BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ LIÊN TÂM
TRƯỜNG CA VỀ THỜI CHỐNG MỸ TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số
: 62 22 34 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả được trình bày trong luân án này là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Liên Tâm
MỤC LỤC
Trang
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Giới hạn của đề tài: đối tượng nghiên cứu - phạm vi vấn đề .................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 3
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................... 4
5. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. ...22
7. Kết cấu của luận án ............................................................................................. 23
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TẠO NÊN SỰ XUẤT HIỆN CỦA TRƯỜNG CA VỀ THỜI
CHỐNG MỸ ...................................................................................... 24
1.1. Những nhân tố khách quan tạo nên sự xuất hiện của trường ca ........................ 24
1.1.1 Sự kết nối từ truyền thống đến hiện đại .................................................... 24
1.1.2. Thời đại ..................................................................................................... 32
1.1.3 Sự gắn kết giữa yếu tố thời đại và dân tộc ............................................... 35
1.2 Những nhân tố chủ quan tạo nên sự xuất hiện của trường ca ............................ 39
1.2.1. Nhà thơ - người trong cuộc ....................................................................... 39
1.2.2 Nhà thơ thời hậu chiến. So sánh với nhà thơ - người trong cuộc .............. 46
1.2.3.Sự gắn kết giữa yếu tố cá nhân và yếu tố cộng đồng .............................. 60
Chương 2
NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TRƯỜNG CA VỀ THỜI CHỐNG MỸ
2.1. Hệ thống đề tài .................................................................................................. 70
2.1.1. Đề tài đất nước ........................................................................................... 71
2.1.2 Đề tài chiến tranh và người lính ................................................................ 76
2.1.3. Đề tài lãnh tụ ............................................................................................. 84
2.1.4. Đề tài tình yêu đôi lứa ................................................................................ 90
2.2. Sức khái quát hiện thực về địa danh và con người ........................................... 98
2.2.1. Sức khái quát hiện thực về địa danh ...................................................... 99
2.2.2. Sức khái quát về người thực, việc thực ................................................ 104
2.2.3. Sức khái quát về sự đồng hành của nhân dân ...................................... 106
2.2.4. Sức khái quát về sự hy sinh của nhân dân ............................................ 115
2.3. Đặc trưng sử thi. Sự gắn kết giữa tính chất sử thi và trữ tình ....................... 122
2.3.1. Đặc trưng sử thi .................................................................................... 122
2.3.2 Sự gắn kết giữa tính chất sử thi và trữ tình .......................................... 126
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRƯỜNG CA VỀ THỜI CHỐNG MỸ
3.1. Sự phức hợp và đa dạng về thể thơ ................................................................ 135
3.2. Tính chất đa giọng điệu. Giọng điệu sử thi…… .............................................. 142
3.3. Không gian nghệ thuật. Không gian sử thi ..................................................... 159
3.4 Sự liên tưởng .................................................................................................... 168
3.5 Chất liệu văn học dân gian .............................................................................. 173
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 181
THƯ MỤC ......................................................................................................................... 186
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 190
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 197
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN………..204
1 DẪN NHẬP
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cuộc chiến tranh thời chống Mỹ đã qua đi trên một phần tư thế kỷ nhưng
âm vang hào hùng của nó vẫn vọng đến tận bây giờ và mãi mãi về sau. Văn học
đã ghi lại một thời kháng chiến oanh liệt của dân tộc. Những chiến công hiển
hách; những tấm gương anh dũng; những mối tình thuỷ chung son sắt; tình yêu
quê hương, đất nước… cả những đau thương, mất mát không gì bù đắp nổi
cũng được tái hiện trong văn học. Đó chính là hơi thở của cuộc sống chân thực
đã từng diễn ra trên đất nước ta.
Hậu quả chiến tranh để lại thật tàn khốc bởi nó là những dư âm đọng lại
trong những tháng năm hòa bình. Chiến tranh không phải là định mệnh nhưng
nó đã khiến cho bao người phải chịu những số phận nghiệt ngã. Dư ba của
chiến tranh như những con sóng nối tiếp nhau cứ lan mãi đến ngày sau… Tất cả
những điều ấy được các nhà thơ thời chống Mỹ, những cây bút thời hậu chiến...
tập trung sức viết để ngưỡng vọng, đồng cảm, sẻ chia về một thời quá khứ đã in
đậm dấu ấn vào cuộc sống của dân tộc. Văn học góp phần thể hiện cuộc sống
thăng trầm của lịch sử. Sức khái quát hiện thực của thơ ca - đặc biệt là trường
ca - thật mạnh mẽ, sâu rộng, đã phản ánh lịch sử một thời mà thấm suốt không
gian, thời gian của bao thời đại sau này. Trường ca sử thi hiện đại là một thể
loại thơ ca trữ tình mang dung lượng khá đồ sộ; thể hiện cảm xúc mãnh liệt và
thường có nội dung lớn; có khả năng phản ánh, tổng kết một giai đoạn lịch sử,
những vấn đề lớn lao của dân tộc. Nền văn học Việt Nam không thể thiếu vắng
mảng trường ca về thời chống Mỹ, bởi:
- Từ khi mới xuất hiện, trường ca có giá trị xuất hiện trong thời chống Mỹ
đã có hiệu ứng xã hội tích cực, tác động sâu rộng đến tâm hồn con người Việt
Nam. Thời hoàng kim của trường ca thời chống Mỹ là vào thập niên 70. Ngày
nay, trường ca vẫn chảy miệt mài trong lòng dân tộc, vì vậy, nghiên cứu trường
2 ca về thời chống Mỹ là một công việc có hấp lực mạnh mẽ đối với người
nghiên cứu.
- Nhiều trường ca nổi tiếng từ thời chống Mỹ đã được chọn để giảng dạy
trong các trường Phổ thông, Cao đẳng, Đại học. Các trích đoạn trong: Bài ca
chim Chơ rao, Theo chân Bác, Mặt đường khát vọng, Đường tới thành phố,
Những người đi tới biển... mang chất trữ tình sâu sắc và âm hưởng sử thi hào
hùng, góp phần phản ánh hiện thực cuộc chiến tranh chống Mỹ. Ngày nay, các
trích đoạn đặc sắc ấy vẫn được tiếp tục có mặt trong các chương trình văn học
đã nêu trên. Vì vậy, nghiên cứu giá trị lịch sử và giá trị văn học của trường ca
cũng góp phần nhất định vào việc giảng dạy, tiếp cận trường ca hiện đại.
- Tên gọi thống nhất; hệ thống hình tượng nhân vật; hệ thống đề tài, không
gian sử thi; giọng điệu sử thi… trong trường ca đã được chú ý nghiên cứu
nhưng vẫn còn mang tính riêng lẻ. Nhiều vấn đề khác trong trường ca vẫn chưa
được nghiên cứu một cách hệ thống. Giá trị lịch sử và giá trị văn học của
trường ca trong tiến trình lịch sử văn học hầu như chưa được đánh giá đúng
mức. Nhiều bài viết, bài nghiên cứu hầu như chỉ tập trung vào việc xác định tên
gọi hoặc giới thiệu tác giả tiêu biểu đã sáng tác trường ca.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Trường
ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam” để nghiên cứu trên cơ
sở tiếp thu có chọn lọc những công trình, bài viết quý báu của các nhà nghiên
cứu đi trước, từ đó góp cái nhìn bao quát hơn về trường ca sử thi hiện đại.
2. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích khoa học đề ra, luận án tập trung nghiên cứu “Trường ca về
thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam”.
- Về lịch sử, thời chống Mỹ bắt đầu từ năm 1955 đến 1975. Về mặt văn học
giai đoạn này, các nhà thơ đã sáng tác trường ca (chủ yếu xuất hiện từ 1960)
với mạch cảm xúc ngợi ca và tâm thế của người trong cuộc. Nhưng từ sau
3 4/1975 đến khoảng 1980, họ vẫn chưa thoát khỏi nỗi ám ảnh về cuộc chiến
mới đi qua, vẫn sáng tác với tâm thế người trong cuộc, mạch cảm xúc chủ
đạo vẫn là phản ánh hiện thực cuộc chiến thời chống Mỹ. Vì thế, chúng tôi
xếp trường ca xuất hiện từ 1975 - 1980 vào nhóm trường ca 1960 - 1980 và tạm
chia đối tượng khảo sát vào hai mốc thời gian để thuận tiện cho nghiên cứu:
- Trường ca về thời chống Mỹ có giá trị ra đời từ 1960 đến 1980.
- Trường ca về thời chống Mỹ có giá trị ra đời từ 1980 đến nay (chủ yếu
thiên về cảm xúc hồi tưởng của người nhìn lại quá khứ chiến tranh).
2.2. Phạm vi vấn đề
Với khả năng có hạn, chúng tôi cố gắng tìm hiểu những công trình nghiên
cứu, phê bình để khẳng định giá trị của trường ca về thời chống Mỹ, tiếp cận
các bài nghiên cứu về tác giả để xác định những đóng góp của họ trong sự
nghiệp sáng tác trường ca. Qua đó, chúng tôi tiếp thu có chọn lọc thành tựu của
những công trình đi trước, vận dụng sự hiểu biết của bản thân để nghiên cứu
Trường ca về thời chống Mỹ. Người viết quan niệm: trường ca về thời chống
Mỹ là trường ca sử thi hiện đại và phạm vi vấn đề cần nghiên cứu là:
- Những nhân tố tạo nên sự xuất hiện của trường ca.
- Các nội dung chủ yếu như: hệ thống đề tài, sức khái quát hiện thực, đặc
điểm sử thi.
- Các đặc điểm nghệ thuật như: sự phối hợp các thể thơ, không gian sử thi,
giọng điệu sử thi, sự liên tưởng, chất liệu văn học dân gian… của trường ca.
Tuy nhiên, về kết cấu luận án, sự phân chia chương II và chương III chỉ
mang tính tương đối vì khó tách bạch riêng lẻ yếu tố nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm nói chung và trường ca nói riêng.
Nghiên cứu trường ca về thời chống Mỹ nhằm mục đích tìm hiểu:
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
những nhân tố tạo nên sự xuất hiện của trường ca, nội dung chủ yếu, đặc điểm
4 nghệ thuật; từ đó rút ra những kết luận về sự đóng góp của tác giả và giá trị của
trường ca về thời chống Mỹ trong tiến trình lịch sử văn học nước nhà.
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Luận án xác định những nội dung cơ bản, những đặc điểm quan trọng và
riêng biệt làm nên giá trị của trường ca về thời chống Mỹ; cung cấp thêm nhận
thức về lý thuyết thể loại (tên gọi trường ca sử thi hiện đại) và bước đầu giải
quyết các vấn đề đã đặt ra trên cơ sở kế thừa các công trình của những nhà
nghiên cứu đi trước.
- Dựa vào kết quả nghiên cứu, người viết hy vọng góp thêm một tiếng nói,
một cái nhìn tổng hợp về giá trị của trường ca về thời chống Mỹ; cung cấp
thêm tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy, học tập về trường ca hiện đại.
5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nhận xét mở đầu
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy hầu như chưa có một công trình chuyên
sâu, tổng hợp giá trị trường ca về thời chống Mỹ. Trong luận văn Cao học “Đặc
điểm trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ”, chúng tôi đã tiến
hành phân loại lịch sử vấn đề theo hai nhóm:
- Những nhận xét, luận bàn về tên gọi và sự phát triển của trường ca.
- Những ý kiến nhận định về các tác giả và các trường ca có giá trị.
Tuy nhiên, trải qua mỗi chặng đường nghiên cứu, chúng tôi lại phát hiện
thêm những điều mới. Để thấy được kết quả nghiên cứu của những người đi
trước, trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi xin lược thuật lại những điểm
chính, bổ sung một số ý kiến, nhận định và cập nhật các công trình nghiên cứu
gần đây.
5.1. Những nhận xét, luận bàn về tên gọi và sự phát triển của thể loại
Đã có một số công trình nghiên cứu về thể loại trường ca; bàn luận và
phân định đâu là thơ dài, đâu là truyện thơ, xác định rõ những điều kiện cần và
đủ để được gọi là trường ca (phải mang nội dung lớn, dung lượng đồ sộ, khái
5 quát những vấn đề của lịch sử…), đồng thời nghiên cứu về sự phát triển của thể
loại đặc biệt này.
Có thể kể đến một số bài viết đăng trên các tạp chí, các sách:
- Tạp chí Văn nghệ quân đội số 4/1975 có bài viết bàn về thể loại trường
ca của Lại Nguyên Ân, số 1, 2. 3/1981 có bài viết của Hữu Thỉnh, Từ Sơn,
Hoài Thanh, Trần Ngọc Vương, Phạm Tiến Duật…
- Trên TC VH số 6/1982 có bài viết của Đỗ Văn Khang, Vũ Đức Phúc…
số 3/1984 có bài của Hoàng Ngọc Hiến, số 3,4/1988 của Mã Giang Lân...
- Trên GDTĐ- 2002 có bài của Đào Thị Bình; trên Tạp chí Văn nghệ QĐ,
báo Nhân Dân, Văn nghệ Trẻ năm 2007 - 2008 có bài viết của Vũ Tuấn Anh,
Nguyễn Hữu Quý... Gần đây, có bài viết của Trần Đình Sử (báo mạng- 4/2010).
Về sách đã in:
- Lại Nguyên Ân có tác phẩm Văn học và phê bình (Nxb Tác phẩm mới -
1984) trong đó có nhiều trang bàn luận về trường ca.
- Vũ Văn Sỹ có tập Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam 1945 - 1995
(Nxb KHXH - 1999) đi sâu vào việc tìm hiểu thi pháp trường ca; trong tập tiểu
luận Mạch thơ trong nguồn thế kỷ (Nxb KHXH - 2005), ông cũng có bài viết
“Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại” [85, tr.137].
- Phạm Quốc Ca với chuyên luận Mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại
1975 - 2000 (Nxb Hội Nhà Văn - 2003), qua bài viết: “Sự biến đổi của trường
ca” đã góp thêm tiếng nói về thể thơ ca này [11, tr.177-183].
Sau đây, chúng tôi xin được tóm lược lại những vấn đề có liên quan đến
thuật ngữ “trường ca”, sự phát triển thể loại mà các nhà nghiên cứu đã đề cập
trên cơ sở có bổ sung cẩn trọng:
Trong bài “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca” (TCVH số 4/1975) sau
này in lại trong Văn học và phê bình (5), Lại Nguyên Ân đã đề nghị gọi chung
những tác phẩm thơ dài là trường ca. Quan niệm này, có người đồng ý nhưng
cũng có người không chấp nhận. Sau này, trong bài “Bàn góp về trường ca”
6 (4), ông cho rằng “hình như ai cũng đúng cả”. Thực sự, đề nghị của ông về
cách gọi tên chung như thế không phù hợp với đặc trưng riêng của thể loại
trường ca vì thơ dài khác với trường ca, thơ dài không cần thiết chứa đựng
nội dung lịch sử, cảm hứng sử thi, không gian sử thi... Những nghiên cứu của
Lại Nguyên Ân là một đóng góp thiết thực cho việc nhận định về con đường
phát triển của trường ca.
Từ Sơn, trong bài “Về khái niệm trường ca” (TCVNQĐ số 1/1981) cho
rằng trường ca "là thơ chứ không phải là ca" [80, tr.120]. Theo ông, nên dùng
thuật ngữ trường ca cho những bài thơ dài có cốt truyện tự sự trên 500 câu và
nên gọi chung là truyện thơ. Cách lý giải của Từ Sơn nghiêng về việc lấy
nghĩa gốc của thuật ngữ “trường ca” để đặt tên cho thể loại.
Cũng trên Tạp chí Văn nghệ quân đội số 5/1981, Hoài Thanh có bài "Thơ
và chuyện trong thơ". Ông cho rằng: Ba mươi năm đời ta có Đảng, Nước non
ngàn dặm, Theo chân Bác của Tố Hữu và cả Trường ca Nguyễn Văn Trỗi của
Lê Anh Xuân đều là truyện thơ. Như vậy, theo Hoài Thanh, "truyện thơ" và
"trường ca" cũng chưa được phân định cụ thể như quan niệm hiện nay.
Trần Ngọc Vượng, trong bài “Về thể loại trường ca và tính chất của nó”
(Tạp chí VNQĐ số 5/1981), đã đưa ra những nhận định tinh tế, phân biệt sự
khác nhau giữa trường ca và truyện thơ, thơ dài. Theo ông "trường ca của ta
bây giờ không phải cùng khuôn với các thể loại đã từng có mặt trong lịch sử
văn học" [11, tr.129]. Những lập luận để phân biệt trường ca với khúc ngâm,
truyện thơ, thơ dài mà ông đưa ra khá hợp lý: trường ca phân biệt với thơ dài
trước hết ở dung lượng cảm hứng, “cảm hứng đó là linh hồn của trường ca", và
chỉ có thể xuất hiện ở một thời đại cách mạng [114, tr.129]. Đây là một nhận
định khá sâu, góp phần xác định đặc điểm thể loại và lý giải vì sao giai đoạn
này trường ca nở rộ.
Năm 1982, Mã Giang Lân đã góp tiếng nói bàn về thể loại trường ca trong
bài "Trường ca, vấn đề thể loại" đăng trên TCVH số 6. Ông nhận xét rằng:
7 "Lâu nay các nhà nghiên cứu phê bình văn học thường dùng thuật ngữ "trường
ca" để chỉ về một thể loại văn học thời kỳ thượng cổ như trường ca Đăm San,
trường ca Xing Nhã... của đồng bào Tây Nguyên; trường ca Đẻ đất đẻ nước
của người Mường… hoặc tuỳ tiện cho tất cả những sáng tác thơ dài đều là
trường ca cả” [45, tr.104]. Sau khi dẫn ra một số tác phẩm thơ dài và trường ca
để phân tích, lý giải về mặt thể loại, Mã Giang Lân đi đến khẳng định: "Thơ dài
và trường ca có những nét tương đồng như sử dụng tổng hợp nhiều thể thơ,
thay đổi không khí cảm xúc, hạn chế sự bằng phẳng đơn điệu, thường khai thác
và biểu hiện cái đẹp cái cao cả, cái anh hùng. Nhưng ở trường ca bộc lộ rõ
nội dung ca ngợi, hào hùng, nên cảm hứng anh hùng phải là mạch cảm xúc
chủ đạo” [45, tr.108-109].
Cuối cùng tác giả đưa ra kết luận có tính khái quát: “Đường đi của sử
thi… là đến tiểu thuyết. Còn thơ trữ tình là cái nôi của trường ca và thơ dài.
Trường ca đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo trên các yếu tố cơ bản của thơ trữ
tình và sử thi nghĩa là kết hợp cả hai phương thức biểu hiện: trữ tình và tự sự"
[45, tr.152]. Nghiên cứu của Mã Giang Lân đã giúp cho chúng tôi có một sự
phân định về trường ca và thơ dài khá rõ ràng.
Vũ Đức Phúc cũng rất quan tâm đến thể loại trường ca nên trên Tạp chí
Văn học số 6/1982, ông có bài viết “Chung quanh vấn đề trường ca". Cũng
như Từ Sơn, ông nhận xét về nghĩa và cách dùng thuật ngữ "trường ca". Theo
ông: "trường ca là một thuật ngữ văn học mới, chưa chính xác, chưa ổn định,
để chỉ các sáng tác thơ dài" [73, tr.93] "khoảng từ bốn, năm trăm câu trở lên
[72, tr.94] và phải có sức "lay động được con tim người đọc” một cách mạnh
mẽ, "thời đại ta đòi hỏi phải có trường ca anh hùng" [72, tr.99]. Ông cho rằng:
khi viết trường ca, nếu viết bằng một thể thơ thì “trường ca dễ đơn điệu” [72,
tr.101-102]. Chúng tôi hoàn toàn thống nhất với nhận xét trên. Theo ông: "Theo
chân Bác là một thiên trường ca" [72, tr.100], và Tố Hữu đã phối hợp giữa anh
hùng ca với trữ tình trên cái nền gợi lại sự kiện lịch sử. Nhìn chung bài viết của
8 Vũ Đức Phúc đã khẳng định lại những vấn đề mà một số nhà nghiên cứu trước
đó nêu ra: trường ca phải được xây dựng trên nền sự kiện lịch sử, độ dài cần
vừa phải, cần có sự pha trộn, thể loại và yếu tố trữ tình rất quan trọng. Đặc biệt,
ông cho rằng yếu tố tự sự chỉ là phần độn thêm, điều này đối lập với ý kiến
của Đỗ Văn Khang khi cho rằng các trường ca đều cố gắng lấy tự sự làm chính.
Trên Tạp chí Văn học số 6/1982, trong bài “Từ ý kiến về trường ca sử
thi của Hêghen đến trường ca hiện đại ở ta", Đỗ Văn Khang đã dẫn ra ý kiến
của Hêghen viết về trường ca sử thi (Mỹ học Hêghen - 1836) để làm nền tảng
cho những lập luận của mình về “trường ca hiện đại Việt Nam"; cụ thể là về:
nguồn gốc sử thi, sức khái quát của trường ca sử thi, xung đột sử thi, tính cách
sử thi, chi tiết trong trường ca sử thi. Căn cứ vào công trình nghiên cứu sử thi
của Hêghen, ông xem xét trường ca ở các điểm sau đây:
+ "Chất khái quát tổng thể lịch sử, phong cách đồ sộ" [38, tr.87], trong đó
chú ý đến tính chất xung đột mang tính lịch sử.
+ "Các cá tính của trạng thái thế giới dân tộc rất mãnh liệt được biểu hiện
qua cái tôi nhà thơ" [38. tr.87].
+ "Vai trò của chi tiết trong trường ca… Cách tổ chức liên chương, liên
đoạn” [38, tr.90].
+ "Trường ca hướng về các biến cố trung tâm” [38, tr.91 cố gắng lấy tự sự
làm chính, "hình thức kể" là nhân tố quan trọng góp phần làm nên trường ca.
Đây là những ý kiến, những lập luận cơ bản dựa vào Mỹ học Hêghen.
Ông cũng không loại trừ hoàn toàn sự biến dạng của thể loại trường ca trong
quá trình vận động của lịch sử xã hội và thực tiễn đời sống văn học nước ta. Từ
những lập luận nêu trên, Đỗ Văn Khang đề nghị nên gọi những bài thơ đúng
bản chất, có ý nghĩa mỹ học đầy đủ là "trường ca sử thi hiện đại". Bản thân
người viết cũng đồng quan điểm về tên gọi trường ca sử thi hiện đại và rất
quan tâm đến “trạng thái dân tộc rất mãnh liệt biểu hiện qua cái tôi nhà thơ, cái
tôi chứng nhân lịch sử” mà Đỗ Văn Khang đã nghiên cứu.
9
Cũng trong năm 1982, Lại Nguyên Ân có bài "Thể trường ca trong thơ
gần đây" in ra trong Văn học và phê bình (5). Theo ông, trong phạm vi thơ hiện
đại ở ta, vẫn còn đủ thận trọng để “coi trường ca như là một thể loại đang hình
thành và phát triển với yếu tố trữ tình là yếu tố chủ đạo” [5, tr.8]. Ông nhận
định: "Thể tài trường ca là biểu hiện cụ thể của xu hướng sử thi hóa" [5, tr.22].
Ý kiến này giúp người viết tìm hiểu sâu về vấn đề thể loại và tính chất sử thi,
trữ tình trong trường ca về thời chống Mỹ.
Phạm Huy Thông, nhà thơ nổi danh với Tiếng địch sông Ô - phỏng tích
Trương Lương dùng tiếng địch làm tan nát hàng ngũ quân sỹ Hạng Võ; đã có
báo cáo tại hội nghị khoa học về Trường ca do Khoa Văn Đại học Tổng hợp tổ
chức (1983). Trong phần II mang tựa "Trường ca", Phạm Huy Thông đã khẳng
định “độ dài của trường ca là một yếu tố thuận. Độ dài góp phần cấp trọng
lượng cho chất tráng của thi ca" [98, tr.12]. Phương châm của Huy Thông là
"linh hoạt để sát hợp" [98, tr.17]. Bản thân người viết đồng tình với quan điểm:
độ dài cần linh hoạt, độ dài là yếu tố thuận, mà điều này thơ ngắn khó đạt
được khi cần khái quát vấn đề lớn lao của lịch sử, phản ánh cảm xúc mãnh liệt
của cái tôi chứng nhân lịch sử.
Hoàng Ngọc Hiến có những ý kiến được trình bày khá rõ trong bài "Về
đặc trưng của trường ca” (TCVH số 3/1984), đặc biệt là những nhận định
quan trọng về đặc trưng thể loại trường ca của Biêlinxki, của giáo sư A.N.Sô-
kô-lôv chuyên nghiên cứu về trường ca [28, tr.116]. Đồng thời, ông cũng giới
thiệu một số thành tựu về trường ca của nền văn học Xô viết và cuộc thảo luận
về trường ca kéo dài trên ba tháng đăng ở báo Văn học Liên Xô [28, tr.110].
Ông hoàn toàn nhất trí với ý kiến của Biêlinxki: "Trường ca chỉ là một thể loại
tác phẩm thơ đặc biệt... có nội dung lớn và dung lượng lớn”, "tương quan giữa
nguyên tắc trữ tình và nguyên tắc tự sự là một vấn đề trung tâm của thi pháp
trường ca; trong trường ca hiện đại, xu thế trữ tình lấn át tự sự” [28, tr.111-
110]. Cách lập luận và giải quyết vấn đề của ông dễ hiểu, phù hợp với cách
10 hiểu hiện nay về thể loại trường ca, nhất là nhận định: xu thế trữ tình trong
trường ca hiện nay lấn át tự sự. Tuy vậy, ta cũng không loại trừ có trường ca
viết ở thời gian sau này như Những cánh đồng dưới lửa của Văn Lê, Đi trong
sen ngát bóng xanh của Phạm Thái Quỳnh lại thiên về xu hướng tự sự.
Vấn đề phân định thể loại trường ca và thơ dài đã khiến Mã Giang Lân
trăn trở và viết tiếp bài “Thử phân định giữa ranh giới trường ca và thơ dài"
(Tạp chí Văn học số 5,6/1988). Trong cuốn “Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam”,
ở phần "Xu hướng mở rộng dung lượng phản ánh" [47, tr.356], ông cũng tập
trung đi sâu vào việc tìm sự giống nhau và khác nhau của hai loại này. Theo
ông, “trường ca có kết cấu rõ và hoàn chỉnh hơn; thể thơ đa dạng; nhân vật có
đường nét, tâm trạng hơn; nhịp điệu, nhạc điệu trong trường ca sôi nổi, hào
hùng hơn; yếu tố tự sự và trữ tình bổ sung cho nhau; đề tài: thuộc về hiện tại
mà tác giả từng sống, chứng kiến”. Đây là một sự nghiên cứu khá công phu,
giúp ta thấy được sự tương đồng và khác biệt giữa trường ca và thơ dài.
Sự ra đời mạnh mẽ của trường ca đã trở thành một hiện tượng văn học nổi
bật trong đời sống thơ ca. Tháng 3/2002, trên Tạp chí Giáo dục số 26, Đào Thị
Bình có bài "Góp phần tìm hiểu trường ca viết về cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước". Đây là một bài viết có giá trị, tổng kết lại một số ưu điểm nổi
trội của trường ca; giúp ta có một cái nhìn bao quát về thể loại; mở ra hướng
mới khi nghiên cứu, nhất là "chất suy nghĩ và triết lý", "chất trí tuệ chính luận"
[10, tr.30-31] trong trường ca.
Phạm Quốc Ca, trong chuyên luận Mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại
1975 - 2000 (Nxb Hội Nhà Văn - 2003) đã dành nhiều trang để viết về thể loại
trường ca. Ông nhận định “về tên gọi thể loại trường ca đã có sự không rạch
ròi… Do sự thâm nhập, hòa trộn giữa các thể loại... người ta đã gọi các tác
phẩm khá khác nhau bằng một cái tên chung là trường ca” [11, tr.178]. Theo
ông: có sự khác nhau khá rõ, chủ yếu là ở phương thức sáng tác; truyện thơ gắn
với nhân vật và kết cấu, cốt truyện; thơ dài gắn với cảm xúc trữ tình; trường ca
11 phân biệt ở chỗ dù có cốt truyện hay không, nó phải mang cảm hứng lớn về
nhân dân, về tổ quốc, về thời đại [11, tr.179]. Đây là những nhận xét khá thống
nhất với nhận định của các nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, Vũ Đức Phúc, Mã
Giang Lân, Trần Ngọc Vượng… về cảm hứng sử thi, kết cấu, cái tôi trữ tình…
trong trường ca.
Tuy nhiên, cuối cùng, trong cách lập luận của tác giả vẫn có một vài điểm
chưa thống nhất khi nói rằng: “cho đến nay, vẫn rất khó phân biệt giữa trường
ca, truyện thơ, và thơ dài” [11, tr.178]. Về vấn đề này, người viết đã trình bày
trong phần mở đầu luận văn Cao học “Đặc điểm trường ca viết về đề tài chiến
tranh thời chống Mỹ ”: trường ca hiện đại có thể có cốt truyện hoặc không cần
cốt truyện như truyện thơ nhưng phải mang cảm hứng lớn về nhân dân, tổ quốc,
thời đại (cảm xúc trữ tình dễ lẫn với thơ dài). Đặc trưng nổi bật của trường ca
giai đoạn 1960 - 1980 biểu hiện xu hướng sử thi hóa, âm điệu hào hùng, giọng
điệu ngợi ca. Trường ca ra đời sau 1980 thường đậm chất hồi tưởng, trăn trở, bi
tráng.
Vũ Văn Sỹ, trong phần thứ nhất của tập Mạch thơ trong nguồn thế kỷ [85]
đã cho in lại một số tiểu luận có liên quan đến trường ca như: “Hiện tượng đối
thoại với quan niệm nghệ thuật sử thi trong thơ” (TCVH số 4/1990, tr 98);
“Thành tựu và giới hạn lịch sử” (TCVH số 6/1990, tr 85): “Trường ca trong hệ
thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại” (TCVH số 137/2000)... Trong đó, ông đã
có những nhận định, đánh giá rất khách quan và sâu sắc về thể loại trường
ca, thiên về ý kiến cho rằng trường ca là một hiện tượng thâm nhập của thể loại.
Nhưng ông cũng không tránh khỏi băn khoăn khi đặt ra câu hỏi: “Liệu có
những nguyên tắc cho sự mềm dẻo của kết cấu trường ca? và phải chăng
trường ca đã thay thế cho truyện thơ” [85, tr.138-139]. Sau đó, chính ông cũng
đã lý giải: “Trường ca kế thừa truyện thơ nói riêng và những kinh nghiệm tự sự
của thơ ca nói chung... Chính vì thế, về bản chất, trường ca khác với truyện thơ
truyền thống, khác với truờng ca cổ điển nhưng lại gần gũi với thơ trữ tình”.
12 Theo ông, trường ca lấy sự trưởng thành của ý thức làm thước đo các biến cố
và sự kiện, là căn cứ để phân biệt bản chất giữa trường ca và truyện thơ truyền
thống. Đây là vấn đề mà luận án chúng tôi tập trung nghiên cứu.
Lê Thành Nghị, tác giả của tập Tiểu luận Trước đèn... thơ có những lập
luận tương đồng ý kiến Vũ Văn Sỹ khi cho rằng: “sự khác nhau giữa thơ dài và
trường ca, có thể dễ nhận thấy qua kết cấu của tác phẩm. Trường ca đòi hỏi
một kết cấu chặt chẽ, hợp lý, các chương đoạn có thể không theo qui luật thời
gian, không gian, có thể kết cấu theo tuyến sự kiện hoặc tuyến nhân vật...
trường ca khác hẳn một bài thơ dài ở tính chặt chẽ của kết cấu” [58, tr.178].
Vũ Tuấn Anh, trong bài “Thơ chống Mỹ, cứu nước trong tiến trình thơ
hiện đại” [1], cũng đã trình bày những luận điểm sau:
+ Thơ ca chống Mỹ có cốt cách và tầm vóc của một nền thơ lớn, trước hết
là do tính quần chúng sâu rộng… Một nền thơ trữ tình - sử thi, giàu tính chính
luận và chất trí tuệ.
+ Thời đại lịch sử đã khai sinh một mô hình thơ ca mới, một kiểu nhà thơ
mới, một cái Tôi trữ tình công dân, một cái Ta dân tộc.
+ Nền thơ chống Mỹ làm phong phú rất nhiều khả năng biểu hiện của thơ
ca: từ việc sử dụng linh hoạt các thể thơ cho đến cấu trúc thơ, ngôn ngữ thơ.
Những vấn đề được tác giả nêu ra mặc dầu còn mang tính khái quát về thơ
chống Mỹ nói chung; nhưng lại là những vấn đề rất đáng quan tâm, sát hợp với
nội dung nghiên cứu để giúp người viết phân tích, tổng hợp các vấn đề từ thể
loại trường ca hiện đại viết về thời chống Mỹ nói riêng.
Chúng tôi cũng sử dụng các luận văn, luận án sau đây trong quá trình
nghiên cứu: + Luận văn Thạc sĩ “Đặc điểm trường ca viết về đề tài chiến tranh
chống Mỹ” (2002) của Nguyễn Thị Liên Tâm.
+ Luận văn Thạc sĩ “Đặc điểm trường ca Thu Bồn” (2005) của
Nguyễn Xuân Cổn. Ngoài ra, chúng tôi có tham khảo thêm Luận án Tiến sĩ của
Mai Bá Ấn (10/2008) viết về Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn và Thanh Thảo.
13
Nhìn một cách tổng quát; các nhận định, công trình nghiên cứu nêu trên
đã giúp chúng tôi có một cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm... sâu sát về trường ca.
Ở giai đoạn đầu, khi trường ca mới xuất hiện, tính chất tự sự đóng vai trò chủ
yếu (khiến dễ lẫn với truyện thơ). Càng về sau 1975, yếu tố tự sự càng kết hợp
chặt chẽ với trữ tình, nhưng vai trò của yếu tố trữ tình bộc lộ mạnh mẽ, rõ nét
hơn (khiến dễ lẫn với thơ dài, thơ trữ tình).
Để kết thúc phần nhận định về thể loại trường ca, trên cơ sở đã trình bày ở
trên kết hợp với ý kiến mang tính tổng hợp của Đào Thị Bình, người viết cũng
cho rằng: "Trường ca hiện đại là một thể loại văn học thuộc hệ thống thơ ca
hiện đại Việt Nam, ra đời và phát triển trong hoàn cảnh xã hội có những biến
cố lịch sử lớn lao, có dung lượng khá đồ sộ, cảm hứng mãnh liệt, nội dung
hoành tráng chứa đựng những sự kiện lịch sử phong phú, âm điệu hào hùng,
hình thức thể loại hiện đại, phốí hợp đa dạng các thể thơ, đậm tính trữ tình,
giàu chất suy nghĩ, triết lý” (TCGD số 26/2002). Đồng thời, người viết cũng bổ
sung ý kiến của ĐàoThị Bình: “trường ca hiện đại không chỉ ra đời và phát
triển trong hoàn cảnh xã hội có những biến cố lịch sử trọng đại, lớn lao mà còn
ra đời cả trong thời bình”. Vì thực tế, sau 1975, trong thời bình không có biến
cố lịch sử lớn lao nhưng vẫn có hàng loạt trường ca ra đời hưởng ứng các cuộc
vận động sáng tác về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ và đa phần
được viết bằng thủ pháp “hồi tưởng”.
5.2 Những ý kiến phê bình, nhận định về các tác giả và các trường ca
tiêu biểu
Hầu hết đây là những bài phê bình nhận định về một tác giả, về một
trường ca cụ thể.
Bích Thu có bài viết “Thu Bồn”, đăng trong Phê bình bình luận Văn học -
do Vũ Tiến Quỳnh chủ biên [78], trích từ Nhà thơ Việt Nam hiện đại (Nxb
KHXH - 1884). Tác giả nhận định ngòi bút Thu Bồn có khả năng mở rộng sự
sáng tạo ở nhiều lãnh vực, thể loại, đặc biệt là ở thể loại trường ca. Là một
14 người lính gắn bó với chiến trường miền Nam, Thu Bồn đi nhiều, viết khỏe.
Ngòi bút sáng tạo kết hợp hài hòa cảm xúc và trí tuệ, khái quát mà không tách
rời hiện thực. Bên cạnh mảng thơ trữ tình, Thu Bồn tập trung sức sáng tác
trường ca. Sau khi ra mắt Bài ca chim Chơrao (1964), ông viết tiếp Vách đá Hồ
Chí Minh (1972), Quê hương mặt trời vàng, Chim vàng chốt lửa (1975),
Badankhát (1977), và Campuchia hy vọng (1979). Theo Bích Thu, Thu Bồn là
người sáng tác trường ca hiện đại với số lượng khá nhiều, gắn với thời kỳ
hoàng kim của thể loại. Và sau 1975, Thu Bồn vẫn say viết trường ca, nhất là
viết về Tây Nguyên. Bài ca chim Chơrao có kết cấu theo cốt truyện, được đánh
giá là tác phẩm thành công, đưa ông đến với độc giả trong và ngoài nước (giải
Bông sen - tại Đại hội các nhà văn Á Phi họp tại Liên Xô 1973). Bích Thu cho
rằng: “Trường ca của Thu Bồn thường có tính chất thời sự. Song từ điểm mạnh
này, thơ anh cũng bộc lộ một số hạn chế. Chất liệu hiện thực trong thơ… nhiều
khi còn bề bộn, ngổn ngang…, có cảm giác Thu Bồn còn cầu kỳ, chuộng lạ
trong cách đặt tên cho các tiêu đề của trường ca” [78, tr.66-68]. Qua nghiên
cứu, chúng tôi cũng khẳng định rằng: sự xuất hiện rầm rộ của trường ca, trong
đó có sự đóng góp chủ lực của Thu Bồn, là một hiện tượng văn học nổi bật
trong đời sống thơ ca những năm chống Mỹ.
Tố Hữu, cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, đã được
rất nhiều nhà phê bình như Trần Đình Sử, Lê Đình Kỵ, Phong Lan… nghiên
cứu và Theo chân Bác được đánh giá là một thiên trường ca viết về Hồ Chí
Minh. Nguyễn Văn Hạnh có tiểu luận “Theo chân Bác - một thành công mới
của Tố Hữu”, in trong cuốn “Tố Hữu về tác gia và tác phẩm” do Phong Lan
chủ biên. Theo ông, ngay việc đặt đầu đề cho trường ca, Tố Hữu đã thể hiện kín
đáo ý đồ nghệ thuật: “Theo chân Bác” để làm sống lại trước mắt những chặng
đường Bác đã đi qua. Trong trường ca, lịch sử và cảm xúc, tự sự và trữ tình, thủ
pháp kể chuyện và miêu tả, biểu hiện xen kẽ… Nguyễn Văn Hạnh cũng ca
ngợi: “Theo chân Bác với những thành công nổi bật của nó về nhiều mặt… Bài
15 thơ viết với một cảm hứng lớn, công phu và với một trình độ già dặn… đã gửi
vào bản trường ca tất cả tâm huyết, tất cả sức mạnh nghệ thuật của anh và bài
thơ đã làm“nhiệm vụ lịch sử” của nó một cách xứng đáng” [43, tr. 670, 674,
675]. Tuy vậy, ông cũng chỉ ra những hạn chế của trường ca: có những đoạn
không hay, dễ dãi, dàn trải… có đoạn nặng tưởng tượng, một số hình ảnh trùng
lặp, ít có sức nặng (ngẩng đầu cao, vỗ cánh bay…). Những nhận định của ông
giúp chúng tôi có cơ sở nghiên cứu giá trị văn học, giá trị lịch sử, cảm hứng sử
thi của trường ca về thời chống Mỹ.
Tôn Phương Lan đã đánh giá cao về tài năng Nguyễn Khoa Điềm trong
bài viết “Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ trẻ có nhiều triển vọng" (TCVH số
5/1976): “Một điểm đáng chú ý trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là những liên
tưởng độc đáo, kết quả của một sự am hiểu cuộc sống và một cảm quan nhạy
bén” [44, tr.110]. Tôn Phương Lan cũng khái quát về giá trị phản ánh của tác
phẩm: “góp cho văn học một phong cách mới... những khái quát thơ sâu sắc
với bút pháp hiện thực và lãng mạn quyện chặt vào nhau [44, tr.112]. Cuộc
sống chiến đấu vĩ đại của toàn dân là cơ sở hiện thực cho những dòng suy tư
cuộn chảy” [44, tr.115]. Tuy nhiên, Tôn Phương Lan cũng cho rằng chất suy
tưởng đằm sâu của Nguyễn Khoa Điềm nhiều khi khiến cho thơ ít chất hồn
nhiên tươi tắn: "Lắm khi nó trở nên rắc rối, cầu kì, chữ nghĩa" [44, tr.112].
Những nhận định chính xác của tác giả giúp chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về
sức khái quát hiện thực của tác phẩm và phong cách chính luận của Nguyễn
Khoa Điềm.
Trong bài viết “Thơ chống Mỹ, cứu nước trong tiến trình thơ hiện đại”
Vũ Tuấn Anh cũng nhận xét: “Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn
Khoa Điềm mở ra cuộc đối thoại thảo ngay… Phương thức chính luận mở ra
nhiều bình diện, đi sâu vào nhiều khía cạnh của nội dung lịch sử - dân tộc, thời
đại, tạo nên tính thuyết phục trí tuệ của thơ ca, mở rộng những khả năng mới
cho thơ trữ tình” [1]. Nhận xét trên góp phần khẳng định giá trị của Mặt đường
16 khát vọng, tài năng của Nguyễn Khoa Điềm, mở ra hướng nghiên cứu về nội
dung lịch sử - dân tộc, thời đại, biểu hiện qua phương thức chính luận giàu chất
trữ tình, giúp người viết đánh giá về sự đóng góp của tác giả và tác phẩm.
Trong bài viết “Nguyễn Khoa Điềm với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa
ấm” (TCVH số 4/1988) Vũ Tuấn Anh cũng cho rằng “Triết lý và trữ tình cuộn
chảy và lắng đọng, sự già dặn của suy nghĩ đan lẫn nét tinh tế và tài hoa - sự
hợp chuyển hài hòa những yếu tố ấy là kết quả của nhận thức lý trí, của sự mẫn
cảm của thơ với nhịp đập thời đại mà đời và thơ anh nhập cuộc”.
Vũ Văn Sỹ, trong tiểu luận “Thơ Nguyễn Khoa Ðiềm - một giọng trữ
tình giàu chất sử thi” [85, tr.290] đã ca ngợi: “Với Đất ngoại ô và Mặt đường
khát vọng có thể khẳng định Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trẻ đặc sắc của
thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Một tiếng nói trẻ trung, có cá tính, vừa “đồng
thanh”, vừa đại diện cho một thế hệ trực tiếp cầm súng và vào trận”. Những
đánh giá của Vũ Văn Sĩ và Vũ Tuấn Anh về tác giả khá cụ thể, nhất là về sự
tinh tế, tài hoa, nhận thức thời đại, sự kết hợp giữa tính triết lý và trữ tình.
"Thanh Thảo, thơ và trường ca" (TCVH số 2/1980) là bài nhận định của
Thiếu Mai về một cây bút bộ đội viết về người lính Trường Sơn thời chống Mỹ.
Theo Thiếu Mai: "Ngòi bút Thanh Thảo tinh tế mà thanh thoát, phong phú mà
nhẹ nhõm… lời thơ đẹp, không dễ dãi, buông thả” [52, tr.102]… là thơ của một
tâm hồn giàu suy tưởng, giàu trí tuệ. Thơ Thanh Thảo có chiều sâu…, bao giờ
anh cũng muốn vượt qua những hiện tượng bên ngoài để tìm đến cái đích thực,
cái bản chất của sự vật” [52, tr.99]. Bài viết đã dành nhiều trang nhận định về
giá trị của Những người đi tới biển, giúp người viết có thuận lợi ban đầu trong
việc nghiên cứu về tác giả và đặc biệt là giọng điệu và sức khái quát hiện
thực của trường ca.
Trong bài "Thanh Thảo, một gương mặt tiêu biểu trong thơ từ sau
1975" đăng trên TCVH số 5, 6/1985, Bích Thu nhận xét: Thơ anh “hướng ngòi
bút vào chân dung người lính, vào hiện thực chiến trường, vào đời sống nhân
17 dân… để khám phá ra chân dung tinh thần của một thế hệ người lính trong giai
đoạn chiến tranh khốc liệt mà hào hùng… là tiếng nói thâm trầm, thấm thía về
hiện thực chiến tranh, về trách nhiệm và số phận của thế hệ mình trước Tổ
quốc, nhân dân” [99, tr.67]. Đánh giá về Những người đi tới biển, Bích Thu
khẳng định so với nhiều trường ca xuất hiện rầm rộ vào những năm 70, tác
phẩm thực sự gây ấn tượng đẹp đối với người đọc về thể thơ này vì: “Cái tôi
trong trường ca. là cái tôi từng trải, cái tôi chứng kiến... mang đậm dấu vết cá
nhân, không lập lại bất cứ ai, lý giải được những vấn đề sinh tử của một giai
đoạn lịch sử, chất liệu hiện thực đi vào thơ Thanh Thảo, vừa bình dị, đời
thường vừa lung linh, huyền ảo…” [99, tr.70-71]. Như vậy, Bích Thu đã điểm
qua về vấn đề xây dựng cái tôi của nhà thơ, nhận xét về chất liệu cuộc sống
trong trường ca và có nhận định rất khách quan rằng: “Thanh Thảo có những
tìm tòi mới trong hành trình sáng tạo [99, tr.69], nhưng "Thơ Thanh Thảo giàu
chất suy tư, hơi quá trí thức mà thành ra khó hiểu" [99, tr.72].
Tuy nhiên, cuối cùng, Bích Thu vẫn khẳng định Thanh Thảo xứng đáng là
một gương mặt thơ tiêu biểu [99, tr.73]. Những nhận xét của Bích Thu và Thiếu
Mai giúp chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về giá trị phản ánh hiện thực thời chống
Mỹ, cái tôi và cái ta trong trường ca của Thanh Thảo, những đóng góp của nhà
thơ đối với dòng văn học thời chống Mỹ để thực hiện việc nghiên cứu chương
II của luận án.
Lại Nguyên Ân cũng đã viết về Thanh Thảo trong bài "Dấu chân và
người lính trẻ trong thơ Thanh Thảo”, [5, tr.45]. Ông đã nhận định: “Thanh
Thảo… đi vào chiến trường cuối những năm 60, suốt dọc Trường Sơn, theo dấu
chân người lính trẻ... Và tâm trạng người lính, đời sống, chiến đấu của người
lính, đời sống nhân dân trong vùng sát nách giặc đã dội vào thơ các anh với
những âm điệu và màu sắc có khác”. Thơ Thanh Thảo viết về cuộc chiến đấu ở
dọc Trường Sơn và đồng bào Nam Bộ, cố gắng phác họa chân dung tinh thần
của những người lính bình thường, vô danh nhưng rất có ý thức về vận mệnh
18 Tổ quốc. Thơ anh không thiếu cái cụ thể... mà “vẫn giàu khái quát” [5, tr.52].
Nhận định trên đã khẳng định sức khái quát hiện thực của Những người đi tới
biển và ngòi bút Thanh Thảo mà chúng tôi sẽ nghiên cứu ở chương II.
Đánh giá về bút pháp xây dựng trường ca Những người đi tới biển, Lại
Nguyên Ân cho rằng: “Thanh Thảo chính đã thành công ở phần chân thật
trong cảm quan về thực tại chiến đấu, có hy sinh mất mát, có chiến thắng lạc
quan; sắc thái bi hùng, trữ tình… hòa hợp ở mức khá cao với tính sử thi, điều
này đem lại thành công cho anh” [5, tr.55]. Ý kiến của Lại Nguyên Ân tạo
thêm cơ sở để chúng tôi nghiên cứu sức khái quát hiện thực; yếu tố sử thi,
trữ tình trong trường ca cũng như bút pháp hiện thực của Thanh Thảo.
Mai Hương rất tâm đắc với phong cách viết trường ca của Hữu Thỉnh -
một nhà thơ bộ đội thời chống Mỹ. Trên TCVH số 3/1980, với bài "Đọc
Đường tới thành phố”, Mai Hương cho rằng: "Ngòi bút Hữu Thỉnh thật tỉnh
táo, khỏe khoắn, không một chút cường điệu dễ dãi... khi viết về cuộc hành
trình vĩ đại của cả dân tộc” [35, tr.109]. Trong những trang viết khá cẩn thận,
Mai Hương đã nhận xét khái quát từng chương của trường ca: cách khai thác
chủ đề, cách chọn vấn đề của tình cảm, chọn tình huống gây cấn để mô tả, từ đó
đưa người đọc đến với “sự tinh tế trong đời sống” tình cảm vốn đẹp và trong
lành của con người Việt Nam, đặc biệt là sự hoà quyện giữa cá nhân và cộng
đồng [35, tr.110]. Mai Hương cũng cho rằng: "Khi tác giả cố chỉ thuần lao tìm
về mặt hình thức, ở những chỗ ấy... khó đọc, khó nhớ và có phần nặng nề" [35,
tr.112]. Nhưng cuối cùng, tác giả vẫn khẳng định Đường tới thành phố đã thu
hút được sự chú ý, tin yêu của đông đảo bạn đọc. Điều này đã giúp người viết
khẳng định thêm giá trị của trường ca và bút lực của Hữu Thỉnh.
"Hữu Thỉnh - một phong cách thơ sáng tạo" là bài viết của Lưu Khánh
Thơ, đăng trên TCVH số 2/1988. Trước hết, Khánh Thơ đã giới thiệu sự thành
công của Đường tới thành phố (giải ba báo Văn nghệ 1972 - 1973, giải nhất
báo Văn nghệ 1975 - 1976, tặng thưởng của Hội Nhà Văn 1980). Theo Khánh
Thơ: "trước khi là nhà thơ, Hữu Thỉnh đã là một người lính. Hình tượng người
19 lính và hiện thực lớn lao, sôi động của những năm tháng chiến tranh ác liệt đã
trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho các sáng tạo của anh” [95, tr.75]. Như
vậy, “người lính và hiện thực cuộc cách mạng lớn lao của dân tộc” là nội dung
quan trọng trong Đường tới thành phố. Cảm hứng, phong cách sáng tạo của tác
giả cũng là vấn đề được tập trung nghiên cứu ở chương II.
Lúc bấy giờ, Lưu Khánh Thơ đã đánh giá khá dè dặt:“Hữu Thỉnh đã
khẳng định mình là một trong những nhà thơ có thành công khi viết về đề tài
chiến tranh chống Mỹ". Tác giả nhận xét trường ca có khá nhiều những đoạn
thơ cảm động, những câu thơ sắc nhọn, phản ánh sâu sát hiện thực của một thời
chiến, hơn hẳn những tác phẩm ở giai đoạn trước. Tuy nhiên, Khánh Thơ cũng
chỉ ra những hạn chế: "chất lượng các chương không đồng đều... ở đoạn cuối
không giấu nổi tình trạng hụt hơi... có khi không làm chủ được ngòi bút của
mình, thơ bị rơi vào tình trạng lan man" [95, tr.81-82].
Như vậy, cả hai bài viết đều đánh giá cao bút lực của Hữu Thỉnh, nhưng
Lưu Khánh Thơ đi sâu về tính chất văn chương, nghệ thuật biểu hiện nhân vật ở
những câu thơ minh họa. Giá trị của Đường tới thành phố cũng được Mai
Hương và Lưu Khánh Thơ khẳng định. Ngày nay, lời nhận xét ấy vẫn được trân
trọng và là cơ sở để giúp người viết thực hiện việc nghiên cứu giá trị tác phẩm
và vai trò của tác giả trong dòng văn học hiện đại Việt Nam.
Nhận định khái quát về giá trị tư tưởng của Mặt trời trong lòng đất, Dục
Tú cho rằng: “Tác phẩm ngợi ca sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của cuộc
chiến tranh chính nghĩa" [79, tr.146]. Thành công của Mặt trời trong lòng đất
(Trần Mạnh Hảo) chính là nhờ sự phản ánh trung thực cuộc sống chiến đấu của
nhân dân Củ Chi và bút pháp lãng mạn bay bổng. Tuy nhiên, người viết cũng
nhận thấy trong trường ca này, những đoạn triết lý nhiều là những đoạn tối
nghĩa, có những mạch liên tưởng thiếu lô-gic [101, tr.152].
Hồng Diệu với bài viết "Những chặng đường thơ Anh Ngọc" (TCVH số
6/1987), đã nhận xét bút pháp và đánh giá Sông núi trên vai: “Cùng với tuổi tác
20 và sự từng trải, nhà thơ có ý thức sâu sắc hơn về con người và cuộc đời”. Thơ
Anh Ngọc có bản sắc riêng của lớp nhà thơ trẻ mặc áo lính, thường đặt yêu cầu
cao về tư tưởng, đồng thời chú trọng tính chân thực trong thơ. Tại hội thảo về
Trường ca do Tạp chí Văn nghệ tổ chức (1980), Anh Ngọc có bài phát biểu
nhan đề “Hãy đưa tôi một tư tưởng”, ở dòng chữ ghi cuối trường ca Sông núi
trên vai (1983), anh cũng nêu rõ điều này. Hồng Diệu cho rằng: "Anh Ngọc tập
trung nhiều và thành công… rõ hơn là ở trường ca Sông núi trên vai...”. Ca
ngợi như thế nhưng Hồng Diệu cũng không bỏ qua những nhược điểm mà
Anh Ngọc mắc phải: "Có những câu thơ trong Sông núi trên vai còn công thức
và nhạt lắm”. Tuy nhiên, bài phê bình này còn khá chung chung, chưa đào sâu
giá trị hiện thực của Sông núi trên vai, mặc dù đây là vấn đề quan trọng nhất
làm nên sự thành công cho tác phẩm (vì thực tế, các cô gái trong đoàn Vận tải
H 50 ở mảnh đất cực Nam Trung bộ, ngày nay vẫn còn lại một số các chị quá
lứa, lỡ thì, đơn lẻ... nhưng lòng không quên những niềm vui; những nhọc nhằn,
khốn khó mà họ đã từng trải qua).
Vũ Duy Thông, trong lời giới thiệu Lửa mùa hong áo, đã bày tỏ suy nghĩ:
“Không biết có lầm không nhưng các nhà thơ nữ hình như rất ít viết trường ca,
bởi đây là lần đầu tôi đọc trường ca của một cây bút khác giới… chúng tôi đã
quen nghĩ trường ca đòi hỏi vóc dáng vạm vỡ, mạch thơ dài hơi, bố cục lớp
lang, bài bản… không hợp lắm với phụ nữ”. Nhưng đọc Lửa mùa hong áo của
Lê Thị Mây, Vũ Duy Thông không chỉ thấy đậm chất nữ rất riêng mà còn thấy
bút lực của người viết trên những trang thơ.
Hồng Diệu, trong “Thêm vài suy nghĩ” (TCVN số 5/1981) đã có một
nhận xét (theo ông là một nhận xét vui): “Trong bao nhiêu trường ca in ra mấy
chục năm nay, chưa có một trường ca nào mà tác giả của nó là nữ mặc dầu các
bạn gái làm thơ của chúng ta khá nhiều. Và nếu có trường ca của một bạn gái
thì “chất” trường ca ở đó có gì đặc biệt?”. Thật sự, từ sau năm 2000, đã có vài
trường ca của các nhà thơ nữ ra đời và chất lượng hầu như không lệ thuộc nhiều
21 vào vấn đề nhà thơ là nam hay nữ mà phụ thuộc ở vốn thực tế, sức viết, cảm
xúc và tài năng của họ. Chúng ta có thể kể đến Lửa mùa hong áo của Lê Thị
Mây, Bà mẹ Quảng Nam của Trần Thị Thắng, Mẹ của Phạm Thị Bảo... Nhưng
có thể thấy rằng Lửa mùa hong áo được độc giả chú ý nhiều hơn.
- Trong sách Phê bình, bình luận văn học - Nxb Văn nghệ (1998) do Vũ
Tiến Quỳnh chọn và giới thiệu cũng có một số bài viết về các tác giả và phân
tích một số trường ca tiêu biểu được khẳng định giá trị, chẳng hạn như:
+ Nguyễn Viết Lãm có "Bài ca chim Chơ rao, một bản trường ca hay,
viết về Thu Bồn và tác phẩm, đã đăng trên TCVH số 5/1965 [78, tr.196-209].
+ Hoài Thanh với bài "Tấm lòng của một thanh niên trên tiền tuyến
lớn”, viết về nhà thơ Lê Anh Xuân, đã in trong TCVH số 10/1968 [78, tr.93].
+ Phạm Văn Sỹ với bài "Thơ ca chống Mỹ cứu nước ở Miền Nam 1954
- 1970 [78, tr.34] đã có những lời nhận định về Hưởng Triều, Giang Nam, Lê
Anh Xuân, Thu Bồn…
- Mã Giang Lân có bài "Anh Ngọc, tình yêu và người lính" in trong tập
Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, [47, tr.558-564] Nxb Giáo Dục - 2000.
- Nguyễn Hữu Quý có bài “Cổ tích về sự hồi sinh” viết về các trường ca
sáng tác từ cuộc phát động viết về Bác Hồ của báo Văn nghệ (TC VNQĐ số
617/2004.Trần Đình Sử có bài “Tản mạn về trường ca” trên báo mạng (4/2010).
Những công trình nghiên cứu, những bài phê bình, những bài viết trên đã
tạo cơ sở, tiền đề cơ bản quan trọng cho chúng tôi thực hiện công trình này.
Ngoài ra, cũng cần nhắc đến một số công trình khác, tuy không trực tiếp liên
quan đến trường ca hiện đại, nhưng cũng gợi ý cho chúng tôi có những hiểu
biết sâu sắc hơn về tính chất sử thi anh hùng hiện đại. Đó là:
+ Bài "Mấy ý kiến về anh hùng ca - bài ca Đăm San” của Lê Văn Khoa
(TCVH số 6/1982).
+ Luận án Tiến sĩ: “Thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc ở Tây
Nguyên” của Võ Quang Nhơn, có trích đăng trên Tạp chí Văn nghệ (4) 1987.
22
+ Luận văn Thạc sĩ: "Thi pháp sử thi anh hùng của dân tộc Ê-đê" của
Huỳnh Thống Nhất (2002).
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và trân trọng những công trình nghiên cứu
đã nêu, trong luận án này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu Trường ca về thời
chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam, cụ thể về các nội dung: “những
nhân tố tạo nên sự xuất hiện trường ca về thời chống Mỹ; nội dung chủ yếu, đặc
điểm nghệ thuật của trường ca”.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
Trường ca về thời chống Mỹ xuất hiện từ 1960 đến 1980 khá nhiều và đa
phần có giá trị. Sau năm 1980, trường ca vẫn tiếp tục phát triển. Bên cạnh đề tài
chiến tranh, các nhà thơ còn quan tâm đến những đề tài về cuộc sống thường
nhật, đề tài đời tư thế sự. Nhưng thực tế cho thấy, những trường ca ấy chưa tạo
nên những ấn tượng, những giá trị như trường ca về thời chống Mỹ giai
đoạn 1960 - 1980. Do vậy, phạm vi nghiên cứu của luận án này không thể khảo
sát tất cả các trường ca, mà chỉ dừng lại ở những trường ca tiêu biểu, có giá trị
viết về thời chống Mỹ của Thu Bồn, Tố Hữu, Lê Anh Xuân, Giang Nam,
Hưởng Triều, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo,
Anh Ngọc, Nguyễn Quang Thiều, Lê Thị Mây, Văn Lê, Văn Công Hùng… và
một vài tác giả khác như ở thư mục đã giới hạn.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi áp dụng các phương pháp
sau:
6.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu những nhân
tố khách quan và chủ quan tạo nên sự xuất hiện của trường ca về thời chống
Mỹ; phân tích, giải mã sự gắn kết giữa cảm xúc thời đại và dân tộc, sự hoà
quyện giữa cá nhân và cộng đồng. Phân tích giá trị phán ánh hiện thực; những
đặc điểm của sự phức hợp, đa dạng về thể thơ; tính chất đa giọng điệu và giọng
23 điệu sử thi, không gian sử thi, sự liên tường, chất liệu dân gian của trường ca về
thời chống Mỹ. Phương pháp tổng hợp sẽ tạo thuận lợi cho chúng tôi hệ thống
các vấn đề, luận điểm đã nghiên cứu và rút ra những nhận định chung.
6.2. Phương pháp lịch sử - xã hội
Các trường ca về thời chống Mỹ phản ánh cuộc sống hiện thực phong
phú. Tư tưởng nghệ thuật của các nhà thơ có cội nguồn từ hiện thực lịch sử và
thời đại mà họ đã và đang sống. Vì thế, chúng tôi luôn vận dụng phương pháp
lịch sử - xã hội trong quá trình tiếp cận, nghiên cứu giá trị các trường ca và cái
tôi nhà thơ theo hệ thống trục thời gian lịch sử (từ 1960 đến 1980, từ 1980 đến
nay). Hệ thống lại các ý kiến nhận xét về thể loại; các ý kiến đánh giá về tác
giả, tác phẩm theo quan điểm lịch sử xã hội phù hợp với thời điểm xuất hiện.
6.3. Phương pháp so sánh, thống kê
Ngoài hai phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh
và thống kê ở chừng mực cần thiết khi phân tích tác phẩm, đối sánh sự khác
biệt về vai trò cá nhân, tính sử thi, giọng điệu, kết cấu… của trường ca hiện đại
so với trường ca cổ điển, so sánh phong cách của các tác giả. Ở trường hợp cần
thiết, sử dụng phương pháp thống kê để có cái nhìn tổng hợp về tần số xuất
hiện của các thể thơ, giọng điệu, chủ thể trữ tình trong trường ca.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, luận án được trình bày thành ba
chương:
Chương I. Những nhân tố tạo nên sự xuất hiện của trường ca về thời
chống Mỹ.
Chương II. Nội dung chủ yếu của trường ca về thời chống Mỹ.
Chương III. Đặc điểm nghệ thuật của trường ca về thời chống Mỹ.
Cuối cùng là phụ lục, tài liệu tham khảo và những công trình của tác giả
đã công bố có liên quan đến đề tài luận án.
24 Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TẠO NÊN SỰ XUẤT HIỆN CỦA TRƯỜNG CA
VỀ THỜI CHỐNG MỸ
1.1 Những nhân tố khách quan tạo nên sự xuất hiện của trường ca
1.1.1 Sự kết nối từ truyền thống đến hiện đại
Văn học hiện đại nói chung, thơ ca Việt Nam thời chống Mỹ nói riêng, đã
được đội ngũ nhà thơ kết hợp nét truyền thống cùng với sự mới mẻ hiện đại để
tạo thành tiếng nói đặc sắc riêng. Sự kết nối từ truyền thống đến hiện đại về nội
dung và hình thức phát triển của thể loại đã tạo nên một sắc thái mới cho
thơ. Đây cũng là một nhân tố góp phần tạo nên sự xuất hiện của trường ca về
thời chống Mỹ.
Trường ca, một loại hình nghệ thuật ra đời tương đối sớm trong đời sống
tinh thần của nhân loại. Đầu tiên là sự xuất hiện của các trường ca cổ đại như:
Iliat-Ôđixê của Hy Lạp, Mahabharata và Ramayana của Ấn Độ... Ở Lào có
Phra Lac Phra Lam, ở Khơme có Riêmkê. Việt Nam có các Khan - là trường ca
cổ sơ thiên về hát, kể bằng làn giọng du dương trầm bổng có thể kết hợp với vũ
điệu. Điển hình như: trường ca Đam San, trường ca Xinh Nhã, trường ca Đăm
Di, H’ mon Dăm Noi, MLan, Xing Chơniếp của các dân tộc Tây Nguyên (thuộc
sử thi anh hùng, chủ yếu ca ngợi các nhân vật anh hùng tiêu biểu của bộ lạc);
của dân tộc Mường như: sử thi thần thoại Đẻ đất, đẻ nước. Xuất phát từ mục
đích phản ánh đời sống xã hội mà nó tồn tại, thi pháp trường ca luôn chịu sự
qui định của xã hội mà nó được sản sinh.
Từ nghĩa gốc “ca là hát”, các tác phẩm sử thi cổ xưa của Việt Nam
chuyển tải cái hồn phách đến lòng người bằng âm thanh giai điệu, bằng lối kể
“tổng hợp”. Thường, trong các ngôi nhà rông ấm ngọn lửa của làng, những bài
ca sử thi đã được cất lên bằng giọng hát, giọng kể. Đây có lẽ cũng là một trong
những điều kiện thuận lợi cho sử thi cổ điển phát triển, vì hát ca sẽ giúp cho
25 người nghe dễ nhớ, dễ thuộc và dễ lưu truyền. Thế nhưng, trong dòng văn học
hiện đại, thể loại trường ca ngày nay lại không mang yếu tố “hát ca”.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng các trường ca nổi tiếng trong kho tàng văn
học dân tộc là trường ca, vì yếu tố “thi” và “ca” gắn chặt nhau, có yếu tố
“trường” và “truyện” xen lẫn, trường ca cùng một hình thức với truyện thơ
[80]. Các bài thơ có dung lượng đồ sộ hiện nay không có yếu tố “ca”. Người
viết lại cho rằng trường ca hiện đại phải mang hơi thở sử thi, âm hưởng các
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chứa đựng nội dung lớn lao. So sánh với
trường ca cổ điển, điều khác biệt lớn là trường ca cổ điển không có chỗ đứng
cho sự sáng tạo cá nhân, không thể đưa cách nhìn riêng của bản thân vào tác
phẩm mà chỉ có thể kể, thuật lại sự kiện là chủ yếu. Tất cả là nhờ vào ký ức của
tập thể nhân dân nhớ về quá khứ anh hùng của dân tộc. Trường ca sử thi hiện
đại chính là bắt nguồn từ trường ca cổ điển về phương diện kết cấu, độ dài,
chất sử thi anh hùng ca; nhưng mỗi thời đại đều có những trường ca mang đặc
điểm riêng về hình thức lẫn nội dung phù hợp với mỗi thời.
Vũ Văn Sỹ, trong tiểu luận “Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt
Nam hiện đại” in trong Mạch nguồn thơ thế kỷ [85] đã khẳng định: năm 1980,
1981, 1982, nhiều cuộc hội thảo về trường ca diễn ra sôi nổi. Tạp chí Văn nghệ
Quân đội (1981) mở thêm mục “Trao đổi về trường ca”. TCVH số 6/1982 đặc
biệt đã đăng tải lại nhiều bản tham luận công phu của các nhà nghiên cứu văn
học về “trường ca cổ điển và trường ca hiện đại”. Theo ông, các tham luận có
thể quy về bốn cụm ý kiến:
+ Một là, các tác phẩm dài hơi đương thời nên gọi là truyện thơ (vì khái
niệm trường ca chỉ là vay mượn ở Châu Âu).
+ Hai là, trường ca, với ý nghĩa mỹ học đầy đủ nhất, có tên gọi là trường
ca sử thi hiện đại, và lấy tự sự làm chính.
+ Ba là, trường ca có thể là khúc anh hùng ca được tiếp tục trong giai đoạn
mới của lịch sử văn học (chủ yếu: trữ tình cách mạng kết hợp tự sự).
26
+ Bốn là, trường ca là một hiện tượng giao thoa giữa tự sự và trữ tình của
các thể loại. Nét đặc biệt là cái tôi của nhà thơ chủ động tham gia tích cực vào
kết cấu tác phẩm dưới hình thức nhân vật trung tâm và nhân vật hành động. Và
điều này lý giải vì sao đây là thời kỳ hoàng kim của trường ca sử thi hiện đại.
Sự tổng hợp các ý kiến trao đổi về trường ca của Vũ Văn Sĩ khá hợp lý.
Trong luận văn “Đặc điểm trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống
Mỹ”, chúng tôi đã khẳng định vấn đề: những bài thơ dài có kết cấu chặt chẽ,
mang nội dung lịch sử lớn lao, có tính sử thi… mới được gọi là trường ca. Viết
về thời chống Mỹ, nhiều bài thơ dài không hề có cốt truyện lại thiên về giọng
điệu bày tỏ cảm xúc như: Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh, Mặt đường khát
vọng - Nguyễn Khoa Điềm, Những người đi tới biển - Thanh Thảo... vẫn được
xếp vào thể trường ca sử thi hiện đại. Và cách sắp xếp ấy là hợp lý vì:
+ Tröôøng ca sử thi hiện đại thöôøng coù dung löôïng khaù ñoà soä vôùi caûm
höùng maõnh lieät; noäi dung hoaønh traùng; aâm ñieäu haøo huøng; coù khaû naêng toång
hôïp caû veà noäi dung lẫn hình thöùc theå loaïi; vöøa ñaäm ñaø chaát tröõ tình; vöøa giaøu
chaát suy nghó, trieát lyù... Chính vì thế, có thể cho rằng: trường ca sử thi hiện đại,
về bản chất khác với truyện thơ truyền thống, khác với trường ca cổ điển nhưng
gần gũi với thơ trữ tình.
+ Trường ca sử thi hiện đại là một thể loại văn học nằm trong hệ thống
thơ ca hiện đại Việt Nam, “ra đời và phát triển trong hoàn cảnh xã hội có
những biến cố lịch sử trọng đại, lớn lao” [10, tr.110]. Tuy nhiên, trong thực tế,
ở thời bình vẫn có hàng loạt trường ca ra đời hưởng ứng các cuộc vận động
sáng tác về đề tài chiến tranh, phản ánh về một thời kháng chiến đã qua và đa
phần được viết bằng thủ pháp “hồi tưởng”.
Bàn về vấn đề này, thi hào Pháp Victor Hugo, một trong những nhà thơ
lãng mạn lớn nhất của Phương Tây ở thế kỷ XIX và nhà thơ lớn Maiakovki của
Liên Xô (cũ) ở nửa đầu thế kỷ XX đều cho rằng thể loại trường ca sống mãi.
27 Tất nhiên là hình thức của thể loại trường ca phải phù hợp với thời đại. Thời đại
qui định thi pháp trường ca, trường ca in đậm dấu ấn thời đại.
Quả là con đường từ sử thi truyền thống đến sử thi hiện đại là cả một
quãng thời gian dài dằng dặc. Trên thế giới, các trường ca sử thi nổi tiếng như:
trường ca Iliat-Ôđixê của Hilạp cổ đại, trường ca Mahabharata, Raymayana
của Ân Độ, Bài ca Rôlăng của Pháp, Trường ca của Maiacốpki... đã được tôn
vinh, mang giá trị văn hoá đặc sắc của toàn nhân loại. Ở Việt Nam ta cũng thế,
từ Đẻ đất đẻ nước, Đam San-Xing Nhã… đến các trường ca sử thi hiện đại là cả
một khoảng dài thời gian sàng lọc và sáng tạo quí giá.
Ở thời kỳ chống Pháp, trường ca rất hiếm. Có thể kể đến:
+ Trường ca Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông (xuất hiện từ phong
trào thơ Mới 1932 - 1945) là một khúc anh hùng ca về tiếng địch Trương
Lương làm xao lòng khách anh hùng.
+ Trường ca Từ đêm mười chín, còn có tên Quảng Nam - Đà Nẵng hùng
ca (1951) của Khương Hữu Dụng, Đây là “bản trường ca duy nhất viết về cuộc
bùng nổ toàn quốc kháng chiến, một cuộc bùng nổ đầy ý thức của dân tộc, thời
điểm bùng nổ ý thức công dân” [91, tr.41].
Dòng thơ ca Việt Nam - chủ yếu là trường ca - xuất hiện ở thời kỳ này đã
có ít nhiều ảnh hưởng thể trường ca của Phương Tây. Ngay cả âm nhạc cũng có
những bài ca dài bất hủ về đề tài kháng chiến vùng châu thổ sông Hồng như:
Trường ca Người Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Du kích sông Thao (Đỗ Nhuận),
Trường ca sông Lô (Văn Cao)… ra đời chủ yếu là để phục vụ cho nhiệm vụ
chính trị. Nhưng, cũng có những dấu hiệu chứng tỏ trường ca hiện đại tiếp nối
nguồn gốc sử thi anh hùng ca cổ điển của các dân tộc Việt Nam như các khan
(Đam San, Xing Nhã…), sử thi Mường (Đẻ đất đẻ nước), các truyện thơ của
Tày - Nùng - Thái (Sóng chụ chon sao, Chàng Lú nàng Ủa)...
Chúng ta cũng thấy rằng, nhiều nhà thơ trưởng thành trong thời chống Mỹ
vẫn có cảm hứng sáng tác về đề tài chiến tranh thời chống Pháp như Trần Đăng
28 Khoa với Khúc hát người anh hùng (1974) viết về nữ du kích Mạc Thị Bưởi.
Nguyễn Bá với trường ca Hòn Khoai (2000) viết về anh hùng Phan Ngọc Hiển.
Dương Tam Kha với trường ca Anh hùng Lò Văn Giá (2003). Nhà thơ Võ Văn
Trực có Ngày hội của rạng đông (1978) viết về không khí khởi nghĩa Xô Viết
Nghệ Tĩnh; riêng trường ca Người anh hùng đất Hoan Châu (1976) phản ánh
cuộc khởi nghĩa nông dân và anh hùng Mai Hắc Đế. Giang Nam với Sông Dinh
mùa trăng khuyết (2003) viết về liệt sĩ Nguyễn Thị Trừ của thời chống Pháp
nhưng cũng có những chương đoạn mang cảm hứng về thời chống Mỹ.
Thời kỳ đầu chống Mỹ, số lượng trường ca xuất hiện cũng không nhiều.
Nhưng càng về sau, số lượng tăng dần do yêu cầu cần phản ánh và bày tỏ cảm
xúc trước hiện thực chiến tranh diễn ra hàng ngày trên quê hương, đất nước.
Một số bài thơ dài và trường ca thường được nhắc tới như: Ba mươi năm đời ta
có Đảng (1960), Theo chân Bác (1970), Nước non ngàn dặm (1973) của Tố
Hữu; Người thợ ảnh (1963), Người Bác sĩ (1968) của Huy Cận; Bài ca chim
Chơrao (1963), Vách đá Hồ Chí Minh (1970), Quê hương mặt trời vàng (1975)
của Thu Bồn, trường ca Nguyễn Văn Trỗi (1967) của Lê Anh Xuân; Cái én
(1967) của Phạm Huy Thông, Người anh hùng Đồng Tháp (1968) của Giang
Nam; Cách mạng, chương đầu (1970), Những bài thơ đánh giặc (1972), Ngày
vĩ đại (1975), Thơ bổ sung (1975) của Chế Lan Viên; Câu chuyện quê hương
(1973) của Tế Hanh; Kể chuyện ăn cốm giữa sân (1974) của Nguyễn Khắc
Phục; Trường ca ở làng Phước Hậu của Trần Vũ Mai; Như trong mơ (1975)
của Hoàng Trung Thông, Mặt đường khát vọng (1974) của Nguyễn Khoa
Điềm... Một số trường ca khác cũng viết về đề tài chiến tranh nhưng không
được đánh giá cao như Lửa sáng rừng của Thái Giang, Núi rừng mở cánh -
Liên Nam, Phóng sự 30/4/75 - Nguyễn Duy, Sóng Nậm Rốm - Vương Trung…
Từ sau năm 1975; văn thơ, đặc biệt là trường ca nở rộ đã tiếp tục nhiệm
vụ viết tiếp trang sử của quá khứ và phản ánh hiện thực cuộc sống. Cảm hứng
về thời đại và vốn sống phong phú mà các nhà thơ tích lũy được trong những
29 tháng năm nơi chiến trường đã tạo điều kiện cho thể loại trường ca phát triển.
Thanh Thảo có Những người đi tới biển (1977); Hữu Thỉnh có Đường tới thành
phố (1979), Trường ca Biển (1994); Trần Mạnh Hảo với Mặt trời trong lòng
đất (1981), Đất nước hình tia chớp (1994); Nguyễn Đức Mậu với Trường ca Sư
Đoàn (1980); Anh Ngọc với trường ca Sông núi trên vai (1983); Giang Nam
với Ánh chớp đêm giao thừa (1998), Sông Dinh mùa trăng khuyết (2002); Thu
Bồn với Badan khát (1977), Quê hương mặt trời vàng (1975), Nguyễn Trọng
Tạo với Con đường của những vì sao (1981); Lê Đạt với Trường ca Bác
(1990)…
Trong hai đợt vận động sáng tác về đề tài chiến tranh cách mạng và lực
lượng vũ trang nhân dân (1992 - 1995 và 2001 - 2004), một số nhà thơ đã trở
lại với những sự kiện lịch sử xa xưa để ca ngợi, tự hào. Một số nhà thơ lại viết
theo dòng hồi ức và nhu cầu cần giải thoát sự trăn trở của nội tâm. Có thể kể
đến Nguyễn Quang Thiều với Những người lính của làng (1994); Văn Lê với
Những cánh đồng dưới lửa (1997); Dông bão (2000) của Nguyễn Xuân Hạnh;
Năm tháng và chiều cao, (2000) của Nguyễn Thuỵ Kha; Về miền thương nhớ
(2005) của Tạ Kim Khánh, Anh Ngọc, ngoài Sông núi trên vai còn có Điệp
khúc vô danh (1993); Ngô Văn Phú có Hà Nội tháng mười hai (2003); Lê Huy
Quang có Hồi ức tuổi hai mươi (1994), Một thời để nhớ (2004); Thi Hoàng có
Gọi nhau qua vách núi (1997); Nguyễn Hương Trâm có Hà Nội Thăng Long
(2000); Từ Nguyên Tĩnh với Trường ca Hàm Rồng (2000), Vũ Đình Thự có
Bài ca dâng Đảng (2004)... Một số trường ca phản ánh cuộc chiến tranh biên
giới như: Đảo chìm (1994) của Vương Trọng, Trường ca Côn Đảo của Nguyễn
Đức Mậu, Mười bảy khúc đảo ca của Dương Thuấn... Riêng Thu Bồn “vượt
qua biên giới” khi phản ánh những sự kiện khủng khiếp đang diễn ra ở đất nước
Chùa Tháp trong Campuchia hy vọng.
Như vậy, từ năm 1990 trở đi, sau một thời gian gần như im vắng, trường
ca xuất hiện trở lại trên văn đàn ngày càng nhiều nhờ các đợt phát động thi sáng
30 tác trường ca. Một số tác phẩm và tác giả được chú ý như: Ngựa trắng bay về
(2002) của Văn Công Hùng, Trước núi Ngọc Linh của Vũ Hùng (2005), Những
người lính của làng của Nguyễn Quang Thiều (1994), Đổ bóng xuống mặt trời
(1999) của Trần Anh Thái, Lửa mùa hong áo (2003) của Lê Thị Mây, Trường
ca Hàm Rồng (2000) của Từ Nguyên Tĩnh, Mảnh hồn chim Lạc (2004) của
Nguyễn Hưng Hải, Sinh ở cuối dòng sông (2003) của Nguyễn Hữu Quý, Trầm
tích (1999) của Hoàng Trần Cương, Những cánh đồng dưới lửa (1997) của Văn
Lê, Tiếng bom và tiếng chuông chùa của Phạm Tiến Duật, Đi trong sen ngát
bóng xanh (2005) của Phạm Thái Quỳnh... Những trường ca kể trên thường
thiên về cảm hứng bi tráng; nặng chất hồi tưởng, suy ngẫm khác với trường
ca những năm 1960 - 1980 thiên về cảm hứng ngợi ca; giàu chất tráng ca,
anh hùng ca. Bởi, độ lùi của chiến tranh đã giúp các nhà thơ tỉnh táo hơn, cẩn
trọng và công bằng hơn trong việc nhìn nhận, phản ánh vấn đề.
Một số trường ca thuộc về nhiều đề tài khác có: Người bác sĩ (1963) của
Huy Cận; Ngày hội của rạng đông (1978) của Võ Văn Trực; Hơi thở rừng hồi
(2002) của Vương Trọng; Sông Mêkông bốn mặt (1988) của Anh Ngọc. Trong
Trường ca thành Tây Đô, Văn Đắc ca ngợi công lao của Hồ Quý Ly, Thanh
Chương tráng khúc của Nguyễn Bùi Vợi ca ngợi hào khí của quê nhà “địa linh
nhân kiệt”. Năm 2001, Nguyễn Khắc Phục, cho ra đời trường ca Bài ca nữ thần
Jang Hơ-ri (3.947 câu). Cũng trong năm này, Phan Quế có Cổ kính và phóng
túng (1795 câu), viết về đất và người thủ đô thời trước 1945. Thanh Thảo nổi
tiếng với Những người đi tới biển lại có cảm hứng về nhân vật lịch sử Nguyễn
Đình Chiểu nên đã sáng tác Trò chuyện với nhân vật của mình (960 câu thơ)
nhân dịp kỷ niệm 160 năm ngày sinh của nhà thơ Nam bộ này (hầu như được
viết toàn bộ bằng thơ văn xuôi). Trước đây, trong đợt vận động sáng tác lần đầu
(1992 đến 1995), Thanh Thảo cũng đã viết về đề tài này qua trường ca mang
tên: Những ngọn sóng mặt trời gồm hai trường ca nhỏ: Những nghĩa sĩ Cần
Giuộc và Bùng nổ của mùa Xuân.
31
Đến đợt vận động sáng tác lần thứ hai về đề tài chiến tranh và lực lượng
vũ trang số lượng trường ca đã tăng lên mạnh mẽ; đợt 1: 2002 – 2005 có trên
50 trường ca ra đời, phần lớn viết về cuộc chiến đấu chống Mỹ của dân tộc. Đợt
2 (2005-2009) cũng đã kết thúc với hai trường ca được giải là Đổ bóng xuống
mặt trời của Trần Anh Thái và Vạn lý Trường sơn của Nguyễn Hữu Quý.
Cuộc thi sáng tác trường ca viết về đề tài “Bác Hồ của chúng ta” do báo Văn
nghệ phát động (2005) nhân kỷ niệm 115 năm ngày sinh của Bác Hồ cũng đã
khép lại nhưng bầu trời thơ ca thì đã nở rộ một không khí mới: có trên 2.500 tác
giả dự thi với 7.950 bài thơ và trường ca viết về Bác. Đây cũng là hình thức thể
hiện sự trở lại của trường ca sau một thời gian dài hầu như vắng bóng.
Theo ý kiến chung của các nhà nghiên cứu văn học, đặc biệt là nghiên cứu
về sự xuất hiện cũng như sự phát triển của thể loại trường ca hàng mấy mươi
năm nay, nhiều người cho rằng cái thời sôi nổi của trường ca đã qua. Nhưng
gần đây, trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 617, Nguyễn Hữu Quý đã viết:
“trường ca đã quay trở lại thời hoàng kim”. Chúng tôi cho rằng ý kiến trên thể
hiện mục đích động viên tinh thần sáng tác trường ca của các nhà thơ. Bởi lẽ,
qua nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng “người trong cuộc viết về chính bản
thân mình; về đồng đội; nhân dân trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt sẽ
hiện thực và đặc sắc hơn; tâm tư, cảm xúc sẽ được giải bày sâu kỹ hơn”.
Từ 2004 đến nay, trong các bản trường ca hiện đại, các nhà thơ vẫn dành
những chương, khúc để viết về thời chống Mỹ như Ngày đang mở sáng (2007)
của Trần Anh Thái, Mở bàn tay gặp núi của Nguyễn Đức Mậu, Vạn Lý Trường
Sơn của Nguyễn Hữu Quý, Trường ca Trường Sơn của Nguyễn Anh Nông…
Đề tài chiến tranh và người lính không ngừng ám ảnh họ. Bên cạnh sự ra đời
của trường ca sử thi hiện đại; việc tìm kiếm, sưu tầm, bảo tồn và lưu giữ những
tác phẩm sử thi - tài sản quý báu của dân tộc vẫn được chú trọng, cụ thể là “vừa
phát hiện ba bộ sử thi liên hoàn của các dân tộc MơNông, BaNa và Xêđăng,
khảo sát sử thi ở hàng nghìn buôn, bon, plây ở năm tỉnh: Đắc Lắc, Đắc Nông,
32 Gia Lai, Bình Phước, Bình Thuận và sưu tầm trên 500 tác phẩm sử thi” (TC
VNQĐ số 641 - 2/2006).Tháng 3/2010, bộ sử thi Tây Nguyên (Viện KHXH và
các tỉnh Tây Nguyên) ra đời với 60 ngàn trang, in thành 62 tập (có chân dung
người hát), đang đề nghị UNESCO công nhận là Di sản phi vật thể.
Tóm lại, qua các cứ liệu đã dẫn trên, chứng tỏ các nhà thơ của chúng ta
muốn tìm mọi hình thức thích hợp, phong phú để thể hiện cuộc sống đa dạng
của những tháng năm nhiều biến động và đầy tự hào của dân tộc. Điều đó
chứng tỏ khả năng của họ muốn vươn tới một tầm cao của tư tưởng nhận thức
về nhân dân và đất nuớc. Đó cũng là kết quả tất yếu của một quá trình thừa
hưởng, tiếp nối hào khí thời đại đã qua và cũng là sự tiếp nối hình thức trường
ca sử thi từ truyền thống đến hiện đại: góp phẩn khẳng định: trường ca sử thi
hiện đại là sự tiếp nối trường ca sử thi cổ điển. Các nhà thơ hiện đại đã hoà
quyện tính chất truyền thống như: độ dài, kết cấu, giọng điệu ngợi ca, yếu tố sử
thi, yếu tố tự sự, chất anh hùng ca… vào trong các bản trường ca, duy chỉ khác
về tính chất chiến tranh, qui mô chiến tranh tuỳ thuộc vào thời kỳ lịch sử mà nó
được chứng kiến mà thôi. Và đó chính là một nhân tố khách quan góp phần tạo
nên những bản trường ca sử thi hiện đại.
1.1.2 Thời đại
Việt Nam, đất nước xinh đẹp nằm bên bờ biển Đông đã chịu nhiều cuộc
xâm lược của các cường quốc ôm mộng bành trướng lãnh thổ. Với truyền thống
lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước; dân tộc ta đã chiến đấu và làm
nên chiến thắng bởi dân tộc ta có hàng hàng lớp lớp thế hệ này đến thế hệ khác
mang dòng máu yêu nước mãnh liệt.
Có lẽ, chưa có một dân tộc nào mà đất nước lại có quá nhiều cuộc chiến
tranh xảy ra như đất nước Việt Nam. Thời chống Mỹ là một chặng đường lịch
sử đau thương nhưng bất khuất, kiên cường. Đó là thời đại của những con
người giàu phẩm chất cách mạng, mang trong mình tư thế của một dân tộc anh
hùng, tiếp nối truyền thống của cha ông. Xưa nay, chưa có một thời đại nào sôi
33 động bão táp cách mạng như thời chống Mỹ; và sự thật hiển nhiên là dân tộc ta,
đất nước ta đã sống xứng đáng với thời đại anh hùng ấy.
Đất nước trong những năm chống Mỹ luôn hừng hực lửa chiến tranh, dồn
nén biết bao cung bậc của tình cảm. Chia ly, đoàn tụ, tan hợp, vui buồn, đau
thương, chiến thắng… đều đổ dồn lên mảnh đất này. Con người, đất nước…
trong thời kỳ lịch sử ấy được các nhà thơ, nhà văn tái hiện trong văn học một
cách khá toàn diện.
Trên thế giới, thực tế không phải chỉ có Việt Nam trải qua những năm
tháng chiến tranh, không phải chỉ có con người Việt Nam mới thấm thía nỗi
đau buồn do chiến tranh ác liệt gây ra. Thế nhưng, ở Việt Nam, dẫu ba mươi
năm chiến tranh đã qua đi, dẫu cuộc chiến đã lùi vào quá khứ; văn học vẫn
dành một mảnh đất phì nhiêu cho đề tài chiến tranh. Con người ta chỉ cần sống
một ngày trong chiến tranh đã có thể ghi nhớ suốt cả cuộc đời. Hàng chục triệu
con người Việt Nam đã chịu đựng những tháng ngày chiến tranh gần một phần
ba thế kỷ và hậu quả chiến tranh để lại sẽ còn kéo dài đeo đẳng. Ngòi bút văn
chương đương đại và ngay trong thời bình, còn phải trải lòng với những hồi ức
ấy. Thời kỳ lịch sử này, chính đất nước đã vinh danh cho các nhà văn, nhà thơ.
Người Việt Nam yêu nước, yêu dân tộc bằng tâm thế thời đại và kết nối
từ truyền thống đến hiện đại. Yêu nước và anh hùng là truyền thống tốt đẹp của
dân tộc nhưng luôn mang tầm vóc thời đại. Việt Nam là quốc thi, là đất nước
của thơ ca. Thế mà, gần một phần ba thế kỷ, đất nước và dân tộc Việt Nam đã
trải qua những thử thách lịch sử vô cùng lớn lao mang ý nghĩa sống còn.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã huy động sức mạnh tổng hợp của toàn
dân và truyền thống yêu nước của cả dân tộc. Cả thế giới tiến bộ hướng về Việt
Nam, đồng cảm, sẻ chia nỗi đau chiến tranh với Việt Nam. Những trận Mỹ
Sơn, Gio Linh, Đồng Xoài, Bình Ba, Bình Giả… hình như cứ ám ảnh, đeo đẳng
và vận mãi vào tâm hồn cũng như ngòi bút của các nhà văn, nhà thơ… Chính
họ là những người nhận thức rõ vị trí, tầm vóc của cuộc kháng chiến chống Mỹ
34 cứu nước. Vì thế, đề tài chiến tranh đã được khai thác sâu rộng. Có thể khẳng
định rằng, cuộc chiến chống Mỹ cứu nước đằng đẵng đã làm thăng hoa những
giá trị lớn lao của dân tộc. Truyền thống yêu nước, thơ ca và lòng dân quật khởi
đã đánh bại sức mạnh của dầu hỏa và dolla.
Trên Văn Nghệ Trẻ số 33/2006, Mã Giang Lân đã viết: “Thơ hay là báu
vật của Trời đánh rơi xuống mà nhà thơ vô tình nhặt được... trong sáng tác có
sự lóe sáng, xuất thần, tình cờ”. Thật vậy, báu vật của trời chính là ý, là tứ thơ
hay nhưng tất yếu phải trên một nền hiện thực xã hội mang dấu ấn đặc biệt.
Thành tựu của văn học, của thơ ca chiếm một vị trí quan trọng. Bởi lẽ, thơ ca
đã thể hiện bức tranh hiện thực xã hội, tâm thế của những con người sống và
viết, giữa anh hùng và lãng mạn, giữa khoảnh khắc và sự trường tồn. Các nhà
văn, nhà thơ thời chống Mỹ đã làm được điều ấy, đã sống đẹp và viết hay, đã
ghi lại hình ảnh và không khí một thời đáng nhớ. Trường ca về thời chống Mỹ,
với những đoản khúc thơ có giá trị đi sâu vào lòng người, được trích để giảng
dạy trong chương trình Văn các cấp khá nhiều, đó là thành tựu lớn.
Sau chiến tranh, những con người tham gia cuộc chiến năm xưa lại trăn
trở, hồi tưởng về một thời không quên để rồi phải cầm bút viết tiếp. Có thể nói,
những trường ca ra đời sau 1975, và nhất là từ sau 1980 trở về đây càng nặng
chất hồi tưởng, suy ngẫm. Trường ca, với độ dài không hạn định đã giúp các
nhà thơ rộng mở biên độ phản ánh, trình bày cảm xúc, tự do thể hiện để chắp
cánh cho quá khứ và hiện thực bay lên. Độ lùi của chiến tranh giúp họ tỉnh táo
hơn, cẩn trọng hơn, công bằng hơn trong việc nhìn nhận và phản ánh vấn đề.
Hiện nay, trường ca xuất hiện khá nhiều. Dấu ấn chiến tranh thời chống
Mỹ đã đè nặng lên tâm trạng, cảm xúc những người cầm bút. Ký ức chiến tranh
của dân tộc còn đó trên những thân thể đã gửi lại một phần nơi chiến trường,
trên những hình hài bị dị dạng do chất độc da cam… thì tất yếu, văn chương
còn phải viết về ký ức chiến tranh bằng sự hồi tưởng quá khứ, bằng sự
ngưỡng vọng thành kính tri ân, bằng sự trăn trở của những người sinh sau thời
35 đại nhưng không vô cảm với thời đại chống Mỹ. Nếu không, những người cầm
bút sẽ cảm thấy mình thiếu nợ với văn học, với nhân dân, với đất nước.
Bảo Ninh, tác giả tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đã nói rằng: “Đề tài
chiến tranh hay nói đúng hơn là ký ức chiến tranh là một thế mạnh của văn
học Việt Nam, của từng nhà văn Việt Nam. Vì đã có một thời gian dài, thế giới
biết đến Việt Nam chính là nước Việt Nam trong chiến tranh. Chiến tranh thời
chống Mỹ chính là trường đào tạo, tôi luyện các nhà thơ chiến sĩ và cả việc tôi
rèn nền văn học chiến tranh Việt Nam” [68]. Các nhà thơ thời chống Mỹ đã tái
hiện quá khứ, viết về ký ức chiến tranh bằng nhiều thủ pháp: đồng hiện, hồi
tưởng... Nếu thời đại chiến tranh càng chìm sâu vào quá khứ thì hiện thực của
thời đại ấy càng trở nên sống động với các tác giả thời hậu chiến. Và tất nhiên;
cách nhìn, cách cảm, cách hiểu của họ sẽ khác rất nhiều so với những người đã
đi qua chiến tranh. Họ cũng có những cách nói, cách nghĩ không thể hệt như
những người nhà thơ kỳ cựu thời chống Mỹ nhưng sẽ có những điều mà các
nhà thơ thời chống Mỹ chưa thể bày tỏ mạnh dạn, thẳng thắn.
Có thể khẳng định, “chiến thắng vĩ đại trong cuộc chống Mỹ cứu nước là
một trong những nhân tố, thúc đẩy các nhà thơ viết trường ca” [70]. Quả đúng
như thế, không ai muốn đất nước có chiến tranh nhưng khi chiến tranh xảy ra
thì hiện thực thời đại ấy chính là nhân tố khách quan để các nhà thơ tạo nên
những tác phẩm sử thi đáng quý về một thời đáng nhớ.
1.1.3 Sự gắn kết giữa yếu tố thời đại và dân tộc
Suốt bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, biết bao thăng trầm theo từng
giai đoạn lịch sử. Trải qua hơn một nghìn năm sống dưới sự đô hộ của phương
Bắc; rồi gần một trăm năm bị thực dân Pháp xâm lược, xen kẽ với những thời
kỳ độc lập; dân tộc Việt Nam vẫn vững vàng sống, chiến đấu và vượt lên nỗi
đau chiến tranh để vững vàng chiến thắng. Thời chống Mỹ, tổ quốc ta có lúc
như con thuyền bị phong ba bão táp vây chặt giữa biển khơi. Tinh thần dân tộc
dâng cao, gắn với tâm thế thời đại để chiến đấu và chiến thắng.
36
Những nhà thơ có tài năng đều mang đậm dấu ấn nhân dân, dấu ấn của cả
thời đại, của môi trường mà họ sống. Dấu ấn đó sẽ ảnh hưởng và bộc lộ trong
chính tác phẩm nghệ thuật của họ, qua những hình tượng văn học đơn lẻ nhưng
mang tính khái quát, điển hình cao.
Trong trường ca về thời chống Mỹ, sự gắn kết giữa thời đại và dân tộc
thể hiện rất rõ nét, trước tiên là ở những danh xưng. Số lượng các từ Ta,
chúng ta, dân tộc, đất nước... trong các trường ca được lựa chọn để nghiên cứu,
xuất hiện khá nhiều. Khảo sát trong Mặt đường khát vọng, từ “đất nước” xuất
hiện 81 lần, trong Đất nước hình tia chớp xuất hiện 104 lần, Đường tới thành
phố có 17 lần (phụ lục1)... Chủ thể trữ tình xưng “ta” xuất hiện 162 lần trong
Mặt đường khát vọng, 58 lần trong Đất nước hình tia chớp và 18 lần trong
Đường tới thành phố”. Chủ thể trữ tình xưng “Con, chúng con” xuất hiện 152
lần trong Mặt đường khát vọng, 13 lần trong Đất nước hình tia chớp và 53 lần
trong Đường tới thành phố (phụ lục 2).
Đó là cái Ta, chúng ta đại diện cho cả cộng đồng mang tâm thế của một
dân tộc bị áp bức trong thời đại chống Mỹ. Những từ Ta, chúng ta, dân tộc,
đất nước xuất hiện nhiều trong các trường ca hiện đại đã minh chứng sự thống
nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa bộ phận và toàn thể, giữa cá nhân và tập
thể, giữa dân và nước, giữa gia đình và tổ quốc, giữa dân tộc và thời đại. Thi
liệu “Một bọc trăm trứng nở ra trăm con”, “hào khí Đông A thời đại nhà Trần”
được nhắc đến rất nhiều trong các trường ca sử thi hiện đại càng chứng tỏ: tính
dân tộc đã gắn kết chặt chẽ cùng yếu tố thời đại.
Trao đổi với nhà báo Nguyễn Quýnh (GDTĐ số 110 9/2004), Nguyễn
Khoa Điềm cũng đã nhấn mạnh đến vấn đề “số phận cá nhân” trong mối quan
hệ với thời đại mà họ đang sống: “Chúng tôi, mỗi người có một số phận khác
nhau nhưng đều gắn kết trong một số phận chung là số phận Đất nước. Đất
nước với các nhà thơ khác là những huyền thoại của những anh hùng, nhưng
với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân”. Đất nước ở đây chính
37 là chính là đất nước trong những năm chống Mỹ, là thời đại chống Mỹ. Như
vậy, thế hệ thanh niên sinh ra trong thời chống Mỹ đã nhận thức rất rõ: số phận
cá nhân gắn kết với số phận chung của đất nước.
Giá trị của đất nước và dân tộc tạo nên giá trị cho con người Việt Nam.
Người Việt Nam luôn tự hào về truyền thống hàng nghìn năm lịch sử của mình.
Mỗi thời đại đi qua, lớp lớp nhân dân lại tiếp tục truyền cho con cháu những giá
trị mà họ đã được thừa hưởng, đã làm nên để góp phần bảo vệ giá trị truyền
thống: “Con gái con trai bằng tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng/ Khi có giặc
người con trai ra trận/ Người con gái trở về nuôi cái cùng con/ Ngày giặc đến
nhà thì đàn bà cũng đánh”. Nguyễn Khoa Điềm có cùng suy nghĩ với dân tộc
về thời đại, đất nước nhưng anh đã có cách diễn đạt tài hoa về thời đại anh
hùng, đất nước anh hùng. Điều đó đã làm nên giá trị cho Mặt đường khát vọng.
Thứ hai là, trường ca phản ánh thế giới tinh thần của chủ thể cá nhân
nhà thơ nhưng không tách rời khỏi đời sống dân tộc. Các nhà thơ - những
người lính - đi vào chiến trường những năm chống Mỹ. Cùng một cuộc chiến
tranh, nhưng ở mỗi địa điểm khác nhau; đời sống chiến đấu của người lính, của
nhân dân… dội vào thơ của họ những âm điệu và màu sắc khác nhau. Các nhà
thơ có điều kiện tiếp xúc với thực tế chiến tranh và đã phản ánh trong trường ca
những suy nghĩ về trách nhiệm, số phận, tâm tư của những người trong cuộc.
Cuộc chiến tranh chống Mỹ là cuộc chiến tranh toàn dân, là cuộc thử
thách để kiểm nghiệm sức mạnh nhân dân. Cái chung, cái riêng, cái bình
thường, cái vĩ đại đều được các nhà thơ tái hiện theo nguyên tắc điển hình hóa.
Tư tưởng, tình cảm, hành động của con người Việt Nam được các nhà thơ cảm
nhận từ hiện thực cuộc chiến chống Mỹ và được chọn lọc khái quát mang tính
điển hình cho dân tộc và thời đại, đồng thời cũng thể hiện tính cách riêng.
Các trường ca của Giang Nam, Thanh Thảo… đều thể hiện mối quan hệ
gắn bó giữa thời đại và dân tộc. Giang Nam cũng có nhiều ý thơ thể hiện rõ
sức mạnh của cả dân tộc trong thời đại chống Mỹ: “Dù giặc Mỹ dùng na-pan
38 nung đất này trong lửa/ Lịch sử có bao giờ lùi lại phía sau”. Cuộc sống chiến
đấu của dân tộc, ở mỗi vùng trận địa đều có sự giúp sức của hậu phương để làm
nên chiến thắng: “Trận địa của anh, bàn tay nhân dân vĩ đại/ Chém kẻ thù bằng
năm ngón sắc như dao” (Người anh hùng Đồng Tháp).
Trái tim yêu giống nòi, trái tim yêu nước của thế hệ hôm nay nối tiếp trái
tim yêu nước bất tử của cha ông thưở xưa. Bằng hình ảnh so sánh giữa mẹ và
nhân dân, Thanh Thảo, trong Những người đi tới biển, đã luận bàn về sự cao cả
của nhân dân - những người làm nên chiến thắng vĩ đại: “Và cứ thế nhân dân
thường ít nói/ Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời/ Và cứ thế nhân dân cao vời vợi/ Hơn
cả những ngôi sao cô độc giữa trời”.
Nhờ những nghĩ suy chân thành, mộc mạc của từng cá nhân người mẹ mà
chúng ta có những bà mẹ Việt Nam đã hiến dâng cho đất nước biết bao anh
hùng. Nhờ biết đặt lợi ích của cộng đồng lên trên tầm cao nhất mà mỗi người
Việt Nam không phân biệt đẳng cấp, không phân biệt giàu nghèo, không phân
biệt tuổi tác vùng miền, nhất tề tham gia vào cuộc kháng chiến thần thánh
chống giặc ngoại xâm để giành lấy chiến thắng, độc lập, tự do. Đó là sự gắn kết
giữa cá nhân và cộng đồng, của nhiều cộng đồng với dân tộc. Nhân dân làm ra
đất nước, đất nước thuộc về nhân dân. Hồn dân tộc được thắp lên trong từng
thời đại.
Sau 1990, trong trường ca Khoảng trời người lính, Lê Anh Quốc cũng đã tỏ
bày cảm xúc về thế hệ trai trẻ sinh ra trong một thời đại đáng nhớ bằng những
vần thơ da diết: “Thế hệ chúng tôi/ Đi qua chiến tranh/ Đời mỗi đứa có một
thời để nhớ/ Về đồng đội/ Về những ngày khói lửa”.
Trường ca về thời chống Mỹ góp phần phản ánh tinh thần dân tộc cao cả
trong một thời đại anh hùng. Số phận của cá nhân luôn gắn kết với cộng đồng,
yếu tố thời đại luôn gắn kết với vận mệnh toàn dân tộc. Nhận định về sự gắn
kềt giữa yếu tố dân tộc và thời đại, góp phần làm nên chất khái quát của
trường ca sử thi, Đỗ Văn Khang đã cho rằng: “Thứ nhất, sự tập họp dân tộc, sự
39 đoàn kết nhân dân trong chiến tranh và hoà bình phải tồn tại từ trước và thậm
chí đã đạt tới một sự phát triển nào đó. Thứ hai, các cá nhân lại hành động như
bởi tính cách của họ, như bởi những thôi thúc bên trong, bởi một sợi dây vô
hình nối họ lại bằng các lý do về danh dự và chính nghĩa. Cuối cùng, cái chất
liệu chân chính của trường ca sử thi không phải được tạo dựng nên bởi trạng
thái chung của một dân tộc chỉ ở trong các tính chất phẳng lặng của cá tính
nó” [38, tr.81]. Như vậy, tính khái quát của trường ca sử thi được tạo nên bởi
ba yếu tố: một là “sự tập họp dân tộc, sự đoàn kết nhân dân”, hai là “cá nhân
đều vươn tới sự cao cả”, ba là “tính chất không phẳng lặng của trạng thái dân
tộc”. Điều đó đã khẳng định: từ xa xưa, trải qua bao thăng trầm của lịch sử;
truyền thống đoàn kết, tập họp nhân dân; tính cách cao cả anh hùng được đặt
lên hàng đầu. Dân tộc ấy sẽ làm nên bản sắc riêng không lẫn vào bất cứ một
dân tộc nào khác. Đó là sự gắn bó chặt chẽ giữa hai yếu tố dân tộc với thời đại
mà họ đang sống và được thể hiện trong các bản trường ca sử thi - quyển thánh
thi của mỗi thời đại.
Có thể khẳng định, yếu tố truyền thống của thể loại, thời đại, sự gắn kết
giữa các yếu tố thời đại và dân tộc là những nhân tố khách quan giúp cho các
nhà thơ sáng tạo nên những tác phẩm thơ ca mang dấu ấn riêng về một thời
khói lửa. Trường ca sử thi hiện đại đã phản ánh sự kết hợp giữa dân tộc và thời
đại từ những nỗi niềm và hành động riêng tư cho đến những nỗi niềm và hành
động chung nhất. Dân tộc Việt Nam đã ghi vào lịch sử văn học những bản hùng
ca của một thời đại vĩnh viễn không thể nào quên.
1.2 Những nhân tố chủ quan tạo nên sự xuất hiện của trường ca
1.2.1 Nhà thơ - người trong cuộc
Các nhà thơ sáng tác trường ca thời chống Mỹ vừa mang tư tưởng chủ
quan của người nghệ sỹ, vừa là người trực tiếp gắn bó với cuộc sống chiến đấu
khốc liệt trên đất nước mình. Họ có khi chính là nhân vật trung tâm trong
trường ca mà họ phản ánh. Các hình tượng trong trường ca được tạo ra từ toàn
40 bộ quan niệm về thế giới và cuộc sống của một dân tộc được trình bày dưới
hình thức khách quan của những biến cố thực tại và hình thức tư tưởng chủ
quan của các nhà thơ. Nhưng những tư tưởng chủ quan ấy không thể áp đặt các
thực tại khách quan, vì nếu như thế hình tượng sẽ mất đi chất hiện thực sinh
động. Trường ca sử thi hiện đại đã xây dựng thành công hình tượng người lính,
nhân vật trung tâm của cuộc chiến đấu vĩ đại cũng chính là vẽ lại hiện thực về
chính họ và đồng đội của họ. Các nhà thơ thời chống Mỹ chính là đại diện cho
cái tôi sử thi, bởi, nội dung chủ yếu của giai đoạn này là nội dung lịch sử - dân
tộc. Họ là những người trong cuộc, chứng nhân lịch sử, thư ký của thời đại và
chính là nhân tố chủ quan tạo nên sự xuất hiện của trường ca.
Điểm qua các trường ca thời chống Mỹ, ta có thể khẳng định rằng: hầu
hết các nhà thơ sáng tác trường ca đều là những người lính… gắn bó với
chiến trường từ Việt Bắc, chạy dọc theo chiều dài núi rừng Trường Sơn, Tây
Nguyên. Từ Quảng Trị, Thừa Thiên đến tận miền Củ Chi địa đạo. Có những
nhà thơ ở miền Nam như Trần Mạnh Hảo, ở miền Trung như Giang Nam, Thu
Bồn, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm..., ở miền Bắc như Tố Hữu, Ngô Văn
Phú, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Hưng Hải... Họ sống và chiến đấu
có thể ở ngay trong vùng tự do và cả trong vùng địch tạm chiếm. Nhưng dù ở
đâu thì họ đều là nhà thơ chiến sĩ - người trong cuộc, nên tác phẩm của họ đều
chứa đựng những cảm xúc mãnh liệt về con người và đất nước trong cuộc đấu
tranh sinh tử để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc Việt Nam.
Trước khi trở thành người lính, các nhà thơ là những người dân sống
gắn bó và có trách nhiệm với Tổ quốc, nên hiểu và viết về nhân dân, Tổ quốc
thật sâu sắc. Trường ca của họ ngồn ngộn cuộc sống, giàu tính chất sử thi và trữ
tình. Đời sống ở chiến trường với những miền quê khác nhau đều rất phong
phú, giàu chất thực tế. Họ là những người lính xuất thân từ khắp mọi miền đất
nước để đến với mọi miền đất nước. Họ đã kề cận với cái sống và cái chết trong
tấc gang. Họ đã nếm trải nỗi đau của chiến tranh, bởi họ là những người trong
41 cuộc. Những gì họ ghi chép, phản ánh trong trường ca đều là những điều mắt
thấy, tai nghe đã xảy ra trong chiến tranh; có thể đã từng xảy ra với chính họ;
có khi là cả cái chết. Họ đã từ hiện thực chiến tranh để viết về chiến tranh với
biết bao cung bậc cảm xúc. Họ không thể nói dối, viết dối, không thể phản ánh
sai sự thật bởi họ đang làm nhiệm vụ quan trọng mà nhân dân giao phó nhưng
cũng chính là nhiệm vụ mà bản thân họ tự nhận với lương tâm mình. Cho nên,
ta có thể nói họ chính là nhân chứng lịch sử của thời chống Mỹ, là những
người thư ký cần mẫn của thời đại đã gắng làm tròn sứ mệnh thiên sứ. Đó là
nhiệm vụ của họ. Nếu không làm được điều ấy tức là họ có tội với lịch sử. Bởi,
những nhà thơ viết trường ca đều là những người tích luỹ được kinh nghiệm,
vốn sống từ những năm lăn lộn ở chiến trường; dự nhiều trận đánh, nếm nhiều
gian khổ, chứng kiến biết bao điều kỳ diệu của đồng đội và nhân dân trong
cuộc chiến đấu anh hùng.“Đó cũng là một trong những nhân tố khác, khiến
những trường ca chiến trận liên tiếp ra đời và thường là do những nhà thơ
mặc áo lính viết...” [70].
Bằng cảm quan hiện thực về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, bằng
trái tim yêu nước nồng nàn; các nhà thơ chiến sĩ đã tiếp tục xây dựng hình
tượng con người và Tổ quốc Việt Nam bình dị nhưng anh dũng kiên cường.
Những năm tháng chống Mỹ cực kỳ ác liệt, đau thương nhưng sáng ngời lý
tưởng cách mạng. Đó là những năm tháng đầy ắp những sự kiện, câu chuyện
về đất nước, con người Việt Nam. Các nhà thơ là những người nhạy lắng nghe,
nhạy cảm thụ cuộc sống; để rồi con tim, ngòi bút của họ rung động thực sự. Họ
phải có năng lực tư duy sâu sắc; có cảm xúc khác thường; có tài năng trong
việc chọn hình ảnh, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật... Và đặc biệt là họ phải có
“đôi cánh tư tưởng đập nhịp nhàng với luồng gió thời đại” [100, tr.21]. Họ
mang tâm thế thời đại và chịu sự tác động mạnh mẽ của thời đại. Sự vận động
bên trong tư tưởng của nhà thơ đạt đến độ chín muồi là nhân tố chủ quan
quyết định để trường ca về thời chống Mỹ xuất hiện.
42
Chính vì thế, khi nói về chiến tranh, chúng ta “khó mà bỏ qua hàng loạt
trường ca mà chủ đề của nó là chiến trường, và những người lính, những người
làm nên chiến trận” [12, tr.130]. Thật vậy, những người nặng nợ với thơ ca khó
lòng bỏ qua những bản trường ca viết về thời chống Mỹ đã một thời làm rung
động biết bao trái tim người thưởng thức. Và đến nay, mỗi khi đọc lại, lòng
chúng ta vẫn chưa thôi xao xuyến.
Điểm qua một số nhà thơ nổi tiếng có trường ca xuất sắc; ta có thể kể đến
Thu Bồn, một trong những ngưởi khai mở trường ca thời chống Mỹ. Là người
lính, Thu Bồn đi nhiều nơi, hiện thực cuộc sống và chiến đấu ở chiến trường
khu Năm đã được Thu Bồn đưa vào thơ ca. “Cái tôi của nhà thơ tham gia vào
quá trình phát triển tác phẩm, cảm xúc, suy nghĩ của tác giả được mở trên
những bình diện rộng lớn, nhân vật mang tính chân thực cụ thể” [78, tr.65-66].
Bài ca chim Chơrao (1964) là một trong những trường ca hay của thời chống
Mỹ và là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Thu Bồn. Ông được đánh giá là
người có sở trường viết trường ca vào loại nhanh, bền và khỏe. Nhà thơ hầu
như đã gắn cuộc đời mình với văn chương, sống với văn chương. Nối tiếp Bài
ca chim Chơrao là một loạt các trường ca Vách đá Hồ Chí Minh (1972), Quê
hương mặt trời vàng, Chim vàng chốt lửa (1975)…
Ở trường ca Hành trình của Hưởng Triều, hình ảnh người lính trong đoàn
binh tiến về phương Nam được khắc họa khá đậm nét. Đó là một thế hệ quyết
xếp bút nghiên lên đàng: “Ta nhận ấn vàng từ tay mẹ/ Vẫy đoàn xung kích mũi
vào Nam”. Hình ảnh người lính được xây dựng từ cái nhìn, cái cảm mang tính
thời sự của một nhà thơ; và cũng là người lính đầy nhiệt tình nhập thân vào
cuộc sống chiến đấu nóng bỏng. Hưởng Triều đã kết hòa được cảm xúc thời sự
và cảm hứng thơ, lôi cuốn người đọc trước hết là bằng những tình cảm chân
thành mạnh mẽ và tư tưởng chính thống của người chiến sĩ cách mạng. Điều đó
đã có tác dụng nhất định đối với quá trình xây dựng hình tượng người chiến sĩ
dấn thân vào cuộc hành trình lớn của dân tộc.
43 Hữu Thỉnh cũng là một chiến sĩ thời chống Mỹ, “trước khi là nhà thơ,
Hữu Thỉnh đã là một người lính. Hiện thưc người lính và hiện thực lớn lao, sôi
động của những năm tháng chiến tranh ác liệt đã trở thành nguồn cảm hứng
chủ đạo cho các sáng tạo của anh” [95, tr.75]. Các bài thơ nổi tiếng của anh
hầu như được viết từ chiến trường. Bài Trên một chiếc xe tăng, được âm nhạc
chắp cánh thành ca khúc nổi tiếng Năm anh em trên một chiếc xe tăng thể hiện
tình đồng đội gắn bó keo sơn. Chính Hữu Thỉnh cũng đã bày tỏ rằng “hiện thực
chiến tranh, cuộc sống của người lính” dội vào tâm hồn nhà thơ mạnh đến mức
vượt qua khỏi một thời đoạn, một đề tài, “nó thành một tâm thế”. Nhà thơ cũng
tự nhận mình có lẽ“không có tài viết ngắn” và “cuộc sống lớn lao, bi tráng
quá, đòi hỏi phải mở rộng các kích cở” [18]. Như vậy, Hữu Thỉnh phần nào đã
công nhận trường ca là bộ phận thành công nhất trong sự nghiệp sáng tác của
mình.
Có thể nói, Hữu Thỉnh là “nhà thơ của làng thời đánh giặc” [18]. Đường
tới thành phố được sáng tác trong một thời gian rất ngắn mang đầy tình yêu
làng nước. Một điểm chốt, một gốc sim cằn cũng hóa thành thơ nhưng pha trộn
sắc đỏ của chiến tranh. Một dân tộc nổi tiếng yêu làng, yêu nước; tất nhiên sẽ
có những con người anh hùng trong chiến đấu và sẽ có những cây bút tài hoa
ghi lại hiện thực chiến tranh. Hữu Thỉnh đã làm được điều ấy bằng cách chọn
một cách nói rất riêng cho thơ của mình, và Đường tới thành phố chính là một
trường ca viết về thời chống Mỹ đầy chất trữ tình chính luận, khắc họa sâu đậm
hiện thực chiến tranh và người lính.
Nguyễn Khoa Điềm, mặc dù xuất hiện khá muộn trên văn đàn nhưng được
độc giả chú ý và nhanh chóng được khẳng định là một giọng thơ trữ tình đậm
đặc chất sử thi. Anh sinh ra ở Huế, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội (1964),
trở về quê hương tham gia kháng chiến chống Mỹ. Năm 1969, bài thơ Đất
ngoại ô xuất hiện. Năm 1972, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được
ngâm và phát trên Đài tiếng nói Việt Nam, sau đó được Trần Hoàn phổ nhạc,
44 có sức vang trong lòng công chúng. Điều đó đã khẳng định tài năng của anh.
một nhà thơ đặc sắc thời chống Mỹ. Năm 1974, Mặt đường khát vọng được
xuất bản, có sức thu hút mãnh liệt. Thơ và cuộc đời anh đã hòa nhịp với thời
đại, vừa thể hiện tài năng, vừa suy tư già dặn, vừa trẻ trung cao vút trong dàn
“đồng thanh” của thế hệ, nhưng vẫn có cá tính riêng không lẫn vào ai. Từ năm
1970, anh đã viết những lời văn đầy nhiệt huyết đề ngày 19/9 gửi cho Tiểu ban
Văn nghệ miền Nam: “Hiện thực chiến trường thì to lớn, khả năng thì có hạn…
rất lo lắng và sốt ruột cho mình... Mơ ước có những bài thơ sục sôi, sắc bén
giàu tính hiện thực và chiến đấu hơn nữa mà vẫn chưa làm được”. Nhưng chỉ
bốn năm sau, anh đã làm được điều ấy, thơ anh “sắc bén giàu tính hiện thực và
chiến đấu” nhưng chất “sục sôi” thì theo cách trữ tình mà cháy bỏng tâm can.
Nguyễn Khoa Điềm đã từng quan niệm: có ba yếu tố tạo nên bản chất văn
chương là “lời, hành động và tấm lòng”. Lời là hình thức văn chương, hành
động là ý tưởng văn chương giục người ta hành động và tấm lòng là tâm hồn
tác giả trên từng trang giấy. “Có lời văn hay, có khát vọng hành động mạnh mẽ
mà thiếu đi tấm lòng nhân hậu, cao thượng thì vẫn chưa có văn hay”. Ngẫm
lại, những lời tự bạch của nhà thơ trong Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX (Nxb Văn
học H. 2001) như một tuyên ngôn về bản thể của một nhà nghệ thuật mà mỗi
văn nghệ sỹ cần phải đạt đến.
Lê Thị Mây hoàn thành trường ca Lửa mùa hong áo vào năm 2003. Đây là
trường ca của người đại diện cho phụ nữ Việt Nam vừa làm thơ vừa đánh giặc
nên giàu chất liệu hiện thực, giàu cảm xúc. Vũ Duy Thông đã viết:“Lửa mùa
hong áo” là trường ca con gái. Hiện lên trong khói sương và bất chợt ùa ra vây
quanh ta là tiểu đội mười hai cô gái thanh niên xung phong... trong đó có cô
thanh niên xung phong Lê Thị Mây ngày nào trong đời thật và trong sự thăng
hoa của nghệ thuật thơ ca... Đọc “Lửa mùa hong áo”, tôi vẫn gặp nguyên vẹn
những cảm xúc chân thành của người trong cuộc suốt những tháng năm cả
nước đánh giặc”.
45
Có thể khẳng định, các tác giả trường ca đã có một vốn sống thực tế hết
sức phong phú, đầy ắp hiện thực về chiến trường và người lính, về nhân dân và
thời cuộc. Họ đã chọn lọc những sự kiện tiêu biểu từ bộn bề hiện thực để đưa
vào thơ. Họ là người trong cuộc. Vì thế, những vần thơ đặc sắc của họ có sức
khái hiện thực cao.
Phạm Quốc Ca, trong chuyên luận Mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại
1975 - 2000 đã dành nhiều trang viết cho thể loại trường ca. Ông cho rằng sau
1975 một vài năm, điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất trong thơ là sự xuất hiện
các trường ca, “đó là kết quả của vốn sống, vốn cảm xúc tràn đầy và độ chín về
tài năng của các nhà thơ đã từng trải qua cuộc chiến tranh… là kết quả của
hào khí thời đại. Chỉ trong vòng bảy, tám năm sau chiến tranh, hàng loạt
trường ca đã ra đời” [11, tr.177-178].
Kể từ khi cuộc chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam kết thúc, chẳng những
văn nghệ sĩ Việt Nam sáng tác nhiều về đề tài chiến tranh mà ở nước ngoài -
nhất là ở Mỹ - cũng có rất nhiều bộ phim được dựng lên, nhiều cuốn tiểu thuyết
viết về những cơn ác mộng riêng tư của những cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam
xuất hiện. Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt từ lâu, nhưng “Văn học viết về
chiến tranh Viết Nam là viết về những mất mát đau thương, những bi kịch của
con người trong và sau chiến tranh để cho người dân Mỹ biết “cuộc chiến
tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh... vô nghĩa” [15,
tr.97].
Chiến tranh Việt Nam, đó là “cơn ác mộng đa tầng” cắm sâu vào khối óc,
con tim người lính. Thực tế chiến tranh còn ác liệt, khủng khiếp vượt xa hư cấu
văn học. Những sự việc có thật vượt qua trí tưởng tượng của con người bởi nó
quá nhức nhối, tàn khốc. Sự điên rồ của chiến tranh được thể hiện phần nào
trong tác phẩm văn học. Ngoài các trường ca sử thi hiện đại, ta thấy rằng, hiếm
có tác phẩm văn xuôi nào viết về chiến tranh lại thực và đau xót như tiểu thuyết
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Tất cả hiện lên trong các tác phẩm tựa như
46 chuyện mới xảy ra ngày hôm qua, không dấu diếm, không tô hồng, không bôi
đen; chân thật như sự thực đã từng diễn ra trên nước Việt Nam.
Có thể nói, vai trò của cảm hứng cá nhân trong dòng văn học thời chống
Mỹ và thời hậu chiến là một sự giải thoát nội tâm. Tâm hồn của những con
người từng lăn lộn trong cuộc chiến chống Mỹ đã được trải ra sống động, linh
hoạt và rất thực. Thơ và cuộc đời đã hòa vào nhau để ta có những bài thơ đặc
sắc. Điều đó đã được thể hiện rõ ràng, tường tận trong các trường ca hiện đại
qua những dòng thơ đậm chất sử thi ngợi ca; chất ngẫm suy, chiêm nghiệm,
trăn trở, băn khoăn… Bởi, suy cho cùng, đa phần các nhà thơ sáng tác trường
ca về thời chống Mỹ là những người sống trong cuộc, là người chứng kiến lịch
sử, là những thư ký khá trung thực của một thời không thể nào quên.
1.2.2 Nhà thơ thời hậu chiến. So sánh với nhà thơ - người trong cuộc
1.2.2.1 Nhà thơ thời hậu chiến
Trước hết, các nhà thơ thời hậu chiến là những người có thời gian sống
trong chiến tranh không nhiều như Nguyễn Hữu Quý, Sương Nguyệt Minh, Lê
Anh Dũng… nhưng yêu thích đề tài chiến tranh và người lính. Họ còn là các
nhà thơ trẻ ở thời bình chưa một ngày sống trong thời chống Mỹ nhưng mang
cảm hứng sáng tác về thời chống Mỹ. Dù sinh ra trong thời bình; nhưng khi
sáng tác trường ca về thời chống Mỹ, họ thường đắm mình vào trong quá khứ
hào hùng của thế hệ cha ông để hàm ơn, ngợi ca: “Em yên nghỉ giữa đội hình
đồng đội/ Vẫn thẳng hàng như thể giữa hàng quân/ Vẫn tăm tắp những trái tim
người lính/ Vẫn đồng hành cùng Tổ quốc hôm nay” (Ngựa trắng bay về - Văn
Công Hùng).
Nếu không viết về đề tài chiến tranh trong quá khứ thì trường ca của họ sẽ
hướng về cuộc sống đương đại để bày tỏ tâm trạng về những gì mà họ đang
cảm nhận, đang trăn trở... Nhưng chắc chắn rằng họ sẽ mãi mãi không bao giờ
quên dấu tích chiến tranh còn ẩn hiện đâu đấy trên từng mảnh đất quê hương,
trên từng thân phận người mà họ đang chung sống - vì đó là người thân của họ,
47 là đồng bào của họ. Với trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ, họ không thể
dửng dưng, vô cảm. Bởi nếu không có sự kế thừa về tâm hồn dân tộc thì họ
không thể là hậu duệ của một thế hệ “lá xanh, bài hát đỏ” hết mình vì sự sống
còn của nhân dân, Tổ quốc.
Trong tuần báo Văn nghệ Trẻ số 36 - 510/2006, nhà báo Phong Điệp đã
thực hiện một cuộc phỏng vấn có giá trị trên mục Diễn đàn văn học mang tựa
đề “Những giá trị còn mãi...”. Qua đó; các nhà văn, nhà thơ trẻ đương đại
được độc giả yêu thích đã nêu những suy nghĩ về gíá trị, đề tài, phong cách
sáng tác… của dòng văn học cách mạng. Dưới đây là những nhận định khá
chính xác của họ.
- Nhận định về giá trị của văn học kháng chiến:
Đại diện cho lớp nhà thơ trẻ, Văn Công Hùng cho rằng “Dấu chân qua
trảng cỏ” của Thanh Thảo hào sảng và tài hoa, còn “Đường tới thành phố” của
Hữu Thỉnh đau đáu nỗi niềm và buốt đau thân phận..., mỗi thời đại có một hệ
thống tác phẩm tương ứng. Anh cũng khẳng định: “Thế hệ chúng tôi đã tiếp
thu được rất nhiều từ những tác phẩm ra đời trong thời kỳ ấy (chống Pháp,
Mỹ). Mà làm sao có thể quên được những câu thơ như thế này nhỉ: ,,, “Đất
nước theo em ra ngõ một mình/ Cau vườn rụng một tàu đã cũ/ Đất nước đêm
nay năm mươi triệu người không ngủ/ Đang bóc đi tờ lịch cuối cùng”. Những
câu thơ ấy của một trong những nhà thơ tài hoa nhất, hay nhất thời chống Mỹ:
Hữu Thỉnh, đến tận bây giờ đọc có cũ đâu?”. Đánh giá trên là chính xác. Các
nhà thơ, nhà văn thời hậu chiến cho rằng những bải thơ, trường ca nổi tiếng ở
thời chống Mỹ đến nay vẫn có giá trị rất lớn. Vì chất chứa trong từng câu thơ
là tâm tình, là nỗi niềm của con người nhớ về con người, là mong ước tự do.
- Nhận định về đề tài
Thế hệ nhà thơ nhà văn sinh sau chiến tranh vẫn có những người mặn mà
với đề tài chiến tranh. Họ hiểu rằng, được nhìn chiến tranh quá khứ qua lăng
kính hiện tại và suy nghiệm tương lai cũng là một điều thú vị. Ký ức ngày hôm
48 qua kết hợp với hiện thực đời sống hôm nay vẫn là điều hết sức cần thiết cho
người mang nghiệp cầm bút.
+ Trao đổi về vấn đề này, nhà văn Dương Bình Nguyên (Hà Nội) đã chia
sẻ: “Gần như suốt thời thơ ấu, tôi đã học và đọc những cuốn sách viết về chiến
tranh cách mạng. Văn học nhà trường, đến tận khi tôi học lớp 12, văn học cách
mạng vẫn chiếm phần lớn những tác phẩm trích dạy. Vậy thì, dù muốn hay
không, đó cũng là phần tác động trực tiếp lên tâm hồn thế hệ chúng tôi, những
người sinh sau 1975, khi chiến tranh đã thực sự ngừng lại... tôi đã nương tựa
rất nhiều vào các tác phẩm của dòng văn học cách mạng để lớn lên...” [21].
+ Trần Hoàng Thiên Kim, nhà thơ trẻ Hà Nội đã bày tỏ những cảm nhận
về văn học thời chiến tranh, về chiến tranh và người lính: “Tôi là một người
sinh ra sau chiến tranh; không biết đến đạn bom, tiếng súng; chỉ cảm nhận sự
oai hùng cũng như những mất mát đau thương của dân tộc qua những áng văn
thơ. Có thể khẳng định dòng văn học thời chiến đã làm nên một tượng đài
nghệ thuật bất hủ về người lính, người mẹ, người chị cầm súng, những người
đàn ông ra trận hừng hừng khí phách... Chiến tranh đã lùi xa, nhưng dòng văn
học thời chiến đã thực sự để lại một dấu mốc quan trọng trong suốt chặng
đường văn học Việt Nam” [21]. Quả đúng như vậy, tất nhiên, trong đó có sự
đóng góp quan trọng của trường ca về thời chống Mỹ.
Một số trường ca xuất hiện sau 1990 vẫn thể hiện đề tài chiến tranh và
người lính. Như trường ca Trời đang mở sáng của Trần Anh Thái, Những
người lính của làng của Nguyễn Quang Thiều đã viết về những người lính sẵn
sàng lên đường bảo vệ quê hương:“Chúng tôi xa làng/ Chúng tôi đi đánh
giặc... Chúng tôi vụt thành người lính/ Khi một vùng trời Tổ quốc súng cồn
lên” (Nguyễn Quang Thiều).
Như vậy; qua những bộc bạch, nghĩ suy đã dẫn; chúng ta có thể khẳng
định đề tài chiến tranh và người lính vẫn có sức thu hút văn nghệ sĩ hôm nay.
- Nhận định về phương pháp sáng tác
49
Nhà thơ trẻ Lê Nguyệt Minh đã thổ lộ tâm tình một cách thẳng thắn: “Thế
hệ sinh ra trong hòa bình không thể dùng trí tưởng tượng mà xây dựng lên
một không khí lịch sử đầy biến cố… Nhưng sự kế thừa được thể hiện bằng
cách mới... phải viết hiện đại hơn về cuộc sống hôm nay, mang hơi thở hiện
thực và nhịp điệu đầy sức sống của nó - sức sống của đất nước sau chiến tranh
hơn ba mươi năm...” [21]. Đúng thế, người viết hôm nay vẫn rất trân trọng giá
trị cũng như thành tựu văn học mà thế hệ các nhà văn, nhà thơ thời kỳ kháng
chiến gầy dựng. Đó là sự lao động nghệ thuật hoà trộn của máu và nước mắt,
vinh quang và hy sinh. Những dòng suy nghĩ như thế quả là đáng quý. Họ đang
nỗ lực tìm tòi sáng tạo những cách thể hiện mới mẻ và mong được đông đảo
độc giả dần dần chấp nhận những thử nghiệm văn chương của họ. Thời gian sẽ
Âm hưởng chính của trường ca ra đời trong thời chống Mỹ là ngợi ca,
là sự sàng lọc tinh tế nhất để khẳng định giá trị của văn chương.
cảm hứng sử thi trào dâng. Âm hưởng chính của trường ca ra đời sau thời
chống Mỹ là bi tráng, hồi tưởng, bút pháp linh hoạt. Trường ca sau 1990 ngày
càng xuất hiện khá nhiều so với thập kỷ 80. Một bộ phận nhà thơ - đa phần
trưởng thành trong chiến tranh - đã dồn tâm sức để tiếp tục sáng tác trường ca
sử thi hiện đại. Thực tế hiện nay, đông đảo các nhà thơ ở miền Bắc có cảm
hứng sáng tác trường ca hơn các nhà thơ miền Nam. Một phần lớn là do các tạp
chí, tuần báo, các nhà xuất bản... ở miền Bắc thường phát động các cuộc thi
sáng tác trường ca (xem thư mục). Với nhiều lớp tác giả như thế, tất yếu phong
cách sáng tác ở hai giai đoạn: chiến tranh và hoà bình cũng sẽ có sự khác nhau.
- Nhận định về lực lượng sáng tác
Mặc dù thời hoàng kim của trường ca đã qua đi nhưng các nhà thơ quân
đội vẫn có những tác phẩm có chất lượng, đóng góp vào sự đổi mới và phát
triển của dòng văn học thời hậu chiến. Những nhà sáng tác trẻ dù đa số đã trên
dưới 40 tuổi như: Nguyễn Bình Phương, Mai Nam Thắng, Đỗ Tiến Thuỵ, Lê
Anh Dũng, Nguyễn Anh Nông, Phùng Văn Khai, Hữu Kim, Viễn Sơn, Quỳnh
50 Vân, Bùi Như Lan, Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Đình Xuân, Hồ Kiên Giang,
Nguyễn Thế Hùng... là lực lượng kế thừa của các nhà văn quân đội lão thành.
Sau 1975, bên cạnh việc tô đậm, lý giải thêm về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa
anh hùng cách mạng; họ đã thẳng thắn nhìn vào sự thật. Những tình huống
trắc trở, những điều kín đáo thuộc về bản năng; những hy sinh mất mát to
lớn của dân tộc; những khiếm khuyết, sai lầm của thời đã qua được phản
ánh qua lăng kính khách quan sắc cạnh; không hề lãng tránh, bi quan.
Đội ngũ các nhà thơ sáng tác trường ca sau 1980 còn là những người
hồi tưởng quá khứ sau hơn ba mươi năm chiến tranh.
Mặc dù sống trong thời bình, nhưng cảm hứng sáng tạo của họ lại hướng
về thời chống Mỹ. Ngoại trừ vài trường ca ra đời ngay sau 1975 được viết với
tâm trạng, cảm xúc thời đại của người trong cuộc, phản ánh bối cảnh hừng hực
hơi thở chiến tranh như Đường tới thành phố, Những người đi tới biển (đã tạm
xếp vào trường ca giai đoạn 1960 - 1980), các trường ca ra đời sau 1980 được
viết để hồi tưởng lại những năm tháng khốc liệt mà vinh quang đã qua. Phải
nhìn nhận rằng độ lùi thời gian đã giúp các nhà thơ có sự suy ngẫm điềm tĩnh,
sâu sắc hơn về chiến tranh và bản chất của kẻ thù; về chính họ và chính chúng
ta. Có thể nói, hơn ba thập kỷ trôi qua, khuynh hướng hiện thực vẫn là
khuynh hướng chủ lưu của nền văn học nước nhà. Và dù đất nước đã hoà
bình, xã hội đã có những chuyển biến, đổi thay cho phù hợp với tâm thế và
cuộc sống hiện tại thì văn học vẫn dành mảnh đất khá rộng cho đề tài “chiến
tranh và quá khứ”. Các nhà thơ thời hậu chiến có sự cảm nhận và thể hiện
tỉnh táo, công bằng hơn về cuộc chiến nên sự đánh giá sẽ có nhiều tầng bậc,
nhiều góc độ khác nhau. Sự nhận định, đánh giá về ta, về kẻ gây ra chiến tranh
dần dần tránh đi khuynh hướng phiến diện, cực đoan một chiều.
Quả thật là: “Xu hướng miêu tả cuộc chiến tranh chân thực đúng như nó
đã xảy ra trở thành điều cam kết thầm lặng của nhà văn với lịch sử và cuộc
sống” [76, tr.94]. Tất nhiên, chúng ta vẫn hiểu rằng sự thật chiến tranh trong
51 giai đoạn ác liệt nhất, lúc cần sự đồng tình của quần chúng, thì hiện thực đi vào
những trang thơ văn phải được nâng lên cho phù hợp với tâm thế thời đại để
chiến đấu và phải chiến thắng. Lê Thành Nghị cũng đã nhận định: “Văn học
tham gia vào cuộc kháng chiến ấy, tự biến mình thành lời ăn tiếng nói của
nhân dân trong chiến tranh... thành vũ khi phụng sự kháng chiến một cách tự
nguyện… thành công cụ của chính trị một cách hữu hiệu” [58, tr.9]. Như thế,
các nhà thơ mặc áo lính đang thực hiện công việc sáng tác tự nguyện theo “sự
mách bảo của con tim”.
Sau 1980, một số nhà thơ đã phản ánh hiện thực chiến tranh bằng sự hồi
tưởng, có thể kể đến Sóng Côn Đảo của Anh Ngọc, Trường ca Sư Đoàn của
Nguyễn Đức Mậu, Mảnh hồn chim Lạc của Nguyễn Hưng Hải, Những người
lính của làng của Nguyễn Quang Thiều... và gần đây có Đổ bóng xuống mặt
trời của Trần Anh Thái… Dẫu đã từng tham gia cuộc chiến, họ cũng không
chứng kiến hiện thực chiến tranh một cách trực tiếp bởi họ đang ở trong thời
bình. Họ không phải vừa cầm súng, vừa cầm bút. Điều kiện viết: không phải
khổ sở, vất vả; không có bom rơi đạn nổ, không có cái chết cận kề. Đề tài: chủ
đạo vẫn là chiến tranh và người lính nhưng chủ yếu là hồi tưởng về một thời
máu lửa; về lãnh tụ và những bạn bè, đồng đội đã hy sinh; sự trăn trở, suy tư về
mặt trái của cuộc sống hôm nay. Chúng ta có thể cảm nhận được sự hồi tưởng
đau đáu ấy trong từng hồi ký, trong từng trường ca viết về thời chống Mỹ.
Giang Nam, tham gia cuộc chiến chống Mỹ và viết trường ca từ rất sớm.
Nhưng sau chiến tranh, trong hồi ký Sống và viết ở chiến trường, nhà thơ đã kể
lại những năm tháng đi cách mạng và kháng chiến. Tất cả những điều đó được
viết trong sự hồi tưởng quá khứ, là ký ức một thời chiến tranh mà ông đã từng
tham gia. Trang bìa hồi ký có dòng tự bạch (đã in trong Nhà văn Việt Nam hiện
đại): “Cuộc chiến đấu ấy là ngọn nguồn cảm xúc lớn, là niềm vui và cả nỗi đau
trong thơ tôi”. Nhà thơ cũng tâm sự ở những trang cuối của hồi ký: “Viết về
mình đã khó, viết về bạn bè, đồng chí càng khó hơn nhiều. Nhưng khó mấy
52 cũng phải làm; mỗi người góp một phần chất liệu, những hồi tưởng, những kỷ
niệm riêng tư... để cho gương mặt bạn bè, đồng chí - đặc biệt là những người
đã ra đi, đã hy sinh... sống mãi với thời gian” [56, tr.232].
Dù cho mọi thứ đã thay da đổi thịt thì tâm hồn của người lính năm xưa vẫn
hằn sâu ký ức chiến tranh trong từng ngỏ ngách riêng tư:
“Tôi vẫn nhận ra Hàm Rồng chìm sâu trong đất/ Tôi vẫn nhận ra Hàm
Rồng qua từng hàng cây, hốc đá có tên riêng/ Tôi vẫn nhận ra Hàm Rồng qua
từng gương mặt chớm già nua của người đồng đôi/ Trong cái xiết tay, trong
rạng rỡ nụ cười/ Trong nước mắt bạn già lâu ngày gặp lại/ Và vết thẹo chiến
tranh trong trận bom vùi...” (Trường ca Hàm Rồng - Từ Nguyên Tĩnh).
Văn Lê là tác giả của Những cánh đồng dưới lửa. Nỗi đau xưa về một
thời chiến đấu có vinh quang, có mất mát hy sinh được thể hiện rõ trong những
đoạn thơ cuối cùng của trường ca: “Nào có hết được gian truân, cuộc đời người
lính/ Nỗi đau xưa cứ âm ỉ trong lòng/ Giấu khóc mà cười, giấu đau mà hát/
Nỗi niềm nào còn lại với hư không?”.
Quảng Bình tuyến lửa đã hứng chịu hàng triệu tấn bom cày xới nhằm chặt
gãy con đường chi viện cho chiến trường miền Nam. Dải đất miền Trung này
có Lê Thị Mây nổi bật với những tập thơ trữ tình, trong đó, Lửa mùa hong áo
(2003) như một đoạn phim hồi tưởng sinh động về tiểu đội mười hai cô gái
thanh niên xung phong tóc đuôi sam, nón tai bèo, áo quân xanh màu lá, tuổi
mười tám đôi mươi. Và thấp thoáng trong trường ca là hình ảnh của chính tác
giả - cô thanh niên xung phong Lê Thị Mây ngày nào trong đời thật và trong
sự thăng hoa của nghệ thuật thơ ca. Lửa mùa hong áo, theo Vũ Duy Thông thì
đây là: “trường ca con gái. Những nhân vật của Lê Thị Mây đánh giặc theo
cách con gái. Yêu thương theo cách con gái. Và ngã xuống theo cách con gái”.
Sự hồi tưởng về quá khứ cứ trỗi dậy trong tâm người lính năm xưa. Quá
khứ không nằm yên và được bộc lộ qua những vần thơ tâm huyết. Có người
trăn trở về hiện thực cuộc sống hôm nay khi họ bắt gặp những điều trái khoáy,
53 những hành động nông nổi đời thường... Trong Mảnh hồn chim Lạc, Nguyễn
Hưng Hải đã tự hỏi:
“Họ là ai/ con cháu của Hùng Vương/ thời mở cửa/ uống cạn đồi, trơ
ruộng/ bỏ làng đi/ họ là ai/ sao ở chỗ từ bi/ thiện và ác cùng chung “mô
phật”… Cái giá của cao sang/ đã có lúc phải thấp hèn để có”/…“Giữa ồn ào
phố chật, người đông/ giữa xô lấn đổi thay theo thời cuộc/ ta lắm lúc cũng quên
mình thưở trước”.
Những điều trăn trở như thế còn thể hiện trong một số trường ca như
Khoảng trời người lính (chương III: Sau chiến tranh) của Lê Anh Quốc, Đổ
bóng xuống mặt trời của Trần Anh Thái... nhưng đa phần là nỗi nhớ về những
đồng đội năm xưa đã từng chung lưng đấu cật; nhớ tình đất, tình người nơi họ
đã từng sống và chiến đấu.
Chiến tranh đã qua đi, điều bất thường của lịch sử đã qua đi. Người ta
không còn lo sợ đạn bom sẽ liên tục rền vang, sẽ tiêu diệt cuộc sống, huỷ hoại
hạnh phúc cá nhân và cộng đồng. Thế nhưng, trong độ lùi của thời gian, có lúc
tâm thái họ rơi vào im lặng, có lúc con tim họ quẫy đạp mãnh liệt khôn cùng.
Đề tài chiến tranh luôn ám ảnh và cứ thường trực trở về trong tâm khảm họ.
Nội tâm của họ bị giằng xé, thôi thúc viết về đất nước, đồng đội.
Nhìn lại ba mươi năm đã qua, văn học chiến tranh cách mạng vẫn phát
triển, mặc dầu đề tài chiến tranh có sự đa dạng hóa về chủ đề, nghệ thuật xây
dựng nhân vật, nghệ thuật biểu hiện… tạo được tiếng nói đa thanh. Hiện thực
cuộc sống được các nhà văn quan sát tinh tế; phân tích, cảm thụ bằng sự tỉnh
táo. Không phải bây giờ dư ba chiến tranh đã lùi xa, đã mất hút, mà vẫn quanh
quẩn bên ta. Nó mãi hiện diện trong đời sống những nạn nhân chất độc màu da
cam, trong nỗi đau của những người dân vô tội. Chiến tranh chưa bao giờ kết
thúc, chiến tranh cứ đeo bám dai dẳng trong làn hương khói trên bàn thờ liệt sĩ,
đeo bám trên những khuôn mặt các goá phụ hằn nếp nhăn thời gian. Nó đeo
bám trong từng giọt nước mắt mặn chát đã chảy gần hơn ba mươi năm, nó đeo
54 đuổi suốt cuộc đời của những đứa bé mồ côi vì cha mẹ đã hy sinh cho Tổ quốc.
Nó tồn tại ở những vết thương trên thân thể người lính năm xưa. Nó hiện diện
trên những mảnh đất - mặc dù đã được hồi sinh - nhưng thỉnh thoảng vẫn vang
lên tiếng khóc, tiếng rền rĩ bởi những quả bom mìn còn sót lại. Nó đeo bám dai
dẳng trong tâm hồn nhân dân ta sống ở thời chống Mỹ và cả hôm nay. Điều đó
là nguồn đề tài để các nhà thơ thời hậu chiến chiêm nghiệm, nghĩ suy và viết
tiếp về cuộc chiến tranh đã từng diễn ra ở Việt Nam.
Văn học chiến tranh và hậu chiến tranh chưa bao giờ có điểm đến cuối
cùng. Chân dung của những người trong cuộc được khắc họa trong văn học -
tuy độ đậm nhạt khác nhau - nhưng hầu hết đều là những tấm gương quý giá về
lòng yêu nước cần được nghiêm cẩn tôn vinh.
1.2.2.2 So sánh với nhà thơ - người trong cuộc
Các nhà thơ sống trong thời chiến tranh đa số là những người vừa cầm
súng vừa cầm bút. Họ có những nét chung về tâm thế, cảm xúc, cuộc sống, lý
tưởng… Môi trường, hoàn cảnh họ sáng tác có thể là cánh rừng già trên đường
hành quân, bên bếp lửa sau một trận càn, ở một chốt điểm sau cái sống cái chết
cận kề. Họ có thể viết với tâm trạng hân hoan sau trận thắng lớn hoặc trong
những giờ phút yên lặng với tâm trạng đớn đau sau khi chôn cất những đồng
đội đã hy sinh. Điểm qua một vài gương mặt nhà thơ - chiến sỹ tiêu biểu của
thời chống Mỹ, chúng ta có thể thấy rõ những nét chung về tâm thế, cảm xúc,
cuộc sống, lý tưởng... của họ. Ta cũng nhận ra rằng: thời gian sáng tác của họ
không hạn định ngày hay đêm, bàn viết của họ chính là bất kỳ vật gì có thể kê
tạm để sáng tác, có thể là chiếc ba lô gắn với họ như bóng với hình. Có thể là
một gốc cây ven đường hành quân. Không gian viết có thể rộng hay hẹp, cao
hay thấp... tuỳ vào địa thế của chiến trận, vị trí nơi đóng quân. Hầu hết họ chọn
đề tài chiến tranh và người lính. Chất hiện thực đã lấn át sự hư cấu; có hư cấu
cũng chỉ phục vụ cho mục đích tuyên truyền. Đành rằng chiến tranh không phải
là điều kiện thuận lợi để sáng tác; nhưng ở môi trường chiến tranh; con người
55 phải đấu tranh, phải sống và chiến đấu; phải rung chạm nhiều cung bậc của trái
tim, của hành vi ứng xử nên rất hiện thực.
Họ là những người lính xẻ dọc Trường Sơn, tung hoành khắp các trận địa.
Nơi nào có giặc là nơi ấy in dấu chân của họ. Như một ân huệ của đời dành cho
các nhà thơ, những phút giây thăng hoa tuyệt diệu đã xuất hiện. Và những dòng
ngôn từ đã tuôn ra khi có sự hòa nhập của cảm xúc con tim, sự lọc sàng sáng
tạo và từ hiện thực cuộc chiến.
Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến) quê ở Bến Tre; năm 1954 theo gia đình tập kết
ra Bắc học tập, tốt nghiệp Đai học Sử, làm phụ giảng. Sau đó, ông trở lại chiến
trường miền Nam làm công tác giáo dục rồi chuyển sang Hội Văn nghệ Giải
phóng. Ngày 24/5/1968, trong chiến dịch Mậu Thân, ông đã hy sinh ở vùng phụ
cận Sài Gòn, để lại cho nền văn học Việt Nam hai tập thơ: Tiếng gà gáy, Hoa
dừa và trường ca Nguyễn Văn Trỗi. Nhưng có thể nói, Trường ca Nguyễn Văn
Trỗi thực sự tạo được hình tượng nhân vật từ nguyên mẫu của cuộc sống bởi
tác giả đã viết chân thực bằng tâm thế của chứng nhân lịch sử.
Nguyễn Khoa Điềm, khi trao đổi với phóng viên Nguyễn Quýnh (báo
GDTĐ số 110, 9/2004) đã ca ngợi trường ca Bài ca chim Chơrao và nhà thơ
Thu Bồn. Qua đó, ông kể về hoàn cảnh, tâm trạng khi sáng tác Mặt đường khát
vọng: “Lúc đó nhiều nhà thơ đã viết trường ca… Bài ca chim Chơrao của anh
Thu Bồn đang rất nổi tiếng và được thanh niên đô thị thuộc rất nhiều. Tôi lựa
chọn viết trường ca, cấu tứ theo từng mảng, như thế vừa dễ triển khai cảm xúc
vừa dễ sử dụng chất liệu… tôi rất thích nhạc giao hưởng, đặc biệt là kết cấu
giao hưởng… Tôi nghĩ tôi sẽ viết một bản giao hưởng bằng ngôn ngữ”.
Nhà thơ cũng đã khẳng định: Chương V là một chương lớn, nhà trường
phổ thông chọn chương này để giảng dạy là hợp lý. Thời gian anh viết chương
này là vào những ngày mưa triền miên sau Tết, máy bay Mỹ đánh phá dữ dội,
phải ngồi trong hầm mà viết, cảm xúc được cộng hưởng bởi tiếng bom nổ, khói
bom và mưa rừng. Nguyễn Khoa Điềm tâm sự: “Tôi viết về những điều giản dị
56 của chính tôi, về tuổi trẻ và các bạn bè đang tranh đấu ở trong thành phố”.
Như vậy, rõ ràng, năm tháng chiến trường, cảm xúc thời đại, tâm thế người
trong cuộc... đã giúp cho nhiều trường ca có giá trị đến với công chúng.
Thời chống Mỹ, nhà thơ - chiến sĩ là một sự hoà quyện đặc biệt. Hầu như
trước khi là nhà thơ, các anh đã là người lính. Hữu Thỉnh cũng thế. Đường tới
thành phố ra đời vào năm 1979 và nhận giải thưởng Hội Nhà Văn năm 1980,
đã được nhìn từ góc độ của một người lính thời chống Mỹ với những niềm
vui, nỗi buồn, trách nhiệm và nghĩa vụ nên vô cùng chân thực và sống động.
Trường ca viết về chiến dịch Hồ Chí Minh và nhân vật trung tâm - người lính
thuộc binh chủng thiết giáp trong trường ca - chính là tác giả, một người đã
vinh dự theo binh đoàn xe tăng vào giải phóng Sài Gòn. Nghiên cứu trường ca
của tác giả, ta có thể thấy rõ được điều ấy. Hữu Thỉnh đã viết với tâm thế của
người lính, tâm thế người trong cuộc.
Hữu Thỉnh đã từng nói: “Chiến tranh là một hiện tượng xã hội đột xuất...
Thơ ca của thế hệ chống Mỹ là tiếng nói sống động tự tin của người trong
cuộc. Người ta bắt gặp khá nhiều trường hợp nhân danh, nhưng mọi sự nhân
danh đều tìm được sự cảm thông của người đọc vì nó được đảm bảo bằng chỗ
đứng của người viết. Thơ ở đây được đảm bảo bằng máu”. Quả đúng như vậy,
thơ ở đây đã được đảm bảo bằng máu. Máu của các nhà thơ chiến sĩ - người
trong cuộc, máu của bạn bè đồng đội đã hy sinh, máu của những người dân vô
tội đổ xuống để cuộc chiến thắng lợi, để chúng ta có hòa bình hôm nay. Thơ ca
của thế hệ chống Mỹ quả thật là tiếng nói sống động tự tin của người nhân danh
Thanh Thảo cũng là một trong số rất nhiều người làm thơ, viết văn… đi
dân tộc.
vào chiến trường cuối những năm 60, suốt dọc Trường Sơn, theo dấu chân
người lính trẻ: “Thơ Thanh Thảo viết về cuộc chiến đấu ở Trường Sơn và đồng
bào Nam Bộ [5, tr.47], cố gắng phác họa chân dung tinh thần của những
người trẻ tuổi - người lính bình thường, vô danh nhưng rất có ý thức về Tổ
57 quốc” [4, tr.45]. Là người trong cuộc, Thanh Thảo đã hoàn toàn gắn mình vào
cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc nên anh có quyền cho phép mình nói
lên những điều anh nghĩ, những sự kiện mà anh chứng kiến về cuộc chiến.
Bích Thu đã ghi nhận: “Sự hiện diện của Thanh Thảo trong thời điểm này
như một sự tiếp sức trong đội ngũ những người làm thơ thuộc thế hệ thứ ba
trên chặng đường sáng tạo, thấm thía về hiện thực chiến tranh, về trách nhiệm,
số phận của thế hệ mình trước Tổ quốc, nhân dân” [99, tr.67]. Chân dung cái
tôi trong trường ca là cái tôi từng trải, cái tôi chứng kiến, cái tôi mang đậm dấu
ấn cá nhân, không lập lại bất kỳ ai. Đọc Những người đi tới biển, ta có thể
khẳng định Thanh Thảo đã hướng ngòi bút vào chân dung người lính, hiện thực
chiến trường, đời sống nhân dân để khám phá chân dung tinh thần của một thế
hệ người lính trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt của dân tộc.
Anh Ngọc, nhà thơ mặc áo lính của thời chống Mỹ, tham gia sáng tác từ
1965. Sự xuất hiện của thơ anh đã bổ sung nét tươi mới cho diễn đàn văn học
của người lính, đặc biệt là với bài thơ Cây xấu hổ. Trường ca Sông núi trên vai
(lúc đầu mang tên “Tiếng gọi con đường”), đã được anh chính thức khai bút tại
cực Nam Trung bộ vào tháng 4/1975, hoàn thành vào năm 1983, đến 1993 có
chỉnh sửa lại để hưởng ứng cuộc vận động sáng tác về đề tài chiến tranh. Đây là
một tác phẩm khá thành công. Những quan niệm về quê hương, Tổ quốc, chiến
tranh, thân phận người lính… được thể hiện rất rõ, nhất là về hình tượng những
cô gái trong đoàn vận tải H50 ở miền cực Nam Trung bộ. Trong tập Nghiên
cứu và tiểu luận Mạch thơ trong nguồn thế kỷ, Vũ Văn Sỹ cũng đã đánh giá:
“Sông núi trên vai… là bản trường ca lấy đề tài lịch sử…, được bố cục theo
thời gian lịch sử” [85].
Có thể nói, văn học chính là vũ khí, là sức mạnh tinh thần để những người
chân chính đi qua chiến tranh, vượt lên số phận. Đặc biệt là thơ ca, trong đó có
trường ca về thời chống Mỹ đã góp phần tạo nên sức rung động mạnh mẽ. Các
58 nhà thơ thời chống Mỹ đã đóng góp cho dòng văn học hiện đại những trường ca
vừa đậm đà chất thơ, vừa mang dấu ấn về thời đại Hồ Chí Minh lịch sử.
Cuộc chiến tranh chống Mỹ đã qua đi hơn một phần tư thế kỷ. Một cuộc
chiến làm đau lòng những người dân vô tội ở cả hai miền Tổ quốc, và cả những
người dân ở nơi phát ra nguồn lửa chiến tranh. Nhiều trường ca đã ghi lại
những chiến công vang dội, những mất mát thương đau, những nhọc nhằn gian
khổ, những thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần… của con người đã sống trong
cuộc chiến ấy. Điều đó cũng phần nào lý giải vì sao trường ca về thời chống
Mỹ nhiều hơn về số lượng và cao hơn về chất lượng so với trường ca viết về đề
tài khác. Trường ca về thời chống Mỹ đã có những đóng góp đặc sắc làm nên
diện mạo riêng cho thơ ca cách mạng Việt Nam.
Qua khảo sát, ta thấy rằng dung lượng trường ca là khá dài (trường ca hiện
đại ngắn nhất cũng khoảng ba, bốn trăm câu; dài nhất trên vài ngàn câu; có sử
thi cổ điển trên vài chục ngàn câu). Nếu so sánh với các nhà thơ làm thơ ngắn -
chỉ có vài câu trong một bài - có thể đã lưu lại tiếng tăm thì một vài đoạn thơ tài
hoa trong một trường ca cũng là điều đáng ca ngợi. Chẳng hạn một vài đoạn
đặc sắc trong Đường tới thành phố, Những người đi tới biển hay chương V
“Đất nước” trích Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm...
Giá trị lớn lao của văn chương là đồng hành cùng năm tháng, đi cùng
năm tháng. Vì thế, giá trị văn học thời chống Mỹ - đặc biệt là trường ca - đã
làm vẻ vang cho dân tộc, là tài sản quý báu của dân tộc. Bởi, bất kỳ một dân tộc
nào, văn chương đại diện cho tâm hồn dân tộc. Thời gian đã trôi qua hơn một
phần ba thế kỷ, thế nhưng âm ba của cuộc chiến tranh chống Mỹ vẫn mãi xao
động. Cùng với nhiều bài thơ ngắn có giá trị xuất sắc như: Quê hương, Nghe
em vào đại học (Giang Nam) Trường Sơn đông, Trường Sơn tây; Bài thơ về
tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật), Cuộc chia ly màu đỏ (Nguyễn Mỹ)...,
nhiều trường ca như: Đường tới thành phố, Những người đi tới biển, Mặt
đường khát vọng, Bài ca chim Chơrao... đã ghi lại những chiến công vang dội,
59 những mất mát thương đau, những nhọc nhằn gian khổ, những thiếu thốn về vật
chất lẫn tinh thần của con người sống trong cuộc chiến ấy và được địa chỉ
“http://thiviên” bình chọn là mười tác phẩm hay nhất viết về thời chống Mỹ.
Điều đó khẳng định: trường ca về thời chống Mỹ đã có những đóng góp đặc
sắc làm nên diện mạo hoàn mỹ cho thơ ca cách mạng Việt Nam và văn học
hiện đại Việt Nam. Văn học thời chiến luôn trường tồn và luôn được trân
trọng, nhất là các tác phẩm có giá trị. Nhà thơ, nhà văn là người đã tinh luyện
quặng chữ để chắt lọc tinh tuý. Vũ khí của họ là con chữ. Họ đã vươn lên tầm
cao của thời đại vì đã có quyền lực vô hình của con chữ, hay nói chính xác là
quyền lực của nhà sáng tác. Con chữ được tinh luyện thành tác phẩm. Và tác
phẩm văn chương đích thực luôn tồn tại với lịch sữ dẫu rằng cuộc đời của các
nhà văn, nhà thơ tất yếu ngắn ngủi hơn lịch sử; dẫu rằng số phận của họ có bất
hạnh, mong manh. Những trang viết của họ sẽ sống mãi với thời gian và được
công chúng đón nhận - như các trường ca sử thi về thời chống Mỹ có giá trị mà
chúng tôi đang nghiên cứu.
Tuy nhiên, độ lùi về thời gian cũng giúp chúng ta có thể đánh giá một
cách tương đối khách quan về những nhược điểm, bên cạnh những thành tựu về
thể loại của trường ca. Cụ thể về nghệ thuật: trong các trường ca có chất lượng
được chọn để khảo sát vẫn có những khúc, những chương rời rạc về mặt kết
cấu, ngôn ngữ còn mang tính tự nhiên chủ nghĩa, nhiều đoạn thô ráp. Số lượng
câu thơ quá nhiều, dàn trải nên bạn đọc và cả văn nghệ sĩ ngại tiếp cận - trừ
những chương đoạn nổi tiếng. Sau 1980, nhiều trường ca xuất hiện nhưng đến
với bạn đọc chưa nhiều do nhiều nguyên nhân (khâu xuất bản, khâu tiếp thị,
chất lượng…), trong đó, nguyên nhân chủ yếu do phải mất nhiều thời gian để
đọc vì độ dài. Về nội dung, nhiều trường ca chỉ thiên về ngợi ca và xây dựng
hình tượng đẹp mà thiếu đi tính chất đời thường, ít phê phán, ít bóc trần sự thật.
Hình ảnh nhân vật chưa sắc nét, còn mang tính điển hình chung chung; nhiều
trường ca có quá nhiều đoạn dư thừa, chêm xen. Những nhận xét của Nguyễn
60 Văn Hạnh, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ, Dục Tú, Mai Hương, Hồng Diệu… về
nhược điểm cuả các bản trường ca là rất đáng trân trọng, giúp cho các nhà thơ
có thêm kinh nghiệm sáng tác trường ca.
1.2.3. Sự gắn kết giữa yếu tố cá nhân và cộng đồng
Trong chuyên luận “Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990”, Lê Lưu Oanh đã
phân loại cái tôi trữ tình dựa trên các tiêu chí:
- Theo phương pháp sáng tác: có cái tôi cổ điển, cái tôi lãng mạn, cái tôi
hiện thực, cái tôi hiện thực cách mạng…
- Theo đặc điểm nhân cách: có cái tôi - hưởng lạc, cái tôi - cô đơn…
- Theo cấu trúc tác phẩm: có cái tôi - tác giả, cái tôi - nhân vật…
- Theo phương thức bộc lộ: có cái tôi - suy nghĩ, cái tôi - triết lý…
- Theo phạm trù tinh thần: có cái tôi - đạo đức, cái tôi - chính trị…
- Theo cấu trúc nhân cách: có cái tôi - cá nhân, cái tôi- xã hội, cái tôi -
tâm lí, cái tôi - hành động, cái tôi - bản năng, cái tôi - nhu cầu,
- Theo loại hình nội dung: có cái tôi - sử thi, cái tôi - thế sự, đời tư…
Xét về mặt tổng thể, cái tôi trữ tình được thể hiện ở nhiều khía cạnh.
Trong phạm vi luận án, chúng tôi đề cập đến cái tôi cá nhân của cấu trúc nhân
cách và loại hình nội dung là chủ yếu. Đồng thời, đặt các mối quan hệ ấy vào
những mối quan hệ khác với thời đại mà cái tôi trữ tình được sản sinh ra... Bởi,
đất nước ta trải qua ba mươi năm chiến tranh; số phận cá nhân đã gắn liền với
cộng đồng, với vận mệnh dân tộc như một sự kết nối bền vững. Cái Ta và cái
Tôi, cá nhân và cộng đồng bao giờ cũng có mối quan hệ biện chứng... Từ thời
đại anh hùng sản sinh ra sử thi, với đề tài phản ánh chiến tranh sâu sắc, các nhà
thơ vẫn phải sống trong hoàn cảnh mà họ miêu tả. Họ trở thành cái tôi chứng
nhân, cái tôi lịch sử, cái tôi thế hệ có tính chất đại diện hơn là cái tôi riêng tư để
đưa hiện thực vào trường ca. Dù rằng trong trường ca nhà thơ xưng tôi, nói về
cái tôi thì đó hoàn toàn không phải là cái tôi riêng tư của nhà thơ mà là một cái
“tôi” chung cùng xương thịt với nhân dân, cái tôi đại diện cho dân tộc, cái tôi
61 trữ tình sử thi. Cái “tôi” Nguyễn Khoa Điềm trong Mặt đường khát vọng, của
Giang Nam trong Ánh chớp đêm giao thừa, của Hưởng Triều trong Hành trình,
của Thanh Thảo trong Những người đi tới biển, của Hữu Thỉnh trong Đường
tới thành phố, của Trần Mạnh Hảo trong Mặt trời trong lòng đất… đều là cái
“tôi” tập thể, cái tôi của cả một thế hệ anh hùng.
Như trên đã đề cập; trong thời đại mà tình yêu, cuộc sống riêng tư tạm gác
lại để nhường chỗ cho trạng thái tinh thần dân tộc đang bùng lên mãnh liệt thì
cái tôi nhà thơ vẫn được bôc lộ. Cái tôi gắn bó với cái ta, cá nhân gắn bó mật
thiết với cộng đồng. Hình tượng nhân dân là hình tượng mang sức khái quát
đẹp đẽ nhất của trường ca sử thi hiện đại. Đây cũng là điểm biệt khác so với
trường ca sử thi cổ điển; không phải là cái tôi cá nhân đơn lẻ mà là cái tôi đại
diện; cái tôi riêng trong tổng thể chung cả dân tộc. Cái tôi tự nguyện hòa nhập
vào cộng đồng, trở thành con người cộng đồng. Con người cộng đồng trong
mỗi cá nhân hoàn toàn phù hợp với tâm thế thời đại và nhu cầu của cuộc kháng
chiến. Đúng vậy: “rõ ràng có mối quan hệ hai chiều giữa cá nhân và cộng
đồng [38, tr.81]. Và “cái hay của các trường ca ở ta không chỉ là cái tôi chứng
nhân lịch sử của các nhà thơ chiến sĩ, mà còn ở các chân dung tiêu biểu, rất tự
nhiên bộn bề, nhưng vẫn toàn thể, duy nhất… và là điều tất yếu phải có đối với
một nền sử thi dân tộc” [38, tr.88]. Lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc đã tạo
nên những con người có lý tưởng cao cả, con người quên đi “cái tôi riêng”.
Đó là cái tôi cá nhân của Nguyễn Khoa Điềm, cái tôi của tuổi trẻ xuống
đường,đi trên con đường mà nhân dân đã chọn: “Nhân dân đang đi lên đội ngũ
trùng trùng/ Thế vô tận của ngàn năm giết giặc/ Lửa đã cháy hồng hào mặt
đất/ Mùa chín tình yêu, mùa chín hận thù!”. Từ những đau thương của riêng cá
nhân mình, cái tôi nhà thơ - chiến sĩ đã liên kết với nhiều cái tôi riêng khác
nữa để hoà nhập thành cái ta chung: “Ta không còn là ta của đau thương/
Ta là quê hương, ta là sức mạnh” (Mặt đường khát vọng).
62 Cái tôi của Thanh Thảo cũng được hòa vào hình tượng những chàng lính
trẻ để thành cái ta chung, cái ta trẻ trung của lớp thanh niên thời chống Mỹ, biết
sống vì lẽ sinh tồn của dân tộc. Họ sẵn sàng chịu đựng mọi khổ ải, khó khăn để
sống, chiến đấu hết mình: “Chúng tôi sống ở đây mấy mùa khô mấy mùa mưa/
Có mùa đói và mùa nào cũng giặc/ Những cái hố đào củ mài sâu hút/ Những
cánh tay không với tới nữa rồi” (Những người đi tới biển). Đó là cái tôi từng
trải, cái tôi chứng kiến, cái tôi nhập cuộc, cái tôi hóa thân; vì trên hết, Thanh
Thảo là người lính thời chống Mỹ.
Qua nghiên cứu, ta có thể khẳng định trường ca về thời chống Mỹ đủ
tâm thế, đủ trường độ, cường độ... để thể hiện cái tôi chứng nhân lịch sử, thể
hiện những chân dung tiêu biểu chỉ có trong cuộc sống chiến đấu. Khẳng định
những mối liên hệ gắn kết giữa thời đại và dân tộc, giữa cá nhân và cộng đồng
cũng chính là xác định trách nhiệm của nhà thơ với cuộc đời và với thơ.
Cũng trên tuần báo Văn nghệ Trẻ số 36 (9/2006), trong bài “Những giá trị
còn mãi...”, Phong Điệp đã phỏng vấn nhà văn Võ Hồng về giá trị của dòng
văn học thời chiến. Võ Hồng đã nêu cảm nhận: “Văn học Việt Nam hai thời kỳ
kháng chiến... để lại cho văn học chữ viết Việt Nam những đỉnh cao... có những
thế mạnh riêng đi vào lòng người… làm nhiệm vụ tuyên truyền của nó, mà đối
tượng chính là con người, tuy nhiên con người ở đây là con người “tập thể”
chứ không phải con người “cá nhân”. Như vậy, nhà văn đã đề cao tính tập thể,
tính cách mạng, khẳng định việc mổ xẻ những vấn đề cá nhân của con người
gần như được thể hiện rất ít trong văn học thời chiến.
Sự gắn kết giữa cá nhân và cộng đồng được biểu hiện rõ nhất ở lý
tưởng, ý nghĩ, hành động của mỗi cá nhân trong tập thể. Đó là “Cái tôi”. Cái tôi
ý thức về con người cá nhân của từng cá nhân bao giờ cũng tồn tại; nhưng mỗi
thời đại, mỗi xã hội, mỗi nền văn hóa… lại có những thể hiện không giống
nhau. Thời đại chống Mỹ, để bảo vệ tổ quốc, mọi quyền lợi cá nhân phải
nhường chỗ cho quyền lợi tập thể. Điều này đã lý giải vì sao cả một đội ngũ
63 sinh viên trong Mặt đường khát vọng tham gia xuống đường giữa lòng thành
phố Huế; lý giải vì sao những cô gái trong Sông núi trên vai, mười cô gái ngã
ba Đồng Lộc trong Lửa mùa hong áo, những chàng trai trong Những người đi
tời biển, những chàng lính trẻ trong Đường tới thành phố và cả những người
lính đã từng trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ trong Trường
ca Sư đoàn... đều sẵn sàng hy sinh hạnh phúc riêng tư, tình yêu đôi lứa... để
cống hiến cho sự nghiệp chung của dân tộc. Từ hình ảnh bà mẹ Tuy Hòa trong
Ở làng Phước Hậu, bà mẹ ở triền sông Hồng, sông Mã; đến các bà mẹ trong
Những người đi tới biển, bà mẹ trong Đường tới thành phố... đều phải hành
động như đã hành động; không than van, yếu hèn. Thời đại ấy; nếu nghĩ khác,
sống khác, hành động khác với những gì đã nghĩ, đã sống, đã hành động... sẽ
đồng nghĩa với việc đối lập lý tưởng và đường đi của cả cộng đồng, cả dân tộc.
Từ hậu phương đến chiến trường đã hừng hực lửa; con người cá nhân…
với cái tôi đời thường đã nhường chỗ cho cái ta chung, cái ta tập thể. Văn học
nói chung và trường ca nói riêng đã tham gia vào cuộc kháng chiến vĩ đại của
dân tộc, là vũ khí tích cực phục vụ cuộc kháng chiến một cách hữu hiệu... và tự
thân đã góp phần hình thành một nền “văn học sử thi hiện đại”. Tất cả đều ghép
vào hàng ngũ, gắn chặt với đội ngũ. Hậu phương, tiền tuyến đều là tổ, là đội, là
hợp tác xã, là cộng đồng. Chính vì thế mà cái chung, cái toàn dân, cái toàn
quân, cái tập thể, cái cộng đồng... là một khối vững bền, luôn được đặt lên trên
tất cả. Sống trong hoàn cảnh xã hội như thế, các nhà thơ chống Mỹ đa phần có
chung cảm hứng sử thi, có chung một lối tư duy về cuộc chiến tranh vĩ đại.
Các bản trường ca sử thi hiện đại đã thực sự là những khúc ca rộn rã, là khúc
quân hành cháy bỏng tâm can người ra trận, dù rằng đằng sau chiến thắng có
những mất mát, khổ đau. Có thể nói đây là một thời đại thơ ca vô cùng đặc
biệt mà thiếu nó, văn học hiện đại Việt Nam sẽ thiếu đi sự hoàn mỹ, thiếu đi
một phần sự phản ánh hiện thực lịch sử đầy sống động.
64 Các nhà thơ chống Mỹ - các nhà thơ sáng tác trường ca, đã được gọi là
“dàn đồng ca”. Theo Lê Thành Nghị: “Bản thân “dàn đồng ca” chứa đựng
hai nội dung: nội dung “tập thể” (không còn cá nhân) và nội dung “một
giọng” (giọng ngợi ca)” [58, tr.13]. Quả thật, để nâng mình lên ngang tầm thời
đại, các nhà thơ thời chống Mỹ đã cùng hát “giọng ngợi ca”. Như vậy, mỗi nhà
thơ thời chống Mỹ là một giọng ca cá nhân hòa trong dàn đồng ca của cả cộng
đồng. Và vì thế, hầu như tên các bài thơ, tập thơ lớn thời kỳ này đều bắt đầu từ
hai tiếng “bài ca, khúc hát, tiếng hát” như Khúc hát người anh hùng, Bài ca
Việt Bắc, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ…
Cái ta ở đây vừa giống lại vừa khác với cái ta của thời Trung đại. Vì từ
thời Ngô, Đinh đến Tiền Lê, con người công dân đã ra sức giữ gìn nền độc lập
mới giành lại được. Suốt mấy thế kỷ, vấn đề lớn nhất quan hệ đến sự tồn vong
của đất nước là vấn đề vận mệnh dân tộc. Văn học thời kỳ này nghe theo mệnh
lệnh của trái tim để viết về vấn đề vận mệnh dân tộc như một lời hiệu triệu toàn
quân đánh giặc. Các tác phẩm có thể gọi là bản trường ca sử thi của thời trung
đại như: Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô
đại cáo của Nguyễn Trãi... Nhân vật trữ tình mang tâm thế của cái ta công dân -
mặc dầu cái ta ấy mang hơi hướng của người chỉ huy, người cầm quyền lãnh
đạo. Thời ấy, ông cha ta vẫn hiện lên trong văn chương là con người công dân
có trách nhiệm với nước với dân: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối,
ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ tiếc là không lột da, uống máu quân
thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da
ngựa, ta cũng xin làm” (Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn).
Còn đây là đoạn biền ngẫu đặc sắc giàu chất sử thi trong Cáo bình Ngô
của Nguyễn Trãi: “Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu/ Cổ
xe cầu hiền đăm đắm còn dành phía tả/ Thế mà/ Trông người người càng vắng
bóng/ Mịt mù như nhìn chốn bể khơi/ Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã như cứu
người chết đuối...”, đoạn văn đã bày tỏ tấm lòng lo cho dân, cho nước của một
65 vị anh hùng dân tộc văn võ song toàn, thể hiện cái ta công dân vì dân vì nước.
Vua Lý Nhân Tông (1064 - 1127), con trưởng của Lý Thánh Tông và Nguyên
Phi Ỷ Lan, trong Tờ chiếu để lại khi sắp mất tự nhận xét mình: “ít đức, không
làm gì cho trăm họ được yên”, khi chết “không muốn dân lo tang chế hao tốn
công quỹ, tiết kiệm không cho xây lăng tẩm riêng...” đều là những tấm gương
điển hình về người công dân mẫu mực hết lòng vì dân vì nước [96, tr.440]. Tất
cả những vấn đề nêu ra đều nhằm mục đích khẳng định văn chương thượng kỳ
trung đại đã tô đậm hình ảnh con người cá nhân nhưng cũng chính là con
người công dân phục vụ lợi ích tối thựơng của cộng đồng dân tộc; thể hiện cái
tâm, cái chí, cái đạo của cái ta “đạo lý”.
Sang giai đoạn văn học Trung đại hạ kỳ, từ con người vô ngã đã chuyển
sang con người hữu ngã. Thời kỳ này, con người mang ý thức bản ngã đã trỗi
dậy nên văn chương viết về cái tôi cá nhân có chiều hướng phát triển và làm
nên những giá trị văn chương đặc sắc. Nhiều ngâm khúc, truyện thơ xuất hiện
và sống mãi với thời gian vì nó đã đề cập đến một vấn đề luôn mới mẻ, luôn
đồng hành cùng sự sống của con người: đó là vấn đề tình yêu và thân phận.
Điển hình như: Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn, Cung oán ngâm - Nguyễn
Gia Thiều, Đoạn trường tân thanh - Nguyễn Du...
Thời chống Pháp, văn chương lại tiếp tục sứ mệnh đồng hành cùng lịch
sử. Nhiều tác phẩm thơ ca có giá trị ra đời. Tất nhiên, trường ca không nhiều
(như Từ đêm mười chín - Khương Hữu Dụng), nhưng cũng góp mặt để cùng
phản ánh công cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ của dân tộc. Cái tôi công
dân cũng được khẳng định khá rõ trong một số bài thơ như Đồng chí - Chính
Hữu; Nhớ - Hồng Nguyên; Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Bắc - Tố Hữu, Đất
nước - Nguyễn Đình Thi... Và cũng khác với cái tôi của Thơ mới mang nhiều
dấu ấn cá nhân riêng lẻ, chủ yếu thể hiện cái tôi trữ tình cô đơn, buồn bã.
Đến thời chống Mỹ, trường ca mô tả những con người công dân điển
hình cho cả cộng đồng công dân, cảm xúc cá nhân mang đậm lý tưởng cách
66 mạng. Cái tập thể, cái chung, cái cộng đồng… luôn được đặt lên hàng đầu. Có
lẽ vì thế mà các nhà thơ thời chống Mỹ đã được gọi là là “dàn đồng ca” thời
đại cùng hát bài ca tập thể, cùng điệu ngợi ca tổ quốc và nhân dân.
Cá nhân hòa vào cộng đồng, cộng đồng nâng tầm cho mỗi cá nhân sát
cánh với mỗi cá nhân để tạo nên sức mạnh. Từ thế hệ này đến thế hệ khác; nối
tiếp và nối tiếp không ngừng, như một dòng chảy liên tục. Từ cách sinh hoạt,
ăn ở; đến cách nghĩ, cách làm; từ truyền thống xa xưa nối tiếp đến hiện đại hôm
nay. Cá nhân kết hợp với cá nhân để tạo nên tập thể gắn bó hữu cơ, mật thiết
với nhau. Chất kết dính ấy đã được tạo nên từ xa xưa trong truyền thuyết “Bọc
trăm trứng”, trong cái nghĩa “đồng bào” mãi mãi an nhiên và được Nguyễn
Khoa Điềm đưa vào trong Mặt đường khát vọng. Đó là sự thống nhất giữa cá
nhân và cộng đồng, của nhiều cộng đồng với dân tộc.
Trong Điệp khúc vô danh của Anh Ngọc, hình ảnh Bác Hồ - người công
dân số một của nước Việt Nam thời chống Mỹ được miêu tả thật gần gũi, thân
thuộc. Khoảng cách giữa lãnh tụ và nhân dân, giữa cá nhân và cộng đồng đã
xóa nhoà khi Người đọc Tuyên ngôn Độc lập giữa vườn hoa Ba Đình rực nắng:
“Người là ai?/ Người đã tới từ đâu? Cả dân tộc ngỡ ngàng trong phút đầu gặp
Bác/ Người đã nói nói cái điều đơn giản nhất/ và cũng là điều hệ trọng nhất
trên đời rằng: Người với nhân dân chỉ là một mà thôi”. Nhiều cá nhân tạo nên
cộng đồng, nhiều cộng đồng họp thành dân tộc có rất nhiều điểm chung: nguồn
cội, giai cấp, lãnh tụ, chung lòng đánh giặc.
Trong trường ca về thời chống Mỹ; các yếu tố, các sự kiện mang tính
cộng đồng được xây dựng khá rõ nét. Những con người sống hòa trong cộng
đồng ấy, cũng có những phút giây đời thường riêng tư. Họ vẫn yêu, vẫn hát,
vẫn cười, vẫn sống theo lẽ đời của một cá thể không ai giống với ai. Nhưng khi
giáp mặt với những sự việc trọng đại liên quan đến tập thể, đến sự vinh nhục
của tổ quốc thì họ lại trở thành người đại diện cho dân tộc, cho cộng đồng. Họ
cùng một giọng đồng ca bài ca chiến đấu, một khối thống nhất sẵn sàng sống
67 chết vì tập thể nhân dân. Vì vậy, cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước là cuộc
chiến tranh toàn dân; vì nhân dân, vì cộng đồng mà chiến đấu. Chất trữ tình
trong trường ca về chống Mỹ càng về sau càng bộc lộ mạnh mẽ. Chủ yếu vẫn là
con người cá nhân, nhưng mỗi người là một mạch máu nhỏ trong quả tim lớn.
Vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc gắn liền với số phận của mỗi cá nhân,
với tình yêu đôi lứa, với tình yêu nhân dân rộng lớn.
Không còn là niềm riêng mà chính là nỗi chung của bao phụ nữ nước ta
trong thời chinh chiến. Niềm thương nhớ có khi dài dằng dặc cả hai mươi năm
dài với những mùa hạ ròng rã nồng nàn của mười tám thôn trầu, trong cả một
thời xuân sắc của người con gái. Cá nhân riêng lẻ nhưng lại chính là cả cộng
đồng người phụ nữ có chồng đi chiến đấu: “Chị chôn tuổi xuân trong má lúm
đồng tiền” (Hữu Thỉnh - Đường đi tới thành phố).
Thời khắc đưa tiễn của cái tôi cá nhân cũng chính là nỗi niềm chung của
những người con sắp sửa phải rời xa quê, xa mẹ để đi vào cuộc chiến. Nhà thơ
đã hòa cái riêng, nâng lên thành cái chung. Tình cảm ấy được diễn tả thật tinh
tế: “Khi con thưa với mẹ/ Mưa bay mờ đồng ta/ Ngày mai con đi/ Khói bếp
mình chợt ngừng trên mái rạ” (Những người đi tới biển - Thanh Thảo).
Thời gian như dừng lại, cảnh vật như lưu luyến. Buổi tiễn đưa bồi hồi
nhưng không hề bi lụy. Cái khoảnh khắc đặc biệt ấy được nhà thơ ghi lại một
cách giản đơn mà lay động lòng người. Ai có thể đếm được có biết bao nhiêu
cuộc tiễn đưa như thế. Những cuộc tiễn đưa riêng tư mà cũng rất chung của
những bà mẹ Việt Nam yêu con, yêu nước. đã được phản ánh lại trong trường
ca. Có những bà mẹ đưa tiễn dài dằng dặc cả đời: “Con thương mẹ thương cả
đời đưa tiễn/ Hết giặc này lại đến giặc kia/ Mẹ cưu mang hết mọi thời kháng
chiến/ Những đứa con đi biết dẫu không về” (Đất nước hình tia chớp).
Trong những đêm dài lặng lẽ giữa trời, những cô gái vận tải trong Sông
núi trên vai, những cô thanh niên xung phong trong Lửa mùa hong áo, đã
sống hết lòng vì quê hương, đồng đội; sẵn sàng đón nhận nguy hiểm về mình:
68 “Em Mận/ Không chịu thay ca/ Đứng làm cọc đường/ Mắt thâm quầng/ Ngửa
mặt nhìn quầng trăng hạn”. Cả tập thể nào Nụ, Ngân, Xoan, Thảo, Cúc, Hoa,
Đào, Cải, Quế, Nết, Ngò cùng chung chí hướng: “mười hai trái tim/ mười hai
hòn lửa đỏ/ Từ ngực thanh xuân/ Ủ vào bếp Hoàng Cầm” (Lê Thị Mây) . Đó là
những hình ảnh đẹp biểu hiện cái tôi cá nhân đã hoà vào cái ta cộng đồng.
Những vần thơ văn xuôi trong Ngựa trắng bay về của Văn Công Hùng
cũng đã chuyển tải những nỗi niềm thương nhớ về một người nữ thanh niên
xung phong năm xưa đã mãi mãi nằm lại nơi khoảng trời rừng núi. Lời thơ của
“cá nhân tôi - và cũng là của những người tri ân” nghe thật dịu êm mà cháy
lòng cháy dạ người đọc:
“Tháng năm này gió thổi dọc Trường Sơn, tôi lặng lẽ lần qua từng khu
rừng lá đổ. Những cây khộp già đăm chiêu trong chiều vắng, gió thổi hoài rát
ruột lắm gió ơi. Ngày chia tay em kẹp tóc mảnh mai, dáng nhỏ thó đưa mắt
nhìn rất vội. Vịn thành xe mưa giăng giăng ngõ tối, hương ngọc lan thoang
thoảng tỏa sau hè. Biền biệt em di, biền biệt mẹ chờ. Chiều tựa cửa ngóng hoài
về phương ấy. Phương ấy ơi, phương ấy là nỗi nhớ. Trường Sơn mờ, ngăn ngắt
một màu xa” (Ngựa trắng bay về).
Mỗi sự hy sinh thầm lặng và tự nguyện của từng cá nhân trong cộng đồng
dân tộc đã làm nên sức sống diệu kỳ, đã làm nên chiến thắng, mặc dù chiến
thắng ấy có khi phải trả bằng máu và nước mắt.
Rõ ràng “có mối quan hệ hai chiều giữa cá nhân và cộng đồng... một hồi
âm về sự gắn bó của mỗi thành viên mang ý thức tự nguyện trong cộng đồng
ấy” [38, tr.80-81]. Có thể cho rằng, từ thưở sơ khai của thể loại sử thi, trong các
bản hùng ca ngày xa xưa ấy, đã thấy hình bóng cá nhân mỗi thành viên tự
nguyện gắn bó trong cộng đồng, dân tộc. Ngày nay, trong các bản trường ca sử
thi hiện đại, mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng vẫn được duy trì và phát
triển mạnh mẽ.
69
Tiểu kết chương 1
Trường ca về thời chống Mỹ; với đặc điểm dung lượng có nhiều chương
nhiều đoạn; nên tất yếu sẽ có những câu thơ thiếu tính mượt mà, thừa thải chêm
xen. Độ dài của trường ca khá lớn nên người đọc dễ sinh tâm lý e ngại đọc kỹ,
đọc sâu… và do đó sẽ khó thuộc. Nhưng nhìn chung, với tư tưởng thời đại, các
nhà thơ vẫn muốn vươn tới một tầng cao mới nhằm thể hiện những người anh
hùng thời chống Mỹ và thời đại mới bằng trái tim giàu nhiệt huyết, bằng ngòi
bút tài hoa của họ. Thông qua hệ thống đề tài, chi tiết, ngôn từ, giọng điệu, kết
cấu, cách xây dựng nhân vật; các nhà thơ luôn đề cập và chú ý sâu sắc tới con
người quần chúng bình thường, con người mới.
Có thể khẳng định, sự kết nối từ truyền thống đến hiện đại và thời đại
chống Mỹ chính là những nhân tố khách quan, là cái nền hiện thực sinh động,
chói chang để biết bao sự kiện được “quay” lại, biết bao con người được “vẽ”
lại, biết bao mảnh đất anh hùng được chiếu rọi trên bức tường văn học về một
thời lịch sử vinh quang. Các nhà thơ - người trong cuộc và các nhà thơ thời hậu
chiến mang cảm hứng sáng tác về thời chống Mỹ, chính là nhân tố chủ quan
góp phần làm nên nét đặc sắc cho nền văn học thời chống Mỹ bằng các trường
ca sử thi hiện đại đáng quý. Họ đã sống, chiến đấu và góp phần làm nên chiến
thắng ở các phương diện quân sự, chính trị lẫn văn học nghệ thuật. Tất cả
những khát khao cháy bỏng, những ngọt ngào sâu lắng, những giận dỗi đời
thường đã nhường chỗ cho một tình yêu lớn hơn, vĩ đại hơn. Đó chính là tình
yêu Tổ quốc, là sự gắn kết giữa cá nhân và cộng đồng. Đó là sự thừa hưởng và
phát huy truyền thống đoàn kết “đồng bào”của dân tộc Việt Nam.
70 Chương 2
NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TRƯỞNG CA VỀ THỞI CHỐNG MỸ
Theo xu hướng hiện nay, nghiên cứu tác phẩm văn học (hoặc vấn đề văn
học) thường theo hướng kết hợp nội dung và nghệ thuật; vì có những vấn đề
vừa mang yếu tố nội dung, nhưng cũng là nghệ thuật. Sự phân chia: Nội dung
chủ yếu của trường ca về thời chống Mỹ (chương II) và Đặc điểm nghệ thuật
của trường ca về thời chống Mỹ (chương III) như trong luận án vẫn chưa phải
là cách kết cấu thích hợp nhất. Nhưng; do dung lượng, giá trị phản ánh… của
trường ca quá rộng, một kết cấu theo hướng kết hợp sẽ giới hạn phần nào việc
nghiên cứu chuyên sâu, không thể nêu bật giá trị từng vấn đề như luận án đã
thực hiện. Vì thế, để thuận tiện cho quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi đã
chọn cách kết cấu này.
Những vấn đề được tập trung nghiên cứu trong chương là “Hệ thống đề
tài”, “Sức khái quát hiện thực của trường ca về thời chống Mỹ” và “Sự kết
hợp giữa tính chất sử thi và tính chất trữ tình”.
2.1 Hệ thồng đề tài
Nghiên cứu hệ thống đề tài trong trường ca về thời chống Mỹ, ta thấy
rằng trường ca tập trung phản ánh các đề tài lớn như đề tài lịch sử, đề tài thế
sự... Trong phạm vi giới hạn, chúng tôi chọn bốn đề tài nhỏ nằm trong hai đề
tài lớn nêu trên là: đề tài đất nước, đề tài chiến tranh và người lính; đề tài
lãnh tụ, đề tài tình yêu để nghiên cứu.
Nhóm đề tài đất nước, đề tài chiến tranh và người lính, đề tài lãnh tụ
đều thuộc nhóm đề tài lịch sử. Nhưng đề tài tình yêu lại là một khía cạnh trong
đề tài thế sự. Trong trường ca về thời chống Mỹ; hình tượng đất nước, lãnh tụ,
hình tượng người lính, nhân dân... là một bức tranh hòa hợp, chung nhất; trong
đó, đất nước là một đề tài rất rộng được các nhà thơ chú ý khai thác.
71
2.1.1 Đề tài đất nước
Hình tượng Đất Nước chiếm một vị trí trang trọng, trung tâm trong thơ ca
cách mạng nói chung và trường ca nói riêng. Các nhà thơ cách mạng đã xây
dựng một thế giới nghệ thuật mới về Đất Nước qua những hình tượng thơ khá
sắc sảo, thiên về chiều sâu văn hóa - lịch sử và trong tình cảm nhân dân, thường
mang dấu ấn cội nguồn nhằm động viên sức mạnh toàn dân, cổ vũ ý chí chiến
đấu. Theo Nguyễn Duy Bắc : “Tổ quốc không chỉ là không gian cư trú, làm ăn
sinh sống mà còn là truyền thống văn hóa lịch sử, là tình cảm thiêng liêng, là
tất cả những gì thân thuộc tạo thành cuộc sống Việt Nam” [8, 31].
Chúng ta biết rằng, dù cuộc chiến mang tính chất quy mô hay nhỏ lẻ, thì
đất nước vẫn là nơi chứa đựng, gánh chịu những trạng thái của chiến tranh.
Không thể mô tả chiến tranh mà thiếu vắng không gian xảy ra trận chiến. Vì
thế, hình ảnh đất nước xuất hiện nhiều trong các trường ca sử thi hiện đại.
Trong các trường ca được lựa chọn để nghiên cứu, số lượng từ đất nước xuất
hiện khá nhiều. Hai trường ca tập trung khái quát về hình tượng Đất Nước rõ
rệt nhất là Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm và Đất nước hình tia
chớp của Trần Mạnh Hảo. Khảo sát trong Mặt đường khát vọng, từ “đất nước”
xuất hiện 81 lần, trong Đất nước hình tia chớp xuất hiện 104 lần, Đường tới
thành phố có 17 lần… (phụ lục1).
Trong Mặt đường khát vọng, Đất Nước được định nghĩa bằng những chi
tiết thơ đơn giản, giàu cảm xúc, gần gũi với ca dao thần thoại nhưng cũng có
khi giàu sức triết lý, chính luận. Hình tượng Tổ quốc ở đây là Đất, là Nước, là
kỷ niệm thời tuổi trẻ, là thần thoại, cổ tích, là cuộc đấu tranh giữ gìn Đất Nước.
Chỉ bằng một số hình ảnh thơ mang tính điển hình, ta đã có thể hình dung về
những câu chuyện thần thoại, cổ tích của dân tộc ta được khắc họa vào trong
thơ như Ngựa đá, Rồng đá, Bà mẹ đo chân: “Đất nước muôn năm/ Những ngựa
đá lại xuống đường/ Những rồng đá phải bay lên mà đánh giặc/ Những bà mẹ
đo chân vào thần tích/ Để hoài thai triệu triệu những anh hùng”.
72 Đất nước gần gũi, thân thương, gắn bó hiện hình chẳng những qua từng
cái kèo, cái cột, qua hạt gạo, miếng cơm mà còn ẩn trong máu thịt nhân dân.
Đất nước là lịch sử bốn ngàn năm, là những địa danh bình dị, là chiều sâu văn
hóa phong tục của tâm hồn dân tộc Việt. Đất nước vừa mang giá trị vật chất,
vừa chứa đựng giá trị tinh thần. Đất nước còn là nét tâm linh sâu thẳm xuyên
suốt trong từng con người Việt Nam. Phần tâm linh ấy đã kết nối tất cả nhân
dân thành “đồng bào” mãi mãi, kết nối những tâm hồn Việt với nhau dù họ ở
đâu, làm gì, ở lứa tuổi nào... bởi vì: “Em ơi Đất nước là máu xương của mình/
Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên
Đất nước muôn đời (Mặt đường khát vọng).
Cảm xúc về đất nước, nhà thơ không dùng sử liệu để khắc họa hình tượng
mà bằng những gì gần gũi thân thiết với mỗi người Việt Nam để cảm nhận và
miêu tả hình tượng đất nước. Đó là “thời gian đằng đẵng” và “không gian mênh
mông”, từ truyền thuyết “bọc trăm trứng Tiên Rồng” vừa chân thực vừa phảng
phất không khí thần thoại: “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ/ Đất là nơi chim
về/ Nước là nơi Rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ ra đồng bào ta trong
bọc trứng…”.
Nguyễn Khoa Điềm đã giành trọn chương V để định nghĩa về đất nước.
Chỉ riêng chương này, nhà thơ đã dùng đến 81 lần từ “Đất Nước” mà nhà thơ
đã trang trọng viết hoa: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi/ Đất Nước có trong
cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”. Hình tượng Đất Nước được tạc
vào cổ tích xa xưa. Nhà thơ không dừng lại ở đó mà đưa người đọc từ định
nghĩa này đến định nghĩa khác về Đất Nước: “Đất nước bắt đầu bằng miếng
trầu bà ăn/ Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc… Đất
Nước là nơi ta hò hẹn/ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm… Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ/ Đất là nơi Chim về/ Nước là nơi
Rồng ở/ Trong anh trong em đều có một phần Đất Nước…”.
73
Hình tượng Đất Nước trong Mặt đường khát vọng đã thể hiện một quan
niệm nghệ thuật hết sức đúng đắn theo hướng vận động đi lên của thời đại cách
mạng. Hình tượng Tổ quốc được tiếp tục so sánh cao nhất: “Bởi vì Người là
Đất Nước tôi/…Hồ Chí Minh - Việt Nam”. Vì thế với Nguyễn Khoa Điềm, Đất
Nước là nhân dân, của nhân dân: ”Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân/
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân cũng đã cho rằng “từ muôn vàn
dấu hiệu tưởng chừng không bao giờ kể hết, tưởng kể mấy cũng không đủ.
Chính cảm giác về cái nhiều đến như vô tận trong những cách hình dung về đất
nước là nguồn cho những cảm xúc trữ tình chính luận của Nguyễn Khoa Điềm
trong Mặt đường khát vọng”[6, 10].
Tư tưởng “đất nước của nhân dân” không chỉ là kết quả nhận thức
của riêng một người mà của cả thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Tất cả những gì có trong cuộc sống đều góp phần tạo
nên đất nước. Các nhà thơ sáng tác trường ca về thời chống Mỹ đã vẽ lại hình
ảnh Tổ quốc trong các bản trường ca ghi dấu ấn một thời oanh liệt.
Đất nước song hành cùng dân tộc, từ xa xưa đã đậm đà trong miếng trầu
trao duyên, miếng trầu cay nồng hàng ngày Bà ăn, trong hình ảnh Mẹ búi tóc
sau đầu, trong ân tình thủy chung “gừng cay muối mặn” suốt đời của tổ tiên.
Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm trong Mặt đường khát vọng bắt
nguồn từ huyền thoại: “Ngày xửa, ngày xưa mẹ thường hay kể”, từ cái nhìn
tổng hợp nhiều mặt và khá toàn vẹn: từ địa lý đến lịch sử cụ thể, từ xa xưa đến
hiện tại, từ tình yêu lứa đôi đến tình yêu Tổ quốc, từ số phận cá nhân đến vận
mệnh dân tộc: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn/ Đất nước lớn
lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc/ Tóc mẹ thì bới sau đầu/ Cha mẹ
thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Diễn đạt về sự hình thành đất nước trong chiều sâu lịch sử, nhà thơ đã tinh
tế, khéo léo dùng những gì thân thuộc gần gũi nhất trong đời sống nhân dân.
74 mô tả lại bằng những cảm xúc trữ tình thiết tha, giàu tính triết lý chính luận qua
hình ảnh của những con người bình dị: “Có biết bao người con gái con trai/
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi/ Họ đã sống và chết/ Giản dị và
bình tâm/ Không ai nhớ mặt đặt tên/ Nhưng họ đã làm ra đất nước”. Nguyễn
Khoa Điềm đã tinh tế chiết tự, lý giải vấn đề về Đất Nước thật giàu cảm xúc:
“Đất là nơi: “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”/ Nước là nơi: “con
cá ngư ông móng nước biển khơi”/ Thời gian đằng đẵng/ Không gian mênh
mông/ Đất nước là nơi dân ta đoàn tụ/ Đất là nơi chim về/ Nước là nơi Rồng
ở”.
Đó là đất nước với chiều dài và chiều sâu văn hóa lịch sử trải qua bốn
nghìn năm dựng nước và giữ nước: “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta
cũng thấy/ Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”, để mãi mãi đất nước này là
"đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Mô tả những sự
kiện lịch sử nhưng lời thơ lại chứa chan biết bao nhiêu ân tình sâu nặng đối với
quê hương xứ sở. Hiện thực chiến tranh đã từng xảy ra trên đất nước ta được
diễn tả thật xúc tính, giàu ý nghĩa lịch sử. Truyền thống anh hùng được tái hiện
nhẹ nhàng trong những câu thơ đầm ấm ngọt ngào và đậm đặc tính chất sử thi:
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại/ Chín mươi chín
con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”.
Trường ca mô tả cuộc sống hôm nay không chỉ là hiện thực sinh động mà
còn là một sự ngưỡng vọng về đất nước những năm tháng xa xưa, về những con
người trẻ tuổi năm xưa: “Em ơi em/ Hãy nhìn rất xa/ Và 4000 đất nước/ Năm
tháng nào cũng người người lớp lớp/ Con trai, con gái bằng tuổi chúng ta/ Cần
cù làm lụng/ Khi có giặc người con trai ra trận/ Nguời con gái trở về nuôi cái
cùng con…/ Ngày giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Trong Đường tới thành phố, từ hình ảnh gốc sim cằn bên đường hành quân,
cột mốc của tinh thần bảo vệ quê hương, Hữu Thỉnh đã diễn tả sự đối lập giữa
thơ ca và bom đạn. Hình ảnh gốc sim cằn chính là hình ảnh tượng trưng cho đất
75 nước thân yêu: “Chỉ một gốc sim thôi, dù một gốc sim cằn/ Tổ quốc sẽ ra sao?
Tổ quốc/ Thơ ơi thơ! hãy ghì lấy gốc sim”.
Hình ảnh đất nước đêm rạng sáng ngày 30/4 lịch sử cũng được Hữu Thỉnh
mô tả thật giàu hình tượng, giàu chất cảm xúc: “Em cứ tô đậm nữa đi em/ Tô
thật đậm để hiện ra đất nước/ Hiện ra ngày chúng ta hằng mong/ Đất nước
theo em ra ngõ một mình/ Cau vườn rụng một tầu đã cũ/ Đất nước đêm nay/ 50
triệu người không không ngủ/ đang bóc đi tờ lịch cuối cùng”.
Trong Quê hương mặt trời vàng, Thu Bồn gắn hình ảnh miền Nam, miền
Trung, miền Bắc với hình ảnh nhân dân các vùng miền: “Đất nước tôi nghèo/
Thắt đáy lưng ong/ Dài như đòn gánh/ Hai đầu vựa lúa phì nhiêu/ Người miền
Nam hào phóng/ Người miền Bắc cần cù/ Đất nước tôi có Biển Đông/ Vừa đủ
mặn mồ hôi bốn ngàn năm lao động…”.
Trong Đất nước hình tia chớp cũng thế, Trần Mạnh Hảo đã từ những
việc làm của mẹ, lời ru của mẹ, từ những suy nghĩ của người chiến sĩ, của nhân
dân mà định nghĩa về Tổ quốc theo một cách sáng tạo riêng của mình. Nhà thơ
đã 32 lần dùng nghệ thuật so sánh trong cả trường ca để khắc đậm hình tượng
Tổ quốc. Hình tượng Tổ quốc là những gì thật gần gũi, thiêng liêng, ấm nồng,
không xa xôi cầu kỳ khó hiểu, ít mang chất trừu tượng mông lung… Từ cách
cảm nhận về Tổ quốc, Đất Nước là những gì gắn bó máu thịt với người dân,
Trần Mạnh Hảo cũng đã xây dựng hình tượng Tổ quốc trong Mặt trời trong
lòng đất là bầu trời, là mặt đất, là ánh sáng mặt trời, là làn gió… là mảnh đất
Củ Chi kiên cường với những tầng hầm địa đạo.
Nguyễn Đức Mậu cũng đã có những vần thơ da diết lòng người khi Tổ
quốc bị cắt chia: “Qua đèo Ngang, đèo Ngang/ Cháy nỗi niềm thương nước/
Qua Đồng Hới, Vĩnh Linh/ Hố bom đào nhức mắt/ Nếu nối những vòng dây
thép gai nơi vòng đai Quảng Trị/ Hẳn sẽ dài hơn dải đất Việt Nam!/ Dải thép
gai chia đất nước, chia làng/ Mọc trên đồi cao. Mọc trên cát/ Mọc đất Phương
Nam. Đau lòng đất Bắc” (Trường ca Sư Đoàn).
76 Hầu hết các trường ca đều xây dựng hình tượng Tổ quốc là hình tượng
trung tâm. Trong Nước non ngàn dặm, Tổ quốc là nước non trải dài một dải. là
Huế, Sài Gòn, Hà Nội, là Bến Hải, Quảng Trị, Tam Đảo, Trường Sơn, Hội An,
Đà Nẵng, Tây Nguyên, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Củ Chi…
Như vậy, trong trường ca sử thi hiện đại, hình tượng Đất Nước là đối
tượng nhận thức của nhà thơ mang tầm vóc chủ đạo bên cạnh đối tượng con
người. Hình tượng đất nước được các nhà thơ kiến tạo, lý giải và xây dựng theo
cảm quan cách mạng của mình. Cuộc chiến tranh chống Mỹ đã đem đến cho
các nhà thơ một tầm nhìn cao, một cảm xúc lớn để viết thành công về đề tài
Đất Nước. Đây cũng là một đặc điểm nổi trội của trường ca về thời chống Mỹ.
2.1.2. Đề tài chiến tranh và người lính
Văn học đồng hành cùng lịch sử. Một đất nước có quá nhiều cuộc đấu
tranh bảo vệ tổ quốc trường kỳ như Việt Nam thì tất yếu đề tài lịch sử dân tộc,
đề tài chiến tranh sẽ chiếm vị trí chủ đạo trong toàn bộ hệ thống thể loại văn
học; trong đó có thể loại trường ca. Hiện thực mà đề tài này mô tả chính là cuộc
sống chiến đấu của toàn dân tộc, quá trình tham gia vào các sự kiện, biến cố
trọng đại của lịch sử; những hình tượng điển hình... Vì vậy, xuất phát từ cảm
hứng sử thi mãnh liệt, các nhà thơ ưu tiên khai thác các sự kiện, tình huống, chi
tiết tiêu biểu… giàu tính sử thi. Việc khắc họa hình tượng nhân vật với hành
động, tình cảm, khát vọng, lý tưởng phục vụ cách mạng ở mỗi thời điểm lịch sử
được xem là nhiệm vụ quan trọng của văn nghệ sĩ. Họ phải xây dựng một nền
văn học giàu sức chiến đấu, trong đó có thể loại trường ca, mặc dù, cũng có ý
kiến cho rằng trường ca hiện đại mang đặc điểm là thơ cổ động.
Điểm khác biệt lớn giữa trường ca sử thi truyền thống và trường ca sử thi
hiện đại là bản chất của cuộc đấu tranh. Trường ca hiện đại mang nội dung
lớn và có qui mô đồ sộ nên thuận tiện cho việc phản ánh những sự kiện lớn lao,
những biến cố trọng đại của lịch sử dân tộc. Trường ca hiện đại mô tả chủ yếu
cuộc đấu tranh của dân tộc đối với kẻ thù ngọai xâm để đạt mục đích cao cả:
77 thoát khỏi ách ngoại xâm, nhằm thiết lập một cộng đồng dân tộc mới với nội
dung giai cấp mới theo lí tưởng cách mạng và cảm hứng chủ đạo là chủ nghĩa
yêu nước. Tính sử thi là một đặc trưng nổi bật của nền văn học hiện đại Việt
Nam, Trường ca hiện đại mang đậm tính sử thi như là một đặc điểm tiêu biểu
nhất nên có nhiều biểu hiện độc đáo. Theo Lại Nguyên Ân: “Nếu sử thi truyền
thống của nhiều dân tộc ở nhiều thời đại thường hướng sự mô tả vào quá khứ
lịch sử dựa vào truyền thống và dã sử, thì nền văn học sử thi Việt Nam hiện đại
lại hướng sự mô tả vào hiện tại đương đại của dân tộc trong diện mạo cụ thể
lịch sử của nó” [6, tr.22].
Các nhà thơ sáng tác trường ca sử thi hiện đại đặc biệt quan tâm đến việc
chọn lựa đề tài: chiến tranh và người lính trong thời chống Mỹ. Hệ thống
nhân vật là những con người giàu lý tưởng, tính cực tham gia vào các sự kiện
lịch sử của đời sống dân tộc. Họ không phải là những nhân vật có địa vị quan
trọng như trong trường ca cổ điển mà có thể là những con người hết sức bình
thường. Hiện thực mà trường ca về thời chống Mỹ khai thác là hiện thực cách
mạng của dân tộc. Sự xung đột thể hiện ở các sự kiện mang tính sử thi vì liên
quan đến vận mệnh dân tộc, lợi ích dân tộc; không phải là những xung đột dân
sự bên trong nội bộ cộng đồng như đa số các trường ca cổ điển. Hệ thống sự
kiện là những sự kiện chính trị trung tâm của lịch sử dân tộc đương thời.
Tuy vậy, chúng ta cũng nhận thấy rằng trong các trường ca viết về thời
chống Mỹ; những cảnh đời tư, những hình ảnh con người, những quan niệm về
thế giới cuộc sống… đều liên quan chặt chẽ đến việc quan sát, nghiên cứu,
chiêm nghiệm vấn đề chiến tranh mà nhà thơ muốn thể hiện bằng kinh nghiệm
và vốn sống của họ. Không thể tách rời đề tài đời tư, thế sự với đề tài lịch sử.
Muốn có tác phẩm, họ phải lăn xả vào hiện thực của cuộc chiến chống Mỹ,
sống với nó hoặc phải bắt nó thức dậy trong cảm xúc sâu sắc, nghiên cứu nó
một cách tỉ mỉ, chính xác để phát hiện được bản chất của hiện thực. Như vậy,
cảm hứng sử thi là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với các nhà thơ viết
78 về thời chống Mỹ. Nếu nhà thơ không mặc áo lính, họ chấp nhận dấn thân để
sáng tác. Nhưng, nếu là nhà thơ mặc áo lính, họ chấp nhận dấn thân đến hai lần:
vì bổn phận của người nghệ sĩ và vì bổn phận của người lính. Tuy nhiên, trong
mỗi tác giả viết trường ca về thời chống Mỹ vẫn có những nét riêng khi thể
hiện yếu tố cảm hứng sử thi do tiếp nhận ảnh hưởng của vùng miền, tính chất
và giai đoạn của cuộc chiến, tuỳ thuộc vào tâm trạng cá nhân. Muốn sáng tác
trường ca về thời chống Mỹ, dù ở thời chiến tranh hay ở thời hậu chiến, nhà
thơ tất yếu phải có cảm hứng sử thi; cảm xúc chủ đạo phải là phản ánh
hiện thực về cuộc chiến tranh thời chống Mỹ.
Hồng Diệu trong "Thêm vài suy nghĩ" đã nhận xét: “khi bàn việc viết về
chiến tranh... có lẽ chúng ta khó mà bỏ qua hàng loạt trường ca mà chủ đề của
nó là chiến trường, và những người lính, những người đã làm nên chiến trận"
[12, tr.130]. Quả đúng như vậy; chúng ta, những người nặng nợ với thơ ca; khó
lòng mà bỏ qua những bản trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ
đã một thời làm rung động biết bao trái tim người thưởng thức. Và đến nay,
mỗi khi đọc lại, lòng ta vẫn chưa thôi xao xuyến. Từ đó, ta có thể khẳng định:
cảm hứng sử thi của các nhà thơ ở thời chống Mỹ viết về thời đại ấy thật
mạnh mẽ, vượt qua các nhà thơ sống ở thời hậu chiến.
Qua khảo sát trường ca hiện đại, ta thấy rằng trường ca viết về đề tài chiến
tranh thời chống Mỹ chiếm ưu thế. Các trường ca đơn thuần viết về Mẹ, về tình
yêu đôi lứa, về ký ức tuổi thơ, về lịch sử thời phong kiến hầu như chiếm tỷ lệ
rất ít (đã dẫn ở phần 1.1). Chính điều này lại càng khẳng định đề tài chiến
tranh chiếm vị trí chủ đạo. Chiến tranh chính là cái nền để con người thời
chống Mỹ hiển hiện, ở đó, con người quyết vượt lên sự tàn phá hủy diệt để tồn
tại, phát triển với vẻ đẹp sáng ngời. Đặc biệt là hình ảnh người chiến sĩ đã thu
hút rất nhiều bút lực của các nhà thơ người lính. Thơ ca chống Mỹ cứu nước
nói chung và trường ca nói riêng đều khắc họa người lính bằng những nét vẽ
rất bình thường nhưng thật điển hình. Đây cũng là tứ thơ chung của cả
79 thời đại vừa rất sâu sắc vừa rất phong phú, vì hầu như mỗi nhà thơ đều có sự
trải nghiệm riêng ở các binh chủng khác nhau (như bộ binh, thiết giáp, đặc
công, địch vận, du kích, giao liên, thông tin liên lạc…) và đã phán ánh chân
thật vào trong trường ca của họ.
Giang Nam đã trải qua những ngày sống và chiến đấu dọc chiều dài miền
Nam Tổ quốc. Hình ảnh người lính đặc công trong trường ca của ông cũng có
những phẩm chất chung như người lính trong thơ Thanh Thảo, Hữu Thỉnh: yêu
nước thương dân, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc riêng tư để hiến trọn cuộc đời
cho lý tưởng. Đó là anh hùng Huỳnh Việt Thanh trong Người anh hùng Đồng
Tháp, được miêu tả rất bình dị từ ngôn ngữ cho đến tính cách.
Nhà thơ - người lính ngày ấy cũng đã cùng đoàn quân chống Mỹ băng qua
những con đường sỏi đá khu Năm, những đêm Trường Sơn gió rừng buốt lạnh,
những ngày Trường Sơn đông nắng tây mưa, những đói rét ốm đau bệnh tật:
“Những con đường sỏi đá khu Năm/ Đêm Trường Sơn vàng từng khuôn mặt/
Bom tọa độ cày sâu Tam giác sắt/ Một củ sắn lùi, cả tiểu đội chia nhau” (Sông
Dinh mùa trăng khuyết - Giang Nam).
Trong trường ca Những người đi tới biển (dài khoảng 1250 câu, gồm 3
chương: Chiếc áo ngắn, Nguồn sông, Địa hình) Thanh Thảo là hiện thân của
người chiến sĩ bộ binh già dặn trong cách nghĩ, sẵn sàng chịu đựng mọi gian
khổ, hiểm nguy vì sự sống còn của đất nước. Nhà thơ đã xây dựng thành công
hình tượng người lính trong tác phẩm. Họ không có quyền lựa chọn nơi và thời
điểm để được sinh ra nhưng lại được quyền chọn mảnh đất mà mình sẽ cống
hiến tuổi trẻ và máu xương - nếu muốn được làm người đúng nghĩa khi Tổ
quốc cần: “Người ta không thể chọn để được sinh ra/ Nhưng chúng tôi đã chọn
cánh rừng phút giây năm tháng ấy/... Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/
(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì
còn chi Tổ quốc?”.
80
Người chiến sĩ ấy, lúc bấy giờ có tuổi đời còn quá trẻ nhưng những câu
thơ mang tính chính luận triết lý chững chạc. Lời thơ của anh như một lời
tuyên thệ của cả một đội quân điệp trùng ra trận. Đó là những con người
dũng cảm, nhân hậu, thủy chung… giữa bao nhiêu sự hy sinh mất mát đến cháy
lòng cháy dạ, họ vẫn lạc quan để sống và hy vọng về một ngày mai chiến thắng.
Ở phần Vĩ thanh mang tên Tới biển, Thanh Thảo đã phản ánh hành trình “đi tới
biển” của dân tộc. Cũng như trong nhiều trường ca khác, hình ảnh người lính
hiện lên rất đậm nét. Nhiều mảnh đời, nhiều cảnh đời riêng đã hoà nhập vào
nhau làm nên dáng dấp những con người đầy khí thế, sung sức và trẻ trung. Họ
đi qua lốc xoáy, vượt suối băng rừng, đi tìm giặc mà đánh: “Chúng con đi từng
trận gió rừng/ Cả thế hệ xoay trần đánh giặc”.
Là người đại diện phát ngôn lý tưởng của thời đại, lại là người tham gia
cuộc chiến nên Thanh Thảo có cách sống, cách nói của người trong cuộc thật
đến ngọn nguồn. Tinh thần lạc quan, yêu cuộc sống thể hiện ở “ba mươi phút
nữa hành quân, được cười vang, nằm lăn trên cát ấm, được ngụp hết mình lòng
sông đẫm; được bè bạn với đá, với trời xanh, với rừng; được nín thở hồi hộp
cùng chú bói cá, được làm con trai không phải giữ gìn” (Những người đi tới
biển).
Vẫn là khắc họa hình ảnh ngưới lính thời chống Mỹ, nhưng Hữu Thỉnh lại
có cách thể hiện khác với Thanh Thảo. Cách viết của Thanh Thảo trẻ trung, sôi
nổi, giàu chất suy tưởng, chính luận… Riêng Hữu Thỉnh, trong giọng điệu
thường mang âm hưởng ca dao dân ca mặn mà, trầm tĩnh, dạt dào chất trữ tình
sâu lắng. Đặc biệt, Hữu Thỉnh dành nhiều tình yêu cho người lính binh chủng
thiết giáp. Bởi những năm tháng chống Mỹ, trước khi là nhà thơ, anh đã là một
người lính sát cánh cùng binh chủng thiết giáp. Vì vậy “hình tượng người lính
và hiện thực lớn lao sôi động của những năm tháng chiến tranh ác liệt đã trở
thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho các sáng tác của anh” [95,76]. Hữu Thỉnh
có điều kiện để sống, hiểu và nhận rõ những điều sâu kín, những vui buồn khát
81 khao của trái tim người lính bởi anh đã bước vào cuộc chiến với trách nhiệm và
nghĩa vụ của người lính.
Thơ và trường ca của thế hệ chống Mỹ cứu nước chính là tiếng nói sống
động tự tin của những người trong cuộc. Nhà thơ - chiến sĩ là người khắc
họa chân dung đồng đội mình rõ nét nhất, thực nhất, tình cảm nhất. Nhận xét
về cách xây dựng nhân vật trong Đường tới thành phố, Mai Hương đã viết
“Người chiến sĩ là hình ảnh trung tâm và xuyên suốt trong trường ca. Sự từng
trải của người viết đã giúp anh dựng chân dung người chiến sĩ chân thực và
sống. Những trang viết của anh do đó có sức chinh phục...” [35, tr.109]. Hình
ảnh các anh chiến sĩ băng dọc Trường Sơn, vượt qua Bình Định, Nha Trang,
đến Xuân Lộc… được Hữu Thỉnh xây dựng rất chân thực và sống động. Đó là
những người lính giàu tình yêu thương đồng đội, xẻ chia từng cơn ấm lạnh và
sẵn sàng chết cho đất nước sinh tồn. Đến với họ, thơ tìm ra tính chất: “sống
làm người chiến thắng”.
Đường tới thành phố có tất cả năm chương, tổng cộng hơn 1500 câu.
Chương I mô tả không khí chung của chiến trường. Chương II viết về người
Tư lệnh. Chương III là điệp khúc về những cây cầu. Chương IV viết về thời
điểm bản lề giữa chiến tranh và hòa bình. Chương V có tên Tự do, chủ yếu
phản ánh tâm trạng thực của người chiến sĩ trong không khí chiến thắng.
Chương này có kết cấu rời rạc hơn các chương khác. Nhưng cả năm chương
đều tập trung xây dựng hình tượng trung tâm là người chiến sĩ bằng một chất
thơ trầm tĩnh, sâu lắng, trữ tình, có sức rung động cao.
Từ những cảm xúc mãnh liệt về ngày 30/4 toàn thắng, Nguyễn Đức Mậu
cũng đã suy nghĩ về người lính, chiến tranh và hòa bình. Ở trong điểm giao
thời lịch sử ấy, anh cho rằng cả hai cách nhau trong từng gang tấc: “Hòa bình
và chiến tranh, cách nhau bằng nấc đạn”. Các anh trực diện với kẻ thù và “Chỉ
có những người lính trực tiếp cầm súng mới ý thức đầy đủ cái mong manh của
nấc đạn” mà thôi [10, tr.31]...
82
Đế quốc Mỹ đã dùng hàng ngàn tấn bom và chất độc hóa học để biến Củ
Chi thành một vùng đất trắng. Nhưng sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của
cuộc chiến tranh chính nghĩa đã khiến Mỹ phải thất bại. Điều đó đã được phản
ánh trong Mặt trời trong lòng đất. Sự hiểu biết khá tường tận về con người và
mảnh đất Củ Chi cùng cảm xúc mãnh liệt đã giúp Trần Mạnh Hảo chọn những
hình tượng thơ không lẫn với ai. Người lính thời chống Mỹ trong trường ca
chính là hình tượng người du kích Củ Chi bình thường nhưng anh hùng, lặng
lẽ góp phần làm nên lịch sử, không cần lưu danh thiên cổ. Đó là một tư tưởng
lớn thể hiện trong văn học quá khứ.
Bằng sự rung động tinh tế của con tim, trong Đất nước hình tia chớp, nhà
thơ đã cảm nhận tâm hồn cao đẹp của những người chiến sĩ trẻ. Họ sẵn sàng
gửi lại những ước mơ làm nhà văn, nhà bác học vào ngày hòa bình để hôm
nay có thể sống trọn vẹn cho sự tồn vong của dân tộc: “Con gởi lại sau lưng/
Những mơ ước nhà văn, bác học/ Để nhận lấy cánh rừng/ Để nhận lấy dãy
Trường Sơn dựng dốc”.
Họ ra đi, nối tiếp hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ “Ruộng nương anh gửi
bạn thân cày” (Đồng chí - Chính Hữu), của những chàng trai “chiến trường đi
không tiếc ngày xanh” (Tây Tiến - Quang Dũng), và họ sẵn sàng ra đi bỏ lại
“Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi).
Họ cũng chính là Lan, là Hoa, là Hà, là Pi Thị Bảy..., các cô gái vận tải
đã từng vào sinh ra tử của đoàn H50 (Sông núi trên vai - Anh Ngọc). Trường ca
gồm năm chương, chương I mang tên “Tạo hình” nói về những cô gái miền
Cực Nam vắt mình qua dòng thác chiến tranh như chiếc cầu bắc qua dòng sông
rộng, gùi hàng như gùi trái núi trên vai. Chương II “Gọi tên”. Chương III “Đi
đến những bài ca” nói về dốc Ba Cô với ba trăm cô gái gùi hàng lên đỉnh dốc.
là bài ca lợp nhà bằng lá trung quân thường có ở Trung ương cục R, là chuyện
về các cô gái của Bác Ái, khu Lê, Tam Giác đi thồ xe, là bài ca đêm vượt lộ...
83 Chương IV có tên “Sợi chỉ” tập trung viết về bài ca những người đào huyệt và
bài ca ru người nằm xuống. Chương cuối là “Tiếng gọi bên kia đường”.
Trong trường ca Lửa mùa hong áo, nhà thơ Lê Thị Mây - cũng là nữ thanh
niên xung phong ngày nào, đã trần tình với mười hai cô gái của tiểu đội thanh
niên xung phong chống lầy, phá bom, mở những cung đường huyết mạch cho
xe vận chuyển: “Xin các chị cho em nén giữ trong lòng/ Làn hương sả bắt đầu
từ ký ức/ Mười sáu tuổi, mười bảy tuổi ai không náo nức/ Mong được rời nách
áo mẹ ra đi”.
Các nhà thơ thời chống Mỹ đã xây dựng hình ảnh người lính đúng như
hiện thực vốn có: yêu nước thương dân, biết hy sinh tình cảm riêng tư. kiên
cường đánh giặc. Trường ca vốn không chỉ nói về người lính mà còn qua họ nói
về cả một thế hệ tự ý thức sâu sắc về mình, về lịch sử và nhân dân. Đó là sự
tự nhận thức đạt đến độ sâu trong thơ chống Mỹ.
Hình ảnh con người kháng chiến; con người lạc quan, chung thủy, tin
tưởng vào tương lai chiến thắng đã được xây dựng bằng những chi tiết hiện
thực sống động và giàu chất thơ. Đó là những con người bằng xương bằng thịt
như chúng ta nhưng trong thời đại lịch sử ấy; tư tưởng, trí óc của họ đã đặt trên
tầm cao của mọi suy nghĩ và hành động bình thường. Không có quan niệm
mới về con người thì không thể có được hình tượng những con người bình
dị và cao cả ấy trong thơ. Bởi thế, số lượng trường ca thời chống Mỹ viết về
chiến tranh và người lính - chiếm tỷ lệ rất lớn.
Văn học luôn bắt nguồn từ đời sống thực tế. Nếu xa rời thưc tế thì sẽ mất đi
tính hiện thực. Hiện thực khách quan là đối tượng được phản ánh và từ đó mà
hình thành cảm xúc, tâm trạng điển hình trong thơ. Gớt đã nói rằng “Lý thuyết
thì màu xám, còn cây đời mãi mãi xanh tươi”. Hiện thực khách quan là đề tài
vô tận đòi hỏi phải được thể hiện bằng nhiều loại hình nghệ thuật như sân khấu,
phim ảnh, thơ ca nhạc họa.... Trong đó, đề tài về chiến tranh và người lính đã
được thơ ca nói chung và trường ca về thời chống Mỹ nói riêng mô tả rất chân
84 thực và cao đẹp. Đó là người lính binh chủng thiết giáp, lính bộ binh, lính đặc
công, thanh niên xung phong, du kích, cô gái vận tái, giao liên… Đặc biệt là
người chiến sĩ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người công dân số một.
2.1.3 Đề tài lãnh tụ
Đề tài và quan niệm nghệ thuật về đề tài luôn luôn phát triển, vận động
làm cho cách nhìn của những nhà sáng tác và những nhà phê bình văn học luôn
có một góc độ mới hơn. Mỗi nhà thơ, trên nền hiện thực sôi động của cuộc đấu
tranh chống Mỹ đã phán ánh, lý giải, kiến tạo con người bằng bút pháp riêng
của mình, cắt nghĩa về con người theo một tư duy nghệ thuật ngày một nâng
cao và gắn với thế giới quan Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trần Đình Sử
đã nói: “Thật khó nói tới sự phát triển của tư duy nghệ thuật mà thiếu sự mở
rộng, đào sâu các giới hạn trong quan niệm nghệ thuật về con người” [83,
tr.98]. Hình tượng con người trong trường ca chống Mỹ đã được nâng lên tầm
cao mới với sự hòa hợp giữa: con người - đất nước - lịch sử - thời đại.
Trong trường ca về thời chống Mỹ, đề tài chiến tranh và người lính đã
bao hàm cả đề tài lãnh tụ, bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người lính tiên
phong của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Người viết tách riêng đề tài
lãnh tụ để nghiên cứu vì hầu như bất kỳ một nhà thơ lớn nào khi sáng tác
trường ca cũng vậy, đều có những vần thơ tâm đắc viết về Bác.
Viễn Phương, năm 1976 được ra miền Bắc thăm Bác. Với một niềm thành
kính và xúc động khôn cùng, ông đã sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác, được sự
hỗ trợ của âm nhạc, ý thơ lại càng đi sâu vào tâm hồn mỗi người dân Việt Nam.
Chế Lan Viên trí tuệ, suy tưởng và chiêm nghiệm với bài Người đi tìm hình của
nước. Giang Nam, năm 1976, khi đến trường Dục Thanh ở Phan Thiết đã xúc
động dạt dào và sáng tác bài thơ Thăm trường xưa Bác dạy, có thời gian được
đưa vào chương trình văn học địa phương của tỉnh Bình Thuận. Tố Hữu có
trường ca Theo chân Bác. Các trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn
Khoa Điềm, Bài ca chim Chơrao, Vách đá Hồ Chí Minh của Thu Bồn, Hành
85 trình của Hưởng Triều, trường ca Bác của Lê Đạt... cũng đều có những vần thơ
khắc họa hình ảnh Bác. Trong luận án này, trước tiên, chúng tôi lựa chọn hai
trường ca hoàn toàn viết về Bác để nghiên cứu và so sánh. Đó là Theo chân Bác
(trước 1975) của Tố Hữu và Đi trong sen ngát bóng xanh (sau 1975) của Phạm
Thái Quỳnh.
Tố Hữu, cây đại thụ trong rừng thơ cách mạng đã hoàn thành trường ca
đặc biệt Theo chân Bác sau khi Bác mất hơn một năm. Với những chi tiết đặc
sắc; những từ ngữ mượt mà, giản dị... nhà thơ đã dựng lại lịch sử vĩ đại của một
con người vĩ đại. Nhiều trích đoạn có giá trị được đưa vào giảng dạy ở các bậc
học; được diễn ngâm, đọc minh họa cho phim ảnh v.v… Tố Hữu đã lấy cơ sở
tự sự làm giá đỡ chắc chắn cho trường ca và lấy cảm xúc trữ tình làm máu thịt.
Sự kiện lịch sử và cảm xúc đã bổ sung cho nhau nên Lê Đình Kỵ đã cho rằng
“Để nói lên tấm lòng bao la của Bác, nhà thơ Tố Hữu thường lồng vào những
hình ảnh nước non, trời đất, hoa lá gây tác động qua lại giữa người và cảnh,
có sức gợi lớn” [41, tr.269].
Theo chân Bác là những thước phim sống động, giàu giá trị.Trong trường
ca, công đức của Bác được Tố Hữu so sánh thật chính xác: “Chỉ biết quên mình
cho hết thảy/ Như dòng sông chảy nặng phù sa”. Tình cảm của Người đối với
miền Nam thật da diết, cháy bỏng. Người là hiện thân cho lẽ sống tự nhiên của
đất trời Việt Nam: “Bác sống như trời đất của ta/ Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành
hoa/ Tự do cho mỗi đời nô lệ/ Sữa để em thơ, lụa tặng già”. Lê Đình Kỵ cũng
đã từng nói: “Bác đã đi qua thời đại và thế gian này với chiếc áo sờn, đôi dép
cao su. Bác giành tất cả những vui buồn, lo nghĩ, tình cảm của mình cho dân
cho nước, giáo dục mỗi người chúng ta biết lo cái chung: lo trước vui sau thiên
hạ” [41, tr.271].
Khi lãnh đạo toàn dân kháng chiến, Bác mang tư thế của người lính tiên
phong. Hình tượng Bác vừa vĩ đại lại vừa bình dị. Sự vĩ đại của Bác được hun
đúc từ tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Chính quan niệm con người bình thường
86 đã gợi ý cho nhà thơ tìm đến các chi tiết bình thường của người lãnh tụ: “Mong
manh áo vải hồn muôn trượng”. Không chỉ giản đơn là dùng phương tiện so
sánh, nhân hóa, ẩn dụ… để cho thơ chắp cánh bay lên mà chính là nhờ quan
niệm nghệ thuật về con người soi chiếu nên nhà thơ mới có những vần thơ sâu
nặng ân tình, mới có cách diễn đạt đa dạng phong phú về sức sống vĩnh cửu của
Bác. Tuy nhiên, trường ca cũng có một vài hạn chế như: một số câu thơ không
hay, ngôn từ còn dễ dãi, ý thơ dàn trải… nặng tưởng tượng, một số hình ảnh
trùng lặp (ngẩng đầu cao, vỗ cánh bay…) như các nhà phê bình đã nhận xét.
Trường ca Đi trong sen ngát bóng xanh của Phạm Thái Quỳnh - có cùng
một chủ đề nhưng bút pháp và ngôn từ có độ đậm nhạt khác nhau. Nhà thơ thật
bản lĩnh khi chọn đề tài viết về lãnh tụ theo cách thức dựng lại những sự kiện
về lịch sử và cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác, một công việc mà Tố Hữu
đã thực hiện và rất thành công với trường ca Theo chân Bác.
Phạm Thái Quỳnh (Nam Định) đã từng tham gia vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Sau này, khi sống trong hoà bình, tác giả vẫn nhớ về một thời hoa
lửa đã cùng đồng đội trải qua. Là người lính, lại là người cầm bút; nhà thơ cũng
đã từng trăn trở, ấp ủ nỗi mong ước sẽ viết về Bác. Cuộc thi “Bác Hồ của
chúng ta” (2005) do tuần báo Văn Nghệ tổ chức nhân kỷ niệm 115 năm ngày
sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với hình thức thể hiện là thơ và trường ca đã
giúp nhà thơ thực hiện được ước mơ và đạt giải chính thức (cùng với Hà Trọng
Đạm, tác giả trường ca Địa chỉ đời Người). Đây cũng là một cuộc thi tôn vinh
Bác Hồ, và cũng là hình thức thể hiện sự trở lại của trường ca sau một thời gian
dài gần như vắng bóng.
Trong lời nói đầu trưòng ca Đi trong sen ngát bóng xanh, Phạm Thái
Quỳnh đã tâm sự: “Từ lâu, tôi đã có ý định viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh...
Cuộc thi (viết về Bác Hồ của chúng ta) của báo Văn nghệ đã động viên tôi cầm
bút. Thế nhưng… tôi biết rằng “Thiên chương đâu dễ tạc bóng Người”... viết
về một vĩ nhân mà hào quang đã quá rực rỡ, thêm nữa, do đặc trưng thể loại
87 (trường ca), tôi đã đứng trước một khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua…
“Đi trong sen ngát bóng xanh” là tấm lòng với chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”.
Nghiên cứu Đi trong sen ngát bóng xanh, ta có thể nhận thấy ngay rằng,
Phạm Thái Quỳnh đã đọc rất nhiều tư liệu lịch sử viết về thân thế, gia cảnh và
hành trình cách mạng gian khổ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặc dù không trực
tiếp viết về thời chống Mỹ, nhưng không gian nghệ thuật hầu như nằm trong
thời chống Mỹ và hoạt động của nhân vật trữ tình (Bác Hồ) chủ yếu thuộc thời
chống Mỹ. Vì thế chúng tôi đã xếp trường ca này vào danh mục trường ca về
thời chống Mỹ, như là một sự kế tiếp khắc họa thêm ở những sự kiện lịch sử
mà Tố Hữu đã kể lại trong Theo chân Bác.
Đi trong sen ngát bóng xanh dài trên 4.000 câu, có số lượng gần gấp 5 lần
Theo chân Bác, và nhiều nhất nhì so với các trường ca hiện đại qua hai thời kỳ
chống Pháp, Mỹ. Trường ca có tất cả 11 chương (Đỉnh núi chạm trời, Những
hoàng hôn bên bờ biển cả, Vượt trùng dương tìm một ngọn đèn, Người mang
án tử hình, Tôi nói đồng bào có nghe rõ không, Bình minh bão táp, Không có gì
quý hơn độc lập tự do…).
Trong trường ca này, vẫn có những câu thơ giàu cảm xúc trữ tình nhưng
chưa đạt đến độ chín ngọt ngào, mượt mà, tinh tế như Theo chân Bác. Giọng
thơ Phạm Thái Quỳnh tỉnh hơn, thiên về tự sự hơn; và có ưu thế là giúp người
đọc hiểu sâu hơn về gia thế, hoàn cảnh lịch sử nước nhà, tâm tình của Bác.
Nếu mở đầu Theo chân Bác, Tố Hữu đưa ta về những ngày đau thương
vĩnh biệt Bác, thì Phạm Thái Quỳnh lại bắt đầu chương I bằng sự suy ngẫm về
cuộc tử sinh của một đời người và đã băn khoăn, trăn trở, mơ ước:
“Núi cao dù đứng phương nào đó/ May lắm tỏ tường một phía thôi/ Bảy
chín xuân thu sao toả sáng/ Thiên chương chưa dễ tạc vóc Người”.
Ở chương X có những câu thơ mượt mà giọng điệu ân tình: “Nào ngờ
sáng Mồng Hai tháng Chín/ Nhẹ gót tiên Người nhập vĩnh hằng” nhưng lặp ý
của Tố Hữu: “Vào cuộc trường sinh nhẹ cánh bay” (Theo chân Bác). Nhiều
88 đoạn trong chương này viết khá thành công, vừa kể lịch sử vừa tâm tình ca
ngợi, tuy nhiên, cũng không khỏi có những hạt cát li ti gợn lên trong tay người
cầm lụa: “Biển Đông dầu cạn, Trường Sơn rụi/ Cũng trường chinh giải phóng
cõi bờ” chưa đạt tới sự thanh thoát, mượt mà. Phạm Thái Quỳnh đã chọn tên
Có thể nói, Đi trong sen ngát bóng xanh của Phạm Thái Quỳnh xứng
chương cuối làm tên chung cho bản trường ca tâm huyết.
đáng được Hội đồng nghệ thuật của tuần báo Văn Nghệ tặng giải chính thức
trong cuộc thi về đề tài “Bác Hồ của chúng ta”. Trường ca có yếu tố kể lặp như
Theo chân Bác nhưng mang sắc thái mới; có dung lượng khá dài, chất tự sự
nhiều hơn, có những câu thơ khá hay, tính hiện thực và trữ tình đan xen, hòa
quyện khiến người đọc dễ dàng tiếp nhận; thưởng thức. Nhưng do hoàn cảnh
sáng tác, do chất tự sự lấn át và tất nhiên, cũng còn tùy thuộc vào tài luyện chữ
nên trường ca không thể tránh khỏi điểm nhược là chất mượt mà, gợi xúc cảm
chưa đạt độ trữ tình và có giá trị như Theo chân Bác. Hai trường ca này có thể
được ví như pho truyện về Bác bằng thơ.
Một trường ca khác cũng hoàn toàn viết về Bác nhưng không dựng lại
toàn bộ hành trình cách mạng của Người. Đó là trường ca Bác của Lê Đạt. Nhà
thơ hoàn thành bản trường ca này vào tháng 5/1970 kịp ngày giỗ đầu của Bác.
Nhưng đến 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của danh nhân văn hóa Hồ
Chí Minh, tác phẩm mới được in ấn và phổ biến rộng rãi. Khương Hữu Dụng
đã ghi lời bạt: “Tác giả rất mực yêu kính Bác đồng thời rất tự hào ở cương vị
người lao động thơ. Và chính thái độ ấy càng tôn hình ảnh Bác thêm thuyết
phục, nhân bản, dân chủ, vẽ nên bức chân dung hiện thực người lãnh đạo hiện
đại..”. Trong trường ca có ghi lại nhiều đoạn công điện viếng Bác của các nước
anh em, của nhà nước ta. Riêng nhà thơ, đã cố công vận dụng lối từ ghép phức
nghĩa (giản dị - kỳ, hiền - hiện đại...); lối chuyển cảnh đột ngột, bài thơ “như
một toà tháp nhiều tầng, nhiều hành lang”; không phải dễ dàng được số đông
89 độc giả tiếp nhận nhưng đáng quý là ở tấm lòng kính yêu lãnh tụ của nhà thơ.
Đây là một đoạn thơ khá lạ từ tứ thơ đến cách dùng từ, ngắt câu, sang dòng:
“Ông già Giao thừa/ râu phơ phất/ ngưỡng xuân/ Tóc nở/ trắng
lào rào hạt/ xanh/ trở dạ/ Lúp búp mai/ măng/ chớp lạ...”.
Trong trưởng ca Hành trình của Hưởng Triều, hình ảnh của Bác kính yêu
gắn liền với bước đường kháng chiến và mơ ước đến ngày thống nhất: “Bác sẽ
chỉ huy hát kết đoàn/ Kề vai cả nước đại thành công/ Một tờ di chúc sen toả
ngát/ Bác sẽ vào đây, Bác vẫn còn”.
Với Nguyễn Khoa Điềm, những hình ảnh đơn giản, cụ thể nhất đều có sự
hiện diện của Bác: “Bởi vì Người là đất nước tôi/ Mỗi sợi tóc trắng của Người
đều ghi những ngày gian khổ nhất/ Của đất nước của năm dài đánh giặc”.
Hình ảnh của Người được bằng những chi tiết thật bình thường nhưng thật vĩ
đại: “Trái cà Người ăn/ Cũng là trái cà nuôi người anh hùng đầu tiên Thánh
Gióng/ Cây gậy Người cầm/ Cũng có thể tìm trong trăm ngàn cây gậy của
Trường Sơn” (Mặt đường khát vọng).
Trong Vách đá Hồ Chí Minh, Thu Bồn lại mô tả hình ảnh chàng trai Dang
Nghi A chọn vách núi vươn cao ngất, chỗ đất gặp trời để kính cẩn đục đá khắc
dòng chữ bằng vôi trắng “Hồ Chí Minh muôn năm”, thể hiện hình tượng Bác vĩ
đại luôn ở trong tâm hồn của nhân dân.
Có thể nói, các trường ca đã xây dựng hình tượng cao đẹp về Bác. Trong
trường ca Nguyễn Văn Trỗi, từ những chi tiết có thực về những phút cuối cùng
của anh Trỗi trước khi bị tử hình, Lê Anh Xuân đã để cho nhân vật chính bày tỏ
lòng kính yêu Bác qua những vần thơ da diết: “Khi Anh gọi Bác ba lần/ Lòng
Anh như thấy được gần Bác thêm... /Việt Nam là Bác, Bác là Việt Nam”.
Riêng Thanh Thảo lại chọn chi tiết “đôi tay bắt nhịp” bài hát “Kết đoàn”
và “giọng nói” đầm ấm đã trở thành hình ảnh quen thuộc để bày tỏ nỗi niềm:
“Chúng con thèm nghe Bác nói một câu/ Giữa bến Nhà Rồng mênh mông trời
90 đất/.. thèm nghe thơ, thèm đôi tay bắt nhịp/ Chúng tôi nghe nóng bỏng đời
Người” (Những người đi tới biển).
Ngày nay, dân tộc ta một lòng ghi sâu ơn đức trời biển của Bác. Cả thế
giới và loài người yêu chuộng hoà bình đều ca ngợi về Người. Victo Hara,
người nghệ sĩ Chi lê cũng đã gửi lên nền nhạc của mình lời hát:
“Bác Hồ là bài ca của chúng ta/ Là chim bồ câu trắng
Là chìa khóa mở ra chiến thắng cho quyền sống hoà bình”.
Những điều trong Điếu văn tưởng niệm khi Bác ra đi vào cõi vĩnh hằng
quả vẫn chưa nói hết được công ơn trời biển của vị lãnh tụ thiên tài kiệt xuất:
“Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông ta, đất nước ta đã sinh ra Người anh hùng
dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông
đất nước ta”. Cuộc đời của Bác luôn là đề tài vô tận cho mọi nguồn cảm hứng
sáng tạo thơ ca, nhạc họa, sân khấu, điện ảnh, nghiên cứu văn chương. Trường
ca về thời chống Mỹ đã góp phần vào nhiệm vụ khắc họa, tôn vinh hình ảnh
của Người. Với một số trích đoạn nổi tiếng trong các bản trường ca, đặc biệt là
Theo chân Bác và Đi trong sen ngát bóng xanh trọn vẹn viết về Người là một
minh chứng khẳng định đề tài lãnh tụ xuất hiện trong trường ca về thời chống
Mỹ có tần suất khá cao.
2.1.4 Đề tài tình yêu đôi lứa
Trường ca thời chống Mỹ đa phần viết về đề tài chiến tranh và người lính.
Tuy nhiên, bên cạnh mảng đề tài lớn này, các nhà thơ vẫn dành “đất” cho đề tài
tình yêu đôi lứa.
Tình yêu đôi lứa luôn là đề tài muôn thưở mà bất kỳ thời gian nào, xã hội
nào; từ đông chí tây, từ kim chí cổ đều xuất hiện trong văn học; tuy nhiên, mức
độ thể hiện phải phù hợp với hoàn cảnh xã hội mà nó xuất hiện. Thời chống
Pháp - nếu các nhà thơ đề cập nhiều đến vấn đề tình yêu trong tác phẩm của
mình sẽ là “lạc điệu” với kháng chiến, với dân tộc; bởi trong hoàn cảnh ấy, phải
đặt tình yêu tổ quốc lên trên hết. Vì thế, trường ca thời chống Pháp hiếm thấy
91 đề cập đến đề tài tình yêu. Nhưng trường ca thời chống Mỹ thì đã cống hiến
cho đời những tác phẩm mô tả hiện thực ác liệt của chiến tranh pha lẫn vị trữ
tình của tình yêu đôi lứa khá sắc nét, nhất là ở trường ca ra đời sau 1975 một
vài năm.
Mỗi một nhà thơ tài hoa có thể xem như là một khách đa tình như Maxim
Goocki đã nói:“Thiên tài là ái tình”. Phạm Huy Thông nổi danh một thời với
trường ca Tiếng địch sông Ô cũng đã nói: “hầu hết thơ tình yêu đều là trường
ca tình yêu” [2, tr.104]. Tiếng địch sông Ô có nội dung phỏng tích Trương
Lương dùng tiếng địch phản chiến mê hồn làm nát tan hàng ngũ Hạng Võ. Với
Huy Thông, tiếng địch ấy lại chính là “tiếng gọi của tình yêu trong trái tim
người anh hùng si tình” Hạng Võ với nàng Ngu Cơ.
Thời chống Mỹ, đề tài tình yêu đôi lứa được đề cập sâu sắc hơn. Đó là
tình yêu thánh thiện của Lãm và Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn
Minh Châu). Là tình yêu đầy chất triết lý trong Mặt đường khát vọng (Nguyễn
Khoa Điềm). Là tình yêu sâu sắc thủy chung suốt hai mươi năm trời của đôi vợ
chồng người cán bộ địch hậu trong Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh).
Trước 1975 và sau 1975, thơ Việt Nam vẫn tiếp tục đề tài chiến tranh, “độ
lùi không gian và thời gian đã bổ sung sắc thái bi tráng, trầm tĩnh, đẩy thể loại
trường ca trữ tình đến độ viên mãn khó trở lại” [3, tr.78]. Thơ trữ tình Việt
Nam sau 1975 viết về thời chống Mỹ đã trải qua sự điều chỉnh trong cách cảm
thụ, nhìn nhận, lý giải thế giới, con người và ngôn ngữ thể hiện. Các nhà thơ
tên tuổi sáng tác trường ca đều mô tả hình ảnh đất nước, nhân dân như thực tế
đã diễn ra. Chất trữ tình sâu lắng và chất triết lý trí tuệ ngày càng được các nhà
thơ chú ý khai thác, đặc biệt là những dòng thơ diễn tả tình yêu thời chiến.
Những biểu hiện về đề tải tình yêu đôi lứa trong trường ca về thời chống
Mỹ có thể tạm xếp vào các dạng thức như sau:
92
2.1.4.4 Tình yêu và sự chia ly
Tình yêu trong thời chống Mỹ không chỉ là nỗi nhớ nhung sâu đậm, kín
đáo... mà còn đầy cay đắng và có thể là cả sự chia ly. Nỗi niềm của nhân vật
trữ tình như của chính nhà thơ. Ta có thể khảo sát những vần thơ da diết viết về
tình yêu chia ly ở thời chống Mỹ: “Xa nhau suốt tháng năm dài/ Hãy nghe
người lính nói lời tình yêu…/ Đôi ta cách một dòng sông/ Cỏ cây bên ấy ngóng
trông bên này… ” (Trường ca Sư đoàn- Nguyễn Đức Mậu).
Đất nước bị chia cắt, tình yêu đôi lứa cũng bị cắt chia: “Vĩ tuyến Mười
Bảy ở đâu mà con đò không qua được/ Trai gái yêu nhau trầu cau không qua
được/ Vĩ tuyến Mười bảy/ Nơi đất trời sùi sụt chuyện mưa ngâu” (Trường ca
Sư đoàn).
Quả thật, nhân danh người lính ra trận, các nhà thơ hiểu từng chân tơ sơi
tóc nỗi lòng của người ở lại để bày tỏ, sẻ chia “những hy sinh, mất mát, chịu
đựng của cả dân tộc… trong cuộc hành trình đạt tới chiến thắng” [2, tr,109].
Những vần thơ giàu sức chinh phục người đọc vì diễn tả đúng tâm trạng của
biết bao người vợ trên đất nước này khi phải chịu nỗi mất mát không gì bù đắp
được trong tình cảm vợ chồng.
Có nhà thơ lại thổ lộ giúp người vợ hậu phương qua những câu thơ ngập
tràn cảm xúc, vừa đầy ắp hiện thực, vừa mang tính trữ tình thể hiện quan niệm
nghệ thuật về con người của nhà thơ: “Những đêm trở trời trái gió/ tay nọ ấp
tay kia/ súng thon thót ngoài đồn dân vệ/ Một mình một mâm cơm/ ngồi bên
nào cũng lệch/ chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền” (Đường tới thành
phố - Hữu Thỉnh).
Hình tượng người vợ cô đơn lặng lẽ chờ chồng dằng dặc tháng năm đã
được nhà thơ xây dựng rất thành công. Ở một khổ thơ khác, nhà thơ đã chọn
cặp từ “thiếu” và “thừa” hết sức trái ngược nhưng thật logic để miêu tả một
hình tượng vô cùng điển hình. Người vợ không đủ đôi đủ cặp, như thuyền kia
thiếu bến, như trầu nọ thiếu cau. Chị đã ôm lòng chờ đợi chồng ngày đoạn
93 ngày, tháng đoạn tháng, năm đoạn năm để rồi cứ phải ngập chìm trong “nỗi
buồn như bông điệp xé đôi”; bởi tuổi trẻ không bao giờ trở lại; bởi sự côi cút, lẻ
loi. Đó là sự mất mát tình cảm quá lớn mà người vợ xa chồng phải gánh chịu
một mình: “Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra/ Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại/
Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cút một mình” (Đường tới thành phố).
Đó là tình yêu chung thuỷ, biết hy sinh, biết đặt tình yêu tổ quốc lên
trên tình yêu đôi lứa. Ngay cả những người đàn bà làng quê cũng sẵn sàng hy
sinh hạnh phúc để người chồng ra đi cứu nước. Người chồng ấy có khi đi mãi
không về, để lại nỗi đớn đau trong lòng người cô phụ.
Có thể nói, trong thời chống Mỹ, tình yêu đôi lứa được thể hiện mang đầy
nỗi chia ly đau khổ, có khi là cuộc chia ly mãi mãi. Nỗi đau ấy, không phải chỉ
thuộc về cá nhân mà đã trở thành nỗi đau chung của những ngưới yêu nhau
trong thời ly loạn.Trường ca về thời chống Mỹ đã phản ánh một dạng thức tình
yêu như thế, đồng thời cũng phản ánh cả nỗi khát khao hạnh phúc, trông đợi
được yêu và được sống với tình yêu.
2.1.4.2. Tình yêu và nỗi khát khao hạnh phúc
Trường ca về thời chống Mỹ thường diễn tả ước mơ được có tình yêu và
sống một lần với tình yêu. Ước mơ ấy hoàn toàn chính đáng. Thế nhưng; vận
mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc gắn liền với số phận của mỗi cá nhân, với
hạnh phúc lứa đôi. Họ dằn vặt, xót xa, khao khát: “Mặt đất sinh ra để cho
từng đôi lứa/ Mà tình yêu không tìm được chỗ ngồi” (Mặt trời trong lòng đất).
Có khi, tình yêu của họ da diết ngọt ngào như lời ru bởi vận dụng chất liệu
ca dao để diễn đạt nỗi ước ao: “Lời hẹn hò con gái con trai/ Là chén canh cá
lóc/ Mẹ nấu cho tôi dưới hàng cây so đũa/ Là lời ru em nhẩm đọc vô tình/ “ví
dầu cầu ván đóng đinh/ cầu tre lắc lẻo gập gềnh khó đi” (Những người đi tới
biển - Thanh Thảo).
Đoàn vận tải H 50 của vùng cực Nam Trung bộ với những cô con gái vận
tải “qua tuổi mình ba mươi”. Mỗi mùa xuân đến lại thêm một lần báo động.
94 Tuổi trẻ đi qua, nhan sắc phai tàn. Ước mơ của họ thật nhỏ nhoi, bình dị. Họ
khao khát được yêu; được làm vợ, làm mẹ. Nhưng thời chiến tranh, sông núi
còn mang nặng trên vai, điều ấy khó thành sự thật: “Đi qua tuổi ba mươi/ Nhọc
nhằn và lặng lẽ/ Bao ước mơ giản dị/ Mà sâu thẳm không cùng/ Hơn mọi sự
anh hùng/ Là điều này nhỏ bé/ Làm vợ và làm mẹ/ Tuổi ba mươi chối từ”.
Tình yêu sẽ là bài ca tháng năm hạnh phúc. Nhưng các cô gái lại “chưa
một lần yêu cho lồng ngực rung lên/ Đáy thắt lưng ong em chưa một lần làm
mẹ/ Ba mươi tuổi em không còn trẻ” (Sông núi trên vai). Tổ quốc đã giao cho
họ nhiệm vụ thật bình thường nhưng vô cùng trọng đại: gùi hàng, gùi lịch sử
trên đôi vai nhỏ bé, trách nhiệm với núi sông đã ở trên tầm cao vợi so với tiếng
gọi của tình yêu đôi lứa, chuyện hạnh phúc riêng tư đành gác lại. Đó chính là
hình tượng của những cô gái giao liên vận tải trên khắp mọi miền đất nước.
Các cô gái thanh niên xung phong cũng đã chung một nỗi niềm cùng các
cô gái của đoàn H 50: “Ôi lửa napan/ Lửa bom hóa học/ Đã ba trăm ngày/ Tóc
các em chưa mọc... Tiểu đội mười hai người/ Đáy ba lô có mảng trời xanh
mang màu áo cưới”. Từng là một nữ thanh niên xung phong, nên tác giả đã thể
hiện dạng thức tình yêu trong trường ca của mình rất thật, chất chứa đầy nỗi
khát khao về một ngày hồng lễ cưới. Họ ra đi vì tiếng gọi con đường nhưng đôi
khi ngoái lại với sông làng, họ vẫn nhớ đau đáu những mùa xưa đằm thắm và
những lễ vật của tình yêu: “Ôi buồng cau lổ chín ngã bên thềm/ Trầu cánh
phượng thách người chưa dám cưới/ Hiên mưa dầm hoa lựu thức trắng đêm/
Cát nín lặng vùi sâu thêm nỗi đợi” (Lửa mùa hong áo - Lê Thị Mây).
Qua nghiên cứu, ta thấy rằng nhiều trường ca về thời chống Mỹ đã biểu
hiện cảm thức ước mong, khao khát tình yêu đôi lứa, khao khát hạnh phúc
riêng tư, nhưng tất cả đều được nén lại, gác lại. Bởi cao hơn tình yêu đôi lứa là
tinh yêu Tổ Quốc thiêng liêng. Hạnh phúc cá nhân đã nhường bước cho hạnh
phúc lớn lao mà cả dân tộc đang theo đuổi: đó là độc lập, tự do.
95
2.1.4.3 Tình yêu và sự lạc quan
Thời chống Mỹ, tình yêu đôi lứa được thể hiện rất nhẹ nhàng nhưng khá
sâu đậm. Chúng ta không thể tìm thấy yếu tố tính dục trong trường ca. Bởi
trong một thời đại mà sự hy sinh cao cả cho tổ quốc được đặt lên hàng đầu thì
những hương vị yêu đương thường tình không thể xuất hiện trong văn học cách
mạng. Những điều cần thiết để tô vẽ thêm cho cuộc sống vợ chồng, cho tình
cảm lứa đôi đã được nén lại để dành cho văn học thời hậu chiến.
Trong trường ca thời chống Mỹ, tình yêu đôi lứa còn thể hiện cảm thức
ước vọng, lạc quan. Tình yêu có khi được gắn liền với một không gian thật
riêng tư, bé nhỏ nhưng đậm đà hình ảnh đất nước quê hương; không gian nhỏ
bé ấy rồi sẽ mở ra bao ước vọng tương lai về tình yêu: “Đất nước là nơi ta hò
hẹn/ Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” (Mặt đường
khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm).
Riêng Hữu Thỉnh đã chọn một tứ thơ rất gần gũi với nông dân để viết về
tình yêu đôi lứa đầy sự lạc quan: “Con gà trống cù kỳ quanh vại nước. Hạt
thóc ngậm vào thành hạt ngọc của tình yêu”. Trong hoàn cảnh chiến tranh, dù
chia ly, dù đau khổ khôn cùng, dù đợi chờ dằng dặc, nhưng những người vợ
hậu phương vẫn tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng. Trường ca đã có những
câu thơ ca ngợi lòng tin tất thắng của con người: “Chị vẫn tin chữ hợp cuối câu
Kiều/ Hoa mai nở hai lần hoa có hậu” (Đưòng tới thành phố).
Trong trường ca Nguyễn Văn Trỗi, tình yêu của anh Trỗi và chị Quyên dù
bị cắt chia, cái chết đã cận kề, nhưng vẫn thể hiện sự lạc quan tin tưởng vào
tương lai: “Tình yêu thơm ngát ca dao/ Tình yêu trong vắt ngọt ngào dòng
sông… Bốn bên cái chết bủa vây/ Chằng cây, chẳng lá, chẳng mây, chẳng trời/
Mà thơm hơn cả hoa tươi/ Mà xanh hơn cả da trời mùa thu”.
Trường ca thời chống Mỹ đã phản ánh đúng thực tế: tình yêu thời chiến
có sức mạnh vượt qua sự khắc nghiệt của thời gian và sự khốc liệt của chiến
tranh để lạc quan sống và chiến đấu: “Một ngày xưa yêu cho đến bây giờ/ Con
96 còng gió nghiêng mặt trời xe cát/ Yêu đến sâu nước khôn cùng dào dạt/ Yêu
đến bờ yêu đến bến chao chân” (Lửa mùa hong áo).
Xét trong hệ thống các trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ,
đề tài tình yêu đôi lứa như những sợi chỉ mành nhưng lại dệt nên tấm khăn
choàng đẹp đẽ về tình yêu thời chiến. Các nhà thơ viết về tình yêu thời chiến
tranh đã thấu hiểu một cách sâu sắc những hy sinh âm thầm của thế hệ cha anh.
Có những trái ngọt tình yêu được hưởng quá muộn màng nhưng vô cùng đáng
quý: “Người yêu anh dành phần cuối cuộc đời/ Đến tuổi làm bà mới được lần
làm mẹ/ Người lính ấy tóc bạc rồi mới trẻ/ Dắt con mình lại ngỡ cháu theo
ông” (Đất nước hình tia chớp).
Sự lạc quan tin tưởng vào tình yêu chín chắn, tin tưởng vào ngày mai tất
thắng đã được gửi vào trong những vần thơ da diết: “Phải đâu xa cách riêng ta/
Triệu người đi nỗi cách xa vơi đầy/ Mưa ngâu không chỉ nơi này/ Bạn bè anh
có bao ngày mưa ngâu/ Một cơn mưa ướt mái đầu/ Mười cơn mưa chẳng ướt
câu đợi chờ” (Trường ca sư đoàn).
Như vậy, qua nghiên cứu một vài trường ca có giá trị, ta có thể cho rằng:
mặc dù đề tài tình yêu đôi lứa chỉ được thể hiện thoáng qua trong trường ca thời
chống Mỹ nhưng đa phần tập trung ca ngợi tình yêu đôi lứa mang cảm thức lạc
quan, tin tưởng vào một ngày mai chiến thắng để những người yêu nhau đặt
niềm hy vọng đợi chờ, dù có khi là chờ đợi cả cuộc đời.
2.1.4.4 Tình yêu và sự thủy chung
Tình yêu trong thời chống Mỹ thường được mô tả đằm thắm. biểu lộ sự
thuỷ chung sâu nặng. Thường, các nhà thơ sáng tác trường ca đa phần đều là
người lính, nên hơn ai hết, họ đã thấu hiểu sự nhớ nhung da diết của những
người yêu nhau.
Hữu Thỉnh, thay lời người chồng xa quê trong trường ca thủ thỉ với dòng
sông, với mùa đông lạnh giá, với người vợ thuỷ chung. Tứ thơ tạo sự xúc động
cho người đọc và được diễn tả một cách rất riêng không lẫn vào ai: “Sông ơi
97 sông nếu ta phải ra đi/ Bậc thấp xuống cho em ra gánh nước/ Xin bát canh đến
tay mẹ lúc còn nóng/ Xin mùa đông đừng dài” (Đường tới thành phố).
Bằng những dòng thơ rất chân thực; nhà thơ đã khắc đậm hình ảnh của
người chị, người vợ “từng góa bụi trong hồ sơ tự khai”, sống trong vùng địch
tạm chiếm, hàng đêm đằng đẵng lén nuôi chồng dưới hầm sâu mà không hề
thấy mặt. Thật khó có thể hình dung được bao nhiêu nỗi niềm chất chứa trong
sự chờ đợi ròng rã, dằng dặc, mỏi mòn suốt hai mươi năm trời như thế. Đó là
đức thuỷ chung của đa số những người phụ nữ Việt Nam thời chiến. Tứ thơ:
“Chị đợi chờ quay mặt vào đêm” nghe thật ray rứt, xót xa: “Chị đợi chờ quay
mặt vào đêm/ Hai mươi năm cơm phần để nguội/ Hai mươi năm mong trời
chóng tối/ Thôi tết đừng về nữa chị tôi buồn”. Những câu thơ giản dị nhưng
bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của nhân dân trước nỗi khắc khoải chờ chồng, từ
khi họ còn là cô gái xuân sắc: “Chị tôi không còn trẻ nữa/ Xóm làng thương ý
tứ vẫn kêu cô/ Xóm làng thương không khoe con trước mặt/ Hai mươi năm chị
tôi đi đò dầy/ Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc” (Đường tới thành phố).
Những người phụ nữ Việt Nam mềm mại, ẻo lả như cây lau nhưng lại
chính là những cây lau bằng thép, giàu tình yêu thương. Họ đã góp phần
khẳng định đức tính thuỷ chung truyền thống và đã được khắc họa trong những
bản trường ca về thời chống Mỹ.
Trường ca về thời chống Mỹ được sáng tác từ sau 1990 cũng chú ý đến đề
tài tình yêu đôi lứa nhưng thường kết hợp với sự hồi tưởng về chiến tranh.
Trường ca Những cánh đồng dưới lửa đã ghi lại nỗi niềm của những chàng trai
ra trận rất đa tình bằng những dòng thơ hết sức hiện thực nhưng thật tình tứ:
“Chào những em gái họ Bùi, họ Quách/ Từ hôm nay, chúng tôi sẽ xa em/ Em sẽ
chẳng được gặp chúng tôi - những thằng lính đa tình trốn trại/ Mò ra Mường
hát ghẹo suốt đêm” (Văn Lê).
Hình ảnh các cô gái đứng sừng sững giữa trời, trong vùng trọng điểm cận
kề với cái chết cũng đã trở thành tượng đài bất tử trong lòng các anh chiến sĩ và
trong lòng mọi người: “Ôi trái tim của lính âm thầm/ Qua trọng điểm có đôi khi
98 chết lặng/ Phất cờ hiệu em đứng làm cọc đường cháy nắng/ Tim dập dồn
thương người quá người ơi” (Lửa mùa hong áo - Lê Thị Mây).
Thời chống Mỹ, đề tài tình yêu được bộc lộ trong trường ca khá rõ nét.
Nhiều bài thơ ngắn trữ tình cũng đã đề cập đến tâm tình của người phụ nữ trong
và sau chiến tranh. Vương Trọng, một nhà thơ quân đội, người lính thời chống
Mỹ cũng đã có những vần thơ ám ảnh: “Sao chị chẳng được làm người đón
đợi/ Cổng mở hoài chỉ có gió vào sân” (Chị).
Một vài dẫn chứng trên cho thấy: hình tượng người chiến sĩ từ cuộc đời
thực đi vào trường ca được dựng lên từ ngòi bút của những nhà thơ đã từng ra
trận nên vừa thực lại vừa giàu cảm xúc. Tình yêu đôi lứa của các anh đầy chất
thơ và tiếng đạn bom. Những người phụ nữ của các anh đã vượt qua gian khó
để sống xứng đáng với tình yêu chung thuỷ. Có thể khẳng định, bên cạnh các
đề tài sống động giàu tính hiện thực thì đề tài tình yêu đôi lứa với nhiều dạng
thức như: bài ca khát khao hạnh phúc, bài ca chia ly, bài ca chung thuỷ, bài ca
lạc quan... vẫn luôn được các nhà thơ viết về thời chống Mỹ phản ánh vào
những bản trường ca sử thi hiện đại.
2.2 Sức khái quát hiện thực về địa danh và con người
Các nhà thơ thời chống Mỹ - những người đã bước vào chiến tranh với
tâm thế người trong cuộc - đã mô tả lại cuộc chiến tranh rất chân thực. Các nhà
thơ thời hậu chiến tuy sống trong hoà bình, nhưng cũng dành nhiều thời gian để
hồi tưởng, tìm về quá khứ lịch sử hào hùng một đi không trở lại đã từng diễn ra
trên đất nước Việt Nam. Quả thật như thế, “xa rời hiện thực thì không thể có
khám phá gì đáng nói cả” [110, tr.187]. Nhiều trường ca sử dụng (hầu như giữ
nguyên mẫu) tên người thật, việc thật, tên những địa danh có thật mà cuộc
chiến đã đi qua và cày xới dau thương. Bởi lẽ các nhà thơ sáng tác trường ca
đều biết rằng người thật việc thật là những nhân chứng hiển hiện sống động
trên đời, tốt nhất là đem nguyên mẫu vào văn học, hoặc từ nguyên mẫu để hư
99 cấu ở độ đáng tin cậy. Đó cũng là cách khẳng định sự thật như nó vốn đã thế và
được đông đảo quần chúng nhân dân đón nhận.
2.2.1. Sức khái quát hiện thực về địa danh
Hầu như trong rất nhiều trường ca hiện đại; các địa danh trên mọi miền Tổ
quốc và hình tượng con người Việt Nam đều hiện lên rất rõ. Các nhà thơ sáng
tác trường ca đã xây dựng một thế giới nghệ thuật mới về Tổ quốc qua hình
tượng con người và các địa danh cụ thể. Địa danh là một yếu tố vô cùng quan
trọng để góp phần tạo nên hình hài nhân vật, tạo nên cái cốt lõi, cái nền để
nhân vật hoạt động, là trung tâm để xây dựng tác phẩm, là xuất phát điểm để
nhà thơ cảm thụ và xây dựng vấn đề thành tác phẩm.
Trường ca sử thi hiện đại đã mô tả một dải đất nước thân yêu trong Nước
non nghìn dặm (Tố Hữu). Địa danh Bắc Ninh có mặt trong trường ca Đi về đồi
hoa cúc của Nguyễn Xuân Tường, Thành phố Vinh anh dũng xuất hiện trong
trường ca Vinh của Lê Duy Phương. Dọc những bờ cát trắng phau đã in dấu
chân Những người đi tới biển (Thanh Thảo) tìm về với biển.
Cả miền Trung chìm trong khói lửa chiến tranh khốc liệt. Quảng Trị có
mặt trong Trường ca Sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu, Huế yêu thương in dấu ấn
trong Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Quảng Nam xuất hiện
trong Bà mẹ Quảng Nam của Trần Thị Thắng. Bình Định có mặt trong Về miền
thương nhớ của Tạ Kim Khánh. Bóng dáng Tuy Hoà xuất hiện trong Ở làng
Phước Hậu của Trần Vũ Mai. Địa danh Nha Trang xuất hiện trong Sông Dinh
mùa trăng khuyết của Giang Nam. Vùng cực Nam Trung bộ có mặt trong Sông
núi trên vai của Anh Ngọc. Thành phố Sài Gòn ghi dấu trong Hành trình của
Hưởng Triều và Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh. Địa đạo Củ Chi có mặt
trong Mặt trời trong lòng đất của Trần Mạnh Hảo. Đồng Tháp, Kiên Giang
xuất hiện trong Ánh chớp đêm giao thừa của Giang Nam. Cà Mau có mặt trong
Hòn Khoai của Nguyễn Bá. Mảnh đất Tây Nguyên hiện diện trong Bài ca chim
Chơ rao và Vách đá Hồ Chí Minh của Thu Bồn ...
100
Macxim-Goocki đã từng nói “Văn học là nhân học”. Có con người là có
cuộc sống. Có cuộc sống sẽ có văn chương. Từ những năm 60 của thế kỷ XX,
Hồ Chí Minh cũng đã nói với văn nghệ sĩ: “Những tác phẩm mà quần chúng
chờ đợi là những tác phẩm ca tụng sự thật những người mới, việc mới chẳng
những để gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu ta
đời sau” [109, tr.441].
Hình tượng văn học được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ. Từ trong bản
chất của nó, ngôn từ đã mang tính hình tượng. Khi được sử dụng, ngôn từ bao
giờ cũng hướng về những đối tượng cụ thể, có khả năng gợi lên tâm trí con
người những liên tưởng về đối tượng cụ thể. Cho nên ngôn từ vừa có tính cụ
thể vừa có tính khái quát và nó là cơ sở tất yếu để xây dựng những hình tượng
vừa mang tính khái quát vừa mang tính cụ thể.
Địa danh Tháp Mười nổi tiếng với câu ca: Tháp Mười đẹp nhất bông sen/
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ lại được khắc hoạ trong Người anh hùng
Đồng Tháp của Giang Nam. Các địa danh cụ thể như Đồng Tháp, Hậu Thạnh,
bờ kênh Một, Kinh Chứa, Kinh Cùng, Biện Minh, Giồng Dung, Thiện Hộ, Mỹ
An… cũng đã xuất hiện trong trường ca.
Ghi dấu địa danh Sài Gòn, Lê Anh Xuân đã sử dụng một gam màu đặc
biệt, thể hiện lòng kính yêu Bác Hồ sâu nặng: “Ôi thành phố Hồ Chí Minh/ Sài
Gòn vẫn sắc xanh trời xanh Bác Hồ” (Nguyễn Văn Trỗi)
Giang Nam, trong Ánh chớp đêm giao thừa lại ví Sài Gòn như một con
người trong cuộc đấu tranh chống giặc Mỹ. Các địa danh Vườn Chuối, Bàn Cờ,
Khánh Hội, Thủ Thiêm được nhắc đến một cách nhẹ nhàng nhưng đầy sức
nặng tâm tình:“Không có tên, cái Sài Gòn khổ đau và hy vọng/ Vườn Chuối,
Bàn Cờ, Khánh Hội, Thủ Thiêm/Sài Gòn đây trong bản hợp xướng anh hùng”.
Có lẽ nhờ lối miêu tả hình ảnh sống động gần gũi, dùng từ ngữ dung dị
chân chất mà bút pháp của Giang Nam, mặc dù đã trải qua trên dưới ba mươi
101 năm trời vẫn tươi nguyên: “Tình quê hương đất nước đã mang lại bản sắc dân
tộc trong thơ anh... Đọc thơ anh, ta bắt gặp bao tên đất, tên làng” [63, tr.411].
Trong Ở làng Phước Hậu của Trần Vũ Mai, các địa danh được khắc họa
vào thơ là những làng quê thân thương, êm ả có thật ở Tuy Hòa: “Thoáng hiện
ra làng Phước Hậu êm đềm”.
Trong một loạt trường ca viết về Tây Nguyên của Thu Bồn như Bài ca
chim Chơrao, Vách đá Hồ Chí Minh, Bazan khát; các địa danh trong thơ đều là
núi rừng hùng vĩ. Ở trường ca Kể chuyện ăn cốm giữa sân, Nguyễn Khắc Phục
cũng chọn rừng núi Tây Nguyên để làm nền cho tác phẩm.
Các nhà thơ sống trong thời chống Mỹ cũng đã chọn các địa danh từng
gắn bó với họ trong cuộc chiến để đưa vào thơ. Từ cách cảm nhận đất nước là
những gì gắn bó máu thịt với người dân, Trần Mạnh Hảo đã chọn địa danh Củ
Chi huyền thoại, điển hình cho một địa bàn chiến đấu độc đáo của dân Củ Chi
để đưa vào trường ca Mặt trời trong lòng đất.
Với Sông núi trên vai, Anh Ngọc đã viết về những tên làng, tên đất có
thật ở Bình Thuận, ở dọc mảnh đất cực Nam Trung bộ, Trung Tây Nguyên như
Cực Nam, Bình An, Tam giác sắt, Tàzôn, Bác Ái, Khu Lê, Trường Sơn, Bàu
Trắng, dốc Bà Du, dốc Ba Thang, dốc Cổng trời... những bờ bãi ruộng vườn,
mồ mả cha ông: “Quê vùng Tam giác…/ Giật mình trận pháo Tàzôn vừa ập tới/
Đất giở lưng che mái đầu chín tuổi…/ Mồ mả ông bà ơi/ Ruộng đã thành ao
sông hóa bãi/ Mà gió chướng vẫn vô hồi thổi mãi/ Cực Nam, Cực Nam…”.
Địa danh lịch sử Bàu Trắng nằm ở huyện Bắc Bình - Bình Thuận, gồm hai
bàu lớn nhỏ là Bàu Ông và Bàu Bà. Tương truyền rằng con trai làng trên si mê
con gái làng dưới nên đêm đêm thường xuống giúp đào bàu vì thế Bàu Bà ngày
càng vừa dài vừa rộng. Đặc biệt trong Bàu mênh mông sen hồng, lá xanh mướt
mắt. Bao bọc quanh hai bàu nước chỉ toàn là cát trắng giăng giăng, chập chùng
đồi bãi. Muốn có nước sinh hoạt, chỉ lấy ở Bàu. Nhưng, trong thời kỳ kháng
chiến, bộ đội ta ra được Bàu Trắng lấy nước là một điều chẳng đơn giản vì địa
102 hình rất trống trải, có khi mỗi giọt nước phải đánh đổi bằng máu. Nhiều khi trời
nắng nỏ, không lấy được nước, các cô đành trùm nilông cho đổ mồ hôi mà “tắm
lửa”. Chi tiết thực trần trụi nhưng hết sức trữ tình: “Con gái đến kỳ vẫn dầm
mình trong suối/ Ngày nắng nỏ che cho nhau tắm lửa”.
Có khi, trong trường ca, hình ảnh những cánh đồng có thật được miêu tả
thành hình tượng nghệ thuật độc đáo. Bởi nổi trên những cánh đồng làng là dấu
chân tảo tần của bà mẹ Việt Nam hết lòng vì cuộc chiến đấu sinh tử: “Những
cánh đồng in dấu chân của mẹ/ Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi” (Đường tới
thành phố). Có khi lại là hình ảnh những con đường ngày càng dài ra theo bước
đường chiến đấu. Nhà thơ đã tinh tế so sánh: “Dốc Pha Đin là cái dốc cuối
cùng/ Các anh qua để tiến vào Hà Nội/ Khẩu súng trường tinh vi và ngắn lại/
Đường chúng tôi ra trận lại dài thêm”.
Mỗi một tấc đất quê hương, với Hữu Thỉnh đều là đất nước. Các địa danh
có khi không cần nêu ra, không cần cụ thể. Có khi chỉ được hình dung qua một
gốc sim cằn, nơi trận địa tranh chấp giữa ta và địch; nhưng đó là ranh giới, là
cột mốc của lòng quả cảm quyết giữ gìn từng tấc đất, từng ngọn cây: “Một gốc
sim thôi. Một gốc sim cằn/ Sim như là không có cũng không sao... Nhưng trước
mặt là Tổ quốc/ Dù chỉ là gốc sim thôi, một gốc sim cằn/ Anh ôm súng bò lên
với trái tim tình nguyện” (Đường tới thành phố).
Với Thanh Thảo, các địa danh có khi chỉ là một cánh rừng ào ạt mưa bom,
có khi là cả cánh rừng và dãy Trường Sơn hùng vĩ mà bàn chân những người đi
tới biển vươn tới. Hình ảnh cánh rừng chiến đấu là một khoảng không gian mở
để đón bước chân của những chàng trai sẵn sàng đến với rừng, và cánh rừng
này lại là mục tiêu để chọn: Đó còn là “chiến khu của tôi, chiến khu của tôi”
(Những người đi tới biển).
Trong Trường ca Sư đoàn, khi viết về thời chống Mỹ, Nguyễn Đức Mậu
đã tập trung miêu tả Quảng Trị với Thành Cổ oai hùng đã chịu nhiều bom đạn,
103 nơi có sông Thạch Hãn “nóng như luồng xích đạo” chảy qua; là Khe Sanh,
Đông Hà, Gio Linh, Đồng Hới...
Các trường ca xuất hiện sau 1990 cũng miêu tả các địa danh cụ thể trên đất
nước Việt Nam một cách giản đơn nhưng thật trang trọng.
Trong Hồi ức tuổi hai mươi, khi mô tả những địa danh từng xảy ra chiến
trận trong mùa Hè đỏ lửa 1972, Lê Huy Quang lại sử dụng những câu thơ rất
nhẹ nhàng mà sâu lắng, mang đầy hình ảnh quê hương: “…Hàm Rồng, Thanh
Hóa/ Một cành phi lao cháy sém bến phà Vinh/ Một ngã ba Đồng Lộc, bom đầy
quầng trăng/ một dẻo cát Quảng Bình cháy nắng… Nhà thơ đã cảm nhận từ
những ngày hè Sài Gòn đầu tiên để nhớ về phố Khâm Thiên còn đậm mùi hố
bom, vôi vữa; những đêm B 52 không nỡ nguôi quên: “Tôi đi. Tôi đi, cắt nghĩa
lại mình/ Gió Hồ Tây trở vào thu âm ấm/ Hồ Gươm “Tháp Bút Đài Nghiên”
bóng rùa thanh thản/ Khuê Văn Các khum khum mái cổ phong rêu/ Đê La
Thành nghiêng vòng tay Hà Nộị”.
Mở đầu cho trường ca Trầm tích, Hoàng Tràn Cương cũng đã nói về địa
danh Miền Trung bằng những lời thơ bình dị ”Mẹ tôi đẻ rơi tôi bên cối giã gạo/
Tôi lấm láp dáp mình vào đất/ Gió Lào mặc cho tôi chiếc áo màu nâu/Cha đi
vắng/ Những người đàn ông miền Trung thường đi vắng”.
Địa danh được ghi lại trong Mảnh hồn chim Lạc của Nguyễn Hưng Hải
là: “Nỗi lưu lạc của làng Trầu, thôn Quýt/ Giữa Thăng Long, Đà Nẵng, Sài
Gòn”. Nhiều trường ca về thời chống Mỹ đã nói về những địa danh mà thực tế
có thể là quê hương, là nơi xảy ra chiến sự.
Có thể nói, không có thể loại văn thơ nào như trường ca về thời chống
Mỹ; sức biểu hiện các địa danh có trên đất nước ta là quá lớn, bởi cuộc chiến
tranh là điều có thật đã xảy ra trên từng tấc đất quê hương. Mỗi địa danh được
mô tả, được hồi tưởng lại trong trường ca về thời chống Mỹ đều là những mảnh
đất hiện thực của tổ quốc Việt Nam. Không có sự hư cấu về địa danh và cũng
hiếm có sự hư cấu về chân dung nhân vật có mặt trong trường ca. Đây là một
104 đặc điểm khác biệt so với thơ trữ tình, đa phần là hư cấu nhân vật và ít có sự
xuất hiện của địa danh, dẫu rằng tất cả vẫn phải trên nền hiện thực.
2.2.2 Sức khái quát về người thực, việc thực
Trong thời chống Mỹ; hình ảnh của nhân dân, đất nước, lãnh tụ được đưa
vào trường ca đều chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tiếp nối truyền
thống anh hùng của dân tộc ta, “từ người anh hùng làng Gióng, người anh
hùng núi Tản xa xưa, từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng
Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… đến các anh hùng chống Pháp, chống Mỹ có cả
một mối quan hệ máu thịt, một quá trình phát sinh phát triển nối tiếp nhau qua
nhiều thế hệ” [8, tr.120].
Đó là những con người bình thường, giản dị, chân chất nhưng giàu khí
phách, biết hy sinh hạnh phúc cá nhân vì tình yêu Tổ quốc nhân dân sâu đậm.
Họ mang khí thế cách mạng tiến công, có ý thức sâu sắc về độc lập tự do.
Trường ca về thời chống Mỹ đã xây dựng hình tượng nhân dân, chiến sĩ anh
hùng bằng một sự sáng tạo mới mẻ, tạo nên những niềm xúc động trong lòng
công chúng hôm qua, hôm nay và mai sau.
Như đã nêu trên, điều khác biệt giữa trường ca và các thể thơ khác là
đa số trường ca đều có mẫu hình người thật việc thật. Cái Ta, cái Tôi trong
trường ca đều là những con người bình thường trong cuộc sống, họ là những
con người bằng xương bằng thịt đã được lịch sử ghi danh và tổ quốc nhân dân
ghi nhớ công ơn. Chất hiện thực được biểu hiện đầy ắp trong trường ca.
Aristotle cũng đã từng nói “Thơ còn thật hơn cả lịch sử”. Những địa danh
trong trường ca chính là những địa danh trên đất nước Việt Nam, con người
cách mạng trong trường ca là những con người Việt Nam thời chống Mỹ.
Các trường ca: Theo chân Bác của Tố Hữu, Bác của Lê Đạt, Đi trong sen
ngát bóng xanh của Phạm Thái Quỳnh, Vách đá Hồ Chí Minh của Thu Bồn...
đều có nguyên mẫu là hình ảnh của Bác Hồ vĩ đại. Trường ca Mặt trời trong
lòng đất lấy nguyên mẫu là những người dân Củ Chi kiên cường bất khuất.
105 Trong Người anh hùng Đồng Tháp, nổi bật hình ảnh người anh hùng Huỳnh
Việt Thanh - tên thật là Dân. Trong trường ca Đi về đồi hoa cúc của Nguyễn
Xuân Tường là nguyên mẫu Đào Kim (sinh 1948, thương binh 3/4, hiện ở
thôn Cổ Miếu, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh). Đó cũng là hình
ảnh và tên tuổi chân thực của mười hai cô gái thuộc tiểu đội thanh niên xung
phong ở vùng khu Bốn tuyến lửa... trong Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây.
Thời chống Mỹ; thơ ca, trong đó có vai trò quan trọng của trường ca; đã
thực hiện xuất sắc nhiệm vụ truyền tải những thông điệp của cuộc sống đấu
tranh cam go, gian khổ bằng những ngôn từ thơ ca đích thực. Thời đại lịch sử
đã khai sinh một mô hình thơ ca mới, một kiểu nhà thơ mới, một cái Tôi trữ
tình công dân, một cái Ta dân tộc. Tất cả những chân dung ấy làm thành một
chỉnh thể mang sức khái quát cao về nhân dân, làm thành luồng hơi thở mát mẻ
toát ra từ trung tâm cuộc sống mang tính sử thi hiện đại. Tất cả hội tụ lại. Cho
nên, có thể nói, thơ ca chống Mỹ có cốt cách và tầm vóc của một nền thơ lớn,
trước hết là do tính quần chúng sâu rộng. Vì nếu Nguyễn Khoa Điềm không
trực tiếp xuống đường thì cũng không thể in bóng mình vào trong Mặt đường
khát vọng. Nếu Hữu Thỉnh không trực tiếp tham gia cuộc chiến từ những cánh
rừng Tây Nguyên xanh lá thì cũng không tự cho phép mình có mặt trong
Đường tới thành phố. Thanh Thảo không đứng trong hàng ngũ những người đi
tới biển thì sẽ không có mặt trong trường ca Những người đi tới biển. Lê Thị
Mây không là cô thanh niên xung phong ngày nào thì cũng không thể có những
hiểu biết và những lời tâm tình da diết, nồng thắm với tiểu đội nữ thanh niên
xung phong ở Quảng Bình tuyến lửa đến như vậy...
Trong các trường ca về thời chống Mỹ, những câu chuyện về tình yêu Tổ
quốc được tái hiện rất rõ. Hệ thống nhân vật đa phần là có thật. Các nhà thơ
chiến sĩ thời chống Mỹ đã viết về họ, về đồng đội, về nhân dân, vì thế, sức khái
quát hiện thực về người thực, việc thực rất đậm đặc. Năm tháng sẽ đi qua, thời
gian hiện tại sẽ là quá khứ nhưng những cái tên Thành cổ Quảng Trị, núi rừng
106 Trường Sơn, đường mòn Hồ Chí Minh, địa đạo Củ Chi, chiến khu Lê Hồng
Phong... vẫn bất tử trong lòng người chiến sĩ. Nơi mảnh đất ấy, các anh đã từng
chia nhau từng điếu thuốc hút chung, từng củ sắn củ khoai ăn dở; chia nhau
từng ngọn rau rừng như lá chìa vôi, lá dang, lá bép; chia từng ấm lạnh ngọt
bùi... để hoà thành một khối tràn lên nhập vào cuộc thử lửa một mất một còn.
Những địa danh ấy sẽ ghi khắc đậm sâu trong lòng những ai đã sống trong thời
chống Mỹ và mãi mãi là những địa danh hào hùng trong lòng con cháu mai sau.
Nhân dân đồng hành cùng chiến sĩ chiến đấu dưới sự lãnh đạo sáng suốt, bản
lĩnh của lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng được phản ánh sắc nét trong các bản trường
ca thời chống Mỹ. Những bức tranh hiện thực ấy đã đi vào thơ ca nhạc, họa…
và trường ca đã làm tròn sứ mệnh mà nền văn học thời chống Mỹ phân công.
2.2.3. Sức khái quát về sự đồng hành của nhân dân
Trường ca viết về thời chống Mỹ miêu tả nhiều hình ảnh đẹp, chân thật,
về những người anh hùng của đất nước. Các nhà thơ cũng đã dành khá nhiều
chương, khúc để viết về sự đồng hành của nhân dân bên cạnh các anh chiến sĩ.
Trước hết là sự đồng hành của các Mẹ bên cạnh những đứa con trai,
con gái thương yêu “đẹp như hoa hồng và cứng hơn sắt thép” (Nam Hà). Có lẽ
chưa bao giờ trong văn học, hình ảnh người Mẹ lại được các nhà thơ nói nhiều
như trong thời chống Mỹ, nhất là ở thể loại trường ca. Hầu như trường ca nào
cũng vậy, khi đề cập đến người mẹ thì bao giờ cũng là môtíp người mẹ lam
lũ, tảo tần, thương con, yêu nước, chờ đợi, hy sinh. Hình ảnh mẹ Việt Nam
thật bình dị, nhân hậu, bao la như biển rộng sông dài đã tạc vào thế kỷ. Dáng
mẹ chong đèn ngồi ngóng đợi tin con, dáng mẹ gánh gánh ngoài đồng, dáng mẹ
“xách bọc trầu cau đi họp giữa rừng” (Trần Vũ Mai - Ở làng Phước Hậu).
Hình ảnh người mẹ hoạt động cách mạng được in đậm trong các
trường ca thời chống Mỹ. Mẹ là “đất” cho các con dừng chân, là hầm trú ẩn che
chở các con. Để rồi sau đó, khi tiếng gà gáy sớm cất lên, họ lại âm thầm ra đi,
để lại nỗi lo âu, thắc thỏm trong lòng mẹ: “Tiếng gà đầu tiên lảnh lót/ Mẹ ra
107 vườn xóa những dấu chân/ Hai mươi năm như thế/ Đêm nào cũng đầy lo âu “.
Mẹ đã trăn trở suốt tháng năm vì cuộc chiến dày xéo quê hương, trải qua: “Mấy
cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc” (Ở làng Phước Hậu).
Điều đó cũng được thể hiện trong Quê hương mặt trời vàng của Thu Bồn:
“Mẹ vẫn chờ anh ngày trở lại/ Ơi người mẹ trọn đời kim chỉ vá may/ Vá tấm áo
như vá đời mẹ khổ/ Từ buổi con đi bấm đốt từng ngày”. Trong Bài ca chim
Chơrao, mẹ là người mẹ của bản làng, quyết góp sức vào việc giữ gìn từng hạt
muối nuôi dân quân đi làm cách mạng.
Hình tượng mẹ xuất hiện trong trường ca Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh
Xuân thật kiên trung. Mẹ là bà mẹ cơ sở nuôi dấu cách mạng, tay này lén tiếp
cơm, tay kia lén đào hầm, nuôi chồng rồi lại nuôi con bị tù đày. Mẹ có thể ra đi
vào cõi nghìn trùng không một lời hối tiếc và sẵn sàng hiến dâng nguồn sống
quý giá cho đất nước, dân tộc: “Nơi đó mẹ đã ra đi như một anh hùng/ Bông
huệ nở hồng như sắc cờ trên gò cao mẹ nghỉ” (Ánh chớp đêm giao thừa -
Giang Nam).
Trong Trường ca Sư đoàn, Nguyễn Đức Mậu cũng khắc sâu bóng dáng
người mẹ mòn mỏi ngồi đếm thời gian mong chờ ngày chiến thắng, chờ các
con trở về bằng những chi tiết rất ấn tượng: “Cầu Ái Tử chập chờn dáng mẹ
bồng con/ Mẹ ngồi đó đêm mưa ngày nắng… Mẹ bấm đốt ngón tay tính trăng
tròn mỗi tháng/ Chúng con đi dọc miền Tây Trường Sơn/ Ngón tay khô gầy/ Mẹ
tính đốt thời gian/ Khi mười ngón tay mẹ đầy vầng trăng mọc/ Thì con giải
phóng Sài Gòn”.
Những trường ca ra đời sau 1980 đã tiếp tục nhiệm vụ ngợi ca sự đồng
hành của mẹ. Hình tượng mẹ đợi chờ như đá tạc. Mẹ là đá vọng phu rồi mẹ là
hòn vọng tử. Mẹ đã sống cả một đời trong sự ly biệt, tiễn đưa. Từ lúc tiễn
chồng: “Cả đời mẹ là một đời đưa tiễn/ Chiếc tay nải cha mang bóng dáng mẹ
lên rừng” rồi đến tiễn con: “Mẹ tiễn con ra tới cửa rừng”. Một đời mẹ đồng
hành cùng cuộc chiến vĩ đại của dân tộc (Đất nước hình tia chớp).
108
Cảm xúc mãnh liệt về người Mẹ yêu thương của những cuộc đời chiến sĩ
được thể hiện trong nhiều trường ca. Chiến tranh đã gây nên bao cảnh ly tan,
biết bao bà Mẹ xúc động cầm tay tiễn những đứa con mình mang nặng đẻ đau
mà không biết đến bao giờ gặp lại và có thể sẽ không bao giờ gặp lại. Thế
nhưng, vì tình yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc nên Mẹ đành nén lòng
tiển con ra trận, để Mẹ và con cùng đi chung trên con đường lớn cả dân tộc
đang đi: “Mẹ là hình ảnh lớn lao nhất, tập trung nhất của quê hương, của hậu
phương” được in đậm trong trường ca [52, tr.97].
Thanh Thảo, trong Những người đi tới biển, đã ghi lại hình ảnh người mẹ
chân quê trong buổi chiều chia tay đầy ấn tượng với đứa con trai và đã làm tăng
cảm xúc đậm đà nhờ cách miêu tả cảnh vật: “Khi con thưa với mẹ/ Mưa bay
mờ đồng ta/ Ngày mai con đi/ Khói bếp mẹ con mình chợt ngừng trên mái rạ”
Trong cuộc chia li đầy cảm động ấy; bên cạnh hình ảnh mẹ là hình ảnh quê
hương với đồng ruộng, khói lam chiều, con trâu, mái rạ... Những hiện hữu thân
yêu ấy luôn theo bước quân hành, là nguồn động viên thôi thúc các anh đi vào
cuộc chiến bằng tất cả tinh thần và sức trẻ để làm nên chiến thắng.
Tứ thơ của Thanh Thảo rất mới và cũng rất quen thuộc. Chiếc đòn gánh
kĩu kịt trên đôi vai mẹ là hình dáng của bao phụ nữ Việt Nam. Và nếu như:
“Ngày mai con đi” thì “nửa đất đai này mẹ gánh”. Mẹ sẵn sàng làm hậu
phương vững chắc, sát cánh bên con, hướng về cuộc kháng chiến của dân tộc.
Bởi đó là truyền thống của người mẹ Việt Nam anh hùng. Lòng yêu nước,
thương con đã cho mẹ một sức mạnh tinh thần cao vời vợi. Thiếu Mai đã cho
rằng: “Trong trường ca “Những người đi tới biển”, những câu thấm thía nhất,
xúc động nhất là những câu thơ về mẹ, về đất nước” [52, tr.98].
Cảm nhận và miêu tả người mẹ trong những năm tháng chiến tranh chống
Mỹ, các nhà thơ đã khắc sâu hình tượng đẹp nhất, đúng nhất, cao cả nhất và
anh hùng nhất về Mẹ. Cưu mang chín tháng mười ngày, sinh con ra, tập cho
con chập chững bước đi, khi con lớn lên, mẹ lại tiễn con vào cuộc chiến, rồi
109 chờ đợi ngóng trông trong những tháng ngày lam lũ, đói nghèo và ngập trời
bom đạn. Mẹ là hiện thân của con cò suốt đời nhẫn nại, lam lũ, tần tảo, chắt
chiu, hy sinh. Thương mẹ, hiểu sâu sắc tấm lòng của mẹ nên nhà thơ - người
lính Thanh Thảo - mới có cách biểu đạt chân thực về mẹ: “Phải thương lắm
mới đi làm cách mạng/ Phải thương nhiều hơn mới giữ nổi lòng tin/ Nhưng
phải thương đến tận cùng đớn đau mới làm người mẹ”.
Trường ca về thời chống Mỹ thường xây dựng hình tượng Mẹ là đỉnh cao
của mọi thời đại: “Dân tộc tôi khi đứng dậy là người/ Là đứng theo dáng mẹ/…
và cứ thế nhân dân thường ít nói/ Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời/ Và cứ thế nhân
dân cao vòi vọi/ Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”. Những người mẹ
anh hùng đã đẻ ra nhân dân anh hùng. Chân lý ấy đã được khẳng định: “Chính
mẹ đẻ anh hùng và truyền thuyết/ Từ túp lều lợp lá lợp tranh” (Những người đi
tới biển).
Đất nước Việt Nam ta, bất cứ ở nơi đâu cũng không thiếu những bà mẹ
sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc những đứa con - cả trai lẫn gái, cả đứa con
cuối cùng, cả cháu chắt - khi Tổ quốc cần. “Mẹ là ngọn nguồn tất cả, là vui
sướng tột cùng, là tự hào cao độ, là thương nhớ khôn nguôi, là tình yêu vô
biên, là ánh sáng dõi theo suốt cuộc đời người lính trẻ” [52, tr.97].
Trong Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh đã miêu tả hình tượng người mẹ
cách mạng ngày ngày in dấu chân trên đồng để ra khẩu lệnh cho bao đứa con
yêu thương đang làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước: “Những cánh đồng in dấu
chân của mẹ/ Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi”. Đó là hình ảnh đại diện
cho biết bao bà mẹ Việt Nam khác trong thời chống Mỹ luôn đồng hành
cùng các con.
Những bà mẹ ấy đang làm nhiệm vụ, chia sẻ gian nguy, báo tin giặc hành
quân cho đàn con bằng những tín hiệu rất giản đơn nhưng lại góp phần làm nên
thắng lợi: “Trận đánh sẽ bắt đầu từ phía sau cánh cửa/ Có dấu vôi mẹ quệt lúc
ăn trầu…/ Giặc hành quân: nhìn khăn mẹ trên đầu”. Ngay cả một cây quạt mo
110 cau trên tay mẹ, một cây ớt, một dây phơi cũng là tín hiệu báo tin của mẹ:
“Quạt khép mở trên tay của mẹ/ Thành tín hiệu qua đường/ Cây ớt che miệng
hầm/ Chiếc dây phơi kéo cờ khởi nghĩa”.
Dù mẹ ở miền Nam còn chìm đắm trong khói lửa chiến tranh hay miền
Bắc tự do, dù thành thị hay thôn quê, rừng núi hay đồng bằng thì vẫn là người
mẹ của lòng hy sinh, giàu tình yêu con, thương nước: “Mẹ đi gánh than mẹ
thường gánh vã/ Nhem nhuốc cả ngày xanh/… Mẹ đi gánh rạ giữa đồng/ Rạ
chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió”. Mẹ đã âm thầm một mình với nỗi nhớ con
da diết, đầy ắp khiến mẹ không còn biết chứa chất vào đâu. Hữu Thỉnh đã có
một cách nói rất riêng không lẫn vào ai bằng câu thơ mang dấu ấn câu hỏi tu từ
độc đáo: “Mẹ đang xếp lại cho anh bộn bề giá sách/ Nhưng nhớ thương thì biết
xếp vào đâu” (Đường tới thành phố).
Trải qua bao năm tháng kháng chiến với khát vọng hai miền thống nhất,
mẹ là nguồn thôi thúc con làm nên chiến thắng. Hình tượng mẹ được chiếu
sáng trên bức tường văn học hiện đại, trong trường ca về thời chống Mỹ. Mẹ
gánh trên đôi vai gầy cả tuổi xuân, cả bão lửa chiến tranh, cả đói nghèo cơ cực.
Hình ảnh Mẹ - với cái đòn gánh tre kĩu kịt trên vai - đã đi vào thơ ca, nhạc họa,
điện ảnh, sân khấu... nhưng trên tất cả, đó là hình ảnh người mẹ Việt Nam
nhân hậu, anh hùng.
Sau 1980, trong sự hồi tưởng về một thời bom đạn, các nhà thơ thời hậu
chiến cũng đã ca ngợi tình yêu gia đình, tổ quốc của người Mẹ. Nguyễn Quang
Thiều đã khắc đậm hình ảnh cao đẹp của người mẹ chiến sĩ đang nhớ thương
con: “Khi mẹ vun lá khô nhóm bếp/ Là lúc mẹ nhớ con nhiều nhất trong ngày/
Chiều nay con không về buộc trâu đầu ngõ/ Tiếng cọ sừng lác đác hoàng
hôn/... Chiều nay lòng mẹ đầy thương nhớ/ Những đứa con đi đánh giặc xa
nhà” (Những người lính của làng).
Mẹ đã được các nhà thơ đưa lên tầm cao anh hùng trong lẽ bình thường.
Đất nước ta là đất nước của nhân dân, đất nước ấy là của mẹ, sinh ra mẹ. Và mẹ
111 lại sinh cho đất nước lớp lớp anh hùng để bảo vệ sự sống còn của đất nước. Từ
hình ảnh người mẹ riêng có thực, cụ thể của từng chiến sĩ trong cuộc chiến
chống Mỹ, các nhà thơ đã nâng thành hình tượng mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là
hình tượng bà mẹ Việt Nam mang tính điển hình trong văn thơ thời chống
Mỹ nhưng cũng chính là những bà mẹ thật sự của cuộc đời những năm kháng
chiến cam go. Với quan niệm nghệ thuật về con người theo ý thức hệ của giai
cấp vô sản, mẹ là người mẹ Tổ quốc, người mẹ nhân dân.
Từ những khúc, đoạn thơ… đã dẫn trên đây, có thể khẳng định, hình ảnh
mẹ Việt Nam anh hùng đã được các nhà thơ cảm nhận và miêu tả khá sắc nét
trong trường ca về thời chống Mỹ. Mẹ đã đồng hành cùng dân tộc đi vào
cuộc chiến đấu không cân sức một cách bền bĩ, kiên trung.
Như vậy, nhìn vào đội ngũ nhân vật của nền văn học cách mạng: “ta thấy
ưu thế không thuộc về các nhân vật có cương vị xã hội cao (các nhân vật của
lịch sử) như trong sử thi cổ điển mà lại thuộc về các nhân vật bình thường:
người mẹ, người vợ, người con gái, người du kích, giao liên, cán bộ vận tải”
[6, tr.23].
Cùng đồng hành với Mẹ là sự đồng hành của nhân dân. Cuộc chống Mỹ
đem đến cho các nhà thơ có một tầm nhìn cao, một cảm xúc lớn. Họ đã quan
sát cuộc sống và con người cao đẹp trong thời chống Mỹ để xây dựng thành
những hình tượng đẹp trong trường ca. Đó là lớp sinh viên học sinh ở Huế
xuống đường trong Mặt đường khát vọng, anh thợ điện trong trường ca
Nguyễn Văn Trỗi, các cô gái vận tải trong Sông núi trên vai, người du kích
trong Mặt trời trong lòng đất, anh hùng Huỳnh Việt Thanh trong Người anh
hùng Đồng Tháp, hình tượng Bác Hồ trong Theo chân Bác… Tất cả đều là
những hình tượng nhân vật được các nhà thơ kiến tạo, lý giải, xây dựng theo
cảm quan cách mạng của mình. Vấn đề thời đại, con người, sống chết, lương
tâm đều được đặt ra và giải quyết một cách sâu sắc, nhuần nhị. Họ là những anh
hùng, họ cũng chính là những con người vô danh mà ta đã gặp gỡ đâu đấy trong
cuộc sống diệu kỳ.
112
Đặc biệt, Mẹ đã sinh ra những người phụ nữ Việt Nam mềm mại, dịu dàng
nhưng cũng gan góc, âm thầm chịu đựng hy sinh giống mẹ. Chưa có một đất
nước nào trên thế giới mà phụ nữ chịu cảnh góa bụa nhiều đến như vậy: “Mái
nhà nào cũng như bén lửa/ Thiếu phụ nào cũng như một lần góa bụa” (Đất
nước hình tia chớp). Các nhà thơ đã xót xa khi phải phản ánh đúng hiện thực
đau thương ấy, và từ đau thương mà nung nấu ý chí quật cường: “Khi có giặc
người con trai ra trận/ Người con gái trở về nuôi cái cùng con/ Ngày giặc đến
nhà đàn bà cũng đánh/ Nhiều người đã trở thành anh hùng” (Nguyễn Khoa
Điềm - Mặt đường khát vọng).
Trong trường ca Nguyễn Văn Trỗi, Lê Anh Xuân dựa vào nguyên mẫu anh
thợ điện Nguyễn Văn Trỗi để xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm. Bên
cạnh anh, có người vợ một lòng chung thuỷ, bền bỉ đồng hành cùng cuộc chiến
đấu của chồng. Mặc dầu dựa vào truyện ký Sống như Anh của Trần Đình Vân
nhưng Lê Anh Xuân đã nói được nhiều điều mà truyện ký chưa nói được.
Đó là cô gái sẵn sàng sống chết vì quê hương Tuy Hòa trong Ở làng
Phước Hậu của Trần Vũ Mai. Là những người du kích Đồng Tháp trong Người
anh hùng Đồng Tháp của Giang Nam.
Trong Sông núi trên vai, Anh Ngọc cũng đã dựng lại chân dung của các cô
gái vận tải ở vùng cực Nam Trung bộ. Bằng trái tim nhạy cảm của một người
lính đã từng đặt chân đến vùng đất khói lửa ác liệt này ngay từ những ngày đầu
tiếp quản, nhà thơ cảm nhận sâu sắc tâm sự của cô gái Ung Thị Hà; quê ở thôn
Bình An, thuộc vùng Tam giác sắt, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
Cô đã sống trong mái tranh nghèo mười lăm lần dựng lên mười lăm lần giặc
đốt, trong nhà có bảy liệt sĩ. Cô gái quyết rửa thù vì đất đai; mồ mả ông bà, tổ
tiên bị dày xéo. Nhà thơ đã để cô tự giới thiệu về mình: “Em là Hà/ Ung Thị
Hà/ Quê vùng Tam giác”.
Trường ca cũng đã dựng lại hình ảnh cô gái Pi Thị Bảy, con cháu anh
hùng Pi Năng Tắc, da nâu mắt đen thẳm như mắt loài chim két, thề không đội
113 trời chung với giặc. Cô gái Rắc Lây ấy không biết đi xe đạp, chỉ biết đẩy xe thồ
qua đồn bốt giặc nhưng vẫn sẵn sàng gùi cả dãy Trường Sơn đi vào cuộc chiến.
Chỉ bằng vài chi tiết, hình tượng Pi Thị Bảy như tạc thành tượng: “Con gái hai
mươi lưng hóa thép/ Em gùi cả dãy Trường Sơn”. Những cô gái đã vượt qua
mưa bom đạn nổ, vượt qua dông gió của trời. Họ ra đi trong sương mù, leo đồi
leo dốc chuyển những hòm đạn DK và đạn cối qua bên kia núi. Giữa cái sống
và cái chết, các cô vẫn cao cả nghĩ rằng hãy lấy mái tóc dài con gái của cô để
làm cầu cho bạn bè đi sau bước tiếp. Những chi tiết độc đáo ấy đã phản ánh
đậm nét về các cô, những con người hiện diện chân thực trên đời.
Nhà nghiên cứu Mã Giang Lân đã nhận định “Từ kháng chiến chống thực
dân Pháp đến chiến tranh chống đế quốc Mỹ là những bậc thang đi lên trong
nhận thức, tư tưởng, tình cảm của cả dân tộc ta và của mỗi một người cầm bút”
[47, tr.334]. Điều này chứng tỏ trường ca có khả năng khái quát cao. Khái
quát một giai đoạn lịch sử, khái quát những vấn đề chính yếu của dân tộc, khái
quát về một thế hệ yêu nước, quyết bảo vệ tổ quốc đến cùng. Trong trường ca
về thời chống Mỹ, dù nguyên mẫu hoặc mô phỏng một phần về người thực
việc thực thì tất yếu đều là những điển hình cho thế hệ và thời đại.
Nếu ờ thời chống Pháp, bài thơ nổi tiếng của Chính Hữu khiến người ta
không thể quên được hình ảnh “Quê hương anh nước mặn đồng chua, làng tôi
nghèo đất cày lên sỏi đá” cũng như hình ảnh “nhà trống gửi lại bạn thân cày”
để nhận lấy “áo rách vai, quần vài mảnh vá, rét run người, miệng cười buốt
giá, chân không giày”... thì ở trường ca về thời chống Mỹ, hiện thực cuộc sống
chiến đấu lại càng được mô tả cụ thể hơn. Cảm xúc về đồng đội, chỉ huy, lãnh
tụ, nhân dân, gia đình, bè bạn... được in lên bức tường văn học thời chống Mỹ.
Từ hình ảnh “lũ chúng tôi bọn người tứ xứ” trong bài thơ Nhớ của Hồng
Nguyên, anh bộ đội cụ Hồ trong Đồng chí của Chính Hữu, đến hình ảnh các
anh Giải phóng quân trong Những người đi tới biển của Thanh Thảo “được ra
trận những năm đất nước mình khốc liệt”, hay trong Đường tới thành phố của
114 Hữu Thỉnh... là một bước tổng hợp mới trong nghệ thuật sáng tạo giữa cụ thể
và khái quát, giữa hiện thực và trữ tình. Cứ như thế, hình ảnh nhân dân luôn
đồng hành với các anh chiến sĩ… đã đi vào trường ca thời chống Mỹ nói
riêng và thơ ca hiện đại nói chung.
Sau 1990, trong Những cánh đồng dưới lửa, Văn Lê đã kể lại câu chuyện
rất thật về người lính: “Chúng tôi/ Những thằng lính trẻ măng ở đồng bằng Bắc
Bộ/ Những thằng lính khai man tuổi để sớm được bước vào đời/ Những thằng
lính vận quân phục vào người mà vẫn không xóa được phần con nít”.
Hoàng Trần Cương cũng đã hơn một lần nói với mẹ về những điều được -
mất, hơn - thua, vốn và lãi trong trường ca Trầm tích: “Mẹ ơi/ Lẽ ra con cũng
đã như bao đồng đội/ Khi đất nước mình trận mạc/ Những ngày sống bây giờ/
Dẫu còn phần lấm láp/ Nhưng với con, kể ra là lãi/ Món nợ này con biết trả
sao/ Biết trả ra sao”. Nhà thơ vẫn trằn trọc đêm đêm dù cuộc chiến đi qua đã
lâu “Những ngày con ở trận đã xa rồi/ Sao mỗi đêm vẫn vật mình thức giấc”…
Chiều sâu và sức rung động của những vần thơ trong trường ca được
tạo nên nhờ một phần lớn sự khái quát về người thật, việc thật, địa danh có
thật. Đó còn là sự thông hiểu ngọn nguồn, bởi sự nghĩ suy chân tình thấu gan
thấu ruột. Đời sống chiến đấu của các anh là cả một chuỗi dài gian khổ mà chỉ
những người trong cuộc như các chiến sĩ nhà thơ mới nhìn hết được.
Cùng mạch cảm xúc ngợi ca, Lửa mùa hong áo (ra đời sau 1990) của Lê
Thị Mây là sự tưởng nhớ về hình ảnh chân thực của mười hai cô gái thanh
niên xung phong. Trong tâm trí của nhân dân, các cô gái bằng xương bằng thịt
đã sống và chiến đấu anh dũng, bám đường bất kể ngày đêm. Những ngày đầu
đến với tiểu đội, họ là những cô thôn nữ duyên dáng xinh tươi. Yêu quê hương,
các cô gái đã sát vai nhau để hòa thành đồng đội: “Mười chín đôi mươi mẹ tiễn
vợi làng/ Trăng lật nón/ luỹ tre bom dội/ Liền chị liền em san sát thành đồng
đội”.
115
Những cậu học trò với tuổi thơ mơ mộng trong Trầm tích của Hoàng Trần
Cương cũng đối diện với cuộc chiến. Họ hiểu rằng không có độc lập tự do, thì
không thể có khung trời riêng cho ước mơ xanh bay lên: “Giặc giã đến/ Giằng
khỏi tay con cây bút/ Vở học trò phơi trắng cả hàng hiên/... Con nhập vào với
lửa/ Giật mình súng đã tràn tay/ Bàng hoàng biết tuổi thơ không về nữa”.
Nối tiếp truyền thống anh hùng của một dân tộc đã từng sống trong những
ngày chiến tranh hơn những ngày hòa bình, nhân dân ta đã đồng cam cộng khổ,
chia ngọt xẻ bùi... quyết vượt qua gian lao, vươn tới tự do và hạnh phúc. Cả dân
tộc một lòng đồng hành cùng cuộc chiến đấu một mất một còn để bảo vệ đất
nước bởi lòng dân đã quyết, trái tim đã nguyền: “Giặc nhốt dân, không nhốt
được lòng dân”.
Có thể khẳng định rằng, sức khái quát hiện thực của trường ca về thời
chống Mỹ thật sâu sắc bởi văn học thời chống Mỹ có một đặc điểm hết sức nổi
bật; đó là cách viết tôn trọng sự thật, cách tả thực theo lôgic của sự “phản ánh
chân thực hiện thực”. Và trường ca về thời chống Mỹ đã khái quát rõ nét sự
đồng hành của Mẹ, của nhân dân trong cuộc chiến đấu thần thánh của dân
tộc; kể cả những hy sinh, mất mát.
2.2.4 Sức khái quát về sự hy sinh của nhân dân
Viết về bất kỳ một cuộc chiến tranh nào; các nhà văn, nhà thơ không thể
bỏ qua những hy sinh quá lớn lao mà dân tộc đã chịu đựng. Văn học hiện đại
Việt Nam, nhất là trường ca về thời chống Mỹ, cũng đã phản ánh khá chân
thực những đau thương mất mát bởi chiến tranh. Tuy nhiên, tùy giai đoạn lịch
sử mà các văn nghệ sỹ có cách thể hiện nông hay sâu cho phù hợp với thời cuộc
và xu thế lịch sử. Bởi bất kỳ một thắng lợi, một vinh quang nào cũng phải trả
bằng mồ hôi, nước mắt. Với chiến tranh, sự mất mát hy sinh đồng nghĩa với
máu đổ. Thế nhưng mất mát, hy sinh không thể đi đôi với bi thương, yếu đuối.
Thời kỳ trước 1975, có lẽ văn nghệ sỹ còn e dè khi phản ánh những sự
thật trần trụi về những mất mát, hy sinh… hoặc viết theo kiểu cách điệu hóa.
116
Trường ca Bài ca chim Chơrao là một điển hình. Cái chết của Hùng - cán
bộ cách mạng người Kinh - và Rin người dân tộc được khắc họa thành biểu
tượng ngọn lửa trong tiếng hát trầm hùng đậm màu sắc sử thi: “Hai dây trói trở
thành tro bụi/ Nhưng tim anh hùng vẫn còn đập giữa khói đen”. Cái chết của
họ được thắp sáng bằng hình ảnh đối lập có tầm vóc theo khuynh hướng ước lệ,
cách điệu hóa hình tượng anh hùng và kẻ thù: “Quân thù kia ơi! Một bầy man
rợ/ Bay đừng hòng khuất phục đời ta/ Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy/
Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”.
Ở miền Nam, cuộc đấu tranh của thanh niên học sinh thành thị kết hợp
với nhân dân lao động từ sau 1972 ngày càng bùng lên mạnh mẽ. Nguyễn Khoa
Điềm đã phản ánh không khí sôi sục đó trong Mặt đường khát vọng. Trường ca
gần 1400 câu thơ, gồm chín chương (Lời chào, Báo động, Giặc Mỹ, Tuổi trẻ
không yên, Đất nước, Áo trắng và mặt đường, Xuống đường, Khoảng lớn âm
vang và Báo bão). Chương nào cũng ăm ắp những khát khao, những hoài bão
của tuổi trẻ sinh viên học sinh thành thị miền Nam trước cảnh nước mất nhà
tan: “Anh em ơi, xuống đường… Ta ra trận bằng màu áo trắng”. Tuổi trẻ đã hy
sinh như những anh hùng ngã xuống nơi trận mạc, dòng máu đỏ của họ đã đổ vì
độc lập, tự do: “Máu đổ rồi! Máu học sinh sinh viên/ Máu đỏ rực trên nền áo
trắng/ Máu càng thắm. Tự do càng chói sáng/ Máu Việt Nam, máu yêu nước
tươi hồng”.
Sau năm 1975, Thanh Thảo đã ghi lại cảm xúc của ngày toàn thắng, đã
đến với “biển”, đã thay chúng ta gửi lòng nhớ thương, biết ơn trân trọng về
những người chiến sĩ đã ra đi mãi mãi không về họp mặt cùng đồng bào, đồng
chí: “…Ngày chúng ta toàn thắng/ Đâu những người chúng tôi thân thiết tận
tâm can/ Xin nâng chén rượu nhỏ này/ Trong như nước mắt, nóng bừng như
tiếng hát/ Gửi nhớ thương về các anh tôi” (Những người đi tới biển).
“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” là khẩu hiệu, là mệnh lệnh và cũng
chính là lời tâm tình mộc mạc nhưng cứng như thép của các anh. Các anh sẵn
117 sàng dâng hiến tuổi xanh cho tổ quốc và sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc đứng lên.
Người chiến sĩ trong Những người đi tới biển được Thanh Thảo khắc họa có
sức khái quát điển hình từ những nấm mồ yên nghỉ. Đó là những người đồng
đội đã ngã xuống nơi cánh rừng Trường Sơn. Sự hy sinh của người chiến sĩ
được Thanh Thảo gọi tên thật là xúc động và đã tạc vào thơ ca những tấm bia
ngàn đời vinh hiển: “Ngày dân tộc trở về đường số một/ Lòng không nguôi
thương những cánh rừng này/ Nơi những đứa con nằm lưng đèo cuối dốc/ Dọc
theo lối mòn chìm khuất dưới rừng cây/ Nếu một ngày ta dựng những hàng bia/
Xin hãy để “Nơi đây những cuộc đời chưa bao giờ yên nghỉ”.
Hình ảnh nắm cơm cháy trong Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh là một
chi tiết giàu sức lay động, gợi cho ta nỗi day dứt về sự hy sinh của người chiến
sĩ lái xe tăng. Mẫu cơm “đen chỉ còn một nửa, có dấu tay in lõm vào trong,
ngón tay bè của đồng chí lái”, vì: “Các anh ăn nửa bữa trong ngày/ Phần để
dành/ Làm ta day dứt mãi”. .
Các trường ca về thời chống Mỹ từ 1975 về sau đã phản ánh sự hy sinh
cao cả của người chiến sĩ ra trận tương đối cụ thể hơn. Hầu hết các trường ca
đã xây dựng thành công hình tượng người chiến sĩ nhân dân - một kiểu người
lính hoàn toàn mới trong lịch sử dân tộc. Đó là những con người được kết tinh
từ chủ nghĩa anh hùng cách mạng dân tộc và bản chất con người xã hội chủ
nghĩa; sẵn sàng hy sinh tuổi trẻ, hy sinh hạnh phúc cá nhân, và đến trước lúc
chết vẫn sẵn sàng hy sinh giọt máu cuối cùng cho đồng đội.
Trường ca mô tả hình ảnh người lính đi vào cuộc hành quân vội vã, để rồi
khi ngã vào lòng đất vẫn là người trai trẻ: “Thế hệ chúng con đi như gió thổi/
Quân phục xanh đồng sắc với chân trời/ Chưa kịp yêu một người con gái/ Lúc
ngã vào lòng đất vẫn con trai”. Đó là những người anh hùng hết lòng vì nhân
dân, đồng đội: “Sống thì đi mà chết thì nằm/ Giọt lệ phần mình, nụ cười dành
bạn”; và họ đã nằm lại đâu đấy trong những cánh rừng heo hút hay bên những
118 vách núi lạnh lẽo, chơ vơ: “Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh/ Trọn đời làm
chiến sĩ vô danh” (Đất nước hình tia chớp).
Giang Nam, trong Người anh hùng Đồng Tháp, đã xây dựng hình ảnh anh
hùng Huỳnh Việt Thanh sẵn sàng hy sinh hạnh phúc riêng tư để xả thân vì đất
nước. Trong chương cuối Ánh chớp đêm giao thừa, nhà thơ đã nhắc nhớ về sự
hy sinh như một sự biết ơn thành kính: “Vậy là đã ba mươi năm/ Các anh vĩnh
viễn ra đi/ Để lại chiến công/ Để lại niềm vui và nỗi nhớ thương da diết/ Để lại
màu xanh cho trời cao, biển biếc/ Cho hàng me đàn trẻ nô đùa”.
Trường ca về thời chống Mỹ đã ghi lại sự hy sinh thầm lặng như một nốt
bè trầm xao động tận tâm can. Các nhà thơ đã luôn ám ảnh về những người mãi
mãi ở tuổi đôi mươi, ám ảnh về những người trong thời bình hôm nay vẫn cứ
tồn tại trong mình di chứng của thời chống Mỹ. Chiến tranh đã để lại quá nhiều
đau thương, đó là “cuộc chiến tranh ám ảnh khôn nguôi”.
Ngày nay, chúng ta vẫn biết rằng nhiều ngôi mộ nằm lẫn khuất dọc núi
rừng Trường Sơn đang được đồng đội, nhân dân tìm kiếm, qui tập về nghĩa
trang liệt sĩ. Nhưng nào phải là tất cả. Và dù đã về nằm chung với đồng đội ở
nghiã trang hay vẫn còn nằm nơi chốn rừng núi thâm u thì quả thật, các anh vẫn
chưa bao giờ yên nghỉ bởi các anh vẫn mãi sống trong lòng dân tộc, đêm đêm
vẫn “rì rầm trong tiếng đất/ như buổi ngày xưa vọng nói về” (Đất nước -
Nguyễn Đình Thi).
Ở thời hậu chiến, cách tư duy và cảm nhận rộng mở, càng về sau càng có
biên độ rộng hơn trong diễn đạt; trong cách bày tỏ tâm tư; trong phản ánh…
Bảo Ninh đã rất bản lĩnh khi chọn đề tài chiến tranh. Nhà văn đã viết về chiến
tranh bằng một ngòi bút trầm tỉnh nhưng thật sự là “nổi lửa”. Trầm tĩnh bởi vì
anh cảm nhận Nỗi buồn chiến tranh bằng thời gian hiện tại nhìn về quá khứ để
soi rọi, chiêm nghiệm, phân tích nội tâm, đào sâu suy nghĩ của từng nhân vật
người lính trong truyện. “Nổi lửa” bởi từ sự thâm trầm ấy, anh nhẹ nhàng bắt
sự thật cháy lòng phải tự thốt lên, cất lên những lời chân thực.
119
Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây là trường ca đầu tiên về thanh niên
xung phong, cũng là trường ca của một nhà thơ nữ. Mười hai người con gái trẻ
trung của nhiều miền quê đã tụ tập về cung đường Quảng Bình tuyến lửa. Một
cung đường có lúc đầy cây đổ, chằng chịt những hố bom rộng hoác, đất đá
ngổn ngang, mùi xăng xe, mùi hàng hoá cháy nồng nặc. Mười hai con người
nhỏ bé, yếu đuối nhưng lòng quyết tâm thì cao hơn núi. Ở nơi đó có các cô gái
chải đầu giặt áo, có cười nói hồn nhiên, có tóc rụng đau lòng, có khao khát nhớ
nhung, có tuổi xuân ngọt ngào, có đau thương khi một người bỏ chỗ ngồi hong
áo mà ra đi. Các cô gái đã sống đúng nghĩa và trọn vẹn với những năm tháng
ngắn ngủi, dù phải tan xương nát thịt để giữ vững mạch máu lưu thông: “Tiểu
đội mười hai người/ Một buổi chiều/ mâm cơm/ thừa đũa/ thừa bát/ Nhìn xuống
bếp/ thừa một chỗ ngồi hong áo”.
Đã từng là thanh niên xung phong, đã từng qua những nhọc nhằn gian
khó, đã từng kề cận cái sống cái chết nên tâm tình Lê Thị Mây vô cùng chân
thật. Chị trải lòng mình - một người đồng đội năm xưa - để nói với mười hai cô
gái đã nhắm mắt tan vào cát bụi; chưa được làm vợ, làm mẹ thiêng liêng:
“Trong bọc áo chị còn kim chỉ, trang nhật ký dở dang/ Chữ liền chữ, đêm liền
đêm, ngày liền ngày, sáng bừng lên gương mặt/ Màu mực đừng phai, vết đạn
xuyên thời gian dằng dặc/ Ký ức bập bùng mỗi tên núi tên sông”. Chọn môtíp
con đường, nhưng Lê Thị Mây có một cách nói riêng không giống với những
con đường trong trường ca Mặt đường khát vọng, Những người đi tới biển, bởi
con đường trong Lửa mùa hong áo là con đường gắn liền với nhiệm vụ quan
trọng của mười hai cô gái thanh niên xung phong.
Cùng viết về những cô gái anh hùng ở ngã ba Đồng Lộc, Nguyễn Trọng
Tạo có Trường ca Đồng Lộc, tức Con đường của những vì sao. Sự hy sinh của
các cô đã được nhà thơ ghi lại thật xúc động: “Mười chị em ở đâu rồi/ để cho
nước mắt khôn nguôi tìm người.../ Cách nhau một lớp đất thôi/ mà xa xôi thế -
không lời - lặng im”...
120
Trong Sông núi trên vai, như mười hai cô gái ngã ba Đồng Lộc, các cô
trong đoàn vận tải H 50 đã ra đi vì địa hình chiến đấu khắc nghiệt. Chỉ một
chiếc bè nứa nhưng phải chở năm cô gái cùng năm gùi hàng qua sông lũ, giây
phút hiểm nghèo bè nặng người đông, tình yêu đồng đội lên tiếng gọi và đạn
dược phải được bảo vệ, cô gái tên Hoa đã quyết gieo mình xuống dòng nước
cho nhẹ bớt bè: “Những viên đạn đang chờ lên phía trước/ Không thể nào chìm
sâu đáy nước/ Em đã gieo mình xuống dòng nước xiết/ Lòng thanh thản nhận
về mình cái chết”. Và cô gái đã hy sinh không kịp gửi lại gì ngoài “sợi chỉ bật
ra từ miếng vá trên vai trong giây phút cuối cùng, là tín hiệu vô tình thả ngược
dòng sông cho bạn bè tìm lại”. Một sự tự nguyện hy sinh cao quý chỉ có ở
những con người quả cảm đã được phản ánh chân thực và đầy xúc động.
Trường ca được sáng tác ở những năm sau chiến tranh lại càng phơi bày
sự thật về chiến tranh sâu rộng hơn, mạnh mẽ hơn. Có thể kể đến Những cánh
đồng dưới lửa của Văn Lê đã miêu tả trần trụi sự đói khát của các anh, kể cả
sự thương vong mất mát, người sống làm lễ truy điệu cho nhau trước giờ nổ
súng: “Cả tiểu đoàn vừa đi vừa bò mà vào mặt trận/ Ai ngã thì đồng đội đem
chôn/ Đến đào huyệt cũng không còn sức nữa/ Người đưa ma cũng chết gục
bên đường... Thời gian ấy trước khi ra trận/ Chúng tôi thường truy điệu cho
nhau/ Lễ truy điệu của những con người sống/ Để lúc sa cơ bè bạn đỡ buồn
rầu”. Nhiều câu thơ trong trường ca làm đau nhói lòng người vì sự tàn ác của
chiến tranh: “Thằng bạn thân của tôi cũng ra đi vội vã/ Thân thể trẻ măng bị xé
toác từng phần/ Chúng tôi nhặt từng mẫu xương, thớ thịt/ Ráp vào nhau như
thể ráp hình/ Rồi chôn bạn giữa cánh đồng cỏ lác/ Chúng tôi buồn mà cây
nhẫn tâm xanh” (Những cánh đồng dưới lửa).
Văn Công Hùng, trong Ngựa trắng bay về đã dành một đoạn thơ văn xuôi
đầy cảm động để hồi tưởng về sự hy sinh của người con gái phương Bắc: “Tôi
lật chiều lật cỏ để tìm em, chỉ gặp biết bao điều bình dị. Ngang dọc những cánh
rừng con gái, nào đâu em thức ở phương nào?. Tôi đi nửa giờ xe để đến nơi
121 ngày xưa em qua bằng một đời con gái. Bạt ngàn cao su rưng rưng nhựa trắng,
lại gặp những bóng áo xanh một thời trận mạc...”.
Trường ca Những người lính của làng ra đời hưởng ứng cuộc vận động
sáng tác về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân (1992
- 1995), Nguyễn Quang Thiều đã ghi nhận sự hy sinh của các anh bộ đội và
thay lời người lính để tâm tình cùng mẹ khi ra đi vào cõi nghìn trùng: “Chiến
tranh qua rồi/ và mãi mãi con tin/ Con không chết, con chỉ không lớn nữa/ Và
con sống suốt đời mười tám tuổi/ Như buổi chiều chào mẹ con đi”. Sự hy sinh
của các anh là để dân tộc đứng lên:“Thưa Mẹ!/ Con về với mẹ đây…Chiến
tranh đã tắt cuối con đường/Cau vẫn rụng vào những chiều thương nhớ/ Bầy sẻ
nâu đã bao mùa sinh nở/ Con đã về, mẹ có thấy con không?
Trường ca ghi lại chi tiết các anh đã yên ngủ trong lòng đất mẹ nhưng ký
ức tuổi thơ vẫn sống mãi trong lòng những người ở lại. Những tiếng nô đùa,
những trò chơi dân dã, những cánh đồng chiều lộng gió vẫn còn đó nhưng
không thể biết các anh đang nằm lại ở chốn nào. Nguyễn Quang Thiều đã trăn
trở và bày tỏ trong những vần thơ nhức nhối đau lòng: “Tất cả/ tất cả giờ đây
đang ngủ/ Đang ngủ yên/ đang ngủ ở chân trời.../ Chúng tôi chỉ nhớ rằng/ Sau
trận đánh/ Tiếng điểm số hàng quân/ Lặng lẽ ngắn dần”.
Hoàng Trần Cương, trong chương 10 (trích Trầm tích) cũng tạo những ấn
tương mạnh mẽ về những ngôi mộ chứng nhân một thời bão lửa: “Người đã
khuất vẫn cưu mang người đang sống/ Ngôi mộ là chứng nhân/ Những chứng
nhân mọc và rụng không bất ngờ với đất/ Đất hiến trao/ Đất lại nhận về/ Lặng
im mới dài lâu/ Lặng im là màn đêm ngậm một nửa địa cầu/ Ngôi mộ là ngôi
nhà của những linh hồn sống trong đêm...”. Người lính là chứng nhân. Các
anh hy sinh để rồi những ngôi mộ của các anh lại tiếp tục là chứng nhân
trong thời chiến lẫn thời bình” (Trầm tích).
Ngay cả những người lính một thời gian lao, anh dũng năm xưa, nay sống
trong hòa bình vẫn đau đáu vì vết thương chiến tranh vẫn còn âm ỉ: “Nào có hết
122 được gian truân, cuộc đời người lính/ Nỗi đau xưa cứ âm ỉ trong lòng/ Giấu
khóc mà cười, giấu đau mà khóc/ Nỗi niềm nào còn lại với hư không?” (Những
cánh đồng dưới lửa - Văn Lê).
Có thể nói, trường ca về thời chống Mỹ đã phản ánh kịp thời sự hy sinh
của người lính một cách chân thực. Đọc trường ca, sự tàn bạo của chiến tranh
đã được phơi bày. Một số trường ca thời hậu chiến cũng đã phản ánh hiện
thực một cách sâu rộng hơn, mạnh mẽ hơn, thể hiện tấm lòng ngưỡng vọng
về sự hy sinh cao đẹp của chiến sĩ, nhân dân anh hùng.
Những người tham gia vào cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, ngày nay, dù
mất hay còn; dù được khắc tên lên tượng đài Tổ quốc ghi công hay mãi mãi
nằm lại nơi chốn rừng gìà âm u, lạnh lẽo; dù thân thể còn nguyên vẹn hay đã
gửi lại một phần nơi chiến trận; dù có hạnh phúc tràn trề hay muộn màng thậm
chí không có một gia đình, một đứa con để họ an ủi lúc trái gió trở trời... thì tất
cả đều là hình ảnh thật sống động về một dân tộc anh hùng. Các nhà thơ đã
khắc hình tượng của họ vào những trang thơ ấm nồng nghĩa tình sâu nặng, đặc
biệt là ở những trường ca thiên về chất trữ tình trầm lắng. Sau chiến tranh, họ
có thời gian chiêm nghiệm để phản ánh bao quát và ngọn nguồn hơn về một
thời hào hùng đã qua. Mạch cảm hứng chủ đạo của họ phần lớn là khẳng
định sự bất tử của người lính thời chống Mỹ, bày tỏ sự tri ân, nhận thức rõ
những điều được-mất của cuộc chiến chống Mỹ. Các địa danh trong trường ca
là các địa danh có thực ở ngoài đời. Nơi ấy đã từng hứng chịu bao cảnh bom rơi
đạn nổ, biệt ly... Có thể khẳng định, chưa có một thể loại thơ ca nào mà có sức
khái quát và phản ánh dịa danh, người thực việc thực sâu đậm như trường
ca về thời chống Mỹ.
2.3. Đặc trưng sử thi. Sự gắn kết giữa tính chất sử thi và trữ tình
2.3.1 Đặc trưng sử thi
Tính sử thi là một đặc điểm nổi bật của nền văn học hiện đại Việt Nam,
hình thành và phát triển từ sau cách mạng tháng Tám 1945.
123
Khi bàn luận về tính chất sử thi, Hêghen đã nhấn mạnh rằng: “Nội dung
và hình thức của tính sử thi thật sự là toàn bộ quan niệm về thế giới và cuộc
sống một dân tộc, được trình bày dưới hình thức khách quan của những biến cố
thực tại” [26, tr.573]. Như vậy, tính chất sử thi sẽ bộc lộ ở những tác phẩm
chứa đựng những biến cố thực tại mang tầm vóc lớn lao liên quan đến vận
mệnh của cả dân tộc. Từ năm 1960 đến 1975, trường ca viết về đề tài lịch sử
dân tộc phát triển mạnh hơn hẳn nhóm đề tài thế sự và đời tư, Do vậy, tính
chất sử thi là đặc điểm nổi bật trong trường ca sử thi hiện đại Việt Nam.
Sử thi cổ điển trên thế giới đã xuất hiện rất sớm trong đời sống tinh thần
của nhân loại. Ở Việt Nam, thể loại sử thi đã từng tồn tại ở các nền văn học
Êđê, Bana, và trong văn học Việt Mường. Trước khi bàn về tính chất sử thi của
nền văn học mới, hãy khảo sát đặc điểm của loại sử thi dân gian cổ sơ này. Cụ
thể như “Đẻ đất đẻ nước” có đủ bốn yếu tố bắt buộc của sử thi. Thứ nhất, đó
là môt tác phẩm tự sự kể lại sự ra đời của trời, đất, mường, dân tộc Mường.
Thứ hai, đó là một tác phẩm mang tính lịch sử bởi vì đây là một thí nghiệm
giải thích bằng lịch sử về sự hình thành của dân tộc Mường gắn liền với thành
tựu của văn hoá. Thứ ba, đó là một tác phẩm mang tính nhân dân sâu đậm.
Thứ tư, đó là một tác phẩm kì vĩ, vì từ đầu đến cuối nó nói đến mối quan hệ
qua lại giữa thế giới trần linh với thế giới trần gian. [79, tr. 25-26].
“Đẻ đất đẻ nước” thuộc loại sử thi dân gian điển hình của Đông Nam Á.
Đây là một tác phẩm hình thành vào giai đoạn liên minh bộ lạc, phản ánh
nguồn gốc và sự phát triển của đất nước và dân tộc, đã biểu hiện đúng thực chất
của nền văn học Việt Nam cổ xưa. Nếu chiến tranh là yếu tố quan trọng
trong trường ca hiện đại, thì ở trong trường ca cổ điển, nó chỉ giữ vai trò
thứ yếu.
Thời đại chống Mỹ cứu nước là cái nền hiện thực rộng lớn sôi động chứa
đầy những biến cố lịch sử. Trường ca hiện đại phát triển mạnh mẽ, nhất là ở đề
tài đấu tranh chống Mỹ; tất yếu trường ca thấm đẩm tính chất sử thi. Bởi, khi
124 Hêghen cho rằng “thời đại anh hùng sản sinh ra sử thi đã vĩnh viễn lùi vào dĩ
vãng” cũng như khi Biêlinxki tuyên bố “sử thi của thời đại chúng ta là tiểu
thuyết”, thì điều đó còn có nghĩa là sử thi của các thời đại hoàn toàn không lặp
lại nhau, mỗi thời đại đều có “sử thi” riêng của mình. Theo nghĩa đó, nhiều
nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đã nói đến tính sử thi của nền văn học mới”
[84, tr.62].
Trên nền hiện thực đấu tranh chống Mỹ ác liệt, các nhà nghiên cứu văn
học đã cho rằng đặc điểm sử thi của văn học Việt Nam thể hiện ở chỗ tăng
cường tính sự kiện và tính chính luận. Sử thi trở thành một hiện tượng xã hội
thẩm mỹ rộng rãi. Điều đó thể hiện ở việc trường ca phát triển mạnh, giàu
tính sự kiện, giàu tính triết lý, chính luận. Vũ Văn Sĩ đã viết: “Trong các
cuộc hội thảo và tranh luận văn học, thuật ngữ sử thi thường được dùng để
khái quát sự phát triển văn học 1945 - 1975 trong sự so sánh với văn học giai
đoạn sau đó như là một sự tương phản. Văn học sử thi là văn học của cái
chung, cái cao cả. Văn học hậu sử thi là văn học của cái đời thường, cái riêng”
[84, tr.73].
Nhưng, văn học sử thi trước 1975, nếu chỉ xem là văn học của cái chung,
cái cao cả và cho rằng nó tương phản với văn học hậu sử thi sau 1975 chỉ thiên
về cái đời thường, cái riêng thì chưa bao quát. Bởi trong cái chung, cái cao cả
vẫn bộc lộ những vấn đề riêng tư. Những nét riêng đời thường vẫn có thể bộc lộ
trong cái cao cả, cái chung.
Các trường ca ra đời sau 1990 không phải chỉ phản ánh cuộc sống, tình
cảm riêng tư đời thường; mà đa phần; thông qua thủ pháp “hồi tưởng”, các nhà
thơ đã gợi nhớ lại cuộc chiến tranh chống ngoại xâm oanh liệt, hào hùng của
dân tộc.
Trong nền văn học cổ đại, một tác phẩm sử thi phải có bốn đặc điểm như
đã nêu trên [57, tr.25]. Trường ca sử thi hiện đại lại có những khác biệt:
125
- Thứ nhất, trường ca sử thi hiện đại thường không phải là một tác
phẩm tự sự kể lại sự ra đời của trời đất, dân tộc; mà kết hợp giữa tự sự và
trữ tình. Có nhiều trường ca thể hiện cảm xúc trữ tình mạnh mẽ như: Mặt
đường khát vọng, Những người đi tới biển, Đường tới thành phố, Trầm tích,...
- Thứ hai, trường ca hiện đại mang tính lịch sử nhưng không phải là
giải thích về sự hình thành đất nước, dân tộc; mà chủ yếu là phản ánh công
cuộc chống ngoại xâm của dân tộc. Ở thời bình, trường ca sử thi hiện đại còn
thiên về sự triết lý, chiêm nghiệm các hiện tượng xã hội, các mối quan hệ xã
hội... mà người cầm bút đã cảm nhận, từng trải...
- Một đặc điểm khác biệt giữa trường ca cổ điển và trường ca hiện đại khá
rõ, đó là trường ca hiện đại mang tính nhân dân sâu đậm, viết về nhân dân,
phản ánh hiện thực cuộc sống và chiến đấu của nhân dân. Trường ca cổ điển
đơn thuần ca ngợi thủ lĩnh anh hùng và qua hình thức kể, hát mà chuyển tải nội
dung ca ngợi ấy đến nhân dân…
- Một đặc điểm nữa cũng nói lên sự khác biệt là trường ca sử thi hiện đại
hoàn toàn không có bóng dáng thần linh, không có quan hệ giữa trần gian và
thế giới thần linh. Bởi, nhân vật chính trong trường ca sử thi hiện đại không cần
vịn vào thế lực siêu nhiên, lực lượng thần linh hổ trợ.
Nếu nói sử thi đã trở thành một hiện tuợng xã hội thẩm mỹ rộng rãi thì rõ
ràng hiện tượng ấy đã và đang được điều chỉnh ngày càng phù hợp với việc
nhìn nhận, lí giải thế giới, con người ở thời chống Mỹ và ở cả thời bình. Ta biết
rằng, sự phản ánh hiện thực trong văn học luôn tuân thủ nguyên tắc tái hiện
cuộc sống một cách chân thực. Việc “miêu tả sự kiện và biến cố bằng cảm
quan lịch sử là một trong những đặc trưng thi pháp của thơ Việt Nam từ sau
cách mạng” [84, tr.66] và đó cũng là một đặc trưng thi pháp của thể loại
trường ca.
Theo Đỗ Văn Khang, thời điểm ra đời của sử thi có thể là một biên độ
rộng rãi hơn nhưng có thể khu biệt bằng cả một “thời kỳ trung gian, trong đó
126 một dân tộc thoát khỏi tình trạng mê muội của nó”. Quy luật này rõ rệt đến
mức He-ghen cho rằng: khi phát triển mỗi dân tộc đều muốn có một quyển
“thánh thư sử thi” của mình [38, tr.80-81].
Cái chất làm nên đặc điểm trường ca sử thi là chất khái quát lịch sử, là
thi liệu sử thi. Trong thời chống Mỹ, dân tộc ta đã nhận thức rõ rệt về sự mất
còn của Tổ quốc, về giá trị vinh - nhục của một dân tộc bị nô lệ. Vì vậy, đại bộ
phận văn học, nhất là trường ca, đã tập trung vào đề tài trung tâm này. Hiện
thực thời chống Mỹ đã thể hiện sự xung đột của trạng thái chiến tranh nên nó
mang ý nghĩa là một sự xung đột sử thi. Đó là những xung đột chiến tranh
chống lại đế quốc, là sứ mệnh lịch sử của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới trao cho dân tộc ta giữ vai trò tiên phong. Đó cũng là điểm khác biệt về
tính chất của cuộc chiến tranh so với trường ca sử thi cổ điển. Có thể nói cuộc
chiến tranh chống Mỹ nhằm thay đổi vận mệnh lịch sử của dân tộc đã được
trường ca mô tả khá sâu sắc, đạt được trạng thái sử thi. Cảm hứng sử thi đã
in đậm trong đa số các trường ca viết về thời chống Mỹ và thường kết hợp chặt
chẽ với chất trữ tình, nhất là ở những trường ca không thiên về một cốt truyện
tự sự. Tuy nhiên, trong những trường ca ra đời gần đây, chất sử thi đang có xu
hướng giảm dần và chất thế sự ngày càng được tăng cường.
2.3.2 Sự gắn kết giữa tính chất sử thi và tính chất trữ tình
Trước khi phân tích sự kết hợp giữa tính chất sử thi và tính chất trữ tình
trong trường ca về thời chống Mỹ, hãy điểm qua một số ý kiến về tính trữ tình.
Mỗi một nhà thơ tài hoa có thể xem như là một nhân tài trong lãnh vực
văn hóa nghệ thuật - một khách đa tình có trái tim yêu thương mới có thể để lại
cho đời những vần thơ trác tuyệt giàu tính nhân sinh. Berdiaeff đã từng nói:
“Mọi nhân tài đều là khách đa tình”. Gorki cũng cho rằng: “Thiên tài là ái
tình”. Những tác phẩm văn học như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Cung
oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Truyện Kiều của Nguyễn Du... đều thể
hiện tâm tình người Việt đạt đến đỉnh cao và đều là những tác phẩm trữ tình tột
127 bậc. Các nhà thơ có trường ca nổi tiếng cũng không ngoại lệ khi mang trái tim
của khách đa tình: yêu quê hương đất nước, yêu con người...
Từ sau Cách mạng tháng Tám, văn học hiện đại Việt Nam đã dần mang
đậm chất sử thi và đã góp phần tạo nên thành tựu riêng biệt, độc đáo. Văn học
từ 1960 trở đi mang nét đặc sắc của trữ tình công dân, trữ tình chính trị và
biểu lộ rõ nét trong trường ca về thời chống Mỹ. Đó là một loại trữ tình lịch
sử, khẳng định tính chất sử thi vì lịch sử dân tộc ta là đối tượng nhận thức và
cảm thụ của trường ca trong chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là tính chất trữ tình
trong dòng sử thi cách mạng mà dòng văn học trước đó không có. Nhận
định lại điều này, Lại Nguyên Ân đã viết: “Chính trên hướng tiếp cận lịch sử
này mà ở các trường ca thành công, chúng ta tìm được những rung cảm trữ
tình vào loại trâm thầm nhất, những suy tư vào loại sâu sắc nhất…” [3, tr.10].
Trong vô vàn những sự kiện, trong bộn bề những hành động, trong lớp lớp
các chân dung có cái tôi đáng tin cậy là bản thân nhà thơ, đại diện của dân tộc
và lịch sử. Tác phẩm trữ tình đa phần không miêu tả trực tiếp các tính cách xã
hội mà chủ yếu nêu lên nhận thức xã hội của nhà thơ. Cái chủ quan mang
tính trữ tình của nhà thơ thường chứa đựng cường độ lớn của cảm xúc cụ thể và
phụ thuộc vào trình độ tư duy mang tính lịch sử. Nhân vật trữ tình là một
hình thức biểu hiện cái tôi của nhà thơ. Vì thế, người đọc sẽ nhận thấy trong
trường ca có cái tôi của tác giả, đồng thời cả bóng dáng của nhân vật trữ
tình trong đời sống xã hội. Đó là nét trữ tình của cái “ta” tâm trạng, là điệu tâm
hồn của cái “ta” thời đại; thể hiện sự kết hợp tính chất trữ tình và tính chất sử
thi trong trường ca về thời chống Mỹ.
Tính chất sử thi và tính chất trữ tình trong trường ca được bôc lộ qua vai
trò của chi tiết. Đối tượng miêu tả rất đa dạng nên có thể nói rằng trong trường
ca hiện đại, chi tiết giữ vai trò to lớn, xem như là một bộ phận cấu trúc cơ bản
của cái toàn thể mỹ học mà nó cần xây dựng. Tất cả các chi tiết, các sự kiện,
biến cố gắn kết phục vụ cho nhau nhờ cái tài của nhà thơ trong việc tổ chức liên
chương, liên khúc. Trường ca chứa đựng một dung lượng câu thơ khá lớn, lại
128 thường hướng về cái biến cố trung tâm, các biến cố tạo ra diễn biến của tính
cách sử thi; vì thế, các sự kiện, các biến cố... có thể được trình bày theo nhiều
cách; tùy thuộc vào năng lực sánh tác, cảm hứng sử thi của nhà thơ để dựng
lên một bức tranh khái quát diện mạo lịch sử của dân tộc.
Những năm tháng đất nước bị chìm trong khói lửa đạn bom; các nhà thơ
mang cảm hứng ngợi ca về đất nước, dân tộc anh hùng nên đã cho ra đời những
trường ca đậm chất sử thi bởi chính bản thân họ là sự hoà quyện của cái tôi sử
thi, cái tôi công dân. Cách chọn lựa thi liệu giàu chất sử thi đưa vào trường
ca là một minh chứng cho quan niệm của nhà thơ về đất nước, con người; là sự
thể hiện tâm hồn của họ trước những hiện thực bộn bề trong thời chống Mỹ.
Tuy nhiên, chính vì theo dòng sáng tác đã khuôn mẫu như thế, nên ngày nay,
trường ca sử thi hiện đại vẫn chưa tạo ra có sự bứt phá về nhân vật trữ tình -
vẫn là người lính trong cuộc viết về bản thân và đồng đội. Tính cách nhân vật
trữ tỉnh thường đơn điệu, thường là hình ảnh người lính, người chứng kiến
trực tiếp cuộc chiến. Tư tưởng và giọng điệu chủ yếu trong các trường ca sử thi
hiện đại đa phần nghiêng về khuynh hướng ngợi ca, bày tỏ sự lạc quan tin
tưởng về một ngày mai chiến thắng.
Hà Minh Đức có nhận định: “Người ta thường xem các trường ca, truyện
thơ thuộc phương thức biểu hiện tự sự, nội dung cũng như cách cấu tạo tác
phẩm cũng bị chi phối nhiều bởi yếu tố tự sự...” [22, tr.165], điều ấy có cái lý
của nó. Quả thật, trong trường ca và truyện thơ chứa đựng phần lớn yếu tố tự
sự, nhất là trường ca cổ điển và truyện thơ Nôm. Có thể dẫn ra vài tác phẩm
tiêu biểu đậm chất tự sự như: Nguyễn Văn Trỗi - Lê Anh Xuân, Người anh
hùng Đồng Tháp - Giang Nam, Vách đá Hồ Chí Minh - Thu Bồn, Kể chuyện ăn
cốm giữa sân - Nguyễn Khắc Phục...
Tính chất sử thi của văn học sẽ nằm trong chiều sâu sự cấu tạo và các thủ
pháp sáng tạo để dựng lên những tính cách điển hình đã xuất hiện trong xã hội
có nhiều biến cố lớn lao. Không gian, thời gian trong cuộc sống hàng ngày
129 tưởng chừng như hoà trong máu thịt của mỗi người dân Việt, được Nguyễn
Khoa Điềm mô tả thật gìàu cảm xúc, đậm chất sử thi: “Vào bốn nghìn năm đất
nước/ Năm tháng nào cũng người người lớp lớp/ Con gái con trai bằng tuổi
chúng ta/ Cần cù làm lụng/ Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái
Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm có chương V rất
trở về nuôi cái cùng con/ Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”.
thành công. Nhà thơ đã thể hiện được một vốn trí thức phong phú để định nghĩa
sâu xa về đất nước, về cội nguồn dân tộc. Những hiểu biết về lịch sử dân tộc đã
làm lay động tâm hồn tác giả, đẩy cảm xúc dâng trào bật thành thơ. Mỗi câu
chuyện cổ tích, những thời khắc lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước
và giữ nước khiến người đọc như nhập vào không gian, thời gian xa xưa. Điều
đó tạo cho trường ca của Nguyễn Khoa Điềm man mác âm hưởng sử thi, ngọt
ngào cảm xúc. Tính chất sử thi đã kết hợp với tính chất trữ tình, cảm hứng
sử thi đã gắn liền với cảm hứng lãng mạn làm nên thành công cho tác phẩm.
Trường ca thời chống Mỹ trước 1975 thường mang nhiều yếu tố tự sự. Mặt
đường khát vọng đã tạo nên vị thế vững chắc vì nhờ có giọng lạ: triết lý chính
luận trữ tình. Tính chất sử thi pha lẫn tính chất trữ tình đầy ắp trong nhiều
trường ca, điển hình như Nước non ngàn dặm của Tố Hữu. Trở lại miền Nam
sau khi hiệp định Pari ký kết, trên con đường Trường Sơn gian khổ, tác giả đã
bộc lộ tâm tình trong trường ca. Tính chất sử thi hòa lẫn tính chất trữ tình sâu
lắng khiến giọng điệu thơ càng trở nên bồi hồi, tha thiết:
Sông Bến Hải bên bồi bên lở
Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương
Cách ngăn mười tám năm trường
Khi mô mới được nối đường vô ra
Lịch sử được tái hiện không chỉ đơn thuần là mô tả sự kiện, mà hòa quyện
trong những sự kiện lịch sử ấy là cái tình sâu thẳm ngọt ngào; hoặc mãnh liệt,
trầm hùng hoặc ca ngợi tự hào, hoặc sướng vui, buồn tủi… của cái tôi nhà thơ
130 mà thực chất là cái ta thế hệ, cái ta lịch sử của một thời. Tính chất sử thi của
trường ca về thời chống Mỹ đã gắn kết chặt chẽ với nguyên tắc hiện thực trữ
tình để phản ánh thực về chiến tranh và tất nhiên, tính chất trữ tình đã làm cho
những bản trường ca thêm ngọt ngào, thắm thiết.
Sự tổng hợp của tính chất trữ tình và tính chất sử thi trong trường ca cũng
theo đà phát triển dần như trong văn học nói chung. Nó không chỉ đơn thuần
diễn ra trong phạm vi thủ pháp, nghệ thuật, phạm vi hình thức mà biến đổi dần
trong thế giới quan của nhà thơ khi quan sát, cảm nhận về con người, đất nước
trong những năm chống Mỹ ác liệt, gian khổ. Thời gian đầu, khi trường ca về
thời chống Mỹ mới xuất hiện thường mang tính chất sử thi đậm đặc hơn
tính chất trữ tình. Nhưng thời gian dần về sau, tính chất trữ tình có xu thế
bộc lộ mạnh hơn trong các trường ca: Hành trình, Bài ca chim Chơrao, Mặt
đường khát vọng… Tiếp đó là Những người đi tới biển, Đường tới thành phố,
Mặt trời trong lòng đất, Lửa mùa hong áo, Mảnh hồn chim lạc… Các bản
trường ca này đã bỏ qua lối kết cấu như truyện kể mà thiên về lối miêu tả chi
tiết, sự kiện lịch sử kết hợp thể hiện chiều sâu nội tâm. Cảm xúc của chủ thể trữ
tình được trình bày phoáng khoáng, đậm nét.
Văn học nói chung và trường ca về thời chống Mỹ - nhìn ở góc độ riêng
lẻ, hầu hết đều mang âm hưởng sử thi. Trường ca được sáng tác theo những
nguyên tắc chuẩn mà đặc biệt là nguyên tắc biểu hiện tính sử thi. Hầu hết các
tác giả đều viết theo xúc cảm thực sự của con tim trước những hiện thực đã và
đang phơi bày ra trước mắt họ. Tính chất sử thi và tính chất trữ tình cứ đan
quyện vào nhau như sự bình thường vốn có, góp phần quan trọng trong việc
bộc lộ tâm thế, cảm xúc, trạng thái của cái tôi công dân trong một thời đại mà
sự sống có lúc quá mong manh:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc?
131 Trong thời đại ấy, họ không có quyền lựa chọn cho mình một cuộc sống
an nhàn, hưởng thụ bởi số phận cá nhân của họ đã gắn liền với vận mệnh của
Tổ Quốc, nhân dân. Nhận thức của họ đã được đẩy đến độ sâu sắc nên sự lựa
chọn của họ hoàn toàn có ý thức. Họ đã lý giải điều đó thật giản dị trữ tình mà
cũng thật cao cả: “Người ta không thể chọn nơi để được sinh ra/ Nhưng chúng
tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy” (Những người đi tới biển).
Hình ảnh Mẹ ngồi hồi tưởng trong không gian gió bấc trở về là một hình
ảnh đẹp nao lòng. Mùa đông với miếng trầu cay bền bĩ mẹ ăn là một chi tiết rất
trữ tình và đậm tính chất sử thi. Đó cũng là thời gian năm cùng tháng tận của
chuỗi ngày dài trông ngóng con:
Trong gió bấc mắt mẹ nhìn đăm đắm
Miếng trầu cay bền bĩ suốt mùa đông
Con sẽ về chạy rát bỏng bàn chân
Lời người chiến sĩ nói với mẹ sau những tháng ngày chống Mỹ gian khổ
vừa bộc lộ nét sử thi lại rất ngọt ngào, trĩu nặng ân tình: “Mẹ ơi, sau khi sống
đêm từ giã ấy năm năm rồi/ Sau khi sống ngày 30 tháng 4 đất nước/ Sau khi
sống bao bạn bè đã chết/ Con xin lại bắt đầu từ mẹ/… để nói về chúng con/ lớp
tuổi hai mươi ba mươi điệp trùng áo lính”” (Những người đi tới biển).
Thơ Thanh Thảo đậm sắc thái bi tráng. Tính chất trữ tình sâu lắng hòa hợp
với tính chất sử thi đã đem lại sự thành công cho trường ca. Những vần thơ trữ
tình khiến người ta nhớ mãi lứa tuổi hai mươi sinh ra trong những năm khói lửa
chiến tranh, nhớ mãi bước chân những người tìm về biển lớn dân tộc bằng
truyền thống anh hùng trong quá khứ, tạo cho dân tộc có sức mạnh mới, tầm
nhìn mới: “Những dòng sông băng qua những vết thương,/ Về với biển đâu
phải tìm yên nghỉ./ Tới cửa sông là bắt đầu sóng gió,/ Những cây già xoay trần
ngăn nước lũ phù sa”. Đó là những con người phải đứng giữa cơn lốc xoáy của
biết bao sự kiện lịch sử lớn lao. Họ góp phần làm nên lịch sử và lịch sử văn học
dành cho họ những trang viết trữ tình, giàu cảm xúc. Mãi đến ba mươi năm
132 ròng sau chiến tranh, những người trong cuộc - chứng nhân lịch sử một thời,
vẫn còn mãi cái mạch nguồn cảm hứng văn chương để viết, để nói lên những
điều mà họ còn trĩu nặng trong lòng.
Trong Mỹ học, Hêghen cho rằng tự sự là thế giới của khách thể, trữ tình là
thế giới của chủ thể. Tự sự là sự tái hiện cuộc sống mang tính chất khách quan,
còn trữ tình là sự tái luyện cuộc sống mang tính chủ quan. Cuộc sống con người
có tính xã hội và tính lịch sử, cho nên nội dung của một tác phẩm văn học, dẫu
là sử thi hay trữ tình, chính là sự thống nhất của cuộc sống được nhận thức bởi
nhà văn.
Trong Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh đã khái quát hóa về cuộc chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Những vần thơ viết về mẹ diễn tả tình mẫu tử
trong thời buổi chiên tranh thật thắm thiết: “Nếu mẹ biết ta còn đông đủ/ Đang
bập bùng thương nhớ suốt hành lang/ Giọt đèn ấy bớt đi nhiều khuya khoắt/
Chia bình yên cho mỗi con đường”.
Hình ảnh của hoa bung biêng chênh chao trong màu xanh biếc của núi
rừng, hình ảnh của những giấc ngủ không thành vì những hồi gõ tím đã góp
phần làm nên tính chất trữ tình sử thi độc đáo. Giọng điệu thơ càng trở nên lung
linh và đằm thắm sắc màu. Tính chất sử thi quyện chặt vào tính chất trữ tình tạo
sự nên sâu lắng, thiết tha:
Hoa bung biêng ơi, con lắc của mùa xuân
Rừng không ngủ vì những hồi gõ tím
Nhận xét về chất sử thi trong Đường tới thành phố, Ngô Văn Phú đã viết
trong bài “Chất lính và hồn quê trong thơ Hữu Thỉnh”: “Sau nhiều năm, đọc
lại “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh, tôi vẫn quý bởi tác phẩm này đã để
lại những dấu ấn có tính lịch sử” [70]. Thật đúng như vậy, đọc trường ca;
nhiều chương, nhiều đoạn đã gợi lên sự xúc động về tâm tình của những con
người sống trong thời chống Mỹ, quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ từng
tấc đất quê hương. Yếu tố sử thi đã gắn kết chặt chẽ với yếu tố trữ tình. Thi liệu
133 tự nó đã góp phần tạo nên âm hưởng và dáng vẻ sử thi nên cũng giàu tính chất
trữ tình, bởi, khuynh hướng sử thi càng lùi về sau càng mang tính hướng ngoại
giàu chất suy nghĩ, trí tuệ. Chất trữ tình cá nhân đã nhường chỗ cho trữ tình
công dân.
Những bản trường ca ra đời trong thời chống Mỹ là vốn quý của thơ ca
Việt Nam hiện đại. Những năm 70 - 80, trường ca tự khẳng định mình, đòi hỏi
phải được xem như là một thể loại. Anh Ngọc rất cẩn trọng khi gọi trường ca là
“siêu thể loại”. Những trường ca có giá trị viết về những sự kiện có “tầm cỡ
lịch sử” khác nhau nhưng tất cả đều mang hơi thở và nội dung lớn của thời đại.
Đó là những tình cảm thiêng liêng, trong sạch hướng về nhân dân, đất nước
trong những tháng ngày lịch sử, là những suy nghĩ về lẽ sống của một thế hệ đã
lớn lên trong chiến tranh. Đó là những hồi tưởng về một thời máu lửa của
những con người đã từng đối mặt với sự sống và cái chết hàng ngày. Chính vì
thế mà càng về sau xu thế trữ tình càng nổi trội hơn xu thế tự sự, bởi tính chất
trữ tình phù hợp với yêu cầu cần bộc bạch tâm sự, triết lý, chiêm nghiệm hơn.
Tất nhiên không dễ dãi lãng quên sự quan trọng của yếu tố tự sự. Bởi nếu sa lầy
vào tính chất trữ tình thì bức tranh sự kiện sẽ bị nhòe đi và giảm tính hiện thực.
Tiểu kết chương 2
Thơ ca Việt Nam hiện đại đã phơi bày cảm xúc dâng trào trong tâm hồn
các nhà thơ đòi hỏi phải ngợi ca về một giai đoạn lịch sử đặc biệt, về đất nước
con người Việt Nam anh hùng. Vì vậy, cần phải mở rộng dung lượng phản
ánh để miêu tả hết cái tâm, cái tình của nhà thơ - người trong cuộc và cả nhà
thơ thời hậu chiến. Họ đã không cho phép mình, dù bất cứ trong hoàn cảnh nào,
được lãng quên quá khứ đầy bi hùng của cuộc chiến tranh mà từ đó họ đã bước
ra, lớn lên, nhập cuộc và trưởng thành. Đề tài đất nước, đề tài chiến tranh và
người lính, đề tài lãnh tụ luôn ám ảnh họ, và cả khi thời gian chiến tranh đã
qua đi trên một phần tư thế kỷ. Bên cạnh đó, đề tài tình yêu đôi lứa cũng được
134 đề cập đến dù rằng, trong cơn bão táp chiến tranh, vấn đề yêu đương xin gác lại
phía sau. Riêng các trường ca xuất hiện sau 1990 lại thường dành đất cho các
đề tài phản ánh cuộc sống đương đại.
Trường ca, như đã đề cập ở trên, thường thể hiện mục đích tổng kết một
giai đoạn lịch sử lớn lao của dân tộc; hồi tưởng về những sự kiện, những biến
cố quan trọng hoặc thông qua những biến cố cá nhân để phản ánh biến động
của xã hội. Đó là một đặc trưng quan trọng tạo nên tính chất sử thi của
trường ca về thời chống Mỹ. Mặc dầu, gần đây, trường ca về thời chống Mỹ
không chỉ nhằm mục đích tổng kết giai đoạn lịch sử lớn lao của dân tộc, mà
còn là mảnh đất để các nhà thơ giải bày tâm sự, bày tỏ cảm xúc, chính
kiến... về cuộc chiến tranh vĩ đại đã qua nhưng dư âm còn vang vọng. Chính vì
thế, trường ca về thời chống Mỹ phản ánh hiện thực sử thi nóng bỏng nhưng
giàu chất trữ tình. Nếu nhân vật “tôi” trong thơ trữ tình thiên về trình bày cảm
xúc bởi một lý do bất chợt, ngẫu hứng… thì bao giờ cũng vậy, trong trường ca,
chất trữ tình luôn được biểu hiện gắn bó với sự kiện, biến cố mang tính lịch sử
nên nhân vật tôi trong trường ca là nhân vật ta của thời đại, của dân tộc.
Hầu hết các trường ca về thời chống Mỹ đã dựng lại cảnh chiến đấu ở nơi
này, nơi khác trên khắp đất nước ta trong những năm tháng chiến tranh. Mỗi sự
kiện, mỗi câu chuyện… có thể xem như là những dấu vết lịch sử. Trường ca đã
tuân thủ nguyên tắc tái hiện cuộc sống một cách chân thực; kết hợp tính
chất trữ tình và tính chất sử thi một cách nhuần nhị; nhưng nông sâu lại tùy
thuộc vào bàn tay tài hoa, quan niệm nghệ thuật về con người và thái độ thẩm
mỹ đối với hiện thực của mỗi nhà thơ.
135
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRƯỜNG CA VỀ THỜI
CHỐNG MỸ
Trường ca về thời chống Mỹ trong nền văn học hiện đại Việt Nam, ngoài
đặc điểm quan trọng là thường tổng kết một giai đoạn lịch sử đã qua (hoặc hồi
tưởng lại quá khứ); còn thể hiện những đặc điểm nghệ thuật riêng biệt.
Nhiều trường ca về thời chống Mỹ đã phản ánh những sự kiện vang dội,
khắc sâu hình ảnh những con người bình thường nhưng vĩ đại bằng nghệ thuật
sáng tạo. Điều đó thể hiện ở cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật, xây dựng kết
cấu tác phẩm, thi pháp nhân vật, thi pháp chi tiết, thi pháp không gian thời gian
nghệ thuật… Trong chương này, người viết tập trung nghiên cứu ở một số đặc
điểm nghệ thuật của trường ca về thời chống Mỹ, cụ thể như:
1. Sự phức hợp và đa dạng về thể thơ.
2. Đặc điểm đa giọng điệu. Ngôn ngữ sử thi
3. Không gian sử thi
4. Sự liên tưởng
4. Chất liệu văn học dân gian
Mỗi một đặc điểm nghệ thuật nêu trên được nhìn nhận trên cơ sở đã xuất
hiện và tồn tại chủ yếu trong trường ca về thời chống Mỹ như là một dấu ấn thi
pháp dành riêng cho thể thơ đặc biệt này. Việc tách bạch yếu tố nội dung và
nghệ thuật khi nghiên cứu chỉ mang tính tương đối.
3.1 Sự phức hợp và đa dạng về thể thơ
Đa phần, các nhà thơ không nhất thiết phải lựa chọn trước một thể thơ khi
sáng tác. Họ viết mỗi khi cảm xúc trỗi dậy và ý tứ trào dâng. Nhưng có khi,
việc chọn sẵn một thể thơ phù hợp cũng là một chủ ý của nhà thơ vì thể thơ
cũng góp phần bộc lộ ý đồ sáng tác; thể hiện tâm trạng, tính cách... của chủ thể
trữ tình và ngoại cảnh cần khắc họa. Thể thơ lục bát và thể thơ song thất lục
136 bát nghiêm nhặt về vần, luật nhưng dễ dàng diễn tả tâm trạng đa dạng. Thể tự
do diễn tả tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ của tác giả mà không bị gò bó, câu nệ
về số câu, số từ trong câu. Thể thơ văn xuôi thể hiện tâm trạng và cảm xúc
phóng khoáng, bay bổng... Tất cả đều được các nhà thơ chọn lựa cho phù hợp
với ý đồ trình bày nội dung sáng tác.
Có thể nhận thấy, hầu như các bài thơ ngắn thường được sáng tác bằng
một thể thơ. Đôi khi một tác phẩm thơ dài cũng được sử dụng đơn thuần một
thể như: Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn (có bốn bản diễn Nôm theo
thể thơ song thất lục bát, ba bản theo thể lục bát), truyện thơ Đoạn trường tân
thanh của Nguyễn Du; trường ca Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân, Nước
non ngàn dặm của Tố Hữu… đều sáng tác theo thể lục bát. Bằng sự ngọt ngào
sâu lắng, mượt mà của giai điệu, làn điệu; thể lục bát góp phần khắc đậm
tình cảm của chủ thể trữ tình. Đây là thể thơ luôn được yêu thích. Lý giải về
điều này, chúng ta có thể cho rằng thể thơ dân tộc có sức sống kỳ diệu vững
bền, được tích luỹ trong kho tàng văn học dân gian, tiếp tục được phát triển
trong thời hiện đại, duy chỉ có biến hóa cách ngắt nhịp, thay đổi hình thức sang
dòng... mà thôi.
Trong trường ca Nguyễn Văn Trỗi, nhà thơ Lê Anh Xuân đã có những câu
lục bát hay, có sức gợi: “Có nơi đâu đẹp tuyệt vời/ Như sông, như núi, như
người Việt Nam/ Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang/ Cà Mau cuối đất mở màng phù
sa/ Trường Sơn chí lớn ông cha/ Cửa Long lòng mẹ bao la sóng trào.../... Ơi
Việt Nam! Việt Nam ơi!/ Việt Nam, ta gọi tên Người thiết tha”.
Khi Nước non ngàn dặm của Tố Hữu xuất hiện, những vần thơ hầu hết
làm bằng thể lục bát trữ tình giàu âm hưởng miền Trung, nghe ngọt lịm lòng
người đã được ngân nga suốt một thời và vượt thời gian để sống mãi với dân
tộc: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên”. Nhiều
câu thơ mang nặng nỗi niềm như thế: “Trường Sơn đông nắng tây mưa/ Ai
137 chưa đến đó như chưa rõ mình” (ngoại trừ vài câu thơ bảy chữ: “Sông Bến Hải
bên bồi bên lở/ Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương...”).
Nhưng, đối với một bản trường ca hiện đại có dung lượng lớn, số
lượng câu thơ rất nhiều, thường tác giả ít khi dùng một thể thơ duy nhất. Do
nhu cầu của thời đại cần có những trường ca phản ánh lịch sử hào hùng và sức
sống của dân tộc mà các nhà thơ đã sáng tạo. Thanh Thảo từng nói: “Tôi nghĩ,
nếu chỉ riêng cá nhân nhà thơ thôi, thì chẳng bao giờ anh ta viết anh hùng ca
hay trường ca làm gì, mà chỉ viết thơ trữ tình, chỉ hát tình ca” [91, tr.41].
Thời kỳ đầu chống Mỹ, một số trường ca thường được nhắc tới như Ba
mươi năm đời ta có Đảng (1960), Theo chân Bác (1970) của Tố Hữu; Bài ca
chim Chơrao (1963), Badan khát (1977) của Thu Bồn; trường ca Nguyễn Văn
Trỗi (1967) của Lê Anh Xuân; Người anh hùng Đồng Tháp (1968) của Giang
Nam… Đa số các trường ca nêu trên đều thiên về tự sự, có cốt truyện rõ nét,
thể lục bát và song thất lục bát giữ vai trò then chốt.
Những năm từ 1975 đến 1980, nhiều nhà thơ đã thử sức và họ chọn sự
đa dạng, phức hợp của nhiều thể thơ - kể cả thơ văn xuôi để sáng tác. Kết quả
là qua sự sàng lọc của thời gian, trường ca của họ đã được độc giả đón nhận
nồng nhiệt như Đường tới thành phố, Những người đi tới biển, Mặt trời trong
lòng đất...
Từ năm 1990 trở về sau, trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống
Mỹ ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Các nhà thơ trẻ, kể cả các nhà thơ đã có
trường ca nổi trội trong thời hoàng kim của thể loại, cũng đã chọn lối kết hợp
nhiều thể thơ để thể hiện nội dung cần biểu đạt. Lối nói, lối độc thoại, lối đối
thoại... cũng được sử dụng trong trường ca. Có lẽ nhờ thế mà trường ca mang
rất nhiều sắc thái tình cảm, thể hiện nhiều cung bậc cảm xúc, lời thơ giàu nhạc
tính, đa thanh, đa giọng điệu. Hầu như ít thấy xuất hiện những trường ca với
một thể thơ độc nhất (ngoại trừ trường ca sử dụng duy nhất thể tự do) và lối kể
138 chuyện có đầu có cuối; thay vào đó là những trường ca sáng tác theo phong
cách tự do với đa phần là thể thơ tự do, thơ văn xuôi.
Thật ra, kiểu thơ tự do không vần đã xuất hiện từ thời chống Pháp với các
nhà thơ Hữu Loan, Nguyễn Đình Thi. Sau 1975, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh…
cũng đã sử dụng có hiệu quả thể thơ này trong các trường ca của họ. Mã Giang
Lân đã khẳng định: “trường ca… sử dụng tổng hợp nhiều thể thơ, thay đổi
không khí cảm xúc” [45, tr.108]. Phạm Quốc Ca cũng cho rằng: “kiểu thơ tự do
không vần chống được nguy cơ sáo mòn về ngôn ngữ, sự khuôn mẫu về nhạc
điệu và gây được ấn tượng mạnh mẽ” [11, tr.192]. Kiểu thơ này thường dễ
dàng bày tỏ những suy tư, trăn trở vể hiện thực xã hội, về những khổ đau do
hậu quả chiến tranh để lại. Họ cũng thể hiện sự nhớ nhung da diết về đồng đội
năm xưa, hồi tưởng lại mảnh đất chiến trường của một thời đáng nhớ. Họ viết
theo dòng hồi ức và nhu cầu giái thoát sự trăn trở của nội tâm. Các trường ca
viết sau 1990 thường mang nội dung trăn trở về sự tồn vong của đất nước
trong chiến tranh bằng thể thơ tư do đầy tính triết lý. Riêng Phạm Thái
Quỳnh, trong Đi trong sen ngát bóng xanh, sử dụng lối kể chuyện giống với
trường ca Theo chân Bác của Tố Hữu.
Nghiên cứu phần khảo sát sau đây, ta sẽ thấy rằng, từ sau năm 1975,
trường ca có khuynh hướng chọn lối kết hợp nhiều thể thơ, đặc biệt là thể
thơ tự do, thơ văn xuôi dễ trình bày cảm xúc:
Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm có 09 chương thể hiện qua
09 khúc, đều là thể thơ tự do (có một vài khổ thơ bảy, tám chữ). Đây là một
đoạn thơ tự do trong khổ sáu: “Ta đi/ Trong tiếng cồng không dứt/ Trong tiếng
chiêng không tắt/ Ta đi/ Trong âm vang yêu nước/ Ta đi với rựa và tên/ Rựa ta
mài vào gỗ thành nương/ Tên ta gài xuống đất thành bẫy...”.
Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh có 05 chương; gồm 19 khúc, trong
đó có 3 khúc thơ lục bát, 15 khúc thơ tự do, 01 khúc văn xuôi. Đây là một
khúc thơ văn xuôi tiêu biểu mang tính triết lý chính luận: “Chẳng cần phép
139 gì đâu, anh vẫn đến được từng người, làm quen và trò chuyện, chỉ cần anh có
mặt đúng giây phút chẳng bao giờ lặp lại, đến đúng nơi những quyết đoán
không ngờ... Nhưng đừng viết về chúng tôi như cốc chén đứng trên bàn; xin
hãy viết như dòng sông chảy xiết. Và chúng tôi với chiếc bi đông bẹp dúm kia
là một, cả những hòn đá kê nồi cũng có bao điều ấm lạnh liên quan”.
Trường ca Những người đi tới biển của Thanh Thảo có 03 chương và phần
Vĩ thanh, gồm 12 khúc: 01 khúc lục bát, và 11 khúc còn lại đều là thể tự do.
Đây là một đoạn thơ tư do diễn tả cái đẹp trong tâm hồn người chiến sĩ: “trái
tim anh rung giữa những dây đàn/ giữa những dây đàn bỗng dòng sông chảy
xiết/ và cô gái hiện lên đột ngột/ cất giọng hát như luồng gió ngược/ cuốn ta về
nguồn sông”.
Mặt trời trong lòng đất đã giới thiệu với thế giới về tinh thần kháng chiến
quật cường của dân và quân vùng Củ Chi. Trường ca có 05 chương, gồm 18
khúc, trong đó có 4 khúc lục bát (76 câu lục bát), 13 khúc thơ tự do, 01 khúc
đối thoại. Đây là một đoạn đối thoại giữa lời của cỏ và lời của B52 thể hiện
sự quyết tâm bền bĩ của từng người dân Củ Chi, từng ngọn cỏ Củ Chi:
Lời B52: Hỡi ngọn cỏ của Củ Chi bé nhỏ/ cớ sao ngươi dám trêu tức ta/
ta đốt mà ngươi cứ mọc chồi...
Lời của cỏ: Ta là cỏ nhú lên từ mặt đất/ nhú lên từ vết thương, từ đổ nát
tro than/ ta nhỏ nhất trong những mầm nhỏ nhất/… ta là cỏ xin suốt đời làm
cỏ/ chồi ta non như ngọn lửa con/ trong đất Củ Chi ta không thể ngủ/ ta nằm
nghe nhựa đất ứa dồn.
Sông núi trên vai của Anh Ngọc có 05 chương và đoạn kết, tổng cộng 20
khúc gồm 4 khúc lục bát, 5 khúc thơ năm chữ và 11 khúc thơ tự do. Đây là
đoạn thơ tự do với âm điệu thật ngọt ngào, da diết: “Có con chim chuyền cành
tinh nghịch/ Nhặt những đài hoa thả xuống áo em/ Mặt trời làm sợi nắng xâu
kim/ Ngón tay mềm nhặt khoan trên mảnh vá/ Mảnh vá hình chiếc lá/ Áo em
xanh khoảng rừng/ Áo em xanh mùa xuân”.
140
Trường ca Trầm tích của Hoàng Trần Cương có 19 chương thể hiện trong
19 khúc, có khúc 15 mang tên “Cá gỗ” là thơ năm chữ, còn lại đều là thể thơ tự
do. Đây là một khổ thơ năm chữ trong chương chín: “Sự tích con cá gỗ/ Là
giai thoại mà thôi/ Con cố học cho giỏi/ Để mai sau thành người... Ai người đi
ra bể/ Ai người ngược lên rừng/ Vẫn đậm chất xứ Nghệ/ Nóng nẩy đầy bao
dung”. Còn đây là một khổ thơ tự do với những ngôn từ quen thuộc, bình dị
nhưng chứa đựng tính triết lý sâu sắc về hình ảnh của bà mẹ Việt Nam cần cù,
gian lao, vất vả: “Mẹ là mặt trời sớm mai vẫn mọc/ Từ trong bếp nhà mình rồi
mới rạng khắp sân/ Mẹ là trầm tích của những gian truân/ Đưa con đến bến bờ
huyền thoại”.
Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây ca ngợi, tưởng nhớ về những cô gái
thanh niên xung phong trên cung đường ác liệt ở Quảng Bình. Trường ca với
2712 câu thơ gồm 19 chương, chỉ có 6 khúc là thể thơ lục bát, còn lại là 13
khúc theo thể thơ tự do và thơ tám chữ. Đây là một khổ thơ lục bát khá tiêu
biểu kể về cuộc sống của chị em nơi lán rừng heo hút: “Liền em liền chị đội
xuân/ Lán khuya ngồi khuyết nửa sân trăng vàng/ Yêu cho đá cũng mơ màng/
Ngón tay từng đốt dịu dàng của nhau”. Còn đây là một đoạn thơ tự do diễn
tả hành động gan góc anh hùng của những cô gái trong tiểu đội thanh niên xung
phong, sẵn sàng nhận cái chết về mình để cho sự sống của dân tộc nở hoa:
“Châm ngòi nổ/ Phá bom/ Cảm tử/ Là cái chết ẩn trong cái chết/ Là niềm tin/
Là sự sống của từng chiến sĩ/ Vô hiệu hóa chiến tranh nước Mỹ”.
Trường ca Mảnh hồn chim Lạc của Nguyễn Hưng Hải có trên một ngàn
câu thơ chia thành 04 chương, 17 khúc ca. Mở đầu trường ca là bốn câu lục
bát: “Gặp gì cuối ngõ Văn Lang/ con gà lễ ngọn tre làng đã câu/ ở đâu cây cọ
cúi đầu/ ban mai còn được mấy tàu phất phơ”. Trong trường ca có tất cả 14 cặp
lục bát, còn lại đều viết theo thể thơ tự do. Đây là một đoạn thơ tự do khá đặc
sắc; đưa những tên tác giả, tác phẩm được công chúng tiếp nhận để bày tỏ sự
trăn trở, suy tư trước những mặt xấu tốt của cuộc đời: “… Ngược thời gian ta
141 gặp Nguyễn Du/ trẫm mình trong nước mắt/ bao thân phận nàng Kiều, nay còn
gặp.../ Đất nước của ca dao, tục ngữ, câu hò/ của Bút Tre, Thép Mới...”.
Trường ca Ngựa trắng bay về của Văn Công Hùng có hai phần, phần I là
Chuyện nàng Hơly có hai chương đều là thơ tự do (chương 2 có một đoạn thơ
văn xuôi); phần II là Đánh thức huyền thoại có 03 chương, trong chương 3
“Giải phóng” có một đoạn thơ văn xuôi thấm đầm cảm xúc: “Tháng năm này
gió thổi dọc Trường Sơn, tôi lặng lẽ lần qua từng khu rừng lá khộp. Những cây
khộp già đăm chiêu trong chiều vắng, gió thổi hoài rát ruột lắm gió ơi”.
Trường ca Hàm Rồng của Từ Nguyên Tĩnh gồm có phần mở đầu và 24
khúc, viết về trận địa Hàm Rồng với những con người hết lòng yêu quê hương
đất nước. Có nhiều câu lục bát được đưa vào trường ca; khúc 1, 12, 17, 22 là
thơ năm chữ, khúc 20 là thơ văn xuôi, còn lại 19 khúc là thơ tự do. Đây là một
khúc lục bát mang hơi hướng của ca dao: “Anh đi đánh giặc nơi xa/ Ruộng
đồng năm tấn quê nhà có em/ Em là con gái làng Yên/ Mắt Rồng còn thức ngàn
đêm em vẫn chờ”... Qua cầu ngả nón trông cầu/ Hàm Rồng còn đó buồm nâu
chưa về”. Có một khúc thơ tự do ca ngợi dân quân Hàm Rồng trong kháng
chiến, thể hiện sự dung dị về nội dung và nghệ thuật: “Ta là sóng, ta là đất, ta
là cát sỏi/ Là người thợ xây cầu/ Là thanh niên xung phong/ Là dân quân/ Là
già là trẻ/ Là người lính, là số phận nhịp cầu”.
Những người lính của làng của Nguyễn Quang Thiều dài khoảng 840 câu,
có 03 chương, đa phần đều sử dụng thể tự do, thơ tám chữ… Trong chương ba
“Trở về” có nhiều đoạn viết theo thể lục bát: “Em ơi! Mai có ru hời/ Đừng ru
ngược lại cái thời chiến tranh/ Hãy ru về với cỏ xanh/ Ru mùa xuân với muôn
nhành cỏ tơ”.
Như trên đã nói, ngày nay, một bản trường ca hiện đại ít nhất cũng có từ
ba bốn trăm câu trở lên như Nước non nghìn dặm của Tố Hữu; còn đa số đều
khoảng trên dưới một ngàn đến vài ngàn câu, thậm chí nhiều hơn; thì việc chỉ
chọn một thể thơ để thể hiện sẽ vấp phải sự đơn điệu. Vì thế, riêng thể loại
142 trường ca sử thi hiện đại đã có sự xuất hiện hài hoà của hai, ba hoặc là
bốn, năm thể thơ. Điều này đã tạo nên sắc thái riêng; giúp cho trường ca thỏa
sức diễn tả nhiều cung bậc cảm xúc, nhiều tính cách nhân vật, nhiều sự kiện bề
bộn, nhiều lối đối thoại, độc thoại đa dạng.
Sử dụng kết hợp nhiều thể thơ trong trường ca là một thuận lợi để dễ
bày tỏ cảm xúc, mô tả sự kiện, tránh đơn điệu. Thực tế đã chứng minh bởi khi
đọc Những ngưòi đi tới biển, Đường tới thành phố, Mặt đường khát vọng…,
người thưởng thức sẽ cảm nhận bằng nhiều cách, nhiều hướng nghệ thuật có
hình thức phong phú hơn ở trường ca Nguyễn Văn Trỗi… Lê Anh Xuân đã
chọn thể lục bát để viết trường ca này, tất nhiên sự nhất quán một thể thơ khiến
trường ca không tránh khỏi sự đơn điệu trong hình tượng thể hiện, có những
câu thơ chưa được chuyển hoá thành ngôn ngữ thơ đẹp,
Từ nghiên cứu, khảo sát trên, ta có thể khẳng định: các thể thơ trong
trường ca hiện đại có sự đa dạng và phức hợp cần thiết. Bên cạnh đó, một đặc
điểm cần ghi nhận đó là sự phổ quát của thể lục bát trong trường ca về thời
chống Mỹ. Hầu như các trường ca, dù ngắn hay dài, khi dùng nhiều thể thơ
phối hợp thì sẽ có một số câu thơ, đoạn thơ lục bát (để tránh sự lặp lại một
kiểu dễ gây cảm giác đơn điệu), ngoại trừ trường hợp chỉ sáng tác bằng thể thơ
tự do như Trầm tích của Hoàng Trần Cương, Chín tháng của Y Phương...
Nhà thơ và tác phẩm sẽ tồn tại với thời gian tuỳ thuộc vào sự phát hiện;
3.2 Tính chất đa giọng điệu. Giọng điệu sử thi
sự đóng góp cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm của họ. Đối với trường ca sử thi
hiện đại; tác phẩm phải là một thông điệp phản ánh về hiện thực chiến tranh.
Những nghĩ suy, chiêm nghiệm về con nguời, vận mệnh đất nước phải là sự
chuyển tải tinh tế những rung động sâu xa của những người đã từng sống, từng
trăn trở về thời chống Mỹ. Chính vì thế, càng về sau; trường ca sử thi giàu yếu
tố trữ tình, giàu chất triết lý chính luận đã chiếm ưu thế. Nhà thơ đã bắt đúng
cái nhịp điệu bên trong của tâm hồn, mặc dầu ta biết rằng một tác phẩm không
143 bị phụ thuộc vào độ ngắn dài. Muốn “bắt đúng nhịp điệu bên trong của tâm
hồn”, mỗi nhà thơ cần thiết phải có một giọng điệu riêng.
Khi cảm nhận giọng điệu, ta phải qua những nguyên tắc nghệ thuật thẩm
mỹ gắn với quan điểm nghệ thuật nhất định. Giọng điệu nghệ thuật trong
trường ca được các nhà thơ sáng tạo từ ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ dân gian,
từ khẩu ngữ tự nhiên nên đa giọng điệu. Giọng điệu cũng là một yếu tố hình
thức quan trọng để chuyển tải lập trường, tư tưởng, tình cảm và quan niệm
sáng tác của tác giả. Giọng điệu còn thể hiện rất rõ phong cách riêng của
người nghệ sĩ và đặc biệt tạo nên sự truyền cảm cho độc giả. Muốn có thơ hay
phải bắt trúng “giọng điệu của thơ”.
Khi Lê Ngọc Trà nhận định: “Trong giọng thể hiện cả nhận thức, thái độ,
lối sống và cả nội lực của nhà văn (giọng nhiều khi cũng có nghĩa là hơi văn,
văn khí). Đồng thời, giọng cũng là cái không lẫn được. Chính tính tổng hợp và
độc đáo ấy làm cho giọng trở thành nhân tố mang phong cách rất rõ. Giọng
vừa liên kết các yếu tố hình thức khác nhau làm cho chúng cùng một âm hưởng
nào đó” [107, tr.152) thì có nghĩa là giọng ở đây nghiêng về phong cách riêng
của tác giả, làm nên sự khác biệt giữa nhà văn này với nhà văn khác.
Phùng Quý Nhâm cũng thống nhất: “Giọng điệu trong tác phẩm rộng
hơn giọng văn. Nhiều khi ý tưởng, hệ thống hình tượng, tính điệu thẩm mỹ
cũng góp phần tạo nên giọng điệu nghệ thuật của tác phẩm. Giọng điệu là một
trong những yếu tố để nhận ra giá trị của tác phẩm văn học” [59]. Đọc, ngâm
nga... để thưởng thức một đoạn văn, một đoạn thơ; đa số độc giả vẫn có thể
cảm nhận được dụng ý nghệ thuật của tác giả. Hơn nữa, người đọc có thể nắm
bắt được tư tưởng chủ đề, thái độ của tác giả đối với tác phẩm, đối với nhân
vật, đối với cuộc sống.
Nguyễn Đăng Điệp trong “Giọng điệu trong thơ trữ tình” nhận xét:
“Giọng điệu sử thi... là giọng điệu trầm hùng của lịch sử... Nếu như ở thể loại
sử thi, giọng diệu chính là giọng ngợi ca thì giọng điệu của thể loại đạo đức
144 thế sự, đời tư lại hoàn toàn khác... chủ yếu là giọng giải bày, đồng cảm, tự
trào, cảm thán... còn ở thể loại đạo đức thế sự lại chủ yếu là giọng tố cáo,
cảm thán, châm biếm, chế giễu...”. [21, tr.60-61]. Ở đây, tác giả đã xét trên cơ
sở giọng điệu chung của thể tài lịch sử, thể tài đời tư - thế sự.
Đặc điểm nghệ thuật góp phần làm nên sự thành công cho trường ca chính
là sự đa giọng điệu. Trường ca sử thi hiện đại kết hợp cả giọng điệu kể mang
chất tự sự pha lẫn giọng điệu tâm sự giải bày; có khi là độc thoại nội tâm thiên
về chất bình luận triết lý, nhưng chủ yếu là giọng ngợi ca. Có thể nói:
- Trường ca sử thi hiện đại từ 1960 đến 1970 thường hay có giọng kể
hơn là tâm tình.
- Trường ca xuất hiện sau 1970 đến 1980 thường mang giọng điệu tâm
sự, giải bày, độc thoại nội tâm.
- Trường ca được sáng tác sau 1990 thường mang giọng triết lý bình
luận lẫn trữ tình sâu sắc nhưng trầm tĩnh và khách quan. Tuy nhiên, cũng
không loại trừ có những trường ca thiên về trần thuật như Đi trong sen ngát
bóng xanh của Phạm Thái Quỳnh, Cổ tích làng Cát của Mai Nam Thắng....
Giọng điệu có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn.
Mỗi nhà văn có giọng điệu riêng sẽ hình thành phong cách riêng. Giọng điệu có
khi mang những sắc thái như: hào hùng, đanh thép, vui tươi, tự hào, trang
trọng, tin tưởng… có khi sâu xa thâm thúy, có khi mộc mạc giản đơn, có khi dí
dỏm hài hước, hoặc kín đáo trang nhã, hoặc buồn thương… Một nhà văn có thể
có nhiều giọng điệu, nhưng vẫn nổi lên một giọng điệu chủ đạo. Trước hết:
- Giọng điệu phụ thuộc vào phong cách, tâm hồn của nhà thơ
Có thể lấy trường hợp của Lê Thị Mây, một nhà thơ nữ làm thơ trữ tình;
thì cái tâm nền nã, nhẹ nhàng ấy đã khiến cho những vần thơ trong trường ca
thường mang giọng điệu giải bày tâm sự ngọt ngào, tha thiết: “Này rằm tháng
giêng tết Nguyên Tiêu bánh phu thê dạm ngõ/ Này rằm tháng giêng mưa phùn,
145 đất là máu, đất là thịt xương gắn bó/ Huyết mạch con đường rạo rực giữa ngàn
cây/ Trăng ơi, trăng đừng hao khuyết đắng cay” (Lửa mùa hong áo).
Nhưng với Mặt đường khát vọng thì giọng điệu thơ Nguyễn Khoa Điềm
lại đậm chất triết lý, chính luận.
- Giọng điệu phụ thuộc vào phương thức thể hiện, sở trường ngôn ngữ
Hoàng Trần Cương, tác giả của Trầm tích, có lẽ sở trường về vốn từ dung
dị, nhẹ nhàng mà sâu lắng... Anh đã phát huy tính chất đa giọng điệu trong tác
phẩm, đặc biệt là giọng điệu tự vấn rất độc đáo, ngôn từ có vẻ mộc mạc nhưng
đậm chất suy tư và giàu hình tượng: “Nhiều lúc con thầm cật vấn mình/ Vì sao
buổi chiều không trẻ/ Cái tươi trẻ của mưa rào mùa hạ/ Xả mình vào đất đai/
Xả mình xuống những vách đá trơ lì bạc phếch”. Có khi, anh lại sử dụng giọng
điệu trầm tĩnh để bày tỏ sự suy ngẫm về cái sống và cái chết; sự khai sinh từ
lòng đất và sự hóa thân vào lòng đất: “Người đã khuất vẫn cưu mang người
đang sống/ Ngôi mộ là chứng nhân/… Ngôi mộ là ngôi nhà của những linh hồn
sống trong đêm” (Trầm tích).
Hữu Thỉnh thì lại sở trường về cách vận dụng những chất liệu ca dao,
thành ngữ để giọng điệu thơ thấm đẫm chất trữ tình sâu lắng. Giọng điệu
trong thơ Hưởng Triều lại đậm chất tráng ca do thường sử dụng những từ ngữ
mạnh mẽ, sắc cạnh.
- Giọng điệu phụ thuộc vào đối tượng được phản ánh và thể thơ
Thường, giọng điệu thơ phụ thuộc vào mối quan hệ giữa chủ thể và
khách thể, phụ thuộc vào tính cách tâm hồn của nhà thơ. Với lực lượng thù địch
không thể diễn tả bằng giọng điệu êm ái nhẹ nhàng. Với lãnh tụ vĩ đại, tất phải
sử dụng giọng điệu ngợi ca, ngưỡng mộ, tri ân... Trường ca sử thi hiện đại, đa
phần mang giọng điệu ngợi ca, trầm hùng, thể hiện tinh thần lạc quan của
dân tộc, kết hợp thể hiện những cảm xúc trữ tình cá nhân, cái tôi nội cảm của
nhà thơ thông qua lăng kính khách quan về thời đại. Có thể nói, trường ca hiện
đại là sự kết hợp của sử thi cổ điển với thơ trữ tình công dân. Trường ca sử thi
146 thời hậu chiến thường sử dụng một giọng điệu chung là bi tráng, trăn trở,
hồi tưởng, giải bày tâm sự.
Nhưng giọng điệu không chỉ phụ thuộc vào mối quan hệ, vào tính cách
tâm hồn của nhà thơ mà còn chịu sự chi phối của thể loại. Đối với thể loại sử
thi cổ điển, giọng điệu đặc trưng là ca ngợi, sùng bái, chiêm ngưỡng... thần
thánh, anh hùng; là giọng điệu trầm hùng của thời đại lịch sử. Sử thi cổ điển ít
có đất dành cho cảm xúc cá nhân và sự hư cấu nghệ thuật, khác với giọng
điệu thơ trữ tình có đề tài đời tư chủ yếu là giọng điệu giải bày, cảm thán, tự
trào hoặc tố cáo, châm biếm (trong đề tài đạo đức thế sự).
Trong nhiều trường ca sau 1975, thế giới nội tâm cùng vai trò cảm hứng
của nhà thơ đã thăng hoa để tạo nên những vần thơ hồi tưởng mang giá trị tinh
thần sâu xa. Theo Nguyễn Đăng Điệp [21], sử thi nhấn mạnh ngôi thứ ba, làm
nổi bật chức năng biểu thị. Thơ trữ tình lại nhấn mạnh ngôi thứ nhất, làm nổi
bật chức năng biểu cảm. Vậy, trường ca sử thi hiện đại đã chú ý kết hợp
chức năng biểu thị (ngôi thứ ba) với chức năng biểu cảm (ngôi thứ nhất) để
tạo nên nét độc đáo riêng cho thể loại sử thi trữ tình. Bởi, như ta đã biết, nhà
thơ sáng tác trường ca thường chính là cái tôi chứng nhân, thư ký của thời đại
mà họ đã sống và đã từng trải nghiệm.
Giọng điệu được thể hiện hết sức linh hoạt và phong phú. Để bắt trúng
giọng điệu, người đọc phải thể hiện cách nhìn sắc sảo, đòi hỏi sự tinh tế trong
cảm nhận. Trong văn học dân gian, giọng điệu cá nhân chưa bộc lộ rõ cái tôi
như trong thơ ca hiện đại. Trong thơ trung đại, cái nhìn chủ thể cũng chưa thể
hiện đậm nét. Trong tác phẩm trữ tình; tác giả thường thay lời của một ai đó.
Người nói trong thơ thường thể hiện cảm xúc, thái độ, cách nhìn của tác giả. Đó
chính là hình ảnh và giọng điệu của nhân vật trữ tình. Có khi, nhà thơ thể hiện
những cảm xúc, thái độ kinh nghiệm của cá nhân; lúc ấy, ta sẽ bắt gặp cái “tôi”
nội cảm của nhà thơ. Lại có khi nhà thơ diễn tả những quan điểm và tâm trạng
147 rộng lớn của một giai cấp, một dân tộc, một cộng đồng; ở dạng này, ta bắt gặp
cái “ta” trữ tình.
Tuy nhiên, bên cạnh những bài thơ “trữ tình cảm xúc” chủ yếu khai thác
đời sống nội cảm trên cơ sở của những kinh nghiệm cá nhân; thì còn một loại
trữ tình khác là “trữ tình tư tưởng”. Trong những tác phẩm này - thường là
trường ca sử thi hiện đại- nhà thơ nhân danh dân tộc và cộng đồng để nói đến
những vấn đề to lớn, mang tính chân lí. Như thế, giọng điệu chủ thể sẽ hoà vào
giọng điệu thời đại và tạo nên âm hưởng sử thi. Âm hưởng chính trong các bản
trường ca anh hùng xuất hiện trong thời chống Mỹ là ngợi ca; thể hiện cảm
hứng sử thi trào dâng… Âm hưởng chính trong các trường ca sau thời chống
Mỹ là bi tráng, hồi tưởng… Hình thức của giọng điệu cũng hết sức phong
phú, đa thanh, đa sắc thái biểu cảm. Bút pháp đa phần linh hoạt. khoẻ khoắn,
trong sáng. Sự kiện mang tính chất quy mô sử thi anh hùng thể hiện rõ nét dấu
ấn thời đại và tổng thể dân tộc.
Có nhiều phương diện biểu hiện giọng điệu:
- Phương diện ngữ âm như cường độ: to nhỏ, trường độ: nhanh chậm hay
ngắt nghỉ, thanh âm: trong, đục...
- Phương diện phong cách thể hiện tâm trạng thái độ (mỉa mai hay trân
trọng, phê phán hay ngợi ca). Ngay cả việc xử lý các dấu câu để tạo nên giọng
điệu đều thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Khi Tố Hữu viết: “Bác về. Im
lặng. Con chim hót” thì tác dụng của dấu chấm đã tạo nên giọng điệu sâu lắng,
bồi hồi; lời ít mà ý nhiều. Riêng trong Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa
Điềm tách hai từ Đất và Nước để định nghĩa, đã tạo ra giọng điệu riêng, phong
cách riêng không lẫn vào ai. Trò chuyện với Nguyễn Quýnh (GDTĐ số 110,
9/2004), Nguyễn Khoa Điềm cũng đã tâm tình: “Tôi lựa chọn viết trường ca,
cấu tứ theo từng mảng, như thế vừa dễ triển khai cảm xúc vừa dễ sử dụng chất
liệu... tôi rất thích nhạc giao hưởng, đặc biệt là kết cấu giao hưởng, nó nhiều
giọng điệu… Tôi nghĩ tôi sẽ viết một bản giao hưởng bằng ngôn ngữ”, và Mặt
148 đường khát vọng ra đời thật sự đã mang giai điệu của khúc giao hưởng trữ tình
sử thi hiện đại.
Trong quá trình nghiên cứu, tham khảo; chúng tôi tạm phân chia giọng
điệu trong trường ca sử thi hiện đại làm 03 kiểu sau đây (sự phân chia này chỉ
mang tính chất tương đối để thuận tiện cho việc khảo sát):
- Giọng điệu giải bày tâm sự (kể, nói; đối thoại, độc thoại...).
- Giọng điệu triết lý bình luận.
- Giọng điệu chất vấn, tự vấn, yêu cầu.
3.2.1. Giọng điệu giải bày tâm sự.
Kiểu giọng điệu này thường xuất hiện trong hầu hết trường ca về thời
chống Mỹ, như Nước non ngàn dặm, Theo chân Bác, Vách đá Hồ Chí Minh…
Nhất là trong các trường ca xuất hiện sau 1975, nhu cầu thể hiện tâm thế chiến
thắng của dân tộc, giải bày những trăn trở nội tâm về một cuộc chiến tranh vừa
mới đi qua. khiến nhà thơ cần phải sử dụng giọng điệu giải bày, tâm sự.
Đó là lời tâm sự, giải bày thấu tình đạt lý của một thế hệ sinh ra trong
thời chiến tranh, Tổ quốc đang bị giằng xéo mà Thanh Thảo là một trong những
người đại diện: “Người ta không thể chọn để được sinh ra/ Nhưng chúng tôi đã
chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy”. Bởi, dù không thể chọn nơi để được
sinh ra nhưng khi ý thức được về bản thân, về cuộc sống, về vận mệnh tổ quốc;
họ vẫn có thể lựa chọn cho mình một lý tưởng, một hành động phù hợp.
Đó chính là nét đẹp thẩm mỹ về một thế hệ thanh niên thời đại, mang
trong mình dòng máu “yêu nước thương nòi” từ xa xưa. Giọng điệu thơ mang
âm hưởng lời tâm sự thủ thỉ nhưng cũng chính là một lời khẳng định ý chí
“quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”: “Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình./
(nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì
còn chi Tổ quốc?”.
Cả lời ru ngọt ngào mẹ thường hát ru con ngủ cũng khéo léo đi vào thơ
bằng lối kể, tả và vận dụng cả ca dao xưa để âm điệu thơ thêm ngọt ngào, da
149 diết: “Lời hẹn hò con gái con trai/ Là chén canh cá lóc/ Mẹ nấu cho tôi dưới
hàng cây so đũa/ Là lời ru em nhẩm đọc vô tình/ “ví dầu cầu ván đóng đinh/
cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi” (Những người đi tới biển).
Trong Đường tới thành phố, có khi Hữu Thỉnh đã chọn một tứ thơ từ
cách tư duy rất dân gian của nông dân Việt Nam để viết về tình yêu đôi lứa,
tình yêu quê hương bằng giọng điệu kể: “Con gà trống cù kỳ quanh vại nước/
Hạt thóc ngậm vào thành hạt ngọc của tình yêu/ Tiếng nó gáy rung vang cườm
ngũ sắc/ Báo cho du kích đã qua chiều”.
Bằng giọng điệu trần thuật theo dòng cảm xúc, hồn thơ Hữu Thỉnh đã
đưa ta đến với mảnh đất mười tám thôn vườn trầu có hình ảnh người vợ mỏi
mòn ngóng đợi ngày chiến thắng để không còn cảnh lén nuôi dấu người chồng -
là cán bộ địch hậu ở dưới hầm: “Chị đợi chờ quay mặt vào đêm/ Hai mươi năm
mong trời chóng tối/ Hai mươi năm cơm phần để nguội/ Thôi tết đừng về nữa
chị tôi buồn”. Giọng điệu tâm sự giải bày đã giúp nhà thơ thể hiện độc đáo
tâm trạng của người thiếu phụ mười tám thôn vườn trầu: “chị tôi không thể làm
như con rắn que còi”,“chị thiếu anh nên chị bị thừa ra”, “những đêm trở trời
trái gió, tay nọ ấp tay kia”, “một mình một mâm cơm, ngồi bên nào cũng
lệch”, “chị buồn như bông điệp xé đôi…”.
Giọng điệu tâm sự giải bày cũng rất phù hợp để nói về tình đồng chí,
đồng đội gắn bó keo sơn, chia sẻ ngọt bùi khi còn sống lẫn khi về nơi cát bụi.
Mở đầu cho Lửa mùa hong áo, Lê Thị Mây đã chọn những dòng thơ mang
giọng điệu tâm tình với người đã khuất: “Xin các chị cho em nén giữ trong
lòng/ Làn hương sả bắt đầu từ ký ức/ Mười sáu tuổi mười bảy tuổi ai không náo
nức/ Mong được rời nách áo mẹ ra đi/ Tiếng núi sông thăm thẳm rầm rì”.
Như vậy, chúng ta thấy rằng trường ca đã kết hợp thể hiện những cảm xúc
trữ tình cá nhân, cái tôi nội cảm của nhà thơ thông qua lăng kính khách quan về
thời đại để tạo nên những vần thơ mang giá trị lịch sử và văn học sâu sắc. Để
đạt được giá trị nêu trên, trường ca sử thi hiện đại thường sử dụng giọng điệu
150 chung là giải bày tâm sự, hồi tưởng và cả giọng điệu triết lý chính luận sâu
sắc, dễ dàng đi vào con tim người thưởng thức.
3.2.2. Giọng điệu triết lý bình luận
Giọng điệu phù hợp với nội dung tư tưởng thì mới chuyển tải được nội
dung tư tưởng. Ngoài giọng điệu tâm sự, giải bày; trường ca sử thi hiện đại sau
1975 thường có giọng điệu triết lý bình luận pha lẫn tính trữ tình..
Làm nên sự thành công cho trường ca chính là ở chỗ người nghệ sĩ phải
biết thể hiện giọng điệu mang dấu ấn cá nhân độc đáo và tạo hiệu quả trong thơ.
Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng giọng điệu thể hiện sự trầm tĩnh, sâu lắng
đầy tính triết lý luận bàn để tạo nên một phong cách độc đáo cho riêng mình.
Trong Mặt đường khát vọng, nhà thơ đã thể hiện một sự cảm nhận hết sức mới
mẻ, một cách định nghĩa hết sức sáng tạo về đất nước và thường trình bày
những suy nghĩ về nhân dân, đất nước bằng giọng điệu triết lý - trữ tình -
chính luận, nhất là ở chưong V “Đất nước”.
Thời chống Mỹ, tư tưởng chung của thời đại là sự gắn bó máu thịt giữa số
phận cá nhân và số phận cộng đồng, đất nước nên nhà thơ đã bày tỏ chính kiến:
“Em ơi em, đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải
biết hoá thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời”. Tính triết lý
chính luận ở đoạn thơ trên được bắt rễ từ những liên tưởng: quá khứ - hiện tại -
tương lai, từ những con người cụ thể đến cả dáng hình Tổ quốc và từ giọng
điệu thơ giàu tính nhạc êm đềm.
Anh Ngọc dành tình yêu của mình cho những cô gái ở đoàn H 50 vận tải
dọc vùng Nam Trung Bộ. Chất triết lý trong thơ đã tạo nên giá trị tư tưởng:
“Dáng em đi là dáng của con đường/ Em giống đất/ Và đất thì giống mẹ”
(Sông núi trên vai).
Trong thơ Thanh Thảo, tính triết lý chính luận được thể hiện rất nhẹ
nhàng, góp phần chuyển tải một sự thật hiển nhiên nhưng không phải bất kỳ ai
cũng làm được: “Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình”. Thế hệ thanh niên yêu
151 nước thời chống Mỹ đã nói và làm được điều mà họ nói. Cuộc sống an nhàn,
tuổi xuân phơi phới yêu đương làm sao không tiếc nhưng lý do bật ra hết sức
giản đơn mang tầm thời đại, câu thơ vừa là lời tâm sự chân thành vừa mang
tính triết lý sâu xa: “nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
(Những người đi tới biển).
Từ một gốc sim cằn, Hữu Thỉnh đã bình luận về Tổ quốc, với kẻ thù, với
người yêu, bày tỏ nỗi niềm thương nhớ, hiếu thảo với mẹ. Rồi anh quay trở lại
bình luận về đất nước: “Nhưng trước mặt là Tổ quốc/ Dù chỉ gốc sim thôi dù
chỉ gốc sim cằn”. Anh lắng nghe lời ru của mẹ cuối bãi đầu ghềnh; anh hình
dung dáng mẹ lam lũ; nhọc nhằn bằng giọng thơ triết lý chất chứa nỗi niềm
yêu thương Mẹ: “Không mật mã không cần phiên dịch/ Tiếng mẹ ru ta cuối bãi
đầu ghềnh/ Mẹ đi gánh than mẹ thường gánh vã/ Nhem nhuốc cả ngày xanh”.
Paul Valéry đã từng nói: “Thơ là sự phân vân kéo dài giữa âm thanh và ý
nghĩa”. Người chiến sĩ cảm nhận “cái im lặng hoàn toàn” của đất trời khi im
tiếng súng, anh nằm nghe thơ, “nghe sự phân vân kéo dài giữa âm thanh và ý
nghĩa” một cách thi vị và nhà thơ đã giúp anh bày tỏ tâm sự bằng giọng điệu
trầm tĩnh: “Ngôi sao xanh rơi xuống lá sim/ Thành giọt sương từ lá sim rơi
xuống”. Câu thơ tiếp theo lại chuyển sang một giọng thơ mơ hồ nhưng đằm
thắm, tạo sự liên tưởng về tình yêu: “Hoa bung biêng ơi, con lắc của mùa
xuân/ Rừng không ngủ vì những hồi gõ tím”. Câu thơ vang lên, chỉ đọc bằng
mắt thôi cũng đã thấy nhạc điệu ngân nga đến trước cái màu xanh của chồi non
xuân biếc, cái màu tím bâng khuâng của giấc ngủ núi rừng và trước cả sự cảm
nhận về ý nghĩa (Đường tới thành phố).
Trong Trường ca sư đoàn, Nguyễn Đức Mậu cũng thường thể hiện tâm
trạng nhân vật bằng giọng điệu triết lý mang sắc thái trầm tĩnh, thiết tha về sự
sống vĩnh hằng: “Sống như đất, ta bình thường như đất/ Đất đứng lên thành
dáng vóc con người”. Nhà thơ đã có một cách liên tưởng thật độc đáo, kỳ lạ và
đã sử dụng giọng điệu trầm tĩnh nhưng đậm đà tình cảm của mẹ đối với con:
152 “Ngón tay khô gầy/ Mẹ tính đốt thời gian/ Khi mười ngón tay mẹ đầy vầng
trăng mọc/ Thì chúng con giải phóng Sài Gòn”.
Hoàng Trần Cương cũng đã từng trăn trở, ưu tư trước nỗi dâu bể của cuộc
đời. Điều đó được nhà thơ sử dụng giọng điệu triết lý để so sánh khá ấn tượng:
“Những trầm tích giữa bộn bề năm tháng/ Khuất mình nhưng chưa khuất bóng/
Khuất mình nhưng không khuất lặng/ Như mây trắng trên trời/ Như ngọn sóng
dưới sông/ Như mưa chưa ngừng rơi/ Và gió/ Hững hờ hò hẹn với khơi xa”
(Trầm tích).
Ở Trường ca Hàm Rồng, Từ Nguyên Tĩnh cũng chọn cách nói triết lý
chính luận để luận bàn về tình yêu đích thực của con người: “Hàm Rồng Hàm
Rồng vang động mãi trong tôi/ Tưởng như nếu không có Hàm Rồng tôi đã
thành kẻ khác/ Như không có tình yêu tôi đã thành người độc ác/ Không có phù
sa tôi không là cây xanh hữu ích cho đời”.
Có thể nói, trường ca sử thi hiện đại thường thể hiện những chiêm nghiệm
sâu sắc về con người, cuộc sống, đất nước, thế giới và còn đề cập đến những
vấn đề đạo đức của nhân loại... Với giọng điệu phong phú; các trường ca đã
được sự đồng cảm của người thưởng thức; nhất là ở những khổ, những chương
thơ đặc sắc. Tất nhiên, cũng không loại trừ một số trường ca; trong một vài
chương, vài đoạn; do tính triết lý chính luận đã tạo nên sự nặng nề hoặc có
những ý thơ dàn trải, dễ dãi, buông thả… như những dòng thơ sau: “Mười
họng súng hối hả chong vào ngực/ Các anh nhìn thẳng, nhóng người lên” (Hòn
Khoai - Nguyễn Bá). Hay: “ Đọc nhiều nhất là thư của mẹ/ Tiếp đến là thư của
các em/ Rốt nữa thư bạn bè cùng học/ Chưa yêu nên chưa có thư yêu” (Mười
bảy khúc đảo ca - Dương Thuấn).
Nhìn chung, giọng điệu trong trường ca sử thi hiện đại đa cách thức, đa
sắc thái, đa chủ thể phát ngôn, giàu tính thẩm mỹ và giàu cách thức thể hiện.
Có thể là giọng điệu giải bày, tâm sự nhưng cũng có thể là giọng điệu triết lý
luận bàn hoặc chất vấn yêu cầu.
153
3.2 3 Giọng điệu chất vấn, tự vấn, yêu cầu
Thời chống Mỹ, các nhà thơ phần nhiều thường để tâm thế hướng ngoại
khi nói về nhân dân, đất nước cùng với những sự việc có tầm vóc lịch sử. Trữ
tình cá nhân đã nhường chỗ cho trữ tình công dân nên trường ca mang dáng
vóc sử thi. Đây là điểm khác biệt khi so sánh với thơ mới. Nhà thơ hướng nội
để lắng nghe nhiều cung bậc tình cảm trỗi dậy trong lòng đang có nhu cầu bộc
bạch, sẻ chia, và giọng điệu trường ca sẽ mang tính chất giải bày tâm sự và tự
sự đẫm chất trữ tình. Có khi đang từ hướng nội lắng nghe lòng mình, nhà thơ
đã chuyển sang huớng ngoại để lắng nghe cuộc sống bên ngoài... nhất là ở
những trường ca thiên về suy nghĩ trí tuệ, thiên về chất chính luận như trường
ca của Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh…
Anh Ngọc, trong Sông núi trên vai, có ý thơ sử dụng chất liệu dân gian từ
thành ngữ, tục ngữ mộc mạc kết hợp với giọng điệu tâm tình pha lẫn triết lý nhẹ
nhàng để bày tỏ tình cảm: “Ví dù cách mặt khuất đêm/ Thì xin chân cứng đá
mềm được chăng?”. Giọng điệu chất vấn nhẹ nhàng và thân thương có khi
được thể hiện qua việc miêu tả nhân vật: “Pi Thị Bảy/ Cô gái Rắc Lây đu phía
trước đội hình/ Đang lên đèo/ Anh có thấy không anh?”.
Có khi lời thơ là một nỗi lòng đau đáu, xót xa, căm hận sự tàn bạo của kẻ
thù đã làm cho vật đổi sao dời; giọng điệu chất vấn mà da diết nỗi niềm: “ Mồ
mả ông bà ơi/ Ruộng đã thành ao sông hóa bãi/ Mà gió chướng vẫn vô hồi thổi
mãi/ Cực Nam Cực Nam” (Sông núi trên vai - Anh Ngọc).
Ở trường ca Theo chân Bác, Tố Hữu đã trình bày lại toàn bộ cuộc đời của
Bác theo diễn biến thời gian. Nhưng vì là một nhà thơ có sở trường sử dụng
giọng điệu trữ tình nên lịch sử là “cái sườn cấu tạo chung, là phương tiện dẫn
dắt câu chuyện. Cảm xúc mới là cái nền, là chất men say… Sự kiện lịch sử và
cảm xúc bổ sung cho nhau, nâng đỡ nhau. Không dựa vào lịch sử, cảm xúc sẽ
dễ đuối hơi và đơn điệu; không dựa vào cảm xúc, lịch sử lại dễ trần trụi, khô
khan” [43, tr.670]. Tố Hữu kết hợp khá nhuần nhuyễn cách thức vừa kể
154 chuyện, vừa nói nỗi lòng. Giọng điệu kể xen kẽ giọng điệu hỏi tạo thành nỗi
niềm tâm sự ngay từ bốn câu thơ mở đầu: “Tháng năm ơi, có thể nào quên/
Hàng bóng cờ tang thắt dải đen/ Rũ giữa lòng đau. Ta nhớ mãi”.
Nhà thơ đã dành phần đầu và phần cuối bản trường ca để nói về hiện tại
và trình bày những cảm xúc suy nghĩ nên giọng kể mang chất tâm tình sâu
đậm, đầm ấm, ngọt ngào. Phần giữa trường ca, Tố Hữu dựa vào thời gian lịch
sử để kéo quá khứ về với hiện tại nên giàu chất suy tưởng. Hình thức thơ bảy
chữ bốn câu giúp bản trường ca gần năm trăm câu không đơn điệu mà trái lại
càng mang âm hưởng trang trọng, thiết tha và giàu tính hàm súc. Tất nhiên
trong bản trường ca này cũng có những câu thơ giọng điệu nói chưa thật hay
như: “Phải không vậy, ơi anh ơi chị…”, nhưng đó chỉ là những hạt cát gợn lên
trên mặt lụa mịn màng.
Giọng điệu kể có mặt trong tất cả các bản trường ca, có thể kể nhiều, nói
nhiều, đối thoại nhiều như ở Vách đá Hồ Chí Minh (Thu Bồn), trường ca
Nguyễn Văn Trỗi (Lê Anh Xuân), Kể chuyện ăn cốm giữa sân (Nguyễn Khắc
Phục). Mặt đường khát vọng cũng có nhiều đoạn nói, đối thoại.
Bình luận về ranh giới giữa cái sống và cái chết, Thanh Thảo đã triết lý
thật sắc cạnh. Lời thơ là một câu hỏi mang tầm thời đại nhưng sự lý giải bật ra
thì rất giản đơn: “nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi là Tổ quốc?”
(Những người đi tới biển).
Có khi, để diễn tả trọn vẹn tình yêu với đất, nhà thơ vận dụng giọng điệu
hỏi của ca dao: “Tôi đến đây thành rễ cây hút chặt/ Với đất này nhớ câu hát
ngày xưa/ “Lấy anh em biết ăn gì/ Lộc sắn thì chát lộc si thì già” (Đường tới
thành phố). Cũng như nhiều nhà thơ viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ
giai đoạn sau; Hữu Thỉnh luôn suy tư, trăn trở về những con người, sự kiện, sự
việc… bình thường nhưng có tầm vóc lớn lao, có ý nghĩa sâu sắc. Những tâm
sự giản đơn nhưng có sức nặng tư tưởng đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn con
người, giúp cho trường ca giàu chất trữ tình sâu lắng.
155
Cuộc kháng chiến chống Mỹ càng gay go, quyết liệt thì sự nhận thức về
nó ngày càng sâu sắc. Đó là nhu cầu nhận diện cuộc chiến tranh, tìm ra quy luật
của nó và trách nhiệm của nhân dân đối với đất nước, Tổ quốc. Hữu Thỉnh đã
để người lính tâm sự với người ỵêu về ngọn lửa, về thơ, về trận đánh bên gốc
sim cằn. Lối độc thoại, giọng điệu tự vấn sắc cạnh gợi trong lòng người đọc
nỗi xúc động khôn nguôi: “Trời ơi, nếu kẻ thù chiếm được/ Chỉ một gốc sim
thôi dù một gốc sim cằn/ Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc/ Thơ ơi thơ hãy ghì lấy
gốc sim”. Giọng điệu thơ có khi là lời độc thoại, thể hiện sự hòa hợp hai tâm
hồn: “Gió đâu gió mát sau lưng/ Em không phải sau lưng/ Em đang ngồi trước
mặt/ Bởi anh biết em ơi anh biết/ Cuối chặng đường là nỗi nhớ gặp nhau”
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh).
Trong Trường ca Sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu, có vài đoạn thơ sử dụng
lối kể độc thoại đầy ấn tượng về sự khắc nghiệt của chiến tranh pha lẫn giọng
điệu hỏi: “Trong bom đạn đồng đội gọi tên nhau/… Gọi một lần, nhớ mãi về
sau/ - Hùng ơi nằm đâu?/ - Sơn nằm đâu?/ - Tiến nằm đâu?/ Giọng nói trộn
thuốc bom sặc sụa/ Tôi nhớ khi giọng nói đứt lưng chừng”. Những câu hỏi thể
hiện sự chia sẻ cái sống cái chết trong gang tấc nghe vừa thực, vừa ảo, mong
manh, mênh mang. Nhưng đọng lại sâu sắc nhất là câu thơ kể về cái “giọng nói
đứt lưng chừng” bởi người nói đã như chiếc lá lìa cành, mãi mãi ra đi.
Trong Khoảng trời người lính, Lê Anh Quốc cũng đã tự dằn vặt: “Phải
đâu người sống quên rồi/ Chiến tranh để lại… rối bời chiến tranh/ Vết thương
nhức nhối chưa lành/ Chẳng nguôi quên... ở rừng xanh - mộ còn”.
Các trường ca của Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn
Hưng Hải, Hoàng Trần Cương... thể hiện nhiều giọng điệu, sử dụng nhiều cách
thức biểu hiện giọng điệu. Đa phần, các nhà thơ đã sử dụng kết hợp nhiều thể:
tự do, lục bát, song thất lục bát, thơ năm chữ, thơ sáu chữ, thơ bảy chữ, thơ tám
chữ… để dễ dàng xê dịch, chuyển tải ý tứ một cách phóng khoáng; nhiều kiểu
câu cảm, hỏi... góp phần giúp cho giọng điệu trường ca trở nên đa cách thức.
156
Cuộc kháng chiến chống Mỹ thần thánh của dân tộc là một cuộc sống
rộng lớn đầy biến động. Diễn tả cái nền hiện thực ấy; tất nhiên, nhịp điệu, thể
thơ trong trường ca cũng cần phóng khoáng, linh hoạt. Giọng điệu thơ, ngôn
ngữ thơ, hình tượng thơ cũng hiện đại trí tuệ hơn kết hợp với sự tiếp thu sáng
tạo chất liệu văn học dân gian truyền thống.
Trường ca sử thi hiện đại ra đời sau 1975 có khuynh hướng thiên về chất
trữ tình triết lý, chiêm nghiệm; cốt truyện như trong trường ca truyền thống hầu
như không còn là điều quan trọng, nhưng bao giờ yếu tố tự sự cũng có vai trò
nổi bật. Điều đáng nói là những sự kiện, câu chuyện ấy được tái tạo lại không
theo một thứ tự qui định mà theo sự trỗi dậy của cảm xúc và nhờ kết câu, cách
liên tưởng… để các sự kiện gắn bó chặt chẽ với nhau.
Trong một hội thảo về trường ca, chính Thu Bồn cũng đã khẳng định
“trường ca là một kiến trúc tổng hợp của thơ ca” (TC VNQĐ số 11/1980). Xét
cho cùng, từ “tổng hợp” ở đây mang nhiều phương diện của nội dung và nghệ
thuật. Trường ca; trước hết là một bài ca hơn là một câu chuyện kể vì tính phức
điệu, tính giao hưởng về cảm xúc, về giọng điệu, về kết cấu, thể thơ, nhạc điệu,
sự kết hợp hài hòa giữa nét truyền thống và hiện đại. Trường ca về thời chống
Mỹ sử dụng nhiều giọng điệu đa dạng và linh hoạt, sử dụng nhiều cách: nói, kể,
đối thoại, độc thoại nội tâm v...v. Ngôn ngữ kể, đối thoại thường ít mang chất
thơ, nhà thơ ít quan tâm đến vẻ đẹp ngôn từ mà phải tìm ở vẻ đẹp của tứ thơ và
các biện pháp nghệ thuật khác. Ngôn ngữ sử dụng trong độc thoại mang tính
triết lý luận bàn thường mang tính hàm súc, hầu như ít có sự xuất hiện của ngôn
ngữ đời thường suồng sã như số ít bài thơ đương đại.
Tuy nhiên, ngay những trường ca có giá trị, bên cạnh giọng điệu đối
thoại tự nhiên, mộc mạc; vẫn thiếu sự trau chuốt ngôn từ và giọng điệu ở
một vài đoạn đối thoại: “Chị không kể bốn năm đày hả anh?/ Tù về mắc bệnh
động kinh/ mình nghe nói chớ bả làm thinh hoài hoài/ để cho mình được thảnh
thơi…” (Câu chuyện trong hầm - Đường tới thành phố). Rải rác trong một số
157 trường ca vẫn còn nhiều đoạn, câu thơ… còn sa vào tự nhiên chủ nghĩa, còn
chêm xen thừa thải.
Trong chiến tranh, biết bao người chết thảm, bao liệt sĩ hy sinh khi còn rất
trẻ. Các nhà thơ đồng cảm và hiểu yêu cầu được phát ngôn của họ: “ai sẽ nói
thay họ trong khoảnh khắc, trong sự mong manh... nếu không phải là nhà thơ.
Nâng cây đàn lyre của vô thức tập thể, nhà thơ hiện đại có thể sững sờ khi
những dòng thơ của mình bỗng trào lên nhiều giọng, nhiều tiếng nói, và tự
nhiên nó có hình thức của một phức hợp nghệ thuật” [91, tr.40-41].
Đường tới thành phố cũng có một đoản khúc văn xuôi như nói, như kể
một cách chân tình, bình thản nhưng lại đầy tính triết lý luận bàn mang tên
Văn xuôi người lính: “Chẳng cần phép gì đâu, anh vẫn đến được từng người,
làm quen và trò chuyện, chỉ cần anh có mặt đúng giây phút chẳng bao giờ lập
lại, đến đúng nơi những quyết đoán không ngờ. Nhưng đừng viết về chúng tôi
như cốc chén đứng trên bàn; xin hãy viết như dòng sông chảy xiết” .
Trong Trước núi Ngọc Linh, Vũ Hùng đã viết về những đêm cực Bắc
bằng giọng điệu nói nhẹ nhàng, sâu lắng. Đoạn thơ là một sự hồi tưởng dịu êm
về những giấc ngủ xưa bên cánh võng trong núi rừng Trường Sơn bạt ngàn: “Ta
về đây hỡi Ngọc Linh ơi/ Đêm mông lung cực Bắc xa xôi/ Núi đứng núi/ Tây
Trường Sơn trầm mặc/ Gió thổi gió hoang xưa trận mạc/ Bóng võng treo mình/
Lủng lẳng giấc dịu êm”. Đó còn là nỗi nhớ về những ngày ăn rau rừng xanh
cho quên cơn đói vàng cả mắt. Nhớ bếp Hoàng Cầm, nhớ khèn đinh tút thổi
vờn đêm trăng, nhớ bóng cây kơnia nghiêng mình thao thức, nhớ tình người
tình đất triền miên trong ký ức dài lâu, và nhớ “cánh võng mẹ trao/ Thần tốc
hành quân/ Chiến dịch ngày nào/ Đại thắng mùa Xuân”.
Có một đoạn thơ trong Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu, giọng
điệu mang chất nhật ký chiến trường: “Trang sổ tay phóng sự chiến tranh/
Một nhà báo nước ngoài đã viết/: “Trong năm ngày tháng 6 - 72/ Số đạn bom
158 ở khu vực Cổ Thành/ Hai ngàn bảy trăm năm mươi tấn”/ “Mồng một, mồng
hai tháng 8 - 72/ Hai trăm lần B.52 rải thảm...”.
Có khi nhà thơ sử dụng cách thức đối thoại, đây là đoạn đối thoại giữa hai
người lính bộ binh vượt sông trong “cơn nước xoáy, dòng sông đầy đạn nổ”:
“Những giọng nói bồng bềnh sóng vỗ/ - Bom toạ độ!/ - Cậu bám vào vai tớ!/ -
Khẩu súng mày đâu?/ -Nước cuốn rồi…/ Sóng oà theo hòng nuốt lấy lời”.
Trường ca Vách đá Hồ Chí Minh của Thu Bồn cũng có nhiều đoạn đối
thoại giữa Dy Mơ Thưng với Dang Nghi A. Trong Trường ca Nguyễn Văn
Trỗi, Lê Anh Xuân cũng sử dụng khá nhiều đoạn thơ đối thoại giữa chị Quyên
và anh Trỗi... Trong Đường tới thành phố, chương “Câu chuyện trong hầm”
cũng nhiều đoạn đối thoại. Giang Nam, trong Người anh hùng Đồng Tháp,
cũng sử dụng nhiều đoạn thơ nói, đối thoại giữa anh hùng Huỳnh Việt Thanh
với vợ, với đồng đội… và cả những lời độc thoại nội tâm. Ở các trường ca này,
giọng điệu kể là cách thức chủ yếu để chuyển tải nội dung, nhưng trong thơ
đương đại, cách thức này đã giảm đi hấp lực so với giọng điệu tâm tình.
Về mặt giọng điệu, có điểm khác biệt khá rõ giữa trường ca sử thi truyền
thống và trường ca sử thi hiện đại. Đó là trong trường ca sử thi truyền thống,
xen lẫn giữa những đoạn văn đối thoại là những lời dẫn, lời kể của người
sáng tác. Người sáng tác đã kể, đã tả, đã lồng cảm xúc chủ quan của mình vào
các sự kiện, các nhân vật trong trường ca. Đây là đoạn đầu trường ca Xing Nhã
của dân tộc Ê đê, kể chuyện Gia dơ-Kốt gặp gỡ Hơ bia-Đá kết nghĩa vợ chồng,
sinh ra Xing Nhã:
Gia dơ-Kốt: Không đâu! nhờ tiếng chim Mơ lang, giúp anh lại rẫy cao,
nhờ tiếng chim Mơ ling bảo anh vào chòi thấp. Này là cái còng. Anh trao em
giữ. Mai mốt nếu bỏ em, anh sẽ thành người giữ lợn và đóng cửa chuồng gà
cho em.
Từ đó, Gia dơ-Kốt và Hơ bia-Đá đã kết thành vợ chồng. Buổi sáng họ lo
việc rẫy, buổi chiều họ lo việc nhà, chịu thương chịu khó làm nương rẫy, để
khỏi đói, khỏi rét… Ở một ngày, nghĩ một tháng qua một mùa Xuân, Hơ bia-Đá
159 đã có mang, đầu vú sẩm đen, sắp đến ngày con bồng con bế. Sau khi lọt bụng
mẹ, Xing Nhã khóc miết bảy ngày bảy đêm.
Trong trường ca Đăm Di, xen lẫn trong những đoạn văn đối thoại cũng là
những đoạn văn dẫn truyện kể lại sự việc tả cảnh thiên nhiên, tả người. Trong
trường ca sử thi hiện đại không có những đoạn văn xuôi dẫn truyện và
những đoạn văn đối thoại cũng hiếm, chỉ sử dụng thường nhằm mục đích
khắc đậm tính chất của sự kiện.
Với thơ Việt Nam, có thể nói giọng điệu cũng là nhạc điệu, giọng điệu
mang tính nhạc. Bởi dân tộc Việt Nam ưa sự cân đối, hài hoà nên về mặt âm
thanh, ngữ pháp trong thơ, trong lời ăn tiếng nói dân dã cũng chuộng sự nhịp
nhàng, đối xứng. Điều ấy đã đem lại sự uyển chuyển, mềm mại và cảm xúc cho
thơ, thể hiện tâm trạng trữ tình rất quen thuộc trong dân gian. Ngay cả những
câu thơ văn xuôi trong trường ca có độ dài ngắn khác nhau nhưng vẫn thể hiện
tính nhạc, tính nhịp nhàng gợi cảm, âm điệu hài hoà phong phú, ý thơ vẫn có
sức liên kết với nhau, vẫn ngân vang, bằng trắc hoà hợp, trầm bổng. Vì vậy,
giọng điệu trong thơ ca Việt Nam rất phong phú và đa dạng một phần cũng
nhờ ngôn ngữ Việt Nam giàu tính nhạc điệu.
Tính chất đa giọng điệu hoàn toàn thích hợp với trường ca sử thi hiện
đại để đạt đến sự thể hiện tầm cao và độ sâu tâm trạng, cảm xúc của nhân vật
thời đại mới. Điều này cũng liên quan đến sự kết cấu của các thể thơ được sử
dụng trong trường ca. Giọng điệu cũng là một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt,
giúp cho các nhà thơ tạo nên một sắc thái riêng, một phong cách riêng cho
mình. Bên cạnh việc chọn nhiều thể loại thơ phối hợp, thủ pháp giọng điệu, thì
một thủ pháp khác cũng góp phần khắc họa nét đặc sắc riêng cho thể trường ca,
đó chính là yêu tố không gian nghệ thuật mang đậm chất sử thi.
3.3 Không gian nghệ thuật. Không gian sử thi
Sáng tác của một nghệ sĩ là một thế giới mà trong đó phải có yếu tố ngoại
cảnh. Yếu tố ngoại cảnh khi được các nhà văn sử dụng có ý thức và thể hiện
160 một cách nghệ thuật sẽ trở thành không gian nghệ thuật và là một hình thức tồn
tại của hình tượng, thâm nhập vào bản thân hình tượng và bộc lộ tính tư tưởng
của hình tượng. Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, là
phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật là
thế giới của cái nhìn thì không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một
điểm nhìn, cách nhìn; trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống; trở thành
ngôn ngữ, biểu tượng nghệ thuật. Không gian nghệ thuật bao giờ cũng gắn
liền với cảm xúc và mang ý nghĩa nhân sinh. Không gian nghệ thuật không
chỉ đơn thuần là tái hiện lại cảnh vật mà còn thể hiện giá trị tinh thần, bày tỏ
tư tưởng... góp phần bộc lộ nội dung cần đạt đến. Bất kì một tác phẩm nào
cũng có yếu tố ngoại cảnh; nhưng không phải yếu tố ngoại cảnh nào cũng trở
thành không gian nghệ thuật. Trong Giáo trình Thi pháp học viết năm 1993,
Trần Đình Sử đã cho rằng: “Không gian nghệ thuật có nhiều lớp: không gian
vũ trụ, không gian xã hội, không gian địa lý, không gian con người...”.
Trong văn học nghệ thuật, không gian nghệ thuật giúp cho hình tượng
nghệ thuật tồn tại. Không gian nghệ thuật vừa là không gian vật lý vừa là
không gian tâm tưởng của nhân vật trữ tình. Không gian nghệ thuật là một
phương diện rất quan trọng của tư duy nghệ thuật đánh dấu trình độ chiếm lĩnh
thế giới của thơ. Theo quan điểm triết học xưa, con người là tiểu vũ trụ tương
thông với vũ trụ, là một trong tam tài: “thiên địa nhân”. Con người gắn bó mật
thiết với vũ trụ nên không gian trong thơ cổ chủ yếu là không gian bao la rộng
lớn; là địa hạt huyền bí xa xăm. Không gian cá nhân đồng nhất với không gian
vũ trụ. Trong thơ Thiền thời Lý Trần thường xuất hiện không gian bao la,
khoáng đạt, trong trẻo và lặng lẽ như: “Vũ thu thiên nhất bích” (Mưa tạnh trời
một màu xanh biếc) (Đề Gia Lâm tự - Trần Quang Triều), là không gian trống
không bình đạm: “Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ./ Mộc tê hoa thượng
nguyệt lai sơ” (Tỉnh giấc tiếng chiếc chày đập vải không còn nghe thấy. Trên
đầu hoa mộc tê, ánh trăng đang bắt đầu đến) (Nguyệt - Trần Nhân Tông).
161 Trong ca dao xưa thường xuất hiện không gian làng quê với đình làng, bờ
ao, giếng nước, gốc đa, luỹ tre, bờ ruộng... đậm chất dân dả nông thôn.
Trong các tác phẩm hiện thực phê phán thường xuất hiện không gian nghệ
thuật là làng quê nghèo khổ với mái tranh vách lá... làm tăng giá trị biểu cảm về
cảnh đời khốn khổ, đói rách của người dân trước Cách mạng tháng Tám.
Với thơ ca cách mạng, không gian nghệ thuật là một yếu tố nghệ thuật
phục vụ đắc lực cho việc phản ánh nội dung tư tưởng. Trong các trường ca sử
thi thời chống Mỹ thường xuất hiện không gian nghệ thuật là cảnh tiễn đưa,
cảnh chiến trường, cảnh làng quê nhung nhớ… Trong chuyên luận “Sự cách tân
thơ văn Việt Nam hiện đại”, Bùi Công Hùng đã cho rằng trường ca là mảnh đất
phù hợp để các nhà thơ có điều kiện khái quát, tổng kết những giai đoạn lịch sử
đã qua, mở ra hướng đi lên của dân tộc và “có điều kiện để thể hiện chất sử thi,
chất anh hùng trên bề rộng không gian và chiều dài thời gian” [34, tr.115].
Quả đúng như thế; với mục đích cần vươn tới là bày tỏ cảm xúc, thể hiện và
tổng kết hiện thực lịch sử thời chống Mỹ ở độ đáng tin cậy, các nhà thơ đã khắc
họa không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật một cách hiệu quả trong các
bản trường ca.
Chọn lựa không gian nghệ thuật là một dụng ý nghệ thuật. Bởi không
gian nghệ thuật là một yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên hình hài nhân vật;
tạo cái cốt lõi, cái nền để nhân vật hoạt động; là trung tâm để xây dựng tác
phẩm; là xuất phát điểm để nhà văn, nhà thơ cảm thụ vấn đề và xây dựng vấn
đề thành tác phẩm. Không gian nghệ thuật đã tích cực phục vụ cho việc khắc
họa tâm trang nhân vật trữ tình, góp phần thể hiện giá trị tư tưởng sâu sắc
và là một đặc điểm nổi bật của trường ca về thời chống Mỹ so với thơ dài.
Khảo sát một số trường ca về thời chống Mỹ khá thành công, ta thấy rằng
các nhà thơ thường dựng lại cảnh mẹ tiễn con đi làm cách mạng đậm màu sắc
tình cảm quyến luyến, nhớ nhung; cảnh chiến trường ác liệt đẫm máu lúc giao
tranh; cảnh những đoàn quân đang hành quân trên con đường lớn của dân tộc,
162 cảnh làng quê yên ả sau khi tan tiếng súng… Đó là không gian sử thi đặc
trưng thường xuất hiện khá ấn tượng trong trường ca.
3.3.1. Không gian sử thi là cảnh làng quê, cảnh đưa tiễn
Không gian nghệ thuật sử thi chính là yếu tố ngoại cảnh đặc biệt làm
nên giá trị hiện thực cho các trường ca sử thi hiện đại bên cạnh yếu tố người
thực, việc thực. Không gian sử thi trong trường ca về thời chống Mỹ thường là
cảnh làng quê đang chìm trong khói lửa... để phục vụ thích hợp cho ý đồ
miêu tả cảnh chia tay. Hình tượng người vợ, người mẹ, người chiến sĩ trong
buổi tiễn đưa được tồn tại trong một không gian nghệ thuật giàu chất sử thi
nhân đạo, khắc đậm tính cách, tâm hồn của những người yêu nước trong một
thời đại cách mạng. Điều ấy giúp nhà thơ chuyển tải được tình cảm mẹ con
trong giờ phút tiễn biệt, người con đi vào cuộc chiến mang trong hành trang có
lời mẹ kính yêu.
Không gian đưa tiễn có khi diễn ra nơi cánh đồng chiều mờ hơi sương
khói, nơi ngôi nhà có khói bếp cũng bịn rịn không muốn bay lên: “Khi con thưa
với mẹ/ Mưa bay mờ đồng ta/ Ngày mai con đi/ Khói bếp mẹ con mình chợt
ngừng trên mái rạ” (Những người đi tới biển - Thanh Thảo). Không khí ác liệt
của chiến trường lan đến tận các miền quê: “Mẹ tiễn con đi dưới trời bom tọa
độ/ Lời mẹ vang theo sắc lá Trường Sơn” (Ở làng Phước Hậu).
Không gian làng quê có khi là nơi mẹ ngồi lần bấm những đốt tay gầy
mòn, hanh hao vì nhớ nhung con: “Mẹ bấm đốt ngón tay tính trăng tròn mỗi
tháng/ Chúng con đi dọc miền Tây Trường Sơn” (Trường ca Sư Đoàn).
Không gian sử thi là mười tám thôn vườn trầu, một địa danh đặc biệt mà
khi nhắc đến, ta sẽ hình dung cả một vùng kháng chiến hừng hực không khí đấu
tranh: “Bởi nơi ta về có mười tám thôn vườn trầu/ Mỗi vườn trầu có bao nhiêu
mùa hạ/ Chị đợi chờ quay mặt vào đêm”. Không gian nghệ thuật có khi là ngôi
nhà bóng đêm thể hiện tâm trạng đợi chờ chồng suốt hai mươi năm trời của
163 người phụ nữ sinh ra trong thời chiến tranh: “Hai mươi năm mong trời chóng
tối/ Hai mươi năm cơm phần để nguội” (Đường tới thành phố).
Trong trường ca về thời chống Mỹ, cảnh làng quê, cảnh tiễn đưa, sự hồi
tưởng về cảnh vật... đã góp phần tạo nên nét đặc sắc, sống động và giá trị lịch
sử cho trường ca. Những dòng thơ giàu tính sử thi và trữ tình miêu tả không
gian sử thi đã đến với người thưởng thức và ở lại trong tim của họ.
3.3.2 Không gian sử thi là cảnh chiến trường
Khung cảnh chiến trường chính là không gian sử thi trong trường ca
hiện đại. Không gian chiến trường có thể là một điểm chốt, một cánh rừng, một
vùng đất, một dãy núi, một con đường, một địa đạo, một căn hầm… lúc giao
tranh hoặc khi ngưng tiếng súng.
Không gian sử thi có thể là cả địa đạo Củ Chi mênh mông hun hút, cũng
có thể là một cánh rừng ở cực Nam, là Bình An, Bàu Trắng, là chiến khu Bắc
Ái, Tam giác sắt, chiến khu Lê Hồng Phong đã đi vào Sông núi trên vai của
Anh Ngọc. Trong Sông núi trên vai, không gian sử thi còn là hình ảnh nhà cửa,
mả mồ, làng quê đã tan hoang: “Mồ mả ông bà ơi/ Ruộng đã thành sông ao
hoá bãi/ Mà gió chướng vẫn vô hồi thổi mãi/ Cực Nam/ Cực Nam”.
Trong thơ Tố Hữu; không gian nghệ thuật là con đường cách mạng,
đường ra trận. Con đường đi suốt chiều dài đất nước trong Nước non ngàn dặm,
những con đường Trường Sơn xuôi ngược: “Trường Sơn đông nắng tây mưa/
Ai chưa đến đó như chưa hiểu mình”. Các bản trường ca Ba mươi năm đời ta
có Đảng, Theo chân Bác đều in đậm những chặng đường lịch sử, hành trình
cách mạng của Bác, của Đảng. Hình tượng con đường có thể nói là đặc điểm
riêng của trường ca sử thi hiện đại và là đặc điểm chung của thơ ca cách mạng
Việt Nam. Điều đó đã trở thành nét tư duy cơ bản trong thi pháp thơ Tố Hữu.
Không gian nghệ thuật con đường trong những trường ca và thơ hiện
đại sau Cách mạng tháng Tám không phải là con đường thiên lý, con đường
rong ruổi của vó ngựa trường chinh, con đường phiêu bạt của những con người
164 bất đắc chí với thời cuộc như trong thơ của Cao Bát Quát, Nguyễn Du. Con
đường trong trường ca là không gian sử thi tạo nên không khí cộng đồng,
không gian xã hội đoàn kết của những con người Việt Nam: con đường của
chiến sĩ giải phóng trong hầu hết các trường ca, con đường của các chị gái,
người em gái hoạt động nội thành (Ở làng Phước Hậu), con đường của tuổi trẻ
học sinh, sinh viên thành thị xuống đường (Mặt đường khát vọng - Nguyễn
Khoa Điềm).
Không gian sử thi, không gian chiến trường mang màu sắc ác liệt; có
thể là một cột mốc biên cương, một gốc sim cằn, một căn hầm, một cây ớt báo
hiệu, một chiếc xuồng con, một cái hầm hào... biểu hiện tinh thần quyết tâm
chiến đấu. Trong Những người đi tới biển, không gian chiến trường là cánh
rừng nguyên thuỷ ẩn chứa biết bao hiểm nguy rình rập, là những đêm rừng
nghiêng ngả, đảo chao vì những trận bom B.52 khủng khiếp đã được thản nhiên
thả xuống cánh rừng: “lệnh hành quân từ cánh rừng mắc võng/ những gương
mặt đong đầy mưa nắng... đêm cơn sốt B.52 rừng nghiêng ngả”.
Có khi không gian sử thi là những khoảng rừng bị tàn rụi tan hoang.
Mùi bom đạn cháy khét, cảnh tượng ngàn cành khô khốc giơ lên trời xanh như
than thở: “cuối một đêm con qua khoảng rừng cháy trụi/ cây như ngàn cánh
tay khô khẳng níu bầu trời/ bên hố bom B. 52 khét lẹt” (Những người đi tới
biển).
Cảnh chiến trường ác liệt được tái hiện khá thành công như sự thật đã
từng xảy ra trên quê hương Việt Nam. Không gian nghệ thuật là một trận
đánh dữ dội, không cân sức để bảo vệ từng tấc đất quê hương: “trận đánh lại
bắt đầu mới nguyên… anh đang bò về phía gốc sim/ ngực đập dội chuyền sang
đất đá/ quần áo tướp ra/ một nửa người anh tươm tướp máu”. Hình ảnh Tổ
Quốc tượng trưng qua một gốc sim cằn, nhưng đó là một không gian nghệ
thuật sử thi góp phần tăng vẻ đẹp của người lính quyết tử: “Trời ơi, nếu kẻ thù
165 chiếm được/ Chỉ một gốc sim thôi, dù chỉ gốc sim cằn/ Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ
quốc ” (Đường tới thành phố).
Có khi không gian sử thi là cánh đồng của mẹ được khắc sâu thành hình
tượng nghệ thuật độc đáo: “Những cánh đồng in dấu chân của mẹ/ Cứ ngày
ngày ra khẩu lệnh cho tôi”. Có khi là căn hầm nuôi dấu chồng suốt hai mươi
năm nhưng người vợ lại góa bụa trong hồ sơ của địch, đó cũng là chiến trường
ác liệt mà lòng người phải chiến đấu. Một khu vườn nhỏ, có cây ớt nhỏ che
miệng hầm trú ẩn cũng đã trở thành hình tượng nghệ thuật chiến đấu được che
chắn: “Quạt khép mở trên tay của mẹ/ Thành tín hiệu qua đường/ Cây ớt che
miệng hầm/ Chiếc dây phơi kéo cờ khởi nghĩa” (Đường tới thành phố).
Ở Mặt trời trong lòng đất, không gian nghệ thuật thường là cảnh chiến
đấu trên hầm địa đạo. Cuộc kháng chiến trường kỳ, từ đời cha ông đã sinh ra
những hầm bí mật, nay đến đời cháu con có cả một địa đạo rộng lớn. Đêm địa
đạo, đúng như mô tả, không có bắt đầu và kết thúc. Cảnh vật đêm ngày hoà lẫn
trong nhau, và có những con người bình thường đang làm nên lịch sử.
Hình ảnh căn hầm cũng là một không gian sử thi đặc biệt không thể thiếu
được trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Những căn hầm ấy cũng là nơi che dấu
du kích khi bị bố ráp vây lùng và cũng là không gian nghệ thuật: “Một cô gái
biến vào ngõ nhỏ/ Một người mẹ đậy nắp căn hầm/ Bỗng hát ru trong chiều
lảng bảng” (Ở làng Phước Hậu). Ngày chiến thắng, căn hầm cũng chung
hưởng niềm vui. Không còn cảnh trú ẩn trong hầm giữa hai bờ sinh tử.
Không gian nghệ thuật mặt đường là nơi hội tụ của mọi tầng lớp nhân dân,
không gian ngày hội của cách mạng trong Những người đi tới biển, Đường tới
thành phố… Với Thanh Thảo cũng vậy; không gian nghệ thuật là con đường đi
tới biển dằng dặc suốt chiều dài đất nước đầy chông gai, là dòng sông không
yên nghỉ, là nơi chiến đấu để tìm đến chân, thiện, mỹ: “Những dòng sông băng
qua những vết thương/ Về với biển đâu phải tìm yên nghỉ” (Những người đi tới
biển).
166 Không gian sử thi còn là cảnh chiến thắng với đoàn đoàn người hớn hở,
vui mừng bằng những câu thơ khá da diết: “Ngày 30 tháng 4 thành tên gọi con
đường/ Con cháu lại đi hồi hộp bên nhau/ Cùng với chúng ngày hôm nay trẻ
mãi” (Đường tới thành phố). Tuy nhiên, cũng không loại trừ nhiều ngoại cảnh
vẫn còn thô ráp như đoạn thơ trong chương 5 nói nhiều về tương lai, ước vọng
nhưng có ý hơi rời rạc, âm điệu có phần nặng nề, thiếu chất thơ trong: “Hình
như chị xếp thùng chiều nào quanh vòi nước/ hình như anh lưng gò xuống máy
khâu/ anh tìm họ nhưng anh không lên bục/ Cứ cảm thông chia sẻ giữa nền
đường” (Đường tới thành phố).
Thời chống Mỹ, có thể nói rằng, Tổ quốc là không gian nghệ thuật rộng
lớn. Xuất hiện trong trường ca là không gian địa lý mang nặng hơi thở chiến
tranh. Có chết chóc, có máu đổ, thây rơi... nhưng cũng có những cảnh tượng
bình yên. Đó chính là không gian nghệ thuật sử thi góp phần mô tả tính chất
cực kỳ ác liệt của cuộc chiến thông qua những cảnh tượng hoành tráng, không
khí hào hùng; những khung cảnh riêng tư lặng im, dồn nén... thực sự phục vụ
cho việc chuyển tải nội dung tư tưởng của những bản trường ca sử thi hiện đại
thời chống Mỹ.
3.3.3. Không gian sử thi. Không gian ký ức chiến tranh
Những trường ca viết về thời chống Mỹ từ sau 1980 thiên về sự hồi tưởng.
Vì thế, không gian nghệ thuật thường là những cảnh chiến trường nhưng
mang nặng ký ức chiến tranh. Và ngoại cảnh ấy dù được tận mắt chứng kiến
nhưng đã trải qua lăng kính thời gian. Ở thời bình, người lính năm xưa may
mắn sống sót sau chiến tranh đã hồi tưởng về cuộc chiến; về bạn bè, đồng đội ai
còn, ai mất... Hồi tưởng nhưng đều là cảnh thực. Nhiều trường ca cũng sử dụng
không gian xã hội để thể hiện tâm trạng suy tư, trăn trở về thời cuộc hiện tại.
Bích Thu, trong bài viết “Chiến tranh trong thơ hiện nay” đã nhận định:
“sáng tác về chiến tranh hôm nay không có không khí ào ạt, dữ dội của những
167 người trong trận như một số trường ca viết về chiến tranh trước đây mà là
những hồi ức, chiêm nghiệm về một hiện thực đã qua” (TCVH 12/1994).
Không gian nghệ thuật có thể là cảnh hiện tại đan xen với cảnh đã từng
có trong quá khứ. Ở chương đầu trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết,
Giang Nam đã bày tỏ cảm xúc truớc hiện thực tươi sáng đang diễn ra hàng ngày
hàng giờ trên quê hương sau chiến tranh: “Có thể nào tin/ Chiến tranh đã qua
đây/ Làng lại xanh bờ tre, tiếng cu gù buổi sáng/ Vịt lội trong hố bom, sân
trường xưa đầy nắng/ Đất hiền lành, chiếc nón lá cũng xinh”.
Từ Nguyên Tĩnh chọn không gian nghệ thuật là cây cầu Hàm Rồng,
mảnh đất thiêng trong Trường ca Hàm Rồng; nơi thường xảy ra những trận
giao tranh cực kỳ ác liệt để tăng hiệu quả ngợi ca, ngưỡng vọng.
Có khi, nhà thơ khắc họa không gian sử thi bằng cách tái hiện cảnh chiến
trường khi im tiếng súng. Sự yên bình giúp những cô gái thanh niên xung
phong trong Lửa mùa hong áo lại dịu dàng gội tóc cho nhau, cùng nhau chung
đọc một bức thư nhà, cùng nhau ngồi may áo... tạo cho ta sự cảm phục, yêu
thương những cô gái quên cả tuổi xuân; xa gia đình đi phục vụ kháng chiến.
Ngân Vịnh, trong tập trường ca Phía hoàng hôn yên tĩnh; đã kể về bà mẹ
Điện Bàn có chín người con hy sinh, lặng lẽ đi tảo mộ vào chiều cuối năm.
Không gian sử thi là chiều nghĩa trang với những nấm mồ lặng im, nén nhang
cháy dở, màu mây trắng trời tạo hiệu ứng đồng cảm, xẻ chia cùng mẹ và tưởng
nhớ về người đã khuất: “Mang theo hương hoa/ mẹ đến nghĩa trang/ Cuối năm
ngày chạp mồ chạp mả/ nén nhang cháy chân trời mây trắng xóa/ những nấm
mồ lặng im mà nước mắt mẹ nhòa”.
Lê Anh Quốc lại chọn cảnh một chiều gió thổi mù như khói để làm nền
cho người thương binh xuất hiện với chiếc nạng gỗ đang gõ dọc trên đường:
“Ngườì trở về/ trên mình đầy thương tích/ Chiếc nạng gỗ gõ dọc chiều cơn lốc/
Hiểu con đường đang chín giọt mồ hôi”. Cảnh ấy đã khiến người đọc phải xót
xa. Không gian sử thi cũng có thể là chiến hào năm xưa khi người lính già tìm
168 về lại: “Ai còn sống như tôi, tóc điểm bạc trên đầu/ Một sớm mai lên thăm trận
địa/ Trời ơi, chiến hào xưa đã ngập màu cỏ/ Khẩu pháo đã gỉ han, hố bom cũ
đã san nền” (Khoảng trời người lính).
Như vậy, qua một số trường ca đã khảo sát, chúng ta thấy rằng không
gian nghệ thuật được chọn để mô tả trong trường ca về thời chống Mỹ đa
phần đều xuất phát từ ý đồ của người sáng tác trên nền hiện thực và có tác dụng
to lớn, mạnh mẽ đến tâm hồn người viết, nhân vật trữ tình và độc giả. Mỗi một
cảnh vật được lựa chọn phần lớn đều có giá trị phục vụ cho việc thể hiện nội
dung tư tưởng của tác phẩm, nhất là đối với thể loại trường ca hiện đại vốn
chứa đựng trong chính nó là người thật, việc thật, cảnh thật... Không gian nghệ
thuật trong hầu hết các trường ca về thời chống Mỹ là không gian sử thi với
những chiến trường ác liệt, dù là sáng tác trong cuộc chiến hay sau khi đất nước
đã thanh bình. Những cảnh tượng hào hùng như thế được mô tả gắn liền với
không khí dữ dội, ác liệt của chiến trường, của những cuộc đấu tranh. Không
gian sử thi trong trường ca viết ở những năm sau chiến tranh chủ yếu là không
gian ký ức chiến tranh, không gian hồi tưởng về chiến tranh nhưng cũng là
hình ảnh thật của không gian sử thi thời chống Mỹ. Tất nhiên, trong trường
ca không thể thiếu vắng những cảnh đời thường với nhiều sắc thái cảm xúc do
đời sống quá sức phong phú; và không gian nghệ thuật ấy cũng đã góp phần
phản ánh sự khốc liệt của chiến tranh.
3.4 Sự liên tưởng
Cảm xúc có thể biểu hiện qua hành động, lời nói, cử chỉ… Cảm xúc còn
biểu hiện mạnh mẽ qua sự tưởng tượng, liên tưởng. Làm nên sự thành công cho
trường ca, không chỉ ở việc xây dựng hình tượng nhân vật, không thời gian
nghệ thuật, tính sử thi, tính trữ tình, việc sử dụng chất liệu văn học dân gian...
mà còn ở giá trị của phương thức liên tưởng. Những trường ca giàu tính triết
lý chính luận và trữ tình càng nhiều thì việc sử dụng yếu tố liên tưởng càng
cao, góp thêm những dòng nước mát vào suối nguồn trường ca sử thi hiện đại.
169 Lê Đình Kỵ đã từng nói “Liên tưởng là đem nhích gần lại, trộn lẫn vào
nhau hai sự vật vốn xa lạ với nhau, càng xa càng gây được thích thú”[42, 235].
Trong Cơ sở Văn hoá Việt Nam, khi triết lý về cấu trúc thời gian của vũ trụ,
Trần Ngọc Thêm đã cho rằng: “cho đến nay,... căn cứ vào thời điểm xuất hiện
của trăng, hình dáng của trăng, dân gian đã tích lũy được kinh nghiệm xem
trăng mà xác định chính xác từng ngày” [94, 73].
Sự liên tưởng về thời gian có khi nằm ở cách tính tháng tính ngày dân dã
qua hình ảnh của vầng trăng tròn mọc định kì mỗi tháng. Nguyễn Đức Mậu đã
có một cách liên tưởng thật kỳ lạ. Người mẹ dõi theo bước chân hành quân của
con bằng cách bấm từng đốt ngón tay hao gầy để tính thời gian, đã tạo ấn tương
độc đáo: “Ngón tay khô gầy/ Mẹ tính đốt thời gian/ Khi mười ngón tay mẹ đầy
vầng trăng mọc/ Thì chúng con giải phóng Sài Gòn” (Trường ca Sư đoàn).
Trong Quê hương mặt trời vàng, Thu Bồn nói về tương lai bằng những chi
tiết gợi cho ta sự liên tưởng khá thú vị: “Cầu đã bắc rồi em./ Đâu phải bắc
qua sông/ cầu đã bắc hai bờ khát vọng”. Cả hình ảnh của Thánh Gióng cũng
được thể hiện một cách sáng tạo, dân dã, nghộ nghĩnh và gần gũi với đời sống:
“Đất nước tôi mơ ngựa sắt/ Vẫn yêu khóm tre ngà/ Nên thánh đều nằm trên
gióng” (Quê hương mặt trời vàng).
Có khi sư liên tưởng so sánh đã làm tứ thơ của Thu Bồn thêm độc đáo
khi khắc họa hình ảnh người mẹ tảo tần, lam lũ: “Giọt nước mắt mẹ đây khô
đắng núi đồi/ Đời mẹ cũng là thân cây lúa/ Tấm lưng trần mang dấu nắng đi
qua/ Mẹ địu cả làng trên vai nặng xót xa (Badan khát) .
Ở chương 4 của trường ca Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh có những câu
thơ đặc biệt giàu sức liên tưởng. Cách cảm nhận về thời gian quá khứ đan xen
thời gian tương lai của nhà thơ quả thật lạ lẫm, sắc sảo; mang tính hàm ẩn cao,
tạo sự liên tưởng sâu xa như ý thơ: “Cau vườn rụng một tàu đã cũ”.
Nỗi nhớ nhung, trông ngóng của người vợ có chồng đi kháng chiến được
Hũu Thỉnh diễn tả: “Ở nhà dài những năm canh/ Từ bậu cửa bước xuống sân
170 cũng dài”. Có lẽ lấy ý từ “Đêm năm canh ngày sáu khắc” nhưng đầy sáng tạo.
Nói “năm canh” là cách tính thời gian về đêm nhưng nói “dài những năm
canh” giúp ta liên tưởng đến nỗi chờ đợi trong nhiều đêm, nỗi chờ đợi dài
dằng dặc. Những câu thơ không có một từ nào nói về “ban đêm” nhưng có sức
khơi gợi cao. Còn khi nhà thơ viết: “Tôi là chỗ thất thường của gió/ Khi người
yêu cởi áo trao khăn” (Đường tới thành phố), ta lại liên tưởng đến lời ca:
“Thương nhau cởi áo cho nhau/ Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay”.
Có khi, để thể hiện một lời nhắn gởi xa xôi: cán bộ cách mạng về ở cơ sở,
Hữu Thỉnh đã vận dụng nguyên vẹn hai câu ca dao ngọt ngào giàu ý nghĩa:
Nhân dân trở về qua tay người móc nối/ Qua lời ru gửi gắm xa xôi/ “Anh quên
không mang trăng vào nhà/ Trăng buồn trăng phải sáng qua vườn người”. Cái
chất ca dao mộc mạc, giản dị, trầm lắng ấy giúp ta hình dung ra cái cảnh tượng
thực tại, một cách cụ thể hơn.
Trong các trường ca, sự liên tưởng không chỉ đơn thuần là sự thể hiện cảm
hứng thơ ca mà nó trở thành một điều kiện để thể hiện phong cách sáng tác.
Đối với những trường ca mang chất triết lý chính luận, chất trữ tình càng nhiều
thì việc sử dụng yếu tố liên tưởng càng cao, có khi được xem là một trong
những nguyên tắc kết cấu nội tại của nhiều trường ca và sự liên tưởng có khi
được biểu hiện ở những biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ rất gần gũi, nhẹ nhàng.
Lại Nguyên Ân rất quan tâm đến chất thơ trong trường ca: "Không thể nói
trường ca hay mà lại không tìm được những câu thơ hay. Ngoài những câu thơ
hay rồi còn phải nghĩ tới cái hay ở một tầng nào đó khác nữa. Tôi muốn nói
đến những ý tứ nằm trong mạch “chạy suốt” toàn bộ một trường ca...” [3,
122]. “Một tầng nào đó khác nữa” chính là sự liên tưởng.
Có khi sự liên tưởng ấy được thể hiện ở những câu thơ liên tiếp ý miên
man từ vấn đề này sang vấn đề khác tưởng chừng không có liên hệ gì với nhau.
Nhưng nhìn tổng thể, nhà thơ vẫn bộc lộ một sức khái quát cao trong dàn trải
171 các ý thơ, nêu bật lên sự phong phú; đa dạng trong nội tâm trong đời sống của
con người Việt Nam hiện đại.
Trong trường ca Đường tới thành phố; từ một gốc sim cằn, Hữu Thỉnh đã
nghĩ về đất nước: “Nhưng trước mặt là Tổ quốc/ Dù chỉ gốc sim thôi dù chỉ
gốc sim cằm”. Người chiến sĩ quyết giữ từng tấc đất cho tổ quốc, và khi anh
cảm nhận “cái im lặng hoàn toàn, anh nằm nghe thơ” thì sự liên tưởng lại đưa
anh đến một hình ảnh khác thi vị hơn: “Ngôi sao xanh rơi xuống lá sim/ Thành
giọt sương từ lá sim rơi xuống”. Câu thơ tiếp theo lại chuyển sang một tứ thơ
mơ hồ nhưng đằm thắm, tạo sự liên tưởng về tình yêu ngọt ngào: “Hoa bung
biêng ơi, con lắc của mùa xuân/ Rừng không ngủ vì những hồi gõ tím”.
Sự liên tưởng mãnh liệt cũng đã đưa hồn thơ của Hữu Thỉnh đến với
mảnh đất mười tám thôn vườn trầu với người vợ mỏi mòn ngóng đợi ngày
chiến thắng, để không còn cảnh nuôi dấu người chồng là cán bộ địch hậu ở
dưới hầm: “Chị đợi chờ quay mặt vào đêm/ Hai mươi năm mong trời chóng tối/
Hai mươi năm cơm phần để nguội/ Thôi tết đừng về nữa chị tôi buồn…”.
Sự liên tưởng của Hữu Thỉnh như là một cách tình cờ, bất chợt nhưng
mang ý nghĩa độc đáo, hình ảnh khắc sâu nhờ biện pháp so sánh, đối lập...“chị
tôi không thể làm như con rắn que còi”, “chị thiếu anh nên chị bị thừa ra”,
“những đêm trở trời trái gió, tay nọ ấp tay kia”, “một mình một mâm cơm,
ngồi bên nào cũng lệch”, “chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”, “chị
buồn như bông điệp xé đôi…” (Đường tới thành phố).
Tố Hữu cũng đã có nhiều sự liên tưởng rất mới lạ, điển hình như những
vần thơ viết về hình tượng bất tử của Hồ Chủ tịch: “Cứ ngỡ: hồn thơm đang tái
sinh/ Ngôi sao ấy lặn hóa bình minh” (Theo chân Bác).
Trong Những người đi tới biển, vết tích chiến tranh cũng trở thành một tứ
thơ giàu sự liên tưởng: “Bên hố bom B 52 khét lẹt/ Sao Mai xanh như giếng
nước tình cờ”.
172 Sự liên tưởng của trường ca hiện đại đã gắn kết các sự kiện rất khác
nhau, xa nhau tụ về một mối, tạo cho nhà thơ có thể tự do hơn trong bố cục
trường ca. Sự liên tưởng ấy hợp lý hay không hợp lý, được chấp nhận hay
không là do tài năng của nhà thơ.
Trường ca sử thi hiện đại thường thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc
nhất về con người, cuộc sống, đất nước, thế giới và còn đề cập đến những vấn
đề đạo đức. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng phương thức liên tưởng để tạo nên
một phong cách sáng tác độc đáo cho riêng mình. Trong Mặt đường khát vọng,
nhà thơ đã thể hiện một sự cảm nhận hết sức mới mẻ một cách định nghĩa hết
sức sáng tạo về đất nước. Đó là hình ảnh đất nước có từ trong những cái ngày
xửa; ngày xưa mẹ thường hay kể, trong miếng trầu bà ăn, đất nước từ trong ca
dao thần thoại, đất nước rất riêng và cũng rất chung: “đất là nơi anh đến
trường,/ nước là nơi em tắm,/ đất nước là nơi đôi ta hò hẹn,…/ đất nước là nơi
con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc,/ nước nơi con cá ngư ông móng
nước biển khơi…”.
Mỗi định nghĩa khác nhau về đất nước, con người là mỗi một suy nghĩ,
trải nghiệm để cuối cùng nhận ra cái cuộc đời hàng ngày vẫn sống, những con
người hàng ngày vẫn gặp, mà không hẳn đã hiểu hết cái chất ngọc sáng ngời
trong họ: “Tháng năm nào cũng người người lớp lớp/ Con gái con trai bằng
tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng/ Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con
gái trở về nuôi cái cùng con”. Có lẽ chính vì thế mà Nguyễn Khoa Điềm
thường triết lý, trình bày những suy nghĩ của mình về nhân dân, đất nước của
nhân dân bằng sự liên tưởng bất ngờ: “Em ơi em, Đất Nước là máu xương của
mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hoá thân cho dáng hình sứ sở/ Làm
nên Đất Nước muôn đời” (Mặt đường khát vọng).
Thi pháp học hiện đại đã dành một chỗ đứng vô cùng quan trọng, nếu
không nói là quyết định cho từ ngữ vì văn học là nghệ thuật ngôn từ. Và từ ngữ
ấy nếu được đặt trong một mối liên tưởng và tương quan mới lạ sẽ tạo nên một
173 ý nghĩa khác, có thể hay hơn, sâu xa hơn. Cách thức liên tưởng là một thủ pháp
nghệ thuật đặc biệt, giúp cho các nhà thơ tạo nên một sắc thái riêng, một phong
cách riêng cho mình. Nét độc đáo trong cách nghĩ, cách suy, cách thể hiện của
nhà thơ khiến tứ thơ lạ mà quen, tài hoa mà không sáo rỗng. Người thưởng thức
tiếp nhận có sự phán đoán một cách sáng tạo, vận động được trí tưởng tượng
của cá nhân. Sự thành công của trường ca phần lớn chính là ở sự liên tưởng
của người nghệ sĩ, và đó là biểu hiện của sự sáng tạo. Tuy nhiên, sự liên
tưởng ở một số trường ca có lúc còn gượng ép. Một phần do thủ pháp trường ca
thường có sự khoa đại, một phần do dung lượng trường ca quá dài, tất yếu sẽ có
những đoạn xen, đệm, lót; ý tứ có khi rắc rối, khó hiểu…
Ngôn từ nghệ thuật có một vị trí đặc biệt quan trọng trong thơ, vừa là yếu
3.5 Chất liệu văn học dân gian
tố hình thức với ý nghĩa là phương tiện, chất liệu xây dựng hình tượng thơ, vừa
là yếu tố nội dung với ý nghĩa là phương tiện chuyên chở cảm quan, tư tưởng
của nhà thơ. Tính dân tộc thể hiện ở hệ thống ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; nhất
là ở phong cách diễn đạt: lời ăn tiếng nói giàu nhạc tính, giàu hình ảnh, ở cách
ví von so sánh; ở ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyện cổ… Gorki đã từng nói:
“Nhà văn không biết đến văn học dân gian là một nhà văn tồi” quả thật là
chính xác. Sự kết hợp hài hoà giữa nét truyền thống và nét hiện đại đã tạo cho
trường ca nét đẹp văn hoá cổ xưa, gợi nhớ về cội nguồn lịch sử dân tộc lại vừa
mang tính hiện đại. Chính chất liệu văn học dân gian đã góp phần tạo nên
chất trữ tình dạt dào sâu lắng để trường ca hiện đại mang âm hưởng truyền
thống dân tộc.
Chất liệu văn học dân gian đã trở thành thi liệu phong phú, làm tăng gía
trị cho tác phẩm Mặt trời trong lòng đất. Truyền thuyết “Trăm trứng nở trăm
con” được nhẹ nhàng đưa vào trường ca: “Chúng ta là cái bọc một trăm trứng,
một trăm con của mẹ”. Có khi, nhà thơ đã từ cảm hứng cuả một lời ru than thân
trách phận: ”Gió đưa cây cải về trời/ Rau răm ở lại chiụ lời đắng cay” (Ca
174 dao), để diễn đạt sáng tạo một ý thơ hết sức sâu xa, tròn trịa: “Khi mẹ ru con
trong lòng đất/ Cây cải lên trời còn gởi gió về thăm/ Gió ở lại với rau răm cay
đắng/ Mẹ là rau răm, mẹ là cây cải trắng…”.
Trong “Badan khát”, Thu Bồn cũng sử dụng khá dồi dào chất liệu văn
học dân gian:” Vì đất này anh đo bằng máu/ Dù cái kiến con ong đều quí báu/
Một dây bìm cũng có biên cương”.
Thành ngữ, tục ngữ, ca dao là cách nói, cách thể hiện tâm trạng trữ tình rất
quen thuộc trong dân gian, xuất hiện từ lâu đời nhưng vẫn có sức sống mạnh
mẽ, hòa vào tâm tư tình cảm của mọi người, và trước hết là ở nhiều nhà thơ để
họ tái sinh thành những câu thơ, bài thơ hiện đại mà vẫn đậm đà tính dân tộc.
Tố Hữu, gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, thường
vận dụng những ý, ngôn ngữ, giọng điệu thơ… đậm đà tính dân tộc. Chính
những chất liệu văn học dân gian đã tạo sự mượt mà, sâu lắng thể hiện tâm
hồn dân tộc rõ rệt. Những bản trường ca về thời chống Mỹ của Tố Hữu đã đạt
tới một nội dung xã hội chủ nghĩa, có ý nghĩa khái quát lớn về thời đại và dân
tộc, về sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Theo Lê Đình Kỵ: “Nhưng nội
dung ấy, muốn được hoàn chỉnh và nhuần nhị, lại phải đi đôi với tính dân tộc
sâu sắc” [41,404]. Những tứ mộc mạc như “bên bồi bên lở, bên nhớ bên
thương” cũng được Tố Hữa đưa vào thơ để tạo chất đằm thắm, mượt mà cho
thơ, mang dáng dấp của ca dao: ”Sông Bến Hải bên bồi bên lở/ Cầu Hiền
Lương bên nhớ bên thương/ Cách ngăn mười tám năm trường/ Khi mô mới
được nối đường vô ra? (Nước non nghìn dặm). Trong Ba mươi năm đời ta có
Đảng, theo Lê Đình Kỵ [41,797], có hàng chục câu thơ được xây dựng thẳng từ
tục ngữ, thành ngữ:
+ Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay + Đời ta gương vỡ lại lành
+ Chim treo trên lửa, + Tan mồ cha cũng rước voi giày
cá nằm dưới dao + Miền Nam đi trước về sau
175 + Thân một cổ hai xiềng nô lệ + Đã đeo đằng cẳng, lại lân đằng đầu
+ Đảng ta đây xương sắt da đồng + Đắng cay nay mới ngọt bùi
+ Càng tức nước càng xui bờ vỡ + Dù khi tắt lửa tối trời
Từ bài ca điệu Nam Bình: “Nước non ngàn dặm/ Ra đi/ Cái tình chi… Tố
Hữu đã đặt tên cho trường ca là Nước non nghìn dặm. Sự ngọt ngào tha thiết
trong thơ Tố Hữu là ở hơi thở dân tộc. Nhiều câu thơ đã kế thừa sáng tạo vốn
ca dao và là sự hết hợp hài hoà chất giọng anh hùng ca và chất giọng dân gian
truyền thống. Ca dao, dân ca, điệu hò, câu hát, lời ru xứ Huế mộng, Huế mơ
của mẹ đã thấm vào buồng tim thớ thịt của Tố Hữu từ thưở ấu thơ. Nhà thơ đã
từng tâm sự: “Tôi là con út, con cưng, nên thường được mẹ tôi ấp ủ và ru bằng
tiếng hát ngọt êm của người đàn bà xứ Huế…”. Và lời ru ấy đã theo Tố Hữu
suốt chặng đường thơ để làm nên chất giọng thơ đằm thắm, mượt mà, ngọt
ngào, sâu lắng… ngay cả trong những bản trường ca có khuynh hướng thiên về
đề tài chiến tranh thời chống Mỹ được chọn để khảo sát.
Từ câu ca: “Qua đình ngả nón trông đình/ Đình bao nhiêu ngói thương
mình bấy nhiêu”, nhà thơ đã tiếp thu một cách sáng tạo, đưa hồn xưa về với
thơ nay một cách tươi nguyên, mới mẻ: “Đường đi mấy núi mấy đèo/ Núi bao
nhiêu ngọn bấy nhiêu anh hùng”. Để diễn tả sự thuỷ chung, gắn bó của những
con người trong Đảng, Tố Hữu đã lấy chất liệu từ văn học dân gian: “Chín
năm nắng núi mưa ngàn/ Nắng mưa có Đảng, cơ hàn có nhau” (Ba mươi năm
đời ta có Đảng).
Trong trường ca Theo chân Bác, Tố Hữu cũng sử dụng câu thành ngữ, tục
ngữ quen thuộc: “Thương em chín đợi mười chờ/ Con thuyền nay lại đỏ cờ
sang sông” đầy ắp hương vị ca dao. Có lẽ quần chúng dễ thuộc thơ và yêu
mến thơ Tố Hữu nhiều đến vậy là nhờ chất dân dả, giản dị, lời thơ giàu nhạc
điệu lấy cảm hứng từ chất liệu dân gian. Tố Hữu đã tiếp thu ca dao dân ca, sử
dụng những yếu tố truyền thống của ca dao dân ca để biểu hiện sâu đậm cái
176 phong vị dân gian, cái hồn dân tộc. Nhà thơ đã khai thác triệt để, sử dụng và
phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa của thơ ca dân gian cả về mặt nội
dung tư tưởng lẫn hình thức biểu hiện. để tạo nên những trường ca vừa mang
nét hiện đại lại vừa mang nét truyền thống.
Trong Người anh hùng Đồng Tháp, Giang Nam cũng sử dụng nhiều chất
liệu văn học dân gian: “Tiếng con khóc mẹ bầm gan tím ruột/ Bao giờ, bao
giờ giải phóng đời ta?... Ôi! Nếu được thay em làm mẹ/ Thui thủi thân cò lặn
lội bờ ao”.
Nguyễn Đức Mậu, trong Trường ca Sư đoàn đã sử dụng những truyền
thuyết, cổ tích về Thánh Gióng, núi Vọng Phu, cầu Ái Tử, Ngưu Lang Chúc
Nữ, Kinh và Bana là anh em, Sự tích bánh dày bánh chưng, sự tích Ông đồ
rau… đã được đưa vào trường ca: “Chúng tôi biết ơn bà mẹ nghèo làng Gióng/
Đã nuôi con lam lũ nhọc nhằn/ Cây tre xanh bén lửa hoá tre vàng”. Câu thơ
sau cũng đầy ắp hương vị ca dao, truyện cổ: “Chúng tôi lớn lên/ Đã có mưa
ngâu…Bánh chưng, bánh dày chất thành núi lớn”.
Anh Ngọc, trong Sông núi trên vai, cũng sử dụng chất liệu dân gian từ
những thành ngữ, tục ngữ mộc mạc: “Ví dù cách mặt khuất đêm/ Thì xin chân
cứng đá mềm được chăng”. Sức khái quát cô đọng của tục ngữ đã làm ý thơ
thêm sâu, mạnh mẽ, cụ thể.
Diễn tả nỗi nhớ mẹ, tưởng tượng hình ảnh mẹ, tâm sự với mẹ, Thanh Thảo
cũng đã sử dụng thành ngữ “chân cứng đá mềm”: “Mẹ quét lá thấy dấu con
trên đất/ Ngày con đi chân cứng đá mềm/ Con đã trải đá mềm rồi mẹ ạ/ Và đá
cũng cứng hơn con tưởng rất nhiều”. Nhớ ơn những bà mẹ quanh năm “bán
mặt cho đất, bán lưng cho trời”, một nắng hai sương gắn bó với cái liềm, cái
hái, nhà thơ cũng đã vận dụng sáng tạo câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”:
“Tập con bước vịn vào ca dao tục ngữ/ Dù uống nước đâu lòng vẫn nhớ
nguồn”. Tình yêu với mẹ thì như thế, còn tình yêu với đất thì nhà thơ vận dụng
177 nguyên vẹn cả lời ca dân gian: “Tôi đến đây thành rễ cây hút chặt/ Với đất này
nhớ câu hát ngày xưa/ “Lấy anh em biết ăn gì/ Lộc sắn thì chát lộc si thì già”.
Những câu ca dao “thương nhau dải yếm bắc cầu, thương nhau cởi áo cho nhau
về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay, thương nhau mấy núi cũng leo, mấy sông cũng
lội mấy đèo cũng qua” cứ nhẹ nhàng, mượt mà đi vào hồn thơ Thanh Thảo:
“Ca dao sắc lá lúa/ Ca dao mềm dao cau/ Ca dao dải yếm bắc cầu/ Thương
nhau cởi áo gió đâu bay về/ Anh đã qua mấy núi mấy đèo/ Mấy sông anh từng
vượt/ Bữa đói bữa no áo quần lấp láp”.
Những câu tục ngữ thành ngữ “bầm gan tím ruột, con ong cái kiến”cũng
được sáng tạo thành những lời thơ tha thiết: “Thương từ cái kiến con ong/ Tím
ruột bầm gan thù bọn ác”. Cả lời ru ngọt ngào mẹ thường hát ru con ngủ cũng
khéo léo đi vào thơ của anh: “Lời hẹn hò con gái con trai/ Là chén canh cá lóc/
Mẹ nấu cho tôi dưới hàng cây so đũa/ Là lời ru em nhẩm đọc vô tình/ “ví dầu
cầu ván đóng đinh/ cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi”.
Ngay cả những bãi cát giăng giăng, trùng trùng lớp lớp, hình ảnh của biển,
cái đích của “những người đi tới biển” cũng là chất liệu ca dao trong thơ
Thanh Thảo. Câu ca dao: “Ngó ra thấy cát dàng dàng/ Cát bao nhiêu hạt dạ em
thương chàng bấy nhiêu” đã được bàn tay của Thanh Thảo biến hoá thành
những lời tình yêu da diết, mặn nồng và hiện đại:
Tay em mở muôn ngàn trang sóng
“cát dàng dàng…” anh là cát của em thôi”.
Những câu chuyện kể vừa xa, lại vừa gần, gắn bó máu thịt với nhân dân;
là truyền thuyết nhưng cũng không đơn thuần là truyền thuyết. Và, chất liệu
văn học dân gian cứ thấm đẫm vào trường ca, tạo nên một sự kết hợp hài hoà
giữa truyền thống và hiện đại, vừa cổ điển vừa mới mẻ. Có thể nói chất liệu văn
học dân gian đã tạo nên chất trữ tình sâu lắng đằm thắm trong thơ Thanh Thảo
178 và ở nhiều nhà thơ khác nhưng có lẽ trong Những người đi tới biển, vtệc vận
dụng ca dao tục ngữ, cổ tích, thần thoại… của nhà thơ đã đạt đến sự nhuần nhị.
Các nhà thơ thời chống Mỹ không chỉ kế thừa văn hoá dân gian ở những
hình thức biểu hiện như: đưa truyện cổ, tục ngữ, ngôn ngữ ca dao vào thơ, sử
dụng thơ lục bát truyền thống, nhịp điệu dân ca, các phương tiện tu từ… mà
còn thể hiện ở sự tư duy đầy tính dân tộc trong việc đưa văn hoá dân gian vào
trường ca. Đó là cảm thức tự hào về truyền thống chiến đấu, truyền thống đoàn
kết, yêu nước, nhớ cội nhớ nguồn. Đó chính là thi liệu giàu tính sử thi.
Hữu Thỉnh cũng là một nhà thơ rất mê ca dao, thuộc nhiều ca dao và đã
vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào thơ. Nhận xét về điều này, Lưu Khánh Thơ
[95,76) đã viết: “Trong làng thơ, anh nổi tiếng là người mê và thuộc nhiều ca
dao tục ngữ”. Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh có thể xem như một khúc
ca chiến thắng và chứa đựng trong nó là bao chặng đường đầy máu và nước
mắt mà dân tộc ta đã trải qua. Thi liệu văn học dân gian cũng góp phần làm
nên giá trị trữ tình độc đáo cho trường ca.
Hữu Thỉnh đã chọn cách tư duy rất dân gian của nông dân Việt Nam để
sáng tạo nên một hình ảnh đẹp về tình yêu thời chiến:
Con gà trống cù kỳ quanh vại nước
Hạt thóc ngậm vào thành hạt ngọc của tình yêu
Tiếng nó gáy rung vang cườm ngũ sắc
Báo cho du kích đã qua chiều
Hình ảnh “sao hôm, sao mai, dòng sông bên lở, bên lồi, bên trong, bên
đục” cũng được gởi vào trường ca: “Bên bồi bên lở về đâu/ Bên trong bên đục
dài lâu tình người…/ Quân đi, quân đi/ Từ đầu sao Hôm đến cuối sao Mai”.
Ca dao Nam Bộ cũng được đưa vào thơ một cách mộc mạc, tự nhiên: “Bao
nhiêu cuộc đời gọi ta về kịp/ “Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy”/ ta sẽ về, xóm
179 Mũi sẽ về ta”. Câu ca “gió đâu gió mát sau lưng” được nhà thơ đưa vào trực
tiếp: “gió đâu gió mát sau lưng/ em không phải sau lưng/ em đang ngồi trước
mặt… cuối chặng đường là nỗi nhớ gặp nhau”. Những thành ngữ, tục ngữ “trở
trời trái gió, áo gấm đi đêm” đến trong thơ Hữu Thỉnh như là một cách tình cờ,
bất chợt nhưng mang ý nghĩa khái quát sâu: “hai mươi năm áo gấm đi đêm/
những đêm trở trời trái gió/ tay nọ ấp tay kia”.
Các nhà thơ sáng tác trường ca sử thi hiện đại chẳng những đã chú ý khai
thác, sử dụng văn hoá dân gian của dân tộc Kinh mà còn rất chú ý đến chất liệu
văn học dân gian của các dân tộc thiểu số: thể hiện ở những hình tượng kỳ vĩ,
cấu tứ kỳ lạ… trong Bài ca chim Chơ Rao (Thu Bồn), Kể chuyện ăm cốm giữa
sân (Nguyễn Khắc Phục)…v..v
Trong Bài ca chim Chơ rao, Thu Bồn cũng đã sử dụng những lời ca ngọt
ngào da diết để giải bày tâm sự: “Anh bỗng nhớ tiếng ru bài hát cũ… Cái con
chim xanh ăn trái xoài xanh”. Hình tượng Đam San trong trường ca Đam San -
Xing Nhã được Thu Bồn tái hiện trong thơ một cách kỳ vĩ: “Sức mạnh Đam
San tay thần Xing Nhã”. Trong Quê hương mặt trời vàng, Thu Bồn cũng đã
chọn lọc và đưa vào trường ca những truyền thuyết “có mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm
trứng”. Sự tích Loa Thành, sự tích “Quả dưa đỏ” với anh hùng văn hóa Mai
An Tiêm cũng được vào thơ. Hình ảnh Thánh Gióng cũng được thể hiện một
cách sáng tạo dân dả, ngộ nghĩnh, gần gũi với đời sống: “Đất nước tôi mơ ngựa
sắt/ Vẫn yêu khóm tre ngà/ Nên thánh đều nằm trên gióng”. Còn “Sự tích Trầu
cau” thì lại được diễn đạt một cách khéo léo, sinh động: “Đất nước có dây trầu
leo cây cau/ Bà thức trầu gọi tên từng lá”.
Có thể nói, yếu tố truyền thống văn học dân gian đã hòa nhập vào
trường ca hiện đại như những yếu tố nội tại của hệ thống. Cái cũ tan biến trong
cả hệ thống và hòa lẫn vào cái mới, tiếp thu yếu tố truyền thống để sáng tạo
bằng những hình thức mới. Các nhà thơ đã chuyển tải, đã phả những âm điệu, ý
180 tứ đằm thắm ngọt ngào, trữ tình sâu lắng vào những bài trường ca sử thi hiện
đại và làm rung động được lòng người một phần cũng nhờ yếu tố văn học dân
gian - yếu tố sử thi.
Tiếu kết chương 3
Các đặc điểm nghệ thuật làm nên giá trị cho trường ca về thời chống Mỹ
chính là sự đa dạng và phức hợp các thể thơ, tính chất đa giọng điệu, giàu cách
thức thể hiện giọng điệu. Lời thơ giàu tính nhạc làm tăng giá trị biểu cảm cho
nội dung; tăng sự uyển chuyển, mềm mại, biến hóa cho ngôn ngữ; chủ yếu là để
phục vụ ý đồ thể hiện nội dung cần phản ánh. Thể thơ tự do, thơ văn xuôi được
sử dụng nhiều trong các trường ca sau 1980. Thể lục bát hầu như có mặt trong
những trường ca viết bằng nhiều thể thơ.
Nhìn chung, trong trường ca sử thi hiện đại, tính chất đa giọng điệu là
một sự thích hợp cho những trường ca có độ dài và có độ sâu về tâm trạng cảm
xúc. Giọng điệu kể, nói, đối thoại… mang tính tự sự thích hợp cho những
trường ca có cốt truyện rõ rệt, có nhân vật lấy nguyên mẫu từ cuộc sống.
Nhưng ở những trường ca không có cốt truyện, các nhân vật mang tính đại diện
cho một thế hệ đang trăn trở, suy tư về cuộc chiến, cuộc đời, số phận… thì
giọng điệu tâm sự giải bày, triết lý chính luận phù hợp hơn cả. Tuy nhiên, rải
rác trong một số trường ca, cũng có những ý, câu, đoạn thơ sa vào ngôn ngữ tự
nhiên thái quá, thiếu chất thơ hoặc triết lý còn nặng nề, rối rắm.
Ngoài ra, việc chọn lựa không gian nghệ thuật - không gian sử thi cũng
là một yếu tố góp phần tạo cho trường ca sử thi hiện đại có một nét riêng.
Trong các trường ca hiện đại đa phần đều có sự xuất hiện của ngôn ngữ sử thi,
sự liên tưởng, yếu tố văn học dân gian… Điều ấy chứng tỏ các nhà thơ luôn
muốn tìm về những giá trị văn hóa cổ xưa để trường ca hiện đại Việt Nam càng
thêm đậm đà bản sắc dân tộc.
181 KẾT LUẬN
Truờng ca về thời chống Mỹ trong nền văn học hiện đại Việt Nam là một
đóng góp đặc sắc, như một nhánh sông đổ xuôi về biển cả văn học, nếu vắng
bóng sẽ làm cho đại dương thiếu đi sự mãnh liệt và dữ dội. Trường ca về thời
chống Mỹ đã góp phần tái hiện lịch sử, tái hiện hiện thực về một thời hào hùng
chống ngoại xâm. Các nhà thơ với cảm xúc chủ đạo là phản ánh chân thực hiện
thực về thời chống Mỹ, nên các trường ca sử thi ra đời trong thời chống Mỹ
vừa có giá trị lịch sử vừa có giá trị văn học đặc sắc. Đó là tài sản quý báu của
dân tộc ta, của nền thơ ca hiện đại Việt Nam và nền văn học hiện đại Việt Nam.
Nếu nền văn học hiện đại Việt Nam không có mảng thơ ca chống Mỹ - trong đó
có sự góp mặt quan trọng của trường ca sử thi - tất yếu bức tranh văn học Việt
Nam sẽ thiếu đi sự hoàn chỉnh.
Trường ca sử thi hiện đại xuất hiện bởi cái tâm nhiệt huyết và tài năng
sáng tạo của các nhà thơ. Những bức tranh xã hội hiện thực, những tâm tình
đầy xúc động của nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thế hệ ở miền Nam, miền
Bắc; ở hậu phương, tuyền tuyến; ở đồng bằng, rừng núi; trên mặt đất, dưới lòng
đất; ở vùng tạm chiếm, vùng tự do v.v... được phản ánh thật phong phú. Những
nhà thơ như: Thu Bồn, Tố Hữu, Giang Nam, Nguyễn Khoa Điềm, Anh Ngọc,
Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Lê Anh Xuân, Nguyễn Đức Mậu... đã sáng tác nhiều
trường ca có giá trị phản ánh lịch sử và con người Việt Nam thời chống Mỹ.
Với mục đích khoa học đã đề ra, trong giới hạn của đề tài và khả năng cho
phép, chúng tôi cố gắng tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản
về: “những nhân tố; hệ thống đề tài, sức khái quát hiện thực; sự phức hợp và đa
dạng của các thể thơ, đặc điểm đa giọng điệu, không gian sử thi, sự liên tưởng,
chất liệu văn học dân gian” trong trường ca về thời chống Mỹ”. Tất cả những
nghiên cứu trên đều hướng đến mục tiêu: mở ra nhiều hướng khám phá mới mẻ
182 về sự phát triển, lý thuyết thể loại và giá trị của Trường ca về thời chống Mỹ
trong văn học hiện đại Việt Nam và đó là một công việc cấp thiết.
Trước tiên, ở chương 1: “Những nhân tố tạo nên sự xuất hiện của trường
ca về thời chống Mỹ”, nghiên cứu ý kiến, nhận định của những nhà nghiên cứu
đi trước; kết hợp với ý kiến chủ quan; chúng tôi khẳng định:
- Trường ca sử thi hiện đại xuất hiện theo yêu cầu của thời đại mới, cũng
chính là một sự tiếp nối của hình thức thể loại trường ca cổ điển; nhưng tất
nhiên, sẽ chuyển tải những nội dung mới và theo một hình thức nghệ thuật mà
xã hội đương đại yêu cầu. Sự gắn kết giữa yếu tố thời đại và dân tộc là một
nhân tố quan trọng. Từ đó, chúng tôi đi đến kết luận: thời chống Mỹ với những
đặc điểm xã hội riêng biệt chính là nhân tố khách quan tạo nên sự xuất hiện
của trường ca sử thi hiện đại. Nếu không có thời đại chống Mỹ sẽ không có
thơ ca chống Mỹ và không có trường ca về thời chống Mỹ.
- Vai trò cá nhân nhà thơ: thông qua cách nhìn, cách cảm, tâm thế thời
đại và quan niệm nghệ thuật về con người chính là nhân tố chủ quan:
Nhà thơ là người trong cuộc - chứng nhân, thư ký của thời đai chống
Mỹ, với cảm xúc chủ đạo là phản ánh hiện thực cuộc chiến bằng cảm hứng
ngợi ca, đã ghi lại lịch sử bằng trường ca sử thi hiện đại một cách trân trọng.
Nhà thơ trở về từ sau cuộc chiến với những suy tư, trăn trở, dằng xé nội tâm;
những nhà thơ lớn lên có sự tiếp cận với các trường ca giá trị khi cuộc chiến
đã đi qua cũng viết về thời chống Mỹ bằng sự hồi tưởng, ngưỡng vọng.
Chúng tôi cũng so sánh các thế hệ sáng tác trường ca về thời chống Mỹ
để tìm tiếng nói chung về quan điểm: “cái tôi cá nhân cũng là cái ta tập thể -
sự gắn kết giữa cá nhân và cộng đồng”, chung giọng ngợi ca trong “dàn đồng
ca thời đại”, so sánh điểm khác biệt về tâm thế sáng tác, hoàn cảnh sáng tác...
ở hai mốc thời gian: “chiến tranh và hoà bình”. Từ đó rút ra kết luận: dù ở thời
điểm nào, trường ca sử thi hiện đại vẫn được sáng tác chủ yếu theo khuynh
183 hướng hiện thực và người trong cuộc có ưu thế góp cho văn học hiện đại
những bản trường ca nổi trội hơn.
Trong chương 2 của luận án, chúng tôi tập trung nghiên cứu “nội dung
chủ yếu của trường ca về thời chống Mỹ” và đúc kết:
- Trường ca về thời chống Mỹ có hệ thống đề tài khá phong phú, chủ yếu
là đề tài đất nước, đề tài chiến tranh và người lính. đề tài lãnh tụ. Các đề tài
khác được đan cài, hoà quyện trong mảng đề tài lớn mang tính chất nóng bỏng,
nhạy cảm về thời cuộc. Về đề tài lãnh tụ: hầu như các trường ca về thời chống
Mỹ đều có hình tượng Bác. Về đề tài tình yêu đôi lứa: trường ca thời chống
Mỹ vẫn dành “đất” cho đề tài này nhưng là tình yêu trong chiến tranh, tình
yêu cá nhân sẵn sàng nhường bước cho tình yêu Tổ quốc.
- Vấn đề “sức khái quát hiện thực trong trường ca về thời chống Mỹ”
được quan tâm đặc biệt. Có thể nói rằng, các địa danh trong trường ca hầu như
đều có thật trên bản đồ Việt Nam. Đa phần là cảnh thật, việc thật, người thật.
Hình ảnh “người lính” trong trường ca hầu như đều lấy từ nguyên mẫu của
cuộc sống. Họ có khi chính là bản thân nhà thơ, điển hình cho cái tôi thế hệ. Có
khi là cái tôi của người lính vô danh mang đậm dấu ấn cá nhân. Từ đó, chúng
tôi đã chứng minh rằng trường ca thời chống Mỹ có sức khái quát hiện thực
rất cao, rất đa dạng mà thơ ngắn khó có thể đạt tới.
- Nội dung “đặc trưng sử thi, sự gắn kết giữa tính chất sử thi và trữ
tình” cũng đã được nghiên cứu cẩn trọng. Nhiều câu thơ tài hoa được chọn đã
chứng minh đặc trưng sử thi và sự hoà quyện giữa sử thi với trữ tình của trường
ca. Đây cũng là đặc điểm quan trọng khẳng định giá trị trường ca về thời
chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam khác với các thể loại thơ khác .
Nghiên cứu kỹ chương 3: “Đặc điểm nghệ thuật của trường ca về thời
chống Mỹ”, chúng tôi nhận thấy: các nhà thơ đã ra sức tìm tòi và sáng tạo mới
để tạo nên sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Những đặc điểm nghệ
184 thuật nổi bật và khá riêng biệt ở chương này được đánh giá một cách chừng
mực; xem như là một sự tổng hợp bước đầu.
- Sự đa dạng và phức hợp về thể thơ: thơ văn xuôi, thơ tự do... được gia
tăng trong so với thơ mới, thơ trữ tình. Trường ca sau 1980 sử dụng tổng hợp
nhiều thể thơ. Văn xuôi, thể lục bát xuất hiện ngày càng nhiều hơn trong
trường ca chứng tỏ sức lan tỏa của thể thơ này. Việc chọn lựa thể thơ cho
trường ca góp phần giúp nhà thơ thể hiện giọng điệu riêng, phong cách riêng. -
Giọng điệu nghệ thuật:được nhà thơ sáng tạo từ ngôn ngữ văn học bác học,
ngôn ngữ dân gian, khẩu ngữ tự nhiên nên đa giọng điệu. Hình thức thể hiện
cũng hết sức phong phú: đối thoại, giọng hỏi, giọng kể biểu hiện, giọng tâm sự
giải bày, giọng triết lý chính luận...
- Không gian sử thi nghệ thuật: cảnh ác liệt, dữ dội… là nét chung
thường được mô tả dung dị, đậm màu sắc chiến tranh, và đó cũng là không gian
thường được xây dựng trong trưòng ca. Chứa đựng trong cảnh là cảm xúc mãnh
liệt của cá nhân nhà thơ - cảm xúc chung của cả thế hệ và lan tỏa cả ở thời hậu
chiến. Các nhà thơ trẻ sinh sau chiến tranh viết về chiến tranh đã sử dụng khá
nhiều chất liệu ngôn ngữ hiện đại để bổ sung sắc thái mới cho trường ca.
- Nghệ thuật liên tưởng đầy sáng tạo, nét thú vị riêng của chất liệu văn
học dân gian trong trường ca sử thi hiện đại cũng là những hình thức nghệ
thuật quan trọng góp phần giúp cho trường ca về thời chống Mỹ sống mãi. Nét
độc đáo trong cách nghĩ, cách thể hiện của nhà thơ khiến tứ thơ lạ mà quen, tài
Bên cạnh những thành tựu về thể loại; người viết cũng đã chỉ ra trường
hoa mà không sáo rỗng.
ca về thời chống Mỹ có những điểm, những vấn đề tồn tại như: còn nhiều độ dư
thừa, đan xen về câu, ý thơ; việc sử dụng ngôn ngữ chưa chọn lọc, lối triết lý
nặng nề…Nhiều nhà thơ chưa đủ sức nhưng vẫn muốn thử sức sáng tác trường
ca nên cũng ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng trường ca.
185
Trên đây là một số kết quả thu được trong quá trình tiếp cận “trường ca
về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam”. Việc nghiên cứu, khai
thác các khía cạnh của luận án không phải dễ dàng vì dung lượng của trường ca
sử thi hiện đại khá đồ sộ, đề cập đến nhiều vấn đề khách quan của hiện thực với
một hệ thống thi pháp đa dạng. Vì vậy, luận án này ở bước đầu nghiên cứu
những nội dung theo mục đích khoa học đã đề ra. Hơn nữa, do hạn chế về khả
năng chuyên sâu, thời gian và điều kiện nghiên cứu, chắc chắn luận án còn
nhiều chỗ hạn chế khi tiếp cận và giải quyết vấn đề.. Chúng tôi rất cần được sư
góp ý, trao đổi của quý thầy cô, các nhà nghiên cứu và quý đồng nghiệp, độc
giả để luận án được hoàn chỉnh hơn./.
KIẾN NGHỊ VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Trường ca về thời chống Mỹ thành tựu nhiều nhưng hạn chế cũng không
ít: độ dài quá lớn nên khó nhớ, khó thuộc, có sự dư thừa do từ ngữ chêm xen…
Việc giảng dạy trường ca như một thể riêng biệt và điều kiện để nghiên cứu
trường ca vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, chúng tôi xin kiến nghị:
Nên có sự đầu tư sưu tầm, tổng hợp một bộ sách trường ca sử thi hiện đại
để tạo điều kiện cho việc nghiên cứu trường ca hiện đại dễ dàng hơn vì hiện
nay các bản trường ca về thời chống Mỹ có giá trị chưa được tập họp thành
tuyển tập.
Chúng tôi mạo muội xin được sự quan tâm chia sẻ và tạo điều kiện của quý
cấp, quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp, các bạn sinh viên để chúng tôi được tiếp
tục nghiên cứu sâu hơn về đề tài mà chúng tôi đã lựa chọn.
186
THƯ MỤC
A/ TÁC PHẨM
I/ Trường ca viết về thời chống Mỹ được sử dụng
1. Trường ca ra đời từ 1960 đến 1990
[1] Thu Bồn (1977), Bazan khát, Nxb Thanh Niên. HN.
[2] Thu Bồn (2000), Bài ca chim Chơ rao, Tuyển tập trường ca Thu Bồn, Nxb
Văn Nghệ Tp HCM.
[3] Thu Bồn (2000), Quê hương mặt trời vàng, Tuyển tập trường ca, Nxb Văn Nghệ,
Tp HCM..
[4] Thu Bồn (2000), Vách đá Hồ Chí Minh, Tuyển tập trường ca, Nxb Văn Nghệ, Tp
HCM.
[5] Lê Đạt (1990), Trường ca Bác, Nxb Thanh Niên, HN.
[6] Nguyễn Khoa Điềm (1975), Mặt đường khát vọng, Nxb Văn nghệ Giải phóng.
[7] Trần Mạnh Hảo (1981), Mặt trời trong lòng đất, Nxb Văn nghệ Tp.HCM.
[8] Trần Mạnh Hảo (1996), Đất nước hình tia chớp, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[9] Tố Hữu (2001), Ba mươi năm đời ta có Đảng, tập “Bác Hồ - thơ”, Nxb Văn học,
HN..
[10] Tố Hữu (1975), Nước non nghìn dặm, Nxb Văn học Giải phóng.
[11] Tố Hữu (1976), Theo chân Bác, Nxb Kim Đồng, HN.
[12] Nguyễn Đức Mậu (1980), Trường ca Sư Đoàn, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[13] Trần Vũ Mai (1978), Trường ca ở làng Phước Hậu, Nxb Tác phẩm mới, HN
[14] Giang Nam (1969), Người anh hùng Đồng Tháp, Nxb Giải phóng Hà Nội.
[15] Giang Nam (1998), Ánh chớp đêm giao thừa, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[16] Anh Ngọc (1995), Sông núi trên vai, Nxb Phụ Nữ, HN.
[17] Nguyễn Trọng Tạo (1981), Con đường của những vì sao, Nxb Thanh niên, HN.
[18] Thanh Thảo (1977), Những người đi tới biển, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
187
[19] Hữu Thỉnh (1979), Đường tới thành phố, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[20] Hưởng Triều (1972), Hành trình, Nxb Văn nghệ giải phóng Sài gòn.
[21] Lê Anh Xuân (1981), Nguyễn Văn Trỗi, Nxb Văn học, HN.
2. Trường ca ra đời sau 1990
[1] Phan Thị Bảo (1999), Mẹ, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[2] Hoàng Trần Cương (1999), Trầm tích, Nxb Hội Nhà Văn, HN.
[3] Nguyễn Hưng Hải (2004), Mảnh hồn chim Lạc, Nxb QĐND, HN.
[4] Vũ Hùng (2005), Trước núi Ngọc Linh, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[5] Văn Công Hùng (2002), Ngựa trắng bay về, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[6] Văn Lê (1997), Những cánh đồng dưới lửa, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[7] Lê Thị Mây (2003), Lửa mùa hong áo, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[8] Giang Nam (2002), Sông Dinh mùa trăng khuyết, Nxb QĐND, HN.
[9] Lê Huy Quang (1994), Hồi ức tuổi mười hai, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[10] .Lê Anh Quốc (2000), Khoảng trời người lính, Nxb QĐND, HN.
[11] Phạm Thái Quỳnh (2005), Đi trong sen ngát bóng xanh, Nxb TN, HN.
[12] Trần Anh Thái (1999), Đổ bóng xuống mặt trời, Nxb QĐND, HN.
[13] Nguyễn Quang Thiều (1994), Những người lính của làng, Nxb QĐND,HN.
[14] Từ Nguyên Tĩnh (2000), Trường ca Hàm Rồng, Nxb QĐND, HN.
II/ Trường ca viết về thời chống Mỹ (tham khảo)
[1] Lê Bính (2005) Hát dọc đồng bằng, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[2] Vũ Bá Cường (1999), Khát gió, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[3] Phan Đức Chính (2005), Mưa trong đất, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[4] Nguyễn Việt Chiến (2000),Cỏ trên đất, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[5] Nguyễn Văn Chương (2003), Làng, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[6] Lê Anh Dũng (2003), Thưa mẹ phía trăng lên, Nxb QĐND, HN.
188
[7] Nguyễn Hưng Hải (2005), Mưa mặt trời, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[8] Trần Mạnh Hảo (í997), Ba cặp núi và một hòn núi lẻ, Nxb QĐND, HN.
[9] Trần Mạnh Hảo (2004), Điện Biên Phủ, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[10] Đặng Hiển (2003), Đất nước trong lớp học, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[11] Thi Hoàng (1997), Gọi nhau qua vách núi, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[12] Vũ Trọng Hùng (2005), Ngọn lửa nhỏ, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[13] Nguyễn Thụy Kha (2000), Gió Tây Nguyên, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[14] Nguyễn Thụy Kha (2000), Năm tháng và chiều cao, Nxb Thanh niên, HN.
[15] Tạ Kim Khánh (2005), Về miền thương nhớ, Nxb Hội nhà Văn, HN.
[16] Trần Vũ Mai (1997), Nàng chim Lạc, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[17] Nguyễn Thanh Mừng (2005), Khởi hành cùng 39 mùa Xuân, Nxb QĐND,
HN.
[18] Anh Ngọc (1993), Điệp khúc vô danh, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[19] Vĩnh Nguyên (1999), Nhịp cầu đất nước, Nxb Thuận Hóa.
[20] Ngô Văn Phú (2000), Màu đỏ ngón tay, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[21] Ngô Văn Phú (2003), Hà nội tháng mười hai, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN
[22] Lê Duy Phương (2006), Vinh, Nxb Hội Nhà Văn, HN.
[23] Y Phương (2000), Chín tháng, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[24] Lê Huy Quang (2004), Một thời để nhớ, Nxb Văn hóa Thông tin, HN.
[25] Phan Quế (1999), Tên đất tên làng, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[26] Phan Quế (2003), Vầng nguyệt thảo, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[27] Thanh Quế (2003), Người lính đi đầu, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[28] Nguyễn Hữu Quý (2003), Sinh ở cuối dòng sông, Nxb QĐND,HN.
[29] Phạm Thái Quỳnh (2000), Những bông hoa mặt trời, Nxb QĐND, HN
[30] Mai Nam Thắng (2004), Cổ tích làng Cát, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[31] Trần Thị Thắng (2000), Bà mẹ Quảng Nam, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[32] Hữu Thỉnh (1996), Trường ca biển, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
189
[33] Vũ Ðình Thự (2004), Bài ca dâng Đảng, Nxb Thanh niên, HN.
[34] Nguyển Hương Trâm (2000), Hà Nội Thăng Long, Nxb Văn học, HN.
[35] Vương Trọng (2002), Hơi thở rừng hồi, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[36] Vương Trọng (1994), Đảo chìm, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[37] Thanh Tùng (2004), Phương Nam hành, Nxb Văn học, HN.
[38] Nguyễn Xuân Tường (2005), Đi về đồi hoa cúc, Nxb Văn hóa dân tộc, HN.
[39] Lê Văn Vọng (2001), Cơn lốc xanh, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
[40] Ngân Vịnh (2002), Phía hoàng hôn yên tĩnh, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
III/ Một số trường ca không thuộc đề tài viết về thời chống Mỹ
Nguyễn Bá (2000), Hòn Khoai, Nxb Mũi Cà Mau.
[1]
Văn Đắc (2003), Trường ca thành Tây đô , Nxb QĐ Nhân Dân, HN..
[2]
Dương Tam Kha (2003), Anh hùng Lò Văn Giá, Nxb Hội nhà Văn, HN..
[3]
Huyền Lam (2004), Phủ Quỳ, Nxb Nghệ An..
[4]
Anh Ngọc (1975), Sóng Côn Đảo, Nxb QĐND, HN..
[5]
Nguyễn Khắc Phục (2001), Bài ca nữ thần Jang Hơri, Nxb QĐND, HN.
[6]
Nguyễn Khắc Phục (1974), Kể chuyện ăn cốm giữa sân, NxbVăn nghệ GP
[7]
[8]
Phan Quế (2001), Cổ kính và phóng túng, Nxb QĐND, HN.
[9]
Thanh Thảo (2002), Trò chuyện với nhân vật của mình, Nxb QĐND, HN.
[10]
Dương Thuấn (2000), Mười bảy khúc đảo ca, Nxb QĐ Nhân Dân., HN.
[11]
Nguyễn Đình Thi (1997), Bài ca Hắc Hải, Nxb QĐND,HN.
[12]
Nguyễn Bùi Vợi (2003), Thanh Chương tráng khúc, Nxb QĐND, HN.
190
B/ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (2005), “Thơ chống Mỹ, cứu nước trong tiến trình thơ hiện
đại”, Báo Nhân dân (14), HN.
2. Arixtot (1999), Nghệ thuật thơ ca (nhiều người dịch), Nxb Văn học. HN.
3. Lại Nguyên Ân (1975), “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”, Tạp chí Văn
học (4) in lại trong Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, HN.
4. Lại Nguyên Ân (1981), “Bàn góp về trường ca”, Tạp chí Văn nghệ Quân
đội (1), HN.
5. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, HN.
6. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám
một nền sử thi hiện đại”, Tạp chí Văn nghệ (5), HN.
7. Báo cáo thành tích Đoàn vận tải quân sự H52, khu 6 cũ (4/1967 - 4/1975),
Tỉnh ủy Bình Thuận.
8. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại
(1945 - 1975), Nxb Văn hóa dân tộc, HN.
9. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Dostoievski (Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, HN.
10. Đào Thị Bình (2002), “Góp phần tìm hiểu trường ca viết về cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước”, Tạp chí Giáo dục (26), HN.
11. Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề về thơ hiện đại Việt Nam 1975 - 2000,
Nxb Hội Nhà Văn, HN.
12. Hồng Diệu (1981), “Thêm vài suy nghĩ”, Tạp chí Văn nghệ (5), HN.
13. Trần Phỏng Diệu (2006), “Yếu tố giọng điệu trong truyện ngắn Sơn Nam”,
Tạp chí VNQÐ (642 tr.94), HN.
14. Phạm Tiến Duật (1980), “Về bút pháp hiện thực trong thơ Việt Nam hiện
đại (1945 - 1980)”, Tạp chí Văn học (5), HN.
15. Nguyễn Hồng Dũng (2005), Chiến tranh Việt Nam trong văn học Mỹ - từ sự
thật đến tác phẩm, Tạp chí VNQĐ (619), HN.
16. Nguyễn Duy (1981), Phóng sự 30 tháng 4 năm 1975, Nxb Văn Nghệ, HN.
191
17. Hà Trọng Đạm (2005), Điạ chỉ đời người, Nxb Hội Nhà Văn, HN.
18. Nguyễn Sĩ Đại (2004), “Hữu Thỉnh, nhà thơ của làng ngày đánh giặc”, Báo
Nhân Dân (38), HN.
19. Nguyễn Khoa Điềm (2004), “Bản hùng ca đất nước”, Báo Văn nghệ công
an (7), HN.
20. Nguyễn Khoa Điềm (2004), “Tác giả nói về tác phẩm Đất nước”, báo Giáo
dục và thời đại (110), HN.
21. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học,
HN.
22. Hà Minh Đức chủ biên (2001), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.HN.
23. Hà Minh Đức (1980), “Văn học Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước”, Tạp
chí Văn học (9), HN.
24. Hà Minh Đức (1981), “Về Trường ca”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1, 2, 3),
HN.
25. Hà Minh Đức (1997), Khảo luận Văn chương, Nxb Khoa học xã hội HN.
26. Hêghen, Mỹ học (Nhữ Thành dịch), Tư liệu ĐHSPHN 1, HN.
27. Lưu Hiệp (1999), Văn tâm điêu long (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn học, HN.
28. Hoàng Ngọc Hiến (1984), “Về đặc trưng của trường ca”, Tạp chí Văn
nghệ (3), HN.
29. Bùi Công Hùng (1980), “Mấy quan sát về thơ Việt Nam hiện đại”, Tạp chí
Văn học (5), HN.
30. Bùi Công Hùng (1985), “Nhạc điệu của thơ Việt Nam hiện đại trong 40 năm
qua”, Tạp chí Văn học (5, 6), HN.
31. Bùi Công Hùng (1985), “Những đặc trưng cơ bản của thơ Việt Nam hiện
đại” (1945 - 1985), Tạp chí Văn học (1), HN.
32. Bùi Công Hùng (1986), “Hình tượng thơ”, Tạp chí Văn học (4), HN.
33. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa TT, HN.
34. Bùi Công Hùng (2001), Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại, Nxb Văn
hóa Thông tin. HN.
192 35. Mai Hương (1980), “Đọc Đường tới Thành phố” (Trường ca của Hữu Thỉnh,
Nxb Quân đội), Tạp chí Văn học (3), HN.
36. Đỗ Văn Hỷ (1991), “Trong thơ có họa”, Tạp chí Văn nghệ (1), HN.
37. Roman Jakobson (1945 - 1975), Ngôn ngữ và thi ca, (Cao Xuân Hạo dịch).
38. Đỗ Văn Khang (1982), “Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến
trường ca hiện đại ở ta”, Tạp chí Văn học (6), HN.
39. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo
Dục, HN.
40. Nguyễn Khải (1984), Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới, HN.
41. Lê Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
HN.
42. Lê Đình Kỵ (1999), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, HN.
43. Phong Lan (chủ biên) (1999), Tố Hữu - về tác giả và tác phẩm, Nxb GD.
HN.
44. Tôn Phương Lan (1976), “Nguyễn Khoa Điềm - Một nhà thơ trẻ có nhiều
triển vọng”, Tạp chí Văn học (5), HN.
45. Mã Giang Lân (1982), “Trường ca, vấn đề thể loại”, Tạp chí Văn học (6),
HN.
46. Mã Giang Lân (1988), “Thử phân định ranh giới giữa trường ca và thơ dài”,
Tạp chí Văn học (5, 6), HN.
47. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN.
48. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - Những chân dung tiêu biểu,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
49. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương học thuật Việt Nam hiện
đại, Nxb Giáo Dục, HN.
50. Phong Lê, Chuyên đề Văn học Việt Nam hiện đại - Tiến trình và thành tựu,
Tài liệu giảng dạy Cao học Văn học Việt Nam ĐHSP TP.HCM.
51. Mai Quốc Liên (1999), Tạp luận, Nxb Văn học, HN.
193 52. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo - Thơ và trường ca”, Tạp chí Văn học (2),
HN.
53. E.M Meletinki (1974),“Về nguồn gốc sử thi anh hùng”, Tạp chí Văn
nghệ (1), HN.
54. Nam Mộc (1976), “Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại của Hà
Minh Đức”, Tạp chí Văn học (3), HN.
55. Nguyễn Đức Nam (1969), “Cuộc chiến tranh Việt Nam và lương tâm người
Mỹ”, Tạp chí Văn học (5, 6), HN.
56. Giang Nam (2004), Sống và viết ở chiến trường, Nxb Hội Nhà Văn, HN.
57. Phan Ngọc (1991), “Thơ là gì?”, Tạp chí Văn nghệ (1), HN.
58. Lê Thành Nghị (2005), Trước đèn... thơ, Nxb Quân Đội Nhân dân, HN.
59. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn hóa và văn học từ một góc nhìn, Nxb VH và
TT NCQH
60. Huỳnh Thống Nhất (2002), Luận án Thi pháp sử thi anh hùng của dân tộc Ê
Đê, Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh.
61. Nhiều tác giả (1978), Nghiên cứu bình luận chọn lọc thơ văn Hồ Chủ tịch,
Nxb Giáo Dục, HN.
62. Nhiều tác giả (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học
xã hội, HN.
63. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội Hội
Văn học, HN.
64. Nhiều tác giả (1978), Xing Nhã, Đăm Di, Hai bản trường ca Ê Đê và Gia
Rai, Nxb Văn học Dân tộc, HN.
65. Nhiều tác giả (1984), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, Nxb Giáo Dục, HN.
66. Nhiều tác giả (2001), Thơ ca cách mạng Việt Nam (1945 - 1975), Nxb Đồng
Nai.
67. Nhiều tác giả (2001), Lý luận văn học, Nxb Giáo Dục, HN.
68. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam, Nxb Đại học QG HN.
194 69. Bảo Ninh (2005), “Ðất nước làm rạng danh các nhà văn”, Báo Văn Nghệ Trẻ
số 30 (400), HN.
70. Ngô Văn Phú (2004), “Chất lính và hồn quê trong thơ Hữu Thỉnh”, Báo Văn
nghệ trẻ (9), HN.
71. Ngô Văn Phú (2005), “Mùa trong văn học”, Tạp chí Giáo dục và thời
đại (13), HN.
72. Vũ Đức Phúc (1982), “Chung quanh vấn đề trường ca”, Tạp chí Văn
học (6), HN.
73. Phan Thị Diễm Phương (1988), “Thơ lục bát ở một thế hệ nhà thơ hiện
đại”, Tạp chí Văn học (2), HN.
74. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội Nhà Văn, HN.
75. Hoài Quang Phương (2005), Ngôi nhà của mẹ, Nxb Hội NhàVăn, HN.
76. Nguyễn Hữu Quý (2005), “Nhà văn quân đội - Lực lượng và sáng tác sau
1975”, Tạp chí VNQĐ (636), HN.
77. Phạm Thu Quỳnh (2006), Ký ức chiến tranh của một người lính, NXB
Thanh niên, HN.
78. Vũ Tiến Quỳnh (Tuyển chọn và giới thiệu) (1998), Phê bình, bình luận văn
học về Lê Anh Xuân, Thu Bồn, Thanh Hải, Giang Nam, Viễn Phương,
Nxb Văn Nghệ Tp. HCM.
79. Vũ Tiến Quỳnh (1996), Phê bình bình luận văn học - Truyện cổ tích thần
thoại và sử thi, Nxb Văn nghệ TP. HCM.
80. Từ Sơn (1981), “Về khái niệm trường ca”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1),
HN.
81. Trần Đình Sử (1986), “Nhà thơ Việt Nam hiện đại và mấy vấn đề nghiên
cứu cá tính sáng tạo trong thơ”, Tạp chí Văn học (1), HN.
82. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới, HN.
83. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật của thơ, Nxb Giáo dục,
HN.
195 84. Vũ Văn Sỹ (1999), Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam (1945 - 1995),
Nxb Khoa học Xã hội, HN.
85. Vũ Văn Sỹ (2005), Mạch thơ trong nguồn thế kỷ, Nxb Khoa học XH, HN.
86. Nguyễn Trọng Tạo (1980), “Trường ca, cảm hứng, bản lĩnh và sức vóc của
người viết”, Tạp chí Văn Nghệ số 11, HN.
87. Nguyễn Thị Liên Tâm (2002) Luận văn tốt nghiệp Cao học “Đặc điểm
trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ”, ĐHSP TP. HCM.
88. Trần Nhật Tân (2004), Đi tìm thông điệp của nàng thơ, Nxb Thanh Niên,
HN.
89. Hoài Chân và Hoài Thanh (2003), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, HN.
90. Hoài Thanh (1981), “Thơ và chuyện trong truyện thơ”, Mục “Trao đổi về
thể loại trường ca”, Tạp chí Văn nghệ (5), HN.
91. Thanh Thảo (2006), “Từ đêm mười chín nghĩ về anh hùng ca và trường ca”,
Tạp chí Thơ - Hội Nhà Văn Việt Nam (6), HN.
92. Hữu Thỉnh (1981), “Sự chuẩn bị của người viết trẻ”, Báo Văn Nghệ (50),
HN.
93. Ngô Đức Thịnh (2005), “Xuất bản sử thi Tây Nguyên”, Báo ND cuối
tuần (22), HN.
94. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa, Nxb Giáo dục, HN.
95. Lưu Khánh Thơ (1988), “Thơ Hữu Thỉnh - Một phong cách thơ sáng tạo”,
Tạp chí Văn học (2), HN.
96. Thơ văn Lý Trần (1977), Nxb Khoa học Xã hội, HN.
97. Hoàng Trung Thông (1984), “Thử bàn về thơ”, Tạp chí Văn nghệ (1), HN.
98. Phạm Huy Thông (1983), “Trường ca”, Tạp chí Văn học (1), HN.
99. Bích Thu (1983), “Thanh Thảo, một gương mặt tiêu biểu trong thơ từ sau
1975”, Tạp chí Văn học (5, 6), HN.
100. Nguyễn Vũ Tiềm (2006), Đi tìm mật mã của thơ, Nxb Hội Nhà Văn, HN.
101. Dục Tú (1985), “Mặt trời trong lòng đất, nghĩ về gương mặt thơ Trần Mạnh
Hảo”, Tạp chí Văn học (2), HN.
196
102. Nguyễn Thanh Tú (2005), Đi cùng văn học, Nxb VNQĐ, HN.
103. Tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình quyển 6, Nxb Chính trị, HN.
104. Lê Văn Tùng (2005), Thử bàn các tiêu chí để hiểu nội dung khái niệm “Văn
học hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 9, HN.
105. Tổ lý luận Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1981), “Để có những thành tựu
mới trong văn học về đề tài chiến tranh, quân đội”, TC Văn nghệ Quân đội (2).
106. Từ điển thuật ngữ Văn học (1992), Nxb Giáo Dục, HN.
107. Lê Ngọc Trà (1998), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
108. Hoàng Trinh (1997), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, Nxb Đà Nẵng.
109. Phạm Quang Trung, (1994), “Chung quanh việc sử dụng thuật ngữ trong
phân loại tác phẩm văn chương”, Tạp chí Văn học (2), HN.
110. Văn học và thời gian, (2001), Nxb Văn học, HN.
111. Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử Văn học Việt Nam, Nxb Đại học &
Trung học Chuyên nghiệp, HN.
112. Bằng Việt (1980), “Nhân vật trữ tình trong thơ của chúng ta”, Tạp chí Văn
học (5), HN.
113. Thái Quang Vinh (1999), 95 bài văn chọn lọc, Nxb Đà Nẵng.
114. Trần Ngọc Vương (1981), “Về thể loại trường ca và tính chất của nó”, Tạp
chí Văn nghệ (5), HN.
115. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (1999), Cơ sở văn hóa, Nxb Giáo Dục, HN.
_______________________
197
PHỤ LỤC 1
Thống kê tần số xuất hiện của từ “Mẹ, đất nước, dân tộc, nhân dân” trong trường ca về thời chống Mỹ. STT
Tên trường ca
Số lần xuất hiện trong tác phẩm Mẹ
làng,
Đất nước 81
Miền, xóm,quê, đồng 0
Nhân dân Dân tộc 0
21
01
Mặt đường khát vọng Đường tới thành phố
42
0
0
02
Đất nước hình tia chớp
183
0
0
03
48
17 104 08
0
0
04
95
06
16
0
05
19
01
0
0
06
17
07
13
11
07
101
04
54
0
08
86
08
25
0
09
25
19
0
02
10
Những người đi tới biển Ở làng Phước Hậu Ánh chớp đêm giao thừa Khoảng trời người lính Trầm tích Sinh ở cuối dòng sông Mảnh hồn chim Lạc
198
PHỤ LỤC 2
Thống kê một số từ được dùng để chỉ chủ thể trữ tình trong trường ca về
thời chống Mỹ.
Số lần sử dụng
STT TỪ NGỮ
2
3
4
5
6
7
8
9
10
01
1 17
50
16
73
23
09
09
28
72
08
02
18
58
162
13
10
48
60
33
20
11
03
0
39
34
28
16
20
33
/
12
/
04
05
07
27
04
36
04
/
/
/
/
05
152
13
53
38
12
03
05
122
18
12
06
04
13
03
15
0
02
/
08
02
/
07
46
46
07
71
52
66
03
05
/
03
Tôi Ta Chúng tôi Chúng ta Con,chúng con Chúng mình, mình Các anh, anh
Mặt đường khát vọng Đất nước hình tia chớp Đường tới thành phố Những người đi tới biển Ở làng Phước Hậu Ánh chớp đêm giao thừa Khoảng trời người lính Trầm tích
Ghi chú: (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) Sinh ở cuối dòng sông
Mảnh hồn chim Lạc
(10)
199
PHUÏ LUÏC 3
Khaûo saùt söï lieân töôûng theå hieän qua bieän phaùp tu töø so saùnh trong tröôøng ca
Ñaát nöôùc hình tia chôùp cuûa Traàn Maïnh Haûo
STT
Chuû theå ñöôïc so saùnh Töø ngöõ ñöôïc duøng ñeå so saùnh
Trang
Ñaát nöôc
01
hình guoác voõng
12
02
-hình muõi soùng
12
03
-mang hình chim laïc ñang bay
12
04
-cong hình caùi caøy
13
05
-laø hình chöõ S
14
06
-laø meï ñaây
14
07
-mang hình löôõi lieàm löôõi haùi
15
08
-mang hình chieác aùch
15
09
-mang hình doøng söõa
15
10
-mang hình boâng luùa
24
11
-laø boâng luùa meï cho
24
12
-gioáng nhö hình con giun bò xeùo quaèn
24
13
-mang hình con coâng,con phöôïng,con laân
24
14
-mang hình côn baõo, côn gioâng
24
15
-mang hình caây cung
27
16
-mang hình daây bí ,daây baàu
27
17
-mang hình tia chôùp
34
18
-nhö muõi maùc
34
19
-gioáng voâ cuøng ngoïn löûa con soi
34
20
-vaãn hình daùng em
34
21
-cong hình daùng dieàu
34
22
-gioáng mieáng cau dieäu hieàn
34
200
-mang hình vaønh khuyeân
34
23
-mang hình maët traêng
34
24
-mang hình meï cha
34
25
-mang hình caây ña
45
26
-uoán theo töøng caùi doác
51
27
-mang hình ñoàng ñoäi co löng toâm maø nguû
51
28
-mang hình khuûy tay
51
29
-laø gioït söông
55
30
-laø traùn meï ñaãm moà hoâi
79
31
-laø moät cuoäc haønh quaân
84
32
201
PHỤ LỤC 4
Khảo sát về các thể thơ được sử dụng trong 25 trường ca viết về thời
chống Mỹ ( phục vụ cho chương 3, phần “ Sự phức hợp về thể thơ”)
Trường ca
Kết cấu
Thể lục
Thể tự do Thể văn
Thể7, 8
Thể 4,5
bát
xuôi
chữ
chữ
/
9 chương gồm 9
80%
20%
/
/
1. Mặtđường
khúc
khát vọng
10 chương
Chương 2,
Chương 1,3,
Chương
/
/
2. Đất nước
5, 7+ 3
6
4,8,9, 10
hình tia chớp
khổ chg 1
05chương,gồm
03 khúc
15 khúc
1
/
/
3. Đường tới
19 khúc
khúc
thành phố
03 chương gồm
01 khúc
11 khúc
/
/
/
4. Nhữngngười
12khúc+Vĩthan
đi tới biển
h
/
05 chương
chủ yếu
/
/
/
5. Ở làng
+đoạn kết
Phước Hậu
/
5 khúc (cả
chủ yếu
/
10
/
6.Ánh chớp đêm
khúcmởđầu+kh
khổ
giao thừa
úc cuối)
-khổ 5
/
04 chương
80%
20%
/
/
7. Khoảngtrời
người lính
/
19 chương
gồm 18
/
Chương1
/
8. Trầm tích
chương
5
10 chương
Chg2+18
sử dụng
09đoạnở
Chương
/
9. Sinh ở cuối
khổởch4,0
khá nhiều
chương 9
8+khúc3
dòng sông
4khổ
+ 12đoạn
của
ởch6,
ở
chương5
05khổởch
khúc2củ
202
9+vĩ thanh
a chương
5
04 chương
28 cặp
90%
/
/
/
10. Mảnh hồn
(khúc
gồm 17 khúc
chim Lạc
cuối)
100%
/
/
/
/
/
11. Bài ca chim
ChơRao
Không chia
99%
/
/
Vài khổ
/
12. Nước non
chương
ngắn
ngàn dặm
/
5 chương + kết,
04 khúc
11 khúc
/
05 khúc
13. Sông núi trên
gồm 20 khúc
vai
/
trong
/
11 chương
mộtvài
rải rác trong
14. Đi trong sen
nhiều
khổ ở ch
các chương
ngát bóng xanh
chương
10, ch 11
/
/
05 chương gồm
04khúc
13 khúc
01khúc
15. Mặt trời
18 khúc
đối thoại
trong lòng đất
/
/
/
16.Trầm tích
19chương
18 khúc
01 khúc
gồm19 khúc
/
/
17. Lửa mùa
19 chương
06 khúc
11 khúc
02 khúc
hong áo
/
/
/
18.Ngựa trắng
05 chương
5chương
2 đoạn
bay về
/
/
/
19. Mẹ
06 chương
Vài khổ
96%
ngắn
/
20.Trường ca
Mở đầu +24
một số
19 khúc
01 khúc
04 khúc
khúc
câu cadao
Hàm Rồng
203
21.Nhữngcánh
`/
mộtđoạnở
97%
/
/
/
chươg 5
đồng dưới lửa
22. Bà mẹ Quảng
Lời tựa+ 04
đoạn kết
37 %
01 đoạn
30%
30 %
chương+kết+
là lục bát
ở vĩ
Nam
vĩ thanh
thanh
Phần mở đâu +
Toàn
/
/
01khổở
/
23.Con đường
10 chương
chương 9
chương 2
của những vì sao
24. Đổ bóng
09 chương
/
chủ yếu
04 khúc
/
/
vănxuôi+
xuốngmặt trời
01khúc
đốithoại
độcthoại
/
25. Cổ tích làng
06 chương
/
chủ yếu
02 đoạn
/
vănxuôi+
gồm 01
Cát
có đối
khúcdạo đầu
thoại
+03 khúc
chính+lờikết+
vĩ thanh
204
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
[1] Nguyễn Thị Liên Tâm (2002), Luận văn tốt nghiệp Cao học: Đặc điểm
trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ - Thư viện ĐHSP TH
HCM.
[2] Nguyễn Thị Liên Tâm (2004), Chất liệu văn học dân gian trong trường ca
viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ - đăng trên Tạp chí Khoa học Xã
hội và Nhân văn, trường ĐHSP TP HCM Số: 3 (37) tháng 7/2004.
[3] Nguyễn Thị Liên Tâm (2005), Hình tượng người chiến sĩ trong trường ca
viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ đăng trên báo Văn Nghệ Trẻ Số: 17
(439) tháng 4/2005.
[4] Nguyễn Thị Liên Tâm (2007), Trường ca hiện đại - những chặng đường
phát triển đăng trên Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, trường ĐHSP
TP HCM Số: 11 (45) tháng 5/2007.
[5] Nguyễn Thị Liên Tâm (2007), Trường ca “Đi trong sen ngát bóng xanh”
của Phạm Thái Quỳnh, đăng trên Tạp chí Nhà văn - Hội Nhà Văn Việt
Nam số: 5/2007.
[6] Nguyễn Thị Liên Tâm (2007), Sự liên tưởng trong trường ca thời chống
Mỹ - đăng trên Tạp chí Dạy và học Ngày nay số 9/2007.
[7] Nguyễn Thị Liên Tâm (2008), Hình tượng phụ nữ Việt Nam trong trường
ca thời chống Mỹ đăng trên Diễn đàn Văn nghệ - Tạp chí của Uỷ Ban toàn
quốc các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam số: 158 tháng 3/2008.
[8] Nguyễn Thị Liên Tâm (2008), Những nhân tố khách quan và chủ quan tạo
nên sự xuất hiện của trường ca thời chống Mỹ đăng trên Tạp chí Khoa học
Xã hội và Nhân văn, trường ĐHSP TP HCM Số: 13 {47} tháng 3/2008.
[9] Nguyễn Thị Liên Tâm (2008), Sức khái quát hiện thực trong trường ca
thời chống Mỹ - đăng trên Tạp chí Dạy và học Ngày nay số: 7/2008.
205 [10] Nguyễn Thị Liên Tâm (2008), Tài liệu Dạy - Học Chương trình Ngữ Văn
điạ phương,{in chung Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Thuận chủ biên}
sách do Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản số: 155 - 2008/ CXB/1 - 274/GD.
[11] Nguyễn Thị Liên Tâm (2008), Đề tài tình yêu trong trường ca sử thi hiện
đại. Kỷ yếu Hội thảo KH học viên Sau đại học - 2007, đăng trên TC Khoa
học Xã hội và Nhân văn (phụ bản) trường ĐHSP TP HCM tháng 8/2009.
[12] Nguyễn Thị Liên Tâm (2008), Không gian sử thi trong trường ca thời
chống Mỹ - đăng trên Tạp chí Dạy và học Ngày nay số 11/2008.