VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Hoàng Minh Quân

QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ ĐẠI BIỂU

TRÍ THỨC TÂN HỌC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI CÁ NHÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – năm 2023

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Hoàng Minh Quân

QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ ĐẠI BIỂU

TRÍ THỨC TÂN HỌC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI CÁ NHÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ

Ngành: Triết học

Mã số: 92.29.001

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Trần Nguyên Việt

HÀ NỘI – năm 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của bản thân, dưới sự

hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Nguyên Việt. Các trích dẫn trong luận án đều

tuân thủ đúng quy định và có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận án là sản

phẩm của quá trình nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa từng được công bố trong một

công trình nào khác.

Nghiên cứu sinh Hoàng Minh Quân

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 7 1.1. Những nghiên cứu liên quan đến điều kiện, tiền đề cho sự hình thành quan niệm về

vấn đề con người cá nhân của trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ..................... 7 1.2. Những nghiên cứu liên quan đến quan niệm của trí thức tân học ở Việt Nam nửa đầu

thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân .......................................................................... 18 1.3. Những vấn đề đặt ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............. 28 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................................. 32 CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM CỦA TRÍ THỨC TÂN HỌC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI CÁ NHÂN ............................................................................ 33 2.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa dẫn đến sự hình thành quan niệm về

vấn đề con người cá nhân của trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ............... 33 2.2. Những tiền đề tư tưởng cho sự hình thành quan niệm về vấn đề con người cá nhân

của trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ......................................................... 49 2.3. Sự hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ..... 70 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................................. 81 CHƯƠNG 3: QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ TRÍ THỨC TÂN HỌC THEO KHUYNH HƯỚNG PHỤC CỔ Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VỀ VẤN ĐỀ CON

NGƯỜI CÁ NHÂN: NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ HẠN CHẾ CỦA NÓ .... 83 3.1. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ ở Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX về địa vị của con người cá nhân ..................................................... 83 3.2. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ ở Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX về quyền lợi cá nhân ....................................................................... 92 3.3. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ ở ViệtNam nửa

đầu thế kỷ XX về tự do cá nhân ................................................................................... 100 3.4. Đặc điểm, ý nghĩa và hạn chế chủ yếu trong quan niệm về con người cá nhân của

nhóm trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX .. 114 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................................... 125

i

CHƯƠNG 4: QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ TRÍ THỨC TÂN HỌC THEO KHUYNH HƯỚNG CẤP TIẾN Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VỀ VẤN ĐỀ CON

NGƯỜI CÁ NHÂN: NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ HẠN CHẾ CỦA NÓ .. 127 4.1. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến ở Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX về địa vị của con người cá nhân ................................................... 127 4.2. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến ở Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX về quyền lợi cá nhân ..................................................................... 138 4.3. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến ở Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX về tự do cá nhân ............................................................................ 143 4.4. Đặc điểm, ý nghĩa và hạn chế chủ yếu trong quan niệm về con người cá nhân của

nhóm trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX .. 157 TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 ............................................................................................... 170 KẾT LUẬN ................................................................................................................. 172 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .............................. 175 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 176

ii

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là giai đoạn bản lề trong diễn trình vận động của

lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử tư tưởng Việt Nam nói riêng. Đây là giai đoạn

đánh dấu những bước chuyển mang tính căn bản trên mọi mặt của đời sống: chính trị,

kinh tế, văn hóa, và đương nhiên, bao gồm cả tư tưởng. Đó là những bước chuyển hết

sức mau lẹ (chỉ trong vỏn vẹn chưa đầy nửa thế kỷ), nhưng đầy nhọc nhằn, với rất

nhiều xung đột, va chạm, mà xu hướng chung là những bước chuyển từ một xã hội cổ

điển sang một xã hội cận, hiện đại. Trong lĩnh vực tư tưởng, đây là giai đoạn mà tư

tưởng của người Việt đã thực sự có những chuyển biến mang tính cốt lõi, mà ở đó, hệ

hình tư duy truyền thống từng bước nhường chỗ cho một hệ hình tư duy hiện đại,

mang nhiều dấu ấn của tư tưởng phương Tây. Bất kể là ở vấn đề nào, thế giới quan hay

nhân sinh quan, người Việt thời kỳ này đều đưa ra những cách nhìn nhận hết sức mới

mẻ, mang tính đột phá, để mở đường cho những cuộc vận động cải cách xã hội.

Trong số những vấn đề thu hút sự chú ý của giới trí thức Việt Nam nửa đầu thế

kỷ XX, vấn đề con người cá nhân có thể xem là một vấn đề tư tưởng lớn. Điều đó thể

hiện trước hết ở tần suất xuất hiện của nó trên các diễn đàn học thuật ở Việt Nam giai

đoạn này. Những bàn luận về con người cá nhân đã xuất hiện từ những thập niên đầu

của thế kỷ XX và còn được tiếp tục duy trì cho đến những năm 30, 40. Hầu hết những

nhà trí thức lớn của thời kỳ này, từ Bắc kỳ cho đến Nam kỳ, từ cựu học cho đến tân

học, từ những người theo khuynh hướng bảo thủ đến những người theo khuynh hướng

cấp tiến, đều đã ít nhiều tham gia vào những tranh luận về vấn đề này. Mặt khác, nếu

xem toàn bộ dòng chảy tư tưởng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một sự phản tỉnh trên

quy mô lớn của người trí thức Việt Nam đối với hệ thống tri thức truyền thống, thì sự

phản tỉnh về vấn đề con người cá nhân không những có tính phổ biến, mà còn có tính

then chốt, bởi những chuyển biến trong cách nhìn nhận về vấn đề con người cá nhân

đã dẫn đến sự chuyển biến trong nhân sinh quan, trong quan niệm về đạo đức, về giá

trị, và từ đó, về xã hội của người Việt. Nói cách khác, tìm hiểu về vấn đề con người cá

nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một hướng đi khả dĩ giúp chúng ta nắm bắt

dòng chảy tư tưởng Việt Nam thời kỳ này ở cả chiều rộng (với độ bao phủ của vấn đề)

và cả chiều sâu (với tính chất then chốt của vấn đề).

1

Trên thực tế, cho đến nay, vấn đề con người cá nhân trong lịch sử tư tưởng Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX đã ít nhiều được tiến hành nghiên cứu ở những mức độ khác

nhau. Tuy nhiên, vẫn thiếu vắng một nghiên cứu thực sự chi tiết về chặng đường mà

người trí thức Việt Nam thời kỳ đó đã trải qua trong những suy tư về vấn đề này.

Trước sự du nhập của những quan niệm mới về con người cá nhân ở phương Tây,

phản ứng ban đầu của người trí thức Việt Nam ra sao? Từ thời điểm nào, với nhân vật

nào mà những suy tư về vấn đề con người cá nhân thực sự có được một biến chuyển

mang tính then chốt? Quan niệm về con người cá nhân ở Việt Nam thời kỳ này phải

chăng chỉ là kết quả của sự đoạn tuyệt hoàn toàn với quá khứ, hay còn là của những nỗ

lực níu giữ lại quá khứ, hay nói cách khác, sự cạnh tranh về mặt ảnh hưởng của những

tư tưởng truyền thống với những tư tưởng phương Tây trong vấn đề này như thế nào?

Có những khuynh hướng nào có thể được xem là chủ đạo trong việc đưa ra quan niệm

về vấn đề này ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX? Chúng tôi cho rằng, đây là những câu

hỏi vẫn cần được tiếp tục làm sáng tỏ.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận thấy rằng, những nghiên cứu về tư tưởng

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX từ trước đến nay đã tập trung khá nhiều vào bộ phận nho

sĩ duy tân, trong khi tầng lớp trí thức tân học1, những người mà từ thập niên thứ hai

của thế kỷ XX đã trở thành lực lượng chủ đạo trong việc dẫn dắt nền văn hóa dân tộc,

vẫn chưa được nghiên cứu một cách tương xứng với địa vị của họ trong dòng chảy của

tư tưởng dân tộc. Tính đa diện trong tư tưởng của tầng lớp này vẫn là một điều cần

phải được đi sâu phân tích, tìm hiểu và nhận diện. Một điều may mắn là, trong khoảng

mười năm trở lại đây, với nhiều nỗ lực sưu tập, tập hợp, biên soạn của các nhà nghiên

cứu hay các nhóm nghiên cứu, những tác phẩm của họ đã dần xuất hiện trở lại, bằng

nhiều cách khác nhau (ấn phẩm xuất bản, tài liệu số hóa...). Việc nghiên cứu về họ có

thể còn nhiều khoảng trống, song việc tiếp cận di sản của họ hiện nay đã trở nên thuận

lợi hơn nhiều. Đó là lý do chúng tôi muốn tập trung hướng nghiên cứu của mình vào

tầng lớp này – tầng lớp trí thức tân học – cùng quan niệm của họ về vấn đề con người cá nhân.

Với tư cách là những người dẫn dắt nền văn hóa dân tộc từ thập niên thứ hai

của thế kỷ XX, tầng lớp trí thức tân học và quan niệm về vấn đề con người cá nhân của

họ hiển nhiên có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam 1 “Trí thức tân học”, trong đề tài này, được định nghĩa là tầng lớp trí thức được bồi dưỡng, giáo dục bởi những tri thức mới (tân học) của phương Tây thông qua hệ thống giáo dục mới (tiểu học, trung học, cao đẳng, đại học) hoặc thông qua con đường tự học, phân biệt với tầng lớp trí thức cựu học.

2

nói chung, nhân sinh quan của người Việt nói riêng. Văn hóa Việt Nam hôm nay, cách

tư duy của người Việt hôm nay, ít nhiều vẫn mang dấu ấn của họ. Hơn nữa, những vấn

đề mà người trí thức tân học đầu thế kỷ XX đã đặt ra và bàn luận, không hẳn chỉ là vấn

đề riêng của thời đại ấy. Suy tư về con người cá nhân rõ ràng không phải chỉ là câu

chuyện của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, mà nó còn là một câu chuyện của chính xã

hội đương đại. Ngày nay, người Việt Nam có cơ hội tiếp cận với những nền văn hóa

bên ngoài một cách dễ dàng hơn nhiều, họ cũng có những không gian, diễn đàn đa

dạng, phong phú hơn nhiều để thể hiện bản thân mình, nhưng cũng vì thế mà người ta

càng băn khoăn hơn với những câu hỏi về bản ngã, về cá nhân. Nhìn lại những quan

niệm của người trí thức tân học Việt Nam đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân,

chúng tôi kỳ vọng có thể thấy được dấu ấn của nó trong dòng chảy văn hóa đương đại,

cũng như những gợi mở mà nó có thể đặt ra cho chúng ta khi đối diện với vấn đề con

người cá nhân ở thời đại của mình.

Tóm lại, xuất phát từ ý nghĩa của vấn đề con người cá nhân trong lịch sử tư

tưởng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, từ những khoảng trống trong nghiên cứu về vấn

đề con người cá nhân, cũng như về tầng lớp trí thức tân học, từ những thuận lợi mà

chúng tôi nhận thấy về mặt tư liệu, và cuối cùng, từ khả năng gợi mở của vấn đề,

chúng tôi chọn “Quan niệm của một số đại biểu trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế

kỷ XX về vấn đề con người cá nhân và ý nghĩa của nó” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

- Mục đích nghiên cứu: Làm rõ quan niệm về vấn đề con người cá nhân của

tầng lớp trí thức tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX thông qua một số đại diện tiêu

biểu, trên cơ sở đó bước đầu chỉ ra ý nghĩa của những quan niệm ấy.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Phân tích những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành quan niệm của trí thức

tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân;

+ Phân tích quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ ở

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân và làm rõ ý nghĩa của nó;

+ Phân tích quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến ở

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân và làm rõ ý nghĩa của nó.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3

- Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của một số đại biểu trí thức tân học Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về mặt phạm vi thời gian, luận án nghiên cứu quan niệm của giới trí thức tân

học trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX (được hiểu là từ đầu thế kỷ XX đến Cách mạng

tháng Tám 1945).

+ Về mặt phạm vi nội dung, căn cứ trên những chủ để lớn, gây nhiều tranh luận,

đồng thời cũng thể hiện tập trung sự chuyển đổi trong nhận thức của người Việt Nam

về con người cá nhân, luận án tập trung phân tích, làm rõ quan niệm về vấn đề con

người cá nhân của người trí thức Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX thông qua ba nội dung

căn bản: quan niệm về địa vị của con người cá nhân, quan niệm về quyền lợi cá nhân

và quan niệm về tự do cá nhân.

+ Về mặt phạm vi khảo sát, luận án hướng đến làm rõ quan niệm của tầng lớp

trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân thông qua

một số trí thức, nhóm trí thức có tính chất tiêu biểu, cụ thể gồm: Phạm Quỳnh (1892-

1945), Trần Trọng Kim (1883-1953), Nguyễn Duy Cần (1907-1998), Nguyễn An Ninh

(1900-1943), Phan Khôi (1887-1959), nhóm Tự lực văn đoàn (chủ yếu tập trung vào

các thành viên: Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh, 1906-1963), Trần Khánh Giư (Khái

Hưng, 1896-1947), Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo, 1907-1948)). Sở dĩ chúng tôi

lựa chọn những nhà trí thức, nhóm trí thức trên để tiến hành khảo sát, là bởi mấy lý do

sau: Thứ nhất, họ là những nhà trí thức quan tâm và có nhiều công trình, bài viết đáng

chú ý bàn về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Thứ hai, họ là

những nhà trí thức có tính đại diện, xét trên nhiều phương diện khác nhau, về thời

điểm hoạt động, họ đại diện cho các giai đoạn phát triển khác nhau của tư tưởng Việt

Nam trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, về không gian hoạt động, họ sinh sống và gây

dựng sự nghiệp ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam, thậm chí có trường hợp di động qua cả

ba miền trong suốt sự nghiệp của mình như Phan Khôi, về xuất thân học vấn, họ đại

diện cho những bộ phận khác nhau của tầng lớp trí thức tân học (bao gồm: trí thức

xuất thân Nho học nhưng thông qua tự học để trở thành trí thức tân học như Phan Khôi,

trí thức được đào tạo bởi nền giáo dục Tây học ở trong nước như Phạm Quỳnh,

Nguyễn Duy Cần, Hoàng Đạo, trí thức được đạo tạo ở nước ngoài như Nguyễn An

Ninh, Nhất Linh, Khái Hưng), về khuynh hướng tư tưởng, họ đại diện cho các nhóm

4

trí thức theo khuynh hướng phục cổ (Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Duy Cần)

và nhóm trí thức theo khuynh hướng cấp tiến (Phan Khôi, Nguyễn An Ninh, Tự lực

văn đoàn). Với tính chất như vậy, chúng tôi cho rằng, quan niệm của những nhà trí

thức, nhóm trí thức được khảo sát trong luận án về vấn đề con người cá nhân có thể đại

diện cho quan niệm của tầng lớp trí thức tân học nói chung ở Việt Nam trong nửa đầu

thế kỷ XX.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, áp dụng vào

nghiên cứu những vấn đề của lịch sử tư tưởng. Đồng thời, luận án lấy quan điểm của

chủ nghĩa Mác – Lênin về con người nói chung, về cá nhân nói riêng làm cơ sở lý luận

để nhìn nhận, đánh giá các khuynh hướng tư tưởng khác nhau về vấn đề con người cá

nhân của tầng lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Trên cơ sở phương pháp luận chung đó, chúng tôi cũng sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu cụ thể sau:

- Phương pháp thống nhất lịch sử - logic: Trong luận án, phương pháp lịch sử

được áp dụng để tìm hiểu, phân tích quan niệm của tầng lớp trí thức tân học Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX theo tiến trình lịch sử, theo đó, chúng tôi cố gắng làm rõ sự phát

sinh, phát triển quan niệm của họ về vấn đề con người cá nhân qua các giai đoạn, xác

định các cột mốc lớn trong sự phát triển ấy. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng vận dụng

phương pháp logic để chỉ ra tính quy luật, tính khuynh hướng trong quan niệm về vấn

đề con người cá nhân của tầng lớp trí thức tân học, cũng như rút ra những đặc điểm

xuyên suốt của từng khuynh hướng, thể hiện trong quan niệm của các nhà trí thức cụ thể.

- Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh cũng được chúng tôi vận dụng

trong chừng mực làm sáng tỏ sự phát triển của quan niệm về vấn đề con người cá nhân

của trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Ở đây, sự so sánh sẽ được chúng tôi

tiến hành ở cả lát cắt lịch đại và đồng đại. Ở lát cắt lịch đại, một mặt, chúng tôi tiến

hành so sánh quan niệm của giới trí thức tân học với những quan niệm truyền thống về

vấn đề con người cá nhân, đặc biệt là Nho giáo, để làm rõ sự kế thừa, vượt bỏ của

những quan niệm mới, qua đó làm rõ ý nghĩa của những quan niệm mới đó trong sự

phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam. Mặt khác, chúng tôi cũng so sánh quan niệm

của họ với những quan niệm về con người cá nhân trong lịch sử triết học phương Tây,

để chỉ ra ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây đến tầng lớp trí thức người Việt. Ở lát

5

cắt đồng đại, chúng tôi tiến hành so sánh giữa các khuynh hướng tư tưởng khác nhau,

để làm rõ tính đa diện, phong phú cũng như tính cạnh tranh về mặt tư tưởng trong

quan niệm về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, qua đó phân

nhóm các trí thức tân học ở Việt Nam thời kỳ này. Phương pháp so sánh sẽ được

chúng tôi vận dụng một cách xuyên suốt trong luận án của mình.

- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Luận án thông qua việc phân tích, làm rõ

quan niệm về vấn đề con người cá nhân của một số nhà trí thức tân học có tính đại

biểu để chỉ ra những khuynh hướng tư tưởng về vấn đề này ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX và những đặc trưng cơ bản của mỗi khuynh hướng.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Luận án có một số đóng góp mới về mặt khoa học như sau:

- Phân tích sự tác động của bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng

ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đến sự hình thành quan niệm về vấn đề con người cá

nhân của tầng lớp trí thức tân học.

- Trên cơ sở nghiên cứu so sánh, luận án làm rõ tính khuynh hướng trong quan

niệm về con người cá nhân ở Việt Nam của tầng lớp trí thức tân học nửa đầu thế kỷ

XX trong bối cảnh tiếp biến văn hóa Đông - Tây, phân tích, làm rõ nội dung, đặc điểm

của từng khuynh hướng.

- Chỉ ra ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa hiện thời của từng khuynh hướng trong quan

niệm của tầng lớp trí thức tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ một nội dung quan trọng trong

lịch sử tư tưởng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, khắc phục một số khoảng trống trong

nghiên cứu về tư tưởng Việt Nam thời kỳ này.

- Ý nghĩa thực tiễn: Thông qua nghiên cứu quan niệm về vấn đề con người cá

nhân của một số đại biểu trí thức tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con

người cá nhân, luận án bước đầu chỉ ra những gợi mở cho việc nhìn nhận, giải quyết

vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, kết quả

nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các môn học

thuộc chuyên ngành lịch sử tư tưởng Việt Nam.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án bao gồm 4 chương, 14 tiết.

6

CHƯƠNG 1:

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến điều kiện, tiền đề cho sự hình thành quan

niệm về vấn đề con người cá nhân của trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

1.1.1. Những nghiên cứu về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa ở Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX

Để tìm hiểu cơ sở kinh tế - xã hội dẫn đến sự hình thành quan niệm về vấn đề

con người cá nhân của trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, việc trước hết là

phải nắm được bối cảnh lịch sử chung của thời kỳ này, cũng như những vận động, biến

chuyển trên từng lĩnh vực cụ thể của nó. Những công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch

sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX có thể nói là hết sức phong phú, xét cả về góc độ tiếp

cận, phạm vi nghiên cứu, cũng như chiều dài lịch sử. Về góc độ tiếp cận, sự phong phú

thể hiện ở chỗ, bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ này đã trở thành đối tượng nghiên

cứu của nhiều chuyên ngành khác nhau, như sử học, văn học, xã hội học, văn hóa học

v.v... Về phạm vi nghiên cứu, chúng ta thấy có những công trình bao quát toàn bộ

những diễn biến của lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (thường là những công trình

nghiên cứu của ngành sử học), cũng có những công trình tập trung vào những bộ phận,

lát cắt nhỏ hơn của khung cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ này (lĩnh vực chính trị, kinh

tế, văn hóa, xã hội và những lát cắt nhỏ hơn nữa của từng lĩnh vực). Về chiều dài lịch

sử, chúng ta thấy những nghiên cứu về bối cảnh lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

đã xuất hiện ngay trong thời kỳ này, với những nhà khảo cứu cả người Việt và người

Pháp, và còn được tiếp nối một cách liên tục cho đến thời điểm hiện tại. Tính phức tạp

của xã hội Việt Nam trong bối cảnh chuyển giao thời thuộc địa, cũng như sự phong

phú về sử liệu khiến cho thời kỳ lịch sử này chưa bao giờ trở thành một chủ đề nhàm

chán trong giới nghiên cứu.

Trước hết, chúng tôi đề cập đến một số công trình nghiên cứu chung về lịch sử

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Đây là những công trình không đi vào một vấn đề cụ thể

nào của lịch sử Việt Nam giai đoạn này, nhưng cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về

mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Ở nhóm này, có thể nhắc tới một số công

trình quan trọng như: Xã hội Việt Nam của Lương Đức Thiệp (in lần đầu năm 1944),

Việt Nam Pháp thuộc sử (1862 – 1945) của Phan Khoang (1961), Việt Nam thời Pháp

7

đô hộ của Nguyễn Thế Anh (1970), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2: 1858 – 1945)

do Đinh Xuân Lâm chủ biên (in lần đầu năm 1998)... Trong đó, công trình của Lương

Đức Thiệp là một công trình rất đáng chú ý, bởi hai lẽ: thứ nhất, đây là công trình

được tác giả soạn vào những năm 40 của thế kỷ XX, nghĩa là trong chính giai đoạn mà

chúng tôi nghiên cứu, vì vậy, nó có thể coi là cái nhìn của một người trong cuộc; thứ

hai, đây là một trong những công trình nghiên cứu đã được tiến hành dựa trên phương

pháp duy vật lịch sử khá sớm ở Việt Nam. Những nhận định về xã hội Việt Nam nửa

đầu thế kỷ XX được tác giả trình bày ở phần cuối của công trình, với nhan đề “Một

thời đại mới”. Ở phần này, từ nhãn quan duy vật lịch sử, tác giả đã phân tích sự biến

chuyển của xã hội Việt Nam, từ sự xuất hiện của nền kinh tế tư bản, đến sự phân chia

đẳng cấp trong xã hội (phú hào, thợ thuyền), những thay đổi trong lề lối sinh hoạt, với

những ảnh hưởng từ phương Tây, và đặc biệt là sự biến thiên của chế độ đại gia đình.

Từ những phân tích đó, tác giả đã ít nhiều chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình

thành một quan niệm mới về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam, mà chúng ta có

thể tóm tắt lại trong mấy điểm: sự thoát ly kinh tế gia đình và sự tan rã của chế độ đại

gia tộc [xem 119, tr.325]. Nhận định của Lương Đức Thiệp càng có giá trị hơn, khi

ông có cái nhìn của người trong cuộc, người đã sống trải chính những vận động và

biến thiên của xã hội Việt Nam thời kỳ này. Công trình của Phan Khoang (1961) cũng

chỉ ra những biến chuyển trên các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, nhưng nhấn mạnh hơn

đến sự ra đời của giai cấp tân tư sản trung lưu, cũng như những biến đổi về nếp sống

như những yếu tố gắn với sự ra đời của quan niệm mới về cá nhân ở Việt Nam [xem

60, tr.430]. Một điểm đáng lưu ý là Phan Khoang đặc biệt quan tâm đến sự cách biệt

giữa thành thị và nông thôn ở thời kỳ này, từ đó cho rằng, thành thị mới là địa bàn cho

sự nảy nở quan niệm mới về con người cá nhân, còn nông thôn vẫn là nơi bám rễ của

những tập tục, quan niệm luân lý cũ [xem 60, tr.448]. Công trình của Nguyễn Thế Anh

(1970) lại đặc biệt tập trung khảo cứu những chuyển biến kinh tế và sự hình thành nền

kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, một yếu tố đặc biệt quan trọng dẫn đến sự hình

thành các quan niệm mới về con người cá nhân. Thông qua công trình này, chúng ta có

thể thấy được khá rõ sự phân bố của tư bản trong nền kinh tế Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX. Công trình do Đinh Xuân Lâm chủ biên (1998), xét về quy mô thì dày dặn hơn

những cuốn trên, đã tái hiện một cách đầy đủ, cặn kẽ về những bước vận động, phát

triển của lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc. Mặc dù không đề cập trực tiếp đến vấn đề

8

cá nhân như những công trình nêu trên, nhưng nó có thể cung cấp một cái nhìn toàn

cảnh về lịch sử Việt Nam thời kỳ mà chúng tôi nghiên cứu, vì thế, đây cũng là nguồn

tài liệu tham khảo quan trọng để hình dung bối cảnh kinh tế - xã hội tổng quát ở Việt

Nam thời kỳ này.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu tổng quát về lịch sử Việt Nam nói chung,

còn có những công trình nghiên cứu sâu về những chuyển biến trên từng mặt của xã

hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX nói riêng. Về lĩnh vực chính trị, chúng tôi đặc biệt

lưu ý đến công trình Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám

năm 1945 (Góp phần tìm hiểu cơ sở lịch sử - xã hội Việt Nam thời kỳ thực dân Pháp

thống trị) của Dương Kinh Quốc. Công trình này tập trung nghiên cứu những chuyển đổi

trong cơ cấu chính trị ở Việt Nam thời Pháp thuộc, trong đó, tác giả đã phân tích và làm

nổi bật quá trình triều đình nhà Nguyễn dần đánh mất quyền lực vào tay thực dân Pháp.

Việc tìm hiểu về quá trình này là rất quan trọng đối với nghiên cứu về vấn đề con người

cá nhân ở Việt Nam đương thời, bởi chính thông qua quá trình đó mà chúng ta có thể thấy

những dịch chuyển trong cơ cấu quyền lực chính trị, thứ luôn luôn ảnh hưởng đến ý thức

về con người cá nhân. Những phân tích về biến đổi chính trị ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX của chúng tôi trong luận án sẽ kế thừa về cơ bản những kết quả đã đạt được trong

công trình này của Dương Kinh Quốc.

Đối với lĩnh vực xã hội, có nhiều công trình đã khai thác những biến chuyển trên

các khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội Việt Nam. Về cơ cấu xã hội, có thể kể đến

công trình Về giai cấp tư sản Việt Nam của Minh Tranh, Nguyễn Kiến Giang (1959), Tìm

hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc của Nguyễn Công Bình (1959), Cơ cấu xã

hội trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam do Nguyễn Quang Ngọc chủ biên

(1998), hay Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945) của Nguyễn Văn

Khánh (1999). Hai công trình trước nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của giai

cấp tư sản Việt Nam, cũng như sự xuất hiện của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt

Nam. Đặc biệt, công trình của Nguyễn Công Bình (1959) đã phân tích khá kỹ lưỡng về

quá trình tích tụ tư bản của giai cấp tư sản người Việt. Các công trình sau đề cập một cách

tổng thể đến cơ cấu xã hội, trong đó bàn đến sự phân hóa giai cấp trong xã hội Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX, chỉ ra sự hình thành, tình trạng, đặc điểm của các giai cấp qua nhiều

số liệu cụ thể. Đây là những thông tin cần thiết giúp chúng tôi hình dung một bức tranh

tổng thể về cơ cấu xã hội Việt Nam thời kỳ này.

9

Ngoài ra, cần nhắc đến một số công trình có nhấn mạnh đến một khía cạnh trong

đời sống xã hội như một yếu tố tác động đến vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa

đầu thế kỷ XX, đó là: Người nông dân châu thổ Bắc kỳ của Pierre Gourou (viết năm

1936), Trí thức Việt Nam tiếp xúc với văn minh phương Tây thời Pháp thuộc của Trần

Viết Nghĩa (2012)... Công trình của Trần Viết Nghĩa (2012) có đề cập đến sự ra đời của

đô thị kiểu phương Tây ở Việt Nam, thay thế cho kiểu đô thị truyền thống. Theo tác giả,

sự ra đời của đô thị kiểu phương Tây đã kéo theo sự hình thành của tầng lớp thị dân và lối

sống thị dân, với những đặc điểm xuất thân đa dạng, ít bị ràng buộc bởi văn hóa làng xã,

khoảng cách địa vị thu hẹp [xem 90, tr.114-115]... Những điều đó, theo tác giả, đã khiến

cho đô thị trở nên một mảnh đất thuận lợi cho sự nảy nở của văn minh phương Tây.

Những điểm mà tác giả Trần Viết Nghĩa đã chỉ ra đều có liên quan ít nhiều đến sự gia

tăng mối quan tâm đến vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam thời kỳ này. Điều này gợi

nhắc đến một nghiên cứu khác, tuy không đi sâu vào phân tích những chuyển biến của xã

hội Việt Nam, nhưng đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của đô thị cũng như tầng lớp trí

thức đô thị đối với sự hình thành “cái tôi cá nhân” ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, đó là công

trình Con mắt thơ của Đỗ Lai Thúy (1992). Trong công trình này, Đỗ Lai Thúy đã xem sự

hình thành đô thị công thương nghiệp, và đi liền với nó, “một tầng dân cư mới, với lối

cảm, lối nghĩ, và lối sống chẳng những khác với người tiểu nông mà khác cả với thị dân

cổ truyền” [125, tr.12] như một trong những yếu tố làm hình thành nên “cái tôi cá nhân”,

một dạng thức “cái tôi” khác biệt về chất so với những dạng thức cổ truyền. Rõ ràng, đây

là yếu tố rất cần lưu ý khi tìm hiểu về điều kiện xã hội cho sự hình thành quan niệm về

con người cá nhân ở Việt Nam thời kỳ này. Trong khi đó, công trình của Pierre Gourou

(1936) dường như đã bàn đến một vấn đề không mấy liên quan đến chủ đề nghiên cứu của

chúng tôi: người nông dân châu thổ Bắc kỳ. Sở dĩ nói như vậy, bởi một quan niệm mới về

con người cá nhân, như Lương Đức Thiệp (1944), Phan Khoang (1961), Đỗ Lai Thúy

(1992), hay Trần Viết Nghĩa (2012) đã từng đề cập, gắn bó với thành thị hơn là nông thôn,

trí thức đô thị hơn là người nông dân. Tuy nhiên, công trình của Pierre Gourou lại có một

điểm rất đáng chú ý là tác giả đã đề cập đến hiện tượng di cư ra khỏi vùng nông thôn của

người nông dân ở Bắc kỳ, và kèm theo hiện tượng đó, là sự khó hòa nhập trở lại với đời

sống tinh thần ở nông thôn của những người đã rời khỏi nơi đây [xem 45, tr.251]. Hiện

tượng này là hiện tượng mới, có liên quan đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội Việt

10

Nam đầu thế kỷ XX, cũng như những biến đổi trong sinh hoạt tinh thần của người Việt,

đồng thời cũng có liên hệ sâu sắc với vấn đề con người cá nhân.

Về lĩnh vực văn hóa, những công trình có liên quan mật thiết với đề tài nghiên cứu

của chúng tôi có thể kể đến là Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh (1938), Trí

thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây thời Pháp thuộc của Trần Viết Nghĩa

(2012), Tính hiện đại và sự chuyển biến của văn hóa Việt Nam thời cận đại do Đỗ Quang

Hưng chủ biên (2013)... Việt Nam văn hóa sử cương là một công trình nghiên cứu có tính

khai mở về lịch sử văn hóa Việt Nam. Cũng như công trình nghiên cứu của Lương Đức

Thiệp mà chúng tôi đã đề cập ở trên, đây là một công trình được thực hiện ngay trong giai

đoạn nửa đầu thế kỷ XX, vì thế, nó đương nhiên bám sát những vấn đề nổi bật nhất thời

bấy giờ. Trong đó, Đào Duy Anh đã giành phần tổng luận của toàn bộ cuốn sách để nói về

những biến đổi của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX, đồng thời chỉ ra rằng, những biến

đổi đó (quá trình Âu hóa nền văn hóa, sự biến đổi lối sống, lối sinh hoạt) đã đưa xã hội

Việt Nam từ khuynh hướng gia đình bản vị sang cá nhân bản vị [xem 1, tr.364]. Công

trình của Trần Viết Nghĩa nhấn mạnh vào sự tiếp xúc giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa

phương Tây, thái độ của trí thức Việt Nam (cựu học và tân học) với nền văn hóa phương

Tây, cũng là những vấn đề gần gũi với sự hình thành của quan niệm mới về con người cá

nhân. Công trình của Đỗ Quang Hưng chủ biên về tính hiện đại và sự chuyển biến của văn

hóa Việt Nam thời cận đại cũng rất đáng chú ý, bởi nó nghiên cứu về những biến chuyển

văn hóa Việt Nam từ hệ tham chiếu của “tính hiện đại”, mà một trong những biểu hiện

của tính hiện đại, theo lý giải của các tác giả, là sự giải phóng cá nhân. Những chuyển

biến của văn hóa Việt Nam trên mọi khía cạnh đã được trình bày một cách khá toàn diện

trong công trình này, và vì thế, đây thực sự là một công trình cần được tham khảo khi

nghiên cứu về văn hóa Việt Nam thời Pháp thuộc nói chung, và sự hình thành quan niệm

về con người cá nhân thời kỳ này nói riêng.

Liên quan đến văn hóa, thiết nghĩ cũng cần phải nhắc đến một số công trình khảo

cứu về giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc, như: Khoa cử và giáo dục Việt Nam của

Nguyễn Q. Thắng (1993), Giáo dục Việt Nam thời cận đại của Phan Trọng Báu (1994),

Nhà trường Pháp ở Đông Dương của Trịnh Văn Thảo (bản dịch tiếng Việt xuất bản lần

đầu năm 2009) v.v... Những công trình này cung cấp những thông tin chi tiết về hệ thống

giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc, như chương trình học, số lượng học sinh, quá trình

cải cách giáo dục... Phần lớn trí thức tân học Việt Nam đã được đào tạo, trưởng thành từ

11

nền giáo dục thuộc địa, vì vậy, những thông tin chi tiết về hệ thống giáo dục ấy rất có ý

nghĩa trong việc tìm hiểu đặc điểm của tầng lớp trí thức tân học, cũng như nguồn gốc văn

hóa của những quan niệm mới, trong đó có quan niệm về vấn đề cá nhân ở thời kỳ này.

Bên cạnh giáo dục, báo chí cũng là một lĩnh vực quan trọng khi đề cập đến những

biến đổi của văn hóa Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Ở lĩnh vực này, những công trình

nghiên cứu tiêu biểu là: Lược sử báo chí Việt Nam của Nguyễn Viết Chước (1974), Lịch

sử báo chí Việt Nam 1865-1945 do Đỗ Quang Hưng chủ biên (2001), The Birth of

Vietnamese Political Journalism – Saigon 1916-1930 của Philippe M.F. Peycam (2012,

bản dịch tiếng Việt Làng báo Sài Gòn 1916-1930 của Trần Đức Tài, 2015)... Những công

trình này đã tái hiện lại diện mạo, những bước phát triển của báo chí Việt Nam trong nửa

đầu thế kỷ XX, chỉ ra những tờ báo quan trọng và những nhân vật chủ chốt của nó. Đặc

biệt, công trình của Philippe M.F. Peycam đã đề cập và nhấn mạnh đến những đặc điểm

của không gian văn hóa Nam kỳ cũng như của môi trường đô thị Sài Gòn thời thuộc địa

như một môi trường thuận lợi cho việc thúc đẩy ý thức về con người cá nhân [xem 97,

tr.20, 58]. Trong bối cảnh đầu thế kỷ XX, phần nhiều trí thức Tây học đã sử dụng báo chí

như một phương tiện để thể hiện tư tưởng, quan niệm của mình, thì những công trình này

có thể cung cấp những tư liệu rất tốt cho chúng tôi khi tìm hiểu về một hiện tượng văn hóa

có nhiều ảnh hưởng đến diễn trình tư tưởng của người Việt thời kỳ này.

Có thể nói, tất cả những công trình trên, ở những khía cạnh khác nhau, đều ít nhiều

đề cập đến những bước chuyển đổi căn bản, những hiện tượng nổi bật trong đời sống kinh

tế - xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Một số trong đó còn chỉ ra mối liên hệ giữa

những bước chuyển đổi hay hiện tượng đó với vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam thời

kỳ này. Những công trình còn lại, nếu không trực tiếp chỉ ra mối liên hệ ấy, thì cũng cung

cấp cho chúng tôi những tư liệu quan trọng, mà chúng tôi thấy rằng, có thể từ đó để xác

định những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự hình thành quan niệm về vấn đề con người cá

nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

1.1.2. Những nghiên cứu về tiền đề tư tưởng cho sự hình thành quan niệm về vấn đề

con người cá nhân của tầng lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

Quan niệm về vấn đề con người cá nhân của tầng lớp trí thức tân học Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX được xây dựng trên cơ sở tiếp nhận hoặc phê phán những học thuyết,

những khuynh hướng tư tưởng khác nhau, bao gồm cả tư tưởng truyền thống ở Việt Nam

và tư tưởng phương Tây. Vì vậy, để tiến hành nghiên cứu về tiền đề tư tưởng cho sự hình

12

thành quan niệm về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, chúng tôi

tiến hành tìm hiểu một số công trình nghiên cứu quan niệm về vấn đề con người cá nhân

trong tư tưởng truyền thống, quan niệm về vấn đề con người cá nhân trong tư tưởng

phương Tây và sự du nhập của chúng vào Việt Nam, và về sự phản tỉnh của tầng lớp nho

sĩ Việt Nam đầu thế kỷ XX về vấn đề này.

Những nghiên cứu về tư tưởng truyền thống tất nhiên là rất lớn về số lượng và rất

đa dạng về góc tiếp cận. Ở đây, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến một số nghiên cứu chỉ ra

quan niệm của Nho giáo về vấn đề “tự ngã”, hay về mối quan hệ giữa nó với quan niệm

về cá nhân ở phương Tây, xuất phát từ nhận định rằng, hầu hết những bàn luận về vấn đề

con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đều xoay quanh những đối thoại, tranh

luận, thậm chí là phê phán đối với Nho giáo. Đề cập đến quan niệm của Nho giáo về cá

nhân (hay “tự ngã”), có một số nghiên cứu đáng chú ý như “Concepts of ‘Individual’ and

‘Self’ in Twentieth-Century Vietnam” của David G. Marr (2001), Tư tưởng nhân bản của

Nho học tiên Tần của Tào Thượng Bân (2004), Tư tưởng chính trị dưới tầm nhìn Nho gia

của Lý Minh Huy (2005), hay Tinh thần nhân văn của Nho gia Đông Á của Hoàng Tuấn

Kiệt (2016). Bài viết của David G. Marr nhấn mạnh đến quan niệm về “thân-tâm” của

Nho giáo như một phương thức tư duy truyền thống về cá nhân ở Việt Nam, trước khi

xuất hiện những quan niệm mới về cá nhân đầu thế kỷ XX [xem 150, tr.769-772]. Tào

Thượng Bân (2004) lấy “hiếu” làm gốc rễ của tư tưởng nhân bản trong Nho học tiên Tần,

đã chỉ ra mối quan hệ giữa tính tự chủ và quy thuộc của tự ngã, cho rằng: “về mặt tự ngã

mà nói, người ta có thể tự xử lý được đối với sinh mệnh của mình; từ góc độ đạo nghĩa mà

nói, thì thân ta không hoàn toàn là của ta, thực là rõ ràng, người ta có thể hoàn toàn xử lý

đối với sinh mệnh của mình nhưng theo hướng hoàn toàn không bừa bãi” [7, tr.94]. Nhận

định này có ý nghĩa gợi mở sâu sắc, khi mà những bàn luận về vấn đề con người cá nhân

ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX phần lớn đã được đặt ra trong sự nhìn nhận lại chủ nghĩa

gia tộc, nhìn nhận lại quan niệm “hiếu” trong nền luân lý truyền thống. Lý Minh Huy

(2005) đi vào phân tích quan niệm đạo đức của Nho gia và chỉ ra mối quan hệ của nó với

chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cộng đồng, chỉ ra rằng Nho gia có điểm

gần gũi với chủ nghĩa tự do phương Tây, lại cũng có điểm gần gũi với chủ nghĩa cộng

đồng, nó nằm ở giữa hai chủ nghĩa đó [xem 50, tr.243]. Chúng tôi cho rằng nhận định này

sẽ giúp lý giải cho ảnh hưởng mang tính hai mặt của nền luân lý Nho giáo đối với những

quan niệm về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Còn Hoàng Tuấn

13

Kiệt (2016), trong công trình của mình, khi bàn về quan niệm “tự ngã” của Nho gia, cũng

tập trung vào mối quan hệ giữa “thân” và “tâm”, và khẳng định, quan niệm của Nho gia từ

Khổng Tử đến Mạnh Tử và Tuân Tử đều cho rằng làm chủ được “tâm” là có thể đạt tới

cảnh giới tự do của chủ thể “tự ngã” [xem 159, tr.29]. Những nghiên cứu này đều chỉ ra

những nội dung và đặc điểm trong quan niệm của Nho gia khi bàn về “tự ngã”, đồng thời

nhấn mạnh vào sự khác biệt giữa quan niệm ấy với quan niệm về con người cá nhân của

tư tưởng phương Tây. Đây là những gợi mở quan trọng cho chúng tôi khi tiếp cận vấn đề

con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, vốn có mối liên hệ sâu sắc với những

quan niệm đạo đức Nho giáo truyền thống.

Nửa đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa cá nhân bắt đầu xuất hiện và có ảnh hưởng đến

người trí thức Việt Nam. Vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam thời kỳ này, do đó, có

mối liên hệ sâu sắc với cái gọi là “chủ nghĩa cá nhân”. Về chủ nghĩa cá nhân phương Tây,

có một số công trình đã được dịch ở Việt Nam, như Lịch sử cá nhân luận của Alain

Laurent, Chủ nghĩa cá nhân và trật tự kinh tế của F.A.Hayek... Đây có thể xem là những

dẫn nhập cơ bản về chủ nghĩa cá nhân phương Tây, về sự phát triển, cũng như sự phân

hóa của nó trong lịch sử. Công trình của Alain Laurent tập trung phân tích những chặng

đường của chủ nghĩa cá nhân, từ cội nguồn của nó là nền triết học Hy Lạp cổ đại, cho đến

sự hiện diện chính thức của nó vào thời cận đại. Cuốn sách của Hayek nhấn mạnh đến sự

phân biệt hai truyền thống chủ nghĩa cá nhân là chủ nghĩa cá nhân Anh và chủ nghĩa cá

nhân ở lục địa và đưa ra nhận định về mỗi truyền thống. Đây là những tri thức mà chúng

tôi cho là cần thiết để soi chiếu vào sự hiện diện của tư tưởng phương Tây về vấn đề con

người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Những nghiên cứu về sự du nhập của tư tưởng phương Tây vào Việt Nam, trên

thực tế, là không nhiều. Một số công trình đặc biệt tập trung nghiên cứu sự du nhập của

tân văn, tân thư vào Việt Nam, chẳng hạn, các bài viết trong cuốn Tân thư và xã hội Việt

Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đây là cuốn sách tập hợp nhiều bài viết về sự du nhập

và ảnh hưởng của tân văn, tân thư đến xã hội Việt Nam, trong đó, đáng chú ý có những

bài: “Đôi điều khác biệt giữa các Nho sĩ Trung Quốc với các nhà Nho Việt Nam khi tiếp

nhận tân thư” của Trương Chính, “Từ nguồn gốc tư tưởng khai sáng ở phương Tây đến tư

tưởng duy tân trong Tân thư ở Trung Quốc và Việt Nam” của Nguyễn Trường Lịch, và

bài tổng luận “Tân thư và ảnh hưởng của nó đến Việt Nam trong bối cảnh Đông – Nam Á

hồi đầu thế kỷ XX” của Đinh Xuân Lâm. Công trình Trí thức Việt Nam đối diện với văn

14

minh phương Tây thời Pháp thuộc của Trần Viết Nghĩa cũng dành một phần để nói về sự

du nhập của tân văn, tân thư vào Việt Nam, trong đó, tác giả đã tóm lược lại một số con

đường của du nhập cũng như những nội dung có ảnh hưởng lớn nhất trong giới trí thức

Việt Nam thời kỳ này. Ngoài ra, về sự du nhập và tiếp nhận tư tưởng Pháp, một công trình

rất đáng chú ý là bài viết “Gió Tây, gió Đông – Sự du nhập tinh thần Khai sáng vào Việt

Nam đầu thế kỷ XX” của Nguyễn Phương Ngọc. Trong bài viết này, Nguyễn Phương

Ngọc xác định các nhóm xã hội có vai trò trong việc tiếp nhận tư tưởng phương Tây, các

nhân vật có vai trò chủ chốt trong việc truyền bá tân thư, và điểm đáng chú ý nhất là, bài

viết đã đề cập đến những khác biệt trong sự tiếp nhận Rousseau ở Việt Nam. Đây là một

vấn đề thú vị và rất có ý nghĩa, bởi Rousseau chính là một trong những nhân vật có ảnh

hưởng lớn đến quan niệm về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam.

Bàn về tân văn, tân thư, hay Rousseau, những công trình trên nói chung vẫn tập

trung sự chú ý vào tư tưởng khai sáng. Tất nhiên, sự hiện diện của tư tưởng phương Tây ở

Việt Nam không chỉ dừng lại ở đó. Vì vậy, công trình Vietnamese Tradition on Trial hay

bài viết “Concepts of ‘Individual’ and ‘Self’ in Twentieth-Century Vietnam” của D. Marr

là những công trình rất đáng chú ý bởi nó đã chỉ ra ảnh hưởng không chỉ từ các nhà khai

sáng Pháp, mà còn từ nhiều nhà tư tưởng phương Tây khác đến quan niệm về cá nhân của

người Việt Nam. Trong những nghiên cứu này, tác giả đã đề cập đến những ảnh hưởng

của Kant, Adam Smith, Bentham, Nietzsche... đến các quan niệm về con người cá nhân

của người Việt. Công trình này còn đề cập đến cả một nhân vật mà giới trí thức Việt Nam

đã bỏ qua ở thời điểm đầu thế kỷ XX là Locke. Nhận định này là rất thú vị và đáng chú ý.

Ở đây, việc nhắc đến những nhân vật có ảnh hưởng hoặc không có ảnh hưởng đều giúp

gợi mở nhiều điều về đặc điểm của quan niệm về cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Nhìn chung, những nghiên cứu trên không chỉ cho thấy phần nào bức tranh du nhập của tư

tưởng phương Tây vào Việt Nam, mà còn chỉ ra phạm vi ảnh hưởng của từng học thuyết,

tư tưởng trong giới trí thức Việt Nam lúc bấy giờ.

Bên cạnh đó, cũng cần đề cập đến những nghiên cứu về sự du nhập của chủ nghĩa

Mác, bởi chủ nghĩa Mác kể từ khi xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 20, đã nhanh

chóng trở thành học thuyết dẫn dắt những phong trào chính trị và văn hóa của người Việt,

và ở chừng mực nào đó, có ảnh hưởng đến quan niệm về vấn đề con người cá nhân của

tầng lớp trí thức. Ở khía cạnh này, không thể không nhắc đến những nghiên cứu của Trần

Văn Giàu, như bộ Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng

15

tháng Tám (tập III), phần “Chủ nghĩa Mác – Lênin truyền bá ở thành phố Hồ Chí Minh từ

1920 – 1945”, trong cuốn Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, hay công trình

Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam (1921-1930) của

Phạm Xanh. Thông qua những nghiên cứu của mình, tác giả Trần Văn Giàu đã phân tích,

tái hiện quá trình du nhập của chủ nghĩa Mác vào Việt Nam, ở thời điểm những năm 20,

với mảnh đất đầu tiên là Sài Gòn, cùng với những nhân vật chủ chốt của quá trình này.

Trong khi đó, công trình của Phạm Xanh tập trung vào vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong

việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam. Nghiên cứu về sự du nhập của chủ

nghĩa Mác ở Việt Nam, cho đến nay, đây vẫn là những công trình dày dặn và quan trọng nhất.

Cuối cùng, cần phải đề cập đến những nghiên cứu về tư tưởng của các nhà nho

duy tân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, những người đặt nền móng trực tiếp cho quan

niệm của bộ phận trí thức tân học. Những công trình nghiên cứu về chủ đề này cho đến

nay tương đối nhiều, bao gồm cả sách và các bài viết trên tạp chí. Ở đây, chúng tôi đặc

biệt chú ý đến những nghiên cứu tập trung vào những biến chuyển trong tư tưởng về

đạo đức, về con người của tầng lớp nho sĩ, vì đây là nội dung gắn với vấn đề con

người cá nhân nhiều hơn cả, như: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX

đến Cách mạng tháng Tám (tập II) của Trần Văn Giàu, Quá trình chuyển biến tư

tưởng của nho sĩ Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX của Trần Thị Hạnh, bài viết

“Tư tưởng luân lý mới của các nhà nho duy tân trong “Tân đính luân lý giáo khoa thư”

của Nguyễn Kim Sơn (Tạp chí Triết học, số 4, 2009) v.v... Công trình của Trần Văn

Giàu trình bày một cách rất cặn kẽ, hệ thống về tư tưởng của các nhà nho duy tân, đặc

biệt tập trung vào Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Đông Kinh nghĩa thục. Trong

khi đó, Trần Thị Hạnh bàn một cách trực tiếp hơn về những chuyển biến tư tưởng của

tầng lớp nho sĩ, trong đó, đáng chú ý là phần bàn về duy tân tư tưởng đạo đức. Ở đây,

tác giả đã chỉ ra những điểm mới, những điểm tiếp nhận văn hóa phương Tây trong

quan niệm đạo đức của nho sĩ Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX. Nhiều điểm mà tác

giả chỉ ra, như sự đổi mới nội dung các khái niệm luân lý cũ, đã cho thấy phần nào

quan niệm mới của nho sĩ duy tân về vấn đề con người cá nhân [xem 46, tr.211]. Còn

Nguyễn Kim Sơn, trong bài viết của mình, đã tập trung sự chú ý vào tác phẩm Tân

đính luân lý giáo khoa thư, một sản phẩm của các nhà nho Đông Kinh nghĩa thục. Tác

giả chỉ ra những điểm mới trong quan niệm luân lý được thể hiện qua tác phẩm này,

trong đó có nhiều điểm liên quan đến vấn đề con người cá nhân, chẳng hạn như khi

16

bàn đến những điểm mới trong quan niệm về “đối kỷ” [xem 111]. Có thể thấy, những

công trình này đều ít nhiều đề cập đến quan niệm về con người của các nhà nho duy

tân nửa đầu thế kỷ XX, qua đó có thể nhận thấy được phần nào quan niệm của họ về

con người cá nhân.

1.1.3. Những nghiên cứu về tầng lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

Luận án của chúng tôi nghiên cứu quan niệm của tầng lớp trí thức tân học Việt

Nam, vì vậy, tìm hiểu về sự hình thành, hoạt động của tầng lớp này là hết sức quan trọng.

Ở nội dung này, chúng tôi có thể kế thừa từ khá nhiều nghiên cứu đã được triển khai trước

đây. Những công trình đề cập đến chủ đề này tương đối nhiều và đã làm sáng tỏ được

nhiều vấn đề liên quan đến tầng lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Về vấn đề nguồn gốc và sự hình thành tầng lớp trí thức tân học, các nghiên cứu

đều chỉ ra sự xuất hiện của tầng lớp này gắn với sự phát triển của nền giáo dục Tây học ở

Việt Nam. Có thể kể đến một số công trình có đề cập đến vấn đề này như: Trí thức Việt

Nam đối diện với văn minh phương Tây thời Pháp thuộc của Trần Viết Nghĩa, “Về đặc

điểm của tầng lớp trí thức Tây học ở Việt Nam đầu thế kỷ XX” của Nguyễn Thị Thanh

Thủy, “Đội ngũ trí thức tân học Nam kỳ trước năm 1930” của Huỳnh Bá Lộc. Trong đó,

bài viết của Nguyễn Thị Thanh Thủy rất đáng chú ý khi đã đưa ra một định nghĩa về “trí

thức Tây học” và chỉ ra nền tảng trí thức căn bản của nhóm này là tri thức khoa học hiện

đại và tinh thần nhân văn, nhân bản [xem 127, tr.195].

Vấn đề phân kỳ trí thức tân học cũng là một vấn đề nhận được sự quan tâm của các

nhà nghiên cứu. Về vấn đề này, công trình Ba thế hệ trí thức người Việt của Trịnh Văn

Thảo là một công trình đáng lưu ý. Trong công trình của mình, Trịnh Văn Thảo đã chia

tầng lớp trí thức Việt Nam trong suốt thời kỳ Pháp thuộc thành 3 thế hệ: thế hệ 1862, thế

hệ 1907 và thế hệ 1925, trong đó, 2 thế hệ sau thuộc về lớp trí thức tân học. Thế hệ 1907

được gọi tên là “trí thức của hai thế giới”, trong khi thế hệ 1925 được gọi tên là trí thức

Âu hóa. Bản thân cách định danh như vậy phần nào đã nói lên nhiều điều về đặc điểm xã

hội và tư tưởng của hai thế hệ này. Một điểm cũng rất đáng chú ý của công trình này là, từ

góc độ xã hội học lịch sử, tác giả đã kỳ công chọn lựa 222 gương mặt trí thức tiêu biểu

cho 3 thế hệ để tiến hành nghiên cứu. Danh sách trí thức mà tác giả cung cấp thực sự là

một bản danh sách rất có ý nghĩa đối với những người nghiên cứu về trí thức nói chung,

trí thức tân học nói riêng ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trong khi đó, trong Bản lược đồ văn

học Việt Nam, Thanh Lãng đã đưa ra sự phân chia thế hệ trí thức từ góc độ văn học sử,

17

theo đó, nhóm trí thức Tây học nửa đầu thế kỷ XX được phân chia thành 2 thế hệ, thế hệ

1913, và thế hệ 1932. Hai thế hệ này được phân biệt bởi khuynh hướng văn hóa, thế hệ

1913 là thế hệ của sự liên hiệp, còn thế hệ 1932 là thế hệ của sự đoạn tuyệt. Trong đó, thế

hệ 1932, theo tác giả, chính là thế hệ đi đầu trong việc tiếp nhận những tư tưởng về giải

phóng cá nhân.

Cách phân kỳ của Trịnh Văn Thảo và Thanh Lãng có sự khác biệt về cột mốc,

nhưng có thể thấy là khá tương đồng nếu nhìn vào khuynh hướng văn hóa của hai thế hệ.

Trí thức tân học Việt Nam về cơ bản được chia thành hai nửa: thế hệ của sự dung hòa văn

hóa, cố gắng níu kéo những giá trị cũ, và thế hệ của sự dứt khoát Âu hóa. Chỉ dẫn này, đối

với chúng tôi, là rất có giá trị, bởi trong quan niệm về con người cá nhân của trí thức Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX cũng chứa đựng những sự giằng xé, xung đột của hai truyền

thống văn hóa. Do đó, cũng có thể lấy những cách phân kỳ này làm hệ tham chiếu để

phân chia khuynh hướng tư tưởng.

1.2. Những nghiên cứu liên quan đến quan niệm của trí thức tân học ở Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân

1.2.1. Những nghiên cứu mang tính khái quát về quan niệm của trí thức tân học ở Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân

Bàn đến những nghiên cứu về quan niệm của tầng lớp trí thức tân học ở Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân, trước hết, cần phải đề cập đến những

nghiên cứu có tính khái quát. Bởi vấn đề con người cá nhân là một vấn đề tương đối nổi

bật ở Việt Nam giai đoạn này, lại là vấn đề thể hiện khá rõ nét sự chuyển biến trong tư

duy của người Việt, nên trên thực tế, đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến nó, ở những mức độ

khác nhau.

Một số công trình đưa ra một cái nhìn chung về quan niệm mới của tầng lớp trí

thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân có thể đề cập đến

là Bản lược đồ văn học Việt Nam của Thanh Lãng (1967), Ảnh hưởng của các hệ tư

tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay do Nguyễn Tài Thư chủ biên

(1997), hay Về chủ nghĩa cá nhân trong văn hóa Việt Nam của Nguyễn Thanh Tuấn

(2003). Ở công trình của Thanh Lãng, khi bàn về sự phát triển của nền văn học Việt

Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, tác giả đã phần nào bàn về sự xuất hiện của vấn

đề con người cá nhân và những quan điểm chính của giới văn nhân Việt Nam về vấn

đề này. Trong đó, có thể thấy, Thanh Lãng đã gắn sự xuất hiện của những quan niệm

18

mới về con người cá nhân với sự hiện diện của thế hệ trí thức 1932. Vấn đề con người

cá nhân chỉ được Thanh Lãng xét đến khi bàn về thế hệ trí thức này. Thanh Lãng

khẳng định, giải phóng cá nhân trở thành một lý tưởng thống nhất cho giới trí thức thế

hệ này, bất kể họ theo khuynh hướng nào:

Chẳng kỳ thuộc khuynh hướng nào, họ đều gặp nhau ở chỗ cùng theo đuổi

những mục đích chung: lật đổ xã hội cũ, hạ bệ chế độ đại gia đình, bài trừ

những mối dị đoan, đập tan những xiềng xích trói buộc của luân lý Khổng

Mạnh: họ muốn phá vỡ tất cả để làm lại tất cả từ đầu. Xây dựng, đối với họ,

có nghĩa là ly dị với dĩ vãng để chạy theo Tây phương. Tất cả đều hăng hái

và cương quyết đòi trả lại – với bất cứ giá nào – cho con cái, nhất là cho

con gái quyền tự do chọn tình yêu, cho người quả phụ quyền tự do cải giá,

cho mọi người hạnh phúc cá nhân [74, tr.719].

Mặc dù rất khái quát, Thanh Lãng đã chỉ ra hai điểm rất quan trọng trong quan

niệm về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam thời kỳ này: thứ nhất, giải phóng cá

nhân gắn liền với lật đổ Khổng giáo, và thứ hai, nhấn mạnh vào tự do cá nhân. Đây là

hai điểm mà chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích một cách cụ thể trong luận án của mình.

Ở công trình do Nguyễn Tài Thư chủ biên, mặc dù không trực tiếp phân tích

quan niệm về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, nhưng khi

bàn đến sự ảnh hưởng của văn hóa tư tưởng phương Tây đến Việt Nam cho đến năm

1945, các tác giả chủ yếu nhấn mạnh đến sự xuất hiện của một quan niệm mới về con

người cá nhân. Điều này đã cho thấy ít nhất hai điểm đáng chú ý: thứ nhất là vấn đề

con người cá nhân được các tác giả xem như một vấn đề đặc biệt quan trọng, thể hiện

một cách tập trung sự biến đổi trong quan niệm, tư tưởng của người Việt; và thứ hai,

sự xuất hiện của những quan niệm về vấn đề ấy ở Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX

gắn chặt với sự hiện diện của tư tưởng phương Tây, nói cách khác, chính từ sự ảnh

hưởng của tư tưởng phương Tây mà người trí thức tân học Việt Nam mới quan tâm và

đưa ra những quan niệm mới về vấn đề con người cá nhân. Chúng tôi cho rằng đây là

hai điểm rất quan trọng khi nghiên cứu những quan niệm về vấn đề con người cá nhân

ở Việt Nam giai đoạn này. Đi vào nội dung cụ thể của quan niệm, các tác giả đặc biệt

nhấn mạnh đến sự tuyên truyền cho chủ nghĩa cá nhân, tự do cá nhân của giới trí thức

tân học. Sự tuyên truyền ấy, theo các tác giả chỉ ra, được thực hiện đồng thời với sự

phê phán những quan niệm của Nho giáo. Ở đây, quan niệm về vấn đề con người cá

19

nhân của tầng lớp tân học được các tác giả đặt trong sự đối lập với Nho giáo truyền

thống. Đây cũng lại là một đặc điểm rất đáng lưu ý. Mặc dù những phân tích về vấn đề

này trong công trình chỉ chiếm một phần nhỏ trong toàn bộ nội dung của nó, nhưng có

thể thấy, các tác giả đã nhận diện và chỉ ra rất chính xác những nội dung căn bản nhất

trong quan niệm về vấn đề con người cá nhân của tầng lớp trí thức tân học. Tuy nhiên,

điểm hạn chế của những phân tích này nằm ở chỗ nó quy toàn bộ giới trí thức tân học

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX thành một tổng thể là “phái Tân học”. Những quan niệm

được các tác giả trình bày, vì vậy cũng mang tính khái quát, nó chung cho cả một tầng

lớp trí thức chứ không thuộc về riêng một nhà trí thức hay nhóm trí thức nào. Trên

thực tế, bản thân cái gọi là trí thức tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, theo chúng

tôi, phức tạp và đa diện hơn nhiều. Không phải bất cứ ai mang danh tân học cũng đều

theo quan điểm ủng hộ chủ nghĩa cá nhân và tự do cá nhân. Hơn nữa, trong bản thân

những người ủng hộ chủ nghĩa cá nhân và tự do cá nhân, cũng có thể chia thành nhiều

nhóm khác nhau. Những phân tích trong công trình này, vì thế, có tính khái quát

nhưng lại thiếu tính đa chiều. Đây là điều mà chúng tôi sẽ cố gắng khắc phục trong

luận án của mình.

Công trình của Nguyễn Thanh Tuấn bàn về một chủ đề tương đối gần gũi với

đề tài luận án: “chủ nghĩa cá nhân trong văn hóa Việt Nam”, trong đó, tác giả ít nhiều

bàn về chủ nghĩa cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Theo tác giả, chủ nghĩa cá

nhân văn hóa hiện đại ở Việt Nam đã được manh nha từ các phong trào canh tân đầu

thế kỷ XX [xem 137, tr.31], và được thể hiện rõ qua dòng văn học lãng mạn giai đoạn

1930-1945. Việc truy nguyên nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân ở Việt Nam nửa đầu

thế kỷ XX qua phân tích, đánh giá phong trào duy tân đầu thế kỷ của tác giả là hợp lý.

Tuy nhiên, những trình bày về sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân ở Việt Nam nửa

đầu thế kỷ XX trong công trình này còn khá sơ lược, chưa chỉ ra những nội dung cơ

bản và những nhân vật tiêu biểu của nó.

Những công trình trên, ở những chừng mực khác nhau, đã phần nào chỉ ra được

sự phát triển của quan niệm về con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, mặc

dù còn mang tính khái lược, chủ yếu hướng đến nắm bắt tinh thần chung của một thời

đại về vấn đề con người cá nhân, chứ chưa chú trọng đến diễn trình, cũng như tính đa

chiều của nó. Những nghiên cứu thực sự chi tiết về vấn đề này, và do đó, cũng là quan

trọng nhất, là những nghiên cứu của David G. Marr, trước hết với cuốn sách Vietnam

20

Traditon on Trial (1984), và sau đó là bài viết “Concepts of ‘Individual’ and ‘Self’ in

Twentieth-Century Vietnam” (2000). Trong công trình thứ nhất, David G. Marr khi

bàn về vấn đề cá nhân và xã hội ở Việt Nam, đã đề cập đến một nội dung rất quan

trọng trong vấn đề con người cá nhân thời kỳ này: vấn đề quyền lợi cá nhân. Tác giả

đã chỉ ra sự thất thế của quan niệm truyền thống về lợi ích cá nhân (đề cao nghĩa hơn

lợi) trước những quan niệm mới mang tính phản truyền thống [xem 149, tr.115-116].

Cũng trong công trình này, tác giả còn bàn đến một vấn đề ít được đề cập đến, nhưng

liên quan chặt chẽ với vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, đó là

chủ nghĩa công lợi ở Việt Nam (với ảnh hưởng từ Bentham). Tuy nhiên, chủ nghĩa

công lợi được tác giả phân tích, chủ yếu thể hiện trên phương diện ảnh hưởng xã hội

hơn là những đại diện tư tưởng của nó ở Việt Nam.

Công trình thứ hai tuy kế thừa những thành quả của công trình thứ nhất, nhưng

bàn một cách trực tiếp quan niệm về cá nhân ở Việt Nam thế kỷ XX. Xét cả về chủ đề

nghiên cứu và cách triển khai, bài viết này của David G. Marr gần gũi với đề tài luận

án của chúng tôi hơn cả. Bài viết đi từ việc chỉ ra sự hiện diện của “cá nhân” trên bình

diện ngôn ngữ ở Việt Nam đầu thế kỷ XX (với cách sử dụng những khái niệm mới,

hay những đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất), cho đến một quan niệm mới về cá nhân

được thể hiện qua những nhân vật trí thức cụ thể. Khác với nhiều nghiên cứu tập trung

vào nhóm trí thức những năm 30 (đặc biệt là Tự lực văn đoàn), khi bàn về vấn đề con

người cá nhân ở Việt Nam thời kỳ này, David G. Marr đã xuất phát từ Nguyễn An

Ninh với nhận định rằng, ông là người trí thức Việt Nam đầu tiên đề cập đến quan

niệm về bản ngã của phương Tây với một sự nồng nhiệt [xem 150, tr.777]. Đây là một

nhận định rất có ý nghĩa khi nghiên cứu về lịch sử hiện diện của những quan niệm mới

về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Nhận định của tác giả

gợi ra rằng, để nghiên cứu về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX, cần phải quay ngược lại gần một thập niên so với sự xuất hiện của trào lưu văn

học 1930, trong đó, năm 1923, thời điểm mà Nguyễn An Ninh có bài diễn thuyết nổi

tiếng “Lý tưởng của thanh niên An Nam” cần phải được chú ý như một cột mốc quan

trọng. Tiếp đó, tác giả chỉ ra sự ảnh hưởng của một số học thuyết triết học phương Tây

(Kant, Adam Smith, Bentham...) đến quan niệm về cá nhân của người trí thức Việt

Nam, nhưng cũng như ở công trình trên, ông không chỉ ra những gương mặt trí thức cụ

thể chịu ảnh hưởng của những học thuyết này. Có thể hiểu rằng, những học thuyết đó

21

ít nhiều tác động đến cách nhìn của tầng lớp trí thức về vấn đề con người cá nhân, mặc

dù việc chỉ ra biểu hiện cụ thể của nó trong tư tưởng của một nhà trí thức nào đó

không phải là giản đơn. Đến đây, David G. Marr mới đề cập đến những quan niệm về

cá nhân trong những năm 30, thông qua việc khai thác những biểu hiện của nó trong

thơ ca, tiểu thuyết và tự truyện, tức những tác phẩm văn học, xem chúng như những

phương tiện, cách thức “khám phá” về cá nhân của người Việt Nam ở tầng bậc sâu sắc

nhất. Có thể thấy, David G. Marr đã rất thành công trong việc tái hiện diễn biến của

quan niệm về con người cá nhân ở Việt Nam cả về chiều rộng và chiều sâu. Nghiên

cứu của ông bao phủ lên một phạm vi rộng lớn hơn cả, khai thác quan niệm của nhiều

gương mặt trí thức hơn cả, trong đó có nhiều nhân vật ít được nhắc đến trong những

nghiên cứu còn lại, như Nguyễn Bá Học, Phan Văn Hùm, Trần Huy Liệu, Trần Hữu

Độ, Nguyên Hồng v.v... Đồng thời, những công trình này cũng khai thác quan niệm về

con người cá nhân ở những tầng bậc khác nhau, thể hiện được tính đa diện của nó ở

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, với những khuynh hướng tư tưởng khác nhau (bảo thủ

hay cấp tiến), với những phương thức thể hiện khác nhau (ngôn ngữ, văn học, tư

tưởng), từ những nguồn ảnh hưởng khác nhau. Tuy nhiên, những nghiên cứu này cũng

vẫn còn những điểm mà chúng tôi cho rằng chưa thực sự được làm rõ. Khuynh hướng

tư tưởng bảo thủ về vấn đề con người cá nhân mặc dù đã được tác giả chú ý đến,

nhưng không thực sự được phân tích một cách kỹ lưỡng. Những phản ứng ban đầu của

giới trí thức tân học Việt Nam đối với chủ nghĩa cá nhân cũng như quan niệm của họ

về vấn đề con người cá nhân, do đó, vẫn chưa được làm sáng tỏ. Có lẽ, đây cũng là

một điểm còn thiếu hụt trong hầu hết những nghiên cứu về vấn đề con người cá nhân ở

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Đối với nhóm trí thức cấp tiến, David G. Marr mặc dù

đã đề cập đến nhiều nhân vật còn ít được chú ý, nhưng dường như lại không đề cập

nhiều đến những nhân vật quan trọng khác như Tự lực văn đoàn, Phan Khôi v.v... Có

thể nói, đây là những khoảng trống mà chúng tôi nhận thấy có thể tiếp tục khai thác và

đi sâu nghiên cứu.

1.2.2. Những nghiên cứu chuyên biệt liên quan đến quan niệm của những nhà trí thức,

nhóm trí thức cụ thể về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

Bên cạnh những nghiên cứu mang tính khái quát, cho thấy sự phát triển trong quan

niệm về con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, còn có những công trình tập

trung nghiên cứu quan niệm này ở một nhà trí thức hay một nhóm trí thức cụ thể. Mặc dù

22

thiếu tính khái quát như ở hướng nghiên cứu thứ nhất, điểm mạnh của những công trình

thuộc nhóm này là chúng có thể giúp chúng ta nhận diện đâu là những nhân vật tiêu biểu,

đáng chú ý nhất trong vấn đề con người cá nhân thời kỳ này, đồng thời phân tích một cách

khá sâu sắc về nội dung quan niệm của họ.

Khi tìm hiểu những nghiên cứu thuộc nhóm này, một điểm khá dễ nhận thấy là sự

chú ý của giới nghiên cứu đến những nhân vật trí thức của nhóm Tự lực văn đoàn mà đặc

biệt là Nhất Linh, Khái Hưng. Mặc dù những nghiên cứu này hầu hết thuộc lĩnh vực văn

học, song đã phần nào cho thấy quan niệm của nhóm trí thức này về vấn đề con người cá

nhân. Có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu theo hướng này, như phần viết về Tự lực

văn đoàn của Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1965), bài viết

“Tự lực văn đoàn” của Trương Chính (1989), “Tự lực văn đoàn, nhìn từ góc độ tính liên

tục của lịch sử, qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học phương Đông” của

Trần Đình Hượu (1995), “Chủ nghĩa cá nhân trong hoạt động xã hội và luận thuyết của

Nhất Linh” của Nguyễn Thanh Thủy (Văn hóa nghệ thuật, số 12, 2013), “Giải phóng cá

tính trong Đời mưa gió của Nhất Linh và Khái Hưng” của Đỗ Hồng Đức (Nghiên cứu

Văn học, số 6, 2015) và đặc biệt là công trình Quan niệm về con người trong tiểu thuyết

Tự lưc văn đoàn của Lê Thị Dục Tú (1997).

Nghiên cứu của Phạm Thế Ngũ (1965) đã chỉ ra sự coi trọng tự do cá nhân như

một tôn chỉ, đường lối sáng tác của Tự lực văn đoàn, đồng thời là nội dung quan trọng

trong quan điểm của họ về nhân sinh. Những quan điểm đó, theo Phạm Thế Ngũ, được Tự

lực văn đoàn đưa ra như một sự thế chỗ cho những quan niệm truyền thống [xem 140,

tr.14, 18]. Bài viết của Trương Chính (1989) xác định một cách rõ ràng hơn tinh thần của

Tự lực văn đoàn là đề cao tự do cá nhân, hạnh phúc cá nhân. Đặc biệt, Trương Chính xếp

quan niệm của Tự lực văn đoàn vào “chủ nghĩa cá nhân tư sản”, đây cũng là điều mà sau

này nhiều nhà nghiên cứu cũng chỉ ra khi cố gắng nhận diện quan niệm về vấn đề con

người cá nhân của Tự lực văn đoàn. Khi đưa ra nhận định đó, Trương Chính có ý khẳng

định tính tiến bộ của Tự lực văn đoàn trong “quá trình con người dành quyền về cá nhân”

[140, tr.37]. Bài viết của Trần Đình Hượu (1989) nhìn nhận Tự lực văn đoàn trong dòng

chảy của lịch sử văn học Việt Nam, nên đặc biệt nhấn mạnh đến sự đề cao cá nhân của

nhóm này trong sự đối kháng với những quan niệm truyền thống về con người cá nhân:

Chủ đề văn học của sáng tác Tự lực văn đoàn là tình yêu, tình yêu của những

con người đô thị, của những “chàng”, những “nàng” tân thời, học chữ Tây,

23

sống trên phố, hấp thu văn minh châu Âu, đòi tự do, tự do yêu đương, tự do

kết hôn và tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống Âu hóa: cá nhân, tự do và hạnh

phúc. Họ phủ nhận con người chức năng trong luân thường, con người sống

với gia đình, với họ hàng, với làng xã, làm con hiếu, làm tôi trung [140, tr.46].

Có thể thấy, Trần Đình Hượu cũng chỉ ra mấy khái niệm mấu chốt trong quan

niệm của Tự lực văn đoàn về vấn đề con người cá nhân, như những gì mà Trương Chính

đã nhấn mạnh: “cá nhân”, “tự do”, “hạnh phúc”. Bài viết của Nguyễn Thị Thanh Thủy

(2013) cũng xác định quan niệm về vấn đề con người cá nhân của Nhất Linh thuộc về cái

gọi là “chủ nghĩa cá nhân” và chỉ ra những nội dung chính của nó. Theo tác giả, điểm nổi

bật, xuyên suốt trong chủ nghĩa cá nhân của Nhất Linh chính là tư tưởng giải phóng cá

nhân, với ba nội dung chính, bao gồm: tuyên chiến với thành trì phong kiến, trọng tự do

cá nhân và hướng tới bình dân. Đây cũng chính là điểm căn bản trong chủ trương hoạt

động của nhóm Tự lực văn đoàn. Bài viết của Đỗ Hồng Đức (2015) đi sâu vào một tiểu

thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng, để chỉ ra quan niệm của hai ông về vấn đề con người

cá nhân được biểu hiện trong đó. Trong đó, tác giả cũng nhấn mạnh tư tưởng giải phóng

con người cá nhân một cách triệt để chính là thông điệp phía sau cuốn tiểu thuyết này. Tư

tưởng ấy, theo bài viết, được thể hiện qua sự xung đột giữa con người cá nhân với gia

đình và với truyền thống. Những gì mà Đỗ Hồng Đức đã rút ra từ cuốn tiểu thuyết này về

cơ bản cũng thống nhất với những nhận định mà bài viết của Nguyễn Thị Thanh Thủy đã

chỉ ra.

Đáng chú ý hơn cả trong những nghiên cứu về quan niệm của nhóm Tự lực văn

đoàn về vấn đề con người cá nhân có lẽ là công trình của Lê Thị Dục Tú. Công trình này

không chỉ hướng tới một phạm vi nghiên cứu rộng hơn so với hai bài viết trên (không tập

trung vào một nhà văn hay một cuốn tiểu thuyết cụ thể, mà bao quát toàn bộ tiểu thuyết

của ba nhà văn chủ chốt Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo), mà còn đi vào phân tích

quan niệm về con người (mà chủ yếu là con người cá nhân) trong các tiểu thuyết của Tự

lực văn đoàn ở chiều sâu của nó. Trong công trình của mình, Lê Thị Dục Tú đã chỉ ra và

phân tích ba cấp độ của con người cá nhân được thể hiện trong tiểu thuyết của Tự lực văn

đoàn. Theo đó, cấp độ thứ nhất là sự xung đột giữa con người cá nhân với gia đình và

truyền thống, mà ở đó, con người cá nhân mang một tư thế khỏe khoắn, “lạc quan đậm

màu ảo tưởng” [136, tr.44]. Đây cũng là điểm đã được chỉ ra ở hai công trình mà chúng

tôi đã đề cập đến ở trên. Cấp độ thứ hai, theo tác giả, là con người cá nhân tìm sự giải

24

thoát trong tình yêu, trong thế giới nội tâm hay trong những ước mơ về cải cách xã hội.

Và cấp độ thứ ba, cũng là cấp độ cao nhất, là ý thức cá nhân cực đoan đòi hỏi bản năng

tự do đứng trên hoặc bất chấp các mối quan hệ xã hội. Tất nhiên, Lê Thị Dục Tú cũng

không quên lưu ý rằng, hình tượng con người cá nhân trong tiểu thuyết của Tự lực văn

đoàn, ở cấp độ cực đoan của nó, không nhất thiết phản ánh quan niệm của nhóm này

về vấn đề con người cá nhân, mà thực chất là sự “thể nghiệm giới hạn cực đoan của

chủ nghĩa cá nhân có ý nghĩa triết học” [136]. Các nhân vật, với diễn biến tâm lý và

những hành động mang tính cực đoan của nó, do đó, không thể hiện khuynh hướng tư

tưởng của các tác giả, mà nó chỉ “cho thấy con người sẽ thế nào một khi nó đoạn tuyệt

với các quan hệ xã hội” [136, tr.54]. Một nhận định như vậy, theo chúng tôi là hợp lý

khi tìm hiểu về quan niệm của các nhà văn Tự lực văn đoàn. Việc mở rộng phạm vi

nghiên cứu ra các tác phẩm chính luận – mà ở đó, quan niệm được thể hiện một cách

trực tiếp – có lẽ sẽ bổ sung cho nhận định này (cũng là điều mà luận án hướng tới).

Nhìn chung, công trình của Lê Thị Dục Tú thực chất chính là bàn đến quan niệm về

con người cá nhân của nhóm Tự lực văn đoàn, bởi quan niệm về con người của họ,

theo tác giả, không gì khác hơn là quan niệm về con người cá nhân: “nếu như ta gọi

tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn là tiểu thuyết luận đề thì dường như họ đã có một luận

đề nhất quán từ trước đến sau – Luận đề về con người cá nhân” [136, tr.63]. Với ý

nghĩa đó, chúng tôi cho rằng, đây là công trình đã trình bày một cách hệ thống, cặn kẽ

nhất về quan niệm con người cá nhân của nhóm Tự lực văn đoàn.

Tự lực văn đoàn dĩ nhiên là nhóm trí thức được chú ý nhiều nhất trên phương

diện là chủ thể của một khuynh hướng quan niệm về vấn đề con người cá nhân, nhưng

bên cạnh đó, cũng còn một số nhân vật khác, cũng nhận được sự chú ý của các nhà

nghiên cứu. Trong đó, một công trình rất đáng chú ý là bài viết “Phạm trù chủ nghĩa cá

nhân của tư tưởng phương Tây trong sự lý giải của Phan Khôi” của Lại Nguyên Ân.

Trong bài viết, Lại Nguyên Ân đã phân tích cách lý giải của Phan Khôi về cái gọi là

chủ nghĩa cá nhân thông qua hai bài báo “Tư tưởng của Đông phương và Tây phương”

và “Cá nhơn chủ nghĩa”. Đây cũng là hai bài báo mà Phan Khôi đã đề cập trực tiếp

đến khái niệm “chủ nghĩa cá nhân”, vì vậy, việc tập trung vào hai bài báo này của tác

giả Lại Nguyên Ân là hợp lý. Về nội dung sự lý giải của Phan Khôi, Lại Nguyên Ân

chỉ ra rằng, chủ nghĩa cá nhân, dưới sự lĩnh hội của Phan Khôi, có nét chính yếu là độc

lập, tự chủ, tự do, bình đẳng. Từ đó, bài viết đưa ra một số nhận định quan trọng là:

25

thứ nhất, Phan Khôi là một trong những nhân vật tiên phong trong việc phổ biến các

nội dung của chủ nghĩa cá nhân vào xã hội (đặc biệt trong vấn đề nữ quyền và vấn đề

chuyển đổi mô hình đại gia đình thành mô hình gia đình hạt nhân), và thứ hai là Phan

Khôi đã đưa ra một cách mô tả đúng về “chủ nghĩa cá nhân”, khi nhấn mạnh đến mối

liên hệ của nó với ý thức công dân và tinh thần dân chủ, chứ không phải là với chủ

nghĩa ích kỷ. Tất nhiên, do bài viết này chủ yếu bàn về sự lý giải của Phan Khôi về

“chủ nghĩa cá nhân”, nên vẫn còn nhiều nội dung liên quan đến quan niệm về vấn đề

con người cá nhân của Phan Khôi vẫn chưa được đề cập đến. Dù sao, cũng cần phải

nói rằng, vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX có sự gắn bó chặt

chẽ với sự xuất hiện của cái gọi là “chủ nghĩa cá nhân”, vì vậy, bài viết của Lại

Nguyên Ân là một nguồn tư liệu tham khảo rất có giá trị đối với chúng tôi trong việc

thực hiện đề tài này.

Ở một mức độ ít sâu sắc hơn, cũng có thể kể đến một số nghiên cứu về Nguyễn

An Ninh, khi phân tích về tư tưởng của ông, đã phần nào đề cập đến cả tư tưởng về cá

nhân, như công trình Nguyễn An Ninh, nhà tư tưởng tiêu biểu đầu thế kỷ XX ở Nam bộ

của Phạm Đào Thịnh, hay luận án tiến sĩ của Judith A. N. Henchy: Performing

Modernity in the writings of Nguyễn An Ninh and Phan Văn Hùm. Công trình thứ nhất,

khi bàn về tư tưởng của Nguyễn An Ninh về con người, đã trình bày một số luận điểm

của ông về vấn đề tự do cá nhân, mặc dù tương đối sơ lược. Trong khi ở công trình thứ

hai, Judith A. N. Henchy khi nhắc đến một số biểu hiện của tính hiện đại trong các tác

phẩm của Nguyễn An Ninh và Phan Văn Hùm, đã đề cập đến quan niệm của hai ông

về sự phản kháng lại kết cấu gia đình truyền thống dưới ảnh hưởng của Nho giáo [xem

148, tr.92]. Đặc biệt, với Nguyễn An Ninh, tác giả đã cố gắng chỉ ra những ảnh hưởng

của Nietzsche, một đại biểu cho chủ nghĩa cá nhân phương Tây, lên tư tưởng của ông.

Đây cũng là một điểm rất đáng lưu ý khi nghiên cứu về tư tưởng của Nguyễn An Ninh

về vấn đề con người cá nhân.

Nhìn chung, qua những công trình nghiên cứu về một nhóm trí thức hay một

nhà trí thức cụ thể, có thể thấy, Tự lực văn đoàn vẫn có thể xem là một tâm điểm của

sự chú ý. Bên cạnh đó, việc một số nghiên cứu khai thác vấn đề con người cá nhân ở

Phan Khôi, Nguyễn An Ninh cũng gợi ra những gương mặt nổi trội, đáng chú ý trong

giới trí thức tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Đây là những gợi ý rất tốt cho

chúng tôi trong việc xác định những gương mặt trí thức tiêu biểu, nhưng đồng thời,

26

cũng cho chúng tôi thấy rằng, còn nhiều nhân vật khác, cũng đóng một vai trò quan

trọng trong việc phát triển quan niệm về con người cá nhân ở Việt Nam thời kỳ này,

còn chưa được đề cập đến nhiều bởi giới nghiên cứu.

1.2.3. Những nhận định, đánh giá về ý nghĩa của quan niệm về vấn đề con người cá

nhân của trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX trong các công trình nghiên

cứu đã có

Hầu hết các công trình nghiên cứu liên quan đến quan niệm về vấn đề con

người cá nhân của tầng lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đều đã ít

nhiều đưa ra những nhận định, đánh giá – nhiều khi rất ngắn gọn – về ý nghĩa của

những quan niệm ấy. Nhìn lại những đánh giá ấy, có thể thấy, các nhà nghiên cứu tập

trung chỉ ra một số ý nghĩa sau:

Thứ nhất, khẳng định tính chất bước ngoặt, tính chất mới mẻ trong quan niệm

về con người cá nhân của tầng lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Họ

nhấn mạnh đến “luồng gió mới” mà những nhà trí thức tân học, đặc biệt là từ những

năm 30, đã thổi vào đời sống văn hóa người Việt. Lê Thị Dục Tú đánh giá tiểu thuyết

của Tự lực văn đoàn đã nêu lên những vấn đề mới, đánh dấu “sự xuất hiện công khai

của con người cá nhân, của chủ nghĩa cá nhân – trước xã hội” [136]. Đây cũng là đánh

giá của những nhà nghiên cứu khác, khi nhấn mạnh đến vai trò của các nhà văn những

năm 30 trong việc đưa ra một quan niệm mới mẻ về con người cá nhân ở Việt Nam

trong nửa đầu thế kỷ XX, như Thanh Lãng [xem 74, tr.643], nhóm tác giả Nguyễn Tài

Thư [xem 128, tr.69]...

Thứ hai, bên cạnh việc khẳng định tính “mới”, các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra

tính tiến bộ trong những quan niệm về con người cá nhân của giới trí thức tân học.

Chẳng hạn, Nguyễn Thanh Thủy, khi đánh giá về chủ nghĩa cá nhân của Nhất Linh, đã

cho rằng tư tưởng đấu tranh giải phóng cá nhân của ông chính là một “hệ giá trị tiến bộ” [126].

Thứ ba, các nhà nghiên cứu cũng phần nào chỉ ra những tác động tích cực của

quan niệm về vấn đề con người cá nhân của giới trí thức tân học đến các khía cạnh

khác nhau của xã hội. Nhóm tác giả Nguyễn Tài Thư đã chỉ ra: “Khi phái tân học khởi

xướng, dương cao ngọn cờ dân chủ, bình đẳng, tự do cá nhân thì như được phá xiềng,

cởi xích, nhiều bộ phận của giới trẻ, đặc biệt là giới trí thức văn nghệ sĩ hưởng ứng

nhiệt tình” [128, tr.77]. Còn Nguyễn Thanh Tuấn cho rằng chủ nghĩa cá nhân văn hóa

ở Việt Nam thời kỳ này là “ngọn nguồn cho sự đa dạng những phong cách cá nhân,

27

những tìm tòi mỹ học và tư tưởng – nghệ thuật trong văn chương, nghệ thuật” [137,

tr.31]. Ở đây, quan niệm mới về vấn đề con người cá nhân được nhìn nhận không chỉ

là một thành tựu của bản thân lịch sử tư tưởng Việt Nam, mà còn là một nền tảng quan

trọng cho sự phát triển của nền văn hóa, nghệ thuật Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Thứ tư, cũng có nghiên cứu, chẳng hạn của Nguyễn Thanh Tuấn, còn chỉ ra cả

những yếu tố mang tính tích cực trong quan niệm về vấn đề con người cá nhân của

giới trí thức đầu thế kỷ XX với xã hội hiện nay:

Đến bây giờ (vào đầu thế kỷ XXI) khi chuyển sang kinh tế thị trường với sự

giải phóng cá nhân khỏi các quan hệ kinh tế tập thể đã hơn 20 năm, người

ta mới cảm nhận ngày càng sâu sắc hơn cái mới của “Thơ mới”, của tiểu

thuyết “Tự lực văn đoàn”, của văn xuôi Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, của

hội họa Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, của ca nhạc Đặng

Thế Phong, Văn Cao, v.v... thuộc về nửa đầu và giữa thế kỷ XX [137, tr30].

Nói chung, mặc dù chỉ là những nhận định mang tính khái quát, ngắn gọn,

những nhà nghiên cứu đã đề cập đến những ý nghĩa khác nhau, cả về mặt lịch sử và

đương đại của quan niệm về vấn đề con người cá nhân của giới trí thức nói chung, giới

trí thức tân học đầu thế kỷ XX nói riêng. Chúng tôi tán đồng và tiếp thu những đánh

giá này của những nhà nghiên cứu đi trước, đồng thời, thông qua nghiên cứu của mình,

cũng sẽ cố gắng khái quát, tổng hợp nên ý nghĩa lịch sử, và ý nghĩa đương đại của

những quan niệm này.

1.3. Những vấn đề đặt ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trên cơ sở tìm hiểu, tổng hợp những kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài

luận án mà các học giả đi trước đã thực hiện, chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề đặt ra,

đòi hỏi phải được giải quyết trong công trình luận án của mình.

Trước hết, về vấn đề điều kiện, tiền đề cho sự hình thành quan niệm của tầng lớp

trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân, có thể thấy,

những công trình nghiên cứu có liên quan đến nội dung này, cho đến thời điểm hiện tại,

rất nhiều về số lượng và đa dạng về cách tiếp cận. Có những công trình nghiên cứu tổng

quát, cung cấp những tri thức nền tảng về bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ này, cũng có

những công trình đi sâu vào một khía cạnh nào đó của bối cảnh lịch sử. Mỗi công trình

nghiên cứu đều cung cấp cho chúng tôi những tư liệu và nhận định có giá trị về thời kỳ

lịch sử này. Trong số đó, có nhiều công trình, ở những mức độ khác nhau, đã phần nào chỉ

28

ra những tác động của bối cảnh lịch sử đến sự hình thành quan niệm mới về vấn đề con

người cá nhân ở Việt Nam.

Ở luận án của mình, chúng tôi không có tham vọng đưa ra những nhận định mới

về thời kỳ lịch sử này, mà cố gắng tiếp thu tối đa những thành quả mà các nhà nghiên cứu

đi trước đã đạt được. Riêng về tiền đề tư tưởng cho sự hình thành quan niệm của trí thức

tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân, đặc biệt là về sự du

nhập của tư tưởng phương Tây vào Việt Nam, do còn nhiều vấn đề chưa thực sự được làm

sáng tỏ – như chúng tôi đã chỉ ra ở trên, chúng tôi sẽ đặc biệt chú trọng việc tìm kiếm và

chỉ ra những tư liệu mới, góp phần làm sáng tỏ thêm về quá trình này ở Việt Nam. Ngoài

ra, mục đích chủ yếu mà chúng tôi hướng tới khi nghiên cứu về bối cảnh lịch sử Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX vẫn là cố gắng chỉ ra, trong những dữ kiện lịch sử đã được những nhà

nghiên cứu đi trước cung cấp và tổng hợp, đâu là yếu tố mang tính điều kiện, tiền đề cho

sự ra đời của một quan niệm mới về con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Về những công trình nghiên cứu liên quan đến quan niệm của trí thức tân học

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân, chúng tôi nhận thấy một số

đặc điểm đáng chú ý, cũng là hai khoảng trống nghiên cứu cần được khắc phục:

Thứ nhất là việc coi thế hệ trí thức những năm 30, mà đặc biệt là nhóm Tự lực

văn đoàn, như trung tâm điểm cho một quan niệm mới về con người cá nhân ở Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX. Điều này phản ánh một thực tế là, thời điểm những năm 30

có thể xem là giai đoạn cao trào của khuynh hướng tư tưởng đề cao giải phóng cá nhân

ở Việt Nam, là giai đoạn mà ở đó tinh thần giải phóng con người cá nhân được biểu

hiện một cách rõ nét và sâu sắc trên nhiều phương diện. Tuy nhiên, sự tập trung quá

mức của các nghiên cứu vào thời điểm những năm 30 đã khiến cho sự phát triển thực

tế của quan niệm về con người cá nhân ở Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX chưa

được thể hiện rõ. Bởi thực ra, vấn đề con người cá nhân và những quan niệm về nó ở

Việt Nam đã xuất hiện từ trước những năm 30, trước Tự lực văn đoàn. Chúng tôi cho

rằng, việc quay trở lại với những năm 20, chứ không phải là nhấn mạnh vào những

năm 30, quay trở lại với những trí thức tân học Nam kỳ, chứ không chỉ chú trọng vào

nhóm Tự lực văn đoàn ở Bắc kỳ, sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn toàn vẹn hơn về

lịch sử diễn tiến của quan niệm về con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Thứ hai, những nghiên cứu về quan niệm của giới trí thức tân học Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân thường có xu hướng nhấn mạnh đến

29

tính cấp tiến và tính phản truyền thống của nó. Một số nghiên cứu còn coi tính cấp tiến,

tính phản truyền thống như tinh thần chung của giới trí thức tân học. Tuy nhiên, chúng

tôi cho rằng, quan niệm của giới trí thức tân học Việt Nam về vấn đề này, trên thực tế,

phức tạp và đa diện hơn nhiều. Nếu chỉ nhìn vào hướng cấp tiến thì sẽ không thấy hết

được những khuynh hướng quan niệm khác nhau về vấn đề con người cá nhân ở Việt

Nam thời kỳ này. Ở trên chúng tôi đã đề cập đến việc cần phải quay lại thời điểm

những năm 20, nhưng không chỉ thế, còn cần phải quay ngược trở lại thêm một thập

niên nữa, để thấy phản ứng ban đầu của người trí thức tân học Việt Nam đối với quan

niệm cá nhân phương Tây thực sự như thế nào. Khi đề cập đến nhóm trí thức tân học

hoạt động trong thập niên thứ hai của thế kỷ XX, các nghiên cứu thường không bàn

đến quan niệm của họ về vấn đề con người cá nhân, và ở chiều ngược lại, những

nghiên cứu về vấn đề con người cá nhân cũng thường không bàn đến nhóm trí thức

này. Nhưng họ quả thật có đưa ra những quan niệm về vấn đề con người cá nhân, dù

có thể xem là mang tính “nghịch chiều”. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, một nghiên cứu

thực sự toàn diện về những quan niệm của trí thức tân học Việt Nam về vấn đề con

người cá nhân, bên cạnh việc đề cập đến những nhân vật cấp tiến vốn đã được bàn

luận đến trong nhiều công trình khác nhau như Nguyễn An Ninh, Phan Khôi, nhóm Tự

lực văn đoàn, không thể bỏ qua việc xem xét quan niệm của những học giả ít nhiều

mang tinh thần “bảo thủ”, “phục cổ”.

Ở luận án này, bên cạnh việc kế thừa những thành quả, những gợi mở của

những nghiên cứu được thực hiện trước đây, chúng tôi sẽ cố gắng khắc phục hai đặc

điểm mà chúng tôi cho là sự thiếu hụt chính của những nghiên cứu ấy. Thứ nhất,

chúng tôi cố gắng làm rõ những quan niệm về vấn đề con người cá nhân của nhóm trí

thức những năm 20, thông qua hai đại diện là Nguyễn An Ninh và Phan Khôi, xem họ

như những học giả có tính khai mở, đặt nền tảng cho nhóm Tự lực văn đoàn vốn được

xem như biểu tượng cho tinh thần giải phóng cá nhân ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đối

với riêng nhóm Tự lực văn đoàn, chúng tôi cố gắng khai thác các tác phẩm có tính chất

nghị luận hơn là tập trung di sản văn chương của họ - vốn là bộ phận đã được nghiên

cứu một cách tương đối kĩ lưỡng trong lĩnh vực văn học, đây cũng là hướng tiếp cận

phù hợp với đề tài luận án tiến sĩ triết học mà chúng tôi đang thực hiện. Thứ hai, chúng

tôi đặc biệt quan tâm đến quan niệm của nhóm trí thức theo khuynh hướng phục cổ,

với những đại diện như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Duy Cần. Họ không

30

chỉ là những nhân vật thể hiện rất rõ phản ứng ban đầu của giới trí thức tân học với

những quan niệm cá nhân của phương Tây, mà bằng những hoạt động văn hóa, học

thuật xuyên suốt nhiều thập niên, họ còn cho thấy khuynh hướng phục cổ mà họ là đại

diện, trên thực tế, là một khuynh hướng lớn, được duy trì trong suốt nửa đầu thế kỷ

XX, với những di sản rất đáng được quan tâm. Thông qua đó, chúng tôi kỳ vọng có thể

phản ánh được một cách tương đối toàn vẹn, sinh động diễn trình phát triển của quan

niệm về vấn đề con người cá nhân của trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

31

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Nhìn lại những công trình nghiên cứu có liên quan đến các nội dung được triển

khai trong luận án, chúng tôi nhận thấy rằng, những vấn đề mà luận án đặt ra và giải

quyết, trên thực tế, đã được các nhà nghiên cứu đi trước đưa ra bàn luận và phân tích ở

những mức độ khác nhau, có vấn đề đã được nghiên cứu khá kĩ lưỡng, chẳng hạn như

vấn đề bối cảnh lịch sử, cũng có vấn đề mới chỉ được nghiên cứu một cách hạn chế,

như những quan niệm mang tính phục cổ của tầng lớp trí thức tân học nửa đầu thế kỷ

XX về vấn đề con người cá nhân. Trong luận án của mình, chúng tôi cố gắng tiếp thu

một cách tối đa những thành tựu mà giới nghiên cứu đã đạt được, xem đó như những

tư liệu, những chỉ dẫn, gợi mở quan trọng đối với đề tài luận án. Mặt khác, dựa trên

việc xác định những khoảng trống, những điểm còn chưa được làm rõ trong các công

trình đã có, trong luận án của mình, chúng tôi tập trung chi ra những tác động của bối

cảnh lịch sử đến sự hình thành quan niệm của tầng lớp trí thức tân học về vấn đề con

người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, phân tích tính khuynh hướng trong

quan niệm về vấn đề này cũng như sự phát triển của từng khuynh hướng. Thông qua

đó, chúng tôi kỳ vọng có thể đưa ra một cái nhìn tương đối toàn diện, đa chiều về quan

niệm của tầng lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người

cá nhân, nhìn từ một số nhân vật có tính đại diện.

32

CHƯƠNG 2:

NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM CỦA

TRÍ THỨC TÂN HỌC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI CÁ NHÂN

2.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa dẫn đến sự hình thành quan niệm

về vấn đề con người cá nhân của trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

2.1.1. Điều kiện kinh tế ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

Đầu thế kỷ XX, sau khi hoàn tất công cuộc bình định thuộc địa, song song với

việc từng bước hoàn thiện bộ máy chính quyền, thực dân Pháp cũng đồng thời bắt tay

vào thực hiện các cuộc khai thác thuộc địa. Ờ thời kỳ này, bên cạnh những ngành sản

xuất cũ và quan hệ sản xuất cũ vẫn tiếp tục được duy trì, những hoạt động kinh tế của

thực dân Pháp đã tạo ra những ngành sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới và những

điều kiện mới cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là kể từ sau cuộc

khai thác thuộc địa lần thứ hai. Trong công trình Việt Nam Pháp thuộc sử, Nguyễn Thế

Anh đã trình bày rất rõ tính chất hỗn hợp cũ, mới của nền kinh tế Việt Nam thời thuộc

địa khi phân chia nó thành hai lĩnh vực: lĩnh vực tư bản và lĩnh vực truyền thống [xem

4, tr.186-203]. Lĩnh vực thứ nhất bao gồm các hoạt động kinh tế theo hướng tư bản

chủ nghĩa, và lĩnh vực thứ hai bao gồm các hoạt động kinh tế truyền thống về cơ bản

vẫn giữ nguyên như trước. Hai lĩnh vực này hầu như không có sự tác động qua lại

đáng kể, thậm chí tồn tại như hai khu vực biệt lập với nhau. Sự chuyển biến của nền

kinh tế Việt Nam thể hiện chủ yếu ở lĩnh vực thứ nhất, gắn với sự hình thành của

phương thức sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa.

Ở đây, chúng ta có thể thấy vai trò của tư bản trong nền kinh tế Việt Nam nửa

đầu thế kỷ XX. Nguồn vốn đầu tư của giới tư sản Pháp vào Việt Nam, đặc biệt là từ

sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, không ngừng tăng lên, tập trung vào một số lĩnh

vực: nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và đặc biệt là khai mỏ. Với sự xuất hiện của nguồn

vốn đầu tư từ Pháp, nền sản xuất bắt đầu được kỹ nghệ hóa, những công xưởng lớn

được xây dựng, những đồn điền lớn ra đời.

Mặc dù những gì đã diễn ra cho thấy tư bản phần lớn vẫn nằm trong tay người

Pháp, nguồn lợi từ những hoạt động kinh tế mới hầu hết thuộc về người Pháp, trong

khi đa phần người Việt vẫn đứng ngoài cuộc, sinh sống dựa trên những hoạt động kinh

33

tế truyền thống không có nhiều khởi sắc, bất chấp những hoạt động kinh tế tư bản đang

diễn ra sôi nổi, nhưng, sự biến đổi trong hoạt động kinh tế cùng quá trình tích lũy tư

bản trong suốt giai đoạn đầu thế kỷ XX cũng đã làm xuất hiện ở Việt Nam giai cấp tư

sản bản xứ, tuy rằng còn ít ỏi về số lượng và thua kém về thế lực. Lịch sử thời kỳ này

đã ghi nhận sự xuất hiện của một số nhà tư sản lớn người Việt, nắm giữ trong tay một

nguồn vốn lớn, sở hữu những công xưởng, cơ nghiệp đồ sộ, với một đội ngũ nhân

công làm thuê đông đảo, như Trương Văn Bền, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu, Lê

Phát Vĩnh v.v... Họ tham gia vào nhiều hoạt động kinh tế khác nhau, như dệt may, làm

nước mắm, xay gạo, in ấn, vận tải, khai mỏ, v.v... Nguồn vốn của các công ty của

người Việt cũng tăng lên một cách nhanh chóng, đặc biệt là sau Chiến tranh Thế giới

lần thứ nhất. Chẳng hạn, công ty Quảng Hưng Long, vốn đầu tiên năm 1907 mới là

3000 đồng, thì đến năm 1920 đã là 200.000 đồng, công ty Liên Thành, vốn ban đầu

năm 1907 là 93.200 đồng, thì đến năm 1920 đã tăng lên 200.000 đồng, Trương Văn

Bền năm 1907 mới có số vốn là 3000 đồng, thì đến năm 1920 cũng đã có 150.000

đồng. Tương ứng với sự gia tăng về vốn, số lượng nhân công làm thuê và thiết bị máy

móc trong tay họ cũng tăng lên. Nhiều công xưởng có đến hàng trăm nhân công làm

thuê, như xưởng thêu của Trương Đình Long (300 thợ), nhà máy dệt của Lê Phát Vĩnh

(50 công nhân dệt và gần 100 công nhân quay tơ), nhà máy gạch Hưng Ký của Trần

Văn Thanh (300 thợ) [xem 9, tr.79-104] v.v... Nếu so sánh với những hoạt động kinh

tế ít nhiều còn mang màu sắc văn hóa, chính trị, gắn với những cuộc vận động duy tân

do những nhà nho yêu nước như Phan Thúc Duyện, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế

v.v... đứng ra tổ chức ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, thì những hoạt động kinh tế của tầng

lớp tư sản người Việt ở giai đoạn sau thực sự đã mang những khác biệt sâu sắc và thể

hiện rõ tính chất tư bản chủ nghĩa. Về nguồn vốn, họ thực sự trải qua một quá trình

tích tụ tư bản, trong khi ở thế hệ nhà nho duy tân, những hoạt động kinh tế vẫn còn

dựa trên nguồn vốn huy động từ những người yêu nước. Về động lực, thế hệ trước đề

cao và tiến hành các hoạt động kinh tế là xuất phát từ sự thôi thúc của lợi ích dân tộc,

trong khi ở thế hệ sau, lợi ích cá nhân, lợi nhuận kinh tế mới là những động cơ hàng đầu.

Sự phát triển bước đầu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam,

dù thiếu toàn diện, cũng đủ để gây ra những tác động đáng kể lên nền tảng tinh thần

của xã hội. Tư bản trở thành một trong những yếu tố quan trọng chi phối sự vận hành

của xã hội. Cơ chế song hành giữa tri thức và quyền lực trong xã hội truyền thống -

34

nơi mà người ta thông qua hệ thống khoa cử để hướng đến những vị trí quyền lực

trong hệ thống chính quyền – đứng trước sự cạnh tranh từ một cơ chế khác: quyền lực

thuộc về những người có nguồn tư bản lớn. Bằng thế lực kinh tế của mình, những nhà

tư sản mở rộng tầm ảnh hưởng của mình sang những lĩnh vực khác, như văn hóa và

chính trị. Họ có thể lập tòa báo, nhà in, họ cũng có thể tìm cách tham gia vào nghị

trường. Vị thế của tầng lớp thương nhân, vốn chỉ giữ một vị trí thấp trong thang bậc

“tứ dân” (sĩ, nông, công, thương), do đó ngày càng tăng lên. Cách nhìn nhận của xã

hội đối với họ cũng thay đổi. Hình mẫu nhà tư sản trở thành một hình mẫu đáng

ngưỡng mộ, thay vì một hình mẫu bị xem thường. Bên cạnh những tấm gương về đạo

đức, học vấn trong quá khứ, bước sang thế kỷ XX, người Việt Nam đã có thêm những

tấm gương làm giàu. Bên cạnh những công trình khảo cứu văn hóa, trên mặt báo cũng

bắt đầu xuất hiện những bài khảo cứu về kinh tế, tiền tệ. Bên cạnh những sách dạy

luân lý, cũng bắt đầu xuất hiện thêm cả những sách dạy làm giàu, sách dạy tổ chức

công việc làm ăn như Gương làm giàu, Mua may bán đắt, Sách dạy làm 41 nghề ít vốn,

Giàu hơn sang [xem 149, tr.123] v.v...

Tất cả những hiện tượng đó đã cho thấy một sự xoay chiều trong xã hội người

Việt do sự hiện diện của phương thức sản xuất mới mang lại. Việc quan tâm đến hoạt

động kinh tế, đến quyền lợi cá nhân và cách để đạt được những quyền lợi ấy càng ngày

càng được xem như một nhu cầu chính đáng, và cần được luận chứng về mặt tư tưởng.

Mặt khác, những rạn nứt trong các mối quan hệ xã hội truyền thống được gây nên bởi

sự chi phối của tư bản và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng khiến cho một

bộ phận người Việt không dễ dàng chấp nhận, và họ tỏ ra thận trọng hơn, thậm chí có

xu hướng bảo thủ trong việc tiếp nhận một lối sống mới, cũng như một luồng tư tưởng

mới nhấn mạnh đến việc giải phóng cá nhân đang trở nên phố biến trong những năm

đầu thế kỷ XX. Trong một bối cảnh như vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi người

Việt Nam giai đoạn này tỏ ra đặc biệt quan tâm và bàn luận về những vấn đề liên quan

đến quyền lợi cá nhân, hay về mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, đồng thời đưa

ra rất nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh vấn đề này..

2.1.2. Điều kiện chính trị ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

Nhìn lại những diễn biến chính trị ở Việt Nam kể từ khi thực dân Pháp nổ tiếng

súng đầu tiên ở Đà Nẵng năm 1858, có thể thấy một đặc điểm quan trọng là: quá trình

thực dân hóa đã song hành với quá trình giải thể vương quyền của triều đình nhà

35

Nguyễn. Trong quá trình đó, triều đình nhà Nguyễn không chỉ đánh mất vị trí của

mình trong hệ thống quyền lực chính trị, mà còn đánh mất luôn vị trí của mình trong

tâm thức của người dân Việt Nam. Trong một chuỗi dài những biến cố chính trị ở thời

kỳ này, phong trào Cần Vương, được khởi xướng bởi Tôn Thất Thuyết vào năm 1885,

với danh nghĩa phò vua Hàm Nghi chống thực dân Pháp xâm lược, có thể xem là nỗ

lực phản kháng quân sự cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn trước thực dân Pháp, mà

thất bại của nó chính là cột mốc đánh dấu quá trình giải thể vương quyền ấy. Như cái

tên của nó, phong trào Cần Vương lấy nhà vua, triều đình làm ngọn cờ để huy động

lực lượng. Mục đích của nó là đánh đuổi thực dân, khôi phục vương quyền. Những

văn thân, sĩ phu tham gia phong trào là những người vẫn mang nặng nghĩa vua – tôi,

những người sẵn sàng dấn thân vào một cuộc chiến không cân sức với một tinh thần vì

bổn phận và trách nhiệm đối với vương triều, với một niềm tin sắt đá vào nền tảng

luân lý Nho giáo, như Nguyễn Quang Bích, một trong những nhân vật tiêu biêu của

phong trào, từng khẳng định một cách quyết liệt: “Chúng tôi cam lòng chịu chết vì

nghĩa vua tôi” [123, tr.217]. Vì vậy, sự thất bại của phong trào này vào năm 1896

không chỉ là thất bại của một sự phản kháng quân sự, mà còn là sự thất bại của một trật

tự và lý tưởng đạo đức được xây dựng trên nền móng Nho giáo.

Trong khi đó, song song với công cuộc bình định, dập tắt những phong trào đấu

tranh chống thực dân của người Việt Nam, người Pháp cũng đã khởi động quá trình

xây dựng chính quyền thuộc địa của mình ngay từ khi họ chiếm được ba tỉnh miền

Đông ở Nam Kỳ. Quá trình thiết lập chính quyền thuộc địa của thực dân Pháp cũng

chính là quá trình mà họ từng bước vô hiệu hóa quyền lực của triều đình nhà Nguyễn

và thâu tóm quyền lực về tay mình. mà đỉnh điểm của sự thâu tóm quyền lực ấy được

đánh dấu bởi bản Quy ước được ký ngày 6/11/1925 giữa thực dân và đại diện chính

quyền phong kiến sau khi vua Khải Định mất, còn người kế vị là Vĩnh Thụy vẫn đang

ở Pháp. Theo đó, mọi vấn đề liên quan đến ngành tư pháp, công việc cai trị, tổ chức

công sở, tuyển dụng, thăng giáng quan lại đều nằm trong tay Khâm sứ Trung Kỳ.

Sự hình thành của chính quyền thuộc địa cũng đồng nghĩa với sự rớt giá thảm

hại của ngôi vua vốn có quyền lực tối thượng trong chế độ quân chủ truyền thống ở

Việt Nam. Trong hệ thống quyền lực ở Việt Nam, nhà vua chỉ còn là bù nhìn, những vị

vua nào không cam chịu điều đó và mang tinh thần chống Pháp, thì đều nhanh chóng

bị tước bỏ quyền lực (chẳng hạn trường hợp Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân). Nói

36

cách khác, vương vị vẫn còn, nhưng vương quyền thì đã mất. Mà ngay cả cái vương vị

còn lại ấy cũng không còn tính thiêng liêng như trước. Bước sang đầu thế kỷ XX,

người Việt Nam đã không còn hướng về phía nhà vua và triều đình như một đại diện

cho quyền lợi của dân tộc hay như một thứ quyền uy tối thượng, một thứ tâm trạng ít

nhiều còn tồn tại ở thời Cần Vương. Chuyện vua quan nhà Nguyễn trở thành chủ đề

cho những sự châm biếm và phê phán công khai không còn là hiếm. Ở nước Pháp,

Nguyễn Ái Quốc đã chào đón chuyến công du của vua Khải Định bằng những bản văn

mang tính châm biếm sâu sắc, như vở kịch “Con rồng tre”, hay truyện ngắn “Vi hành”;

còn Phan Châu Trinh không ngần ngại viết về ông vua của mình với một giọng điệu

đầy mỉa mai:

Sáu mươi năm đã trôi qua, dân Nam đã tiếp xúc với nước Pháp, với nền văn

minh Pháp, họ cũng đã biến đổi, không còn ở thời buổi coi vua như “hiện

thân của quốc gia” nữa. Chúng ta đã qua cuộc chiến tranh thế giới, cuộc

chiến tranh cho nhân quyền và tự do, là những người có đóng góp vào

thắng lợi, chúng ta có quyền được hưởng một cái gì đó hơn là một chuyến

đi của Hoàng đế. Dù ông ta có dạo chơi đến mấy ở nước Pháp, thì khi về

ông ta vẫn là ông ta, vẫn ngốc nghếch như xưa và nước Nam vẫn cứ là nước

Nam. Nếu không có ngài trị vì nữa, thì nước Nam cũng sẽ không chút mảy

may buồn phiền [132, tr.98].

Trong khi đó, ngay cả ở trong nước, nơi về danh nghĩa, triều đình nhà Nguyễn

vẫn đang tồn tại, Phan Khôi cũng thừa nhận rằng, ý niệm về tính thiêng liêng của

vương vị, kể từ Khải Định, đã mất đi trong tiềm thức của người Việt Nam:

Hồi trước, đức Thành Thái ở kinh đô, hát xướng luôn đêm, chơi bời thả cửa,

mà khi ngài ngự vô Sài Gòn, ngự ra Hà Nội, thiên hạ còn kính mến hết lòng,

nhiều ông già bà cả thấy phớt qua bóng ngài đi mà động lòng nước cũ vua

xưa đến nỗi nhỏ hai hàng nước mắt. Cho đến ông Cường Để nằm bẹp bên

Nhựt Bổn, mà ở bên nầy cũng có kẻ dám thấy vì bệ hạ tương lai ấy trong

chiêm bao. Nói cho phải, cái ngòi bị ẩm ấy tắt hẳn đi, là từ lúc đức Khải

Định sang Pháp về [62, tr.67].

Khi trên thực tế vương quyền đã mất, vương vị chỉ còn là hư vị, hoàng đế cũng

không còn là một danh xưng mang tính thiêng liêng, thì những quan niệm luân lý xây

dựng trên nó và vì nó cũng bị lay động đến tận gốc rễ. Mối quan hệ vua tôi vốn dĩ

37

đứng đầu trong “tam cương”, nay không còn là mối bận tâm quá lớn của người Việt

Nam, ngay cả ở trong giới nho sĩ. Thang bậc trật tự xã hội dựa trên “tam cương”, do

đó, cũng đứng trước sự thách thức. Ở một mức độ nhất định, sự giải thể vương quyền

cũng đồng nghĩa với việc người Việt Nam phần nào được giải phóng khỏi những mô

thức quan hệ xã hội truyền thống vốn mang đầy tính ràng buộc đối với con người cá nhân.

Mặt khác, trong quá trình hoàn thiện chính quyền thuộc địa, thực dân Pháp

đồng thời cũng tạo dựng một số thiết chế cho phép những người Việt Nam nằm ngoài

hệ thống quan lại, dù không phải là đa số dân chúng, có thể tham gia vào đời sống

chính trị, đó là những thiết chế có vai trò như nghị viện ở các nước phương Tây, như

Hội đồng Quản hạt Nam kỳ, Viện Dân biểu Bắc kỳ, Viện Dân biểu Trung Kỳ. Mặc dù

những thiết chế này không được mở rộng cho quảng đại quần chúng, không đại diện

được cho tiếng nói, quyền lợi của đại đa số người Việt, nhưng chúng cũng tạo nên

những không gian mới cho sinh hoạt chính trị ở Việt Nam, một không gian mà ở đó,

các cá nhân có cơ hội được nói lên tiếng nói đại diện cho quyền lợi của tầng lớp mình.

Tất cả những biến chuyển trên trong đời sống chính trị đã mở ra cho mỗi cá

nhân trong xã hội khả năng được giải phóng khỏi hệ hình của trật tự luân lý cũ. Con

người “thần dân” – hình mẫu con người có tính phục tùng trong chế độ quân chủ

chuyên chế – được thay thế bằng con người “quốc dân” – hình mẫu con người không

nhìn nhận nó trong sự quy thuộc với nhà vua và với triều đình cai trị, mà với đất nước

mà nó thuộc về, và tiến thêm một bước, là con người “công dân” – hình mẫu con

người tham gia vào xã hội với tư cách những con người bình đẳng, là chủ thể của

những quyền lợi mà nó đáng được hưởng. Đó cũng chính là quá trình mà người Việt

Nam ngày càng ý thức về bản thân rõ hơn như một con người cá nhân. Chính trong

một bối cảnh chính trị như vậy, vấn đề địa vị con người cá nhân ngày càng được coi

trọng, và những quan niệm mới về con người cá nhân, đặc biệt là quan niệm về tự do

cá nhân, vốn vượt xa khỏi khuôn khổ mô thức tư duy truyền thống, mới có điều kiện

nảy sinh.

Ở chiều ngược lại, chúng ta cũng cần lưu ý đến sự kiện vua Bảo Đại “hồi loan”

năm 1932. Trong bối cảnh chính trị Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, sự kiện này đặc biệt

thu hút sự chú ý của dư luận, và nó nhen nhóm lên trong một bộ phận trí thức niềm hy

vọng vào việc bãi bỏ bản Quy ước 1925 để hướng đến viễn cảnh một triều đình có

nhiều thực quyền hơn, đủ sức làm nền tảng cho một cuộc cải cách. Ít ra, hình ảnh một

38

vị vua “Tây học” cũng mang lại nhiều kỳ vọng và nguồn cảm hứng hơn cho những

người muốn níu giữ chế độ quân chủ và hệ tư tưởng của nó trong thời điểm mà cả hai

đều đang trở thành đối tượng của sự đả phá. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên nếu

đến những năm 30, chúng ta vẫn có thể thấy sự hiện diện của chủ trương tái thiết lập

trật tự xã hội truyền thống như một sự đối kháng với những quan niệm cổ vũ sự giải

phóng cá nhân, chống lại lễ giáo phong kiến.

2.1.3. Điều kiện xã hội ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

Cùng với những biến động trong lĩnh vực kinh tế và chính trị, xã hội Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX cũng đứng trước những biến chuyển hết sức sâu sắc. Trong đó, liên

quan tới sự hình thành của quan niệm về vấn đề con người cá nhân, chúng tôi đặc biệt

nhấn mạnh đến biến chuyển có tính then chốt là sự dịch chuyển không gian sinh sống,

hoạt động của người Việt, gắn với sự ra đời của những đô thị theo kiểu mẫu phương

Tây, cũng như sự xuất hiện của những tầng lớp, giai cấp mới trong cơ cấu xã hội.

Quá trình chuyển đổi của nền kinh tế Việt Nam, từ một nền sản xuất nông

nghiệp truyền thống sang một nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa đi liền với

quá trình người Việt Nam bị tách ra khỏi ruộng đất, ra khỏi cộng đồng làng xã nông

thôn, và được đặt vào một không gian hoạt động mới, không gian của những đồn điền,

nhà máy và đô thị. Dưới tác động của các cuộc khai thác thuộc địa, xã hội Việt Nam

đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự hình thành của những đô thị lớn theo hình mẫu

phương Tây, khác biệt hẳn với hình mẫu đô thị truyền thống. Từ cuối thế kỷ XIX,

người Pháp bắt đầu thiết lập nên ở Việt Nam một hệ thống đô thị gồm 3 cấp, trải dài

khắp Bắc, Trung, Nam. Trong đó, đô thị cấp 1 có Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, đô thị

cấp 2 có Đà Nẵng, Chợ Lớn..., đô thị cấp 3 có Nam Định, Hải Dương... Những đô thị

mới đã trở thành trung tâm diễn ra các hoạt động sôi nổi trong các lĩnh vực kinh tế,

văn hóa ở mỗi vùng, thu hút người nông dân đến làm thuê, người trí thức đến học tập,

làm việc, đặc biệt là hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn. Trong nửa đầu thế kỷ XX, đây

chính là nơi hội tụ của những nhà trí thức tân học, những nhóm trí thức tân học nổi bật

nhất ở Việt Nam. Nhìn lại hành trình của những nhà trí thức tân học (và thậm chí cả

cựu học), có thể nhận thấy rằng, họ có thể xuất thân từ những vùng quê khác nhau,

song đã lựa chọn những đô thị lớn, đặc biệt là Sài Gòn hay Hà Nội, để làm nơi gây

dựng sự nghiệp cho mình.

39

Lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến một sự chuyển dịch

đáng chú ý về không gian sinh sống của người Việt Nam. Theo thống kê của Pierre

Gourou, trong khoảng 9 năm, từ 1926 đến 1934, ở Bắc kỳ đã có gần 89.800 người rời

khỏi làng quê của mình, và trong số đó, có 55.000 người quay trở về [xem 45, tr.248].

Những người đi làm công nhân ở các mỏ thường có xu hướng làm việc lâu dài và

không quay trở về mà định cư thành một cộng đồng mới ở chính vùng đất đó. Cùng

lúc đó, những người có điều kiện được ra thành phố học theo chương trình giáo dục

Pháp – Việt cũng ngày càng nhiều, và phần lớn trong số họ không có xu hướng quay

về với làng xã của mình, nhất là khi họ có thể tìm kiếm cho mình nhiều cơ hội ở những

đô thị đang phát triển theo hình mẫu phương Tây. Pierre Gourou đã nhận xét rất xác

đáng rằng:

Ngoài một số ngoại lệ, tương ứng với những nhân vật đặc biệt, người Việt

Nam có học trở về làng rất khó khăn. Đời sống tín ngưỡng của làng xã

không còn ràng buộc đối với anh ta và những tranh chấp chính trị trong

làng không làm anh ta quan tâm; mặt khác, sự thiếu tiện nghi và ăn uống

đạm bạc của đời sống ở làng làm anh ta chán nản. Phải xót xa khi nhận thấy

sự đánh mất tình cảm như vậy đang diễn ra; nhưng cũng không thể trách

móc những người Việt Nam đó; nền học vấn duy lý và duy vật mà họ đã

tiếp thu không cho họ giữ lòng tin vào các vị thần làng; hiểu biết về thế giới

bên ngoài khiến họ thấy rõ tính nhỏ nhen bủn xỉn trong đời sống chính trị

làng xã; những thói quen họ đã tiếp thu ở thành thị, trong các trường đại

học hoặc ở bên Pháp làm cho họ không ưa sự ngây ngô quê mùa. Tất cả những

điều đó rất là con người [45, tr.251].

Nhận định này đã chỉ ra sự ngăn cách giữa thành thị và nông thôn, đó không chỉ

là sự ngăn cách về mặt địa lý, mà còn là sự ngăn cách về mặt xã hội, văn hóa. Thành

thị và nông thôn là hai thế giới cách biệt, nơi mà những con người sống trong đó theo

đuổi những lý tưởng khác nhau, những quan niệm sống khác nhau.

Trong xã hội truyền thống, nông thôn cũng vẫn là một địa bàn hoạt động của

người trí thức. Khi đó, họ theo đuổi một lý tưởng lập thân hoàn toàn cổ điển: đi học,

tham gia vào các kỳ thi, nếu thi đỗ thì làm quan, hỏng thi thì làm ông đồ, thầy địa lý,

thầy thuốc... trong làng xã của mình. Đó là một con đường hầu như được định sẵn cho

những người theo nghiệp đèn sách. Họ hầu như không có nhiều lựa chọn. Đôi khi, một

40

số nhà nho đỗ đạt cũng có thể chọn cho mình con đường không tham gia quan trường,

nhưng đó không phải là lựa chọn quá phổ biến. Trong khi đó, đầu thế kỷ XX, thành thị

lại là nơi mang đến cho người trí thức quá nhiều sự lựa chọn khác nhau: họ có thể làm

viên chức, làm việc cho các công ty, dạy học, làm báo, làm luật sư, bác sĩ v.v... Họ có

thể cùng lúc làm nhiều việc, hoặc từ việc này chuyển sang việc khác. Đây là một hiện

tượng phổ biến, nhìn lại những gương mặt trí thức nổi bật ở Việt Nam thời kỳ này, có

thể thấy hầu như ai cũng đã hoạt động và gây dựng sự nghiệp của mình với nhiều tư

cách khác nhau. Nói cách khác, ở thành thị, người ta tương đối tự do trong việc lựa

chọn cách thức lập thân cho mình, và những lựa chọn ấy thường liên quan đến những

cân nhắc có tính cá nhân, hơn là chịu sự chi phối của những khuôn mẫu truyền thống.

Có thể nói, thành thị đã trở thành nơi dung dưỡng cho những giai cấp, tầng lớp mới

hình thành trong xã hội Việt Nam (người công nhân di cư từ nông thôn, người trí thức

tiểu tư sản lựa chọn thành thị làm nơi lập nghiệp, người tư sản với những công ty, nhà

máy, xưởng thợ v.v...), và đồng thời cũng là nơi nuôi dưỡng những gì được coi là mới

mẻ, là phản truyền thống ở Việt Nam thời điểm đó. Điều đó khiến cho thành thị, ở thời

kỳ này, hiện lên như một không gian hầu như hoàn toàn đối lập với nông thôn, và nếu

nông thôn là không gian của sự ngưng trệ, của sự ràng buộc, của gia đình, dòng tộc, thì

thành thị là không gian của sự biến động, của sự tự do, của cá nhân, của những mối

giao tiếp không dựa trên quan hệ dòng tộc.

Chúng ta có thể thấy sự đối lập đó, được khắc họa dưới góc độ văn chương, qua

hai đoạn miêu tả dưới đây của Nhất Linh trong tiểu thuyết Lạnh lùng. Đây là đoạn viết

về nông thôn:

Nhung ngắm nghía phong cảnh quanh nhà, phong cảnh không bao giờ thay

đổi, trong bao năm nàng nhìn đã quen mắt; nàng thuộc đến cả hình dáng

từng cây mọc ở trong vườn, hay lộ sau các mái nhà, các bức tường. Những

mảnh giời và những làn mây phớt hồng trôi nhẹ sau những thân cau trắng,

nàng nhìn thấy có vẻ thân mật, như một người bạn quen từ lâu; mây tuy mỗi

lúc một khác nàng tưởng như chiều nào cũng giống chiều nào, cũng vẫn

những đám mây hôm qua bay nguyên ở góc trời cũ: hình ảnh cuộc đời bằng

phẳng của nàng êm ả, nhẹ nhàng trôi theo ngày tháng.

Xa nữa, trên mấy nóc nhà tranh, ngọn một dặng nhãn lá xanh đen in rõ trên

nền trời: chỗ ấy là nhà của cha mẹ nàng. Nhà nàng và nhà chồng nàng đời

41

đời an nghiệp ở đây; trừ mấy năm đi học xa, còn thì từ bé nàng sống trong

cái xã hội nhỏ này như con cá cả đời sống trong một cái ao con, chung

quanh toàn người quen thuộc và yêu trọng nàng [80, tr.24].

Còn dưới đây, là những câu viết về “hè phố”, về không gian đô thị:

Khi vú già đã đi xa, Nhung trả tiền rồi bước ra ngoài hè phố. Đi một mình lẫn

với những người qua lại rộn rịp, không ai quen biết, Nhung thấy mình như

người vừa thoát ở nhà tù ra, ngây ngất sống cái đời tự do, không bó buộc [80,

tr.119].

Sự đối lập của hai không gian nông thôn và đô thị, được miêu tả qua hai đoạn

văn trên, là rất rõ ràng, một bên là không gian của sự “êm ả, nhẹ nhàng”, của những

“người quen thuộc”, như thể “con cá cả đời sống trong một cái ao con”, còn bên kia là

không gian của sự “rộn rịp”, “không ai quen biết”, như thể “vừa thoát ở nhà tù ra, ngây

ngất sống cái đời tự do, không bó buộc”. Những cảm nhận của nhân vật Nhung, trong

trường hợp này, phản ánh cảm thức của người Việt Nam đầu thế kỷ XX về không gian

đô thị như một không gian của sự giải phóng.

Có thể thấy, không gian sống, không gian hoạt động của người Việt Nam, trước

tác động của những cuộc khai thác thuộc địa, đã được mở rộng, người nông dân có thể

rời bỏ nông thôn để trở thành người công nhân, người trí thức cũng có thể rời bỏ nông

thôn để đi tìm kế sinh nhai, hay tìm cách tạo dựng sự nghiệp ở những thành phố lớn.

Không chỉ thế, còn có cả những người dịch chuyển từ thành phố này sang thành phố

khác (phổ biến là sự dịch chuyển từ Hà Nội đến Sài Gòn và ngược lại), hay thậm chí là

đi sang một đất nước khác (nhất là nước Pháp). Việc người Việt Nam bị bứt ra khỏi

không gian sinh hoạt truyền thống là nông thôn, làng xã, gia tộc và được đặt vào trong

một không gian sinh hoạt rộng lớn hơn, năng động hơn, tự do hơn, đồng thời nhiều khi

cũng cô độc hơn, là một tiền đề quan trọng cho sự hình thành của cảm thức về cái tôi

cá nhân, một thứ cảm thức mới mẻ, khó có thể tìm thấy trong xã hội cổ truyền. Đi

ngược về Tây phương thế kỷ Ánh sáng (XVIII), chúng ta cũng có thể thấy điều tương tự:

Mỗi người, nhất là ở thành phố, bao giờ cũng tập trung nhiều hơn vào chính

mình, cũng tự quyết định mình theo ham muốn riêng của mình, cũng theo

đuổi một hạnh phúc vật chất hơn và như vậy anh ta trực tiếp và bảo vệ một

lĩnh vực đời sống riêng ngày càng ít lệ thuộc vào những ràng buộc tập thể.

Cuộc cách mạng thành thị đã bắt đầu đang đóng một vai trò cơ bản trong sự

42

xuất hiện này của cái cá nhân “riêng tư”. Trong khi phát triển mạnh mẽ, các

thành phố lớn đầu tiên trở thành những trung tâm thu hút chiếm ưu thế của

nền văn minh mới cá nhân luận [76, tr.58].

Nói cách khác, ý thức về con người cá nhân, sự gia tăng mối quan tâm đến con

người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX có mối liên hệ chặt chẽ với tầng lớp thị

dân và không gian đô thị theo hình mẫu phương Tây được hình thành trong bối cảnh

thuộc địa.

Sự giải phóng cá nhân về mặt tư duy, tình cảm, tư tưởng đã bắt đầu với sự giải

phóng cá nhân về không gian sinh hoạt. Rõ ràng, chỉ có những biến động, chuyển dịch

xã hội diễn ra trong những năm đầu thế kỷ XX mới có thể tạo nên những điều kiện cho

sự xuất hiện của con người cá nhân. Lương Đức Thiệp, năm 1944, đã có một tổng kết

thú vị về điều này:

Một số đông thanh niên nam nữ làm công chức, làm thợ, làm giáo sư, làm

trạng sư, bác sĩ, văn sĩ, giáo viên, nữ giáo viên, khán hộ, nữ khán hộ, tiểu

thương, tiểu kỹ nghệ, v.v... tập trung tại các đô thị, thoát ly được hệ thống

kinh tế gia đình, đã đề xướng vấn đề phân cư mà chủ trương chế độ tiểu gia

đình. Cái lý tưởng “Lũy thế đồng cư, Tứ đại đồng đường” là hạnh phúc tối

cao của chủ nghĩa đại gia tộc dựng trên kinh tế nông nghiệp không còn hấp

dẫn người Việt Nam mạnh mẽ như xưa nữa. Hình thức đại gia tộc dần dần

bị phá vỡ theo đà phát triển của kỹ nghệ cơ khí. Cá nhân chủ nghĩa được

chỗ tựa trong xã hội cũng nảy sinh [119, tr.325].

Trong một không gian xã hội đang biến chuyển, với sự hiện diện của các tầng

lớp, giai cấp mới gắn với không gian đô thị hiện đại, các quan niệm về cá nhân của

phương Tây – vốn hầu như xa lạ với toàn bộ truyền thống văn hóa Việt Nam – mới có

thể bắt rễ và tìm được chỗ đứng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam đầu thế

kỷ XX, để từ đó, tạo nên tầm ảnh hưởng sâu sắc đến các quan niệm về vấn đề con

người cá nhân ở Việt Nam thời kỳ này.

2.1.4. Điều kiện văn hóa ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX cũng là giai đoạn chứng kiến những biến đổi sâu

sắc trong đời sống văn hóa của người Việt Nam, từ những yếu tố mang tính bề mặt,

cho đến những yếu tố nằm trong căn cốt của nền văn hóa. Trong mối liên hệ với sự

hình thành của những quan niệm về vấn đề con người cá nhân thời kỳ này, chúng tôi

43

đặc biệt chú ý đến những biến chuyển sau: sự du nhập và phổ biến của lối sống và các

hình thức sinh hoạt văn hóa phương Tây, sự hình thành của nền giáo dục Tây học và

sự phát triển của hệ thống báo chí, xuất bản. Đây là những nhân tố mới, xuất hiện cùng

với sự hiện diện của thực dân Pháp ở Việt Nam, làm biến đổi diện mạo nền văn hóa

Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Tất nhiên, ở tầng sâu của lĩnh vực văn hóa,

còn cần phải đề cập đến những vấn đề tư tưởng, nhưng đây là một vấn đề lớn, có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành những quan niệm mới về vấn đề con

người cá nhân, nên chúng tôi sẽ đề cập riêng ở phần tiếp theo.

Thay đổi trong lối sống là một sự thay đổi dễ nhận diện, khi nó biểu hiện ra

ngay trong hình thức bề ngoài của xã hội. Đó cũng là sự thay đổi mang tính khởi điểm,

bởi chính những thay đổi ở hình thức bề ngoài ấy sẽ mở đường cho những thay đổi văn

hóa ở tầng sâu hơn, trong tâm lý, tính cách hay tư tưởng. Sự du nhập của văn hóa

phương Tây, trước hết, đã làm thay đổi những hình thức, lề lối sinh hoạt của người

Việt Nam. Quá trình này là quá trình không đơn giản, song cho đến đầu thế kỷ XX, nó

về cơ bản đã được thực hiện nhờ lực đẩy từ cả hai phía: một bên, sự hiện diện của

người phương Tây ở Việt Nam cùng với những lề lối sinh hoạt của họ, và bên kia,

người Việt Nam nhận thấy những tiện ích mà lối sống đó mang lại, nên đã chủ động

thúc đẩy để lề lối sinh hoạt đó ngày một lan rộng và ăn sâu vào các tầng lớp người

Việt. Trong cuộc vận động duy tân năm 1906, tầng lớp nho sĩ bắt đầu lên tiếng cho

những sự cải cách trong sinh hoạt thường ngày, từ những việc rất nhỏ như cắt tóc ngắn,

với “Bài ca húi tóc” nổi tiếng một thời: “Tay trái cầm lược/ Tay phải cầm kéo/ Húi hề!

Húi hề!/ Thủng thẳng cho khéo/ Bỏ cái ngu này/ Bỏ cái dại này” [124, tr.662].

Chỉ một, hai thập niên sau đó, cách thức, lề lối sinh hoạt của người phương Tây

đã trở nên phổ biến trong xã hội, tạo nên một sự biến đổi sâu sắc trong cách sinh hoạt

của người Việt Nam. Đó là sự thay đổi từ cách ăn, mặc, ở, từ kiểu tóc, phương tiện đi

lại, phương tiện sinh hoạt, phương tiện sản xuất, đến những phương thức giải trí, sinh

hoạt cộng đồng v.v... Năm 1938, khi soạn cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, Đào Duy

Anh đã tổng hợp một loạt những biến đổi trong sinh hoạt của người Việt Nam, ở cả

thành thị và nông thôn. Ở thành thị, người thị dân xây dựng và bài trí nhà cửa theo

phong cách phương Tây, với các vật dụng xuất xứ từ phương Tây như đèn điện, quạt

điện, đệm lò xo...; đi lại thì họ dùng xe hơi; phép xã giao có phần thoải mái hơn xưa,

thanh niên nam nữ tự do dẫn nhau đi chơi, tiếp đãi bạn bè có thể dẫn ra cao lâu, phạn

44

điếm, ngày đi làm, đêm có thể đi xem chiếu bóng, đi dự dạ hội; về y phục thì hầu hết

theo lối Tây, từ quần áo đến giày dép; về việc hôn nhân thì sự tùy ý kết hôn đã trở nên

phổ thông [xem 1, tr.375-376] v.v... Từ đó, Đào Duy Anh đi đến kết luận: “Ta xem thế

thì thấy giai cấp trung lưu ở thành thị ngày nay theo một cách sinh hoạt tự do và xa xỉ

hơn cách sinh hoạt của xã hội nông nghiệp xưa nhiều” [1, tr.376]. Ở nông thôn, sự ảnh

hưởng của lối sống phương Tây tuy không mạnh bằng ở thành thị, nhưng cũng đã tạo

nên những biến đổi nhất định trong cách sinh hoạt của người nông dân. Sự thay đổi ở

đây chủ yếu thể hiện ở sự xuất hiện và phổ biến của các vật dụng, phương tiện sinh

hoạt có xuất xứ từ phương Tây như đèn pin, xe đạp, xà phòng, thuốc lá v.v..., cũng

như của các kỹ thuật sản xuất do người phương Tây mang đến [xem 1, tr.379].

Có thể nói, những biến đổi trong lề lối sinh hoạt của người Việt và sự hiện diện

của những hình thức sinh hoạt văn hóa mới tuy chỉ là những biến đổi mang tính bề mặt,

đôi khi chỉ là những biến đổi hết sức nhỏ nhặt, nhưng ý nghĩa và sức tác động của nó

lại không hề nhỏ. Hoài Thanh và Hoài Chân, trong tác phẩm Thi nhân Việt Nam, đã

nhận ra điều đó và đưa ra một tổng kết sâu sắc:

Chúng ta ở nhà tây, đội mũ tây, đi giầy tây, mặc áo tây. Chúng ta dùng đèn

điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp... còn gì nữa! Nói làm sao cho xiết những

điều thay đổi về vật chất, phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta! Cho đến

những nơi hang cùng ngõ hẻm, cuộc sống cũng không còn giữ nguyên hình

ngày trước. Nào dầu tây, diêm tây, nào vải tây, chỉ tây, kim tây, đinh tây.

Đừng tưởng tôi ngụy biện. Một cái đinh cũng mang theo nó một chút quan

niệm của phương Tây về nhân sinh, về vũ trụ, và có ngày ta sẽ thấy thay đổi

cả quan niệm của phương Đông [113, tr.20].

Nhìn chung, những phương thức sinh hoạt phương Tây, ban đầu hoàn toàn xa lạ

với lối sống của người Việt Nam, thậm chí được xem như một cái gì cần phải được cổ

động, đã ngày càng trở nên quen thuộc, thậm chí như một điều đương nhiên trong đời

sống người Việt. Tất nhiên, nhìn vào ảnh hưởng của lối sống phương Tây đến người

Việt Nam ở thành thị và nông thôn, dễ thấy ở thành thị, mức độ phổ biến của lối sống

phương Tây lớn hơn, cách thức sinh hoạt gần gũi với người phương Tây hơn, mang

tính tự do hơn, ít bị ràng buộc hơn. Điều này thêm một lần nữa cho thấy thành thị

chính là địa bàn thuận lợi cho sự khởi phát của những ý niệm, quan niệm mới về vấn

đề con người cá nhân.

45

Sự thay đổi của nền giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XX cũng là một vấn đề rất

đáng quan tâm, bởi nó liên quan trực tiếp đến sự hình thành của tầng lớp trí thức tân

học. Thực dân Pháp, ngay từ khi chiếm được Nam kỳ, vào cuối thế kỷ XIX, đã bắt đầu

thiết lập những trường dạy tiếng Pháp đầu tiên1. Sau nhiều thập niên, hệ thống trường

Pháp đã dần được mở rộng, đã có các trưởng tiểu học và cả trường Sư phạm ở Nam kỳ.

Tuy nhiên, ở thời điểm cuối thế kỷ XIX, số lượng người theo Hán học vẫn còn rất

nhiều, nhất là ở Bắc và Trung kỳ. Cho đến những năm đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam vẫn

tồn tại song song hai hệ thống giáo dục Hán học và Tây học, nhưng diện mạo của một

hệ thống giáo dục Pháp Việt đã dần được định hình, với các trưởng tiểu học, trung học,

và đặc biệt là với sự xuất hiện của trường Đại học Đông Dương năm 1906, dù trường

này đóng cửa chỉ một năm sau đó.

Năm 1919 là thời điểm thực sự đánh dấu bước ngoặt của nền giáo dục Việt

Nam, khi đây là năm diễn ra khoa thi Nho học cuối cùng. Cũng trong năm này, Khải

Định đã ký Dụ bãi bỏ tất cả các trường chữ Hán cùng hệ thống quản lý từ triều đình

đến cơ sở, chỉ giữ lại trường Hậu bổ và trường Quốc tử giám. Nền giáo dục Việt Nam

từ đây do người Pháp hoàn toàn chỉ đạo và quản lý [theo 6, tr.83]. Số lượng trường

Pháp – Việt ngày càng tăng lên, hệ thống tổ chức cũng ngày càng hoàn thiện, với ba

cấp: tiểu học, trung học, cao đẳng. Bên cạnh đó, còn có những trường dạy nghề,

trường nữ học, và một số người Việt Nam sinh trưởng trong các gia đình có điều kiện,

hoặc thực sự xuất sắc còn có cơ hội du học ở chính quốc. Cùng với sự hoàn thiện của

hệ thống giáo dục Pháp – Việt là sự gia tăng nhanh chóng về số lượng của đội ngũ học

sinh theo Tây học. Nếu như năm 1916, số học sinh theo học các trường Pháp – Việt là

49.461 người, thì đến năm 1923, con số này đã tăng lên gấp hơn ba lần: 163.110 người

[xem 6, tr.78, 92]. Những biến động trong nền giáo dục Việt Nam sau thời điểm 1919

đã dẫn đến hai hệ quả quan trọng: thứ nhất là sự sụp đổ của chế độ khoa cử đã dẫn đến

sự chuyển hướng sang Tây học của một bộ phận trí thức cựu học, đồng thời dẫn đến sự

lép vế của một bộ phận trí thức cựu học khác vẫn kiên trì theo đuổi nền học vấn cổ

điển; thứ hai là sự hoàn thiện nhanh chóng của hệ thống giáo dục mới như một cơ sở

tạo nên một đội ngũ trí thức tân học đông đảo chưa từng có ở Việt Nam. Những người

bắt đầu con đường học vấn của mình ở giai đoạn này về sau đã trở thành đội ngũ trí

1 Năm 1861, Đô đốc Nam Kỳ Charne đã ký nghị định thành lập Trường Bá Đa Lộc để dạy tiếng Pháp cho người bản xứ và dạy tiếng bản xứ cho người Pháp [theo 54, tr.296].

46

thức chủ lực ở Việt Nam trong những năm 30 của thế kỷ XX, cũng chính là đội ngũ trí

thức mang trong mình tinh thần phê phán truyền thống mãnh liệt nhất.

Bên cạnh những thay đổi về cơ cấu, tổ chức của nền giáo dục, thì những thay

đổi trong chương trình giáo dục cũng là một yếu tố rất đáng chú ý. Với sự xuất hiện

của các trường Pháp – Việt, tiếng Pháp và chữ quốc ngữ ngày càng chiếm vị trí quan

trọng trong chương trình giáo dục, trong khi chữ Hán dần dần bị hạn chế. Nhiều môn

học mới cũng được đưa vào giảng dạy, bên cạnh một số môn thuộc lĩnh vực khoa học

tự nhiên như toán, sinh vật, địa lý v.v..., còn có những môn liên quan đến văn học và

triết học Pháp, thông qua đó mà học sinh người Việt có thêm một con đường để tiếp

xúc với tư tưởng phương Tây, trong đó có những quan niệm về con người cá nhân. Tất

nhiên, hệ thống giáo dục Pháp – Việt không phải là cầu nối duy nhất, cũng không phải

là cầu nối quan trọng nhất đưa tư tưởng phương Tây đến với người Việt, nhưng rõ

ràng nó cũng có ý nghĩa nhất định trong việc tăng cường sự hiểu biết của người Việt

Nam về nền văn hóa phương Tây. Đào Duy Anh, một trí thức được đào tạo trong nhà

trường Pháp – Việt trong thập niên thứ hai của thế kỷ XX, đã kể lại rằng, nhờ vào

chương trình trung học mà ông được biết đến Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền,

và các nhà khai sáng Pháp như Rousseau, Montesquieu v.v... [xem 2, tr.26]. Một

chương trình giáo dục với những môn học như vậy, ở một mức độ nhất định, chắc

chắn đã làm biến đổi tư duy, cách nhìn về nhân sinh của tầng lớp học sinh người Việt

được đào tạo trong các nhà trường Pháp – Việt.

Cuối cùng, không thể không đề cập đến lĩnh vực báo chí, một yếu tố văn hóa

hoàn toàn mới mẻ với người Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Báo chí đã xuất hiện ở Việt

Nam sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, từ những năm 60 của thế kỷ XIX.

Những tờ báo đầu tiên ra đời ở Việt Nam là những tờ báo tiếng Pháp, như Bulletin

officiel de l’Expédition de Cochinchine (Tập kỷ yếu công vụ cuộc viễn chinh xứ Nam

Kỳ), Le Courrier de Saigon (Tin Sài Gòn)… Những tờ báo này hướng đến đối tượng

chính là người Pháp ở Việt Nam, như những sĩ quan và viên chức thuộc địa. Ảnh

hưởng của nó đến văn hóa Việt Nam, do đó, còn chưa đáng kể. Phải đến năm 1865,

Gia Định báo, tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ mới ra đời, và mở đầu cho sự phát

triển của báo chí quốc ngữ Việt Nam. Tiếp đó, trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XX,

một số tờ báo tiếng Việt khác lần lượt xuất hiện, như Phan Yên báo, Nông Cổ Mín

Đàm, Lục tỉnh tân văn, Đại Việt tạp chí, Đăng Cổ Tùng Báo... Từ thập niên thứ hai,

47

trong làng báo Việt Nam nổi lên hai tờ tạp chí quan trọng, là Đông Dương Tạp chí và

Nam Phong Tạp chí, đây là hai tờ tạp chí lớn, quy tụ xung quanh nó một đội ngũ nhà

báo, nhà trí thức hùng hậu, bao gồm cả cựu học và tân học. Bước sang những năm 20,

số lượng báo chí ở Việt Nam ngày một gia tăng, đặc biệt, giai đoạn từ cuối những năm

20 của thế kỷ XX là giai đoạn mà báo chí Việt Nam không chỉ bùng nổ về số lượng,

mà còn trở nên hết sức phong phú về đề tài, về khuynh hướng, với sự cạnh tranh, tranh

luận hết sức sôi nổi. Những gương mặt tiêu biểu của làng báo ở thời kỳ nở rộ có thể

được kể đến là: Đông Pháp thời báo, Hà Thành ngọ báo, Tiếng dân, Thần chung, Phụ

nữ tân văn, Phong hóa, Ngày nay, Tri Tân, Thanh Nghị v.v... Bên cạnh báo chí quốc

ngữ, thời kỳ này, báo chí tiếng Pháp cũng được người Việt Nam sử dụng như một

công cụ để phản kháng chính quyền thực dân, đó là trường hợp của La Cloche Felée, L’

Annam, La Lutte... Đây đều là những tờ báo có tầm ảnh hưởng, quy tụ những nhà báo

xuất sắc ở Việt Nam thời kỳ này, một số trong đó còn có thể xem như một cơ quan văn

hóa, cơ quan ngôn luận cho một khuynh hướng tư tưởng, hay một nhóm trí thức nào đó.

Sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của báo chí đã tạo nên một diễn đàn cho

người trí thức Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp trí thức tân học, để họ thể hiện, bày tỏ

quan điểm của mình. Việc tồn tại cùng lúc rất nhiều tờ báo, tạp chí, trong đó có những

tờ báo, tạp chí đối lập nhau về mặt khuynh hướng đã giúp cho người trí thức Việt Nam

có thêm nhiều lựa chọn trong việc phát ngôn. Họ không bị trói buộc bởi một sự hạn

chế nào mang tính chính thống hay quy phạm (ngoại trừ sự hạn chế từ các cơ quan

kiểm duyệt của chính quyền thực dân). Họ có thể công khai nói lên tiếng nói của mình,

đứng về phía này, hoặc phía khác, tùy theo quan điểm bản thân. Họ có thể công kích,

phê phán lẫn nhau trên mặt báo, khi một tờ báo hoàn toàn có thể đăng tải cùng lúc các

bài viết mang tính bất đồng với nhau, hoặc tờ báo này có thể đăng tải bải viết công

kích tờ báo khác. Cá tính của mỗi nhà trí thức nhờ đó mà có điều kiện để được kích

thích, được bộc lộ. Ở thời kỳ này, chúng ta không thấy lạ lẫm nếu một nhà trí thức viết

một bài phê phán đứng từ quan điểm, từ tín niệm của bản thân, chứ không nhân danh

một truyền thống, hay một cộng đồng nào cả. Mặt khác, kỹ thuật in ấn cũng giúp cho

số lượng các ấn bản báo chí được phát hành rất lớn. Các tờ báo ra hàng ngày, hoặc

hàng tuần, hàng tháng với số lượng lớn khiến cho việc tiếp cận thông tin, hay những

quan điểm, quan niệm của những nhà trí thức, những nhóm trí thức trở nên dễ dàng. Vì

vậy, những tri thức, những quan điểm chứa đựng trên những tờ báo, đến lượt nó, lại

48

ngay lập tức có được sự phổ biến, sự tác động sâu rộng trong quần chúng. Một số tờ

báo, trong một thời gian dài còn được sử dụng như những tài liệu học tập ở nhà trường,

vì thế mà sức ảnh hưởng còn lớn hơn nữa. Sẽ không phải là nói quá, nếu như khẳng

định rằng, sự xuất hiện của báo chí là một trong những biến chuyển quan trọng nhất

trong đời sống văn hóa Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Trong mối liên hệ với sự ra đời

của những quan niệm về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam giai đoạn này, chúng

tôi cho rằng, báo chí để lại dấu ấn của mình ở hai khía cạnh: thứ nhất, phương thức

vận hành của báo chí tạo điều kiện cho sự nảy nở, sự đề cao tính cá nhân và con người

cá nhân, và thứ hai, trong những nội dung mà các tờ báo truyền tải, có nhiều nội dung

liên quan đến vấn đề con người cá nhân, có sự tác động nhất định đến cách nhìn, cách

suy nghĩ của người Việt Nam về vấn đề này.

Tóm lại, nhìn vào đời sống văn hóa ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, có thể thấy

những biến chuyển hết sức căn bản, với những yếu tố văn hóa mới chưa từng xuất hiện

ở thời kỳ trước đó. Từ những vận động trong lối sống, lối sinh hoạt, đến giáo dục và

báo chí, có thể thấy nền văn hóa Việt Nam đang trong một quá trình chuyển biến theo

hướng phương Tây hóa. Quá trình này manh nha từ cuối thế kỷ XIX, dần thành hình ở

những năm đầu thế kỷ XX, và đặc biệt tăng tốc từ cuối những năm 20 trở đi. Nền văn

hóa phương Tây, với đặc tính coi trọng con người cá nhân, cũng theo đó mà dần trở

nên quen thuộc với người Việt. Tất nhiên, trên mọi lĩnh vực của đời sống văn hóa, tình

hình chung vẫn là sự tồn tại đan xen của cả những nhân tố cũ và mới, quá trình

phương Tây hóa diễn ra trong bối cảnh những giá trị và thiết chế văn hóa truyền thống

chưa hoàn toàn biến mất, đặc biệt là ở vùng nông thôn, như chúng tôi đã chỉ ra ở trên.

Những ý tưởng mới mẻ về con người cá nhân mà nền văn hóa phương Tây mang lại,

do đó, cũng không hoàn toàn được chấp nhận một cách dễ dàng ở Việt Nam.

2.2. Những tiền đề tư tưởng cho sự hình thành quan niệm về vấn đề con người cá

nhân của trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

2.2.1. Quan niệm truyền thống về vấn đề con người cá nhân

Ở trên chúng tôi đã nhấn mạnh sự quan tâm đến vấn đề con người cá nhân như

một đặc trưng của giai đoạn đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, nhưng điều đó không có

nghĩa là con người cá nhân hoàn toàn chưa xuất hiện trong các học thuyết truyền thống.

Ngay cả khi các học thuyết truyền thống ấy không coi trọng con người cá nhân, thì bản

thân đó cũng là một loại quan điểm về con người cá nhân, và đều có những ảnh hưởng

49

nhất định đối với những quan điểm về con người cá nhân ở thời cận, hiện đại. Tư

tưởng Việt Nam truyền thống vốn mang đậm dấu ấn của Nho, Phật, Đạo, mỗi một học

thuyết trong số đó đều chứa đựng những quan niệm của riêng mình về con người với

tư cách một cá thể. Nhìn lại những học thuyết truyền thống đó sẽ giúp chúng ta thấy rõ

hơn cả tính tiếp nối, cũng như tính đứt đoạn của những quan niệm mới nảy sinh về vấn

đề con người cá nhân của người trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Trong các học thuyết truyền thống, có lẽ Nho giáo chính là học thuyết có tầm

ảnh hưởng sâu sắc nhất lên những quan niệm về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX, bởi những tư tưởng của nó cũng là tư tưởng chủ đạo chi phối đời

sống tinh thần của người Việt trước khi bước vào thế kỷ này. Tất nhiên, trong tư tưởng

Nho giáo, không hề có khái niệm “cá nhân”, nhưng nếu hiểu “cá nhân” với tư cách là

một cá thể người độc lập, thì Nho giáo cũng đã có những quan niệm về nó, thông qua

những khái niệm như “thân”, “kỷ” v.v... Chính vì thế, nhiều nhà nghiên cứu đã sử

dụng khái niệm “tự ngã” (hay “self”) khi bàn về vấn đề con người cá nhân trong tư

tưởng Nho giáo. Cách dùng khái niệm đó vừa cho thấy Nho giáo không hề bỏ qua vấn

đề con người cá nhân, nhưng cũng cho thấy quan niệm của Nho giáo về vấn đề này rất

khác biệt với quan niệm của triết học phương Tây.

Khác với triết học phương Tây, Nho giáo không có quan điểm cho cá nhân là

một thực thể độc lập, hay vượt lên trên lịch sử và xã hội. Nho giáo trước hết nhìn mỗi

cá nhân trong sự quy thuộc. Nho giáo là một học thuyết có ý thức nhập thế mãnh liệt,

vì vậy, con người trong Nho giáo luôn luôn được hình dung như là con người trong xã

hội, không thể chối từ sự nhập thân vào xã hội, không thể đứng ngoài xã hội, đứng

ngoài cộng đồng. Điều này đã được thể hiện rất rõ qua câu nói của Khổng Tử khi đáp

lại lời của Kiệt Nịch: “Người ta không thể làm bạn với cầm thú! Nếu ta chẳng sống

chung với người [trong xã hội này] thì sống chung với ai?” [133, tr.543]. Hình mẫu

con người trong Nho giáo là một hình mẫu con người luôn luôn nằm trong những sự

quy định của cộng đồng ở cả chiều dọc của lịch sử và chiều ngang của xã hội. Ở chiều

dọc, mỗi cá thể luôn luôn được đặt trong một dòng chảy bất tận của lịch sử, nó có

trách nhiệm kế thừa di sản văn hóa của thế hệ đi trước và truyền thừa vốn văn hóa ấy

cho thế hệ sau. Ý thức và sự tôn sùng đối với lịch sử khiến cho con người luôn luôn

hành động trong sự chi phối hay mách bảo từ quá khứ. Còn ở chiều ngang, con người

bị lệ thuộc, bị ràng buộc bởi vô vàn những mối quan hệ, thứ bậc khác nhau, và hành

50

động theo sự quy định, chi phối của những quan hệ và thứ bậc xã hội ấy. Con người

trong xã hội cổ truyền không được hiện diện như là một cá nhân, cá thể độc lập, mà nó

hiện diện với tư cách người con, người vợ, thần dân v.v... Trong những tính quy định

đó, con người trong xã hội Việt Nam truyền thống từ khi sinh ra đã được ấn định một

con đường dưỡng thành nhân cách, với những chuẩn mực gắn liền với từng mối quan

hệ xã hội họ thuộc về, mà việc thực hiện theo nó là không thể chối bỏ, bởi nó gắn với

cái bản tính tiên thiên của họ. Chỉ trong sự gắn kết với cộng đồng và tuân thủ những

quy phạm đạo đức của cộng đồng, mỗi người mới có thể hiện thực hóa bản tính của

mình. Địa vị cá nhân đã nhỏ bé, thì quyền lợi cá nhân cũng không được coi trọng.

Truyền thống Nho gia không phủ nhận lợi ích, song lại hết sức hạ thấp quyền lợi cá

nhân, hay “tư lợi”. Trong quan niệm của Nho giáo, cái lợi thực sự không phải là tư lợi,

mà phải là cái lợi chung cho cả thiên hạ, và con người cần thực hiện nghĩa vụ của nó

đối với xã hội, đối với cộng đồng mà không xuất phát quan tâm đến lợi ích mà nó có

thể được hưởng khi thực hiện hành động đó. “Kiến lợi tư nghĩa” của Khổng Tử hay

“nghĩa lợi chi biện” của Mạnh Tử đã trở thành một thứ tiền đề cho mọi hành vi đạo

đức của nhà nho. Ở Việt Nam, cho đến cuối thế kỷ XIX, chúng ta vẫn có thể thấy được

những phát ngôn theo tinh thần như vậy nơi các nho sĩ của phong trào Cần Vương mà

chúng tôi đã đề cập đến ở phần đầu.

Tất nhiên, ở một khía cạnh khác, cũng có thể nói Nho giáo không hoàn toàn

phủ định cá nhân với tư cách là một tồn tại mang tính tự chủ. Tính tự chủ đó thể hiện ở

chỗ, mỗi cá nhân có đầy đủ khả năng tự vượt lên trên mọi sự ràng buộc của ngoại cảnh

để khẳng định mình như một chủ thể tự do. Chủ thể tự do ấy, được một số nhà nghiên

cứu gọi tên là “tự ngã”. Về điểm này, Hoàng Tuấn Kiệt đã viết: “Nho gia Đông Á cho

rằng “tự ngã” là thứ quyết định phương hướng của ý chí, “tự ngã” cũng là một loại chủ

thể tự do, mà tất cả các quy phạm của thế giới đều bắt nguồn từ nơi ý chí của chủ thể

người” [159, tr.27]. Tính tự chủ ấy thể hiện đặc biệt rõ trong mối quan hệ giữa “thân”

và “tâm” trong truyền thống Nho giáo. Trong mối quan hệ đó, một mặt “thân” và “tâm”

là một thể, mặt khác, “tâm” lại là chủ tể của “thân” [159, tr.29]. Thân có thể chịu sự

quy định của ngoại vật, mà tâm lại hàm chứa khả năng vượt lên trên sự quy định ấy.

David Marr cũng có một nhận xét tương tự về “tâm” trong mối quan hệ với “thân”:

“Tâm” hàm chứa trong nó tiềm năng ý chí quan trọng, đối lập với “thân”

mang tính bị quyết định, cái bị phụ thuộc vào sự hài lòng vật chất thông

51

thường và tuân theo thói quen. Một người có ý thức mạnh mẽ về “tâm” thì

có thể chủ quan hóa những ý niệm và cảm xúc, đưa ra một điểm nhìn, thực

thi một hành động, và sống (hay chết) cho một thành quả [150, tr.770].

Chính tính chủ thể của “tâm” giúp cho con người có thể tự làm chủ được bản

thân, đồng thời được tự do khỏi những sự ràng buộc của ngoại cảnh để thực hiện hành

vi đạo đức của mình. Trong trường hợp này, tính cá thể của mỗi cá nhân không những

không bị chìm lấp, mà còn được thể hiện một cách cao độ. Các nhà nghiên cứu thường

dẫn những câu nói của Khổng tử để khẳng định điều này. Chẳng hạn, Khổng tử nói:

“Có thể đoạt được viên chủ soái thống lĩnh ba quân, nhưng không thể đoạt được cái

chí của một kẻ sất phu” [133, tr.377]. Những phát ngôn như vậy đều cho thấy Nho

giáo có ý thức sâu sắc về sự tôn nghiêm của “tự ngã”, của chủ thể đạo đức, của nhân cách.

Có thể thấy, mỗi quan niệm của Nho giáo về con người với tư cách một cá thể

đều đặt ra một vấn đề nào đó cho những bàn luận về cá nhân ở thời kỳ cận, hiện đại.

Ảnh hưởng của Nho giáo mà chúng tôi muốn nói đến không đơn thuần là sự ảnh

hưởng một chiều, mà là sự ảnh hưởng mang tính đa chiều, mà ở đó, mỗi luận điểm của

nó có thể được kế thừa hay phê phán bởi những nhà trí thức tân học. Bàn đến quan

niệm của Nho giáo trong mối tương quan với sự hình thành quan niệm về vấn đề con

người cá nhân của trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, chúng tôi cho rằng,

có thể nói đến ba khía cạnh tác động: thứ nhất, Nho giáo, với những luận điểm mang

tính bất đồng với chủ nghĩa cá nhân phương Tây, là cơ sở để nhóm trí thức theo

khuynh hướng phục cổ tiến hành phê phán chủ nghĩa cá nhân; thứ hai, cũng với những

luận điểm đó, Nho giáo lại trở thành đối tượng phê phán của nhóm trí thức cấp tiến, họ

dựa trên sự phê phán Nho giáo để cổ vũ cho sự giải phóng và đề cao cá nhân; thứ ba,

một số luận điểm của Nho giáo mang tính đề cao cá nhân, không hoàn toàn đối lập với

chủ nghĩa cá nhân, sau này cũng được cả các nhà trí thức tân học sử dụng để phát triển

quan niệm về vấn đề con người cá nhân của mình.

Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo và Đạo gia cũng là những học thuyết có địa vị

quan trọng trong nền tư tưởng truyền thống, và chúng cũng đều có những quan niệm

riêng về con người cá nhân. Phật giáo có nhắc đến “ngã”, nhưng lại chủ trương “vô

ngã”, phủ nhận sự tồn tại thực tế của “ngã”. Theo Phật giáo, con người được tạo nên

bởi ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức), mà ngũ uẩn thì luôn trong trạng thái biến đổi,

tụ tán. Ngoài ngũ uẩn ra, không có gì gọi là cái “ngã”, không có gì gọi là cái tôi vĩnh

52

cửu. Vì vậy, việc cho rằng mỗi người đều có một cái “ngã”, hay một cái tôi vĩnh cửu

chỉ là niềm tin sai lầm. Mọi sự chấp niệm vào cái ngã đều chỉ dẫn đến những đau khổ,

phiền não, chỉ có quan niệm “vô ngã” mới là con đường tu tập đưa người ta đến sự giải thoát.

Đạo gia ở một khía cạnh nào đó cũng muốn vượt lên cái tôi bằng cách cho rằng

mọi vật đều như nhau, không có sự phân biệt. Người với vật không có sự phân biệt, ta

với người cũng không có sự phân biệt. Trong thiên “Tề vật luận” sách Nam hoa kinh,

Trang Tử viết: “Vật nào cũng là vật khác mà cũng là chính nó. Phân biệt vật và mình

thì không thấy được lẽ đó, hòa đồng với vật thì thấy được (...) Mình là người khác;

người khác cũng là mình. Người kia có quan niệm của họ về thị, phi. Mình cũng có

quan niệm của mình về thị phi. Có một sự khu biệt thực nào giữa mình và người kia

không?” [129, tr.163]. Hình mẫu con người mà Đạo gia hướng đến là hình mẫu con

người tiêu dao, tự do tự tại, siêu vượt lên trên mọi sự phân biệt, mọi sự chế ước của xã

hội, siêu vượt lên trên cả cái tôi để quay trở về với “đạo”. Cũng trong “Tề vật luận” có

câu: “Thầy đã tự quên thầy” (Kim giả ngô táng ngã) [129, tr.159]. Đây là câu Nam

Quách Tử Kì trả lời học trò, thầy đã tự quên thầy ở đây chính là tự mình quên đi bản

ngã, quên đi bản ngã mà đạt đến sự hòa hợp với trời đất, để nghe được tiếng sáo của

đất, của trời. Những quan niệm như vậy của Phật giáo hay Đạo gia đều đặt ra những

phản đề đối với thời đại mà ở đó chữ “tôi” vượt lên trên ý nghĩa một đại từ nhân xưng

thông thường để trở thành một biểu tượng cho sự lên ngôi của con người cá nhân ở

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo gia đối với quan niệm về con người cá nhân

của các trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX thực ra không lớn nếu so với ảnh

hưởng của Nho giáo, nhưng về cơ bản, cũng là một sự ảnh hưởng mang tính đa chiều.

Một số nhà trí thức theo khuynh hướng phục cổ đã lựa chọn Phật, Đạo để xây dựng

quan điểm của mình, mà tiêu biểu là Nguyễn Duy Cần, ở chiều ngược lại, chúng đôi

khi lại trở thành đối tượng phê phán của nhóm cấp tiến, tuy rằng, sự phê phán đối với

hai học thuyết này, trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, chưa bao giờ trở nên gay gắt,

quyết liệt như đối với Nho giáo.

Nói tóm lại, những quan niệm về vấn đề con người cá nhân của tầng lớp trí thức

tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, ở những chừng mực khác nhau, đều thể hiện

một mối liên hệ nhất định với các học thuyết truyền thống Nho, Phật, Đạo, bao hàm cả

mối liên hệ mang tính kế thừa và phê phán. Nếu như những nhà trí thức tân học theo

53

khuynh hướng phục cổ lựa chọn con đường kế thừa và phát huy những quan niệm

truyền thống, lấy đó làm nền tảng để xây dựng quan niệm của mình về con người cá

nhân, như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim với Nho giáo, hay Nguyễn Duy Cần với Phật

giáo, Đạo gia, thì những nhà trí thức theo khuynh hướng cấp tiến lại xây dựng quan

niệm của mình trên cơ sở phê phán những học thuyết truyền thống, đặc biệt là Nho

giáo. Dù là kế thừa hay phê phán, chúng ta đều thấy, những quan niệm mới về con

người cá nhân của tầng lớp trí thức tân học nửa đầu thế kỷ XX đã được xác lập trên cơ

sở đối thoại với những học thuyết truyền thống này.

2.2.2. Tư tưởng phương Tây về vấn đề con người cá nhân và sự du nhập của nó vào

Việt Nam

Trong các nhân tố tác động đến sự hình thành quan niệm của trí thức tân học về

vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, sự du nhập và hiện diện của

tư tưởng phương Tây về vấn đề con người cá nhân có một vai trò then chốt. Mặc dù ở

trên, chúng tôi đã chỉ ra ảnh hưởng nhất định của tư tưởng truyền thống đến quan niệm

của người trí thức Việt Nam thời kỳ này, song rõ ràng, nếu chỉ có sự ảnh hưởng của

chúng, thì cách nhìn nhận, cách tư duy của người Việt Nam về vấn đề con người cá

nhân khó có thể có được những bước thay đổi mang tính căn bản như những gì chúng

ta có thể thấy. Nói cách khác, sự biến đổi trong quan niệm của người trí thức Việt Nam

về vấn đề con người cá nhân khi bước vào thế kỷ XX, mặc dù lấy tư tưởng truyền

thống làm một trong những tiền đề, nhưng nó không chỉ đi từ tư tưởng truyền thống,

mà ở giai đoạn sau, càng ngày càng tỏ ra đối lập, thậm chí mang tính “lật đổ” đối với

tư tưởng truyền thống. Chính là dưới sự du nhập và ảnh hưởng của tư tưởng phương

Tây mà quan niệm của người Việt Nam mới có bước chuyển ngoặt như vậy.

Trước hết, chúng tôi muốn bắt đầu từ việc khảo sát sự hiện diện của khái niệm

“cá nhân” ở Việt Nam như một khái niệm truyền tải những ý tưởng mới bắt nguồn từ

phương Tây về vấn đề con người cá nhân. Bởi lẽ, “cá nhân” tự bản thân nó không phải

là một thuật ngữ vốn có trong tiếng Việt, mà nó là một thuật ngữ mới, được tạo ra

trong quá trình dịch văn hóa ở các nước sử dụng chữ Hán thời cận đại, khi tiếp xúc với

nền văn hóa, tư tưởng phương Tây.

Nhìn về lịch sử hình thành thuật ngữ, có lẽ phải bắt đầu từ Nhật Bản, nơi đã sản

sinh ra hầu hết những thuật ngữ triết học, chính trị mới dựa trên sự dịch thuật các khái

niệm tương ứng của nền văn hóa phương Tây. Thuật ngữ “cá nhân” cũng không phải

54

ngoại lệ. Về vấn đề này, Saito Tsuyoshi đã cho chúng ta một phân tích khá chi tiết

trong bài viết “The creation of the term Kojin (individual)”, mà trong đó, ông đã chỉ ra

khái niệm “cá nhân” (kojin 個人) đã được tạo ra như thế nào ở Nhật Bản. Theo đó,

thuật ngữ “cá nhân” lần đầu tiên được sử dụng với tư cách một từ tương đương với

thuật ngữ “individual” vào năm 1884 [xem 152, tr.9]. Nhưng quá trình tìm kiếm một

thuật ngữ tương đương cho “individual” đã thực sự bắt đầu trước đó khoảng 3 thập

niên, từ những năm 50 của thế kỷ XIX, khi Koga Masaru dùng 5 chữ “các thù chi nhân

thân” (各殊之人身) như một từ tương đương với thuật ngữ tiếng Đức “individueel”

khi dịch các bài viết trên báo Nederlandsch Magazjin ra tiếng Nhật. Trong suốt những

thập niên sau đó, người Nhật Bản đã không ngừng tạo nên những thuật ngữ khác nhau

trong quá trình nỗ lực chuyển dịch “individual” sang tiếng Nhật, như “nhất nhân”

(hitori 一人), “nhất thể” (ittai 一體), “các cá” (kakko 各個), “nhất cá nhân” (ikkojin

一個人) [xem 152, tr.17-26] v.v… Nhưng có một đặc điểm chung cho toàn bộ những

nỗ lực ấy là: những thuật ngữ khác nhau đã được tạo ra và sử dụng trong quá trình dịch

thuật các tác phẩm triết học, chính trị, pháp luật của phương Tây, mà ở đó, “cá nhân”

có mối liên hệ mật thiết với những quan niệm về luật tự nhiên, về tự do, bình đẳng,

quyền lợi v.v…, hay nói cách khác, thuật ngữ “cá nhân” đã được tạo ra ở Nhật Bản

trong quá trình dịch thuật các ý tưởng triết học, chính trị, pháp luật của phương Tây,

những ý tưởng vốn không hề tồn tại ở Nhật Bản trước đó. Trong số những tác phẩm

được người Nhật dịch, và qua đó mà tạo nên những thuật ngữ để dịch thuật khái niệm

“individual”, chúng ta có thể thấy một vài tác phẩm quen thuộc với người Việt Nam

thời cận đại: On Liberty của J.S.Mill (do Nakamura Masanao dịch năm 1871), Du

Contrat Social của J.J. Rousseau (do Hattori Toku dịch năm 1877). Cùng với thuật

ngữ “cá nhân”, thì “chủ nghĩa cá nhân” – một sản phẩm tư tưởng của phương Tây về

cá nhân – cũng bắt đầu được quan tâm ở Nhật Bản từ cuối thời Minh Trị (1868-1912)

và trở nên phổ biến trên báo chí trong suốt thời kỳ Taisho (1912-1926) sau đó [151, tr.667].

Sau chiến tranh Trung – Nhật (1894-1895), cùng với nhiều thuật ngữ mang tính

học thuật khác, thuật ngữ “cá nhân” lại được nhập cảng vào Trung Quốc. Thuật ngữ

này lần đầu tiên xuất hiện trong một văn bản của người Trung Quốc, theo ghi nhận của

Kim Quan Đào và Lưu Thanh Phong, vào năm 1898, khi Lương Khải Siêu sử dụng

thuật ngữ “cá nhân” trong bản dịch Giai nhân kỳ ngộ, trong thời gian lưu vong ở Nhật

55

Bản. Khi đó, thuật ngữ “cá nhân” mà ông sử dụng đã có nội hàm liên quan đến tư

tưởng về quyền lợi cá nhân của phương Tây cận đại, nhưng để biểu thị cách nhìn tiêu

cực về nó, hơn là ủng hộ và tiếp nhận [157, tr.152].

Bên cạnh đó, người Trung Quốc cũng có những lựa chọn khác trong việc

chuyển ngữ khái niệm “individual”. Nghiêm Phục, nhân vật được biết đến như người

đầu tiên truyền bá “chủ nghĩa cá nhân” vào Trung Quốc, năm 1903 đã xuất bản bản

dịch tác phẩm On Liberty nổi tiếng của J.S.Mill ra chữ Hán với nhan đề Quần kỷ

quyền giới luận. Trong đó, ông đã không sử dụng thuật ngữ “cá nhân” vốn đã được

người Nhật tạo ra trước đó để dịch thuật ngữ “individual”, mà sử dụng thuật ngữ “tiểu

kỷ”, một thuật ngữ đã ít nhiều xuất hiện trong các văn hiến cổ điển Trung Quốc.

Nhưng đây không đơn thuần là một lựa chọn về mặt từ ngữ, mà hơn thế, là một lựa

chọn mang tính văn hóa, mà tác giả Hoàng Khắc Võ đã chỉ ra khi phân tích hàm ý của

Nghiêm Phục khi dịch On Liberty của J.S.Mill. Theo Hoàng Khắc Võ, “tiểu kỷ” thể

hiện hàm ý từ tiểu đến đại, từ bản thân đến quần thể, mở ra mô thức luận thuật về “tiểu

kỷ, quốc quần”, “tiểu ngã, đại ngã” ở Trung Quốc cận đại. Đó là kiểu quan niệm về cá

nhân không phản ánh một cách chính xác chủ nghĩa cá nhân của J.S.Mill trong On

Liberty, mà là một thứ chủ nghĩa cá nhân dưới hình thức Nho gia, một thứ chủ nghĩa

cá nhân mang đặc sắc Trung Quốc [xem 156, tr.48].

Dù thế nào, cho đến đầu thế kỷ XX, thuật ngữ “cá nhân”, và đi kèm với nó là

“chủ nghĩa cá nhân”, cũng đã trở nên phổ biến ở Trung Quốc. Truy nguyên sự xuất

hiện của thuật ngữ “chủ nghĩa cá nhân” ở Trung Quốc, Dương Niệm Quần cho rằng,

thuật ngữ này xuất hiện từ năm 1902, với bài viết của Dương Độ, khi ông đề cập đến

các học thuyết ở châu Âu từ thế kỷ XVIII [xem 160, tr.6]. Khái niệm “cá nhân”, “chủ

nghĩa cá nhân” còn xuất hiện nhiều lần trên các báo chí Trung Quốc thập niên đầu thế

kỷ XX, với những bài viết thể hiện tinh thần cải cách của cả tầng lớp trí thức Nho học

và trí thức tân học, chứ không chỉ là thể hiện thái độ phê phán như ở thời điểm 1898,

mà ở đó, nó thường gắn với những ý niệm mới về “tự do”, “độc lập”, “xã hội” v.v…

Cho đến khi Phong trào tân văn hóa Ngũ tứ nổ ra, “chủ nghĩa cá nhân” càng nhận

được sự biểu dương mạnh mẽ của giới trí thức Trung Quốc.

Vậy ở Việt Nam, thuật ngữ “cá nhân” đã xuất hiện từ thời điểm nào? D. Marr,

trong một nghiên cứu của mình, đã khẳng định thuật ngữ “cá nhân” hiện diện trong

tiếng Việt từ thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, cùng với một loạt thuật ngữ mới như

56

“xã hội”, “dân tộc”, “chủ nghĩa” [xem 150, tr.769] v.v… Đây cũng là thời điểm mà

giới trí thức Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận với những sách vở mới được đưa vào từ

Trung Quốc. Theo những gì Đào Trinh Nhất ghi chép lại trong cuốn Đông Kinh Nghĩa

thục, thì Nguyễn Quyền – một nhân vật chủ chốt của Đông Kinh Nghĩa thục – đã được

đọc Quần kỷ quyền giới luận – cuốn sách đầu tiên về chủ nghĩa cá nhân ở Trung Quốc

– vào năm 1905. Vậy việc nhận định rằng người Việt Nam đã sử dụng thuật ngữ “cá

nhân” ở thập niên đầu tiên của thế kỷ XX cũng là điều hợp lý.

Chúng tôi còn tìm thấy một tư liệu chỉ ra rằng, thuật ngữ này trên thực tế còn

xuất hiện ở Việt Nam sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ XIX, cụ thể là năm 1898, trong

cuốn từ điển Dictionnaire Annamite-Francais của J.F.M. Génibrel. Trước đó mấy năm,

năm 1895, chúng ta biết cuốn Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của được xuất

bản. Trong cuốn từ điển này, vẫn chưa có thuật ngữ “cá nhân”. Một số thuật ngữ ít

nhiều gần gũi với “cá nhân” được đưa vào cuốn từ điển của Huỳnh Tịnh Của là “tư

kỷ”, “tự kỷ”. Đến cuốn từ điển của J.F.M. Génibrel thì đã thấy xuất hiện thuật ngữ “cá

nhơn”, với nghĩa là “một người”, và thuật ngữ tiếng Pháp tương đương là “un homme”,

“une personne” [147, tr.59]. Điều đó có nghĩa là, chí ít ở thời điểm này, thuật ngữ “cá

nhơn/nhân” cũng đã xuất hiện trong tiếng Việt. Tuy nhiên, với cách giải thích thuật

ngữ “cá nhơn” trong cuốn từ điển năm 1898, cộng thêm với việc không có thuật ngữ

nào khác gắn với thuật ngữ “cá nhơn” được đưa vào cuốn từ điển này, thì có lẽ D.

Marr có lý khi nhận xét rằng, ban đầu thuật ngữ “cá nhân” có một mối liên hệ rất

nghèo nàn với những khái niệm mới xuất hiện khác, như “xã hội”, “dân tộc”, “chủ

nghĩa”, “tự do” v.v…, nó chỉ đơn thuần chỉ một cá thể người không thể chia nhỏ hơn

nữa (“một người”) [150, tr.769].

Trong suốt thập niên đầu thế kỷ XX, có lẽ thuật ngữ “cá nhân” cũng chưa thực

sự được sử dụng một cách phổ biến, dù cho đã xuất hiện nhiều văn bản thể hiện tinh

thần duy tân, được viết bằng cả chữ Hán và chữ quốc ngữ. Trong khi đó, nhiều thuật

ngữ mang tính học thuật mới đã nhanh chóng được sử dụng rộng rãi, đến mức Nguyễn

Văn Vĩnh phải phàn nàn về việc sử dụng những thuật ngữ này mà không hiểu về

chúng một cách tường tận: “Cứ ông nào xem hết bộ ẩm băng; bộ danh hoàn trí lược;

vài quyển sử các nước; nói được răm chữ: ái quần, nhiệt thành, văn minh, tự do, bình

đẳng, đồng bào là tưởng đã đương duy tân rồi. Suy xét ít” [141, tr.306], và “không

phải duy tân là hót nhảm hết xó này đến xó kia những tự do, nghĩa vụ, lợi quyền, mà

57

nghề mình vẫn không có” [141, tr.308]. Bản thân Nguyễn Văn Vĩnh, trong bài viết

“Hợp quần” năm 1907, có nội dung liên quan mật thiết đến vấn đề cá nhân, cũng sử

dụng rất nhiều thuật ngữ khác nhau để ám chỉ “cá nhân”, như: “mỗi người”, “tư dân”,

“quyền riêng”, “kỷ phận”. Tân đính luân lý giáo khoa thư của trường Đông Kinh nghĩa

thục, cũng xuất hiện trong thời gian này, bên cạnh các mục “đối quốc”, “đối gia”, “đối

nhân”, “đối xã hội”, thì phần có thể nói là dành cho cá nhân có nhan đề là “đối kỷ”,

một cách dùng từ quen thuộc của nhà nho. Chúng tôi cho rằng, thuật ngữ “cá nhân” có

thể đã xuất hiện ở Việt Nam tương đối sớm (hầu như cùng thời điểm với Trung Quốc,

năm 1989), nhưng so với nhiều thuật ngữ mới, cũng là sản phẩm của quá trình dịch

văn hóa ở các nước dùng chữ Hán, thì việc sử dụng thuật ngữ “cá nhân” một cách phổ

biến lại diễn ra muộn hơn.

Đến thập niên thứ hai của thế kỷ XX, có lẽ thuật ngữ “cá nhân” đã được sử

dụng nhiều hơn trên các văn bản của người Việt, thậm chí, thuật ngữ “cá nhân chủ

nghĩa” cũng đã xuất hiện vào khoảng thời gian này. Việc xác định thời điểm mà thuật

ngữ “cá nhân chủ nghĩa” xuất hiện lần đầu tiên trong một văn bản ở Việt Nam là việc

mà chúng tôi còn chưa dám đưa ra một đáp án xác quyết. Tuy nhiên, qua khảo sát báo

chí Việt Nam thời kỳ này, chúng tôi cho rằng, một trong những học giả đã sớm sử

dụng thuật ngữ này chính là Phạm Quỳnh. Trong một số bài viết của ông trên Nam

Phong tạp chí những số đầu tiên năm 1917, có thể thấy đã có sự hiện diện của thuật

ngữ “cá nhân chủ nghĩa”. Nhưng với ông, “chủ nghĩa cá nhân” mang những sắc thái

tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Trong bài “Nghĩa gia tộc”, đăng trên Nam Phong số 2,

năm 1917, ông viết: “Xem như truyện trên này thì cái gia tộc ở các xã hội Âu châu

đương qua một bước nguy cơ, đương phải chống đối với cái phong trào mới thời nay.

Mà cái phong trào thời nay thì chỉ vụ sự lợi lộc, sự sung sướng của từng người, lấy cái

nhân thân một người làm trung tâm thế giới. Gọi cái “cá nhân chủ nghĩa”

(individualisme) là thế” [102, tr.92]. Sự xuất hiện của thuật ngữ “cá nhân chủ nghĩa”

cho thấy, ở thời điểm này, thuật ngữ “cá nhân” đã được đặt trong những văn bản mang

tính học thuật, triết học, chứ không đơn thuần là một thuật ngữ cô lập, “có mối quan hệ

nghèo nàn” với nhiều thuật ngữ chính trị, triết học mới khác, như ở cuối thế kỷ XIX và

ở thập niên đầu thế kỷ XX.

Kể từ những năm 20, thuật ngữ “cá nhân”, và cả “chủ nghĩa cá nhân” đều đã trở

nên quen thuộc trong ngôn luận của người Việt, cả với tư cách một danh từ phổ thông

58

trong ngôn ngữ thường ngày, cả với tư cách là một trung tâm của những tranh luận học

thuật. Cách lý giải của người trí thức Việt Nam đối với thuật ngữ “chủ nghĩa cá nhân”

cũng có sự biến đổi nhất định. Trong những năm 30, trên báo chí đã xuất hiện rất

nhiều bài viết bàn về “chủ nghĩa cá nhân” và lý giải nó từ nhiều góc độ khác nhau,

trong đó có nhận định, có phê phán, có phân tích lịch sử phát triển của chủ nghĩa cá

nhân ở phương Tây. Có thể nói, ở thời kỳ này, cái nhìn của trí thức Việt Nam đối với

chủ nghĩa cá nhân là một cái nhìn đa chiều, phong phú hơn nhiều so với thời điểm

1917, khi Phạm Quỳnh phê phán chủ nghĩa cá nhân.

Ở trên, chúng tôi đã chỉ ra sự xuất hiện lần đầu tiên của thuật ngữ “cá

nhân/nhơn” trong một cuốn từ điển vào năm 1898. Không gì có thể cho chúng ta thấy

rõ hơn tiến trình hiện diện và phổ biến của thuật ngữ này bằng việc quay trở lại với nó

trong những cuốn từ điển khác, do người Việt biên soạn ở thời điểm mà nó đã trở nên

quen thuộc trong ngôn ngữ thường ngày. Chúng tôi muốn nhắc đến 2 cuốn từ điển

được xuất bản hầu như cùng một thời điểm, cuốn Việt Nam từ điển của Hội Khai trí

tiến đức (1930) và Giản yếu Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh (1931). Trong Việt

Nam từ điển, “cá nhân” được định nghĩa là “chỉ về từng người một”, đi kèm câu ví dụ

rất đáng chú ý: “Xã hội tây phương trọng về cá nhân, xã hội đông phương trọng về gia

tộc” [49, tr.65]. Ở câu ví dụ này, “cá nhân” không chỉ là “một người”, mà còn là một

loại bản vị. Sự phân tách Đông, Tây dựa trên địa vị của cá nhân trong mỗi xã hội là

một loại quan niệm mà chúng ta rất dễ bắt gặp ở Việt Nam lúc bấy giờ. Bên cạnh “cá

nhân”, thuật ngữ “chủ nghĩa cá nhân” cũng xuất hiện trong cuốn từ điển này, với định

nghĩa là “cái chủ nghĩa trọng về cá nhân” [49, tr.65].

Cuốn Giản yếu Hán Việt từ điển xuất bản sau đó một năm cho chúng ta nhiều

thông tin còn thú vị hơn. “Cá nhân”, trong cuốn từ điển này, được định nghĩa là “một

người riêng, tư kỷ (individu)” [3, tr.54]. “Cá nhân chủ nghĩa” cũng xuất hiện, với nội

hàm được xác định rõ ràng hơn so với Việt Nam từ điển: “Chủ nghĩa chỉ tôn trọng tự

do hay quyền lợi của cá nhân (individualisme)” [3, tr.54]. Thay vì chỉ là “trọng về cá

nhân” một cách chung chung, Đào Duy Anh định nghĩa “chủ nghĩa cá nhân” cụ thể là

trọng “tự do hay quyền lợi của cá nhân”, ở đây, “cá nhân” được nhìn nhận trong mối

quan hệ mật thiết với tự do, quyền lợi. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của một loạt thuật

ngữ khác gắn với “cá nhân” cũng là điểm đáng chú ý trong cuốn từ điển của Đào Duy

59

Anh, điều mà ở các cuốn từ điển trước đó ở Việt Nam đều chưa có. Chúng tôi xin dẫn

lại các thuật ngữ đó và định nghĩa về nó trong cuốn từ điển này:

“Cá nhân giá trị: Cái giá trị của cá nhân”

“Cá nhân giải phóng: Buông thả cho cá nhân được tự do”

“Cá nhân quyền: (Pháp) Quyền của mọi người ai nấy đều được theo pháp

luật mà tự do”

“Cá nhân tự do: Quyền tự do của mỗi người” [3, tr.54]

Ngoài ra, còn một số thuật ngữ có ý nghĩa liên quan, như:

“Tư nhân: Cá nhân, đối với đoàn thể (individu)” [3, tr.621]

“Tư quyền: Quyền lợi riêng của cá nhân” [3, tr.622]

Có thể thấy, Đào Duy Anh đã đưa ra một hệ thống từ vựng có liên quan đến

thuật ngữ gốc “cá nhân”, là những từ ngữ được sử dụng phổ biến khi nói về “cá nhân”,

đồng thời, cũng là những điều mà người ta có thể suy tưởng về “cá nhân” ở thời điểm

đầu thế kỷ XX.

Có thể thấy, thuật ngữ “cá nhân”, từ sự xuất hiện lần đầu tiên ở Nhật Bản năm

1884, được đưa vào Trung Quốc sau chiến tranh Trung – Nhật (1894-1895), rồi xuất

hiện một cách khiêm tốn trong cuốn từ điển Việt Pháp năm 1898 của J.F.M. Génibrel,

cho đến khi trở nên phổ biến trong ngôn ngữ Việt Nam từ những năm 20 của thế kỷ

XX, đã thực sự trải qua một hành trình dài, mà ở đó, nó không ngừng được làm phong

phú về mặt hàm nghĩa. “Cá nhân” không chỉ được sử dụng trong ngôn ngữ thường

ngày, mà còn ngày càng trở thành một thuật ngữ trung tâm trong những bàn luận về

chính trị, đạo đức, triết học v.v… ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Đi cùng với sự xuất hiện của những khái niệm mới như khái niệm “cá nhân”, là

sự du nhập của những khuynh hướng, trào lưu tư tưởng mới từ phương Tây, trong đó

có những tư tưởng quan trọng của phương Tây về vấn đề con người cá nhân. Ở Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX, hầu như những trào lưu, khuynh hướng tư tưởng quan trọng

của phương Tây cận đại đều đã hiện diện ở những mức độ khác nhau, và nhanh chóng

phát huy tầm ảnh hưởng của mình đến tầng lớp trí thức tân học.

Xét về mặt thời gian, sự tiếp nhận và truyền bá tư tưởng phương Tây ở Việt

Nam trong nửa đầu thế kỷ XX có thể được khái quát theo ba giai đoạn: Giai đoạn thứ

nhất rơi vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, là giai đoạn mà người Việt Nam tiếp

nhận tư tưởng phương Tây thông qua sách vở chữ Hán, hay còn gọi là “tân văn”, “tân

60

thư”. Ở giai đoạn này, chủ thể tiếp nhận và truyền bá chủ yếu là tầng lớp nho sĩ có

khuynh hướng duy tân. Bằng những tri thức tiếp nhận được từ sách vở Hán văn, họ

tiến hành truyền bá thông qua những bài viết mang tính cổ động cho việc học hỏi

phương Tây để duy tân đất nước. Giai đoạn thứ hai nằm trong khoảng hai thập niên

tiếp theo, đây là giai đoạn mà vai trò tiếp nhận và truyền bá tư tưởng phương Tây bắt

đầu được chuyển giao vào tay tầng lớp trí thức tân học. Là những người được thụ

hưởng nền giáo dục Tây học, họ có khả năng và điều kiện tốt hơn trong việc tiếp cận

tư tưởng phương Tây. Ở giai đoạn trước, chúng ta mới thấy dấu ấn của tư tưởng

phương Tây qua việc những nhà tư tưởng, những tác phẩm và những khái niệm triết

học phương Tây được giới nho sĩ nhắc đến trong các trước tác của mình, thì đến giai

đoạn này, trên diễn đàn học thuật ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện những bài viết bàn

trực tiếp đến tư tưởng phương Tây (bao gồm cả những bài dịch thuật), và đồng thời

với nó, việc trích dịch tác phẩm của các tư tưởng phương Tây cũng bắt đầu được chú

trọng. Ở giai đoạn này, cần nhắc đến vai trò của những tờ tạp chí có tính học thuật như

Đông Dương, Nam Phong và những thủ lĩnh của chúng: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm

Quỳnh, cùng với vai trò của những nhà trí thức học tập và hoạt động ở nước ngoài,

như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc v.v... Đây là giai đoạn mà

hầu hết các trào lưu tư tưởng lớn, những nhà tư tưởng quan trọng của phương Tây đều

đã hiện diện ở Việt Nam, trong đó có cả chủ nghĩa Mác. Giai đoạn thứ ba nằm trong

khoảng những năm 30, 40, là giai đoạn mà việc tiếp nhận và truyền bá tư tưởng

phương Tây tiến thêm một bước để đi vào chiều sâu. Đặc điểm của giai đoạn này là sự

nở rộ của các sách xuất bản, các thư xã và các tủ sách. Bên cạnh những bài viết trên

báo, tạp chí vẫn tiếp tục được duy trì, ở giai đoạn này, xuất hiện rất nhiều những cuốn

sách tương đối dày dặn có nội dung bàn về tư tưởng phương Tây. Những năm 30, có

những công trình như Mười một công thức làm cơ sở cho duy vật sử quan của Karl

Marx (Trần Hữu Độ biên dịch, năm 1936), Biện chứng pháp phổ thông (Phan Văn

Hùm, 1937) v.v... Những năm 40, trên diễn đàn học thuật ở Việt Nam lại tiếp tục xuất

hiện một loạt sách về triết học phương Tây như Triết học Bergson (1942) của Lê Chí

Thiệp, loạt sách Triết học Einstein (1943), Triết học Kant (1942), Triết học Nietzsche

(1942), Triết học Descartes (1943) của Nguyễn Đình Thi, Học thuyết Freud của Tô

Kiều Phương (1943)… Năm 1944, Đinh Gia Trinh đưa ra tổng kết: “Một điều đáng

chú ý là triết học hiện nay hình như cũng được dân chúng trìu mến lắm. Cách đây ít

61

lâu, hỏi các hàng sách Hà nội đã thấy bán hầu hết những quyển sách triết học của “Tủ

sách triết học Tân Việt”. Nào Kant, nào Nietzsche, nào Bergson, độc giả yêu sách đã

vơ cả rồi” [130, tr.8]. Nhận định này không những cho thấy mức độ hiện diện của tư

tưởng phương Tây ở Việt Nam, mà còn cho thấy mức độ đón nhận của người Việt

Nam đối với nó. Có thể thấy, trong hơn bốn thập niên kể từ đầu thế kỷ XX, quá trình

tiếp nhận và truyền bá tư tưởng phương Tây đã được thực hiện một cách liên tục,

không ngừng nghỉ, ở cả chiều rộng lẫn chiều sâu, thông qua đó mà tư tưởng phương

Tây ngày càng trở nên phổ biến và thấm sâu vào đời sống tinh thần của người Việt.

Về mặt nội dung, xét trong mối liên hệ với sự hình thành những quan niệm mới

về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy có

thể phân chia thành mấy nguồn ảnh hưởng sau đây. Thứ nhất là tư tưởng Pháp thời cận

đại. Dấu ấn mà nền tư tưởng Pháp để lại ở Việt Nam thời kỳ này có lẽ là một điều

không phải bàn cãi. Ngay trong giai đoạn đầu tiên, chúng ta đã thấy sự hiện diện của

nhiều tên tuổi triết gia Pháp như Rousseau, Montesquieu, Voltair. Những nhà khai

sáng Pháp, mà đặc biệt là Rousseau, đã trở thành thần tượng và nguồn cảm hứng cho

nhiều thế hệ trí thức ở Việt Nam, từ cựu học cho đến tân học. Họ tìm thấy ở Rousseau

những ý tưởng đầy mới mẻ về tự do và về sự liên kết của con người trong xã hội.

Trong tác phẩm Du Contrat Social nổi tiếng của mình, Rousseau đã đưa ra những

quan điểm đầy mạnh mẽ về tự do và về con người cá nhân, ông viết: “Tự do là từ bản

chất con người mà có. Luật đầu tiên của tự do là mỗi người phải được chăm lo sự tồn

tại của mình. Những điều quan tâm đầu tiên là quan tâm đến bản thân. Ở tuổi lí trí, con

người phải tự mình định đoạt các phương tiện sinh tồn của mình, và do đó tự mình làm

chủ lấy mình” [110, tr.28]. Những phát ngôn như vậy, chắc hẳn đã tạo nên sức lay

động không nhỏ và có lẽ đã góp phần định hình nên một cách nhìn mới về con người

cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Du Contrat Social cũng chính là một trong số

không nhiều tác phẩm triết học đã được dịch và giới thiệu ở Việt Nam thời kỳ này.

Thậm chí, tác phẩm này được dịch đến hai lần, dù chỉ là trích dịch. Lần thứ nhất là trên

Nam Phong tạp chí năm 1926, khi một số trích đoạn của Du Contrat Social được dịch

cùng với Emile, Les Confessions. Lần thứ hai, cũng trong năm này, là khi Nguyễn An

Ninh công bố bản dịch đoạn đầu tác phẩm này, với nhan đề tiếng Việt là Xã ước. Một

điểm đặc biệt là, Nam Phong và Nguyễn An Ninh đồng thời cũng là đại diện cho hai

khuynh hướng tư tưởng đối lập về vấn đề con người cá nhân. Trên thực tế, tuy cùng

62

viết và dịch về Rousseau, những bài trên Nam Phong và bản dịch của Nguyễn An

Ninh đã thể hiện hai cách tiếp cận khác biệt về nhà tư tưởng này. Điều đó cho thấy tầm

ảnh hưởng to lớn của Rousseau và tác phẩm Du Contrat Social của ông đối với tầng

lớp trí thức Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, đồng thời cũng cho thấy sự đa diện

trong việc tiếp nhận Rousseau ở Việt Nam.

Bên cạnh Rousseau, chúng ta không thể không nhắc đến ảnh hưởng của Bản

Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, văn bản kết

tinh “toàn bộ di sản châu Âu thời Ánh sáng” [76, tr.62], mà một trong những ý nghĩa

của nó là “biến cá nhân thành trọng tâm của một xã hội được tổ chức lại xuất phát từ y

và xung quanh y” [76, tr.61]. Cũng như Du Contrat Social của Rousseau, đây là văn

bản đã được dịch nhiều lần ra tiếng Việt. Theo khảo sát của chúng tôi, chí ít, cũng đã

có ba bản dịch khác nhau của bản Tuyên ngôn này: thứ nhất là bản dịch và giải thích

của Tân Nam Tử năm 1926 trong cuốn Dân đạo và dân quyền: Một giống dân không

biết quyền lợi và nghĩa vụ của mình là một giống dân không đáng sống, thứ hai là bản

dịch của Phạm Huy Lục năm 1935 trong cuốn Nhân quyền, và thứ ba là bản dịch đăng

trên Ngày Nay năm 1939 với nhan đề “Bản tuyên cáo nhân quyền và dân quyền”. Với

ý nghĩa quan trọng của nó trong lịch sử phát triển của tư tưởng phương Tây về con

người nói chung và về con người cá nhân nói riêng, chúng ta không ngạc nhiên khi

văn bản này cũng là một trong những văn bản được nhắc đến và dẫn dụng nhiều lần

nhất trong những nghị luận của tầng lớp trí thức tân học Việt Nam đầu thế kỷ XX, mà

đặc biệt là những trí thức theo khuynh hướng cấp tiến. Đối với họ, những điều khoản

của bản Tuyên ngôn này cũng chính là những luận điểm nền tảng mà họ dựa vào để

nói lên tiếng nói bênh vực cho quyền lợi và sự tự do của con người cá nhân. Nói cách

khác, những suy tư theo hướng cấp tiến về con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế

kỷ XX đều ít nhiều mang dấu ấn của văn bản này. Chúng tôi sẽ còn làm rõ vấn đề này

khi đi vào quan niệm cụ thể của tầng lớp trí thức tân học về vấn đề con người cá nhân.

Ở một chiều hướng khác, người trí thức Việt Nam thời kỳ này còn tiếp nhận và

chịu ảnh hưởng của những nhà tư tưởng Pháp theo khuynh hướng bảo thủ hoặc chủ

nghĩa quốc gia, như Barres, Maurras, Bordeaux. Tầm ảnh hưởng của họ phần nhiều

nằm trong nhóm trí thức theo khuynh hướng phục cổ mà Phạm Quỳnh là đại diện.

Tính cách bảo thủ, sự phản ứng lại những quan niệm đề cao con người cá nhân là điểm

chung của họ, và những yếu tố đó lại tỏ ra phù hợp với ý tưởng mà những nhà trí thức

63

như Phạm Quỳnh theo đuổi. Trên thực tế, Phạm Quỳnh đã nhiều lần nhắc đến họ với

một thái độ hưởng ứng trong các bài viết của mình, ở đó, ông cố gắng tìm trong tư

tưởng của họ những gì phù hợp với quan niệm của bản thân về vấn đề con người cá

nhân. Đó là tinh thần đề cao và bảo tồn gia tộc trong tiểu thuyết Truyện nhà

Roquevillards của Bordeaux [xem 102, tr.89-92], là sự chiến đấu cho ““chủ nghĩa dân

tộc toàn vẹn” và sự trở lại của ngôi vua nước Pháp” của Maurras [109, tr.312], hay là

cái “chủ nghĩa quốc gia”, “chủ nghĩa quốc túy” ở Barres [25, tr.183]. Như vậy, có thể

thấy, nền triết học cận đại Pháp đã cung cấp những tiền đề tư tưởng quan trọng cho

việc xây dựng quan niệm về vấn đề con người cá nhân không chỉ cho nhóm trí thức tân

học theo khuynh hướng cấp tiến, mà còn cho cả nhóm trí thức theo khuynh hướng

phục cổ ở Việt Nam.

Bên cạnh nền triết học Pháp, ở một mức độ khiêm tốn hơn, cũng có thể nhắc

đến ảnh hưởng của nền triết học Anh. Mặc dù tên tuổi của những triết gia Anh, đặc

biệt là những đại biểu của chủ nghĩa cá nhân Anh, không phổ biến bằng tên tuổi của

những triết gia Pháp. Tuy vậy, qua những tư liệu hiện có, chúng tôi thấy có căn cứ để

nói rằng, tư tưởng Anh đã hiện diện ở Việt Nam khá sớm, ngay từ thập niên đầu của

thế kỷ XX. Về vấn đề này, chúng tôi bắt đầu bằng một bài viết rất đáng chú ý của Đào

Trinh Nhất trên Trung Bắc tân văn số 197: “Nghiêm Phục và vấn đề văn hóa Đông

Tây”. Trong bài viết này, Đào Trinh Nhất đã đề cập đến một chi tiết quan trọng:

“Người Tàu ở cuối thế kỷ 19, được sôi nổi đón rước tân học, nhờ có công phu ông

cảnh tỉnh truyền bá một phần rất lớn. Ngay sĩ phu nước ta, từ năm Giáp Ngọ (1894) trở

đi, nô nức sách mới, nảy ra óc mới, làm quen với học thuật tư tưởng Thái tây bởi

những bản dịch chữ Hán, phần nhiều là của Nghiêm Phục” [94, tr.16]. Thân phụ của

Đào Trinh Nhất là Đào Nguyên Phổ, một nhân vật có vai trò quan trọng trong việc lưu

giữ và phổ biến tân văn, tân thư trong giới nho sĩ Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế

kỷ XX. Ý kiến của Đào Trinh Nhất, vì vậy, rất đáng được chú ý. Theo những gì Đào

Trinh Nhất đã nêu ra, thì có thể nói là bên cạnh việc tiếp nhận tư tưởng phương Tây từ

tác phẩm của những nhà nho duy tân của Trung Quốc, giới nho sĩ Việt Nam còn được

biết đến tư tưởng phương Tây qua cả những bản dịch chữ Hán những tác phẩm của các

nhà tư tưởng phương Tây. Cũng Đào Trinh Nhất, trong cuốn Đông Kinh Nghĩa thục,

đã thuật lại lời của Nguyễn Quyền – một trong những nhân vật chủ chốt của phong

trào Đông Kinh Nghĩa thục: “Hồi này [1905 - TG] tôi vớ được những sách tân thơ do

64

đám chí sĩ duy tân Trung Quốc, nhứt là thầy trò Khương Lương, dịch của Âu Mĩ hoặc

tự soạn ra như: “Trung Quốc hồn” hay “Quần kỉ quyền giới luận”. Tối ngày tôi đọc

một cách say mê, đến nỗi quên ăn quên ngủ” [95, tr.358]. Quần kỷ quyền giới luận

chính là tên bản dịch chữ Hán tác phẩm On Liberty của J.S. Mill. Chi tiết mà Đào

Trinh Nhất ghi chép lại, chí ít cũng giúp chúng ta biết được rằng những công trình dịch

thuật của Nghiêm Phục đã thực sự được đọc bởi nhà nho Việt Nam đầu thế kỷ XX, và

trong số đó, có bản dịch của một tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa cá nhân Anh: On Liberty.

Sau này, trong một số bài viết về tư tưởng phương Tây đăng trên các tờ báo, tạp

chí đương thời, chúng ta thấy xuất hiện những cái tên như Locke, Bentham, Adam

Smith v.v... Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, dấu ấn mà họ để lại lên các nhà tư tưởng

Việt Nam là khá hạn chế. Đây là điều mà D. Marr từng lưu ý, khi nói đến ảnh hưởng

của Locke ở Việt Nam: người trí thức Việt Nam dường như không có ý thức, hoặc

không bị lôi cuốn bởi John Locke, cha đẻ của những thông điệp thấm đẫm những

nguyên tắc về quyền con người, bảo vệ sở hữu cá nhân, và sự hạn chế quyền lực của

nhà nước [xem 150, tr.779]. Lý giải cho tình hình này, chúng tôi cho rằng, một mặt,

việc trưởng thành trong nền giáo dục và văn hóa Pháp sẽ khiến cho người trí thức Việt

Nam có thiên hướng coi trọng nền tư tưởng Pháp hơn, mặt khác, có lẽ chủ nghĩa cá

nhân của những nhà tư tưởng Anh không dễ bắt rễ trong nền văn hóa của người Việt.

Ở một khía cạnh nào đó, điều này cũng tương đồng với những gì đã diễn ra ở Trung

Quốc thời cận đại, nơi chủ nghĩa cá nhân Anh đã bị khúc xạ qua cái nhìn của chủ thể

tiếp nhận và truyền bá, mà bản thân bản dịch tác phẩm On Liberty của Nghiêm Phục

đã cho thấy điều đó. Qua bản dịch này, Nghiêm Phục một mặt đã giới thiệu chủ nghĩa

cá nhân Anh đến với người Trung Quốc, nhưng đồng thời, dưới ảnh hưởng của nền

văn hóa truyền thống, cũng lại chuyển hóa nó thành một thứ chủ nghĩa cá nhân xa lại

với nguyên mẫu của nó ở nước Anh. Một trong những điểm mấu chốt của sự “khúc xạ”

đó, là việc phiên dịch “tự do” của J.S.Mill từ một trạng thái thuần túy cá nhân thành

một trạng thái của quần thể, khiến cho “Nghiêm Phục không thể nào nắm bắt được sự

nhấn mạnh của J.S.Mill vào giá trị, tự do và sự tôn nghiêm của cá nhân, đồng thời có

thiên hướng nghiêng về chủ nghĩa tập thể” [156, tr.47]. Những vận động trong quan

niệm về con người cá nhân ở Việt Nam sau này cũng có xu hướng đi từ cá nhân mở

rộng ra quốc gia, xã hội. Hiện tượng đó phần nào phản ánh sự khó khăn mà chủ nghĩa

cá nhân Anh phải đối mặt khi được du nhập vào các nước Đông Á.

65

Bên cạnh triết học Pháp và Anh, người trí thức Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

cũng chịu ảnh hưởng của nền triết học Đức, mà một trong những nhà tư tưởng Đức có

tầm ảnh hưởng tương đối lớn ở Việt Nam thời kỳ này là I.Kant. Những ý tưởng của

I.Kant về quy luật đạo đức, về khả năng của mỗi cá nhân trong việc hành động dựa

trên những quy luật đạo đức bên trong họ, tách rời bất cứ loại tính mục đích nào, là

những ý tưởng đầy quyến rũ đối với người trí thức Việt Nam trên con đường truy cầu

tự do cá nhân. Tư tưởng của Kant, ở một mức độ nhất định, lại có những điểm có thể

chia sẻ với tư tưởng Nho giáo truyền thống vốn dĩ coi trọng tính tôn nghiêm của con

người cá nhân với tư cách chủ thể của hành vi đạo đức, vì vậy, không có gì đáng ngạc

nhiên khi nó nhận được sự đề cao, hưởng ứng của những nhà trí thức theo khuynh

hướng phục cổ khi bàn về vấn đề con người cá nhân. Đọc các bài viết của những nhân

vật như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, chúng ta có thể thấy khá rõ dấu ấn của Kant

trong quan niệm của họ.

Cuối cùng, không thể không nhắc đến ảnh hưởng của triết học Mác ở Việt Nam.

Bắt đầu từ những năm 20 của thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác bắt đầu xuất hiện Việt Nam

theo những con đường khác nhau. Về sự hiện diện của những văn bản liên quan đến

Mác, theo Trần Văn Giàu, cho đến trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, không có

một bằng chứng nào cho thấy sự xuất hiện của các tác phẩm của Mác hoặc về Mác ở

Sài Gòn, nơi được cho là mảnh đất đầu tiên tiếp nhận chủ nghĩa Mác ở Việt Nam. Sự

xuất hiện của những tài liệu như thế chỉ có thể thấy được trong những năm 20 [xem 44,

tr.477]. Ở thời kỳ này, nếu như ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đóng một vai trò đặc

biệt quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào Việt Nam, thì ở trong nước,

vai trò này gắn với tên tuổi của Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh cùng các tờ báo

La Cloche fêlée và L’Annam. La Cloche fêlée chính là tờ báo đã đăng tải nguyên văn

Tuyên ngôn Cộng sản bằng tiếng Pháp, vào năm 1926. Ngoài ra, còn nhiều bài viết

khác về Mác, về chủ nghĩa cộng sản đã được đăng tải trên hai tờ báo này trong suốt

những năm 20. Những quan niệm của chủ nghĩa Mác về tự do, về mối quan hệ giữa cá

nhân và xã hội tỏ ra rất phù hợp với xu hướng phát triển của quan niệm về con người

cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, vì vậy, ngay sau khi xuất hiện, chủ nghĩa Mác

đã nhanh chóng lôi cuốn được tầng lớp trí thức tân học Việt Nam, và ngày càng có ảnh

hưởng lớn đến quan niệm của họ. Chúng ta có thể tìm thấy một minh chứng sống động

cho sự ảnh hưởng này nơi Nguyễn An Ninh, một trong những người đầu tiên nhấn

66

mạnh yêu cầu giải phóng cá nhân, và cũng là người sau này đã đứng trên lập trường

của chủ nghĩa Mác để đưa ra những quan niệm của mình về vấn đề con người cá nhân.

Có thể thấy rằng, trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, các trào lưu tư tưởng, các nhà

tư tưởng phương Tây đã có tác động rất lớn đến đời sống tư tưởng ở Việt Nam. Các trí

thức tân học ở Việt Nam, bất kể là theo khuynh hướng phục cổ hay cấp tiến, đều ít

nhiều đã xây dựng quan niệm của mình trên cơ sở tiếp thu một tư tưởng nào đó của

phương Tây. Trong số đó, chúng ta thấy có cả sự hiện diện của chủ nghĩa cá nhân, chủ

nghĩa quốc gia, chủ nghĩa xã hội v.v... Mỗi trào lưu trong số đó đều ảnh hưởng đến

cách nhìn của người trí thức tân học Việt Nam về vấn đề con người cá nhân theo

những cách khác nhau, từ đó mà mang đến một diện mạo mới, nội dung mới cho quan

niệm của người Việt Nam đương thời về vấn đề này.

2.2.3. Quan niệm mới về con người của tầng lớp trí thức Nho học ở Việt Nam trong

thập niên đầu thế kỷ XX

Trước khi tầng lớp trí thức tân học khẳng định mình như thế lực dẫn dắt tiến

trình văn hóa Việt Nam, thì trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, đội ngũ trí thức

Nho học theo khuynh hướng duy tân vẫn có một địa vị rất lớn, hay có thể nói là chủ

đạo, trong nền văn hóa và tư tưởng dân tộc. Họ là những người đã khởi đầu cho những

ý tưởng mới về con người, trước khi vấn đề con người cá nhân thực sự được đặt ra bởi

tầng lớp trí thức tân học. Mặt khác, trong suốt những thập niên tiếp theo, các nhà nho

duy tân vẫn tiếp tục hoạt động và duy trì tầm ảnh hưởng của mình trong giới trí thức,

nên không thể không nhắc đến họ với tư cách là những người mở đường cho những

quan niệm mới về vấn đề con người cá nhân của đội ngũ trí thức tân học.

Nhìn lại lịch sử Việt Nam, có thể thấy, trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XX,

mặc dù vấn đề con người cá nhân chưa được đặt ra một cách trực tiếp, thuật ngữ “cá

nhân” cũng hầu như ít được nhắc đến, nhưng một thứ ý thức mới về con người, mang

bóng dáng của Tây phương đã manh nha trong các nhà nho duy tân. Nếu như cần phải

đi tìm một thời điểm mang tính quyết định, đánh dấu sự thay đổi cách nhìn, thay đổi

quan niệm của người Việt Nam về vấn đề con người cá nhân, thì bắt buộc phải quay

trở lại với những quan niệm sơ khởi của những nhà nho duy tân đầu thế kỷ.

Trong những bàn luận về con người của các nho sĩ duy tân thập niên đầu thế kỷ

XX, chúng ta thấy xuất hiện những khái niệm mới mẻ như “quyền lợi” và “tự do”,

những khái niệm mà chỉ một thập niên sau đó sẽ gắn chặt với vấn đề cá nhân. Trong

67

sách Tân đính quốc dân độc bản của phong trào Đông Kinh nghĩa thục đã có bài bàn

về vấn đề “quyền lợi”. Các tác giả cuốn sách viết: “Quyền lợi là cái mình đáng được

hưởng thụ, trách nhiệm là cái mình phải hết lòng thi hành. Có quyền lợi tất phải có

trách nhiệm” [117, tr.291]. Đồng thời lại nói thêm: “Văn minh càng tiến, dân trí càng

cao, thì giới hạn của trách nhiệm và quyền lợi càng rộng” [117, tr.291]. Trong Tân

đính luân lý giáo khoa thư lại viết: “Tài sản do chúng ta đem sức lực ra làm mà có,

chúng ta sử dụng thoải mái và được pháp luật bảo vệ. Chúng ta cứ theo quyền lợi cho

phép mà xử lý thỏa đáng, không muốn ai xâm phạm tới” [118, tr.34].

Thông qua những đoạn trích trên, có thể thấy, các nhà nho của phong trào Đông

Kinh Nghĩa thục đã đưa ra một nhận thức rất mới mẻ về vấn đề quyền lợi, thứ nhận

thức khó có thể thấy được ở thời kỳ trước đó. Thứ nhất, họ khẳng định tính chính đáng

của quyền lợi mang tính cá nhân, thứ “mình đáng được hưởng thụ”. Như đã nói, Nho

gia truyền thống tuy chưa từng phủ nhận cái gọi là “lợi”, nhưng họ nhấn mạnh đến lợi

chung, còn đối với cái gọi là “tư lợi”, thì họ rất mực phê bình. Họ còn lấy việc đề cao

“tư lợi” làm một tiêu chuẩn để biện biệt quân tử và tiểu nhân. Đối với họ, cái lợi trong

mối tương quan với nghĩa, nhất thiết đứng ở vị trí thứ hai, nó chỉ có tính chính đáng

khi nó được sinh ra từ nghĩa. Như vậy, quan niệm của các nhà nho duy tân rõ ràng đã

vượt qua lề lối tư duy truyền thống về lợi. Họ không tuyệt đối hóa quyền lợi cá nhân,

nhưng họ luận chứng cho tính chính đáng của nó. Còn trong mối quan hệ với trách

nhiệm, có thể thấy, tác giả của Tân đính quốc dân độc bản đã đặt quyền lợi và trách

nhiệm trong một mối quan hệ ngang hàng, mà ở đó, quyền lợi sinh ra trách nhiệm và

ngược lại, chứ không phải là trách nhiệm bao trùm lên quyền lợi. Điểm đáng chú ý thứ

hai là, trong quan niệm của các nhà nho Đông Kinh Nghĩa thục, quyền lợi không

những có tính chính đáng, mà còn có tính hợp pháp, được pháp luật bảo hộ. Điều đó có

nghĩa là, con người không những có thể theo đuổi quyền lợi của bản thân, mà quyền

lợi ấy còn phải được bảo vệ. Điểm đáng chú ý thứ ba là, nhận thức về quyền lợi còn là

một chỉ dấu của sự văn minh và sự nâng cao của dân trí. Do đó, việc ý thức về quyền

lợi (và đi kèm với nó là trách nhiệm) của mỗi người là một yêu cầu đặt ra trong việc

duy tân đất nước.

Có thể nói, trong thập niên đầu thế kỷ XX, việc đưa ra được quan niệm như vậy

cũng có thể xem là một bước đột phá trong quan niệm về con người, khi nhìn nhận nó

trong mối quan hệ với quyền lợi mà nó đáng được hưởng. Một quan niệm về quyền lợi

68

như chúng tôi đã trình bày ở trên tất nhiên là còn giản lược, tuy nhiên, rõ ràng đã tạo

nên một nền tảng vững chắc về mặt nhận thức, để thế hệ trí thức tân học tiếp tục phát

triển, đào sâu trong những bàn luận về quyền lợi cá nhân của mình.

Bên cạnh vấn đề quyền lợi thì vấn đề tự do cũng là một vấn đề mà các nhà nho

duy tân đặc biệt coi trọng. Đối với họ, tự do có thể xem như thứ quý giá nhất mà nền

văn hóa phương Tây đã mang lại cho người Việt Nam. Trong con mắt của họ, phương

Tây gắn với tự do, hướng về phương Tây là hướng về tự do. Đọc lại thơ văn của

những nhà nho duy tân những năm đầu thế kỷ, chúng ta có thể thấy được khát vọng

mãnh liệt hướng về tự do của họ.

Huỳnh Thúc Kháng khi làm bài thơ tiễn Phan Chu Trinh sang Pháp, đã thể hiện

niềm tin rằng, sang Pháp chính là tìm đến nơi đang lưu giữ hạt giống tự do: “Luận

hành Dân ước tuân Lư lão/ Đảo nhập Khoa tây điếu Nã hoàng/ Thử địa tự do hoa

chính hảo/ Bằng quân di chủng đáo viêm phương” (Luận Lư-xoa đó tìm Dân ước/Mộ

Nã hoàng đây đốt nén hương/Thổ sản tự do hoa chính đấy/Nhờ người đem giống đến

Nam Phong) [122, tr.98]. Còn chính bản thân Phan Chu Trinh cũng nhiều lần nhấn

mạnh rằng, phương Tây chính là mảnh đất của tự do: “Thử bang đệ nhất dân quyền tổ/

Bách vạn đầu lô cấu tự do” (Nước này là nước tổ dân quyền đệ nhất/Trăm vạn cái đầu

đã rơi để mua lấy tự do) [131, tr.161], “Âu Á phong trào hám ngũ châu/Anh hùng tâm

toái Tự do lâu” (Phong trào Âu Á lay động năm châu/Lòng người anh hùng tan nát ở

lầu Tự do) [131, tr.163]. Có thể nói, đối với các nhà nho duy tân, tự do vừa là một lý

tưởng, vừa là một phương tiện để họ giải phóng bản thân người Việt Nam khỏi trạng

thái lạc hậu và bị áp bức. Sau này, vấn đề tự do trở thành trung tâm trong những tranh

luận về con người cá nhân ở Việt Nam của tầng lớp trí thức tân học, điều đó cho thấy,

thế hệ trí thức tân học đã kế tục những khát vọng của các nhà nho duy tân, gắn nó với

vấn đề con người cá nhân, cấp thêm cho khái niệm tự do những ý nghĩa mới, mở ra những

triển vọng và khả năng mới.

Ở một góc độ khác, cũng phải nhấn mạnh rằng, ở các nhà nho duy tân, bên cạnh

tinh thần hướng về lý tưởng tự do của phương Tây, chúng ta vẫn thấy phảng phất thứ

tinh thần tự do nội tại, tự do ý chí trong lĩnh vực đạo đức, thể hiện ở chỗ con người tự

mình làm chủ thân tâm của mình. Thứ tinh thần ấy vẫn hồi quang trong tâm thức của

nhà nho duy tân, những người đã xây dựng học vấn và nhân cách của mình dưới nền

Khổng học. Tinh thần cứng cỏi, ung dung, tự tại trước những thách thức của ngoại vật

69

trở nên một minh chứng sống động cho thứ “tự do” Khổng giáo như thế. Chính nó là

chỗ dựa tinh thần vững chắc để Phan Chu Trinh, trong hoàn cảnh tù đày vẫn có thể

viết nên những câu đầy kiên nghị trong bài “Đập đá ở Côn Lôn”, vào năm 1907:

“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi/Mưa nắng càng bền dạ sắt son/Những kẻ vá trời

khi lỡ bước/Gian nan chi kể sự con con” [131, tr.187], hay thúc giục Phan Bội Châu

khẳng định tính độc lập nhân cách của bản thân: “Đính thiên lập địa hảo nam

nhi/Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di/Ư bách niên trung tu hữu ngã/Khởi thiên tải hậu

cánh vô thùy” (Đường đường một đấng nam nhi đứng trong trời đất/Không thể để cho

càn khôn tự chuyển dời/Trong cuộc trăm năm cần có ta/Chả lẽ ngàn năm sau lại không

có ai sao?) [15, tr.307]. Đây cũng là tinh thần chung của các nhà nho thời kỳ duy tân,

giúp họ vượt lên trên mọi nghịch cảnh để đạt được sự “tự do” trong ý chí của mình.

Tinh thần đó, sau này chúng ta sẽ phần nào thấy lại ở những nhà trí thức tân học theo

khuynh hướng phục cổ, tất nhiên, với một diện mạo khác.

Có thể nói, tầng lớp trí thức tân học Việt Nam, đặc biệt là những nhà trí thức

cấp tiến, đã tiếp thu một cách triệt để những ý tưởng mới của các nhà nho duy tân, để

xây dựng nên những quan niệm của mình về vấn đề con người cá nhân. Qua những

bàn luận của giới trí thức tân học nửa đầu thế kỷ XX, có thể thấy, nhiều luận điểm mà

họ đưa ra có sự khác biệt về căn bản so với các nhà nho duy tân, nhưng những nội

dung mà họ quan tâm bàn luận liên quan đến vấn đề con người cá nhân không nằm

ngoài những nội dung mà các nhà nho duy tân đã đề cập đến, đó là quyền lợi và tự do.

Ở đây, chúng ta có thể thấy rất rõ sự kế thừa và phát triển của những nhà trí thức tân

học đối với những ý tưởng đã được các nhà nho duy tân vạch ra từ những năm đầu của

thế kỷ XX.

2.3. Sự hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu

thế kỷ XX

2.3.1. Sự hình thành tầng lớp trí thức tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

“Trí thức tân học”, trong đề tài này, được định nghĩa là tầng lớp trí thức được

bồi dưỡng, giáo dục bởi những tri thức mới (tân học) của phương Tây thông qua hệ

thống giáo dục mới (tiểu học, trung học, cao đẳng, đại học) hoặc thông qua con đường

tự học. Vì vậy, họ cũng có thể được gọi tên là trí thức Tây học. Khi đưa ra cách hiểu

như vậy về trí thức tân học, chúng tôi cũng muốn lưu ý đến trường hợp một số nhà trí

thức xuất thân từ nền cựu học, mặc dù không được đào tạo một cách bài bản trong các

70

nhà trường thuộc hệ thống giáo dục mới, song thông qua quá trình tự học, đã tiếp nhận

những tri thức mới của nền văn hóa tư tưởng phương Tây, thừa nhận và lấy những tri

thức đó làm nền tảng học vấn, đồng thời từ bỏ bộ áo nhà nho của mình. Ở trường hợp

này, trên thực tế họ không còn là nhà nho hay trí thức Nho học nữa, mà thực sự có thể

được xem là một trí thức tân học.

Nhìn lại sự hình thành của tầng lớp trí thức tân học ở Việt Nam, có thể nhận ra

rằng, những nhà trí thức tân học đầu tiên ở Việt Nam đã xuất hiện ngay từ cuối thế kỷ

XIX, chứ không phải đợi đến đầu thế kỷ XX. Trong số 43 trí thức thuộc thế hệ 1862

được Trịnh Văn Thảo liệt kê trong công trình Ba thế hệ trí thức người Việt, nếu nhìn

vào xuất thân học vấn, thì có 3 nhân vật có thể được xếp vào đội ngũ trí thức tân học,

gồm: Kì Đồng Nguyễn Văn Cẩm (1874-1929, học tú tài ở An-giê-ri), Pétrus Trương

Vĩnh Kí (1837-1898, học ở Trường Truyền giáo đối ngoại Penang, Malaysia) và

Paulus Huỳnh Tịnh Của (1834-1907, học ở Trường Truyền giáo đối ngoại Penang,

Malaysia) [xem 114, tr.35-36]. Đây là 3 gương mặt trí thức tân học nổi bật nhất thuộc

thế hệ đầu tiên ở Việt Nam. Tất nhiên, bên cạnh họ, nếu lấy nền tảng giáo dục làm tiêu

chí, thì vẫn còn những người Việt Nam khác có thể xếp vào đội ngũ trí thức tân học,

bởi ngay từ cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp bắt đầu thiết lập ở Nam kỳ những

trường học mới, thì ở đó đã có học sinh người Việt theo học. Tuy nhiên, sản phẩm của

những trường học Pháp thời kỳ này chủ yếu là đội ngũ thông dịch viên, hầu như chưa

phát huy được tầm ảnh hưởng đối với nền văn hóa Việt Nam. Cả 3 nhân vật nổi bật mà

chúng tôi nhắc đến ở trên có một điểm chung là đều được đào tạo ở nước ngoài, điều

đó có thể cho thấy sự hạn chế của đội ngũ trí thức tân học trưởng thành từ các trường

học Pháp ở trong nước.

Tình trạng này còn được duy trì cho đến thập niên đầu tiên của thế kỷ XX. Ở

thời điểm này, có thể thấy, tầng lớp trí thức Nho học vẫn nắm giữ vai trò chủ chốt

trong những phong trào vận động chính trị và văn hóa. Nhưng từ thập niên thứ hai trở

đi, đội ngũ trí thức tân học Việt Nam đã thực sự trưởng thành cả về số lượng và chất

lượng. Sự mở rộng của hệ thống giáo dục thuộc địa tạo nên một đội ngũ trí thức đông

đảo được đào tạo bởi chương trình giáo dục mới ở nhiều cấp độ, chế độ khoa cử chấm

dứt khiến cho tầng lớp nho sĩ trở nên thất thế, Nho học không còn duy trì được sức hấp

dẫn đối với những người đi học, và sự hoàn thiện của chính quyền thuộc địa cũng tạo

điều kiện để những người được đào tạo bởi nền giáo dục Pháp Việt có nhiều cơ hội

71

hơn để tìm kiếm chỗ đứng trong xã hội. Chừng ấy điều kiện đã khiến cho tầng lớp trí

thức tân học nhanh chóng nắm lấy vai trò dẫn dắt nền văn hóa dân tộc, vai trò mà ở

thập niên đầu tiên vẫn nằm trong thẩm quyền của tầng lớp nho sĩ.

Xuất thân về mặt học vấn của người trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX khá đa dạng, xét trên cấp độ mà họ được đào tạo. Nhóm thứ nhất, có thể kể đến

những trí thức xuất thân Nho học, được đào tạo bởi nền giáo dục Nho học truyền

thống, được định hướng tham gia vào các kỳ thi, nhưng sau đó, đã từ bỏ Nho học để tự

học tập, tiếp nhận các tri thức mới đến từ phương Tây, qua đó tự phủ định tư cách nho

sĩ của mình. Tiêu biểu cho trường hợp này là Phan Khôi, Trần Huy Liệu, Trần Hữu Độ

v.v... Nhóm thứ hai là nhóm trí thức được đào tạo dưới nền giáo dục Pháp Việt ở thuộc

địa. Họ là những người trưởng thành dưới nền giáo dục Tây học, ở những cấp học

khác nhau, từ tiểu học, trung học đến cao đẳng, đại học, như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm

Quỳnh, Nguyễn Duy Cần v.v... Phần lớn trí thức tân học ở Việt Nam trong nửa đầu thế

kỷ XX nằm ở nhóm này. Nhóm thứ ba là những người được đào tạo bồi dưỡng ở các

trường cao đẳng, đại học ở chính quốc, nhờ vào gia thế hoặc năng lực tự thân. Tiêu

biểu cho nhóm này có Trần Trọng Kim, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Phan

Văn Hùm, Nguyễn Phan Long, Nhất Linh, Dương Bạch Mai, Trần Văn Thạch, Hồ

Hữu Tường v.v... Đây là nhóm có khả năng tiếp cận gần nhất với nền văn hóa tư tưởng

phương Tây, đồng thời cũng có khả năng giành được những bằng cấp cao trên lĩnh vực

học thuật, đa phần trong số họ mang tư tưởng cấp tiến. Nhiều người thuộc nhóm này,

sau khi về nước, đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát

triển của các phong trào văn hóa, chính trị ở Việt Nam.

2.3.2. Sự phát triển và các khuynh hướng tư tưởng của tầng lớp trí thức tân học qua

một số phản tư chủ yếu về con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

Trong những cuộc vận động duy tân ở Việt Nam trong thập niên đầu tiên của

thế kỷ XX, chúng ta đã có thể thấy được sự hiện diện của những nhà trí thức tân học.

Nếu như ở Nam kỳ có Trần Chánh Chiếu, Lương Khắc Ninh với phong trào Minh Tân,

thì ở Bắc kỳ, chúng ta cũng có thể thấy sự hiện diện của Nguyễn Văn Vĩnh trong

phong trào Đông Kinh Nghĩa thục. Đội ngũ trí thức tân học đặc biệt phát triển mau lẹ

và khẳng định vị thế của mình từ thập niên thứ hai của thế kỷ XX trở đi. Nhìn về sự

phát triển của đội ngũ trí thức tân học Việt Nam thời kỳ này, hầu hết các nhà nghiên

cứu phân chia họ thành hai thế hệ, mặc dù mốc thời gian cụ thể cho mỗi thế hệ có thể

72

được xác định theo cách khác nhau. Trịnh Văn Thảo, trong công trình Ba thế hệ trí

thức người Việt, lựa chọn 2 cột mốc 1907 và 1925, trong khi Thanh Lãng, trong Bản

lược đồ văn học Việt Nam, lại lấy cột mốc 1917 và 1932. Nhưng những nhân vật tiêu

biểu cho hai thế hệ, ở cả Trịnh Văn Thảo và Thanh Lãng, đa phần là trùng hợp. Thế hệ

thứ nhất có thể được xác định là thế hệ bắt đầu hoạt động mạnh và phát huy ảnh hưởng

từ thập niên thứ hai của thế kỷ XX, và thế hệ thứ hai là thế hệ hoạt động mạnh từ cuối

thập niên thứ ba, và đặc biệt là từ đầu thập niên thứ tư. Tất nhiên, sự phân chia như

vậy hoàn toàn mang tính tương đối. Hai thế hệ chỉ cách biệt nhau một thập niên, từ

thập niên thứ ba, họ hoạt động một cách đồng thời, cho đến năm 1945, là thời điểm kết

thúc về mốc thời gian của nghiên cứu này.

Thế hệ trí thức tân học thứ nhất có thể lấy Đông Dương Tạp chí và Nam Phong

Tạp chí làm trung tâm điểm. Đây là hai tờ tạp chí có vai trò quan trọng trong lĩnh vực

văn hóa ở Việt Nam từ đầu thập niên thứ hai, cho đến tận những năm 30 của thế kỷ

XX. Xoay quanh hai tờ tạp chí này, là một loạt những nhà trí thức tân học nổi bật như:

Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Văn Ngọc, Phạm Duy Tốn,

Trần Trọng Kim... Nhóm tri thức tân học thuộc thế hệ này phần lớn được đào tạo trong

hệ thống giáo dục Pháp Việt ở trong nước. Một vài nhân vật trong số họ đã trưởng

thành đồng thời từ hai nền giáo dục cổ điển và Tây học, như Nguyễn Bá Học, Nguyễn

Văn Ngọc. Nhóm trí thức này bắt đầu phát huy tầm ảnh hưởng của mình sớm hơn, từ

đầu thập niên thứ hai của thế kỷ XX, và vẫn tiếp tục duy trì các hoạt động của mình ở

các thập niên tiếp theo, song song với thế hệ trí thức tân học thứ hai.

Thế hệ trí thức tân học thứ hai chiếm một số lượng đông đảo hơn hẳn, đồng thời

cũng có phạm vi và khuynh hướng hoạt động phong phú hơn hẳn. Họ bắt đầu nổi lên

từ những năm 20, rồi nhanh chóng trở thành lực lượng chủ đạo trong mọi lĩnh vực như

nghệ thuật, chính trị, tư tưởng trong suốt những năm 30, 40. Nếu như ở thế hệ trước,

những nhân vật trí thức tân học nổi bật xoay quanh hai tờ tạp chí lớn là Đông Dương

và Nam Phong, thì kể từ những năm 20, chúng ta có thể thấy sự hiện diện của rất nhiều

nhóm trí thức khác nhau, xoay quanh những tờ báo, nhà xuất bản khác nhau, hoặc các

tổ chức chính trị khác nhau. Xoay quanh các tờ báo, các nhà xuất bản, có thể kể đến

các nhóm như: nhóm Tự lực văn đoàn (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Xuân Diệu,

Huy Cận, Thế Lữ v.v...), nhóm La Lutte (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn

Thạch, Phan Văn Chánh v.v...), nhóm La Cloche Fêlée (Nguyễn An Ninh, Phan Văn

73

Trường v.v...), nhóm Hàn Thuyên (Đặng Thái Mai, Lương Đức Thiệp, Trương Tửu

v.v...), nhóm Thanh Nghị (Vũ Đình Hòe, Phan Anh, Đinh Gia Trinh v.v...), nhóm Tri

Tân (Nguyễn Văn Tố, Phạm Mạnh Phan v.v...). Xoay quanh các đảng chính trị, có thể

kể đến: nhóm Việt Nam Quốc dân Đảng (Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn

Triệu Luật...), nhóm Lập hiến (Nguyễn Phan Long, Bùi Quang Chiêu), các nhóm cộng

sản (nhóm tham gia Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức

cộng sản trước năm 1930) v.v... Tất nhiên, việc lấy các tờ báo, các nhà xuất bản hay

các đảng chính trị làm trung tâm điểm để nhận diện các nhóm trí thức chỉ mang tính

tương đối. Bởi lẽ, số lượng báo chí, nhà xuất bản ở Việt Nam thời kỳ này rất nhiều,

một người có thể cùng lúc viết bài cho nhiều tờ báo khác nhau và không phải tờ báo

nào, nhà xuất bản nào cũng mang tính chất là cơ quan đại diện cho một khuynh hướng

tư tưởng. Mặt khác, cũng có một vấn đề là trên thực tế, vẫn có sự dịch chuyển từ nhóm

này sang nhóm khác, hoặc cũng có trường hợp có thể cùng lúc xếp vào nhiều nhóm.

Chẳng hạn, Trần Huy Liệu ban đầu sáng lập Đảng Thanh niên (1926), sau đó gia nhập

Việt Nam Quốc dân Đảng (1928), rồi cuối cùng chuyển sang khuynh hướng cộng sản

và gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương (1936). Nguyễn Văn Tố là một nhân vật chủ

chốt của Tri Tân những năm 40, song đồng thời cũng là người đứng cạnh những nhân

vật như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh ở Hội Trí tri. Những trường hợp tương tự

như vậy là khá nhiều. Ngoài ra, trong khi phân nhóm tầng lớp trí thức tân học, lại cũng

cần phải lưu ý đến những nhân vật trí thức có tầm ảnh hưởng quan trọng, song hầu như

hoạt động một cách độc lập. Phan Khôi là một ví dụ tiêu biểu, ông hoạt động như một

nhà báo chuyên nghiệp, viết cho rất nhiều tờ báo, có một phong cách và một quan

điểm riêng, song không thuộc về một nhóm trí thức cụ thể nào. Đó là chưa kể đến sự

phân nhóm trí thức trên các lĩnh vực hoạt động khác, như hội họa, văn chương, âm

nhạc v.v... Ở mỗi lĩnh vực đều hình thành những nhóm trí thức với những phong cách,

khuynh hướng riêng biệt.

Về xuất thân học vấn, thế hệ trí thức này có hai đặc điểm quan trọng: thứ nhất,

phần lớn trong số họ được đào tạo một cách bài bản bởi nền giáo dục Tây học, hiện

tượng được đào tạo cùng lúc bởi cả nền giáo dục Hán học và Tây học ít hơn so với thế

hệ trước; thứ hai, trong số họ, số lượng trí thức được đào tạo ở nước ngoài (chủ yếu là

Pháp) khá lớn. Được đào tạo ở nước ngoài, họ có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với

những thành tựu của văn hóa phương Tây, từ đó chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn

74

hóa ấy. Mặt khác, họ cũng có điều kiện để vươn lên những đỉnh cao về mặt học vấn. Ở

thế hệ này, đã xuất hiện những nhà trí thức đạt được học vị thạc sĩ, tiến sĩ ở các trường

đại học Pháp. Với những người ở trong nước, số lượng trí thức tốt nghiệp các trường

cao đẳng, đại học cũng tương đối lớn. Những đặc điểm đó dẫn đến một số hệ quả là:

thế hệ trí thức tân học thứ hai, do được đào tạo theo hướng chuyên nghiệp hóa, đã có

nhiều lựa chọn hơn cho con đường lập thân của mình; mặt khác, sự tiếp xúc với

phương Tây một cách mạnh mẽ hơn qua con đường giáo dục đã làm hình thành nên ở

thế hệ này một thái độ dứt khoát hơn với truyền thống. Đây chính là một trong những

điểm then chốt trong việc nhận diện hai thế hệ trí thức đương thời. Thực ra, dù là phân

kỳ trí thức Việt Nam theo cách của Thanh Lãng hay Trịnh Văn Thảo, thì cũng đều có

thể thấy rằng, thế hệ thứ nhất là thế hệ của sự dung hòa (Đông – Tây, Pháp – Việt), thế

hệ thứ hai là thế hệ của sự phản kháng, đoạn tuyệt. Trong vấn đề con người cá nhân,

chúng ta cũng có thể thấy được điều đó.

Phân vùng địa lý trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX cũng là một vấn

đề đáng lưu ý để tìm hiểu về tầng lớp này. Những nhân vật có ảnh hưởng lớn thuộc thế

hệ thứ nhất chủ yếu hoạt động ở Bắc kỳ. Đông Dương Tạp chí, Nam Phong Tạp chí,

nơi quy tụ rất nhiều trí thức tân học nổi bật ở thế hệ này cũng nằm ở Bắc kỳ. Nhóm trí

thức này đa phần theo khuynh hướng hợp tác về mặt chính trị, dung hòa về mặt văn

hóa như chúng tôi đã nhắc đến ở trên. Trong những năm 20 của thế kỷ XX, ở Nam kỳ,

xuất hiện một loạt trí thức mang tinh thần cấp tiến, hoạt động hết sức sôi nổi và có tầm

ảnh hưởng xã hội nhất định, như Trần Hữu Độ, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm v.v...

Trong khi đó, Trung kỳ tỏ ra là một địa bàn mà tầng lớp trí thức tân học hoạt động

tương đối trầm lắng. Điều này có thể hiểu được, bởi đây vẫn là trung tâm của triều

đình nhà Nguyễn, là nơi mà ảnh hưởng của Pháp ít sâu đậm nhất so với Bắc kỳ và

Nam kỳ. Trịnh Văn Thảo, khi bàn về thế hệ trí thức 1925, đã chỉ ra sự suy giảm nhân

tài ở miền Trung, và cho rằng, sự suy thoái này có ít hơn ở các tỉnh phía Bắc miền

Trung là nhờ vào sự năng động của các nho sĩ tân thời tập trung quanh Huỳnh Thúc

Kháng và báo Tiếng dân [114, tr.138]. Một hiện tượng nữa rất đáng chú ý, là hiện

tượng di chuyển địa bàn hoạt động của giới trí thức vào Nam kỳ. Một số nhân vật đã

xác lập vị trí của mình sau khi đến Nam kỳ hoạt động như Phan Khôi, Trần Huy Liệu,

Đào Duy Anh v.v... Họ đều là những người theo khuynh hướng cấp tiến. Điều đó cho

thấy rằng, đầu thế kỷ XX, Nam kỳ vẫn là mảnh đất hứa hẹn với những tư duy mới,

75

phong cách mới. Với tình hình phân bố trí thức như vậy, sẽ không đáng ngạc nhiên khi

những quan niệm mới về vấn đề con người cá nhân ít xuất hiện ở Trung kỳ hơn so với

Bắc kỳ và Nam kỳ, mặt khác, cũng có cơ sở để giải thích nếu như những quan niệm

như vậy xuất hiện ở Nam kỳ sớm hơn so với Bắc kỳ.

Cũng như việc phân nhóm trí thức tân học nửa đầu thế kỷ XX, việc phân chia

khuynh hướng tư tưởng của họ khá phức tạp. Sự đan xen giữa các khuynh hướng

khiến cho việc tách bạch mỗi nhà trí thức thuộc về một khuynh hướng tư tưởng cụ thể

nào đó là không đơn giản. Các nghiên cứu trước đây đã đưa ra nhiều cách phân chia

khuynh hướng tư tưởng của trí thức Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, dựa trên những tiêu

chí khác nhau. Dựa trên ý thức hệ, có thể phân ra thành hai nhóm lớn là khuynh hướng

tư sản và khuynh hướng vô sản. Dựa trên khuynh hướng chính trị, có thể phân thành

các nhóm: dân tộc cải lương, yêu nước ôn hòa, dân tộc cách mạng và yêu nước vô sản1.

Dựa trên khuynh hướng văn hóa, có thể chia thành các nhóm: điều hòa văn hóa Đông

– Tây, Tây hóa toàn diện, văn hóa vô sản.

Trong đề tài này, với việc lấy vấn đề con người cá nhân làm trung tâm điểm,

chúng tôi nhận thấy rằng sự phân nhóm dựa trên khuynh hướng văn hóa có lẽ là gần

gũi hơn cả. Tuy nhiên, vì vấn đề con người cá nhân là một vấn đề cụ thể, hẹp hơn so

với vấn đề văn hóa nói chung, nên cách phân chia khuynh hướng của chúng tôi cũng

có những điểm khác biệt.

Để có được một cách phân chia khuynh hướng phù hợp, chúng tôi thấy rằng,

cần phải xác định vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX bao gồm

những nội dung nào. Việc xem xét sự hình thành của khái niệm “cá nhân” ở các nước

sử dụng chữ Hán nói chung và Việt Nam nói riêng đã cho chúng ta nhiều gợi mở để

nhìn nhận vấn đề con người cá nhân đang nổi lên ở những nước này đầu thế kỷ XX.

Đặt “cá nhân” trong ngữ cảnh mà thuật ngữ này được sử dụng ở các nước Đông Á, có

thể thấy nó gắn bó chặt chẽ với những nỗ lực của tầng lớp trí thức trong việc cố gắng

truyền tải những ý tưởng mới về con người của nền văn hóa phương Tây. Tình thế mà

người Nhật Bản phải đối mặt khi cố gắng tạo ra những thuật ngữ tương đương với “cá

nhân” là gì? Đó không đơn thuần là nhu cầu sáng tạo ra một thuật ngữ mới để thể hiện

những nội dung cũ, mà thực sự là thách thức sáng tạo ra một thuật ngữ mới để có thể

1 Cách phân nhóm của Trần Văn Giàu trong công trình Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám (tập 2: Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử).

76

truyền tải một cách đầy đủ những hàm nghĩa mới mà trong kho từ vựng của họ không

có từ ngữ nào có thể thể hiện được. Saito Tshuyoshi chỉ ra: “Quan niệm về cá nhân

như một người có quyền và nghĩa vụ bình đẳng, và là phần tử cuối cùng trong cấu trúc

xã hội, tuy vậy, không hề tồn tại trong bất cứ cách ý thức nào ở Nhật trước đó. Vì thế,

câu hỏi hết sức quan trọng là thuật ngữ nào có thể truyền tải được nó, và làm hài hòa

các ý nghĩa hàm chứa trong nó” [152, tr.17]. Thuật ngữ “cá nhân” đã xuất hiện ở Nhật

Bản để giải đáp cho câu hỏi đó.

Thuật ngữ “cá nhân” đã đi vào Trung Quốc, Việt Nam với đầy đủ những ý

nghĩa như vậy, vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi sau đó, “cá nhân” luôn đứng

cạnh những từ ngữ khác như “quyền”, “tự do” v.v... để làm nên những cụm từ hết sức

phổ biến. Ở Trung Quốc, đầu thế kỷ XX, chúng ta thấy một số cụm từ thường xuất

hiện như: “cá nhân chi tự do” (個人之自由), “cá nhân chi tự do quyền lợi” (個人之自由

權利), “cá nhân tôn nghiêm” (個人尊嚴), “cá nhân chi bản vị” (個人之本位), “cá nhân

đích cá tính” (個人的個性) v.v..., những cụm từ này đều hàm chứa những ý tưởng mới

về con người cá nhân. Ở Việt Nam, ngoài những thuật ngữ trong Giản yếu Hán Việt từ

điển đã được liệt kê ở trên, chúng tôi thử chỉ ra một số cụm từ gắn với “cá nhân”

thường xuất hiện trên báo chí, sách vở đầu thế kỷ XX: “tự do cá nhân”, “quyền cá

nhân tự do”, “tự do cho cá nhân”, “tự do của cá nhân”, “quyền riêng của cá nhân”, “địa

vị của cá nhân”, “lợi ích của cá nhân”, “quyền lợi thiên nhiên của cá nhân”, “hạnh

phúc cá nhân”, “khuynh hướng của cá nhân”1 v.v... Dẫn lại những cụm từ trên, chúng

tôi muốn chỉ ra rằng, ở thời kỳ này, “cá nhân” tìm thấy ý nghĩa của mình trong mối

liên hệ với những ý niệm về “tự do”, “quyền lợi”. Khi đó, nói về con người “cá nhân”,

không thể tách rời với việc nói về tự do cá nhân hay quyền lợi cá nhân.

Nếu nhìn thuật ngữ “cá nhân” đơn thuần như một thuật ngữ dùng để chỉ “một

người”, tức một cá thể người độc lập, thì chúng ta hoàn toàn có thể nói rằng, trong lịch

sử, người Việt Nam đã có những quan niệm về con người cá nhân, mà ở đó, tính “cá

nhân” được biểu hiện qua những thuật ngữ như “ngã”, “thân”, “kỷ” v.v... (cho đến

thập niên đầu thế kỷ XX, chúng ta vẫn thấy cách dùng từ như vậy, như chúng tôi đã

chỉ ra ở trên). Như các tác giả của chuyên luận Về con người cá nhân trong văn học cổ

Việt Nam đã đưa ra nhận định mang tính lý luận rằng: “Có sự xuất hiện con người cá 1 Đây là những cụm từ phổ biến gắn với khái niệm “cá nhân” mà chúng tôi thu được khi tìm kiếm trên cơ sở dữ liệu báo chỉ số hóa giai đoạn trước năm 1945 của Thư viện Quốc gia Việt Nam (http://baochi.nlv.gov.vn/) với từ khóa “cá nhân”.

77

nhân trong văn học cổ trung đại” [112, tr.42], và “những quan niệm về con người cá

nhân phương Đông ít hay nhiều cũng ẩn hiện trong những tác phẩm văn học trung đại

ở nước ta” [112, tr.60], các tác gia trung đại Việt Nam, bằng những cách khác nhau, đã

quan tâm đến những khía cạnh khác nhau của con người với tư cách một cá thể đơn

nhất. Ở đó, những vấn đề nổi lên khi nhìn nhận con người cá nhân là: sự tu dưỡng và

hoàn thiện nhân cách cá nhân, sự quan tâm đến thân phận, đến sự hạnh phúc, bản năng,

sự hưởng lạc, sự bước ra ngoài quy phạm của cá nhân. Nội dung thứ nhất là dòng chủ

lưu trong giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII, còn nội dung thứ hai nổi lên từ thế

kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, cho thấy sự tiếp cận vấn đề con người cá nhân mang tính đa

chiều, chứ không hoàn toàn một chiều, của người Việt Nam thời trung đại.

Nhưng bước sang thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện của thuật ngữ “cá nhân” và

cả một truyền thống tư tưởng phương Tây đi sau nó, vấn đề con người cá nhân đặt ra

cho người Việt Nam cũng mang những sắc thái và nội dung mới. Khi đó, “cá nhân”

không chỉ là một thuật ngữ, mà quan trọng hơn, nó hàm chứa bên trong mình một quan

niệm. Nói cách khác, tự thân việc sử dụng thuật ngữ “cá nhân” khi bàn về vấn đề con

người cá nhân đã nói lên sự chuyển đổi trong tư duy của người Việt về vấn đề này. Nói

đến con người cá nhân ở phương Tây thời cận đại, hay con người cá nhân ở Việt Nam

đầu thế kỷ XX, không đơn thuần là nói đến một cá thể người đơn nhất, mà hơn thế, là

nói đến cá thể người với tư cách chủ thể của quyền lợi, chủ thể tự do. Ngữ cảnh xuất

hiện của thuật ngữ “cá nhân”, với những cụm từ phái sinh mà chúng tôi đã dẫn ra ở

trên đã nói lên điều này. Trương Đại Niên và Trình Nghi Sơn, khi bàn về sự đối lập

giữa gia đình bản vị của người Trung Quốc và cá nhân bản vị của văn hóa phương Tây,

đã chỉ ra rằng: “văn hóa phương Tây lấy cá nhân làm bản vị, chú trọng tự do và quyền

lợi cá nhân” [96, tr.84]. Nhận định đó có thể nói là đã khái quát nên hai nội dung lớn

liên quan đến vấn đề con người cá nhân trong lịch sử văn hóa phương Tây. Trong bối

cảnh phương Tây hóa ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, những bàn luận, tranh luận của giới

trí thức tân học về con người “cá nhân”, cũng không nằm ngoài hai nội dung này:

quyền lợi cá nhân và tự do cá nhân. Và để giải quyết cả hai vấn đề này, họ không thể

không bắt đầu từ việc xác lập địa vị của con người cá nhân, cũng như mối liên hệ của

nó với “xã hội”, “đoàn thể”, cũng là những thuật ngữ mới xuất hiện. Những nội dung

như vậy về vấn đề con người cá nhân có sự khác biệt hết sức căn bản với những gì mà

người Việt Nam bàn luận trong những thế kỷ trước đó. Nghiên cứu này của chúng tôi

78

hướng đến quan niệm của người trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn

đề con người cá nhân, do đó, cũng bám sát 3 nội dung cơ bản này để tiến hành phân tích.

Mặt khác, khi nhấn mạnh thuật ngữ “cá nhân” là một sản phẩm của quá trình

dịch văn hóa, và đằng sau nó là một truyền thống triết học bắt nguồn từ phương Tây,

thì điều đó còn hàm ý rằng, những luận bàn về “cá nhân” ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX cần phải được đặt trong bối cảnh của sự đối thoại giữa nền văn hóa phương Tây

với nền văn hóa Việt Nam truyền thống. Người Việt Nam đã tiếp nhận những ý tưởng

mới về “cá nhân” của phương Tây không phải từ mảnh đất trống, mà từ nền tảng văn

hóa truyền thống vốn dĩ vẫn tồn tại những quan niệm khác nhau về con người cá nhân,

với Nho, Phật, Đạo. Đặt những quan niệm về con người cá nhân ở Việt Nam trong bối

cảnh đó, có thể thấy, giới trí thức tân học đã chia ra khuynh hướng khá rõ rệt: một bên

là khuynh hướng phục cổ, với những nhà trí thức trưởng thành trong nền giáo dục Tây

học, nhưng lại theo đuổi chủ trương quay trở về với những học thuyết truyền thống,

nhấn mạnh vào sự lưu giữ, tái khẳng định những quan niệm truyền thống, trong khi

phản ứng lại những quan niệm đề cao quyền lợi và tự do cá nhân phương Tây; một bên

là khuynh hướng cấp tiến, nhấn mạnh vào sự tiếp nhận tư tưởng phương Tây với chủ

trương phê phán nền luân lý truyền thống, phê phán trật tự xã hội cũ và cổ động cho sự

giải phóng cá nhân. Tất nhiên, bản thân sự phân chia giới trí thức tân học thành “cấp

tiến” hay “phục cổ” cũng mang tính chất tương đối, bởi hầu như không ai trong số họ

chủ trương hoàn toàn theo đuổi phương Tây mà phủ nhận truyền thống, hay ngược lại,

chủ trương phục hưng truyền thống trong khi khước từ phương Tây hóa. Vì vậy, sự

phân chia “cấp tiến”, “phục cổ” chỉ khái quát khuynh hướng chính của mỗi nhóm trí thức.

Ở những phần tiếp theo, quan niệm về vấn đề con người cá nhân của trí thức tân

học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX cũng sẽ được chúng tôi phân tích qua hai nhóm trí

thức này. Ở mỗi nhóm, chúng tôi lựa chọn một số nhân vật mang tính đại diện để tiến

hành khảo sát. Đối với nhóm phục cổ, chúng tôi đề cập đến Phạm Quỳnh1, Trần Trọng

Kim2, Nguyễn Duy Cần1; đối với nhóm cấp tiến, chúng tôi đề cập đến Nguyễn An

1 Phạm Quỳnh (1892-1945): người làng Lương Ngọc, phủ Bình Giang, Hải Dương, nhưng sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, theo học trường Trung học Bảo hộ. Phạm Quỳnh là chủ bút của Nam Phong tạp chí trong khoảng thời gian từ 1917-1932. Trong thời kỳ này, ông hoạt động tích cực trong lĩnh vực văn hóa, học thuật, có đóng góp lớn trong việc truyền bá văn hóa, tư tưởng phương Tây ở Việt Nam. Năm 1932, Phạm Quỳnh được triệu vào Huế, lần lượt giữ các chức Đổng lý Ngự tiền văn phòng, Thượng thư Bộ Học, Thượng thư bộ Lại dưới triều Bảo Đại. 2 Trần Trọng Kim (1883-1953): người làng Đan Phổ, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Trần Trọng Kim ban đầu theo học trường Pháp – Việt ở Nam Định, rồi học trường Thông ngôn. Năm 1906, ông xin làm thợ cẩn, sang dự Đấu xảo ở Marseille rồi xin ở lại Pháp học. Năm 1911, ông về nước dạy học và được giao giữ nhiều chức vụ trong hệ 79

Ninh2, Phan Khôi3 và nhóm Tự lực văn đoàn4 (chủ yếu tập trung vào Nhất Linh và

Hoàng Đạo). Đó đều là những nhà trí thức có nhiều bài viết về vấn đề con người cá

nhân, tiêu biểu cho những giai đoạn phát triển khác nhau của quan niệm về vấn đề con

người cá nhân ở Việt Nam. Thời gian hoạt động của họ trải dài từ thập niên thứ hai

(Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim), thập niên thứ ba (Nguyễn An Ninh, Phan Khôi) cho

đến thập niên thứ tư của thế kỷ XX (Nguyễn Duy Cần, Tự lực văn đoàn). Không gian

hoạt động của họ cũng trải khắp Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, đồng thời thể hiện cả sự

di động giữa các khu vực. Xuất thân học vấn của họ cũng mang tính đại diện, khi trong

số đó, có người xuất thân từ nền cựu học và chuyển sang tân học (Phan Khôi), xuất

thân từ hệ thống giáo dục Tây học trong nước (Phạm Quỳnh, Nguyễn Duy Cần), và từ

các trường đại học ở Pháp (Trần Trọng Kim, Nguyễn An Ninh, một số nhân vật của

Tự lực văn đoàn).

thống giáo dục thời Pháp thuộc. Không chỉ là nhà giáo, Trần Trọng Kim còn là một nhà khảo cứu nổi bật đương thời, với nhiều công trình nghiên cứu công phu về lịch sử, tư tưởng. 1 Nguyễn Duy Cần (1907-1998): người làng Điều Hòa, quận Châu Thành, Mỹ Tho, có bằng Thành chung, khởi đầu sự nghiệp học thuật với tác phẩm Toàn chân triết luận năm 1931. Sự nghiệp của Nguyễn Duy Cần chủ yếu là viết sách và làm báo. Ông được biết đến như một học giả rất có thẩm quyền trong lĩnh vực triết học phương Đông ở Việt Nam. 2 Nguyễn An Ninh (1900-1943): người làng Long Thượng, tổng Phước Điền Thượng, Chợ Lớn. Năm 1910, ông lên Sài Gòn, bắt đầu con đường học tập và trải qua hầu hết các bậc học của hệ thống giáo dục Tây học ở Việt Nam. Năm 1918, Nguyễn An Ninh sang Pháp theo học ngành Luật tại Đại học Sorbonne, đỗ Cử nhân Luật năm 1920. Về nước, ông hoạt động tích cực trong các phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ ở Sài Gòn, trở thành một người đối đầu với chế độ thực dân. Trong cuộc đời hoạt động của mình, Nguyễn An Ninh đã bị thực dân Pháp bắt giam năm lần và qua đời trong nhà tù ở Côn Đảo. 3 Phan Khôi (1887-1959): người xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, Quảng Nam, xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Ban đầu, Phan Khôi được thụ hưởng một nền giáo dục Nho học cổ điển từ cha mình, Phan Trân, và sau đó là Trần Quý Cáp. Ông cũng từng tham gia vào kỳ thi khoa cử Nho học, nhưng chỉ đỗ Tú tài. Sau kỳ thi này, ông từ bỏ con đường khoa cử, học tiếng Pháp, rồi tham gia vào hoạt động báo chí. Cuộc đời và sự nghiệp của Phan Khôi gắn liền với báo chí, ông được biết đến như một nhà báo chuyên nghiệp, với số lượng bài viết đồ sộ, đồng thời từng cộng tác với rất nhiều tờ báo nổi tiếng trong Nam, ngoài Bắc. Bản thân ông cũng từng sáng lập và làm chủ nhiệm của một tờ báo, đó là tờ Sông Hương (1936). Phan Khôi là hình mẫu tiêu biểu cho thế hệ trí thức chuyển mình từ Nho học sang tân học. 4 Tự lực văn đoàn: một hội đoàn văn học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, với các thành viên chủ chốt là Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam, 1906-1963), Khái Hưng (Trần Khánh Giư, 1896-1947), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long, 1907-1948), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ, 1907-1989), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân, 1910-1942), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu, 1900-1976). Họ đều là những nhà trí thức được đào tạo bài bản qua các cấp học của hệ thống giáo dục Pháp – Việt ở Đông Dương, trong đó, Nhất Linh và Khái Hưng còn có thời gian học tập ở Pháp. Họ là những nhà trí thức cùng theo đuổi một tôn chỉ trong sáng tác văn chương và cải tạo xã hội, đồng thời đứng ra hỗ trợ, cổ động cho những người bên ngoài văn đoàn, nhưng có cùng chí hướng. Tự lực văn đoàn chính thức tuyên bố các tôn chỉ của mình vào năm 1934, nhưng sự nghiệp của thực ra đã khởi đầu từ trước đó, với sự ra đời của tờ Phong Hóa vào năm 1932. Phong Hóa và sau đó là Ngày Nay được xem là cơ quan ngôn luận của nhóm, là nơi đăng tải hầu hết các bài viết của nhóm. Ở nghiên cứu này, chúng tôi đi vào phân tích, tìm hiểu quan niệm của nhóm thông qua các bài viết mang tính chất nghị luận hơn là những sáng tác văn học, vì vậy, chủ yếu tập trung vào Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, là tác giả của nhiều bài nghị luận trên hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay. 80

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Nửa đầu thế kỷ XX là giai đoạn của những sự biến chuyển mạnh mẽ trên mọi

lĩnh vực ở Việt Nam, từ kinh tế, chính trị, xã hội đến văn hóa, tư tưởng. Ở bất cứ lĩnh

vực nào, chúng ta đều có thể thấy được sự thay đổi mang tính căn bản, mà xu hướng

chung là sự chuyển đổi từ một xã hội truyền thống sang một xã hội hiện đại mang ảnh

hưởng của phương Tây. Sự biến đổi đó đã tác động mạnh mẽ đến tư duy, quan điểm

của người Việt, là cơ sở cho sự hình thành của những quan niệm mới, trong đó có

quan niệm về vấn đề con người cá nhân. Sự hình thành quan niệm về vấn đề con người

cá nhân của tầng lớp trí thức tân học Việt Nam thời kỳ này là kết quả của sự tác động

tổng hợp của tất cả những vận động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và văn

hóa, tư tưởng.

Năm 1898, cuốn từ điển Dictionnaire Annamite-Fracais của J.F.M. Génibrel đã

ghi nhận sự xuất hiện của thuật ngữ “cá nhân” ở Việt Nam. Sự hiện diện và phổ biến

của thuật ngữ này không chỉ đơn thuần đánh dấu sự xuất hiện của một từ ngữ mới, mà

còn thực sự mở ra những suy tưởng mới của người Việt Nam về vấn đề con người cá

nhân. Ở đó, bàn luận về con người cá nhân không chỉ là bàn về con người với tư cách

cá thể, với thân phận hay tính độc đáo của nó, mà chính là bàn về cá thể người với tư

cách là chủ thể của tự do và quyền lợi. Từ đó, những bàn luận của người trí thức tân

học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân chủ yếu xoay quanh

những nội dung: quyền lợi cá nhân, tự do cá nhân và cùng với chúng, là việc định vị

lại con người cá nhân. Xuyên suốt những nội dung này, có thể thấy, giới trí thức tân

học Việt Nam đã phân ra thành hai khuynh hướng chủ yếu: một bên nghiêng về phía

phục cổ, với những nỗ lực vãn hồi những học thuyết truyền thống như Nho, Phật, Đạo

khi đưa ra quan niệm về vấn đề con người cá nhân, và phía bên kia là những người trí

thức tân học cấp tiến, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng phương Tây, hướng đến

sự giải phóng cá nhân một cách triệt để và toàn diện.

Trên thực tế, nhìn vào tầng lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX,

có thể thấy được sự đồng thời tồn tại của rất nhiều nhóm trí thức, với những khuynh

hướng tư tưởng khác nhau. Có nhiều phương án phân chia khuynh hướng tư tưởng của

tầng lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Ở đề tài này, lấy quan niệm về

vấn đề con người cá nhân làm hệ quy chiếu, chúng tôi bám sát hai khuynh hướng trên

81

để tiến hành phân tích: khuynh hướng phục cổ và khuynh hướng cấp tiến. Ở mỗi

khuynh hướng, chúng tôi lựa chọn và đi sâu nghiên cứu một số nhân vật có tính tiêu

biểu: Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Duy Cần (nhóm phục cổ) và Nguyễn An

Ninh, Phan Khôi, Tự lực văn đoàn (nhóm cấp tiến).

82

CHƯƠNG 3:

QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ TRÍ THỨC TÂN HỌC THEO KHUYNH HƯỚNG

PHỤC CỔ Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI

CÁ NHÂN: NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ HẠN CHẾ CỦA NÓ

Ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, trước sự xâm nhập và ảnh hưởng mạnh mẽ của

văn hóa, tư tưởng phương Tây, trong giới trí thức tân học đã hình thành nên một

khuynh hướng đòi hỏi tiếp nhận văn hóa phương Tây một cách thận trọng hơn, đồng

thời kêu gọi quay trở về với những di sản văn hóa truyền thống như một nền tảng cho

tiến trình hiện đại hóa dân tộc, mà chúng tôi gọi là khuynh hướng “phục cổ”. Trong

những bàn luận về vấn đề con người cá nhân, những nhà trí thức theo khuynh hướng

này cố gắng tìm kiếm trong những học thuyết triết học truyền thống như Nho, Phật,

Đạo những yếu tố mà họ cho rằng có thể khắc phục quan niệm mang tính thái quá về

con người cá nhân của tư tưởng phương Tây, từ đó, định hình nên một thái độ sống

phù hợp cho mỗi cá nhân trong buổi giao thời.

Tinh thần phục cổ thể hiện một cách rõ rệt trong thế hệ trí thức bắt đầu những

hoạt động văn hóa của mình vào thập niên thứ hai của thế kỷ XX, và còn được duy trì

trong suốt nửa đầu thế kỷ này. Đại diện tiêu biểu của nhóm trí thức theo khuynh hướng

phục cổ là Phạm Quỳnh, người đã dành cả sự nghiệp của mình để theo đuổi lý tưởng

điều hòa văn hóa Đông – Tây với những quan niệm mang tinh thần vãn hồi Nho giáo.

Cùng chia sẻ ý tưởng với Phạm Quỳnh là Trần Trọng Kim, một nhà giáo dục, học giả

nổi bật và có tầm ảnh hưởng ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Bên cạnh chủ trương vãn

hồi Nho giáo như một dòng nổi bật của khuynh hướng phục cổ, cũng cần phải đề cập

đến chủ trương tìm về với những quan niệm của Phật giáo và Đạo gia khi bàn về vấn

đề con người cá nhân, mà Nguyễn Duy Cần, một nhà trí thức tân học ở Nam kỳ, bắt

đầu trước tác vào những năm 30, là một nhân vật tiêu biểu.

3.1. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ ở Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX về địa vị của con người cá nhân

Trong cuộc thẩm định lại những di sản truyền thống của giới trí thức người Việt

diễn ra suốt nửa đầu thế kỷ XX, đặc biệt là vào những năm 30, 40, thời điểm xuất hiện

của những công trình tiếp cận văn hóa, xã hội Việt Nam từ góc độ khảo cứu, chúng ta

không khó để nhận thấy giới trí thức đã đi đến một nhận định tương đối thống nhất

83

rằng: xã hội Việt Nam cổ truyền là một xã hội coi nhẹ cá nhân, hay nói một cách thẳng

thừng như Nguyễn Văn Huyên, thì “cá nhân chẳng là gì hết” [52, tr.80]. Họ khẳng

định như vậy, khi đặt xã hội cổ truyền ấy trong thế đối lập với xã hội hiện đại vốn

đang chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa phương Tây, nơi mà cá nhân không những

được coi trọng hơn, mà còn đóng vai trò là một “bản vị”. Đối với họ, bản thân cách

định vị con người cá nhân đồng thời cũng đã định vị sự khác biệt căn bản giữa hai nền

văn hóa Đông, Tây. Với ý nghĩa đó, việc định vị con người cá nhân trong thế giới và

trong xã hội trở thành một chủ đề mang tính cơ bản trong những luận bàn về vấn đề

con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Đứng giữa hai cực đối lập trong

quan niệm về địa vị của con người cá nhân, sự lựa chọn của những nhà trí thức tân học

“phục cổ” là khắc phục xu hướng nghiêng về phương Tây bằng cách quay trở lại, ở

những mức độ khác nhau, với các học thuyết truyền thống.

Ở khởi điểm, có một điểm rất đáng chú ý là, Phạm Quỳnh – đại diện tiêu biểu

nhất cho nhóm trí thức phục cổ - có lẽ cũng lại là một trong những nhân vật đầu tiên

đề cập đến khái niệm “chủ nghĩa cá nhân” ở Việt Nam. Tất nhiên, ông đề cập đến chủ

nghĩa cá nhân không phải là để ủng hộ nó, mà cốt để chống lại nó. Năm 1917, ngay

năm đầu tiên tờ Nam Phong ra đời, Phạm Quỳnh đã thể hiện rất rõ quan điểm của

mình đối với cách định vị con người cá nhân của “chủ nghĩa cá nhân”, mà cốt lõi của

nó, theo ông là “lấy cái nhân thân một người làm trung tâm thế giới” [102, tr.92]. Ông

tỏ ra lo ngại rằng, lấy cá nhân làm trung tâm thì con người sẽ không có căn bản, cũng

không có gì kiềm chế, dễ gây thành “cái hoạn to cho xã hội” [102, tr.92]. Trước đó,

vào năm 1913, khi còn cộng tác với tờ Đông Dương tạp chí, Phạm Quỳnh cũng đã

từng bày tỏ cách nhìn nhận tương tự, dù không trực tiếp nhắc đến khái niệm “chủ

nghĩa cá nhân”, mà dùng một thuật ngữ khác là “duy ngã đích”. Trong đó, ông dẫn lời

của một nhà triết học Pháp để biểu thị sự đồng tình rằng những công việc trong xã hội

không thể lấy “duy ngã” làm mục đích [xem 101, tr.9]. Có thể thấy, từ những bài viết

đầu tiên trong sự nghiệp báo chí của mình, Phạm Quỳnh đã cho thấy thái độ hết sức

thận trọng, và ít nhiều mang tính phê phán đối với quan niệm lấy cá nhân làm trung

tâm, coi cá nhân vừa là xuất phát điểm, vừa là mục đích. Ở thời điểm đó, có lẽ Phạm

Quỳnh chủ yếu hướng đến ngăn chặn những trào lưu tư tưởng mang tính cá nhân chủ

nghĩa của phương Tây đang ngấp nghé tràn vào Việt Nam.

84

Cách nhìn đó đã được Phạm Quỳnh duy trì trong suốt sự nghiệp trước tác của

mình. Đọc những bài viết của ông vào những năm 30, 40, có thể thấy ông vẫn giữ

nguyên quan điểm này. Những năm 30 cũng là thời điểm mà quan niệm đề cao cá

nhân ở Việt Nam đang ở giai đoạn cao trào, chứ không còn là giai đoạn manh nha như

ở thập niên đầu thế kỷ, vì vậy, việc xác lập địa vị con người cá nhân của Phạm Quỳnh

ở thời điểm này không chỉ thể hiện sự đề phòng một nguy cơ sắp tới, mà còn thể hiện

sự cố gắng khắc phục một hiện tượng đang hiện hữu mà ông cho là tiêu cực. Sự phản

ứng của ông vì thế cũng trở nên gay gắt, quyết liệt hơn. Đối với ông, việc lấy cá nhân

làm trung tâm đơn thuần là một ảo tưởng, một sự phóng đại và ông không ngại gán

cho những quan niệm như vậy những tính từ như “vô đạo”, “dị giáo” v.v... Năm 1932,

ông viết:

Cá nhân tách khỏi gia đình và nòi giống của mình, tự coi mình là cái rốn

của vũ trụ, đấy là một khái niệm vô đạo, dị giáo, mà ta không hề biết đến.

Nó được du nhập từ nước ngoài vào (...) Có những kẻ lẻ loi tách rời khỏi

môi trường và nòi giống của mình, lầm tưởng về chính mình và tự thổi

phồng mình lên, quy tất cả mọi thứ vào cái cá nhân phù du và mờ ảo của họ,

đấy thuần túy chỉ là điên rồ [109, tr.145].

Theo Phạm Quỳnh, cá nhân tự thân nó không có ý nghĩa, nó chỉ có ý nghĩa khi

được đặt trong xã hội và trong sự truyền thừa lịch sử. Chỉ khi được đặt trong xã hội,

trong lịch sử thì con người cá nhân mới có thể hiện thực hóa cái bản chất, cái “thiên

tính” của mình. Ông viết: “Cá nhân chỉ là một mắt xích trong mạch chuỗi dài là gia

đình và nòi giống. Các cá nhân chỉ có một ý nghĩa nào đó nếu chúng là thành phần gắn

bó của toàn thể” [109, tr.145]. Nhưng dường như những chuyển động của xã hội đã

không đi theo đúng ý muốn của Phạm Quỳnh, 10 năm sau, năm 1942, khi đã trở thành

đại thần triều Nguyễn chứ không chỉ là một nhà báo, ông một lần nữa vẫn phải nhắc lại

những ý đó trong một bài viết trên Tràng An báo:

“Cái thiên tính của người là phải ăn ở trong xã hội, trong xã hội những kẻ

đồng loại với mình. Cái xã hội thứ nhất sau khi lọt lòng mẹ ra là gia đình,

căn cứ ở máu mủ. Xã hội nầy lại thuộc một xã hội căn cứ ở đất nước, gọi là

tổ quốc. Cả “nhân luân” là ở giữa hai cái đầu mối đó: gia đình, tổ quốc.

Tưởng rằng cá nhân có một địa vị gì là tưởng lầm: cá nhân không là gì cả:

85

cá nhân chỉ có địa vị là ở trong phạm vi gia đình, ở trong phạm vi tổ quốc

mà thôi” [108, tr.3].

Việc liên tục nhắc lại và nhấn mạnh những luận điểm như vậy vừa cho thấy sự

kiên trì, lại cũng vừa cho thấy sự bất lực của Phạm Quỳnh trong việc “thuyết phục”

người Việt Nam đương thời từ bỏ quan niệm đề cao con người cá nhân của phương

Tây để trở về với những quan niệm ít nhiều mang tinh thần của Nho giáo truyền thống.

Tất nhiên, khi Phạm Quỳnh nhấn mạnh đến “gia đình”, “tổ quốc” thì điều đó

không có nghĩa là những nhà trí thức ở phía đối lập với ông không nói đến “gia đình”,

“tổ quốc”. Cần phải nhớ rằng, những năm 30, 40 là những năm sôi nổi của phong trào

dân tộc ở Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau, là thời điểm diễn ra khởi nghĩa

Yên Bái, xô-viết Nghệ Tĩnh hay những cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc khác. Sự

khác biệt giữa những người như Phạm Quỳnh với những nhân vật cấp tiến khác thực

chất không nằm ở chỗ nhấn mạnh đến “tổ quốc” hay không, mà ở chỗ hướng về “tổ

quốc” theo cách nào. Phạm Quỳnh muốn bảo vệ một “tổ quốc” như nó vẫn đang tồn

tại cho đến thời điểm đó, với triều đình nhà Nguyễn và sự bảo hộ của thực dân Pháp,

nên tất nhiên ông không thể chấp nhận một hình mẫu con người cá nhân mang tính nổi

loạn, lật đổ, dù là lật đổ chế độ quân chủ hay lật đổ chế độ thực dân. Vì vậy, sự định vị

con người cá nhân trong gia đình và tổ quốc của Phạm Quỳnh nên được nhìn nhận là

sự định vị con người cá nhân trong khuôn khổ của những sự ước thúc của các quy tắc

luân lý gia đình truyền thống cũng như của chế độ bảo hộ trên toàn cõi Việt Nam.

Đặt con người cá nhân trong gia đình và quốc gia, Phạm Quỳnh không chỉ

muốn đưa nó vào trong những mối quan hệ theo chiều ngang của những mối quan hệ

xã hội, mà ông còn muốn đưa nó vào trong dòng chảy của sự truyền thừa về mặt lịch

sử. Có thể thấy được điều này qua những bàn luận của ông về “bản ngã”. “Bản ngã” là

một khái niệm được sử dụng một cách tương đối phổ biến trong giới trí thức tân học

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX khi đề cập đến con người cá nhân. Tuy vậy, cách hiểu và

diễn giải “bản ngã” của họ thường không đồng nhất, mà hết sức khác biệt. Ở Phạm

Quỳnh, “bản ngã” được ông hiểu như một thứ căn tính dân tộc. Theo nghĩa đó, sự

đánh mất “bản ngã” của một cá nhân đồng nghĩa với sự đứt đoạn của cá nhân đó đối

với tinh thần của dân tộc. Ông cho rằng, tầng lớp thanh niên trí thức ở Việt Nam

những năm 30 đang trải qua một cuộc khủng hoảng, một căn bệnh mà ông gọi là

“vong bản”, khiến cho họ đánh mất mối liên lạc với dân tộc của mình, khiến họ nuôi

86

dưỡng ham muốn được “sống một cách mãnh liệt, một cách nguy hiểm, theo như lời

khuyên của Nietzsche, để lấy cái hăng hái bề ngoài đó cho tự quên mình đi” [106,

tr.463a]. Vì vậy, Phạm Quỳnh đặt ra yêu cầu mỗi người cần phải nhận chân “bản ngã”

của mình. Sự nhân chân “bản ngã” ấy cũng chính là sự “hồi bản”, là sự tìm về với căn

tính của dân tộc: “bệnh là bệnh “vong bản”, thời nay phải “hồi bản”, như cái cây bật rễ,

nay phải trồng nó lại, trồng nó vào trong đất nước của tổ tiên, là nơi đã đề tạo ra mình,

đã như in dấu vết vào trong tâm hồn mình vậy” [106, tr.463a]. Ở đây, một lần nữa

chúng ta thấy được phản ứng của Phạm Quỳnh đối với những trào lưu đề cao cá nhân

ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Ở một góc độ khác, việc Phạm Quỳnh phê phán quan điểm lấy cá nhân làm

trung tâm không đồng nghĩa với việc ông hoàn toàn quay về với phía thái cực đối lập.

Đối với Phạm Quỳnh, quan niệm về cá nhân trong xã hội truyền thống lại có phần quá

coi thường cá nhân. Ở ý nghĩa này, quan niệm đề cao cá nhân của phương Tây là có

tác dụng tích cực nhất định. Ông viết: “Những tư tưởng mới ấy có thể điều hòa cho các

lý tưởng cũ thường khinh rẻ cá nhân quá, cho cá nhân là hỗn hợp cả với gia đình, với

hương đảng, không khỏi có trở ngại cho nhân cách không hoàn toàn phát đạt được”

[98, tr.436]. Trong một bài viết khác, ông lại viết về những quan niệm cá nhân của

phương Tây: “Nó có thể gây ra một phong trào phản động đối với những tập quán quá

cũ về sinh hoạt, về tinh thần đã từng ngăn trở cho cá nhân không phát triển được. Nó

có thể khiến cho người xứ này có cái quan niệm về cá tính của mình, và có lòng ham

muốn phát triển cho đầy đủ” [108, tr.3]. Đối với sự nhận chân “bản ngã”, ông cũng

cho rằng, việc tiếp nhận tư tưởng phương Tây cũng có ý nghĩa tích cực giúp cho mỗi

người nhận ra bản ngã của mình, để giữ lấy và bồi dưỡng bản ngã ấy [xem 104, tr.107].

Nhìn lại những phát biểu đó của Phạm Quỳnh, chúng ta có thể nhận thấy sự ngập

ngừng của ông trong việc định vị con người cá nhân. Ông thấy những quan niệm

truyền thống có nhiều bất cập, nhưng cũng lại thấy ở những quan niệm của phương

Tây có không ít nguy cơ, vì vậy, ông không muốn đi đến cùng với “chủ nghĩa cá nhân”

phương Tây, cũng không muốn quay lại với những quan niệm cổ truyền “khinh rẻ cá

nhân”, mà muốn đứng ở giữa hai thái cực ấy. Thái độ “điều hòa” đó của Phạm Quỳnh

đã trở thành đối tượng cho sự châm biếm của nhiều nhà trí thức theo hướng cấp tiến

đương thời. Sự ngập ngừng đó của Phạm Quỳnh, chúng ta sẽ còn được thấy một cách

87

xuyên suốt trong những luận điểm của ông khi bàn về những nội dung khác liên quan

đến vấn đề con người cá nhân.

Cũng như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim định vị con người cá nhân bằng cách

đặt nó vào trong mạng lưới gia tộc, học đường, xã hội. Đó cũng là cấu trúc của cuốn

sách giáo khoa Sơ học luân lý mà ông biên soạn vào năm 1919. Trong cuốn sách dạy

luân lý cho học trò ở lớp sơ đẳng này, Trần Trọng Kim đặt mỗi người vào trong mối

quan hệ với gia tộc, với học đường, với bản thân và với xã hội, đồng thời quy định

những bổn phận đặt ra cho từng mối quan hệ ấy. Cá nhân ở đây được nhìn nhận thông

qua những bổn phận mà nó phải thực hiện. Những bài giảng trong cuốn sách chỉ ra

rằng, sự tồn tại biệt lập của cá nhân là điều bất khả: “Các anh ở nhà thì có ông bà, cha

mẹ, anh em, chị em; đi học thì có thầy có bạn, rồi sau lớn lên có làng có nước” [73,

tr.13], và “trong thiên hạ không thấy người ta ở lẻ loi một mình bao giờ, dẫu ở chỗ dã

man, người ta cũng tụ hợp lại với nhau” [73, tr.167]. Trong một cuốn sách giáo khoa

khác mà Trần Trọng Kim cùng biên soạn với Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ

Thận – Luân lý giáo khoa thư – ý tưởng này được thể hiện một cách rõ ràng hơn:

“Người ta từ ở trong nhà với cha mẹ vợ con, cho đến ra ngoài đối với quốc gia xã hội,

không thể nào đứng lẻ loi được một mình. Người ở đời, không những là cần đến người

đồng thời, mà lại còn có mối liên lạc với ông cha đời trước, với con cháu đời sau nữa”

[72, tr.139]. Theo ý đó, cá nhân không những được đặt trong các mối quan hệ theo

chiều ngang (“đồng thời”), mà còn được đặt trong các mối quan hệ theo chiều dọc

(lịch sử, với “ông cha đời trước” và “con cháu đời sau”), mà ở đó, cá nhân là một phần tử

có bổn phận.

Thực ra, ở đây Trần Trọng Kim không hề sử dụng khái niệm “cá nhân” như

Phạm Quỳnh, dù ở thời điểm năm 1919, khái niệm này chắc chắn đã tồn tại. Ông sử

dụng những từ như “bản thân”, “một mình” để ám chỉ con người với tư cách cá thể,

cũng như các nhà nho duy tân đã sử dụng chữ “đối kỷ” trong Tân đính luân lý giáo

khoa thư. Có lẽ nguyên do là bởi ông không đặt vấn đề phản đối quan niệm cá nhân

của phương Tây như Phạm Quỳnh, mà đơn giản là đi từ những quan niệm luân lý

truyền thống để định vị cá nhân. Tuy nhiên, nhìn chung, Phạm Quỳnh và Trần Trọng

Kim gần gũi nhau ở chỗ đã đặt cá nhân một cách vững chắc vào trong khuôn khổ gia

tộc, xã hội, và trong dòng chảy lịch sử, lấy đó làm xuất phát điểm để xác lập địa vị và

mục đích của con người cá nhân.

88

Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim tiêu biểu cho khuynh hướng quay trở lại với

những quan niệm của Nho giáo trong việc xác lập địa vị con người cá nhân của một

nhóm trí thức tân học ở Bắc kỳ thập niên thứ hai của thế kỷ XX. Họ không hoàn toàn

phủ nhận con người cá nhân, nhưng lại đi tìm ý nghĩa tồn tại của con người cá nhân

không phải ở chính bản thân nó, như một thứ tồn tại tự nó, cho nó, mà là ở trong các

mối quan hệ xã hội, trong sự kế thừa dòng chảy văn hóa mà nó được đặt vào. Việc một

quan niệm như vậy nảy sinh trong không gian văn hóa Bắc kỳ - vốn là vùng đất vẫn

còn nhiều dấu ấn của Nho giáo – là một điều không đáng ngạc nhiên, nó phản ánh tâm

lý của một thế hệ trí thức tân học giai đoạn đầu, đã bước chân ra khỏi nền học vấn Nho

giáo truyền thống, nhưng đồng thời cũng còn đầy hoài nghi với những gì mà phương

Tây mang lại. Mặt khác, thập niên thứ hai của thế kỷ XX cũng là thời điểm thực dân

Pháp bắt đầu chuyển sang chính sách Pháp – Việt đề huề, vẽ ra trước mắt người Việt

Nam viễn cảnh về một sự hợp tác trên nhiều lĩnh vực giữa người Pháp và người Việt,

chính sách này tỏ ra rất phù hợp với những trí thức theo đuổi chủ trương điều hòa văn

hóa Đông Tây như Phạm Quỳnh hay Trần Trọng Kim. Ở một khía cạnh nào đó, bản

thân Phạm Quỳnh hay tờ Nam Phong của ông cũng không ít lần trở thành người phát

ngôn cho chính sách này của thực dân Pháp.

Trong khuynh hướng phục cổ nửa đầu thế kỷ XX, người trí thức tân học không

chỉ quay lại với Nho giáo, mặc dù điều đó có thể xem là xu hướng có ảnh hưởng lớn

nhất. Vào cuối những năm 20, đầu những năm 30, chúng ta còn thấy một xu hướng

quay trở lại với Phật và Đạo, đặc biệt là ở Nam kỳ, nơi xu hướng vãn hồi Nho giáo

không thực sự phát triển. Trong dòng chảy đó, có một nhân vật rất đáng chú ý khi bàn

về vấn đề địa vị của con người cá nhân, đó là Nguyễn Duy Cần, với tác phẩm Toàn

chân triết luận (1936), và sau đó là Thanh dạ văn chung (1939). Trong những tác

phẩm này, Nguyễn Duy Cần đã định vị con người cá nhân bằng cách quay trở về với

nhiều luận điểm của cả Phật giáo và Đạo gia.

Nếu như Phạm Quỳnh hay Trần Trọng Kim cố gắng định vị con người cá nhân

trong xã hội, thì Nguyễn Duy Cần lại đặt con người cá nhân trong mối quan hệ với

“đạo”, hay với cái mà ông còn gọi là “toàn thể”/“đại toàn thể”. “Đạo” trong ý tưởng

của Nguyễn Duy Cần đại khái cũng như “đạo” của Lão tử, ý chỉ cái bản thể của vũ trụ,

là “lẽ tuyệt đối”, không thể gọi tên, sự đặt tên cho nó chỉ là miễn cưỡng: “Trời đất đều

do Đạo mà ra, ta có thể cảm giác được mà không thể thấy đặng, có thể hiểu biết được

89

mà không thể nói ra được. Nói ra đặng, không còn phải là Đạo nữa, vì Đạo là vô cùng,

vô tận, vô lượng, vô biên; làm sao định nghĩa cho đặng? Ta chỉ mượn một tiếng nào đó

để chỉ danh” [12, tr.11]. Không khó để nhận thấy ý của Lão tử “đạo khả đạo, phi

thường đạo; danh khả danh, phi thường danh” đã được Nguyễn Duy Cần tiếp thu triệt

để trong sự luận chứng về đạo của mình. Con người, ai cũng như ai, và như mọi vật

trong vũ trụ, đều chỉ là những biểu hiện của đạo, là “một điểm linh quang của đạo” [12,

tr.12], tự có đầy đủ “đạo” bên trong mình. Với ý nghĩa đó, người với người và người

với vạn vật là đồng một lý, không có sự phân biệt.

Theo tư duy đó thì việc nhìn nhận con người cá nhân như một cá thể người

hoàn toàn riêng biệt chỉ thuần túy là một sản phẩm của sự ảo tưởng, ảo tưởng “ta”

khác với “người”, “ta” khác với vạn vật, “ta” khác với “đạo”. Do ảo tưởng mà mới có

“bản ngã”, mới có “cá nhân”. Nguyễn Duy Cần cho rằng, đó thực ra là sự nhầm lẫn

giữa bản chất và hình thức. Bản chất của mỗi người chính là “đạo”, sự tồn tại của mỗi

cá nhân chỉ là hình thức biểu hiện của “đạo”, nhưng người ta lại lấy cái hình thức ấy

làm bản chất, coi sự tồn tại của cá nhân riêng biệt làm bản chất của tồn tại người, do

đó mới thấy mình khác với người khác, mới xưng là “ta”, là “tôi”. Sự xuất hiện của ý

thức về cái “tôi” cũng đồng nghĩa với sự đánh mất cái bản chất của mình, cái “xích tử

chi tâm” của mình: “Người cổ lỗ, không xưng tôi. Đứa trẻ thơ không xưng tôi” [12,

tr.34]. Đầu thế kỷ XX, việc sử dụng đại từ nhân xưng trung tính ngôi thứ nhất “tôi” là

một biểu hiện hết sức quan trọng cho sự thức tỉnh ý thức về cá nhân của người Việt

Nam, như Hoài Thanh, Hoài Chân đã có lần gọi thời đại mới là “thời chữ tôi” [113,

tr.58], hay như Ben Tran nhận định rằng, trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế

giới, sự xuất hiện của đại từ “tôi” trong văn học là một sự diễn đạt về chủ nghĩa cá

nhân, vốn là một phản đề cho chủ nghĩa tập thể gia đình và xã hội [xem 153, tr.580-

581]. Đặt trong bối cảnh đó, rõ ràng, việc chỉ ra tính ảo tưởng của chữ “tôi” nơi

Nguyễn Duy Cần có thể hiểu như một sự phản ứng với những quan niệm đề cao cái

“tôi” của những năm 30.

Cái “bản ngã” với tư cách căn tính dân tộc, vốn hoàn toàn chính đáng và cần

phải được bảo lưu, nuôi dưỡng ở Phạm Quỳnh, với Nguyễn Duy Cần, lại trở thành

khái niệm để chỉ sự ảo tưởng của con người vào sự khác biệt của mỗi cá nhân, ông viết:

“Cái tư tâm – thường ta gọi là Bản ngã, - do nơi cái lầm rằng Ta là khác và riêng với

Vạn vật chung quanh. Cái ảo tưởng ấy làm cho lu mờ cái tâm ta, và làm cho nó dường

90

như bị nhốt chặt trong cái cốc khô vỏ cứng của Bản ngã, nghĩa là nó làm cho mất cái

dây tương khí buộc chặt Ta vào Đại Toàn thể” [12, tr.15]. Từ cách nhìn đó, Nguyễn

Duy Cần cho rằng “bản ngã” không những không có tính chính đáng, mà còn phải loại

bỏ. Loại bỏ “bản ngã” là mục tiêu xuyên suốt mà ông luôn luôn nhấn mạnh trong tác

phẩm của mình. Phủ nhận “bản ngã”, ông còn phủ nhận luôn cả sự tồn tại của vạn vật,

bởi theo ông, vạn vật cũng chỉ là ảo, nó chỉ “có” trong tư tâm của mỗi người, loại bỏ

bản ngã, loại bỏ tư tâm, thì vạn vật cũng không còn có thật. Ở đây, chúng ta lại thấy

quan điểm của Nguyễn Duy Cần thể hiện đậm đặc quan niệm duy thức của Phật giáo.

Nếu những người thuộc nhóm vãn hồi Nho giáo lấy xã hội làm xuất phát điểm

để định vị cá nhân, thì Nguyễn Duy Cần lại đi theo một lô-gích khác: đi từ “toàn thể”,

đến cá nhân, rồi đến xã hội. Theo trật tự đó, xã hội chỉ là một khí cụ của cá nhân, do cá

nhân tạo ra để phục vụ cho sự sống của mình [xem 12, tr.88]. Trong mối quan hệ toàn

thể – cá nhân – xã hội, cá nhân phải hoạt động theo sự lưu chuyển của toàn thể, còn xã

hội, đến lượt nó, lại phải sửa đổi theo sự hoạt động của cá nhân. Trong mối quan hệ

giữa cá nhân và xã hội, theo Nguyễn Duy Cần, việc lấy xã hội làm gốc cũng là một sự

nhầm lẫn: “Bởi ta lầm, lấy xã hội làm gốc, nghĩa là lấy ngoài làm trong, nên mới có

những thói câu nệ, chấp nhất, bo bo lo thu góp những lập luật, chế độ phong hóa, luân

lý, tập tục cũ rích của một Xã hội đã quá thời rồi, làm cái qui tắc tuyệt đối, hạn chế lại

cá nhân” [12, tr.88]. Quan điểm này rõ ràng là mang tính đối lập với quan điểm mà

những người như Phạm Quỳnh theo đuổi. Tất nhiên, nếu chỉ xét riêng trong mối quan

hệ cá nhân – xã hội, thì quan điểm này của Nguyễn Duy Cần là một quan điểm mang

tính tiến bộ, nhưng ông lại đặt cả cá nhân và xã hội dưới sự chi phối của “đạo”, nên

chung cuộc vẫn là đi theo con đường trở về với “đạo”, đó chính là tinh thần “phục cổ”

trong trường hợp Nguyễn Duy Cần.

Ở đây, cần phải lưu ý rằng, Nam bộ là một mảnh đất đa dạng về tôn giáo, tín

ngưỡng, và trên thực tế, ở thời của Nguyễn Duy Cần, đây cũng là nơi xuất hiện nhiều

tôn giáo mới, trên cơ sở phát triển hoặc dung hợp những tôn giáo, tín ngưỡng đã có

như Phật giáo, Đạo giáo v.v..., chẳng hạn như Phật giáo Hòa Hảo hay đạo Cao Đài.

Thực tế này chắc hẳn đã có những tác động nhất định đến lựa chọn quay trở về với tư

tưởng Phật giáo hay Đạo gia của Nguyễn Duy Cần, dù lựa chọn của ông thiên về khía

cạnh triết học, tư tưởng hơn là tôn giáo.

91

Với ý nghĩa đó, quan niệm của họ về vấn đề địa vị của con người cá nhân có thể

xem là những sự phản ứng với tư tưởng về cá nhân của phương Tây cận đại, cũng như

với những quan điểm mang tính cấp tiến về con người cá nhân ở Việt Nam đương thời.

Dù đứng từ hệ quy chiếu của Nho, Phật, hay Đạo, thì trong con mắt của những nhà trí

thức thuộc nhóm này, thực tế đang diễn ra ở Việt Nam đầu thế kỷ XX cho thấy con

người cá nhân đang được đặt không đúng chỗ đáng lẽ phải dành cho nó, và vì vậy, cần

phải đưa con người cá nhân về đúng vị trí của nó. Đặt con người cá nhân vào gia đình,

xã hội, hay vào cái “toàn thể” là những lựa chọn khác nhau trong những nỗ lực lấy “cổ”

để khắc phục “kim” của họ.

3.2. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ ở Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX về quyền lợi cá nhân

Trong một nghiên cứu của mình, D. Marr đã chỉ ra tình thế lưỡng nan mà người

Việt Nam phải đối diện trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX, đó là sự lựa chọn giữa

việc theo đuổi lợi ích cá nhân và việc theo đuổi một đời sống có đạo đức, trong tình

huống hai điều này không thể dung hòa với nhau [149, tr.102]. Nhận xét này đã chỉ ra

một thực tế ở Việt Nam thời kỳ đó là sự gia tăng của những mối quan tâm về lợi ích cá

nhân và những xung đột mà nó tạo ra đối với nền luân lý truyền thống. Năm 1919,

trong một bản tin về sự kiện thành lập Hội Khai trí tiến đức trên tờ Lục tỉnh tân văn, sự

xung đột đó đã được nhắc đến như một trong những lý do khiến cho Hội Khai trí tiến

đức ra đời: “trong lúc nầy học thuật giáo hóa đổi dời, sợ quốc dân trình độ non nớt,

hiểu lầm chữ bình đẳng tự do rồi quên phức cái nguồn đạo đức, vì đua tranh quyền lợi

mà tiêu diệt cái lương tâm, làm cho phong tục tồi bại” [79, tr.2]. Cũng trong công trình

kể trên, D. Marr đã chỉ ra việc tái xác nhận đạo đức Nho giáo như một trong những

phương án đã được đưa ra để giải quyết tình thế lưỡng nan này, phương án đó cũng

chính là phương án của Hội Khai trí tiến đức.

Phạm Quỳnh là một trong hai mươi hội viên đầu tiên, đồng thời cũng là một

thành viên “hội đồng quản trị” của Hội Khai trí tiến đức. Hơn nữa, bản thân tờ Nam

Phong của ông cũng được sử dụng như một cơ quan của Hội, nên nhận định của ông

đối với tình trạng “đua tranh quyền lợi” trong xã hội Việt Nam cũng không nằm ngoài

nhận thức trên. Theo Phạm Quỳnh, xã hội đương thời có xu hướng coi trọng quyền lợi

hơn nghĩa vụ, mà nguyên nhân của xu hướng đó là do ảnh hưởng của phương Tây:

92

Sự chuyển dịch ấy khởi ra tự Âu châu. Các nước Âu châu xướng ra nhân

quyền, lại xướng ra dân quyền, làm kinh thiên động địa vì hai chữ quyền lợi.

Vua có quyền lợi đối với dân, nhưng dân cũng có quyền lợi đối với vua, cha

có quyền lợi đối với con, nhưng con cũng có quyền lợi đối với cha, chồng

có quyền lợi đối với vợ, nhưng vợ cũng có quyền lợi đối với chồng. Bấy

nhiêu cái quyền lợi tranh dành sung1 đột nhau, khởi lên như giáo dựng, thì

phán định làm sao cho được? [18, tr.217].

Phạm Quỳnh cho rằng, hiện tượng đó, ngay cả ở phương Tây, là nơi sản sinh ra

hai chữ “quyền lợi”, cũng nhiều khi gây nên sự nguy hiểm cho xã hội, nên đối với Việt

Nam là nước vốn chưa quen thuộc với quan niệm về “quyền lợi”, thì sự nguy hiểm còn

lớn hơn: “Như trong nước ai cũng đòi quyền lợi, thậm chí người đàn bà cũng bỏ chốn

khuê phòng mà ra nơi công chúng yêu sách những quyền bảo cử, quyền chính trị, thì

xã hội còn có chật tự nào nữa, gia tộc còn thể vững bền sao được?” [18, tr.218].

Đứng trước thực tế mà Phạm Quỳnh cho là tiêu cực đó, giải pháp của ông là

quay trở lại với “nghĩa lợi chi biện” của Nho giáo. Ông dùng hai khái niệm “nghĩa” và

“lợi” trong Nho giáo truyền thống để giải nghĩa hai khái niệm “nghĩa vụ” và “quyền

lợi” trong tư tưởng phương Tây cận đại: “Tiên nho gọi điều nghĩa, tức ta gọi là nghĩa

vụ; tiên nho gọi điều lợi, tức ta gọi là quyền lợi. Hai cái quan niệm nghĩa vụ và quyền

lợi thực là cái chốt của luân lý vậy” [18, tr.217]. Tất nhiên, “quyền lợi” không hoàn

toàn đồng nhất với “lợi”, “nghĩa vụ” cũng không hoàn toàn đồng nhất với “nghĩa”. Ở

đây, Phạm Quỳnh lấy những khái niệm mới để giải nghĩa cho những khái niệm cũ, do

đó, không tránh khỏi có tính khiên cưỡng nhất định. Sự đồng nhất “lợi” với “quyền lợi”

sẽ đưa Phạm Quỳnh đến chỗ đặt quyền lợi vào vị trí quá tiêu cực so với những gì nó

đáng được hưởng. Trở lại với những nguyên tắc đạo đức của Nho giáo, ông viết:

Nước ta từ khi nho học suy, cái luân lý cũ đã thấy nhãng bỏ nhiều. Mà luân

lý cũ tức là cái luân lý “duy nghĩa”, không có một phần nào “duy lợi” vậy.

Cả cái lâu đài đạo đức của ông cha ta đều là sây lên một cái nền chữ Hiếu

cả: hiếu chẳng phải là cái nghĩa vụ rất tôn, rất nghiêm, rất cao thượng, thuần

túy dư? Nhưng hiện nay cái lâu đài ấy không được vững như xưa nữa, mà

sắp đến ngày đổ nát vậy [18, tr.219].

1 Các văn bản được chúng tôi trích dân trong luận án ra đời vào thời điểm chữ quốc ngữ đang trong quá trình hoàn thiện, vì vậy, có nhiều từ được viết khác với chuẩn chính tả ngày nay. Ở đây, để tôn trọng tính lịch sử của văn bản, chúng tôi giữ nguyên theo nguyên văn văn bản được trích dẫn.

93

Với cách nhìn như vậy, không đáng ngạc nhiên khi Phạm Quỳnh luôn luôn đặt

quyền lợi cá nhân vào vị trí thứ yếu, vị trí lệ thuộc so với nghĩa vụ, thậm chí đối lập

chúng với nhau:

Ở đời không gì dễ làm đắm đuối người ta bằng cái lợi quyền, mà không gì

hay làm hưng khởi lòng người bằng sự danh dự; danh dự với lợi quyền tất

hằng ngày xung đột nhau, lợi quyền tiến thời danh dự lui, lợi quyền lui thời

danh dự tiến. Có thể đặt cái tỷ lệ chung rằng ở đời phàm sự gì trái với cái

cận lợi của mình là việc nghĩa, đã là việc nghĩa thời lòng danh dự bắt buộc

mình phải làm, dẫu có thiệt hại cho mình cũng không quản [19, tr.6].

Ở đây, việc được coi là “nghĩa” được Phạm Quỳnh xác định là “phàm sự gì trái

với cái cận lợi của mình”, giới định đó thể hiện sự biện biệt một cách nghiêm khắc

giữa “nghĩa” và “lợi”, là thứ tinh thần vẫn thấy ở Nho giáo truyền thống.

Nhưng nói một cách chính xác, Phạm Quỳnh không hoàn toàn phủ nhận quyền

lợi cá nhân. Là một nhà trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ, ông dường như

luôn chịu sự lôi kéo từ cả hai phía truyền thống và hiện đại. Cũng có lúc ông cho rằng,

việc không quan tâm đến quyền lợi là một thiếu sót của pháp luật Việt Nam truyền

thống. Khi nhận xét về luận án tiến sĩ của ông Trần Văn Chương về pháp luật Việt

Nam và pháp luật Trung Quốc, Phạm Quỳnh đã viết: “Ấy luật ta khác với luật tây là

thế: luật tây thời phân rõ nghĩa vụ và quyền lợi, luật ta thời chỉ nói nghĩa vụ không nói

quyền lợi. Tác giả xem ý ra cho luật ta như thế là hay hơn luật tây; ký giả đây không

dám biểu đồng tình” [23, tr.294]. Những luận điểm như vậy thực ra không thấy nhiều

trong các bài viết của Phạm Quỳnh, nhưng cũng cho thấy một cách nhìn ôn hòa hơn

của ông đối với quan niệm về quyền lợi của phương Tây cận đại. Nhưng dù thế nào,

nhìn một cách tổng thể, có thể khẳng định rằng, giữa “quyền lợi” và “nghĩa vụ”, Phạm

Quỳnh chọn “nghĩa vụ” làm nền tảng, làm xuất phát điểm. Ông có thể không phủ nhận

quyền lợi cá nhân, nhưng nhất quyết không lấy việc bảo vệ quyền lợi cá nhân làm xuất

phát điểm cho những quan điểm đạo đức của mình. Một mặt, ông khẳng định nghĩa vụ

đi đôi với quyền lợi: “Có làm trọn nghĩa vụ ấy mới mong được hưởng quyền lợi về sau.

Người ta thường nói: Không quyền lợi nào là không có nghĩa vụ, không nghĩa vụ nào

là không có quyền lợi” [18, tr.221]. Mặt khác, ông lại nhấn mạnh, trước hết cần phải

biết đến nghĩa vụ và làm trọn nghĩa vụ, quyền lợi chỉ là hệ quả của việc thực hiện

nghĩa vụ, chứ không nằm trong mục đích của hành vi thực hiện nghĩa vụ: “Nhưng cái

94

cách chắc hơn nhất là trước phải biết nghĩa vụ mình ở đâu mà làm trọn nghĩa vụ ấy:

nghĩa vụ đã trọn, quyền lợi tất đến, không sai” [18, tr.221]. Đây có thể coi là tinh thần

quán xuyến của ông trong những bàn luận về mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ

của cá nhân.

Với một quan niệm như vậy về quyền lợi và nghĩa vụ, sẽ không ngạc nhiên khi

Phạm Quỳnh tìm đến với đạo đức học của nhà triết học cổ điển Đức I. Kant. Ở Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX, đạo đức học của Kant dường như có một sức hút đặc biệt

trong giới trí thức tân học. Chúng tôi cho rằng, hiện tượng này có lẽ xuất phát từ sự

gần gũi giữa quan niệm đạo đức dựa trên “nghĩa lợi chi biện” của Nho giáo với quan

niệm về “mệnh lệnh tuyệt đối” của Kant, khi cả hai đều cố gắng xác lập cơ sở cho

hành vi đạo đức không phải từ mục đích mà nó hướng tới, mà từ sự thôi thúc của quy

tắc thuần túy bên trong chủ thể của hành vi đạo đức. Đối với Nho giáo, hành động theo

“nghĩa” là hành động theo sự mách bảo của ý thức đạo đức tự thân, chứ không xuất

phát từ lợi ích, hay kết quả, hậu quả của hành vi đó, như Tử Lộ nói “Người quân tử ra

làm quan, là để thi hành cái nghĩa lớn đó. Đạo chẳng thi hành được, thì chúng ta vốn

đã biết rồi” [133, tr.543]. Còn đối với Kant, cái quy luật thực hành mà ông hướng đến

phải là thứ mệnh lệnh loại bỏ mọi tính mục đích, tính đối tượng, tính nhân quả:

Các quy luật phải đủ sức quy định ý chí xét như là ý chí, ngay cả trước khi

ta tự hỏi liệu mình có đủ năng lực đạt được một kết quả mong muốn hay

không hay có phương tiện cần thiết để tạo ra kết quả ấy, do đó, chúng có

tính nhất thiết (kategorisch); nếu không, chúng tuyệt nhiên không phải là

các quy luật; vì chúng thiếu sự tất yếu để trở thành thực hành, đó là phải

độc lập với mọi điều kiện có tính sinh lý vốn chỉ gắn liền với ý chí một cách

bất tất [57, tr.41].

Do đó, việc Phạm Quỳnh quay lại với nguyên tắc biện biệt nghĩa lợi kinh điển

của Nho giáo cũng đồng thời thống nhất với việc ông tìm đến với Kant. Về thực chất,

đó là nỗ lực đi tìm ở cả hai nền văn hóa Đông, Tây những ý tưởng phù hợp với quan

niệm của ông. Trên thực tế, Phạm Quỳnh đã có nhiều bài dịch thuật về Kant trên tạp

chí Nam Phong, mà nội dung của những bài viết ấy nhìn chung là đề cao đạo đức học

Kant. Chúng tôi dẫn ra đây một đoạn văn liên quan đến Kant do ông dịch trong bài

“Khảo về các luân lý học thuyết Thái Tây”, để thấy những phát ngôn khác về nghĩa vụ

và quyền lợi của ông chịu sự ảnh hưởng của Kant như thế nào:

95

Có đạo đức, nghĩa là có cái tư cách ăn ở không phải vì một cái lợi gì, dù lợi

cao thượng đến đâu mặc dầu, cũng không phải vì một cái tình gì, dù tình

quảng đại đến đâu mặc dầu, nhưng cốt để thuận một cái lý tưởng thuần túy,

lý tưởng ấy là lý tưởng Nghĩa vụ (le Devoir), mà nghĩa vụ là một cái mệnh

lệnh phổ thông tuyệt đích (...) Việc đạo đức vì nghĩa vụ mà làm là việc tối

lương hảo, dầu kết quả thế nào mặc dầu, vì là việc tuyệt không vị lợi [21, tr11].

Khi bàn về danh dự, Phạm Quỳnh phân ra ba hạng người có danh dự, trong đó,

hạng người cao nhất chính là những người hoàn toàn vượt lên trên mọi tài lợi và danh

tiếng cá nhân, để chỉ theo đuổi một “lý tưởng tuyệt đích”: “Bậc thứ ba là người ta

không coi tài lợi của mình vào đâu mà cũng không lấy danh tiếng của đời là gì, chỉ biết

tự mình đối với cái lý tưởng tuyệt đích, cái nhân cách cao thâm của mình, phàm cư xử

thi thố cốt lấy cho hợp với cái nhân cách ấy, hợp với cái lý tưởng ấy mới là bằng lòng,

dẫu người đời khen hay chê cũng mặc lòng” [19, tr.6]. “Lý tưởng tuyệt đích” ấy có lẽ

cũng chính là cái “lý tưởng thuần túy”, “mệnh lệnh phổ thông tuyệt đích” mà ông đã

dùng để dịch những khái niệm của triết học Kant.

Cũng như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim bày tỏ sự tiếc nuối khi Nho giáo

không còn giữ được địa vị của mình trong một xã hội mà theo ông, con người đang bị

cuốn vào cuộc tranh giành lợi ích: “Dẫu đến ngày nay là thời đại người ta đang say mê

về cuộc tranh hơn tranh kém, đang xô đẩy nhau ở chỗ danh lợi, nhiều người còn mong

mỏi sự bỏ cũ theo mới, thế mà ai là người biết nghĩ, ngắm thấy lòng người đơn bạc,

cảnh đời khổ não, ngẫm nghĩ lại tiếc cái đạo của Khổng Tử không thi hành khắp được

mọi nơi” [71, tr.173]. Cách nhìn nhận thế cuộc của Trần Trọng Kim về cơ bản cũng

giống Phạm Quỳnh, theo đó, sự cạnh tranh vì lợi ích trong xã hội được nhìn nhận dưới

góc độ thuần túy tiêu cực. Vì vậy, Trần Trọng Kim nhìn chung là phủ nhận tư lợi.

Trong Sơ học luân lý, Trần Trọng Kim đã phê phán “tính tư kỷ”, nghĩa là tính

cách chỉ quan tâm đến cái lợi của cá nhân: “Tính tư kỷ là tính những người chỉ biết

mình, chứ không biết đến người khác, mà việc gì mình cũng muốn lấy cái lợi cho mình

mà thôi, còn ai thế nào mặc ai” [73, tr.128]. Khi bàn về nghĩa vụ đối với quốc gia,

Trần Trọng Kim đã khẳng định sự tôn kính pháp luật là bổn phận trước hết của dân

trong nước. Mà sự tôn trọng pháp luật, theo ông, có thể dẫn đến sự xung đột với tư lợi.

Ông viết: “Cái chủ đích của pháp luật là bao giờ cũng cốt vì lợi chung của mọi người

trong nước, cho nên thường lắm khi có điều không hợp với cái lợi riêng của từng

96

người một” [73, tr.208]. Như vậy, chủ trương của Trần Trọng Kim là đề cao “công lợi”

mà hạ thấp “tư lợi”. Đối với ông, “tư lợi” chỉ có ý nghĩa khi nó phù hợp với “công lợi”.

Ông lại viết: “Nhưng ta phải hiểu rằng phàm điều gì đã lợi cho tất cả mọi người, tất là

lợi cả cho mình nữa” [73, tr.208]. Chủ trương như vậy rất phù hợp với “nghĩa lợi chi

biện” của nhà nho, khi nó luôn luôn nhấn mạnh đến tính phái sinh của “tư lợi”, tư lợi

tự mình không có tính chính đáng, nó chỉ chính đáng khi nó là hệ quả của hành động

vì nghĩa.

Chúng ta có thể thấy chủ trương đó rõ hơn, khi nhìn lại sự giải thích của Trần

Trọng Kim trong tác phẩm Nho giáo đối với một số câu nói của Khổng, Mạnh về

“nghĩa” và “lợi”. Thông qua đó, Trần Trọng Kim cho thấy cách hiểu của ông về nghĩa

lợi chi biện của Nho giáo, đồng thời cũng cho thấy tinh thần biện biệt nghĩa lợi của

bản thân ông. Giải thích câu “Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi”, Trần Trọng Kim

viết: “Nghĩa, là cái chính đáng của thiên lý; lợi, là cái ham mê của nhân dục. Người

quân tử hiểu sâu việc nghĩa, cho nên mới dốc lòng muốn làm việc nghĩa; kẻ tiểu nhân

hiểu sâu việc lợi, cho nên mới dốc lòng lo làm việc lợi. Làm việc nghĩa mà có lợi là

chính đáng, làm việc lợi mà quên việc nghĩa là trái lẽ” [71, tr.100]. Lấy “thiên lý” và

“nhân dục” để giải thích “nghĩa” và “lợi”, Trần Trọng Kim đã đi theo đúng cách giải

thích của Chu Hy đời Nam Tống trong Tập chú, qua đó đối lập một cách sâu sắc “lợi”

và “nghĩa”, đứng hẳn về phía “nghĩa” mà hạ thấp cái “lợi”1.

Giải thích câu “Vương hà tất viết lợi” trong đoạn Mạnh Tử đáp Lương Huệ

Vương, Trần Trọng Kim viết:

Ý Mạnh Tử cho là nếu người ta ai cũng nghĩ đến điều lợi mà quên cả nhân

nghĩa, thì thành ra người ở đời cứ say đắm vào chỗ lợi lộc riêng của mình,

rồi chỉ tìm cách mà phá hại lẫn nhau. Bởi đó mà sinh ra có sự biến loạn và

sự chiến tranh, làm cho thiên hạ phải nhiều nỗi lầm than. Rút cục lại, cái lợi

tự tư, tự lợi ấy, chính là cái hại, chứ không phải thật lợi. Nhân nghĩa tuy

không nói đến lợi, nhưng kỳ thực là cái lợi rất to, vì là người ở với nhau

trong xã hội, ai cũng đem lòng lo cái lợi chung cả đoàn thể trước cái lợi

riêng của mình, thành thử trên hòa dưới thuận, thiên hạ được hưởng cái

hạnh phúc cả. Cái lợi chung ấy mới là thật lợi [71, tr.231].

1 Về câu này, Chu tử giải: “Nghĩa là cái phù hợp với thiên lý. Lợi là cái mong muốn của nhân tình” [xem 154, tr.23]. 97

Tinh thần cũng tương tự như cách chú giải của Chu Hy, nhấn mạnh vào tính

phái sinh của lợi so với nghĩa: “Chương này có ý nói nhân nghĩa có gốc ở nơi cố hữu

của nhân tâm, là cái công của thiên lý. Cái tâm duy lợi sinh ra ở nơi tiếp xúc giữa ta và

vật, là cái tư của nhân dục. Tuân theo thiên lý, thì không cầu lợi mà tự nó không có gì

không lợi. Chạy theo nhân dục, thì cầu lợi không được mà lại hại đến bản thân mình.

Khác nhau có một li, mà sai lầm vạn dặm” [154, tr.2].

Những cách giải nghĩa trên đều nhấn mạnh đến sự cách biệt của “nghĩa” và “lợi”

trong việc xác lập hành vi đạo đức, khẳng định tính trước nhất của nghĩa và tính phái

sinh của lợi. Trong cuốn sách Nho giáo, Trần Trọng Kim nhiều lần trực tiếp thể hiện

sự đề cao của mình đối với quan niệm đạo đức Nho giáo, với hình mẫu người quân tử

mà học thuyết này xây dựng lên. Tiếp nối dòng mạch của đạo đức học Nho giáo, rõ

ràng, đối với Trần Trọng Kim, “lợi” không thể tìm thấy tính chính đáng nếu chỉ có một

mình nó. Do đó, nó tuyệt đối không thể trở thành cơ sở cho việc xác lập hành vi, thực

hiện một hành vi mà dựa trên ý niệm về lợi thì là “tiểu nhân”. “Lợi” chỉ có tính chính

đáng khi nó là hệ quả được tạo dựng từ “nghĩa”, nên chỉ có “nghĩa” mới có thể là cơ sở

cho việc xác lập hành vi đạo đức, theo “nghĩa” mà hành động thì chính là “quân tử”. Ở

khía cạnh hệ quả mà nói, có thể nhắc đến “lợi”, nhưng ở khía cạnh động cơ mà nói, thì

tuyệt đối không thể nhắc đến “lợi”. Đó chính là ý của “vương hà tất viết lợi”, cũng là ý

tưởng mà Trần Trọng Kim hướng đến. Ở điểm này, quan điểm của Trần Trọng Kim rõ

ràng là thống nhất với quan điểm của Phạm Quỳnh.

Trong khi đó, dưới ảnh hưởng của truyền thống Phật, Đạo, Nguyễn Duy Cần lại

có một quan niệm khác biệt về vấn đề quyền lợi cá nhân. Nếu như Phạm Quỳnh ít

nhiều còn nhắc đến tính chính đáng của quyền lợi cá nhân, thì Nguyễn Duy Cần kiên

quyết phủ nhận nó. Đối với ông, dù là cái lợi về mặt vật chất hay cái lợi về mặt tinh

thần cũng đều là “tư lợi” và cần phải loại bỏ với tư cách động cơ của hành vi con

người, ông viết:

Trong một việc làm phước thiện kia, mà ta gọi là vô tư lợi (désintéressé),

nếu, suy cho kỷ thì phi cái lợi vật chất, cũng vì cái lợi tình cảm, hay là cái

lợi tinh thần. Mỗi hành động của ta chỉ có một cớ chi kích thích, chớ tự nó,

nó không có nghị lực gì hành động đặng. Ta lầm chỗ đó, mà tưởng rằng: hễ

không làm vì lợi ích vật chất, hay tình cảm thì đủ gọi hành vi ấy là vô tư lợi

(désintéressé) [12, tr.158].

98

Không những phủ nhận tư lợi, mà ngay cả công lợi, Nguyễn Duy Cần cũng phủ

nhận, bởi theo ông, làm lợi cho người khác, xét về bản chất, cũng xuất phát từ cái lợi

của bản thân, xuất phát từ sự phân biệt giữa mình với người: “Có thương yêu vạn vật,

cũng là để cho dễ phân biệt Nhĩ ngã, mà lòng vẫn được yên ổn... có hay đâu, còn gọi là

Thương người, tất là còn phân biệt với người? Ngoài miệng ròng là một giọng phiếm

ái, mà tâm trung để tìm cách mưu đồ sự lợi kỷ” [12, tr.159].

Quan điểm này có thể hiểu được nếu nhìn lại lô-gích tư duy của ông về mối

quan hệ giữa “toàn thể” với cá nhân. Nguyễn Duy Cần đã cho “bản ngã” của cá nhân

là một sự ảo tưởng, thì tất nhiên phải cho những ý muốn chiếm hữu của “bản ngã”

cũng là ảo tưởng. Bởi chiếm hữu, là chiếm hữu một thứ gì đó bên ngoài mỗi cá nhân,

nó chỉ nảy sinh khi người ta lầm tưởng rằng bản thân mình là cái gì đó khác với ngoại

vật. Kỳ thực, theo Nguyễn Duy Cần, bản thân mỗi người cũng là một với vạn vật, là

một với “toàn thể”, vậy nên sự chiếm hữu, và do đó, sự tìm kiếm lợi ích, cũng là một

sự ảo tưởng. Ông cho rằng, con người, do sự ảo tưởng đó, mà trong hành vi của mình,

thường hướng tới sự tư hữu, cố gắng giữ lấy quyền lợi và đấu tranh vì quyền lợi, bao

gồm cả quyền lợi về vật chất và tinh thần. Ông chỉ ra hai trong số những hành vi sai

lầm mà con người thường làm khi chưa giải thoát, gồm: thứ nhất, “để che chở binh

vực quyền lợi mình, không cho ai động đến của cải của mình, về Vật Chất, về Tình

Cảm, về Trí thức, hoặc về Tinh Thần, mà ta đã đem về làm của riêng”; thứ hai, “chống

cự, chiến đấu, nếu ai cả gan mà chiếm soán quyền lợi ấy của ta” [12, tr.154]. Vì thế,

theo Nguyễn Duy Cần, con đường giải thoát cho mỗi người là chỉ cần làm ngược lại

với những gì mà người ta thường làm: “Ta cố nới ra, giảm bớt cái sức dụng công

chiếm giữ lấy của riêng của mình” [12, tr.155]. Có thể thấy, đối với Nguyễn Duy Cần,

cái gọi là quyền lợi, chẳng những không chính đáng, mà còn không có thật, theo đuổi

quyền lợi đơn thuần là sự theo đuổi ảo tưởng. Hành vi con người mà chịu sự chi phối

của quyền lợi, thì điều đó có nghĩa là họ đang hành động theo “bản ngã”, theo “tư

tâm”, hành vi đó tuyệt đối không phải là hành vi đúng đắn. Đấu tranh cho quyền lợi,

bất kể là quyền lợi cá nhân, quyền lợi giai cấp hay quyền lợi quốc gia, với Nguyễn

Duy Cần đều là sai lầm, cũng như bản thân cái gọi là cá nhân, giai cấp, quốc gia vốn dĩ

đã là sự tưởng lầm của con người khi tự mình phân biệt bản thân với tha nhân, với vạn

vật trong thế giới.

99

Theo tư duy đó, hành vi đúng đắn mà mỗi người có thể thực hiện là hành vi

không chịu sự chi phối của bất cứ yếu tố nào liên quan đến quyền lợi. Ông dùng khái

niệm “vô vi” để diễn tả loại hành vi đó. Ở đây, “vô vi” không có nghĩa là không làm gì,

mà có nghĩa là “làm mà vô tư ý, không vì tôn chỉ, hoặc để mưu cầu kết quả chi” [12,

tr.99]. Để “vô vi”, thì trước phải “vô ngã”, vì hễ còn “bản ngã” thì hành vi không sao

tránh khỏi bị chi phối bởi quyền lợi: “Ấy vậy, người Quân tử theo quan niệm vô ngã

thì làm, vì tự nhiên phải làm. Kẻ còn Bản ngã thì làm chi, cũng dụng tư tâm, phải luôn

luôn có một cái lợi chi để làm chủ động cho hành vi mình” [12, tr.77]. Xét trên một ý

nghĩa nào đó, quan niệm này dường như rất gần gũi với thứ hành vi đơn thuần vì

“nghĩa vụ” của Phạm Quỳnh, nó đều là những hành vi loại trừ mọi tính mục đích, tính

vụ lợi. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của hai người khác nhau, nên xét về thực chất, thì

hai loại hành vi này cũng khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Phạm Quỳnh lấy xã hội

làm xuất phát điểm, nên hành vi đạo đức cũng lấy xã hội làm căn cứ, “nghĩa vụ” của

ông là nghĩa vụ đối với xã hội, đối với quốc gia. Nguyễn Duy Cần lấy “toàn thể” làm

xuất phát điểm, nên thực chất lại lật ngược những quan điểm theo kiểu Phạm Quỳnh.

Nếu luận theo lô-gích của Nguyễn Duy Cần, thì bản thân cái gọi là “nghĩa vụ” trong

quan niệm của Phạm Quỳnh cũng lại là một sự ảo tưởng bắt nguồn từ “bản ngã”, bởi

xét cho cùng, thì nó cũng là một sản phẩm của sự lầm tưởng rằng cá nhân là khác biệt

với ngoại vật. Ông viết: “lòng yêu gia đình lớn bao nhiêu, lòng yêu quốc gia mạnh bao

nhiêu cũng chẳng qua là một tâm lý ích kỷ mà nuôi dưỡng cho thêm lớn đó thôi. Nhơn

đạo, là cái luân lý của Bản ngã, nhưng vì ta không biết phân biệt, mới cho nó đồng một

tâm lý với Thiên đạo” [12, tr.112]. Theo ý của Nguyễn Duy Cần, thì cái “nghĩa vụ” mà

Phạm Quỳnh theo đuổi chỉ là luân lý của bản ngã, còn cái “vô vi” của ông mới thực là

“Thiên đạo”. Nhìn chung, quan niệm của Nguyễn Duy Cần về vấn đề quyền lợi chẳng

những siêu vượt khỏi cá nhân, mà còn siêu vượt khỏi giai cấp, dân tộc. Đương thời,

quan niệm ấy không tạo ra được tầm ảnh hưởng lớn trong xã hội, có lẽ cũng bởi vì đặc

tính đó.

3.3. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ ở Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX về tự do cá nhân

Trong bối cảnh Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, có lẽ không một vấn đề nào liên

quan đến con người cá nhân lại có sức thu hút giới trí thức hơn là tự do cá nhân. Nếu

đặt thuật ngữ “cá nhân” vào trong ngữ cảnh mà nó xuất hiện trên sách vở, báo chí Việt

100

Nam thời kỳ này, sẽ không khó để nhận ra sự gắn kết giữa nó với thuật ngữ “tự do”. Ở

một chừng mực nào đó, nói đến cá nhân ở Việt Nam thời kỳ này cũng chính là nói đến

tự do cá nhân. Tất nhiên, không phải ngay từ đầu “tự do” đã được đặt bên cạnh “cá

nhân”. So với những thuật ngữ triết học, chính trị khác, thuật ngữ “tự do” đã được phổ

biến tương đối sớm ở Việt Nam, khi ngay từ đầu thế kỷ XX, nó đã trở thành một thuật

ngữ quen thuộc trong ngôn ngữ của các nhà nho duy tân. Họ xem tự do như một lý

tưởng cao đẹp của nền văn hóa Pháp và muốn giành lấy nó cho dân tộc mình. Đối với

họ, “tự do” chưa thực sự gắn với “cá nhân”, mà trước hết là gắn với “dân tộc”. Dần

dần, đến thế hệ trí thức tân học, sự quan tâm đến con người với tư cách cá nhân bắt

đầu gia tăng, cá nhân đi tìm những giới hạn cho mình trong thế giới nội tâm, trong xã

hội, trong lịch sử bắt đầu trở thành một chủ đề lớn của thời đại. Khi đó, vấn đề tự do cá

nhân cũng được đặt ra, kéo theo nhiều suy tưởng khác nhau xoay quanh nó.

Đối với vấn đề tự do cá nhân, những trí thức theo khuynh hướng vãn hồi Nho

giáo như Phạm Quỳnh dường như muốn hướng vào sự khẳng định tự do nội tại trong

lĩnh vực đạo đức, hơn là tự do ngoại tại. Tự do nội tại ở đây được hiểu là thứ năng lực

mà mỗi cá nhân có được để tự đưa ra lựa chọn cho hành vi đạo đức của mình mà

không chịu sự quy định của bất cứ yếu tố bên ngoài nào, hay nói như nhà triết học

người Đức I. Berlin, đó là “tự do tích cực” với ý nghĩa là “mong muốn được là công cụ

cho những hành động do ý chí của bản thân tôi chứ không phải của những người khác”

[8, tr.64]. Tự do, theo nghĩa đó, là vượt thoát khỏi sự ràng buộc của vật dục, tự làm

chủ bản thân. Theo Phạm Quỳnh, mỗi người luôn chịu sự chi phối của hai yếu tố: thân

thể và tinh thần, trong đó, bản thân cái gọi là tinh thần cũng có hai loại, một loại gắn

với thân thể, loại kia siêu vượt khỏi thân thể. Nếu người ta để buông thả theo tiếng gọi

của thân thể, để “vật dục” sai khiến, thì người ta không thể có tự do. Tự do chỉ có thể

tìm thấy ở thứ tinh thần siêu việt khỏi thân thể, mà cụ thể là ở “ý chí” – “động tác bằng

ý chí (volonté) là cái sức sáng suốt tự do, tùy mình cân nhắc, muốn sao làm vậy, đó là

phần thuộc về tinh thần” [10, tr.121]. Xét trong mối quan hệ với thế giới, Phạm Quỳnh

cho rằng con người cũng phải chịu sự quy định của “phép tắc thiên nhiên”, là thứ mà

người ta không thể cưỡng lại được, nhưng đồng thời, mỗi cá nhân cũng có “phép tắc tự

do” thuộc về lĩnh vực tinh thần, mà ở đó người ta có thể được tự do đưa ra quyết định

đạo đức theo sự mách bảo của nội tâm, mà không chịu sự ảnh hưởng của những yếu tố

bên ngoài:

101

Ngoài cái phép tắc thiên nhiên, không thể nào tránh được, khác nào như

một cái máy lớn mà người là một bộ phận ở trong, máy quay mình cũng

phải quay, người ta lại còn biết quan niệm một cái phép tắc tự do nữa, thuộc

về tinh thần, tự mình lấy làm nên làm phải, tùy ý mình muốn theo thời theo,

muốn không cũng được, nhưng tự biết rằng theo thời mới nên mà không

theo thời không nên. Bởi thế nên trong vạn vật, duy có người ta là có thể tự

mình cấu tạo được cái vận mệnh của mình; các giống khác thời nó theo vận

mệnh của nó mà nó không biết; duy người ta là có tư cách dám ra tay mà

gây dựng lấy cuộc đời mình [20, tr.357].

Quan niệm này của Phạm Quỳnh chịu ảnh hưởng từ những học thuyết đạo đức

học Tây phương cận đại, mà đặc biệt là Kant. Câu văn mà chúng tôi trích dẫn ở trên

được Phạm Quỳnh viết trong phần mở đầu loạt bài viết “Khảo về các luân lí học

thuyết của Thái Tây” (1921) do ông biên dịch, mà ở đó, Kant được dành cho một địa

vị trọng yếu trong nền luân lý học Tây phương. Ở trên, chúng tôi đã nhắc đến sự ảnh

hưởng của Kant đối với quan niệm của Phạm Quỳnh về mối quan hệ giữa nghĩa vụ và

quyền lợi cá nhân. Đặt vấn đề quyền lợi và nghĩa vụ cá nhân trong tương quan với vấn

đề tự do cá nhân, có thể thấy đối với Phạm Quỳnh, tuân theo “nghĩa vụ” tự bản thân nó

cũng là một sự tự do. Ông viết:

Phàm làm người đã có trí khôn, có tự do, thời tiện thị có nghĩa vụ, nghĩa là

có những việc trí khôn mình, tự do mình nó buộc mình phải làm, mình

không muốn làm cũng được, không ai bắt, nhưng tự trong bụng mình biết

rằng làm thời hay hơn, nên hơn, phải hơn. Vì nghĩa vụ không phải là một sự

cưỡng bách như pháp luật. Nghĩa vụ là một lời khuyên của trí khôn, của lẽ

phải, khiến cho người ta lấy quyền tự do mà theo làm; càng không ai bắt lại

càng phải nên làm, vì tự mình thấy như mình có trách nhiệm ở đấy, trách

nhiệm đối với lương tâm mình [20, tr.356].

Sở dĩ nói tuân theo nghĩa vụ cũng là một sự tự do, bởi theo Phạm Quỳnh, tuân

theo nghĩa vụ chính là tuân theo quy luật đạo đức có sẵn trong mỗi người.

Tuy nhiên, thứ tự do nội tại mà Phạm Quỳnh chủ trương, ở một khía cạnh nào

đó, lại cũng không xa lạ với truyền thống Nho giáo mà ông tôn sùng. Sự khẳng định cá

nhân như một chủ thể tự định đoạt hành vi đạo đức của mình mà không chịu sự chi

phối của ngoại vật là điều mà chúng ta vẫn thấy được trong hình mẫu “đại trượng phu”

102

của Mạnh Tử, mà bản thân Phạm Quỳnh đã nhiều lần nhắc lại trong những bài viết

khác nhau của mình. Chúng tôi dẫn ra đây một số ví dụ:

Trong bài “Học phong và sĩ khí” (1924), Phạm Quỳnh viết:

Nếu có được cái chí thâm thiết muốn bảo chủng, ái quốc, tồn học như thế,

lại có được cái khí mạnh mẽ như lời tiền hiền đã nói: “phú quý không dâm

được, bần tiện không di được, uy vũ không khuất được”, và lại thêm được

cái kiến văn tri thức một người sống ở cái thế kỷ phiền phức thứ hai mươi

này, thời thật là xứng đáng làm một kẻ sĩ hoàn toàn đời bây giờ [24, tr.5].

Trong bài “Triết gia Mạnh Tử” (1931), ông lại viết:

Theo Mạnh Tử, lý tưởng (...) là lý tưởng của một tâm hồn thanh cao và hào

hiệp luôn tìm cách thực hiện tất cả sự hoàn thiện trong bản chất của mình,

có khả năng đạt được những nhiệt tình lớn và cũng chịu được những đau

khổ lớn, không gì ngăn lại được trên con đường đức hạnh và bổn phận, giàu

sang không làm cho hư hỏng, nghèo khốn không làm cho ngã lòng, quyền

uy và sức mạnh không uy hiếp được, luôn đi thẳng tới trước như một người

kỵ mã không chê trách vào đâu được. Những trang viết mô tả con người lý

tưởng đó, người đại trượng phu đó thuộc trong số những trang đẹp nhất,

hùng hồn nhất trong tác phẩm của Mạnh Tử [109, tr.183].

“Phú quý”, “bần tiện”, “uy vũ” đều là sự tác động từ bên ngoài, “bất năng dâm”,

“bất năng di”, “bất năng khuất” lại là sự tự chủ của chủ thể đạo đức. Với một quan

niệm nhấn mạnh vào tự do nội tại như của Phạm Quỳnh, thì việc ông ưa thích trích dẫn

câu nói này của Mạnh Tử là một điều không đáng ngạc nhiên. Nó cũng cho thấy chủ

trương điều hòa Đông – Tây mà ông luôn theo đuổi.

Ở điểm này, chúng ta lại thấy Phạm Quỳnh rất gần gũi với Trần Trọng Kim,

người đã xây dựng quan niệm của mình từ những sự chú giải đối với quan niệm Nho

giáo truyền thống. Trần Trọng Kim đã nhiều lần sử dụng khái niệm “tự do” để giải

thích quan niệm của Nho giáo. Ông cho rằng, tự do là một thứ năng lực tinh thần giúp

cho mỗi người có thể tự chủ lấy hành vi của mình, vượt lên trên sự che lấp của vật dục,

mà vươn tới cái chí thiện, chí mỹ. Ông viết: “Người là một phần trong vạn vật, cho

nên phải theo lẽ trời mà biến hóa, nhưng chỉ có phần vật chất là phải biến hóa mà thôi,

còn phần tinh thần là của Trời phú cho, thì bao giờ cũng có cái tư cách độc lập và cái

năng lực tự do để cố gắng mà tiến lên cho đến chí thiện, chí mỹ” [71, tr.74]. Trong Sơ

103

học luân lý, Trần Trọng Kim cũng dùng khái niệm “ý chí” như Phạm Quỳnh để chỉ

loại năng lực ấy: “Có khi mình thích làm việc gì, nhưng vì việc ấy trái với lẽ phải, hay

là không hợp với lương tâm của mình, thì mình quyết không làm. Hoặc là có việc gì

khó khăn hay nguy hiểm, nhưng vì việc ấy là việc phải, thì thế nào cũng cứ nhất định

làm cho được. Sự quyết định như thế là do ở cái năng lực riêng của người ta, gọi là ý

chí” [73, tr.147]. Có thể hiểu, “tự do” theo hàm ý của Trần Trọng Kim không có nghĩa

là khả năng được làm bất cứ điều gì mình thích, mà là khả năng có thể làm bất cứ điều

gì mà “lẽ phải” mách bảo, bất chấp sự chi phối của các yếu tố ngoại tại. “Lẽ phải” ấy,

trong ngôn ngữ Nho giáo, chính là “thiên lý”. Từ góc độ này mà nói, thì khi con người

có được năng lực tự do ấy, hành vi của họ tự nhiên phù hợp với “thiên lý”, không có gì

mâu thuẫn với “thiên lý”:

Song ta phải hiểu rằng trong khi ta theo thiên lý mà lưu hành, thì bao giờ ta

cũng có cái năng lực tự do để tự cường tự kiện, khiến cho cái tâm tình của

ta được sáng suốt, mẫn nhuệ để lúc nào ta hành động cũng không mất cái

trung. Vậy trong sự theo thiên mệnh ấy, có cái sức cố gắng rất cường kiện

để hoạt động luôn, chứ không phải như những người tầm thường nhu nhược,

cứ đành chịu ép một bề mà đợi số mệnh [71, tr.81].

Như vậy, cả Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim đều khẳng định sự tự do của mỗi

cá nhân trong thế giới nội cảm, cho rằng mỗi người đều có khả năng tự định đoạt hành

vi đạo đức của bản thân mình, khiến cho hành vi của bản thân luôn luôn phù hợp với

quy luật đạo đức bên trong mình.

Cũng phải thấy rằng, triết học phương Tây cận đại không chỉ mang đến những

quan niệm về tự do trong lĩnh vực tinh thần, nó còn mang đến cả những quan niệm về

các quyền tự do cụ thể, cũng như về những giới hạn cho tự do của cá nhân trong xã hội.

Phạm Quỳnh đôi khi cũng nhắc đến những điều này. Trong một số bài viết về luật

pháp phương Tây, Phạm Quỳnh đã giới thiệu và tỏ ra đề cao những quan niệm bảo vệ

tự do cá nhân trong xã hội. Nhưng những quan niệm mang tính giải phóng cá nhân, cổ

vũ mạnh mẽ cho sự tìm kiếm tự do cá nhân trong xã hội có lẽ không phải là mối quan

tâm chính của Phạm Quỳnh. Với những quan niệm như vậy, Phạm Quỳnh giữ một thái

độ tương đối thận trọng. Ông không phủ nhận nó, nhưng cũng không hoàn toàn đồng ý

với nó:

104

Những cái lý thuyết tự do về cá nhân, tự Âu Tây truyền sang, không phải là

không có hứng thú, người ta mới thoát khỏi cái vòng chế độ gia trưởng

chuyên chế mà được biết những cái thuyết mới mẻ đó, thì lại càng dễ cảm

lắm nữa. Tuy nhiên, những thuyết ấy không phải là không có nguy hiểm,

trong khi thâu thái lấy phải nên cho cẩn thận. Những tư tưởng mới ấy có thể

điều hòa cho các lý tưởng cũ thường khinh rẻ cá nhân quá, cho cá nhân là

hỗn hợp cả với gia đình, với hương đảng, không khỏi có trở ngại cho nhân

cách không hoàn toàn phát đạt được. Nhưng những tư tưởng đó mà để cho

hành động một mình, không có cái nền nếp giáo dục cũ, thì có cái hại làm

cho tiêu mòn phá hoại cả [98, tr.436].

Sức “phá hoại” từ những quan niệm về tự do của phương Tây chính là điều mà

Phạm Quỳnh lo ngại. Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi triết học

phương Tây bắt đầu được truyền bá vào Việt Nam, người Việt Nam – đa phần là trí

thức cựu học – đã đón nhận nó một cách đầy hồ hởi. Những cái tên Lư Thoa

(Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu) trở nên những thần tượng mới trong

giới trí thức, được tôn sùng là “thầy Lư”, “thầy Mạnh”, địa vị có lẽ có thể sánh ngang

với thầy Khổng, thầy Mạnh trong quá khứ. Đối với người Việt Nam khi đó, họ trở

thành biểu tượng cho tinh thần tự do của nước Pháp. Nhưng đến Phạm Quỳnh, cách

tiếp nhận và diễn giải Rousseau đã mang một sắc thái khác. Trên Nam Phong, Phạm

Quỳnh có những bài dịch về lịch sử và học thuyết của Rousseau, đồng thời trích dịch

một số tác phẩm của ông. Nhưng Rousseau trong những bài viết của Phạm Quỳnh lại

là một Rousseau khác với những gì ông từng hiện diện ở thập niên đầu thế kỷ XX, đó

là một Rousseau với những hành vi thiếu chuẩn mực trong đời tư [26, tr.211], một nhà

văn thiên tài nhưng tư tưởng chứa đựng mầm mống cho sự hỗn loạn. Mặc dù những

bài viết về Rousseau là những bài biên dịch, nhưng nó thể hiện khá rõ nhận thức của

người biên dịch về ông. Mở đầu bài “Mấy lời bình phẩm về Rousseau”, soạn giả trước

khi dẫn lời bình phẩm của một số trí thức phương Tây về Rousseau, đã tổng kết:

Ngoại giả phàm người kiến thức đời nay ở Âu châu đều đã có một cái mối

định bình đối với Rousseau: là cho ông là một bậc thiên tài về văn học, mà

là một cái yêu ma về tư tưởng, đã đem cái văn chương hay mà truyền bá ra

trong thế giới những cái tư tưởng mơ hồ mộng ảo, trong một trăm năm nay

làm điên đảo cả cuộc đời, bao nhiêu những sự họa loạn bấy lâu phần nhiều

105

là rắc mầm tự ông cả, cái công phá hoại của ông thật là to tát vô cùng, mà

cái công kiến thiết hầu như không có gì vậy [86, tr.353].

Một cách nhìn như vậy khó có thể thấy được ở thập niên đầu tiên của thế kỷ

XX, song có lẽ là phù hợp với quan điểm văn hóa, chính trị mang tính dung hòa, và

chủ trương tái thiết lập trật tự xã hội như của Phạm Quỳnh nói riêng, và Nam Phong

nói chung. Nguyễn Phương Ngọc đã rất chính xác khi nhận định rằng có một

“Rousseau ở số nhiều” ở Việt Nam, và chỉ ra: “những hình ảnh của Rousseau được

giới thiệu đến công chúng Việt Nam lệ thuộc ít nhiều vào lợi ích cá nhân đã thực hiện

việc chuyển giao hay lợi ích của nhóm xã hội mà cá nhân đó đại diện” [92, tr.99].

Động thái đó của Phạm Quỳnh cho thấy cách tiếp cận khác của ông đối với vấn

đề tự do của cá nhân trong xã hội. Phạm Quỳnh không ủng hộ sự lật đổ, không ủng hộ

những biến đổi mang tính cách mạng. Những biến đổi đó, theo Phạm Quỳnh, là biểu

hiện của sự hỗn loạn, chứ không phải là sự tiến bộ. Chính ở đây, tinh thần “phục cổ”

của ông được thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Ông quay trở lại với những thang bậc xã hội

truyền thống được tạo lập bởi Nho giáo với sự tin tưởng vào việc cần phải duy trì trật

tự xã hội, với niềm tin rằng, Khổng tử chính là “người duy trì trật tự vĩ đại nhất xưa nay”:

Vậy mà nếu có một học thuyết cần phải được làm sống dậy mạnh mẽ trong

thời kỳ bất an và hỗn loạn này, hỗn loạn trong tâm trí con người và hỗn

loạn trong các thói tục, còn trầm trọng hơn nhiều so với các xáo động

thoáng qua của chính trị hay các cuộc đảo lộn hời hợt của xã hội, thì đấy

chính là học thuyết của bậc hiền triết cổ đại này, người duy trì trật tự vĩ đại

nhất xưa nay. Và cần luôn nhớ rằng thế giới và nền văn minh sẽ rơi vào tình

trạng nào, một bộ phận của thế giới và một phần nền văn minh đã rơi vào

đó rồi, nếu ta buông thả tự do cho những bản năng tệ hại nhất của con

người, để mà đánh giá cho đúng giá trị của lời dạy toát ra từ một học thuyết

như vậy [109, tr.173].

Khi định vị con người cá nhân, Phạm Quỳnh đã nhất quyết đặt nó vào trong xã

hội, trong gia đình, quốc gia. Đặt cá nhân vào trong xã hội, gia đình, quốc gia, Phạm

Quỳnh đi đến chỗ tái khẳng định những nguyên lý nền tảng của đạo đức Nho giáo,

trước là “ngũ luân”, sau là “tam cương”. Trong những bài viết của ông quãng cuối

những năm 20, đầu những năm 30, có thể thấy rất rõ những nỗ lực tái khẳng định này.

Trong bài “Khổng tử và Khổng giáo” năm 1929, ông viết:

106

Các học thuyết triết học hay tôn giáo khác đề xuất cho con người một lý

tưởng hoàn thiện mình siêu nghiệm cho đến nỗi nếu ai thực hiện được nó

toàn bộ thì anh ta sẽ trở thành một con người tách biệt, ở bên ngoài và bên

trên nhân loại thông thường. Khổng giáo, ngược lại, chỉ nhìn thấy con

người trong xã hội của đồng loại với mình; nó chỉ nhìn thấy các thứ hạng

quân, thần, phụ, tử, phu, phụ, huynh, đệ, bằng hữu. Đấy là một học thuyết

nhân văn và xã hội tuyệt vời [109, tr.174].

Trong bài viết “Nhà nho” năm 1932, ông một lần nữa khẳng định “ngũ luân”:

Người nào trong xã hội cũng có danh phận của người ấy: làm cha, làm con,

làm chồng, làm bạn, làm tôi, làm vua; sửa mình, tề nhà, trị nước, bình thiên

hạ, phận có thấp cao, danh có lớn nhỏ, mà ai ai cũng phải ăn ở làm sao cho

xứng danh tròn phận; di luân là phép cả, dẫu từ trời đất vạn vật cũng không

thể lọt ra ngoài phép tắc thiên nhiên. Những phép tắc ấy, đối với cuộc nhân

sinh, ứng trong vòng nhân sự, đã do các bậc thánh hiền đời xưa nghiên tinh

đàm tứ, ngẫm nghĩ sâu xa mới phát minh ra, đời đời truyền lại để làm cái

gương xử thế cho người đời. Tiếp lấy những lời giáo huấn đó, ứng dụng vào

cho mình, rồi truyền bá ra cho người, ấy cũng là phận sự của người muốn

sống làm người một cách có ý thức [105, tr.451].

Đến bài viết “Nghĩa tôn quân với thời thế mới”, cũng năm 1932, chúng ta thấy

Phạm Quỳnh nhấn mạnh vào “tam cương”, là thứ mà những nhà trí thức theo hướng

cấp tiến đã kịch liệt phê phán ở thời điểm bấy giờ. Trong bài này, Phạm Quỳnh khẳng

định: “Quân thần, phụ tử, phu phụ, cả nền gốc của gia đình, xã hội, quốc gia ở nước ta,

là gồm trong ba cái giường mối lớn đó. Một dân tộc không thể sớm trưa bỏ ngay cái

nền luân lý cũ đi được. Nếu một ngày không có luân lý thời đoàn thể lìa tan ngay”

[107, tr.104]. Từ nhận định đó, Phạm Quỳnh cho rằng cần phải chấn chỉnh lại trật tự

theo “tam cương”: “Muốn vãn hồi phong hóa, tất phải chấn chỉnh luân lý; muốn chấn

chỉnh luân lý tất phải căn cứ ở ba cái nghĩa lớn quân thần, phụ tử, phu phụ, là nền tảng

của luân lý Đông phương, ba cái nghĩa ấy có thể suy diễn cho rộng ra, tham bác cùng

các tư tưởng mới, cho thích hợp với thời đại bây giờ, nhưng không thể phá hoại cho

mất đi được” [107, tr.104]. Vậy là, trong bình diện các mối quan hệ xã hội, Phạm

Quỳnh đưa cá nhân trở lại với sự quy thuộc, với sự ràng buộc vào những mối quan hệ

truyền thống: quân thần, phụ tử, phu phụ. Ở một khía cạnh khác, Phạm Quỳnh cũng cố

107

gắng đưa vào đó những nội hàm mới, cho phù hợp với “thời thế mới”. Ông lý giải, sự

“tôn quân” mà ông nhắc đến trong mối quan hệ quân thần, ở thời đại mới, không còn

là mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, mà là mối quan hệ giữa cá nhân với một biểu

hiện của dân tộc, biểu hiện đó là ông vua, nhưng ông vua khi đó không còn là một cá

nhân cụ thể, mà trở thành “một cái nghĩa cả lớn lao, siêu việt ra ngoài cá nhân mà bao

gồm hết thảy cá nhân” [107, tr.104]. Khi đưa ra lý giải đó, Phạm Quỳnh muốn hướng

đến hình mẫu của nước Nhật Bản duy tân, cũng như hướng đến hình thức nhà nước

quân chủ lập hiến ở một số nước châu Âu. Nhưng ngay cả như vậy thì quan điểm của

Phạm Quỳnh cũng tỏ ra đi ngược lại với hầu hết các khuynh hướng tư tưởng đương thời.

Tuy nhiên, nếu đặt quan niệm ấy vào trong diễn biến chính trị ở Việt Nam đầu

những năm 30, thì sẽ thấy sự xuất hiện của một quan niệm như vậy về con người cá

nhân là có thể lý giải được. Năm 1932 là năm Bảo Đại hồi loan, cũng là năm Phạm

Quỳnh rời Nam Phong vào Huế làm Thượng thư. Xét trên phương diện chính trị, thì

quan niệm tái thiết lập trật tự xã hội dựa trên “tam cương” có một hàm ý chính trị rất

rõ ràng: thứ nhất, nó khẳng định việc duy trì trật tự xã hội, chống lại những hành động

mang tính cách mạng, lật đổ (bao gồm cả lật đổ những quan niệm Nho giáo truyền

thống, cũng như lật đổ trật tự xã hội hiện hành), thứ trật tự ấy là thứ trật tự mà ở đó,

mỗi cá nhân cần phải khuôn mình vào những quy tắc vốn có, phù hợp với từng mối

quan hệ cụ thể; thứ hai, nó dường như là một nỗ lực trong việc vớt vát lại quyền lực

cho nhà Nguyễn, mà ở thời điểm 1932, Bảo Đại đã mang đến cho Phạm Quỳnh một

niềm hy vọng trong những nỗ lực ấy. Khác với những tranh luận đương thời về việc lật

đổ chế độ quân chủ và đánh đuổi thực dân xâm lược, Phạm Quỳnh theo đuổi một

đường lối dung hòa, một mặt thừa nhận quyền bảo hộ của thực dân Pháp, mặt khác cố

gắng quay trở lại với Hiệp ước 1884, đòi lại quyền nội trị cho nhà Nguyễn, thứ đã mất

sau bản Quy ước 1925. Ngay trong bài “Nghĩa tôn quân với thời thế mới”, Phạm

Quỳnh cũng không hề giấu diếm ý tưởng này. Ở đây, chúng ta thấy được mối quan hệ

mật thiết giữa quan niệm về tự do cá nhân với quan niệm về chính trị của Phạm Quỳnh.

Trong khi đó, Trần Trọng Kim không quá chú trọng đến vấn đề thiết lập trật tự

xã hội như Phạm Quỳnh, nhưng ông cũng cố gắng bảo vệ những quy tắc, chuẩn mực

đạo đức của Nho giáo như “nhân”, “nghĩa”, “lễ” v.v..., là những quy tắc mang tính chế

ước hành vi của mỗi người từ bên ngoài. Nhưng đối với Trần Trọng Kim, những sự

chế ước đó không hạn chế tự do của người ta. Ông lý giải, “nhân”, “nghĩa”, “lễ”,

108

“nhạc” cũng đều là cái dụng của thiên lý, noi theo nhân, nghĩa, lễ, nhạc cũng chính là

noi theo thiên lý, mà còn theo được thiên lý, thì chung cuộc vẫn là tự do. Ông viết:

Có người nói rằng Nho giáo đã theo thiên lý mà lưu hành để cầu lấy sinh

thú ở đời, thì sao không để cho người ta được phóng khoáng tự do như Lão

giáo, mà lại đem nhân nghĩa lễ nhạc để hạn chế sự hành vi của người ta làm

thành ra có lắm điều câu thúc khó chịu. Xin trả lời rằng Nho giáo sở dĩ khác

Lão giáo chỉ bởi có thế mà thôi. Lão giáo thì cầu lấy sự phóng khoáng tự do,

không muốn bận đến mình, cho mọi việc đã có Đạo là cái chí cao chí cường

làm chủ trương rồi. Nho giáo thì cho nhân nghĩa lễ nhạc là cái dụng của

thiên lý, mình có làm được những điều ấy thì mới theo được thiên lý mà lưu

hành. Vậy cái sinh thú của mình là cầu lấy được những thung dung tự đắc ở

trong những điều ấy [71, tr.28].

Bên cạnh đó, Trần Trọng Kim cũng phản đối những sự câu thúc quá chi li, vụn

vặt của hậu nho, cho rằng những sự câu thúc đó làm sai lạc tinh thần của Nho giáo. Vì

vậy, khi khảo cứu về sự phát triển của Nho học qua các thời đại, ông đánh giá cái học

của Chu Hy “thật là tinh vi, nhưng phải điều câu thúc quá, làm mất cái tư tưởng tự do

của người ta”[71, tr.494], trong khi lại hết sức đề cao cái học của Vương Dương Minh:

Vương Dương Minh đem cái thiên tài chí mẫn, sự lịch duyệt rất giàu, sự

nghiên cứu rất sâu, tìm thấy chỗ uyên nguyên của đạo thánh hiền mà phát

huy ra cái tâm học tinh vi hơn cái học của Lục Tượng Sơn. Ông bài xích cái

học tầm chương trích cú, phá cái tệ tập của mạt học, xướng lên cái tư tưởng

tự do theo cái bản thể thiên nhiên của lương tri, và khuyến miễn cái dũng

lực ở sự thực tiễn [71, tr.592].

Ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, việc đề cao Vương Dương Minh khi nhìn nhận

về lịch sử Nho học là một hiện tượng có tính phổ biến. Từ các trí thức theo khuynh

hướng phục cổ như Trần Trọng Kim, nhóm Nam Phong, cho đến những trí thức theo

khuynh hướng cấp tiến như Đào Trinh Nhất, Phan Khôi, Phan Văn Hùm v.v... đều tỏ

ra hết sức coi trọng Vương Dương Minh. Có lẽ, cũng bởi họ tìm thấy ở nhà nho đời

Minh sự gần gũi với những lý tưởng tự do đầy sức quyến rũ ở Việt Nam thời kỳ đó.

Trong khi đó, xuất phát từ truyền thống Đạo gia, Nguyễn Duy Cần lại trình bày

một quan niệm phóng khoáng hơn nhiều về tự do cá nhân. Cần phải nhắc lại rằng,

Nguyễn Duy Cần phủ nhận sự tồn tại của cá nhân như là một “tồn tại khác” với “toàn

109

thể”, với vạn vật, đồng thời phủ nhận cả cái gọi là “bản ngã” của cá nhân. Nếu cá nhân

đã tự đồng nhất mình với toàn thể và với vạn vật, nếu cá nhân không có “bản ngã”, thì

nó còn có thể tìm thấy tự do cho mình hay không? Câu trả lời của Nguyễn Duy Cần là

có và cơ sở để ông khẳng định tự do cá nhân là sự phân biệt giữa “cá tính” và “bản

ngã”. Nguyễn Duy Cần phủ nhận “bản ngã”, nhưng không phủ nhận “cá tính” của cá

nhân. Ông lý giải, “bản ngã” là sự tưởng lầm của con người về sự khác biệt giữa mình

với vạn vật, còn “cá tính” là cái đặc tính riêng biệt vốn có của mỗi người. Nói con

người có “cá tính” không có nghĩa là phân biệt nó với toàn thể, với vạn vật: “Tâm ta

tuy đồng lý với Đạo, song nó có cá tính của nó, như bông huệ thì cái đặc tính tự nhiên

của nó là thơm mùi huệ chớ không thơm mùi sen, hay mùi lý đặng” [12, tr.65]. Theo

nghĩa đó, “bản ngã” là thứ mà chính con người tạo ra do sự ảo tưởng của nó về bản

thân, còn “cá tính” là thứ vốn có một cách tự nhiên ở mỗi cá nhân. Sống theo “bản ngã”

thì không có tự do, bởi khi đó, cá nhân phải chạy theo, và chịu sự chi phối của những

thứ không thuộc về mình, còn sống theo “cá tính” thì có tự do, bởi khi đó, cá nhân

được sống theo đúng bản tính tự nhiên vốn có. Vì vậy, ông chủ trương diệt “bản ngã”

mà không diệt “cá tính”. Trái lại, ông khẳng định rằng, cần phải tôn trọng cá tính của

mỗi cá nhân: “muốn giúp nhân loại một cách tự nhiên, trước hết phải để cho nhân loại

tự do, hoặc làm thế sao cho nhân loại đặng chỗ tự do sinh hoạt (libre développement),

tức là phải biết kính cái cá tính của mỗi người” [12, tr.86].

Đến đây, có một vấn đề nảy sinh là, nếu con người sống theo “cá tính”, thì điều

đó có mâu thuẫn với việc con người phải tuân theo cái “toàn thể” hay không? Nguyễn

Duy Cần cho rằng, mỗi người tuy hành động theo cá tính, nhưng cũng phải giữ cho

mình luôn luôn hòa hợp với toàn thể. Thực ra, theo lô-gích của Nguyễn Duy Cần, thì

tự thân việc hành động theo cá tính sẽ không bao giờ phản trái với “toàn thể”, bởi khi

hành động theo cá tính, người ta chỉ tuân theo lẽ tự nhiên trong mình, cũng chính là

tuân theo cái “toàn thể”. Người ta chỉ đi chệch ra khỏi “toàn thể” khi bắt đầu nảy sinh

“tư tâm”, “bản ngã”, mà đã này sinh tư tâm, thì không còn là hành động theo cá tính

nữa. Ông lấy ví dụ, mỗi cá nhân như một tài tử, chơi một loại nhạc cụ khác nhau trong

một bản hợp tấu, tuy thứ nhạc mỗi người tạo ra không giống nhau, nhưng kết quả vẫn

tạo nên một bản hợp tấu hoàn chỉnh [xem 12, tr.45-46]. Có thể hiểu, việc mỗi người

chơi nhạc theo đúng loại nhạc cụ của mình chính là hành động theo “cá tính”, theo lẽ

tự nhiên vốn có. Khi đó, hành động của họ luôn luôn tuân theo cái “toàn thể”, thuộc về

110

“toàn thể”. Nhưng khi nào, có người cố ý chơi một thứ âm nhạc khác đi, thì bản hợp

tấu chung sẽ bị phá vỡ. Khi đó, hành động của họ là hành động theo “bản ngã”, không

còn thuộc về toàn thể nữa. Ông viết: “Ta đây, đối với Toàn thể cũng vậy. Hãy cứ tự

nhiên để cho Chân tính ta được tự do biến hóa theo Cá tính của nó, miễn đừng cho ly

tâm cùng Toàn thể thôi. Đến khi ta dụng tư tâm không kể gì đến Toàn thể nữa, cứ độc

tấu riêng một mình, sống riêng một cõi theo bản ngã… chừng ấy ta mới gọi Ta là có,

và là riêng với vạn vật” [12, tr.64]. Vì vậy, Nguyễn Duy Cần bảo vệ sự tự do cá nhân

dựa trên cá tính, đồng thời khẳng định yêu cầu hòa hợp giữa cá tính với toàn thể:

“Trong một khóm đờn ấy, không ai có quyền phạm đến cách điệu tự do của người

khác. Phải kính lấy cái Cá tính của mỗi người (ta chớ lầm cá tính đây với tư ngã), -

nhưng ta chớ quên để mắt xem đến Toàn thể luôn luôn” [12, tr.89].

Không chỉ khẳng định tự do cá nhân mang tính nội tại, tức sự tự do hành động

theo cá tính của mỗi cá nhân, Nguyễn Duy Cần còn khẳng định tự do cá nhân trong sự

đối lập với mọi sự chế ước ngoại tại. Ở điểm này, quan niệm của Nguyễn Duy Cần

hoàn toàn đối lập với Phạm Quỳnh hay Trần Trọng Kim. Nếu như Phạm Quỳnh chủ

trương thiết lập lại trật tự xã hội dựa trên những quy tắc luân lý Nho giáo, với “tam

cương”, “ngũ luân”, “ngũ thường” v.v..., thì Nguyễn Duy Cần phủ định hoàn toàn

những sự chế ước như vậy. Ông viết:

Bày ra cái quan niệm Tận Thiện, Tận Mỹ, Nhân, Nghĩa, v,v?? để làm một

khuôn mẫu nhứt định chung cho cả loài người. Cái Tâm tính Bản nhiên của

con người vì đó mà tiêu ma, hư hỏng (…) Nhân loại ngày nay, chẳng qua

cũng một thể ấy cả, - thành thử con người hiện thời giống như kẻ tàn tật khô

héo, đèo đuột, vất vả, hư hỏng… bởi không còn cái tự do sinh hoạt của bản

tính thiên nhiên như cỏ cây cùng vạn vật chung quanh [12, tr.67].

Cách nhìn nhận như vậy về con người cá nhân trong xã hội hiện đại còn được

Nguyễn Duy Cần nhiều lần nhấn mạnh. Trong Thanh dạ văn chung, ông một lần nữa

khẳng định: “Cá nhân của hiện đại đã mất cả bản tính của cá nhân... Xã hội đã nuốt

mất cá nhân. Người ta bây giờ phần đông chỉ là những ống truyền thanh của một lý

thuyết nào, của một đảng phái nào, của một tôn giáo nào, của một nghiệp đoàn nào...

Ấy là thế kỷ của quần đoàn... Cá nhân chỉ còn là một bộ máy vô hồn, quây cuống theo

hoàn cảnh” [13, tr.34]. Theo Nguyễn Duy Cần, khi bị quy định bởi những quan niệm

mang tính khuôn mẫu như vậy, cá nhân mất đi sự tự do được sống theo bản tính vốn

111

có của mình. Khi đó, hành vi của mỗi cá nhân không còn tuân theo cá tính của họ nữa,

mỗi cá nhân cũng không còn là chính mình nữa. Họ trở thành nô lệ cho những thứ quy

ước mà chính họ đặt ra: “Họ nô lệ sách vở, nô lệ dư luận, nô lệ chế độ gia đình, xã

hội… nô lệ phong tục,… ôi! Chỉ là một đời nô lệ, làm cho họ không còn họ, trong

hành vi của họ nữa” [12, tr.163]. Tất cả những sự quy ước đó được Nguyễn Duy Cần

coi như một thứ “bản ngã chung” của con người. Giành lấy tự do, như vậy, không chỉ

là chống lại cái “bản ngã” cá nhân, mà còn là chống lại cái “bản ngã chung” ấy. Trong

Đạo đức kinh có câu: “Cho nên đạo mất rồi sau mới có đức, đức mất rồi sau mới có

nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ” [75, tr.222]. Theo ý

Lão Tử, càng đặt ra các sự chế ước, thì con người càng rời xa đạo, càng rời xa bản tính

vốn có của mình. Câu này thể hiện rất rõ sự đối lập của Đạo gia với những quy tắc

luân lý mà Nho gia xác lập. Quan điểm của Nguyễn Duy Cần cũng không nằm ngoài ý

tưởng đó của Đạo đức kinh, sự đối lập của Nguyễn Duy Cần với chủ trương tái thiết

lập trật tự xã hội trên nền tảng luân lý truyền thống của nhóm Phạm Quỳnh, trong văn

cảnh này, cũng chính là một biểu hiện của sự đối lập giữa Đạo gia và Nho gia.

Sự phê phán những chế ước của phong tục, đạo đức truyền thống của Nguyễn

Duy Cần, ở một khía cạnh nhất định, có sự gần gũi với chủ trương lật đổ nền đạo đức

Nho giáo mà những trí thức tân học cấp tiến đương thời đang theo đuổi. Tuy nhiên,

đẩy vấn đề tiến thêm một bước nữa, thì họ lại đi theo hai hướng đối lập nhau. Vì vậy,

trước những phong trào giải phóng cá nhân sôi nổi của thanh niên Việt Nam những

năm 30, Nguyễn Duy Cần nhận định:

thời bây giờ là buổi phong trào Cải cách rất sôi nổi, nam nữ thanh niên rất

phản đối những cổ lệ ông bà, những khuôn khổ eo hẹp của tiền nhân về mặt

luân lý, v,v.., quyết đập phá cả nền tảng xưa kia… Đó, là cái phản động lực

của một sự bị tàn phế rất lâu đời, thật đáng khen, nhưng tiếc thay, họ chỉ có

phá cái khuôn nầy, để tạo khuôn khác mới hơn, rồi giam lấy mình vào như

cũ, tự lượng hô hào cổ động gọi đó là Tấn hóa [12, tr.89].

Có thể thấy, đối với thái độ phê phán những phong tục, những quy tắc đạo đức

mang tính truyền thống của nhóm cấp tiến, Nguyễn Duy Cần tỏ ra ủng hộ, tuy nhiên,

ông lại cho rằng, những người cấp tiến chỉ đang đi từ cái khuôn này đến một cái khuôn

khác, chứ không thực sự đi đến sự tự do. Đối với ông, cái tự do cá nhân mà họ đang

hướng tới không phải là sự tự do theo cá tính, mà thực chất vẫn chỉ là sự tự do theo

112

bản ngã, của tư tâm, thứ tự do của những người tự tách mình ra khỏi cái toàn thể:

“Nhiều kẻ thanh niên vì quá cảm kích cái chủ nghĩa tự do sinh hoạt của cá nhân, mà

thành ra sai lầm với chủ nghĩa chánh của Đạo. Vì không hiểu đến chỗ cùng tột của lý

Thiên Hình và Nhứt Quán – nên mới dụng tâm sống chỗ Tự Do của cá nhân không

quan thiết gì đến Toàn thể cả… Đó là cái nạn thiên lệch của phần nhiều học giả vậy”

[12, tr.89]. Nguyễn Duy Cần xem những phong trào mà tầng lớp thanh niên đương

thời theo đuổi chỉ là “những cuộc cách mạng bông lông”, chứ không phải là con đường

giải thoát đích thực cho cá nhân. Khác với Phạm Quỳnh muốn duy trì trật tự xã hội

hiện có, đồng thời cũng khác với những người cấp tiến, muốn lật đổ trật tự ấy để

hướng về phương Tây, Nguyễn Duy Cần cũng chủ trương lật đổ những trật tự xã hội

đang kìm kẹp con người, nhưng không phải để tiến lên phía trước, mà là để quay trở

về với cái “toàn thể”.

Tóm lại, con đường để đi đến tự do cá nhân đích thực của Nguyễn Duy Cần

không có gì khác ngoài diệt bản ngã, khiến cho hành vi của mỗi cá nhân chỉ còn tuân

theo duy nhất cái cá tính tự nhiên của họ: “Diệt lấy bản ngã, để biểu lộ cái Chân tính

của mình, và để cho cá tính của Tâm mình đặng tự do sinh hóa, như đóa hoa rừng… ấy

là con đường giải thoát vậy” [12, tr.160]. Tự do “như đóa hoa rừng” nghĩa là tự do

sống, tự do sinh hoạt theo đúng cái cá tính vốn có của mình, sống một cách tự nhiên,

vô tư ý. Làm được như vậy, thì đạt đến cảnh giới “chân nhân”: “Chủ nghĩa đây, là đem

tinh thần ta để di dưỡng trong chỗ vô cùng đặng biểu lộ cái bản tính thiên nhiên của ta.

Ta chớ lầm những cuộc cách mạng bông lông của bọn thanh niên bây giờ với sự giải

thoát của bực Chơn Nhân vậy” [12, tr.90]. Đối với Nguyễn Duy Cần, người nào còn bị

vướng bận trong bản ngã, dù là bản ngã cá nhân hay bản ngã chung, thì cũng đều là

những người đang sống một cách bị động, chỉ có chân nhân mới là người sống một

cách tự động, tự do. Trong Nam hoa kinh của Trang Tử, có đoạn viết về thánh nhân:

Cho nên thánh nhân tiêu dao ở chỗ hư không, coi trí tuệ là mầm thừa [gây

tư lự], lễ tín là thứ keo [câu thúc người ta], đức huệ là thứ để tiếp dẫn, công

nghệ cũng (đáng khinh) như thương mại. Thánh nhân không mưu tính cái gì,

đâu cần tới trí tuệ; không đẽo gọt cái gì, đâu cần tới keo? Không mất cái gì,

đâu cần phải tiếp dẫn? Không chế tạo cái gì, đâu cần đến thương mại? Bốn

đức đó [không dùng trí tuệ, không dùng lễ tín, không dùng đức huệ, không

chế tạo] của bậc thánh gọi là thức ăn của trời, nghĩa là thánh nhân được trời

113

nuôi. Đã được trời nuôi thì còn cần gì tới người nữa? Tuy có hình thể con

người mà không có tình cảm con người. Vì có hình thể con người nên sống

chung với người, vì không có tình cảm con người nên không bị quan niệm

thị phi làm bận lòng. Thánh nhân nhỏ xíu vì thuộc về loài người, nhưng lại

vĩ đại vì đồng thể [hoặc hòa hợp] với trời [129, tr.210].

Câu “tuy có hình thể con người mà không có tình cảm con người” của Trang Tử

có lẽ rất phù hợp để diễn tả quan niệm của Nguyễn Duy Cần. “Có hình thể con người”

là lẽ tự nhiên sinh ra như vậy, “không có tình cảm con người” là không bị vướng mắc

vào bản ngã, vào tư ý. “Có hình thể con người”, mà lại “không có tình cảm con người”

chính là sống một cách tự nhiên như mình sinh ra vốn thế, cũng như cỏ cây, hoa lá.

Hình mẫu thánh nhân tiêu dao của Trang Tử với hình mẫu chân nhân tự do của

Nguyễn Duy Cần rõ ràng cùng thuộc về một cảnh giới như nhau.

3.4. Đặc điểm, ý nghĩa và hạn chế chủ yếu trong quan niệm về con người cá nhân

của nhóm trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ ở Việt Nam nửa đầu thế

kỷ XX

3.4.1. Những đặc điểm chủ yếu

Nhìn lại nội dung quan niệm về vấn đề con người cá nhân của một số đại biểu

trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, có thể

thấy, quan niệm của họ không phải lúc nào cũng thống nhất, thậm chí có lúc còn có sự

đối lập sâu sắc trên nhiều phương diện, điều đó là đương nhiên bởi những quan điểm

mà họ đưa ra tùy thuộc vào quan niệm chủ quan của mình về nền tảng tư tưởng truyền

thống vốn thấm sâu vào tâm trí của họ. Tuy nhiên, xét về tổng thể, với tư cách là

những nhà trí thức phục cổ, họ chia sẻ với nhau một số đặc điểm chủ yếu, được chúng

tôi sơ bộ định dạng để phân biệt họ với những nhà trí thức theo khuynh hướng cấp tiến

dưới đây.

Thứ nhất, sự triển khai quan niệm về địa vị con người cá nhân của những nhà trí

thức theo khuynh hướng phục cổ như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim hay Nguyễn Duy

Cần thống nhất với nhau ở một đặc điểm là sự khẳng định tính quy thuộc của con

người cá nhân. Đối với họ, con người cá nhân tự thân nó không có ý nghĩa, mà nó chỉ

có thể tìm thấy ý nghĩa khi được đặt trong mối quan hệ quy thuộc với một tổng thể

rộng lớn hơn, mà ở đó, cá nhân chỉ là một bộ phận, một mắt xích. Những trí thức chịu

ảnh hưởng của Nho giáo tìm thấy ý nghĩa của cá nhân trong mối quan hệ với gia đình,

114

dòng tộc, và rộng hơn là “tổ quốc”, trong khi dưới ảnh hưởng của Đạo gia, Nguyễn

Duy Cần khẳng định ý nghĩa của con người cá nhân trong mối quan hệ với “đạo” hay

cái “toàn thể”, mà ở đó, cá nhân trở thành một biểu hiện của “đạo”, lấy “đạo” làm bản

chất của mình. Đặc điểm này khiến cho họ, bất kể là có khuynh hướng theo Nho giáo

hay Đạo gia, đều nhìn nhận con người trong xã hội hiện đại (ở thời điểm những năm

đầu thế kỷ XX) là con người bị bứt ra khỏi cội rễ của mình, khỏi nơi mà mình “thuộc

về”. Đó là con người “mất gốc” theo cách nói của Phạm Quỳnh, hay là con người “ảo

tưởng” theo cách nói của Nguyễn Duy Cần. Đối với họ, những tư tưởng nhấn mạnh

địa vị và sức mạnh của con người cá nhân, cùng những biểu hiện cụ thể của sự đề cao

tính cá nhân đang dần trở nên phổ biến trong đời sống thường ngày dưới ảnh hưởng

của văn hóa phương Tây chỉ là hệ quả của sự thổi phống, khuếch đại cá nhân, và điều

này mang ý nghĩa tiêu cực nhiều hơn là tích cực.

Thứ hai, họ đều khẳng định tính không hợp lý hay không hợp đạo đức của sự

theo đuổi quyền lợi cá nhân. Đối với họ, việc truy cầu quyền lợi cá nhân, hay lấy

quyền lợi cá nhân làm mục đích, là một sự lệch lạc, và một hành vi xuất phát từ quyền

lợi cá nhân thì không thể xem là một hành vi đúng đắn. Điều này là hệ quả đương

nhiên của cách định vị con người cá nhân của họ. Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim cho

rằng con người cá nhân thuộc về gia đình, dòng tộc, tổ quốc, nên phải lấy nghĩa vụ với

gia đình, dòng tộc, tổ quốc làm căn bản. Nguyễn Duy Cần cho rằng con người cá nhân

thuộc về “đạo”, nên hành vi của nó cũng phải lấy việc tuân theo “đạo” làm căn bản, từ

đó phủ nhận mọi sự phân biệt như là nguồn gốc của ham muốn tranh giành quyền lợi

cá nhân. Ở đây, dù quay trở về với hai cội nguồn tư tưởng khác biệt nhau, thậm chí đối

chọi nhau, những người phục cổ khi chỉ ra tính không hợp lý của sự theo đuổi quyền

lợi cá nhân, đã gặp nhau ở quan niệm cho rằng, một hành vi đúng đắn không thể dựa

trên cơ sở của quyền lợi cá nhân, thậm chí ở một mức độ nhất định còn đối lập với

quyền lợi cá nhân.

Thứ ba, quan niệm về tự do cá nhân của những nhà trí thức tân học phục cổ đều

mang tính hướng nội. Trước khái niệm “tự do” vốn có nguồn gốc từ nền văn hóa

phương Tây, cả Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim và Nguyễn Duy Cần đều không những

không lảng tránh, mà còn thể hiện sự thừa nhận. Nhưng với tư cách là những người

theo khuynh hướng phục cổ, họ nhìn nhận tự do qua lăng kính của những học thuyết

truyền thống, và do đó, cái gọi là “tự do” mà họ hướng đến có nội hàm khác biệt nhất

115

định so với “tự do” trong tư tưởng phương Tây cận đại, cũng như trong tư tưởng của

những người Việt Nam cấp tiến. Việc họ đặt tự do trong mối liên hệ mật thiết với

“nghĩa vụ” (Phạm Quỳnh), với “thiên lý” (Trần Trọng Kim) hay với “toàn thể”

(Nguyễn Duy Cần) thể hiện cách giới hạn của họ đối với việc tiếp nhận tư tưởng về tự

do cá nhân của phương Tây, đồng thời cũng cho thấy cách thức truy cầu tự do của họ.

Sở dĩ nói quan niệm về tự do của họ có tính hướng nội, là bởi, bất kể đứng từ điểm

nhìn của Nho gia hay Đạo gia, con đường truy cầu tự do của họ là con đường quay trở

về phản tỉnh bản thân, bằng cách tự tu dưỡng để đạt đến sự hòa hợp với “thiên lý”,

hoặc bằng cách diệt bản ngã để đạt đến sự hòa hợp với “đạo”. Tất nhiên, điều đó cũng

đồng nghĩa với việc, họ đứng về phía đối lập với những phong trào đấu tranh cho tự do

nói chung và tự do cá nhân nói riêng trong xã hội Việt Nam đương thời.

Tóm lại, những đặc điểm chủ yếu được khái quát một cách sơ bộ trên đây thể

hiện sự phản tư của những người theo quan điểm bảo thủ, bởi chính họ là những người

đứng trên nền tảng truyền thống Nho học, Đạo học, đó là những nền học thuật được họ

coi là cẩm nang tri thức đầy đủ nhất mà các học thuyết từ cổ chí kim ở phương Tây

không thể có được. Trước những biến động trong đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ

XX, họ chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng “tha hóa” của con người là sự chạy

theo quyền lợi cá nhân, hay là sự tách biệt của cá nhân ra khỏi cội nguồn của nó. Tính

bảo thủ trong quan niệm của họ, xét đến cùng, phản ảnh tinh thần, nguyện vọng của

một lớp trí thức vừa mới bước chân ra khỏi truyền thống và trưởng thành trong bối

cảnh giao thời của đất nước.

3.4.2. Ý nghĩa đương thời

Trong suốt thập niên thứ hai và thứ ba của thế kỷ XX, khuynh hướng phục cổ

khi bàn về vấn đề con người cá nhân có một sức hấp dẫn nhất định trong đời sống văn

hóa Việt Nam, gắn với sự lớn mạnh của nhóm Nam Phong ở Bắc kỳ. Tuy nhiên, từ

cuối thập niên thứ ba và đặc biệt là từ những năm 30 trở đi, khuynh hướng này đã dần

đánh mất đi sức hút của nó. Những hào quang của quá khứ đến thời điểm này đã

không còn hấp dẫn được thế hệ trí thức mới, những người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ

hơn bởi nền văn hóa phương Tây. Quan niệm phục cổ của Nguyễn Duy Cần tuy được

đưa ra vào những năm 30, dường như cũng không có sức tác động đáng kể. Điều đó

cho thấy, khuynh hướng phục cổ tuy vẫn được duy trì, nhưng nó hầu như đã bị những

diễn biến mau lẹ của thời cuộc bỏ lại phía sau. Mặc dù vậy, đặt trong bối cảnh của

116

những thập niên đầu thế kỷ XX, chúng tôi cho rằng, những quan niệm của nhóm trí

thức phục cổ về vấn đề con người cá nhân vẫn có những ý nghĩa lịch sử nhất định

trong bối cảnh xã hội đương thời, và sự xuất hiện của nó cũng là một xu hướng không

tránh khỏi.

Thứ nhất, quan niệm của nhóm trí thức phục cổ về vấn đề con người cá nhân

thể hiện sự phản ứng của giới trí thức Việt Nam trước sự du nhập và ảnh hưởng của

những lối sống, những quan điểm có phần cực đoan về con người cá nhân vốn có xuất

xứ từ phương Tây. Người phương Tây và Ki-tô giáo của phương Tây đã xuất hiện ở

Việt Nam từ khá sớm, nhưng phải đến giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cùng

với làn sóng thực dân hóa, văn hóa phương Tây mới thực sự làm xáo trộn đời sống

tinh thần của người Việt. Cũng phải đến thời điểm này, mới có thể thực sự nói đến sự

đụng độ giữa hai nển văn hóa Đông, Tây trên đất nước Việt Nam. Trong quá trình đó,

cái mới, cái ngoại lai không bao giờ có thể được chấp nhận một cách dễ dàng, nhất là

khi nó mang những đặc điểm đối lập sâu sắc với nền văn hóa truyền thống của người

Việt. Ngay cả đối với tầng lớp trí thức tân học, vốn là những người được đào tạo bởi

nền giáo dục Tây học và do đó bản thân họ đã là những người chấp nhận văn hóa

phương Tây ở những mức độ khác nhau, thì phản ứng mang tính phê phán đối với văn

hóa phương Tây vẫn là một phản ứng tất nhiên. Đó không phải là một phản ứng mang

tính cá biệt, mà thực sự là một phản ứng mang tính phổ biến, làm thành một khuynh

hướng, đại diện cho một bộ phận trí thức tân học Việt Nam ở thời điểm đó.

Thậm chí, chính bởi họ là những người “Tây học”, nên sự phê phán văn hóa

phương Tây của họ ít nhiều sâu sắc hơn so với những phản ứng mang tính cự tuyệt của

những nhà nho chính thống ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Nếu như những nhà nho cổ

điển cuối thế kỷ XIX, do hạn chế trong việc tiếp cận nền văn hóa, tư tưởng phương

Tây, đa phần đều đứng trên trật tự “nội hạ ngoại di” để phê phán phương Tây, coi

phương Tây là “di”, coi bản thân là “hạ”, thì những trí thức tân học phục cổ không còn

mang trong mình tâm thức đó. Sự phê phán của họ, do đó, không nhằm chỉ ra tính man

di, không văn minh của phương Tây, mà chủ yếu nhìn từ góc độ khác biệt văn hóa và

sự không tương thích. Một nhà nho cuối thế kỷ XIX rất có thể sẽ nhìn nhận những

quan niệm đề cao con người cá nhân ở phương Tây như một sự thiếu hụt về nền tảng

đạo đức của một tộc người man di, nhưng với những nhà trí thức tân học thì khác, họ

không chấp nhận quan niệm coi cá nhân là trung tâm ở chừng mực cho rằng, quan

117

niệm đó là không phù hợp với truyền thống văn hóa và nền tảng xã hội của người Việt.

Một cách nhìn như vậy dĩ nhiên là có chừng mực hơn, dù rằng ở thời điểm bấy giờ,

vẫn bị xem là bảo thủ.

Những phản ứng bảo thủ như vậy, từ điểm nhìn hiện tại có thể phán định là

phản tiến bộ, nhưng ở một khía cạnh nào đó, nó cũng thể hiện sức đề kháng của một

nền văn hóa trong một thời điểm lịch sử đầy biến động. Sự mất mát một cách nhanh

chóng của những giá trị cũ đã đặt ra trước mắt giới trí thức một viễn cảnh đầy bất trắc

của sự vong bản. Vong bản là một nỗi lo ngại, thậm chí là ám ảnh đối với một thế hệ

trí thức khi nhìn về tiền đồ văn hóa của dân tộc, và sự phản ứng với văn hóa phương

Tây nói chung, với những quan niệm về con người cá nhân vốn đi ngược lại truyền

thống văn hóa phương Đông nói riêng, là một phản ứng mang tính tự vệ. Bảo vệ hình

mẫu con người cá nhân trong sự gắn bó mật thiết với gia đình, với xã hội, với đất nước,

hay với “đạo” đều là những cách thức tự vệ nhằm giữ con người cá nhân không bị bứt

hẳn ra khỏi gốc rễ của mình, và nhờ đó mà cả nền văn hóa vốn được tạo dựng từ

những cá nhân như vậy mới không bị mất gốc. Cần lưu ý rằng, ngay cả Phan Khôi,

một người vào cuối những năm 20 đã trở thành một trong những người đi đầu trong

việc cổ vũ phương Tây hóa, trước đó cũng từng đưa ra những quan niệm mang tính

dung hòa và chứa đựng tinh thần Nho giáo như nhóm trí thức phục cổ. Hiện tượng đó

nói lên một điều rằng, dù muốn hay không, một phản ứng mang tính tự vệ như chúng

ta đã thấy có lẽ là một phản ứng cần phải có, trước khi người ta có thể hướng đến

những quan niệm mang tính cấp tiến hơn. Vì vậy, ở đây, chúng ta không chỉ nhìn nhận

khuynh hướng phục cổ như một khuynh hướng đối chọi với khuynh hướng cấp tiến,

mà còn cần xem nó như một bước đệm cần thiết để đi đến khuynh hướng cấp tiến

trong tiến trình vận động của lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Thứ hai, ý nghĩa đương thời của khuynh hướng phục cổ còn nằm ở chỗ, nó thể

hiện một sự thẩm định lại những quan niệm truyền thống về con người cá nhân và nỗ

lực kết hợp nó với quan niệm phương Tây. Phục cổ, theo nghĩa này, không đơn thuần

là một sự cố chấp thủ cựu, giữ nguyên toàn bộ quan niệm truyền thống về con người

cá nhân để đối phó với những biến chuyển của thời đại. Cần nhắc lại rằng, Phạm

Quỳnh, Trần Trọng Kim hay Nguyễn Duy Cần đều là những người được đào tạo bài

bản từ nền giáo dục Tây học. Vì vậy, sự tiếp cận của họ đối với di sản Nho, Phật, Đạo,

ở một mức độ nhất định, là sự “tìm về” của những người đứng ngoài truyền thống học

118

vấn đó. Xuất phát điểm đó giúp cho họ có đủ bình tĩnh để thẩm định lại những quan

niệm cũ trước khi tìm cách khôi phục chúng. Tất cả họ đều nhận ra tính chất bó buộc

cá nhân một cách khắc nghiệt trong những quan niệm truyền thống. Việc xây dựng

hình mẫu cá nhân hòa tan vào trong cộng đồng, một thứ cá nhân hoàn toàn đánh mất

bản sắc chưa bao giờ là mục đích của họ. Vì vậy, khi bàn luận về những quan niệm cũ,

họ ít nhiều tìm cách gạn bỏ một số luận điểm mà họ cho là không phù hợp, đồng thời

cố gắng nhấn mạnh một số luận điểm khác theo hướng đề cao tính tự chủ, tự do của

con người cá nhân.

Tiếp cận truyền thống với tâm thế như vậy, nên không đáng ngạc nhiên khi

những trí thức vốn chủ trương phục cổ không hề phủ định hoàn toàn quan niệm của

phương Tây về vấn đề con người cá nhân. Họ phê phán quan niệm cực đoan về con

người cá nhân, phê phán lối sống cường điệu hóa cá nhân, nhưng đồng thời cũng tiếp

nhận nhiều luận điểm về con người cá nhân từ di sản tư tưởng phương Tây, mà sự tán

dương của họ đối với những nhà tư tưởng phương Tây như I. Kant là một ví dụ tiêu

biểu. Ở góc độ này, họ là những người đang nỗ lực tìm kiếm sự dung hòa giữa phương

Đông và phương Tây trong quan niệm về con người cá nhân. Điều này thể hiện rõ nét

nhất qua trường hợp Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim. Cả hai ông đều là những người

có vốn tri thức khá sâu dày về văn hóa, tư tưởng phương Tây, trong đó Phạm Quỳnh

thậm chí còn là một nhân vật có vai trò hết sức quan trọng đối với việc truyền bá tư

tưởng phương Tây ở Việt Nam trong mấy thập niên đầu thế kỷ XX. Vì vậy, trong

những bài viết của họ, chúng ta có thể thấy sự hiện diện của không ít quan niệm của

các nhà tư tưởng phương Tây, tất nhiên, họ đã lựa chọn những quan niệm, những nhà

tư tưởng phù hợp với tư tưởng của bản thân họ.

3.4.3. Ý nghĩa hiện thời

Bên cạnh những ý nghĩa nhất định đối với đương thời, quan niệm về con người

cá nhân của nhóm trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ cũng có một số ý nghĩa

tham chiếu cho chúng ta trong thời đại hiện nay.

Thứ nhất, những nhà trí thức tân học phục cổ, trong khi cố gắng hướng sự chú ý

vào thế giới nội cảm của cá nhân, đã đồng thời đưa ra một số quan niệm sâu sắc về vấn

đề tự do cá nhân. Bàn luận từ góc độ đạo đức, Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim đã

trình bày những quan niệm thể hiện sự đề cao tính tôn nghiêm của nhân cách cá nhân,

tính tích cực và tự chủ của cá nhân với tư cách chủ thể của hành vi đạo đức. Một mặt,

119

họ xây dựng quan niệm dựa trên nền tảng luân lý Nho giáo mà họ hết sức coi trọng,

vốn nhấn mạnh đến yêu cầu tự tu dưỡng của mỗi cá nhân về mặt đạo đức, cũng như

nhấn mạnh đến hình mẫu người “đại trượng phu” không chịu khuất phục trước ngoại

cảnh, mặt khác, họ lại bổ sung những lý tưởng đó bằng quan niệm của phương Tây về

tự do ý chí, về mệnh lệnh tuyệt đối. Qua đó, họ khẳng định rằng mỗi cá nhân đều được

tự do định đoạt hành vi đạo đức của mình, rằng họ chỉ tuân theo duy nhất thứ quy luật

đạo đức bên trong họ, chứ không cần phải tuân theo một thế lực nào khác. Sự bảo thủ

của họ thể hiện ở chỗ, thứ quy luật đó xét đến cùng lại được đồng nhất với những

chuẩn mực đạo đức đã được thiết lập bởi Nho giáo mà họ coi như một thứ tiên thiên,

nhưng ở một khía cạnh khác, khi khẳng định rằng cá nhân có tự do trong việc định

đoạt hành vi đạo đức, họ đã thể hiện một tinh thần đề cao sự tôn nghiêm, sự bất khả

xâm phạm của nhân cách cá nhân, đó cũng là thứ mà con người trong xã hội hiện đại

đôi khi đánh mất.

Trong xã hội hiện nay, chúng ta không khó để chỉ ra những ví dụ về việc, con

người do chạy theo những lợi ích cá nhân ích kỷ, hoặc do thiếu vắng sự tự tôn, tự

trọng, mà khiến cho bản thân mình hành động theo sự lôi kéo hay theo sức ép của

những thế lực bên ngoài. Vào tháng 5 năm 2020, trong phiên tòa sơ thẩm vụ án sửa

điểm thi ở Hòa Bình, có bị cáo đã nói một lời tự biện hộ sau đó đặc biệt thu hút sự chú

ý của dư luận, đó là: “Ai cũng gù, mình thẳng lưng sẽ thành khuyết tật” [161]. Đó là

một lời tự biện hộ bằng cách đổ lỗi cho hoàn cảnh, với hàm ý rằng, hành vi phạm pháp

mà người đó thực hiện cũng là hành vi có thể xem là phổ biến trong xã hội, và do đó,

người đó căn bản không có lựa chọn khác. Câu nói này hầu như ngay lập tức phải

hứng chịu sự phê phán từ dư luận, nhưng nó cũng nói lên tâm thức của không ít người

trong xã hội hiện đại. Nếu đứng từ góc nhìn của những nhà trí thức phục cổ đầu thế kỷ

XX mà nói, họ là những người tự đánh mất sự tôn nghiêm của nhân cách cá nhân, họ

đánh mất đi năng lực tự định đoạt hành vi đạo đức của mình để uốn mình theo xu

hướng của đám đông, họ vì lợi ích cá nhân nhưng thực chất là đang phủ định tính tôn

nghiêm của cá nhân. Đầu thế kỷ XX, khi viết sách Sơ học luân lý, sách dạy luân lý cho

lớp sơ đẳng, khi nói về bổn phận của mỗi người đối với bản thân, Trần Trọng Kim đã

khẳng định năng lực đưa ra quyết định thực hiện hành vi theo sự mách bảo của lương

tâm. Phạm Quỳnh cũng không ít lần nhấn mạnh đến tự do ý chí của cá nhân khi bàn về

những vấn đề đạo đức. Đó đều có thể xem như những phản đề đối với những kiểu

120

ngụy biện như đã nhắc đến ở trên. Ở đây có thể thấy, từ những bài giảng đạo đức sơ

đẳng cho trẻ nhỏ, đến những bàn luận đạo đức học, những nhà trí thức tân học theo

khuynh hướng phục cổ đều để lại những nhận định có giá trị đối với việc bồi đắp nhân

cách cá nhân. Trong xã hội hiện đại, con người cá nhân được coi trọng hơn nhiều so

với trước đây, nhiều nhận định của những nhà trí thức phục cổ thực ra đi ngược lại với

xu hướng đề cao con người cá nhân, nhưng ở khía cạnh đề cao sự tôn nghiêm của nhân

cách cá nhân, thì những nhận định của họ lại có điểm có thể đi đến sự thống nhất với

yêu cầu coi trọng, đề cao con người cá nhân.

Thứ hai, quan niệm về con người cá nhân của nhóm trí thức phục cổ, do chỗ

phủ nhận việc lấy cá nhân làm trung tâm, nên nhìn chung đều hướng đến sự hòa hợp

giữa cá nhân với xã hội và với thế giới. Ngày nay, chúng ta bàn nhiều về vấn đề trách

nhiệm xã hội, nhấn mạnh đến ý thức về trách nhiệm xã hội của cá nhân, ở một mức độ

nhất định, có thể chia sẻ với quan niệm của họ. Từ góc nhìn của những người chủ

trương vãn hồi Nho giáo, Trần Trọng Kim hay Phạm Quỳnh đều hết sức nhấn mạnh

đến nghĩa vụ của cá nhân trên nền tảng của “nghĩa lợi chi biện”, đặt nghĩa vụ lên trên

quyền lợi cá nhân. Mặc dù họ chưa đề cao đúng mức quyền lợi cá nhân, và do đó,

chưa đấu tranh cho những quyền lợi chính đáng của cá nhân, nhưng ở một góc độ khác,

quan niệm như vậy hàm chứa ý thức sâu sắc về trách nhiệm của cá nhân đối với xã hội.

Tiếp nối truyền thống Nho học, đồng thời tiếp nhận quan niệm về nghĩa vụ của

phương Tây, họ theo đuổi quan niệm về việc thực thi nghĩa vụ như một hành vi hoàn

toàn thuần túy vô vị lợi, một hành vi được thực hiện vì nó phải được thực hiện mà

không quan tâm đến bất cứ động cơ cá nhân nào. Trong xã hội hiện nay, chúng ta dễ

dàng bắt gặp những hiện tượng vì lợi ích cá nhân mà con người sẵn sàng chà đạp lên

lợi ích của xã hội, chà đạp lên những giá trị đạo đức căn bản của xã hội. Chúng ta cũng

gặp không ít hiện tượng trục lợi từ những hành vi tưởng chừng như là vì xã hội. Cả hai

loại hiện tượng này đều xuất phát từ chỗ đặt quyền lợi cá nhân cao hơn tất cả, lấy việc

theo đuổi quyền lợi cá nhân làm cứu cánh. Trong bối cảnh đó, quan niệm đề cao nghĩa

vụ của cá nhân đối với cộng đồng, bao gồm gia đình, xã hội, đất nước như những gì

các nhà trí thức phục cổ đã nêu ra vẫn có ý nghĩa nhất định.

Trong khi đó, từ góc nhìn của người chủ trương đề cao Đạo gia, mặc dù

Nguyễn Duy Cần không bàn đến nghĩa vụ của cá nhân, nhưng ông cũng đặc biệt nhấn

mạnh đến tính vô tư lợi trong hành vi của cá nhân, phê phán sự thổi phồng con người

121

cá nhân. Nguyễn Duy Cần hướng đến sự hòa hợp của cá nhân với toàn thể, nói cách

khác, cũng chính là hướng đến sự hòa hợp của cá nhân với tự nhiên, với vạn vật, với

những cá nhân khác. Ông chủ trương cá nhân phải từ bỏ cái tâm muốn sở hữu, do đó

mà phá bỏ cái “bản ngã” của mình. Một quan niệm như vậy ít nhiều mang tính cản trở

sự phát triển của xã hội, nhưng tất nhiên, ở một góc độ nào đó, nó hướng đến một xã

hội mà ở đó mỗi cá nhân cố gắng chung sống hòa thuận với tự nhiên và với nhau, do

đó mà nó cũng giảm thiểu xung đột giữa cá nhân với tự nhiên và giữa cá nhân với cá

nhân trong xã hội. Khai thác điểm tích cực của quan niệm này, chúng tôi cho rằng, nếu

xem bản thân sự tìm kiếm lợi ích cá nhân cũng là một loại bản tính tự nhiên của con

người, thì chúng ta hoàn toàn có thể đứng trên điểm nhìn của Nguyễn Duy Cần mà

hướng đến sự hòa hợp về mặt lợi ích giữa các cá nhân trong xã hội, giảm thiểu xu

hướng tìm kiếm lợi ích cá nhân một cách cực đoan trong xã hội đương đại.

Thứ ba, các nhà trí thức phục cổ, bất kể là theo chủ trương phục hồi Nho, Phật

hay Đạo, khi cố gắng xây dựng nên quan niệm của bản thân về vấn đề con người cá

nhân bằng cách quay trở lại với những tư tưởng truyền thống, do đều đứng từ điểm

nhìn của người bên ngoài truyền thống, nên bắt buộc phải tiến hành khảo cứu truyền

thống, và vì vậy, có một điểm chung giữa họ là hầu hết đều đã trở thành những nhà

khảo cứu có nhiều thành tựu. Phạm Quỳnh bên cạnh một số công trình khảo cứu về

Nho học, như Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng hay nhiều bài

viết khác đăng trên Nam Phong tạp chí, cả phần quốc ngữ và Pháp văn, đồng thời cũng

là thủ lĩnh của một nhóm trí thức với những thành tựu khảo cứu tư tưởng truyền thống

rất phong phú và đồ sộ. Cho đến nay, Nam Phong tạp chí mà ông là người đứng đầu

vẫn là nơi lưu giữ rất nhiều di sản văn hóa của cổ nhân. Trần Trọng Kim cũng để lại

nhiều công trình khảo cứu quan trọng, đặc biệt là bộ sách Nho giáo mà chúng tôi đã

nhiều lần trích dẫn. Tính đến thời điểm hiện tại, Nho giáo của Trần Trọng Kim vẫn là

một tài liệu tham khảo phổ biến và có giá trị, được sử dụng rộng rãi. Cuốn sách này có

lẽ cũng là công trình khảo cứu về Nho giáo trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX được

tái bản nhiều nhất ở Việt Nam. Bản thân điều đó đã cho thấy ý nghĩa hiện thời của nó.

Còn Nguyễn Duy Cần, sau Cách mạng Tháng Tám vẫn miệt mài khảo cứu, dịch thuật

và trở thành một học giả có thẩm quyền về tư tưởng phương Đông ở Việt Nam, với

một di sản trước tác đồ sộ, trong đó có nhiều cuốn sách hiện vẫn đang được tái bản và

sử dụng, như các bản dịch Nam hoa kinh, Đạo đức kinh v.v... Có thể thấy, chủ trương

122

phục cổ nói chung, và chủ trương phục cổ khi bàn về vấn đề con người cá nhân nói

riêng của những nhà trí thức tân học như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Duy

Cần được đưa ra đồng thời với việc quay lại khảo cứu một cách cẩn trọng chính những

di sản tư tưởng mà họ đang muốn phục hồi, ở họ, giữa sự khảo cứu và sự biểu lộ tư

tưởng có sự thống nhất và gắn bó mật thiết, điều đó khiến cho việc trình bày quan

niệm về vấn đề con người cá nhân của họ không những có ý nghĩa nhất định về mặt xã

hội, mà còn có ý nghĩa về mặt học thuật.

3.4.4. Hạn chế chủ yếu

Tất nhiên, bên cạnh những ý nghĩa mang tính tích cực, quan niệm về con người

cá nhân của những nhà trí thức tân học phục cổ cũng không tránh khỏi có những hạn

chế nhất định. Mà hạn chế quan trọng nhất, theo chúng tôi, nằm ở chỗ: dù theo chủ

trương vãn hồi Nho, Đạo hay Phật, họ có một điểm chung là đều nhìn nhận mọi vấn đề

của xã hội Việt Nam đương thời như là hậu quả của sự xáo động trong nhân tâm, tức

trong thế giới nội cảm của con người, chứ không phải là hệ quả của những biến động

trên các mặt kinh tế, chính trị đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên đất nước Việt Nam

thuộc địa. Đối với họ, những sự biến đổi trong đời sống xã hội, trong các mối quan hệ

xã hội thay vì được nhìn nhận như những biến đổi có tính tất yếu, và nhiều khi có tính

tích cực, thì lại được nhìn nhận như là biểu hiện của sự suy thoái, hay nói như ngôn

ngữ đương thời là “phong hóa suy đồi”, bắt nguồn từ sự mất phương hướng của con

người khi bị bứt ra khỏi truyền thống văn hóa của mình và buộc phải đối diện với nền

văn hóa phương Tây với những giá trị đầy khác biệt, thậm chí là đối lập. Vì thế, giải

pháp mà họ hướng đến, dù là đặt con người cá nhân vào trong xã hội hay trong “toàn

thể”, dù là nhấn mạnh tự do trong thế giới nội tâm hay chủ trương “vô ngã”, thì cũng

đều là những cách thức khác nhau để “vãn hồi nhân tâm”, còn đối với thực trạng xã

hội, nếu không phải là duy trì như nó vốn có, thì cũng là quay trở về với một trạng thái

mơ hồ nguyên thủy kiểu Đạo gia. Trong khi những nhà trí thức đề cao Nho giáo như

Phạm Quỳnh muốn tái thiết lập những thang bậc xã hội truyền thống như “tam cương”,

đặt con người cá nhân vào trong khuôn khổ luân lý Nho giáo truyền thống, thì những

người đề cao Đạo gia như Nguyễn Duy Cần lại chủ trương một thứ tự do mang tính

phi chính trị, mà ở đó, cá nhân trở thành một thực thể phi giai cấp, phi dân tộc. Nói

cách khác, họ khước từ mọi sự cải cách có tính căn để, khước từ mọi hành động có

tính cách mạng, trong một bối cảnh mà thực tiễn đất nước khi đó đòi hỏi phải có sự

123

dấn thân vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho mỗi người. Xét

đến cùng, những chủ trương đó đều không giải quyết được tận gốc những vấn đề mà

người Việt Nam đang phải đối diện, và trên thực tế, chúng đã nhanh chóng tỏ ra “hụt

hơi” trước những quan niệm đầy sức mạnh về vấn đề con người cá nhân của những

nhà trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến. Nhìn chung, những quan niệm phục

cổ dù thế nào cũng là những quan niệm có tính bảo thủ, không theo kịp những chuyển

biến mạnh mẽ, nhanh chóng của đời sống xã hội, và do đó, không đáp ứng được một

cách đầy đủ những nhu cầu nội tại của xã hội.

Nói tóm lại, với tinh thần “gạn đục khơi trong” khi tiếp cận những di sản quá

khứ, chúng tôi cho rằng, quan niệm về vấn đề con người cá nhân của nhóm trí thức tân

học theo khuynh hướng phục cổ mặc dù có những hạn chế, nhưng đồng thời cũng có

những ý nghĩa nhất định trong lịch sử cũng như đối với hiện tại. Về mặt lịch sử, đứng

từ điểm nhìn hiện tại, chúng ta có thể đánh giá quan niệm đó là phản tiến bộ, nhưng

đứng từ điểm nhìn của chính thời điểm những thập niên đầu thế kỷ XX, thì quan niệm

đó thực ra cũng phản ánh một sự phát triển của tư tưởng Việt Nam, ngay cả khi nó là

bảo thủ, thì cũng là một sự bảo thủ mang tính chất khác biệt so với những khuynh

hướng tư tưởng mang tính bảo thủ của thế hệ trí thức đi trước. Mặt khác, khi kết nối

những quan niệm về con người cá nhân của nhóm trí thức này với thực trạng xã hội

hiện đại, thì những quan niệm ấy cũng hàm chứa nhiều yếu tố có giá trị gợi mở nhằm

khắc phục những hiện tượng tiêu cực xuất phát từ sự đánh mất sự tự tôn của con người

cá nhân hay khuynh hướng chạy theo lợi ích cá nhân một cách cực đoan dẫn đến sự

đối lập giữa cá nhân với xã hội, với tự nhiên.

124

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Ở chương này, chúng tôi đã đi vào phân tích một khuynh hướng, tuy chưa phải

là chủ đạo trong việc nhìn nhận vấn đề con người cá nhân, nhưng cũng là một khuynh

hướng có tầm ảnh hưởng nhất định với những đại biểu rất có tiếng nói về mặt học

thuật trong giới trí thức tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Trước đây, khi nghiên

cứu về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên

cứu thường tập trung vào nhóm trí thức tân học cổ động cho sự đề cao cá nhân, giải

phóng cá nhân, trong khi ít khi quan tâm đến những quan niệm mang tính phục cổ về

vấn đề này. Đôi khi, toàn bộ giới trí thức tân học ở Việt Nam thời kỳ này được quy về

một nhóm là “phái tân học” – trong sự đối lập với “phái cựu học” - với chỉ một khuynh

hướng là cổ vũ cho sự tự do cá nhân. Nhận định như vậy vô hình trung đã quy giản

toàn bộ giới trí thức tân học Việt Nam thành một khối đồng nhất trong việc đưa ra

quan niệm về vấn đề con người cá nhân. Những gì chúng tôi đã phân tích cho thấy,

thực ra, đối với vấn đề này, quan niệm của giới trí thức tân học đa dạng hơn nhiều, sự

đối lập cũ – mới không chỉ tồn tại giữa những nhà tân học với những nhà cựu học, mà

còn tồn tại ngay trong chính những nhà tân học với nhau, mà ở đây, Phạm Quỳnh,

Trần Trọng Kim, Nguyễn Duy Cần là những trí thức tân học tiêu biểu cho khuynh

hướng phục cổ.

Với tư cách là những người phục cổ, họ đã đưa ra quan niệm của mình về vấn

đề con người cá nhân dựa trên sự quay trở về với những học thuyết truyền thống, ở

Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim là Nho giáo, và ở Nguyễn Duy Cần, là Đạo gia và phần

nào là Phật giáo. Và ngay trong nhóm những trí thức được coi là phục cổ này, ta cũng

lại thấy, quan niệm của họ thực ra cũng rất khác biệt, thậm chí là có nhiều điểm đối lập

nhau. Sự đối lập trong quan niệm của Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim với Nguyễn Duy

Cần nhiều khi cũng sâu sắc không kém sự đối lập giữa họ với những nhà trí thức theo

khuynh hướng cấp tiến. Nhưng dù đối lập thế nào, những nhà trí thức theo khuynh

hướng phục cổ vẫn chia sẻ với nhau một số đặc điểm chung: thứ nhất là sự khẳng định

tính quy thuộc của con người cá nhân, thứ hai là sự khẳng định tính không hợp lý của

sự theo đuổi quyền lợi cá nhân và thứ ba là tính hướng nội trong quan niệm về tự do cá

nhân. Những đặc điểm ấy cho thấy họ thực ra đều đi theo một đường hướng tư duy

giống nhau, đó là nỗ lực tìm cách giải quyết những vấn đề của xã hội nói chung và của

125

cá nhân nói riêng bằng cách nhấn mạnh vào sự phản tỉnh của con người, đi sâu vào

trong thế giới nội cảm của con người. Đường hướng tư duy này ở một mức độ nhất

định tự nó có tính sâu sắc, thể hiện ý thức cao độ về sự tôn nghiêm của con người cá

nhân, nhưng đồng thời cũng cho thấy hạn chế căn bản của những nhà trí thức tân học

theo khuynh hướng phục cổ, lý giải cho sự hụt hơi của họ trước những biến chuyển

của thời cuộc.

126

CHƯƠNG 4:

QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ TRÍ THỨC TÂN HỌC THEO KHUYNH HƯỚNG

CẤP TIẾN Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI

CÁ NHÂN: NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ HẠN CHẾ CỦA NÓ

Đối lập với khuynh hướng quay trở lại với những quan niệm truyền thống của

Nho, Phật, Đạo trong việc giải quyết vấn đề con người cá nhân là những quan niệm

hướng về phương Tây một cách mạnh mẽ. Những người theo khuynh hướng này

không chấp nhận thái độ “trung dung” của những học giả bảo thủ như Phạm Quỳnh,

Trần Trọng Kim, mà ủng hộ một thái độ dứt khoát đối với những di sản tư tưởng

truyền thống. Họ không phủ nhận hoàn toàn những di sản ấy, nhưng họ không muốn

lấy đó làm nền tảng để giải quyết vấn đề con người cá nhân trong hiện tại, như những

gì nhóm trí thức phục cổ đã làm. Khuynh hướng này bắt đầu có tiếng nói mạnh mẽ từ

những năm 20 của thế kỷ XX, với một số trí thức hoạt động ở Nam kỳ như Nguyễn An

Ninh, Phan Khôi v.v…, và thực sự trở thành tiếng nói chủ đạo từ những năm 30 trở đi,

với sự hiện diện của nhóm Tự lực văn đoàn.

4.1. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến ở Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX về địa vị của con người cá nhân

Trong quan niệm của nhóm trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ, bất

luận là thiên về đề cao Nho giáo như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, hay đề cao Đạo

gia như Nguyễn Duy Cần, con người cá nhân đều có một địa vị khiêm tốn và quy

thuộc, nó chỉ tìm thấy ý nghĩa của mình khi được đặt trong hoặc là những dạng thức

khác nhau của tổ chức cộng đồng (gia đình, dân tộc), hoặc là trong cái “toàn thể” mang

tính siêu việt. Cách nhìn đó đã bị lật ngược bởi những nhà trí thức tân học theo khuynh

hướng cấp tiến, mà ở đó, con người cá nhân được khẳng định như một thực thể đầy

sức mạnh.

Những quan niệm mang tính cấp tiến về vấn đề địa vị của con người cá nhân có

lẽ đã nảy sinh ở mảnh đất Nam kỳ vào những năm 20 của thế kỷ XX, khi mà ở Bắc kỳ,

khuynh hướng phục cổ vẫn đang là khuynh hướng chi phối, vào thời điểm tờ Nam

Phong của Phạm Quỳnh đang ở đỉnh cao của sự phát triển. Đây cũng là thời điểm mà

một thế hệ trí thức mới bắt đầu bước lên diễn đàn báo chí, học thuật ở Việt Nam, cất

lên tiếng nói và khẳng định vị trí của mình. Trong số đó, có những nhà trí thức trẻ tuổi

127

đi du học ở Pháp trở về Việt Nam, đem theo không chỉ bầu không khí của tư tưởng

phương Tây cận đại, mà còn cả bầu nhiệt huyết được hun đúc nên từ những phong trào

đấu tranh đang sôi nổi ở nước Pháp, mà Nguyễn An Ninh là một đại diện tiêu biểu.

Năm 1923, Nguyễn An Ninh vừa từ Pháp về đã tạo nên một sự kiện rất đáng

chú ý trong đời sống văn hóa, chính trị ở Nam kỳ, đó là việc ông trình bày bài diễn

thuyết bằng tiếng Pháp “Lý tưởng của thanh niên An Nam” tại Hội khuyến học Nam

kỳ. Đây là sự kiện có tầm ảnh hưởng, sức lay động sâu sắc đối với tầng lớp thanh niên

trí thức miền Nam những năm 20, tầm ảnh hưởng ấy sau đó đã được Trần Văn Giàu

tổng kết lại rằng:

Những ngày chập chững bước vào con đường cách mạng ở tuổi 14-15, tâm

trí tôi lúc ấy như một tờ giấy trắng mà người đầu tiên viết lên đó những

dòng chữ về yêu nước, về lý tưởng, về hoài bão, không ai khác hơn là

Nguyễn An Ninh. Tôi nhớ mãi những hình ảnh trong bài diễn thuyết “Lý

tưởng thanh niên” mà lúc đó anh Ninh gọi là “Cao vọng của thanh niên An

Nam” (…) Bài diễn thuyết năm 1923 “Cao vọng của thanh niên An Nam”

của Nguyễn An Ninh đã mở ra cái hướng cho thanh niên thời đó, trở thành

một trào lưu mạnh mẽ lan tràn hết sức mau khắp Nam Bộ giữa những năm

20 của thế kỷ vừa qua [134, tr.14].

Sở dĩ bài diễn thuyết của Nguyễn An Ninh có được sức lay động mạnh mẽ,

khiến ông trở thành một thần tượng của cả một thế hệ thanh niên Nam kỳ một thời,

chính là bởi những luận điểm mang tính lật đổ mãnh liệt được ông trình bày trong đó,

và đặc biệt, là bởi những quan niệm mang tính hiện đại của ông về địa vị của con

người cá nhân, một chủ đề dễ dàng thu hút sự chú ý của những người trẻ tuổi sống

trong môi trường đô thị Sài Gòn. Vì vậy, có thể xem bài diễn thuyết “Lý tưởng của

thanh niên An Nam” là một cột mốc quan trọng trong quá trình khẳng định vị thế của

con người cá nhân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Điểm nổi bật trong quan niệm của Nguyễn An Ninh khi định vị con người cá

nhân nằm ở chỗ, ông đã lựa chọn xuất phát điểm là những cá nhân đơn lẻ, độc lập, với

những tiềm năng, sức mạnh và sự sáng tạo riêng biệt của nó. Sự độc lập của cá nhân ở

đây, một mặt là sự độc lập với truyền thống, theo nghĩa mỗi cá nhân là một người đang

sống trong hiện tại, mặt khác, là sự độc lập với những ràng buộc của hệ thống quan hệ

thứ bậc xã hội, mà trước hết là gia đình, ở ý nghĩa đó, mỗi cá nhân là một tồn tại có ý

128

nghĩa tự thân, thay vì là một thứ tồn tại “với tư cách là”. Ở ý nghĩa thứ nhất, Nguyễn

An Ninh là người đã đưa ra sự phê phán một cách mạnh mẽ đối với những học thuyết

truyền thống, đặc biệt là Nho giáo, thông qua đó, ông đưa con người cá nhân ra khỏi

sự chế ước của những lý tưởng truyền thống, của sự bám víu vào quá khứ, để tìm kiếm,

xác lập những lý tưởng của riêng mình, đó cũng chính là hàm ý của tiêu đề bài diễn

thuyết: “Lý tưởng của thanh niên An Nam”. Ông nói:

Người ta nói với chúng ta về cái hoàn hảo của các tổ chức do các bậc tiền

bối để lại, về những học thuyết của các nhà hiền triết cổ xưa. Nhưng con

người phải sống với hiện tại, và chỉ có quên lãng mới là đức tính duy nhất

nuôi dưỡng được ý chí ham sống nơi ta (…) Thế hệ thanh niên ngày nay

cần có những lý tưởng mới, lý tưởng của chúng ta, những hoạt động mới,

hoạt động riêng của chúng ta, những đam mê mới, đam mê của chúng ta

[134, tr.71].

Ở ý nghĩa thứ hai, Nguyễn An Ninh đặc biệt nhấn mạnh đến sự thoát ly gia đình

của cá nhân. Ông thúc giục thanh niên “tranh đấu với môi trường sống của mình, với

gia đình đang làm tê liệt những cố gắng của chúng ta” [134, tr.76], kêu gọi họ “bỏ nhà

cha mẹ ra đi, phải lánh xa gia đình, thoát khỏi cái xã hội chúng ta ngày nay và lìa xa

xứ xở” [134, tr.77]. Khác với Phạm Quỳnh đặt cá nhân vào trong hai cực gia đình và

quốc gia, Nguyễn An Ninh lại cổ động cho việc cá nhân đi tìm ý nghĩa của nó trước

hết bằng cách tách mình khỏi hai cực ấy, chỉ khi đó, cá nhân mới có thể “khơi dậy

nguồn sinh lực đang còn tồn đọng” [134, tr.77] trong mình, mới có thể “tìm tòi cho ra

bản ngã của mình” [134, tr.77].

Cổ động cho sự thoát ly gia đình của thế hệ thanh niên đầu thế kỷ XX, cũng

chính là tấn công thẳng vào chế độ đại gia đình truyền thống, là một xu hướng có tính

phổ biến ở Nam kỳ những năm 20 mà chắc hẳn Nguyễn An Ninh là một trong những

người khởi xướng. Cũng trong những năm 20 sôi nổi của các phong trào đấu tranh

chính trị ở miền Nam, chúng ta còn thấy những sự phê phán chế độ gia đình truyền

thống hay luân lý gia đình Nho giáo của những trí thức tân học cấp tiến khác như Phan

Văn Hùm, Trần Huy Liệu v.v… Phan Văn Hùm khẳng định con cái không phải là của

riêng cha mẹ, vì “lẽ phải” mà có thể hi sinh cả tình cảm dành cho cha mẹ [51, tr.122],

Trần Huy Liệu lại cho rằng đạo hiếu của Nho giáo là thứ hạn chế cá nhân, và rằng con

người ta phải rời bỏ gia đình thì mới có thể làm nên sự nghiệp [48, tr.390]. Bản thân

129

họ cũng chính là những minh chứng sống động cho tinh thần ấy, Nguyễn An Ninh,

Phan Văn Hùm đã sớm lên đường sang Pháp học tập và khi trở về nước cũng đã dấn

thân vào cuộc đời tranh đấu, trong khi Trần Huy Liệu, một trí thức Nho học Bắc kỳ, đã

rời bỏ quê hương, vào Nam kỳ để bắt đầu cho những năm tháng hoạt động cách mạng

của mình.

Trong hình dung của Nguyễn An Ninh, mỗi cá nhân tự nó đều có ý nghĩa, có

giá trị, cá nhân có giá trị mới làm nên xã hội có giá trị. Ông viết: “Mỗi xã hội là một

nhóm những con người. Giá trị của các cá nhân cộng lại thành giá trị của nhóm: “Xã

hội luôn phản ánh hình ảnh của chúng ta và giống hệt chúng ta: Chừng nào chúng ta

còn xấu, xã hội cũng chẳng đẹp gì”. Môi trường xã hội chỉ có giá trị khi các cá nhân có

giá trị tạo nên môi trường đó” [134, tr.139]. Vì vậy, điều mà ông quan tâm trước hết

chính là việc hoàn thiện con người cá nhân, phát triển tiềm năng của con người cá

nhân: “Chúng ta cần có những cá nhơn, những đơn vị được thực hiện, những sức mạnh

sáng tạo” [134, tr.161]. Ở Nguyễn An Ninh, cá nhân không chìm lấp vào trong xã hội,

mà là những cá nhân khao khát được khẳng định mình, được phát huy tính sáng tạo

của mình. Ở một khía cạnh nào đó, việc xuất phát từ cá nhân của Nguyễn An Ninh

không hẳn đối lập với truyền thống Nho giáo vốn đặc biệt coi trọng tu thân, cho rằng

từ thiên tử đến thứ dân đều phải lấy tu thân làm gốc. Nhưng nếu như tu thân của Nho

giáo đơn thuần là một hành vi đạo đức, gắn với những quy phạm đạo đức sẵn có, nhằm

làm sáng cái “minh đức” sẵn có, thì sự phát triển cá nhân ở Nguyễn An Ninh là sự phát

triển vượt ra ngoài khuôn khổ sẵn có, để tạo lập nên những dấu ấn mang tính độc đáo.

Cũng ở Nam kỳ, cuối những năm 20, Phan Khôi, một trí thức tân học xuất thân

từ cửa Khổng, đã đưa ra quan niệm về con người cá nhân thông qua sự khẳng định

“chủ nghĩa cá nhân”. Nếu Nguyễn An Ninh là người đã khơi dậy một ý thức mới về cá

nhân trong tầng lớp trí thức Nam kỳ, thì Phan Khôi là một trong những người đầu tiên

thể hiện sự ủng hộ đối với cái gọi là “chủ nghĩa cá nhân”, thông qua đó mà xác lập

cách nhìn của mình về địa vị của con người cá nhân. Cũng như Nguyễn An Ninh, Phan

Khôi chủ trương tách cá nhân ra khỏi mọi sự quy thuộc, xác lập cho nó một địa vị mà

ông gọi là “tự chủ”, “độc lập”. Quan niệm ấy lần đầu tiên được ông đưa ra trong bài

viết “Tư tưởng của Tây phương và Đông phương” vào năm 1928. Trong bài viết này,

Phan Khôi coi sự đề cao con người cá nhân như một đặc điểm, và cũng là một ưu điểm,

của phương Tây so với phương Đông. Ông chỉ ra: “Tây phương trọng tự chủ, Đông

130

phương trọng thống thuộc” [61, tr.105]. Sự “tự chủ” mà Phan Khôi nói đến là sự tự

chủ xét từ phương diện cá nhân: “Chữ tự chủ ở đây nghĩa là mỗi người làm chủ lấy

mình, cũng tức là cá nhân chủ nghĩa. Ở phương Tây, nói rằng “một người”, nghĩa là

đối với thế giới, đối với quốc gia mà nói, chớ không phải phiếm nhiên” [61, tr.105].

Một quan niệm như vậy, theo ông, là đối lập với quan niệm truyền thống về cá nhân

của phương Đông, nơi mà “trừ ông vua ra, hầu như không có “người” nào hết”, nơi

“lấy một người ròng rặt Đông phương mà nói, thì người ấy không tự mình làm chủ lấy

mình được; song là thuộc về vua, về cha mẹ, về quan, về làng, về họ, nếu là đàn bà thì

còn là thuộc về chồng nữa” [61, tr.106]. Nói cách khác, theo Phan Khôi, con người cá

nhân trong xã hội phương Đông truyền thống là con người bị tước đi tính độc lập của

nó, nó không có ý nghĩa tự thân, không thể đứng một mình mà tách rời khỏi những

mối quan hệ xã hội vua – tôi, cha – con, quan – dân, chồng – vợ v.v… Là một người

chủ trương Tây hóa, hiển nhiên, Phan Khôi lựa chọn xây dựng hình mẫu cá nhân theo

kiểu phương Tây. Trong một bài viết năm 1931, ông nói:

“Cá nhân chủ nghĩa là hết thảy người trong nước, mỗi người đều độc lập về

phần mình; mà độc lập cả hai đường: về tinh thần và về vật chất vậy. Độc

lập về tinh thần, tức là mỗi người đều tự biết suy nghĩ lấy, tự phán đoán lấy,

nhắm lẽ phải ở đâu thì theo đó, chớ không làm nô lệ cho ý kiến của người

nào hay đảng phái nào. Độc lập về vật chất tức là độc lập về kinh tế, mỗi

người đều làm lấy mà nuôi sự sống mình, chớ không chịu nhờ vả ai, dầu

con cũng không nhờ cha, vợ cũng không nhờ chồng” [64, tr.252].

Trong đó, ý tưởng về sự độc lập kinh tế của cá nhân có thể xem là một ý tưởng

mới mẻ của Phan Khôi. Ở xã hội hiện tại, có thể đó không phải là một quan niệm xa lạ,

tuy nhiên, đặt vào bối cảnh chuyển giao ở nước ta đầu thế kỷ XX, đó là một đòn giáng

vào cơ sở kinh tế của chế độ đại gia đình. Nguyễn An Ninh cùng nhiều nhà trí thức

khác, như chúng tôi đã nhắc đến ở trên, đều đã nói đến sự đấu tranh với chế độ luân lý

gia đình truyền thống, Phan Khôi tiến thêm một bước, đấu tranh với cơ sở kinh tế của nó.

Quan niệm của Phan Khôi, ở một mức độ nhất định, có lẽ chịu nhiều ảnh hưởng

từ phong trào Ngũ Tứ ở Trung Quốc diễn ra trước đó một thập niên, một phong trào

mà ý nghĩa cốt lõi của nó, thứ làm nên sự mới mẻ cho nó được cho là “giải phóng cá

nhân”, “phát hiện cá nhân”, chứ không phải chỉ là “dân chủ” hay “khoa học” [xem 158,

tr.15]. Điều này không có gì lạ, khi bản thân Phan Khôi là người hết sức đề cao những

131

nhà tư tưởng tiên phong của phong trào Ngũ Tứ như Hồ Thích, Trần Độc Tú, Lỗ Tấn.

Bản thân sự so sánh tư tưởng Đông, Tây của Phan Khôi gợi chúng ta nhớ đến bài viết

nổi tiếng “Sự khác biệt tư tưởng căn bản giữa các dân tộc phương Đông và phương

Tây” của Trần Độc Tú. Ba điểm khác biệt giữa phương Đông và phương Tây mà Phan

Khôi đã chỉ ra trong bài viết của mình, về cơ bản, khá gần gũi với những gì mà Trần

Độc Tú đã phát biểu. Trong đó, điểm khác biệt thứ hai mà Trần Độc Tú chỉ ra chính là:

các dân tộc phương Tây lấy cá nhân làm bản vị, các dân tộc phương Đông lấy gia đình

làm bản vị. Cách tiếp cận văn hóa phương Tây của Phan Khôi tương tự như cách tiếp

cận phương Tây của những nhà tư tưởng Ngũ Tứ, đó là phân đôi văn hóa Đông – Tây

thành hai cực đối lập, đồng thời lấy phương Tây để phủ nhận và thay thế cho phương

Đông. Kết quả đều đi đến chỗ nghiêng về phía chủ nghĩa cá nhân.

Một điểm đặc biệt cần nhắc đến là, đồng thời với việc xác lập địa vị độc lập cho

con người cá nhân, Phan Khôi cũng lấy đó làm phương châm sống, phương châm hành

động cho chính bản thân mình. Ở ông, xác lập địa vị độc lập cho con người cá nhân

nói chung đồng nghĩa với việc xác lập địa vị cho cá nhân ông. Chính trên cơ sở đó,

ông mới có thể hoàn toàn rũ bỏ “tấm áo” nhà nho cổ điển mà ông đã mang trong bước

khởi đầu của sự nghiệp học vấn, thậm chí rũ bỏ cả “tấm áo” nhà nho duy tân mà ông

đã mang trong những năm duy tân sôi nổi ở Trung kỳ thập niên đầu thế kỷ XX, để trở

thành một nhà trí thức tân học thực thụ, để tự coi mình không phải là một người “thuộc

về”, mà là một người có thể đứng ngang hàng với Khổng Tử để tiến hành đối thoại.

Ông viết: “Đừng nói Khổng giáo không phải là tôn giáo; cho Khổng giáo là tôn giáo đi

nữa, và tôi đọc sách họ Khổng từ hồi sáu tuổi, đẻ ra và lớn lên trong cửa ngài đi nữa,

đến ngày nay tôi cũng có quyền phê bình ngài và phán đoán mọi lẽ về đạo ngài. Vì tôi

ngày trước thuộc về ngài; song tôi ngày nay, đối với ngài, tôi là người độc lập tự do”

[62, tr.56]. Chính trên cơ sở đó, ông mới có thể tiến hành phê phán một cách triệt để

đối với Nho giáo, ở ngay những luận điểm mang tính nền tảng của nó. Ý thức về con

người cá nhân, về cái “tôi” của Phan Khôi là một thứ ý thức hết sức mãnh liệt: “Tôi

chưa biết giống gì là trung tâm của vũ trụ; nhưng, theo thiên văn học mới, tôi không

nhận trời đất là trung tâm nữa. Tôi kể trời đất cũng đồng là một vật như tôi. Đứng

trước mặt vũ trụ, tôi với trời đất là bình đẳng” [66, tr.154]. Từ đó, ông mới kêu gọi

tầng lớp thanh niên mỗi người phải tự đứng lên mà gây dựng nên sự nghiệp của mình:

“Hạnh phước thay là thanh niên nam nữ sanh ra trong nước Việt Nam về thời đại nầy!

132

Cái hạnh phước ở trong sự mình làm chủ lấy mình, mình muốn làm nên người bực nào

tùy ý. Cái hạnh phước ở trong sự mình khỏi bị ai dùng hết, nếu muốn thì tự mình cũng

có thể lập nên công nghiệp để đời. Thật vậy, muốn làm nhân nhân chí sĩ ư? Tự mình

dùng lấy mình mà làm nhân nhân chí sĩ. Muốn làm hào kiệt anh hùng ư? Tự mình

dùng lấy mình mà làm hào kiệt anh hùng” [64, tr.93]. Những lời kêu gọi đó của Phan

Khôi cũng phảng phất tinh thần của bài diễn thuyết của Nguyễn An Ninh, đều nhấn

mạnh đến khả năng và sức mạnh của mỗi cá nhân. Họ còn gặp nhau ở một điểm nữa,

đó là thái độ coi trọng hiện tại, họ muốn mỗi cá nhân phải sống trong hiện tại, cho hiện

tại, vì hiện tại. Ở điểm này, hiển nhiên họ đối lập sâu sắc với những người “phục cổ”.

Có thể nói, Nam kỳ đầu thế kỷ XX đã trở thành mảnh đất thuận lợi cho sự nảy

nở của những ý tưởng mang tính đột phá về vấn đề con người cá nhân nói chung, về

việc xác lập địa vị cho con người cá nhân nói riêng. Bên cạnh những trí thức tân học

người Nam kỳ vốn là những nhân vật lên tiếng rất mạnh mẽ để bảo vệ sự độc lập của

con người cá nhân (như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm), sự hiện diện của những

nhân vật trí thức Bắc, Trung kỳ (như Phan Khôi, Trần Huy Liệu) ở Sài Gòn với những

quan niệm tương tự đã cho thấy điều đó. Hiện tượng này có căn nguyên từ đặc tính của

không gian văn hóa ở Nam kỳ. Theo lý giải của Phillippe M.F. Peycam, không gian

văn hóa Nam kỳ từ trong lịch sử đã được đặc trưng bởi sự ít bền chặt của quan niệm về

“trung” như một yếu tố gắn kết cá nhân với hệ thống thang bậc xã hội:

Ở Việt Nam thời tiền thuộc địa, các mối quan hệ xã hội và biểu hiện chính

trị thay vì được ấn định bằng sự bình đẳng giữa các cá nhân lại được ấn

định lại được ấn định bằng điều mà giới học giả phương Tây mô tả không

hoàn toàn chính xác là những ý tưởng Nho giáo về chữ “trung” – sự trung

thành qua lại giữa cá nhân và sự hòa hợp xã hội phụ thuộc vào hệ cấp (gia

đình, làng xã, hay vua chúa). Tuy vậy, ở miền Nam Việt Nam – khu vực

mới được định cư không lâu bởi những di dân Việt muốn thoát khỏi sự khắt

khe của xã hội miền Bắc – lòng trung thành với vua chúa và làng xã lại ít

mạnh mẽ. Dù gia đình dòng họ vẫn là nòng cốt để mọi cá nhân tồn tại trong

xã hội, ở miền Nam đã có nhiều không gian hơn cho những thay đổi chính

trị và văn hóa [97, tr.20].

133

Mặt khác, cũng theo Phillippe M.F. Peycam, môi trường đô thị Sài Gòn thời kỳ

thuộc địa cũng là một môi trường thúc đẩy sự ý thức về cá nhân, đặc biệt ở những

người trẻ tuổi:

Với những người chịu tác động và ảnh hưởng nhiều nhất bởi những đổi

thay này – giới trẻ Tây học của tầng lớp trung lưu và tư sản – nhiều không

gian tác động cá nhân mới đã xuất hiện bên ngoài cấu trúc gia đình và

những quy ước hành xử mà cho đến nay đã hạn chế việc khẳng định “cái

tôi”. Cùng với một nền văn hóa vật chất mới nhấn mạnh tính “hiệu quả”,

“cấp thời”, “linh hoạt” (cũng như mối liên lạc giữa các cá nhân, sự thỏa

mãn của chủ nghĩa tiêu thụ, lẫn việc đồng tồn tại nhiều nhóm xã hội và văn

hóa), những không gian mới ấy đã góp phần tạo ra nhận thức – hay ảo

tưởng – về quyền tự do cá nhân vào lúc một xã hội nhận ra chính mình đang

bị khống chế bởi những giới hạn cố hữu của chủ nghĩa thực dân [97, tr58].

Nói cách khác, là cửa ngõ của sự tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam, là

mảnh đất ít chịu sự ràng buộc hơn cả của hệ thống trật tự xã hội truyền thống, là nơi

nằm ngoài tầm kiểm soát của triều đình Huế và được hưởng một chế độ báo chí tương

đối tự do hơn những vùng miền còn lại, Nam kỳ đã trở thành không gian mà ở đó con

người cá nhân có thể thực sự bắt đầu bước lên các diễn đàn học thuật với một tư thế

độc lập, mạnh mẽ, thông qua quan niệm của các nhà trí thức tân học theo khuynh

hướng cấp tiến (dù là người xuất thân ở Nam kỳ hay ở những vùng đất khác ngoài

Nam kỳ).

Sự vận động có lẽ diễn ra chậm hơn ở Bắc, Trung kỳ, khi những năm 20 vẫn là

thời kỳ hoàng kim của tờ tạp chí mang tính “phục cổ” Nam Phong. Nhưng đến những

năm 30, thì tình hình đã xoay chuyển. Năm 1932, Phạm Quỳnh rời vị trí chủ bút Nam

Phong để vào Huế làm quan, cũng năm đó, tờ Phong Hóa ra đời; đến năm 1934, Nam

Phong đình bản, thì cũng trong năm này, Tự lực văn đoàn xuất hiện, với 10 tôn chỉ

đăng trên tờ Phong Hóa. Phong Hóa, và sau đó là Ngày Nay của nhóm Tự lực văn

đoàn nhanh chóng trở thành những tờ báo có tầm ảnh hưởng lớn, những nhân vật chủ

chốt của nhóm này cũng nhanh chóng thế chân những nhà trí thức phục cổ để đóng vai

trò quan trọng trong đời sống văn hóa ở Bắc kỳ. Sự trùng khớp về mốc thời gian có thể

là ngẫu nhiên, nhưng thực ra cũng phản ánh một cuộc chuyển giao trên thực tế trong

đời sống văn hóa Bắc kỳ những năm 30, và đi cùng với nó, là sự xoay chuyển trong

134

quan niệm về địa vị của con người cá nhân. Nhóm Tự lực văn đoàn không những đã

tiếp tục phát triển quan điểm về sự coi trọng con người cá nhân, mà còn đưa nó lên

đỉnh điểm. Việc những nghiên cứu về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam sau này

thường tập trung vào Tự lực văn đoàn cũng xuất phát từ chính nguyên nhân đó.

Sở dĩ nói Tự lực văn đoàn đã đưa quan niệm đề cao cá nhân lên đến đỉnh điểm

là bởi, con người cá nhân hiện lên qua các bài viết của nhóm trí thức này không chỉ là

con người cá nhân đang vật lộn để thoát ra khỏi những sự quy thuộc, mà nó là một thứ

con người cá nhân đắc thắng và nghiễm nhiên tuyên bố về sự đắc thắng của mình.

Nguyễn An Ninh hay Phan Khôi mới hé mở cánh cửa cho con người cá nhân bước lên

để khẳng định tính độc lập của mình, Tự lực văn đoàn không ngần ngại lấy “cá nhân”

để định danh cho thời đại. Nhất Linh khẳng định: “Ngày nay không còn là thời kỳ của

gia đình và của làng xóm. Đời nay là đời cá nhân (…)” [81, tr.1]. Còn Hoàng Đạo nói:

“Thời đại này không phải là thời đại của đại gia đình và của quỷ thần. Đời này là đời

của người sống, là đời của “cá nhân” (…)” [34, tr.296]. Bằng ngôn ngữ thơ ca, Xuân

Diệu từng viết một câu thơ nổi tiểng mà sau này thường được trích dẫn như một tuyên

ngôn về sự khẳng định con người cá nhân: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất/Không

có chi bè bạn nổi cùng ta”.

Cũng như những nhân vật cấp tiến khác, nhóm Tự lực văn đoàn đề cao cá nhân

trong thế đối lập với chế độ gia đình truyền thống, thậm chí có thể nói là tuyên chiến

với nó. Họ khẳng định một cách chắc nịch rằng: “Đại gia đình đi đôi với sự thờ phụng

tổ tiên. Sự thờ phụng tổ tiên còn, đại gia đình còn. Mà đại gia đình còn thì sự phát triển

tài năng của cá nhân, của thanh niên còn bị ngừng trệ” [56, tr.21]. Có thể thấy, trong

quan điểm của họ, nếu như thời đại cũ được định nghĩa bởi hai chữ “gia đình”, thì thời

đại mới được định nghĩa bởi hai chữ “cá nhân”, và điều quan trọng nhất là, thời đại

mới ấy đã đến, đã hiện diện. Việc lấy cá nhân để định danh thời đại đã trở thành một

nguồn cảm hứng lớn trong giới trí thức tân học Việt Nam những năm 30 trở đi. Tác giả

của cuốn Thi nhân Việt Nam không ngại khẳng định thời đại mới là thời đại của chữ

“tôi”. Trương Tửu khi nhìn lại những diễn biến hết sức sôi động trong đời sống văn

hóa, chính trị Việt Nam trong suốt hai thập niên 20, 30, cũng đã ghi lại cột mốc 1934

như cột mốc đánh dấu sự toàn thắng của con người cá nhân: “1934 mở đầu bằng việc

khánh thành nhà Eloile Dancing. Món khiêu vũ lan rộng, muốn thành lập một tập quán

thanh tao và phổ thông. Với nó, các giá trị luân lý cố hữu của nước ta rầm rầm đổ. Nó

135

làm rợn gáy các ông già tóc bạc. Sự toàn thắng của cá nhân đã viết giữa không trung”

[145, tr.4]. Cột mốc 1934 mà Trương Tửu nhắc đến không chỉ gắn với sự ra đời của

một sàn nhảy, mà nó còn là năm ra đời của cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh,

thủ lĩnh của Tự lực văn đoàn, cuốn tiểu thuyết mà chính Trương Tửu đã xem như “một

vòng hoa tráng lệ đặt trên đầu chủ nghĩa cá nhân” [144, tr.6].

Như vậy là, từ những lời diễn thuyết đầy tâm huyết của Nguyễn An Ninh năm

1923, trải qua một thập niên, con người cá nhân đã thực sự khẳng định một cách chắc

chắn địa vị của mình với Tự lực văn đoàn. Chính bởi vai trò to lớn trong việc đưa quan

niệm đề cao con người cá nhân lên đến đỉnh cao, mà họ thường được xem như những

người đánh dấu mốc cho một thế hệ trí thức mới, thế hệ mà Thanh Lãng tóm lược

trong hai chữ “ly dị”:

Chẳng kỳ thuộc khuynh hướng nào, họ đều gặp nhau ở chỗ cùng theo đuổi

những mục đích chung: lật đổ xã hội cũ, hạ bệ chế độ đại gia đình, bài trừ

những mối dị đoan, đập tan những xiềng xích trói buộc của luân lý Khổng

Mạnh: họ muốn phá vỡ tất cả để làm lại tất cả từ đầu. Xây dựng, đối với họ,

có nghĩa là ly dị với dĩ vãng để chạy theo Tây phương. Tất cả đều hăng hái

và cương quyết đòi trả lại – với bất cứ giá nào – cho con cái, nhất là cho

con gái quyền tự do chọn tình yêu, cho người quả phụ quyền tự do cải giá,

cho mọi người hạnh phúc cá nhân. Nói cách khác, trọng tâm của việc đấu

tranh tư tưởng của thế hệ 32 này là ly dị với xã hội cũ, là đập vỡ lâu đài xưa,

là phá hoại cái đang có [74, tr.719].

Tuy nhiên, ở góc độ khác, quan niệm của những trí thức cấp tiến không đi đến

chỗ tuyệt đối hóa, cô lập hóa con người cá nhân, không đi đến chỗ thu cá nhân vào

trong thế giới riêng của nó, cường điệu nó, thổi phồng nó như những gì mà Phạm

Quỳnh từng tỏ ra lo ngại trong những bài viết đầu tiên của mình trên tạp chí Nam

Phong. Họ chống lại chế độ gia đình truyền thống, nhưng không chống lại gia đình

hay xã hội nói chung.

Trái lại, con người cá nhân của Nguyễn An Ninh, Phan Khôi hay nhóm Tự lực

văn đoàn là con người ý thức sâu sắc về mối liên kết của nó với xã hội, là con người có

ý thức dấn thân cao độ. Trong quan điểm của họ, khẳng định tính độc lập của cá nhân,

đi vào khám phá bản thân chỉ là điểm khởi đầu, chứ không phải là cứu cánh. Nguyễn

136

An Ninh đòi hỏi mỗi người phải tìm cho ra bản ngã của mình, nhưng là để “khi mà ta

đã xác định được bản thân ta, thì hai chữ Tổ quốc và Yêu nước sẽ trở thành những

danh từ rộng lớn hơn, cao thượng hơn, thanh nhã hơn đối với ta, và chúng ta sẽ phải hổ

thẹn vì trong lúc còn ngu dốt, chúng ta đã pha trộn vào hai chữ Tổ quốc và Yêu nước

những ý nghĩa thấp kém, hèn mạt nữa” [134, tr.77]. Phan Khôi nhấn mạnh tính độc lập,

tự chủ của cá nhân rốt cuộc để nói lên một điều rằng, mỗi cá nhân đều có địa vị như

nhau, do đó có năng lực và trách nhiệm như nhau đối với xã hội: “Tôi nói thế, nghĩa là

tôi còn có tri thức ngày nào, còn sống giữa võ trụ ngày nào, ấy là tôi phải có cái nhân

cách của tôi, cái nhân cách ấy, không ai dầy đạp lên được hay là làm cho tiêu mất đi

được. Mà không những tôi, tôi tưởng những người như tôi cũng phải có cái nhân cách

ấy cả, vì chúng ta làm người, là làm người đứng trong võ trụ kia mà” [62, tr.57]. Còn

Nhất Linh, Hoàng Đạo, trong khi khẳng định thời đại của mình là thời đại của cá nhân,

cũng không quên nói thêm rằng “hay cao hơn một bậc là đời đoàn thể”, để rồi kết luận

rằng: “bạn trẻ nên tìm hạnh phúc ở trong các công cuộc xã hội” [34, tr.296].

Chúng tôi cho rằng, hoàn cảnh lịch sử đặc thù của Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

chính là nguyên nhân dẫn đến hướng phát triển đó của những quan niệm cấp tiến về

địa vị của con người cá nhân. Khi đưa ra quan niệm về địa vị của con người cá nhân,

những nhà trí thức cấp tiến không chỉ đối diện với truyền thống, mà còn đối diện với

cả thực tại mà ở đó đất nước đang rơi vào hoàn cảnh mất chủ quyền. Nói cách khác,

quan niệm của họ về địa vị của con người cá nhân không chỉ là sự phản ứng với trật tự

luân lý truyền thống, mà còn là sự phản ứng với thứ trật tự kìm hãm con người cá nhân

của chế độ thực dân. Thực tại đó buộc họ phải hướng cái nhìn ra bên ngoài thế giới

của cá nhân, để hướng tới xã hội, quốc gia. Sự khẳng định con người cá nhân, do đó,

không hoàn toàn lấy bản thân cá nhân làm mục đích, mà lấy sự tham gia của cá nhân

vào xã hội làm mục đích. Nguyễn An Ninh, Phan Khôi hay nhóm Tự lực văn đoàn đều

không nằm ngoài tư duy đó. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn nữa tinh thần dấn thân, tinh thần

tranh đấu của họ khi bàn đến quan niệm của họ về quyền lợi và tự do cá nhân. Xét về

khía cạnh sự phát triển của tư tưởng, những tư tưởng mang tính dấn thân như vậy về

con người cá nhân cũng không hoàn toàn mâu thuẫn với tinh thần khẳng định cá nhân

bằng cách sẵn sàng hi sinh nó, sẵn sàng hòa nhập nó vào trong tập thể, hay nói như Đỗ

Lai Thúy là “khẳng định bản ngã của mình bằng sự phủ định nó” [125, tr.13] như

những gì ta thấy ở các trí thức cấp tiến theo khuynh hướng cộng sản. Ở đây, cái cá

137

nhân, cái bản ngã không bị đánh mất, nhưng nó mở rộng bản thân thay vì thu mình lại.

Bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu đã mở đầu với chính chữ “tôi”, với sự tỉnh thức của cá

nhân: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”, nhưng để rồi đi đến chỗ “tôi buộc lòng tôi với

mọi người”. Cái “tôi” thay vì đối lập với “mọi người”, nay lại hòa nhập vào với mọi

người trong một sự gắn bó khăng khít, thay vì đối lập với gia đình, nay lại tìm thấy chỗ

đứng cho mình trong một gia đình rộng lớn hơn: “Tôi đã là con của vạn nhà/Là em của

vạn kiếp phôi pha/Là anh của vạn đầu em nhỏ”. Từ tinh thần “Ta là Một, là Riêng, là

Thứ Nhất” của Xuân Diệu đến tinh thần “Tôi buộc lòng tôi với mọi người” của Tố

Hữu thực ra là một bước phát triển nối tiếp trong ý thức về con người cá nhân ở Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX.

4.2. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến ở Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX về quyền lợi cá nhân

Trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng việc

trích dẫn lại điều đầu tiên trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791

của nước Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn

được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Nhắc lại điều này, chúng tôi muốn chỉ ra ý

nghĩa của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Đó không phải là lần đầu tiên bản tuyên ngôn này được nhắc đến, mà trên thực tế,

trong suốt nhiều thập niên trước đó, người trí thức tân học Việt Nam đã không ngừng

lấy những nội dung cơ bản của nó làm nền tảng cho những suy tư của mình về vấn đề

quyền lợi cá nhân. Có lẽ hiếm có văn bản phương Tây nào lại được phiên dịch, chú

thích, giải thích nhiều hơn văn bản này ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Năm 1926,

Tân Nam Tử đã có bản dịch và chú thích bản tuyên ngôn này, năm 1935, Phạm Huy

Lục xuất bản cuốn Nhân quyền, trong đó cũng có dịch và giải thích các điều khoản của

bản tuyên ngôn; đến năm 1939, tờ Ngày Nay của nhóm Tự lực văn đoàn lại một lần

nữa dịch và phân tích văn bản này, dưới nhan đề Bản tuyên cáo nhân quyền và dân

quyền. Đó là chưa kể nó còn xuất hiện rất nhiều lần trong các bài viết của nhiều nhà trí

thức tân học khác của thời kỳ đó, đặc biệt là Nguyễn An Ninh.

Câu văn mà Hồ Chí Minh dẫn ra trong Tuyên ngôn độc lập có thể xem như một

luận điểm nền tảng, thể hiện cách tiếp cận của phương Tây cận đại đối với vấn đề con

người cá nhân, là cách tiếp cận “quyền lợi bản vị”, theo cách nói của Hoàng Tuấn Kiệt

[70, tr.401]. Cách tiếp cận “quyền lợi bản vị” dựa trên tiền đề là sự bình đẳng về quyền

138

lợi của các cá nhân, rằng mỗi cá nhân khi sinh ra đều mang trong nó những quyền

không thể xâm phạm, và những quyền ấy cần phải được bảo vệ. Với cách tiếp cận đó,

triết học phương Tây cận đại nhìn nhận sự tham gia của các cá nhân vào xã hội như là

việc tìm kiếm sự bảo vệ những quyền lợi của họ và đó là cơ sở để họ đóng góp cho xã

hội. Một tiền đề như vậy rõ ràng đối lập với quan niệm nền tảng của Nho gia truyền

thống, vốn xuất phát từ chỗ các cá nhân bình đẳng với nhau không phải về quyền lợi,

mà là về tiềm năng đạo đức. Đó là cái mà Khổng Tử gọi là “tính tương cận”, là cái mà

Mạnh tử gọi là “tứ đoan” vốn có sẵn trong mỗi người, hay cái mà Tống Nho gọi là

“thiên lý” hay “thiên địa chi tính” v.v... Với xuất phát điểm đó, Nho gia truyền thống

xem sự tham gia của các cá nhân vào xã hội là sự hiện thực hóa những tiềm năng đạo

đức tiên thiên trong những mối quan hệ cụ thể chứ không phải là để bảo vệ quyền lợi

của bản thân. Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim nhìn chung là đi theo cách tiếp cận truyền

thống đó. Nguyễn Duy Cần đi theo một hướng khác, nhưng cũng hết sức bác bỏ sự tư

lợi mà chủ trương vô tư lợi. Nhưng với những trí thức theo khuynh hướng cấp tiến vốn

chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết học Tây phương cận đại, đặc biệt là Tuyên ngôn

nhân quyền và dân quyền, vấn đề đã được lật ngược.

Những nhà trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến nhìn chung đều khẳng

định tính hợp lý, tính chính đáng của quyền lợi cá nhân. Đối với họ, quyền lợi không

phải là mặt phái sinh, mặt phụ thuộc của nghĩa vụ, mà tự thân nó cũng có tính chính

đáng không kém nghĩa vụ. Nguyễn An Ninh xem việc bảo vệ quyền lợi cá nhân như

một động cơ thúc đẩy con người nhập thân vào xã hội, một quan niệm cổ điển về sự

giao ước của các cá nhân:

Nhưng mà con người hiệp nhau làm xã hội, nhơn loại càng tấn hóa, xã hội

càng văn mình thì con người càng khó sống một mình, không nhờ xã hội

chút nào hết. Nhà triết học Spinoza có nói: “Dầu trong đoàn thể nào, còn dã

man cho mấy đi nữa, con người cũng được lợi hơn là sống một mình”. Nếu

mình muốn điều bất lợi cho người thì người muốn lại điều bất lợi cho mình.

Nếu mình làm cho người trở ngại sự mở mang tấn hóa của xã hội, mình

mưu sự bất lợi cho xã hội thì mình mưu sự bất lợi cho mình, vì mình cũng

chung hưởng sự tấn hóa của xã hội [134, tr.897].

Như thế, theo Nguyễn An Ninh, không phải yêu cầu hiện thực hóa những tiềm

năng đạo đức tiên thiên buộc mỗi cá nhân phải đặt mình vào xã hội, mà chính là những

139

yêu cầu về quyền lợi buộc họ phải làm như vậy. Với ý nghĩa đó, mỗi cá nhân cần phải

hiểu được quyền lợi của mình, chứ không phải chỉ biết đến cái gọi là nghĩa vụ. Nguyễn

An Ninh dẫn lại cách giải thích khái niệm “quyền lợi” trong một cuốn từ điển của

Pháp để thể hiện quan điểm của mình: “Vả lại quyền lợi là cái gì? Theo từ điển

Larousse, đó là khả năng làm một động tác, hưởng một sự gì, được sử dụng hay đòi

hỏi một cái gì đó từ một người khác. Tác giả Gaxier thêm: “Có quyền lợi tất phải có

bổn phận”, hay nói khác đi, không thể có bổn phận mà không có quyền lợi” [134,

tr.450]. Ở trên chúng tôi đã dẫn câu của Phạm Quỳnh: “nghĩa vụ đã trọn, quyền lợi tất

đến”. Câu của Nguyễn An Ninh lại đưa ra một trật tự khác: “có quyền lợi tất phải có

bổn phận”. Đây không đơn thuần chỉ là vấn đề đảo ngược trật tự câu chữ, mà chính là

đảo ngược một quan niệm.

Theo quan niệm của Phạm Quỳnh, cá nhân chỉ cần quan tâm đến nghĩa vụ của

mình, và do làm tròn nghĩa vụ mà sẽ có quyền lợi; theo quan niệm của Nguyễn An

Ninh, cá nhân phải biết đến quyền lợi của mình, và do có quyền lợi nên sẽ có nghĩa vụ.

Khi Pujarniscle, giám đốc Sở học chính Cao Miên kêu gọi “phải nói cho người An

Nam về những bổn phận của họ”, Nguyễn An Ninh đã đáp lại: “Này ông Pujarniscle ơi,

theo ông tại sao người An Nam phải biết rất ít về quyền lợi của họ, mà chỉ phải biết

thật nhiều về bổn phận của họ đối với nước Pháp?” [134, tr.450]. Có thể thấy, việc

quan tâm đến quyền lợi cá nhân ở Nguyễn An Ninh không chỉ là một phản ứng với

truyền thống xem nhẹ quyền lợi cá nhân, mà hơn thế, còn là sự phản ứng với sự đè nén

quyền lợi cá nhân của chế độ thực dân, mà ý thứ hai có lẽ là hàm ý chủ yếu. Vì vậy,

không ít lần Nguyễn An Ninh viện dẫn Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền để phê

phán sự đi ngược lại những nguyên tắc căn bản trong bản tuyên ngôn này của chính những

người Pháp thực dân ở Việt Nam.

Trong khi đó, Hoàng Đạo của nhóm Tự lực văn đoàn chỉ ra việc chỉ biết đến

nghĩa vụ mà không biết đến quyền lợi là một hạn chế của nền văn hóa truyền thống:

“Đế vương xưa chỉ dạy dân thờ người trên, và biết nghĩa vụ của mình, còn quyền lợi,

dân không cần biết đến, mà cũng không có nữa. Trong nước, vì thế mà ai lo phận nấy,

không có lời ganh tị, lời oán thán, hay có nữa cũng chỉ để uất ức trong lòng mà thôi”

[35, tr.495]. Còn Nhất Linh lên tiếng bảo vệ tính chính đáng của quyền lợi cá nhân:

“Trước hết, ta phải nghĩ đến quyền lợi cá nhân, đến bổn phận cá nhân, thì ta mới được

hưởng sự sung sướng. Nghĩ đến quyền lợi, bổn phận của mình không phải là ích kỷ. Vì

140

làm như thế không phải là muốn sâm lấn quyền lợi của ai. Vả ai ai cũng làm như mình

thì còn ai chịu để cho ai sâm lấn?” [81, tr.2]. Có thể thấy, cũng như ở Nguyễn An Ninh,

các nhà trí thức của Tự lực văn đoàn cũng đặt quyền lợi cá nhân lên trên, hay chí ít

cũng ngang hàng với nghĩa vụ.

Vào năm 1916, trên tạp chí Đông Dương số 78, Nguyễn Văn Vĩnh có trích dịch

một bài của Helvetius – “Luân lý và nghĩa vị kỷ” – trong đó có đoạn khẳng định sự vị

kỷ là một lẽ thường tình của con người. Khi đó, tính chính đáng của quyền lợi cá nhân

được biểu lộ một cách kín đáo thông qua tiếng nói của một người Pháp. Đến năm 1926,

khi xuất bản cuốn sách dịch và giải thích Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền,

Nguyễn Văn Vĩnh không ngần ngại đặt cho nó cái tên: “Dân đạo và dân quyền: Một

giống dân không biết quyền lợi và nghĩa vụ của mình là một giống dân không đáng

sống”. Đó là một tuyên bố thẳng thừng, không cần phải ẩn đằng sau lời nói của ai khác

nữa. Vừa hay, hơn một thập niên sau, chính Tự lực văn đoàn cũng dịch bản Tuyên

ngôn này và đăng trên tờ Ngày nay. Mục đích mà Tự lực văn đoàn hướng đến cũng

không gì khác hơn là làm cho người Việt Nam, đặc biệt là người dân quê, trở thành

“một công dân hiểu biết quyền lợi nghĩa vụ của mình không còn u u minh minh như

hiện thời, chỉ biết cúi đầu phục tòng dưới sự áp chế, ngậm ngùi than thở trước sự khốn

cực, sống một đời thiếu thốn về tinh thần và vật chất, một đời không đáng sống” [36,

tr.544]. Rõ ràng, với các nhà trí thức tân học cấp tiến, việc làm cho người Việt Nam

hiểu về quyền lợi cũng quan trọng không kém việc khiến họ biết được nghĩa vụ của

mình. Nói cách khác, họ hướng đến quyền lợi cá nhân với một tâm thế hoàn toàn chủ

động, chứ không hề chờ đợi sự ban phát một cách thụ động.

Trường hợp của Phan Khôi lại tương đối đặc biệt, mặc dù hết sức đề cao chủ

nghĩa cá nhân, song ông dường như không mấy khi đề cập đến vấn đề quyền lợi cá

nhân. Ở một mức độ nhất định, ông lại có xu hướng đề cao tinh thần “nghĩa lợi chi

biện”. Ngay trong loạt bài phê phán Nho giáo nổi tiếng “Cái ảnh hưởng của Khổng

giáo ở nước ta”, loạt bài có thể xếp vào hạng phê phán Nho giáo kịch liệt nhất thời bấy

giờ, Phan Khôi vẫn xem tinh thần “nghĩa lợi chi biện” như một trong những điểm tích

cực của Nho giáo, bởi nó tạo nên những nhà nho thanh cao, đạo đức và tạo nên tinh

thần trọng nghĩa khinh tài trong dân chúng [62, tr.91-93]. Đôi khi ông cũng nhắc đến

vấn đề quyền lợi, nhưng thường khá sơ lược. Chẳng hạn, khi ông viết: “Mọi người đối

với quốc gia xã hội đều có nghĩa vụ và quyền lợi bằng nhau” [61, tr.105], hay khi ông

141

đưa ra yêu cầu về việc phải làm cho người dân biết đến quyền lợi của mình, chứ không

chỉ chịu phục tùng. Những quan điểm như vậy ít nhiều chứa đựng những nhân tố của

tư tưởng phương Tây cận đại. Tuy nhiên, các quan điểm như vậy nhìn chung không

xuất hiện quá nhiều trong các bài viết của ông. Mặt khác, mặc dù Phan Khôi đề cao

tinh thần “nghĩa lợi chi biện”, song bản thân ông không lấy đó làm cơ sở để xây dựng

quan niệm về nghĩa vụ cá nhân như Phạm Quỳnh hay Trần Trọng Kim. Ông có ý thức

rất mãnh liệt về nghĩa vụ của cá nhân, nhưng đó là thứ nghĩa vụ dựa trên ý thức sâu

sắc về vị trí, địa vị của cá nhân, nghĩa là đứng về sự độc lập của cá nhân mà nói, chứ

không phải từ quyền lợi, hay từ tiềm năng đạo đức sẵn có.

Việc Phan Khôi ít khi nhắc đến quyền lợi cá nhân thực ra cũng không khiến cho

ông trở nên xa cách với những nhân vật cấp tiến khác. Ngay cả trong trường hợp của

Nguyễn An Ninh hay Tự lực văn đoàn, nếu nhìn lại những quan niệm của họ, chúng ta

có thể thấy rằng, cũng như khi không tuyệt đối hóa vị trí của cá nhân, họ cũng không

tuyệt đối hóa quyền lợi của cá nhân. Đối với họ, cá nhân cần phải biết đến quyền lợi,

nhưng không có nghĩa là chỉ biết đến quyền lợi. Đối với họ, cá nhân có thể theo đuổi

quyền lợi của bản thân, nhưng họ không nhìn nhận việc mỗi cá nhân mặc sức theo

đuổi quyền lợi của bản thân như một động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ xã

hội. Trong quan niệm của họ, việc thực thi nghĩa vụ, trách nhiệm xã hội của mỗi cá

nhân cũng tất yếu như việc họ quan tâm đến quyền lợi của mình, và xã hội không phải

là một tập hợp của các cá nhân theo đuổi những quyền lợi riêng tư một cách hỗn loạn,

mà cần phải là một tập hợp dựa trên sự kết đoàn của những cá nhân có ý thức về trách

nhiệm đối với xã hội, và khi cần, có thể hi sinh bản thân vì xã hội. Nguyễn An Ninh

khẳng định, chỉ có hi sinh quyền lợi cá nhân mới là con đường để người ta thoát khỏi

hoàn cảnh nô lệ: “Nếu chính quyền tìm mọi cách kềm giữ chúng ta trong nô lệ, thì

ngược lại lịch sử dạy chúng ta rằng tinh thần hy sinh là một đức tính chủ yếu của mọi

cá nhân và mọi dân tộc ý thức về phẩm giá của mình, và những bất hạnh mà họ chịu

đựng cho một chính nghĩa luôn tôn vinh những người xả thân vì những lý tưởng cao

thượng” [134, tr.503], và vì thế, “Yếu hèn nhu nhược là sự nô lệ muôn đời. Hy sinh

những tư lợi vì quyền lợi tập thể, cộng đồng là con đường duy nhất dẫn đến tự do”

[134, tr.504]. Hoàng Đạo cũng khẳng định: “Người ta sinh ra trong xã hội, được xã hội

bảo vệ cho quyền lợi, hẳn là cần phải bảo vệ lại xã hội” [38, tr.10].

142

Nói cách khác, mặc dù đều nhấn mạnh tính chính đáng của quyền lợi cá nhân,

chúng ta hầu như không thấy Nguyễn An Ninh, Phan Khôi hay các trí thức của Tự lực

văn đoàn đem đối lập quyền lợi cá nhân với quyền lợi chung của xã hội, của quốc gia.

Trái lại, tiến thêm một bước nữa, họ mở rộng mối quan tâm từ quyền lợi cá nhân ra

quyền lợi tập thể, quyền lợi dân tộc. Nói cách khác, họ coi trọng quyền lợi cá nhân,

nhưng không chỉ quan tâm đến quyền lợi cá nhân, mà luôn hướng sự chú ý đến quyền

lợi tập thể, quyền lợi dân tộc và đấu tranh cho những quyền lợi ấy. Đó cũng là xu

hướng phát triển của tư tưởng Việt Nam, khi sau này, trong bản Tuyên ngôn độc lập

năm 1945, Hồ Chí Minh sau khi viện dẫn những “lời bất hủ” trong bản Tuyên ngôn

độc lập của Mỹ năm 1776 về quyền cá nhân, đã “suy rộng ra” thành quyền dân tộc.

4.3. Quan niệm của một số trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến ở Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX về tự do cá nhân

Nếu như ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã có một phong trào giải phóng cá

nhân sôi nổi, mãnh liệt, thì hạt nhân của phong trào ấy chính là sự đề cao tự do cá nhân.

Đối với những trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến, xác lập địa vị độc lập cho

cá nhân, đòi hỏi quyền lợi cho cá nhân, cũng chính là để hướng đến giành lấy sự tự do

cho cá nhân, và xa hơn nữa là giải phóng cá nhân. Vì vậy, vấn đề tự do cá nhân nằm ở

trung tâm của những bàn luận về con người cá nhân của tầng lớp trí thức tân học cấp tiến.

Nếu những nhà trí thức theo khuynh hướng phục cổ cố gắng đi tìm tự do cá

nhân trong những học thuyết truyền thống như Nho gia, Đạo gia, thì những nhà trí

thức theo khuynh hướng cấp tiến phần lớn đã tìm thấy nguồn cảm hứng cho mình từ tư

tưởng tự do của phương Tây, mà ở góc độ này, một lần nữa chúng ta phải trở lại với

bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791. Bản tuyên ngôn này có thể xem

như một văn bản kết tinh tinh thần đề cao tự do cá nhân của phương Tây thời Khai

sáng. Tinh thần ấy được thể hiện một cách xuyên suốt qua từng điều khoản. Nội dung

căn bản của nó là: tự do là quyền tự nhiên, bất khả xâm phạm của con người, nó bao

gồm khả năng làm bất cứ điều gì mà không gây hại cho người khác, những giới hạn

của nó được quy định bằng pháp luật, không một cá nhân nào có thể bị truy tố, bắt giữ,

giam cầm mà không dựa trên pháp luật, và người ta có quyền tự do tôn giáo, tự do tư

tưởng, tự do ngôn luận1. Về cơ bản, những quan niệm về tự do cá nhân của giới trí

1 Thể hiện qua Điều 1, 2, 4, 10, 11 của bản tuyên ngôn [xem 138, tr.119-120].

143

thức cấp tiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX thống nhất với những ý tưởng nền tảng

trên của bản Tuyên ngôn.

Tự do cá nhân, trước hết và ở ý nghĩa hẹp của nó, được các nhà trí thức cấp tiến

hiểu là tự do về thân thể của mỗi cá nhân. Trong “Nước Pháp ở Đông Dương”,

Nguyễn An Ninh đã bàn về tự do cá nhân khi phê phán tình trạng bắt giam người bản

xứ một cách bừa bãi của chính quyền thực dân. Điều 7 của Tuyên ngôn nhân quyền và

dân quyền khẳng định: “Bất cứ ai cũng có thể bị buộc tội, bị bắt, bị giam giữ trong

những trường hợp được pháp luật quy định theo các hình thức do pháp luật xác định.

Những kẻ yêu cầu, thúc đẩy thi hành hoặc cho thi hành những mệnh lệnh độc đoán đều

phải bị trừng phạt” [138, tr.120]1, điều 9 tiếp tục củng cố ý này: “Mọi người đều được

coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội; nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì

mọi sự cưỡng bức vượt quá mức cần thiết cho việc bắt giữ đều bị luật pháp xử phạt

nghiêm khắc” [138, tr.120]. Nhưng những gì mà thực dân Pháp đang thực hiện ở Đông

Dương, theo Nguyễn An Ninh đã chỉ ra, lại hoàn toàn đi ngược với tinh thần ấy, theo

một cách “tương phản với những đặc quyền của kẻ xâm lược”, ông chỉ ra: “ông Toàn

quyền, Thống đốc hay Khâm sứ, thậm chí Công sứ, hoặc tham biện cũng có quyền bắt

giam người bản xứ không cần xét xử trong một thời gian nhất định theo luật quy định”,

hay “theo một lời cáo giác, dù đúng hay sai mặc kệ, người ta có quyền bắt nhốt một

người, cho dù họ đang lâm bệnh nặng” [134, tr.89]. Đó là thực trạng của cái gọi là “tự

do cá nhân” ở Đông Dương, ở đó, người bản xứ ở Đông Dương không được pháp luật

bảo vệ, họ không có tự do về mặt thân thể và có thể bị giam giữ bất cứ lúc nào, tùy

theo ý chí của người cầm quyền, chứ không phải là của pháp luật. Năm 1939, Hoàng

Đạo có một bài viết với nhan đề “Tự do cá nhân” đăng trên tờ Ngày Nay, cũng đã đi từ

tự do về thân thể để định nghĩa tự do cá nhân, ông viết: “Tự do cá nhân, tức là sự tự do

về thân thể của người ta. Quyền tự do ấy, tưởng chừng như không cần phải bàn cãi, vì

hầu như người ta được tự do đối với thân thể của riêng mình là một lẽ đương nhiên rồi:

thân thể của ta, ta muốn dùng làm gì thì làm, muốn đem đến đâu tùy ý” [39, tr.10].

1 Về câu này, Wikipedia đưa ra một cách dịch chuẩn xác hơn, chúng tôi đưa ra đây để tham chiếu: “Không ai có thể bị truy tố, bắt giữ hay giam cầm ngoại trừ trường hợp được quyết định bởi pháp luật, tuân thủ theo nguyên tắc mà pháp luật đã quy định. Những người theo đuổi, phát tán, thực thi hoặc gây áp lực thực thi các mệnh lệnh tùy tiện phải bị trừng phạt; nhưng bất kỳ công dân nào được gọi, bị bắt giữ theo quy đinh pháp luật, phải tuân thủ ngay tức khắc; anh/chị ta sẽ bị coi là có tội nếu chống lại”. Xem: https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%C3%AAn_ng%C3%B4n_Nh%C3%A2n_quy%E1%BB%81n_v%C3%A0_D %C3%A2n_quy%E1%BB%81n

144

Cũng như Nguyễn An Ninh, Hoàng Đạo cho rằng, người Việt Nam không được hưởng

tự do cá nhân một cách đầy đủ, ông còn nói thêm, càng ở những nơi nằm dưới sự cai

quản của vua quan bản xứ, với những nhà cai trị đồng thời cũng là những vị quan tòa,

thì không thể nói đến tự do cá nhân. Từ đó, ông cho rằng, ở Việt Nam, Trung kỳ chính

là một “xứ sở của sự lạm quyền, của sự vô cớ bắt giam người” [39, tr.10], nơi tự do cá

nhân bị hạn chế nhất.

Những quan điểm trên của Nguyễn An Ninh hay Hoàng Đạo đều là tiếp cận tự

do cá nhân về mặt thân thể ở ý nghĩa “tiêu cực” của nó, nghĩa là việc mỗi cá nhân có

được sự tự do về thân thể trước những sự áp bức từ bên ngoài hay không. Phan Khôi

lại đưa đến cho chúng ta một góc tiếp cận khác, mang tính “tích cực”, nghĩa là đi từ

tính chủ thể của cá nhân, với sự tự do định đoạt sinh mệnh của bản thân mình. Quan

điểm này được đưa ra khi ông bàn về vấn đề phụ nữ tự sát. Phụ nữ tự sát là một hiện

tượng xã hội tương đối phổ biến ở nước ta vào nửa đầu thế kỷ XX. Nếu khảo sát báo

chí Việt Nam thời kỳ này, không khó để đọc được những mẩu tin tức về các vụ tự sát,

cũng như những bài báo phân tích về hiện tượng này. Một bài báo đăng trên tờ Ngày

Nay năm 1940 đã chỉ ra: “Ít lâu nay, những vụ tự tử liên tiếp xảy ra nhiều quá. Không

ngày nào là các báo không đăng tin một người tự tử” [146, tr.5]. Một thống kê nhỏ của

tác giả Nguyễn Nam từ các báo Hà Thành ngọ báo, Trung Bắc tân văn, Phụ nữ thời

đàm, Phụ nữ tân văn trong giai đoạn 1927-1934 đã chỉ ra đến 43 trường hợp phụ nữ tự

sát [89, tr.63]. Thực tế đó khiến cho việc tự sát được xem như một “phong trào” ở thời

điểm bấy giờ. Trước một hiện tượng thực tế như vậy, cách nhìn của giới trí thức Việt

Nam như thế nào? Đó hiển nhiên là một điều khó có thể chấp nhận đối với những trí

thức cựu học, ngay trong Tân đính luân lý giáo khoa thư, một văn bản thể hiện tinh

thần duy tân của các nhà nho tham gia Đông Kinh nghĩa thục, cũng vẫn giữ quan niệm

như vậy: “Người ta ở đời không thể cho thân mình chỉ thuộc về mình mà thôi. Bởi vì,

đối với nước, mình là người dân, đối với nhà, là vợ, chồng, cha, con, anh, em, có nhiều

mối quan hệ chằng chịt, tức là có nhiều thứ nghĩa vụ không thể không làm tròn. Ở đời

mà không hiểu được cái lý đó thì khi gặp chuyện không may sẽ thất vọng, oán giận tất

cả, rồi tìm cách tự sát” [118, tr.24]. Trong bài “Luận về phụ nữ tự sát” năm 1929, Phan

Khôi đưa ra một cách nhìn khác hẳn. Ông cho rằng, xã hội chỉ quan tâm đến sự tự sát

của những bậc danh thần, trong khi không hề để tâm, thậm chí dè bửu sự tự sát của

những người bình thường, nhất là những người phụ nữ. Theo ông, hành vi tự sát xuất

145

phát từ bản năng của con người, dù “không ích đến ai chăng nữa cũng đủ tỏ ra cái ý

chí tự do của mình” [62, tr.220]. Phan Khôi không cổ súy cho hành vi mà ông gọi là

“yếm thế”, “khinh sanh” ấy, nhưng ông coi nó là một điều đáng kính trọng. Vì thế,

thay vì phê phán chủ thể của hành vi tự sát, thì cần phải hướng sự phê phán vào chính

xã hội buộc họ phải thực hiện hành vi ấy. Đó rõ ràng là một quan điểm lật ngược lại cách

nhìn truyền thống về vấn đề này.

Các nhà nho Đông Kinh nghĩa thục phê phán hành vi tự sát do đứng trên tiền đề

“người ta ở đời không thể cho thân mình chỉ thuộc về mình mà thôi”. Còn Phan Khôi

coi trọng hành vi đó xuất phát từ tiền đề về “ý chí tự do”, nói cách khác, xuất phát từ

chỗ mỗi cá nhân có quyền tự do định đoạt sinh mệnh của mình, thân thể của mình. Tất

nhiên, quan niệm truyền thống không hoàn toàn phủ nhận tính chính đáng của hành vi

tự sát, trái lại, còn ca ngợi hành vi tự sát của những bậc trung thần, nghĩa sĩ. Sự khác

biệt giữa quan niệm truyền thống với quan niệm mà Phan Khôi đưa ra, theo chúng tôi,

nằm ở chỗ, hành vi đó, xét đến cùng, là lựa chọn mang tính cá nhân, hay là lựa chọn

mang tính văn hóa, là lựa chọn thể hiện sự đối kháng giữa cá nhân với xã hội, hay là

sự lựa chọn thể hiện sự hòa hợp giữa cá nhân với xã hội. Trong truyền thống Nho giáo,

đó hoàn toàn là một lựa chọn mang tính văn hóa. Phân tích về điểm này, Hoàng Tuấn

Kiệt cho rằng, hành vi tự sát của nhiều nhân vật thời cổ đại thực chất không thể hiện

sự đối lập giữa cá nhân họ với xã hội, bởi khi đứng trước hành vi đó, họ nhận thức

được rằng khi sinh mệnh cá nhân của họ kết thúc thì sinh mệnh văn hóa của họ mới

bắt đầu [xem 70, tr.391-392]. Đối với họ, lựa chọn tự sát được đưa ra trong thế đối

diện với truyền thống văn hóa có trước họ và sẽ còn tiếp diễn sau họ, họ tự sát để bảo

vệ những giá trị mà họ coi là tốt đẹp. Với Phan Khôi, rõ ràng, cá nhân khi đưa ra lựa

chọn tự sát đã không nghĩ nhiều như thế, họ không đối diện ai ngoài chính bản thân

mình, với “ý chí tự do” của mình, với những đau khổ mà mình phải chịu đựng. Và vì

thế, nó thuần túy là một lựa chọn mang tính cá nhân, cho cá nhân và vì cá nhân. Có thể

nói, quan niệm của Phan Khôi thể hiện một cách nhìn mới đối với vấn đề tự do thân

thể của cá nhân, đồng thời cũng phản ánh một bước chuyển đổi trong nhận thức của xã

hội về đời sống riêng tư của mỗi cá nhân.

Tất nhiên, khi bàn về tự do cá nhân, các nhà trí thức cấp tiến không dừng lại ở

tự do về mặt thân thể. Ở một ý nghĩa rộng lớn hơn, tự do cá nhân còn gắn với tự do về

mặt tinh thần (tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do hội họp v.v...), mà

146

đây mới là điểm quan trọng nhất mà họ hướng đến. Tự do cá nhân không chỉ được

biểu hiện qua khả năng làm chủ thân thể, làm chủ sinh mệnh tự nhiên của mỗi cá nhân,

mà hơn thế, nó còn được biểu hiện qua khả năng làm chủ thế giới tinh thần, thế giới

nội cảm của cá nhân. Ngay cả những nhà trí thức theo khuynh hướng phục cổ cũng rất

chú trọng đến khía cạnh này của tự do cá nhân. Tuy nhiên, nếu so sánh những quan

niệm phục cổ với những quan niệm cấp tiến, thì có thể thấy hướng đi của những nhà trí

thức cấp tiến có sự khác biệt căn bản.

Thứ nhất, những người phục cổ, do chỗ dựa trên một học thuyết truyền thống

để xây dựng quan niệm, nên xét đến cùng, không đối đầu với truyền thống, sự tự chủ

của chủ thể đạo đức, ở họ, luôn là sự tự chủ trong phạm vi, trong khuôn khổ truyền

thống. Còn những người cấp tiến không giấu diếm ý muốn lật đổ mô thức tư duy

truyền thống. Tự do trong thế giới tinh thần của những người phục cổ là tự do tuân

theo một mệnh lệnh, một con đường đã định sẵn, thứ trở ngại đối với họ là sự lôi kéo

của ngoại vật, còn tự do trong thế giới tinh thần của những người cấp tiến là tự do tạo

nên con đường cho chính bản thân mình, do đó, họ đối lập với tất cả những gì mang

tính công thức, quy phạm, thứ trở ngại đối với họ, do đó, là chính bản thân những thứ

được xem là mệnh lệnh hay con đường được định sẵn. Ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX

trở về trước, tầng lớp trí thức phần lớn được giáo dục và trưởng thành trong bầu khí

quyển Nho giáo. Họ dựa vào nền học vấn theo tinh thần Nho giáo để lập thân, họ tuân

theo những quy tắc đạo đức của Nho giáo để xử thế. Chính vì vậy, khi những nhà trí

thức tân học cấp tiến khởi xướng tự do cá nhân, không đáng ngạc nhiên khi Nho giáo

chính là đối tượng phải hứng chịu sự phê phán quyết liệt nhất.

Ở Nguyễn An Ninh, không một tác phẩm nào thể hiện tinh thần ấy rõ ràng hơn

là “Lý tưởng của thanh niên An Nam”, bài diễn thuyết cổ vũ thanh niên Việt Nam xây

dựng những lý tưởng của riêng mình mà không bị giới hạn bởi những lý tưởng của

Nho giáo:

Các nhà Nho học nổi tiếng của ta được nhồi nặn theo đạo Khổng, cứ tưởng

rằng ngoài cái đạo Khổng không có ý tưởng nào là rộng, là thật. Cứ biết

một mình đạo Khổng thôi, các nhà Nho học xứ ta hễ đọc sách nào thì không

lo hiểu cho tận sách ấy, lại lấy ý Khổng Tử mà giải sách ấy, thành ra ngoài

cái ý của Khổng Tử thì không hiểu chi cả; hễ động đến đạo nào, dẫu cho

đạo ấy khác đạo Khổng như ngày khác đêm, cũng hóa ra đạo Khổng [134, tr.62].

147

Nguyễn An Ninh không ngần ngại khẳng định rằng, Khổng Tử là một bậc thánh

nhân đáng tôn kính, nhưng “những bậc cao siêu thì rất khó mà nhận Khổng Tử làm

thầy mình, làm người hướng dẫn con đường trí tuệ và tinh thần của mình, là người lo

về luân lý trong dân, là người làm thầy dạy dân” [134, tr.59]. Ở các nước nằm trong

vùng ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo, Khổng Tử có một địa vị hết sức đặc biệt, được

triều đình tế tự, được xem là “vạn thế sư biểu”, những lời của Nguyễn An Ninh nói

chung đã phủ định vị thế này của Khổng Tử, cũng chính là phủ định vị thế của Nho giáo.

Tất nhiên, với một trí thức tân học, lại là một trí thức tân học Nam kỳ, được đào

tạo trong môi trường giáo dục ở nước Pháp như Nguyễn An Ninh, một quan điểm như

vậy không phải là lạ lẫm. Phải đến khi tinh thần ấy đi vào những trí thức vốn xuất thân

nơi cửa Khổng sân Trình, mà Phan Khôi là trường hợp tiêu biểu, chúng ta mới thấy xu

hướng lật đổ Nho giáo để giương cao tự do cá nhân trong lĩnh vực tinh thần đã thực sự

trở thành xu hướng chủ đạo trong giới trí thức. Trong loạt bài phê phán Nho giáo trên

báo Thần Chung năm 1929, Phan Khôi khẳng định:

Theo tôi tưởng, những người kêu là có học ở đời nầy, thật không nên nhắm

mắt theo như đời xưa, mà phải có cái óc phán đoán riêng của mình. Cái óc

phán đoán ấy, nó là độc lập tự do, không phụ thuộc ai hết, không thần phục

ai hết. Thầy của cái óc ấy là chơn lý. Nó lấy chơn lý làm thuốc mà đo hết

thảy ông thánh ông hiền, đời xưa đời nay, phương đông phương tây, bất kỳ

người nào, bất kỳ ở đâu [62, tr.56].

Từ đó, ông công khai thể hiện thái độ “ly khai” với thứ học thuyết vốn là nền

tảng tư tưởng của cả một thế hệ trong đó có bản thân ông: “tôi ngày trước thuộc về

ngài [Khổng Tử - TG]; song tôi ngày nay, đối với ngài, tôi là người độc lập tự do” [62,

tr.56]. Đối với Nho giáo, Khổng Tử là một uy quyền, hậu nho có thể diễn giải Khổng

Tử theo những cách khác nhau, do đó mà hình thành nên những học phái khác nhau,

đôi khi đối lập nhau trong Nho giáo, nhưng về căn bản đều lấy Khổng Tử và Luận ngữ

làm nền tảng, coi đó là thứ “thiên kinh địa nghĩa”, Phan Khôi vốn “đẻ ra và lớn lên”

trong cái học của Khổng Tử, nên sự phê phán Nho giáo ở trường hợp của ông lại càng

mang tính biểu trưng. Câu trên của Phan Khôi đã khái quát sự đoạn tuyệt của ông đối

với truyền thống Nho giáo, để đi từ chỗ “thuộc về” nó đến chỗ “độc lập tự do” với nó.

Quan niệm của Phan Khôi cũng phản ánh khát vọng hướng đến tự do về mặt tinh thần

của cả một thế hệ trí thức Nho học cuối mùa. Họ không tìm được chỗ đứng trong con

148

đường lập thân cổ điển thông qua khoa cử, và do đó, muốn thoát ra khỏi nền học vấn

Nho giáo truyền thống đang ràng buộc họ, để đi theo những con đường mới. Phan

Khôi, hay Trần Huy Liệu, một trí thức xuất thân Nho học khác cũng hoạt động ở Nam

kỳ cùng thời điểm, chính là những trường hợp tiêu biểu. Họ nhanh chóng thoát ra khỏi

cái áo Nho giáo, để khoác lên mình tấm áo trí thức tân học.

Những động thái mang tính lật đổ nền tư tưởng Nho giáo truyền thống của giới

trí thức tân học Nam kỳ nhanh chóng được tiếp nối bởi thế hệ trí thức tân học Bắc kỳ

những năm 30. Trong 10 tôn chỉ của Tự lực văn đoàn được đưa ra vào năm 1934, có

hai tôn chỉ được đặt cạnh nhau, lần lượt ở vị trí thứ 7 và thứ 8: “trọng tự do cá nhân”

và “làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa” [139, tr.2]. Điều đó đã

cho thấy, đối với những nhà trí thức của nhóm Tự lực văn đoàn, tự do cá nhân và đạo

Khổng không thể đi kèm với nhau.

Hoàng Đạo đã không ít lần chỉ ra tính chất kìm hãm tự do cá nhân của tư tưởng

Nho giáo và của nền học vấn Nho giáo, trong “Mười điều tâm niệm của bạn trẻ”, ông viết:

Đời các cụ đồ nho ngày xưa êm đềm lắm. Họ không băn khoăn, không hoài

nghi. Mục đích của đời người hiện ra trước mắt họ một cách rõ rệt, hiển

nhiên (...) Các cụ nho ta ngày xưa, hết đời này sang đời khác, cứ bình tĩnh

lần theo con đường ấy, như con ngựa thắng cương cứ thẳng lối mà đi không

lệch sang phía khác. Vả lại có muốn lệch cũng không được. Tư tưởng thay

đổi chưa thành hình trong óc họ, đã bị những sức mạnh vô hạn của quá khứ

phá tan đi. Họ chỉ còn có một lối: là nhắm mắt theo cổ nhân, theo từ ý

tưởng cho chí hành động [33, tr.271].

Ở một bài khác, ông lại viết:

Nền luân lý ấy bắt ta phải bái phục lời nói của tiền nhân, dẫu lời nói ấy là

sai cũng mặc, không được đem luận lý ra mà bẻ bai. Đức Khổng tử đã được

tôn làm thánh nhân, thì một lời nói là một câu bất di bất dịch, cha mẹ ta đã

đẻ ta ra, thì những câu bảo ban ta, ta phải cúi đầu vâng theo mệnh lệnh, dẫu

những câu ấy trái hẳn với tư tưởng của ta. Mà kể thực ra, thì ở dưới chế độ

đó, ta chẳng còn có tư tưởng gì nữa, thân ta cũng không phải là của ta nữa,

mà là của gia đình; chữ tự do của cá nhân là một chữ mà từ xưa đến nay, ta

không biết nghĩa là gì [83, tr.2].

149

Có thể thấy, trong quan điểm của Hoàng Đạo, tinh thần của Nho giáo thể hiện

tính áp chế của quá khứ đối với cá nhân, trong bầu không khí tinh thần ấy, cá nhân bị

triệt tiêu tự do, mà chỉ có thể tuân theo sự mách bảo, một lý tưởng, một con đường đã

định sẵn, cá nhân về căn bản không có sự lựa chọn. Ở một khía cạnh nào đó, cá nhân

trong xã hội cổ truyền có lẽ đã có một đời sống “êm đềm” hơn, ít sự băn khoăn, hoài

nghi hơn, bởi họ không phải lựa chọn. Nhưng ở một khía cạnh khác, chính trong sự

băn khoăn, hoài nghi, chính trong việc bị đưa vào tình thế phải lựa chọn, cá nhân mới

có tự do. Ông viết:

Cõi đời êm đềm ấy, bỗng dưng ngừng lại. Tiếng súng thần công của người

phương tây đã phá đổ tòa lâu đài kiên cố của nhà nho và reo vào lòng các

dân tộc đông phương mối hoài nghi đầy hy vọng. Bắt đầu từ đấy, tư tưởng

ta không bị quá khứ áp chế nữa, được tự do phát triển và nẩy nở ra. Nhưng

chính sự giải phóng tư tưởng ấy đã đem lại cho ta bao nỗi băn khoăn [33, tr.271].

Văn chương của Tự lực văn đoàn, gồm cả thơ ca, tiểu thuyết chính là những nỗ

lực khám phá những băn khoăn, hoài nghi đang nảy sinh trong con người Việt Nam

nửa đầu thế kỷ XX. Con người cá nhân trong văn chương Tự lực văn đoàn luôn luôn là

con người cá nhân được đặt ra phía bên ngoài truyền thống, đó là con người cá nhân

đối diện với chính bản thân mình trong những sự lựa chọn, trong tư thế đối đầu, tuyên

chiến với truyền thống. Tất nhiên, rốt cuộc Hoàng Đạo vẫn cho rằng, mỗi người sống

đều cần có lý tưởng, chỉ có điều cần lưu ý, và chính ở đây ông thể hiện sự đả phá của

mình đối với cả một truyền thống “hiếu cổ” trong nền văn hóa cũ, đó là “lý tưởng

không phải chỉ có một” [34, tr.295]. Khi ông nói mỗi người cần có lý tưởng để theo,

thì điều đó không hề đi ngược lại những gì mà người trí thức Việt Nam truyền thống

theo đuổi, nhưng khi ông khẳng định mỗi người có thể lựa chọn một lý tưởng riêng

biệt để theo, thì đó là lời tuyên bố cho sự tự do cá nhân trong lĩnh vực tinh thần.

Thứ hai, những nhà trí thức cấp tiến không chỉ khẳng định sự tự do cá nhân về

tinh thần, mà còn hướng đến đòi hỏi những quyền tự do cụ thể, gắn với tự do cá nhân

về mặt tinh thần, như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội. Ở điểm này, họ chủ

yếu hướng vào phê phán trật tự hiện hành của xã hội Việt Nam thời thuộc địa. Những

nhà trí thức cấp tiến đã đấu tranh với truyền thống, với quá khứ để giành lấy quyền tự

do tư tưởng cho cá nhân, giờ đây, lại tiếp tục phải đấu tranh với chính quyền thực dân

để giữ lấy quyền tự do ấy. Trong tác phẩm “Nước Pháp ở Đông Dương”, Nguyễn An

150

Ninh đã chỉ ra tình trạng ngột ngạt của sự hạn chế tự do ngôn luận đang bao phủ lên

giới trí thức Việt Nam. Ông viết: “Ở Đông Dương, tự do ngôn luận phải trả bằng một

giá rất đắt, hễ người nào có đầu óc độc lập, là lập tức bị chính quyền gán ngay cho họ

là chống Pháp, là cách mạng, là cộng sản, là vô chính phủ, là bôn-sê-vít” [134, tr.89].

Mặt khác, người Việt Nam cũng không được tự do tiếp nhận các tư tưởng đến từ

phương Tây: “các sách Trung Hoa chỉ có thể vào Đông Dương bằng cách “chui”, kể cả

các bản dịch những tác phẩm của Rousseau hay Montesquieu” [134, tr.92]. Thực ra,

cuộc đời của Nguyễn An Ninh chính là một minh chứng sống động nhất cho cái giá

“rất đắt” phải trả cho sự tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí. Nguyễn An

Ninh đã nói: “Trong nước này, vị trí của những con người có tinh thần tự do là trong

nhà tù và nếu họ còn ở bên ngoài thì người ta sẽ làm cho họ chết đói” [134, tr.759], và

quả thực, ông đã bị bắt giam 5 lần vì đấu tranh cho những quyền tự do mà mình theo

đuổi. Ông lập nên một tờ báo chống thực dân, viết những cuốn sách chống thực dân,

lên tiếng đòi những quyền tự do cá nhân mà mỗi người Việt Nam xứng đáng được

hưởng, ít nhất là theo như những gì một người Pháp có thể được hưởng dưới sự soi rọi

của Bản tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền, và sau khi đã làm những điều đó, ông

phải đánh đổi bằng tự do của chính bản thân mình.

Trong khi đó, Phan Khôi tỏ ra đặc biệt coi trọng và nhiều lần nhắc đến vấn đề

tự do ngôn luận. Điều này không đáng ngạc nhiên khi bản thân Phan Khôi là một

người rất có hứng thú với việc tranh luận và thể hiện chính kiến của bản thân. Chính

ông đã từng phát biểu: “Tôi là người tự do, nói lời gì hay là làm việc gì cũng theo sở

kiến và lương tâm mình cả” [64, tr.106]. Còn Hoàng Đạo, vào năm 1939, đã có một

loạt bài viết về vấn đề tự do trên tờ Ngày Nay, trong loạt bài đó, xuất phát từ khái niệm

tự do cá nhân, ông đã đề cập đến một loạt quyền tự do liên quan, như: tự do ngôn luận,

tự do truyền bá, tự do giáo dục, tự do hội họp, tự do tôn giáo, tự do lập hội. Loạt bài

viết này được công bố ngay sau khi tờ Ngày Nay cho đăng bản dịch của Tuyên ngôn

Nhân quyền và dân quyền. Điều đó đã cho thấy cội nguồn cảm hứng cho những quan

điểm về vấn đề tự do cá nhân của nhóm Tự lực văn đoàn. Chúng tôi cho rằng, từ chỗ

nhận thức được yêu cầu về tự do cá nhân trong thời đại mới, đến chỗ nỗ lực hiện thực

hóa nó trên thực tế bằng những quyền tự do cụ thể, và đấu tranh cho chúng, là một

chặng đường dài mà người trí thức Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã đi. Đây là điều mà

những nhà trí thức tân học theo khuynh hướng phục cổ chưa đạt đến, bởi họ xét đến

151

cùng, đều là những người duy trì hơn là những người đả phá. Tinh thần hợp tác với

thực dân ở Phạm Quỳnh không cho phép ông có một sự phản kháng công khai với

những sự chà đạp lên tự do cá nhân của chính quyền thực dân ở Việt Nam, mặc dù ông

không hoàn toàn thờ ơ với vấn đề này. Còn với trường hợp Nguyễn Duy Cần, chủ

trương kêu gọi cá nhân quay trở về với “đạo”, trở về với trạng thái tự nhiên của mình

hiển nhiên trái ngược hoàn toàn với những cố gắng thể chế hóa các quyền tự do cho cá nhân.

Ở góc độ đạo đức, nhóm trí thức cấp tiến cũng mang đến những ý tưởng mang

tính đột phá về vấn đề tự do cá nhân. Trong quan niệm Nho giáo truyền thống, cá nhân

luôn được đặt trong một hệ thống thang bậc xã hội với những nghĩa vụ được quy định

cho từng mối quan hệ cụ thể: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bằng hữu. Đó gọi là

“ngũ luân”, riêng ba mối quan hệ trước, được coi là quan trọng hơn cả, gọi là “tam

cương”. Ban đầu, những mối quan hệ đó còn mang tính hai chiều, nhưng càng về sau,

nó càng trở thành một mối quan hệ thần phục một chiều, mà ở đó, bầy tôi phải phục

tùng vua, con phải phục tùng cha, vợ phải phục tùng chồng, tất nhiên, con người cá

nhân khi được đặt trong hệ thống ấy khó có thể đạt được tự do. Vì vậy, đến đầu thế kỷ

XX, hệ thống trật tự đó đã trở thành đối tượng phê phán của những nhà trí thức tân học

vốn chủ trương tự do cá nhân.

Nếu như những nhân vật theo chủ trương vãn hồi Nho giáo tìm thấy ở những

thang bậc đó chìa khóa cho sự tái thiết lập trật tự xã hội, thì trái lại, đối với những nhà

trí thức cấp tiến, họ tỏ ra nhất trí trong việc nhấn mạnh sự áp chế cá nhân của những

trật tự ấy. Nguyễn An Ninh nói:

Hành động đúng theo “luân lý” là những kẻ nào không phá rối cái trật tự đã

được lập ra trong xã hội. Trật tự bằng bất cứ giá nào, dầu cho có phải làm

cho cả đời sống phải tê liệt, đó là căn bản của chủ thuyết về xã hội của

Khổng Phu Tử. Và ngày nay không ai không biết là tư tưởng của “nhà Hiền

Triết” ấy đã dẫn đến kết quả nào. Sự thống nhất, sự hòa hợp mà tư tưởng

Khổng Tử đã thực hiện được bằng cưỡng ép, bằng áp lực lên đến độ làm

cho con người, nhất là con người An Nam, biến thành những kẻ không thể

sống ở nơi nào khác hơn là cái bầu không khí chật hẹp đó và khi được đem

ra nơi khoáng đãng thì bị ngộp, chẳng khác nào loại cá quen lội trong dòng

nước bùn đục ngừ, khi đem thả trong dòng nước sạch hơn, trong hơn thì bị

chết [134, tr.150].

152

Phan Khôi thậm chí còn phản ứng với những trật tự ấy một cách gay gắt hơn:

Theo thuyết ấy thì vua, cha, chồng như cái giềng lưới; còn tôi, con, vợ thì

như những cái mắt lưới. Cái giềng cứ ràng buộc lấy những cái mắt, và

những cái mắt cứ phải ở trong cái giềng. Nói vua, cha, chồng là cái giềng

của tôi, con, vợ, ấy là tỏ ra rằng ba đấng người sau đó chỉ có nghĩa phục

tùng mà thôi, chớ không có tự do mà không có nghĩa vụ gì cả. Chỗ cốt yếu

của tam cang là ở đó, thật trái với cái bổn ý của Khổng – Mạnh vậy [64, tr.79].

Tự lực văn đoàn thì hướng đến phê phán nền luân lý áp bức cá nhân thông qua

cả những tác phẩm nghị luận và tác phẩm văn chương. Hoàng Đạo cũng nói cùng một

ý như những nhà trí thức cấp tiến khác:

“Tôi nói “nền luân lý của ta xưa” để khỏi lầm lẫn. Cha con yêu nhau, vợ

chồng yêu nhau là theo luân lý chung của nhân loại, cha con vợ chồng yêu

nhau theo một lề lối nhất định ấy là theo nền luân lý xưa của ta. Nền luân lý

ấy đã một ngàn năm nay bó buộc ông cha ta, hẳn là chắc chắn lắm. Những

cái cùm xích chân người có tội cũng hẳn là chắc chắn lắm” [83, tr.2].

Những tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng v.v...

cũng chính là những cuốn tiểu thuyết đả phá mạnh mẽ những sự trói buộc của lễ giáo

phong kiến đối với con người cá nhân trong xã hội Việt Nam.

Điểm cuối cùng mà chúng tôi muốn đề cập đến trong quan niệm về tự do cá

nhân của những trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến là con đường truy cầu tự

do. Ở điểm này, chúng ta lại có thể thấy một điểm khác biệt hết sức căn bản nếu so

sánh giữa những người cấp tiến với những người phục cổ. Những người thuộc nhóm

phục cổ, bất kể là đề cao Nho giáo, hay đề cao Phật, Đạo, đều có xu hướng đi tìm tự

do ngay trong bản thân mỗi cá nhân. Đó chính là tính hướng nội trong quan niệm của

họ mà chúng tôi đã tổng kết ở trên. Phạm Quỳnh nhấn mạnh tự do nội tại, cho rằng

mỗi cá nhân là một chủ thể tự do về ý chí, điều đó hàm ý rằng, cá nhân có thể đạt đến

tự do bằng cách tự phản tỉnh, họ chỉ cần đấu tranh với chính bản thân mình, khiến cho

bản thân mình tuân theo sự mách bảo của những quy luật luân lý bên trong mình, là có

thể đạt đến tự do. Nguyễn Duy Cần tuy rẽ theo hướng khác so với Phạm Quỳnh,

nhưng về căn bản vẫn là đi tìm tự do cá nhân trong chính bản thân mình. Ông chủ

trương diệt bản ngã để trở về với bản tính tự nhiên, đó cũng là một loại đấu tranh với

bản thân. Nói cách khác, họ tìm lại tự do, chứ không giành lấy tự do.

153

Những quan niệm như vậy hoàn toàn đối lập với nhóm trí thức cấp tiến. Những

người cấp tiến đòi hỏi những quyền tự do cụ thể, họ hướng đến hiện tại và tương lai

thay vì nhìn về quá khứ, nên họ buộc phải đặt mình vào trong cuộc tranh đấu không

chỉ với bản thân, mà với ngay chính môi trường hiện hữu đang đè nén tự do cá nhân.

Đã không ít lần họ tuyên bố một cách mạnh mẽ rằng, tự do là thứ phải đấu tranh mới

có được. Nguyễn An Ninh và Phan Khôi đều đã từng viết những bài báo mà ngay từ

tiêu đề của nó đã thể hiện tinh thần đó, chẳng hạn, Nguyễn An Ninh có bài “Người ta

không ăn mày tự do” (1925), còn Phan Khôi có bài “Tự do gì lại có tự do xin” (1936).

Có thể thấy, cả hai đều ý thức rõ ràng rằng, muốn giành lấy tự do cho mỗi cá nhân, hay

cho cả dân tộc, không thể chờ đợi sự ban phát của chính quyền thực dân, mà phải

thông qua đấu tranh mà giành lấy. Ở góc độ này, Nguyễn An Ninh có lẽ là người có

thái độ cứng rắn nhất, khi ông không ít lần cảnh báo chính quyền thực dân về một khả

năng người Việt Nam sẽ phải nổi dậy đấu tranh bằng vũ lực để giành lấy tự do cho

mình. Ông viết: “Tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do đi lại khi cải cách tỏ ra cần thiết

cho sự tiến bộ, cho cuộc sống của một dân tộc thì dân chúng sẽ đòi hỏi. Nhưng khi mà

những quyền tự do sơ đẳng đó bị từ chối, thì dân chúng chỉ còn nước câm lặng và nổi

dậy” [134, tr.95]. Ở một bài viết khác, ông cảnh tỉnh người Việt Nam rằng, họ chỉ có

thể giành lấy tự do cá nhân bằng cách tổ chức nhau lại để đối đầu với thực dân:

Hỡi đồng bào, các bạn đòi tôn trọng tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do lập

hội, tư do giảng dạy, tự do đi lại, tự do làm việc; các bạn muốn dân tộc An

Nam có những hội đồng là nơi mọi tầng lớp xã hội được đại diện để chăm

lo cho lợi ích chung; các bạn muốn có hiến pháp để đảm bảo tự do và quyền

lợi của các bạn. Nầy! Mọi thứ đó, đồng bào sẽ không được gì đâu (...) Tự

do được giành lấy, chứ tự do không được ban cho. Để giành lấy tự do từ

một thế lực có tổ chức, phải đương đầu với nó bằng một sức mạnh có tổ

chức. Khi chúng ta yêu cầu những sự cải tổ, chúng ta thừa nhận quyền lực

của chế độ đã được thiết lập. Nhưng nếu người ta từ chối, chúng ta hãy biết

tổ chức nhau lại [134, tr.398].

Phan Khôi không đặt vấn đề phản kháng chế độ thực dân khi truy cầu tự do cá

nhân, nhưng quan điểm của ông cũng nghiêng về phía cho rằng, tự do là thứ chỉ có thể

“giành lấy”. Phan Khôi cho rằng, tự do không thể “xin” mà có được, ngay cả trong

trường hợp “xin” được tự do, thì tự do có được nhờ vào sự ban ơn cũng không phải

154

là tự do thực chất. Ông khẳng định rằng: “Tự do ngôn luận là một cái quyền trong các

thứ dân quyền. Đã là cái quyền thì phải do dân dùng sức mạnh của mình giành lấy mà

được, chứ không phải do người bề trên ban cho mà được” [68, tr.268].

Cũng như khi mở rộng mối quan tâm từ quyền lợi cá nhân ra quyền lợi tập thể,

quyền lợi dân tộc, những người cấp tiến cũng nhanh chóng mở rộng tự do cá nhân ra

tự do cho dân tộc. Khi tiến hành phê phán cùng lúc nền luân lý và chế độ quân chủ

truyền thống, cũng như phê phán chính quyền thực dân trong việc trói buộc tự do cá

nhân của người Việt Nam, chắc hẳn, nhiều người trong số họ hiểu rằng, để thực sự

có được tự do cá nhân, bên cạnh việc lật đổ chế độ quân chủ và nền luân lý cũ, một

điều kiện nhất thiết là phải giành lại tự do cho dân tộc, rằng cá nhân chỉ có thể tự do

khi dân tộc được tự do. Đây không phải là một bước lùi của tự do cá nhân, mà là một

bước tiến nữa để đi đến tự do cá nhân thực sự. Nói cách khác, đi từ cá nhân đến dân

tộc, đến cộng đồng không đồng nghĩa với việc bỏ quên tự do cá nhân, mà thực chất

chính là đi đến một thứ tự do cá nhân theo đúng nghĩa của nó. Trong Hệ tư tưởng Đức,

C.Mác đã khẳng định rằng, cái cá nhân thực chất, nghĩa là cá nhân với tư cách cá nhân,

chỉ có được trong cộng đồng của những người vô sản cách mạng, còn trước đó, các cá

nhân tham gia vào các mối quan hệ xã hội không phải với tư cách cá nhân, mà với tư

cách là thành viên của một giai cấp. Trong điều kiện đó, tự do cá nhân “chỉ tồn tại đối

với những cá nhân đã phát triển trong khuôn khổ của giai cấp thống trị và chỉ trong

chừng mực họ là những cá nhân của giai cấp ấy” [84, tr.108], còn những cá nhân khác,

họ tưởng rằng mình được tự do, nhưng thực ra không phải, bởi họ “bị phụ thuộc nhiều

hơn vào sức mạnh vật chất” [84 tr.111], bởi “cá tính của họ là do những quan hệ giai

cấp hoàn toàn cụ thể quy định và xác định” [84, tr.110]. Vì thế, “chỉ có trong cộng

đồng cá nhân mới có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những

năng khiếu của mình, và do đó, chỉ có trong cộng đồng, mới có thể có tự do cá nhân”

[84, tr.108]. Với ý nghĩa đó, tự do cá nhân rõ ràng không phải là một sản phẩm của sự

tách biệt hay đối lập cá nhân với cộng đồng, mà là sản phẩm của một cuộc cách mạng

để xây dựng nên một cộng đồng mới, cộng đồng của những người lao động liên hiệp

lại. Mà ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, để hướng đến một cuộc cách mạng như vậy,

trước hết phải tiến hành một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Ở điểm này, nếu so sánh với Phan Khôi hay Tự lực văn đoàn, chúng tôi cho

rằng, Nguyễn An Ninh là người đã đi xa hơn cả. Năm 1926, Nguyễn An Ninh chính

155

là người đã cho đăng tải bản Tuyên ngôn cộng sản bằng tiếng Pháp của C. Mác và Ph.

Ăng-ghen trên tờ La Cloche Fêlée. Đây chính là lần đầu tiên văn bản này xuất hiện

công khai trên một cơ quan báo chí của Việt Nam. Trong Tuyên ngôn cộng sản, khi

nói về xã hội cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã viết: “Thay cho xã hội tư sản cũ,

với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó

sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi

người” [85, tr.628]. Ở đó, tự do cá nhân không mâu thuẫn với tập thể, mà trái lại, còn

là điều kiện cho sự tự do của tập thể. Có lẽ, Nguyễn An Ninh đã ít nhiều chịu ảnh

hưởng của tinh thần đó khi nhiều lần nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết giữa tự do cá

nhân với tự do của tập thể, của dân tộc. Một mặt, ông khẳng định cá nhân khi cần

thiết cần phải biết hi sinh tự do của bản thân cho dân tộc: “Chúng tôi làm việc cho nòi

giống dân tộc chúng tôi. Nhiệm vụ của chúng tôi là một nhiệm vụ thiêng liêng, nên

chúng tôi khi nào thấy cần, thì không thể hèn nhát không dám hy sinh cả tự do, cả máu

của chúng tôi cho nó” [134, tr.221]. Mặt khác, ông cũng khẳng định rằng, chỉ khi nào

dân tộc đã được giải phóng, thì các cá nhân trong đó mới có được tự do, và do đó mà

hướng tới chủ nghĩa quốc tế: “Trước hết những giống nòi chậm tiến phải vươn lên

hình thành dân tộc, những dân tộc bị bạo lực khép vào vòng nô lệ phải được giải

phóng, phải làm thế nào cho từng người và cho tất cả mọi người đều có thể hoàn toàn

tự do đóng góp sức lực của mình vào việc tạo nên một cộng đồng hài hòa của chủ

nghĩa quốc tế” [134, tr.432]. Ở đây, Nguyễn An Ninh nhận thức rất rõ mối quan hệ

mật thiết giữa cá nhân, dân tộc và quốc tế, ba yếu tố này không mâu thuẫn với nhau,

không đối kháng với nhau, mà trái lại, nương tựa vào nhau, là điều kiện cho sự tồn tại

của nhau. Với tư duy đó, chúng ta có thể hiểu được tại sao Nguyễn An Ninh, một trong

những nhân vật đi đầu trong việc đòi tự do cá nhân, lại cũng chính là người đấu tranh

một cách đầy sôi nổi, mạnh mẽ cho sự tự do của dân tộc, đồng thời hết sức cổ động

cho chủ nghĩa cộng sản.

Vào cuối những năm 30, Tự lực văn đoàn mặc dù không có một tinh thần phản

kháng quyết liệt đối với chính quyền thực dân như Nguyễn An Ninh, nhưng họ cũng đi

theo lô-gích mở rộng từ quyền tự do cá nhân đến quyền tự do dân tộc như phần lớn

những nhà trí thức cấp tiến khác. Trước đây, trong một số công trình nghiên cứu về

văn chương Tự lực văn đoàn, các tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn giai đoạn sau như

Thanh Đức, Bướm trắng thường bị cho là rơi vào suy đồi, khi cổ súy cho cá nhân mặc

156

sức theo đuổi tự do một cách cực đoan. Chúng tôi cho rằng, cách nhìn nhận như vậy

vô hình trung đã đồng nhất hình tượng nghệ thuật mà tác giả xây dựng với quan niệm

của bản thân tác giả. Về điểm này, đánh giá của Lê Thị Dục Tú trong công trình Quan

niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn rất đáng để tham khảo. Không

phủ nhận rằng trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thể hiện một dạng thức ý thức cá

nhân cực đoan đòi hỏi bản năng tự do đứng trên hoặc bất chấp các quan hệ xã hội,

nhưng Lê Thị Dục Tú cũng cho rằng, đó là một sự thể nghiệm giới hạn cực đoan của

chủ nghĩa cá nhân [xem 136]. Nói cách khác, điều các nhà văn của Tự lực văn đoàn

muốn truyền tải không phải là bản thân lối sống tự do cực đoan, mà là chỉ ra những

tình huống giới hạn mà ở đó cá nhân bộc lộ những bản năng của mình, đó là một sự

“thể nghiệm” hơn là một sự lập thuyết. Nếu chúng ta nhìn sang những bài nghị luận

của các thành viên Tự lực văn đoàn – một thể loại thể hiện quan điểm một cách trực

tiếp hơn – thì sẽ có thể thấy nhận định của Lê Thị Dục Tú là hợp lý, bởi trong những

bài viết ở dạng nghị luận, họ chưa bao giờ tuyệt đối hóa tự do cá nhân mà thờ ơ với

những vấn đề chung của cộng đồng. Trong bài viết “Quyền sống của mỗi nước” năm

1939, Hoàng Đạo đã khẳng định: “Cũng như một người, nước có quyền sống. Sống,

đối với “nước”, có nghĩa rộng như đối với người. Sống, không phải là chỉ ăn, và uống.

Sống, còn nghĩa là có đủ tự do để tự quyết lấy vận mệnh của mình, tự vạch lấy đường

đi, tự đạt lấy mục đích đã định. Sống, nghĩa là được tự lập, hoàn toàn tự lập” [37,

tr.10]. Trong trường hợp này, rõ ràng Hoàng Đạo đã mở rộng mối quan tâm từ tự do cá

nhân đến tự do cho dân tộc. Đó cũng là xu hướng vận động không tránh khỏi của lịch

sử tư tưởng Việt Nam trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc nửa đầu thế kỷ XX.

4.4. Đặc điểm, ý nghĩa và hạn chế chủ yếu trong quan niệm về con người cá nhân

của nhóm trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến ở Việt Nam nửa đầu thế

kỷ XX

4.4.1. Những đặc điểm chủ yếu

Đặt trong sự đối sánh với quan niệm của nhóm trí thức tân học theo khuynh

hướng phục cổ, quan niệm của những trí thức cấp tiến thể hiện một diện mạo hoàn

toàn khác biệt, với những đặc điểm phản ánh sự đối lập trên từng phương diện.

Thứ nhất, đặc điểm nổi bật nhất trong những bàn luận về địa vị của con người

cá nhân của các trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến, từ Nguyễn An Ninh,

Phan Khôi đến nhóm Tự lực văn đoàn, là sự khẳng định tính độc lập, giá trị và ý nghĩa

157

tự thân của cá nhân thông qua sự phê phán truyền thống, bao gồm cả tư tưởng truyền

thống và những thiết chế truyền thống, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến chế độ gia

đình. Họ không đem con người cá nhân đối lập với xã hội, nhưng họ xuất phát từ chỗ

thừa nhận con người cá nhân như một tồn tại có ý nghĩa. Điều đó là hoàn toàn đối lập

với những nhân vật như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, vốn nhấn mạnh đến ý nghĩa

của gia đình trong việc giữ lấy sự cân bằng cho con người cá nhân trong xã hội hiện

đại. Mặt khác, việc nhấn mạnh đến tính hiện thực, đến sức mạnh của con người cá

nhân của họ cũng đối lập với cả khuynh hướng đưa con người trở lại “toàn thể”, với

chủ trương vô ngã của Nguyễn Duy Cần.

Thứ hai, khi đưa ra quan niệm về quyền lợi cá nhân, các nhà trí thức tân học

cấp tiến đều bắt đầu từ sự thừa nhận tính chính đáng, hợp lý của quyền lợi cá nhân và

sự quan tâm đến quyền lợi cá nhân. Đối với họ, việc đòi hỏi, theo đuổi, hay đấu tranh

cho quyền lợi cá nhân hoàn toàn không phải là biểu hiện của sự suy thoái về mặt đạo

đức như những người phục cổ quan niệm, mà trái lại, là biểu hiện của sự tiến bộ. Do

đó, thay vì kêu gọi người dân Việt Nam quên đi quyền lợi cá nhân, họ không ngại đặt

ra yêu cầu rằng người dân Việt Nam cần biết đến và nhận thức được về quyền lợi của

mình thay vì chỉ biết phục tùng một chiều, và coi sự nhận thức về quyền lợi cá nhân là

điều kiện để phá bỏ mọi sự áp chế mà người Việt Nam đang phải chịu. Đặc điểm này

xuất phát từ việc tiếp nhận tư tưởng khai sáng Pháp với luận điểm nền tảng về sự bình

đẳng quyền lợi giữa các cá nhân được kết tinh trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân

quyền năm 1791. Nhưng đặt trong bối cảnh Việt Nam, khi quyền lợi của cá nhân gắn

bó chặt chẽ với quyền lợi của dân tộc, thì sự khẳng định tính chính đáng của quyền lợi

cá nhân trong quan niệm của các nhà trí thức cấp tiến cũng nhanh chóng trở thành sự

khẳng định yêu cầu đòi hỏi quyền lợi cho toàn dân tộc.

Thứ ba, khi bàn về vấn đề tự do cá nhân, các nhà trí thức tân học theo khuynh

hướng cấp tiến đã bộc lộ rất rõ tính tranh đấu của mình. Đặc điểm này đối lập với tính

hướng nội mà chúng tôi đã chỉ ra trong quan niệm về tự do cá nhân của các nhà trí

thức phục cổ. Những người phục cổ không coi trọng đấu tranh, thay vào đó, họ hướng

con người tìm tự do cá nhân trong thế giới nội cảm, bằng con đường phản tỉnh bản

thân. Những người cấp tiến, trái lại, nhận thức một cách rõ ràng rằng, con đường để

đạt được tự do cá nhân chỉ có thể là con đường tranh đấu, tranh đấu với những thiết

chế cổ truyền đang đè nặng lên vai của mỗi cá nhân, tranh đấu với những thế lực chính

158

trị đang bóp nghẹt tự do cá nhân. Cách thức và mức độ tranh đấu ở mỗi người trong số

họ có thể không đồng nhất, nhưng tinh thần dấn thân vào cuộc đấu tranh chung của

dân tộc ở họ là thống nhất. Điều này lý giải tại sao những nhà trí thức thuộc nhóm này

về sau đều lựa chọn con đường phảng kháng với triều đình Huế và chính quyền thực

dân theo những cách khác nhau, đồng thời cũng lý giải tại sao nhiều người trong số họ

đã chuyển sang lập trường mácxít và nhanh chóng tìm được tiếng nói chung với những

người cộng sản.

Như vậy, sự đối lập trong quan niệm của các đại biểu trí thức cấp tiến đương

thời về con người cá nhân so với quan niệm của các đại biểu trí thức phục cổ phản ánh

bức tranh tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX, khi các trào lưu tư tưởng phương Tây về

con người thâm nhập vào Việt Nam. Sự đối lập đó là một tất yếu lịch sử, bởi lẽ, đầu

thế kỷ XX, sự du nhập của văn hóa phương Tây vào Việt Nam đã kéo theo sự tiếp biến

văn hóa, trong đó có sự xung đột văn hóa Đông – Tây. Tuy nhiên, theo chúng tôi,

trong sự tiếp biến ấy, tư tưởng về con người cá nhân theo tinh thần cấp tiến đã để lại

dấu ấn đáng kể, một mặt nó khắc phục được tính bảo thủ, trì trệ của các học thuyết

triết học truyền thống, đặc biệt là sự kìm hãm tự do cá nhân, và mặt khác, nó tạo điều

kiện để chúng ta tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách hiệu quả hơn

theo tinh thần của C.Mác: “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát

triển tự do của tất cả mọi người”.

4.4.2. Ý nghĩa đương thời

Sau những nỗ lực của nhóm trí thức Nam kỳ trong việc khẳng định vị thế của

con người cá nhân, đến những năm 30 của thế kỷ XX, có thể nói khuynh hướng cấp

tiến trong quan niệm về vấn đề con người cá nhân đã chiếm ưu thế. Mặc dù những

quan niệm mang tính phục cổ vẫn tiếp tục được duy trì cho đến những năm 40, nhưng

người Việt Nam khi đó nhìn chung đều bị hấp dẫn bởi những luận điểm đầy sức mạnh

của nhóm trí thức cấp tiến. Sự đề cao con người cá nhân của họ đã nhận được sự

hưởng ứng của đông đảo cư dân thành thị, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Mặt khác,

tính tranh đấu quyết liệt của những quan niệm ấy, cùng với việc nó không chỉ tập trung

vào con người cá nhân, mà nhanh chóng mở rộng ra xã hội, dân tộc, với biểu hiện trên

thực tế là nhiều trí thức cấp tiến đã đưa mình vào trong những cuộc đấu tranh đòi

quyền lợi, đòi tự do, dân chủ cho người Việt Nam dưới nhiều khuynh hướng khác

nhau, từ dân tộc cách mạng đến chủ nghĩa cộng sản, đã thực sự lôi cuốn sự tin theo của

159

đông đảo tầng lớp dân chúng. Vì vậy, xét về mặt lịch sử, quan niệm về vấn đề con

người cá nhân của tầng lớp trí thức cấp tiến có những ý nghĩa hết sức sâu sắc đối với

xã hội đương thời.

Thứ nhất, quan niệm của những nhà trí thức tân học cấp tiến đã thực sự tạo nên

một bước ngoặt trong tư tưởng của người Việt về vấn đề con người cá nhân. Sự xuất

hiện của những quan niệm mang tính cấp tiến đã lật ngược hầu như toàn bộ quan niệm

truyền thống về vấn đề này. Ở trên chúng tôi đã từng chỉ ra, trong xã hội Việt Nam

truyền thống, con người cá nhân bị chìm lấp trong cộng đồng, ở phạm vi nhỏ là gia

đình, rộng lớn hơn là làng xã, mỗi cá nhân luôn là một tồn tại “với tư cách là”. Đó là

điều mà hầu hết những nhà khảo cứu văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX đều đã nhận ra.

Nguyễn Văn Huyên chỉ ra rằng: “Cá nhân chỉ là một bộ phận bé nhỏ của gia đình, và

dễ bị thu hút vào trong gia đình. Trong tình thế này, cá nhân không biểu lộ nổi các

phẩm chất và tình cảm của riêng mình. Người ta bị chìm ngập hoàn toàn trong gia đình”

[52, tr.80]. Cùng chung nhận định, Đào Duy Anh cho rằng: “địa vị gia đình ở trong xã

hội là tối trọng, mà cá nhân chỉ là những phần tử vô danh ở trong gia đình thôi. Cái kết

quả rõ ràng của chế độ ấy là khiến cá tính của người không thể nào phát triển ở trong

phạm vi gia đình được” [1, tr.131]. Những nhà trí thức cấp tiến đã tiến hành một cuộc

lật đổ nhằm vào truyền thống ấy, họ tách con người cá nhân ra khỏi những cộng đồng

mà nó bị gắn vào, họ chĩa mũi nhọn vào tổ chức của đại gia đình, của chế độ quân chủ,

để khẳng định tính độc lập của con người cá nhân, cấp cho nó quyền lợi và sự tự do

lựa chọn.

Tất nhiên, nói như vậy không có nghĩa là trước đó, người Việt Nam chưa có

quan niệm về con người cá nhân. Nếu nhìn nhận con người cá nhân đơn thuần như một

cá thể người đơn độc, thì quả là trong lịch sử, nhiều nhà tư tưởng Việt Nam đã có ý

thức về con người cá nhân. Họ bàn về con người cá nhân, về sự tu dưỡng cá nhân hay

thân phận cá nhân thông qua những khái niệm như “thân”, “kỷ”, “ngã” v.v… Nhiều

người trong số họ còn đạt đến nhận thức về tính độc đáo của cá nhân, chẳng hạn,

chúng ta đều biết Nguyễn Công Trứ (1778-1858) đã từng có những phát ngôn thể hiện

ý thức sâu sắc về sự khác biệt, về cá tính của cá nhân: “trong triều ai ngất ngưởng như

ông” (Bài ca ngất ngưởng). Con người cá nhân của Nguyễn Công Trứ đôi lúc còn là

thứ con người cá nhân vượt ra ngoài quy phạm, thách thức quy phạm, vượt lên trên

mọi khen chê phán xét của thế gian: “Được mất dương dương người tái thượng/Khen

160

chê phơi phới ngọn đông phong”. Tuy nhiên, xét về bản chất, con người cá nhân trong

tư tưởng truyền thống, dù cao ngạo đến mấy, cũng luôn luôn có một khuôn phép được

định sẵn để định hình bản thân. Cho nên, Nguyễn Công Trứ có tự cho mình là “ngất

ngưởng”, rốt cuộc cũng không đi ra ngoài ý thức về “nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ

chung”. Chúng ta sẽ không thấy được điều này trong quan niệm về vấn đề con người

cá nhân của những nhà trí thức tân học cấp tiến. Con người cá nhân, đối với họ, không

chịu sự ràng buộc của thứ khuôn phép nào, nó không những có tính độc đáo, mà còn

có tính độc lập, thể hiện ở chỗ tự thân nó đã là một tồn tại có ý nghĩa.

Mặt khác, con người cá nhân trong quan niệm của những nhà trí thức cấp tiến là

cá thể người với tư cách chủ thể của tự do và quyền lợi. Quan niệm truyền thống, nếu

có nói đến tự do cá nhân, thì đó chỉ là tự do nội tại, chứ không bàn đến tự do ngoại tại,

gắn với các quyền tự do cụ thể. Các nhà tư tưởng truyền thống cũng có quan tâm đến

thân phận cá nhân, hạnh phúc cá nhân, thể hiện sự đồng cảm với nhu cầu chính đáng

của cá nhân, nhưng chưa từng đặt ra vấn đề mỗi một cá nhân đều có những quyền lợi

không ai xâm phạm được. Những nhà trí thức phục cổ mặc dù đã ít nhiều tiệm cận đến

những quan niệm cận đại về con người cá nhân, nhưng về cơ bản cũng vẫn là đứng

trên tinh thần truyền thống để nhìn nhận và bàn luận. Rõ ràng, quan niệm về vấn đề

con người cá nhân của những nhà trí thức tân học cấp tiến, dù xét trên ý nghĩa nào,

cũng đều thể hiện một bước chuyển đổi về chất trong sự phát triển của tư tưởng người

Việt, nó vượt qua những quan niệm phổ biến của xã hội truyền thống, vượt qua những

quan niệm tiến bộ của các nhà tư tưởng thời trung đại, đồng thời cũng vượt qua chính

những nhà tư tưởng theo khuynh hướng phục cổ cùng thời. Ở một chừng mực nào đó,

cũng có thể nói rằng, những nhà trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến chính là

những người đã đánh thức con người cá nhân ở Việt Nam.

Thứ hai, quan niệm về vấn đề con người cá nhân của những nhà trí thức theo

khuynh hướng cấp tiến đã mở đường cho sự phát triển bùng nổ của một loạt loại hình

văn hóa như văn học, âm nhạc v.v… Những năm 30, khi quan niệm về vấn đề con

người cá nhân của nhóm cấp tiến đã xác lập sự thắng thế của mình so với những quan

niệm phục cổ, cũng chính là thời điểm chúng ta được chứng kiến một sự phát triển hết

sức phong phú của thơ ca, tiểu thuyết, mỹ thuật, âm nhạc. Một mặt, những quan niệm

mới về vấn đề con người cá nhân của nhóm trí thức cấp tiến đã tạo nên những biến đổi

sâu sắc trong đời sống tinh thần của người Việt nói chung, người nghệ sĩ đương thời

161

nói riêng, từ đó, cấp thêm cho người nghệ sĩ những nội dung, những mối quan tâm

chưa từng xuất hiện trong văn học, nghệ thuật truyền thống. Hoài Thanh và Hoài Chân

đã chỉ ra một cách chính xác lô-gích đó khi nhìn lại sự phát triển của phong trào Thơ

Mới: “Nhưng cuộc Âu hóa không phải chỉ có thế. Nó đã đi qua hai giai đoạn: hình

thức và tư tưởng; nó còn phải đi qua một giai đoạn nữa. Nó đã thay đổi những tập

quán sinh hoạt hàng ngày, nó đã thay đổi cách ta vận động tư tưởng, tất nó sẽ thay đổi

cả cái nhịp rung cảm của ta nữa (…) Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong

hồn ta” [113, tr.21]. Ở đây, sự biến đổi về tư tưởng chính là tiền đề cho sự biến đổi

trong đời sống tình cảm của mỗi con người, quan niệm về vấn đề con người cá nhân

của nhóm trí thức cấp tiến tất nhiên sẽ dẫn đến sự biến đổi theo hướng ngày càng

mang tính cá nhân hóa trong đời sống tâm tư, tình cảm của người Việt, mà chính đời

sống tâm tư, tình cảm ấy lại là chất liệu cho một nền thơ ca mới.

Mặt khác, quan niệm đề cao con người cá nhân mà các nhà trí thức cấp tiến

mang lại đã đánh thức cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ Việt Nam đương thời, mở ra

cho họ những khả năng, những triển vọng sáng tạo khác nhau vượt ra ngoài khuôn khổ

của các loại hình văn học, nghệ thuật truyền thống. Đây là cơ sở cho sự đổi mới trong

sáng tạo nghệ thuật, cũng là cơ sở cho sự phong phú, đa dạng trong đời sống nghệ

thuật ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Thời kỳ này, trong lĩnh vực văn học, chúng ta

thấy xuất hiện thơ mới, tiểu thuyết mới, trong lĩnh vực âm nhạc, chúng ta cũng thấy

xuất hiện tân nhạc, kể cả trong lĩnh vực mỹ thuật, thời trang, cũng đều xuất hiện những

yếu tố mới. Trên thực tế, bản thân những nhà trí thức cấp tiến cũng tham gia một cách

tích cực vào việc thúc đẩy những sự đổi mới trong các lĩnh vực nghệ thuật. Phan Khôi

là một trong những nhân vật mở màn cho sự ra đời của Thơ Mới. Ông chưa bao giờ là

một nhà thơ lớn, bài thơ “Tình già” - một thử nghiệm trong việc sáng tác thơ ca theo

lối mới - của ông cũng không hẳn là một bài thơ được đón nhận đương thời, nhưng

điều quan trọng hơn cả là nguồn cảm hứng về ý thức cá nhân, về sự phá vỡ quy phạm

mà ông mang lại khi đưa ra một sự định hình cho lối thơ mới: “Đem ý thật có trong

tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần, mà không phải bó buộc bởi những niệm

luật gì hết” [65]. Trong khi đó, nhóm Tự lực văn đoàn cũng có mối liên hệ sâu sắc với

sự phát triển của phong trào Thơ Mới. Bên cạnh ý nghĩa mở đường về mặt tư tưởng,

bản thân một số nhân vật của nhóm như Thế Lữ, Xuân Diệu cũng đồng thời là những

nhà thơ cự phách của Thơ Mới. Báo Phong Hóa, Ngày Nay cũng là bệ đỡ cho nhiều

162

nhà thơ lớn khác thời kỳ này, mà tinh thần Thơ Mới không gì khác hơn là ý thức về cái

tôi. Không những vậy, tờ Phong Hóa, Ngày Nay còn là nơi ủng hộ và nuôi dưỡng

những sáng tạo trong lĩnh vực âm nhạc, thời trang. Phong Hóa là nơi họa sĩ Cát Tường

công bố những mẫu thiết kế trang phục mới, còn Ngày Nay là nơi công bố những sáng

tác đầu tiên của nền âm nhạc mới. Sau khi đăng một vài bản nhạc mới của Nguyễn

Xuân Khoát, Nguyễn Văn Tuyên, trên tờ Ngày Nay số 124 (1938) đã có một bài tuyên

bố sự ủng hộ của tờ báo này đối với nền âm nhạc mới, trong đó có đoạn: “Báo Ngày

Nay đã nhận lấy cái vinh hạnh đầu tiên công bố những tác phẩm ban đầu của nền âm

nhạc đổi mới; báo Ngày Nay sẽ là một thứ đài triển lãm cho những bài âm nhạc khác,

là một diễn đàn để các bạn bày tỏ ý kiến và là một khách thính phong nhã để các nhạc

sĩ các nơi gặp nhau” [88, tr.18]. Ở đây, tính mới, tính phản quy phạm, tính đa dạng của

sáng tác âm nhạc được hết sức đề cao. Có thể thấy, quan niệm về vấn đề con người cá

nhân của những trí thức theo khuynh hướng cấp tiến đã có tác động một cách sâu sắc,

trực tiếp theo hướng ngày càng gia tăng tính cá nhân hóa trong cả nội dung (nói như

Phan Khôi, là “đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra”) cũng như hình thức biểu

hiện (“không phải bó buộc bởi những niêm luật”) của nhiều loại hình nghệ thuật, qua

đó thúc đẩy sự biến đổi mang tính căn bản của những loại hình nghệ thuật này.

Thứ ba, những quan niệm về vấn đề con người cá nhân của nhóm trí thức tân

học theo khuynh hướng cấp tiến không những có tác động về mặt văn hóa, mà còn có

tác động to lớn về mặt xã hội. Một đặc điểm quan trọng của những quan niệm cấp tiến

về con người cá nhân là tính hướng về hiện thực và tính hướng ngoại của nó. Do

hướng về hiện thực, họ không cố gắng níu kéo những giá trị cũ trong quá khứ như

những gì mà nhóm trí thức tân học phục cổ chủ trương, mà trái lại, họ hướng đến phá

vỡ những trật tự mà họ cho là bất hợp lý trong thực tại, nỗ lực xác lập nên những lý

tưởng riêng cho mình và cho thế hệ mình. Do tính hướng ngoại, họ không bằng lòng

với việc quay về tự phản tỉnh để tìm kiếm tự do nội tại, mà họ hướng đến việc giải

phóng cá nhân và sau đó là xã hội, dân tộc ra khỏi những kìm kẹp của các thiết chế

truyền thống cũng như của chế độ thực dân. Chủ trương đó của họ hiển nhiên tạo nên

một sức tác động về mặt xã hội mạnh mẽ hơn so với những người phục cổ. Nếu như

bài diễn thuyết của Nguyễn An Ninh đã có sức lay động mạnh mẽ đến tầng lớp thanh

niên trí thức Sài Gòn những năm 20, nếu như những bài viết của Phan Khôi đã gây nên

nhiều chấn động trên văn đàn những năm 20, 30, thì tờ Phong Hóa, Ngày Nay của Tự

163

lực văn đoàn cũng trở thành những tờ báo có số lượng phát hành lớn ở Bắc kỳ những

năm 30, thậm chí tờ Phong Hóa ở thời điểm 1934 còn được đánh giá là tờ báo bán

chạy nhất Đông Dương với lượng phát hành gần 10.000 bản mỗi số [xem 66]. Mặt

khác, bản thân những nhà trí thức cấp tiến cũng tự mình trở thành những nhà hoạt

động xã hội theo những cách khác nhau. Nguyễn An Ninh trở thành một nhân vật nổi

bật trong đời sống chính trị ở Nam kỳ, với những hoạt động tranh đấu quyết liệt với

thực dân Pháp nhằm đòi hỏi tự do cho cá nhân và cho dân tộc trong chế độ thuộc địa.

Tầng lớp thanh niên Sài Gòn khi đó coi ông như một thần tượng, trong khi thực dân

Pháp coi ông như một kẻ đối đầu nguy hiểm. Những hoạt động của ông có thể nói là

đã thức tỉnh cả một thế hệ thanh niên trí thức. Nhóm Tự lực văn đoàn, bên cạnh những

hoạt động văn hóa, cũng từng bước dấn thân vào con đường hoạt động chính trị, xã hội.

Họ đã tham gia vào cuộc vận động dân chủ những năm 1936 – 1939, với mục đích đòi

hỏi những quyền tự do cơ bản cho người Việt, họ cũng là những người lập nên đoàn

Ánh sáng, một tổ chức hướng đến sự cải cách xã hội mà đặc biệt là cải cách nếp sống

ở nông thôn. Nhìn chung, đây đều là những hoạt động xã hội phái sinh trên cơ sở một

tư tưởng đã được xác lập một cách chắc chắn về vấn đề con người cá nhân.

Bên cạnh đó, cũng ở khía cạnh tác động xã hội, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh

mối liên hệ giữa những quan niệm của nhóm trí thức tân học cấp tiến về vấn đề con

người cá nhân với phong trào giải phóng phụ nữ ở Việt Nam thời điểm đó. Giải phóng

cá nhân và giải phóng phụ nữ là hai vấn đề khác nhau, nhưng ở Việt Nam nửa đầu thế

kỷ XX, đây là hai vấn đề có mối liên hệ mật thiết, thậm chí đôi khi đan xen vào nhau,

nói về giải phóng phụ nữ cũng chính là nói về giải phóng cá nhân và ngược lại. Chính

vì thế, quan niệm của những nhà trí thức cấp tiến về vấn đề con người cá nhân cũng có

ý nghĩa to lớn đối với phong trào giải phóng phụ nữ thời kỳ này. Nguyễn An Ninh,

Phan Khôi hay Tư lực văn đoàn đều có những bài viết ủng hộ sự giải phóng phụ nữ,

Phan Khôi thậm chí còn có một sự nghiệp gắn với những tờ báo phụ nữ, đặc biệt là

Phụ nữ tân văn, Tự lực văn đoàn thường xuyên lấy hình tượng người phụ nữ làm nhân

vật trung tâm trong các tác phẩm phản kháng lễ giáo phong kiến của mình. Thực ra,

việc những người ủng hộ giải phóng cá nhân cũng đồng thời có những hoạt động ủng

hộ giải phóng phụ nữ cũng là điều có thể hiểu được, bởi lẽ, nếu như trong xã hội

truyền thống, cá nhân chỉ có một địa vị phụ thuộc vào những tổ chức lớn hơn như gia

đình, dòng tộc, làng xã v.v... thì địa vị của một người phụ nữ với tư cách cá nhân còn

164

nhỏ bé hơn nữa. Người phụ nữ luôn luôn nằm ở thế phải tuân phục, dù trong mối quan

hệ nào: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, vì vậy, để giải phóng cá nhân một cách triệt

để, không một hình ảnh nào có thể mang tính biểu trưng hơn việc một người phụ nữ

được giải phóng. Xét từ ý nghĩa này, những nhân vật nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn

đoàn thực chất chính là những hình ảnh đại diện cho một cá nhân trong cuộc đối chọi

với gia đình truyền thống. Trên thực tế, trong nửa đầu thế kỷ XX, người phụ nữ Việt

Nam, nhất là những người sống ở các đô thị, đã từng bước tự khẳng định vị thế của

mình trong xã hội. Họ đã tham gia một cách tích cực và các hoạt động văn hóa, xã hội,

nhiều người đã tạo dựng được tên tuổi cho mình. Mặt khác, lối sống, phong cách của

người phụ nữ đô thị cũng có những thay đổi theo hướng đề cao con người cá nhân. Sự

chuyển đổi này có thể xem là một bước tiến trong tiến trình giải phóng phụ nữ ở Việt

Nam, mà một trong những nhân tố tác động quan trọng chính là sự phát triển của

những quan niệm khẳng định tính độc lập, tự chủ của con người cá nhân, đề cao quyền

lợi và tự do cá nhân mà những nhà trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến đã đưa ra.

Tất nhiên, mặc dù cùng được xem là những trí thức tân học cấp tiến, kỳ thực

mỗi người trong số họ lại có những con đường đi riêng của mình, không hoàn toàn

thống nhất với nhau, có người nghiêng theo khuynh hướng cộng sản, cũng có người

theo nghiêng khuynh hướng dân tộc, thậm chí ngay trong cùng một nhóm như Tự lực

văn đoàn, sau này các thành viên cũng rẽ theo những ngả khác nhau. Nhưng dù chung

cuộc họ đi theo con đường nào, thì nhìn một cách tổng thể, chúng tôi cho rằng, quan

niệm của họ về vấn đề con người cá nhân là những quan niệm tiến bộ ở những mức độ

khác nhau, phù hợp với xu thế vận động của thời đại, và vì vậy mà có ý nghĩa thúc đẩy

đối với sự phát triển của đời sống tư tưởng, văn hóa, xã hội ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX theo hướng hiện đại hóa.

4.4.3. Ý nghĩa hiện thời

Bên cạnh ý nghĩa lịch sử không thể phủ nhận, quan niệm về vấn đề con người

cá nhân của những nhà trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến cũng chứa đựng ý

nghĩa gợi mở nhất định cho xã hội Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất, quan niệm của họ về việc khẳng định tính chính đáng của quyền lợi

cá nhân và cổ vũ cho sự tự do cá nhân chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý, tiến bộ, phù

hợp với yêu cầu đảm bảo quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong

xã hội hiện đại. Trên thực tế, sau Cách mạng Tháng Tám 1945, đất nước đã bước sang

165

một thời kỳ mới. Những quyền lợi căn bản của cá nhân và sự tự do của cá nhân, khát

vọng mà những người trí thức cấp tiến nửa đầu thế kỷ XX hướng đến, đã được ghi

nhận một cách rõ ràng trong Hiến pháp, từ bản Hiến pháp năm 1946 đến bản Hiến

pháp năm 2013. Nhưng cũng có những giai đoạn, quyền lợi và sự tự do của cá nhân

chưa được quan tâm một cách đúng mức, dẫn đến sự khủng hoảng kéo dài trong xã hội

và sự bất bình trong quần chúng. Nếu như tinh thần hi sinh quyền lợi và tự do cá nhân

vì quyền lợi và tự do của toàn dân tộc chính là tinh thần đã làm nên Cách mạng Tháng

Tám, làm nên thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế

quốc Mỹ, thì sau khi chiến tranh kết thúc, việc tiếp tục nhấn mạnh tinh thần hi sinh ấy

lại tỏ ra không còn phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước trên mọi phương

diện. Từ khi đất nước thống nhất cho đến trước thời kỳ Đổi mới, về mặt kinh tế, xã hội,

chủ trương của Đảng vẫn là “chú trọng đến lợi ích của toàn xã hội và của tập thể, còn

bản thân lợi ích cá nhân của người lao động không được chú ý thỏa đáng” [43, tr.408],

trong khi trong lĩnh vực văn hóa, tự do sáng tạo của cá nhân người nghệ sĩ cũng ít

nhiều bị thu hẹp, như nhà văn Nguyễn Minh Châu chỉ ra trong bài viết của mình trên

báo Văn nghệ năm 1987:

Tôi không hề nghĩ rằng mấy chục năm qua nền văn học cách mạng – nền

văn học ngày nay có được là nhờ bao nhiêu trí tuệ, mồ hôi và cả máu của

bao nhiêu nhà văn – không có những cái hay, không để lại được những tác

phẩm chân thực. Nhưng về một phía khác, cũng phải nói thật với nhau rằng:

mấy chục năm qua, tự do sáng tác chỉ có đối với lối viết minh họa, văn học

minh họa, với những cây bút chỉ quen với công việc cài hoa, kết lá, vờn

mây cho những khuôn khổ đã có sẵn mà chúng ta quy cho đấy đã là tất cả

hiện thực đời sống đa dạng và rộng lớn [162].

Việc quên đi lợi ích cá nhân khiến cho tính tích cực của cá nhân không được

khuyến khích, sản xuất trở nền trì trệ, trong khi việc thu hẹp tự do sáng tạo cũng đồng

thời hạn chế sự phát triển của nền văn học, nghệ thuật nước nhà, như thực tế đã cho

thấy. Vì vậy, việc đổi mới tư duy, quan tâm đến quyền lợi cá nhân, đảm bảo sự tự do

cho cá nhân là một yêu cầu tất yếu. Công cuộc Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam

khởi xướng từ năm 1986 đã khắc phục được tình trạng đó, lợi ích của cá nhân được

chú trọng trong sự hài hòa với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội [41, tr.413], sự tự do

ngôn luận, tự do sáng tạo của cá nhân được bảo vệ, làm tiền đề cho những thành tựu

166

quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa v.v... Điều đó cho thấy, quan

niệm coi trọng quyền lợi và tự do cá nhân mà những nhà trí thức tân học khởi xướng

trong những năm đầu thế kỷ XX vẫn có thể có những giá trị tham khảo cho hiện tại.

Những luận điểm của họ về tính chính đáng của quyền lợi cá nhân, về yêu cầu coi

trọng tự do cá nhân, mặc dù được xây dựng trên bối cảnh xã hội cụ thể của những năm

đầu thế kỷ XX, vẫn có tính hợp lý nhất định cho thời đại ngày nay.

Thứ hai, sự đề cao tính độc lập, tự chủ, giá trị của con người cá nhân trong quan

niệm của những nhà trí thức cấp tiến phản ánh ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm

của cá nhân đối với xã hội, cũng như tinh thần dấn thân mãnh liệt của cá nhân vào xã

hội của một thế hệ trí thức người Việt, có thể khơi dậy nguồn cảm hứng cho khát vọng

lập thân, cống hiến của thế hệ thanh niên trí thức ở thời điểm hiện tại. Đối lập với xu

hướng đè nén con người cá nhân trước thời kỳ Đổi mới, bản thân sự đề cao con người

cá nhân nhiều khi lại có xu hướng phát triển một cách lệch lạc thành thứ chủ nghĩa cá

nhân vị kỷ. Đó là thứ chủ nghĩa cá nhân mà Hồ Chí Minh từng cảnh báo: “Họ mang

nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ

không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình” [87, tr.438]. Cho đến

ngày nay, thứ tâm lý “chủ nghĩa cá nhân” đó vẫn còn tồn tại dai dẳng, không chỉ trong

đội ngũ cán bộ, đảng viên như Hồ Chí Minh từng cảnh báo, mà còn trở thành một thứ

tâm lý khá phổ biến trong xã hội, khiến cho sự khẳng định con người cá nhân bị quy

giản về việc theo đuổi và vun vén cho lợi ích cá nhân. Dĩ nhiên, việc theo đuổi lợi ích

cá nhân vẫn là một việc chính đáng mà bản thân các nhà trí thức tân học cấp tiến đầu

thế kỷ XX cũng đã từng lên tiếng bảo vệ, nhưng khi nó được đồng nhất với sự khẳng

định cá nhân, thì sự phát triển cá nhân rơi vào phiến diện. Các nhà trí thức tân học nửa

đầu thế kỷ XX hết sức đề cao con người cá nhân, nhưng trong quan niệm của họ, con

người cá nhân tự khẳng định mình không đơn thuần bằng việc chạy theo quyền lợi của

bản thân nó, cái làm nên vị thế độc lập của cá nhân, cái khẳng định bản sắc cá nhân

nằm ở việc xác lập lý tưởng của mỗi cá nhân. Họ thúc giục tầng lớp thanh niên đương

thời xác lập nên lý tưởng cho bản thân mình và dấn thân cho những lý tưởng đó. Bài

diễn thuyết “Lý tưởng của thanh niên An Nam” của Nguyễn An Ninh hay loạt bài

“Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo” đều không nằm ngoài mục đích đó. Ngày nay

đọc lại những tác phẩm này, chúng ta vẫn có thể tìm thấy trong đó nguồn cảm hứng

cho sự khẳng định con người cá nhân trong xã hội đương đại.

167

Bên cạnh đó, cũng cần phải thấy rằng, nhiều nhà trí thức cấp tiến đã nhắc đến

“chủ nghĩa cá nhân”, thậm chí công khai ủng hộ nó, như Phan Khôi, Tự lực văn đoàn,

nhưng sự đề cao con người cá nhân trong quan niệm của họ hàm chứa một ý thức cao

độ về sự tham gia của cá nhân vào xã hội, chứ không phải là đem đối lập cá nhân với

xã hội, và vì thế, nó khác với thứ tâm lý chủ nghĩa cá nhân vị kỷ đang tồn tại một cách

tương đối phổ biến trong xã hội hiện nay. Vì vậy, sự đề cao cá nhân của những nhà trí

thức cấp tiến nửa đầu thế kỷ XX thể hiện một thái độ sống hết sức tích cực, mà ở đó,

mỗi cá nhân sau khi đã có ý thức sâu sắc về địa vị của bản thân, sẽ đồng thời ý thức

được ý nghĩa của bản thân trong xã hội, và tự nhiên thấy được trách nhiệm của mình

trong xã hội. Thứ ý thức đó phát triển thêm một bước sẽ dẫn tới tinh thần sẵn sàng hi

sinh cá nhân vì xã hội, dựa trên nhận thức về mối liên hệ mật thiết giữa cá nhân và xã

hội, như những gì chúng ta đã thấy ở Nguyễn An Ninh. Hiện nay, chúng ta bàn nhiều

về vấn đề trách nhiệm xã hội, chúng tôi cho rằng, một thái độ sống tích cực hướng đến

sự hài hòa giữa cá nhân và xã hội như những gì các nhà trí thức tân học cấp tiến chủ

trương là một thái độ hợp lý và cần được nuôi dưỡng trong thời đại ngày nay, khi mà

cá nhân đôi khi có xu hướng khẳng định mình bằng cách tự đối lập nó với xã hội.

4.4.4. Hạn chế chủ yếu

Với những ý nghĩa nêu trên, khuynh hướng cấp tiến trong quan niệm về con

người cá nhân xét về tổng thể có thể được xem như khuynh hướng chủ lưu, tiêu biểu

cho tinh thần của thời đại, dẫu vậy, quan niệm của các nhà trí thức thuộc khuynh

hướng này cũng có những hạn chế của nó. Một trong những hạn chế quan trọng là,

những người theo khuynh hướng cấp tiến đôi khi thể hiện một thái độ quá cứng rắn đối

với truyền thống. Mặc dù ở trên chúng tôi đã chỉ ra, những nhà trí thức tân học thuộc

nhóm này không phủ nhận một cách sạch trơn những di sản văn hóa truyền thống khi

đưa ra yêu cầu giải phóng cá nhân khỏi những ràng buộc từ quá khứ, nhưng cũng có

lúc họ đưa ra sự chỉ trích quá nặng nề đối với truyền thống, và khi đặt những biện luận

về con người cá nhân trong ngữ cảnh của sự tiếp xúc văn hóa Đông – Tây, thì một số

người lại có xu hướng đối lập một cách triệt để hai nền văn hóa Đông – Tây. Chúng ta

có thể thấy điều này trong quan niệm của Phan Khôi. Khi Phan Khôi xem sự đối lập

trong quan niệm về con người cá nhân là một trong những biểu hiện của sự đối lập

giữa hai nền văn hóa Đông – Tây, ông cũng đồng thời cho rằng, sự đối lập giữa hai

nền văn hóa Đông – Tây là không thể hòa giải, và người Việt Nam chỉ có một lựa chọn

168

là phải “Tây hóa” một cách toàn diện. Nhóm Tự lực văn đoàn tuy không đưa ra những

phát ngôn có tính cực đoan như Phan Khôi, nhưng cũng từng chỉ ra sự đối lập có tính

bài trừ lẫn nhau giữa Nho giáo với chủ trương giải phóng cá nhân, và trên hai tờ

Phong Hóa, Ngày Nay, Nho giáo không ít lần trở thành đối tượng cho sự giễu nhại,

châm biếm. Tất nhiên, nếu đặt trong bối cảnh cụ thể của thời đại, một phản ứng có

phần quyết liệt với truyền thống như vậy là điều có thể lý giải, và ở một khía cạnh nào

đó, cũng là không tránh khỏi. Bởi khi hiện đại hóa đất nước trở thành một nhu cầu bức

thiết, thì một thái độ dứt khoát với truyền thống, dù đôi khi bị đẩy lên mức cực đoan,

cũng có vai trò nhất định trong việc loại bỏ những tàn dư tiêu cực của nền văn hóa cựu

truyền và góp phần nâng việc tiếp nhận văn hóa phương Tây lên một tầm mức mới.

Nhưng dù thế nào, theo chúng tôi, quan niệm về vấn đề con người cá nhân của

những nhà trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến không những chứa đựng những

giá trị tiến bộ đối với xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, mà nhiều luận điểm trong

đó vẫn còn giữ nguyên tính hợp lý khi đặt vào bối cảnh xã hội hiện đại. Vấn đề con

người cá nhân của thời hiện đại tất nhiên không trùng khớp với vấn đề mà những nhà

trí thức cấp tiến phải đối mặt cách đây một thế kỷ, nhưng với tư cách là những người

khởi xướng phong trào giải phóng cá nhân ở Việt Nam, họ, thông qua những tác phẩm

của mình, luôn có thể cung cấp cho chúng ta nhiều bài học có giá trị.

169

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Ở chương này, chúng tôi phân tích quan niệm của nhóm trí thức tân học theo

khuynh hướng cấp tiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX về vấn đề con người cá nhân

qua một số đại diện tiêu biểu. Đây có thể xem là khuynh hướng chủ đạo, có tầm ảnh

hưởng lớn trong việc xác lập nên quan niệm mới về vấn đề con người cá nhân của

người Việt Nam thời kỳ này. Thông qua việc đi sâu phân tích một số nhân vật có tính

tiêu biểu (Nguyễn An Ninh, Phan Khôi và những nhân vật chủ chốt của Tự lực văn

đoàn), chúng tôi đã trình bày quá trình phát triển của quan niệm cấp tiến về con người

cá nhân theo cả trục thời gian và không gian. Về thời gian, chúng tôi mở đầu với

Nguyễn An Ninh giai đoạn đầu những năm 20, đến Phan Khôi của giai đoạn cuối

những năm 20 và Tự lực văn đoàn với tư cách những người mở ra thế hệ trí thức mới

của những năm 30. Về không gian, chúng tôi đi từ Nam kỳ của Nguyễn An Ninh, Phan

Khôi đến Bắc kỳ của Tự lực văn đoàn. Sự triển khai như vậy phần nào phản ánh được

lịch sử phát triển của quan niệm về vấn đề con người cá nhân của nhóm trí thức tân học

cấp tiến.

Mặt khác, tiến hành phân tích quan niệm về vấn đề con người cá nhân của nhóm

trí thức này từ phương diện nội dung, với những vấn đề cơ bản: địa vị của con người cá

nhân, quyền lợi cá nhân, tự do cá nhân, chúng tôi nhận thấy, những quan niệm về vấn

đề con người cá nhân của nhóm trí thức này là một sự lật ngược những quan niệm của

những người phục cổ. Những đặc điểm cơ bản trong quan niệm của họ đều cho thấy rất

rõ điều này: thứ nhất, họ khẳng định tính độc lập và sức mạnh tự thân của con người cá

nhân; thứ hai, họ nhấn mạnh tính chính đáng của quyền lợi cá nhân cùng sự theo đuổi

quyền lợi cá nhân; thứ ba, quan niệm của họ về tự do cá nhân là thứ quan niệm có tính

tranh đấu cao độ, coi tranh đấu là con đường không thể khác được để giành lấy tự do cá

nhân. Mỗi đặc điểm trên đều đối lập sâu sắc với quan niệm của nhóm trí thức tân học

phục cổ, đồng thời thể hiện một cách rõ ràng Ttnh thần đề cao con người cá nhân của

họ. Sẽ không quá nếu nói rằng, trước họ, ở Việt Nam, chưa bao giờ con người cá nhân

lại được đặt lên một địa vị cao đến thế.

170

Tuy vậy, sự đề cao con người cá nhân của họ không đồng nhất với sự tuyệt đối

hóa nó. Mặc dù trên báo chí đương thời có thể thấy được một vài cảnh báo về lối sống

cá nhân chủ nghĩa cực đoan, nhưng nhìn vào những nhân vật tiêu biểu của nhóm trí

thức tân học cấp tiến, chúng ta hiếm khi thấy họ cổ động cho lối sống ấy. Có một xu

hướng xuyên suốt tư tưởng của những nhà trí thức này là xu hướng mở rộng từ cá nhân

ra xã hội, ra quốc gia, dân tộc. Họ chỉ đối lập cá nhân với chế độ đại gia đình truyền

thống, với trật tự luân lý của chế độ quân chủ, chứ chưa từng đối lập cá nhân với xã hội,

hay với quốc gia, dân tộc. Vì thế, con người cá nhân trong quan niệm của họ không

phải là con người cá nhân chà đạp lên tất cả, cũng không phải là con người cá nhân

trốn tránh hiện thực để thu mình vào thế giới riêng tư một cách tuyệt đối, mà thực ra lại

là hình mẫu con người cá nhân dấn thân đầy sức mạnh. Ở cả Nguyễn An Ninh, Phan

Khôi và Tự lực văn đoàn, chúng ta đều thấy được tinh thần ấy. Điều đó khiến cho họ,

một cách nhanh chóng, đã trở thành những người đấu tranh không chỉ với truyền thống

mà còn với cả chế độ thực dân theo những cách khác nhau. Trong số đó, có những

người đã đi đến quan niệm về sự hòa hợp giữa cá nhân với cộng đồng của chủ nghĩa

Mác và chủ trương sẵn sàng hi sinh cá nhân cho cộng đồng, như trường hợp của

Nguyễn An Ninh. Ở ý nghĩa đó, những nhà trí thức tân học theo khuynh hướng cấp tiến

không những đã tạo nên bước ngoặt trong tư duy người Việt về vấn đề con người cá

nhân, mà còn có những đóng góp mang tính hiện thực cho tiến trình giải phóng cá nhân

khỏi sự kìm kép của chế độ thực dân, từ đó thúc đẩy tiến trình giải phóng dân tộc ở

Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX.

171

KẾT LUẬN

Nếu như nói rằng giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là giai đoạn mà Việt Nam bắt

đầu bước vào thời hiện đại, thì một trong những chỉ dấu quan trọng của nó chính là

“con người cá nhân”. Sự quan tâm đến con người cá nhân có thể xem như là một đặc

trưng lớn của thời đại, bên cạnh mối quan tâm đến những vấn đề khác, cũng được xem

như những biểu hiện của tính hiện đại, như khoa học hay dân chủ. Trên thực tế, những

biến chuyển trên mọi mặt đời sống của người Việt Nam giai đoạn này, từ kinh tế, chính

trị, xã hội đến văn hóa, tư tưởng đều hàm chứa những nhân tố thuận lợi cho sự nảy nở

của ý thức về con người cá nhân.

Trên một nền tảng kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa đang biến đổi, tiếp nhận

những di sản tư tưởng từ quá khứ và đặc biệt là những trào lưu tưởng mới từ phương

Tây du nhập vào, tầng lớp trí thức tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã xây dựng

nên những quan niệm khác nhau về vấn đề con người cá nhân, qua đó, tạo nên một

bước phát triển trong quá trình suy tư về con người cá nhân ở Việt Nam. Trong luận án

của mình, thông qua tìm hiểu một số đại diện tiêu biểu, chúng tôi đã phần nào tái hiện

quá trình hình thành, phát triển, cũng như tính chất phức tạp, đa diện của quan niệm về

vấn đề con người cá nhân của tầng lớp trí thức tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Là trí thức tân học, được thụ hưởng nền giáo dục phương Tây ở những mức độ

khác nhau, họ có một đặc điểm chung là có sự hiểu biết sâu sắc hơn thế hệ trí thức

trước đó về những di sản tư tưởng phương Tây nói chung và tư tưởng phương Tây về

con người cá nhân nói riêng. Điều đó khiến cho quan niệm về vấn đề con người cá

nhân của họ mang những sắc thái mới mẻ, có tính khác biệt rất căn bản so với những

quan niệm truyền thống về vấn đề này. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy rằng, bên

cạnh đặc điểm chung đó, cách phản ứng khác biệt của họ với những quan niệm truyền

thống cũng như với những quan niệm của phương Tây về con người cá nhân mới là

điều đáng quan tâm, và chính ở đây, chúng ta có thể thấy được tính đa khuynh hướng

trong quan niệm của họ. Trên thực tế, quan niệm về vấn đề con người cá nhân của tầng

lớp trí thức tân học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX hoàn toàn không phải chỉ đi theo một

xu hướng là nhấn mạnh đến tính độc lập của con người cá nhân, cũng như cổ động cho 172

sự giải phóng cá nhân, như nhiều nghiên cứu trước đây từng khái quát. Căn cứ vào thái

độ đối với truyền thống của tầng lớp trí thức tân học, có thể phân chia quan niệm của

họ về vấn đề con người cá nhân thành hai khuynh hướng lớn: thứ nhất là khuynh

hướng phục cổ, với chủ trương quay trở lại với những quan niệm có tính truyền thống

của Nho, Phật, Đạo để giải quyết vấn đề con người cá nhân; thứ hai là khuynh hướng

cấp tiến, hướng tới sự phê phán mạnh mẽ những quan niệm truyền thống nhằm xác lập

nên quan niệm mới, với ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng phương Tây cận đại, về vấn

đề con người cá nhân. Tất nhiên, ở một góc độ khác, chúng tôi cũng lưu ý rằng, bản

thân các nhà trí thức tân học phục cổ cũng không cự tuyệt hoàn toàn các trào lưu tư

tưởng phương Tây, mà trái lại, còn tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của một số nhà tư

tưởng phương Tây mà họ có thể tìm thấy điểm tương đồng với chủ trương của họ, và ở

phía ngược lại, các nhà trí thức tân học cấp tiến cũng không hoàn toàn phủ nhận toàn

bộ di sản truyền thống trong khi xây dựng nên quan niệm của mình.

Khuynh hướng phục cổ, được đại diện bởi Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim,

Nguyễn Duy Cần, nhấn mạnh đến tính quy thuộc của cá nhân, xem cá nhân như là một

bộ phận, một mắt xích không thể tách rời của tổng thể, hoặc là gia đình (Phạm Quỳnh,

Trần Trọng Kim), hoặc là “đạo” (Nguyễn Duy Cần), và nó chỉ có ý nghĩa khi được đặt

trong cái tổng thể ấy. Trên cơ sở đó, họ có khuynh hướng hạ thấp quyền lợi cá nhân

hay sự quan tâm đến quyền lợi cá nhân trong các lựa chọn đạo đức, đồng thời cũng tập

trung vào tự do nội tại của cá nhân hơn là khẳng định tự do ngoại tại, gắn với các

quyền cơ bản của cá nhân. Khuynh hướng cấp tiến, được đại diện bởi Nguyễn An Ninh,

Phan Khôi, Tự lực văn đoàn, lại đặc biệt nhấn mạnh tính độc lập của cá nhân, ý nghĩa

tự thân của cá nhân. Những nhà trí thức thuộc khuynh hướng này không hạ thấp quyền

lợi cá nhân, mà luôn khẳng định tính chính đáng của nó, xem nó có một địa vị ngang

hàng với nghĩa vụ. Mặt khác, họ không chỉ dừng lại ở việc thừa nhận tự do có tính nội

tại của cá nhân, mà còn tiến thêm một bước để đặt ra yêu cầu về những quyền tự do cụ

thể của cá nhân như tự do thân thể, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng v.v..., đồng thời đấu

tranh để hiện thực hóa những quyền tự do ấy.

Hai khuynh hướng trên hầu như đã song hành cùng nhau trong suốt nửa đầu thế

kỷ XX, và cho đến thập niên cuối cùng của giai đoạn này, nghĩa là đến những năm 40, 173

mỗi bên đều tỏ ra kiên định với lựa chọn của mình. Tuy nhiên, nếu xét về tầm ảnh

hưởng, tác động xã hội, thì chúng tôi cho rằng, khuynh hướng cấp tiến ngày càng thắng

thế và trở thành quan niệm chủ lưu. Điều đó cũng đánh dấu cho sự thắng thế của con

người cá nhân trong cuộc đấu tranh với chế độ luân lý truyền thống cũng như với chế

độ thực dân để khẳng định bản thân như một chủ thể có quyền lợi, có tự do. Xét cho

cùng, đó cũng là một xu hướng phát triển hợp lý của tư tưởng Việt Nam

Tất nhiên, quan niệm về vấn đề con người cá nhân ở Việt Nam của tầng lớp trí

thức tân học, bất kể là phục cổ hay cấp tiến, cũng đều là một bước phát triển về chất so

với những quan niệm truyền thống, và do đó, cả hai đều có ý nghĩa lịch sử to lớn. Mặt

khác, chúng ta cũng có thể thấy được ở mỗi khuynh hướng những giá trị tích cực, có ý

nghĩa gợi mở cho việc nhìn nhận và giải quyết những vấn đề liên quan đến con người

cá nhân trong xã hội đương đại. Những nhà trí thức theo khuynh hướng phục cổ đã đưa

ra cách nhìn sâu sắc về vấn đề tính tôn nghiêm của cá nhân, đồng thời cố gắng hướng

đến sự hòa hợp giữa con người cá nhân với gia đình, xã hội, tự nhiên. Trong khi đó,

quan niệm của những người cấp tiến cho đến nay vẫn có nhiều nội dung phù hợp với

yêu cầu đảm bảo quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong xã hội

hiện đại, khắc phục sự coi nhẹ cá nhân, đồng thời, tính dấn thân cao độ mà họ thể hiện

trong tư tưởng và trong thực tiễn hoạt động của mình cũng có sức lay động sâu sắc, cổ

vũ cho một thái độ sống tích cực, có trách nhiệm đối với cộng đồng, dân tộc. Tất nhiên,

ra đời trong một bối cảnh lịch sử đầy biến động và phức tạp, những đại biểu cho cả hai

khuynh hướng đều khó tránh khỏi những hạn chế nhất định. Nhưng với tinh thần “gạn

đục khơi trong”, chúng ta vẫn có thể học được nhiều bài học có giá trị từ quan niệm về

vấn đề con người cá nhân của họ.

174

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Hoang Minh Quan. 2019. “Awareness of individual in Vietnam in the first half of

the 20th century”, Philosophy, vol.13, pp.44-52.

2. Hoàng Minh Quân. 2020. “Quan niệm của Phạm Quỳnh về vấn đề tự do cá nhân”,

Triết học, số 8, tr.69-75.

3. Hoang Minh Quan. 2021. “Acceptance and promulgation of Western thoughts in

Vietnam in the first half of the 20th century: from Confucian intelligentsia to the

modern itellectual circles”, Philosophy, vol.15, pp.25-36.

4. Hoàng Minh Quân. 2021. “Khuynh hướng mácxít trong nghiên cứu Nho giáo ở

Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, Triết học, số 7, tr.68-77.

5. Hoàng Minh Quân. 2022. “Phản ứng với phương Tây của nho sĩ Việt, Hàn thế kỷ

19: Nhìn từ Nguyễn Xuân Ôn và Lee Hang Ro”, The Vietnamese Studies Review

(베트남연구), vol.20-1, pp.39-69.

6. Hoàng Minh Quân. 2022. “Phiên dịch và chú giải Mạnh Tử ở Việt Nam nửa đầu

thế kỷ XX”, Triết học, số 8, tr.60-72.

175

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt:

1. Đào Duy Anh. 1992. Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Thành phố Hồ Chí

Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Đào Duy Anh. 2000. Hồi ký Đào Duy Anh (Nhớ nghĩ chiều hôm), Nxb. Trẻ, Tp.

Hồ Chí Minh.

3. Đào Duy Anh. 2009. Hán Việt từ điển giản yếu, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

4. Nguyễn Thế Anh. 1970. Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nxb. Lửa thiêng, Saigon.

5. Lại Nguyên Ân. 2008. “Phạm trù chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng phương Tây

trong sự lý giải của Phan Khôi”, Nghiên cứu Văn học, số 12, tr.104-116.

6. Phan Trọng Báu. 1994. Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb. Khoa học xã hội,

Hà Nội.

7. Tào Thượng Bân. 2005. Tư tưởng nhân bản của Nho học tiên Tần, Lê Thanh Thủy,

Đào Tâm Khánh, Chu Thanh Nga, Phạm Sỹ Thành, Mai Thị Thơm dịch, Nxb. Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

8. Isaiah Berlin. 2014. Bốn tiểu luận về tự do, Nguyễn Văn Trọng dịch, Nxb. Tri

thức, Hà Nội.

9. Nguyễn Công Bình. 1959. Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc,

Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội.

10. T.C. 1920. “Thân thể và tinh thần”, Nam Phong tạp chí, số 32, quyển VI, tr.120-125.

11. T.C. 1925. “Nghĩa vụ ngày nay”, Nam Phong tạp chí, số 95, quyển XVI, tr.407-410.

12. Nguyễn Duy Cần. 1936. Toàn chân (triết luận), Éditions Nam Cường, Mỹ Tho.

13. Nguyễn Duy Cần. 1939. Thanh dạ văn chung, Éditions Nay, Cho Lon.

14. Phan Bội Châu. 1973. Phan Bội Châu Niên biểu, Nguyễn Khắc Ngữ chú thích,

Nhóm Nghiên cứu Sử Địa xuất bản, Saigon.

15. Phan Bội Châu. 2001. Toàn tập, tập 2, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

16. Phan Bội Châu. 2001. Toàn tập, tập 3, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

17. Phan Bội Châu. 2001. Toàn tập, tập 10, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

18. Thượng Chi. 1917. “Nghĩa vụ là gì?”, Nam Phong tạp chí, số 4, quyển I, tr.217-221.

176

19. Thượng Chi. 1919. “Danh dự luận”, Nam Phong tạp chí, số 25, quyển V, tr.1-9.

20. Thượng Chi biên dịch. 1921. “Khảo về các luân lý học thuyết của Thái Tây” (I),

Nam Phong tạp chí, số 47, quyển VIII, tr.354-362.

21. Thượng Chi biên dịch. 1921. “Khảo về các luân lý học thuyết của Thái Tây”

(II), Nam Phong tạp chí, số 49, quyển IX, tr.6-12.

22. Thượng Chi biên dịch. 1921. “Khảo về các luân lý học thuyết của Thái Tây”

(III), Nam Phong tạp chí, số 50, quyển IX, tr.100-104.

23. Thượng Chi. 1922. “Bộ sách mới, ông Nghè mới”, Nam Phong tạp chí, số 64,

quyển XI, tr.290-296.

24. Thượng Chi. 1924. “Học phong và sĩ khí”, Nam Phong tạp chí, số 79, quyển

XIV, tr.1-5.

25. Thượng Chi. 1924. “Một nhà danh sĩ nước Pháp: Ông Maurice Barrès”, Nam

Phong, số 81, quyển XIV, tr.177-186.

26. Thượng Chi biên dịch. 1926. “Lịch sử và học thuyết của Rousseau”, Nam

Phong, số 104, quyển XVIII, tr.207-225.

27. Nguyễn Viết Chước. 1974. Lược sử báo chí Việt Nam, Nxb. Nam Sơn, Saigon.

28. Huình-Tịnh Paulus Của. 1895. Đại Nam quấc âm tự vị, Impremerie REY,

CURIOL & Cie, Saigon.

29. Paul Doumer. 2016. Xứ Đông Dương, Nguyễn Xuân Khánh dịch, Nxb. Thế giới,

Hà Nội.

30. Đỗ Đức Dục. 1942. “Tổ chức hiện thời của nền kinh tế Đông Dương”, Thanh

Nghị, số 42, tr.9-12.

31. Đoàn Ánh Dương, Phùng Kiên, Martina Thucnhi Nguyen, Nguyễn Mạnh Tiến,

Mai Anh Tuấn. 2020. Phong Hóa thời hiện đại – Tự lực văn đoàn trong tình thế

thuộc địa ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2000. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

33. Hoàng Đạo. 1936. “Điều tâm niệm thứ ba: Sống theo một lý tưởng”, Ngày nay,

số 27, tr.271-272.

177

34. Hoàng Đạo. 1936. “Điều tâm niệm thứ tư: Làm việc xã hội”, Ngày nay, số 28,

tr.295-296.

35. Hoàng Đạo. 1937. “Miếng thịt giữa làng”, Ngày Nay, số 66, tr.495-496.

36. Hoảng Đạo. 1937. “Tự do với dân quê”, Ngày Nay, số 68, tr.543-544.

37. Hoàng Đạo. 1939. “Quyền sống của mỗi nước”, Ngày Nay, số 162, tr.10.

38. Hoàng Đạo. 1939. “Nhân quyền”, Ngày Nay, số 168, tr.10.

39. Hoàng Đạo. 1939. “Tự do cá nhân”, Ngày Nay, số 169, tr.10.

40. Đỗ Hồng Đức. 2015. “Giải phóng cá tính trong Đời mưa gió của Nhất Linh và

Khái Hưng”, Nghiên cứu Văn học, số 6, tr.42-62.

41. Phạm Văn Đức. 2016. Một số vấn đề triết học xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

42. Trần Văn Giàu. 1997. Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến

Cách mạng tháng Tám, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

43. Trần Văn Giàu. 1997. Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến

Cách mạng tháng Tám, tập 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

44. Trần Văn Giàu chủ biên. 1998. Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập IV,

Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

45. Pierre Gourou. 2015. Người nông dân châu thổ Bắc kỳ, Nguyễn Khắc Đạm, Đào

Hùng, Nguyễn Hoàng Oanh dịch, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

46. Trần Thị Hạnh. 2012. Quá trình chuyển biến tư tưởng của nho sĩ Việt Nam

trong 30 năm đầu thế kỷ XX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

47. F.A.Hayek. 2016. Chủ nghĩa cá nhân và trật tự kinh tế, Đinh Tuấn Minh, Phạm

Nguyên Trường, Nguyễn Vi Yên, Nguyễn Công Minh dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

48. Hồi ký Trần Huy Liệu. 1991. Phạm Như Thơm sưu tầm, tuyển chọn và chỉnh lý,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Hội Khai trí tiến đức. 1954. Việt Nam tự điển, Văn mới, Hà Nội – Sài Gòn.

50. Lý Minh Huy. 2014. Tư tưởng chính trị dưới tầm nhìn Nho gia, Bùi Anh Chưởng

dịch, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

51. Phan Văn Hùm. 2014. Ngồi tù khám lớn, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

178

52. Nguyễn Văn Huyên. 2016. Văn minh Việt Nam, Đỗ Trọng Quang dịch, Nxb.

Hội nhà văn, Hà Nội.

53. Đỗ Quang Hưng. 2001. Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945, Nxb. Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

54. Đỗ Quang Hưng (chủ biên), Trần Viết Nghĩa. 2013. Tính hiện đại và sự chuyển

biến của văn hóa Việt Nam thời cận đại, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

55. Đỗ Quang Hưng. 2016. Tôn giáo và tính hiện đại, Nxb. Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

56. Khái Hưng. 1938. “Thanh niên và đại gia đình”, Ngày nay, số 115, tr.21.

57. Immanuel Kant. 2007. Phê phán lý tính thực hành, Bùi Văn Nam Sơn dịch và

chú giải, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

58. Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng. 1959. Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử, Anh

Minh xuất bản, Huế.

59. Nguyễn Văn Khánh. 1999. Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa

(1858-1945), Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

60. Phan Khoang. 1961. Việt Nam Pháp thuộc sử (1884-1945), Nhà sách Khai Trí, Saigon.

61. Phan Khôi. 2003. Tác phẩm đăng báo 1928, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.

62. Phan Khôi. 2005. Tác phẩm đăng báo 1929, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.

63. Phan Khôi. 2006. Tác phẩm đăng báo 1930, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

64. Phan Khôi. 2007. Tác phẩm đăng báo 1931, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

65. Phan Khôi. 2010. Tác phẩm đăng báo1932, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

66. Phan Khôi. 2013. Tác phẩm đăng báo 1933 – 1934, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

67. Phan Khôi. 2013. Tác phẩm đăng báo 1935, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

68. Phan Khôi. 2014. Tác phẩm đăng báo 1936, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

69. Phan Khôi. 2014. Tác phẩm đăng báo 1937, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

70. Hoàng Tuấn Kiệt. 2010. Tầm nhìn mới về lịch sử Nho học Đông Á, Chu Thị

Thanh Nga dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

71. Trần Trọng Kim. 2008. Nho giáo, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

72. Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận. 2016. Luân lý

giáo khoa thư, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

179

73. Trần Trọng Kim. 2020. Sơ học luân lý, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.

74. Thanh Lãng. 1967. Bản lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ, Nxb. Trình bày, Saigon.

75. Lão Tử - Đạo đức kinh. 1998. Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb. Văn hóa – Thông tin,

Hà Nội.

76. Alain Laurent. 1999. Lịch sử cá nhân luận, Phan Ngọc dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

77. Đinh Xuân Lâm chủ biên. 1997. Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu

thế kỷ XX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

78. Đinh Xuân Lâm chủ biên. 1998. Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 2 (1858-

1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

79. Tùng Lâm. 1919. “Hội Khai trí tấn đức”, Lục tỉnh tân văn, số 619, tr.2.

80. Nhất Linh. 1951. Lạnh lùng, Nxb. Nguyễn Quốc Hùng, Hà Nội.

81. Nhị Linh. 1934. “Âu hóa dân quê: Quan niệm mới”, Phong Hóa, số 107, tr.1-2.

82. Huỳnh Bá Lộc. 2016. “Đội ngũ trí thức tân học Nam kỳ trước năm 1930”, Khoa

học xã hội, số 3, tr.72-86.

83. Tứ Ly. 1934. “Quốc hồn quốc túy”, Phong Hóa, số 125, tr.1-2.

84. C.Mác và Ph.Ăng-ghen. 1995. Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

85. C.Mác – Ph.Ăngghen. 1995. Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

86. “Mấy lời bình phẩm về Rousseau”. 1926. Nam Phong, số 105, quyển XVIII,

tr.352-354.

87. Hồ Chí Minh. 1996. Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

88. N.N. 1938. “Cùng các nhạc sĩ”, Ngày Nay, số 124, tr.18.

89. Nguyễn Nam. 2010. “Phụ nữ tự sát – lỗi tại tiểu thuyết: Một góc nhìn về phụ nữ

với văn chương – xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX (lược trích)”, Nghiên cứu Văn

học, số 7, tr.53-65.

90. Trần Viết Nghĩa. 2012. Trí thức Việt Nam tiếp xúc với văn minh phương Tây

thời Pháp thuộc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

91. Nguyễn Văn Nghiêm, Đỗ Biên Thùy sưu tầm và giới thiệu. 2022. Thu Giang Nguyễn

Duy Cần những bài đăng báo và tiểu luận, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

92. Nguyễn Phương Ngọc. 2018. “Gió Tây, gió Đông – Sự du nhập tinh thần Khai

sáng vào Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong: Hoài Hương Aubert-Nguyen và

180

Michel Espagne chủ biên, Việt Nam – Một lịch sử chuyển giao văn hóa, Phạm

Văn Quang chủ trì dịch và giới thiệu, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.

93. Nguyễn Quang Ngọc chủ biên. 1998. Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển

của lịch sử Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

94. Đào Trinh Nhất. 1944. “Nghiêm Phục và vấn đề văn hóa Đông Tây (I)”, Trung

Bắc Tân văn, số 197, tr.15-16.

95. Đào Trinh Nhất. 2010. Tác phẩm, Nxb. Văn học, Hà Nội.

96. Trương Đại Niên. 2021. Tinh thần văn hóa Trung Quốc, Bùi Bá Quân, Lê Đình

Sơn, Hoàng Minh Quân dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

97. Philippe M.F. Peycam. 2015. Làng báo Sài Gòn 1916-1930, Trần Đức Tài dịch,

Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

98. P.Q. 1930. “Cải cách về trí thức và tinh thần”, Nam Phong tạp chí, số 156,

quyển XXVII, tr.435-438.

99. Kiều Thanh Quế. 1944. “Cảm tưởng và hy vọng đối với sách biên dịch ở nước

ta”, Tri Tân, số 129, tr.3, 17.

100. Dương Kinh Quốc. 1988. Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách

mạng tháng Tám năm 1945 (Góp phần tìm hiểu cơ sở lịch sử - xã hội Việt Nam

thời kỳ thực dân Pháp thống trị), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

101. Phạm Quỳnh. 1913. “Tân cổ học bình luận”, Đông Dương tạp chí, số 8,

tr.8-10.

102. Phạm Quỳnh. 1917. “Nghĩa gia tộc”, Nam Phong, số 2, quyển I, tr.89-92.

103. Phạm Quỳnh. 1918. “Một tháng ở Nam kỳ”, Nam Phong tạp chí, số 17,

quyển III, tr.268-285.

104. Phạm Quỳnh. 1931. “Quốc học với chính trị”, Nam Phong tạp chí, số

165, quyển XXIX, tr.107-111.

105. Phạm Quỳnh. 1932. “Nhà nho”, Nam Phong tạp chí, số 172, quyển XXX,

tr.449-458.

106. Phạm Quỳnh. 1932. “Chuyện tâm tình”, Nam Phong tạp chí, số 172,

quyển XXX, tr.462-463b.

181

107. Phạm Quỳnh. 1932. “Nghĩa tôn quân với thời thế mới”, Nam Phong tạp

chí, số 175, quyển XXXI, tr.101-108.

108. Phạm Quỳnh. 1942. “Công cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và

khôi phục cổ điển ở nước Nam”, Tràng An báo, số 10, 1942.

109. Phạm Quỳnh. 2007. Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-

1932, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyên Ngọc, Ngô Quốc Chiến, Phạm Xuân

Nguyên dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

110. Jean Jacques Rousseau. 2010. Bàn về khế ước xã hội, Thanh Đạm dịch,

Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.

111. Nguyễn Kim Sơn. 2009. “Tư tưởng luân lý mới của các nhà nho duy tân

trong “Tân đính luân lý giáo khoa thư””, Triết học, số 4.

112. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần

Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân. 2010. Về con người cá nhân trong văn học cổ

Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

113. Hoài Thanh, Hoài Chân. 2006. Thi nhân Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.

114. Trịnh Văn Thảo. 2013. Ba thế hệ trí thức người Việt (1862-1954), Lê Thị

Kim Tân dịch (với sự cộng tác của Nguyễn Thị Giang, Nguyễn Thị Thu Trang),

Nxb. Thế giới, Hà Nội.

115. Trịnh Văn Thảo. 2019. Nhà trường Pháp ở Đông Dương, Nguyễn Trí

Chỉ, Trịnh Văn Tùng dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

116. Nguyễn Q. Thắng. 1993. Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb. Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

117. Chương Thâu biên soạn. 2010. Đông Kinh Nghĩa thục và văn thơ Đông

Kinh Nghĩa thục, tập 1, Nxb. Hà Nội, Hà Nội.

118. Chương Thâu biên soạn. 2010. Đông Kinh Nghĩa thục và văn thơ Đông

Kinh Nghĩa thục, tập 2, Nxb. Hà Nội, Hà Nội.

119. Lương Đức Thiệp. 2016. Xã hội Việt Nam từ sơ sử đến cận đại, Nxb. Tri

thức, Hà Nội.

120. Trần Nho Thìn. 2008. “Dấu ấn ảnh hưởng của Thiên diễn luận – bản dịch

Trung văn cuối thế kỷ XIX của cuốn sách Evolution and Ethics (Tiến hóa và

182

đạo đức) trong văn học của nhà nho Việt Nam đầu thế kỷ XX (một số vấn đề lý

luận tiếp xúc văn hóa Đông – Tây ở đầu thế kỷ XX”, trong: Kỷ yếu Hội thảo

quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, Hà Nội.

121. Phạm Đào Thịnh. 2017. Nguyễn An Ninh, nhà tư tưởng tiêu biểu đầu thế

kỷ XX ở Nam bộ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

122. Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng. 1965. Vương Đình Quang nghiên cứu –

tuyển lựa, Nxb. Văn học, Hà Nội.

Thơ văn Nguyễn Quang Bích. 1973. Nxb. Văn học, Hà Nội. 123.

Thơ văn Yêu nước và Cách mạng đầu thế kỷ XX (1900 – 1930). 1976. 124.

Nxb. Văn học, Hà Nội.

Đỗ Lai Thúy. 1992. Con mắt thơ, Nxb. Đời nay. 125.

Nguyễn Thanh Thủy. 2013. “Chủ nghĩa cá nhân trong hoạt động xã hội và 126.

luận thuyết của Nhất Linh”, Văn hóa nghệ thuật, số 12, tr.87-90.

127. Nguyễn Thị Thanh Thủy. 2012. “Về đặc điểm của tầng lớp trí thức Tây

học Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Khoa học (Đại học Quốc gia Hà Nội), số 28,

tr.195-202.

128. Nguyễn Tài Thư chủ biên. 1997. Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn

giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

129. Trang Tử và Nam hoa kinh. 1994. Nguyễn Hiến Lê giới thiệu và chú dịch,

Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

130. Đinh Gia Trinh. 1944. “Nay và mai: ý kiến và cảm tưởng về những hoạt

động tinh thần Việt Nam”, Thanh Nghị, số 51-54.

Phan Châu Trinh. 2005. Toàn tập, tập 1, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng. 131.

Phan Châu Trinh. 2005. Toàn tập, tập 3, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng. 132.

Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia – Viện Nghiên cứu 133.

Hán Nôm. 2004. Ngữ văn Hán Nôm, tập 1 (Tứ thư), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

134. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. 2009. Nguyễn An Ninh – Tác phẩm,

Nxb. Văn học, Hà Nội.

135. Minh Tranh và Nguyễn Kiến Giang. 1959. Về giai cấp tư sản Việt Nam,

Nxb. Sự thật, Hà Nội.

183

136. Lê Thị Dục Tú. 1997. Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực

văn đoàn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

137. Nguyễn Thanh Tuấn. 2013. Về chủ nghĩa cá nhân trong văn hóa Việt

Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.

138. Tư tưởng về quyền con người – Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam.

2011. Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội.

139. Tự lực văn đoàn. 1934. “Tự lực văn đoàn”, Phong Hóa, số 87, tr.2.

140. Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc. 2000. Mai Hương

tuyển chọn và biên soạn, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

141. Tân Nam Tử. 1907. “Duy tân”, Đăng cổ tùng báo, số 812, tr.306, 308.

142. Phạm Xanh. 2009. Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-

Lênin ở Việt Nam (1921-1930), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

143. Nguyễn Khắc Xuyên. 2002. Mục lục phân tích Tạp chí Nam Phong, Nxb.

Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Huế.

144. Trương Tửu. 1935. “Đoạn tuyệt của Nhất Linh”, Loa, số 77, tr.3-10.

145. Trương Tửu. 1935. “Văn học Việt Nam hiện đại chung quanh một tấn

kịch của thời đại (IV): Tóm tắt và so sánh Tố tâm, Nửa chừng xuân, Đoạn

tuyệt”, Loa, số 78, tr.3-4.

146. Tường Vân. 1940. “Tự tử”, Ngày Nay, số 205, tr.5.

Tài liệu tiếng nước ngoài:

147. J.F.M. Génibrel. 1898. Dictionnaire Annamite-Francais, Imprimerie de

la Mission à Tân Định, Saigon.

148. Judith A. N. Henchy. 2005. Performing Modernity in the writings of

Nguyễn An Ninh and Phan Văn Hùm, Doctor of Philosophy, University of

Washington.

149. David G. Marr. 1984. Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945,

University of California Press, Berkeley.

150. David G. Marr. 2000. “Concepts of ‘Individual’ and ‘Self’ in Twentieth-

Century Vietnam”, Modern Asian Studies, vol.34, no.4, pp.769-796.

184

151. Sharon Hamilton Nolte. 1984. “Individualsim in Taisho Japan”, Journal

of Asian Studies, vol. XLIII, no. 4, pp.667-684.

152. Saito Tsuyoshi. 2015. “The Creation of the Term Kojin (Individual), in:

The Emergence of the Modern Sino-Japanese Lexicon – Seven Studies, Edited

and Translated by Joshua A. Fogel, Brill, Leiden – Boston.

153. Ben Tran. 2013. “I Speak in the Third Person: Women and Language in

Colonial Vietnam”, Positions East Asia cultures critique, vol. 21 (3), pp.579-605.

[宋]朱熹集注. 1975. 四書集注,“論語集注”,學海出版社,台北. 154.

商务印书馆编辑部. 1982. 论严复与严译名着,商务印书馆,北京. 155.

黃克武. 2004. “個人主義的翻譯問題---從嚴復談起”,二十一世紀, 156.

84 期,, 40-51 頁.

157. 金观涛、刘青峰. 2010. 观念史研究:中国现代重要政治术语的形成,

法律出版社,北京.

高力克. 2015. “新文化运动中的个人主义”,史学月刊,11 期,15-18 页. 158.

黄俊傑. 2016. 東亞儒家人文精神,臺大出版中心, 臺北. 159.

杨念群. 2019. “五 四前后“个人主 义” 兴衰史---兼论 其与“ 社会主 160.

义”“团体主义”的关系”,近代史研究,2 期,4-24 页.

Trang web:

161. X.A. 2020. “Cán bộ nâng điểm ở Hòa Bình: ‘Ai cũng gù, mình thẳng

lưng sẽ thành khuyết tật”.

diem-o-hoa-binh-ai-cung-gu-minh-thang-lung-se-thanh-khuyet-tat-1657029.tpo>,

(21/1/2021).

162. Nguyễn Minh Châu. 1987. “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn

nghệ minh họa”, Văn nghệ, số 49&50.

dieu-cho-mot-giai-doan-van-nghe-minh-hoa.html> , (9/7/2021).

185