BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐCGIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
PHẠM THỊ THẮM
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO THẾ HỆ TRẺ
Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
PHẠM THỊ THẮM
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO THẾ HỆ TRẺ
Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY
NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 9229001
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS,TS. Nguyễn Đình Tƣờng
2. PGS,TS. Bùi Thị Thanh Hƣơng
HÀ NỘI – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình trên là do chính tôi thực hiện với sự
hƣớng dẫn của PGS,TS Nguyễn Đình Tƣờng; PGS,TS Bùi Thị Thanh Hƣơng.
Các số liệu, tài liệu trong luận án là hoàn toàn trung thực.
Tác giả
Phạm Thị Thắm
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ... 5 1. Các công trình nghiên cứu về gia đình, nhân cách, thế hệ trẻ ................. 5 1.1. Các công trình nghiên cứu về gia đình ............................................ 5 1.2. Các công trình nghiên cứu về nhân cách ......................................... 9 1.3. Các công trình nghiên cứu về thế hệ trẻ ........................................ 11 2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở Việt Nam và tỉnh Hải Dƣơng ... 15 2.1. Các nghiên cứu về thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ỏ Việt Nam ..................... 15 2.2. Những đánh giá về thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng ........... 19 3. Những nghiên cứu về định hƣớng, giải pháp nhằm phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay ............................................................................................. 21 4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án .................. 22 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN CÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO THẾ HỆ TRẺ ............................................................. 24 1.1. Nhân cách và tiền đề hình thành, phát triển nhân cách ...................... 24 1.1.1. Khái niệm và cấu trúc nhân cách ................................................ 24 1.1.2. Tiền đề hình thành, phát triển nhân cách .................................... 39 1.2. Thế hệ trẻ, nhân cách của thế hệ trẻ và vai trò của gia đình đối với việc hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ .................................. 46 1.2.1. Khái niệm “thế hệ trẻ”, “nhân cách thế hệ trẻ” .......................... 46 1.2.2. Gia đình và vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ............................................................... 54 1.3. Những nhân tố ảnh hƣởng đến vai trò của gia đình đối với sự hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ hiện nay ................................................ 66 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO THẾ HỆ TRẺ Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ......... 81 2.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội, đặc điểm nhân cách thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay. .............................................................................................. 81
2.1.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội tác động tới việc thực hiện vai trò của gia đình với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay ............................................................................... 81 2.1.2. Đặc điểm nhân cách thế hệ trẻ ở tình Hải Dƣơng hiện nay ........ 91 2.2. Thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay ................................. 94 2.2.1. Vai trò của gia đình trong chăm sóc sức khỏe, phát triển thể chất tạo nên nền tảng sinh học cho nhân cách cá nhân. ............................... 95 2.2.2 Vai trò của gia đình trong giáo dục, truyền thụ những tri thức, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất đối với hình thành nhân cách cá nhân .. 105 2.2.3. Vai trò của gia đình trong việc nuôi dƣỡng tâm hồn, tâm lý, tình cảm tạo nên nền tảng tinh thần cho sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ ..................................................................................... 113 2.2.4. Vai trò của gia đình trong định hƣớng và điều chỉnh quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ .............................. 123 2.3. Một số vấn đề đặt ra về vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay ..................... 127 Chƣơng 3: MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO THẾ HỆ TRẺ Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY ................................................................................... 134 3.1. Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng ............................ 134 3.2. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình đối với sự hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ....................................... 141 3.3. Nhóm giải pháp kết hợp phát huy giá trị gia đình truyền thống và gia đình hiện đại ............................................................................................. 146 3.4. Nhóm giải pháp kết hợp gia đình, nhà trƣờng, xã hội trong giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ .......................... 151 KẾT LUẬN .................................................................................................. 160 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 163 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 172
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Con ngƣời là mục tiêu trung tâm của mọi sự phát triển xã hội. Nội dung xuyên suốt của học thuyết Mác – Lênin là giải phóng và phát triển con ngƣời toàn diện. Mục tiêu suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vì sự nghiệp giải phóng cho “đồng bào” lao khổ, đấu tranh giành hạnh phúc nhân dân, xây dựng con ngƣời mới phát triển toàn diện, một nội dung quan trọng là xây dựng nhân cách vừa “hồng” vừa “chuyên”. Nhân cách hình thành và phát triển từ chính chủ thể - cá nhân mỗi con ngƣời, đồng thời lại bị chi phối, đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển của xã hội ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Xã hội ngày càng phát triển con ngƣời ngày càng vƣợt xa bản tính tự nhiên - bản năng của mình, hƣớng tới trình độ xã hội hóa, ngày càng phát triển toàn diện hơn.
Trong bất cứ giai đoạn phát triển nào, thế hệ trẻ đều có vai trò vô cùng quan trọng, họ là chủ nhân của tƣơng lai mỗi quốc gia – dân tộc. Đất nƣớc ta trong 30 năm đổi mới đã cho thấy sự phát triển vƣợt bậc về kinh tế - xã hội, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng đƣợc nâng cao. Thế hệ trẻ đang đƣợc hƣởng thụ nhiều thành quả to lớn về điều kiện vật chất, tinh thần, khoa học - công nghệ, kỹ thuật. Đồng thời họ luôn bộc lộ những mặt ƣu việt so với những thế hệ đi trƣớc nhƣ: khả năng cập nhật, tiếp thu, phát triển khoa học công nghệ, trình độ ngoại ngữ khá, có tinh thần làm chủ, chủ động tìm kiếm cơ hội; nhanh nhạy tiếp thu hệ giá trị mới; có ý thức hoàn thiện bản thân và phát triển cộng đồng… Tuy nhiên do tác động của cơ chế kinh tế thị trƣờng; thời kỳ quá độ còn tồn tại đan xen các yếu tố cũ, lạc hậu và những giá trị mới, tiến bộ, sự phát triển của thế hệ trẻ đang gặp một môi trƣờng nhiều cơ hội song cũng ẩn chứa rất nhiều thách thức. Việc hình thành một nhân cách tốt đẹp, tiến bộ cho thế hệ tƣơng lai là tối cần thiết, phụ thuộc lớn vào sự kết hợp của gia đình, nhà trƣờng, xã hội, trong đó gia đình là một nhân tố đặc biệt.
Gia đình với tính cách là một “xã hội thu nhỏ” "mỗi gia đình là một tế bào của xã hội", một môi trƣờng tác động trực tiếp và thƣờng xuyên đối với mỗi cá nhân, có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách ở mỗi con ngƣời. Mỗi "tế bào của xã hội" phát triển khỏe mạnh thì mới tạo ra một xã hội "thực sự khỏe mạnh". Vai trò của gia đình đối với sự hình thành, phát triển nhân cách con ngƣời đƣợc Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội XI: “Gia đình là môi trƣờng quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”. Gia đình góp phần chăm lo xây dựng con ngƣời Việt Nam giàu lòng yêu nƣớc,
2
có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính. Trong ý thức hệ của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, gia đình bao giờ cũng đƣợc coi là tổ ấm, là môi trƣờng đầu tiên làm phát sinh, nuôi dƣỡng thể lực; trí lực; những tình cảm trong sáng, tốt đẹp, hình thành nên nhân cách con ngƣời Việt Nam. Tuy nhiên trƣớc sự phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội đặt ra rất nhiều thách thức trong việc thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của gia đình hiện nay. Một bộ phận thế hệ trẻ và gia đình của họ đang rơi vào tình trạng lúng túng, hoang mang, mâu thuẫn trong quá trình giáo dục, định hƣớng, lựa chọn và phát triển nhân cách cho con em của mình.
Hải Dƣơng là tỉnh nằm trong vùng trọng điểm kinh tế của miền Bắc, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh đã và đang có sự phát triển mạnh, đời sống nhân dân đã đƣợc cải thiện đáng kể, thế hệ trẻ đƣợc nuôi dƣỡng, chăm sóc tốt hơn vừ đƣợc tiếp cận cơ hội học tập tiến bộ. Nhƣng bên cạnh đó, len lỏi vào trong mỗi gia đình, hiện đang tồn tại những vấn đề mang tính báo động, đó là sự xuống cấp về nhân cách của một bộ phận dân cƣ, đặc biệt là thế hệ trẻ. Trong một số gia đình đang có những biểu hiện khủng hoảng về giá trị đạo đức, trong đó phải kể đến những giá trị gia đình truyền thống tốt đẹp đang dần bị xói mòn bởi sự thao túng của đồng tiền; biểu hiện của lối sống thiếu văn hóa, những tình trạng ly thân, ly hôn, ngoại tình, tình trạng bạo lực gia đình... đều đang hiện diện ở mức độ đáng báo động; tỷ lệ thanh thiếu niên hƣ, bạo lực học đƣờng, bỏ học, rơi vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật có xu hƣớng tăng. Điều này đang có nguy cơ trở thành vấn nạn các gia đình, xã hội, đặc biệt là những biểu hiện lệch lạc trong sự hình thành và phát triển nhân cách và sự bất ổn trong tâm lý của một bộ phận thế hệ trẻ hiện nay.
Không ít gia đình ở Hải Dƣơng hiện nay (và Việt Nam nói chung) nhận thức chƣa đúng về vai trò của mình trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ, còn coi đó là nhiệm vụ của nhà trƣờng, xã hội, nên đã tạo ra những hậu quả đối với gia đình mình và gây ảnh hƣởng lớn cho xã hội. Vì vậy, việc phát huy vai trò gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách hoàn thiện cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng là một yêu cầu cấp bách hiện nay.
Với mong muốn góp một phần vào giải quyết vấn đề thực tế này, tôi chọn: “Vai trò của gia đình đối với việc hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dương hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng, luận án đề xuất các nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích trên luận án tập trung vào các nhiệm vụ sau đây: + Phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. + Phân tích, làm rõ lý luận về nhân cách, sự hình thành và phát triển nhân cách, thế hệ trẻ và gia đình, vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
+ Phân tích thực trạng vai trò của gia đình và những vấn đề đặt ra đối với
sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
+ Đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu về vai trò của gia đình đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay
3.2. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian, luận án tập trung nghiên cứu vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay. Luận án chủ yếu nghiên cứu đối tƣợng thế hệ trẻ là thanh, thiếu niên trong độ tuổi từ 0 – 18 tuổi; lứa tuổi diễn ra sự hình thành, phát triển nhân cách quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi con ngƣời; đồng thời cũng là lứa tuổi cần sự nuôi dƣỡng, chăm sóc lớn nhất từ phía gia đình.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới liên quan đến gia đình, vai trò của gia đình đối với việc hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
Luận án kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và các
công trình nghiên cứu có liên quan.
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu Phƣơng pháp luận: Luận án đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phƣơng pháp cụ thể: phƣơng pháp logic và lịch sử; phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; điều tra xã hội học; quan sát, thống kê; tổng kết thực tiễn; tham vấn …
5. Những đóng góp mới của luận án - Vận dụng sáng tạo lý luận mác – xít về vai trò của gia đình đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ vào thực tiễn tỉnh Hải Dƣơng.
- Phân tích, làm rõ lý luận về nhân cách, sự hình thành và phát triển nhân cách, thế hệ trẻ và gia đình, vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
- Luận án góp phần làm rõ thêm những luận cứ và luận chứng cho các nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ hơn tầm quan trọng của gia đình đối với việc hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ từ hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu dƣới góc độ chính trị - xã hội.
6. Ý nghĩa của luận án Luận án tập trung nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm những luận điểm, các vấn đề lý luận và thực tiễn về gia đình, vai trò của gia đình. Luận án đóng góp thêm tài liệu để các bậc cha mẹ tham khảo nhằm phát huy vai trò của gia đình đối với quá trình nuôi dƣỡng, giáo dục thế hệ trẻ.
7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng, 9 tiết.
5
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Các công trình nghiên cứu về gia đình, nhân cách, thế hệ trẻ 1.1. Các công trình nghiên cứu về gia đình Gia đình - “tế bào xã hội” là cấu trúc quan trọng tác động to lớn tới sự hình thành và phát triển xã hội. Chính vì vậy gia đình là một lĩnh vực đƣợc rất nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Các nghiên cứu này góp phần thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của gia đình đồng thời góp phần làm cho phát triển tiến bộ xã hội con ngƣời. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về gia đình tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả đi sâu tìm hiều những nghiên cứu về gia đình liên quan đến nội dung tác động sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Những công trình này là tài liệu quan trọng, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển những nội dung nghiên cứu của tác giả. Cụ thể:
Khuất Thu Hồng (chủ biên) xuất bản năm 1996, "Gia đình truyền thống" [36]. Cuốn sách cung cấp một cách nhìn khoa học về hôn nhân gia đình truyền thống của ngƣời Việt Nam thông qua phỏng vấn sâu các cụ ông, cụ bà ở thành thị nông thôn, với mong muốn gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình. Bên cạnh đó cũng thấy đƣợc những biểu hiện của những phong tục không thích hợp với cuộc sống hiện đại ngày nay.
Trần Hữu Tòng – Trƣơng Thìn (Chủ biên): “Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới” [97]. Sách tập trung làm rõ một số vấn đề cơ bản về văn hoá gia đình và gia đình văn hoá. Nêu ra một số bài học kinh nghiệm và định hƣớng cho công tác xây dựng gia đình văn hoá Việt Nam trên con đƣờng xây dựng dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Sách còn phản ánh thực tiễn các vấn đề gia đình hiện nay đang đƣợc xã hội quan tâm.
Lê Thi (2002), "Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới" [105]. Trong cuốn sách tác giả đã làm rõ quá trình đổi mới đất nƣớc đã và đang làm cho gia đình có những biến đổi về cấu trúc, quy mô, chức năng của gia đình. Trong đó mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đã có nhiều thay đổi.
Vũ Tuấn Huy (chủ biên) xuất bản năm 2003, "Mâu thuẫn vợ chồng trong gia đình và những yếu tố ảnh hưởng", [38]. Mâu thuẫn và sự căng thẳng trong quan hệ vợ và chồng trong đời sống hôn nhân và gia đình xảy ra do sự không
6
phù hợp giữa kỳ vọng và sự thực hiện các vai trò. Mặc dù có nhiều hành vi do những mâu thuẫn bên trong, ở đề tài này tác giả chủ yếu xem xét những mâu thuẫn bên ngoài liên quan đến vấn đề hôn nhân. Mâu thuẫn thƣờng là nhiều chiều và phức tạp. Trong quan hệ hôn nhân nếu ngƣời này không chú ý đến nhu cầu của ngƣời kia, mâu thuẫn không đƣợc giải quyết dẫn đến xung đột liên tục sẽ làm cho hôn nhân trở nên xấu đi. Trong cuốn sách tác giả gợi mở cho bạn đọc kiểm soát và giải quyết các xung đột. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả luận án nhìn nhận đánh giá mối quan hệ vợ chồng – thế hệ cha mẹ, ông bà từ những mâu thuẫn này sẽ ảnh hƣởng tới quá trình giáo dục, tâm lý, tình cảm và định hình nhân cách của thế hệ trẻ khá lớn.
Vũ Tuấn Huy (2004) “ Xu hướng gia đình ngày nay” (một vài đặc điểm từ nghiên cứu thực nghiệm tại tỉnh Hải Dƣơng) [39]. Công trình nghiên cứu đã phân tích về sự biến đổi về gia đình, nhấn mạnh đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, các ảnh hƣởng yếu tố thị trƣờng, công nghệ - khoa học, sự di cƣ và biến đổi của định hƣớng giá trị đã tác động đến sự hình thành hôn nhân, quan hệ giữa các thế hệ, phân công lao động gia đình, số con và khoảng cách sinh con... Đây là cơ sở lý luận quan trọng, tác giả luận án đánh giá thực tiễn gia đình Hải Dƣơng, trên cơ sở đó làm rõ tác động biến đổi của gia đình đối với thế hệ trẻ trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
Lê Thi (chủ biên), xuất bản năm 2006, “Cuộc sống và biến động của hôn nhân, gia đình Việt Nam”, [107]. Cuốn sách bao gồm 3 chƣơng. Chƣơng 1: Văn hoá ứng xử và tổ chức cuộc sống gia đình. Cụ thể: ứng xử trong gia đình và giao tiếp xã hội; gia đình trẻ và quan niệm về tự do và trách nhiệm; tổ chức cuộc sống và phát huy truyền thống gia đình. Chƣơng II: Các vấn đề đặt ra trƣớc gia đình Việt Nam hiện nay. Cụ thể: quan hệ giới và khoảng cách giữa các thế hệ; mối liên hệ giữa cá nhân, gia đình và xã hội; gia đình trƣớc các vấn đề xã hội. Chƣơng III: Hôn nhân và gia đình Việt Nam trƣớc những biến động của thời đại. Cụ thể: thích ứng với công nghiệp và hiện đại hoá; thúc đẩy công bằng xã hội và bảo vệ môi trƣờng. Cuốn sách là cơ sở tác giả kế thừa phân tích giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình truyền thống và gia đình trẻ hiện đại; những khó khăn thách thức của gia đình trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trƣờng; biến động gia đình.
7
Đặng Phƣơng Kiệt (2006) viết cuốn “Gia đình Việt Nam: Những giá trị truyền thống và các vấn đề tâm – bệnh lý xã hội”, [43]. Cùng với sự phát triển của xã hội, gia đình hiện đại cũng có những sự phát triển nhanh chóng. Bên cạnh việc nâng cao của đời sống vật chất và tinh thần thì trong một bộ phận gia đình cũng xuất hiện những vấn đề tâm lý, bệnh lý phức tạp mà xã hội và gia đình phải đối mặt. Từ những phân tích đó tác giả chỉ ra vai trò, hạn chế giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam trƣớc sự biến động của tâm – bệnh lý xã hội hiện đại. Tuy nhiên tác giả chƣa phân tích biến động phức tạp của tâm – bệnh lý mà thế hệ trẻ trong gia đình hiện nay phải đối mặt
Vũ Anh Tuấn; Nguyễn Xuân Mai (2007) “Những biến đổi kinh tế xã hội của hộ gia đình”, [96]. Tác giả cuốn sách chỉ ra những biến đổi tích cực và hạn chế điều kiện kinh tế gia đình và tham gia các hoạt động xã hội của hộ gia đình trong quá trình phát triển kinh tế thị trƣờng, với sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Đời sống kinh tế có sự cải thiện rõ rệt, sự phát triển kinh tế gia đình với những hình thức rất phong phú, đa dạng. Tác giả kế thừa những phan tích biến động kinh tế hộ gia đình và phát triển cở sở đánh giá thực trạng kinh tế hộ gia đình của tỉnh Hải Dƣơng có biến động lớn trong giai đoạn đổi mới (1986 - nay) đối với việc nuôi dạy thế hệ trẻ.
Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý, (2007) viết sách: "Gia đình học" , [49]. Đây là công trình nghiên cứu rất công phu, với những luận chứng cụ thể đƣợc tổng hợp từ những tài liệu uy tín trong, ngoài nƣớc để đƣa ra những vấn đề lý luận, thực tiễn trong bức tranh đa sắc màu về gia đình ở Việt Nam và các kiểu gia đình trên thế giới. Tác giả đã phân tích, làm rõ những đặc trƣng, vai trò, chức năng của quá trình hình thành và phát triển của gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại trên cơ sở nghiên cứu xã hội học về gia đình. Các tác giả đã nêu lên những định hƣớng giải pháp và điều kiện thực hiện những giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam phù hợp với yêu cầu của giai đoạn hiện nay. Cuốn “Gia đình học” thực sự là tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà nghiên cứu và là cuốn giáo trình tƣơng đối đầy đủ, khái quát cho những ai quan tâm nghiên cứu trau dồi kiến thức về ngành khoa học mới, ngành gia đình học.
Lê Thi (2009) nghiên cứu về “Sự tương đồng và khác biệt trong quan niệm về hôn nhân gia đình giữa các thế hệ người Việt Nam hiện nay”, [108]. Tác giả chỉ ra sự khác biệt trên cơ sở những giá trị văn hóa truyền thống và văn hóa
8
hiện đại; giữa hai thế hệ ngƣời lớn tuổi và thế hệ trẻ trong gia đình hiện nay về hôn nhân. Từ đó tác giả luận án nhận thấy sự thay đổi những hệ giá trị trong gia đình; sự khác biệt của thế hệ trẻ khi nhìn nhận vấn đề tình yêu, hôn nhân hiện đại; từ đó tác động tới sự hình thành lối sống, nhân cách với những nét khác biệt so với thế hệ trƣớc.
Đặng Thị Linh (2009), biên soạn “Những vấn đề lý luận về gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” [55]. Tập bài giảng phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về sự hình thành, phát triển gia đình, xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên xã hôi xã hội chủ nghĩa. Tác giả luận án kế thừa cơ sở quan niệm về gia đình; vận dụng, phát triển những cơ sở lý luận về quá trình xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ với những khó khăn, phức tạp trong nhìn nhận, đánh giá các gia đình hiện nay.
Trịnh Duy Luân; Helle Rydstrom; Wil Burghoom đồng chủ biên (2011) nghiên cứu về:“Gia đình nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, [52]. Các tác giả nghiên cứu về các gia đình khu vực nông thôn với những biến đổi lớn trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Tác giả luận án kế thừa trên cơ sở tổng hợp, phân tích những nội dung nghiên cứu đa dạng nhƣ hôn nhân, tổ chức cƣ trú, phân công lao động, quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình, di cƣ, giáo dục con cái, tình dục, bạo lực gia đình… trong hơn hai thập niên qua; để trên cơ sở đó nghiên cứu thực trạng biến động của các gia đình khu vực nông thôn tỉnh Hải Dƣơng.
Lê Thị Quý xuất bản cuốn sách năm 2011về: “Quản lý nhà nước về gia đình, lý luận và thực tiễn”, [79]. Là tập hợp nhiều bài biết của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực gia đình, trong đó tác giả luận án đặc biệt quan tâm tới những chuyên đề về vai trò của gia đình trong giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức và các giá trị truyền thống trong gia đình. Bên cạnh đó là những yếu tố tác động đến gia đình hiện nay. Tuy nhiên ở đây các tác giả đề cập một cách khái quát các nội dung, trên cơ sở những nghiên cứu này tác giả luận án đi sâu phân tích vai trò và yếu tố tác động đến vai trò của gia đình trong điều kiện cụ thể ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
Lê Văn Ngọc cho ra đời cuốn sách xuất bản năm 2012, “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam”, [77]. Trong nghiên cứu xã hội học, gia đình có ảnh hƣởng rất lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nƣớc,
9
sự tồn vong của dân tộc. Ở Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, gia đình đã và đang biến đổi nhanh chóng, đa dạng, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Tác giả luận án kế thừa những một số vấn đề cơ bản về gia đình, biến đổi gia đình, đề xuất xây dựng gia đình ở Việt Nam; trên cơ sở đó triển khai phân tích đánh giá thực trạng trên cơ sở tính đặc thù của các gia đình ở Hải Dƣơng.
1.2. Các công trình nghiên cứu về nhân cách So với các ngành khoa học khác khoa học về nhân cách là một lĩnh vực nghiên cứu mới trên thế giới nhƣng đến nay đã đƣợc rất nhiều ngành, lĩnh vực tập trung nghiên cứu.
Tâm lý học Liên Xô là một nền tâm lý học lớn đƣợc thế giới công nhân, nhiều công trình nghiên cứu tâm lý học đƣợc các nƣớc phƣơng tây kế thừa, phát triển. Ngay trong quá trình xây dựng nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới các nghiên cứu của các nhà khoa học Liên Xô đã quan tâm về “Chủ nghĩa xã hội và nhân cách” tập 1, 2 [16], [17]. Trong đó đã phân tích nội dung về sự hình thành và phát triển nhân cách trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Ở Việt Nam đã bắt đầu nghiên cứu về nhân cách từ những năm 1960. Nhƣng công trình quan trọng có nội dung liên quan tới vấn đề mà tác giả nghiên cứu gồm:
Phạm Minh Hạc chủ nhiệm đề tài nghiên cứu (2001-2005) về: "Xây dựng
con người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị
trường", [31]. Đề tài nghiên cứu các nội dung: Cơ sở lý luận hình thành nhân
cách, quan điểm giá trị và mô hình nhân cách theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa;
Nghiên cứu tính cách con ngƣời Việt Nam qua các tài liệu lịch sử; Nghiên cứu
thái độ, quan điểm giá trị của ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài; Điều tra tìm hiểu sự
thay đổi về quan điểm giá trị của ngƣời Việt Nam hiện nay; Đo đạc một số đặc
điểm nhân cách của một số tầng lớp ngƣời Việt Nam hiện nay; Nghiên cứu một
số vấn đề tiềm năng con ngƣời. Cuốn sách đã phân tích những ƣu điểm, hạn chế
cần khắc phục của ngƣời Việt Nam hiện nay – đây là cơ sở quan trọng giúp tác
giả luận án phân tích những thành tựu và hạn chế của các bậc ông bà, cha mẹ
trong gia đình tác động tới con cái trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
10
Lê Văn Hồng (2008), “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sƣ phạm” [37]. Đây là cuốn sách phân tích tâm lý lứa tuổi và tác động giáo dục phù hợp với tâm lý lứa tuổi cho lứa tuổi từ 0 – 18 tuổi. Tác giả luận án kế thừa cở sở phân tích đặc điểm tâm lý học các giai đoạn lứa tuổi của trẻ em, lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông và cách giáo dục của nhà trƣờng phù hợp với đặc tính lứa tuổi; để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình các gia đình phát huy vai trò của mình đối với sự hình thành, phát triển nhân cách hiện nay.
Nguyễn Xuân Thức (2013) “Tâm lý học đại cƣơng” [100], đây là cuốn giáo trình cơ bản về tâm lý học, trong đó giành một chƣơng phân tích về nhân cách, sự hình thành và phát triển nhân cách. Trên cơ sở đó tác giả luận án tham khảo về nhân cách trên khía cạnh tâm lý học con ngƣời, từ đó đƣa ra khái niệm tổng hợp về nhân cách ở lĩnh vực triết học.
Nguyễn Thơ Sinh (2008), “Các học thuyết tâm lý nhân cách” [83], cuốn sách là tài liệu quan trọng hệ thống quan điểm của 22 nhà tâm lý học về những học thuyết tâm lý nhân cách. Đây là một trọng những cuốn sách tập hợp những nghiên cứu sâu sắc, phong phú nhất về những khía cạnh của tâm lý nhân cách con ngƣời.
Hoàng Anh (2012), “Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân cách ở sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trƣờng hiện nay”, [1]. Tác giả trình bày những lý luận chung về nhân cách, nhân cách sinh viên, thực trạng sinh viên Việt Nam; vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên trong các trƣờng đại học, cao đẳng nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên.
Nghiên cứu gần đây nhất với nhiều bài viết liên quan đến nội dung nhân cách, đạo đức, lối sống... trong văn hóa Việt Nam của hai tác giả: Trần Đặng Sinh – Nguyễn Chu Sâm xuất bản năm 2014 về: “ Đạo làm ngƣời trong văn hóa Việt Nam” [84]. Cuốn sách gồm 3 phần: Phần 1 – Lý luận chung về đạo làm ngƣời; Phần 2- Đạo làm ngƣời trong văn hóa Việt Nam; Phần 3- Đạo làm ngƣời trong xã hội hiện nay.
Trên đây là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về nhân cách, nhƣng đa số là những nghiên cứu của tâm lý học về nhân cách, những nghiên cứu triết học về nhân cách vẫn còn rất ít. Đặc biệt do sự phát triển kinh tế - xã hội và yếu tố lịch sử nên nhiều nghiên cứu về xây dựng nhân cách con ngƣời hiện đại hiện nay còn nhiều yếu tố chƣa hợp lý, chƣa cụ thể, có những hệ giá trị phát triển
11
nhân cách cá nhân đã trở nên lỗi thời không phù hợp.Song đây cũng là cơ sở quan trọng để tác giả kế thừa và phát triển nghiên cứu của mình về nhân cách của thế hệ trẻ hiện nay.
1.3. Các công trình nghiên cứu về thế hệ trẻ Thế hệ trẻ là thế hệ tƣơng lai của đất nƣớc, là thế hệ cần đƣợc mỗi gia đình và cả xã hội quan tâm, chăm lo phát triển. Đến nay đã có nhiều tài liệu nghiên cứu quan trọng về đối tƣợng này. Cụ thể:
Đinh Thị Vân Chi (2003) đã có nghiên cứ về “Nhu cầu giải trí của thanh niên: Sách tham khảo”, [20]. Nhu cầu vui chơi, giải trí của thanh niên là một nhu cầu tất yếu và cần đƣợc cha mẹ quan tâm, định hƣớng cho thế hệ trẻ. Bởi vì tuổi trẻ nhu cầu vui chơi, giải trí, tiếp thu học hỏi những cái mới bên ngoài xã hội rất cao và rất dễ bị ảnh hƣởng bởi “thần tượng”, trò chơi, bởi những ngƣời nổi tiếng. Cho nên bố mẹ cần đặc biệt quan tâm, hƣớng dẫn, định hƣớng cho thế hệ trẻ trong lĩnh vực này.
Trần Thị Cẩm (2005), “Tâm lý trẻ và giáo dục trong gia đình”,[21]. Đây là cuốn sách tâm lý bổ ích, trang bị cho gia đình những hiểu biết nhất định về con trẻ ở “lứa tuổi từ sơ sinh” đến “tuổi vào đời”; từ đó tác giả đƣa ra những phƣơng pháp giáo dục phù hợp với các tình huống, những vấn đề tâm lý ở trẻ và bố mẹ gặp phải trong nuôi dạy con cái trong gia đình. Đây là cơ sở nghiên cứu quan trọng giúp cho tác giả kế thừa phân tích về thực trạng và giải pháp phát huy vai trò của gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
Đặng Vũ Cảnh Linh (2003) về: “Vị thành niên và chính sách đối với vị thành niên” [55], cuốn sách đã phân tích đặc điểm lứa tuổi vị thành niên. Trên cơ sở những đặc trung riêng có của lứa tuổi này tác giả phân tích thực tế những chính sách đã và đang áp dụng từ đó đề ra một số giải pháp đối với trẻ vị thành niên.
Trần Thị Hƣơng Lan (2004): “Tìm hiểu Thế giới Tâm lý của tuổi vị thành niên”, [51]. Đây cũng là cuốn sách phân tích về đặc điểm tâm lý của lứa tuổi có nhiều sự phát triển, biến động. Tác giả giúp cho các gia đình “đối mặt” với những nét tâm lý đặc trƣng của lứa tuổi “dậy thì”.
Viện Chiến lƣợc và chƣơng trình giáo dục; Văn phòng UNESCO (2006) có: “Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn: Tài liệu hướng dẫn giáo viên” [124]. Trẻ em sinh sống trong xã hội phát triển cần phải đƣợc
12
trang bị những kỹ năng thích hợp để hòa nhập với cộng đồng ,với xu thế toàn cầu hóa. Đặc biệt đối với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn cần phải đƣợc giáo dục một số giá trị sống, rèn luyện kỹ năng sống càng quan trọng bởi vì các em là những đối tƣợng cần tự mình vƣơn lên trên hoàn cảnh. Giai đoạn còn nhỏ tuổi là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ƣớc mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động,…Vì vậy, việc giáo dục giá trị sống ,rèn luyện kỹ năng sống cho thế hệ trẻ nói chung là rất cần thiết. Kỹ năng sống cơ bản của trẻ em bao gồm kỹ năng ứng xử hợp lí với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm ; kỹ năng rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe; kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nƣớc và các tai nạn thƣơng tích khác; kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội; suy nghĩ và hành động tích cực; học tập tích cực…
Tác giả Campbell, Ross; Suggs, Rob; với cuốn: “Teen cần gì ở cha mẹ?: Để teen thật sự cân bằng trong thế giới mất cân bằng” do Phƣơng Oanh: Dịch; Phƣơng Thảo: Hiệu đính (2007), [15]. Tuổi Teen - cụm từ gợi lên cảm xúc và những câu hỏi phức tạp đối với các bậc cha mẹ: "Thời gian đã qua ƣ?" thƣờng kéo theo "Đứa con thân yêu của tôi đã đi những đâu?". Thời gian trôi đi trong gia đình những đứa trẻ lớn lên; đồng thời bố mẹ cũng không gẫn gũi, ôm ấp nhƣ khi con còn nhỏ và tƣởng chừng nhƣ khoảng cách xa hơn giữa cha mẹ và con cái.
Xã hội biến đổi nhanh chóng từng ngày, các phƣơng tiện truyền thông và những thay đổi về tâm sinh lý khiến những bạn trẻ tuổi vị thành niên phải chịu nhiều áp lực hơn bao giờ hết. Ngƣợc lại, các bậc phụ huynh thì vẫn coi con cái mình nhƣ những đứa trẻ khiến chúng cảm thấy cuộc sống trở nên thật tồi tệ. Vậy cha mẹ cần phải làm gì? "Teen cần gì ở cha mẹ?" trở thành cuốn sách hƣớng dẫn cung cấp cho bạn những phƣơng thức tích cực để giải quyết vấn đề khó khăn trong nuôi dạy con cái. Luôn cho con cái thấy rằng bạn yêu chúng chừng nào và đang giúp chúng kiểm soát sự giận dữ của mình một cách tích cực. Đó chính là nền móng để bạn trở thành những ông bố bà mẹ lý tƣởng của con cái tuổi Teen trong thế kỷ XXI. Bác sỹ Ross Campell với hơn 30 năm kinh nghiệm tƣ vấn cho hàng ngàn gia đình nói rằng các bậc phụ huynh vẫn có một ảnh hƣởng rất lớn đến cuộc sống của con cái mình khi chúng đã đến tuổi vị thành niên. "Teen cần gì ở cha
13
mẹ?" không chỉ đƣa ra những phân tích thực tế trong bối cảnh đời sống của tuổi vị thành niên hiên nay mà còn chỉ ra những phƣơng hiệu quả để dạy dỗ con cái trong giai đoạn có nhiều xáo động này. Bạn sẽ học đƣợc cách: Nhận ra sự cáu giận bất thƣờng của con và phƣơng pháp giải quyết tình trạng đó; Cân bằng tự do và kỷ luật một cách linh hoạt; Giúp con bạn tìm ra ý nghĩa đúng đắn và đích thực của tình dục; Hiểu về sự tác động của truyền thông đối với thế hệ @.
Những nghiên cứu của tác giả Lƣu Song Hà (2008) về: “Cách thức cha mẹ quan hệ với con và hành vi lệch chuẩn của trẻ”, [32]. Bộ phận thanh niên vi phạm đạo đức và có những hành vi lệch chuẩn có sự tác động rất lớn từ môi trƣờng sống, đặc biệt là từ gia đình. Đặc biệt là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Những kết quả nghiên cứu cho thấy trong nhiều gia đình có con ở độ tuổi học sinh trung học cơ sở cùng song song tồn tại 3 kiểu quan hệ: tin tƣởng – bình đẳng; bàng quan – xa cách và nghiêm khắc - cứng nhắc. Trên thực tế, tồn tại một tỷ lệ đáng lo ngại học sinh trung học cơ sở có hành vi lệch chuẩn. Những học sinh trung học cơ sở bị cha mẹ đối xử bàng quan – xa cách có xu hƣớng vi phạm nhiều chuẩn mực hành vi hơn những em đƣợc cha mẹ đối xử tin tƣởng - bình đẳng. Qua nghiên cứu này, tác giả luận án tiếp thu kế thừa trong phát triển vai trò của gia đình trong vai trò tâm lý, tình cảm hình thành phát triển tâm hồn, phẩm chất trong nhân cách của thế hệ trẻ hiện nay.
Đồng chủ biên Ngô Đức Anh; Ross, Micheal W.; Ratliff, Eric A. (2009) xuất bản cuốn sách về: “Ảnh hưởng của Internet lên thực hành tình dục trong thanh thiếu niên Hà Nội, Việt Nam”[2]. Trong khi những ảnh hƣởng của Internet vấn đề tình dục có nhiều tác động làm thay đổi tƣ duy, lối sống của nhiều bộ phận ngƣời dân trong xã hội Việt Nam so với truyền thống. Nhƣng với thế hệ trẻ - thế hệ kế thừa sự phát triển giao thoa của truyền thống xã hội phƣơng Đông và sự bùng nổ ồ ạt của nguồn tri thức, thông tin của xã hội hiện đại phƣơng Tây qua Internet đã và đang làm cho giới trẻ hoang mang, lo lắng, “hỗn loạn” trong sự giáo dục, trong thực tiễn của gia đình và xã hội. Những câu chuyện của thanh thiếu niên cũng chỉ ra cách họ sử dụng Internet nhƣ một phƣơng tiện để thể hiện nhân dạng và ham muốn tình dục. Qua những phát hiện trong nghiên cứu, cuốn sách cho rằng nên mở rộng giáo dục tình dục để có thể đề cập đƣợc những vấn đề quan trọng với thanh thiếu niên nhƣ cảm xúc và các
14
mối quan hệ, hơn là đơn giản chỉ tập trung bó hẹp trong sức khoẻ sinh sản, y tế công cộng và các mối quan tâm khác của nhà nƣớc.
Viện Gia đình và Giới (2013) đã nghiên cứu vấn đề: “Nuôi dưỡng trẻ nhỏ ở một số địa phương của Việt Nam: Thực tiễn và Hàm ý chính sách” [127]. Tài liệu đƣợc thực hiện trên cơ sở nguồn dữ liệu khảo sát tiến hành tại 8 tỉnh/thành phố của Việt Nam vào năm 2012 về vấn đề dinh dƣỡng chăm sóc trẻ nhỏ của các gia đình. Tài liệu cho thấy thói quen và tƣ duy chăm sóc sức khỏe dinh dƣỡng cho trẻ nhỏ ở nƣớc ta trong những năm gần đây có sự phát triển lớn về tƣ duy và sự đầu tƣ về thời gian và tiền bạc. Tuy nhiên tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục từ ngay trong nhận thức về chăm sóc. Tác giả kế thừa những nội dung nghiên cứu trên để phát triển nội dung vai trò gia đình trong chăm sóc sức khỏe, phát triển thể lực cho thế hệ trẻ hiện nay.
Luật thanh niên – 2005, Nhà xuất bản Lao Động [58], quy định trách nhiệm và nghĩa vụ công dân đối với thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến ba mƣơi tuổi. Trên cơ sở luật mà nhà nƣớc ban hành là cơ sở để tác giả nghiên cứu về những quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm công dân của thế hệ trẻ ỏ độ tuổi đủ tuổi thanh niên; đồng thời đây là cơ sở để tác giả nhìn nhận những vấn đề thực tiễn khi thế hệ trẻ bị lợi dụng, lạm dung, bị xâm hại…hay tham gia vào các tệ nạn xã hội và hành vi vi phạm pháp luật.
Trên đây là những công trình nghiên cứu khái quát về đặc điểm tâm sinh lý của thế hệ trẻ và những chính sách, pháp luật và sự quan tâm của toàn xã hội vì mục tiêu phát triển thế hệ nguồn nhân lực kế cận tƣơng lai của đất nƣớc. Những nghiên cứu đã đƣa ra những những đánh giá toàn cảnh về sự phát triển của thế hệ trẻ đặc biệt là đối tƣợng trẻ em dƣới 18 tuổi, nhƣng có nhiều thực trạng biến đổi trong sự phát triển của thế hệ trẻ hiện nay chƣa đƣợc nhắc đến nhƣ tình trạng bạo lực học đƣờng, chảy máu chất xám ở độ tuổi ngày càng nhỏ,… Hay nhiều tác động tiêu cực từ gia đình mà trong thực tế xã hội lại cho rằng đó là vai trò tích cực nhƣ: việc hy sinh của cha mẹ để nuôi con ăn học ngay cả khi con trƣởng thành trên 18 tuổi làm cho thế hệ trẻ nƣớc ta nói chung thiếu tự lập; thiếu tinh thần trách nhiệm và ỷ lại vào gia đình; hay việc làm thay con mọi công việc mà lẽ ra trẻ phải làm tùy thuộc vào độ tuổi để tự chăm sóc bản thân và có trách nhiệm với gia đình và cộng đồng và gia đình coi đó là sự yêu thƣơng con cái hết mực,… Cho nên trên thực tế còn nhiều ngƣời trƣởng thành trên 30 tuổi vẫn còn chƣa có trách nhiệm với chính bản thân mình mà còn phụ thuộc vào cha mẹ.
15
Tuy nhiên, đây là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để tác giả nghiên cứu về những yếu tố đặc điểm thể chất, tâm lý, sinh lý và các yếu tố tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở Việt Nam và tỉnh Hải Dƣơng
2.1. Các nghiên cứu về thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ỏ Việt Nam
Gia đình có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong suốt cuộc đời mỗi con ngƣời từ khi sinh ra, trƣờng thành và già cả. Gia đình có những chức năng riêng biệt mà không một tổ chức, đảng phái, đoàn thể… nào có thể thay thế đƣợc. Chính vì vậy có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của gia đình ở nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau. Dƣới đây là những nghiên cứu về vai trò của gia đình đối với con cái – thế hệ trẻ trong gia đình.
Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm (1980) cuốn sách: "Dạy con yêu lao động" [74]. Nội dung cuốn sách tập trung phân tích vai trò của lao động và chỉ ra phải giáo dục lao động cho trẻ ở từng độ tuổi. Muốn cho con cái của chúng ta lớn lên đƣợc mạnh khỏe, vui tƣơi, yêu đời và cống hiến đƣợc nhiều cho xã hội, thì lúc còn nhỏ phải đƣợc giáo dục về lao động. Hoạt động lao động bao gốm: lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã hội. Cuốn sách bổ sung cho cơ sở lý luận quan trọng cho tác giả : lao động là nguồn gốc quan trọng của ý thức, của sự tách biệt con ngƣời ra khỏi thế giới loài vật và hình thành, phát triển các phẩm chất xã hội, nhân cách ở trẻ em. Từ đó tác giả luận án đƣa ra các giải pháp cụ thể trên cơ sở lao động là một trong những nguồn gốc cơ bản của sự phát triển ý thức và lao động xây dựng nên những nhân cách cá nhân.
Tác giả Klein, Ted; Nguyễn Khánh Du: Dịch và xuất bản 1991 về: “Cẩm nang của người cha” [95]. Cuốn sách trang bị những kiến thức chăm sóc, dạy bảo con cái dành riêng cho ngƣời cha trong gia đình. Đồng thời phân tích tâm lý trẻ em trong mối quan hệ với cha mẹ; trong vai trò ngƣời làm cha trong gia đình mỗi ông bố cần phải biết. Đây là cơ sở lý luận giúp tác giả nghiên cứu về vai trò ngƣời cha trong giáo dục, tác động tới đời sống tâm lý, tính cách, tâm hồn thế hệ trẻ; và đây là cơ sở nhận thấy vai trò của ngƣời cha trong gia đình truyền thống và hiện đại có sự khác biệt.
16
Giai.Not, H.G,“Thuật ứng xử giữa cha mẹ và con cái; do Nguyễn Văn Toại: Dịch (1993), [75]. Cuốn sách trang bị cho các bậc cha mẹ về nghệ thuật ứng xử của cha mẹ với con cái trong xã hội hiện đại. Đây là tài liệu hỗ trợ quan trọng cho các gia đình trong nuôi dạy và giáo dục thế hệ trẻ. Cuốn sách là cẩm nang đầy tính thực tiễn, đƣa ra các biện pháp rất cụ thể cung cấp cho mỗi cha mẹ cách giải quyết hàng loạt vần đề nảy sinh thƣờng xuyên giữa cha mẹ và con cái nhƣ: việc tiếp xúc trò chuyện, ngợi khen - phê bình, cha mẹ phải tìm hiểu ý thức trách nhiệm, tính tự lập của trẻ, những giới hạn kỷ luật cho phép, hay tính ghen tị, nỗi sợ hãi trẻ thơ... Là cha mẹ phải tìm hiểu và khi hiểu đƣợc trẻ, cha mẹ có thể thông cảm và san sẻ mọi điều với trẻ dƣới góc độ là những “ngƣời bạn lớn”. Đây là cơ sở tác giả luận án kế thừa đƣa ra những nội dung, phƣơng pháp giáo dục phù hợp trong gia đình hiện nay.
Nguyễn Thị Hoài Đức: Biên soạn xuất bản 1997: “Cha mẹ với tuổi vị thành niên” [23]. Tác giả phân tích những biến đổi về tâm sinh lý của con trẻ trong độ tuổi vị thành niên. Độ tuổi có sự nhạy cảm về tâm lý, sự thay đổi sinh lý. Chính bản thân mỗi con ngƣời khi đổi mặt với giai đoạn này cũng gặp rất nhiều vấn đề trở ngại. Tác giả đã chỉ ra những đặc điểm của lứa tuổi này và sự cần thiết phải quan tâm, chăm sóc, hiểu biết của các bậc cha mẹ với con cái họ.
Lê Thi (1997), "Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam" , Nhà xuất bản Phụ nữ [106]. Tập thể các tác giả cho rằng, những thành tựu to lớn của cách mạng khoa học và công nghệ trong những năm cuối thế kỷ XX, đang đƣa lại những khả năng sáng tạo, trí thông minh tuyệt vời cho con ngƣời và hứa hẹn đem lại những tiến bộ vƣợt bậc cho cuộc sống của cá nhân, gia đình, xã hội cả về vật chất và tinh thần. Các tác giả cũng khẳng định sự phát triển của xã hội không thể tách rời sự phát triển của con ngƣời và vai trò của con ngƣời trong việc bồi dƣỡng, xây dựng nhân cách con ngƣời.
Lê Nhƣ Hoa (2001) có nghiên cứu về: “Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em” [34]. Tác giả đi sâu nghiên cứu những giá trị văn hóa trong gia đình tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Tác giả đã chỉ rõ tác động hai chiều của văn hóa tới nhân cách trẻ em, tuy nhiên chƣa khái quát đƣợc quá trình biến đổi hệ giá trị văn hóa xã hội và giá trị gia đình là tất yêu trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó tác giả triển khai, làm rõ những yếu tố tác động từ văn hóa gia đình truyền thống và giá trị gia đình
17
hiện đại trong các gia đình hiện nay, ảnh hƣởng tới sự hình thành, phát triển nhân cách lớp thế hệ trẻ.
Nguyễn Thanh Bình: Chủ biên xuất bản 2001 nghiên cứ về: “Những vấn đề cấp bách trong giáo dục con ở tuổi thiếu niên trong gia đình thành phố hiện nay”, [7]. Tác giả phân tích điều kiện kinh tế - xã hội tác động các gia đình thành phố, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa làm cho gia đình có sự biến đổi lớn. Đặc biệt lứa tuổi thiếu niên trong gia đình là độ tuổi nhạy cảm, chịu những tác động nhanh từ điều kiện tác động bên ngoài. Từ đó tác giả chỉ ra các vấn đề cấp bách phải giáo dục con cái trong độ tuổi thiếu niên.
Nguyễn Linh Khiếu (Chủ biên), (2003), “ Gia đình trong giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên”, [48]. Tác giả nghiên cứu chỉ rõ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho lứa tuổi vị thành niên. Đồng thời phân tích những tích cực, hạn chế yếu kém của gia đình trong việc trang bị cho con cái những kiến thức về sức khỏe sinh sản. Tác giả cũng đƣa ra những giải pháp nâng cao nhận thức cho các thành viên trong gia đình về sức khỏe sinh sản.
Văn Thị Kim Cúc - Chủ biên xuất bản năm 2003: “Những tổn thương tâm lý của thiếu niên do bố mẹ ly hôn”, [19]. Trẻ em trong những gia đình có bố mẹ ly hôn có những tác động tâm lý rất lớn, cuốn sách trang bị kiến thức bổ ích cho những gia đình có vấn đề về hôn nhân. Từ những tổn thƣơng tâm lý này tác giả cũng chỉ ra đó có thể là những nguyên nhân của tệ nạn xã hội, tội phạm vị thành niên, bạo lực gia đình… và là nguyên nhân của bệnh lý tinh thần sau này.
Trịnh Văn Thắng (2004) đã nghiên cứu khía cạnh “tế nhị” trong gia đình -
“Giao tiếp giữa bố mẹ và vị thành niên về tình dục: Nội dung, rào cản và động
cơ giao tiếp” [103]. Tình dục là một vấn đề “khó nói” trong các gia đình Việt
Nan hiện nay nói chung bởi rào cản về phong tục tập quán và văn hóa. Trong
những năm gần đây vấn đề này đã bƣớc đầu đƣợc đem giảng dạy trong nhà
trƣờng, ngoài xã hội và các bậc cha mẹ quan tâm. Tuy nhiên thực tế hiện nay
việc trao đổi, giao tiếp giữa các bậc cha mẹ và con cái với vấn đề tình dục còn
nhiều hạn chế so với sự phát triển của xã hội cùng những sự phát triển nói riêng
về khía cạnh tình dục trọng cuộc sống ngày nay. Nhìn chung hiểu biết về tình
dục của cả bố mẹ và con cái tuổi vị thành niên con nhiều hạn chế tồn tại. Cho
nên thông qua cuốn sách tác giả cũng đã trang bị cho các gia đình kiến thức quan
18
trọng về vấn đề đƣợc coi là “tế nhị” mà các thành viên trong gia đình cần phải
đƣợc trang bị.
Ngoài những công trình nêu trên còn có một số luận án nghiên cứu về vai
trò của gia đình nhƣ:
Lê Thị Thủy: “Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách của
con ngƣời Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay”,[111], Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000. Tác giả phân
tích vai trò của đạo đức trong sự hình thành nhân cách con nguời Việt nam về
thực trạng đạo đức xã hội hiện tại tác động tích cực và sự xuống cấp của đạo đức
xã hội ảnh hƣởng tới nhân cách con ngƣời. Từ đó tác giả đƣa ra những giải pháp
nâng cao vai trò của đạo đức với sự hình thành nhân cách con ngƣời trọng giai
đoạn tiếp theo.
Nguyễn Đức Mạnh, Luận án tiến sĩ xã hội học, (2003), Vai trò của gia
đình đối với việc giáo dục trẻ em hƣ ở thành phố; qua nghiên cứu ở Hà Nội,
[71]. Cũng là những nghiên cứu về chức năng giáo dục của gia đình nhƣng ở đây
tác giả nghiên cứu đối tƣợng, phạm vi là trẻ em hƣ ở thành phố, qua nghiên cứu
ở khu vực thủ đô Hà Nội.
Không có nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp nhƣng có những đánh giá,
tài liệu sơ lƣợc về vai trò của gia đình đối với sự hinh thành và phát triển nhân
cách thế hệ trẻ. Tuy nhiên các nghiên cứu trên đã đƣa ra những vị trí, chức năng,
vai trò của gia đình của gia đình đối với sự phát triển chung của trẻ và các mối
quan hệ của gia đình tác động tới sự phát triển nói chung và nhân cách thế hệ trẻ
nói riêng. Cho nên, những nghiên cứu này là cơ sở quan trọng để tác giả kế thừa
trong những nghiên cứu của đề tài.
Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhân cách, giáo dục nhân cách,
vai trò của gia đình, giáo dục đạo đức, nhƣng đến nay vẫn chƣa có công trình
khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách trực tiếp có hệ thống về: “Vai trò của
gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải
Dương hiện nay”. Vì vậy đề tài luận án không trùng lặp với các công trình đã
đƣợc công bố. Những tài liệu trên giúp ích cho tác giả trong việc tham khảo để
nghiên cứu đề tài viết luận án.
19
2.2. Những đánh giá về thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dương
Thứ nhất, các tài liệu đánh giá về gia đình thực trạng phát triển gia đình
Hải Dƣơng trong những năm gần đây.
Chƣa có những công trình nghiên cứu bài bản về việc thực hiện vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng trong những năm gần đây. Tuy nhiên có những báo cáo, tống kết, đánh giá trên quy mô toàn tỉnh về công tác gia đình, xây dựng phát triển gia đình. Cụ thể các báo cáo tổng kết công tác xây dựng và phát triển gia đình trền tất cả các lĩnh vực của Sở Văn hóa Hải Dƣơng các năm: Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng: Báo cáo công tác gia đình năm 2015, [85]; Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 49-CT/TW ngày 21/01/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng, [86]; Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng: Tình hình thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và các văn bản, đề án thực hiện công tác gia đình giai đoạn 2011-2015, [87]; Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng: Báo cáo tình hình thực hiện “Đề án tuyên truyền truyền giáo dục đạo đức, lối sống tròn gia đình Việt Nam giai đoạn 2010 -2015” [89]; Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng: Báo cáo kết quả thực hiện công tác gia đình năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ năm 2017, [90]; Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương năm 2016, [91]; Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng: Báo cáo đánh giá kết quả công tác gia đình giai đoạn 2011 - 2015; Mục tiêu, phương hướng và giải pháp thực hiện giai đoạn 2016 – 2020, [93]; Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng, (2015) , Báo cáo: Tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2015 – 2020, [115]; Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng, Báo cáo: Tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, [116]; Sở kế hoạch đầu tƣ tỉnh Hải Dƣơng, (2017), Báo cáo: Tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, [94]; Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng, Báo cáo: Tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch
20
phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, [117]; Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng, Báo cáo: Tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 3 tháng đầu năm và một số nhiệm vụ trọng tâm trong quý 2 năm 2018, [118].
Các tài liệu trên đã cung cấp cho tác giả những tài liệu, số liệu tổng hợp
quan trọng về điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh và các gia đình ở tình Hải
Dƣơng trong tỉnh giai đoạn 2015 – 2017; những thành tựu đạt đƣợc, hạn chế cần
khắc phục; những thuận lợi và khó khăn cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ
của gia đình trong những năm gần đây. Đồng thời cũng chỉ ra những phƣơng
hƣớng giải pháp tháo gỡ khó khăn và phát triển gia đình trong giai đoạn tiếp
theo. Trên cơ sỏ kế thừa các số liệu tổng hợp đánh giá, tác giả luận án phân tích
cơ sở lý luận, mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện vật chất và điều kiện tinh
thần của xã hội. Với những số liệu báo cáo nhƣ trên giúp tác giả luận chứng cho
những nghiên cứu, đánh giá, tổng hợp của mình.
Thứ hai, những tài liệu về thực trạng phát triển học tập và rèn luyện đạo
đức, lối sống của thế hệ trẻ Hải Dƣơng trong những năm gần đây của ban chấp
hành đoàn tỉnh Hải Dƣơng: Ban chấp hành đoàn tỉnh Hải Dƣơng, (2015) Báo
cáo kết quả công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi năm giai đoạn 2010 – 2015,
[12]; Ban thƣờng vụ tỉnh đoàn (2016), Báo cáo kết quả công tác đoàn và phong
trào thanh thiếu nhi năm 2016, [13]; Ban thƣờng vụ tỉnh đoàn (2017); Ban chấp
hành đoàn tỉnh Hải Dƣơng, (2017), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Tỉnh
đoàn Hải Dƣơng khóa XII tại Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh
Hải Dƣơng lần thứ XIII – năm 2017: Xây dựng đoàn vững mạnh; tăng cường
giáo dục lý tưởng cách mạng; đạo đức, lối sống văn hóa cho thể hệ trẻ; cổ vũ
thanh niên thi đua học tập, khởi nghiệp, sáng tạo, xung kích, tình nguyện xây
dựng tỉnh Hải Dương giàu mạnh, văn minh, [14]. Các báo cáo cung cấp cho tác
giả sự tổng hợp các hoạt động của các đoàn viên, thanh thiếu niên, nhi đồng
trong tỉnh Hải Dƣơng từ năm 2010 đên nay. Bên cạnh đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiên, đề ra các phƣơng hƣớng giải pháp nhằm phát triển toàn diện thế hệ trẻ
trong tỉnh. Đây là căn cứ quan trọng để tác giả đƣa ra các giải pháp cụ thể phát
huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ
trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
21
Các báo cáo này cung cấp số liệu thực tế quan trọng giúp tác giả đánh giá quy mô, cơ cấu sự phát triển của gia đình và thế hệ trẻ; bên cạnh đó là sự phát triển về y tế, giáo dục, văn hóa xã hội của tỉnh đối với gia đình và thế hệ trẻ của tỉnh. Từ đó tác giả đi tới nghiên cứu đề tài nhằm phát huy vai trò của gia đình ở Hải Dƣơng hiện nay tới sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ trong tỉnh.
3. Những nghiên cứu về định hƣớng, giải pháp nhằm phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay
Nghiêm Sĩ Liêm, Luận án tiến sĩ triết học, (2001) “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nƣớc ta hiện nay”, [53]. Luận án đã nghiên cứu chức năng giáo dục của gia đình thực trạng, một số vấn đề đặt ra và giải pháp đẩy mạnh vai trò giáo dục của gia đình đối với sự phát triển của thế hệ trẻ hiện nay. Tác giả kế thừa những nghiên cứu về biện pháp nâng cao chức năng giáo dục của gia đình – chức năng cơ bản của sự hình thành và phát triển nhân cách cho con ngƣời.
Dƣơng Văn Bóng, Luận án tiến sĩ triết học, (2003)“Đổi mới việc thực hiện chức năng giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ trong gia đình nông dân Việt Nam hiện nay, [3]. Đề tài đã đi sâu nghiên cứu chức năng giáo dục của gia đình với thế hệ trẻ nhƣng đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu hẹp hơn đó là những gia đình nông dân sống tập trung khu vực nông thôn. Tác giả kế thừa, cụ thể những giải pháp phát huy vai trò giáo dục của gia đình nhằm hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
Nguyễn Đức Mạnh, Luận án tiến sĩ xã hội học, (2003) “Vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ em hƣ ở thành phố; qua nghiên cứu ở Hà Nội, [71]. Cũng là những nghiên cứu về chức năng giáo dục của gia đình nhƣng ở đây tác giả nghiên cứu đối tƣợng, phạm vi là trẻ em hƣ ở thành phố, qua nghiên cứu ở khu vực thủ đô Hà Nội. Tác giả luận án kế thừa những hƣớng biện pháp tiếp cận giải quyết các trẻ em đặc biệt trong gia đình có trẻ em hƣ.
Những nghiên cứu trên đa phần tập trung đƣa ra những giải pháp nhằm thực hiện vai trò giáo dục của gia đình đối với sự phát triển của trẻ em. Tuy nhiên gia đình có nhiều vai trò, chức năng đặc biệt tác động toàn diện đến sự phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ chƣa đƣợc các tác giả nghiên cứu rõ. Trên cở
22
sở những nghiên cứu trên, tác giả kế thừa và vận dụng, phát triển đƣa ra những giải pháp phù hợp phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
Riêng ở tỉnh Hải Dƣơng trong những báo cáo về công tác phát triển gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng - đã vạch ra những phƣơng hƣớng quan điểm chỉ đạo, giải pháp nhằm phát huy vai trò của gia đình nói chung với mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ. Tác giả luận án trên cơ sở đó kế thừa phát triển những phƣớng hƣớng, biện pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án Qua tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án cho
thấy vấn đề này đã đƣợc nghiên cứu ở các phƣơng diện sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về gia đình phản ánh cơ bản và hệ thống về sự phát triển và biến đổi của gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Trong các nghiên cứu về gia đình, nội dung chủ yếu đƣợc nói đến vai trò giáo dục của gia đình. Các công trình này chƣa đi sâu nghiên cứu vào nội dung cụ thể phát huy từng vai trò: chăm sóc sức khỏe, phát triển thể chất tạo nền tảng sinh học cho nhân cách thế hệ trẻ; vai trò nuôi dƣỡng phát triển tâm hồn cho mỗi cá nhân; vai trò giáo dục tri thức, kinh nghiệm sống, kỹ năng sống cơ sở hình thành, phát triển nhân cách thế hệ trẻ; vai trò của gia đình trong điều chỉnh và định hƣớng sự phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ đã tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau nhƣng đều tập trung vào nội dung giáo dục đạo đức bao gồm nhiều nội dung nhƣ: giáo dục đạo đức, văn hóa, thẩm mỹ, tâm lý, giới tính, nghề nghiệp… nhƣng chƣa chỉ ra thực trạng hiện nay nội dung giáo dục trong gia đình gặp rất nhiều mâu thuân, thậm chí khủng hoảng lựa chọn hệ giá trị; xem nhẹ giáo dục lao động chân tay; chƣa ý thức rõ vai trò và chƣa đầu tƣ thỏa đáng hoạt động rèn luyện thể chất cho thế hệ trẻ, quá đề cao việc học tri thức lý thuyết, sách vở; hoang mang giữa sự phát triển bùng nổ của những thông tin đa chiều…
Trong từng vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay, tác giả phân tích những điểm
23
mới, vấn đề mới trong vai trò của gia đình trƣớc quy luật phát triển tất yếu của gia đình hiện nay. Từ đó đƣa ra những giải pháp phù hợp sát với thực tế của sự phát triển của gia đình, thế hệ trẻ và nhân cách của thế hệ trẻ.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình trên luận án tiếp
tục triển khai nghiên cứu và làm rõ những vấn đề sau:
1. Làm rõ khái niệm: “gia đình”, “nhân cách”, “thế hệ trẻ”, “nhân cách thế hệ trẻ” “việc hình thành và phát triển nhân cách”, “vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ”.
2. Phân tích thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ và một số vấn đề đặt ra ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay. 3. Đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
24
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN CÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH CHO THẾ HỆ TRẺ
1.1. Nhân cách và tiền đề hình thành, phát triển nhân cách 1.1.1. Khái niệm và cấu trúc nhân cách 1.1.1.1. Quan niệm về nhân cách Nhân cách là một phƣơng diện đặc biệt quan trọng của mỗi con ngƣời, là mặt xã hội, là bản chất xã hội của con ngƣời. Nhân cách tồn tại trong mỗi cá nhân cụ thể. Nó là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau nhƣ triết học, xã hội học, kinh tế - chính trị học, luật học, tâm lý học, y học, giáo dục học…
Trong lịch sử triết học, quan niệm về nhân cách không tách rời quan niệm về con ngƣời. Các triết gia trong nhiều giai đoạn chƣa đề cập trực diện và sâu sắc về nhân cách, chẳng hạn họ chƣa đƣa ra quan niệm nhân cách là gì, nhân cách đƣợc hình thành nhƣ thế nào, gồm những yếu tố nào … Tuy vậy quan niệm của họ về con ngƣời, bản chất con ngƣời là cơ sở lý luận quan trọng để tìm hiểu về nhân cách con ngƣời.
a. Quan niệm về con ngƣời, bản tính con ngƣời trong lịch sử triết học trƣớc
C.Mác:
Trong triết học phương Đông, các triết gia từ Trung Hoa cổ đại đến Ấn Độ cổ đại đều xây dựng những hình mẫu con ngƣời điển hình, mẫu mực để mỗi ngƣời trong xã hội theo đó mà phấn đấu và hoàn thiện mình.
Quan điểm của triết học Trung Hoa cổ đại gắn với những nhà tƣ tƣởng lớn: Khổng Tử cho rằng bản chất con ngƣời do trời quyết định, con ngƣời tồn tại và hoạt động là do “thiên mệnh” chi phối. Ngƣời quân tử phải biết đƣợc “mệnh” của mình, để sợ mệnh, thuận mệnh và phụng mệnh. Dựa theo mức độ tu dƣỡng đạo đức, ông cho rằng xã hội gồm ba loại ngƣời: thánh nhân là bậc hiền giả, ngƣời thể hiện và chuyển giao chân lý minh triết; quân tử là ngƣời cao nhã, luôn phấn đấu để làm điều chân chính; tiểu nhân là những kẻ hèn mọn, hành động không màng tới đạo đức. Sống trong xã hội, theo Khổng Tử, bậc quân tử phải thƣờng xuyên trau dồi và thực hiện ngũ thƣờng: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; phải giữ gìn ngũ luân: quân - thần, phụ - tử, phu - phụ, trƣởng - ấu, bằng - hữu theo
25
những tiêu chuẩn đƣợc xã hội quy định: quân - thần hữu lễ, phụ - tử hữu thân, phu - phụ hữu biệt…
Ở Ấn Độ, Phật giáo là học thuyết có quan điểm về con ngƣời sâu sắc và ảnh hƣởng rộng hơn cả. Theo đó, con ngƣời là sự kết hợp giữa danh và sắc. Trong đó “sắc” là những yếu tố cấu tạo nên cơ thể vật chất của con ngƣời; còn “danh” gồm thụ, tƣởng, hành, thức chính là yếu tố tinh thần. Trong sự vận động vô thƣờng của thế giới, sự tồn tại của con ngƣời vô cùng mong manh. Trong chuỗi nhân - quả tất yếu chi phối vạn vật, kể cả con ngƣời, bản thân con ngƣời cũng sinh - trụ - dị - diệt, cũng khổ về bản chất, cũng bị chi phối bởi nghiệp báo và vì thế mà trôi nổi trong vòng luân hồi bất tận. Vậy mẫu ngƣời nào đƣợc Phật giáo hƣớng tới và giáo hóa xã hội? Đó là những con ngƣời sống thiện, luôn từ - bi - hỷ - xả, sống chân chính theo “bát chính đạo” và có thể thực hiện các phép tu khác nhƣ giới, định, tuệ … để đạt đƣợc Niết bàn, thoát khổ.
Quan điểm triết học phƣơng Đông về con ngƣời mang tính nhị nguyên: có những quan điểm duy vật ngây thơ, chất phác nhƣng cũng có quan điểm duy tâm, thần bí. Có quan điểm nhân văn, cảm thông và muốn thực hiện bình đẳng đối với con ngƣời, nhƣng phổ biến hơn cả là những quan điểm bảo vệ và chứng minh sự bất bình đẳng xã hội theo kiểu “quân tử hƣớng đến nghĩa, tiểu nhân hƣớng đến lợi”, bảo vệ lợi ích cho những thế lực đang thống trị xã hội. Mặc dù vậy, không thể phủ nhận rằng, những hình mẫu con ngƣời mà các triết gia xây dựng là những nhân cách ngƣời điển hình cho xã hội đƣơng thời. Điều kiện của xã hội luôn quy định những nhân cách của cá nhân trong xã hội đó.
Quan niệm về con ngƣời và bản tính con ngƣời trong triết học phương
Tây trước C.Mác rất phong phú, đa dạng.
Triết học Hy Lạp cổ đại hình thành từ cái nôi di sản tinh túy truyền thống của sáng tác dân gian, thi ca, thần thoại, của những tri thức khoa học tự nhiên, trong điều kiện một xã hội chiếm hữu nô lệ phát triển. Trong quan điểm về con ngƣời, các nhà triết học đều khẳng định con ngƣời là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa. Điều này thể hiện rõ trong quan điểm của tất cả các triết gia, và đƣợc diễn đạt điển hình trong quan niệm của Prôtago: con ngƣời là thƣớc đo tất thảy mọi vật.
Xôcrat là triết gia đƣợc ngƣời Hy Lạp đƣợc hâm mộ và kính trọng. Xôcrat không chú tâm nghiên cứu thế giới nhƣ toàn bộ các triết gia Hy Lạp khác, bởi
26
một lẽ đơn giản, theo ông thế giới đã đƣợc thần thánh an bài, đã hoàn hảo lắm rồi. Ông hƣớng triết học vào nghiên cứu con ngƣời, cho rằng triết học là nhận thức của con ngƣời về chính bản thân con ngƣời. Ông kêu gọi “con ngƣời hãy nhận thức chính mình”. Trên cơ sở nhận thức bản thân mình con ngƣời mới hiểu đƣợc cái thiện và cái ác để từ đó mà hành động có đạo đức. Ông đặc biệt đề cao vai trò của tri thức, khái niệm trong hoạt động của con ngƣời. Tri thức là nền tảng của đạo đức; tri thức giúp con ngƣời sống hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Triết học phải giúp con ngƣời trang bị tri thức, từ đó sống tốt, sống thiện. Nhƣ vậy, trong lý tƣởng và chủ trƣơng của Xôcrat, con ngƣời phải có hiểu biết, có tri thức, sống có đạo đức, chính tri thức của mỗi ngƣời là điều kiện để con ngƣời sống có đạo đức và từ đó đóng góp cho xã hội. Hiểu biết là nền tảng và điều kiện để con ngƣời thƣờng xuyên “tự nhận thức mình”, điều chỉnh mình cho hợp với “cái thiện phổ biến”. Tƣ tƣởng của Xôcrat đƣợc rất nhiều học trò của ông truyền bá và ảnh hƣởng lớn đến xã hội Tây Âu. Bản thân Xôcrat là một nhân cách lớn đƣơng thời, với kiến thức sâu rộng, uyên bác, với sự thông minh, tế nhị và khiêm tốn, luôn đƣợc đông đảo học trò cũng nhƣ ngƣời dân Hy Lạp cổ đại ngƣỡng mộ.
Suốt thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tƣ bản từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, đƣợc sự cổ vũ của sản xuất công nghiệp, của giai cấp tƣ sản cách mạng, của vô số các thành tựu khoa học, các triết gia Tây Âu, trong khi vẫn miệt mài “hƣớng ngoại” để nghiên cứu, tiến tới chinh phục, làm chủ thế giới đã có những bƣớc tiến quan trọng trong triết học xã hội, trong đó những nội dung liên quan đến con ngƣời và nhân cách con ngƣời.
Các triết gia thời Phục hưng quan niệm con ngƣời là một thực thể có trí tuệ và hƣớng con ngƣời tới sự tự do, sáng tạo. Triết học thời kỳ này mang tính cách mạng chống lại những quan điểm duy tâm tôn giáo một cách triệt để, hƣớng tới giải thoát con ngƣời ra khỏi những khuôn khổ, gông cùm của xã hội phong kiến và giáo hội, khôi phục và phát triển thêm những quan điểm tiến bộ về con ngƣời, bản chất con ngƣời của triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại.
Hầu hết các triết gia tƣ sản thời cận đại đều đƣa ra những chủ trƣơng mở mang hệ thống giáo dục, nâng cao dân trí, hoàn thiện pháp luật, khắc phục tha hóa xã hội … để xây dựng các cá nhân tự do, có tri thức, nhờ tri thức của mình,
27
các cá nhân đó trở thành những chủ thể đầy sức mạnh, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên để phục vụ nhu cầu của chính mình.
Triết học cổ điển của Đức với những đại biểu vĩ đại Kant, Hegel, Feuerbach đặc biệt quan tâm và đề cao con ngƣời, xuất phát từ con ngƣời để triển khai các nội dung triết học khác. Những con ngƣời - cá nhân với nhân cách điển hình cho xã hội đƣợc các triết gia xây dựng theo lập trƣờng của mình.
Nhìn chung, các quan niệm trong triết học trƣớc C.Mác, dù là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đều không phản ánh đúng về con ngƣời và bản chất con ngƣời. Các quan niệm đã có đều xem xét con ngƣời chung chung, trừu tƣợng, hoặc là tuyệt đối hoá mặt tinh thần - xã hội, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác - tự nhiên, sinh học của con ngƣời. Ngoài ra có thể thấy triết học phƣơng Đông và phƣơng Tây có những quan niệm về con ngƣời và tính ngƣời khác nhau. Nếu nhƣ triết học phƣơng Đông nhìn nhận, đánh giá con ngƣời chủ yếu theo cách hòa trộn con ngƣời, chính trị và đạo đức, chủ yếu đề cập đến những con ngƣời chính trị - xã hội, quan niệm con ngƣời và tự nhiên có quan hệ hài hòa thống nhất, con ngƣời nƣơng tựa, thuận theo tự nhiên; thì triết học phƣơng Tây lại đề cao tinh thần đấu tranh vƣơn lên làm chủ thế giới, con ngƣời luôn đƣợc xem xét từ vị trí chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên để tự nhiên phục vụ chính mình.
Quan niệm về con người và nhân cách con người trong triết học Mác- Lênin: Kế thừa có chọn lọc những thành tựu tinh thần của các thế hệ trƣớc, từ lập trƣờng duy vật và phƣơng pháp biện chứng, C.Mác, Ph.Ăngghen và sau này là V.I.Lênin đã xây dựng quan niệm khoa học về con ngƣời, cá nhân và nhân cách con ngƣời. Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, C.Mác chỉ ra hạn chế của Feuerbach trong việc xem xét con ngƣời nhƣ là một cơ thể sinh vật có ý thức và tình cảm, nhƣ tình yêu, tình bạn, không thấy mặt xã hội và hoạt động thực tiễn của con ngƣời. C.Mác vạch rõ: “Bản chất con ngƣời không phải là một cái trừu tƣợng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con ngƣời là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” [61, 11].
Sự hình thành con ngƣời xã hội là một quá trình lâu dài diễn ra trong lịch sử. Trên cơ sở Học thuyết tiến hóa của Đác Uyn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích sâu sắc quá trình tiến hóa để hình thành loài ngƣời. Có thể khái quát: để duy trì sự tồn tại của mình, con ngƣời phải ăn, uống, chống lại cái đói, có chỗ ở phù
28
hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu… điều đó thúc đẩy con ngƣời phải tiến hành lao động, sản xuất vật chất để thỏa mãn những nhu cầu đó. Trong quá trình lao động, tay chân của con ngƣời dần trở nên khéo léo, đồng thời trí não cũng phát triển, sự cố kết giữa những con ngƣời ngày càng chặt chẽ hơn, xuất hiện ngôn ngữ. Nhƣ vậy lao động, việc chế tạo những công cụ lao động, sự cố kết cộng đồng, ngôn ngữ, tƣ duy chính là các nhân tố quyết định sự biến đổi loài vƣợn thành ngƣời. Sau đó, cũng chính từ quá trình sản xuất vật chất, dẫn đến sự xuất hiện và phát triển của các yếu tố hôn nhân, gia đình, đạo đức, nhà nƣớc … khiến cho xã hội loài ngƣời hình thành và ngày càng đa dạng. Quá trình sản xuất vật chất của loài ngƣời không hề hỗn độn, vô trật tự mà do các quy luật xã hội chi phối, những hiện tƣợng tinh thần, chính trị, ý thức xuất hiện, biến đổi xét đến cùng do trình độ sản xuất của con ngƣời quy định.
Toàn bộ diễn biến của lịch sử là kết quả của hoạt động của con ngƣời, các
thế hệ ngƣời nối tiếp nhau.
Quan niệm về con ngƣời của triết học Mác - Lênin dựa trên những yếu tố hợp lý mà các triết gia trong lịch sử đã đƣa ra, lọc bỏ những yếu tố chƣa hợp lý trong quan niệm của họ. Theo đó, triết học Mác - Lênin khẳng định con người là một thực thể sinh học - xã hội và mang bản chất xã hội.
Mặt sinh học của con ngƣời đƣợc hiểu là, con ngƣời là một động vật cao cấp nhất, là kết quả của sự tiến hóa lâu dài của bản thân giới tự nhiên. Con ngƣời gắn bó hữu cơ với giới tự nhiên, là một bộ phận của thế giới tự nhiên, vận động và phát triển gắn liền với thế giới tự nhiên. Con ngƣời dù muốn hay không cũng phải chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên - sinh vật: di truyền, biến dị, trao đổi chất, sinh - lão - bệnh - tử... Con ngƣời có những nhu cầu cơ bản - sinh tồn nhƣ: ăn, uống, ở, đi lại, sinh con...
Mặt xã hội của con ngƣời thể hiện ở chỗ, con ngƣời luôn tồn tại trong cộng đồng xã hội, họ chịu sự quy định của các quy luật xã hội và các mối quan hệ hết sức đa dạng trong xã hội. Sự chi phối của hệ thống quy luật xã hội và quan hệ xã hội đối với con ngƣời dẫn tới hình thành những kiểu con ngƣời, kiểu cá nhân cụ thể của mỗi thời đại lịch sử. Chẳng hạn, con ngƣời ở thời kỳ nguyên thủy là con ngƣời tiến hành những hoạt động săn bắt, hái lƣợm; còn con ngƣời ở thời kỳ tƣ bản là con ngƣời gắn với sản xuất công nghiệp. Mặt xã hội còn thể hiện ở những quy luật tự nhiên sinh tồn của con ngƣời không diễn ra một cách
29
bản năng tự nhiên nhƣ các loài vật, mà các hoạt động sinh tồn hàng ngày đã đƣợc xã hội hóa, đã đƣợc phát triển một cách khoa học, tiến bộ mang bản chất xã hội. Chẳng hạn hoạt động ăn uống trong sự phát triển của nó trở thành nghệ thuật ẩm thực; hoạt động tạo chỗ ở trở thành khoa học kiến trúc; hoạt động di chuyển bằng đôi chân phát triển trở thành ngành giao thông hiện đại… Mặt tự nhiên sinh học của con ngƣời đã đƣợc mang bản chất xã hội.
Bản chất xã hội của con ngƣời, nhƣ C.Mác quan niệm, là tổng hòa các mối quan hệ xã hội (xét trong tính hiện thực của nó). Do bản chất xã hội, mỗi con ngƣời luôn luôn tồn tại cụ thể, xác định, trong một điều kiện lịch sử - cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con ngƣời tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tƣ duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con ngƣời mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con ngƣời, triết học Mác - Lênin không phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con ngƣời mà chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con ngƣời với động vật trƣớc hết ở bản chất xã hội. Tất cả các hoạt động sinh học của con ngƣời đều mang bản chất xã hội. Con ngƣời giữ vai trò chủ thể trong mọi hoạt động. Tuy nhiên bản chất con ngƣời và vai trò chủ thể của mỗi con ngƣời là khác nhau, từ đó tạo ra những nhân cách cá nhân con ngƣời trong xã hội. Trong hai yếu tố mặt tự nhiên và mặt xã hội thì bản chất xã hội là yếu tố quyết định hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con ngƣời.
Quan niệm về nhân cách con người: Trong nghiên cứu khoa học thuật ngữ nhân cách (Personality) xuất phát từ tiếng Latinh cổ đại là Persona (cá tính) và tiếng Latinh trung cổ là Personalitas. Nghĩa gốc là mặt nạ; chỉ vẻ bên ngoài của một cá nhân.
Đến nay có rất nhiều ngành khoa học nghiên cứu về nhân cách và bản thân nhân cách là khái niệm có nội dung rất rộng. Mỗi ngành khoa học nghiên cứu về nhân cách ở những khía cạnh khác nhau.
Khoa học Tâm lý có khá nhiều quan niệm về nhân cách. Một số đại diện tiêu biểu của Học thuyết tâm lý nhân cách đƣa ra quan điểm riêng của mình. Nhà tâm lý học, bác sĩ tâm thần S.Feurd cho rằng, bản chất nhân cách là thuộc tính sinh vật của con ngƣời, nhân cách đƣợc coi nhƣ bản năng tính dục mà ai cũng
30
có, chính bản năng đó chi phối hành động của mỗi ngƣời; Nhà nghiên cứu tâm lý C.G. Jung xem nhân cách là sự vô thức tập thể. G.Allport quan niệm: bản chất nhân cách là nhân tính con ngƣời; nhân cách là động cơ tự động điều hành hoạt động con ngƣời. Điểm chung của những quan niệm vừa nêu là nhấn mạnh tính chất vốn có, bản năng, tự động của nhân cách. Theo quan niệm này, nhân cách của mỗi ngƣời là đỉnh cao của sự phát triển cao nhất của tâm lý, của ý thức, có tính thuần túy sinh học, bẩm sinh, con ngƣời không thể chọn lựa, rèn luyện nhân cách cho mình, con ngƣời chịu sự chi phối tuyệt đối của những yếu tố bản năng, sinh học đó; nhân cách theo quan niệm này không liên quan hoặc liên quan rất mờ nhạt đến hoạt động sống, đến giáo dục, môi trƣờng sinh sống, trƣởng thành của con ngƣời.
Một số nhà tâm lí học theo quan điểm mác - xít đã đƣa ra những định nghĩa về nhân cách đƣợc sử dụng rộng rãi, chẳng hạn, theo A.G.Gôvaliôp: “Nhân cách làm một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định”[114,155]. E.V.Sôrôkhôva cho rằng: “Nhân cách là con ngƣời với tƣ cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lí đang qui định những hình thức hoạt động và những hành vi có ý nghĩa xã hội”[114, 155].
A.V.Pêtơroopxki quan niệm: “Con ngƣời vƣợt ra khỏi giới động vật nhờ lao động và đƣợc phát triển trong xã hội, tham gia giao lƣu với những ngƣời khác nhờ tiếng nói, đã trở thành nhân cách - chủ thể của nhận thức và cải tạo tích cực hiện thực”. [114, 154]
Mặc dù hình thức, cách diễn đạt định nghĩa có sự khác nhau nhất định, nhƣng các nhà tâm lí học mác - xít đều thống nhất: nhân cách là một hệ thống các quan hệ của con ngƣời đối với thế giới xung quanh và với bản thân; nhân cách hình thành là do hoạt động, nó có tính xã hội - lịch sử. Quan điểm này khác căn bản với S.Feurd, G.Allport, C.G. Jung ở chỗ, không coi nhân cách là phạm trù thuần tâm lý, điều chỉnh hành vi con ngƣời một cách hoàn toàn bản năng mà coi nhân cách là một phạm trù xã hội. Có thể thấy rằng đây là cách quan niệm hợp lý và đúng hơn với thực tế.
Từ quan niệm về con ngƣời (nhƣ đã phân tích), triết học Mác – Lênin
xem xét con ngƣời tồn tại trong xã hội với tƣ cách là các cá nhân.
31
Cá nhân là khái niệm chỉ con ngƣời cụ thể sống trong một xã hội nhất định và đƣợc phân biệt với các cá nhân khác bởi đặc điểm, trình độ, năng lực, chức năng xã hội mà họ thực hiện. Các cá nhân hình thành nên xã hội. Mỗi cá nhân sống và hoạt động trong các nhóm, cộng đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử do hoàn cảnh lịch sử chi phối. Yếu tố xã hội là đặc trƣng cơ bản để hình thành nên cá nhân.
Cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động của quan hệ xã hội và của quá trình nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có những quan hệ xã hội nhất định; có vị trí, vai trò; trách nhiệm, nghĩa vụ và quan hệ lợi ích riêng nhƣng nằm trong khía cạnh, tính chung của mỗi cá nhân trong xã hội và mang bản chất xã hội.
Trong mối quan hệ với xã hội, cá nhân có những đặc trƣng cơ bản: cá nhân là biểu hiện tồn tại cụ thể của loài ngƣời, không có con ngƣời nói chung mà chỉ có con ngƣời cá nhân cụ thể; cá nhân là phần tử đơn nhất, riêng lẻ, tạo thành cộng đồng xã hội, là cơ sở hình thành lịch sử xã hội loài ngƣời; cá nhân là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách, biểu hiện trong phẩm chất sinh lý và tâm lý riêng biệt của mỗi con ngƣời; trong mối quan hệ với xã hội cá nhân là một hiện tƣợng lịch sử vận động và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, cho nên cá nhân không bao giờ tách rời xã hội, mỗi điều kiện hoàn cảnh lịch sử sản sinh ra một kiểu cá nhân đặc thù thậm chí đi ngƣợc lại tính đặc thù của xã hội đó [11, 477].
Nhƣ vậy, cá nhân là con ngƣời với những nhân cách riêng đƣợc quy định về mặt xã hội. Triết học Mác - Lênin xem nhân cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội, bị quy định bởi những điều kiện lịch sử - cụ thể của đời sống xã hội. Với tinh thần đó: “nhân cách là những phẩm chất, những trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong của từng cá nhân. Đó là thế giới của cái “tôi”do tác động tổng hợp của các yếu tố cơ thể và xã hội hết sức riêng biệt tạo nên để cá nhân đó có thể tồn tại và hoàn thành trách nhiệm của mình đối với bản thân và xã hội”. [10, 264].
Hay: “Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy nếu cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá thể với giống loài thì nhân cách là khái niệm
32
chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Cá nhân là phƣơng thức biểu hiện của giống loài còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt.” [11, 476]
Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng quan tâm nghiên cứu và xây dựng khái niệm nhân cách. Đại biểu tâm lý học nhân cách Việt Nam - Nguyễn Ngọc Bích cho rằng: nhân cách là toàn bộ mối quan hệ của cá nhân con người; nhân cách được hiểu đồng nhất với khái niệm con người; nhân cách được hiểu như cá nhân con người với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ và hoạt động có ý thức.[5, 119]
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Uẩn: “Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con ngƣời.” [114, 155 ]
Từ điển Tâm lý do tác giả Nguyễn Khắc Viện chủ biên đƣa ra định nghĩa : “nhân cách là tổng hòa tất cả những gì hợp thành một con ngƣời, một cá nhân với bản sắc và cá tính rõ nét: đặc điểm thể chất, tài năng, phong cách, ý chí đạo đức, vai trò xã hội, là một cá nhân có ý thức về bản thân, đã tự khẳng định đƣợc, giữ đƣợc phần nào tính nhất quán trong mọi hành vi”. [123, 190]
GS. Phạm Minh Hạc cũng đƣa ra định nghĩa về nhân cách nhƣ sau: “Nhân cách là tổ hợp các thái độ, thuộc tính riêng trong quan hệ hành động của từng ngƣời với tự nhiên, thế giới đồ vật do loài ngƣời sáng tạo, với xã hội và với bản thân” [30, 21]
Trong Đại từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên, nhân
cách đƣợc định nghĩa là “tư cách và phẩm chất, đạo đức của con người”.
Từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa nhân cách: “bộ mặt tâm lý, tổ
hợp thái độ riêng, thuộc tính riêng biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân
với tƣ cách là chủ thể của hoạt động, giao tiếp. Ngƣời ta sinh ra là ngƣời nhƣng
nhân cách chỉ hình thành trong hoạt động và giao tiếp. Về thực chất, đó là quá
trình xã hội hóa cá nhân, tiếp thu các giá trị văn hóa của gia đình, cộng đồng, xã
hội và tăng dần (hay ngƣợc lại) mức phù hợp thang giá trị, thƣớc đo giá trị, định
hƣớng giá trị cùa bản thân và cộng đồng, xã hội. Nhân cách mang tính xã hội
đồng thời cũng mang tính cá biệt, với những kinh nghiệm, nếp suy nghĩ, tình
cảm, hoài bão, niềm tin định hƣớng giá trị, tính cách riêng, tạo ra tính đa dạng
của các nhân cách. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và hoạt động, giao tiếp giữ vai trò
33
quyết định đối với diện mạo của nhân cách. Lịch sử đã từng có những kiểu nhân
cách khác nhau, đại diện cho kiểu văn hóa và lối sống khác nhau” [40, 231].
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quan điểm triết học và tâm lý học về
nhân cách, chúng tôi cho rằng: Nhân cách là phẩm chất và năng lực tạo nên cái
“tôi” của mỗi cá nhân; được tổng hợp từ các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội hình
thành nên đặc trưng của mỗi cá nhân; trên cơ sở đó mỗi cá nhân trở thành chủ
thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh các hành vi, hoạt động
của mình.
Nhân cách con ngƣời biểu hiện sinh động trong một cá nhân cụ thể. Nhân cách biểu hiện cái “tôi” của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tạo nên đặc trƣng riêng về di truyền, về sinh lý thần kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng của mình. Mỗi cá nhân tiếp thu những giá trị phổ biến của văn hóa xã hội, từ đó, thông qua sự tự chọn lọc, tự tiếp nhận của cá nhân để hình thành các giá trị định hƣớng cho sự tồn tại và phát triển của mình. Các giá trị nhƣ lý tƣởng, niềm tin, quan hệ lợi ích, nhận thức về hành động đƣợc mỗi cá nhân lựa chọn để xác lập các hành vi cụ thể, hình thành nhân cách trong quan hệ xã hội.
Nhân cách là khái niệm đƣợc sử dụng hàng ngày trong cuộc sống để nhìn
nhận, đánh giá về những giá trị bản thân một con ngƣời cụ thể hay cũng có thể
đánh giá, nhận xét một nhóm, một tầng lớp ngƣời nào đó trong xã hội. Vậy
thông thƣờng có thể hiểu nhân cách là những giá trị làm ngƣời; là tổng hòa các
phẩm chất làm ngƣời và năng lực của cá nhân. Nhƣng trong đó yếu tố đƣợc đa số
mọi ngƣời đánh giá quan trọng và quyết định một nhân cách cá nhân có lẽ chính là
những phẩm chất làm ngƣời. Bởi trong cuộc sống hàng ngày dễ gặp phải những
nhận xét: “tài, giỏi mà không có nhân cách”; “giỏi mà nhân cách có vấn đề”…
Tuy nhiên 2 yếu tố phẩm chất, năng lực hay “đức”, “tài” có mối quan hệ bổ sung,
hỗ trợ lẫn nhau tạo nên nhân cách một con ngƣời. Vậy nhân cách là tổng hòa các
giá trị phẩm chất, năng lực cá nhân đƣợc xã hội ghi nhận và đánh giá.
1.1.1.2. Cấu trúc của nhân cách:
Cấu trúc nhân cách là sự liên kết của các yếu tố tâm lý con ngƣời vừa có
tính thống nhất, ổn định vừa có tính linh hoạt, đa dạng; mỗi cách liên kết và tác
động các yếu tố tâm lý khác nhau sẽ hình thành nên những nhân cách khác nhau.
34
Trên góc độ tâm lý, một số nhà nghiên cứu, điển hình là A.G Côvaliov
cho rằng “cấu trúc của nhân cách bao gồm: các quá trình tâm lý, các trạng thái
tâm lý và các thuộc tính tâm lý cá nhân” [114,158].
Một số nhà tâm lý học khác quan niệm nhân cách gồm 4 nhóm tâm lý
điển hình: xu hƣớng, năng lực, tính cách, khí chất. “Cũng giống nhƣ một véc tơ
lực có phƣơng, chiều, cƣờng độ và tính chất của nó; xu hƣớng nói lên phƣơng
hƣớng phát triển của nhân cách; năng lực nói nên cƣờng độ của nhân cách; tính
cách, khí chất nói lên tính chất phong cách của nhân cách” [114, 80].
Từ những quan niệm trên, có thể thấy cấu trúc nhân cách đa dạng và phức tạp, bao gồm nhiều thành tố có mối quan hệ ràng buộc ảnh hƣởng, tác động qua lại lẫn nhau; từ đó hình thành lên những nhân cách cá nhân tồn tại ở một mô hình tƣơng đối ổn định nhƣng cũng có sự linh hoạt cơ động.
Ở nƣớc ta khi nghiên cứu về nhân cách phần lớn các nhà nghiên cứu sử dụng mô hình “đức” - phẩm chất và “tài” - năng lực. Trong đó phẩm chất xã hội (đức) bao gồm phẩm chất chính trị, tức là thế giới quan, niềm tin, lý tƣởng, lập trƣờng, thái độ chính trị, thái độ lao động; phẩm chất cá nhân; phẩm chất ý chí; cung cách ứng xử. Năng lực (tài) là năng lực xã hội hóa; năng lực khách thể hóa; năng lực hành động; năng lực giao tiếp.
Theo quan niệm của Tâm lý học hiện đại, hai thành phần “đức” và “tài” cũng đƣợc coi nhƣ phẩm chất rất quan trọng của nhân cách và sự sắp xếp những động cơ chủ đạo theo những thứ bậc thành một đƣờng hƣớng nhất định sẽ quyết định xu hƣớng phát triển của nhân cách con ngƣời.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới con ngƣời và nhân cách con ngƣời, cuộc đời của Ngƣời là minh chứng cho một nhân cách vĩ đại. Ngƣời đề cập đến thuật ngữ nhân cách: “Muốn giữ vững nhân cách, tránh khỏi hủ hóa, thì phải thực hành bốn chữ, đó là Cần, Kiệm, Liêm, Chính” [69, 122], Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, Ngƣời đã viết: “Cũng như sông chỉ có nguồn mới có nước, không có nước thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [69, 416]. Sau này, trong nhiều dịp khác, Ngƣời luôn luôn nhấn mạnh đến đạo đức cách mạng. Tuy nhiên, khi coi trọng và nhấn mạnh đến cái Đức của con ngƣời, Hồ Chí Minh không hề
35
đối lập nó với cái Tài: “Có Tài mà không có Đức, tham ô hủ hóa thì chỉ có hại cho nước. Có Đức mà không có Tài (...), không giúp ích được cho ai”[79,347].
Quan niệm của Hồ Chí Minh là sự phát triển sáng tạo quan niệm truyền thống dân tộc và phù hợp với cách hiểu phổ biến của nhân dân ta về giá trị con ngƣời, trong đó đề cao giá trị đạo đức. Đó là quan niệm cách mạng và khoa học, kế thừa đƣợc tinh hoa truyền thống nhƣng cũng đồng thời loại bỏ đƣợc những yếu tố cũ, lạc hậu mang bản chất phong kiến trong quan niệm truyền thống. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị về mặt đạo đức học mà còn đặt nền tảng để xây dựng khoa học nhân cách mang bản sắc Việt Nam.
Trên cơ sở quan điểm tâm lý học hiện đại; kế thừa quan điểm triết học Mác – Lênin về bản chất, vai trò, nhân cách con ngƣời; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, tác giả luận án quan niệm cấu trúc nhân cách bao gồm phẩm chất và năng lực. Trong đó:
Phấm chất bao gồm những yếu tố làm nên giá trị, tính chất bên trong con
ngƣời, đƣợc tổng hợp từ các phƣơng diện sinh học, tâm lý, xã hội; để góp phần
hình thành nên nhân cách cá nhân.
Phẩm chất của mỗi cá nhân thể hiện ở đạo đức, thế giới quan, lối sống,
trách nhiệm, kỷ luật …
Phẩm chất đƣợc hình thành từ các yếu tố sinh học - thể chất, tâm lý, xã
hội. Đặc điểm sinh học - thể chất, tâm lý là tình trạng của sức khỏe tâm lý, sinh
lý, hệ thần kinh của mỗi cá nhân. Đây là điều kiện vật chất có vai trò quan trọng
đối với nhân cách mỗi cá nhân, là điều kiện rất quan trọng quyết định chất lƣợng
cuộc sống, nhân cách, sự thành công, sự hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của
con ngƣời.
Đặc điểm xã hội của cá nhân thể hiện ở yếu tố đạo đức, thế giới quan, lập
trường, lối sống, quan niệm thẩm mỹ …trong các mối quan hệ của cá nhân với
cộng đồng.
Đạo đức là yếu tố quan trọng nhất tạo nên phẩm chất của con người. Đó
là những quan niệm, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con ngƣời tự
đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của mình và
của xã hội. Đối với mỗi cá nhân, đạo đức biểu hiện tình yêu thƣơng con ngƣời,
36
thiên nhiên, yêu gia đình, yêu tổ quốc, là lƣơng tâm, trách nhiệm của cá nhân với
chính bản thân mình và với cộng đồng.
Đạo đức là yếu tố đặc biệt quan trọng của nhân cách. Đạo đức điều chỉnh
hành vi, thói quen, hành động của mỗi cá nhân, tạo nên quan hệ hài hòa giữa lợi
ích xã hội và lợi ích cá nhân, khiến cho lợi ích và hạnh phúc của cá nhân phù
hợp với sự phát triển tiến bộ của xã hội. Mặt khác, đạo đức có chức năng giáo
dục, nghĩa là tác động của đạo đức đến con ngƣời thông qua hoạt động, thông
qua quá trình học tập, giao tiếp sẽ dần dần chuyển hóa đạo đức xã hội thành đạo
đức cá nhân, khiến hình thành ở mỗi cá nhân những hành vi, thái độ, suy nghĩ
tích cực và phù hợp với sự tiến bộ xã hội.
Những giá trị đạo đức hiện nay có nhiều biến đổi, phong phú đa dạng và phức tạp tuy nhiên những giá trị chân, thiện, mỹ vẫn là những tiêu chuẩn đạo đức tốt đẹp mà con ngƣời hƣớng tới.
Thế giới quan nhƣ đã trình bày phần trƣớc đây là tiền đề hình thành nên nhân cách; chi phối, quy định phẩm chất của mỗi cá nhân; từ đó hình thành và phát triển lập trường tƣ tƣởng trong hoạt động thực tiễn của con ngƣời.
Lối sống là cách thức, phƣơng thức sống của con ngƣời đƣợc biểu hiện trong các lĩnh vực lao động sản xuất, hoạt động chính trị, hoạt động văn hóa, khoa học, tinh thần và hoạt động giao tiếp hàng ngày.
Lối sống chính là cách thức con ngƣời ứng xử với tự nhiên và xã hội để tồn tại và phát triển. Lối sống đƣợc lặp đi lặp lại hình thành phong cách, thói quen trong đời sống của mỗi cá nhân. Lối sống của mỗi cá nhân phản ánh trình độ, giá trị, thế giới quan của cá nhân đó. Xây dựng một lối sống văn hóa, lành mạnh, hài hòa với tự nhiên và cộng đồng vì mục tiêu phát triển bền vững cho cá nhân và cộng đồng là yêu cầu không thể thiếu trong phát triển nhân cách của mỗi cá nhân.
Lối sống luôn có sự thay đổi do chịu sự tác động lớn từ môi trƣờng tự nhiên, xã hội nơi cá nhân sinh sống. Môi trƣờng xã hội hiện nay có sự biến đổi hết sức phức tạp, nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, những sự biến động nhiều mặt về văn hóa, xã hội cùng với diễn biến phức tạp của tình hình thế giới đã và đang làm cho lối sống của mỗi cá nhân hiện nay có sự biến động nhanh chóng và nhiều chiều cạnh. Thậm chí ngay cả những biến đổi về môi trƣờng tự nhiên nhƣ
37
nguồn nƣớc, không khí, đất đai… cũng có nguy cơ ảnh hƣởng và gây nên sự biến đổi tới cấu trúc gen, quy luật di truyền – biến dị ở con ngƣời.
Quan niệm thẩm mỹ là tổng hợp cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tƣởng thẩm mỹ … của con ngƣời, thể hiện sự đánh giá, sự rung động, sở thích … về mặt thẩm mỹ của con ngƣời trƣớc các đối tƣợng trong cuộc sống. Quan niệm thẩm mỹ của mỗi cá nhân có vai trò không nhỏ trong việc tiếp thu kiến thức và thực hành cải biến tự nhiên, xã hội, tƣ duy theo quy luật cái đẹp chân chính, phát triển bản thân và thế giới xung quanh theo giá trị nhân văn, nhân ái.
Thực tế cho thấy, quan niệm thẩm mỹ thiếu tiến bộ, lệch lạc, xa lạ sẽ làm méo mó đi nhân cách của các cá nhân. Giá trị thẩm mỹ có sự phát triển theo vòng quay của lịch sử. Ở nƣớc ta hiện nay có một số quan niệm thẩm mỹ mới đƣợc du nhập ồ ạt, tồn tại bên cạnh những quan niệm thẩm mỹ cũ. Thế hệ trẻ là thế hệ nhạy bén, dễ dàng tiếp cận với những quan niệm thẩm mỹ mới, do đó họ cần có nhận thức khoa học để chọn lọc, tiếp thu những giá trị thẩm mỹ tiến bộ, phù hợp cho sự phát triển bản thân và xã hội. Bên cạnh đó phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ đắc lực của toàn xã hội và đặc biệt là sự giáo dục, giúp đỡ, định hƣớng từ gia đình.
Ngoài ra khi đi sâu tìm hiểu về phẩm chất còn có rất nhiều yếu tố cụ thể
nhƣ ý chí, nghị lực, trách nhiệm,…Tuy nhiên sự phân biệt các yếu tố chỉ mang
tính tƣơng đối bởi trong sự hình thành phát triển phẩm chất cá nhân, các yếu tố
này đan xen tồn tại, tác động ảnh hƣởng lẫn nhau thống nhất trong mỗi cá nhân
cụ thể.
Năng lực là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố: kiến thức, kỹ năng và thái độ.
Nếu xét năng lực của một cá nhân cụ thể thì kiến thức là tổng hợp các tri
thức về tự nhiên, xã hội… (hay còn gọi kiến thức chuyên môn rộng) và tri thức
về chuyên môn nghề nghiệp (hay còn gọi kiến thức chuyên môn hẹp) mà một
ngƣời theo đuổi và đạt đƣợc. Kiến thức, xét từ nguồn gốc của nó, chính là kết
quả nhận thức hiện thực dựa trên hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Triết học
Mác - Lênin khẳng định kiến thức (tri thức) là nội dung cốt lõi của ý thức, tƣơng
tự, nhân cách của con ngƣời sẽ nhƣ thế nào cũng đƣợc quy định từ vốn kiến thức
mà họ đã có đƣợc. Hình thành, bồi dƣỡng để phát triển nhân cách không thể
thiếu việc trang bị kiến thức cho mỗi cá nhân.
38
Kỹ năng là thực hiện ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn; ngƣời có
kỹ năng là thực hiện các thao tác, động tác chuẩn, quá trình chuẩn tạo kết quả
xuất sắc, vƣợt trội hơn nhiều lần ngƣời không có kỹ năng. Kỹ năng bao gồm kỹ
năng cứng và kỹ năng mềm: kỹ năng cứng là kỹ năng chuyên môn của mỗi
chuyên môn, ngành nghề cụ thể nhƣ may mặc, thợ xây, trồng lúa, dạy học, bác
sĩ… Để hành nghề kỹ năng cứng giữ vai trò quyết định, nhƣng trƣớc sự phát
triển vƣợt bậc của xã hội và khoa học, kỹ năng cứng không đủ để mỗi cá nhân
tồn tại, thích nghi, phát triển ở môi trƣờng làm việc năng động hiện nay. Kỹ
năng mềm là tập hợp nhiều kỹ năng hiển thị cách thức con ngƣời tiếp cận và
phản ứng với môi trƣờng xung quanh nhƣ kỹ năng thân thiện; kỹ năng giao tiếp;
kỹ năng tìm kiếm cơ hội, thông tin; kỹ năng làm việc nhóm; kỹ năng quản lý và
sử dụng hiệu quả thời gian… Nhƣ vậy, nếu nhƣ kỹ năng cứng tạo ra tiền đề thì
kỹ năng mềm tạo ra sự phát triển, nên mỗi cá nhân trong xã hội hiện nay muốn
phát triển toàn diện cần phải có cả kỹ năng cứng và kỹ năng mềm.
Thái độ trong năng lực của mỗi cá nhân bao gồm những cảm xúc, tình cảm, trách nhiệm, ý chí… của cá nhân đối với công việc nghề nghiệp chuyên môn nhất định mà cá nhân đó tham gia. Thái độ của cá nhân trong quá trình phát huy khả năng, tài năng, lao động; làm phát triển, biến đổi bản thân, cộng đồng xã hội. Thái độ của mỗi cá nhân thể hiện khác nhau trong việc phát huy năng lực của bản thân sẽ đem lại kết quả khác nhau đối với chính cá nhân đó và xã hội nơi cá nhân sinh sống.
Trong xã hội hiện tại, thái độ sống, làm việc, học tập đƣợc đánh giá có vai trò quan trọng quyết định sự thành công của con ngƣời. Có quan điểm cho rằng “thái độ quan trọng hơn trình độ”, quan điểm này cũng có thể đúng ở một số trƣờng hợp, chẳng hạn với những chứng chỉ, văn bằng, lƣợng tri thức, kiến thức học tập đƣợc nhƣ nhau nhƣng thái độ khác nhau sẽ quy định sự phát triên con ngƣời ở mức độ khác nhau; thậm chí “cần cù bù thông minh”. Một cá nhân trung thành, giữ chữ tín, có tinh thần cầu thị, học hỏi, chăm chỉ… dần dần sẽ tiến bộ; ngƣợc lại ngƣời có trình độ, kiến thức tốt nhƣng bất tín, khôn lỏi, lƣời biếng…thì không thành công, thậm chí còn có thể gây ra những hậu quả nặng nề cho tổ chức, cộng đồng xã hội.
39
Hiện nay có nhiều gia đình trong xã hội quá coi trọng giáo dục kiến thức, chỉ hƣớng con tới thành tích trong học tập; quan niệm thành tích học tập cao tất yếu sẽ thành công mà quên mất giáo dục hình thành cho thế hệ trẻ những kỹ năng sống và thái độ sống tích cực, tiến bộ. Trong lịch sử, ông cha ta đã từng nhận ra “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: Có tài mà không có đức là ngƣời vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.
Trong văn hóa truyền thống của ngƣời Việt Nam bài học đầu tiên của trẻ em khi đến trƣờng và trong giáo dục gia đình là “tiên học lễ, hậu học văn”. Yếu tố quan trọng của cá nhân là phẩm chất, nhƣng khi có sự du nhập của văn hóa phƣơng Tây và sự tác động của nó đến thế hệ trẻ, nhiều giá trị văn hóa truyền thống đã bị xem nhẹ, nhiều giá trị tốt đẹp trong văn hóa giao tiếp ứng xử, lối sống của con ngƣời bị mai một, biến chất. Mỗi cá nhân đều có những rung động, cảm xúc tình cảm yêu, ghét, lên án, đấu tranh… trƣớc những gì diễn ra trong thực tế. Phẩm chất tốt, tích cực, lối sống lành mạnh, tiến bộ sẽ hƣớng tới hành động nhân văn, nhân ái vì sự tiến bộ vì hạnh phúc của bản thân và cộng đồng. Đồng thời khắc phục tình trạng thờ ơ, vô cảm … mà nhiều ngƣời mắc phải trong xã hội hiện nay.
Từ phẩm chất, năng lực khác nhau sẽ đem lại cho mỗi cá nhân những
khuynh hƣớng vận động khác nhau và tạo nên những nhân cách độc đáo riêng
biệt. Tuy nhiên sự phân biệt phẩm chất và năng lực nhƣ trên hoàn toàn có tính
chất tƣơng đối, phẩm chất và năng lực tồn tại không tách rời nhau, ngay cả
những yếu tố cấu thành nên chúng cũng vậy, các yếu tố tồn tại đan xen; có mối
quan hệ mật thiết; thống nhất với nhau, trong quá trình phát triển có sự tác động;
ảnh hƣởng ràng buộc lẫn nhau, từ đó thống nhất định hình phát triển thành
những nhân cách cá nhân vô cùng phong phú, đa dạng trong xã hội.
1.1.2. Tiền đề hình thành, phát triển nhân cách
Trong sự vận động biến đổi, phát triển của xã hội hiện nay nhân cách của
con ngƣời có những sự biến đổi đa dạng, phức tạp. Có nhiều nhân cách tốt đẹp,
nhiều tấm gƣơng trong học tập, lao động, hy sinh, cống hiến… từ những em bé
nhỏ tuổi cho đến những ngƣời già tuổi cao vẫn hàng ngày hàng giờ làm những
việc thiện, việc tốt cho bản thân, gia đình và xã hội; góp phần to lớn trong công
cuộc bảo vệ và dựng xây quê hƣơng đất nƣớc ngày càng gàu mạnh văn minh.
40
Nhƣng đâu đó hàng ngày, hàng giờ chúng ta vẫn thấy hiện tƣợng những ngƣời
bi quan, chán nản tự tìm đến cái chết hay những ngƣời là nguyên nhân gây ra
sự đau khổ, đau đớn thậm chí tƣớc đoạt tính mạng những ngƣời vô tội, gây ra
tội ác, gây nên tệ nạn xã hội, gieo rắc những nỗi đau tới gia đình, ngƣời thân,
làm ảnh hƣởng tiêu cực tới cộng đồng xã hội và dân tộc quốc gia.
Khi có những biểu hiện tiêu cực trong sự hình thành và phát triển nhân
cách; khi có sự phát triển của những nhân cách lệch lạc thì chính cá nhân, gia
đình, nhà trƣờng và xã hội lại có sự hoang mang, lúng túng, thậm chí đổ lỗi cho
nhau. Điều này chỉ làm cho vấn đề trở nên bế tắc, căng thẳng, mâu thuẫn. Đã có
thời kỳ dài trong lịch sử nhân loại và đâu đó hiện nay trong xã hội có một số ý
kiến vẫn cho rằng sự hình thành và phát triển con ngƣời nói chung và nhân cách
con ngƣời nói riêng là do “chúa”, “trời” quyết định.
Trên lập trƣờng duy vật biện chứng, có thể thấy rằng nhân cách của mỗi
cá nhân con ngƣời không phải tự nhiên, bẩm sinh, sẵn có, dù con ngƣời cá nhân
hiện nay có sự phát triển nhân cách đa dạng, phong phú, phức tạp nhƣ thế nào thì
về cơ bản, nhân cách đƣợc hình thành và phát triển từ những tiền đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, nhân cách được hình thành và phát triển dựa trên tiền đề sinh
học và tư chất di truyền của cá nhân
Nhân cách không tồn tại bẩm sinh, sẵn có ở mỗi con ngƣời, nó đƣợc hình
thành và phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trƣớc hết, nhân cách phải dựa
trên tiền đề sinh học và tƣ chất di truyền học của mỗi cá nhân. Yếu tố sinh học -
di truyền là yếu tố quan trọng, là “điều kiện vật chất” cho sự phát triển về phẩm
chất và năng lực cá nhân của từng ngƣời. Những nghiên cứu của khoa học hiện
đại đã chỉ ra “AND – vật chất mang thông tin di truyền” [33, 7] và “ Một trong
những đặc tính của cơ thể sống là đặc tính tự sinh sản ra những cơ thể mang các
tính trạng hình thái và sinh lý giống bố mẹ.” [33, 11]
Nhƣ vậy yếu tố di truyền tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong sự quy
định những tiền đề vật chất hình thành nên nhân cách ngƣời. Yếu tố di truyền
quyết định đa số sự phát triển về hình dạng bên ngoài (màu da, màu tóc, màu
mắt, chiều cao, cân nặng…), các yếu tố vật chất về tế bào, AND, gen, hình thành
nên cơ sở vật chất của sự phát triển tâm lý, tình cảm, cảm xúc (EQ), trí tuệ (IQ),
đời sống tâm hồn, tính cách, tinh thần của cá nhân.
41
Năm 1865 G. Mendel công bố quy luật di truyền và đƣa ra “nhân tố” di
truyền, sau này các nhà di truyền gọi các “nhân tố” Mendel là gen. Gen đƣợc xác
định nhƣ là đơn vị chức năng quy định tính di truyền của cơ thể và học thuyết
nhiễm sắc thể của di truyền xác định rằng “gen chứa đựng trong các thể nhiễm
sắc thể” [33,18]. Nhƣ vậy mỗi cá nhân có một điều kiện sinh học và di truyền cụ
thể từ gia đình và bố mẹ trực tiếp sinh ra cá nhân đó.
Một số nghiên cứu di truyền học đã chỉ ra những vấn đề quan trọng đối
với yếu tố di truyền từ gia đình, đặc biệt là từ bố mẹ với con cái. Đặc biệt những
bệnh tật nguy hiểm có nguy cơ di truyền cao nhƣ tiểu đƣờng, huyết áp, tim
mạch, viêm khớp, cận thị, trầm cảm… hay: 20% - 30% số con của những cặp vợ
chồng kết hôn gần bị chết hoặc mang các tật di truyền bẩm sinh, độ tuổi của mẹ
càng tăng (trên 35 tuổi) khi mang thai thì tỷ lệ sinh con mắc bệnh đao càng tăng.
Trên thực tế dễ thấy một con ngƣời sinh ra khỏe mạnh bình thƣờng sẽ có cuộc sống
lạc quan yêu đời, tích cực. Ngƣợc lại những ngƣời sinh ra có những hạn chế khiếm
khuyết về mặt thể chất cũng sẽ bị ảnh hƣởng tới đời sống tâm lý, tinh thần và quá
trình nhận thức…
Trong xu thế phát triển hiện nay sự đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân ngày càng cao về phẩm chất, năng lực, sức khỏe, thể lực, hình thức …. Phát triển nhân cách, phát triển con ngƣời cá nhân hiện nay cần hƣớng tới sự phát triển toàn diện, những nhân cách tốt đƣợc phát triển trong một cơ thể khỏe mạnh, cân đối, hài hòa…hƣớng tới dự phát triển tối ƣu là mục tiêu của sự phát triển bất cứ xã hội nào.
Nhƣ vậy một trong những yếu tố góp phần phát triển hoàn thiện nhân cách cần chú trọng là chọn lọc yếu tố di truyền; nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học của lĩnh vực y học, kết hợp với nâng cao điều kiện chăm sóc sức khỏe, dinh dƣỡng từ trong gia đình và xã hội; phát triển kinh tế - xã hội hƣớng tới sự phát triển bền vững nhằm tạo dựng môi trƣờng sống an lành; nâng cao nhận thức của gia đình và toàn xã hội trong việc cải thiện giống nòi…
Thứ hai, nhân cách được hình thành và phát triển từ điều kiện môi
trường sống.
Môi trường, hoàn cảnh tự nhiên: mỗi cá nhân sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh tự nhiên cụ thể bao gồm các yếu tố: lãnh thổ quốc gia, vùng trời, vùng
42
biển, biên giới hải đảo, điều kiện địa lý, điều kiện tự nhiên: đất đai, nguồn nƣớc, khí hậu, tài nguyên khoáng sản… Điều kiện tự nhiên là một yếu tố quan trọng quyết định hình thành cách thức, phƣơng thức sản xuất và quy định đời sống của con ngƣời. Nhƣ vậy điều kiện tự nhiên góp phần rất quan trọng hình thành đời sống vật chất và tinh thần của mỗi con ngƣời, nó trở thành một trong những yếu tố góp phần hình thành nhân cách mỗi cá nhân.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, điều kiện môi trƣờng tự nhiên với tƣ cách là một yếu tố của tồn tại xã hội tạo nên những phong tục tập quán và nền văn hóa riêng của mỗi quốc gia dân tộc, quyết định đời sống tâm lý, tình cảm xã hội mà thông qua đó đời sống tâm lý, tình cảm, đạo đức, lý tƣởng, niềm tin… của cá nhân đƣợc hình thành và phát triển.
Triết học Trung Hoa cổ đại phát triển một học thuyết có tầm cỡ quy mô lớn về các yếu tố “âm”, “dƣơng”, ngũ hành – “ kim”, “mộc”, “thủy”, “hỏa”, “thổ”, khẳng định các yếu tố của điều kiện tự nhiên chi phối, quyết định sự hình thành và phát triển con ngƣời. Theo đó mỗi cá nhân bị quy định trực tiếp bởi một yếu tố trong “ngũ hành”, từ đó hình thành đặc điểm sinh học, đời sống tâm lý, tính cách, năng lực, phẩm chất cá nhân… Bên cạnh đó, quan niệm “thiên địa nhân hợp nhất” đi sâu nghiên cứu lý giải về mối quan hệ thống nhất của môi trƣờng sống tự nhiên, con ngƣời, xã hội. Nhà biện chứng xuất sắc Lão Tử cho rằng “Đạo” của tự nhiên quy định hết thảy và con ngƣời, xã hội nên giữ đƣợc sự hài hòa với “Đạo”.
Triết học Mác-Lênin cũng khẳng định hết sức sâu sắc về điều này: thế giới là một thể thống nhất, con ngƣời nằm trong mối liên hệ không thể tách rời với giới tự nhiên. Tất cả các yếu tố của tự nhiên đề tác động, ảnh hƣởng đến cuộc sống, sự tồn tại của con ngƣời. Theo C.Mác, giới tự nhiên chính là “thân thể vô cơ” của con ngƣời, con ngƣời sống dựa vào tự nhiên và là một thành tố của giới tự nhiên đó.
Với vị trí địa lý, điều kiện khí hậu, địa hình, tài nguyên…, nƣớc ta thƣờng xuyên phải đối mặt với chiến tranh, thiên tai, địch họa, đây là cơ sở tự nhiên góp phần quyết định hình thành truyền thống yêu nƣớc, đoàn kết dân tộc, tinh thần cố kết cộng đồng, tinh thần lao động cần cù, vƣợt qua gian khó, tinh thần kiên cƣờng bất khuất, yêu nƣớc thƣơng nòi… Nhƣ vậy môi trƣờng sống tự nhiên góp
43
phần rất quan trọng tới sự phát triển con ngƣời nói chung và qua đó định hình nên nhân cách con ngƣời.
Môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển của nhân cách mỗi cá nhân. Yếu tố xã hội là điều kiện quyết định yếu tố phát triển ý thức con ngƣời, tách con ngƣời ra khỏi xã hội loài vật, biến những yếu tố bản năng sinh học thành bản chất xã hội. Ở mỗi gia đình, quan hệ với ông bà, bố mẹ, anh chị em … là “môi trƣờng xã hội” đầu tiên của mỗi cá nhân; môi trƣờng xã hội bên ngoài với vô vàn các quan hệ đan xen nhau, với vô vàn những quy luật vốn có của xã hội … sẽ quy định bản chất xã hội của con ngƣời, hình thành nhân cách con ngƣời.
Cùng là những con ngƣời sinh ra khỏe mạnh, bình thƣờng nhƣng nếu sinh sống ở những điều kiện môi trƣờng xã hội khác nhau sẽ hình thành phát triển thành những cá nhân khác nhau. Cuốn sách “Những tác nhân siêu thường”- (Suppenormal Stimuli) giới thiệu kết quả nghiên cứu của nhà khoa học Deirdre Barett - trƣờng đại học Havard về 31 trƣờng hợp các em bé vì một lí do nào đó đã chung sống và đƣợc động vật nuôi dƣỡng từ năm 1900 đến năm 2004. Những em bé này đƣợc một số loài vật nuôi dƣỡng, có những sự phát triển sinh tồn giống với các loài động vật đó. Các em này có sự phát triển “nhân cách” hoàn toàn khác biệt với con ngƣời. Các em đã rất khó khăn, mất rất nhiều thời gian, thậm chí nhiều trƣờng hợp không thể hòa nhập cộng đồng xã hội và đa số có tuổi thọ rất ngắn; một số rất ít trƣờng hợp có thể tái hòa nhập trở lại cộng đồng nhƣng ở mức độ thấp. Có thể coi đây là những minh chứng rõ ràng nhất về vai trò của môi trƣờng xã hội với sự phát triển con ngƣời, phát triển bản năng sẵn có thành con ngƣời xã hội có nhân cách, đạo đức và ý thức.
Môi trƣờng xã hội phát triển của mỗi cá nhân đƣợc khái quát trong ba phạm vi: gia đình nơi cá nhân sinh ra và đƣợc nuôi dƣỡng, nhà trƣờng nơi cá nhân đƣợc trang bị kiến thức cần thiết, đƣợc dạy dỗ và hoàn cảnh xã hội thời điểm cá nhân sinh sống. Ba yếu tố này không tách rời nhau và đều có vai trò đặc biệt quan trọng.
Trong môi trƣờng xã hội, giáo dục đƣợc coi là yếu tố tiền đề quan trọng cho sự phát triển nhân cách. “Giáo dục” tiếng Anh là “education”, theo chữ gốc La tinh là “Educare” là “làm bộc lộ ra”, với quan niệm hiện đại giáo dục tức là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của ngƣời đƣợc giáo
44
dục. Vậy giáo dục có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển một cá nhân con ngƣời. Giáo dục giúp cho những kinh nghiệm lịch sử - xã hội kết tinh trong các giá trị vật chất, tinh thần lƣu truyền từ thế hệ trƣớc cho thế hệ sau từ đó nhân cách đƣợc phát triển; giáo dục trang bị kiến thức, kỹ năng, thái độ sống cho cá nhân; đem lại cho cá nhân những yếu tố mà di truyền, bẩm sinh, môi trƣờng tự nhiên không đem lại đƣợc đây là cơ sở quyết định nên chẩm chất, năng lực cơ bản của mỗi nhân cách cụ thể; Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh – di truyền không hoàn thiện hay những biến cố tác động thay đổi điều kiện vật chất sinh học của cá nhân nhƣ tai nạn, rủi ro…; giáo dục giúp điều chỉnh và định hƣớng sự phát triển nhân cách của cá nhân.
Nói đến môi trƣờng xã hội còn phải nói đến hoạt động xã hội, mỗi cá nhân đều có các hoạt động xã hội hết sức phong phú và đa dạng, có thể khái quát thành hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần có tính sáng tạo nhằm cải biến tự nhiên, xã hội và tƣ duy. Qua hoạt động, thể chất, trí tuệ của mỗi ngƣời đƣợc phát triển, nhận thức đƣợc hoàn thiện. Nhƣ vậy hoạt động xã hội có ý nghĩa to lớn tới sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân.
Môi trƣờng xã hội cũng còn giao tiếp xã hội, giao tiếp là điều kiện tồn tại, là nhu cầu thiết yếu của mỗi cá nhân. Thông qua giao tiếp, cá nhân bộc lộ những phẩm chất, năng lực cá nhân và qua đó các cá nhân có sự trao đổi, giao lƣu, học hỏi lẫn nhau. Qua giao tiếp mỗi ngƣời nhận thức đƣợc về cá nhân khác thông qua đó nhận thức chính bản thân mình. Qua giao tiếp các nhân cách cá nhân đƣợc phát triển, giao tiếp làm cho sự phát triển của nhân cách cá nhân đƣợc bổ sung, giao thoa, học hỏi, phát triển.
Hiện tại, môi trƣờng sống đang đặt ra nhiều vấn đề có tính cấp bách liên quan trực tiếp đến sự phát triển các cá nhân. Về môi trƣờng tự nhiên, hiện điều kiện khí hậu diễn biến hết sức phức tạp, Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia ảnh hƣởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu. Sự ảnh hƣởng đó thể hiện ở thời tiết bất thƣờng, thiên tai bão lũ hàng năm, triều cƣờng, sự xâm lấn của nƣớc biển… Môi trƣờng xã hội cũng đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề tác động tiêu cực đến sự phát triển con ngƣời và nhân cách con ngƣời, chẳng hạn sự thiếu quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên gia đình, đặc biệt của cha mẹ đối với con cái, bạo lực gia đình, tình trạng ly hôn tăng nhanh, trẻ tự kỷ, trầm cảm tăng cao, trẻ bị xâm hại tình dục, trẻ vi phạm pháp luật; trong trƣờng học, bạo lực học
45
đƣờng, trẻ em bị đánh đập, ngƣợc đãi, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, viên chức, giáo viên còn hạn chế, tình trạng dạy và học chạy theo thành tích, học sinh vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật…; quản lý xã hội còn nhiều hạn chế về trình độ tri thức và trình độ văn hóa, đạo đức gây nên tình trạng ô nhiễm môi trƣờng xã hội, phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội gia tăng, bệnh tật nguy hiểm tăng nhanh, tai nạn rủi ro cao, kinh tế phát triển thiếu bền vững, vi phạm quy chế dân chủ, tham ô, tham nhũng, lãng phí… Những yếu tố này đã và đang tác động to lớn tới tâm lý, tính cách, lý tƣởng, niềm tin, đạo đức của cá nhân con ngƣời, làm cho nhân cách cá nhân đang có sự biến đổi to lớn.
Để tạo ra nhân cách cá nhân phát triển toàn diện đòi hỏi cần xây dựng các yếu tố làm nên môi trƣờng sống tạo nên những giá trị tốt đẹp bền vững hƣớng tới mục tiêu tiến bộ vì sự phát triển của con ngƣời.
Thứ ba, nhân cách được hình thành và phát triển trên cơ sở thế giới quan
cá nhân.
Hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá nhân, bao gồm toàn bộ các yếu tố nhƣ quan điểm, tri thức, niềm tin, tình cảm, định hƣớng giá trị… Thế giới quan cá nhân, sự chọn lựa của cá nhân với những quan điểm sống, học tập, làm việc làm nên bản sắc riêng biệt của mỗi cá nhân. Từ đó hình thành nên nhân cách cá nhân, hình thành sự phong phú đa dạng các nhân cách cá nhân trong cộng đồng, xã hội.
Trong xã hội bùng nổ thông tin nhƣ hiện nay việc lựa chọn quan điểm
sống, lý tƣởng, niềm tin, định hƣớng giá trị… của mỗi cá nhân hiện nay diễn ra
rất đa dạng, phức tạp, bị chi phối bởi nhiều luồng thông tin, nhiều quan điểm đối
lập và nhiều xu thế phát triển, biến đổi nhanh chóng. Để hình thành và phát triển
định hƣớng các quan điểm, lý tƣởng, hệ giá trị của bản thân đòi hỏi mỗi cá nhân
cần tìm hiểu, đánh giá và chọn lọc; cần có những màng lọc thông tin, cần có sự
định hƣớng từ gia đình và xã hội giúp cho cá nhân lựa chọn đƣợc quan điểm
sống, phát triển tiến bộ cho bản thân.
Một thế giới quan đúng đắn sẽ hƣớng con ngƣời hoạt động theo sự phát
triển của xã hội và góp phần vào sự tiến bộ của xã hội. Vì thế, thế giới quan là
trụ cột về mặt hệ tƣ tƣởng của nhân cách, là cơ sở cho đạo đức, chính trị và hành
vi. Cho nên việc định hƣớng, giáo dục thế giới quan – lý tƣởng, niềm tin, quan
điểm sống, tình cảm đạo đức, hệ giá trị… cho cá nhân là nhiệm vụ hết sức quan
46
trọng trong xã hội hiện nay, đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội và sự tự chủ của
cá nhân trong học hỏi, lựa chọn và xây dựng thế giới quan cá nhân.
Trong lịch sử phát triển tƣ tƣởng nhân loại cho đến nay có thể khẳng định
học thuyết Mác - Lênin là học thuyết khoa học và cách mạng, đúng nhƣ nhận
định của Bác Hồ: “…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhƣng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê -nin”[65,
268]. Chủ nghĩa Mác - Lênin hƣớng con ngƣời tới sự phát triển tiến bộ, triệt để
giải phóng con ngƣời và xã hội loài ngƣời khỏi mọi sự áp bức bất công. Chủ
nghĩa Mác - Lênin trang bị niềm tin khoa học, lý tƣởng đấu tranh cho tự do, công
bằng bình đẳng cho cá nhân và xã hội, định hƣớng mỗi cá nhân phát triển tới
những giá trị chân – thiện – mỹ; xây dựng con ngƣời giàu lòng nhân đạo, nhân
văn, nhân ái…
Để hình thành nhân cách hoàn thiện, mỗi ngƣời Việt Nam hiện đại cần lấy
học thuyết Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho việc xây
dựng thế giới quan cá nhân, định hình nhân cách.
Trong giai đoạn hiện nay để phát triển hoàn thiện nhân cách con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cấp, các cơ quan lãnh đạo của Đảng và nhà nƣớc cần phát triển kinh tế - tạo dựng tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách; nâng cao dân trí, nâng cao trình độ nhận thức khoa học cho nhân dân; tạo dựng môi trƣờng xã hội công bằng bình đẳng, tiến bộ để cá nhân phát huy tiềm năng thế mạnh của bản thân; tăng cƣờng đổi mới phƣơng pháp giáo dục trang bị chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh cho nhân dân; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, loại bỏ những yêu tố tiêu cực quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí… trong Đảng tạo cơ sở niềm tin cho nhân dân vào chủ nghĩa Mác - Lênin và con đƣờng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội…, tạo ra tiền đề tốt để hình thành nhân cách cho các cá nhân.
1.2. Thế hệ trẻ, nhân cách của thế hệ trẻ và vai trò của gia đình đối với
việc hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ
1.2.1. Khái niệm “thế hệ trẻ”, “nhân cách thế hệ trẻ” Thế hệ trẻ là phạm trù rộng chỉ những ngƣời ở những độ tuổi dƣới 30. Họ
là những tầng lớp thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.
47
Trong quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin luôn coi lớp thế hệ trẻ là động lực quan trọng, chứa đựng tiềm năng to lớn để kế tục sự nghiệp cách mạng vô sản, xóa bỏ tàn dƣ xã hội cũ, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trung tâm của thế hệ trẻ, lực lƣợng kế cận quan trọng của Đảng cộng sản là thanh niên và đoàn thanh niên.
Theo Mác, giai cấp vô sản chỉ đƣợc hình thành với tƣ cách một giai cấp khi nó ý thức đƣợc địa vị và tƣơng lai của nó: “... Những công nhân tiên tiến nhất cũng hoàn toàn nhận thức đƣợc rằng tƣơng lai của giai cấp họ và do đó của cả loài ngƣời, hoàn toàn tuỳ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên”[59,262].
Vào năm 1853, khi “Đảng của Mác” đã khẳng định vị trí của mình trên vũ đài lịch sử, trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại những đạo luật đặc biệt của Bít-xmắc, Ph.Ăng-ghen đƣa ra nhiều quan điểm về vai trò của hế hệ trẻ với xây dựng xã hội mới “ đội hậu bị của Đảng”, “đội xung kích”, “Chính thế hệ trẻ sẽ là nguồn bổ sung dồi dào nhất cho Đảng”. Ông có niềm tin vô hạn vào tiềm năng của thế hệ trẻ, nhấn mạnh thanh niên không bao giờ thoả mãn với lý tƣởng trƣớc đó, họ muốn tự do hơn trong hành động, khao khát lập chiến công và vì sự đổi mới. Họ sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hiến dâng cả máu và cuộc đời mình.
C. Mác bổ sung: “Thanh niên là cội nguồn sự sống của dân tộc, còn giai
cấp công nhân là bộ xƣơng của dân tộc” [59, 262]
Theo Ngƣời nhiệm vụ tối quan trọng của thế hệ trẻ là học tập, học sáng tạo chứ không phải “học gạo”, phải có đạo đức trong sáng – đạo đức cộng sản. Thế hệ cha ông phải giáo dục định hƣớng, tin tƣởng không đƣợc giây phút nào đƣợc nghi ngờ về khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng của thế hệ trẻ, mà các thế hệ trƣớc chƣa kịp hoàn thành… các thế hệ tƣơng lai sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh để giải phóng nhân loại. Là lớp thế hệ trẻ tuổi cho nên Ngƣời phê phán những đảng viên - những lớp ngƣời đi trƣớc có thái độ coi thƣờng, chế giễu sự ngây thơ, kinh nghiệm của thế hệ trẻ. Phải có thái độ độ lƣợng đối với thế hệ trẻ, đồng thời luôn nhắc nhở, cần phải đòi hỏi ở thanh niên nhiều hơn nữa, cần phải phê phán một cách có nguyên tắc những khuyết điểm của họ đối với cách mạng ngay từ thủa thiếu thời.
Nhiệm vụ của thế hệ đi trƣớc của xã hội phải: “cải tổ việc dạy dỗ, việc tổ chức và giáo dục thanh niên thì mới có thể bằng những cố gắng của thế hệ trẻ đạt
48
đƣợc kết quả xây dựng nên một xã hội không giống xã hội cũ, tức là cộng sản chủ nghĩa” [51, 357].
Thế hệ trẻ là lứa tuổi trẻ nhất trong xã hội. Giai đoạn tuổi trẻ luôn đƣợc coi là giai đoan quan trọng, giai đoạn đẹp đẽ để lại nhiều ấn tƣợng trong cuộc đời mỗi cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [64, 167]. Tuổi trẻ là lứa tuổi đẹp nhất, sống động nhất, đầy sức sống nhƣ mùa xuân của tự nhiên chứa đựng sự sinh sôi, phát triển của những mầm non và vạn vật… Thế hệ trẻ là lực lƣợng quan trọng của xã hội; đƣợc coi là tƣơng lai của mỗi dân tộc quốc gia; là hạnh phúc của mỗi gia đình. Vì vậy thế hệ trẻ là thế hệ luôn đƣợc cả xã hội quan tâm, chú ý đầu tƣ phát triển.
Thuật ngữ “thế hệ trẻ” đƣợc dùng thƣờng nhật trong mọi lĩnh vực khoa học
xã hội.
Thế hệ tiếng Anh là generation; tiếng Latin generare – sinh ra. Trong Từ điển tiếng Việt mở - wiktionary “thế hệ” có 2 nghĩa, một là lớp người cùng một lứa tuổi; hai là lớp sinh vật cùng một lứa. Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì thế hệ là “lớp ngƣời hoặc sinh vật cùng một lứa tuổi, phân biệt với lớp trƣớc đã sinh ra mình và lớp sau do mình (sẽ) sinh ra.” [128,1196]
Mặc dù tâm lý học nghiên cứu giai đoạn lứa tuổi con ngƣời dựa trên đặc trƣng về đặc điểm tâm lý ngƣời nhƣng đây là cơ sở quan trọng cho sự phát triển của hành vi, lối sống, nhận thức và đời sống tâm hồn mỗi cá nhân.
Theo Phân tâm học của S. Freud, do sự phát triển của tình dục và vì phải
thích ứng với đòi hỏi của môi trƣờng tự nhiên và xã hội hình thành nên nhân
cách của con ngƣời với 3 ngôi: cái ấy (Id), cái tôi (Ego) và cái siêu tôi
(superEgo). Freud cho rằng nếu các xung đột – các tác động từ bố mẹ, môi
trƣờng sống, quy tắc chuẩn mực xã hội diễn ra mạnh mẽ hay không đƣợc giải
quyết một cách ổn thỏa (hoặc nhiều kích thích, hoặc nhiều hụt hẫng) thì cá nhân
sẽ dừng lại ở giai đoạn đó và sẽ phát triển những nét nhân cách đặc trƣng của
giai đoạn đó – hay dẫn tới sự “cắm chốt” (– Fixation). Và những đứa trẻ bị cắm
chốt giai đoạn nào sẽ bị “ngƣng lại” giai đoạn đó, quy định sự phát triển nhân
cách, ảnh hƣởng sự phát triển nhân cách sau này.
Nhà nghiên cứu tâm lý Huỳnh Văn Sơn cụ thể hóa sự phân kỳ lứa tuổi của
trẻ em từ 0 – 18 tuổi nhƣ sau:
49
Lứa tuổi sơ sinh - hài nhi: hoạt động chủ đạo là ăn, ngủ; hoạt động giao lƣu
cảm xúc trực tiếp, đặc trƣng tâm lý hành động bộc phát, chƣa thể điều khiển
cộng sinh cảm xúc động tác biểu cảm , nhu cầu tình cảm nhu cầu giao tiếp với
ngƣời lớn, thế giới xung quanh; xuất hiện đời sống tâm lý cá nhân mang dấu ấn
đầu tiên mang đời sống tâm lý xã hội, nhu cầu ấn tƣợng, nhu cầu gắn bó với
ngƣời khác.
Lứa tuổi ấu nhi: hoạt động chủ đạo là hoạt động với đồ vật hay hoạt động
có đối tƣợng, đặc trƣng tâm lý tìm tòi khám phá đồ vật, bắt chƣớc hành động tiếp
xú, khám phá, sử dụng đồ vật, biết sử dụng ngôn ngữ là phƣơng tiện tích cực
trong giao tiếp, biết hoạt động với đối tƣợng, nắm đƣợc chức năng của một số
vật thể và sử dụng chúng, hình thành tƣ duy trực quan hành động.
Lứa tuổi mẫu giáo: hoạt động chủ yếu là động vui chơi, trọng tâm là trò
chơi phân vai đóng vai có chủ đề hay trò chơi đóng vai, đặc trƣng tâm lý thích
làm ngƣời lớn, bắt đầu ý thức về bản thân, phân định khách quan với chủ quan,
nhạy cảm với chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, tƣ duy trực quan hình tƣợng phát
triển, biết tự đánh giá vị trí của mình trong các mối quan hệ nhận biết mình
trong hệ thống mối quan hệ xã hội, hình thành mục đích hành động, bắt đầu có
sự đấu tranh động cơ và sự điều chỉnh hành vi, nhu cầu mong muốn các hoạt
đông xã hội và đƣợc xã hội đánh giá
Lứa tuổi nhi đồng: hoạt động chủ đạo là học tập, đặc trƣng tâm lý tìm tòi và khám phá trực tiếp thế giới xung quanh, hiếu động và vận động liên tục; thích thú lĩnh hội tri thức khoa học, quan tâm đến phƣơng pháp công cụ nhận thức, hình thành những quá trình tâm lý phức tạp, các thao tác tƣ duy, thao tác trí tuệ bên trong, các phản ứng tâm lý phức tạp, có những kế hoạch, hành động để đạt đƣợc mục địch, biết phân tích lập kế hoạch trong đầu.
Lứa tuổi thiếu niên: hoạt động chủ đạo hoạt động học tập giao lƣu bè bạn, đặc trƣng tâm lý phát triển mạnh mẽ về thể chất và tâm lý đẫn đến dậy thì, quan hệ bạn bè, quan hệ bạn bè giữ vai trò vô cùng quan trọng, cải tổ nhân cách bản ngã, mong muốn đƣợc đối xử nhƣ ngƣời lớn và có thể xuất hiện khủng hoảng tâm lý tuổi dậy thì, xu hƣớng vƣơn lên làm ngƣời lớn và đƣợc tự lập, nguyện vọng tìm một chỗ đứng trong lòng tập thể, hòa mình vào tập thể, hình thành năng
50
lực tự ý thức, biết tự nhận thức tự đánh giá biết tự nhận thức tự đánh giá với những kế hoạch cụ thể.
Lứa tuổi đầu thanh niên: hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập hƣớng nghiệp, đặc trƣng tâm lý tự ý thức phát triển hình thành thế giới quan khoa học, định hƣớng nghề nghiệp bắt đầu phát triển mạnh, ham thích hoạt động xã hội, cái tôi định hình rõ, xuất hiện rung động đầu đời và mối tình đầu… [82, 68].
Các nghiên cứu về tâm lý học là cơ sở lý luận quan trọng để nhận thức, đánh giá về thế hệ trẻ. Từ đó có những biện pháp cụ thể cho các gia đình và xã hội trong việc chăm sóc và nuôi dƣỡng tốt nhất cho sự phát triển nhân cách nói riêng và sự trƣởng thành tiến bộ mọi mặt của thế hệ trẻ.
Khi nghiên cứu về lớp ngƣời trẻ, Viện nghiên cứu thanh niên trong “Vấn đề thanh niên nhìn nhận và dự báo”, cho rằng: “Khi nói tới tuổi trẻ, lớp trẻ, thế hệ trẻ, tức là muốn nói tới lớp ngƣời từ tuổi lọt lòng đến 28 tuổi” [124, 12].
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án (tập trung nghiên cứu thế hệ trẻ trong độ tuổi từ 0 – 18), đây là độ tuổi diễn ra sự hình thành và phát triển nhân cách quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi con ngƣời; đồng thời là lứa tuổi chịu sự ảnh hƣởng, quyết định rất lớn từ phía gia đình trong việc chăm sóc, nuôi dƣỡng, giáo dục. Đây là độ tuổi chƣa có sự độc lập tự chịu trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trƣớc pháp luật, vẫn cần sự giám hộ, hỗ trợ lớn từ gia đình; tuy nhiên ở độ tuổi thanh niên từ 16 tuổi trở đi thì thế hệ trẻ có ý thức và hành động tự lập, tự chủ, trƣởng thành cao hơn hƣớng tới việc hoàn toàn tự chủ, hòa nhập xã hội.
Giai đoạn từ 0 - 5 tuổi là lứa tuổi nhi đồng, đây là lứa tuổi mỗi đứa trẻ phải làm quen, thích nghi, hòa nhập vào một môi trƣờng sống nhất định. Nhân cách bắt đầu đƣợc hình thành và phát triển. Trẻ từ 1- 3 tuổi hoạt động với đồ vật giữ vai trò chủ đạo; sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi này là thành tựu nổi bật, xuất hiện những tiền đề của việc hình thành và phát triển nhân cách. Tuổi mẫu giáo từ 3 – 5 tuổi: vui chơi trở thành hoạt động chủ đạo của trẻ em; thời kỳ này trẻ phát triển mạnh về nhận thức, tình cảm, ý chí, ý thức và nhân cách.
Ở giai đoạn này, nhân cách của trẻ đã bộc lộ những nét đặc trƣng của cá nhân. Tuy nhiên, đây là giai đoạn gia đình vẫn có thể “uốn năn”, điều chỉnh các ý thức, hành vi…cho trẻ hƣớng tới các giá trị tốt đẹp.
Giai đoạn từ 6 – 15 tuổi là giai đoạn thiếu niên đƣợc tính từ khi trẻ em bắt đầu tuổi bắt buộc trẻ em phải đi học (lớp 1) đến hết trung học cơ sở ( lớp 9). Lứa
51
tuổi có sự phát triển nhanh chóng về thể chất và tâm lý, dẫn đến sự phát triển nhân cách cũng có nhiều biến đổi, diễn biến phức tạp. Giai đoạn này gắn với lứa tuổi dậy thì là tuổi rất nhạy cảm, thời điểm này, cơ thể diễn ra những điều kỳ diệu bí ẩn, các biến đổi về tâm sinh lý đã tạo những biến đổi ở con ngƣời hoàn toàn mới lạ và quá trình ấy này là một thử thách với các em. Tuổi dậy thì là thời kỳ chuyển tiếp từ giai đoạn trẻ thơ sang giai đoạn trƣởng thành, là thời kỳ trẻ không còn là trẻ con nhƣng vẫn chƣa là ngƣời lớn. Đây là thời kỳ mà bất cứ một thiếu niên nào cũng phải trải qua những biến đổi quan trọng về cơ thể cũng nhƣ về tâm hồn.
Giai đoạn này nhân cách của trẻ hình thành, phát triển phức tạp, dễ bị “dụ dỗ”, lôi kéo vào tệ nạn xã hội, hiện tƣợng tiêu cực; thế hệ trẻ có bƣớc hòa nhập môi trƣờng xã hội ở nhiều khía cạnh đa dạng phức tạp. Trẻ bị chi phối, hấp dẫn bởi “thế giới mới lạ” bên ngoài gia đình nhƣ: bạn bè, phim ảnh, giải trí, thần tƣợng…Trẻ có xu hƣớng “cƣờng điệu hóa” với những hiện tƣợng mà chúng gặp phải. Lớp thế hệ trẻ nhận đƣợc nhiều nguồn thông tin trái chiều, không riêng một nguồn tác động chủ yếu từ gia đình nhƣ trƣớc đây; nếu gia đình không phát huy tốt vai trò giáo dục, quan tâm, định hƣớng lớp trẻ rất dễ bị sa ngã, lệch chuẩn.
Trẻ nữ, thƣờng bắt đầu dậy thì ở tuổi từ 9 đến 14. Trẻ nam, dậy thì muộn hơn ở tuổi từ 12 đến 15. Nhìn chung nữ dậy thì sớm hơn nam khoảng 2 - 3 tuổi. Có trẻ dậy thì sớm hơn và cũng có trẻ dậy thì muộn hơn một vài năm. Thời kỳ này còn có nhiều tên gọi khác nhau nhƣ: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị”. Những nghiên cứu về tâm lý học lứa tuổi khái quát:Trong những giai đoạn phát triển của con ngƣời, lứa tuổi thiếu niên có một vị trí và ý nghĩa vô cũng quan trọng. Đây là thời kỳ phát triển phức tạp nhất, và cũng là thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất cho những bƣớc trƣởng thành sau này. Thời kỳ thiếu niên quan trọng ở chỗ: trong thời kỳ này những cơ sở, phƣơng hƣớng chung của sự hình thành quan điểm xã hội và đạo đức của nhân cách đƣợc hình thành, chúng sẽ đƣợc tiếp tục phát triển trong tuổi thanh niên.
Ngoài ra đây là lứa tuổi mà các bạn trẻ thích làm công việc của ngƣời lớn, việc xã hội, tỏ ra năng nổ, nhiệt tình và các em có “cảm giác rất độc đáo: “cảm giác mình đã là ngƣời lớn”. Các em có cảm giác mình không còn là trẻ con nữa, nhƣng các em cũng có cảm giác mình chƣa thực sự là ngƣời lớn. Cảm giác về sự trƣởng thành của bản thân là nét đặc trƣng trong nhân cách thiếu niên vì
52
nó vì nó biểu hiện lập trƣờng mới của thiếu niên đối với ngƣời lớn và thế giới xung quanh.
Trong quan hệ bạn bè lứa cùng tuổi giai đoạn học sinh trung học cơ sở tính chất đa dạng, phức tạp hơn giai đoạn tiểu học. Giao tiếp vƣợt qua phạm vi học tập. Một mặt các em khao khát đƣợc giao tiếp hoạt động trong các nhóm, tổ chức, tập thể có bạn bè thân thiết tin cậy. Mặt khác cũng biểu hiện nguyện vọng không kém phần quan trọng là đƣợc thể hiện bản thân, để bạn bè công nhận, thừa nhận, tôn trọng mình.
Giai đoạn từ 16 – 18 tuổi – giai đoạn đầu của thanh niên là lứa tuổi có sự phát triển rất lớn về tâm sinh lý, tình cảm, nhân cách; nó tiếp tục sự phát triển giai đoạn thiếu niên, giai đoạn diễn ra sự đấu tranh chọn lọc và định hình nên nhân cách cá nhân. Sự phát triển đã đạt sự trƣởng thành về mặt thể chất; sự khác biệt với cơ thể ngƣời lớn là không đáng kể; đây là thời kỳ mà sự phát triển thể chất đi vào giai đoạn hoàn chỉnh. Sự trƣởng thành về giới tính; vai trò xã hội của trẻ thay đổi rõ rệt; hoạt động học tập gắn với sự lựa chọn nghề nghiệp, và thực hiện những ƣớc mơ, hoài bão, niềm tin, lý tƣởng của cá nhân. Vì vậy hình thành phát triển mạnh mẽ thế giới quan của cá nhân, đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú, tình bạn có cơ sở lý trí bền vững hơn và nảy sinh tình yêu nam nữ.
Khái quát lại, chúng tôi quan niệm: Thế hệ trẻ là lớp người có độ tuổi từ 0 – 30 tuổi, lớp người có thế mạnh, tiềm năng to lớn, nguồn nhân lực bổ sung cho sự phát triển xã hội, họ cần sự quan tâm, hỗ trợ tạo mọi điều kiện vật chất và tinh thần từ phía cộng đồng, xã hội trong quá trình phát triển, trưởng thành.
Thế hệ trẻ có những đặc điểm nhƣ sau: Thế hệ trẻ là lực lƣợng những con ngƣời đang ở độ tuổi đẹp nhất của đời ngƣời, thời gian cống hiến cho xã hội lâu dài. Họ có sức khoẻ, có khát vọng hoài bão, có lý tƣởng, dám nghĩ dám làm, không ngại khó khăn hay lùi bƣớc trƣớc gian khổ. Thế hệ trẻ là nguồn tài nguyên vô giá của mỗi dân tộc là cơ sở hình thành con đƣờng phía trƣớc của một dân tộc. Quá trình lịch sử của mỗi dân tộc, trong mỗi giai đoạn đều có những đòi hỏi, yêu cầu cấp thiết mà con ngƣời phải đáp ứng và giải quyết, lực lƣợng thế hệ trẻ là những con ngƣời có thể đáp ứng và giải quyết tốt hơn hết những yêu cầu đó của lịch sử.
Là giai đoạn con ngƣời đang trƣởng thành và có sự phát triển mạnh mẽ nhất về mọi mặt so với các giai đoạn khác trong cuộc đời. Sự phát triển thay đổi nhanh
53
nhất về thể lực: chiều cao, trọng lƣợng, tâm lý, sinh lý, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ và thiết lập các mối quan hệ trên mọi phƣơng diện của đời sống xã hội. Đây là lứa tuổi phát triển và hình thành cơ thể hoàn thiện và sức sống dồi dào, đồng thời đây cũng là giai đoạn diễn ra sự phát triển mạnh mẽ về trí tuệ và nhân cách. Tuy nhiên, tâm, sinh lý, thể chất và nhân cách chƣa phát triển hoàn chỉnh cho nên những hành vi, giao tiếp ứng xử còn có những biểu hiện hạn chế, lệch lạc.
Ở giai đoạn tuổi trẻ con ngƣời tiếp thu, học tập hiệu quả nhất các tri thức của nhân loại đồng thời cũng là tầng lớp nhạy bén với các vấn đề lựa chọn những yếu tố mới nảy sinh phát triển của giá trị, chuẩn mực, đạo đức, lối sống kỹ năng sống trong xã hội. Nhƣng ở độ tuổi này thế hệ trẻ hiếu động, phản xạ nhanh, cảm tính, dễ mắc sai lầm.
Thế hệ trẻ là lớp ngƣời luôn mong muốn khẳng định mình, khao khát ý tƣởng, thích cái mới lạ, ƣa tìm tòi khám phá, sáng tạo năng động, say mê hoạt động; có nhu cầu về tình bạn, tình yêu đôi lứa, có tinh thần tự lập, không thích bị lệ thuộc vào ngƣời khác, yêu chuộng sự công bằng và ghét bất công…Nên đặc trƣng thế hệ trẻ là thế hệ có sức mạnh có khả năng, tiềm năng to lớn; sẵn sàng bầu nhiệt huyết xả thân vì nghĩa lớn cao đẹp, sẵn sàng hy sinh quên mình vì Tổ quốc và nhân dân. Tuy nhiên, bị hạn chế bởi độ tuổi từ 0 đến 18 tuổi họ là những cá nhân chƣa đủ năng lực về vất chất, tinh thần để tự quyết cuộc đời mình; còn chịu sự chăm sóc, nuôi dƣỡng, giáo dục của gia đình.
Thế hệ trẻ là thế hệ sống với nhiều ƣớc mơ, hoài bão, khát khao, nhạy bén,
nhạy cảm nên đối với họ tiềm năng vƣơn lên, tạo sự đột phá. Thế hệ trẻ là thế hệ
dũng cảm nhất khi đƣơng đầu với thử thách, thách thức mọi giới hạn và luôn
luôn muốn đổi mới, cải biến các giá trị theo xu hƣớng phát triển tiến bộ. Với sức
trẻ, ham hiểu biết, năng động, sáng tạo nhƣng họ là lớp ngƣời còn thiếu kinh
nghiệm sống, kỹ năng sống do vậy cần đƣợc xã hội đặc biệt quan tâm, giúp đỡ.
Tinh thần dám nghĩ, dám làm, đổi mới, chinh phục thử thách đôi khi làm
cho thế hệ trẻ mạo hiểm, liều lĩnh, cực đoan, hành động thiếu kỷ luật… chủ
nghĩa cá nhân do vậy dễ gặp thất bại. Thanh niên giàu mơ ƣớc, lạc quan nhƣng
còn bồng bột, nôn nóng, thiếu kinh nghiệm sống, xúc cảm nhiều khi lấn át lý trí
khoa học nên khi thất bại dễ hoang mang, chán nản.
Óc tƣởng tƣợng phong phú, cùng nhiều khát khao khám phá làm thế hệ trẻ
dễ rơi vào ảo tƣởng, mất phƣơng hƣớng của cuộc sống “sống ảo”. Tâm lý thích
54
cái mới làm cho thế hệ trẻ là thế hệ dễ bị lôi kéo, kích động bởi cái xấu, tệ nạn xã
hội. Nên họ là đối tƣợng cần đƣợc quan tâm, giáo dục bởi gia đình, nhà trƣờng,
xã hội trên mọi lĩnh vực. Mác nói; “ tất cả những gì đang phát triển đều là chƣa
hoàn thiện”, “sự không hoàn thiện cần đến giáo dục, nếu không giáo dục trở nên
thừa” [60, 54-55].
Lớp ngƣời trẻ (từ 0 đến 18 tuổi) trong gia đình hầu hết đang sống chung với
ông bà, bố mẹ; vẫn phụ thuộc về kinh tế vào bố mẹ, ông bà; sự phát triển chịu sự
ảnh hƣởng, chi phối rất lớn từ gia đình. Có thể nói đây là thời kỳ diễn ra sự phát
triển “quá độ” biến đổi từ trẻ con (chƣa trƣởng thành) sang giai đoạn ngƣời lớn
(trƣởng thành). Trong giai đoạn này còn tồn tại những yếu tố cũ “trẻ con” và đã và
đang nảy sinh, phát triển những yếu tố mới bộc lộ sự trƣởng thành và tâm lý, sinh
lý, tính cách và định hình sự phát triển nhân cách bản thân mỗi cá nhân.
Trên cơ sở lý luận về nhân cách và quan niệm về thế hệ trẻ nhƣ vừa phân
tích, chúng tôi đƣa ra khái niệm nhân cách của thế hệ trẻ nhƣ sau:
Nhân cách thế hệ trẻ là phẩm chất và năng lực tạo nên thế giới cái “tôi”
của mỗi cá nhân ở độ tuổi từ 0 đến 30 tuổi, là tổng hợp từ các yếu tố sinh học,
tâm lý, xã hội để hình thành nên đặc trưng cá nhân, trên cơ sở đó mỗi cá nhân
trở thành chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh các hành
vi, hoạt động của mình.
1.2.2. Gia đình và vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách cho thế hệ trẻ
1.2.2.1. Quan niệm về gia đình Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình khi các nhà khoa học nghiên cứu ở từng góc độ khác nhau. Từ góc độ chủ nghĩa xã hội khoa học có khái niệm: “Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con ngƣời, một thiết chế văn hóa - xã hội đặc thù, đƣợc hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dƣỡng và giáo dục… giữa các thành viên” [10, 236].
Nghiên cứu trên khía cạnh xã hội học, Gs. Lê Thi đƣa ra định nghĩa: “Khái niệm gia đình đƣợc sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại). Đồng thời trong gia đình cũng có thể bao gồm một số ngƣời đƣợc gia
55
đình nuôi dƣỡng, tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những ràng buộc có tính pháp lý, đƣợc nhà nƣớc thừa nhận và bảo vệ (đƣợc ghi rõ trong Luật Hôn nhân và gia đình)” [106, 20-21].
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2010 định nghĩa: Gia đình là tập hợp những ngƣời gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dƣỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo qui định của Luật này (Chƣơng 1- Điều 8 - Khoản 10 - Những qui định chung).
Trong lĩnh vực triết học, chủ nghĩa Mác – Lênin xem gia đình là thiết chế xã hội có tính lịch sử cụ thể. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” khi bàn về tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con ngƣời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con ngƣời còn tạo ra những ngƣời khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”[61, 41].
Quan điểm của triết học mác xít về gia đình đƣợc thể hiện qua nhiều tác phẩm nhƣng rõ nhất, đầy đủ nhất là tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”. Theo đó, nhân tố quyết định trong lịch sử quy cho đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp “Nhƣng bản thân sự sản xuất đó có 2 loại. Một mặt sản xuất ra tƣ liệu sinh hoạt, ra thức ăn quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó, mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con ngƣời, là sự truyền giống nòi. Những thiết chế xã hội trong đó những con ngƣời của một thời đại lịch sử nhất định đang sống là do hai loại sản xuất đó quyết định. Một mặt do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”[62, 26]. Các nhà kinh điển chỉ ra một cách khoa học, đúng đắn quá trình biến đổi của gia đình trong lịch sử loài ngƣời, hay quy luật về sự hình thành và phát triển của gia đình, mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội. Theo các ông, nguyên nhân của sự biến đổi các hình thức gia đình trong lịch sử là do sự phát triển của các phƣơng thức sản xuất. Sự phát triển của gia đình phản ánh sự phát triển của chế độ sở hữu tƣ nhân. Ph.Ăngghen cho rằng yếu tố kinh tế nhƣ một dòng chảy xuyên xuốt quá trình phát triển của gia đình. Và sự phát triển này song hành với sự phát triển của chế độ tƣ hữu.
56
Quan hệ gia đình cũng phản ánh nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp. Theo Ph.Ăngghen, nội dung cơ bản của xã hội có giai cấp đƣợc biểu hiện ngay trong chính mối quan hệ của con ngƣời trong chính gia đình của mình. Gia đình là một thiết chế xã hội - một hình ảnh “xã hội thu nhỏ” trong đó bao hàm đầy đủ những mối quan hệ xã hội của các thành viên trong gia đình và do đó nó cũng chứa những mâu thuẫn vốn có của xã hội.
V.I.Lênin là ngƣời đã phát triển xuất sắc học thuyết Mác trong điều kiện lịch sử mới: giai đoạn chủ nghĩa tƣ bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn lý luận chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực. V.I.Lênin nhận thức sâu sắc vai trò của gia đình, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phải xây dựng gia đình mới.
Để xây dựng gia đình mới theo V.I.Lênin phải phát triển nền sản xuất cải tạo nền kinh tế nhỏ thành nền kinh tế lớn, đƣa ngƣời lao động vào con đƣờng làm ăn tập thể, phải thủ tiêu chế độ tƣ hữu về ruộng đất, công xƣởng nhà máy, phát triển dịch vụ xã hội, tạo điều kiện để phụ nữ thoát khỏi tình trạng nô lệ trong gia đình, mặt khác phải thủ tiêu những đặc quyền của đàn ông, thực hiện quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn, quyền lợi cho con ngoài giá thú, đòi hỏi ngƣời cha phải chịu nuôi nấng con.
V.I.Lênin đặc biệt quan tâm đến vai trò của ngƣời phụ nữ, theo đó cần tạo cơ hội cho phụ nữ học tập, tham gia lao động sản xuất và hoạt động xã hội làm tốt trách nhiệm với gia đình. Có nhƣ vậy trình độ, năng lực và sự giác ngộ của phụ nữ mới đƣợc nâng lên, địa vị của ngƣời phụ nữ ngoài xã hội đƣợc củng cố, vai trò của họ trong gia đình đƣợc phát huy, phụ nữ sẽ làm tốt hơn nhiệm vụ nuôi dạy con cái. Phụ nữ phải tích cực học tập, tham gia hoạt động chính trị, phải nâng cao trình độ về mọi mặt, nhanh chóng đuổi kịp nam giới để làm tốt hơn vai trò ngƣời vợ ngƣời mẹ, ngƣời công dân.
Gia đình trong xã hội xã hội chủ nghĩa là nơi đảm bảo hạnh phúc và sự tiến bộ cho mỗi cá nhân. Trong gia đình các thành viên có quan hệ bình đẳng dân chủ thực sự, phụ nữ cũng nhƣ nam giới đƣợc coi trọng nhƣ nhau, tất cả những gì làm cho phụ nữ thiệt thòi bị gạt bỏ.
Cho đến nay, gia đình vẫn đƣợc các quốc gia dân tộc quan tâm, bảo tồn và phát triển. Tổ chức UNESCO của Liên hợp quốc đã quyết định lấy năm 1994 làm năm quốc tế của gia đình. Nhiều quốc gia trên thế giới đã tổ chức Ngày gia
57
đình hàng năm để nhắc nhở mọi ngƣời luôn hƣớng về gia đình, bảo vệ và phát huy vai trò của gia đình.
Trong lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam cho đến nay, gia đình vẫn đƣợc coi là gốc của nƣớc, cơ cấu xã hội bền chặt nhà - làng - nƣớc tồn tại lâu dài có vai trò quan trọng trong quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc.
Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, ngƣời học trò xuất sắc của C.Mác, Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin đã đƣa ra những quan điểm hết sức tiến bộ, văn minh về gia đình. Theo Ngƣời, khái niệm gia đình cần đƣợc hiểu theo nghĩa cũ và mới, theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa cũ thì gia đình chỉ có giới hạn hẹp, chỉ lo cho cha mẹ vợ con trong nhà mình ấm no yên ổn. Nhƣng theo nghĩa mới thì gia đình rộng rãi hơn, những ngƣời cùng lao động trong một nhà máy, một cơ quan, một tập thể… đều phải đoàn kết và yêu thƣơng nhau nhƣ anh em trong một gia đình. Rộng hơn nữa là đồng bào cả nƣớc đều là anh em trong một đại gia đình.
Tất cả ngƣời Việt Nam là đồng bào, với nghĩa đồng bào mọi ngƣời không chỉ biết quan tâm đến những ngƣời ruột thịt thân yêu của mình mà phải biết thƣơng yêu đến ngƣời khác, đặc biệt là tình thƣơng yêu các em nhỏ. Ngƣời viết: “Đã là đại gia đình thì sự săn sóc dạy dỗ không chỉ nhằm làm cho con cháu của mình khỏe và ngoan mà phải cố gắng giúp đỡ tất cả các cháu đều ngoan và khỏe” [67, 258].
Nhƣ vậy quan niệm về gia đình theo nghĩa mới của Hồ Chí Minh đã thể hiện tƣ tƣởng đại đoàn kết toàn dân. Bên cạnh đó, gia đình và xã hội luôn gắn bó khăng khít với nhau, mỗi gia đình là tế bào của xã hội. Muốn có xã hội tốt đẹp, tiến bộ, phải quan tâm đến gia đình. Các gia đình yên ấm, hạnh phúc sẽ tạo nên xã hội lành mạnh văn minh. Ngƣời viết: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn. Hạt nhân của xã hội là gia đình” [68, 251-252].
Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về gia đình, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nƣớc, sự nghiệp đổi mới đất nƣớc Đảng cộng sản Việt Nam xác định xây dựng gia đình mới - gia đình XHCN nằm trong chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là
58
tổ ấm của mỗi ngƣời. Phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc truyền thụ những giá trị văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác.” [24,112-113].
Ngày 4/5/2001, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 72/2001/QĐ-TT về ngày Gia đình Việt Nam. Quyết định nêu rõ: lấy ngày 28/6 hàng năm là ngày Gia đình Việt Nam, nhằm đề cao trách nhiệm lãnh đạo các ngành, các cấp, các đoàn thể và tổ chức xã hội cùng toàn thể các gia đình thƣờng xuyên quan tâm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định rõ nét vị trí, vai trò quan trọng của gia đình trong xã hội và nhiệm vụ quan trọng của gia đình đối với hình thành và phát triển nhân cách của con ngƣời nói chung. Trong Báo cáo Chính trị về công tác xây dựng gia đình Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế nêu rõ: “Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi ngƣời, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trƣờng quan trọng hình thành, nuôi dƣỡng và giáo dục nhân cách con ngƣời, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [25, 103].
Trong mục tiêu xây dựng con ngƣời, phát triển gia đình và phát triển văn hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau, Đại hội XII của đảng chỉ rõ: “Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong cộng đồng làng bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách đạo đức, lối sống. Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” [27, 127-128].
Trên cơ sở những quan niệm trên, theo chúng tôi có thể quan niệm: Gia đình là nhóm xã hội hình thành và phát triển trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, làm phát sinh các quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ được nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
Cùng với sự biến động của lĩnh vực kinh tế - xã hội, sự biến đổi của thiết
chế gia đình là một tất yếu khách quan (chẳng hạn từ gia đình nhiều thế hệ đến
gia đình hai thế hệ, gia đình đơn thân …), chức năng, hệ giá trị … trong gia đình
59
cũng có những biến đổi. Tuy nhiên, ở Việt Nam, gia đình vẫn là một thiết chế xã
hội quan trọng. Theo nghiên cứu của Gs. Phạm Minh Hạc, những câu ca dao, tục
ngữ nói về quan hệ gia đình, dòng họ chiếm tới trên 77% những câu nói về quan
hệ xã hội; khi những ngƣời phƣơng Tây đến tìm hiểu về Việt Nam đầu thế kỷ
XX đã đƣa ra nhận xét: “Tinh thần gia đình là đặc tính cơ bản nhất của con
ngƣời Việt Nam thuộc tất cả mọi tầng lớp. Đối với họ gia đình là tất cả”; “Gia
đình là cơ sở là hạt nhân của xã hội An Nam. Đó là một trục trung tâm mà mọi
lợi ích, mọi ý nghĩa đều quay xung quanh nó” [30, 23 -24]. Ngay trong thời điểm
hiện tại, gia đình vẫn là cơ sở hạt nhân của xã hội, có vai trò vô cùng to lớn đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi ngƣời, đặc biệt là thế hệ trẻ.
1.2.2.2 Vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
cho thế hệ trẻ
Có nhiều quan niệm khác nhau về vị trí, vai trò của gia đình. Bên cạnh quan
niệm coi trọng giá trị gia đình hƣớng tới xây dựng gia đình hiện đại, trong lịch
sử phát triển xã hội đã từng tồn tại những quan điểm coi thƣờng vai trò gia đình:
các nhà tu hành, những ngƣời theo tôn giáo xa lánh cuộc sống hôn nhân, tránh xa
cuộc sống gia đình; một số ngƣời quan niệm gia đình trói buộc quyền tự do cá
nhân và lựa chọn lối sống độc thân…; tuy nhiên hệ quả của những quan niệm đó
là sự khủng hoảng gia đình, lối sống buông thả, thiếu trách nhiệm, lệch lạc, tệ
nạn xã hội, hạn chế tuổi thọ con ngƣời… Từ thực tế đó hiện nay, loại trừ xu
hƣớng xem nhẹ giá trị vai trò của gia đình vẫn đang tồn tại ở một bộ phận nhỏ
của xã hội, giá trị gia đình đƣợc khôi phục đúng vị trí của nó. Về cơ bản, gia
đình vẫn luôn đƣợc xã hội coi trọng. Liên hiệp quốc đã lấy năm 1994 là năm
Quốc tế gia đình; nƣớc ta lấy ngày 28/6 là ngày Gia đình Việt Nam để tôn vinh,
nhắc nhở sự quan tâm, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ.
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, gia đình đƣợc coi là giá trị thiêng liêng,
cao cả, gắn bó máu thịt gắn liền với hạnh phúc đời ngƣời. Những gia đình thiếu
hụt vợ hoặc chồng, trẻ mồ côi, ngƣời già neo đơn không có con cái luôn đƣợc
các tổ chức xã hội, đồng bào đặc biệt quan tâm, giúp đỡ. Gia đình là tổ ấm là
điểm tựa cá nhân nỗ lực vƣơn lên; là tổ chức kinh tế đầu tiên của xã hội, là tế bào
cấu thành nên xã hội và gia đình có vị trí đặc biệt với xã hội. Xã hội tốt tạo điều
kiện cho gia đình phát triển, gia đình tốt xây dựng xã hội vững mạnh.
60
Khi đề cập đến vấn đề này, chủ nghĩa Mác coi trọng gia đình trong tiến
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa; theo đó phải xây dựng gia đình bình đẳng, tiến
bộ, dựa trên tình yêu, sự tự nguyện, chế độ công hữu tƣ liệu sản xuất và bình
đẳng giới… Ph.Ăng ghen nhận định: “Theo quan niệm duy vật, nhân tố quyết
định trong lịch sử suy cho cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp.
Nhƣng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tƣ liệu sinh
hoạt ra thức ăn, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết khác để sản xuất ra
những thứ đó, mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con ngƣời là sự truyền giống
nòi. Những thiết chế xã hội trong đó những con ngƣời của một thời đại lịch sử
nhất định và của một nhà nƣớc nhất định đang sống là do hai loại sản xuất đó
quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lịch sử và mặt khác là do trình
độ phát triển của gia đình” [62,26]. Nhƣ vậy, gia đình quyết định một mặt quan
trọng của sự sinh tồn, phát triển của xã hội loài ngƣời.
Hồ Chí Minh cũng nhận thức sâu sắc về vai trò gia đình, Ngƣời chỉ rõ “Gia
đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã
hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng Chủ nghĩa
xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt” [68,523].
Kế thừa những quan điểm tƣ tƣởng trên có thể khái quát các chức năng,
vai trò cơ bản của gia đình: gia đình có chức năng sản xuất kinh tế tạo cơ sở vật
chất nuôi sống các thành viên; gia đình thoả mãn nhu cầu tình cảm tâm sinh lý
cá nhân; gia đình có vai trò giáo dục với cá nhân; gia đình có vai trò to lớn
quyết định tới nhiệm vụ tái sản xuất con ngƣời - duy trì nòi giống. Ngoài ra, có
thể thấy gia đình có vai trò lƣu giữ, trao truyền các giá trị truyền thống cho thế
hệ kế tiếp, là cầu nối giữa mỗi cá nhân với xã hội, nói cách khác là xã hội hoá
các cá nhân...
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi xác định gia đình có vai trò
quan trọng quyết định tới sự hình thành, phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Vai
trò của gia đình đƣợc thể hiện ở các khía cạnh cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, gia đình là nơi chăm sóc sức khỏe, thể chất tạo nền tảng sinh học
cho phát triển nhân cách cá nhân.
Sức khỏe và thể chất là yếu tố cơ bản quyết định phần lớn chất lƣợng của
cuộc đời mỗi con ngƣời. Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO -1974, Hiến chƣơng
61
Ottawa): “Sức khỏe là một trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội,
chứ không chỉ có bệnh hay thương tật”[135] . Nhƣ vậy sức khỏe biểu hiện là cơ
thể với thể lực tốt, không có bệnh tật hay trạng thái ốm đau, là trạng thái tối ƣu
về mặt sinh học, tâm lý và xã hội. Vậy vai trò của gia đình là nuôi dƣỡng, chăm
sóc cho con cái sức khỏe thể chất, tinh thần và sự hòa nhập xã hội. Đây là những
nền tảng sinh học quan trọng để hình thành nên nhân cách cá nhân con ngƣời.
Gia đình có vai trò quyết định to lớn về mặt sinh học cho mỗi cá nhân, đặc
biệt là yếu tố di truyền trong gia đình đối với thể chất mỗi con ngƣời. Đồng thời
vai trò của gia đình trong lựa chọn cho con cái yếu tố môi trƣờng sống tự nhiên
và xã hội cũng quan trọng không kém trong tạo dựng nên mặt sinh học của con
ngƣời. Sức khỏe cho các thành viên của gia đình là tiền đề vật chất của cá nhân,
là nguồn lực quyết định phát triển xã hội và quyết định tƣơng lai nòi giống cho
các gia đình và toàn xã hội.
Gia đình là cái nôi chăm sóc, nuôi dƣỡng con ngƣời từ thủa lọt lòng cho tới lúc về già. Mối quan hệ trong gia đình là mối quan hệ gắn bó máu thịt, thiêng liêng, gần gũi nhất. Có thể khẳng định với cá nhân con ngƣời khi sinh ra không có bất kỳ thiết chế xã hội nào có thể thay thế đƣợc gia đình. Nghiên cứu của cố giáo sƣ Nguyễn Khắc Viện về vai trò của cha mẹ, gia đình đối với sự phát triển của trẻ nhỏ đã chỉ rõ: dù đứa trẻ đƣợc chăm sóc bởi những ngƣời bố, ngƣời mẹ ở trong những gia đình không bình thường có vấn đề về sức khỏe, thần kinh, khó khăn về điều kiện vật chất… vẫn tốt hơn là những đứa trẻ bị tách biệt gia đình đƣợc nuôi trong các trại trẻ mồ côi.
Gia đình là tổ ấm mang lại hạnh phúc cho con ngƣời. Con ngƣời đƣợc thỏa mãn những nhu cầu tâm lý, tình cảm. Cá nhân đƣợc gia đình yêu thƣơng, chăm sóc và ngƣợc lại cá nhân đƣợc yêu thƣơng, chăm sóc những ngƣời thân trong gia đình của mình. Đây là những nhu cầu căn bản trong đời sống tâm lý, tình cảm của con ngƣời.
Gia đình đảm bảo tối đa sự trang bị cơ sở vật chất kinh tế nuôi dƣỡng phát triển thể chất và tâm hồn cho cá nhân. Từ những đứa trẻ non nớt đƣợc sinh ra đã đƣợc gia đình nuôi dƣỡng với những điều kiện vật chất tốt nhất mà gia đình có thể cung ứng. Với những cá nhân không may mắn, ốm đau, bệnh tật, tai nạn, rủi ro… gia đình cũng là nơi hy sinh vô điều kiện để nuôi dƣỡng chăm sóc với nhu cầu tốt nhất có thể.
62
Thứ hai, gia đình là nơi nuôi dƣỡng, phát triển tâm lý, tình cảm tạo nên nền
tảng tinh thần cho mỗi cá nhân.
Chức năng tâm lý, tình cảm của gia đình là chức năng nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm tinh thần và thể xác hai chiều giữa hai vợ chồng; thỏa mãn nhu cầu tình cảm hai chiều giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em trong một gia đình. Từ những mối quan hệ tâm lý, tình cảm sự yêu thƣơng gắn bó giữa các thành viên trong gia đình là một phần rất quan trọng hình thành nên đời sống tâm hồn, tính cách của mỗi con ngƣời. Nhờ đó nhân cách đƣợc hình thành và phát triển.
Gia đình là nơi nuôi dạy con cái biết sống yêu thƣơng, đùm bọc; đoàn kết gắn bó, keo sơn; biết yêu thƣơng con ngƣời, biết tƣơng thân tƣơng ái; biết sẻ chia giúp đỡ mọi ngƣời “lá lành đùm lá rách”; đoàn kết xóm làng, cố kết cộng đồng; tình yêu quê hƣơng đất nƣớc kế thừa truyền thống gia đình trong đấu tranh, bảo vệ tổ quốc… Lúc sinh thời Hồ Chí Minh đã đƣa ra nội dung xây dựng gia đình mới tốt đẹp, Ngƣời nói: trong một nhà: “Phải trên thuận, dƣới hoà, bỏ thói mẹ chồng hành hạ nàng dâu, dì ghẻ ghét bỏ con chồng; ăn tiêu có kế hoạch, cƣới hỏi, giỗ tết nên tiết kiệm, ăn ở sạch sẽ, thân mật và sẵn lòng giúp đỡ xóm giềng, gia đình hăng hái tham gia việc nƣớc, ai ai cũng phải biết chữ”. Ngƣời cho rằng: “Trong một nhà nhƣ thế thì nhất định phát đạt” [65,102]
Trong lịch sử hình thành và phát triển của gia đình, phần lớn con ngƣời đều tìm thấy trong gia đình mình những tình cảm thiêng liêng, đặc biệt là sự gắn bó máu thịt yêu thƣơng, chia sẻ, hi sinh… Nhƣng cũng có những ngƣời không may mắn, gặp rất nhiều những bất hạnh từ chính trong gia đình mình: bạo lực, ấu dâm, xâm hại tình dục, mâu thuẫn, áp lực tâm lý… Trong thực tế hiện nay tình trạng ly hôn gia tăng nhanh chóng, những gia đình thiếu, vắng cha, mẹ hoặc cả cha mẹ cũng tăng nhanh do quá công nghiệp hóa hiện đại hóa cha mẹ đi làm xa nhà hoặc xuất khẩu lao động nƣớc ngoài. Đây là một thực tế gây nên sự thiếu hụt tình cảm, tinh thần không đƣợc quan tâm giúp đỡ kịp thời khi con cái cần tới sự có mặt của cha mẹ. Điều này đã và đang ảnh hƣởng lớn tới đời sống tâm lý, tình cảm cho thế hệ trẻ.
Vai trò tác động hình thành đời sống tâm lý tình cảm, tinh thần cho con trẻ là vai trò đặc biệt quan trọng bởi các tổ chức cộng đồng trong xã hội không thể thay thế gia đình hoàn thiện đƣợc chức năng này. Trên thực tế có những đứa trẻ
63
sinh ra không may mắn không có gia đình phải ở trong các trại trẻ mồ côi, dù đƣợc xã hội quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất, thậm chí tốt hơn cả điều kiện vật chất của gia đình bình thƣờng nhƣng chúng đều có biểu hiện bất thƣờng về đời sống tinh thần. Các nghiên cứu ở các nƣớc phƣơng Tây từ những năm 50 đến những năm 70 của thế kỷ XX đã cho thấy: “Trẻ con trong cô nhi viện tỉ lệ tử vong cao hơn, chậm phát triển ngôn ngữ và hành vi; giảm năng lực phản ứng, cƣ xử thiếu hòa nhập; hạn chế sự phát triển thần kinh - cơ bắp; giảm khả năng đề kháng đối với sự nhiễm trùng và bệnh lây truyền…”[122, 93], “So sánh với những đứa trẻ sống trong các “gia đình bất thƣờng” thiếu hụt cha hoặc mẹ là ngƣời bị phạm tội thì những đứa trẻ sống trong trại trẻ mồ côi hạn chế sự phát triển nhiều hơn.” [122, 100]
Thứ ba, gia đình là nơi giáo dục, truyền thụ những tri thức, kinh nghiệm -
kỹ năng sống, kinh nghiệm sản xuất hình thành nhân cách cá nhân.
Trong ý thức non nớt của những đứa trẻ lớn lên trong các gia đình thì sự truyền thụ, giáo dục của gia đình trên mọi phƣơng diện “học ăn, học nói, học gói học mở” có ý nghĩa vô cùng to lớn. Vai trò truyền thụ và giáo dục của mỗi gia đình khác nhau hình thành nên những nhân cách cá nhân con ngƣời khác nhau “giỏ nhà ai, quai nhà ấy”; “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Gia đình truyền thụ một cách tự nhiên nhất từ ngôn ngữ, giao tiếp, ứng xử, lối sống, văn hóa tới các tri thức, kinh nghiệm sản xuất và ứng phó với khó khăn, thách thức của tự nhiên và xã hội.
Đây là vai trò vô cùng quan trọng của gia đình, có sự tác động đi liền với suốt cuộc đời mỗi con ngƣời. Trong những năm gần đây khi điều kiện vật chất của xã hội thay đổi ý thức xã hội cũng có những biến đổi theo. Khi áp lực kinh tế đè nặng con nguời hiện đại với chức năng chuyên môn hóa trong lực lƣợng sản xuất làm cho con ngƣời còn ít thời gian hơn cho gia đình và con cái. Nên có nhiều quan điểm đƣa ra nên giao việc giáo dục con cái cho bộ phận chuyên trách hay chính là nhà trƣờng và xã hội. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay có những nội dung giáo dục mà không một tổ chức xã hội nào có thể thay thế vai trò của gia đình đƣợc.
Giáo dục là chức năng cơ bản của gia đình, trong gia đình con ngƣời đƣợc giáo dục ngay từ trong bào thai và suốt cuộc đời và đây là môi trƣờng giáo dục toàn diện nhất. Giáo dục gia đình gắn liền với con ngƣời từ khi còn trong bụng
64
mẹ, đây là kết quả nghiên cứu mới gần đây của các nhà khoa học, khoa học hiện đại gọi là quá trình “thai giáo”. Thai giáo là quá trình giáo dục với các biện pháp tổng hợp đƣợc bắt đầu từ lúc mang thai, điều chỉnh hoàn cảnh trong và ngoài cơ thể mẹ, tránh những kích thích, ảnh hƣởng không tốt; mang đến cho thai nhi những ảnh hƣởng có lợi, thúc đẩy sự phát triển khỏe mạnh về thể chất và tinh thần của thai nhi, có lợi cho sự tăng trƣởng khỏe mạnh về sau, để thai nhi có đƣợc sự phát triển toàn diện và đầy đủ. Thai giáo vừa là một phần quan trọng trong quá trình nghiên cứu về sinh tốt, vừa là điểm khởi đầu của giáo dục sớm, là điểm kết hợp hài hòa của ba yếu tố sinh tốt, chăm sóc tốt và giáo dục tốt. Những điều này đã và đang đƣợc đa số mọi ngƣời ủng hộ và thực hiện ở các quốc gia trên thế giới. Các nghiên cứu đều chỉ ra điều kiện môi trƣờng ngƣời mẹ mang thai tốt thì đứa trẻ sinh ra sẽ khỏe mạnh bình thƣờng. Đây là yếu tố để đứa trẻ học tập, rèn luyện hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống tốt.
Tìm hiểu về nền giáo dục đƣợc đánh giá hiện đại nhất trên thế giới hiện nay là Phần Lan cho chúng ta thấy kế hoạch học tập cho trẻ em là không có bài kiểm tra và thời gian học ở trƣờng là rất ít 3-4 giờ còn lại trẻ đƣợc ở nhà vui chơi, giải trí, làm việc cùng các thành viên trong gia đình. Việc sinh hoạt hàng ngày trong gia đình giúp trẻ học hỏi đƣợc rất nhiều điều về tự nhiên về kỹ năng sống, xử lý tình huống các mối quan hệ trong gia đình, xã hội… Nhƣ vậy cùng với sự phát triển của xã hội việc giáo dục thế hệ trẻ trong gia đình cũng có sự thay đổi, có nhiều quan niệm khác nhau nhƣng vai trò giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ không tổ chức xã hội nào thay thế đƣợc.
Trong suốt cuộc đời mỗi con ngƣời gia đình là môi trƣờng rèn giũa nhân cách, đạo đức, lối sống… Hoạt động giáo dục trong gia đình là hoạt động giáo dục toàn diện nhất. Từ khi hình thành mỗi đứa trẻ đƣợc dạy dỗ từ những bƣớc đi chập chững, những ngôn ngữ đầu đời. Khi trƣởng thành trẻ đi học tại trƣờng lớp và hình thành các mối quan hệ xã hội thì gia đình chính là nơi thực nghiệm những lý thuyết đƣợc học và điều chỉnh hành vi cá nhân. Gia đình với những đặc trƣng về phƣơng thức sản xuất và phƣơng thức sinh hoạt thƣờng nhật một cách tự nhiên truyền thụ cho con cái kinh nghiệm sản xuất và kỹ năng sinh tồn, chống lại thiên tai, địch họa. Từ đó gia đình sẽ tác động sâu sắc đến thế giới quan, nhân sinh quan và hành động của thế hệ trẻ. Chính trong mỗi gia đình, thế hệ trẻ hình thành ý thức, lựa chọn giá trị sống, lối sống, niềm tin, lý tƣởng cho cá nhân.
65
Thứ tư, gia đình là nơi điều chỉnh và định hƣớng phát triển nhân cách cho
cá nhân.
Gia đình là nơi con ngƣời đƣợc hình thành những yếu tố đầu tiên cấu thành nên nhân cách, là nơi giúp cho cá nhân gia nhập vào xã hội, định hình và hoàn thiện nhân cách. Có thể coi gia đình là một xã hội thu nhỏ với các mối quan hệ đa dạng, phong phú trong mọi phƣơng diện sinh hoạt vật chất và tinh thần. Mỗi cá nhân sinh ra trong gia đình sẽ đƣợc trải nghiệm, va chạm và dần trƣởng thành từ các mối quan hệ trong gia đình mình. Đồng thời gia đình cũng là cầu nối dìu dắt, nâng đỡ, chở che cho mọi cá nhân hòa nhập với môi trƣờng xã hội, môi trƣờng cộng đồng rộng lớn bên ngoài gia đình.
Mỗi thành viên gia đình là một tính cách riêng, một năng lực, thể chất riêng. Việc va chạm các tính cách khác nhau trong một gia đình là môi trƣờng đầu tiên để trẻ em học cách hoà hợp với cộng đồng. Với các chức năng cơ bản của mình, gia đình trang bị cho mỗi cá nhân những tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, thái độ giúp cho cá nhân hòa nhập vào quá trình phát triển xã hội.
Cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay khoa học công nghệ hiện đại đã và đang hỗ trợ rất lớn cho các gia đình thực hiện chức năng giúp thế hệ trẻ hội nhập xã hội. Tuy nhiên xã hội càng phát triển hiện đại thì sự phát triển tri thức, công nghệ khoa học càng phức tạp. Cho nên nhiệm vụ của gia đình hiện nay với thế hệ trẻ không thể nói một cách phiến diện là dễ dàng hơn, hay đơn giản, nhẹ nhàng hơn.
Hiện nay thế hệ trẻ có thể thu thập, tìm kiếm thông tin, tri thức nhanh nhạy hơn do tốc độ phát triển nhanh chóng của Internet, công nghệ điện tử - tin học. Gia đình có rất nhiều kênh hỗ trợ từ phía xã hội giúp con cái trang bị kiến thức, kỹ năng hòa nhập xã hội. Các kiến thức tự nhiên xã hội, sản xuất kinh tế, văn hóa, lễ nghi, phong tục tập quán, kiến thức chăm sóc sức khỏe… đều sẵn có trên Internet. Các lớp học trực tiếp, gián tiếp, kiến thức rộng mở trong thế giới công nghệ và thế giới phẳng hiện nay rất phong phú đa dạng khá đầy đủ.
Tuy nhiên điều đó không làm mất đi vai trò giáo dục của gia đình trong điều chỉnh định hƣớng giúp nhân cách phát triển hoàn thiện. Bởi gia đình có vai trò quan trọng trong giáo dục định hƣớng đối với cá nhân từ khi trong bụng mẹ; định hƣớng giá trị cho trẻ; uốn nắn trẻ trong các hành vi; giúp trẻ thực hành thực nghiệm các tri thức và rèn luyện, giúp trẻ trƣởng thành về mọi phƣơng diện. Một con ngƣời muốn
66
phát triển toàn diện không thể thiếu sự giáo dục, định hƣớng, thực nghiệm tri thức của trẻ trong gia đình - môi trƣờng đặc biệt bởi sự giáo dục phát triển trong tình cảm đặc biệt gắn bó máu thịt thiêng liêng của ông bà, cha mẹ, anh chị em. Trong gia đình sự giáo dục phát triển là thƣờng xuyên liên tục và sâu sát nhất ở mọi khía cạnh cuộc sống giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách.
Gia đình là cội nguồn là điểm tựa nâng đỡ cho thế hệ trẻ hội nhập xã hội; biết tự lập; có trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng. Đồng thời gia đình là “bến đỗ”, là mái ấm chở che cho cá nhân lúc khó khăn, hoạn nạn, thậm chí khi lầm lỗi. Gia đình có vai trò quan trọng giúp cá nhân định hƣớng, điều chỉnh bản thân khi gặp những vấn đề mâu thuẫn, hoang mang, lo lắng, bế tắc trong quá trình trƣởng thành. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta xác định vai trò của gia đình trong thời kỳ mới: “Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi ngƣời, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trƣờng quan trọng hình thành, nuôi dƣỡng và giáo dục nhân cách con ngƣời, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [26,77].
Đƣơng nhiên, vai trò của gia đình không thể tách rời nhà trƣờng và xã hội, những môi trƣờng sống cơ bản quy định sự hình thành phát triển nhân cách cho mỗi cá nhân. Mỗi yếu tố đều có những vai trò hết sức quan trọng. Dù vậy, là nơi gắn bó máu thịt với mỗi con ngƣời, đình có sự tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của thế hệ trẻ mà không có tổ chức xã hội nào có thể thay thế đƣợc.
1.3. Những nhân tố ảnh hƣởng đến vai trò của gia đình đối với sự hình
thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ hiện nay
Những nhân tố ảnh hƣởng đến vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ bao gồm những điều kiện khách quan – bên ngoài gia đình và các nhân tố chủ quan - xuất phát từ chính gia đình. Điều kiện chủ quan và nhân tố khách quan liên quan tới cặp phạm trù chủ thể - khách thể, khách quan – chủ quan.
Chủ thể là con ngƣời nhận thức, cải tạo thế giới xung quanh và chính bản thân mình. Qua hoạt động tác động vào thế giới tự nhiên - xã hội, con ngƣời mới bộc lộ vai trò chủ thể. Chủ thể có thể là cá nhân, nhóm ngƣời, giai cấp, quốc gia
67
– dân tộc… Ở đây chủ thể là gia đình - thiết chế xã hội gồm nhóm ngƣời có mối quan hệ hôn nhân huyết thống, gắn bó khăng khít, bền chặt…có những điều kiện hoàn cảnh cụ thể thông qua hoạt động nhận thức, thực tiễn tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách cho lớp thế hệ trẻ ở một hoàn cảnh, giai đoạn lịch sử nhất định.
Khách thể là đối tƣợng nhận thức, hoạt động thực tiễn của chủ thể. Khách thể không bao gồm toàn bộ thế giới hiện thực mà chỉ bao gồm một phần cụ thể của thế giới hiện thực tác động qua lại, ảnh hƣởng ràng buộc với chủ thể. Khách thể luôn vận động, biến đổi không ngừng, ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể có những yếu tố tồn tại khác nhau của khách thể tác động tới chủ thể. Khách thể và chủ thể có mối quan hệ biện chứng, là tiền đề cho nhau phát triển.
Khách quan là tất cả các yếu tố tồn tại ở bên ngoài chủ thể, không phụ thuộc vào chủ thể và đƣợc tham gia vào hoạt động của chủ thể. Khách quan thuộc về khách thể.
Chủ quan là những yếu tố phụ thuộc vào năng lực, ý thức của chủ thể; thể sử dụng để tác động vào khách thể. Vậy chủ quan là những yếu tố thuộc về chủ thể và khách quan là những yếu tố tồn tại ngoài chủ thể, có tính độc lập với chủ thể. Cặp phạm trù chủ quan và khách quan đƣợc cụ thể hóa bằng “điều kiện khách quan”; “nhân tố chủ quan”.
Từ cơ sở lý luận trên có thể xác định điều kiện khách quan của việc hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ trong các gia đình bao gồm: điều kiện địa lý – tự nhiên, điều kiện sản xuất vật chất; hay điều kiện môi tự nhiên, xã hội đã và đang tác động trực tiếp hay gián tiếp tới các gia đình hiện nay; nhân tố chủ quan bao gồm hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn xuất phát từ chính các gia đình hiện nay.
Khách quan và chủ quan, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan có sự thống nhất biện chứng trong hoạt động con ngƣời và xã hội loài ngƣời; giữa chúng có sự khác nhau và có giới hạn nhất định. Nhƣng sự phân biệt khách quan và chủ quan chỉ mang tính tương đối. Bởi các “điều kiện khách quan” luôn đƣợc biến đổi, cải tạo do hoạt động nhận thức, thực tiễn từ phía nhân tố chủ quan; ngƣợc lại sức mạnh và quy luật phát triển tự nhiên của khách quan vẫn là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển của nhân tố chủ quan; nhân tố chủ quan chỉ là một bộ phận tách ra từ điều kiện khách quan.
68
Việc phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ là kết quả của những hoạt động khai thác những điều kiện khách quan thuận lợi, làm giảm thiểu những tác động hạn chế từ điều kiện khách quan tới các nhân tố chủ quan. Ở điều kiện cụ thể của gia đình hiện nay chịu sự tác động của những điều kiện khách quan nhƣ môi trƣờng tự nhiên gồm: vị trí địa lý tự nhiên, khí hậu thời tiết; môi trƣờng xã hội ảnh hƣởng tới các gia đình gồm các yếu tố: điều kiện kinh tế kinh tế, xu thế toàn cầu hóa tác động đến các mặt của đời sống gia đình, điều kiện xã hội, điều kiện văn hóa. Trong các điều kiện khách quan nhƣ trên có những mặt, nhân tố thuộc về lĩnh vực vật chất của xã hội (vị trí địa lý – tự nhiên, điều kiện kinh tế, toàn cầu hóa, hoạt động giáo dục, y tế,); những mặt, nhân tố thuộc lĩnh vực tinh thần của xã hội (phong tục tập quán, giá trị truyền thống văn hóa, truyền thống gia đình).
Nhân tố chủ quan gồm tất cả những hoạt động nhận thức, thực tiễn và những thuộc tính, hoàn cảnh cụ thể của chủ thể - các gia đình nhằm thực hiện để đạt mục đích hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ. Cụ thể là: trình độ nhận thức; hoạt động sản xuất kinh tế - vật chất; sự kết hợp gia đình, nhà trƣờng, xã hội ; sự vận dụng giá trị gia đình truyền thống và hiện đại trong quá trình phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Những điều kiện khách quan tác động đến vai trò của gia đình đối với
sự hình thành, phát triển nhân cách của thế hệ trẻ
Môi trường tự nhiên Con ngƣời là một bộ phận của tự nhiên, cho nên chịu sự tác động, biến đổi của tự nhiên; đồng thời con ngƣời là chủ thể cải tạo tự nhiên, biến đổi tự nhiên theo mục đích của mình.
Điều kiện môi trƣờng tự nhiên khác nhau tạo nên các giá trị vật chất, tinh thần khác nhau; từ đó hình thành nên phƣơng thức sản xuất khác nhau và ý thức xã hội khác nhau. Chúng ta dễ nhận thấy trên thế giới ở mỗi môi trƣờng tự nhiên khác nhau sẽ hình thành sự phát triển của các loại hình gia đình phong phú, phức tạp khác nhau và sự phát triển con ngƣời với những đặc trƣng thể chất, tinh thần, nhân cách khác nhau. Ngƣời phƣơng Đông, với đặc trƣng phƣơng thức sản xuất châu Á, sản xuất nông nghiệp thâm canh là chủ yếu tạo nên các gia đình phƣơng Đông đa số sống gắn kết, cố kết chặt chẽ với nhau trong khu vực làng hay xã, có
69
sự giàng buộc chi phối về lối sống, tƣ tƣởng rất chặt chẽ; thậm chí nhiều nơi có biểu hiện ràng buộc, kìm hãm sự phát triển lẫn nhau. Ngƣời phƣơng Tây với đặc trƣng khí hậu khô, ôn đới, hàn đới, điều kiện địa lý tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển sản xuất du canh du cƣ, nên ngƣời dân ƣa di chuyển, khai phá tự nhiên tìm kiếm vùng đất mới. Các gia đình phát huy tinh thần khám phá, sự năng động, đổi mới sáng tạo, tạo nên con ngƣời với đặc trƣng về lối sống phóng khoáng, cởi mở, năng động, sáng tạo…
Với đặc trƣng vị trí địa lý tự nhiên nƣớc ta là điểm trung chuyển vận tải đƣờng bộ, đƣờng hàng không, đƣờng biển với nhiều nƣớc trên thế giới tạo mối giao lƣu giữa các nƣớc trong nhƣ khu vực và thế giới. Đây là cơ hội cho con ngƣời đƣợc giao lƣu kinh tế, văn hóa, hội nhập; đời sống vật chất và tinh thần phong phú, sôi động. Tuy nhiên vị trí địa lý của nƣớc ta quan trọng, vị trí chiến lƣợc về mặt quân sự kinh tế cũng là đối tƣợng “nhòm ngó”, là mục tiêu quan trọng mà các nƣớc lớn muốn thâu tóm trong âm mƣu “bá chủ toàn cầu”. Lịch sử dân tộc ta là lịch sử đấu tranh bảo vệ tổ quốc, là sự hi sinh máu xƣơng để có đƣợc độc lập tự do cho nên tạo nên bao thế hệ ngƣời Việt Nam kiên cƣờng, bất khuất, dũng cảm hi sinh quên mình vì tổ quốc. Bên cạnh đó với diễn biến phức tạp của thời tiết, khí hậu với đặc trƣng điều kiện khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm mƣa nhiều tạo ra điều kiện sống với đặc điểm tâm sinh lý con ngƣời biến đổi, thích nghi với môi trƣờng tự nhiên; điều kiện tự nhiên khác nghiệt tạo nên tính cần củ, bền bỉ “một nắng hai sƣơng”, chịu khó, chịu khổ, cải tạo môi trƣờng sống đoàn kết, đấu tranh vƣợt qua thiên tai, bão lũ… Từ đó, qua bao đời nay ngƣời Việt Nam tiếp nối tình thần cố kết cộng đồng, “lá lành đùm lá rách”, kiên cƣờng dựng xây dân tộc quốc gia ngày càng vững mạnh. Những giá trị tinh thần tốt đẹp này đã thấm đƣợm trong mọi giá trị vật chất, tinh thần, hiện diện trong lối sống, nếp nghĩ của bao gia đình, bao thế hệ ngƣời Việt Nam. Tuy nhiên với những điều kiện tự nhiên phân hóa khác nhau giữa các vùng, miền tạo nên điều kiện sản xuất vật chất khác nhau, từ đó tạo nên những nét tâm lý, xã hội, tính cách khác nhau và hƣớng tới sự hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân nhân cách là khác nhau.. Thế hệ trẻ hiện nay đƣợc truyền thụ một cách tự nhiên qua lời ru, tiếng hát của ngƣời bà, ngƣời mẹ trong mỗi gia đình; đƣợc truyền dạy những kiến thức, kỹ năng sinh tồn thích nghi với môi trƣờng sống tự nhiên ngay từ trong gia đình; hình thành nên nhân cách cá nhân phong phú đa dạng.
70
Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu toàn cầu trong đó Việt Nam là nƣớc trong 5 quốc gia nƣớc chịu tác động, biến đổi nặng nề nhất do có bờ biển dài, gây diễn biến thất thƣờng thời tiết. Điều kiện tự nhiên ở nƣớc ta với những biểu hiện phức tạp, với những diễn biến ngày càng khó khăn đặt ra cho mỗi cá nhân ý thức cải tạo, sáng tạo, cải biến hoàn cảnh, thích nghi phát triển nhƣng đồng thời cũng tạo nên suy nghĩ, lối sống thực dụng, tiêu cực “sống vội, sống gấp”, chạy theo giá trị vật chất bỏ quên giá trị đạo đức “chân, thiện, mĩ”, chạy theo cái lợi trƣớc mắt, đề cao chủ nghĩa cá nhân bỏ qua sự phát triển của cộng đồng xã hội. Nhƣ vậy, môi trƣờng tự nhiên ảnh hƣởng tới sức khỏe, tâm lý, sinh lý, nhân cách với tƣ cách “thân thể vô cơ” của mỗi cá nhân.
Môi trường xã hội Thứ nhất, điều kiện phát triển kinh tế, sản xuất vật chất: điều kiện vật chất của xã hội sẽ tác động mạnh mẽ tới các gia đình và tác động sâu sắc tới quá trình hình thành, phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Môi trƣờng xã hội với điều kiện sản xuất vật chất khác nhau sẽ đem lại sự tác động khác nhau tới điều kiện kinh tế gia đình và hình thành, phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Nhân cách mỗi cá nhân sẽ chịu sự tác động ảnh hƣởng của điều kiện kinh tế nơi cá nhân sinh ra và trƣởng thành, ngoài ra còn bị tác động gián tiếp từ điều kiện kinh tế địa phƣơng vùng miền nơi cá nhân sinh sống và điều kiện sản xuất vật chất của quốc gia, sự giao thƣơng hợp tác quốc tế chi phối hoạt động sản xuất vật chất của cá nhân.
Kinh tế thị trƣờng làm phát triển mạnh mẽ vai trò sản xuất kinh tế hộ gia đình. Trong nền kinh tế thị trƣờng, kinh tế hộ gia đình tồn tại với tƣ cách độc lập, tách ra khỏi kinh tế tập thể, hợp tác xã. Không còn tình trạng sở hữu chung, làm chung kiểu “cha chung không ai khóc”. Ngƣời dân ra sức tận dụng sức lao động, kinh nghiệm, khả năng của mình để phát triển kinh tế, cuộc sống hầu hết các gia đình đƣợc nâng lên đáng kể. Động lực cạnh tranh của kinh tế thị trƣờng, cùng tốc độ phát triển nhƣ vũ bão của khoa học công nghệ làm cho lực lƣợng sản xuất không ngừng phát triển. Đa số các hộ gia đình ở Việt Nam hiện nay có sự phát triển nhanh nhạy, năng động, sáng tạo, có ý thức nắm bắt khoa học công nghệ hiện đại và xu hƣớng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Kinh tế phát triển là điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần trong nhân dân, phát huy truyền thống hiếu học nên ƣu tiên đầu tƣ hàng đầu trong mỗi gia đình là đầu tƣ
71
cho con cái học tập, nâng cao trình độ, tay nghề và nâng cao sức khỏe mục tiêu nâng cao tầm vóc về cả thể lực và trí lực cho con em mình. Các gia đình đã thay đổi cách nuôi dạy con cái để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Đây là yếu tố có ý nghĩa quan trọng tích cực tao điều kiện cho nhân cách cá nhân có sự phát triển theo xu hƣớng hiện đại.
Nhƣng dƣới tác động quy luật kinh tế tự do cạnh tranh phân hóa ngƣời lao động mạnh mẽ nhiều hộ sản xuất đối mặt với tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm gia tăng; đất đai và nguồn nƣớc bị ô nhiễm do nƣớc thải chƣa đƣợc xử lý an toàn; khói và nƣớc thải các nhà máy làm phát sinh nhiều bệnh tật nguy hiểm; tệ nạn xã hội phát triển phức tạp, nhiều tội phạm nguy hiểm gia tăng... Mặt khác, ảnh hƣởng tàn dƣ của xã hội tiểu nông phong kiến, cùng sự tồn tại chế độ tập trung, quan liêu bao cấp kéo dài ở nƣớc ta vẫn in hằn trong lối sống, nếp nghĩ, tác phong của ngƣời dân nói chung và tác động không nhỏ đối với thế hệ trẻ nói riêng.
Thứ hai, điều kiện văn hóa, xã hội Hệ thống giáo dục đào tạo nƣớc ta đƣợc mở rộng, tƣơng đối hoàn chỉnh; quy mô giáo dục tăng nhanh; chất lƣợng giáo dục có chuyển biến nhiều mặt; công bằng xã hội trong giáo dục; công tác xã hội hóa giáo dục đạt thành tựu kinh phí đóng góp của nhân dân đạt thành tựu cao. Tuy nhiên, những biểu hiện tiêu cực của ngành giáo dục gây bức xúc trong cả nƣớc đó là tình trạng gian lận thi cử, “bệnh thành tích”, ngƣời học yếu kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp, đào tạo không gắn liền với nhu cầu thị trƣờng lao động, khiến cho tình trạng thất nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn của ngƣời học sau khi ra trƣờng “lãng phí”nguồn nhân lực, ảnh hƣởng kinh tế nhiều gia đình.
Hoạt động y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ngày càng phát triển theo hƣớng hiện tại, mở rộng dịch vụ y tế ngoài công lập; chăm sóc sức khỏe, dinh dƣỡng hƣớng tới nâng cao thể lực, trí lực cho mọi ngƣời dân trong đó thế hệ trẻ là thế hệ đƣợc gia đình và xã hội quan tâm hơn cả. Năm 2017 quyết định phê duyệt chƣơng trình mục tiêu Y tế - dân số giai đoạn 2016 – 2020 của thủ tƣớng chính phủ; với tổng kinh phí thực hiện 19.380 tỉ đồng, với 8 dự án lớn nhằm chăm sóc sức khỏe của nhân dân nói chung đặc biệt ngƣời già, trẻ em và nâng cao chất lƣợng dân số từ việc huy động vốn từ ngân sách nhà nƣớc và vốn huy động phợp pháp.(5)
72
Các dịch vụ y tế trong giai đoạn gần đây đƣợc đầu tƣ, cải thiện đáng kể, việc chăm sóc sức khỏe nhân dân đƣợc nâng lên tuy nhiên trên thực tế các gia đình hiện nay và đặc biệt thế hệ trẻ đang phải chứng kiến tỉ lệ bệnh nhân ung thƣ tăng quá nhanh; mặt trái của ngành y tế làm cho các gia đình và đặc biệt thế hệ trẻ hoang mang, bất an,…làm ảnh hƣởng tới niềm tin, lý tƣởng, ý chí mỗi cá nhân và tác động sâu sắc tới quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc đã để lại tài sản vô giá về vật chất và tinh thần, với hàng nghìn di tích lịch sử văn hoá. Mỗi miền quê Việt Nam đều là những vùng đất “địa linh nhân kiệt”, chứa đựng sự hi sinh vĩ đại của bao thế hệ trong công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc, bề dày lịch sử, truyền thống hiếu học, nhân văn, nhân ái; ƣa chuộng hòa bình; cần cù chịu khó lao động sáng. Ngƣời Việt coi trọng gia đình và các giá trị tốt đẹp của gia đình, dòng họ đây là nền tảng văn hóa gia đình nói chung và thế hệ trẻ nói riêng khi tiếp xúc với những tác động của cơ chế kinh tế thị trƣờng, với sự giao lƣu tiếp biến văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa; từ đó chọn lọc định hình sự phát triển nhân cách cá nhân.
Phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp trong lịch sử là cơ sở cho việc xây dựng gia đình văn hóa tiến bộ, no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Là nền tảng cơ sở tinh thần quý báu cho thế hệ trẻ học tập, phát huy; là cơ sở hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ phát triển toàn diện. Tuy nhiên cũng cần thấy một số hạn chế lịch sử đang còn tồn tại ảnh hƣởng tới sự phát triển của xã hội nói chung, của gia đình, nhân cách thế hệ trẻ nói riêng. Dân tộc ta có thời kỳ lịch sử lâu dài bị phƣơng Bắc xâm chiếm, với vị trí nằm cạnh Trung Quốc - một quốc gia lớn, cái nôi của Nho giáo, Lão giáo, có lịch sử phong kiến kéo dài hàng nghìn năm; cho nên hiện nay những ảnh hƣởng lạc hậu của quan điểm, tƣ tƣởng, lễ giáo phong kiến vẫn ẩn chứa trong các gia đình ngƣời Việt. Đặc biệt tạo nên lề thói sinh hoạt, lao động manh mún, “khôn lỏi”, “tiểu nông” thụ động, trì trệ; lễ giáo rƣờm rà; tƣ tƣởng bất bình đẳng giới “trọng nam khinh nữ”. Những tƣ tƣởng này vẫn ăn sâu vào lối sống, nếp nghĩ của ngƣời dân đặc biệt là bộ phận những ngƣời cao tuổi trong gia đình và có những tác động tiêu cực tới thế hệ trẻ, tạo ra những mâu thuẫn giữa thế hệ trong gia đình. Ở đây thế hệ trẻ đóng vai trò đấu tranh chọn lọc hệ giá trị trong sự phát triển nói chung và sự phát triển hoàn thiện nhân cách nói riêng. Trong gia đình, giữa các thế hệ, trong chính mỗi thành
73
viên trong gia đình đang diễn ra sự đấu tranh giằng xé trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cá nhân. Trong gia đình vẫn tồn tại tƣ tƣởng trọng thành tích, háo danh, cá nhân, tự ti, ỷ lại, “phép vua thua lệ làng”, “1 miếng giữa làng hơn 1 sàng xó bếp”. Bên cạnh đó là ảnh hƣởng tƣ tƣởng thu động kinh tế quan liêu, bao cấp, ỉ lại chậm thay đổi; thiếu tác phong công nghiêp, kỷ luật lao động… Các thành viên trong gia đình có mối quan hệ ràng buộc với họ hàng, gia tộc, làng xã; con ngƣời luôn hiện diện nhƣ một thành viên của cộng đồng chứ chƣa phải là một cá nhân định hình, khẳng định mình với tƣ cách công dân. Điều này ảnh hƣởng khá lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ ở nƣớc ta hiện nay.
Thứ ba, tác động của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Toàn cầu hóa là xu hƣớng tất yếu phát triển của các dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, đang tích cực, chủ động gia nhập các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa trên phạm vi quốc tế. Toàn cầu hóa tác động mạnh mẽ đến cuộc sống từng gia đình, từng cá nhân trong xã hội.
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã và đang tác động nhiều mặt đến sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tƣ tƣởng nói chung trong đó có tác động đến đời sống của các gia đình và thế hệ trẻ. Hội nhập đòi hỏi trình độ phát triển mọi mặt của con ngƣời đặc biệt vấn đề ngoại ngữ và công nghệ thông tin, điều này thôi thúc thế hệ trẻ nắm bắt thời cơ, xu thế và chủ động trong học tập, tự trang bị những hành trang cần thiết cho hội nhập. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin - mạng Internet là điều kiện xã hội hóa tri thức của nhân loại, là có hội cho thế hệ trẻ tiếp xúc nhanh chóng với các nền văn minh trên thế giới.
Bên cạnh đó thế hệ trẻ chính là đội ngũ phải tự lọc bỏ những yếu tố cũ đã trở nên lạc hậu, lỗi thời của chính bản thân mình, của những phong tục tập quán cũ không phù hợp. Đồng thời phải gìn giữ, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, giữ gìn đƣợc bản sắc văn hóa cộng đồng. Có thể nói đây là một cuộc chiến đấu lịch sử đặt lên vai thế hệ trẻ. Nhiệm vụ lịch sử, sứ mệnh phát triển quốc gia dân tộc của thế hệ trẻ hiện nay không hề dễ dàng, thậm chí vô cùng khó khăn, phức tạp.
74
Song cũng cần nhận thấy rằng, hội nhập và toàn cầu hóa đem lại cơ hội nhƣng chƣa bình đẳng giữa các nƣớc, đặc biệt những nƣớc có nền kinh tế còn hạn chế nhƣ Việt Nam thì thách thức lại nhiều hơn. Các nƣớc tƣ bản lớn chiếm lĩnh thị trƣờng biến nƣớc ta thành thị trƣờng tiêu thụ; ô nhiễm môi trƣờng; bệnh tật gia tăng; vấn nạn an toàn vệ sinh thực phẩm; sự phân hóa giàu nghèo; phát triển công nghiệp tƣơng đối nhanh chóng tuy nhiên sử dụng lao động phổ thông là chủ yếu; trình độ chuyên môn tay nghề chƣa cao; giá nhân công rẻ mạt, điều kiện, môi trƣờng làm việc, cuộc sống của ngƣời công nhân còn rất nhiều khó khăn. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, thất nghiệp ở đô thị còn cao. Bên cạnh đó quá trình đô thị hóa nhanh ồ ạt, cơ sở vật chất hạ tầng không đảm bảo, nhà ở, nƣớc sạch, giao thông đi lại còn hạn chế; tệ nạn xã hội phức tạp... Những vấn đề trên ảnh hƣởng rất nhiều tới các gia đình và đặc biệt thế hệ trẻ.
Những nhân tố chủ quan: Nhƣ đã phân tích, sự phân biệt điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan chỉ mang tính chất tƣơng đối, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa của địa phƣơng, điều kiện sản xuất vật chất và tinh thần của gia đình có sự tác động qua lại, ảnh hƣởng, chi phối, ràng buộc lẫn nhau. Phƣơng thức sản xuất kinh tế chung, giá trị phong tục tập quan, bản sắc văn hóa… của các địa phƣơng quy định hoạt động nhận thức và thực tiễn của gia đình; ngƣợc lại hoạt động sản xuất tạo ra giá trị kinh tế, tinh thần, và sản xuất ra chính con ngƣời của các gia đình chi phối điều kiện khách quan tác động tới nó.
Nhân tố chủ quan gồm tất cả những hoạt động nhận thức, thực tiễn và những thuộc tính, hoàn cảnh cụ thể của chủ thể - các gia đình nhằm thực hiện để đạt mục đích hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ. Thứ nhất, điều kiện kinh tế của các gia đình hiện nay. Nằm trong quy luật phát triển kinh tế chung của toàn xã hội, các gia đình đã và đang thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế gia đình theo cơ chế thị trƣờng, tự hạch toán kinh tế, tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Với môi trƣờng mở cửa, đổi mới kinh tế đánh dấu bằng đại hội Đảng VI – 1986 đến nay đã thu đƣợc những thành tựu nổi bật, đƣợc các nƣớc trong khu vực và thế giới đánh giá cao. Điều kiện kinh tế của các hộ gia đình khởi sắc nhanh chóng; đây là điều kiện để các gia đình cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho các thành viên nói chung và đầu tƣ cho con cái – thế hệ trẻ nói riêng có điều kiện học tập tốt; chế độ dinh
75
dƣỡng tốt, cải thiện giống nòi về thê lực, trí lực. Đây là điều kiện quan trọng phát triển, hoàn thiện nhân cách cho thế hệ trẻ.
Điều kiện kinh tế gia đình trong xu thế mở cửa, hội nhập còn làm tăng lên cơ hội học tập, lao động với các nƣớc ngay ở trong nƣớc và giao lƣu quốc tế; phát triển kinh tế hàng hóa, xuất nhập khẩu hàng hóa đẩy mạnh; đời sống nhân dân phát triển phong phú cả về vật chất và tinh thần. Điều này, làm cho thế hệ trẻ trong các gia đình hiện nay phát triển nhanh chóng về thể chất và tình thời đồng thời tiếp cận với nhiều cơ hội học tập, làm việc ở những môi trƣờng công nghiệp hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên, sản xuất hộ gia đình vẫn phản ánh hạn chế, tiêu cực: sản xuất vẫn mang tính tự nhiên – tự cung tự cấp, nhỏ lẻ, manh mún, tiểu nông của xã hội phong kiến và ảnh hƣởng cơ chế “xin” – “cho”, thụ động của kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp của những năm 70, 80 của thế kỷ XX. Bên cạnh đó là tác động của mặt trái của cơ chế kinh tế thị trƣờng: cạnh tranh, rủi ro, chạy theo lợi nhuận chà đạp giá trị đạo đức, tính mạng con ngƣời…Vấn đề rác thải sinh hoạt, rác thải khu sản xuất công nghiệp, làng nghề của các hộ gia đình; vấn đề sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, hooc môn tăng trƣởng…sai quy định; sản xuất hàng giả hàng nhái ảnh hƣởng nghiêm trọng tới sức khỏe nhân dân, suy giảm giống nòi của dân tộc. Nhiều gia đình mải mê, buôn bán, làm ăn không có thời gian chăm sóc, nuôi con cái tốt, thế hệ trẻ tham gia vào tệ nạn xã hội. Nhiều gia đình khi điều kiện kinh tế dƣ giả nuông chiều con cái; bên cạnh đó là việc bùng nổ công nghệ thông tin, mạng xã hội tạo điều kiện thế hệ trẻ du nhập tƣ tƣởng lối sống mới lạ gây ra những mâu thuẫn, hệ lụy đau lòng của một bộ phận gia đình Việt Nam hiện nay. Bộc lộ hoang mang, lo lắng, hoảng loạn mâu thuẫn từ chính các thành viên trong gia đình về việc: nhƣ thế nào là nuôi con tốt nhất? làm sao để tránh rủi ro, tệ nạn xã hội hiện nay?...Những hạn chế, tiêu cực này có tác động hai mặt tới việc thực hiện vai trò của các gia đình và sự phát triển nhân cách của thế hệ trẻ: một mặt, gây ra tình trạng tiêu cực, băng hoại đạo đức, tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật…ở giới trẻ, sự bất hạnh của nhiều gia đình; mặt khác trƣớc những biểu hiện của những yêu tố bất lợi của hoàn cảnh sống này tạo ra những động lực, thôi thúc, mong muốn, khát vọng để các gia đình cùng thế hệ trẻ nhận thức, cải tạo, đẩy lùi những yếu tố khó khăn, tiêu cực để lựa chọn hệ giá trị phù hợp, xây dựng môi trƣờng sống tốt đẹp hơn.
76
Thứ hai, trình độ nhận thức của gia đình tác động tới sự hình thành và phát
triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Trình độ nhận thức của gia đình, cụ thể là trình độ của các thành viên sống trong một gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong chăm sóc và phát triển thế hệ trẻ. Với trình độ nhận thức của thế hệ ông bà, cha mẹ cung cấp tri thức cho quá trình sinh con và nuôi dƣỡng thế hệ trẻ ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ và tác động suốt cuộc đời mỗi cá nhân. Trình độ nhận thức của các anh chị em sống trong một gia đình cũng có sự tác động qua lại theo những chiều hƣớng thuận nghịch khác nhau ảnh hƣởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ; đồng thời ảnh hƣởng xuốt cuộc đời mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, trình độ nhận thức của gia đình hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều yếu tố hạn chế: thế hệ ông bà cha mẹ là thế hệ còn chịu sự tác động lớn của những tƣ tƣởng, quan điểm, phong tục tập quan lối sống cũ do tác động của xã hội cũ thực dân, phong kiến để lại. Tuy đã đổi mới, tiến bộ hơn nhƣng vẫn ẩn chứa ở lớp ngƣời cao tuổi quan điểm tƣ tƣởng lạc hậu điều này cũng tác động tới quá trình nuôi dạy phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Vấn đề đặt ra cho các gia đình đó chính là phát huy giá trị tốt đẹp gia đình truyền thống, tiếp thu tri thức khoa học hiện đại có chọn lọc phù hợp với điều kiện từng gia đình trong giai đoạn hiện nay. Cần thay đổi quan niệm “trọng nam kinh nữ”, chọn lọc giới tính trong sinh con và sinh số con phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nuôi dạy của gia đình. Nâng cao nhận thức về bạo lực gia đìh và bất bình đẳng giới. Trong xu thế phát triển bùng nổ của khoa học công nghệ, thông tin, tri thức nhƣ ngày nay đòi hỏi mỗi cá nhân mỗi gia đình phải không ngừng học hỏi, cập nhật tri thức mới, nếu không sẽ tụt hậu, lạc hậu rất nhanh chóng. Đòi hỏi các gia đình cần đẩy mạnh quá trình học và tự học, cập nhật kiến thức nhanh chóng, chính xác. Xã hội càng phát triển con ngƣời ngày càng hành động vƣợt xa những yếu tố bản năng của tổ tiên mình; đồng thời học hỏi rèn luyện kỹ năng sống một cách hiệu quả và chuyên nghiệp nhất. Vì vậy thế hệ ông bà, cha mẹ trong gia đình ngày càng cần trau dồi, rèn luyện kỹ năng sống và truyền thụ cho lớp thế hệ trẻ. Bên cạnh đó gia đình cần học hỏi, đổi mới phƣơng pháp giáo dục gia đình cho phù hợp với sự phát triển nói chung và sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ nói riêng.
77
Thứ ba, quá trình chọn lọc phát triển hệ giá trị (kế thừa giá trị gia đình truyền thống, tiếp thu giá trị gia đình hiện đại) trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Trong quá trình phát triển tất yếu của gia đình đều thể hiện sự thống nhất biện chứng với sự tích lũy về “lƣợng” biến đổi về “chất”; tồn tại các mặt đối lập, sự phát triển kế thừa, chọn lọc các hệ giá trị hình thành, phát triển trong gia đình ở những điều kiện lịch sử nhất định.Các giá trị gia đình luôn luôn phát triển, biến đổi phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới; các giá trị cũ, lạc hậu sẽ dần đƣợc lọc bỏ theo thời gian. Tuy nhiên trong quy luật phát triển tất yếu vẫn tồn tại những xu thế cực đoan: nóng vội, chủ quan duy ý chí, “phủ định sạch trơn” giá trị gia đình truyền thống; hay tuyệt đối hóa vai trò gia đình hiện đại…
Nƣớc ta đang thực hiện nhiệm vụ quá độ gián tiếp từ xã hội phong kiến bỏ qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc trƣng của giai đoạn này là sự tồn tại đan xen các kiểu quan hệ sản xuất cũ mới, các hệ giá trị cũ còn cơ sở vững chắc để tồn tại do điều kiện tồn tại xã hội cũ còn chiếm ƣu thế; các giá trị xã hội mới tiến bộ đã hình thành nhƣng còn yếu do hạn chế về cơ sở vật chất. Sự đấu tranh các hệ giá trị cũ – mới trong xã hội hội tụ đầy đủ trong các gia đình, bộc lộ rõ trong mối quan hệ lớp thế hệ già – trẻ trong gia đình. Trầm tích lớp văn hóa cũ đƣợc hội tụ đầy đủ nhất ở lớp thế hệ ngƣời cao tuổi trong gia đình; ngƣợc lại thế hệ trẻ là lớp ngƣời nhanh nhạy nắm bắt xu thế mới, háo hức tiếp cận, trải nghiệm những giá trị gia đình, xã hội mới.
Nhƣ vậy sự phát triển, xây dựng hệ giá trị trong gia đình bộc lộ sự thống nhất biện chứng; vừa thể hiện thống nhất tồn tại những mặt đối lập biện chứng, vừa đấu tranh liên tục trong quá trình phát triển. Bộc lộ rõ trong gia đình là những mâu thuẫn của lớp thế hệ cao tuổi và lớp thế hệ già trong xu thế bảo tồn giá trị gia đình truyền thống và việc tiếp thu gía trị gia đình hiện đại.
Tuy nhiên để xây dựng hệ giá trị chuẩn mực của gia đình cần tôn trọng quy luật và vận dụng đúng quy luật phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng đó là sự kế thừa có chọn lọc các giá trị gia đình truyền thống và tiếp thu tinh hoa giá trị văn hóa gia đình hiện đại; dựa trên những điều kiện tiền đề vật chất và vai trò tác động tích cực của ý thức xã hội. Trong thực tế, điều kiện kinh tế gia đình phát triển cao là tiền đề quan trọng giúp cho gia đình tiến bộ, hạnh phúc, xây dựng gia đình văn hóa mới. Tuy nhiên phát huy sức mạnh tích cực, tính độc lập
78
tƣơng đối của ý thức, nhiều gia đình còn khó khăn, hạn chế về điều kiện kinh tế vẫn phát triển gia đình văn hóa, đoàn kết, tiến bộ…
Thứ tư, sự kết hợp của gia đình – nhà trường – xã hội trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Sự phát triển, trƣởng thành nói chung sự hình thành và phát triển nhân cách nói riêng của mỗi cá nhân đều chịu sự tác động quan trọng từ ba môi trƣờng: gia đình, nhà trƣờng, xã hôi. Trong đó gia đình là môi trƣờng đầu tiên kiến tạo nên sự sống và cuộc sống của mỗi cá nhân, đó là môi trƣờng gắn bó máu thịt, thiêng liêng nhất của mỗi con ngƣời. Chính vì vậy, với bất kỳ đứa trẻ nào ra đời bị tách khỏi gia đình là một sự thiệt thòi lớn, thậm chí là sự bất hạnh cho một con ngƣời.
Tuy nhiên, sự phát triển của cá nhân không chỉ bó hẹp ở gia đình mà đòi hỏi phải có sự hòa nhập tích cực với xã hội mà trƣờng học là môi trƣờng xã hội đầu tiên, tiếp đó là các tổ chức đoàn thể, đảng phái, hội, nhóm... Qua mối quan hệ gia đình và xã hội nhân cách của cá nhân đƣợc hình thành, phát triển không ngừng biến đổi.
Gia đình là môi trƣờng đầu tiên nuôi dƣỡng, chăm sóc cho sự phát triển của cá nhân, đồng thời từng bƣớc cho cá nhân tiếp cận, hội nhập xã hội. Tuy nhiên hiện nay bộc lộ thực trạng nhiều gia đình muốn bao bọc “tách”, hạn chế con cái tiếp xúc, hòa nhập với xã hội ; bó hẹp con cái trong phạm vi chỉ có cha mẹ là chủ yếu; dẫn tới hậu quả vô hình tạo ra một bộ phận những đứa trẻ “bất thƣờng”, “gà công nghiệp”, “ích kỷ”…
Để phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ, các gia đình cần chủ động tạo mối liên hệ mật thiết với nhà trƣờng và xã hội. Nhà trƣờng, xã hội mỗi bộ phận quy đinh những chức năng nhiệm vụ nhất định vì sự phát triển của con ngƣời, tuy nhiên gia đình cần chủ động tìm hiểu, tham gia, hỗ trợ, giám sát các hoạt động của nhà trƣờng và các tổ chức xã hội đảm bảo thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ chức năng vốn có. Từ đó phát huy tối đa nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dƣỡng, phát triển nhân cách toàn diện cho thế hệ trẻ.
Để thực hiện nhiệm vụ cao cả này, đòi hỏi gia đình, nhà trƣờng, xã hội phải có sự thống nhất trong mục tiêu và phƣơng pháp nuôi dƣỡng, giáo dục. Cần phát huy thế mạnh từng bộ phận, đồng thời có sự liên hệ chặt chẽ, hợp tác nhịp
79
nhàng tạo điều kiện, môi trƣờng học hỏi, rèn luyện tốt nhất cho thế hệ trẻ hình thành và phát triển nhân cách tiến bộ. Bên cạnh đó cần tránh những hiện tƣợng tiêu cực “trống đánh xuôi kèn thổi ngƣợc”, chạy theo thành tích, lợi nhuận đi ngƣợc lại đạo đức, nhân văn, nhân ái. Tạo nên những hiện tƣợng tiêu cực phản giáo dục, ảnh hƣởng tới niềm tin, lý tƣởng sống của thế hệ trẻ.
Tiểu kết chƣơng 1 Thế hệ trẻ là tƣơng lai của mỗi dân tộc - quốc gia, việc xây dựng cho họ những nhân cách tốt đẹp, tiến bộ vô cùng cần thiết. Môi trƣờng, điều kiện đầu tiên, quan trọng và ảnh hƣởng sự hình thành và phát triển nhân cách suốt cuộc đời mỗi con ngƣời chính là gia đình. Cho nên việc phát huy vai trò của gia đình trong việc hình thành phát triển nhân cách cá nhân là nhiệm vụ hết sức quan trọng của xã hội. Trên cơ sở kế thừa, phát triển các nghiên cứu về gia đình, thế hệ trẻ, nhân cách, vai trò của gia đình, chúng tôi đƣa ra các khái niệm nhƣ sau:
Nhân cách là phẩm chất và năng lực tạo nên cái “tôi” của mỗi cá nhân; được tổng hợp từ các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội hình thành nên đặc trưng của mỗi cá nhân, trên cơ sở đó mỗi cá nhân trở thành chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh các hành vi, hoạt động của mình.
Thế hệ trẻ là lớp thế hệ những người có độ tuổi từ 0 – 30 tuổi, tầng lớp người có thế mạnh, tiềm năng to lớn nguồn nhân lực bổ sung cho sự phát triển xã hội, họ cần sự quan tâm, hỗ trợ tạo mọi điều kiện vật chất và tinh thần từ phía gia đình, cộng đồng,xã hội trong quá trình phát triển, trưởng thành.
Nhân cách thế hệ trẻ là phẩm chất và năng lực tạo nên thế giới cái “tôi” của mỗi cá nhân ở độ tuổi từ 0 đến 30, được tổng hợp của các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội hình thành nên đặc trưng cá nhân, trên cơ sở đó mỗi cá nhân trở thành chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh các hành vi, hoạt động của mình.
Gia đình là nhóm xã hội hình thành và phát triển trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, làm phát sinh các quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ được nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
Trong lịch sử phát triển có những sự biến đổi, thử nghiệm những hoạt động của dịch vụ, tổ chức xã hội thay thế chức năng gia đình. Tuy nhiên cho đến nay, thực tế vẫn khẳng định gia đình có vai trò hết sức quan trọng sự phát triển của trẻ em nói chung và sự hình thành và phát triển nhân cách nói riêng, phát huy vai trò
80
của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ là yêu cầu cấp thiết đối với xã hội hiện nay. Vai trò của gia đình hiện nay thể hiện trong chăm sóc sức khỏe, phát triển thể chất tạo nền tảng sinh học cho nhân cách cá nhân; vai trò giáo dục, trao truyền những tri thức, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất đối với sự hình thành nhân cách cá nhân; vai trò nuôi dƣỡng tâm hồn, phát triển tâm lý, tình cảm tạo nên nền tảng tinh thần cho nhân cách cá nhân; vai trò định hƣớng, điều chỉnh quá trình hình thành và phát triển nhân cách cá nhân.
Trong đó vai trò của gia đình đối với sự hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ chịu sự tác động của các yếu tố: điều kiện khách quan – môi trƣờng tự nhiên, môi trƣờng xã hội tác động tới vai trò của gia đình; nhân tố chủ quan – điều kiện kinh tế, trình độ nhận thức, việc lựa chọn giá trị phát triển của mỗi gia đình, sự kết hợp giữa gia đình – nhà trƣờng – xã hội.
81
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO THẾ HỆ TRẺ Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội, đặc điểm nhân cách thế hệ trẻ ở tỉnh
Hải Dƣơng hiện nay
2.1.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội tác động tới việc thực hiện vai trò của gia đình với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dương hiện nay
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên Điều kiện địa lý – tự nhiên của tỉnh Hải Dƣơng có sự ảnh hƣởng tới sự phát triển cá nhân, gia đình trong quá trình phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Con ngƣời là một bộ phận của tự nhiên, cho nên chịu sự tác động, biến đổi của tự nhiên; đồng thời con ngƣời là chủ thể cải tạo tự nhiên, biến đổi tự nhiên theo mục đích của mình.
Hải Dƣơng là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc bộ với diện tích 1662 km2, là một trong 7 tỉnh, thành thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Hải Dƣơng tiếp giáp với các thành phố Hải Phòng ở phía đông, phía tây giáp tỉnh Hƣng Yên, phía nam giáp tỉnh Thái Bình, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang. Tỉnh có 12 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: Thành phố Hải Dƣơng, thị xã Chí Linh và 10 huyện: Nam Sách, Kinh Môn, Kim Thành, Thanh Hà, Ninh Giang, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Cẩm Giàng và Bình Giang.
Hải Dƣơng là điểm trung chuyển giữa Thủ đô Hà Nội và tỉnh Hải Phòng, Quảng Ninh tạo mối giao lƣu giữa các vùng kinh tế khác trong nƣớc cũng nhƣ khu vực và thế giới. Đây cũng là vùng dân số đông, là thị trƣờng tiêu thụ rộng rãi các sản phẩm nông nghiệp vùng. Đồng thời cũng là nơi cung cấp máy móc, trang thiết bị kỹ thuật để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh và các tỉnh lân cận. Điều kiện địa lý tự nhiên nhƣ trên có vai trò tạo ra môi trƣờng năng động, cởi mở, thuận lợi cho giao lƣu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; cơ hội học hỏi, học tập, công việc với các tỉnh lân cận cùng các giá trị văn hóa quốc tế của những bộ phận các nhà đầu tƣ, đối tác ngƣời nƣớc ngoài làm ăn sinh sống khi họ tới làm việc ở các khu công nghiệp của tỉnh. Họ mang đến
82
nhiều những giá trị vật chất và tinh thần mới, có sự tác động lớn tới ngƣời dân đặc biệt là tầng lớp thế hệ trẻ với đặc trƣng háo hức, tò mò thích trải nghiệm với những điều mới lạ nhƣ: món ẩm thực mới, thời trang, lối sống, nếp sống, tác phong công nghiệp…
Nằm gần trung tâm của đồng bằng sông Hồng nên khí hậu Hải Dƣơng mang tính nhiệt đới gió mùa ẩm có mùa đông lạnh. Trong năm tỉnh chịu sự thống trị của hai hoàn lƣu gió mùa: gió mùa mùa hè và gió mùa mùa đông đã phân hóa khí hậu thành hai mùa rõ rệt. Nhân tố hoàn lƣu gió mùa đã làm nên tính chất thất thƣờng của khí hậu. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,30C, giờ nắng trung bình hàng năm là 1524 giờ, lƣợng mƣa trung bình hàng năm 1.300 - 1.700 mm, độ ẩm trung bình là 85 - 87%. Đặc điểm khí hậu này có những thuận lợi nhất định cho sản xuất nông nghiệp và hoạt động kinh tế nói chung. Tuy nhiên, trong những năm gần đây biến đổi khí hậu toàn cầu có những diễn biến phức tạp. Khí hậu nóng lên, nhiệt độ, độ ẩm, mƣa lũ, gió mùa diễn biến thất thƣờng gây nhiều khó khăn cho sản xuất, kinh tế và các hoạt động thƣờng nhật của nhân dân. Với đặc trƣng về điều kiện thời tiết tự nhiên này, góp phần tác động tới việc sử dụng phƣơng thức lao động, canh tác đặc trƣng của khu vực phía Bắc, hay gần hơn là khu vực Đồng Bằng sông Hồng có sự khác biệt so với khu vực phía Nam nƣớc ta hay những vừng miền khác trong cả nƣớc. Từ điều kiện tự nhiên, khí hậu – yếu tố tự nhiên của tồn tại xã hội đã hình thành nên những ý thức xã hội mang tính địa phƣơng rõ nét. Với điều kiện tự nhiên khí hậu diễn biến phức tạp nhƣ trên làm cho con ngƣời sinh sống nơi đây tạo nên những đức tính linh hoạt, cần cù, bền bỉ đấu tranh với khó khăn, khắc nghiệt để cải tạo tự nhiên nâng cao đời sống vật chất tinh thần. Với sức chịu đựng dẻo giai, cần cù chịu khó “một nắng hai sƣơng” làm cho con ngƣời dễ thích nghi với những hoàn cảnh sống có những biến đổi mới. Khi có những điều kiện mới thuận lợi hơn đặc biệt nhiều khu công nghiệp đƣợc mở ra, sự thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài lớn, càng làm cho họ hăng hái, tích cực lao động sản xuất phát huy sự cần cù, chịu khó, tiết kiệm biết trân trọng giá trị sức lao động. Tuy nhiên trong một bộ phận gia đình, bộ phận thế hệ trẻ có biểu hiện chây lƣời, chạy theo giá trị vật chất thực dụng, tệ nạn xã hội… Nhƣng so với các thành phố lớn nhƣ thủ đô Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh…thì mức độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn hạn chế hơn nên mặt trái của quá trình này ở Hải Dƣơng cũng giảm thiểu hơn.
83
Mặc dù phải đối mặt với những biến đổi khí hậu trong xu thế chung của các tỉnh phía Bắc, nhƣng Hải Dƣơng ít bị ảnh hƣởng thiên tai, bão lũ nhƣ các tỉnh khác, có thể nói khí hậu Hải Dƣơng không quá khắc nghiệt nhƣ những vùng miền khác.
Điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu ảnh hƣởng tới sức khỏe, tâm lý, sinh lý, tính cách con ngƣời với tƣ cách “thân thể vô cơ” của mỗi ngƣời, điều kiện đó dẫn tới những thuận lợi, khó khăn nhất định về sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh, thông qua đó là sự phát triển của mỗi gia đình, từ đó tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
2.1.1.2. Môi trường xã hội Thứ nhất, điều kiện phát triển kinh tế của địa phương. Với điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, Hải Dƣơng đã và đang phát huy lợi thế đó trong phát triển kinh tế, đặc biệt trong phát triển nông nghiệp của tỉnh, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, phát triển nông nghiệp của tỉnh theo hƣớng sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, góp phần nâng cao thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân.
Những năm gần đây, Hải Dƣơng có tốc độ tăng trƣởng kinh tế khá, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) giai đoạn 2011-2015 tăng bình quân 7,9%/năm. GDP bình quân đầu ngƣời đạt 2.000 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hƣớng, tỷ trọng công nghiệp tăng nhanh; tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ chuyển dịch từ 20,1% - 47,7% - 32,2% năm 2010 sang 15,9% - 52,5% - 31,6% năm 2015. Cơ cấu lao động tƣơng ứng chuyển dịch từ 47,9% - 31,4% - 20,7% năm 2010 sang 36,5% - 35,0% - 28,5% năm 2015. Triển khai và đạt kết quả bƣớc đầu trong tái cơ cấu kinh tế, nhất là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp nhà nƣớc và tái cơ cấu đầu tƣ công; tăng tỷ trọng huy động vốn đầu tƣ khu vực ngoài nhà nƣớc từ 68,4% năm 2010 lên 72,1% năm 2015[87,2]. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh năm 2017 (GRDP) tăng 8,2% so với năm 2016 [94,3]. Giá trị hàng hoá xuất khẩu năm 2017 đạt 5 tỷ 260 triệu USD [94, 3].
Nông nghiệp phát triển ổn định, hiệu quả sản xuất đƣợc nâng lên. Chƣơng trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đƣợc quan tâm chỉ đạo và đầu
84
tƣ, đã thu hút sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận cao của nhân dân. Điều kiện vật chất nâng lên rõ rệt, cùng với quá trình hợp tác giao lƣu kinh tế, văn hóa trong quá trình hội nhập làm cho đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, trình độ dân trí tăng cao. Sự thay đổi rõ nét nhất biểu hiện trong đạo đức, lối sống, nhân cách thế hệ trẻ của tỉnh - thế hệ nhanh nhạy với cái mới, với sự phát triển và biến đổi.
Khác với những tỉnh lân cận khác, sự phát triển, thu hút các khu công nghiệp là chuyển đổi cơ cấu kinh tế các hộ gia đình trong tỉnh. Lao động nông nghiệp hiện nay tâp trung vào lứa tuổi từ trên 50 -60 tuổi; còn lứa tuổi từ 18 – 40 tuổi tập trung lao động công nghiệp trong các khu công nghiệp của tỉnh; ngoài ra thu hút lao động từ các tỉnh khác nhƣ Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Lào Cai, Yên Bái… vào các khu công nghiệp. Cho nên nguồn lao động trong tỉnh có điều kiện khá thuận lợi ít phải di dân sang các tỉnh lân cận tìm kiếm việc làm; tuy nhiên do điều kiện đất canh tác nông nghiệp bị thu hẹp và với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập; việc tìm kiếm những cơ hội mới tốt hơn với điều kiện hiện có nên lao động trong tỉnh lại có nhu cầu tìm kiếm cơ hội ở nƣớc ngoài nhiều hơn. Cho nên Hải Dƣơng là một trong những tỉnh có số lƣợng xuất khẩu lao động; du học – lao động lớn nhất cả nƣớc.
Cùng với sự phát triển của các khu công nghiệp là quá trình đẩy nhanh của quá trình đô thị hóa của tỉnh. Tỉnh Hải Dƣơng có hệ thống kết cấu hạ tầng khá hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển. Mạng lƣới giao thông vận tải đầy đủ các loại hình giao thông, bao gồm cả đƣờng bộ, đƣờng thuỷ, đƣờng sắt phân bố hợp lý, giao lƣu rất thuận lợi tới các tỉnh. Đƣờng bộ có 4 tuyến đƣờng quốc lộ qua tỉnh dài 99 km, đều là đƣờng cấp I, cho 4 làn xe đi lại thuận tiện. Đƣờng sắt tuyến Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với quốc lộ 5, đáp ứng vận chuyển hàng hoá, hành khách qua 7 ga trong tỉnh. Tuyến Kép - Bãi Cháy chạy qua huyện Chí Linh là tuyến đƣờng vận chuyển hàng lâm nông thổ sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc ra nƣớc ngoài qua cảng Cái Lân, cũng nhƣ hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh. Đƣờng thuỷ cũng nhộn nhịp với 400 km đƣờng sông cho tầu, thuyền 500 tấn qua lại dễ dàng, hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá một cách thuận lợi. Hệ thống giao thông trên bảo đảm tốt cho việc giao lƣu kinh tế từ Hải Dƣơng đi cả nƣớc và nƣớc ngoài.
85
Kinh tế thị trƣờng làm phát triển mạnh mẽ vai trò sản xuất kinh tế hộ gia đình. Trong nền kinh tế thị trƣờng, kinh tế hộ gia đình tồn tại với tƣ cách độc lập, tách ra khỏi kinh tế tập thể, hợp tác xã. Không còn tình trạng sở hữu chung, làm chung kiểu “cha chung không ai khóc”. Với vai trò sản xuất kinh tế hộ, gia đình đƣợc tự do sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật quy định; nhiều hộ gia đình đã phát triển giàu có mở rộng quy mô cơ cấu sản xuất kinh doanh lớn. Kinh tế hộ gia đình có sự phát triển lớn mạnh, phong phú, đa dạng. Những làng nghề đƣợc khôi phục, phát triển hƣớng tới xuất khẩu. Những ngƣời dân Hải Dƣơng ra sức tận dụng sức lao động, kinh nghiệm, khả năng của mình để phát triển kinh tế, cuộc sống hầu hết các gia đình đƣợc nâng lên đáng kể.
Động lực cạnh tranh của kinh tế thị trƣờng, cùng tốc độ phát triển nhƣ vũ bão của khoa học công nghệ làm cho lực lƣợng sản xuất không ngừng phát triển. Đa số các hộ gia đình trong tỉnh Hải Dƣơng có sự phát triển nhanh nhạy, năng động, sáng tạo, có ý thức nắm bắt khoa học công nghệ hiện đại và xu hƣớng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Kinh tế phát triển là điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần trong nhân dân, phát huy truyền thống hiếu học nên ƣu tiên đầu tƣ hàng đầu trong mỗi gia đình là đầu tƣ cho con cái học tập, nâng cao trình độ, tay nghề và nâng cao sức khỏe mục tiêu nâng cao tầm vóc về cả thể lực và trí lực cho con em mình. Các gia đình đã thay đổi cách nuôi dạy con cái để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Đây là yếu tố có ý nghĩa quan trọng tích cực tao điều kiện cho nhân cách cá nhân có sự phát triển theo xu hƣớng hiện đại.
Nhƣng dƣới tác động quy luật kinh tế tự do cạnh tranh phân hóa ngƣời lao động mạnh mẽ nhiều hộ sản xuất đối mặt với tình trạng “đƣợc mùa mất giá”, sản xuất dƣ thừa, xuất nhập khẩu bếp bênh phụ thuộc thƣơng lái địa phƣơng và thƣơng lái nƣớc ngoài. Các gia đình trong những năm gần đây thƣờng phải đối mặt với tình trạng hàng nghìn ha rau màu trồng ra không có ngƣời thu mua; chăn nuôi gia cầm bị thƣơng lái ép giá, hàng triệu con lợn không xuất khẩu đƣợc trong hai năm 2016, 2017; ruộng đất bị thu hẹp làm tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm gia tăng; đất đai và nguồn nƣớc bị ô nhiễm do nƣớc thải chƣa đƣợc xử lý an toàn; khói và nƣớc thải các nhà máy làm phát sinh nhiều bệnh tật nguy hiểm; tệ nạn xã hội phát triển phức tạp, nhiều tội phạm nguy hiểm gia tăng... Những tác động tiêu cực trên cũng len lỏi vào từng gia đình dần phá vỡ nhiều giá trị văn
86
hóa truyền thống tốt đẹp. Đặc biệt đối tƣợng chịu những ảnh hƣởng lớn cũng chính là thế hệ trẻ.
Mặt khác, ảnh hƣởng tàn dƣ của xã hội tiểu nông phong kiến, cùng sự tồn tại chế độ tập trung, quan liêu bao cấp kéo dài ở nƣớc ta vẫn in hằn trong lối sống, nếp nghĩ, tác phong của con ngƣời Hải Dƣơng nói chung và tác động không nhỏ đối với thế hệ trẻ nói riêng. Trong gia đình, giữa các thế hệ, trong chính mỗi thành viên trong gia đình đang diễn ra sự đấu tranh giằng xé trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cá nhân. Trong gia đình vẫn tồn tại tƣ tƣởng trọng thành tích, háo danh, cá nhân, tự ti, ỷ lại, “phép vua thua lệ làng”, “1 miếng giữa làng hơn 1 sàng xó bếp”. Vẫn trông chờ sự bao cấp nhà nƣớc: mất tiền “chạy” việc làm ổn định trong nhà nƣớc; chậm thay đổi; thiếu tác phong công nghiêp, kỷ luật lao động… Một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ nói riêng và mọi tầng lớp nhân dân nói chung hiện nay tồn tại tƣ tƣởng, quan điểm, lối sống đề cao giá trị vật chất, chạy đua với sức mạnh của đồng tiền, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa. Thứ hai, điều kiện xã hội, văn hóa của địa phương.
Theo điều tra dân số năm 2016, Hải Dƣơng có 1.463.890 ngƣời; mật độ dân số trung bình 1.488 ngƣời/km2. Dân số thành thị chiếm 36% và dân số nông thôn 64%. Năm 2016 theo Bản đồ dân số Việt Nam dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê, dân số Hải Dƣơng chiếm khoảng 2% dân số của cả nƣớc.
Trong thời kỳ đổi mới, chất lƣợng giáo dục toàn diện đƣợc nâng lên, là một trong ba địa phƣơng trong cả nƣớc sớm hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học mức độ II. Giữ vững chất lƣợng giáo dục mũi nhọn ở tốp đầu toàn quốc. Cơ sở vật chất trƣờng, lớp học đƣợc quan tâm đầu tƣ theo hƣớng chuẩn hóa; hết năm 2016 toàn tỉnh có 477 trƣờng học đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 51,3%. Hải Dƣơng là 1 trong 5 tỉnh đầu tiên của cả nƣớc đƣợc Bộ Giáo dục và đào tạo công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục, xóa mù chữ; là 1 trong 3 tỉnh đạt chuẩn phổ cập gióa dục trung học cơ sở mức độ III [117,10].
Công tác truyền thông chăm sóc sức khỏe đƣợc đẩy mạnh, các chƣơng trình mục tiêu quốc gia đƣợc thực hiện tốt, tỷ lệ ngƣời dân có thẻ bảo hiểm y tế đạt 75,1% (năm 2015). Tỷ lệ hộ nghèo giảm hàng năm, chỉ còn 3,27% năm 2016, Thực hiện tốt các chính sách đối với ngƣời có công với cách mạng, đối tƣợng bảo trợ xã hội và chính sách bình đẳng giới [93,3].
87
Nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng, Hải Dƣơng là một trong những cái nôi của nền văn hoá lâu đời của dân tộc Việt Nam. Lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc đã để lại cho vùng đất này một tài sản vô giá với hàng trăm di tích lịch sử văn hoá. Vùng đất này gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân nhƣ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sƣ Mạnh, nơi sinh ra và lớn lên của đại danh y Tuệ Tĩnh. Hải Dƣơng là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, có truyền thống văn hóa và bề dày lịch sử, một trong những cái nôi phát triển thiền phái Trúc Lâm, trƣờng phái tu hành của đạo Phật mang đậm tƣ tƣởng, triết lý về nhân sinh quan của ngƣời Việt. Hải Dƣơng là tỉnh có truyền thống hiếu học và khoa bảng, với gần 500 tiến sĩ Nho học, là nơi hội tụ, lƣu giữ nhiều di sản văn hóa. Toàn tỉnh có 2207 di tích lịch sử văn hóa – danh thắng, trong đó có 148 di tích xếp hạng cấp quốc gia, tuy bị chiến tranh, thiên tai tàn phá nặng nề, nhƣng nhờ có truyền thống giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo tồn di sản lịch sử văn hoá của dân tộc, cùng sự quan tâm của chính quyền địa phƣơng, đến nay Hải Dƣơng còn giữ đƣợc hàng nghìn di tích có giá trị. Đây là tài sản vô giá, là cơ sở của sử học, là linh hồn và niềm tự hào của nhân dân địa phƣơng.
Với cái nôi nuôi dƣỡng tinh thần ham học hỏi, trân trọng tri thức, với Văn miếu Mao Điền - trung tâm tổ chức các kỳ thi quan trọng của quốc gia có quy mô và lịch sử lâu đời đứng thứ hai chỉ sau Văn miếu Quốc Tử Giám. Truyền thống hiếu học nhƣ trên đã và đang đƣợc phát huy trong các gia đình, thế hệ trẻ có những thành tựu rất cao trong học tập và trình độ dân trí. Đây là cơ sở tri thức quan trong giúp cho các gia đình Hải Dƣơng nói chung và thế hệ trẻ ở tỉnh có cơ sở nền tri thức và phông văn hóa khi tiếp xúc với những tác động của cơ chế kinh tế thị trƣờng, với sự giao lƣu tiếp biến văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa; từ đó chọn lọc định hình sự phát triển nhân cách cá nhân.
Hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao ngày càng đƣợc nâng cao về chất lƣợng trong đó có sự đóng góp to lớn của thế hệ trẻ tỉnh Hải Dƣơng. Nhiều vận động viên của tỉnh tham gia các giải đấu thể thao quốc gia và quốc tế giành thành tựu xuất sắc.Phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp trong lịch sử là cơ sở cho việc xây dựng gia đình văn hóa tiến bộ, no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Là nền tảng cơ sở tinh thần quý báu cho thế hệ trẻ Hải Dƣơng học tập và phát huy; là cơ sở hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ phát triển toàn diện; là động lực xây dựng con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
88
Tuy nhiên cũng cần thấy một số hạn chế lịch sử đang còn tồn tại ảnh hƣởng tới sự phát triển của xã hội nói chung, của gia đình và nhân cách thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng nói riêng.
Mảnh đất đồng bằng sông Hồng là nơi đặt chân đầu tiên của Nho giáo (Thăng Long) và Phật giáo (Thành Luy Lâu – nay là Thuận Thành – Bắc Ninh). Chịu ảnh hƣởng của Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, Thiên chúa giáo, tƣ tƣởng âm dƣơng ngũ hành nhƣng so với các vùng khác trong cả nƣớc thì đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng Nho giáo sâu sắc hơn cả. Những quan điểm, tƣ tƣởng, lễ giáo phong kiến vẫn còn in dấu ấn đậm nét khu vực Bắc bộ và tỉnh Hải Dƣơng cũng không ngoài vùng ảnh hƣởng. Xã hội phong kiến ở Hải Dƣơng khá điển hình với tất cả các thuộc tính của nó.
Quá trình công nghiệp hóa, đi đôi với đô thị hóa đƣợc đẩy mạnh trong những năm đổi mới, xong vẫn gặp những “sức ỳ” khá lớn. Tỉ lệ lao động nông nghiệp vẫn chiếm khoảng 60%, gia đình của Hải Dƣơng đa số vẫn tập trung chủ yếu ở nông thôn với đặc điểm chung của nông thôn đồng bằng Bắc bộ nói chung là sống quần tụ thành từng làng. Tổ chức làng đƣợc hình thành rất sớm trong lịch sử, với nhiều mối quan hệ đan xen nhƣ quan hệ huyết thống, quan hệ dòng họ, quan hệ hôn nhân, quan hệ nghề nghiệp, quan hệ cố kết để sản xuất và tồn tại. Ở đó lối sống của ngƣời dân dƣờng nhƣ ngƣng đọng với những thuộc tính của nền kinh tế tự cấp tự túc, suy nghĩ, tƣ duy, cách thức sản xuất thay đổi rất chậm. Những tƣ tƣởng phong kiến lạc hậu vẫn ảnh hƣởng len lỏi trong các gia đình, ngõ xóm. Các thành viên trong gia đình có mối quan hệ ràng buộc với họ hàng, gia tộc, làng xóm; con ngƣời luôn hiện diện nhƣ một thành viên của cộng đồng chứ chƣa phải là một cá nhân định hình, khẳng định mình với tƣ cách công dân. Điều này ảnh hƣởng khá lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Có thể nói tồn tại xã hội ở Hải Dƣơng hiện tại đan xen kiểu tổ chức sản xuất tự cung tự cấp, lạc hậu bên cạnh sự phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa và sản xuất hàng hóa, nhƣng sản xuất hàng hóa vẫn ở mức độ khiêm tốn, vẫn mang tính thủ công, lao động chân tay là chủ yếu. Trình độ dân trí ngày càng nâng cao, nhƣng chƣa đồng đều, có sự phân hóa theo vùng lãnh thổ và điều kiện kinh tế, cơ cấu nghề nghiệp của các hộ gia đình. Các đô thị có sự phát triển, thị tứ, thị trấn xuất hiện nhƣng cuộc sống điền viên trong những đơn vị thôn xóm,
89
xã vẫn chiếm ƣu thế. Điều kiện tồn tại xã hội nhƣ trên đã tác động trực tiếp tới sự phát triển của hệ thống những quan điểm tƣ tƣởng của ý thức xã hội, trên phƣơng diện sinh hoạt tinh thần bộc lộ sự phát triển phức tạp đan xen các yếu tố cũ mới, đấu tranh giằng co quyết liệt. Nhiều giá trị trƣớc đây là phù hợp với sự phát triển của gia đình truyền thông thì giờ đây có sự mâu thuẫn với sự phát triển của gia đình hiện đại. Có yếu tố mới của gia đình hiện đại không đƣợc lớp ngƣời cao tuổi trong gia đình chấp nhận. Bộc lộ những hoang mang, lúng túng khi lựa chọn những giá trị truyền thống và hiện đại trong phát triển gia đình hiện nay. Trong phạm vi gia đình, biểu hiện của điều đó là sự đấu tranh, mâu thuẫn giữa các thế hệ, đấu tranh xé trong chính bản thân mỗi thành viên trong gia đình khi lựa chọn quan điểm sống, lý tƣởng sống, lối sống, nhân cách, đạo đức.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những ngƣời lao động, đặc biệt thế hệ trẻ, thế hệ kế cận, thế hệ đang từng bƣớc đi lên làm chủ đời sống của mình, làm chủ xã hội. Cơ chế thị trƣờng tác động sâu sắc tới quan hệ xã hội đồng thời cũng tác động dữ dội vào mối quan hệ giữa các thế hệ, thành viên của gia đình. Đòi hỏi con ngƣời phải xử lý mọi vấn đề căn cứ vào thực lực về vật chất, kinh nghiệm, tri thức, bản lĩnh..., bên cạnh đó, yêu cầu về tự do phát triển nhân cách, năng lực, phẩm chất cá nhân trong xã hội đã và đang thể hiện mạnh mẽ ở thế hệ trẻ trong mỗi gia đình.
Nhƣ vậy, gia đình Việt Nam nói chung, gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng nói riêng đang trong thời kỳ quá độ chuyển từ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa hiện đại. Trong giai đoạn này chức năng của gia đình có sự biến đổi; mỗi thành viên, mỗi gia đình không tránh khỏi những đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Gắn bó không tách rời với sự biến đổi đó, quá trình hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ không tránh khỏi sự đấu tranh giằng xé cái “tôi” và tính cộng đồng; giữa những hệ giá trị của thế hệ ông bà, cha mẹ mong muốn định hƣớng, thậm chí áp đặt với con cái với nhu cầu tự do lựa chọn các giá trị cá nhân của thế hệ trẻ; giữa cái truyền thống và hiện đại.
Thứ ba, tác động của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ở địa
phương.
Toàn cầu hóa là xu hƣớng tất yếu phát triển của các dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Có nhiều quan điểm khác nhau thậm chí trái ngƣợc nhau về toàn cầu
90
hóa: có những quốc gia chủ động mở rộng cửa với xu thế toàn cầu hóa, nhiều quốc gia muốn chống lại toàn cầu hóa. Nhƣng thực tế hiện nay toàn cầu hóa đƣợc coi là xu thế tất yếu của sự phát triển các quốc gia dân tộc. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, đang tích cực, chủ động gia nhập các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa trên phạm vi quốc tế. Toàn cầu hóa tác động mạnh mẽ đến cuộc sống từng gia đình, từng cá nhân trong xã hội, tác động đến đời sống vật chất và tinh thần của mỗi con ngƣời.
Ở Việt Nam, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã và đang tác động nhiều mặt đến sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tƣ tƣởng nói chung trong đó có tác động đến đời sống của các gia đình và thế hệ trẻ Hải Dƣơng.
Công nghiệp của tỉnh khá phát triển với 18 khu công nghiệp, dƣới sự hợp tác phát triển các dự án kinh tế với gần 30 quốc gia. Điều này tác động lớn tới đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung của gia đình và thế hệ trẻ Hải Dƣơng nói riêng. Hội nhập đòi hỏi trình độ phát triển mọi mặt của con ngƣời đặc biệt vấn đề ngoại ngữ và công nghệ thông tin, điều này thôi thúc thế hệ trẻ nắm bắt thời cơ, xu thế và chủ động trong học tập, tự trang bị những hành trang cần thiết cho hội nhập.
Toàn cầu hóa mở ra cơ hội hội nhập quốc tế về giáo dục, y tế, văn hóa. Trong thực tế hiện nay, nhiều bạn trẻ tiếp cận cơ hội học tập ở các trƣờng danh tiếng trên thế giới, nhiều gia đình lựa chọn cho con cái ở nhiều hình thức đào tạo ngay cả trong nƣớc và trên quốc tế. Đây là điều kiện về cơ hội việc làm và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại cho các gia đình và thế hệ trẻ trong tỉnh. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin - mạng Internet là điều kiện xã hội hóa tri thức của nhân loại, là có hội cho thế hệ trẻ tiếp xúc với các nền văn minh trên thế giới. Dịch vụ y tế ngày càng phong phú, tiện ích ngày càng nhiều, bệnh viện quốc tế mở ra và hợp tác quốc tế về y tế đƣợc mở rộng. Đây là điều kiện tốt, thuận lợi chăm sóc sức khỏe, nâng cao tuổi thọ của nhân dân và mở ra điều kiện phát triển những khả năng vốn có của mỗi cá nhân.
Ở Hải Dƣơng có sự phát triển công nghiệp tƣơng đối nhanh chóng tuy nhiên sử dụng lao động phổ thông là chủ yếu; trình độ chuyên môn tay nghề còn nhiều hạn chế; giá nhân công rẻ mạt, điều kiện, môi trƣờng làm việc và cuộc sống của ngƣời công nhân còn rất nhiều khó khăn. Tình trạng thiếu việc làm ở
91
nông thôn và thất nghiệp ở đô thị còn cao. Bên cạnh đó quá trình đô thị hóa nhanh ồ ạt, cơ sở vật chất hạ tầng không đảm bảo, nhà ở, nƣớc sạch, giao thông đi lại còn hạn chế; tệ nạn xã hội phức tạp nảy sinh... Những vấn đề trên ảnh hƣởng rất nhiều tới các gia đình và đặc biệt thế hệ trẻ.
Sự phát triển của văn hóa hiện nay đang đứng trƣớc nhiều thách thức trƣớc việc xuất khẩu văn hóa của các nƣớc tƣ bản phát triển hiện đại. Sự xâm nhập lấn át của các yếu tố văn hóa bên ngoài, của mạng xã hội, đặc biệt những mặt trái của văn hóa phƣơng Tây, sự tiếp thu thiếu chọn lọc trƣớc những cái mới… là thách thức đối với nền văn hóa các nƣớc đang phát triển trong đó có Việt Nam. Thế hệ trẻ là thế hệ dễ bị ảnh hƣởng những trào lƣu văn hóa mới, bên cạnh sự tiếp thu đƣợc những giá trị mới tiến bộ thì cũng bị ảnh hƣởng tiêu cực từ những lối sống thực dụng, buông thả, cực đoan…
Cuộc đấu tranh chọn lọc giữa những giá trị truyền thống và hiện đại, lựa chọn lý tƣởng, niềm tin, lối sống, hệ giá trị đạo đức diễn ra khá cam go. Thế hệ trẻ là chiến sĩ, ngƣời trực tiếp lựa chọn và chịu trách nhiệm về những lựa chọn này. Điều đó cho thấy gia đình có vai trò là cơ sở quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ hiện nay.
2.1.2. Đặc điểm nhân cách thế hệ trẻ ở tình Hải Dương hiện nay Với những điều kiện địa lý tự nhiên và chính sách xã hội thực hiện xây dựng phát triển công nghiệp ở tỉnh Hải Dƣơng có sự phát triển vƣợt bậc so với các tỉnh trong khu vực và cả nƣớc. Điều này tác động to lớn tới đời sống vật chất, tinh thần của các hộ gia đình đồng thời tác động sâu sắc tới sự hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh hiện nay.
Trên cơ sở tác động ảnh hƣởng bởi nền kinh tế, chính sách xã hội và nền văn hóa chung của cả nƣớc nhân cách thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng có những nét tƣơng đồng giống với thế hệ trẻ cả nƣớc, tuy nhiên có nhiều đặc điểm riêng biệt so với các vùng, miền, địa phƣơng khác trong cả nƣớc. Có thể khái quát đặc điểm nhân cách thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng với những phẩm chất, năng lực nhƣ sau:
Thứ nhất, là một địa phƣơng phát triển mạnh mẽ về công nghiệp là một trong những tỉnh dẫn đầu về phát triển kinh tế trong cả nƣớc; ngƣời dân nói chung, thế hệ trẻ ở Hải Dƣơng nói riêng bộc lộ sự nhanh nhạy, linh hoạt với cái
92
mới, với sự phát triển, biến đổi; nhanh chóng nắm bắt thời cơ phát triển bản thân phù hợp với đòi hỏi của xã hội
Thứ hai, Hải Dƣơng là vùng đất địa linh nhân kiệt, có truyền thống hiếu học nổi tiếng trong nƣớc với truyền thống khoa bảng từ ngàn đời nay; tạo tiền đề cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay phát huy tinh thần học tập không ngừng chinh phục những đỉnh cao của tri thức nhân loại. Trên thực tế, Hải Dƣơng là một trong 3 tỉnh đi đầu cả nƣớc về phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ III và là tình dẫn đầu cả nƣớc về giành các huy chƣơng Olympic Toán, Lý, Hóa quốc tế cho đất nƣớc.
Thứ ba, thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng có ý thức chủ động, tích cực và có khả năng hội nhập quốc tế cao. Nhƣ trong nghiên cứu tác giả đã trình bày Hải Dƣơng là một trong những tỉnh có số lƣợng lao động xuất khẩu ra các nƣớc lớn nhất cả nƣớc. Lớp thế hệ trẻ ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trƣờng phổ thông trung học đã đƣợc định hƣớng nghề nghiệp, công việc khá rõ; bộ phận thế hệ trẻ hƣớng tới việc hội nhập lao động hợp tác quốc tế với các nƣớc đã chuẩn bị những hành trang về tin học, ngoại ngữ, tay nghề chuyên môn và phong tục tập quán lối sống, pháp luật… ở các nƣớc nơi làm việc. Cho nên trên thực tế lao động trẻ của tỉnh thu đƣợc hiệu quả kinh tế cao so với lao động các tỉnh khác khi lao động ở ngoài nƣớc.
Bên cạnh đó, một đội ngũ thế hệ trẻ của tỉnh hợp tác học tập, nghiên cứu kết hợp với làm việc ở nƣớc ngoài chiếm tỉ lệ lớn. Khác với các hiện tƣợng các tỉnh miền Tây đồng bằng sông Cửu Long chiếm tới đa số là các cô gái ra nƣớc ngoài với mơ ƣớc lấy chồng ngoại quốc hƣởng thụ cuộc sống vật chất đủ đầy, nhiều trƣờng hợp bất đồng ngôn ngữ, lối sống, văn hóa phong tục tập quán gây hậu quả nặng nề bản thân và gia đình. Hay những hiện tƣợng lao động vi phạm hợp đồng lao động, thiếu kỹ năng nghề nghiệp, trình độ thì hiện tƣợng này ở lao động của tỉnh số lƣợng ít hơn.
Một bộ phận thế hệ trẻ sau thời gian học tập, làm việc ở nƣớc ngoài trở về tay nghề, trình độ, ngoại ngữ tốt làm việc cho các tập đoàn, công ty lớn trong và ngoài nƣớc tại Việt Nam với hiệu quả kinh tế rất cao.
Thứ tư, thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng chủ động tiếp thu những giá trị gia đình hiện đại từng bước lọc bỏ những hạn chế tác động tiêu cực của gia đình truyền thống. Các gia đình trẻ hiện nay hƣớng tới xây dựng gia đình tiến bộ,
93
phát triên kinh tế, chung thủy một vợ một chồng, yêu thƣơng, bình đẳng, xây dựng gia đình trên cơ sở tình yêu tự nguyện. Loại bỏ dẫn những hạn chế gia đình truyền thống với những yêu tố cũ, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển tiến bộ của gia đình.
Thứ năm, dƣới tác động của sự phát triển nhanh chóng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, quốc tế hóa, mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng tác động tiêu cực tới quá trình hình thành, phát triển nhân cách của thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay. Đặc điểm nhân cách thế hệ trẻ ở tỉnh bộc lộ những tiêu cực: một bộ phận thế hệ trẻ thể hiện tư tưởng, quan điểm, lối sống thực dụng, quá đề cao giá trị vật chất tuyệt đối hóa sức mạnh của đồng tiền. Sự phát triển nhanh chóng của các khu công nghiệp, vốn đầu tƣ nƣớc ngoài vào tỉnh khá cao, làm cho hiện tƣợng “đột biến”, “kinh tế bong bóng” ruộng, đất tăng giá nhiều gia đình giàu lên nhanh chóng; nhiều gia đình khủng hoảng giá trị cho nuông chiều con cái cho con sớm hƣởng thụ giá trị vật chất mà không phải mất công sức lao động, dẫn tới tình trạng ăn chơi, đua đòi tham gia tệ nạn xã hội. Tuy nhiên, so với thủ đô Hà Nội, Hƣng Yên, Hải Phòng là các tỉnh phát triển công nghiệp đi trƣớc thì Hải Dƣơng tránh đƣợc nhiều hệ lụy tiêu cực, rút ra những bài học từ những thất bại của các gia đình ở các tỉnh khác ảnh hƣởng trƣớc đó. Nhiều gia đình tận dụng thời cơ, điều kiện thuận lợi đầu tƣ cho con cái học tập nâng cao trình độ, phát triển gia đình theo hƣớng bền vững.
Thứ sáu, một bộ phận thế hệ trẻ còn tư tưởng ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, khôn lỏi, cục bộ địa phương, tiểu nông, manh mún. Với ảnh hƣởng tiêu cực từ tƣ tƣởng lạc hậu trong gia đình: “ăn cỗ đi trƣớc, lội nƣớc theo sau” thiếu tinh thần hợp tác, làm việc nhóm, đoàn kết học hỏi, tƣơng trợ lẫn nhau… Do tác động của quá trình giáo dục của gia đình hiện nay còn những tƣ tƣởng tiểu nông, phong kiến, khôn lỏi từ những thế hệ ngƣời lớn tuổi trong gia đình hàng ngày qua lối sống, nếp nghĩ đã ảnh hƣởng tới thế hệ trẻ. Bên cạnh đó là sự tồn tại của nhiều hộ gia đình nông thôn, nông dân, buôn bán nhỏ vẫn bị chi phối bởi kiểu sản xuất nhỏ manh mún hƣớng đến lợi ích cá nhân, lợi ích trƣớc mắt mà tác động tiêu cực tới cộng đồng xã hội. Cho nên thực tế tồn tại nhiều bạn trẻ sản xuất, buôn bán xả rác thải độc hại ra môi trƣờng; buôn bán, vận chuyển hàng lậu; hàng giả, hàng nhái; trồng trọt chăn nuôi đƣa ra thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm rau hóa chất, thịt lợn chứa hooc môn… Hay một tình trạng nhiều bạn trẻ thờ ơ, làm ngơ trƣớc
94
những hiện tƣợng tiêu cực trên. Vậy vì lợi ích cá nhân, lợi ích trƣớc mắt mà chà đạp lên lợi ích xã hội, cộng đồng.
Không chỉ vậy, ở một phƣơng diện khác ảnh hưởng lề lối, nếp sống cũ, ảnh hƣởng tƣ tƣởng phong kiến thế hệ trẻ tỉnh Hải Dƣơng còn tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ. Tuy nhiên, khác với nhiều địa phƣơng khác tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ đƣợc bộc lộ ra ở những hiện tƣợng gia trƣởng xem nhẹ giá trị ngƣời phụ nữ trong gia đình; bất bình đẳng giới, phụ nữ bị bạo hành, ngƣợc đãi, coi thƣờng ngƣời phụ nữ thì những hiện tƣợng này ở tỉnh Hải Dƣơng không nhiều. Nhƣng vấn đề nổi cộm dễ nhận thấy tác động từ gia đình, cộng đồng tới thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng quá đề cao việc sinh con trai nối dõi tông đƣờng. Gây ra hệ lụy tỉ lệ sinh mất cân bằng giới tính của tỉnh cao nhất cả nƣớc, tƣơng lai hàng triệu trẻ em trai sẽ đối mặt với hệ lụy thiếu nữ giới, khó khăn tìm vợ kết hôn.
Thứ bảy, một khía cạnh mới nảy sinh tồn tại trong một bộ phận thế hệ trẻ hiện nay đó là lối sống ảo, phi thực tế. Biểu hiện rõ dƣới sự tác động của khoa học công nghệ, thế hệ trẻ nắm bắt nhanh nhạy khoa học công nghệ, vận dụng sáng tạo trong cuộc sống và hỗ trợ, nâng cao các giá trị cuộc sống. Tuy nhiên nhiều bạn trẻ sống với thế giới ảo của các trò chơi điện tử - game online, xây dựng hình ảnh ảo trên mạng xã hội Facebook, Twtter, Instagram… Một mặt đây là sự phát triển tất yếu của cuộc sống hiện đại của thế hệ trẻ, của các gia đình hiện nay, mặt khác ở đó bộc lộ ra những khía cạnh phát triển mới trong nhân cách mỗi cá nhân, thể hiện sự phát triển biến đổi phong phú, đa dạng của nhân cách cá nhân.
2.2. Thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay
Chiến lƣợc phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của Chính phủ ở điều 1 đã đƣa ra quan điểm: “Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trƣờng quan trọng hình thành, nuôi dƣỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [134, 1]
Nhận thức tầm quan trọng của gia đình, Đảng bộ, chính quyền Hải Dƣơng luôn quan tâm tạo điều kiện phát triển gia đình về mọi mặt. Các ngành, các cấp đã có sự phối hợp, lồng ghép nội dung xây dựng “Gia đình văn hóa" với nội dung thi đua của các phong trào khác nhƣ: "Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu
95
hiếu thảo", "Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình", "Phụ nữ giỏi việc nƣớc, đảm việc nhà"; phong trào “Dòng họ hiếu học, dòng họ không có tệ nạn xã hội". Năm 2017 toàn tỉnh có 85,1% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá trong đó số gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc đạt 12%[117, 6]. Trong các gia đình ở Hải Dƣơng, về cơ bản, thế hệ trẻ đƣợc chăm sóc, đƣợc học hành, đƣợc tạo những điều kiện tốt nhất trong khả năng của mỗi gia đình để phát triển.
Vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ
đƣợc thể hiện ở những khía cạnh cụ thể nhƣ sau:
2.2.1. Vai trò của gia đình trong chăm sóc sức khỏe, phát triển thể chất
tạo nên nền tảng sinh học cho nhân cách cá nhân.
Với điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, với thu nhập tăng khá, các gia đình trong tỉnh Hải Dƣơng ngày càng có nhiều điều kiện chăm lo cho quá trình phát triển về thể lực, sức khỏe cho thế hệ trẻ trong gia đình và thu đƣợc những thành tựu quan trọng:
Thứ nhất, nhiều gia đình đã quan tâm, đầu tư tới vấn đề phát triển thể chất,
chiều cao, cân nặng và sức khỏe của con em mình.
Theo báo cáo công tác y tế dự phòng tỉnh năm 2012, công tác phòng chống suy dinh dƣỡng tại cộng đồng đƣợc triển khai cách đây gần 20 năm, Chƣơng trình ngày càng đƣợc xã hội quan tâm. Tỷ lệ trẻ suy dinh dƣỡng dƣới 5 tuổi giảm theo thời gian, và thấp hơn so với tỷ lệ chung của toàn quốc [117,6].
Các chính sách quản lý y tế và công tác y tế dự phòng của tỉnh kết hợp sự đầu tƣ quan tâm của các gia đình, thể chất của thế hệ trẻ trong tỉnh ngày càng cải thiện khắc phục tình trạng trẻ em suy dinh dƣỡng, chậm lớn - tình trạng phổ biến ở các nƣớc đang và chậm phát triển.
Với những nỗ lực của toàn thể chính quyền và nhân dân, hệ thống y tế và các gia đình với mục tiêu chăm lo phát triển sức khỏe của các thành viên trong gia đình và đặc biệt thế hệ trẻ trong gia đình trong những năm qua, đến năm 2017 theo báo cáo của tỉnh ủy: “Duy trì tốt hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác y tế dự phòng, vệ sinh an toàn thực phẩm đƣợc tăng cƣờng. Tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp nhƣng đƣợc kiểm soát và khống chế kịp thời nên không có dịch bệnh lớn, nghiêm trọng xảy ra; duy trì tỷ lệ trẻ em đƣợc tiêm chủng đầy đủ trên 99% …”[117,9].
96
Qua khảo sát 99 % hộ gia đình cho rằng sức khỏe, thể chất rất quan trọng đối với sự phát triển nhân cách [phụ lục 7] và 78,3% các gia đình rất quan tâm tới chế độ dinh dƣỡng [phụ lục 8].
Trong điều kiện vật chất khấm khá, các gia đình Hải Dƣơng chăm lo phát triển thể chất, thể lực nhằm phát triển cả về cân nặng, chiều cao và trí tuệ. Qua điều tra thực tế có tới 57,3% các gia đình trả lời thu nhập bình quân/ngƣời/tháng trên 3000.000 đồng [phụ lục 3]. Trong đó 97% các hộ gia đình cho biết sự đầu tƣ của gia đình cho con cháu tăng cƣờng sức khỏe, phát triển thể chất tăng lên trong 10 năm gần đây [phụ lục 9]. Các gia đình ngày càng có sự đầu tƣ lớn cho sự phát triển thể chất, sức khỏe cho thế hệ trẻ trong gia đình. Thậm chí nhiều gia đình kinh tế còn khó khăn nhƣng với quan điểm truyền thống “hy sinh đời bố củng cố đời con” quyết tâm, hy sinh cho con cái thời gian, tiền bạc, sự chăm sóc nuôi dƣỡng tốt nhất vì tƣơng lai thế hệ con cái, vì sự phát triển tiến bộ xã hội.
Thứ hai, nhận thức của gia đình về nội dung chăm sóc sức khỏe thể chất và
phát triển thể chất cho thế hệ trẻ ngày càng khoa học, tiến bộ hơn.
Các gia đình nhận thấy vai trò của việc chăm sóc sức khỏe nâng cao tầm vóc thể lực; hƣớng tới sự phát triển toàn diện cho thế hệ trẻ trong gia đình. Các gia đình dần khắc phục đƣợc những hạn chế trong chăm sóc sức khỏe, thể chất cho con cái nhƣ: loại bỏ dần những quan niệm chăm sóc sức khỏe, thể chất lạc hậu nhƣ lựa chọn giới tính khi sinh, bất bình đẳng giới trong chăm sóc nuôi dạy con cái; mê tín dị đoan…chăm sóc bà bầu; chăm sóc trẻ sơ sinh và những quan niệm sai lầm về chăm sóc sức khỏe dinh dƣỡng… Sự phát triển về khoa học, công nghệ, tri thức, thông tin cung cấp cho các gia đình kiến thức chăm sóc sức khỏe phát triển thể chất tối ƣu nhất cho con cháu, thay thế loại bỏ dần những quan điểm lạc hậu, sai lầm. Qua khảo sát các hộ gia đình cho rằng muốn phát triển sức khỏe, thể chất cho con cái thì: 67% gia đình ƣu tiên dinh dƣỡng phù hợp;41.3% cần rèn luyện thể dục, thể thao; trẻ đƣợc chăm sóc từ trong bụng mẹ 28 %; [Phụ lục10].
Các tri thức khoa học đƣợc phổ biến rộng rãi trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng sách, báo, truyền thông, internet, đồng thời các gia đình đƣợc trang bị những kiến thức khoa học về dinh dƣỡng và phát triển thể chất, cách thức nuôi dƣỡng, chăm sóc con cái bằng nhiều hình thức phong phú đa dạng, cụ thể từ các tổ chức có trách nhiệm. Trình độ dân trí ngày càng cao cùng với sự phát triển
97
khoa học, công nghệ, kỹ thuật làm cho nhận thức của các gia đình trong chăm sóc, nuôi dƣỡng thể chất của thế hệ trẻ có những phát triển tiến bộ vƣợt bậc.
Thứ ba, sự phát triển của khoa học, công nghệ ngày càng hỗ trợ cho các
gia đình tốt hơn trong viêc chăm sóc sức khỏe, phát triển cho thế hệ trẻ.
Sự phát triển bùng nổ của khoa học công nghệ ngày càng tạo điều kiện cơ sở cho y học phát triển, trong y học máy móc công nghệ hiện đại đƣợc sử dụng trong phòng và điều trị bệnh tật. Chế độ dinh dƣỡng khoa học đƣợc nghiên cứu ngày càng hoàn thiện và tuyên truyền, phổ biến trong các gia đình. Thông qua các hoạt động của công tác phát triển gia đình của tỉnh và của Hội phụ nữ tỉnh đã và đang đƣợc lồng ghép giáo dục tuyên truyền đến các bậc cha mẹ trong tỉnh.
Sự phát triển kinh tế là cơ sở quan trọng để các gia đình nâng cao đời sống vật chất cho gia đình, trong đó thế hệ trẻ trong gia đình là thế hệ đƣợc quan tâm, đầu tƣ hơn hết. Khi điều kiện kinh tế phát triển giúp các bậc cha mẹ có điều kiện chăm lo chất lƣợng bữa ăn, nguồn dinh dƣỡng cho con trẻ. Tiêm phòng và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đƣợc gia đình quan tâm. Đặc biệt sự quan tâm đầu tƣ của gia đình đƣợc thể hiện trong việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em; chăm sóc bà bầu và phụ nữ sau sinh đƣợc quan tâm nhiều hơn; điều này tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển thế hệ trẻ với thể chất và sức khỏe tốt nhất. Thế hệ trẻ hiện nay đƣợc chăm sóc từ trong bụng mẹ với những điều kiện ngày càng tốt hơn. Vì sự phát triển con ngƣời toàn diện.
Thuốc và thực phẩm hỗ trợ cho sức khỏe, thể chất ngày càng phong phú và chất lƣợng ngày càng cao. Những dịch vụ y tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngày càng phát triển hỗ trợ cho các gia đình trong việc chăm sóc sức khỏe, phát triển thể chất tốt nhất. Đây là cơ sở quan trọng về thể chất giúp cho nhân cách thế hệ trẻ hình thành và phát triển toàn diện trong xu thế phát triển của xã hội hiện nay.
Tuy vậy, cũng cần nhận diện một số hạn chế sau đây: Thứ nhất, một bộ phận gia đình còn gặp điều kiện khó khăn, gặp rủi ro trong làm ăn kinh tế gây trở ngại lớn tới quá trình chăm sóc sức khỏe, phát triển thể chất cho con cái.
Các gia đình trong tỉnh Hải Dƣơng cũng nằm trong xu thế phát triển với những tác động trái chiều nhƣ trên. Là một tỉnh có sự đầu tƣ phát triển công nghiệp lớn, nhƣng đa số là hoạt động của các khu công nghiệp có vốn đầu tƣ
98
nƣớc ngoài cho nên lao động trong tỉnh đa số là nông dân và công nhân lao động làm thuê, tình trạng kinh tế có sự phát triển cải thiện nhƣng tiềm ẩn nhiều khó khăn thách thức đối với sự phát triển xã hội, ảnh hƣởng tới sức khỏe và thể chất của nhân dân nói chung và thể hệ trẻ nói riêng. Theo thống kê năm 2017, tổng số hộ nghèo (theo tiêu chí mới) của Hải Dƣơng là 40.348 hộ, chiếm 7,19%; tổng số hộ cận nghèo là 23.939 hộ, chiếm 4,27% [94,7].
Thu nhập nâng lên nhƣng giá cả sinh hoạt tăng nhanh, tiền công danh nghĩa tăng nhƣng tiền công thực tế của ngƣời lao động cải thiện không đáng kể với nông dân và công nhân. Hiện nay nhiều gia đình nông dân làm nghề truyền thống đất ở bị thu hẹp do sự gia tăng của dân số, và khu công nghiệp. Môi trƣờng sống có nhiều biến đổi, nông dân còn rất ít đất canh tác, trồng trọt chăn nuôi, nông nghiệp thực hiện thâm canh tăng năng suất nhƣng dẫn tới tình trạng ô nhiễm môi trƣờng không khí, nguồn nƣớc do việc xử lý nƣớc thải chƣa đƣợc quan tâm đầu tƣ. Theo khảo sát có 4% hộ gia đình thu nhập bình quân/ngƣời/tháng 3 năm gần đây dƣới 1000.000 đồng/tháng; 16% hộ thu nhập từ 1000.000 – 2000.000 đồng/tháng [phụ lục 3]. Đây là những hộ rất khó khăn, với thu nhập nhƣ trên trong tình hình thực tế giá cả hiện nay việc chăm sóc nuôi dƣỡng con cái sẽ gặp rất nhiều hạn chế về chế độ dinh dƣỡng và điều kiện học tập, y tế, văn hóa…
Với các gia đình công nhân, khu vực sinh sống tập trung của đa số công nhân là những khu nhà trọ chật trội, đây là môi trƣờng sống không phù hợp với trẻ nhỏ và cho các gia đình trẻ từ 3 đến 4 ngƣời. Môi trƣờng sống thiếu ánh sáng, thiếu sân chơi, khu vui chơi, giải trí. Những điều kiện này đã và đang ảnh hƣởng trực tiếp tới sự phát triển của các gia đình nói chung, đến thế hệ trẻ nói riêng với quá trình phát triển thể chất, tâm hồn, tình cảm … cho một nhân cách cá nhân tƣơng lai.
Những năm gần đây hiện tƣợng trẻ em bị bạo hành trên cả nƣớc đa số đều tập trung ở các nhà trẻ tƣ nhân gần với các khu công nghiệp, công nhân sinh sống. Một số trẻ không đƣợc tiêm phòng đúng định kỳ do cha mẹ thƣờng xuyên thay đổi công việc, môi trƣờng sống. Nhiều trẻ không đƣợc khám chữa bệnh kịp thời gây hậu quả nghiêm trọng do điều kiện kinh tế khó khăn.
Thứ hai, một số gia đình quan tâm, đầu tư chưa đúng cho việc chăm sóc
sức khỏe, phát triển thể chất cho thế hệ trẻ.
99
Tình trạng trẻ béo phì ngày càng gia tăng do quan niệm của một số gia đình mắc phải những hạn chế, sai lầm nghiêm trọng. Đây cũng là xu thế phát triển kinh tế xã hội tất yếu mà các nƣớc phát triển hiện đại từng trải qua. Khi xã hội bắt đầu có sự dƣ thừa về của cải, việc chăm sóc sức khỏe và thể chất trong các gia đình gặp phải tình trạng nuông chiều con cái, giành cho con cái nguồn thực phẩm bổ dƣỡng nhất gây ra tình trạng béo phì, nguy cơ dẫn đến nhiều bệnh tật nghiêm trọng.
Nếu nhƣ hiện nay ở các nƣớc phát triển chú trọng khắc phục tình trạng béo phì - căn bệnh của xã hội hiện đại thì ở Hải Dƣơng, một bộ phận gia đình vẫn coi việc nuôi dƣỡng con cháu mập mạp, mũm mĩm là tốt, là mục tiêu phấn đấu. Nếu nhƣ ở các nƣớc hiện đại hiện nay nhìn một đứa trẻ mập mạp; thừa cân ngƣời ta cảm thấy lo ngại, “thƣơng hại”, bởi nó ẩn chứa những nguy cơ xấu về sức khỏe thể chất nhƣ bệnh huyết áp, tiểu đƣờng, tim mạch, dậy thì sớm…, từ đó ra sức khuyến khích trẻ tập luyện thể dục, thể thao nhiều hình thức thì nhiều gia đình Hải Dƣơng vẫn chƣa hiểu đƣợc điều này, cũng “không nỡ” bắt con em mình phải tập luyện.
Ngƣợc lại, vẫn tồn tại tình trạng trẻ suy dinh dưỡng; mặc dù xã hội phát triển nhƣng hiện nay tình trạng trẻ bị suy dinh dƣỡng. Theo trang thông tin của sở y tế Hải Dƣơng (soyte.haiduong.gov.vn) ngày 6/4/2018, tỷ lệ suy dinh dƣỡng đối với trẻ dƣới 5 tuổi về cân nặng là 11,2% và chiều cao là 20,5%, mặc dù thấp hơn so mức trung bình của toàn quốc nhƣng vẫn là một tỷ lệ cao. Tỉnh Hải Dƣơng đề ra mục tiêu năm 2018 giảm tình trạng duy dinh dƣỡng về cân nặng xuống còn 10,9% về chiều cao xuống còn 19,7%.
Đặc biệt hiện nay ở nƣớc ta nói chung và tỉnh Hải Dƣơng nói riêng còn tình trạng suy dinh dƣỡng từ trong bào thai; tức là tình trạng trẻ em bị suy dinh dƣỡng từ trong bụng mẹ, ảnh hƣởng điều kiện thể chất từ môi trƣờng thể chất ngƣời mẹ không đảm bảo về sức khỏe, dinh dƣỡng. Khảo sát các hộ gia đình vẫn còn tồn tại thực tế 3% các hộ gia đình cho biết trong những năm gần đây sự đầu tƣ cho con cháu không tăng lên do điều kiện kinh tế khó khăn [phụ lục 9].
Thứ ba, một số gia đình còn những quan niệm lạc hậu, sai lầm trong chăm
sóc, nuôi dưỡng con em mình.
Có một số thành viên gia đình vẫn đặt niềm tin vào những hoạt động mê tín, dị đoan, cúng khấn tốn kém tiền bạc, ảnh hƣởng nghiêm trọng sức khỏe cá nhân.
100
Trên thực tế vào các trang mạng xã hội, internet hay hỏi trực tiếp ngƣời dân sẽ đƣợc cung cấp đầy đủ thông tin, địa chỉ các “đồng cô”, “đồng cậu”, “thầy bói” … có sự tham gia của rất nhiều ngƣời dân, thậm chí những ngƣời có học thức cao đến “chữa bệnh” với mong muốn tìm phƣơng cách trị bệnh ngoài khoa học và đã gây ra sự thiệt hại to lớn về tiền bạc, thời gian, thậm chí trả giá bằng tính mạng con ngƣời.
Bên cạnh đó còn tồn tại nhiều quan điểm lạc hậu sai lầm trong chăm sóc bà bầu, phụ nữ sau sinh, trẻ nhỏ làm ảnh hƣởng lớn tới thể chất, sức khỏe – yếu tố quan trọng cho một nhân cách hình thành và phát triển. Trong một số gia đình tồn tại những mâu thuẫn trong việc chăm sóc con cái giữa quan niệm cũ và mới; giữa vợ - chồng hay mâu thuẫn trong chính bản thân ngƣời cha, ngƣời mẹ trong việc lựa chọn cách thức chăm sóc sức khỏe, thể chất. Nhƣng bộc lộ mâu thuẫn rõ nhất đó là giữa thế hệ ông bà với cha mẹ trƣớc sự phát triển bùng nổ của công nghệ, thông tin, dịch vụ… trong việc chăm sóc nuôi dƣỡng thế hệ trẻ ở mỗi gia đình. Ông bà mang trong mình những giá trị tri thức kinh nghiệm có thể đã cũ không còn phù hợp với thực tế; hoặc cũng có những tri thức đƣợc thực tế kiểm nghiệm có giá trị cao. Tuy nhiên bậc cha mẹ trong gia đình là lớp thế hệ đi sau, về kinh nghiệm sống còn hạn chế, nhƣng là lớp thế hệ có sự tiếp xúc hơn hẳn về khoa học, kỹ thuật, tri thức mới. Đôi khi mâu thuẫn giữa hai thế hệ này làm tác động tiêu cực tới lớp thế hệ con cháu và tạo nên một bộ phận thế hệ trẻ gặp phải tình trạng: béo phì, suy dinh dƣỡng, tự kỷ, trầm cảm, chậm nói…
Những hạn chế về nhận thức của gia đình liên quan đến việc chăm sóc sức khỏe, phát triển thể chất của trẻ thể hiện trong việc nhận thức sai lầm về chế độ dinh dƣỡng; nhận thức sai lầm trong cách nuôi dƣỡng và bảo vệ sức khỏe, phát triển thể chất cho trẻ; hạn chế cho con cháu vận động và hoạt động thể lực; thiếu quan tâm tới sự phát triển tâm lý, tình cảm của thế hệ trẻ trong nhiều gia đình.
Trong xã hội phát triển hiện đại nhƣ hiện nay các dịch vụ xã hội, các sản phẩm hàng hóa phục vụ cho việc nuôi dƣỡng và chăm sóc sức khỏe thể chất của thế hệ trẻ trong gia đình phát triển ngày càng đa dạng, phong phú. Nhƣng nhận thức của nhiều gia đình với xu hƣớng tiện nghi hóa, hiện đại hóa dẫn tới sai lầm trong chăm sóc sức khỏe các thành viên trong gia đình và thế hệ bị tác động lớn chính là thế hệ trẻ: nhƣ sử dụng sữa công thức thay thế nguồn sữa mẹ; sử dụng thức ăn nhanh; thực phẩm chức năng thay thế thực phẩm tự nhiên… Việc lạm
101
dụng sản phẩm hỗ trợ thay thế cho nguồn thực phẩm chính tự nhiên, sẵn có, việc tuyệt đối hóa vai trò của sản phẩm hỗ trợ làm cho tình trạng bệnh tật ở trẻ nhỏ ngày càng gia tăng; sức đề kháng của thế hệ trẻ kém. Đặc biệt là tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trƣờng; mặt trái của sản xuất hàng hóa quảng bá sản phẩm dễ làm cho các gia đình nhầm lẫn tác dụng sản phẩm hàng hóa công nghiệp ưu việt hơn so nguồn thực phẩm nguồn gốc tự nhiên. Đặc biệt là tình trạng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lƣợng đƣợc cơ quan chức năng phát hiện ngày càng nhiều; bên cạnh đó nhiều tác dụng tiêu cực của sản phẩm công nghiệp sau một thời gian sử dụng đã bộc lộ rõ sự ảnh hƣởng rất lớn tới sức khỏe ngƣời tiêu dùng.
Tình trạng nhiều gia đình cho ăn quá nhiều dƣỡng chất và hạn chế trong vận động rèn luyện thể lực. Nhiều gia đình mong muốn con cải thiện về chiều cao cân nặng so với thế hệ ông bà, cha mẹ nhƣng việc nuôi dƣỡng, chăm sóc chƣa hợp lý và khoa học. Dẫn đến tình trạng thừa cân béo phì hoặc ngƣợc lại thể trạng trẻ suy dinh dƣỡng thấp còi… Bên cạnh đó tồn tại tâm lý quá bao bọc con cháu dẫn tới tình trạng trẻ nhút nhát, ít tham gia hoạt động đông ,ngƣời hoạt động xã hội, bị tách biệt hay hạn chế tiếp xúc với môi trƣờng xung quanh, nhiều trƣờng hợp trẻ dễ ốm, dễ mắc bệnh do miễn dịch yếu do môi trƣờng tiếp xúc bị hạn chế… Trầm trọng hơn là tỉ lệ trẻ bị các bệnh: tự kỷ, trầm cảm gia tăng trong các gia đình hiện nay.
Ơ độ tuổi từ 0 đến 18 tuổi đây là giai đoạn thế hệ trẻ có đặc điểm sinh học phát triển tối đa về thể chất, tâm sinh lý cho nên trong các gia đình cần chú trọng cho trẻ vận động hoạt động bên cạnh chế độ dinh dƣỡng khoa học, hợp lý. Tuy nhiên trong nhiều gia đình xem nhẹ, thậm chí coi thường việc rèn luyện thể chất của thế hệ trẻ. Qua khảo sát chỉ có 41.3% cho rằng rèn luyện thể dục, thể thao là quan trọng cho việc phát triển thể chất [phụ lục 10]; và chỉ 50.7% các gia đình cho rằng giáo dục thể chất là môn học quan trọng cho trẻ dƣới 18 tuổi [phụ lục 21]. Nhƣ vậy phần lớn các gia đình chƣa coi trọng việc rèn luyện thể chất cho thế hệ trẻ. Trẻ đƣợc định hƣớng giành quá nhiều thời gian trong ngày cho việc học kiến thức sách vở; không còn thời gian cho hoạt động thể chất bơi lội, vui chơi, thể dục, thể thao, tham gia phụ giúp công việc gia đình cùng ông bà, cha mẹ… Đây là nguyên nhân cho tình trạng béo phì và cận thị ở trẻ tăng nhanh trong những năm gần đây.
102
Từ trong gia đình hình thành cho trẻ suy nghĩ quá đề cao việc học tập giành thành tích cao; coi nhẹ việc hoạt động thể chất dẫn đến tình trạng thế hệ trẻ trong độ tuổi đến 18 tuổi học các lớp ở phổ thông trung học cũng coi thƣờng các môn giáo dục thể chất. Tình trạng ngƣời lớn trong gia đình, không nhận thức đúng về vai trò hoạt động thể chất đối với quá trình phát triển thể chất nói chung và nhân cách cá nhân nói riêng. Một thể chất tốt, một nhân cách tốt quyết định lớn tới sự thành công mỗi con ngƣời. Thực trạng quá coi trọng các môn thi vào các trƣờng cao đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp; làm cho thể chất thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ trong các gia đình ở tình Hải Dƣơng nói riêng thấp hơn các nƣớc khu vực và châu Á nhƣ: Thái Lan, Philipin, Singapo, Nhật, Hàn Quốc…
Thứ tư, ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe và
sự phát triển thể chất của thế hệ trẻ Hải Dương hiện nay.
Khói bụi, khí thải, rác thải; nƣớc thải các khu công nghiệp, làng nghề, sự nóng lên khí hậu toàn cầu, biến đổi khí hậu… đang là môi trƣờng sinh sống của dân cƣ Hải Dƣơng trong đó có giới trẻ.
Hiện nhiều dòng kênh, nhiều khu phố, tuyến đƣờng vẫn bị những dòng nƣớc thải bẩn gây ô nhiễm nặng, tuyến kênh T2 thu gom nƣớc thải chạy dọc theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam xuyên qua khu vực phía tây thành phố chƣa đƣợc ngầm hoá. Đây là tuyến kênh tiếp nhận nguồn nƣớc thải của cụm công nghiệp Cẩm Thƣợng- Việt Hoà; các cơ sở sản xuất bánh kẹo, thức ăn chăn nuôi, nhà hàng, nƣớc thải sinh hoạt của ngƣời dân, nƣớc trong kênh đen đặc, bốc mùi hôi thối gây ô nhiễm môi trƣờng ở nhiều khu dân cƣ, kênh chảy qua các phƣờng Cẩm Thƣợng, Bình Hàn, Phạm Ngũ Lão. Dòng kênh T2 là dòng kênh chính cùng với kênh T1, kênh Thạch Khôi… nƣớc thải bẩn, chƣa hề đƣợc xử lý, bơm thẳng ra hệ thống thuỷ nông Bắc-Hƣng-Hải.
Đặc biệt là khu vực sản xuất xi măng ở huyện Kinh Môn, các hoạt động khai thác, chế biến đá gây tiếng ồn, bụi; các đoàn xe vận chuyển hàng ngàn tấn nguyên liệu vào các nhà máy xi măng mỗi ngày gây ô nhiễm tiếng ồn, không khí. Hai nhà máy xi măng lớn (Hoàng Thạch và Phúc Sơn) cùng gần 10 nhà máy xi măng lò đứng, công nghệ lạc hậu hàng ngày, xả khói bụi làm ô nhiễm bầu không khí, quan sát thƣờng thấy tình trạng bầu trời nhƣ luôn có sƣơng mù. Tất cả các yếu tố trên cộng hƣởng gây ra ô nhiễm môi trƣờng trầm trọng trong khu
103
vực. Một số nhà máy xi măng với công nghệ lạc hậu hơn vẫn tồn tại nằm rải rác ở Kim Thành, Tứ Kỳ... cũng gây ô nhiễm trong khu vực.
Tại hai khu công nghiệp Nam Sách và Đại An đã đầu tƣ khá hoàn chỉnh hạ tầng và thu hút dự án đầu tƣ đến thuê đất đạt 65-70%, vậy mà hệ thống xử lý nƣớc thải chung toàn khu cũng chƣa xây dựng xong. Nƣớc thải của các dự án trong khu công nghiệp không đƣợc xử lý vẫn tùy tiện ngấm vào lòng đất. Môi trƣờng ở các nhà máy, các cơ sở sản xuất giấy, đặc biệt các cơ sở chế biến bột giấy từ nguyên liệu thô (gỗ, tre,..) cũng là nơi có nguy cơ ô nhiễm rất cao. Trong quá trình sản xuất bột giấy phải qua giai đoạn xử lý hoá chất để tẩy, rửa nên một lƣợng nƣớc khá lớn đem theo các chất độc hại thải vào môi trƣờng. Môi trƣờng ở các làng nghề ở các địa phƣơng, môi trƣờng nông nghiệp, chất thải làng nghề và tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật cũng gây ra tình trạng ô nhiễm môi trƣờng rất đáng lo ngại.
Qua khảo sát ý kiến của các hộ gia đình vẫn còn 3.7% hộ gia đình không quan tâm tới việc ảnh hƣởng ô nhiễm môi trƣờng tới sự phát triển của gia đình nói chung và thế hệ trẻ nói riêng [phụ lục 12]. Trên thực tế rất nhiều hộ gia đình quan tâm nhƣng không thƣờng xuyên, hời hợt, không có biện pháp giảm thiểu hay khắc phục từ chính gia đình mình.
Những yếu tố môi trƣờng nhƣ trên đang hàng ngày hàng giờ làm ảnh hƣởng nghiêm trọng tới sức khỏe của nhân dân sống trong các khu vực bị ô nhiễm và làm ảnh hƣởng trực tiếp tới sự phát triển của thế hệ trẻ - thế hệ mầm mống tƣơng lai của xã hội.
Thứ năm, mất vệ sinh an toàn thực phẩm gây nguy hại tới sức khỏe và thể
chất của thế hệ trẻ trong gia đình.
Hiện nay điều mà hầu hết ngƣời dân dễ nhận thấy là tình trạng nguồn thực phẩm mất vệ sinh từ khâu nuôi trồng, chế biến, tiêu thụ bởi hàng ngày các cơ quan chức năng phát hiện các vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm; cùng với việc chính những ngƣời dân, ngƣời lao động hàng ngày tham gia các hoạt động sản xuất kinh tế đều thấy rõ vấn đề này. Nhƣng điều đáng lo ngại là tƣ duy tiểu nông vì chút lợi trƣớc mắt mà thờ ơ, bàng quan với các hiện tƣợng tiêu cực vi phạm trên. Tâm lý của những ngƣời vi phạm là thờ ơ, vô cảm, “khôn lỏi” mình biết mình tránh, mình không dùng, ngƣời thân không dùng còn bỏ mặc cộng đồng, xã hội. Chính điều này làm cho hoạt động vi phạm trở nên phổ biến trong xã hội và
104
dấy lên hồi chuông cảnh báo tình trạng: “người Việt tự đầu độc người Việt”. Thực trang: “rau 2 luống”, “lợn 2 chuồng” phản ánh bản chất nguy hại của nền sản xuất hiện nay. Một luống “rau sach”, một chuồng “lợn sạch” cho mình sử dụng; còn lại là rau bẩn, lợn bẩn đem bán cho cộng đồng thu lợi nhuận… Qua khảo sát thực tế, còn tồn tại 3.3% các hộ không quan tâm tới những sai phạm trong vấn nạn an toàn thực phẩm [phụ lục 14] và 15.3% thừa nhận không báo cáo cơ quan chức năng xử lý khi phát hiện những sai phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm [phụ lục 15].
Theo số liệu năm 2019, tỉnh có trên 170 chợ lớn nhỏ, chƣa kể hàng trăm chợ tạm, chợ cóc tự phát mọc lên ở khắp các xóm thôn, khu phố. Thực tế cho thấy tình trạng vi phạm các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm tại các chợ nông thôn khá phổ biến. Nguyên nhân xuất phát chủ yếu từ ý thức của ngƣời dân. Ngƣời bán hầu nhƣ không có các thiết bị, dụng cụ bảo đảm an toàn vệ sinh trong khi ngƣời mua lại khá dễ dãi khi đƣa ra lựa chọn của chính mình. Rõ ràng có những mặt hàng ngƣời tiêu dùng tận mắt chứng kiến, biết quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến không bảo đảm vệ sinh nhƣng họ vẫn tặc lƣỡi chấp nhận. Hiện toàn tỉnh mới chỉ có gần 100 chợ (chiếm khoảng 56%) đƣợc kiểm soát vệ sinh thú y. Việc kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm trong quá trình giết mổ gia súc, gia cầm khá khó khăn. Việc giết mổ gia súc, gia cầm hiện hoàn toàn bằng phƣơng pháp thủ công, manh mún, phân và rác thải chƣa đƣợc xử lý hoặc xử lý chƣa triệt để. Khu vực giết mổ thƣờng gây mùi hôi thối rất khó chịu và gây ô nhiễm nặng cho nguồn nƣớc, môi trƣờng sống của ngƣời dân xung quanh.
Trong trang tin của Cục an toàn thực phẩm dễ dàng tìm đƣợc các tin văn bản xử lý vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm các ngày trong năm và trong nhiều năm gần đây. Cho thấy tình trạng vi phạm hàng hóa thực phẩm là rất lớn ở nhiều nội dung: sản phẩm chƣa đăng ký kinh doanh; quảng cáo hình ảnh không đúng nội dung thành phần của sản phẩm; nội dung quảng cáo chƣa đƣợc thẩm định của cơ quan nhà nƣớc; hàng giả, hàng nhái, kém chất lƣợng… có mặt khắp trên địa bàn tỉnh [117, 23].
Tình hình báo động của vấn đề mất an toàn vệ sinh thực phẩm nhƣ trên làm cho các gia đình Hải Dƣơng chịu ảnh hƣởng rất lớn. Điều dễ nhận thấy là bệnh nguy hiểm gia tăng ảnh hƣởng hao tổn cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần của các gia đình nhƣng tiểm ẩn sâu xa đó là nguy cơ ẩn chứa bệnh tật trong thế
105
hệ trẻ và là sự suy yếu giống nòi ở thế hệ tương lai, suy yếu giống nòi của quốc gia - dân tộc.
Hàng ngày, trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng dễ dàng tìm đƣợc các nguồn tin về các nguồn hàng nhập lậu trong đó có thực phẩm không rõ nguồn gốc, hết hạn sử dụng, gây nguy hại nghiêm trọng cho sức khoẻ nhƣ thịt bò, thịt lợn, thịt gia súc, gia cầm, hải sản… phân bố rộng rãi ở thị trƣờng nƣớc ta trong đó có Hải Dƣơng. Hay thực phẩm ngâm, tẩm hóa chất gây ngộ độc, ung thƣ, và nhiều căn bệnh nguy hiểm đƣợc phát hiện hàng ngày. Nhƣ vậy từ nguồn thực phẩm nhập khẩu bằng nhiều con đƣờng khác nhau cho tới những sản phẩm hàng hóa do chính ngƣời dân sản xuất ra đều ẩn chứa mầm mống nguy hiểm tới sức khỏe, thể chất con ngƣời. Có thể nói thể chất, sức khỏe của thế hệ trẻ trong các gia đình hiện nay, tiềm ẩn các yếu tố nguy cơ, gây trở ngại lớn cho việc hình thành và phát triển thế hệ tương lai toàn diện.
Thêm vào đó, một trong những thực tế hiện nay gia đình phải đối mặt đó là tình trạng quản lý con em mình và sự mất vệ sinh ở những hàng quán quà vặt, đồ ăn nhanh có ở khắp mọi nơi và đặc biệt ở cổng trƣờng học. Thực trạng này gây ra rất nhiều nguy hiểm tới sức khỏe và thể chất của trẻ bởi nguồn hàng hóa trôi nổi trẻ chƣa đủ tri thức và kinh nghiệm để nhận định rõ những nguy hiểm với chính bản thân mình. Trong những năm gần đây đã có nhiều vụ việc ảnh hƣởng nghiêm trọng tới sức khỏe, thể chất của thế hệ trẻ đƣợc phanh phui.
Điều nguy hiểm là nhiều gia đình vẫn bàng quan trước những biểu hiện vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm và nạn ô nhiễm môi trường hàng ngày hàng giờ gián tiếp đe dọa cuộc sống mọi ngƣời. Hiện tình trạng bệnh tật nguy hiểm gia tăng ở độ tuổi ngày càng trẻ, ca bệnh ung thƣ tăng nhanh ở trẻ dƣới 18 tuổi, tỉ lệ ngƣời vô sinh cao… Đây là những vấn đề mà không chỉ gia đình mà toàn xã hội cần đánh giá toàn diện, giải quyết nguyên nhân triệt để, tạo tiền đề cho sự phát triển sức khỏe, thể lực cho sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ hiện nay.
2.2.2 Vai trò của gia đình trong giáo dục, truyền thụ những tri thức, kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất đối với hình thành nhân cách cá nhân
Trong những năm gần đây khi điều kiện vật chất của xã hội thay đổi, ý thức xã hội cũng có những biến đổi theo. Khi áp lực kinh tế đè nặng lên con ngƣời hiện đại , khi cạnh tranh kinh tế thƣờng xuyên hơn và khốc liệt hơn, để trụ vững và phát triển, “ngƣời lớn” phải dồn tâm, trí lực lo kinh tế, vì vậy con ngƣời
106
còn ít thời gian hơn cho gia đình và con cái. Thậm chí có quan điểm đề xuất nên giao việc giáo dục trẻ nhỏ cho bộ phận chuyên trách hay chính là nhà trƣờng và xã hội. Tuy nhiên có thể khẳng định, cùng với nhà trƣờng, xã hội giáo dục của gia đình vẫn giữ vai trò đặc biệt quan trọng quyết định sự hình thành, phát triển nhân cách.
Giáo dục gia đình có đặc trưng: là quá trình giáo dục cá nhân đƣợc tiếp cận sớm nhất ngay từ trong bụng mẹ “thai giáo”; giáo dục dựa trên tình yêu thƣơng gắn bó máu thịt huyết thống, thông qua phƣơng pháp thuyết phục, uy quyền, bao dung, hay thái độ, việc làm “nêu gƣơng”; giáo dục dựa trên đặc điểm riêng cụ thể của đối tƣợng từng đứa trẻ; giáo dục gia đình gồm có tập thể ngƣời giáo dục khác nhau về giới tính, nghề nghiệp, lứa tuổi nhƣ ông bà, bố mẹ, anh chị em, ngoài ra có ngƣời thân họ hàng…
Nội dung giáo dục gia đình với sự hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ rất rộng, bao gồm: giáo dục đạo đức; giáo dục tri thức; truyền thụ kinh nghiệm, kỹ năng sinh tồn; giáo dục lao động; giáo dục giới tính; giáo dục sự tự lập, hội nhập xã hội; giáo dục nếp gia đình, truyền thống dòng họ…
Phương pháp giáo dục gia đình rất phong phú, linh hoạt kết hợp phƣơng pháp truyền thống và hiện đại, quyền uy và tình yêu thƣơng. Các phƣơng pháp giáo dục cơ bản đƣợc áp dụng trong gia đình: phục tùng mệnh lệnh hành chính do bố mẹ, ông bà đƣa ra yêu cầu con cái phải làm theo; phƣơng pháp định hướng khích lệ khơi gợi khả năng, định hƣớng, giúp đỡ động viên để con cái tự làm; phƣơng pháp quyền uy sử dụng quyền lực khiến trẻ tôn kính, nể sợ tuân theo; phƣơng pháp nêu gương đòi hỏi các bậc ông bà, cha mẹ phải hành động gƣơng mẫu cho con cháu làm theo, có thể nói đây là phƣơng pháp giáo dục đem lại hiệu quả cao nhất trong gia đình. Ngoài ra, ở gia đình còn dùng biện pháp truyền miệng, nói đi nói lại, khuyên bảo, hình phạt đòn roi…
Thực hiện vai trò giáo dục thế hệ trẻ trong các gia đình ở Hải Dƣơng đã
đạt đƣợc thành tựu quan trọng.
Hải Dƣơng là tỉnh đạt thành tựu lớn về giáo dục so với các tỉnh khác trong cả nƣớc. Hải Dƣơng có truyền thống giáo dục lâu đời với truyền thống hiếu học và khoa bảng với gần 500 tiến sĩ Nho học với những tên tuổi nổi tiếng nhƣ đại danh y Tuệ Tĩnh, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Sƣ Mạnh, Vũ Hữu, Nguyễn Thị Duệ - nữ trạng nguyên duy nhất của Việt Nam,
107
cùng với những địa danh nổi tiếng cả nƣớc: văn miếu Mao Điền, làng tiến sĩ Mộ Trạch… Truyền thống này đã và đang đƣợc phát huy mạnh mẽ trong các gia đình cho đến hiện nay. Hàng năm Hải Dƣơng vẫn là tỉnh chiếm số lƣợng lớn huy chƣơng các kỳ thi Olympic thế giới và cử nhân của kỳ thi Đại học, Cao đẳng.
Trong toàn tỉnh, theo số liệu mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo tháng 7/2017: 265/265 đơn vị cấp xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 265/265 đơn vị cấp xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ III; 169/265 đơn vị cấp xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ III [117,6]. Qua khảo sát 99% các gia đình nhận thấy vai trò quan trọng của gia đình trong giáo dục con cái trong đó 83.2% rất chú trọng tới việc giáo dục con cái trong gia đình [phụ lục 16].
Điều kiện phát triển về kinh tế trong gia đình là cơ sở quan trọng giúp cho các gia đình có điều kiện đầu tƣ cho con cái học tập. Gia đình hỗ trợ về vật chất và tinh thần là chỗ dựa vững chắc cho thế hệ trẻ học tập làm chủ tri thức. Sự giáo dục toàn diện của gia đình là tiền đề để thế hệ trẻ Hải Dƣơng hội nhập xã hội, nâng cao tri thức hình thành nhân cách toàn diện của mỗi cá nhân. Một số gia đình có điều kiện kinh tế đã đóng vai trò to lớn đồng hành cùng với nền giáo dục của cả nƣớc nói chung và ngành giáo dục trong tỉnh thực hiện xã hội hóa giáo dục. Họ góp vốn cùng với xã hội đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục, tạo cho con em mình những điều kiện học hành khá hiện đại nhƣ: trang bị máy tính, máy chiếu, phòng học ngoại ngữ. Những sự ủng hộ đó rất có ý nghĩa, góp phần tạo ra những thành tựu to lớn cho sự nghiệp giáo dục trong tỉnh.
Từ tổng hợp khảo sát cho thấy tuyệt đại đa số các gia đình cho rằng giáo dục gia đình là quan trọng với con cái trong đó: 83.2% gia đình khẳng định giáo dục gia đình là rất quan trọng, 16.5% quan trọng [phụ lục 16].
Cùng với giáo dục kiến thức, khá nhiều gia đình ở Hải Dƣơng đã nhận thức đƣợc rằng, giáo dục gia đình cần hƣớng tới xây dựng thế hệ trẻ biết yêu lao động, trân trọng những giá trị của lao động và biết lao động sáng tạo; chống lại sự lƣời biếng, ỷ lại. Nhiều bậc ông bà, cha mẹ hết lòng truyền đạt cho con cháu mình những kinh nghiệm học tập, kinh nghiệm làm việc, kinh nghiệm sống, cách đối nhân xử thế, với sự kết hợp những hình thức nhẹ nhàng - “mƣa dầm thấm lâu” hay nghiêm khắc xử phạt khi phạm lỗi. Ở vùng đất “địa linh nhân kiệt” Hải Dƣơng, hiện nay, nhiều em bé vẫn đƣợc lớn lên trong những tiếng ru ngọt ngào
108
của bà của mẹ; đƣợc trƣởng thành từ bầu không khí gia đình đầy ắp tình yêu thƣơng; đƣợc trực tiếp ông, bà, cha, mẹ rèn giũa đƣờng ăn nết ở hay khả năng lao động, trách nhiệm, sáng tạo trong mỗi công việc. Đây chính là cơ sở để các em trở thành những cá nhân có nhân cách tốt, những nhân tố tích cực xây dựng xã hội mới.
Đồng thời, một bộ phận gia đình còn chú ý tới kỹ năng sống cho con em mình, cùng với sự dạy dỗ từ phía ngƣời lớn trong nhà họ tích cực đăng ký cho con em mình theo học các lớp kỹ năng: giao tiếp, thoát hiểm, hoà nhập xã hội… kỹ năng sống nói chung. Nhiều gia đình hƣớng tới giáo dục trẻ em phát triển cả thể lực, trí lực, nhân cách, đạo đức, lối sống văn minh hiện đại. Trong các nội dung giáo dục mà gia đình coi trọng: đạo đức 89.7%, lối sống 44%, ứng xử giao tiếp 44.3%, công việc gia đình 27.3%, chăm sóc sức khỏe 37.7%, rèn luyện thể chất 18%, kiếm tiền giỏi 14%, định hƣớng nghề nghiệp 18.3% [phụ lục17]. Nhƣ vậy các nội dung giáo dục trong gia đình khá đầy đủ phong phú, toàn diện.
Nhƣng việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ
cũng còn những hạn chế:
Thứ nhất, những hộ gia đình hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, cận nghèo, tái nghèo…trong tỉnh là những hộ gặp khó khăn trở ngại lớn khi thực hiện chức năng giáo dục trong gia đình. Những gia đình này bị gánh nặng kinh tế chi phối, không có nhiều thời gian cho việc nuôi dạy con cái; thậm chí ngoài giờ đi học trẻ em còn phải phụ giúp cha mẹ làm việc kiếm thêm thu nhập cho gia đình. Trong những gia đình khó khăn có ông, bà hay cha, mẹ bệnh tật ốm đau, con cái chịu nhiều thiệt thòi và chịu những lo toan, áp lực cả về vật chất và tinh thần sớm, điều này làm cho việc giáo dục gia đình gặp nhiều khó khăn. Qua khảo sát 9.3% gia đình thừa nhận không thƣờng xuyên quan tâm giáo dục con cái [phụ lục 18].
Thứ hai, thực tế hiện nay trong xã hội nói chung và gia đình nói riêng nhận thức chƣa thực sự đầy đủ về nội dung giáo dục cho con cái. Đa số các gia đình đều quá coi trọng việc đầu tƣ cho con cái học đạt thành tích cao trong học tập mà chƣa nhận thức đƣợc hoặc chƣa nhận thức đầy đủ việc đào tạo rèn luyện kỹ năng sống, tu dƣỡng đạo đức, lối sống, rèn luyện thể chất qua đó góp phần hình thành nhân cách hoàn thiện cho trẻ nhỏ. Dẫn đến tình trạng trẻ học nhiều lý thuyết nhƣng vận dụng, thực hành yếu kém; kỹ năng sống hạn chế; vi phạm quy
109
chuẩn đạo đức, lối sống trong xã hội. Nhƣ tổng hợp khảo sát trên cho thấy: giáo dục thể chất, ứng xử giao tiếp, kiếm tiền giỏi, chăm sóc sức khỏe chƣa đƣợc quan tâm đúng mức [phụ lục 17]. Đây đều là những kỹ năng, thực hành trải nghiệm quan trọng cho thế hệ trẻ cần đƣợc chú trọng giáo dục ở độ tuổi từ 0 – 18 tuổi.
Trong nhiều gia đình hiện nay đầu tƣ cho con học đạt thành tích cao mà không dạy cho trẻ làm việc chân tay, hạn chế tối đa những công việc phụ giúp bố mẹ; chỉ có 27.3% gia đình coi dạy con công việc gia đình là quan trọng [phụ lục 17]. Hậu quả làm cho trẻ thiếu kỹ năng sống thực tế, không biết làm gì ngoài việc học kiến thức lý thuyết, không biết quý sức lao động, thiếu trách nhiệm của bản thân với những ngƣời xung quanh và cộng đồng, thiếu tính tự lập, đồng thời làm cho trẻ khó hội nhập xã hội… Gia đình hiện đại đã chỉ ra: trẻ con biết làm việc nhà thƣờng thành công hơn những đứa trẻ khác [80].
Theo Liên minh Trẻ em An toàn, có trụ sở ở châu Á cho biết, “tỷ lệ chết đuối của trẻ ở các nƣớc đang phát triển cao gấp 10 đến 20 lần hơn so với các quốc gia công nghiệp hóa. Theo kết quả các cuộc thăm dò của Liên minh này, Bangladesh đƣợc ghi nhận là nơi có tỷ lệ và số trẻ em bị chết đuối cao nhất - gần 17.000 mỗi năm; tiếp theo là Việt Nam - với mức trên 11.500 trẻ bị chết đuối. Cũng là quốc gia châu Á và có nhiều sông ngòi nhƣng tại Thái Lan, chỉ có khoảng 2.600 em chết đuối mỗi năm” [132]
Những con số giật mình và những cái chết thƣơng tâm do đuối nƣớc trên là lời cảnh báo sâu sắc cho mỗi bậc cha, mẹ và toàn xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ nhỏ. Gia đình, nhà trƣờng và xã hội luôn luôn phải có sự gắn kết chặt chẽ vì một tƣơng lai tƣơi sáng cho các em.
Tại Hải Dƣơng, chỉ trong 2 năm (2006-2007) đã có tới 139 trẻ em từ 0 đến18 tuổi bị tử vong và 9.553 trẻ em mắc tai nạn thƣơng tích; những vụ tai nạn do đuối nƣớc gần đây gây hậu quả nghiêm trọng, điển hình là ngày 22/12/2015 ba chị em trong một gia đình tại Ngô Quyền (huyện Thanh Miện) bị chết đuối trong ao của gia đình. Trong đó con lớn nhất học lớp 11, con thứ 2 học lớp 6, con út học lớp 1, ngày 4/7/2017 vụ đuối nƣớc thƣơng tâm 2 chị em ruột tại Hƣng Thái (huyện Ninh Giang). Đây là những con số và vụ việc rất đau lòng và gióng lên hồi chuông báo động để các bậc phụ huynh, các nhà quản lý, chính quyền địa phƣơng giật mình, suy ngẫm (Báo Hải Dƣơng 7/2017).
110
Thứ ba, nếu nhƣ trƣớc đây trong gia đình truyền thống rất coi trọng việc giáo dục quy tắc, đạo đức, ứng xử, lễ nghi nề nếp gia phong “tiên học lễ hậu học văn” thì trong gia đình hiện đại ngày nay những điều này có phần bị xem nhẹ. Bởi một phần những quy tắc - “gia quy” trong gia đình truyền thống còn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu, rƣờm rà mà thế hệ trẻ khó tiếp thu, chấp nhận. Từ đó trong nhiều gia đình hiện đại cũng bỏ quên đi những giá trị truyền thống tốt đẹp lƣu giữ trong gia đình truyền thống trƣớc đây. Đó cũng là biểu hiện một cách cực đoan trong sự đấu tranh của “cái mới” và “cái cũ” trong các hình thái ý thức xã hội. Quan hệ xã hội, quan hệ gia đình mới muốn phát triển nhanh chóng thay thế đi “cái cũ” mà vô tình phủ định sạch trơn đối với “cái cũ” mà quên đi sự phát triển luôn luôn có tính kế thừa trong đó. Dẫn tới thực trạng đạo đức trong một bộ phận gia đình xuống cấp nghiêm trọng: trẻ em thiếu sự chia sẻ, yêu thƣơng, đùm bọc “anh em như chân với tay”, “môi hở răng lạnh”; sự kính trọng ông bà, cha mẹ chữ “hiếu”, chữ “nghĩa” dần bị xem nhẹ…
Thứ tư, trong những năm gần đây giáo dục trong nƣớc có sự phát triển lớn: đầu tƣ trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại; đào tạo tín chỉ; mục tiêu đào tạo dựa trên năng lực (giáo dục toàn diện khi ra trƣờng học sinh, sinh viên có đầy đủ năng lực gồm: kiến thức, kỹ năng, thái độ)…. Tuy nhiên nền giáo dục tồn tại hạn chế: vẫn còn tình trạng chạy theo thành tích, trƣờng lớp mở ra ồ ạt, dạy thêm học thêm, chất lƣợng giáo dục không đảm bảo, chảy máu chất xám, sinh viên ra trƣờng không có đủ năng lực làm việc, đào tạo tràn lan, thất nghiệp... Tỉ lệ trẻ em giảm thị lực, tự kỷ, trầm cảm… do áp lực học tập tăng cao. Thế hệ trẻ có biểu hiện có sự hoang mang, mất niềm tin vào việc học tập, không xác định đúng mục tiêu học tập, họ tự đặt ra câu hỏi: “có nên học đại học hay không?”... Điều này cũng là tình trạng của nhiều gia đình khi không xác định rõ được mục tiêu giáo dục nhƣ thế nào là tốt nhất cho con em mình trong giai đoạn hiện nay.
Thứ năm, giáo dục giới tình trong gia đình còn hạn chế, trẻ em hiện nay sớm phát triển thể chất do điều kiện dinh dƣỡng ngày càng đầy đủ và nâng cao nên trong gia đình hiện nay xuất hiện vấn đề còn nhiều tồn tại cần giải quyết là giáo dục giới tính, tình trạng sống thử, quan hệ tình dục trƣớc hôn nhân của thế hệ trẻ. Thực tế vấn đề giáo dục giới tính đối với thế hệ trẻ nƣớc ta còn nhiều hạn chế qua những điều tra, nghiên cứu, thống kê. Từ năm 2013 nghiên
111
cứu của SimilarWed (do Báo mới tổng hợp. net) thống kê: Việt Nam là 1 trong 10 quốc gia mà số lƣợt ngƣời truy cập từ khóa “sex” lớn nhất thế giới. Thực tế cho thấy thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng và ngƣời dân Việt Nam nói chung còn thiếu hiểu biết, “đói” thông tin, kiến thức về những vấn đề liên quan đến “giới tính”, “tình dục”.
Thực tế điều tra cho thấy 9.7% gia đình không quan tâm giáo dục giới tính và 3.3% gia đình né tránh trả lời [phụ lục 19]và 10% cho rằng giáo dục giới tính không quan trọng với trẻ từ 0 – 18 tuổi [phụ lục 20].
Trang bị về kiến thức giới tính là rất quan trọng cho sự phát triển của một con ngƣời, đặc biệt thế hệ trẻ đặc điểm lứa tuổi độ tuổi phát triển về tâm lý, sinh lý, thể chất có nhiều biến đổi nhanh chóng trong lứa tuổi “dậy thì”. Trong thực tế, sự thiếu hiểu biết, thiếu trang bị kiến thức giới tính dẫn đến sự phát triển lệch lạc về giới tính, sinh lý làm ảnh hƣởng rất to lớn tới sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ hiện nay.
Tuy nhiên trên thực tế những kiến thức mà cha mẹ hiểu biết về vấn đề giới tính còn rất hạn chế; cùng với tâm lý ngại ngùng, e dè, xấu hổ, tránh đề cập từ chính hai phía cha mẹ ngƣời lớn trong gia đình và con cái đều coi vấn đề “giới tính” là vấn đề riêng tự cá nhân tìm hiểu. Trong những năm gần đây giáo dục giới tính đƣợc đƣa vào trong chƣơng trình giáo dục nhà trƣờng từ bậc tiểu học, các gia đình có trình dộ dân trí cao, điều kiện kinh tế phát triển trong tỉnh đã có sự đầu tƣ quan tâm giáo dục con cái vấn đề này. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại hiện trạng đau lòng: trẻ em bị xâm hại tình dục; ấu dâm; tình trạng nạo phá thai của bạn trẻ chƣa lập gia đình vẫn lớn, ngày càng nhiều trẻ em bị phát triển lệch lạc giới tính, đồng tính, “bóng”, “lét”…
Thứ sáu, thế hệ trẻ hiện nay sớm tiếp xúc khoa học công nghệ - là điều kiện môi trƣờng hiện đại cho trẻ học tập, phát triển giao lƣu hội nhập quốc tế, giúp phát triển tiếp cận các vấn đề xã hội nhanh chóng… nhƣng xuất hiện những vấn đề nảy sinh rất mới, đòi hỏi chức năng của gia đình cần đƣợc phát huy hơn nữa nhƣ: nghiện smartphone, nghiện internet, nghiện game, tội phạm lừa đảo trên mạng internet, sống ảo… Việt Nam là quốc gia phát triển về nền công nghệ internet nhanh và mạnh trên thế giới, nhƣng việc phát triển ồ ạt này cũng mang theo hệ lụy mà những nƣớc tiến tiến phƣơng Tây đang gặp phải. Vấn đề này nảy sinh trong những năm gần đây, đặc biệt trong gia đình có điều kiện kinh tế khá
112
của tỉnh Hải Dƣơng và ngày càng lan rộng trong nhiều gia đình có thu nhập trung bình, thậm chí khó khăn. Do nhiều gia đình không nhận thức rõ tác động tiêu cực, lạm dụng thiết bị điện tử thông minh, cho con tiếp xúc quá nhiều thời gian trong ngày (trên 30 phút/ngày đƣợc coi là nhiều). Ảnh hƣởng của vấn đề này đối với gia đình và xã hội là rất nghiêm trọng, biểu hiện tình trạng trẻ suy giảm thị lực, tự kỷ, chậm nói, phản ứng chậm, thần kinh, bạo lực, sống ảo, trộm cắp, giết ngƣời… Sự việc tiêu biểu của tội phạm nguy hiểm do hệ quả từ internet đƣợc báo Đời sống pháp luật ngày 4/8/2014 đƣa tin: ngày 2/8/2014 Phạm Duy Quý sát hại 4 ngƣời thân trong gia đình (bà, bố, mẹ và chị gái) tại Phƣợng Hoàng (Thanh Hà, Hải Dƣơng), có biểu hiện nghiện game, thần kinh không bình thƣờng, sau đó đã tự tử tại trại giam.
Thứ bảy, những khó khăn mà trẻ em phải đối phó trong giai đoạn hiện nay rất lớn: tội phạm ấu dâm, bắt cóc, buôn ngƣời, ma túy… diễn biến ngày càng tinh vi, đặt ra cho vai trò, chức năng giáo dục của gia đình những vấn đề nan giải.
Trẻ em đƣợc giáo dục tuyên truyền về tình trạng mất an toàn với những hàng loạt tệ nạn xã hội: trộm cắp, nghiện ma túy, tội phạm bắt cóc… bên cạnh đó thế hệ trẻ là thế hệ phải học hỏi, thực hành trải nghiệm rèn luyện kỹ năng sống nhiều hơn cả, học hỏi tinh thần tự lập, sáng tạo, dũng cảm trải nghiệm khám phá thế giới. Điều này tạo ra những mâu thuẫn, hoang mang, lo lắng, bế tắc đối với không chỉ thế hệ trẻ mà cả thế hệ ông bà, cha mẹ trong việc giáo dục con cái.
Thực tế trên đòi hỏi trẻ phải đƣợc giáo dục, trang bị kỹ năng sống, thái độ sống tich cực mới vƣợt qua khó khăn về tâm lý, niềm tin, lựa chọn lối sống tích cực phát triển bản thân hoàn thiện. Nhƣng hiện nay không phải tất cả các gia đình đều có đủ điều kiện kinh tế, trình độ nhận thức để quan tâm giúp đỡ cùng con giải quyết khó khăn vƣớng mắc phức tạp trên. Từ đó cho thấy rất cần sự quan tâm đầu tƣ vĩ mô từ nhà nƣớc và các cơ quan chức năng cùng tháo gỡ giải quyết khó khăn trong đời sống gia đình hiện nay.
Bên cạnh đó những biện pháp giải quyết mà các bậc cha mẹ đƣa ra thƣờng rất hạn chế, không đồng bộ, nhiều gia đình khi gặp phải trƣờng hợp con cái nhƣ trên là bất lực, buông xuôi, bỏ cuộc coi đó nhƣ những đứa trẻ hƣ không thể dạy bảo đƣợc.
113
Nhƣ vậy vai trò giáo dục trong gia đình hiện nay nảy sinh và phát triển rất nhiều vấn đề mới, mâu thuẫn mới cần giải quyết. Đòi hỏi trình độ nhận thức của các bậc cha mẹ ngày càng cao hơn, thời gian quan tâm giáo dục con cái nhiều hơn. Bên cạnh đó xã hội hiện đại hiện nay đòi hỏi sự phát triển trình độ nhận thức con ngƣời toàn diện hơn nên chức năng giáo dục trong gia đình cần đƣợc phát huy cao hơn nữa. Giáo dục trẻ em phát triển thể lực, trí lực, nhân cách, đạo đức, lối sống, văn minh hiện đại.
Thứ tám, trong gia đình, thế hệ trẻ còn bị ảnh hưởng tàn dư của những quan điểm lối sống cũ lạc hậu, tiểu nông, khôn lỏi, ích kỷ nhỏ nhen; ý thức bảo vệ môi trƣờng công cộng; ý thức tập thể, cộng đồng; ý thức văn hóa tham gia giao thông kém. Ảnh hƣởng, tàn dƣ của lối sống cũ đối lập, gây cản trở cho việc hình thành lối sống mới hiện đại, phóng khoáng, “xã hội hóa” tri thức thông tin, lối sống văn minh, tiến bộ, nhân văn, nhân ái. Cuộc xung đột, mâu thuẫn giữa các thế hệ trong gia đình là quy luật tất yếu trong sự phát triển biến đổi hình thành và phát triển cho thế hệ trẻ hiện nay. Thực trạng hiện nay đã đang diễn ra sự đấu tranh âm ỉ trong các gia đình giữa các thế hệ và đặc biệt thế hệ trẻ sẽ là những ngƣời lựa chọn, bảo vệ, hành động vì sự phát triển tiến bộ. Đây sẽ là khuynh hƣớng, con đƣờng phát triển cho thế hệ tƣơng lai của đất nƣớc về nhân cách, lối sống, đạo đức hƣớng tới văn minh tiến bộ của loài ngƣời.
Nhƣ vậy vai trò giáo dục trong gia đình hiện nay nảy sinh và phát triển rất nhiều vấn đề mới, mâu thuẫn mới cần giải quyết. Đòi hỏi trình độ nhận thức của các bậc cha mẹ cần phải cao hơn, giành thời gian quan tâm giáo dục con cái nhiều hơn.
2.2.3. Vai trò của gia đình trong việc nuôi dưỡng tâm hồn, tâm lý, tình cảm tạo nên nền tảng tinh thần cho sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ
Nhƣ đã phân tích, gia đình có vai trò không thể thếu trong việc nuôi dƣỡng tâm hồn, phát triển tâm lý, tình cảm tạo nên nền tảng tinh thần cho các cá nhân: “ Mỗi con ngƣời đều có nhu cầu không thể hủy bỏ đƣợc, không chỉ đơn giản là giao tiếp với nhiều ngƣời khác, mà chính là sự giao tiếp tâm tình, ở đây con ngƣời có thể thổ lộ tâm hồn của mình, tìm thấy sự nâng đỡ, sự thừa nhận, sự an ủi và lời khuyên nhủ, sự quan tâm chân thành, sự thông cảm và tình thƣơng, giúp giải quyết những vấn đề hoặc có hƣớng xã hội, hoặc hết sức riêng tƣ. Chính là
114
trong gia đình mới tạo đƣợc bầu không khí đặc thù cởi mở, tin cậy, tôn trọng lẫn nhau, những đức tính đƣợc bồi dƣỡng cho con ngƣời nhƣ những phẩm chất không tách rời của nhân cách.” [129,142].
Đời sống kinh tế khởi sắc hơn trong đổi mới đã tạo điều kiện để nhiều gia đình ở Hải Dƣơng thực hiện khá tốt vai trò này và đạt thành tựu quan trọng: Hiện hơn 80 % gia đình ở Hải Dƣơng đƣợc công nhận “Gia đình văn hóa”, trong phần lớn các gia đình này, quan hệ cha mẹ - con cái, ông bà - con cháu, anh chị em chứa đựng tình yêu thƣơng gắn bó, hòa thuận, thủy chung. Các em nhỏ trong các gia đình này lớn lên trong sự chăm chút, yêu thƣơng của ngƣời thân, các em đƣợc hƣởng những sự quan tâm chân thành, tìm thấy sự nâng đỡ, sự thừa nhận, sự thông cảm … và đó là môi trƣờng lý tƣởng để hình thành những nhân cách tốt đẹp.
Ở nhiều gia đình văn hóa Hải Dƣơng, sự hòa thuận, thống nhất của các ông bố, bà mẹ, tình cảm của họ đối với con cái trở thành những hình mẫu lý tƣởng cho con cái của họ bắt chƣớc và làm theo, trở thành điểm tựa, nguồn động lực cho con cái của họ học tập, lao động, phấn đấu đến suốt cuộc đời.
Là một vùng đất có nền văn hóa khá đặc trƣng của đồng bằng Bắc bộ,
nhiều gia đình Hải Dƣơng vẫn gìn giữ và thực hiện đƣợc nếp sống truyền thống:
gia đình nhiều thế hệ cùng chung sống; trên kính dƣới nhƣờng; cha từ con hiếu;
anh chị em hòa thuận, đùm bọc bảo ban nhau. Ông bà là thế hệ đặc trƣng và lƣu
giữ giá trị gia đình truyền thống của dân tộc và truyền thống gia đình. Thế hệ
ông bà trong gia đình giữ vai trò trao truyền những giá trị văn hóa truyền thống;
gắn kết thế hệ trẻ với cội nguồn. Thông qua những lời ru, câu hát, sự chỉ bảo,
dạy dỗ của ông bà từ ngôn ngữ, nề nếp, “gia đạo, gia lễ, gia phong, gia quy”; trao
truyền cho con cháu kinh nghiệm sản xuất, lao động, sáng tạo; cách hành xử hoà
nhập cộng đông. Ngƣời cha là chỗ dựa, điểm tựa vững trãi cho các thành viên
trong gia đình, có vai trò to lớn nuôi dƣỡng tâm hồn, nhân cách thế hệ trẻ. Ngƣời
mẹ ảnh hƣởng đến con cái mình từ sự ôn hòa, dịu dàng nhẫn nại, chịu thƣơng
chịu khó. Con cái cần có sự kiên định, chín chắn, mạnh mẽ, dũng cảm của cha,
có sự dịu dàng ôn hòa của mẹ, cả cha và mẹ đều có vai trò quan trọng nhƣ nhau.
Hải Dƣơng là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, có
quá trình công nghiệp hóa nhanh, các khu công nghiệp ngày càng mở rộng thu
115
hút số lƣợng lớn đội ngũ lao động trẻ. Điều này khiến những gia đình trẻ giành
thời gian cho việc chăm sóc con cái ít hơn cần phải có sự giúp đỡ rất lớn từ phía
ông bà trong việc chăm sóc con cái. Bên cạnh đó nhƣ trên đã phân tích thực
trạng của địa phƣơng có số lƣợng lao động xuất khẩu đi nƣớc ngoài rất lớn và
trong số đó đa phần cha mẹ để con ở nhà cho ông bà nuôi dƣỡng. Vì vậy vai trò
của ông bà đối với việc chăm sóc, nuôi dƣỡng giáo dục thế hệ trẻ trong các gia
đình có vai trò đặc biệt quan trọng.
Mối quan hệ anh chị em trong gia đình là mối quan hệ có sự gắn bó máu
thịt thiêng liêng đặc biệt và ảnh hƣởng lâu dài suốt cuộc đời con ngƣời. Chúng ta
thƣờng thấy, tình cảm của các anh chị em trong gia đình đƣợc ca ngợi là sự yêu
thƣơng gắn bó: “nhƣ chân với tay”; “môi hở răng lạnh”, “máu mủ ruột già”…
Đây quả thực là tình cảm gắn bó đặc biệt khó có sự thay thế. Tuy nhiên ở trong
mối quan hệ tình cảm giữa các anh chị em trong gia đình còn có sự ganh đua,
cạnh tranh với nhau. Sự hợp tác gắn bó chặt chẽ hay sự ganh đua, cạnh tranh
ganh tị của các anh chị em trong gia đình là cơ sở cho trẻ thiết lập các mối quan
hệ xã hội từ những liên kết, va chạm trong gia đình và sau này là sự phát triển
các mối quan hệ ngoài xã hội. Mối quan hệ tâm lý, tình cảm giữa các anh chị em
trong gia đình là một môi trƣờng cọ xát để hình thành và rèn rũa thiết lập các
mối quan hệ cộng đồng xã hội.
Hai nhà tâm lý học nổi tiếng: Burlingham và A. Freud đã chứng minh so sánh những đứa trẻ sống trong môi trƣờng gia đình có anh chị em - môi trƣờng cạnh tranh giúp trẻ dễ dàng hòa nhập xã hội, ganh đua cũng cần thiết cho sự phát triển toàn diện tâm trí và thể chất [123,223].
Môi trƣờng ganh đua của anh chị em trong gia đình là môi trƣờng lành
mạnh, khá an toàn giúp trẻ vững vàng hơn để hòa nhập xã hội. Trẻ em có xu
hƣớng ganh đua, ghen tị đòi hỏi sự quan tâm, tình cảm của ngƣời lớn trong gia
đình nhiều hơn. Trong gia đình bố mẹ là những ngƣời trực tiếp đƣa ra và thực
hiên những “gia quy” và xử lý các mâu thuẫn, tranh chấp giữa các anh chị em.
Đòi hỏi các bậc cha mẹ cần công bằng, phân minh trong cách xử lý mối quan hệ
các anh chị em trong gia đình. Tránh tình trạng thiếu công bằng, thiên vị, bênh
vực với bất kỳ ngƣời con nào. Bởi những đứa trẻ đƣợc bênh vực, nuông chiều
116
hay bị phân biệt đối xử, ghẻ lạnh, không công bằng đều có ảnh hƣởng rất lớn tới
sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân sau này.
Anh chị em có thể có mối quan hệ tốt đẹp là môi trƣờng cạnh tranh, ganh
đua lành mạnh học hỏi lẫn nhau cùng tiến bộ. Có những gia đình anh chị em
cùng giúp đỡ nhau trƣởng thành, thành đạt trong xã hội. Ngƣợc lại trong gia đình
khi có những đứa con tham gia vào các tệ nạn xã hội thì những đứa trẻ còn lại
trong gia đình cũng bị ảnh hƣởng, lôi kéo, bắt chƣớc học theo. Nên trong thực tế
nhiều gia đình chúng ta thấy các con đều bị nghiện hút, lô đề, cờ bạc, hay tệ nạn
xã hội… Hoặc những đứa trẻ bị ảnh hƣởng lớn về tâm lý, tinh thần khi anh chị
em khác tham gia vào các tệ nạn xã hội.
Trên thực tế các gia đình ơ tỉnh Hải Dƣơng hiện nay đã và đang phấn đấu
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các thành viên và đặc biệt là thế hệ
trẻ. Cùng với nhà trƣờng và xã hội tạo dựng môi trƣờng tốt nhất cho con cái; và
xây dựng gia đình tiến bộ hiện đại trên cơ sở tình yêu thƣơng đùm bọc gắn bó
máu thịt, thủy chung…
Cho dù cuộc sống hiện đại đã có nhiều đổi thay, nhƣng những giá trị gia
đình tốt đẹp cần đƣợc bảo vệ và phát huy. Cơ quan Đảng, chính quyền và các cơ
quan chuyên môn nhƣ Hội Phụ nữ, Mặt trận tỉnh cũng nhận thức khá rõ điều
này, có những chính sách khuyến khích kịp thời hàng năm cho những gia đình
văn hóa tiêu biểu.
Mặc dù vậy, cũng có những biểu hiện thực hiện chƣa thật phù hợp, chƣa
đúng bộc lộ những hạn chế của vai trò này ở Hải Dƣơng trong thời gian qua.
Trƣớc những biến đổi của điều kiện xã hội, những giá trị trong gia đình đã có nhiều biến đổi. Một số yếu tố đạo đức, phẩm chất, lối sống truyền thống khó thực hiện đƣợc hoặc không phù hợp trong điều kiện gia đình hiện tại. Chẳng hạn cha mẹ trong gia đình truyền thống ở xã hội phong kiến sẵn sàng hy sinh tiền bạc, vật chất, thời gian… cho con cái một cách vô điều kiện, hiện nay một số gia đình cũng làm thay con, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho con còn cha mẹ chịu thiệt thòi, tuy nhiên điều này vô hình chung tạo ra “thế hệ ăn bám”, thiếu tự lập, phụ thuộc vào cha mẹ, đòi hỏi quá nhiều từ cha mẹ và trở thành thế hệ trẻ “vô dụng”. Có những ngƣời làm cha mẹ lam lũ, nhịn ăn nhịn mặc để nuôi con học đại học, để đáp ứng các nhu cầu cho con “bằng bạn bằng bè”. Có thể coi các bậc cha mẹ
117
này là lớp thế hệ “cha mẹ là nô lệ của con cái”, có nhà nghiên cứu từng nhận định: “người Việt có tuổi thơ kéo dài nhất”, bởi trên thực tế dễ thấy nhiều gia đình con cái ở tuổi trƣởng thành trên 18 tuổi đến 30, 40 hoặc thậm chí cao hơn nữa vẫn sống phụ thuộc “ăn bám” vào tài sản, sức lao động của cha mẹ. Có một số gia đình con cái đã trƣởng thành nhƣng vẫn sống phụ thuộc vào tiền lƣơng hƣu, trợ cấp từ cha mẹ mà không tự kiếm sống nuôi bản thân mình. Đây là điều cần phải thay đổi, hình mẫu cha mẹ lý tƣởng gia đình hiện đại cần có sự phù hợp với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội, cha mẹ cần yêu con một cách lý trí hơn, cần giúp con trở thành những cá nhân độc lập, tự lập chứ không bao bọc con em theo cách nhƣ vậy. Bên cạnh đó, các bậc ông bà, cha mẹ cần công bằng, phân minh trong cách xử lý mối quan hệ các anh chị em trong gia đình. Tránh tình trạng thiếu công bằng, thiên vị, bênh vực với bất kỳ đứa con nào. Bởi những đứa trẻ đƣợc bênh vực, nuông chiều hay bị phân biệt đối xử, ghẻ lạnh, không công bằng đều có ảnh hƣởng hạn chế rất lớn tới sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân sau này.
Theo quan điểm truyền thống phƣơng Đông, ngƣời cha là trụ cột, điểm tựa, là “nóc nhà”, “đàn ông xây nhà đàn bà xây tổ ấm”. Do quan niệm truyền thống quá đề cao ngƣời cha - đàn ông trong gia đình nên trong thực tế có không ít những ngƣời đàn ông phó mặc trách nhiệm công việc gia đình, nuôi dạy, chăm sóc con cái cho ngƣời phụ nữ, gây ra tình trạng áp lực công việc gia đình đè nặng trên vai ngƣời phụ nữ. Con cái thiếu sự quan tâm từ phía cha mẹ, thiếu kiến thức, kỹ năng, mải chơi, dần sa vào tệ nạn xã hội. Qua khảo sát cho thấy ngƣời có nhiều thời gian trực tiếp chăm sóc dạy dỗ con cái trong gia đình: bố chiếm 38.5%, mẹ 57.5%, ông bà 4% [phụ lục 11].
Thƣờng thấy trong gia đình truyền thống, vai trò của ngƣời cha trong gia đình thể hiện quyền uy với con cái. Cùng với sự phát triển của gia đình, vai trò của ngƣời cha đã có nhiều sự biến đổi. Trong mỗi gia đình khác nhau thì sự biểu hiện vai trò của ngƣời cha là khác nhau. Những ngƣời cha yêu thƣơng, chia sẻ, quan tâm hiểu biết thì những đứa con phát triển bình thƣờng, tự tin biết yêu thƣơng, chia sẻ…Những ngƣời cha thể hiện vai trò quá độc đoán, nghiêm khắc và gia trƣởng làm cho con cái rụt rè, lo lắng, thiếu tự tin hoặc chống đối. Những ngƣời cha thiếu uy quyền hay nhu nhƣợc làm cho trẻ thiếu chỗ dựa tình cảm, thiếu sự sẻ chia, chông chênh, lo âu… Trẻ có xu hƣớng tìm kiếm những thiếu hụt
118
này từ mẫu ngƣời ngoài gia đình từ phim ảnh, sách báo…Nhƣ vậy nếu trẻ hƣớng theo những nhân cách tốt thì sẽ phát triển tích cực, tiến bộ nhƣng ngƣợc lại trẻ có thể rất dễ bị lôi kéo vào những tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật… Về phía các bà mẹ cũng tồn tại trong thực tế những: bà mẹ cầu toàn, đòi hỏi sự hoàn hảo ở con cái; có những bà mẹ độc đoán; có những bà mẹ chu đáo quá mức, chiếm đoạt bao bọc con; thậm chí có bà mẹ ích kỷ, chiếm đoạt, lợi dụng, độc đoán, chuyên quyền, ít yêu con… Điều này xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân, có thể do nhận thức hạn chế, môi trƣờng sống khó khăn, tâm sinh lý bệnh của ngƣời mẹ… Những đứa trẻ có ngƣời mẹ có những vấn đề về đời sống tâm lý, tình cảm nhƣ trên có sự ảnh hƣởng rất lớn tới quá trình phát triển nhân cách của trẻ.
Trong xã hội hiện đại phát triển nhƣ ngày nay ngƣời phụ nữ và đàn ông bình đẳng với nhau trong cơ hội học tập, công việc và cơ hội cho nên tri thức ngƣời phụ nữ tăng nhanh, nhiều phụ nữ Hải Dƣơng tự lập, kiếm tiền giỏi. Vị trí của ngƣời phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội đã thay đổi. Nhƣng trong xã hội phƣơng Đông do ảnh hƣởng quan niệm phong kiến vẫn xem nhẹ, coi thƣờng vai trò ngƣời phụ nữ cho nên có một xu hƣớng trở thành trào lƣu, “phong trào” thay đổi của những ngƣời phụ nữ không muốn lập gia đình; trở thành những ngƣời mẹ đơn thân, tự do. Nhƣ vậy xã hội đã biến đổi, ngƣời phụ nữ trong gia đình đã thay đổi mà nhận thức, suy nghĩ của ngƣời chồng, ngƣời cha trong gia đình không thay đổi thì không có sự phát triển gia đình toàn vẹn. Ở các nƣớc châu Á phát triển nhƣ: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo, Trung Quốc… và trong nƣớc hiện nay nhiều cô gái trẻ không muốn kết hôn, sống độc thân do sức ép, áp lực của cuộc sống gia đình, đặc biệt ảnh hƣởng của thói “gia trƣởng” của gia đình phong kiến còn tồn tại trong gia đình hiện đại ngày nay.
Cùng với một bộ phận gia đình đầy đủ cả cha lẫn mẹ, cả cha và mẹ luôn cố gắng nêu gƣơng tốt cho con cái; chăm sóc, nuôi dƣỡng, bảo vệ con cái; cha mẹ tạo ra cho con cái một môi trƣờng “tổ ấm” ổn định cho sự phát triển, trƣởng thành, ở Hải Dƣơng hiện có một tỷ lệ khoảng 15% gia đình không bình thƣờng, đƣợc hiểu là những trƣờng hợp gia đình không còn đóng vai trò đúng với nghĩa của nó nữa. Chẳng hạn cha (hoặc mẹ) lấy vợ (chồng) khác, cha (mẹ) là tấm gƣơng xấu (phạm pháp, nghiện rƣợu, sử dụng ma túy…), cha (mẹ) gây tác hại về tình cảm (quá nghiêm khắc, quá nhu nhƣợc, không chăm sóc con cái…); bên cạnh đó có những gia đình do nhu cầu cuộc sống, cả cha mẹ đều đi làm ăn xa, để
119
con cái cho ông bà (đi nƣớc ngoài lao động hoặc đi kiếm sống ở các đô thị), 5 năm gần đây trên địa bàn Hải Dƣơng có 10.000 ngƣời đi xuất khẩu lao động ở nƣớc ngoài [94, 6], … Những điều kiện, hoàn cảnh của các gia đình khác nhau quyết định rất lớn tới sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Những em bé trong các gia đình này rất thiệt thòi và sẽ có những hạn chế nhất định trong quá trình phát triển nhân cách.
Các nhà nghiên cứu xã hội đã chỉ rõ mối tƣơng quan giữa mâu thuẫn gia đình và trẻ em vi phạm pháp luật có mối quan hệ tác động ảnh hƣởng chặt chẽ. Trong nghiên cứu của cố bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã chỉ rõ: một cuộc điều tra tâm lý học do anh em nhà tâm lý học Glueck tiến hành 10 năm ở khu bình dân Boston – Mỹ nhằm vào 500 thiếu niên phạm phạp đƣợc so sánh mỗi em với một em không hƣ cùng tuổi, cùng khu cƣ trú nghèo trong thành phố; đƣa ra kết quả: “nhà ở kém vệ sinh, đông đúc, kém chăm sóc và đặc biệt nhà ở kém ốn định ở những em phạm pháp; nguồn thu nhập gia đình thấp hơn; cha hay mẹ vắng hai lần nhiều hơn; hạnh kiểm buông thả, vô công rồi nghề ở những người trụ cột gia đình xảy ra thường xuyên hơn; điều khiển gia đình thiếu sự nhìn xa, kém thận trọng, kém quan tâm đến tương lại học hành và giải trí của con; sự không ổn định của gia đình. Sự khó chịu giữa con cái và cha có uy quyền độc đoán và thất thường, giữa con và mẹ buông thả và nhu nhược.”[123,120]
Trên một phƣơng diện khác, trong những năm gần đây sự phát triển của các kiểu gia đình ở Hải Dƣơng có nhiều biến đổi: độ tuổi kết hôn thay đổi, xu hƣớng kết hôn sớm (16 - 20 tuổi) và kết hôn muộn (trên 30 tuổi) gia tăng, bên cạnh đó là xu hƣớng không kết hôn, sống độc thân cũng xuất hiện nhiều hơn. Bên cạnh đó tình trạng ly hôn tăng nhanh; quan niệm về ly hôn có xu hƣớng “thoáng”, “mở” hơn trƣớc đây.
Trên cả nƣớc, theo số liệu của cuộc điều tra do Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch phối hợp với Tổng cục Thống kê, với sự hỗ trợ của UNICEF cho thấy số vụ ly hôn đang tăng nhanh. Năm 2005 có tới 65.929 vụ. Số năm sống trung bình trƣớc khi ly hôn của các cặp vợ chồng 18- 60 tuổi là 9,4 năm; còn riêng ở các khu vực nội thành, các thành phố lớn, chỉ 8 năm. Có 4 nguyên nhân thƣờng xảy ra nhiều là: Mâu thuẫn về lối sống: (chiếm 27,7%); ngoại tình (25,9%); kinh tế (13%); bạo lực gia đình (6,7%) [131, 2].
120
Hải Dƣơng cũng nằm trong “trào lƣu” đó. Theo báo cáo công tác xây dựng và phát triển gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng năm 2014: “Tỷ lệ cặp vợ chồng ly hôn, ly thân ngày càng gia tăng; Tỷ lệ hộ gia đình có từ 3 thế hệ trở lên chung sống ngày càng giảm; Tỷ lệ ngƣời già trên 60 tuổi không sống cùng con cháu, trong đó số cụ không có nơi nƣơng tựa; không có thu nhập ngày càng tăng; Số vụ bạo lực gia đình tuy có giảm về số lƣợng nhƣng vẫn cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tăng nếu không đƣợc quan tâm chỉ đạo sát sao. Số phụ nữ thất bại trong hôn nhân với ngƣời nƣớc ngoài kèm theo số trẻ em là con lai trở về sống tại địa phƣơng hiện nay là những thách thức không nhỏ đặt ra không chỉ với công tác gia đình mà còn cho nền kinh tế, xã hội của tỉnh.” [86,6]
Tình trạng ly hôn gia tăng ở Việt Nam nói chung và trong các gia đình ở Hải Dƣơng trong những năm gần đây để lại hệ lụy lớn nhất và trực tiếp nhất chính ở thế hệ con cái trong gia đình. Theo số liệu nghiên cứu ở Mỹ trong “Tâm lý gia đình” – cố bác sĩ Nguyễn Khắc Viện tổng hợp: “Nhƣ vậy trong tổng số 883 trƣờng hợp bất bình thƣờng có 444 trẻ phạm pháp có gia đình bất bình thƣờng tức là trung bình có 2 bất bình thƣờng về gia đình cho mỗi trƣờng hợp: thí dụ cha mẹ li dị và mẹ tái giá, cha chết mẹ mãi dâm, cha nghiện rƣợu và mẹ quá nghiêm khắc. Ngƣời ta thấy dễ hiểu khi thiếu 1 trong 2 ngƣời thì dẫn đến việc ngƣời kia có cách đối xử tác hại với con (rƣợu chè, nhu nhƣợc, vô đạo đức v.v…)”[123,98].
Những biến động của kinh tế - xã hội và gia đình hiện nay làm cho sự phát triển của thế hệ trẻ có nhiều biến đổi phức tạp. Khi gia đình chịu sự chi phối của những quy luật phát triển kinh tế thị trƣờng, dù ít hay nhiều cũng làm cho các thành viên, đặc biệt là thế hệ trẻ bị ảnh hƣởng. Ở Hải Dƣơng hiện nay số trẻ tự kỷ khá nhiều, theo báo cáo định kỳ hàng năm của Viện Nhi Hải Dƣơng, trẻ tự kỷ tăng rất nhanh và trên thực tế còn nhiều trẻ tự kỷ, chậm phát triển chƣa đƣợc thăm khám. Theo nghiên cứu mới nhất của Ths. Đinh Thị Hoa công bố năm 2017 nghiên cứu trên 1000 trẻ em ở 30 huyện khác nhau thì các huyện trên địa bàn Hải Dƣơng có 97 trẻ có biểu hiện tự kỷ dạng khuyết tật ngôn ngữ ở độ tuổi từ 1-6 tuổi [35,12].
Những vụ án liên quan tới trẻ em trong đó trẻ em vừa là tội phạm gây án vừa là nạn nhân của những vụ án cũng tăng cao, đặc biệt những tội phạm đặc biệt nguy hiểm liên quan tới trẻ em ngày càng tăng với độ tuổi ngày càng trẻ
121
hóa. Gần đây, ngày 25/5/2017, phạm nhân Vũ Văn Thƣờng sinh năm 1990 tại Kinh Môn - Hải Dƣơng phạm tội hiếp dâm trẻ em đã tự tử tai trại giam.
Cha mẹ quá bận rộn hoặc ít thời gian cho con cái làm cho trẻ có cảm giác cô đơn, lạc lõng trong chính gia đình mình và khó khăn trong hòa nhập xã hội. Nhiều trẻ không đƣợc gia đình quan tâm, chia sẻ, có những tò mò về giới tính, tình dục, tình yêu, hôn nhân…dẫn đến tình trạng yêu sớm, quan hệ tình dục sớm, lệch lạc trong hành vi tính dục, mang thai ngoài ý muốn…
Việc thực hiện vai trò, chức năng tâm lý tình cảm gia đình Hải Dƣơng cũng còn một vấn đề khá phổ biến, đó là sự không thống nhất của ông bà với cha mẹ trong việc nuôi dạy, giáo dục con cháu, những mâu thuẫn tƣởng nhƣ nhỏ nhặt nhƣng lại là những nguyên nhân gây ra những hậu quả phức tạp thậm chí phá vỡ hạnh phúc gia đình.
Vai trò của ông bà trong gia đình là rất quan trọng nhƣng nếu sự can thiệp của ông bà đối với việc nuôi dạy con trẻ không đúng lúc, hoặc chi phối, can thiệp sâu không thống nhất, đồng thuận trong gia đình có thể gây rạn nứt, nêu gƣơng xấu đối với con cháu mình. Thế hệ ông bà là lớp ngƣời đi trƣớc, lớp ngƣời còn hội tụ nhiều hơn cả những hệ giá trị tƣ tƣởng, lối sống cũ thậm chí lạc hậu do sự tác động ảnh hƣởng quan hệ sản xuất cũ. Điều này dễ dẫn tới những đối lập, xung đột với thế hệ trẻ lớn lên trong kinh tế thị trƣờng. Sự đối lập, mâu thuẫn giữa hai thế hệ già - trẻ, cũ - mới nếu không đƣợc giải quyết kịp thời cũng ảnh hƣởng không tốt đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Trên thực tế đối tƣợng trẻ em phạm pháp, tham gia vào các tệ nạn xã hội của tỉnh diễn biến phức tạp nên có những gia đình có con cái tham gia vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật…làm ảnh hƣởng thậm chí lôi kéo các anh chị em khác trong gia đình tham gia. Cho nên nhiều gia đình xảy ra tình trạng tất cả con cái nghiện hút, buôn lậu, phạm pháp… Hay những gia đình có trẻ em hƣ làm ảnh hƣởng to lớn tới đời sống vật chất, tinh thần cho các anh, chị, em khác trong gia đình.
Nhƣ vậy có thể thấy ở Hải Dƣơng, về cơ bản, các bậc ông bà, cha mẹ chƣa đƣợc trang bị những kiến thức phát triển tâm, sinh lý cho thế hệ trẻ nên hầu hết các gia đình thể hiện vai trò của cha mẹ một cách tự nhiên, tự phát. Trong các gia đình khi thực hiện vai trò tâm lý, tình cảm hiện tồn tại những hạn chế chủ yếu:
122
- Tình trạng bạo lực gia đình dù đã giảm những còn tồn tại diễn biến phức
tạp tác động lớn tới thế hệ con cái trong gia đình.
- Tình trạng ly hôn ngày càng tăng cao làm cho nhiều trẻ thiếu vắng cha
mẹ, hoặc cả cha và mẹ dẫn tới sự phát triển hạn chế cả về vật chất và tinh thần.
- Sự vắng mặt của cha hoặc mẹ, hoặc cả cha và mẹ trong gia đình thƣờng
xuyên hơn, gây ra thiếu hụt về tâm lý, tình cảm của con cái trong gia đình.
- Nhận thức của gia đình về đời sống tình cảm, tâm lý của con cái còn hạn chế, 26.3% gia đình thấy khó khăn trong nuôi dạy thế hệ trẻ từ 0 – 18 tuổi khó khăn do nhận thức của ông bà, cha mẹ về đặc điểm tâm – sinh lý của thế hệ trẻ còn hạn chế [phụ lục 23.2].
- Sự thiếu quan tâm hay sự quan tâm của cha mẹ tới con cái chƣa toàn diện, chú trọng tới thành tích học tập, điều kiện vật chất, sự quan tâm tới đời sống tâm lý, tình cảm… của con cái còn hạn chế.
- Nhận thức của ông bà, cha mẹ còn hạn chế; đặc biệt những hiểu biết về internet, mạng xã hội… làm cho cha mẹ chƣa thể làm “bạn” 32.8 % gia đình cho biết biết ít về những trang mạng xã hội mà con tham gia, 5% gia đình không biết về các trang mạng mà con sử dụng [phụ lục 22], đồng hành cùng con cái giải quyết những khó khăn, vƣớng mắc, tai nạn, rủi ro khi con cái gặp phải liên quan đến những lĩnh vực trên.
- Con cái khép kín, ngại chia sẻ, “cô đơn” trong gia đình dẫn tới tình trạng bệnh lý tâm lý - tự kỷ, nghiện mạng xã hội, nghiện smartphone, nghiện game, trầm cảm tăng cao… Khi đó con cái tìm đến “thế giới ảo” - mạng xã hội, tệ nạn xã hội đề “làm bạn” và thể hiện cái “tôi” của bản thân, hình thành nhân cách lệch lạc.
Tất cả những yếu tố nuôi dƣỡng, chăm sóc đời sống tâm hồn, tâm lý, tình cảm giữa ngƣời cha, ngƣời mẹ chi phối những hành động, hành vi cƣ xử với con cái. Những hạn chế trên dẫn đến nhiều biểu hiện bất thƣờng trong đời sống tinh thần của trẻ em trong gia đình. Những biểu hiện khiếm khuyết, sai lệch trong tâm hồn trẻ em là nguyên nhân tác động to lớn tới sự phát triển không hoàn thiện của thể chất và tinh thần thế hệ tƣơng lai của xã hội. Cần phải nâng cao nhận thức các cá nhân trong gia đình trong việc phát huy chức năng tâm lý tình cảm của gia đình vì mục tiêu xây dựng gia đình hạnh phúc, ấm no từ đó xây dựng những nhân cách con ngƣời tốt đẹp, biết sống yêu thƣơng, nhân văn, nhân ái, quan tâm chăm sóc cho bản thân, gia đình và xã hội.
123
2.2.4. Vai trò của gia đình trong định hướng và điều chỉnh quá trình
hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ
Gia đình là nơi con ngƣời đƣợc hình thành những yếu tố đầu tiên cấu thành nên nhân cách. Gia đình còn là nơi giúp cho cá nhân hòa nhập xã hội, định hình và hoàn thiện nhân cách. Có thể coi gia đình là một xã hội thu nhỏ với các mối quan hệ đa dạng, phong phú trong mọi phƣơng diện sinh hoạt vật chất và tinh thần. Mỗi cá nhân sinh ra trong gia đình sẽ đƣợc trải nghiệm, va chạm và dần trƣởng thành từ các mối quan hệ trong gia đình, họ hàng, cộng đồng nơi trẻ sinh sống. Đồng thời gia đình cũng là cầu nối dìu dắt, nâng đỡ, chở che cho mọi cá nhân hòa nhập với môi trƣờng xã hội, môi trƣờng cộng đồng rộng lớn bên ngoài gia đình.
Mỗi thành viên là một tính cách riêng, một năng lực một thể chất riêng. Việc va chạm các tính cách khác nhau trong một gia đình là môi trƣờng đầu tiên để trẻ em học cách hoà hợp với cộng đồng. Với các chức năng cơ bản của gia đình trang bị cho mỗi cá nhân những tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, thái độ giúp cho cá nhân hòa nhập phát triển xã hội.
Qua khảo sát 99% các gia đình nhận định vai trò quan trọng của gia đình trong định hƣớng phát triển nhân cách trong đó 81.3% các gia đình nhận thấy gia đình có vai trò rất quan trọng trong định hƣớng và điều chỉnh sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ [phụ lục 24].
Cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, khoa học công nghệ hiện đại đã và đang hỗ trợ rất lớn cho các gia đình thực hiện chức năng giúp thế hệ trẻ hội nhập xã hội. Tuy nhiên xã hội càng phát triển hiện đại thì sự phát triển tri thức, công nghệ khoa học càng phức tạp. Cho nên nhiệm vụ của gia đình hiện nay với thế hệ trẻ không thể nói một cách phiến diện là dễ dàng hơn, hay đơn giản, nhẹ nhàng hơn.
Là tỉnh có sự phát triển khá mạnh về kết cấu hạ tầng kinh tế, thu hút nhiều vốn đầu tƣ, nhiều địa bàn có cuộc sống đƣợc đô thị hóa, con ngƣời Hải Dƣơng thay đổi rất nhiều trong đổi mới. Nhƣ đã trình bày, tình trạng mù chữ không còn, Hải Dƣơng đã phổ cập trung học cơ sở trong toàn tỉnh. Đây là điều kiện quý báu cho quá trình phát triển. Ngƣời dân Hải Dƣơng hiện nay, ngay cả ở các vùng quê xa xôi, không chỉ công nhân, viên chức mà ngay cả nông dân đều biết chủ động tìm kiếm thông tin mình cần từ sách báo, đài, ti vi, thậm chí họ không xa lạ với
124
mạng xã hội. Nhiều ông bố, bà mẹ cũng thành thạo sử dụng Facebook, Zalo, Facetime… để kết nối các thành viên trong gia đình và mở rộng mối quan hệ xã hội. Với điều kiện đó, họ có khả năng làm bạn với con cái, theo sát sự phát triển của con em mình; họ có khả năng bảo ban con cái học tập, có thể phát hiện những vấn đề con cái mình quan tâm, xu hƣớng phát triển của con cái để chủ động hỗ trợ, giúp con em mình điều chỉnh; hoặc chí ít, họ sẽ không quá lạc hậu với những suy nghĩ, hành động của con cái.
Bên cạnh đó, tỉnh Hải Dƣơng phát huy khá tốt các hình thức truyên truyền, giáo dục, phổ biến các tri thức, hiểu biết cần thiết cho ngƣời dân qua đài phát thanh, qua các chƣơng trình học tập cộng đồng, qua các dự án …, có thể nói các gia đình có rất nhiều kênh hỗ trợ từ phía xã hội giúp con cái trang bị kiến thức, kỹ năng hội nhập xã hội, trở thành những cá nhân tốt.
Nhƣ vậy, ở nhiều gia đình Hải Dƣơng hiện nay, các thế hệ ông bà, cha mẹ có nhiều điều kiện hơn để dõi theo, định hƣớng, điều chỉnh những quan điểm, tình cảm, tâm tƣ của giới trẻ, giúp giới trẻ hƣớng tới những giá trị tích cực, tiến bộ, định hình một nhân cách tốt đẹp cho con em mình.
Trong xã hội hiện nay, thế hệ trẻ có thể thu thập, tìm kiếm thông tin, tri thức nhanh nhạy hơn do tốc độ phát triển nhanh chóng của internet, công nghệ điện tử - tin học. Các kiến thức tự nhiên xã hội, sản xuất kinh tế, văn hóa, lễ nghi, phong tục tập quán, kiến thức chăm sóc sức khỏe… đều sẵn có trên internet. Các lớp học trực tiếp, gián tiếp, kiến thức rộng mở trong thế giới công nghệ và thế giới phẳng hiện nay rất phong phú đa dạng khá đầy đủ. Tuy nhiên, thực tế Hải Dƣơng cho thấy điều đó không làm mất đi chức năng xã hội hóa cá nhân của gia đình. Bởi gia đình có vai trò quan trọng trong giáo dục định hƣớng đối với cá nhân ngay từ khi trong bụng mẹ, định hƣớng giá trị cho trẻ, uốn nắn trẻ trong các hành vi, giúp trẻ thực hành thực nghiệm các tri thức và rèn luyện giúp trẻ trƣởng thành về mọi phƣơng diện. Sự giáo dục, định hƣớng, thực nghiệm mọi tri thức của trẻ trong gia đình đặc biệt hiệu quả vì ở đây sự giáo dục phát triển trong tình cảm đặc biệt thiêng liêng của ông bà, cha mẹ, anh chị em. Trong gia đình sự giáo dục phát triển là thƣờng xuyên liên tục và sâu sát nhất ở mọi khía cạnh cuộc sống giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách.
Những khó khăn, hạn chế nhất định cũng đã và đang hiện diện đối với
chức năng giáo dục của gia đình:
125
Điều kiện kinh tế khó khăn cũng gây trở ngại đối với sự định hƣớng và điều chỉnh sự phát triển nhân cách. Một bộ phận gia đình hoàn cảnh điều kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt cha mẹ vất vả trong cuộc sống mƣu sinh, không có điều kiện thời gian cho việc chăm sóc, giáo dục định hƣớng cho trẻ em. Bên cạnh đó trong bộ phận hộ nghèo có những hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và những hộ nghèo bền vững. Hoàn cảnh gia đình quá khó khăn sẽ làm cho trẻ thiếu thốn cơ sở vật chất cho việc học hành và tiếp xúc với công nghệ, khoa học hay phƣơng tiện học tập hiện đại ngày nay. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, đa số ngƣời dân chủ yếu chú trọng việc phát triển kinh tế, đời sống tinh thần, việc nâng trình độ nhận thức và tìm hiểu chăm sóc con cái còn bị xem nhẹ. Nhiều trẻ em hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn phải làm việc, lao động từ rất nhỏ, hoặc phải nghỉ học sớm đi làm kiếm tiền phụ giúp gia đình. Hay điều kiện khó khăn có thể dẫn tới tình trạng trẻ mặc cảm, tự ti, bị lôi kéo, cám dỗ sa vào các tệ nạn xã hội. Đây là một rào cản lớn cho sự phát triển thể lực, trí tuệ và sự hình thành phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ hiện nay.
Hải Dƣơng là một trong ba tỉnh có số ngƣời lao động xuất khẩu nƣớc ngoài cao nhất Việt Nam cùng với Nghệ An và Hà Tĩnh. Điều này làm cho sự phát triển của gia đình có sự biến đổi lớn. Những gia đình bố mẹ đi làm việc xa nhà hay xuất khẩu lao động con cái thƣờng đƣợc gửi ông bà, ngƣời thân chăm sóc làm ảnh hƣởng lớn tới sự phát triển, hình thành nhân cách của thế hệ trẻ. Bên cạnh dó là những gia đình không đầy đủ nhƣ cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ mất sớm, gia đình ly hôn, ly thân, mẹ đơn thân… ở các gia đình này, điều kiện tâm lý, tình cảm thiếu thốn, thiếu vắng sự chăm sóc cần có và càng thiếu sự sát sao, kịp thời định hƣớng, uốn nắn những tâm tƣ, tình cảm diễn ra hàng ngay của thế hệ trẻ. Bên cạnh đó cũng có một số gia đình quá lệ thuộc vào công nghệ và dịch vụ xã hội, coi nhẹ chức năng nhiệm vụ của gia đình, thiếu trách nhiệm với con cái; bỏ mặc con cái cho thầy cô, nhà trƣờng. Những thiếu hụt trong gia đình đối với sự phát triển nói chung của thế hệ trẻ có sự ảnh hƣởng rất lớn tới sự hình thành và phát triển nhân cách. Nhƣ vậy muốn có những nhân cách con ngƣời phát triển toàn diện cần phải có sự phát triển gia đình hoàn thiện ở nƣớc ta hiện nay.
Ở Hải Dƣơng hiện nay phổ biến vẫn là lao động nông nghiệp, lao động phổ thông. Thế hệ ông bà cha mẹ không theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và lối sống mới của thế hệ trẻ dẫn tới những mâu thuẫn giữa các
126
thành viên của gia đình; đồng thời nạn xâm hại tình dục trẻ em, quan hệ tình dục trƣớc hôn nhân, tình trạng nạo phá thai của trẻ vị thành niên, tảo hôn, ly hôn, tội phạm trẻ em… diễn biến phức tạp trong một bộ phận gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
Trình độ nhận thức của các thành viên trong gia đình còn hạn chế gây khó khăn trong định hƣớng và điều chỉnh sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Trong một số gia đình điều kiện về năng lực, tri thức của thế hệ ông bà, cha mẹ còn rất hạn chế. Nƣớc ta phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa gián tiếp từ nền sản xuất phong kiến nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên điều kiện, tiềm lực phát triển kinh tế, nâng cao dân trí còn khá khiêm tốn. Thế hệ ông bà, cha mẹ trong gia đình Hải Dƣơng hiện nay đa số là lớp ngƣời sinh trƣớc những năm 90 của thế kỷ XX. Đây là thế hệ ngƣời Việt Nam chịu ảnh hƣởng của phƣơng thức sản xuất phong kiến, với tàn dƣ của sự bóc lột khai thác thuộc địa của thực dân, đế quốc và chịu ảnh hƣởng trực tiếp của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trƣớc năm 1986. Họ là lớp ngƣời đầu tiên tiếp cận nền kinh tế thị trƣờng; cùng với sự phát triển kinh tế thị trƣờng, sự hạn chế về trình độ khoa học công nghệ và đối mặt với mặt trái của kinh tế thị trƣờng nên nhiều thành viên trong gia đình chƣa có đƣợc kinh nghiệm và hiểu biết quy luật phát triển kinh tế - xã hội, họ cũng đang có nhiều khó khăn, mâu thuẫn, hoang mang, lúng túng trong việc lựa chọn hệ giá trị cho cuộc sống chính bản thân mình.
Trong việc nuôi dạy con cái, định hƣớng phát triển cho con cái, nhiều bậc ông bà, cha mẹ cho rằng những điều họ đang làm là những điều tốt đẹp cho con cái nhƣng có khi kết quả đem lại hoàn toàn ngƣợc lại với mong muốn, kỳ vọng tốt đẹp mà gia đình đặt ra, gây ra những hoang mang, bất hạnh cho cha mẹ và chính con cái - lớp thế hệ trẻ tƣơng lai của gia đình, dòng họ, cộng đồng. Trên thực tế dễ thấy nhiều gia đình nuông chiều con cái, trang bị cung cấp đầy đủ vật chất cho con cái sinh ra những đứa con đua đòi, hƣởng thụ…; nhiều gia đình đầu tƣ cho con tiền bạc, công sức, thời gian hy sinh vì con cái nhƣng vô tình gây ra áp lực học tập, trầm cảm, tự kỷ, tự tử…; nhiều gia đình định hƣớng con cái quá coi trọng giá trị vật chất đánh đổi bằng mọi giá rồi “gả bán” lấy chồng nƣớc ngoài, làm cho một bộ phận giới trẻ chạy theo vật chất hay cuộc sống đua đòi, “sống ảo”…Thực tế trên đã và đang diễn ra ở các gia đình không chỉ riêng ở Hải Dƣơng mà tồn tại trên nhiều tỉnh, thành ở Việt Nam. Nó làm cho thế hệ trẻ bị
127
ảnh hƣởng nghiêm trọng, gây ra sự lệch lạc trong nhận thức, lối sống và ảnh hƣởng tiêu cực đến sự phát triển nhân cách.
Hiện nay nhiều gia đình sai lệch trong giáo dục định hƣớng; nuông chiều, hƣớng con học đơn thuần là lý thuyết, không cho làm việc nhà, làm thay làm hộ con, hƣớng con học theo thành tích… Điều này đã và đang làm cho một bộ phận giới trẻ hiện nay khó hội nhập xã hội; thiếu tự lập; thiếu kỹ năng sống, kỹ năng tìm kiếm việc làm; thiếu ý thực tự lập; thiếu ý thức, trách nhiệm bản thân với cộng đồng. Nhƣ đã trình bày qua khảo sát chỉ có 27.3% gia đình chú trọng dạy con công việc gia đình [phụ lục 17].
Sự bao bọc của gia đình, không tạo điều kiện cho con hòa nhập, trải nghiệm va chạm xã hội. Trên thực tế nhiều bạn trẻ bị sốc, hoang mang, lo sợ, tự ti khi bƣớc vào công việc, cuộc sống. Không xác định đƣợc niềm tin, lý tƣởng sống. Sống hời hợt; đề cao chủ nghĩa cá nhân, hƣởng thụ, sống gấp, sống vội, “sống ảo” thiếu trách nhiệm cá nhân trƣớc gia đình, xã hội. Có những trƣờng hợp tự tử khi không giải quyết đƣợc mâu thuẫn bản thân, không tìm lý tƣởng sống, hay sống thiếu niềm tin dễ sa đà vào tệ nạn xã hội, chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ.
Việc trang bị kiến thức cho gia đình trong giáo dục định hƣớng chuẩn bị cho thế hệ trẻ hội nhập ở xã hội hiện nay là rất quan trọng. Bởi có những quan điểm giáo dục, những chuẩn mực trong gia đình truyền thống hiện nay đã và đang biểu hiện lạc hậu không phù hợp với điều kiện phát triển tiến bộ xã hội. Nhiều gia đình đang biểu hiện hoang mang, lúng túng trong việc giáo dục định hƣớng cho thế hệ trẻ hội nhập xã hội. Xu hƣớng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đã làm cho nhiều giá trị văn hóa truyền thống trở lên lạc hậu, lỗi thời. Văn hóa gia đình khép kín trọng gia đình dòng họ “cha truyền con nối”, “phép vua thua lệ làng”, đã trở lên lạc hậu trong xã hội xã hội hóa thông tin hiện nay. Văn hóa nƣớc ta chịu ảnh hƣởng sâu sắc của văn minh phƣơng Đông với phƣơng thức sản xuất châu Á, sản xuất lúa nƣớc chậm thay đổi, sự cố kết cộng đồng chặt chẽ trong dựng nƣớc và giữ nƣớc nhƣng cũng thể hiện sự chậm chạp thiếu sáng tạo trong phát triển khoa học công nghệ.
2.3. Một số vấn đề đặt ra về vai trò của gia đình đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay
Thứ nhất, điều kiện kinh tế còn khó khăn làm hạn chế vai trò của gia
đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
128
Công tác xóa đói giảm nghèo ở Hải Dƣơng đạt đƣợc những thành tựu nổi
bật những năm qua, tuy nhiên vẫn có một bộ phận hộ gia đình tái nghèo và
nghèo bền vững từ nhiều nguyên nhân. Điều này gây ra những khó khăn rất lớn
đối với việc thực hiện các chức năng gia đình nhằm phát triển nhân cách thế hệ
trẻ hiện nay, bởi điều kiện kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định, có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu giúp phát triển thể lực và năng lực của các cá nhân trong gia
đình nói chung và thế hệ trẻ nói riêng.
Khó khăn về kinh tế làm giảm đi khá nhiều việc thực hiện tất cả các chức
năng của gia đình (nhƣ đã phân tích ở phần thực trạng). Không thể phủ nhận có
những gia đình hoàn cảnh kinh tế khó khăn nhƣng vẫn duy trì đƣợc sự yêu
thƣơng giữa các thành viên, con cái vẫn chăm ngoan học giỏi và thành ngƣời tốt.
Nhƣng khó khăn về kinh tế dẫn đến không chăm lo đƣợc đầy đủ, kịp thời cho
con cái; vì phải kiếm sống mà đành phải phó mặc con cái cho ông bà và xã hội;
do nỗi lo cơm áo gạo tiền mà không thực sự trở thành những hình mẫu chuẩn
mực cho con cái.v.v.. cũng là thực tế phổ biến, trẻ em trong những hoàn cảnh
này dù có ngoan ngoãn, vƣợt khó đến mấy đi nữa thì cũng có những lỗ hổng về
nhân cách, chịu những thiệt thòi về tâm lý, tình cảm.
Đó là còn chƣa nói đến sự tự ti, mặc cảm trƣớc bạn bè làm hạn chế khả
năng học tập, tiếp thu kiến thức của các em; thậm chí trong điều kiện kinh tế thị
trƣờng, hoàn cảnh khó khăn ít đƣợc cảm thông, thậm chí còn bị dè bỉu khiến
không ít trẻ trở nên cá biệt, dễ bị thành phần xấu trong xã hội lôi kéo; thêm vào
đó, bên cạnh hoàn cảnh khó khăn của một số gia đình lại là điều kiện dƣ dả, có
khi sống trên tiền của những hộ gia đình làm giàu bằng con đƣờng bất chính nhƣ
buôn lậu, tham ô tham nhũng, khiến cho lớp ngƣời trẻ chƣa có đƣợc nhận thức
đầy đủ dễ trở nên bi quan, chán nản, oán cha trách mẹ, dễ sa vào tội lỗi…
Tóm lại, điều kiện kinh tế hoàn toàn không phải là duy nhất, nhƣng là một yếu tố rất quan trọng của mỗi gia đình trong quá trình giáo dục hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ Hải Dƣơng hiện nay.
Thứ hai, tồn tại những hạn chế trong nhận thức về vai trò của gia đình
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
Điều kiện vật chất có vai trò quyết định sự phát triển của đời sống tinh thần nhƣng ý thức và trình độ nhận thức của con ngƣời có vai trò độc lập tƣơng
129
đối của nó. Đời sống tinh thần, trình độ nhận thức của con ngƣời có vai trò tác động to lớn đối với sự phát triển của xã hội nói chung, của các gia đình nói riêng trong quá trình phát triển.
Trình độ nhận thức của một bộ phận gia đình hiện chƣa theo kịp sự phát triển, biến đổi của xã hội. Đặc biệt là sự hạn chế trong nhận thức những hình thái ý thức xã hội về chính trị, pháp luật, văn hóa…, trong đó nhận thức về vai trò chức năng của gia đình đối với sự phát triển của thế hệ trẻ nói chung và sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ còn nhiều thiếu hụt. Nghiên cứu thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở Hải Dƣơng cho thấy tính tự phát là chủ yếu của các gia đình trong hình thành và phát triển nhân cách cho con em mình. Có nhiều gia đình ông bà, cha mẹ hiểu biết thực hiện tốt vai trò của mình, nhƣng còn một bộ phận rất lúng túng và hạn chế, thậm chí sai lầm ở những mức độ khác nhau.
Có những gia đình cho rằng hiện nay vai trò, chức năng của gia đình đã đƣợc chuyển giao cho xã hội và dịch vụ xã hội, các gia đình này chƣa hiểu rằng vai trò, chức năng của gia đình đối với sự phát triển của trẻ nhỏ là không có tổ chức xã hội nào thay thế đƣợc. Có tới 84% gia đình nhận định việc xây dựng và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ là trách nhiệm chủ yếu từ gia đình; còn gần 16% gia đình cho rằng trách nhiệm thuộc về nhà trƣờng, cơ quan nhà nƣớc, pháp luật, tôn giáo…[phụ lục 5].
Nhiều gia đình có trình độ nhận thức chƣa đáp ứng đƣợc sự phát triển biến đổi của khoa học - công nghệ, những vai trò hạn chế của cơ chế thị trƣờng, của sự phát triển tâm sinh lý của thế hệ trẻ hiện nay. Cho nên chƣa thực sự phát huy đƣợc vai trò của gia đình hiện đại hiện nay. Có đến 28.7% gia đình cho biết nguyên nhân giáo dục thế hệ trẻ từ 0- 18 tuổi khó khăn là do lứa tuổi trẻ sử dụng khoa học công nghệ hiện đại mà gia đình không theo kịp [phụ lục 23.1].
Thứ ba, còn nhiều hạn chế về lựa chọn các giá trị truyền thống và hiện đại
trong giáo dục gia đình nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
Xuất phát từ xu thế phát triển biến đổi tất yếu của gia đình hiện nay, từ nguồn gốc phát triển, biến đổi của gia đình sẽ tồn tại những mặt đối lập, những giá trị cũ - mới hay những giá trị gia đình truyền thống và gia đình hiện đại. Trong quá trình vận động, đấu tranh cần chọn lọc kế thừa những giá trị tốt đẹp bền vững của gia đình truyền thống và tiếp thu chọn lọc những giá trị văn hóa
130
gia đình tiến bộ hiện đại. Tuy nhiên việc lựa chọn phát triển giá trị gia đình hiện nay tồn tại nhiều mâu thuẫn tạo ra cho các gia đình sự lúng túng, thiếu phƣơng hƣớng khi nhiều giá trị trong xã hội bị đảo lộn, thật - giả, cũ - mới, tốt - xấu đan xen tồn tại giữa những làn ranh giới rất mong manh. Có tới 38.3% gia đình đƣa ra nguyên nhân của sự khó khăn trong giáo dục thế hệ trẻ dƣới 18 tuổi là do sự khác biệt về quan điểm, lối sống… giữa các thế hệ trong gia đình [phụ lục 23.2]
Việc lựa chọn hệ giá trị gia đình hiện nay là một quá trình phủ định những giá trị cũ, phát triển hình thành những giá trị mới, đòi hỏi phải có nhận thức và cách làm biện chứng, đòi hỏi phải có những nghiên cứu đánh giá vị trí, vai trò của những giá trị văn hóa gia đình trong thực tế để xây dựng gia đình thực sự tiến bộ. Từ đó thiết lập hệ thống giá trị văn hóa cho gia đình hiện đại để bản thân các cá nhân trong gia đình định hƣớng xây dựng nhân cách phù hợp.
Hiện nay nhiều gia đình chƣa nhận thức đƣợc việc phát huy vai trò của những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống. Chƣa chọn lọc đƣợc những giá trị văn hóa gia đình truyền thống phù hợp để vận dụng phát triển trong giai đoạn hiện nay.
Bản thân các cấp lãnh đạo, những ngƣời làm công tác phát triển gia đình và các gia đình không phải đều nhận thức đúng và hành động phù hợp với quy luật phát triển tất yếu nhƣ trên. Bên cạnh đó thực tiễn việc xây dựng gia đình hiện nay cũng gặp phải những tác động tiêu cực từ nhiều yếu tố môi trƣờng tự nhiên và những biến đổi của sự phát triển xã hội trong nƣớc và quốc tế. Trong quá trình chỉ đạo và thực hiện ở một số gia đình còn có những quan điểm trái chiều:
Xu hƣớng thứ nhất, có những gia đình đề cao giá trị gia đình truyền thống nên duy trì, tuyệt đối hóa vị trí gia trƣởng của nam giới, dẫn tới bất bình đẳng giới giữa vợ chồng, con trai và con gái; gây ra hậu quả bạo lực gia đình; bất bình đẳng giới khi tỉ lệ sinh con trai và con gái ở Hải Dƣơng cao nhất cả nƣớc. Các gia đình này chƣa tạo điều kiện, thậm chí ngăn cản không cho những yếu tố của gia đình hiện đại, tiến bộ đƣợc đƣa vào vận dụng vào phát triển, xây dựng gia đình mình. Ví dụ những yếu tố bình đẳng nam nữ, không phân biệt giới tính khi sinh, chú trọng chất lƣợng nuôi con tốt chƣa đƣợc quan tâm, họ chỉ đề cao số lƣợng với quan niệm con đông là gia đình “đại phúc”. Xu hƣớng thứ hai, là những gia đình phủ định sạch trơn giá trị của gia đình truyền thống. Biểu hiện quay lƣng lại những giá trị gia đình truyền thống, đề cao vai trò tự do cá nhân, đề
131
cao vai trò gia đình hạt nhân, không nhận thấy vị trí vai trò gia đình nhiều thế hệ, phụ thuộc vào dịch vụ xã hội mà chƣa thấy rõ vai trò không thể thay thế của gia đình đối với sự phát triển của thế hệ trẻ…
Hai xu thế này đang diễn ra sự đấu tranh âm thầm, liên tục trong các gia đình ở những quan điểm trái chiều của hai thế hệ trong gia đình là thế hệ bố mẹ, ông bà và thế hệ con cháu trong gia đình.
Thứ tư, sự phối kết hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội chưa hiệu quả trong việc phát huy vai trò của gia đình với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
Thế hệ trẻ phát triển và hoàn thiện nhân cách trong ba môi trƣờng cơ bản là gia đình, nhà trƣờng và xã hội. Tuy ba môi trƣờng phát triển trên có vị trí, vai trò chức năng khác nhau nhƣng đều cùng mục tiêu chung giúp thế hệ trẻ phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, nhân cách, đạo đức. Nhƣ vậy để đạt đƣợc mục tiêu chung là phát triển những con ngƣời toàn diện thì gia đình, nhà trƣờng và xã hội phải có sự thống nhất, gắn kết, chia sẻ tạo sự phát triển tốt nhất cho mọi cá nhân con ngƣời nói chung và thế hệ trẻ nói riêng.
Tuy nhiên trong sự phát triển của xã hội hiện nay, sự thống nhất, gắn kết của gia đình với nhà trƣờng và xã hội còn những hạn chế, yếu kém. Có những gia đình đổ lỗi cho hoàn cảnh, công việc bận rộn, kiếm tiền nuôi con cái nên mọi chức năng còn lại của gia đình nhƣ việc chăm sóc, trò chuyện, học tập của con cái đƣợc giao phó, ủy thác cho thầy cô, các dịch vụ xã hội nhƣ gia sƣ, giúp việc, dịch vụ vui chơi, giải trí cho thế hệ trẻ… Những điều này làm cho cha mẹ và con cái xa cách; thiếu sự gắn kết, chia sẻ. Điều này kéo theo rất nhiều hậu quả ảnh hƣởng tới các gia đình mà trực tiếp là thế hệ trẻ: trẻ tự kỷ, bỏ nhà đi, tham gia các tệ nạn xã hội, trở thành nạn nhân của tội phạm bắt cóc, buôn ngƣời, ma túy, mại dâm.v.v…
Bên cạnh đó là sự thiếu trách nhiệm của trƣờng học, các tổ chức, dịch vụ xã hội. Khi nền kinh tế thị trƣờng tác động làm cho trƣờng học hay tổ chức xã hội, dịch vụ xã hội chạy theo lợi nhuận, họ thƣờng quên đi trách nhiệm cao đẹp là phát triển cá nhân con ngƣời và xây dựng xã hội an toàn, tiến bộ vì mục tiêu chung là sự phát triển bền vững. Chỉ vì lợi nhuận trƣớc mắt, làm ăn chụp giật mà quên đi lợi ích phát triển lâu dài vì sự tiến bộ, văn minh chung của xã hội. Ở Hải Dƣơng gần đây những em bé bị bắt cóc, tự kỷ, phạm tội, tham gia tệ nạn xã hội,
132
và là nạn nhân của những vụ án nghiêm trọng gia tăng. Các quán game - trò chơi điện tử, lô đề, cờ bạc, cá cƣợc mọc ra ngày càng nhiều, hoạt động tinh vi dễ dàng lôi kéo trẻ em sa ngã.
Trên đây là những vấn đề đặt ra không chỉ của các gia đình Hải Dƣơng mà theo chúng tôi, đó là tình trạng chung của cả nƣớc. Giải quyết những vấn đề này là điều hết sức quan trọng liên quan tới mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hải Dƣơng và cả đất nƣớc.
Tiểu kết chƣơng 2 Vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ chịu sự tác động từ rất nhiều các yếu tố chủ quan và khách quan. Trong đó điều kiện khách quan bên ngoài là môi trƣờng tự nhiên - xã hội, điều kiện chủ quan xuất phát từ chính chủ thể - gia đình là những điều kiện sản xuất kinh tế, trình độ nhận thức, quá trình chọn lọc phát triển hệ giá trị cho gia đình và sự liên hệ giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội.
Những yếu tố tác động đến vai trò của gia đình bao gồm những điều kiện khách quan bên ngoài gia đình nhƣ môi trƣờng tự nhiên, xã hội; nhân tố chủ quan xuất phát từ chính gia đình nhƣ điều kiện kinh tế, trình độ nhận thức, mối liên hệ của gia đình với nhà trƣờng và xã hội trong quá trình thực hiện vai trò của mình.
Vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay đã và đang thu đƣợc những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên các gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, hạn chế trong việc phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ: sự khó khăn về kinh tế của nhiều gia đình làm hạn chế tới việc chăm sóc sức khỏe, thể chất các thành viên, hạn chế trong giáo dục nâng cao dân trí, hạn chế tiếp cận với các cơ hội phát triển; những vấn đề ô nhiễm môi trƣờng; hàng hóa kém chất lƣợng, mất an toàn vệ sinh thực phẩm; bệnh tật nguy hiểm gia tăng … Bên cạnh đó trình độ nhân thức của nhiều gia đình còn hạn chế gây trở ngại cho việc chăm sóc, phát triển thể chất trí tuệ cho thế hệ trẻ. Mâu thuẫn tất yếu giữa các thế hệ trong gia đình với sự tồn tại của các yếu tố cũ, lạc hậu của các thế hệ đi trƣớc và sự chủ quan, bồng bột… của thế hệ trẻ gây khó khăn, thách thức trong việc phát huy vai trò của gia
133
đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
Thực trạng vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, khắc phục, cụ thể: điều kiện kinh tế của nhiều gia đình còn hạn chế trong việc phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ; trình độ nhận thức hạn chế trong phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ; phát huy giá trị văn hóa của gia đình truyền thống và tiếp thu chọn lọc các giá trị văn hóa tiến bộ của gia đình hiện đại còn nhiều hạn chế; sự kết hợp giữa gia đình, nhà trƣờng, xã hội chƣa hiệu quả trong việc phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
Sự phát triển nhân cách con ngƣời từ gia đình quyết định thế hệ tƣơng lai của xã hội sẽ xây dựng và phát triển đất nƣớc nhƣ thế nào. Gia đình cần phải tạo ra những tiền đề, điều kiện cho sự ƣơm mầm, ra đời và phát triển những nhân cách con ngƣời mới, con ngƣời hiện đại. Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng, khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp và cụ thể, đƣợc thực hiện một cách tích cực trong thời gian tới.
134
Chƣơng 3
MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO THẾ HỆ TRẺ Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY
3.1. Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho các gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng
Thứ nhất, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hội nhập quốc tế; gắn liền với phát triển bền vững nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các gia đình trong tỉnh.
Thực tiễn nhiều địa phƣơng thực hiện quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đã tạo ra việc làm, tăng thu nhập, cải thiện rõ ràng điều kiện vật chất cho nhân dân xong bên cạnh đó phát sinh những vấn nạn mới đó là tình trạng ô nhiễm môi trƣờng gần các địa phƣơng có khu công nghiệp, bệnh tật nguy hiểm nhƣ ung thƣ gia tăng. Trong các gia đình xuất hiện nhiều tình trạng bố mẹ mải lo kiếm tiền, con cái hƣ hỏng, tham gia tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật ngày càng diễn biến phức tạp… Nhƣ vậy khi nghiên cứu các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội cần phải gắn liền với sự phát triển bền vững vì sự tiến bộ của con ngƣời đặc biệt thế hệ trẻ.
Cần thực hiện hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo, ngăn chặn tình trạng tái nghèo các hộ gia đình trong tỉnh hiện nay. Thực hiện việc xóa đói giảm nghèo trong các hộ nghèo của tỉnh cần có chính sách phối kết hợp cho vay vốn, hƣớng nghiệp, tạo việc làm tăng thu nhập. Tránh tình trạng các hộ gia đình luẩn quẩn thoát nghèo rồi lại tái nghèo. Cần giảm đến mức tối đa các hộ nghèo vì đây là những đối tƣợng gia đình có nguy cơ chịu tác động lớn nhất của mặt trái của cơ chế kinh tế thị trƣờng và những tệ nạn xã hội.
Giảm nghèo bền vững là hoạt động làm cho ngƣời nghèo thoát khỏi nghèo khổ cả về vật chất, về văn hóa và tinh thần; bảo đảm không bị tái nghèo và vƣơn lên mức sống trung bình hoặc khá giả.
Các hộ nghèo ở Hải Dƣơng chủ yếu là hộ thuộc diện chính sách; ngƣời có công do ảnh hƣởng nặng nề từ chiến tranh; hộ chỉ có ngƣời già yếu, ngƣời bị bệnh hiểm nghèo; hộ nghèo do nữ là chủ hộ khó khăn về kinh nghiệm sản xuất, khả năng lao động, khả năng tính toán, lo liệu “nhìn xa trông rộng” hạn chế…
135
Hiện xu hƣớng tái nghèo tăng nhanh do tốc độ phát triển kinh tế, tai nạn, rủi ro; thiên tai…
Hải Dƣơng hiện đã và đang thực hiện những biện pháp xóa đói giảm nghèo phát huy tinh thần “tự giảm nghèo bền vững”; “tự an sinh” của các hộ gia đình thuộc hộ nghèo. Tuy thế cần quyết liệt hơn và cần có những biện pháp hỗ trợ trực tiếp, mạnh mẽ, cụ thể hơn, chẳng hạn với khả năng kinh tế đã có đƣợc, tỉnh nên miễn phí 100% học phí và các khoản thu ngoài học phí trong 12 năm học phổ thông cho con em hộ gia đình nghèo; đồng thời cho các con đƣợc hƣởng bảo hiểm y tế 100%.
Thứ hai, cần khắc phục ngay 2 hạn chế trong sản xuất kinh tế hiện nay: Hạn chế thứ nhất, tình trạng sản xuất kinh tế nhỏ, manh mún trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ; sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự nhiên tự cung tự cấp.
Trong tỉnh vẫn tồn tại quy mô sản xuất nhỏ ở hộ gia đình, điều này rất khó khăn cho việc áp dụng khoa học kỹ thuật, tập trung vốn và quản lý chất lƣợng sản phẩm làm ra và việc xả thải rác ra môi trƣờng. Cho nên việc sản xuất thủ công chân tay, thô sơ ở các ngành nghề kinh tế còn phổ biến; hiệu quả năng suất chất lƣợng không cao; thiếu chuyên môn hóa, thị trƣờng tiêu thụ hạn chế.
Trong nông nghiệp, sản xuất quy mô nhỏ, manh mún còn ảnh hƣởng nặng nề của nền kinh tế tự cung tự cấp truyền thống. Trong lĩnh vực nông nghiệp mặc dù đã tiến hành “dồn ô đổi thửa” nhƣng số hộ sản xuất thành công sau đó còn hạn chế, phần lớn vẫn là quy mô sản xuất quá nhỏ, manh mún. Quá trình tích tụ tập trung diện tích đất nông nghiệp chuyển sang sản xuất hàng hóa nông nghiệp quy mô công nghiệp hóa hiện đại hóa vẫn còn chậm và nhiều hạn chế. Bên cạnh đó máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nƣớc ta giá cả khá cao, vƣợt quá khả năng của nông dân do nhập từ nƣớc ngoài, bên cạnh đó nhiều máy móc nhập là loại cũ, đã lạc hậu nên hiệu quả kinh tế rất hạn chế.
Nhiều hộ gia đình nông dân của tỉnh đã chuyển đổi sang những hoạt động phi nông nghiệp khác nhƣng vẫn giữ ruộng đất, một nguyên nhân quan trọng là giữ ruộng để “bảo hiểm rủi ro” bởi hiện nay nƣớc ta chƣa có chính sách nhƣ trợ cấp thất nghiệp cho ngƣời nông dân, hay lƣơng hƣu nhƣ đội ngũ công nhân, viên chức, công chức. Bên cạnh đó nhiều hộ sản xuất nông nghiệp muốn tập trung mở
136
rộng diện tích đất đai nhƣng không có đủ vốn thuê và mua đất canh tác. Nhƣ vậy, để phát triển kinh tế gia đình và kinh tế hộ nông dân cần phải:
- Xây dựng hệ thống an sinh xã hội cho ngƣời nông dân: cho nông dân vay vốn với thủ tục không phiền hà; có chính sách trợ cấp thất nghiệp cho nông dân; nghiên cứu chính sách lƣơng hƣu cho nông dân.
- Chính sách chuyển giao đất nông nghiệp cần có sự giúp đỡ từ nhà nƣớc, nhà nƣớc hỗ trợ 50% kinh phí cho các hộ gia đình muốn thuê ruộng lâu năm để sản xuất nông nghiệp quy mô lớn.
Ở Hải Dƣơng tình trạng sản xuất ứ trệ hàng nông sản quy mô không lớn nhƣ tình trạng “giải cứu dƣa hấu”; “giải cứu thanh long” nhƣ các tỉnh phía nam nhƣng trên thực tế, tình trạng rau màu “đƣợc mùa mất giá”, lợn không tiêu thụ đƣợc hay những hộ nông dân trồng rất nhiều rau bắp cải, xu hào đƣợc mùa không bán đƣợc và phải đi chặt bỏ làm phân hữu cơ ngay trên ruộng; thiệt hại kinh tế và sức lao động rất lớn. Nhiều gia đình trồng ổi, vải thiều thay thế trồng cây kém năng xuất nhƣng đƣợc mùa mất giá, thƣơng lái ép giá, hậu quả là các gia đình vẫn khó khăn mặc dù đã cần cù một nắng hai sương lao động hết sức vất vả, lam lũ, chuyển đổi cây trồng vật nuôi. Đây là biểu hiện của sản xuất kinh doanh tự phát, ngƣời nông dân với trình độ sản xuất còn mang tính tự nhiên và đặc biệt là họ đơn độc trong sản xuất kinh tế, chƣa có sự liên kết với các nhà máy chế biến, doanh nghiệp dịch vụ bán hàng, hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa. Đây là vấn đề tự những ngƣời nông dân sẽ khó mà giải quyết đƣợc, do đó, chúng tôi cho rằng để hạn chế tình trạng trên, Hội nông dân tỉnh cùng các cơ quan liên quan cần tìm kiếm hợp đồng sản xuất và tiêu thụ nông sản cho các hộ nông dân. Đồng thời chính trong gia đình ngƣời nông dân phải tự chủ trong sản xuất cần liên kết với nhau thành lập các hiệp hội sản xuất vải thiều, rau củ quả,… để hợp tác sản xuất, hợp đồng thu mua, tiêu thụ sản phẩm để tránh bị thƣơng lái ép giá và giảm chi phí ở các khâu trung gian từ đó hàng hóa đến tay ngƣời tiêu dùng với chất lƣợng và giá cả tốt nhất, kích thích sản xuất phát triển.
Sản xuất công nghiệp, dịch vụ và nghề thủ công vẫn còn tồn tại nhiều cơ sở quy mô sản xuất nhỏ, sức cạnh tranh kém, khó khăn trong quản lý nhà nƣớc về chất lƣợng hàng hóa, xử lý rác thải, khí thải… Nguyên nhân do khó khăn về nguồn vốn; tƣ duy kinh tế còn ảnh hƣởng của tƣ tƣởng “tiểu chủ”, sản xuất nhỏ, mục tiêu lợi nhuận trƣớc mắt… Trong dân cƣ có nhiều vốn nhàn rỗi, tuy nhiên
137
do kiến thức quản lý tài chính hạn chế và tác động của lạm phát kinh tế từ những năm 70, 80 của thế kỷ XX trong cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp vẫn đè nặng tâm lý của ngƣời dân, phần lớn bà con vẫn có thói quen cất trữ tiền mặt và vàng trong nhà. Để khắc phục tình trạng này chúng tôi đề xuất giải pháp nhằm huy động vốn cho kinh doanh và làm cho đồng tiền nhàn rỗi trong các hộ gia đinh sinh lời:
- Huy động vốn nhàn rỗi từ trong các hộ dân cƣ bằng chính sách tài chính
từ thực sự uy tín, ngƣời dân tin tƣởng giao phó số tiền tiết kiệm cho cộng đồng.
- Tích cực tuyên truyền giáo dục, trang bị kiến thức kinh tế với nhiều hình thức, nội dung đa dạng sáng tạo và thời gian nhiều hơn trên các kênh truyền hình TV, internet, mạng xã hội, đài, báo…nhƣ: “CEO chìa khóa thành công”, “Shark tank Việt Nam - thƣơng vụ bạc tỷ”, Bản tin tài chính… Đây là cơ sở cho các tri thức kinh tế hiện đại tiếp cận đến đƣợc với các gia đình và thế hệ trẻ.
- Các cơ sở sản xuất cần công khai tài chính, minh bạch tài chính, tham gia thị trƣờng chứng khoán tạo cơ hội cho các gia đình tham gia đầu tƣ hoặc thu hút vốn đầu tƣ trong và ngoài nƣớc.
- Các hộ gia đình cần chủ động học hỏi, nắm bắt khoa học, kỹ thuật, mở rộng sản xuất, tìm hiểu cơ chế kinh doanh, cơ chế thị trƣờng và mở rộng thị trƣờng để sản xuất theo hƣớng sản xuất hàng hóa quy mô lớn.
- Giáo dục thế hệ trẻ biết lao động, có kiến thức về sản xuất kinh tế, tài chính, thị trƣờng… tham gia lao động sản xuất của chính gia đình tăng thu nhập. Hạn chế thứ 2, sản xuất kinh tế của tỉnh Hải Dƣơng còn thiếu tính bền
vững gây ra tình trạng ô nhiễm môi trƣờng, mất an toàn vệ sinh thực phẩm.
Sản xuất kinh tế các ngành nghề đều bộc lộ rõ những yếu tố bất ổn thƣờng diễn ra khi nền kinh tế thị trƣờng còn trong giai đoạn thấp, đó là vấn đề rác thải, nƣớc thải, khí thải ra môi trƣờng chƣa đƣợc ngƣời sản xuất quan tâm, cùng với sự quản lý lỏng lẻo của cơ quan nhà nƣớc . Nƣớc thải, khí thải, rác công nghiệp và rác sinh hoạt ở những vùng dân cƣ gần khu công nghiệp gây ra tình trạng ô nhiễm môi trƣờng và nhiều bệnh tật nguy hiểm ngày càng gia tăng với độ tuổi ngày càng trẻ hóa. Đặc biệt là khu đô thị và khu công nghiệp của tỉnh - nơi tập trung sinh sống nhiều gia đình công nhân có tuổi đời rất trẻ, luôn có mật độ dân cƣ đông đúc, con cái của đa số công nhân sinh sống trong các khu nhà trọ nhỏ
138
hẹp. Điều này có ảnh hƣởng lớn tới thế hệ con cái những ngƣời lao động trong các khu nhà máy xí nghiệp.
Bên cạnh đó nhƣ đã trình bày ở phần thực trạng, vấn nạn thực phẩm bẩn, thực phẩm chứa hóa chất độc hại ảnh hƣởng tới tính mạng con ngƣời, những hộ nông dân lạm dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, chất kích thích sinh trƣởng vƣợt giới hạn cho phép làm giảm chất lƣợng hàng hóa, thoái hóa đất, ô nhiễm nguồn nƣớc, đa dạng sinh học suy giảm, phá hủy môi trƣờng tự nhiên… đang hiện diện ở Hải Dƣơng với mức độ đáng báo động.
Với những tồn tại này, chúng tôi đề xuất giải pháp để tạo lập môi trƣờng
sạch cho phát triển bền vững:
Đối với vấn đề rác thải gây ô nhiễm môi trường, thứ nhất, cần áp dụng phân loại rác trƣớc khi xử lý nhƣ ở các nƣớc tiên tiến. Cụ thể từ trong mỗi gia đình có sự phân loại các loại rác thải (hữu cơ, giấy, nhựa, kim loại; rác thải công nghiệp, rác thải y tế, rác thải xây dựng…); cần khu và thùng chứa rác công cộng cho rác đã đƣợc phân loại. Để thực hiện điều này cần tuyên truyền sâu rộng, phát huy ý thức tự giác của các gia đình, phát huy vai trò các tổ chức quần chúng ở khu dân cƣ, có động viên kịp thời những gia đình thực hiện tốt. Thứ hai, xử lý hành vi phạm tội gây ô nhiễm môi trƣờng với mức phạt tiền cao hơn những quy định cũ; xử lý tiền phải tƣơng ứng và cao hơn mức chi phí cho việc xử lý hậu quả trả lại môi trƣờng tự nhiên nhƣ trƣớc khi bị ô nhiễm; xử lý hình sự với cá nhân và ngƣời đứng đầu các tổ chức gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, không khắc phục đƣợc hậu quả. Thứ ba, ngƣời dân phải thực hiện đƣợc thực chất quyền làm chủ xã hội, tham gia vào quản lý nhà nƣớc, ngƣời dân là ngƣời “bảo đàm an ninh, trật tự” tốt hơn ai hết trong phát hiện, báo cáo các cơ sở sản xuất có biểu hiện vi phạm; khắc phục hiện tƣợng thờ ơ, vô cảm của ngƣời dân với những vi phạm trong đời sống xã hội.
- Thực hiện các việc cụ thể trong gia đình nhƣ hạn chế sử dụng túi nilong xả thải rác ra môi trƣờng bằng các biện pháp nêu gƣơng từ chính thế hệ ông bà, bố mẹ trong gia đình để trẻ nhƣ đi chợ không dùng túi nilong đựng hàng, mang hộp mua thức ăn không dùng túi nilong, thu gom pin rác thải đúng quy định…
Đối với vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm nói riêng và hàng hóa nói chung đối với sức khỏe con ngƣời và môi trƣờng tự nhiên, cần tuyên truyền giáo dục về
139
đạo đức và văn hóa sản xuất kinh doanh trong xã hội; tăng mức phạt về hành chính đủ sức răn đe đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm bẩn, hàng hóa gây độc hại cho ngƣời tiêu dùng; có biện pháp quản lý chặt chẽ từ chính ngƣời dân dân, các tổ chức, cơ quan quản lý nhà nƣớc trong mọi hoạt động kinh doanh với vấn đề gây ô nhiễm môi trƣờng.
- Giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức đƣợc tình trạng mất an toàn vệ sinh thực phẩm, bản thân trẻ em biết phân biệt rõ thực phẩm gây mất an toàn cho sức khoẻ, tuổi thọ con ngƣời.
Phát triển kinh tế hƣớng tới sự phát triển bền vững, tạo nguồn hàng hóa chất lƣợng, phong phú, năng xuất, chất lƣợng, an toàn vì sức khỏe ngƣời tiêu dùng. Từ đó làm cho kinh tế gia đình phát triển, môi trƣờng xã hội an toàn cho cá nhân phát triển. Nguồn hàng hóa kém chất lƣợng, mất an toàn vệ sinh thực phẩm làm cho sản xuất chỉ đƣợc lợi nhuận trƣớc mắt, lâu dài khó tồn tại và gây thiệt hại to lớn về kinh tế và xã hội. Cần nhanh chóng xóa bỏ vấn nạn sản xuất kinh doanh “rau hai luống, lợn hai chuồng” – loại bỏ tƣ duy sản xuất tiểu nông “khôn lỏi”, ích kỷ, hẹp hòi trồng “rau sạch”, nuôi “lợn sạch” cho gia đình mình ăn còn sản phẩm bẩn, rau chứa hóa chất độc hại, lợn nhiều hooc-môn tăng trƣởng…bán ra thị trƣờng.
Xử lý thật nghiêm minh bằng pháp luật các trƣờng hợp vi phạm đồng thời các cơ quan nhà nƣớc cần có chính sách và thực hiện phát động các phong trào làm cho mỗi ngƣời dân trở thành “ngƣời thực thi pháp luật” nói nên tiếng nói và đƣợc bảo vệ khi có hành động phát hiện, ngăn chặn các hình thức vi phạm trong sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, xã hội cần quan tâm và có những chính sách nhằm phát huy nguồn trợ cấp và sử dụng hiệu quả nguồn trợ cấp cho các hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đặc biệt là trẻ mồ côi.
Thực tế hiện nay những hộ khó khăn và đặc biệt khó khăn đã đƣợc cộng đồng xã hội quan tâm sẻ chia giúp đỡ từ nguồn ngân sách nhà nƣớc và từ các tổ chức, cá nhân trong nƣớc, quốc tế. Tuy nhiên ngay trong việc sử dụng nguồn vốn này vẫn còn tồn tại vấn đề tham ô, tham nhũng, lãng phí và sử dụng không hiệu quả các nguồn trợ cấp, cho vay từ phía chính quyền địa phƣơng; nhiều gia đình “dựa dẫm”, lợi dụng nguồn trợ cấp trong xã hội, do đó việc sử dụng nguồn trợ cấp cho hộ gia đình khó khăn nhiều nơi chƣa hiệu quả; mất lòng tin của nhân dân
140
và các tổ chức khi tham gia công tác từ thiện, giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài chúng tôi đề nghị:
- Sử dụng nguồn kinh phí hỗ trợ công khai, minh bạch, hiệu quả bằng các chƣơng trình hỗ trợ, giảm bớt thủ tục hành chính; giảm chi phí truyền thông, quảng cáo… sử dụng mạng xã hội, internet tƣờng thuật trực tiếp các hoạt động từ thiện, trao quà, cung cấp vốn; các cấp quản lý và tổ chức đoàn, hội phải thực sự uy tín, trung thực để các tổ chức xã hội và ngƣời dân tin tƣởng, tham gia, chung tay giúp đỡ các gia đình khó khăn vì sự phát triển cộng đồng.
- Nội dung sự vận động giúp đỡ cần mang tính toàn diện: nguồn vốn tài chính phát triển kinh tế; tài liệu sách báo tri thức nâng cao dân trí, giáo dục hƣớng nghiệp; cung cấp cho các hộ khó khăn thông tin về cơ hội học tập, làm việc trong nƣớc và quốc tế… tạo điều kiện cho thế hệ trẻ đƣợc tiếp cận học tập, hội nhập xã hội, phát triển bản thân.
Thứ tư, giải quyết vấn đề thất nghiệp ở khu vực thành phố và thiếu việc làm ở khu vực nông thôn đối với các thành viên trong gia đình từ đó khắc phục những khó khăn về kinh tế và tránh đƣợc những tệ nạn xã hội trong gia đình do tình trạng “nhàn cƣ vi bất thiện”. Thiếu và không có việc làm ảnh hƣởng hƣởng rất lớn tới điều kiện kinh tế hộ gia đình; từ đó ảnh hƣởng tới chất lƣợng cuộc sống của các thành viên cả về vật chất và tinh thần. Thất nghiệp, thiếu và không có việc làm là những nguyên nhân quan trọng hàng đầu dẫn tới tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật trong xã hội hiện nay. Do đó cần quyết tâm khắc phục vấn đề này.
Từ phía thế hệ ngƣời lớn ông bà, cha mẹ cần thay đổi quan niệm giáo dục, cần định hƣớng giáo dục con cái tự lập, tự chủ trong việc quyết định công việc, nghề nghiệp tƣơng lai. Thế hệ trẻ cần bắt kịp xu thế phát triển hiện đại, loại bỏ tƣ duy kinh tế tự nhiên – tự cung tự cấp, tập trung quan liêu bao cấp “mua bằng cấp”, “mua việc”, “chạy quyền, chạy chức” trong các cơ quan nhà nƣớc và dựa vào sự “bao cấp” của nhà nƣớc.
Để giải quyết đƣợc vấn đề việc làm gia đình cần kết hợp với xã hội thực hiện giải pháp nâng cao nhận thức; đào tạo thế hệ trẻ chủ động tích cực tự tìm việc và tự tạo việc làm cho bản thân và xã hội; tránh chê ỳ, lƣời lao động, lƣời sáng tạo. Định hƣớng giáo dục cho thế hệ trẻ có đƣợc sự chủ động, có phẩm chất và năng lực để lao động vì bản thân, gia đình và cống hiến cho xã hội; mỗi cá nhân làm việc theo đúng đam mê và năng lực của bản thân.
141
Thứ năm, huy động mọi nguồn lực xã hội hỗ trợ, thúc đẩy gia đình thực hiện chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em. Ƣu tiên cho trẻ em, cho thế hệ trẻ đƣợc học hành nuôi dƣỡng trong điều kiện tốt nhất có thể, luôn luôn đƣợc xã hội quan tâm.
Từ phía gia đình - ông bà, cha mẹ hiện nay cần nâng cao nhận thức, nắm bắt tri thức hiện đại, giáo dục con các giá trị phù hợp thực tiễn; ông bà cha mẹ cần có sự đầu tư thời gian cho con cháu để trò chuyện, nắm bắt đặc điểm tâm, sinh lý, làm bạn của con giúp con phát triển nói chung và hình thành, hoàn thiện nhân cách nói riêng; nuôi dạy con cái phải hƣớng tới sự phát triển tự lập của thế hệ trẻ sau 18 tuổi, đây là điều các gia đình ở nƣớc ta nói chung và gia đỉnh ở tỉnh Hải Dƣơng còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế trong và ngoài nƣớc hoạt động ở địa phƣơng cần quan tâm xây dựng, phát triển khu vui chơi, nhà trẻ, quỹ hỗ trợ giúp đỡ các gia đình nói chung và các em nhỏ hoàn cảnh khó khăn nói riêng… tạo điều kiện cho thế hệ trẻ có điều kiện tiếp cận cơ hội học tập, tiếp cận tri thức hiện đại và cơ hội làm việc, cống hiến.
Tóm lại, điều kiện vật chất là điều kiện cơ bản quan trọng đối với các gia đình và các thành viên trong thực hiện vai trò của gia đình đối với sức khỏe, thể chất và hoạt động giáo dục và sự yêu thƣơng sẻ chia vun đắp đời sống tâm hồn, tinh thần mỗi cá nhân. Đồng thời điều kiện vật chất là cơ sở quan trọng để các thành viên học tập nâng cao trình độ từ đó từng bƣớc định hƣớng và điều chỉnh sự phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ trong gia đình. Cho nên cần thực hiện tổng hợp các giải pháp nhƣ trên nhằm phát triển kinh tế của các gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay. Phát triển kinh tế từ trong gia đình vừa tạo ra cơ sở quan trọng cho sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ, đồng thời là môi trƣờng tự nhiên thế hệ trẻ học hỏi, kế thừa từ gia đình và xã hội những tri thức, kinh nghiệm phát triển bản thân và xã hội tƣơng lai.
3.2. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình đối
với sự hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ
Thứ nhất, về phía chính quyền địa phƣơng và các cấp quản lý công tác phát triển gia đình, cần giáo dục, tuyên truyền tích cực về vai trò, chức năng của gia đình cho các đối tƣợng liên quan đến thực hiện vấn đề này trong xã hội, không loại trừ ngay cả những ngƣời lãnh đạo, những nhà quản lý. Đồng thời
142
nâng cao trình độ năng lực toàn diện cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình của tỉnh.
Trƣớc sự phát triển của xã hội một bộ phận gia đình coi nhẹ chức năng của gia đình gây ra những hậu quả đáng tiếc trong nhiều gia đình và ảnh hƣởng tới sự phát triển của thế hệ con cái. Các cơ quan, các bộ phận làm công tác gia đình cần phải tuyên truyền giáo dục để các gia đình, đặc biệt gia đình hạt nhân thấy đƣợc vai trò giáo dục, dạy bảo của gia đình đối với sự phát triển của trẻ em là không có tổ chức, xã hội nào thay thế được. Mỗi gia đình cần tạo ra một tổ ấm thực sự nuôi dƣỡng cho thế hệ trẻ.
Sở Văn hóa tỉnh cần phối hợp cùng các phòng ban chuyên môn về gia đình tổ chức những lớp học về nội dung: xây dựng mối quan hệ vợ chồng hạnh phúc; vấn đề giới tính và tình dục cho các lứa tuổi các thành viên trong gia đình; kiến thức nuôi dạy con, chuẩn bị làm cha mẹ; sự phát triển tâm lý, tình cảm của trẻ em;… cần mời các chuyên gia có trình độ cao trong lĩnh vực nghiên cứu gia đình, nội dung truyền đạt phải có giá trị cao; thu hút ngƣời nghe. Sở cũng cần phối hợp cùng các phòng ban chuyên môn về gia đình truyên truyền giáo dục, trang bị sách, tài liệu cho các gia đình, đặc biệt phối hợp với các doanh nghiệp trong tỉnh nơi tập trung nhiều công nhân - những ông bố bà mẹ trẻ và những ngƣời sắp làm cha, làm mẹ rất cần trang bị kiến thức chuẩn bị cho việc xây dựng gia đình trong tƣơng lai. Đầu tiên cần tuyên truyền, phổ biến thói quen đọc sách cho các thành viên gia đình; sau đó tặng phát sách miễn phí; tặng miễn phí những tài liệu mới cập nhật về gia đình hiện đại nhƣ: trẻ tự kỷ biểu hiện, phát hiện, điều trị; nghiện smartphone thực trạng và cách diều trị… Bởi đây là những vấn đề không còn mới của các gia đình hiện đại nhƣng lại là vấn đề mới của nhiều gia đình trong tỉnh khi đối mặt với những “căn bệnh mới” của các thành viên trong gia đình.
Nội dung sách về thực hiện vai trò, chức năng gia đình phải là những cuốn sách có giá trị đƣợc nhiều ngƣời lựa chọn, nội dung phù hợp với thực tế gia đình hiện nay, chẳng hạn: “Vô cùng tàn nhẫn, vô cùng yêu thương” tập 1, tập 2 – Sara Imas – Trƣơng Thị Hảo dịch, Nxb Dân Trí, hn, 2018; “Nuôi con không phải cuộc chiến” – nxb Lao động xã hội, 2017; Cẩm nang cha mẹ - Miriam Stoppard – Dr David Elia, Nxb Phụ nữ 1998…
143
Nhiệm vụ giáo dục con cái không chỉ là nhiệm vụ của riêng nhà trƣờng mà là sự kết hợp hài hòa của ba môi trƣờng: đầu tiên là gia đình tạo điều kiện cho con cái đƣợc học tập và lao động phát triển toàn diện phẩm chất và năng lƣc; về phía nhà trƣờng cần đào tạo thế hệ trẻ cả về tri thức; đạo đức; văn hóa; thái độ với công việc, bản thân và cộng đồng; khắc phục tuyệt đối vấn nạn chạy theo thành tích trong giáo dục và đào tạo.
- Mở những trung tâm đào tạo tại các địa phƣơng, cung cấp tới từng gia đình những kiến thức - kỹ năng sống, nhƣ: kiến thức về tâm - sinh lý trẻ em; kỹ năng làm cha, mẹ; kỹ năng ứng xử giữa các thành viên trong gia đình với nhau và với cộng đồng. Hiện nay các trung tâm kỹ năng sống cũng có nhiều lớp học, buổi nói chuyện cho các gia đình về sinh sản; mang thai; hôn nhân và gia đình… Tuy vậy cần mở rộng hơn vì hiện tại chủ yếu mới mở lớp tại khu vực thành phố Hải Dƣơng với số lƣợng hạn chế, còn lại các huyện khác chƣa có, đồng thời nội dung giáo dục còn chƣa thực sự đầy đủ, phƣơng pháp truyền tải còn hạn chế.
- Đối với thế hệ trẻ trong nhà trƣờng đã có đào tạo môn học về kỹ năng mềm; kỹ năng sống tuy nhiên việc thực hành còn hạn chế; nhiều nơi đào tạo chỉ mang tính hình thức; chỉ là môn học phụ chƣa đƣợc coi trọng và giáo viên chƣa đƣợc đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực này. Cần quan tâm đầy đủ hơn điều này để hỗ trợ các gia đình trong giáo dục nhân cách cho trẻ.
- Truyền thông, giáo dục và vận động mọi ngƣời, mọi gia đình tự nguyện,
tự giác, tích cực thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hoá. Vận động các
gia đình tích cực tham gia xây dựng và thực hiện hƣơng ƣớc, quy ƣớc, quy
chế… xây dựng gia đình văn hóa. Điều kiện tồn tại xã hội quyết định tới ý thức
xã hội, tuy nhiên ý thức xã hội có tính vƣợt trƣớc và tác động trở lại đối với tồn
tại xã hội. Cho nên trong đời sống thực tiễn các gia đình hiện nay tuy điều kiện
kinh tế, vật chất còn nhiều hạn chế so với các nƣớc phát triển trong khu vực và
thế giới tuy nhiên bản thân các gia đình hoàn toàn có thể đẩy mạnh xây dựng gia
đình văn hóa với các tiêu chí: giữ gìn vệ sinh của cá nhân, gia đình và cộng đồng
dân cƣ, không vứt rác bừa bãi; không gây mất trật tự khu dân cƣ; biết bảo vệ,
giúp đỡ cá nhân, gia đình hoàn cảnh khó khăn và đặc biệt khó khăn; sử dụng và
khai thác các nguồn nguyên liệu phục vụ sinh hoạt và sản xuất hiệu quả, tiết
kiệm, bảo vệ môi trƣờng, phát triển kinh tế bền vững; chia sẻ, giúp đỡ nhau
144
trong sản xuất và cuộc sống… Làm tốt những điều này, xã hội, gia đình sẽ là
một môi trƣờng lý tƣởng để hình thành nhân cách tốt đẹp cho thế hệ trẻ.
Bên cạnh đó cần khắc phục tƣ tƣởng và hành động lạc hậu, cổ hủ “đèn nhà
ai nhà ấy rạng”, “trọng nam khinh nữ”, chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, đố
kỵ… do ảnh hƣởng của xã hội cũ còn tồn tại trong xã hội hiện nay.
Trong thực tế hiện nay tồn tại một bộ phận trong đội ngũ cán bộ thực hiện
các công tác gia đình trình độ còn nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng này cần:
- Mở các lớp đào tạo cho cán bộ làm công tác gia đình học hỏi tri thức,
kinh nghiệm xây dựng gia đình hiện đại. Chú ý các lĩnh vực mà gia đình Việt
Nam còn nhiều hạn chế nhƣ tâm lý gia đình, sinh lý vợ chồng, kỹ năng sống cho
các thành viên của gia đình…
- Đồng thời phải loại bỏ, “tinh giảm” những cán bộ chuyên trách thiếu
chuyên môn, năng lực. Trả lƣơng cao hơn cho những cán bộ có năng lực, đam
mê, tâm huyết và sáng tạo trong công việc.
- Tạo điều kiện về kinh phí và các điều kiện khác giúp cho các cá nhân có
trình độ chuyên môn, có tâm huyết phát triển các phong trào, các hoạt động xã
hội thu hút đƣợc sự tham gia tự nguyện của các cá nhân và phát huy đƣợc các sự
tham gia nhiệt tình của các thành viên chia sẻ tri thức, kinh nghiệm để tiến bộ,
hạnh phúc hơn. Ví dụ: nhóm thanh niên tình nguyện, nhóm hoạt động bảo vệ
môi trƣờng, Group Đàn bà a-z,… Trên thực tế các hoạt động này có sự tham gia
của hàng nghìn ngƣời, tự nguyện, chia sẻ học hỏi, giúp nhau phát triển tri thức,
bản thân, gia đình… Đây cũng là xu hƣớng phát triển tất yếu của sự phát triển
sáng tạo cá nhân và cách mạng công nghệ hiện đại. Các nhóm này có sự phát
triển lớn mạnh và làm phong phú thêm các tổ chức hội phụ nữ, đoàn thanh niên
trƣớc đây, đặc biệt phát huy đƣợc quyền tự chủ, dân chủ, nhiệt tình tham gia của
các thành viên.
Thứ hai, nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình đối với sự phát triển
nói chung của các thành viên và thế hệ trẻ nói riêng, xuất phát từ việc nâng cao
nhận thức của chính các thành viên trong gia đình:
Trong các gia đình ba thế hệ trở lên, ông bà giáo dục làm gƣơng cho con
cháu trong việc hoàn thiện nhân cách cá nhân. Ông bà giữ vai trò định hƣớng, giáo
dục “uốn nắn”, điều chỉnh kịp thời giúp các thành viên hoàn thiện nhân cách. Bên
145
cạnh việc thực hiện nêu gƣơng đối với sự phát triển thế hệ trẻ, thế hệ ông bà trong
gia đình cũng cần phải định hƣớng sự phát triển tự lập của con cháu, tránh bao
bọc, can thiệp chi phối các thành viên khác trong gia đình, ông bà cũng đồng thời
phải nâng cao nhận thức, bắt kịp xu thế thời đại, để hạn chế và tránh những mâu
thuẫn, đối lập do sự khác biệt quá lớn giữa các thế hệ trong gia đình.
Cha mẹ phải là những ngƣời hiểu rõ nhất về các vai trò chức năng của gia
đình mới phát huy đƣợc sức mạnh tổng hợp nuôi dạy con cái có nhân cách tốt.
Để làm đƣợc điều này các bậc cha mẹ phải không ngừng học hỏi hoàn thiện bản
thân. Thông qua việc nuôi day phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ trong gia đình
cha mẹ đồng thời bổ sung, hoàn thiện nhân cách bản thân mình. Cho nên sự phát
triển nhân cách của các thành viên trong gia đình mang tính biện chứng sâu sắc
vừa có những mâu thuẫn, vừa có sự phủ định và kế thừa lẫn nhau.
Gia đình kết hợp với nhà trƣờng, tổ chức xã hội nâng cao giáo dục ý thức cho thế hệ trẻ từ nhỏ phải có ý thức, trách nhiệm, tình cảm yêu thƣơng, chăm lo, xây dựng gia đình đoàn kết gắn bó, hiếu thảo, “trên kính, dƣới nhƣờng”, “anh em máu mủ, ruột già” đùm bọc tƣơng trợ lẫn nhau… Nhƣ vậy mỗi thành viên trong gia đình mới phát huy vai trò của mình với các thành viên khác và từ đó vai trò của gia đình sẽ đƣợc phát huy tối đa.
Ông bà, cha mẹ khắc phục sai lầm hạn chế trong việc “bắt, ép” yêu cầu quá nhiều thời gian bắt con phải học kiến thức, lý thuyết, hạn chế cho con trải nghiệm, làm việc nhà, lao động chân tay, thậm chí nuông chiều con cháu quá mức. Cần hƣớng dẫn cho con cháu tham gia làm các công việc nhà phù hợp với lứa tuổi và biết quan tâm, chăm sóc tới các thành viên khác trong gia đình.
Bên cạnh đó gia đình cần đào tạo kỹ năng cơ bản về giao tiếp ứng xử; làm việc nhóm; kỹ năng tự chăm sóc và bảo vệ bản thân trƣớc những tác nhân gây hại cho trẻ em; kỹ năng làm việc phù hợp theo độ tuổi; kỹ năng quản lý tài chính - tiền; bên cạnh đó đào tạo trẻ có thái độ sống với cá nhân; gia đình, cộng đồng tích cực. Đây là những nhiệm vụ mà gia đình có vai trò hết sức to lớn đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ hiện nay.
Thứ ba, vai trò, chức năng của gia đình có sự biến đổi cùng với xu hƣớng phát triển biến đổi của xã hội, điều này cần đƣợc nghiên cứu, khái quát thành lý luận.
146
Trƣớc đây các quan niệm về giáo dục, dạy dỗ con cái cần phải nghiêm khắc “yêu cho roi cho vọt; ghét cho ngọt cho bùi”; con gái nuôi dạy theo “tam tòng tứ đức”; con trai “nam tử hán, đại trƣợng phu”…Hiện nay lại xuất hiện nhiều gia đình với tƣ tƣởng cho con tự do, thoải mái; hoặc nuông chiều con cái hay “nhiều gia đình mắc phải căn bệnh “421,621”, tức là một gia đình có từ 4 đến 6 ngƣời lớn cùng yêu thƣơng một đứa trẻ, luôn muốn bảo vệ nó nhiều hơn, lâu hơn” [80,61]. Nhiều gia đình tồn tại những “nô lệ của con”, “thế hệ ăn bám” và những con ngƣời với những tuổi thơ kéo dài tới 50 – 60 tuổi…
Theo chúng tôi vai trò quan trọng cần bổ sung cho các gia đình Việt Nam hiện nay nói chung và các gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng nói riêng cần phải nuôi dạy giáo dục, định hƣớng cho thế hệ trẻ có tính tự lập từ trong gia đình để trẻ 18 tuổi đủ năng lực tự lập tham gia vào mọi hoạt động xã hội. Nội dung và phƣơng pháp giáo dục có thể vận dụng tri thức nuôi dạy con cái ở các nƣớc tiên tiến, hiện đại nhƣ: Nhật Bản, Singapo, Hàn Quốc… hay nhiều quốc gia phƣơng Tây khác. Trên cơ sở điều kiện cụ thể của từng địa phƣơng và các gia đình đồng thời lƣu giữ, phát huy các giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống.
Giáo dục ý thức cộng đồng nhƣ: bảo vệ môi trƣờng, bảo vệ động vật
hoang dã, đấu tranh với tình trạng vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm…
3.3. Nhóm giải pháp kết hợp phát huy giá trị gia đình truyền thống và
gia đình hiện đại
Thứ nhất, kế thừa có chọn lọc những yếu tố văn hóa gia đình truyền thống
có giá trị tích cực, phù hợp để phát triển nhân cách thế hệ trẻ.
Đối với thế hệ trẻ cần tích cực phát huy những giá trị nhƣ đạo hiếu của gia đình truyền thống, tuy nhiên cần có sự phát triển phù hợp trong tình hình mới. Nếu gia đình truyền thống Việt Nam coi chữ hiếu có phần áp đặt nguyên tắc với con cái “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” thì hiện nay điều này không còn phù hợp. Trong giai đoạn hiện nay thế hệ trẻ cần phát huy tinh thần tôn kính, yêu thƣơng cha mẹ nhƣng phải chủ động học hỏi và phát triển bản thân theo năng lực, đam mê và có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội về chính cuộc đời của mình.
Truyền thông và các cơ quan thực hiện nhiệm vụ xây dựng gia đình hiện nay cần chú ý khắc phục yếu tố hạn chế trong thực hiện “chữ hiếu” trong gia đình truyền thống, theo đó “hiếu” là sự áp đặt, cưỡng ép con cái phải làm theo ý
147
muốn của ông bà, bố mẹ trong vấn đề quan trọng nhƣ tình yêu, hôn nhân, nghề nghiệp…; dẫn tới hệ lụy thế hệ trẻ trẻ thiếu tính tự chủ, độc lập, không dám quyết định và chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình. Ngƣợc lại ở thế hệ trẻ bộc lộ sự thụ động, phụ thuộc, chây ỳ, thiếu tính độc lập, chủ động, sáng tạo dựa dẫm vào gia đình.
Cần khắc phục một số khuynh hƣớng sai lầm, chẳng hạn cha mẹ nuôi dạy con 18 tuổi độc lập tự lập, gia đình có thể hỗ trợ con cái về vật chất và tinh thần nhƣng cần tôn trọng cuộc sống riêng tự lập của con. Chính các bậc cha mẹ cũng cần độc lập sống hạnh phúc không phụ thuộc lệ thuộc, can thiệp nhiều hay can thiệp thô bạo, ép con khi con cái đã trƣởng thành . Trên thực tế nhiều bậc cha mẹ khi con cái lớn khôn trƣởng thành muốn nuôi con nhƣ trong bào thai, muốn chi phối và mọi niềm vui, nỗi buồn của con chứ không phải chính bản thân con cái quyết định. Thay vì tham gia các câu lạc bộ, hội hƣu trí, đi lễ chùa, du lịch… thì mọi “nguồn sống” tiền bạc, sức lực tập trung cho việc nuôi con nuôi cháu và khi con cháu không sống theo cách mà bố mẹ đề ra, không làm đƣợc điều mình kỳ vọng thì các bậc cha mẹ thấy thất vọng, thất bại, bất hạnh… Một cách vô tình sự yêu thƣơng, bao bọc đem lại sự phụ thuộc, ràng buộc của các thành viên trong gia đình và tạo ra những đứa trẻ không chịu trƣởng thành; thiếu tự tin, tự lập hay bị trói, kìm hãm sự phát triển cá nhân bởi gia đình.
Các quan niệm và các mối quan hệ trong gia đình nhƣ cha mẹ và con cái; vợ - chồng; anh - chị - em trong gia đình; họ hàng - dòng tộc đã có nhiều biến đổi trong giai đoạn hiện nay. Những giá trị đoàn kết, yêu thƣơng, thủy chung, đùm bọc giữa anh chị em trong gia đình; tinh thần đoàn kết dòng họ, cố kết cộng đồng… vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay và cần đƣợc kế thừa, phát huy. Tuy nhiên cần giảm thiểu, xoá bỏ các hủ tục ma chay, cƣới hỏi rƣờm ra ảnh hƣởng lễ giáo phong kiến cũ, gây mất thời gian, thiệt hại kinh tế cho gia đình.
Các thành viên trong gia đình và đặc biệt thế hệ trẻ cần phát huy những tri thức tốt đẹp đƣợc giáo dục, trang bị trong gia đình. Bên cạnh đó phải thƣờng xuyên cập nhật chủ động tự học hỏi những tri thức mới tiến bộ; từ đó phát triển cho chính bản thân mình, gia đình mình và cộng đồng mình. Không đƣợc bị động, thụ động với tất cả những tri thức mà gia đình và những thế hệ đi trƣớc đƣa ra; cần bổ sung phát triển không ngừng phù hợp với điều kiện thực tiễn của xã hội.
148
Thứ hai, xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu làm ảnh hưởng tiêu
cực tới gia đình và sự phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Hiện nay trong tỉnh vẫn tồn tại những hủ tục lạc hậu mê tín dị đoan, ma chay cƣới hỏi với hủ tục rƣờm rà, tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ, lựa chọn giới tính trong sinh đẻ, lối sống gia trƣởng của ngƣời đàn ông trong gia đình, bạo lực gia đình… Những vấn nạn này có tác động ảnh hƣởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của thế hệ trẻ nói chung và nhân cách của thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
Hủ tục về ma chay, cƣới hỏi rƣờm rà, tốn kém và tác động sức khỏe nhân dân nhƣ để ngƣời chết trong nhà quá lâu, cải táng ngƣời chết… cần có sự thay đổi, xóa bỏ. Thay đổi và xóa bỏ các lễ giáo phong kiến, quan niệm trọng nam khinh nữ phải sinh con trai “nối dõi tông đƣờng” để giữ đƣợc chữ “hiếu”… cho phù hợp với văn hóa và sự phát triển khoa học hiện đại.
Các cơ quan ban ngành cần tích cực truyền thông, giáo dục và hành động để đƣa chính sách phát triển văn hóa tiên tiến loại bỏ dần những hủ tục lạc hậu; những quan niệm sống tích cực văn minh hiện đại cần đƣợc áp dụng thực hiện trong cuộc sống. Vận động, tuyên truyền, giáo dục ngƣời dân nâng cao nhận thức và chủ động, tự nguyện thay đổi xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu; lấy những tấm gƣơng tiến bộ, tích cực tiêu biểu trong nhân dân để phổ biến lan rộng trong cộng đồng xã hội.
Mẫu đàn ông gia trƣởng trong xã hội cũ không còn phù hợp với thực tiễn xã hội hiện nay, nó gây ra tình trạng mất cân bằng giới tính và bất bình đẳng giới tuy nhiên trên thực tế tình trạng này còn phổ biến và ăn sâu vào tiềm thức ngƣời dân đặc biệt thế hệ ông bà, cha mẹ trong gia đình hiện nay. Hiện nay đã có nhiều chính sách đƣa ra nhằm khắc phục tinh trạng trên. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều gia đình, đặc biệt nhiều ngƣời phụ nữ chấp nhận điều này và coi đó là bình thƣờng, do đó chúng tôi đƣa ra các giải pháp tác động làm thay đổi và phát triển chính đối tƣợng chịu tác động nặng nề của tình trạng này là những ngƣời phụ nữ. Trƣớc hết phụ nữ và trẻ em gái cần đƣợc học tập nâng cao trình độ và đƣợc trang bị kiến thức về giới tính; phụ nữ phải độc lập về tài chính và tự đƣa ra các quyết định quan trọng về cuộc sống của bản thân; phụ nữ cần đấu tranh với các biểu hiện phân biệt giới tính, bạo lực gia đình…
149
Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán là yếu tố thay đổi chậm nhất của đời sống tinh thần xã hội, muốn loại bỏ đƣợc những hủ tục lạc hậu trong xã hội đòi hỏi sự phát triển của điều kiện kinh tế; điều kiện và phƣơng diện sinh hoạt vật chất; sự kiên trì, bền bỉ của những ngƣời làm công tác văn hóa.
Thứ ba, tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa gia đình hiện đại để thực hiện hiệu quả các chức năng của gia đình. Gia đình Việt Nam hiện nay hƣớng tới xây dựng với tiêu chí ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, để mỗi gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của mỗi ngƣời và là tế bào lành mạnh của xã hội. Ảnh hƣởng các giá trị của gia đình hiện đại trên thế giới tới gia đình ở nƣớc ta là quy luật tất yếu của quá trình giao lƣu tiếp biến các giá trị văn hóa các dân tộc. Tuy nhiên cần phải lựa chọn những giá trị tích cực phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của nƣớc ta. Tránh tình trạng du nhập ồ ạt những văn hóa phẩm đồi trụy; tƣ tƣởng thoáng về quyền cá nhân trong gia đình tuy nhiên sự chủ động và nhận thức của cá nhân trong gia đình chƣa đủ để phát triển bền vững; những quan niệm về tình dục, tình yêu tự do của giới trẻ nhƣng thế hệ trẻ hiện nay ở nƣớc ta nói chung và tỉnh Hải Dƣơng nói riêng còn thiếu hiểu biết về sức khỏe, giới tính, tình yêu, tình dục…
Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay cùng với sự phát triển bùng nổ khoa học công nghệ, internet đòi hỏi những nhà nhà nƣớc cùng các bộ phận chức năng cần tạo ra những lớp “màng lọc” góp phần định hƣớng cho giới trẻ tiếp thu giá trị mới trong xã hội. Trong gia đình các bậc ông bà, cha mẹ tự nâng cao nhận thức, cần tạo điều kiện quan tâm định hƣớng “uốn nắn” thế hệ trẻ tiếp nhận đƣợc những giá trị nhân văn, nhân ái, văn minh tiến bộ của các nƣớc tiên tiến trên thế giới.
Các gia đình ở Hải Dƣơng hiện nay cần học hỏi tiếp thu những giá trị gia đình hiện đại nhƣ bình đẳng giới trong gia đình; tôn trọng và bảo vệ quyền trẻ em; phụ nữ độc lập về kinh tế; trẻ em tự lập từ sau 18 tuổi; cha mẹ lớn tuổi không cần phụ thuộc vào con cái…
Thứ tư, ngăn chặn, đẩy lùi xu hướng tuyệt đối hóa vai trò, đặc điểm gia đình truyền thống, bỏ qua những giá trị của gia đình hiện đại, tạo môi trường cho hủ tục lạc hậu phát triển.
Trong quy luật phát triển tất yếu của quan hệ xã hội do sự phát triển của lực lƣợng sản xuất và quan hệ sản xuất chi phối; trong giai đoạn hiện nay tất yếu còn tàn dƣ lại những quan hệ sản xuất cũ trong xã hội từ đó chi phối những xu
150
hƣớng “hoài niệm, hoài cổ” níu giữ những giá trị cũ, gắn liền với sự duy trì, kéo dài lợi ích của những bộ phận, lớp ngƣời cũ trong xã hội. Trong xã hội Việt Nam hiện nay nói chung vẫn còn tồn tại những quan hệ sản xuất tự nhiên tự cung tự cấp, sản xuất nhỏ lẻ, lạc hậu. Đây là tiền đề cho những tƣ tƣởng tàn dƣ của xã hội phong kiến tồn tại. Điều này ảnh hƣởng rất lớn tới sự phát triển của xã hội nói chung và sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ nói riêng.
Thứ năm, ngăn chặn xu hướng tuyệt đối hóa những đặc điểm của gia đình
hiện đại, bỏ qua giá trị của gia đình truyền thống.
Gia đình hiện đại có rất nhiều giá trị tiến bộ tích cực nhƣng nếu tuyệt đối hóa chúng, bỏ qua vai trò của gia đình hiện đại thì đi ngƣợc quy luật phát triển. Biểu hiện của xu hƣớng này là quay lƣng lại với những giá trị của gia đình truyền thống, một số gia đình phát triển trên quan điểm gia đình phƣơng Tây đề cao quyền tự do cá nhân quá trớn dẫn tới tình trạng vi phạm đạo đức lối sống; tiếp thu, áp dụng triệt để những hình mẫu của gia đình hiện đại, điều này làm cho nhiều gia đình phát triển không phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế; tách biệt với hoàn cảnh cũng đã gặp nhiều khó khăn trở ngại cho sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Xây dựng theo mô hình gia đình hiện đại phƣơng Tây nhƣng không triệt để, nửa vời, thiếu cơ sở khoa học. Nhiều gia đình đề cao sự tự lập cá nhân cho thế hệ trẻ tự lập sớm nhƣng lại thiếu kỹ năng sống và thiếu thái độ sống tích cực, nên khi bƣớc vào cuộc sống thực tế khó hòa nhập xã hội và không thể tự lập nhƣ thế hệ trẻ các nƣớc hiện đại.
Không chỉ thế hệ trẻ mà ngay cả thế hệ những ngƣời cao tuổi trong các gia đình tuyệt đối hóa vai trò của gia đình hạt nhân, gia đình hiện đại bị sống tách biệt với thế hệ con cháu có thể bị trầm cảm, stress, cô đơn, chất lƣợng sống giảm sút. Nhiều gia đình có xu hƣớng để ngƣời già sống một mình và tập trung trong khu điều dƣỡng, chăm sóc sức khỏe ngƣời già, mặc dù kỹ năng sống độc lập của ngƣời cao tuổi nƣớc ta còn hạn chế. Đây là những hiện tƣợng mới nảy sinh và phát triển ở Hải Dƣơng tuy nhiên cần đƣợc các gia đình và xã hội quan tâm sớm để tránh xảy ra những tác động tiêu cực tới các gia đình trong tỉnh.
Bất kỳ sự phát triển nào đều mang tính chất kề thừa cho nên việc phát huy vai trò của gia đình phải dựa trên những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống; đồng thời phát triển tiếp thu các giá trị gia đình hiện đại có chọn lọc phù hợp với
151
điều kiện kinh tế - xã hội - văn hóa của dân tộc, từ đó xây dựng đƣợc những hệ giá trị tốt đẹp trong gia đình và nuôi dƣỡng, trao truyền cho thế hệ trẻ, hình thành nhân cách con ngƣời Việt Nam hoàn thiện.
3.4. Nhóm giải pháp kết hợp gia đình, nhà trƣờng, xã hội trong giáo
dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ
Gia đình phải thiết lập mối quan hệ gắn kết, thống nhất biện chứng với nhà trƣờng và xã hội để tạo ra môi trƣờng toàn diện giáo dục phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ. Đây là ba môi trƣờng cơ bản cho sự định hình phát triển và biến đổi nhân cách cá nhân suốt cuộc đời. Tuy nhiên trên thực tế mối quan hệ này con lỏng lẻo; nghĩa vụ và trách nhiệm của từng bộ phận còn hạn chế trong sự nghiệp “trồng ngƣời”. Ba bộ phận gia đình - nhà trƣờng - xã hội phải thực sự gắn kết thành khối thống nhất vì mục tiêu chung phát triển con ngƣời, phát triển một thế hệ trẻ phát triển toàn diện, tiến bộ.
Đối với gia đình: Thứ nhất, gia đình cụ thể là thế hệ ông bà, cha mẹ cần chủ động tìm hiểu nâng cao nhận thức về mọi mặt bắt nhịp xu thế phát triển để nuôi dạy thế hệ trẻ phù hợp điều kiện hoàn cảnh mới. Đồng thời gia đình cần có mối liên hệ chặt chẽ với nhà trƣờng, xã hội. Gia đình cần thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động của nhà trƣờng và các tổ chức xã hội; để tạo cơ hội phát triển tốt nhất cho thế hệ trẻ, tránh thất thoát, lãng phí, tham ô tham nhũng; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Xã hội phát triển ngày càng cao, tri thức nhân loại bùng nổ ngày càng nhanh chóng, thế giới bƣớc vào đỉnh cao của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi các thế hệ ông bà, cha mẹ cần phải phát huy việc học hỏi nâng cao trình độ khoa học công nghệ. Có nhƣ vậy mới nắm bắt kịp xu thế mới từ đó góp phần định hƣớng, hƣớng dẫn cho thế hệ trẻ lựa chọn đƣợc những nguồn thông tin bổ ích từ thế giới khoa học công nghệ, internet, smartphone…
Đồng thời các bậc ông bà, cha mẹ cần trở thành “những ngƣời bạn đồng hành”, “màng lọc” giúp thế hệ trẻ phân biệt, chọn lọc nguồn thông tin, hệ giá trị tích cực phù hợp với sự phát triển tiến bộ của xã hội. Thời kỳ bùng nổ khoa học - công nghệ hiện nay làm cho bƣớc phát triển xã hội ngày càng rút ngắn. Việc áp dụng khoa học công nghệ trong việc nuôi dạy con cái trong gia đình cũng có nhiều thành tựu phát triển vƣợt bậc. Thế hệ trẻ là thế hệ nhanh nhạy tiếp thu, bắt
152
nhịp với cái mới. Điều này đặt ra một thách thức lớn trong các gia đình, nếu các bậc ông bà, cha mẹ không bắt kịp xu thế phát triển sẽ dễ rơi vào tình trạng hoang mang, bị động, khủng hoảng trong nuôi dạy con cái trong giai đoạn hiện nay.
Phát triển là xu thế tất yếu nếu thế hệ đi trƣớc không cập nhật, học hỏi không ngừng sẽ bị tụt hậu không thể theo kịp để giáo dục, uốn nắn, phát triển thế hệ trẻ kế cận. Vì vậy đòi hỏi quan trọng hiện nay trong gia đình cần phải cập nhật thông tin, tri thức mới; thực hiện nghiêm túc việc tự giáo dục, tự học hỏi nâng cao trình độ.
Trong phạm vi giới hạn nghiên cứu chúng tôi đề xuất một số biện pháp cụ thể: tăng số lƣợng và thời gian các kênh giáo dục, truyền thông trang bị thông tin tri thức nhằm xây dựng gia đình nhƣ: Giải đáp thắc mắc về tâm sinh lý bạn trai/gái tuổi dậy thì; Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa mẹ chồng - nàng dâu; Kỹ năng chăm sóc ngƣời già; Kỹ năng cần thiết khi mang thai cho vợ/chồng; Kỹ năng tình dục; Các vấn đề của phụ nữ tiền mãn kinh; Thời kỳ mãn dục nam…Truyền thông cần gắn với trò chơi, giải trí có phần thƣởng xứng đáng cho những ngƣời chơi để thu hút, lôi cuốn sự tham gia của các thành viên của các gia đình.
Thứ hai, gia đình cần tích cực, chủ động thực hiện vai trò, chức năng của mình trong phát triển nhân cách thế hệ con cái, chủ động tham gia đóng góp ý kiến cho các cơ quan chức năng và nhà trƣờng nhằm phát triển tốt nhất nhân cách cho thế hệ trẻ.
Trƣớc hết các gia đình trong tỉnh hiện nay cần xác định rõ vị trí, vai trò trung tâm đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của thế hệ trẻ - thế hệ con cái trong gia đình. Xác định rõ gia đình là thiết chế xã hội không thể thay thế đối với sự hình thành và phát triển của con trẻ nói chung và sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ nói riêng. Với những trƣờng hợp hoàn cảnh gia đình đặc biệt vắng cha, mẹ, thiếu hụt cha, mẹ cần có sự giúp đỡ của những ngƣời thân và sự quan tâm đặc biệt từ cộng đồng, xã hội. Tuy nhiên một đứa trẻ phát triển tốt nhất phải là sự thích nghi, biến đổi tác động toàn diện từ phía cộng đồng xã hội. Trên thực tế hiện nay môi trƣờng ở trƣờng học và xã hội có nhiều biểu hiện tiêu cực, đỏi hỏi gia đình và xã hội cần phải có những biện pháp khắc phục:
- Gia đình cần giám sát chặt chẽ sự hoạt động của trƣờng học, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng để đảm bảo trƣờng học thực hiện đúng chức trách nhiệm vụ của mình bằng việc cử các đại diện phụ huynh giám sát các hoạt động
153
tài chính, xây dựng, ăn nội trú của học sinh, sự quản lý – giáo dục của giáo viên với học sinh…. Tránh hiện tƣợng tham nhũng, lãng phí, hạn chế còn tồn tại trong ngành giáo dục hiện nay.
- Đấu tranh chống lại biểu hiện tiêu cực của Hội phụ huynh ở nhiều nơi đƣợc coi là “cánh tay nối dài” của nhà trƣờng để tăng các khoản thu ngoài học phí. Gây ra tình trạng nhiều gia đình rất khó khăn với nhiều khoản thu do hội phụ huynh đề ra và con em của các thành viên tham gia Hội phụ huynh có thành tích rất cao so với thực lực học tập…
- Phát triển Hội phụ huynh với những bộ phận tình nguyện theo mô hình các nƣớc nhƣ Nhật và Hàn… cử những phụ huynh triển khai giám sát các đoạn đƣờng gần trƣờng học để đảm bảo an toàn cho học sinh; đồng thời giám sát các em học sinh bỏ học, hay học sinh cá biệt tham gia các tệ nạn xã hội nhƣ ma túy, game, bạo lực học đƣờng…
- Gia đình đồng thời giám sát chất lƣợng, tính an toàn ở các khu vui chơi, giải trí; nhằm tạo ra sân chơi bổ ích cho thế hệ trẻ và đồng thời xây dựng môi trƣờng xã hội lành mạnh, tiến bộ.
Các gia đình cần giữ đƣợc vai trò cầu nối trung tâm với nhà trƣờng và xã hội. Gia đình cần chủ động thực hiện mối liên hệ chặt chẽ với xã hội trong quá trình nuôi dạy con cái. Trƣớc những áp lực to lớn trong cơ chế cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trƣờng gia đình, nhà trƣờng, xã hội đều phải chịu sức ép từ điều kiện sản xuất vật chất xã hội. Cho nên gia đình cần chủ động chia sẻ vấn đề nuôi dạy, giáo dục thế hệ trẻ với nhà trƣờng và xã hội, từ đó nhà trƣờng và xã hội góp phần hỗ trợ và phát triển vì mục tiêu của gia đình. Đồng thời gia đình thực hiện giám sát quá trình nhà trƣờng và xã hội thực hiện các chức năng chuyên môn liên quan tới sự phát triển thế hệ trẻ nói chung và sự hình thành và phát triển nhân cách nói riêng.
Đối với nhà trƣờng: Thứ nhất, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng dạy và học chạy theo thành tích; hƣớng tới giáo dục toàn diện, đào tạo dựa trên năng lực hƣớng tới nền giáo dục tiến bộ, “hạnh phúc”. Hƣớng tới mục tiêu thế hệ trẻ đạt đƣợc mục tiêu thực sự “mỗi ngày đến trƣờng là một ngày vui”.
Thực hiện triệt để giảm áp lực thành tích trong dạy và học; tiến hành ngăn chặn tình trạng dạy thêm học thêm đồng thời với việc chấm dứt bài tập về nhà
154
với học sinh tiểu học và hạn chế bài tập về nhà với học sinh trung học cơ sở và học sinh phổ thông trung học.
Cần tăng số giờ thực hành cho các môn học cần thiết, cụ thể: tăng giờ học
cho các môn đạo đức; giáo dục công dân; giáo dục thể chất.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trƣờng. Việc thi tuyển vào các trƣờng sƣ phạm trong những năm gần đây bộc lộ vấn đề bức xúc là điểm rất thấp, số lƣợng thí sinh thi tuyển giảm do nhu cầu của thị trƣờng lao động, nguồn nhân lực hạn chế và do tiền lƣơng thấp so với giá cả sức lao động trên thị trƣờng. Điều này báo hiệu chất lƣợng nguồn lao động cho ngành giáo dục trong tƣơng lai bị hạn chế do điểm xuất phát nguồn lao động có chất lƣợng không cao.
Giải quyết tình trạng này cần phải nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ giáo viên trong ngành giáo dục bằng việc tạo ra môi trƣờng làm việc sáng tạo; cải thiện đời sống vật chất và tinh thần. Đây là điều kiện quan trọng để phát huy tinh thần nhiệt huyết, đam mê, cống hiến vì sự nghiệp giáo dục của xã hội.
Chấm dứt tình trạng tiền lƣơng cho giáo viên không đủ sống; phải bỏ nghề; làm thêm việc ngoài nghề hoặc dạy thêm. Các trƣờng đào tạo sƣ phạm cần có những chính sách khuyến khích nhằm thu hút nhân tài.
Thứ ba, nhận thức đúng vai trò của đào tạo, rèn luyện thể lực cho thế hệ
trẻ, coi trọng các môn thể dục thể chất.
Một con ngƣời có nhân cách hoàn thiện khi phát triển toàn diện cả về thể lực và trí lực. Trên tình hình thực tế nƣớc ta nói chung và tỉnh Hải Dƣơng nói riêng thể lực ngƣời ngƣời Việt Nam so với các nƣớc trên khu vục Đông Nam Á và châu Á vẫn còn nhiều hạn chế dẫn tới tình trạng năng suất lao động, khả năng làm việc và học tập chƣa hiệu quả. Theo Tổng cục thống kê đến tháng 12/2016: 23 ngƣời Việt làm việc bằng 1 ngƣời Singapo, năng suất lao động Việt Nam đang ở mức báo động đỏ.
Bên cạnh đó nhận thức của ngƣời dân trong giáo dục con cái vẫn đề cao giáo dục kiến thức, thậm chí gây áp lực với con cái về thành tích học tập. Từ đó gây ra những hệ lụy tỉ lệ học sinh tiểu học bị cận thị và béo phì; trẻ tự kỷ tăng nhanh trong thời gian gần đây.
Nhận thức của một bộ phận những ngƣời làm giáo dục, hay chính trong môi trƣờng giáo dục còn coi nhẹ, thậm chí coi thƣờng các môn học thể chất.
155
Chƣa nhận thức đƣợc vai trò của giáo dục thể chất là rất quan trọng với thế hệ trẻ đặc biệt thế hệ học sinh phổ thông - lứa tuổi dậy thì của mỗi con ngƣời.
Vì vậy nâng cao nhận thức của gia đình và xã hội về giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ là rất quan trọng. Đồng thời để thế hệ trẻ có thể lực tốt và rèn luyện thể lực tốt cần có môi trƣờng rèn luyện thể chất. Và chế độ dinh dƣỡng cân đối, đầy đủ và khoa học.
Cần lồng ghép với biện pháp nâng cao phát triển kinh tế của gia đình và xã hội, bên cạnh đó giải quyết vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm hiện nay. Mất an toàn vệ sinh thực phẩm đang là tình trạng gây ra bƣớc thụt lùi trong quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện tại, bởi nó là nguyên nhân gây ra các bệnh tật nguy hiểm, trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, môi trƣờng sống và tƣơng lai xã hội. Thứ tư, nhà trƣờng giáo dục hướng tới thực hành, thực nghiệm và phát
triển kỹ năng sống trong trƣờng học cho thế hệ trẻ.
Trƣớc hết, giáo dục cần hƣớng tới nội dung áp dụng trong thực tiễn tránh tình trạng lý thuyết suông. Bởi sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay đƣa vào đời sống thực tiễn và sản xuất rất nhanh. Tuy nhiên thực trạng giáo dục của nƣớc ta và Hải Dƣơng vẫn còn nặng về giáo dục lý thuyết đơn thuần. Cho nên giáo dục hƣớng tới thực nghiệm, thực hành là yêu cầu tất yếu của nội dung giáo dục trong các nhà trƣờng hiện nay, bởi muốn phát triển nhân cách hoàn thiện cho thế hệ trẻ hiện nay đòi hỏi thế hệ trẻ cần có và phát huy cao độ năng lực hoạt động thực tiễn.
Nhà trƣờng cần phát huy hơn nữa nội dung giáo dục gắn với thực tiễn; nâng số giờ thực hành; giảng dạy dựa trên bằng chứng; giảm số giờ lý thuyết đơn thuần trên lớp.
Vai trò của kỹ năng sống đối với thế hệ trẻ là cần thiết hơn bao giờ hết trong giai đoạn hiện nay bởi tình trạng bố mẹ không có nhiều thời gian giành cho con cái dƣới áp lực của quá trình phát triển kinh tế. Bên cạnh đó khoa học, kỹ thuật phát triển không ngừng đòi hỏi nâng cao các kỹ năng chủ động nắm bắt vận dụng tri thức khoa học trong thực tiễn. Thực tế cuộc sống hiện nay có rất nhiều vấn đề rủi ro: tai nạn, ô nhiễm môi trƣờng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,… đòi hỏi con ngƣời cần nhiều kỹ năng hơn để thích nghi và phát triển.
Các trƣờng cần thực hiện nghiêm túc chƣơng trình giáo dục dựa trên năng lực của Bộ giáo dục đã đề ra. Nâng cao chất lƣợng nguồn cán bộ giảng viên
156
giành riêng cho các môn kỹ năng sống. Cán bộ, giảng viên chuyên môn chuyên ngành khác cần lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào nội dung giảng dạy của mình.
Đối với xã hội: Thứ nhất, các nhà hoạch định chính sách cần căn cứ vào mối liên hệ thống nhất ba môi trường trên để đưa ra những chính sách phù hợp cho gia đình, nhà trƣờng, xã hội với mục tiêu phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
Các chính sách đƣa ra cần có mục tiêu chung thống nhất từ đó đƣa ra các
mục tiêu cụ thể; tránh tình trạng “trống đánh xuôi kèn thổi ngƣợc”; giáo dục thế
hệ trẻ không có sự thống nhất gây hoang mang mất niềm tin nơi con trẻ, gây ra
sự bất đồng giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội.
Thực tế có tồn tại một tình trạng giáo dục thế hệ trẻ hiện nay hƣớng tới sự
chủ động, tự lập, tính kỷ luật, tác phong công nghiệp và tinh thần trách nhiệm
với gia đình và xã hội. Tuy nhiên hiện nay có nhiều gia đình ít con dẫn tới tình
trạng nuông chiều con cái, cho rằng thế hệ trẻ chỉ cần thực hiện nhiệm vụ học tập
là đủ. Từ đó dẫn đến tình trạng thành tích học tập khá cao nhƣng kỹ năng sống
và thái độ sống còn nhiều hạn chế.
Ngƣợc lại, mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ có đạo đức, lối sống thật thà, trung
thực nhƣng nhiều trƣờng học vẫn còn tồn tại tình trạng chạy theo thành tích; thầy
cô nâng điểm; dạy thêm; “dạy tủ” để thi đạt điểm cao. Nhƣ vậy, giáo dục tồn tại
nhiều mâu thuẫn gây hệ lụy trực tiếp ảnh hƣởng tiêu cực đến thế hệ trẻ.
Mục tiêu giáo dục hƣớng tới thế hệ tƣơng lai vừa phát triển trí lực và thể
lực, tuy nhiên nền giáo dục nƣớc ta hiện nay vẫn còn tồn tại tình trạng học nặng
kiến thức, các môn xã hội và thể chất chƣa đƣợc đánh giá đúng vị trí và vai trò.
Thậm chí dƣ luận xã hội chính trong nhà trƣờng và gia đình coi nhẹ, thậm chí
coi thƣờng các môn học đó. Giáo dục đào tạo hiện nay hƣớng tới đào tạo dựa
trên năng lực, tức là đào tạo ra lớp ngƣời có năng lực toàn diện (kiến thức, kỹ
năng, thái độ) xong trên thực tế nhiều trƣờng học trong các cấp học phổ thông
đặc biệt là bậc tiểu học hiện nay vẫn tồn tại hiện tƣợng các giờ học của các môn
tự nhiên xã hội, đạo đức, vẽ, thể dục…thay bằng học các môn toán và tiếng Việt;
thời gian dạy “các môn phụ” này có nhƣng rất ít so với chƣơng trình đề ra.
157
Mục tiêu giáo dục phổ thông chính là sự phát triển tối ƣu về thể lực, kỹ
năng sống, thái độ sống tích cực và mức kiến thức cơ bản về tự nhiên xã hội ở
mức “phổ thông” đa số mọi ngƣời đều biết, đều học đƣợc. Tuy nhiên, kiến thức
hiện nay còn nặng và “bệnh thành tích” còn lây lan rộng chƣa đƣợc “điều trị”
hiệu quả, có biểu hiện “nhờn thuốc”, càng khắc phục tình trạng diễn biến phức
tap hơn. Tình trạng chạy trƣờng, chạy lớp, chạy thầy cô vẫn khá sôi động ở Hải
Dƣơng; thành tích thi học sinh giỏi, giải của lớp, trƣờng, huyện/quận, thành phố,
tỉnh, quốc gia vẫn là các căn cứ để đánh giá chính cho năng lực của học sinh…
dẫn đến nhiều tiêu cực. Để khắc phục tình trạng này chúng tôi đề xuất:
- Gia đình và nhà trƣờng cần hiểu rõ mục tiêu giáo dục cho thế hệ trẻ dƣới 18 tuổi để định hƣớng nội dung học tập đúng đắn cho thế hệ trẻ. Các môn học đều quan trọng không phân biệt môn chính môn phụ.
- Cần có nhiều giải thi đấu các môn thể thao ở cấp học phổ thông nhằm phát triển thể lực, rèn luyện sức khỏe, sức bền cho thế hệ trẻ - nguồn nhân lực quan trọng tƣơng lai của xã hội. Và thành tích về thể thao cũng là điểm cộng hay điểm ƣu tiên cho học sinh thi vào các trƣờng cao đẳng, đại học nhƣ các môn học khác trong trƣờng.
- Triển khai các cuộc thi về các nội dung thể hiện kỹ năng sinh tồn của cá nhân nhƣ sơ cứu tai nạn đuối nƣớc, tai nạn giao thông…; kỹ năng làm việc nhóm; kỹ năng nấu ăn, làm việc nhà; kỹ năng xử lý tình huống giao tiếp; kỹ năng đọc sách nhanh; kỹ năng kỹ thuật trồng trọt, sửa chữa điện…
Không chỉ nhà trƣờng mà gia đình và xã hội cần phát triển đầu tƣ tạo điều kiện cho thế hệ trẻ rèn luyện thể lực, sức khỏe tốt từ nền giáo dục gia đình và môi trƣờng sống ngoài xã hội.
Thứ hai, chính sách phát triển kinh tế cần gắn liền với giải quyết vấn đề xã hội theo hướng phát triển bền vững. Các hoạt động y tế, giáo dục hƣớng tới hiệu quả, chất lƣợng cao; xóa bỏ tình trạng chạy theo thành tích. Xây dựng môi trường sống an toàn cho con ngƣời nói chung, cho thế hệ trẻ nói riêng: môi trƣờng đất đai, nguồn nƣớc, không khí trong sạch, thực phẩm sạch, an toàn.
Các cơ quan chức năng cần quản lý nghiêm ngặt nguồn thực phẩm sạch trên thị trƣờng. Thực hiện hiệu quả các biện pháp này mới chấm dứt tình trạng bệnh tật nguy hiểm trong xã hội ngày càng gia tăng. Từ đó tạo áp lực, gánh nặng cho nền kinh tế và trực tiếp lên các gia đình. Thực hiện xây dựng môi trƣờng xã
158
hội an toàn mới phát triển thế hệ con cái trong gia đình - mầm mống tƣơng lai của xã hội khỏe mạnh có nhân cách tốt đẹp, tiến bộ.
Thứ ba, cần xây dựng phát triển các trung tâm dịch vụ xã hội ở các địa phƣơng với mục tiêu hỗ trợ, giúp đỡ, chia sẻ cùng với gia đình nâng cao hiệu quả thực hiện các chức năng của gia đình nhƣ trung tâm đào tạo kỹ năng làm cha, làm mẹ; trung tâm đào tạo kỹ năng sống phòng tránh rủi ro cho trẻ em; trung tâm đào tạo trẻ tự kỷ; trung tâm hỗ trợ cha mẹ khi mang thai; trung tâm đào tạo giúp việc chuyên nghiệp cho gia đình; trung tâm vận tải, đƣa đón an toàn trẻ từ nhà đến trƣờng; v.v…
Thứ tư, quản lý hiệu quả các trung tâm bảo trợ xã hội cho trẻ khuyết tật, trại trẻ mồ côi…Cung cấp thông tin mở rộng cho toàn dân đƣợc biết về địa chỉ, chƣơng trình nội dung, chính sách, điều kiện đào tạo để nhân dân hiểu thông tin, hỗ trợ gia đình, điều kiện khó khăn, đặc biệt khó khăn. Để xã hội, toàn dân chung tay, chung sức cùng xây dựng giúp đỡ những trẻ em hoàn cảnh khó khăn
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật; đặc biệt luật pháp về bảo vệ và phát triển trẻ em. Hệ thống pháp luật cần củng cố, bổ sung đầy đủ cụ thể có tính giáo dục răn đe phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Tiểu kết chƣơng 3 Phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ là phát huy vai trò chủ quan của gia đình với các yếu tố: kinh tế, trình độ nhận thức, sự lựa chọn hệ giá trị cho quá trình phát triển gia đình và sự phối kết hợp giữa gia đình – nhà trƣờng – xã hội tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Từ thực trạng của vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng, đặt ra những vấn đề cấp bách cần khắc phục nhƣ sau: thứ nhất, điều kiện kinh tế khó khăn, thiếu tính bền vững, ẩn chứa những rủi ro, tụt hậu, ô nhiễm môi trƣờng, sinh thái; trình độ nhận thức của gia đình còn tồn tại yếu tố cũ, lạc hậu; quá trình kế thừa những giá trị gia đình truyền thống, tiếp thu giá trị gia đình hiện đại còn bộc lộ hạn chế; sự phối kết hợp giữa gia đình – nhà trƣờng – xã hội còn bộc lộ yếu kém, tiêu cực.
Từ những trăn trở với những vấn đề đặt trên, chúng tôi đƣa ra các nhóm giải pháp với mong muốn góp phần vào công cuộc xây dựng gia đình tiến bộ văn hóa, phát huy vai trò của gia đình vì mục tiêu xây dựng nhân cách thế hệ trẻ đủ
159
“đức” và “tài”; có phẩm chất và năng lực cải tạo xây dựng đất nƣớc giàu đẹp, văn minh.
Các nhóm giải pháp đƣợc đề xuất là: nhóm giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng; nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ; nhóm giải pháp kết hợp phát huy giá trị gia đình truyền thống và gia đình hiện đại; nhóm giải pháp kết hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội trong giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ với nhiều biện pháp cụ thể.
Thế hệ trẻ là thế hệ quan trọng mang trong mình tiềm năng và thế mạnh to lớn cho sự phát triển tƣơng lai dân tộc. Vì vậy mỗi gia đình cần tạo mọi điều kiện vật chất, tinh thần, giáo dục họ trở thành những nhân lực tốt nhất cho sự phát triển gia đình và xã hội. Các giải pháp đã đề xuất cần đƣợc thực hiện một cách đồng bộ từ phía xã hội, nhà trƣờng và bản thân các gia đình. Trƣớc mắt có thể khắc phục những hạn chế về mặt điều kiện vật chất, nâng cao ý thức của mỗi gia đình, phát huy tính vƣợt trƣớc của ý thức xã hội để nâng cao dân trí, trình độ văn hóa của các gia đình. Từ đó ƣơm mầm, tạo tiền đề thuận lợi cho những nhân cách tốt đẹp đơm hoa, kết trái.
160
KẾT LUẬN
Nhân cách là phẩm chất và năng lực tạo nên cái “tôi” của mỗi cá nhân, là tổng hợp các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội hình thành nên đặc trƣng của mỗi cá nhân, trên cơ sở đó mỗi cá nhân trở thành chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh các hoạt động của mình.
Thế hệ trẻ đƣợc coi là thế hệ kế cận, thế hệ tƣơng lai của xã hội, thế hệ trẻ nằm trong nguồn lao động kế tiếp của lực lƣợng sản xuất; là lớp ngƣời có thế mạnh, tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc - quốc gia; đồng thời thế hệ trẻ là lớp ngƣời trẻ tuổi đang trong quá trình học hỏi, hoàn thiện về tri thức và thiếu sự trải nghiệm nên họ cần sự quan tâm hỗ trợ từ gia đình và xã hội.
Giai đoạn tuổi trẻ của mỗi cá nhân là giai đoạn quan trọng cho sự hình thành, phát triển về mọi mặt thể chất, tinh thần và sự định hình khá rõ nét về nhân cách. Việc xây dựng và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ là nhiệm vụ hết sức quan trọng của gia đình và toàn xã hội. Nhân cách của thế hệ trẻ là phẩm chất và năng lực tạo nên thế giới cái “ tôi” của mỗi cá nhân trẻ tuổi, là sự tổng hợp của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội trên cơ sở đó hình thành nên đặc trƣng vốn có của cá nhân đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh các hoạt động của mình, là cơ sở tạo nên sự phát triển của nhân cách suốt cuộc đời mỗi con ngƣời.
Có thể nói gia đình có vai trò quan trọng quyết định nhất tới sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, đặc biệt là thế hệ trẻ từ 0 - 18 tuổi. Ở tỉnh Hải Dƣơng những năm gần đây, mỗi gia đình đã phát huy khá tốt vai trò của mình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ. Gia đình là nơi chăm sóc sức khỏe, thể chất tạo nền tảng sinh học cho phát triển nhân cách cá nhân; gia đình là nơi nuôi dƣỡng, phát triển tâm lý, tình cảm tạo nên nền tảng tinh thần cho mỗi cá nhân; gia đình là nơi giáo dục, truyền thụ những tri thức, kinh nghiệm - kỹ năng sống, kinh nghiệm sản xuất hình thành nhân cách cá nhân; gia đình là nơi điều chỉnh và định hƣớng phát triển nhân cách cho cá nhân. Hiện nay các cơ quan, ban ngành của tỉnh đã chỉ đạo, kết hợp hỗ trợ cùng gia đình phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của gia đình và sức mạnh của toàn xã hội để chăm sóc, nuôi dƣỡng, hoàn thiện nhân cách cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên
161
trên thực tế đã và đang đặt ra những vấn đề cần giải quyết, khắc phục, cụ thể: khả năng kinh tế của nhiều gia đình còn hạn chế trong việc phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ; trình độ nhận thức hạn chế trong phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ; phát huy giá trị văn hóa của gia đình truyền thống và tiếp thu chọn lọc các giá trị văn hóa tiến bộ của gia đình hiện đại còn nhiều hạn chế; sự kết hợp giữa gia đình, nhà trƣờng, xã hội chƣa hiệu quả trong việc phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay.
Để khắc phục đƣợc những hạn chế, tồn tại trong việc phát huy vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dƣơng hiện nay chúng tôi khái quát đƣa ra bốn nhóm giải pháp: Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các gia đình ở tỉnh Hải Dƣơng; Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ; Nhóm giải pháp kết hợp phát huy giá trị gia đình truyền thống và gia đình hiện đại; Nhóm giải pháp kết hợp gia đình, nhà trƣờng, xã hội trong giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
Trong giai đoạn hiện nay nƣớc ta đang thực hiện quá độ gián tiếp từ xã hội phong kiến đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự phát triển mọi mặt của xã hội và gia đình còn tồn tại những mặt đối lập cũ - mới, những mâu thuẫn trong sự phát triển của xã hội nói chung, gia đình nói riêng gây ra rất nhiều hạn chế cho sự phát triển của nhân cách thế hệ trẻ. Vì mục tiêu phát triển tiến bộ xã hội, chúng ta phải đấu tranh loại bỏ những yếu tố hạn chế, tiêu cực ngay từ trong từng “tế bào - gia đình”, phát triển nhân rộng đƣợc các “tế bào - khỏe mạnh” thực hiện tốt các vai trò của gia đình, từ đó tạo điều kiện, môi trƣờng lành mạnh cho sự phát triển nhân cách cá nhân.
Thế hệ trẻ luôn đƣợc coi là thế hệ mang trong mình tiềm năng, thế mạnh to lớn. Bên cạnh sức sống tiềm tàng và khả năng phát triển bùng nổ, thế hệ trẻ đặc biệt cần xã hội quan tâm, bồi dƣỡng, định hƣớng. Trong sự phát triển khoa học, công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, sự phát triển của thế hệ trẻ có nhiều cơ hội lớn và cả những thách thức không nhỏ, đòi hỏi sự nhìn nhận,
162
đánh giá cần toàn diện và sâu sắc, từ đó góp phần định hƣớng sự phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại.
Phát triển kinh tế là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia, nhƣng mọi sự phát triển phải hƣớng tới sự tiến bộ của con ngƣời, trong đó có thế hệ trẻ. Với những hiện thực và khả năng phát triển, thế hệ trẻ Hải Dƣơng và thế hệ trẻ Việt Nam nói chung sẽ là lực lƣợng kế thừa xứng đáng sự nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trƣớc, xây dựng đất nƣớc Việt Nam phồn vinh, hƣớng tới sự phát triển và hạnh phúc của mỗi con ngƣời Việt Nam.
163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (2012), Giáo dục lý luận Mác - Lênin với việc hình thành và phát triển nhân cách ở sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
2. Ngô Đức Anh; Ross, Micheal W.; Ratliff, Eric A. (2009), Ảnh hưởng của Internet lên thực hành tình dục trong thanh thiếu niên Hà Nội, Việt Nam, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
3. Dƣơng Văn Bóng (2003), Đổi mới việc thực hiện chức năng giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ trong gia đình nông dân Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học.
4. Beach, Raymond, Trần Văn Từ, Lƣợc soạn, Trần Ngọc Âu, Lƣợc soạn
(2001), Cha mẹ và con cái, Nxb Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Ngọc Bích (1998), Tâm lý học nhân cách – Một số vấn đề lý luận, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. (Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương, Hn, 2003..)
6. Nguyễn Ngọc Bích (2000), Tâm lý học và nhân cách, Nxb Đại học Quốc
gia , Hà Nội.
7. Nguyễn Thanh Bình (2001), Những vấn đề cấp bách trong giáo dục con ở
tuổi thiếu niên trong gia đình thành phố hiện nay, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Đỗ Thị Bình - Lê Ngọc Văn - Nguyễn Linh Khiếu (2002), Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Bộ giáo dục và đào tạo (1994), giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Bộ giáo dục và đào tạo (2002), giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Ban chấp hành đoàn tỉnh Hải Dƣơng (2015), Báo cáo kết quả công tác
đoàn và phong trào thanh thiếu nhi giai đoạn 2010 - 2015.
13. Ban thƣờng vụ tỉnh đoàn (2016), Báo cáo kết quả công tác đoàn và
phong trào thanh thiếu nhi năm 2016.
164
14. Ban chấp hành đoàn tỉnh Hải Dƣơng (2017), Xây dựng đoàn vững mạnh, tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng; đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, cổ vũ thanh niên thi đua học tập, khởi nghiệp, sáng tạo, xung kích tình nguyện xây dựng tỉnh Hải Dương giàu mạnh, văn minh, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Tỉnh đoàn Hải Dƣơng khóa XII tại Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Hải Dƣơng lần thứ XIII.
15. Campbell Ross; Suggs Rob (Phƣơng Oanh, Dịch; Phƣơng Thảo, Hiệu đính), (2007), Teen cần gì ở cha mẹ?, Để teen thật sự cân bằng trong thế giới mất cân bằng, Nxb Văn hóa Thông Tin, Hà Nội.
16. Chủ nghĩa xã hội và nhân cách, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, tập 1. 17. Chủ nghĩa xã hội và nhân cách, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, tập 2. 18. Chế tài hình sự đối với tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành
niên phạm tội (2006), Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
19. Văn Thị Kim Cúc (2003), Những tổn thương tâm lý của thiếu niên do
bố mẹ ly hôn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
20. Đinh Thị Vân Chi (2003), Nhu cầu giải trí của thanh niên, Sách tham
khảo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Trần Thị Cẩm (2005), Tâm lý trẻ và giáo dục trong gia đình,Nxb Phụ Nữ. 22. Vũ Hiếu Dân, Ngân Hà (2001), Văn hoá tâm lý gia đình, Nxb Văn hóa
thông tin.
23. Nguyễn Thị Hoài Đức (1997), Cha mẹ với tuổi vị thành niên, Nhà xuất
bản Y học, Hà Nội.
24. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Phạm Hoàng Gia (1990), Mô hình nhân cách sinh viên năm 2000, Nhà
xuất bản Hà Nội.
165
29. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
30. Phạm Minh Hạc (1994), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Phạm Minh Hạc – chủ nhiệm đề tài nghiên cứu (2001 -2005), Xây dựng con người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường, nxb Khoa học xã hội, Hà nội.
32. Lƣu Song Hà (2008), Cách thức cha mẹ quan hệ với con và hành vi lệch
chuẩn của trẻ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Nguyễn Nhƣ Hiền (2005), Giáo trình di truyền học tế bào, nxb Đại học
quốc gia Hà Nội. 7,11,18
34. Lê Nhƣ Hoa (2001), Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển
nhân cách trẻ em, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
35. Đinh Thị Hoa (2018), “Sàng lọc khuyết tật ngôn ngữ trẻ em từ 1-6 tuổi ở
tỉnh Hải Dương”, Tạp chí Phục hồi chức năng.
36. Khuất Thu Hồng (chủ biên) (1996), Gia đình truyền thống, Nxb Khoa học
Xã hội.
37. Lê Văn Hồng (chủ biên), (2003), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư
phạm, nxb Hà Nội.
38. Vũ Tuấn Huy (2003), Mâu thuẫn vợ chồng trong gia đình và những yếu tố
ảnh hưởng, Nxb Khoa học xã hội- Hà Nội.
39. Vũ Tuấn Huy (2004), Xu hướng gia đình ngày nay (một vài đặc điểm từ
nghiên cứu thực nghiệm tại tỉnh Hải Dƣơng).
40. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, (2003),
Từ điển bách khoa toàn thư, tập III, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
41. Trần Đình Hƣợu (1994), Gia đình truyền thống và chuyển đổi đã thích
ứng với thời đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
42. Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hà Nội (1991), Dạy con nên người, Hà Nội. 43. Đặng Phƣơng Kiệt (2006), Gia đình Việt Nam, Những giá trị truyền thống
và các vấn đề tâm - bệnh lý xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.
44. Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 45. Nguyễn Linh Khiếu (2001), Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hóa-
xã hội nông thôn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
166
46. Nguyễn Linh Khiếu, Chủ biên; Lê Ngọc Lân; Nguyễn Phƣơng Thảo, (2003), Gia đình trong giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Nguyễn Linh Khiếu (2003), Nghiên cứu phụ nữ giới và gia đình, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Nguyễn Linh Khiếu- Lê Ngọc Lân - Nguyễn Phƣơng Thảo (2003), Gia đình
trong giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý (2007), Gia đình học, Nxb Lý luận
chính trị.
50. V.I. Lênin (2006), Toàn tập, tâp 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 51. V.I. Lênin (2006), Toàn tập, tâp 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52. Trịnh Duy Luân; Helle Rydstrom; Wil Burghoom đồng chủ biên (2011)
nghiên cứu về:“Gia đình nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”,
53. Nghiêm Sĩ Liêm (2001), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
54. Đặng Vũ Cảnh Linh (2003), Vị thành niên và chính sách đối với vị thành
niên, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
55. Đặng Thị Linh (2009), Những vấn đề lý luận về gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Khoa CNXHKH, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
56. Nguyễn Thế Long (1998), Gia đình và dân tộc, Nxb Lao động, Hà Nội. 57. Luật hôn nhân gia đình Việt Nam (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 58. Luật Thanh Niên (2005), Nxb lao động, Hn. 59. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
60. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
61. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
62. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
167
64. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 65. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 66. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội. 67. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 68. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 69. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 70. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 71. Nguyễn Đức Mạnh (2003), Vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ em
hư ở thành phố; qua nghiên cứu ở Hà Nội, Luận án tiến sĩ xã hội học.
72. P. Ma-sơ-lô-va, J.; Phạm Thành Hƣng, Dịch (2000), Giới tính tuổi hoa,
Nxb Hà Nội, Hà Nội.
73. Port, Maurice; Vũ Thị Chín, Dịch (2004), Trẻ em và quan hệ gia đình,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
74. Nhà xuất bản Phụ nữ (1980), Dạy con yêu lao động, Hn. 75. Giai.Not, H.G.; Nguyễn Văn Toại, Dịch (1993), Thuật ứng xử giữa cha
mẹ và con cái, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.
76. Nghiên cứu Khoa học về phụ nữ (1991), Nhận diện gia đình Việt Nam
ngày nay, Hà Nội.
77. Lê Văn Ngọc (2012), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội.
78. Đào Thị Oanh (2007), Vấn đề nhân cách trong tâm lý học ngày nay, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
79. Lê Thị Quý (2011), Quản lý nhà nước về gia đình, lý luận và thực tiễn,
Nxb Dân trí.
80. Sara Imas (2018), Vô cùng tàn nhẫn vô cùng yêu thương, Nxb Dân trí, 81. Huỳnh Văn Sơn (2008), Những kiến thức cơ bản của tâm lý học lứa tuổi va
tâm lý học sƣ phạm, Nxb Đại học sƣ phạm Tp. Hồ Chí Minh.
82. Lê Quang Sơn, Nguyễn Văn Lũy (2009), Từ điển tâm lý học, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
83. Nguyễn Thơ Sinh (2008), Các học thuyết tâm lý nhân cách, Nxb Lao
Động, Hà Nội.
84. Trần Đặng Sinh, Nguyễn Chu Sâm (2014), Đạo làm người trong văn hóa
Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
168
85. Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng (2015), Báo cáo công
tác gia đình năm 2015.
86. Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng (2015), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 49-CT/TW ngày 21/01/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
87. Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng, Tình hình thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và các văn bản, đề án thực hiện công tác gia đình giai đoạn 2011-2015.
88. Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng, Báo cáo công tác văn hóa,
thể thao và du lịch năm 2015.
89. Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng, Báo cáo thực hiện “Đề án tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình Việt nam giai đoạn 2010-2015”.
90. Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng, Báo cáo kết quả thực
hiện công tác gia đình năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ năm 2017.
91. Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương năm 2016.
92. Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng, Báo cáo tình hình kinh
tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2016.
93. Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Hải Dƣơng, Báo cáo đánh giá kết quả công tác gia đình giai đoạn 2011 - 2015; Mục tiêu, phương hướng và giải pháp thực hiện giai đoạn 2016 – 2020.
94. Sở kế hoạch đầu tƣ (2017), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương năm 2017.
95. Klein, Ted (Nguyễn Khánh Du, Dịch), (1991), Cẩm nang của người cha,
Nxb Tổng hợp Khánh Hòa, Khánh Hòa.
96. Vũ Anh Tuấn; Nguyễn Xuân Mai (2007), Những biến đổi kinh tế xã hội
của hộ gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
97. Trần Hữu Tòng - Trƣơng Thìn (Chủ biên), xuất bản năm 1997, Xây dựng
gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới ,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
169
98. Nguyễn Đình Tƣờng (2006), “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền
thồng ở Việt Nam trƣớc tác động của toàn cầu hóa”, Tạp chí Triết học.
99. Nguyễn Đình Tƣờng (2007), “Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Triết học.
100. Tổ chức cứu trợ Trẻ em của Thụy Điển; UNICEF (2006), Quyền trẻ em, Biến
nguyên tắc thành hành động, Sách tham khảo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
101. Nguyễn Xuân Thức (Chủ biên - 2007), Giáo trình Tâm lý học đại cƣơng,
Nxb Đại học Sƣ Phạm, Hà Nội.
102. Đỗ Thị Thạch (2011), “Về xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam dƣới
ánh sáng Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 56.
103. Trịnh Văn Thắng (2004), Giao tiếp giữa bố mẹ và vị thành niên về tình
dục, Nội dung, rào cản và động cơ giao tiếp, Nxb Y học, Hà Nội.
104. Lê Thi (1996), Gia đình Việt Nam ngày nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 105. Lê Thi (1996), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
106. Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con
người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
107. Lê Thi (2006), Cuộc sống và biến động của hôn nhân, gia đình Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội.
108. Lê Thi (2009), Sự tương đồng và khác biệt trong quan niệm về hôn nhân gia đình giữa các thế hệ người Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
109. Lê Thi (2011), Vài nét bàn về việc thực thi công bằng, dân chủ và bình
đẳng nam nữ ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
110. Dƣơng Ái Thu, Nguyễn Kim Khanh sƣu tầm và dịch (2004), Giáo dục
truyền thống văn hóa gia đình cổ xưa, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
111. Lê Thị Thủy, Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách của con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
112. Nguyễn Thị Thƣờng(1999), Gia đình Việt Nam hiện nay. Truyền thống
hay hiện đại?, Tạp chí Thông tin lý luận, (253).
170
113. Trung Ƣơng đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (2008), Hội thảo khoa học, Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong thời kỳ hội nhập.
114. Nguyễn Quang Uẩn (1995), Tâm lý học đại cương, Nxb , Hà Nội. 115. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng (2015), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015- 2020.
116. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng (2016), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017.
117. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng (2017), “Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018”.
118. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng (2018), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 3 tháng đầu năm và một số nhiệm vụ trọng tâm trong quý 2 năm 2018.
119. Nguyễn Linh Văn (2006), “Gia đình Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Gia
đình và Trẻ em.
120. Lê Ngọc Văn (1996), Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
121. Lê Ngọc Văn (2002), “Một số đặc điểm biến đổi gia đình từ xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp hóa”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ. 122. Nguyễn Khắc Viện (1991), Từ điển tâm lý, Nxb Ngoại văn. Hà Nội. 123. Nguyễn Khắc Viện (1994), Tâm Lý gia đình, NxbThế Giới, Hà Nội. 124. Viện nghiên cứu thanh niên (1992), Vấn đề thanh niên nhìn nhận và dự
báo, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
125. Viện Chiến lƣợc và chƣơng trình giáo dục; Văn phòng UNESCO (2006), Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, Tài liệu hướng dẫn giáo viên, Nhà xuất bản Chính trị, Hà Nội.
126. Viện Gia đình và Giới; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt (2013), Báo cáo đề xuất chính sách hỗ trợ bà mẹ lựa chọn dinh dưỡng bổ sung tốt và phù hợp nhất cho trẻ nhỏ tại Việt Nam, Viện Gia đình và Giới; Nhà xuất bản Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hà Nội.
171
127. Viện Gia đình và Giới (2013), Nuôi dưỡng trẻ nhỏ ở một số địa phương của Việt Nam, Thực tiễn và Hàm ý chính sách, Nxb Viện Gia đình và Giới, Hà Nội. 128. Viện ngôn ngữ học, (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa, Hn. 129. A.G. Xpi-rkin (1989), Triết học xã hội, Tập 1, Nxb tuyên huấn, Hn. 130. A.G. Xpi-rkin (1989), Triết học xã hội, Tập 2, Nxb tuyên huấn, Hn. 131. https://afamily.vn/ 132. https://tuoitrethudo.com.vn: Thanh Hà (25/2016), “Nạn đuối nƣớc ở trẻ
em Việt Nam”,
133. Tratu.soha.vn 134. Vanban.chinhphu.vn 135. WHO (1974), Hiến chƣơng Ottawa, Nxb Y học, Hà nội.
172
PHỤ LỤC
PHIẾU KHẢO SÁT
( Dành cho gia đình)
Để góp phần phát huy vai trò của gia đình đối với việc xây dựng nhân cách
cho thế hệ trẻ, chúng tôi thực hiện nghiên cứu về “Vai trò của gia đình đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ ở tình Hải Dƣơng hiện nay.”
Hộ gia đình ông/bà là đƣợc lựa chọn ngẫu nhiên để phỏng vấn. Ông/bà vui lòng
trả lời những câu hỏi sau bằng cách đánh dấu V/X vào các ô vuông hoặc điền nội
dung vào các chỗ trồng. Chúng tôi cam kết mọi ý kiến của ông/bà sẽ đƣợc bảo
mật và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu đề tài. Xin trân trọng cảm ơn sự
hợp tác của ông/bà !
A. THÔNG TIN CHUNG
1.Ông/bà đang sống ở khu vực cƣ trú nào:
1 Khu vực 1 (KV1 gồm: Các xã khu vực I, II, III thuộc vùng dân tộc và
miền núi giai đoạn 2012 - 2015, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven
biển và hải đảo giai đoạn 2013 - 2015 và các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới,
xã an toàn khu vào diện đầu tƣ của Chƣơng trình 135 năm 2014 và năm 2015
theo quy định hiện hành
Khu vực 2 - nông thôn (KV2-NT) gồm: Các địa phƣơng không thuộc 2
KV1, KV2, KV3.
Khu vực 2 (KV2) gồm: Các thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; các thị 3
xã, huyện ngoại thành của thành phố trực thuộc trung ƣơng (trừ các xã thuộc
KV1).
4 Khu vực 3 (KV3) gồm:Các quận nội thành của thành phố trực thuộc
trung ƣơng.
2. Ông/bà đang làm công việc gì:
Nông dân Buôn bán 4 1
Công nhân Viên chức, công chức 5 2
Nghề truyền thống Kinh doanh/doanh nhân 6 3
173
3. Thu nhập bình quân/ngƣời/tháng của gia đình ông/ bà trong 3 năm
gần đây:
Dƣới 1000.000 đồng/tháng 1
Từ 1000.000 đến 2000.000 đồng/tháng 2
Từ 2000.000 đến 3000.000 đồng/tháng 3
Trên 3000.000 đồng/tháng 4
B. NỘI DUNG KHẢO SÁT
1. Theo Ông/Bà gia đình có tầm quan trọng nhƣ thế nào tới sự phát
triển nhân cách thế hệ trẻ ?
1 Rất quan trọng 2 Quan trọng 3 Không quan trọng
2. Theo Ông/Bà việc xây dựng và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ là
trách nhiệm chủ yếu của (chọn 1 phƣơng án)
Gia đình 1
Nhà trƣờng 2
Các cơ quan nhà nƣớc, pháp luật 3
Chính quyền nơi cƣ trú 4
Thiết chế tôn giáo 5
Nhiều tổ chức xã hôi, nhƣng gia đình là chủ yếu 6
3. Ông/Bà mong muốn con mình trở thành ngƣời có những yếu tố nào
sau đây: (chọn 3 phƣơng án)
Sức khỏe tốt 1
Hiếu thảo 2
Trình độ học vấn cao 3
Lao động tốt 4
Kỹ năng sống tốt 5
Hình thức đẹp (chiều cao, cân nặng…) 6
Tâm hồn đẹp (Biết yêu thƣơng, giúp đỡ mọi ngƣời…) 7
Những phẩm chất khác: ……………………………………………….
174
………………………………………………………………………….
4.(*) Chăm sóc sức khỏe và phát triển thể chất có quan trọng đối với sự
phát triển nhân cách hay không?
1 Rất quan trọng 2 Quan trọng 3 Không quan trọng
5. Ông/Bà quan tâm tới chế độ dinh dƣỡng cho việc chăm sóc sức khỏe
và phát triển thể chất tốt nhất cho con cái?
1 Rất quan tâm 2 Quan tâm 3 Không quan tâm
6. Trong 10 năm gần đây sự đầu tƣ của ông/bà cho con, cháu nhằm
tăng cƣờng sức khỏe, phát triền thể chất có tăng lên không?
1 Có 2 Không.
7. Theo ông/bà những yếu tố nào giúp cho thẻ hệ trẻ tăng cƣờng sức
khỏe và phát triển thể chất?
Dinh dƣỡng phù hợp 1
Di truyền 2
Trẻ đƣợc chăm sóc từ khi nằm trong bụng mẹ\ 3
Học tập và vui chơi phù hợp lứa tuổi 4
Rèn luyện thể dục, thể thao 5
Ngoài ra: ………………………………………………………………...
8. Trong gia đình ông/bà ngƣời có nhiều thời gian trực tiếp chăm sóc,
dạy dỗ con cái trong gia đinh nhiều nhất là ?
1 Bố 2 Mẹ 3 Ông 4 Bà
9. Ông/bà có quan tâm tới vấn đề ô nhiễm môi trƣờng nơi ông/bà sinh
sống hiện nay không?
Có quan tâm 1
Không quan tâm 2
10. Ô nhiễm môi trƣờng (rác thải, nƣớc thải, khói bụi,..) có ảnh hƣởng
tới gia đình và thế hệ trẻ trong gia đình ông/bà hay không?
1 Có 2 Không
175
11. Ông/bà có quan tâm tới những sai phạm trong vấn đề an toàn thực
phẩm nơi ông bà sinh sống không?
1 Có quan tâm 2 Không quan tâm
12. Phát hiện những sai phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm ông/bà có
báo cáo cơ quan chức năng xử lý không?
1 Có 2 Không
13. (*)Ông/bà nhận thấy giáo dục của gia đình với con cái là quan
trọng?
1 Rất quan trọng 2 Quan trọng 3 Không quan
trọng
14. Ông/bà quan tâm giáo dục con cái ở những nội dung nào hơn?
(chọn 3 nội dung)
Đạo đức 1
Lối sống 2
Ứng xử, giao tiếp 3
Công việc gia đình 4
Chăm sóc sức khỏe 5
Rèn luyện thể chất 6
Kiếm tiền giỏi 7
Định hƣớng nghề nghiêp 8
15. Mức độ quan tâm giáo dục của ông/bà tới con cái nhƣ thế nào?
Thƣờng xuyên 2 Không thƣờng xuyên 3 Không quan tâm 1
16. Ông/bà có quan tâm giáo dục giới tình cho con cái không?
Không 3 Không có câu trả lời Có 2 1
17. Giáo dục giới tính có quan trọng với thế hệ trẻ dƣới 18 tuổi không?
Có 2 Không 3 Không có câu trả lời 1
18. Quan điểm của ông/bà khi định hƣớng các môn học cho các con ở
trƣờng mà ông/bà coi là quan trọng hiện nay ? (chọn tối đa 3 phương án)
176
Toán, Lý Hóa…(môn tự nhiên) 1
Văn Sử Địa…(môn xã hội) 2
Ngoại ngữ; Tin học 3
Giáo dục thể chất 4
Kỹ năng sống 5
Nghệ thuật 6
Các môn học đều quan trọng 7
19. Mức độ tìm hiểu của ông/bà về các trang mạng xã hội (facebook,
zalo,…) mà con tham gia?
Biết rõ 2 Biết ít 3 Không biết 1
20. Ông/ bà thấy giáo dục thế hệ trẻ dƣới 18 tuổi có khó khăn không?
Có 2 Không 1
*Nếu ông/bà thấy giáo dục thế hệ trẻ dƣới 18 tuổi là khó khăn, thì
nguyên nhân là do?
Lứa tuổi có đặc điểm tâm, sinh lý phức tạp 1
Lứa tuổi phát triển nhanh chóng về thể chất, trí tuệ 2
Lứa tuổi sử dụng khoa học công nghệ hiện đại, gia đình không theo kịp 3
Nhận thức của ông bà, cha mẹ về đặc điểm tâm – sinh lý của thế hệ trẻ 4
còn hạn chế
Điều kiện kinh tế gia đình còn hạn chế 5
Sự khác biệt về quan điểm sống, lối sống…giữa các thế hệ trong gia đình 6
Nguyên nhân khác: ……………………………………………….. 7
21. (*)Theo ông/bà gia đình có vai trò quan trọng trong định hƣớng và
điều chỉnh sự hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ không?
1 Rất quan trọng 2 Quan trọng 3 Không quan trọng
22. Ông/bà có quan tâm, định hƣớng cho con cái “thần tƣợng”/ “mẫu
ngƣời” mà con muốn trở thành không?
1 Có 2 Không 3 Không có câu trả lời
177
BẢN TỔNG HỢP KẾT QUẢ XỬ LÝ PHIẾU KHẢO SÁT
Phụ lục 1(A. Câu 1): Khu vực cƣ trú
Khu vực Khu vực 1(KV1) Khu vực 2 – Khu vực 2 Khu vực 3
NT Tham số
135 Tổng số 300 phiếu 49 105 11
45.3 Tỉ lệ % 16.4 34.9 3.4
Phụ lục 2: Công việc của cha mẹ
Nông dân Công nhân Buôn bán nhỏ Doanh nhân
Nghề nghiệp Tham số Nghề truyền thống
Viên chức công chức 33 111 86 12 45 13
37.0 28.7 4.0 15.0 11.0 4.3 Tổng số 300 phiếu Tỉ lệ %
Phụ lục 3: Thu nhập bình quân/ngƣời/tháng trong 3 năm gần đây của gia
đình
Mục đích Dƣới Từ 1000.000 Từ 2000.000 - Trên
1000.000 – 2000.000 3000.000 3000.000
Tham số đ/tháng đ/tháng đ/tháng đ/tháng
Tổng số 300 12 68 172 48
phiếu
16.0 4.0 22.7 57.3 Tỉ lệ %
Phụ lục 4 (B. Câu 1) Tầm quan trọng của gia đình đối với sự phát triển
nhân cách thế hệ trẻ
Mục đich Rất quan trọng Quan trọng Không quan
Tham số trọng
Tổng số 300 260 1 39
phiếu
Tỉ lệ % 86.7 0.3 13.0
178
Phụ lục 5. Trách nhiệm chủ yếu trong xây dựng và phát triển nhân cách của
thế hệ trẻ
Mục đích Gia đình
Nhà trƣờng
Thiết chế tôn gian
Chính quyền, nơi cƣ trú
Các cơ quan nhà nƣớc, pháp luật Nhiều tổ chức xã hội, nhƣng gia đình là chủ yếu
Tham số
Tổng số 300 141 34 4 3 5 113
phiếu
Tỉ lệ % 47.0 11.3 1.3 1.0 1.7 37.7
Phụ lục 6. Các yếu tố mà gia đình mong muốn có ở con cái
Mục đích
Hiếu thảo
Sức khỏe tốt Trình độ học vấn Lao động tốt Hình thức đẹp Tâm hồn đẹp
Kỹ năng sống tốt
Tham số
Tổng số 300 256 140 123 85 144 29 83
phiếu
Tỉ lệ % 85.3 46.7 41.0 28.3 48.0 9.7 27.7
Phụ lục 7. Tầm quan trọng của chăm sóc sức khỏe, phát triển thể chất đối
với sự phát triển nhân cách.
Mục đích Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng
Tham số
Tổng số 300 phiếu 235 62 2
Tỉ lệ % 78.6 20.7 0.7
179
Phụ lục 8. Mức độ quan tâm của cha mẹ tới chế độ dinh dƣỡng cho sự phát
triển sức khỏe, thể chất tốt nhất.
Mục đích Rất quan tâm Quan tâm Không quan tâm
Tham số
Tổng số 300 235 63 2
phiếu
Tỉ lệ % 21.0 0.7 78.3
Phụ lục 9. Sự đầu tƣ của gia đình cho sự phát triển sức khỏe, thể chất có
tăng lên trong 10 năm gần đây.
Mục đích Có Không
Tham số
Tổng số 300 phiếu 289 9
Tỉ lệ % 97.0 3.0
Phụ lục 10. Các yếu tố giúp tăng cƣờng sức khỏe và phát triển thể chất cho
thế hệ trẻ
Mục đích Dinh Di Trẻ đƣợc Rèn luyện Học tập và
dƣỡng truyền chăm sóc từ thể dục, thể vui chơi
phù hợp khi nằm thao phù hợp
trong bụng lứa tuổi Tham số
mẹ
Tổng số 300 201 56 124 85 78
phiếu
Tỉ lệ % 67 18.7 26 41.3 28.3
180
Phụ lục 11. Ngƣời có nhiều thời gian trực tiếp chăm sóc, dạy dỗ con cái
trong gia đình hơn
Mục đích Bố Mẹ Ông Bà
Tham số
Tổng số 300 115 172 4 8
phiếu
Tỉ lệ % 38.5 57.5 1.3 2.7
Phụ lục 12. Sự quan tâm của gia đình tới vấn đề ô nhiễm môi trƣờng nơi
gia đình sinh sống
Mục đích Có quan tâm Không quan tâm
Tham số
Tổng số 300 288 12
phiếu
96.3 3.7 Tỉ lệ %
Phụ lục 13. Sự ảnh hƣởng của ô nhiễm môi trƣờng tới gia đình
Mục đích Có Không
Tham số
Tổng số 300 283 17
phiếu
94.3 5.7 Tỉ lệ %
Phụ lục 14. Sự quan tâm của gia đình tới những sai phạm trong vấn đề an
toàn thực phẩm nơi gia đình sinh sống
Có quan tâm Không quan tâm
Tổng số 300 290 10
phiếu
96.7 3.3 Tỉ lệ %
181
Phụ lục 15. Báo cáo cơ quan chức năng khi phát hiện những sai phạm trong
vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm
Có Không
Tổng số 300 254 46
phiếu
Tỉ lệ % 84.7 15.3
Phụ lục 16. Nhận thức của gia đình về tầm quan trọng của giáo dục gia đình
với con cái
Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng
Tổng số 300 247 49 1
phiếu
Tỉ lệ % 83.2 16.5 0.3
Phụ lục 17. Những nội dung giáo dục mà gia đình quan tâm nhiều hơn
trong giáo dục con cái
Mục
Đạo đức Lối sống Ƣng xử giaotiếp đích Kiếm tiền giỏi
Công việc gia đình Chăm sóc sức khỏe Rèn luyện thể chất Định hƣớng nghề nghiệp
Tham số
Tổng số 300 269 132 133 82 113 54 42 57
phiếu
89.7 44.0 44.3 27.3 37.7 18 14 19 Tỉ lệ %
Phụ lục 18. Mức độ quan tâm giáo dục của gia đình đối với con cái
Mục đích Thƣờng xuyên Không thƣờng Không quan tâm
xuyên Tham số
Tổng số 300 271 28 1
phiếu
90.4 9.3 0.3 Tỉ lệ %
182
Phụ lục 19. Sự quan tâm tới nội dung giáo dục giới tính cho con cái trong
gia đình
Có Không Không có câu trả
lời
29 Tổng số 300 261 10
phiếu
9.7 87 3.3 Tỉ lệ %
Phụ lục 20. Sự quan trọng của giáo dục giới tính cho con cái dƣới 18 tuổi
Không Không có câu trả Mục đích Có
Tham số lời
26 Tổng số 300 268 6
phiếu
8.7 89.5 1.8 Tỉ lệ %
Phụ lục 21. Sự định hƣớng của gia đình với các môn học đƣợc cho là quan
trọng ở nhà trƣờng hiện nay
Mục đích Môn tự Môn xã Ngoại Kỹ Giáo Nghệ Các
nhiên hội ngữ, tin năng dục thể thuật môn
học sống chất học đều
quan
trọng Tham số
Tổng số 300 154 61 145 108 152 33 134
phiếu
51.3 20.3 48.3 36.0 50.7 11.0 44.7 Tỉ lệ %
183
Phụ lục 22. Sự tìm hiểu của gia đình về các trang mạng xã hội mà con tham
gia
Mục đích Biết rõ Biết ít Không biết
Tổng số 300 184 97 15
phiếu
5.0 61.2 32.8 Tỉ lệ %
Phụ lục 23.1 Khó khăn của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ dƣới 18 tuổi
Có Không
Tổng số 300 266 31
phiếu
Tỉ lệ % 90.2 9.8
Phụ lục 23.2 Nguyên nhân của khó khăn trong việc giáo dục thế hệ trẻ dƣới
18 tuổi
lý
Điều kiện kinh tế gia đình còn hạn chế
Lứa tuổi có đặc điểm tâm, sinh phức tạp
Lứa tuổi phát triển nhanh chóng về thể chất, trí tuệ khác Sự biệt về quan điểm, lối sống…giữa các thế hệ trong gia đình
Lứa tuổi sử dụng khoa học công nghệ hiện đại gia đình không theo kịp
Nhận thức của ông bà, cha mẹ về đặc điểm tâm, lý sinh thế hệ trẻ còn hạn chế 79 Tổng số 300 179 68 86 28 115
phiếu
59.7 22.7 28.7 26.3 9.3 38.3 Tỉ lệ %
184
Phụ lục 24. Vai trò của gia đình trong định hƣớng và điều chỉnh sự hình
thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ
Rất quan trọng Quan trọng Không quan
trọng
55 1 Tổng số 300 phiếu 244
18.4 0.3 Tỉ lệ % 81.3
Phụ lục 25. Sự quan tâm, định hƣớng của gia đình cho con cái “thần
tƣơng”/ “mẫu ngƣời” mà con muốn trở thành
Không Không có câu trả Có
lời
100 17 Tổng số 300 phiếu 183
33.4 5.4 Tỉ lệ % 61.2