xen hai dòng sự kiện, hai cuộc đời, hai tâm trạng,

hai lí tưởng của hai nhân vật chính: nàng và tôi. Tôi đắm chìm trong cuộc sống xa hoa

hưởng lạc, cuộc sống chỉ xoay quanh nàng. Còn nàng, bề ngoài là tiểu thư đài các xa hoa,

nhưng bên trong lại là một nữ tu khổ hạnh, theo đuổi ước mơ hoài bão cứu chuộc. Cuộc

đời của hai con người ấy cứ tồn tại song song bên nhau dù ước mơ, lí tưởng, niềm đam

mê trái ngược nhau. Chàng hiện sinh trong cuộc sống hưởng thụ trần thế, còn nàng hiện

sinh trong khát vọng hiến dâng vĩnh viễn. Tác phẩm kết thúc trong hành động hiện thực

hóa ước mơ của nàng, chấm dứt chuỗi cốt truyện song song tương phản giữa cuộc sống

của chàng và nàng, giữa cuộc sống bên ngoài và cuộc sống tinh thần bên trong của nàng.

Những tác phẩm của Bunin viết theo lối cốt truyện song song tương phản này còn có Con

quạ, Quý ông từ San Francisco đến… Đây có thể nói là một cách thú vị nhà văn làm mới

cho kiểu cốt truyện tuyến tính thông thường.

132

4.2.2. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi tuyến tính

Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi tuyến tính là những tác phẩm trong đó các sự kiện

tạo tâm trạng được sắp xếp không theo trật tự tuyến tính thông thường. Các sự kiện ấy

thường có sự đan xen với quá khứ, và ở một số truyện, có sự hình dung về tương lai. Qua

những sự đan xen ấy, những tâm trạng, những số phận nhân vật được hiện lên gần như

đồng thời với nhau. Đọc truyện ngắn của Bunin chúng tôi nhận thấy kiểu cốt truyện hành

trình tâm trạng phi tuyến tính trong các sáng tác của ông (với 22/100 truyện được khảo

sát) cũng được kết cấu song song với hai dạng cơ bản: phi tuyến tính nguyên nhân – kết

quả và phi tuyến tính lắp ghép.

Tiêu biểu cho kiểu cốt truyện tâm trạng phi tuyến tính song song nguyên nhân kết

quả là những truyện ngắn Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối, Ida, Galia Ganskaya… Ở

những sáng tác này, khung sự kiện – tâm trạng chung đều là: nhân vật trong một cuộc

chuyện trò ở thời hiện tại, bình thản kể lại câu chuyện về quá khứ với xúc cảm sôi nổi, kết

thúc thường với nỗi niềm tiếc nuối, trăn trở, buồn bã. Thông thường, những câu chuyện

được viết theo lối cốt truyện này là những câu chuyện tình yêu với điểm nhìn từ hiện tại

đã trưởng thành của những nhân vật nghệ sĩ từng trải qua thời thanh niên yêu đương sôi

nổi. Nhân vật người họa sĩ trong Galia Ganskaya đã day dứt ám ảnh đến suốt đời về cái

chết của cô nàng Galia trẻ trung, xinh đẹp, cuồng nhiệt và quyết liệt. Cuộc chuyện trò về

mùa xuân, về Paris, về Odessa đã gợi lên những xúc cảm về Galia. Người họa sĩ già, giờ

đây trải qua biết bao biến cố, mới đủ can đảm để thổ lộ về mối tình của mình. Câu chuyện

về quá khứ tươi trẻ và rực rỡ nhưng kết thúc bi thảm để lại nỗi ám ảnh cả cuộc đời nhân

vật và để lại xúc cảm buồn thương, xót xa trước một cái đẹp sớm tàn. Đọc câu chuyện,

người đọc nhận ra và hiểu nguyên nhân vì sao nhân vật lại day dứt đến vậy. Mọi kết quả

đều có nguyên nhân của nó, mọi xúc cảm hiện tại đều có cội nguồn từ quá khứ xa xưa.

Ida cũng là một câu chuyện được kể theo trục thời gian hiện tại – quá khứ - hiện tại. Nhân

vật trong cảm hứng về quá khứ đã kể lại câu chuyện mà ông không dám thổ lộ là của

mình. Cả câu chuyện là hành trình nhân vật nhận thức về tình yêu, về nỗi đau của sự chia

ly, về sự tiếc nuối. Sự dằn vặt và lời tự nhủ của nhân vật chính là kết quả của những thờ ơ,

133

những sĩ diện của bản thân ông trước kia. Câu chuyện được kể theo lối vừa mới vừa cũ

tạo ra nhiều xúc cảm cho độc giả.

Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối cũng là những trăn trở, băn khoăn về hạnh

phúc, về tình yêu trong quá khứ và hiện tại của nhân vật người chủ điền trang. Bỏ cô gái

mình yêu có lẽ vì địa vị thấp kém của cô, người đàn ông gặp nhiều bất hạnh trong tình

yêu, trong cuộc sống gia đình. Dường như sự chối từ tình yêu, lãng quên tình yêu, coi

thường tình yêu nơi ông đã khiến ông phải trả giá cho cuộc sống hiện tại. Tác phẩm đan

xen giữa những xúc cảm hiện tại xấu hổ, băn khoăn với những xúc cảm tự hào, ngậm ngùi

về quá khứ. Cuộc ra đi của ông như một cuộc trốn chạy khỏi cô nàng Nadezhda năm xưa.

Nhà văn ở đây đã ngầm khẳng định chân lí nhân quả. Nadezhda yêu thương và cả đời

không quên người đã yêu mình thì sống sung túc, vui vẻ; còn người chủ năm nào vội lãng

quên quá khứ thì âu sầu, buồn bã về cuộc sống gia đình, về vợ phản bội, về đứa con đểu

cáng… Tác phẩm kết thúc bằng những ngậm ngùi của hiện tại pha lẫn với tiếc nuối của

quá khứ: “Phải rồi, mình làm mình chịu. Phải rồi, đó dĩ nhiên là những giây phút tươi đẹp

nhất. Và cũng không phải tươi đẹp nhất mà còn thật sự là thần tiên nữa kia! … Nhưng trời

ơi, sau đó rồi ra sao nhỉ? Nếu như mình không ruồng bỏ cô ta thì sẽ ra sao nhỉ? Thật vô lí

quá chừng!” [15; tr. 235].

Ở Bunin, như đã khẳng định, hoài niệm quá khứ là thứ nhà văn luôn hướng về. Bởi

thế cho nên, trong những sáng tác của ông, quá khứ luôn hiện hữu, dù là những kỷ niệm

rất nhỏ. Trong kiểu cốt truyện hành trình tâm trạng phi tuyến tính song song, ngoài kiểu

tổ chức cốt truyện nhân quả còn có kiểu tổ chức cốt truyện lắp ghép. Ở kiểu truyện này,

quá khứ không phải một câu chuyện được kể lại, không phải là nguyên nhân trực tiếp của

tâm trạng hiện tại; quá khứ là sự lắp ghép song song với hiện tại; thông thường, những sự

lắp ghép ấy được tái hiện qua những giấc mơ. Cỏ gầy, Những giấc mộng của Trang, Canh

khuya, Ở một phố thân quen… đều được kết cấu theo lối này.

Cỏ gầy mở đầu bằng tâm trạng buồn bã nhưng vẫn cố tỏ ra bình thường và phớt lờ

mọi sự của một người trải đời như bác Averki. Mọi sự khó chịu trong và ngoài cơ thể bác,

bác vẫn coi như không: từ những lời lẽ chế nhạo của những tay thợ trẻ, từ sự ậm ạch của

cái bụng đến cảm giác buồn nôn…bác đều bỏ qua bởi “từ nhỏ bác đã coi việc ăn uống

như một lễ cầu nguyện, bởi lẽ cả đời bác bữa ăn được coi như đỉnh cao nhất của một ngày

134

lao động” [15; tr. 116]. Tác phẩm tiếp diễn bằng sự thất vọng, nỗi buồn dâng cao hơn bởi

bác thấy mình đã ốm thật sự, đã buộc phải trở về nhà: “chao ôi là buồn, là thiếu ấm cúng!

Cáo chết ba năm còn quay đầu về núi nữa là…Không, hết rồi, đã đến lúc phải về nhà

thôi!” [15; tr. 122]. Diễn tiến tâm trạng của bác đi từ nỗi buồn, sự thất vọng ghê gớm khi

buộc phải chấp nhận mình ốm, chấp nhận trở về nhà dù bác biết trở về nhà là đói, là rét, là

đã sắp đến lúc đi gặp Chúa Trời. Được bác gái đón về nhà, tâm trạng của bác là nỗi buồn

thường trực, là sự chờ đợi một cái kết cuối cùng. Trong những ngày tháng ở nhà, có

những niềm vui chợt lóe sáng, đó là những ngày cô con gái và cháu ngoại về thăm bác.

Tuy nhiên, những tháng ngày ấy chỉ giống như những ngày nắng hiếm hoi giữa mùa đông

mưa rét. Xen kẽ trong những tháng ngày đợi chờ của bác Averki là những giấc mơ về

những năm tháng vui tươi, hạnh phúc, trẻ trung trong quá khứ của bác và bác gái. Giấc

mơ về những ngày tươi đẹp ấy đến trong cơn mê sảng vì ốm của bác Averki. Đầu tiên bác

mơ về những tháng ngày làm lụng vất vả, về cuộc chuyện trò trên thảo nguyên, qua cuộc

chuyện trò ấy bác biết được một chân lí “Người giàu ở đâu cũng sung sướng!”. Rồi bác

lại mơ về kỷ niệm tình yêu của bác với bác gái, trong những ngày họ còn mới quen biết

nhau. Trong giấc mơ, bác lờ mờ nhận ra “Chuyện ấy xảy ra đã lâu, từ khi cuộc đời mới

bắt đầu… Phải chăng đó chính là cái người mà ngày mai sẽ đến để đưa bác về chết ở nhà?

Chính là cô ấy đấy, cô ấy đấy…” [15; tr. 125]. Lạ một điều là bất cứ khi nào mơ về quá

khứ, buổi chiều yêu đương và tán tỉnh của bác và bác gái lại hiện về như là kí ức duy nhất

của bác, tất cả những kí ức, những kỷ niệm khác, bác không nhớ gì cả. Không chỉ có

những giấc mơ quá khứ đan xen, lắp ghép vào chuỗi ngày hiện tại chờ chết của bác

Averki, có những lúc bác Averki mơ những giấc mơ đẹp về tương lai: “Nếu trời cho ta

được bình phục, ta sẽ đi Kiev, đi Zadonxk, đi Optina, - bác Averki nghĩ vậy trong lúc mơ

màng. – Đấy là công việc chân chính, thanh tịnh, nhẹ nhàng, nếu không làm được thì sẽ

chẳng hiểu ta sống trên đời để làm gì…” [15; 119]. Thậm chí, giấc mơ về ngôi mộ của

chính mình sau khi chết cũng đến với bác một cách tự nhiên: “Bác đã tưởng tượng thấy

một ngày hè, thấy làn gió mùa hạ thổi trên đồng ruộng xanh ngắt, thấy triền núi sau làng,

và trên triền núi ấy là nấm mồ của bác. Ai đó đang gào thét, kể lể bên nấm mồ ấy lanh

lảnh và gớm ghiếc đến như vậy nhỉ?” [15; tr. 148]. Hình ảnh cô con gái đang gào khóc

bác trong mơ khiến bác hạnh phúc, xốn xang niềm hy vọng về một điều gì đó mà chính

135

bác cũng không biết. Như vậy, trong cốt truyện hành trình tâm trạng của Bunin, việc lắp

ghép những mảng quá khứ, tương lai vào cốt truyện hiện tại thông qua hình thức giấc mơ

đã tạo ra những câu chuyện thú vị, những xúc cảm thú vị về nhân vật.

Những giấc mộng của Trang là một truyện ngắn rất đặc biệt của Bunin. Ở tác

phẩm này, sự đan xen một cách song song hai thế giới hồi tưởng – thực tại là phương thức

trần thuật chính. Cụ thể, hiện tại và quá khứ của Trang và người thủy thủ - chủ của nó đan

xen nhau thông qua hình thức thực tại – giấc mơ. Ít nhất trong Những giấc mộng của

Trang, ba lần giấc mơ – thực tại được lắp ghép và tồn tại song song. Từ đó, quá khứ của

Trang, cũng là cuộc đời của người thủy thủ từ khi còn trẻ, khỏe mạnh cho đến thời điểm

hiện tại yếu đau, bệnh tật, chán chường cũng được hiện rõ. Cũng qua những lần thực – mơ

ấy, những quan niệm về sự tồn tại của con người trong cuộc đời, về phụ nữ và cái đẹp, về

gia đình, về tình yêu đã được Bunin gửi gắm. Không phải ngẫu nhiên câu chuyện lại là sự

đan xen thực – mộng, cũng không phải ngẫu nhiên nhân vật có tên là Trang, và triết lí về

Đạo được nhắc đến như một sự giác ngộ về cuộc đời. Triết lí ấy chính là yếu tố tự sự kết

nối hai thế giới trong tác phẩm. Có thể thấy, tâm trạng chủ đạo trong tác phẩm này không

phải là nỗi hoài nhớ quá khứ, có lẽ, nhà văn muốn khẳng định cách nhân vật đối mặt với

quá khứ và sống với hiện tại trong sự ám ảnh của quá khứ. Ở đây, cả Trang, cả viên

thuyền trưởng đều bình thản chấp nhận quá khứ, luận bàn về quá khứ, về sự sống, cái

chết, tình yêu…

Bên cạnh Những giấc mộng của Trang và Cỏ gầy, Canh khuya, Ở một phố thân

quen,… cũng là những tác phẩm được viết theo dạng thức cốt truyện phi tuyến tính song

song lắp ghép. Đó là cách Bunin tạo ra sự hấp dẫn mới mẻ cho những truyện ngắn pha

màu sắc hoài niệm, lấy quá khứ làm trọng tâm cảm xúc. Bởi thế cho nên, hoài niệm, nỗi

nhớ, kí ức trong tác phẩm của ông mang những diện mạo rất riêng, rất độc đáo.

4.2.3. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi sự kiện

Một tác phẩm tự sự gay cấn và kịch tính chắc chắn là một tác phẩm có sự xuất hiện

dày đặc của sự kiện, xung đột, đối thoại… Ngược lại, một tác phẩm dày đặc suy tư, tâm

trạng, băn khoăn của nhân vật, chắc chắn giàu chất trữ tình. Trong kho tàng truyện ngắn

của Bunin, có những tác phẩm rất ngắn, nhà văn chỉ miêu tả một bức chân dung (Chân

136

dung), tái hiện lại một cuộc trò chuyện ngắn (Marya), hay ghi lại một nét tâm trạng, một

dòng xúc cảm chợt đến trước một sự vật hoặc một hiện tượng nào đó. Ở những tác phẩm

này, sự kiện xuất hiện rất mờ nhạt, thậm chí bằng không. Bởi thế, chúng tôi gọi đó là

những truyện ngắn có cốt truyện phi sự kiện. Thậm chí có thể coi bản thân tác phẩm là

những “tự sự trữ tình ngoại đề” hết sức đặc biệt. Những truyện ngắn này được nhà văn

sáng tác từ trước cách mạng, tuy nhiên, sau cách mạng, ông dường như yêu thích và dành

nhiều bút lực cho chúng hơn. Điều đó có lẽ xuất phát từ nhu cầu được chiêm nghiệm, đúc

kết, bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc, suy tư của một con người luôn yêu và trăn trở với cuộc đời.

35/100 truyện được khảo sát là con số chúng tôi thống kê được về sự xuất hiện của những

truyện ngắn này. Sách, Nhà mồ, Bernard, Người mù, Bức chân dung, Một trăm Rupee,

Viên ngọc lục bảo, Chó sói, Marya, Thần tượng, Âm nhạc, Bài hát của Chúa, Trẻ và Già,

Hoa hồng Ierikhon, Hy vọng, Mối tình đầu… là những tác phẩm tiêu biểu nhất.

Người mù chỉ có một sự việc duy nhất là một người mù đang ngồi ăn xin giữa trưa

nóng bức ở một thành phố cảng. Người kể chuyện kể khi ông đặt mấy đồng xu Pháp vào

chiếc mũ lưỡi trai của người mù thì được nghe người mù nói: “Cảm ơn! Người anh em tốt

bụng của tôi!”. Chỉ một câu nói: “Cảm ơn! Người anh em tốt bụng của tôi!” mà nhân vật

tôi đã xúc cảm, đã lắng lòng mình để chiêm nghiệm biết bao triết lí về cuộc đời. Ông triết

lí về tình thân ái, lòng nhân hậu của con nguời, sự bình đẳng.

Bernard là câu chuyện gần như không có sự kiện, tác phẩm chỉ xoay quanh một

vài lời miêu tả và đối thoại của nhân vật tôi và Maupassant về nhân vật Bernard, một thủy

thủ trên chiếc thuyền mà họ từng đi. Cứ thế, qua những câu nói, cảm xúc của nhân vật tôi

về Bernard và về nhà văn Maupassant – người từng lấy Bernard làm nguyên mẫu cho tác

phẩm của mình được bộc lộ. Đó là sự trân trọng những con người hết lòng cống hiến vì

công việc, hết lòng cống hiến cho nghệ thuật. Trong tác phẩm câu nói của Bernard “Tôi

nghĩ rằng tôi đã là một thủy thủ tốt” gợi lên trong tác giả những suy nghĩ về bổn phận của

mỗi người được Chúa giao phó, về sự không lãng phí tài năng mà Chúa đã ban cho mỗi

người để giúp ích những người sống xung quanh. Xúc cảm tự hào và nhẹ nhõm của

những nhân vật trong câu chuyện gợi xúc cảm về bổn phận của con người trong cuộc đời.

Mỗi người cần làm tròn bổn phận của mình, nhiệm vụ của mình, dù đó là nhiệm vụ của

137

một nhà văn hay một thủy thủ bởi “Bởi vì Chúa Trời muốn mọi thứ đều „tốt đẹp‟. Ngài

vui mừng khi thấy mọi thứ Ngài sáng tạo ra đều „hoàn toàn tốt đẹp‟” [17; tr. 38].

Nhà mồ là những dòng miêu tả ngắn về một khung cảnh quen thuộc ở làng quê

Nga: một nhà mồ hoang phế, bao quanh bởi cánh đồng mùa hè nóng rực, đầy cỏ và hoa,

và lũ trẻ chơi đùa chạy nhảy bên ngoài, cách cái chết, cái tối tăm lạnh lẽo chỉ một bức

tường. Ở trong nhà mồ ấy có những ông già bà cả và cả một người đàn ông chưa già tự sát

vì tình. Xúc cảm của câu chuyện gợi lên từ chi tiết “người đàn ông chưa già tự sát vì tình

ấy”: “Tại sao anh ta tự sát?” “Tại anh ta yêu, mà khi đã quá si tình thì bao giờ người ta

cũng tự sát.” Hóa ra, sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc, hóa ra cái chết

cũng là một cách để vĩnh cửu hóa tình yêu, vĩnh cửu hóa tuổi trẻ của con người, hóa ra sự

khủng khiếp lại luôn đi kèm với điều tuyệt diệu nhất, hóa ra cuộc sống thật vô thường…

Câu chuyện không có sự kiện, chỉ đơn giản là những dòng miêu tả và đôi dòng đối thoại

nhưng xúc cảm và triết lí lại vô cùng sâu sắc và ý nghĩa.

Sách là một dòng xúc cảm hoàn toàn khác. Không phải xúc cảm về cuộc sống, bổn

phận, tình thương hay sự sống cái chết, đó là những suy tư và trải nghiệm của tác giả về

quá trình sáng tác, nguyên tắc sáng tác của chính mình. Xúc cảm gợi ra từ quá khứ đọc

sách, sống với các nhân vật trong sách vở của tác giả, và rồi đến quá trình tự nhận thức

rằng cần phải “đọc”, phải “sống” trong những diễn biến thực của đời sống, của thiên

nhiên. Chỉ cần được “sống trên thế gian, được làm những điều không thể hiểu được trên

thế gian” đã là hạnh phúc lớn lao của con người. Và nhà văn, quan trọng nhất là phải sống

cuộc sống thực của mình, chứ không phải chỉ có cuộc sống trong sách vở.

Những câu chuyện không hề hoặc hiếm hoi sự kiện như thế chủ yếu nhằm mục

đích khơi gợi cảm xúc và đôi khi là những triết lí của tác giả. Nếu Chiếc đu là những dòng

tâm trạng say đắm ngọt ngào đầy yêu thương thì 100 Rupees lại là sự hụt hẫng đánh tan

những xúc cảm đáng thương được gợi lên từ một cô bé xinh đẹp khi người đàn ông cùng

đi với cô ngửa bát đòi 100 rupees. Nếu Hoa hồng Ierikhon là những dòng xúc cảm về

nguồn sống của con người thì Trẻ và Già lại thông qua cuộc đối thoại giữa hai nhân vật

người thanh niên và người già để nói về những năm tháng tuổi thọ của đời người, về sự

sắp đặt của Chúa và tham vọng kéo dài tuổi thọ của con người. Trong khi Hy vọng là

những niềm vui, sự háo hức của nhân vật tôi trên con đường thiên lí: qua biển, qua núi,

138

qua sông, qua đồng… từ đó khơi gợi cuộc sống tương lai chứa chan hy vọng tươi sáng thì

Thần tượng lại dừng lại miêu tả cuộc sống tù túng ở vườn thú Moskva với những xúc cảm

chua xót. Rất nhiều tác phẩm như thế này của Bunin được ra đời sau Cách mạng tháng

Mười. Ở đó không có những sự kiện cụ thể nhưng lại có xúc cảm dạt dào, được gợi lên rất

tình cờ: từ một tiếng đàn (Âm nhạc) gợi ra những suy nghĩ về cội nguồn sức mạnh siêu

nhiên của con người, về cội nguồn cảm hứng sáng tạo, về sức mạnh của trí tưởng tượng

của con người, từ một bức chân dung cũ trên tường (Bức chân dung) gợi ra những suy

nghĩ về những con người chỉ sống với cái bóng của mình-với lúc hào quang rực rỡ nhất,

và dường như điều này đúng với cả nước Nga… Những câu chuyện tâm trạng phi sự kiện

như vậy đã tạo nên một nét độc đáo cho văn nghiệp của Bunin. Dường như, sẽ đến lúc

văn xuôi trở về với bản nguyên thi ca của nó, và sự kiện không còn là một thứ gì quan

trọng nhất nữa, chỉ có xúc cảm, xúc cảm trữ tình và đôi khi triết lí là cái còn ở lại.

4.3. Cảm thức bi hoài –nguồn mạch trữ tình truyện ngắn Bunin

Cảm thức bi hoài (elegism, элегическое) được chúng tôi hiểu không phải như một

thuật ngữ âm nhạc, mà như “một trong những mô thức nghệ thuật, hình thái thẩm mĩ sinh

nghĩa... Như một phạm trù mĩ học, không đồng nhất với thể loại bi ca, cảm thức bi hoài

tương tự như cảm thức điền viên được khẳng định và ý thức (phần nào bởi Schiller) trong

thời đại chủ nghĩa tình cảm vốn đề cao trong nghệ thuật sự tồn tại của những nhân cách cá

nhân vượt ra khỏi những ranh giới vị thế xã hội (đến với thiên nhiên, tình yêu, cái chết) và

đồng thời “khởi đầu sự cô lập, sự đa dạng cá nhân và cá thể đơn nhất” (Hegel)... Trái

ngược với cảm thức điền viên, cơ sở của cảm thức bi hoài là tổ chức chronotop biệt lập và

hành hương: không gian và/hoặc thời gian tách biệt khỏi thực tại xung quanh... Cái đẹp bi

hoài – đó là “sắc đẹp biệt li” (Pushkin) của khoảnh khắc một đi không trở lại, trong hoài

niệm về cái đẹp ấy, cái “tôi” nén lại, xoá bỏ mọi ranh giới sự kiện, mãnh liệt hướng về hạt

nhân nhân cách, hạt nhân chủ quan của tồn tại bản thể, trở thành chính mình” [164;

tr.302]. Truyện ngắn của Bunin thấm đẫm chính cảm thức bi hoài ấy. Cảm thức bi hoài

chính là phương thức nhà văn sử dụng để vĩnh cửu hóa sự tồn tại của cái đẹp, tình yêu,

khoảnh khắc. Cảm thức bi hoài trong truyện ngắn của Bunin hiện hữu trong hai dạng

thức: sự mất mát/ sự chia ly và cái chết.

139

4.3.1. Cái đẹp và cảm thức bi hoài

Hơi thở nhẹ là một trong những truyện ngắn không thể không kể đến khi nói về

truyện ngắn của Bunin. Nhân vật được nhắc đến nhiều nhất trong tác phẩm là hai người

phụ nữ: cô nữ sinh trung học Olia xinh đẹp, táo bạo nhưng bất hạnh và bà giáo chủ nhiệm

của cô – người suốt đời phụng thờ cô. Olia mười lăm tuổi nhưng đã đẹp rực rỡ, vẻ đẹp

yêu kiều quyến rũ. Bunin miêu tả quá trình dậy thì thành công ở cô: “Rồi sau, bắt đầu nở

bừng như một đóa hoa, cô phát triển không phải từng ngày mà từng giờ. Năm mười bốn

tuổi, chẳng những có vòng eo thon thả và đôi chân đều đặn, mà ở cô còn nổi lên đẹp đẽ

cặp vú và cả những đường nét mà lời nói con người chưa từng bao giờ có thể lột tả được

hết sức quyến rũ của chúng. Và đến tuổi mười lăm, cô đã nổi tiếng là một cô gái đẹp…”

[15; tr. 192]. Vẻ đẹp của Olia lúc sinh thời đã khiến cho biết bao người mê mẩn, có anh

chàng còn quyên sinh vì cô. Nhưng Olia vô tư lự và hồn nhiên quá đỗi, cô dường như

không đếm xỉa đến tất cả những điều ấy. Cô không yêu, nhưng những rung động đầu đời

của một người thiếu nữ trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng và hữu tình đã khiến cô

trao thân cho một người đàn ông lịch lãm, từng trải, người đã ví von họ giống như “Faust

và Margarita”. Thế rồi dường như nắm được quyền năng sắc đẹp của mình, Olia đùa giỡn

tình cảm của một sĩ quan Kazak để rồi chết dưới họng súng của anh chàng này. Cái chết

của Olia bất ngờ với chính cô bé, nhưng có lẽ cô bé cũng không hối hận vì đã dám sống

thật với tình cảm của mình. Olia thẳng thắn công khai nhật kí cho chàng sĩ quan, cũng là

công khai con người thật của mình. Sự thẳng thắn, mạnh mẽ, hồn nhiên và có phần bản

năng bồng bột của cô gái trẻ Olia khiến cho bà giáo chủ nhiệm của cô say mê, coi cô là

niềm mơ ước mới. Con người cả đời sống dựa vào người khác, dựa vào huyễn tưởng

người khác đem lại cho mình tìm thấy ở Olia bí mật của cái đẹp, bí mật của sự trường tồn

vĩnh cửu của mùa xuân, của tuổi xuân: “hơi thở nhẹ”.

Bà giáo chủ nhiệm của Olia là một người đặc biệt. Đó là một cô gái già, từ lâu vẫn

sống với một huyễn tưởng nào đó mà bà đem thay cho đời sống thực của mình. Mới đầu

sự huyễn tưởng ấy là anh trai bà, một hạ sĩ quan nghèo, không có gì nổi bật nhưng trong

con mắt của bà lại vô cùng xuất sắc. khi anh trai mất, huyễn tưởng của “cô gái già” ấy lại

hướng về chính bản thân mình với danh xưng “người lao động có lí tưởng”. Thế rồi sau

140

khi Olia – biểu tượng cho cái đẹp của toàn trường mất đi nhưng hình bóng, dáng vẻ vẫn

còn mãi nơi nghĩa trang “Đức Mẹ yên giấc ngàn thu” cùng với câu chuyện về vẻ đẹp

chuẩn mực mà bà nghe lỏm được qua cuộc đối thoại của Olia với cô bạn Subbotina của

mình thì Olia chính là niềm ao ước mới, là tâm tư và cảm xúc thiết tha của bà. Hình ảnh

khuôn mặt xinh xắn tai tái của Olia Mesherskaia lúc đang nằm trong quan tài giữa những

đóa hoa tươi là hình ảnh sống mãi trong bà. Bà giáo già không rời cặp mắt khỏi cây thánh

giá gỗ sồi trong nhiều tiếng đồng hồ liền, có lúc bà nghĩ đến sự khủng khiếp từ cái chết

của Olia, có lúc bà thầm nghĩ: sẵn sàng hi sinh cả nửa đời người để miễn sao trước mắt

không còn cái vành hoa chết chóc nữa; “Ôi, cái vành hoa ấy, cái nắm đất ấy, cây thập tự

bằng gỗ sồi ấy! Có lẽ nào nằm dưới những thứ ấy lại là cô bé mà cặp mắt đang bất tử tỏa

sáng long lanh từ tấm phù điêu tròn bằng sứ gắn trên giá chữ thập kia, và làm thế nào

người ta lại có thể hòa nhập cái điều khủng khiếp hiện nay đang được gán cho tên tuổi của

Olia Mesherskaia với cặp mắt nhìn trong trắng ấy?” [15; tr. 199]. Vậy là, Olia, hay chính

xác hơn là vẻ đẹp bất tử của cô đã trở thành “người” cứu rỗi cho bà giáo chủ nhiệm già

trong những tháng ngày cuối cùng của cuộc đời. Cặp mắt sáng long lanh của Olia không

chỉ bất tử trên bia đá nghĩa trang, mà câu chuyện về cô, về vẻ đẹp của cô chắc chắn sẽ còn

lưu truyền nhiều thế hệ qua sự phụng thờ của bà giáo chủ nhiệm của cô. Và đặc biệt, vẻ

đẹp ấy, đã tan biến vào đất trời mùa xuân, và sẽ tuần hoàn mãi. Dường như để cho vẻ đẹp

của một cô gái hóa thân thành làn hơi mùa xuân tươi mát, tinh khôi chính là cách Bunin

vĩnh cửu hóa cái đẹp. Nhờ thế, cái đẹp ấy không chỉ cứu rỗi cho một người mà còn đem

đến sức sống cho muôn loài: “Giờ đây, cái hơi thở nhẹ ấy lại một lần nữa lan đi trong thế

gian này, trong bầu trời đầy mây này, trong làn gió xuân lành lạnh này.” [15; tr. 201]. Có

thể nói, cách xử lí của Bunin khi đứng trước một nhân vật người con gái đẹp hoàn toàn

khác các nhà văn “cổ điển” khác. Lẽ ra một cô gái đẹp lí tưởng như Olia phải được hạnh

phúc, nhưng Bunin đã để Olia chết. Cách xử lí “nghịch dị” ấy đem đến một hệ quả: vẻ

đẹp sẽ song hành với sự khủng khiếp. Với Olia, nhà văn đã để cô bé sống hết mình với

những gì bản năng nhất, đẹp đẽ nhất mà cô bé có. Có thể nói, Olia chính là một nhân vật

“hiện sinh” nhất của Bunin.

Vẻ đẹp tuyệt đối và không bao giờ tàn phai ở Olia Mesherskaia của Bunin gợi nhớ

đến những kiệt tác Cô bé với quả đào, Cô gái trong nắng của Valentin Serov. “Những

141

bức chân dung ấy không chỉ là những hình ảnh cụ thể mà chủ yếu là những biểu tượng

của tuổi trẻ, vẻ đẹp, hạnh phúc” [67; tr. 615]. Nếu Serov lưu giữ vẻ đẹp bất tử của những

thiếu nữ tuổi mới đôi tám bằng màu sắc và đường nét thì Bunin lưu giữ chúng bằng ngôn

từ. Đó là sức mạnh lớn lao của nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật Thế kỷ Bạc. Cũng phải

nói thêm rằng, vẻ đẹp rực rỡ, yêu kiều và duyên dáng của Olia cùng câu chuyện tình của

cô bé với nhân vật Aleksei Mikhailovich (năm mươi sáu tuổi) gợi nhớ đến nhân vật Lolita

trong tiểu thuyết cùng tên của Nabokov. Lolita cũng rất đẹp, vẻ đẹp rực rỡ của “tiểu nữ

thần”, mối tình của nàng với người cha dượng Humbert Humbert cũng đã “giết chết” tuổi

thanh xuân và hủy hoại cả cuộc đời nàng. Tuy nhiên, cái chết khi còn đang rất trẻ của

Lolita cũng là một cách để vẻ đẹp của nàng sống mãi. Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây

đã phát hiện sự tương đồng thú vị này [188; tr. 766].

Trong cuốn Tâm lí học nghệ thuật, Vưgotsky khẳng định cách Bunin đã làm trong

tác phẩm không phải “để phân tích và nhìn kỹ các sự kiện trong cái bản chất thực sự của

chúng, mà chính là để nhằm vào một hướng ngược lại: nhằm để khắc phục cái đặc tính

ấy, để bắt cái kinh khủng phải nói bằng ngôn ngữ của hơi thở nhẹ, bắt cái chất đục đời

thường phải reo lên, vang lên như một cơn gió xuân se lạnh” [81; tr. 304]. Theo chúng tôi,

đó là một cách cảm nhận tác phẩm từ xu hướng “hiện thực mới”. Với chúng tôi, Bunin

qua Hơi thở nhẹ đã vĩnh cửu hóa cái đẹp, ông đã để cho hơi thở nhẹ làm lu mờ đi sự

khủng khiếp đến từ cái chết không lấy gì làm “đáng để thương xót” cho cách hành xử của

nhân vật. Điều đáng nhớ ở đây là cái cách đặc biệt khác thường và hơi chua chát mà nhà

văn dùng để bất tử hóa cái đẹp, làm cho nó sống mãi trong người ở lại, thậm chí sống đến

muôn đời. Hơi thở nhẹ, bởi thế, vừa là một dấu hiệu “kiểm chứng cái đẹp” (nghĩa đen gợi

ra từ văn bản), vừa là một thước đo cảm xúc của người đọc: hóa ra tất cả những gì ghê

gớm nhất, kinh khủng nhất, đau buồn nhất của cuộc đời con người rồi cũng sẽ tan biến

“dưới bầu trời đầy mây, trong gió xuân lành lạnh”, giống như một hơi thở nhẹ…

Không chỉ có Hơi thở nhẹ, ở nhiều tác phẩm khác của Bunin, những người con gái

đẹp đa phần đều bất hạnh: Natali, Rusya, Galia Ganskaya, Valeria, Klara và nhiều nhân

vật “nàng” khác… Như vậy, với Bunin, cái Đẹp luôn luôn song hành cùng cảm thức bi

hoài. Cái Đẹp, dù chỉ trong khoảnh khắc, trở thành bất tử. Điều đó đã gây xúc động mạnh

142

mẽ tới người đọc. Đó cũng chính là yếu tố mạch nguồn cho tính trữ tình trong truyện ngắn

Bunin.

4.3.2. Tình yêu trong cảm thức bi hoài

Có thể nói, tình yêu là một trong ba chủ đề lớn nhất trong những truyện ngắn của

Bunin. Nhà văn từng trải qua bốn mối tình sâu đậm dường như coi tình yêu là liều thuốc

của cuộc đời mình. Tập truyện ngắn nổi tiếng nhất trong giai đoạn sáng tác cuối cùng của

Bunin là tập truyện ngắn về tình yêu. Tuy nhiên, tình yêu như một tất yếu nghệ thuật đã

xuất hiện trong những truyện ngắn Bunin giai đoạn trước Cách mạng, khi mà những sáng

tác về chủ đề nông thôn và nước Nga được coi là chủ đạo. Ngay trong Cỏ gầy, một tác

phẩm tưởng như chỉ đơn thuần viết về cuộc sống và suy tư của người nông dân Nga khi

phải đối mặt với cái chết thì nhân vật chính – bác Averki trong những ngày cuối đời nằm

dưỡng bệnh ở nhà đã thốt lên: “Chao ôi. Trên đời có tình yêu đẹp biết bao!” [15; tr. 135].

Một điểm đặc biệt rất dễ nhận thấy trong các sáng tác về đề tài tình yêu của Bunin

(cả trước và sau Cách mạng) đó là những truyện ngắn tình yêu của nhà văn thường không

đơn thuần viết về tình yêu, tình yêu thường gắn liền với cái chết. Hay nói cách khác, các

nhân vật tình yêu thường chết khi kết thúc tác phẩm (Một truyện tình nho nhỏ, Đứa con

trai, Hơi thở nhẹ…). Dù cho cái chết vật lí không thực sự xảy ra, nhân vật cũng ít nhiều

“chết ở trong lòng”. Trong Lần gặp gỡ cuối cùng, tuy không có cái chết nào cho đến kết

thúc tác phẩm, nhưng sự ra đi mãi mãi của Vera – cô gái mà Storesnhev yêu suốt 15 năm

qua đã giết chết tình yêu thực sự trong họ, giết chết tâm hồn cô gái và cả chàng trai đã

dành trọn cuộc đời mình cho cô. Cuộc chia tay của họ có cả dư vị ngọt ngào của tình yêu,

cả sự đắng chát của những hi sinh không được đền đáp và cả nỗi thất vọng ê chề trước

ước mong không thành. Với những cô gái trong truyện ngắn tình yêu của Bunin: “Tình

yêu là cái ta muốn nhưng không đạt được, và không hề có” [16; tr. 583]. Vì thế cho nên,

cô gái trong Một truyện tình nho nhỏ chết ở Genève sau khi lấy người mà mình không yêu

– bá tước El-Mamuna, ôm trong lòng mối tình với chàng trai mà cô yêu nhưng không bao

giờ được phép lấy; người phụ nữ cả đời đoan trang đức hạnh Maro chấp nhận tự sát khi

biết con tim mình rung động vì yêu với chàng thanh niên Emin đáng tuổi con mình bởi bà

biết rằng tình yêu ấy không thể đạt được; cô gái Olia Mesherskaia bị bắn chết trên sân ga

143

sau khi thổ lộ cô chỉ đùa giỡn tình cảm của chàng sĩ quan chứ không hề yêu anh ta, rằng

đó chỉ là cách cô trả thù đời, là “lối thoát” duy nhất của cô khi cô đã trao thân cho một

người đàn ông mà ngay sau đó cô cảm thấy ghê tởm. Như thế, tình yêu, với các nhân vật

nữ chính, hoặc là thứ họ muốn nhưng không thể có được, hoặc không dám sống, không

dám đánh đổi vì nó, hoặc là thứ họ chưa từng thực sự được nếm trải nhưng lại làm tổn

thương tâm hồn họ. Cái chết, sự chia ly vĩnh viễn với người họ yêu, chính là cách giải

thoát tốt nhất. Sau này, trong những truyện ngắn được viết trên đất Pháp, Bunin viết nhiều

hơn về tình yêu, vẫn là tình yêu đẹp, vẫn là sự hòa hợp cả thể xác và tâm hồn, dù sự hòa

hợp ấy chỉ là thoáng qua, là khoảnh khắc ngắn ngủi trên đường đời, nhưng dư âm cuối

cùng vẫn là sự chia ly, là cái chết của hoặc chàng trai hoặc cô gái. Có lẽ, với Bunin,

phương thức duy nhất để giúp tình yêu sống mãi, để nó không bị héo hon theo tháng ngày

của những va chạm trong cuộc sống thường nhật là sự chia ly mãi mãi.

Có một truyện ngắn rất đặc biệt trong kho tàng truyện ngắn Bunin, đó là Ngữ pháp

tình yêu. Tác phẩm đặc biệt ở chỗ nhân vật nữ huyền bí trong câu chuyện – cô hầu gái

Luska, người vợ mà điền chủ Khvosinsky yêu say đắm bất chấp đẳng cấp xã hội (đến

mức nàng đã mất 20 năm trước nhưng ông không rời xa căn phòng của nàng nửa bước)

luôn ám ảnh viên quan tỉnh Ivlev. Nỗi ám ảnh lớn lao ấy thậm chí còn chuyển thành tình

yêu – một mối tình đậm màu sắc Platon bởi Ivlev chưa một lần được nhìn ngắm hay gặp

gỡ Luska: “Nàng đã vĩnh viễn bước vào đời ta!”. Tình yêu thuần túy tinh thần đến từ câu

chuyện kỳ bí về nàng đã đưa Ivlev đến “gặp” nàng thông qua những kỉ vật về nàng. Cuốn

sách Ngữ pháp tình yêu với những câu thơ da diết chính là minh chứng cho sức mạnh

tuyệt vời của tình yêu ấy: “Những trái tim yêu sẽ mách bạn:/ „Hãy sống trong truyền

thuyết ngọt ngào!‟/ Những trái tim yêu sẽ truyền cho cháu chắt/ Này là Ngữ pháp của tình

yêu.” [3; tr. 38].

Thêm một điểm nữa cần phải chú ý, trong những truyện ngắn của Bunin, tình yêu

không chỉ xuất hiện trong bộ cánh trong trẻo, thuần khiết đơn thuần của tinh thần; không

chỉ mang màu sắc lí tưởng, siêu phàm mà rất trần thế, đậm chất sắc dục của con người,

đặc biệt là những truyện ngắn sau Cách mạng tháng Mười. Với Bunin, tình yêu thực sự

phải là sự hòa hợp và dâng hiến cả về thể xác và tinh thần. Ông viết về những sự dâng

hiến ấy một cách tự nhiên, hoàn toàn là khát khao rất người, rất mãnh liệt. Trong Lần gặp

144

gỡ cuối cùng, cả Vera và Storesnhev đã hiến dâng thân thể mình cho nhau, đã yêu thương

nhau trọn vẹn 15 năm trời, thế nhưng vẫn có những khoảng cách khiến họ không thể bên

nhau để rồi chia ly vĩnh viễn. Trong Hơi thở nhẹ, phút giây lãng mạn dịu dàng của mùa

thu chốn thôn quê, sự quyến rũ, từng trải của người đàn ông lịch lãm đã đứng tuổi, cảm

giác ngất ngây đầu đời của cô con gái lần đầu được hưởng những cái hôn ngọt ngào đã

biến Olia Mesherskaia từ một cô thiếu nữ trở thành đàn bà để rồi cô gái “bị ép buộc một

cách tự nguyện ấy” lao vào đùa giỡn tình yêu với một người đàn ông khác và phải từ giã

cõi đời. Sau này, trong những truyện ngắn tình yêu sau Cách mạng tháng Mười, dù viết

nhiều hơn về những khát khao dâng hiến, những đụng chạm thể xác đã làm thay đổi suy

nghĩ, thậm chí cả cuộc đời của nhiều nhân vật, ông vẫn khẳng định: tình yêu không khi

nào trở thành hiện thực, tình yêu là trạng thái vĩnh cửu của tâm hồn, là cái để nhớ về, để

tiếc nuối. Say nắng, Những tấm danh thiếp, Rusya, Natali, Ida, Ở Paris, Galia Ganskaya,

Tanhia, Nàng Lika…. là những truyện ngắn tình yêu tiêu biểu cho phong cách ấy.

4.2.3. Khoảnh khắc cảm thức bi hoài

Như đã phân tích ở trên, khoảnh khắc có vai trò vô cùng quan trọng trong truyện

ngắn Bunin. Nhà văn dành nhiều ưu ái của mình cho những sự kiện khoảnh khắc, những

truyện ngắn của ông sau này chủ yếu là những truyện ngắn được xây dựng từ những ấn

tượng, khoảnh khắc trong quá khứ. Những khoảnh khắc tưởng như thoáng qua ấy lại có

sức mạnh lớn lao, làm thay đổi không chỉ tâm trạng, tình cảm của nhân vật trong tác

phẩm, mà còn làm biến đổi hoàn toàn diễn biến cốt truyện cũng như tâm lý đón đợi của

người đọc. Chắc hẳn người đọc không thể quên được khoảnh khắc nhân vật Irakly

Meladze nhận ra Klara đã già. Sự già nua được che giấu lộ ra bất ngờ đã kéo theo một

chuỗi những biến cố của câu chuyện, họ vật lộn với nhau, cô gái chết, cuối cùng chàng

thương gia bỏ trốn và đến Rostov thì bị bắt giữ. Khoảnh khắc nhân vật nàng trong Ở

Paris nhìn thấy chiếc áo khoác màu xám có lần lót đỏ sau đám tang người đàn ông nàng

cùng chung sống cũng là khoảnh khắc nhân vật nhận thức sâu sắc hơn những đau khổ của

sự mất mát. Đó là chiếc áo “ông đã mặc vào dạo hè xa xưa ấy” khi nàng và ông còn hạnh

phúc. Xúc cảm trong nàng quá bất ngờ, dâng trào khiến nàng không thể kìm nén: “Nàng

lấy áo từ trên mắc xuống, áp vào mặt, ôm chặt nó vào lòng rồi đổ khuỵu xuống sàn, toàn

145

thân rung lên trong những tiếng nức nở nghẹn ngào cầu xin ai đó tha thứ.” [19; tr. 126].

Chiếc áo chính là chi tiết khơi dậy mọi xúc cảm xa xưa ở nàng: niềm hạnh phúc xa xưa,

nỗi ân hận, xót xa, sự nghẹn ngào của kẻ đã phạm lỗi và đã được tha thứ, được bao

dung…

Bên cạnh đó, Bunin còn có những suy nghĩ rất độc đáo về khoảnh khắc, về quá

khứ, về những vấn đề vĩnh cửu của con người trong thời đại nhiều biến động. Điểm đặc

biệt là những suy nghĩ này gắn bó thú vị với tôn giáo.

Bunin đã từng ghi lại suy nghĩ của mình về khoảnh khắc, về những ấn tượng trong

cuộc đời: “Chúng ta sống với tất cả những gì đang sống, tất nhiên chỉ trong giới hạn

những gì đang sống mà chúng ta nhận thức được giá trị của chúng. Thông thường, những

giá trị này không nhiều: nó chỉ hiện lên trong những khoảnh khắc hân hoan – hân hoan

hạnh phúc hay bất hạnh, cảm giác sở hữu rõ ràng hay mất mát; còn nữa – trong những

khoảnh khắc biến chuyển đầy thơ mộng của quá khứ trong hồi ức”, và thường trong

những truyện ngắn của Bunin “những phút biến chuyển ấy” một cách trực tiếp sinh ra

trong mắt người đọc một thế giới tươi sáng đầy thơ mộng [136 – tập 9; tr. 366].

Nhà nghiên cứu Zakharova nhận định về vai trò của khoảnh khắc trong việc gợi ra

những chủ đề vĩnh cửu trong truyện ngắn của nhà văn: “Bunin có khả năng biến những ấn

tượng của khoảnh khắc phác thảo lên tầm nguyên lí tồn tại vĩnh cửu. Đặc tính thi pháp

phong cảnh của Bunin trở thành “tính lưu chuyển của cuộc sống”, ý nghĩa của “khoảnh

khắc qua đi” trong người kể chuyện của Bunin hiện ra trong những khoảnh khắc đó,

chúng kêu gọi “hướng tới cuộc sống, tôn vinh mỗi giá trị của cái giây lát ấy” [112; tr. 11].

Fedor Stepun nói về tính vĩnh cửu của chủ đề cái chết trong truyện ngắn của Bunin:

“Nghệ thuật thuần túy của Bunin nỗ lực tìm kiếm, nhận thức thế giới. Các chủ đề tình yêu

lớn ẩn tàng, tham lam, niềm đam mê thường trực không nguôi, nhưng trên tất cả là cái

chết thâm nhập tất cả những sáng tạo của nhà văn vĩ đại. Nghệ thuật của ông hóa ra là ở

khả năng đặc biệt này, có lẽ, bởi vì nó không miêu tả các sự kiện lớn, không đặt ra những

vấn đề lớn lao, không săn lùng những tình huống thú vị, không tưởng tượng ra những loại

người khác thường. Nó vẫn rất có ý nghĩa ngay cả khi chỉ miêu tả cuộc sống thường nhật,

thậm chí trong những điều nhỏ bé” [Dẫn theo 172].

146

Bunin cũng đã có lần trực tiếp bộc lộ quan điểm của mình về cái chết, đặc biệt về

sự vĩnh cửu: “Tôi không có bắt đầu và không có kết thúc. Sự ra đời! Điều này có nghĩa

gì? Sự ra đời! Sự ra đời của tôi không bao giờ là sự bắt đầu của tôi. Sự bắt đầu của tôi

nằm trong sự không thể lí giải này đối với mặt tối của tôi, trong đó tôi lưu lại cho đến lúc

tôi ra đời, trong cha tôi, trong mẹ tôi, trong tổ tiên của tôi, như thể tôi cùng một lúc ở

trong họ, chỉ trong những hình thức khác nhau, trong đó rất nhiều thứ được lặp đi lặp lại,

làm cho tôi giống họ. Tất cả cuộc sống của mình tôi đã sống dưới dấu hiệu của cái chết –

và tuy vậy tôi cảm thấy rằng tôi không bao giờ chết” [Dẫn theo 172]. Như vậy có thể thấy

rằng, Bunin ý thức rất rõ về cái chết và sự hữu hạn, đồng thời cũng ý thức rất rõ về sự

vĩnh cửu của con người. Nhà văn trong những nỗ lực của mình đã tìm cách lưu lại những

sự vĩnh cửu ấy. Đặc biệt, với ông, như đã dẫn ở trên, khoảnh khắc chính là phương tiện

lưu lại cái vĩnh cửu. Đặc biệt hơn nữa, khoảnh khắc của quá khứ chính là những thứ quý

giá hơn cả. Bởi với Bunin, khoảnh khắc quá khứ ấy chính là sự cứu rỗi, là khoảnh khắc

vĩnh cửu trong quan niệm của Chính Thống giáo: “Sự tồn tại của con người, nhìn chung,

được luận giải trong văn học Nga cổ như một tiếng vọng của quá khứ, chính xác hơn, sự

kiện của quá khứ ấy, là những thứ đã được xác định liên hệ với sự vĩnh cửu (…), Lễ Phục

Sinh, tuần lễ, sự kết thúc, năm – tất cả là tiếng vọng từ một trong những sự kiện của quá

khứ, những thứ tồn tại một cách đồng thời trong sự vĩnh cửu, trong lịch sử quá khứ và

hiện tại. Năm tôn giáo trong sự khác biệt với năm (từ phương diện) ngôn ngữ không đơn

giản là sự lặp lại, mà chính là dấu vết “phục sinh”, tiếng vọng (…) Con người từ quan

điểm văn hóa Chính Thống Nga cũng là một “tiếng vọng”” [Dẫn theo 112; tr. 26]. Đó là

lời nhận xét của viện sĩ A.M.Panchenko về “cuộc sống sống động” của tâm hồn con

người trong truyện ngắn Bunin. Điều này lí giải vì sao trong những truyện ngắn của mình,

Bunin luôn viết về những sự kiện của quá khứ, những vẻ đẹp của quá khứ. Đó cũng là lí

do những mối tình của quá khứ luôn chiếm một vị trí vô cùng đặc biệt trong tâm hồn của

nhân vật chính, làm thay đổi diện mạo, thay đổi suy nghĩ, và ám ảnh nhân vật cả đời.

Tiểu kết chương 4:

Cốt truyện sự kiện trong truyện ngắn Bunin có khuynh hướng suy yếu, nhường chỗ

cho cảm xúc. Xúc cảm thâm nhập vào hệ thống sự kiện, chi phối cốt truyện để tạo nên

147

những mô thức cảm xúc – sự kiện cơ bản (cảm xúc tiếc nuối – dòng chảy “hoài niệm”,

cảm xúc mãnh liệt – khoảnh khắc “hiện tại”, cảm xúc “an phận” – vòng đời “tĩnh lặng” và

sự chuyển đổi mô thức tuần hoàn tĩnh tại – đột biến – tĩnh tại) cùng cốt truyện hành trình

tâm trạng (tuyến tính và phi tuyến tính với những dạng thức đơn thuần, song song tương

đồng và tương phản). Ngoài ra, Bunin còn có một số lượng khá lớn những truyện ngắn

không có cốt truyện, hầu như không có sự kiện nhưng ở những truyện ngắn này xúc cảm,

triết lí luôn đầy ắp. Chúng tôi xem đây là điểm đặc biệt trong kho tàng truyện ngắn của

Bunin. Nét đặc biệt nhất là tất cả mọi sự kiện của truyện ngắn đều đưa đến kết thúc là sự

mất mát hoặc cái chết, dù cảm xúc về những sự mất mát và cái chết ấy không bi luỵ, mà

dường như ở một cảm thức khác – cảm thức bi hoài.

Khuynh hướng trữ tình hoá cốt truyện trong truyện ngắn Bunin, theo chúng tôi,

chịu sự chi phối của cảm thức bi hoài – hạt nhân cảm quan nghệ thuật của nhà văn: cái bi

hoài mang sứ mệnh vĩnh cửu hóa cái đẹp, tình yêu, khoảnh khắc. Cảm thức bi hoài là

mạch nguồn của tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin. Chính cảm thức bi hoài thống nhất

trong cả sáng tác thơ và văn xuôi của Bunin đã làm nên thứ “văn xuôi như thơ” mà chúng

tôi đã đề cập tới ở các chương trước. Nghiên cứu cảm thức bi hoài trong truyện ngắn

Bunin, ta có thêm căn cứ cho giả thuyết của nhà nghiên cứu Phạm Gia Lâm cho rằng toàn

bộ sáng tác văn xuôi trữ tình của Bunin thuộc thể loại bi kí (эпитафия - một thể loại

thuộc văn bia thường rất ngắn gọn bởi được khắc trên bia đá, bia mộ (phiến đá hẹp) để ghi

nhớ những chiến tích, công đức, những sự kiện trọng đại, lưu lại chứng tích của cái đẹp,

thiêng liêng... đã rời sang cõi vĩnh hằng) như nhà văn từng định danh cho một tác phẩm

của mình. Chính cảm quan nghệ thuật thiên về cảm thức bi hoài của Bunin là nguồn mạch

cho tính trữ tình đặc biệt trong truyện ngắn của nhà văn. Cảm thức bi hoài nảy sinh từ ý

thức về thực tại cuộc đời, bối cảnh văn hóa xã hội, khí chất của Bunin không chỉ tràn

ngập những trang văn xuôi như thơ của ông, mà còn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng

nhiều thế hệ độc giả.

148

KẾT LUẬN

1. Ivan Bunin là một cây bút đặc biệt của nền văn học Nga. Xuất thân quý tộc và

“kiên định” lối sáng tác mang hơi thở “cổ điển” của nước Nga nhưng những tác phẩm của

Bunin vẫn rất hiện đại, ấn tượng và mang sức cuốn hút riêng. Giống như những nhà văn

tiền bối Puskin, Turghenev, Chekhov… Bunin viết về con người, cảnh vật, sinh hoạt

thường ngày của nước Nga; nhưng những trang viết của ông được kết nối bằng xúc cảm

hoài nhớ của một con người đau đáu hướng về Tổ quốc từ phương xa. Nhân vật của ông

vẫn là những thanh niên trí thức nhưng ở họ lí trí đã nhường chỗ cho trái tim; dòng sông

tâm trạng của phép “biện chứng tâm hồn” hay những cuộc đấu tranh tư tưởng đã không

còn là vẻ đẹp nội tâm của nhân vật, thay vào đó là những khoảnh khắc lóe sáng của tình

yêu sét đánh, của cái đẹp mong manh nhưng trường tồn vĩnh cửu. Ở ông, xúc cảm đã trở

thành sợi dây kết nối hình tượng nhân vật chủ đạo với tác giả và người đọc. Ở ông, lần

đầu tiên trong văn học Nga, cụ thể là truyện ngắn, khoảnh khắc trở thành vĩnh cửu, ấn

tượng trở thành vẻ đẹp biểu trưng. Ở ông, kí ức giữ một vai trò quan trọng trong cuộc

sống của con người. Đó là thứ nhân loại ngày nay luôn khát khao tìm về. Ở ông, cảm thức

bi hoài luôn hiện hữu và song hành cùng cái đẹp, tình yêu, khoảnh khắc. Cảm thức bi hoài

ấy chính là phương thức để cái đẹp, để tình yêu, để khoảnh khắc được lưu giữ đúng thời

điểm đẹp nhất và mãi mãi còn lại trong thế giới tinh thần của con người. Đó là sự vĩnh

cửu.

2. Có thể nói, Bunin đã trở thành cầu nối của văn học Nga cổ điển và hiện đại. Nhà

văn đã đưa nước Nga, con người Nga, tính cách Nga, tâm hồn Nga – với những gì thuần

khiết nhất vào trang văn khiến cho những người Nga, đặc biệt là những người Nga ở xa

Tổ quốc không thể không thương nhớ. Người đọc sẽ nhớ mãi mùa thu vàng nước Nga hay

những đêm trăng sương giá trên cánh đồng tuyết trong tác phẩm của ông, người đọc cũng

không thể quên những buổi bình minh rộn tiếng họa mi, thoang thoảng hương hoa táo hay

hương cỏ thơm trên đồng… Những cô gái Nga xinh đẹp, tinh tế mang tâm hồn của Đức

Mẹ biểu tượng cho cái đẹp mong manh nhưng vĩnh cửu sẽ còn mãi vương vấn, ám ảnh

người đọc. Đó cũng là lí do truyện ngắn Bunin có một vị trí vô cùng đặc biệt trong lịch sử

truyện ngắn Nga: vừa quý tộc sang trọng, lịch lãm như Turghenev; vừa dân dã thâm trầm

149

như Chekhov; vừa sâu sắc lãng mạn như Gorky; lại vừa hân hoan quyến rũ như

Paustovsky… Bunin xứng đáng đại diện cho những cây bút truyện ngắn của Thế kỷ Bạc

trên hành trình vừa lưu giữ chất Nga truyền thống vừa đem vào đó hơi thở sáng tạo của

thời đại.

3. Đóng góp của Bunin không chỉ ở xúc cảm về những gì thuộc về nước Nga, kí ức

trong cảm thức bi hoài. Với lối kể chuyện tinh tế, khuynh hướng lấy xúc cảm làm nền

tảng chi phối cách lựa chọn sự kiện, cốt truyện, người kể chuyện, kết hợp với ngôn từ

giàu nhạc tính, vừa hồn nhiên dân dã, vừa thi vị, cao cả, Bunin đã tạo ra một thứ văn xuôi

như thơ đầy quyến rũ. Những sự kiện được Bunin lựa chọn, đích đến của cốt truyện đều

hướng tới mục tiêu lưu giữ vẻ đẹp của thế giới, đặc biệt thế giới tinh thần con người một

cách ấn tượng nhất. Bởi thế, Bunin càng ngày càng có xu hướng giản tiện tối đa sự kiện

thực tế, gia tăng sự kiện tâm trạng, lưu giữ khoảnh khắc cũng như những suy tưởng trữ

tình bằng hành động gợi nhớ, sự hoài niệm, bằng ký ức thông qua một hình thức văn xuôi

ngắn gọn, súc tích nhưng đầy ắp cảm xúc – truyện ngắn gần với thể loại bi kí, lưu giữ

chứng tích của cái đẹp thiêng liêng trong những khoảnh khắc tồn tại của nó trước khi rời

sang cõi vĩnh hằng. Thực tế, hiện tượng giao thoa thể loại (ở đây là văn xuôi và thơ trong

truyện ngắn) là một xu hướng mang dấu ấn của thời đại Bạc. Tuy nhiên, người đọc vẫn có

thể nhìn thấy những nét sáng tạo rất riêng của Bunin. Có thể nói cảm thức bi hoài khó tả ở

Bunin đã vĩnh cửu hóa những nét đẹp “chỉ còn vang bóng” của cuộc đời. Truyện ngắn của

Bunin vừa là những bản bi ca, vừa lại là những bản hoan ca về sự hiện tồn của cái đẹp,

tình yêu trong những khoảnh khắc đáng giá hơn cả cuộc đời. Cái nhìn táo bạo về cuộc đời

và những cách tân đặc biệt của Bunin đối với thể loại truyện ngắn đã xác định vị trí của

ông trong hàng ngũ những cây bút văn xuôi trữ tình lớn nhất của văn học Nga và thế giới.

4. Truyện ngắn của Bunin không đơn thuần là một truyện ngắn trữ tình chỉ gói gọn

trong nó ý nghĩa toát lên từ nhân vật hay sự kiện, ngôn từ trong tác phẩm. Truyện ngắn

của Bunin còn là một văn bản “liên văn bản” độc đáo. Có những truyện ngắn người đọc

tìm thấy những tác phẩm hội họa thuần khiết và ấn tượng về thiên nhiên, về người con gái

Nga thanh tân, quyến rũ. Có những truyện ngắn đưa người đọc đến với không khí thơ ca

cổ điển Nga với những vần thơ của Fet, Lermontov… Có những truyện ngắn người đọc

150

lại được sống cùng âm nhạc dân gian Nga lúc da diết ngọt ngào, lúc rộn rã tươi vui, hay

âm nhạc cổ điển thế giới đầy du dương, lãng mạn… Và có cả những truyện ngắn người

đọc cảm nhận được không khí đối thoại đầy cởi mở nhưng cũng rất thành kính của Bunin

với Lev Tolstoy, với Dostoievsky, với Turghenev và những cây bút khác… Có thể nói đó

cũng là một “cái được” rất lớn nữa của người đọc khi bước vào thế giới nghệ thuật của

truyện ngắn Bunin.

5. Nghiên cứu tính trữ tình trong truyện ngắn của Bunin thực sự là một thử thách

lớn lao với chúng tôi bởi thế giới truyện ngắn nói riêng và văn xuôi của Bunin nói chung

vẫn còn khá bí ẩn đối với người Việt Nam. Chúng tôi muốn nói đến số lượng các văn bản

dịch tác phẩm của nhà văn ở nước ta vẫn còn khá khiêm tốn so với số lượng các tác phẩm

của ông. Thêm nữa đọc văn của Bunin người đọc dễ dàng bị cuốn hút và ngập chìm trong

cảm xúc mà nhà văn tạo ra, thế nhưng để phân tách và gọi tên những yếu tố làm nên sự

cuốn hút của cảm giác đó quả không dễ dàng. Chúng tôi, trong những cố gắng hết sức của

mình chắc chắn chưa thể làm thỏa mãn tất cả những ai yêu và hiểu Bunin. Nhưng chúng

tôi tin rằng, qua những hiểu biết của mình được trình bày trong luận án về tính trữ tình, về

tính trữ tình trong truyện ngắn của Bunin, về nét riêng trong tính trữ tình của ông, chắc

chắn chúng tôi cũng ít nhiều có được sự đồng tình. Và chúng tôi cũng hi vọng những

nghiên cứu bước đầu của chúng tôi sẽ có giá trị gợi mở cho những nghiên cứu tiếp sau về

cây bút Nga hải ngoại tinh tế và sâu sắc này. Triển vọng nghiên cứu về Bunin cũng như

tính trữ tình trong tác phẩm của ông vẫn hứa hẹn nhiều khám phá mới trong tương lai.

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Đỗ Thị Hường (2016), “Từ Quý ông từ San Francisco đến, Những quả táo

Antonov và Say nắng nhìn về mô hình trần thuật trong truyện ngắn của Ivan

Bunin”, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 2 (42), tr.84-92.

2. Đỗ Thị Hường (2016), “Ivan Bunin trong văn học Nga Thế kỷ Bạc”, Tạp chí

Nghiên cứu Văn học, số 11 (537), tr.104-113.

3. Đỗ Thị Hường (2017), “Truyện ngắn Ivan Bunin từ góc nhìn văn hóa”, Tạp chí

Văn nghệ quân đội, số 7 (873), tr.106-110.

4. Đỗ Thị Hường (2018), “Nhận diện truyện ngắn Ivan Bunin trong truyện ngắn

Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học,

nghệ thuật, số 2, tr.111-118.

5. Đỗ Thị Hường (2018), “Tiểu nữ thần hay nhân vật nữ nổi loạn trong truyện

ngắn của Ivan Bunin”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 6 (408), tr.84-87.

6. Đỗ Thị Hường (2019), “Cảm quan trữ tình trong truyện ngắn của Ivan Bunin”,

Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1 (563), tr.77-91

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

2. Lê Trần Hậu Anh (2009), Chủ nghĩa ấn tượng và ảnh hưởng của nó đến các trào lưu

nghệ thuật thế kỷ XIX-XX //

http://www.vietnamfineart.com.vn/Story/sukienmythuat/2009/1/1959.html

3. Đào Tuấn Ảnh (2017)(tuyển chọn và giới thiệu), Ngữ pháp tình yêu – Tuyển truyện

ngắn Nga chọn lọc thế kỷ XX-XXI,Nxb Trẻ, tp Hồ Chí Minh.

4. Đào Tuấn Ảnh (2001), “Văn học Nga từ điểm nhìn cuối Thế kỷ XX – truyền thống và

kinh nghiệm”, Tạp chí Văn học, (1), tr. 69-82 .

5. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

6. Bách khoa toàn thư mở (tiếng Việt), Trường phái ấn tượng. Nguồn:

https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_ph%C3%A1i_%E1%BA%

A5n_t%C6%B0%E1%BB%A3ng

7. Balla O., Quyền lực của ngôn từ và quyền lực của biểu tượng, (Ngân Xuyên dịch) //

http://www.nhanvan.com

8. Lê Huy Bắc (2008), “Cốt truyện trong tự sự”, Tạp chí Văn học, (7), tr. 34-43.

9. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn: lí luận, tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội

(2 tập).

10. Lê Huy Bắc (2018), Kí hiệu và liên kí hiệu, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.

11. Berdiaev A.N.(2003), “Tâm hồn Nga”, Văn học nước ngoài, (6), tr. 199-218, (Từ Thị

Loan dịch).

12. Berezovaia L.G. (2015), “Thế kỷ Bạc ở nước Nga: từ huyền thoại đến thuật ngữ khoa

học (với vấn đề nội dung khái niệm)”, Lí luận Phê bình Văn học nghệ thuật Trung

ương, (11), tr. 75-82 (Thái Vân dịch).

13. Bunin I.A. (2006), Hơi thở nhẹ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. (In lại từ Ivan Bunin

(1988), Nàng Lika, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội) (Phan Hồng

Giang dịch và giới thiệu).

14. Bunin I.A. (1995), “Nếu tôi còn được sống để nhìn thấy nước Nga một lần nữa!”, Văn

nghệ, (47) (ra ngày 25/11), tr.11 (Trần Lê Quỳnh dịch).

15. Bunin I.A. (2013), Những lối đi dưới hàng cây tăm tối, Nxb Văn học-Nhã Nam, Hà

Nội. (In lại từ Ivan Bunin (1987), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội) (Hà

Ngọc dịch và giới thiệu).

16. Bunin I.A. (2002), Tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, Hà Nội (Phan Hồng Giang

giới thiệu, Hà Ngọc, Phan Hồng Giang, Thái Bá Tân, Hữu Việt, Đoàn Tuấn dịch từ

nguyên bản tiếng Nga).

17. Bunin I.A. (2003), “Truyện ngắn”, Văn học nước ngoài,(6), tr.5-111 (nhiều người

dịch).

18. Bunin I.A. (2011), “Truyện ngắn”, Văn học nước ngoài, (10), (nhiều người dịch).

19. Bunin I.A. (2011), Truyện ngắn // http://vanhocnghethuatyenbai.gov.vn/tin-tuc/van-

hoc-nuoc-ngoai/?UserKey=Chum-truyen-ngan-cua-nha-van-Nga-Ivan-Bunin-1870-

1953-giai-Nobel-van-hoc-1933 (Nguyễn Thị Kim Hiền dịch).

20. Chevalier J., Gheerbrant A. (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà

Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du, (Phạm Vĩnh Cư chủ biên dịch).

21. Chiupa V.I. (2013), Trần thuật học như là khoa học phân tích diễn ngôn trần thuật

(La Khắc Hòa dịch) // https://languyensp.wordpress.com/2013/09/13/tran-thuat-hoc-

nhu-la-khoa-hoc-phan-tich-dien-ngon-tran-thuat-3/

22. Đỗ Hồng Chung, Nguyễn Kim Đính, Nguyễn Hải Hà, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn

Trường Lịch, Huy Liên (2003), Lịch sử Văn học Nga, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Đào Ngọc Chương (2010), “Đề tài trở về trong truyện ngắn của Ivan Bunin, Ernest

Hemingway và Cao Hành Kiện‖, Nghiên cứu Văn học, (1), tr. 56-66.

24. Nguyễn Chí Công (2009), Hội họa phương Tây: trường phái ấn tượng //

http://dongtac.hncity.org/?Hoi-hoa-phuong-Tay-truong-phai-An-tuong

25. Phạm Vĩnh Cư (1994), “Mấy suy nghĩ về giao lưu văn hóa Việt Nam – Nga”, Tạp chí

Văn học, (6), tr. 31-34, 49.

26. Nguyễn Hữu Dung (1963), “Văn nghệ với chánh trị tại Liên Xô”, Bách khoa, (159 –

160), số 159: tr. 57-61; số 160: tr. 21-26.

27. Anhbaduy Guitar, Âm nhạc ấn tượng. //https://guitarcamau.wordpress.com/lich-su-

am-nhac/am-nhac-the-the-gioi-the-ky-xx/am-nhac-an-tuong-impressionisme/

28. Grin A. (2013), Cánh buồm đỏ thắm, Nxb Kim Đồng, Hà Nội (Phan Hồng

Giang dịch).

29. Grojnowski D., (2017), Đọc truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội (Trần Hinh,

Phùng Kiên dịch).

30. Nguyễn Hải Hà (2002), Văn học Nga: sự thật và cái đẹp, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

31. Thành Đức Hồng Hà (2017), Thi pháp văn xuôi A.S.Pushkin, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

32. Hallström P.(2002), “Giới thiệu giải thưởng Nobel 1933: Ivan Bunin – Nga”, Văn

nghệ, (12) (ra ngày 23/3), tr.14 (Tân Đôn và Trần Việt Hùng dịch).

33. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

34. Vũ Công Hảo (2008), “Ivan Bunin - Hành trình ra đi và trở về”, Tạp chí Khoa học

Đại học Sư phạm Hà Nội 2, (2), tr. 9-16.

35. Vũ Công Hảo (2015), Giáo trình Văn học Nga thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

36. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên) (2004), Từ

điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.

37. Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình (1995), Những bậc thầy văn chương thế giới tư tưởng

và quan niệm, Nxb Văn học, Hà Nội.

38. Đoàn Tử Huyến (chủ biên), Nguyễn Thúy Hằng (biên soạn) (2006), Các nhà văn Nga

giải Nobel, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

39. Ilin I.P., Tzurganova E.A. (chủ biên) (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các

trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, (Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch).

40. Kazakov Iu. (2006), Mùa thu trong rừng sồi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội (Đoàn Tử

Huyến, Trần Đình Châu, Phạm Sông Hồng, Đăng Bẩy dịch).

41. Keldysh V.A. (2007), “Văn học thế kỷ bạc như một chỉnh thể phức tạp”, Nghiên cứu

Văn học (số 11: tr.152-178; số 12: tr.99-126) (Đào Tuấn Ảnh dịch).

42. Kuprin A. (2002), Chiếc vòng thạch lựu, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn

ngữ Đông Tây, Hà Nội (Đoàn Tử Huyến dịch).

43. Kuprin A. (1987), Olesya (Tuyển tập truyện ngắn), Nxb Lao động, Hà Nội (nhiều

người dịch).

44. Kuprin A. (2002), Sulamif, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây,

Hà Nội (Đoàn Tử Huyến dịch).

45. Cao Kim Lan (2005), “Mấy vấn đề thi pháp cốt truyện”, Tạp chí Văn học, (6), tr.

66-84.

46. Phạm Gia Lâm (1997), “Những chuyển biến của tư duy nghệ thuật trong văn xuôi

Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học, (11), tr. 13-16.

47. Phạm Gia Lâm (2015), Văn học Nga hải ngoại: Quá trình – Đặc điểm – tiếp nhận,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

48. Phạm Gia Lâm (2018), “Mô hình nhân cách thiên sứ: Từ tư tưởng cứu thế Nga đến

văn học”, Nghiên cứu Châu Âu, (10), tr. 43-54.

49. Lotman Iu.M. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

(Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch).

50. Lotman Iu.M. (2015), Kí hiệu học văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (La Khắc

Hòa, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử dịch).

51. Hà Văn Lưỡng (2011), Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Ivan Bunin//

tapchisonghuong.net.

52. ManfredJ. (2005), Trần thuật học: Nhập môn lí thuyết trần thuật học, Phòng Tư liệu

Khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,

(Nguyễn Thị Như Trang dịch, Phạm Gia Lâm hiệu đính).

53. Magomedova D.M., Giọng (Lã Nguyên dịch)//

https://languyensp.wordpress.com/2014/12/05/giong/

54. Nabokov V. (2016), Mỹ nhân Nga, Nxb Văn học, Hà Nội, (Thiên Lương dịch).

55. Hữu Ngọc (1982), Từ điển tác gia văn học và sân khấu nước ngoài, Nxb Văn

hóa, Hà Nội.

56. Nhiều tác giả (2014), Từ điển Bách khoa Britannica (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

57. Nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ (2006), Kinh Thánh (Tân Ước và Cựu Ước),

Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

58. Pakhomova I.V. (2015), “Chủ đề tình yêu trong sự trải nghiệm nghệ thuật giai đoạn

thế kỷ Bạc”, Lí luận Phê bình Văn học nghệ thuật Trung ương, (10), tr. 71-75 (Thành

Đức Hồng Hà dịch).

59. Paustovsky K., (2007), Bông hồng vàng và Bình minh mưa, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội, (Kim Ân, Mộng Quỳnh dịch)

60. Paustovsky K. (1984), Một mình với mùa thu, Nxb Tác phẩm mới-Hội nhà văn Việt

Nam, Hà Nội.

61. Đỗ Hải Phong (2015), Giáo trình Văn học Nga, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

62. Đỗ Hải Phong (2010), “Tư tưởng tự sự học Nga: Lịch sử và triển vọng”, Nghiên cứu

Văn học, (9), tr. 5-22.

63. Trần Thị Phuơng Phương (2010), Thơ ca Nga từ khởi thủy đến hiện đại, Nxb Đại học

Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

64. Pospelov G.N.(chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch).

65. Prishvin M. (2011), Giọt rừng, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông

Tây, Hà Nội, (Đoàn Tử Huyến dịch).

66. Đỗ Quyên (2001), “Di cảo của nhà văn Bunin nằm trong tay ai”, Văn nghệ,(13) (ra

ngày 31/3), tr.11.

67. Radughin A.A. (chủ biên) (2004), Văn hóa học những bài giảng, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội, (Vũ Đình Phòng dịch, Từ Thị Loan hiệu đính).

68. Socolov A. (1995), “Về nền văn học Nga sau cải tổ”, Tạp chí Văn học, (3) (Trần Nho

Thìn dịch), tr. 23-26.

69. Soloviev V. (2005), Siêu lý tình yêu, Nxb Văn hóa thông tin – Trung tâm Văn hóa

ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, (Phạm Vĩnh Cư dịch).

70. Lê Sơn (1992), “Một vài nét về văn học Nga hải ngoại”, Tạp chí Văn học (3), tr.

54-60.

71. Struve G. (1995), “Văn học Nga ở hải ngoại”, Tạp chí Văn học, (3), tr. 29-31, 44

(Thùy Linh tổng thuật từ Văn học Nga trong sự ruồng bỏ của G.Struve, xuất bản lần

thứ hai, Paris, 1984).

72. Lê Đức Thụ (1999), “Mấy đặc điểm truyện ngắn Nga – Xô Viết”, Tạp chí Văn nghệ

quân đội, (4).

73. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), “Diễn ngôn âm nhạc trong tiểu thuyết của I.Turgenev”,

Văn hóa nghệ thuật, (383 – tháng 5) // http://vhnt.org.vn/tin-tuc/van-hoc-nhiep-

anh/29788/dien-ngon-am-nhac-trong-tieu-thuyet-cua-i-turgenev

74. Nguyễn Thị Thu Thủy (2018), Tiểu thuyết Ivan Turgenev và sự chồng lấn giữa các

đường biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

75. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

76. Turghenhev I. (2000), Một tổ quý tộc, Nxb Văn học, Hà Nội (Trương Thị Tỉnh dịch).

77. Phong Tuyết (2008), “Người kể chuyện trong văn xuôi”, Văn học nước ngoài, (5), tr.

120-136.

78. Văn học (Sài Gòn 1965), “Những khuôn mặt lớn và giải thưởng văn chương Nobel

1901 – 1965”, Tạp chí Văn học (Biên khảo – Văn hóa – Xã hội – Chính trị - Nghệ

thuật), (50) (ra ngày 15/11), tr. 44 - 47.

79. Viện Ngôn ngữ học (1969), Thuật ngữ văn học – mỹ học Nga, Pháp, Việt, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

80. Viện Thông tin Khoa học xã hội (2000), Sáng tác của Dostoevsky những tiếp cận từ

nhiều phía, Thông tin Khoa học xã hội-chuyên đề Hà Nội.

81. Vưgotsky (1995), Tâm lý học nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội – Trường viết văn

Nguyễn Du, Hà Nội.

82. Vysheslavtsev B.P. (2006), “Đi tìm tính cách dân tộc Nga” (Thiệu Hường dịch), trong

cuốn Phân tâm học và tính cách dân tộc (Đỗ Lai Thúy biên soạn và giới thiệu), Nxb

Tri thức, Hà Nội,tr. 496.

II. Tài liệu tiếng Nga

83. Академия наук СССР-Институт мировой литературы Им.А.М.Горького (1973),

Литературное наследство, том восемьдесят четвертый в двух книгах, Иван

Бунин, Книга первая, вторая, "Наука", Москва.

84. Аликанов К.М., Иванов В.В., Мальханова И.А. (1987), Русско-Вьетнамский в

двух томах (том 1), "Русский язык", Москва.

85. Архангельский A. (1991), Русские писатели - лауреаты Нобелевской премии

Иван Бунин, "Молодая гвардия", Москва.

86. Афанасьев B. (1966), И.А.Бунин. Очерк творчества. "Просвeщение", Москва.

87. Бабореко А.К. (1983), И.А.Бунин. Материалы для биографии с 1870 по 1917,

"Художественная литература", Москва.

88. Бабореко А.К. (составление, подгитовка текста, предисловие и комментарии)

(1990), Иван Бунин Окаянные дни. Воспоминания. Статьи, “Советский

писатель”, Москва.

89. Белокурова С.П. (2005), Словарь литературоведческих терминов //

http://literary_criticism.academic.ru/162

90. Белякова Н.Н., Глушкова М.М. (ред.)(2008), Русские писатели ХХ века от

Бунина до Шукшина, "Флинта", "Наука", Москва.

91. Бердникова (2009), "Так сладок сердцу Божий мир", Tворчество И.Бунина в

контексте христианской духовной традиции; Изд-во им. Е.А.Болхобитинова,

Воронеж.

92. Богомолов Н.А., Келдыш В.А., Корецкая И.В., Магомедова Д.М., Чудаков

А.П.,…(2000), Русская литература рубежа веков (1890-е - начало 1920-х

годов), Книга 1, ИМЛИ РАН, "Наследие", Москва.

93. Бонами T.M. (2013), Иван Бунин и изобразительное исскусство, Русский

импульс.

94. Бродский Н., Лаврецкий А., Лунин Э., Львова-Рогачевский В., Розанов М.,

Чешихин-Ветринский В. (ред. ) (1925), Литературная энциклопедия:

Словарь литературных терминов: В 2-х т., Изд-во Л. Д. Френкель, Москва,

Ленинград // http://literary_terms.academic.ru/286

95. Бунин И.А. (1980), Антоновские яблоки, повести и рассказы, Советская россия,

Москва.

96. Бунин И.А. (2006), Стихотворения. Повести. Рассказы, Москва.

97. Бунин И.А. (1981), Деревня, "Художественная литература", Москва.

98. Бунин И.А. (1977), Повести и рассказы, Чувашское книжное, чебоксары,

Москва.

99. Бунин И.А. (2006), Полное собрание сочинений в ХIII томах, “Воскресенье”,

Москва.

proza.html

100. Бунин и его проза (2002) // https://referatbank.ru/referat/preview/46778/referat-bunin-

101. Бунин - нобелевский лауреат // http://bunin.niv.ru/bunin/article/nobelevskij-

laureat.htm

102. Бунин (Роль Бунина в отечественной литературе XIX–XX вв) //

http://xreferat.ru/49/1303-1-bunin.html

103. Бунина В.Н. Муромцева (1989), Жизнь Бунина 1870-1906 - Беседы с памятью,

"Советский писатель", Москва..

104. Бушмин А.С., Купреянова Е.Н., Лихачев Д.С., Макогоненко Г.П., Муратова

К.Д., Прийма Ф.Я., Пруцков Н.И. (1983), История русской литературы, том

четвертый - литература конца 19 - начала 20 века (1881-1917), Ленинград

"Наука", Ленинградское отделение.

105. Василец О.В. (2004), Мифологическое и фольклорное в рассказах Бунина,

Петропавловск-Камчатский.

106. Гаспаров М.Л., Дубин Б.В., Лихачев Д.С., Скатов Н.Н., ТопоровВ.Н. (2000),

И.А.Бунин Проза, “Слово”, Москва.

107. Гейдеко В. (1976), А.Чехов и И.Бунин, “Советский писатель”, Москва.

108. Гриневич О.А. (2016), Cюжет усадебной любви в произведениях И.А.Бунина и

В.В.Набокова, ―Уральский филологический вестник‖, (5), стр. 72-81.

109. Дудинова Наталья Алексеевна (2017), Лиризм и правда бытия ранней прозы

И.А.Бунина, Гуманитарная парадигма, (1) Июнь, стр. 42-45.

110. Евгеньева А.П. (гл. ред.) (1983, 1984), Словарь русского языка, (том 2, 3),

"Русский язык", Москва.

111. Захаров Н.В., Бунин Иван Алексеевич // http://world-

shake.ru/ru/Encyclopaedia/4054.html

112. Захарова В.Т. (2013), Проза Ив. Бунина: аспекты поэтики, Нижний Новгород.

113. Злобин А.А.(2011), ―Изучение художественного текста на практических

занятиях по русскому языку и культуре речи (на примере рассказа

И.А.Бунина "Антоновские яблоки")”, Записки Горного института, Санкт-

Петербург, стр. 193.

114. Иванова-Гладильщикова Н., Истории с возвращением в Россию архива

Бунина// http://bunin.niv.ru/bunin/bio/arhiv-bunina.htm

115. Игонина Н.А. (2011), Способы лиризации в малых жанрах русской

классической прозы (Авторефератдиссертации на соискание учѐной степени

кандидата филологических наук), Москва// http://avtoreferat.seluk.ru/at-

filologiya/6839-1-sposobi-lirizacii-malih-zhanrah-russkoy-klassicheskoy-prozi.php

116. Интервью разных лет// http://bunin.niv.ru/bunin/public/intervyu.htm

117. Капец О.В., Капец В.П., Панеш С.Р. (2016), “Традиции и новаторство в эпоху

Нового времени (на материале произведений И.С. Тургенева и И.А. Бунина)”,

Ежеквартальный рецензируемый, реферируемый научный журнал "Вестник

АГУ", Выпуск 2 (177), стр. 158-163.

118. Капинос Е.В. (2014), Формы и функции лиризма в прозе И.А.Бунина 1920-х

годов (Диссертация на соискание ученой степени доктора филологических

наук), Новосибирск

//https://www.nspu.ru/upload/nauka/obyav_zaw/dissertacia_Kapinos.pdf

119. Карпов И.П. (1999), Проза Ивана Бунина (Учебное пособие, Для студентов и

преподавателей филологических факультетов, учителей-словесников),

Издательство "Флинта", Издательство "Наука", Москва.

120. Клейменова Р. Н, Пикулева Г.И. (2007), Иван Бунин и общество любителей

росийской словесности,“Аcадемиа”, Москва.

121. Кожевников В.М., Николаев П.А. (общая редакция) (1987), Литературный

энциклопедический словарь, "Советская энциклопедия", Москва.

122. Коростелев О., Дэвис Р. (2004), И.А.Бунин Новые материалы, Выпуск 1,

“Русский путь”, Москва.

123. Коротаева Е.И., Омельянович-павленко Л.М. (1957), Словарь современного

русского литературного языка (том 6), “Академии наук СССР”, Москва-

Ленинград.

124. Кременцов Л.Н. (ред.) (2002), Русская литературе ХХ века (в двух томах),

“Академа”,Москва, 2002.

125. Лазарев В., “Синие камни” (поездка в Ефремов) - Памяти Ивана Бунина,

http://bunin.niv.ru/bunin/article/sinie-kamni.htm

126. Ланская О.В. (2017), ―И.А.Бунин и Л.Н.Толстой‖, Межународный научный

журнал "инновационная наука", (1), стр. 152 - 157.

127. Лирическая проза И.А.Бунина и еѐ развитие (2010), KGU// https://allbest.ru/k-

2c0b65625a2bd68b5c43a88421216c27.html

128. Ло Сычэнь (2017), “Категория лиризма в прозе И.А.Бунина”

(Лингвопоэтический аспект), Вестник РУДН. Серия: Литературоведение.

Журналистика, Вол. 22,(3), стр. 417-425.

129. Логвинова И. (2013), ―Юбилейный научный семинар

Бунин и буниноведение: проблемы изучения творческого наследия писателя”,

Доме русского зарубежья им. А.Солженицына //

http://www.bfrz.ru/?mod=news&id=1520

130. Марченко Т.В. (2010), “Вступление”, Иван Алексеевич Бинин (1870–1953)

Жизнь и Творчество К 140-Летию со дня рождения писателя// http://www.rp-

net.ru/book/articles/ezhegodnik/2011/02-Vstuplenie.pdf

131. Миссия Русской эмиграции (Речь Ивана Бунина, произнесенная в Париже 16

февраля 1924 года)// http://ricolor.org/history/re/missia/bunin/

132. Михайлов О.Н. (1967), И.А.Бунин, "Наука", Москва.

133. Михайлов О.Н (1976), Строгий талант (Иван Бунин. Жизьн. Судьба.

Творчество), “Современник”, Москва.

134. Михайлова М.В. (2007), “От прекрасного к вечному: эволюция творческих

принципов И.А.Бунина”, Славянский Альманах, Том 13 (2), стр. 87 - 103.

135. Мюллер В.К. (1985), Англо-Русский словарь, "Русский язык", Москва.

136. Мясников А.С., Рюриков Б.С., Твардовский А.Т.,…(1965), И.А.Бунин собрание

сочинений в девяти томах, "Художественная литература", Москва.

137. Нгуен Тхи Тхыонг (2016), Антропонимическая семантика в цикле рассказов

И.А. Бунина «Тѐмные аллеи»: художественные функции и проблема перевода

(Дисс. Кан-та фил. наук), Иваново, 170 с.

138. Николаев П.А. (главный редактор) (1989), Русские писатели 1800 - 1917 (том

1), "Советская энцукловпедия", Москва.

139. Николина Н.А. (1990), “Образное слово И.А.Бунина”, Русские язык в школе,(4),

стр. 51-59.

140. Нинов А. (1973), М.Горький и И.Бунин, “Советский писатель”, Ленинградское

отделение.

141. Ничипоров И.Б., И.А.Бунин. Очерк творчества, Филологический факультет

МГУ// www.philol.msu.ru/~xxcentury/nichiporov_bunin.doc

142. Ничипоров И.Б. (2002), “На путях постижения русской души: И.А.Бунин и

«деревенская» проза”, Филологические науки, (1), стр.30-37.

143. Ничипоров И.Б, Эссеистика И.А.Бунина в жанровом контексте модернизма //

https://www.portal-slovo.ru/philology/39020.php

144. Ожегов С.И. (1984), Словарь русского языка, "Русский язык", Москва.

145. Остапцева В.Н. (2010), Лиризм русской прозы 30-х годов XIX века, ИНФРА-М,

Москва.

146. Пожиганова Л. П. (2005), Мир художника в прозе Ивана Бунина 1910-годов,

Белгород.

147. Пращерук Н.В. (2012), Проза Бунина как художественно-философий феномен,

Уральский университет, Екатеринбург.

148. Пращерук Н.В. (2016), Проза И.А.Бунина в диалогах с русской классикой,

Издательство Уральского университета, Екатеринбург.

149. Пришвин и Бунин// http://bunin.niv.ru/bunin/article/prishvin-bunin.htm

150. Русова Н.Ю. (2004), Терминологический словарь -

тезаурус по литературоведению. От аллегории до ямба, ―Флинта”, “Наука”,

Москва // http://literaturologiya.academic.ru/294

151. Саакянц А.А., О Бунине и его прозе, //

http://www.philology.ru/literature2/saakyants-83.htm

152. Семья и женщины Бунина// http://bunin.niv.ru/bunin/family/family.htm

153. Симонов Г., Ковалѐва- Огороднова Л. (2006), Бунин и Рахманинов, “Русский

путь”, Москва.

154. Симонов К., Попель Н., Кольцов М., Гумилиевский Л., ТабуиЖ., Троцкий Л.,

Додд У., Былинкина М. (2006), Бунин и Кузнецова - Искусство невозможного,

дневники, письма, "Грифон",Москва.

155. Смирнова Л.А. (1991), Иван Алексеевич Бунин жизнь и творчество,

"Просвещение", Москва.

156. Софронова Е. (2000), И.А.Бунин и русский моденизм 1910-ие гг.,Москва.

157. Степанян Е. В., Иван Алексеевич Бунин: об авторе// OCR: Народная

Библиотека Максима Горького

158. Сурков А.А. (главный редактор) (1962), Краткая литературная энциклопедия

(том 1), "Советская энциклопедия", Москва.

159. Сурков А.А. (главный редактор) (1967), Краткая литературная энциклопедия

(том 4), "Советская энциклопедия", Москва.

160. Сухих И. (2010), Иван Бунин. Малое собране сочинений, АЗБУКА, Саинт-

Петербург.

161. Сухих И. (2009), “Русская литература. ХХ век. И.А. Бунин (1870-1953)”,

Звезда, (1), стр. 227-234.

162. Талалаева О. Г. (2011), “Проза И.А.Бунин и готическая традициа в руской

литературе”, Bестник ТГУ, выпуск 7 (99), стр. 165-171.

163. Тамарченко Н.Д. (2007), Русская повесть Серебрянного века: Проблемы

поэтики сюжета и жанра, Москва.

164. Тамарченко Н.Д. (2008), Поэтика, словарь актуальных терминов,

Издательство Кулагиной INTRADA, Москва.

165. Тевекелян Д.В. (Гл. ред.), Магомедова Д.М. (Сост.) (2004), Поэзия/И.А. Бунин,

“Слово”, Москва.

166. Тевекелян Д.В. (Гл. ред.), Магомедова Д.М. (Сост.) (2004), Проза/И.А. Бунин,

“Слово”, Москва.

167. Тимофеев Л.И., Венгров Н. (1963), Краткий словарь литературоведческих

терминов, "Учпедгиз", Москва.

168. Хусаинов Р.З. (2014), “Лиризм прозы Бунина в зеркале критики”, Вестник

ВГУ. Серия: Филология. Журналистика (4), стр. 62-64.

169. Цыбденова А., “Цитаты из произведений Бунина, ставшие афоризмами”,

http://bunin.niv.ru/bunin/article/aforizm.htm

170. Чудаков А. П. (1971), Поэтика Чехова, Акад. наук СССР. Ин-т мировой

лит.им. А. М. Горького, "Наука", Москва

171. Шахова А.А. (2011), “"Общие" и "крупные" планы в рассказах И.А.Бунина”,

Вестник Нижегородского университета им. Н.И.Лобачевского, 6 (2), стр.753-757.

172. Шлегель Г.К. (2001), Художественная феноменология Ивана Бунина

(диссертация), Иркутск, 188 с. http://cheloveknauka.com/hudozhestvennaya-

fenomenologiya-ivana-bunina#ixzz5FYAchIoN

173. Шмид B. (2003), Нарратология, “Языки славянской культуры”, Москва.

174. Шраер М.(2014), Бунин и Набоков: история соперничества, “Альпина нон-

Фикшн”.

175. Юрьевна В.Л. (2017), “Поэтическая образность малой прозы раннего

И.Бунина”, Молодой учѐный Но. 42 (176) октябрь 2017 г.//

https://moluch.ru/archive/176/46040/

176. Яровая Т. Ю. (2000), Личные собственные имена в дореволюционном творчестве

И. А. Бунина (Диссертация на соискание ученой степени кандидата

филологических наук), Воронеж // http://cheloveknauka.com/lichnye-sobstvennye-imena-

v-dorevolyutsionnom-tvorchestve-i-a-bunina-otbor-i-ispolzovanie#ixzz5pvv52U00

III. Tài liệu tiếng Anh

177. Abrams M.H. (1993), A Glossary of literary terms, Cornell University.

178. Azadovski K., “Russia’s silver age in today ‘s Russia”, Surfaces, Vol. IX (101.2) (v1.0a

- 15.12.2001) - ISSN: 1188-2492

//http://www.pum.umontreal.ca/revues/surfaces/vol9/azadovski.htm.

179. Bayley J. (2003), “Laureate in Exile”, TLS,January 10, pp.7.

180. Bunin I., “Autobiography”, nobelprize.com

181. Bunin I. (2007), Collected stories, Ivan R.Dee Chicago Publisher, Chicago, USA,

(Graham Heltlinger translated).

182. Bunin I. (2008), Dark Avenues, Oneworld Classic publisher, London, United

Kingdom, (Hugh Aplin translated).

183. Connolly J. W. (March 1981), “Desire and Renunciation: Buddhist Elemants in the

Prose of Ivan Bunin”, Canadian Slavonic Papers/ Revue Canadienne des Slavistes,

Vol. 23 (1), pp. 11 - 20.

184. Coyle M., Garside P., Kelsall M., Peck J., Encyclopedia of literature and criticism,

Routledge-Taylor and Francis Group, 2000.

185. Durkin A.R. (Spring 1996), “Book Reviews: Ivan Bunin: Russian Requiem, 1885-

1920”; “Ivan Bunin: From the Others Shore, 1920-1933”, Slavic Review, Vol. 55

(1), pp. 233 - 234.

186. Hallström P.(1933), “Award ceremony speech”//

http://www.nobelprize.org/nobel_prizes/literature/laureates/1933/press.html

187. Hoffman Z. A. (2010), Neither this ancient earth nor ancient rus’ has passed on: a

microhistorical biography of Ivan Bunin, Miami University, Oxford, Ohio.

188. Karshan T.(2007), “Between Tolstoy and Nabokov: Ivan Bunin revisited”,

University of Oxford: Modernism/Modernity, Vol. 14 (4), pp. 763 - 769.

189. Lyricism, http://dictionary.reference.com/browse/lyricism?s=ts

190. Reeve F.D. (Fall, 2008), “The achievement of Ivan Bunin”, The Sewanee Review,

Vol. 116 (4), pp.654-660.

191. Richard D.J., “Memory and the time past: A theme in the works of Ivan Bunin”,

fmls.oxfordjournals.org

192. Rogachesky A. (Jul., 2002), “Bunin reincarnate”, The Slavonic and East European

review, Vol. 80 (3), pp. 487-496.

193. Starostina N. (Winter 2013), “Nostalgia and the Myth of the Belle Époque in Franco-

Russian Literature (1920s-1960s)”, Historical Reflections, Vol. 39 (3), pp. 26 - 40.

194. Struve G. (Jan., 1933), “The art of Ivan Bunin”, The Slavonic and East European

Review, Vol. 11 (32), pp. 423 - 436. (Public by The Modern Humanities Research

Association and University College London).

195. Tsarvskaya L., “In memory of Ivan Bunin”, ruvr.ru

196. Wells D.N. (2003), Reviews “Andrian Warner, Russian Minimalism: From the Prose

Poem to the Anti-Story”, Evanston, Illinois: Northwestern University Press.

https://miskinhill.com.au/journals/asees/18:1-2/reviews/wanner-russian-

minimalism.pdf

197. Zweers A.F. (1980), “The function of the theme of death in the works of Ivan

Bunin”, Russian literature VIII, North-Holland Publishing company, pp.151-165.

PHỤ LỤC

NHỮNG TRUYỆN NGẮN ĐƯỢC KHẢO SÁT

Những truyện ngắn 1892-1901

1. Vượt đèo

2. Tanka

3. Trong trang ấp

4. Tin tức từ Tổ quốc

5. Nơi đất khách quê người

6. Nơi cuối trời

7. Những quả táo Antonov

8. Bi ký

9. Meliton

10. Những cây thông

11. Con đường mới

12. Mùa thu

Truyện ngắn, truyện vừa 1902-1910

13. ―Hy vọng‖

14. Một truyện tình nho nhỏ

Những truyện ngắn Bunin không đưa vào các tuyển tập giai đoạn 1892-1910

15. Mối tình đầu (từ hồi ức tuổi thơ)

Những truyện ngắn và truyện vừa 1911-1914

16. Cái chết của nhà tiên tri

17. Cuộc đời tươi đẹp

18. Lần gặp gỡ cuối cùng

19. Ngày cuối cùng

20. Gioan người bán rong

21. Cỏ gầy

22. Chiếc cốc đời

23. Rodion người chơi đàn lia

Những chú chim đen (1907-1911)

24. Những chú chim đen

Nước vô biên (1914-1926)

25. Nước vô biên

26. Những giấc mộng của Trang

27. Hoa hồng Ierikhon

28. Quý ông từ San Francisco đến

29. Tai mắt

30. Bài hát của Chúa

31. Bà lão

32. Mùa xuân cuối cùng

33. Mùa thu cuối cùng

34. Giấc mơ mùa đông

35. Âm nhạc

36. Những con ruồi

37. Đôi hài

38. Sách

39. Câu chuyện khủng khiếp

Ngữ pháp tình yêu (1914-1926)

40. Ngữ pháp tình yêu

41. Hơi thở nhẹ

42. Đứa con trai

43. Trên biển đêm khuya

44. Say nắng

45. Ida

46. Vụ việc Elaghin

Cây thần/ Cây Thiên Chúa (1927-1931)

47.Cây thần

48. Thần tượng

49. Chuyện tình của người gù

50. Tuổi trẻ

51. Mối tình đầu

52. Bầu trời phía trên bức tường

53. Marya

54. Những con sếu

55. Ngày hè

56. Toa hạng nhất

57. Đêm trước/ Ngày trước/ Thời trước

Những truyện ngắn không đưa vào các tuyển tập giai đoạn 1911-1931

58. Bức chân dung

Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối (1938-1953)

Phần I

59. Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối

60. Kavkaz

61. Bản Ballad

62. Stepa

63. Nàng thơ

64. Canh khuya

Phần II

65. Russia

66. Người đẹp

67. Kẻ ngờ nghệch

68. Antigon/ Antigona

69. Ngọc lục bảo

70. Những con sói

71. Những tấm danh thiếp

72. Zoyka và Valeria

73. Tanhia

74. Ở Paris

75. Galia Ganskaya

76. Henrikh

77. Natali

Phần III

78. Ở một phố thân quen

79. Quán trọ ven sông

80. Mẹ đỡ đầu

81. ―Những cây sồi non‖

82. ―Madrid‖

83. Bình cà phê thứ hai

84. Mùa thu lạnh

85. Tàu thủy ―Saratov‖

86. Con quạ

87. Kamarg

88. 100 rupee

89. Sự trả thù

90. Chiếc đu

91. Ngày thứ Hai trong trắng

92. Nhà mồ

93. Mùa xuân ở Iudea

94. Nơi nghỉ đêm

95. Vị khách

96. Klara

97. Áo sắt

Những truyện ngắn những năm cuối đời (1931-1952)

98. Trẻ và già

99. ―Một tai nạn nhỏ‖

100. Bernard

Những tác phẩm in đậm là những tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt.