BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
----------
CHU THỊ HUYỀN
CÁC DẠNG CƠ BẢN
CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1986
(từ góc nhìn thể loại)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Đặng Thu Thủy
PGS.TS. Vũ Tuấn Anh
HÀ NỘI - 2020
LỜI CẢM ƠN
Trải qua quá trình học tập, nghiên cứu, thực hiện luận án tốt nghiệp, tôi xin
trân trọng gửi lời cảm ơn tới:
PGS.TS Đặng Thu Thủy, PGS.TS Vũ Tuấn Anh - Hai nhà khoa học - Hai
người thầy mẫu mực, tâm huyết luôn cảm thông, chia sẻ những khó khăn của
nghiên cứu sinh, khích lệ, động viên, nhiệt tình hướng dẫn cho tôi trong quá trình
nghiên cứu luận án.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Phòng Sau Đại học, Khoa Ngữ văn cùng
với các thầy cô tham gia giảng dạy nghiên cứu sinh chuyên ngành Văn học Việt
Nam hiện đại Khóa 34.
Ủy ban nhân nhân thành phố Hải Dương, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Dương,
Ủy ban nhân nhân thành phố Hà Nội, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Ban Giám
hiệu, giáo viên trường Trung học phổ thông Ninh Giang, Ban Giám hiệu, giáo viên
trường Trung học phổ thông Trần Nhân Tông đã tạo những điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp luôn nhiệt tâm ủng hộ tôi trong suốt chặng
đường đã qua.
Tác giả luận án
Chu Thị Huyền
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa có ai công bố trong
bất kì công trình nghiên cứu khoa học nào khác.
Tác giả luận án
Chu Thị Huyền
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu và phạm vi khảo sát ..................................................... 2
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4
6. Những đóng góp mới của Luận án ................................................................ 4
7. Cấu trúc của luận án ....................................................................................... 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1986 .............. 6
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ........................................................ 6
1.1.1. Những công trình nghiên cứu chung và nghiên cứu những hiện tượng
nổi bật về truyện ngắn Việt Nam sau 1986 ....................................................... 6
1.1.2. Những công trình, bài viết nghiên cứu các dạng cơ bản của truyện
ngắn Việt Nam sau 1986 ................................................................................. 15
1.1.3. Một số kết luận ...................................................................................... 21
1.2. Những vấn đề chung của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 ................. 22
1.2.1. Bối cảnh xã hội-văn hóa- văn học Việt Nam sau 1986 ......................... 22
1.2.2. Khái quát về các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 .......... 26
1.2.3. Một số kết luận ...................................................................................... 34
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 35
CHƢƠNG 2: TRUYỆN CỰC NGẮN ......................................................... 36
2.1. Lịch sử truyện cực ngắn Việt Nam ........................................................ 36
2.2. Đặc điểm cơ bản của truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986 ................ 40
2.2.1. Rút gọn tối đa về dung lượng ................................................................ 40
2.2.2. Giản lược cốt truyện ............................................................................. 43
2.2.3 Giản lược tối đa nhân vật ...................................................................... 47
2.2.4. Chắt lọc chi tiết .................................................................................... 48
2.3. Một số dạng truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986............................... 50
2.3.1. Truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn.................................................... 52
2.3.2. Truyện cực ngắn giàu chất kịch ............................................................ 58
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 69
CHƢƠNG 3: TRUYỆN NGẮN GIÀU CHẤT TRỮ TÌNH ...................... 70
3.1. Lịch sử truyện ngắn giàu chất trữ tình Việt Nam ................................. 70
3.2. Đặc điểm cơ bản của truyện ngắn giàu chất trữ tình Việt Nam sau 1986 75
3.2.1. Cốt truyện trữ tình ................................................................................. 75
3.2.2. Tình huống tâm trạng ............................................................................ 82
3.2.3. Kiểu nhân vật nội tâm ........................................................................... 89
3.2.4. Ngôn ngữ đậm chất thơ ......................................................................... 95
3.2.5. Giọng điệu cảm thương, chia sẻ ......................................................... 105
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 107
CHƢƠNG 4: TRUYỆN NGẮN GIÀU CHẤT TIỂU THUYẾT ............ 108
4.1. Lịch sử truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam ........................ 108
4.2. Đặc điểm cơ bản của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau
1986 ............................................................................................................... 111
4.2.1. Mở rộng tối đa sức chứa của truyện ngắn .......................................... 111
4.2.2. Kiểu nhân vật trải nghiệm, triết luận .................................................. 118
4.2.3. Cấu trúc phức hợp- lồng ghép ............................................................ 132
4.2.4. Sự đan cài nhiều lớp ngôn ngữ, kiểu cú pháp ..................................... 136
4.2.5. Sự đa dạng về giọng điệu .................................................................... 143
Tiểu kết chương 4 .......................................................................................... 147
KẾT LUẬN .................................................................................................. 148
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ................................. 151
TÁC PHẨM KHẢO SÁT ........................................................................... 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 157
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam hiện đại, truyện ngắn là
một thể loại mạnh, có nhiều thành tựu. Đến với truyện ngắn Việt Nam sau
1986, các nhà nghiên cứu, phê bình không chỉ được đối thoại với những nhà
văn xuất sắc của Việt Nam, được thưởng thức những truyện ngắn có giá trị
mà còn thấy được quá trình vận động, biến đổi không ngừng của thể loại này.
Từ sau 1986, nhất là những năm gần đây, truyện ngắn đã có sự chuyển dịch
quan trọng về phía hiện đại, giao lưu và hội nhập với truyện ngắn nói riêng và
văn xuôi thế giới nói chung. Chính sự đa dạng, nhiều màu sắc đó đã đưa
truyện ngắn trở thành một đối tượng tiềm năng, hấp dẫn với độc giả và các
nhà nghiên cứu.
1.2. Nhà lý luận phê bình, cây đại thụ lý luận của nước Nga, Bakhtin, đã từng
khẳng định: “Lịch sử văn học trước hết là lịch sử hình thành, phát triển và tương tác
giữa các thể loại”[105; 8]. Lịch sử văn học đã minh chứng điều đó. Sau 1986, độc
giả đã chứng kiến quá trình vận động và biến đổi liên tục của thể loại truyện ngắn.
Truyện ngắn (cùng với tiểu thuyết) là thể loại quan trọng cuả văn xuôi, thể hiện một
lối tư duy riêng về đời sống. Truyện ngắn đã và đang có sự vận động, đổi thay về
quy mô và dung lượng; truyện ngắn đang có xu hướng vươn tới, giao thoa với các
thể loại khác như kịch, tiểu thuyết, thơ... Sự giao thoa, tương tác tạo nên một số
dạng mới của truyện ngắn đồng thời thể hiện tinh thần dân chủ, hiện đại, sự nỗ lực,
cách tân của thể loại truyện ngắn.
1.3. Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 đến nay có nhiều thành tựu, phong
phú, đa dạng, phức tạp, phân hướng, phân dòng… Đây là nơi quy tụ nhiều thế hệ
nhà văn. Có rất nhiều cây bút đã trở nên quen thuộc với độc giả như Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... Họ vẫn chủ yếu tiếp nối dòng mạch
văn chương truyền thống. Bên cạnh đó đã xuất hiện khá nhiều cây bút với cách
viết mới, lạ, đa dạng về bút pháp như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Đoàn
Lê, Nguyễn Quang Lập, Y Ban, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Thiều. Từ thập
2
niên 90, Hòa Vang, Trần Đức Tiến, Hồ Anh Thái, Cao Duy Sơn đã trở thành
những cây bút để lại nhiều tiếng vang. Cuối thập niên 90 tới những năm 2000, sự
xuất hiện của những cây bút xuất sắc làm nên diện mạo mới của truyện ngắn
như: Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lê Minh Khuê, Võ Thị
Xuân Hà, Phan Thị Vàng Anh, Phan Triều Hải, Lưu Minh Sơn, Phạm Duy
Nghĩa, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc
Tư... Nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam sau 1986, chúng tôi nhận thấy: truyện
ngắn đã và đang tiếp tục hình thành những dạng mới, độc đáo. Bên cạnh truyện
ngắn truyền thống là sự xuất hiện đa dạng của các dạng truyện ngắn mới. Nhiều
nhà văn có sự gặp gỡ trong quan điểm nghệ thuật, bút pháp thể hiện, tạo ra dạng
truyện độc đáo, hấp dẫn. Điều này tạo nên sự đa dạng, phong phú cho bức tranh
truyện ngắn Việt Nam sau 1986 cũng như khẳng định vị thế quan trọng của
truyện ngắn trong dòng chảy văn xuôi đương đại Việt Nam.
1.4. Đã có không ít công trình khoa học chọn truyện ngắn Việt Nam sau
1986 làm đối tượng nghiên cứu. Những dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam
sau 1986 đã bắt đầu được quan tâm, nghiên cứu trong những năm gần đây.
Nhưng, đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và
chuyên sâu nhận diện, phân loại các dạng cuả truyện ngắn sau 1986 từ góc nhìn
thể loại. Cách tiếp cận này hứa hẹn sẽ cho nhiều kết quả thú vị và có nhiều ý
nghĩa, không chỉ đối với việc nghiên cứu phê bình mà với cả hoạt động sáng tác.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn Các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt
Nam sau 1986 (từ góc nhìn thể loại) làm đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận án lựa chọn đối tượng nghiên cứu là các dạng cơ bản truyện ngắn Việt
Nam sau 1986 từ góc nhìn thể loại.
3. Phạm vi nghiên cứu và phạm vi khảo sát
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam sau 1986 từ góc độ thể
loại, tập trung vào ba dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986: truyện cực
ngắn, truyện ngắn giàu chất trữ tình, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết.
3
3.2. Phạm vi khảo sát
Luận án tập trung khảo sát truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến năm 2019 . Do
số lượng tác phẩm xuất bản hàng năm là rất lớn nên việc khảo sát cuả chúng tôi tập
trung hướng tới các tác phẩm hoặc có chất lượng hoặc gây được dư luận và tất nhiên
phải thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của mỗi dạng truyện ngắn theo định hướng của
luận án. Các tác phẩm được khảo sát là khá lớn, được luận án trình bày trong phần
Tác phẩm khảo sát (cuối luận án).
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Luận án khảo sát, thống kê, phân loại, định danh, mô tả, phân tích các dạng
tiêu biểu của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 như: truyện cực ngắn, truyện ngắn
giàu chất trữ tình, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết.
- Từ đó tiến tới nhận diện đặc điểm, diện mạo và thành tựu của truyện ngắn Việt
Nam sau 1986 từ góc nhìn thể loại; đánh giá vai trò, vị trí của truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn này trong mối tương quan với các thể loại khác của nền văn học; thấy được
khát vọng cách tân thể loại, tính chất hiện đại và năng động của thể loại truyện ngắn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích như trên, luận án hướng tới thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Luận án khảo sát đối tượng nghiên cứu và lí giải những tiền đề xã hội, văn hóa
làm nảy sinh các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986.
Luận án phân loại, khảo sát, mô tả các dạng cơ bản nổi bật của truyện ngắn Việt
Nam sau 1986: lịch sử truyện cực ngắn, đặc điểm cơ bản của dạng truyện cực ngắn;
lịch sử truyện ngắn giàu chất trữ tình, đặc điểm nổi bật của dạng truyện ngắn giàu chất
trữ tình; lịch sử truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết, đặc điểm cơ bản của truyện
ngắn giàu chất tiểu thuyết.
Luận án lí giải, cắt nghĩa quá trình tiếp biến và phát triển của thể loại truyện
ngắn trong sự giao thoa với các thể loại văn học.
Luận án đưa ra một số đánh giá về thành tựu của từng dạng truyện ngắn, dự
báo về dạng truyện có thiên hướng phát triển, chiếm ưu thế trong đời sống truyện
ngắn Việt Nam thế kỉ XXI.
4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu song trong đó có những phương pháp chính sau:
Thứ nhất, phương pháp loại hình là phương pháp quan trọng của luận án.
Phương pháp loại hình được sử dụng nhằm phân chia đối tượng nghiên cứu thành
những dạng tiêu biểu với những tiêu chí cụ thể, khu biệt các dạng truyện ngắn. Với
phương pháp này, chúng tôi nhận diện những bình diện làm nên đặc trưng các dạng
của truyện ngắn (tình huống, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu).
Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại là phương pháp thứ
hai được sử dụng chủ yếu trong luận án. Đối tượng nghiên cứu của luận án là truyện
ngắn Việt Nam sau 1986. Do vậy, chúng tôi sử dụng phương pháp này dựa vào
những đặc trưng của thể loại truyện ngắn. Cũng từ phương pháp này, chúng tôi
nhận ra những giao thoa, tương tác giữa truyện ngắn và các thể loại văn học.
Thứ ba, luận án sử dụng phương pháp văn học sử. Phương pháp này được
luận án sử dụng để nghiên cứu truyện ngắn trong mối tương quan với hoàn cảnh
lịch sử- xã hội khi tác phẩm ra đời và được tiếp nhận, nghiên cứu theo giai đoạn văn
học. Từ đó, luận án chỉ ra vị trí, vai trò của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 trong
nền văn xuôi đương đại.
Thứ tư, phương pháp so sánh được sử dụng để nhận diện sự khác nhau
giữa các dạng; so sánh để chỉ ra sự kế thừa, đổi mới của truyện ngắn Việt Nam
từ sau 1986 so với các giai đoạn trước, so với các dạng khác hoặc thể loại văn
học khác.
Ngoài ra, luận án sử dụng một số thao tác như: thống kê, phân loại, phân tích
và tổng hợp.
6. Những đóng góp mới của Luận án
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu, phân loại, định danh, miêu tả, phân tích
các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 (từ góc nhìn thể loại) một cách
toàn diện và chuyên sâu.
- Từ đây, luận án đã nhận diện những đặc điểm, diện mạo, đánh giá về vai trò, vị
trí của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này trong mối tương quan với các thể loại khác
5
để thấy được khát vọng cách tân thể loại, tính chất hiện đại và năng động của thể
loại truyện ngắn; bước đầu dự báo về xu hướng vận động, phát triển của truyện
ngắn trong tương lai.
- Cho tới thời điểm này, đây là công trình có tính thời sự hơn cả vì nó đã tiệm
cận với truyện ngắn Việt Nam ở thì “hiện tại” (phạm vi nghiên cứu từ 1986 đến
năm 2019).
- Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích, đáng tin cậy cho những ai quan
tâm nghiên cứu, giảng dạy truyện ngắn nói riêng cũng như Văn học Việt Nam
hiện đại nói chung.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án bao gồm:
Chƣơng 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và những vấn đề chung
của truyện ngắn Việt Nam sau 1986
Chƣơng 2: Truyện cực ngắn
Chƣơng 3: Truyện ngắn giàu chất trữ tình
Chƣơng 4: Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1986
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Đến nay, ở Việt Nam, truyện ngắn đã và đang trở thành một thể loại
không chỉ đạt đến “độ chín trong hình thức và nội dung” mà còn đang mở ra
“những mũi thăm dò, khai thác”, mới mẻ về hướng phát triển thể loại. Ngoài
một số bài mang tính ghi nhận, đánh giá sự đóng góp của một số truyện ngắn
mới lạ, đã có một số công trình nghiên cứu bàn bạc, đề cập tới một vài phương
diện cuả truyện ngắn Việt Nam hiện đại, nhất là từ sau 1986 đến nay. Trong
khoảng ba mươi năm này, truyện ngắn đã trải qua những bước thăng trầm, phân
hóa thành nhiều dạng. Sự nỗ lực đổi mới, cách tân với những tìm tòi, bứt phá
cuả giới sáng tác tạo nên cả những đỉnh triều và những con sóng ngầm của thể
loại. Song hành cùng sự biến chuyển của thể loại là sự phản hồi mạnh mẽ từ
phía độc giả. Đến nay có thể tính đến đơn vị hàng trăm công trình, ý kiến bàn
về truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Có những ý kiến xoay quanh vấn đề thể
loại, lí giải về những khúc ngoặt, ngả rẽ bất ngờ, thú vị của truyện ngắn Việt
Nam sau 1986; có ý kiến bàn về sự tịnh tiến, độ lùi của thể loại; sự giao thoa,
tương tác giữa truyện ngắn và các thể loại văn học khác; có nhiều ý kiến bàn về
sự xuất hiện cuả những hiện tượng lạ, nổi bật của một cây bút mới, một nhóm
sáng tác tạo nên tiếng vang trong đời sống truyện ngắn… Xuất phát từ đề tài
của mình, chúng tôi xin lược dẫn những ý kiến tiêu biểu theo hai nhóm: nhóm
thứ nhất là những công trình, bài viết nghiên cứu chung và nghiên cứu những
hiện tượng nổi bật về truyện ngắn; nhóm thứ hai là những công trình, bài viết
nghiên cứu về các dạng truyện ngắn Việt Nam đương đại.
1.1.1. Những công trình nghiên cứu chung và nghiên cứu những hiện
tượng nổi bật về truyện ngắn Việt Nam sau 1986
Một trong những công trình được đánh giá cao khi kiến giải về truyện ngắn
đó là công trình Văn học Việt Nam hiện đại- Nhận thức và thẩm định của nhà
7
nghiên cứu Vũ Tuấn Anh. Tác giả công trình đã khẳng định về tiềm lực của thể
loại, đồng thời thể hiện sự tin tưởng và kì vọng của mình: “Truyện ngắn mở ra
những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề đạo đức thế sự nhanh chóng
đạt đến cả độ chín cả trong hình thức và nội dung mà tiểu thuyết còn chưa kịp
đạt đến” [98; 32].
Cùng khẳng định thành tựu chung của truyện ngắn Việt Nam, Nguyễn Thị
Bích Thu trong Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 cho rằng: “Trong
một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết
chưa kịp làm... Xét trong hệ thống chung cuả các loại hình văn xuôi, nghệ thuật
truyện ngắn đã đạt được thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện,
trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ”. Bên cạnh
đó, khi lí giải về nguyên nhân dẫn đến sự được mùa, phát triển rực rỡ của thể
loại truyện ngắn ở giai đoạn này, tác giả khẳng định: “Do những biến động khác
nhau trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc
sống, sự đa dạng trong tính cách con người, thị hiếu thẩm mĩ cuả công chúng đòi
hỏi nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với
một thời kì đang chuyển biến” [245; 32-36]. Và truyện ngắn- một thể loại có tính
công năng sẽ đáp ứng được yêu cầu đó của công chúng và người sáng tác. Đây là
quan điểm có tính khoa học và thực tiễn cao. Điều này góp phần lí giải vì sao
truyện ngắn Việt Nam từ sau chiến tranh (và nhất là khi bước vào thời kì Đổi
mới) có sự phân hóa thành nhiều dạng khác nhau. Thực tiễn đã trở thành động
lực cho sự sáng tạo và bứt phá cuả truyện ngắn Việt Nam.
Trong cái nhìn so sánh, đối chiếu giữa các thời kì văn học, Phan Cự Đệ đã
khẳng định trong cuốn Truyện ngắn Việt Nam- Lịch sử- Thi pháp- Chân dung:
“Những truyện ngắn của các tác giả này (Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Huy Thiệp…) sáng tác trong thời đổi mới đều có những chuyển biến so với
giai đoạn trước với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật. Các nhà văn
đã bước một bước dài từ khuynh hướng sử thi- lãng mạn sang khuynh hướng thế
sự- đời tư” [131; 366]. Có thế thấy, công trình trước hết đã cung cấp một cái nhìn
toàn cảnh về bức tranh truyện ngắn Việt Nam qua các giai đoạn phát triển, các tác giả
8
tiêu biểu của từng giai đoạn, thời kì. Cũng như vậy, Phan Cự Đệ lí giải về tính chất
hợp quy luật của sự phát triển ở thể loại truyện ngắn: “Truyện ngắn và tiểu thuyết thời
kì Đổi mới (1986-2000) phát triển hết sức mạnh mẽ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với
quy luật. Các thể loại văn xuôi là sự hiện thân của sự uyển chuyển, xét về bản chất
dường như không có tính quy phạm. Đó là những thể loại được xây dựng trong khu
vực tiếp xúc trực tiếp với hiện thực đang vận động và phát triển” [131; 369].
Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy là
công trình tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu tham gia Hội thảo Văn
học Việt Nam sau 1975 do Trường Đại học Sư phạm tổ chức nhân dịp kỉ niệm
ba mươi năm cuộc kháng chiến chống Mĩ toàn thắng có ý nghĩa thiết thực, thúc
đẩy việc nghiên cứu văn học sau 1975. Trong bài Một số vấn đề cơ bản trong
nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn
Long viết: “Với truyện ngắn, văn học Việt Nam đang tiệm cận văn học thế giới
ở tư duy thể loại [...]. Dư luận đánh giá cao nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh
Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Phạm Thị Hoài, Hòa Vang, Nguyễn
Bản, Trang Thế Hy, Phan Việt, Ngô Tự Lập, Nguyễn Quang Thân, Trần Thùy
Mai, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư. Ưu thế truyện ngắn nói chung thuộc về các
tác giả trẻ. Họ trăn trở rất nhiều đến cách viết”. Theo tác giả, văn học thời kì
đổi mới có thể được chia làm hai chặng: từ 1986 đến đầu những năm 90 văn
học gắn liền với chặng đầu của công cuộc đổi mới đất nước; sang chặng thứ hai
từ giữa những năm 90 trở đi, văn học trở lại với những quy luật bình thường.
Nhà nghiên cứu nhấn mạnh: văn học tiếp tục “với hướng tiếp cận đời sống trên
bình diện thế sự- đời tư đã mở ra từ những năm 80, nhiều cây bút đã đi vào thể
hiện ở mọi khía cạnh của đời sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên
cuộc sống đời thường phồn tạp và vĩnh hằng” [182;183].
Công trình của Tiến sĩ Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của
truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1995 nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn
1975- 1995 trong đó có những kiến giải quí báu về truyện ngắn Việt Nam sau
1986. Luận án phân tích những đổi mới của truyện ngắn giai đoạn này trong các
9
lĩnh vực: cốt truyện, kết cấu, thời gian nghệ thuật, nhân vật và ngôn ngữ. Theo ý
kiến của tác giả, truyện ngắn giai đoạn này có xu hướng giảm nhẹ cốt truyện bên
ngoài, gia tăng cốt truyện bên trong, tăng phân tích triết luận, vận dụng các motip
folklore để xây dựng cốt truyện. Đánh giá về nhân vật, nhà nghiên cứu cho rằng:
“Quan niệm con người cá thể có sự hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, nhân vật
là con người đời thường, có sự hòa hợp giữa con người tự nhiên, con người xã hội
và con người tâm linh... Các nhà văn mượn lại tên nhân vật trong một số truyện cổ
để đặt tên cho nhân vật cuả mình để thực hiện những mục đích sáng tạo mới”
[164; 43]. Lê Thị Hường khẳng định về thành tựu của truyện ngắn: “Truyện ngắn
hôm nay trở thành một thể loại độc lập, có bản sắc” [164; 45].
Trăn trở về sự dịch chuyển của truyện ngắn từ truyền thống đến hiện đại, Luận
án Đặc điểm thi pháp truyện ngắn sau 1975 của Tiến sĩ Đặng Thị Mây là một công
trình có giá trị, đã chỉ ra những nguyên nhân (bối cảnh xã hội, sự tương tác giữa các
thể loại) tạo nên sự ổn định và biến đổi cuả thể loại truyện ngắn. Nhìn từ thi pháp
thể loại, tác giả khẳng định sự đổi mới để phát triển là xu thế tất yếu của truyện
ngắn trong sự nỗ lực cách tân về nội dung và hình thức thể loại. Nhà nghiên cứu
nhấn mạnh đến tính dân chủ và sự đối thoại của truyện ngắn. Theo ý kiến của tác
giả, việc “phá vỡ sự đơn nhất về cấu trúc nghệ thuật chính là một trong những lí do
trọng yếu để tạo nên tính dân chủ và đối thoại của truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
Đây cũng chính là tính trội của truyện ngắn Việt Nam sau 1975” [192; 16].
Sự vận động, giao thoa của thể loại truyện ngắn đương đại Việt Nam là một
trong những hướng nghiên cứu mới. Trước hết, chúng ta phải kể đến luận án của
tiến sĩ Nguyễn Thị Bích- Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
(Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng). Lí
giải về việc lựa chọn ba nhà văn trên thành đối tượng trong nghiên cứu cuả
mình, Nguyễn Thị Bích đã viết: họ là “những đại biểu tinh anh của phong trào
đổi mới sau 1975. Họ là những cây bút trưởng thành trong chiến tranh và trở về
từ chiến tranh nhưng trong bối cảnh đổi mới, họ vẫn là những tác giả có nhiều
bạn đọc” [111; 37]. Với hướng tiếp cận từ tự sự học, Luận án triển khai trên
các phương diện chính như ngôi kể, điểm nhìn trần thuật và giọng điệu trần
10
thuật. Tác giả đã chứng minh lý thuyết đó qua truyện ngắn của ba cây “gạo cội”
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng. Từ cơ sở đó, luận án chỉ
ra sự vận động, chuyển đổi của thể loại truyện ngắn đương đại.
Nghiên cứu, đối sánh các tác giả văn học theo vùng miền để nhận diện, đánh
giá sự chuyển biến của truyện ngắn là hướng nghiên cứu có ý nghĩa khoa học. Trần
Mạnh Hùng trong luận án Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu
Long từ 1975 đến nay [160] đã mở ra một cái nhìn bao quát về những gương mặt
tiêu biểu của vùng đồng bằng này. Lấy trọng tâm là sự vận động cuả truyện ngắn và
một số phương tiện nghệ thuật cơ bản của truyện, tác giả đã chỉ ra những đóng góp
không nhỏ của các nhà văn vùng sông nước Nam Bộ làm nên sự phong phú truyện
ngắn Việt Nam. Luận án đã khẳng định sự mới lạ trong cách nhìn, cách cảm, cách
thể hiện của các nhà văn hôm nay trước bức tranh muôn màu của cuộc sống, đã
sáng tạo nên những hình thức biểu hiện mới của tư duy nghệ thuật hiện đại, góp
phần không nhỏ tạo nên diện mạo truyện ngắn Việt Nam sau 1986.
Ngoài các công trình tiêu biểu chúng tôi lược trích, còn có nhiều bài viết,
ý kiến có giá trị khác. Mỗi bài viết nhìn từ góc độ riêng song đều thể hiện sự
quan tâm, trăn trở của các nhà văn, nhà nghiên cứu về văn xuôi sau Đổi mới
nói chung trong đó đặc biệt là thể loại truyện ngắn. Chẳng hạn: Thời hiện tại
chưa hoàn thành của truyện ngắn (Lê Lưu Oanh, Trích Tự sự học, 2004)
[217; 369-378]; Truyện ngắn hôm nay (Bùi Việt Thắng, Tạp chí Nghiên cứu
Văn học số 1, 2004) [238]; Một thoáng nhìn văn học 5 năm đầu thế kỉ (Trần
Thanh Đạm, Báo Văn nghệ, số 45, 2004) [153; 6]; Nghĩ tiếp về đặc điểm
truyện ngắn hiện đại (Phùng Ngọc Kiếm, Kỉ yếu Hội thảo khoa học những
nhà nghiên cứu Ngữ văn trẻ, lần 2, 2004) [171; 221]; Tri thức đọc hiểu truyện
ngắn hiện đại (Nguyễn Thanh Hùng, Báo Văn nghệ, số 28, 2005) [159; 15]...
Khảo sát truyện ngắn trong vòng ba thập kỉ, chúng tôi thấy đã có hàng
trăm bài viết cuả các nhà nghiên cứu, phê bình về tác giả, những hiện tượng nổi
bật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Do số lượng là rất lớn, nên trong
luận án này chúng tôi xin lược trích những bài viết tiêu biểu, có giá trị và liên
quan mật thiết tới đề tài của mình.
11
Từ giữa thập kỉ tám mươi đến nay đã từng dấy lên nhiều cuộc tranh luận về
những hiện tượng nổi bật trong lĩnh vực truyện ngắn. Trước tiên, chúng ta phải
kể đến hiện tượng truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu. Nhiều bài viết
đánh giá cao những cách tân nghệ thuật và khẳng định sự đóng góp của nhà văn.
Tôn Phương Lan và Lại Nguyên Ân nhận xét: “Các truyện ngắn từ đầu những
năm 80 dường như trình diện một Nguyễn Minh Châu khác trước. Những sáng
tác này lại trở thành một trong những tiêu điểm chú ý của dư luận”. Theo thống
kê của nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan từ năm 1976 đến năm 1991 có 82 bài
viết lớn luận bàn về truyện Nguyễn Minh Châu. Phong cách nghệ thuật Nguyễn
Minh Châu chính là công trình công phu của Tôn Phương Lan về Nguyễn Minh
Châu. Bên cạnh đó, tác giả Mai Hương đã sưu tầm tuyển chọn 59 bài viết trong
cuốn sách mang tên Nguyễn Minh Châu tài năng và sáng tạo nghệ thuật. Trong
cuốn sách, các bài viết quan tâm đến quan niệm nghệ thuật về con người, thế
giới xây dựng nhân vật, tình huống truyện hay nghệ thuật xây dựng nhân vật...
Ngoài ra, trong số rất nhiều bài viết luận bàn xoay quanh hiện tượng nổi bật
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, chúng ta không thể không kể tới ý kiến của
tác giả Đỗ Đức Hiểu. Trong bài viết Đọc Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh
Châu, tác giả chỉ ra nét độc đáo trong cốt truyện. Bốn mạch truyện trong truyện
ngắn này: mạch truyện thứ nhất có chiều dài lịch sử của một đời người; mạch
truyện thứ hai dừng lại rất lâu ở cái chết oan khuất của Dũng trên đất
Campuchia; mạch truyện thứ ba dành cho hồi ức về lịch sử ông Bí thứ huyện,
nhà lãnh đạo; mạch truyện thứ tư là giấc mơ khủng khiếp- ông Khúng hóa thân
thành con bò, bị đánh vào đầu bằng búa tạ. Trong cái nhìn của các nhà nghiên
cứu, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là “người mở đường tinh anh và tài năng”
của văn học thời kì Đổi mới.
Sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp với hàng loạt truyện ngắn mang phong
cách mới lạ đã tạo nên “hội chứng Nguyễn Huy Thiệp”. Hiện diện vào giữa
những năm 80 của thế kỉ XX, Nguyễn Huy Thiệp lập tức gây chú ý cho bạn đọc,
“làm văn đàn lần nữa sôi động sau Nguyễn Minh Châu”. Sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp đã dấy lên những cuộc tranh luận trên văn đàn.
12
Sau khi tác phẩm Tướng về hưu được xuất bản khoảng một năm thì cuốn
Nguyễn Huy Thiệp- Tác phẩm và dư luận hiện diện. Và khoảng mười năm sau, tập
sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp [254] do tác giả Phạm Xuân Nguyên tập hợp ý kiến
của các nhà nghiên cứu, phê bình, độc giả trình làng như một minh chứng cho cơn
chấn động văn đàn mà Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra. Tập sách bao gồm 54 bài viết,
được coi là câu chuyện “Người đương thời Nguyễn Huy Thiệp bàn về Nguyễn Huy
Thiệp”. Các bài viết tiêu biểu phải kể đến là ý kiến cuả các tác giả Diệp Minh
Tuyền, Bùi Hiển, Hồ Phương, Mai Ngữ, Nguyễn Văn Bổng, Đông La, Đỗ Đức
Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Đăng Mạnh, Đặng Anh Đào, Lại Nguyên Ân,
Vương Trí Nhàn, Nguyễn Thị Minh Thái, Vũ Phan Nguyên, Nguyễn Thúy Ái, Lê
Minh Hà… Tập sách thể hiện hai luồng ý kiến đối lập. Có những ý kiến kịch liệt
phản đối, phê phán quyết liệt (Mai Ngữ, Vũ Phan Nguyên, Nguyễn Thúy Ái…).
Ngược lại, có những ý kiến không chỉ thể hiện sự đồng thuận mà nồng nhiệt chào
đón sự xuất hiện của tên tuổi Nguyễn Huy Thiệp. Các nhà nghiên cứu ghi nhận sự
đóng góp của nhà văn trên mọi lĩnh vực của một truyện ngắn. Diệp Minh Tuyền
khẳng định: “Anh đã thoát khỏi căn bệnh trầm kha lâu nay văn học ta vẫn mắc phải:
chủ nghĩa đề tài”. Hồ Phương thể hiện sự tâm đắc khi đọc truyện ngắn: “Tôi thấy
Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện với một giọng điệu mới, một bút pháp sắc gọn, trẻ
trung, rất thích”. Nguyễn Thị Minh Thái nhận xét: “một lối viết khác hẳn, tiếng Việt
được viết lạ chưa từng thấy. Bây giờ, sau hai chục năm, đọc đi đọc lại vẫn thấy truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp thật lạ về mọi phương diện văn chương”. Còn đối với nhà
nghiên cứu Vương Trí Nhàn, ông khẳng định Nguyễn Huy Thiệp xứng đáng nhận
giải thưởng “cây bút vàng”. Cách viết của Nguyễn Huy Thiệp không chỉ hấp dẫn giới
nghiên cứu phê bình trong nước mà còn cả nước ngoài. Trong số các bài viết đó có
khoảng mươi bài hướng tới phong cách viết truyện độc đáo, lạ của nhà văn. Các bài
viết bao gồm: Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra Tiếng Nhật (Greg
Lockhart, Tạp chí văn học, số 4, 1989) [140]; Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp vài
cảm nghĩ, (Nguyễn Đăng Mạnh, Tạp chí Cửa Việt số 16, 1992) [188]; Đọc truyện
Nguyễn Huy Thiệp, Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, (Nguyễn Thanh Sơn, Nxb Văn hóa
Thông tin, 2001) [225]; Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, (Trần Duy Thanh, Báo
13
Nhân Dân, 26/6/2008) [233]; Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, (Nguyễn Thành Thi, Nghiên cứu văn học số 5, 2010) [241]…
Truyện ngắn Phạm Thị Hoài vừa xuất hiện đã chiếm được nhiều cảm tình
của độc giả. Nguyễn Thị Bình đã ghi nhận những phương diện cách tân của
Phạm Thị Hoài: “Ngoài sự độc đáo ngôn ngữ Phạm Thị Hoài còn trình làng một
dạng thức truyện ngắn đậm chất huyền thoại, nhiều yếu tố tự luận, nhân vật ít
hiện diện như những tính cách mà như một trạng thái tồn tại hoặc một ý niệm về
đời sống. Truyện của bà rất giàu chất sắc thái trào lộng, các chi tiết xác thực,
châu tuần quanh một cốt truyện có ý rời xa logic hiện thực, phi lí, tạo ra một kiểu
“tân huyền thoại” hoặc “phiếm huyền thoại” không phải bao giờ cũng dễ hiểu”
[113; 217]. La Khắc Hòa khẳng định: “Phạm Thị Hoài trao gửi người kể chuyện
một cách tài tình, tinh tế, một thủ thuật ngôn ngữ bỗ bã, suồng sã. Mỗi sáng tác
cuả Phạm Thị Hoài vì thế giống như một hình tượng ngôn từ giễu nhại. Nó giễu
nhại tất cả lời nói có vẻ nghiêm túc, nhưng chứa đựng bên trong rất nhiều sự giả
dối” [150; 67]. Nghiên cứu truyện ngắn Phạm Thị Hoài còn phải kể đến bài viết
như: Những bước đi ban đầu của cây bút Phạm Thị Hoài (Văn Giá, Thông báo
khoa học Trường Đại học Sư phạm số 4b, 1989) [139]; Phạm Thị Hoài trên sinh
lộ mới của văn học (Thụy Khuê, www.talawas.org) [170]; Đọc và đọc lại “Thiên
sứ” cuả Phạm Thị Hoài (Nguyễn Thanh Sơn, www.talawas.org) [224]…
Nửa cuối thập niên 80 cho đến suốt thập niên 90 dư luận chú ý tới sự xuất
hiện của nhiều cây nút nữ xuất sắc, một hiện tượng văn học thể hiện rõ tinh thần
nữ quyền. Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng
Anh hay Y Ban được đề cập nhiều và được dư luận khen ngợi về cách đặt và xử
lí vấn đề, với quan niệm mới mẻ, táo bạo về nhân sinh. Thảo luận về vấn đề này,
Đặng Anh Đào, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân đã ghi nhận sự đóng góp của
các cây bút nữ mới trong buổi tọa đàm Phụ nữ và sáng tác văn chương [134].
Nguyễn Đăng Điệp cũng trao đổi, khẳng định vị thế của họ trong Hội thảo Văn
học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa quốc tế tại khu vực.
Cuối năm 1989, truyện ngắn Tạ Duy Anh đã làm nên sự xáo động văn đàn.
Bước qua lời nguyền khơi nguồn cảm hứng từ bức tranh xã hội Việt Nam 1950-
14
1970 mang đến cho người đọc thấy bức toàn cảnh nông thôn Việt Nam trên con
đường đổi mới. Hình ảnh chàng trai và cô gái dắt tay nhau bước qua lời nguyền,
sự hận thù của hai dòng họ phản ánh quy luật tất yếu của xã hội: đã đến lúc cần
cởi bỏ những ràng buộc, những sợi dây luật lệ hà khắc với con người. Trong bài
đăng trên báo Văn nghệ số 50 (12/1989), Hoàng Ngọc Hiến nhận định: “… đọc
truyện ngắn của Tạ Duy Anh, một câu hỏi đặt ra: Giã từ thế kỉ XX bão táp và máu
lửa này và chuẩn bị bước vào thế kỉ XXI “lý trí và nhân bản”, những lời nguyền
nào là đáng nguyền rủa, những lời nguyền nào nhân loại trước sau cũng phải bước
qua? Phải đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia? Phải chăng truyện của Tạ Duy Anh
là tín hiệu của một dòng văn học mới, dòng văn học bước qua lời nguyền”. Còn
với nhiều nhà nghiên cứu, nếu tính 50 truyện ngắn hay nhất Việt Nam tính tới thời
điểm đó phải có Bước qua lời nguyền và nếu cần chọn ra 20 truyện, 10 truyện
cũng phải có, và thậm chí nếu chỉ được phép chọn 5 truyện đặc sắc nhất, không
thể thoát Bước qua lời nguyền.
Đầu thế kỉ XXI, hiện tượng Nguyễn Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận), Đỗ Hoàng
Diệu (Bóng đè) nổi bật trên diễn đàn. Có nhiều ý kiến khác nhau song nhìn chung các ý
kiến đều đánh giá rất cao Cánh đồng bất tận- một trong những tác phẩm thấm đẫm
chất nhân văn. Tác phẩm đã được trao tặng giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm
2006; được dịch ra tiếng Hàn và được nhà xuất bản Asia tại Seoul phát hành 2007;
được dịch sang tiếng Thụy Điển với tên Falt utan slut năm 2008. Đặc biệt với tập
truyện cùng tên, Nguyễn Ngọc Tư đã đạt Giải thưởng Literaturpreis do Litprom - Hiệp
hội quảng bá văn học Châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh bình chọn năm 2018. Nghiên cứu,
lí giải về hiện tượng Nguyễn Ngọc Tư có một số bài viết đáng chú ý như: Phạm Xuân
Nguyên (2004), Khi cánh đồng mở ra [203]; Vũ Hồng (2006), Bài học văn chương từ
Cánh đồng bất tận [155]; Tiếng thở dài qua Cánh đồng bất tận, http.www.tuoitre.vn;
Vũ Thị Hải Yến, Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ... Năm
2005, tập truyện ngắn Bóng đè cuả Đỗ Hoàng Diệu gây rất nhiều tiếng vang. Một số
nhà phê bình đánh giá cao về nội dung và lối viết (Phạm Xuân Nguyên, Nguyên Ngọc,
Nguyễn Huy Thiệp), một số người khác lại cho rằng tác phẩm khá dung tục, phỉ báng
quá khứ, truyền thống và cần phải phê phán (Nguyễn Hòa).
15
Sự xuất hiện và bứt phá của các cây bút nữ những năm 90 đã trở thành một
trong những tâm điểm văn chương sôi động. Khi một loạt các tuyển chọn truyện
ngắn ra đời như Truyện ngắn bốn cây bút nữ [49], Truyện ngắn nữ đầu thế kỉ 21
[57]… ngay lập tức thu hút nhiều ý kiến của nghiên cứu. Trong số đó, những bài
viết được đánh giá cao như: Văn xuôi cuả phái đẹp (của tác giả Nguyễn Bích
Thu) đăng trên Tạp chí sông Hương, số 3 năm 2001; Đọc truyện ngắn của ba tác
giả nữ đồng bằng sông Cửu Long (của các tác giả Nguyễn Anh Vũ Báo) đăng
trên Báo Văn nghệ, số 27 năm 2005.
1.1.2. Những công trình, bài viết nghiên cứu các dạng cơ bản của
truyện ngắn Việt Nam sau 1986
Tính tới thời điểm chúng tôi nghiên cứu đề tài này đã có một vài công trình,
bài viết nghiên cứu những vấn đề liên quan gần gũi với đề tài của luận án như:
khuynh hướng truyện ngắn, loại hình truyện ngắn. Đó là những gợi dẫn quí giá
cho chúng tôi về một số dấu hiệu để nhận diện các dạng truyện ngắn. Sau đây,
chúng tôi xin trích dẫn những công trình, bài viết tiêu biểu:
Khi nghiên cứu các khuynh hướng chính trong truyện ngắn Việt Nam (nhìn
từ nội dung tư tưởng), nếu chúng ta không đề cập đến ý kiến của nhà nghiên cứu
Nguyễn Thị Bình và Nguyễn Văn Long sẽ là thiếu sót lớn. Căn cứ vào chủ đề và
cảm hứng, Nguyễn Thị Bình phân chia văn xuôi nói chung trong đó có truyện
ngắn với ba khuynh hướng nổi bật: “khuynh hướng nhận thức lại hiện thực”,
“khuynh hướng đạo đức- thế sự đời tư” và “khuynh hướng triết luận” [214; 246].
Theo Nguyễn Văn Long, bốn khuynh hướng nổi bật của văn xuôi trong đó có
truyện ngắn giai đoạn này bao gồm: “khuynh hướng sử thi”, “khuynh hướng nhận
thức lại”, “khuynh hướng thế sự- đời tư” và “khuynh hướng triết luận” [182; 183].
Nguyễn Minh Nhựt trong Lời giới thiệu Tuyển truyện ngắn đạt giải cao 30
năm đổi mới 1986-2016 đã gợi dẫn: “Đọc toàn bộ cuốn sách này, bạn cũng có
thể hình dung một phần quan trọng trong dòng chảy của văn học Việt Nam thời
kì đổi mới, với sự phong phú vô cùng về đề tài, giọng điệu. Bạn sẽ gặp ở đây
những truyện ngắn về đề tài hậu chiến. Trong đó có những vấn đề mà đến tận
hôm nay, hàng chục năm sau khi tác giả viết ra chúng, vẫn còn đang tồn đọng,
16
đang còn tiếp tục gây day dứt, ám ảnh. Nói cách khác là thế hệ chúng ta vẫn
chưa ra khỏi cuộc chiến tranh với những hệ lụy mà nó mang lại… Bạn cũng có
thể bắt gặp ở đây những truyện ngắn được viết bằng giọng văn sắc sảo mà tinh
tế, những truyện ngắn có khả năng chứa nhiều vấn đề của đời sống xã hội, các
mối quan hệ nhằng nhịt giữa con người với con người, những ẩn ức được gói
chặt rồi đến một lúc nào đó bùng nổ như một tất yếu” [215; 6].
Nhà nghiên cứu Trần Văn Thắng thuyết giải khá hợp lí về Khuynh hướng thế
sự trong truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới (1986-2000) khi nhìn truyện ngắn
từ khuynh hướng thế sự. Luận án đã chỉ ra những nét đặc trưng của truyện ngắn
sáng tác theo khuynh hướng này. Tác giả nhấn mạnh: “Sự cô đọng, hàm súc, cách
khai thác theo chiều sâu số phận và nội tâm nhân vật, những cách thức gợi mở, đối
thoại… tạo cho truyện ngắn thế sự một phong cách mới, vượt ra ngoài khung thể
loại”[240; 19]. Qua những tác phẩm đã khảo sát, Trần Văn Thắng làm rõ những
nét đặc sắc, độc đáo của từng nhà văn, từ đó khẳng định những đóng góp quan
trọng của các cây bút truyện ngắn tiêu biểu thời kì Đổi mới.
Nghiên cứu về thể loại truyện ngắn nói chung và truyện ngắn Việt Nam
thế kỉ XX, chúng ta phải kể đến công trình Truyện ngắn- Những vấn đề lí
thuyết và thể loại cuả tác giả Bùi Việt Thắng. Công trình bao gồm hai phần
chính. Thứ nhất, tác giả trình bày vấn đề lý thuyết về thể loại truyện ngắn. Thứ
hai, tác giả trình bày những ý kiến của các nhà văn về truyện ngắn. Trong đó,
phần thứ nhất được kết cấu mạch lạc, khoa học và có nhiều kiến thức lý
thuyết chuyên sâu về truyện ngắn. Cụ thể: Chương I- Định nghĩa truyện ngắn,
Chương II- Nguồn gốc truyện ngắn, Chương III- Đặc trưng thể loại truyện
ngắn, Chương IV- Các kiểu truyện ngắn, Chương V- Khái quát sự phát triển
của truyện ngắn Việt Nam thế kỉ XX. Đây là công trình thực sự có ý nghĩa với
chúng tôi. Trong chương IV, khi bàn về cách phân chia truyện ngắn thành các
kiểu dạng, tác giả viết: “Truyện ngắn là thể loại năng động, ít bị những quy
tắc có tính quy phạm gò bó, chi phối. Hình thức truyện ngắn luôn vỡ ra, đổi
thay lại, luôn xác định tính bền vững của mình. Việc phân chia truyện ngắn
thành các kiểu, loại chỉ là giả định vì ranh giới của các thể loại văn học không
17
phải là bức thành bất khả xâm phạm”[237;133]. Bùi Việt Thắng đã chỉ ra kiểu
truyện ngắn Việt Nam tiêu biểu: “dù thực tế có rất nhiều kiểu loại thì truyện
ngắn vẫn có thể được phân loại theo phương pháp loại hình thành các kiểu
chính: cổ điển, kì ảo, trữ tình, rất ngắn và liên hoàn” [237;134].
Luận án Truyện ngắn Việt Nam sau 1975- Nhìn từ góc độ thể loại cuả Tiến sĩ
Nguyễn Thị Năm Hoàng là công trình mang đến những nhận định khái quát về
đặc điểm thi pháp, sự vận động và những thành tựu của truyện ngắn. Luận án
nghiên cứu các phương diện: tình huống truyện, kết cấu truyện, nhân vật và ngôn
ngữ nghệ thuật của truyện ngắn sau 1975. Bàn về sự giao thoa giữa các thể loại để
tạo ra kiểu truyện ngắn mới, Nguyễn Thị Năm Hoàng cho rằng: “Mỗi thể loại
không thể tồn tại, phát triển một cách cực đoan mà luôn nới rộng biên độ, tìm kiếm
những chân trời, những biên độ mới cho quá trình sáng tạo của nhà văn, và nhờ đó
tìm thấy những điểm gặp gỡ với các thể loại khác… Với truyện ngắn đương đại
Việt Nam, sự tác động, giao thoa mạnh mẽ nhất cuả thể loại này là với thơ. Về mặt
kiểu loại, mối quan hệ này tạo ra kiểu truyện ngắn trữ tình” [154; 135].
Luận án Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
của tác giả Lê Thị Hương Thủy [245] tập trung nghiên cứu lí luận về thể loại,
những đặc điểm khu biệt và sự tương tác thể loại qua việc khảo sát truyện ngắn
từ 1986 đến nay. Luận án khảo sát: diễn trình thể loại, các bút pháp nghệ thuật.
Từ đó, luận án xác định, phân tích, lí giải cách thức xây dựng nhân vật, phương
thức tạo lập văn bản (kết cấu, ngôn ngữ truyện ngắn). Qua đây, tác giả chỉ ra sự
kế thừa và tiếp biến, đổi mới tư duy của truyện ngắn Việt Nam đương đại trong
bối cảnh mới. Mặc dù không đi sâu nghiên cứu các dạng truyện ngắn Việt Nam
sau 1986 song công trình cũng đã ghi nhận: “… truyện ngắn Việt Nam từ sau
1986 đến nay có thể thấy nổi lên với ba khuynh hướng cơ bản: một là khuynh
hướng truyện rất ngắn; hai là khuynh hướng phức hợp thể loại; ba là khuynh
hướng mở rộng khuôn diện truyền thống của thể loại làm cho truyện ngắn gần
với tiểu thuyết, có tư duy tiểu thuyết” [245; 53].
Trong công trình Xu hướng tiểu thuyết hóa trong truyện ngắn Việt Nam từ
1986 đến nay, Đinh Trí Dũng chỉ ra trong đời sống truyện ngắn đang có xu
18
hướng kéo dài, nới rộng về dung lượng, mở rộng không gian. Truyện ngắn diễn
tả số phận con người với nhiều thăng trầm, biến đổi, cốt truyện nhiều tuyến tính,
sự phức tạp của các tình tiết, câu chuyện kể về nhiều người, nhiều đời, cả một
thời… Nhà nghiên cứu kết luận: “Truyện ngắn đang làm mờ đi ranh giới giữa nó
với tiểu thuyết” [123; 14].
Nghiên cứu sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ sau 1986 đến
2012, nhiều ý kiến đều đồng nhất cho rằng có một xu hướng tiểu thuyết hóa
trong truyện ngắn Việt Nam đương đại; truyện ngắn đang làm mờ đi ranh giới
giữa truyện ngắn và tiểu thuyết. Khẳng định về sự phát triển của kiểu loại này,
Trần Viết Thiện cho rằng: “Nhiều truyện ngắn đã khắc phục tính khiêm tốn về
kích cỡ thể loại bằng việc thể hiện tính “tầm cỡ” của các tình thế đời sống, đề
cập đến những vấn đề có tính vĩnh cửu của con người” [242; 219]. Nguyên Ngọc
phát biểu: “Cầm truyện ngắn trong tay có thể cảm nhận thấy cái dung lượng của
nó nặng trĩu. Có những truyện ngắn chỉ mươi trang thôi mà sức nặng có vẻ còn
hơn cả một cuốn tiểu thuyết trường thiên” [198; 174].
Nếu như nghiên cứu chung về các dạng truyện ngắn Việt Nam sau 1986
mới chỉ được nhắc tới trong các công trình, bài viết thì hướng nghiên cứu về
dạng truyện (truyện cực ngắn, truyện nhại, mô phỏng thể loại) được đề cập tới
chi tiết hơn trong một số bài viết. Chẳng hạn:
Sự xuất hiện ngày càng nhiều của truyện cực ngắn trên báo chí, trong các
tuyển tập, hay qua cuộc thi truyện cực ngắn trên Tạp chí Thế giới mới (1993-
1994), chuyên đề “Truyện cực ngắn” trên Tiền vệ đã thu hút sự chú ý cuả nhiều
nhà nghiên cứu, nhiều nhà lí luận phê bình và của cả các nhà văn. Đáng chú ý
là các bài viết của các nhà nghiên cứu tại các trường Đại học như Lê Trí Viễn,
Đặng Anh Đào, Hoàng Ân, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Đăng
Mạnh... Ngay kể cả các nhà văn Nguyên Ngọc, Huy Phương, Vũ Tú Nam,
Nguyễn Hưng Quốc, Nguyễn Quang Thân, Dạ Ngân... cũng đặc biệt quan tâm
đến dạng truyện này. Các tác giả tập trung tìm hiểu, lí giải những đặc trưng
riêng biệt, cơ bản, độc đáo và sự hấp dẫn của thể loại. Các ý kiến đều đi đến
thống nhất: đã là truyện cực ngắn phải ngắn gọn, súc tích, cô đọng, nói ít mà
19
gợi nhiều. Chẳng hạn, Nguyễn Hưng Quốc khẳng định: “truyện cực ngắn phải
ngắn hơn truyện thật ngắn, giới hạn tối đa có thể là vài trăm chữ, tối thiểu là
vài câu, và đó phải là một câu gọn” [220]. Ngoài ra, các bài viết này còn tìm
hiểu tính chất “cực ngắn” trong bản thân cấu trúc bề sâu của tác phẩm. Tác
giả Châu Thành Nguyễn cho rằng: “Truyện rất ngắn thường là sự gặp gỡ của
những trạng thái đời sống ở những thời điểm ngưng kết đi tới chuyển đổi như
phút 89 tràn đầy kịch tính trên sân cỏ trong những trận bóng nghiêng ngửa”
[204; 89]. Nhà văn Võ Khắc Nghiêm nhận định: “Theo tôi, truyện rất ngắn là
câu chuyện phù hợp với lối kể rất ngắn, dù có viết dài cũng chẳng thể hay hơn,
tốt hơn. Nó giống như một mảnh vải chỉ đủ may chiếc áo cộc tay, không thể
may áo dài” [196]. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu khác có những ý kiến sâu
sắc về truyện ngắn ngắn như: Hoàng Ngọc Hiến (1993), Truyện cực ngắn hiện
đại dễ viết ngắn [143; 90]; Nguyễn Thanh Hùng (1994), Ánh kim sa trong
truyện ngắn (in trong Văn học và nhân cách) [158]; Phùng Ngọc Kiếm (2004),
Trần thuật trong truyện rất ngắn (in trong Tự sự học- Một số vấn đề lí thuyết
và lịch sử) [172]; Hoàng Long, Vài ý nghĩ về truyện cực ngắn, [180]; Chu Văn
Sơn- Đỗ Ngọc Thống (1993), Trao đổi mini về truyện ngắn mini [223]; Lê Dục
Tú, Thể loại truyện rất ngắn trong đời sống văn học đương đại [253; 55-63]...
Song song với nhóm nghiên cứu về truyện cực ngắn, một số nhà nghiên
cứu quan tâm tới kiểu truyện nhại, mô phỏng thể loại. Đặng Anh Đào là một
trong những nhà nghiên cứu quan tâm nhất tới xu hướng “truyện cũ viết lại”
này trong Văn học Việt Nam. Bà là người đầu tiên đưa ra khái niệm “giả cổ
tích”, “giả ngụ ngôn” như một thể loại trong sự phân loại cuả lịch sử” [126].
Bùi Thanh Truyền là tác giả dành nhiều sự quan tâm tới những truyện giả cổ
tích. Song đề truyền thống- hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của truyện giả cổ
tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới tuy chưa thừa nhận truyện cũ viết lại như
một xu hướng nhưng tác giả gọi đó là các truyện ngắn viết theo phong cách “giả
cổ tích” và “truyện cũ viết lại”. Dừng lại ở điểm nhìn trần thuật, bước đầu tác giả
thừa nhận điểm chung trong hai nhóm truyện này là “sự kết hợp hài hòa giữa hai
mặt cổ xưa và mới mẻ trong điểm nhìn nghệ thuật song hành với khát vọng, nỗ
lực đổi mới văn học của nhà văn” [252; 2].
20
Trong cuốn Truyện ngắn lí luận, tác giả và tác phẩm, Lê Huy Bắc có bài
Truyện ngắn nhại. Nhà nghiên cứu đã coi nhại là hình thức kể chuyện của
truyện ngắn và tác giả dùng những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp để tìm
hiểu hình thức trần thuật trên. Bài viết đi sâu phân tích những biểu hiện của kĩ
thuật nhại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp kể cả về nội dung và nghệ
thuật cuả truyện. Đó cũng là cách thức, phương tiện và những kĩ thuật mà các
nhà văn ưa dùng trong sáng tác nhất là khoảng từ đầu thế kỉ XXI đến nay.
Ngoài những công trình trên, một vài công trình nghiên cứu truyện ngắn
Việt Nam của những giai đoạn trước (Các loại hình truyện ngắn hiện đại (giai
đoạn 1930-1945); Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1975 (từ góc nhìn thể
loại); Truyện ngắn Việt Nam 1945-1975, diện mạo lịch sử của thể loại; Truyện
ngắn Việt Nam sau 1975…) đã phân loại, miêu tả truyện ngắn những giai đoạn
trước 1986 khá rõ. Chúng tôi ý thức rõ: những công trình này nằm ngoài phạm
vi nghiên cứu. Tuy nhiên, đó là những công trình khoa học chuyên sâu về
truyện ngắn từ góc nhìn thể loại, là những gợi dẫn quí báu đối với chúng tôi.
Đây cũng chính là tiền đề để chúng tôi lựa chọn đối tượng, phạm vi nghiên cứu
của mình. Chúng tôi xin phép lược trích thêm.
Công trình Các loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại (giai đoạn
1930- 1945) của Nguyễn Văn Đấu có ý nghĩa lớn trong nghiên cứu thể loại
truyện ngắn hiện đại. Dựa theo phương thức khám phá đời sống và xây dựng
tác phẩm theo đặc thù riêng của thể loại, Nguyễn Văn Đấu khảo sát truyện
ngắn Việt Nam và chỉ ra ba loại hình cơ bản: “truyện ngắn- kịch hóa”, “truyện
ngắn- trữ tình hóa”; “truyện ngắn- tiểu thuyết hóa”. Khẳng định về các loại
hình truyện ngắn giai đoạn này, tác giả viết: “Giai đoạn 1930-1945 là giai đoạn
phát triển mang tính bước ngoặt từ cận đại sang hiện đại của văn học Việt Nam
nói chung và truyện ngắn Việt Nam nói riêng. Ở đó không chỉ có sự phong phú
về số lượng tác giả, tác phẩm mà còn có sự đa dạng của các phong cách và loại
hình truyện ngắn. Những loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại nói chung
dường như đã có mặt ở truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này” [129; 147].
21
Luận án Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945- 1975 (nhìn từ góc độ thi
pháp thể loại) của Nguyễn Thị Bích Thu nêu diện mạo chung của truyện ngắn
giai đoạn 1945- 1975. Luận án đi sâu phân tích hai kiểu cấu trúc của truyện
ngắn trữ tình và truyện ngắn hiện thực. Tác giả khẳng định: “Truyện ngắn thời
kì này, đặc biệt những năm chống Mỹ, đã xuất hiện một số phong cách cá nhân
và hình thành một số xu hướng thẩm mỹ trong việc khám phá và thể hiện hiện
thực. Căn cứ vào những đặc trưng của thể loại như cách tiếp cận hiện thực,
nhân vật, cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật..., chúng tôi thấy có hai
loại hình truyện ngắn cơ bản: truyện ngắn trữ tình và truyện ngắn hiện thực”
[244; 21]. Từ hướng nghiên cứu đó, luận án nêu lên đặc điểm về kết cấu, các
loại hình nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu của loại hình truyện ngắn trong
tổng thể truyện ngắn Việt Nam từ 1945 đến 1975. Luận án khẳng định sự thành
công của truyện ngắn giai đoạn này: “Trong xu thế chung của thời đại, với tất
cả những ưu điểm thể loại, truyện ngắn giai đoạn 1945- 1975 đã phát triển về
nhiều mặt, phù hợp với điều kiện chiến tranh. Sự phát triển của truyện ngắn
không chỉ được thể hiện qua những thành tựu sáng tác của cá nhân mà còn thể
hiện rõ ở sự biến đổi những nguyên tắc thể loại, những phương tiện và phương
thức nhận thức cuộc sống. Chính những thay đổi này đã tạo cho truyện ngắn
1945-1975 một diện mạo riêng, mang dấu ấn của thời đại” [244; 20].
1.1.3. Một số kết luận
Qua việc khảo sát những công trình, bài viết, hướng nghiên cứu truyện
ngắn Việt Nam từ sau 1986 chúng tôi nhận thấy:
Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 đã quy tụ rất nhiều công trình, chuyên luận,
bài viết có chất lượng cao. Tất cả trong số đó, dù là nghiên cứu khái quát hay chuyên
sâu, một giai đoạn hay tác giả, tác phẩm, dù nghiên cứu theo góc độ lí thuyết hay thực
tiễn sáng tác, dù từ góc nhìn nào... đều là những gợi dẫn quí báu để chúng tôi tiếp tục
triển khai công trình nghiên cứu của mình.
Trong các công trình, bài viết, truyện ngắn đã được phân chia thành các
khuynh hướng (Tendance), mô hình (Mode, Format), kiểu, loại, dạng… theo
nhiều tiêu chí khác nhau. Dù phân chia theo tiêu chí nào cũng chỉ là tương đối,
22
không thể bao quát triệt để, toàn diện được các loại, dạng truyện ngắn như chính
thực tiễn sáng tác phong phú, đa dạng và cũng rất phức tạp, tinh vi của truyện
ngắn. Có khi, cùng một lúc nghiên cứu phải phối hợp nhiều tiêu chí phân loại,
định danh các dạng truyện ngắn.
Luận án này chắc chắn cũng không thể đạt tới sự tuyệt đối. Chúng tôi chỉ
lựa chọn tiêu chí thể loại và chúng tôi cũng chỉ cố gắng phân loại, nhận diện
những dạng truyện ngắn mà chúng tôi cho là tiêu biểu nhất (dựa trên tiêu chí
này). Những phân loại, sắp xếp của chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những nét cắt
ranh giới, sự giao thoa thể loại cũng như những tiềm năng, thế mạnh cuả thể loại
mềm dẻo và năng động này. Tiếp thu ý kiến của những người đi trước, luận án
chọn cho mình cách nhận diện các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau
1986 từ góc nhìn thể loại.
1.2. Những vấn đề chung của truyện ngắn Việt Nam sau 1986
1.2.1. Bối cảnh xã hội-văn hóa- văn học Việt Nam sau 1986
1.2.1.1. Những biến chuyển của đời sống- văn hóa- xã hội
Bối cảnh xã hội là ngọn nguồn, là mảnh đất nuôi dưỡng tác phẩm nghệ
thuật. Chính vì vậy khi nghiên cứu sự vận động của thể truyện ngắn Việt Nam
sau 1986, chúng ta không thể nhìn lại bối cảnh sinh thành nên văn học nói chung
và truyện ngắn nói riêng ở thời kì này.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước bước sang một giai
đoạn lịch sử mới. Sự chuyển mình lớn lao của lịch sử đòi hỏi văn học nói chung
và truyện ngắn nói riêng vận động và phát triển, kịp thời phản ánh đời sống xã
hội trước yêu cầu mới của thời đại.
Cuối 1986, Đại hội Đảng VI được tiến hành, đánh dấu sự đổi mới về tư duy
của Đảng và của toàn xã hội. Đây được xem là bước ngoặt quan trọng tác động
một cách toàn diện đến đời sống văn học nghệ thuật. Đường lối đổi mới của
Đảng và tiếp đó là Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị đã thổi một luồng gió mới
vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra thời kì mới của Văn học Việt
Nam trên tinh thần dân chủ.
23
Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam tại Đại hội toàn quốc lần thứ VII nêu rõ: “Khuyến khích tự do
sáng tạo văn học nghệ thuật vì sự hoàn thiện của con người, đề cao tinh thần
tự hào dân tộc, tự lực, tự cường, phấn đấu làm cho dân giàu, nước mạnh, phê
phán những thói hư, tật xấu, cái độc ác, cái thấp hèn. Vừa coi trọng những đề
tài về truyền thống dân tộc, cách mạng và kháng chiến, vừa bám sát thực tiễn
cuộc sống hiện nay. Qua phong trào sáng tác văn học nghệ thuật quần chúng
mà phát hiện, bồi dưỡng và phát huy mọi tài năng, chú ý tài năng trẻ. Nâng
cao chất lượng công tác lí luận, nghiên cứu, giới thiệu và phê bình văn học,
nghệ thuật chọn lọc những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật tốt phổ
biến rộng rãi trong công chúng” [251; 3].
Tờ Văn nghệ, cơ quan ngôn luận cuả Hội nhà văn Việt Nam, số ra ngày 05
tháng 12 năm 1987 cho in bài phát biểu nổi tiếng của Nguyễn Minh Châu: Hãy
đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa. Không khí dân chủ đã “mở
toang” những cánh cửa còn e dè khép mở sau chiến tranh. Người sáng tác có
không gian để tung hoành với khát vọng sáng tạo cũng như thể hiện cá tính sáng
tạo của mình, người đọc cũng theo đó hướng tới những tiếp nhận mới mẻ. Tư
duy dân chủ trong đời sống, xã hội phá đi những rào cản, định kiến, thiết chế,
chấp nhận sự khác biệt, mới, lạ chính là tiền đề cho sự ra đời, nảy nở của các
dạng truyện ngắn. Điều đó khơi mở tiềm năng, kích thích tìm tòi, khám phá, nuôi
dưỡng khát vọng của người sáng tạo. Đa dạng hóa các loại hình truyện ngắn là
một cách để làm mới, đáp ứng nhu cầu của cả người đọc và người viết.
Sự đổi mới nhanh chóng của kinh tế- xã hội cùng sự mở rộng giao lưu văn
hóa, văn học (không chỉ thu gọn trong các nước xã hội chủ nghĩa mà mở rộng sang
phương Tây) đã làm nên một diện mạo mới của văn học trong đó có truyện ngắn.
Nhu cầu dịch thuật chuyển dịch từ hướng đơn nhất các tác phẩm văn học nước
ngoài sang tiếng Việt sang xu hướng song song đã thay đổi thị hiếu, thẩm mĩ văn
chương của con người Việt Nam. Ngoài mục đích tìm hiểu, công chúng còn hướng
tới suy ngẫm, thư giãn, giải trí. Vai trò của nhà văn và văn học với khát vọng sáng
tạo và khẳng định ngày càng được nâng cao.
24
Cuối thế kỉ XX, con người được chứng kiến và hưởng thụ những thành quả
vĩ đại của khoa học công nghệ, cuộc cách mạng 4.0. Trong một giây, computer
có thể thực hiện hàng ngàn phép tính, trong một giờ người ta có thể làm hàng
ngàn sản phẩm. Chính tốc độ nhanh chóng của máy móc, công nghệ đã tác động
rất lớn tới sự vận động cuả thể loại truyện ngắn.
Xu thế của cuộc sống hôm nay là ngày càng đi vào vi mô hóa. Mọi công
nghệ máy móc đều cực nhỏ, siêu gọn. “Mini hoá” các sản phẩm đã trở thành một
trong những đặc điểm của lối sống hiện đại. Phong cách tiết kiệm lời- kiểu điện
tín- lấn lướt sự dài dòng, đang được xem như tính trội của thế kỉ XXI. Điều này
ảnh hưởng tới quan điểm thẩm mĩ của con người. Truyện ngắn cũng nằm trong
quy luật đó. Đây là một trong cơ sở để ra đời dạng truyện cực ngắn. Thái Bá Tân
chia sẻ: “Nhiều truyện ngắn của ta hiện nay, trong đó có truyện ngắn của tôi, công
bằng mà nói, có thể rút ngắn từ một vài chục trang xuống vài ba trang hoặc thậm
chí ít hơn mà vẫn truyền tải hết ý. Chưa chừng hiệu quả lại còn tốt hơn” [207].
Ngược lại với xu hướng nhanh, ngắn, gọn là xu hướng muốn sống chậm.
Xu hướng này dẫn tới kiểu truyện ngắn mang sức dung chứa, và sức chứa, trình
bày chi tiết, tỉ mỉ, vươn tới sự thấu đáo và toàn vẹn như một cuốn tiểu thuyết.
Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết vì thế mà ra đời.
Quả thực, hoàn cảnh mới, tâm lí mới, mĩ quan mới đòi hỏi văn nghệ phải
đổi mới. Truyện ngắn là cách đáp ứng, thích hợp theo chiều hướng của cuộc
sống hiện đại- một cách đáp ứng tài tình, thích hợp, đầy biến hóa.
1.2.1.2. Những biến chuyển trong đời sống văn học
Sau 1986, truyện ngắn Việt Nam dần chuyển sang một quỹ đạo mới. Những
thay đổi nhanh chóng về văn hóa, xã hội đã thúc đẩy truyện ngắn phát triển, đạt
tới độ chín về thể loại. Truyện ngắn thời đổi mới có thể chia thành các chặng
nhỏ. Chặng thứ nhất từ 1986 đến đầu những năm 90 văn học gắn liền với chặng
đường đường đầu cuả công cuộc đổi mới đất nước. Chặng thứ hai, từ giữa những
năm 90 trở đi, văn học “tiếp tục tiếp cận đời sống trên bình diện thế sự- đời tư đã
được mở ra ở nửa đầu những năm 80, nhiều cây bút đã đi vào thể hiện mọi khía
cạnh của đời sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc sống đời
thường” [182; 183]. Làm nên diện mạo truyện ngắn giai đoạn này là sự góp công
25
của nhiều thế hệ nhà văn, tiêu biểu như: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma
Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Bảo Ninh, Phan
Thị Vàng Anh, Ngô Tự Lập, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban, Võ Thị Hảo,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Hải Vân, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương,
Nguyễn Ngọc Thuần, Phan Việt, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư...
Quan niệm nghệ thuật cuả nhà văn chính là cấu trúc tư tưởng, động lực
vận hành một nền văn học. Tư duy của người nghệ sĩ thay đổi sẽ chuyển dịch
cả một hệ hình nghệ thuật. Phạm vi lí giải hiện thực cuả văn học thời kì Đổi
mới mở rộng và mang tính toàn diện hơn trước. Điểm nhìn cuả văn học đã
chuyển đổi: hiện thực không chỉ là hiện thực cách mạng, đời sống cộng đồng
mà còn là đời sống hàng ngày, cái thường ngày với các quan hệ thế sự và đời tư
vốn bị lãng quên hơn nửa thế kỉ. Sự thật nghiệt ngã cuả thời chiến, cuộc sống
đa đoan, lắt léo của thời hậu chiến, những day dứt của con người về cuộc sống,
về bản thể… hiện lên chân thực, sinh động. Hiện thực được phản ánh, tái hiện,
soi chiếu, nhận thức lại, lí giải thấu đáo, toàn diện. Phản ánh hiện thực trong
văn học trở thành phương tiện nghệ thuật chứ không chỉ là mục đích của nghệ
thuật. Mỗi nhà văn đều có quyền thể nghiệm, tìm tòi cách lí giải hiện thực riêng.
Tinh thần dân chủ cho phép văn học khám phá đời sống linh hoạt, phong phú
hơn. Nhà văn phát huy sự sáng tạo đồng thời phát huy vai trò của người đọc,
quan tâm nhiều hơn tới nhu cầu đọc của độc giả. Chính điều này đã góp phần
phá vỡ biên độ thuần khiết của thể loại, làm nên sự trở lại hoặc xuất hiện đồng
loạt những dạng truyện ngắn mới như truyện ngắn truyền thống, truyện cực
ngắn, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết, truyện ngắn giàu chất trữ tình…
Thế hệ viết truyện ngắn hôm nay về cơ bản vẫn quan niệm “Tiểu thuyết là một
đoạn cuả dòng đời thì truyện ngắn là một cái mặt cắt cuả dòng đời” [94], nhưng mặt
khác, cái mặt cắt ấy biến hóa, đầy sắc màu thông qua những sáng tạo của cách viết.
Phạm Thị Hoài cho rằng “văn chương là một trò chơi vô tăm tích” và quy luật sáng
tạo lớn nhất là tưởng tượng” [63]. Thùy Linh khẳng định: truyện ngắn là viết những
gì trải nghiệm…, viết như một cách bày tỏ thái độ sống, quan niệm sống, một cách
chia sẻ những nỗi đau trên đường đời mình với một số người tri âm”. Nguyễn Vĩnh
26
Nguyên cho rằng viết truyện ngắn là một “trò chơi trốn tìm”, “đi tìm và xác lập
những giá trị mới”.
Quan niệm về con người của các nhà văn cũng có sự thay đổi. Chống lại
nguyên tắc mô tả con người theo một chuẩn mực giá trị đơn nhất, văn học đặt con
người trên nhiều phương diện, nhiều tọa độ, nhiều thang bậc giá trị. Con người
được khám phá ở cả bình diện vô thức và ý thức, cả phía cộng đồng, dòng tộc và
tính nhân loại phổ quát. Điều này hiện lên như những nét cắt sắc sảo, đôi khi như
một vết thương ám ảnh trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy
Thiệp, Hồ Anh Thái, Y Ban, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Tư…
Tóm lại, sự chuyển biến trong đời sống- văn hóa- xã hội đã tác động rất lớn,
làm lên sự thay đổi trong đời sống văn học (trong đó có thể loại truyện ngắn).
Khi cánh cửa hội nhập được mở rộng, tính dân chủ đã kích thích sự tìm tòi,
khám phá và sáng tạo thể loại. Sự sôi động của đời sống văn học trong nước, sự
đổi mới tư duy về truyện ngắn, cách lí giải, khám phá mới về con người trong một
bầu không khí văn chương của thời mở cửa… làm nên sự đa dạng về các dạng
truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Không còn mô hình truyện ngắn duy nhất, không
có những khuôn mẫu cứng nhắc cho thể loại truyện ngắn, các nhà văn có khát
vọng đa dạng hóa ngòi bút và những con chữ của mình. Điều này hoàn toàn phù
hợp với quy luật lịch sử, xã hội, văn học và thể loại. Từ đó, truyện ngắn đã khẳng
định vị thế quan trọng về thể loại của mình trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
1.2.2. Khái quát về các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986
1.2.2.1. Các tiêu chí phân loại truyện ngắn
Trong quá trình nghiên cứu và phân loại các dạng cơ bản của truyện ngắn Việt
Nam sau 1986, chúng tôi xuất phát từ lý thuyết thể loại. Trong đó, đặc trưng của
truyện ngắn chính là tiền đề để phân chia các dạng cơ bản truyện ngắn Việt Nam
sau 1986 của luận án.
Nói đến truyện ngắn là chúng ta nhắc tới loại hình tác phẩm tự sự cỡ nhỏ.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, truyện ngắn “là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ…, cái độc
đáo của nó là ngắn” [219; 252]. Theo Gulaiep, truyện ngắn “một hình thức tự sự
cỡ nhỏ. Nó khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn, tập trung mô tả ở một sự
27
kiện nào đó thường xảy ra trong đời một nhân vật, hơn nữa bộc lộ một nét nào đó
của nhân vật” [141; 258]. Với nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, “cái đặc điểm duy
nhất mà cũng rõ nhất của truyện ngắn là nằm trong chính sự ngắn gọn của nó, với
điều kiện là sự ngắn gọn này đủ sức tạo nên một hiệu quả nhất định” [205; 48].
Tính chất ngắn gọn của truyện ngắn được thể hiện trên ba phương diện cơ
bản. Trước hết, thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn được thu hẹp trong một
khoảng thời gian và không gian nhất định. Truyện ngắn không phản ánh cả quá
trình đời sống diễn ra trong một thời gian dài mà thường tập trung vào một thời
điểm tiêu biểu, có ý nghĩa. Đó là một tình huống, “một lát cắt đời sống”. Truyện
ngắn thường khám phá đời sống ở một phạm vi hẹp, gắn với một địa điểm cụ thể.
Số lượng nhân vật xuất hiện trong tác phẩm ít và tính cách nhân vật không phức
tạp. Tính cách của nhân vật trong truyện ngắn không phải là số cộng của những
tính cách đơn lẻ hay phức hợp. Nhân vật thường mang tính đơn nhất trong tính
cách. Thứ hai, với một dung chứa đời sống có hạn nên truyện ngắn không đặt ra
và giải quyết nhiều vấn đề khác nhau của đời sống. Nguyễn Công Hoan khẳng
định: “muốn là một truyện ngắn, chỉ nên lấy một ý chính làm chủ đề cho truyện…
Mỗi truyện cần có một ý, một ý thôi. Ý ấy là ý chính của truyện”. Trong truyện
ngắn, số lượng xung đột thường có hạn. Cốt truyện thường đơn giản, ít sự kiện và
hành động, sự kiện biến đổi để trở thành các sự cố, bước ngoặt lớn. Cốt truyện có
đầy đủ các thành phần: trình bày, thắt nút, phát triển, đỉnh điểm, mở nút. Mỗi
thành phần có thể là một sự kiện, được xâu chuỗi theo thời gian. Thứ ba, cái ngắn
của truyện được thể hiện rất rõ ở qua dung lượng của tác phẩm (số trang, số chữ,
thời gian tiếp nhận tác phẩm). Đây không chỉ là hình thức mà có ý nghĩa nhất định
trong việc xác định đường biên của truyện ngắn so với các thể loại văn học khác
(chẳng hạn như tiểu thuyết). Một trong những đặc điểm dễ nhận thấy của truyện
ngắn là dung lượng- số trang. Với khổ 13* 19, số trang trung bình của một truyện
ngắn thường từ 7- 10 trang và dài khoảng 25- 30 trang (“trong vòng bảy, tám trang
đến mười lăm, hai mươi, thậm chí ba bốn chục trang cũng vẫn được coi là truyện
ngắn” - Vương Trí Nhàn). Như vậy số chữ trung bình của một truyện ngắn là
khoảng 10.000 đến 12.000 chữ.
28
Như vậy, loại hình tác phẩm tự sự cỡ nhỏ vốn là đặc trưng của thể loại
truyện ngắn. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, truyện ngắn đã có sự biến đổi,
phù hợp với quy luật tất yếu của lịch sử, đời sống thể loại. Truyện ngắn trở thành
tác phẩm tự sự hiện đại. Về cơ bản, truyện ngắn hiện đại một mặt kế thừa những
đặc trưng cơ bản của truyện ngắn truyền thống song mặt khác đã thay đổi, khác
biệt. Sự biến đổi này do quá trình tương tác, giao thoa giữa truyện ngắn với các
thể loại văn học khác như tiểu thuyết, kịch, thơ...
Là một dạng của tác phẩm tự sự hiện đại, truyện ngắn phản ánh đời sống
theo tư duy của tiểu thuyết. Thế giới đời sống mà nó khám phá, phản ánh
không phải thế giới của quá khứ, hoàn kết (như truyện ngắn truyền thống) mà
chủ yếu là đời sống đương đại. Nó khiến người đọc có cảm giác đang được
chứng kiến, được sống với hiện thực đang diễn ra chứ không chỉ là nhìn lại quá
khứ. Câu chuyện được kể phần lớn là người chứng kiến, người tham gia trực
tiếp, là nhân vật “tôi” trong tác phẩm và có sự luân phiên, đan xen trong ngôi
kể. Sự xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật với nội dung trần thuật đưa
truyện ngắn hiện đại là một trong những thể loại dân chủ. Lời văn trong tác
phẩm vì thế không chỉ mang giá trị thông báo, mô tả mà có khả năng phân tích,
lí giải và đối thoại. Nhân vật trong truyện ngắn hiện đại thường đa dạng, phức
tạp, đầy mâu thuẫn. Nó “cao lớn hơn thân phận mình hoặc có thể nhỏ bé hơn
tính người của mình. Nó không hoàn toàn rốt cuộc chỉ là một viên chức, một
địa chủ, một lái buôn, một vị hôn phu, một kẻ cả ghen, một người cha… Con
người không thể hóa thân đến cùng với cái thân xác xã hội lịch sử hiện hữu”
(Bakhtin). Con người trong truyện ngắn hiện đại không trùng khít với nó.
Không còn tồn tại (hoặc nếu có thì rất ít) kiểu con người với tính cách đơn
nhất, thay vào đó là con người phức hợp, con người tâm lí phức tạp, bất ổn. Cốt
truyện trong truyện ngắn hiện đại hoàn toàn phá vỡ các thành phần của truyện
ngắn truyền thống: không phân định rõ ràng các thành phần, mở rộng, khuyếch
đại thành phần, mở rộng chi tiết của từng phần… có khi lược bớt đến tối đa.
Với truyện ngắn truyền thống, những vấn đề mà tác phẩm đặt ra thường được
29
giải quyết triệt để, nhưng với truyện ngắn hiện đại thì khác, truyện ngắn hiện
đại có xu hướng lựa chọn lối kể chuyện không hoàn kết. Trong truyện hiện đại,
lời văn có sự gia tăng “lời chủ quan”, chứa đựng thái độ, đánh giá của người
trần thuật. Chi tiết trong truyện rất phong phú: có chi tiết mô tả nhân vật (tiểu
sử, ngoại hình, nội tâm, ngôn ngữ…); có chi tiết mô tả cảnh vật (cây cối, chim
muông, núi non…), có chi tiết xuất hiện để thể hiện triết lí (về cuộc đời, con
người, về nhân thế, các thang bậc giá trị của cuộc sống...). Có thể thấy rõ: trong
truyện ngắn hiện đại, cốt truyện, nhân vật và thế giới bao quanh nhân vật đều
được dựng xây bằng nhiều lớp chi tiết mang hơi thở cuộc sống, tạo nên sự
phong phú về các lớp nghĩa cho truyện ngắn.
Khi nghiên cứu truyện ngắn, chúng ta có thể phân chia theo nhiều tiêu
chí khác nhau và cách định danh để có thể nhận diện những biến đổi của thể
loại năng động này. Chúng tôi lựa chọn nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam sau
1986 từ góc nhìn thể loại với cách định danh: các dạng cơ bản của truyện
ngắn Việt Nam.
“Dạng” (Typical Types, Modality) là khái niệm được sử dụng chung cho
các ngành khoa học, nghệ thuật song gần đây được nhắc đến trong lĩnh vực văn
học. Chúng ta thường sử dụng cụm từ này khi kết hợp với các từ, ngữ khác như:
dạng thức sáng tác, dạng tiểu thuyết, dạng truyện ngắn… Trong Từ điển Tiếng
Việt, dạng là “hình thức, kiểu tồn tại của sự vật, hiện tượng” [257; 214].
Truyện ngắn là một thể loại năng động. Trong quá trình phát triển, truyện
ngắn tương tác, giao thoa với các thể loại khác. Truyện ngắn có khả năng tiếp
thu tinh hoa của các thể loại khác, từ đó tạo ra sự phá vỡ biên độ của thể loại,
phân hóa thành nhiều dạng truyện ngắn. Dạng truyện ngắn là cách dùng để gọi
tên một tiểu loại truyện ngắn. Chẳng hạn như: dạng truyện ngắn giàu chất tiểu
thuyết, dạng truyện ngắn giàu chất trữ tình, dạng truyện cực ngắn... Ngoài
những đặc điểm chung của truyện ngắn, các dạng truyện ngắn mới có những đặc
điểm riêng trong dung lượng, cách tổ chức cốt truyện, xây dựng tình huống, tạo
dựng nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu và nhất là các thủ pháp nghệ
30
thuật cơ bản của dạng. Mỗi dạng thường quy tụ nhiều tác giả, tác phẩm, trong đó
có sự xuất hiện của những đỉnh triều góp phần khẳng định vị thế và nội lực của
từng dạng truyện ngắn. Từ đó làm nên sức sống của thể loại, tạo nên lực hút, sức
hấp dẫn đối với độc giả phổ thông cũng như giới nghiên cứu, phê bình.
Trước đây, khi nhận diện, phân loại truyện ngắn Việt Nam, các nhà nghiên
cứu có những cách định danh và xuất phát từ nhiều góc nhìn khác. Chúng tôi xin
khái quát lại các cách phân loại tiêu biểu của các nhà nghiên cứu về truyện ngắn.
Điều góp phần lí giải việc chúng tôi lựa chọn các dạng cơ bản của truyện ngắn là
một góc nhìn mới, khoa học và phù hợp khi nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam
sau 1986.
Khi phân chia truyện ngắn căn cứ vào chủ đề và cảm hứng, truyện ngắn
Việt Nam sau 1986 nổi bật với ba khuynh hướng: khuynh hướng nhận thức lại
hiện thực, khuynh hướng đạo đức thế sự và khuynh hướng triết luận.
Khuynh hướng nhận thức lại hiện thực lấy quá khứ làm đối tượng phản
ánh, phân tích. Đó không phải toàn bộ quá khứ mà là những phần khuất lấp,
những vấn đề mà truyện ngắn trước đó chưa đề cập hoặc đề cập chưa đúng mức.
Những sự kiện lịch sử (chuyện của ngày hôm qua) vẫn làm nền cho câu chuyện
hôm nay nhưng trung tâm soi ngắm của tác giả là số phận con người. Theo tinh
thần này, một số góc diện của quá khứ, của chiến tranh được nhận thức lại, được
đánh giá qua cái nhìn của thời hậu chiến. Những chiến công hiển hách, niềm tự
hào kiêu hãnh về dân tộc, quá khứ vàng son, những số phận thiệt thòi, bất hạnh,
niềm bi thương, sự mất mát do chiến tranh để lại… tất cả được trở lại làm nên
những câu chuyện bất tận về chiến tranh. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy
Thiệp, Bảo Ninh, Võ Thị Hảo là những nhà văn đi đầu trong việc nhận thức lại
lịch sử. Họ thể hiện nỗi niềm của con người hậu chiến với sự trăn trở, băn khoăn
và khát vọng “giải mã”, “đối chứng”, “tự vấn’’…
Khuynh hướng thứ hai là khuynh hướng thế sự - đời tư. Khi chiến tranh đi
qua, con người trở về với đời thường, phải đối mặt với những lo toan thường
nhật của cuộc sống. Mọi vấn đề- từ cuộc sống lam lũ vất vả của những người
31
nông dân sau lũy tre làng đến những cư dân nghèo ven thị, từ cuộc sống của
những con người nơi núi non hẻo lánh đến cuộc sống tấp nập nơi thị thành,
muôn người, muôn cảnh, muôn nỗi đa đoan… đều hiện diện trong truyện ngắn
thời kì này. Trong vòng ba thập kỉ, truyện ngắn như một cuốn tiểu thuyết thu nhỏ
mọi sự thực ở đời. Điều đặc biệt, khác lạ trong cách thể hiện câu chuyện cuộc
sống ở khuynh hướng này là các nhà văn không chỉ miêu tả cái hiện thực bề
ngoài mà khơi sâu vào đời sống tinh thần của con người trước xã hội đầy biến
động. Con người trong truyện ngắn hôm nay không còn là kiểu đơn trị mà là
nhân vật đa trị, lưỡng diện. Con người được nhà văn khám phá ở nhiều tầng bậc:
đời sống tự nhiên, con người tình cảm, khát vọng cao cả và dục vọng tầm
thường, con người trong tính cá biệt và con người phổ quát… Không thần thánh
hóa con người, các tác giả đưa họ về với cuộc sống thường nhật với những giá trị
đời thường muôn thuở.
Khuynh hướng thứ ba là khuynh hướng tự sự- triết lí. Trước 1986, cảm
hứng triết luận gắn liền với các vấn đề chính trị, thời sự. Đến thời kì này, nhu
cầu triết luận hướng tới các quy luật nhân sinh, triết luận về con người, về lịch
sử, về thời đại, về tự nhiên về thế giới tâm linh… Có thể thấy, hầu hết các tác
phẩm đều có tính triết lí song những nhà văn có tầm ảnh hưởng lớn trong
khuynh hướng là truyện của tác giả Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng,
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Y Ban, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Ngọc Tư…
Căn cứ theo đặc trưng thi pháp và thể loại, truyện ngắn nổi lên với nhiều
kiểu, loại và dạng thức khác nhau. Chẳng hạn, Lê Huy Bắc khi nghiên cứu
Hemingway đã phân chia truyện ngắn của nhà văn này thành các kiểu: truyện
ngắn dòng ý thức, truyện ngắn- thư, truyện ngắn- kịch, truyện ngắn mini, truyện
ngụ ngôn hiện đại, truyện triết lí [107]. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào phân
chia truyện ngắn thành: truyện lịch sử- giả, truyện cổ tích- giả, truyện ngụ ngôn-
giả [126]. Đối với nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng, ông phân chia truyện ngắn
thành năm kiểu chính: cổ điển, kỳ ảo, trữ tình, rất ngắn và liên hoàn [237].
32
Truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986 được cấu thành từ nhiều dạng truyện
ngắn. Trong đó có dạng kế thừa, phát triển của dạng truyện ngắn giai đoạn trước,
có những dạng mới ra đời theo quy luật tất yếu cuả thể loại. Việc phân loại một
cách rành mạch, rõ ràng truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986 theo các tiêu chí nhất
định là chuyện không dễ. Tiêu chí nghệ thuật của thể loại về cơ bản tương đối ổn
định song có sự dịch chuyển thay đổi theo thời gian, phù hợp với quy luật sinh
thành, phát triển. Cho nên, việc phân loại như đã nói ở trên về cơ bản chỉ là sự
tương đối, phụ thuộc vào điểm nhìn và các tiêu chí phân loại. Điều đó cũng chỉ
ra những khó khăn khi chúng ta muốn vạch ra những đường biên phân chia thể
loại. Trong quá trình nhận dạng, các tiêu chí về cơ bản được đưa ra tương đối ổn
định song cũng cần có sự linh hoạt. Nói cách khác, đối với chúng tôi, tìm hiểu
đặc trưng dạng truyện ngắn tập trung vào những yếu tố cơ sở như cốt truyện, tình
huống truyện, nghệ thuật trần thuật, nhân vật, một số bút pháp nghệ thuật, ngôn
ngữ và giọng điệu nghệ thuật. Căn cứ vào thực tế đời sống truyện ngắn, căn cứ
vào những tiêu chí nền tảng của truyện ngắn truyền thống, luận án sẽ trình bày
những dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn thể loại.
1.2.2.2. Các dạng truyện ngắn Việt Nam sau 1986
Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 nổi bật với hai xu hướng: thứ nhất là
những dạng kế thừa hoàn toàn truyện ngắn giai đoạn trước 1986; thứ hai là
những dạng hoàn toàn mới hoặc tiếp biến các kiểu truyện ngắn trước 1986. Sau
đây, chúng tôi xin sơ lược về những dạng tiêu biểu của từng xu hướng.
Xu hướng thứ nhất bao gồm những truyện tuân thủ những tiêu chí của một
truyện ngắn thông thường. Truyện ngắn truyền thống, hay còn được gọi là truyện
ngắn cổ điển vẫn có một vị trí nhất định trong đời sống truyện ngắn Việt Nam
sau 1986. Dạng truyện này tuy không mới song nó chưa bao giờ cũ đối với các
cây bút có nghề trong truyện ngắn. Những nét đặc sắc trong nghệ thuật tạo tình
huống, cái duyên thầm của người kể chuyện, cái sinh sắc của những chi tiết nghệ
thuật… vẫn lôi cuốn người đọc và sức hấp dẫn với người cầm bút.
Xu hướng thứ hai phân hóa khá đa dạng, phức tạp với những tiểu loại, tên
gọi, cách định danh khác nhau. Có thể kể tên một số dạng truyện sau:
33
Trước hết là dạng truyện phá vỡ hình thức cổ điển, quen thuộc từ khi hình
thành thể loại này trong văn học hiện đại để tạo nên truyện cực ngắn. Dạng
truyện này không chỉ là truyện ngắn rút ngắn lại mà đã hình thành một kiểu tư
duy nghệ thuật và thi pháp riêng. Với cách dồn nén thông tin trong khuôn khổ
mini, truyện cực ngắn được khẳng định là dạng truyện mới, lạ, độc đáo cuả kỉ
nguyên trí tuệ và công nghệ số.
Truyện ngắn giàu chất trữ tình là dạng thứ hai tiếp tục được kế thừa và phát
triển ở giai đoạn sau 1986. Truyện ngắn giàu chất trữ tình phối hợp giữa việc
biểu đạt sự việc và cảm xúc trữ tình. Truyện ngắn giàu chất trữ tình thường là
một sự nhận thức về các quy luật của cuộc sống, sự bừng tỉnh của lí trí, cảm xúc.
“Chủ quan hóa”, nội cảm hóa” đời sống là đặc trưng của truyện ngắn giàu chất
trữ tình.
Có một sự vận động ngược chiều so với truyện cực ngắn đó là truyện ngắn
giàu chất tiểu thuyết. Truyện cực ngắn có xu hướng ngắn lại, cô đọng, giản lược
cốt truyện và nhân vật (khó tìm thấy trên tiểu thuyết dài, trường thiên) thì truyện
ngắn giàu chất tiểu thuyết lại có xu hướng kéo dài ra, nới rộng không gian, thời
gian, dõi theo những thăng trầm biến cố của nhân vật. Đây là dạng truyện có
hình thức kéo dài truyện, chuyện này kéo sang chuyện kia, xếp lên nhau thành
các lớp truyện hoặc chuỗi chuyện. Xét về câu chữ, dung lượng, tầm bao quát
truyện ngắn hôm nay, ta nhận ra xu hướng tiểu thuyết hóa của nó. Truyện ngắn
được phân chia thành nhiều mục giống như những chương nhỏ trong một cuốn
tiểu thuyết. Điều quan trọng thứ hai làm nên chất tiểu thuyết của truyện ngắn đó
là phạm vi, quy mô hiện thực và chiều sâu, sức phản ánh của tác phẩm (không
kém các tác phẩm tiểu thuyết thực sự). Chính điều này đã mở ra những đặc tính
mới của truyện ngắn mà chúng tôi gọi là truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết.
Dạng truyện ngắn giả thể loại như giả ngụ ngôn, giả cổ tích, giả truyền
thuyết hay truyện ngắn kì ảo bước đầu có vị trí trên văn đàn. Một số cây bút
mượn hình thức dân gian, sử dụng yếu tố hoang đường, kì ảo… để làm mới câu
chuyện mình định kể. Một số truyện hấp dẫn người đọc về những câu chuyện
34
lịch sử (mà chúng ta đều biết) bằng cái nhìn của người trong cuộc, khơi ra những
phần khuất lấp để hoàn thiện con người của ngày hôm qua. Một số truyện thể
hiện khả năng kết nối thế giới thực và thế giới phi thực; vừa mang yếu tố hiện
thực vừa mang màu sắc kinh dị, tạo sự bất an, li kì cho người đọc.
Ngoài ra, trong xu thế phát triển, truyện ngắn trong sự tương tác với các
thể loại khác tạo ra truyện ngắn- kịch, truyện ngắn- thư… Những dạng này
bước đầu nhận được những phản ứng tích cực từ độc giả. Truyện ngắn Việt
Nam sau 1986, nhất là từ năm 2000 trở về đây dự báo “những hình hài đột
biến”. Điều đó không hề lạ đối với một giai đoạn văn học khá dài- hơn ba thập
niên, khi truyện ngắn đã, đang và tiếp tục là tâm điểm của giới sáng tác, nghiên
cứu và phê bình văn học.
1.2.3. Một số kết luận
Nhận diện, phân lập các khu vực (khuynh hướng, trào lưu, đặc điểm) của
truyện ngắn đã được các nhà nghiên cứu chú ý. Các cách phân loại khác, kể cả
phân chia truyện ngắn Việt Nam sau 1986 theo những kiểu, loại đã được chúng
tôi tiếp nhận, lĩnh hội. Tuy nhiên, truyện ngắn như một dòng chảy mạnh mẽ,
cần có một cái nhìn như một xu hướng, như sự vận động tất yếu để đạt được
thành tựu, xứng đáng ghi nhận những đổi mới của văn học. Với tinh thần đó,
chúng tôi nhận diện, phân loại, định danh ba dạng cơ bản làm nên diện mạo của
truyện ngắn Việt Nam sau 1986: truyện cực ngắn, truyện ngắn giàu chất trữ
tình và truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết.
35
Tiểu kết chương 1
Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 là một thế mạnh của văn xuôi, trong
những năm qua đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Việc phân
loại, mô tả, khái quát truyện ngắn trong vòng ba thập niên này vẫn là một lối ngỏ
cần được lấp đầy bằng những công trình nghiên cứu, những chuyên luận khoa
học chuyên ngành.
Truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986 đã phát triển rực rỡ dưới tác động của
đời sống, kinh tế, văn hóa và xã hội. Thể loại truyện ngắn có những chặng đường
đạt tới độ chín về cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Sự xuất hiện, hội tụ của
nhiều thế hệ nhà văn cùng sự thay đổi về quan niệm sáng tác, phạm vi phản ánh
hiện thực và kĩ thuật truyện ngắn đã làm nên diện mạo mới cho truyện ngắn Việt
Nam thời kì Đổi mới từ sau 1986.
Căn cứ theo đặc trưng thi pháp và thể loại, ba dạng: truyện cực ngắn,
truyện ngắn giàu chất trữ tình và truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết là những
dạng cơ bản của truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Nhìn từ ba dạng cơ bản này,
chúng ta sẽ thấy được sự chuyển động tích cực của thể loại truyện ngắn trong sự
vận động, tương tác không ngừng của các thể loại khác, nhận diện được tiềm
năng, triển vọng, tầm quan trọng của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 trong thành
tựu cuả văn xuôi hiện đại Việt Nam.
36
CHƢƠNG 2: TRUYỆN CỰC NGẮN
2.1. Lịch sử truyện cực ngắn Việt Nam
Trong dòng chảy của thể loại truyện ngắn, truyện cực ngắn đã và đang phát
triển mạnh mẽ. Loại hình tự sự mini này tồn tại dưới nhiều danh hiệu, nhiều cách
gọi khác nhau như: truyện ngắn/ truyện thật ngắn (short-short story/ very short
story); truyện mini (minite fiction); truyện nhanh (fast fiction), truyện vội (quick
fiction), truyện bất ngờ (sudden fiction), truyện bưu thiếp (postcard fiction),
truyện hỏa tốc (furious fiction), truyện mỏng (skinny fiction), truyện selfphone,
truyện smartphone… Ở Pháp, người ta dùng thuật ngữ “nouvelles” để chỉ dạng
thức truyện cực ngắn. Ở Trung Hoa, các nhà nghiên cứu gọi là “vi hình tiểu
thuyết”, “truyện bỏ túi”, “truyện trong lòng bàn tay”, “truyện chớp” vì nó lóe lên
như một tia chớp bừng ngộ trong cảm xúc và nhận thức của con người. Ở Việt
Nam, các nhà nghiên cứu có nhiều cách gọi khác nhau song số đông đều gọi là
truyện cực ngắn. Cách gọi này xuất phát từ đặc điểm của thể loại: những truyện
có dung lượng ngắn, không thể rút gọn hơn từ cấu trúc bên ngoài lẫn cấu trúc
bên trong của tác phẩm.
Trên thế giới, truyện cực ngắn đã có lịch sử vài thế kỉ. Theo tác giả Đặng
Anh Đào: truyện cực ngắn xuất phát từ “tin vặt” đăng trên các báo chí. Đây
những mục thông tin nhanh gọn, chủ yếu đưa tin và chú ý các sự kiện. Những
truyện ngắn có hàm lượng tin lớn và tốc độ trần thuật nhanh có lẽ bắt nguồn từ
những tin vặt này. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu cũng chỉ ra truyện cực ngắn xuất
phát từ những châm ngôn, sấm truyền, là hồi quang của các tích truyện dân gian.
Hình thức truyện cực ngắn đã tồn tại trong ngụ ngôn Aesop, ngụ ngôn dân gian,
các truyện trong Kinh Thánh, trong sách của Khổng Tử, Trang Tử, Kinh Phật…
Từ những năm 80 của thế kỉ XX, ở Mĩ, số lượng các tuyển tập, các hợp tuyển
truyện cực ngắn cùng với những cuốn sách sưu tầm truyện vỉa hè được bán trên
thị trường đã lên tới khoảng một triệu bản. Rất nhiều diễn viên truyền hình cũng
như diễn viên điện ảnh đã từng đọc trực tiếp cho công chúng nghe các mẩu
37
truyện cực ngắn trên sân khấu Broadway. Không chỉ thế, nó còn được ghi âm lại
để sau đó phát sóng chuyên mục “truyện ngắn tuyển chọn” (Selected Shorts) trên
Đài phát thanh công cộng Quốc gia. Các Hội thảo quốc tế về chuyên đề “Truyện
Mini” (Minifiction) cũng đã được tổ chức ở Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Argentina và
nhiều quốc gia khác. Đặc biệt hơn, ở Anh, người ta quyết định lựa chọn riêng
một ngày để làm Ngày truyện cực ngắn toàn quốc- National Flash Fiction Day
(sự kiện này được ghi trên tờ Người bảo vệ- The Guradian. Ngoài ra, đầu thế kỉ
XX, thế giới đã biết đến các cây bút tài hoa viết truyện cực ngắn như: Guy de
Maupassant, Anton Chekhov, O. Henry, Franz Kafka, Italo Calvino, Alexander
Sonistyn, J.L.Borges, Julio Cortazar… Kapka đã viết những truyện ngắn khoảng
dưới 500 từ trong đó có những truyện dưới 100 từ.
Ở Việt Nam, tiền thân của truyện cực ngắn là truyện cười trong văn học
dân gian. Nhà văn Nguyễn Tuân trong bài tham luận đọc tại Đại hội Nhà văn
Việt Nam lần thứ hai (1963), trong bài “Cần cười”, tác giả nhấn mạnh: “Tìm ở
tiếu lâm một cái gì có tính chất kĩ thuật và nghệ thuật viết truyện ngắn thật
ngắn nữa. Nhiều truyện tiếu lâm chỉ ngắn không tới mười dòng… Đứng về phía
nghề nghiệp mà bàn về tiếu lâm, thì đó là một số kinh nghiệm thành công về kĩ
thuật và nghệ thuật truyện ngắn, rất kiệm lời và ý ở ngoài lời thì rất nhiều”
[254; 39]. Theo Lê Dục Tú, trong truyện truyền kì Việt Nam từ thế kỉ XV- XVI
có rất nhiều truyện ngắn, có truyện khoảng 100 từ như: Bà đồng, Cá thần, Con
hổ nghĩa hiệp…
Khi khảo sát về truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986, chúng tôi đã nhận
thấy có nhiều lí do quan trọng dẫn đến sự xuất hiện, hưng thịnh, giảm sút và trở
lại của thể loại này. Truyện cực ngắn trước hết là sản phẩm sáng tạo nghệ thuật
mới của thời đại thông tin và công nghệ hiện đại. Cuối thế kỉ XX, con người
được chứng kiến và tận hưởng thành tựu của khoa học công nghệ. Sang đầu thế
kỉ XX, nhân loại được sống trong kỉ nguyên số. Trong một giây, hàng ngàn phép
tính, hàng trăm sản phẩm được tạo ra từ computer và con người. Tốc độ nhanh,
nhạy bén của máy móc, công nghệ số cũng là một trong những cơ sở làm nên
38
nếp nghĩ, nếp tiếp nhận, nếp sáng tạo của con người tăng tốc hơn, gấp gáp hơn.
Trong giao tiếp, mọi nghi thức rườm rà, câu lệ dần dần bị xóa bỏ, thay thế vào
đó là cách truyền tin ngắn, gọn, nhanh, tổng hợp, khái quát… mang lại hiệu quả
giao tiếp cao. Ngôn ngữ kiểu điện tín đã trở thành ngôn ngữ phổ thông trong
giao tiếp của con người thời đại số. Sự ra đời của truyện cực ngắn nằm trong sự
vận hành khách quan của thời đại. Thứ hai, truyện cực ngắn ra đời đáp ứng nhu
cầu mới của sáng tạo và tiếp nhận văn học. Truyện cực ngắn là một phương thức
thể nghiệm và kiến tạo mới cuả người viết. Các nhà văn hôm nay mong muốn tái
hiện tinh vi mạch đời sống, nén vào trong một hình thức mini. Hơn thế, nhu cầu
hội nhập, giao lưu với văn học thế giới cũng là nguyên nhân, là cơ hội để các cây
bút truyện ngắn trở mình cho ra đời truyện cực ngắn. Nguyễn Quang Sáng từng
chia sẻ: “Cô đúc lại, ngắn lại, đó cũng là một cách để chúng ta đưa văn học Việt
Nam ngày hôm nay ra với thế giới quanh ta… nếu chúng ta có được một tập
truyện rất ngắn tiêu biểu cho văn học của chúng ta, tôi nghĩ, ta dịch ra và đưa ra
nước ngoài tiện hơn”. Giao lưu, hội nhập đã không chỉ dừng lại một chiều từ nước
ngoài nhập vào, chỉ có chúng ta biết đến văn học nước ngoài mà cần có sự tương
tác trở lại. Đây cũng là một cách để đưa truyện cực ngắn Việt Nam gần hơn với
truyện cực ngắn trên thế giới. Xét từ phương diện tiếp nhận văn học, truyện cực
ngắn đáp ứng, phù hợp với thói quen đọc cuả độc giả thời đại công nghệ số. Tính
nhạy bén về thông tin khiến độc giả ngày nay thích lướt trên máy tính, Ipat, điện
thoại trong một vài phút để đọc hoặc nghe truyện cực ngắn (những video sách
nói). So với một cuốn tuyển truyện ngắn truyền thống, độc giả dành ưu tiên cho
truyện cực ngắn- khuôn khổ nhỏ nhẹ hơn, giá thành vừa phải và sự tiện ích. Độc
giả có thể bỏ trong balo, túi xách và đọc trong bất cứ thời gian rảnh nào.
Thiết nghĩ, truyện cực ngắn có tiền thân từ trước 1986, song từ sau 1986
phát triển rực rỡ. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật sáng tạo mới của thời
đại thông tin và công nghệ hiện đại; đáp ứng nhu cầu mới của sáng tạo và tiếp
nhận văn học; đáp ứng nhu cầu hội nhập giao lưu với truyện cực ngắn thế giới
nói riêng và truyện ngắn nói chung.
39
Với những độc giả thuộc thế hệ 7X, 8X trở về trước, truyện cực ngắn của
Tạp chí Thế giới mới đã trở thành món ăn tinh thần. Ngay từ những ngày đầu
xuất hiện, Tạp chí đã nhận được sự hưởng ứng và ưu ái đặc biệt của độc giả.
Ban biên tập đã quyết định từ số thứ 2 trở đi sẽ tăng kì từ nguyệt san lên bán
nguyệt san. Trước sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả, nhất là đối với thể loại
truyện cực ngắn, Thế giới mới đã tăng lên 10 ngày/ấn phẩm và trở thành Tạp
chí xuất bản theo tuần. Tuy nhiên, Thế giới mới đã không giữ mãi được phong
độ đỉnh cao của mình, đặc biệt, theo nhận xét của nhiều độc giả, từ khi Tạp
chí này đổi từ khổ A5 sang khổ A4 vào tháng 4 năm 2009 thì lượng bạn đọc
gắn bó đã giảm sút rất nhiều và phát hành của báo rơi vào chu kỳ đi xuống.
Điều này cũng lí giải về sự hoàng kim của truyện cực ngắn- một thể loại
chiếm vị trí nòng cốt của Tạp chí và sự vắng bóng, thưa nhạt của nó trong
vòng năm năm (từ 2013 đến 2017). Tuy vậy, truyện cực ngắn vẫn còn tiếp tục
được xuất bản vài năm sau đó và không hề đứt đoạn trong lòng độc giả. Trước
sự vận động tất yếu của thể loại, nhất là sự hiện hữu và cần thiết trước tầm
đón nhận của độc giả, truyện cực ngắn Việt Nam sau vài ba năm vắng bóng đã
trở lại với cuộc trở mình hứa hẹn nhiều hương sắc mới. Năm 2017, Tiin.vn
phối hợp cùng Báo Đất Việt tổ chức cuộc thi “Truyện ngắn smartphone”.
Cuộc thi hướng tới truyền tải cho độc giả những câu chuyện cuộc sống ý
nghĩa, nhân văn bằng cách viết sáng tạo nhất và ngắn nhất, độ dài không quá
500 chữ. Cuộc thi được tổ chức với cơ cấu giải thưởng theo tuần. Ngay sau
khi công bố thể lệ của Ban tổ chức, cuộc thi đã thu hút rất nhiều cây bút. Đọc
giả chờ đợi và đón nhận sự tiếp nối của dạng thức truyện cực ngắn. Một số tác
phẩm có chất lượng đã khẳng định được vị thế cuả cuộc thi như: Hạnh phúc
của một người điên (Vũ Thùy Linh), Vết tường loang (Trần Thị Mai), Mắt
xanh (Nguyễn Thị Quỳnh Sâm), Tôi là một cái cây (Lê Minh Hạnh), Hẻm
chim (Nguyễn Phụng), Sự yếu đuối chết người (Trương Thị Ngọc Lý), Anh
em (Vũ Thị Nguyệt Quế), Con mèo hoang (Cúc Dại)…
Tóm lại, truyện cực ngắn ra đời là một xu thế vận động phù hợp tâm lí,
nhịp sống của con người hiện đại, đáp ứng nhu cầu mới của sáng tạo và tiếp
40
nhận văn học; là sản phẩm của sự kế thừa, sáng tạo và hội nhập tất yếu của thể
loại. Truyện cực ngắn trở thành một dạng truyện mới trong dòng chảy thể loại
truyện ngắn.
2.2. Đặc điểm cơ bản của truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986
2.2.1. Rút gọn tối đa về dung lượng
Trước hết, nói đến truyện cực ngắn, chúng ta thường bàn về dung lượng của
nó. Câu hỏi thường được đặt ra: Thế nào là cực ngắn? Có người cho rằng: cực
ngắn được hiểu là ngắn hơn so với truyện ngắn truyền thống. Pamelyn Casto đã
từng ghi nhận quan điểm của các biên tập viên, các nhà xuất bản và các nhà văn
khi họ đồng ý là “truyện chớp nhìn chung dài khoảng 50 đến 2000 từ”. Theo Bùi
Việt Thắng: “Viết càng ngắn càng khó, vì thế các bậc xảo thủ truyện ngắn không
mấy ai dồn sức vào viết những truyện chỉ dưới một nghìn chữ cả”. Cũng trong bài
viết, nhà nghiên cứu nhấn mạnh: “rất khó khăn khi trong một dung lượng chữ tối
thiểu để chuyển tải một dung lượng lớn” [238; 162]. Tuy nhiên, thực tế lại chứng
minh điều hoàn toàn khác biệt. Truyện cực ngắn đã thu hút hàng trăm tác phẩm
độc đáo, lạ về lối viết cũng như dung lượng của văn bản. Ngắn gọn về dung lượng
là yếu tố đầu tiên khu biệt truyện cực ngắn với các dạng truyện khác.
Nhìn lại hành trình của truyện ngắn Việt Nam sau 1986, chúng ta thấy các
nhà văn hôm nay đang có xu hướng giảm dần, giảm đến tối thiểu lượng ngôn từ
trong truyện của mình, thậm chí có những trường hợp vắt kiệt ngôn từ đến mức
cực đại. Điều này xuất phát từ nhu cầu tự thân trong hành trình sáng tạo của
người viết. Nhiều cây viết sử dụng dung lượng giản lược như một phương tiện
mới để chuyên chở ý tưởng của họ. Ngoài ra, tính chất, điều lệ của các cuộc thi
truyện cực ngắn đã có những quy ước về dung lượng truyện ngắn. Cuộc thi viết
truyện cực ngắn của Thế giới mới quy định truyện cực ngắn khoảng dưới 2000
từ, từ 300 từ đến 1000 từ. Báo Tuổi trẻ hạn định dung lượng dưới 1200 chữ. Báo
Đất Việt- Truyện ngắn Smartphone quy định 500 từ… Điều này cũng chính là
một sự định danh ngầm cho dung lượng thể loại truyện cực ngắn. Thậm chí, với
một số cây bút, họ quyết định thử nghiệm và đưa ra những tác phẩm chỉ vài chục
âm tiết hoặc một vài ba âm tiết (trong khuôn khổ một từ).
41
Để minh chứng cho cái gọi là rất ngắn này có tính phổ quát (lẽ dĩ nhiên
truyện cực ngắn không chỉ nói đến dung lượng song đây là yếu tố trước hết và dễ
nhận diện), chúng tôi đã làm cuộc kiểm nghiệm nho nhỏ. Khảo sát truyện ngắn
qua hợp tuyển Văn mới 5 năm đầu thế kỉ, chúng tôi có kết quả như sau: trung
bình một truyện ngắn có khoảng 72 đoạn; 388 câu; 4708 chữ. Trong số 41 truyện
khảo sát có 27 truyện được coi là cực ngắn bởi dung lượng dưới 2000 chữ. Ngắn
nhất là Mẹ (Nguyễn Quý Đức): 1426 chữ. Dài nhất là Cuộc chơi của Lê Minh
Khuê (1734 chữ). Trong cuốn Truyện ngắn 1200 từ, tập 2) với 40 truyện cực
ngắn trong đó Dương cầm của Trương Thái Du 1168 chữ; Phép lạ của Châu Thổ
1101 chữ; Dòng sông Mẹ của Võ Tấn Cường 1141 chữ; Ghét học của Thôi Vũ
1185 chữ; Em bé đã ngủ rất bình yên của Trần Thị Hồng Hạnh 1075 chữ; Bong
bóng của Hương Giang 867 chữ… và ngắn nhất là Rau sạch của Duy Hương 544
chữ. Khi nghiên cứu tuyển tập truyện cực ngắn của các nhà văn, chúng tôi nhận
thấy Cây Nhang (Đỗ Ngọc Mộc) gồm 365 âm tiết, Anh Hai (Lý Thanh Thảo) có
vẻn vẹn 189 âm tiết, Tính cách (Nguyễn Thị Hoài Thanh) có 198 âm tiết, Barie
(Phạm Sông Hồng) có 191 âm tiết… Trang web tienve.org là trang truyện cực
ngắn với các tác phẩm không quá 1000 âm tiết, mức phổ biến trong dung lượng
khoảng 400 âm tiết. Trang truyện thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ độc giả,
bao gồm cả độc giả phổ thông và những nhà nghiên cứu. Công nghệ Internet đã
khẳng định tính nhạy bén của mình khi kết nối độc giả- truyện cực ngắn- nhà
văn. Trung bình độc giả mất khoảng bốn, năm phút có thể thưởng thức trọn vẹn
một tác phẩm.
Trong số các cây bút tiêu biểu của truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986, lối
viết truyện của Nhật Chiêu là trường hợp cá biệt. Bằng những gì đã viết, đã trải
nghiệm và thấu hiểu giá trị của truyện cực ngắn, ông cho biết, Lời tiên tri của
giọt sương được ông nén chữ đến mức tối đa. Bút pháp này ông học được từ
thơ Haiku của Nhật và tranh thủy mặc phương Đông. Theo Nhật Chiêu: “Thơ
Haiku chữ rất ít nhưng gợi nhiều. Còn tranh thủy mặc của phương Đông thì đôi
khi chỉ thể hiện ý bút mà loại bỏ bớt các diễn đạt rườm rà. Truyện của tôi chuẩn
bị xuất bản đã học được cách “nén chữ” của hai thể loại trên”. Nhật Chiêu
42
chứng minh lý thuyết mình qua 101 truyện tuyệt ngắn Lời tiên tri của giọt
sương. Tập truyện chia thành bảy phần: Truyện Nhỏ, Truyện Đâu, Truyện Hư,
Truyện Mê, Truyện Ai, Truyện Chơi, Truyện Thời. Trong số đó, những truyện
có dung lượng trên 100 chữ khoảng 10 tác phẩm (Khoa học, Biến hình, Người
xa lạ, Sóng, Nằm, Nhục thân, Mèo, Đầm…); từ 50 chữ đến 100 chữ khoảng 50
tác phẩm (Bức tranh, Cuối cùng và đầu tiên, Tiểu thuyết trinh thám, Thế giới
ảo, Gương, Tên trộm, Cá du, Một cách lễ độ, Vật lạ, Người lạ, Cỏ, Quần áo
không vua, Phép lạ…), truyện dưới 50 chữ khoảng 38 tác phẩm (Tề vật luận,
Chiếc nhẫn, Vong, Hang tối, Thú lạ, Cửa, Tự sự, Cánh cửa của nàng, Vào, Trở
lại, Bình đẳng, Khát, Lên bờ, Trôi, Tình, Đổi ngôi, Cực lạc là đâu…). Đặc biệt
truyện Chúa đánh vần có 3 tiếng, Chết đánh vần có 2 tiếng và Sử thi nàng Si ta
chỉ có một tiếng.
Có thể thấy, giới hạn tận cùng của truyện cực ngắn chính là một từ. Điều
đáng lưu ý là một từ hay một câu, hoặc dăm ba câu trong khuôn khổ truyện cực
ngắn không chỉ định tính về dung lượng mà điều quan trọng trong cái thế vắt
kiệt về dung ngôn đó phải chuyển tải được một quan niệm, một tư tưởng, có
sức ám ảnh đi vào trí vào lòng độc giả. Cực ngắn ở đây được hiểu là cái tinh
anh, tinh sắc và tinh chất của tác phẩm. Nếu truyện ngắn là “lát cắt của cuộc
sống” thì truyện cực ngắn là những mảnh vỡ vụn của lát cắt lấy từ da thịt của
đời sống. Tuy nhiên, trong xu thế giản lược, cô đúc ngôn từ, nhiều độc giả hồ
nghi về giá trị của truyện cực ngắn khi nó được vắt đến kiệt cùng trong dung
lượng một vài từ. Theo các nhà nghiên cứu: những tác phẩm được kiến tạo
bằng một vài từ cũng có thể tạo nên một cốt truyện, tình huống, truyền tải được
tư tưởng, thậm chí trở thành kiệt tác. Nhìn lại tiền thân của truyện cực ngắn,
chúng ta thấy: những mẩu chuyện trong kinh Phật, ngụ ngôn Aesop… được coi
là truyện cực ngắn tuyệt hay. Mẩu truyện Trang Chu mộng vi hồ điệp trong
“Trang Tử- Nam Hoa Kinh” được coi là kiệt tác. Trong văn chương Mỹ La-
tinh, Augusto Monterroso (1921-2003) được ghi nhận là “thiên tài của truyện
cực ngắn”. Truyện Con khủng long của ông chỉ có một câu ngắn gồm tám chữ
tiếng Tây Ban Nha.
43
Như vậy, truyện cực ngắn đang có xu hướng giản lược, thậm chí vắt kiệt
dung lượng đến mức tối đa. Điều này phá vỡ dung lượng truyền thống của truyện
ngắn, tạo nên hình hài độc, lạ, thú vị của truyện ngắn.
2.2.2. Giản lược cốt truyện
Không thể phủ nhận rằng, dường như rất ít người có thể lí giải xác đáng về sự
hấp dẫn đại chúng mạnh mẽ đến như thế của truyện cực ngắn. Cũng không nhiều
người có thể hiểu được tác phẩm với khuôn khổ nhỏ bé ấy chứa đựng những giá trị
gì bên trong. Phải chăng chúng là một thứ mốt thời thượng của kỉ nguyên Internet
toàn cầu? Và cốt truyện của chúng co rút lại khoảng thời gian mà mỗi chúng ta có
thể tập trung chú ý để thưởng thức? Hay đó là những cuộc thử nghiệm thành công
và mở ra con đường tiếp nhận, sáng tác mới cho thể loại?
Trong truyện ngắn truyền thống, cốt truyện gồm: trình bày, khai đoạn (thắt
nút), phát triển (đỉnh điểm), cao trào và kết thúc (mở nút). Một số truyện cực ngắn
vẫn neo giữ được cái khung ấy như Chị tôi, Hoa hướng âm của Hoàng Long, Tìm
người của Đặng Anh Đào, Điếu cày của Phạm Hải Vân… song phần lớn các truyện
cực ngắn đã lược bớt một số phần. Có truyện thiếu phần mở đầu hoặc kết thúc
(Khách thương hồ- Hào Vũ), (Tiểu thuyết trinh thám, Thế giới ảo, Gương- Nhật
Chiêu), (Dạy và học, Thuận vợ thuận chồng- Nguyễn Thị Hậu); có truyện kết thúc
mở, rất ngắn gọn (Hơi hướng đàn ông, Cây nhang- Nguyễn Ngọc Mộc), (Hoa
muộn- Phan Thị Vàng Anh), (Ghét học- Khôi Vũ), (Mùi hành lang- Nguyễn Thị
Minh Thái), (Tấm Cám, Tử vi- Nguyễn Thị Hậu)… Phần trình bày thường xuyên
bị lược bớt, xung đột có thể được đẩy lên cao trào nhưng không nhất thiết nó phải
thực hiện nhiệm vụ mở nút (kết thúc). Nhiều cốt truyện cô lại bằng một hai sự
kiện hay những khoảnh khắc ngắn ngủi. Thậm chí, nó bỏ lửng, để khoảng trống
và nhường quyền cho độc giả tự mở nút theo khả năng, tư duy của mình. Cây
nhang là khoảnh khắc những đứa trẻ đang ngồi chờ đợi cây nhang điện tắt để
được ăn cơm (theo lời mẹ dặn), chúng đợi mãi và ngủ gục trên ghế. Đó là
khoảnh khắc có tính phổ quát trong những gia đình thời hiện đại (khi người ta
thay thế nhang đốt lửa bằng nhang điện) song đầy sức ám ảnh trong gia đình
những đứa trẻ mồ côi, nghèo khó. Người mẹ đã dặn con như thế trong cái vội vã
44
ra khỏi nhà, đến với cuộc hẹn hò mới của mình. Khoảnh khắc đó khiến độc giả
nhận ra những đứa trẻ bị bỏ rơi, lạc lõng ngay trong gia đình. Đói bụng, đói tình
yêu thương, đói sự quan tâm, chia sẻ, săn sóc. Và chúng cô độc ngay chính trong
căn nhà của mình. Chúng chờ cây nhang cháy hết để được ăn, qua cơn đói khát
(nhưng chúng đâu biết nhang điện thì sao cháy lụi được). Và điều gì còn lại
trong tâm trí người đọc, câu chuyện sẽ kết thúc thật sự như thế nào? Không ai
biết, bởi có thể có nhiều cái kết sẽ xảy ra. Nhưng một điều người đọc đều chắc
chắn: Bữa đói của những đứa trẻ hôm nay mới chỉ là sự mở đầu của những cơn
đói. Người đọc đều day dứt, ám ảnh trước khoảnh khắc vô tâm của thế giới
người lớn. Và một điều chắc chắn nữa: sau cái giật mình của người đọc, nhà văn
cũng như những đứa trẻ kia đều mong muốn cuộc sống có tình yêu thương, có
mái ấm bình yên.
Trong Truyện ngắn 1200 từ (tập 1, 2, 3), nhiều truyện chẳng cần một cốt
truyện chặt chẽ như Bước quên (Lan Anh), Em bé đã ngủ rất bình yên (Trần Thị
Hồng Hạnh), Kịch bản 49 ngày (Nguyễn Thị Cẩm Thúy), Rau sạch (Duy
Hương), Thời gian xao động (Trần Nhã Thụy), Sở về (Vương Tâm)… tất cả chỉ
vỏn vẹn trong khoảnh khắc. Bước quên là khoảnh khắc hồi tưởng của “tôi” về
cuộc gặp gỡ, cãi vã… để lí giải về cái chết của Côdet. Mở đầu là thông tin gay
cấn được tung ra ra khu phố: “có người ở khu phố mình thắt cổ tự tử. Nguyên
nhân là cãi nhau với người yêu”. Thông tin mở đầu cho cuộc trao đổi, chất vấn
gay gắt giữa “tôi” và Côdet, nhưng nguy hại hơn, bẵng đi thời gian, Côdet không
online, không viết lách và khép lại là cái chết- một cách nếm trải sự sợ hãi. Với
1101 chữ, qua khoảnh khắc nhớ lại, hồi tưởng, Nguyễn Lan Anh bừng tỉnh “tôi”
và bạn đọc về lẽ sống còn của con người. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến cái
chết: bất đắc kì tử, chết vì bệnh tật, vì đau khổ, tuyệt vọng hay sự sợ hãi… và đôi
khi cũng là một cách con người nếm trải sự sợ hãi. Khác với Bước quên, truyện
Em bé đã ngủ rất bình yên là khoảng khắc em bé xấu số sinh ra trong sự e dè, sợ
hãi bởi mẹ nó đã mắc căn bệnh thế kỉ AIDS và chết vì bị tai nạn trong ngày mưa
dầm dề. Trước những con mắt lạnh lẽo, nó đã được gói vào miếng trắng toát, rồi
lại bỏ vào một nơi trắng, lạnh toát và khép lại là một nấm mộ bé xinh đang phủ
45
đầy những bông hoa hồng trắng với một giấc ngủ bình yên. Kịch bản 49 ngày
(Nguyễn Thị Cẩm Thúy) xuất hiện, ám ảnh người đọc bằng những khoảnh khắc
giàu kịch tính. Trước hết, đó là khoảnh khắc ngỡ ngàng của đôi vợ chồng khi
nhận được tin con mình bị tai nạn trên đường cao tốc. Tiếp theo là khoảng khắc
họ ngồi nhớ lại và nhận ra vở kịch 49 ngày- họ sắm vai những người thành đạt,
có cuộc sống êm ấm dù bên trong bao bọc bởi đứa con hư hỏng, nghiện hút.
Nhưng ngay sau đó, hai vợ chồng họ đã quyết định đốt bỏ cuốn nhật kí, phủi đi
tất cả bi kịch trong gia đình và chuẩn bị một gương mặt điềm tĩnh khi con gái họ
chuẩn bị trở về nhà trước cái chết của anh trai. Cô em gái không hề biết trong 49
ngày qua, người anh trai đã phải nhập vai một đứa con hư hỏng, tội lỗi như thế
nào. Người anh đã đừng chìm lấp trong đau khổ, tuyệt vọng và kết thúc 21 tuổi
xuân của mình bằng phút giây hạnh phúc khi chính anh tự giải thoát mình bằng
vụ án trên đường cao tốc.
Được khẳng định là một trong những cây bút tiêu biểu của truyện cực ngắn,
Phạm Sông Hồng đã khẳng định vị thế của dạng truyện qua dung số hàng trăm
tác phẩm. Truyện ngắn Phạm Sông Hồng là tập truyện mang đến cách xây dựng
cốt truyện đặc trưng của truyện cực ngắn. Nghĩa cử không có nhiều sự kiện
nhưng chạm tới trái tim người đọc với rất nhiều cảm xúc. Đó là khoảnh khắc bi
hài của nhiều chàng trai khi thấy bóng hình của “cô” từ xa họ phải “vượt lên” để
chiêm ngưỡng dáng hình như người mẫu “cao 1m65, chân dài, thẳng, eo lượn
“ngọt”, cái cổ trắng thon hớp hồn”. Tuy nhiên, ngay sau đó họ phải “phanh ngay
xe lại, đọc vuốt lưng cô” những câu đại loại: “Trông dáng cứ ngỡ Thúy Kiều/ Ai
ngờ Thị Nở người yêu Chí Phèo” trong sự thảng thốt khi nhìn ra khuôn mặt “hơi
mất mỹ quan thành phố”. Việc một cô gái có khuôn mặt dị hình, có hai tấm bằng
đại học, hai ngoại ngữ nhưng chưa có tấm chồng (dù đã ngoài ba mươi tuổi) rồi
đột nhiên có sự xuất hiện cuả một chàng trai khôi ngô tuấn tú tối nào cũng đến
nhà cô, rồi tự dưng lại biến mất… và lại xuất hiện bằng một đám cưới tạo nên sự
tò mò của hàng xóm láng giềng. Các cô gái mới lớn ước ao được trúng số độc
đắc như “mẹ nó”. Nhưng sự trớ trêu bất ngờ lại xảy ra khi thằng bé- con của họ
ra đi vì bệnh máu trắng. Người cha nhận ra nguyên nhân chính là chất độc màu
46
da cam đeo bám mình từ chiến tranh. Câu chuyện sẫm màu bi thương được hửng
sáng khi tiếng khóc của thằng bé thứ hai xuất hiện trong niềm nguyện cầu của cả
xóm: “Đứa bé đó vẫn sống. Tuổi nó đã gấp đôi tuổi anh nó”. Quả thực, người
đọc chỉ mất khoảng năm phút để hoàn thành câu chuyện nhưng không biết mình
đã mất bao nhiêu thời gian để thoát khỏi những ám ảnh của câu chuyện. Hình
ảnh đứa bé thứ hai xuất hiện trong truyện phải chăng chính là “nghĩa cử” mà
cuộc đời đã ban cho người lính bước ra khỏi chiến tranh? Nụ cười muộn mằn đã
cất lên sau rất nhiều nước mắt và khổ đau. Tiếng khóc to hơn của đứa trẻ là niềm
đau hay là minh chứng cho sự mạnh mẽ, là những phút giây hy vọng về cuộc
sống tốt đẹp hơn? Cùng với Nghĩa cử, truyện ngắn Khoảnh khắc, Hai giờ sáng,
Chiếc ghế, Cam ngọt… mang đến khoảnh khắc muôn nẻo của cuộc sống của con
người hiện đại. Đó là khoảng khắc tôi gặp lại em sau mười bảy năm xa cách, khi
thỏa thuận xong hợp đồng cho hai cơ quan, tôi muốn níu kéo, nói chuyện ngoài
công việc- chuyện của tôi và em sau những năm dài xa cách, song tôi chợt nhận
ra “cô bé trong tôi hình như đã chết thật” (Khoảnh khắc). Đó là khoảnh khắc
“tôi” chấp nhận bỏ những viên thuốc giảm đau để được sống với cuộc sống khác,
được nếm trải với những cơn đau vào hai giờ sáng (Hai giờ sáng). Đó là khoảnh
khắc chờ đợi và chiếc ghế bỏ không trong cuộc hẹn hò của “tôi” và anh và nhận ra
khi anh đến chiếc ghế vẫn bị anh bỏ không (Chiếc ghế); là khoảnh khắc “tôi” ngồi
đằng sau xe chồng trong tấm áo mưa về nhà trong khoảng 10 phút nhưng nhận ra
“vệt đường của cả đời mình” (Vệt đường). Đó là khoảnh khắc chờ đợi đoàn tàu đi
qua với những tiếng gọi bị nghiến nát bởi bánh tàu, người còn đứng lại với mái tóc
như bạc thêm (Barie); khoảnh khắc chứng kiến người đàn ông xa lạ mang cam ra
bóc, vừa bóc cam vừa thuyết minh rành rọt về những nơi xe đang đi qua đã đánh
thức mảnh đời khác đang vừa thức giấc trong tôi (Cam ngọt), là giây phút muốn
ngồi mãi trên con tàu đi từ ga này đến ga khác (Không ga xuống)…
Có thể thấy, truyện cực ngắn “thể hiện xu thế cuả người viết, người đọc bây
giờ muốn có một cái gì đó mới hơn, phóng khoáng hơn, ít bị gò bó và ràng buộc
hơn, không giống với kiểu truyện ngắn truyền thống- “thường nằm gọn trong các
cấu trúc chặt chẽ”. Ngắn gọn về cốt truyện nhưng không phải vì thế mà truyện
47
cực ngắn nông, nhạt về tư tưởng. Bản thân mỗi cốt truyện có chức năng phản
ánh một vấn đề về đời tư, thế sự. Những khám phá về đời sống được nhà văn nén
chặt trong cốt truyện một cách tự nhiên. Thành công của cốt truyện cực ngắn
nằm ở chỗ: ngắn, gọn nhưng đủ sức chứa về mối quan hệ giữa người với người
trong thời buổi bây giờ. Cốt truyện của truyện cực ngắn có lẽ không chỉ dừng lại
ở cái cốt thông thường, nó là “cốt khí”, là những khoảng khắc ngẫu nhiên hoặc
chủ ý xuất hiện cùng kết thúc bỏ lửng nhưng tạo ra sự đồng thoại giữa bạn đọc
và nhà văn.
2.2.3. Giản lược tối đa nhân vật
Trong truyện ngắn, nhân vật là một trong những yếu tố then chốt làm nên
cốt truyện, “nó tập trung phơi bày, nói lên tất cả”. Sự tham gia của số lượng nhân
vật và kiểu nhân vật là thước đo của dạng truyện. Các nhà văn trong dạng truyện
ngắn cổ điển luôn có ý thức tạo dựng nhân vật điển hình. Trong một truyện ngắn
cổ điển, nhân vật có thể là hàng chục nhân vật trong đó có thể có tới hai hoặc ba
nhân vật điển hình (Chí Phèo, Lão Hạc, Giăng sáng, Đời thừa- Nam Cao; Tinh
thần thể dục- Nguyễn Công Hoan…). Truyện cực ngắn có thiên hướng khác. Số
lượng nhân vật và đặc điểm của nhân vật được giảm lược dường như tới mức tối
thiểu. Trong cuốn Ngắn và rất ngắn với 48 truyện rất ngắn của Nguyễn Thị Hậu,
mỗi truyện có từ một đến hai nhân vật. Bên cạnh những ông tiến sĩ, ông đại tá,
người quân nhân bước ra từ chiến tranh, anh kĩ sư, nhân vật chủ yếu là những
con người đời thường với những thân phận bình thường. Truyện cực ngắn
nghiêng về miêu tả những nét nổi bật trong cuộc đời, số phận của những người
nghèo trong xã hội hiện đại. Thằng bé hát rong, những đứa trẻ nhặt rác, một tên
đào vàng, bà mẹ nghèo ở quê, cô gái quê… và các đồ vật, con vật- tất cả đều có
thể trở thành đối tượng chính của thể loại này.
Các yếu tố về ngoại hình, tên tuổi, chức vụ, thân nhân của các nhân vật
được giản lược tối đa. Trong truyện ngắn truyền thống, nhân vật thường xuất
hiện trước mắt bạn đọc khá rõ ràng về nguồn gốc, xuất thân, gia cảnh, hình
dáng diện mạo… và phẩm chất tính cách. Nhưng với truyện cực ngắn, một số
yếu tố đó đã được lược bỏ. Người viết dường như cố xóa mờ các đường viền về
48
nhân vật. Nhân vật được gọi bằng những tên chung chỉ giới, thân phận, hay
nghề nghiệp: “hắn”, “anh ta”, “một người”, “chàng”, “nàng”, “bà cụ”, “đứa
cháu”, “nó”, “người đàn ông”, “những đứa trẻ”, “chị”, “cô”… Không có tên,
nhân vật sẽ đại biểu cho số đông tương tự. Nhân vật của thời đại bùng nổ thông
tin, thoắt ẩn thoắt hiện trong trong tâm thức người đọc như nỗi ám ảnh. Con
người càng ngày càng bị vật hóa (Thú lạ, Hóa thân, Adam và Ava và những quả
táo héo…). Ngược lại, đồ vật lại có xu hướng “người hóa” đau đáu nỗi niềm như
con người (Đạo sĩ nuôi chim, Cọp và Mèo, Mèo và cá cảnh…). Truyện cực ngắn
cũng không miêu tả trọn vẹn kiếp người, chỉ lựa và lọc lấy một thời khắc, giai
đoạn sinh sắc nhất. Sự căng, chùng, dồn nén, co rút không gian, thời gian (có thể
ở một địa điểm nhất định, thời gian cố định) là một thủ pháp nghệ thuật để nhà
văn biểu đạt nội dung, tư tưởng. Cho nên nhân vật xuất hiện chủ yếu trong một
vài khoảnh khắc nhưng đủ ánh nên một đời người. Đó là một ván cờ người (Ván
cờ người), phút giây gặp lại người xưa (Gai thép), khoảnh khắc ngộ nhận bước
qua vườn địa đàng (Adam và Ava và những quả táo héo), khoảng khắc ngồi đợi
nhang tắt (Cây nhang), khoảnh khắc chiếc barie hạ xuống chắn đoàn người hai
bên đường tàu đang ùn lên (Đoàn tàu và những đứa trẻ)… Hành động của nhân
vật không nhiều nhưng qua hành động đó ta thấy được tính cách, số phận nhân
vật. Chẳng hạn: hành vi rải đinh xuống đường gợi về cuộc đời của anh thợ vá xe
ích kỉ, mánh lới, hại người lợi mình (Gai thép- Vũ Thanh Hoa); sự cởi mở, sẵn
lòng dịch các văn bản từ tiếng Pháp sang tiếng Việt cùng công việc bơm xe đạp
dưới gốc bàng gợi cuộc sống luôn tận tâm vì người khác của ông đại tá (Ông đại
tá- Thích Đức Thiện); hành động ngồi chờ cây nhang điện tắt và ngủ gục trên
ghế gợi cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của những đứa trẻ mồ côi (Cây nhang- Đỗ
Ngọc Mộc), cảnh chen lấn “lao đến sát đường tàu, tìm cho mình lối lách nhanh
nhất” gợi cuộc sống ồn ã, gấp gáp, vội vàng, chen lấn của con người đô thị
(Đoàn tàu và những đứa trẻ- Phạm Sông Hồng)…
2.2.4. Chắt lọc chi tiết
Trong truyện ngắn, chi tiết là một trong những yếu tố rất quan trọng, làm
nên cái sinh sắc của tác phẩm. Nếu như cốt truyện được coi như bộ xương thì chi
49
tiết là máu thịt của thể loại này. Khẳng định về vai trò của chi tiết, Bùi Việt
Thắng cho rằng: “Trong truyện ngắn, ở một chừng mực nào đó, ý nghĩa của
tác phẩm được soi sáng từ bên trong chi tiết. Nhằm làm cho chủ đề tác phẩm
được thể hiện sâu sắc, cần phải tìm được những chi tiết phát sáng, nghĩa là
không tham lam “vơ tuốt” mọi chi tiết đưa vào làm cho tác phẩm thừa và
thiếu” [237; 87].
Với tinh thần “quí hồ tinh bất quí hồ đa”, truyện cực ngắn sử dụng những
chi tiết cực đắt. Chẳng hạn, trong truyện Anh Hai, đứa anh bảo em: “cho em ba
ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi”. Hành động của người anh khiến người đọc rơi
lệ trước ý thức, tình anh em yêu thương của những đứa trẻ nghèo. Chi tiết “ba
ngón”, “hai ngón” là cách nói tắt của hai anh em đứa trẻ nghèo. Người anh
nhường ba ngón tay còn dính kem, hàm chỉ số lượng kem nhiều hơn anh dành
cho em, còn anh ăn ít hơn. Chi tiết nhỏ nhưng gợi tình yêu thương, sự đùm bọc
của anh dành cho em. Đặt trong tác phẩm, chi tiết này tạo nên phép tương phản
gay gắt giữa hoàn cảnh của những đứa trẻ trong xã hội, sự đối lập giữa anh em
đứa bé nhặt rác và thằng bé con nhà giàu. Từ đó, tác phẩm hướng tới phản ánh
hiện thực có tính phổ quát của cuộc sống, của nghịch cảnh “kẻ ăn không hết
người lần không ra”.
Trong một số tác phẩm, nhà văn thường tạo ra những chi tiết bất ngờ làm
đảo lộn nhận thức, tình cảm của nhân vật. Chẳng hạn người đọc đang chìm trong
cuộc đuổi bắt tên “kẻ cắp”, chờ đợi giây phút kẻ gian bị trừng trị thì trái tim
bỗng nghẹn lại khi thấy thằng bé còm nhom, rách rưới, run rẩy vì lạnh. Nó cầm
cái bánh, ăn một miếng, bẻ cho con chó xa lạ với lời giải thích thành thật: “Ăn đi
mày, tao chỉ có vậy thôi” (Kẻ cắp- Đức Hải). Chi tiết xuất hiện chỉ một lần song
tỏa sáng nội dung tư tưởng cuả thiên truyện. Thử lần nữa của Nhật Chiêu kể về
hành động của nàng: “Thức dậy, người đẹp trong rừng vẫn không thấy ai, đành
quyết định ngủ lại, tự nhủ rằng lần này biết đâu sẽ may mắn hơn” [6; 180]. Chi
tiết người đẹp quyết định ngủ lại đã thay đổi suy nghĩ cũng như những cảm tình
độc giả vốn dành cho nàng. Ngược lại với cái nhìn yêu mến, độc giả nhận ra lối
sống dựa dẫm, ỷ nại vào người khác của nàng rất tiêu biểu cho kiểu sống tầm
50
gửi, “há miệng chờ sung” của con người trong xã hội hôm nay. Số sướng (Phạm
Sông Hồng) mở đầu với cuộc sống viễn mãn của Hoa. Khi “chúng tôi đang phơi
nắng ở ngoài công trường, có đứa còn vất vưởng vì chưa xin được việc làm”, ai
cũng cầu mong được một phần “số sướng” như Hoa: vào được trường đại học
mình thích, lấy chồng, đi Tây, phụ trách một đoàn công nhân… Ấy vậy mà, khi
chia tay, Hoa ghen tị với chúng tôi: “Chúng mày sướng thật đấy!”. Nó bảo:
“chúng tôi sướng vì còn thích cái này, ham cái kia, muốn cái nọ. Còn nó, nó
chẳng biết thích cái gì nữa và vô cùng buồn chán” [23; 226]. Câu nói của Hoa
tưởng chừng mâu thuẫn nhưng lại chỉ ra những điều có tính phổ quát: Trong
cuộc sống, khi con người chưa kịp thích, chưa kịp mong muốn đã có người bày
sẵn những điều mình thích mình mong muốn và đều đạt được hết thì cuộc sống
như thế thật vô nghĩa và nhạt nhẽo.
Shekhop quan niệm: “chi tiết là vàng”. Việc sáng tạo chi tiết hay, độc đáo,
đa nghĩa chính là giá trị, là sự sống của truyện cực ngắn. Khi cốt truyện được
giản lược, nhân vật bị lược bớt… thì sức sống của truyện cậy nhờ ở chi tiết.
Cách chọn lựa chi tiết khẳng định vị thế của người cầm bút. Có những truyện
cực ngắn chỉ vỏn vẹn dung lượng dưới 50 từ nhưng ý nghĩa của nó được diễn
giải, ghi chép lại trong khuôn khổ vài ba trang giấy. Sức chứa, sức gợi, “từng từ
phải âm vang thành hàng chục từ không nói”.
2.3. Một số dạng truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986
Bất cứ thể loại văn học nào cũng tồn tại trong những mối quan hệ kế thừa
và sáng tạo, phát triển nội sinh và tương tác thể loại. Dạng truyện cực ngắn cũng
không ngoại lệ. Có thể nói tính đến thời điểm khảo sát của luận án (2019), truyện
cực ngắn đã trở thành một hướng sáng tác đã và đang hưng thịnh. Khi khảo sát
truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986, chúng tôi nhận thấy: với bề dày về số
lượng tác phẩm cùng với cá tính sáng tạo riêng cuả mỗi nhà văn mang tới sự đa
dạng về phong cách và hình thành nên các tiểu thể loại của truyện cực ngắn.
Cho nên, chúng tôi thiết nghĩ, việc trình bày các tiểu loại truyện cực ngắn là
một việc làm thiết thực và ý nghĩa. Điều này góp một cái nhìn chi tiết và cụ thể
hơn về đời sống của truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Truyện ngắn không chỉ
51
đa dạng theo một số dạng truyện mà bản thân mỗi dạng lại đang có thiên hướng
phân nhánh, phân chi… làm nên sự phong phú, đa dạng của truyện ngắn.
Khi nghiên cứu truyện cực ngắn, nếu chúng ta đem các tiêu chí phân loại
truyện ngắn (chúng tôi đã trình bày ở Chương 1) vào đối sánh với truyện cực
ngắn thì chúng ta thấy: truyện cực ngắn đang có xu hướng đa dạng các tiểu
loại. Dựa vào đề tài, truyện cực ngắn phân loại thành truyện thế sự (Ván cờ
người, Sầu riêng, Thật may, Mèo và cá cảnh …); truyện đời tư (Hoa muộn, Hơi
hướng đàn ông, Hoa chanh cuối vụ, Ông đại tá…). Dựa vào cảm hứng, truyện
cực ngắn bao gồm: truyện cực ngắn triết luận (Hoa hướng âm, Đạo sĩ nuôi
chim, Con gà què…); truyện cực ngắn trào phúng (Gian lận với trời, Điếu cày,
Kịch bản 49 ngày…); truyện cực ngắn trữ tình (Hoa muộn, Hoa chanh cuối vụ,
Cam ngọt, Không ga xuống…). Dựa vào dung lượng, truyện cực ngắn có thể
phân chia: truyện cực ngắn 1200 từ (Bước quên, Nắng muộn, Người xưa, Phép
lạ, Đảo hoang…), truyện cực ngắn một câu (Bầu trời, Hư, Nguyên sơ…),
truyện cực ngắn trên một câu (Thú lạ, Cá du, Bức tranh…). Căn cứ theo thi
pháp thể loại, chúng tôi nhận diện: dạng truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986
nổi bật với hai hướng phát triển chính (truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn và
truyện cực ngắn giàu chất kịch). Đây là hai tiểu dạng làm nên sự độc đáo, đặc
sắc cuả thể loại truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986.
Về mặt cơ bản, truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn, truyện cực ngắn
giàu chất kịch mang những đặc điểm chung của truyện cực ngắn: tính ngắn gọn
về dung lượng, giản lược cốt truyện, giản lược nhân vật và chi tiết. Ngoài ra,
hai tiểu dạng truyện mang tính tổng hợp, ảnh hưởng của thể loại khác. Khát
vọng sáng tạo truyện ngắn nói chung và truyện cực ngắn nói riêng không có
giới hạn. Cùng một tiểu loại nhưng các nhà văn không ngừng thử nghiệm, sáng
tạo cách thể hiện mới. Có xu hướng mong muốn trọng cái cực ngắn của truyện
vẫn truyền tải được những bài học quy châm đắt giá, mang cách viết của truyện
ngụ ngôn; lại có xu hướng muốn phản ánh những mâu thuẫn, xung đột tiêu biểu
của con người thời hiện đại, kiến tạo truyện như một vở kịch cực ngắn… Sự đa
dạng này chính là một minh chứng cho thấy tính phát triển, uyển chuyển, mềm
52
dẻo của dạng truyện cực ngắn. Sau đây, chúng tôi xin sơ lược những đặc điểm
tiêu biểu, nổi bật của từng tiểu dạng.
2.3.1. Truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn
Truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn là cách gọi cho một kiểu nguyên tắc
sáng tác, tiếp thu những đặc điểm nổi bật của thể loại truyện ngụ ngôn truyền
thống. Khái niệm ngụ ngôn bao gồm các tiểu dạng như phúng dụ- Parabole và
ngụ ngôn- Fable. Theo lời dẫn của Ngô Đức Thịnh: Parabole “là một câu chuyện
giản dị về bài học đạo đức hoặc tôn giáo; là một phép ẩn dụ có tính giáo huấn, nó
thường xuất hiện dưới hình thức là kể chuyện mà như một cuộc trò chuyện”
[138; 666]. Parabole cũng được hiểu là một kiểu lời nói, một câu chuyện bằng
phúng dụ để truyển tải những triết lí, những bài học nhân sinh. Parabole xuất
phát từ tôn giáo, các câu chuyện trong Kinh thánh, thông qua các phúng dụ, ẩn
dụ để con người có thể thấu hiểu được chân lí. Nếu ngụ ngôn- Fable chỉ có thể
tồn tại trong tư cách là một thể loại của văn học dân gian thì phúng dụ- Parabole
mở rộng biên độ vào bộ phận văn học bác học, đặc biệt truyện ngắn hiện đại và
hậu hiện đại. Dạng truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn là sự kế thừa mạch
nguồn của ngụ ngôn truyền thống, đồng thời không ngừng biểu đạt với hình thức
mới, truyền đạt những thông tin nhạy bén của thời cuộc và con người hiện đại.
Truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn mang đầy đủ các đặc điểm của truyện
cực ngắn. Ngoài ra, nét riêng biệt, độc đáo của nó được thể hiện qua những điểm
nổi bật:
2.3.1.1. Nhân vật ám dụ
Nhân vật là yếu tố cơ bản và trung tâm của bất cứ tác phẩm văn học nào.
Hình tượng nhân vật cụ thể sẽ cho ta thấy cách nhìn, quan niệm nghệ thuật về
thế giới và con người của nhà văn. Trong truyện ngụ ngôn truyền thống, nhân
vật chủ yếu là con vật. Đến với truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn, nhân vật rất
đa dạng, là phương tiện chuyên chở quan niệm, triết lí về đời sống và con người.
Nhân vật vẫn có thể là con vật như: con cóc (Cóc- Nhật Chiêu); con mèo, con
chuột, con cá, con thú (Mèo, Thú lạ- Nhật Chiêu, Cọp và mèo, Mèo hay chuột,
Mèo và cá cảnh- Nguyễn Thị Hậu)… Nhân vật có thể là đồ vật như: cái khóa,
53
cái cửa, cái điện thoại, lô cốt (Khóa, Cửa, Điện thoại, Lô cốt- Nguyễn Thị
Hậu)… Nhân vật có thể là người hoặc thần linh, ma quỷ xuất hiện trong các
truyện như: Đạo sĩ nuôi chim (Hoàng Long), Hóa thân, Adam và Eva và nhưng
quả táo héo (PK), Buổi sáng của thần Mặt trời (Mạn Vũ)… Một trong những
điểm tương đồng của nhân vật trong truyện ngụ ngôn và nhân vật trong truyện
cực ngắn giàu chất ngụ ngôn đó là nhân vật được “ước lệ hóa”, quy ước để
chuyển tải những lời quy châm, những bài học đạo đức. Nhân vật là phương tiện
để nhà văn truyền tải những tư tưởng. Tuy nhiên, một điểm mới lạ trong mô hình
nhân vật của truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn đó là nhân vật được soi chiếu
từ nhiều góc diện, tạo nên kiểu nhân vật lưỡng diện. Xóa bỏ quan niệm xây dựng
nhân vật nguyên phiến, nhân vật hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc thanh cao, hoặc thấp
hèn… là nguyên tắc xây dựng nhân vật trong truyện ngụ ngôn.
Truyện Thú lạ của Nhật Chiêu:
“Từ trong tôi con thú lạ chui ra, đứng đối diện với tôi
- Ngài sai bảo gì ạ?
- Mi… à không… ta không…
- Ngài không nhớ ra kẻ tôi tớ này à?
- Quen… Không có ai quen với ta hơn mi.
- Thế…
Và tôi sai con thú lạ đi làm một việc mà bản thân tôi không dám làm” [6; 37].
Toàn bộ câu chuyện gồm hai nhân vật: người và con thú lạ. Các nhân vật
được lược bỏ các yếu tố về hình dáng, diện mạo, chỉ còn lại mối quan hệ giữa
các nhân vật: con thú lạ từ trong tôi chui ra. Đây là mô hình chứng minh tính
hiện đại của truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn. Trong truyện ngụ ngôn truyền
thống, con vật thường được nhân hóa như con người, con vật được trao một số
đặc điểm tính cách như con người. Truyện cực ngắn Thú lạ được nhà văn đã sử
dụng kĩ thuật “vật hóa” để mở rộng biên độ trong nhận thức và tư duy: nhân vật
là con người, song trong đó tồn tại một con thú. Con thú đó luôn có khả năng
làm một việc mà “bản thân tôi không dám làm”. Qua truyện, bài học quy châm
được rút ra: trong con người luôn tồn tại hai phần (con và người); con thú lớn
54
nhất trong cuộc sống này không phải là con vật, chính là những con người mang
tâm địa con vật, tàn nhẫn, hoang dã, bầy đàn như con vật.
Truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986 giàu chất ngụ ngôn bày tỏ quan niệm
triết lí và bài học về con người. Nếu truyện ngụ ngôn truyền thống thiên về nhận
thức những giá trị cuộc sống, răn dạy đạo đức thì truyện cực ngắn giàu chất ngụ
ngôn phản ánh những chuỗi suy tư, chiêm nghiệm về những nỗi niềm muôn thuở
của thân phận người, những trải nghiệm của quy luật đời sống thời hiện đại. Để
truyền tải điều đó nhà văn đã sử dụng kiểu nhân vật ám dụ.
Đạo sĩ nuôi chim của Hoàng Long là câu chuyện kể về ông đạo sĩ và bầy
chim. Bằng phép thuật, ông biến tất cả những con chim bay vào căn phòng của
mình thành chim giấy và trao cho chúng một sợi dây, một trái tim đá. Ban đầu,
lũ chim chỉ chọn sợi dây và quyết treo mình lơ lửng giữa trần nhà để giữ gìn sự
thanh cao. Tuy nhiên, ngày một ngày hai, chúng không cự tuyệt nổi với món ăn
quen thuộc: những hạt thóc trên sàn nhà. Chúng quyết định chọn trái tim bằng đá
để rơi xuống sàn nhà, mổ thóc. Duy nhất có một con không làm như vậy. Qua
tháng năm, con chim giấy đã bạc màu, nó vẫn đứng đó. Nó ước mơ “có một
ngọn cuồng phong” đến, xé nát thân mình để được bay ra thế giới ngoài kia với
bầu trời tự do. Những con chim và hoàn cảnh thực tại của chúng là cách nhà văn
sử dụng để ám dụ về đời sống con người thời hiện đại. Để có một trái tim đích
thực (như con chim duy nhất kia) con người cần phải biết chấp nhận sự đánh đổi,
phải biết vượt qua những cám dỗ vật chất tầm thường, phải có tinh thần thép.
Nhưng điều này thật hiếm! Đối ngược với điều đó là xu hướng chạy theo vật
chất để tồn tại của tầng tầng, lớp lớp người. Hơn thế, rất nhiều người sẵn sàng
đánh đổi mọi thứ để có được vật chất như họ mong muốn, như bầy chim kia.
Trong truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn, nhân vật ám dụ được xây
dựng dựa trên những nghịch lí. Những loại nghịch lí cơ bản bao gồm: nghịch
lí giữa chân lí xác tín của cộng đồng và chân lí cuả cá nhân, do cá nhân phát
hiện; nghịch lí giữa điều được xem là chân lí, mặc nhiên đúng với những hạn
chế của nó; nghịch lí giữa những điều ta nhận thức được về sự vật hiện tượng
với bản chất thực và những khả năng của nó.
55
Sau đây, chúng tôi xin trích dẫn truyện Qua cầu treo của Nguyễn Thị Hậu:
“Voi và chuột đi qua cầu treo. Thấy cây cầu lắc lư, chuột sợ quá bèn trèo
lên lưng voi.
….
Ở trên cao đừng vội huênh hoang, nhất là khi đứng trên lưng người
khác” [80; 51].
Nhân vật con chuột tưởng rằng khi nó trèo lên lưng con voi thì nó hoàn
toàn yên vị (theo nhận thức của chuột), nó sẽ thoát khỏi cái chết nhưng sự thật
không phải như vậy. Bản chất cây cầu là “cầu treo”, “lắc lư” và “oằn mình
dưới sức nặng” của voi và chuột. Vì thế khi voi nghiêng mình thì chuột đã
tuột khỏi lưng voi và rơi xuống sông. Hơn nữa, qua việc tạo dựng tình thế đối
nghịch, truyện quy châm về nghịch lí có tính phổ quát trong xã hội: những
người có được vị thế cao trong xã hội nhờ vào dựa dẫm, “đứng trên lưng
người khác thường huênh hoang”. Tuy nhiên, do vị thế không phải được tạo
nên bằng tài năng, sức lực của mình nên họ sẽ nhanh hay chóng bị hạ bệ.
Có thể nói, với cách xây dựng nhân vật ám dụ, truyện cực ngắn giàu chất
ngụ ngôn đã phát triển thành một tiểu loại riêng trong dạng truyện cực ngắn. Với
kiểu nhân vật ám dụ đã đưa nhân vật trong truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn
vượt khỏi phạm vi kiểu nhân vật trong truyện ngụ ngôn truyền thống, mở ra
những nội dung mới mang tính thời đại, thời sự; truyền tải những suy tư, chiêm
nghiệm về quy luật đời sống thời hiện đại.
2.3.1.2. Trần thuật có định hướng
Một phương diện quan trọng để tạo nên truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn đó
là nghệ thuật trần thuật có định hướng. Đối với một truyện ngắn nói chung và truyện
cực ngắn giàu chất ngụ ngôn, nghệ thuật trần thuật biểu hiện trên ba phương diện:
điểm nhìn trần thuật và giọng điệu trần thuật.
Trước hết là điểm nhìn trần thuật. Nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền đã
khẳng định: “Điểm nhìn trần thuật có vai trò như ống kính, dẫn dắt người đọc
theo dõi, quan sát chi tiết và diễn biến có ý nghĩa đặc biệt của tác phẩm”.
56
Đúng vậy! Người viết truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn đã sử dụng “ống
kính” này định hướng cách viết cho mình và dẫn người đọc đi theo xa lộ mà
mình đã tạo ra. Trong truyện ngụ ngôn, người kể chuyện là người đóng vai
trò rao giảng đạo đức, người nghe chỉ thụ động tiếp nhận chân lí mà nhà văn
đã kín đáo gài sẵn trong tác phẩm. Câu chuyện Bó đũa là bài học về tinh
thần đoàn kết, một bài học đạo đức mà người cha đã truyền đến các con
trong truyện. Khi những đứa con bó tay, bất lực thì người cha đã mở đường,
khai sáng. Đến với truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn, người kể chuyện
theo hướng đó dường như bị gỡ bỏ. Truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn
hướng tới sự dân chủ trong nhận thức và phản ánh, vì vậy người kể chuyện
chỉ nêu ra câu chuyện, đặt nhân vật vào những tình huống nhận thức, những
sự kiện tác động đến người đọc, kích thích họ suy nghĩ và tri nhận. Ngoài ra,
người kể chuyện gieo vào lòng người đọc những ám ảnh gây phản tỉnh nhận
thức và tình cảm.
Trong Khuôn mặt, (Trần Tuấn Đạt) người kể chuyện lần lượt kể cho người
đọc nghe câu chuyện về nhân vật cô- người có sở tích dùng kem lột da, dùng
khuôn mặt nhân tạo thay cho khuôn mặt thực của mình. Điều này dẫn đến sự việc:
khi cô qua đời, người thân không thể đọng lại trong tâm trí bất cứ hình ảnh nào về
khuôn mặt thực của cô. Bởi lẽ, cô chưa bao giờ để mặt mộc. Tình huống truyện
tác động mạnh vào nhận thức của người đọc. Hình ảnh khuôn mặt của nhân vật cô
được láy đi láy lại nhiều lần trong văn bản như một điểm nhấn gây ám ảnh nơi độc
giả. Khuôn mặt mà cô thay đổi liên tục ám dụ cho sự mất mát, phai mờ những giá
trị riêng, giá trị đích thực trong cuộc sống. Chi tiết hình ảnh khuôn mặt luôn thay
đổi của cô gái gợi nghĩ về lối sống phi cá tính của con người trong xã hội hiện đại.
Con người luôn có xu hướng chạy theo số đông, và để khẳng định bản thân, con
người đã tự tạo ra vô số khuôn mặt của mình. Bởi vậy, họ đã đánh mất giá trị
sống đích thực của cá nhân mình.
Tương tự, hình ảnh con chim với khát khao được bay ra ngoài bầu trời tự
do (Đạo sĩ nuôi chim- Hoàng Long), hình ảnh chiếc chìa khóa ([Không phải]
Version 2: Con cáo và chùm nho- Hoàng Thùy Linh), hình ảnh nhà thơ (Nhà
57
thơ- Trần Dần)… đều thể hiện khao khát vượt qua những cám dỗ tầm thường,
nhỏ nhặt, được khẳng định mình, làm nên giá trị của mình. Tuy nhiên, tài năng,
khát vọng, tương lai của họ luôn bị đóng kín bởi cái xã hội lạc hậu bảo thủ, trì trệ
mà con người đang phải đương đầu. Có thể nói, trần thuật có định hướng không
chỉ tạo nên sự ngắn gọn, súc tích cho truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn mà
thúc đẩy những bài học quy châm đến nhanh trong suy nghĩ cuả độc giả. Tất cả
các ý nghĩa cụ thể của văn bản được mờ nhòe đi, gieo vào tâm thức người đọc
những câu hỏi lơ lửng, những hoài nghi, những hình ảnh mang tính triết lí. Về
phương diện này, truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn cũng là một thách thức với
người đọc. Người đọc phải dùng tri thức, vốn kinh nghiệm, văn hóa của mình để
giải mã biểu tượng cũng như nhận thức về toàn bộ giá trị văn bản. Biểu tượng
trong trong truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn là những tín hiệu thẩm mĩ độc
đáo và sâu sắc, mang màu sắc hiện đại.
Sức hấp dẫn của truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn được thể hiện qua
giọng điệu trần thuật. Giọng điệu “là một thái độ đối với người nghe của người nói
trong văn chương” (I.A.Richards), do đó xác định được giọng điệu trong tác phẩm
giúp người đọc thấu rõ hơn về quan điểm trần thuật của người kể chuyện cũng
như tác giả. Truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn đã sử dụng nhiều giọng điệu
khác nhau tuy nhiên, mục đích cao nhất cuả dạng truyện là truyền tải những giá
trị, những lớp nghĩa ám dụ, vậy nên giọng điệu chủ đạo là giọng giễu nhại, mỉa
mai, châm biếm. Để bật lên chất giọng, nhà văn sử dụng nghệ thuật tương phản,
đối lập. Nhân vật, chi tiết trong sự tương phản trước- sau; trong- ngoài, bản chất-
biểu hiện… Thú lạ (Nhật Chiêu) sử dụng chi tiết đối nghịch của nhân vật “tôi”.
Ban đầu, anh ta chối bỏ việc quen biết với con thú lạ nhưng sau khi bị con thú
vạch trần, anh ta thừa nhận, sai tiếp con thú đi làm một việc mà bản thân anh ta
không dám làm. Qua những đối nghịch và cách giải quyết những đối nghịch, nhân
vật tôi hiện diện đúng với bản chất thật của mình. Cũng từ đó, ý nghĩa câu chuyện
bật lên với giọng mỉa mai, châm biếm. Trong Qua cầu treo, Nguyễn Thị Hậu lựa
chọn rất khéo léo tình huống đối nghịch của con chuột. Ban đầu là sự an yên với
58
niềm kiêu ngạo của nó khi đứng trên lưng voi nhưng ngay sau đó là sự thất thế
đến thảm bại sau khi rơi xuống sông.
Giọng điệu giễu nhại, mỉa mai trên là giọng chủ âm, đặc trưng cuả thể loại. Nó
góp phần tác động vào nhận thức, mang tính giáo dục cao. Đằng sau đó là sự suy
tưởng, biết bao triết lí, suy nghiệm về cuộc đời, về con người. Đằng sau cái cười, sự
giễu nhại là những trăn trở, day dứt, quan hoài về hiện thực và con người. Chất
giọng đó cùng với các yếu tố khác trong tác phẩm tạo nên sự hoàn chỉnh của một
văn phẩm, phục vụ tối đa phương thức phúng dụ qua lớp ngôn từ ít ỏi.
Tóm lại, trong sự đa âm, đa sắc của truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986,
truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn đã trở thành một chi lưu không chỉ giàu có ở số
lượng mà còn được khẳng định qua chất lượng nghệ thuật. Sự hiện diện của truyện
cực ngắn giàu chất ngụ ngôn là một sự khẳng định về tư duy nghệ thuật của các nhà
văn hiện đại trong đó đặc biệt là những cây bút trẻ, mới vào nghề: họ đã tạo dựng
được chỗ đứng của mình trong văn đàn. Qua nghiên cứu kiểu truyện cực ngắn này,
chúng tôi tin tưởng rằng truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn sẽ còn tiếp tục phát
triển và tạo nên những chùm quả chín, bởi lẽ đây là tiểu thể loại phù hợp với đặc
trưng trí tuệ của thời đại công nghệ số.
2.3.2. Truyện cực ngắn giàu chất kịch
Trong lịch sử phát triển của truyện ngắn Việt Nam, truyện ngắn giàu chất
kịch cũng là một tiểu dạng cơ bản trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-
1945 với các cây bút tiêu biểu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Bùi
Hiển… Từ sau Cách mạng cho tới trước 1986, do điều kiện, hoàn cảnh của đất
nước (văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn) nên
dạng truyện này tạm thời lắng xuống. Sau 1986, dạng thức sáng tác đó ngày càng
nở rộ, phù hợp với con người, thời đại. Truyện cực ngắn giàu chất kịch có những
đặc điểm nổi bật sau:
Với truyện ngắn, yếu tố tự sự được coi là phẩm chất trước hết cuả bất kì
tác phẩm nào, song truyện ngắn được coi là truyện giàu chất kịch khi yếu tố
“kịch” đã trở thành một phẩm chất mới, kết dính với tự sự. Truyện cực ngắn
59
giàu chất kịch hướng đến phản ánh những mâu thuẫn, xung đột đầy kịch tính
của cuộc sống, giữa con người với con người, giữa con người với các thang bậc
giá trị, giữa con người với chính bản thân mình, giữa các giá trị xưa và nay…
để làm nổi bật những hiện tượng tầm thường, kệch cỡm, đáng cười trong cuộc
sống hiện đại.
Các cây bút truyện cực ngắn giàu chất kịch coi “sự kiện hành động” là chất
liệu của cốt truyện; tình huống truyện với những xung đột thường được đẩy lên đến
đỉnh điểm, sau đó tác phẩm khép lại với kết thúc bất ngờ. Ngoài ra, đa dạng loại
hình nhân vật, nguyên tắc hài và đối lập tăng tiến là những yếu tố then chốt của thể
loại truyện ngắn này. Làm nên diện mạo của truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986
giàu chất kịch là Nguyễn Đức Nghĩa (Sống chết có nhau, Chiếc đồng hồ), Đặng
Anh Đào (Bản đàn xưa, Chú bé bán báo), Nguyễn Quốc Văn (Lễ vật máu), Hoàng
Minh Tường (Vàng), Đức Hải (Kẻ cắp), Lê Thanh Huệ (Tìm cha), Hòa Vang (Kẻ
đạo văn), Nguyễn Thị Hoài Thanh (Tính cách), Nhật Chiêu (Vật lạ), Trần Tấn Đạt
(Nhà thơ), Lý Thanh Thảo (Anh Hai), Đỗ Ngọc Mộc (Cây nhang), Vũ Thanh Hoa
(Gai thép), Nguyễn Thị Thanh Bình (Ly hôn thật giả), Lã Thế Khanh (Đồng vọng
ngược chiều), Nguyễn Thị Việt Hà (Cá vụn kho tiêu), Nguyễn Thanh Bình (Thật
may), Hoàng Nhật Tuyên (Đám cưới chuột), Nguyễn Thị Hậu (Gãy chân, Say bờ,
Đèn đỏ, Mèo và cá cảnh)… trong đó Nguyễn Đức Nghĩa, Đặng Anh Đào, Hòa
Vang, Nguyễn Thị Việt Hà, Nguyễn Thị Hậu là những cây bút đặc sắc.
2.3.2.1. Tình huống dồn nén, chứa đựng mâu thuẫn, xung đột
Nếu như dạng truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn thường có cốt truyện
hướng tới một triết lí, một chiêm nghiệm nhân sinh thì dạng truyện cực ngắn giàu
chất kịch lại đặt tâm điểm vào việc phô bày thực trạng đời sống xã hội hiện đại.
Mỗi truyện cực ngắn giàu chất kịch là một màn kịch cực nhỏ nhưng lại có sức tái
hiện bề rộng của đời sống.
Các nhà văn lựa chọn, sử dụng những thủ pháp của kịch để tạo ra một
kiểu cấu trúc tự sự mới. Trước hết, truyện cực ngắn giàu chất kịch tập trung
vào những mâu thuẫn, khập khiễng của con người cá nhân và xã hội. Nó tái
60
hiện những xung đột nảy sinh- những mặt trái của xã hội hiện đại. Mỗi truyện
ngắn tựa như một vở kịch nhỏ khá hoàn chỉnh về một góc khuất nào đó trong
cuộc sống thường nhật của mỗi người.
Em không biết của Phạm sông Hồng là một tác phẩm tiêu biểu. Ngay từ
nhan đề văn bản, tác giả đã đưa người đọc vào tình huống với những nghi hoặc,
mâu thuẫn của nhân vật chính “em” về chuyện tình yêu, hôn nhân của chính
mình, sự đối nghịch giữa khát vọng và thực tế. Truyện mở ra với câu chuyện
tình đẹp của em và anh cùng những cuộc hẹn hò: “Hồi ấy khu tập thể nhà tôi
thường đóng cửa vào lúc mười một giờ khuya. Vì thế cứ mười một giờ kém
năm là anh dắt xe ra khỏi khu tập thể, đứng vật vờ bên kia cổng như một người
đi đường. Còn tôi thoáng thấy người trực đi vào là tôi đóng của nhà mình rồi
cũng đi ra cổng. Những vòng sắt quấn quanh lỗ khoét ở cổng khu tập thể chỉ
chừa lại có một khoảng nhỏ xíu vừa đủ cho tôi thò một ngón tay sang bên kia.
Anh hôn lên ngón tay được thò qua cái khoảng nho nhỏ ấy khi chia tay” [23;
116-117]. Câu chuyện tưởng chừng cứ tiếp diễn và sẽ khép lại với tờ thiếp cưới
đỏ thắm nếu như không có sự xuất hiện của “người ấy”. “Người ấy” đã xuất
hiện với một cái nhìn “da diết, níu kéo”. Và em đã nhận ra: mình bị “hút theo”
ánh mắt đó, sẵn sàng từ bỏ mọi thứ để có được ánh mắt đó. Con người ấy ở
đây, có thật hay không có thật “em không biết”, chỉ biết một điều lòng mình
khao khát và luôn tìm kiếm. Đã nhiều năm trôi qua, em vẫn đợi, vẫn chờ
“người ấy”. Và có thể em “chẳng bao giờ gặp được người ấy” nhưng vẫn đinh
ninh người ấy vẫn chờ mình phía bên kia cổng sắt.
Truyện cực ngắn Gai thép của Vũ Thanh Hoa kể về cuộc gặp gỡ của “chúng
tôi” sau những năm dòng xa cách. Trước đây, chúng tôi đã có một tình yêu mộng
mơ của thời sinh viên nhưng do hoàn cảnh đành chia tay, ai về phận nấy. Cuộc
gặp gỡ mở ra với hoàn cảnh đầy trớ trêu: “Sáng nay trên đường tới chợ, xe tôi
bỗng “xì” như một tiếng thở dài. Tôi dắt xe vào căn nhà ven đường có tấm biển
“VÁ ÉP HONDA, XE ĐẠP”. Nào ngờ đó chính là nhà chàng”. Sau phút giây
“choáng váng”, hình ảnh của chàng hiện lên trước mắt tôi vẫn là một anh chàng
đẹp trai nhưng “phong trần hơn xưa”. Tuy nhiên, chàng không nhận ra. Tôi trở về
61
với biết bao cảm xúc. Sau những hồi hộp, chờ đợi, tôi mạnh dạn đến gặp chàng.
Hôm nay, tôi lén đi sau chàng. Và trước mắt tôi: “Chàng đang rải những chiếc
đinh xuống đường! Những cái gai thép đâm thẳng lên trời, nhòe nhoẹt ánh trăng,
ánh điện”. Câu chuyện đi từ cái tréo ngoe trong cuộc hội ngộ giữa tôi và chàng; sự
đối lập giữa vẻ đẹp phong trần của chàng và hành vi nhỏ nhặt, tầm thường khi chính
tay chàng đang rải đinh xuống đường; từ sự đối lập giữa cảm xúc hồi hộp đợi chờ
tái ngộ với biết bao kì vọng và sự thất vọng, hụt hẫng. Truyện đã khép lại với tiếng
kêu thảng thốt cuả nhân vật chính, bật lên nỗi niềm chua chát và thất vọng.
Gần gũi với Gai thép, truyện cực ngắn Kí ức bất nhã đưa người đọc đến với
những góc mảng đối lập giữa quá khứ và hiện tại. Sau ba năm li dị, sau những
đắng cay, đổ vỡ hạnh phúc, chị và chàng (người yêu đầu tiên thuở đại học) gặp
lại nhau. Cũng giống như những cuộc trở về của những mối tình đầu không
thành nào, họ hẹn hò và tưởng chừng đã tìm được hạnh phúc đánh mất: “Anh đặt
bàn ăn với đôi nến trắng, hoa hồng và rượu sâm banh… Anh dìu chị lên căn
phòng hạng nhất, nơi có những cửa rèm lãng mạn và ánh sáng mờ ảo dìu dịu”.
Nhưng cũng trong giây phút ngọt ngào đó, những xung đột xuất hiện trong suy
nghĩ của chị. Bất chợt, chị nhận ra: mùi nước hoa sành điệu từ anh nhắc chị nhớ
về mùi mồ hôi hăng hắc giữa trời nắng ngày nào khi gò lưng chở chị; bàn tay dịu
dàng, thành thạo gợi chị nhớ về sự run rẩy, lóng ngóng, vụng về ngày nào. Sự
lãng mạn (hôm nay) hoàn toàn đối lập với sự giản dị, mộc mạc thậm chí nghèo
khó (hôm qua). Điều đó đã khiến chị bừng tỉnh, nhận ra cái chị cần ở anh là sự
chân tình và giản dị và điều đó đã biến mất. Cuộc gặp gỡ diễn ra trong khoảnh
khắc nhưng kết lại bằng sự hẫng hụt mênh mang, cảm xúc giằng xéo, mâu thuẫn
dồn nén trong tâm can nhân vật.
Truyện Ly hôn thật giả của Nguyễn Thị Thanh Bình xoay quanh chuyện ly
hôn. Do cuộc sống khó khăn, anh chồng đã tính toán với cuộc vợ ly hôn giả.
Không ngờ, ba tháng sau anh ta lấy vợ thật, chị tìm đến nhưng được đón tiếp bằng
câu trả lời với cái cười khẩy của anh: “Giấy trắng mực đen rành rành, luật pháp
nào cho phép giả?” [63; 22]. Chị cay đắng trở về, xót xa vì việc li hôn giả hóa ra
thành thật. Chị đã bị lừa. Nhưng may mắn, ít lâu sau chị trúng hai tờ vé số và giàu
lên nhanh chóng. Chuyện li hôn thật lại được anh chồng đảo ngược khi đến xin
62
tiền với danh nghĩa việc li hôn chỉ là giả. Lần này, chị đã đáp trả anh bằng câu nói
của anh hôm nào. Câu chuyện ngắn gọn, tình huống kiến tạo với vài ba sự kiện
nhưng chứa đựng nhiều mâu thuẫn, nghịch dị trong một số gia đình hiện đại. Hành
động của người chồng thể hiện lối sống vô trách nhiệm, lật lọng của người được coi
là rường cột trong gia đình. Vì những mưu lợi bản thân, anh sẵn sàng hạ giá hạnh
phúc gia đình, coi gia đình như cái cần câu để kiếm lời song kết cục chính anh ta
đang hạ thấp nhân phẩm của mình và phải nhận một cái kết đắng đúng nghĩa.
Có thể nói, truyện cực ngắn giàu chất kịch đang hướng tới những màn kịch
nhỏ đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống của con người hôm nay.
Trong dung ngôn ngắn gọn, các nhà văn lựa chọn những xung đột nảy sinh trong
cuộc sống mỗi gia đình, mỗi cá nhân. Qua những xung đột, đối chọi trong từng cốt
truyện, bạn đọc nhận ra bức tranh đa sắc của xã hội đương đại. Mỗi câu chuyện
nhắc nhở ta: Đâu đó trên những con đường vẫn còn những kẻ đêm đêm mang đinh
rải xuống đường để ngày hôm sau vá xe kiếm lời mặc cho ai kia khổ sở; đâu đó
vẫn có những cuộc hôn nhân thất bại vì người trong cuộc xây đắp bằng sự chân
tình giả tạo, vẫn còn đó những cuộc hôn nhân được đem ra thử thách trước sức
nặng của đồng tiền… Khi tác phẩm phản ánh chân thật những khập khiễng, vênh
lệch của cuộc sống thì đó cũng chính là lúc kịch tính của truyện cực ngắn giàu
chất kịch bật lên như một hệ quả thẩm mỹ tất yếu.
2.3.2.2. Đặc tả hành động, cử chỉ của nhân vật
Truyện cực ngắn giàu chất kịch giảm thiểu số lượng nhân vật (theo tiêu chí
chung của truyện cực ngắn) nhưng với nhân vật, nhà văn lại chú ý đặc tả hành
động, cử chỉ hướng tới làm nổi bật tính cách. Các nhà văn nén trong ngôn từ ít ỏi
cử chỉ, hành động rất đặc trưng của kiểu dạng nhân vật.
Hình ảnh người nghèo- sản phẩm của thời đại (chú bé bán báo, những kẻ
cắp, những thằng bé hát rong, người mù ăn xin…) là kiểu nhân vật tiêu biểu.
Những đứa trẻ xuất hiện giữa dòng đời ồn ào, hỗn tạp. Mỗi đứa một cảnh ngộ,
song đều gặp nhau với cái nghèo, nỗi bất hạnh: chúng đều là những đứa con
thừa, bị bỏ rơi, lạc loài giữa nhân gian. Chúng kết hợp lại tạo nên một thế giới
đầy xót xa, bất hạnh. Để làm nổi bật sự lạc loài của chúng, nhà văn lựa chọn
63
hành động vừa đặc trưng vừa làm nổi bật sự nghèo khó cơ cực của nhân vật. Đó là
việc bới rác để kiếm sống (Anh Hai), bán báo đầu đường cuối phố và liên tục bị xua
đuổi (Chú bé bán báo); hát rong kiếm tiền (Thằng bé hát rong), bán trứng (Tính
cách), bán bánh mì (Mưa mồ côi)… Những đứa trẻ bất hạnh ấy bị cuộc sống hiện
đại xô dạt, ngay từ nhỏ đã nếm đủ vị đắng của đời. Hình ảnh em bé bán bánh mì
(Mưa mồ côi) xuất hiện giữa cơn mưa trong bộ quần áo sũng nước, ướt nhèm nhưng
quyết không để bánh bị ướt: “giỏ bánh mì lớn được bọc cẩn thận trong mảnh nilon
cũ kĩ”; “Đôi vai em run run theo những tiếng rao: Ai mua bánh mì không?” [69; 76]
để lại bao xót xa, buốt nghẹn trong trái tim bạn đọc.
Hình ảnh người nông dân, lao động nghèo cũng là hình tượng nhân vật phổ
biến trong những trang viết gột tả nỗi nhọc nhằn của tầng lớp dân nghèo thành
thị, nông thôn trước guồng quay của nền kinh tế thị trường. Vấn đề cơm áo gạo,
tiền, kiếm kế sinh nhai không phải là vấn đề mới mẻ, song trong các câu chuyện
lại rất mới cách chọn lựa chọn hiện thực, chi tiết. Đó là những góc khuất của
cuộc sống được phơi bày làm bạn đọc day dứt về nỗi nhọc nhằn muôn thuở của
kiếp người. Đây là cảnh sống của một gia đình ở thôn quê: “Đêm qua hắn mất
ngủ vì mụ vợ cứ chốc chốc lại lăn bên này trở bên kia, than vắn thở dài về cái
chuyện sâu rầy đang phá mảnh ruộng ở cánh đồng Vạc. Hắn thấy mình bị ức chế
quá, đầu óc mà cứ căng thẳng như thế này thì còn tư duy được cái khỉ gì nữa,
thôi thì cứ ra quán bà Huệ gù mà ngồi cho nó thư giãn” [63; 72]. Hành động, tư
thế của người vợ trong truyện rất đặc trưng cho cái ăn cái ngủ của người dân khi
miếng ăn cuả cả nhà bị sâu rầy tàn phá. Cái bực mình của anh chồng cũng rất đặc
trưng cho hình ảnh kẻ trụ cột gia đình đầy trách nhiệm và tình thương. Cách giải
quyết người chồng cũng rất tiêu biểu, là cách ứng xử quen thuộc của người đàn
ông thôn quê: Và thế là ngay sáng hôm sau hắn đã có mặt trong cái quán trống
hoác của bà Huệ. Hắn những tưởng trong cái hơi rượu “chạy rần rật xuống cổ, lên
mũi” hắn có thể “tư duy được” cái gì ra hồn thì con bé Luyến, con gái hắn, đang đi
học bỏ về vì không có tiền đóng học. Hắn hằn học, tức tối: “Thế thì thôi đi về! Khi
nào có tiền thì đi học cũng chẳng chết ai! Biến!”. Hành động, cử chỉ của hắn kết
hợp lời quát tháo như một cái kết hoàn hảo cho những đau đáu suy nghĩ cả đêm,
64
kết hợp với men rượu mà hắn mong có thể cứu giúp hắn và gia đình qua cơn bĩ
cực nhưng hoàn tất ngược lại. Khát vọng của những người nghèo ở thôn quê
muốn vùng vẫy, thay đổi cuộc sống để làm một cái gì đó tốt hơn, mới hơn nhưng
rồi lại sa lầy vì cuộc sống khó nghèo bám riết.
Hình ảnh những người phụ nữ chân quê tảo tần, chịu thương chịu khó, hy
sinh hết thảy cho chồng con luôn xuất hiện với vật dụng nghèo nàn quen thuộc,
với hình hài rất đặc trưng của gia đình. Đó là người mẹ với cái cối và hành động hì
hụi giã cho con gái lọ ruốc, mua hành tỏi, đùm trứng gà trứng vịt cho con gái trên
thành phố dù “chợ quê nhưng cũng chẳng rẻ đối với túi tiền của mẹ” (Hương vị quê,
Nguyễn Thị Thanh Bình); người mẹ với giàn mướp là gia tài độc nhất nhưng sẵn
lòng để cho con gái trên phố về “kiễng chân hái những chùm hoa mướp” để buổi tối
có món đặc sản- nụ mướp xào (Đặc sản, Nguyễn Thị Thanh Bình), người mẹ với
món ăn độc nhất một đời (Cá vụn kho tiêu, Nguyễn Thị Việt Hà), người mẹ với nghề
bắt cua mà dáng hình như ăn hằn với con vật: “Hai đầu gối mẹ nhọn hoắt, chĩa tận
mang tai, dáng co quắp như một con cua lớn trong lon”, người mẹ đó đã bỏ mạng
ngoài đồng vì say nắng: “nằm vật ngửa trên bờ ruộng, tứ chi co lên như con cua vừa
bị xé mai. Cái giỏ lăn lóc bên cạnh” [41;84], người mẹ với nghề vớt rong mướn trong
những đầm vuông tôm: “chị lội xuống mần từ khi nắng còn mát cho đến khi nước
trong đầm bỏng rẫy… Cho đến khi tấm lưng chị như một thảm rong nặng, ghì
xuống…” [41; 85] và trở về “vét những hạt cơm cuối cùng trong xoong, múc một ca
nước mưa chan vô với cơm để ăn… có mùi nước mắt trộn với rêu” [41;85].
Viết về người lính thời hậu chiến, các nhà văn vẫn tiếp tục khẳng định vẻ
đẹp của những người lính cụ Hồ trong thời đại mới. Anh Hai Sáng được gọi
bằng một cái tên giản dị “anh hai mù” vì đôi mắt của anh đã bị bom mìn cướp
mất. Nhưng anh vẫn đôn hậu hiền lành và thật thà như xưa. Ông đại tá từng đeo
“quân hàm đại tá ba sao và rất nhiều huân huy chương” nay về hưu với cuộc
sống dân dã, lấy việc bơm xe đạp bên đường là niềm vui hạnh phúc, thân thiện
cởi mở với mọi người. Là người sẵn lòng dịch các văn bản tiếng Pháp không tiền
nhuận dịch, với “tôi”: “ông trở thành người thân, thậm chí một nhân vật quan
trọng trong gia đình, mặc dù ông chỉ suốt ngày bơm xe bên gốc sấu” [41; 74]…
65
2.3.2.3. Ngôn ngữ đối thoại đa chiều, trái chiều
Để làm nổi bật tính cách nhân vật, mỗi dạng truyện ngắn có kĩ thuật riêng
trong xây dựng. Trong truyện cực ngắn giàu chất kịch, nhà văn chủ ý tạo dựng
ngôn ngữ đối thoại, đa thoại trái chiều. Thật may của Nguyễn Thanh Bình kể về
tình cảnh bi hài của nhân vật bố. Để lấy lòng sếp, anh ta đã nghĩ ra kế giả làm
ông già Noel đến tặng quà cho con sếp. Anh trở về và vui mừng đem câu chuyện
kể cho con trai nghe. Thằng bé thấy vậy, nảy ý định đòi quà: “Bố, thế quà của
con đâu?”. Anh gạt phắt, rồi liền khích lệ: “Quà gì, quà chẳng ăn được đâu con ạ.
Chỉ có nhà giàu mới thích quà. Phen này bố mà được ngồi vào cái ghế Phó, thì
con thích quà gì cũng có”. Cuộc đối thoại ban đầu luân chuyển lượt lời từ cha
sang con và tiếp mạch, mỗi phát ngôn được tạo ra bởi sự kích thích của các yếu
tố có trước và là phản xạ tự nhiên do các yếu tố trước tạo ra. Tuy nhiên, lời thoại
của người cha đã không chỉ bác bỏ lời cầu xin của con mà còn là cuộc giao tiếp
ngầm giữa người cha và chính mình, giữa người cha với những người xung
quanh (với xếp, với những nhân viên khác). Tính chất đa thoại đó tạo nên sự
hẫng hụt, thất vọng trong lòng đứa bé nhưng lại mở ra niềm vui trong nội tâm
người cha.
Sử dụng đối thoại và gài dẫn với một số chi tiết miêu tả khuôn mặt, điệu bộ,
giọng nói là thế mạnh để tạo nên sự đối nghịch trong lời thoại. Trong Đồng vọng
ngược chiều (Lã Thế Khanh), cuộc đối thoại của bà lão ăn xin và bé Chi nảy sinh
những xung đột, mâu thuẫn. Để gia tăng kịch tính, tác giả chú ý tới giọng điệu của
từng nhân vật, kèm theo những câu văn miêu tả điệu bộ. Hình ảnh bà lão mù ăn xin
với “chiếc nón lá rách lướp tướp, từ bàn tay gầy guộc, lẩy bẩy của bà huơ đi huơ lại,
không lúc nào yên” được tác giả đan cài với cái giọng van vỉ: “Cháu lạy các ông các
bà… Cháu mù loà già cả… Cháu xin các ông bà nhón tay làm phúc…” và “càng về
sau càng thống thiết, não nề. Những câu nói rời rạc, như tự chảy ra từ khuôn mặt
dúm dó, xệch xạc của bà”. Còn bé Chi “vẫn chìa đồng bạc về phía trước, vẻ thành
tâm biếu bà lão” nhưng kết quả: bà lão ăn xin không nhận đồng tiền đó và bỏ đi
trong sự tức giận (ngỡ tưởng bé Chi lừa mình). Bản thân bé Chi cũng như bà lão
đều không thể nhận được lòng tốt của đối phương vì bị mù lòa.
66
Trong truyện Tám cẳng hai càng (Nguyễn Quang Trung), người mẹ vì tiếc rẻ
con cua, cất giọng quát tháo khi đứa con đang thích thú với trò chơi của mình:
“- Con giời đánh! Đồng nước toàn phân hóa học, cua hiếm như vàng. Sao
mày nhón mất của tao con cua to thế? Ra giã cua ngay!
Kèm theo đó là một cái tát trời giáng. Mắt Tấm nảy đom đóm”.
Trong truyện Đèn đỏ của Nguyễn Thị Hậu: “Sợ trễ hẹn với bồ nhí, gã phóng
vượt đèn đỏ. Anh cảnh sát bước nhanh ra giữa đường, tay cầm gậy chỉ thẳng vào gã.
Toi rồi, gã nghĩ. Chợt trong đầu gã lóe lên một cách. Gã vẫn lao thẳng, miệng hớt hải:
- Anh vừa thấy thằng nào chở vợ con anh, chú cho anh đuổi theo đã!
Anh cảnh sát chưa kịp phản ứng thì gã đã vọt qua. Thoát!
Lần sau, vẫn chiêu đó, nhưng không thoát. Đúng lúc bị cảnh sát lập biên bản
thì gã nhìn thấy một gã khác chở vợ vọt qua, trông họ cực kì thỏa mãn!” [79; 37].
Làm nổi bật hình ảnh của nhân vật người chồng, Nguyễn Thị Hậu đã sử
dụng một loạt các động từ miêu tả hành động của gã: “phóng”, “vượt”, “lao
thẳng”, “vọt qua”. Để gia tăng tốc độ của “gã” nhà văn đã sử dụng biện pháp tu từ
đối lập tương phản, động tác nhanh, dứt khoát của “gã” và sự chậm chạp “chưa
kịp phản ứng” của anh cảnh sát. Đan xen trong đó là những cuộc đối thoại gấp
gáp, chóng vánh giữa người chồng và người cảnh sát. Tuy nhiên, kết thúc truyện,
tình thế đã đảo ngược khi “gã” bị bắt, bị phạt. Trong lúc đó thì gã nhìn thấy vợ
mình được “thằng nào” chở đi thật; đối ngược với tình thế không thoát được khi vi
phạm giao thông của “gã” là cái cực kì thỏa mãn của vợ hắn và tên tình nhân.
2.3.2.4. Kết thúc bất ngờ, không hoàn kết
Với dụng ý kiệm lời, tạo tính đối thoại, để người đọc cùng tham gia vào câu
chuyện nên truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn thường lựa chọn kiểu kết thúc bất
ngờ, bỏ ngỏ. Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tiếp nhận của độc giả ngày
nay. Một câu chuyện sẽ thực sự cuốn hút người đọc khi nó đọng lại ở người đọc
một điều gì đó để họ day dứt, suy tưởng, băn khoăn và định tính về những kết thúc
có thể xảy ra. Để giải đáp băn khoăn, người đọc thường đưa ra những giả định: liệu
có thể hay không thể, câu chuyện của nhân vật đó liệu có xảy ra hay không xảy ra…
Chẳng hạn, truyện thứ nhất: Vật lạ (Nhật Chiêu)
67
“NGƯỜI TA KHAI QUẬT ĐƯỢC MỘT VẬT LẠ. Không ai biết đó là gì.
Không còn cách nào dò ra được niên đại của nó. Dường như đó là một vật
thể đến từ hành tinh khác. Mà cũng có thể đến từ tương lai.
Có vô số cách diễn giải về vật lạ đó. Và mọi diễn giải đều thất bại hoặc là
rất ít ý nghĩa.
Cuối cùng cũng đi đến quyết định: Ném vật lạ xuống biển.
Để tương lai còn có cái mà khai quật. Và lại sẽ có vô số cách diễn giải về nó.
Hỡi vật lạ, mi là cái gì?” [6; 37].
Câu chuyện khép lại với kết thúc giống như sự kiện được thể hiện trong phần
mở đầu văn bản: vật lạ được người ta khai quật. Truyện kết thúc nhưng những
thông số bí ẩn về vật thể lạ vẫn không được giải đáp. Người đọc có những liên
tưởng, đánh giá, hoặc tìm cho nó một kết thúc. Giả dụ như: người ta nghi ngờ về giá
trị của vật thể được coi là lạ đó (có hay không có giá trị gì cả nên bị rơi xuống biển);
người ta có thể giải mã được niên đại của nó (điều này tùy thuộc vào trình độ của
con người); hoặc người ta đã biết rõ nó là vật thể bình thường song cố tình tạo cho
nó một cái áo khoác bất thường để thu hút công chúng. Và để tạo ra cái đặc biệt, bí
ẩn hơn nữa người ta đem nó trở về với vị trí ban đầu… Cứ như vậy, tùy theo sự
tưởng tượng của từng người, câu chuyện sẽ có những kết thúc khác nhau và có chút
giễu cợt lối “khám phá” nhiều khi vô nghĩa của con người.
Truyện thứ hai: Nhà thơ (Trần Tấn Đạt)
“Nhà thơ ngồi làm việc trong thư phòng. Có một sợi dây thòng lọng treo ngoài
cửa. Mọi cơn mộng bay qua đều bị siết cổ. Nhà thơ chết mòn trên trang giấy”.
Câu chuyện khép lại với cái chết bất ngờ của nhà thơ. Tác giả đã trao cho bạn
đọc quyền lí giải, đánh giá về nhân vật. Cách kết thúc này đã đem lại nhiều tranh
luận khác nhau về cái chết kì ngộ của anh nhà thơ trong truyện. Theo quan điểm của
Phạm Thị Ngọc Diệp: “cái chết của anh nhà thơ trong truyện là do tự bó hẹp cuộc
sống của mình, cô lập với thế giới bên ngoài, cho nên tự thắt cổ những ước mơ, bay
bổng, sáng tạo đẹp đẽ. Và kết cục tất yếu đó của là chết gục trên trang sách thành nô
lệ của những điều bị ép cứng, khô khan, thiếu sự sống trong sách vở”. Theo chúng
tôi, đó là một cách lí giải có cơ sở. Cái chết của anh nhà thơ là quy luật tất yếu của
người nghệ sĩ thoát ly khỏi cuộc sống.
68
Xe đạp ơi của Nguyễn Thị Hậu nén toàn bộ cái tình tứ của tuổi trẻ (ngày
mới yêu nhau) và cảnh xế chiều của đời người (khi lớn tuổi) với cả cuộc đời
được thể hiện trong 102 con chữ. Toàn bộ sự kiện được câu thúc trong lượng
ngôn từ ít ỏi, và với một cái kết bất ngờ, đầy kịch tính, trần trụi một sự thật
đáng thương của tuổi tác. “Lấy nhau rồi, cũng con dốc ấy cũng câu hỏi âu yếm
“anh mệt không?”, không ngoái đầu lại, anh lầm bầm:
- Người chứ có phải trâu đâu mà không mệt!
Ngồi sau, bất giác chị co rúm người, chỉ mong biến thành chiếc lá, bay
đi” [80; 72].
Đám cưới chuột cuả Hoàng Nhật Tuyên mở đầu với niềm hồ hởi của ông
Trọng khi tìm một phương tiện để dạy cháu nội cuả mình. Đó là bức tranh
“Đám cưới chuột”, tranh của làng Đông Hồ. Là người am hiểu, ông giảng giải
rất chi tiết cho cháu về ý nghĩa của bức tranh. Ông thao thao về hình ảnh
“chàng chuột” xênh xang với bộ áo gấm và kiệu của “nàng”… Câu chuyện
chuyển hướng đầy bất ngờ khi đứa cháu hỏi ông: “Ông ơi! Thế còn hai con
chuột kia mang cá và mang chim đi làm gì thế?”, “Nhưng tại sao phải cống
cho mèo?”. Để cho cháu hiểu sâu sắc vấn đề, ông nhìn mặt cháu và chậm rãi:
“Chuột mang quà biếu mèo là để được yên thân, không bị uy hiếp”. Truyện tiếp
tục được đẩy lên đến cao trào và thắt nút bất ngờ khi xuất hiện câu hỏi người
cháu: “Ông ơi, thế nhà mình có ai hung dữ không mà người ta thường mang
quà đến biếu nhiều vậy hả ông?” [63; 230].
Có thể thấy, mỗi truyện cực ngắn kết thúc với một cảnh huống khác nhau
song với lối kết mở đã tạo nên kịch tính và tính trí tuệ cao cho văn bản. Độ mở
của kết thúc truyện hoàn toàn phù hợp với sự vận động, phát triển của truyện cực
ngắn giàu chất kịch nói riêng và truyện cực ngắn nói chung, khẳng định chỗ
đứng vững chãi của thể loại trong dòng chảy văn học.
69
Tiểu kết chương 2
Sự phát triển như vũ bão, mang tính toàn cầu hóa của công nghệ số đã thay
đổi cung cách tiếp nhận thông tin của con người hiện đại. Điều này dẫn tới sự
đổi thay trong cách tiếp nhận của độc giả với truyện ngắn. Khi cung cách tiếp
nhận thông tin thay đổi sẽ dẫn tới sự thay đổi tất yếu của cách viết truyện ngắn.
Cho nên, sự ra đời, phát triển, đa dạng của truyện cực ngắn hoàn toàn hợp quy
luật của thời đại công nghệ số.
Trong sự phát triển cuả truyện ngắn Việt Nam sau 1986, truyện cực ngắn
đã trở thành một dạng thức thể loại cơ bản, quan trọng, góp phần nên diện
mạo của truyện ngắn Việt Nam. Đặc điểm cơ bản của dạng thức truyện cực
ngắn được thể hiện với những đặc điểm nổi bật: rút gọn tối đa về dung lượng,
giản lược cốt truyện, giản lược tối đa nhân vật, chắt lọc chi tiết. Truyện cực
ngắn phát triển đa dạng, trong đó truyện cực ngắn giàu chất ngụ ngôn và
truyện cực ngắn giàu chất kịch là hai dạng tiêu biểu. Đó là một bằng chứng
cho thấy sự năng động, khả năng lôi cuốn của truyện cực ngắn với người sáng
tác và độc giả. Đây cũng là lí do trọng yếu làm nên sự tiêu biểu của dạng
truyện cực ngắn Việt Nam sau 1986.
70
CHƢƠNG 3: TRUYỆN NGẮN GIÀU CHẤT TRỮ TÌNH
3.1. Lịch sử truyện ngắn giàu chất trữ tình Việt Nam
M. Bakhtin cho rằng: “Thể loại văn học xét theo bản chất của nó là sự phản
ánh các khuynh hướng vững bền, vĩnh viễn hơn cả của sự phát triển văn học.
Thể loại bao giờ cũng gìn giữ các yếu tố cổ xưa, không mai một. Cái cổ xưa ấy
chỉ được giữ lại trong thể loại nhờ sự đổi mới của chính nó, hay như người ta
nói, nhờ sự hiện đại hóa nó. Thể loại bao giờ cũng vẫn thế, bao giờ cũng vừa
mới, vừa cũ. Thể loại được tái sinh và đổi mới trong từng giai đoạn mới của sự
phát triển văn học và trong từng tác phẩm, cá biệt của thể loại đó. Và đó là đời
sống của thể loại” [104; 121-122]. Có thể thấy, Bakhtin đã thấu suốt lộ trình phát
triển của thể loại văn học trong đó có truyện ngắn. Trong dòng chảy của truyện
ngắn Việt Nam, dạng truyện ngắn giàu chất trữ tình vừa phản ánh sự “giữ gìn
các yếu tố cổ xưa” vừa được đổi mới cho phù hợp với yêu cầu cuả thời đại, cho
nên sự tiếp biến và phát triển chính là đặc trưng cơ bản của truyện ngắn giàu chất
trữ tình Việt Nam sau 1986.
Theo quan niệm từ thời Arixtot, phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng,
trữ tình là khái niệm được tạo nên một nhạc cụ thời cổ Hi Lạp là đàn Lia (Lyre)
mà người ta dùng để đệm khi hát ca. Theo Từ điển thuật ngữ Văn học: trữ tình
“phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con
người tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của
mình đối với thế giới nhân sinh” [209; 136]. Trữ tình còn là khái niệm dùng để
chỉ “chất liệu có tính trữ tình” trong các tác phẩm văn học, bày tỏ trực tiếp cảm
xúc, tâm trạng, ý nghĩ của con người. Nhờ đặc điểm này mà những rung động
thầm kín mang tính chất chủ quan, cá nhân, thậm chí cá biệt của tác giả dễ dàng
được người đọc tiếp nhận như những rung động của chính bản thân họ. Như vậy,
chúng ta có thể thấy trữ tình là cảm xúc, tâm trạng, tâm tư, tình cảm của con
người và nguyên tắc cơ bản của phương thức trữ tình là nguyên tắc chủ quan.
Trữ tình không phải là khái niệm bất biến chỉ dành cho thơ ca (mặc dù trong
thơ nó tiêu biểu nhất). Bên cạnh thơ thì tùy bút và truyện ngắn cũng có thể dung
71
hợp chất trữ tình. Sự xâm nhập những đặc điểm cơ bản, những yếu tố cuả thơ vào
truyện ngắn đã cho ra đời thể loại truyện ngắn giàu chất trữ tình.
Cũng giống như truyện cực ngắn hay truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết, dạng
truyện ngắn giàu chất trữ tình hiện diện với những đặc điểm khá riêng biệt. Truyện
ngắn giàu chất trữ tình dựa trên sự giao thoa về thể loại thơ- văn xuôi; phối hợp
giữa việc biểu đạt sự việc và cảm xúc trữ tình. Sau khi đã diễn tả cái diễn biến bên
ngoài, truyện ngắn giàu chất trữ tình “chuyên chú vào cái bên trong vào cái mà
nhân vật thu nhận được ở bên trong tâm hồn họ, bằng những câu đối thoại, bằng
những phản ứng tâm lí rất tinh tế” (Nguyễn Minh Châu). Dòng truyện này mang
đến cho người đọc những suy ngẫm, trải nghiệm về nhiều vấn đề của cuộc sống: về
hạnh phúc, về tình yêu, về sự phức tạp trong tâm hồn con người, về các giá trị,
thang bậc của cuộc sống. Những vấn đề này ta nhận ra, thu được qua quá trình nhận
thức, qua cảm xúc cuả một người khác- nhân vật trong truyện, nó được bao phủ lên
bởi màu sắc của tâm trạng theo cơ chế “chủ quan hóa”, “nội cảm hóa”.
Với mỗi tác phẩm tự sự, cốt truyện là yếu tố then chốt của một tác phẩm.
Các nhà văn “tả chân” mong muốn phơi bày thực trạng của xã hội, những xung
đột mâu thuẫn cơ bản của đời sống. Nhà văn là “người thư kí trung thành của thời
đại” và tác phẩm của họ phải là sự thực của cuộc đời. Nhà văn phải là người tạo
dựng bức tranh chân thực đó của cuộc sống. Tuy nhiên truyện ngắn giàu chất trữ
tình đặt trọng tâm vào những câu chuyện của tâm hồn, của tình cảm, những giác
ngộ, thức tỉnh của con người trước biến động của đời sống. Truyện ngắn giàu chất
trữ tình vì thế thường được xây dựng với ý thức rõ ràng: cốt truyện bên ngoài
được làm mờ đi, chú ý cốt truyện bên trong và chủ tâm khơi sâu vào tâm trạng
của nhân vật.
Trong thực tế, mỗi truyện ngắn thường xây dựng một tình huống độc đáo.
Truyện ngắn thường có ba dạng tình huống tiêu biểu: tình huống hành động, tình
huống tâm trạng và tình huống khám phá- nhận thức. Tình huống tâm trạng là
dạng thức nổi bật của truyện ngắn trữ tình. Nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền chỉ
rõ: “Truyện ngắn có tình huống tâm trạng lại chủ yếu hướng tới việc khám phá
tình cảm và tâm lí của nhân vật. Kiểu tình huống này gắn liền với kiểu nhân vật
72
tâm tư, nhân vật tâm lí. Cái mà nhà văn đặc biệt quan tâm không phải là hành
động bên ngoài, nhân vật làm việc này, việc nọ, mà là hành động bên trong, là
tâm trạng tâm lí, là dòng cảm xúc cuả nhân vật. Kiểu tình huống như thế thường
tạo nên những truyện ngắn giàu chất trữ tình. Mỗi truyện ngắn như một bài thơ
trữ tình viết bằng văn xuôi” [230; 130].
Với truyện ngắn giàu chất trữ tình, các nhà văn thường có xu hướng tập
trung tạo dựng truyện kiểu nhân vật nội tâm. Hơn hết, nhà văn quan tâm đến thế
giới nội cảm của nhân vật, tạo dựng nhân vật chủ yếu thông qua: cảm giác, cảm
xúc đa dạng, phức hợp còn những yếu tố bề ngoài (ngoại hình, hành động…) bị
giản lược. Chính điều đó đã đòi hỏi người sáng tạo sử dụng nghệ thuật miêu tả
phân tích diễn biến tâm lí nhân vật.
Lấy nguồn cảm hứng chủ đạo là tâm trạng cuả con người, ngôn ngữ truyện
ngắn trữ tình mang đậm chất thơ. Điều đó được thể hiện qua giọng văn cảm
thương, chia sẻ- chất giọng tiêu biểu. Tất cả những điều này đã hoà kết tạo nên
dạng truyện ngắn giàu chất trữ tình.
Truyện ngắn giàu chất trữ tình là một dạng tiêu biểu của truyện ngắn hiện đại
trên thế giới và Việt Nam. Trên thế giới, các nhà nghiên cứu cho rằng nguồn gốc
của văn xuôi (tiếng Hy Lạp Prosus- có nghĩa là tự do, là sự tự do thỏa mái, viết tùy
bút). Truyện của A. Dau det với nhan đề Ca khúc bằng văn xuôi chính là thơ- văn
xuôi. Pauxtopxki thường hay đưa những đoạn trữ tình- ngoại đề vào trong truyện
ngắn, chẳng hạn như Lẵng quả thông.
Trong lịch sử vận động và phát triển của truyện ngắn hiện đại Việt Nam,
truyện ngắn giàu chất trữ tình có sự tiếp biến qua nhiều giai đoạn như: trước
1945; 1945-1975; 1975- 1985 và sau 1986.
Giai đoạn trước 1945 được đánh giá là một trong những giai đoạn phát triển
phong phú và đa dạng cuả truyện ngắn giàu chất trữ tình. Thạch Lam, Thanh
Tịnh, Hồ Dzếnh là những nhà văn đã đem đến cho truyện ngắn một sắc màu
mới- những câu chuyện thấm đẫm chất trữ tình. Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng
lan, Sợi tóc, Gió đầu mùa… của Thạch Lam đã thực sự chạm vào tâm tưởng và
cảm xúc bạn đọc, bởi lẽ “Nhiều truyện cuả Thạch Lam không có truyện, mà man
73
mác như một bài thơ” [184; 203]. Hồ Dzếnh viết Chân trời cũ (1942) và ở đó,
chúng ta nhận ra: “Truyện Hồ Dzếnh như những tiếng chuông buồn, tiếng này ngân
lên chưa dứt tiếng kia đã bồi theo”... “Ngòi bút Hồ Dzếnh thường chấm phá những
nét hiu quạnh về một buổi nắng chiều nghiêng xế, một miền quê sông nước cây
rừng. Ông có cái lắng nghe hư vô thật tinh tế, nó vốn là đặc điểm của thơ” [106;
15]. Bên cạnh Thạch Lam, Hồ Dzếnh, nhà văn Thanh Tịnh là cây bút thứ ba góp
sức làm lên sự nổi bật của dòng truyện ngắn giàu chất trữ tình giai đoạn này. Quê
mẹ là tập truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc nhất của ông. Mỗi trang văn đi sâu vào
những vấn đề thuộc về đời sống tình cảm của con người... ngòi bút Thanh Tịnh nhẹ
nhàng, thanh thoát mà đằm thắm, thiết tha. Điều này tạo nên có sức sống lâu bền
trong lòng người đọc. Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh là những cây bút tiêu
biểu làm nên diện mạo cuả dạng truyện ngắn giàu chất trữ tình trước 1945.
Tiếp nối dòng mạch này, truyện ngắn giàu chất trữ tình từ sau Cách mạng
đến 1975 không hề có sự đứt quãng như nhiều ý kiến độc giả. Truyện ngắn ở thời
kì hòa bình sau cuộc kháng chiến chống Pháp hướng sự chú ý tới đời sống sinh
hoạt với những quan hệ đời tư song nhiều khi lại được khai thác theo hướng trữ
tình. Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Đình Thi bộc lộ một tâm hồn thơ nhạy
của một cây truyện ngắn. Từ tập truyện Bên bờ sông Lô (1957) đến các truyện Vào
lửa (1966), Mặt trận trên cao (1967), tác giả thành công khi thể hiện các trạng thái
và quan hệ tình cảm riêng tư: chuyện vợ chồng, tình cha con, anh em. Nhân vật nữ
trong truyện của Nguyễn Đình Thi thường hiện diện trong nghịch cảnh: xa cách,
nhiều mất mát, đau thương. Từ đó, những phẩm chất cao đẹp, tâm hồn trong sáng,
sự thủy chung, kiên trung của họ được tỏa sáng. Chất trữ tình cũng là sắc thái trong
các tập truyện Rẻo cao (Nguyên Ngọc), Trăng sáng, Đôi bạn (Nguyễn Ngọc Tấn),
Phù sa (Đỗ Chu). Các tập truyện ca ngợi mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với
con người sống trong ân tình cách mạng, khẳng định sự hồi sinh cuả quê hương đất
nước, tâm hồn con người sau những khổ đau, mất mát bởi chiến tranh. Ngoài ra,
Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu hay Những ngôi sao xa xôi, Cao
điểm mùa hạ của Lê Minh Khuê… ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của con người trong
cái ác liệt của bom đạn và sự tàn khốc cuả chiến tranh.
74
Giai đoạn 1975-1985 là giai đoạn chuyển tiếp từ nền văn học chiến tranh
sang nền văn học thời kì hậu chiến. Trong đó, truyện ngắn giàu chất trữ tình tiếp
tục nguồn mạch của mình. “Truyện ngắn (và cả truyện vừa) thấy rõ nét một hướng
đi vào những khoảnh khắc thường nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến
tâm lí cuả nhân vật, vào những cảnh ngộ và xung đột nội tâm: truyện ngắn cũng
có ưu thế trong việc đặt nhân vật trong mối quan hệ hôm qua và hôm nay, để làm
nổi bật lên những vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh” [182]. Các tác giả tiêu biểu như
Nguyễn Minh Châu (Bến quê), Xuân Thiều (Gió từ miền cát), Dương Thu Hương
(Những bông bần ly), Phạm Hoa (Ngày không bình thường), Trung Trung Đỉnh
(Người trong cuộc)…
Là một trong những dạng truyện ngắn đã trải qua nhiều khúc ngoặt quan
trọng của lịch sử, sau 1986, truyện ngắn giàu chất trữ tình càng vươn tới khẳng
định vị thế quan trọng của mình. Nó hội tụ đầy đủ đặc trưng của một dạng truyện
ngắn có tầm thế trên văn đàn. Truyện ngắn giàu chất trữ tình thu hút nhiều thế hệ
nhà văn. Các cây bút với các tác phẩm tiêu biểu như Ma Văn Kháng (Heo may
gió lộng, Suối mơ, Hoa gạo đỏ, Một chiều giông gió); Nguyễn Huy Thiệp (Chăn
trâu cắt cỏ, Lòng mẹ, Mưa, Trương Chi); Đỗ Chu (Mảnh vườn xưa hoang vắng,
Một loài chim trên sóng); Hồ Anh Thái (Tiếng thở dài qua rừng kim tước); Tạ
Duy Anh (Lãng du); Phan Triều Hải (Đi mãi trên thiên đường); Trần Đức Tiến
(Đi bộ và chạy); Đoàn Minh Hà (Hương lấy chồng); Nguyễn Ngọc Tư (Gió lẻ,
Cải ơi, Hiu hiu gió bấc, Thương quá rau răm); Nguyễn Thị Miền (Cốm già, Ru
quên, Tro tàn); Nguyễn Phan Hách (Hái hoa hoàng lan); Hào Vũ (Khách thương
hồ); Y Ban (I am đàn bà, Gà ấp bóng, Ai chọn giùm tôi, Đôi gang tay da màu
nâu, Người đàn bà đứng trước gương); Nguyễn Thị Thu Huệ (Tân cảng, Một
nửa cuộc đời, Người xưa, Thiếu phụ chưa chồng, Mùa đông ấm áp); Sương
Nguyệt Minh (Dị hương); Trần Thùy Mai (Thị trấn Hoa quỳ vàng, Đêm tái sinh,
Gặp ở quê người, Nốt ruồi son, Nàng công chúa lạc loài); Đỗ Bích Thúy (Sau
những muà trăng, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Mần tang mọc trong thung lũng,
Ngải đắng ở trên núi); Đỗ Trí Dũng (Đạo bùa hóa giải); Nguyễn Anh Vũ (Cửa
Bắc); Phạm Duy Nghĩa (Hoa cẩm tú cầu ứng mệnh); Nguyễn Tham Thiện Kế
75
(Tiếng kêu của ngôi nhà thủng mái); Đỗ Hoàng Diệu (Linh thiêng, Bóng đè);
Phạm Thị Minh Thư (Trên kia là bầu trời)…
3.2. Đặc điểm cơ bản của truyện ngắn giàu chất trữ tình Việt Nam sau 1986
3.2.1. Cốt truyện trữ tình
Đối với tác phẩm tự sự, cốt truyện “là hệ thống các sự kiện chính để biểu
hiện tính cách nhân vật và phản ánh mâu thuẫn, xung đột xã hội một cách nghệ
thuật nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm” (Hà Minh Đức). Qua khảo
sát truyện ngắn giàu chất trữ tình Việt Nam sau 1986, chúng tôi nhận thấy hệ
thống các sự kiện đã có chiều hướng suy giảm. Các nhà văn không đặt trọng tâm
vào việc xây dựng các sự kiện theo tuần tự của một truyện ngắn truyền thống. So
với truyện ngắn cuả các nhà văn như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển,
Kim Lân, Nguyễn Minh Châu… dạng truyện ngắn giàu chất trữ tình sau 1986 có
xu hướng giản lược yếu tố tự sự hoặc nếu có chỉ là những sự kiện diễn ra trong
tâm tưởng, trong suy ngẫm của nhân vật. Yếu tố sự kiện bên ngoài đã được giản
lược. Đọc truyện hôm nay, độc giả đôi khi khó phân biệt được đâu là “thắt nút”,
“mở nút” truyện. Các thành phần của cốt truyện không chỉ giản lược mà có sự
xâm nhập nhau, bị biến đổi, mờ nhòe. Do vậy, truyện ít các sự kiện. Tuy nhiên,
bên cạnh xu hướng giảm lược yếu tố sự kiện thì các nhà văn lại chủ ý gia tăng
yếu tố tâm tình, chú ý tới dòng ý thức của con người. Để tạo lập điều đó cốt
truyện được vận hành theo nhiều dạng thức: sử dụng sự kiện bên ngoài làm cơ sở
để gợi sự kiện trong tâm tưởng, tạo dựng những bước ngoặt của truyện, đan xen
những hồi ức, những giấc mơ, những liên tưởng… Đó là điểm tựa để cho xúc
cảm của nhân vật được phát triển.
Khả năng miêu tả, theo dõi những diễn biến tinh tế của tâm lý con người
vốn không phải là thế mạnh, thậm chí có khi bị bỏ qua trong truyện ngắn thời
chiến tranh và hậu chiến- nay được tăng cường, rèn giũa làm nên những trang
văn chạm xen vào trái tim người đọc. Là một cây bút gạo cội trong làng văn, Ma
Văn Kháng quen thuộc với bạn văn bởi lối viết điềm đạm và cách xây dựng cốt
truyện truyện thống. Song đến với các tác phẩm của ông từ sau 1986, bạn đọc
nhận ra sự đổi thay rõ rệt trong cách viết. Đây chính là chất men tạo nên Heo
may gió lộng, Suối mơ, Hoa gạo đỏ, Một chiều giông gió…
76
Heo may gió lộng mở đầu bằng bữa cơm của gia đình vợ chồng Đoan và dự
cảm của bé Thúy về việc bác Thảo ở quê sắp lên chơi và không ngờ điều đó
thành thực. Toàn bộ câu chuyện diễn ra trong khoảng thời gian hơn hai tháng
(ước lượng theo thời gian xuất hiện của bác Thảo) song trên thực tế chỉ xoay đi
xoay lại với chuyện khó khăn miếng cơm manh áo nơi thành phố: giá gạo tăng,
đong gạo nấu cơm không được đổ cho đẫy nồi, bác Thao hằng đêm mộng du với
những tiếng la hét một mình và sau hai tháng mười ngày bác về quê. Câu chuyện
chỉ có bấy nhiêu sự kiện song có sức ám ảnh bởi những day dứt cuả những con
người máu mủ ruột rà ấy, nhất là Đoan. Phần lớn trang văn dành để phơi trải
nỗi niềm của Đoan. Ám ảnh do giấc mơ của con gái, trong lòng Đoan “vương
vương một hoài cảm man mác” về cái nắng “rực như đất vàng”, “heo may như
một linh hồn xa vắng từ cõi nào trở về, xao xác vòm lá rậm, quấy động các
khoảng trống trong cõi lòng”, nỗi nhớ da diết về hình ảnh người chị “xởn xơ,
thanh nhã”. Nhớ tới chị Thảo là Đoan nhớ tới “ngọn gió heo may lồng lộng và
khoảng trời cuối thu tràn trề làn sáng phản quang niềm vui mùa màng”.
Nhưng khi người chị xuất hiện trước mặt, trước những nhăn nhó của người vợ
vì thêm người thêm miếng ăn trong khi vợ Đoan phải chắt chiu từng đồng
từng hào khiến anh suy nghĩ. Anh hiểu, cảm thông với sự “tằn tiện, thu vén,
bo bo, bom bỏm của vợ”. Anh phải nhập vai môn đệ của học thuyết nhị
nguyên “được lòng đất mất lòng đò”. Những áp lực tâm lý nặng nề, sự chịu
đựng của người chị khiến Đoan càng thêm đau khổ. Như một cái ung nhọt
được tích tụ lâu ngày, đến lúc phải vỡ ra. Như đã định trước, người chị gầy
gò, ốm yếu đó phải dứt lòng về quê trong sự ngẩn ngơ, đau khổ của Đoan.
Không khí gia đình từ đó nặng nề: Vợ Đoan lầm lũi; Đoan như cái bóng lặng
lẽ, cái Thúy thì gần như cách ly với mẹ nó…
Đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, truyện ngắn giàu chất trữ tình
chưa phải là sở trường của nhà văn nhưng Chăn trâu cắt cỏ, Lòng mẹ, Mưa,
Trương Chi, Khóc ở Califorlia… vẫn là những tác phẩm xuất sắc.
Lòng mẹ thể hiện sự tài hoa của người nghệ sĩ ngay từ cách tổ chức cốt
truyện. Câu chuyện là những lời thoại của người mẹ khi con gái- Nhi đi lấy
77
chồng. Lời nói của người mẹ trong truyện chính là lời thơ trong thi phẩm Lòng
mẹ của Nguyễn Bính. Điểm nhấn của truyện là nỗi niềm cuả người mẹ khi xa
con, của cô con gái khi đi lấy chồng, và nỗi buồn mênh mang, rất thi sĩ cuả cậu
em 11 tuổi. Cốt truyện dường như có phần đi ngược với lối viết truyền thống.
Không có những xung đột xã hội, giai cấp nào, không có mâu thuẫn trong gia
đình, chỉ có duy nhất đó là dòng cảm xúc, là nỗi buồn miên man của con người.
Nó đang chế ngự trong lòng những người trong cuộc, mênh mang, vô tận. Cùng
với Lòng mẹ, truyện ngắn Chăn trâu cắt cỏ cũng có xu hướng khuyếch đại yếu tố
bên trong, giản lược sự kiện bên ngoài. Tác phẩm mở ra với không gian là chùa
Kiên Lao làng Hiền Lương. Nhân vật chính trong truyện là Năng, một thanh niên
mới lớn. Năng lên chùa, nói chuyện với sư Tịnh, nghe chuyện của ba người lạ,
tham gia hội làng, đi cày… Những sự kiện này được kể không theo tuyến tính mà
đứt gãy, được đan xen, xâm lấn bởi dòng cảm xúc cuả nhân vật. Khi đi cày, Năng
nhìn lên trời cao và suy nghĩ về vị trí cuả mình, về sự xuất hiện của mình, lí do
mình xuất hiện ở đây và tại sao lại như vậy: “Năng nhìn lên trời cao. Năng không
biết mình đang ở đẩu ở đâu? Con trâu gặm cỏ bên cạnh, nhẫn nại, bình thản. Nó
đang nghĩ gì? Nó đang ở đẩu ở đâu?”. Có thể thấy, chuyển vị trí trọng tâm từ
những sự kiện bên ngoài vào thế giới bên trong con người là một nét đột phá của
cốt truyện giàu chất trữ tình trong đó có truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Chất thơ
cuả cuộc sống đã được trao đến đôi tay của người nghệ sĩ, đan xen vào văn xuôi
làm nên hương vị mới của truyện ngắn giàu chất trữ tình Việt Nam sau 1986.
Bên cạnh sự chuyển dịch vị trí quan sát bên ngoài vào thế giới bên trong
còn một sự chuyển dịch khác nữa cần ghi nhận. Nó tạo nên chiều sâu mới và
những cảm xúc khác, mới mẻ có sức lay động sâu xa. Đó là sự chuyển dịch tính
trữ tình công dân, trữ tình xã hội sang những rung động sâu xa của cõi lòng con
người, của những con người cá nhân ngày càng chiếm lĩnh thế giới nhân vật
truyện ngắn. Điều này thể hiện rõ rệt ở những cây bút lớp trước và đặc biệt tạo
ấn tượng mạnh ở những cây bút trẻ xuất hiện sau 1986. Chúng tôi muốn đi sâu
vào một vài trường hợp tiêu biểu như Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư,
Trần Thùy Mai.
78
Khi xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Thị Thu Huệ đã ghi dấu ấn đậm nét của
mình bằng những truyện ngắn “chao chát, thơ ngây và từng trải, đau đớn và tin
tưởng”. Sự đa cực này tạo nên chất lửa rất đặc biệt trong văn của chị. Quả thực
nếu nhìn từ toàn cảnh, truyện của chị có lối viết “thẳng băng, dấn tới”, một lối
viết giao thoa giữa văn chương và điện ảnh. Tuy nhiên với Tân cảng, Một nửa
cuộc đời, Người xưa, cây bút Nguyễn Thị Thu Huệ trở nên dịu dàng, nhẹ nhàng,
đằm thắm. Tác giả Bùi Việt Thắng đã từng nhận xét: “Đọc Nguyễn Thị Thu Huệ
ta bị cuốn hút vào trong niềm vui và nỗi buồn bất tận”. Thực vậy, Một nửa cuộc
đời là câu chuyện với cốt truyện quen thuộc- chuyện ngoại tình. Chàng nhạc sĩ
Thắng và cô họa sĩ Lan, cả hai đều có gia đình, yên ổn và bình lặng. Lan đã có
Hải- người chồng tận tụy, hết lòng vì vợ con và bé Ly- cô con gái bé bỏng, đáng
yêu. Thắng đã có cả một gia đình hạnh phúc, một người vợ mà bản thân anh
cũng thừa nhận đó là người anh “vừa yêu, vừa thương, vừa biết ơn”, “cô ấy là
người đàn bà tuyệt vời”. Tuy nhiên, Lan và Thắng đã vượt khỏi cái gia đình ấy,
nhân cơ hội đưa đoàn sinh viên đi thực tập để được sống với nhau. Câu chuyện
quả thực có thể chỉ cần tóm lược bằng một đoạn văn ngắn song lại là cả một bức
tranh tâm trạng về cuộc sống. Với thiên hướng đào sâu vào bản thể con người, đi
tìm trái ngọt hạnh phúc đã đánh mất để bù đắp, có được một trái ngọt hạnh phúc
mới từ sự đoạn tuyệt với hạnh phúc đã đi qua, Nguyễn Thị Thu Huệ đã đưa nhân
vật vào mê cung của tâm trạng. Với những lời đối thoại có tính chất cất vấn, tác
giả làm nổi bật sự giằng xé, đấu tranh để buông bỏ, chạy thoát khỏi gia đình của
Lan mong thiết lập một gia đình mới nhưng bất thành. Sau hạnh phúc chớp
thoáng với Thắng, cô trở về gia đình, chứng kiến cảnh Hải hóa trang là mình để
dỗ dành bé Ly, lòng cô gợn lên niềm xót xa. Cuộc sống lại tiếp diễn với niềm
hạnh phúc mong manh dễ vỡ.
Truyện ngắn Người xưa kể về cuộc tái ngộ của người đàn bà sau mười một
năm xa cách gặp lại người yêu cũ. Tuy nhiên, đọc văn bản, người đọc bị thôi
miên vào dòng cảm xúc của hai nhân vật nhiều hơn là những sự kiện. Hồi hộp,
tiếc nuối, phấp phỏng, đợi chờ… sau bao năm không gặp lại, đó là cảm xúc của
cả hai người. Họ đã gặp nhau, dè dặt. Nhưng rồi cuộc gặp lại không giống như
79
họ tưởng tượng, những suy nghĩ, tình cảm muốn dành cho nhau đều tan chảy.
Người đàn bà cảm nhận sự đổi khác một trời một vực của người đàn ông trong
mộng. Không còn là chàng trai thơ mộng, nghèo khổ năm nào. Bây giờ, anh ta
xuất hiện với “một khuôn mặt đàn ông chính hiệu pha sự no đủ vật chất”, một kẻ
ăn chơi và trải đời. Điều này đã xóa tan đi những cảm xúc còn vương lại trong
họ về nhau. Ngồi đằng sau xe anh, trong cái áo mưa trắng đục, cô cảm nhận:
“Còn đâu chàng trai hơn hai mươi ngày ngày đợi cô bé học ôn thi bên gốc sấu.
Còn đâu chút e lệ nơi khóe mắt mỗi khi chàng trai tới nhà thăm “anh chị” mà cô
bé gọi là bố mẹ. Hết tất cả. Sau mười một năm, họ vô tư nói chuyện con cái, gia
đình và tiền bạc. Và vẫn ngồi bên nhau để xem một bộ phim tình yêu” [57; 212].
Sự thay đổi chóng vánh của người tình xưa, những khoảng vô tư đến lạnh lùng
trong cách giao tiếp của cả hai giúp chị nhận ra: “Ai đó giống tôi. Đã từng có
một mảnh tình chạy qua đời, hãy để nó vào chỗ của nó. Đừng lôi nó ra mà soi
ngắm làm gì, mọi thứ trên đời đã an bài…”. Quả thực, trong lối viết, Nguyễn Thị
Thu Huệ đã chủ ý vận dụng nghệ thuật của lời kể. Nó không chỉ miêu tả thế giới
bên ngoài mà chủ yếu phản ánh thế giới bên trong, cùng sự vận động biện chứng
trong tâm hồn của nhân vật. Cái làm nên sức sống của lối viết này chính là
những cảm giác, và ấn tượng của nhân vật, là những suy nghĩ, trăn trở của nhà
văn gửi gắm qua nhân vật. Và cũng chính điều đó yếu tố cốt truyện bên ngoài
nhạt mờ, yếu tố tâm tình của nhân vật được khuyếch đại.
Cũng giống như Nguyễn Thị Thu Huệ, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư có thiên
hướng xây dựng cốt truyện theo mạch nội tâm nhân vật. Cốt truyện chủ yếu là
dòng tâm trạng, mạch suy nghĩ, diễn biến tâm lí, trạng thái của nhân vật… Câu
chuyện được khởi đầu bằng những nguyên nhân, chất xúc tác để mạch tâm trạng
của con người cứ như thế phơi trải trên trang văn. Nhân vật không chú trọng bộc
lộ cảm xúc ra bên ngoài (dù có chút ít bày tỏ qua nét mặt, cử chỉ, hành động),
nhân vật không có chủ ý thay đổi bên ngoài mang tính chất bước ngoặt mà đó chỉ
là những giằng xé mâu thuẫn, đấu tranh, day dứt…, những đổi thay diễn ra chủ
yếu trong tâm can nhân vật. Cải ơi, Có chân thì hãy tìm về, Hiu hiu gió bấc,
Thương quá rau răm, Dòng nhớ, Cái nhìn khắc khoải, Gió lẻ, Biển người mênh
80
mông… của Nguyễn Ngọc Tư là những câu chuyện tiêu biểu cho dạng thức này.
Nếu tóm tắt truyện, các tác phẩm chỉ cần lược lại sự việc, sự kiện trong một hoặc
đôi câu văn ngắn gọn. Chẳng hạn, đó là câu chuyện người cha đi tìm con (Cải
ơi), câu chuyện người vợ bị chồng phụ bạc (Có chân thì hãy tìm về), câu
chuyện không thành của một đôi trai gái (Thương quá rau răm, Cái nhìn khắc
khoải), chuyện về một mối tình đơn phương (Hiu hiu gió bấc)… Với chủ ý
giản lược cốt truyện bên ngoài tạo nên khá nhiều truyện của Nguyễn Ngọc Tư
là dạng truyện phi cốt truyện. Tuy nhiên, chị lại chủ ý gia tăng yếu tố trữ tình,
gia tăng câu chuyện bên trong tâm hồn con người. Đọc truyện của chị, người
đọc thấu cảm được dòng tâm trạng, day dứt nỗi niềm tâm trạng của con người
qua những sự việc mang lớp vỏ bên ngoài dung dị và đời thường ấy. Gió lẻ là
tâm trạng của “em”, từ trong hiện tại những kỉ niệm quá khứ ùa về trong tâm
trí (kí ức với cái chết buồn đau của mẹ) cho tới hình ảnh người cha bội bạc bỏ
rơi em xô dạt giữa dòng đời, nỗi sợ hãi trong những ngày sống ở rẫy Mai
Lâm… Và đó là một mùa gió chướng với những ngày tháng chờ đợi mỏi mòn
của chị Hảo (Hiu hiu gió bấc). Đặc biệt trong số đó, Cải ơi là bức tranh tâm
trạng đan xen nhiều nhung nhớ, day dứt, khắc khoải trong hành trình 12 năm
đi tìm con của ông Năm Nhỏ. Câu chuyện khởi đầu với sự việc lúc Cải mười
ba tuổi “một bữa mê chơi nó làm mất đôi trâu, sợ đòn nó trốn nhà”. Sự việc
này khiến ông Năm Nhỏ rơi vào cảnh bị người thân trong gia đình xua đuổi.
Vợ ông khóc lên khóc xuống bảo ông để bụng Cải là con chồng trước nên gằn
hắt xua đuổi. Người đời đồn thổi ông giết con nhỏ rồi lấp vào một chỗ nào
đó… Cứ như vậy, mười hai năm qua ông Năm Nhỏ đã khăn gói bỏ xứ ra đi
với nỗi đau đớn, khắc khoải tìm con. Trong truyện, Nguyễn Ngọc Tư miêu tả
bước chân nhọc nhằn, khắc khoải trên những mảnh đất ông đã đi qua, những
công việc ông đã từng làm, song đó không phải sự chủ đạo của cốt truyện.
Truyện ngắn khơi sâu vào sự thất vọng, hẫng hụt, hy vọng rồi lại thất vọng
trong hành trình tìm con của người cha tội nghiệp đó, khơi sâu vào “những
đêm thổn thức trong tiếng gọi cháy lòng “Cải ơi…”, nghe ngắc ngoải như
tiếng chim kêu tao tác giữa lưng trời”.
81
Trình làng với một phong cách dung dị, điềm đạm và có phần lặng lẽ, đó
chính là cây bút Trần Thùy Mai. Không ồn ào, gay cấn và tạo nên những cú hích
nghệ thuật như Phạm Thị Hoài, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư… Trần Thùy
Mai với những câu chuyện tựa như những khúc tình buồn, nhẹ nhàng, sâu lắng.
Thị trấn Hoa quỳ vàng, Trò chơi cấm, Đêm tái sinh… là những tập truyện tiêu
biểu. Thế giới hiện thực trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai phân chia khá rõ
ràng. Đó là hiện thực bên ngoài với những cuộc đời, số phận cay cực. Cuộc đời
của những cô gái sẵn sàng từ bỏ ngôi nhà thừa vật chất, thiếu tình thương để ra
ngoài đường- dù họ biết ở đó cạm bẫy giăng đầy như Ngọc (Mắt nhân sứ), Ái
Duy (Nàng công chúa lạc loài)… Đó còn là cuộc sống của những cô gái vì
nghèo khổ quá nên dấn thân nơi xứ lạ như Tý (Lên phố), Út Liên (Gặp ở quê
người), Hà (Nốt ruồi son)… Song cái hiện thực bên ngoài đó được Trần Thùy
Mai sử dụng như là cơ sở làm nổi bật lên cái hiện thực chủ đạo- hiện thực trong
lòng người. Để làm nổi bật, gia tăng chất tâm tình đó ngay trong cốt truyện, Trần
Thùy Mai quan tâm đến những cuộc hôn nhân và những bí ẩn đôi khi không thể
lí giải bằng lời. Trăng nơi đáy giếng kể về cuộc sống của cô Hạnh- người tôn thờ
chồng mình như một vị thánh sống (ông Phương). Sau mười năm chung sống, họ
không hề có được mụn con nào. Song khác hẳn những người phụ nữ khác, cô tự
tay tìm người vợ khác cho chồng, tự chăm sóc cho người đàn bà kia đến khi cô
ấy có thai, tự lo thủ tục ly hôn. Nhà văn đã gia tăng lời thoại và những mạch độc
thoại ngầm của nhân vật: “Khi người ta thực lòng yêu thương nhau, có điều gì
mà không thể hy sinh”. Nhưng câu văn trần thuật tỉ mỉ, chi tiết những hành
động, nghĩ suy của nhân vật làm bật lên sự hy sinh đến vô lường của người phụ
nữ. Chính điều đó tạo lên những con sóng ngầm với bao xúc cảm băn khoăn, nể
phục song cũng đầy day dứt nơi người đọc.
Cũng tương tự như vậy, truyện ngắn Dị hương của Sương Nguyệt Minh
khiến trái tim người đọc miên đi trong thế giới của cảm xúc hơn là những sự kiện.
Nhiều người cho rằng, Dị hương đánh động trái tim bạn đọc bởi đây là câu chuyện
về anh hùng và mỹ nhân; về bạo lực và cái đẹp; chiến tranh và hòa bình. Đó thực
sự là giá trị của tác phẩm. Nhưng nhìn ở khía cạnh khác, cách khai thác và xây
82
dựng cốt truyện, cái đắt giá của truyện ngắn không thể không nhắc tới là dòng cảm
xúc của nhân vật chính là Nguyễn Ánh khi ông xuất hiện không phải như người
anh hùng trận mạc, một bậc quân vương mà khi ông trở về với cuộc sống đời
thường. Sương Nguyệt Minh đã vận dụng tài tình một số sự kiện bên ngoài như
những cái “chốt” để mở ra dòng cảm xúc con người bên trong của nhân vật. Câu
chuyện mở đầu với chi tiết nàng Ngọc Bình “nằm đườn đưỡn tựa cái xác vô hồn”
sau cuộc ái ân. Một chi tiết đủ để những con sóng tức tối ào ạt sống dậy trong lòng
Nguyễn Ánh. “Ánh muốn đạp Đức phi ra khỏi long sàng. Đã đôi lần Ánh tức giận
và chán chường, muốn gọi thái giám đem nàng đang khỏa thân héo rũ giam vào
lãnh cung. Cái gì đã làm cho nàng tàn tạ, héo úa”? Băn khoăn, nghi hồ, tức giận,
khao khát, thất vọng… cứ như thế cất lên với một loạt câu hỏi và hồi ức cuả
Nguyễn Ánh về Ngọc Bình, truy tìm lí giải cái mùi hương kì dị nhưng đầy hấp
dẫn, mê hoặc ở Ngọc Bình tại sao tan chảy và biến mất. Nhìn trong cách xây dựng
cốt truyện, chúng ta thấy đây vẫn là một câu chuyện có sự kiện, song đó chỉ là cơ
sở là cái nền để làm nên sức mạnh của cốt truyện bên trong- câu chuyện tâm hồn
của Nguyễn Ánh, của Ngọc Bình… hay kể cả nhân vật phụ như Sán. Chính điều
đó đưa câu chuyện tâm hồn trong Dị hương có tiếng vang lớn tới độc giả, để trở
thành cuốn sách văn học bestseller trong năm 2011.
Tóm lại, việc xây dựng cốt truyện giản lược yếu tố tự sự, gia tăng yếu tố tâm
tình là một nét đặc trưng của dạng truyện ngắn giàu chất trữ tình Việt Nam sau
1986. Điều này hoàn toàn phù hợp với hướng đi chung của dạng truyện ngắn giàu
chất trữ tình Việt Nam trước và sau 1986. Các tác phẩm hướng tới khám phá, biểu
đạt toàn vẹn thế giới tâm hồn của con người. Lấy quá trình vận động bên trong của
nhân vật là cơ sở tổ chức tác phẩm, truyện ngắn giàu chất trữ tình vượt qua giới hạn
của các sự kiện, tạo ra cốt truyện tiêu tiêu biểu- cốt truyện trữ tình.
3.2.2. Tình huống tâm trạng
Trong các dạng tình huống truyện, tình huống tâm trạng là sự khu biệt khá rõ
nét truyện ngắn giàu chất trữ tình với những dạng truyện ngắn khác. Với những câu
chuyện không có chuyện hoặc nếu có chỉ là những cốt truyện giản đơn, có thể lược
tóm với một vài sự kiện nổi bật thì cái làm nên sức nặng của tác phẩm với bạn đọc
83
chính là tình huống tâm trạng gợi ra với những nỗi niềm nhân thế. Nhân vật trữ tình
hiện diện trong văn bản thường là chủ thể tự giãi bày. Toàn bộ câu chuyện được kể
lại qua tiếng nói của “tôi”, được tái hiện qua lăng kính của nhân vật. Nhân vật bộc
lộ nhiều suy tư, cảm xúc, tình cảm trước hiện thực được trải nghiệm. Xây dựng kiểu
nhân vật này, nhà văn đã thâm nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật và trần thuật
bằng chính điểm nhìn của nhân vật. Nhân vật tự bộc lộ những sâu kín trong tâm
hồn. Nhờ đó, tình huống bên ngoài của văn bản lược lược bớt, nhường vị trí cho
tình huống bên trong.
Khá nhiều truyện ngắn hiện nay đều có lời kể cuả nhân vật chính xưng “tôi”.
Đây là mô hình thuận lợi để nhân vật bộc lộ một cách nhìn riêng về thế giới nội
tâm cá nhân. Truyện ngắn giàu chất trữ tình của Nguyễn Thị Thu Huệ minh chứng
khá rõ điều này. Toàn bộ hệ thống điểm nhìn của truyện đều xuất phát từ người kể
chuyện. Chẳng hạn, chân dung người kể chuyện Mùa đông ấm áp (Nguyễn Thị
Thu Huệ) hiện lên rất tự nhiên ngay phần mở đầu tác phẩm: “Năm tôi hai mươi
tuổi. Một buổi sáng tỉnh dậy. Tôi nhận được phong thư…”. Người kể chuyện
trong Thiếu phụ chưa chồng (Nguyễn Thị Thu Huệ) là nhân vật tôi- My: “Bỗng
dưng chiều nay My thấy người mình tan nát một cách vô cớ. Cô nằm trên giường
êm dịu bởi chăn đệm. Không khí lạnh tê tê bởi chiếc máy điều hòa nhiệt độ.
Những chiếc rèm cửa tím thẫm thả buông im lìm trên các ô cửa…”. Và trong
Người xưa: “Tôi và anh im lìm nhích ra khỏi phòng chiếu. Xung quanh ồn ã tiếng
người. Tiếng cười. Tiếng nhai kẹo cao su”. Ba truyện ngắn mà chúng tôi điểm ở
trên đều lấy “tôi” người kể chuyện là nhân vật nữ. Mỗi người có một cuộc đời
riêng song tất thảy đều giống nhau ở nỗi đa đoan trong tình yêu, hạnh phúc. Với
cách lựa chọn người kể chuyện như vậy, toàn bộ nỗi niềm cuộc đời của “tôi” và
thế giới hỗn độn, bất ổn bao quanh (mà tôi là nhân vật chính trong đó) hiện lên tỉ
mỉ, chân thực.
Ở truyện ngắn của Đỗ Chu, tình huống tâm trạng là một điểm mấu chốt
trong truyện ngắn của ông. Tình huống này được nhà văn xây dựng dựa trên
những sự kiện đặc biệt của cuộc sống hay những cuộc gặp gỡ khó quên, một tình
thế ngẫu nhiên, một nghịch lí cuộc sống… Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ, ngẫu nhiên
84
giữa Nhưỡng và chị Thuần vào chiều 30 tết (Cánh đồng không có chân trời). Đó
là một sự kiện bất ngờ sau hành trình kiếm tìm nay tái ngộ trong hoàn cảnh
không định trước. Tưởng rằng ngay giờ phút đặc biệt đó, Nhưỡng đã phải chạy
ngay tức khắc đến bên chị nhưng anh lại chìm vào dòng suy nghĩ “nghĩ tới
những chuyện ngày nào, những chuyện đã xa lắc lơ và lòng rân rân buồn”, anh
đấu tranh giữa hai thái cực: chạy đến bên chị hay không. Một loạt câu hỏi ùa về
trong tâm trí: “liệu sẽ ra sao, chị có nhận ra tôi không, chị có kêu lên sửng sốt
như chính bây giờ tôi muốn kêu lên không?”. Rồi sau đó anh đã quyết định bước
qua đường với tâm trạng bồi hồi, ngổn ngang. Ngược lại với những băn khoăn
của Nhưỡng, chị Nhuần xúc động: “Chị lúng túng không nói thành lời, cành hoa
đổ trên vỉa hè chị cũng mặc, tay đặt lên vai tôi, mặt chị đầm đìa nước mắt”. Sau
giây phút thiêng liêng đó, quá khứ, tuổi thơ ùa về trong tâm trí hai chị em: những
ngày long đong, vất vả kiếm sống trong những phiên chợ nghèo… Đỗ Chu đã rất
khéo léo khi lựa chọn một tình huống để từ đó làm nổi bật sự cao cả, thiêng liêng
cuả tình người trong cái bộn bề, đổi thay chóng vánh của nhân thế hôm nay. Họa
mi hót xuất hiện với tình huống gặp gỡ kì lạ giữa anh Thiêm và chị Lương trên
bãi sông quê: lúc anh vật lộn không thoát ra nổi đám lau lầy, chị Lương đã cứu
anh. Tình yêu của họ đã nảy nở từ sự đùm bọc, thương yêu. Nhưng hiện thực
cuộc sống lại đối nghịch với giấc mơ cuả họ. Cả hai đã có gia đình. Anh Thiêm
đang sống một mình. Cậu con trai anh đã ra nước ngoài, có gia đình riêng. Còn
người vợ xấu số đã qua đời vì bệnh tật. Chị Lương đã kết hôn với một trung úy
quân đội nhưng anh đã hy sinh, chị đang sống với cô con gái làm ở đài phát
thanh truyền hình. Chị Lương có một quầy bán cháo lòng nhỏ ở khu chợ lính.
Trong một lần gặp lại tình cờ khi anh Thiêm vô tình vào ăn cháo ở quán chị, tình
cảm của anh chị sau một thời gian dài xa cách đã cháy lên một lần nữa. Sự tương
đồng về hoàn cảnh, sự yêu mến chân thành đã mang đến niềm hạnh phúc ngọt
ngào cho họ dù hạnh phúc muộn mằn. Có thể nói, Đỗ Chu là nhà văn có biệt tài
lựa chọn những tình huống khốn khó để kéo con người lại gần nhau hơn. Từ đó,
họ đối đãi với nhau bằng ân tình chân thật của những người dân nghèo khó. Do
cuộc sống, họ phải giãn cách, mỗi người một nẻo, tưởng như không có ngày tái
85
ngộ song cuộc đời tựa như một vòng tròn, cuộc đời rộng lớn bao la nhưng lại nhỏ
hẹp, cuộc sống xa xôi nhưng lại gần trước mắt. Những cuộc tái ngộ trong trang
văn cuả Đỗ Chu dường như bao giờ cũng trân trọng, mang đến niềm vui và hạnh
phúc. Thứ quả hạnh phúc tuy muộn mằn nhưng thắp lên cho người đọc ngọn lửa
về niềm tin và tình người trong cuộc sống.
Những nỗi niềm trong một khoảng khắc nhân thế nào đó luôn có vai trò ưu việt
để làm nên tình huống tâm trạng. Tình yêu học trò khờ khạo, vụng dại: hồi hộp, lo
lắng, băn khoăn, ngỡ ngàng… làm nên Khi người ta trẻ (Phan Thị Vàng Anh). Mạch
cảm xúc: khi tủi hờn, cay đắng khi đợi chờ khát khao, khi dửng dưng, lạnh lùng, khi
tiếc nuối, ân hận... của Hạc khi nhận ra tuổi thanh xuân thoáng đi qua làm nên Hoa
muộn (Phan Thị Vàng Anh). Tâm trạng hạnh phúc cuả người con gái đang yêu với
muôn cảm xúc ngọt ngào làm nên Cát đợi (Nguyễn Thị Thu Huệ). Dòng cảm xúc với
nỗi cô đơn, với những khoảng vắng khi nghĩ về thực tại, nhưng lại hạnh phúc khi
ngược về quá khứ dù ngắn ngủi của nhân vật nữ- kẻ phụ bạc làm nên Giáng sinh
buồn bã (Đoàn Lê)...
Khát vọng hướng về tình yêu chân chính, về một bến đỗ bình yên là điểm
nổi bật của truyện ngắn trữ tình. Truyện ngắn giàu chất trữ tình cũng như hiện
thực cuộc sống: khi bị ném vào nghịch cảnh, người trong cuộc hiểu hơn ai hết
những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Bởi vậy, họ cần lắm một gia đình bình dị,
yên ấm, một tình yêu chân thành. Đây là vấn đề muôn thuở song nhức nhối nhất
cuả thời hiện đại, khi mọi giá trị cuộc sống có nguy cơ bị đảo lộn. Hằng- người
con gái tật nguyền cũng như mẹ cô, như bao kiếp người đàn bà qua những câu
chuyện “tôi” được nghe: “đã xòe tay hứng mưa dưới bầu trời này”. Họ mong
muốn hứng được “mười giọt mưa long lanh như ngọc rơi vào lòng bàn tay”. Bởi
khi đó họ sẽ là người phụ nữ có được Hạnh Phúc. Đã biết bao người đàn bà sẵn
lòng đứng dưới trời mưa cũng như sẵn lòng chờ đợi giấc mơ hạnh phúc của
mình. Trong số đó, Hằng có lẽ là người thiệt thòi hơn, bởi em là cô gái tật
nguyền. Em luôn hỏi mẹ: “Mẹ ơi! Bao giờ thì Người- đàn- ông- của- Trời đến
với con? ”. Câu hỏi, lời khẩn cầu luôn vang vọng, trở thành điệp khúc đầy day
dứt trong tác phẩm (Làn môi đồng trinh, Võ Thị Hảo). 27 bước chân là lên thiên
86
đường của Y Ban miêu tả: “Em đã run lên khi nghe cú điện thoại của anh. Em
nằm úp mặt xuống gối và nghe trái tim đập thùm thụp”. Tác phẩm đã mở đầu
như thế- như vô vàn cảm giác của cô gái đang đón đợi tình yêu của mình. Nhân
vật “em” trong truyện đã được thỏa nguyện yêu với người đàn ông lý tưởng của
mình, người mà cô không thể rời mắt trong những chương trình thời sự buổi tối.
Cô miên man trong suy nghĩ về anh: Em nghĩ về anh... Em rất ngưỡng mộ anh
và khao khát một tình yêu” [57; 42]. Cùng với 27 bước chân là lên thiên đường,
truyện ngắn I am đàn bà đã tạo lập nên một Y Ban với lối viết gai góc mà dịu
dàng, thấm nhuần tư tưởng nhân văn dù ban đầu tác phẩm đã đón nhận với rất
nhiều lời khen và không ít tiếng chê. Câu chuyện mở ra với tình huống người
phụ nữ tên “thị” đi làm công giúp việc chăm sóc người đàn ông Đài Loan nằm
liệt giường do tai nạn. Ước mơ của “thị” cũng như bao người phụ nữ quê sau
hai năm: có chút tiền công mang về cho gia đình, cất cái nhà và cho con ăn học.
Thế là đủ, là hạnh phúc đối với người phụ nữ “hay lam hay làm” như “thị”. Đó
là tình huống khá điển hình của những người phụ nữ nhà quê. Muốn thoát khỏi
cảnh nghèo khó, họ đành phải từ giã vai trò là người phụ nữ bếp núc để trở
thành người trụ cột gia đình, để dấn thân vào hoàn cảnh mới đầy bất trắc. Song
đó chỉ là câu chuyện đột biến bên ngoài. Sức hấp dẫn của tác phẩm là câu
chuyện bên trong- nỗi niềm của người phụ nữ đó nơi đất khách. Sự cô độc khi
bất đồng ngôn ngữ, sự giao thoa cảm xúc giữa mình và những người xa lạ, đặc
biệt là ông chủ; sống theo lí trí, theo chuẩn mực hay sống với những cảm xúc
rất thật của một người đàn bà… nhất là khi bản năng của người phụ nữ mà thị
đã kìm nén trong suốt gần hai năm qua chợt sống dậy: “Thị mộng mị đi vào
phòng ông chủ. Cái ánh mắt của ông chủ như hối thúc vào tim thị… Thị nhìn
sâu vào cái ánh mắt ấy…”. Trên dải đất hình chữ S còn nghèo khó như Việt
Nam có biết bao người phụ nữ ở miền quê rơi vào tình cảnh như “thị”, thậm chí
tệ hại hơn, khi ra nước ngoài họ bị bán vào các nhà chứa ở Đông Nam Á, đi
làm dâu như một nô lệ… Sức ám ảnh của I am đàn bà không phải là nỗi khổ
nhục phải ra tòa của người đàn bà osin phải xa chồng và nỗi thèm khát bản
năng mà là câu trần tình đơn giản và nghẹn ngào: “I am đàn bà”. Đó là nỗi
87
niềm, cảm xúc đầy nghẹn ngào, chua xót cuả những người phụ nữ bước chân
vào tình cảnh ôsin nơi xứ người. Bao cảnh đời, trạng huống xót xa như được
phơi mở dần từ mỗi dòng truyện của Y Ban.
Chị Thiên của tôi (Ma Văn Kháng) thể hiện nỗi niềm của người phụ nữ tuổi
bốn mươi: “Thôi, dứt khoát chuyến này phải thằng xích lô tao cũng lấy. Không
lấy nó, kiếm ai bưng bô, đổ vịt cho tao lúc ốm đau”. Trước đây, khi còn trẻ, chị
Thiên ngần ngại khi nghĩ đến cảnh lấy chồng nhưng có lẽ sau lần tai nạn bị cốt
pha nhà bên đổ đè dập bàn chân đã khiến chị nhận ra mình rất cần một điểm tựa
trong cuộc đời. Một người ở bên chị, cảm thông, giúp đỡ và chia sẻ khó khăn khi
đau ốm. Với người phụ nữ nói riêng và con người nói chung, hạnh phúc không
chỉ thể hiện ở sự đầy đủ về vật chất mà ở những giá trị tinh thần. Đó là cuộc
sống được yêu thương, cảm thông, chia sẻ, được tận hưởng những dư vị ngọt
ngào của tình yêu trần thế, của gia đình nhân gian giản dị và thiêng liêng.
Xưa nay, con người đều khao khát có được tình yêu, hạnh phúc, hôn nhân
ưng ý nhưng không ai có được điều đó dễ dàng, nhất là trong xã hội hiện đại.
Tuy nhiên tình yêu có sức mạnh kì diệu có khả năng thay đổi con người, biến họ
trở thành người sẵn lòng dâng hiến, hy sinh.
Trong tình yêu nếu cần sự đánh đổi, sự hy sinh để mang đến hạnh phúc cho
người khác thì những người phụ nữ hôm nay họ dám làm và sẵn sàng dâng hiến.
Chị tôi; Tôi, Anh thằng bé và con rắn (Võ Thị Hảo) là những câu chuyện với tình
huống như vậy. Để được sống với người mình yêu thương, Hải sẵn sàng ki cóp
từng đồng tiền nhỏ mọn nơi xứ người, chấp nhận dành hết để nuôi một kẻ mà chị
yêu thương dù đó là kẻ ngỗ ngược, kém mình đến ba tuổi… Chị luôn đợi chờ và
hy vọng, sự chân thành của mình sẽ mang lại sự đổi thay ở người mình yêu
thương và hạnh phúc sẽ đến, sẽ mỉm cười. Để có được hạnh phúc, cô gái trong
Tôi, Anh, thằng bé và con rắn lặng lẽ đứng bên lề cuộc đời người đàn ông có vợ
nhưng mình yêu thương. Khi anh rơi vào bi kịch, cô vẫn ở bên cạnh, lặng lẽ hy
sinh và chờ đợi… mong một ngày có được Tình yêu của mình.
Nếu như ta chú ý đến sự đằm thắm, trữ tình cuả truyện ngắn hiện nay thì
cũng cần chú ý đến điều này: chính nhân vật phụ nữ, những người đàn bà Việt
luôn tỏa sáng vẻ đẹp dịu dàng trong cuộc đời cũng như văn chương. Người mẹ
88
trong Hoàng hôn của cha của Vũ Minh Nguyệt là người phụ nữ chân quê mang
vẻ thuần hậu của người phụ nữ ruộng đồng nhưng khi “Áo nâu non thít chặt
tấm eo thon, quần xa tanh đen nhóng nhánh, búi tóc dày quấn gọn sau gáy”
người mẹ ấy lại trông như người của thành phố “thung dung, óng ả”. Mười chín
tuổi, thi đại học xong, tôi cùng mẹ ra đồng, mẹ dạy tôi cách tóm chặt từng lọn rạ,
ấn chặt bốn phía để gánh rạ không bị đổ. Tôi sinh ra ở quê nhưng vô tâm không
hiểu được điều đó bởi “mẹ đã gánh vác hết tất cả mọi việc đồng áng, dành thời
gian cho tôi học”… Và kể cả đến bây giờ, khi tôi có gia đình riêng, khi hạnh
phúc rạn nứt, khi người chồng của tôi muốn đi theo người con gái khác, tôi vật
vã, khóc lóc, đòi tự tử thì người ở bên, thủ thỉ, ân cần vẫn là mẹ. “Con ơi, đàn bà
con gái phải…” . Mẹ bắt tôi ngồi dậy, chải đầu, soi gương, bôi phấn sáp. Mẹ dẫn
tôi đi chợ, mua mấy lạng cua đồng, một bó rau rút, rau muống, khoai sọ để nấu
mấy món quê. Mẹ dạy tôi cách nấu những món chồng tôi thích, và vẫn lời thủ
thỉ: “Con ơi, đàn bà con gái phải…”. Đó là người mẹ đã níu giữ hạnh phúc cho
con gái của mình thêm lần nữa khi nó đang có nguy cơ tuột khỏi tầm tay. Tuy
nhiên, những điều đó trở nên thật nhỏ bé trước sự hy sinh của mẹ tôi với cái đại
gia đình của chúng tôi, nơi đó cha tôi (một cán bộ viên chức trong trong một cơ
quan Thủy nông, mỗi năm về chỉ vài bận) nhưng đã có một cậu con riêng. Sự hy
sinh lặng thầm của mẹ lại chỉ được cả nhà tôi, cả cha tôi biết được khi mẹ đã
mất. Sau ba ngày cúng mẹ, tôi lật giở hòm tủ để tìm xem đồ đạc của mẹ còn sót
thứ gì sẽ hóa đi để mẹ có cái dùng nơi chín suối. Đến lúc đó, tôi mới nhận ra
rằng: “Cả đời tần tảo vì chồng, vì con, đến lúc chết vẫn không có một thứ gì
đáng giá cho riêng mình”. Nhưng cái giá trị nhất mẹ có là tấm lòng vĩ đại, sự hy
sinh không kể xiết của mẹ qua tập biên lai dày cộp dưới hòm. Đến bây giờ,
những thắc mắc, hoài nghi về những lần mẹ đi tận chợ huyện để mua tí rau, lạng
thịt trước đây đã rõ. Không phải vì chợ quê không có, mà bởi: “mẹ tôi đều đặn
gửi tiền nuôi con riêng của chồng”. Vậy là cả cha con tôi, cả cậu con riêng của
cha- Nguyên nữa, tất cả mọi người đều thật sự nhỏ bé, kém cỏi trước vong linh
của mẹ. Để gìn giữ ngọn lửa yên ấm của gia đình, cả đời mẹ tôi đã hy sinh tất cả,
lặng lẽ nuốt những giọt nước mắt hờn tủi vào trong, nở thành những nụ cười đon
đả mỗi khi cha đi công tác về, thành niềm vui sau mỗi lần đi chợ huyện.
89
Quay trở lại với câu chuyện hạnh phúc cuả mỗi gia đình thời hiện đại,
chúng ta nhận ra: các nhà văn hôm nay vẫn viết tiếp câu chuyện hy sinh bền bỉ
của những người phụ nữ hiện đại. Nhưng khác với những trang văn thời xưa,
truyện ngắn giàu chất trữ tình hôm nay, với tình huống tâm tình, qua cách lựa
chọn ngôi kể là nhân vật chính trong truyện, xưng “tôi”, các nhà văn đi sâu lý
giải nguyện vọng chính đáng của người đàn bà hôm nay khi giữ ngọn lửa gia
đình. Đó là tinh thần tự thân, tự dâng hiến, thậm chí đánh đổi cuộc sống thực tại,
chuốc lấy nhọc nhằn để giữ yên tương lai, sự bình yên của một mái ấm, một nền
tảng gia đình cho những đứa con…
Bên cạnh câu chuyện tình yêu, hạnh phúc, gia đình (điểm nhấn cơ bản cuả tính
trữ tình) các nhà văn hôm nay còn đặt ra bao nỗi niềm của cuộc đời rộng lớn với
những hoài cảm của mình. Tính trữ tình vì thế không đơn điệu mà tỏa sáng rộng rãi
trên những trang truyện. Đó là những suy tư, khắc khoải trong hành trình đi tìm cái
đẹp: Ma Văn Kháng (Heo may gió lộng, Suối mơ, Hoa gạo đỏ, Một chiều giông
gió…); Nguyễn Huy Thiệp (Dòng sông mùa nước cạn, Những ngọn sóng hình sin,
Duyên phận). Cũng có lúc tác giả gửi nỗi ưu tư, thấm đẫm cảm xúc trước nhân thế:
Tạ Duy Anh (Lãng du); Phan Triều Hải (Đi mãi trên thiên đường); Trần Đức Tiến
(Đi bộ và chạy); Đoàn Minh Hà (Hương lấy chồng)… Có thể nói, các nhà văn hôm
nay đã dành sự lựa chọn tối ưu cho tình huống tâm trạng để qua đó làm nổi bật tính
trữ tình cá nhân, những nỗi niềm nhân thế của con người thời hiện đại.
3.2.3. Kiểu nhân vật nội tâm
Truyện ngắn hiện thực thường chú ý tới những con người tiêu biểu, điển
hình. Truyện ngắn giàu chất trữ tình luôn hướng tới kiểu nhân vật nội tâm, chú ý
tới dòng ý thức, diễn biến tâm trạng trở thành những yếu tố cấu thành, tạo nên
sức sống của nhân vật. Truyện ngắn giàu chất trữ tình hướng tới nhu cầu khám
phá, thể hiện cái tôi cá nhân của con người. Với tiêu chí xây dựng nhân vật, nổi
bật đời sống nội tâm với những cảm xúc phong phú, nhân vật chủ yếu trong
truyện ngắn giàu chất trữ tình là nhân vật đời tư, giàu cảm xúc.
Một khía cạnh đáng chú ý cuả kiểu nhân vật trữ tình nội tâm hiện nay là con
người đa chiều, con người cô đơn như những “dị bản” phần nào khác lạ với
90
truyện ngắn giàu chất trữ tình trước 1986. Truyện ngắn đương đại hướng tới thế
giới nội tâm cá nhân với những cảm xúc nổi bật như sự cô đơn, “lạc loài” ngay
giữa đồng loại, gia đình và với chính mình.
Nhiều truyện của Y Ban thể hiện tận cùng sự cô đơn, khép kín, khi con
người tồn tại trong không gian trống vắng với những nỗi đau tâm hồn. Người
con gái trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ đã bật lời than khóc: “Còn một nỗi đau này
nữa mẹ ơi, là nỗi cô đơn con không thể chia sẻ cùng ai… ngày ngày con vẫn cứ
nhập cuộc: Con đi xem phim, đi vũ hội, đi du lịch… nhưng sau tất cả những
cuộc vui, con càng cô đơn hơn”. Các nhân vật trong Tôi và anh; thằng bé và con
rắn đều là những kẻ cô đơn. Chàng nghệ sĩ tạc tượng loanh quanh tìm kiếm mục
tiêu cho sáng tạo, anh quyết định tạc bức tượng “cô đơn”. Thằng nhỏ con anh, 4
tuổi, cô đơn lạc loài ngay chính giữa gia đình. Người mẹ bỏ con để đi theo nhân
tình, còn anh, cha nó, nghèo quá không nuôi nổi con. Anh quyết định phấn đấu
giàu có để nuôi con nhưng ngay khi được đón con về nuôi anh lại không có thời
gian để dành cho nó. Một lần nữa thằng bé lại tiếp tục với cảnh cô đơn giữa gia
đình của mình. Cuối cùng nó đã tìm được người chia sẻ, đồng cảm đó là con rắn,
nàng tiên nâu. Nó đã chết vì sự cô đơn, bơ vơ khi có cả cha và mẹ.
Truyện ngắn giàu chất trữ tình thể hiện các trạng thái khác nhau của con người
cô đơn, từ lạc loài đến trống trải, hụt hẫng. Sự cô đơn có xu hướng đi sâu vào bản
thể con người với nỗi cô đơn khép kín tột cùng. Đây cũng chính là sản phẩm của
mặt trái xã hội thời kì đổi mới và cũng là ảnh hưởng cuả xu hướng hậu hiện đại
trong văn chương. Khi những thang bậc giá trị của xã hội thay đổi lật nhào, con
người sẽ đi về đâu? Về những miền cô đơn, xứ lạc loài, hay vọng hoài về quá khứ?
Bão Vũ đã từng tâm sự trong Vườn thuốc: “Có những câu chuyện cũ giống như
món đồ cổ cất trong hầm mộ, chỉ có thể ngắm nhìn phần còn lại để hình dung ra
những gì bị cát bụi che lấp mất, chỉ có thể ngắm nhìn với nỗi hoài cảm và niềm
thương tiếc ngọt ngào… Quá khứ muốn ngủ yên trong hầm mộ, cả nỗi xót xa đau
đớn nếu có thì cũng hóa thạch. Và nữa, những hoài niệm mong manh sương khói,
liệu có thể định hình được chúng” [90; 3]. Phải chăng từ tâm niệm đó nên thế giới
nhân vật trong truyện ngắn của ông là những người muôn năm cũ, đắm mình trong
91
dĩ vãng, trong những câu chuyện cũ. Nhân vật Tôi (Vườn thuốc) luôn sống trong
kí ức về khu vườn thuốc xưa của ông ngoại với niềm nhớ thương khôn nguôi. Đó
là những tháng ngày Sung được sống trong sự ấp ủ thương yêu của ông bà. Sau
những vấp ngã, thăng trầm trong cuộc sống, Sung càng nhận ra trong anh khu
vườn vẫn là một bến đỗ bình yên và đẹp nhất: “Mỗi khi có gió mùa, trong ý thức
của tôi, cơn gió từ quá khứ đem đến thứ hỗn hương của khu vườn thuốc ngày xưa
trở về, lòng tôi lại rạo rực không yên. Tôi chưa hề yêu thực sự một người đàn bà
nào để có một cảm giác rạo rực như thế. Khu vườn ấy là tình yêu duy nhất của tôi”
[90; 4]. Bên cạnh Sung, chúng ta nhận ra hình ảnh tương tự như Ké Linh (Thung
lũng Ngàn Sương), Lâm (Rau cải đắng), Lân (Thị trấn Giang My)… Bão Vũ đã
nâng nỗi cảm hoài của con người lên một tầm cao đủ để nhân vật của mình đứng
một vị thế riêng- nhân vật nội tâm.
Khác với lối viết cuả Bão Vũ, Nguyễn Quang Thân rung cảm trái tim người
đọc bởi những ngậm ngùi day dứt của người tài trước thế đời đen bạc. Hình ảnh
Nguyễn trong Chàng thi nhân đầu bạc gợi mở thân phận, nỗi lòng, ẩn ức của bậc
anh hùng lỡ vận- Nguyễn Du. Những câu văn cất lên như “tiếng kêu xé lòng” của
nhân vật: “Chàng đã làm gì? Đã làm gì? Chẳng làm gì hết. Chàng chỉ làm được
mấy bài thơ tự thán. Lại còn rưng rưng cảm động khi được mời làm chủ buổi tế tư
văn giữa đám hào mục thối nát ấy nữa chứ!” [61; 390]. Sau giấc mộng văn
chương mà vẫn giữ khẩu khí trung quân bất thành, lòng tin hướng về khôi phục
hoàng kim của tiên triều thất bại, Nguyễn nhận ra con đường mình nên trở về.
Chàng sẽ buông bỏ tất cả hư danh “Chàng phải về! Về với Hồng Lĩnh, sông Lam
của chàng. Để làm gì ư? Để sống. Chàng phải sống như một con người có quyền
được sống. Lần đầu tiên trong đời, chàng không nghĩ tới vua, đến mộng trung
quân mà nghĩ tới bản thân mình. Chàng muốn sống như một kẻ lê dân trong thập
loại chúng sinh” [61; 392].
Gần gũi với lối viết của Nguyễn Quang Thân, truyện ngắn Trần Thùy Mai
được lấp đầy bởi mảng hiện thực của thế giới thực tại. Tuy nhiên, Trần Thùy
Mai đã khéo léo sử dụng thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy, hiện thực bên ngoài được
dùng làm bệ đỡ để khơi nguồn dòng tâm trạng, đang chờ cơ hội để ùa ra với bao
92
nỗi niềm nhân thế. Chẳng hạn, đó là hiện thực bên ngoài với những mảnh đời
cay cực, thiệt thòi như cuộc đời của các cô gái mãi dâm: chị em Mận Chín, Mận
Xanh (Trái xanh), Hà (Nốt ruồi son), Ái Duy (Nàng công chúa lạc loài), Tý (Lên
phố)… Thứ hai, đó là hiện thực trong lòng người. Sự đau khổ của những người
phụ nữ bị ném vào những mối quan hệ tay ba trong cuộc sống gia đình. Hạnh
trong Trăng nơi đáy giếng có tình yêu với chồng như tình yêu với một vị thánh,
ông Phương là “cả cuộc đời cô”. Hạnh yêu chồng và hy sinh hết thảy nhưng rồi
cô lại bị ném vào cảnh chơ vơ khi chồng mình đã đi về ngôi nhà khác với người
đàn bà khác. Cô đau đớn khi nhận ra ông thánh sống cuả mình thực chất chỉ là kẻ
tầm thường “ngồi chỏ hỏ giặt đồ bên bể nước”. Suốt nửa đời tôn thờ người chồng
cõi thế đã khiến cô tuyệt vọng, không muốn tin thêm bất cứ người đàn ông nào nữa.
Cho nên, nửa cuối đời, cô tìm đến với cõi mơ- ông Hoàng Bẩy như một sự cứu rỗi,
giải thoát cho nỗi đau nửa trước cuộc đời. Nếu Trăng nơi đáy giếng là những khám
phá về tính chất phức tạp của đời sống với những ông chồng phũ phàng vứt bỏ
những người vợ danh chính ngôn thuận khiến họ thành kẻ không gia đình thì
Chuyện cũ ở quê nhà dẫn người đọc về một miền quê nghèo, một gia đình
nghèo. Không gian “trong tiếng ru trầm trầm, khan khan… hòa trong tiếng lá tre
xào xạc, tiếng những thân tre nghiêng ngả cọ vào nhau và tiếng võng đưa kẽo
kẹt”… chứa bao sóng gió ẩn chìm. Ở làng quê, mĩ tục và hủ tục đan xen, bao
phủ cuộc sống con người. Người đàn bà thủ tiết thờ chồng được ca ngợi, người
đàn bà dám đi tìm hạnh phúc cho mình bị phỉ báng. Biến cố đổ ập đến cuộc sống
cuả người phụ nữ khi họ dám đi tìm cho một một lẽ sống mới. Qua những câu
chuyện dung dị, mang đẫm hơi thở cuộc sống thường nhật, Trần Thùy Mai đặt
con người cá nhân đối diện với những tập tục, văn hóa cộng đồng để lắng nghe,
thấu hiểu nỗi cô đơn, lạc loài của con người do những tập tục, định kiến tạo ra.
Có thể nói trong xã hội bộn bề của cuộc sống hôm nay, con người luôn có
nguy cơ rơi vào trạng thái chông chênh, đổ vỡ niềm tin, đánh mất hạnh phúc dù
chỉ là thứ hạnh phúc giản dị, đời thường. Phải chăng, nỗi cô đơn đã trở thành
nguồn mạch trong nhiều sáng tác, nhất là truyện ngắn trữ tình? Đây cũng là dấu
ấn đặc biệt lí giải nó chắc chắn cần liên hệ đến trạng thái tâm lí của con người
hiện đại.
93
Bên cạnh những nhân vật có nhiều giằng xé nội tâm của những cây bút nữ,
Bảo Ninh lại đi sâu phản ánh những u uẩn, cô đơn, lạc lõng cuả những con người
đi ra từ chiến tranh. Trước cuộc sống đời thường phồn tạp, muôn vẻ, thực hư,
trắng đen lẫn lộn, họ đã thức nhận rất rõ về sự “lạc thời” của mình. Đó là sự lầm
đường, lạc lối của ông Phúc (Thời tiết của kí ức). Suốt một thời trai trẻ ông đã tự
nguyện hiến dâng bản thân để phục vụ cho ngụy quyền, nên bây giờ ông luôn
sống trong nỗi mặc cảm, ăn năn, xám hối. Đó là người cha của cô gái, người đã
trốn tránh không tham gia vào công cuộc “cả thế hệ dàn hàng gánh đất nước trên
vai”. Nỗi niềm tủi hổ, khiếp sợ cuả cô “là ở chỗ không sao hiểu nổi duyên do của
nỗi ghê khiếp cộng sản đã ám ảnh và chế ngự cuộc sống của cha cô cũng như
của bao người khác nữa ở cái thị trấn này” [37; 319]. Và cả chính cha cô, không
chịu nổi với nỗi cô đơn, lạc loài đó đã bỏ xứ mà đi, chạy trốn quá khứ và hiện
tại. Nhà văn Bảo Ninh xây dựng môtip con người cô đơn trong đối cực quá khứ
và hiện tại. Đó là kiểu con người cô đơn, lạc thời giữa hoà bình, đó là cuộc đời
và số phận cuả những người lính không vượt qua được “nỗi buồn chiến tranh”,
lạc lõng, cô đơn với mình, với cả gia đình.
Tình yêu và hôn nhân vốn là thứ con người hằng theo đuổi, mong muốn,
chiếm hữu và sở hữu đến tuyệt đích. Võ Thị Hảo có lần đã nói: Phụ nữ hay quan
niệm tình yêu là tất cả cuộc đời. Còn đàn ông thì không. Họ quan niệm tình yêu như
thứ vốn có; chỉ là một phần của cuộc đời. Vì thế phụ nữ dại khờ và bất hạnh hơn.
Song một nghịch cảnh thường đặt ra: con người luôn có nguy cơ trở thành nạn nhân
cho những thứ mình tôn thờ. Và các nhà văn hiện đại hôm nay đã mạnh dạn khơi
vào những mạch ngầm của cuộc sống, nơi những vết nứt, rạn trong trái tim con
người, mở ra cả một thế giới nội tâm phong phú.
Là những nhà văn nữ viết về vấn đề của giới nữ, vì thế những trang văn của
họ mang đậm hơi thở của những người trong cuộc, cùng cảnh ngộ, giàu cảm
thông, chia sẻ. Đọc văn của Lê Minh Khuê, Y Ban, Võ Thị Hảo, Đỗ Hoàng
Diệu, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, độc giả nữ
như được trải lòng. Những nỗi niềm sâu kín đã được sẻ chia chân thành, sâu sắc.
Trong cảm nhận của họ, tình yêu có cả ngọt ngào lẫn cay đắng, có cả hạnh phúc
94
và khổ đau. Đó là bi kịch của những người phụ nữ thất bại trong trường tình
hoặc mải miết với thế giới vật chất phù hoa mà đánh mất tình yêu đầu đời;
những người phụ nữ hấp dẫn, kiêu kì không thỏa lòng với tình yêu thực tại, coi
tình yêu là một trò chơi… để rồi rơi vào bi kịch của chính mình.
Nhân vật Tuyền trong Một cuộc du ngoạn ngắn ngủi (Phan Thị Vàng Anh)
là người sống tách mình, khép mình. Và cũng chính trong hoàn cảnh đó Tuyền
nhận ra lối sống giả dối, ích kỉ, vụ lợi của anh bí thư Đoàn phường, sự đỏng đảnh
của mấy chị phụ trách, sự ngây ngô đến tội nghiệp đáng thương của những đứa
trẻ. Lòng Tuyền trống trải. Sự cô độc chiếm hữu. Tuyền lặng lẽ nhìn, thấm thía về
nhân sinh đang tồn tại vây quanh mình. Cô muốn làm một điều gì đó để thay đổi
thực tại, nhưng cuộc sống không tuân theo những suy nghĩ của cô. Bất lực, Tuyền
đành ngậm ngùi chung sống với niềm tin đã mất, với bi kịch không lối thoát.
Trong truyện ngắn của mình, Nguyễn Ngọc Tư mở ra trước mắt người đọc
bi kịch của những người lao động nghèo vùng sông nước Nam Bộ. Họ rơi vào đủ
bĩ cực khác nhau của cuộc sống. Đó là đứa con hoang lạc loài, sống cô độc, chờ
đợi hạnh phúc mong manh (Biển người mênh mông), kẻ vì tình yêu mà trốn chạy
(Nhà cổ); kẻ đi tìm những lỗi lầm trong quá khứ (Dòng nhớ)… Những cuộc đời
bập bềnh, gắn liền với con đò, sông nước, những nhân vật cả cuộc đời khao khát
đi tìm những điều đã mất với niềm khắc khoải vô tận. Nguyễn Ngọc Tư có thiên
hướng xoáy sâu vào hai bi kịch điển hình luôn quấn riết số phận người nông dân
nơi thôn quê. Thứ nhất, bi kịch vật chất- cái đói, cái nghèo hiện hữu trong mỗi
ngôi nhà, túp lều, trên dòng sông, cánh đồng, đàn vịt…Thứ hai, bi kịch tinh thần-
bi kịch hôn nhân. Hạnh phúc đời thường chông chênh, chao đảo và dễ dàng bị
méo mó, xộc xệch vì miếng cơm manh áo thường ngày.
Trong truyện ngắn giàu chất trữ tình, thế giới nội tâm của người phụ nữ có
cơ hội bộc bạch cụ thể hơn, chân thực hơn. Nhà văn Y Ban đã khẳng định điều
này qua tiếng nói của Người đàn bà có ma lực: “Bây giờ là thời đại mới, thời đại
của chúng ta. Chúng ta làm chủ tình thế chứ đâu phải thời phong kiến đàn bà chỉ
biết e lệ một chỗ như những bông hoa trong luống hoa, mặc cho người ta khen,
người ta chê”; qua I am đàn bà: “Thị chỉ muốn thiên hạ hiểu cho được nỗi thống
95
khổ của những người đàn bà nghèo phải rời bỏ quê hương đi làm ăn. Thị chỉ muốn
thiên hạ hiểu cho những nỗi thống khổ của đàn bà. Thị chỉ muốn thiên hạ nhận ra sự
tốt đẹp của đàn bà để tha thứ cho họ” hay: “Thị muốn nói thật to trước tòa một câu
nói mà mọi người đều có thể hiểu. Thị cố nhớ lại câu nói tiếng Anh cô giáo đã dạy
cho thị trước khi ra nước ngoài: Iam: Tôi là. Iam đàn bà”. Quả thực, trong các sáng
tác của mình, Y Ban lần lượt đi sâu vào những mạch nhỏ trong trái tim người phụ
nữ, lắng nghe, cảm thông. Nhưng cũng chính trong khoảnh khắc ấy, nhà văn lại
nhận ra bi kịch muôn thuở của người phụ nữ không dễ dàng giải thoát.
Bằng những ưu điểm trong cách xây dựng kiểu nhân vật nội tâm của truyện
ngắn giàu chất trữ tình, các nhà văn đã phơi trải bức tranh đời sống cuả con
người hôm nay qua phương thức nội cảm hóa, chú tâm vào những hành động
đầy kịch tính, có tính chất bước ngoặt ngoài đời, nhân vật của truyện ngắn trữ
tình đã được sống trong một không gian khác, không gian tâm tưởng. Không
gian đó chan hòa, thấm đẫm, đầy day dứt, có niềm vui và rất nhiều nỗi buồn. Lẽ
dĩ nhiên, không gian này đã được thể hiện khá thành công trong truyện ngắn giàu
chất trữ tình giai đoạn 1930-1945, song giai đoạn sau 1986 chiếm hữu trong toàn
bộ không gian, không khí của tác phẩm. Chính vì vậy, thế giới nội tâm của nhân
vật thực sự được khai thác kĩ lưỡng, nhân vật được sống trọn vẹn với thế giới
bên trong và đây cũng chính là thế giới con người ao ước, khát vọng. Bằng lối
xây dựng nhân vật nội tâm đặc thù, truyện ngắn giàu chất trữ tình đã đi đến giới
hạn tận cùng của tình yêu, hạnh phúc và nỗi buồn; khát vọng sống mãnh liệt,
tiếng nói đấu tranh để đến với tình yêu, hạnh phúc của con người… Đây là điểm
khác biệt của truyện ngắn giàu chất trữ tình giai đoạn này so với truyện ngắn trữ
tình ở những thời kì trước.
3.2.4. Ngôn ngữ đậm chất thơ
3.2.4.1. Cách đặt tên truyện
Truyện ngắn giàu chất trữ tình cuốn hút người đọc ngay từ tiêu đề của văn
bản. Nếu đọc truyện cực ngắn giàu chất kịch người đọc có cảm giác chờ đợi
những tình huống chéo ngoe, đầy nghịch lí thì điều này hoàn toàn khác hẳn khi
đọc nhan đề truyện ngắn giàu chất trữ tình. Cách đặt tên trong truyện luôn giàu
sức gợi, nghe như tiêu đề của một bài thơ trữ tình: Mảnh vườn xưa hoang vắng,
96
Mận trắng, Một loài chim trên sóng, Phù sa (Đỗ Chu); Mùa hoa cải bên sông
(Nguyễn Quang Thiều); Biển ấm, Người xưa (Nguyễn Thị Thu Huệ)... Cách đặt
tên gợi cảm hứng về sự ngọt ngào sâu lắng của cảm xúc: Trăng nơi đáy giếng,
Tháng tư trở lại, Để nhìn thấy tuyết, Giàn thiên lí đã xa, Những giấc mơ trên
đỉnh Ngựa trắng, Non nước mùa đông, Thiên đường mong manh… (Trần Thùy
Mai); Sau những mùa trăng (Đỗ Bích Thúy); Tiếng chuông chùa (Lê Hoài
Lương), Đồi lau sau hoa tím (Nguyễn Phú); Hồi ức của một binh nhì (Nguyễn
Thế Thường); Thương (Phan Thị Vàng Anh)… Cách đặt tên gợi không gian hư
ảo, huyền thoại: Dị hương (Sương Nguyệt Minh); Tiên bay về trời (Nguyễn
Đông Thức); Cõi ảo (Nguyễn Văn Thọ); Miền cỏ hoang (Trần Thanh Hà), Bức
thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban); Vườn hoàng tử nhỏ, Đêm thảo nguyên (Lý Lan)…
Cách đặt tên gợi dòng chảy của thời gian, của kí ức: Bảy ngày trong đời, Một
nửa cuộc đời (Nguyễn Thị Thu Huệ); Cuối tuần (Lý Lan), Khi người ta trẻ
(Phan Thị Vàng Anh)…
3.2.4.2. Ngôn ngữ bộc lộ trực tiếp cảm xúc và sự đánh giá với đối tượng
Trước hết, ngôn ngữ giàu xúc cảm là nét đặc trưng của truyện ngắn giàu
chất trữ tình. Trong Mận trắng (Đỗ Chu), tác giả miêu tả con sông Cầu: “Con
sông Cầu ngọt ngào như một câu quan họ… Nước sông tràn qua những doi cát
trắng lóa mắt. Chỗ ấy hình như là nơi dữ dội nhất của dòng sông, mà cũng chỉ dữ
dội một thoáng”; “Năm tháng trôi xuôi như dòng chảy, chỉ có con người là biết
nhớ lại và biết nâng niu ấp ủ những gì đã qua. Nó biết tìm lại những gì thuộc về
quá khứ mà nó đã để mất”; “Hoa trắng rụng lả tả, những cánh hoa mỏng manh
như muôn ngàn lá thư bí hiểm ném theo gió”. Không chỉ dừng lại ở lời tả, cảm
xúc của cái tôi tác giả đã bật thành lời thể hiện cái nhìn tinh tế và lòng mến yêu
dành cho con sông. Nhìn những cánh hoa mỏng manh, người trông ngắm liên
tưởng tới những muôn ngàn lá thư trôi theo cánh gió, sự vô tình hay vụng dại của
bàn tay hay sự chủ ý của con người. Những câu văn rưng rưng cảm xúc, nỗi niềm
của nhân vật trữ tình với dòng sông như với người tri kỉ, như những gì thân thuộc
nhất cuả mình, như gặp lại cố nhân! Và đây là cái buồn khắc khoải, xa vắng cuả con
người lan tỏa, nhuốm vào cảnh vật: “Một ánh đèn sáng lên trong lúc chiều đang
97
xuống (…). Một nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương dội lên cùng những kỉ niệm ấu thơ
tưởng như đã quên khuấy đi bấy lâu. Tất cả đều sống dậy, khe khẽ thì thầm trong
lòng kẻ lưu đầy. Tất cả cứ vang lên trong tâm tưởng như một lời hát ru xa xăm”.
Nhà văn Đỗ Chu đã từng chia sẻ: “nhà văn phải chăm sóc đến từng con chữ. Câu
chữ phải trở nên như có nhung, có tuyết (…). Từ những câu chữ được trau chuốt kĩ
càng đó, người ta còn có thể nghe thấy cả nhịp điệu. Nhịp của từng phần. Nhịp của
toàn truyện” [117; 60]. Đúng vậy, với khát vọng mang cái tâm tình kí thác trên con
chữ, đọc truyện Đỗ Chu, độc giả thấy nhịp lòng khoan thai, nhẩn nha, chậm rãi, du
dương trên từng trang văn. Phải chăng, chất thơ trong lối sống của người quan họ
xứ Kinh Bắc đã thấm sâu vào văn của ông để hun đúc lên những câu chuyện
nghiêng về trữ tình hơn là tự sự, thể hiện cái duyên của người cầm bút?
Là nhà văn dân tộc Tày, hiện không sống ở miền núi song Cao Duy Sơn
vẫn thủy chung về đề tài miền núi của mình. Lối diễn đạt nghiêng về xúc cảm
của người Tày được thể hiện hấp dẫn qua lớp ngôn ngữ. Cách nói hoa mĩ, đậm
màu sắc lãng mạn của đôi lứa được nhà văn dệt nên từ sắc màu ngôn ngữ địa
phương mang đến một hương vị khó phai trong lòng bạn đọc. Đây là lời tỏ tình
giữa Khơ và Dình:
“- Nhà dù trên trời anh cũng tìm ra đấy. Anh sẽ đợi cho đến lúc nào em hé
môi hoa nhận lời anh ngỏ. Dù phải trồng cây đá trước của nhà em cho đến khi nó
nảy mầm để đợi lời hoa anh cũng sẽ đợi” [72; 94].
“- Dinh ơi! Em không ngại nhà anh phải đi qua sông lửa, không sợ leo đèo
Khau Liên làm nhạt hạt muối. Anh muốn ngỏ lời yêu, nay mai đón em ở chung
một nhà, sướng khổ có nhau” [72; 103].
Còn đây là tiếng lòng của chàng trai lành lặn duy nhất trong làng hủi với
người con gái đẹp ở chân núi Keng Sly:
“Cô gái ơi, em hay nghe ta nói đây, ta chưa thể từ bỏ thế giới khổ đau này để
ra đi với với em được... Em hãy đi đi, ta cũng sẽ luôn nhớ đến em. Ta tin tưởng vào
những điều thần linh đã mách bảo ta trong mơ rằng- em sẽ trở lại, em biết không,
chúng ta lại gặp nhau, hãy đi đi… ta yêu em… ta yêu em…” [72; 268].
98
Phần lớn những lời thoại đều xuất hiện các hình ảnh gắn liền với xúc cảm
của con người. Hình ảnh được đưa ra chủ yếu là những gì gần gũi, quen thuộc
trong cuộc sống hàng ngày của đồng bào miền núi: “giờ tôi như cái cây cho quả,
quá già rồi, quả cũng đã khô héo. Như cái trăng trên trời muộn quá rồi không còn
tròn nữa”; “nhưng nó coi mày như chiếc lá han không thèm chạm tay, như con
rắn chết ba ngày đi qua phải bịt mũi”; “tuổi con gái đi nhanh như trăng qua núi
chẳng mấy mà héo”… qua đó thể hiện sự chân thật trong tâm, ý, tình của chủ thể
ngôn ngữ, tạo nên nét độc đáo, riêng biệt.
Truyện ngắn Hồ Anh Thái ít miêu tả không gian thiên nhiên hơn là không
gian xã hội, nhưng mỗi khi cất bút thì nó hiện diện như một bức tranh lụa mượt
mà. Đọc Tiếng thở dài qua rừng kim tước độc giả hẳn không thể quên được vẻ
đẹp cuả rừng kim tước cũng như sự mãn nhãn cuả vẻ đẹp câu văn. Cả khu rừng
hiện lên là một bức tranh mĩ lệ trong cái nhìn tình tứ của người cầm bút. Điều
đặc biệt hơn nữa là bức tranh mĩ lệ ấy không chỉ sáng lạn bởi vẻ đẹp thiên
nhiên mà còn do sự hóa thân, sinh thành của con người. “Bàn tay Nilam trồng
lên một cánh rừng kim tước sáng bừng lên hắt ánh vàng rực xuống làng khiến
cho những cánh đồng hoa cải chỉ còn là một màu vàng nhợt nhạt hết sức thiểu
não”. Nilam là hiện thân cho quyền năng sáng tạo của người phụ nữ. Và như
vậy, thiên nhiên là cái nôi nâng đỡ cuộc sống, trái tim cho con người và một lần
nữa con người lại tôn tạo làm nên sự huyền diệu, thiêng liêng cho thiên nhiên.
Sự khéo léo gài dẫn cảm xúc và lời văn giàu hình ảnh tạo nên những câu văn
mượt mà, óng ả của xúc cảm lẫn cảnh vật.
3.2.4.3. Sử dụng nhiều tính từ, từ láy đan xen biện pháp nhân hóa và so sánh
Đối với truyện ngắn giàu chất kịch, các nhà văn phát huy cao độ kịch tính
cho câu chuyện thông qua phép tương phản, đối lập còn với truyện ngắn giàu
chất trữ tình việc sử dụng nhiều tính từ, từ láy đan xen biện pháp tu từ nhân hóa
và so sánh là cái chốt vận hành của tác phẩm, làm óng lên chất trữ tình cho văn
bản tự sự.
Trong quá trình sáng tác, Nguyễn Quang Thiều điểm xuyết những chi tiết,
hình ảnh đẹp, thi vị. Đó là giây phút văn nhân giống như người họa sĩ sử dụng
99
nhiều tính từ, từ láy tạo nên hình hài, sắc màu cho tác phẩm của mình. Trong
Mùa hoa cải bên sông, chất thơ của ngôn từ được toát từ lớp tình từ, từ láy
dày đặc trong từng câu, đoạn: “Chợt những làn mây mỏng tan đi. Ánh trăng
trong veo đỏ tràn trên mặt cô […]. Chiếc áo tối màu và ánh trăng làm ngời lên
đôi bàn tay, cái cổ thon và đẹp […]. Dưới lớp trăng mỏng, dưới lớp áo tối
màu, là tuổi dậy thì nóng hổi, dịu dàng và phập phồng thở. […] cả hai đều
nhận thấy có một cái gì đó mỏng, trong suốt đan quấn vào họ như tơ với nhện.
[…] Cho đến một buổi Thao dậy sớm. Suốt cả bãi sông làng anh rực vàng hoa
cải. Những bông cải nhỏ nhắn, mềm mại, ấm áp đung đưa trong gió. Thao
bỗng thấy trái tim rung lên, đập hối hả. […]. Trước mắt anh, trên mặt phù sa
rụng lấm tấm những cánh hoa mỏng và từ đó kéo dài xuống bến sông là
những dấu chân mỏng và nhỏ nhắn”. Với hai mươi ba lần sử dụng tính từ và
từ láy kết hợp với nhân cách hóa, vẻ đẹp dịu mát, nguyên sơ cuả thiên nhiên
ánh lên hòa cùng sự trinh nguyên cuả con người tạo nên một bức tranh nhẹ
nhàng, mang đậm chất thơ.
Ma Văn Kháng diễn tả hình ảnh người chị gái trong nỗi nhớ cuả Đoan (Heo
may gió lộng): “tinh tế”, “thanh lịch”, “vỗ về”, “giản dị”, “thân tình”, “đậm đà”,
“duyên dáng”, “hòa hợp” với bản ngã, với bản sắc đồng quê như một thực tế
mênh mông. Đó là người chị luôn mang đến cho Đoan niềm hạnh phúc “lớn lao
khôn lường”. Nhà văn miêu tả vẻ đẹp cuả Hoa gạo đỏ. Đây là tư thế xuất hiện,
cũng như tan biến cuả nó: “Cho đến bây giờ thì gạo đã thật sự có những hàng đại
thụ, thân hai ba người ôm, mùa xuân này, nghềnh ngàng các nhánh ngang vùng
vẫy, đốt đuốc trên bầu trời. Chẳng có thứ cây nào mà lại hào phóng sắc đỏ đến
thế... Nhưng, hoa chỉ giật mình trong chốc lát, trên đường rơi nó đã kịp thời giữ
thế cân bằng quay tít như cái chong chóng năm cánh hoa dầy”. Với cách sử dụng
cụm từ “vùng vẫy, đốt đuốc” gợi lên sự sống căng tràn, sức sống diệu kì của loài
hoa; hai con chữ “lực lưỡng” vốn dùng để chỉ sự mạnh mẽ, to lớn của những
đấng nam nhi đã được hạ một cách tài tình bên cạnh những nhành hoa, đã đưa
hoa gạo bứt khỏi khuôn khổ nhỏ hẹp và yếu ớt- một bản tính quen thuộc của loài
hoa trở thành một mạnh thường quân.
100
Bằng chất liệu ngôn ngữ phong phú đa dạng của mình, Nguyễn Huy Thiệp
ghi lại cái thần, cái hồn của vạn vật. Thiên nhiên trong văn Nguyễn Huy Thiệp
đã được nhân cách hóa như con người qua các từ: “đơn độc”, “mơ màng”, “buồn
cô liêu”, “chờ đợi”, “hờn dỗi”, “lờ lững”, “tĩnh lặng”, “tha thiết”, “mang mang
vô tận” hay “lặng im”. Tất cả lớp ngôn ngữ ấy hoà vào nhau tạo nên sắc thái của
thiên nhiên, và thiên nhiên cất tiếng nói của chính mình: biết buồn vui, cô đơn,
đợi chờ và hy vọng. Có những lúc tác giả gợi lên vẻ buồn bằng vài nét thanh về
cây dương liễu: “Những cây dương liễu ngơ ngác buồn. Trời rất xanh. Giữa trời
có đám mây trắng hệt một nhà hiền triết” (Nguyễn Thị Lộ). Chất thơ cất lên từ vẻ
trầm tư, mặc tưởng của thiên nhiên.
Góp một phong cách sử dụng ngôn ngữ giàu giá trị gợi hình gợi cảm, cách vận
dụng tài tình các phép tu từ, các phương thức biểu đạt, các loại từ… đó là nhà văn
Bão Vũ. Ngôn ngữ trong truyện ngắn Bão Vũ đẹp, trau chuốt, bay bổng, có nhiều
đoạn như đưa người đọc vào cõi mơ: “Đêm đã khuya lắm. Tôi tỉnh giấc chính vì sự
tĩnh lặng vô cùng của dòng sông khuya, tưởng như những lớp sóng dưới ánh trăng
kia đã đông cứng lại… Trăng mờ sỉn như cái đĩa nhôm cũ kĩ méo mó trôi” [90; 98].
Nhiều đoạn như dẫn người đọc vào cõi ảo, về miền xa: “Có tiếng nước vỗ róc rách,
mùi hương nhu và chi chi thơm dịu thoang thoảng… Lưu Bình đi bộ dọc bờ sông
Hàn, ngồi bên khóm lau xơ xác nhìn dòng nước cạn đục. Một con cò trắng gầy gò
lúi húi, mò mẫm dọc bãi sông. Chàng bứt một nhánh lá nhỏ đưa lên miệng nhấm.
Vẫn là chiếc lá chi chi, lá của loài cây thân mềm, mọc lan man bao phủ khắp vùng
quê này” [90; 165]. Trong các trích đoạn tiêu biểu trên, Bão Vũ sử dụng từ láy với
tuần suất cao, giàu chất họa. Trăng được ví như “cái đĩa nhôm cũ kĩ, méo mó” dòng
sông được so sánh với “những lớp sóng dưới trăng kia đã đông cứng lại”, tiếng mưa
đêm là “cơn lốc sỏi đá, là giọt chì bỏng sôi”…
Cũng miêu tả về trăng song Y Ban miêu tả một đêm trăng chốn làng quê
thanh bình yên ả trong cái nhìn của người thiếu nữ: “Tôi lặng lẽ ngồi xuống bậc
thềm. Ô kìa! Trăng cũng có bóng. Mái rạ nhà tôi đổ bóng xuống giữa sân, bóng
cây na trước thềm cũng có những đốm trắng chui qua kẽ lá. Ô, mặt trời đêm,
đúng rồi. Mặt trời đêm mọc rồi” (Con mang cuộc đời mẹ). Qua cách sử dụng
101
ngôn ngữ giàu hình ảnh, truyện ngắn Y Ban hướng tới những vẻ đẹp sâu lắng
của cuộc đời, thể hiện con người ở thế giới tâm hồn sâu kín, những cảm nhận
tinh tế, những dòng tâm trạng miên man. Nó chính là chất thơ, chất trữ tình bắt
nguồn từ cảm hứng tha thiết tình đời, tình người của tác giả.
Để tả cảnh, Trần Thùy Mai dùng lớp từ ngữ trau chuốt, trong trẻo: “Mùi thơm
lạ kì, ngọt lịm như mùi mứt cam… thì ra bông thường xuân trắng muốt vừa nở
đầy vách đá. Một con ong xanh thẫm như nhung đang bay quanh những tràng
hoa. Đôi cánh ong phát ra những tiếng vù vù”. Có những lúc nhà văn sử dụng từ
ngữ mang đẫm chất nội cảm: “Trước mắt tôi, những rặng quỳ không hoa cứ oằn
mãi mình vươn về phía lũng sâu”, dùng các từ láy và những từ ngữ giàu sức biểu
cảm hoặc chuyển đổi cảm giác: “những bộ bàn ghế tre thu mình bên góc vách”,
“những dòng sông đang chảy miệt mài bỗng âm thầm quánh lại”, “cây lá xì
xào”, “trời chiều lung linh tan ra từng mảnh tan tác trên mặt nước”. Để làm nổi
cảm xúc, tác giả chọn lựa từ ngữ có khả năng gọi dậy cả chất thơ trong tâm hồn
con người: “từng ngày, tôi chờ con trở về, càng ngày càng trông càng ngóng.
Nhiều hôm, nghe thấy tiếng thằng Tèo nhà bên gọi “Mẹ ơi!” giọng trẻ con sao
mà giống nhau, tưởng con về, đang làm gì tôi cũng vứt hết chạy ra. Chỉ thấy hiên
vắng lặng, không một bóng người” (Trăng nơi đáy giếng). Từ ngữ trong đoạn
văn trỗi lên cảm giác buồn tê dại, hẫng hụt trong lòng người mẹ xa con.
3.2.4.4. Sử dụng câu văn dài ngắn đan xen tạo nhịp điệu, chất nhạc
Trước Cách mạng, Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh là những nhà văn
rất coi trọng tiết tấu âm nhạc trong lời văn. Câu văn thường có cách ngắt nhịp
linh hoạt, việc sử dụng thanh bằng nhiều hơn thanh trắc. Điều này có tác dụng
tạo nên tiết tấu nhạc cho lời văn.
Trải qua một chặng đường khá dài, ngót một phần tư thế kỉ, những gì là tinh
túy, khôi nguyên cuả truyện ngắn giàu chất trữ tình vẫn là chất vàng mười được tôi
luyện qua các trang văn, tạo nên thứ màu tươi rói cho truyện ngắn giàu chất trữ tình
Việt Nam sau 1986. Các nhà văn sử dụng: sự trùng điệp của ý văn, hình ảnh trong
miêu tả; sự đan xen các câu văn dài, ngắn để tạo nhịp; sử dụng thanh điệu có chủ ý
(thanh bằng), sử dụng các biểu tượng, đan xen thơ và văn xuôi…
102
Trước hết là những ví dụ về việc sử dụng nhiều câu văn dài ngắn đan xen,
ngắt thành nhịp. Nguyễn Huy Thiệp đã viết lên một điệu nhạc du dương, êm đềm
trong đêm khuya thanh vắng:
“Đồng vắng lặng. Tiếng ếch ộp oạp. Tiếng ễnh ương rất vang, rất to. Tiếng
côn trùng rỉ rắc.
Mưa.
Mưa miên man” (Thương nhớ đồng quê)
Đoạn văn viết theo kiểu kết cấu cuả bài thơ tự do mô tả âm thanh vang lên
trong đêm thanh vắng. Những âm thanh đó được cụ thể hóa qua các tính từ: “ộp
oạp”, “rỉ rắc”. Bản nhã nhạc của đồng ruộng như lan xa hơn bỗng thu lại và ngắt
quãng bởi sự đan xen cuả mưa. Câu kết ba tiếng, cả ba đều sử dụng thành bằng
gợi cái miên man, không dứt. Cả không gian chìm lỉm trong mưa.
Lời văn Trần Thùy Mai có nhịp chậm, du dương. Trong Thương nhớ
Hoàng Lan, tác giả viết: “Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên,
năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những
gì đẹp nhất thế gian. Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ”. Toàn bộ đoạn văn có
11 thanh trắc, 30 thanh bằng mang đến cho câu văn sắc thái êm ái, du dương.
Khi diễn tả nỗi đau, những uẩn khúc trong lòng người, Y Ban đã khéo léo
vận dụng những câu cảm thán với một loạt các câu ngắn và kết thúc đoạn bằng
một loạt các câu dài như nỗi đau không hồi kết cuả con người: “Mẹ kính yêu của
con! Ngày ấy con cũng thế. Con như con gái nhỏ tội nghiệp kia. Con đau nỗi đau
của con. Mẹ đau nỗi đau cuả mẹ- hai người mẹ- từ bấy đến nay, năm tháng trôi
qua, con vẫn âm thầm đau nỗi đau cuả con. Nỗi đau nó trôi đi theo năm tháng
nhưng lại bừng dậy bởi hàng ngày chứng kiến lại âm thầm đau. Những người mẹ
là những người sinh ra nhân loại, sinh ra những đứa con. Là những người có
trước hãy hiểu nỗi lòng của những đứa con gái, để nỗi đau hòa chung, đồng cảm
và biến mất đi” [44; 57].
Văn Đỗ Chu mang nhịp điệu chậm rãi. Nhà văn ưa dùng những câu văn dài,
gối lớp. Có những khúc đoạn, ông đan xen rất nhanh bằng đôi câu văn ngắn để
chuyển đổi nhịp điệu, hé mở một hơi văn mênh mang hơn. Trong Một loài chim
103
trên sóng, Đỗ Chu viết: “Bìm bịp kêu đâu đó, thế là mùa nước lên, những con chim
cánh nâu, ức cổ mang màu đỏ như lửa bay là là ngang trên mặt đê, ngang qua mặt
người... Trời trong xanh. Mây trắng ngổn ngang, lớp lớp. Dưới sông Cầu nước trôi
băng băng, con sông già nua vốn thường uể oải lờ đờ mà nay bỗng quay cuồng với
những vùng nước xoáy trông vào đến khiếp. Vài ba con thuyền ngược dòng nặng
nhọc, buồn kéo lên đón gió nam tuy vậy vẫn phải có thêm dăm người khom lưng
xõng dây kéo, họ bước chậm chạm ven bờ” [44; 97].
Văn Cao Duy Sơn giản dị mộc mạc, thấm đượm chất thơ chốn non cao rừng
thẳm. Nhà văn gài dẫn khéo léo những lời ca, lời chúc tạo nhịp điệu: “Chương Chảo
cất giọng như hát:
- Bươn chiêng pi mấu khai vài xuân a… ngần sèn khảu tu nả à, mò mả khảu tu
lăng ơ… cần ké lục đếch khảu pi mấ ư à a… phù sần au khen slửa lòng dà… khảu
nặm, ngần sèn tim rườn la… cung hỷ phát sòi… (tháng giêng năm mới đến khai
xuân, chúc cho tiền bạc như nước chảy vào cửa trước, ngựa bò chen đầy cửa sau, trẻ
già cùng bước vào năm mới, đều được tay áo thần tiên che chở… gạo, nước, tiền,
bạc đầy nhà… vui vẻ phát tài” [73; 363].
Đôi khi nhà văn dùng câu hỏi bỏ lửng phần đáp, đan xen bằng câu văn tả cảnh
và miêu tả nội tâm nhân vật, gợi lên chất thơ, chất trữ tình vời vợi của cảnh vật và
tình người:
“Lão quay lại nhìn mú Dinh, cái nhìn thật ấm áp:
- Dinh à, bà có biết tôi đang nghĩ gì không? Đã bao năm rồi đến hôm nay tôi
mới được nghe khai vài xuân đấy.
Ngoài xa chợt vọng về tiếng chuông đền Phja phủ. Âm thanh của chiếc
chuông đồng bị nứt ngân nga như bè hát Hà lều. Mú Dinh mủm mỉm cười. Tiếng
chuông vọng vang vách núi bỗng nhắc mú nhớ đến chuyện ngày xưa. Mú kín đáo
quay vào nhà, nâng vạt áo thấm những giọt nước mắt mỏng như những bụi mưa
xuân” [73; 364].
3.2.4.5. Đan xen thơ và văn xuôi
Bão Vũ thường dùng lời đề từ những câu thơ xưa. Phần đầu truyện bắt đầu
bằng những câu thơ quen thuộc:
104
Chẳng hạn, mở đầu Người muôn năm cũ:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
(Ông đồ- Vũ Đình Liên)
mở đầu Một trời quan tái:
“Tôi uống cả em và uống cả
Một trời quan tái mấy cho say”
(Nguyễn Bính)
mở đầu truyện Hoang đường:
“Vua Ngô ba mươi sáu tán vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”
(Ca dao)
hoặc kết truyện bằng một số câu thơ tạo nên không khí cổ xưa cho tác phẩm:
truyện Hương cảng lạnh lẽo:
“Chỉ có những đám mây từ quê nhà bay tới
Nhận ra anh và khóc thương anh”
truyện Hoang đường:
“Lá ngô, lá ngô, hề, rải khắp núi
Mĩ nhân, mĩ nhân, hề, tủi lại tủi
Lá ngô, lá ngô, hề, bay về đâu
Đế vương, đế vương, hề sầu càng sầu”
truyện Mưa phùn:
“Có ai vẫn đợi ai về
Gió mưa gội xuống lời thề sắt son
Có ai vẫn đứng bồng con
Thời gian khóc mãi cho mòn đá xanh”…
Nguyễn Huy Thiệp cũng là một trong số các nhà văn ưa dùng những đoạn
văn vần như bài hát trong các câu chuyện của mình, tăng thêm chất trữ tình hư
ảo và mơ hồ cuả câu chuyện. Chẳng hạn như:
105
trong Chảy đi sông ơi:
“Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì
Rồi sông đãi hết
Anh hùng còn chi?”
trong truyện Thương nhớ đồng quê:
“Tôi nghĩ
Tôi nghĩ về sự giản đơn của ngôn từ
Sự bất lực của hình thức biểu đạt…”
trong Bài hát phụ đồng bắt ếch:
“Hồn ếch ta đã về đây
Phải nằm khô cạn, ta nay lên bờ
Ở bờ những hốc cùng hang
Chăn chiếu chẳng có trăm đường xót xa”…
3.2.5. Giọng điệu cảm thương, chia sẻ
Giọng điệu phụ thuộc vào cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Lấy nguồn cảm
hứng chủ đạo là những nguồn mạch trong bức tranh tâm trạng cuả con người nên
giọng cảm thương, chia sẻ là chất giọng tiêu biểu dạng truyện ngắn giàu chất trữ tình.
Truyện của Bão Vũ (Thung lũng ngàn sương, Người muôn năm cũ, Vườn
thuốc, Ván bài tỷ điểm tử, Mây núi Thái Hàng)… giọng điệu cảm thương là
giọng chủ đạo. Nhà văn thể hiện nỗi nhớ tiếc dĩ vãng: “Bà Ngân lại ngồi một
mình bên cái cửa sắt. Bà sợ những lúc ngồi một mình, cũng như sợ giấc ngủ
chập chờn. Như những kẻ chọc trời khuấy nước đã hết thời, như những giai
nhân mĩ nữ đã về già, bà Ngân thường ngồi một mình nhớ lại thời xuân sắc bà
đã từng có” [91; 48]. Ở truyện ngắn khác, lời văn cất lên với niềm ngậm ngùi:
“Ta hỏng nghiệp lớn vì không nghe lời tướng quốc Ngũ Tử Tư diệt trừ Câu
Tiễn thâm hiểm từ trước... Ta đã mắc sai lầm, các đấng quân vương khác cũng
vậy… Chính vì thế mà lịch sử đã tiến triển như nó vốn như thế”. Giọng trầm
ngâm, hoài cảm này đã được tác giả sử dụng khéo léo để bàn về lẽ hưng phế,
tồn vong của lịch sử. Nó làm nên vẻ đẹp của một áng văn giàu hoài niệm, suy
tư, làm nên chất trữ tình bàng bạc trong tác phẩm.
106
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Đỗ Chu đã tâm sự: “Quả là có nghĩ ngợi,
thường xuyên nghĩ ngợi. Nghĩ nhiều, nói nhiều, chỉ làm là còn ít. Ngay bản thân
tôi cũng vậy. Suy cho cùng, đổi mới là một quá trình tìm kiếm chính bản thân
mình, trở về với chính mình. Đây là một đòi hỏi có ý nghĩa quyết định. Một cuộc
lên đường tìm kiếm đòi hỏi nhiều dũng khí, nhiều trung thực và sẽ không bao giờ
dễ dàng” [117]. Đây là lời tâm sự và cũng là sự hé mở về giọng văn của Đỗ Chu
sau 1986. Trước những biến động của thời cuộc, văn cũng như người mang nỗi
niềm, phảng phất “nỗi buồn minh triết” giữa cuộc đời. Chất giọng này thể hiện rõ
nét nhất qua tập truyện Mảnh vườn xưa hoang vắng. Giọng điệu đó được thể
hiện sâu sắc qua lời tâm tình của Nhưỡng về sự hy sinh cuả con người trong
chiến tranh (Cánh đồng không có chân trời); qua suy tư trăn trở của “tôi” về
những kiếp người nổi trôi, trước sự ra đi, mai một của những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc (Lão Mai)...
Được viết bằng những cảm xúc sâu lắng, truyện ngắn Y Ban có khả năng lay
động lòng người đọc. Trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, nhà văn đã khắc họa hình ảnh
nhân vật cô gái với chất giọng trữ tình giàu yêu thương: “Mẹ ơi, cám ơn cha mẹ biết
chừng nào khi tuổi ấu thơ của con được sống ở nông thôn. Để những câu chuyện cổ
tích cha kể con nghe, con đã gặp những hình ảnh xung quanh mình để bài học o, a
đầu tiên sao mà hấp dẫn như vậy… Mẹ ơi, ai đã dạy cho con ư? Đất đấy, thiên nhiên
đấy, màu vàng của lúa, màu xanh của cây, miền quê con sông ấy đã kiến tạo nên tâm
hồn con, để rồi con biết khóc trong mưa…”. Và đây là người thiếu nữ với giấc mơ kì
diệu: “Tôi đang đi trên một cánh đồng đầy hoa rực rỡ... Đột nhiên từ phía chân trời
bay đến một con ngựa có cánh. Ngựa hí vang các giai điệu tuyệt tác. Tôi cũng cất
giọng ca vang những làn điệu nồng nàn mê say. Ngựa và người cùng ngân nga hòa
quyện... Một gương mặt u buồn thầm kín…”.
Chất giọng trữ tình, ngọt ngào, tựa như tiếng nói sẻ chia, thủ thỉ, tâm tình
đó đã gợi mở con đường đi sâu vào cảm xúc chủ quan của nhân vật. Lòng người
trở lên nhẹ nhõm khi bắt gặp khung cảnh nên thơ cuả thiên nhiên, đó là lúc trái
tim con người, thiên nhiên và những trang viết trở thành tri âm tri kỉ, chia sẻ, giãi
bày những xúc cảm trong cuộc tương phùng đặc biệt: “Mưa êm đềm như giấc
mơ trẻ nhỏ. Không có tiếng ồn ào, chớp giật hay sấm sét, mây mù, chỉ có những
107
sợi nước trong lành giăng giăng thành tơ nối đất trời với nhau” (Chút lãng mạn
trong mưa, Lý Lan); “ cành cây xòa trước mặt, tiếng chim hót, những giọt nước
mưa đọng lại trên thân cây, mùi lá mục ẩm ướt, những con chim xanh, con chim
đỏ, con chim vàng, những cánh mối ướt rụi, những con bọ nhảy, tiếng vượn kêu
não nùng, bông hoa bé xíu (Mưa Nhã Nam, Nguyễn Huy Thiệp). Ngoài ra, giọng
điệu sẻ chia được cất lên từ những khúc đoạn mở lòng của con người với con
người, nhất là tình yêu, hôn nhân, những khát vọng sâu kín…
Truyện ngắn giàu chất trữ tình vận dụng phong phú kho mỹ từ pháp và khả
năng biểu cảm của Tiếng Việt để tạo nên những trang văn đẹp, xúc động nao lòng,
xứng đáng trở thành những trang văn mẫu mực trong việc miêu tả thiên nhiên và
tâm lí con người. Truyện ngắn giàu chất trữ tình đang từng bước bắc cầu sang một
dạng truyện, dạng văn xuôi đang từng bước hình thành như một phương thức hiệu
quả nhất trong việc khám phá con người: dạng truyện tâm lý.
Tiểu kết chương 3
Trong lịch sử vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam từ sau
1986, truyện ngắn giàu chất trữ tình là một dạng tiêu biểu.Truyện ngắn giàu
chất trữ tình xây dựng cốt truyện tâm tình. Giản lược các yếu tố tự sự, gia tăng
yếu tố tâm tình là đặc trưng nổi bật, phân định truyện ngắn giàu chất trữ tình
với dạng truyện khác. Việc lựa chọn tình huống truyện như một khoảnh khắc
để phơi trải những nỗi niềm nhân thế là nét đặc sắc của dạng truyện này. Với
mục đích phơi trải câu chuyện tâm hồn sâu xa dưới lớp vỏ chuyện thường nhật,
trong truyện ngắn giàu chất trữ tình xuất hiện kiểu nhân vật nội tâm. Những
vấn đề đời thường của cuộc sống, câu chuyện bếp núc trở nên chân thực, thẫm
đẫm chất nhân sinh trên từng trang viết. Với cách tổ chức truyện mang đậm
chất thơ (từ cách đặt nhan đề cho tác phẩm tới cách sử dụng ngôn ngữ giàu
hình ảnh, giàu tính nhạc, đến cách sử dụng giọng văn khi buồn thương trầm tư,
khi nhẹ nhàng như lời thủ thỉ tâm tình) truyện ngắn giàu chất trữ tình đã tạo
nên một vị thế rất riêng, có khả năng cuốn hút lớn với độc giả.
108
CHƢƠNG 4: TRUYỆN NGẮN GIÀU CHẤT TIỂU THUYẾT
4.1. Lịch sử truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam
Trên thế giới, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết đã thành dạng truyện trên
văn đàn cách đây hai thế kỉ. Theo các nhà nghiên cứu phương Tây, truyện ngắn
là con đẻ của tư duy tiểu thuyết, là “biến thể của tiểu thuyết”. Thành tựu rực rỡ
nhất của tiểu thuyết gắn liền với trào lưu hiện thực ở thế kỉ XIX. Ở Pháp,
những người khởi đầu là Stendhalien (1783- 1842), Banzac (1799-1850), Flobe
(1821- 1880), kế tiếp là Daudet (1840- 1897) và Maupassant (1850-1893)… Ở
Nga, Dostoyevsky (1821-1881), L.Tolstoy (1820-1910), Chekhov (1860-1904)
là những bậc thầy tiểu thuyết.
Ở Việt Nam, quá trình hiện đại hóa văn học diễn ra vào nửa đầu thế kỉ XX
(1930-1945). Đây là giai đoạn mà các thể loại văn học cùng sinh thành và cùng
phát triển. Tiểu thuyết đã hiện diện và khẳng định vị thế loại thể của mình với sự
xuất hiện của những bậc thầy như Nhất Linh (Gánh hàng hoa, Đời mưa gió- cùng
với Khái Hưng; Bướm trắng, Đôi bạn, Con đường sáng- cùng với Hoàng Đạo…);
Khái Hưng (Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Gia đình...); Ngô
Tất Tố (Tắt đèn), Nguyên Hồng (Bỉ vỏ, Cuộc sống, Quán nải, Đàn chim non, Hơi
thở tàn…); Nam Cao (Truyện người hàng xóm, Sống mòn)… Trong sự phát triển
đó, “truyện ngắn tiểu- thuyết hoá” (từ dùng của Nguyễn Văn Đấu) giai đoạn này
đã xuất hiện. Những nhà văn làm nên diện mạo ban đầu của thể loại là Nam Cao
(Chí Phèo, Đời thừa, Lão Hạc, Nửa đêm…); Nguyên Hồng (Trong cảnh khốn
cùng, Hàng cơm đêm, Bố con lão đen…), trong đó, Nam Cao được coi là cây bút
kiệt xuất. Cũng giống như các dạng truyện ngắn khác, do yếu tố nội sinh và ngoại
sinh, trong khoảng ba mươi năm (1945- 1975) truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
thưa thớt trên văn đàn. Sau 1986, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết được khẳng
định là một dạng hạt nhân của truyện ngắn, ra đời và lớn mạnh nhanh chóng như
một quy luật tất yếu.
Sự hiện diện tất yếu của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết có căn nguyên từ
chính sự vận động nội tại cuả hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Bàn về sự
109
giao thoa, tương tác giữa hai thể loại này, nhà văn Nguyễn Kiên chia sẻ:
“Truyện ngắn trong suốt quá trình phát triển, luôn đứng trước một thách thức:
phải làm sao sức chứa và sức nặng vượt thoát được ra ngoài cái khuôn khổ bé
nhỏ mà nghệ thuật khuôn vào nó. Lẽ dĩ nhiên, truyện ngắn phải tự tìm tòi, đồng
nghĩa nó cũng phải nhìn sang tiểu thuyết” [210; 69]. Có thể nêu lên một nhận
xét thú vị: nếu chúng ta đứng từ góc nhìn của thể loại tiểu thuyết, chính tiểu
thuyết đang có sự bứt phá ra khỏi khuôn khổ của mình. Một số tác phẩm vẫn
mang trong mình căn cốt của thể loại tiểu thuyết song có phần dịch chuyển lại
gần thể loại truyện ngắn. Chẳng hạn: Tấm ván phóng dao (Mạc Can); Lạc rừng,
Ngõ lỗ thủng (Trung Trung Đỉnh); Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh
Thái); Thiên thần sám hối, Lão Khổ (Tạ Duy Anh); Trí nhớ suy tàn, Những đứa
trẻ chết già, Thoạt kì thủy (Nguyễn Bình Phương)… Nhà nghiên cứu Lê Huy
Bắc lí giải về hiện tượng trên: “Thời hiện đại, tiểu thuyết có xu thế nghiêng về
truyện ngắn bởi nó ngắn - về dung lượng, ít nhân vật, thời gian và không gian
không có quy mô lớn… còn truyện ngắn thì cố mở rộng phạm vi về phương
diện tiểu thuyết… Chính sự xóa mờ ranh giới thể loại mà càng về cuối thế kỉ
XX càng diễn ra mãnh liệt và truyện ngắn ngày nay chiếm ưu thế” [108; 526].
Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết là kết quả tất yếu cuả quá trình phát triển
khi truyện ngắn- một thể loại có tinh công năng mạnh và nhạy bén, đang có xu
hướng xích lại gần nhiều thể loại khác trong đó có tiểu thuyết. Nhu cầu phân
tích, lí giải thấu đáo bản chất đời sống, đòi hỏi truyện ngắn mở rộng sức chứa,
tăng cường khả năng bao quát đời sống hiện thế. Bên cạnh đó, từ sau 1986, khi
công nghệ số phát triển, khi tinh thần dân chủ là nguyên tắc của nghệ thuật, độc
giả mong muốn cầm trên tay một truyện ngắn có sức bao chứa và phản ánh như
một cuốn tiểu thuyết. Đây chính là tiền đề quan trọng cho sự phát triển tiểu thể
loại truyện ngắn này. Bởi một lẽ giản dị, cái đích cuối cùng của văn học chính là
cuộc đời và ra đời vì cuộc đời, đáp ứng sự chờ đợi và kì vọng của độc giả. Hơn
thế, khả năng bao quát hiện thực trong một dung lượng, quy mô nhỏ hơn mà vẫn
đạt được giá trị tư tưởng thẩm mĩ như một cuốn tiểu thuyết thì đây chính là thành
tựu vượt bậc cần ghi nhận của truyện ngắn Việt Nam sau 1986.
110
Với sự tương tác giữa hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, với sự vận động
nội tại của chính thể loại đã xuất hiện một mô hình truyện ngắn mới, như hành trình
tất yếu tạo nên dạng truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
Truyện ngắn thường được định lượng là ngắn, nhỏ trên cả hai bình diện nội
dung và hình thức. Tuy nhiên, với dạng truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết, các
nhà văn hôm nay đã phá vỡ một số yếu tố truyền thống của thể loại và trao cho
truyện ngắn một số phẩm chất mới để làm nên những thang bậc giá trị mới của
thể loại. Trước đây, trong truyện ngắn truyền thống, cách tiếp cận và phản ánh
của truyện ngắn thường được giới hạn trong một không gian nhỏ hẹp bởi “truyện
ngắn là một hình thức tự sự loại nhỏ. Nó khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ
hơn, tập trung mô tả một sự kiện nào đó thường xảy ra trong một đời nhân vật,
hơn nữa thường bộc lộ một nét nào đó của nhân vật…” [141]. Tuy nhiên, truyện
ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 không chỉ dừng lại ở việc tiếp cận
và phản ánh những góc nhỏ, những “lát cắt” của cuộc sống. Các nhà văn hôm
nay đã mở rộng dung lượng, tăng cường điểm nhìn, nhiều cách nhìn khác nhau
và có tham vọng thu vào trong truyện ngắn bức tranh toàn cảnh xã hội. Do vậy,
cốt truyện thường gồm nhiều truyện lồng vào nhau, sự kiện nội tâm đan cài
cùng hành động nhằm bộc lộ sự phức tạp nội tâm khi con người va đập với
hoàn cảnh. Để thực hiện được mục tiêu và tham vọng nghệ thuật này, nhà văn
thường tập trung vào xây dựng kiểu nhân vật trải nghiệm. Tác giả chú ý phân
tích, giải thích về tính cách, số phận một cách biện chứng trong quan hệ với
ngoại cảnh. Và ở đó, chức năng phân tích trở thành hạt nhân của nghệ thuật
xây dựng nhân vật. Nhu cầu phân tích, lí giải thấu đáo bản chất đời sống tạo
nên tính triết lí- chiều sâu cuả không gian truyện. Truyện ngắn giàu chất tiểu
thuyết lựa chọn một số thủ pháp tiêu biểu như thủ pháp lồng ghép, độc thoại
mang tính đối thoại, đan cài nhiều lớp ngôn ngữ và đa giọng điệu. Đây là
những đặc trưng của tiểu thuyết truyền thống mà truyện ngắn giàu chất tiểu
thuyết đã kế thừa.
Làm nên diện mạo truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
chúng ta không thể nhắc đến những gương mặt tiêu biểu như Nguyễn Minh Châu
111
(Phiên chợ Giát); Nguyễn Huy Thiệp (Muối cuả rừng, Những bài học nông thôn,
Tướng về hưu, Giọt máu, Con gái thủy thần, Người thợ xẻ…); Ma Văn Kháng (Nhà
trong ngõ hẻm); Nguyễn Khải (Một người Hà Nội, Đời khổ, Luật đời); Tạ Duy Anh
(Bước qua lời nguyền, Vòng trầm luân trần gian, Hóa kiếp, Tội tổ tông); Phạm Thị
Hoài (Hành trình của những con số, Vệt son, Người đàn bà với hai con chó nhỏ,
Truyện thày A.K và kẻ sĩ Hà Thành); Hồ Anh Thái (Tự sự 265 ngày); Đỗ Bích Thúy
(Những buổi chiều ngang qua cuộc đời); Nguyễn Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận);
Nguyễn Thị Thu Huệ (Chị tôi, Một nửa cuộc đời, Bảy ngày trong đời); Võ Thị Hảo
(Người sót lại của rừng cười, Hồn trinh nữ, Nghiệp chướng, Vũ điệu địa ngục);
Đoàn Lê (Xóm chùa thời ung thư, Đất xóm chùa, Người khách đêm giao thừa, Niết
bàn rực cháy); Nguyễn Trí (Bãi vàng, Đá quí, Trầm hương); Lê Minh Khuê (Nhiệt
đới gió mùa, Xe Camry ba chấm, Ráp Việt, Làng xi măng, Ga xép, biển mịt mờ,
Cơn mưa cuối ngày, Thầy giáo dạy Triết); Võ Thị Xuân Hà (Sương mù trên thành
phố); Hạo Nguyên (Kỉ nguyên giếng); Nguyễn Thế Hùng (Mùi hương còn lại, Lộc
trời); Nguyễn Trương Quí (Bỉ sắc tư phong); Lý Lan (Lắp ghép hạnh phúc); Phạm
Duy Nghĩa (Linh vật); Di Li (Khách lạ và người lái xe taxi); Sương Nguyệt Minh
(Đồi con gái); Dương Bình Nguyên (Cải lạc loài); Tô Hải Vân (Nhạc công ống
nước); Nguyễn Thế Hoàng (Xe tập lái); Phạm Duy Nghĩa (Gió xanh)…
4.2. Đặc điểm cơ bản của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam
sau 1986
4.2.1. Mở rộng tối đa sức chứa của truyện ngắn
Trong sự đa dạng cuả truyện ngắn Việt Nam sau 1986, nếu dạng truyện cực ngắn
có xu hướng cô đúc, dồn nén dung lượng thể loại, thậm chí đúc lại toàn bộ tác phẩm
bằng một vài từ thì truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết lại toàn đối lập. Các nhà văn theo
dạng truyện này mở rộng tối đa sức chứa của truyện ngắn với dung lượng lớn.
Qua khảo sát Văn mới 2015-2016, tuyển tập bao gồm 26 tác phẩm, chúng
tôi thấy có mười tác phẩm có dung lượng từ mười trang trở lên, đặc biệt Mùi
hương còn lại (Nguyễn Thế Hùng) 14 trang, Vô vi (Trần Thanh Cảnh) 14 trang,
Ám thanh (Ý Nhi) 16 trang, Nhà trong ngõ hẻm (Ma Văn Kháng) 20 trang và dài
nhất Kỉ nguyên giếng (Hạo Nguyên) 22 trang văn. Khảo sát Tuyển tập truyện
112
ngắn hay 2000-2016, 60 năm Văn nghệ Quân đội, tập truyện có 19/37 tác phẩm
thuộc truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết, tác phẩm dài hơi nhất đó là Phòng chờ
(Thụy Anh) 19 trang văn.
Khảo sát Tuyển tập truyện ngắn hay 2000-2016, 60 năm Văn nghệ Quân
đội, tập truyện có 19/37 tác phẩm thuộc dạng truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết,
chúng tôi có số liệu như sau: Quả tim của Modigliani của Hạo Nguyên 14 trang;
Khách lạ và người lái taxi cuả DiLi và Cải lạc loài cuả Dương Bình nguyên có
dung lượng 17 trang; Đồi con gái của Sương Nguyệt Minh và Vàng son thạch
thủy khí của Võ Thị Xuân Hà có dung lượng 18 trang; Phòng chờ của Thụy Anh
đạt 19 trang văn và dài hơi nhất là Hổ phách của Thúy Loan dài 21 trang.
Khi khảo sát 100 truyện ngắn hay Việt Nam tập 1, chúng tôi nhận thấy sự
khác biệt khá lớn của truyện ngắn trước và sau 1986. Trước 1986, Sống chết
mặc bay cuả Phạm Duy Tốn với dung lượng 1300 chữ, Quê mẹ của Thanh Tịnh
khoảng 3000 chữ, Hoa ti gôn của Thanh Châu khoảng 3500 chữ nhưng các tác
phẩm sau 1986 thường có dung lượng gấp đôi, thậm chí gần 4 lần, từ 8000 đến
12.000 chữ. Chẳng hạn: Những bài học nông thôn của tác giả Nguyễn Huy
Thiệp khoảng 8200 chữ, Đêm nguyệt thực cuả Trung Trung Đỉnh 11.000 chữ…
Và khi xét riêng các tuyển tập truyện ngắn của các tác giả, chúng tôi nhận thấy
tác phẩm dài hơi nhất là Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư khoảng 55
trang (13* 20cm) với khoảng 12.500 chữ.
Điều này minh chứng truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
đã vươn tới dung lượng tương tự như những tác phẩm đạt giải thưởng O.Henry
của Mỹ những năm 1990 với dung lượng từ 8000- 13.000 chữ. Như vậy, nếu
truyện ngắn truyền thống chỉ tồn tại từ ba đến năm trang viết thì truyện ngắn
giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 đã có dung lượng ngôn ngữ gấp từ ba
đến năm lần. Thiết nghĩ, sự mở rộng dung lượng tối đa này này thể hiện khát
vọng sử dụng ngôn ngữ như một trong những tín hiệu chứng minh sự hiện diện
của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết trên văn đàn.
Nói đến sức chứa cuả truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết không phải chỉ nói
đến dung lượng ngôn từ được dùng mà điều quan trọng hơn là sức chứa lớn
113
phạm vi hiện thực, nội dung tư tưởng mà một truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
làm được (gần như sức chứa của một tác phẩm tiểu thuyết thực thụ)
Truyện ngắn truyền thống tiếp cận và phản ánh hiện thực đơn sắc, không
gian nhỏ hẹp, mô tả một sự kiện nào đó thường xảy ra trong một đời nhân vật.
Tuy nhiên, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 không chỉ dừng
lại với quan điểm tiếp cận và phản ánh những “lát cắt” của cuộc sống. Nhà văn
đưa vào trong truyện ngắn của mình cái nhìn bao quát hiện thực rộng lớn. Đó là
hiện hiện thực đã, đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ, gắn với cuộc sống, những
sinh hoạt thường ngày của con người. Hiện thực đó được miêu tả phản ánh ở
nhiều không gian, thời gian, cấp độ khác nhau, đa dạng, phức tạp như bản chất
hiện sinh của đời sống.
Theo quy luật phát triển của truyện ngắn sau 1986, đề tài chiến tranh thưa
dần và ngày càng thưa thớt hơn nữa trong truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết.
Thay vào đó là những câu chuyện đa chiều của cuộc sống hiện tại. Các nhà văn
đã bắt rất nhanh và tái hiện rất sắc những câu chuyện nóng hổi của cuộc sống.
Trước hết là những câu chuyện về sự đổi thay dần dần trong nếp sống, cách sống
của con người theo dòng chảy và sự biến đổi của thời gian. Một người Hà Nội
(Nguyễn Khải) là một bức tranh sống động với sự xuất hiện cuả đủ mọi tầng lớp
trong xã hội thời điểm đó. Trước hết, tác phẩm tập trung phản ánh cuộc sống
của nhân vật nữ chính- cô Hiền. Đặt trọng tâm vào những khúc đoạn quan
trọng trong cuộc đời con người (thời trẻ, khi lấy chồng, khi sinh con, nuôi- dạy
con cái, cho đến lúc trở thành một hạt bụi vàng chìm sâu vào lớp đất cổ), nhà
văn Nguyễn Khải đã hoàn thiện “lát cát” nghệ thuật mà ông đã đặt ra. Song,
cũng chính từ “lát cắt” đó, các chiều kích không gian được nới rộng, ôm chứa
từ một đời người đến muôn người. Những lớp không gian này không đóng vai
trò phụ, hay chỉ là những nốt điểm xuyết cho tác phẩm mà có vai trò hoàn thiện
bức tranh đa chiều, sống động của thời đại lúc bấy giờ. Đó là cuộc sống của
những chàng trai Hà thành ra đi trong chiến tranh và trở về khi đất nước hòa
bình, cuộc sống của những người Hà Nội xưa tuy lam lũ ngày thường nhưng
quý phái, sang trọng trong những kì họp mặt rất riêng của người Hà Nội…
114
Không gian, thời gian cuả truyện khi thu hẹp, khi giãn cách: từ Hà Nội đến nhà
ga, vào chiến trường, từ những tháng ngày chìm trong chiến tranh tới hòa bình,
tới cuộc sống thực tại hôm nay, từ hôm nay xuôi theo dòng hồi tưởng lùi về quá
khứ, thời gian của thực tại đan xen thời gian tâm tưởng… Tất cả tạo nên một
không gian rộng mở, đa chiều, khác hẳn với những “lát cắt nhỏ”, xuôi chiều
cuả truyện ngắn truyền thống.
Giọt máu (Nguyễn Huy Thiệp) là lịch sử bốn đời của một họ tộc, từ đời đại
phú Phạm Ngọc Liễn “sống đến tám mươi tuổi, sang đời con là ông Phạm Ngọc
Gia làm nghề mổ lợn, đến đời đứa cháu đích tôn Phạm Ngọc Chiểu thi đỗ, làm
quan, đục khoét dân chúng, sau bị thất sủng về vườn, và khép lại là đời thứ tư -
vợ chồng người chắt Phạm Ngọc Phong, chết trong ân hận khi đứa con trai bị sét
đánh chết. Bốn mươi lăm trang truyện giống như một pho tiểu thuyết tái hiện sự
kiện của một họ tộc kéo dài bốn đời, hàng chục số phận thăng trầm, đau khổ,
gồm đủ mọi hạng người trong xã hội.
Là một tác phẩm được khẳng định như “trái bom nghệ thuật”, Tướng về
hưu thực sự là một minh chứng khá hoàn hảo cho dạng truyện ngắn giàu chất
tiểu thuyết. Không giống như truyện ngắn truyền thống, mười lăm phân đoạn của
truyện ngắn là những “lắt cắt” được sắp xếp trong hai mươi trang giấy. Với chủ
ý đặt liên hoàn những lát cắt khi logic, khi ngẫu nhiên, phi logic, người viết
không hề bình luận, cứ để những không gian nghệ thuật đó lên tiếng, cùng
hướng tới một cách nhìn chung nào đó, thậm chí tương phản, soi chiếu vào nhan
đề, mở ra mọi chiều kích nghĩ suy của độc giả. Không dừng lại ở cuộc đời của
một hai nhân vật, cuộc sống của đôi ba người, truyện Tướng về hưu ôm chứa
cuộc sống của nhiều lớp người, nhiều hạng người, nhiều đời người trong tác
phẩm. Những người sống trong ngôi biệt thự khá sang trọng vào cuối những năm
80 của thế kỉ trước, đời sống vật chất không đến nỗi nào nhưng mỗi người lại có
một thế giới riêng- dường như xa cách nhau, như những người thân thiết mà xa
lạ. Câu chuyện của kĩ sư Thuần được coi là trụ cột, là lát cắt chính trong dòng
mạch của truyện. Anh ta tự thú mình viết câu chuyện này là sự bênh vực của anh
đối với cha mình- tướng Thuấn. Đây chỉ là một cách diễn đạt, còn thực tế anh ta
115
đã đưa cha mình lên bàn giải phẫu bằng những phân cảnh trong cuộc đời ông
Thuấn cũng như thời đại lúc bấy giờ. Tướng Thuấn là con người- sản phẩm của
chiến tranh. Ông sinh ra trong một gia đình có cuộc sống không yên ả. Ông bỏ
nhà đi bộ đội từ năm 12 tuổi vì bị bà mẹ kế đối xử cay nghiệt. Ông lấy vợ trong
tình cảnh tranh thủ thời gian (vì sức ép cuả gia đình). Danh tiếng của tướng
Thuấn lừng lẫy trên chiến trường tới mức danh vị đó khi về hưu vẫn còn nguyên
vẹn. “Cha là tướng. Về hưu cha vẫn là tướng”. Soi chiếu vào cuộc đời của tướng
Thuấn, chúng ta thấy được những khúc hào hùng, tráng lệ của những người lính
trong chiến tranh giải phóng; những khúc quanh co, thậm chí những góc khuất
của thời đại trong chiến tranh và nhất là thời hậu chiến. Song cũng chính từ cuộc
đời ông, vùng không gian lân cận được soi chiếu: không gian tiền bạc, danh vọng,
quyền lực… Một tướng Thuấn cao thượng nhưng lạc loài giữa những con người
hỗn tạp, tầm thường. Một anh con trai nhu nhược (Thuần) đặt mọi quyền thế trong
gia đình lên tay vợ. Ngược lại, Thủy- một người vợ, người đàn bà vô cảm tới mức
có thể mang cả nhau thai của sản phụ về nhà nuôi chó tăng gia sản xuất, kiếm tiền.
Một một lão Bổng trục lợi, một anh chồng (Tuần) lưu manh, sẵn sàng vác dao
đuổi bố đẻ mình, một cô Lài côi cút coi hy sinh nhẫn nhịn như thiên chức… Tất cả
làm lên một không gian rộng lớn, đa diện, đa chiều, một gia đình tưởng yên ả
nhưng đầy mâu thuẫn, xung đột như bản chất vốn có của đời sống hiện sinh.
Thay cho một cái nhìn đơn tuyến trước đây, Lê Minh Khuê mang đến một
cái nhìn đa chiều gai góc. Người đọc có được một bức tranh hiện thực đời sống
“nồng nã vị khốn khó”, cơ cực khi đất nước chuyển mình từ thời chiến sang thời
bình, từ chế độ bao cấp sang thời kì đổi mới. Các thang bậc giá trị đảo lộn, sự áp
chế của đồng tiền, của cái ác, sự giật lùi, lép vế của những giá trị tinh thần. Nhiệt
đới gió mùa, Ga xép, Biển mịt mờ, Cơm mưa cuối ngày, Ráp Việt, Thầy giáo dạy
Triết dường như đã làm được những điều vượt quá sự kì vọng của độc giả dành
cho truyện ngắn khiến Lê Minh Khuê nổi bật như một cây bút mới giữa văn đàn.
Đó là những gia đình mà sợi dây tình thân lỏng lẻo hơn bao giờ hết trước sức ép
của cơm áo, gạo tiền. Đó là cuộc sống mà cha con, anh em, người thân sẵn sàng
giết nhau vì tiền, cha đẻ sẵn sàng bán con không xót để lấy tiền thỏa cơn khát
116
nghiện hút. Lê Minh Khuê là nhà văn có khả năng “rút tỉa những chi tiết cốt lõi
của đời sống nhằm nhân chân tinh thần của một thời kì lịch sử đầy hoang mang
xáo trộn”. Đặc biệt trong số đó, Nhiệt đới gió mùa - nhà văn khiêm tốn gọi là
truyện song giá trị của nó có thể sánh ngang với bất cứ cuốn tiểu thuyết nào.
Trong buổi Tọa đàm ra mắt sách hôm 10/12/2012, các diễn giả dành nhiều thời
gian để nói về tác phẩm cũng như tập truyện cùng tên. Diễn giả ghi nhận: Lê
Minh Khuê khai thác chiến tranh ở góc độ đau thương, tàn khốc nhất. Câu
chuyện mở rộng, giãn cách phạm vi hiện thực từ hai đầu của chiến tuyến. Đồng
thời, đây là tác phẩm đầu tiên phản ánh sự khốc tàn của chiến tranh qua bi kịch
đau đớn cuả một gia đình. Nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái nhận xét: “Lê
Minh Khuê có cách giải quyết chiến tranh khiến người đọc rơi nước mắt. Viết về
chiến tranh mà nhà văn cho người đọc thấy ngay trong một gia đình, giữa những
con người chung một huyết thống, chiến tuyến rạch đôi tại đây và người ta nhìn
nhau qua màu máu cũng ở đây”. (Dẫn theo VN. Express, Thứ 5, 20/11/2012)
Bước qua lời nguyền (Tạ Duy Anh) được khẳng định là một kiệt tác
truyện ngắn đương đại ngay khi đăng trên Báo Văn nghệ, tháng 11 năm 1989.
Truyện không chỉ xóa bỏ hiện thực đơn sắc tuyến tính (trong truyện ngắn
truyền thống) mà thiết lập nên không gian, thời gian nghệ thuật đa chiều và thể
hiện sức lớn, tầm vươn của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết qua nhiều cuộc
đời, số phận, của cả thời đại được nén trong khuôn hình một truyện ngắn. Bước
qua lời nguyền là diễn ngôn phá bỏ những định kiến, xác lập tinh thần dân chủ
cho cả xã hội và cả một thời đại văn học lúc bấy giờ. Trên Tạp chí Văn học, số
4 năm 1995, Hoàng Ngọc Hiến nhận định: “Nhiều truyện trong tập truyện Bước
qua lời nguyền của Tạ Duy Anh mang cảm hứng trút bỏ những thành kiến nặng
nề của quá khứ, xóa bỏ những nếp sống gắn liền với bạo lực, sự cùng khổ và tối
tăm… Những định kiến hận thù có thể trở thành lời nguyền- có khi ngoài ý
muốn của con người, con người yêu thương bị trói buộc bởi những lời nguyền
của chính mình, để thực hiện và thỏa mãn khát vọng yêu thương- nhu cầu nhân
tính cao nhất của con người- chẳng có con đường nào khác là Bước qua lời
nguyền- đó là chủ đề tư tưởng của truyện ngắn mà nhan đề được sử dụng để gọi
117
tên cho cả tập truyện”. Những ý kiến của nhà phê bình với tính minh triết đã
khẳng định ý nghĩa to lớn cuả câu chuyện ngang tầm cuốn tiểu thuyết nhỏ này.
Với tính chất khai phá, hàm chứa nhiều thông tin, dữ kiện trong mối tương
quan đa chiều với những hằng số lịch sử, dạng truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
quả là mang sức vóc của những cuốn tiểu thuyết. Từ những lát cắt nhỏ, cốt
truyện được mở rộng mọi chiều kích. Ngoài những sự kiện bề nổi chiếm ưu thế,
các sự kiện ngầm phản ánh mối quan hệ chìm sâu cuả thế giới nhân vật. Từ những
lát cắt này, truyện mở rộng những lát cắt khác, khi tương quan, khi đối lập… song
tất thảy đều tổng hợp lại thành một khoảng không rộng lớn trong khuôn khổ
truyện ngắn, làm nên không gian đa chiều của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết.
Nhìn lại chặng đường phát triển của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết hơn
ba thập niên, chúng ta nhận ra: chưa bao giờ cuộc sống lại đa màu đa sắc như thế
trên trang văn. Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết hóa thời kì này cũng có dáng
hình như anh chàng lực điền dang cái lưng vạm vỡ của mình ra để cõng bao cảnh
huống nhọc nhằn của cuộc sống. Các nhà văn hôm nay dùng ngòi bút và trái tim
của mình cày vỡ những sự thực ở đời. Mọi ngõ ngách, mọi nẻo đời dù nhàu nhĩ,
xám xịt hay tươi rói đều gọi về trên mỗi trang viết. Truyện ngắn hôm nay đã
vươn ra khỏi khuôn khổ truyền thống của mình. Nó tái hiện cuộc sống như cái
vốn có, không thi vị hóa. Truyện ngắn đã mở rộng “vùng tiếp xúc tối đa” vào cái
đang sinh thành, cái chưa hoàn kết, không bị giới hạn nào trong nội dung phản
ánh. Người đọc khi thì được sống cùng cuộc sống những lão Khúng khuất sau
lũy tre làng với những âu lo khắc khoải về tương lai của người nông dân, về
nông thôn Việt Nam (Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra- Nguyễn Minh Châu); khi
bị hút vào cuộc sống của những cánh đồng bất tận đói nghèo, tăm tối, lạc hậu,
cuộc sống cực nhằn của những người nuôi vịt chạy đồng trên mảnh đất Nam Bộ
gợi những nỗi buồn thắt lòng (Cánh đồng bất tận- Nguyễn Ngọc Tư), vào những
cơ may được đổi đời, thay vận của những tay giang hồ hảo hán, những cô gái
làng chơi (Bãi vàng, Đá quí, Trầm hương- Nguyễn Trí); hay cuộc sống trong
những thung lũng bên triền núi phía Bắc của một gia đình với món ăn độc nhất-
món sài thục- được coi là “linh vật của gia đình” (Linh vật, Phạm Duy Nghĩa),
118
cuộc sống của một gia đình sống theo lối du canh nhưng quyết bảo vệ cho được
mảnh đất, lối sống nề nếp văn hóa của ông cha trước những kẻ ngoại tộc (Mùi
hương còn lại- Nguyễn Thế Hùng)… Tạm xa cái hẻo lánh lũy tre làng, cái mịt
mờ bên những triền núi, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết phơi bày trước mắt
bạn đọc cái bụi bặm, náo nhiệt nơi phố phường. Một cái ngõ hẻm, một cái hành
lang công cộng với bao tiếng cười, tiếng khóc, tiếng chửi cùng những mảnh đời
của đủ hạng người nháo nhào trong cái “vô luân, dị ngợm, hỗn mang” (Nhà
trong ngõ hẻm- Ma Văn Kháng). Một vỉa hè với những “món ăn ngon mà người
ta bán hàng dễ sợ” khi “phở quát cháo chửi thành thương hiệu rồi” (Bỉ sắc tư
phong, Nguyễn Trương Quí)…
Mở rộng, bao quát cuộc đời không chỉ ở bề rộng của không gian, chiều dài
của lịch sử, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 khám phá chiều sâu
của số phận, với những “luật đời”, “nghiệp chướng”, những uẩn ức, những giấc mơ,
luật nhân quả... Độc giả hôm nay nhận ra hiện thực phản ánh của truyện ngắn và tiểu
thuyết đang xích lại gần. Những vấn đề lớn lao của con người, cuộc đời, vấn nạn của
xã hội dần dần trở nên quen thuộc trong nhiều trang viết của dạng thức truyện
ngắn này. Nói cách khác cái “lát cắt cuộc sống” của truyện ngắn ngày càng có sức
phản ánh sâu, rộng để trở thành những trang viết vừa nén chặt vừa mênh mông
của Đời khổ, Luật trời (Nguyễn Khải), Tóc huyền màu bạc trắng, Những người
đàn bà, Bà ngoại, Người bị ruồng bỏ (Ma Văn Kháng), Chị tôi, Một nửa cuộc đời
(Nguyễn Thị Thu Huệ), Vòng trầm luân trần gian, Hoá kiếp, Tội tổ tông, Luân hồi
(Tạ Duy Anh), Người sót lại của rừng cười, Hồn trinh nữ, Dây neo trần gian,
Nghiệp chướng (Võ Thị Hảo)...
Có thể nói, chưa bao giờ truyện ngắn lại đa diện, đa sắc như bây giờ! Dạng
thức truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết hôm nay đã mang sức chứa lớn như bất cứ
một cuốn tiểu thuyết thật sự nào ở đời. Và điều quan trọng, nó vẫn là nó với thi
pháp truyện ngắn được vận dụng tài tình nhưng vẫn giữ được cái neo cuả thể loại.
4.2.2. Kiểu nhân vật trải nghiệm, triết luận
Trong truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết, nhân vật chủ yếu là kiểu nhân vật
tính cách. Kiểu nhân vật này mang những đặc điểm của “loại hình” ở những mức
119
độ khác nhau. Xuất hiện trong giai đoạn đất nước có nhiều thăng trầm, nhân vật
của dạng truyện không phải là con người bị cột chặt vào những tính cách riêng
biệt, bất biến. Hoàn cảnh thay đổi, con người bị cuốn theo nó, biến đổi, thích ứng
với môi trường, hoàn cảnh mà mình tồn tại. Dung lượng ngôn ngữ, không gian,
thời gian nghệ thuật… được nới rộng đến tối đa cũng là cơ hội để nhân vật phơi trải
những trải nghiệm, suy ngẫm về thân phận mình, nghĩ đến kiếp người, nhân thế,
nặng về bộc lộ cảm xúc, nội tâm trong sự trải nghiệm cuộc đời. Suy ngẫm, triết lí là
yếu tố thường ngày trong kiểu nhân vật trải nghiệm của truyện ngắn giàu chất tiểu
thuyết. Đây chính là nét khu biệt lớn nhất về nhân vật của dạng này so với truyện
cực ngắn hay truyện ngắn giàu chất trữ tình cũng là yếu tố minh chứng chất tiểu
thuyết đã xâm lấn sang địa hạt của truyện ngắn. Trước cách mạng, Nam Cao là bậc
thầy trong nghệ thuật xây dựng kiểu nhân vật trải nghiệm (Chí Phèo, Lão Hạc).
Sau 1986, kiểu nhân vật này được thể hiện rõ nét hơn, phổ biến trong nhiều sáng tác
có chất lượng, có tầm vóc của các nhà văn đương thời như Nguyễn Minh Châu, Ma
Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Lê Minh Khuê…
Phiên chợ Giát kể về cuộc đời nghèo khổ lam lũ của người ngư dân - lão
Khúng. Do đói nghèo, gia đình lão phải giã từ làng Khơi lên mảnh đất không
một bóng người này: “những ngày tháng ấy như thuộc vào thời kì mới có loài
người, lúc bấy giờ trong cái “ổ gấu chó” của gia đình lão, cái gia đình độc nhất
trong lòng rừng này mới có thằng Hùng, thằng Dũng và thằng Lạc mới sinh
được hai tháng..”, còn bây giờ “con người đã đông hơn con vật, sắt thép đã
đông hơn cây cối”. Song cũng vì cái đói nghèo cứ bám riết lấy gia đình, lão
đành phải quyết định mang con bò Khoang lên chợ Cầu Giát bán để lấy tiền
vào Đắc Lắc làm nhà cho vợ chồng thằng Lạc- con trai lão. Trên con đường
còn mờ mịt của lão với con bò đi lên phố Cầu Giát nơi đứa con gái cuả lão
đang học, trong cái thanh nhàn bất đắc dĩ đó, lão có điều kiện sống lại với
những tháng ngày đã qua, hồi cố lại và chiêm nghiệm về cuộc sống. Lão đúc
rút ra sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình lão với con vật: “con
Khoang này suốt 18 năm nay đã trở thành một người trong gia đình lão, một
thành viên trong gia đình lão, dường như đến tận bây giờ lão mới thấu hiểu rõ
120
cái điều hiển nhiên này”. Từ đó, Lão bừng ngộ ra sự tệ bạc của mình: “Lão
thấy lão không còn là giống người nữa chứ còn đâu nửa người nửa thú vật?” [5;
238]. Chính sự lầm lụi, ngoan ngoãn của con vật trên hành trình từ rừng ra phố;
những giấc mơ, những hồi ức về những tháng ngày gắn bó giữa người với bò
(mà lão đang cảm nhận bằng lương tri, lương tâm cuả một con người) giúp lão
nhận ra: “Chao ôi, cả một trời sao trên đầu, càng nhìn càng thấy lắm, trong khi
ấy thì ở dưới mặt đất vào lúc này dường như chỉ có một mình lão và con bò
đang thập thõm, mò mẫm đi giữa đất bao la và tối tăm” để nhận thấy sự ích kỉ,
hẹp hòi của mình, của con người với con vật. Và rồi, lão thay đổi quyết định:
mình không thể mang con bò đi bán được, mình sẽ phải phóng sinh cho nó, để
nó trở thành con bò hoang nhưng được sống cuộc đời tự do. Triết lí về tự do bật
ra, sáng bừng như một giác ngộ đớn đau…
Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết đang làm mới mình với sự xuất hiện của
một thế hệ nhà văn nữ tài năng, trẻ trung. Họ là những người tạo nên những sáng
tác có thể “tính chuyện đi ra thế giới, tức là cái mà người ta gọi là mở rộng
không gian văn học” và như thế cũng tức là không gian đất nước, ra với thế giới,
với bàn dân thiên hạ. Nguyễn Ngọc Tư không chỉ làm mới trang viết cuả mình
mà thực sự khẳng định sự phát triển của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết với tập
truyện Cánh đồng bất tận, trong đó tiêu biểu nhất là truyện ngắn cùng tên. Đây
là tác phẩm hay nhất trong của truyện ngắn năm 2005. Trái chín nghệ thuật này
đã khẳng định bước đột phá của truyện ngắn đương đại. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Đăng Điệp khẳng định: “Truyện ngắn Cánh đồng bất tận không chỉ là truyện
ngắn xuất sắc cuả Nguyễn Ngọc Tư mà còn là truyện ngắn xuất sắc cuả văn học
Việt Nam đương đại”. Câu chuyện là hành trình đầy gian truân trên đường sinh
nhai của một gia đình nông dân nghèo làm nghề chăn vịt thả đồng. Cuộc sống
khó nghèo cuả Nương, Điền được đánh dấu bằng những cánh đồng và những câu
chuyện đẫm nước mắt tủi hờn trên dòng kênh họ đã đi qua. Mỗi con kênh, mỗi
ngôi làng, mỗi con người học gặp đều mang đến cho Nương những bài học đắt
giá. Đó là những người phụ nữ vốn hiền lành, nhu mì nhưng khi hạnh phúc bị
cướp mất bởi bàn tay người đàn bà khác họ sẵn sàng trở thành những con sói trả
121
thù, sẵn sàng “dùng dao phay chặt mái tóc dày kia”, đổ “keo dán sắt” lên cửa
mình chính người đàn bà đó. Đó là người cha vì bị vợ phụ bạc mà lạnh lùng,
dửng dưng đến vô cảm thậm chí bạc tình với tất cả những người đàn bà muốn
gắn bó với ông song sâu thẳm lại hết mực yêu thương, hy sinh vì những đứa con.
Theo cuộc sống đầy nhọc nhằn cơ cực trên những dòng kênh Nương nhận ra:
“Đơn giản và ngay bây giờ, trên cánh đồng này, cũng đang lảng vảng những
thằng Hận, chúng lớn lên, cũng thất học, cũng hung hãn. Bọn người này cướp vịt
ở các bầy khác (trong đó có chúng tôi) bằng cách lén phết sơn đen lên đầu những
con vịt và phởn phơ đến nhận là của mình, hiển nhiên và mang đi”. Trong cuộc
chiến sinh tồn vì miếng cơm manh áo “người ta đem hết những bản năng hoang
dã của mình ra để giành lấy miếng ăn” những khi trở về với chính mình lại là sự
chai lì, trống rỗng, xót xa và tủi hổ. Câu chuyện khép lại với cảnh tượng đau đớn
của người con gái chăn vịt khi bị đồng loại cưỡng bức. Nhưng chính trong
khoảnh khắc đau đớn đến ngụp thở ấy, Nương nhận ra: “nó chấp nhận việc ấy,
dù phũ phàng (với nó, chấp nhận cũng là một thói quen). Trên thực tế, khi trình
làng tác phẩm, tác giả đã nhận được rất nhiều ý kiến khi đồng thuận, khi trái
chiều bàn về cách xây dựng nhân vật của mình. Tuy nhiên, thiết nghĩ cách xây
dựng nhân vật trải nghiệm này là một dấu hiệu khẳng định tính trội, tính lạ của
văn bản. Nguyễn Ngọc Tư đã để nhân vật thật sự sống đời sống như nó vốn có,
như cái hàng ngày hiện sinh, với những trải nghiệm. Từ khốn khó này chất
chồng nên khốn khó kia, từ giằng xé này đến mâu thuẫn khác, thất vọng, tuyệt
vọng đè nén những hy vọng mong manh…, tất thảy được tạo nên từ cuộc sống
không phải riêng Nương hay Điền mà của bao mảnh đời, bao số phận, bao kiếp
người đồng hiện trên trang giấy. Điều này thể hiện sức lớn của một truyện ngắn
trong kiểu nhân vật trải nghiệm, triết luận về cuộc sống mà trước đây chỉ có ở
thể loại tiểu thuyết.
Nhìn lại sự vận động và phát triển của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
trước cách mạng, chúng ta nhận thấy tài năng bậc thầy của Nam Cao trên đường
khai phá khi xây dựng nhân vật. Nam Cao là nhà văn Việt Nam đầu tiên giải
phóng nhân vật khỏi chức năng khái quát tính cách thuần túy. Đó là kiểu nhân
122
vật phức hợp: con người xã hội, con người cá nhân và con người bản năng. Tính
cách nhân vật không nhất quán, nó thay đổi theo hoàn cảnh, nhất là trước những
ngả rẽ cuộc đời của nhân vật (sau khi ra tù, sau khi gặp Thị Nở, khi bị Thị Nở cự
tuyệt tình yêu…). Vì thế, nhân vật luôn đứng giáp ranh giữa Tốt Xấu- Thiện- Ác,
Hiền- Dữ… nhân vật luôn đấu tranh giữa cái bên trong và nghịch cảnh bên
ngoài. Sau hơn ba mươi năm của thời kì đổi mới, chúng ta bắt gặp kiểu nhân vật
này ngày càng đông đúc, dày đặc trong dạng truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết.
Đó là Chương, Trương Tri, Nguyễn Trãi… (Con gái thủy thần, Trương Chi,
Nguyễn Thị Lộ- Nguyễn Huy Thiệp); là San, Dự (Nhà trong ngõ hẻm, Đất màu-
Ma Văn Kháng); là nhân vật người cha (Cánh đồng bất tận- Nguyễn Ngọc Tư);
là Xuân (Xuân nữ- Dạ Ngân)… Các nhà văn hôm nay đặt nhân vật trong môi
trường, hoàn cảnh rộng mở hơn để thấu cảm con người trước tác động lớn lao
của hoàn cảnh. Dưới góc nhìn phân tâm học, nhà văn là những chuyên gia tâm lí
khám phá, phát hiện, lên tiếng về những bi kịch bản thể của con người. Bên
trong con người xã hội là con người cá nhân đang dần được phơi mở và thể hiện
cởi mở trên từng trang viết. Song có điều, nhiều nhà văn hôm nay không chỉ
phản ánh nhu cầu mang tính bản năng cuả con người mà khơi sâu vào cuộc chiến
của chính con người đương đại: sống theo con người tự nhiên hay sống theo con
người xã hội; dám buông bỏ tất cả mọi vị thế, quyền uy, lòng ích kỉ, sự đố kị để
được sống với phần bản thể của mình… hay chấp nhận ôm đồm tất cả- cố gắng
thoả mãn nhu cầu cá nhân, níu giữ và che lấp sự xấu xa, ích kỉ bằng lớp vẻ bề
ngoài hào nhoáng, trong sạch... Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau
1986 là tấm gương phản ánh chân thật con người thời đại mới. Nhân vật không
nhất phiến, đơn diện như truyện ngắn truyền thống, kiểu nhân vật lưỡng diện, đa
diện là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh.
Đồi con gái cuả Sương Nguyệt Minh kể về hành trình của “tôi” và những
nhà văn trẻ trong đoàn khi ra đảo Man. Khi băng qua rừng phi lao đứng ủ rũ
như chết, tôi đã gặp người con gái khoác tâm lưới đánh cá đi tha thẩn cùng điệu
hát trầm buồn. Tình yêu sét đánh đã biến tôi thành kẻ si tình trong giấc mộng.
Nhưng điều lạ kì, đây không chỉ là giấc mơ cuả riêng tôi mà của tất thảy-
123
những nhà văn trẻ trong đoàn lúc bấy giờ. Sử dụng những yếu tố hoang đường
kì ảo, câu chuyện của ông Trần về đồi Con gái, bãi cát Khỏa thân, giếng Ngọc,
về người vợ của lão và những câu chuyện mộng du tạo nên một thế giới ma mị
đầy hấp dẫn. Những khao khát, nhu cầu yêu và được yêu của ông Trần, của tôi,
của nàng, của người vợ ông Trần… được bộc lộ không giấu giếm. Từ những
giấc mơ, những khao khát thầm kín bung tỏa, nó lí giải những khát vọng bị dồn
nén của con người khi phải sống theo đúng chuẩn mực, sống nghiêm chỉnh,
đứng đắn cho đúng danh vị xã hội đã thiết lập. Khai thác con người công dân
và con người xã hội, Sương Nguyệt Minh đã chỉ ra con người biến đổi do hoàn
cảnh. Hoàn cảnh là cơ hội để con người được sống hết với hai phần Con,
Người của mình. Hai phần đó vẫn thường trực, hiện hữu trong mỗi người. Tuy
nhiên, khi sống trên đảo Man, tất cả những cư dân bất đắc dĩ này đã để con
người tự nhiên lấn át, chiến thắng con người xã hội trong họ. Một giả thiết gây
tranh cãi nhưng đậm đặc triết lý.
Những người thợ xẻ được Nguyễn Huy Thiệp phản ánh con đường đi đến
tận cùng của sự tha hóa ở những người thợ xẻ. Bường vốn là một tay anh chị
khét tiếng về trộm cắp đã từng vào tù ra tội. Chán sống ở quê, Bường đã lựa
chọn làm thợ xẻ và lên núi, bởi theo hắn: “ở miền núi, nghề thợ xẻ là nghề rất có
triển vọng”. Đó là lí do bọn thợ xẻ- năm người- đứng đầu là Bường khăn gói quả
mướp lên núi. Khi nhận xẻ cây cho lão Thuyết, vốn ranh mãnh, Bường đã quyết
định bán trộm một nửa số gỗ của lão cho bọn lái xe. Sau khi hoàn thành công
việc, hắn mang tiền ra đếm, đầy đắc ý: “Theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra, đợt xẻ này
phải được từng này… từng này tiền… Ký với tay Thuyết, hóa ra bọn mình lỗ 70
phần trăm. Được cái tao đã linh động bán đi mười hai cái cột với bảy hộp gỗ,
được từng này… từng này… tiền. Hóa ra so với chỉ tiêu, bọn mình vượt 220
phần trăm. Đời xôm thật! Thế mới gọi là hoạch toán kinh tế chứ!” [81; 230].
Không chỉ vậy, lợi dụng lúc con gái lão Thuyết mang đồ dùng đến cho đám thợ
xẻ, hắn nấp trong bụi cây, chờ cơ hội để dở trò đồi bại: “Khi Quy đi qua chỗ anh
Bường nấp thì vụt một cái, anh Bường chồm dậy. Tôi nghe thấy Quy kêu thất
thanh. Anh Bường bịt miệng, bế thốc cô gái vào bụi rậm” [80; 231]. Với giọng
124
văn vừa lạnh lùng, dửng dưng pha chút khinh bạc, giễu nhại, Nguyễn Huy Thiệp
đã gọi tên tất cả tính cách nổi chìm của nhân vật. Những người thợ xẻ, Không có
vua, Tướng về hưu… mở ra kiểu người đặc trưng của thời kinh tế mới. Bường,
Đoài, Khiêm, Sinh, lão Kiền, con trai tướng Thuấn, Thủy… bên trong mỗi con
người, sự tham lam, ích kỉ, hẹp hòi được “tôi luyện” qua thời gian, nó nổi dậy,
có sự sắp đặt để biến con người trở thành kẻ đê tiện, thực dụng, thậm chí mất hết
tính người.
Trong xã hội hiện đại, khi các thang bậc giá trị xã hội đang thay đổi, đảo
lộn, danh vọng, tiền tài, địa vị… đang lên ngôi, ban phát những giá trị theo
nguyên lí của riêng nó. Con người cũng vì thế mà lần lượt tha hóa về nhân hình
nhân tính. Cả một dây đi theo nhau của Hồ Anh Thái lật tẩy sự nhếch nhác, xói
mòn đạo đức của những ông nghị thời hiện đại. Đó là nhân vật Sếp, với đường
dây tham nhũng dây chuyền, vơ vét tiền công trình trong những dự án ở nông
thôn và miền núi. Các Sếp đã biến những đồng tiền công ích thành tư ích, thành
những biệt phủ. Nghĩ rằng mình sắp chết, Sếp đành hé lộ bí mật động trời với
vợ con về người tình và những đứa con không giá thú. Ông mong đợi sự tha
thứ của vợ con. Để thể hiện lòng tôn kính với Sếp trưởng, Sếp phó đã chuẩn bị
sẵn một bài điếu văn bi thiết và sẵn lòng để thể hiện nhưng kết cục Sếp trưởng
đã không chết. Sếp phó quyết định sẽ lấy điếu văn của Sếp trưởng dùng thế cho
đám tang của ông cán bộ già về hưu. Trên đường từ nghĩa địa trở về, Sếp phó
hí hửng, sung sướng trước những lời khen ngợi của gia chủ nhưng cũng chính
vào lúc đó, ông bị tai nạn và chết. Nỗi ấm ức của Sếp trưởng lâu nay được cơ
hội giải tỏa. Đọc điếu văn cho Sếp phó mà ông thấy lòng dạ hả hê. Không chần
chừ, ông đã chuyển nhượng ngay cô con dâu của Sếp phó thành bồ nhí của
mình. Câu chuyện khép lại với tình huống bất ngờ: cái chết của cả Sếp trưởng
và cô bồ nhí mới trước cửa hàng bán mũ. Có thể thấy: cách xây dựng cả một
dây nhân vật theo nhau của Hồ Anh không chỉ phơi lối sống đạo đức giả của
một số cán bộ công chức thời hiện đại mà còn khẳng định sản phẩm của mặt
trái xã hội hiện đại đã tạo ra, khiến cả một dây tha hóa theo nhau.
125
Là một trong những nhà văn có nhiều trang viết về sự xuống cấp trong đạo
đức nhân cách của con người, thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê
đã thực sự hấp dẫn bạn đọc. Với cái nhìn tỉnh táo, sắc lạnh, lối viết có tính xung
kích, Đoàn Lê đã phanh phui những con sâu như Toản (Xóm Chùa thời ung thư),
Quảng (Đất xóm chùa), Phó (Người khách đêm giao thừa)… hay như nhân vật
đạo sĩ trong Niết bàn rực cháy. Vì mưu lợi cá nhân, khi còn là một tên buôn vặt,
Toản sẵn sàng bơm nước vào bụng nhái, bụng rắn để kiếm lời cao. Khi trở thành
chủ tịch huyện, Toản đưa nhà máy sản xuất xi măng về địa phương, kết quả là
người dân xóm Chùa “sống dở chết dở” bởi “hàng tấn bụi trên mái nhà lẫn khói
xi măng xam xám bay lên, lắng xuống vô cùng khủng khiếp. Nhà nào nhà nấy
cửa đóng then cài tránh bụi tấn công miếng cơm, hớp nước, hơn cả tránh giặc
càn hồi mồ ma thực dân” và kết cục gây ra “chín cái chết ung thư hồi đầu năm”.
Mặc vậy, Toản ngày càng phát triển, đang ngấp nghé chức quan đầu tỉnh dù cho
xóm chùa sắp trở thành làng ung thư, thành nghĩa địa.
Từ những năm 1880, truyện ngắn của Tonxtoi đã xuất hiện kiểu nhân vật
trải nghiệm. Bắt đầu, đó là truyện Kẻ chạy trốn, tiếp đến là Đức cha Xerghi, Cái
chết cuả Ivan Ilich, Bản sonate Kreutzer… Đối với nhân vật của mình, Tonxtoi
luôn đặt họ vào nhân vật tình cờ, ngẫu nhiên, có giá trị thay đổi toàn bộ cuộc
sống, tính cách của nhân vật. Olenin (Kẻ chạy trốn), sau những trải nghiệm đã
nhận thức được sự giả dối trong cuộc sống quí tộc. Điều này khiến Olenin không
thể chung sống được với họ và quyết định từ giã cuộc sống đó. Giữa thế giới
thiên nhiên, Olenin nhận ra vẻ đẹp tuyệt vời của thế giới tự nhiên, anh nhận ra:
“hạnh phúc là ở chỗ sống cho người khác”. Việc nhân vật từ bỏ cuộc sống xa
hoa thượng lưu là môtip trong sáng tác của Tonxtoi, qua đó nó phần nào thể hiện
triết lí sống của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm: “Hãy trở về với nhân dân”,
“đừng cố gắng cất vào góc tối những hồi ức đáng xấu hổ về những tội lỗi của
mình mà luôn giữ chúng ở một chỗ sáng để khi phán xét tội lỗi của người bên
cạnh thì đối chiếu với tội lỗi của chính mình”. Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
Việt Nam sau 1986 thấp thoáng kiểu nhân vật cuả Tonxtoi trên các trang văn.
Nhà văn hôm nay đang tiếp tục hành trình gìn giữ, phát huy và nâng niu những
126
giá trị Chân- Thiện- Mĩ của cuộc sống qua lớp nhân vật trải nghiệm. Đó là hành
trình vô cùng nhọc nhằn và vất vả. Nhân vật được đặt vào trong những tình
huống đầy nghịch lí. Họ có thể là những người lầm lỗi, vấp ngã do hiệu ứng cuả
hoàn cảnh hoặc do bị hiểu nhầm, vu oan. Song sau đó, họ sẵn sàng trả giá và
mong muốn góp công vào việc gìn giữ những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.
Con gà rừng của Đoàn Lê kể về niềm day dứt, khắc khoải của nhân vật
“tôi” trước những cuộc “tháo chạy khỏi cuộc đối mặt với lòng hổ thẹn”. Hơn nửa
đời người sống ở thành phố Viên, một khung trời mơ mộng, nhân vật tôi tưởng
đã “ru ngủ được mảnh tâm hồn khốn khổ của mình”. Nhưng không, anh ta nhầm.
Giữa công viên yên tĩnh, man mác buồn, giọng hát chèo văng vẳng, thập thững
từ xa vọng lại: “… Con gà rừng… Con gà rừng, mày ăn lẫn với công kia, kia,
kia… Đắng cay đâu có chịu được ức… mà để xóm giềng… mà để xóm giềng…”
[67; 62] như cánh cửa mở tung căn phòng bí mật mà anh đã chốt bao năm. Giữa
đất khách quê người, giọng chèo quen thuộc, dân dã như đang cứa vào lòng dạ
anh. Nhân vật “tôi” tưởng như mình đang đứng trước bàn giấy của tòa đại sứ
(nơi bao năm qua anh muốn đến những chẳng dám vào) để xin một cái hộ chiếu
cho một cuộc trở về. Dòng suy nghĩ như lời tự thú của con người lầm lỗi: “Vâng
thưa ông, thời chiến tranh tôi đã từng là một người lính, từng chiến đấu lăn lộn
ngoài chiến trường. Sở dĩ bao lần tôi không dám đến đây xin một tấm hộ chiếu
về lại quê hương vì tôi đã trót phản bội nó. Nỗi day dứt trước tội đầu hàng địch
nhục nhã, trước sự hy sinh của anh em đồng đội, trước cái chết của Quế, tôi luôn
đứng giữa phiên tòa vô hình đáng sợ suốt quãng đời vừa qua. Không có lời biện
minh nào cho mình cả” [67; 64]. Nhân vật “tôi” khao khát được sám hối, chuộc
tội. Chính sự ăn năn đó đã làm ngời sáng niềm vui của “tôi” khi bắt gặp cô bé
người Việt, bởi chính cô bé đó đã bắc nhịp cầu để ông vượt qua mặc cảm, tội lỗi
để trở về, nối lại những niềm tin đã mất.
Là dạng truyện ngắn lấy chất liệu từ hiện thực đời thường, từ những câu
chuyện tưởng chừng vặt vãnh, tầm thường song qua nhân vật, chất triết luận
được đẩy lên thành những triết lí sống sâu sắc. Lẽ dĩ nhiên, không phải bất cứ
truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết nào cũng có chất triết luận, cũng như không
127
phải chỉ có truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết mới có chất triết luận song những
vấn đề được triết lí trong truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết là kết quả của những
trải nghiệm được sàng lọc, được đúc rút ra từ cuộc sống. Chất triết lí thường
được các nhà văn thể hiện qua tiếng nói của nhật vật, qua những lời thoại bật ra
triết lí về Người, Đời, về muôn mặt nhân sinh. Đây là sự đúc kết về bản tính con
người: “Con cá trượt thường là con cá to. Không có cái gì trong tay mình là nhất
cả” (Hậu thiên đường- Nguyễn Thị Thu Huệ); về người lãnh đạo: “Về sau khi đã
ngồi vào ghế bí thư thì ông chủ tịch không làm cái trò chơi dại ấy nữa. Có người
lãnh đạo nào thích sự phản bác, trái ý” (Phiên chợ Giát- Nguyễn Minh Châu)…
Đây là những luật lệ mới ở đời; “Người có chức quyền không còn giữ được cái
ghế nữa thì sống cũng như chết, ngôi sao chiếu mệnh cũng tắt”. Còn đây là triết
lý về thiên đường: “Thiên đường. Hình như ai trong đời cũng đã từng đặt chân
tới đó. Chỉ khác nhau là thiên đường của họ là cái gì, và đem lại cho họ hạnh
phúc ra sao. Có người thì chạy hết từ thiên đường này tới thiên đường khác, có
khi vừa lao vào rồi lại chạy tuột ra ngay vì kinh hãi” (Hậu thiên đường, Nguyễn
Thị Thu Huệ). Trong Vũ điệu địa ngục, nhân vật tôi triết lí về sự học: “Giờ đây
tôi phỉ báng sự học. Tôi đau khổ là một kẻ “có học”- như người ta thường nói.
Bởi vì sự học chỉ đưa đến cho người ta những trò xa xỉ và những đau khổ không
cần thiết; tâm hồn rắc rối, thói tự ái và lòng ngạo mạn ngốc nghếch. Ai không
mang phải cái đó trong mình, người đó sẽ bớt đi được một gánh nặng”; “cái
thanh bần ở những kẻ có học khiến họ trở thành bí ẩn, khó gần, xa vời như một
dáng kiêu kì”. Trong nhiều tác phẩm, nhân vật triết luận về sự thay đổi, khác biệt
giữa nếp sống của con người của thời đại hôm qua và hôm nay: “Thế hệ của
chúng con khác thế hệ e dè của mẹ. Chúng con đi đến tận cùng nên nhiều khi tàn
nhẫn. Trước khi chết, con phải cất được lời sám hối, cho lòng thanh thản” (Vũ
điệu địa ngục, Võ Thị Hảo). Võ Thị Xuân Hà triết lí về đàn bà: “mà đã là đàn bà
thì vĩnh viễn mang trong mình nỗi khát khao hòa đồng, vĩnh viễn đam mê, vĩnh
viễn yếu ớt” (Sương mù trên thành phố). Nguyễn Thị Thu Huệ luận bàn về đàn
ông: “Đàn ông, cái sự nhớ hay quên của họ đều có ý thức. Họ đã không muốn
cái gì thì đừng có mà giữ” (Bảy ngày trong đời). Lý Lan bàn về bản chất của tình
128
yêu: “Tình yêu vẫn ở trong lòng mình, chỉ cần mình biết làm cho nó sống lại”;
bàn về sự đổ vỡ của tình yêu, hạnh phúc: “Một triệu gia đình trên thế gian này đổ
vỡ vì một triệu lí do khác nhau” (Lắp ghép hạnh phúc).
Khi khảo sát truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, với số
lượng tác phẩm được xem xét trên ba thập niên cho ta một nhận xét thú vị: Tất
cả mọi vấn đề của cuộc sống đều được luận bàn. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Khải, Bùi Hiển, Ma Văn Kháng, Đỗ Chu trăn trở về những vần đề lớn lao của
thời cuộc, xã hội, ý nghĩa tồn tại của con người, mối quan hệ giữa con người
và thời thế, cái ngẫu nhiên, may rủi, nghịch dị của đời người. Nguyễn Thị Thu
Huệ, Lê Minh Khuê, Nguyễn Ngọc Tư, Y Ban, Nguyễn Thị Miền, Lý Lan…
hướng ngòi bút tới những vấn đề của cuộc sống thường nhật, phạm vi gần gũi
hơn, nhỏ hẹp hơn. Đặc biệt, họ quan tâm nhiều tới những mặt trái của cuộc
sống đời thường, cái lộn ngược, dị hình của tình yêu… song vẫn thấm đẫm tinh
thần nhân bản.
Để xây dựng nhân vật trải nghiệm, triết luận, truyện ngắn giàu chất tiểu
thuyết hóa sử dụng, kết hợp toàn diện các yếu tố từ ngoại hình, ngôn ngữ, hành
động và nội tâm nhân vật. Trong truyện ngắn truyền thống, các yếu tố đó tương
đối ổn định, ít biến đổi, nhằm khắc họa đậm nét tính cách của nhân vật, phù hợp
với dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Đến với truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết,
ngoại hình, ngôn ngữ, hành động cuả nhân vật được mô tả như kết quả, sản
phẩm được tạo ra từ cuộc sống, nó biến đổi bất ngờ, biến hóa trước hoàn cảnh.
Đặc biệt, trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, các nhà văn chú ý đến phương
diện nội tâm: những suy nghĩ, tính toán, những triết lí về đời sống.
Lời độc thoại nội tâm “là lời phát ngôn của nhân vật với chính mình, trực
tiếp phản ánh quá trình tâm lí bên trong, mô phỏng hoạt động suy nghĩ, cảm
xúc cuả con người trong dòng chảy trực tiếp cuả nó” [151; 127]. Trong truyện
ngắn giàu chất tiểu thuyết nói riêng, đây là một kĩ thuật được nhà văn sử dụng
để tái hiện mọi hoạt động trong suy nghĩ cuả nhân vật, qua đó độc giả hiểu
sâu sắc hơn về tính cách, cuộc đời, số phận của nhân vật cùng triết lí về con
người và cuộc sống.
129
Khám phá về con người như nó vốn có, phân tích, lí giải sự thay đổi trong
chiều sâu tâm lí, tính cách của nhân vật, đó chính là thế mạnh của truyện ngắn
Linh vật. Phạm Duy Nghĩa đã khắc họa sự thay đổi tư duy, quan niệm của cả
một dòng tộc qua những phân đoạn, lát cắt sắc nhọn của một gia đình. Hình ảnh
người mẹ khốn khổ- nạn nhân của món ăn gia truyền hiện lên chân thực qua
dòng suy nghĩ của người con. Từ năm mười bảy tuổi, “tôi” bắt đầu chứng kiến
sự đổ nát trong gia đình. Những cảnh đá thúng đụng lia cùng những cái tát trời
giáng của cha “tôi”, tiếng quát tháo “bị xé ra trong tiếng gió ào ào” khi mẹ tôi
quyết định chống lại mệnh lệnh của cha: cái cây sài thục ấy không dính dáng gì
đến lòng tôn kính tổ tiên, bà sẽ không ăn sài thục- món ăn được coi là linh vật
của cả gia đình. Sau những cuộc nổi loạn khi thầm lặng, khi quả quyết mạnh mẽ
bằng những cuộc chạy chốn không thành… cuối cùng mẹ tôi cũng dứt áo ra đi
để thoát khỏi miếng ăn độc nhất của nhiều đời. Cuộc truy đuổi mẹ tôi đã diễn ra
trong tiếng gào hét của bố tôi. “Trong tiếng gió hoang dại, tôi có cảm giác hưng
phấn của người đang trong cuộc truy đuổi với ham muốn mãnh liệt sẽ tóm được
kẻ thù. Sự kiên quyết ghê người hiện lên trên nét mặt của bố, trong bóng tối, cùng
tiếng gió rít, đã kích thích tôi”. Và trong khoảnh khắc ấy, đứa con gái không phải
đi tìm mẹ mà truy đuổi kẻ thù. Nhưng, sự thật về cuộc thảm sát nương sài thục đã
được phơi bày qua câu chuyện của người đốn củi. Và đây là cảm xúc của bố: “Câu
chuyện của người đốn củi làm bố tôi bị sốc. Thật không ngờ, loại củ được ông tôn
thành linh vật, bao năm hương khói phụng thờ, thì bị kẻ khác làm như thế”. Còn
tôi, bây giờ đứng trước mảnh đất mà mẹ tôi để lại, vun trồng với biết bao cảm xúc:
“Trước mắt tôi, ngọn núi hùng vĩ ngập vào mây, ngồn ngộn một màu xanh rợn.
Trăm loài cây, củ, hạt tựa vào nhau, lấn sang nhau, cùng phất ngọn xanh mà trỗi
dậy. Tỏa ngát trên trời cao, nơi hội ngộ giữa trời và đất, hoa dã xuân nở từng vầng
xanh biếc…Tôi đứng trong gió cuồn cuộn thổi chợt thấy u hoài da diết. Giã biệt
nhé, sài thục. Cuộc chia tay nào chẳng chạnh lòng” [53; 400]. Nghệ thuật miêu tả
nội tâm nhân vật của Phạm Duy Nghĩa đã đạt trình độ một nhà văn có tầm khi
nắm bắt tinh tế những đổi thay, trở ngược trong suy nghĩ của nhân vật. Từ dòng
suy nghĩ của người con trong câu chuyện ra được sự thay đổi trong tầm nhận thức
130
của người mẹ và ông bố. Độc đáo nhất là hình ảnh người bố: Ban đầu ông ta khư
khư, quả quyết, dùng mọi thủ đoạn để giữ món ăn độc nhất của một gia đình (từ
thời cụ kỵ đến đời mình, đời con) nhưng dần dần đã thay đổi, xóa bỏ, chấp nhận
cái mới. Hoàn cảnh đã tạo nên sự chuyển hóa không ngừng giữa các mặt đối lập
trong một con người, một gia đình, một thời đại.
Mùa cua rận của Mai Tiến Nghị ám ảnh người đọc bởi tâm trạng của người
nông dân sống trọn đời với nghề bắt cua- Trần Xuân Vọp. Câu chuyện mở đầu với
nỗi than thân trách phận cuả chính Vọp về số kiếp của mình: “Vừa đi Vọp vừa
nghĩ trách cho thân phận cuả mình. Sao mà kiếp con người lại khổ đến thế. Sao
mà cái kiếp mình lại khốn nạn đến thế”. Suy nghĩ đó giống như một chiếc then
cửa được bật tung để cả cuộc đời khốn nạn tái hiện trong tâm thức cuả Vọp: từ lúc
anh đi bộ đội về cho đến bây giờ bao quanh anh là “một con vịt mái và năm con
vịt con”. Điều này đã khiến Vọp không chịu nổi, anh muốn chết, muốn lao đầu
xuống sông mà chết. Nhưng sự đời đâu dễ như vậy, anh phải sống vì những đứa
con ngay kể cả khi anh bị oan ức, bị cướp mất cái công cụ truyền giống của người
đàn ông (vì đã vô tình chứng kiến cảnh ngoại tình của người đàn bà cuối xóm).
Anh đã bị tẩy chay khỏi gia đình, của vợ con. Vọp đã hằng tưởng sự cố gắng của
anh trước những mùa cua rận thì tất cả những tai ách, khốn nạn mà anh phải trải
qua chẳng có nghĩa lí gì. Thời gian và tiền bạc sẽ có thể chữa lành những vết
thương. Nhưng kết cục, anh đã chết ở cửa sông. Qua dòng suy nghĩ của nhân vật,
người đọc nhận ra trong dòng đời của những người như Vọp luôn đầy rẫy những
tai ương, bất trắc. Nó có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, đẩy những con người vốn
hiền lành, tốt bụng trở thành kẻ xấu xa, phải sống những ngày cô độc với những
giày vò trong tâm can, suy ngẫm về thân phận bèo bọt, nổi trôi của mình.
Trong truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết, độc thoại nội tâm thể hiện khá đa
dạng và độc đáo. Độc thoại hướng nội chủ yếu diễn tả tâm trạng, suy nghĩ của
nhân vật và quá trình tự chia sẻ với mình. Nhân vật khép kín những suy nghĩ,
không muốn chia sẻ cùng ai. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khác, nhân vật
vẫn muốn truyền tin tới đối ngoài mình song không sử dụng lời thoại trực tiếp.
Và khi đó, lời độc thoại có tính hướng ngoại đã đảm nhiệm chức năng này.
131
Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư miêu tả nỗi niềm của người con
gái suốt đời sống trong nỗi ám ảnh và sợ hãi, sợ cha bằng độc thoại hướng nội và
hướng ngoại. Tác giả đã dùng phương thức đó để miêu tả nỗi niềm uất nghẹn của
người con gái trước khi bị bọn côn đồ tấn công. Cô nghĩ tới cha: “Ngoái nhìn về
phía cha và thấy ông lầm lũi đằng xa, tôi mong ông đừng quay lại”; nghĩ về bọn
côn đồ: “Nhưng cố không để cảm giác đau điếng làm mình lịm chết, tôi cười cợt:
“Chúng mày có lột bỏ có trăm có ngàn, tầng tầng lớp lớp những vỏ bọc, cũng
chẳng bao giờ thấu đến tận tao”. Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư, có những lời
độc thoại không chỉ hướng tới một đối tượng ngoài mình, mà là thông điệp tới cả
cộng đồng, cả thời đại. Chẳng hạn: “Hôm bán vịt, cha tôi sắm chiếc nhẫn vàng,
ông đẩy về phía tôi, ngượng ngập như sắp chết giấc. “Để dành khi lấy chồng”…
Tôi sặc ra một bụm cười, trời ơi tôi biết lấy ai bây giờ? ”. Tiếng nói của người
con gái nghèo khổ ấy không chỉ nói với mình mà còn nói với, hướng tới nhiều
người khác. Đó là cha cô, là mọi người, cả cái xã hội mà cô đang nghĩ hoặc
trước mắt. Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư, hòa trong những lời độc thoại,
người đọc trào dâng nỗi nghẹn, sự phẫn uất, buồn thương trên từng trang văn
trước cuộc sống của Nương, của Điền, của những cánh đồng bất tận.
Độc thoại nội tâm là phương tiện để nhân vật trải lòng mình dễ nhất. Đối
thoại cũng là một cách trải lòng song so với độc thoại nó hạn hẹp hơn nhiều. Bởi
lẽ, những nỗi niềm sâu kín của con người không phải lúc nào cũng dễ dàng phơi trải
được, nhất là đối với người khác. Cho nên để nhân vật sống thật với cõi lòng mình,
sống với nhu cầu, khát vọng tự thân… thì khi đó tự thân nhu cầu và khát vọng sẽ
lên tiếng. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm cứ vậy mà hiển hiện. Và ở mức độ cao hơn,
lời thoại sẽ trở thành những đúc rút, triết lí trước những trải nghiệm của cuộc sống.
Các nhà văn (nhất là các nhà văn nữ) đã hóa thân cùng nhân vật để tái hiện dòng ý
thức, nỗi đau đớn đầy vơi trên trang văn. Lời độc thoại nào của nhân vật trong
truyện cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng cái nhìn, tâm tư chủ quan của nhà văn. Những
nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư… đều đậm
tô những xúc cảm mang đầy nữ tính. Vì thế qua những câu chuyện của họ, chúng ta
không chỉ nhận ra cõi lòng muôn thuở của người phụ mà còn là những thao thức,
132
trăn trở của người phụ nữ trong xã hội “hậu thiên đường”. Âu lo, đổ vỡ, muộn
phiền… bi kịch và bi kịch. Âm hưởng, tinh thần, khát vọng và những triết luận về
nữ quyền cứ như vậy trào dâng trên đầu ngọn bút, làm nên cái dư ba của truyện
ngắn giàu chất tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
Thiết nghĩ, kiểu nhân vật trải nghiệm, triết lí là một trong những thành công
xuất sắc của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết. Những triết lí sống sâu sắc được
đúc kết từ cuộc đời, số phận của nhân vật đã góp phần đưa truyện ngắn giàu chất
tiểu thuyết vươn tới địa hạt của tiểu thuyết.
4.2.3. Cấu trúc phức hợp- lồng ghép
Để mở rộng dung lượng và sức chứa của truyện ngắn, các nhà văn đã vận
dụng linh hoạt một số thủ pháp nghệ thuật được coi là huyệt điểm nghệ thuật của
tiểu thuyết. Theo quan điểm của chúng tôi, đây không phải là một sự lấn sân sang
địa hạt tiểu thuyết của các cây bút truyện ngắn mà chỉ là để thu hút về mình một
số thủ pháp của tiểu thuyết. Điều này cũng ít nhiều giống như truyện ngắn giàu
chất trữ tình: một số đặc trưng của thơ đã được rất nhiều nhà văn vận dụng để làm
mới thể loại truyện ngắn và cho ra đời dạng truyện ngắn giàu chất trữ tình. Ở đây,
một số kĩ thuật của tiểu thuyết cùng với những đặc trưng vốn có của truyện ngắn
làm nên dạng truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết.
Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết có hai dạng thức lồng ghép tiêu biểu. Thứ
nhất, truyện được chia thành nhiều phần, mục giống như các chương nhỏ trong
một bộ tiểu thuyết. Thứ hai, truyện có cốt truyện theo kiểu truyện lồng trong
truyện. Chính điều này tạo nên sự đa tầng về ngôn ngữ cũng như ngữ nghĩa cho
văn bản. Vấn đề đặt ra là có phải một nhà văn chỉ dùng phương thức này hay
phương thức kia? Điều này không có khuôn mẫu cố định. “Văn chương không
cần một người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho” (Nam Cao),
bởi vậy, quan sát văn phong của một tác giả chúng ta cũng nhận thấy các bút
pháp này được sử dụng triệt để và linh hoạt.
Đến với Phiên chợ Giát (Nguyễn Minh Châu), chúng ta thấy cốt truyện đã
có sự bứt phá hẳn so với cốt truyện truyền thống, mang đậm chất tiểu thuyết. Xét
theo mạch truyện, tác phẩm có bốn phần: Mạch truyện thứ nhất bao quát chiều
dài cuộc đời của lão Khúng (một ngư dân từ miền biển dạt đến vùng núi này khi
133
nơi đó ban đầu không một bóng người) cho đến bây giờ lão đang cùng con
Khoang đến với phiên chợ Giát. Trên hành trình, một loạt câu chuyện nhỏ được
hiện lên qua những hồi ức giấc mơ. Đó là câu chuyện về cái chết cuả đứa con
trai yêu quí cuả lão- Dũng- trên đất Campuchia (cũng là mạch truyện thứ hai).
Mạch truyện thứ ba về tay lái buôn bò nay thành chủ tịch huyện- Bời. Mạch
truyện thứ tư là những ác mộng chập chờn về việc khi thì con bò của lão bị
người ta lấy búa tạ đập vào đầu, khi thì chính lão… Bốn mạch truyện trên được
sắp xếp tự do, các sự kiện có lúc được trần thuật theo tuyến tính, khi ngắt quãng,
đảo ngược. Trên nền của kết cấu đó, yếu tố kì ảo được tác giả sử dụng đan xen
dưới dạng thức giấc mơ tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt cho câu chuyện. Giấc mơ
như một kĩ thuật để tác giả chuyển đổi sự kiện, khép lại sự kiện này, mở ra sự
kiện khác, bất ngờ, kịch tính. Nếu như đọc truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết của
Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta bước vào tác phẩm với không- thời gian khá truyền
thống (bắt đầu bằng một trạng thái tĩnh rồi sau đó biến động như Muối của rừng,
Giọt máu thì cách mở đầu truyện của Nguyễn Minh Châu lại bằng những sự kiện
hãi hùng như một phép đóng chặt vào suy nghĩ của bạn đọc cái ấn tượng về câu
chuyện khủng khiếp cuả lão Khúng. Từ đó, chiều sâu triết lí toàn bộ câu chuyện
được khơi mở theo bước chân, những giấc mơ- câu chuyện về kiếp Người- Bò
trong xã hội thời hiện đại.
Vũ điệu địa ngục của Võ Thị Hảo được kết cấu với hai lớp truyện. Lớp thứ
nhất là câu chuyện của nhân vật “tôi”- người thanh niên kể về mối quan hệ giữa
anh và Thùy Châu (trong đó nhân vật tôi vô cùng đau đớn, sững sờ trước cái chết
cuả Châu). Lớp truyện thứ hai thuật về lá thư Châu gửi cho mẹ cũng như những
sẻ chia của cô về cuộc sống buồn tủi và nguyên nhân tại sao tìm đến cái chết.
Đây cũng chính là thủ pháp Nguyễn Thị Thu Huệ kiến tạo Hậu thiên đường.
Phần thứ nhất cuả truyện là lời kể của người mẹ về cuộc sống của mình với cô
con gái mười sáu tuổi. Ở đó, người con gái hiện lên đầy ngây thơ, trong trẻo với
“thiên đường” mà cô bé tạo ra- tình yêu bồng bột, non nớt và dại khờ. Phần thứ
hai cũng chính là hạt nhân của văn bản là những trang nhật kí đẫm nước mắt của
người con gái. Hai lớp truyện đan cài, lí giải sự vênh lệch trong quan điểm, tư
134
tưởng và cách suy nghĩ cuả hai mẹ con. Từ đó, câu chuyện hướng tới phản ánh
hiện tượng sống rất phổ biến trong xã hội hiện nay: sự chênh lệch, trong lối sống
cuả những thành viên trong gia đình hiện đại là tiền đề cho những mất mát, rạn
nứt, bi kịch gia đình.
Truyện của Nguyễn Ngọc Tư sử dụng chủ yếu kiểu truyện lồng trong
truyện. Điều này thể hiện rõ nhất qua tập truyện Cánh đồng bất tận. Chúng tôi
xin lấy chính tác phẩm được đặt tên cho tập truyện làm minh chứng. Cánh
đồng bất tận có thế mạnh như một tiểu thuyết. Tác phẩm có sự tồn tại của ba
cấu trúc tự sự song song: cấu trúc trật tự nhân quả, cấu trúc theo trật tự thời
gian tuyến tính và cấu trúc theo dòng chảy tâm lý nhân vật. Truyện song hành
hai hệ thống cốt truyện là cốt truyện sự kiện và cốt truyện tâm lý. Hai cốt
truyện này đan xen mang đến cho tác phẩm tính chất của một kết cấu đa tầng.
Truyện có kỹ thuật phối hợp độ căng chùng trong tiết tấu nhịp điệu- một đặc
điểm của tiểu thuyết- được Nguyễn Ngọc Tư vận dụng đến tối đa khiến cho
người đọc khi đọc tác phẩm còn có cảm giác như đang được xem một cuốn
phim quay chậm, ở đó có sự chồng xếp giữa những ngoại cảnh và tâm trạng. Sự
điều tiết nhịp điệu (rythme) trần thuật, ở đây là sự hòa phối giữa nhịp điệu
trong tiểu thuyết: nhịp điệu chậm thể hiện “kiểu soi ngắm cuộc sống một cách
trầm tĩnh” (Lê Lưu Oanh) và nhịp điệu nhanh, đột ngột, thường đẩy đến cao
trào rồi kết thúc trong truyện ngắn đã làm cho tính chất tiểu thuyết trong truyện
ngắn này được thể hiện rõ.
Và… những hạt cát vẫn tìm nhau (Mạc Can) được sắp xếp dưới dạng nhiều
câu chuyện đặt liền kề nhau: cuộc hôn nhân của ông Huy và vợ, cuộc tình của ông
và cô họa sĩ, cuộc sống của bé Quyên, cuộc tình của ông nhạc công và cô ca sĩ, cuộc
sống của cô bé câm... Câu chuyện như một trò chơi ghép hình trước sự phối hợp
cuả nhiều người kể chuyện. Cấu trúc truyện ngắn truyền thống ở đây đã bị phá vỡ
hoàn toàn. Nhà văn đã lắp ghép một cách nghệ thuật nhiều mảng đời, nhiều số phận
đặt cạnh nhau, tưởng chứng rời rạc song lại có sự liên kết ngầm một cách chặt chẽ.
Sợi chỉ xuyên suốt mỗi câu chuyện là những niềm vui, ý nghĩa của cuộc sống mà
những “hạt cát” đang tìm kiếm và dành trọn cho nhau trong cuộc đời.
135
Khả năng biến đổi nòng cốt của truyện ngắn theo cấu trúc phức hợp- lồng
ghép như trên là hệ quả tất yếu của sự tương tác thể loại truyện ngắn và tiểu
thuyết. Trước 1986, hiện tượng này đã xuất hiện trong những trang viết của các
nhà văn có tầm trên văn đàn. Tinh thần thể dục, Thế là mợ nó đi Tây của Nguyễn
Công Hoan, Giọt máu của Khái Hưng, Giết chồng, báo chồng trả thù chồng của
Khái Hưng, Chí Phèo, Nửa đêm của Nam Cao… hay Vợ chồng A Phủ của Tô
Hoài đã mở rộng chiều chiều kích của truyện. Mỗi truyện có kết cấu gồm nhiều
phần, mục như những chương nhỏ trong cuốn tiểu thuyết thu nhỏ. Sau 1986,
phức hợp- lồng ghép đã trở thành cấu trúc phổ biến, đủ sức làm nên dạng truyện
ngắn giàu chất.
Trong trần thuật, các cây bút truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết thường sử
dụng rất nhiều các điểm nhìn khác nhau, luân phiên trong các ngôi kể. Ở một số
tác phẩm, nhà văn ẩn mình không tham gia vào câu chuyện mà chỉ thi thoảng
xuất hiện trên “sân khấu” để thuyết minh. Điều này tạo nên độ khách quan chân
thực cho câu chuyện được kể. Cũng có trường hợp câu chuyện bắt đầu bằng lời
trần thuật của tác giả (giới thiệu nhân vật, không gian truyện) sau đó ngôi kể
được dịch chuyển sang một nhân vật hoặc nhiều nhân vật. Chính điều này góp
phần tạo nên lối “phân mảnh”, rễ chùm cho kết cấu tác phẩm. Và hiệu quả bất
ngờ được tạo ra từ kĩ thuật này: trong một số truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
xuất hiện kiểu nhân vật “phi trung tâm”; quan niệm nhân vật chính, nhân vật
trung tâm có sự dịch chuyển; nhân vật thay nhau làm “trung tâm” gắn với mạch
truyện tương ứng (Tự sự 265 ngày- Hồ Anh Thái, Con gái thủy thần, Những
ngọn gió Hua Tát- Nguyễn Huy Thiệp…).
Lối tự sự đa điểm nhìn này đã được các nhà văn sử dụng những năm trước
1986 như: Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Mùa
trái cóc ở miền Nam, Chiếc thuyền ngoài xa); Nguyễn Khải (Chuyện tình của
mỗi người, Một người Hà Nội); Ma Văn Kháng (Nghệ sĩ múa)… Những cái
“tôi” đó không bao giờ đứng yên, nó luôn di động, luôn tư duy để thực hiện hai
nhiệm vụ nhận thức và tự ý thức. Điều này tạo nên hình thức kể- suy ngẫm; kể-
tự ý thức”; kể- đối thoại.
136
Đến với truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết sau 1986, trần thuật đa điểm nhìn
vẫn được các nhà văn lão thành ưa dùng. Ngoài ra, người đọc cũng dễ dàng nhận
ra lối trần thuật này qua nhiều cây bút khác như Tô Hải Vân (Nhạc công ống
nước), Nguyễn Thế Hoàng Linh (Xe tập lái), Trương Quang (Hai con đường),
Phạm Thị Ngọc Liên (Người đàn ông với cái đuôi hình thuổng), Phạm Duy
Nghĩa (Gió xanh)...
Thiết nghĩ, chính thủ pháp lồng ghép đã tạo nên sự dài hơi, mở rộng khuôn
khổ cho truyện ngắn, phá vỡ không gian chật chội thường có ở một truyện ngắn-
“tự sự cỡ nhỏ”, đưa truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết trở thành thể loại dân chủ
(chạm gần biên độ của tiểu thuyết). Trên thực tế, cách kể chuyện này đã, đang và
chắc chắn vẫn chiếm ưu thế trong truyện ngắn. Nó là một minh chứng khẳng
định sự thành công và tính hiện đại cuả truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986.
4.2.4. Sự đan cài nhiều lớp ngôn ngữ, kiểu cú pháp
Trong truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết giai đoạn trước Cách mạng, chúng
ta đã thấy lớp ngôn ngữ đời sống được sử dụng khá phóng khoáng trên các trang
văn của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan hay Vũ Trọng Phụng. Sau thời kì đổi
mới, với cách tiếp cận và tiếp nhận một hiện thực đa diện đa chiều, yêu cầu phản
ánh nhân vật đa tuyến buộc các nhà văn phải phát huy phong cách đa ngôn ngữ.
Trong đó, thứ ngôn ngữ lem luốc, bụi bặm đời thường được coi như một chất
liệu mới cuả nghệ thuật. Nó làm nên sự mới mẻ về ngôn ngữ của truyện ngắn
giàu chất tiểu thuyết.
Ngay từ những năm cuối của thập niên 80, Nguyễn Huy Thiệp đã “thức
nhọn giác quan” bạn đọc bởi thứ ngôn ngữ cất lên từ cuộc sống đời thường,
không đẽo gọt, không trau chuốt, giữ nguyên vẹn hơi thở của cuộc sống, mang
cái tươi rói của cuộc đời vào trang văn. Tuy nhiên, Nguyễn Huy Thiệp không
phải hiện tượng duy nhất trên văn đàn có phong cách ngôn ngữ như thế. Tiếp
theo ông, ngôn ngữ trong các truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, Lê Minh
Khuê, Hồ Anh Thái, Hạo Nguyên… cũng tạo nên dòng chảy phong cách ngôn
ngữ như vậy.
137
Nhân vật Y trong Kỉ nguyên giếng (Hạo Nguyên) đã giãi bày suy nghĩ của
mình về các danh sĩ khi hắn bị rơi xuống giếng: “Y nhếch mép. Chính các bức
tranh mới làm nên danh họa. Khi Picasso hay Dali hay Klimt chết, nhân loại
không khóc thương cho bọn họ, mà khóc thương cho những bức tranh chưa được
họ tạo ra, những sinh linh huyền diệu chưa chào đời đã chết ngay trong bào thai
vì con mẹ khốn nạn của nó không chịu sống để sinh đẻ nữa” [68; 9]. Và đây là
lời con lợn nói chuyện với Y: “Và chúng ta, tất thảy, đều ngu như nhau, u mê như
nhau. Loài người các cậu thường nói là “ngu như lợn” ấy mà. À, mà sao các cậu
lại nghĩ ra được cái thành ngữ ngu xuẩn như thế nhỉ?” [68; 14-15]. Bằng lối nói
trực diện, không cần rào trước đón sau, ngôn ngữ đời sống cứ như vậy tự nhiên
hiện diện, nhảy múa đầy khiêu khích trên các trang văn. Đôi khi thô ráp, sần sùi.
Nhưng có giá trị, cuộn cuộc sống vào văn chương. Đây là lời của một bà chủ bán
nhà (Nhà trong ngõ hẻm- Ma Văn Kháng): “Anh định hỏi con Huyền chứ gì? Có
khi lại thằng bỏ mẹ nào đó rủ đi Vũng Tàu, Nha Trang đú đởn rồi cũng nên” [68;
80]. Nhưng đó chưa phải là lời chát chúa nhất! Bà và ngôn ngữ của mụ Na Nông
này cũng chưa thấm vào đâu trong cái ngõ hẻm. Cuộc nổi xung của ngõ hẻm mới
thực sự phô bày đầy đủ sự gớm ghiếc, kệch cỡm của người cũng như thế giới
ngôn từ. Ngôn ngữ của cả cộng đồng ngõ hẻm ấy bật tung trên trang giấy của Ma
Văn Kháng: “Người đàn bà tên Tín vằng tay, tròng mắt đỏ đòng đọc:
“- Xấu hổ lấy rổ mà che. Chẳng việc đ. gì mà xấu hổ cả. Cô đừng có bênh
nó. Tôi là vợ nó, tôi đòi hỏi nó phải làm đủ nghĩa vụ với tôi. Lấy cớ đái tháo
thường thoái thác… Đái tháo đường gì mà đi cave về là lần mò đến, úp mặt vào
bẹn con đĩ Tý Ngoan ấy. Úi giời ôi…”.
Và đây là tiếng chửi của Tý Ngoan: “Có đây. Có ngay đây. Tao là con cave
Tý Ngoan đây. Đúng là tao đã lừa ba thằng Tây dại gái bằng vốn tự có đấy.
Nhưng nói cho chúng bay biết, đó là vốn tự có của tao, chứ đ.phải của ông bà
ông vải chúng bay nhé. Nào có giỏi thì nói thẳng vào mặt tao đây này, chứ đừng
có chó cắn trộm phía sau nhé”… [68; 84]. Cứ như vậy “ngõ hẻm, những gì bị
che phủ cuối cùng đã bị phơi bày. Ngõ hẻm, một hiện thực dị hợm, thô tục, suy
đồi. Nơi cái hỗn độn bán khai ngự trị” [68; 90].
138
Đọc Con bụi, độc giả không thể quên được tiếng chửi của Lan khi bị Tâm
phụ bạc, rủ Chắt bỏ trốn: “Lan ra ngoài sân thắp ba nén hương trên đống lốp
rách rồi bắt đầu réo:
- Cha mẹ đẻ con đĩ rày đĩ rạc. Mày đi đánh đĩ làm tiền ở đâu mò về xóm này,
làm hại chồng tao, rủ rê chồng tao bỏ bốn đứa con đi sống đường sống chợ. Tổ
tông mày là quân giết người. Mẹ mày là đồ lộn chồng trốn chúa mới đẻ ra mày.
Chồng tao nó là thằng chó dái phải ngây phải dại mới ăn phải bùa mày, làm con
tiền loãng khí không đẻ đái được” [8; 33]. Đó là cách Lan “hát” để trả thù. Tiếng
“hát” cất lên khản đặc với lời nguyền rủa: “Bố con lộn chồng trốn chúa, mày ra
sống chết chìm, lên rừng bị hổ vồ”. Và bên kia sân, người chồng hờ của Chắt đang
quằn quại dưới đất như con giun bị xéo. “Cái thân méo mó giãy giụa, mồm cạp đất
trèo trẹo, Sính dướn người lên, tay giơ mãi về phía tiếng rủa xả vừa dứt, những
ngón tay vàng như sáp và khô máu” [8; 33].
Ngôn ngữ vỉa hè, ngôn ngữ đường phố, lối phát ngôn trần trụi, thậm chí
những lời nói thể hiện quan điểm ngược đời, tư duy ngược với những giá trị
hằng có cũng là điều không hiếm gặp trong truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết sau
1986. Nhân vật là người Hà Nội, phải nghe những lời không hay, trong bụng vô
cùng khó chịu nhưng không nghe không được, bởi lúc nào nó cũng bên tai. Nho
từng bảo với Lương: “Ông bà già mình tiểu tư sản sính chữ, đặt tên nghĩa là nho
nhã. Khỉ thật, đến đời mình ăn tục nói phét, hóa ra thành nho xanh nho đỏ.
Nhưng mà anh nói thật, làm gì còn cái gọi là người Hà Nội, có lão nhà văn đã
bảo chỉ có khái niệm người ở Hà Nội. Nó nói đúng đấy. Anh có thằng bạn nhà
đúng là ba đời Hà Nội, nhưng cụ nó làm bốc vác ở chợ Đồng Xuân, nó giờ là
thằng xe ôm, con nó bỏ học ở nhà buôn bán hàng Quảng Châu. Tinh hoa chó gì”
(Bỉ sắc tư phong, Nguyễn Trương Quý).
Ngôn ngữ đời thường được gia tăng, kích đẩy trong truyện ngắn giàu chất tiểu
thuyết không chỉ giới hạn trong ngôn ngữ của thế giới thực, nó còn mở rộng sang cả
ngôn ngữ tâm linh, ngôn ngữ của cõi âm. Con ma trong hội xô xe cuả Phạm Duy
Nghĩa là lời của những con ma, của cả một hội vong. Lời nói chân thật, có cay cú,
hằn học, khinh bỉ… nhất quyết đòi nợ, trả thù, nón nợ nhân gian: “Tao đã nói rồi,
139
nếu chỉ như mọi chuyến xe khác thì tha. Nhưng lần này chính thằng cháu đích tôn
của lão ngồi trên xe ấy. Nợ đã đến lúc phải trả. Đây là miếng đòn thù”; “chính thằng
đấy phụ trách xây cầu Phu Luông. Xây lay lắt từ năm ngoái đến nay mới được một
nhịp, mấy tháng rồi vẫn chỉ có ba mố cầu trơ trọi trên sông. Bọn khốn nạn ăn cả sắt
thép xi măng nên tiến độ thi công mới chậm như thế”; “Mẹ kiếp, gần đây có trại
tâm thần hay sao mà thả ra lắm thằng rồ thế không biết”; “quan chức thằng nào
cũng tham sống sợ chết” (Con ma trong hội xô xe, Phạm Duy Nghĩa).
Bên cạnh ngôn ngữ mang đậm chất đời sống, ngôn ngữ thời đại công nghệ
thông tin, ngôn ngữ thương mại cũng được sử dụng khá phổ biến. Chẳng hạn:
mystery, pờ rồ, teabreak, mảng touchable, vùng cấm nontouchable (Bánh Tiramisu,
Phạm Thị Thanh Mai); “cát xê”, “cao ốc”, “máy tính”, “nối mạng”, “thư điện tử”
(Lắp ghép hạnh phúc, Lý Lan); “chiến sĩ thông tin 2W”, “K82”, đỉnh Z4” (Âm
thanh của kí ức, Doãn Dũng)… Nhiều người cho rằng, việc sử dụng ngôn ngữ đời
sống, ngôn ngữ của thời đại công nghệ thông tin là sự lạm dụng ngôn ngữ, làm mất
đi vẻ đẹp văn chương của tác phẩm văn học, trong đó có truyện ngắn. Nhưng cũng
cần thấy rằng để gột tả, bóc trần hiện thực đời sống, nhà văn không thể theo lối mòn
xưa “tầm chương trích cú”, việc đưa ngôn ngữ đời sống, thậm chí thô tục, lấm láp,
ngôn ngữ thời @ … không phải sự hạ thấp ngôn ngữ văn chương mà nó khẳng định
một điều: người nghệ sĩ đã đủ bản lĩnh mang cả thế giới vào truyện ngắn. Hơn thế,
việc sử dụng thứ ngôn ngữ mang đầy nhựa sống đó lại đem lại hiệu quả nghệ thuật
độc đáo và hấp dẫn.
Cùng với việc sử dụng gia tăng ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ truyện ngắn giàu
chất tiểu thuyết đã linh động hơn trong việc sử dụng cấu trúc cú pháp. Bên cạnh
những cú pháp thường thấy, dạng truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết có sự phá cách,
thay đổi cấu trúc cú pháp, ngữ đoạn.
Để tái hiện cuộc sống phức tạp, ngổn ngang của cuộc sống hiện đại, một số
nhà văn có xu hướng nới rộng cú pháp. Nhiều câu văn dài được sắp xếp liền kề, hết
mạch này đến mạch khác. Kiểu câu văn này là một sự đắt giá khi Nguyễn Ngọc Tư
sử dụng để làm nổi bật cuộc đời dài dằng dặc và nỗi buồn lê thê của những kiếp
140
người trôi dạt, kiếm miếng cơm manh áo từ cái nghề lặn lội, nuôi vịt chạy đồng:
“Cha giao bầy vịt cho hai đứa tôi, lúc rảnh ngồi gọt đẽo những cán dao, tấm
thớt hay lẳng lặng vác cần câu đi câu cá, vừa bán được tiền vừa khỏi phải nhìn
những đứa con của một bà mẹ bạc lòng… Có lần, đi đò trên sông, thằng Điền
giả đò té chìm nghỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi giật mình
hoảng hốt, dợm lao xuống nước, nhưng rồi cha điềm nhiên ngồi lại, tiếp tục gọt
đẽo, chắc nhớ ra rằng thằng Điền đã lặn lội nước sông từ năm bốn tuổi, sức
mấy mà chết trôi” [87; 183]. Trong Thuyền rồng và mĩ nhân, nhà văn Khuất
Quang Thụy kể lại tâm trạng cuả Hoàng khi mua được ngôi nhà ưng ý bằng ba
câu văn dài liên tiếp: “Hoàng tự cho mình là người may mắn khi kịp mua được
hơn bốn chục mét vuông đất trong một ngõ nhỏ thuộc một làng cổ ven sông Tô
Lịch trước khi Hà Nội lên cơn sốt đất. Ngôi làng này đã được đổi thành
phường, tên là phường Yên Hòa, nhưng cư dân trong làng vẫn thích gọi nơi cư
ngụ của mình bằng cái tên xưa cũ là làng Cót. Phường Yên Hòa có tới hơn sáu
chục tổ dân phố, được đánh theo số thứ tự, nhưng người dân trong cái ngõ mà
Hoàng mới nhập cư vẫn tự gọi con ngõ của mình là con Giếng” [87; 107]. Và
những hạt cát vẫn tìm nhau (Mạc Can) diễn tả cảnh hối hả trước tín hiệu đèn
giao thông: “Dòng xe như nêm cối hối hả dồn thúc, bỗng tất cả dừng lại chờ ở
cột báo đèn đỏ chói, rồi khi chưa qua tín hiệu xanh dòng xe đã giành đường
cuốn về phía trước, ngang qua ngược lại khiến cát bụi dưới những bánh xe bị
trớn gió lùa đi, dời đổi không yên” [61; 360].
Đối ngược với những câu dài lê thê là xu hướng viết câu ngắn gọn, tỉnh
lược thành phần nhằm diễn tả nhanh, gọn, liên tiếp các sự việc. Đây là một cuộc
đối thoại của những đứa trẻ con phạm nhân trong trại giam, nơi con người lầm
lỗi, đầy rẫy những vụ án thương tâm (Mắt trẻ thơ- Nam Ninh):
- “Bao nhiêu tuổi rồi?
- Cháu ba hai tuổi ạ?
- Tội gì?
- Trộm cướp ạ” [71; 118].
141
Đây là cách mở đầu truyện Si sẽ lại xanh của Văn Thành Lê:
“Xong.
Vậy là xong.
Lần này xong thật chứ chẳng phải đùa”.
Sau ba câu rút gọn là một loạt các câu đặc biệt: “Nháo nhác. Giật mình.
Luẩn quẩn. Bờ phờ. Lúng túng. Và còn hơn thế nữa” [67; 603].
Đoạn 2 của văn bản với khởi đầu:
“Lá si ngả vàng.
Và rụng.
Rụng lần lượt.
Rụng nhẹ nhàng.
Rụng tơi tả.
Rụng cho tới khi trơ trụi”.
Đoạn thứ tư, sau những lần cây si chết hụt, nó được nâng niu, và được xếp
vào hạng di tích cấp tỉnh và cuộc hội thảo được diễn ra. Tác giả ghi lại tinh thần
của cuộc tọa đàm thời hiện đại, thâu tóm toàn bộ quy trình cho tới không khí
bằng tám câu đơn đặc biệt: “Kể lể. Tỉ tê. Tổng kết. Và ra kí nhận phong bì. Nhậu
nhẹt tưng bừng. Cảm ơn ríu rít. Vâng. Xin cảm ơn”. Nhưng rồi sự việc bất ngờ;
cây si chết bắt đắc kì tử. Khi chiếc lá si cuối cùng trên cây thả mình nhẹ vào
không khí thì cuộc khảo cứu cũng bắt đầu. Đây là bộ mặt của các nhà nghiên
cứu: “Mặt nhăn nhó. Mặt căng thẳng. Mặt xám xịt. Mặt đầy lông tơ”. Và đây là
tinh thần trao đổi, ngâm cứu, truy giải: “Lúc nha lúc nhúc. Hỏi hỏi. Nói nói. Ấp a
ấp úng. Lúng la lúng liếng. Trơn mép dẻo môi. Khoa chân múa tay. Trầm tư suy
tưởng. Đủ sắc thái biểu cảm và toan tính” [67; 608]. Nhưng rồi kết cục cây xi
được đốn xuống, thân mục ruỗng.
Đọc truyện ngắn Chuyến than cuối, người đọc được thưởng thức một bức
tranh cú pháp mới lạ, độc đáo. Nguyễn Thị Việt Hà đã sử dụng tất thảy gần ba
mươi câu đơn đặc biệt trong truyện. Khi là tiếng chửi: “Má! Tưởng trót lọt”,
“Má! Khổ như con chó”, “Câm họng. Vô làm đi, nhiều chuyện”. Khi là tiếng
quát: “Để đó tao”, “Câm họng. Vô làm đi, nhiều chuyện”, “Má! Chết đi”,
“Thôi. Làm đi”, “Rút’. Khi diễn tả nỗi niềm: “Mặn. Chu choa xót”, “Thì buồn,
142
ăn hoài”. Khi diễn tả trạng thái, tính chất: “Hôi hám. Lết trên đường”; “Rợn.
Ngứa ran”, “Loang loáng ánh đèn”, “Đêm đen”…
Phòng chờ của Thụy Anh sử dụng liên hoàn câu đơn đặc biệt: “Điểm danh!
Một, hai, ba…”; “Đêm”; “Ồn ào. Xôn xao. Nức nở. Rồi cũng lặng”; “Cảnh giác.
Chờ đợi”; “Trên mặt tủ. Trong tủ. Một, hai, ba…”; “Rồi tiền, rồi cạnh tranh… Vô
nghĩa tất”; “Đủ số. Thiếu số. Áo gió. Áo phông con rết. Con nhím. Áo pilot. Áo nữ
hoàng…”; “Chết trong tù. Bệnh lao. Hai mống” [70; 400-419].
Đôi mắt Đông Hoàng (Uông Triều) sử dụng 113 câu rút gọn, câu đơn đặc biệt
dưới 8 con chữ dồn thúc trên từng trang văn. Đây là đoạn văn miêu tả cuộc truy xét
cuả những tên lính Nhật và cuộc đảo chính, lật đổ chính quyền Nhật của những
người lính Việt: “Katsu rút gươm ra khỏi vỏ. Người phiên dịch cũng là một chiến
binh. Phải làm trước khi quá muộn. Một cú đá làm bay cái thúng con. Bầu rượu vỡ
tan, mùi rượu bốc lên sực nức. Những sợi rơm khô đã vò nhàu, vàng nhạt; nửa tàu
lá chuối non lót ở đáy thúng xoay ngang. Lật đáy thúng xuống. Không có gì cả. Ánh
mắt người đàn bà lạnh, u buồn.
Katsu dừng ở mắt.
Bất cần.
Ngươi hãy giết ta đi.
Viên sĩ quan phiên dịch túm lấy cổ áo người đàn bà. Hai đôi mắt Á
Đông nhìn nhau trừng trừng. Hai thái cực. Dọa dẫm như lửa đốt. Coi thường
đến bất cần” [60; 522].
Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết cuả Nguyễn Huy Thiệp là một bức tranh
mới lạ về kiểu câu. Ngoài kiểu câu văn truyền thống với đầy đủ các thành phần
dùng để truần thuật, kể, bày tỏ cảm xúc, nghi hoặc… nhà văn gia tăng kiểu cú pháp
câu đơn, câu rút gọn. Các tiếng trong câu được tút gọn tới mức cực đại, thông báo
nhanh thông tin, và được dùng như phép điệp trong nhiều văn bản. Chẳng hạn:
“Lão Kiền chửi”, “Lão Kiền lẩm bẩm”, “Đoài bảo”, “Lão Kiền bảo”, “Khảm rên
rỉ”, “Khảm bảo”, “Khiêm hỏi’, “Sinh bảo’, “Cấn bảo” (Không có vua); “Chị Hiên
bảo”, “Bố Lâm hỏi”, “Cái Khanh trong bếp hỏi’, “Bà Lâm bảo”, “Tôi nói”, “Mẹ
Lâm bảo”, “Anh Triệu bảo”, “Ông Miêu bảo” (Những bài học nông thôn); “Tôi
143
hỏi”, “Con bé bảo tôi”, “Đô Thi bảo”, “Cô Phượng bảo” (Con gái thủy thần); “Đồ
ngoạn bảo”, “Ông già thích lắm, bảo”, “Chiểu bảo”, “Hàn Soạn bảo”, “Bà Cẩm
bảo”, “Phong bảo”, “Thiều Hoa bảo” (Giọt máu), “Bường bảo”, “Chị Bường bảo”,
“Tôi bảo” (Những người thợ xẻ), “Ánh bảo”, “Lân đáp”, “Lân bảo” (Kiếm sắc);
“Tôi bảo”, “Cha tôi bảo”, “Vợ tôi bảo”, “Cha tôi buồn”, “Cha tôi đăm chiêu”, “Cha
là chỉ huy” (Tướng về hưu)…
Quan sát cách viết của các nhà văn, chúng ta thấy: cấu trúc cú pháp của câu
văn đã và đang có sự điều biến linh hoạt. Câu văn không chỉ dùng để thông báo sự
việc mà còn có giá trị to lớn trong việc khơi gợi giá trị thẩm mĩ của người đọc. Có
những nhà văn đặc biệt ưa thích câu rút gọn, câu đơn đặc biệt mang tính thông tấn,
báo chí. Những câu văn trơ trọi ngôn từ mang tính thông tin, không thể hiện cảm
xúc chủ quan của người thể hiện. Ngược lại, có một số nhà văn dụng ý viết những
câu văn dài (câu phức, câu ghép) liên hoàn. Các câu văn tạo ra sự trùng điệp về cú
pháp, thể hiện sự ngưng đọng, trì trệ của cuộc sống. Các câu văn dài sóng đôi kết
hợp nghệ thuật miêu tả tâm lí đã trở thành kĩ thuật hữu hiệu khi làm nổi bật đời
sống bên trong trên hành trình trải nghiệm của nhân vật. Đây cũng là cơ sở làm lên
những dòng trần thuật đậm chất tiểu thuyết của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết.
4.2.5. Sự đa dạng về giọng điệu
Giọng điệu trong tác phẩm nghệ thuật thể hiện quan điểm lập trường, tư
tưởng, phong cách, tài năng cũng như sở trường ngôn ngữ, cảm hứng nghệ
thuật của người kể chuyện. Ngoài ra, giọng điệu là yếu tố cơ sở để nhận diện
tác phẩm ở dạng thức thể loại. Trước 1986, truyện ngắn thường đơn giọng còn
sau 1986, sự đa dạng về giọng điệu là điểm đáng chú ý của truyện ngắn giàu
chất tiểu thuyết.
Một trong những giọng điệu tiêu biểu của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
là giọng giễu nhại. Là truyện ngắn được nới rộng quy mô, dung lượng và biên độ
phản ánh; lấy cái căn cốt là cuộc sống và những vấn nạn xã hội là tiền đề và
cũng là cái đích để phản ánh, nên chính những truyện ngắn mang đậm chất tiểu
thuyết lại đã tạo nên giọng giễu nhại. Giọng điệu này chúng ta dễ dàng bắt gặp
qua lối viết sắc, lạnh của Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu
144
Huệ, Đoàn Lê, Bão Vũ, Hạo Nguyên… Nguyễn Thị Thu Huệ dùng giọng mỉa
mai khi mô tả về thế giới đàn ông- nguyên nhân cốt lõi gây ra những bất an, bi
kịch cho người phụ nữ (Hậu thiên đường); Võ Thị Hảo dùng điệu khinh bạc, dè
bỉu để nói về sự học (Vũ điệu địa ngục). Giọng châm biếm, giễu nhại sử dụng
nhằm phê phán những kẻ trọc phú, học đòi văn minh rởm, cậy tiền, cậy của (Mối
tình cỏ non, Ngôi nhà kiểu Pháp- Bão Vũ), giải thiêng người anh hùng, danh nhân
lịch sử (Hoang đường, Trầu têm cánh phượng, Ván bài tỷ điểm tử- Bão Vũ;
Tướng về hưu, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam- Nguyễn Huy Thiệp…). Tiếng cười
bật lên trong giọng điệu nhân vật (Dương Lễ, Việt Vương Câu Tiễn, tướng Thuấn,
Nguyễn Trãi, Đề Thám…) khi tức cười, khi cay đắng xót xa. Các danh nhân lịch
sử hiện diện trong truyện ngắn không còn là những mẫu hình lí tưởng (như trong
cái nhìn của nhân dân thuở trước). Các nhà văn hôm nay đưa họ trở về với cuộc
sống đời thường, khám phá mặt sau, mặt tối khuất lấp trong tâm hồn của họ. Cho
nên, đằng sau tiếng cười của các nhân vật lại là nỗi xót xa, cay đắng trước thời
buổi vàng thau, thật giả lẫn lộn, những giá trị đích thực bị đánh đồng với cái xấu
xa, gian xảo. Sử dụng ngôn ngữ khi hài hước, khi mỉa mai, thậm chí khinh bạc;
vận dụng cách nói đối lập tương phản giữa biểu hiện bên ngoài và bản chất của
đối tượng… là những kĩ thuật được các nhà văn ưa dùng. Giọng giễu nhại đập vỡ
những ảo tưởng, mơ hồ về xã hội, giúp con người sống thật hơn, thực hơn, lành
mạnh hơn trước cuộc đời.
Giọng triết lí là chất giọng nổi bật thứ hai trong truyện ngắn giàu chất tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986. Sử dụng những câu văn mang tính luận đề luôn nâng
tầm khái quát, sâu sắc của văn bản, tránh được sự dài dòng không cần thiết. Từ
cấp độ cấu trúc câu, kiểu giọng triết lí được thể hiện qua việc khẳng định hay
phủ định- để nhấn mạnh những vấn đề nhà văn muốn đối thoại với người đọc. Ý
kiến đó đưa ra trở thành chân lí. Nhà văn sử dụng khi luận bàn về ý nghĩa tồn tại
của con người, về từng loại người trong xã hội, về mối quan hệ giữa con người và
thời thế, cái ngẫu nhiên, may rủi, nghịch dị của đời người trong cuộc sống đương
đại… Các nhà văn lão thành có xu hướng nghiêng về những vấn đề thời thế, phẩm
chất, bản tính người khi bước ra khỏi chiến tranh, khi chạm tới vòng cơm áo gạo
145
tiền, danh vị… của thời Đổi mới. Còn các nhà văn trẻ nghiêng cái nhìn về cuộc
sống đời thường của lớp hậu sinh, lớn lên trong thời bình, trước guồng quay của
kim tiền, những giá trị cuộc sống bị mai một, đối nghịch với mong muốn, khát vọng
của họ. Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết là nơi phơi trải những uẩn khúc, khao
khát hay thất vọng về từng kiểu người, loại người trước hoàn cảnh… Chẳng hạn:
Võ Thị Xuân Hà triết lí về đàn bà (Sương mù trên thành phố), Nguyễn Thị Thu
Huệ luận bàn về đàn ông (Bảy ngày trong đời), Lý Lan bàn về bản chất của tình
yêu (Lắp ghép hạnh phúc)… Triết lí mà không khô khan, cứng nhắc. Trong một
số tác phẩm, giọng triết lí gắn với cách cắt nghĩa mới hay cấp thêm nghĩa cho
một khái niệm quen thuộc. Thậm chí nhiều triết lí cất lên, có màu sắc phi chính
thống mang đến những nghi ngờ hoặc đảo ngược lại những quan điểm hằng có
(Cánh đồng bất tận, Tướng về hưu, Hậu thiên đường, Bước qua lời nguyền, Linh
vật…). Đó là điều các nhà văn theo dạng thức truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
đã làm được trong truyện ngắn của mình. Bởi một điều thật giản dị: những triết
luận đó được cất lên từ những trải nghiệm mỗi đời người; từ vốn kiến thức sâu
rộng từ mỗi mảnh đời, mỗi mảnh đất hiện sinh, mỗi cảnh ngộ mà nhân vật đã và
đang sống… - tất cả đúc kết lại thành những lời văn sâu sắc, mang đậm sắc thái
nhân sinh. Giọng triết lí là hệ quả tất yếu của kiểu nhân vật trải nghiệm, triết luận
của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết.
Tuy nhiên, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết không chỉ có hai chất
giọng tiêu biểu trên. Trong sáng tác của mỗi nhà văn đã thể hiện tính đa
giọng. Không khí dân chủ, đổi mới của truyện ngắn thời kì này cho phép các
nhà văn sử dụng nhiều giọng điệu khác nhau để phản ánh đời sống cũng như
cung bậc tình cảm của con người.
Truyện ngắn Đoàn Lê chủ yếu khai thác “con người đa sự, con người đa
đoan”. Khi hướng tới cảm hứng phê phán, truyện thường cất lên với giọng điệu
hài hước, châm biếm, mỉa mai. Chẳng hạn A Tuorism xóm Chùa, nơi mọi giá trị
tốt đẹp đang bị mai một, tha hóa, xuống dốc thảm hại. Truyện kết lại bằng lời
bình hàm ngôn của tác giả trước đám tang cuả ngài đại tá về hưu: “Theo yêu cầu
của gia chủ, đám tang dừng lại một chút để quan khách lấy lại phong độ trước
146
ống kính của nhà quay phim. Biết bao ý nghĩa nếu máy quay ghi được hình ảnh
thân bằng cố hữu gần xa cùng chiếc quan tài rồng phượng, tất cả đi qua cái cổng
nổi tiếng A Tuorism xóm Chùa quê hương của chúng tôi”. Với lối trần thuật vừa
lạnh lùng, dửng dưng vừa mỉa mai, giễu nhại không khỏi gợi chúng ta nhớ tới lối
viết đầy kĩ xảo cuả bậc thầy trào lộng Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ. Bên cạnh
đó, khi hướng tới cảm hứng nhân văn, truyện cất lên với giọng trầm lắng, giàu suy
tư, chiêm nghiệm. Đoàn Lê luôn quan tâm đến thân phận con người, nhạy cảm với
những cảnh ngộ oan trái, éo le trong cuộc sống, xót xa trước thân phận người đàn
bà. Đây là một đoạn văn viết về họ: “Nào mấy ai quan tâm xem những người đàn
bà xóm liều làm nghề ngỗng gì. Họ nhặt rác hay đại loại những nghề tương tự, hẳn
vậy. Họ sống dai dẳng kiểu như cỏ dại, tầm gửi, chỉ cần bám hờ vào mảnh gỗ mục
cũng sống” (Hạt vừng). Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết của Nguyễn Thị Thu Huệ
luôn đa giọng, đôi khi hoàn toàn trái ngược. Lúc thâm trầm, triết lí khi gay gắt, bỏng
cháy, táo tợn, khi lại dịu dàng. Bùi Việt Thắng nhận xét: “Đọc Thu Huệ thấy rõ một
ngòi bút hoạt trong giọng điệu, lúc bạo liệt, lúc thật thà, lúc thâm trầm triết lí, có lúc
lại đỏng đảnh, lại có lúc dịu dàng đến bất ngờ”. Phạm Thị Hoài đến với trang văn
bằng bản hợp âm đa dạng. Giễu nhại, mỉa mai là giọng chủ âm khi nhà văn đi vào
đời sống với cái nhìn “lột trần” đối tượng (Hành trình cuả những con số, Vệt son,
Truyện thày AK và kẻ sĩ Hà Thành). Giọng trữ tình, xót thương được cất lên khi nhà
văn thổ lộ cảm xúc và tư tưởng cuả mình (Người đàn bà với hai con chó nhỏ).
Giọng tra vấn, triết lí khi chị tìm kiếm cái thật cuả cuộc đời, gạt bỏ những cái hào
nhoáng, tìm kiếm chân giá trị cuộc sống (Tiệm may Sài Gòn, Một chuyện cổ điển).
Chính điều đó khiến văn chị trở thành một hợp âm lạ lùng, cuốn hút và cũng đầy
thử thách với độc giả.
Tóm lại, mỗi nhà văn có một cách thể hiện riêng biệt, lưu giấu cái nhìn của
những người đã kinh qua những thăng trầm của thời đại, lịch sử, những dấu mốc
trọng đại của dân tộc. Lịch sử dân tộc, thời đại với những biến động chung, riêng
khi mạnh mẽ, khi âm thầm…, song tất cả đã được hội tủ đầy đủ cung bậc, âm thanh
trên dạng truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
147
Tiểu kết chương 4
Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 là dạng truyện đạt
đến độ chín cả về nội dung và nghệ thuật trong khoảng ba mươi năm này. Các
nhà văn được vinh danh là những “cây bút vàng”, “cây bút gạo cội”, những
nhà văn đạt được giải thưởng văn học trong, ngoài nước, thậm chí trên thế
giới đều ghi dấu trong các sáng tác thuộc dạng truyện này. Kế thừa, tiếp thu
truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết trong và ngoài nước, sự tương tác giữa hai
thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, sự vận động nội tại của chính thể loại đã
đưa truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 đạt đến với những
tầm vóc mới. Là dạng thể loại phản ánh hiện thực đa chiều, truyện ngắn giàu
chất tiểu thuyết đã mở rộng “vùng tiếp xúc tối đa” với một hiện thực đang vận
động, không hoàn kết qua dung lượng được khuyếch đại tối đa trong sự cho
phép của dung lượng thể loại. Thậm chí có những truyện ngắn có sức dung
chứa thể hiện tầm tư tưởng như bất cứ một tác phẩm tiểu thuyết thực thụ nào.
Khác với truyện ngắn truyền thống, truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết nổi bật
với kiểu nhân vật trải nghiệm, triết luận. Các nhà văn đã rất thành công khi
khắc họa hình ảnh con người biến đổi, trưởng thành nhờ cuộc đời. Nhân vật
dần dần khước từ tính cách đơn diện, nhất phiến truyền thống, thay vào đó là
nhân vật lưỡng diện, đa diện về tính cách và triết luận. Cấu trúc phức hợp, sự
đan cài nhiều lớp ngôn ngữ, nhiều kiểu cú pháp và sử dụng giọng điệu đa
thanh cũng là những đặc điểm nổi bật, tiêu biểu của truyện ngắn giàu chất tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986.
148
KẾT LUẬN
1. Là một “lát cắt của cuộc sống”, truyện ngắn luôn tuân thủ nhưng quy
định khá chặt chẽ về đặc trưng thể loại. Tuy nhiên, đây là một thể loại năng
động, nhạy bén trước sự thay đổi cuả thời cuộc. Sau 1986, truyện ngắn Việt Nam
vận động, rạn vỡ, biến đổi, phát triển ngoạn mục, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của
độc giả và của chính người cầm bút. Sự năng động của thể loại thể hiện rất rõ
thông qua sự giao thoa của truyện ngắn với các thể loại khác để làm mới mình.
Các dạng truyện ngắn độc đáo, hấp dẫn của truyện ngắn trong những năm qua đã
cho thấy sức sống, khát vọng đổi mới cũng như là thành tựu của thể loại này.
2. Ba dạng cơ bản, tiêu biểu làm nên bức tranh truyện ngắn Việt Nam sau
1986 bao gồm: truyện cực ngắn, truyện ngắn giàu chất trữ tình và truyện ngắn giàu
chất tiểu thuyết. Mỗi dạng có những đặc trưng riêng, điều này xuất phát từ cấu
trúc, chức năng, nhiệm vụ mà mỗi dạng truyện ngắn hướng tới.
Truyện cực ngắn đã trở thành dạng quan trọng thứ nhất làm nên diện mạo
của truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Dạng truyện cực ngắn gắn liền với thời đại
công nghệ số, phù hợp nhịp sống và đặc điểm tâm lí, nhu cầu tiếp nhận cuả con
người thời hiện đại. Sự rút gọn tối đa về dung lượng, giản lược cốt truyện, giản
lược tối đa nhân vật, chắt lọc chi tiết đã đưa truyện cực ngắn trở thành tác phẩm
tự sự “siêu nhỏ”. Trên hành trình phát triển, truyện cực ngắn đã có sự phân tách
trở thành những “tiểu loại” độc đáo và hấp dẫn. Trong số đó, truyện cực ngắn
giàu chất ngụ ngôn và truyện cực ngắn giàu chất kịch là hai chi lưu có dòng chảy
mạnh mẽ nhất. Ngoài những đặc điểm song trùng của truyện cực ngắn, hai dạng
trên có những nét riêng biệt, độc đáo.
Truyện ngắn giàu chất trữ tình là dạng cơ bản thứ hai của truyện ngắn
Việt Nam sau 1986. Kế thừa những đặc trưng của truyện ngắn giàu chất trữ tình
trước 1986, dạng truyện nổi bật với các đặc trưng: xây dựng cốt truyện trữ tình,
lựa chọn tình huống tâm trạng để phơi trải những nỗi niềm nhân thế; kiểu nhân
vật nội tâm, ngôn ngữ đậm chất thơ, giọng văn khi buồn thương trầm tư, khi nhẹ
149
nhàng như lời thủ thỉ tâm tình, sẻ chia, thương cảm. Cốt lõi của truyện ngắn giàu
chất trữ tình là những câu chuyện của tâm hồn, của cảm xúc được thể hiện qua
phương thức “chủ quan hóa’, “nội cảm hóa”.
Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết mở ra một không gian đa chiều hướng
tới mở rộng dung chứa tối đa cho truyện ngắn. Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
hiện diện với hệ thống nhân vật đa dạng song khơi sâu hình ảnh“con người nếm
trải”, con người biến đổi, trưởng thành do va đập với cuộc đời- kiểu nhân vật trải
nghiệm, triết luận. Để làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của truyện, cấu trúc phức
hợp, sự đan cài nhiều lớp ngôn ngữ, kiểu cú pháp, đa dạng về giọng điệu được
vận dụng mang lại hiệu quả thẩm mĩ cao. Chính những ưu việt đó đã đưa truyện
ngắn giàu chất tiểu thuyết mở rộng vùng biên của mình, mỗi truyện là một cuốn
tiểu thuyết thu nhỏ. Làm nên sức vang của truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết là sự
cống hiến của rất nhiều thế hệ nhà văn, từ những cây gạo cội trong làng văn cho
tới những nhà văn trẻ cả tuổi đời lẫn tuổi nghề. Truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết
chắc chắn sẽ có khả năng sống mãi với thời gian, có giá trị vĩnh hằng.
3. Nhìn lại lộ trình cuả truyện ngắn Việt Nam sau 1986, truyện cực ngắn,
truyện ngắn giàu chất trữ tình; truyện ngắn giàu chất tiểu thuyết là ba dạng cơ
bản. Ba dạng truyện đó là góp phần khẳng định sự “năng động”, sáng tạo không
ngừng trên hành trình phát triển của truyện ngắn Việt Nam đương đại. Cả ba
dạng đã chứng minh sức sống thể loại, sức nặng nghệ thuật và triển vọng của nó.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cố gắng định danh, mô tả những dạng
truyện ngắn này. Trong thực tế còn phong phú, đa dạng và phức tạp hơn thế.
Chúng tôi hy vọng trong tương lai nếu còn được nghiên cứu, những dạng này sẽ
có những kiến giải mới mẻ hơn, sâu sắc hơn.
4. Thế kỉ XXI, với tốc độ phát triển của công nghệ số, có một vài dạng
truyện ngắn sẽ có tương lai. Sự hưởng ứng, đón nhận ngày càng cởi mở cuả độc
giả thời đại 4.0, chúng ta có thể hy vọng truyện cực ngắn có thể trở thành một
trong những dạng ngày càng phát triển trong thời đại số hóa toàn cầu này với vai
trò xung kích của mình.
150
5. Nhìn lại quá trình vận động, phát triển của truyện ngắn Việt Nam sau
1986, chúng tôi rút ra: quy luật của sự sáng tạo chính là luôn luôn vận động, biến
đổi và phát triển. Đổi mới truyện ngắn có thể là sự tiếp nối, kế thừa truyền thống
hoặc đổi mới toàn diện để phát triển. Các nhà văn Việt Nam sau 1986 luôn trăn
trở, nỗ lực cố gắng và thời gian đã ghi nhận điều đó. Khát vọng vươn tới tính
hiện đại, hội nhập với truyện ngắn thế giới ở tư duy thể loại- đó là thành tựu của
truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn giữ vai trò
quan trọng trong văn xuôi Việt Nam. Nó hoàn thành sứ mệnh là mắt xích chắc
chắn và đầy tin cậy kết nối những thời đại, những thể kỉ văn học.
151
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Chu Thị Huyền (2009), Bùi Hiển văn và đời, Trích Tuyển tập truyện
ngắn Bùi Hiển, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr 456.
2. Chu Thị Huyền (2014), Truyện ngắn Bùi Hiển- cái nhìn trìu mến và tin
yêu với con người, Tạp chí Khoa học liên ngành, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội, (6), tr 56-62.
3. Chu Thị Huyền (2018), Khuynh hướng truyện ngắn- tiểu thuyết hóa
trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam sau 1986, Tạp chí Khoa học
xã hội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội, (63), tr 27-34.
4. Chu Thị Huyền (2018), Sức trẻ của khuynh hướng truyện cực ngắn sau
1986, Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, (284), 9/2018, tr 6-11.
5. Chu Thị Huyền (2018), Loại hình truyện ngắn kì ảo trong văn xuôi Việt
Nam từ sau 1986, Tạp chí của Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật
Trung ương, số 26/2018, tr 80-83.
152
TÁC PHẨM KHẢO SÁT
1. Y Ban (1995), Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm, tập truyện ngắn,
Nxb Phụ nữ Việt Nam, Hà Nội.
2. Y Ban (2006), I am đàn bà, tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, 2019, Hà Nội.
3. Nguyễn Thanh Bình (tuyển chọn, 2013), Truyện ngắn hay 2013, Nxb
Văn học, Hà Nội.
4. Trần Thanh Cảnh (2015), Kì nhân làng Ngọc, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
5. Nguyễn Minh Châu (2018), Nguyễn Minh Châu tuyển tập, Nxb Văn
học, Hà Nội.
6. Nhật Chiêu (2011), Lời tiên tri của giọt sương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
7. Đỗ Chu (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Trần Chiến (2015), Truyện ngắn Trần Chiến, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
9. Đỗ Hoàng Diệu (2005), Bóng đè, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
10. Đỗ Hoàng Diệu (2010), Những người mang đôi mắt buồn, tập truyện
ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
11. Thùy Dương (2003), Truyện ngắn Thùy Dương, Nxb Văn học, Hà Nội.
12. Lê Minh Hà (2002), Những giọt trầm, tập truyện ngắn, Nxb Quân đội
Nhân dân, Hà Nội.
13. Lê Minh Hà (2007), Cổ tích cho ngày mới, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
14. Phan Triều Hải (2018), Phan Triều Hải truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Võ Thị Hảo (2005), Góa phụ đen, tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
16. Võ Thị Hảo (2005), Hồn trinh nữ, tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
17. Võ Thị Hảo (2005), Người sót lại của rừng cười, tập truyện ngắn, Nxb
Phụ nữ, Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Thu Hiền (2006), 29 truyện rất ngắn, Nxb Quân đội Nhân
dân, Hà Nội.
153
19. Phạm Thị Hoài (1989), Tập truyện ngắn Phạm Thị Hoài, Nxb
Phú Khánh.
20. Phạm Thị Hoài (1995), Man Nương, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
21. Phạm Sông Hồng (1993), Vùng lặng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
22. Phạm Sông Hồng (1993), Tiếng đáy, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
23. Phạm Sông Hồng (2011), Truyện ngắn Phạm Sông Hồng, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Thu Huệ (1992), Cát đợi, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
25. Nguyễn Thị Thu Huệ (1994), Hậu thiên đường, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
26. Nguyễn Thị Thu Huệ (2006), 37 truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
27. Nguyễn Thị Thu Huệ (2012), Thành phố đi vắng, Nxb Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
28. Nguyễn Khải (2014), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
29. Ma Văn Kháng (1996), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
30. Lê Minh Khuê (2017), Một chiều xa thành phố, tập truyện ngắn, Nxb
Tác phẩm mới, Hà Nội.
31. Lê Minh Khuê (2017), Truyện ngắn Lê Minh Khuê, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
32. Nguyễn Quang Lập (2013), Hạnh phúc mong manh, Nxb Văn học, Hà Nội.
33. Nguyễn Quang Lập (2013), 49 cây cơm nguội, Nxb Văn học, Hà Nội.
34. Nguyễn Hữu Hồng Minh (2011), Ổ thiên đường, Nxb Văn học.
35. Sương Nguyệt Minh (2009), Dị hương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
36. Sương Nguyệt Minh (tuyển chọn, 2007), Truyện ngắn nữ đầu thế kỉ,
Nxb Văn học, Hà Nội.
37. Bảo Ninh (1987), Trại bảy chú lùn (tập truyện), Nxb Hà Nội.
38. Bảo Ninh (2001), Ba một lẻ trích Tác phẩm chọn lọc, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
39. Bảo Ninh (2002), Truyện ngắn Bảo Ninh, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
154
40. Dạ Ngân (1997), Vòng tròn im lặng, tập truyện ngắn, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
41. Nhiều tác giả (1994), 40 truyện rất ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
42. Nhiều tác giả (1995), 45 truyện rất ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
43. Nhiều tác giả (1997), Tổng tập truyện ngắn năm 2000: Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, Nxb Văn học, Hà Nội.
44. Nhiều tác giả (2000), (Tuyển chọn) Truyện ngắn Việt Nam tập 1, Nxb
Hà Nội, Hà Nội.
45. Nhiều tác giả (2001), Truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
46. Nhiều tác giả (2002), Truyện ngắn bốn cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
47. Nhiều tác giả (2002), Truyện ngắn hay và đạt giải Tạp chí văn nghệ
Quân đội 2001-2002, Nxb Văn học, Hà Nội.
48. Nhiều tác giả (2003), Truyện ngắn hay 2003, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
49. Nhiều tác giả (2003), Truyện ngắn nữ chào thiên niên kỉ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
50. Nhiều tác giả (2003), Hồn hoa trở lại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
51. Nhiều tác giả (2005), Văn mới 2004-2005, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
52. Nhiều tác giả (2005), Truyện ngắn trẻ ba miền chọn lọc, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
53. Nhiều tác giả (2005), Văn mới 5 năm đầu thế kỉ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
54. Nhiều tác giả (2005), Hồn hoa bên tháp cổ, Nxb Hội nhà văn-
DONGA DC.
55. Nhiều tác giả (2006), 108 truyện cực ngắn, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Tạp
chí Thế giới mới, Hà Nội.
56. Nhiều tác giả (2006), Tổng tập truyện ngắn Việt Nam 1945-2005, Nxb
Công an Nhân dân, Hà Nội.
57. Nhiều tác giả (2007), Truyện ngắn nữ đầu thế kỉ 21, Nxb Văn học, Hà Nội.
58. Nhiều tác giả (2009), Truyện ngắn hay Bắc- Trung- Nam, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
155
59. Nhiều tác giả (2010), Truyện ngắn 10 năm đầu thế kỉ XXI, tập 1, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
60. Nhiều tác giả (2010), Truyện ngắn 10 năm đầu thế kỉ XXI, tập 2, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
61. Nhiều tác giả (2011), Truyện ngắn bảy cây bút nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
62. Nhiều tác giả (2013), Truyện ngắn hay 2013, Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Nhiều tác giả (2013), Truyện ngắn đầu tay của các cây bút trẻ, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
64. Nhiều tác giả (2014), Truyện cực ngắn đương đại Việt Nam, Nxb Văn
học, Hà Nội.
65. Nhiều tác giả (2014), Truyện ngắn nữ đặc sắc Việt Nam từ 1986 đến
nay, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
66. Nhiều tác giả (2015), Truyện mini đặc sắc, Nxb Văn học, Hà Nội.
67. Nhiều tác giả (2015), Văn mới 2011-2015, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
68. Nhiều tác giả (2016), Văn mới 2015-2016, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
69. Nhiều tác giả (2016), Truyện ngắn đặc sắc Việt Nam về lịch sử từ năm
1986 đến nay, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
70. Nhiều tác giả (2016), Tuyển tập truyện ngắn hay 2000- 2016, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
71. Nhiều tác giả (2017), Tuyển tập 60 năm Văn nghệ Quân đội, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
72. Cao Duy Sơn (2008), Ngôi nhà xưa bên suối, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
73. Cao Duy Sơn (2015), Cao Duy Sơn tác phẩm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
74. Lưu Minh Sơn (2002), Mưa sâm cầm, tập truyện ngắn, Nxb Văn học,
Hà Nội.
75. Hồ Anh Thái (2014), Mảnh vỡ của đàn ông, tập truyện ngắn, Nxb Trẻ,
Hồ Chí Minh.
156
76. Hồ Anh Thái (2014), Tiếng thở dài qua rừng kim tước, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
77. Hồ Anh Thái (2014), Tự sự 265 ngày, tập truyện ngắn, Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
78. Hồ Anh Thái (tuyển chọn, 2015), Văn mới 2014-2015, Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
79. Nguyễn Thị Minh Thái, Nguyễn Thị Hậu (2018), Ngắn và rất ngắn,
tập truyện, Nxb Văn hóa Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
80. Nguyễn Huy Thiệp (2007), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb
Đông A, Hà Nội.
81. Nguyễn Văn Thọ (2013), Sẫm Violet, Nxb Văn học, Hà Nội.
82. Đỗ Bích Thúy (2005), Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, tập truyện ngắn,
Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
83. Đỗ Bích Thúy (2011), Mèo đen, tập truyện ngắn, Nxb Thời đại, Hà Nội.
84. Đỗ Bích Thúy (2013), Đàn bà đẹp, tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
85. Trần Đức Tiến (2015), Lỏng và tuột, Nxb Hội Nhà văn.
86. Nguyễn Trí (2013), Bãi vàng, đá quý, Trầm hương, tập truyện ngắn,
Nxb Trẻ.
87. Nguyễn Ngọc Tư (2007), Cánh đồng bất tận, tập truyện ngắn, Nxb
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
88. Bão Vũ (1998), Biển nổi giận, tập truyện ngắn, Nxb Hải Phòng.
89. Bão Vũ (1999), Mây núi Thái Hàng, tập truyện ngắn, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
90. Bão Vũ (2003), Bữa thịt dê trên núi, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
91. Bão Vũ (2003), Hoang đường, tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
92. Đào Vũ (2013), Khách thương hồ, Nxb Văn học, Hà Nội.
157
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
93.
Huỳnh Phan Anh (1995), Ghi nhận về thế giới truyện ngắn Phan Thị
Vàng Anh, Báo Văn nghệ, số 1.
94.
Tạ Duy Anh (tuyển chọn, 2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí.
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
95.
Vũ Tuấn Anh (1992), Thạch Lam văn chương và cái đẹp, Tạp chí Văn
học số 6.
96.
Vũ Tuấn Anh (1995), Đổi mới văn học vì sự phát triển, Tạp chí Văn
học, số 4.
97.
Vũ Tuấn Anh (1996), Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương
diện thể loại, Tạp chí Văn học, số 9.
98.
Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại- Nhận thức và
thẩm định, Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
99.
Vũ Tuấn Anh- Lê Dục Tú (Tuyển chọn và giới thiệu, 2006): Thạch
Lam về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
100.
Antônôp (1956), Viết truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
101.
Arnauđôp, M (1978), Tâm lí học sáng tạo văn học, (Hoài Lam và Hoài Ly
dịch) Nxb Văn học, Hà Nội.
102.
Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
103.
Lại Nguyên Ân (1987), Sáng tác truyện ngắn gần đây của Nguyễn
Minh Châu, Tạp chí Văn học, số 3.
104.
Bakhtin. M (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư
dịch và giới thiệu), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
105.
Bakhtin. M (1998), Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiepxki, (Trần Đình
Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
106.
Lê Huy Bắc (2002), Truyện ngắn, nguồn gốc và khái niệm, Tạp chí
Văn học, số 9.
158
107.
Lê Huy Bắc (2003), Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới, Nxb Hội Nhà văn.
108.
Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn: lí luận, tác gia và tác phẩm (tập 1)
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
109.
Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam (1990), Hội thảo về tình hình
văn xuôi hiện nay, Tạp chí Văn nghệ số 14-15.
110.
Mai Huy Bích (1998), Đề tài gia đình trong văn xuôi những năm gần
đây, Báo Văn nghệ, số 23.
111.
Nguyễn Thị Bích (2014), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam
sau 1975, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Thái Nguyên.
112.
Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau 1975, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
113.
Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975-1995, Những đổi
mới cơ bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
114.
Trần Văn Bính, Nguyễn Xuân Nam, Hà Minh Đức (1973), Cơ sở lý
luận văn học, tập III: Loại thể văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
115.
Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn Văn
nghệ minh họa, Văn nghệ, số 45 và 50, Hà Nội.
116.
Nguyễn Minh Châu (1989), Trang giấy trước đèn, Tạp chí Văn học, số 4.
117.
Văn Chinh, (2009), Ngồi với Đỗ Chu một chiều Hà Nội, nguồn Van
Chinh. Net
118.
Đỗ Chu (1980), Một công việc rất thiêng liêng, in trong Sổ tay truyện
ngắn, Vương Trí Nhàn (sưu tầm, dịch), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
119.
Nguyễn Thị Kim Cúc (1993), Dưới 1000? Có sao đâu!, Tạp chí Thế
giới mới, số 9.
120.
Võ Tấn Cường (2004), Đi tìm "chân dung" truyện ngắn đồng bằng
sông Cửu Long, http://www.vannghesongcuulong.org.
121.
Đào Đức Doãn (2016), Tiểu thuyết tâm lí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (Những
dạng cơ bản), Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội.
122.
Đinh Xuân Dũng (1990), Hiện thực, chiến tranh và sáng tạo văn học,
Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
159
123.
Đinh Trí Dũng (2016), Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 và sự mở rộng
đường biên thể loại, http://vannghequandoi.com.vn
124.
Trần Thanh Đạm (1989), Nghĩ về một xu thế đổi mới trong đời sống
văn chương hiện nay, Văn nghệ, số 1.
125.
Trần Thanh Đạm (2004), Một thoáng nhìn văn học 5 năm đầu thế kỉ,
Báo Văn nghệ, số 45 (6/11/ 2004), tr 6.
126.
Đặng Anh Đào (1991), Một hiện tượng mới trong hình thức kể chuyện
hiện nay, Tạp chí Văn học, số 6.
127.
Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
128.
Đặng Anh Đào (2001), Biển không có thủy thần- Tài năng và người
thưởng thức, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
129.
Nguyễn Văn Đấu (2011), Các loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện
đại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
130.
Phan Cự Đệ (1986), Mấy vấn đề lí luận cuả văn học hiện nay, Tạp chí
Văn học số 5.
131.
Phan Cự Đệ (2005), Truyện ngắn Việt Nam- Lịch sử- Thi pháp-
Chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
132.
Trần Thanh Địch (1988), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới,
Hội Nhà văn.
133.
Nguyễn Đăng Điệp (2003), Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, in
trong Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
134.
Nguyễn Đăng Điệp (2007), Ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền
trong Văn học Việt Nam đương đại, Tham luận tại Hội thảo Văn học
Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa quốc tế tại khu vực, in lại
trong Thông báo khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội 2, số 2.
135.
Trần Phòng Điều (2006), Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư, Văn nghệ Quân đội, số 647.
136.
Hà Minh Đức (1999), Lí luận văn học, (Tái bản lần thứ 5), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
160
137.
Frank Proschan (chủ biên, 2005), Folklore thế giới- Một số công trình
nghiên cứu cơ bản, (Phạm Lan Hương, Đỗ Trọng Quang, Vũ Thị
Thanh Hương, Đoàn Đức Lưu, Hồ Hải Thụy dịch), Nxb Khoa học Xã
Hội, Hà Nội.
138.
Văn Giá (1989), Những bước đi ban đầu của cây bút Phạm Thị Hoài,
Thông báo khoa học Trường Đại học Sư phạm, số 4b.
139.
Văn Giá (2006), Hòa Vang- một hồn văn cổ tích. Evan.com.vn
(Nguồn: Văn nghệ, số 14/2006)
140.
Greg Lockhart (1989), Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp?, Tạp chí Văn học, số 4.
141.
Gulaiep. N.A (1982), Lý luận văn học, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
142.
Phạm Minh Hạnh (1993), Truyện ngụ ngôn Việt Nam và thế giới: Thể
loại và triển vọng, Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội.
143.
Hoàng Ngọc Hiến (1993), Truyện cực ngắn hiện đại dễ viết ngắn, Tạp
chí Thế giới mới.
144.
Hoàng Ngọc Hiến (1998), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
145.
Đỗ Đức Hiểu (1990), Đọc Phạm Thị Hoài, Báo Văn nghệ 10/3/1990.
146.
Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn.
147.
Đỗ Đức Hiểu (2011), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Tạp chí sông Hương,
số 136.
148.
Nguyễn Trọng Hiếu (2017), Truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam
đương đại từ góc nhìn phân tâm học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
149.
Hiền Hòa (2003), Võ Thị Xuân Hà: Viết để đỡ đau hơn khi nhìn thực
tế, Vietbao.com
150.
La Khắc Hòa (2007), Những dấu hiệu của chủ nghĩa Hậu hiện đại
trong Văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm
Thị Hoài, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2.
161
151.
Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
152.
Phạm Hoa (1995), Đọc Cát đợi của Nguyễn Thị Thu Huệ, Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, số 5.
153.
Phương Hoa (thực hiện, 9/2002), Nguyễn Thị Thu Huệ trả lời phỏng
vấn: “Tôi không ép nhân vật của mình thế này hay thế khác”, Báo
Thanh niên số 248.
154.
Nguyễn Thị Năm Hoàng (2007), Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ
góc độ thể loại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
155.
Vũ Hồng (2006), Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 7.
156.
Nguyễn Trí Huân (2005), Báo cáo kết quả công tác xét giải thưởng
văn học 2004 và nhận xét chung về văn học 2004 ở những thể loại:
thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, Báo Văn nghệ, số 8.
157.
Lại Văn Hùng (2001), Truyện ngắn nhìn trong nguồn mạch, Tạp chí
Văn học số 2.
158.
Nguyễn Thanh Hùng (1994), Ánh kim sa trong truyện ngắn (in trong
Văn học và Nhân cách), Nxb Văn học, Hà Nội.
159.
Nguyễn Thanh Hùng (2005), Tri thức đọc hiểu truyện ngắn hiện đại,
Báo Văn nghệ, số 28.
160.
Trần Mạnh Hùng (2011), Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng
sông Cửu Long từ 1975 đến nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn Trường Đại
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
161.
Lê Quang Hưng (2012), Khóc, cười cùng nhân vật (Tiếp nhận văn học
nghệ thuật), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
162.
Lê Quang Hưng (2012), Những giật mình, vỡ lẽ khi đến với Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, Tạp chí Văn học tuổi trẻ, số 10-11, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
163.
Mai Hương (1995), Nguyễn Minh Châu, tài năng sáng tạo và nghệ
thuật, Tạp chí Văn học số 4.
162
164.
Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1975-1995, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
165.
Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện
ngắn Việt Nam 1975-2000, Nxb Đại học thành phố Hồ Chí Minh.
166.
Nguyễn Khải (1993), Truyện rất ngắn ăn ngọt vào bộ nhớ, Tạp chí
Thế giới mới, số 61.
167.
Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
168.
Khrapchenkô. M.B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học (Lê Sơn- Nguyễn Minh dịch), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
169.
Khrapchenkô. M.B (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người,
tập II (Nguyễn Hải Hà, Lại Nguyên Ân, Duy Lập dịch), Nxb Khoa học
Xã Hội, Hà Nội.
170.
Thụy Khuê, Phạm Thị Hoài trên sinh lộ mới của văn học- www.
talawas.org.
171.
Phùng Ngọc Kiếm (2004), Nghĩ tiếp về đặc điểm truyện ngắn hiện
đại, Kỉ yếu Hội thảo khoa học những nhà nghiên cứu Ngữ văn trẻ, (in
lần 2).
172.
Phùng Ngọc Kiếm (2004), Trần thuật trong truyện rất ngắn (in trọng
Tự sự học, một số vấn đề lí thuyết và lịch sử), Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
173.
Nguyễn Kiên (1993), Truyện rất ngắn: tính đột phá đẩy tới bùng nổ,
Tạp chí Thế giới mới, số 62.
174.
Lê Đình Kỵ (2006), Phê bình nghiên cứu văn học (tái bản lần thứ hai),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
175.
Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
176.
Tôn Phương Lan (1999), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu,
Nxb Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
163
177.
Tôn Phương Lan (2004), Truyện ngắn chiến tranh nhìn từ sự vận
động của thể loại, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11.
178.
Mai Quốc Liên (2011), Đọc truyện ngắn Bảo Ninh,
http://vienvanhoc.org.vn
179.
Mai Quốc Liên (1998), Phê bình và tranh luận văn chương, Nxb Văn
học, Hà Nội.
180.
Hoàng Long, Vài ý nghĩ về truyện cực ngắn, www.Tienve.org
181.
Nguyễn Văn Long (1985), Văn xuôi viết những năm 1975- 1985 viết về
cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ, Văn nghệ Quân đội số 4.
182.
Nguyễn Văn Long (2006), Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch
sử văn học Việt Nam từ sau 1975 (Văn học Việt Nam sau 1975- Những
vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. tr183.
183.
Phạm Quang Long (1996), Thái độ của Nguyễn Minh Châu đối với
con người; niềm tin và những lo âu, Tạp chí văn học số 9.
184.
Thế Lữ (1943), Tính cách tạo tác của Thạch Lam, Thanh Nghị số 39.
185.
Phương Lựu (chủ biên), Nguyễn Nghĩa Trọng- La Khắc Hòa- Lê Lưu
Oanh (2012), Lí luận văn học, tập 1, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
186.
Phương Lựu (2011), Lí thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
187.
Hoàng Như Mai (1993), Truyện của thời đại tốc độ và thông tin, Tạp
chí Thế giới mới, số 66, tr90.
188.
Nguyễn Đăng Mạnh (1992), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp vài cảm
nghĩ, Tạp chí Cửa Việt số 16.
189.
Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
190.
Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và
phong cách, Nxb Trẻ, Hà Nội.
191.
Nguyễn Đăng Mạnh (1992), Thảo luận về truyện ngắn, Tạp chí Tác
phẩm mới, số 2.
164
192.
Đặng Thị Mây (2002), Đặc điểm thi pháp truyện ngắn sau 1975,
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
193.
Nguyễn Đăng Na (1999), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
194.
Nguyễn Xuân Nam (1993), 1000 âm tiết đủ để sâu sắc, sáng tạo, hiện
đại, Tạp chí Thế giới mới số 68.
195.
Vũ Tú Nam (1993), Truyện rất ngắn đang được thể nghiệm, Tạp chí
Thế giới mới, số 52.
196.
Võ Khắc Nghiêm (1994), Các nguồn rọi vào một điểm, Tạp chí Thế
giới mới, số 97.
197.
Nguyên Ngọc (1992), Truyện ngắn hiện nay sức mạnh và hạn chế, Tạp
chí Thế giới mới, số 2.
198.
Nguyên Ngọc (1993), Chấm phá mà bao la, Tạp chí Thế giới mới.
199.
Lã Nguyên (1989), Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi
mới tư duy nghệ thuật, Tạp chí Văn học, số 2.
200.
Lã Nguyên (2007), Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong
Văn học Việt Nam qua sáng tác cuả Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị
Hoài, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1.
201.
Phạm Xuân Nguyên (1994), Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay, Tạp
chí Văn học số 2.
202.
Phạm Xuân Nguyên (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
203.
Phạm Xuân Nguyên (2004), Khi cánh đồng mở ra, Báo Văn nghệ
(15/4/2004).
204.
Châu Thành Nguyễn (1993), Phút 89 đầy kịch tính, Tạp chí Thế giới mới.
205.
Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn (Tái bản lần thứ hai), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
206.
Vương Trí Nhàn (2002), Phụ nữ và sáng tác văn chương, Tạp chí Văn
học, số 06.
165
207.
Nhiều tác giả, Chuyên đề Truyện cực ngắn, www.tienve.org.
208.
Nhiều tác giả (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
209.
Nhiều tác giả (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
210.
Nhiều tác giả, (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
211.
Nhiều tác giả (2004), Nguyễn Minh Châu, tác giả và tác phẩm, Nxb
Hà Nội.
212.
Nhiều tác giả 2004), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới.
213.
Nhiều tác giả (2006), Lý luận phê bình văn học đổi mới và phát triển,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
214.
Nhiều tác giả (2010), Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại, tập II,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
215.
Nguyễn Minh Nhựt, Lời giới thiệu Tuyển truyện ngắn đạt giải cao 30
năm đổi mới 1986-2016, Nxb Trẻ, 2017.
216.
Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990, Nxb Đại học
Quốc Gia, Hà Nội.
217.
Lê Lưu Oanh (2004), Thời hiện tại chưa hoàn thành của truyện ngắn
(in trong Tự sự học), Nxb ĐHSP, Hà Nội.
218.
Lê Thị Phượng (2004), Một số phương diện đặc sắc trong nghệ thuật
kết cấu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ĐHSP Hà Nội.
219.
Pospelop. G.N (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập II,
Nxb Giáo dục.
220.
Nguyễn Hưng Quốc, Vài ý nghĩa ngắn, thật ngắn về truyện cực ngắn,
web: tienve.org.vn
221.
Nguyễn Quang Sáng (1993), Cuộc chạy 100 m của người viết văn, Tạp
chí Thế giới mới, số 59.
222.
Nguyễn Khắc Sính (2006), Phong cách thời đại nhìn từ thể loại văn
học, Nxb Văn học, Hà Nội.
166
223.
Chu Văn Sơn- Đỗ Ngọc Thống (1993), Trao đổi mini về truyện ngắn
mini, Báo Văn nghệ, số 40.
224.
Nguyễn Thanh Sơn- Đọc và đọc lại “Thiên sứ” cuả Phạm Thị Hoài-
www.talawas.org.
225.
Nguyễn Thanh Sơn (2001), Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp- Đi tìm
Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
226.
Trần Đình Sử - Phương Lựu- Nguyễn Xuân Nam (1987), Lí luận văn
học, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
227.
Trần Đình Sử (2008), Tự sự học, Một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
228.
Trần Đăng Suyền, Nguyễn Văn Long, Lê Quang Hưng, Trịnh Thu
Thuyết (1993), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, tập I, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
229.
Trần Đăng Suyền (1993), Một cách nhìn cuộc sống hiện nay, Báo Văn
nghệ, số 15.
230.
Trần Đăng Suyền (2014), Phương pháp nghiên cứu tác phẩm Văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
231.
Trần Đăng Suyền (2019), Tư tưởng và phong cách nhà văn, Những
vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội.
232.
Phạm Xuân Thạch (2005), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại, suy nghĩ
từ những tác phẩm mang chủ đề lịch sử, http://www.vnn.vn
233.
Trần Duy Thanh (2008), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Báo Nhân
Dân ra ngày 26/6/2008.
234.
Ngô Thảo (1995), Bốn thế hệ nhà văn, Tạp chí Văn học, số 9.
235.
Nguyễn Quang Thân (1992), Sự trói buộc cuả truyện ngắn, Văn nghệ
Quân đội, số 7.
236.
Bùi Việt Thắng (1987), Nhìn lại truyện ngắn 1986, Tạp chí Văn học số 3.
237.
Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn- Những vấn đề lý thuyết và thực
tiễn thể loại, NXB ĐHQG, Hà Nội.
167
238.
Bùi Việt Thắng (2004), Truyện ngắn hôm nay, Tạp chí Nghiên cứu
văn học số 1.
239.
Bùi Việt Thắng (2006), Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận,
Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7.
240.
Trần Văn Thắng (2012), Khuynh hướng thế sự trong truyện ngắn Việt
Nam thời kì đổi mới (1986-2000), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.
241.
Nguyễn Thành Thi (2010), Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, Nghiên cứu văn học số 5.
242.
Trần Viết Thiện (2012), Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ
1986 đến 2012, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm thành
phố hồ Chí Minh.
243.
Nguyễn Thị Bích Thu (1996), Những thành tựu của truyện ngắn sau
1975, Tạp chí văn học, số 9.
244.
Nguyễn Thị Bích Thu (2007), Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-
1975 (nhìn từ góc độ thi pháp thể loại), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện
Văn học, Hà Nội.
245.
Lê Thị Hương Thủy (2013), Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay
(nhìn từ góc độ thể loại), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
246.
Nguyễn Thị Thu Thủy (2003), Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt
Nam sau 1975, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
247.
Hỏa Diệu Thúy (2006), Truyện ngắn Việt Nam 1945-1975, diện mạo
lịch sử thể loại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
248.
Phạm Toàn (2004), Sự gần gũi giữa thơ và truyện ngắn, Báo Văn nghệ số 14.
249.
Todorov, Tz (2004), Thi pháp văn xuôi (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm
dịch), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
250.
Lê Ngọc Trà (1993), Chất thơ trong truyện rất ngắn, Tạp chí Thế giới
mới, số 64.
168
251.
Nguyễn Nghĩa Trọng (2003), Văn hóa văn nghệ trong đổi mới: Những
vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
252.
Bùi Thanh Truyền (2008), Song đề truyền thống- hiện đại trong điểm
nhìn nghệ thuật của truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi
mới, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2.
253.
Lê Dục Tú (2007), Thể loại truyện rất ngắn trong đời sống văn học
đương đại, Tạp chí văn học, số 2.
254.
Nguyễn Tuân (1963), Cần cười, Báo Văn nghệ số 239.
255.
Lê Trí Viễn (1994), Nói về truyện rất ngắn, Tạp chí Thế giới mới, số 98.
256.
Nguyễn Anh Vũ (2005), Đọc truyện ngắn nữ của ba tác giả đồng bằng
sông Cửu Long, Báo Văn nghệ, số 27.
257.
Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
258.
Phạm Thu Yến (chủ biên, 2009), Giáo trình Văn học dân gian, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Tài liệu Tiếng Anh
259. Abram. M H, A glossary of literary term, H.B.Jovannovich, USA, 1993
260. Ann Charters, The Story and Its Writer, Bedford Book, Boston, 1995.
261. Jacques Derrida, Writing and difference, Trans, Alan Bass, University of
Chicago Press, Chicago, 198.