BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
ĐỖ THỊ HƢỜNG
TÍNH TRỮ TÌNH
TRONG TRUYỆN NGẮN IVAN BUNIN
Chuyên ngành : Văn học nƣớc ngoài
Mã số
: 9220242
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Hải Phong
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên
cứu, các số liệu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng được
bảo vệ ở bất kỳ học vị nào.
Tác giả luận án
NCS. Đỗ Thị Hƣờng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS. Đỗ Hải Phong –
người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học nước ngoài, Khoa
Ngữ văn và phòng Sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong thời gian học tập, nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các anh chị em đồng nghiệp của tôi ở
Viện Văn học, cô giáo tiếng Nga của tôi và gia đình đã luôn ở bên động viên tinh thần và
giúp đỡ tôi trong thời gian tôi thực hiện luận án.
Tác giả luận án
Đỗ Thị Hường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài.............................. ................................... .......................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi tư liệu nghiên cứu ................................................................ 3
4. Phương pháp nghiên cứu … ..................................................................................... 5
5. Giới thuyết khái niệm………… ......................................................................... …..6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài……… ................................................. ...13
7. Đóng góp mới của luận án……… ......................................................................... .13
8. Cấu trúc luận án.. ............................................................................................. …...14
9. Lưu ý ................................................................................................................... …14
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU… .................................... .15
1.1. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở Nga… ............... .15
1.2. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở phương Tây.. . …22
1.3. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở Việt Nam… ....... 25
CHƢƠNG 2: ẤN TƢỢNG LỜI VĂN TRỮ TÌNH…… ..................................... ...31
2.1. Gia tăng biểu cảm lời văn … ............................................................................... 31
2.1.1. Cảm xúc hóa đối thoại …… ............................................................................ .32
2.1.2. Độc thoại hóa đối thoại và phối cảm lời kể với lời độc thoại .......................... 37
2.2. Tăng cường nhạc tính lời văn …… .................................................................... .41
2.2.1. Phép điệp tạo nhạc tính……………………… ................................. …………42
2.2.2. Lời văn xen thơ, nhạc…………………… ................................................... …53
2.3. Thi vị hóa ngôn từ…… .................................................................................... …59
2.3.1. Phong vị dân gian………………………… ..................................... …………59
2.3.2. Vẻ đẹp ngôn từ của đức tin và tư tưởng………… .................................. …….63
CHƢƠNG 3: CHỦ THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG TRỮ TÌNH.. ............................ ……74
3.1. Chủ thể trữ tình - Người kể chuyện “chủ quan” ..................... ........................... .74
3.1.1. Người kể chuyện toàn tri “thâu tóm” cảm xúc........... .................................... ..75
3.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất– nhân vật “trải nghiệm” cảm xúc… ....... …...78
3.1.3. Luân chuyển người kể chuyện, thống nhất xúc cảm… ........................... …….81
3.2. Nước Nga trong miền hoài niệm……………… .......................................... …...84
3.2.1. Thiên nhiên Nga trong vẻ đẹp vĩnh hằng……… .................................. ………85
3.2.2. Điền trang – thế giới của kỷ niệm…………… ....................................... ……..90
3.3. Vẻ đẹp nữ vĩnh hằng………………………… ...................................... ………..98
3.3.1. Những bức chân dung “ấn tượng”……….……… ............................... ………98
3.3.2. Những tâm hồn Nga cứu rỗi………………… ............................... …………104
3.3.2.1. Tình yêu cứu rỗi……………………………… ........................... …………105
3.3.2.2. Lí tưởng cứu rỗi………………………………… .......................... ……….109
CHƢƠNG 4: CỐT TRUYỆN TRỮ TÌNH VÀ CẢM THỨC BI HOÀI ............ 114
4.1. Những mô thức cảm xúc – sự kiện ………… .............................................. ….114
4.1.1. Cảm xúc tiếc nuối – dòng chảy “hoài niệm”…… ..................................... .....114
4.1.2. Cảm xúc mãnh liệt – khoảnh khắc “hiện tại”……… ................................. …117
4.1.3. Cảm xúc “an phận” – vòng đời “tĩnh lặng”… ..................................... ……...119
4.1.4. Vòng tuần hoàn cảm xúc – sự kiện……… ........................ ……………….....122
4.2. Cốt truyện hành trình tâm trạng… ................................................................... ..127
4.2.1. Chuỗi cốt truyện tâm trạng tuyến tính… .................................................. …..127
4.2.2. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi tuyến tính .......................................... ………132
4.2.3. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi sự kiện… .......................................... …….....135
4.3. Cảm thức bi hoài – nguồn mạch trữ tình truyện ngắn Bunin ............................ 138
4.3.1. Cái đẹp và cảm thức bi hoài………… ....................................... …………….139
4.3.2. Tình yêu trong cảm thức bi hoài…… ......................................... ……………142
4.3.3. Khoảnh khắc cảm thức bi hoài……........................................ ………………144
KẾT LUẬN…………… ........................................................................ …………..148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một trong những thước đo khẳng định vị thế văn học hiện nay là giải Nobel văn
học. Nước Nga, với 5 lần được vinh danh, xứng đáng là một nền văn học danh tiếng. Điều
đặc biệt là, người khởi đầu cho “chuỗi giải thưởng Nobel văn học của Nga” Ivan Bunin
vốn là một người Nga lưu vong. Và cũng rất đặc biệt, “khác với các nhà văn Nga lưu
vong đợt đầu tiên, các tác phẩm của Bunin đã được xuất bản ở Liên Xô ngay dưới thời
chính quyền Xô viết” [34; tr. 15]. Nói cách khác, Bunin đã được “trở về” Tổ quốc bằng
chính những sáng tác rất Nga của mình. Điều đó khẳng định vị thế, vai trò và sức mạnh
của văn chương Bunin ở ngay chính nước Nga quê hương ông và trên thế giới.
Ivan Alekseevitr Bunin (1870 – 1953) là nhà văn, nhà thơ Nga, viện sĩ danh dự
Viện Hàn lâm Peterburg (1909), giải Nobel Văn học (1933). Bunin được biết đến trước
hết là một nhà thơ, nhưng giải Nobel được trao cho ông vì những sáng tác văn xuôi “kế
tục truyền thống vĩ đại của kỷ nguyên rực rỡ thế kỷ XIX ở những điểm khả thủ cho sự
phát triển”, vì “tài năng xuất chúng và siêu việt của riêng ông, nó làm nên dấu ấn của kiệt
tác cho văn nghiệp của ông” [186]. Có thể nói người viết văn xuôi mang đậm cốt cách thi
sĩ Bunin đã làm rạng danh cho văn học Nga bằng những tác phẩm được cả thế giới
ngưỡng mộ: Làng, Sukhodol, Quý ông từ San Francisco đến, Tình yêu của Mittia, Cuộc
đời Arseniev và những truyện ngắn tuyệt phẩm Những quả táo Antonov, Say nắng, Hơi
thở nhẹ, Chiếc cốc đời, Ngày thứ Hai chay tịnh…. Bằng những trang văn của mình, nhà
văn “đơn độc trong một kỷ nguyên nhiều biến động” [186] đưa người đọc về với thế giới
thuần Nga của thế kỷ trước với những khung cảnh cổ kính xa xưa, trầm mặc, với không
gian nông thôn ngập tràn hương thơm của táo Antonov, những con đường rợp bóng cây
xanh hay làn hơi thở nhẹ lan đi “dưới bầu trời đầy mây, trong gió xuân lành lạnh”…
Ở Việt Nam, tác phẩm của Bunin được dịch từ cuối thập niên 80 của thế kỉ XX.
Năm 1987, dịch giả Hà Ngọc đã giới thiệu với độc giả Việt những truyện ngắn: Hơi thở
nhẹ, Quý ông từ San Francisco đến, Chiếc cốc đời, Canh khuya, Những quả táo
Antonov… Sau đó, các dịch giả Phan Hồng Giang, Thái Bá Tân bổ sung thêm nhiều tác
phẩm nổi tiếng khác: Trên biển đêm khuya, Rusya, Natali, Lần gặp cuối cùng, Một
2
chuyện tình nhỏ, Kavkaz… Gần đây nhất, dịch giả Nguyễn Thị Kim Hiền đã giới thiệu
những truyện ngắn Galia Ganskaya, Con quạ, Tania, Ở Paris. Vì thế, không khó để tiếp
cận và yêu thích Bunin. Với chúng tôi, tình yêu với Bunin và những truyện ngắn đậm chất
trữ tình của ông cũng xuất phát từ những áng văn đẹp đẽ và sâu lắng đã được chuyển ngữ
ấy.
Bunin trưởng thành trong giai đoạn “Phục Hưng” của văn chương Nga - Thế kỷ
Bạc với rất nhiều trường phái mới xuất hiện. Những người đương thời với Bunin đều dấn
thân vào các cuộc phiêu lưu với chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa đỉnh
cao… Khi viết văn xuôi, Bunin vẫn kế thừa truyền thống vĩ đại của chủ nghĩa hiện thực
Nga, với Lev Tolstoy, Anton Chekhov... đồng thời “âm thầm” đổi mới nó bằng những kỹ
thuật và thủ pháp tự sự của “chủ nghĩa hiện đại”, gia thêm cho nó xúc cảm của một nhà
thơ, để người đọc thậm chí có ấn tượng văn xuôi Bunin “trữ tình hơn cả thơ trữ tình của
chính nhà văn” [theo Gleb Struve - 194; tr. 424]. Các tác phẩm văn xuôi của Bunin, đặc
biệt là truyện ngắn giống như những bài thơ văn xuôi bề mặt thì nhẹ nhàng thanh khiết
nhưng lại chứa đựng “mạch ngầm trữ tình” bên trong, mà nếu khám phá được mạch ngầm
ấy sẽ phần nào hiểu và cảm được tâm hồn Nga rất Nga của nhà văn lưu vong trên đất
Pháp. Tuy nhiên chính “mạch ngầm trữ tình” này khiến cho việc “tiếp cận” truyện ngắn
của ông không dễ dàng như thưởng thức chúng. Cần có cả cái nhìn tự sự và trữ tình kết
hợp với trực giác nghệ thuật khi đi sâu nghiên cứu truyện ngắn Bunin nói riêng và văn
xuôi Bunin nói chung.
Câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để giúp người khác cũng thấy được sức quyến rũ của
truyện ngắn Bunin, làm thế nào để làm nổi bật cái hay, cái tài của nhà văn, làm thế nào để
chỉ ra được “chất” Bunin? Đó là điều không dễ dàng. Chúng tôi lựa chọn đề tài Tính trữ
tình trong truyện ngắn của Ivan Bunin, gắng sức trả lời những câu hỏi khó khăn trên, để
bày tỏ tình yêu với văn học Nga, với nhà văn Ivan Bunin, góp một tiếng nói vào việc giới
thiệu, nghiên cứu Bunin ở Việt Nam, đồng thời mong muốn có những đóng góp nhất định
vào việc nghiên cứu, giảng dạy về hiện tượng giao thoa thể loại trong văn học nói chung.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi trong luận án này là làm sáng tỏ tính trữ tình
trong truyện ngắn Ivan Bunin, từ khái niệm tính trữ tình cho đến những yếu tố biểu hiện
tính trữ tình trong truyện ngắn (cả những yếu tố thuộc về nội dung tư tưởng và hình thức
nghệ thuật); qua đó xác định mối liên hệ của tính trữ tình với chiều sâu tư tưởng cũng như
phong cách nghệ thuật của nhà văn, hay nói cách khác là làm rõ “chất” Bunin trong văn
xuôi Nga và thế giới, xác định những đóng góp của Bunin cho sự phát triển của văn học
thế giới, cũng như tiếng vọng sáng tác của ông vào đời sống văn học đương đại.
Để thực hiện được mục đích trên, chúng tôi đề ra những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xác định những yếu tố tạo ấn tượng trữ tình trên bình diện tổ chức ngôn từ, hình
tượng sự vật như sự gia tăng xúc cảm, tăng cường nhạc tính, thi vị hóa lời văn trong
truyện ngắn Bunnin.
- Tìm hiểu đặc trưng biểu hiện của các dạng thức chủ thể trữ tình (người kể
chuyện, nhân vật) và những đối tượng chủ yếu khơi dậy xúc cảm trữ tình trong truyện
ngắn của Bunin; qua đó phần nào xác định cảm hứng chủ đạo kết nối tác giả - nhân vật –
người đọc trong tác phẩm.
- Làm sáng tỏ các mô thức thức cảm xúc – sự kiện, cũng như các kiểu cốt truyện
trữ tình trong tổ chức trần thuật của truyện ngắn Bunin; xác định cảm thức bi hoài toát lên
từ các truyện ngắn Bunin như nguồn mạch trữ tình chủ yếu bắt nguồn từ cảm quan nghệ
thuật của nhà văn; từ đó xác định phong cách truyện ngắn trữ tình của nhà văn cũng như
những đóng góp của Bunin trong cách tân thể loại truyện ngắn.
3. Đối tƣợng, phạm vi tƣ liệu nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các truyện ngắn của Ivan Bunin. Cụ thể
hơn, chúng tôi đi sâu nghiên cứu tính trữ tình như nét đặc trưng cho phong cách truyện
ngắn của Bunin để thấy được tài năng cùng phong cách nghệ thuật tinh tế trong cá tính
sáng tạo của nhà văn, phần nào chỉ ra được cơ chế hòa hợp của chất trữ tình trong tác
phẩm tự sự. Đặc biệt, qua việc tìm hiểu tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin, chúng tôi
muốn khẳng định “truyền thống trữ tình” trong sáng tác của các nhà văn Nga từ cổ điển
cho đến hiện đại. Đây cũng là một giá trị riêng của nền văn học đồ sộ này.
4
3.2. Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu
Truyện ngắn chiếm một số lượng rất lớn trong sự nghiệp của Ivan Bunin. Suốt
cuộc đời cầm bút, ông đã để lại 21 tập truyện ngắn và truyện vừa. Trong số đó mới chỉ có
34 truyện ngắn được dịch sang tiếng Việt. Đây là một con số rất khiêm tốn. Trong quá
trình thực hiện luận án, chúng tôi ưu tiên đi sâu nghiên cứu những truyện ngắn theo chúng
tôi là tiêu biểu nhất cho phong cách của Bunin (kết hợp với đánh giá của các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước thông qua các sách, tạp chí và dựa trên tiêu chí những tác phẩm
được chọn dịch ở phương Tây và Việt Nam). Đó là những tác phẩm nằm trong các tập:
Những truyện ngắn 1892-1901; Những truyện ngắn, truyện vừa 1902-1910; Những
truyện ngắn, truyện vừa 1911-1914; Nước vô biên (1914-1926), Ngữ pháp tình yêu
(1914-1926), Cây thần/ Cây Thiên Chúa (1927-1931), Những lối đi dưới hàng cây sẫm
tối (1938-1953), Những truyện ngắn những năm cuối đời (1931-1952). Ngoài ra còn có
những truyện ngắn không được đưa vào các tuyển tập xen kẽ giữa các giai đoạn trên.
Văn bản chúng tôi sử dụng trong luận án:
-Văn bản tiếng Nga: Бунин И.А. (2006) Полное собрание сочинений в ХIII
томах, “Воскресенье”, Москва [99]. Truyện ngắn của Bunin tập trung ở các tập 1, 2, 3,
4, 5, 6 gồm 188 tác phẩm.
- Văn bản tiếng Việt:
+ I.A.Bunin, Tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, H., 2002 (Phan Hồng Giang giới
thiệu, Hà Ngọc, Phan Hồng Giang, Thái Bá Tân, Hữu Việt, Đoàn Tuấn dịch từ nguyên
bản tiếng Nga).
+ Ivan Bunin, Những lối đi dưới hàng cây tăm tối, Nxb Văn học - Nhã Nam, H.,
2006. In lại từ Ivan Bunin, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học; H., 1987 (Hà Ngọc dịch
và giới thiệu).
+ Ivan Bunin, Hơi thở nhẹ, Nxb Hội Nhà văn, H., 2006. In lại từ Ivan Bunin, Nàng
Lika, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, H., 1988 (Phan Hồng Giang dịch và
giới thiệu).
+ Truyện ngắn Bunin trên Tạp chí Văn học nước ngoài số 6/2003.
+ Truyện ngắn Bunin trên Tạp chí Văn học nước ngoài số 10/2011.
5
+ Truyện ngắn của Ivan Bunin trên internet (Nguyễn Thị Kim Hiền dịch).
- Văn bản tiếng Anh:
+ Bunin I. (2007), Collected Stories, Ivan R.Dee Chicago Publisher, Chicago,
USA, (Graham Heltlinger translated).
+ Bunin I. (2008), Dark Avenues, Oneworld Classic publisher, London, United
Kingdom, (Hugh Aplin translated).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án triển khai hướng tiếp cận chủ đạo là tiếp cận hệ thống kết hợp với tiếp
cận lịch sử - văn hóa. Chúng tôi xem xét các truyện ngắn của Bunin không chỉ như các
tiểu hệ thống với tính chỉnh thể của nó, mà còn nghiên cứu loại hình hóa các tác phẩm này
trong toàn bộ hệ thống sáng tác của Bunin với các mối quan hệ bên trong và bên ngoài
liên quan đến các vấn đề tiểu sử, bối cảnh văn hóa – xã hội – lịch sử. Sáng tác của Ivan
Bunin trải qua hai giai đoạn được phân định rõ ràng: trước và sau Cách mạng Tháng
Mười. Chúng tôi xem xét cả hai giai đoạn sáng tác truyện ngắn này cùng với mảng sáng
tác thơ trong cùng một hệ thống phong cách nghệ thuật tuy có những nét đặc trưng riêng,
có biến đổi, song vẫn có thể xác định được đặc điểm chung làm nên một thế giới nghệ
thuật nhất quán.
Cơ sở lí thuyết cho nghiên cứu của chúng tôi là vấn đề vừa mang tính chất khoa
học vừa mang tính chất mĩ học: tính trữ tình. Xem xét những vấn đề nội hàm của thuật
ngữ trên cả hai phương diện cho phép chúng tôi có một cái nhìn vừa bao quát vừa cụ thể
về đặc trưng này trong văn học, cụ thể ở đây là truyện ngắn của Bunin. Truyện ngắn của
Bunin dù đậm tính trữ tình, vẫn thuộc thể loại tự sự. Bởi thế đối tượng đặc biệt này cần
được soi chiếu từ góc độ lí thuyết tự sự. Chúng tôi kết hợp vận dụng hướng nghiên cứu
thi pháp học với lí thuyết trần thuật học hiện đại làm nền tảng cho những nghiên cứu
của mình. Theo chúng tôi, việc sử dụng các lí thuyết này trong việc nghiên cứu truyện
ngắn của Ivan Bunin là hợp lí và khả thi, bởi những truyện ngắn của Bunin, dù được coi
là tiếp nối truyền thống hiện thực cổ điển của văn học Nga thế kỷ XIX, vẫn rất mới mẻ và
hiện đại.
Trong luận án, chúng tôi còn sử dụng những thao tác nghiên cứu cụ thể sau:
6
- Thống kê – phân loại: khảo sát, thống kê, phân loại các dạng thức người kể
chuyện, các mô thức cảm xúc trữ tình, các dạng thức cốt truyện và các dạng thức điệp
trong tác phẩm.
- Phân tích – tổng hợp (văn học và ngôn ngữ học): được sử dụng trong việc làm rõ
giá trị cũng như chức năng thẩm mĩ cùng ý nghĩa của những thủ pháp, những phương
thức nghệ thuật của Bunin trong truyện ngắn.
- So sánh – đối chiếu: là thao tác cần thiết trong việc xác định nét đặc trưng của
tính trữ tình trong văn xuôi Bunin với tính trữ tình của các nhà văn trước ông, những nhà
văn cùng thời và những nhà văn sau ông.
5. Giới thuyết khái niệm
5.1. Khái niệm “tính trữ tình”
Điểm mấu chốt trong đề tài Tính trữ tình trong truyện ngắn Ivan Bunin là xác định
nội hàm khái niệm tính trữ tình và đặc trưng tính trữ tình trong truyện ngắn, trên cơ sở đó
phân tích, lí giải những biểu hiện của tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin. Đây là một
việc làm không dễ dàng, bởi trong các Từ điển tiếng Việt, Từ điển thuật ngữ văn học ở
Việt Nam, khái niệm tính trữ tình không được các nhà nghiên cứu, biên soạn đưa vào
thành một mục từ độc lập. Chúng ta chỉ gặp thuật ngữ “trữ tình”, “thơ trữ tình”, “nhân vật
trữ tình”. Vì vậy, để xác định nội hàm khái niệm tính trữ tình, chúng tôi dựa vào nội dung
khái niệm tương đương trong các từ điển tiếng Nga và tiếng Anh, từ đó trình bày cách
hiểu về thuật ngữ tính trữ tình cũng như những biểu hiện cơ bản của tính trữ tình trong
truyện ngắn nói chung và truyện ngắn Ivan Bunin nói riêng.
Theo các từ điển Thuật ngữ Văn học – Mĩ học Nga – Pháp – Việt, Từ điển Anh –
Nga, Từ điển Anh – Việt, thuật ngữ tính trữ tình/tính chất trữ tình tương đương với thuật
ngữ лиризм trong tiếng Nga và lyricism trong tiếng Anh. Thực tế, лиризм và lyricism
được các từ điển trên giải thích sang tiếng Việt tương đương với thuật ngữ tính chất trữ
tình, (tính chất) trữ tình, tính trữ tình. Ở đây, chúng tôi thống nhất sử dụng ba thuật ngữ
tính trữ tình - лиризм - lyricism trong cùng một nội hàm ý nghĩa mà chúng tôi sẽ giải
thích cụ thể dưới đây.
7
Trước hết, chúng tôi chủ ý lựa chọn thuật ngữ tính trữ tình chứ không phải thuật
ngữ chất trữ tình hay tính chất trữ tình. Căn cứ vào nghĩa từ nguyên của “tính”, “chất” và
“tính chất” theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh (“Tính: Nguyên lí sở dĩ sinh ra
người – Bản nguyên về tinh thần của người – Bản chất của người hoặc của vật”. Tính
được dùng với nội hàm ý nghĩa cụ thể hơn, đầy đủ hơn so với chất (với nghĩa tính chất)
và tính chất (với nghĩa bản tính) [1; tr. 400]), chúng tôi nhận thấy: Tính là bản chất, thuộc
tính của con người hoặc sự vật, giúp phân biệt con người này với con người khác, sự vật
này với sự vật khác. Tính về cơ bản đồng nghĩa với chất và tính chất, tuy nhiên thuật ngữ
tính gợi ra sự liên kết cao độ trong hệ thống của các yếu tố, thiên về định tính và khái
quát, còn thuật ngữ chất và tính chất thiên về sự thống kê cụ thể các yếu tố của hệ thống,
thiên về tính định lượng và tổng kết. Tính mang nội hàm khái niệm danh từ (xét về mặt từ
loại) cao hơn chất và tính chất (thiên về nội hàm tính từ). Do đó dùng thuật ngữ tính sẽ
chỉ ra được mức độ liên kết sâu sắc mang bản chất của các yếu tố làm nên sự vật, đồng
thời cho thấy sự sáng tạo, khoa học và khái quát cao hơn trong nghiên cứu một đối tượng
khoa học.
Tìm hiểu nội hàm khái niệm của thuật ngữ tính trữ tình - лиризм và lyricism,
chúng tôi nhận thấy thuật ngữ này được nhìn nhận dưới nhiều góc độ ý nghĩa phong phú,
nhưng tương đối thống nhất.
Trong tiếng Anh (American English) lyricism được hiểu theo hai nghĩa: 1. Đặc
điểm hay phong cách trữ tình, thường trong thơ. 2. Cảm xúc trữ tình, nhiệt tình, đặc biệt
khi cảm xúc không bị kiềm chế hay khi cảm xúc thái quá [The Random House
Unabridged Dictionary, 189]. British Dictionary cũng xác định lyricism là: 1. Phẩm chất,
đặc tính hay phong cách của thơ ca trữ tình. 2. Sự dạt dào của tình cảm hay lòng nhiệt tình
[Collins English Dictionary, 189].
Còn trong Từ điển Nga - Nga, лиризм được giải thích: 1. Sự xúc cảm, sự tha thiết,
xúc động của thơ ca (trong tác phẩm nghệ thuật). 2. Bản chất trữ tình, tâm trạng/ tư tưởng
trữ tình [110; tập 2, tr. 187]. Từ điển Tiếng Nga của Ozhegov thì khẳng định лиризм. 1.
Đặc trưng trữ tình, nội dung trữ tình. 2. Sự nhạy cảm với cảm xúc của tâm trạng, sự mềm
mại và tinh tế của cảm xúc [144; tr. 279]. Như vậy, bản thân thuật ngữ tính trữ tình trong
8
các ngôn ngữ nước ngoài cũng nhấn mạnh khía cạnh tình cảm, cảm xúc được biểu hiện
mạnh mẽ, tinh tế, nhạy cảm đặc biệt trong các tác phẩm nghệ thuật, phổ biến là thơ ca.
Với tư cách là một thuật ngữ văn học, лиризм được định nghĩa như sau: Là một
phạm trù thẩm mĩ, một dạng đặc trưng đặc biệt của tư duy nghệ thuật, trong đó nổi trội là
sự/nỗi xúc cảm thầm kín và riêng tư của con người [150]. Đặc biệt, cảm xúc, cảm giác,
tâm trạng của nhân vật và của tác giả tác phẩm văn học thuộc “phạm trù лиризм” được
biểu lộ một cách trực tiếp và mở [89].
Theo các từ điển ngôn ngữ Nga và các từ điển thuật ngữ văn học của Nga, nghĩa
của лиризм xuất phát từ лирика, лиризм gần với thuật ngữ лиричность (chất trữ tình).
Theo chúng tôi khảo sát, thuật ngữ лиризм được sử dụng với ý nghĩa chủ động hơn, phổ
quát hơn, mang tính quan niệm của tác giả hơn là thuật ngữ лиричность được sử dụng để
chỉ chất trữ tình thường không mang tính đặc thù cho một phong cách. Bởi vậy, chúng tôi
lựa chọn лиризм thay vì лиричность. Tìm hiểu từ nguyên của лиризм, chúng tôi cũng
khảo sát nội hàm ý nghĩa của thuật ngữ лирика để từ đó đưa ra được những nét đặc trưng
được coi là tiêu chí cho tính trữ tình лиризм.
Trước hết, trong Từ điển Nga - Nga, лирика có ba ý nghĩa: 1. Một trong ba
loại/phương thức cơ bản của văn học nghệ thuật, trong đó thực tế được phản ánh một cách
sâu sắc thông qua những cảm xúc tha thiết, tư tưởng và tâm trạng của tác giả. Là yếu tố
cảm xúc trong tác phẩm của một nhà văn. 2. Một thể loại văn học, cụ thể thơ trữ tình. 3. Tính đa cảm, đa tình, dễ cảm, dễ xúc động [110; tập 2; tr. 186].
Trong các Từ điển thuật ngữ văn học, лирика được phân tích trên các khía cạnh:
- Trữ tình là sự biểu hiện của cảm xúc, nhân vật chính của nó là tình cảm, nó sẽ
hiển thị những xúc cảm của trái tim, tất cả những giai điệu của âm nhạc tâm hồn.
- Nhà thơ trữ tình trong tính chủ quan của mình buộc phải hiểu mình và làm mê
đắm những người khác, làm mê đắm tất cả mọi người; đó chính là một trong những nét
quyến rũ nhất của anh ta: nói về mình, kể về mình, anh ta cũng đồng thời nói với chúng
ta, anh ta làm cho độc giả cũng hiểu tình cảm của anh ta; tâm hồn nhà thơ-tâm hồn nhân
loại, và ở đây cái chủ quan hòa làm một với vẻ đẹp kỳ diệu của cái khách quan.
- Trong một bài thơ trữ tình, đặc biệt quan trọng là âm nhạc của câu thơ, giai điệu;
âm nhạc và giai điệu này thấm vào ngôn từ của bài thơ đó. Và thứ âm nhạc này không
9
đơn giản giống như hành động đệm đàn, hay thậm chí chỉ là một yếu tố phụ bên ngoài, có
thể có hoặc không. Không, nó là một phần không thể thiếu của bài thơ, một trong những
yếu tố quan trọng nhất thuộc về bản chất bên trong của thơ. Shiller cho rằng âm nhạc
trong nhiều bài thơ trữ tình của ông xuất hiện trong tâm hồn của ông trước khi văn bản
thành hình. Đáng chú ý là, khi tính trữ tình thẩm thấu/thâm nhập vào không chỉ những câu
thơ, mà còn văn xuôi, nó sẽ biểu lộ/ làm nên tính giai điệu rõ rệt, và nó gắn tất cả vào
cùng một bản nhạc.
- Nhà thơ trữ tình cảm nhận được chất thơ trong chính mình và trong cả thế giới
rộng lớn bên ngoài, do đó trong thơ của mình, anh ta giải quyết được các vấn đề phổ quát
của thế giới và chính mình, thống nhất thực tế khách quan và thực tại tâm lí thành một thể
thống nhất hữu cơ.
Những sự phân tích trên của các học giả người Nga (Iu.Podolsky và N.Iu.Rusova)
trong Từ điển thuật ngữ Văn học [94], [150] cho thấy một cái nhìn tổng thể về phương
thức trữ tình như là một trong ba phương thức biểu hiện cơ bản nhất của văn học, đồng
thời tập trung khẳng định thể loại thơ trữ tình với tư cách là thể loại biểu hiện tính trữ tình
đậm đặc nhất.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “trữ tình” cũng được giải thích rất cụ thể thông qua cách
kết hợp nghĩa từ nguyên với lịch sử phát triển của các hình thái, các phương thức biểu đạt
của văn học. Trữ tình là “một trong ba phương thức thể hiện đời sống (bên cạnh tự sự và
kịch), làm cơ sở cho một loại tác phẩm văn học. Nếu tự sự thể hiện tư tưởng, tình cảm của
tác giả bằng con đường tái hiện lại một cách khách quan các hiện tượng đời sống, thì trữ
tình lại phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con
người tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với
thế giới và nhân sinh” [33; tr. 373]. Những nét đặc trưng nhất của phương thức trữ tình
được các nhà nghiên cứu nhấn mạnh trên các khía cạnh:
- Nguyên tắc chiếm lĩnh hiện thực: nguyên tắc chủ quan là nhân tố cơ bản quy định
những đặc điểm cốt yếu của tác phẩm trữ tình.
- Tác phẩm trữ tình thể hiện tâm trạng. Do đó nó thường không có cốt truyện, hiểu
theo nghĩa chặt chẽ của từ này và dung lượng thường ngắn.
10
- “Cái tôi” trữ tình giữ vị trí đặc biệt quan trọng vì nó là nguồn trực tiếp duy nhất
của nội dung tác phẩm. “Cái tôi” trữ tình thường xuất hiện dưới dạng nhân vật trữ tình.
- Xúc cảm trong tác phẩm trữ tình bao giờ cũng là xúc cảm đương đại. Ngay cả khi
tác phẩm trữ tình nói về quá khứ, về những chuyện đã qua, xúc cảm trữ tình vẫn thể hiện
như một trạng thái sống động, một quá trình đang diễn ra.
- Tác phẩm trữ tình thâm nhập vào những chân lí phổ biến nhất của tồn tại con
người như sống, chết, tình yêu, lòng chung thủy, ước mơ, tương lai, hi vọng.
- Lời văn của tác phẩm trữ tình phải hàm súc, giàu nhịp điệu.
Tác phẩm trữ tình bao gồm thơ trữ tình và văn xuôi trữ tình. Tuy nhiên, thơ trữ tình
vẫn chiếm ưu thế và thể hiện được đầy đủ nhất những đặc trưng của thể loại này. Căn cứ
vào các đặc điểm trên, các tác phẩm được coi là trữ tình trước hết phải là các tác phẩm
giàu xúc cảm, ngôn từ giàu hình ảnh và nhịp điệu, bộc lộ ý thức cá nhân sâu sắc của tác
giả trước các vấn đề mang tính phổ quát về sự tồn tại con người, đồng thời lôi cuốn người
đọc hòa vào dòng xúc cảm, suy tưởng về những vấn đề ấy,.
Trong cuốn Tính trữ tình của văn xuôi Nga những năm 30 của thế kỷ XIX nhà
nghiên cứu V. Ostaptseva, viện dẫn ý kiến của M. Kniazeva trong luận án Tính trữ tình
như một loại hình cảm hứng chủ đạo, đặc biệt nhấn mạnh chủ quan tính, khẳng định tính
trữ tình trước hết là “khởi nguồn mang tính cá nhân được ý thức, được biểu lộ qua nhân
vật trữ tình, và công khai thể hiện chủ quan tính của tác giả” [145; tr. 4]. Cũng cùng quan
điểm với Ostaptseva, Luo Sichen trong bài viết Phạm trù tính trữ tình trong văn xuôi của
Bunin (khía cạnh ngôn ngữ) dẫn ý kiến của Epishkin khẳng định hai nét nghĩa của tính trữ
tình: “sự xúc động, cảm xúc, sự chân tình trong tác phẩm nghệ thuật” và “tâm trạng trữ
tình” [128; tr. 419]. Tác giả bài viết cũng liệt kê cụ thể những dấu hiệu của tính trữ tình:
cảm xúc của tác giả trong tác phẩm; tâm trạng trữ tình của tác giả thể hiện trong tác phẩm;
lời của chủ thể trữ tình hay nhân vật; yếu tố kết cấu và ngôn ngữ của văn bản thơ ca phục
vụ cho việc truyền đạt tâm trạng trữ tình; tinh thần trữ tình thể hiện trong những tác phẩm
văn xuôi của tác giả làm cho chúng gần với thi ca về phương diện xúc cảm – hình tượng
[128; tr. 419].
Từ tất cả những lí giải trên về thuật ngữ лирика, лиризм, lyricism chúng tôi đưa ra
cách hiểu của mình về thuật ngữ tính trữ tình: tính trữ tình là một phạm trù thẩm mĩ, một
11
dạng đặc trưng đặc biệt của tư duy nghệ thuật, trong đó nổi trội là nỗi xúc cảm thầm kín
và riêng tư của con người được thể hiện trực tiếp và cảm nhận một cách tương đối thống
nhất trong mối quan hệ đồng điệu tác giả - nhân vật - người đọc. Cụ thể hơn, những tiêu
chí của tính trữ tình trong tác phẩm gồm có: tình cảm, cảm xúc là yếu tố quan trọng hàng
đầu, nhân vật trữ tình nói về mình nhưng biểu lộ được tất cả những gì thầm kín nhất, sâu
sắc nhất, phổ quát nhất cho toàn nhân loại, âm nhạc và nhịp điệu là thành tố không thể
thiếu, thiên nhiên và thế giới bên ngoài hòa hợp với thế giới bên trong tâm hồn con người
và quan trọng nhất là tác giả, trong tính chủ quan của mình “buộc phải hiểu mình và làm
mê đắm những người khác, làm mê đắm tất cả mọi người”, cuốn người đọc vào dòng xúc
cảm của mình và của nhân vật trong tác phẩm. Sự thống nhất xúc cảm của ba chủ thể
thẩm mỹ này làm nên sự quyến rũ đậm tính trữ tình cho tác phẩm.
5.2. Đặc trƣng tính trữ tình trong truyện ngắn
Như đã phân tích ở trên, phương thức trữ tình, theo cấu trúc ngôn từ, bao hàm
trong nó cả thể loại thơ và văn xuôi. Thực tế, rất nhiều sáng tác của các cây bút văn xuôi
mang đậm yếu tố trữ tình và thường được gọi chung là văn xuôi trữ tình. V.I. Maslovsky
trong Từ điển Bách khoa toàn thư văn học (1987) của Nga có xem xét văn xuôi trữ tình -
лирическая проза như “một biến thể phong cách của văn xuôi nghệ thuật”, trong đó
“đồng thời tồn tại cả những yếu tố loại hình của tự sự, cũng như trữ tình. Thừa hưởng từ
tự sự những biểu hiện nhất định của cốt truyện, nhiều nhân vật, những yếu tố tính cách
hoá nhân vật và lời văn không vần điệu ngoại trừ một số ít trường hợp. Thừa hưởng từ trữ
tình,- sự góp mặt của chủ thể trần thuật (tác giả, người kể chuyện, nhân vật), điểm nhấn
cực đoan của những tình tiết hay những từ ngữ cụ thể biểu cảm, và cả sự tăng cường vai
trò quan trọng đặc biệt của những leitmotiv chủ đạo, trong bối cảnh cốt truyện suy yếu,
những leitmotiv này trở thành yếu tố kiến tạo. Sự thẩm thấu vào nhau của chất tự sự và
trữ tình trong văn xuôi trữ tình được bảo đảm bởi vai trò đặc biệt của chủ thể trần thuật,
về nguyên tắc, trở thành trung tâm kết cấu tác phẩm. Những yếu tố tự sự (sự kiện, tính
cách) hoà trong dòng chảy dào dạt của những liên tưởng, trữ tình ngoại đề, dường như
dịch chuyển vào bên trong tâm thức trần thuật và được hoàn kết bởi chỉnh thể tâm thức
12
đó” [121; tr. 185]. Như vậy, văn xuôi trữ tình là sự hài hòa của văn xuôi và thơ, của tính
tự sự và tính trữ tình.
Ở đây chúng tôi muốn nói đến truyện ngắn, thể loại tiêu biểu thuộc phương thức tự
sự trong tương quan với thơ, là thể loại tiêu biểu thuộc phương thức trữ tình. Đặc trưng
của truyện ngắn là “khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ
nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người”. Nhân vật truyện ngắn thường hiện thân
cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội, hoặc trạng thái tồn tại của con người.
Truyện ngắn thường có kết cấu đơn tầng, đơn tuyến, thường được xây dựng theo nguyên
tắc “liên tưởng” hoặc “tương phản” chứ không đa tầng, nhiều tuyến. Cốt truyện của
truyện ngắn thường là một lát cắt của cuộc sống thường ngày, diễn ra trong thời gian và
không gian hạn chế với chức năng khám phá một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình
người. Yếu tố quan trọng nhất trong truyện ngắn là những chi tiết cô đọng, giàu ý nghĩa
biểu đạt và nhiều ẩn ý [33; tr. 371]. Còn đặc trưng của thơ là “hình thức sáng tác văn học
phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những xúc cảm mạnh mẽ bằng ngôn ngữ
hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” [33; tr. 309]. Truyện ngắn trữ tình, như
một bộ phận của văn xuôi trữ tình, cũng mang đặc trưng cơ bản nhất của thể loại này, đó
là sự chi phối của cảm xúc tới các yếu tố của phương thức tự sự như đã nói ở trên, đặc
biệt là cốt truyện và ngôn từ. Nếu văn xuôi trữ tình là sự hài hòa của văn xuôi và thơ, của
tính tự sự và tính trữ tình thì truyện ngắn trữ tình cũng chứa đựng trong nó sự hài hòa đó.
Do đó, xem xét tính trữ tình trong truyện ngắn, trước hết chúng tôi khẳng định bản chất tự
sự của thể loại này và xem xét sự “biến đổi” của chúng dưới tác động của những đặc
trưng của tính trữ tình như là phong cách, là “chất”, là “cá tính sáng tạo” của nhà văn.
Tính trữ tình trong truyện ngắn, như vậy, nói một cách chính xác, là sự hòa hợp
của yếu tố thơ trong văn xuôi, của phương thức trữ tình trong phương thức tự sự, của cảm
xúc trong cốt truyện, tình huống, của âm điệu, nhịp điệu trong lời văn, của cái chủ quan
trong cái khách quan của hiện thực. Vì thế, bên cạnh việc làm rõ những đặc trưng tự sự,
cần làm rõ cả những yếu tố trữ tình được biểu hiện trong tác phẩm (tình cảm chủ đạo,
nhân vật, ngôn ngữ...) và nguyên tắc liên kết, hòa hợp những yếu tố đó của tác giả.
Trong luận án Những hình thức và chức năng của tính trữ tình trong văn xuôi
I.A.Bunin những năm 1920, tác giả Elena Kapinos khẳng định quan điểm của Shmid về
13
những tiêu chí của tính trữ tình trong văn xuôi, khiến nó gần với thơ: “cự tuyệt kết cấu
tuyến tính”, “biểu tượng của cảnh và các chi tiết”, “nguyên tắc liên kết các thành tố”, “lắp
ghép”, “giàu ẩn ý”, “sự đa dạng của nhịp điệu và hình ảnh”, “kết hợp hình tượng tạo hình
– hội họa – cảm xúc với sự tổng hợp nhiều nghệ thuật khác”, “sự tương tác các thành tố
khác nhau trong thể loại” [118]. Nhà nghiên cứu Ostaptseva trong cuốn Tính trữ tình của
văn xuôi Nga những năm 30 của thế kỷ XIX [145] cũng đã tổng kết những yếu tố làm nên
tính trữ tình trong một tác phẩm văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Đó là: tính
chủ quan hay tính cá nhân; thiên nhiên và sự hợp nhất con người – thiên nhiên; sự hài hòa
giữa cái hữu hạn – cái vô hạn, giữa thời gian – vĩnh hằng, khoảnh khắc – vĩnh cửu; cảm
xúc và các motif cảm xúc; nhịp điệu (ngữ âm, cú pháp, kết cấu khung); các thủ pháp âm
nhạc; các ngụ ý, biểu tượng, “âm bản” – “ý nghĩa ngầm” của văn bản. Về cơ bản, trong
quan điểm của các tác giả nói trên đều có những sự trùng hợp nhất định, góp phần tạo nên
sự thống nhất cao độ trong việc xác định những yếu tố làm nên tính trữ tình trong truyện
ngắn. Có thể nói đó là những tiêu chí cơ bản giúp một tác phẩm nghệ thuật tự sự mang
đậm dấu ấn trữ tình. Tuy nhiên, đối với từng nhà văn, từng tác phẩm, những biểu hiện của
tính trữ tình lại không hoàn toàn giống nhau, điều đó phụ thuộc vào cá tính, khí chất và tài
năng của mỗi người.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Luận án sẽ đóng góp vào việc nghiên cứu chuyên sâu một tác
gia lớn của văn học thế giới - Ivan Bunin, góp phần mở rộng và khơi sâu những nghiên
cứu về văn học Nga ở Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu tính trữ tình trong truyện
ngắn của Bunin, luận án cho thấy ý nghĩa của hiện tượng giao thoa, tổng hoà giữa các thể
loại tự sự và trữ tình như biểu hiện quan trọng trong khuynh hướng sáng tạo nghệ thuật
của chủ nghĩa hiện đại đầu thế kỷ XX, góp phần xác lập phương pháp nghiên cứu tính trữ
tình trong văn xuôi nước ngoài. Phương pháp, những kết quả và kinh nghiệm nghiên cứu
của luận án có thể ứng dụng vào nghiên cứu văn xuôi trữ tình trong văn học Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án sẽ là công trình tham khảo hữu ích đối với sinh viên,
học viên các ngành ngữ văn cả trong quá trình nghiên cứu khoa học, học tập và giảng dạy,
góp phần vào công cuộc đổi mới nghiên cứu và dạy học ngữ văn trong nhà trường. Đây
14
cũng là tài liệu tham khảo cho các giáo viên văn học trong việc mở rộng vốn tri thức về
các nhà văn Nga hiện đại, về văn học Nga thế kỷ XX. Từ đó, mở rộng vốn hiểu biết về
một nền văn học vĩ đại của thế giới cho đối tượng học sinh, bồi đắp tình yêu thiên nhiên,
văn hóa và cái đẹp, nuôi dưỡng sự phong phú của tâm hồn.
7. Đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam đi sâu nghiên cứu trực tiếp tính trữ tình
trong truyện ngắn của Ivan Bunin một cách có hệ thống.
Luận án là sự kết hợp một cách mới mẻ và hứa hẹn nhiều thành tựu của thi pháp
học, trần thuật học hiện đại và lí thuyết về tính trữ tình.
Luận án là công trình đầu tiên chỉ ra những nét đặc trưng phong cách của nhà văn
Nga đầu tiên đạt giải Nobel Ivan Bunin, giúp người đọc hiểu thêm về một cây bút kiệt
xuất của truyện ngắn Nga và thế giới, góp thêm vào danh sách những tác giả văn học Nga
được đọc và được nghiên cứu ở Việt Nam.
8. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương:
- Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
- Chương 2: Ấn tượng lời văn trữ tình
- Chương 3: Chủ thể và đối tượng trữ tình
- Chương 4: Cốt truyện trữ tình và cảm thức bi hoài
9. Lƣu ý
Những trích dẫn chúng tôi đưa vào trong luận án gồm cả những tác phẩm của
Bunin đã được dịch ra tiếng Việt và cả những tác phẩm chưa được dịch. Những văn bản
ghi nguồn trích từ bộ Toàn tập Bunin bằng tiếng Nga đều do chúng tôi tự dịch. Tương tự
với những tài liệu tham khảo bằng tiếng Nga và tiếng Anh được trích dẫn trong luận án.
15
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
So với các nhà văn Nga hải ngoại khác, Bunin được “trở về” Tổ quốc tương đối
sớm hơn. Sau khi Bunin qua đời (1953), cuốn Toàn tập Bunin đầu tiên và đầy đủ nhất
(tính đến thời điểm đó) được xuất bản ở Nga năm 1965 dưới sự chủ trì và đấu tranh kiên
định của nhà thơ A.Tvardovsky đã minh chứng cho điều này. Từ đó đến nay, sức hấp dẫn
của Bunin ở Nga và trên thế giới không hề giảm, số lượng những tác phẩm của ông và
những công trình nghiên cứu về ông được xuất bản và công bố cả ở trong và ngoài nước
Nga rất phong phú.
Ở Việt Nam, 14 truyện ngắn đầu tiên của Bunin được dịch sang tiếng Việt năm
1987 (Nàng Lika được in cùng tập truyện ngắn nhưng thực chất là trích tiểu thuyết Cuộc
đời Arseniev). Đến nay có thêm 20 truyện khác được dịch và công bố (chưa tính những
tác phẩm nhiều hơn một người dịch). Số lượng các tác phẩm bổ sung sau gần 30 năm như
vậy là không nhiều. Số lượng các công trình nghiên cứu trên các báo, tạp chí, sách tham
khảo, giáo trình cũng không thực sự chuyên sâu, tất cả chỉ dừng ở mức giới thiệu.
Trong quá trình thực hiện luận án Tính trữ tình trong truyện ngắn Ivan Bunin,
trong khả năng ngoại ngữ của mình, chúng tôi đã tích cực tìm kiếm các tư liệu (sách, báo,
tạp chí, internet) về Ivan Bunin, về truyện ngắn và tính trữ tình trong văn chương của ông
trong khối lượng đồ sộ các công trình nghiên cứu về nhà văn bằng tiếng Nga và tiếng
Anh. Các tài liệu chúng tôi khai thác được cho thấy một cái nhìn toàn diện về Bunin từ
các khía cạnh: tiểu sử, giải Nobel, vị trí và tầm ảnh hưởng, những nghiên cứu cụ thể về
thơ, truyện ngắn và truyện vừa, tiểu thuyết. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài của mình,
chúng tôi chỉ đề cập những tư liệu liên quan đến truyện ngắn Bunin cũng như những tư
liệu có giá trị lí giải những ảnh hưởng tới quá trình sáng tác truyện ngắn của nhà văn.
Chúng tôi lưu ý đặc biệt tới những tư liệu nghiên cứu có liên quan hay đề cập trực tiếp tới
vấn đề tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin.
1.1. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở Nga
Ở Nga, Ivan Bunin là một trong số những nhà văn Nga thế kỷ XX được giới phê
bình, nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Những công trình nghiên cứu mới nhất cho thấy hứng
16
thú đối với sáng tác của nhà văn không hề suy giảm trong gần hai thập kỷ đương đại của
thế kỷ XXI.
Trước hết phải kể đến những công trình nghiên cứu về tiểu sử I.Bunin. Trang
web bunin.niv.ru với các chuyên mục Tiểu sử, Gia đình, công trình Di sản văn học, tập 84
quyển 1 (1973), cuốn I.A.Bunin – Những chất liệu cho tiểu sử: từ 1870 đến 1917 (1983)
của A.Baboreko, hồi ức Cuộc đời Bunin những năm 1870-1906 (1989) của
V.N.Muromtseva-Bunina, tập hồi ức Bunin và Kuznetsova (2006) cùng hàng loạt cuốn
tiểu sử Bunin của O.Volkov, N.Zakharov, N.Karghina, E.Lavrenova, S.Mussky,
M.Roshin, E.Stepanyan, I.Yanin... đã khắc họa chân dung con người nghệ sĩ nhẹ nhàng,
tinh tế, khoan hòa nhưng rất cứng cỏi, kiên cường của nhà văn, hé lộ bản chất tâm hồn,
chính kiến, quan niệm nghệ thuật và cá tính của nhà văn qua các quan hệ gia đình, xã hội,
những mối quan hệ tình cảm riêng tư, cung cấp những tư liệu như nhật kí, thư từ trao đổi
của Bunin với các văn nghệ sĩ cùng thời, hồi ức của những người thân thiết của nhà văn...
Những công trình này phần nào đưa ra những gợi mở lí giải cá tính sáng tạo, đồng thời hé
lộ bản chất tính trữ tình trong truyện ngắn của nhà văn.
Có một số công trình nghiên cứu đề cập đến cảm quan nghệ thuật của Bunin như
luận án Hiện tượng học nghệ thuật của Ivan Bunin (2001) của Kristian Shlegel, công trình
Thế giới của người nghệ sĩ trong văn xuôi Bunin những năm 1910 (2005) của
L.P.Pozhiganova và Văn xuôi Bunin như một hiện tượng triết học nghệ thuật (2012) của
N.V.Prasheruk. Đáng chú ý hơn cả là luận án Hiện tượng học nghệ thuật của Ivan Bunin
được triển khai trên hai khía cạnh lớn Thế giới hiện tượng của Bunin và Thế giới nghệ
thuật của Bunin. Tác giả luận án đi sâu tìm hiểu quan điểm của Bunin về tôn giáo, về
Thiên Chúa, về mối quan hệ nghệ thuật với đạo đức, về mối quan hệ tâm hồn và thể xác
với nghệ thuật. Từ những quan điểm đó tác giả luận án đi sâu vào thế giới quan của Bunin
trong thơ ca và những hình tượng hiện tượng học trong văn xuôi của ông. Nhà nghiên cứu
khẳng định Bunin không phải là một nhà văn triết học như Lev Tolstoy và Dostoevsky,
“triết học” của Bunin chính là niềm tin chân thành vào cuộc sống, là niềm đam mê vô bờ
với cuộc sống: “Tác phẩm của Bunin hoàn toàn thấm nhuần một niềm tin chân thực vào
cuộc sống, tình yêu, cái đẹp và xúc cảm. Có lẽ, niềm đam mê với cuộc sống của ông là vô
bờ. Có lần ông đã nói về nguyên cớ của điều này: „Tôi phá hủy không gian, thời gian và
17
những khuôn mẫu, tất cả cuộc sống của tôi, một cách có ý thức và không có ý thức. Đó là
niềm đam mê vô bờ bến của tôi đối với cuộc sống, và tôi không chỉ sống cuộc sống hồn
nhiên của mình, mà còn sống cuộc sống của hàng ngàn người khác đang sống ở thời điểm
hiện tại, và những người đã khuất sau màn sương mù hàng trăm năm‟” [172]. Niềm tin đó
được hiện thực hóa bằng những khát khao vĩnh cửu đến từ các chủ đề tình yêu, niềm đam
mê cái đẹp vĩnh cửu và đặc biệt là cái chết. Đó đều là những vấn đề liên quan đến tính trữ
tình trong sáng tác của nhà văn.
Trong kho tàng tư liệu về Bunin ở Nga, có một loạt công trình đi sâu nghiên cứu
mối quan hệ của Bunin với những văn nghệ sĩ nổi tiếng đương thời, thực chất là tiếp cận
từ quan điểm văn học so sánh. Đó là những công trình: A.Ninov, M.Gorky và Ivan
Bunin. Lịch sử mối quan hệ. Những vấn đề sáng tác (1973); Valery Geideko, Anton
Chekhov và Ivan Bunin (1976); Maxim D. Shrayer, Vladimir Nabokov và Ivan Bunin:
Một sự tái thiết/tái cấu trúc trích trong Văn học Nga, tập 43 (1998); Gavriil Simonov,
Liudmila Kovaliova-Ogorodnova, Bunin và Rakhmaninov (2006); N.V.Prasheruk, Văn
xuôi của Ivan Bunin trong cuộc đối thoại với văn xuôi cổ điển Nga (2016)... Những công
trình này so sánh Bunin với các nhà văn trước và cùng thời với ông, tuy không trực tiếp
nhấn mạnh tính trữ tình của Bunin, song lại có nhiều gợi mở cho việc khám phá những
chủ đề, những vấn đề nghệ thuật trong từng tác phẩm cụ thể của Bunin và các nhà văn
khác.
Những công trình nghiên cứu ở Nga về văn xuôi Bunin phần nhiều khẳng định
những cách tân của nhà văn trong khuôn khổ “chủ nghĩa hiện thực mới”. Trong cuốn Ivan
Bunin và văn xuôi của ông (1887—1917) nhà nghiên cứu N.M.Kucherovsky khẳng định
giá trị những tác phẩm viết về nông thôn và làng quê Nga của Bunin. Theo nhà nghiên
cứu, đây là một mảng sáng tác quan trọng làm nên một trong những nhà văn Nga vĩ đại
nhất của thế kỷ XX. Kucherovsky phân tích diễn tiến cái nhìn của nhà văn về người nông
dân Nga: từ bi quan cho đến thấm nhuần đức tin và hy vọng. Cũng theo ông, đây có thể là
kết quả của quá trình tiếp xúc giữa Bunin và Gorky. Trong cuốn Lịch sử văn học Nga tập
4: Văn học Nga cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX (1881-1917), Ivan Bunin được xếp vào
khu vực văn xuôi hiện thực những năm 1910 và được dành hẳn một chương riêng
(chương 19) do nhà nghiên cứu L.V.Krutukova viết. Đáng chú ý nhất là trong nghiên cứu
18
của mình, Krutukova khẳng định Bunin là một trong những cây bút chủ chốt nhất của văn
xuôi hiện thực Nga những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cũng như O. Mikhailov
và một số nhà nghiên cứu khác, Krutukova xếp Bunin vào danh sách những nhà văn “tân
hiện thực” (Неореализм) cùng với các cây bút A.Kuprin, A.Tolstoi, Sergeev-Tsensky,
Zaitsev, A.Remizov. Trong cuốn Văn xuôi của Bunin: những khía cạnh thi pháp,
V.Zakharova đặt Bunin trong bối cảnh Thế kỷ Bạc, trong tương quan với truyện ngắn
Chekhov – nhìn từ khía cạnh “chủ nghĩa hiện thực được nâng lên thành biểu tượng”. Từ
đó, có những nhận xét thú vị về đặc trưng của văn xuôi Bunin, một thứ văn xuôi “có sự
tổng hòa thường xuyên nhất của „đa thức‟ thể loại tự sự và thể loại trữ tình, đặc biệt là
những sáng tác giai đoạn đầu” [112; tr. 15]. Nhà nghiên cứu đi sâu phân tích những đặc
điểm cụ thể của truyện ngắn Bunin giai đoạn những năm 1890 và khẳng định “sự suy yếu
của cốt truyện sẽ được bù đắp bởi sự năng động của cảm xúc trữ tình, sự hiện hữu của
hiệu ứng hướng tâm mạnh mẽ sẽ tạo ra một thứ văn chương mới: văn xuôi hiện thực mới”
[112; tr. 16]. Những phân tích của Zakharova tập trung vào “hiệu ứng hướng tâm mạnh
mẽ” thực chất chính là đã đề cập tới tính trữ tình như điểm cốt lõi làm nên cá tính văn
xuôi Bunin, đồng thời làm thay đổi diện mạo văn xuôi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Những công trình cung cấp những gợi ý về tính trữ tình, về dấu ấn trữ tình trong
văn xuôi Bunin nói chung và truyện ngắn Bunin nói riêng ở Nga tuy chưa có nhiều,
nhưng chính là những tư liệu tham khảo quý báu đối với chúng tôi.
S.N.Broitman và D.M.Magomedova trong cuốn Văn học Nga giao thời thế kỷ
(những năm 1890 đến đầu những năm 1920) tập 1 (2000) dành 46 trang viết trong phần II
(Những tác gia và hiện tượng văn học tiêu biểu) cho Ivan Bunin. Các nhà nghiên cứu
cũng khẳng định “một chủ nghĩa hiện thực mới” đã xuất hiện trong văn xuôi của Bunin,
thứ chủ nghĩa hiện thực liên quan chặt chẽ với thi ca. Các nhà nghiên cứu đã “tạm” đưa ra
ba “típ” truyện mang tính chất trữ tình của Bunin với đại diện tiêu biểu của các “típ”:
Vượt đèo, Sương mù, Trên thành phố...; Những quả táo Antonov, Bi kí...; Mùa thu,
Meliton, Những cây thông... [92; tr. 552].
Trong cuốn sách Một tài năng nghiêm cẩn (Ivan Bunin. Cuộc đời. Số phận. Sáng
tác - 1976), Oleg Mikhailov viết về thời thơ ấu, về quá trình trở thành một nhà văn nghèo,
về những người cùng thời với Bunin (Gorky, Kuprin, Shmelev, Aleksei Tolstoy), về thơ
19
Bunin, những “ca khúc” về nước Nga. Ông nhấn mạnh vai trò của Bunin trong cuộc đấu
tranh vì chủ nghĩa hiện thực và đổi mới nó, biến chủ nghĩa hiện thực cổ điển đã “lạc hậu”
so với thời đại mới trở nên hiện đại và tân kỳ hơn. Khẳng định Bunin chính là đại diện
xuất sắc nhất của chủ nghĩa Tân hiện thực, Mikhailov còn nhấn mạnh “lối thoát” khỏi sự
cũ kỹ của văn xuôi khi ấy chính là âm nhạc. Lối văn xuôi của Bunin chính là lối văn xuôi
đậm chất âm nhạc hay nói cách khác, Bunin là người tạo nên cái gọi là âm nhạc của văn
xuôi [133; tr. 60]. Những nhận xét này đã trở thành tiền đề rất quan trọng để chúng tôi
nghiên cứu Tính trữ tình trong truyện ngắn của Ivan Bunin.
L.A.Smirnova trong I.A.Bunin cuộc đời và sự nghiệp (1991) tập trung khai thác
mảng sáng tác về Tổ quốc của Bunin: từ thơ cuối thế kỷ XIX đến văn xuôi những năm
1910 về số phận làng quê Nga, từ thiên nhiên của vũ trụ và sự đối lập với thế giới văn
minh đến sáng tác những năm 1920 – sự nhận thức tâm hồn con người, về nước Nga từ
xa. Nhà nghiên cứu khẳng định: “Con đường sáng tác của Bunin, cũng giống như con
đường sáng tác của Chekhov, đó là cuộc kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống”. Chương viết về
mối liên hệ giữa thơ ca và văn xuôi thời kỳ đầu của Bunin trong công trình này thực chất
đã xác lập cơ sở cho vấn đề tính trữ tình trong truyện ngắn của nhà văn giai đoạn đầu. Đặc
biệt nhà nghiên cứu nhấn mạnh thiên nhiên chính là yếu tố kết nối tâm hồn con người,
thiên nhiên làm giàu tâm hồn con người và thiên nhiên là chất xúc tác làm nên chất trữ
tình cho cả thơ và văn xuôi Bunin: “Những không gian tự do, những hình thức và sắc màu
duy nhất của thiên nhiên khơi dậy niềm tin về sự giàu có và nhạc điệu của tâm hồn” [155;
tr. 232].
Trong bài viết Phạm trù tính trữ tình trong văn xuôi của I.A.Bunin (khía cạnh ngôn
ngữ), Luo Sichen, xuất phát từ ý kiến của nhà văn bản học T.M.Dviniatina: “Trong văn
xuôi của mình, Bunin hoàn toàn là một thi sĩ, giống như trong những vần thơ” [128; tr.
417], khẳng định “Tính trữ tình đã tồn tại trong cách diễn đạt vốn có của Bunin và trong
ngôn ngữ văn xuôi” [128; tr. 421], xác lập khái niệm phạm trù trữ tình, tổng kết lại những
nét biểu hiện chính yếu của phạm trù trữ tình trên bề mặt ngôn từ (nhạc tính, sự thi vị hóa
hình ảnh thực tế cuộc sống, tính chủ quan, sự suy yếu của trần thuật) và đi đến kết luận:
“Như vậy, tính trữ tình hiện diện trong văn xuôi Bunin là hệ quả của sự tương tác giữa âm
nhạc và văn xuôi, thơ và văn xuôi, cá tính cá nhân và thế giới, sự trần thuật và thơ ca,
20
được chuyển tải một cách nghiêm ngặt và được tổ chức bằng phương tiện ngôn ngữ”
[128; tr. 422]. Đáng tiếc, những biểu hiện của phạm trù trữ tình không được phân tích qua
những dẫn chứng cụ thể, có những yếu tố có dẫn chứng nhưng không nhiều và chưa được
phân tích kỹ.
R.Khusainov trong bài viết Tính trữ tình của văn xuôi Bunin trong con mắt các
nhà phê bình (2014) đã hệ thống hoá ý kiến của các nhà nghiên cứu Nga và nước ngoài
viết về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin và đi đến kết luận: “Bunin có thể được coi là
người sáng lập văn xuôi trữ tình, dù trước đó những tác phẩm trữ tình đã đóng vai trò
quan trọng” [168; tr. 62]. Khusainov lưu ý đến ý kiến của K.Zaitseva về sự xoá mờ ranh
giới, hoà quyện chất thơ với văn xuôi của Bunin giai đoạn đầu: “Nếu trong thơ của
Bunin… ranh giới giữa thơ và văn xuôi dần dần mờ nhòe, thì trong văn xuôi của Bunin
bắt đầu nhận thấy những chuyển động, mà có thể nói, có thể hồi tưởng: trong đó xuất hiện
nhịp điệu thực sự bên trong và logic thực sự của âm nhạc” [168; tr. 63]. Nhận định của
Khusainov về văn xuôi giai đoạn đầu của Bunin là thứ văn xuôi không có cốt truyện với
cảm xúc, thiên nhiên, “thi pháp hơi thở” được lưu ý nhấn mạnh: “Nguyên nhân đặc biệt
này (như vừa kể trên – ĐTH), đã không thể chia cắt, mà còn thắt chặt văn xuôi Bunin với
thơ trữ tình của ông” [168; tr. 63]. Kết lại bài viết, Khusainov một lần nữa khẳng định
tính trữ tình chính là đặc điểm cơ bản của văn xuôi Bunin, cả giai đoạn trước cách mạng
và sau khi nhà văn rời khỏi Tổ quốc. Đó là sự tiếp nối truyền thống của các nhà văn hiện
thực thế kỷ XIX.
Một số nhà nghiên cứu ở Nga đề cao cảm xúc, nhạc điệu, giai điệu, nghệ thuật mô
tả… trong văn xuôi Bunin nói chung và truyện ngắn nói riêng, coi đó là những điểm quan
trọng làm nên tính trữ tình trong văn xuôi của ông. Natalia Dudinova, trong bài viết Tính
trữ tình và sự thật tồn tại trong văn xuôi giai đoạn đầu của Bunin, sau khi đưa ra những
luận điểm về thiên nhiên, về cảm xúc, về nỗi nhớ trong truyện ngắn Bunin, đã nhận định:
“Tính trữ tình Bunin có thể coi lạc quan, mô tả - súc tích, song chính xác và được cụ thể
hóa bằng những chi tiết nghệ thuật” [109; tr. 45]. Khi nói về nguyên tắc trữ tình của
Bunin, Lipin nhấn mạnh: “Nét bản chất khác của tính trữ tình văn xuôi Bunin là nó được
triển khai từ chính cảm nhận và miêu tả thực tại. Khởi nguồn trữ tình trở thành cơ sở nền
tảng cho cả khâu lựa chọn chất liệu lẫn khâu tổ chức soi chiếu. Nhà văn chỉ tái hiện những
21
gì đã trở thành xúc cảm, thành một phần “không thể thiếu”, “phần máu thịt” của tâm hồn
[168; tr. 63]. Đồng quan điểm với Lipin, Izmailov viết: “Mọi nơi và mọi thứ đối với ông
(Bunin – ĐTH) hợp nhất làm một trong tâm trạng của ông, tình yêu của ông, nỗi buồn
chán, sự tức giận… Nó sẽ liên kết tất cả tạo thành âm điệu trữ tình” [168; tr. 63].
Luận án tiến sĩ khoa học của E.V.Kapinos Những hình thức và chức năng của tính
trữ tình trong văn xuôi I.A.Bunin những năm 1920 (2014) tiếp cận vấn đề từ góc độ thi
pháp học, triết-mĩ học. Trong luận án, nhà nghiên cứu chỉ khảo sát một giai đoạn sáng tác
ngắn ngủi của Bunin - những năm 1920. Tác giả công trình đi sâu nghiên cứu những vấn
đề lớn: Thế giới của nhà văn và thế giới của các nhân vật: thi pháp trữ tình của những
hình thức nhỏ; Cái ―tôi‖ tác giả trong những hình thức trữ tình: tiểu sử và thi pháp; Sử
liệu học Bunin trong bối cảnh những học thuyết triết học đầu thế kỷ XX. Nhìn vào cấu
trúc của luận án có thể thấy, xuất phát từ luận điểm cho rằng trong văn xuôi trữ tình sự
thống nhất nghệ thuật được đảm bảo không phải bởi động lực sự kiện cốt truyện mà bởi
sự chuyển động của cảm xúc, cái “tôi” trữ tình có vị thế quyết định trong lời nói, Kapinos
tập trung nghiên cứu vai trò, vị thế của cái “tôi” trữ tình trong những dạng thức cụ thể,
tiến tới khẳng định vận động hội tụ các dạng thức cụ thể của cái “tôi” trữ tình “đa diện”
này làm thành cả một “quầng sáng” hút vào chiều sâu truyện kể trong văn xuôi Bunin:
“Cái tôi trần thuật trong văn xuôi Bunin làm ta liên tưởng đến nhân vật trữ tình, “cái tôi
trữ tình” trong văn xuôi Bunin không đơn tính, mà “đa diện”, nó không giống như một
điểm sáng, mà như cả một chòm sao hội tụ các điểm sáng vào quầng sáng bên trong chính
mình” [118]. Tác giả công trình cũng chỉ ra nền tảng trữ tình của Bunin chính là hồi ức
của nhà văn, “hồi ức xác định phong cách Bunin”, đặc biệt hồi ức ấy được hỗ trợ bởi triết
học Bergson: “Kí ức liên hệ nhân vật „tôi‟, đưa „tôi‟ đắm mình trong đó và cũng đưa „tôi‟
thoát khỏi đó” [118]. Từ những tiêu chí được xác định như cơ sở cho tính trữ tình trong
văn xuôi từ cuốn sách của Shmid Văn xuôi như thơ, Elena Kapinos xác định những yếu
tố trữ tình trong văn xuôi Bunin đầu thế kỷ XX: “liên kết phông nền”, “motif hình ảnh”,
“ý tưởng”, “ngữ cảnh thể loại”, “mối liên hệ phức tạp giữa các sự vật – sự kiện và sự liên
kết nhịp điệu” [118].
Trong số các tài liệu tiếng Nga mà chúng tôi bao quát được, còn có một vài luận
văn tốt nghiệp của sinh viên Nga trôi nổi trên mạng internet như Vai trò của Bunin trong
22
văn học dân tộc thế kỷ XIX-XX [102], Văn xuôi trữ tình của Bunin và sự phát triển của nó
[127]... Mặc dù đây đó trong những luận văn “khuyết danh” này có những chỗ phân tích,
kiến giải thú vị, song đối với chúng tôi, những tài liệu này, phần nhiều chỉ có ý nghĩa
thuần tuý tham khảo thêm.
Nhìn chung, qua các tài liệu nghiên cứu tiếng Nga, có thể thấy đã có một vài bài
viết, công trình đề cập đến các motif trữ tình, đến chất thơ trong văn xuôi, đến âm nhạc
trong văn xuôi của Bunin. Tuy nhiên, hầu hết các công trình đó, hoặc chỉ đề cập tới tính
trữ tình trong văn xuôi Bunin một cách khái quát, hoặc chỉ đi sâu vào một khía cạnh đơn
lẻ (chẳng hạn như ngôn ngữ), hoặc chỉ nghiên cứu biểu hiện của tính trữ tình ở một giai
đoạn nhỏ trong sáng tác văn xuôi của Bunin. Vấn đề tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin
nhìn một cách toàn diện trong toàn bộ hệ thống sáng tác Bunin qua các lớp ngôn từ, trần
thuật, nhân vật, căn nguyên tính trữ tình… vẫn đòi hỏi phải được đào sâu nghiên cứu và
diễn giải.
1.2. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở phƣơng Tây
Rất nhiều nhà văn Nga khi sống và làm việc ở một quốc gia khác đã nhanh chóng
hòa nhập với nhịp sống mới, sáng tác bằng ngôn ngữ bản địa để phục vụ độc giả mới
(Nabokov, Brodsky...). Tuy nhiên, có rất nhiều nhà văn lại chọn cách hành xử khác. Họ tự
tạo ra cho mình một “pháo đài”, họ chỉ viết bằng tiếng Nga và hầu như không có sự giao
du với “thế giới” bên ngoài (Solzhenitsyn). Không cực đoan như A.Solzhenitsyn, nhưng
Bunin cũng là một người khá “bảo thủ”. Ông luôn luôn khẳng định “Làm sao chúng ta có
thể quên Tổ quốc?... Tôi là một người Nga. Điều đó dù bao nhiêu năm cũng không mất đi
được...” [17; tr. 6]. Ở nước Pháp nhưng Bunin vẫn sáng tác bằng tiếng Nga, đề tài ông
viết là những con người, cảnh vật, sự kiện thuộc về nước Nga trong trí nhớ của ông. Điều
đó làm ông khác biệt với những nhà văn phương Tây, nhưng cũng khiến cho ông phần
nào “cách biệt” với độc giả nơi đây. Trong bài Người được vinh danh chốn tha hương,
John Bayley dẫn lời nhà nghiên cứu người Mĩ Andrew Wachtel: “Bunin - nhà văn vĩ đại
của Nga kén người đọc... là tiếng nói cuối cùng của tầng lớp quý tộc văn hóa truyền thống
Nga” [179; tr. 7]. Tuy “kén người đọc”, song Bunin vẫn thu hút độc giả Phương Tây như
23
một “hiện tượng” đặc biệt, số lượng các công trình nghiên cứu ở Phương Tây về sáng tác
của nhà văn không hề nhỏ.
Các nhà nghiên cứu phương Tây đánh giá rất cao tính chất truyền thống Nga trong
sáng tác của Bunin. Họ coi nhà văn chính là người đã “đem lại vinh quang cho truyền
thống cổ điển Nga” [190; tr. 654], họ cũng khẳng định Bunin là người xa lạ với chủ nghĩa
tượng trưng và các chủ nghĩa khác của Văn học Nga thế kỷ Bạc. Nói về vai trò của Bunin
trong khu vực văn học Nga hải ngoại, Gleb Struve viết: “Ông là niềm tự hào lớn của nền
văn học Nga ở hải ngoại… Cái chết của Bunin được xem như dấu chấm hết cho nền văn
học Nga một cách tượng trưng...”. Bunin là nhà văn “đã hoàn thành những tác phẩm thật
xuất sắc và trong bất kì trường hợp nào thì đó cũng là những tác phẩm lớn nhất” [71; tr.
29]. Các nhà nghiên cứu phương Tây đặc biệt rất hứng thú với việc so sánh và khai thác
mối liên hệ giữa Ivan Bunin với các nhà văn Nga khác: Lev Tolstoy, Chekhov, Turghenev
và Nabokov. Họ khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa tác phẩm của Bunin và Lev
Tolstoy, nhất là hai tác phẩm Làng và Ivan Ilych, đồng thời nhấn mạnh: “Ảnh hưởng lớn
nhất đến Bunin là Tolstoy và Chekhov. Chekhov biết Bunin rất rõ, ông đã tiên đoán
Bunin sẽ là một nhà văn lớn trong tương lai. Nhưng Tolstoy quan trọng với Bunin hơn cả,
không chỉ là nhà tiểu thuyết Bunin ngưỡng mộ mà còn là một người hướng đạo xã hội cho
Bunin” [188; tr. 768]. Với Turghenev, nhà nghiên cứu F.D.Reeve khẳng định Bunin là
người táo bạo hơn, khi Bunin dám viết về những “thứ” tình yêu mà Turghenev không
dám, mặc dù họ tìm thấy trong sáng tác của Bunin nhiều cốt truyện có nguồn gốc từ
Turghenev. Thậm chí Reeve còn khẳng định: “Không có gì băn khoăn khi tác phẩm của
Lermontov được coi là ánh bình minh của văn học cổ điển Nga, còn tác phẩm của Bunin
thì được xem như ánh sáng rực rỡ trong đêm tối” [190; tr. 656]. Còn với Nabokov, nhiều
nhà nghiên cứu coi Nabokov là “người kế nghiệp của Bunin”, đặc biệt khi đọc tác phẩm
Mashenka của ông (Reeve). Karshan thì khẳng định hình ảnh Lolita của Nabokov có mối
liên hệ với Olya trong Hơi thở nhẹ của Bunin, còn nhân vật quý ông trong Quý ông từ San
Francisco đến lại ngầm ý liên hệ với Nabokov.
Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây còn có những khám phá thú vị về truyện ngắn
Bunin. Nhà nghiên cứu Andrei Rogachevsky trong bài Sự đầu thai của Bunin đã nhắc đến
ảnh hưởng của Phật giáo đối với Bunin. Ông phân tích bài viết của Marullo, Thomas
24
Gaiton nói về vấn đề này If you see the Buddha: Studies in the fiction of Ivan Bunin. Đây
là một phát hiện rất thú vị, bởi trước đó chúng ta chỉ mới biết Bunin là người mộ đạo, ông cả đời tuân theo giáo lí Chính Thống giáo1 Nga.
Về đề tài chính trong truyện ngắn Bunin, các nhà nghiên cứu phương Tây nhấn
mạnh các đề tài: cái chết và tình yêu, hồi ức và hoài niệm. Trong bài Chức năng của chủ
đề cái chết trong tác phẩm Ivan Bunin, nhà nghiên cứu A.F.Zweers đã khẳng định: “Cái
chết và tình yêu có liên quan mật thiết với nhau trong truyện ngắn Bunin. Cả hai trở thành
nền tảng của truyện ngắn Bunin, đó là hành động hướng tới sự sống” [197; tr. 161]. Đề tài
thứ hai các nhà nghiên cứu nhấn mạnh ở Bunin đó là hoài niệm. Trong bài Tưởng nhớ
Ivan Bunin, Liubov Tsarvskaya viết: “Khi Bunin bắt đầu sáng tác trở lại, ông viết theo
phong cách hoàn toàn khác với những gì đã thể hiện ở Nga. Tình yêu và kỷ niệm đã quyết
định những nội dung cơ bản trong tác phẩm của ông thời kỳ lưu vong” [195]. Cũng giống
L.Tsarvskaya, D.J.Richard trong bài Kỉ niệm và quá khứ: Một đề tài trong sáng tác của
Ivan Bunin đã nhấn mạnh: “Suốt quãng đời trưởng thành, Bunin (giống như những nhân
vật chính trong các câu chuyện của mình), bị thu hút bởi những di tích của nước Nga cổ
xưa. Những ngôi nhà thờ, tu viện, những thái ấp rộng lớn và điền trang vùng nông thôn,
những cuốn sách và tranh chân dung cũ, những truyền thuyết cổ đại, hay thậm chí những
hồi tưởng về các sự kiện đã qua đều được mô tả rõ nét, đa dạng trong tác phẩm của ông.
Thực tế, những chuyến hành trình nhà văn trải qua ở Nga và nhiều vùng đất trên thế giới
hướng tới khám phá thế giới nhiều hơn khám phá thực tại” [191]. Có thể thấy, những đề
tài tình yêu, cái chết, mối liên hệ với tôn giáo, hồi ức… đều là những vấn đề giới hạn bản
thân Bunin vào cái tôi bên trong của mình, hướng đến thế giới nội tâm chứ không phải
vươn ra thế giới bên ngoài, dù rằng có thể bối cảnh của câu chuyện ấy là thế giới rộng lớn
của nước Nga và bên ngoài nước Nga. Điều đó cũng cho thấy sự chi phối của tâm trạng,
của xúc cảm trữ tình đến quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Các nhà nghiên cứu phương Tây đặc biệt nhấn mạnh khả năng “đi sâu vào tâm hồn
1 Chính Thống giáo là một nhánh của Thiên Chúa giáo (gồm các nhánh lớn như Công giáo La Mã, Chính Thống giáo phương Đông (Nga), Tin Lành…). Chính Thống giáo phát triển và trở thành một trong những tôn giáo chính ở Nga cho đến ngày nay. Trong luận án, từ Thiên Chúa giáo và Chính Thống giáo đều được chúng tôi dùng với nghĩa đã được xác định như trên.
con người, diễn tả sâu sắc tâm lí của người Slav” (Graham Gettlingle), khẳng định thơ của
25
ông “giàu màu sắc, âm thanh, hương thơm và giai điệu, đặc biệt thiên nhiên trong thơ ông
mang tính nữ, hướng về Eva” (F.D.Reeve). Về truyện ngắn của Bunin, theo các nhà
nghiên cứu phương Tây, có thể chia làm hai giai đoạn: giai đoạn trước 1917 (truyện ngắn
những năm 1900, 1911, 1913, 1915) và giai đoạn sau đó với hai nhịp độ khác nhau – một
thì kịch tính, dồn dập; một thì chậm rãi, êm lặng. Một số nhà nghiên cứu như Karshan còn
đề cập đến truyện cực ngắn của Bunin “với giới hạn chỉ trong 100 chữ nhưng lại thách
thức chúng ta khám phá” [188; tr. 766]. Điều này liên quan đến khả năng sử dụng ngôn từ
của Bunin. Chính Gorky đã gọi Bunin là “người thành thạo đến tận tâm hồn của mọi từ
ngữ” [190; tr. 658]. Những nghiên cứu này tuy không trực tiếp đề cập đến tính trữ tình
trong văn xuôi Bunin nhưng những vấn đề được đưa ra phân tích, bình luận lại là những
vấn đề liên quan đến các phương thức biểu hiện tính trữ tình trong tác phẩm của Bunin
mà chúng tôi đã xem xét trong phần giới thuyết. Vì vậy, có thể thấy đây là những ý kiến
quan trọng góp phần củng cố thêm nhận định của chúng tôi về đặc trưng văn chương của
Ivan Bunin.
Có thể nói, hành trình khám phá Bunin là một hành trình không dễ dàng. Các nhà
nghiên cứu phương Tây đã “nhìn” Bunin từ một góc độ riêng. Đặc biệt, họ rất nhạy cảm
khi nói về mối liên hệ của ông với những nhà văn trước và cùng thời; họ cũng rất chú
trọng đến những đề tài chính trong sáng tác của ông. Vấn đề ngôn ngữ tác phẩm của
Bunin đã được đề cập tới, song yếu tố âm nhạc, chất trữ tình chưa được chỉ ra và nghiên
cứu trực tiếp.
1.3. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở Việt Nam
Mặc dù đã được dịch ở nước ta từ 1987 nhưng Ivan Bunin lại chưa được nghiên
cứu nhiều và chuyên sâu. Trái ngược với ở nước Nga và trên thế giới, ở Việt Nam chưa
có một cuốn chuyên luận nào viết về Ivan Bunin. Những tài liệu về Bunin chúng tôi thu
thập được phần nhiều là những bài giới thiệu ngắn gọn về tác giả và các tác phẩm được
tuyển ở đầu các tập truyện ngắn dịch, trong các từ điển văn học, một vài bài viết của các
nhà nghiên cứu trên các tạp chí văn chương và một số bản dịch các bài viết về nhà văn
Nga đầu tiên đạt giải Nobel này của một số nhà nghiên cứu nước ngoài. Trong một số
cuốn giáo trình lịch sử văn học Nga cho sinh viên, Ivan Bunin cũng chỉ được giới thiệu
26
với dung lượng hạn chế. Điều này dường như tỉ lệ nghịch với số lượng các truyện ngắn và
thơ đã được dịch sang tiếng Việt của ông. Lí do phải chăng xuất phát từ chính sự “đơn
giản” nhưng “cực kỳ sâu sắc” của bản thân các truyện ngắn và thơ Bunin?: “Đọc tác
phẩm của Bunin không những phải chăm chú, mà còn phải có văn hóa rộng, phải tập
trung cả trí tuệ và tâm hồn, phải có khả năng suy nghĩ về nước Nga, về quá khứ, hiện tại
và tương lai của nó, về mối liên quan của cuộc sống hằng ngày, của cuộc sống “riêng” với
những sự kiện xã hội lịch sử có quy mô” [15; tr. 7]. Trong lời giới thiệu cho mục truyện
ngắn và tiểu luận trên Tạp chí Văn học nước ngoài số kỷ niệm 50 năm ngày mất của
Bunin, dịch giả Phạm Quốc Ca đã viết: “Trí tuệ lớn nhất của một nhà tư tưởng nhân văn
và trái tim của một nhà nghệ sĩ ngôn từ đã hòa quyện trong tài năng văn chương của ông
khiến ngay cả nhiều nhà văn vĩ đại cũng phải kính nể” [17; tr. 5]. Có lẽ, đây là lí do Bunin
đã “làm khó” rất nhiều nhà nghiên cứu nước ta và trên thế giới.
Đánh giá về vị trí của Bunin trong văn học Nga, nhiều nhà nghiên cứu khẳng định
tầm quan trọng của ông trong sự phát triển văn hóa, văn học Nga, trong giai đoạn văn học
Nga thế kỷ Bạc và đặc biệt trong sự kế thừa, tiếp nối truyền thống Lev Tolstoy, Anton
Chekhov đồng thời mở ra hướng đi mới cho sáng tác văn học Nga đương thời.
Cuốn Giáo trình Lịch sử văn học Nga của các tác giả Đỗ Hồng Chung, Nguyễn
Kim Đính, Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Trường Lịch, Huy Liên, Hoàng Ngọc Hiến xếp
Bunin vào dòng văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng, đánh giá ông là người “trải
qua quãng đường còn nhiều trắc trở hơn cả con đường của Kuprin” [22; tr. 483]. Trong
Lời giới thiệu Tuyển tập truyện ngắn Bunin (1987), dịch giả Hà Ngọc dẫn lời nhà nghiên
cứu Mikhailov khẳng định Bunin là “cả một chương của sự phát triển văn học Nga trong
thế kỷ chúng ta” [15; 7]. Nhà nghiên cứu Vũ Công Hảo nhận định: “Sẽ là một khiếm
khuyết không thể bỏ qua nếu không nói đến những đóng góp to lớn của Ivan Bunin (1870
– 1953) cho văn học hiện thực Nga đầu thế kỷ XX cũng như cho toàn bộ nền văn học thế
giới” [34; tr. 9]. Nói về “Những chuyển biến của tư duy nghệ thuật trong văn xuôi Nga
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, nhà nghiên cứu Phạm Gia Lâm cho rằng Bunin là người
đã đưa những thể nghiệm mới mẻ, táo bạo của chủ nghĩa ấn tượng vào văn chương hiện
thực, đem lại màu sắc hấp dẫn cho dòng văn học này: “Bunin thể nghiệm kết hợp những
truyền thống hiện thực chủ nghĩa với những biện pháp nghệ thuật mới và những nguyên
27
tắc kết cấu gần với chủ nghĩa ấn tượng” [46; tr. 14]. Đồng tình với Phạm Gia Lâm, nhà
nghiên cứu Đỗ Hải Phong trong Giáo trình Văn học Nga viết: “Bunin bắt đầu sự nghiệp
sáng tác bằng chủ nghĩa hiện thực theo „kiểu Chekhov‟, nhưng kết thúc sự nghiệp sáng
tác bằng khuynh hướng gần với chủ nghĩa ấn tượng” [61; tr. 10-11]. Tác giả Vũ Công
Hảo cũng nhận định: “Chịu ảnh hưởng chủ nghĩa trực giác của Henri Bergson, sáng tác
của ông, đặc biệt trong thời kỳ lưu vong, là dòng ý thức tự nhiên và bất tận về cảnh vật và
con người Nga” [34; tr. 9].
Là một trong những người dịch Bunin đầu tiên ở nước ta, dịch giả Phan Hồng
Giang không ngại ngần xếp Bunin vào danh sách những tác gia văn học Nga thế kỷ XIX-
XX đỉnh cao làm nên “tập đại thành” của văn học thế giới tự cổ chí kim, cùng với
Pushkin, Lermontov, Dostoevsky, Lev Tolstoy, Gogol, Chekhov, Kuprin... Ông viết: “có
thể coi ông (Bunin) như là người đại diện tiêu biểu xuất sắc cuối cùng của chủ nghĩa hiện
thực cổ điển Nga, người đã đem lại cho văn chương những giá trị vĩnh hằng của cái Đẹp,
- cái đẹp của thiên nhiên, của lòng người, của nghệ thuật ngôn từ, và cao hơn tất cả là của
Đời sống con người” [16; tr. 5]. Hà Văn Lưỡng trong Đặc trưng nghệ thuật của truyện
ngắn Ivan Bunin cũng đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của cái đẹp thiên nhiên trong truyện
ngắn Bunin, coi đó là một biểu hiện đặc trưng của nghệ thuật truyện ngắn tâm lí của nhà
văn Nga. Còn Đào Ngọc Chương thì lại nhìn Ivan Bunin từ đề tài “trở về” trong sự đối
sánh với các cây bút Nobel khác: Ernest Hemingway, Cao Hành Kiện. Theo tác giả, với
Bunin, quan trọng nhất vẫn là cuộc trở về nước Nga, trở về tình yêu, trở về thanh xuân
bằng kí ức. Từ đó, tác giả khẳng định: “Truyện ngắn của Ivan Bunin lãng đãng màu sắc
thơ mộng của thiên nhiên, nông thôn Nga, và cũng thế, tâm hồn Nga. Đọc truyện ngắn
của Bunin, ta như đi lạc vào miền dịu ngọt mà buồn thương của nỗi lòng, và chợt nhận ra
tất cả cứ mơ màng một giấc mộng, ngay cả ở những truyện mà sự kiện lộ ra mười mươi”
[23; tr. 57].
Như vậy, có thể thấy, ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu và các dịch giả cũng đã
nhận thấy vị trí to lớn và tầm ảnh hưởng sâu sắc của Bunin tới văn học Nga nói riêng và
văn học thế giới nói chung. Đi sâu vào truyện ngắn Bunin, nhiều nhà khoa học cũng có
những phát hiện rất xác đáng về phong cách sáng tác của nhà văn. Đặc biệt, các tác giả đã
nhận ra chất trữ tình – yếu tố làm nên những truyện ngắn trữ tình là “thương hiệu” của
28
riêng Bunin. Dịch giả Phan Hồng Giang viết trong Lời giới thiệu tuyển tập Bunin: “Giới
thiệu Bunin với đông đảo bạn đọc lần này, chúng tôi chọn dịch những truyện mang nặng
tính chất trữ tình, các truyện được dịch ở đây đều có thể gọi là những truyện tình yêu”
[16; tr. 11]. Trước đó, ông cũng đã khẳng định tính chất “liên ngành” trong sáng tác của
nhà văn: “Sau này Bunin đã không thành nhạc sĩ, không thành họa sĩ, nhưng cái chất tạo
hình – biệt tài tả cảnh và khắc họa chân dung – cái chất nhạc trong thứ văn xuôi mượt mà
dịu ngọt thì còn lưu lại mãi trong các văn phẩm của Bunin, đưa ông vào số nhà văn ít ỏi
trong văn học Nga đạt đến uy tín tuyệt đối về sử dụng ngôn từ” [16; tr. 6]. Nhà nghiên
cứu Đào Tuấn Ảnh trong cuốn Từ điển văn học bộ mới cũng nhận định chất nhạc chính là
nét đặc sắc của truyện ngắn Bunin: “Đến những năm 90 của thế kỷ XIX, hệ thống văn
xuôi Bunin đã định hình, trong đó chất nhạc, nhịp điệu làm cho văn của ông đặc biệt cô
đọng. Bản thân Bunin coi những tìm tòi về nhạc điệu và ẩn dụ hóa văn xuôi là sự tiếp nối
sáng tác thi ca của mình” [36; tr. 172]. Cùng ý kiến với hai nhà nghiên cứu Đào Tuấn
Ảnh, Phan Hồng Giang, dịch giả Hà Ngọc coi “mỗi truyện ngắn của ông (Bunin) vừa là
một áng văn xuôi lại vừa là một bài thơ” [15; tr. 7].
Gần đây nhất, hai cuốn sách nghiên cứu về văn học Nga thế kỷ XX và văn học Nga
hải ngoại ở Việt Nam – Giáo trình Văn học Nga thế kỷ XX của Vũ Công Hảo và Văn học
Nga hải ngoại: Quá trình – Đặc điểm – Tiếp nhận của Phạm Gia Lâm đã có những trang
viết khá đầy đủ về Ivan Bunin, đặc biệt cả hai nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh đến thuật
ngữ “trữ tình” như là một định danh không thể thay thế khi nói đến truyện ngắn Bunin.
Tác giả Vũ Công Hảo trong Giáo trình Văn học Nga thế kỷ XX khi phân tích đặc sắc nghệ
thuật của Bunin đã đi theo hướng phân tích riêng biệt đặc sắc nghệ thuật thơ ca, truyện
ngắn trữ tình và tiểu thuyết của nhà văn. Riêng trong mục “truyện ngắn trữ tình” nhà
nghiên cứu khẳng định: “Các truyện ngắn của ông thường có cốt truyện đơn giản, lối kết
thúc mở đầy bất ngờ, đặc biệt, có sự hòa trộn khó tách bạch giữa „chất đục đời thường‟
của cuộc sống và „chất thơ bi thảm‟ của tâm hồn Nga” [35; tr. 124]. Trong những phân
tích cụ thể về các tác phẩm tiêu biểu của Bunin, Vũ Công Hảo nhấn mạnh: “Ở những câu
chuyện hiện thực đến trần trụi như thế, vẫn đầy ắp chất thơ, chất trữ tình của một tư tưởng
lớn, một tâm hồn nhạy cảm biết yêu thương cuộc sống, nâng niu con người, biết trân
trọng thậm chí cả những đổi thay nhỏ nhất của cảnh sắc” [35; tr.127].
29
Văn học Nga hải ngoại: Quá trình – Đặc điểm – Tiếp nhận của nhà nghiên cứu
Phạm Gia Lâm thực sự là một cuốn sách tham khảo chuyên sâu có giá trị. Trong Chương
6 viết riêng về Ivan Bunin tác giả công trình khẳng định tính chất “triết luận-trữ tình”
chính là nét đặc trưng cho phong cách nghệ thuật của Bunin. Với nhà nghiên cứu sáng tác
của Bunin có thể chia làm hai giai đoạn lớn, tương ứng với sự thay đổi đối tượng triết
luận-trữ tình: “Triết luận-trữ tình về cuộc sống, con người Nga trong sáng tác trước Cách
mạng tháng Mười” và “Triết luận-trữ tình về tình yêu và hoài niệm về nước Nga trong
sáng tác thời kỳ lưu vong”. Cả hai luận điểm này đều được nhà nghiên cứu phân tích làm
rõ bằng những sáng tác tiêu biểu nhất của Bunin trong hai giai đoạn: Những quả táo
Antonov (giai đoạn trước Cách mạng tháng Mười) và Những tháng ngày đáng nguyền
rủa, Bông hồng của Jerihone, Mối tình của Mitya, Cuộc đời Arseniev, Ngày thứ Hai chay
tịnh, Sự giải thoát của Tolstoy (giai đoạn sau Cách mạng tháng Mười)… Có thể nói
những kiến giải của tác giả trong chương sách này đã gợi mở và đem lại cho chúng tôi
nhiều suy ngẫm và đối sánh thú vị.
Trong các nhà trường Đại học, những năm gần đây, Bunin cùng các sáng tác của
ông đã được lựa chọn làm đề tài cho nhiều Luận văn Thạc sĩ. Đáng chú ý là các luận văn:
Chủ nghĩa ấn tượng trong truyện ngắn Ivan Bunin (Hà Hồng Nhung, 2005), Các mô hình
tượng trưng trong văn xuôi Bunin (Đặng Thu Hương, 2008), Mô tả trong truyện ngắn
Ivan Bunin (Đỗ Thị Thu Hương, 2009), Chủ nghĩa ấn tượng và nhân vật nữ trong truyện
ngắn I.A.Bunin (Hoàng Thị Mỵ, 2009), Tính sinh động của sự miêu tả trong truyện ngắn
Ivan Bunin - So sánh với đặc tính tương ứng trong truyện ngắn G.G.Márquez (Nguyễn
Thị Vân Anh, 2010), Hoài niệm trong truyện ngắn Ivan Bunin (Bành Thị Lê Hương,
2011). Các luận văn trên chủ yếu tập trung nghiên cứu về nghệ thuật miêu tả (thiên nhiên,
đồ vật, nhân vật) trong truyện ngắn của Bunin. Những luận văn viết về chủ nghĩa ấn
tượng hay hoài niệm trong truyện ngắn Bunin cũng dành dung lượng lớn cho nghệ thuật
miêu tả và chất hội họa trong truyện ngắn của ông. Đây đó có một vài trang các tác giả
luận văn nhắc đến âm nhạc (phần Hợp âm của thế giới hoài niệm trong mục Sự gần gũi
của truyện ngắn hoài niệm với âm nhạc và điện ảnh ấn tượng trong luận văn Hoài niệm
trong truyện ngắn của Ivan Bunin), tuy nhiên tác giả luận văn chỉ dừng lại ở việc thống kê
30
các loại hình âm thanh thiên nhiên, sinh hoạt trong tác phẩm chứ chưa chỉ ra cụ thể đặc
tính cũng như nhịp điệu của truyện ngắn Bunin.
Như vậy, ở Việt Nam, dù được dịch từ những năm 1980 nhưng số lượng các công
trình chuyên sâu về Bunin khá hiếm hoi. Đặc biệt, vấn đề tính trữ tình – cái làm nên nét
riêng cho Bunin vẫn chưa thực sự được nghiên cứu. Kế thừa thành quả nghiên cứu của
những người đi trước, kết hợp với những kiến giải của riêng mình, chúng tôi hi vọng sẽ
đem đến cho người đọc cái nhìn đầy đủ nhất về yếu tố làm nên bản sắc truyện ngắn Ivan
Bunin.
Tiểu kết chương 1:
Qua việc điểm lại những khuynh hướng, những công trình cơ bản trong nghiên cứu
Ivan Bunin và truyện ngắn của ông qua các tài liệu nghiên cứu tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng
Việt, chúng tôi thấy đã có một vài tư liệu đề cập đến các motif trữ tình, đến chất thơ và
âm nhạc trong văn xuôi của Bunin. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một số nhận định khái quát,
một số công trình bao quát toàn bộ sáng tác của nhà văn, hoặc một số công trình đi sâu
nghiên cứu chỉ một hay một vài khía cạnh liên quan đến tính trữ tình trong truyện ngắn
Bunin, nhiều công trình giới hạn phạm vi nghiên cứu lại chỉ là một giai đoạn sáng tác đơn
lẻ nào đấy của nhà văn. Tính trữ tình triển khai qua chất nhạc, nhịp điệu, điểm nhấn ngôn
từ, qua hệ thống chủ thể trữ tình, nhân vật, qua cảm quan nghệ thuật thể hiện qua truyện
ngắn của của Bunin chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống. Coi truyện ngắn
Bunin là một thể thống nhất từ trước và sau Cách mạng tháng Mười, chúng tôi đi sâu tìm
hiểu các biểu hiện của phong cách trữ tình trong truyện ngắn Bunin qua những yếu tố thi
pháp cơ bản nhất, đi từ ấn tượng ngôn từ bề mặt cho tới căn nguyên trữ tình sâu xa làm
nên cảm quan trữ tình của nhà văn. Chúng tôi mong muốn công trình của mình sẽ có
những đóng góp, bổ khuyết cho thực trạng nghiên cứu tính trữ tình trong truyện ngắn Ivan
Bunin ở Việt Nam.
31
CHƢƠNG 2
ẤN TƢỢNG LỜI VĂN TRỮ TÌNH
Với bất kỳ một tác phẩm văn học nào, đặc biệt là tác phẩm trữ tình, ấn tượng lời
văn – bề mặt ngôn từ luôn tác động đến người đọc trước tiên. Nhà văn, muốn đưa người
đọc say theo dòng cảm xúc của mình, trước hết phải sử dụng ngôn từ giàu sức mê đắm.
Đó phải là thứ ngôn ngữ đẹp, biểu cảm, giàu nhạc tính. Trong Lời vinh danh đọc vào ngày
trao giải thưởng Nobel cho Bunin, Per Hallström (thư kí thường trực viện Hàn lâm Thụy
Điển) đã đánh giá rất cao ngôn từ nghệ thuật của Bunin: “Ông hoàn thiện năng lực tập
trung và sự giàu có của diễn đạt - trong mô tả về cuộc sống thực dựa trên một sự chính
xác hiếm có của sự quan sát. Nghệ thuật nghiêm ngặt giúp ông chống lại mọi sự cám dỗ
coi nhẹ thực tế do sức quyến rũ của ngôn từ; dù là nhà thơ trữ tình, ông không bao giờ tô
vẽ những gì ông thấy mà diễn tả nó một cách trung thực nhất. Với ngôn ngữ giản dị của
mình, ông đã tạo nên một nét duyên, theo ý kiến của đồng bào ông, như thứ nước uống
quý giá mà ta có thể thưởng thức thậm chí qua bản dịch” [186]. Với chúng tôi, “nét
duyên” trong ngôn ngữ giản dị mà chính xác và giàu giá trị biểu đạt, biểu cảm của Bunin
chính là ấn tượng trữ tình đầu tiên không thể không nhắc tới khi tiếp xúc với kho tàng
truyện ngắn của nhà văn. Ấn tượng đó được tạo nên từ các thủ pháp gia tăng sức biểu cảm
cho lời văn, tăng cường nhạc tính và thi vị hoá hệ thống từ vựng trong truyện ngắn.
2.1. Gia tăng biểu cảm lời văn
Thông thường, trong các thể loại tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng, ngôn từ
tác phẩm thường bao gồm lời tả, kể và đối thoại. Tùy thuộc vào phong cách truyện ngắn
của từng nhà văn, mỗi loại hình lời văn ấy sẽ mang đặc trưng riêng. Đọc truyện ngắn của
Bunin chúng tôi nhận thấy, để tạo âm hưởng trữ tình đậm nét cho truyện ngắn của mình,
nhà văn đã gia tăng sức biểu cảm cho lời văn: cảm xúc hóa đối thoại, độc thoại hóa đối
thoại và phối cảm lời kể - lời độc thoại.
Theo khảo sát của chúng tôi, đối thoại trong truyện ngắn Bunin thường có xu
hướng kéo dài như những lời độc thoại hay những dòng trữ tình ngoại đề cảm xúc và triết
lí của nhà văn. Đặc biệt, lời kể của người kể chuyện đôi khi hòa trộn với lời độc thoại. Cá
32
biệt, có những tác phẩm không có đối thoại, chỉ có độc thoại giãi bày cảm xúc của nhân
vật.
2.1.1. Cảm xúc hóa đối thoại
Đối thoại là thủ pháp quan trọng trong các tác phẩm tự sự và kịch nhằm giúp nhân
vật bộc lộ tâm tư tình cảm và quan điểm sống. Đối thoại cũng là một cách nhà văn gửi
gắm tư tưởng chủ đề trong tác phẩm và phản ánh sự phát triển của ngôn ngữ nghệ thuật
thời đại. Trong truyện ngắn Bunin, chúng tôi nhận thấy có hai dạng đối thoại: đối thoại
tương tác xã hội và đối thoại giãi bày cảm xúc. Đối thoại tương tác xã hội là những đối
thoại qua lại giữa con người với con người trong tác phẩm nhằm thể hiện những quan hệ
xã hội, thái độ quan điểm, những tranh luận, những bàn bạc nhằm đạt tới thống nhất một
vấn đề gì đó thuộc công việc, các quan hệ xã giao. Đối thoại tương tác xã hội thường ít đề
cập đến những vấn đề riêng tư của con người. Những vấn đề thuộc về tình cảm, các mối
quan hệ gia đình, tình yêu… lại thuộc về một dạng đối thoại khác. Chúng tôi gọi đó là đối
thoại cảm xúc. Chúng tôi nhận thấy số lượng các đối thoại tương tác xã hội đơn thuần
trong truyện ngắn Bunin xuất hiện rất ít, và nếu có xuất hiện thì cũng là những đối thoại
rất ngắn. Thông thường, những đối thoại tương tác xã hội xuất hiện nhiều trong các tác
phẩm có tình huống là những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên giữa những con người xa lạ trong
hành trình cuộc đời. Họ gặp nhau ngắn ngủi, trao đổi với nhau những thông tin vắn tắt và
cơ bản, nhưng ấn tượng, cảm xúc đến với họ lại rất lớn lao và mãnh liệt. Khi ấy, những
đối thoại tương tác xã hội đã nhường chỗ cho những đối thoại giãi bày cảm xúc. Sự
chuyển đổi các dạng đối thoại trong cùng một tác phẩm đã tăng thêm tính chất trữ tình và
“mềm mại” cho tác phẩm. Như vậy, có thể nhận thấy trong truyện ngắn Bunin có khuynh
hướng tối giản đối thoại tương tác xã hội và nối dài đối thoại giãi bày cảm xúc. Đó chính
là biểu hiện cảm xúc hóa đối thoại, gia tăng chất trữ tình cho lời văn.
Những đối thoại tương tác xã hội, hay đơn giản là những đối thoại đơn thuần cung
cấp thông tin chiếm số lượng rất ít trong truyện ngắn Bunin. Đôi khi nhân vật tự lờ đi
những thông tin ấy, với họ quan trọng hơn cả là cảm xúc ở thời điểm đó. Trong Say nắng,
nguyên tác hơn 6 trang [99 – tập 4; 334-340], chỉ có duy nhất một cuộc đối thoại đúng
33
nghĩa với sự tương tác của cả hai nhân vật, và cuộc đối thoại ấy cũng vẻn vẹn có bảy câu
thoại với ba lượt lời.
“-Ta xuống đi…
- Xuống đâu? – nàng ngạc nhiên hỏi.
- Xuống bến này.
- Để làm gì?
Chàng nín lặng. Nàng lại áp mu bàn tay vào bên má nóng bừng.
- Có mà điên…
- Ta xuống đi, - chàng nhắc lại như ngây như dại. – Anh van em…
- Ôi chao, thôi thì tùy anh muốn làm gì tùy anh, - nàng vừa nói vừa quay mặt đi.”
[15; tr. 204]
Trong đoạn đối thoại, chàng trung úy không trả lời thẳng vào câu hỏi của thiếu phụ
về mục đích xuống bến. Tuy nhiên, ngay chính người hỏi dường như cũng không cần
chàng nêu rõ thông tin ấy, cơn say nắng đã khiến người thiếu phụ dừng cuộc truy vấn của
mình, thả mình vào xúc cảm. Nội dung thông tin bị bỏ lửng nửa chừng, nhường chỗ cho
sự hoà điệu của lời cầu xin và nhượng bộ. Trong Say nắng, còn có hai cuộc đối thoại nửa
chừng khác. Đối thoại nửa chừng ở đây chỉ có một người nói, còn người kia yên lặng
đồng tình.
“- Hình như em say hay sao ấy… Anh ở đâu ra thế nhỉ? Cách đây ba tiếng đồng
hồ thậm chí em không hề biết là có anh trên đời này. Thậm chí em cũng chẳng biết anh từ
đâu lên nữa. Từ Samara ư? Cũng chẳng sao… Đây là em chóng mặt hay chúng ta đang
quành đi đâu ấy nhỉ?” [15; tr. 203]; “- Không, không, anh yêu ạ, - đáp lại lời chàng van
xin được cùng đi theo thêm nữa, nàng bảo, - không, anh phải ở lại đến chuyến tàu sau.
Nếu chúng ta cùng đi, mọi chuyện sẽ hỏng mất. Em sẽ đâm ra rất khó xử mất thôi. Em lấy
danh dự nói với anh rằng em hoàn toàn không phải con người mà anh có thể nghĩ về em.
Cái điều thậm chí giống với việc mới xảy ra, đối với em chưa hề có và sẽ không bao giờ
có nữa cả. Hệt như em đã bị rối trí hay sao ấy… Hoặc nói đúng hơn, là cả hai chúng ta
đều đã bị một cái gì giống như say nắng ấy…” [15; tr. 206].
Trong đối thoại khuyết vế, những câu hỏi phần nhiều mang tính tu từ, có khuynh
hướng trở thành cảm thán. Thiếu phụ thực chất chủ yếu thể hiện những xúc cảm chân thật
34
về cơn “say nắng” bất ngờ, dằn vặt về những cảm giác “tội lỗi”, song lại luôn tìm kiếm sự
đồng cảm từ phía người đối thoại.
Cũng là cuộc gặp tình cờ trên một chuyến tàu thủy, cũng là một thiếu phụ cô đơn
và một anh chàng si tình, ở Những tấm danh thiếp những đối thoại tương tác xã hội của
người thiếu phụ và anh chàng nhà văn có dài hơn. Tuy nhiên, nếu trong Say nắng, người
thiếu phụ dường như rất hạn chế bộc lộ những thông tin riêng tư về mình thì người thiếu
phụ trong Những tấm danh thiếp lại chủ động kể cho anh chàng nhà văn hào hoa những
thông tin ấy, thậm chí trong lời kể còn “cố tình” giãi bày cảm xúc về hoàn cảnh bản thân,
về cuộc hôn nhân nhàm tẻ và cả ước mong cháy bỏng được một lần “sống khác”:
“- Có chồng rồi. Và than ôi, chẳng phải là năm đầu tiên…
- Sao lại than ôi?
- Em dại dột nhảy ào đi lấy chồng quá sớm. Ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy chốc
cuộc đời sẽ trôi qua!
- Ồ, cái đó thì còn lâu.
- Than ôi, chẳng lâu la gì đâu! Mà em còn chưa biết mùi đời, chưa biết mảy may!
…
- Ôi chao, chồng em là con người rất tốt, rất lành, nhưng tiếc một nỗi là chẳng có
gì thú vị cả… Ông ấy làm thư kí phòng quản thủ điền thổ huyện nhà…
…
- Anh biết không, - nàng bỗng bảo, - ta vừa mới nói đến những giấc mơ, vậy anh
có biết hồi còn là nữ sinh trung học, em đã ước mơ điều gì hơn hết không? Ước mơ đặt in
những tấm danh thiếp ấy! Hồi đó gia đình em nghèo túng hẳn đi, phải bán nốt phần trang
trại còn lại để dọn vào thành phố, thế là em hoàn toàn chẳng còn ai để mà trao danh thiếp
nữa cả, mà đó là điều em đã xiết bao mơ ước! Ngu ngốc kinh khủng…” [15; tr. 258-259-
260].
Người thiếu phụ trẻ bất mãn với cuộc hôn nhân của mình, nàng thổ lộ tất cả những
điều thầm kín riêng tư lẽ ra không nên nói cho người ngoài. Nàng xót xa “chưa biết mùi
đời, chưa biết mảy may” (“еще ничего, ничего не испытала в жизни”). Sự thiếu thốn
cảm xúc, nỗi khát khao trong tâm hồn người thiếu phụ được đánh thức bởi một chàng trai
sẵn sàng “thương hại, thương hại cho cách cư xử buông thả của nàng, và cùng với lòng
35
thương hại là một niềm trìu mến và một dục vọng khoái cảm hòng lợi dụng cái ngây ngô,
cái thiếu từng trải một cách muộn màng của nàng” [15; tr. 259].
Ở hai tác phẩm trên, dường như những lời giãi bày được “cố ý” kéo dài ra đều
thuộc về những người phụ nữ. Điều này cũng dễ hiểu bởi phụ nữ luôn có xu hướng tâm
sự, kể lể, kêu gọi sự thông cảm, thương yêu… Có thể gặp xu hướng này trong rất nhiều
truyện ngắn khác của Bunin: Cuộc đời tươi đẹp, Tanhia, Một truyện tình nho nhỏ, Bình cà
phê thứ hai, Rusya, Stepa, Sự trả thù… Có những tác phẩm, người giãi bày lại là những
người đàn ông, họ không thể tự tha thứ cho bản thân mình vì một lỗi lầm nào đó trong
quá khứ. Đó là những lời thú nhận của người họa sĩ trong Galia Ganskaya, của nhân vật
nhạc sĩ trong Ida, của người chủ cũ trong Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối, của người
cha đỡ đầu trong Mẹ đỡ đầu, của chàng trai trẻ bất hạnh Nikanor Matveits trong Cuộc đời
tươi đẹp…
Nhân vật nữ Nastasia luôn bị ám ảnh bởi cuộc chuyện trò với cậu chủ cũ của mình
sau khi đã móc túi hết số tiền của cậu ta rồi bỏ đi. Có lẽ, đó là sự day dứt duy nhất của
một người phụ nữ mạnh mẽ, luôn tự làm chủ được bản thân mình:
“- Nastia ơi, số phận đã khiến tôi què quặt, mà bản tính tôi cũng dở điên dở dại: lúc
tôi vui về một tai nạn nào đó, lúc thì lại buồn rượi, nhất là mùa hè, những khi nóng nực,
bụi bậm như thế này, - thà là tôi tự tử đi cho rồi! Nếu tôi chết, người ta sẽ chôn tôi ở nghĩa
trang Chernoslobodskoie, đời đời kiếp kiếp bụi sẽ bay qua bờ rào mà phủ lên mộ tôi!
- Sao cậu cứ quá đỗi buồn phiền về chuyện đó làm gì, cậu Nikanor Matveits? Mình
có cảm biết được cái đó nữa đâu.
- Đúng là mình sẽ không cảm biết được nữa, - cậu ta nói, - và tai họa ở chỗ là mình
nghĩ đến cái đó từ lúc mình hãy còn sống…” [15; tr. 87].
Những lời nói của cậu bé què quặt giống như một chân lí ngậm ngùi: điều đáng sợ
nhất không phải cái chết, mà là ý thức về cái chết và sự tồn tại vô nghĩa của mình trong
cõi thế ngay khi còn đang sống. Chính những lời nói đầy buồn bã và trầm tư của cậu bé
đáng thương đã khiến không khí câu chuyện trở nên trầm buồn hơn. Những lời tâm sự
giãi bày của người chủ cũ khi gặp lại cô hầu gái năm xưa trong Những lối đi dưới hàng
cây sẫm tối sau những lời nói xã giao tưởng như vô thưởng vô phạt lại chứa đựng nỗi
niềm của một người luôn tự giấu kín tâm sự vì xấu hổ và sĩ diện:
36
“- Ôi, lúc ấy sao cô xinh tươi thế! – ông lắc đầu nói. – Sao cô nồng nàn thế, tuyệt
vời thế! Vóc người đẹp biết bao, cặp mắt đẹp biết bao! Mọi người đều phải nhìn ngắm cô,
cô còn nhớ chứ?
- Còn nhớ, thưa ngài. Mà cả ngài cũng rất đẹp trai nữa. Và vì vậy tôi đã hiến dâng
ngài sắc đẹp của tôi, mối tình nồng nàn của tôi. Làm sao lại có thể quên điều đó được.
- Chao ôi! Mọi sự đều qua đi. Mọi sự đều bị lãng quên đi.
- Mọi sự đều qua đi, nhưng không phải mọi sự đều lãng quên đi cả đâu” [15; tr.
232].
Lời thoại tràn ngập những câu cảm thán, từ ngữ biểu cảm (Ах, как хороша ты
была!.. Какой стан, какие глаза!...), cùng hiện tượng lặp từ, lặp ý nửa như phản bác
thông tin, nửa như cùng chung xúc cảm (– А! Все проходит. Все забывается. – Все
проходит, да не все забывается...). Qua các vế đối thoại xúc cảm kết nối các nhân vật
với nhau và với người đọc giả định.
Sự giãi bày của những người đàn ông trong tác phẩm của Bunin ban đầu xuất phát
từ những đối thoại tương tác xã hội, để rồi từ những đối thoại xã giao các nhân vật dần
dần bày tỏ suy nghĩ và tâm sự của mình. Trên biển đêm khuya cũng là tác phẩm ghi lại
một cuộc gặp gỡ tình cờ của hai người đàn ông, những người đã từng có chung một niềm
đam mê, chung khát khao yêu đương mãnh liệt với một người phụ nữ. Một trong số họ
giành được tình yêu của cô gái ấy, còn người kia thì không. Giờ đây, ngẫu nhiên gặp lại
nhau trên chuyến tàu, họ chia sẻ với nhau tất cả những cảm giác về tình yêu bị phản bội,
về sự hữu hạn trong cuộc sống con người, về cách họ trải qua nỗi đau… Có những đoạn
đối thoại dịch ra tiếng Việt hơn một trang giấy, nhân vật không chỉ đang giãi bày với
người khác mà như đang tự sự với chính bản thân mình. Với anh ta giãi bày cho người
khác cũng là tự biện hộ cho mình. Dường như cảm xúc khát khao giãi bày ấy chỉ đến khi
nhân vật tìm được đối tượng lắng nghe dù rằng đối tượng ấy với anh ta trước kia là tình
địch, là “kẻ thù”.
Như vậy, trong truyện ngắn của Bunin, đối thoại về cơ bản được nối dài theo
hướng cảm xúc hóa, nhân vật dường như không chỉ đang trao đổi thông tin với người
khác mà đang tâm sự với chính mình, giãi bày để tự tìm cách xoa dịu nỗi đau, sự ám ảnh,
ẩn ức của cả cuộc đời. Chính những đối thoại giãi bày ấy gia tăng tính trữ tình, khiến cho
37
câu chuyện được kể trong tác phẩm không chỉ là câu chuyện của riêng nhân vật mà là câu
chuyện được cảm thông, được chia sẻ bởi cả nhà văn và người đọc.
2.1.2. Độc thoại hóa đối thoại và phối cảm lời kể với lời độc thoại
Trong nhiều truyện ngắn của mình, Bunin để cho nhân vật có những phút giây tự
đối diện với bản thân, tự bộc lộ những tâm sự chất chứa trong lòng. Tuy nhiên, trong lời
chuyện trò thông thường, nhân vật dường như rất ngại bộc lộ nỗi lòng trực tiếp. Họ chỉ
“dám” làm việc ấy một cách gián tiếp: viết thư, ghi nhật kí. Những bức thư tình, những
trang nhật kí, những lời tâm sự giãi bày của nhân vật luôn là những xúc cảm mãnh liệt và
chân thực nhất, có sức thuyết phục lớn lao nhất đối với người đọc. Hình thức viết thư
cũng như nhật ký phổ biến trong nhiều truyện ngắn của Bunin như Chuyện tình của người
gù, Một truyện tình nho nhỏ, Hơi thở nhẹ, Đứa con trai, Người bạn không quen biết, Cây
thần… (Theo thống kê của chúng tôi 23/100 truyện ngắn của Bunin được khảo sát có sử
dụng các dạng thức độc thoại này). Đây là những phương thức hữu hiệu của Ivan Bunin
trong việc lôi cuốn và làm mê đắm người đọc trong cảm xúc và bằng cảm xúc. Thực chất
sự phổ biến của cả hai dạng thức lời văn này thể hiện khuynh hướng độc thoại hóa đối
thoại gia tăng sức biểu cảm cho lời văn trong truyện ngắn Bunin.
Viết thư là hình thức giao tiếp ở khoảng cách xa, thường là để bộc lộ những xúc
cảm riêng tư thầm kín khó nói trực tiếp. Trong Chuyện tình của người gù, một chàng gù
rất háo hức và sung sướng nhận được lá thư tỏ tình và hẹn hò của một cô gái. Anh chàng
may mắn phấn khích chờ đợi đến ngày hẹn bởi lá thư tình của cô gái không đề tên là lá
thư tình đầu tiên trong đời anh nhận được. Đến ngày hẹn anh chàng sắm sửa bảnh bao
như một chú rể, hồi hộp và hạnh phúc chờ đến khi được gặp mặt nàng. Cô gái mà anh chờ
đợi tuy rất quyến rũ, đẹp đẽ nhưng lại khiến anh hụt hẫng, bẽ bàng: cô bị gù. Có lẽ bởi thế
cho nên cô gái chỉ đủ tự tin viết thư cho chàng trai thay vì chủ động đến gặp và tỏ tình:
“Hãy đến khu vườn hoa công cộng tại quảng trường Nhà Thờ Lớn vào thứ bảy,
ngày 5 tháng 4, lúc 7 giờ tối. Em trẻ, giàu có và không bị ai ngăn cấm. Và tại sao em phải
giấu giếm tình cảm này thêm nữa – Em yêu anh từ rất lâu rồi. Yêu vẻ u sầu của anh, biểu
cảm tự hào của anh, trí thông minh và vẻ quý tộc của anh, nỗi cô đơn của anh, em hi
38
vọng rằng anh sẽ tìm được sự thân thiết nơi em… Em sẽ mặc một bộ vét màu ghi, tay trái
cầm ô lụa màu hoa oải hương, tay phải cầm một bó hoa violet” [99 – tập 5; tr. 321].
Nhân vật nữ trong Một truyện tình nho nhỏ đã trút bầu tâm sự vào những trang viết
cho anh chàng người yêu mà nàng say đắm nhưng không được toại nguyện. Thực tế đọc
những dòng tâm sự của nàng, người đọc có cảm giác đó không chỉ đơn thuần là thư, đó
còn là những dòng nàng tự than khóc, thương xót cho bản thân. Nàng tự trách mình không
đủ dũng cảm để đấu tranh cho tình yêu, không dám phá bỏ hôn ước định sẵn dù trong
lòng không muốn, để rồi khi dấn thân vào cuộc hôn nhân không tình yêu, nàng thực sự
tuyệt vọng. Những lời nàng viết ra là để giãi bày, để đánh thức dậy yêu thương và trân
trọng ở người con trai, cũng là tự chuộc lỗi cho bản thân. Nàng đã rất dũng cảm, dù sự
dũng cảm ấy giờ đây không giải thoát được nàng.
“Anh thân yêu, - nàng viết cho tôi bốn tháng sau ngày đó, - anh đừng kết tội em,
rằng em đã biến đi mà không báo trước cho anh. Hắn mạnh hơn em gấp nghìn lần. Em đã
tỏ ra hèn yếu, bỏ lỡ mất giây phút khủng khiếp khi còn kịp quyết định phá bỏ tất cả. Bây
giờ thì em hầu như đã chẳng còn hi vọng nào gặp lại được anh. Mà thử hỏi làm sao chúng
ta có thể gặp nhau được? Em có cảm giác rằng em hoàn toàn, hoàn toàn không tự lừa dối
mình về tình cảm của anh đối với em. Đối với anh, đó chỉ là một cuộc gặp ngẫu nhiên,
một chuyện tình nho nhỏ, không hơn. Nhưng không sao: xin thề với anh, rằng nếu trong
đời em đã yêu ai đấy, thì người đó chính là anh…
Tình yêu là gì, cái tình yêu đã được ca ngợi hàng vạn, hàng triệu lần ấy? Cũng có
thể vấn đề không phải ở chính bản thân tình yêu. Trong thư của một nhà văn đã chết, cách
đây không lâu em có đọc câu này: “Tình yêu là cái ta muốn nhưng không đạt được, và
không hề có”. Vâng, vâng, không bao giờ có thể có! Nhưng không hề gì. Em đã yêu và
hiện đang yêu anh…” [16; tr. 583].
Đó là phần đầu trong lá thư dài cô gái gửi chàng trai – tình yêu của đời mình. Cô
gái biết tự biện minh cho mình là cách duy nhất cô được sống với tình yêu ấy. Lời triết lí
về tình yêu của cô là lời triết lí của những “kẻ thất bại” trong tình yêu. Người đọc thêm
đồng cảm với cô gái yếu mềm, tuyệt vọng nhưng dám sống thật với cảm xúc của mình.
Viết nhật kí trong truyện ngắn Bunin nhiều khi là hình thức giãi bày tâm sự, tự nhủ,
hay đối thoại với chính mình, gần với độc thoại nội tâm. Trong một số truyện ngắn của
39
mình, Bunin để cho nhân vật viết nhật kí để bộc lộ tâm trạng, suy nghĩ cũng như thái độ,
quan điểm của họ. Nhật kí đã thay họ nói lên nỗi lòng mình, nỗi lòng mà họ không dủ
dũng khí hoặc không muốn hay không thể nói ra dưới dạng thức khác. Những dòng nhật
kí của cô bé Olia Mesherskaia mới mười lăm tuổi trong Hơi thở nhẹ làm cho anh chàng sĩ
quan kazak bất ngờ, đến mức không chịu nổi đã nhẫn tâm bắn gục cô bé trên sân ga.
Người đọc bất ngờ trước những lời thú nhận vừa có chút bằng lòng, vừa có chút tiếc nuối,
vừa có chút hối hận… của cô bé: “Bây giờ đã là hai giờ đêm. Mình đã ngủ thiếp đi, nhưng
rồi đã tỉnh dậy ngay… Từ nay mình đã là đàn bà rồi đấy! (…) Bây giờ mình chẳng hiểu
sao lúc ấy chuyện lại có thể xảy ra như thế, mình điên mất rồi. Chưa bao giờ mình nghĩ
mình lại là con người như vậy! Giờ đây mình chỉ còn có một lối thoát… Mình cảm thấy
ghê tởm ông ta đến mức không sao chịu nổi!...” [15; tr. 196-198]. Thực chất, nhật kí hay
những ghi chép cho riêng mình của nhân vật trong truyện ngắn Bunin không liệt kê chi
tiết sự việc đã diễn ra hay dự định của nhân vật, mà tập trung nhấn mạnh ấn tượng, xúc
cảm về sự việc. Phần nhiều đó là những lời tự nhủ, tự vấn của nhân vật, là độc thoại nội
tâm trực tiếp.
Trong một tác phẩm tự sự, độc thoại nội tâm của nhân vật luôn là những lời nói
bộc lộ đầy đủ nhất cảm xúc của họ. Đó cũng là khi nhân vật dễ được yêu hoặc bị ghét
nhất. Trong truyện ngắn, độc thoại thường xuất hiện hạn chế và khá là ngắn, nó dường
như là những phút giây cảm xúc tạm lắng đọng sau sự dàn trải tâm trạng trong cả tác
phẩm. Điều này đặc biệt đúng trong những tác phẩm có người kể chuyện ngôi thứ nhất.
Khảo sát truyện ngắn của Bunin, chúng tôi thấy thực tế không nhiều tác phẩm có độc
thoại, đặc biệt là độc thoại nội tâm của nhân vật, và số lượng độc thoại trong một tác
phẩm cũng không nhiều. Song hiện tượng lời độc thoại của nhân vật xen lẫn, hòa quyện
với lời người kể chuyện trong một dòng xúc cảm lại rất phổ biến. Chúng tôi gọi hiện
tượng này trong truyện ngắn Bunin là sự phối cảm lời kể - lời độc thoại.
Say nắng là tác phẩm tiêu biểu của Bunin có sự phối cảm này. Sau khi đưa nữ nhân
vật ra bến để nàng đi chuyến tàu trước, nhân vật ở lại đợi chuyến tàu sau. Trở về khách
sạn, lúc đầu, chàng cảm thấy nhẹ nhõm nhưng sau đó, những nỗi buồn, sự dồn nén của
nỗi cô đơn, sự trống trải đã xâm chiếm tâm hồn chàng. Lời người kể chuyện bộc lộ nỗi
trống vắng, chàng tự từ biệt mối tình của mình trong dòng suy tưởng – xúc cảm: “Tấm
40
bình phong đã được gạt sang bên, nhưng giường vẫn chưa được dọn dẹp gì. Và chàng
cảm thấy mình lúc này quả là không còn đủ sức để nhìn vào chiếc giường ấy nữa (…)
Phải, thế là “câu chuyện phiêu lưu dọc đường” ấy đã kết thúc rồi! Nàng đã ra đi – và giờ
đây nàng đã xa vời, có lẽ đang ngồi trong phòng khách có cửa kính màu trắng hoặc là
đang ngồi trên boong tàu mà nhìn ra con sông bao la óng ánh dưới ánh nắng, nhìn những
bè gỗ ngược chiều, những bãi bồi màu vàng, nơi trời nước xa xăm ngời sáng, nhìn ra toàn
bộ cái cảnh bát ngát mênh mang của con sông Volga ấy… Và vĩnh biệt em, vĩnh biệt em
đời đời, mãi mãi nhé… Bởi một lẽ giờ đây họ còn gặp nhau vào đâu được nữa? – “Ta
không sao có thể, - chàng nghĩ, - ta không sao có thể tự dưng mà đến cái thành phố đó,
nơi có chồng nàng, có đứa con gái ba tuổi của nàng, nói chung là toàn bộ gia đình của
nàng và toàn bộ cuộc sống thường ngày của nàng”” [15; tr. 207]. Trong tác phẩm không
phải một lần chàng trung úy đau đáu tâm trạng hướng về người con gái xa lạ và mối tình
sét đánh này. Sự phối cảm hòa lời kể với độc thoại nội tâm trong dòng cảm xúc dâng trào:
“Quái lạ thật! – chàng nghĩ bụng, đứng dậy và lại xoay ra đi đi lại lại trong phòng, cố
không nhìn vào chiếc giường ở đằng sau tấm bình phong. – Mình làm sao thế này nhỉ?
Mà nàng có gì đặc biệt và thật ra thì cái gì đã xảy ra? Quả vậy, hệt như ta bị say nắng thế
nào rồi ấy! Và điều chủ yếu là: vắng nàng, giờ đây ta làm thế nào để qua được cả một
ngày trời ở cái nơi hẻo lánh này?”, “Nhưng cái chính ở chỗ là, - chàng nghĩ bụng, - sẽ
không bao giờ ta có thể thổ lộ ra được! Và ta sẽ làm gì, sẽ làm sao để sống qua được cái
ngày vô tận này, với những nỗi nhớ nhung ấy, với nỗi đau khổ không sao giải quyết được
ấy, trong cái thành phố nhỏ nhoi mà Chúa đã lãng quên ngay trên con sông Volga ngời
sáng này mà con tàu màu hồng ấy đã đem nàng đi theo!” (…) “Phải kiếm cho được kế
thoát thân, dùng cách gì đó khiến mình bị cuốn hút và lãng quên đi, đi biệt một nơi nào
đó. Chàng bèn kiên quyết đội chiếc mũ lưỡi trai lên đầu, cầm lấy roi ngựa, lê cựa giày
lách cách mà rảo bước trên hành lang trống trải, rồi chạy vội xuống cầu thang dốc ngược
mà ra cổng… Ừ nhưng mà ta đi đâu nhỉ?” [15; tr. 208-209]. Rõ ràng, ở trong đoạn văn
trích dẫn trên, bên cạnh những lời độc thoại nội tâm chất chứa tâm trạng nặng trĩu của
chàng trung úy, người kể chuyện ngôi thứ ba đã hòa vào tâm trạng của nhân vật, thấu hiểu
nỗi băn khoăn của chàng, và dường như người kể chuyện đồng cảm ấy đã hòa vào lời bộc
41
bạch nỗi niềm của chàng. Sự phối cảm lời kể của người kể chuyện với lời độc thoại của
nhận vật khiến cho cả câu chuyện trở thành một dòng tâm trạng thống nhất.
Không chỉ Say nắng, những trang viết có hiện tượng phối cảm lời kể - lời độc thoại
như trên có thể tìm thấy trong những truyện ngắn như Những tấm danh thiếp, Natali, Hơi
thở nhẹ, Cỏ gầy, Ngày cuối cùng, Canh khuya... Hiện tượng độc đáo này gia tăng sức biểu
cảm, tạo ấn tượng thống nhất tâm trạng, thực chất là biểu hiện của tính trữ tình xuyên suốt
trong các truyện ngắn của Bunin.
2.2. Tăng cƣờng nhạc tính lời văn
Nói về văn xuôi Bunin nói chung và truyện ngắn Bunin nói riêng, các nhà nghiên
cứu đều khẳng định đó là một thứ văn xuôi thấm đẫm chất nhạc. Nhà nghiên cứu
Mikhailov trong cuốn Một tài năng nghiêm cẩn: Ivan Bunin. Cuộc đời. Số phận. Sáng tác
đã khẳng định văn xuôi của Bunin chính là “lối thoát” cho sự cũ kỹ của văn xuôi Nga, và
chìa khóa của “lối thoát” ấy là âm nhạc: “Lối văn xuôi của Bunin chính là lối văn xuôi
đậm chất âm nhạc hay nói cách khác, Bunin chính là người tạo nên cái gọi là âm nhạc của
văn xuôi” [133; tr. 60].
Các từ điển thuật ngữ văn học, các nhà nghiên cứu đều khẳng định trong các thể
loại trữ tình, đặc biệt là thơ trữ tình, nhạc tính là một trong những yếu tố quan trọng nhất
thuộc về bản chất của thi ca. Nhà nghiên cứu Luo Sichen trong bài Phạm trù tính trữ tình
trong văn xuôi của Bunin (khía cạnh ngôn ngữ) khẳng định “trong thơ, tính trữ tình liên
hệ chặt chẽ với thuộc tính ngôn ngữ của nó” [128; tr. 419]. Tác giả đưa ra những thuộc
tính cụ thể của ngôn ngữ làm cơ sở cho lời nhận xét của mình, trong đó nhạc tính được
coi là thuộc tính hàng đầu. Đồng thời, nhà nghiên cứu cũng dẫn giải những thủ pháp
chính được Bunin sử dụng để tận dụng và tăng cường thuộc nhạc tính lời văn: phép lặp
lại âm đầu và sự trùng âm/ sự tương ứng một phần các âm (аллитерация и ассонанс)
(với dẫn chứng từ Ngày thứ Hai chay tịnh: “мы оба были богаты” và Natali: “Боюсь,
что мы с тобой за столом и при Натали недостаточно просты”; vận dụng tiết tấu của
thơ, ví dụ như kết hợp từ trong Ngày thứ Hai chay tịnh: “вечер был мирный,
солнечный, с инеем в деревьях” hay trong Say nắng: “конечно, последняя фраза
опять очень странна”; sử dụng những thủ pháp của thơ như: ẩn dụ (“в небе уже высоко
42
блещет бриллиатовое семизвездие Стожар”), phóng đại (“развиваться не по дниям, а
по часам”) hay nhân hóa (“где оно (солнце) радостно блистало весь день”). Tuy
nhiên, thủ pháp quan trọng nhất tạo nên nhạc tính cho tác phẩm chính là sự lặp lại của
phức hệ âm thanh (thủ pháp điệp) ở cấp độ ngữ âm (giữa các âm của các từ trong một
câu, chẳng hạn như sự lặp lại tổ hợp âm то, ст: “Боюсь, что мы с тобой за столом и
при Натали недостаточно просты” trong Natali hay tổ hợp âm по trong Quý ông từ San
Francisco đến: “Жизнь в Неаполе тотчас же потекла по заведенному порядку”) và ở
các cấp độ cao hơn: giữa các câu trong một đoạn, giữa các đoạn trong một tác phẩm...
Nhạc tính lời văn kết nối và gắn tất cả nhân vật – người đọc – tác giả hoà nhập vào
dòng xúc cảm trữ tình thống nhất. Ở đây, chúng tôi tập trung khảo sát hai phương thức
chủ yếu được sử dụng để âm nhạc hóa ngôn từ: phép điệp tạo nhạc tính và khuynh hướng
xen thơ, nhạc vào lời văn nhằm tô đậm tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin.
2.2.1. Phép điệp tạo nhạc tính
Trong cảm nhận của chúng tôi, nhạc tính trữ tình trong truyện ngắn của Bunin thể
hiện trước hết qua sự gia tăng phép điệp ngôn từ. “Phép điệp là thủ pháp quen thuộc trong
ngôn ngữ nghệ thuật, được đánh dấu bằng sự lặp lại của những âm thanh giống nhau hay
những kết cấu cú pháp giống nhau theo một logic nhất định nào đó” [110, tập 3, tr. 163].
Từ điển Bách khoa thư văn học đưa ra cụ thể hơn những dạng thức khác nhau của phép
điệp: lặp lại nguyên dạng các từ ngữ, lặp lại các từ ngữ với sự suy yếu các mức độ giống
nhau của âm thanh. Theo đó có các hình thức điệp âm điệu, điệp ngữ cú (điệp khúc) và
điệp hình ảnh (một trong những motif, sự kiện…) [121; tr. 283].
Trên bề mặt ngôn từ truyện ngắn Bunin, có thể thấy phép điệp, cụ thể như điệp âm
trong từ, ngữ, điệp tổ chức câu, điệp kết cấu ngữ đoạn và điệp hình tượng sự vật, được sử
dụng như một hiện tượng phổ biến nhằm tăng cường nhạc tính cho lời văn, cũng là góp
phần thể hiện tính trữ tình đậm đặc trong tác phẩm.
Đọc truyện ngắn của Bunin, thậm chí qua bản dịch, người đọc sẽ cảm thấy rất thích
thú và ngạc nhiên với những câu văn, đoạn văn, thậm chí có những tác phẩm có âm điệu
du dương như lời hát, nhịp nhàng như lời thơ. Đó là bởi nhà văn đã sử dụng phép điệp
ngữ âm – cú pháp (điệp âm, từ ngữ, tổ chức câu) tạo ra những câu văn xuôi mượt mà và
43
ngân nga: “Кукушка выскакивает из часов и насмешливо-грустно кукует над тобою
в пустом доме. И понемногу в сердце начинает закрадываться сладкая и странная
тоска...” [99 – tập 1; tr. 417). Ở đây chúng tôi nhận thấy những âm điệu lặp lại rất nhịp
nhàng: Кукушка- кукует, из-и, в пустом доме-в сердце, сладкая и странная тоска đã
gây ra một hiệu ứng âm nhạc tuyệt vời. Sự kết hợp của âm điệu và từ ngữ trong những
câu văn như trên đã tạo ra những nhạc điệu êm ái trước hết trong lòng của nhân vật, và
đồng thời tạo ra xúc cảm tương tự nơi người đọc. Bức tranh thiên nhiên mùa thu trong
Lần gặp gỡ cuối cùng dưới con mắt nhìn của đôi tình nhân sắp chia xa Storesnhev và
Vera được chuyển tải bằng thứ ngôn ngữ giàu nhạc điệu: “Луна садилась. Белый
рыхлый туман стоял под скатом полей, мертвенно синея. Далеко за ним занималась
багряная заря. Далеко, в холодном, потемневшем лесу, пел петух в сенцах
караульщика” [99 – tập 3; tr. 216]). Còn đây là những lời nói chan chứa tình cảm của
anh chàng Storesnhev đối với người yêu của mình: “Я о тебе, с восторгом, с
благоговением, всегда только как о жене думал. А когда нас свела судьба? И чем ты
мне стала? Женой разве? А была молодость, радость, чистота, темный румянец,
батистовая косоворотка... Приезжать к вам каждый день, видеть твое платье,
тоже батистовое, легкое, молодое, видеть твои голые руки, почти черные от
солнца и от крови наших предков, татарские сияющие глаза – не видящие меня
глаза! – желтую розу в угольных волосах, твою тогда глупую, изумленную какую-
то, но прелестную улыбку” [99 – tập 3; tr. 216]. Cách lặp lại cấu trúc vị ngữ và ngữ
điệu hỏi trong những câu văn trên giúp cho câu văn vừa nhịp nhàng vừa trầm buồn lắng
đọng. Nhạc điệu của câu văn phải chăng cũng là nhịp điệu của tâm hồn chàng trai
Storesnhev đang mơ màng trong những câu hỏi day dứt đan xen giữa kí ức tình yêu đẹp
và hiện tại buồn bã. Trong Chiếc đu cũng xuất hiện rất nhiều câu văn được điệp cấu trúc
tạo ra nhịp điệu mượt mà đầy chất thơ: “А вон первая звезда и молодой месяц и небо
над озером зеленое-зеленое – живописец, посмотрите, какой тонкий серпик! Месяц,
месяц, золотые рога...”, “Первая звезда, молодой месяц, зеленое небо, запах росы,
запах из кухни, – верно, опять мои любимые битки в сметане! – и синие глаза и
прекрасное счастливое лицо...” [99 – tập 6; tr.188]. Sự cộng hưởng của cấu trúc điệp
kết hợp với những tổ hợp ngôn ngữ cảm thán đầy đáng yêu đã làm nên những trang văn
44
chan chứa chất thơ của niềm hạnh phúc ngất ngây. Nếu trong Chiếc đu là hạnh phúc của
tình yêu lứa đôi thì nhạc điệu hạnh phúc trong Ngày thứ Hai chay tịnh là nhạc điệu của
niềm hạnh phúc sùng tín: “Ах, как было хорошо! Везде лужи, воздух уж мягкий, на
душе как-то нежно, грустно и все время это чувство родины, ее старины... Все
двери в соборе открыты, весь день входит и выходит простой народ, весь день
службы...Ох, уйду я куда-нибудь в монастырь, в какой-нибудь самый глухой,
вологодский, вятский!” [99 – tập 6; tr. 196].
Bên cạnh những tác phẩm dài với cốt truyện tự sự là chủ đạo, Bunin có khá nhiều
tác phẩm “không có cốt truyện” được viết dưới dạng những bài thơ văn xuôi. Có thể kể
đến Sách, Nhà mồ, Bernard, Người mù… Đó là những truyện cực ngắn, cũng có thể coi là
những dòng tản văn đầy chất thơ và chất trữ tình. Chất thơ đến từ những câu văn mang
kết cấu điệp giàu nhịp điệu, chẳng hạn: “Взгляни и на меня, почувствуй любовь и ко
мне; тебе все родственно в этом мире в это прекрасное утро - значит, родствен и я;
а раз родствен, ты не можешь быть безчувствен к моему одиночеству и моей
беспомощности, ибо моя плоть, как и плоть всего мира, едина с твоей, ибо твое
ощущение жизни есть ощущение любви, ибо всякое страдание есть наше общее
страдание, нарушающее нашу общую радость жизни, то есть ощущение друг друга
и всего сущего!” [Слепой, 99 – tập 4; tr. 236]. Thực tế, trong truyện ngắn của Bunin
không khó để tìm ra những câu văn mang âm điệu, đặc biệt là những câu văn miêu tả
thiên nhiên: “Здесь, в этих молчаливых горных долинах, стояла прозрачная тишина
первых весенних дней, красота бледно-ясной лазури, черных голых деревьев,
прошлогодних коричневых листьев, слежавшихся в кустах, первых фиалок, диких
тюльпанов. Здесь еще только начинали зеленеть горные скаты, отдыхая от стужи и
снега. Здесь хрустально чист и свеж был воздух, как бывает он чист и свеж только
ранней весной...И казалось мне тогда, что ничего не нужно в жизни, кроме этой
весны и дум о счастье”. [Маленький роман, 99 – tập 2; tr. 270]. Rõ ràng, những câu
văn giàu nhịp điệu ấy đã cộng hưởng không nhỏ với tiếng nhạc lòng của những nhân vật
trong tác phẩm đưa người đọc thâm nhập sâu hơn vào thế giới nội tâm của họ, cùng thấu
hiểu, cùng đồng cảm với những xúc cảm trữ tình ấy.
45
Không chỉ điệp ngữ âm – cú pháp, nhiều truyện ngắn của Bunin được xây dựng
theo lối điệp kết cấu ngữ đoạn. Những giấc mộng của Trang là một ví dụ tiêu biểu. Sự
lặp lại đến ba lần kết cấu đan xen: hiện thực – giấc mơ của Trang về những tháng ngày
lang thang trên biển với vị thuyền trưởng đã tạo nên một kết cấu trùng điệp mang đậm
tính nhạc. Tác phẩm giống như một bản hòa tấu ba chương, mỗi chương lại là sự tương
phản của quá khứ - hiện tại. Kết lại mỗi chương là xúc cảm, là suy tưởng của chú chó
Trang đến từ Trung Hoa. Từ những đan xen trùng điệp ấy nhịp điệu của tác phẩm đã được
định hình: đó là nhịp điệu của tâm hồn con người đã trải qua tất cả những cung bậc hạnh
phúc, khổ đau, vui sướng, cô độc; của tâm hồn chú chó khôn ngoan trước những biến
động xảy ra với người chủ của mình – cũng là những cung bậc xúc cảm ngạc nhiên, lo
lắng, ghen tị, bình thản…; là nhịp điệu của những suy tưởng mang tính triết lí về cuộc
đời, về tình yêu, về con người, về cái chết của cả người chủ và chú chó Trung Hoa.
Những nhịp điệu ấy cứ tuần hoàn lặp lại tạo nên sự nhịp nhàng thú vị. Không chỉ có
Những giấc mộng của Trang, có rất nhiều tác phẩm của Bunin được xây dựng theo lối
điệp kết cấu như thế này. Đó có thể là kết cấu tuần hoàn đầu cuối tương ứng như trong
Hơi thở nhẹ hay trong Quý ông từ San Francisco đến, Rusya, Ở một phố thân quen, Bà
lão, Quán trọ ven sông, Ida, Galia Ganskaya…; là lối viết tuần hoàn của những lượt lời
đối thoại một cách đăng đối như trong Trên biển đêm khuya, Bình cà phê thứ hai, Sự trả
thù, Mẹ đỡ đầu…
Về cơ bản, phép điệp được sử dụng trong văn xuôi Bunin là điệp tương đồng (cả
trên cấp độ từ, cấu trúc câu, hình ảnh…). Tuy nhiên cũng có những tác phẩm thủ pháp
điệp được sử dụng theo một cách khác – điệp tương phản. Trong Quý ông từ San
Francisco đến hình ảnh con tàu Atlantida ở đầu và cuối tác phẩm là một sự lặp lại đầy
dụng ý của tác giả. Ở đầu tác phẩm, con tàu lướt đi trong niềm hân hoan và hi vọng của vị
khách đến từ nước Mĩ. Trên con tàu ấy, gia đình vị khách ăn uống, tận hưởng chuyến du
lịch đến Châu Âu… Lúc đi, vị quý ông đến từ San Francisco cũng là một trong số đó,
nhưng lúc về, ông lại nằm sâu dưới hầm tàu đen ngòm, trong “một chiếc quan tài tẩm
nhựa”. Lúc đi, ông được mọi người trên tàu trọng vọng, từ nhân viên cho đến những hành
khách đi cùng; còn lúc về, “người ta đã giấu không cho những người đang sống biết đến
ông”. Lúc đi, ông hân hoan vì được nghỉ dưỡng sau một quãng thời gian làm việc vất vả;
46
ông háo hức hi vọng vào đám cưới của cô con gái yêu; lúc về, ông không còn biết gì hết,
như thế có lẽ tốt hơn, bởi nếu biết chắc ông sẽ vô cùng đau khổ bởi hầm tàu thì ảm đạm
và nóng bức, còn những con người trên boong tàu thì ham phù du và giả dối, y như ông
trước kia. Sự lặp lại những tình tiết lúc về trên con tàu nổi tiếng đã đưa vị quý ông sang
Châu Âu nhưng có sự đảo ngược thái độ và vị thế của nhân vật chính là một nét sáng tạo
thú vị của Bunin. Tác phẩm giống như một bản nhạc dài kết thúc bằng điệp khúc buồn.
Đại diện cho những truyện ngắn được xây dựng từ kết cấu điệp đối thoại là Trên
biển đêm khuya. Cả tác phẩm là sự kết nối của hai mươi bảy lượt lời của hai nhân vật mà
tác giả gọi là người lên trước và người lên sau. Họ chủ động trò chuyện với nhau bởi họ
có cùng mối quan tâm tới một người phụ nữ, dù người phụ nữ ấy đã chết. Một điều thú vị
là ở đây những lượt lời được diễn ra rất đăng đối, có trật tự: lượt lời của người lên trước –
lượt lời của người lên sau hoặc ngược lại, đặc biệt họ đều rất tôn trọng nhau, mỗi lượt lời
đều có lời đáp tương ứng. Đan xen giữa những lượt lời đối thoại liên tiếp ấy là những
khoảng lặng – giống như những quãng nghỉ ngắn – là lúc những người đối thoại tạm nghỉ
ngơi để nắn nót lại suy nghĩ của mình. Trong tác phẩm có năm khoảng lặng vô thanh như
thế, hầu như mỗi khoảng lặng đều được báo trước theo chủ ý của tác giả: “Hai vị hành
khách cùng im lặng”, “Và cả hai lại im lặng”, “Hai người lại im lặng”... Rõ ràng, với
Bunin, sự cân đối đã tạo nên một nét trữ tình tự nhiên của tác phẩm. Tương tự như với
Trên biển đêm khuya, Bình cà phê thứ hai cũng là một truyện ngắn được lặp lại bảy lượt
lời đối thoại giữa hai nhân vật chính: nữ người mẫu (đồng thời là người tình, người nội
trợ) của anh chàng họa sĩ ở Znamenka và chính chàng họa sĩ. Cuộc trò chuyện của đôi
tình nhân theo kết cấu lượt lời đối xứng cũng tạo ra kết cấu đăng đối nhịp nhàng. Lối kết
cấu này còn được lặp lại trong Sự trả thù (29 lượt lời), Ở Paris (38 lượt lời), Trẻ và Già (9
lượt lời), Bản Ballad (17 lượt lời), Muza (Nàng thơ) (2 cuộc đối thoại lớn đăng đối với
nhau: cả hai cuộc đối thoại đều diễn ra giữa Muza và tôi, một khi Muza tìm đến tôi làm
quen và một khi Muza bỏ tôi để đến với người bạn của tôi)… Đây có lẽ là một nét đặc
biệt của những truyện ngắn Bunin bởi như chúng tôi đã nhấn mạnh ở phần Đối thoại,
Bunin không phải một nhà văn thích đối thoại và tranh cãi, phần lớn đối thoại (nếu có)
đều nhằm giãi bày tình cảm nội tâm. Điều này khiến cho những truyện ngắn được kết cấu
theo lối đối thoại tuần hoàn cũng mang một nhịp điệu nội tâm rất ấn tượng.
47
Trong nhiều tác phẩm của mình, Bunin còn xây dựng tác phẩm theo kết cấu
“chương hồi”. Đó là lối kết cấu phân chia từng chương, đoạn giống như các chương, đoạn
của một bản nhạc. Nét đặc biệt tạo nhịp điệu cho những tác phẩm viết theo lối này là các
chương, đoạn được phân chia khá đều nhau, mỗi đoạn có âm điệu khá đa dạng. Có bản
nhạc thiên về trầm buồn như Cỏ gầy (9 đoạn), Lần gặp gỡ cuối cùng (4 đoạn), Chiếc cốc
đời (12 đoạn)…, có bản nhạc đan xen cả vui lẫn buồn như Những quả táo Antonov (4
đoạn), Những cây thông (3 đoạn)… Đây có lẽ là một thủ pháp quen thuộc của Bunin bởi
từ những sáng tác văn xuôi đầu tiên, ông đã chủ ý coi trọng tính nhạc, đưa tính nhạc trở
thành một nét đặc trưng cho tác phẩm của mình. Những chú chim đen (tên một tác phẩm
trong tập truyện ngắn cùng tên sáng tác từ 1907-1911) được ông gắn cụm từ “tổ khúc”,
với hàm ý coi đó là “trường ca – hành trình”. Bản trường ca ấy được sáng tác theo kết cấu
chương hồi đặc sắc với 5 đoạn khá cân đối. Cũng được xây dựng theo kết cấu “chương
hồi” như Những chú chim đen, nhưng Mùa xuân cuối cùng lại có những nét thú vị hơn.
Tác phẩm được gắn kết bởi 10 đoạn, mỗi đoạn lại được xây dựng theo cấu trúc của một
bài thơ văn xuôi theo các chủ đề khác nhau. Mỗi bài thơ văn xuôi dù mang phong cách
đối thoại hay miêu tả, tự sự thì những câu văn được sử dụng đều khá ngắn gọn, cân đối,
hàm súc. Điểm thú vị là luôn có một câu chủ đề gắn ở đầu mỗi đoạn mang chức năng như
tiêu đề của bài thơ văn xuôi xinh xắn ấy: Tuần lễ thứ sáu, vẫn hoàn toàn còn mùa đông;
Ảm đạm, lạnh lẽo; Không, đã mùa xuân rồi; Rét nhẹ, và mặt trời đang sưởi ấm; Ngày thứ
Hai tuần Thánh; Ngày thứ Năm thanh sạch; Mưa cả ngày; Ngày thứ bảy tuyệt vời; Buổi
tối mùa xuân… Ở một vài tác phẩm khác, nhịp điệu của tác phẩm được tạo nên từ nhịp
điệu của sự vật: nhịp điệu của mưa trong Mùa xuân cuối cùng, nhịp điệu của thánh ca –
lời của Chúa trong Bài hát của Chúa, nhịp điệu của những giai điệu piano trong Âm nhạc
hay nhịp điệu đều đều êm ái từ lời cầu kinh của bà lão Mashenka cùng câu chuyện tình
yêu huyền bí mà bà kể lại trong đêm trong Bản Ballad…
Trong truyện ngắn Bunin còn phổ biến hiện tượng điệp hình tượng sự vật. Có
những hình ảnh, thanh âm, hương vị cứ trở đi trở lại trong kí ức nhân vật như dấu ấn lưu
giữ quá khứ, tạo nên những ám ảnh nghệ thuật khôn nguôi. Ở những tác phẩm như Những
quả táo Antonov, Chiếc cốc đời, Cỏ gày, Hoa hồng Ierikhon, Những cây thông, Con
48
đường mới, Đôi hài… chúng được kết cấu theo lối tạo dựng biểu tượng hàm chứa xúc
cảm trữ tình của nhà văn, từ đó lôi cuốn rung động trữ tình nơi người đọc.
Trong Những quả táo Antonov hình tượng trái táo lặp đi lặp lại trong 4 phần của
tác phẩm với những dạng thức khác nhau từ mùi vị cho đến hương thơm không chỉ là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt nối kết các phần mà còn tạo nhịp điệu trữ tình cho tác phẩm ấy.
Có một điều thú vị là, quả táo trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới cũng là
một hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng đặc biệt. Quả táo biểu tượng cho một thế giới khác
[20; tr. 849]. Đó là thiên đường, là nơi ở huyền thoại của các anh hùng vua chúa sau khi
thực hiện xong nghĩa vụ trên trần thế. Không phải ngẫu nhiên ở đầu tác phẩm, Bunin viết:
“Nếu táo Antonov sai quả thì công việc nông thôn sẽ tốt”, “Táo Antonov được mùa, cả
năm thảy đều vui”. Rõ ràng, trong quan niệm dân gian Nga, táo Antonov là một biểu
tượng cho sự giàu có, hạnh phúc. Thậm chí, nó còn là biểu tượng cho chính nước Nga bởi
khắp đâu đâu trên đất nước này cũng có sự hiện diện của táo. Còn đến phần bốn, nhà văn
khẳng định đã không còn táo Antonov. Phải chăng thiên đường trước kia nay đã mất?
Hiện thực này càng rõ ràng hơn khi liên hệ với thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Thế giới
tươi đẹp gắn với táo Antonov chiếm lĩnh cả ba phần không gian, thiên đường đã mất
không còn táo Antonov chỉ có mặt trong một phần. Táo Antonov đã không còn, nay chỉ
còn lại hương thơm dịu ngọt của chúng. Đó cũng là hương thơm dịu ngọt của quá khứ.
Câu hỏi ám ảnh người đọc có lẽ là câu hỏi về tương lai của táo Antonov, về tương lai của
nước Nga. Nhưng tác giả không trả lời được câu hỏi ấy. Thời gian sẽ trả lời.
Như vậy, táo Antonov chính là biểu tượng cho nông thôn Nga, rộng hơn là nước
Nga. Hình ảnh táo Antonov thăng trầm theo bước thăng trầm của nông thôn Nga phần nào
phản ánh lịch sử nước Nga đương thời: sự tan rã của những tổ ấm quý tộc thời xưa, sự
thất thế của những địa chủ nhỏ chốn nông thôn, sự suy sụp của làng quê Nga ngày mùa
thất bát. Bước chuyển của lịch sử làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của nông thôn Nga và
thật thú vị là bước chuyển ấy lại được gửi gắm trong hình ảnh của trái táo Antonov.
Táo Antonov không chỉ gợi ra hình ảnh làng quê Nga với vẻ đẹp của một thời đã
qua nay chỉ còn vang bóng, mà còn giống như hương thơm kết nối thế giới thực tại và tâm
tưởng. Hương thơm ấy đặc biệt đến nỗi chỉ cần gợi nhắc là tất cả hồi ức đẹp sẽ hiện về, sẽ
dâng trào trong tâm hồn con người, giống như hương thơm của “mẩu bánh Madeleine
49
nhúng trong chén trà nóng một ngày đông lạnh” trong Đi tìm thời gian đã mất (tập 1 –
Bên phía nhà Swann) của M.Proust.
Táo Antonov – biểu tượng của làng quê Nga, nước Nga vừa như một hình ảnh giàu
chất hội họa vừa như một nốt nhạc được cất lên ở những cung bậc khác nhau của cảm xúc
tạo ra nhịp điệu trữ tình lúc vui lúc buồn cho tác phẩm. Trong bản nhạc điệu ấy có tiếng
cười ngày được mùa, “tiếng táo đổ rào rào vào thưng”, tiếng lao xao của buổi sớm mai
thu hoạch táo, tiếng thở dài lúc không còn táo nữa… Như thế, có thể thấy, với Những quả
táo Antonov, trong tâm hồn của nhà văn Bunin, lúc nào hình ảnh nước Nga cổ xưa, nước
Nga của những tháng ngày táo Antonov được mùa luôn hiển hiện. Đó là bản nhạc đàn của
tâm tưởng đã được nhà văn hiện thực hóa bằng ngôn từ.
Hoa hồng Ierikhon được lấy làm tiêu đề cho tác phẩm của Bunin. Trong truyện cực
ngắn này, nhà văn đã nhắc lại hình ảnh hoa hồng đến 5 lần, như một biểu tượng cho sự
hồi sinh của vạn vật từ cõi chết, quan trọng hơn, là sự hồi sinh của trái tim, của tâm hồn,
của cả nỗi buồn và sự dịu dàng, đặc biệt là tình yêu của con người khi con người được
tắm mình trong quá khứ. Điều đó kỳ diệu y như việc một cây hoa hồng được tìm thấy
dưới lớp cát đá sa mạc đã khô cằn, xám ngắt, không có sinh khí bung nở ngay khi được
đặt trong nước. Theo nhà văn, điều đó kỳ diệu đến mức Hoa hồng Ierikhon được coi là
biểu tượng của niềm tin vào sự sống đời đời, sự hồi sinh của kẻ chết. Có lẽ bởi thế nó mới
được đặt trong quan tài của những lăng mộ phương Đông cổ đại. Thực tế, trong Từ điển
biểu tượng văn hóa thế giới ý nghĩa chung nhất của biểu tượng hoa hồng là sự hiển lộ:
“sinh ra từ trong nước nguyên thủy, bông hoa vươn lên và nở trên mặt nước” [20; tr. 428];
là sự phục sinh-tái sinh thần bí: “Hoa hồng và màu của nó, là những biểu tượng bậc nhất
của sự tái sinh và sự thụ giáo những điều thần bí” [20; tr. 429]. Đặc biệt cây hồng – cái
được tái sinh được dẫn chứng từ sách Giảng dạy: “Ta đã vươn cao…như cây hoa hồng
thành Ierikhon, ta tươi đẹp như cây ô liu lộng lẫy trên cánh đồng” [20; tr. 430]. Thêm nữa,
hoa hồng còn là biểu tượng cho Đức Mẹ Đồng trinh, cho sự sinh sôi nảy nở, cho sự cứu
rỗi của người Nga Chính Thống giáo. Có lẽ, khi sáng tạo hình tượng hoa hồng trong tác
phẩm này, Ivan Bunin cũng đã hàm ý gửi gắm những ý nghĩa sâu xa và đẹp đẽ như vậy.
Rõ ràng, sự lặp lại của hình tượng hoa hồng Ierikhon trong tác phẩm với sức mạnh hồi
sinh kỳ diệu của nó, đặc biệt trong sự liên hệ với những cung bậc của tâm hồn con người
50
đã khiến tác phẩm văn xuôi cực ngắn này của Bunin giống như một thi phẩm giàu nhịp
điệu, giàu tính trữ tình triết lí. Những câu văn: “Và trái tim những người nghèo được hân
hoan, được an ủi: trong thế giới không có sự chết chóc, không có sự diệt vong bất cứ thứ
gì cả, những thứ đã từng có lúc nào đó tồn tại! Không có sự chia ly và mất mát, miễn là
Tâm hồn tôi, Tình yêu, Kí ức của tôi vẫn còn đang sống!”, “Hoa hồng Ierikhon. Trong
nguồn nước sống của trái tim, trong hơi ẩm thuần khiết của tình yêu, tôi đắm chìm cả thân
cành và cội rễ của quá khứ của tôi – và lại một lần nữa thảo mộc quý giá của tôi đã sống
qua ngày đoạn tháng một cách tuyệt diệu. Hãy rời xa! Những giờ phút không thể tránh
khỏi, khi làn hơi ẩm này khô cạn, trái tim cằn cỗi và khô héo đi – và lớp bụi của sự lãng
quên mãi mãi che phủ Hoa hồng Ierikhon của tôi.” [99 – tập 4; tr. 63] có lẽ sẽ đọng lại
mãi dư âm nhịp nhàng của nó trong lòng người đọc.
Đôi hài (nguyên bản: Лапти, số ít лапоть – (chiếc) giày bện, giày đan, thảo hài) là
một truyện ngắn đặc biệt của Bunin. Vẫn là xúc cảm trữ tình nhưng tác phẩm không nằm
trong mạch truyện tình yêu hay triết lí của nhà văn. Tác phẩm gây xúc động người đọc bởi
hình ảnh trở đi trở lại của đôi hài màu đỏ đầy ám ảnh. Hình ảnh đôi hài đỏ lặp lại trong
tác phẩm 5 lần gắn với ước mong cháy bỏng của đứa trẻ trong lúc sốt cao, mê sảng. Trời
bão tuyết dữ dội, tiếng khóc đòi hài hòa lẫn với tiếng than khóc thảm thiết của người mẹ
bất lực nhìn con ốm nặng mà không thể làm gì khiến người đọc xót xa. Người lão bộc già,
không đành tâm nhìn cậu chủ nhỏ ốm nặng mà không được thực hiện ước nguyện, đã
quyết tâm ra đi trong trời giông bão. Có một điều đặc biệt là hình ảnh đôi hài đỏ trong lời
cầu xin của cậu bé luôn xuất hiện cùng với tiếng khóc đầy đau khổ, xót xa và khẩn khoản
của cậu. Tiếng khóc của cậu bé cũng đồng thời là lời than khóc đầy tuyệt vọng của người
mẹ. Câu chuyện kết thúc đầy ám ảnh với hình ảnh một đôi hài trẻ con còn mới và một ve
thuốc nhuộm màu đỏ nằm trong ngực áo người lão bộc già đã chết cóng trước khi về được
đến nhà. Hình ảnh đôi hài màu đỏ tạo cho tác phẩm dư vị buồn bã xót xa về sự nhỏ bé của
con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, về sức mạnh của tình yêu thương, lòng nhân hậu
và sự trung thành. Không phải ngẫu nhiên hình ảnh đôi hài đỏ cứ ám ảnh nhân vật và
người đọc khi tiếp cận tác phẩm này. Bản thân Bunin, có lẽ cũng đã thấu hiểu những ý
nghĩa văn hóa ẩn sau đôi hài đỏ ấy. Trong Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, hài (giầy)
trong các truyền thuyết phương Tây thường mang ý nghĩa tang tóc: người hấp hối đang ra
51
đi. Ý nghĩa này liên hệ mật thiết tới hình ảnh chú bé ốm rất nặng đang trong cơn mê sảng
trong tác phẩm. Có lẽ, đứa bé cũng linh cảm được sự chia xa của nó với mẹ nên khẩn
khoản cầu xin mẹ một đôi hài đỏ, đến nỗi khi người mẹ không thể đáp ứng được lời khẩn
cầu vô cùng đơn giản nhưng lại vô cùng khó khăn vì trời bão tuyết quá lớn chú bé buông
lời trách mẹ: “Mẹ, cho con đi! Mẹ, mẹ ơi, sao mẹ lại tiếc con!”. Thêm vào hình ảnh đôi
hài gợi đến bước đường đời đã dừng lại của chú bé, màu đỏ cũng gia tăng sự ám ảnh đầy
xót xa. Màu đỏ theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (đặc biệt là màu đỏ sẫm) là màu
của linh hồn, của sự sống thiêng liêng và bí ẩn lạ thường. Màu đỏ ám ảnh trong tác phẩm
gắn với hình ảnh đôi hài mang ý nghĩa tang tóc càng khắc sâu thêm tình cảnh đau lòng
của đứa bé, nỗi khổ tâm và sự tuyệt vọng của người mẹ. Trong Thiên Chúa giáo nói
chung, màu đỏ là màu gợi nhớ đến Máu Thánh Chúa và máu của các vị tử đạo, vì thế, các
vị giáo hoàng thường mang giày đỏ. Xét một khía cạnh nào đó, hình ảnh chú bé con đòi
đôi hài đỏ gợi liên tưởng tới hình ảnh thiên thần về trời trên đôi hài đỏ. Đó là một hình
ảnh vừa thực vừa gợi liên tưởng tôn giáo rất rõ nét. Thế là một thiên thần nhỏ đã từ biệt
cõi thế, và nỗi tiếc nuối lớn nhất chính là hành trang trên đường về nước trời - đôi hài đỏ.
Và cũng vì đôi hài nhỏ xinh ấy mà người nông dân trung thành đã sẵn sàng đánh đổi cả
tính mạng của mình.
Trong Những cây thông, hình ảnh cây thông được lặp lại trong cả 3 đoạn của tác
phẩm, đặc biệt là đoạn thứ ba, khi trận bão tuyết đã qua đi. Điều thú vị là hình ảnh cây
thông gắn liền với một nhân vật được nói đến nhiều nhất trong tác phẩm người quá cố
Mitrofan. Có một sự đối sánh giữa hai nhân vật này – cây thông và Mitrofan. Mitrofan là
một người đàn ông cao và gầy, nhưng thể trạng rất tốt với những bước đi nhanh nhẹn, đầu
hơi ngửa ra sau và đôi mắt màu ngọc lam xám đầy sống động. Mitrofan đã từng là một
người nông dân-thợ săn đích thực. Mỗi khi Mitrofan xuất hiện ông lại mang theo không
khí tươi mát của rừng. Mitrofan gắn bó với rừng, sống cả đời trong túp lều bên rừng, tự
nhiên và mộ đạo. Ngay cả trước khi chết, biết mình không thể sống thêm nữa ông cũng
dịu dàng và thản nhiên chấp nhận Đừng hòng vịn cỏ mà lên! Hình ảnh của Microfan còn
xuất hiện nhiều lần trong trí nhớ của những người ở lại, trong sự tiếc nuối và lo lắng cho
đám tang của ông. Kết thúc phần một của tác phẩm là hình ảnh người nông dân Mitrofan
nằm trong túp lều nhỏ phủ đầy tuyết, trong âm vang của những lời thánh ca, chờ đợi được
52
mồ yên mả đẹp ngày mai. Cây thông ở phần này xuất hiện đầy kiên cường trong bão
tuyết, dù rằng trận bão tuyết dữ dội đã làm nó ủ rũ phần nào. Phần thứ hai của tác phẩm là
hình ảnh cây thông kiêu hãnh và hiên ngang, trên đỉnh của những cây thông ấy là những
chiếc vương miện màu lá cây xanh tươi, tự hào tỏa sáng dưới ánh mặt trời. Và những cây
thông bất diệt như đang giăng những biểu ngữ của bài ca sự sống trường tồn. Tất cả
những người đưa tang Mitrofan đã tới, họ yên lặng và bình thản đưa Mitrofan tới nơi an
nghỉ cuối cùng, với sự trợ giúp của một thân cây thông. Và dưới bóng những cây thông ấy
là sự yên nghỉ của Mitrofan, của con người sống cả đời tự nhiên và mộ đạo. Hình ảnh
người kể chuyện lặng yên bên ngôi mộ của người nông dân – thợ săn Mitrofan, tận hưởng
cái bình yên của tuyết, của mùa đông, lắng tai nghe và cảm nhận mùi tuyết tinh tế, mùi
cây thông kim tươi tắn đầy sức sống, đã nghe được cả tiếng nói bất tận của cây thông về
một cuộc sống vĩnh hằng, uy nghiêm. Phần ba của câu chuyện kết thúc bằng một thanh
âm vô biên mà bình thản của tạo hóa, về một lẽ sinh tử thường thấy của con người nhưng
để lại dư vị sâu lắng và bình an. Hóa ra cái chết không thể khuất phục trước tinh thần
sống bền bỉ và kiên cường của con người – của cây thông vững vàng trước giông bão dữ
dội. Thực tế, trong văn hóa (của cả phương Đông và phương Tây) cây thông đều là biểu
trưng cho sự trường sinh, cho sức mạnh không gì lay chuyển nổi do đã được rèn luyện
qua những khó khăn gian khổ thường ngày. Hình ảnh cây thông – Mitrofan được lặp đi
lặp lại đã tạo ra nhạc điệu âm vang ấy cho tác phẩm.
Cũng tương tự Cây thông, hình ảnh con đường mới vừa có thật vừa trừu tượng liên
tục xuất hiện trên hành trình của nhân vật tôi trong cả 3 phần của tác phẩm cùng tên (Con
đường mới sáng tác năm 1901), vượt qua những thành phố, những nhà ga, những khu
rừng vừa là hành trình khám phá “vẻ đẹp và tất cả nỗi buồn sâu sắc về cảnh quan nước
Nga, một thứ kết nối không thể tách rời với đời sống Nga” vừa là hành trình nhân vật tôi
tự khám phá và giải thoát bản thân khỏi những giới hạn hẹp hòi từ cuộc sống xung quanh
mình - “Đi đi, chúng tôi (những con đường mới) luôn ở trước mặt anh” vừa như một lời
mời gọi, vừa như một sự đau đáu không chỉ cho tương lai của chính tôi, mà còn là hành
trình kiếm tìm tương lai cho nước Nga, cho thanh niên quý tộc Nga thời ấy. Hình ảnh
những con đường cứ kế tiếp nhau trong hành trình có thực và tâm tưởng của nhân vật tôi
đã tạo ra âm điệu day dứt, bàng bạc nỗi trầm buồn cho tác phẩm.
53
Ở nhiều tác phẩm của Bunin có những hình tượng sự vật tuy không xuất hiện với
tần suất dày đặc như táo Antonov, hoa hồng Ierikhon, cây thông, đôi hài… nhưng chính
tính chất biểu tượng trên nguyên lí ẩn dụ của nó đã mang lại sắc thái trữ tình đặc biệt của
một kiểu điệp hình tượng ngầm ẩn rất đặc sắc riêng thấy ở nhà văn Nga đầu tiên đạt giải
Nobel. Đó là hình tượng cỏ gầy trong Cỏ gầy, hình tượng cốc đời trong Chiếc cốc đời với
ý nghĩa biểu trưng về sự hữu hạn của cuộc đời cũng như sức sống, sự phục tùng của con
người. Đó là hình tượng hơi thở nhẹ trong Hơi thở nhẹ, hình tượng nắng trong Say nắng,
mùa thu lạnh trong Mùa thu lạnh... Có một điểm thú vị là ở những tác phẩm được xây
dựng theo lối điệp hình tượng, những hình tượng chủ đạo đều được lấy làm nhan đề của
tác phẩm. Có lẽ, đây chính là cách thu nhỏ thế giới ý nghĩa vào một dòng tiêu đề ngắn
ngủi, để từ dòng tiêu đề ngắn ngủi ấy lại mở ra một thế giới hình ảnh đầy sống động với
sức quyến rũ tư tưởng lớn lao. Có thể nói đến một “thi pháp nhan đề” nghệ thuật của
Bunin được xây dựng nên từ ấn tượng khoảnh khắc (Say nắng, Hơi thở nhẹ, Mùa thu
lạnh…), ấn tượng cuộc đời (Meliton, Những giấc mộng của Trang, Quý ông từ San
Francisco đến…) và những ấn tượng tạo biểu tượng nêu trên.
Những hiện tượng lặp ngữ âm – cú pháp, kết cấu lặp ngữ đoạn, những hình tượng
sự vật được điệp và nhấn xuyên suốt trong tác phẩm của Bunin có tác dụng lớn lao trong
việc tạo dựng nhạc tính cho tác phẩm. Trong chuỗi ngôn từ lời văn trên bề mặt tác phẩm,
trong dãy các hình tượng được kết lại (montage) trong dòng hồi ức của nhân vật hay
người kể chuyện, chúng là những “chủ âm”, “âm át” (dominant) tạo giai điệu, nhịp điệu
và ý nghĩa cho bản hòa âm tác phẩm của Bunin.
2.2.2. Lời văn xen thơ, nhạc
Nhạc tính trong tác phẩm của Bunin không chỉ được tạo nên từ thủ pháp điệp ngữ
âm – cú pháp, ngữ đoạn – tổ khúc hay điệp hình tượng sự vật, ở nhiều tác phẩm, Bunin
chủ động đưa những câu hát, bài thơ vào tác phẩm văn xuôi tạo ra những bản nhạc thấm
đậm hương vị trữ tình (37/100 tác phẩm được khảo sát). “Yêu em, anh mơ tưởng tới
những người trăm năm trước/ Đã từng mơ tưởng và yêu nhau ngay tại chốn này/ Và đêm
đêm trong khu vườn vắng lặng anh dạo bước/ Dưới ánh những ngôi sao trăm năm trước
vẫn còn đây” - Những vần thơ đầy xúc cảm trong Lần gặp gỡ cuối cùng ấy, Storesnhev
54
viết dành tặng Vera dưới sự chứng kiến của những bậc tiền bối của hai người, viết trong
sự thôi thúc của tình yêu, của tình thương và cả trách nhiệm, cả niềm hi vọng về sự tiếp
nối thế hệ: “Tình yêu của các cụ kỵ chúng ta, những bức chân dung của các cụ trong các
khung hình bầu dục có giấy xanh viền trong, giấy thếp vàng bọc ngoài… Tượng thánh
Guri, Simon và Aviv, những đấng phù hộ độ trì cho các gia tộc lâu đời của chúng ta… Tất
cả những cái đó là dành để cho ai, nếu không phải cho anh và cho em?”. Để rồi khi cô gái
rời bỏ mình, trong ngày gặp lại, tất cả những vần thơ tha thiết ấy, những mơ ước đẹp đẽ
đã bị sụp đổ ấy lại càng khoét sâu trong lòng nỗi đau: “Em ra đi để làm gì, và để theo ai?
Người đó có thuộc dòng giống, thuộc bộ tộc của mình chăng?” [15; tr. 96].
Cũng là hồi ức, cũng là những kỷ niệm đẹp đã qua, trong lòng nhân vật tôi trong Ở
một phố thân quen đã vang lên những câu thơ dịu dàng khi đang dạo bước trên đường phố
Paris một tối mùa xuân: “Ở một phố thân quen,/ Tôi nhớ ngôi nhà cổ,/ Có cầu thang tối
đen,/ Và mành che cửa sổ…/ Ở đấy ngọn đèn mờ/ Tận đêm khuya chưa tắt…” [16; tr.
591]. Khung cảnh thiên nhiên nơi xứ xa, những kỷ niệm tình yêu êm đềm vọng về khiến
tôi như trẻ lại, và có lẽ vì thế mà tâm hồn cũng cất lên tiếng nhạc lòng hưởng ứng. Và
sung sướng thay, đó là tiếng nhạc lòng của những rung cảm yêu đương: “Chao, cô gái dịu
hiền/ Giữa đêm khuya yên ả/ Chờ gặp tôi ngoài hiên,/ Mái tóc dài để xõa” (…) “Rồi nàng
ôm hôn tôi/ Ngây thơ như đứa trẻ/ Nàng khẽ nói và cười:/ „Ta trốn đi đâu nhé?‟” [16; tr.
592-593]. Trong tác phẩm, những câu thơ như làn điệu trữ tình ấy cứ lặp đi lặp lại trong
tâm trí của chàng trai, xé tan màn đêm giá lạnh, đem lại hơi ấm và xúc cảm mùa xuân –
xúc cảm tình yêu.
Trong Giấc mơ mùa đông, một truyện ngắn khác của Bunin, những vần thơ tuyết
trắng như chắp thêm đôi cánh, tiếp thêm động lực cho nhân vật trong cuộc hành trình mùa
đông: “Ngựa bay như thêm cánh/ Thảo nguyên nuốt mặt trời/ Cánh đồng tuyết trước mặt/
Sẫm lại màu lá xanh/ Gió tiếp gió như lửa/ Đốt cháy má, mày người” [99 – tập 4; tr. 154].
Những câu thơ thể hiện sự mạnh mẽ của con người giữa khung cảnh thiên nhiên vừa nên
thơ vừa khắc nghiệt đã cho thấy sự lạc quan, tinh thần quật cường của con người trong
cuộc “đối đầu” với thiên nhiên. Ở Bản Ballad, thiên nhiên mùa đông lại hiện lên đẹp đẽ
và nên thơ, âm điệu những câu ballad trữ tình cứ vang ngân trong tâm trí Mashenka như
là những hồi ức đẹp nhất về chuyện tình của Chúa tể loài Sói: “Gió lạnh thét gào trên đỉnh
55
núi/ Xoay tít nơi đồng cỏ trắng phau/ Tiết trời đáng ghét và bão tuyết/ Ập đến chôn sâu
đường cái quan” [99 – tập 6; tr. 18]. Giai điệu tuyết trắng trong ngày bão được
A.F.Merzlyakov ghi lại đã trở thành giai điệu tâm tưởng của Mashenka. Những đêm đông
giá rét, những đêm không ngủ, những đêm chia sẻ tâm sự, câu chuyện nhuốm màu huyền
thoại và bản ballad ấy lại âm vang một cách tự nhiên như là một phần không thể thiếu của
câu chuyện. Câu chuyện của Mashenka lại được gia thêm sắc màu trữ tình khi âm nhạc
cũng cất lên giai điệu của nó: “Ngọn lửa tình yêu bùng cháy mọi vương quốc/ Người yêu
người trên khắp nẻo địa cầu…” [99 – tập 6; tr. 19].
Cũng vẫn là thơ tình, nhưng những câu thơ trong Mối tình đầu (Từ kí ức tuổi thơ)
lại ngân vang những giai điệu của mùa xuân tình yêu ngọt ngào: “Cái gì đang ngân vang,
ngân vang ở đằng xa kia, hỡi nhà thơ?/ Và vì đâu nơi xa xăm ấy vẫn gọi đầy ám ảnh,/ Và
vì đâu con sông này cứ rộng mãi rộng mãi,/ Có phải từ đó mùa xuân bắt đầu?” [99 – tập
2; tr. 400]. Còn gì đẹp hơn, tình tứ hơn kí ức tuổi thơ và tình yêu đầu đời bắt nguồn cùng
mùa xuân của đất trời? Dường như đắm chìm vào những câu thơ ấy, vào không khí mùa
xuân ấy, vào tiếng gọi ám ảnh ấy nhân vật tôi tìm thấy nơi trú ngụ cho nỗi buồn đặc biệt
trong tâm hồn mình. Còn nhân vật nữ trong Mùa thu lạnh chắc chắn sẽ không bao giờ có
thể quên được những vần thơ của Fet – những vần thơ nồng ấm tình cảm nhưng chan
chứa nỗi buồn chia ly được vị hôn phu của cô bất chợt đọc lên trong ngày cuối cùng họ
được ở bên nhau trước khi chàng trai ra trận và hi sinh: “Ôi mùa thu lạnh quá!/ Hãy quàng
khăn và khoác áo đi em…” “Hãy nhìn lên giữa tán thông đen/ Một đám lửa dường như
đang bừng cháy…” [16; tr. 567].
Không chỉ thi ca, âm nhạc cũng cất lên giai điệu trữ tình của nó trong truyện ngắn
Bunin, hòa thêm sắc màu ngọt ngào quyến rũ cho vẻ đẹp tâm hồn các nhân vật. Đây là
những câu hát đầy tình tứ mà chàng trai trong Chiếc đu đã tự biên khi nghe thấy tiếng
bước chân người yêu ngoài bao lơn: “Thần tiên nào bằng ta,/ Vua chúa nào bằng ta,/ Mỗi
khi ta được thấy đôi mắt thẫn thờ,/ Tấm thân thon thả và những bím tóc đen nhánh của
nàng”. Khúc aria ấy đâu chỉ được chàng dạo một lần trên phím piano, nó vang lên khắp
không gian căn phòng khi nàng bước vào, nó biến thành những lời tình tứ đầy thi vị khi
họ cùng dạo bước trong vườn chiều, khi chiếc đu trong vườn cùng chắp thêm đôi cánh
cho tâm hồn họ bay cao. Những lời ca tình yêu trong truyện ngắn Bunin dường như luôn
56
được ưu ái. Trong Natali, nhà văn cũng để cho những cô gái xinh đẹp, trẻ trung của mình
ca lên lời ca ấy: “Giữa cái đêm dạ hội ồn ào, tình cờ… em đã gặp anh…” [16; tr. 498].
Không chỉ Sonia trong Natali vui vẻ hát ca, Tanhia – cô hầu gái thơm hương táo chốn
làng quê cũng cất lên những lời hát yêu đời, tươi vui, sung sướng sau phút ân ái vụng
trộm đầy hạnh phúc với cậu chủ: “Em đi ra vườn/ Ra vườn tươi xanh/ Ra vườn tươi xanh
dạo chơi/ Đón người em yêu mến…” [19; tr. 117]. Cô bé Katya trong Bình cà phê thứ hai
cũng cất tiếng hát vang những lời thơ của Lermontov đã được phổ nhạc với tâm trạng
hạnh phúc ngất ngây: “Một đám mây nhỏ xinh đã ngủ, đám mây màu vàng…/ Trên ngực
của vách đá khổng lồ…” [99 – tập 6; tr. 163].
Không chỉ có những lời hát yêu đương được ca vang trong truyện ngắn của Bunin,
ở nhiều tác phẩm những lời hát còn như một niềm mơ ước, một khát khao, một lời tâm sự
những mong vơi bớt nỗi buồn. Đặc biệt, những lời hát này thường mang âm hưởng dân ca
Nga. Lời ca bình minh của ông già Pavel Antonych bên cô bé Tanhia hòa cùng tiếng đàn
ghi ta nhẹ nhàng đã mang lại niềm vui thơ trẻ cho cả hai, cái niềm vui giúp Pavel bớt cô
đơn, và giúp cô bé Tanhia quên đi cái đói, quên đi tiếng khóc trong những lời hát của mẹ
vì không có gì cho đàn con ăn: “Bình minh là của tôi, bình minh yêu dấu/ Bình minh là
ánh sáng rực rỡ của tôi!” [Tanka; 99 – tập 1; tr. 273]. Những câu hát của cậu bé Nikanor
Matveits què quặt ốm đau quanh năm trong Cuộc đời tươi đẹp với nhịp điệu vui tươi của
điệu nhảy polka là niềm mơ ước không tưởng của cậu: “Nhanh lên em hỡi nhanh chân
lên/ Điệu polka anh sẽ nhảy cùng em/ Dễ dàng khi bước theo nhịp vũ/ Thổ lộ mối tình
chứa trong tim”… Giai điệu tươi vui hòa theo tiếng đàn gió du dương của cậu bé dường
như lại càng khắc sâu thêm nỗi đau của một con người tàn tật khát khao được nhảy múa,
khát khao được yêu đương – thứ tình yêu lứa đôi thực sự, dù đó chỉ là thứ tình yêu cậu
buộc phải cầu xin ở một người hầu gái. Những câu hát vốn tươi vui như thế qua giọng ca
của cậu bé bỗng trở nên xót xa và đầy thương cảm. Cũng vẫn là điệu polka nhưng điệu
polka trong Ngày thứ Hai chay tịnh lại ngập tràn niềm vui, sự sôi nổi, niềm hứng khởi. Và
đặc biệt nhất là niềm vui, sự hứng khởi ấy lại đến từ một cô gái vốn thờ ơ với những thú
vui của cuộc sống xa xỉ, dù hằng ngày cô vẫn nếm trải tất cả những thú vui ấy. Tiếng đàn
phong cầm khàn khàn ồn ã, tiếng hát chẳng lấy gì làm hay của người đàn ông nhảy polka
hòa lẫn với niềm vui của nàng thật sự là một điệu nhạc bất ngờ với tôi: “Nhanh lên, ta hãy
57
nhanh lên/ Polka sẽ nhảy cùng em điệu này!” [16; tr. 559]. Trong Những quả táo
Antonov, những lời ca ở cuối tác phẩm lại là những lời ca buồn, được cất lên bằng một
giọng vừa ngang tàng vừa ủ dột và tuyệt vọng hòa trong tiếng đàn ghi ta: “Hoàng hôn
xuống, gió chiều lộng thổi/ Cánh cổng kia ta mở toang hoang, -” “Cánh cổng ta mở toang
hoang,/ Để cho tuyết trắng phủ đường ta đi…” [15; tr. 48].
Cũng vẫn là lời ca buồn, những giai điệu bài hát của bác Meliton vang lên trong
đêm lại càng não nề, buồn thảm như chính cuộc đời tẻ nhạt và cô độc của bác. Lời ca não
nề ấy qua giọng hát í éo đàn bà của Meliton như được cộng hưởng cùng tâm trạng của bác
mà càng tha thiết hơn, càng buồn rười rượi hơn: “nàng đã chết, đã vĩnh biệt, ôi, cùng với
mối tình xưa…” [15; tr. 54]. Ở Những cây thông, nhân vật tôi trong đêm trước ngày đưa
tiễn Mitrofan về đất mẹ đã không thể ngủ được, giai điệu của lời ru quen thuộc từ thời thơ
ấu vang lên êm ái, ngân nga khắp một buổi tối dài khiến tôi không thể không hát theo:
“Giấc mơ đến bên hiên nhà,/ Còn giấc ngủ đậu trên cánh cửa…-” [99 – tập 1; tr. 433].
Trong tác phẩm này, bên cạnh lời hát ru đầy êm ái còn có những lời cầu kinh trầm trầm và
những lời thánh ca trang trọng tạo không khí kính cẩn thiêng liêng. Đó là những âm thanh
hướng đến Chúa Trời, hướng đến sự vô biên của cõi tâm linh trước và trong ngày chôn
cất Mitrofan. Một điều khá thú vị là những lời thánh ca, những lời cầu Chúa, những lời
nguyện trong tác phẩm của Bunin không ít. Phải kể đến Bản Ballad, Bài hát của Chúa,
Nơi đất khách, Ngày thứ Hai chay tịnh, Meliton, Chiếc cốc đời… Không chỉ thế, ở nhiều
tác phẩm khác, nhân vật của Bunin còn thường xuyên chơi nhạc cụ: ghi ta, piano. Có
những khi họ vừa chơi đàn vừa hát (như nhân vật Pavel Antonych trong Tanka hay tiếng
đàn ghi ta vang lên vào thời khắc hoàng hôn cuối thu gợi nỗi buồn mênh mang trong
Những quả táo Antonov, tiếng đàn dương cầm trong Chiếc đu…), nhưng cũng có khi
Bunin để cho nhân vật được thả hồn say sưa trong những khúc nhạc cổ điển du dương êm
ái, được đắm mình trong không gian âm nhạc không lời, để những thanh âm không lời ấy
cộng hưởng với tâm trạng. Đó là khi nhân vật trong Âm nhạc sống hết mình trong thanh
âm của Betthoven, hay khi nàng trong Ngày thứ Hai chay tịnh dạo khúc mở đầu chầm
chậm, tuyệt diệu và mơ màng của bản Xô nát Ánh trăng cho người tình của mình nghe…
Một điểm thú vị là những khúc nhạc hay những bài thơ được nhân vật của Bunin yêu
thích trong tác phẩm đều là những bài thơ, khúc nhạc rất đỗi nhẹ nhàng, êm ái, chứa chan
58
cảm xúc của nhân vật, đặc biệt những khúc nhạc, những bài thơ ấy gắn liền với những
xúc cảm ngẫu hứng, thoáng qua nhưng để lại ấn tượng rất mạnh với nhân vật: lời ca và
tiếng đàn của cậu bé Nikanor Matveits trong Cuộc đời tươi đẹp chỉ vang lên một lần duy
nhất khi cậu bé “yêu” và đủ dũng cảm bày tỏ tình cảm của mình với người yêu là nhân vật
tôi – cô hầu gái Nastasia của cậu, nàng trong Ngày thứ Hai chay tịnh cũng ngẫu hứng
nhảy điệu polka có lẽ là lần đầu trong đời với một người đàn ông xa lạ thuộc hội Cây nhà
lá vườn mà từ trước nàng vốn coi thường, lời hát của Pavel Antonych cùng tiếng đàn ghi
ta của ông chỉ vang lên trong bình minh cô bé Tanhia ghé chơi… Có lẽ, sự dịu dàng, hài
hòa và xúc cảm ấn tượng mà âm nhạc trong những tác phẩm của Bunin đem đến cho nhân
vật, cho người đọc, xét một khía cạnh nào đó, theo “lí thuyết về âm nhạc ấn tượng”, cũng
có thể coi đó là thứ âm nhạc mang màu sắc ấn tượng. Và những vần thơ xúc cảm ấn tượng
kết hợp với những giai điệu xúc cảm ấn tượng đã góp phần làm nên chất trữ tình ấn tượng
cho ngôn ngữ truyện ngắn của Bunin.
Vậy là, nhờ những giai điệu của thi ca và âm nhạc được các nhân vật ngân nga
trong tác phẩm mà những truyện ngắn của Bunin như càng trở nên trữ tình hơn, thi vị
hơn, hấp dẫn hơn đối với bạn đọc. Ở mỗi truyện ngắn, với những cung bậc cảm xúc khác
nhau, thơ ca và âm nhạc được trích dẫn cũng rất phong phú và đa dạng, cho thấy tâm hồn
nhạy cảm và tinh tế ở một nhà viết truyện ngắn đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng.
Nhà nghiên cứu Zakharova đề cập đến motif những khoảng lặng trong văn xuôi
Bunin trong cuốn Văn xuôi của Iv.Bunin: những khía cạnh thi pháp [112]. Theo nhà
nghiên cứu, tiền đề của những khoảng lặng trong văn xuôi Bunin chính là khát vọng kiếm
tìm sự hài hòa giữa con người và thế giới, đặc biệt là khát vọng hòa nhập tâm linh con
người và Thiên Chúa. Nhà nghiên cứu khảo sát tập thơ Lá rụng, truyện ngắn – tiểu luận
Bài ca của chim sơn ca, tiểu luận Đêm để làm cơ sở cho luận điểm của mình. Đó là những
phút giây thư thái của con người trong những buổi sớm mai, khi không gian vang lên
tiếng chim sơn ca, khi con người tạm đắm chìm trong suy tư để chữa lành vết thương cho
tâm hồn, để cân bằng cái hữu hạn của loài người và vô hạn của vũ trụ. Đặc biệt, trong tiểu
luận Đêm, cái tĩnh lặng vô biên của đêm chính là thời khắc con người cảm nhận được sự
hòa hợp không tách rời của bản thân và vũ trụ vô biên. Nhà nghiên cứu viết về vai trò của
khoảng lặng này: “Quan niệm về sự im lặng như một trạng thái hòa hợp thanh bình giữa
59
con người và thế giới – như một trạng thái của hạnh phúc. Thái độ suy tư trầm ngâm với
thiên nhiên cho phép Bunin sớm cảm nhận được quy chế im lặng đặc biệt này đối với con
người và thế giới, cho phép nhà văn trẻ thấu hiểu được sự xao động của nó luôn là chiều
sâu của tâm linh, lịch sử trí nhớ và đời sống nhân dân” [112; tr. 59]. Có thể thấy, khoảng
lặng cũng là một điểm nhấn trong việc kết hợp với những giai điệu để tạo nên tính nhạc
cho truyện ngắn. Tuy nhiên, theo chúng tôi, những khoảng lặng đơn thuần mang giá trị
tạo nhịp điệu trong truyện ngắn Bunin không nhiều. Những khoảng lặng ấy hòa nhập với
những độc thoại trữ tình, những suy tư triết lí đầy xúc cảm, những thủ pháp chuyển đổi
phân đoạn trong truyện ngắn, những dòng miêu tả đơn thuần mà chúng tôi đã phân tích ở
trên.
2.3. Thi vị hóa ngôn từ
Ngôn từ trong truyện ngắn Ivan Bunin bao gồm nhiều trường từ vựng đa dạng,
phong phú, được tổ chức thành hệ thống thống nhất. Mỗi trường từ vựng có khu vực ngữ
nghĩa đặc trưng riêng, nhưng điểm chung là chúng được tổ chức theo khuynh hướng thi vị
hóa, nghĩa là được sử dụng với dụng ý kiến tạo tính trữ tình cho tác phẩm. Xúc cảm trữ
tình trong truyện ngắn Bunin không bao giờ dung tục, tình cảm của tác giả - nhân vật, dù
có thể xuất phát từ những mê đắm nhục cảm, bao giờ cũng hướng tới cái đẹp thuần khiết,
thiêng liêng, giàu chất thơ. Hệ thống trường nghĩa của các lớp ngôn từ trong truyện ngắn
Bunin có thể gắn với một chủ đề cụ thể nào đó trong tác phẩm, song đều được soi chiếu từ
ý thức về những gì đẹp và thiêng liêng nhất đối với nhà văn. Với Bunin, ý thức về cội
nguồn dân tộc và đức tin tôn giáo tạo nên vẻ đẹp thanh khiết, cao cả, giàu chất thơ cho
những xúc cảm trữ tình cụ thể trong từng tác phẩm. Thi vị hóa ngôn từ, đối với Bunin, có
nghĩa là tạo khu vực giao thoa trường nghĩa của những từ ngữ cụ thể - cảm tính, bộc lộ
tình cảm giới tính chẳng hạn, với ngôn từ dân gian đậm chất thơ thuần khiết và với hệ
thống ngôn từ liên quan đến đức tin và tư tưởng cao cả.
2.3.1. Phong vị dân gian
Xuất thân quý tộc nhưng gia cảnh sa sút, Bunin sớm có những gắn bó rất thân thiết
với những người nông dân, những người làm công nghèo xung quanh mình. Nhà văn am
60
hiểu ngôn ngữ, lối sống, tính cách và ước mong của họ. Ông tìm thấy tinh thần cội nguồn
dân tộc, chất Nga thuần chất trong lời ăn tiếng nói, sáng tác dân gian lưu truyền trong
cuộc sống của họ. Bunin có khuynh hướng chuyển tải trường từ vựng và những kết hợp
ngôn từ mang phong vị dân gian vào những truyện ngắn của mình như một cách thi vị hóa
xúc cảm trữ tình hướng tới thể hiện tinh thần cội nguồn dân tộc đó. Vào năm 1913 khi
chuẩn bị xuất bản cuốn Gioan người bán rong, Bunin đã viết: “Trong cuốn sách này sẽ có
những loại câu chuyện khác nhau – những truyện tình yêu, “quý tộc” và thậm chí, nếu
muốn, “cả những truyện triết học”. Nhưng những người nông dân sẽ lại ở vị trí đầu tiên –
hay đúng hơn, không phải nông dân theo nghĩa hẹp của từ này, mà là tâm hồn nông dân –
tâm hồn Nga, tâm hồn Slav” [Dẫn theo 105; tr. 14] như O.Vasilets trong công trình Thần
thoại và dân gian trong những truyện ngắn của Bunin nhận định: “Sự thấm nhuần một
cách sâu sắc những sáng tác dân gian Nga là chìa khóa dẫn Bunin vào tâm hồn nhân dân”
[105; tr. 29].
Những yếu tố văn hóa dân gian Nga trong truyện ngắn của Bunin khá phong phú,
nhất là trong những tác phẩm viết về đề tài nước Nga và đề tài người nông dân. Đó có thể
là những tác phẩm có sự xuất hiện của những nhân vật quen thuộc của truyện cổ tích hoặc
thần thoại Nga, cũng có thể là sự xuất hiện của những bài ca dân gian, những thành ngữ
cổ của Nga hay Ukraina, những lối nói dân gian quen thuộc (bông phèng, bóng gió, nhắc
nhở…) hay có những tác phẩm tác giả đi vào miêu tả cuộc sống và lối suy nghĩ, tâm hồn,
niềm tin của những người mugic và những người phụ nữ Nga.
Hệ thống ngôn từ dân gian sinh động và phong phú trong tác phẩm của Bunin
trước hết thể hiện qua lời văn tràn ngập những thành ngữ, tục ngữ dân gian Nga và
Ukraina. Trong Cỏ gầy, chúng tôi nhận thấy những thành ngữ mang đạo lí dân gian được
sử dụng rất linh hoạt: “Хомут да дуга, я тебе больше не слуга!” (“Cổ ngựa với cả càng
xe, không còn đầy tớ cho ngươi, ta thề!”), “Богатый как бык рогатый…” (“Giàu như
bò có sừng!”), “Чужой кусок не сладок!/А богатая была, умней барыни слыла!”
(“Miếng ăn kẻ khác, nào có ngọt ngào!/Ngày nào giàu có, ngày nào còn khôn ngoan hơn
cả tiểu thư cơ đấy!”), “Худая трава из поля вон!” (“Cỏ gầy thì bay khỏi bãi”). Thành
ngữ mang đạo lí dân gian cũng được sử dụng nhiều trong Những cây thông: “Волка ноги
кормят” (“Sói sống nhờ chân” – Có làm thì mới có ăn), “была бы шея – хомут
61
найдется!” (“Có cổ ắt tìm được ách”), “За траву не удержишься!” (“Đừng hòng vịn cỏ
mà lên!”)…
Trong nhiều truyện ngắn Bunin viết về đề tài người nông dân, đề tài nước Nga còn
có những bài dân ca Nga và Ukraina. Trong phần nói về lời văn xen thơ, nhạc, chúng tôi
đã trích dẫn những bài hát được lồng vào các truyện ngắn Tanhia, Tanka, Cuộc đời tươi
đẹp, Ngày thứ Hai chay tịnh, Những quả táo Antonov, Meliton, Những cây thông… Đó
chính là những minh chứng rõ nhất cho sự am tường văn hóa dân gian và vận dụng nó
trong sáng tác của Bunin, đồng thời cũng thể hiện tình yêu sâu sắc đối với nước Nga, văn
hóa Nga của nhà văn. Trong một số tác phẩm khác, Bunin quan tâm đến cả những bài dân
ca Ukraina. Bài hát trong Nơi cuối trời là sự hồi tưởng lại về “sự vĩ đại – sự buồn bã của
tâm hồn”: “як на Чорному морi, на бiлому каменi сидить ясен сокiл – бiлозiрець,
жалiбленько квихлить – проквиляе…” [99 – tập 1; tr. 298]; còn bài hát trong Rodion
người chơi đàn lia lại là những tiếng hát da diết như tiếng khóc của Rodion về sự sống,
cái chết. Nhà văn đưa những bài dân ca Nga hay Ukraina vào tác phẩm của mình như sự
nhấn mạnh tinh thần cội nguồn của các dân tộc Đông Slav – các dân tộc Nga cổ.
Những bài ca dân gian được lồng vào các truyện ngắn của Bunin phản ánh rất rõ
nét những đặc trưng tâm hồn của người nông dân, đặc biệt người phụ nữ nông dân Nga.
Trong Cỏ gầy, bác Averki trước khi từ giã cõi đời đã hình dung ra cảnh con gái than khóc
bên nấm mộ của mình sau khi qua đời. Lời than khóc của cô con gái giống như lời hát,
bày tỏ lòng xót thương đối với người cha xấu số, cho thấy phần nào sự hi sinh, tình cảm
sâu nặng của người ở lại với người ra đi, khiến người ra đi ấm lòng: “Bố ơi bố, bố nỡ lòng
nào bỏ lại chúng con mà đi thế này, bố ơi? Ai sẽ vì chúng con mà buồn phiền, ai sẽ chăm
lo săn sóc chúng con? Bố ơi bố, rồi đây đi qua sân nhà bố nào ai sẽ là người ra đón con,
nào ai sẽ là người hỏi han con! Bố ơi, thường ngày con đi qua là bố vẫn ra đón con, bố
vẫn hỏi han con mà! Hỡi sấm sét, hãy rền vang! Hỡi chớp, hãy lóe lên! Hỡi đất mẹ ẩm
ướt, hãy rẽ ra! Hỡi những cơn gió táp, hãy nổi lên đi, hãy thổi bay tấm khăn liệm thêu kim
tuyến, hãy mở mặt cho bố tôi!” [15; tr. 148]. Theo O.Vasilets, nghi thức khóc trong tang
lễ vốn là một nghi thức dân gian lâu đời, cũng là một thể loại dân gian cổ xưa xuất hiện từ
thế kỷ XI của các dân tộc Slav trong các nghi lễ tôn thờ thần sấm sét Perun – причеть. Đó
62
là lí do vì sao trong lời kể lể khóc lóc của cô con gái bác Averki có cả những tiếng kêu
gào đến thần sấm, thần sét, đến chớp, gió, đất mẹ…
Nếu như lời than khóc của cô con gái bác Averki có thể lí giải là dấu vết của nghi
thức dân gian thì những lời hát của mẹ cô bé Tanhia trong truyện ngắn Tanka lại chất
chứa tâm sự về số phận của người phụ nữ nông thôn Nga và ước mong đau đáu của người
mẹ về tương lai của con gái mình: “Người mẹ hát bằng một giọng khe khẽ những bài hát
“cổ xưa” mà bà đã được nghe thời còn con gái, và Tanka thường muốn khóc sau khi nghe
những lời hát ấy. Trong túp lều gỗ tối tăm, ngoài kia là bão tuyết, Maria nhớ lại tuổi trẻ
của mình, nhớ lại những ngày cắt cỏ nóng nực và những buổi hoàng hôn, khi bà bước đi
trong đám các cô gái trên đường ra cánh đồng với những bài hát ngân vang, còn mặt trời
đã đậu xuống sau ruộng lúa mạch đen, và những hạt bụi vàng sa xuống xuyên qua những
bông lúa mạch, phản chiếu những luồng ánh sáng cuối cùng của nó… Bài hát nói với con
gái của bà, rằng bình minh sẽ ló dạng, tất cả sẽ qua đi nhanh chóng và rồi những nỗi buồn
và những mối lo lắng quê mùa sẽ lại đến, sẽ ở lại mãi”. [99 – tập 1; tr. 268]
Không chỉ có hình ảnh của những thần sấm, thần sét… trong thần thoại, những
nhân vật tiêu biểu của truyện cổ tích Nga cũng xuất hiện trong nhiều tác phẩm của Bunin.
Đó là phù thủy Baba Yaga nổi tiếng trong các truyện cổ tích dân gian Nga (trong Những
cây thông): “Và con người cũng ở những túp lều đó ư? Không phải Baba-Yaga đã từng
sống trong cái chòi canh tối om đó sao? «Căn nhà gỗ, căn nhà gỗ, ở sau cánh rừng, và
trước mặt ta! Nơi trú ẩn của kẻ lãng du trong đêm»” [99 – tập 1; tr. 432]. Theo lí giải của
văn hóa dân gian, Baba Yaga là một nhân vật ngoại giáo, Baba Yaga được coi là Tổ mẫu,
là người có ảnh hưởng tích cực tới các vị thần Slav, là người bảo vệ dòng dõi và truyền
thống, trẻ em… Tuy nhiên, sau quá trình du nhập của Thiên Chúa giáo, Baba Yaga cũng
như những vị thần đa thần giáo khác đều bị biến đổi về hình ảnh và chức năng, trở thành
những kẻ độc ác, xấu xa, ngoại hình xấu xí, làm khiếp sợ trẻ nhỏ.
Ở một số tác phẩm khác, Bunin đưa vào những nhân vật người kể chuyện đặc biệt,
cách kể của họ khiến cho câu chuyện được kể giống như những câu chuyện cổ tích dân
gian Nga. Có thể kể đến người kể chuyện cổ tích Yakov Demidych trong Cây thần và
người chơi đàn lia Rodion trong Rodion người chơi đàn lia. Về Rodion, Bunin viết: “Đức
Chúa Trời ban cho tôi niềm hạnh phúc nhìn thấy và nghe thấy nhiều điều từ những kẻ
63
hành hương, mà cuộc sống của họ đã từng có ước mơ và ca hát, linh hồn của họ đã từng ở
rất gần ngày của Bogdan, ngày của Siech, và thậm chí xa xôi hơn, là ngày của truyện cổ
Slav hoang đường”. Quan điểm nghệ thuật của người kể chuyện Yakov Demidych thể
hiện qua cuộc đối thoại sau:
“- …Мы и сказки твои любим. (Chúng ta yêu cả những truyện cổ tích của anh)
- Это правда, я их хорошо выдумываю. (Đúng là tôi đã bịa ra chúng thật hay)
- Да разве ты их сам выдумываешь? (Lẽ nào anh tự bịa ra chúng?)
-А кто же? Я хоть и чужое говорю, а выходит, все равно, что
выдумываю.(Còn ai nữa? Dù tôi nói lời người khác, thì cũng là tôi bịa ra đấy)
- Это как же так? (Sao lại thế được?)
- А так. Раз я эту сказку сказываю, значит, я своѐ говорю” (Đúng thế đấy. Khi
tôi kể một truyện cổ tích, có nghĩa là tôi cũng đang nói về chính mình).
Cách thức bắt đầu câu chuyện cũng được miêu tả rất tỉ mỉ: “Anh bắt đầu câu
chuyện vui lúc đầu còn gượng gạo, nhưng nhanh chóng nhập vào câu chuyện, mắt, lông
mày nhướn lên, nhanh chóng thay đổi biểu cảm, khi là nông dân, khi là người Moskva
kiêu căng, khi là con chó ren rén đến gần chủ, sau đó như người đột ngột hét lên, như thể
phải chịu cơn đau bất thình lình, lại như lao đến, làm một phát vào bắp đùi, đôi chân cào
cào cỏ,- lao đến, chạy đi,- rồi phủ phục xuống, trườn người về phía trước, cười với những
cô gái tưởng tượng” [99– tập 3; tr. 283]. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy bóng dáng của
những người kể chuyện cổ tích này trong Gioan người bán rong, Những câu chuyện cổ
tích, Mối bận tâm…
Như vậy, có thể thấy ngôn từ dân gian và những yếu tố văn hóa dân gian Nga
không chỉ tạo chất thơ, tạo phong vị dân gian cho truyện ngắn Ivan Bunin, mà còn kết nối
thế giới xúc cảm trong từng truyện với tinh thần cội nguồn dân tộc thiêng liêng và tràn
ngập chất thi ca hồn nhiên.
2.3.2. Vẻ đẹp ngôn từ của đức tin và tư tưởng
Nhiều nhà nghiên cứu đều nói tới ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa dân túy, đặc
biệt là ảnh hưởng của chủ nghĩa Tolstoy tới sáng tác của Bunin. Chính bản thân Bunin đã
hơn một lần khẳng định tầm quan trọng của Tolstoy với mình: “Không có ai trước tôi
64
khiến tôi khâm phục, thán phục ngoài Tolstoy”, “Với tôi Chúa trời là Tolstoy” [154; tr.
271]. Ảnh hưởng đó đầu tiên xuất phát từ anh trai – cũng là người thầy của Bunin những
năm tháng đầu đời. Ở những sáng tác thời kỳ đầu của nhà văn, còn thấy rõ những ảnh
hưởng này: lối sống của người nông dân, nạn đói, sự tan rã của những cách ứng xử lỗi
thời trong gia đình nông dân ở các tác phẩm Trong trang ấp, Tanka, Tin tức từ Tổ quốc…
Đặc biệt, có thể tìm thấy “những ảnh hưởng quan trọng thuộc về nguyên tắc trong quan
điểm sống của Tolstoy giai đoạn sau như: việc hoàn thành bổn phận trước Chúa hay thậm
chí trước “tầng lớp bần cố nông” của người chủ không quen biết” [92; tr. 546] ở nhiều
truyện ngắn. Meliton là tác phẩm ghi lại rất rõ những ảnh hưởng và cả những cảm nhận
của Bunin trước thực tế này. Hệ thống từ vựng được sử dụng trong tác phẩm là hệ thống
từ vựng vừa mang dấu ấn Chính Thống giáo, vừa mang dấu ấn nông dân-nô lệ: lính hầu
của vua Nikolai (николаевский служака), chiếc áo sơ mi nông dân (чистая
крестьянская рубаха), phủ phục “dưới các tượng thánh” (лечь “под святые”), nhà gỗ
(избa), giầy bện bằng sợi vỏ cây (лыковые лапти), sơ mi kiểu cổ (замашная рубаха),
chiếc chòi canh (караулка), những bó cỏ và những vành hoa gì đó treo dưới mái nhà
(пучки каких-то трав и венчиков в ее сенцах под крышей), nơi biệt cư để đan tu
(скит), nhà nguyện (часовенки), cánh đồng (поле), đôi càng trượt tuyết (полозья)…
Meliton có thể được coi là một bản đàn trầm buồn thậm chí là một tiếng thở dài vừa nhẹ
nhõm vừa bất lực của người kể chuyện. Nhân vật chính trong tác phẩm là Meliton, một
người gác rừng từng phục vụ trong quân đội triều đại Nikolai. Công việc của bác thực sự
chẳng có gì, cũng chẳng vất vả và đặc biệt gì, nhưng người kể chuyện – người chủ lại hết
sức quan tâm tới bác ta: tới thăm, hỏi han, thậm chí ái ngại trước tình cảnh của một người
già như bác – một thân một mình, sống khắc khổ, lầm lì buồn bã. Người kể chuyện đặc
biệt ấn tượng với “sự phục tùng dịu dàng”, với lòng kính Chúa vô bờ và nỗi buồn rầu
thường trực trong bác. Cuộc sống với bác Meliton là chuỗi ngày sống để ăn năn tội lỗi,
sống để chờ đến ngày Chúa gọi thì sẵn sàng nằm xuống. Và cuộc sống ấy lại có sức hấp
dẫn kỳ lạ với người kể chuyện, khiến anh ta cảm động và đầy thương mến người lính già.
Tác phẩm ban đầu có tên là Bi kịch trào phúng. Có lẽ ấn tượng đầu tiên về tác phẩm là sự
thương cảm, thương cảm cho một kiếp người sống “khắc khổ thiêng liêng, xa lánh người
đời” và tự tước bỏ đi mọi niềm vui trong cuộc sống của mình. Tuy nhiên, bên cạnh sự
65
thương cảm là tiếng cười nhẹ nhàng mà chua chát. Hóa ra những người nông dân thời ấy
thật đáng thương. Họ không còn biết sống nữa, thực chất họ chỉ đang tồn tại, tồn tại vì
một lí tưởng tâm linh thâm căn cố hữu – phục tùng Chúa, sợ Chúa nổi giận. Dường như
người kể chuyện ở cuối tác phẩm cũng bất lực trước sự khắc khổ, sự phục tùng, sự sợ hãi
đến không dám nhận bất cứ sự quan tâm nào từ chủ của bác Meliton. Lời từ biệt lần cuối
cùng, việc ra đi trong đêm rét buốt chứ không ở lại như trước, cái ngoảnh mặt đi của
người kể chuyện – người chủ vừa như một sự tôn trọng Meliton và lí tưởng của bác, vừa
như một sự mặc kệ đầy hữu ý. Tác phẩm được sáng tác từ 1900 nhưng đến 1930 mới
hoàn thành, có lẽ khi hoàn thiện tác phẩm nhà văn không chỉ tỏ bày sự tôn trọng với
Tolstoy và những nhân vật nông dân đáng kính của ông cùng lí tưởng của họ, không chỉ
bày tỏ sự trân trọng niềm tin tôn giáo mà còn muốn đối thoại với chính những người nông
dân, với chính quan điểm của Tolstoy mà giờ nhà văn đã nhìn thấu đáo hơn. Tác phẩm vì
thế còn là một cuộc đối thoại câm lặng với Tolstoy, với Chính Thống giáo trong cách nhìn
người nông dân. Không chỉ có Meliton, Những cây thông cũng thuộc vào dòng đối thoại
này của Bunin. Mitrofan, nhân vật của Những cây thông tự nhận mình là một cố nông,
làm việc theo lệnh, hoàn thành công việc, sống một mình trong rừng, cầu nguyện nơi
những gốc cây và đến ngày thì nghỉ lễ. Đặc biệt những cột mốc trong sự kiện của họ luôn
gắn liền với những ngày lễ thuộc lịch tôn giáo: ngày lễ thánh Piotr, ngày Chúa Cứu Thế
thứ nhì, ngày Thứ bảy vĩ đại, Cuộc sống ấy cứ tiếp diễn cho đến ngày cuối cùng. Lời từ
chối của Mitrofan khi được đề nghị gọi bác sĩ lúc bị ốm Đừng hòng vịn cỏ mà lên! đã cho
thấy sự bình thản của người sắp chết. Thậm chí việc những người thân thiết của Mitrofan
trong đám tang không hề đau buồn, than khóc cũng khẳng định “niềm vui” trong ngày về
với Chúa của những người nông dân xưa. Đó vừa như một sự hài hòa, cân bằng nỗi đau –
cái chết – sự thanh thản, nhưng cũng vừa như một sự bất lực, xót xa nơi người kể chuyện.
Những cây thông, Meliton đã gợi chúng tôi nhớ đến những tác phẩm khác với hệ thống từ
vựng mang đậm sắc màu tôn giáo (đặc biệt là tầm ảnh hưởng của lịch tôn giáo) cũng
mang giọng điệu vừa chấp nhận vừa đối thoại này: Cỏ gầy, Chiếc cốc đời, Ngày cuối
cùng, Trong trang ấp, Tanka, Đôi hài…
Ở những tác phẩm như: Hơi thở nhẹ, Hoa hồng Ierikhon, Ngày thứ Hai chay tịnh,
Gioan người bán rong, Bài hát của Chúa, Quý ông từ San Francisco đến… sắc màu
66
Thiên Chúa giáo cũng được khắc họa đậm nét qua hệ thống từ vựng tôn giáo phong phú:
nghĩa địa (кладбище), thánh giá (крест), lễ cầu kinh (обедня), tu viện (монастырь),
vòng hoa (венок), medalyon (медальон), bản Thánh vịnh Miserere («Miserere»), tượng
Đức Mẹ (Матерьи Божок), thánh lễ Misa (месса), quỷ dữ (дьявол), sự phục sinh
(воскресение), sự sống đời đời (жизнь вечная), chân đồi hoang vắng của Sinai
(безлюдный синайский предгорье), xứ Giude sa mạc (пустыня Иудейский), linh hồn
(душа), Chúa Trời (бог), ma quỷ (жупел Пятиградия), lễ tống tiễn mùa đông
(масленица), ngày Chủ nhật tha tội (прошеное воскресенье), ngày Thứ hai trong trắng
(чистый понедельник), tu viện Novodevitri (Новодевичий монастырь), nghĩa trang
Rogogioskoe (Рогожскoe кладбище), nơi ly giáo (раскольничье), tổng giám mục
(архиепископ), thầy phó tế (диакон), chân nến Ba ngôi (рипида), bình hương
(трикирия)... Qua hệ thống từ vựng và sự kết hợp của những từ vựng ấy người đọc thấy
được sự hồi sinh mạnh mẽ của cái đẹp – cái bất tử trong Hơi thở nhẹ qua làn hơi giá mùa
xuân lành lạnh lan tỏa khắp không gian đất trời, là sự hồi sinh kỳ diệu của hoa hồng
Ierikhon trong nước của sự sống, là sự hiện diện của Nữ tính vĩnh hằng, của Đức Mẹ cứu
rỗi trong Ngày thứ Hai chay tịnh hay trong Quý ông từ San Francisco đến, là hình ảnh
Đức Jesus Kito gần gũi mà thiêng liêng trong Gioan người bán rong, Bài hát của Chúa…
Đặc biệt, hệ thống từ vựng này được tổ chức dưới dạng thức trữ tình ngoại đề lồng ghép
trong câu chuyện về nhân vật tạo ra một sự đối sánh thú vị giữa số phận nhân vật trong
tác phẩm và nhân vật trong đoạn trữ tình ngoại đề đó. Quý ông từ San Francisco đến là
một trong những tác phẩm có đoạn trữ tình ngoại đề đối sánh số phận nhân vật như thế:
“Cách đây hai nghìn năm, trên hòn đảo này đã từng sống một con người hoàn toàn chìm
đắm trong những hành vi tàn ác và bẩn thỉu của mình, một con người không hiểu vì đâu
mà đã từng ngự trị hàng triệu sinh linh, một con người mà chính bản thân ông ta cũng đã
quẫn trí vẽ cái vô nghĩa của quyền lực ấy và luôn sợ rằng có ai đó sẽ ám sát mình nên đã
làm đủ mọi sự tàn bạo vượt qua bất kỳ mức độ nào” – “Biết rằng ông già từ San Francisco
tới vốn định cùng đi với họ, nhưng nay ông đã chết rồi, và thay vì ông ta chỉ khiến họ
khiếp sợ khi nghĩ đến cái chết thì nay ông cũng đã được đi Neapon rồi, nên các du khách
bèn yên chí ngủ say…” [16; tr. 236-237]; “Đức Mẹ ngự trong xiêm áo bằng thạch cao
trắng phau phau, đội một chiếc vương miện đã ố vàng do dầm mưa dãi nắng… Hai người
67
dân vùng núi Abrutsio ngả mũ, đưa chiếc khèn lên môi, - và thế là người ta thấy tuôn trào
những khúc nhạc vừa hồn nhiên, vừa hiền lành lại vừa mừng vui ca ngợi mặt trời, ca ngợi
buổi sáng, ca ngợi Người, ca ngợi Đức Mẹ trinh khiết vẹn toàn đã bênh vực cho mọi kẻ
khổ đau trong cái thế giới độc ác mà tuyệt vời này, ca ngợi người con đã từ Người mà lọt
lòng ra trong hang đá Betlihem, trong nơi nương náu nghèo nàn của người chăn cừu, ở xứ
Giudea xa xôi” – “Còn thi hài của ông già từ San Francisco tới thì đang trên con đường về
nhà, về nơi mồ yên mả đẹp, về với bến bờ của Thế giới mới…” [16; tr. 239]; “Rồi cả đêm
hôm sau, và đêm hôm sau nữa, con tàu vẫn đi, và nó lại đi trong cơn bão tuyết điên cuồng
tràn qua đại dương lúc ấy đang rền vang như một buổi thánh lễ Misa an táng và đang trôi
dạt giữa những con sóng bạc đầu phủ khăn xô trắng xóa. Vô vàn những con mắt lửa của
con tàu chỉ thấp thoáng ẩn hiện dưới làn tuyết trắng trong con mắt của Quỷ dữ đang náu
mình trên những vách núi cheo leo ở Gibrantar, trên cái cổng đá giữa hai thế giới này mà
dõi nhìn theo con tàu đang mất hút trong đêm sâu và trong bão tuyết. Quỷ dữ to sừng
sững như một mỏm núi, nhưng con tàu còn to hơn nó, con tàu có nhiều tầng, nhiều ống
khói, là tác phẩm của niềm kiêu hãnh của Con Người Mới với trái tim cũ” [16; tr. 240].
Số phận của vị quý ông đến từ San Francisco được nhìn trong sự đối sánh với vị vua bạo
chúa đã từng ở khách sạn nơi ông ở, với hình ảnh của bức tượng Đức Mẹ trên đảo, với
bóng dáng của Quỷ dữ xuất hiện trong đoạn văn đưa quý ông về lại nơi ông ta đã ra đi. Sự
đối sánh thú vị trong đoạn trữ tình ngoại đề còn được Bunin gợi ra qua sự xuất hiện đầy
trần tục của Đức Mẹ và đầy kỳ bí của Quỷ dữ. Tất cả cho thấy cái nhìn vừa thương xót
vừa mỉa mai của nhà văn đối với nhân vật được ông miêu tả trong tác phẩm. Cái chết bất
đắc kỳ tử đau đớn của nhân vật khác hẳn với những cái chết thanh thản đã được chuẩn bị
trước của những nhân vật nông dân như Meliton, Averki hay Mitrofan. Rõ ràng ở đây “có
một sự kỳ thị nhất định” đối với nhân vật “không thuộc biên độ của nước Nga”. Cái chết
của nhân vật vị quý ông trong tác phẩm này gợi cho chúng ta liên tưởng tới cái chết của
Ivan Ilich trong tác phẩm cùng tên của Tolstoy. Nhân vật của Tolstoy đau đớn, dằn vặt
mình trong quá trình đến với cái chết và luôn đau đớn trước cái chết. Thực chất, đó là sự
bất tuân phục giáo hội, sự trả giá cho việc sẵn sàng thụ hưởng mà quên đi việc cứu rỗi
tâm linh của chính mình. Đó là một sự tôn vinh đức tin tôn giáo chân chính, cũng là mâu
thuẫn mà chính những nhà văn như Tolstoy hay Bunin luôn khát khao muốn dung hòa,
68
muốn kiếm tìm sự hòa hợp. Nhà nghiên cứu Prasheruk trong công trình Văn xuôi Bunin
trong cuộc đối thoại với văn học Nga cổ điển [148] lưu ý tới những liên hệ mật thiết giữa
một số nhân vật của Bunin và nhân vật của Tolstoy: Natali trong Natali của Bunin đầy “tự
nhiên” và “bản năng” trong tâm hồn với sức hấp dẫn không thể cưỡng lại đã gợi nhắc tới
nhân vật Natasha trong Chiến tranh và hòa bình của Tolstoy. Theo nhà nghiên cứu, cả hai
nhân vật này đều gợi nhớ tới hình tượng mặt trăng. Nếu mặt trăng trong tác phẩm của
Tolstoy là ánh sáng rực rỡ, là sự kiếm tìm vẻ đẹp lí tưởng trong thực tế thì mặt trăng trong
tác phẩm của Bunin lại gợi liên tưởng tới bi kịch của tình yêu thực sự. Nhà nghiên cứu
khẳng định thêm trong những cuộc gặp của tôi với Sonia, vầng trăng không xuất hiện.
Vậy là chỉ có Natali là nhân vật phải chịu bi kịch bởi khi tinh thần phục tùng nhục thể thì
khi ấy nhân vật phải chết. Nhà nghiên cứu cũng nhận thấy sự tương đồng giữa nhân vật
Gasha trong Natali với Katya Maslova trong Phục sinh với luận điểm về “tình yêu tội ác”
đầy thú vị. Vấn đề là tôn giáo và sự phục tùng tôn giáo có thực sự cứu rỗi con người? Cụ
thể ở đây là người phụ nữ.
Prasheruk đồng thời tìm thấy những ảnh hưởng và cả những đối thoại văn chương
của Bunin với Turghenev khi đọc những truyện ngắn của ông. Nhà nghiên cứu phát hiện
ra hơi hướng Turghenev ở Bunin qua những tác phẩm: Bi kí, Trong trang ấp, Những quả
táo Antonov, Sukhodol, Lần gặp gỡ cuối cùng, Ngày thứ Hai chay tịnh… Nhà nghiên cứu
đưa ra những đối sánh thú vị trong việc miêu tả thiên nhiên, hình ảnh thân thể trinh nữ và
hình ảnh ngôi nhà tối của hai tác giả. Prasheruk phát hiện thấy Bunin “tái hiện” lại cấu
trúc và một số hình ảnh miêu tả chủ đạo của Turghenev trong tác phẩm của mình, nhưng
khuynh hướng kết thúc tác phẩm và suy ngẫm của ông về vấn đề được miêu tả lại hoàn
toàn trái ngược với nhà văn tiền bối. Đó chính là sự đối thoại ngầm ẩn rất đặc biệt của hai
cây bút văn xuôi trữ tình lớn của nước Nga: “Trong tác phẩm của Bunin, đặc biệt là
những tác phẩm viết về mảnh vỡ tình yêu thì vấn đề người phụ nữ, sự giải phóng phụ nữ
là vấn đề quan trọng, trung tâm của sự giải phóng ấy chính là phụ nữ quyết định tất cả.
Kết thúc tác phẩm của Bunin là hình ảnh cuộc sống thường nhật với thiên nhiên mùa thu
lạnh lẽo là chủ đạo. Còn trong tác phẩm của Turghenev kết thúc tác phẩm là hi vọng vào
ngày mai tươi sáng với thiên nhiên mùa hè đầy sức sống, ấm áp. Tác phẩm cũng mang
69
màu sắc lãng mạn tươi hồng khi nhân vật luôn có kế hoạch rõ ràng hứa hẹn thành công ở
ngày mai” [148; tr.25].
Theo một số người đương thời, “Bunin không tán thành về hình thức, kết cấu,
phong cách và nội dung những tác phẩm của Dostoevsky”. Lí do là bởi “ông sợ các chủ
đề trong tác phẩm của Dostoevsky sẽ gây ảnh hưởng xấu tới trẻ con” [148; tr. 28]. Tuy
nhiên, một số nhà nghiên cứu lại tìm ra những dấu ấn của Dostoevsky trong sáng tác của
Bunin. Đó có thể là chủ đề “sự biểu hiện của đam mê” (Lotman) trong Làng và Sukhodol
của Bunin với Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky, là sự “nhại” Tội ác và hình phạt
(Dostoevsky) của Tai mắt (Bunin), là cách thức biểu hiện tâm lí khủng khiếp hỗn loạn của
Dostoevsky trong Những tháng ngày khủng khiếp (Bunin), là kiểu tái hiện sự kiện “chơi
lại tòa án” của Anh em nhà Karamazov trong Vụ việc Eleghin. Có thể nói, những ngôn từ
được sử dụng trong tác phẩm chính là những dấu hiệu rõ nhất cho thấy sự ảnh hưởng
cũng như “đối thoại” này.
Đối thoại tư tưởng với những nhà văn “nặng ký” nhất về tầm tư tưởng trong thời
đại hoàng kim của văn học Nga như Turghenev, Dostoevsky, Tolstoy... không chỉ cho
thấy sự khác biệt về tư tưởng của Bunin với những nhà văn này, mà còn là minh chứng
cho khuynh hướng gia tăng tính trữ tình - triết luận trong hệ thống ngôn từ truyện ngắn
của Bunin. Những đối thoại tư tưởng như vậy làm cho nhiều truyện ngắn xúc cảm của
Bunin không chìm khuất trong bình diện cụ thể cảm tính, mà mang nặng suy tư về nhân
thế, bản thể và đức tin của con người.
Mặc dù là một nhà văn Nga, sinh ra và lớn lên trong cái nôi ảnh hưởng của Chính
Thống giáo nhưng trong các sáng tác của Bunin, nhất là những sáng tác từ 1910 đến 1920
nhiều nhà nghiên cứu của cả Nga và phương Tây đều nhận thấy ảnh hưởng của Phật giáo
lên truyện ngắn của ông. Nhà nghiên cứu Julian W. Connolly còn khẳng định “mối liên hệ
trực tiếp với văn hóa Phật giáo của Bunin diễn ra trong chuyến thăm Ceylon năm 1911
của nhà văn” [183; tr. 12]. Nhà nghiên cứu cũng chỉ ra và phân tích dấu vết của Phật giáo
trong những sáng tác của Bunin: những truyện ngắn Quý ông từ San Francisco đến, Vụ
việc Elaghin, Nước vô biên, Những giấc mộng của Trang, Đêm (1925)… và một vài
truyện vừa khác. Cuộc sống và sự tồn tại, cái có ích và sự phù phiếm… là những yếu tố
dễ dàng tìm thấy trong những truyện ngắn có yếu tố Phật giáo của Bunin. Và các tác
70
phẩm này, một cách ngẫu nhiên đều là tác phẩm kết thúc bằng cái chết của các nhân vật.
Vị quý ông từ San Francisco đến chết trên hành trình hưởng thụ sau chuỗi ngày lao động
không mệt mỏi, cô diễn viên trẻ tài năng xinh đẹp Marya Iosifovna Sosnovskaya chết khi
đang ở độ tuổi rực rỡ nhất của mình trong một vụ án mà người ta không biết kết luận thế
nào (Vụ việc Elaghin), viên thuyền trưởng chết sau những chuỗi ngày sống không làm gì
cả lang thang hết quán ăn rẻ tiền nọ đến quán rượu kia, đánh mất chuỗi ngày hạnh phúc
bên vợ và con gái đã thành dĩ vãng… Từ những câu chuyện ấy có thể thấy: “Chìa khóa
song đề của sáng tác Bunin, cũng như trung tâm sức mạnh nghệ thuật của ông nằm trong
dục vọng không cưỡng lại được của nhân vật của ông để theo đuổi lợi ích vật chất và tinh
thần, là thứ mà, khi những nhân vật này nhận ra một cách muộn màng, cuối cùng chỉ
mang lại nỗi đau đớn” [181; tr. 6]. Rõ ràng, nhân vật của Bunin không được miêu tả trong
hành trình thực hiện dục vọng của họ (ở đây là hành trình kiếm tìm và tận hưởng những
hạnh phúc trần thế: danh tiếng, tiền bạc, tình yêu…) nhân vật chỉ được nhà văn nói đến
khi họ đang trên hành trình thụ hưởng thành quả của quá trình ấy, hoặc khi họ nhận ra tất
cả những gì họ đã khát khao, đã lao vào theo đuổi chỉ là phù phiếm. Vị quý ông từ nước
Mĩ kiếm tiền không nghỉ làm gì, để cuối cùng chưa kịp tận hưởng hạnh phúc bình thường
của đời người đã bị đối xử tệ bạc như một kẻ bệnh dịch? Viên thuyền trưởng cả đời theo
đuổi và vun đắp tình yêu với cô vợ đẹp, với đứa con xinh xắn làm gì, để cuối cùng chết
trong cảnh cô độc bên một con chó? Cô diễn viên tài năng đuổi theo danh vọng phù
phiếm mà lãng quên tình yêu-tình người thực thụ để rồi chết bởi một phát súng định mệnh
khi không biết “lựa chọn cái chết như thế nào”. Rõ ràng, giống như nhân vật trong Nước
vô biên đã nhận ra “tất cả nỗi đau của con người đều là kết quả của những dục vọng: dục
vọng tình yêu, sự giàu có, sự bất tử…” [183; tr. 13]. Ở từng truyện cụ thể, dấu vết của
Phật giáo có thể rõ ràng qua những câu nói (câu nói của viên thuyền trưởng với Trang
rằng bản năng con người luôn muốn cưỡng lại những lời dạy của Phật giáo và Đạo giáo:
“Chẳng lẽ tất cả những hòa thượng của mi ngu ngốc hơn ta với mi hay sao? A, mà các vị
ấy nói thế nào về tình yêu đối với cõi trần thế và với mọi thứ vật chất nói chung – từ tia
sáng mặt trời, con sóng ngoài biển, từ không khí đến đàn bà, trẻ con, đến mùi hương của
bông hoa xiêm gai trắng muốt! Hoặc mi có biết „Đạo‟, thứ người Trung Hoa các người
bày đặt ra đấy không?” [17; tr. 29]), có thể không được đề cập cụ thể nhưng phơi bày qua
71
định mệnh mỉa mai và trớ trêu của con người cả đời làm nô lệ cho mình (Quý ông từ San
Francisco đến), qua mối bận tâm với những vinh hoa phù phiếm của con người (Vụ việc
Elaghin). Những tác phẩm này, vì thế, trở nên phong phú và hấp dẫn hơn với bạn đọc,
nhờ vào sự đa dạng trong việc sử dụng ngôn từ tạo ra giọng điệu trữ tình được toát ra từ
những sắc màu triết luận, tình cảm đan xen của tác giả và nhân vật.
Không chỉ có Phật giáo, nhiều tác phẩm của Bunin còn mang đậm dấu ấn Đạo giáo
(Những giấc mộng của Trang), Hồi giáo (Cái chết của nhà tiên tri). Điểm đặc biệt là
những sắc màu này thường không tồn tại một cách đơn lẻ mà lại hòa quyện vào nhau
trong cùng một tác phẩm; thậm chí, còn hòa quyện với tinh thần Thiên Chúa giáo nói
chung của phương Tây. Có thể nhận thấy sự kết hợp của Phật giáo, Đạo giáo và Thiên
Chúa giáo trong Những giấc mộng của Trang. Ngay cái tên nhan đề Những giấc mộng
của Trang đã gợi liên tưởng sâu sắc tới Trang Tử - nhà tư tưởng lỗi lạc của Đạo giáo, xuất
thân Trung Hoa của Trang, hóa thân của Trang là một chú chó “vô vi” quan sát sự đời, rồi
những triết lí mà Trang và ông chủ phát biểu về Đạo trong tác phẩm lại càng khẳng định
điều ấy. Thêm nữa, trước cái chết của chủ, Trang nhận ra một chân lí thứ ba quan trọng
nhất: trước Chúa, tất cả đều bình đẳng như nhau.
Câu chuyện Cái chết của nhà tiên tri lại mang những dấu ấn của tư tưởng Hồi
giáo. Những cuộc đối thoại mang tính thử thách của nhà tiên tri với thiên thần về lẽ sống
còn, về thân xác, về nỗi sợ hãi, về sự bất tử, về Chúa… đã chứng minh sự thông thái và
xứng đáng của nhà tiên tri là người thay mặt Đức Alla – Đức Chúa Trời nơi trần thế, kế
tục sự nghiệp của tiên tri Mohamed… Điều kỳ diệu là vị tiên tri có khả năng nhìn thấy
chính mình, thấy cuộc sống của mình sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ trên cõi thế. Và cái
tên Sheikh Saadi vang lên trong điệp khúc ngân vang của những lời cầu nguyện: “Hòa
bình và niềm vui cho tất cả những người đang sống!” [99 – tập 3; tr. 65].
Theo Connolly, “sự hợp nhất của Phật giáo và những yếu tố của Thiên Chúa giáo
là một điểm quan trọng trong các sáng tác của Bunin những năm 1920, khi mà ông bắt
đầu tìm kiếm sự hội tụ của những giá trị tôn giáo và triết học phương Đông và phương
Tây. Vượt ra ngoài những yếu tố này ông đã thực sự cho thấy được sự mới mẻ, kinh
nghiệm và năng lực cá nhân mình” [183; tr. 17]. Và thú vị hơn, từ những câu chuyện
Bunin xây dựng cho người đọc, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra một nhận định vừa mỉa
72
mai vừa hài hước nhưng lại rất có lí, trao thêm cho truyện ngắn Bunin một cung bậc âm
điệu khác, trao thêm cho người đọc một cách cảm nhận khác về những đối thoại tôn giáo,
triết học về Budda, về Tolstoy, về Solomon… trong tác phẩm: “Đầu tiên thì Solomon và
Budda ôm chặt lấy thế giới với những khao khát vĩ đại nhất; sau đó với những đam mê vĩ
đại họ nguyền rủa những cám dỗ của nó. Đầu tiên họ đều là những kẻ có tội vĩ đại, sau đó
họ là những kẻ thù vĩ đại của những tội lỗi ấy” [Đêm, 1925, dẫn theo 183; tr. 18].
Như vậy, với hệ thống ngôn từ mang đậm dấu ấn tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo,
Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Bunin đã làm phong phú thêm cho những truyện ngắn giàu
xúc cảm cụ thể cảm tính của mình, gia thêm cho chúng những sắc điệu triết luận vừa thần
bí vừa thiêng liêng, vừa sâu lắng vừa hài hước, vừa nhẹ nhàng vừa thâm trầm thú vị. Đặc
điểm này trong sáng tác của Bunin góp phần nâng mạch nguồn xúc cảm lên tầm trữ tình -
triết lý. Nếu coi tác phẩm của Bunin là một bản hợp âm thì bản hợp âm ấy bao gồm nhiều
sắc điệu tư tưởng phương Đông, phương Tây, truyền thống, phi truyền thống, song chúng
được hợp nhất hài hòa trong chỉnh thể trữ tình không chỉ dừng ở những xúc cảm cụ thể
cảm tính mà hướng tới đức tin cao cả, thiêng liêng về sự tồn tại bản thể của thế giới con
người.
Tiểu kết chương 2:
Ấn tượng trữ tình đầu tiên đến với người đọc từ thế giới truyện ngắn của Bunin là
thông qua tổ chức ngôn từ trên bề mặt văn bản các tác phẩm.
Trong chương này, chúng tôi đã nghiên cứu các thủ pháp gia tăng tính trữ tình cho
lời văn với khuynh hướng cảm xúc hóa đối thoại, độc thoại hóa đối thoại, phối cảm lời kể,
lời độc thoại; khảo sát các thủ pháp tăng cường nhạc tính lời văn với phép điệp từ bình
diện ngữ âm đến điệp cú pháp, kết cấu, ngữ đoạn, điệp hình tượng sự vật tạo nhịp điệu và
nhấn những “chủ âm” xuyên suốt dòng hồi ức của nhân vật, đan xen thơ, nhạc vào lời
văn; và cuối cùng là làm rõ khuynh hướng thi vị hóa lời văn qua việc điểm phong vị dân
gian vào hệ thống ngôn từ, tạo ấn tượng thiêng liêng qua vẻ đẹp hệ thống ngôn từ của đức
tin và tư tưởng. Đức tin và những tư tưởng cụ thể bắt nguồn từ cảm quan nghệ thuật của
nhà văn chúng tôi sẽ làm rõ hơn ở các chương sau. Ở đây, chúng tôi chỉ xem xét những
biểu hiện trên bề mặt ngôn từ tạo ấn tượng thi vị trữ tình cho truyện ngắn Bunin. Nhìn từ
73
góc độ đó, có thể khẳng định, hệ thống ngôn từ nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn
ngay từ bề mặt của nó thực sự đã thấm đẫm xúc cảm, thấm đẫm chất nhạc, chất thi ca vừa
hồn nhiên dân dã, vừa cao cả, thiêng liêng.
Các sắc thái xúc cảm trên bề mặt ngôn từ trong truyện ngắn Bunin được tổ chức
như trong một bản hoà âm, đan quyện vào nhau để hoà với âm hưởng chủ đạo tạo nên
chất trữ tình mê đắm. Ngôn từ trong truyện ngắn Bunin đã tạo nên một thứ “văn xuôi như
thơ” (V.Shmid). Chính chất trữ tình đa sắc điệu từ bề mặt ngôn từ tác phẩm đã lôi cuốn
bạn đọc ngay từ lần đầu tiếp xúc. Có lẽ, đây cũng là điểm đặc biệt khiến tác phẩm của
Bunin thực sự ấn tượng: có thể đọc, có thể cảm, có thể yêu nhưng thật khó liệt kê hết các
sắc điệu của những ấn tượng mình đã cảm nhận. Nó là một sự mời gọi xúc cảm trong việc
tìm đến từng câu từng chữ của tác phẩm. Và khi đã bước chân vào thế giới ấy, thật khó để
không ngâm nga, thích thú thụ hưởng những thanh âm mà ngôn từ trữ tình của tác phẩm
ấy mang lại. Có lẽ bởi thế cho nên ngôn từ nghệ thuật của Bunin mới được nhà nghiên
cứu Prince Mirky đánh giá đẹp như hoặc hơn cả ngôn từ nghệ thuật của một số cây bút
văn xuôi kinh điển của văn học Nga: “Có lẽ chỉ có Bunin là nhà văn hiện đại mà nghệ
thuật ngôn từ của “những nhà văn cổ điển” như Turghenev và Goncharov cũng phải thán
phục” [194; tr. 424].
74
CHƢƠNG 3
CHỦ THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG TRỮ TÌNH
Truyện ngắn của Bunin quyến rũ và hấp dẫn người đọc bởi dư vị cảm xúc ngọt
ngào chan chứa. Xúc cảm xuất phát từ tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của những chủ thể trữ
tình trong tác phẩm đến với người đọc vẹn nguyên và cuốn hút. Chủ thể trữ tình
(лирический субъект) là “chủ thể lời văn, còn đồng thời là chủ thể điểm nhìn chủ đạo
(bao quát) về thế giới và đánh giá nó trong tác phẩm trữ tình nghệ thuật” [164; tr.112].
Chủ thể trữ tình hay chủ thể xúc cảm trong truyện ngắn Bunin có thể là người kể chuyện
(narrator), đồng thời có thể là nhân vật chính (hero), nhân vật với “vai trò” chủ thể hành
động và cảm nhận (actor) [39; tr. 249]. Trong truyện ngắn của Bunin, đối tượng mà các
chủ thể trữ tình đau đáu hướng tới qua các câu chuyện của mình, suy cho cùng, là những
hình ảnh ấn tượng của nước Nga thiêng liêng có thể đang chìm vào quá vãng, mà không
thể mất đi trong tâm tưởng, hay những người con gái Nga đẹp như biểu tượng nữ tính
vĩnh hằng, dù đa phần bất hạnh.
3.1. Chủ thể trữ tình - ngƣời kể chuyện “chủ quan”
Đọc truyện ngắn của Bunin chúng tôi nhận thấy dường như người kể chuyện nào
(ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba) cũng đều phảng phất bóng dáng của nhà văn – một người
đàn ông lịch lãm, chững chạc, tinh tế và sống cảm tính – hết mình vì những xúc cảm của
bản thân. Chỉ có hai truyện ngắn (trong tổng số những truyện ngắn của Bunin được chúng
tôi khảo sát) có người kể chuyện là nữ - nhân vật nữ xưng “tôi”. Đó là Cuộc đời tươi đẹp
và Mùa thu lạnh. Bởi thế, những câu chuyện được kể là những câu chuyện rất giàu cảm
xúc. Các nhà nghiên cứu Nga gọi người kể chuyện trong văn xuôi của ông là “người kể
chuyện nhược hóa” với lí giải cụ thể: “Hơn nữa trong những truyện ngắn giai đoạn những
năm 1895 – 1900 mong muốn của nhà văn một cách rõ rệt làm nhược hóa nền tảng trần
thuật của cốt truyện tự sự và tìm kiếm nguyên tắc kết nối sự kiện khác, những phép phối
cảnh mở rộng ý nghĩa mới” [92; tr. 552]. Thậm chí có những “truyện ngắn không có cốt
truyện từ ngôi thứ nhất, tự trình bày bản thân trên quan điểm “thứ nhất” về những phác
thảo hiện thực” (V.D.Levin), chẳng hạn như truyện ngắn Canh khuya. Điều này cho thấy
75
ý thức về sự gần gũi giữa cái tôi của người kể chuyện trong tác phẩm với tác giả ngoài đời
thực. Chính điều này giúp chúng tôi nhận định về người kể chuyện trong truyện ngắn của
Bunin là “người kể chuyện trữ tình chủ quan” như một chủ thể trữ tình qui chiếu vào cái
tôi trữ tình của tác giả - người sáng tác.
3.1.1. Người kể chuyện toàn tri “thâu tóm” cảm xúc
Trong các tác phẩm được kể từ ngôi thứ ba, người kể chuyện ẩn danh, không xác
định nhân cách cụ thể, thường có khuynh hướng là người kể chuyện toàn tri. Điều đó có
thể có ngoại lệ, song trong truyện ngắn của Bunin, người kể chuyện dạng này thường bao
giờ cũng là toàn tri, có thể biết hết không chỉ những gì tồn tại “ở đây, bây giờ” bên ngoài
nhân vật, mà còn hiểu thấu cả thế giới xúc cảm, tâm trạng bên trong nhân vật, hơn thế còn
có thể trực tiếp biểu lộ xúc cảm, tâm trạng, thái độ với các nhân vật, tạo xúc cảm nền, rồi
đóng vai trò “thâu tóm” các mạch cảm xúc của các chủ thể trữ tình, hướng vào cảm hứng
chủ đạo của toàn tác phẩm. Người kể chuyện toàn tri thâu tóm cảm xúc xuất hiện trong đa
số truyện ngắn của Bunin (57/100 truyện được khảo sát): Lần gặp gỡ cuối cùng, Ngày
cuối cùng, Cỏ gầy, Quý ông từ San Francisco đến, Hơi thở nhẹ, Chiếc cốc đời, Đứa con
trai, Những giấc mộng của Trang, Ở Paris, Đôi hài, Trên biển đêm khuya, Say nắng,
Những tấm danh thiếp, Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối, Zoyka và Valeria, Ngữ pháp
tình yêu, Tanhia… Ở giai đoạn sáng tác sau năm 1917, dạng thức người kể chuyện này
chủ yếu xuất hiện trong những truyện ngắn mini hầu như không có cốt truyện nhằm mục
đích biểu lộ dòng xúc cảm, đồng thời triển khai mạch triết luận: Sách, Nhà mồ, Người mù,
Âm nhạc, Hy vọng, Marya,…
Ngày cuối cùng, Cỏ gầy, Chiếc cốc đời là những truyện ngắn được kể lại bằng thái
độ bình thản, điềm đạm của một người từng trải, đã qua nhiều sự kiện, đã từng chứng kiến
những mất mát, những nỗi đau của cuộc đời. Tuy nhiên, ẩn sâu bên trong sự bình thản đó
là những xúc cảm chân thành đồng điệu với xúc cảm của các nhân vật. Ngày cuối cùng là
nỗi buồn trước cảnh mất mát cơ nghiệp của bác Voiekov và sự bồn chồn sốt sắng của
người mua lại cơ nghiệp ấy – bác Rostovsev. Người kể chuyện bình thản kể lại từng hành
động của nhân vật: tàn phá nốt những gì còn lại của cơ ngơi xưa, nhớ tiếc quá khứ và xấu
hổ với tổ tiên, sai người giết chết những con chó nòi borzoi quý còn lại, sự sĩ diện trước
76
những người từng làm công với mình. Thực tế, ngay mở đầu tác phẩm, người kể chuyện
đã bày tỏ sự đồng cảm với những mất mát to lớn của bác Voiekov: “Thôi thế là xong: gia
súc bán cho người ta, chủ mới đã dong đi, những cỗ xe ngựa, yên cương, đồ đạc bán cho
người ta, chủ mới cũng đã chở đi, cổng lò rèn và kho chứa củi, cửa vựa thóc và chuồng
ngựa đều đã mở toang hoang: đâu đâu cũng đều trống rỗng, trơ trụi; trong sân thảy cũng
đều hết sạch trơn cả rồi.” [15; tr. 103]. Cụm từ “thôi thế là xong” là sự nuối tiếc, sự đau
xót của một người cả đời phấn đấu gìn giữ cơ nghiệp của tổ tiên nhưng thất bại. Nhân vật
được miêu tả trong sự tuyệt vọng, trong nỗi xấu hổ, trong xúc cảm nhỏ nhen của người
nông dân mà người kể chuyện đã thâu tóm được. Người kể chuyện cũng rất tinh ý, đã
nắm bắt được cảm xúc của người tiểu thị dân lần đầu tiên mua được một cơ ngơi thực sự.
Tâm trạng háo hức bị dập tắt bởi những hành động nhỏ nhen của người chủ cũ. Nhận nhà
lúc đã khuya, vội vàng nhìn ngắm cơ ngơi, bác Rostovsev nhanh chóng thất vọng. Người
kể chuyện nắm được cái tâm lí hồi hộp và chờ mong ấy, miêu tả rất chính xác cả sự tức
giận, cả nỗi hoài nghi, cả nỗi lo lắng của một nhà đầu tư, cả cái tâm lí tự trấn an mình,
rằng “chưa chi mình đã mất tinh thần”. Người kể chuyện toàn tri ở đây không chỉ dẫn dắt
câu chuyện, mà còn “đi guốc trong bụng” nhân vật, thâu tóm những xúc cảm của câu
chuyện bằng cách nắm bắt tâm lí và miêu tả nó rất chính xác. Sự thâu tóm tâm lí tinh tế ấy
còn xuất hiện trong Cỏ gầy, Chiếc cốc đời… Người kể chuyện tỏ ra am hiểu tâm lí của
nhân vật người nông dân nghèo trước cái đói, cố gắng ăn bằng hết những gì đang có dù
không thể ăn được, am hiểu nỗi sợ hãi cái chết nhưng luôn bằng lòng trước Chúa bởi cái
chết, bởi ngày cuối cùng là Chúa quyết định. Trong Chiếc cốc đời người kể chuyện hiểu
tường tận tâm lí của cha Kiro cao ngạo, sĩ diện, không chấp nhận thua kém người khác,
tâm lí của bà Sanhia yếu đuối, nhu nhược, của lão Goridontov hả hê dù rất thực dụng…
Những giấc mộng của Trang hoàn toàn được kể từ người kể chuyện toàn tri. Thực tế,
Trang là một con chó, nên dù được nhân hóa Trang cũng khó có thể tự trải nghiệm, suy
nghĩ, nói năng và bộc lộ cảm xúc. Người kể chuyện vừa dẫn chuyện, vừa hòa vào điểm
nhìn bên trong của Trang, vừa hướng đạo để tạo mạch xúc cảm – suy tưởng. Nhờ thế,
cảm xúc trong câu chuyện không chỉ chân thực, thuyết phục mà còn có tính khuynh
hướng rõ rệt, tạo nên ấn tượng trữ tình.
77
Trên chuyến tàu đêm khuya, người kể chuyện trong Say nắng hòa vào xúc cảm yêu
đương say đắm của nhân vật người đàn ông với người phụ nữ trên con tàu, cuốn vào cơn
“say nắng” của họ trong một khách sạn tỉnh lẻ ven sông, rồi say cùng nhân vật trong xúc
cảm ngây ngất khi tiễn nàng lên tàu, để rồi trống rỗng hụt hẫng khi người con gái rời xa
mình. Người kể chuyện toàn tri không chỉ đồng cảm từ bên ngoài với những xúc cảm rất
chân thật của viên thiếu úy, mà còn như cảm hiểu từ bên trong, từ đáy sâu tâm hồn nhân
vật: “Vừa sung sướng lại vừa kinh hoàng, con tim chàng lặng đi khi chàng nghĩ rằng chắc
hẳn toàn thân nàng đã rắn chắc lại và ngăm đen đi dưới tấm xiêm bằng vải gai này sau
một tháng ròng nằm dưới ánh mặt trời phương Nam trên làn cát biển nóng bỏng” [15; tr.
204]; “Và đại thể là chàng trung úy đã dễ dàng thể theo lời nàng. Với tâm tình nhẹ nhõm
và sung sướng, chàng đưa chân nàng ra tận bến tàu” [15; tr. 206]…
Với những truyện có khuynh hướng thủ tiêu bề mặt sự kiện, chủ yếu là miêu tả,
khơi gợi xúc cảm và triết lí, rõ ràng, vai trò thâu tóm và thể hiện cảm xúc của người kể
chuyện toàn tri lại càng rõ ràng. Người kể chuyện lúc này đóng vai trò là Chúa Trời, là
nhà tiên tri rao giảng triết lí và truyền xúc cảm cho người đọc. Vì thế, những triết lí được
đưa ra khách quan và giàu sức thuyết phục, xúc cảm trong những câu chuyện cũng mang
tính chất thiêng liêng và trân trọng hơn. Đọc Người mù, Nhà mồ, Bức chân dung, 100
rupees, Hy vọng, Trẻ và Già… chúng ta sẽ thấy rõ điều này.
Trong Trẻ và Già, câu chuyện về cuộc đời của con người với ba mươi năm đầu
sống theo cách của con người, mười lăm năm tiếp theo là theo cách của một con lừa,
mười lăm năm nữa theo cách một con chó và mười lăm năm cuối là của một con khỉ nhăn
nheo, già nua, ốm yếu được người kể chuyện biết tuốt kể lại qua lời của một người được
coi là “già” về tuổi tác. Cuộc đối thoại giữa họ kết thúc khi người già ấy khẳng định “Tôi
không phải một con lừa, không phải một con chó, vậy tại sao tôi lại phải là một con khỉ?
Tại sao tôi phải già?” [99 – tập 6; tr. 232]. Việc để cho người kể chuyện toàn tri thâu tóm
sự việc, cảm xúc trong những tác phẩm mang đậm tính triết lí như vậy tập trung sức nặng
trải nghiệm suy tưởng vào một mối, tăng cường xúc cảm – triết luận trữ tình cho tác
phẩm. Giống như những truyện ngắn kể từ ngôi thứ ba nói chung, có lúc người kể chuyện
nhập vào vị thế nhân vật, phát biểu cảm xúc và suy nghĩ từ bên trong, câu chuyện nhờ đó
vẫn lôi cuốn độc giả bằng cảm xúc chân thực. Song truyện kể từ ngôi thứ ba của Bunin lại
78
không tạo ấn tượng gián cách với nhân vật, người đọc, ngược lại nó tập trung tạo ấn
tượng giao cảm trữ tình. Truyện kể từ ngôi thứ ba của Bunin không hề có ý vị mỉa mai
nước đôi với giọng điệu trữ tình. Đây là điểm khác biệt của nhà văn với người tiền bối
A.Chekhov.
3.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất – nhân vật “trải nghiệm” cảm xúc
Trong các sáng tác của Bunin, số lượng các tác phẩm được kể từ ngôi thứ nhất,
xưng “tôi” rất nhiều (35/100 truyện được khảo sát) , đặc biệt là những sáng tác sau Cách
mạng tháng Mười. Dường như sau Cách mạng, khi đã sống và làm việc ở nước ngoài, nhà
văn chủ yếu viết về những trải nghiệm của chính bản thân mình. Nhân vật “tôi” – trí thức,
nghệ sĩ, quý tộc kể về câu chuyện của chính anh ta (Những quả táo Antonov, Natali, Con
quạ, Canh khuya, Cuộc đời tươi đẹp, Ngày thứ Hai chay tịnh, Mùa thu lạnh, Một truyện
tình nho nhỏ, Ở một phố thân quen, Kavkaz…) để hoài nhớ nước Nga, hoài nhớ những kỷ
niệm tình yêu và cả những buồn đau. Trong những truyện ngắn này, người kể chuyện là
nhân vật nam chính – nhân vật tình yêu trong tác phẩm tự kể câu chuyện tình của mình.
Bởi thế, xúc cảm trong những câu chuyện được kể là những xúc cảm được nhân vật trực
tiếp trải nghiệm. Chúng tôi gọi người kể chuyện trong những sáng tác này là người kể
chuyện ngôi thứ nhất – nhân vật “trải nghiệm” cảm xúc.
Natali kể câu chuyện về mối tình tay ba giữa ba nhân vật tôi – Natali và Sonia.
Trong tác phẩm tôi trực tiếp kể lại chuyện tình của mình. Đầu tiên là cảm giác sung sướng
“cảm thấy cái hạnh phúc được bắt đầu sống một cuộc sống trẻ trung, đầy tự do phóng
khoáng”, rồi sau đó là một chuỗi những xúc cảm: dằn vặt, băn khoăn, hối hận. Về nghỉ hè,
gặp gỡ cả hai cô gái, tôi tỏ rõ sự băn khoăn lúng túng giữa hai cô nàng với hai kiểu tình
yêu khác nhau. Sonia thì mạnh bạo, quyết liệt, mong muốn chiếm hữu, Natali thì dịu
dàng, trong sáng và thuần khiết. Tôi bị quyến rũ ngay lập tức bởi nét đẹp thuần khiết và
sự đoan trang của Natali, nhưng không thể từ chối sức quyến rũ bạo liệt đến từ Sonia, để
rồi vuột mất mối tình thực sự của mình: “Mỗi lúc tôi lại càng thêm ngạc nhiên, thêm sợ
hãi: vì lẽ gì mà ông trời trừng phạt tôi như vậy, vì lẽ gì mà cùng một lúc đem đến cho tôi
hai mối tình rất khác nhau và cùng say đắm như nhau, - cái đẹp phụng thờ đầy đau đớn
đối với Natali và cái đắm đuối về thể xác với Sonia” [16; tr. 503]. Trải qua những biến cố
79
của cuộc đời, tôi gặp lại Natali, nối lại tình xưa với nàng, rồi chứng kiến cái chết của nàng
khi nàng sinh non bên hồ Genève. Tôi mỗi lần đứng trước cơ hội hạnh phúc đều do dự để
rồi tự đánh mất quyền được hạnh phúc, quyền được bao bọc người mình thương yêu.
Diễn tiến cảm xúc của nhân vật tôi trong tác phẩm với những cung bậc khác nhau để lại
nỗi xúc động và nuối tiếc trong lòng người đọc đồng cảm.
Một truyện tình nho nhỏ cũng là một kỷ niệm tình yêu được nhân vật tôi kể lại.
Câu chuyện ban đầu được tôi kể bằng giọng điệu có vẻ bình thản, người kể chuyện dường
như không bày tỏ cảm xúc của mình, người bày tỏ cảm xúc là nàng, người yêu của tôi:
“Chưa dứt lời, nàng ôm tôi, buồn rầu và âu yếm nhìn vào mắt tôi, dừng lại mấy giây rồi
hôn tôi, một lần, hai lần…” [16; tr. 582]. Thế nhưng đến cuối tác phẩm, tôi càng ngày
càng bộc lộ rõ hơn xúc cảm nội tâm của mình. Những cảm xúc ấy bộc lộ qua thái độ với
những lời thổ lộ trong lá thư nàng gửi, đến từ những yêu đương thực sự đã thức dậy sau
chuỗi ngày tưởng rằng “đó chỉ là một cuộc gặp ngẫu nhiên, một chuyện tình nho nhỏ,
không hơn” [16; tr. 583]. Có lẽ đó là sức mạnh của những khoảnh khắc mãnh liệt trong
tình yêu. Nhưng bất hạnh là khi tình yêu được nhận ra cũng là lúc người yêu đã không
còn nữa, và cái “chuyện tình nhỏ” ấy mãi là chuyện tình nhỏ trong hồi ức hạnh phúc: “Và
khi ấy tôi có cảm giác rằng trong đời, tôi không cần gì hơn ngoài mùa xuân ấy và những
suy nghĩ về hạnh phúc” [16; tr. 590]. Câu chuyện tình yêu trong tác phẩm xuất phát từ
những tình cảm yêu đương trong trẻo của người trong cuộc có một kết thúc buồn. Chàng
trai chấp nhận bàn tay sắp đặt của số phận và tưởng niệm tình yêu của mình bằng cảm xúc
của bản thân. Truyện để lại dư vị man mác trong lòng người đọc.
Con quạ bắt đầu bằng lời miêu tả “Cha tôi giống y như con quạ” và xúc cảm buồn
bã của chàng trai khi nhìn hình ảnh người cha của mình. Xúc cảm ấy phần nào lí giải
những mâu thuẫn trong cuộc sống giữa hai người, cách họ nói chuyện, ứng xử với nhau,
cách họ giành lấy tình yêu cho mình. Nhân vật tôi yêu người gia sư của em gái từ lần gặp
đầu tiên khi về quê nhà nghỉ hè. Tình yêu của họ phải trốn tránh cái nhìn soi mói của
người cha, cái nhìn của một “con quạ”. Cha của tôi cũng mong muốn được lấy cô gia sư
làm vợ, bởi thế luôn lo sợ và tìm cách ngăn cấm tình cảm của hai người: “Nhưng nàng
càng cố thờ ơ với tôi thì những cái liếc xéo mà cha tôi ném về phía tôi lại càng băng giá
hơn: không chỉ riêng ông, mà ngay cả tôi cũng hiểu và cảm thấy rằng, đằng sau sự cố
80
gắng nhức nhối không để ý đến tôi, mà chỉ nghe cha tôi nói chuyện và trông chừng cô bé
Lilia tuy ít nói nhưng hiếu động và hay cáu giận, đang ẩn giấu một nỗi lo sợ khác, - nỗi sợ
hãi sung sướng trong niềm hạnh phúc chung của chúng tôi là được ở bên nhau.” [19; tr.
108]. Người kể chuyện xưng tôi kể lại giây phút hạnh phúc của mình bị bố bắt gặp: “Và
nàng ngước khuôn mặt đẫm nước mắt lên ôm chầm lấy tôi trong một nụ hôn dài đến
nghẹn cả thở. Tôi ép nàng sát vào mình và kéo lại gần chiếc đi văng – tôi đâu còn hiểu và
nhớ được gì trong giây phút ấy? Nhưng ngoài ngưỡng cửa thư phòng đã nghe tiếng hắng
giọng khe khẽ: tôi ngó qua vai nàng – cha tôi đang đứng đó nhìn chúng tôi.” [19; tr. 110].
Câu chuyện kết thúc khi nhân vật tôi (sau khi đã từ chối quyền thừa kế và tìm được một
việc làm tốt) nhìn thấy cha mình và cô gia sư cùng vào rạp hát sau khi đã thành vợ thành
chồng. Hình ảnh “con quạ” trong ý thức của chàng trai trẻ với xúc cảm tiêu cực qui chiếu
vào người cha. Ở đây, người kể chuyện xưng tôi tự mỉa mai chính người cha của mình, từ
hình dáng bên ngoài “lưng gù gù như con quạ” cho đến hành động, tính cách. Cái cách
mà người cha tán tỉnh và lấy lòng cô gia sư, đe dọa cậu con trai (nhân vật tôi) và cuối
cùng chiếm hữu cô gái ấy gợi liên tưởng tới motif ác điểu bắt cóc người đẹp về làm vợ
trong những câu chuyện cổ tích. Thêm nữa, vẻ ngoài của người cha: “con quạ” lại đối lập
đầy hữu ý với người vợ trẻ xinh đẹp của ông: “con công”. Như vậy, xúc cảm của người kể
chuyện xưng tôi trong tác phẩm tuy được biểu lộ kín đáo nhưng cũng rất tinh tế.
Cuộc đời tươi đẹp là lời bày tỏ đầy tự tin và lạc quan của nữ nhân vật Nastasia
Semionovna về cuộc đời mình. Cô nông dân đã phấn đấu bằng trí tuệ và sự lanh lẹ để
vươn lên địa vị một bà chủ giàu có. Trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, cũng không ít
đau khổ, buồn thương nhưng người kể chuyện vẫn luôn vui vẻ lạc quan. Tuy nhiên, dư âm
đọng lại của tác phẩm là nỗi buồn, một nỗi buồn man mác không tên nhưng da diết: “Mà
quả vậy, ở chỗ chúng tôi, ở nhà của gia đình Samokhvalov ấy mà, thường là rất buồn khi
mọi người đều đi ngủ trưa cả rồi và khi gió cuốn cái thứ bụi ấy đến! Và cậu ta cũng tự tử
vào cái lúc nóng nực ghê người, vào cái lúc tối tăm nhất. Thành phố của chúng tôi quả là
buồn khủng khiếp. Mới đây tôi có đến Tula và thấy không sao so sánh được!” [16; tr.
101]. Có thể thấy, những nhân vật nữ kể chuyện xưng tôi ít ỏi trong tác phẩm của Bunin
là những người rất mạnh mẽ. Họ có thể tỏ ra bình thản khi vượt qua những biến cố của
cuộc đời mình. Song, cuối cùng, họ vẫn không sao vượt thoát được nỗi buồn đến từ hoài
81
niệm. Mùa thu lạnh mở đầu bằng tâm trạng nặng nề của người con gái trước ngày tiễn
người yêu ra trận: “Tất cả mọi chuyện trong tâm hồn tôi đều trở nên nặng nề”, tiếp tục với
nỗi buồn khôn tả: “Tôi đi lại trong phòng, tay đặt sau lưng, không biết mình nên làm gì,
hoặc khóc òa lên hoặc thét to với hết giọng của mình…” khi người yêu ra đi. Rồi những
xúc cảm buồn thương đến khi người yêu hi sinh: “Và nhiều, rất nhiều cảm xúc trong
những năm tháng đó, có cảm tưởng sao lâu đến thế, khi ta chủ ý nghĩ về chúng…” và
những xúc cảm ấy cứ theo đuổi nhân vật đến cuối cuộc đời. Buổi chiều thu lạnh chia tay
ấy mãi là xúc cảm vĩnh cửu lưu lại trong lòng nhân vật, đồng thời cuốn cả người đọc vào
những suy tư đau xót khôn nguôi.
Ở một phố thân quen, Kavkaz là những câu chuyện về bản lĩnh vững vàng, về cái
tôi nam tính có vẻ bất cần và thờ ơ trước nỗi đau, niềm mong mỏi của người khác. Những
người kể chuyện xưng tôi này coi những mối tình đã qua chỉ như giấc mơ, như hồi ức
chợt hiện trong đó mình đóng vai trò chủ động. Trái lại, nhân vật tôi – chàng trai trong
Ngày thứ Hai chay tịnh lại bị động trước người bạn gái của mình. Mọi xúc cảm của anh
đều phụ thuộc vào tâm trạng của nàng: nàng vui – chàng sung sướng, nàng khó chịu –
chàng cũng buồn rầu. Nhưng đau khổ nhất là khi anh chàng kể lại ngày tháng hạnh phúc
nhất cũng là ngày tháng hụt hẫng và buồn đau nhất. Nàng hiến dâng cho chàng rồi bỏ đi
tu. Xúc cảm trong câu chuyện kéo người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác theo diễn
tiến tâm trạng thất thường của nàng và chàng. Để khi câu chuyện kết thúc, đọng lại là nỗi
thương cảm, tiếc nuối … Truyện ngắn của Bunin, như vậy, với các nhân vật kể chuyện có
những trải nghiệm khác nhau trong tình yêu, trong những biến cố cuộc sống với những
nét diễn biến tâm trạng rất chân thực đã mang đến cho người đọc những sự đồng cảm, sự
trân trọng và có thể cả những xúc cảm trái chiều. Song khuynh hướng chung vẫn là cuốn
được người đọc vào những trải nghiệm tâm trạng của người kể chuyện tạo dựng sự thống
nhất xúc cảm với nhân vật và sau nó là cái tôi trữ tình của tác giả.
3.1.3. Luân chuyển người kể chuyện, thống nhất xúc cảm
Trong những truyện ngắn của Bunin, có những tác phẩm xuất hiện hai người kể
chuyện: người kể chuyện từ ngôi thứ ba toàn tri dẫn dắt mở đầu, sau đó tới lượt nhân vật
chính trong tác phẩm tự kể câu chuyện của mình (8/100 truyện được khảo sát). Shmid khi
82
phân tích sự luân chuyển ba lớp người kể chuyện trong Tập truyện ông Belkin của
Pushkin đã gọi đó là sự xuất hiện của những người kể chuyện đa tầng, và lối kể chuyện ấy
được coi là lối kể đa tầng [173; tr. 80]. Theo chúng tôi, so với Pushkin, lối kể đa tầng của
Bunin có sự linh hoạt hơn về mặt biểu cảm. Hơi thở nhẹ, Đứa con trai, Một truyện tình
nho nhỏ, Galia Ganskaya, Rusya,… là những truyện như thế. Cá biệt, có tác phẩm, câu
chuyện có sự chuyển đổi giữa người kể chuyện ngôi thứ nhất gián tiếp (người nghe
chuyện – tác giả dùng ngôi “chúng tôi”) và người kể chuyện ngôi thứ nhất trực tiếp xưng
“tôi”, người trực tiếp kể lại câu chuyện. Ida là tác phẩm tiêu biểu nhất cho lối kể này.
Buồn, tiếc nuối pha chút sĩ diện hão cố che giấu là tâm trạng của nhân vật người
nhạc sĩ già trong Ida. Trong buổi tiệc cuối năm, người nhạc sĩ vẫn không nguôi ngoai nỗi
buồn về quá khứ. Mượn cớ kể câu chuyện của người khác, ông thổ lộ tâm sự của chính
mình, tự nhận thấy sự ngốc nghếch, vô tâm, sự kém nhạy cảm ở mình: “Các bạn thân
mến, mặc dù cái bụng tôi no, nhưng trong lòng tôi lúc này vẫn thấy buồn. Tôi buồn bởi vì
sáng nay khi thức dậy tôi bỗng nhớ đến một câu chuyện nhỏ xảy ra cách đây đúng ba
năm, vào ngày thứ hai của lễ Giáng sinh với một người bạn của tôi, kẻ mà sau này mới vỡ
nhẽ ra là một tên ngốc thật sự” [17; tr. 15]. Những xúc cảm của người nhạc sĩ già biến đổi
theo lời kể của ông, và xúc cảm của người kể chuyện cũng biến đổi theo những biến đổi
xúc cảm ấy. Trước lời thú nhận của Ida, người nhạc sĩ cảm thấy sợ hãi: “Ông nhạc sĩ im
lặng và ngước cặp mắt có vẻ như ngạc nhiên và sợ hãi lên nhìn chúng tôi”. Xúc cảm
chuyển sang sự băn khoăn, băn khoăn giữa niềm hạnh phúc và sự bất ngờ đến sững sờ:
“Và cái chính, cái chính là: có thể trả lời thế nào trước lời thú nhận vô cùng bất ngờ, đáng
sợ và hạnh phúc ấy, trước khuôn mặt hơi tai tái và biến dạng (vì bối rối, vì cái gì tương tự
như nụ cười) đang ngước lên một cách tin tưởng, chờ đợi ấy?”. Người kể chuyện xưng
“chúng tôi” im lặng, ngạc nhiên trước cặp mắt sáng long lanh và khuôn mặt đỏ ửng của
người nhạc sĩ. Rồi như tự xấu hổ với mình, ông tự trả lời: “Có những khoảnh khắc mà ta
không nên thốt ra một lời nào. Và may mắn thay, vinh dự thay cho người bạn đường của
chúng ta, chàng không nói một lời nào”. Thực tế, đó là sự thôi thúc của một sự gắn bó vô
hình mà mối tình vô hình đã đeo đuổi ông suốt cuộc đời. Ngay ở trong sự tiếc nuối và
buồn bã của mình, ông cũng vẫn tự cao: “Nhưng nói chung về chuyện này thế là đủ, - ông
nhạc sĩ bỗng đổi hẳn giọng, nói rất to với sự vui vẻ giả tạo”. Cuối tác phẩm, khi đã say
83
mềm, khi không còn bị lí trí kiềm tỏa, những xúc cảm thật nhất trong ông trỗi dậy: “Ông
nhạc sĩ thì cứ nhảy một cách im lặng, trông đầy vẻ điên rồ và phấn khích, ông nhảy một
cách nhẹ nhàng kỳ lạ so với thân hình ông…và ông nhạc sĩ bất ngờ cởi chiếc mũ lông trên
đầu ra rồi hét vang khắp quảng trường, nước mắt giàn giụa trên má: - Mặt trời của tôi!
Người tình của tôi! U-ra!” [17; tr. 21].
Trong Đứa con trai nhân vật người kể chuyện thâm nhập và diễn tả tinh tế diễn
biến tâm lí của bà Maro, từ khi là một cô gái mới lấy chồng, khi trở thành một người vợ,
một người mẹ, một bà chủ mẫu mực, cho đến khi trái tim đức hạnh của bà rung động thật
sự trước mối tình nồng nhiệt của một chàng trai trẻ - sự rung động mà bà luôn cố tự nhủ
đó là mối tình mẹ - con. Để rồi, những tháng ngày xa vắng “đứa con trai” đã khiến bà dở
sống dở chết, và cuối cùng, vào cái ngày tâm trạng của bà khoan khoái bất ngờ cũng là
ngày bà được thấy “đứa con trai” lần cuối, cũng là ngày bà tự kết liễu cuộc đời mình. Từ
điểm nhìn của mình, người kể chuyện toàn tri thâu tóm sự kiện, tổ chức cách kể (đoạn
cuối, khi bà Maro gặp Emin lần cuối cùng trong đời và quyết định tự sát, câu chuyện
được kể bằng lời của Emin) từ đó nắm bắt và thâu tóm cảm xúc của các nhân vật trong
câu chuyện. Người kể chuyện thấu hiểu xúc cảm tự lừa dối mình, không dám thừa nhận
tình yêu ở bà Maro, thấu hiểu nỗi ám ảnh của sự xa cách và mối tình tội lỗi, thấu hiểu
những khát khao trỗi dậy mãnh liệt ở một con người cả đời luôn giữ mình trong sạch, thấu
hiểu cả những hồi quang hạnh phúc cuối cùng trước khi một con người từ giã cõi đời. Từ
điểm nhìn toàn tri, người kể chuyện thay đổi điểm nhìn sang Emin để cậu trai trẻ tự kể về
bi kịch cuộc đời mình và cái chết của bà Maro. Đó là một sự chuyển đổi cảm xúc và lối kể
tinh tế: cái chết – tình yêu, sự khủng khiếp – điều đẹp đẽ lại một lần nữa song hành với
nhau. Một khi tình cảm mẹ - con chuyển hóa thành tình yêu lứa đôi tội lỗi, nó không thể
tồn tại trong con người đức hạnh như bà Maro được nữa. Người kể chuyện để các nhân
vật tự kể về bi kịch của mình và đứng ngoài quan sát nhằm thâu tóm trọn vẹn mọi diễn
tiến cảm xúc. Vì thế, không có sự gián cách xúc cảm của nhân vật – người đọc – người kể
chuyện. Hơi thở nhẹ cũng có sự chuyển đổi ngôi kể tinh tế và chân thực như vậy. Rusya là
một câu chuyện tình, được kể từ hai người kể chuyện: người kể chuyện biết tuốt và người
kể chuyện nhân vật. Người kể chuyện toàn tri kể câu chuyện về một đôi vợ chồng trên
chuyến tàu tốc hành Moskva - Sevastopol, tàu chạy qua một ga nhỏ gợi nhắc kỷ niệm của
84
người chồng. Từ đó, người chồng kể lại câu chuyện tình của chính mình với những xúc
cảm nâng niu, trân trọng. Người đọc bị cuốn vào câu chuyện tình nên thơ và lãng mạn đó,
vào những rung động đầu đời trong sáng, chân thực đó, và có lẽ sự đồng cảm là dư vị
ngọt ngào còn lại sau khi đọc tác phẩm. Galia Ganskaya bắt đầu từ khung cảnh thiên
nhiên mùa xuân Paris, Odessa, từ đó gợi nhớ đến những người tình, những mối tình, và đó
cũng là bối cảnh để người kể chuyện xưng tôi – ông họa sĩ già kể lại câu chuyện về mối
tình đáng nhớ nhất của mình, mối tình với Galia Ganskaya. Tác phẩm kết thúc bằng xúc
cảm thực sự bất ngờ của người họa sĩ trước cái chết của Galia: “Tôi định dùng súng tự tử,
- ông họa sĩ lặng lẽ nhồi thuốc vào tẩu và nói khẽ, - suýt nữa thì tôi phát điên…” [19; tr.
108].
Như vậy, người kể chuyện trong truyện ngắn của Bunin, dù là người kể chuyện
ngôi thứ ba toàn tri hay người kể chuyện ngôi thứ nhất trực tiếp trải nghiệm, người kể
chuyện ngôi thứ nhất gián tiếp viết lại câu chuyện, tất cả đều đầy ắp cảm xúc trước những
câu chuyện được họ kể lại. Đặc biệt, sự chuyển đổi ngôi kể trong nhiều tác phẩm đã làm
tăng hiệu ứng tình cảm, gia tăng tính trữ tình cho truyện ngắn. Và tất cả những người kể
chuyện này, ít nhiều đều mang bóng dáng người đàn ông Nga lịch lãm, nhẹ nhàng, tinh tế,
khát khao yêu và được yêu, nhưng đôi khi yếu mềm, không đủ sức mạnh để vượt qua định
kiến và số phận, có lúc lại vô tâm đến mức không nhận ra tình cảm của mình, để rồi đến
lúc vuột mất tình yêu lại bị ám ảnh cả đời.
Rõ ràng, nhân vật người kể chuyện trong truyện ngắn của Bunin với thái độ, cảm
xúc, giọng điệu của mình đã tạo nên một sức quyến rũ khó cưỡng cho tác phẩm của ông.
Đặc biệt, xúc cảm lại càng đong đầy khi những chủ thể trữ tình ấy kể cho người đọc nghe
những câu chuyện về vẻ đẹp vĩnh hằng chỉ còn trong ký ức của nước Nga, của những
người con gái Nga…
3.2. Nƣớc Nga trong miền hoài niệm
Sinh ra và trải qua thời thơ ấu trong vị thế của một cậu bé quý tộc Nga tỉnh lẻ giàu
tình cảm mến thương với đồng ruộng, với những người nông dân, những điền chủ nhỏ có
cuộc đời bình thản mà hiếu khách; lớn lên trở thành một nhà thơ với tâm hồn tinh tế, giàu
xúc cảm lại gặp phải những biến cố lịch sử quan trọng gây ra những khoảng hụt hẫng tâm
85
hồn khiến dù yêu, dù thương, dù đau đáu về nước Nga Bunin cũng không thể ở lại, để rồi
cả đời luôn canh cánh khát vọng trở về. Đến Pháp, sống giữa Paris hoa lệ Bunin dường
như vẫn không hòa nhập được với cuộc sống mới, với không khí nghệ thuật ngập tràn tại
mảnh đất này. Ông chỉ viết về nước Nga, con người Nga, tâm hồn Nga, tính cách Nga,
cảnh sắc thiên nhiên Nga… - cái nước Nga mà khi còn là một chàng trai trẻ, trái tim nhạy
cảm của chàng trai ấy đã rung lên những nhịp đập xao xuyến bồi hồi. Đó là hình bóng của
nước Nga cổ xưa, nước Nga đẹp thuần khiết và thánh thiện, nước Nga đẹp cả trong những
tháng ngày đau thương, buồn bã… Cả cuộc đời, và cho đến trước khi từ giã cõi đời, nhà
văn vẫn không ngừng nhắc: “Làm sao chúng ta có thể quên Tổ quốc?... Tôi là một người
Nga. Điều đó dù bao nhiêu năm cũng không mất đi được…” [17; tr. 6]. Nước Nga thực sự
đã trở thành đối tượng trữ tình, trở thành nhân vật quan trọng trong thế giới nhân vật của
nhà văn. Truyện ngắn của Bunin chính là tấm gương soi kí ức vĩnh cửu về cảnh sắc thiên
nhiên và những nét đẹp văn hóa, tinh thần của nước Nga cổ xưa được nhà văn nâng niu,
trân trọng.
3.2.1. Thiên nhiên Nga trong vẻ đẹp vĩnh hằng
Trước hết, không thể phủ nhận, những bức tranh thiên nhiên nước Nga được miêu
tả trong truyện ngắn của Bunin (ngay cả những bức tranh buồn) đều nằm trong số những
bức tranh thiên nhiên đẹp nhất của văn học Nga. Thiên nhiên Nga bốn mùa đi vào trang
văn của Bunin như những bức tranh được chạm khắc bằng ngôn từ: những cánh đồng,
thảo nguyên Nga bao la, vầng trăng dịu dàng in bóng trên nền tuyết trắng mênh mông,
những cây bạch dương vàng rực, hương táo thơm, tiếng chim họa mi... Những bức tranh
ấy không chỉ đẹp, mà còn thấm đẫm xúc cảm yêu thương.
Dường như mùa thu luôn được ưu ái trong truyện ngắn của Bunin. Trong truyện
Hy vọng ông viết: “Có một sự quyến rũ không gì sánh được trong những ngày mùa thu
xám trời và mát mẻ” [99 – tập 2; tr. 210]. Điểm thú vị là những bức tranh mùa thu thường
gắn liền với thiên nhiên nông thôn nước Nga. Mùa thu mộc mạc, thanh khiết và phảng
phất nét hồn nhiên, bình thản của đồng quê. Đó có thể là không gian thôn quê lúc chớm
thu, lúc thu đã vào độ rực rỡ nhất hay lúc cuối thu chuyển sang đông.
86
Không thể không kể tới nét quyến rũ, nên thơ và trong trẻo của mùa thu tháng Tám
ở nước Nga trong Những quả táo Antonov. Đó là một mùa thu tốt lành với nhiều dấu hiệu
báo trước mùa thu và mùa đông sẽ tốt trời: “Tôi hồi tưởng lại một mùa thu sớm, đẹp trời,
trong tháng tám đã có những trận mưa nhỏ ấm áp và những trận mưa này dường như cố
tình rơi xuống cho dân cày cấy, rơi xuống đúng lúc, vào giữa tháng, khi sắp sửa có ngày
lễ thánh Lavrenti (…) Tôi nhớ một khu vườn lớn đã khô và thưa lá, toàn bộ màu vàng
óng; nhớ những lối đi giữa hai hàng cây phong, mùi thơm nhẹ nhàng của lá rụng và cả
mùi táo Antonov, mùi mật ong và mùi của tiết thu tươi mát. Không khí trong trẻo đến nỗi
hệt như hoàn toàn không có nó nữa…” [15; tr. 11]. Người kể chuyện hân hoan chiêm
ngưỡng bức tranh vườn thu nước Nga đẹp thuần khiết và hứa hẹn một vụ mùa bội thu.
Trong Bi kí (Эпитафия), Bunin lại khắc họa hình ảnh mùa thu chốn thảo nguyên.
Vẫn là một mùa thu đẹp, quyến rũ và tốt lành nhưng đặc trưng sự vật đã khác: “Mùa thu
sáng sủa và êm đềm đến với chúng tôi, thanh bình và dễ chịu như thể, sẽ không có những
ngày cuối cùng chói chang. Mùa thu làm ra bầu trời xanh và sâu thẳm, sạch sẽ và dịu
dàng. Khi ấy, có thể phân biệt được ngọn đồi ở xa nhất trong thảo nguyên, nổi bật lên trên
bình nguyên vàng óng trải rộng bao la của rơm rạ. Mùa thu nhuộm cây bạch dương trong
sắc áo vàng rực. Còn cây bạch dương hân hoan đến mức không nhận thấy bằng cách nào
chỉ trong một thời gian ngắn, lá rụng theo lá rời khỏi cây, cho đến khi cuối cùng lớp phục
trang đẹp đẽ ấy không còn, chỉ còn lại thân cây trơ trụi trên thảm lá vàng rực. Vì mùa thu
quyến rũ, cây bạch dương đã hạnh phúc và đã phục tùng và tất cả đều sáng rực, ánh sáng
được phát ra cả từ ánh vàng phản chiếu dưới những đám lá khô. Còn những cái màng
nhện khẽ khàng bay bên cạnh cây bạch dương trong ánh nắng mặt trời, khẽ khàng đậu
xuống trên ruộng rơm rạ đã khô, giòn… Và dân gian gọi chúng một cách đẹp đẽ và dịu
dàng – sợi Đức Mẹ” [99 – tập 1; tr. 420-421]. Qua cách miêu tả của người kể chuyện,
người đọc cảm nhận được niềm xúc cảm gắn bó thân thương ẩn sau mỗi chi tiết sự vật,
đồng thời bao trùm lên cả bức tranh thu. Bức tranh thiên nhiên lôi cuốn độc giả hoà vào
xúc cảm trữ tình của cả nhân vật và tác giả.
Trong Lần gặp gỡ cuối cùng, ngày thu không còn vẻ tươi vui rực rỡ, đêm thu cũng
không có những đống lửa anh đào ấm cúng, chỉ có trăng thu, sương thu, khí thu lạnh lẽo
hòa vào tâm trạng buồn bã của chàng trai Storesnhev trong lần cuối gặp gỡ người mình
87
suốt đời yêu thương: “Mặt trăng đang treo trên những nội cỏ hoang vắng bàng bạc sương
đêm phía bên phải… Cảnh thu buồn mà đẹp xiết bao! (…) Sau khu rừng mở ra một
khoảng đồng không mông quạnh. Trên một triền dốc, giữa những ruộng rạ kiều mạch, có
một khu vườn tược tồi tàn với dăm ba công trình phụ, một mái nhà tranh. Dưới ánh trăng
tất cả cái cảnh đó sao mà buồn vậy!” [15; tr. 92]. Có thể gặp rất nhiều bức tranh mùa thu
vương vấn tâm trạng của tác giả và nhân vật… trong nhiều truyện ngắn khác của Bunin:
Mùa thu lạnh, Mùa thu cuối cùng, Những tấm danh thiếp, Mùa thu, Hy vọng…
Mùa đông, mùa hạ và mùa xuân nước Nga cũng đi vào trang văn Bunin với những
nét vẽ ấn tượng. Và trong những khung cảnh thiên nhiên ấy luôn hiện hữu tâm trạng của
con người. Ở Cỏ gầy, Bunin miêu tả cảm xúc vui sướng hiếm hoi của bác Averki khi mùa
đông đến. Dường như mùa đông làm sự sống bừng lên trong con người chỉ còn chờ ngày
về với Chúa: “Chao ôi, trong mùa đông bao giờ ta cũng có cảm giác hân hoan, quen thuộc
từ lâu! Trận mưa tuyết đầu mùa! Đồng ruộng trắng xóa cả ra và chìm ngập trong bão
tuyết, - nó còn đóng tắc nghẽn trong các khe nhà tới hàng nửa năm kia mà! Trên cánh
đồng tuyết, trong bão tuyết là hoang sơ, nhưng trong nhà là ấm cúng, là bình yên. Người
ta sẽ quét sạch sẽ những nền nhà bằng đất mấp mô, người ta sẽ kỳ cọ, chùi rửa những
chiếc bàn, người ta sẽ đốt lò cho ấm bừng lên bằng loạt rơm mới, - thú quá!” [15; tr. 144].
Trong Con đường mới, Bunin không chỉ miêu tả mà còn khẳng định mùa đông
nước Nga là vẻ u sầu của nước Nga: “Con đường mới sẽ dẫn tất cả đi xa hơn trong cái
mới đó, những khía cạnh mới của nước Nga mà tôi chưa từng biết, và từ đó tôi cảm nhận
mình đã sống thực hơn những gì tôi đã cảm nhận trong thời niên thiếu của mình: tất cả vẻ
đẹp và tất cả vẻ buồn sâu sắc của cảnh quan Nga, như một sự kết nối không thể tách rời
với đời sống Nga. (…) Ngày mùa đông trong rừng rất ngắn, và giờ đây hoàng hôn xanh
dần sau ô cửa sổ, và một nỗi buồn mơ hồ, xao xuyến, không có lí do – nỗi buồn rất Nga
cứ dần dần len lỏi vào trong trái tim” [99 – tập 1; tr. 446]. Nỗi buồn ấy từ thiên nhiên phủ
bàng bạc lên cảnh vật, phủ lên cả tâm trạng con người, cuốn người đọc vào cái thế giới
tinh tế, nhẹ nhàng, mà quyến rũ.
Còn đây là thiên nhiên Nga trong tháng Năm – với tiếng hót của chim họa mi gọi
mùa hè: “Vào những buổi hoàng hôn sáng sủa trong tháng Năm, tôi thường cưỡi ngựa dạo
chơi trong vùng Zakaz quê nhà. Con ngựa men theo con đường hẹp giữa những rặng liễu
88
và phỉ tử tươi mát. Bốn chung quanh đâu đấy đều tươi non, xanh rờn, tiếng họa mi thánh
thót đáp lời nhau hót dịu dàng và rành rọt ở hai bên đường. Mặt trời đã lặn từ lâu, nhưng
khu rừng còn chưa im ắng: tiếng chim ngói còn rầm rì ở gần đâu đây, những con chim
gáy vẫn gáy xa xa…” (Meliton) [15; tr. 39]. Đó là những tháng ngày nhàn nhã chốn rừng
quê. Nhìn lại quá khứ, Bunin dường như luôn tìm thấy những xúc cảm thân quen và gần
gũi, và thường niềm vui của con người lao động bình dị trong một khoảnh khắc nào đó cứ
quyến luyến nhà văn: “Có một cái gì đó hết sức đặc biệt trong những đêm ấm áp và sáng
sủa ở các huyện lỵ Nga dạo cuối hè. Thật là bình yên, thật là thư thái biết bao! Một ông
lão mang chiếc mõ cầm canh đi khắp cái thị trấn vui tươi ấy vào ban đêm; nhưng cụ đi chỉ
để tìm vui thú cho mình có gì phải canh gác đâu, bởi những con người tốt bụng, hãy cứ
ngủ yên, canh gác cho các người là sự phù hộ của Chúa, là bầu trời rạng rỡ vời vợi mà
ông lão thỉnh thoảng lại ngước nhìn lên khi đi giữa lòng đường đã được sưởi ấm qua một
ngày, và chỉ họa hoằn lắm cụ mới gióng lên một hồi mõ ngân vang và nhịp nhàng để làm
vui” (Canh khuya) [15; tr. 220-221]. Và trong những khung cảnh xưa cũ ấy, không ít lần
nhà văn đem chúng ra so sánh với thiên nhiên Paris nơi ông sống khi rời xa Tổ quốc: “Ở
Paris đêm đến thường ẩm ướt, tối tăm, trên bầu trời mù mịt thường hồng lên một ráng mù
sương, con sông Seine chảy một dòng đen kịt dưới những nhịp cầu, nhưng phía dưới cầu
cũng lủng lẳng những cột tia sáng óng ánh phản chiếu những ánh đèn trên cầu, có điều đó
là những tia sáng ba màu; trắng, xanh và đỏ, - màu cờ nước Nga.”(Canh khuya) [15; tr.
216-217]. Đó là niềm hạnh phúc của con người trưởng thành được sống lại kỷ niệm của
những tháng ngày còn là cậu thanh niên mới biết yêu. Dường như trong thiên nhiên nước
Nga được miêu tả luôn chất chứa kỷ niệm, hồi ức, tình cảm của tác giả. Bởi thế trong
khung cảnh thiên nhiên nước Pháp xa lạ, người viết vẫn nhìn thấy trong sắc cờ nước Pháp
dáng dấp của nước Nga thân yêu.
Mùa hè ở Nga có những cơn mưa rào dữ dội. Cảm giác nằm nghe mưa trong buổi
tối yên tĩnh có lẽ cũng là cảm giác gây nhớ gây thương khi ở xa: “Mùa hè, một điền trang
ở phía Tây của khu rừng. Mưa rào mát lạnh và u sầu đổ xuống cả ngày trời, tiếng ồn của
nó không ngớt gõ lên mái nhà lợp ván gỗ. Trong một ngôi nhà tranh tối tranh sáng yên
tĩnh, buồn chán, những con ruồi đang nằm trú trên trần nhà… Trên trời, trong làn khói
mờ, một cánh cò dật dờ đầy băn khoăn: lông sẫm đen lại, thân gầy guộc đi, với đôi cánh
89
và đuôi rũ xuống, đứng bên mép cái tổ của nó ở trên ngọn của cây bạch dương trăm
tuổi…, và đôi lúc phẫn nộ, lo lắng, nhảy lên gõ gõ cái mỏ cứng vào thân gỗ: cái gì thế
này, đại hồng thủy, đại hồng thủy thật rồi!” (Mối tình đầu) [99 – tập 5; tr. 328].
Mùa xuân ở nông thôn Nga được đặc trưng bởi hương đất ẩm lạnh và mùi cỏ non,
xen lẫn hương hoa táo dịu ngọt: “Có mùi hoa đấy, nhưng chỉ phảng phất. Nồng nặc hơn
vẫn là mùi đất ẩm lạnh và mùi cỏ non tươi.” (Ngày cuối cùng) [15; tr. 112]. Đêm xuân
tràn đầy sức sống trái ngược với cõi lòng tan nát của bác Rostovtsev khi tiếp nhận cơ ngơi
tan hoang của người chủ cũ. Trong Mùa xuân cuối cùng không khí của buổi bình minh
mùa xuân rất dễ chịu: “Gió đã ngừng thổi. Bầu trời đã quang quẻ, luồng ánh sáng vàng
phía tây mở rộng mãi ra. Không khí mát mẻ, mùi hương của đất sực lên từ những cánh
đồng mùa xuân. Mặt trời ló ra – và chiếu rọi lên khu vườn trơ trọi: những cành tử đinh
hương sáng rực lên, nhìn rõ cả những thân cây lá kim cằn cỗi” [99 – tập 4; tr. 138].
Mùa xuân nước Nga còn là hình ảnh của mặt trời tươi rói, nước lũ xuân tràn trề sau
tan băng: “Ở đó rừng bắt đầu, và đồng cỏ bao la nhường chỗ cho những khe suối hẹp,
những hòn đá và những dòng nước mùa xuân ngổn ngang” [99 – tập 2; tr. 397]. Trong kí
ức của người kể chuyện, chuyến đi chơi với “tình yêu đầu tiên” thời thơ ấu là một chuyến
đi vui buồn lẫn lộn với những tình cảm giận hờn con trẻ trong không khí thấm đẫm hơi
xuân, tràn đầy sức sống. Các cô bé cậu bé Mitia, Petia, Leva mê mải trải nghiệm những
xúc cảm của tuổi thơ trong khung cảnh mùa xuân thảo nguyên thơ mộng: “Trong không
khí ấm áp của hoàng hôn sẫm tối đã cảm nhận được mùi hương tươi mới của hoa và cỏ
thảo nguyên đẫm sương. Thỉnh thoảng từ một nơi nào đó trong “đêm” vọng đến âm thanh
của tiếng nhạc ngựa... Tất cả chìm đắm trong những ý tưởng yên lặng nào đó, chìm đắm
vào những ruộng lúa mì bên đường, và cả thảo nguyên yên lặng, cũng yên lặng như đêm
của cánh đồng mùa xuân tối tăm…” [99 – tập 2; tr. 405].
Như thế, thiên nhiên nước Nga đẹp và vấn vương cảm xúc của nhân vật trữ tình lôi
cuốn người đọc theo từng bước chân khám phá và trải nghiệm. Người đọc dường như cảm
nhận được những khoảnh khắc biến chuyển của đất trời sang thu, cỏ cây cựa mình khi
xuân đến, cảm nhận được cái lạnh lẽo giá buốt trong những đêm trăng mùa đông tuyết
sáng, cảm nhận được cái ẩm ướt mát lạnh ngập tràn hương hoa táo và tiếng họa mi hót
đêm hè. Thiên nhiên nước Nga là vẻ đẹp vĩnh cửu của nước Nga mà dù bất cứ lúc nào, ở
90
bất cứ nơi đâu không một người con nào của Tổ quốc Nga có thể lãng quên. Chẳng thế
mà cả khi đã sống giữa thiên nhiên Provence yên bình và tươi đẹp của nước Pháp hay khi
còn ở Paris hoa lệ, Bunin vẫn chỉ viết về cảnh sắc thiên nhiên nước Nga, mối tình sâu
đậm và day dứt nhất cuộc đời ông. Những bức tranh thiên nhiên của Bunin quyến rũ
người đọc bởi nghệ thuật tái hiện hình ảnh đậm chất tạo hình, với những đường nét ấn
tượng.
Có thể khẳng định, với Bunin, nước Nga là không gian lưu giữ kỷ niệm, lưu giữ
những khoảnh khắc mà cả đời nhà văn không thể lãng quên. Nước Nga là nơi ông đã gắn
bó già nửa cuộc đời mình, nơi ông đã trải qua những tháng ngày đẹp đẽ yên ấm thời thơ
ấu, nơi ông đã có những tháng ngày hạnh phúc lứa đôi, nơi ông đã bước những bước
thành công đầu tiên trên con đường văn học, cũng là nơi ông đã buồn bã, cay đắng trước
những bất hạnh của số phận. Tất cả làm thành một miền kí ức với ngập tràn cung bậc xúc
cảm: vui, buồn, nhớ thương, giận hờn, khắc khoải, day dứt… Tất cả những mâu thuẫn
trong tinh thần của nhà văn, tất cả những cung bậc cảm xúc của ông đều trở thành những
kỉ niệm đẹp, mà nơi lưu giữ những kỉ niệm ấy không đâu khác chính là những không gian
thân thuộc của nước Nga trước cách mạng, nước Nga mà ông yêu tha thiết.
Để lại ấn tượng sâu sắc nhất, thân thuộc nhất chính là điền trang Nga: nơi vừa lưu
giữ những nét đẹp văn hóa của nước Nga cổ xưa với những sinh hoạt văn hóa của những
người dân quê, những địa chủ nhỏ, những con người xưa cũ mến thương, vừa gắn liền với
những cuộc gặp gỡ thoáng qua, những câu chuyện tình dở dang nhưng sâu đậm.
3.2.2. Điền trang – thế giới của kỷ niệm
Nhiều truyện ngắn của Bunin trước năm 1917 gắn với bối cảnh nước Nga với
những nét đẹp văn hóa trang trại, nông thôn cổ truyền. Có thể kể đến những tác phẩm
như: Những quả táo Antonov, Cỏ gầy, Meliton, Tania, Cuộc đời tươi đẹp, Trong trang ấp,
Natali, Styopa, Ngày cuối cùng, Mùa xuân cuối cùng, Tanka, Những cây thông, Mối tình
đầu (từ hồi ức thời thơ ấu)… Trong những tác phẩm này, không gian bối cảnh chủ đạo là
những điền trang của các địa chủ với những căn nhà gỗ truyền thống đặc trưng của nước
Nga. Điền trang Nga là khung cảnh sống gần gũi giao hòa với thiên nhiên, cả ở nếp sống
yêu lao động, chan hòa với nông dân và nhất là đời sống tinh thần phong phú: “Nhà cửa
91
của điền trang gắn chặt với những vườn cây lâu đời, với những ao cá có thác nước, với
những dãy nhà ngang dùng làm bếp núc, kho chứa, với những chuồng ngựa chuồng chó.
Nếp sống điền trang gắn chặt với thiên nhiên, với nghề làm ruộng, với việc săn bắn, với
những tập tục dòng họ và với đời sống nông dân.” [67; tr. 653]. Tất cả những nét đặc
trưng rất riêng đó của điền trang Nga đã được Bunin tái hiện trong tác phẩm của mình
một cách đầy đủ và hết sức trân trọng.
Trong Cỏ gầy, Bunin chủ yếu khắc họa những sinh hoạt của người nông dân Nga
thời xưa: trong ngày lễ, trong vụ gặt và khi mùa đông đến. Không gian tác phẩm xê dịch
từ ngôi nhà địa chủ nơi bác Averki làm thuê cho đến ngôi nhà gỗ nghèo nàn của bác ở
thôn quê và cái lán trữ lúa, cái sân phơi lúa nho nhỏ ở ngoài đồng.
Trong ngày lễ thánh Piotr, mặc dù mệt mỏi và ốm yếu, bác Averki vẫn cố lấy hết
hơi sức để “hưởng thụ” dịp lễ sung túc cuối cùng: ăn mặn với những món đặc trưng của
ngày lễ tết - thịt cừu, súp, những món ăn ngọt, bánh mì nướng… Trong khi những tay thợ
trẻ đã say sưa nốc cạn rượu và nói cười vui vẻ thì bác Averki quay trở lại bếp, xin được
nằm trên bếp lò nghỉ ngơi. Hình ảnh người nông dân khốn khổ nằm còng queo trên bếp lò
dù ốm dù khỏe, dù mưa dù rét đã trở thành một hình ảnh quen thuộc của làng quê Nga
thưở xưa. Trở về nhà, bác không nằm trong căn nhà gỗ của hai vợ chồng, mà ra nằm ở cái
sân phơi lúa nhỏ ngoài đồng bởi “từ lâu bác đã có nguyện vọng được nằm tự do tự tại, yên
tĩnh, ở nơi không khí trong lành ngoài đồng áng” [15; tr.126]. Ở lán đập lúa, bác Averki
được sống với thiên nhiên, gặp gỡ những người nông dân hàng xóm của bác, được thấy
hết những sắc màu cuộc sống thôn dã: “Tôi ở làng hệt như ở nơi thiên đường vậy! Chính
ở đó mà tôi mới lại sức được đôi chút, mới ra hồn người… Cơ ngơi ở ngoài đồng, vườn
tược ở ngoài đồng, … Ở ngoài đồng kia, cứ bước chân ra khỏi cửa là y như trông thấy
một cái gì đó: hoặc là lũ thanh niên đàn đúm với nhau, hoặc là người ta bắt mối với một
mụ đàn bà nào đó…” [15; tr. 138]. Đến khi cái chết cận kề, cũng là những ngày đông giá
lạnh, bác Averki mới chịu trở về căn nhà gỗ hạnh phúc của hai vợ chồng, nơi có ngưỡng
cửa cao, khung cửa thấp, nơi có tấm phản in dấu thời gian, nơi người ta đốt lò ấm áp bằng
rơm mới. Ở đó, bác đã giã biệt cõi đời: “Bác qua đời trong một ngôi nhà gỗ yên tĩnh, tối
tăm, mà ở ngoài ô cửa sổ bé nhỏ của ngôi nhà ấy trận tuyết đầu mùa đang nổi lên mờ
trắng, êm ả đến nỗi bà lão không hề hay biết gì cả” [15; tr. 149].
92
Meliton là một truyện ngắn nông thôn đặc biệt của Bunin. Không gian trong tác
phẩm là ngôi nhà gỗ biệt lập của bác gác rừng Meliton. Nhân vật tôi trong tác phẩm gọi
đó là nơi biệt cư để đan tu với căn nhà gỗ nhỏ xinh, với trường kỷ cũ kỹ, với giường treo
lêu đêu, tất cả đều được trải cỏ khô: “Bác Meliton thắp đèn trong căn nhà gỗ để trải cỏ
khô lên một chiếc trường kỷ cho tôi nằm, - và lúc bấy giờ, dưới mái nhà cũ kỹ xệ xuống,
hai ô cửa sổ nhỏ đã ánh lên như hai con mắt bằng vàng. (…) Ở một góc nhà, cạnh lối ra
vào, có bố trí một cái gì đó giống như một chiếc giường treo đặt trên những chân giường
cao lêu đêu bằng củi bạch dương.”[15; tr. 43]. Không gian ở đây được thu nhỏ trong một
căn nhà gỗ tối tăm bên một chòi canh nhỏ của bác gác rừng, mọi sinh hoạt của bác gác
rừng Meliton gắn liền với ngôi nhà gỗ phủ cỏ khô, với căn bếp nhỏ bên bờ ao, với chú
chó Krutik khôn ngoan. Đây là nơi bác Meliton lặng lẽ sống những tháng ngày nhàn tẻ
cuối đời, cũng là nơi tôi đến tìm những phút giây bình yên, để được lắng nghe thiên
nhiên, lắng nghe lòng mình.
Trong Những quả táo Antonov, không gian sinh hoạt mang đậm sắc màu văn hóa
Nga cổ xưa được Bunin khắc họa một cách đầy đủ và đặc sắc. Đó là khu điền trang của
những người nông dân và những người tiểu thị dân Nga yêu lao động. Những tập tục rất
hay của việc thu hái táo cũng được nhà văn nhớ lại một cách hân hoan: “Khắp khu vườn
âm vang tiếng người nói, tiếng xe ngựa tải kẽo kẹt. Ấy là những nhà tiểu thương, những
thị dân trồng vườn đã thuê được những người nông dân trẩy táo xuống để đến đêm đưa về
tỉnh, - và nhất định là phải đi vào ban đêm kia, bởi vì lúc bấy giờ, nằm trên xe, nhìn lên
bầu trời đầy sao, nghe phảng phất mùi nhựa chưng trong không khí tươi mát và nghe cả
một đoàn xe dài thận trọng kẽo kẹt trên con đường lớn trập trùng, thì thật tuyệt vời. Bác
nông dân được giao việc đổ táo, cứ cắn rau ráu hết quả này đến quả khác, nhưng tục lệ
xưa nay vẫn vậy, nên người thị dân chẳng hề ngăn lại, mà còn bảo: - Đổ xuống, ăn cho no
đi, không có việc gì làm nữa đâu! Đổ xong, mọi người sẽ uống mật ong.” [15; tr. 12]. Nhà
văn tái hiện lại không gian của khu vườn, căn nhà của những người tiểu thị dân cùng
những sinh hoạt của họ, từ những sinh hoạt bình dị hàng ngày đến những sinh hoạt đặc
biệt vào những dịp lễ tết hay hội chợ. Những miêu tả ấy không được viết theo cách liệt kê
thông thường mà lần lượt hiện ra tự nhiên theo logic của dòng cảm xúc. Ngôi nhà tiểu thị
dân với một chỗ để đun bếp là nơi sinh hoạt của con người: “Ở đây buổi trưa người ta nấu
93
món cháo mỡ cực ngon, buổi chiều thì đun samovar và một làn khói xanh lơ thường trải
thành một vệt dài giữa những hàng cây trong toàn bộ khu vườn. Còn vào những ngày lễ
tết thì bên cạnh mái nhà tranh này là cả một phiên hội chợ” [15; tr. 12].
Sẽ là không hoàn tất khi bức tranh sinh hoạt thôn quê thiếu đi sắc màu của đêm.
Vẫn là những hương vị ngọt ngào bình yên của cuộc sống thôn dã: “Trời tối dần. Và lại
có hương vị mới xuất hiện: trong vườn có đống lửa nhen lên, thế là mùi khói thơm nức
của những cành anh đào tỏa ra nồng nặc.” [15; tr. 14]. Quanh đống lửa anh đào đó, “vang
lên tiếng cười nói, thỉnh thoảng lại có cả tiếng nhảy múa rậm rịch”. Cuộc gặp gỡ trong
đêm của tôi và bác gác rừng Nikolai cũng được miêu tả trong nhịp điệu hàng ngày của
cuộc sống thôn quê: giản dị, lặng lẽ nhưng cũng rất nên thơ. Những cuộc gặp gỡ như thế,
là hình ảnh về một cuộc sống tươi đẹp và thanh bình đáng mơ ước: “Và ta nhìn mãi vào
cái khoảng sâu xanh thẳm của bầu trời đầy những chòm sao, kỳ cho tới khi chóng mặt
mới thôi. Lúc bấy giờ ta mới thấy rùng mình, đút vội tay vào những ống tay áo, chạy
nhanh theo con đường giữa những hàng cây mà trở về nhà… Sao lạnh và nhiều sương
đêm đến thế, và sống ở trên đời sung sướng biết bao!...” [15; tr. 16]. Với nhân vật tôi, lúc
ấy, sung sướng nhất là được làm một người nông dân: “Và tôi còn nhớ rằng hồi ấy đôi khi
mình tưởng chừng làm một người nông dân là một điều hấp dẫn hiếm có”, được đi ngựa
mỗi sáng chói chang ánh nắng, được ngủ trên những đống rơm ngoài sân phơi, được mặc
áo sơ mi kiểu cách và sạch sẽ vào ngày lễ, được có một cô vợ khỏe mạnh và đẹp đẽ, được
ăn trưa ở nhà ông bố vợ có râu dài…
Sẽ là thiếu sót nếu chỉ miêu tả thế giới đáng mơ ước của những người nông dân.
Đóng vai là một cậu chủ, Bunin hình dung lại cuộc sống của những người điền chủ trước
kia, những quý tộc bậc trung, một cuộc sống mà theo ông “có rất nhiều điểm chung với
nếp sống của một người nông dân giàu có, đứng về mặt khả năng quán xuyến việc nhà
cũng như về mức phong lưu nông thôn theo kiểu cổ”. Khung cảnh thiên nhiên, cuộc sống
sinh hoạt ở trang trại của bà dì Anna Gherasimovna cũng là một cuộc sống yên bình, trầm
lặng như thế. Những trang viết miêu tả khu điền trang này của Bunin là những tư liệu đầy
đủ nhất về vẻ đẹp văn hóa của những điền trang Nga: “Khu điền trang không lớn, nhưng
thảy đều cũ kỹ, vững vàng, chung quanh bao bọc bởi những cây bạch dương và miên liễu
cổ thụ. Những công trình xây dựng trong trang trại rất nhiều, không đồ sộ, nhưng rất tiện
94
lợi cho việc nhà, và hệt như tất cả đều được gắn bó với nhau bằng những thân gỗ sồi sẫm
màu dưới những mái rơm… Khu vườn của dì tôi nổi tiếng là rậm rạp, có nhiều chim họa
mi, chim gáy và nhiều táo, còn ngôi nhà của dì thì nổi tiếng vì cái mái nhà. Ngôi nhà ấy ở
ngay đầu sân, sát cạnh vườn, được ôm ấp bởi những cành gia… Trên mi cao của những
mái thềm này bao giờ cũng đậu đầy những con bồ câu được ăn no, trong khi đó hàng ngàn
con sẻ bay rào rào như mưa từ mái nhà này sang mái nhà khác…Và khách sẽ cảm thấy
ấm cúng xiết bao trong cái tổ ấm dưới bầu trời thu xanh ngắt ấy!” [15; tr. 22-23]
Trong căn nhà trăm tuổi ấy mọi thứ bài trí đều ghi dấn ấn của một thời vàng son đã
qua: “Tất cả các buồng phòng – buồng người hầu, phòng lớn, phòng khách, - thảy đều
lạnh lẽo và tối tăm; đó là do nhà có vườn bao bọc chung quanh, mà các ô kính phía trên
của các cửa sổ lại đều là kính màu, màu xanh sẫm và màu hoa cà. Trong nhà đâu đấy đều
yên tĩnh và sạch sẽ, mặc dù những chiếc ghế bành, những chiếc bàn khảm và những tấm
gương viền những khung bằng vàng chật hẹp và xoắn tròn kia hình như chưa bao giờ xê
dịch đi đâu cả.” [15; tr. 23]
Một sinh hoạt văn hóa khác cũng được tôi nhắc đến trong hành trình tâm tưởng của
mình, đó là thú đi săn. Cuộc đi săn được miêu tả trong tác phẩm gắn liền với điền trang
của người anh vợ tôi – Akseni Semenưts. Những buổi đi săn bắt đầu từ cuối tháng Chín
đầu tháng Mười, khi công việc đồng áng đã tạm yên ổn, đồng lúa đã bắt đầu xanh mướt
lúa thu non. Sau bữa cơm trưa đầy hưng phấn trong một ngôi nhà lớn, “một căn phòng lớn
đầy ánh nắng và đầy khói thuốc lá tỏa ra từ những chiếc tẩu và những điếu thuốc lá”, tôi
cùng tham gia với đoàn người huyên náo của Akseni Semenưts, háo hức được hít căng
lồng ngực trẻ không khí lạnh của một ngày quang tạnh và ẩm ướt về chiều, được cưỡi con
ngựa Kirghizia hung dữ, mạnh mẽ và lùn tè, được cảm nhận “tiếng vó ngựa giẫm soàn
soạt lên những bức thảm sâu mà nhẹ của đám lá rụng đen ngòm, mỗi tiếng động đều
truyền lên vang dội cả khoảng rừng vắng vẻ, ẩm ướt và tươi mát”. Với tư cách là người
quan sát, cuộc đi săn chủ yếu được ghi lại từ những ấn tượng của tôi về âm thanh và cảm
giác. Cuộc đi săn kéo dài ít nhất 2 ngày. Và cũng là một điều thú vị, khi bỗng nhiên trong
rừng đoàn đi săn gặp được khu điền trang của một điền chủ độc thân nào đó mà họ hầu
như không quen biết, tá túc lại thậm chí vài ngày. Mọi người om sòm ầm ỹ và đánh chén
lu bù như những người bạn thân thiết. Tất cả đều thân ái.
95
Bunin còn để cho tôi miêu tả những khoảnh khắc ngọt ngào của một người khám
phá bí ẩn của khu trang trại trong rừng. Nếu như ngủ quên không kịp đi săn, tôi sẽ được
tận hưởng cảm giác đặc biệt dễ chịu của không khí tĩnh mịch trong khu nhà yên ắng, được
dạo chơi trong vườn, được nếm mùi táo thơm ngon lạ thường, được đọc những cuốn sách
cha ông để lại từ thời xa xưa và cứ đắm chìm vào cái thế giới ấy mãi không thôi, thế giới
của những mùi thơm cổ xưa đầy quyến rũ, thế giới của những triết gia quý tộc, và thế giới
của những hồi tưởng về những người phụ nữ xinh đẹp đã từng sống trong điền trang:
“Những bức chân dung của họ đang nhìn tôi từ trên tường, những mái đầu nhỏ nhắn, đẹp
một cách quý phái, được chải búi theo kiểu cổ xưa, đang cụp những làn mi dài một cách
thùy mị và yểu điệu xuống những cặp mắt buồn và dịu dàng…”.
Cũng trong Những quả táo Antonov, Bunin đã khắc họa lại khung cảnh tiêu điều ở
chính những trang trại trước kia vốn đông vui, trù phú. Đó thế giới thực tại nghèo túng,
buồn bã: “Đã không còn mùi thơm của táo Antonov trong các trang trại, các cụ già ở
Vysenki đã chết cả, dì Anna Gherasimovna đã qua đời, Akseni Semenưts đã tự sát bằng
súng ngắn… Giờ đây là vương quốc của những người ít đất đai, nghèo đi đến cùng
cực!...”. Nhưng với một người yêu nông thôn Nga, gắn bó tuổi thơ với những trang trại
Nga yên bình thì “Cuộc sống ít đất cũng vẫn cứ đẹp”. Trong con mắt của tôi, cái thế giới
nông thôn với thiên nhiên nguyên sơ, với những nếp sinh hoạt xưa cũ còn sót lại, với
những ngày cuối thu “gió reo vang và vi vút nơi miệng súng” vẫn đáng yêu, đáng trân
trọng biết bao. Thế giới hiện tại không còn táo Antonov, không còn những trang trại rộng
lớn, không còn những buổi đi săn đông đúc và ồn ào với những chú chó borzoi dẫn
đường, nhưng vẫn có những điền chủ nhỏ, những trang trại nhỏ xinh xắn, vẫn có những
buổi sáng tháng Mười tinh khôi, mát mẻ, vẫn có những buổi đi săn trong rừng mùa rét với
những con chó săn thường, vẫn có những tiếng hát nông dân cất lên trong những buổi đập
lúa, sinh hoạt tập thể dù những tiếng hát ấy giờ không thanh thản, tươi vui mà đã pha màu
sắc trầm, buồn. Điều lôi cuốn tôi trong cái buổi trở về thôn quê ấy là vẫn thấy những ấm
áp của tình người chốn nông thôn, và vẫn rưng rưng xúc động khi đi dạo trong rừng giữa
chiều đông giá rét chợt bắt gặp cảnh sum họp đầm ấm với những sinh hoạt vẫn như ngày
xưa: “Bụng đói cật rét, sẩm chiều tôi trở lại điền trang, và trong lòng sao bỗng ấm áp và
hân hoan khi thấy Vysenki đã thấp thoáng ánh lửa và từ điền trang đã thấy tỏa ra mùi
96
khói, mùi gia cư. Tôi còn nhớ trong nhà tôi vào lúc đó mọi người thường thích „nói mò‟,
không thắp đèn lên mà cứ nói chuyện với nhau trong cảnh chạng vạng. Vào nhà, tôi thấy
cửa rả đã được đóng thêm khung nẹp mùa đông cả rồi, và điều đó lại càng khiến cho tôi
thêm yên trí với cảnh mùa đông.” [15; tr. 34]. Nỗi xúc động dường như dâng cao hơn khi
chợt nghe tiếng ca buồn trong ngôi nhà nông dân lúc hoàng hôn: “những ô cửa sổ chái
bên của ngôi nhà đã lóe sáng trong đêm đông tăm tối. Ở đó, trong cái chái của ngôi nhà
nhỏ bé ấy, người ta thấy những làn khói tròn bay chơi vơi, những cây nến mỡ lợn cháy lờ
mờ, một cây đàn ghi ta đang được lên dây…
Hoàng hôn xuống, gió chiều lộng thổi
Cánh cổng kia ta mở toang hoang,…
Một giọng nam cao cất lên từ lồng ngực của ai đó. Và những người khác rời rạc,
làm ra vẻ đùa cợt bắt giọng hát theo với điệu ngang tàng ủ dột và tuyệt vọng:
Cánh cổng ta mở toang hoang
Để cho tuyết trắng phủ đường ta đi…‖
Những quả táo Antonov có thể nói là truyện ngắn xuất sắc nhất của Bunin về nông
thôn Nga. Ở đó, không gian nước Nga xưa cũ (cả trong quá khứ sung túc, êm đềm và khi
đã suy thoái, khủng hoảng) – với hình ảnh những khu điền trang và những con người
trong các hoạt động lao động, sinh hoạt văn hóa đều được tái hiện sống động. Trong một
truyện ngắn khác – Ngày cuối cùng, hình ảnh những căn nhà gỗ, cổng lò rèn, cửa vựa thóc
và kho chứa củi toang hoang; hình ảnh những căn phòng trang trọng trước kia treo ảnh
thánh với giấy dán tường bong tróc… trong trại ấp tan hoang sau khi phá sản của bác
nông dân Voiekov cũng được Bunin khắc họa rõ nét. Ông không chỉ trân trọng hình ảnh
làng quê lúc sung túc, an vui, nhà văn còn khắc khoải đau đáu trước một nước Nga cổ xưa
nay đã trở nên hoang phế. Phải yêu nước Nga thế nào mới có thể vẽ lại bức tranh về Tổ
quốc mình chân thực đến thế. Tình yêu của Bunin dành cho nước Nga không thay đổi cả
khi đất nước ấy đã trở thành “vương quốc nghèo đi đến cùng cực”. Đọc tác phẩm, ấn
tượng về một nước Nga cổ xưa trong khuôn hình của cả những trại ấp từng tươi vui giờ
tàn tạ chắc chắn sẽ rất đậm sâu trong tâm trí bạn đọc. Và có lẽ, góc nhìn như muốn vĩnh
cửu hóa những cái đẹp một thời vang bóng của nước Nga chính là dấu ấn riêng của
Bunin.
97
Trong kho tàng truyện ngắn của Bunin, không ít tác phẩm Bunin viết về những
mối tình chốn làng quê. Đó có thể là mối tình nguyên sơ, trong trẻo của chàng gia sư với
cô nàng Rusya, là mối tình câm lặng nhưng nặng sâu của anh chàng tôi với Natali, là mối
tình ban phát vụng trộm của cậu chủ Piot Nhikolaich trong Tania, là mối tình đẫm nước
mắt chia ly của Storesnhev và Vera trong Lần gặp gỡ cuối cùng, là mối tình của Stepa với
cô hầu gái trong truyện ngắn cùng tên, là lửa tình mới nhen nhưng bị dập tắt của chàng
thanh niên tôi với cô gia sư cùng tuổi Elena Nicolaievna trong Con quạ… Làng quê nước
Nga trong những truyện ngắn này không được tác giả chủ định khắc họa ở khía cạnh sinh
hoạt lao động hay sinh hoạt văn hóa, làng quê hiện ra qua con mắt và tâm sự của những
người đang yêu. Trong Lần gặp gỡ cuối cùng Storesnhev rời nhà đến khu điền trang đã cũ
kỹ, ẩm mốc và đượm dấu tích thời gian của Vera, một khu nhà dường như sắp sửa hoang
phế hoàn toàn bởi lần gặp gỡ đêm nay của họ là lần gặp gỡ cuối cùng trước khi Vera ở
hẳn nơi thành phố: “Chàng thúc ngựa tiến vào sân. Căn nhà tối om… Trên bậc thềm, một
con chó săn đã già nằm khoanh tròn, ghếch mõm lên chân… Storesnhev bước vào phòng
ngoài cùng, ở đây từ buồng xép xông ra một mùi hố xí đã cũ. Trong tiền sảnh tối mù mịt.
Các khung kính toát mồ hôi lạnh, nhuốm một ánh vàng.” [15; tr. 92-93]. Khu điền trang
của Vera đã mất hết sức sống trong đêm, tàn tạ hệt như ngôi nhà của bác Voiekov khi bác
bị phá sản và phải bán cho người khác. Và dường như tình yêu của Storesnhev vốn đã
được nhen lên mãnh liệt từ mười lăm năm trước khi cả hai còn là những chàng trai cô gái
mới chập chững vào đời đã vụt tắt, con đường chung của họ cũng tối om như căn nhà
hoang lạnh ấy.
Trong khu điền trang rộng lớn của bà tiểu chủ Kadakova có một căn phòng làm
việc thông với phòng khách, nơi dành cho Piot và ngay cạnh đó là một căn buồng không
cửa sổ dành cho tôi tớ. Trong căn buồng không cửa sổ tối tăm ấy, Tanhia cô hầu gái và
cậu chủ Piot Nhikolaich đã có những giây phút hạnh phúc bên nhau. Đối với Tanhia, đó là
những giây phút hạnh phúc, nhưng cũng là những kỷ niệm nhói đau, bởi cô bé biết, với
Piot, mình chỉ là một “người tình thoáng qua”. Khu điền trang cổ kính, căn phòng cũ kỹ
rồi sẽ rơi vào quên lãng bởi “thôn quê dường như trở nên nghèo nàn và thô kệch một cách
vô vọng” không còn hấp dẫn chàng trai trẻ, bởi tuyết rơi làm cho cả khu trang trại và cánh
đồng trở nên mờ đục, mênh mông, buồn tẻ và Tanhia cũng không còn là cái cớ cho chàng
98
gắn bó với nơi này nữa - Piot nóng lòng muốn trở về Moskva. Ở cả hai tác phẩm, dường
như không gian căn phòng của những khu điền trang ấy từ không gian khởi nguồn tình
yêu đã trở thành nơi in dấu những kỷ niệm buồn thương của tình yêu. Sự biến chuyển
không gian như thế ta có thể bắt gặp trong Natali, Rusya, Mối tình đầu… Trong Natali,
không gian điền trang của gia đình Sonia với những căn phòng lộng gió, với khu vườn
tuyệt đẹp và dãy hành lang ngắm trăng nên thơ đã chứng kiến những rung động tình yêu
thật sự của nhân vật tôi với Natali, và cũng đồng thời chứng kiến tình yêu chiếm hữu của
Sonia với tôi. Đó là nơi bắt đầu và cũng là nơi kết thúc những cảm tình với tôi mà Natali
đã nhen nhóm trong lòng, để rồi nàng chấp nhận lấy một người khác nhằm quên đi mối
tình mới nhen mà sâu đậm ấy. Cũng giống Natali, ngôi nhà của Rusya cùng với hồ súng
nơi khuôn viên căn nhà, khu vườn đẹp đẽ và những căn phòng ghi dấu kỷ niệm của anh
chàng gia sư và Rusya nhanh chóng trở thành dĩ vãng tình yêu của họ, bởi mẹ của cô
không muốn cho cô thuộc về bất cứ người nào khác. Trong những tác phẩm này, để cho
nhân vật tiếc nuối khi nhắc về những nơi chốn ấy, dường như Bunin gián tiếp thừa nhận
sự bất lực và yếu đuối của mình khi không thể mạnh mẽ sống hết mình cho tình yêu.
Đáng tiếc là những điều này được nhận ra quá muộn, khi tất cả chỉ còn là quá khứ.
3.3. Vẻ đẹp nữ vĩnh hằng
3.3.1. Những bức chân dung “ấn tượng”
Bunin là nhà văn đa tài. Bên cạnh viết văn, làm thơ, ông còn vẽ tranh. Những nét
vẽ của ông mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa ấn tượng. Chính các nhà nghiên cứu cũng
khẳng định dấu ấn của chủ nghĩa ấn tượng trong văn xuôi của nhà văn. Sự ra đời và phát
triển những nét ấn tượng trong hội họa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một trường phái
hội họa mới, đả phá tất cả mọi quy tắc của hội họa tả thực thế kỷ XIX, đưa người xem từ
các xưởng tranh cũ kỹ khép kín đến với những rung động trước những biến chuyển tế vi
của thiên nhiên vũ trụ. Đam mê hội họa, Bunin đã thâu nhận tất cả những nét tươi mát,
đẹp đẽ ấy và đưa chúng vào trong các sáng tác của mình, đặc biệt là trong cách miêu tả
những nhân vật tình yêu. Các nhân vật nữ của Bunin thường được khắc họa chân dung
bằng một vài nét vẽ tươi mát và đẹp đẽ ấy. Họ thường được nhận ra bởi mái tóc, màu mắt,
đôi bàn tay, xiêm áo quyến rũ hay những hương thơm ấn tượng. Một điểm rất đặc biệt là
99
với một số nhân vật, Bunin còn miêu tả họ trong nét quyến rũ của vẻ đẹp thân thể với
những đường nét thanh tân và làn da mịn màng.
Rất nhiều nhân vật nữ của Bunin gây ấn tượng với người đọc bởi đôi mắt. Olia
Mesherskaia, cô bé mười lăm tuổi xinh đẹp rực rỡ như một đóa hoa nở rộ hấp dẫn người
đối diện bởi vóc dáng thon thả, đôi chân thẳng, bộ ngực tròn căng, dáng vẻ yêu kiều,
khoan thai, đỏm dáng và đặc biệt là đôi mắt sáng long lanh, đôi mắt mà qua lời Olia ca
tụng đẹp mê hồn: “cặp mắt phải đen nhưng phải sôi lên đen nhánh như nhựa đường… -
đôi hàng mi phải đen như bóng đêm, nước da phải mịn màng và luôn ửng hồng lên, vóc
người phải mảnh mai, đôi tay phải dài hơn bình thường” [15; tr. 200]. Đôi mắt ấy đã từng
khiến cho biết bao cậu học sinh mê mẩn, thậm chí có người từng quyên sinh vì sự thay
đổi thất thường ở cô. Đặc biệt, ở Olia có một điều mà nhiều người khác không có, đó là
hơi thở nhẹ. Chính hơi thở nhẹ là nét đẹp ấn tượng của Olia, cùng với đôi mắt long lanh
giúp cô trở thành trung tâm của mọi sự chú ý ở nhà và cả ở trường. Nhưng cũng chính đôi
mắt long lanh ấy là căn nguyên bất hạnh của cô thiếu nữ xinh đẹp, cá tính.
Cũng giống như Olia trẻ trung và đầy sức sống, nhân vật Natali và Sonia trong
truyện ngắn Natali cũng được khắc họa trước hết ở đôi mắt đẹp đầy quyến rũ. Qua con
mắt của Sonia, bạn và cũng là tình địch của nàng, Natali vẫn rất xinh đẹp: “Natali có một
cái đầu rất đáng yêu, mái tóc nó óng vàng như người ta vẫn thường nói và một đôi mắt
đen láy. Thậm chí không thể gọi là mắt được, phải gọi là những mặt trời đen như cách nói
của người Ba Tư. Hàng lông mi thì tất nhiên là rất dài và cũng đen, nước da trên mặt, trên
vai đẹp lạ lùng và bao nhiêu cái đẹp khác nữa.” [16; tr. 487]. Mỗi lần gặp Natali, nhân vật
tôi như lặn ngụp trong cặp mắt sáng long lanh đen láy, trong mái tóc vàng óng hòa hợp
một cách diệu kỳ với hàng mi đen dài. Vẻ đẹp của Natali hiền dịu, nhẹ nhàng dường như
trái ngược với vẻ đẹp mạnh mẽ, cá tính của Sonia: “Nàng ngồi hơi nghiêng mình về phía
tôi, dưới ánh đèn, tôi nhìn thấy cánh tay nàng rám nắng, đôi mắt nàng xanh xanh tim tím
nhìn tôi như giễu cợt và mái tóc màu hạt dẻ rất dày và mềm mại của nàng” [16; tr. 488].
Cũng là một vẻ đẹp châu Á đặc biệt nàng trong Ngày thứ Hai chay tịnh cũng sở
hữu đôi mắt đen quyến rũ: “Còn nàng thì lại có một vẻ đẹp kiểu Ấn Độ, Ba Tư nào đó:
khuôn mặt nàng ngăm ngăm mầu hổ phách, mớ tóc nàng đẹp tuyệt vời mà lại có phần dữ
dội vì vừa đen lại vừa rậm, đôi hàng lông mày của nàng vừa mềm mại lại vừa bóng lên
100
như lông hắc điêu, đôi mắt nàng đen như một loại than mềm dịu, miệng nàng quyến rũ
với đôi môi đỏ thắm mịn màng, chung quanh điểm những lông tơ màu sẫm.” [16; tr. 541].
Dường như đôi mắt ấy biểu trưng cho tính cách của nàng: vừa bí ẩn vừa lạnh lùng, vừa
quyết liệt nhưng cũng đầy mê hoặc. Kết thúc tác phẩm, sau khi đền đáp lại mối cuồng si
của chàng nàng bỏ đi tu, và khi chàng đến tìm nàng, thứ duy nhất giúp chàng nhận ra
nàng đó là đôi mắt, nhưng giờ đây đôi mắt ấy không còn mềm dịu nữa mà đã trở thành
“cặp mắt tối tăm” nhìn vào nơi tăm tối. Bởi lẽ, tình yêu của họ khi ấy cũng rơi vào sự tăm
tối của chia ly, của sự sụp đổ tâm hồn người đàn ông đã si mê nàng.
Khi sắp ra chiến trường, ấn tượng đọng lại trong chàng trai về người bạn gái của
mình trong Mùa thu lạnh đó là đôi mắt, một đôi mắt lúng liếng chan chứa tình cảm. Cũng
nhớ về cô bạn gái, đúng hơn là cô bạn gái của vợ, nhân vật người chồng trong Ida nhớ
trước tiên đến “cái bao tay bằng lông chồn của cô ta, màu da khuôn mặt cô và đôi mắt
tím, đôi tay đẹp tuyệt vời của cô, chiếc váy Anh của cô” [17; tr. 16]. Đôi mắt cũng là nét
đẹp không thể quên của Nadezhda khi ông chủ Nicolai Alekseevich nhớ về cô: “Vâng,
ngày ấy đúng là cô đẹp, đẹp thật! – ông vừa nói vừa lắc đầu. – Cô sôi nổi, cô tuyệt vời
làm sao! Rồi dáng người, rồi đôi mắt!” [16; tr. 600]. Galia Ganskaya trong tác phẩm cùng
tên được khắc họa là một cô bé duyên dáng hiếm thấy với “khuôn mặt nhỏ nhắn và những
búp tóc vàng sẫm buông dọc theo hai má” [19; tr. 104]. Càng lớn, Galia càng xinh đẹp,
lúc này khi gặp lại Galia, ấn tượng về nàng là ấn tượng về một thiếu nữ có “đôi mắt màu
ngọc xanh nước biển của nàng ngời lên lấp lánh” [19; tr. 105]. Còn đôi mắt huyền và mái
tóc đen với bím tóc quấn quanh của Rusya hiện lên thật kỳ ảo trong chàng gia sư, khiến
chàng ngay cả khi đã lấy vợ, cũng không thể quên.
Như vậy, có thể thấy, đối với Bunin, đôi mắt chính là ấn tượng đầu tiên của ông
khi tiếp xúc với một cô gái. Đôi mắt ấy dù xanh biếc màu nước biển hay tím ngắt lạ kỳ,
dù long lanh, lung liếng hay đen huyền quyến rũ thì đều sáng rực, đều có sức hấp dẫn
không thể cưỡng nổi. Có một điểm rất thú vị, đó là hầu hết các nhân vật quyến rũ Bunin
bằng đôi mắt đều là những cô nàng còn rất trẻ, những cô thiếu nữ tuổi mới đôi tám: Olia
Mesherskaia đang học trung học, Sonia, Natali cũng đang trong kỳ nghỉ hè, Galia mới
mười bốn tuổi khi tác giả gặp lần đầu, Rusya cũng chỉ đôi tám, nhân vật nàng trong Ở một
phố thân quen và Ngày thứ Hai chay tịnh thì đang học đại học. Có lẽ, ở những cô gái ấy
101
cái đẹp, sự quyến rũ chính là ở đôi mắt trong sáng, long lanh, linh lợi, hồn nhiên, mơ
màng nhưng đầy sức sống của tuổi xuân mới chớm. Những đôi mắt biết nói ấy là cả một
trời bí mật khơi gợi khám phá. Thêm một nét đẹp quyến rũ nữa ở những cô gái mới đôi
tám, đó là vẻ đẹp của mái tóc. Mái tóc của Olia Mesherskaia trong Hơi thở nhẹ dù lúc rối
tung hay lúc được chải kỹ lưỡng cũng vẫn làm tôn lên khuôn mặt xinh đẹp rực rỡ của cô.
Mái tóc ấy đã có lần khiến cô gặp rắc rối: “Thưa madame, em không có lỗi gì, nếu em có
bộ tóc đẹp, Olia trả lời và hai bàn tay cô khẽ chạm vào mái đầu chải rất đẹp của mình.”
[16; tr. 246]. Dường như Bunin dụng tâm miêu tả đôi mắt trong sự hài hòa màu sắc với
mái tóc của các cô thiếu nữ: Sonia với mái tóc màu hạt dẻ và đôi mắt màu xanh xanh tím
tím, Natali với đôi mắt đen láy và mái tóc vàng óng, Galia thì kiêu hãnh và đỏm dáng với
“Mái tóc màu hung của nàng búi cao lên đỉnh đầu và cài bằng chiếc lược đồi mồi, làn tóc
mai loăn xoăn trên trán, đôi mắt lấp lánh vui tươi…” [19; tr. 107], nàng trong Ngày thứ
Hai chay tịnh với mắt đen tóc đen đầy quyền lực và bí ẩn… Đó là vẻ đẹp đặc trưng của
thanh xuân, của những nét đẹp trong sáng tuyệt vời.
Trong nhiều tác phẩm, đặc biệt là những tác phẩm miêu tả những nét đẹp thoáng
qua trong cuộc hành trình, Bunin đặc biệt ấn tượng với vẻ đẹp thân thể của những người
phụ nữ, và tình yêu nơi những người phụ nữ ấy luôn gắn liền với niềm hạnh phúc về thể
xác, về sự dâng hiến trọn vẹn trong tình yêu. Ở Bunin, tình yêu là thứ đáng quý nhất bởi
nó trần thế nhất. Vẻ đẹp của những tấm thân ngà ngọc luôn đi đôi với vẻ đẹp của những
lớp áo xiêm, của làn da mịn màng và quyến rũ. Đôi khi, vẻ đẹp thân thể ấy được gợi ra từ
một đôi bàn tay, hay một đôi gót chân thon nhỏ…
Cơn say nắng của anh chàng trung úy trong truyện ngắn cùng tên được gợi lên từ
cái cười không kiểu cách đáng yêu, từ đôi cánh tay nhỏ và khỏe, rám nắng và đặc biệt là
từ tấm thân quyến rũ sau làn xiêm áo mỏng: “Trái tim anh như thắt lại đầy ghê sợ và sung
sướng đến ngất ngây khi nghĩ rằng đằng sau tấm xiêm áo bằng lụa nhẹ mỏng kia, toàn
thân nàng hiện lên chắc lẳn, nước da bánh mật sau một tháng nằm phơi nắng mặt trời
phương Nam trên bãi cát biển nóng.” [16; tr. 272-273]. Ngay cả sau khi đã yêu và được
yêu, chàng trung úy không thể quên người thiếu phụ đã đem lại hạnh phúc cho mình:
“Anh còn nhớ nàng như in, nhớ cái mùi da rám nắng và tấm áo lụa nhẹ bồng bồng, tấm
thân chắc lẳn, nhớ cái giọng vang vang, giản dị, đầy sức sống của nàng…” [16; tr. 277].
102
Cũng giống chàng trung úy trong Say nắng, tình yêu ở nhà văn trẻ đến từ dáng vẻ
đôi bàn chân mảnh khảnh của người thiếu phụ: “Trên mình nàng là một chiếc áo khoác
mỏng mà phía dưới người ta thấy lộ ra đôi chân mảnh khảnh.” [16; tr. 459], để rồi sau đó
nàng thiếu phụ tự nguyện hiến dâng cho chàng, không ngại để lộ tấm thân trần của mình:
“Nàng cởi cúc và giẫm lên tấm xiêm đã từ mình nàng tụt xuống mặt sàn, và với thân hình
cân đối như một cô bé con, nàng chỉ còn mặc độc một chiếc áo lót mỏng tang hở cả vai và
tay, và một chiếc quần lót trắng.” [16; tr. 465]. Trong Ở một phố thân quen, cơn say tình
ái cũng khiến cho chàng trai ngất ngây trước vẻ đẹp ngọc ngà của người con gái: “Tôi vứt
vội xuống đâu đó chiếc áo khoác, chiếc mũ lưỡi trai, rồi ngồi lên giường, bế nàng vào
lòng, và qua làn vải của váy áo nàng, tôi cảm thấy hết cái ấm áp của cơ thể nàng, cảm
thấy hết thịt da nàng…” [16; tr. 592]. Ở những tác phẩm khác, ấn tượng áo xiêm và thân
thể cũng là những ấn tượng khó phai với Bunin. Rusya được nhớ tới với chiếc áo
xaraphan màu vàng đã cũ, Natali gây ấn tượng với tôi bằng một chiếc váy nhỏ bằng vải
lanh và chiếc áo sơ mi cổ thêu kiểu Uren, đằng sau tấm xiêm ấy là “tấm thân nàng thơ trẻ,
hoàn thiện biết bao nhiêu, dường như còn là một cô bé. Dưới làn vải chiếc tay áo sơ mi có
những đường chỉ thêu xanh đỏ bên vai, tôi nhìn thấy cánh tay yếu ớt thanh thanh của
nàng, nhìn thấy những hàng lông tơ mịn màng trên nước da vàng vàng trăng trắng rất đẹp
của nàng và nghĩ rằng: điều gì sẽ đến với tôi nếu tôi dám khẽ chạm đôi môi lên làn da
ấy!” [15; tr. 501]. Say mê Natali, trộm liếc nhìn nàng, tôi nhìn thấy được cả “hình bóng
đôi chân nàng qua tấm váy mỏng được mặt trời rọi chiếu, nhìn thấy gót chân thon nhỏ
hiện lên qua bít tất mỏng màu xám trong suốt…” [16; tr. 501]. Galia Ganskaya trong bộ
xiêm áo mới, dưới cái nhìn của chàng họa sĩ, đã trở thành một thiếu nữ mảnh mai xinh
đẹp đến mức khiến cho người ta kinh ngạc: “Nàng không còn là một đứa trẻ, không còn là
một thiên thần bé bỏng, trong bộ trang phục mùa xuân màu xám nhạt mới tinh, nàng đã là
một thiếu nữ mảnh mai xinh đẹp đến mức khiến cho người ta kinh ngạc.” [19; tr. 105].
Trong Ngày thứ Hai chay tịnh, hơn một lần tôi ca ngợi vẻ đẹp thể xác đầy sang trọng và
quyến rũ của nàng trong một khát khao được chiếm lĩnh vẻ đẹp ấy: “Tôi bước vào, thấy
nàng đứng thẳng người bên chiếc piano với bộ điệu hơi có vẻ diễn kịch, mình bận một
chiếc xiêm nhung đen khiến nàng trông như thon thả hơn và long lanh hơn với vẻ lộng lẫy
của mình; với mái tóc đen nhánh được chải chuốt theo kiểu ngày hội; với màu hổ phách
103
ngăm đen của đôi tay trần, đôi vai trần và của phần ngực trên mịn màng đầy đặn; với đôi
hoa tai kim cương lấp lánh xuôi theo cặp má phủ dưới một làn phấn nhẹ nhàng; với cặp
mắt màu than mịn và đôi môi màu nhung đỏ thắm” [16; tr. 557]. Lần gặp gỡ cuối cùng
của Vera và Storesnhev là sự nhắc nhớ những yêu đương xa xăm, là sự đắm say trong
những phút giây yêu đương nồng cháy cuối cùng. Và trong những phút giây ấy, khuôn
mặt, làn da, mái tóc và đặc biệt là xiêm áo và tấm thân yêu kiều của nàng được cảm nhận
rất rõ: “Gương mặt Vera trông dịu dàng, làn da mịn màng thoa phấn. Nàng khẽ cọ má vào
môi anh rồi hôn rất lâu lên môi anh bằng đôi môi mềm mại. Cây thánh giá nhỏ lấp loáng
trên ngực nàng để hở. Nàng mặc chiếc áo mỏng tang – chiếc áo nàng rất quý, chỉ dành
cho những dịp hệ trọng nhất, chiếc áo duy nhất…” [16; tr. 107].
Trong truyện ngắn của mình, Bunin bao giờ cũng ghi lại ấn tượng riêng về một nét
đặc biệt ở những người phụ nữ ông từng gặp, từng yêu. Nếu ở Olia Mesherskaia là hơi
thở nhẹ thì ở nhân vật nàng trong Ở một phố thân quen là “khuôn mặt giản dị, chất phác,
đôi mắt sáng như của một cô gái nông dân, đôi môi đầy âu yếm như thường thấy ở những
người phụ nữ mềm yếu”. Vẻ gợi cảm của đôi môi cũng là nét đặc biệt ở Galia Ganskaya
với “làn môi thơ trẻ hé mở lấp lánh”, ở Ida cũng là “làn môi hé mở đầy quyến rũ”. Nhân
vật anh chàng gia sư năm nào trên chuyến tàu đi qua miền thương nhớ lại không thể quên
được vẻ khả ái của Rusya nhờ những nốt ruồi nhỏ trên mình nàng. Có một chi tiết rất đặc
biệt thường được Bunin nhắc đến mỗi khi nhớ về người phụ nữ mình yêu dấu. Đó là
hương thơm tỏa ra từ thân thể họ, hương thơm gợi nhớ, hương thơm lưu giữ vẻ đẹp, hình
bóng của cái đẹp, hương thơm lưu giữ kỷ niệm tình yêu. Chàng trung úy đã không thể
quên mùi nước hoa Anh Cát Lợi, cũng như không thể quên sự hiện diện của nàng tại căn
phòng họ đã bên nhau. Hương thơm của nàng trong Ngày thứ Hai chay tịnh là hương
thơm nhẹ nhàng từ mái tóc đậm mùi “Moskva, Astrakhan, Ba Tư, Ấn Độ”. Hương thơm
của cô gái trinh bạch trong Canh khuya mà nhân vật tôi theo đuổi là hương thơm của
“mùi mái tóc thiếu nữ và cổ của em, mùi chiếc xiêm bằng vải gai của em” [16; tr.448].
Hương thơm của Tanhia trong truyện ngắn cùng tên là sự quyến rũ của “mùi nông dân”
thoang thoảng hương táo: “Ôi, cái mùi nông dân tỏa ra từ mái tóc, từ hơi thở, từ đôi má
lạnh buốt thơm thơm hương táo của nàng!” [19; tr. 116]. Hương thơm giúp Storesnhev
gợi nhớ về Vera là hương của dầu cây vécbena (dầu sả). Hương thơm ấy dù lẫn với mùi
104
yên cương, mùi ngựa nhưng chàng trai vẫn cảm thấy nó trên con đường trở về nhà và anh
đã khóc, những giọt nước mắt nhớ nhung, yêu thương, hờn giận.
Truyện ngắn của Bunin là truyện ngắn về những người con gái đẹp – trước hết là
vẻ đẹp thân thể gợi cảm mang màu sắc “hiện sinh”. Có thể khẳng định điều ấy qua những
phân tích của chúng tôi ở trên. Tuy nhiên, vẻ đẹp ngoại hình ấy khi cộng hưởng với vẻ
đẹp tâm hồn càng khiến cho những cô gái Nga, những người phụ nữ Nga trong truyện
ngắn Bunin đẹp hơn, quyến rũ hơn, khó quên hơn.
3.3.2. Những tâm hồn Nga cứu rỗi
Là một đất nước có vị trí địa lí đặc biệt trên thế giới, nước Nga nhanh chóng xác
lập cho mình một vị thế đặc biệt về văn hóa và tính cách. Người Nga, dân tộc Nga luôn tự
coi mình là một thực thể độc lập hoàn toàn với Châu Âu và cả Châu Á – châu lục mà hơn
một nửa diện tích đất nước nằm trong đó. Người Nga tự gọi mình là nước Nga và Châu
Âu, dân tộc Nga được khẳng định mang tính chất phương Đông nhất trong các dân tộc
Châu Âu, Chính Thống giáo của Nga cũng là Chính Thống giáo mang đậm dấu ấn
phương Đông. Ngay cái tên Chính Thống giáo cũng cho thấy niềm tự hào của một dân tộc
được Chúa chọn, dân tộc bảo tồn trong nó những đặc điểm nguyên thủy đáng trân trọng
nhất của Kito giáo. Các nhà triết học Nga, trước hết là Berdiaev, Soloviev và sau này, các
nhà thơ, nhà văn Nga luôn coi trọng điểm khác biệt trong tính cách, tâm hồn Nga so với
các dân tộc Châu Âu nói riêng và các dân tộc khác trên thế giới nói chung.
Berdiaev khẳng định tôn giáo Nga là thứ tôn giáo nữ tính: “Đó không hẳn là tôn
giáo của Đức Kito, mà đúng hơn là tôn giáo của Đức Mẹ, tôn giáo của mẹ đất, nữ thánh
linh soi rọi đời sống xác thịt… Mẹ đất đối với dân tộc Nga là nước Nga. Nước Nga trở
thành Đức Mẹ” [11; tr 206]. Ông cũng cho rằng bản tính Nga là “nữ tính, thụ động và dễ
bảo”, “Sự thống trị độc tôn của tố chất phương Đông ở Nga luôn luôn là nô lệ cho yếu tố
tự nhiên nữ tính” [11; tr. 213]. Nhà triết học Soloviev cũng khẳng định cái được gọi là Nữ tính Vĩnh hằng trong tác phẩm nổi tiếng thế giới Siêu lí tình yêu [69] của mình. Nữ tính
Vĩnh hằng chính là hình ảnh về người yêu lí tưởng của Soloviev được xây dựng bằng cảm
hứng tôn thờ người yêu kết hợp với trải nghiệm thần bí triết học. Nhà triết học tôn thờ Nữ
tính Vĩnh hằng, tôn thờ người yêu lí tưởng, coi đó là con đường cứu rỗi, con đường vươn
105
tới sự bất tử, vươn tới thần thánh: con đường thần – nhân tính. Không chỉ Berdiaev và
Soloviev, B.P.Vysheslavtsev cũng nói về “sự thống nhất chính diện, vẻ đẹp vũ trụ nữ tính,
có hồn” của Eros Nga, thứ Eros đặc biệt chỉ có thể tìm được sự đồng cảm ở tâm hồn
Italia: “Rất ít người có thể hiểu được khát vọng của truyện cổ tích, thơ, triết học Nga một
cách sâu sắc như người Italia, bởi vì tâm hồn Italia hiểu được tình yêu đối với nữ tính
trong sáng của Dante, tình yêu vĩnh cửu đối với Dzhordano Bruno vĩ đại và tình yêu đối
với Phrantxiska Asizski” [82; tr. 496]. Nhà nghiên cứu Vysheslavtsev còn khẳng định sự
đối lập của tính khắc nghiệt trong kiến trúc gotic của các nhà thờ Kito giáo với sự tôn thờ
cái đẹp, Đức Mẹ và nữ tính kì diệu. Rõ ràng, các nhà triết học, phê bình văn học của Nga
đều đang dùng lí thuyết để khẳng định một vẻ đẹp được coi là vĩnh hằng của văn học Nga
từ xưa đến nay, đó là tính nữ cứu rỗi. Dù nhìn ở khía cạnh nào, vẻ đẹp của tính nữ cứu rỗi
này cũng đã làm nên nét đặc trưng không thể nhầm lẫn của văn học Nga với các nền văn
học khác trên thế giới, dù rằng chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy sự tôn thờ cái đẹp, đặc
biệt là cái đẹp nữ tính trong bất kỳ một tác phẩm văn học nào.
Nhìn lại những tác phẩm viết về nhân vật nữ của Bunin, có thể thấy những nhân
vật nữ trong các tác phẩm ấy đều là những phiên bản của tính nữ cứu rỗi, phiên bản của
Đức Mẹ, dù vẻ đẹp bên ngoài của họ có phải là vẻ đẹp của Đức Mẹ hay không (trong
những tác phẩm của Bunin có lẽ chỉ có Rusya trong tác phẩm cùng tên là được miêu tả có
vẻ đẹp ngoại hình của Đức Mẹ). Tính nữ cứu rỗi ấy có thể là tình yêu, có thể là lí tưởng.
Họ đại diện cho tình yêu Nga và tâm hồn Nga vĩnh cửu.
3.3.2.1. Tình yêu cứu rỗi
Các nhân vật nữ trong truyện ngắn tình yêu của Bunin, đa phần là những người trẻ,
kể cả những mối tình thoáng qua – những thiếu phụ cũng chỉ vừa bước sang tuổi ba mươi.
Thế nhưng, những nhân vật trẻ trung ấy lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc đời
của các nhân vật khác. Họ chính là điểm tựa tinh thần của những nhân vật ấy. Họ cứu rỗi
các nhân vật khác bằng tình yêu của mình, lí tưởng của mình, thậm chí bằng cả cái chết.
Đọc truyện ngắn của Bunin chúng tôi nhận thấy có những nhân vật mang trong
mình tình yêu cứu rỗi (N.Berdiaev gọi là “bản nguyên nữ có chức năng cứu rỗi)”. Đó là
những nhân vật bằng tình yêu của mình đem đến niềm hạnh phúc cho những nhân vật
106
nam trong tác phẩm. Những người phụ nữ đó chưa chắc đã là người vợ chính thức, nhưng
mối tình của họ thì lại để lại dấu ấn đậm sâu khiến cho các chàng trai không thể quên suốt
cả cuộc đời.
Trước tiên phải kể đến mối tình thời thanh xuân đầy lãng mạn và say mê của nhân
vật tôi trong Rusya. Ngày còn trẻ, khi làm gia sư cho một cậu bé tại một điền trang kiểu
biệt thự, tôi đã yêu và say mê cô nàng Rusya xinh đẹp và thuần khiết, chị gái của cậu bé.
Mối tình của hai người đến tự nhiên như bắt buộc phải có giữa một nơi khung cảnh thiên
nhiên tuy hoang sơ nhưng buồn tẻ, “chẳng có chỗ nào là cảnh đẹp”. Khi đã trưởng thành,
đi qua nơi ấy, nhân vật tôi thừa nhận mình đã “phải lòng kinh khủng” cô gái. Sáng sáng
nàng nội trợ, chàng kèm học cho em trai nàng, trưa đến cả nhà đi ngủ sau bữa trưa, chỉ có
nàng và chàng còn thức. Chàng say mê nghiên cứu lịch sử, văn chương và những thứ “cao
siêu” khác, còn nàng thì vẽ tranh. Tình yêu đến từ những trưa vắng người như thế. Rồi họ
có những đêm bơi thuyền cùng nhau, cùng ngắm trăng, cùng tận hưởng niềm hạnh phúc
lứa đôi. Đến khi bị mẹ nàng phát hiện, họ buộc phải chia tay nhau, với nàng đó là một sự
lựa chọn đau đớn bởi giờ đây nàng đã yêu chàng say đắm: “Vậy mà giờ đây em cứ yêu
anh đến nỗi đối với em không có gì đáng yêu hơn nữa cả, kể cả cái mùi bên trong chiếc
mũ lưỡi trai này: mùi đầu anh và mùi của cái thứ nước hoa gớm ghiếc của anh!” [15; tr.
252]. Còn chàng thì mãi sau này vẫn không thể quên được nàng, dù chàng đã có vợ, thậm
chí, nỗi nhớ nhung, sự lơ đễnh của chàng còn khiến vợ chàng phát ghen: “Cô gái biệt
thự… Sẽ không có cô gái nào đáng yêu bằng cô gái mà ta yêu” [15; tr. 252]. Dường như
với mỗi con người sống trong cuộc đời, có một người để yêu, để được yêu hết mình là
điều tuyệt vời nhất. Và tuyệt vời gì hơn khi đó là mối tình đầu? Với Rusya, Bunin đã
khẳng định điều ấy. Người con gái trong Canh khuya cũng là một mối tình khắc cốt ghi
tâm của nhân vật tôi, dù cô gái ấy không may đã từ giã cõi đời từ khi còn rất sớm. Ngày
trở về nước Nga, trở về thị trấn quen thuộc xưa kia, tất cả những kỷ niệm đẹp của tình yêu
đã trở về: cái đêm hẹn hò khi xung quanh là đám cháy sáng rực, chàng đã dũng cảm cầm
tay nàng, rồi khu vườn nhà nàng khi hai người tâm sự trong đêm …tất cả ngự trị trong tôi
như những kỷ niệm đẹp nhất cuộc đời. Và những kỷ niệm ấy là chốn đi về, là niềm an ủi
chàng trong những ngày sống xa Tổ quốc.
107
Những mối tình đậm sâu và day dứt của những nhân vật họa sĩ và nhạc sĩ trong
Galia Ganskaya và Ida lại là những lời sám hối của lương tâm họ mỗi khi nhớ về quá
khứ. Galia Ganskaya mới mười sáu tuổi, ngập tràn sức sống, xinh đẹp, quyến rũ, và cũng
rất bồng bột. Tình yêu của nàng với anh chàng họa sĩ trẻ là tình yêu của sự dâng hiến hết
mình, và sự dâng hiến ấy đòi hỏi được đáp trả tương xứng. Đó không phải sự đáp trả bằng
vật chất, mà bằng tình cảm. Vì vậy, khi biết chàng họa sĩ định rời đi Ý, nàng đã không
chịu đựng được. Sự quyên sinh của nàng khi thuyết phục chàng không được như một
tiếng sét giáng xuống đầu chàng. Ngay lúc ấy chàng đã định tự tử theo nàng. Cho đến khi
trở thành một họa sĩ thành danh, đến khi không còn trẻ nữa, đã có thể ngồi và kể lại một
cách bình thản câu chuyện đau buồn ấy, người họa sĩ thú nhận: “Có lẽ, trong chúng ta,
mỗi một người đều có một kỷ niệm đặc biệt quý giá về tình yêu, hoặc một chuyện tình tội
lỗi nặng nề nào đó. Vậy thì, có lẽ chính Galia Ganskaya là hồi ức tuyệt đẹp nhất, mà cũng
là tội lỗi nặng nề nhất của tôi, mặc dầu, có trời chứng giám, dù thế nào đi nữa thì cũng
không phải là tôi cố ý.” [19; tr. 104].
Sau khi chia tay Ida ở sân ga, sau khi được nàng thổ lộ mối tình, người nhạc sĩ đã
ngộ ra một chân lí, và trong phút bốc đồng nhất của mình, đã chia sẻ những suy nghĩ ấy:
“Hãy uống vì tất cả những người yêu chúng ta, vì tất cả những ai mà lũ người ngu ngốc
chúng ta không đánh giá được họ, vì tất cả những ai mà chúng ta đã từng được hạnh phúc,
sung sướng với họ, rồi sau đó phải chia tay và vĩnh viễn biến mất trong cuộc đời ta,
nhưng dù sao vẫn mãi mãi gắn với nhau bởi mối liên hệ đáng sợ nhất trên thế giới!” [17;
tr. 21]. Truyện ngắn của Bunin là những cung bậc của sự tiếc nuối, day dứt, hối hận như
thế, bởi lẽ những người đàn ông trong Một truyện tình nho nhỏ, Natali, Ở một phố thân
quen, Tania, Stepa… không đủ can đảm để nói ra và hành động. Tuy nhiên, ở đây, chúng
tôi muốn nhấn mạnh những nhân vật nữ hi sinh tất thảy vì tình yêu. Họ hi sinh mà không
đòi hỏi gì, họ chấp nhận những lời hứa hẹn như thứ bảo bối của cuộc đời. Bằng lòng bao
dung và sự hi sinh vô điều kiện, họ chính là người cứu vớt linh hồn cho những người đàn
ông. Trong Một chuyện tình nhỏ, những bức thư đầy tình cảm chân thành và mãnh liệt của
cô gái đã đánh thức trái tim yêu ở chàng trai, nhen lên trong lòng chàng nỗi đau của tình
yêu bị đánh cắp: “Tôi lấy bức thư của nàng đọc lại một lần nữa, và cảm thấy trái tim nhói
đau trong lồng ngực: „Ôi, em yêu, em tuyệt diệu! Biết làm gì bây giờ? Làm gì?‟” [16; tr.
108
588-589]. Những câu hỏi vang lên trong vô vọng, bởi nàng đã đi quá xa, và nàng không
còn có thể yêu chàng được nữa. Chính chàng lúc này cũng nhận ra rằng: “Chiếc chuông
nhỏ vẫn rung đều đều, đơn điệu, như muốn nói rằng con đường đang đi sẽ còn dài, rằng
quá khứ đã vĩnh viễn trôi qua, và phía trước là một cuộc đời mới đang chờ đợi.” [16; tr.
589]. Như thế, tình yêu của những người con gái thực sự không chỉ cứu rỗi tâm hồn, tình
yêu ấy còn cứu rỗi cả cuộc đời thực của họ, giúp họ bước tiếp trong cuộc sống.
Nhân vật tôi trong Natali nhận được tình yêu và sự quan tâm của ba người phụ nữ.
Mối tình với Sonia dường như là sự thỏa mãn về xác thịt, tình yêu với Natali nhằm thỏa
mãn khát khao chinh phục và sự ngưỡng mộ thờ phụng về mặt tinh thần, còn mối tình với
Gasha là sự thay thế cho Natali và Sonia, dù rằng nàng đáng yêu như một bé con. Gasha
có một đứa con với tôi nhưng nàng nhất định không chịu làm đám cưới, chấp nhận thân
phận của một cô hầu gái. Tôi đi du ngoạn, nhưng bóng hình của Natali cùng mối tình đầu
đời vẫn không thể phai nhòa. Cuối tác phẩm, họ lại ở bên nhau, dù nàng đã từng là vợ của
người khác: “Bây giờ thì anh lại bên em và bên em mãi mãi. Nhưng mình sẽ ít gặp nhau
thôi anh nhé – làm sao mà em, người vợ không ai biết của anh, lại có thể trở thành tình
nhân của anh trước mắt mọi người?” [16; tr. 536, 537]. Vậy là, tình yêu của người con gái
yếu đuối mong manh Natali có một sức mạnh vô bờ, khiến nàng sẵn sàng hi sinh tất thảy
cho anh ta, dù chấp nhận đánh đổi bằng cái chết. Kết thúc tác phẩm Natali chết vì sinh
con cho tôi, cái chết không hề ai biết. Vậy là cả Sonia, cả Gasha, cả Natali, vì tình yêu sẵn
sàng hi sinh con người, hạnh phúc cá nhân của mình. Sự bao dung của họ đã cứu rỗi cho
những cậu chủ đa tình và mềm yếu, thiếu quyết đoán. Nhân vật tôi trong tác phẩm này gợi
nhớ tới nhân vật Nikolai Alekseevich trong Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối. Yêu cậu
chủ của mình từ khi còn thanh xuân, cho đến tận khi về già Nadezhda vẫn không thể quên
mối tình ấy, bà không lấy chồng, bởi với bà không gì quý bằng tình yêu. Bị ruồng rẫy, bà
đã toan tự tận, nhưng lòng bao dung của tình yêu đã chiến thắng. Ngày gặp lại, bà tự hào
vì tình yêu và sự bao dung ấy của mình: “Hồi ấy cũng như sau này, đối với tôi ông là quý
nhất trần đời. Chính vì vậy tôi không sao có thể tha thứ cho ông được.” [15; tr. 233]. Lí lẽ
về tình yêu bất tử bất chấp sự đối xử của đối phương đã cứu rỗi linh hồn Nikolai
Alekseevich, ít nhất, ông không phải dằn vặt cả đời vì suýt chút nữa có người vì ông mà
không giữ mạng sống của mình. Có lẽ, sự hi sinh của nhân vật Nadezhda cũng là sự hi
109
sinh của cô bé Tanhia trẻ trung, ngây thơ và đáng thương. Bunin đã thông qua các nhân
vật ấy tôn vinh những người phụ nữ bé nhỏ suốt đời bao dung, chở che, hi sinh vì tình yêu
và người mình yêu.
Lí tưởng về tình yêu cứu rỗi có lẽ rõ nhất ở Những tấm danh thiếp và Say nắng.
Với Những tấm danh thiếp, anh chàng nhà văn trẻ tuổi và mạnh khỏe, nồng nhiệt đã khơi
dậy con người bản năng yêu đương ở người thiếu phụ, đưa người thiếu phụ ấy đi hết
những cảm xúc của cuộc ái ân, những cảm xúc mà trước kia, dù đã lấy chồng, nàng không
thể có được. Còn với anh chàng nhà văn, những tưởng mối tình với người thiếu phụ chỉ là
cuộc tình chớp nhoáng qua đường, vậy mà nó lại trở thành miền kí ức đẹp đẽ, sống mãi cả
cuộc đời. Cả hai người, như vậy đều cần đến nhau, cứu rỗi cho cuộc sống hiện tại nhàm tẻ
của người kia. Với Say nắng, người thiếu phụ mà anh chàng trung úy gặp trên đường đi
thực sự là người phụ nữ cứu rỗi cho tâm hồn thiếu thốn tình yêu của anh. Sự yêu kiều, sức
cuốn hút kỳ lạ và khoảnh khắc say nắng ngẫu nhiên của tình yêu đã đưa họ đến với nhau,
nàng đồng ý xuống bến với chàng, dâng hiến cho chàng trong một đêm hè nóng bức ở
một thị trấn huyện lỵ xa lạ, để rồi coi đó là cơn say nắng duy nhất trong đời: “Cái điều
thậm chí giống với việc mới xảy ra, đối với em chưa hề có và sẽ không bao giờ có nữa cả.
Hệt như em đã bị rối trí hay sao ấy… Hoặc nói đúng hơn, là cả hai chúng ta đều đã bị một
cái gì giống như say nắng ấy…” [15; tr. 206]. Với chàng, đó thực sự là điều kỳ diệu. Để
rồi khi nàng đã đi khỏi, chàng “hoảng sợ vì tuyệt vọng” và “cảm thấy đau lòng, cảm thấy
toàn bộ cuộc sống sau đây của mình không có nàng thì sẽ vô dụng biết bao nhiêu”. Tất cả
những gì về nàng chàng sẽ nhớ mãi, từ dáng hình, mùi hương, giọng nói của nàng cho đến
khoái cảm về mọi cái đáng yêu của người phụ nữ mà lần đầu chàng được sống, quan
trọng hơn là “một cảm giác hoàn toàn mới lạ, kỳ dị, khó hiểu về một sự gắn bó đặc biệt
giữa hai người đã choán hết tâm trí chàng, đeo đuổi chàng đến hết cuộc đời”…
3.3.2.2. Lí tưởng cứu rỗi
Trong những truyện ngắn của Bunin có những nhân vật nữ còn rất trẻ nhưng đã có
lí tưởng rất cao cả. Ở đây là lí tưởng tôn giáo, là khát vọng hướng tới cái vĩnh cửu tuyệt
đối của con người. Và điểm đặc biệt là, khát vọng ấy, lí tưởng ấy lại được xây dựng trong
110
hình thức của một câu chuyện tình đầy kỳ bí và hấp dẫn. Chúng tôi muốn nói tới tác phẩm
Ngày thứ Hai chay tịnh.
Mới đọc tác phẩm, chúng ta sẽ thấy ấn tượng đầu tiên là ấn tượng về một câu
chuyện tình. Hai nhân vật chính, chàng trai và cô gái đều là những người cực kỳ giàu có,
cuộc sống của họ chỉ gói gọn trong những hoạt động hưởng thụ: đi ăn, đi dạo chơi, đi xem
kịch, xem hát… Xen kẽ giữa những hoạt động ấy là những buổi tối đi học, những ngày
nằm dài đọc sách, chơi nhạc… Đôi nhân vật ấy đều rất xinh đẹp, tương xứng với nhau.
Chàng trai rất muốn cưới cô gái, còn cô gái thì cứ lần lữa với lí do chưa chuẩn bị tinh thần
làm vợ. Tình yêu của họ cũng rất trong trắng, không hề có màu sắc nhục dục, dù trong
những tác phẩm của mình, Bunin không ngại đề cập đến khía cạnh này. Cho đến một
“Ngày thứ Hai chay tịnh” – ngày thứ hai trước khi bước vào mùa chay, thời điểm các giáo
dân cầu nguyện, sám hối, dọn lòng đón lễ Phục Sinh, nàng quyết định trao thân cho chàng
để rồi sau đó hoàn toàn biến mất khỏi cuộc đời chàng, biến mất khỏi cuộc sống trần tục.
Vì quá yêu, khi đã đủ can đảm để chấp nhận sự thật, chàng đi tìm nàng, nhận ra nàng giữa
những bóng áo trắng nữ tu để rồi lặng lẽ quay gót trở về. Tác phẩm kết thúc để lại dư vị
tiếc nuối lẫn lộn đan xen trong lòng người đọc. Tuy nhiên, đọc kỹ tác phẩm, chúng ta sẽ
nhận ra những hành động rất hợp lí mang tính chất chuẩn bị của nhân vật nàng trước khi
đưa ra quyết định cuối cùng, đặc biệt là những hành động kỳ quặc của nàng trong ngày
“Chủ nhật tha tội” và “Ngày thứ Hai chay tịnh”: nàng vời chàng đến để cùng nhau đi
thăm tu viện, thăm nghĩa trang, thăm đan viện, dự buổi “cây nhà lá vườn” của nhà hát
kịch – việc mà trước kia nàng không bao giờ muốn làm. Khi trở về nhà, lần đầu tiên
chàng được nàng cho phép ở lại ban đêm, lần đầu tiên chàng được phép đi đến tận cùng
tình yêu với nàng để rồi sáng hôm sau, nàng chính thức rời xa chàng. Chỉ đến khi ấy, nhớ
lại những lời nàng đã nói, những việc nàng đã làm, chàng mới biết lí tưởng thực sự của
nàng. Đó là được phụng sự Chúa, phụng sự Đức Mẹ chứ không phải là tình yêu của
chàng, thứ tình yêu trần thế mà nàng đã tiếp nhận một cách thờ ơ.
Ngày thường nàng thích đọc sách, chàng mang đến cho nàng những sách văn học
thời thượng, nàng đọc, nhưng với thái độ dửng dưng; cái nàng thực sự thích là biên niên
sử Nga, truyện cổ tích Nga; ngày thường, chàng dẫn nàng đi thăm thú thiên nhiên, đi nghe
hát, đi xem kịch, nàng vẫn tận hưởng với con mắt sành sỏi, nhưng nơi nàng thực sự muốn
111
đến, thực sự thoải mái và thích thú khi ở đó là tu viện, là nhà thờ. Với nàng, quán rượu
thật vô nghĩa: “Cứ hết quán rượu nọ đến quán rượu kia làm gì…”. Nàng thú nhận, những
ngày chàng không đến với nàng, không đưa nàng đến các hiệu ăn, nàng thường đến các
nhà thờ, nghe ca đoàn, hòa cùng giọng hát với họ. Với nàng, chàng không phải là mục
đích sống, mục đích sống của nàng là Đức Chúa: “Đức Chúa là đấng ngự trị cuộc sống
của con…” [16; tr. 548]. Bởi thế, nàng nhất quyết không chấp nhận làm vợ chàng. Có một
điểm đặc biệt trong suy nghĩ của nhân vật nàng, đó là, với nàng, nước Nga gắn liền với
các tu viện, thứ làm cho nước Nga chính là nước Nga là các tu viện: “Vậy mà giờ đây cái
nước Nga ấy chỉ còn lại trong những tu viện phương Bắc nào đó. Và cả trong những bài
ca ở nhà thờ nữa. Gần đây em có đến thăm tu viện Zatsatievski - ở đấy họ hát những bài
thánh vịnh thật tuyệt vời, anh không tưởng tượng được đâu! Thế mà ở tu viện Tsudovưi
lại còn tuyệt hơn cơ. Năm ngoái cứ đến Tuần Chịu nạn là em lên đấy suốt. Chao ôi, thích
thật đấy! Khắp nơi là nội cỏ, không khí quả là hiền dịu, trong lòng sao thấy êm ái, hiu hiu
buồn và lúc nào cũng cảm thấy tình quê hương, thấy cái cổ kính của đất nước…Trong nhà
chính tòa có bao nhiêu cửa đều mở ra hết, những người dân thường ra ra vào vào cả ngày,
suốt ngày người ta đều làm lễ… Ôi, nếu như em được đi biệt đến một tu viện nào đó, đến
một nơi cực kỳ thâm sơn cùng cốc nào đó, như Vologda hay Viatka chẳng hạn!” [16; tr.
553-554]. Điều đó cũng có nghĩa, để nói về cái gì đó Nga thật Nga, thì chính là tôn giáo,
ở đây là Chính Thống giáo với truyền thống tôn thờ Đức Mẹ, coi trọng Đức Mẹ, coi trọng
và tôn thờ phụ nữ, những người cứu rỗi bao dung và trinh trắng. Hành động của nhân vật
nàng trong tác phẩm rõ ràng đã được suy nghĩ sâu sắc và chuẩn bị kỹ càng. Trước khi trở
thành nữ tu, nàng đã dâng hiến cho chàng con người trần tục nhất của mình, đền đáp lại
tấm chân tình của chàng. Từ sau giờ phút ấy, thân thể nàng, tâm hồn nàng, con người
nàng thuộc về Chúa, và nàng là một con chiên thực sự của Chúa, của Đức Mẹ, nàng đi tu
để bảo vệ và cứu rỗi cho mọi người, cho nước Nga. Lí tưởng cao cả của nàng đưa nàng
trở thành một Thánh nữ - mang trong mình sức mạnh và quyền năng của Đức Mẹ.
Nhìn lại lịch sử văn học Nga, chúng ta thấy rất nhiều nhà văn Nga đã xây dựng
hình ảnh của những người phụ nữ - Thánh Mẫu. Họ có thể mang trong mình một hoặc cả
hai đặc điểm của Đức Mẹ: trong trắng, nhân hậu hoặc đau khổ, sầu muộn hoặc cả hai.
Hiện tượng này dường như đã thành một hệ thống trong văn học Nga từ xưa đến nay.
112
Chúng ta hãy nhớ đến Tachiana của Puskin và năng lực thức tỉnh của tính Nga thuần khiết
ở nàng với thế giới thượng lưu Nga, với ông chồng chức tướng già nua của nàng và đặc
biệt với Evgeni Onegin, nhớ đến Maria Bolkonskaya với tấm lòng bao dung của Đức Mẹ
trong Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy, nhớ đến Sonia với lòng đau khổ tột độ và
sự hi sinh cao cả cho Raskolnikov trong Tội ác và hình phạt, nhớ đến Olenka trong
Dusechka của Chekhov, nhớ đến tình cảm và những điều Lara đã làm cho Zhivago và
Pasha trong Bác sĩ Zhivago của Pasternak, nhớ đến Margarita trong Nghệ nhân và
Margarita của Bulgakov, Matriona trong Sân nhà Matriona của Solzhenitsyn, Sonia
trong Sonechka của Ludmila Ulitskaya... Tất cả họ đều mang những phẩm chất cao quý
của Đức Mẹ. Đối với những người đàn ông trong tác phẩm, họ dường như là Đấng Cứu
Rỗi. Còn những người đàn ông hết mực tôn thờ, yêu kính họ. Rõ ràng, trong một số tác
phẩm, ở một khía cạnh nào đó, họ đã trở thành niềm xác tín của những nhân vật nam
chính. Đối với người Nga, niềm tin rất quan trọng. Trở lại với truyện ngắn Bunin, niềm
tin chính là vũ khí giúp Nastasia Semionovna trong Cuộc đời tươi đẹp đạt được cuộc sống
lí tưởng như mình mong đợi: “Đời tôi vốn dĩ tươi đẹp, cái gì mong ước tôi cũng đều đạt
như sở nguyện. Này nhé, cả bất động sản tôi cũng có, - ngôi nhà thì ông già nhà tôi đã
sang tên cho tôi ngay sau ngày cưới rồi, - tôi lại có thêm mấy con ngựa, một đôi bò cái, và
chúng tôi lại còn có cả cơ ngơi buôn bán nữa kia”. [15; tr. 49]. Tuy nhiên, ở tác phẩm này,
Nastasia đã từ chối quyền năng cứu rỗi của mình với người con trai ruột và với cậu con
trai què quặt của nhà chủ cô đã từng làm thuê – người hết lòng yêu và tôn sùng cô để “cứu
rỗi” cuộc sống của chính mình: lấy chồng mới, hưởng một cuộc sống “bồng lai tiên cảnh”
hiếm có trong “thời buổi này”. Vậy là, các nhân vật nữ của Bunin đã được nhìn từ rất
nhiều góc độ khác nhau trong tác phẩm: từ góc độ thi pháp cho đến góc độ chức năng,
góc độ văn hóa, tôn giáo. Bunin đã cho thấy tình yêu với nước Nga một lần nữa qua
những hình tượng nhân vật này. Theo nhà nghiên cứu Phạm Gia Lâm trong cuốn Văn học
Nga hải ngoại: Quá trình – Đặc điểm – Tiếp nhận, những truyện ngắn của Bunin sau
Cách mạng tháng Mười đã được nâng lên một tầm cao mới khi hình tượng nước Nga
trong những truyện ngắn ấy không còn hiển hiện một cách trực diện mà đã ẩn sâu vào
mạch ngầm triết lí, gợi tham chiếu đến mẫu gốc Sofia (Nữ tính vĩnh hằng). Cũng qua việc
phân tích chi tiết tác phẩm Ngày thứ Hai chay tịnh nhà nghiên cứu khẳng định: “ý thức
113
nghệ thuật của Bunin đã bảo tồn được mối liên hệ với kí ức huyền thoại và lịch sử trong
nền văn hóa của dân tộc Nga” [47; tr. 250].
Như vậy có thể thấy trong những tác phẩm của mình Ivan Bunin luôn khắc khoải
về những người phụ nữ Nga – những người mang trong mình vẻ đẹp bất tử của Đức Mẹ,
từ cái đẹp gợi cảm bên ngoài đến cái đẹp phảng phất màu sắc tôn giáo trong tâm hồn. Với
Bunin, rõ ràng những người phụ nữ Nga chính là biểu tượng đầy sức gợi về sự thuần
khiết, về sự cứu rỗi, về nỗi sầu muộn hạnh phúc rất đỗi tự nhiên nhưng cũng mang màu
sắc tuân phục rất rõ. Vẻ đẹp nữ mang đậm màu sắc Chính Thống giáo ấy khác hoàn toàn
với vẻ đẹp nồng nàn quyến rũ rất đời của những nhân vật nữ trong văn học Pháp (Balzac,
Hugo, Flaubert) hay vẻ đẹp Khả Ái chỉ để chiêm ngưỡng của những nhân vật nữ trong
văn học Nhật (Kawabata, gần đây là Banana). Đó là sự khác biệt về triết lí văn hóa, về đời
sống tôn giáo chủ đạo và cả về cảm quan tâm hồn của mỗi nhà văn.
Tiểu kết chương 3:
Bunin là một nhà văn đặc biệt trong cách cảm nhận và tái hiện thế giới. Cách cảm
nhận ấy trước hết thể hiện qua điểm nhìn và các dạng thức biểu hiện của các chủ thể trữ
tình – người kể chuyện toàn tri “thâu tóm” cảm xúc hay người kể chuyện ngôi thứ nhất
“trải nghiệm” cảm xúc. Cách cảm nhận ấy còn thể hiện qua sự lựa chọn hệ qui chiếu vào
những đối tượng xúc cảm, đối tượng trữ tình thể hiện vẻ đẹp vừa cụ thể cảm tính vừa
thiêng liêng, cao cả. Trong vô vàn những sự vật hiện tượng, trong vô vàn những con
người đã gặp trên đường đời các chủ thể trữ tình trong truyện ngắn Bunin chỉ đau đáu
hướng về nước Nga, thiên nhiên Nga, con người Nga, đặc biệt là những người phụ nữ ông
từng gặp, từng rung động, từng yêu, từng say mê. Tính trữ tình trong truyện ngắn của
Bunin trước hết biểu hiện qua những cảm xúc dạt dào về nước Nga với thiên nhiên đẹp
như tranh vẽ, với những sự vật mang ý nghĩa biểu tượng giàu giá trị hoài niệm và những
người phụ nữ Nga yêu kiều, quyến rũ với tình yêu và tâm hồn cứu rỗi. Phảng phất sau
hình dung về các chủ thể trữ tình và đối tượng xúc cảm của họ, chân dung nhà văn hiện
lên như một con người tình cảm, tinh tế, luôn sống với quá khứ trong hoài niệm và gắng
lưu giữ ý niệm về cái đẹp, tình yêu, tâm hồn trong sáng, lí tưởng như những giá trị vĩnh
cửu.
114
CHƢƠNG 4
CỐT TRUYỆN TRỮ TÌNH VÀ CẢM THỨC BI HOÀI
Trong văn xuôi trữ tình, bề mặt sự kiện của cốt truyện thường có khuynh hướng
suy yếu, nhường chỗ cho dòng xúc cảm, tâm trạng, suy tưởng. Truyện ngắn Bunin, dù là
viết về tình yêu, cái chết hay đơn giản chỉ là tái hiện thiên nhiên thì tất cả đều được hiện
lên trong cảm xúc và bằng cảm xúc. Cảm xúc chi phối cách nhà văn lựa chọn chi tiết, sự
kiện, cảm xúc len lỏi trong từng tình tiết của cốt truyện. Nói cách khác, Bunin coi trọng
sự kiện tinh thần với những biến động về tâm trạng hơn là sự kiện thực tế với những diễn
biến thông thường. Thế giới tự sự - trữ tình trong truyện ngắn Bunin được cấu thành từ
những mô thức cảm xúc – sự kiện, thể hiện khuynh hướng tổ chức cốt truyện tâm trạng.
Thế giới của những truyện kể trữ tình Bunin toát lên cảm thức bi hoài (elegism,
элегическое). Cảm thức bi hoài chi phối mọi xúc cảm trữ tình trong truyện ngắn Bunin,
xuyên suốt thế giới nghệ thuật của nhà văn, quyết định khuynh hướng thể loại cho sáng
tác của ông.
4.1. Những mô thức cảm xúc – sự kiện
Đọc Bunin, chúng tôi nhận thấy sự tương đồng thú vị giữa một hoặc một vài cảm
xúc chủ đạo với những khung sự kiện nhất định hay những cách thức tổ chức dòng sự
kiện trong truyện ngắn của nhà văn Nga này. Chúng tôi gọi sự tương đồng giữa những
dòng cảm xúc – sự kiện đó là những mô thức cảm xúc – sự kiện.
4.1.1. Cảm xúc tiếc nuối – dòng chảy hoài niệm
Bunin là nhà văn tôn thờ cái đẹp, trong mỗi sáng tác, ông đều muốn lưu giữ những
nét đẹp ấy, để nó được sống cuộc sống vĩnh cửu của mình. Ở xa quê hương, nhà văn tiếc
nhớ rất nhiều thứ: vẻ đẹp đã qua giờ chỉ còn vang bóng của chốn thôn quê, những điền
trang Nga, sự lạc quan, vô tư lự của những người dân Nga hồn hậu, cái đẹp rực rỡ thanh
xuân của những cô gái tuổi đôi tám, mối tình đẹp đẽ mà câm nín và thậm chí là cảm giác
hối hận tiếc nuối vì đã vô tình giết chết cái đẹp… Và những cảm xúc tiếc nuối này đều
đến từ những câu chuyện viết về nỗi hoài nhớ quá khứ qua hồi tưởng của nhân vật.
Những tác phẩm tiêu biểu cho mô thức cảm xúc này có thể kể đến: Những quả táo
115
Antonov, Những giấc mộng của Trang, Meliton, Bà lão, Galia Ganskaya, Ida, Ở một phố
thân quen, Canh khuya, Mối tình đầu, Quán trọ ven sông…
Những quả táo Antonov là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Bunin.
Cả tác phẩm là hành trình trở về “nước Nga cổ xưa” trong tâm tưởng của nhân vật tôi.
Truyện được Bunin chia làm bốn phần, gắn liền với hình dung về nước Nga nông thôn
trong kí ức của tôi. Trong bốn phần của truyện, có đến ba phần nhà văn dành để miêu tả
nước Nga của quá khứ với những nét đẹp thiên nhiên và sinh hoạt văn hóa một thời đã
qua: “Tôi hồi tưởng lại một mùa thu sớm, đẹp trời…”. Trong phần thứ tư, một nước Nga
khác – nước Nga của hiện tại được tái hiện đầy chân thực, từ cảm giác và bằng cảm giác:
“Trong trang trại của các điền chủ nay đã không còn mùi thơm của táo Antonov nữa rồi”.
Rõ ràng, trong tác phẩm, có một thế giới của quá khứ - hồi tưởng và một thế giới của hiện
tại – nay. Mô hình hai thế giới đã xuất hiện và bước đầu đóng đinh phong cách của Bunin.
Tuy nhiên, cả quá khứ và hiện tại, thực tế đều được tái hiện qua bộ lọc kí ức của tác giả.
Vì thế cho nên ở một khía cạnh nào đó những truyện ngắn được viết từ hồi tưởng của tác
giả được coi là những truyện ngắn dòng chảy hoài niệm.
Thế giới tác phẩm là thế giới Nga cổ xưa. Nhà văn ưu ái những gì thuộc về quá
khứ. Câu chuyện mà nhân vật tôi của Bunin kể đều là những ấn tượng trôi theo dòng kí
ức. Có những câu chuyện diễn ra trong kí ức đơn giản, nhưng cũng có những câu chuyện
được hồi tưởng từ chính sự hồi tưởng của kí ức đơn giản ấy (Khung cảnh thiên nhiên,
cuộc sống sinh hoạt ở trang trại của bà dì Anna Gherasimovna được miêu tả là một cuộc
sống yên bình, trầm lặng. Cuộc sống ấy, theo tôi, là cuộc sống gợi nhắc chế độ nông nô đã
qua từ lâu. Như vậy, kí ức được tái hiện hai lần – kí ức trong kí ức). Thế giới qua hồi
tưởng hiện ra thật đẹp, một vẻ đẹp thanh bình, trầm tĩnh. Có âm thanh, có sự náo nhiệt
(cuộc đi săn cùng đoàn người anh vợ Akseni Semenưts) nhưng qua bộ lọc của tác giả
những thanh âm náo nhiệt ấy bỗng dịu lại, yên ả để thản nhiên hòa vào dòng kí ức. Ở
phần thứ tư, cũng là phần cuối cùng của tác phẩm, thế giới ―thực tại‖ đối lập hoàn toàn
với thế giới quá khứ ở những phần trước cũng đã được vẽ lại chân thực: sự nghèo đi,
những sinh hoạt đã ít náo nhiệt hơn, tiếng hát trầm buồn... Và trong những hoài nhớ của
tác giả, dù ở phần nào, hình ảnh những quả táo Antonov, hương thơm của táo – hương
thơm của quá khứ cứ vấn vương, trở đi trở lại. Có thể nói, hình ảnh táo Antonov, hương
116
thơm của táo Antonov đã trở thành sợi chỉ đỏ kết nối hai thế giới và các phần của thế giới
ấy trong tác phẩm.
Mô hình hai thế giới trong dòng chảy hoài niệm không chỉ xuất hiện trong Những
quả táo Antonov mà hiện hữu trong rất nhiều các tác phẩm khác của Bunin. Và cũng
giống như Những quả táo Antonov, hai thế giới trong tác phẩm của Bunin không phải là
thế giới vật chất hiện hữu cụ thể, mà là thế giới của tâm tưởng. Đó là không gian được tái
hiện lại qua trí nhớ và bằng trí nhớ. Không gian ấy kết nối với nhau một cách logic trên
một hành trình không đứt quãng. Có thể kể đến hành trình khám phá tâm hồn bí ẩn và
trầm lặng của người gác rừng Meliton hay hành trình trở về thăm lại nước Nga trong đêm
của tôi trong Canh khuya.
Nếu dòng chảy hoài niệm trong Những quả táo Antonov và Những giấc mộng của
Trang, Bà lão… có sự đan xen của hai thế giới quá khứ - thực tại thì trong những tác
phẩm như Ida, Tanhia, Galia Ganskaya, Rusya,… dường như thực tại chỉ là cái cớ, là
điểm tựa của quá khứ. Và chính câu chuyện của quá khứ mới là thứ gây thương nhớ, gợi
xúc cảm với người đọc. Câu chuyện về Galia Ganskaya của ông họa sĩ trong tác phẩm
cùng tên là sự hối hận vô cùng về một câu chuyện tình xảy ra đã lâu, khi ông họa sĩ vẫn
còn là một chàng họa sĩ trẻ tài năng, bồng bột và khao khát xê dịch. Với ông, đó đã là một
“chuyện xa xưa lắm rồi”, đến nỗi có thể kể lại một cách hoàn toàn cởi mở, nhưng rõ ràng,
câu chuyện về cô bé Galia cứ day dứt trong ông để mỗi khi mùa xuân đến, dù đang ở
Paris ông lại nghĩ về Odessa, nghĩ về Odessa thì câu chuyện về Galia lại hiện về, ám ảnh.
Cái chết của cô gái trẻ Galia như một kí ức đau buồn khoét sâu vào sự hối hận của người
họa sĩ. Cũng giống như Galia, Rusya ở lại trong miền nhớ của nhân vật nam trên chuyến
tàu để rồi khi tàu lướt qua vùng đất ấy, những kí ức lại ùa về, trong sáng, đẹp đẽ. Nỗi nhớ
xen lẫn niềm tiếc nuối về mối tình đẹp nhất, người con gái đẹp nhất đã sống dậy trong kí
ức chàng trai. Hiện tại được tái hiện qua cuộc đối thoại không dài, chỉ là cái phông nền
của kỷ niệm và tâm trạng. Hóa ra, nhân vật anh chàng gia sư thời trẻ bồng bột, táo bạo và
“nhút nhát, yếu đuối” với suy nghĩ về mối tình nơi điền trang là cuộc dạo chơi tình cảm
thì đến khi trưởng thành lại là một người chững chạc, chín chắn và luôn trân trọng những
kí ức đẹp của quá khứ. Hóa ra, mối tình thoáng qua ấy, người con gái biệt thự thời ấy lại
chính là người con gái duy nhất anh yêu. Hiện tại trong Tanhia là những lời thú nhận thật
117
lòng của anh chàng tiểu chủ đa tình về quá khứ tình trường oanh liệt: “Vào thuở xa xưa
ấy, anh thường phung phí bản thân một cách vô tâm, sống lang bạt đây đó, có nhiều mối
quan hệ tình ái và những cuộc gặp gỡ tình cờ - và anh cũng đã xếp mối quan hệ tình cảm
giữa anh và nàng vào loại ấy.” [19; tr. 111]. Tuy nhiên, nếu như người họa sĩ, nhạc sĩ và
người gia sư biệt thự khi xưa luôn tiếc nuối, day dứt về những sự việc đã xảy ra, về những
tháng ngày hạnh phúc đã qua thì chàng tiểu chủ Piot Nhikolaich lại bình thản kể về câu
chuyện tình của mình. Trong câu chuyện ấy, có niềm thương mến với cô gái nông dân bé
nhỏ Tanhia, có cả “lòng biết ơn thú vật” đối với niềm hạnh phúc bất ngờ mà Tanhia đã
trao cho chàng. Có lẽ, câu chuyện hạnh phúc lứa đôi với cô gái nông dân cũng để lại trong
anh chàng đào hoa những cảm xúc khó phai. Bởi trong câu chuyện, Piot nhiều lần nhắc
đến hương thơm đặc biệt của cô gái, thứ đã quyến rũ anh, khiến anh nhớ mãi. Đó là
hương táo thơm, hương đồng quê toát ra từ người nàng. Trong câu chuyện không hề có
một từ tiếc nuối, day dứt, nhưng có lẽ, xúc cảm nuối tiếc một thời tuổi trẻ nhiều chiến tích
cũng là xúc cảm của Piot Nhikolaich mỗi khi nhớ về.
Vậy là, dòng chảy hoài niệm chính là dòng chảy của cảm xúc nhớ nhung, tiếc nuối,
thậm chí day dứt của những nhân vật nam mỗi khi vô tình hay hữu ý được gợi nhắc tới kỷ
niệm. Hoài niệm là phương thức hữu hiệu lưu giữ lại những vẻ đẹp của quá khứ, những
mối tình đẹp mà phải đến khi đánh mất nó người ta mới nhận ra. Dòng chảy quá khứ
trong tác phẩm của Bunin là dòng chảy lưu giữ những vẻ đẹp vĩnh cửu của nước Nga, của
những người phụ nữ Nga, của những trái tim Nga yêu đương say đắm.
4.1.2. Cảm xúc mãnh liệt – khoảnh khắc “hiện tại”
Truyện ngắn khoảnh khắc là truyện ngắn lấy cơ sở là một sự kiện, một thời điểm,
một thời khắc ngắn ngủi của các nhân vật. Đó là thời “hiện tại” của tác phẩm, câu chuyện
xảy ra với nhân vật được người kể chuyện hoặc chính nhân vật kể lại ngay tại thời điểm
nó xảy ra. Và cũng bởi thời điểm của truyện kể là thời hiện tại nên tất cả những cung bậc
cảm xúc trong những tác phẩm này đều ở cấp độ mãnh liệt nhất: yêu mãnh liệt, buồn vô
hạn, giận hờn ghê gớm…Đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Vera và Storesnhev trước khi
hai người chính thức xa nhau, là thời khắc chia tay tổ ấm đã gắn bó từ bao đời của bác
quý tộc Voeikov - thời khắc bác thị dân Rostovsev tiếp nhận tổ ấm quý tộc ấy, là thời
118
khắc nhân vật tôi trong truyện ngắn Canh khuya không thể quên, đã nhớ và kể lại, là phút
giây ái ân nồng cháy của chàng trung úy và nhân vật nàng trong Say nắng, của nhà văn trẻ
và người thiếu phụ trong Những tấm danh thiếp, là giây phút Klara đồng ý “làm quen”
với Irakly Meladze để rồi chỉ rất nhanh sau đó nàng chết và chàng trai bị bắt khi trên
đường bỏ trốn về quê… Trong những thời khắc ấy nhân vật khóc, cười, yêu, ghét và bộc
lộ tâm trạng, thái độ, tình cảm cũng như suy nghĩ của mình.
Những khoảnh khắc cảm xúc mãnh liệt của các nhân vật trong truyện ngắn của
Bunin, theo khảo sát của chúng tôi chủ yếu là những khoảnh khắc tình yêu. Và những tác
phẩm xuất sắc nhất được xây dựng trên cơ sở khoảnh khắc tình yêu đều là những sáng tác
sau Cách mạng tháng Mười: Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối, Những tấm danh thiếp,
Klara, Ở Paris, Mẹ đỡ đầu, Một truyện tình nho nhỏ…và đặc biệt là Say nắng. Một cuộc
gặp gỡ ngắn ngủi, một đêm hè say mê, yêu và được yêu để rồi biết rằng sẽ không bao giờ
tìm lại được tình yêu ấy, có lẽ là nỗi buồn khôn xiết của một cuộc hành trình tình yêu đã
được thu ngắn lại. Khi nàng ra đi, cảm xúc thiếu vắng tràn ngập tâm hồn chàng, chế ngự
con tim chàng, không cho chàng một phút giây yên ổn nào, chàng đi khắp nơi trong thị
trấn nhỏ nhưng không thể nguôi ngoai nỗi nhớ nàng. Sự nhớ nhung, căng thẳng trong
chàng đã ở mức cao nhất: “Anh cởi bỏ bộ quân phục rồi nhìn vào gương: khuôn mặt anh,
- như bao khuôn mặt sĩ quan bình thường khác, đen xạm đi vì nắng, có bộ ria mép khô
cứng vì nóng, đôi mắt xanh biếc, dường như sáng thêm bên nước da sạm nắng, giờ đây lộ
rõ những nét căng thẳng điên dại” [16; tr. 282]. Thời gian của câu chuyện kéo dài có một
ngày một đêm mà qua tâm trạng nhớ nhung, thiếu vắng quay quắt của chàng trung úy
tưởng như “mười năm đã trôi qua”: “Viên sĩ quan lặng ngồi trong căn phòng trống trải
bốn phía trên boong tàu và anh cảm thấy mình già thêm chục tuổi” [16; tr. 284]. Bunin để
cho nhân vật trải nghiệm hạnh phúc và khổ đau chỉ trong một cuộc gặp ngẫu nhiên, phải
chăng ông muốn con người sống phải biết trân trọng những phút giây hiện tại, trân trọng
những phút được yêu, được sống, trân trọng những gì ngắn ngủi nhưng đẹp đẽ? Triết lí về
tình yêu và sự tồn tại được gửi gắm qua một truyện ngắn xinh xắn thật sâu sắc. Rõ ràng,
những phút giây được yêu, được hạnh phúc dù ngắn ngủi cũng là những phút giây khiến
người ta không thể nào quên. Những phút giây ấy đến một lúc nào đó sẽ thực sự trở thành
niềm tin và lẽ sống cho cả cuộc đời con người. Trong Chiếc đu, khoảnh khắc tình tự trong
119
ánh trăng chiều chính là khoảnh khắc hạnh phúc ngập tràn của hai nhân vật chính: “Phải,
dường như trong đời em sẽ không khi nào có được hạnh phúc hơn buổi chiều nay…” [16;
tr. 574].
Vậy là qua những truyện ngắn của mình, Bunin đã cho thấy sức mạnh lớn lao của
khoảnh khắc trong cuộc đời con người. Những khoảnh khắc ấy là thứ có sức mạnh vô
biên, có sức sống vĩnh cửu, đủ để cứu vớt tâm hồn, thậm chí cứu vớt cả cuộc đời. Trong
những khoảnh khắc ngắn ngủi và bất ngờ ấy, con người bột phát những trạng thái tình
cảm mạnh mẽ nhất, tự nhiên nhất, chân thực nhất. Ghi lại những khoảnh khắc của cuộc
đời bằng nghệ thuật ngôn từ, Bunin cũng giống như các nhà họa sĩ ấn tượng lưu giữ
những khoảnh khắc tuyệt đẹp của thiên nhiên, con người bằng cây cọ; giống như những
nhạc sĩ thiên tài lưu giữ một nét thanh âm độc nhất vô nhị của cuộc sống bằng nốt nhạc.
Tất cả đều hướng tới một tôn chỉ duy nhất: sống hiện sinh để được vĩnh cửu.
4.1.3. Cảm xúc “an phận” – vòng đời “tĩnh lặng”
Chúng tôi gọi những tác phẩm viết về cuộc đời, số phận của các nhân vật chính
theo một trật tự tuyến tính hầu như không đan xen quá khứ, hiện tại, không có sự kiện gây
đột biến tạo ra bước ngoặt cho câu chuyện là những tác phẩm được viết theo mô hình sự
kiện dòng chảy cuộc đời. Trong những câu chuyện này hầu hết các nhân vật đều an phận
và bằng lòng với cuộc đời của mình, dù cuộc đời ấy với một số người không được như ý
họ. Tiêu biểu cho mô hình này của Bunin là những truyện ngắn: Cuộc đời tươi đẹp, Cỏ
gầy, Chiếc cốc đời, Mùa thu lạnh, Con quạ,…
Trong Cuộc đời tươi đẹp, những sự kiện của cuộc đời nữ nhân vật chính được kể
lại một cách liền mạch theo đúng diễn trình thời gian: khi còn nhỏ ở với bố, khi đã trở
thành thiếu nữ mong muốn lấy được một ông chồng thị dân, khi chồng chết một mình đi
làm thuê tìm kế sinh nhai, khi đã thành bà chủ và khi lấy được người chồng thứ hai. Cuộc
đời của Nastasia cứ êm đẹp diễn ra theo đúng kế hoạch và sự tính toán của người phụ nữ
nhanh nhẹn, thông minh và thực dụng này. Mạch truyện gần như không có xáo trộn và
những biến cố đặc biệt. Có chăng là những khoảnh khắc xao lòng của nữ nhân vật chính
trước cái chết của các nhân vật nam: cái chết của cậu con trai thứ hai nhà chủ, sự mất tích
120
của đứa con trai ruột. Tuy nhiên, đúng như nhan đề câu chuyện, Cuộc đời tươi đẹp là một
dòng chảy êm đềm, tĩnh lặng của một nhân vật biết tự làm chủ số phận của mình.
Cũng là dòng chảy cuộc đời, nếu như Nastasia của Cuộc đời tươi đẹp biết tự làm
chủ số phận mình thì các nhân vật Xelikhov, cha Kiro, bà lão Sanhia trong Chiếc cốc đời
và nhân vật Averki của Cỏ gầy lại hoàn toàn thụ động và chờ đợi số phận. Họ được miêu
tả là những người già cả, đã trải qua hầu hết những biến cố cuộc đời: từ khi còn là thanh
niên “mải mê chinh chiến và yêu đương”, khi lấy vợ và có cơ ngơi riêng của mình cho
đến khi già lão, chuẩn bị nhắm mắt xuôi tay và thời điểm từ giã cõi đời. Mỗi người họ khi
đến với cuộc đời đều mong muốn một cuộc đời nhàn hạ, sung sướng, vui vẻ. Có người
trong số họ đạt được nguyện ước, cũng có người trong số họ vẫn mang nặng suy tư,
nhưng điểm chung là họ chấp nhận số phận, chấp nhận sự an bài của Chúa như thể đó là
điều bất khả kháng. Qua những câu chuyện ấy, Bunin khẳng định: cuộc đời mỗi người là
một chiếc cốc, có mật ngọt hay không, có chứa đựng hạnh phúc hay không mỗi người tự
quyết định. Bởi thế, họ cần biết trân trọng chiếc cốc đời của mình. Khi mật ngọt – lạc thú
của cuộc đời không còn có ý nghĩa gì với họ thì cuộc đời của họ sẽ chấm dứt. Bởi thế, cái
chết của họ không tạo ra biến cố hay bước ngoặt trong câu chuyện, nó là sự kết thúc của
một vòng đời tuần hoàn mà con người sẵn sàng chấp nhận.
Trong văn học Nga, Bunin được coi là người kế tục truyền thống hiện thực của
Lev Tolstoy và Anton Chekhov. Những truyện ngắn dòng đời như Chiếc cốc đời gợi
người đọc nhớ tới Bộ ba nhỏ - Người trong bao, Khóm phúc bồn tử, Về tình yêu của
Chekhov. Tuy nhiên, cùng là miêu tả cuộc đời nhân vật với những sự kiện thường nhật
cũng như cái chết của anh ta nhưng truyện ngắn của Chekhov mang đậm màu sắc kịch
tính và tính chất giễu cợt, phê phán, cảnh tỉnh xã hội (Người trong bao) còn truyện ngắn
của Bunin hầu như tác giả không bộc lộ thái độ của mình, các sự kiện của cuộc đời cứ thế
diễn ra, số phận của nhân vật được định đoạt bởi một thế lực vô hình, triết lí nhân sinh
cũng như tư tưởng của tác giả phần lớn do nhân vật tự nhận ra, hoặc được toát ra từ số
phận nhân vật. Kết thúc tác phẩm cùng là cái chết nhưng cái chết trong truyện ngắn của
Chekhov gợi ra bi kịch, đọng lại trong tác phẩm là nỗi buồn, sự day dứt còn trong truyện
ngắn của Bunin, cái chết không gợi cảm giác bi lụy mà tự nhiên như một sự kiện đời
thường. Trong cách kể về cái chết vẫn có niềm hi vọng, sự lạc quan, vẫn chan chứa cảm
121
xúc trữ tình về con người và cuộc đời. Những truyện ngắn dòng chảy cuộc đời như thế
này trong sáng tác của Bunin, nhất là những sáng tác sau Cách mạng không nhiều trong
đó Mùa thu lạnh là tác phẩm tiêu biểu nhất.
Mùa thu lạnh bắt đầu bằng câu chuyện tình của một đôi trai gái đã đính ước chuẩn
bị đến ngày cưới. Tuy nhiên, khi quân Đức tuyên chiến với Nga, chàng trai tình nguyện ra
trận. Ngày lên đường vào cuối tháng Chín, còn đám cưới thì được ấn định vào mùa xuân.
Không ai can thiệp vào quyết định của chàng trai, không ai tỏ bày ý kiến, cô gái cũng
không níu kéo chàng trai của mình, bố mẹ cô gái cũng không sốt ruột cho con gái họ.
Dường như với họ, quyết định của chàng trai là một lẽ tự nhiên, và họ chấp nhận việc có
thể chàng trai sẽ không bao giờ trở về bởi chiến tranh quá khốc liệt. Chàng trai buồn bã
chia tay người yêu, trong lòng vang lên câu hỏi: “Nếu như anh chết, dù sao em sẽ không
quên anh ngay chứ?”. Cô gái sợ hãi với ý nghĩ “Nếu như anh chết thật thì sao? Và lẽ nào
trong một thời gian ngắn nào đó sẽ quên anh – dù sao thì tất cả cuối cùng rồi cũng lãng
quên?”, cô khẩn nài anh đừng nói đến cái chết bởi nếu anh chết, cô gái sẽ không chịu
đựng nổi. Tuy nhiên, chàng trai đã rất bình thản dặn dò cô gái: “Anh chợt lặng im rồi từ
tốn nói: - Thôi được, nếu anh chết, anh sẽ đợi em ở đó. Em hãy sống và sống thật vui trên
thế gian này, rồi sau đó hãy đến với anh.” [16; tr. 568]. Một tháng sau ngày lên đường,
chàng trai hi sinh. Nhà văn bình thản kể về cuộc đời cô gái ba chục năm sau với rất nhiều
sự kiện, với “rất nhiều những cảm xúc trong những năm tháng đó, có cảm tưởng sao lâu
đến thế, khi ta chủ ý nghĩ về chúng, hồi tưởng lại trong kí ức tất cả những gì kỳ diệu, mơ
hồ, không thể nhận thức bằng trí óc hay trái tim, cái đó gọi là quá khứ.” Đến ngày trở về
với Chúa, cô lại hạnh phúc vì tin rằng ở nơi xa xưa kia, người chồng chưa cưới thuở xưa
vẫn đang đợi mình: “Và tôi tin, một niềm tin cháy bỏng, rằng ở một nơi nào đó anh vẫn
đang đợi tôi, với tất cả tình yêu và tuổi trẻ thuở nào, như trong chiều thu lạnh lẽo ngày
xưa.” [16; tr. 570].
Tuy nhiên, như đã khẳng định, nhà văn của tình yêu Bunin coi trọng hơn những
khoảnh khắc, những ấn tượng, những cảm giác của nhân vật. Bởi thế cho nên, trong
những truyện ngắn dòng chảy cuộc đời sau Cách mạng tháng Mười của Bunin, vẫn có
những khoảnh khắc không thể nào quên, những khoảnh khắc cứu rỗi cả cuộc đời của nhân
vật chính. Trong Mùa thu lạnh, đó là khoảnh khắc buổi chiều thu bên nhau trước ngày
122
chia tay chàng trai ra chiến trường. Sau này, khi đã trải qua biết bao biến cố cuộc đời, trải
qua những vui, buồn… người con gái ấy vẫn khẳng định sức mạnh tinh thần mãnh liệt của
buổi chiều thu lạnh. Đó là tất cả những gì cô có trong cuộc đời: “Nhưng, hồi tưởng lại tất
cả những gì tôi đã trải qua từ bấy đến giờ, tôi luôn tự hỏi mình: ừ nhỉ, dẫu sao thì mình đã
có cái gì trong cuộc đời? Và tôi tự trả lời: chỉ có mỗi buổi chiều thu lạnh ấy.” [16; tr.
571]. Cũng giống như người con gái trong Mùa thu lạnh, với nhân vật nàng trong Một
truyện tình nho nhỏ, khoảnh khắc dạo bước bên nhân vật tôi trong rừng một buổi chiều
mưa với cái hôn hạnh phúc thực sự đã trở thành khoảnh khắc hạnh phúc nhất đời của cô
gái, cuộc đời mà cô coi như đã bỏ đi bởi cô phải lấy người mà mình không yêu. Nụ hôn,
cái nắm tay, sự tình tứ trong buổi chiều mưa ấy là ánh sáng duy nhất trong cuộc đời đau
buồn, ốm đau, tẻ nhạt bên người chồng cô căm ghét nhưng không đủ dũng cảm để từ bỏ.
Thực tế, có thể nói, đây cũng chính là nét đặc sắc nhất của truyện ngắn Bunin so với
truyện ngắn của những nhà văn trữ tình cùng thời với ông như Kuprin, Paustovsky
(Kuprin thiên về những truyện ngắn mang phong cách quý tộc hoặc cổ tích; Paustovsky
viết nhiều về những huyền thoại đời thường). Dù thế nào chăng nữa, ấn tượng đọng lại
trong những truyện ngắn vòng đời “tĩnh lặng” của Bunin vẫn là những xúc cảm bình lặng
về những nhân vật cam chịu, an phận, bằng lòng với số mệnh mà không dám đấu tranh
chống lại nó. Và Bunin, dường như qua những câu chuyện ấy một lần nữa cho thấy cái
tạng của mình, bóng dáng của mình – một nhà văn khát khao được trở về Tổ quốc, nhưng
không đủ sức mạnh và dũng khí để trở về.
4.1.4. Vòng tuần hoàn cảm xúc - sự kiện
Trong những sáng tác của Bunin, dòng sự kiện dường như tĩnh tại, êm đềm, ít đột
biến và cảm xúc của người đọc đối với tác phẩm ấy về cơ bản không có sự thay đổi. Tuy
nhiên trong một số truyện ngắn, những xúc cảm của người đọc được biến đổi theo sự biến
đổi của dòng chảy sự kiện: trước và sau khi sự kiện đột biến trong tác phẩm xảy ra, nhân
vật, và cả người đọc đã có sự thay đổi trong cảm xúc, trong cách nhìn nhận về nhân vật.
Nếu trong Những quả táo Antonov, mô hình trần thuật hai thế giới là điểm sáng
chủ đạo thì trong Quý ông từ San Francisco đến, các sự kiện lại được sắp xếp theo một
chuỗi vòng tuần hoàn: tĩnh tại – đột biến – tĩnh tại. Nếu trong Những quả táo Antonov,
123
cảm xúc chủ đạo trong tác phẩm là hoài niệm, nhớ nhung, tiếc nuối thì trong Quý ông từ
San Francisco đến cảm xúc của nhân vật đã có sự biến đổi từ vui vẻ, sung sướng, ngập
tràn hi vọng sang đau khổ, buồn tủi, thất vọng tràn trề. Người đọc cũng đi từ cung bậc hồi
hộp đến bất ngờ trước cái chết của vị thương gia và cảm xúc hụt hẫng pha chút thương
cảm khi kết thúc câu chuyện.
Sự kiện chính của truyện ngắn là chuyến du lịch của gia đình vị quý ông đến từ
San Francisco. Vì thế câu chuyện sẽ được trình bày dưới dạng thức của chuyến đi – sự
phiêu lưu, hứa hẹn sự thú vị. Người đọc tuy được giới thiệu trước về hành trình của nhân
vật khá dài ngày và hấp dẫn: sang châu Âu, châu Á, châu Phi rồi quay trở về châu Mĩ
nhưng sự vận động của không gian và thời gian của chuyến đi lại dễ dàng làm cho họ thất
vọng. Chuyến đi chỉ dừng lại ở một điểm là nước Ý rồi nhanh chóng đến điểm cuối –
châu Mĩ. Trong cả chuyến đi dài ngày ấy, dường như không có điểm nhấn, không có kịch
tính, không có biến động trong các sự kiện. Tất cả chỉ dừng lại ở một vài hành động lặp đi
lặp lại: ăn, ngủ, trang điểm, đi dạo, khiêu vũ, chơi bài… Những hành động này không chỉ
lặp đi lặp lại trên chuyến tàu từ châu Âu sang châu Mĩ mà còn lặp đi lặp lại khi cả gia
đình ba người của vị quý ông đến từ San Francisco đặt chân lên nước Ý. Gần như không
có một biến cố nào khác xen vào chuỗi sự kiện đã được xác định trước đó. Chính vì thế,
nhịp điệu trần thuật diễn ra vô cùng chậm rãi, buồn tẻ. Bởi vậy, chúng tôi gọi những sự
kiện trong Quý ông từ San Francisco đến là sự kiện tĩnh tại. Từ tĩnh tại cần phải hiểu theo
nghĩa “sự chậm rãi, gần như không có biến động, không có kịch tính”.
Sự kiện bao trùm tác phẩm là nhịp sinh hoạt đều đặn xoay quanh việc ăn, chơi, du
ngoạn của gia đình ba người trong những không gian khép kín: trên tàu, trong khách sạn.
Ngay cả khi đến Capri - thiên đường nước Ý với thời tiết tuyệt đẹp mọi thứ vẫn không
thay đổi. Ở Capri, các nhân vật đến từ nước Mĩ cũng được đón tiếp như những vị thượng
khách, họ ở trong những căn phòng dành cho vua chúa với rất nhiều người phục vụ. Họ
ăn trong phòng ăn lộng lẫy tại khách sạn và chờ đón màn vũ hội sôi động của những vũ
công nổi tiếng nhất nước Ý bấy giờ. Như vậy, chúng ta thấy rằng, không gian tuy có sự
thay đổi về mặt địa lí nhưng tính chất thì không thay đổi. Vẫn là không gian khép kín, bó
buộc nhân vật vào tính chất sang trọng của nó và hầu như không có sự giao hòa với thiên
nhiên. Bởi thế cho nên, chúng tôi gọi không gian trong tác phẩm là không gian đóng
124
khung, không gian tĩnh tại (về bản chất không thay đổi). Đấy cũng là một trong những lí
do khiến chúng tôi nhận định tính chất của sự kiện trong tác phẩm là sự kiện tĩnh tại.
Duy nhất trong tác phẩm có một biến cố xảy đến khiến người đọc sững sờ. Biến cố
ấy khiến cho mạch không gian, thời gian tuần hoàn của những sự kiện ăn, chơi, nghỉ gắn
với gia đình ba người đến từ Mĩ bị dừng lại. Cái chết của vị quý ông sau chuyến đi bão
táp từ Napoli đến Capri đã làm đảo lộn tất cả. Nếu trước kia ông được trọng vọng thì giờ
chiếc quan tài của ông chịu nhiều nỗi nhục nhã khi phải lang thang từ bến cảng này đến
bến cảng khác để trở về Thế giới mới. Sự kiện này được coi như một bước đột biến làm
thay đổi tính chất không, thời gian và thái độ của các nhân vật khác trong tác phẩm. Bởi
thế, chúng tôi gọi đó là sự kiện đột biến.
Như vậy, trong tác phẩm có hai loại sự kiện gắn với hành trình rất dài của nhân vật
chính. Sự kiện tĩnh tại gắn với chu trình ăn – chơi – nghỉ của quý ông đến từ San
Francisco và sự kiện đột biến là cái chết của ông. Hai sự kiện này diễn tiến theo trình tự
thời gian tuyến tính và được kể lại bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ ba, người đứng
ngoài và nắm bắt toàn bộ câu chuyện cũng như thái độ, cách đánh giá của các nhân vật
khác trong tác phẩm về nhân vật chính. Sự biến đổi không, thời gian theo sự biến đổi của
sự kiện cho thấy tính thống nhất trong tác phẩm. Thông qua đặc trưng này, người đọc
nhận ra quan niệm của Bunin về trần thuật gắn liền với đặc điểm các nhân vật. Dường
như với nhà văn, thế giới của nước Nga, của con người Nga, của thiên nhiên Nga mới
thực sự là thế giới đáng sống, đáng yêu, thế giới với sinh khí của thiên nhiên và những nét
đẹp tinh thần khác của con người. Thế giới bên ngoài nước Nga – châu Âu và châu Mĩ
(Thế giới mới) vẫn là một cái gì đó quá đỗi xa lạ và thực dụng, nhà văn không thể thích
nghi. Với nhà văn, tình yêu với nước Nga, con người Nga, thiên nhiên Nga đã trở thành
hòn đá tảng tinh thần không gì lay chuyển nổi.
Ngoài Quý ông từ San Francisco đến, những truyện ngắn của Bunin viết theo
phương thức trần thuật tĩnh tại – đột biến còn có Đứa con trai, Hơi thở nhẹ, Một truyện
tình nho nhỏ, Zoyka và Valeria… Ở những tác phẩm này, những sự kiện của cuộc sống
hằng ngày cứ lặp đi lặp lại trong hành trình của nhân vật. Nếu không có những sự kiện
đột biến xảy đến, người đọc sẽ hình dung câu chuyện dường như tĩnh tại, không vận
động, dù rằng nhân vật vẫn lớn khôn, trưởng thành, vẫn bị cuốn vào vòng quay cuộc đời.
125
Trong Đứa con trai, nếu không có sự xuất hiện của Emin, cuộc đời bà Maro chắc sẽ vẫn
là chuỗi ngày êm đẹp bên chồng và các con gái, bà vẫn sẽ đều đặn đến nhà thờ, đều đặn
đến bệnh viện làm phước, và vẫn là một người phụ nữ được tôn kính về đức hạnh. Sự
xuất hiện của Emin làm xáo động cuộc đời bình lặng của bà, dẫn bà tới quyết định táo
bạo, cũng là biến cố cắt đứt mạch tĩnh tại của câu chuyện – bà Maro tự sát. Cảm xúc bất
ngờ đến sững sờ trước hành động của người đàn bà đoan trang, mực thước gieo vào lòng
người đọc sự hụt hẫng và xót thương. Hụt hẫng vì một người phụ nữ đã chết, lại chết vì
tình yêu, còn xót thương vì cái giá phải trả quá đắt cho con người dám sống thật với xúc
cảm của mình. Có lẽ, câu chuyện còn gợi lên sự mỉa mai, dành cho Emin về sự nhút nhát
khi đối mặt với thực tế, về những lời hoa mĩ và sáo rỗng của một anh chàng mới lớn thích
thể hiện. Cách kết thúc tác phẩm đột ngột bằng cái chết của các nhân vật chính không chỉ
cắt đứt mạch tuần hoàn tĩnh tại, tạo nên nét độc đáo cho những truyện ngắn của Bunin,
mà quan trọng hơn, thể hiện rõ những tư tưởng, những triết lí về tình yêu, cái chết, cái đẹp
của nhà văn. Zoyka và Valeria sẽ không có biến cố đặc biệt nếu như Valeria tỏ tình với
Titov thành công. Để rồi sau khi không được chấp nhận trong tình yêu, cô nàng đã tự
buông xuôi bản thân mình, hiến thân cho người mình không yêu. Câu chuyện khép lại khi
Levisky lên đường ra ga trở về Moskva, trở về với sự bình yên vốn có của câu chuyện, dù
rằng tâm hồn đã có những vết gợn.
Ở trên, chúng tôi đã phân tích làm rõ những nét đặc sắc trong những mô thức cảm
xúc chính tương ứng với các mô hình trần thuật của truyện ngắn Ivan Bunin: cảm xúc tiếc
nuối gắn với những truyện ngắn dòng chảy “hoài niệm”, cảm xúc mãnh liệt gắn với
những truyện ngắn khoảnh khắc, cảm xúc “an phận” gắn với chuỗi sự kiện vòng đời “tĩnh
lặng” và sự chuyển biến các cung bậc cảm xúc gắn liền với mô thức sự kiện “tĩnh tại – đột
biến – tĩnh tại”. Ở giai đoạn sau Cách mạng tháng Mười, Ivan Bunin thiên về những
truyện ngắn ấn tượng, truyện ngắn khoảnh khắc, truyện ngắn cảm giác mà Say nắng là đại
diện tiêu biểu. Điểm đặc biệt là, tất cả những khoảnh khắc, những ấn tượng mà nhà văn sử
dụng làm chất liệu trong truyện ngắn của mình đều đến từ kho hoài niệm của ông, thậm
chí đến từ trải nghiệm của chính nhà văn. Đó có thể là hoài niệm về thiên nhiên, về con
người, về một sự kiện nào đó. Không gian của hoài niệm có thể là nước Nga “xưa cũ” của
nhà văn, cũng có thể là không gian Paris hoa lệ, nhưng những nhân vật trong các truyện
126
ngắn khoảnh khắc hoài niệm ấy đều là những con người mang cốt cách và tâm hồn Nga
(người họa sĩ trong Galia Ganskaya, nhân vật ông và nàng trong Ở Paris…). Hoài niệm
cũng chính là nét riêng khu biệt Bunin với những nhà văn trữ tình khác, đặc biệt là
Konstantin Paustovsky, Mikhail Prisvin và Iuri Kazakov.
Như đã khẳng định, Paustovsky viết nhiều về những huyền thoại đời thường, và
những huyền thoại đời thường ấy thường kết thúc bằng niềm vui, hạnh phúc. Nhà văn
cũng không chủ trương xây dựng cốt truyện ly kỳ, kịch tính mà nhấn mạnh đặc biệt vào
cảm xúc. Các tình huống được xây dựng chủ yếu để làm nổi bật cảm xúc nhân vật (Lẵng
quả thông, Cây tường vi, Cầu vồng trắng, Chuyến xe đêm, Vườn nhà bà…), cũng có
những truyện ngắn nhà văn xây dựng tình huống nhằm thể hiện triết lí… (Bức điện, Bình
minh tuyết phủ, Bụi quý, Kho vàng, Những chú bé…). Nhưng ở Paustovsky cảm xúc hạnh
phúc quá trọn vẹn, dường như không có những dang dở, tiếc nuối. Nhà văn viết nhiều về
quá trình tâm lí, cảm xúc (khác với Bunin nhấn mạnh về ấn tượng, đôi khi người đọc khó
tìm được lí do vì sao nhân vật lại hành động như vậy, chỉ có thể dùng yếu tố ấn tượng và
khoảnh khắc để lí giải). Cùng thời với Bunin ngoài Paustovsky còn phải kể đến Mikhail
Prisvin. Tuy nhiên, nét trữ tình của Prisvin thể hiện ở những trang văn thấm đẫm cảm xúc
về thiên nhiên Nga. Nhà văn thâm nhập vào đời sống của tự nhiên và ca ngợi nó, tạo ra
“niềm hân hoan vô tận của những khám phá không ngừng nghỉ” (Paustovsky) về tạo hóa.
Cảm xúc của tác phẩm đến từ những ngỡ ngàng của con người trước vẻ lung linh, rực rỡ
kỳ diệu của vũ trụ (tác phẩm Giọt rừng). Trái tim nhà văn đặt trọn vẹn vào những trang
văn đậm chất thơ về thiên nhiên. Sau Bunin, trong văn học Nga vẫn có những nhà văn trữ
tình. Có thể kể đến Iuri Kazakov. Học tập Bunin ở “tính nhạc, sự chính xác về vần điệu”
nhưng Kazakov khác với người tiền bối của mình ở cách xây dựng sự kiện và cách miêu
tả thiên nhiên. Nhà văn đặt thiên nhiên vào cuộc xung đột của những nhân vật có tâm hồn
tinh tế với thế giới hiện thực thô thiển, từ đó đề cao cảm giác của con người đối với sự tồn
tại của thiên nhiên và khẳng định những giá trị vĩnh cửu (tập truyện Mùa thu trong rừng
sồi). Như vậy, có thể khẳng định nét độc đáo trong xây dựng hệ thống sự kiện của Bunin
làm nên dấu ấn riêng của ông so với những nhà văn cùng thời và sau ông, đó là sự hiện
diện của hệ thống những sự kiện hoài niệm – thực tại, những sự kiện tĩnh tại – đột biến,
những sự kiện dòng đời – khoảnh khắc; sự hiện diện của những nhân vật và tính cách Nga
127
đơn thuần, của những ấn tượng và triết lí về cuộc sống, về tình yêu, về cái chết được xây
dựng cả trong những truyện ngắn trước và sau Cách mạng tháng Mười.
4.2. Cốt truyện hành trình tâm trạng
Truyện ngắn, với tư cách là một thể loại của tự sự mang trong nó đặc trưng cơ bản
nhất của thể loại này, đó là tính tự sự, là sự xuất hiện của những sự kiện, của cốt truyện.
Tuy nhiên, như đã khẳng định ở phần giới thuyết, truyện ngắn trữ tình là sự hòa hợp của
cảm xúc với yếu tố cơ bản của phương thức tự sự - cốt truyện vì thế cho nên khi xem xét
truyện ngắn của Bunin với tư cách là truyện ngắn trữ tình chúng tôi cũng xem xét cốt
truyện của những tác phẩm này dưới một góc nhìn mới – góc nhìn trữ tình. Theo
S.N.Broitman và D.M.Magomedova trong cuốn Văn học Nga giao thời thế kỷ (những
năm 1890 đến đầu những năm 1920) tập 1, truyện ngắn của Bunin được tổ chức theo kiểu
“kết cấu tuyến tính nguyên vẹn, liên tục trong cốt truyện, di chuyển trọng tâm „hình thức
không gian‟ sang đặc sắc về sự tương đồng của các nhân vật và sự kiện” [92; tr. 554]. Cụ
thể, trong truyện ngắn của Bunin, không gian thường cố định, không có sự vận động
nhiều, các sự kiện cũng không đầy ắp, nhưng mỗi sự kiện lại rất có ý nghĩa, đặc biệt là
với tâm trạng nhân vật. Các tác giả cũng nghiên cứu và chỉ ra một số tác phẩm có cốt
truyện theo tuyến song song rất thú vị. Có lẽ, tính nguyên vẹn, liên tục trong cốt truyện ở
truyện ngắn của Bunin được thể hiện rõ nhất trong hành trình tâm trạng của các nhân vật.
Quả thật, khi đi sâu tìm hiểu truyện ngắn của Bunin chúng tôi nhận thấy cốt truyện
trong truyện ngắn của ông không phải là kiểu cốt truyện giàu kịch tính và sự kiện như
truyện ngắn truyền thống, cốt truyện của Bunin chủ yếu là kiểu cốt truyện hành trình tâm
trạng. Đó là những truyện ngắn lấy nền tảng là tâm trạng nhân vật, các sự kiện được tổ
chức theo diễn tiến của tâm trạng. Có ba loại cốt truyện hành trình tâm trạng trong truyện
ngắn của Bunin: chuỗi cốt truyện tâm trạng tuyến tính, chuỗi cốt truyện tâm trạng phi
tuyến tính và chuỗi cốt truyện tâm trạng phi sự kiện.
4.2.1. Chuỗi cốt truyện tâm trạng tuyến tính
Cốt truyện tâm trạng tuyến tính là những tác phẩm được viết theo dòng thời gian
tuyến tính của sự kiện và tâm trạng nhân vật, không hoặc hầu như không có sự đan xen,
128
xáo trộn của quá khứ, hiện tại, tương lai. Chúng tôi thống kê được 43/100 truyện ngắn
Bunin được khảo sát diễn tiến theo cốt truyện tuyến tính. Tuy nhiên, đọc truyện ngắn của
ông chúng tôi nhận thấy các tác phẩm có cốt truyện tâm trạng tuyến tính không thuần nhất
một kiểu mà khá phong phú trong việc tổ chức sự kiện và cốt truyện: cốt truyện tâm trạng
tuyến tính đơn chiều, cốt truyện tâm trạng tuyến tính song song với hai dạng thức: song
song tương đồng và tương phản.
Trước hết, những truyện ngắn cốt truyện hành trình tâm trạng tuyến tính đơn chiều
là những truyện ngắn được tổ chức theo hành trình tâm trạng của nhân vật theo hướng
thuần nhất một chiều, không có sự biến đổi theo những chiều hướng khác nhau. Tiêu biểu
cho kiểu cốt truyện này là những tác phẩm: Những quả táo Antonov, Cuộc đời tươi đẹp,
Chiếc cốc đời, Mẹ đỡ đầu, Lần gặp gỡ cuối cùng, Meliton, Klara…
Trong những tác phẩm có cốt truyện tuyến tính đơn chiều ở trên tâm trạng của
nhân vật chính được diễn tiến cùng chiều với sự kiện. Những quả táo Antonov đi từ tâm
trạng hân hoan vui sướng với vụ táo bội thu ở ba phần đầu tác phẩm đến nỗi buồn, sự tiếc
nuối ở phần cuối câu chuyện. Song song với diễn tiến của “sự nghèo đi” là nỗi buồn của
nhân vật, nỗi buồn của tác phẩm và người kể chuyện để rồi kết thúc tác phẩm là dư vị
man mác đọng lại. Cuộc đời tươi đẹp là hành trình tâm trạng đầy tự tin, quyết liệt, mạnh
mẽ của một cô gái “khôn ngoan, tháo vát và nhẫn tâm” biết làm chủ cuộc đời của mình.
Lần gặp gỡ cuối cùng kể về hành trình đẫm nước mắt và tâm trạng buồn bã, thất vọng,
chán nản của đôi trai gái Storesnhev – Vera sau 15 năm yêu và gắn bó. Diễn tiến tâm
trạng cũng là diễn tiến thời gian tuyến tính của cốt truyện: đêm, Storesnhev đến gặp người
yêu lòng nặng trĩu nỗi buồn, càng về khuya, họ tận hưởng những giây phút bên nhau,
nhưng niềm hạnh phúc không đủ để che lấp đi những đau khổ, dằn vặt về những dùng
dằng chia xa của hai người trong khoảng thời gian 15 năm, về nỗi thất vọng tràn trề bởi
hiện thực đã được quyết định để rồi sáng ngày hôm sau chia tay, cả hai dường như cố lạnh
lùng để che giấu nỗi đau, sự cô đơn, niềm lưu luyến bên trong. Mẹ đỡ đầu là diễn biến
tâm trạng một cách tự nhiên theo dòng sự kiện được miêu tả trong tác phẩm. Một thiếu
phụ xinh đẹp bên chồng và các con trong mùa hè ở khu nhà nghỉ dưỡng ngoại ô Moskva.
Ở cạnh họ còn có bạn của người chồng. Người chồng đi làm cả ngày đến tối mới về với
gia đình. Bunin miêu tả hành trình tâm lí của người vợ khi ở nhà cùng người bạn của
129
chồng. Và “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, người bạn của chồng thiếu phụ đã tỏ tình với
người thiếu phụ. Một cách kín đáo và ý nhị, người thiếu phụ đã đáp lại lời hẹn của anh
bạn. Tác phẩm kết thúc ở lời hẹn của thiếu phụ về một nơi chỉ có hai người là một kết
thúc mở, vừa gợi ra sự băn khoăn về mối quan hệ của cả hai qua kết quả của buổi gặp gỡ
ấy, vừa gợi ra những suy nghĩ về tình yêu, tình bạn, về những phút giây được gọi là say
nắng trong cuộc đời… Klara lại là quãng thời gian ngắn ngủi nhân vật Irakly Meladze
làm quen, tán tỉnh, và chạy trốn khỏi Klara. Diễn biến tâm trạng của nhân vật đi từ tò mò,
vui vẻ, háo hức đến bất ngờ, thất vọng và hụt hẫng, tiếc nuối (khi nhận thấy thực ra Klara
đã lớn tuổi), và cuối cùng thì hoang mang, bỏ chạy. Về cơ bản, những truyện ngắn của
Bunin là những truyện ngắn tâm trạng tuyến tính đơn chiều. Dòng tâm trạng của nhân vật
được gợi ra từ những biến cố có giá trị biểu đạt cao tạo ra sự đồng nhất cảm xúc với
người đọc. Đó chính là cách Bunin tạo ra sức hút cho những truyện ngắn mang đậm tính
trữ tình của mình.
Bên cạnh những tác phẩm có cốt truyện tuyến tính đơn thuần, nhiều tác phẩm của
Bunin có cốt truyện hành trình tâm trạng được tổ chức theo kiểu song song tương đồng.
Đó là những truyện ngắn Ở Paris, Một truyện tình nho nhỏ, Zoyka và Valeria, Kavkaz…
Ở Paris lấy bối cảnh chính là Paris hoa lệ, một quán ăn của người Nga, nhân vật
chính cũng là những người Nga: một người đàn ông trung niên, một “vị tướng về hưu”
của Bạch quân và một thiếu phụ Nga chừng ba mươi tuổi, sống một mình ở Pháp. Cốt
truyện đơn giản, chỉ xoay quanh hai nhân vật và sự kiện: cuộc gặp giữa hai người. Tình
cảm giữa hai người phát sinh và dần nảy nở từ những cuộc gặp gỡ lúc đầu vô tình, sau là
cố ý của người đàn ông. Tình yêu đến với người đàn ông trung niên khi ông chợt nhận ra
sự hiện diện của nàng làm sáng bừng cả căn phòng, nàng quá đẹp làm ông ngất ngây. Sau
ba cuộc gặp, ông đã nhanh chóng nhận ra đây là cuộc gặp gỡ hạnh phúc mà mình hằng
mong đợi, nhưng niềm hạnh phúc nhanh chóng đan xen với nỗi buồn, sự tiếc nuối: “Chỉ
có điều là muộn quá. Muộn quá rồi.” [19; tr. 123]. Còn nàng, sau ba cuộc gặp, nhận ra ở
ông có nét gì đó rất quen thuộc. Họ nhanh chóng về sống chung một nhà trong niềm hạnh
phúc của cả hai. Niềm hạnh phúc của họ dễ dàng lôi cuốn dòng cảm xúc và sự tò mò của
người đọc. Dường như họ đã tìm thấy nhau, sưởi ấm cho nhau giữa nơi đất khách quê
người. Người đàn ông nhận ra mình không còn sống được bao lâu nữa đã tìm cách gửi hết
130
tiền vào tài khoản đứng tên nàng. Làm xong việc ấy, ông ra đi thanh thản. Cái chết của
ông làm nàng sững sỡ, tình yêu và lòng ham sống của nàng giờ như đã chết rồi, dù trời
Paris đang là những ngày xuân đáng sống. Bất ngờ nhất là khi trở về nhà, nàng phát hiện
ra, ông chính là người chồng trước kia mình đã từng từ bỏ để đi theo một chàng trai trẻ.
Câu chuyện đơn giản tưởng như không có bất ngờ, ấy vậy mà lại đưa người đọc từ bất
ngờ này đến bất ngờ khác. Hai cuộc đời của những người Nga lưu vong cùng sống ở
Paris: ông cay đắng với vết thương lòng bị vợ bỏ; nàng cay đắng vì bị một “cậu bé”, thực
ra là một gã ma cô lừa… Hai nhân vật tồn tại song song, hai câu chuyện tưởng như hai
điểm song song trên đường đời. Tuy nhiên, chỉ đến khi người đàn ông chết, hai câu
chuyện của họ, hai cuộc đời song song của họ mới thực sự gặp nhau, hòa làm một. Cái
chết của người đàn ông, có thể nói là sợi dây cột chặt nàng vào ông. Từ nay, nàng phải
sống thay ông. Bunin miêu tả sự gắn kết vô hình giữa hai con người tưởng như xa lạ, với
hành trang là nỗi niềm đau đáu về nhau.
Zoyka và Vleria là hành trình tâm trạng song đôi của những đôi trai gái: Zoyka –
Levisky, Levisky – Valeria, Valeria – Titov. Sự phức tạp trong quan hệ, mối tình của
người này với người kia không được đền đáp, sự bế tắc trong tâm trạng của họ đã tạo ra
những cuộc phiêu lưu tình ái thú vị. Cũng là chuyện tình tay ba, Kavkaz là cuộc phiêu lưu
tâm trạng của nhân vật tôi – nàng và hắn (chồng nàng). Tôi luôn bình thản dù là người thứ
ba, nàng luôn lo âu sợ sệt khi phải rời xa tôi, khi phải nghĩ cách đối phó với hắn, hắn – lẽ
ra phải ở thế thượng phong thì lại cũng lo âu, sợ sệt, tìm cách bám theo nàng, đuổi theo
nàng và tôi, sợ nàng và tôi phát hiện. Cuộc rượt đuổi của ba người, thực chất là của hai vợ
chồng nàng – hắn tạo ra cốt truyện song song trong cả sự kiện và tâm trạng.
Trong truyện ngắn của Bunin, có những tác phẩm tâm trạng cũng như cuộc đời của
các nhân vật được miêu tả tương phản nhau tạo ra những cốt truyện hành trình song song
đối lập thú vị. Hơi thở nhẹ, Quý ông từ San Francisco đến, Đứa con trai, Con quạ, Ngày
thứ Hai chay tịnh… là những tác phẩm tiêu biểu nhất cho kiểu cốt truyện này.
Trong Hơi thở nhẹ, hai tuyến cốt truyện song song được định hình khá rõ ràng:
tuyến cốt truyện về nhân vật Olia Mesherskaia và tuyến cốt truyện về bà giáo chủ nhiệm
của Olia. Mỗi tuyến cốt truyện là một hành trình tâm trạng của nhân vật và người đọc: từ
niềm vui trước cái vui tươi hồn nhiên của cô bé Olia xinh đẹp đến những bất ngờ về
131
những sự kiện xảy ra với cô bé trong cuộc đời riêng, sự tiếc nuối trước cái chết của một
vẻ đẹp đang độ rực rỡ; từ sự ngạc nhiên đến nỗi xót xa thương cảm cho số phận một bà
giáo già luôn lấy cuộc đời người khác làm lẽ sống cho mình. Hai tuyến nhân vật song
song, hai câu chuyện cuộc đời và hai tâm trạng hoàn toàn trái ngược của hai người phụ nữ
cũng hoàn toàn trái ngược nhau về tuổi tác và tính cách: một già – một trẻ, một giáo viên
– một học sinh, một vô tư, hồn nhiên, sôi nổi, yêu đời – một khắc khổ, nghiêm nghị, âm
thầm. Hai tuyến nhân vật song song, hai cuộc sống của hai con người trái ngược cũng bắt
đầu và kết thúc trái ngược nhau. Dường như cuộc sống của bà giáo già chỉ thực sự bắt đầu
khi cuộc sống của Olia kết thúc. Đó là sự tương phản trớ trêu của số phận. Ở đây Bunin
đã đưa ra một quan hệ nhân quả phi thực tế, một sự tiếp nối đầy hiện sinh của sự sống,
tuổi trẻ, cái đẹp trong hai hình thức rất đặc biệt: trong cuộc sống của bà giáo già và trong
làn hơi thở nhẹ mùa xuân. Đứa con trai cũng là một truyện ngắn được viết theo hành trình
song song tương phản của cuộc đời hai nhân vật: bà Maro và cậu bé Emin. Giống như
Hơi thở nhẹ, dường như cái chết của bà Maro đã thức tỉnh, đã thực sự đem lại sự sống cho
anh chàng Emin. Sự hấp dẫn của tác phẩm đến từ những đối nghịch trong cách nhìn nhận
các nhân vật cũng như hành xử của họ. Cốt truyện diễn tiến theo dòng tuyến tính của cảm
xúc nhân vật đã để lại nhiều dư vị ấn tượng.
Ngày thứ Hai chay tịnh là sự đan xen hai dòng sự kiện, hai cuộc đời, hai tâm trạng,
hai lí tưởng của hai nhân vật chính: nàng và tôi. Tôi đắm chìm trong cuộc sống xa hoa
hưởng lạc, cuộc sống chỉ xoay quanh nàng. Còn nàng, bề ngoài là tiểu thư đài các xa hoa,
nhưng bên trong lại là một nữ tu khổ hạnh, theo đuổi ước mơ hoài bão cứu chuộc. Cuộc
đời của hai con người ấy cứ tồn tại song song bên nhau dù ước mơ, lí tưởng, niềm đam
mê trái ngược nhau. Chàng hiện sinh trong cuộc sống hưởng thụ trần thế, còn nàng hiện
sinh trong khát vọng hiến dâng vĩnh viễn. Tác phẩm kết thúc trong hành động hiện thực
hóa ước mơ của nàng, chấm dứt chuỗi cốt truyện song song tương phản giữa cuộc sống
của chàng và nàng, giữa cuộc sống bên ngoài và cuộc sống tinh thần bên trong của nàng.
Những tác phẩm của Bunin viết theo lối cốt truyện song song tương phản này còn có Con
quạ, Quý ông từ San Francisco đến… Đây có thể nói là một cách thú vị nhà văn làm mới
cho kiểu cốt truyện tuyến tính thông thường.
132
4.2.2. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi tuyến tính
Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi tuyến tính là những tác phẩm trong đó các sự kiện
tạo tâm trạng được sắp xếp không theo trật tự tuyến tính thông thường. Các sự kiện ấy
thường có sự đan xen với quá khứ, và ở một số truyện, có sự hình dung về tương lai. Qua
những sự đan xen ấy, những tâm trạng, những số phận nhân vật được hiện lên gần như
đồng thời với nhau. Đọc truyện ngắn của Bunin chúng tôi nhận thấy kiểu cốt truyện hành
trình tâm trạng phi tuyến tính trong các sáng tác của ông (với 22/100 truyện được khảo
sát) cũng được kết cấu song song với hai dạng cơ bản: phi tuyến tính nguyên nhân – kết
quả và phi tuyến tính lắp ghép.
Tiêu biểu cho kiểu cốt truyện tâm trạng phi tuyến tính song song nguyên nhân kết
quả là những truyện ngắn Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối, Ida, Galia Ganskaya… Ở
những sáng tác này, khung sự kiện – tâm trạng chung đều là: nhân vật trong một cuộc
chuyện trò ở thời hiện tại, bình thản kể lại câu chuyện về quá khứ với xúc cảm sôi nổi, kết
thúc thường với nỗi niềm tiếc nuối, trăn trở, buồn bã. Thông thường, những câu chuyện
được viết theo lối cốt truyện này là những câu chuyện tình yêu với điểm nhìn từ hiện tại
đã trưởng thành của những nhân vật nghệ sĩ từng trải qua thời thanh niên yêu đương sôi
nổi. Nhân vật người họa sĩ trong Galia Ganskaya đã day dứt ám ảnh đến suốt đời về cái
chết của cô nàng Galia trẻ trung, xinh đẹp, cuồng nhiệt và quyết liệt. Cuộc chuyện trò về
mùa xuân, về Paris, về Odessa đã gợi lên những xúc cảm về Galia. Người họa sĩ già, giờ
đây trải qua biết bao biến cố, mới đủ can đảm để thổ lộ về mối tình của mình. Câu chuyện
về quá khứ tươi trẻ và rực rỡ nhưng kết thúc bi thảm để lại nỗi ám ảnh cả cuộc đời nhân
vật và để lại xúc cảm buồn thương, xót xa trước một cái đẹp sớm tàn. Đọc câu chuyện,
người đọc nhận ra và hiểu nguyên nhân vì sao nhân vật lại day dứt đến vậy. Mọi kết quả
đều có nguyên nhân của nó, mọi xúc cảm hiện tại đều có cội nguồn từ quá khứ xa xưa.
Ida cũng là một câu chuyện được kể theo trục thời gian hiện tại – quá khứ - hiện tại. Nhân
vật trong cảm hứng về quá khứ đã kể lại câu chuyện mà ông không dám thổ lộ là của
mình. Cả câu chuyện là hành trình nhân vật nhận thức về tình yêu, về nỗi đau của sự chia
ly, về sự tiếc nuối. Sự dằn vặt và lời tự nhủ của nhân vật chính là kết quả của những thờ ơ,
133
những sĩ diện của bản thân ông trước kia. Câu chuyện được kể theo lối vừa mới vừa cũ
tạo ra nhiều xúc cảm cho độc giả.
Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối cũng là những trăn trở, băn khoăn về hạnh
phúc, về tình yêu trong quá khứ và hiện tại của nhân vật người chủ điền trang. Bỏ cô gái
mình yêu có lẽ vì địa vị thấp kém của cô, người đàn ông gặp nhiều bất hạnh trong tình
yêu, trong cuộc sống gia đình. Dường như sự chối từ tình yêu, lãng quên tình yêu, coi
thường tình yêu nơi ông đã khiến ông phải trả giá cho cuộc sống hiện tại. Tác phẩm đan
xen giữa những xúc cảm hiện tại xấu hổ, băn khoăn với những xúc cảm tự hào, ngậm ngùi
về quá khứ. Cuộc ra đi của ông như một cuộc trốn chạy khỏi cô nàng Nadezhda năm xưa.
Nhà văn ở đây đã ngầm khẳng định chân lí nhân quả. Nadezhda yêu thương và cả đời
không quên người đã yêu mình thì sống sung túc, vui vẻ; còn người chủ năm nào vội lãng
quên quá khứ thì âu sầu, buồn bã về cuộc sống gia đình, về vợ phản bội, về đứa con đểu
cáng… Tác phẩm kết thúc bằng những ngậm ngùi của hiện tại pha lẫn với tiếc nuối của
quá khứ: “Phải rồi, mình làm mình chịu. Phải rồi, đó dĩ nhiên là những giây phút tươi đẹp
nhất. Và cũng không phải tươi đẹp nhất mà còn thật sự là thần tiên nữa kia! … Nhưng trời
ơi, sau đó rồi ra sao nhỉ? Nếu như mình không ruồng bỏ cô ta thì sẽ ra sao nhỉ? Thật vô lí
quá chừng!” [15; tr. 235].
Ở Bunin, như đã khẳng định, hoài niệm quá khứ là thứ nhà văn luôn hướng về. Bởi
thế cho nên, trong những sáng tác của ông, quá khứ luôn hiện hữu, dù là những kỷ niệm
rất nhỏ. Trong kiểu cốt truyện hành trình tâm trạng phi tuyến tính song song, ngoài kiểu
tổ chức cốt truyện nhân quả còn có kiểu tổ chức cốt truyện lắp ghép. Ở kiểu truyện này,
quá khứ không phải một câu chuyện được kể lại, không phải là nguyên nhân trực tiếp của
tâm trạng hiện tại; quá khứ là sự lắp ghép song song với hiện tại; thông thường, những sự
lắp ghép ấy được tái hiện qua những giấc mơ. Cỏ gầy, Những giấc mộng của Trang, Canh
khuya, Ở một phố thân quen… đều được kết cấu theo lối này.
Cỏ gầy mở đầu bằng tâm trạng buồn bã nhưng vẫn cố tỏ ra bình thường và phớt lờ
mọi sự của một người trải đời như bác Averki. Mọi sự khó chịu trong và ngoài cơ thể bác,
bác vẫn coi như không: từ những lời lẽ chế nhạo của những tay thợ trẻ, từ sự ậm ạch của
cái bụng đến cảm giác buồn nôn…bác đều bỏ qua bởi “từ nhỏ bác đã coi việc ăn uống
như một lễ cầu nguyện, bởi lẽ cả đời bác bữa ăn được coi như đỉnh cao nhất của một ngày
134
lao động” [15; tr. 116]. Tác phẩm tiếp diễn bằng sự thất vọng, nỗi buồn dâng cao hơn bởi
bác thấy mình đã ốm thật sự, đã buộc phải trở về nhà: “chao ôi là buồn, là thiếu ấm cúng!
Cáo chết ba năm còn quay đầu về núi nữa là…Không, hết rồi, đã đến lúc phải về nhà
thôi!” [15; tr. 122]. Diễn tiến tâm trạng của bác đi từ nỗi buồn, sự thất vọng ghê gớm khi
buộc phải chấp nhận mình ốm, chấp nhận trở về nhà dù bác biết trở về nhà là đói, là rét, là
đã sắp đến lúc đi gặp Chúa Trời. Được bác gái đón về nhà, tâm trạng của bác là nỗi buồn
thường trực, là sự chờ đợi một cái kết cuối cùng. Trong những ngày tháng ở nhà, có
những niềm vui chợt lóe sáng, đó là những ngày cô con gái và cháu ngoại về thăm bác.
Tuy nhiên, những tháng ngày ấy chỉ giống như những ngày nắng hiếm hoi giữa mùa đông
mưa rét. Xen kẽ trong những tháng ngày đợi chờ của bác Averki là những giấc mơ về
những năm tháng vui tươi, hạnh phúc, trẻ trung trong quá khứ của bác và bác gái. Giấc
mơ về những ngày tươi đẹp ấy đến trong cơn mê sảng vì ốm của bác Averki. Đầu tiên bác
mơ về những tháng ngày làm lụng vất vả, về cuộc chuyện trò trên thảo nguyên, qua cuộc
chuyện trò ấy bác biết được một chân lí “Người giàu ở đâu cũng sung sướng!”. Rồi bác
lại mơ về kỷ niệm tình yêu của bác với bác gái, trong những ngày họ còn mới quen biết
nhau. Trong giấc mơ, bác lờ mờ nhận ra “Chuyện ấy xảy ra đã lâu, từ khi cuộc đời mới
bắt đầu… Phải chăng đó chính là cái người mà ngày mai sẽ đến để đưa bác về chết ở nhà?
Chính là cô ấy đấy, cô ấy đấy…” [15; tr. 125]. Lạ một điều là bất cứ khi nào mơ về quá
khứ, buổi chiều yêu đương và tán tỉnh của bác và bác gái lại hiện về như là kí ức duy nhất
của bác, tất cả những kí ức, những kỷ niệm khác, bác không nhớ gì cả. Không chỉ có
những giấc mơ quá khứ đan xen, lắp ghép vào chuỗi ngày hiện tại chờ chết của bác
Averki, có những lúc bác Averki mơ những giấc mơ đẹp về tương lai: “Nếu trời cho ta
được bình phục, ta sẽ đi Kiev, đi Zadonxk, đi Optina, - bác Averki nghĩ vậy trong lúc mơ
màng. – Đấy là công việc chân chính, thanh tịnh, nhẹ nhàng, nếu không làm được thì sẽ
chẳng hiểu ta sống trên đời để làm gì…” [15; 119]. Thậm chí, giấc mơ về ngôi mộ của
chính mình sau khi chết cũng đến với bác một cách tự nhiên: “Bác đã tưởng tượng thấy
một ngày hè, thấy làn gió mùa hạ thổi trên đồng ruộng xanh ngắt, thấy triền núi sau làng,
và trên triền núi ấy là nấm mồ của bác. Ai đó đang gào thét, kể lể bên nấm mồ ấy lanh
lảnh và gớm ghiếc đến như vậy nhỉ?” [15; tr. 148]. Hình ảnh cô con gái đang gào khóc
bác trong mơ khiến bác hạnh phúc, xốn xang niềm hy vọng về một điều gì đó mà chính
135
bác cũng không biết. Như vậy, trong cốt truyện hành trình tâm trạng của Bunin, việc lắp
ghép những mảng quá khứ, tương lai vào cốt truyện hiện tại thông qua hình thức giấc mơ
đã tạo ra những câu chuyện thú vị, những xúc cảm thú vị về nhân vật.
Những giấc mộng của Trang là một truyện ngắn rất đặc biệt của Bunin. Ở tác
phẩm này, sự đan xen một cách song song hai thế giới hồi tưởng – thực tại là phương thức
trần thuật chính. Cụ thể, hiện tại và quá khứ của Trang và người thủy thủ - chủ của nó đan
xen nhau thông qua hình thức thực tại – giấc mơ. Ít nhất trong Những giấc mộng của
Trang, ba lần giấc mơ – thực tại được lắp ghép và tồn tại song song. Từ đó, quá khứ của
Trang, cũng là cuộc đời của người thủy thủ từ khi còn trẻ, khỏe mạnh cho đến thời điểm
hiện tại yếu đau, bệnh tật, chán chường cũng được hiện rõ. Cũng qua những lần thực – mơ
ấy, những quan niệm về sự tồn tại của con người trong cuộc đời, về phụ nữ và cái đẹp, về
gia đình, về tình yêu đã được Bunin gửi gắm. Không phải ngẫu nhiên câu chuyện lại là sự
đan xen thực – mộng, cũng không phải ngẫu nhiên nhân vật có tên là Trang, và triết lí về
Đạo được nhắc đến như một sự giác ngộ về cuộc đời. Triết lí ấy chính là yếu tố tự sự kết
nối hai thế giới trong tác phẩm. Có thể thấy, tâm trạng chủ đạo trong tác phẩm này không
phải là nỗi hoài nhớ quá khứ, có lẽ, nhà văn muốn khẳng định cách nhân vật đối mặt với
quá khứ và sống với hiện tại trong sự ám ảnh của quá khứ. Ở đây, cả Trang, cả viên
thuyền trưởng đều bình thản chấp nhận quá khứ, luận bàn về quá khứ, về sự sống, cái
chết, tình yêu…
Bên cạnh Những giấc mộng của Trang và Cỏ gầy, Canh khuya, Ở một phố thân
quen,… cũng là những tác phẩm được viết theo dạng thức cốt truyện phi tuyến tính song
song lắp ghép. Đó là cách Bunin tạo ra sự hấp dẫn mới mẻ cho những truyện ngắn pha
màu sắc hoài niệm, lấy quá khứ làm trọng tâm cảm xúc. Bởi thế cho nên, hoài niệm, nỗi
nhớ, kí ức trong tác phẩm của ông mang những diện mạo rất riêng, rất độc đáo.
4.2.3. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi sự kiện
Một tác phẩm tự sự gay cấn và kịch tính chắc chắn là một tác phẩm có sự xuất hiện
dày đặc của sự kiện, xung đột, đối thoại… Ngược lại, một tác phẩm dày đặc suy tư, tâm
trạng, băn khoăn của nhân vật, chắc chắn giàu chất trữ tình. Trong kho tàng truyện ngắn
của Bunin, có những tác phẩm rất ngắn, nhà văn chỉ miêu tả một bức chân dung (Chân
136
dung), tái hiện lại một cuộc trò chuyện ngắn (Marya), hay ghi lại một nét tâm trạng, một
dòng xúc cảm chợt đến trước một sự vật hoặc một hiện tượng nào đó. Ở những tác phẩm
này, sự kiện xuất hiện rất mờ nhạt, thậm chí bằng không. Bởi thế, chúng tôi gọi đó là
những truyện ngắn có cốt truyện phi sự kiện. Thậm chí có thể coi bản thân tác phẩm là
những “tự sự trữ tình ngoại đề” hết sức đặc biệt. Những truyện ngắn này được nhà văn
sáng tác từ trước cách mạng, tuy nhiên, sau cách mạng, ông dường như yêu thích và dành
nhiều bút lực cho chúng hơn. Điều đó có lẽ xuất phát từ nhu cầu được chiêm nghiệm, đúc
kết, bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc, suy tư của một con người luôn yêu và trăn trở với cuộc đời.
35/100 truyện được khảo sát là con số chúng tôi thống kê được về sự xuất hiện của những
truyện ngắn này. Sách, Nhà mồ, Bernard, Người mù, Bức chân dung, Một trăm Rupee,
Viên ngọc lục bảo, Chó sói, Marya, Thần tượng, Âm nhạc, Bài hát của Chúa, Trẻ và Già,
Hoa hồng Ierikhon, Hy vọng, Mối tình đầu… là những tác phẩm tiêu biểu nhất.
Người mù chỉ có một sự việc duy nhất là một người mù đang ngồi ăn xin giữa trưa
nóng bức ở một thành phố cảng. Người kể chuyện kể khi ông đặt mấy đồng xu Pháp vào
chiếc mũ lưỡi trai của người mù thì được nghe người mù nói: “Cảm ơn! Người anh em tốt
bụng của tôi!”. Chỉ một câu nói: “Cảm ơn! Người anh em tốt bụng của tôi!” mà nhân vật
tôi đã xúc cảm, đã lắng lòng mình để chiêm nghiệm biết bao triết lí về cuộc đời. Ông triết
lí về tình thân ái, lòng nhân hậu của con nguời, sự bình đẳng.
Bernard là câu chuyện gần như không có sự kiện, tác phẩm chỉ xoay quanh một
vài lời miêu tả và đối thoại của nhân vật tôi và Maupassant về nhân vật Bernard, một thủy
thủ trên chiếc thuyền mà họ từng đi. Cứ thế, qua những câu nói, cảm xúc của nhân vật tôi
về Bernard và về nhà văn Maupassant – người từng lấy Bernard làm nguyên mẫu cho tác
phẩm của mình được bộc lộ. Đó là sự trân trọng những con người hết lòng cống hiến vì
công việc, hết lòng cống hiến cho nghệ thuật. Trong tác phẩm câu nói của Bernard “Tôi
nghĩ rằng tôi đã là một thủy thủ tốt” gợi lên trong tác giả những suy nghĩ về bổn phận của
mỗi người được Chúa giao phó, về sự không lãng phí tài năng mà Chúa đã ban cho mỗi
người để giúp ích những người sống xung quanh. Xúc cảm tự hào và nhẹ nhõm của
những nhân vật trong câu chuyện gợi xúc cảm về bổn phận của con người trong cuộc đời.
Mỗi người cần làm tròn bổn phận của mình, nhiệm vụ của mình, dù đó là nhiệm vụ của
137
một nhà văn hay một thủy thủ bởi “Bởi vì Chúa Trời muốn mọi thứ đều „tốt đẹp‟. Ngài
vui mừng khi thấy mọi thứ Ngài sáng tạo ra đều „hoàn toàn tốt đẹp‟” [17; tr. 38].
Nhà mồ là những dòng miêu tả ngắn về một khung cảnh quen thuộc ở làng quê
Nga: một nhà mồ hoang phế, bao quanh bởi cánh đồng mùa hè nóng rực, đầy cỏ và hoa,
và lũ trẻ chơi đùa chạy nhảy bên ngoài, cách cái chết, cái tối tăm lạnh lẽo chỉ một bức
tường. Ở trong nhà mồ ấy có những ông già bà cả và cả một người đàn ông chưa già tự sát
vì tình. Xúc cảm của câu chuyện gợi lên từ chi tiết “người đàn ông chưa già tự sát vì tình
ấy”: “Tại sao anh ta tự sát?” “Tại anh ta yêu, mà khi đã quá si tình thì bao giờ người ta
cũng tự sát.” Hóa ra, sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc, hóa ra cái chết
cũng là một cách để vĩnh cửu hóa tình yêu, vĩnh cửu hóa tuổi trẻ của con người, hóa ra sự
khủng khiếp lại luôn đi kèm với điều tuyệt diệu nhất, hóa ra cuộc sống thật vô thường…
Câu chuyện không có sự kiện, chỉ đơn giản là những dòng miêu tả và đôi dòng đối thoại
nhưng xúc cảm và triết lí lại vô cùng sâu sắc và ý nghĩa.
Sách là một dòng xúc cảm hoàn toàn khác. Không phải xúc cảm về cuộc sống, bổn
phận, tình thương hay sự sống cái chết, đó là những suy tư và trải nghiệm của tác giả về
quá trình sáng tác, nguyên tắc sáng tác của chính mình. Xúc cảm gợi ra từ quá khứ đọc
sách, sống với các nhân vật trong sách vở của tác giả, và rồi đến quá trình tự nhận thức
rằng cần phải “đọc”, phải “sống” trong những diễn biến thực của đời sống, của thiên
nhiên. Chỉ cần được “sống trên thế gian, được làm những điều không thể hiểu được trên
thế gian” đã là hạnh phúc lớn lao của con người. Và nhà văn, quan trọng nhất là phải sống
cuộc sống thực của mình, chứ không phải chỉ có cuộc sống trong sách vở.
Những câu chuyện không hề hoặc hiếm hoi sự kiện như thế chủ yếu nhằm mục
đích khơi gợi cảm xúc và đôi khi là những triết lí của tác giả. Nếu Chiếc đu là những dòng
tâm trạng say đắm ngọt ngào đầy yêu thương thì 100 Rupees lại là sự hụt hẫng đánh tan
những xúc cảm đáng thương được gợi lên từ một cô bé xinh đẹp khi người đàn ông cùng
đi với cô ngửa bát đòi 100 rupees. Nếu Hoa hồng Ierikhon là những dòng xúc cảm về
nguồn sống của con người thì Trẻ và Già lại thông qua cuộc đối thoại giữa hai nhân vật
người thanh niên và người già để nói về những năm tháng tuổi thọ của đời người, về sự
sắp đặt của Chúa và tham vọng kéo dài tuổi thọ của con người. Trong khi Hy vọng là
những niềm vui, sự háo hức của nhân vật tôi trên con đường thiên lí: qua biển, qua núi,
138
qua sông, qua đồng… từ đó khơi gợi cuộc sống tương lai chứa chan hy vọng tươi sáng thì
Thần tượng lại dừng lại miêu tả cuộc sống tù túng ở vườn thú Moskva với những xúc cảm
chua xót. Rất nhiều tác phẩm như thế này của Bunin được ra đời sau Cách mạng tháng
Mười. Ở đó không có những sự kiện cụ thể nhưng lại có xúc cảm dạt dào, được gợi lên rất
tình cờ: từ một tiếng đàn (Âm nhạc) gợi ra những suy nghĩ về cội nguồn sức mạnh siêu
nhiên của con người, về cội nguồn cảm hứng sáng tạo, về sức mạnh của trí tưởng tượng
của con người, từ một bức chân dung cũ trên tường (Bức chân dung) gợi ra những suy
nghĩ về những con người chỉ sống với cái bóng của mình-với lúc hào quang rực rỡ nhất,
và dường như điều này đúng với cả nước Nga… Những câu chuyện tâm trạng phi sự kiện
như vậy đã tạo nên một nét độc đáo cho văn nghiệp của Bunin. Dường như, sẽ đến lúc
văn xuôi trở về với bản nguyên thi ca của nó, và sự kiện không còn là một thứ gì quan
trọng nhất nữa, chỉ có xúc cảm, xúc cảm trữ tình và đôi khi triết lí là cái còn ở lại.
4.3. Cảm thức bi hoài –nguồn mạch trữ tình truyện ngắn Bunin
Cảm thức bi hoài (elegism, элегическое) được chúng tôi hiểu không phải như một
thuật ngữ âm nhạc, mà như “một trong những mô thức nghệ thuật, hình thái thẩm mĩ sinh
nghĩa... Như một phạm trù mĩ học, không đồng nhất với thể loại bi ca, cảm thức bi hoài
tương tự như cảm thức điền viên được khẳng định và ý thức (phần nào bởi Schiller) trong
thời đại chủ nghĩa tình cảm vốn đề cao trong nghệ thuật sự tồn tại của những nhân cách cá
nhân vượt ra khỏi những ranh giới vị thế xã hội (đến với thiên nhiên, tình yêu, cái chết) và
đồng thời “khởi đầu sự cô lập, sự đa dạng cá nhân và cá thể đơn nhất” (Hegel)... Trái
ngược với cảm thức điền viên, cơ sở của cảm thức bi hoài là tổ chức chronotop biệt lập và
hành hương: không gian và/hoặc thời gian tách biệt khỏi thực tại xung quanh... Cái đẹp bi
hoài – đó là “sắc đẹp biệt li” (Pushkin) của khoảnh khắc một đi không trở lại, trong hoài
niệm về cái đẹp ấy, cái “tôi” nén lại, xoá bỏ mọi ranh giới sự kiện, mãnh liệt hướng về hạt
nhân nhân cách, hạt nhân chủ quan của tồn tại bản thể, trở thành chính mình” [164;
tr.302]. Truyện ngắn của Bunin thấm đẫm chính cảm thức bi hoài ấy. Cảm thức bi hoài
chính là phương thức nhà văn sử dụng để vĩnh cửu hóa sự tồn tại của cái đẹp, tình yêu,
khoảnh khắc. Cảm thức bi hoài trong truyện ngắn của Bunin hiện hữu trong hai dạng
thức: sự mất mát/ sự chia ly và cái chết.
139
4.3.1. Cái đẹp và cảm thức bi hoài
Hơi thở nhẹ là một trong những truyện ngắn không thể không kể đến khi nói về
truyện ngắn của Bunin. Nhân vật được nhắc đến nhiều nhất trong tác phẩm là hai người
phụ nữ: cô nữ sinh trung học Olia xinh đẹp, táo bạo nhưng bất hạnh và bà giáo chủ nhiệm
của cô – người suốt đời phụng thờ cô. Olia mười lăm tuổi nhưng đã đẹp rực rỡ, vẻ đẹp
yêu kiều quyến rũ. Bunin miêu tả quá trình dậy thì thành công ở cô: “Rồi sau, bắt đầu nở
bừng như một đóa hoa, cô phát triển không phải từng ngày mà từng giờ. Năm mười bốn
tuổi, chẳng những có vòng eo thon thả và đôi chân đều đặn, mà ở cô còn nổi lên đẹp đẽ
cặp vú và cả những đường nét mà lời nói con người chưa từng bao giờ có thể lột tả được
hết sức quyến rũ của chúng. Và đến tuổi mười lăm, cô đã nổi tiếng là một cô gái đẹp…”
[15; tr. 192]. Vẻ đẹp của Olia lúc sinh thời đã khiến cho biết bao người mê mẩn, có anh
chàng còn quyên sinh vì cô. Nhưng Olia vô tư lự và hồn nhiên quá đỗi, cô dường như
không đếm xỉa đến tất cả những điều ấy. Cô không yêu, nhưng những rung động đầu đời
của một người thiếu nữ trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng và hữu tình đã khiến cô
trao thân cho một người đàn ông lịch lãm, từng trải, người đã ví von họ giống như “Faust
và Margarita”. Thế rồi dường như nắm được quyền năng sắc đẹp của mình, Olia đùa giỡn
tình cảm của một sĩ quan Kazak để rồi chết dưới họng súng của anh chàng này. Cái chết
của Olia bất ngờ với chính cô bé, nhưng có lẽ cô bé cũng không hối hận vì đã dám sống
thật với tình cảm của mình. Olia thẳng thắn công khai nhật kí cho chàng sĩ quan, cũng là
công khai con người thật của mình. Sự thẳng thắn, mạnh mẽ, hồn nhiên và có phần bản
năng bồng bột của cô gái trẻ Olia khiến cho bà giáo chủ nhiệm của cô say mê, coi cô là
niềm mơ ước mới. Con người cả đời sống dựa vào người khác, dựa vào huyễn tưởng
người khác đem lại cho mình tìm thấy ở Olia bí mật của cái đẹp, bí mật của sự trường tồn
vĩnh cửu của mùa xuân, của tuổi xuân: “hơi thở nhẹ”.
Bà giáo chủ nhiệm của Olia là một người đặc biệt. Đó là một cô gái già, từ lâu vẫn
sống với một huyễn tưởng nào đó mà bà đem thay cho đời sống thực của mình. Mới đầu
sự huyễn tưởng ấy là anh trai bà, một hạ sĩ quan nghèo, không có gì nổi bật nhưng trong
con mắt của bà lại vô cùng xuất sắc. khi anh trai mất, huyễn tưởng của “cô gái già” ấy lại
hướng về chính bản thân mình với danh xưng “người lao động có lí tưởng”. Thế rồi sau
140
khi Olia – biểu tượng cho cái đẹp của toàn trường mất đi nhưng hình bóng, dáng vẻ vẫn
còn mãi nơi nghĩa trang “Đức Mẹ yên giấc ngàn thu” cùng với câu chuyện về vẻ đẹp
chuẩn mực mà bà nghe lỏm được qua cuộc đối thoại của Olia với cô bạn Subbotina của
mình thì Olia chính là niềm ao ước mới, là tâm tư và cảm xúc thiết tha của bà. Hình ảnh
khuôn mặt xinh xắn tai tái của Olia Mesherskaia lúc đang nằm trong quan tài giữa những
đóa hoa tươi là hình ảnh sống mãi trong bà. Bà giáo già không rời cặp mắt khỏi cây thánh
giá gỗ sồi trong nhiều tiếng đồng hồ liền, có lúc bà nghĩ đến sự khủng khiếp từ cái chết
của Olia, có lúc bà thầm nghĩ: sẵn sàng hi sinh cả nửa đời người để miễn sao trước mắt
không còn cái vành hoa chết chóc nữa; “Ôi, cái vành hoa ấy, cái nắm đất ấy, cây thập tự
bằng gỗ sồi ấy! Có lẽ nào nằm dưới những thứ ấy lại là cô bé mà cặp mắt đang bất tử tỏa
sáng long lanh từ tấm phù điêu tròn bằng sứ gắn trên giá chữ thập kia, và làm thế nào
người ta lại có thể hòa nhập cái điều khủng khiếp hiện nay đang được gán cho tên tuổi của
Olia Mesherskaia với cặp mắt nhìn trong trắng ấy?” [15; tr. 199]. Vậy là, Olia, hay chính
xác hơn là vẻ đẹp bất tử của cô đã trở thành “người” cứu rỗi cho bà giáo chủ nhiệm già
trong những tháng ngày cuối cùng của cuộc đời. Cặp mắt sáng long lanh của Olia không
chỉ bất tử trên bia đá nghĩa trang, mà câu chuyện về cô, về vẻ đẹp của cô chắc chắn sẽ còn
lưu truyền nhiều thế hệ qua sự phụng thờ của bà giáo chủ nhiệm của cô. Và đặc biệt, vẻ
đẹp ấy, đã tan biến vào đất trời mùa xuân, và sẽ tuần hoàn mãi. Dường như để cho vẻ đẹp
của một cô gái hóa thân thành làn hơi mùa xuân tươi mát, tinh khôi chính là cách Bunin
vĩnh cửu hóa cái đẹp. Nhờ thế, cái đẹp ấy không chỉ cứu rỗi cho một người mà còn đem
đến sức sống cho muôn loài: “Giờ đây, cái hơi thở nhẹ ấy lại một lần nữa lan đi trong thế
gian này, trong bầu trời đầy mây này, trong làn gió xuân lành lạnh này.” [15; tr. 201]. Có
thể nói, cách xử lí của Bunin khi đứng trước một nhân vật người con gái đẹp hoàn toàn
khác các nhà văn “cổ điển” khác. Lẽ ra một cô gái đẹp lí tưởng như Olia phải được hạnh
phúc, nhưng Bunin đã để Olia chết. Cách xử lí “nghịch dị” ấy đem đến một hệ quả: vẻ
đẹp sẽ song hành với sự khủng khiếp. Với Olia, nhà văn đã để cô bé sống hết mình với
những gì bản năng nhất, đẹp đẽ nhất mà cô bé có. Có thể nói, Olia chính là một nhân vật
“hiện sinh” nhất của Bunin.
Vẻ đẹp tuyệt đối và không bao giờ tàn phai ở Olia Mesherskaia của Bunin gợi nhớ
đến những kiệt tác Cô bé với quả đào, Cô gái trong nắng của Valentin Serov. “Những
141
bức chân dung ấy không chỉ là những hình ảnh cụ thể mà chủ yếu là những biểu tượng
của tuổi trẻ, vẻ đẹp, hạnh phúc” [67; tr. 615]. Nếu Serov lưu giữ vẻ đẹp bất tử của những
thiếu nữ tuổi mới đôi tám bằng màu sắc và đường nét thì Bunin lưu giữ chúng bằng ngôn
từ. Đó là sức mạnh lớn lao của nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật Thế kỷ Bạc. Cũng phải
nói thêm rằng, vẻ đẹp rực rỡ, yêu kiều và duyên dáng của Olia cùng câu chuyện tình của
cô bé với nhân vật Aleksei Mikhailovich (năm mươi sáu tuổi) gợi nhớ đến nhân vật Lolita
trong tiểu thuyết cùng tên của Nabokov. Lolita cũng rất đẹp, vẻ đẹp rực rỡ của “tiểu nữ
thần”, mối tình của nàng với người cha dượng Humbert Humbert cũng đã “giết chết” tuổi
thanh xuân và hủy hoại cả cuộc đời nàng. Tuy nhiên, cái chết khi còn đang rất trẻ của
Lolita cũng là một cách để vẻ đẹp của nàng sống mãi. Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây
đã phát hiện sự tương đồng thú vị này [188; tr. 766].
Trong cuốn Tâm lí học nghệ thuật, Vưgotsky khẳng định cách Bunin đã làm trong
tác phẩm không phải “để phân tích và nhìn kỹ các sự kiện trong cái bản chất thực sự của
chúng, mà chính là để nhằm vào một hướng ngược lại: nhằm để khắc phục cái đặc tính
ấy, để bắt cái kinh khủng phải nói bằng ngôn ngữ của hơi thở nhẹ, bắt cái chất đục đời
thường phải reo lên, vang lên như một cơn gió xuân se lạnh” [81; tr. 304]. Theo chúng tôi,
đó là một cách cảm nhận tác phẩm từ xu hướng “hiện thực mới”. Với chúng tôi, Bunin
qua Hơi thở nhẹ đã vĩnh cửu hóa cái đẹp, ông đã để cho hơi thở nhẹ làm lu mờ đi sự
khủng khiếp đến từ cái chết không lấy gì làm “đáng để thương xót” cho cách hành xử của
nhân vật. Điều đáng nhớ ở đây là cái cách đặc biệt khác thường và hơi chua chát mà nhà
văn dùng để bất tử hóa cái đẹp, làm cho nó sống mãi trong người ở lại, thậm chí sống đến
muôn đời. Hơi thở nhẹ, bởi thế, vừa là một dấu hiệu “kiểm chứng cái đẹp” (nghĩa đen gợi
ra từ văn bản), vừa là một thước đo cảm xúc của người đọc: hóa ra tất cả những gì ghê
gớm nhất, kinh khủng nhất, đau buồn nhất của cuộc đời con người rồi cũng sẽ tan biến
“dưới bầu trời đầy mây, trong gió xuân lành lạnh”, giống như một hơi thở nhẹ…
Không chỉ có Hơi thở nhẹ, ở nhiều tác phẩm khác của Bunin, những người con gái
đẹp đa phần đều bất hạnh: Natali, Rusya, Galia Ganskaya, Valeria, Klara và nhiều nhân
vật “nàng” khác… Như vậy, với Bunin, cái Đẹp luôn luôn song hành cùng cảm thức bi
hoài. Cái Đẹp, dù chỉ trong khoảnh khắc, trở thành bất tử. Điều đó đã gây xúc động mạnh
142
mẽ tới người đọc. Đó cũng chính là yếu tố mạch nguồn cho tính trữ tình trong truyện ngắn
Bunin.
4.3.2. Tình yêu trong cảm thức bi hoài
Có thể nói, tình yêu là một trong ba chủ đề lớn nhất trong những truyện ngắn của
Bunin. Nhà văn từng trải qua bốn mối tình sâu đậm dường như coi tình yêu là liều thuốc
của cuộc đời mình. Tập truyện ngắn nổi tiếng nhất trong giai đoạn sáng tác cuối cùng của
Bunin là tập truyện ngắn về tình yêu. Tuy nhiên, tình yêu như một tất yếu nghệ thuật đã
xuất hiện trong những truyện ngắn Bunin giai đoạn trước Cách mạng, khi mà những sáng
tác về chủ đề nông thôn và nước Nga được coi là chủ đạo. Ngay trong Cỏ gầy, một tác
phẩm tưởng như chỉ đơn thuần viết về cuộc sống và suy tư của người nông dân Nga khi
phải đối mặt với cái chết thì nhân vật chính – bác Averki trong những ngày cuối đời nằm
dưỡng bệnh ở nhà đã thốt lên: “Chao ôi. Trên đời có tình yêu đẹp biết bao!” [15; tr. 135].
Một điểm đặc biệt rất dễ nhận thấy trong các sáng tác về đề tài tình yêu của Bunin
(cả trước và sau Cách mạng) đó là những truyện ngắn tình yêu của nhà văn thường không
đơn thuần viết về tình yêu, tình yêu thường gắn liền với cái chết. Hay nói cách khác, các
nhân vật tình yêu thường chết khi kết thúc tác phẩm (Một truyện tình nho nhỏ, Đứa con
trai, Hơi thở nhẹ…). Dù cho cái chết vật lí không thực sự xảy ra, nhân vật cũng ít nhiều
“chết ở trong lòng”. Trong Lần gặp gỡ cuối cùng, tuy không có cái chết nào cho đến kết
thúc tác phẩm, nhưng sự ra đi mãi mãi của Vera – cô gái mà Storesnhev yêu suốt 15 năm
qua đã giết chết tình yêu thực sự trong họ, giết chết tâm hồn cô gái và cả chàng trai đã
dành trọn cuộc đời mình cho cô. Cuộc chia tay của họ có cả dư vị ngọt ngào của tình yêu,
cả sự đắng chát của những hi sinh không được đền đáp và cả nỗi thất vọng ê chề trước
ước mong không thành. Với những cô gái trong truyện ngắn tình yêu của Bunin: “Tình
yêu là cái ta muốn nhưng không đạt được, và không hề có” [16; tr. 583]. Vì thế cho nên,
cô gái trong Một truyện tình nho nhỏ chết ở Genève sau khi lấy người mà mình không yêu
– bá tước El-Mamuna, ôm trong lòng mối tình với chàng trai mà cô yêu nhưng không bao
giờ được phép lấy; người phụ nữ cả đời đoan trang đức hạnh Maro chấp nhận tự sát khi
biết con tim mình rung động vì yêu với chàng thanh niên Emin đáng tuổi con mình bởi bà
biết rằng tình yêu ấy không thể đạt được; cô gái Olia Mesherskaia bị bắn chết trên sân ga
143
sau khi thổ lộ cô chỉ đùa giỡn tình cảm của chàng sĩ quan chứ không hề yêu anh ta, rằng
đó chỉ là cách cô trả thù đời, là “lối thoát” duy nhất của cô khi cô đã trao thân cho một
người đàn ông mà ngay sau đó cô cảm thấy ghê tởm. Như thế, tình yêu, với các nhân vật
nữ chính, hoặc là thứ họ muốn nhưng không thể có được, hoặc không dám sống, không
dám đánh đổi vì nó, hoặc là thứ họ chưa từng thực sự được nếm trải nhưng lại làm tổn
thương tâm hồn họ. Cái chết, sự chia ly vĩnh viễn với người họ yêu, chính là cách giải
thoát tốt nhất. Sau này, trong những truyện ngắn được viết trên đất Pháp, Bunin viết nhiều
hơn về tình yêu, vẫn là tình yêu đẹp, vẫn là sự hòa hợp cả thể xác và tâm hồn, dù sự hòa
hợp ấy chỉ là thoáng qua, là khoảnh khắc ngắn ngủi trên đường đời, nhưng dư âm cuối
cùng vẫn là sự chia ly, là cái chết của hoặc chàng trai hoặc cô gái. Có lẽ, với Bunin,
phương thức duy nhất để giúp tình yêu sống mãi, để nó không bị héo hon theo tháng ngày
của những va chạm trong cuộc sống thường nhật là sự chia ly mãi mãi.
Có một truyện ngắn rất đặc biệt trong kho tàng truyện ngắn Bunin, đó là Ngữ pháp
tình yêu. Tác phẩm đặc biệt ở chỗ nhân vật nữ huyền bí trong câu chuyện – cô hầu gái
Luska, người vợ mà điền chủ Khvosinsky yêu say đắm bất chấp đẳng cấp xã hội (đến
mức nàng đã mất 20 năm trước nhưng ông không rời xa căn phòng của nàng nửa bước)
luôn ám ảnh viên quan tỉnh Ivlev. Nỗi ám ảnh lớn lao ấy thậm chí còn chuyển thành tình
yêu – một mối tình đậm màu sắc Platon bởi Ivlev chưa một lần được nhìn ngắm hay gặp
gỡ Luska: “Nàng đã vĩnh viễn bước vào đời ta!”. Tình yêu thuần túy tinh thần đến từ câu
chuyện kỳ bí về nàng đã đưa Ivlev đến “gặp” nàng thông qua những kỉ vật về nàng. Cuốn
sách Ngữ pháp tình yêu với những câu thơ da diết chính là minh chứng cho sức mạnh
tuyệt vời của tình yêu ấy: “Những trái tim yêu sẽ mách bạn:/ „Hãy sống trong truyền
thuyết ngọt ngào!‟/ Những trái tim yêu sẽ truyền cho cháu chắt/ Này là Ngữ pháp của tình
yêu.” [3; tr. 38].
Thêm một điểm nữa cần phải chú ý, trong những truyện ngắn của Bunin, tình yêu
không chỉ xuất hiện trong bộ cánh trong trẻo, thuần khiết đơn thuần của tinh thần; không
chỉ mang màu sắc lí tưởng, siêu phàm mà rất trần thế, đậm chất sắc dục của con người,
đặc biệt là những truyện ngắn sau Cách mạng tháng Mười. Với Bunin, tình yêu thực sự
phải là sự hòa hợp và dâng hiến cả về thể xác và tinh thần. Ông viết về những sự dâng
hiến ấy một cách tự nhiên, hoàn toàn là khát khao rất người, rất mãnh liệt. Trong Lần gặp
144
gỡ cuối cùng, cả Vera và Storesnhev đã hiến dâng thân thể mình cho nhau, đã yêu thương
nhau trọn vẹn 15 năm trời, thế nhưng vẫn có những khoảng cách khiến họ không thể bên
nhau để rồi chia ly vĩnh viễn. Trong Hơi thở nhẹ, phút giây lãng mạn dịu dàng của mùa
thu chốn thôn quê, sự quyến rũ, từng trải của người đàn ông lịch lãm đã đứng tuổi, cảm
giác ngất ngây đầu đời của cô con gái lần đầu được hưởng những cái hôn ngọt ngào đã
biến Olia Mesherskaia từ một cô thiếu nữ trở thành đàn bà để rồi cô gái “bị ép buộc một
cách tự nguyện ấy” lao vào đùa giỡn tình yêu với một người đàn ông khác và phải từ giã
cõi đời. Sau này, trong những truyện ngắn tình yêu sau Cách mạng tháng Mười, dù viết
nhiều hơn về những khát khao dâng hiến, những đụng chạm thể xác đã làm thay đổi suy
nghĩ, thậm chí cả cuộc đời của nhiều nhân vật, ông vẫn khẳng định: tình yêu không khi
nào trở thành hiện thực, tình yêu là trạng thái vĩnh cửu của tâm hồn, là cái để nhớ về, để
tiếc nuối. Say nắng, Những tấm danh thiếp, Rusya, Natali, Ida, Ở Paris, Galia Ganskaya,
Tanhia, Nàng Lika…. là những truyện ngắn tình yêu tiêu biểu cho phong cách ấy.
4.2.3. Khoảnh khắc cảm thức bi hoài
Như đã phân tích ở trên, khoảnh khắc có vai trò vô cùng quan trọng trong truyện
ngắn Bunin. Nhà văn dành nhiều ưu ái của mình cho những sự kiện khoảnh khắc, những
truyện ngắn của ông sau này chủ yếu là những truyện ngắn được xây dựng từ những ấn
tượng, khoảnh khắc trong quá khứ. Những khoảnh khắc tưởng như thoáng qua ấy lại có
sức mạnh lớn lao, làm thay đổi không chỉ tâm trạng, tình cảm của nhân vật trong tác
phẩm, mà còn làm biến đổi hoàn toàn diễn biến cốt truyện cũng như tâm lý đón đợi của
người đọc. Chắc hẳn người đọc không thể quên được khoảnh khắc nhân vật Irakly
Meladze nhận ra Klara đã già. Sự già nua được che giấu lộ ra bất ngờ đã kéo theo một
chuỗi những biến cố của câu chuyện, họ vật lộn với nhau, cô gái chết, cuối cùng chàng
thương gia bỏ trốn và đến Rostov thì bị bắt giữ. Khoảnh khắc nhân vật nàng trong Ở
Paris nhìn thấy chiếc áo khoác màu xám có lần lót đỏ sau đám tang người đàn ông nàng
cùng chung sống cũng là khoảnh khắc nhân vật nhận thức sâu sắc hơn những đau khổ của
sự mất mát. Đó là chiếc áo “ông đã mặc vào dạo hè xa xưa ấy” khi nàng và ông còn hạnh
phúc. Xúc cảm trong nàng quá bất ngờ, dâng trào khiến nàng không thể kìm nén: “Nàng
lấy áo từ trên mắc xuống, áp vào mặt, ôm chặt nó vào lòng rồi đổ khuỵu xuống sàn, toàn
145
thân rung lên trong những tiếng nức nở nghẹn ngào cầu xin ai đó tha thứ.” [19; tr. 126].
Chiếc áo chính là chi tiết khơi dậy mọi xúc cảm xa xưa ở nàng: niềm hạnh phúc xa xưa,
nỗi ân hận, xót xa, sự nghẹn ngào của kẻ đã phạm lỗi và đã được tha thứ, được bao
dung…
Bên cạnh đó, Bunin còn có những suy nghĩ rất độc đáo về khoảnh khắc, về quá
khứ, về những vấn đề vĩnh cửu của con người trong thời đại nhiều biến động. Điểm đặc
biệt là những suy nghĩ này gắn bó thú vị với tôn giáo.
Bunin đã từng ghi lại suy nghĩ của mình về khoảnh khắc, về những ấn tượng trong
cuộc đời: “Chúng ta sống với tất cả những gì đang sống, tất nhiên chỉ trong giới hạn
những gì đang sống mà chúng ta nhận thức được giá trị của chúng. Thông thường, những
giá trị này không nhiều: nó chỉ hiện lên trong những khoảnh khắc hân hoan – hân hoan
hạnh phúc hay bất hạnh, cảm giác sở hữu rõ ràng hay mất mát; còn nữa – trong những
khoảnh khắc biến chuyển đầy thơ mộng của quá khứ trong hồi ức”, và thường trong
những truyện ngắn của Bunin “những phút biến chuyển ấy” một cách trực tiếp sinh ra
trong mắt người đọc một thế giới tươi sáng đầy thơ mộng [136 – tập 9; tr. 366].
Nhà nghiên cứu Zakharova nhận định về vai trò của khoảnh khắc trong việc gợi ra
những chủ đề vĩnh cửu trong truyện ngắn của nhà văn: “Bunin có khả năng biến những ấn
tượng của khoảnh khắc phác thảo lên tầm nguyên lí tồn tại vĩnh cửu. Đặc tính thi pháp
phong cảnh của Bunin trở thành “tính lưu chuyển của cuộc sống”, ý nghĩa của “khoảnh
khắc qua đi” trong người kể chuyện của Bunin hiện ra trong những khoảnh khắc đó,
chúng kêu gọi “hướng tới cuộc sống, tôn vinh mỗi giá trị của cái giây lát ấy” [112; tr. 11].
Fedor Stepun nói về tính vĩnh cửu của chủ đề cái chết trong truyện ngắn của Bunin:
“Nghệ thuật thuần túy của Bunin nỗ lực tìm kiếm, nhận thức thế giới. Các chủ đề tình yêu
lớn ẩn tàng, tham lam, niềm đam mê thường trực không nguôi, nhưng trên tất cả là cái
chết thâm nhập tất cả những sáng tạo của nhà văn vĩ đại. Nghệ thuật của ông hóa ra là ở
khả năng đặc biệt này, có lẽ, bởi vì nó không miêu tả các sự kiện lớn, không đặt ra những
vấn đề lớn lao, không săn lùng những tình huống thú vị, không tưởng tượng ra những loại
người khác thường. Nó vẫn rất có ý nghĩa ngay cả khi chỉ miêu tả cuộc sống thường nhật,
thậm chí trong những điều nhỏ bé” [Dẫn theo 172].
146
Bunin cũng đã có lần trực tiếp bộc lộ quan điểm của mình về cái chết, đặc biệt về
sự vĩnh cửu: “Tôi không có bắt đầu và không có kết thúc. Sự ra đời! Điều này có nghĩa
gì? Sự ra đời! Sự ra đời của tôi không bao giờ là sự bắt đầu của tôi. Sự bắt đầu của tôi
nằm trong sự không thể lí giải này đối với mặt tối của tôi, trong đó tôi lưu lại cho đến lúc
tôi ra đời, trong cha tôi, trong mẹ tôi, trong tổ tiên của tôi, như thể tôi cùng một lúc ở
trong họ, chỉ trong những hình thức khác nhau, trong đó rất nhiều thứ được lặp đi lặp lại,
làm cho tôi giống họ. Tất cả cuộc sống của mình tôi đã sống dưới dấu hiệu của cái chết –
và tuy vậy tôi cảm thấy rằng tôi không bao giờ chết” [Dẫn theo 172]. Như vậy có thể thấy
rằng, Bunin ý thức rất rõ về cái chết và sự hữu hạn, đồng thời cũng ý thức rất rõ về sự
vĩnh cửu của con người. Nhà văn trong những nỗ lực của mình đã tìm cách lưu lại những
sự vĩnh cửu ấy. Đặc biệt, với ông, như đã dẫn ở trên, khoảnh khắc chính là phương tiện
lưu lại cái vĩnh cửu. Đặc biệt hơn nữa, khoảnh khắc của quá khứ chính là những thứ quý
giá hơn cả. Bởi với Bunin, khoảnh khắc quá khứ ấy chính là sự cứu rỗi, là khoảnh khắc
vĩnh cửu trong quan niệm của Chính Thống giáo: “Sự tồn tại của con người, nhìn chung,
được luận giải trong văn học Nga cổ như một tiếng vọng của quá khứ, chính xác hơn, sự
kiện của quá khứ ấy, là những thứ đã được xác định liên hệ với sự vĩnh cửu (…), Lễ Phục
Sinh, tuần lễ, sự kết thúc, năm – tất cả là tiếng vọng từ một trong những sự kiện của quá
khứ, những thứ tồn tại một cách đồng thời trong sự vĩnh cửu, trong lịch sử quá khứ và
hiện tại. Năm tôn giáo trong sự khác biệt với năm (từ phương diện) ngôn ngữ không đơn
giản là sự lặp lại, mà chính là dấu vết “phục sinh”, tiếng vọng (…) Con người từ quan
điểm văn hóa Chính Thống Nga cũng là một “tiếng vọng”” [Dẫn theo 112; tr. 26]. Đó là
lời nhận xét của viện sĩ A.M.Panchenko về “cuộc sống sống động” của tâm hồn con
người trong truyện ngắn Bunin. Điều này lí giải vì sao trong những truyện ngắn của mình,
Bunin luôn viết về những sự kiện của quá khứ, những vẻ đẹp của quá khứ. Đó cũng là lí
do những mối tình của quá khứ luôn chiếm một vị trí vô cùng đặc biệt trong tâm hồn của
nhân vật chính, làm thay đổi diện mạo, thay đổi suy nghĩ, và ám ảnh nhân vật cả đời.
Tiểu kết chương 4:
Cốt truyện sự kiện trong truyện ngắn Bunin có khuynh hướng suy yếu, nhường chỗ
cho cảm xúc. Xúc cảm thâm nhập vào hệ thống sự kiện, chi phối cốt truyện để tạo nên
147
những mô thức cảm xúc – sự kiện cơ bản (cảm xúc tiếc nuối – dòng chảy “hoài niệm”,
cảm xúc mãnh liệt – khoảnh khắc “hiện tại”, cảm xúc “an phận” – vòng đời “tĩnh lặng” và
sự chuyển đổi mô thức tuần hoàn tĩnh tại – đột biến – tĩnh tại) cùng cốt truyện hành trình
tâm trạng (tuyến tính và phi tuyến tính với những dạng thức đơn thuần, song song tương
đồng và tương phản). Ngoài ra, Bunin còn có một số lượng khá lớn những truyện ngắn
không có cốt truyện, hầu như không có sự kiện nhưng ở những truyện ngắn này xúc cảm,
triết lí luôn đầy ắp. Chúng tôi xem đây là điểm đặc biệt trong kho tàng truyện ngắn của
Bunin. Nét đặc biệt nhất là tất cả mọi sự kiện của truyện ngắn đều đưa đến kết thúc là sự
mất mát hoặc cái chết, dù cảm xúc về những sự mất mát và cái chết ấy không bi luỵ, mà
dường như ở một cảm thức khác – cảm thức bi hoài.
Khuynh hướng trữ tình hoá cốt truyện trong truyện ngắn Bunin, theo chúng tôi,
chịu sự chi phối của cảm thức bi hoài – hạt nhân cảm quan nghệ thuật của nhà văn: cái bi
hoài mang sứ mệnh vĩnh cửu hóa cái đẹp, tình yêu, khoảnh khắc. Cảm thức bi hoài là
mạch nguồn của tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin. Chính cảm thức bi hoài thống nhất
trong cả sáng tác thơ và văn xuôi của Bunin đã làm nên thứ “văn xuôi như thơ” mà chúng
tôi đã đề cập tới ở các chương trước. Nghiên cứu cảm thức bi hoài trong truyện ngắn
Bunin, ta có thêm căn cứ cho giả thuyết của nhà nghiên cứu Phạm Gia Lâm cho rằng toàn
bộ sáng tác văn xuôi trữ tình của Bunin thuộc thể loại bi kí (эпитафия - một thể loại
thuộc văn bia thường rất ngắn gọn bởi được khắc trên bia đá, bia mộ (phiến đá hẹp) để ghi
nhớ những chiến tích, công đức, những sự kiện trọng đại, lưu lại chứng tích của cái đẹp,
thiêng liêng... đã rời sang cõi vĩnh hằng) như nhà văn từng định danh cho một tác phẩm
của mình. Chính cảm quan nghệ thuật thiên về cảm thức bi hoài của Bunin là nguồn mạch
cho tính trữ tình đặc biệt trong truyện ngắn của nhà văn. Cảm thức bi hoài nảy sinh từ ý
thức về thực tại cuộc đời, bối cảnh văn hóa xã hội, khí chất của Bunin không chỉ tràn
ngập những trang văn xuôi như thơ của ông, mà còn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng
nhiều thế hệ độc giả.
148
KẾT LUẬN
1. Ivan Bunin là một cây bút đặc biệt của nền văn học Nga. Xuất thân quý tộc và
“kiên định” lối sáng tác mang hơi thở “cổ điển” của nước Nga nhưng những tác phẩm của
Bunin vẫn rất hiện đại, ấn tượng và mang sức cuốn hút riêng. Giống như những nhà văn
tiền bối Puskin, Turghenev, Chekhov… Bunin viết về con người, cảnh vật, sinh hoạt
thường ngày của nước Nga; nhưng những trang viết của ông được kết nối bằng xúc cảm
hoài nhớ của một con người đau đáu hướng về Tổ quốc từ phương xa. Nhân vật của ông
vẫn là những thanh niên trí thức nhưng ở họ lí trí đã nhường chỗ cho trái tim; dòng sông
tâm trạng của phép “biện chứng tâm hồn” hay những cuộc đấu tranh tư tưởng đã không
còn là vẻ đẹp nội tâm của nhân vật, thay vào đó là những khoảnh khắc lóe sáng của tình
yêu sét đánh, của cái đẹp mong manh nhưng trường tồn vĩnh cửu. Ở ông, xúc cảm đã trở
thành sợi dây kết nối hình tượng nhân vật chủ đạo với tác giả và người đọc. Ở ông, lần
đầu tiên trong văn học Nga, cụ thể là truyện ngắn, khoảnh khắc trở thành vĩnh cửu, ấn
tượng trở thành vẻ đẹp biểu trưng. Ở ông, kí ức giữ một vai trò quan trọng trong cuộc
sống của con người. Đó là thứ nhân loại ngày nay luôn khát khao tìm về. Ở ông, cảm thức
bi hoài luôn hiện hữu và song hành cùng cái đẹp, tình yêu, khoảnh khắc. Cảm thức bi hoài
ấy chính là phương thức để cái đẹp, để tình yêu, để khoảnh khắc được lưu giữ đúng thời
điểm đẹp nhất và mãi mãi còn lại trong thế giới tinh thần của con người. Đó là sự vĩnh
cửu.
2. Có thể nói, Bunin đã trở thành cầu nối của văn học Nga cổ điển và hiện đại. Nhà
văn đã đưa nước Nga, con người Nga, tính cách Nga, tâm hồn Nga – với những gì thuần
khiết nhất vào trang văn khiến cho những người Nga, đặc biệt là những người Nga ở xa
Tổ quốc không thể không thương nhớ. Người đọc sẽ nhớ mãi mùa thu vàng nước Nga hay
những đêm trăng sương giá trên cánh đồng tuyết trong tác phẩm của ông, người đọc cũng
không thể quên những buổi bình minh rộn tiếng họa mi, thoang thoảng hương hoa táo hay
hương cỏ thơm trên đồng… Những cô gái Nga xinh đẹp, tinh tế mang tâm hồn của Đức
Mẹ biểu tượng cho cái đẹp mong manh nhưng vĩnh cửu sẽ còn mãi vương vấn, ám ảnh
người đọc. Đó cũng là lí do truyện ngắn Bunin có một vị trí vô cùng đặc biệt trong lịch sử
truyện ngắn Nga: vừa quý tộc sang trọng, lịch lãm như Turghenev; vừa dân dã thâm trầm
149
như Chekhov; vừa sâu sắc lãng mạn như Gorky; lại vừa hân hoan quyến rũ như
Paustovsky… Bunin xứng đáng đại diện cho những cây bút truyện ngắn của Thế kỷ Bạc
trên hành trình vừa lưu giữ chất Nga truyền thống vừa đem vào đó hơi thở sáng tạo của
thời đại.
3. Đóng góp của Bunin không chỉ ở xúc cảm về những gì thuộc về nước Nga, kí ức
trong cảm thức bi hoài. Với lối kể chuyện tinh tế, khuynh hướng lấy xúc cảm làm nền
tảng chi phối cách lựa chọn sự kiện, cốt truyện, người kể chuyện, kết hợp với ngôn từ
giàu nhạc tính, vừa hồn nhiên dân dã, vừa thi vị, cao cả, Bunin đã tạo ra một thứ văn xuôi
như thơ đầy quyến rũ. Những sự kiện được Bunin lựa chọn, đích đến của cốt truyện đều
hướng tới mục tiêu lưu giữ vẻ đẹp của thế giới, đặc biệt thế giới tinh thần con người một
cách ấn tượng nhất. Bởi thế, Bunin càng ngày càng có xu hướng giản tiện tối đa sự kiện
thực tế, gia tăng sự kiện tâm trạng, lưu giữ khoảnh khắc cũng như những suy tưởng trữ
tình bằng hành động gợi nhớ, sự hoài niệm, bằng ký ức thông qua một hình thức văn xuôi
ngắn gọn, súc tích nhưng đầy ắp cảm xúc – truyện ngắn gần với thể loại bi kí, lưu giữ
chứng tích của cái đẹp thiêng liêng trong những khoảnh khắc tồn tại của nó trước khi rời
sang cõi vĩnh hằng. Thực tế, hiện tượng giao thoa thể loại (ở đây là văn xuôi và thơ trong
truyện ngắn) là một xu hướng mang dấu ấn của thời đại Bạc. Tuy nhiên, người đọc vẫn có
thể nhìn thấy những nét sáng tạo rất riêng của Bunin. Có thể nói cảm thức bi hoài khó tả ở
Bunin đã vĩnh cửu hóa những nét đẹp “chỉ còn vang bóng” của cuộc đời. Truyện ngắn của
Bunin vừa là những bản bi ca, vừa lại là những bản hoan ca về sự hiện tồn của cái đẹp,
tình yêu trong những khoảnh khắc đáng giá hơn cả cuộc đời. Cái nhìn táo bạo về cuộc đời
và những cách tân đặc biệt của Bunin đối với thể loại truyện ngắn đã xác định vị trí của
ông trong hàng ngũ những cây bút văn xuôi trữ tình lớn nhất của văn học Nga và thế giới.
4. Truyện ngắn của Bunin không đơn thuần là một truyện ngắn trữ tình chỉ gói gọn
trong nó ý nghĩa toát lên từ nhân vật hay sự kiện, ngôn từ trong tác phẩm. Truyện ngắn
của Bunin còn là một văn bản “liên văn bản” độc đáo. Có những truyện ngắn người đọc
tìm thấy những tác phẩm hội họa thuần khiết và ấn tượng về thiên nhiên, về người con gái
Nga thanh tân, quyến rũ. Có những truyện ngắn đưa người đọc đến với không khí thơ ca
cổ điển Nga với những vần thơ của Fet, Lermontov… Có những truyện ngắn người đọc
150
lại được sống cùng âm nhạc dân gian Nga lúc da diết ngọt ngào, lúc rộn rã tươi vui, hay
âm nhạc cổ điển thế giới đầy du dương, lãng mạn… Và có cả những truyện ngắn người
đọc cảm nhận được không khí đối thoại đầy cởi mở nhưng cũng rất thành kính của Bunin
với Lev Tolstoy, với Dostoievsky, với Turghenev và những cây bút khác… Có thể nói đó
cũng là một “cái được” rất lớn nữa của người đọc khi bước vào thế giới nghệ thuật của
truyện ngắn Bunin.
5. Nghiên cứu tính trữ tình trong truyện ngắn của Bunin thực sự là một thử thách
lớn lao với chúng tôi bởi thế giới truyện ngắn nói riêng và văn xuôi của Bunin nói chung
vẫn còn khá bí ẩn đối với người Việt Nam. Chúng tôi muốn nói đến số lượng các văn bản
dịch tác phẩm của nhà văn ở nước ta vẫn còn khá khiêm tốn so với số lượng các tác phẩm
của ông. Thêm nữa đọc văn của Bunin người đọc dễ dàng bị cuốn hút và ngập chìm trong
cảm xúc mà nhà văn tạo ra, thế nhưng để phân tách và gọi tên những yếu tố làm nên sự
cuốn hút của cảm giác đó quả không dễ dàng. Chúng tôi, trong những cố gắng hết sức của
mình chắc chắn chưa thể làm thỏa mãn tất cả những ai yêu và hiểu Bunin. Nhưng chúng
tôi tin rằng, qua những hiểu biết của mình được trình bày trong luận án về tính trữ tình, về
tính trữ tình trong truyện ngắn của Bunin, về nét riêng trong tính trữ tình của ông, chắc
chắn chúng tôi cũng ít nhiều có được sự đồng tình. Và chúng tôi cũng hi vọng những
nghiên cứu bước đầu của chúng tôi sẽ có giá trị gợi mở cho những nghiên cứu tiếp sau về
cây bút Nga hải ngoại tinh tế và sâu sắc này. Triển vọng nghiên cứu về Bunin cũng như
tính trữ tình trong tác phẩm của ông vẫn hứa hẹn nhiều khám phá mới trong tương lai.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Đỗ Thị Hường (2016), “Từ Quý ông từ San Francisco đến, Những quả táo
Antonov và Say nắng nhìn về mô hình trần thuật trong truyện ngắn của Ivan
Bunin”, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 2 (42), tr.84-92.
2. Đỗ Thị Hường (2016), “Ivan Bunin trong văn học Nga Thế kỷ Bạc”, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 11 (537), tr.104-113.
3. Đỗ Thị Hường (2017), “Truyện ngắn Ivan Bunin từ góc nhìn văn hóa”, Tạp chí
Văn nghệ quân đội, số 7 (873), tr.106-110.
4. Đỗ Thị Hường (2018), “Nhận diện truyện ngắn Ivan Bunin trong truyện ngắn
Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học,
nghệ thuật, số 2, tr.111-118.
5. Đỗ Thị Hường (2018), “Tiểu nữ thần hay nhân vật nữ nổi loạn trong truyện
ngắn của Ivan Bunin”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 6 (408), tr.84-87.
6. Đỗ Thị Hường (2019), “Cảm quan trữ tình trong truyện ngắn của Ivan Bunin”,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1 (563), tr.77-91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Lê Trần Hậu Anh (2009), Chủ nghĩa ấn tượng và ảnh hưởng của nó đến các trào lưu
nghệ thuật thế kỷ XIX-XX //
http://www.vietnamfineart.com.vn/Story/sukienmythuat/2009/1/1959.html
3. Đào Tuấn Ảnh (2017)(tuyển chọn và giới thiệu), Ngữ pháp tình yêu – Tuyển truyện
ngắn Nga chọn lọc thế kỷ XX-XXI,Nxb Trẻ, tp Hồ Chí Minh.
4. Đào Tuấn Ảnh (2001), “Văn học Nga từ điểm nhìn cuối Thế kỷ XX – truyền thống và
kinh nghiệm”, Tạp chí Văn học, (1), tr. 69-82 .
5. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
6. Bách khoa toàn thư mở (tiếng Việt), Trường phái ấn tượng. Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_ph%C3%A1i_%E1%BA%
A5n_t%C6%B0%E1%BB%A3ng
7. Balla O., Quyền lực của ngôn từ và quyền lực của biểu tượng, (Ngân Xuyên dịch) //
http://www.nhanvan.com
8. Lê Huy Bắc (2008), “Cốt truyện trong tự sự”, Tạp chí Văn học, (7), tr. 34-43.
9. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn: lí luận, tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội
(2 tập).
10. Lê Huy Bắc (2018), Kí hiệu và liên kí hiệu, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
11. Berdiaev A.N.(2003), “Tâm hồn Nga”, Văn học nước ngoài, (6), tr. 199-218, (Từ Thị
Loan dịch).
12. Berezovaia L.G. (2015), “Thế kỷ Bạc ở nước Nga: từ huyền thoại đến thuật ngữ khoa
học (với vấn đề nội dung khái niệm)”, Lí luận Phê bình Văn học nghệ thuật Trung
ương, (11), tr. 75-82 (Thái Vân dịch).
13. Bunin I.A. (2006), Hơi thở nhẹ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. (In lại từ Ivan Bunin
(1988), Nàng Lika, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội) (Phan Hồng
Giang dịch và giới thiệu).
14. Bunin I.A. (1995), “Nếu tôi còn được sống để nhìn thấy nước Nga một lần nữa!”, Văn
nghệ, (47) (ra ngày 25/11), tr.11 (Trần Lê Quỳnh dịch).
15. Bunin I.A. (2013), Những lối đi dưới hàng cây tăm tối, Nxb Văn học-Nhã Nam, Hà
Nội. (In lại từ Ivan Bunin (1987), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội) (Hà
Ngọc dịch và giới thiệu).
16. Bunin I.A. (2002), Tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, Hà Nội (Phan Hồng Giang
giới thiệu, Hà Ngọc, Phan Hồng Giang, Thái Bá Tân, Hữu Việt, Đoàn Tuấn dịch từ
nguyên bản tiếng Nga).
17. Bunin I.A. (2003), “Truyện ngắn”, Văn học nước ngoài,(6), tr.5-111 (nhiều người
dịch).
18. Bunin I.A. (2011), “Truyện ngắn”, Văn học nước ngoài, (10), (nhiều người dịch).
19. Bunin I.A. (2011), Truyện ngắn // http://vanhocnghethuatyenbai.gov.vn/tin-tuc/van-
hoc-nuoc-ngoai/?UserKey=Chum-truyen-ngan-cua-nha-van-Nga-Ivan-Bunin-1870-
1953-giai-Nobel-van-hoc-1933 (Nguyễn Thị Kim Hiền dịch).
20. Chevalier J., Gheerbrant A. (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà
Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du, (Phạm Vĩnh Cư chủ biên dịch).
21. Chiupa V.I. (2013), Trần thuật học như là khoa học phân tích diễn ngôn trần thuật
(La Khắc Hòa dịch) // https://languyensp.wordpress.com/2013/09/13/tran-thuat-hoc-
nhu-la-khoa-hoc-phan-tich-dien-ngon-tran-thuat-3/
22. Đỗ Hồng Chung, Nguyễn Kim Đính, Nguyễn Hải Hà, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn
Trường Lịch, Huy Liên (2003), Lịch sử Văn học Nga, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Đào Ngọc Chương (2010), “Đề tài trở về trong truyện ngắn của Ivan Bunin, Ernest
Hemingway và Cao Hành Kiện‖, Nghiên cứu Văn học, (1), tr. 56-66.
24. Nguyễn Chí Công (2009), Hội họa phương Tây: trường phái ấn tượng //
http://dongtac.hncity.org/?Hoi-hoa-phuong-Tay-truong-phai-An-tuong
25. Phạm Vĩnh Cư (1994), “Mấy suy nghĩ về giao lưu văn hóa Việt Nam – Nga”, Tạp chí
Văn học, (6), tr. 31-34, 49.
26. Nguyễn Hữu Dung (1963), “Văn nghệ với chánh trị tại Liên Xô”, Bách khoa, (159 –
160), số 159: tr. 57-61; số 160: tr. 21-26.
27. Anhbaduy Guitar, Âm nhạc ấn tượng. //https://guitarcamau.wordpress.com/lich-su-
am-nhac/am-nhac-the-the-gioi-the-ky-xx/am-nhac-an-tuong-impressionisme/
28. Grin A. (2013), Cánh buồm đỏ thắm, Nxb Kim Đồng, Hà Nội (Phan Hồng
Giang dịch).
29. Grojnowski D., (2017), Đọc truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội (Trần Hinh,
Phùng Kiên dịch).
30. Nguyễn Hải Hà (2002), Văn học Nga: sự thật và cái đẹp, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Thành Đức Hồng Hà (2017), Thi pháp văn xuôi A.S.Pushkin, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
32. Hallström P.(2002), “Giới thiệu giải thưởng Nobel 1933: Ivan Bunin – Nga”, Văn
nghệ, (12) (ra ngày 23/3), tr.14 (Tân Đôn và Trần Việt Hùng dịch).
33. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
34. Vũ Công Hảo (2008), “Ivan Bunin - Hành trình ra đi và trở về”, Tạp chí Khoa học
Đại học Sư phạm Hà Nội 2, (2), tr. 9-16.
35. Vũ Công Hảo (2015), Giáo trình Văn học Nga thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
36. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên) (2004), Từ
điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
37. Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình (1995), Những bậc thầy văn chương thế giới tư tưởng
và quan niệm, Nxb Văn học, Hà Nội.
38. Đoàn Tử Huyến (chủ biên), Nguyễn Thúy Hằng (biên soạn) (2006), Các nhà văn Nga
giải Nobel, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
39. Ilin I.P., Tzurganova E.A. (chủ biên) (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các
trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, (Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch).
40. Kazakov Iu. (2006), Mùa thu trong rừng sồi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội (Đoàn Tử
Huyến, Trần Đình Châu, Phạm Sông Hồng, Đăng Bẩy dịch).
41. Keldysh V.A. (2007), “Văn học thế kỷ bạc như một chỉnh thể phức tạp”, Nghiên cứu
Văn học (số 11: tr.152-178; số 12: tr.99-126) (Đào Tuấn Ảnh dịch).
42. Kuprin A. (2002), Chiếc vòng thạch lựu, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn
ngữ Đông Tây, Hà Nội (Đoàn Tử Huyến dịch).
43. Kuprin A. (1987), Olesya (Tuyển tập truyện ngắn), Nxb Lao động, Hà Nội (nhiều
người dịch).
44. Kuprin A. (2002), Sulamif, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây,
Hà Nội (Đoàn Tử Huyến dịch).
45. Cao Kim Lan (2005), “Mấy vấn đề thi pháp cốt truyện”, Tạp chí Văn học, (6), tr.
66-84.
46. Phạm Gia Lâm (1997), “Những chuyển biến của tư duy nghệ thuật trong văn xuôi
Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học, (11), tr. 13-16.
47. Phạm Gia Lâm (2015), Văn học Nga hải ngoại: Quá trình – Đặc điểm – tiếp nhận,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
48. Phạm Gia Lâm (2018), “Mô hình nhân cách thiên sứ: Từ tư tưởng cứu thế Nga đến
văn học”, Nghiên cứu Châu Âu, (10), tr. 43-54.
49. Lotman Iu.M. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
(Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch).
50. Lotman Iu.M. (2015), Kí hiệu học văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (La Khắc
Hòa, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử dịch).
51. Hà Văn Lưỡng (2011), Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Ivan Bunin//
tapchisonghuong.net.
52. ManfredJ. (2005), Trần thuật học: Nhập môn lí thuyết trần thuật học, Phòng Tư liệu
Khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
(Nguyễn Thị Như Trang dịch, Phạm Gia Lâm hiệu đính).
53. Magomedova D.M., Giọng (Lã Nguyên dịch)//
https://languyensp.wordpress.com/2014/12/05/giong/
54. Nabokov V. (2016), Mỹ nhân Nga, Nxb Văn học, Hà Nội, (Thiên Lương dịch).
55. Hữu Ngọc (1982), Từ điển tác gia văn học và sân khấu nước ngoài, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
56. Nhiều tác giả (2014), Từ điển Bách khoa Britannica (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
57. Nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ (2006), Kinh Thánh (Tân Ước và Cựu Ước),
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
58. Pakhomova I.V. (2015), “Chủ đề tình yêu trong sự trải nghiệm nghệ thuật giai đoạn
thế kỷ Bạc”, Lí luận Phê bình Văn học nghệ thuật Trung ương, (10), tr. 71-75 (Thành
Đức Hồng Hà dịch).
59. Paustovsky K., (2007), Bông hồng vàng và Bình minh mưa, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội, (Kim Ân, Mộng Quỳnh dịch)
60. Paustovsky K. (1984), Một mình với mùa thu, Nxb Tác phẩm mới-Hội nhà văn Việt
Nam, Hà Nội.
61. Đỗ Hải Phong (2015), Giáo trình Văn học Nga, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
62. Đỗ Hải Phong (2010), “Tư tưởng tự sự học Nga: Lịch sử và triển vọng”, Nghiên cứu
Văn học, (9), tr. 5-22.
63. Trần Thị Phuơng Phương (2010), Thơ ca Nga từ khởi thủy đến hiện đại, Nxb Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
64. Pospelov G.N.(chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch).
65. Prishvin M. (2011), Giọt rừng, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông
Tây, Hà Nội, (Đoàn Tử Huyến dịch).
66. Đỗ Quyên (2001), “Di cảo của nhà văn Bunin nằm trong tay ai”, Văn nghệ,(13) (ra
ngày 31/3), tr.11.
67. Radughin A.A. (chủ biên) (2004), Văn hóa học những bài giảng, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội, (Vũ Đình Phòng dịch, Từ Thị Loan hiệu đính).
68. Socolov A. (1995), “Về nền văn học Nga sau cải tổ”, Tạp chí Văn học, (3) (Trần Nho
Thìn dịch), tr. 23-26.
69. Soloviev V. (2005), Siêu lý tình yêu, Nxb Văn hóa thông tin – Trung tâm Văn hóa
ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, (Phạm Vĩnh Cư dịch).
70. Lê Sơn (1992), “Một vài nét về văn học Nga hải ngoại”, Tạp chí Văn học (3), tr.
54-60.
71. Struve G. (1995), “Văn học Nga ở hải ngoại”, Tạp chí Văn học, (3), tr. 29-31, 44
(Thùy Linh tổng thuật từ Văn học Nga trong sự ruồng bỏ của G.Struve, xuất bản lần
thứ hai, Paris, 1984).
72. Lê Đức Thụ (1999), “Mấy đặc điểm truyện ngắn Nga – Xô Viết”, Tạp chí Văn nghệ
quân đội, (4).
73. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), “Diễn ngôn âm nhạc trong tiểu thuyết của I.Turgenev”,
Văn hóa nghệ thuật, (383 – tháng 5) // http://vhnt.org.vn/tin-tuc/van-hoc-nhiep-
anh/29788/dien-ngon-am-nhac-trong-tieu-thuyet-cua-i-turgenev
74. Nguyễn Thị Thu Thủy (2018), Tiểu thuyết Ivan Turgenev và sự chồng lấn giữa các
đường biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
75. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
76. Turghenhev I. (2000), Một tổ quý tộc, Nxb Văn học, Hà Nội (Trương Thị Tỉnh dịch).
77. Phong Tuyết (2008), “Người kể chuyện trong văn xuôi”, Văn học nước ngoài, (5), tr.
120-136.
78. Văn học (Sài Gòn 1965), “Những khuôn mặt lớn và giải thưởng văn chương Nobel
1901 – 1965”, Tạp chí Văn học (Biên khảo – Văn hóa – Xã hội – Chính trị - Nghệ
thuật), (50) (ra ngày 15/11), tr. 44 - 47.
79. Viện Ngôn ngữ học (1969), Thuật ngữ văn học – mỹ học Nga, Pháp, Việt, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
80. Viện Thông tin Khoa học xã hội (2000), Sáng tác của Dostoevsky những tiếp cận từ
nhiều phía, Thông tin Khoa học xã hội-chuyên đề Hà Nội.
81. Vưgotsky (1995), Tâm lý học nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội – Trường viết văn
Nguyễn Du, Hà Nội.
82. Vysheslavtsev B.P. (2006), “Đi tìm tính cách dân tộc Nga” (Thiệu Hường dịch), trong
cuốn Phân tâm học và tính cách dân tộc (Đỗ Lai Thúy biên soạn và giới thiệu), Nxb
Tri thức, Hà Nội,tr. 496.
II. Tài liệu tiếng Nga
83. Академия наук СССР-Институт мировой литературы Им.А.М.Горького (1973),
Литературное наследство, том восемьдесят четвертый в двух книгах, Иван
Бунин, Книга первая, вторая, "Наука", Москва.
84. Аликанов К.М., Иванов В.В., Мальханова И.А. (1987), Русско-Вьетнамский в
двух томах (том 1), "Русский язык", Москва.
85. Архангельский A. (1991), Русские писатели - лауреаты Нобелевской премии
Иван Бунин, "Молодая гвардия", Москва.
86. Афанасьев B. (1966), И.А.Бунин. Очерк творчества. "Просвeщение", Москва.
87. Бабореко А.К. (1983), И.А.Бунин. Материалы для биографии с 1870 по 1917,
"Художественная литература", Москва.
88. Бабореко А.К. (составление, подгитовка текста, предисловие и комментарии)
(1990), Иван Бунин Окаянные дни. Воспоминания. Статьи, “Советский
писатель”, Москва.
89. Белокурова С.П. (2005), Словарь литературоведческих терминов //
http://literary_criticism.academic.ru/162
90. Белякова Н.Н., Глушкова М.М. (ред.)(2008), Русские писатели ХХ века от
Бунина до Шукшина, "Флинта", "Наука", Москва.
91. Бердникова (2009), "Так сладок сердцу Божий мир", Tворчество И.Бунина в
контексте христианской духовной традиции; Изд-во им. Е.А.Болхобитинова,
Воронеж.
92. Богомолов Н.А., Келдыш В.А., Корецкая И.В., Магомедова Д.М., Чудаков
А.П.,…(2000), Русская литература рубежа веков (1890-е - начало 1920-х
годов), Книга 1, ИМЛИ РАН, "Наследие", Москва.
93. Бонами T.M. (2013), Иван Бунин и изобразительное исскусство, Русский
импульс.
94. Бродский Н., Лаврецкий А., Лунин Э., Львова-Рогачевский В., Розанов М.,
Чешихин-Ветринский В. (ред. ) (1925), Литературная энциклопедия:
Словарь литературных терминов: В 2-х т., Изд-во Л. Д. Френкель, Москва,
Ленинград // http://literary_terms.academic.ru/286
95. Бунин И.А. (1980), Антоновские яблоки, повести и рассказы, Советская россия,
Москва.
96. Бунин И.А. (2006), Стихотворения. Повести. Рассказы, Москва.
97. Бунин И.А. (1981), Деревня, "Художественная литература", Москва.
98. Бунин И.А. (1977), Повести и рассказы, Чувашское книжное, чебоксары,
Москва.
99. Бунин И.А. (2006), Полное собрание сочинений в ХIII томах, “Воскресенье”,
Москва.
proza.html
100. Бунин и его проза (2002) // https://referatbank.ru/referat/preview/46778/referat-bunin-
101. Бунин - нобелевский лауреат // http://bunin.niv.ru/bunin/article/nobelevskij-
laureat.htm
102. Бунин (Роль Бунина в отечественной литературе XIX–XX вв) //
http://xreferat.ru/49/1303-1-bunin.html
103. Бунина В.Н. Муромцева (1989), Жизнь Бунина 1870-1906 - Беседы с памятью,
"Советский писатель", Москва..
104. Бушмин А.С., Купреянова Е.Н., Лихачев Д.С., Макогоненко Г.П., Муратова
К.Д., Прийма Ф.Я., Пруцков Н.И. (1983), История русской литературы, том
четвертый - литература конца 19 - начала 20 века (1881-1917), Ленинград
"Наука", Ленинградское отделение.
105. Василец О.В. (2004), Мифологическое и фольклорное в рассказах Бунина,
Петропавловск-Камчатский.
106. Гаспаров М.Л., Дубин Б.В., Лихачев Д.С., Скатов Н.Н., ТопоровВ.Н. (2000),
И.А.Бунин Проза, “Слово”, Москва.
107. Гейдеко В. (1976), А.Чехов и И.Бунин, “Советский писатель”, Москва.
108. Гриневич О.А. (2016), Cюжет усадебной любви в произведениях И.А.Бунина и
В.В.Набокова, ―Уральский филологический вестник‖, (5), стр. 72-81.
109. Дудинова Наталья Алексеевна (2017), Лиризм и правда бытия ранней прозы
И.А.Бунина, Гуманитарная парадигма, (1) Июнь, стр. 42-45.
110. Евгеньева А.П. (гл. ред.) (1983, 1984), Словарь русского языка, (том 2, 3),
"Русский язык", Москва.
111. Захаров Н.В., Бунин Иван Алексеевич // http://world-
shake.ru/ru/Encyclopaedia/4054.html
112. Захарова В.Т. (2013), Проза Ив. Бунина: аспекты поэтики, Нижний Новгород.
113. Злобин А.А.(2011), ―Изучение художественного текста на практических
занятиях по русскому языку и культуре речи (на примере рассказа
И.А.Бунина "Антоновские яблоки")”, Записки Горного института, Санкт-
Петербург, стр. 193.
114. Иванова-Гладильщикова Н., Истории с возвращением в Россию архива
Бунина// http://bunin.niv.ru/bunin/bio/arhiv-bunina.htm
115. Игонина Н.А. (2011), Способы лиризации в малых жанрах русской
классической прозы (Авторефератдиссертации на соискание учѐной степени
кандидата филологических наук), Москва// http://avtoreferat.seluk.ru/at-
filologiya/6839-1-sposobi-lirizacii-malih-zhanrah-russkoy-klassicheskoy-prozi.php
116. Интервью разных лет// http://bunin.niv.ru/bunin/public/intervyu.htm
117. Капец О.В., Капец В.П., Панеш С.Р. (2016), “Традиции и новаторство в эпоху
Нового времени (на материале произведений И.С. Тургенева и И.А. Бунина)”,
Ежеквартальный рецензируемый, реферируемый научный журнал "Вестник
АГУ", Выпуск 2 (177), стр. 158-163.
118. Капинос Е.В. (2014), Формы и функции лиризма в прозе И.А.Бунина 1920-х
годов (Диссертация на соискание ученой степени доктора филологических
наук), Новосибирск
//https://www.nspu.ru/upload/nauka/obyav_zaw/dissertacia_Kapinos.pdf
119. Карпов И.П. (1999), Проза Ивана Бунина (Учебное пособие, Для студентов и
преподавателей филологических факультетов, учителей-словесников),
Издательство "Флинта", Издательство "Наука", Москва.
120. Клейменова Р. Н, Пикулева Г.И. (2007), Иван Бунин и общество любителей
росийской словесности,“Аcадемиа”, Москва.
121. Кожевников В.М., Николаев П.А. (общая редакция) (1987), Литературный
энциклопедический словарь, "Советская энциклопедия", Москва.
122. Коростелев О., Дэвис Р. (2004), И.А.Бунин Новые материалы, Выпуск 1,
“Русский путь”, Москва.
123. Коротаева Е.И., Омельянович-павленко Л.М. (1957), Словарь современного
русского литературного языка (том 6), “Академии наук СССР”, Москва-
Ленинград.
124. Кременцов Л.Н. (ред.) (2002), Русская литературе ХХ века (в двух томах),
“Академа”,Москва, 2002.
125. Лазарев В., “Синие камни” (поездка в Ефремов) - Памяти Ивана Бунина,
http://bunin.niv.ru/bunin/article/sinie-kamni.htm
126. Ланская О.В. (2017), ―И.А.Бунин и Л.Н.Толстой‖, Межународный научный
журнал "инновационная наука", (1), стр. 152 - 157.
127. Лирическая проза И.А.Бунина и еѐ развитие (2010), KGU// https://allbest.ru/k-
2c0b65625a2bd68b5c43a88421216c27.html
128. Ло Сычэнь (2017), “Категория лиризма в прозе И.А.Бунина”
(Лингвопоэтический аспект), Вестник РУДН. Серия: Литературоведение.
Журналистика, Вол. 22,(3), стр. 417-425.
129. Логвинова И. (2013), ―Юбилейный научный семинар
Бунин и буниноведение: проблемы изучения творческого наследия писателя”,
Доме русского зарубежья им. А.Солженицына //
http://www.bfrz.ru/?mod=news&id=1520
130. Марченко Т.В. (2010), “Вступление”, Иван Алексеевич Бинин (1870–1953)
Жизнь и Творчество К 140-Летию со дня рождения писателя// http://www.rp-
net.ru/book/articles/ezhegodnik/2011/02-Vstuplenie.pdf
131. Миссия Русской эмиграции (Речь Ивана Бунина, произнесенная в Париже 16
февраля 1924 года)// http://ricolor.org/history/re/missia/bunin/
132. Михайлов О.Н. (1967), И.А.Бунин, "Наука", Москва.
133. Михайлов О.Н (1976), Строгий талант (Иван Бунин. Жизьн. Судьба.
Творчество), “Современник”, Москва.
134. Михайлова М.В. (2007), “От прекрасного к вечному: эволюция творческих
принципов И.А.Бунина”, Славянский Альманах, Том 13 (2), стр. 87 - 103.
135. Мюллер В.К. (1985), Англо-Русский словарь, "Русский язык", Москва.
136. Мясников А.С., Рюриков Б.С., Твардовский А.Т.,…(1965), И.А.Бунин собрание
сочинений в девяти томах, "Художественная литература", Москва.
137. Нгуен Тхи Тхыонг (2016), Антропонимическая семантика в цикле рассказов
И.А. Бунина «Тѐмные аллеи»: художественные функции и проблема перевода
(Дисс. Кан-та фил. наук), Иваново, 170 с.
138. Николаев П.А. (главный редактор) (1989), Русские писатели 1800 - 1917 (том
1), "Советская энцукловпедия", Москва.
139. Николина Н.А. (1990), “Образное слово И.А.Бунина”, Русские язык в школе,(4),
стр. 51-59.
140. Нинов А. (1973), М.Горький и И.Бунин, “Советский писатель”, Ленинградское
отделение.
141. Ничипоров И.Б., И.А.Бунин. Очерк творчества, Филологический факультет
МГУ// www.philol.msu.ru/~xxcentury/nichiporov_bunin.doc
142. Ничипоров И.Б. (2002), “На путях постижения русской души: И.А.Бунин и
«деревенская» проза”, Филологические науки, (1), стр.30-37.
143. Ничипоров И.Б, Эссеистика И.А.Бунина в жанровом контексте модернизма //
https://www.portal-slovo.ru/philology/39020.php
144. Ожегов С.И. (1984), Словарь русского языка, "Русский язык", Москва.
145. Остапцева В.Н. (2010), Лиризм русской прозы 30-х годов XIX века, ИНФРА-М,
Москва.
146. Пожиганова Л. П. (2005), Мир художника в прозе Ивана Бунина 1910-годов,
Белгород.
147. Пращерук Н.В. (2012), Проза Бунина как художественно-философий феномен,
Уральский университет, Екатеринбург.
148. Пращерук Н.В. (2016), Проза И.А.Бунина в диалогах с русской классикой,
Издательство Уральского университета, Екатеринбург.
149. Пришвин и Бунин// http://bunin.niv.ru/bunin/article/prishvin-bunin.htm
150. Русова Н.Ю. (2004), Терминологический словарь -
тезаурус по литературоведению. От аллегории до ямба, ―Флинта”, “Наука”,
Москва // http://literaturologiya.academic.ru/294
151. Саакянц А.А., О Бунине и его прозе, //
http://www.philology.ru/literature2/saakyants-83.htm
152. Семья и женщины Бунина// http://bunin.niv.ru/bunin/family/family.htm
153. Симонов Г., Ковалѐва- Огороднова Л. (2006), Бунин и Рахманинов, “Русский
путь”, Москва.
154. Симонов К., Попель Н., Кольцов М., Гумилиевский Л., ТабуиЖ., Троцкий Л.,
Додд У., Былинкина М. (2006), Бунин и Кузнецова - Искусство невозможного,
дневники, письма, "Грифон",Москва.
155. Смирнова Л.А. (1991), Иван Алексеевич Бунин жизнь и творчество,
"Просвещение", Москва.
156. Софронова Е. (2000), И.А.Бунин и русский моденизм 1910-ие гг.,Москва.
157. Степанян Е. В., Иван Алексеевич Бунин: об авторе// OCR: Народная
Библиотека Максима Горького
158. Сурков А.А. (главный редактор) (1962), Краткая литературная энциклопедия
(том 1), "Советская энциклопедия", Москва.
159. Сурков А.А. (главный редактор) (1967), Краткая литературная энциклопедия
(том 4), "Советская энциклопедия", Москва.
160. Сухих И. (2010), Иван Бунин. Малое собране сочинений, АЗБУКА, Саинт-
Петербург.
161. Сухих И. (2009), “Русская литература. ХХ век. И.А. Бунин (1870-1953)”,
Звезда, (1), стр. 227-234.
162. Талалаева О. Г. (2011), “Проза И.А.Бунин и готическая традициа в руской
литературе”, Bестник ТГУ, выпуск 7 (99), стр. 165-171.
163. Тамарченко Н.Д. (2007), Русская повесть Серебрянного века: Проблемы
поэтики сюжета и жанра, Москва.
164. Тамарченко Н.Д. (2008), Поэтика, словарь актуальных терминов,
Издательство Кулагиной INTRADA, Москва.
165. Тевекелян Д.В. (Гл. ред.), Магомедова Д.М. (Сост.) (2004), Поэзия/И.А. Бунин,
“Слово”, Москва.
166. Тевекелян Д.В. (Гл. ред.), Магомедова Д.М. (Сост.) (2004), Проза/И.А. Бунин,
“Слово”, Москва.
167. Тимофеев Л.И., Венгров Н. (1963), Краткий словарь литературоведческих
терминов, "Учпедгиз", Москва.
168. Хусаинов Р.З. (2014), “Лиризм прозы Бунина в зеркале критики”, Вестник
ВГУ. Серия: Филология. Журналистика (4), стр. 62-64.
169. Цыбденова А., “Цитаты из произведений Бунина, ставшие афоризмами”,
http://bunin.niv.ru/bunin/article/aforizm.htm
170. Чудаков А. П. (1971), Поэтика Чехова, Акад. наук СССР. Ин-т мировой
лит.им. А. М. Горького, "Наука", Москва
171. Шахова А.А. (2011), “"Общие" и "крупные" планы в рассказах И.А.Бунина”,
Вестник Нижегородского университета им. Н.И.Лобачевского, 6 (2), стр.753-757.
172. Шлегель Г.К. (2001), Художественная феноменология Ивана Бунина
(диссертация), Иркутск, 188 с. http://cheloveknauka.com/hudozhestvennaya-
fenomenologiya-ivana-bunina#ixzz5FYAchIoN
173. Шмид B. (2003), Нарратология, “Языки славянской культуры”, Москва.
174. Шраер М.(2014), Бунин и Набоков: история соперничества, “Альпина нон-
Фикшн”.
175. Юрьевна В.Л. (2017), “Поэтическая образность малой прозы раннего
И.Бунина”, Молодой учѐный Но. 42 (176) октябрь 2017 г.//
https://moluch.ru/archive/176/46040/
176. Яровая Т. Ю. (2000), Личные собственные имена в дореволюционном творчестве
И. А. Бунина (Диссертация на соискание ученой степени кандидата
филологических наук), Воронеж // http://cheloveknauka.com/lichnye-sobstvennye-imena-
v-dorevolyutsionnom-tvorchestve-i-a-bunina-otbor-i-ispolzovanie#ixzz5pvv52U00
III. Tài liệu tiếng Anh
177. Abrams M.H. (1993), A Glossary of literary terms, Cornell University.
178. Azadovski K., “Russia’s silver age in today ‘s Russia”, Surfaces, Vol. IX (101.2) (v1.0a
- 15.12.2001) - ISSN: 1188-2492
//http://www.pum.umontreal.ca/revues/surfaces/vol9/azadovski.htm.
179. Bayley J. (2003), “Laureate in Exile”, TLS,January 10, pp.7.
180. Bunin I., “Autobiography”, nobelprize.com
181. Bunin I. (2007), Collected stories, Ivan R.Dee Chicago Publisher, Chicago, USA,
(Graham Heltlinger translated).
182. Bunin I. (2008), Dark Avenues, Oneworld Classic publisher, London, United
Kingdom, (Hugh Aplin translated).
183. Connolly J. W. (March 1981), “Desire and Renunciation: Buddhist Elemants in the
Prose of Ivan Bunin”, Canadian Slavonic Papers/ Revue Canadienne des Slavistes,
Vol. 23 (1), pp. 11 - 20.
184. Coyle M., Garside P., Kelsall M., Peck J., Encyclopedia of literature and criticism,
Routledge-Taylor and Francis Group, 2000.
185. Durkin A.R. (Spring 1996), “Book Reviews: Ivan Bunin: Russian Requiem, 1885-
1920”; “Ivan Bunin: From the Others Shore, 1920-1933”, Slavic Review, Vol. 55
(1), pp. 233 - 234.
186. Hallström P.(1933), “Award ceremony speech”//
http://www.nobelprize.org/nobel_prizes/literature/laureates/1933/press.html
187. Hoffman Z. A. (2010), Neither this ancient earth nor ancient rus’ has passed on: a
microhistorical biography of Ivan Bunin, Miami University, Oxford, Ohio.
188. Karshan T.(2007), “Between Tolstoy and Nabokov: Ivan Bunin revisited”,
University of Oxford: Modernism/Modernity, Vol. 14 (4), pp. 763 - 769.
189. Lyricism, http://dictionary.reference.com/browse/lyricism?s=ts
190. Reeve F.D. (Fall, 2008), “The achievement of Ivan Bunin”, The Sewanee Review,
Vol. 116 (4), pp.654-660.
191. Richard D.J., “Memory and the time past: A theme in the works of Ivan Bunin”,
fmls.oxfordjournals.org
192. Rogachesky A. (Jul., 2002), “Bunin reincarnate”, The Slavonic and East European
review, Vol. 80 (3), pp. 487-496.
193. Starostina N. (Winter 2013), “Nostalgia and the Myth of the Belle Époque in Franco-
Russian Literature (1920s-1960s)”, Historical Reflections, Vol. 39 (3), pp. 26 - 40.
194. Struve G. (Jan., 1933), “The art of Ivan Bunin”, The Slavonic and East European
Review, Vol. 11 (32), pp. 423 - 436. (Public by The Modern Humanities Research
Association and University College London).
195. Tsarvskaya L., “In memory of Ivan Bunin”, ruvr.ru
196. Wells D.N. (2003), Reviews “Andrian Warner, Russian Minimalism: From the Prose
Poem to the Anti-Story”, Evanston, Illinois: Northwestern University Press.
https://miskinhill.com.au/journals/asees/18:1-2/reviews/wanner-russian-
minimalism.pdf
197. Zweers A.F. (1980), “The function of the theme of death in the works of Ivan
Bunin”, Russian literature VIII, North-Holland Publishing company, pp.151-165.
PHỤ LỤC
NHỮNG TRUYỆN NGẮN ĐƯỢC KHẢO SÁT
Những truyện ngắn 1892-1901
1. Vượt đèo
2. Tanka
3. Trong trang ấp
4. Tin tức từ Tổ quốc
5. Nơi đất khách quê người
6. Nơi cuối trời
7. Những quả táo Antonov
8. Bi ký
9. Meliton
10. Những cây thông
11. Con đường mới
12. Mùa thu
Truyện ngắn, truyện vừa 1902-1910
13. ―Hy vọng‖
14. Một truyện tình nho nhỏ
Những truyện ngắn Bunin không đưa vào các tuyển tập giai đoạn 1892-1910
15. Mối tình đầu (từ hồi ức tuổi thơ)
Những truyện ngắn và truyện vừa 1911-1914
16. Cái chết của nhà tiên tri
17. Cuộc đời tươi đẹp
18. Lần gặp gỡ cuối cùng
19. Ngày cuối cùng
20. Gioan người bán rong
21. Cỏ gầy
22. Chiếc cốc đời
23. Rodion người chơi đàn lia
Những chú chim đen (1907-1911)
24. Những chú chim đen
Nước vô biên (1914-1926)
25. Nước vô biên
26. Những giấc mộng của Trang
27. Hoa hồng Ierikhon
28. Quý ông từ San Francisco đến
29. Tai mắt
30. Bài hát của Chúa
31. Bà lão
32. Mùa xuân cuối cùng
33. Mùa thu cuối cùng
34. Giấc mơ mùa đông
35. Âm nhạc
36. Những con ruồi
37. Đôi hài
38. Sách
39. Câu chuyện khủng khiếp
Ngữ pháp tình yêu (1914-1926)
40. Ngữ pháp tình yêu
41. Hơi thở nhẹ
42. Đứa con trai
43. Trên biển đêm khuya
44. Say nắng
45. Ida
46. Vụ việc Elaghin
Cây thần/ Cây Thiên Chúa (1927-1931)
47.Cây thần
48. Thần tượng
49. Chuyện tình của người gù
50. Tuổi trẻ
51. Mối tình đầu
52. Bầu trời phía trên bức tường
53. Marya
54. Những con sếu
55. Ngày hè
56. Toa hạng nhất
57. Đêm trước/ Ngày trước/ Thời trước
Những truyện ngắn không đưa vào các tuyển tập giai đoạn 1911-1931
58. Bức chân dung
Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối (1938-1953)
Phần I
59. Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối
60. Kavkaz
61. Bản Ballad
62. Stepa
63. Nàng thơ
64. Canh khuya
Phần II
65. Russia
66. Người đẹp
67. Kẻ ngờ nghệch
68. Antigon/ Antigona
69. Ngọc lục bảo
70. Những con sói
71. Những tấm danh thiếp
72. Zoyka và Valeria
73. Tanhia
74. Ở Paris
75. Galia Ganskaya
76. Henrikh
77. Natali
Phần III
78. Ở một phố thân quen
79. Quán trọ ven sông
80. Mẹ đỡ đầu
81. ―Những cây sồi non‖
82. ―Madrid‖
83. Bình cà phê thứ hai
84. Mùa thu lạnh
85. Tàu thủy ―Saratov‖
86. Con quạ
87. Kamarg
88. 100 rupee
89. Sự trả thù
90. Chiếc đu
91. Ngày thứ Hai trong trắng
92. Nhà mồ
93. Mùa xuân ở Iudea
94. Nơi nghỉ đêm
95. Vị khách
96. Klara
97. Áo sắt
Những truyện ngắn những năm cuối đời (1931-1952)
98. Trẻ và già
99. ―Một tai nạn nhỏ‖
100. Bernard
Những tác phẩm in đậm là những tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt.