VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------------
NGUYỄN THANH THỦY
VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI CẤP CƠ SỞ TRONG
VIỆC ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI CHO CƯ DÂN NÔNG THÔN:
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI 2 XÃ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------------
NGUYỄN THANH THỦY
VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI CẤP CƠ SỞ TRONG
VIỆC ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI CHO CƯ DÂN NÔNG THÔN:
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI 2 XÃ
Ngành: Xã hội học
Mã số: 9 31 03 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TSKH. Bùi Quang Dũng
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các dữ liệu và kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng ai khác công bố trong bất kỳ công
trình nào.
Tác giả luận án
Nguyễn Thanh Thủy
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .........................................................................................................
MỤC LỤC .....................................................................................................................
CHỮ VIẾT TẮT ...........................................................................................................
DANH MỤC BẢNG .....................................................................................................
DANH MỤC BIỂU .......................................................................................................
DANH MỤC HỘP ........................................................................................................
DANH MỤC HÌNH ......................................................................................................
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ....................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án ....................................................... 4
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án................................... 5
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ................................................................ 10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ............................................................... 12
7. Cơ cấu của luận án ................................................................................................ 12
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ......................................... 14
1.1 Vị trí các tổ chức CT-XH trong hệ thống chính trị Việt Nam ............................ 14
1.1.1. Vị trí các tổ chức CT-XH nhìn từ các văn bản pháp luật của Nhà nước ..... 14
1.1.2. Vị trí của các tổ chức CT-XH nhìn từ văn bản nội bộ của các tổ chức ...... 16
1.2. Chính sách xã hội ............................................................................................... 18
1.3. Vai trò của các tổ chức CT-XH trong vận động dân chủ cơ sở tại địa phương . 21
1.3. Vai trò của các tổ chức CT-XH trong xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế- xã hội ......................................................................................................................... 25
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .............................. 32
2.1. Định nghĩa các khái niệm làm việc .................................................................... 32
2.2. Thao tác hóa khái niệm ...................................................................................... 40
2.3. Các cách tiếp cận lý thuyết của đề tài ................................................................ 40
2.4. Hệ thống các chính sách an sinh xã hội ............................................................. 46
2.5. Khái quát tình hình kinh tế-xã hội của đất nước và địa bàn khảo sát ................ 62
2.6. Đặc điểm và cơ cấu mẫu khảo sát ...................................................................... 66
2.7. Khung/lược đồ phân tích .................................................................................... 67
Chương 3: CÁC TỔ CHỨC CT-XH THAM GIA TRIỂN KHAI CÁC CHÍNH SÁCH TRỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN ............................................ 70
3.1. Hỗ trợ thông tin, tư vấn phát triển sản xuất ....................................................... 70
3.2. Đào tạo nghề và giới thiệu việc làm ................................................................... 76
3.2.1 Đào tạo nghề ................................................................................................. 76
3.2.2 Giới thiệu việc làm ....................................................................................... 84
3.3. Hỗ trợ vay vốn thông qua hệ thống tín dụng địa phương .................................. 93
Chương 4: CÁC TỔ CHỨC CT-XH TRIỂN KHAI CÁC HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP XÃ HỘI TẠI NÔNG THÔN................................................................................... 119
4.1. Trợ giúp xã hội thường xuyên .......................................................................... 119
4.1.1. Trợ giúp thường xuyên ở cấp độ toàn quốc ............................................... 125
4.1.2. Trợ giúp thường xuyên ở cấp độ địa phương, tổ chức .............................. 134
4.2. Trợ giúp xã hội đột xuất ................................................................................... 137
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ......................................................................... 145
1. Kết luận ............................................................................................................... 145
2. Khuyến nghị ........................................................................................................ 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 152
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 165
CHỮ VIẾT TẮT
ASXH An sinh xã hội
BCH Trung ương Đảng Ban chấp hành Trung ương Đảng
BCH Ban chấp hành
BHXH CT-XH Bảo hiểm xã hội Chính trị-xã hội
Đoàn TN Đoàn thanh niên
Hội CCB Hội Cựu chiến binh
Hội ND Hội Nông dân
Hội PN KHKT Hội Phụ nữ Khoa học kỹ thuật
KH-CN Khoa học công nghệ
KTXH LĐTB&XH Kinh tế xã hội Lao động, thương binh và xã hội
NHNo&PTNT Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NKT Người khuyết tật
NTL Người trả lời
NTM Nông thôn mới
PVS Phỏng vấn sâu
SXKD Sản xuất kinh doanh
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TGĐX Trợ giúp đột xuất
TGXH Trợ giúp xã hội
TLN Thảo luận nhóm
Tổ TK & VV Tổ tiết kiệm và vay vốn
UBND UBTW MTTQ VBSP/NHCSXH XĐGN Ủy ban nhân dân Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Ngân hàng chính sách xã hội Xóa đói giảm nghèo
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Các giá trị mà hội viên nhận được khi tham gia vào tổ chức (%) ..... 72
Bảng 3.2. Các dạng hỗ trợ nhận được từ các tổ chức (%) .................................. 73
Bảng 3.3. Thực trạng tiếp cận mạng lưới tín dụng của người dân ..................... 95
Bảng 3.4. Vốn ủy thác của NHCSXH thông qua Hội Nông dân và Hội Phụ nữ .......................................................................................................................... 100
Bảng 3.5. Thống kê số lượng hội viên của Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh xã Khánh Hòa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau (người) ...................................... 102
Bảng 4.1. Các hình thức ủng hộ từ thiện theo các nhóm (%) ......................... 128
DANH MỤC BIỂU
Biểu 3.1. Tỷ lệ giữa những người biết và người tham gia một số hoạt động tại địa phương (%) ................................................................................................... 70
Biểu 3.2. Một số hình thức hỗ trợ người dân phát triển sản xuất ở các đoàn thể (%) ...................................................................................................................... 71
Biểu 3.3. Các tổ chức CT-XH tham gia các khâu trong hoạt động đào tạo nghề cho người lao động(%) ....................................................................................... 78
Biểu 3.4. Trình độ học vấn của những người có và không có được việc làm do các tổ chức CT-XH giới thiệu (%) ..................................................................... 87
Biểu 3.5. Nguyên nhân NTL không được giới thiệu việc làm từ các đoàn thể theo mức thu nhập hộ gia đình (%) .................................................................... 89
Biểu 3.6. Mức sống hộ gia đình của người tham gia vay vốn NHCSXH ở mỗi đoàn thể (%) ..................................................................................................... 106
Biểu 3.7. Lợi ích mà hội viên nhận được khi tham gia các đoàn thể (%) ........ 109
Biều 3.8. Lý do NTL tham gia vào các tổ chức CT-XH (%) ........................... 109
Biểu 3.9. Tỷ lệ tham gia các tổ chức đoàn thể vì được vay vốn ưu đãi (%) .... 110
Biểu 4.1. Các hình thức trợ giúp xã hội tại địa bàn khảo sát (%) .................... 117
Biều 4.2. Người dân biết đến các hoạt động trợ giúp xã hội thông qua các nguồn (%) .................................................................................................................... 118
Biều 4.3. Các giá trị tinh thần mà hội viên nhận được khi tham gia tổ chức (%) ...................................................................................................................... 11200
Biểu 4.4. Mức độ tham gia của các tổ chức trong vận động đóng góp từ thiện (%) ................................................................................................................ 11264
Biểu 4.5. Người dân biết đến hoạt động đóng góp từ thiện của các đoàn thể thông qua các hình thức (%) ......................................................................... 11275
Biểu 4.6. Trợ giúp các hộ gia đình xã Khánh Hòa, tỉnh Cà Mau gặp vấn đè nhà ở (%) ................................................................................................................. 136
Biểu 4.7. Người dân đánh giá vai trò tổ chức các chương trình ủng hộ, quyên gips của chính quyền và đoàn thể (%) .............................................................. 139
DANH MỤC HỘP
Hộp 3.1. Tình hình đào tạo nghề, tập huấn, chuyển giao KHKT tại các địa phương ................................................................................................................ 76
Hộp 3.2. Sàn giao dịch việc làm: kết nối người lao động và doanh nghiệp ....... 83
Hộp 3.3. Đoàn Thanh niên xã Ninh Lai, Sơn Dương, Tuyên Quang với mô hình hỗ trợ, giới thiệu việc làm cho đoàn viên ........................................................... 84
Hộp 3.4. Nguồn vay vốn của người dân ........................................................... 104
Hộp 4.1. Mô hình hỗ trợ hội viên của Hội Phụ nữ ........................................... 133
Hộp 4.2. Mô hình hỗ trợ xây nhà cho hộ gia đình nghèo của Đoàn Thanh niên .......................................................................................................................... 137
DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1. Mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng chính thức với hộ nông dân . 94
Hình 3.2. Tỷ lệ cho vay vốn giữa các đoàn thể (%) ......................................... 100
Hình 3.3. Đối tượng tham gia vay vốn tại các đoàn thể thông qua NHCSXH (%) .......................................................................................................................... 103
Hình 3.4. Các bước tiến hành vay vốn từ vốn vay ủy thác của NHCSXH thông qua các đoàn thể ............................................................................................... 105
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 9, Hiến pháp năm 1980 quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam- bao gồm
các chính đảng, Tổng công đoàn Việt Nam, tổ chức liên hiệp nông dân tập thể Việt
Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và các
thành viên khác của Mặt trận - là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước. Mặt trận phát
huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần
trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, giáo dục và
động viên nhân dân đề cao ý thức làm chủ tập thể, ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Kể từ khi được thành lập, các tổ chức CT-XH1 giữ vai trò
vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh giành chính quyền, chống
giặc ngoại xâm, thống nhất và xây dựng đất nước. Từ khi Đổi mới, các văn bản pháp
luật, chính sách về các tổ chức CT-XH một mặt cho thấy sự thay đổi trong tư duy lý
luận của Đảng về vị trí, vai trò của các tổ chức CT-XH trong bối cảnh đất nước tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, các văn bản này cũng ghi nhận nỗ lực
của Đảng và Nhà nước trong việc tạo hành lang pháp lý, điều kiện thuận lợi để các tổ
chức CT-XH phát huy được vai trò trong xây dựng và phát triển đất nước trong tình
hình mới. Bên cạnh đó, các tổ chức CT-XH cũng nhận thức rất rõ vị trí, nhiệm vụ của
mình, trong đó vận động, đoàn kết nhân dân vẫn được xác định là nhiệm vụ chủ đạo.
Hiến pháp năm 2013 đã chỉ rõ, vai trò của các tổ chức CT-XH là “đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình”.
Hiện nay, các tổ chức CT-XH còn chứng tỏ vai trò nhiều hơn trong phát triển
kinh tế - xã hội bằng việc tham gia bổ sung, hỗ trợ các dịch vụ xã hội cho Chính phủ.
Từ giữa thập niên 90, người ta biết đến các tổ chức CT-XH nhiều hơn thông qua việc
tham gia trong các chương trình xóa đói giảm nghèo không những với tư cách là tổ
chức trợ giúp trực tiếp mà còn là cầu nối giữa người dân với các gói trợ giúp phát
1 Đề tài này do đặt trọng tâm nghiên cứu vào các tổ chức CT-XH ở các xã nông thôn nên các tổ chức CT-XH được xem xét bao gồm: Mặt trận tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
1
triển. Các tổ chức này có vai trò quan trọng trong việc điều hành các chương trình tín
dụng tại các địa phương và nó thực sự có ý nghĩa khi Ngân hàng Chính sách xã hội
bắt đầu giao phó các chương trình tín dụng cho Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu
chiến binh và Đoàn thanh niên. Sự tham gia của các tổ chức CT-XH vào những
chương trình giảm nghèo một mặt nâng cao hiệu quả của chương trình, mặt khác cũng
cho thấy những biến đổi về vai trò nhằm thích ứng với bối cảnh mới của các tổ chức
này. Thực tế trên cho thấy, hiện nay các tổ chức CT-XH đang đứng trước rất nhiều
cơ hội cũng như thách thức, các tổ chức này ngày càng thể hiện vai trò của mình trên
nhiều lĩnh vực, hoạt động trong cộng đồng với mục tiêu chung hướng tới đảm bảo
cuộc sống tốt hơn cho các thành viên. Tuy nhiên, do có những hạn chế nhất định mà
cho đến hiện nay vai trò các tổ chức CT-XH trong việc đảm bảo an sinh xã hội thường
chỉ được ghi nhận ở hợp phần xóa đói giảm nghèo. Trong khi ở các hợp phần khác
của hệ thống an sinh xã hội như: thị trường lao động, bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã
hội, chúng ta vẫn nhận thấy được vai trò của các tổ chức đoàn thể này mặc dù không
được ghi nhận một cách trực tiếp và chính thức.
Mặt khác, ở Việt Nam, cho đến nay, nhà nước vẫn là chủ thể chính cho toàn bộ
hệ thống an sinh xã hội quốc gia, từ việc hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện và
đảm bảo ngân sách. Tuy nhiên, mức độ bao phủ, mức hưởng và khả năng tiếp cận các
dịch vụ ASXH thấp, nguồn lực dành cho an sinh xã hội còn hạn chế. Hiện nay, trong
hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam hiện nay người ta nói nhiều đến thực tế khi nhà
nước không thể (hoặc chưa thể) đảm bảo độ bao phủ tới hầu hết cư dân đặc biệt là cư
dân ở khu vực nông thôn [24]. Trong điều kiện đó, vai trò của hệ thống an sinh xã hội
phi nhà nước với những tổ chức, hội, nhóm có ý nghĩa nhất định trong phát triển xã
hội hướng tới an sinh cộng đồng và xa hơn là hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn
dân theo Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/06/2012 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng.
Đặt trong bối cảnh đó, nghiên cứu đề tài “Vai trò của các tổ chức CT-XH cấp
cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: nghiên cứu trường
hợp tại 2 xã” với mong muốn có được những nhìn nhận, đánh giá một cách rõ ràng
2
và cụ thể về vai trò của các tổ chức CT-XH trong thời điểm hiện tại, cách thức mà họ
hướng tới đảm bảo an sinh xã hội cho cộng đồng trong tình hình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và biến đổi xã hội hiện nay. Từ đó góp phần có một cái nhìn chung và
toàn diện về vấn đề đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn của các tổ chức
này, tính hiệu quả và phù hợp trong đảm nhận vai trò này của các đoàn thể. Qua đó,
đưa ra những khuyến nghị phù hợp về cách thức hoạt động của các tổ chức hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu vai trò của các tổ chức CT-XH cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh
xã hội cho cư dân nông thôn thông qua việc các tổ chức này thực hiện triển khai, hỗ
trợ các chính sách về thị trường lao động và trợ giúp xã hội trong cộng đồng cư dân
nông thôn. Trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của các tổ chức CT-XH trong bối cảnh biến đổi xã hội hiện nay. Trong đó, mục
tiêu cụ thể đó là:
- Tìm hiều vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc hỗ trợ triển khai các chính sách
thị trường lao động. Thể hiện trong một số mặt: hỗ trợ thông tin và tư vấn, đào tạo
nghề và giới thiệu việc làm; hỗ trợ vay vốn;
- Tìm hiểu vai trò của các tổ chức CT-XH trong hoạt động trợ giúp xã hội tại địa
phương thông qua một số hoạt động trợ giúp xã hội thường xuyên và trợ giúp xã hội
đột xuất;
2. 2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập khung khái niệm, lý thuyết và phương pháp nghiên cứu;
- Tìm hiểu vị trí, vai trò của các tổ chức CT-XH trong hệ thống chính trị Việt Nam
hiện nay;
- Phân tích vai trò của các tổ chức CT-XH cấp cơ sở trong hỗ trợ triển khai các chính
sách thị trường lao động nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn;
- Phân tích vai trò của các tổ chức CT-XH cấp cơ sở trong thực hiện trợ giúp xã hội
3
cho cư dân nông thôn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của các tổ chức CT-XH cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội
cho cư dân nông thôn
3.2 Khách thể nghiên cứu
- Các hộ gia đình tại khu vực nông thôn của hai tỉnh Tuyên Quang (huyện Sơn Dương)
và Cà Mau (huyện U Minh)
- Cán bộ chính quyền, các tổ chức CT-XH và người dân tại hai địa phương trên
3.3. Phạm vi nghiên cứu
3.3.1. Về không gian nghiên cứu
Cuộc nghiên cứu được tiến hành khảo sát tại 4 xã thuộc 2 tỉnh đại diện cho 2
khu vực miền Bắc và miền Nam: Tuyên Quang và Cà Mau. Cụ thể:
- Miền Bắc: xã Đại Phúc và xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
- Miền Nam: xã Khánh Lâm và xã Khánh Hòa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.
Đây là 2 xã có nhiều đặc điểm tương đồng về mức sống, trong khi Tuyên
Quang là một xã vùng núi với thành phần chủ yếu người dân tộc Cao Lan thì ở Cà
Mau là một tỉnh miền biển còn nghèo. Hai xã đều thuộc diện các xã vùng núi, hải đảo
được ưu tiên trong đó Cà Mau là xã đặc biệt nằm trong chương trình 135 của Chính
phủ.
Ban đầu, nghiên cứu được tiến hành tại 2 xã thuộc 2 tỉnh, nhưng do quá trình
thu thập dữ liệu cho thấy số lượng mẫu không đáp ứng được kỳ vọng trong nghiên
cứu ban đầu và thêm nữa số lượng mẫu ít cũng khiến cho các nghiên cứu, đánh giá
của chúng tôi không mang tính đại diện. Do vậy, để đảm bảo tính hiệu lực và tính
có giá trị trong các số liệu nghiên cứu chúng tôi đã bổ sung thêm 2 xã tại 2 tỉnh
nâng tổng số xã tiến hành khảo sát tại 2 tỉnh là 4 xã.
3.3.2. Về thời gian
Phạm vi thời gian ở đây được hiểu là những đánh giá của người dân và bản
thân các thành viên đoàn thể trong một khoảng thời gian gần nhất khi họ có cơ hội
4
tiếp cận với các hoạt động của các tổ chức này cho tới thời điểm chúng tôi tiến hành
khảo sát. Nghiên cứu được tiến hành trong khoảng thời gian từ tháng 5/2016 đến
tháng 9/2016.
3.3.3. Về vấn đề nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc
đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn ở hai trụ cột chính trong hệ thống an
sinh xã hội ở Việt Nam đó là: vai trò của các tổ chức CT-XH trong hỗ trợ triển khai
các chính sách thị trường lao động và trợ giúp xã hội cho cư dân nông thôn.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Các tổ chức CT-XH đã thực hiện vai trò trong việc hỗ trợ triển khai các chính sách
thị trường lao động như thế nào và gặp khó khăn gì trong quá trình thực hiện?
- Các tổ chức CT-XH đã thực hiện vai trò trong việc hỗ trợ triển khai các chính sách
trợ giúp xã hội như thế nào và gặp khó khăn gì trong quá trình thực hiện?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Các tổ chức CT-XH cấp cơ sở đã tham gia một cách tích cực và giải quyết được
nhiều vấn đề trong triển khai chính sách thị trường lao động.
- Các tổ chức CT-XH cấp cơ sở đã tham gia một cách tích cực và giải quyết được
nhiều vấn đề trong triển khai chính sách trợ giúp xã hội.
4.3. Cơ sở phương pháp luận
Vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân
nông thôn là một hiện tượng xã hội mà chúng ta hoàn toàn có thể nhận thức về nó,
đánh giá về tính khả thi của nó để từ đó rút ra các bài học quan trọng cho công cuộc
phát triển đất nước trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Việc tìm
hiểu, phân tích vai trò của các đoàn thể CT-XH trong đảm bảo an sinh xã hội ở hai
phương diện là thị trường lao động và trợ giúp xã hội – 2 trụ cột chính của hệ thống
an sinh xã hội quốc gia sẽ góp phần đưa ra những đánh giá một cách tổng quan về
vấn đề đảm bảo an sinh xã hội của nhà nước nói chung và của chính các tổ chức đoàn
5
thể nói riêng. Từ đó đưa ra những chính sách phù hợp với bối cảnh phát triển xã hội
hiện nay. Sự kết hợp giữa tư duy duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cho chúng ta
có cái nhìn một cách toàn diện và hệ thống về các quan hệ xã hội
4.4. Phương pháp nghiên cứu
4.4.1 Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp
Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp là một phương pháp nghiên cứu quan
trọng đối với luận án này. Thông qua việc tìm, đọc, phân tích và đánh giá các nghiên
cứu đã tiến hành trước đó, các tài liệu, văn bản về pháp luật giúp tác giả có những cái
nhìn đa chiều đối với chủ để nghiên cứu. Từ đó nhìn ra được những điểm mạnh cũng
như những hạn chế của các tác giả đi trước nhằm hạn chế sự trùng lắp trong nghiên
cứu của mình.
Phương pháp này được thực hiện trên cơ sở tổng quan các nguồn tài liệu như
sau: i) Các văn bản pháp luật của Nhà nước, của các tổ chức CT-XH; ii) Các đề tài
nghiên cứu cấp nhà nước (KX) về vai trò, vị trí của các tổ chức CT-XH; iii) Các
nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan tới chủ đề nghiên cứu của luận án.
4.4.2 Phương pháp nghiên cứu định tính
Bên cạnh phương pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi, luận án cũng tiến
hành các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. Đây được coi là một trong những phương
pháp hỗ trợ quan trọng giúp cung cấp, bổ sung các thông tin mà phương pháp phỏng
vấn bằng bảng hỏi còn thiếu.
* Phương pháp phỏng vấn sâu: Đối tượng của các cuộc phỏng vấn sâu bao gồm:
- Lãnh đạo đại diện Đảng và Chính quyền: 11 trường hợp;
- Cán bộ phụ trách các đoàn thể ở cấp xã: 20 trường hợp;
- Người dân là thành viên hoặc không phải là thành viên của các tổ chức CT-XH: 20
trường hợp.
Thông qua các cuộc trao đổi này, chúng tôi có thể thu thập được các thông tin
ít mang tính chất đại chúng hoặc ít người quan tâm về hoạt động của các tổ chức CT-
XH. Những đánh giá của những tổ chức, cá nhân có liên quan hoặc trực tiếp tham gia
vào quá trình hoạt động của các đoàn thể này giúp chúng tôi nhìn nhận ra thực trạng
6
cũng như những ưu điểm hay hạn chế trong quá trình thực hiện hoạt động nói chung
hay vấn đề đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn nói riêng. Nội dung của
cuộc phỏng vấn sâu được xây dựng dựa trên mục tiêu, nội dung nghiên cứu nhằm
cung cấp các thông tin cần thiết và góp phần chứng minh một cách chi tiết hơn các
giả thuyết của nghiên cứu có phù hợp hay không phù hợp với thực tiễn tại hai địa bàn
nghiên cứu.
* Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp thảo luận nhóm được chúng tôi tiến hành với 6 cuộc thảo luận
nhóm tập trung, đối tượng là đại diện cán bộ các đoàn thể chính trị-xã hội ở cấp
thôn/ấp và các trưởng thôn/ấp. Số lượng người tham gia một cuộc thảo luận nhóm
này dao động từ 5-6 người.
Mục đích của các cuộc thảo luận nhóm này nhằm cung cấp các thôn tin cụ thể,
chi tiết hơn về hoạt động của các đoàn thể chính trị-xã hội ở cấp thôn/ấp: những hoạt
động họ đang tiến hành, những khó khăn đang mắc phải hay đánh giá hiệu quả của
các mô hình, hoạt động được chỉ đạo từ cấp xã đưa xuống.
4.4.3 Phương pháp nghiên cứu định lượng
Luận án sử dụng phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi như là một trong
những phương pháp thu thập dữ liệu chính của đề tài. Với phương pháp này, chúng
tôi có thể thu thập được các thông tin cần thiết cho vấn đề nghiên cứu với số lượng
mẫu nhiều và các nội dung thu thập phong phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu của luận
án. Bảng hỏi được xây dựng dựa trên các mục tiêu, nội dung nghiên cứu của luận án
và có sự góp ý của giáo viên hướng dẫn cùng các chuyên gia am hiểu chủ để nghiên
cứu này. Đây là nguồn dữ liệu quan trọng để phân tích trong chương 3 và chương 4
của luận án. Quy trình tiến hành như sau:
Xây dựng bảng hỏi: Một bảng hỏi cấu trúc gồm hệ các câu hỏi chia theo từng
nội dung được thiết kế riêng cho nghiên cứu này. Bảng hỏi bao gồm nhiều phần, mỗi
phần ứng với một nội dung nghiên cứu của đề tài. Bên cạnh việc sử dụng bảng hỏi có
sẵn được thiết kế từ đề tài cấp nhà nước “Nghiên cứu vai trò của các tổ chức CT-XH
sau 5 năm xây dựng nông thôn mới và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng
7
hoạt động xây dựng nông thôn mới của các tổ chức CT-XH này“ do PGS. TS. Lê Cao
Đoàn làm chủ nhiệm, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là cơ quan chủ trì (tổ
chức nghiên cứu tại 7 tỉnh), chúng tôi cũng đã thiết kết một bảng hỏi bổ sung thêm
các dữ liệu cần thiết cho cuộc nghiên cứu (và đây là phần dữ liệu chính cho chương
3 và chương 4 của luận án). Việc xây dựng bảng hỏi được xây dựng dựa trên những
chỉnh sửa, góp ý của giáo viên hướng dẫn và một số chuyên gia trong lĩnh vực.
Quy trình chọn mẫu: Chúng tôi tiến hành chọn mẫu tại 2 tỉnh Tuyên Quang và
Cà Mau; tại mỗi tỉnh chúng tôi sẽ chọn các huyện/xã dựa trên một hệ các tiêu chí đáp
ứng mục đích nghiên cứu của đề tài. Ở đây các tiêu chí chọn mẫu bao gồm:
- Địa bàn: Sở dĩ chúng tôi chọn 2 tỉnh Tuyên Quang và Cà Mau là do: đây là hai địa
bàn đại diện cho hai khu vực miền bắc và miền nam. Tuyên Quang là khu vực thuộc
miền núi phía bắc nước ta, với địa thế vừa có khu vực núi cao vừa có khu vực đồng
bằng (tại 2 xã lựa chọn khảo sát thì Đại Phú là xã khu vực đồng bằng trong khi xã
Ninh Lai là địa bàn nằm trong khu vực của dãy núi Tam Đảo). Trong khi đó ở Cà
Mau là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long với ba mặt giáp biển, là địa
phương chịu ảnh hưởng khá rõ nét của tình trạng xâm nhập mặn – một trong những
vấn đề rất lớn cần phải đối mặt với khu vực này hiện nay và trong những năm sắp tới.
Tại 2 xã nghiên cứu là Khánh Hòa và Khánh Lâm mặc dù không giáp biển nhưng nền
kinh tế lại bị tác động khá rõ từ tình trạng xâm nhập mặn.
Mặt khác, 4 xã thuộc 2 tỉnh Tuyên Quang và Cà Mau mà đề tài nghiên cứu
đều năm trong danh mục các tỉnh, huyện, xã khó và đặc biệt khó khăn. Do vậy đây là
các xã được hưởng khá nhiều ưu tiên về mặt chính sách (được hưởng 100% bảo hiểm
y tế, hỗ trợ vốn vay cho người dân phát triển kinh tế, v.v.). Đối với những xã này, bên
cạnh sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính sách, chủ trương phát triển kinh tế-
xã hội thì sự trợ giúp từ phía các tổ chức, các nhóm xã hội là rất cần thiết nhằm giúp
người dân có cơ hội tiếp cận tốt hơn. Trong bối cảnh hệ thống an sinh xã hội của nước
ta còn chưa bao phủ được hết tới mọi người dân thì sự trợ giúp của các tổ chức này
là cần thiết đặc biệt hữu ích đối với những địa bàn còn gặp nhiều khó khăn như tại 4
8
xã mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu.
Trong số 6 huyện và 1 thị xã thuộc tỉnh Tuyên Quang và 8 huyện và 1 thành
phố thuộc tỉnh Cà Mau chúng tôi lựa chọn mỗi địa phương một huyện với tiêu chí có
đủ các ngành nghề: nông, lâm ngư nghiệp và dịch vụ (so với các huyện còn lại trong
cùng 1 địa phương). Tại mỗi huyện chúng tôi lựa chọn 2 xã với yêu cầu về ngành
nghề tương tự, có đủ tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ gia đình chính sách, v.v. Ở mỗi
xã, chúng tôi lựa chọn các thôn/xóm/ấp với những yêu cầu tương tự. Ngoài ra lựa
chọn những thôn/ấp ở xa và cả những thôn/ấp ở gần trung tâm xã nhằm tìm ra những
sự khác biệt hay không. Tuy nhiên, do đặc điểm ở khu vực phía nam diện tịch của
các ấp lớn hơn rất nhiều so với đơn vị thôn ở phía bắc nên trong quá trình phỏng vấn
đi lại gặp tương đối khó khăn.
- Tuổi người trả lời: từ 18 tuổi trở lên và dưới 60 tuổi (trong độ tuổi lao động), những
người minh mẫn, không bị bệnh tật và có khả năng nhận thức. Do trên địa bàn nghiên
cứu có một tỷ lệ không nhỏ là những lao động đang làm việc tại các công ty thuộc
các khu công nghiệp nên đối tượng phỏng vấn trong nhóm trong độ tuổi lao động bị
hạn chế hơn so với nhóm từ 50-60 tuổi – thường là ông bà ở nhà trông cháu. Đề tài
gặp khá nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với những người đang đi làm tại các công
ty.
- Giới tính người trả lời: đề tài lựa chọn nam và nữ trả lời nhằm đảm bảo cân bằng
50-50 giữa 2 giới. Tuy nhiên trong thực tế cuộc nghiên cứu, do một số người được
chọn đi làm việc hoặc không thể sắp xếp tiến hành phỏng vấn nên chúng tôi phải
phỏng vấn vợ/chồng của họ. Do vậy cơ cấu giới tính của cuộc nghiên cứu bị lệch hơn
so với dự định ban đầu.
Mẫu được chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng, mỗi tầng
tương ứng với các tiêu chí đề ra theo thứ tự ưu tiên. Đơn vị mẫu khảo sát là hộ gia
đình, với 400 đơn vị mẫu (hộ gia đình). Chúng tôi áp dụng việc tính toán bước nhảy
để chọn mẫu dựa trên một danh sách các đối tượng thỏa mãn các tiêu chí mà chúng
tôi đưa ra. Cơ cấu mẫu sẽ bao gồm những đối tượng được chọn theo bước nhảy và
dành tỉ lệ 10% cho mẫu dự phòng. Đối tượng phỏng vấn là chủ hộ hoặc vợ/chồng chủ
9
hộ có độ tuổi từ 18-60 và không mắc các bệnh ảnh hưởng đến nhận thức
Quy trình khảo sát: Tại các địa phương khảo sát, nghiên cứu sinh cùng một
nhóm các chuyên gia, cán bộ có chuyên môn trong lĩnh vực xã hội học tiến hành khảo
sát, thu thập số liệu. Việc thu thập thông tin dựa trên các cuộc phỏng vấn trực tiếp,
mặt đối mặt, giữa điều tra viên và người trả lời. Việc giám sát được thực hiện hàng
ngày bằng việc kiểm tra bảng hỏi ngay trong ngày phỏng vấn.
Xử lý số liệu khảo sát: Các bảng hỏi thu thập được sẽ được kiểm tra chéo và
làm sạch ngay tại địa bàn khảo sát để hạn chế tối đa những sai sót và/hoặc thiếu
khuyết thông tin. Sau khi xây dựng khung nhập liệu, mã hóa thông tin thu thập được
chúng tôi tiến hành nhập liệu đảm bảo mọi thông tin thu được đều được ghi nhận
trong cơ sở dữ liệu. Trên cơ sở bộ dữ liệu gốc, chúng tôi tiến hành xử lí dữ liệu trên
chương trình SPSS 20.0. Kết quả cho thấy, nhìn chung chất lượng số liệu đảm bảo độ
tin cậy, logic, đáp ứng yêu cầu đặt ra của nghiên cứu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
5.1 Đóng góp mới
Cho đến nay, mặc dù chủ đề nghiên cứu về các tổ chức CT-XH không còn là
chủ đề mới, đã có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề này song chủ đề về đảm bảo an sinh
xã hội lại là một chủ đề chưa thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Đảm
bảo an sinh xã hội cho người dân đặc biệt là cư dân nông thôn luôn là một trong
những sự quan tâm của Đảng và Chính phủ. Đặt trong bối cảnh Việt Nam đặt mục
tiêu hệ thống an sinh xã hội sẽ bao phủ toàn dân và đến năm 2020 cơ bản đáp ứng
được nhu cầu an sinh xã hội của người dân một cách toàn diện thì vấn đề này càng
trở nên cấp thiết. Tìm hiểu về vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc đảm bảo an
sinh xã hội cho cư dân nông thôn sẽ giúp chúng ta đưa ra được những cách thức và
biện pháp thực hiện thích hợp nhằm huy động sự tham gia của các tổ chức này nói
riêng và các tổ chức xã hội khác cùng với Nhà nước chung tay mở rộng độ bao phủ
của hệ thống an sinh xã hội với mục tiêu duy nhất là đảm bảo cuộc sống tốt hơn cho
mỗi người dân. Nghiên cứu này góp phần cung cấp một dữ liệu nghiên cứu có giá trị
về vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông
10
thôn. Liệu họ có thực sự đảm nhận tốt vai trò góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho
cư dân nông thôn? Nếu có thì vai trò đến đâu và nếu không thì tại sao lại không đảm
nhận được vai trò này. Trả lời được những câu hỏi này thông qua các dữ liệu của cuộc
nghiên cứu từ đó góp phần đưa ra những đánh giá phù hợp về vai trò của các tổ chức
CT-XH hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi xã hội thì điều này hoàn toàn là cần
thiết và có ý nghĩa.
Ngoài ra, đề tài cũng góp phần đóng góp thêm cho bộ môn xã hội học chính
trị ở Việt Nam hiện nay.
5.2 Hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu này còn tồn tại một số hạn chế như sau:
- Do đây là một nghiên cứu tiến hành tại nông thôn nên các tổ chức CT-XH chỉ bao
gồm: MTTQ, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh và Đoàn thanh niên (tổ
chức Công đoàn không nằm trong nghiên cứu này của chúng tôi).
- Hệ thống an sinh xã hội theo quan điểm nghiên cứu của chúng tôi gồm 3 hợp phần
chính gồm: thị trường lao động, bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội. Trong nghiên cứu
này, tìm hiểu vể vai trò của các tổ chức CT-XH trong đảm bảo an sinh xã hội cho cư
dân nông thôn chúng tôi chỉ tìm hiểu hai hợp phần là thị trường lao động và trợ giúp
xã hội. Hợp phần bảo hiểm xã hội gồm bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, do đặc
trưng mẫu nghiên cứu tại nông thôn nên vấn đề tham gia bảo hiểm xã hội còn nhiều
hạn chế. Mặt khác, 4 xã nghiên cứu thuộc diện các xã nghèo khó khăn ở vùng núi,
hải đảo xa xôi nên được miễn phí 100% thẻ BHYT. Do vậy chúng tôi không tìm hiểu
hợp phần BHXH trong nghiên cứu này.
- Chính sách thị trường lao động gồm các chính sách: việc làm, đào tạo nghề, xuất
khẩu lao động, tín dụng, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động, v.v. Tuy nhiên
quan điểm của chúng tôi về hệ thống chính sách thị trường lao động có liên quan trực
tiếp và tác động tới các tổ chức CT-XH chỉ bao gồm các chính sách việc làm, chính
11
sách đào tạo nghề và chính sách tín dụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Về mặt lý thuyết, đề tài góp phần kiểm chứng tính phổ biển cũng như độ
chính xác, hợp lý và khả năng ứng dụng của một số lý thuyết xã hội học được vận
dụng trong luận án là lý thuyết vai trò và lý thuyết về xã hội học tổ chức. Ngoài ra,
đề tài cũng góp thêm các luận cứ cho bộ môn xã hội học chính trị ở Việt Nam hiện
nay. Đây là bộ môn chưa thực sự phát triển mạnh ở nước ta trong khi trên thế giới
đây là chuyên ngành quan trọng và được đầu tư, nghiên cứu. Nghiên cứu này của
chúng tôi hi vọng góp thêm vào việc bổ sung thêm cơ sở lý luận cho cũng như thực
tiễn cho bộ môn này và từ đó góp phần mở rộng, thu hút sự quan tâm nhiều hơn nữa
của giới nghiên cứu tới các bộ môn chuyên ngành này của xã hội học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Nghiên cứu này sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách, chính quyền địa
phương và cả người dân đánh giá được hiệu quả tham gia đảm bảo an sinh xã hội của
các tổ chức CT-XH. Từ đó đưa ra những chính sách và cơ chế hoạt động phù hợp.
Thêm nữa, thông qua nghiên cứu này cũng sẽ giúp cho các tổ chức CT-XH có thể
nhìn lại và đánh giá hoạt động của chính tổ chức mình từ đó đưa ra những kế hoạch,
biện pháp thực hiện góp phần đem lại hiệu quả trong quá trình thực hiện của tổ chức.
- Nghiên cứu về vai trò của các tổ chức CT-XH ở Việt Nam hiện nay trong vai
trò đảm bảo an sinh xã hội dường như là một hướng nghiên cứu chưa thu hút được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tìm hiểu vai trò này một mặt đánh giá một cách rõ
hơn về vai trò của các tổ chức CT-XH tham gia trong hoạt động đảm bảo an sinh xã
hội cho cộng đồng. Thông qua đó đưa ra được những đánh giá về tính hiệu quả hay
không hiệu quả của các tổ chức trong hoạt động này nhằm rút kinh nghiệm cho các
cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình an sinh xã hội đảm bảo hiệu quả tốt hơn.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, báo cáo luận án được trình bày trong 4 chương. Chương 1 dành cho việc tổng
12
quan tình hình nghiên cứu; Chương 2 xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài;
hai chương còn lại dành cho việc phân tích vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc
đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn thông qua hai trụ cột chính của hệ thống
an sinh xã hội đó là thị trường lao động và trợ giúp xã hội. Trong đó Chương 3 phân
tích vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc hỗ trợ triển khai các chính sách thị
trường lao động nhằm đảm bảo an sinh xã hội; Chương 4 phân tích vai trò của các tổ
chức này trong việc trợ giúp xã hội đối với cư dân nông thôn. Kết cấu nói trên nhằm
13
đáp ứng được mục tiêu và các vấn đề nghiên cứu đặt ra trong đề tài này.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Mục này trình bày tổng quan tình hình các nghiên cứu có liên quan đến chủ đề
của luận án. Việc rà soát và hệ thống hóa các chủ đề, vấn đề từ các nghiên cứu đi
trước là cần thiết, để từ đó tìm kiếm những bằng chứng mới trên cơ sở học hỏi, kế
thừa những thành quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Hợp phần của hệ thống an sinh xã hội gồm 3 hợp phần chính: thị trường lao
động, bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội. Tuy nhiên, chưa có bất cứ một nghiên cứu
nào về vai trò của các tổ chức CT-XH tham gia hỗ trợ thực hiện triển khai các hợp
phần này. Trong quá trình tìm hiểu để tổng quan các tài liệu có liên quan đến vấn đề
vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông
thôn, chúng tôi trình bày 4 nhóm vấn đề chính có liên quan đến vấn đề nghiên cứu,
bao gồm: vị trí của các tổ chức CT-XH trong hệ thống chính trị Việt Nam xét theo
hai khía cạnh: vị trí của các tổ chức này nhìn từ các văn bản pháp quy của nhà nước
và vị trí của các tổ chức này nhìn từ vị trí các văn bản nội bộ của tổ chức; chính sách
xã hội; vai trò của các tổ chức CT-XH trong vận động dân chủ cơ sở tại địa phương;
vai trò của các tổ chức CT-XH trong xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế-xã hội.
Do có nhiều tác giả trong và ngoài nước cùng đánh giá về một vấn đề nên, để
tiện theo dõi, chúng tôi sẽ không tách nghiên cứu trong nước và nước ngoài trong
phần trình bày.
1.1 Vị trí các tổ chức CT-XH trong hệ thống chính trị Việt Nam
1.1.1. Vị trí các tổ chức CT-XH nhìn từ các văn bản pháp luật của Nhà
nước
Kể từ khi được thành lập, các tổ chức CT-XH2 giữ vai trò vận động, tập hợp
2 Các tổ chức CT-XH bao gồm: Mặt trận tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Liên đoàn lao động. Đề tài này, do đặt trọng tâm nghiên cứu vào các tổ chức CT-XH ở các xã nông thôn nên chúng tôi không xem xét vai trò của Liên đoàn lao động. Do vậy, các tổ chức CT-XH được xem xét bao gồm: Mặt trận tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
14
các tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh giành chính quyền, chống giặc ngoại xâm,
thống nhất và xây dựng đất nước. Từ khi Đổi mới, các văn bản pháp luật, chính sách
về các tổ chức CT-XH một mặt cho thấy sự thay đổi trong tư duy lý luận của Đảng
về vị trí, vai trò của các tổ chức CT-XH trong bối cảnh đất nước tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, các văn bản này cũng ghi nhận nỗ lực của Đảng và Nhà
nước trong việc tạo hành lang pháp lý, điều kiện thuận lợi để các tổ chức CT-XH phát
huy được vai trò trong xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới. Bên cạnh
đó, các tổ chức CT-XH cũng nhận thức rất rõ vị trí, nhiệm vụ của mình, trong đó vận
động, đoàn kết nhân dân vẫn được xác định là nhiệm vụ chủ đạo.
Vị trí chính trị của các tổ chức CT-XH này lần đầu tiên được khẳng định tại
Điều 9 Hiến pháp năm 1980. Từ khi Đổi mới, quan điểm của Đảng đối với các tổ
chức chính trị-xã hội tiếp tục có những thay đổi quan trọng, coi đó là tổ chức của
đông đảo quần chúng nhân dân và hướng hoạt động về cơ sở. Theo đó “cán bộ chủ
chốt các đoàn thể quần chúng không nhất thiết phải là đảng viên” (Hội nghị lần thứ
năm BCH Trung ương Đảng khoá VI, 1988). Phương hướng hoạt động của các tổ
chức này cũng tập trung hướng vào các hoạt động ở cơ sở nhằm thu hút sự tham gia
đông đảo của nhân dân vào các phong trào cách mạng (Nghị quyết Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI Đảng cộng sản Việt Nam (18/12/1986).
Đến Hiến pháp năm 1992, vai trò của các tổ chức CT-XH được nhìn nhận cụ
thể hơn và đến Hiến pháp năm 2013, vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội được
khẳng định là "đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên,
hội viên tổ chức mình”. Điều 9 Hiến pháp năm 2013 quy định: MTTQ Việt Nam là
tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức CT-
XH, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân
tộc, tôn giáo, người Việt Nam Định cư ở nước ngoài. Hội nông dân, Đoàn thanh niên,
Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh là các tổ chức CT-XH được thành lập trên
cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành
viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp
15
và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tại nghị Quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa XI đã
coi các tổ chức chính trị-xã hội như là “đoàn thể nhân dân” với vai trò cùng với MTTQ
tập hợp nhân dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người dân và cùng hướng về cơ
sở. Luật Mặt trận tổ quốc năm 1999, Luật tổ chức HĐND và UBND, luật số 11-
LCT/HĐNN7, ngày 30/6/1983 xác định rõ cùng với các đoàn thể chính trị-xã hội
khác, MTTQ là cơ quan có sự cộng tác chặt chẽ và là chỗ dựa cho Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân trong các hoạt động của mình. Bên cạnh đó, cơ quan này cùng
với các đoàn thể đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện giám sát, kiến nghị và
phản biện xã hội (Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 3/6/2013).
1.1.2. Vị trí của các tổ chức CT-XH nhìn từ văn bản nội bộ của các tổ
chức
Mặt trận tổ quốc Việt Nam:
MTTQVN có tư tưởng nhất quán về vai trò của mình trong hệ thống chính trị
Việt Nam thông qua các văn bản pháp luật. Điều này thể hiện trong mục tiêu, nhiệm
vụ của tổ chức này từ nhiệm kỳ 2004-2009 đến nhiệm kỳ 2009-2014 hiện nay. Đó là
tinh thần tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động cùng
với các cơ quan nhà nước3. Chức năng giám sát được thể hiện cụ thể trong một số
lĩnh vực được quy định tại các văn bản cụ thể của tổ chức: Kế hoạch số 471/KH-
MTTW-BTT ngày 17/4/2014, Thông tri 28/TTr-MTTW-BTT ngày 17/4/2014.
Hội nông dân
Trải qua sáu kỳ Đại hội, Hội Nông dân Việt Nam đã có những thay đổi quan
trọng trong Nghị quyết hành động phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển của giai
cấp nông dân nói riêng và đất nước nói chung. Cụ thể, tại chủ đề của Đại hội IV là
“Đoàn kết-Đổi mới-Dân chủ-Phát triển” đã được thay thế bằng chủ đề “Đoàn kết-Đổi
mới-Hội nhập-Phát triển” tại đại hội V. Tại Đại hội lần thứ VI năm 2013, phương
3 Điều lệ Đại hội đại biểu toàn quốc mặt trận tổ quốc Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2009- 2014http://www.mattran.org.vn/Home/daihoi7/daihoiMTTQVN-VII.htm#10
16
châm “Đoàn kết-Đổi mới-Chủ động-Hội nhập-Phát triển bền vững” đã cho thấy
những bước chuyển trong chiến lược phát triển của Hội để bắt kịp nhịp độ phát triển
không chỉ của Việt Nam mà còn hội nhập vào xu thế toàn cầu.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ V năm 1982 đề ra các nhiệm vụ cho
phụ nữ Việt Nam giai đoạn 1982-1987 đó là tập trung vào việc nâng cao giác ngộ ý
thức chính trị, xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì độc lập dân tộc, tổ chức hoạt động hội.
Đến đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ VI năm 1987, vấn đề về phụ nữ và trẻ
em đã được quan tâm và đề cập đến nhiều hơn bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị. Hiện nay, Hội đã chú trọng nhiều hơn các hoạt động liên quan trực tiếp tới
các thành viên, chú trọng đến việc nâng cao trình độ cho hội viên. Như vậy, bên cạnh
vị trí chính trị sẵn có, hội phụ nữ cho thấy tổ chức này có sự biến chuyển về nhận
thức trong việc chủ động hơn trong các chương trình hành động với đối tượng hướng
đến được cụ thể hơn.
Đoàn thanh niên
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ X
(nhiệm kỳ 2012-2017) là sự khẳng định những nhiệm vụ, vai trò của Đoàn thanh niên
được thể hiện trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa X)
thông qua đề án "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" và Nghị quyết số 45/NQ-CP về ban hành
chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. Văn kiện nhấn mạnh đến vai trò của đoàn
trong việc tham gia xây dựng chính quyền; phát triển và quản lý xã hội; tuyên truyền,
vận động đoàn viên thanh niên thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, v.v...
Hội cựu chiến binh
Tháng 01-2002 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ra Nghị quyết
chuyên đề số 09-NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
CCB Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới”. Điều lệ Hội 2007 cũng xác định rõ
vai trò “tham mưu giúp cấp ủy Đảng và làm nòng cốt tập hợp, đoàn kết, vận động
17
Cựu chiến binh thực hiện các nhiệm vụ chính trị-xã hội của cách mạng, của Hội; tham
gia giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức
Nhà nước”.
1.2. Chính sách xã hội Các tổ chức đoàn thể có nhiệm vụ giám sát việc thực hiện quy định pháp luật
về an sinh xã hội bao gồm: tiếp nhận các ý kiến phản ảnh của nhân dân, trực tiếp tiếp
thu các thông tin, tài liệu để xem xét, theo dõi và phát hiện hành vi phạm pháp luật
của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân….trong việc thực hiện quy định pháp luật về
an sinh xã hội, kiến nghị trực tiếp với chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban
nhân dân, …các tổ chức có thẩm quyền để giải quyết (QĐ số 31/2011/QĐ-TTg ngày
2/6/2011). Trước đó, Chính phủ đã ban hành nghị định số 53/2006/NĐ-CP ngày
25/5/2006 về chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài
công lập nhằm phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, khoa
học công nghệ, môi trường, xã hội…. Ngoài ra, nghị định 69/2008/NĐ-CP ngày
30/5/2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường. Kèm theo đó là Thông tư
số 135/2008/TT-BTC ngày 31/12/2008 của Bộ tài chính quy định các điều kiện được
hưởng chính sách khuyến khích phát triển xã hội hóa giáo dục, y tế đã tạo thuận lợi
đẩy mạnh xã hội hóa đới với lĩnh vực giáo dục, y tế. Để tạo nguồn tài chính cho các
tổ chức xã hội, quyết định 21/2003/QĐ-TTg ngày 29/1/2003 và thông tư
123/2003/TT-BTC ngày 16/12/2003 của Bộ tài chính, theo đó Nhà nước hỗ trợ kinh
phí toàn bộ hoặc một phần từ ngân sách cho các tổ chức CT-XH-nghề nghiệp, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp có hoạt động gắn với nhiệm vụ của nhà nước.
Chương trình phối hợp số 937 giữa Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Ủy
ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội,
Thanh tra Chính phủ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam ký ngày 7 tháng 7 năm 2014 về việc
giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội trong các loại hình doanh nghiệp
trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của Mặt
18
trận Tổ quốc Việt Nam và đặc thù, thế mạnh của tổ chức Công đoàn để triển khai có
hiệu quả các chương trình công tác của Mặt trận và Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam, tránh sự chồng chéo về nội dung, đối tượng trên cùng địa bàn giám sát [96].
Theo đó, Mặt trận cùng với các cơ quan này thông qua giám sát kiến nghị với các cơ
quan chức năng có các giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tình trạng nợ, chậm và trốn
đóng BHXH của người sử dụng lao động; có thêm cơ sở thực tiễn để tham gia góp ý
sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm xã hội, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền được tham gia và
hưởng BHXH của người lao động. Ngoài ra, chương trình phối hợp số 42 ngày 10
tháng 9 năm 2014 giữa 5 cơ quan, tổ chức: Ban thường trực Ủy ban Trung ương Mặt
trận tổ quốc Việt Nam, Bộ Y tế, Liên hiệp các hội KH&KT VN, Tổng hội Y Dược
học VN, Hội Dược học VN trong việc giám sát chấp hành pháp luật của các cơ sở y
tế tư nhân thông qua các hoạt động: chủ trì, hướng dẫn triển khai chương trình ở các
địa phương, tuyên truyền vận động chính sách..... [4]. Trong bối cảnh hiện nay, khi
cả nước có hơn 30.000 phòng khám tư nhân, 39.000 nhà thuốc tư nhân, song ngành
y tế từ Bộ đến các sở y tế các tỉnh, thành phố chỉ có 250 thanh tra viên, do đó, phát
huy vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong phối hợp giám sát
hoạt động hành nghề y dược tư nhân là hết sức cần thiết [76].
Có thể thấy, vai trò trong đảm bảo an sinh xã hội được quy định đối với các tổ
chức mới chỉ dừng ở mức độ trong vai trò giám sát, trợ giúp cùng với các cam kết hỗ
trợ tài chính của Chính phủ đối với các hoạt động này.
Nhìn từ phía người dân, có thể cũng đồng thời là hội viên (thực tế hoặc ghi
danh) của các đoàn thể quần chúng, thì các tổ chức này cũng thể hiện vai trò tích cực
trong cộng đồng. Các tổ chức CT-XH cùng với các tổ chức khác của làng xã dưới sự
chỉ đạo trực tiếp của của Đảng bộ xã đang thể hiện như là một cộng đồng tự quản
chính sách xã hội mạnh và có tổ chức [14]. Người dân đánh giá cao các tổ chức này
trong việc góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao vai trò của phụ nữ, phòng chống
tham nhũng, chống tệ nạn xã hội, tăng cường đoàn kết cộng đồng, thúc đẩy bình đẳng,
nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, v.v. Thực tế đó cho thấy, một mặt các tổ chức
CT-XH không chỉ chú trọng vào chức năng tập hợp, giáo dục quần chúng tham gia
19
và thực hiện có hiệu quả các chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Mặt
khác, họ cũng đã coi việc bảo vệ, đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng của các
thành viên trong tổ chức mình như là một chức năng cơ bản [62]. Đó chính là một
trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy các tổ chức này hoạt động ngày càng
có hiệu quả, thu hút sự tham gia của đông đảo thành viên
Khảo sát của Nguyễn Đức Vinh cho thấy những đánh giá tích cực về góp phần
xóa đói giảm nghèo với tỷ lệ được ghi nhận cao nhất là Hội Phụ nữ (73%), Hội nông
dân (30%) và Hội cựu chiến binh (21%). Nhìn chung, Hội phụ nữ được tỷ lệ người
dân ghi nhận cao nhất so với các tổ chức khác trong việc tác động tích cực đến hoạt
động “nâng cao vai trò phụ nữ” (82%) [64]. Đối với tác động “trợ giúp, bảo vệ Đảng,
chính quyền” và “chống tham nhũng”, Hội Phụ nữ có tỷ lệ người dân ghi nhận đứng
thứ hai, thấp hơn so với Hội Cựu chiến binh. Ngoài hai khía cạnh trên, Hội Cựu chiến
binh còn được đánh giá cao trong việc tác động tích cực đến “chống tệ nạn xã hội”,
“tăng cường đoàn kết cộng đồng”, “phát huy dân chủ”, thúc đẩy công bằng, bình đẳng
và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần”. Đoàn Thanh niên được đánh giá cao trong
các hoạt động bảo vệ môi trường và chống các tệ nạn xã hội [88], [64]. Ngoài ra, cung
cấp thông tin bổ ích cho người dân đặc biệt là phụ nữ là một trong những ưu điểm
tuyệt đối trong các cuộc họp được tổ chức bởi các tổ chức quần chúng (hội phụ nữ,
hội nông dân, đoàn thanh niên) [83]. Điều đó cho thấy, mặc dù trong thực tế có một
tỷ lệ không nhỏ những hội viên tham gia có tính chất ghi danh và hình thức thì cũng
không thể phủ định phạm vi ảnh hưởng của chúng khi các tổ chức này tiến hành các
hoạt động đồng bộ từ trung ương tới địa phương [114].
Tuy nhiên theo đánh giá, việc duy trì và phát triển các tổ chức CT-XH hiện
nay vẫn phải trên cơ sở vận động là chủ yếu chứ chưa phải là tự chủ tham gia với ý
thức xây dựng cộng đồng và xã hội [64]. Cách thức hoạt động của các đoàn thể chính
trị-xã hội vẫn mang tính “hành chính hóa” và các đoàn thể này đang làm việc do Ủy
ban nhân dân phân công “sai khiến” nên đánh mất các chức năng thực sự của một hội
[8]. Cách thức tham gia còn mang tính bị động như vậy nên có cảm giác rằng các tổ
chức chủ động ở cấp địa phương như hợp tác xã hay nhóm sở thích lại “không hiệu
20
quả trong việc huy động sự tham gia” và chỉ “lãnh đạo địa phương chứ không phải
người dân bình thường biết về các chính sách và chương trình” [45]. Một nghiên cứu
của Bế Quỳnh Nga cho thấy phong trào của các hội đoàn thể chưa thực sự thu hút
được sự quan tâm của người dân do chưa đi sâu đi sát vào đời sống của quần chúng,
chưa nắm bắt được nhu cầu cũng như mong muốn thực sự của họ, chỉ mang tính hình
thức chưa có chiều sâu, hoạt động tuyên truyền, truyền thông chưa hiệu quả [6]. Thực
chất, xem xét việc tham gia các đoàn thể quần chúng của các thành viên không chỉ để
tìm những lý do, động cơ, sức hút từ các tổ chức mà còn là sự nhận định, đánh giá về
vai trò của các tổ chức đoàn thể quần chúng. Quan trọng hơn đó là sự phản ánh “tiếng
nói” của các tổ chức quần chúng trong việc đưa ra các quyết định về kinh tế, xã hội
địa phương [9].
1.3. Vai trò của các tổ chức CT-XH trong vận động dân chủ cơ sở tại địa
phương
Sự tham gia của người dân vào các hoạt động chính trị, xã hội được coi như
một giá trị dân chủ và như một cơ hội cho sự phát triển tự thân và đầy đủ của mỗi cá
nhân. Ngay cả trong trường hợp mọi quyết định cuối cùng đều là ý chí của đa số, các
nhóm thiểu số vẫn được phép vận dụng những phương pháp đã được thể chế hoá để
giành ảnh hưởng hoặc thắng lợi cho quan điểm của mình. Một trong những cách thức
người dân thực hiện những quyền dân chủ của mình là thông qua các tổ chức xã hội
[90]. Nội dung sinh hoạt quan trọng của Mặt trận tổ quốc và tổ chức đoàn thể ở cơ sở
hiện nay là thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị số 30 CT-TW của Bộ
Chính trị và Nghị định số 29/CP của Chính phủ bắt đầu có hiệu lực từ năm 1998. Liên
quan đến vấn đề này, tài liệu nghiên cứu của Ngân hàng phát triển Châu á đánh giá
việc thông qua Nghị định Dân chủ cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia tích
cực hơn của các tổ chức chính tri-xã hội trong các quyết định ở cơ sở. Nghị định này
được sửa đổi vào năm 2005, các tổ chức CT-XH đóng vai trò tích cực trong việc tổ
chức và giám sát thực hiện Nghị định này ở xã, phường [1]. Kết quả thống kê cho
thấy: trong vòng 2 năm (2005-2006), 165 chức danh là Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và 2.304 trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố đã bị
21
xem xét miễn nhiệm do không nhận được sự tín nhiệm cao của nhân dân và Mặt trận
Tổ quốc ở cơ sở [41]. Thông qua tuyên truyền, giám sát, xây dựng và thực hiện Quy
chế dân chủ cơ sở mà Mặt trận cùng các đoàn thể góp phần hạn chế những xung đột
giữa các tầng lớp nhân dân cũng như giữa nhân dân với chính quyền [72]. Từ đó, góp
phần xây dựng bộ máy chính quyền cấp cơ sở vững mạnh, thiết lập mối quan hệ đoàn
kết, hợp tác giữa chính quyền với người dân.
Đảm bảo dân chủ cơ sở cần phải được thực hiện một cách trực tiếp và gián
tiếp. Đó là đảm bảo cho người dân biết các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước để họ được bàn, được kiểm tra một cách trực tiếp những công việc của chính
quyền và những vấn đề có liên quan trực tiếp tới đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của
họ [82]. Bên cạnh đó, một cách gián tiếp thông qua các đoàn thể như Mặt trận tổ
quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh v.v... người
dân được giám sát hoạt động của chính quyền, đảm bảo cho nhân dân ở cơ sở được
tự bàn bạc, tự quyết định hoạt động của mình trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật của
Nhà nước [19].
Việc còn né tránh những vấn đề bức xúc, phức tạp, chưa dũng cảm bênh vực,
bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân khiến cho hoạt động của Mặt trận tổ quốc và
các tổ chức CT-XH trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở chưa đạt được kết
quả như mong muốn [91]. Bởi đại diện của các đoàn thể chính trị-xã hội là những
người rất gần dân, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của dân. Vì thế, nếu các đoàn
thể này nói lên tiếng nói của người dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của
nhân dân sẽ đem lại lợi ích cho cả hai phía: người dân và chính quyền tại các địa
phương. Tác giả Nguyễn Duy Quý cho rằng, sự phối hợp giữa chính quyền với Mặt
trận tổ quốc và các đoàn thể nếu không có những quy chế hiệu quả, phù hợp sẽ dẫn
đến tình trạng: các đoàn thể luôn ở thế bị động và luôn phải “gõ cửa” chính quyền
[62].
Theo Trần Thái Dương, các tổ chức CT-XH thống nhất giữa hai mặt chính trị
và xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc vận động nhân dân thực hiện các nhiệm
vụ đặt ra đối với cách mạng Việt Nam thông qua những hình thức phù hợp. Mặt trận
22
Tổ quốc có chức năng tham chính, tham nghị và giám sát; đoàn kết nhân dân, chăm
lo đời sống, lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi
quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân
[99]. Điều đó càng cho thấy tầm quan trọng của các tổ chức này thông qua việc tổ
chức các hoạt động thể hiện sự tham gia của người dân (hoạt động kiểm tra, giám sát)
ở mức độ cao nhất [54]. Như thế, so với các tổ chức xã hội khác thì các tổ chức CT-
XH tham gia một cách trực tiếp hơn trong việc tham gia và tuân thủ các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Các tổ chức CT-XH là thiết chế quan trọng, là môi trường thuận lợi để hội viên
có cơ hội thực hành cũng như phát huy dân chủ, được chia sẻ thông tin, bảo vệ quyền
lợi và lợi ích chính đáng, hợp pháp [92]. Như cách nói của người nông dân Nam bộ:
ở trong Hội (đoàn thể) thì cái thân phận người nghèo của anh ta mới được cải thiện.
Như thế tư cách thành viên của một đoàn thể quần chúng là cái làm cho anh ta – người
nông dân nghèo – có khả năng trở thành một “con người bình đẳng” như người khác
[11]. Đó trở thành một trong những động cơ quan trọng nhất thúc đẩy người nông
dân tham gia một cách nhiệt tình nhất. Để có được những kết quả đó, các đoàn thể ở
xã, thôn từng bước thay đổi cách thực hoạt động thông qua việc: lắng nghe hơn ý kiến
đóng góp của đoàn/hội viên và nhân dân; đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng
dân chủ hóa và công khai hóa; từng bước thay đổi phương pháp và tác phong làm
việc; làm cho đoàn viên, hội viên ý thức rõ hơn về quyền lợi và nghĩa vụ của mình
với tổ chức, v.v... [51]. Và trong một chừng mực nhất định thì các đoàn thể này cũng
chuyển tài những kiến nghị, ý kiến của người dân thuộc nhóm mình phụ trách tới
Đảng hay nói một cách khác là thực hiện giám sát đối với hoạt động của cơ quan nhà
nước [84].
Trong một nghiên cứu của mình, tác giả Phạm Hữu Nghị cho rằng các tổ chức
CT-XH đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, thực hiện pháp luật cũng như
tham gia giám sát. Và vai trò này thể hiện rõ nhất thông qua tư cách là một trong
những thành viên không thể thiếu của ban hòa giải, các tổ chức này cùng với cán bộ
tư pháp và lãnh đạo thôn đóng vai trò quan trong trọng việc giải quyết các xích mích,
23
khiếu nại chủ yếu hướng đến việc đảm bảo của một nền dân chủ cơ sở [85].
Nghiên cứu tại 5 tỉnh Tây Nguyên tiếp tục khẳng định điều này, theo đó các
đoàn thể chính trị-xã hội là tổ chức đầu tiên được người dân thông báo giải quyết các
vi phạm hay xích mích xảy ra tại cơ sở. Cách làm như vậy cũng nhận được sự ủng hộ
của chính quyền cấp xã và trưởng thôn/buôn [12]. Thực tế đó cho thấy, có thể có sự
hạn chế về khả năng kiểm tra các cơ quan hành pháp của các tổ chức quần chúng do
sự phụ thuộc vào Đảng và ngân sách nhà nước. Nhưng ở cấp cơ sở, các tổ chức quần
chúng cho thấy họ tự chủ hơn so với các tổ chức ở cấp trung ương [112]. Tuy nhiên,
việc hỗ trợ của chính quyền các cấp nhất là về kinh phí, thực hiện chế độ khoán kinh
phí theo cơ sở, không có cơ chế ràng buộc, bảo đảm, đang tạo tâm lý thụ động, biến
các đoàn thể từ một tổ chức có tính độc lập trở thành tổ chức đơn thuần giúp việc cho
chính quyền cơ sở [19].
Mặt khác, một thực tế hiện nay dù đang hoạt động cũng như được đầu tư lớn
nhưng các tổ chức CT-XH có xu hướng hành chính hóa và xa dần với cách tiếp cận
đi vào quần chúng – cái vốn là đặc trưng của các tổ chức này lúc mời thành lập [107].
Có lẽ tính hình thức vẫn còn khá rõ dẫn tới mức độ của khả năng kiểm tra, giám đối
với các tổ chức này chỉ dừng lại ở mức tối thiểu. Mô hình chung, việc thiếu những cơ
chế mở hơn nữa cho sự tham chính của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể đã
hạn chế hiệu quả hoạt động của chính các cơ quan nhà nước [18]. Sự hạn chế về trình
độ chung và năng lực công tác đặc biệt về khả năng tổ chức, vận động, thuyết phục
người dân dẫn đến việc trình bày, phổ biến quan điểm, chủ trương, nghị quyết, chính
sách còn chưa rõ, thiếu sức thuyết phục. Dẫn đến uy tín và vai trò của các đoàn thể
trong phát động, tuyên truyền các phong trào còn khá thấp [101]. Các tổ chức chính
trị-xã hội được tổ chức và hoạt động rập khuôn theo lối “hành chính” và hầu như đã
“hành chính hóa”, lệ thuộc vào chính quyền, mất khả năng kiểm tra, giám sát hoạt
động của chính quyền. Vai trò đại điện cho quyền lợi của các hội viên tập hợp quần
chúng, thực hành dân chủ ở cơ sở nhiều nơi bị lu mờ [87]. Nói như tác giả Trần Khắc
Việt, thì đó là một trong những khuyết tật kéo dài của các tổ chức CT-XH trong số
rất nhiều những khuyết tật đó là: hành chính hóa, cán bộ bộ công chức hóa, hoạt động
24
mang tính phong trào bề nổi, xa rời cơ sở, chưa tự chủ được tài chính [98].
1.4. Vai trò của các tổ chức CT-XH trong xóa đói giảm nghèo và phát
triển kinh tế-xã hội
Kể từ khi Đổi mới, các đoàn thể chứng tỏ vai trò nhiều hơn trong phát triển
kinh tế xã hội bằng việc tham gia cung cấp các dịch vụ xã hội cho Chính phủ. Các tổ
chức này cho thấy chức năng kép mà họ đang đảm nhận: vừa mang tính chất xã hội
và vừa mang tính chất phát triển [57]. Từ giữa thập niên 90, khi chương trình xóa đói
giảm nghèo trở thành một nhiệm vụ chiến lược, các tổ chức CT-XH đã trở nên năng
động hơn. Các hoạt động giảm nghèo trở thành tâm điểm hoạt động của các tổ chức
xã hội nói chung và các đoàn thể chính trị-xã hội nói riêng. Trong vòng 9 năm (1990-
1999), thông qua cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu
dân cư” các đoàn thể tại các địa phương đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 30%
xuống còn 11%; vận động đóng góp hàng trăm tỷ đổng giúp các hộ nghèo có vốn sản
xuất [19]. Vai trò của các tổ chức này thực sự có ý nghĩa khi Ngân hàng Chính sách
xã hội bắt đầu giao phó các chương trình tín dụng cho các đoàn thể địa phương [123].
Rõ ràng, việc định hướng cho hoạt động của các tổ chức cùng với “quyền” tham gia
của hội viện đã tạo ra độ đa dạng và phức tạp hơn so với trước kia [50]. Trong bối
cảnh khi mà các chính sách hỗ trợ tín dụng cho người dân đặc biệt các hộ nghèo
dường như chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế với những ràng buộc về các thủ tục
như: đáp ứng đầy đủ các điều kiện về tài sản thế chấp, dự án sản xuất… Cùng với
thực tế đó là Quỹ tín dụng xã chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân4 [95] thì sự
bảo lãnh thông qua các tổ chức CT-XH là sự lựa chọn gần như duy nhất dành cho cư
dân nông thôn đặc biệt là các hộ nghèo.
Theo báo cáo của ngân hàng chính sách (VBSP) chi phí tín thác của VBSP chi
trả cho các tổ chức CT-XH năm 2012 là 1.412 tỷ đồng và đến năm 2013 con số tiếp
tục tăng lên 1.862 tỷ đồng và dự kiên của năm 2014 là 2066,1 tỷ đồng [107]. Thực tế
đó cho thấy hiệu quả về hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong việc cung cấp vốn
tín dụng cho hộ nông dân. Nghiên cứu của tác giả Bùi Quang Dũng và đồng nghiệp
4 chỉ có 12,3% xã ấp của Đông Nam bộ có Quỹ tín dụng xã
25
đưa ra lý do mà người dân tham gia các Hội là vì đó là nơi cung cấp các khoản tín
dụng ngắn hạn và những kiến thức khuyến nông cho người dân, bên cạnh các nguồn
chính thức khác [11].
Các nghiên cứu hiện nay cho thấy ta thấy được vai trò của các tổ chức, các quỹ
tín dụng trong việc hỗ trợ người dân với tư cách như là những tổ chức phúc lợi xã hội
hỗ trợ, trợ giúp người dân đặc biệt là những nhóm yếu thế. Ở Philippine, Trung tâm
Phát triển nông thôn và nông nghiệp (CARD) áp dụng mô hình của ngân hàng
Grameen (Bangladest) từ những năm 1980 và cho đến nay đã trở thành một tổ chức
có quy mô rộng lớn và trở thành một tổ chức tài chính chính thức giúp cho phụ nữ
nghèo và và những người thiệt thòi. Trong khi đó, ở Thái Lan Viện Phát triển cộng
động (trực thuộc chính phủ) lại hướng đến nhóm đối tượng là những người lao động
thuộc khu vực phi chính thức bằng việc hỗ trợ tiền mặt cho họ thông qua quỹ phúc
lợi cộng đồng. Ở Indonesia, hình thức trợ giúp này lại thông qua tổ chức tôn giáo
hướng tới đối tượng thụ hưởng đó là người nghèo [115]. Ở Việt Nam, các tổ chức
đoàn thể cũng đóng vai trò tương tự như vậy khi chúng ta thấy được vai trò của các
tổ chức này trong việc giúp người nghèo có cơ hội tiếp cận những nguồn vốn vay ưu
đãi. Thể hiện qua việc chính quyền xã chấp nhận cho người dân vay vốn của ngân
hàng chính sách hay ngân hàng nông nghiệp chỉ cần thông qua thư giới thiệu hoặc
một giấy tờ tương tự như thế từ phía Hội phụ nữ, Hội nông dân hay bất cứ một tổ
chức nào trong hệ thống các tổ chức CT-XH [124]. Bên cạnh đó, các yếu tố như: trình
độ văn hóa của chủ hộ, điều kiện kinh tế của hộ, giới tính chủ hộ, thủ tục lãi suất cho
vay, thời gian vay vốn và lượng vốn vay của các tổ chức cũng là những yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp và rõ ràng đến khả năng tiếp cận nguồn vốn của người dân [68]. Trong
khi đó, một nghiên cứu tại Đài Loan cho thấy các hội, hiệp hội sử dụng vốn nội lực
như là nguồn vốn chính cho hội viên vay vốn. Hiện nay có 4 hiệp hội lớn ở Đài Loan:
Hiệp hội nông dân, Hiệp hội thuỷ lợi, Hiệp hội ngư dân và Hợp tác xã marketing cây
ăn quả. Các hội này là những nhóm hợp tác đa mục đích, do chính những người nông
dân lập ra nhằm mang lại những lợi ích cho chính họ. Các hiệp hội này đóng vai trò
tích cực trong việc cung cấp tiền vốn vay cho người dân với mục đích sản xuất và
26
marketing [116]. Như vậy, với nhiều quốc gia vai trò an sinh, trợ giúp đối với nhóm
yếu thế chủ yếu tập trung ở chính bản thân năng lực của các tổ chức với sự huy động
nguồn vốn tự thân. Trong khi đó ở Việt Nam, mô hình này có sự khác biệt đôi chút
khi mà nhà nước vẫn là người đứng vai trò chủ đạo trong việc cung cấp nguồn vốn
và thông qua các tổ chức để tiến hành phân phối và kiểm soát nguồn vốn đến với các
nhóm đối tượng. Các đoàn thể địa phương đặc biệt là hội Phụ nữ không chỉ tham gia
hỗ trợ vốn cho người dân thông qua ngân hàng chính sách mà đoàn thể này còn cho
thấy vai trò của mình trong các tổ chức tài chính vi mô trong việc vận dụng mạng
lưới thành viên của mình để rà soát và hỗ trợ vay vốn cho những người nghèo có nhu
cầu [65]. Tuy nhiên một quan điểm khác lại cho rằng việc phân bổ nguồn tài chính
cho nhiều đầu mối (Ủy ban nhân dân, các tổ chức đoàn thể..) với nhiều nguồn quỹ
khác nhau (từ vốn Nhà nước, vốn huy động trong dân,…) khiến nguồn vốn bị phân
tán nên các phần chia cấp thường quá nhó, không phát huy được hiệu quả trong đầu
tư xóa đói giảm nghèo bền vững [100]. Tất nhiên, không thể không nói tới chiều
ngược lại của vấn đề, đó là sự phân tán nguồn vốn đồng nghĩa với việc mạng lưới
được thụ hưởng sẽ mở rộng hơn, tạo thêm nhiều cơ hội được tiếp cận nguồn hỗ trợ
nhất là những hộ gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Như thế, nếu so với mô hình tổ
chức của một số nước thì các tổ chức đoàn thể ở nước ta đóng vai trò là tổ chức trung
gian trong các hoạt động phúc lợi xã hội hướng tới các nhóm đối tượng xã hội yếu
thế, đặc thù.
Theo đánh giá của Norlund, trong suốt những năm 2000 chứng kiến sự dịch
chuyển trọng tâm hoạt động của các tổ chức CT-XH ở Việt Nam. Theo đó, hoạt động
hầu hết của các tổ chức này là nhằm hướng tới mục tiêu giảm nghèo, từ thiện nhân
đạo, tự quản, phát triển nghề nghiệp nhưng lại ít hướng tới các vấn đề pháp lý [123].
Các tổ chức CT-XH trong những thập niên vừa qua là nơi huy động đóng góp từ thiện
ở Việt Nam nhằm hỗ trợ các nạn nhân và người nghèo [21]. Nghiên cứu ở Nam Định
và An Giang cho thấy, từ thiện là một trong ba hoạt động chính mà người dân trong
các tổ chức đoàn thể tham gia trong đó Nam Định chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn so với An
Giang [23]. Trong một nghiên cứu của ISEE (2015) cho thấy, người dân đánh giá cao
27
các tổ chức nhà nước trong hoạt động từ thiện mang nhiều ưu trội về tính chất “đúng
đối tượng’, “kịp thời”, “phù hợp với nhu cầu cần giúp đỡ”. Tất nhiên không loại trừ
trường hợp người dân không biết về hoạt động của các tổ chức phi chính phủ đề đánh
giá [46].
Các tổ chức này triển khai các chiến dịch do nhà nước khởi xướng, nhưng họ
cũng thực hiện hàng ngàn dự án và chương trình tín dụng cho người nghèo. Nhiều
đại diện của các đoàn thể chính trị-xã hội cho biết tổ chức của họ tham gia vào các
lĩnh vực như công tác xã hội, xóa đói giảm nghèo, tăng cường dân chủ cơ sở, thúc
đẩy phát triển kinh tế và đấu tranh cho bình đẳng giới [126]. Một phần không nhỏ
dẫn tới thành công của các dự án quốc tế về giảm nghèo đó là sự lựa chọn các tổ chức
CT-XH tại địa phương tham gia với tư cách là đối tác chịu trách nhiệm chính nhưng
đồng thời họ cũng chính là người hưởng lợi (các thành viên) do vậy đảm bảo tính
nhiệt tình, trách nhiệm rất cao của người tham gia dự án [104].
Vai trò của các tổ chức CT-XH cũng được đặc biệt nhấn mạnh như là một
trong những giải pháp tích cực góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế,
văn hóa và đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn. Phát huy vai trò của hội
nông dân trong việc đẩy mạnh thực hiện Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh
doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng (phong
trào sản xuất, kinh doanh giỏi) được xem như là một cách thu hút đông đảo hội viên
tham gia [106]. Các hoạt động kinh tế - xã hội đã được các tổ chức đoàn thể này vận
dụng một cách khá linh hoạt phù hợp với người dân địa phương, từ đó tạo ra được
hiệu quả trong các hoạt động của các hội cũng như sự gắn kết giữa người dân với hội
cũng như với chính quyền địa phương [8]. Các tổ chức tiêu biểu cho việc tập hợp lực
lượng và đại đoàn kết toàn dân song chưa bao quát hết toàn bộ các tầng lớp nhân dân
và chưa đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu đa dạng và phong phú của người dân. Việc
tập hợp các thành viên, hội viên là đối tượng chính của các tổ chức như Mặt trận và
các tổ chức CT-XH hiện nay vẫn còn nhiều lúng túng, hiệu quả chưa cao [92]. Do
đó xây dựng, phát triển các dự án có thể coi là cách thức hữu hiệu để tập hợp và thu
28
hút sự tham gia của người dân.
Có nhiều cách thức để các tổ chức xã hội nói chung và tổ chức CT-XH nói
riêng tham gia vào quá trình phát triển xã hội. Tại Hàn Quốc, “phong trào cải thiện
làng mới” do tổng thống Park Chung Hee phát động trong đó thông qua việc đảm
nhận vai trò của các tổ chức cộng đồng như Hội Nông dân, Liên hiệp Hội Phụ nữ,
Liên hiệp Hội Thanh niên (tổ chức thống nhất từ trung ương tới địa phương) nhằm
“phát triển tinh thần của nông dân”, lấy kích thích vật chất nhỏ và chính sách để kích
thích mạnh tinh thần và qua đó phát huy nội lực tiềm tàng to lớn của nông dân [117].
Có thể nói, Hàn Quốc đã khai thác triệt để đặc điểm tâm lý xã hội của cư dân nông
thôn trong đó tình cảm cộng đồng và sự cố kết chặt chẽ là nhân tố quan trọng.
Kerkveliet cho rằng có bốn vai trò chính của các tổ chức xã hội ở Việt Nam:
(1) thực hiện các hợp đồng dịch vụ; (2) tham gia xây dựng luật và chính sách; (3)
giám sát các dự án của chính phủ và doanh nghiệp; (4) truyền tải các ý kiến của công
dân tới các cơ quan chính quyền [120]. Nhiều nhà nghiên cứu đồng tình với quan
điểm này, nhấn mạnh tới vai trò của các tổ chức xã hội trong việc giám sát các dự án
chính phủ và doanh nghiệp, đặc biệt là những dự án sử dụng nguồn lực của nhà nước
[69].
Nếu như trước kia, nhận thức về vị trí, vai trò về mặt trận, đoàn thể của cấp ủy
chưa đầy đủ dẫn đến chưa mạnh dạn giao các chương trình dự án cho tổ chức đảm
trách, nhiều đoàn thể không biết đến các chương trình, dự án tại địa phương [30].
Trong giai đoạn hiện nay đã có sự biến đổi, năm 2010, từ kết quả của 300 cuộc phỏng
vấn đối với các tổ chức xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh và Hà Nội, trong đó có các tổ chức
CT-XH, Wischermann chứng minh các tổ chức này, với sự năng động của nó, đã hoạt
động tích cực hơn, phát triển nhanh hơn so với các nhiệm vụ được giao và cơ chế
hoạt động đã ấn định [127]. Đây cũng là lí do những tổ chức CT-XH ngày càng chiếm
vị trí quan trọng trong việc quản lý nhà nước trong những năm gần đây. Theo Nguyễn
Thu Nghĩa, thông qua tổ chức hội, các thành viên có điều kiện được tăng cường mở
rộng các nguồn vốn tín dụng đáp ứng nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh hạn
chế được hiện tượng cho vay nặng lãi; được giúp đỡ về vốn để phát triển kinh tế trong
29
trường hợp gặp khó khăn; được đào tạo nghề, giới thiệu và tạo việc làm [78].
Việc lựa chọn hội phụ nữ tham gia có thể coi là quyết định chiến lược bởi
những đặc trưng “nhiệt tình, trách nhiệm, chịu học hỏi các kỹ năng mới, hiểu biết kỹ
gia cảnh người vay” nên đã thành công đến hàng chục vòng vay vốn với khoản tiết
kiệm trong mỗi dự án lên đến tiền triệu [63]. Bằng hành động thiết thực của mình hội
phụ nữ tạo ra một mạng lưới an sinh quan trọng và bền vững thông qua những hoạt
động chính thức cũng như phi chính thức [57]. Và đó chính là động cơ quan trọng gia
tăng số lượng hội viện của tổ chức này nói riêng cũng như các tổ chức xã hội nói
chung.
Những lợi ích thu được khi tham gia vào hội/tổ chức như là được chia sẻ kiến
thức thông tin, hay bồi dưỡng chuyên môn, năng lực bản thân chính là lý do khiến
những người hoạt động tích cực trong các tổ chức CT-XH đánh giá hoạt động của các
tổ chức này chủ yếu với hai mức độ quan trọng và rất quan trọng [53]. Một số địa
phương, các đoàn thể chính trị-xã hội thành lập các nhóm đổi công lao động và từ đó
giảm thiểu sự đóng góp về mặt tài chính của người dân [54]. Một nghiên cứu của
Dale tại Đài Loan cho thấy người ta tham gia vào các hiệp hội, hội ví dụ như Hiệp
hội nông dân, Hiệp hội thủy lợi v.v vì ở đó họ được nâng cao tri thức nông nghiệp,
các kỹ năng gia tăng sản xuất, tăng thu nhập nông nghiệp và cải thiện điều kiện sống
của mình. Ngoài ra tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn cũng là một vấn đề
được quan tâm. Thông qua hiệp hội thủy lợi hơn 60% đất nông nghiệp có hệ thống
thuỷ lợi [116].
Tiểu kết Chương 1
Từ những điểm luận tài liệu nói trên cho thấy, về mặt chính sách vai trò đảm
bảo an sinh xã hội đối với cư dân nông thôn của các tổ chức CT-XH chưa được thể
hiện một cách rõ nét. Chúng ta mới chỉ thấy được vai trò giám sát, trợ giúp của các
tổ chức này song hành cùng với các cam kết hỗ trợ tài chính của Chính phủ trong các
chương trình an sinh xã hội.
Thực tiễn cho thấy, các tổ chức CT-XH không chỉ đảm bảo thực hiện hoạt
động tuyên truyền, phổ biến các chính sách, chủ trường đặc biệt là việc tham gia thực
30
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Ngoài ra, họ cũng đã coi việc bảo vệ, đáp ứng những
nhu cầu, lợi ích chính đáng của các thành viên trong tổ chức mình như là một chức
năng cơ bản. Các tổ chức này thể hiện vai trò ngày càng quan trọng trong các hoạt
động phát triển bằng cách tham gia cung cấp các dịch vụ xã hội, thực thi chính sách,
phản biện xã hội và đóng góp xây dựng pháp luật, đặc biệt ở khu vực nông thôn
Chủ yếu các công trình nghiên cứu theo đuổi hướng tiếp cận chính trị học,
thường chú trọng đến tổng quan tài liệu, phân tích không cần số liệu minh chứng hoặc
chỉ sử dụng một vài số liệu thống kê định tính một cách rất hạn chế. Các nghiên cứu
thực nghiệm định tính về các tổ chức CT-XH chỉ xuất hiện trong một vài khảo sát xã
hội học về tổ chức xã hội song nhược điểm của các khảo sát này là chỉ thông qua đại
diện (lãnh đạo) hoặc gián tiếp qua đánh giá của các chuyên gia mà chưa chú trọng
đến việc tiếp cận trực tiếp đến người dân để phân tích, đánh giá cả định lượng và định
tính về vai trò của các tổ chức CT-XH trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay. Bên
cạnh đó, các nghiên cứu trực tiếp về vai trò của các tổ chức CT-XH cấp cơ sở trong
đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn có thể coi là một trong những hạn chế
của các chủ đề nghiên cứu hiện nay khi mà thực tiễn cho thấy các tổ chức này tham
gia khá nhiều trong các hoạt động hỗ trợ an sinh cho cộng đồng hiện nay. Nghiên cứu
này với hi vọng cung cấp những bằng chứng thực nghiệm cụ thể về vai trò của các tổ
chức CT-XH tham gia trong các hoạt động đảm bảo an sinh xã hội tại cộng đồng từ
đó góp phần hỗ trợ và tư vấn đối với các chủ trương, chính sách về vấn đề này trong
31
thời gian sắp tới.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Định nghĩa các khái niệm làm việc
2.1.1. Vai trò
Theo Từ điển Xã hội học Oxford, vai trò là một khái niệm then chốt trong lý
thuyết xã hội học. Nó nhấn mạnh những kỳ vọng xã hội gắn với những vị thế hay vị
trí nhất định trong xã hội và nó phân tích sự vận hành của những kỳ vọng ấy [15].
Vai trò là tập hợp những kỳ vọng ở trong một xã hội gắn với hành vi của những
người mang các địa vị. Ở mức độ này thì mỗi vai trò riêng là một tổ hợp hay các
nhóm kỳ vọng hành vi [26].
Ở một quan điểm gần giống như vậy, Berger cho rằng vai trò là một sự phản
ứng điển hình đối với một kì vọng điển hình. Vai trò tạo ra khuôn mẫu để cá nhân
theo đó mà hành động trong một tình huống cụ thể. Vai trò trong xã hội cũng như
trên sân khấu đều không giống nhau về độ chính xác của những chỉ dẫn mà nó tạo ra
cho diễn viên – người hành động. Vai trò mang theo nó cả những hành động nhất
định và cả tình cảm và thái độ đi liền với hành động này. Trong mỗi trường hợp, mặc
dù tình cảm hay thái độ có thể hiện từ trước khi đảm nhận vai trò, những nhất định là
vai trò sẽ củng cố những gì đã có từ trước [5].
Vai trò được ám chỉ là các mẫu hành vi tương ứng với địa vị cụ thể, nó có mối
quan hệ trong khi tổ chức hành vi của chúng ta đối với một số người khác và vì cá
nhân nắm giữ nhiều địa vị nên họ cũng sẽ thực hiện nhiều vai trò [55].
Theo Từ điển bách khoa toàn thư, vai trò bao gồm: i) Vai trò đương nhiên -
vai trò sẵn có (role persistence); ii) Vai trò chỉ định - gán cho (role allocation); iii)
Vai trò đạt được - lấy đươc (role taking); iv) Vai trò phù hợp – tương xứng (role
adequacy); v) Vai trò tương hỗ - có đi có lại (role reciprocity) [125].
Trong nghiên cứu này, vai trò được hiểu là sự đảm nhận các hoạt động trợ
giúp người dân của các tổ chức CT-XH trên hai phương diện của hệ thông an sinh
32
xã hội quốc gia là thị trưởng lao động và trợ giúp xã hội. Việc đảm nhận các hoạt
động này phù hợp với quyền hạn, chức năng, nguyên tắc và nhiệm vụ của các tổ chức
CT-XH và quy định của Nhà nước.
2.1.2. Tổ chức CT-XH
Các tổ chức CT-XH hay còn được gọi là các tổ chức đoàn thể quần chúng được
sáng lập bởi Đảng cộng sản nhằm tiếp cận và vận động quần chúng tham gia, ủng hộ
các chính sách của Đảng (Tạp chí xây dựng Đảng, 2013). Có thể nói, các tổ chức này
ra đời dựa trên ý tưởng của Lenin trong tác phẩm “Làm gì?” xuất bản năm 1902, với
mục đích gây dựng những tổ chức có cơ sở thành viên rộng rãi trong công chúng, có
liên kết thành viên lỏng lẻo hơn so với tổ chức đảng, để tạo thành những “vòng tròn”
liên kết tất cả các thành phần trong dân chúng (Lenin, 1902. 80 dẫn lại [107].).
Trong xã hội phương Tây, các tổ chức CT-XH được gọi khác nhau: “các tổ
chức xã hội độc lập” (độc lập với Chính phủ, không phải do Chính phủ lập ra mà do
người dân tự lập ra), các “nhóm lợi ích” (đại diện cho một lợi ích cụ thể), các “nhóm
áp lực” (bằng các kênh hợp pháp gây ra áp lực lên chính quyền trong quá trình hoạch
định hoặc thực thi chính sách có lợi cho họ), nhóm “vận động hành lang”…. Mặc dù
có thể có nhiều tên gọi khác nhau nhưng chúng đều thực hiện chức năng chính: trực
tiếp tác động, gây ảnh hưởng đến chính quyền để thực hiện những mục tiêu của một
nhóm xã hội nào đó. Tiếng nói của các tổ chức xã hội độc lập chính là sự phản biện
để nhà nước tư sản điều chỉnh họat động của mình, thỏa mãn những nhu cầu cơ bản
và cấp thiết nhất của đời sống xã hội dân sự. Vì thế có thể nói các tổ chức độc lập
cũng là “người đồng hành” của nhà nước pháp quyền tư sản [91].
Mô hình các tổ chức CT-XH ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng tương tự, các
tổ chức này phát triển mạnh mẽ trong các giai đoạn 1920 -1950, 1936 – 1939 và sau
chiến tranh thế giới thứ 2. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu sau đó khiến cho các tổ chức chính trị - xã hội không còn phát triển và ngày nay
chỉ còn phát triển ở một số nước trong đó có Việt Nam. Về mặt danh nghĩa, các tổ
chức này độc lập với chính quyền và lãnh đạo các tổ chức được thành viên bầu ra.
Nhưng trên thực tế cho thấy, lãnh đạo của các tổ chức lại có thể được bổ nhiệm vào
33
các vị trí chức năng của đảng và nhà nước hoặc ngược lại [121]. Thêm nữa, những
người đứng trong danh sách bầu phải được tổ chức đảng thông qua. Vì thế mà các tổ
chức quần chúng công này và chính quyền có mối quan hệ gắn kết với nhau. Nói như
Lenin thì các tổ chức này là “đường dây truyền tải” ý tưởng và chính sách của đảng
đến từng nhóm quần chúng trong xã hội mà họ phụ trách (Lenin, 1920 dẫn lại [107]).
Các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay bao gồm: Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chính Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các
tổ chức thành viên khác của Mặt trận tổ chức phối hợp và thống nhất hành động trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (điều 9, Hiến pháp 2013).
Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức chính trị - xã hội được quy
định cụ thể trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật công đoàn, Luật thanh niên,
Điều lệ Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam, Điều lệ Hội
Cựu chiến binh Việt Nam.
Tổ chức CT-XH ở Việt Nam một mặt vừa có tính phổ biến chung của các tổ
chức CT-XH trên thế giới, mặt khác vừa mang tính đặc thù của cách mạng Việt Nam
của những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta [91], đó là: i) Các tổ chức
này ra đời dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng với nhân dân đấu tranh giải phóng dân
tộc, gắn bó với tổ chức Đảng và Nhà nước; ii) Các tổ chức CT-XH là tổ chức rộng
khắp từ trung ương tới cơ sở, nội dung và mục đích hoạt động phù hợp với từng thời
kỳ, từng giai đoạn của lịch sử; iii) Các tổ chức CT-XH chịu sự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng cộng sản; iv) Đội ngũ cán bộ của các tổ chức CT-XH gồm cán bộ kiêm nhiệm
và cả cán bộ chuyên trách.
Do nghiên cứu được tiến hành ở nông thôn, nên các tổ chức CT-XH được
chúng tôi đề cập đến chỉ bao gồm 5 tổ chức đó là: mặt trận tổ quốc (MTTQ), hội phụ
nữ (hội PN), hội nông dân (hội ND), hội cựu chiến binh (hội CCB) và đoàn thanh
34
niên (đoàn TN). Các đoàn thể hoạt động dựa trên các quy đinh được ban hành của
Đảng và Chính phủ, điều lệ và các văn bản luật được xây dựng cho chính các tổ chức
này.
2.1.3. An sinh xã hội
An sinh xã hội là một thuật ngữ được cho là chính thức xuất hiện lần đầu tiên
tại Mỹ trong một đạo luật năm 1935 về an sinh xã hội. Năm 1944, Hội nghị của Tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO) đã nhìn nhận rằng "nghĩa vụ nghiêm cẩn của tổ chức
ILO là thúc đẩy các quốc gia trên thế giới tiến hành những chương trình thực hiện...
việc mở rộng các biện pháp an sinh xã hội nhằm cung ứng một mức thu nhập căn bản
cho tất cả những người có nhu cầu cần được bảo hộ và cần được hưởng sự chăm sóc
y tế toàn diện".
Năm 1952, tổ chức ILO đã đưa ra Công ước số 102 qui định những tiêu chuẩn
tối thiểu của hệ thống an sinh xã hội mà sau đó phần lớn các nước trên thế giới đều
dựa vào đó để xây dựng hệ thống an sinh của mình. Hệ thống an sinh tối thiểu này
bao gồm các thành tố như sau : chăm sóc y tế, trợ cấp bệnh tật, trợ cấp thất nghiệp,
trợ cấp hưu trí, trợ cấp tai nạn nghề nghiệp, trợ cấp gia cảnh, trợ cấp thai sản, trợ cấp
tàn tật, và trợ cấp cho người kiêm hưởng [119].
Năm 1958, tổ chức này định nghĩa an sinh xã hội là “kết quả đạt được bởi một
loạt các biện pháp tổng hợp và thành công nhằm bảo vệ công chúng (hay một phần
lớn công chúng) khỏi tình cảnh túng quẫn về mặt kinh tế mà nếu thiếu những biện
pháp ấy thì sẽ xảy ra vì không còn nguồn thu nhập do bệnh tật, thất nghiệp hoặc tuổi
già và qua đời; nhằm cung ứng cho giới công chúng ấy sự chăm sóc y tế cần thiết; và
nhằm trợ cấp cho các gia đình trong việc nuôi dạy con cái”.
Đến năm 1984, tổ chức ILO bổ sung cho định nghĩa trên bằng cách nhấn mạnh
tới vai trò của nhà nước. Nhưng ít lâu sau đó, Tổ chức Lao động Quốc tế lại đưa ra
một định nghĩa khác, lần này không còn nhấn mạnh tới vai trò của nhà nước : an sinh
xã hội là “sự an toàn chống lại một số nguy cơ, được cung ứng thông qua cách tổ
chức thích hợp cho những thành viên nào của mình có thể rơi vào hoàn cảnh này….”
35
[122].
Hiệp hội An sinh Xã hội Quốc tế (ISSA) cho rằng an sinh xã hội bao gồm: các
chương trình bảo hiểm xã hội các chương trình trợ giúp xã hội (các chương trình phổ
quát, các chế độ trợ cấp hỗ tương, các quỹ dự phòng quốc gia, và những chương trình
khác trong đó kể cả những chương trình mang tính thương mại, phù hợp với luật lệ
quốc gia hoặc tập quán [97].
Trong cuốn Từ điển Xã hội học Oxford, an sinh xã hội được hiểu: những hệ
thống duy trì thu nhập do nhà nước quản lý nhằm tránh cho mọi người khỏi rơi vào
tình trạng nghèo hoặc cứ nghèo mãi. Một số hệ thống an sinh dựa trên quy chế công
dân, một số khác thì dựa trên nơi cư trú của người thụ hưởng [15].
Trong cuốn “Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam” do Viện Khoa học lao động
và xã hội cùng với Dự án hỗ trợ giảm nghèo GIZ đưa ra khái niệm an sinh xã hội: “hệ
thống các chính sách can thiệp của nhà nước (bảo hiểm xã hội/trợ giúp xã hội) và tư
nhân (các chế độ không theo luật định hoặc của tư nhân) nhằm giảm mức độ nghèo
đói và tổn thương, nâng cao năng lực tự bảo vệ của người dân và xã hội trước những
rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu nhập, bảo đảm ổn định, phát triển và công bằng
xã hội”.
Theo Chiến lược An sinh xã hội Việt Nam 2011-2020, an sinh xã hội là hệ
thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và các đối tác xã hội thực hiện
nhằm bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe và các phúc lợi xã hội, nâng cao
năng lực của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong quản lý và kiểm soát các rủi ro
do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, thiên tai, chuyển đổi cơ cấu, khủng hoảng kinh tế
dẫn đến giảm hoặc bị mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội
cơ bản.
Hệ thống chính sách an sinh xã hội Việt Nam gồm 3 nhóm chính sách chính: i) Chính
sách thị trường lao động; ii) Bảo hiểm xã hội; và iii) Trợ giúp xã hội [44].
Xuất phát từ quan điểm cơ bản rằng hệ thống an sinh xã hội hướng tới đảm
bảo các nguyên tắc: phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro đối với người dân,
do vậy trong nghiên cứu này chúng tôi hiểu an sinh xã hội là: “hệ thống các chính
36
sách can thiệp của nhà nước cùng với sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức (trong
khuôn khổ quy định của luật pháp) nhằm giảm mức độ nghèo đói và tổn thương, nâng
cao năng lực tự bảo vệ của người dân và xã hội trước những rủi ro hay nguy cơ giảm
hoặc mất thu nhập, bảo đảm ổn định, phát triển và công bằng xã hội, nâng cao khả
năng ứng phó của người dân đối với các rủi ro, nguy cơ thông qua việc hỗ trợ, trang
bị cho họ các phương thức nhằm nâng cao mức sống cá nhân và hộ gia đình ”. Hệ
thống này bao gồm 3 nhóm chính sách chính: i) Chính sách thị trường lao động; ii)
Bảo hiểm xã hội; iii) Trợ giúp xã hội.
2.1.4. Thị trường lao động
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng “thị trường lao động là thị trường
trong đó có các dịch vụ lao động được mua bán và thông qua quá trình để xác định
mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ của tiền công” [119].
Theo Leo Maglen5, “thị trường lao động là một hệ thống trao đổi giữa những
người có việc làm hoặc những người đang tìm việc làm (cung lao động) với những
người đang sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động để sử dụng (cầu lao động)”
[79].
Nguyễn Thị Lan Hương cho rằng “thị trường lao động biểu hiện mối quan hệ
giữa một bên là người có sức lao động và bên kia là người sử dụng sức lao động,
nhằm xác định số lượng và chất lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao
tương ứng” [73].
Theo cuốn Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam, thị trường lao động là thuật
ngữ kinh tế học để chỉ sự trao đổi lao động trong một quốc gia, vùng, ngành nghề.
Chính sách thị trường lao động bao gồm các chính sách thị trường lao động chủ động
và thụ động.
Chính sách thị trường lao động chủ động: là các chính sách việc làm, giáo dục,
đào tạo, thông tin việc làm, tín dụng…cho đối tượng đang có nhu cầu tìm việc, thường
là người thất nghiệp, thiếu việc làm và thậm chí là cả những người đang có nhu cầu
5 Chuyên gia tư vấn của Dự án giáo dục kỹ thuật dạy nghề của Tổng cục dạy nghề do Ngân hàng phát triển Châu Á tài trợ
37
tìm việc làm tốt hơn với mục tiêu nâng cao cơ hội tham gia hoặc tái hòa nhập vào thị
trường lao động. Nguồn tài chính dành cho việc thực hiện các chính sách này thường
được lấy từ thuế và từ đóng góp.
Chính sách thị trường lao động thụ động: là các chính sách, quy định về việc
chi trả trợ cấp thất nghiệp và các quyền lợi liên quan khác của người tham gia bảo
hiểm thất nghiệp nhằm thay thế tạm thời thu nhập mất đi do mất việc làm (bảo hiểm
thất nghiệp) [44].
Trong nghiên cứu này, chính sách thị trường lao động được chúng tôi quan
tâm nghiên cứu ở khía cạnh là các chính sách việc làm, đào tạo (nghề) và tín dụng
cho các đối tượng đang có nhu cầu (tìm việc hay được đào tạo nghề phục vụ sản xuất,
phát triển kinh tế).
2.1.5. Trợ giúp xã hội
Trợ giúp xã hội (TGXH) theo Nguyễn Văn Định (2008) được hiểu là sự giúp
đỡ thêm của cộng đồng xã hội bằng tiền hoặc bằng các phương tiện thích hợp để
người được trợ giúp có thể phát huy được khả năng tự lo liệu cho cuộc sống để bản
thân và gia đình, sớm hòa nhập lại với cộng đồng [81].
Theo Nguyễn Ngọc Toản (2011), quan điểm hiểu trợ giúp xã hội cần phải được
hiểu theo khái niệm rộng bao gồm các biện pháp, giải pháp bảo đảm của Nhà nước
và xã hội đối với các đối tượng bảo trợ xã hội (người bị thiệt thòi, yếu thế hoặc gặp
bất hạnh trong cuộc sống) nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn trước mắt cũng
như lâu dài trong cuộc sống. Việc bảo đảm này thông qua các hoạt động cung cấp tài
chính, vật phẩm, các điều kiện vật chất khác cho đối tượng.
Theo đó, vai trò của của trợ giúp xã hội hiện nay bao gồm: i) TGXH thực hiện
chức năng đảm bảo an sinh xã hội (ASXH) của Nhà nước; ii) TGXH thực hiện chức
năng tái phân phối lại của cải xã hội; iii) TGXH có vai trò phòng ngừa rủi ro, giảm
thiểu và khắc phục rủi ro và giải quyết một số vấn đề xã hội nảy sinh.
Hiện nay, có một số quan điểm tiếp cận phát triển hệ thống TGXH đó là: i)
Tiếp cận theo quan điểm bảo đảm thực hiện quyền; ii) Tiếp cận theo quan điểm quản
lý rủi ro; iii) Tiếp cận theo quan điểm phổ cập chính sách; iv) Tiếp cận theo quan
38
điểm mục tiêu chính sách v) Tiếp cận theo quan điểm tổng thể [67].
Một quan điểm khác cho rằng, ở Việt Nam bảo trợ xã hội gần với khái niệm
trợ giúp xã hội, là một trong ba trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh. Trợ giúp xã hội
còn được xem như “phao cứu sinh” nhằm hỗ trợ cho các thành viên trong xã hội
không bị rơi vào hoàn cảnh bần cùng hóa [20].
Theo quan điểm hiện đại, trợ giúp xã hội bao gồm 3 loại hình: hỗ trợ thu nhập,
trợ cấp gia đình và dịch vụ xã hội [44].
Xuất phát từ quan điểm phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro của hệ thống an sinh xã
hội, trong nghiên cứu này quan điểm của chúng tôi về trợ giúp xã hội đó là những
bảo đảm và hỗ trợ của nhà nước và xã hội (các cá nhân, tổ chức) giúp cho các thành
viên của cộng đồng khắc phục những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài trong
cuộc sống và nâng cao mức sống hộ gia đình. Hoạt động trợ giúp này được thực hiện
thông qua việc cung cấp tài chính, trợ giúp ngày công hay hỗ trợ bằng hiện vật nhằm
đảm bảo an sinh cộng đồng.
2.1.6. Tín dụng
Tín dụng là việc cung cấp vốn cho cá nhân hoặc hộ gia đình để đầu tư vào phát
triển sản xuất hoặc nhằm cải thiện điều kiện sống (xây nhà, đầu tư vào giáo dục, y tế
hoặc sinh hoạt của gia đình…).
Ở nhiều quốc gia, tín dụng hỗ trợ người dân khởi sự doanh nghiệp để tạo thu
nhập, giúp họ thoát nghèo và bắt đầu cuộc sống khá giả hơn. Ở Việt Nam, nhà nước
cung cấp tín dụng thông qua Ngân hàng chính sách xã hội và Quỹ quốc gia về việc
làm với các chính sách tín dụng ưu đãi cho phát triển sản xuất, tạo việc làm, tín dụng
hỗ trợ học sinh sinh viên.
Các đối tượng được vay vốn là người nghèo, người dân tộc thiểu số, người
khuyết tật, thanh niên, người lao động đi làm việc ở nước ngoài, người không có việc
làm do khủng hoảng kinh tế, sinh viên, người chuyển đổi mục tiêu sử dụng đất đai,
người buôn bán nhỏ… [44].
Tín dụng được chúng tôi quan điểm trong nghiên cứu này là các khoản vốn hỗ
trợ trong một thời gian nhất định có thể được tính lãi hoặc không tính lãi. Nguồn gốc
39
của các khoản tín dụng này có thể thuộc về nhà nước (thông qua ngân hàng chính
sách xã hội) với các quy định của pháp luật dành riêng cho hoạt động cho vay này.
Hoặc của chính các tổ chức đứng ra thành lập và hoạt động (ở đây là các tổ chức
CT-XH) với nguyên tắc dựa trên niềm tin.
2.2. Thao tác hóa khái niệm
Khái niệm cần được thao tác hóa để làm việc của nghiên cứu này là “Vai trò
của các tổ chức CT-XH trong đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn” – dưới
Vai trò của các tổ chức CT-XH trong đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn
Hỗ trợ triển khai các chính sách thị trường lao động
Thực hiện trợ giúp xã hội
- Tuyên truyền, tư vấn, giới thiệu thông tin
- Tuyên truyền, giới thiệu các chủ trương, chương trình hỗ trợ chung
- Cung cấp các chính sách, chương trình hỗ trợ chung
- Xây dựng các hoạt động, các kế hoạch hỗ trợ tại các tổ chức cơ sở
- Xây dựng các hình thức hỗ trợ riêng trong bản thân mỗi tổ chức ở cơ sở
Trợ giúp xã hội đột xuất
Đào tạo nghề
Tìm việc làm
Trợ giúp xã hội thường xuyên
Hỗ trợ tín dụng
đây là lược đồ:
2.3. Các cách tiếp cận lý thuyết của đề tài
2.3.1 Lý thuyết vai trò
Lý thuyết vai trò được “phát triển từ hai hướng tiếp cận của một quan sát xã
40
hội học vi mô và của một quan sát xã hội học vĩ mô” và về mặt khoa học được hình
thành như là bộ phận của một tiếp cận “lý thuyết hành động – tương tác” và của một
tiếp cận “lý thuyết hệ thống – chức năng. Lý thuyết vai trò có nhiệm vụ như là “lý
thuyết tầm trung bình” có chủ đề là các cơ chế trung chuyển giữa cá thể và hệ thống
[26, tr 537]. Chính vì quan điểm như vậy mà có hai cách tiếp cận tương đối khác nhau
trong lý thuyết vai trò. Một cách tiếp cận phát triển nhân học xã hội của Ralph Linton
đưa ra một giải thích cấu trúc về các vai trò trong hệ thống xã hội. Một cách tiếp cận
thay thế thiên về tâm lý học xã hội và tập trung vào các quá trình chủ động tạo dựng,
tiếp nhận và đóng vai trò.
Quan điểm tâm lý học xã hội đối lập thì tập trung nhiều hơn vào những khía
cạnh chức năng của vai trò; nó xem xét những tương tác mà từ đó con người đóng
các vai trò của mình, chứ không phải mô tả vị trí của những vai trò ấy trong cơ cấu
xã hội. Ở đây nhấn mạnh những cách thức mà một người thực hiện những vai trò của
người khác (thực hiện vai trò), xây dựng vai trò của chính mình (tạo dựng vai trò),
dự kiến những phản ứng của những người khác đối với vai trò của mình, và cuối cùng
là đóng vai trò cụ thể của mình (đóng vai trò). Người ta quan tâm đến diễn tiến của
việc làm việc với các vai trò, khi mà vai trò không phải là những kỳ vọng bất biến,
mà là những hệ quả nổi lên [15].
Có thể xác định vai trò là một sự phản ứng điển hình đối với một kì vọng điển
hình. Bởi một cá nhân trung bình gặp phải những kì vọng rất khác nhau ở các lĩnh
vực sống khác nhau của anh ta trong xã hội, nhưng những tình huống tạo ra những kì
vọng này có thể nhóm thành từng cụm nhất định. Vai trò tạo ra khuôn mẫu để cá nhân
theo đó mà hành động trong một tình huống cụ thể. Vai trò trong xã hội cũng như
trên sân khấu đều không giống nhau về độ chính xác của những chỉ dẫn mà nó tạo ra
cho diễn viên-người hành động [5]. Thành viên các tổ chức CT-XH cũng có những
khuôn mẫu riêng, họ phải rèn cho mình đáp ứng các yêu cầu về mặt cung cách, cử
chỉ, lời nói và cách tham gia các đoàn thể với tư cách là một người hội viên đặc biệt
là những người đứng trong hàng ngũ lãnh đạo các tổ chức. Nó sẽ không thể giống với
cung cách hay cách hành xử khi họ ở trong gia đình hay tham gia một nhóm bạn bè.
41
Và khi họ xác định được vị trí của mình ở đâu, họ sẽ tìm thấy cái động lực như là
người đứng đầu các đoàn thể phải có tiếng nói để thuyết phục hội viên, có năng lực
để điều hành tổ chức và đem lại lợi ích cho thành viên tổ chức mình, họ tìm thấy được
cái ý chí và niềm tin vào bản thân vào tổ chức mình tham gia. Nó giống như điều mà
Berger đề cập: vai trò mang theo nó cả những hành động nhất định và cả tình cảm và
thái độ đi liền với hành động này. Trong mỗi trường hợp, mặc dù tình cảm hay thái
độ có thể hiện diện từ trước khi đảm nhận vai trò, nhưng nhất định là vai trò sẽ củng
cố những gì đã có từ trước [5]. Với các tổ chức CT-XH, điều mà các thành viên của
các đoàn thể này hiểu và biết được vai trò của mình nó có từ khi họ bắt đầu gia nhập
đoàn thể, họ hiểu được vị trí, trách nhiệm của mình trong tổ chức, được làm gì và
phải làm những gì. Và tất nhiên đó là điều kiện tiên quyết để bất kỳ một thành viên
nào phải được biết khi gia nhập một tổ chức. Trong quá trình hoạt động, cùng với
trách nhiệm của mình sự tương tác giữa các thành viên tổ chức cùng với các lợi ích
mà họ có được khi tham gia là động lực quan trọng thúc đẩy họ, cho họ có thêm tình
cảm trong quá trình gia nhập tổ chức. Khi đó vai trò trong các đoàn thể mà họ tự nhìn
nhận được chắc chắn sẽ được nâng cao hơn, từ đó giúp họ tham gia và hoạt động
trong tổ chức một cách hiệu quả hơn. Với mỗi tổ chức, họ được quy định những vai
trò khác nhau chẳng hạn như hội nông dân có trách nhiệm hỗ trợ người nông dân
trong phát triển kinh tế và chăm lo đời sống, hội phụ nữ có trách nhiệm tương tự
nhưng với đối tượng khác đó là phụ nữ, cũng tương tự như đối với hội cựu chiến binh
hay đoàn thanh niên họ có những đối tượng và vai trò khác nhau. Mỗi đối tượng khác
nhau các tổ chức này phải có những cách thức hoạt động khác nhau và sự tương tác,
trợ giúp giữa các đối tượng cũng có những sự khác biệt. Điều đó tạo nên sự khác biệt
giữa các tổ chức và đồng thời cũng là sức hút thu hút người dân tham gia vào các tổ
chức.
Ralph Linton cho thấy bằng cách nào hay cơ chế nào mà xã hội quy định hành
vi của con người: con người luôn phải thực hiện những vai tương ứng với vị thế gán
cho hay giành được từ xã hội. Trong khi đó Parson mở rộng khái niệm vị thế và vai
trong hệ thống xã hội. Theo đó, hệ thống xã hội là hệ thống các quá trình tương tác
42
giữa các nhân vật, là hệ thống các mối liên hệ giữa các nhân vật tham gia quá trình
tương tác. Khác với Linton, Merton cho rằng mỗi vị thế đòi hỏi không chỉ một vai
mà hàng loạt vai, được gọi là tập hợp – vai. Merton đã phát triển chiều sâu của lý
thuyết thuyết về vị thế - vai xã hội khi cho rằng cần nghiên cứu cấu trúc của các vai
xã hội tạo thành tập hợp – vai của một vị thế xã hội nhất định [55]. Điều này cũng đặt
ra nhiều vấn đề trong bối cảnh xã hội Việt Nam biến đổi hiện nay đó là sự biến đổi
về vai trò (vai xã hội) của các tổ chức, hội nhóm trong quá trình phát triển kinh tế-xã
hội ở nước ta hiện nay từ giai đoạn tập trung quan liêu bao cấp sang giai đoạn kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lúc này vai trò của các tổ chức CT-XH có
những biến đổi ra sao, có sự mâu thuẫn trong kỳ vọng về vai trò của các các tổ chức
ở hai giai đoạn? Trả lời được câu hỏi này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn rõ ràng và
chính xác hơn về tầm quan trọng của các đoàn thể trong bối cảnh hiện nay đến đâu,
từ đó đưa ra những đánh giá và tư vấn nhằm giúp các tổ chức này hoạt động phù hợp
trong giai đoạn hiện nay.
2.3.2. Lý thuyết về xã hội học tổ chức
Tổ chức là một thực thể rất phong phú nên một định nghĩa không bao giờ bao
hàm hết được các thành tố hoặc thỏa mãn hết được các khía cạnh. Morgan (1940)
quan niệm về tổ chức với những đặc trưng khác nhau thông qua các hình ảnh ẩn dụ
coi tổ chức như một cỗ máy; một sinh thể; một bộ não; một hệ văn hóa; một hệ thống
chính trị; một nhà tù tâm trí; một công cụ thống trị.
Theo Scott (1932), các yếu tố tâm điểm của tổ chức bao gồm: cơ cấu xã hội,
các thành viên tham gian, các mục tiêu, công nghệ và môi trường.
- Cơ cấu xã hội: trong xã hội học, thường dùng thuật ngữ cơ cấu tổ chức để chỉ những
hoạt động, những mối quan hệ và những tương tác dựa trên một kiểu mẫu thường trực
nào đó. Các tổ chức thường có những kiểu mẫu về: kỹ thuật, thực hành, phương pháp
được lặp đi lặp lại hàng ngày và gồm cả những kiểu mẫu về sự tương tác giữa các
thành viên. Theo đó cơ cấu này gồm 2 dạng: cơ cấu xã hội chính thức (các khía cạnh
tương tác trong cơ cấu này được xác định rõ ràng trong các bảng mô tả công việc và
sơ đồ tổ chức); cơ cấu xã hội phi chính thức (những nảy sinh mối quan hệ tự nhiên
43
giữa các thành viên với nhau).
- Các thành viên tham gia: chủ yếu và phần lớn là con người (không loại trừ một số
trường hợp ít là tổ chức đa phần chỉ có máy móc). Vì con người không bao giờ tự
nhiên đổ công sức ra nên các tổ chức và nhà quản lý luôn phải đối diện với vấn đề
tận dụng hết công sức của con người
- Các mục tiêu: mục tiêu của tổ chức nhưng thực chất chính là mục tiêu của con người
– của những nhà quản lý hay những người sở hữu vì thế nên các mục tiêu không hoàn
toàn dễ dàng được chia xẻ. Con người trong tổ chức có nhiều mục tiêu khác nhau do
vậy sẽ xung đột với nhau.
- Công nghệ: công nghệ là quan trọng bởi vì nó có thể ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh
khác trong tổ chức như tiến trình lao động, cơ cấu xã hội và các thành viên tham gia.
- Môi trường: chỉ tất cả những gì nằm bên ngoài phạm vi tổ chức nhưng lại có ảnh
hưởng đến tổ chức.
Thư lại - hành chính và hợp lý hóa là một mô hình thống trị trong các lý thuyết
tổ chức. Thuyết hành chính – hợp lý hóa của Weber đưa ra một số đặc tính và tiến
trình của tổ chức: i) Tổ chức phải xác định rõ mục tiêu để hoàn thành tốt trong cơ cấu
chính thức của tổ chức; ii) Cơ cấu chính thức hình thành hành vi trong tổ chức và vì
thế hướng hành vi trong tổ chức đến các mục tiêu của tổ chức; iii) Hiệu quả được cải
thiện chừng nào các thành viên trong tổ chức tuân theo các quy tắc chính thức và các
chính sách của tổ chức; iv) Các quyết định của tổ chức phải đặt trên cơ sở điều tra
hoặc thăm dò các thông tin liên quan, trên cơ sở tính toán các chi phí và lợi ích.
Những nguyên tắc trọng tâm của lý thuyết này đó là:
- Thể thức hóa: các luật lệ, quy trình thủ tục, quy tắc và những chỉ định nhiệm vụ
được viết ra dưới hình thức văn bản. Với các tổ chức thì sơ đồ tổ chức có thể coi là
một biểu hiện của thể thức hóa. Khi một ai đó được tuyển vào một chức vụ thì hành
vi người đó sẽ bị chi phối. Ví dụ một người được giữa chức vụ trong một tổ chức
đoàn thể tức là người đó sẽ chịu sự chi phối về quy định hành vi, cách thức giao tiếp
để phù hợp với vai trò của anh ta trong tổ chức đó.
- Duy công cụ: coi tổ chức như một bộ đồ nghề, một cỗ máy được thiết kế để hoàn
44
thành một mục đích nhất định. Cơ cấu nội bộ chính thức – các chức vụ, thủ tục, luật
lệ, khuôn mẫu tương tác, v.v. có thể được coi là công cụ phụ vụ cho nhiệm vụ chung
của tổ chức.
- Quyền hành duy lý – hợp pháp: quyền hành trên căn bản duy lý là phương tiện hữu
hiệu nhất để có được sự tuân thủ của các thành viên con người. Nếu như chỉ huy theo
mô hình truyền thống dễ đưa lại những phán đoán hoặc quyết định võ đoán. Nhưng
trong mô hình thư lại dựa trên căn bản chức vụ chính thức – hợp pháp nên được mọi
người công nhận và được sự tin tưởng của các thành viên đó vậy nó là phương tiện
tốt nhất để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Trong mô hình tổ chức thư lại con
người được tuyển dựa vào khả năng và phẩm chất hoặc “xứng đáng” chứ không dựa
vào tính cách, quan hệ hoặc các đặc điểm cá nhân [103].
Các tổ chức CT-XH với tư cách là cánh tay nối dài của Đảng và họ thực hiện
nhiệm vụ chính của mình là tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của nhà nước. Các tổ chức này có những quy định, nhiệm vụ và mục tiêu
cụ thể rõ ràng. Và các thành viên tham gia tổ chức đó buộc họ cũng phải có những
cách thức, hành vi, ứng xử giao tiếp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của mình trong tổ chức đó với tư cách là một thành viên. Và việc các đoàn thể này
xây dựng các quy định, các nghị quyết đưa ra trong các kỳ đại hội, v.v đều có một
nhiệm vụ chung nhất là nhằm đảm bảo lợi ích và phục vụ quyền lợi của tổ chức. Với
sự thống nhất và nguyên tắc vận hành rõ ràng giúp các tổ chức này hoạt động hiệu
quả hơn. Với tư cách là cơ quan gắn liền với việc tuyên truyền chủ trương của Đảng
và Nhà nước, các tổ chức CT-XH cho thấy họ đang có được những lợi thế nhất định
so với các tổ chức xã hội khác. Ở đây những lợi thế có thể kể đến như: nắm bắt được
các thông tin hỗ trợ phát triển sản xuất như các chương trình hỗ trợ, các lớp đào tạo
nghề hay được tham gia các chương trình hỗ trợ vay vốn, các chương trình tìm việc
làm, v.v. Rõ ràng đó chính là động lực và cũng là sức hút thu hút sự tham gia của
45
người dân vào các tổ chức.
2.4. Hệ thống các chính sách an sinh xã hội
2.4.1 Hệ thống chính sách thị trường lao động hiện nay
2.4.1.1. Chính sách việc làm Chính sách việc làm đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng, tác động tới sự điều
tiết của thị trường lao động. Vì thế mà từ những năm 90 cho đến nay, ta có thể thấy
sự ra đời của rất nhiều Bộ Luật quan trọng giúp hoàn thiện hơn nữa các chính sách
về thị trường lao động hiện nay. Qua 4 lần sửa đổi, bổ sung, năm 2012, Quốc hội đã
ban hành Bộ luật Lao động sửa đổi trên cơ sở kế thừa những nhân tố phù hợp của Bộ
luật Lao động năm 1994 và sửa đổi những điểm bất hợp lý, bổ sung nhiều điểm mới
cho phù hợp với quá trình phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Ngoài ra, Quốc
hội còn ban hành Luật Việc làm năm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014,
Luật Bảo hiểm xã Hội năm 2014, Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015,… Quốc
hội cũng đang nghiên cứu xây dựng Luật Tiền lương tối thiểu, Luật Quan hệ lao động.
Cùng với đó, Chính phủ và các bộ, ngành cũng ban hành các văn bản quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành các luật nêu trên.
Xác định được tầm quan trọng của hệ thống chính sách việc làm đối với thị
trường lao động, sự ra đời của hàng loạt các chính sách việc làm thời gian qua bên
cạnh hệ thống các bộ Luật chung đã cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của nó:
Chương trình Việc làm Quốc gia thành lập theo Nghị quyết số 120/1992/NQ-HĐBT
ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng. Tiếp nối chương trình này là Chương trình
mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2010 được thực hiện theo Quyết định số
101/2007/QĐ-TTg ngày 6 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ; Đề án dạy nghề và tạo
việc làm giai đoạn 2008-2015 cho thanh niên được vay vốn học nghề, tạo việc làm
trong nước và nước ngoài (2008); Đề án 1956 về “Đào tạo nghề cho lao động nông
thôn đến năm 2020”, quy định về chính sách việc làm trong điều 14 đến điều 18 của
Bộ Luật lao động hay sự ra đời của Cục Việc làm (2008), Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học
nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015” (số 295/QĐ-TTg, ngày 26/2/2010) hay
Quyết định về việc phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề
46
giai đoạn 2012-2015 (2012) v.v. Đã khẳng định tầm quan trọng của vấn đề này trong
chiến lược phát triển thị trường lao động Việt Nam linh hoạt hơn, đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế xã hội. Sự ra đời của hàng loạt các chính sách thị trường lao động
về việc làm như trên đã tác động trực tiếp tới hoạt động của các tổ chức đoàn thể xã
hội với tư cách như là một trong số các đối tác quan trọng tại cơ sở. Tuy vậy, có
những chương trình, đề án được coi là không thành công phải kể đến như đề án 1956,
nguyên nhân là do một số địa phương triển khai chậm, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp
với đặc điểm vùng, ngành kinh tế. Kết quả và hiệu quả dạy nghề cho lao động nông
thôn còn hạn chế, chất lượng dạy nghề thấp… [103].
Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015” (số
295/QĐ-TTg, ngày 26/2/2010) trong đó với nhiệm vụ giao trực tiếp cho hội
LHPNVN, mục tiêu đó là các cơ sở dạy nghề, giới thiệu việc làm thuộc Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam và các cấp Hội phụ nữ thực hiện tư vấn học nghề, giới thiệu việc
làm và tạo việc làm cho khoảng 100.000 phụ nữ hàng năm, Hội Liên hiệp Phụ nữ các
cấp có kế hoạch truyền thông về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc học nghề và
việc làm đối với phụ nữ trong chương trình tuyên truyền, vận động của Hội. Căn cứ
Kế hoạch số 02/KH-BCH ngày 25/1/2016 của Hội LHPN tỉnh Cà Mau, BCH Hội
LHPN huyện U Minh, tỉnh Cà Mau đã xây dựng Kế hoạch số 02/KH-BCH ngày
27/1/2016 về Hướng dẫn công tác thi đua năm 2016, đưa ra 7 nội dung thi đua trong
đó nội dung 5: hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường đặc biệt nhấn mạnh
đến việc các cấp hội cơ sở tiếp tục ủng hộ các mô hình làm ăn có hiệu quả để nhân
rộng các mô hình này, từ đó tạo việc làm bền vững cho các hội viên [31]. Tiếp tục
sau đó, trong Kế hoạch quí của Hội LHPN huyện U Minh gửi tới BCH Hội PN cấp
cơ sở đều đưa ra nhiệm vụ này cho các tổ chức hội cấp xã phối hợp thực hiện với
phòng Lao động thương binh và xã hội cùng với Trung tâm dạy nghề huyện thực hiện
trong quý II và quý III. Sự phối hợp, giám sát giữa các cấp sẽ là động lực cần thiết và
quan trọng giúp thực hiện chính sách hỗ trợ việc làm cho lao động nữ nông thôn, giải
quyết kịp thời các trường hợp làm chưa hiệu quả để có những điều chỉnh phù hợp.
Thực tiễn tại địa phương cho thấy sự phối hợp này đạt được kết quả tốt như đã xây
47
dựng nhưng nguyên nhân thực sự là do khi tiến hành xây dựng đề xuất thi đua các tổ
chức hội cơ sở thường dựa trên kết quả sẵn có hoặc khả năng gần đạt được của các
thành viên trong hội. Do đó, phần lớn kết quả của các tổ hội cơ sở thường hoàn thành,
nó cho thấy các hoạt động còn mang nặng tính hình thức và đối phó.
Chương trình phối hợp công tác giữa Hội Nông dân Việt Nam và Bộ
LĐTB&XH giai đoạn 2011 – 2016, trong đó có đề cập đến vai trò của Hội Nông dân
là: i) Đẩy mạnh công tác thông tin, tư vấn, hướng nghiệp và giải quyết việc làm cho
nông dân; ii) Nâng cao hiệu quả dạy nghề và giải quyết việc làm cho nông dân; iii)
Phối hợp tổ chức điều tra, đánh giá tình hình chất lượng lao động và việc làm, nhu
cầu học nghề của nông dân theo từng nghề và cấp trình độ [58]. Cũng trong giai đoạn
này, đoàn TN các địa phương đã chủ động thực hiện theo sự phối hợp với Bộ
LĐTB&XH, theo Chương trình số 60-CTr/ĐTN của BCH đoàn huyện U Minh ngày
29 tháng 1 năm 2016 một trong nhiệm vụ chính của tổ chức này đó là tập trung tư
vấn hướng nghiệp từ bậc trung học cơ sở, trung học phổ thông góp phần giúp đỡ
thanh niên yếu thế được học nghề, có việc làm để hòa nhập cộng đồng; tổ chức cho
đoàn thanh viên, thanh niên tham gia các ngày hội việc làm; hỗ trợ thanh niên xuất
khẩu lao động; v.v…Bên cạnh đó các xã thị trấn tiếp tục yêu cầu thực hiện công văn
số 245-CV/ĐTN ngày 9/8/2016 của Ban Thường vụ Huyện đoàn U Minh về việc
Triển khai thực hiện vay vốn quỹ Quốc gia về việc làm nguồn vốn kênh Trung ương
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh”. Đây được coi là cơ hội tốt cho đoàn TN có cơ hội tiếp
cận với các nguồn vốn để phát triển kinh tế.
Trong giai đoạn 2017-2020, Bộ LĐTB&XH lựa chọn phối hợp chương trình
hoạt động với Trung ương Đoàn TNCS HCM. Sở dĩ có sự lựa chọn này là do lĩnh
vực lao động việc làm và giáo dục nghề nghiệp sẽ có những đột phá trong hoạt động
của Bộ LĐTB&XH trong năm 2017 và 2018. Đối tượng chủ yếu của nhóm nhiệm vụ
này là thanh niên, trong đó có không ít đoàn viên. Chính vì vậy, Ngành LĐTB&XH
đang xây dựng đề án quy hoạch giáo dục nghề nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp
mở trường nghề. Do vậy việc hợp tác giữa 2 cơ quan trong giai đoạn này có ý nghĩa
quan trọng. Chương trình hợp tác này được thực hiện với 7 mục tiêu, trong đó vấn đề
48
hướng đến đảm bảo an sinh xã hội được đặc biệt chú trọng với tư cách là những mục
tiêu chính: Tư vấn hướng nghiệp giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho
thanh thiếu niên; Tiếp tục triển khai hiệu quả chính sách đền ơn, đáp nghĩa; Nâng cao
hiệu quả các hoạt động đảm bảo an sinh xã hội; v.v [59].
2.4.1.2. Chính sách đào tạo nghề Trong 10 năm gần đây rất nhiều chính sách về đào tạo nghề và hệ thống dạy
nghề trong cả nước đã được ban hành như: sự tái thành lập Tổng cục dạy nghề (1998);
chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số; đề án dạy nghề và tạo việc làm
cho thanh niên theo Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg; đề án dạy nghề cho nông dân
giai đoạn 2011-2020 và Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp nông dân và nông
thôn. Trong đó nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực nông thôn đã được đặc biệt quan
tâm với việc nhấm mạnh sự cần thiết của việc hình thành Chương trình mục tiêu quốc
gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực. Chương trình tăng cường nâng cao
năng lực đào tạo nghề (giai đoạn 2001-2005, 2006-2010); chương trình đào tạo nghề
cho nông thôn, bộ đội xuất ngũ. Đặc biệt phải kể đến đề án 1956 về đào tạo nghề cho
lao động nông thôn đến năm 2020 với kỳ vọng tạo ra một bước chuyển trong đào tạo
nghề cho lao động nông thôn. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai các hoạt động dạy nghề
trong thời gian qua chưa đạt được kết quả như mong muốn: hiệu quả dạy nghề cho
lao động nông thôn còn hạn chế, chất lượng dạy nghề còn thấp, chưa đáp ứng được
yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội [103].
Quyết định 295/QĐ-TTg ngày 26/02/2010 về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ
phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015” trong đó với vai trò chủ yếu của
Hội LHPN Việt Nam. Hội với tư cách là tổ chức đại diện cho tiếng nói của phụ nữ
Việt Nam và có số lượng hội viên đông đảo 17 triệu người (Báo cáo đại hội đại biểu
phụ nữ toàn quốc lần thứ XII) do vậy đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức, thực
hiện và vận động chị em tham gia. Căn cứ Kế hoạch số 02/KH-BCH ngày 25/1/2016
của Hội LHPN tỉnh Cà Mau về hướng dẫn công tác thi đua khen thưởng năm 2016,
BCH Hội LHPN huyện U Minh cũng đã xây dựng kế hoạch số 02/KH-BCH ngày
27/1/2016 về Hướng dẫn công tác thi đua năm 2016 gồm 7 nội dung trong đó nội
49
dung 5: hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và một trong những nhiệm
vụ của tổ chức hội cấp cơ sở đó là tuyên truyền, tư vấn và đào tạo nghề cho lao động
phụ nữ trong độ tuổi với chỉ tiêu có ít nhất 70% số lao động nữ qua đào tạo nghề có
việc làm (khuyến khích phát triển nghề truyền thống địa phương) [31]. Tiếp tục sau
đó, trong Kế hoạch quí của Hội LHPN huyện U Minh gửi tới BCH Hội PN cấp cơ sở
đưa ra nhiệm vụ này cho các tổ chức hội cấp xã thực hiện nhiệm vụ này trong quý II
và III và có báo cáo kết quả. Như vậy thông qua các quy trình văn bản trên có thể
thấy, hoạt động đào tạo nghề cho lao động nữ nông thôn được Hội PN các cấp hoạt
động theo trình tự có sự giám sát thực hiện thường xuyên, có báo cáo kết quả theo
từng quý.
Trong giai đoạn từ 2011 đến nay, các chính sách và hoạt động đào tạo nghề
được cơ quan chịu trách nhiệm chính là Bộ LĐTB&XH tiến hành thực hiện có sự
phối hợp giữa các tổ chức CT-XH. Chương trình phối hợp công tác giữa Hội Nông
dân Việt Nam và Bộ LĐTB&XH giai đoạn 2011 – 2016 được ký kết với nội dung
phối hợp của chương trình này tiếp tục hướng vào nhu cầu đào tạo nghề cho lao động
mà Hội Nông dân là một trong số các tổ chức có ưu thế và hoạt động có hiệu quả. Sở
dĩ như vậy là do xuất phát từ quan điểm: Tạo điều kiện để Hội Nông dân Việt Nam
trực tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một số chương trình, đề án phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội nông thôn giai đoạn 2011 - 2020 là nhằm phát huy hơn nữa vai trò
trung tâm và nòng cốt của Hội Nông dân Việt Nam trong phong trào nông
dân…(Quyết định 673/QĐ-TTg ngày 10/5 của Thủ tướng Chính phủ). Theo đó, các
nội dung phối hợp bao gồm: i) Xây dựng và nâng cao năng lực của các cơ sở dạy
nghề thuộc hệ thống Hội Nông dân Việt Nam; ii) Tiếp tục hướng dẫn Hội Nông dân
các tỉnh, thành phố thành lập Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân; iii) Tăng
cường phối hợp giữa các cơ sở dạy nghề của Hội Nông dân Việt Nam với các cơ sở
dạy nghề của Bộ LĐTB&XH [58].
Căn cứ vào Quyết định số 319/QĐ-UBND ngày 3/3/2016 của UBND tỉnh Cà
Mau về việc ban hành mức chi hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng
và Thông báo số 05/TB-LĐTBXH ngày 20/01/2016 của Sở LĐ-TB và XH về việc
50
giao chỉ tiêu dạy nghề cho lao động nông thôn năm 2016, Hội ND tỉnh Cà Mau trong
đó chịu trách nhiệm chính là Trung tâm hỗ trợ nông dân đã có kế hoạch số 01-
KH/TTHTNDT ngày 22 tháng 1 năm 2016 về việc dạy nghề ngắn hạn cho hội viên
nông dân năm 2016 với mục đích tạo điều kiện cho hội viên nông dân và người lao
động ở nông thôn sau khi học nghề đều biết được kỹ thuật, nắm thành thạo khâu thực
hành các mô hình dạy nghề để có khả năng làm việc tại các trang trại, các doanh
nghiệp, địa phương trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên, kết quả đạt được từ các lớp học
này chưa có những đánh giá từ chính đơn vị tổ chức. Tiếp sau đó Hội nông ND huyện
U Minh đã ra Quyết định số 02-QĐ/HNDH ngày 20 tháng 1 năm 2016 trong đó đưa
ra chỉ tiêu thi đua năm 2016 cho hội ND toàn huyện U minh con số đào tạo nghề là
280 người chia đều cho 8 xã (mỗi xã 35 người) trong đó có 75% nông dân dạy nghề
có việc làm. Và căn cứ theo kế hoạch trên thì hội ND huyện U Minh đã có công văn
số 17 – CV/HNDH ngày 31 tháng 3 năm 2016 gửi hội ND hai xã Khánh Hòa và
Khánh Lâm về việc tổ chức 1 lớp dạy nghề kỹ thuật chăn nuôi thú y (dưới 3 tháng)
và 1 lớp kỹ thuật nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa (sơ cấp). Trong khi đó tại Tuyên
Quang, hội ND cũng đã tổ chức một số lớp học dưới 3 tháng như trồng nấm hay chăn
nuôi nhưng không thành công do phần lớn học viên học xong không có điều kiện thực
hiện nên không được các tổ chức này đưa vào trong báo cáo tình hình cụ thể.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có Công văn 922/LĐTBXH-TCDN
ngày 14/3/2017 hướng dẫn thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn năm 2017,
trong số 4 nhiệm vụ trọng tâm thì một nhiệm vụ quan trọng trong đó có việc bồi
dưỡng nghiệp vụ giám sát việc tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại xã
đối với cán bộ Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Điều đó cho
thấy vai trò của các tổ chức đoàn thể đối với hoạt động đào tạo nghề. Như vậy, bên
cạnh vai trò là tổ chức chiêu sinh, tiến hành tổ chức các lớp đào tạo nghề, là cầu nối
giữa nhu cầu của người nông dân với UBND xã, các trung tâm giáo dục nghề nghiệp
như đang thực hiện ở hội ND và hội PN thì theo công văn này của Bộ LĐTB&XH
51
cho thấy hội ND và hội CCB đã được khẳng định, bổ sung trong vai trò mới.
2.4.1.3. Chính sách tín dụng Từ ba chương trình tín dụng nhận bàn giao ban đầu, đến nay sau 15 năm hoạt
động, Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) đã và đang triển khai cho vay 20
chương trình tín dụng chính sách và một số chương trình, dự án do các địa phương,
các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước ủy thác thực hiện. Dự thảo nghị định thay
thế nghị đinh 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính
sách khác, sử dụng cơ chế vay tín chấp thông qua các chương trình, tổ chức, Hội đoàn
thể của Nhà nước. Mục tiêu của các chính sách tín dụng này rất đa dạng, để phát triển
sản xuất, hỗ trợ học sinh, sinh viên... Đối tương hưởng lợi là người nghèo, người dân
tộc thiểu số, người khuyết tật, thanh niên, người đi xuất khẩu lao động, người lao
động bị mất việc làm do tác động của khủng hoảng kinh tế, người lao động có đất
phải chuyển đổi mục đích sử dụng, v.v. Một số chính sách tín dụng đã tập trung cho
các doanh nghiệp, hộ gia đình thuộc các huyện nghèo, vùng khó khăn....
Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ra đời được đánh giá là chính sách quan trọng
giúp khơi thông nguồn vốn, cho phép khách hàng nông nghiệp, nông thôn tiếp cận
vốn vay dễ dàng, theo cơ chế ưu đãi, đưa nguồn vốn cho nông nghiệp, nông thôn tăng
trưởng cao, thúc đẩy ngành phát triển theo định hướng chung và giúp người dân yên
tâm sản xuất. Tuy nhiên do còn những hạn chế trong quá trình thực hiện và đặc biệt
độ bao phủ chưa rộng, Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ra đời thay thế Nghị định số
41/2010/NĐ-CP với nhiều điểm mới. Bổ sung thêm đối tượng được vay vốn phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn, bao gồm cả những cá nhân, hộ gia đình cư trú trên
địa bàn nông thôn hoặc có tham gia sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp;
Thúc đẩy tổ chức sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, mô hình ứng dụng công
nghệ cao. Nhờ có Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, lãi suất cho vay đối với lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn giảm mạnh từ trên 20% năm 2011 xuống mức phổ biến từ
6,5-8%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay thông thường; riêng lãi suất cho vay ngắn
hạn được khống chế ở mức dưới 7%/năm. Những đối tượng chính sách, ưu đãi và
nhiều chương trình tín dụng đặc thù thì lãi suất chỉ khoảng 5-6%/năm [86]. Để tăng
52
cường hoạt động tín dụng chính sách, Nhà nước cũng đã bổ sung thêm 4 chương trình
tín dụng mới trong năm 2015. Đó là các chương trình: Hỗ trợ nhà ở xã Hội theo Nghị
định số 100/NĐ-CP của Chính phủ; Bảo vệ và phát triển rừng gắn với giảm nghèo
nhanh và bền vững theo Nghị định số 75/NĐ-CP của Chính phủ; Cho vay hộ mới
thoát nghèo theo Quyết định số 28/2015/QĐ-TTg ngày 21/7/2015 của Thủ tướng
Chính phủ; và Hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở (giai đoạn 2) theo Quyết định số
33/2015/QĐ- TTg ngày 10/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ.
Nhằm phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã
hội, ngày 22/11/2014, Ban Bí thư TW Đảng đã ban hành Chỉ thị số 40-
CT/TW về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội”
(sau đây gọi tắt là Chỉ thị số 40-CT/TW). Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức
đảng, chính quyền, MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã Hội tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo và thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: (1) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp uỷ đảng, chính quyền đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội; (2) Nâng
cao trách nhiệm của MTTQVN, các tổ chức chính trị - xã Hội trong việc thực hiện
tín dụng chính sách xã hội; (3) Tập trung nguồn lực và hoàn thiện cơ chế, chính sách
nhằm thực hiện hiệu quả tín dụng chính sách xã hội; (4) Nâng cao năng lực và hiệu
quả hoạt động của NHCSXH.
Căn cứ theo Kế hoạch số 02-KH/HNDT ngày 19 tháng 2 năm 2016 của Ban
thường vụ Hội Nông dân tỉnh Cà Mau về Kế hoạch kiểm tra, giám sát hoạt động
nguồn vốn ủy thác NHCSXH năm 2016, BCH hội ND huyện U Minh đã có Kế hoạch
số 05-KH/HNDH ngày 9 tháng 3 năm 2016 về việc Kiểm tra, giám sát hoạt động
nguồn nhận vốn ủy thác NHCSXH và Quỹ hỗ trợ nông dân năm 2016. Thực hiện theo
Quyết định số 30/2012/QĐ-UBND tỉnh Tuyên Quang ngày 28/12/2012 về việc ban
hành quy định cho hội viên nông dân trên địa bàn tỉnh vay vốn được hỗ trợ kính phía
và lãi suất tiền vay để phát triển chăn nuôi có kết hợp xây dựng hầm bể biogas bằng
vật liệu nhựa composite, cho đến nay chương trình này vẫn tiếp tục được hội ND thực
hiện và đem lại hiệu quả cao cho bà con nông dân. Có thể nói với hoạt động và quy
trình như hiện nay cho thấy các chương trình tín dụng được đưa về các đoàn thể cơ
53
sở đều có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của các tổ chức cấp huyện tỉnh từ đó
tạo tự thống nhất, đồng bộ và an toàn cho các chương trình này từ đó giúp đem lại lợi
ích cho người thụ hưởng một cách bền vững.
Tổng quan về chính sách thị trường lao động trên cho thấy: hệ thống các chính
sách thị trường lao động hiện nay đã cố gắng mở rộng độ bao phủ tới các nhóm đối
tượng. Trong đó nhóm lao động tại các khu vực nông thôn đặc biệt lao động mất đất
nông nghiệp và những người chưa có việc làm đã được quan tâm nhiều hơn. Các
chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm thông qua hệ thống các quỹ, các
chương trình giới thiệu việc làm đã được xây dựng và thực hiện. Thực chất các công
tác liên quan đến việc thực hiện các chính sách, chương trình đào tạo nghề hay giới
thiệu việc làm hiện nay tại các địa phương chủ yếu được thực hiện bởi các tổ chức
CT-XH mà chủ yếu là vai trò của Hội Nông dân, Hội Phụ nữ và Đoàn Thanh niên.
Họ chịu trách nhiệm đề xuất, xây dựng và tổ chức các nội dung hoạt động phù hợp
với nhu cầu của người dân tại địa phương và coi đó như là một trong số các nhiệm vụ
chính của các tổ chức này6.
Về mặt lý thuyết, các chính sách đưa ra cố gắng mở rộng động bao phủ để có
ngày càng nhiều đối tượng nằm trong diện được thụ hưởng ưu đãi. Tuy nhiên, trong
quá trình hoạt động, bản thân các chính sách và các tổ chức thực hiện (ở đây chính là
các đoàn thể chính trị-xã hội) có đạt được mục tiêu và mong muốn ban đầu khi xây
dựng các chính sách, các chương trình hay không cần phải có câu trả lời từ thực tiễn.
Điều này sẽ được chúng tôi tìm hiểu ở phần tiếp theo.
2.4.2. Hệ thống các chính sách trợ giúp xã hội Trợ giúp xã hội đó là những bảo đảm và hỗ trợ của nhà nước và xã hội (các cá
nhân, tổ chức) giúp cho các thành viên của cộng đồng khắc phục những khó khăn
trước mắt cũng như lâu dài trong cuộc sống và nâng cao mức sống hộ gia đình. Tùy
vào mức độ, hoàn cảnh và tính chất khác nhau mà người ta phân chia thành các chính
6 Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam là một minh chứng: “tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ, dạy nghề, khoa học công nghệ giúp nông dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, bảo vệ môi trường” (khoản 3 điều 2).
54
sách trợ giúp xã hội thường xuyên, chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công và
chính sách trợ giúp xã hội đột xuất. Chính sách ưu đãi xã hội do hướng tới nhóm đặc
thù là người có công với cách mạng nên trong nghiên cứu này được chúng tôi xếp
chung vào trong 2 nhóm chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên và trợ giúp xã hội
đột xuất.
2.4.2.1. Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên Trợ giúp xã hội thường xuyên là hình thức trợ cấp xã hội bằng tiền hoặc bằng
hiện vật mà Nhà nước định ra để trợ cấp đối với những người hoàn toàn không thể tự
lo được cuộc sống trong một thời gian dài (một hoặc nhiều năm).
Các Nghị định từng bước mở rộng và cập nhật đối tượng thụ hưởng mới nảy
sinh do những biến cố kinh tế-xã hội. Nếu như ban đầu chỉ có 4 nhóm đối tượng thụ
hưởng7 là Trẻ em mồ côi, Người già cô đơn, Người tàn tật nặng, Người tâm thần mãn
tính thì sau đó đã tăng lên đến 9 nhóm đối tượng8, trong đó nhiều nhóm đối tượng
mới được bổ sung như Người cao tuổi 85 trở lên, Người nhiễm HIV/AIDS, Hộ gia
đình có từ 02 người trở lên tàn tật nặng, không có khả năng tự phục vụ, Gia đình, cá
nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi...). Tiếp sau đó quy mô đối
tượng được hưởng lợi tiếp tục được mở rộng: nhóm trẻ em trường hợp HIV dương
tính và các đối tượng tàn tật nặng không có khả năng lao động không chỉ ở các hộ
nghèo. Mức kinh phí chi trả cho các nhóm đối tượng này không nhỏ, chiếm từ 0,13-
0,16% GDP trong giai đoạn từ 2010-2016 và cao nhất là 0,16% GDP năm 2012 [43].
Gần đây nhất Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành
Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2011-2020 đã
đưa ra chủ trương chỉ đạo mang tính xuyên suốt đối với hoạt động TGXH trong giai
đoạn hiện nay: “Nâng cao hiệu quả công tác TGXH, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ
hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp, nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù
hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều
kiện kinh tế-xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện được hưởng TGXH. Tiếp
7 Nghị định số 07/2000/NĐ-CP 8 Nghị định số 67/2007/NĐ-CP
55
tục hoàn thiện chính sách TGXH. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở TGXH, phát
triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự
tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi,
trẻ em mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão”.
Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020 theo quyết định số
1019/QĐ-TTg ngày 5/8/2012 với mục tiêu chung là hỗ trợ NKT phát huy khả năng
của mình, trong số đó là định hướng phấn đấu đến năm 2015 có 250.000 NKT trong
độ tuổi lao động được học nghề và tạo việc làm phù hợp. Tuy nhiên đến nay việc thực
hiện mục tiêu này đã không đạt được. Do một số nguyên nhân chính đó là: hạn chế
về sức khỏe của NKT, điều kiện đi lại, sinh hoạt, các hỗ trợ đối với NKT học nghề ít
dẫn đến việc tổ chức học nghề tập trung khó khăn, tỷ lệ NKT có việc làm sau học
nghề thấp gây tâm lý không muốn tham gia học nghề. Có thể nói các văn bản chính
sách liên quan đến hoạt động TGXH thường xuyên liên tục được bổ sung hoàn thiện
nhằm vươn tiếp cận đến các nhóm xã hội yếu thế cần được trợ giúp. Tuy vậy, thực
tiễn hoạt động cho thấy vẫn còn nhiều bất cập cần có sự bổ sung, sửa đổi các chính
sách nhằm phù hợp với thực tế diễn ra hiện nay.
Năm 2000 quy định mức trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên tối thiểu do xã,
phường quản lý bằng 45.000 đồng/người/tháng9 thì đến năm 2007 đã có sự thay đổi
và nâng mức trợ cấp hàng tháng tăng 120 ngàn đồng/người/tháng10, năm 2010 nâng
mức trợ cấp hàng tháng lên 180 ngàn đồng/ người/ tháng11 và đến năm 2015 là
270.000 đồng/tháng, tăng 6 lần so với năm 2000. Mức trợ cấp đối với đối tượng nuôi
dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội được điều chỉnh tăng từ 2 đến 4 lần mức chuẩn tùy
theo từng đối tượng. Nghị định 136/2013/NĐ-CP12 đã tăng mức trợ cấp cho các nhóm
đối tượng, quy trình xác định đối tượng và thụ hưởng cũng rõ ràng, minh bạch, chính
9 Nghị định số 07/NĐ-CP năm 2000 10 Nghị đinh 67/NĐ-CP năm 2007 11 Nghị định 13/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định 67 được ban hành năm 2010 12 Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 về chính sách trợ giúp xã hội, quy định về chế độ, mức trợ giúp, hồ sơ, thủ tục đề nghị trợ giúp, trợ cấp dành cho các đối tượng được hưởng TGXH thường xuyên tại cộng đồng; TGXH đột xuất; chăm sóc, nuôi dượng tại cộng đồng; chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở BTXH, nhà xã hội; quy định về hoạt động của Hội đồng xét duyệt TGXH.
56
xác hơn [43]. Những điều chỉnh này không chỉ nâng mức trợ cấp mà còn mở rộng
nhóm đối tượng thụ hưởng ở các địa phương13 đồng thời với việc phân cấp cho các
địa phương trong việc quyết định mức trợ cấp xã hội cụ thể cho từng đối tượng cho
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở từng địa phương trên nguyên tắc không được
thấp hơn mức chuẩn trợ cấp tối thiểu do Nhà nước quy định đã góp phần đáng kể vào
việc giảm bớt khó khăn và cải thiện đời sống của các nhóm yếu thế. Tuy nhiên, các
quy định về mức độ trợ cấp vẫn còn tồn tại những bất cập, đó là mức trợ cấp cho các
nhóm đối tượng còn quá thấp mới chỉ bảo đảm hỗ trợ được các nhu cầu thiết, chưa
bảo đảm mức sống tối thiểu đặc biệt là những đối tượng bảo trợ xã hội sống tại cộng
đồng; các mức trợ cấp còn mang tính chất “bình quân” và điều chỉnh chậm so với
mức lương và giá cả thị trường.
Sự ra đời của Nghị quyết số 51/2001/QH10, pháp lệnh số 26/2005/PL-
UBTVQH11 và pháp lệnh số 35/2007/PLUBTVQH11 và gần đây nhất là thông qua
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng có hiệu lực bắt đầu từ ngày 1/9/2012 cho thấy sự quan tâm của các cấp, các
ngành trong việc đảm bảo cuộc sống tốt hơn đối với người có công. Hàng năm các
khoản trợ cấp, phụ cấp này đã được Chính phủ điều chỉnh tăng theo từng năm: năm
2010 tăng 12.3%; năm 2011 tăng 13.7%; năm 2012 tăng 26.7% (mức tăng cao hơn
tỷ lệ tăng lương tối thiểu). Sự ra đời gần đây nhất của Nghị định 70/2017/NĐ-CP
ngày 6/6/2017 thay thế cho Nghị định số 20/2015/NĐ-CP, theo đó, mức chuẩn để xác
định các mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng được tăng
từ 1.318.000 đồng lên 1.417.000 đồng. Sự thay đổi về quy định mức trợ cấp, phụ cấp
ưu đãi người có công với cách mạng là sự thay đổi quan trọng và cần thiết với kỳ
vọng góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của người có công và gia đình của họ
13 Từ chỗ chỉ mới giải quyết trợ cấp cho hơn 6.000 người/năm ở 03 nhóm đối tượng (người cô tuổi cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật) theo Nghị định 07, với mức 45.000 đồng/người/tháng giai đoạn năm 2000-2003; sau nâng lên mức 65.000 đồng/người/tháng vào năm 2004-2006. Từ năm 2007, triển khai Nghị định 67 do mở rộng đối tượng hưởng (9 nhóm đối tượng) thì số người hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng tăng lên 46.848 người/79,5 tỷ đồng; năm 2009 là 50.245 người/85 tỷ đồng. Hiện nay, điều chỉnh theo Nghị định 13 thì số người hưởng trợ cấp hàng tháng ở cộng đồng tăng lên 71.122 người với nhu cầu kinh phí là 179,9 tỷ đồng/năm. Ngoài được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, Sở Lao động TB&XH hướng dẫn các địa phương mua và cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế, giải quyết trợ cấp mai táng phí cho đối tượng kịp thời, đúng đối tượng, định mức và thời gian quy định. (http://www.sldtbxhqnam.gov.vn).
57
bằng hoặc cao hơn mức sống bình quân của dân cư nơi cư trú.
Qua các nghị định cho thấy nguồn kinh phí giành cho TGTX cũng không
ngừng được điểu chỉnh 10 năm qua. Nếu nghị định 07/2000 quy định các khoản trợ
cấp cho đối tượng trợ cấp thường xuyên do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết
định cho phù hợp với tình hình thực tế từng địa phương thì đến nghị định 67/2007
quy định phân cấp rõ ràng hơn nguồn kinh phí TGTX tại cộng đồng; kinh phí nuôi
dưỡng, kinh phí hoạt động bộ máy, kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản của các cơ sở
bảo trợ xã hội, nhà xã hội tại cộng đồng thuộc cấp nào thì do ngân sách cấp đó đảm
bảo theo phân cấp hiện hành của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn
Luật Ngân sách nhà nước14. Đáng lưu ý là các điều khoản liên quan đến nguồn kinh
phí được điều chỉnh nhiều trong các Nghị định gần đây, mở rộng các khoản chi và
tăng cường sự tham gia đóng góp của cá nhân và các tổ chức xã hội cho nguồn kinh
phí trợ giúp15. Vấn đề là nguồn kinh phí thực hiện trợ cấp thường xuyên hiện nay chủ
yếu dựa vào ngân sách địa phương tự cân đối, sự đóng góp của cá nhân, cộng đồng,
tổ chức xã hội rất ít. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho những địa phương nguồn
thu ít. Đồng thời cũng dẫn đến sự thiếu công bằng trong việc tiếp cận chính sách xã
hội của người dân ở các địa phương khác nhau.
Hệ thống chính sách TGXH hiện nay cho thấy diện được thụ hưởng chính sách
này còn khá hẹp với mức trợ cấp thấp, khả năng đáp ứng được nhu cầu của người dân
mới chỉ dừng được ở số lượng thấp. Bởi hiện nay mức chuẩn trợ cấp chỉ bằng gần
40% so với chuẩn nghèo nông thôn, 30% chuẩn nghèo thành thị và 20% so với mức
sống tối thiểu chung16 và chỉ có khoảng 40% người cao tuổi có lương hưu và các
khoản trợ cấp khác [43]. Dẫn tới đời sống của một bộ phân không nhỏ những người
14 Điều 16 của nghị định 67/NĐ-CP năm 2007 cũng ghi rõ: Cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội tại cộng đồng được tiếp nhận, sử dụng và quản lý các nguồn kinh phí và hiện vật (nếu có) do các tổ chức, cá nhân đóng góp và giúp đỡ từ thiện; bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và thanh quyết toán theo chế độ tài chính hiện hành. 15 Các số liệu thực tế cũng phản ánh những thay đổi về mức độ trợ cấp dẫn đến nguồn kinh phí TGTX từ ngân sách nhà nước và số người được thụ hưởng tăng nhanh trong một thập kỷ qua, từ 113 tỉ đồng cho hơn 180.000 người (năm 2001) tăng lên 4.500 tỉ đồng cho hơn 1,6 triệu người (năm 2010) (http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa- hoi/397045/Bao-dam-tot-hon-an-sinh). 16 Tại thời điểm 2016: Mức trợ cấp tối thiểu lad 270.000 đồng/người/tháng; mức chuẩn nghèo nông thôn là 700.000 đồng/người/tháng; thành thị 900.000 đồng/người/tháng và mức sống tối thiểu khoảng 1.300.000 đồng/người/tháng
58
hưởng TGXH thường xuyên còn khó khăn.
2.4.2.2. Chính sách trợ giúp xã hội đột xuất Theo diễn giải trong các nghị định của Nhà nước, thuật ngữ TGĐX, trước đây
gọi là cứu trợ đột xuất là một bộ phận hợp thành chính sách xã hội, bao gồm các chính
sách, chế độ, biện pháp nhằm trợ giúp về vật chất, tinh thần đối với các cá nhân, hộ
gia đình trong cộng đồng mỗi khi gặp rủi ro bất hạnh trong cuộc sống để họ có thêm
điều kiện vượt qua khó khăn sớm ổn định đời sống, sản xuất. Ngày 14.4.2017, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 488/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đổi mới,
phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” với mục
tiêu giai đoạn 2017 - 2020, 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp
thời; mở rộng người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, không có lương hưu và trợ cấp
của Nhà nước sống ở vùng núi, vùng hải đảo, vùng dân tộc thiểu số được hưởng trợ
cấp xã hội. 50% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ trợ
giúp xã hội phù hợp với nhu cầu, trong đó tối thiểu 10% đối tượng được cung cấp
dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện…
Trong nghị định gần đây quy định đối tượng hưởng trợ cấp đột xuất (một lần)
là hình thức trợ cấp cho cá nhân hoặc hộ gia đình gặp khó khăn do hậu quả của thiên
tai hoặc những lí do bất khả kháng gây ra. Đối tượng được TGĐX (một lần) chủ yếu
tập trung vào các cá nhân và hộ gia đình gặp các sự cố rủi ro thiên tai hoặc những lý
do bất khả kháng khác gây ra. Đối tượng đang gặp khó khăn về lao động, việc làm và
khó khăn khác chưa được nhắc đến trong các nghị định gần đây.
Chủ trương trợ giúp xã hội thể hiện rõ trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI, VII, VIII và IX. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã
chỉ rõ “Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân theo phương
châm nhà nước và nhân dân cùng làm, mở rộng và phát triển các công trình sự nghiệp
bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những người
có công với cách mạng và những người gặp khó khăn….”. Từ năm 2000 đến nay, các
nghị định của Nhà nước cũng liên tục điều chỉnh tiêu chí đối tượng xã hội nhận được
trợ cấp đột xuất. Đối tượng được TGĐX (một lần) chủ yếu tập trung vào các cá nhân
59
và hộ gia đình gặp các sự cố rủi ro thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác gây
ra. Từ chỗ có 7 nhóm đối tượng hưởng TGXH đột xuất theo nghị định số
07/2000/NĐ-CP ngày 09/3/2000 về chính sách cứu trợ xã hội và Nghị định số
168/2004/NĐ-CP ngày 20/9/2004 sửa đổi, bổ sung nghị định số 07/2000/NĐ-CP, thì
nay đã có 8 nhóm đối tượng được hưởng TGXH đột xuất theo Nghị định số
67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010
sửa đổi, bổ sung nghị định số 67/2007/NĐ-CP. Trong từng nhóm đối tượng đã được
quy định trong các văn bản pháp luật trước đây cũng có sự mở rộng bằng cách thêm
đối tượng cụ thể trong nhóm hoặc giảm bớt những điều kiện cụ thể mà từng đối tượng
phải đáp ứng. Song các văn bản ban hành thời gian qua vẫn còn giới hạn phạm vi hỗ
trợ, mới tập trung chủ yếu cho nhóm “số đông” đối tượng bị rủi ro do thiên tai hoặc
lý do bất khả kháng, chưa vươn đến các đối tượng “riêng lẻ” cũng bị rủi ro thiên tai
hoặc lý do bất khả kháng. Hơn nữa, một số nhóm đối tượng yếu thế mới nảy sinh như
nhóm lao động ở khu vực phi chính thức, chính sách trợ cấp chưa quan tâm đến nhóm
này.
Sự ra đời của Đề án "Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017 - 2025
và tầm nhìn đến năm 2030" theo Quyết định số 488/QĐ-TTg ngày 14/4/2017 có thể
coi là một bước tiến lớn khi Nhà nước cố gắng mở rộng diện bao phủ của lưới an sinh
xã hội với những mục tiêu hỗ trợ đột xuất cho các nhóm đối tượng theo từng thời kỳ,
giai đoạn. Đề án này được chia thành 3 giai đoạn, giai đoạn 1 từ 2017-2020 với mục
tiêu trợ cấp 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời và 50%
người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung ứng dịch vụ trợ giúp xã hội phù hợp
với nhu cầu. Giai đoạn 2021-2025 mục tiêu đầu vẫn tiếp tục thực hiện và mục tiêu
thứ hai được nâng lên 70% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung ứng dịch
vụ trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu. Đến giai đoạn ba tầm nhìn 2020 mục tiêu
chính đó là 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời; mở rộng
diện người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội của Nhà nước, trẻ
em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hộ có hoàn cảnh
60
khó khăn được hưởng trợ cấp xã hội; mức trợ cấp xã hội điều chỉnh phù hợp với khả
năng ngân sách và xu hướng quốc tế; 90% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu.
Cũng tại Nghị định 136/2013/NĐ-CP thì cơ chế thực hiện trợ giúp xã hội đột
xuất đã được điều chỉnh theo hướng phân cấp nhiều hơn cho chính quyền cơ sở. Theo
đó, chủ tịch UBND tỉnh được quyền quyết định một số mức trợ cấp cụ thể phù hợp
với tình hình và điều kiện của từng địa phương. Trong khi đó, các cơ quan như Bộ
LĐTB&XH, Ủy ban MTTQ, Hội chữ thập đỏ, Ủy ban phòng chống lụt bão Trung
ương đóng vai trò phối hợp thực hiện trong công tác trợ giúp đột xuất. Đối tượng
được hưởng TGXH đột xuất hiện nay còn khá hạn hẹp, mới chỉ dừng lại và tập trung
chủ yếu ở nhóm bị rủi ro thiên tai; trong khi đó chưa tính đến những rủi ro về sản
xuất kinh doanh, mất mùa, khủng hoảng kinh tế chung. Mức trợ giúp còn thấp mới
chỉ bù đắp được một phần nào đó thiệt hại mà chưa đáp ứng được nhu cầu của đối
tượng thụ hưởng.
Như vậy thông qua việc đánh giá các chính sách trợ giúp xã hội đã được điểm
lại ở trên cho thấy, các chính sách đã có sự thay đổi theo từng thời kỳ, từng đối tượng
để phù hợp với những biến đổi của xã hội. Điều đáng lưu ý đó là ở tất cả các văn bản
quy định này mặc dù không đề cập một cách trực tiếp đến vai trò của các tổ chức CT-
XH trong các hoạt động này tại địa phương nhưng nơi nhận các văn bản pháp lý đều
có UBTW MTTQ Việt Nam và cơ quan trung ương các đoàn thể (và tất nhiên ngành
dọc thì các tổ chức đoàn thể cấp cơ sở cũng sẽ được tiếp nhận các văn bản hướng dẫn
thực hiện từ tỉnh hội, huyện hội chuyển xuống). Có thể thấy thấy rõ trong các văn bản
chính sách về trợ giúp xã hội mà gần nhất là Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày
21/10/2013 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội hay
tại Đề án "Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017 - 2025 và tầm nhìn đến
năm 2030" của Chính phủ cũng đã thể hiện điều này. Thêm nữa, tại Nghị định 136,
trong số 12 người đại diện cho 10 cơ quan/tổ chức nằm trong Hội đồng xét duyệt trợ
giúp xã hội thì các tổ chức đoàn thể đã gồm 6 thành viên (MTTQ, Hội PN, Hội ND,
Hội CCB và Đoàn TN cấp xã). Như thế cho thấy được vai trò của các đoàn thể này
61
trong các hoạt động trợ giúp xã hội mặc dù không đóng vai trò là tổ chức thi hành
một cách trực tiếp mà thường “ẩn danh” trong hoạt động thực hiện chung của UBND
các địa phương từ cấp tỉnh tới cấp xã. Điều đó phần nào phản ánh thực tế rằng các
hoạt động trợ giúp xã hội của các tổ chức đoàn thể không mang tính chính thức và
chính danh. Với tính chất và cách thức như vậy thì thực tiễn của hoạt động trợ giúp
xã hội của các tổ chức đoàn thể tại địa phương có tương ứng với “nguyên tắc” này
hay vẫn có sự độc lập nhất định?
2.5. Khái quát tình hình kinh tế-xã hội của đất nước và địa bàn khảo sát
2.5.1. Tình hình chung về kinh tế-xã hội
Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” đã khẳng định: Đến
năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các yêu
cầu: bảo đảm để người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội,
bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt, người cao tuổi có thu nhập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo,…);
bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế,
giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, đảm
bảo cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân. Đặc biệt tại Điều 34
Hiến pháp năm 2013 đã chính thức tuyên bố về quyền an sinh xã hội của người dân.
Trong bối cảnh đó, đảm bảo an sinh xã hội trở thành một trong những đích hướng tới
của hàng loạt các hệ thống chính sách và sự vào cuộc của rất nhiều các cơ quan, tổ
chức và cá nhân nhằm hướng đến mục tiêu bao phủ hệ thống an sinh quốc gia. Kết
quả thời gian qua cho thấy, các hợp phần của hệ thống an sinh xã hội đã đạt được
những kết quả:
- Về giải quyết việc làm: Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề mỗi
năm đã tạo việc làm cho khoảng 320.000 người; nhiều người khuyết tật, người dân
tộc, người ở vùng bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã được vay vốn
phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. dự báo trong những năm tới (2017 –
2025), lực lượng lao động tăng bình quân hằng năm 1,28%, tương ứng 723 nghìn
62
người/năm. Quy mô lực lượng lao động tăng từ 55,54 triệu người (năm 2016) lên 62
triệu người (năm 2025). Để đáp ứng nhu cầu việc làm cho người lao động, hằng năm,
nền kinh tế cần tạo thêm khoảng 650 nghìn chỗ làm việc và chuyển dịch cơ cấu lao
động. Tuy nhiên, tính đến năm 2016, trong tổng số 54,36 triệu lao động cả nước, chỉ
có hơn 11,21 triệu qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ (20,6%).
- Về bảo hiểm xã hội: hiện nay tỷ lệ tham gia BHXH của người lao động vẫn rất thấp
so với tổng số lực lượng lao động cả nước, chỉ khoảng 30% (mới chỉ có 12, 9 triệu
người tham gia BHXH bắt buộc, 203 ngàn người tham gia BHXH tự nguyện so với
lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 47,7 triệu người hoặc so với 53,3 triệu
người từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế), trong khi hệ thống
BHXH theo cơ chế thị trường ở nước ta đã được thực hiện từ năm 1995.
- Về trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: hiện có 2,8 triệu đối
tượng thường xuyên được nhận trợ giúp xã hội. Hỗ trợ khoảng 4 triệu hộ nghèo, cận
nghèo, hộ ở vùng khó khăn thông qua các chính sách. Bảo hiểm y tế bao phủ được
86% dân số trong đó nhà nước hỗ trợ với tỷ lệ trên 60%.
Tuy nhiên, thực tiễn trong việc đảm bảo an sinh xã hội vẫn còn nhiều điều phải
bàn: vấn đề phát triển nguồn nhân lực chưa được nhận thức đầy đủ thể hiện trong
hoạt động tham gia đào tạo nghề; chất lượng lao động thấp đặc biệt thiếu lao động kỹ
thuật có trình độ cao. Quỹ bảo hiểm xã hội chưa đảm bảo được tính bền vững với
việc đối diện với nguy cơ mất cân đối thu-chi trong dài hạn do mô hình bảo hiểm xã
hội chưa phù hợp. Khung pháp lý dành cho hoạt động trợ giúp xã hội còn nhiều bất
cập, chưa có cơ chế khuyến khích hoạt động trợ giúp xã hội dựa vào cộng đồng, mức
trợ cấp xã hội của nhà nước còn thấp mới chỉ đáp ứng được 60% mức sống tối thiểu
của đối tượng thụ hưởng. Bối cảnh đó đặt ra vấn đề đảm bảo an sinh xã hội cho người
dân đặc biệt tại khu vực nông thôn nơi mà độ bao phủ của các chính sách an sinh xã
hội còn nhiều hạn chế. Sự tham gia của các tổ chức, hội, nhóm chính thức hay phi
chính thức trong hoạt động đảm bảo an sinh xã hội cho cộng đồng đặc biệt có ý nghĩa
63
trong tình hình đó.
2.5.2. Tình hình kinh tế-xã hội tại địa bàn khảo sát
Cuộc nghiên cứu được tiến hành tại 4 xã Ninh Lai, Đại Phú thuộc huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang và xã Khánh Hòa, Khánh Lâm thuộc huyện U Minh, tỉnh
Cà Mau.
* Xã Khánh Hòa: là một trong những xã thuộc diện thực hiện trong Chương
trình 135 của Chính phủ, hướng đông giáp thị trấn U minh, hướng bắc giáp xã Khánh
Thuận, hướng tây giáp xã Khánh Tiến và hướng nam giáp xã Khánh Lâm. Xã có hệ
thống kênh rạch chằng chịt. Địa giới hành chính chia thành 6 ấp, xã có diện tích tự
nhiên là 6.526,80 ha với 2.391 hộ có 11.446 khẩu, trong đó có 274 hộ dân tộc với
1.088 khẩu. Tỷ lệ hộ nghèo tính đến đầu năm 2016 là 18,61% (theo chuẩn mới), hộ
cận nghèo chiếm 7,61%. Thu nhập của người dân chủ yếu bằng nghề nuôi trồng thủy
sản, trồng lúa và chăn nuôi. Tổng diện tích đất trồng lúa trên 3.200 ha, thu nhập ổn
định trên 40 triệu đồng/hộ/năm. Trên địa bàn xã có 186 hộ kinh doanh, mua, bán nhỏ
lẻ cùng với 1 điểm chợ có 78 kiot kinh doanh nhiều ngành nghề. Trên địa bàn xã có
5 trường (1 trường THCS, 3 trường tiểu học và 1 trường mẫu giáo). Trong giai đoạn
2011-2016 xã đã phối hợp với trung tâm dạy nghề huyện đào tạo nghề cho trên 450
lao động, truyền nghề cho trên 1.000 người và giải quyết việc làm trên 2.000 lao động.
Xã đã thực hiện tốt phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sông văn hóa với
2.078 hộ gia đình đạt chuẩn văn hóa chiếm 86,90% với 6/6 ấp đạt chuẩn. Công tác
đền ơn đáp nghĩa, chính sách với người có công được thực hiện kịp thời và đầy đủ.
Hoạt động giảm nghèo được thực hiện tốt mang lại hiệu quả thiết thực với nhiều
chương trình, giải pháp phù hợp.
* Xã Khánh Lâm: là một xã thuộc Chương trình 135 của Chính phủ có diện
tích tự nhiên là 10.876,83 ha, địa bàn được chia thành 14 ấp với 3.521 hộ, 15.870
khẩu trong đó có 414 hộ dân tộc Khơmer. Đời sống nhân dân chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp, một bộ phận sống bằng nghề kinh doanh mua bán nhỏ. Toàn xã có 395
hộ nghèo chiếm 11,22%, có 196 hộ cận nghèo chiếm 5,57%. Xã đã giải quyết việc
làm cho 790/650 lao động đạt 121,5% KH, đồng thời phối hợp với trung tâm dạy
64
nghề huyện mở 3 lớp đào tạo nghề cho 105/105 lao động. Trên địa bàn xã hiện có
116 lớp với 3.735 học ở các cấp học trong đó có 2/6 trường đạt chuẩn quốc gia. Hiện
nay xã đã có 3 ấp được công nhận đạt chuẩn văn hóa với số hộ gia đình đạt chuẩn văn
hóa là 1996/3477 hộ chiếm 57.40%. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ người có
công với cách mạng và hoạt động từ thiện được tổ chức triển khai hiệu quả: vận động
xây dựng 3 căn nhà tình nghĩa và sửa chữa 2 căn, cấp tiền cho các hộ nghèo và gia
đình chính sách theo quy định.
* Xã Ninh Lai: Là xã có địa hình tương đối bằng phẳng, bán kính khoảng 2
km, có dãy núi Tam Đảo bao bọc theo hướng đông nam, độ cao trung bình từ 40-
250m so với mực nước biển. Phía đông giáp dãy núi Tam Đảo và tỉnh Thái Nguyên,
phía tây giáp sông phó đáy và xã Sơn Nam, phía nam giáp xã Đạo Trù huyện Tam
Đảo và phía bắc giáp xã Thiện Kế. Ninh Lai là một xã thuần nông với lao động chủ
yếu là lao động nông nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người đạt 18 triệu
đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 5,1%. Khuyến khích và tạo điều
kiện cho các cơ sở sản xuất vay vốn đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và kinh doanh dịch vụ, ưu tiên khuyến khích phát triển các ngành nghề, dịch
vụ như gò, hàn, xây dựng, chế biến nông sản thực phẩm tại các khu trung tâm xã; các
cụm thôn... bước đầu đã đem lại thu nhập đáng kể cho người lao động. Sản xuất nông
nghiệp luôn đạt chỉ tiêu trên 100% kế hoạch đã đề ra. Xã đã triển khai đồng bộ các
giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các bậc học; chất lượng mũi
nhọn được nâng lên đảm bảo 100% không có học sinh bỏ học. Các trường học hoàn
thiện việc tổng kết năm học 2015 - 2016 và khai giảng năm học 2016 - 2017, trường
THCS và Trường Tiểu học đón nhận bằng công nhận trường chuẩn quốc gia mức độ
1 năm 2015. Việc thăm hỏi, tặng quà được tổ chức chu đáo đối với các gia đình chính
sách, người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo.
* Xã Đại Phú: là một xã thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, đến nay
tỷ lệ hộ nghèo toàn xã giảm uống còn 5,87% và theo chuẩn mới thì tỷ lệ này là 22,4%,
hộ cận nghèo là 12,41%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 1,5 triệu
đồng/người/tháng, bình quân lương thực đầu người đạt 467 kg/người/năm Toàn xã
65
có 5.689/6.884 lao động trong độ tuổi có việc làm thường xuyên đạt 82,64%. Bên
cạnh cây lúa đạt trên 100% kế hoạch xã cũng tiến hành gieo trồng cây ngô (73,4%
KH), cây khoai lang (108,3% KH), cây lạc (100% KH), cây đậu tương (trên 30% KH)
và một số cây trồng khác. Xã đã triển khai hiệu quả công tác trồng rừng (100% KH)
trong khi chăn nuôi chỉ đạt 70,7% KH. Toàn xã đã mở 38 lớp tập huấn về công tác
sản xuất tại các thôn với 1. 202 người tham gia. Ngoài ra phối hợp với ngành chuyên
môn cấp trên và cán bộ dự án tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật về trồng
trọt, chăn nuôi và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng. Xã đã có 237/225
lao động được giải quyết việc làm tại các công ty trong và ngoài tỉnh đạt 105,3% KH
mặc dù xuất khẩu lao động không đạt chỉ tiêu. Xã có 3 trường chia ở 3 cấp học: mầm
non, tiểu học và THCS. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa có
nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ lệ thôn được công nhận “làng văn hóa” đạt từ 89% trở
lên và trên 81% số hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa.
2.6. Đặc điểm và cơ cấu mẫu khảo sát
Với 400 hộ gia đình được tiến hành thu thập thông tin, đặc điểm và cơ cấu
mẫu khảo sát được thể hiện ở bảng sau:
TT Mẫu khảo sát: thông tin chung về người trả lời (NTL)
Đại Phú: 25% (N=100) Khánh Hòa: 25% (N=100) Địa bàn 1 Ninh Lai: 25% (N=100) Khánh Lâm: 25% (N=100)
Nam: 55,3% Nữ: 44,7% 2 Giới tính
Dưới 35T: 23,8% Từ 35T - 45T: 28,8% 3 Tuổi Từ 46T – 55T: 26,8% Trên 55T: 20,6%
Không/chưa đi học: 5,7% Tiểu học: 30,2%
THCS: 44,3% PTTH: 15,8 4 Trình độ học vấn Cao đẳng/trung cấp chuyên nghiệp trở lên: 4%
Độc thân: 3,8% Có vợ/chồng: 89,3%
Ly thân: 1,3% Ly hôn: 0,5% 5 Tình trạng hôn nhân Góa: 5,2%
66
Không tôn giáo: 94,5% Đạo Phật: 3% 6 Tôn giáo Đạo Thiên chúa/Công giáo: 0,3% Đạo Cao Đài: 1,5%
Đạo Hòa Hảo: 0,5% Tôn giáo khác: 0,2%
Hoa: 4% Kinh: 62,5%
Mông: 0,3% Tày: 0,5% 7 Dân tộc Kh’me: 0,5% Sán Chay: 1%
Khác: 31,2%
Nông/lâm/ngư/diêm nghiệp: Nghề thủ công: 1,3%
68,3% Nghề 8 Kinh doanh, dịch vụ: 12,2% Làm thuê: 6% nghiệp
Làm công ăn lương: 5,7% Không làm việc: 6,5%
Từ 5-10 triệu: 33,8% Dưới 5 triệu: 44,3% 9 Thu nhập Trên 10 triệu: 21,9%
Hội Phụ nữ: 42,1% Hội Nông dân: 56,6% Tham gia
10 Hội Cựu chiến binh: 22,4% Đoàn Thanh niên: 2,6% các tổ chức
Nguồn: Số liệu khảo sát của đề tài, 2016
xã hội Tổ chức khác: 18,3%
2.7. Khung/lược đồ phân tích
Từ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đã tình bày, chúng tôi xác định khung/lược đồ
67
phân tích của nghiên cứu này như sau
Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
Vị trí, vai trò của các tổ chức
CT-XH trong hệ thống pháp
luật Việt Nam và vị trí tự
nhận của các tổ chức này
Vai trò của các tổ chức CT-XH trong đảm bảo ASXH cho cư dân nông thôn Các văn bản pháp luật: các
chủ trương, chính sách của
Đảng, nhà nước và địa
phương
- Đặc điểm của tổ chức: quy
mô, số lượng, thành phần
Trợ giúp xã hội - Đặc điểm địa bàn nghiên Triển khai chính sách thị trường lao động
cứu
Tiểu kết Chương 2
Chương 2 trình bày 3 nội dung cơ bản, đó là: cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của
đề tài và lược đồ phân tích của cuộc nghiên cứu. Ở nội dung thứ nhất, nếu như việc
đưa ra định nghĩa các khái niệm đã chỉ ra các khía cạnh/vấn đề được khảo sát thì việc
vận dụng lý thuyết vai trò và lý thuyết xã hội học tổ chức giúp cho việc giải thích các
dữ liệu thu được từ thực địa. Mặt khác, đây cũng là cơ hội để kiểm chứng tính phổ
biển, mức độ phù hợp và chính xác của các lý thuyết này trong vấn đề nghiên cứu với
điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Nội dung thứ hai, việc trình bày bối cảnh kinh tế-xã hội chung của cả nước,
68
cũng như bối cảnh kinh tế-xã hội cụ thể của 4 xã nghiên cứu Đại Phú, Ninh Lai (Tuyên
Quang), Khánh Lâm, Khánh Hòa (Cà Mau) đã cho thấy vai trò của các tổ chức CT-
XH tại các địa phương này đang diễn ra trong bối như thế nào.
Nội dung thứ ba, lược đồ phân tích thực chất nhằm chỉ ra mối quan hệ của các
hiện tượng xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô, có liên quan và tác động tới vấn đề thực hiện
và phát huy vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư
dân nông thôn tại 4 địa bàn nghiên cứu đã nêu. Những vấn đề vừa nêu trên là tiền đề
69
quan trọng cho nghiên cứu thực nghiệm ở các chương tiếp theo.
Chương 3
CÁC TỔ CHỨC CT-XH THAM GIA TRIỂN KHAI CÁC CHÍNH SÁCH
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN
3.1. Hỗ trợ thông tin, tư vấn phát triển sản xuất Trong bất kỳ một hoạt động phát triển kinh tế nào thì việc cung cấp thông tin,
hỗ trợ tư vấn luôn là một trong những nhân tố quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình và kết quả thực hiện. Đặc biệt đối với những người mới bắt đầu khởi nghiệp
hoặc ở những nơi còn kém phát triển. Đối với người nông dân còn nhiều hạn chế về
trình độ hiểu biết thì việc được cung cấp các thông tin, tư vấn trong quá trình phát
triển sản xuất là một nhu cầu cấp thiết “nhu cầu thông tin khoa học công nghệ của
mọi tầng lớp nhân dân là rất cao, đặc biệt ở khu vực nông thôn” [66]. Hiểu được điều
đó, thời gian qua các địa phương cũng đã tích cực triển khai các chương trình, tổ chức
các cuộc vận động tư vấn về việc làm, phát triển kinh tế xã hội tại Tuyên Quang và
Cà Mau. Nhưng thực tế cho thấy chỉ thu hút sự quan tâm của 11,6% người dân với
một số hoạt động chính như: các chương trình phối hợp tư vấn, giới thiệu việc làm.
Các lớp học nghề được tổ chức thường xuyên tuy nhiên kết quả đạt được không cao
tại cả 2 tỉnh khảo sát. Hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật chỉ tương đương với
11,8% và tư vấn sản xuất chỉ chiếm 8,4% tỷ lệ người biết đến các hoạt động này và
không có sự khác biệt giữa Cà Mau và Tuyên Quang. Kết quả khảo sát cho thấy hầu
như không có sự khác biệt giữa những người biết và những người tham gia:
Biểu 3.1. Tỷ lệ giữa những người biết và người tham gia một số hoạt động tại địa
T/c vận động CT phát triển KTXH địa phương, việc làm
Chuyển giao KHKT
20
15
12.2
11.8
11.6
10.3
8
10
0
Người khác trong hộ tham gia
NTL biết
NTL tham gia
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
70
phương (%)
Có sự chênh lệch giữa những người biết đến các cuộc vận động về chương
trình phát triển KTXH địa phương, chương trình việc làm với chương trình chuyển
giao KHKT (3,4 điểm phần trăm). Trong khi ở nhóm người tham gia các chương trình
này sự chênh lệch không đáng kể 1,9 điểm phần trăm giữa 2 nhóm đối với người trả
lời và chênh lệch đáng kể 3,8 điểm phần trăm ở nhóm người khác trong hộ cũng tham
gia 2 hoạt động trên. Trong đó tỷ lệ cao hơn tập trung ở hoạt động tham gia chuyển
giao khoa học kỹ thuật. Điều đó cho thấy, nếu so sánh với chương trình giới thiệu
việc làm thì hoạt động chuyển giao KHKT có nhu cầu quan trọng hơn mặc dù các
chương trình giới thiệu việc làm không phải là không có ý nghĩa. Thực tế đó góp phần
khẳng định thêm cơ cấu việc làm tại các địa phương khảo sát – trên 60% người dân
sống bằng nông nghiệp (báo cáo địa phương). Việc đứng ra chịu trách nhiệm tổ chức
các chương trình này chủ yếu là các đoàn thể “xã sau khi nhận được các chương trình
sẽ chuyển sang cho các đoàn thể phụ trách ví dụ tổ chức lớp chuyển giao kỹ thuật
hay dạy nghề thì đưa cho bên nông hoặc phụ nữ…” (PVS nam, 1978, cán bộ, Cà
Mau), nhưng ở mỗi hoạt động và mỗi đoàn thể lại đóng những vai trò khác nhau
Hội PN
31.2 31.9
33.9
44.4
Hội ND
34
47.8
22.4
Hội CCB
21.3
8.8
2
Đoàn TN
12.8
9.5
10
0
20
30
40
50
60
Cung cấp thông tin, lời khuyên, tư vấn
Tập huấn
Chuyển giao KHKT
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
Biểu 3.2. Một số hình thức hỗ trợ người dân phát triển sản xuất ở các đoàn thể (%)
Trong số 3 hình thức được các đoàn thể hỗ trợ người dân trong phát triển sản
xuất thì những đánh giá tích cực về các hình thức hỗ trợ của Hội PN không có sự
71
chênh lệch lớn (gần 3 điểm phần trăm) nhưng lại chênh lệch khá lớn ở các tổ chức
khác như hội ND, hội CCB và đoàn TN (trên 10 điểm phần trăm). Trong số 3 hình
thức trên thì hình thức cung cấp thông tin, lời khuyên, tư vấn cùng với chuyển giao
KHKT trong hỗ trợ phát triển kinh tế được người dân đánh giá cao hơn so với hình
thức còn lại. Hoạt động này đặc biệt có ý nghĩa và được đánh giá cao ở hội ND (44,4%
và 47,8%) và hội PN (31,2% và 33,9%). Đoàn TN so với 3 tổ chức còn lại cho thấy
họ không được người dân đánh giá cao vai trò trong các hình thức trợ giúp này. Điều
này cũng là hoàn toàn dễ hiểu khi mà đoàn TN là tổ chức do ảnh hưởng bởi biến động
về số lượng thành viên thường xuyên nên hoạt động của các tổ chức này có nhiều hạn
chế so với các tổ chức đoàn thể khác. Bởi vì đánh giá cao vai trò của các tổ chức trong
việc cung cấp thông tin, lời khuyên, tư vấn cho người dân trong hỗ trợ phát triển sản
xuất mà đây trở thành lý do được người dân đánh giá cao nhất ở cả 4 tổ chức khi hỏi
về những điều mà họ cho rằng sẽ nhận được khi tham gia các đoàn thể trong số 12
giá trị mà mà chúng tôi đưa ra.
Bảng 3.1. Các giá trị mà hội viên nhận được khi tham gia vào tổ chức (%)
Hội
Hội
Hội
Đoàn
PN
ND
CCB
TN
Không nhận được gì
10
6,1
0
0
Được vay vốn
50
40,2
34,4
0
Mở rộng các mối quan hệ xã hội
23,3
40,2
53,1
33,3
Có việc làm
6,7
1,2
3,1
0
Được giao luu, ăn uống
23,3
25,6
25
33,3
Có lương/thưởng/quà
13,3
2,4
18,8
0
15
7,3
12,5
0
Được hỗ trợ bằng tiền/hiện vật/ngày công
51,7
53,7
68,8
66,7
Được hỗ trợ thông tin/lời khuyên/tư vấn
(N=31)
(N=44)
(N=22)
(N=2)
Được thăm hỏi, động viên, chúc mừng
41,7
46,3
62,5
33,3
Được sống trong tập thể/tổ chức
20
39
40,6
100
72
Được đào tạo, tập huấn
10
20,7
31,2
33,3
Nguồn: Số liệu đề tài “Nghiên cứu vai trò của các tổ chức CT-XH sau 5 năm xây dựng nông thôn mới và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng nông thôn mới của các tổ chức CT-XH này”
Về mặt bản chất, vai trò chính của các đoàn thể chỉ là tuyên truyền các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trước sự biến đổi không ngừng
của xã hội, sự mở của của nền kinh tế thị trường thì các tổ chức này cho thấy sự mở
rộng vai trò của mình và tương ứng với nó là các vị thế mà xã hội gán cho các tổ chức
này giống như cách mà Linton cũng đã đề cập đến trong lý thuyết về vai trò. Hoạt
động hỗ trợ thông tin, lời khuyên hay tư vấn trong sản xuất đang trở thành một trong
những hoạt động chính của hội ND và cả hội PN với vai trò đầu tàu. Và với vị thế
được gán cho như vậy mà các tổ chức này phải tổ chức các lớp, chương trình tập huấn
phục vụ sản xuất cho người dân. Trong khi đáng lý ra nên chỉ thuộc về quyền hạn của
trung tâm khuyến nông các địa phương. Trong số 4 đoàn thể nói trên thì hội ND và
hội PN vẫn là 2 đoàn thể được đánh giá cao nhất với N lần lượt bằng 44 và 31, tiếp
sau là hội CCB= 22 và thấp nhất là đoàn TN. Số liệu này cho thấy, khá thống nhất
với số liệu đã đưa ra từ biểu trên. Theo đó đoàn TN vẫn là tổ chức không hỗ trợ được
người dân nhiều trong hoạt động hỗ trợ thông tin, lời khuyên hay tư vấn phát triển
sản xuất. Tuy nhiên khi kiểm định thống kê lại cho kết quả ý nghĩa khác. Theo đó tồn
tại mối liên hệ giữa tuổi NTL với việc họ nhận được hỗ trợ về thông tin/lời khuyên/tư
vấn của hội ND và hội CCB17, mặc dù mức độ của mối liên hệ còn yếu. Trong khi đó
hai tổ chức còn lại là hội PN và đoàn TN không tồn tại mối quan hệ này. Kết quả
khảo sát nói lên một thực tế rằng, ở hội ND và hội CCB tuổi tác có tác động tới việc
người ta nhận được các hỗ trợ về thông tin/lời khuyên/tư vấn, nghĩa là càng những
người nhiều tuổi họ càng đánh giá cao các hỗ trợ này hơn so với những người trẻ tuổi
“có các lớp hướng dẫn về sản xuất tốt chứ, bọn thanh niên nó đi lên thành phố hay
các tỉnh làm xí nghiệp được chứ tầm như tôi giờ đi xin ở đâu cũng khó mà mình có
mảnh ruộng bỏ không phải tội lắm” (PVS nam, 1970, người dân, Tuyên Quang).
17 Hội ND với Cramer’s V=0,014, p<0,05 và hội CCB với Cramer’s V=0,008, p<0,05
73
Trong khi đó, ở hội PN và đoàn TN cơ hội được tiếp nhận các hỗ trợ từ các tổ chức
này là ngang bằng nhau ở mọi lứa tuổi (tất nhiên không loại trừ đặc trưng của đoàn
TN nơi tập trung của đa số người trẻ tuổi nên nhu cầu phát triển sản xuất của họ
thường sẽ hạn chế so với các đoàn thể khác)18.
Đối với những người đã được nhận hỗ trợ từ các đoàn thể thì hỗ trợ về thông
tin, tư vấn cũng là một trong những hình thức hỗ trợ được thực hiện cho nhiều thành
viên cho thấy nhu cầu về hoạt động này là không nhỏ “thời buổi này làm ăn sản xuất
mà không có hỗ trợ kỹ thuật thì khó lắm, mất mùa rồi dịch các kiểu ấy mà năng suất
cũng không cao” (PVS nữ, 1962, người dân, Tuyên Quang). Ở dạng hỗ trợ này đều
chiếm tỷ lệ cao ở cả 5 tổ chức và chỉ xếp sau tỷ lệ đối với hoạt động thăm hỏi, động
viên họ khi ốm đau. Tỷ lệ cao nhất thuộc về nhóm đầu với hội PN (36,9%) tiếp sau
là hội ND (34,4%), trong khi đó nhóm sau với hội CCB là 15,3% còn MTTQ và đoàn
TN chưa đến 10%. Sự chênh lệch gần 20 điểm phần trăm giữa nhóm đầu với nhóm
sau trong việc hỗ trợ thông tin, tư vấn cho thành viên, hội viên tiếp tục khẳng định
vai trò chắc chắn và đầu tàu của hội PN và hội ND trong các hoạt động hỗ trợ thành
viên, hội viên đặc biệt là hoạt động phát triển kinh tế. Chính vì thế mà hai tổ chức
này cũng nằm trong nhóm dẫn đầu về tỷ lệ được người dân đánh giá cao trong việc
giúp họ được mở mang kiến thức, thông tin khi tham gia hội ND (47,4%) và hội PN
(29,8%).
Bảng 3.2. Các dạng hỗ trợ nhận được từ các tổ chức (%)
MTTQ
Hội PN
Hội ND
Hội CCB
Đoàn TN
T.v tổ chức
T.v tổ chức
T.v tổ chức
T.v tổ chức
T.v tổ chức
11,8
Ko là T.v tổ chức 0
44,1
Ko là T.v tổ chức 34,4
41
Ko là T.v tổ chức 21,7
30,6
Ko là T.v tổ chức 0
14,3
Ko là T.v tổ chức 5,3
17,6
15,2
22,1
18
11,5
15,2
22,2
8,3
21,4
5,3
52,9
72,7
63,2
54,1
60,3
50
80,6
95,8
71,4
89,5
Vay vốn Vật chất, tiền, ngày công Thăm hỏi, động viên
18 Theo báo cáo của địa phương, phần lớn ở lại địa phương là những người đang trong độ tuổi đi, những người đang trong độ tuổi lao động phần lớn thoát lý tại địa phương hoặc đi làm tại các nhà máy/xí nghiệp
74
30,3
34,4
26,1
25
21,1
23,5
54,4
53,8
50
21,4
29,4
9,1
13,2
13,1
23,1
23,9
25
16,7
0
10,5
Thông tin, tư vấn Đào tạo, tập huấn Khác
5,9
0
1,5
0
1,3
0
2,8
0
7,1
0
Nguồn: Số liệu đề tài “Nghiên cứu vai trò của các tổ chức CT-XH sau 5 năm xây dựng nông thôn mới và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng nông thôn mới của các tổ chức CT-XH này”
Hỗ trợ cung cấp thông tin vẫn là một trong những hình thức hỗ trợ chính của
các tổ chức đoàn thể hiện nay dành cho thành viên của mình bên cạnh rất nhiều hình
thức hỗ trợ khác được áp dụng như cho vay vốn, hỗ trợ vật chất, tiền hay ngày công,
thăm hỏi, động viên hay đào tạo tập huấn. Nhìn số liệu bảng trên cho thấy không có
sự chênh lệch lớn về tỷ lệ giữa các nhóm chưa đến 5 điểm phần trăm (ngoại trừ đoàn
thanh niên với những luận giải đã trình bày ở trên và MTTQ do đặc trưng là cơ quan
chỉ đạo các tổ chức và không tham gia một cách trực tiếp trong các hoạt động hỗ trợ).
Nếu so sánh hoạt động hỗ trợ giữa những người là thành viên và không là thành viên
của các tổ chức cho thấy thành viên các tổ chức đoàn thể vẫn nhận được hỗ trợ nhiều
hơn so với những người không phải là thành viên của các tổ chức (đặc biệt tỷ lệ chênh
lệch tới gần 50% ở hội ND, hội PN và hội CCB) nó cho thấy kết quả tương tự với
bảng 3.1. Điều đó cho thấy, là thành viên của tổ chức có thể xem làm lợi thế đối với
việc được tiếp nhận các thông tin/tư vấn. Đây cũng chính là lợi thế mà các nhà lý
thuyết về tổ chức đã đề cập, theo đó là thành viên của các tổ chức có được những lợi
thế hơn so với các tổ chức khác và nó gắn với các nhóm vị thế nhất định. Kết quả
nghiên cứu này khá tương đồng với một nghiên cứu trước đó của nhóm Hành động
chống đói nghèo từ những năm 2000. Theo đó, cung cấp thông tin bổ ích cho người
dân đặc biệt là phụ nữ là một trong những ưu điểm tuyệt đối trong các cuộc họp được
tổ chức bởi các tổ chức quần chúng (hội phụ nữ, hội nông dân, đoàn thanh niên) [83].
Sự tương đồng về kết quả nghiên cứu của 2 cuộc nghiên cứu tại hai thời điểm cách
xa nhau cho thấy, mặc dù với sự phát triển của khoa học công nghệ nhưng với người
nông dân việc tìm kiếm và thu được thông tin có lợi cho phát triển sản xuất vẫn chỉ
đạt hiệu quả thông qua con đường tiếp cận một cách trực tiếp và đơn giản: hệ thống
75
các tổ chức, hội, nhóm.
Như vậy, nhu cầu được cung cấp thông tin, tư vấn phát triển vẫn là một trong
những nhu cầu hiện nay của người dân tại địa phương khảo sát. Đặt trong bối cảnh
hiện nay khi mà sự phát triển không ngừng của khoa học được áp dụng trong nhiều
lĩnh vực đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi người dân cần có một thái độ
đúng đắn, tích cực trong việc tiếp nhận các sáng kiến khoa học để áp dụng vào hoạt
động sản xuất một cách có hiệu quả. Khi mà trình độ của người dân còn nhiều hạn
chế dẫn đến việc không có nhiều cơ hội tiếp cận một cách trực tiếp các sáng kiến khoa
học thì khi đó vai trò của các tổ chức đoàn thể đóng một nhiệm vụ quan trọng giúp
người dân đến gần hơn với việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào trong sản xuất hiện
nay. Tuy nhiên do tính đặc trưng của từng tổ chức mà chỉ có hội ND và hội PN là hai
tổ chức đang thực hiện tốt vai trò này và được người dân đánh giá cao. Hội CCB do
đặc trưng thành viên là những người lớn tuổi trong khi đoàn TN số lượng luôn biến
động do đi làm ăn xa nên ảnh hưởng trực tiếp đến tính hiệu quả trong quá trình hoạt
động của các tổ chức này, chưa đáp ứng được nhu cầu so với hai tổ chức còn lại. Việc
NTL đánh giá cao vai trò của tổ chức này và đánh giá thấp vai trò của tổ chức khác
cho thấy với NTL vai trò cung cấp thông tin, tư vấn phát triển sản xuất cũng là một
hoạt động quan trọng, có ý nghĩa và được quan tâm. Đồng thời cho thấy họ quan tâm
đến vai trò của các tổ chức CT-XH với tư cách như là một trong số các kênh cung
cấp thông tin, tư vấn.
3.2. Đào tạo nghề và giới thiệu việc làm
3.2.1 Đào tạo nghề Theo ông Đào Văn Tiến - Vụ trưởng Vụ Giáo dục thường xuyên, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, Bộ LĐTB&XH thì thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2010-2016 đã có 3 triệu lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề. Còn theo báo cáo của các địa phương, năm 2017, cả nước đã hỗ trợ học nghề cho 600.000 lao động nông thôn. Đào tạo nghề được coi là một trong những nhiệm
vụ then chốt của các cấp, các ngành bởi nó có ảnh hưởng một cách trực tiếp tới đời
sống của người dân. Đặc biệt ở khu vực nông thôn trong thời kỳ chuyển đổi thì vai
76
trò của hoạt động đào tạo nghề càng có ý nghĩa khi nó giúp người dân có cơ hội được
học, đào tạo và tìm kiếm những việc làm phù hợp và đạt hiệu quả kinh tế, nâng cao đời sống hộ gia đình. Như phân tích về mặt chính sách ở phần trên cho thấy vai trò
của các tổ chức CT-XH hiện nay đối với hoạt động đào tạo nghề tại các địa phương
là khá rõ rệt khi họ trở thành cầu nối chính giữa nhu cầu của người nông dân với cơ
quan tổ chức các chương trình này mà ở đây là các Trung tâm dạy nghề kết hợp với UBND xã. Quy trình của việc mở các lớp đào tạo nghề tại các xã nghiên cứu hiện
nay:
Trung tâm dạy nghề huyện sẽ gửi công văn xuống xã và các đoàn thể chính
trị-xã hội xã yêu cầu đề xuất các nghề mà bà con tại địa phương có nhu cầu
được học trong năm tới. Tiếp đó UBND xã kết hợp với các đoàn thể này lên
phương án các nghề cần đào tạo dựa trên nhu cầu của bà con (thường thông
qua các cuộc họp lấy ý kiến của các chi hội). Tiếp đó UBND xã và các đoàn
thể sẽ có công văn gửi lên Trung tâm dạy nghề đề nghị các lớp nghề với số
lượng người cụ thể. Đầu năm tiếp theo Trung tâm này sẽ gửi công văn thông
báo về số lượng các lớp dạy nghề, số lượng học viên được tham gia gửi cho
UBND xã để chuyển tới hội các hội đoàn thể để thông báo tới người dân và
tiến hành tổ chức các lớp này (PVS nam, 1978, cán bộ, Cà Mau).
Với quy trình này cho chúng ta thấy được vai trò quan trọng của các tổ chức
CT-XH đối với hoạt động đào tạo nghề tại địa phương. Họ là nơi cung cấp thông tin
về nhu cầu của người dân, tổ chức và giám sát hoạt động của các lớp học. Tuy nhiên
thực tiễn nghiên cứu cho thấy, người dân chưa thực sự mặn mà với hoạt động này khi
mà tỷ lệ những người được hỏi có biết hay không biết về các lớp đào tạo nghề tại địa
phương chênh nhau không nhiều, có tới 52,9% người được hỏi không biết đến các
lớp đào tạo nghề được tổ chức tại địa phương và chỉ có 8,8% người được hỏi biết đến
hoạt động đào tạo nghề do các đoàn thể đứng ra tổ chức. Trong khi đó báo cáo các
địa phương cho thấy những kết quả đào tạo nghề thông qua các tổ chức đoàn thể với
những con số rất khả quan, hộp 3.1 dưới đây
Hộp 3.1. Tình hình đào tạo nghề, tập huấn, chuyển giao KHKT tại các địa phương
1. Phối hợp với các ngành mở 170 lớp tập huấn, hội thảo chuyển giao khoa học kỹ
77
thuật có 6.052 người tham gia. Trong đó. Hội ND trực tiếp tập huấn 2 lớp với 70
người tham dự và 4 lớp với 120 người. Phối hợp với trung tâm hỗ trợ nông dân tỉnh
tổ chức 9 lớp tập huấn phục vụ phát triển sản xuất thu hút 325 người tham dự. Phối
hợp với trung tâm thông tin ứng dụng KH-CN mở 1 lớp lớp kỹ thuật nuôi tôm cua
thu hút 100 người. Phối hợp với phòng Nông nghiệp và PTNT, Trạm khuyến nông
– khuyến ngư tổ chức tập huấn được 51 lớp có 1.530 lượt người dự và hội thảo 24
cuộc có trên 2.000 lượt nông dân. Phối hợp với trung tâm hỗ trợ nông dân tổ chức
8 lớp, phối hợp với trung tâm dạy nghề tổ chức được 13 lớp…. (Báo cáo tổng kết
công tác Hội Nông dân huyện U Minh).
2. Hội đã phối hợp với khuyến nông huyện, xã tập huấn chuyển giao khoa học kỹ
thuật được 176 buổi với hơn 5.200 người tham dự, chủ yếu là tập huấn về trồng trọt
và chăn nuôi. (Báo cáo tổng kết công tác Hội Nông dân xã Đại Phú).
3. Hội Phụ nữ xã triển khai tới tận chi hội phương thức chuyển giao kỹ thuật áp
dụng vào sản xuất chăn nuôi…..tập trung một lớp phối hợp với sở nông nghiệp
hướng dẫn cách thức làm cho hội viên nhiều chi hội chuyển giao khoa học kỹ thuật,
công nghệ vào sản xuất, chăn nuôi. (Báo cáo Hội LHPN xã Đại Phú).
4. Kết hợp với UBND xã và cán bộ khuyến nông tổ chức tốt các lớp tập huấn kiến
thức về trồng trọt – chăn nuôi cho cán bộ hội viên phụ nữ có 756 hội viên tham dự.
Tuyên truyền vận động và tạo điều kiện cho con em hội viên và nhân dân tham gia
các lớp đào tạo nghề để có đủ điều kiện tham gia đi làm tại các khu công nghiệp
Nguồn: Báo cáo địa phương, 2016
trong và ngoài nước được 500 lao động. (Báo cáo Hội LHPN xã Ninh Lai).
Tại các xã nghiên cứu, hoạt động đào tạo nghề, tập huấn, chuyển giao khoa
học và kỹ thuật hiện nay chủ yếu với vai trò của các đoàn thể trong đó tập trung chính
vào hội ND và hội PN. Và thực tế cho thấy các tổ chức đang tiếp tục đảm nhận có
hiệu quả công việc này (kết quả ở bảng 3.2 đã cho chúng ta thấy được điều đó). Với
quy trình như đã trình bày ở trên thì 2 tổ chức này sẽ đứng ra tổ chức các lớp tập
huấn, thông báo tới những người có nhu cầu tham gia. Cần lưu ý đó là với những hoạt
78
động này thì tư cách thành viên của các tổ chức lại là một lợi thế “…các lớp thường
là không đáp ứng đủ nhu cầu, danh sách đưa lên thường quá nhiều nên phải lựa
chọn…hội PN tổ chức thì sẽ ưu tiên cho các thành viên mình trước..” (PVS nữ, 1986,
cán bộ, Cà Mau). Thông qua các lớp này, hội viên các đoàn thể được học nghề và
nắm bắt các kĩ thuật khoa học áp dụng vào sản xuất. Đây có thể coi là cách thức hiệu
quả giúp nâng cao năng lực hội viên. Đó cũng chính là một trong những lí do và là
động lực để các đoàn thể thu hút sự tham gia của các thành viên (bao gồm cả thành
viên cũ và thành viên mới) [71]. Tuy nhiên, do các lớp này được mở ra tại xã và giáo
viên từ các trung tâm dạy nghề nên vai trò của các tổ chức đoàn thể trong hoạt động
này được nhìn nhận là khá mờ nhạt“….có nhiều lớp học hỗ trợ sản xuất, hướng dẫn
áp dụng khoa học kỹ thuật trên xã họ tổ chức cũng khá nhiều, ai tham gia được thì
tham gia…” (PVS nữ, 1962, người dân, Tuyên Quang). Thực tế này cho thấy, dường
như đang có sự không ăn khớp giữa vai trò tự nhận với vai trò thực tế đảm nhận của
các tổ chức CT-XH hiện nay? Trong khi các tổ chức này coi đào tạo nghề như một
trong những hoạt động quan trọng của tổ chức mình thì ngược lại với người dân hoạt
động đào tạo nghề lại được nhìn nhận với vai trò của chính quyền (ở đây là xã).
Vậy vai trò của các tổ chức đoàn thể có thật sự cần thiết trong hoạt động này
không, hay chỉ cần bất kỳ một phòng/ban nào cùng đúng ra chịu trách nhiệm quy tụ
và tổ chức hoạt động này. Nhận định của người dân về những đóng góp cụ thể của
các tổ chức này đối với hoạt động đào tạo nghề cho người lao động cho thấy đánh giá
79
từ phía người thụ hưởng về vai trò của các tổ chức này như sau:
Biểu 3.3. Các tổ chức CT-XH tham gia các khâu trong hoạt động đào tạo nghề cho
Hội ND
Hội PN
Hội CCB
Đoàn TN
120
98.4
96.9
95.8
95.4
100
80
55.4
53.8
53.5
60
49.2
36.9
34.4
31
30.8
40
27.9
23.9
23.1
23.1
20
0
Tuyên truyền, vận động
Quản lý
Tổ chức thực hiện
Tập huấn, cung cấp TT
Nguồn: Số liệu đề tài “Nghiên cứu vai trò của các tổ chức CT-XH sau 5 năm xây dựng nông thôn mới và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng nông thôn mới của các tổ chức CT-XH này” Trong khảo sát này chúng tôi tìm hiểu đánh giá của NTL ở 8 khâu trong hoạt
người lao động19(%)
động đào tạo nghề mà các tổ chức CT-XH có thể tham gia. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, NTL đánh giá cao vai trò của các tổ chức ở 4 khâu (>20% NTL đánh giá cao
vai trò của các tổ chức CT-XH ở các khâu này, xem biểu 3.3). Đáng chú ý là khâu
tuyên truyền, vận động được NTL đánh giá cao nhất so với các hoạt động khác với
(trên 90%) và chênh lệch không nhiều giữa các tổ chức (dưới 5 điểm phần trăm) trong
đó cao nhất thuộc vào nhóm hội CCB. Khâu được đánh giá cao thứ hai là tập huấn và
cung cấp thông tin về các chương trình đào tạo nghề tại địa phương. Theo đó, hội ND
(53,8%) và hội PN (53,5%) được đánh giá cao hơn hẳn so với 2 tổ chức còn lại đặc
biệt là đoàn thanh niên được ghi nhận thấp hơn các tổ chức khác trên 10 điểm phần
trăm. Điều này cũng được thể hiện trong báo cáo tổng kết của các tổ chức này hàng
năm. Nếu so sánh giữa vai trò của 4 đoàn thể với hoạt động đào tạo nghề tại địa
phương cũng cho kết quả tương tự khi mà hội ND giữ vai trò chủ đạo với 63% và hội
PN thấp hơn với 37%. Trong khi các tổ chức còn lại chiếm tỷ lệ nhỏ không đáng kể
và không có nhiều ý nghĩa. Vai trò quản lý trong hoạt động đào tạo nghề bị đánh giá
thấp nhất trong số 4 khâu ở tất cả các tổ chức (dưới 28 điểm phần trăm- thấp nhất là
19 Với một số khâu khác trong hoạt động như: huy động vốn, ngày công; giám sát; tổ chức thi đua chiếm tỷ lệ nhỏ nên chúng tôi không đưa vào trong phân tích này.
80
hội ND và đoàn TN với 23,1%). Thông thường, các lớp đào tạo nghề được quản lý
bởi các tổ chức đoàn thể “thường là có người trên trung tâm dạy nghề của huyện
hoặc tỉnh họ xuống dạy, mình chỉ có trách nhiệm điểm danh, theo dõi xem học viên
đi có đầy đủ hay không” (PVS nam, 1978, cán bộ, Cà Mau). Điều đó cho thấy sự mờ
nhạt trong vai trò quản lý các lớp đào tạo nghề của các tổ chức. Ở một khía cạnh nào
đó, nó có thể tác động một cách tiêu cực tới chất lượng đầu ra của các chương trình.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, vai trò của các đoàn thể trong hoạt động đào tạo nghề
không thật sự rõ nét. Nó thể hiện ngay cả trong cách đánh giá của người được đào tạo
(người dân) và chính bản thân các tổ chức. Rõ ràng, sự thay đổi vị thế của các đoàn
thể dẫn đến sự thay đổi của một tập hợp các vai trò của các tổ chức này trong hoạt
động đào tạo nghề so với trước đây (chỉ tập trung trong hoạt động tuyên truyền, vân
động chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước). Họ tham gia nhiều hơn vào quá
trình này nhưng trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, sự chuyên môn hóa giữa
các tổ chức, cá nhân thì đồng nghĩa nó cũng đặt ra về vấn đề tham gia của các đoàn
thể có thể thực sự cần thiết và phù hợp trong khi vai trò này đã có sự đảm trách của
các cơ quan, tổ chức có tính chuyên biệt, chuyên môn hóa tốt hơn như các trung tâm
dạy nghề cấp tỉnh, huyện và trung tâm/phòng khuyến nông từ cấp xã.
Những người tham gia các lớp đào tạo nghề chủ yếu là những người có trình
độ học vấn ở mức trung bình (hết THCS – 54,5%) trong khi đó tỷ lệ học hết THPT
chỉ chiếm 30,3% và từ tiểu học trở xuống 15.1%. Và thực tế thì các tổ chức CT-XH
cũng không có nhiều lựa chọn đối với trình độ người được đào tạo. Điều này phản
ánh thực trạng trình độ của người tham gia đào tạo nghề hiện nay còn rất nhiều điều
phải bàn. Một kết quả nghiên cứu của UN Women và FAO cho thấy, hơn 70% lao
động nữ nông thôn ở Việt Nam không có khả năng tiếp cận đào tạo nghề do hạn chế
về trình độ văn hóa, kỹ năng nghề nghiệp. Thực tế hiện nay cho thấy sự bất hợp lý
trong cơ cấu lao động có chuyên môn kỹ thuật theo các cấp trình độ, phản ánh tình
trạng thiếu kỹ sư thực hành và công nhân kỹ thuật bậc trung, bậc cao trong nền kinh
tế….sự sụt giảm của nhóm lao động có trình độ sơ cấp và trung cấp trong khi vẫn còn
hàng chục triệu lao động chưa qua đào tạo [43]. Khi mà trình độ học vấn của chính
81
người lao động chưa được nâng lên thì khi đó không thể đòi hòi họ có những tư duy
tích cực và năng động hơn trong việc tham gia vào các hoạt động đào tạo bản thân và
đó cũng là một trong những trở ngại không nhỏ đối với các tổ chức CT-XH trong việc
mở các lớp đào tạo nghề đạt chất lượng như mong muốn “mở các lớp này thường dựa
trên nhu cầu của người dân (mình lấy ý kiến của bà con) nhưng sau khi học có người
thấy giúp được có người lại không. Vì họ có nhiệt tình học đâu, cũng ko chủ động,
nói chung là như kiểu đi học hộ ấy” (PVS nam, 1978, cán bộ, Cà Mau).
Với những người tham gia các lớp đào tạo nghề này, phần lớn họ làm nông
nghiệp, tuy nhiên sự khác biệt giữa những người làm nông nghiệp với phi nông nghiệp
chỉ là 20 điểm phần trăm. Trong khi với những người không tham gia đào tạo nghề,
sự chênh lệch giữa hai nhóm lên tới 30,8 điểm phần trăm. Nó cũng phản ánh thực tế
hiện nay, theo thống kê của Viện Khoa học lao động và xã hội tỷ lệ lao động ngành
nông nghiệp đã giảm mạnh trong năm 2016 (2,16 điểm phần trăm) do kết quả của
quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp và việc ban hành, thực thi các quy định, chính
sách về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, v.v, góp phần thu hút lượng lao động
dư thừa trong nông nghiệp vào khu vực phi nông nghiệp có năng suất lao động cao
hơn [43]. Nhóm không tham gia đào tạo trải đều ở tất cả các nhóm tuổi và tập trung
nhiều ở nhóm từ 35-55. Bởi thực tế lứa tuổi trẻ người ta có xu hướng tìm kiếm các
hướng phát triển và dễ thích nghi hơn với sự thay đổi. Trong khi đó ở nhóm tuổi từ
sau 35 (bắt đầu vào giai đoạn trung niên) họ có xu hướng ngại thay đổi và muốn ổn
định nhiều hơn. Một tỷ lệ không nhỏ với 37,9% người được hỏi đưa ra lý do không
tham gia là do họ không biết có các lớp đào tạo này. Điều này đặt ra vấn đề trong
cách thức tuyên truyền, thông báo, cung cấp thông tin tới người dân của địa phương.
Về cơ bản thì hiện nay cách thông báo về các lớp đào tạo nghề thường đi qua chủ yếu
bằng kênh của các chi hội đoàn thể và loa phát thanh địa phương. Do vậy những
người không phải là thành viên đoàn thể sẽ có những hạn chế trong việc tiếp nhận
thông tin này. Thông qua kiểm định thống kê cho thấy mối liên hệ có ý nghĩa mặc dù
nhỏ (Cramer’s V= 0,054, p<0,05), theo đó, những người không là thành viên đoàn
thể có tỷ lệ không biết về các lớp đào tạo nghề cao hơn nhiều so với những người là
82
thành viên của tổ chức (64,5% so với 35,5%). Điều đó cho thấy, với hoạt động đào
tạo nghề thì yếu tố là thành viên của một tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội có thể coi
là một trong những lợi thế. Và điều này càng được khẳng định thông qua các cuộc
PVS với lãnh đạo một số đoàn thể (hội ND, PN) khi họ coi đây như là “yếu tố đương
nhiên” để xét những người tham gia các lớp đào tạo cho đoàn thể tổ chức. Và khi mà
người dân còn thấy được tầm quan trọng của các lớp đào tạo nghề thì khi đó yếu tố
thành viên các tổ chức CT-XH sẽ còn là một giá trị quan trọng và là động lực cần
thiết để thu hút người dân tham gia vào các tổ chức này.
Như vậy, đào tạo nghề là một trong những hoạt động quan trọng và được các
tổ chức đoàn thể tham gia một cách tích cực thông qua kết quả báo cáo của các tổ
chức trong hoạt động tổng kết từng quý và hàng năm20. Tuy nhiên thực tiễn khảo sát
cho thấy vai trò của các tổ chức này trong con mắt của người dân không thực sự mang
nhiều ý nghĩa, đa phần họ đều chỉ ghi nhận vai trò của ủy ban nhân dân xã. Với những
người nắm được thông tin, họ đánh giá cao vai trò của các tổ chức đoàn thể trong hoạt
động đào tạo, dạy nghề (4/8 điểm) ở các khâu tuyên truyền, vận động; tập huấn, cung
cấp thông tin; tổ chức thực hiện và quản lý. Trình độ của những người tham gia đào
tạo nghề đa phần ở mức trung bình và các tổ chức CT-XH cũng không có nhiều sự
lựa chọn về trình độ của những người tham gia “bà con nông dân mình trình độ làm
gì có, cũng có người có kiến thức, hiểu biết nhưng không đáng kể, phần lớn trình độ
không có mà” (PVS, nam 1978, cán bộ, Cà Mau). Khi mà trình độ học vấn của chính
người lao động chưa được nâng lên thì khi đó không thể đòi hỏi họ có những tư duy
hợp lý trong việc tham gia vào các hoạt động đào tạo bản thân và đó cũng là một
trong những trở ngại không nhỏ đối với các tổ chức CT-XH trong việc mở các lớp
đào tạo nghề đạt chất lượng như mong muốn. Yếu tố thành viên hay không là thành
viên của các tổ chức đoàn thể là một lợi quan trọng đối với những người tham gia các
lớp đào tạo nghề, họ sẽ có được lợi thế hơn so với các những người không phải là
thành viên của tổ chức. Và kết quả nghiên cứu cho thấy, khi mà người dân còn thấy
20 Được trích trong hộp 3.1
83
được tầm quan trọng của các lớp đào tạo nghề, tập huấn chuyển giao khoa học kỹ
thuật thì khi đó yếu tố thành viên các tổ chức CT-XH sẽ còn là một giá trị quan trọng
và là động lực cần thiết để thu hút người dân tham gia vào các tổ chức này.
3.2.2 Giới thiệu việc làm Theo thống kế của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, cả nước có trên 53,30
triệu lao động có việc làm, tăng khoảng 463 nghìn người (0,88%) so với năm 2015.
Trong đó, lao động có việc làm ở thành thị là 16,92 triệu người, tăng thêm 549 ngìn
người (3,35%); ở nông thôn có 36,38 triệu người, giảm 86 nghìn người (-0,24%) so
với năm 2015 [43]. Thực tế đó cho thấy lao động khu vực nông thôn đang có những
biến động khi mà các dòng di cư ra các thành phố lớn vẫn tiếp tục và bản thân khu
vực này vẫn chưa tạo ra nhiều cơ hội để giữ chân người lao động. Tất nhiên, vẫn còn
không ít người lao động ở lại và tìm kiếm cơ hội việc làm tại quê hương. Hiện nay,
các xã và trung tâm giới thiệu việc làm của huyện, tỉnh đã phối hợp tích cực tham gia,
tổ chức các hoạt động giới thiệu việc làm cho người dân mà vai trò thực hiện trực tiếp
ở đây chính là các tổ chức CT-XH. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 34,6% người
được hỏi biết đến hoạt động giới thiệu việc làm tại các xã mà chúng tôi nghiên cứu.
Tuy nhiên chưa đến 20% người được hỏi biết đến các hoạt động này được thực hiện
bởi các tổ chức CT-XH. Trong khi đó báo cáo tổng kết hàng năm của các đoàn thể
luôn có thống kê đối với hoạt động giới thiệu việc làm: Tư vấn, giới thiệu việc làm
cho trên 100 lao động tại các khu công nghiệp trong và ngoài tỉnh, từ đó, giúp các chị
em phụ nữ có việc làm ổn định, tăng thu nhập. Giới thiệu 03 đối tượng là phụ nữ
trong độ tuổi lao động tham gia phiên giao dịch việc làm tại Trung tâm dịch vụ việc
làm tỉnh Cà Mau [36].
Tìm hiểu sự không ăn khớp này chúng tôi được biết cách tính trong báo cáo
về kết quả của hoạt động tham gia giới thiệu việc làm được các đoàn thể tính như sau:
“khi một ông vừa là thành viên của đoàn thanh niên, vừa là hội viên của hội nông
dân. Khi ông này tìm được việc làm rồi thì bắt buộc sẽ phải có một xác nhận của Ủy
ban để còn làm hồ sơ đi làm. Khi đó ủy ban có số liệu và các đoàn thể cũng sẽ nắm
được, cuối năm báo cáo tính ông ấy vào trường hợp đã được giới thiệu việc làm ở cả
84
hội ND và đoàn TN…đấy nói chung là các đoàn thể đều tính thế…” (PVS, nam, 1985,
cán bộ, Tuyên Quang). Rõ ràng có một sự chồng chéo và “thiếu minh bạch” trong
các báo cáo của đoàn thể đối với chỉ tiêu này trong báo cáo của mình. Sở dĩ có tình
trạng như trên bởi giới thiệu việc làm cho hội viên cũng là một trong những chỉ tiêu
đánh giá kết quả hoạt động của các tổ chức. Và đặc biệt đối với những xã đã và chưa
đạt chuẩn NTM thì đây là tiêu chí quan trọng cần phải hoàn thành: tiêu chí số 12 về
việc làm và tiêu chí số 18 về các tổ chức đoàn thể vững mạnh. Trong khi thực tế tại
các địa phương hiện nay các sàn giới thiệu việc làm thường là sự phối hợp giữa các
đoàn thể chính trị-xã hội - trong việc giới thiệu, vận động người dân tham gia với các
trung tâm giới thiệu việc làm của huyện, tỉnh. Nhưng kết quả là người dân thường
đến làm việc trực tiếp tại các trung tâm này hơn là thông qua các đoàn thể. Một mặt
do hạn chế của các đoàn thể trong hoạt động này khi mà họ luôn trong tình trạng bị
“quá tải” “các đoàn thể bây giờ nhiều việc lắm,… cứ nhìn bảng kế hoạch từng quí
thì thấy đấy, cũng muốn tham gia hỗ trợ chị em tìm việc làm nhưng thực tế là lực bất
tòng tâm, quá ít người làm trong khi người ta tự đi tìm phù hợp hơn thì thôi cứ để chị
em tự đi tìm, cần gì thì mình giúp coi như vẫn là thành tích chung của chị em trong
hội mà….” (PVS nữ, 1986, cán bộ, Cà Mau). Đặt trong bối cảnh sự biến đối của quá
trình phát triển kinh tế xã hội sang nền kinh tế thị trường với hiện đại hóa và toàn cầu
hóa thì có lẽ vai trò của các tổ chức CT-XH đã có những biến đổi. Sự thay đổi từ vị
thế của các tổ chức này trong cơ cấu hoạt động của nền kinh tế cũng sẽ làm thay đổi
hệ thống vai trò của các tổ chức. Sự chuyên môn hóa trong hoạt động của các tổ chức
đòi hỏi cần phải tập trung hoạt động vào các hình thức có tính khu biệt của riêng các
tổ chức. Trong khi đó, các hoạt động không thể hiện rõ vai trò của đoàn thể có lẽ nên
cần chuyển ưu tiên phát triển cho các đơn vị, tổ chức khác. Với các đoàn thể, đang có
sự quá tải trong hoạt động trong khi thực tế hoạt động giới thiệu việc làm không thực
sự đạt hiệu quả như mong muốn do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Mặt khác
thì sự năng động của các trung tâm giới thiệu việc làm hiện nay cũng là một trong
85
những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp.
Hộp 3.2. Sàn giao dịch việc làm: kết nối người lao động và doanh nghiệp
Ngay từ đầu năm, Trung tâm Giới thiệu việc làm Tuyên Quang đã tích cực phối hợp với các địa phương trong tỉnh thực hiện điều tra, khảo sát, nắm bắt số lao động thất nghiệp, kịp thời tư vấn, giới thiệu việc làm hiệu quả. Để người lao động nắm bắt được thông tin tuyển dụng, Trung tâm đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức như treo băng rôn, đưa thông tin tuyển dụng tới các xã, phường, thị trấn, trực tiếp tổ chức các sàn giao dịch tại các huyện, nhằm tạo thuận lợi cho người lao động trong việc tìm hiểu và đăng ký tuyển dụng.
Trung tâm chính thức tham gia phiên giao dịch online. Bằng hình thức kết nối trực tuyến giúp doanh nghiệp và người lao động rút ngắn thời gian tìm kiếm thông tin cho nhu cầu lao động và việc làm, người lao động tìm được việc làm, tiếp cận công việc phù hợp với trình độ. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để đơn vị, doanh nghiệp tìm lao động có trình độ tay nghề phù hợp với yêu cầu công việc.
Bên cạnh đó, Trung tâm còn tổ chức tiếp nhận hồ sơ đăng ký, xem xét và thực hiện các thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định, đẩy mạnh tuyên truyền những cơ chế, chính sách pháp luật, tổ chức tư vấn, giới thiệu việc làm, thực hiện công tác dạy nghề phù hợp cho người đang hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Năm 2015, Trung tâm đã tiếp nhận và giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho hơn 1.000 lao động với số tiền trên 10 tỷ đồng.
truy cập
Nguồn: http://baotuyenquang.com.vn/xa-hoi/nguon-nhan-luc/san-giao-dich-viec- ngày lam-ket-noi-nguoi-lao-dong-va-doanh-nghiep-63159.html, 20/12/2017
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các tổ chức đoàn thể không còn nhiều
cơ hội để tham gia. Sự năng động, tích cực của các tổ chức vẫn sẽ đem lại cho họ
nhiều cơ hội nếu như họ tận dụng tốt. Thông qua việc tìm kiếm và kết nối với các
công ty, từ đó giúp cho tổ chức tạo ra các cơ hội việc làm cho hội viên của mình.
Hộp 3.3. Đoàn Thanh niên xã Ninh Lai, Sơn Dương, Tuyên Quang với mô hình hỗ
trợ, giới thiệu việc làm cho đoàn viên
86
Chủ yếu thông qua đoàn thanh niên là các công ty ở Thái Nguyên, Bắc Ninh, Vinh Phúc liên hệ với bọn em để nhờ giới thiệu. Sau khi bọn em liên hệ họ sẽ báo lại thời gian để lên đây làm việc với anh em trên này. Bọn em sẽ thông qua nhiều nguồn ví dụ như tờ rơi, sẽ yêu cầu công ty chuyển tờ rơi đến cho bọn em để phát tờ rơi hoặc thông qua mạng xã hội để thông tin đến anh em để nắm được ngày giờ
công ty sẽ phỏng vấn ở trên này. Tờ rơi sẽ thông qua bí thư chi đoàn, tiến hành họp ban chấp hành đoàn thông qua các bí thư để chi đoàn về chi đoàn mình họp để anh em ai có nhu cầu thì biết vì ở tờ rơi có số điện thoại cụ thể của phòng nhân sự, ban chấp hành đoàn xã luôn để tiện liên lạc. Sau khi công ty họ lên đây, anh em nào có nhu cầu đi bọn em sẽ hướng dẫn làm hồ sơ, anh em nào tự làm thì càng tốt, không thì bọn em sẽ hướng dẫn làm các thủ tục hồ sơ để đi làm. Năm 2014 gần 1000 người, năm 2015 có khoảng gần 500 người được giới thiệu; năm 2016 giảm đi nhiều.
Chỉ có một số đối tượng mà cần bọn em hỗ trợ ví dụ như người ta bằng cấp không có thì bọn em có thể linh động trao đổi với một số công ty mặc dù anh em không có bằng cấp nhưng có năng lực và phẩm chất, đaọ đức tốt ấy thì vẫn giới thiệu được một số công ty và họ đi làm được. Một số công ty quá tuổi không đi làm được thì bọn em vẫn trao đổi với họ linh động cho vào làm. Số đấy không nhiều, chủ yếu là những anh chị có tuổi, hơn 30, 40 rồi ngày xưa không có bằng cấp 2 thì bọn em trao đổi với công ty có thể lấy từ bằng tiểu học. Năm 2014 khi làm việc với công ty plexcom ở Bắc Ninh ấy bọn em yêu cầu phải có xe ô tô lên đây đón anh em vì người ta chưa biết nơi đến và xuống đến nơi yêu cầu công ty tạo điều kiện tìm nhà trọ ở cho anh em vì một số thực sự chưa đi xa nhà bao giờ, sợ đến đấy bỡ ngỡ, việc làm chưa ổn định mà chỗ ngủ thì chứ có nên 2014 gần như ngày nào cũng có xe đến đón 30-40 người đi. Thu nhập bình quân một tháng anh chị em cũng để dành được ít nhất 5 triệu, chứ làm nông một tháng được mấy sào ruộng được có mấy trăm nghìn không ăn thua nên bây giờ đa phần vợ chồng đi hết.
(PVS nam, 1986, cán bộ, Tuyên Quang)
Điểm cộng trong hoạt động giới thiệu việc làm của tổ chức này đó là bên cạnh
việc cung cấp việc làm cho người lao động thì họ còn đóng vai trò trong việc hỗ trợ,
trợ giúp nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động sau khi họ được ký hợp đồng,
điều mà các trung tâm giới thiệu việc làm hiện nay chưa thực hiện được. Mặc dù hoạt
động này đem lại hiệu quả nhưng cũng chỉ được thực hiện và duy trì trong vòng 2
năm sau đó thì chỉ thực hiện với số lượng thấp. Lý do chỉ bởi bản thân các tổ chức
không có các chế tài hỗ trợ trong quá trình thực hiện
“được 2 năm thì thôi vì mình cũng không có quyền gì để theo dõi người ta, hỏi
qua công ty thì họ cũng không để ý nhiều chỉ cần biết có lao động là được thôi, không
87
quan tâm gì khác. Còn hỏi anh em thì cũng chỉ những ngày rỗi họ ở nhà tiện thì mình
quan tâm, hỏi han xem họ có được đáp ứng đúng như khi đoàn thanh niên làm việc
với công ty, nếu không thì hỗ trợ, giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi của họ. Lúc đầu anh em
còn nhiệt tình nói, sau người ta nhiều việc rồi nhiều cái người ta cũng lờ mình luôn,
hoặc có nói thì nói cho xong chuyện, nhiều người bỏ việc cũng không báo lại với
chúng em ấy. Cuối cùng mình chả nắm được thông tin gì hết. Mà không nắm được gì
nhỡ có việc xảy ra thì mang tiếng đoàn thanh niên lắm, thế nên cuối cùng chúng em
làm hạn chế thôi…” (PVS nam, 1986, cán bộ, Tuyên Quang).
Thiếu cơ chế để quản lý và thực hiện chính là một trong những cản trở trực
tiếp đến hoạt động của các tổ chức CT-XH hiện nay dẫn đến hiệu quả của các hoạt
động còn nhiều hạn chế. Điều đó cho thấy, sự đảm trách một vai trò không phù hợp
với vị thế của chủ thể sẽ không thể đảm bảo được tính bền vững trong kết quả thực
hiện. Sự không phù hợp về vai trò trong vị thế hoạt động của các tổ chức CT-XH
trong bối cảnh hiện nay sẽ khiến cho các hoạt động của các tổ chức không đem lại
kết quả như mong muốn.
Những người có được việc làm thông qua các đoàn thể hiện nay đa phần là
những người có mức thu nhập từ trung bình trở lên (85,7%). Trong khi những người
không được các đoàn thể giới thiệu việc làm tập trung ở nhóm thu nhập thấp nhất
(46,6%), hai nhóm thu nhập còn lại với chênh lệch không lớn. Thông qua kiểm định
thống kê chúng tôi thấy có mối liên hệ giữa thu nhập hộ gia đình với việc NTL có
được việc làm thông qua sự giới thiệu của các tổ chức đoàn thể (Cramer’s V=0, 012,
p < 0,05). Như vậy hoạt động giới thiệu việc làm đang có xu hướng tập trung ở nhóm
có thu nhập tốt hơn, đồng nghĩa với việc nhóm có thu nhập thấp đang là nhóm yếu
thế trong hoạt động này của các đoàn thể.
Khác với hoạt động vay vốn từ NHCSXH, hoạt động đào tạo nghề hay giới
thiệu việc làm tại các đoàn thể đều có một điểm chung đó là yếu tố là thành viên của
tổ chức đoàn thể ở một khía cạnh nào đó là lợi thế21 để người dân được thụ hưởng
các chính sách này. Nếu như đối với những người có được việc làm thông qua giới
21 mặc dù không quá lớn về mặt ý nghĩa thống kê Cramer’s V= 0,069, p< 0,05
88
thiệu của các tổ chức đoàn thể thì không có sự khác biệt quá lớn giữa những người là
thành viên hay không là thành viên của tổ chức (14,2 điểm phần trăm). Trong khi đó
với những người không được giới thiệu việc làm thì sự chênh lệch lên tới 25,4 điểm
phần trăm với tỷ lệ lớn tập trung ở những người không phải là thành viên của đoàn
thể. Đây sẽ là động lực và sức hút cần thiết để các đoàn thể có cơ hội mở rộng và gia
tăng số lượng hội viên.
Trình độ học vấn của người được giới thiệu việc làm mặc dù không có mối
liên hệ về mặt thống kê hay nói đúng hơn là không có ảnh hưởng đến việc NTL có
được việc làm thông qua sự giới thiệu của các đoàn thể. Nhưng sự khác biệt giữa các
nhóm phản ánh xu hướng di động trong nội bộ nhóm:
Biểu 3.4. Trình độ học vấn của những người có và không có được việc làm do các
Không đi học
Tiểu học
THCS
Từ THPT trở lên
3.5
31.2
Không có được việc làm
45.7
19.6
0
14.3
Có được việc làm
47.6
38.1
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
tổ chức CT-XH giới thiệu (%)
Theo đó, những người không được giới thiệu việc làm tập trung chủ yếu ở
nhóm trình độ học vấn ở mức trung bình (tiểu học – 31,2% và THCS – 45,7%). Trong
khi đó ở nhóm được các đoàn thể giới thiệu việc làm cho thấy có xu hướng tập trung
ở nhóm có trình độ học vấn cao hơn (THCS – 47,6% và từ THPT trở lên 38,1%).
Thực tế này là hoàn toàn hợp lý khi mà xu hướng lựa chọn bằng cấp hay đòi hỏi trình
độ cao đối với người lao động đang là vấn đề bức thiết hiện nay, tình trạng thiếu kỹ
sư thực hành và công nhân kỹ thuật bậc trung, bậc cao trong nền kinh tế [43] đang
trở thành một trong những hạn chế lớn của nền kinh tế nói chung và năng lực việc
làm của cá nhân nói riêng. Điều đó cũng khiến cho nhóm người lao động có trình độ
học vấn thấp tiếp tục nằm sâu trong nhóm yếu thế mà thị trường lao động cần phải
89
quan tâm nhiều hơn nữa.
Phân tích số liệu cho thấy trong số các tổ chức đoàn thể thì hội PN là tổ chức
có tỷ lệ giới thiệu việc làm cao nhất (66,7%). Những người được các tổ chức CT-XH
giới thiệu việc làm phần lớn là những người trẻ dưới 35 tuổi (42,9%), làm nông nghiệp
(61,9%), nữ giới chiếm tỷ lệ khá cao (43,2%). Kết quả này cũng phản ánh tình trạng
chung về lao động nữ của Việt Nam hiện nay, theo đó lao động nữ di cư ở Việt Nam
có độ tuổi khá trẻ với hơn 60% phụ nữ có độ tuổi từ 15 đến 29; và 1/3 phụ nữ di cư
lần đầu tiên khi còn ở độ tuổi 15-19. Điểm chú ý là phụ nữ lao động di cư hầu như
chưa được qua đào tạo nghề hay chuyên môn, nghiệp vụ gì, chỉ có dưới 10% được
đào tạo ở bậc trung cấp, số còn lại mới chỉ tốt nghiệp phổ thông [43]. Điều này là
hoàn toàn phù hợp với thực tế ở các vùng nông thôn hiện nay khi mà diện tích đất
nông nghiệp đang bị thu hẹp và tiến hành tái cơ cấu. Đồng thời, dưới ảnh hưởng của
việc ban hành, thực thi các quy định, chính sách về cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh cũng như hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đã góp phần thu hút lao động dư
thừa trong khu vực nông nghiệp [43]. Những người được các tổ chức CT-XH giới
thiệu việc làm không phải là những người thường xuyên tham gia các cuộc họp do
địa phương tổ chức (33,3%) vì thế có thể thấy yếu tố thông tin trong các cuộc họp
không có nhiều ý nghĩa đối với hoạt động giới thiệu việc làm ở các đoàn thể khi mà
các phương thức phổ biến thông tin hiện nay khá đa dạng.
Ở những xã đạt NTM thì tỷ lệ được các tổ chức này giới thiệu việc làm cao
hơn hẳn những xã khác (57,1%) bởi trong 19 tiêu chí về xây dựng NTM trong đó có
tiêu chí về việc làm nên đây là một trong các hoạt động rất được chính quyền và đoàn
thể các địa phương quan tâm. Tuy nhiên, nếu so sánh giữa 2 địa phương thì Tuyên
Quang là địa bàn có tỷ lệ giới thiệu việc làm từ các tổ chức CT-XH cao hơn so với
Cà Mau 85,7% so với 14,3%. Điều đó cho thấy yếu tố lợi ích mang tính vật chất khi
tham gia đoàn thể ở Tuyên Quang có lợi thế hơn so với ở Cà Mau. Tuy nhiên, ở Cà
Mau người ta đã tham gia 1 tổ chức có xu hướng tham gia thêm 1 tổ chức đoàn thể
khác nữa trong khi ở Tuyên Quang người dân đa phần chỉ tham gia 1 tổ chức: trung
bình 1 người dân ở Tuyên Quang tham gia 1 tổ chức (giá trị trung bình là 1,4 tổ chức)
90
trong khi ở Cà Mau là 2 tổ chức (1,9 tổ chức). Có lẽ đây là xu hướng chung và đã
được chứng minh trong rất nhiều nghiên cứu. Các nghiên cứu trước đó cho thấy người
dân miền bắc có xu hướng tham gia các đoàn thể nhiều hơn so với miền nam. Người
dân đồng bằng sông Hồng gắn việc tham gia các hội, nhóm với nhu cầu về mặt tinh
thần (thăm hỏi, chia sẻ tình cảm…), trong khi đó người dân ở đồng bằng sông Cửu
Long tìm thấy được giá trị kinh tế trong các quan hệ hợp tác trao đổi giữa các thành
viên trong các hội, nhóm mà mình tham gia [7], [8], [11], [69], [70], [113], [114],
[123].
Lý do những người không có việc làm do các đoàn thể giới thiệu tập trung ở
2 nguyên nhân chính đó là: hoặc họ không biết đến chương trình (45,8%) này hoặc
họ không có nhu cầu (42,6%). Qua kiểm định thống kê chúng tôi thấy có mối liên hệ
giữa lý do người được hỏi không biết đến các chương trình giới thiệu việc làm do
đoàn thể tổ chức với mức sống của gia đình họ.
Biểu 3.5. Nguyên nhân NTL không được giới thiệu việc làm từ các đoàn thể theo
70
59.7
56.1
60
45.5
50
42.1
40
31.8
29.9
30
20
5.2
5
4.6
4.1
3.9
3.9
10
0
Không biết các CT này
Không có nhu cầu
Không phải là thành viên đoàn thể
Các CT này không đem lại hiệu quả
Hộ nghèo
Hộ trung bình
Hộ khá giả
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
mức thu nhập hộ gia đình (%)
Theo đó, những người mà thu nhập của hộ gia đình ở mức khá giả không có
nhu cầu biết hay tham gia các chương trình giới thiệu việc làm (59,7%). Trong khi
đó những hộ có mức thu nhập thấp nhất thì lý do đưa ra không phải họ không có nhu
cầu được giới thiệu việc làm mà do họ không biết tới các chương trình này (56,1%).
Nhìn vào biểu trên cho thấy ở 2 lý do chính đưa ra, có sự thay đổi vị trí giữa hai nhóm
91
thu nhập hộ thấp nhất và cao nhất trong khi nhóm thu nhập trung bình sự thay đổi
dường như không đáng kể. Điều đó cho thấy ở mỗi nhóm mức sống có những nguyên
nhân khác nhau trong việc không được tham gia tiếp nhận chương trình giới thiệu
việc làm từ các đoàn thể. Nó đồng nghĩa với việc ở mỗi nhóm sẽ có những nhu cầu
khác nhau vì thế rất cần sự quan tâm, nghiên cứu của các tổ chức CT-XH khi tiến
hành các chương trình giới thiệu việc làm nhằm đạt được hiệu quả trong việc mở rộng
độ bao phủ của các đối tượng thụ hưởng chính sách. Bên cạnh đó, các đoàn thể cần
quan tâm hơn đến hoạt động thông tin tới người được thụ hưởng chính sách đặc biệt
là những hộ nghèo được coi là hộ thuộc nhóm yếu thế cần được quan tâm và hỗ trợ.
Những xã đạt NTM nguyên nhân chủ yếu là do họ không có nhu cầu tham gia chương
trình giới thiệu việc làm (53,5%) trong khi ở những xã chưa đạt NTM thì chủ yếu là
do người dân không biết đến các chương trình giới thiệu việc làm (61,3%) và mối
liên hệ này hoàn thoàn có ý nghĩa thống kê (hệ số Cramer’s V= 0.000, p<0,05). Có
thể giải thích bởi các xã đạt NTM với hệ thống thông tin, tuyên truyền hoạt động hiệu
quả (thống kê bác cáo địa phương cũng phản ánh điều này) do vậy việc cung cấp
thông tin tới người dân tốt hơn so với các xã chưa đạt NTM. Thêm một thống kê cho
thấy yếu tố cung cấp thông tin là một hạn chế của các tổ chức trong việc đem chính
sách đến với người dân.
Như vậy, hoạt động giới thiệu việc làm tại các địa phương hiện nay đa phần là
sự kết hợp giữa các trung tâm giới thiệu việc làm của huyện, tỉnh với các tổ chức địa
phương cơ sở. Thực tiễn cho thấy, đang có sự chồng chéo và thiếu chính xác trong
các con số báo cáo của các đoàn thể. Do đây là một trong những hoạt động bắt buộc
và nằm trong đánh giá kết quả hoạt động của tổ chức do vậy các đoàn thể hiện nay
đang có những cách tính “không giống ai” và mang tính chất đối phó nhiều hơn. Một
mặt do sự quá tải về công việc và sự hạn chế về nhân lực trong tổ chức. Mặt khác bản
thân các đoàn thể không có cơ chế để quản lý và thực hiện hoạt động này, họ chỉ đơn
giản là “cầu nối”. Hoạt động giới thiệu việc làm hiện nay của các tổ chức đoàn thể có
xu hướng tập trung ở nhóm người lao động có thu nhập tốt hơn và điều đó đồng nghĩa
với việc nhóm có thu nhập thấp vốn đã là một nhóm yếu thế nay càng trở thành nhóm
92
yếu thế sâu hơn trong hoạt động giới thiệu việc làm. Điều này đòi hỏi các tổ chức CT-
XH cần có sự quan tâm và phân chia sang các nhóm thu nhập khác nhau, đặc biệt cần
ưu tiên hơn đối với các nhóm yếu thế. Giống như hoạt động đào tạo nghề, ở hoạt động
giới thiệu việc làm thì yếu tố là thành viên tổ chức tiếp tục là một lợi thế đối với người
lao động. Những người không được các đoàn thể giới thiệu việc làm chủ yếu là những
người nằm trong nhóm có trình độ học vấn thấp hơn những người được các tổ chức
này giới thiệu việc làm. Đó cũng là xu hướng việc làm hiện nay khi mà tình trạng
thiếu lao động có trình độ chuyên môn từ bậc trung trở lên đang khá phổ biến. Thực
tế đó không có nghĩa để các tổ chức CT-XH đi theo xu thế chung khi mà nó là một
xu thế không đem lại hiệu quả. Điều đó đặt ra vấn đề các tổ chức CT-XH nói riêng
và các nhà hoạch định chính sách nhân lực nói chung cần phải có sự quan tâm, đầu
tư cho nhóm lao động có trình độ học vấn, chuyên môn thấp để họ được nâng lên
cùng với nhóm còn lại. Với những nhóm yếu thế này nếu chúng ta không tiếp tục
quan tâm và mở rộng mạng lưới trợ giúp tới họ thì họ sẽ tiếp tục bị bỏ xa hơn trong
tiến trình phát triển. Làm được tốt điều này sẽ tạo ra động lực và sức hút để cá nhân
chủ đông tham gia vào các tổ chức CT-XH. Nguyên nhân người dân không được giới
thiệu việc làm thông qua kênh các tổ chức đoàn thể rất khác nhau ở mỗi nhóm thu
nhập do vậy đòi hỏi các tổ chức này cần có sự tìm hiểu, thay đổi phương thức hoạt
động ở từng nhóm từ đó thu hút sự tham gia của mọi người dân tránh trình trạng áp
dụng một cách dàn trải và không chú ý tới tính đặc thù, khu biệt của từng nhóm xã
hội.
3.3. Hỗ trợ vay vốn thông qua hệ thống tín dụng địa phương Hiện nay tại các địa phương, người dân có cơ hội tiếp cận với 2 hệ thống tín
dụng trực tiếp và gián tiếp của các tổ chức CT-XH. Hệ thống tín dụng trực tiếp đó là
chuỗi các quỹ/tổ/chương trình vay vốn được các tổ chức CT-XH lập ra với mục đích
giúp xây dựng các nguồn vốn nhằm hỗ trợ các thành viên của tổ chức phát triển sản
xuất, đáp ứng nhu cầu của họ trong nhiều thời điểm. Trong khi đó hệ thống tín dụng
gián tiếp chính là hoạt động nhận ủy thác từ NHCSXH, thông qua các tổ chức, người
93
nghèo có cơ hội tiếp cận vay vốn mà không cần bất cứ điều kiện gì về mặt thế chấp
tài sản. Tuy nhiên, nguồn vốn này có hạn chế về thời điểm cho vay và không đảm
bảo đáp ứng được tính kịp thời khi người dân có nhu cầu bất ngờ. Có thể nói hai hình
thức tín dụng này là sự hỗ trợ, bổ sung quan trọng và có ý nghĩa đối với người dân
trong quá trình phát triển sản xuất, nâng cao đời sống.
3.3.1. Ủy thác cho vay của ngân hàng chính sách xã hội
a. Đối tượng được vay
Tại Điều 5 Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ,
Ngân hàng Chính sách xã Hội (NHCSXH) và các tổ chức chính trị - xã Hội (4 tổ chức
chính trị - xã Hội gồm: Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh,
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) đã ký kết văn bản liên tịch, văn bản thoả
thuận về tổ chức thực hiện uỷ thác cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách
khác.
Theo đó, người được hưởng lợi từ chính sách này bắt buộc phải là thành viên
của tổ Tiết kiệm và Vay vốn (TK&VV). Theo Quy chế tổ chức và hoạt động của Tổ
TK&VV (Ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-HĐQT ngày 5/3/2013 của Hội
đồng quản trị NHCSXH): Tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) là tập hợp các hộ gia
đình cùng sinh sống trên cùng một địa bàn dân cư: thôn, ấp, bản, làng... có nhu cầu
vay vốn Ngân hàng CSXH. Mục đích thành lập Tổ TK&VV là để nhằm tập hợp hộ
nghèo, cận nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu vay vốn của ngân
hàng Chính sách xã Hội (NHCSXH) để SXKD, tạo việc làm, cải thiện đời sống; cùng
tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất kinh doanh và đời sống; cùng giám sát
nhau trong việc vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ ngân hàng; các tổ viên giúp đỡ
nhau từng bước có thói quen thực hành tiết kiệm để tạo lập nguồn vốn tự có và quen
dần với sản xuất hàng hóa, hoạt động tín dụng và tài chính; tạo điều kiện thuận lợi
cho tổ viên trong việc vay vốn và trả nợ ngân hàng [60]. Như thế, việc người được
vay là thành viên hay không là thành viên của các tổ chức CT-XH không phải là điều
94
kiện bắt buộc để họ có thể tham gia vay vốn từ NHCSXH thông qua các đoàn thể.
b. Thủ tục cho vay
Sau khi tổ TK&VV tiếp nhận đơn xin vay của tổ viên, tổ sẽ tiến hành bình xét công
khai các nội dung:
- Hộ đủ điều kiện về địa chỉ cư trú hợp pháp, có tên trong danh sách hộ nghèo của xã
để được vay vốn của NHCSXH;
- Nhu cầu vay vốn có phù hợp với thực tế nhu cầu sản xuất, đời sống của hộ vay
không?
- Mức vốn xin vay có phù hợp với nhu cầu sử dụng vào các việc để thực hiện phương
án sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống của hộ theo quy định của Điều lệ NHCSXH
hay không?
- Căn cứ vào những nội dung trên: chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của
từng hộ để bình xét và đề nghị được vay vốn với mức vốn cần thiết, thời hạn vay. Sau
khi được Tổ thống nhất bình xét các hộ được vay vốn, Tổ trưởng lập 3 liên “Danh
sách hộ nghèo đề nghị vay vốn NHCSXH” gửi Ban XĐGN để UBND cấp xã xác
nhận và đề nghị ngân hàng cho vay
(Điều 12, Quyết định số 783/QĐ-HĐQT của Ngân hàng chính sách xã Hội ngày
29/7/2003).
Thực tế khảo sát cho thấy, quy trình cho vay được các đoàn thể, tổ tiết kiệm và vay
vốn tuân thủ đầy đủ các thủ tục. Sau khi được duyệt, người được cho vay chỉ cần cầm
theo sổ hộ khẩu và giấy chứng minh nhân dân để gặp các đoàn thể phụ trách nguồn
vay mà họ muốn và được duyệt. Và kết quả thường là sau vài ngày và muộn nhất một
tuần, người thụ hưởng sẽ được tiếp nhận nguồn tiền mình đề nghị được vay. Sở dĩ có
thể nhanh như vậy là do cơ chế xin cấp đã được các đoàn thể thực hiện trước đó “sau
khi tổ vay vốn họp và đống ý cho nhà ông A vay từ nguồn ủy thác của hội nông dân
chẳng hạn, lúc đó hội sẽ trình lên ủy ban duyệt, cả một danh sách dài theo đợt mà.
Sau đó đến ngày mình báo bà con ra làm thủ tục, tiền có sẵn rồi nên chỉ 2-3 ngày là
95
có tiền chuyển cho bà con luôn” (PVS nam, 1978, cán bộ, Cà Mau).
c. Ủy thác cho vay thông qua các tổ chức CT-XH tại địa phương
Hiện nay, người dân đang được tiếp cận với 2 hệ thống tín dụng chính là hệ
thống tín dụng chính thức với các ngân hàng (ngân hàng nông nghiệp và ngân hàng
CSXH) cùng với quỹ tín dụng nhân dân. Trong khi đó không thể không kể đến một
hệ thống tín dụng phi chính thức vẫn đang tồn tại trong xã hội nông thôn theo suốt
quá trình lịch sử có thể kể đến như các tổ, hội, nhóm, hụi, họ v.v.. Các tổ chức này có
nội dung và phương thức hoạt động đặc thù mang tính liên kết dựa trên các đặc trưng
như cộng cảm, giao lưu, hợp tác, đoàn kết, đồng thuận, v.v. để cùng phát triển [29].
Với hệ thống tín dụng chính thức, chúng ta thấy được có 2 phương thức tiếp cận đó
là tiếp cận một cách trực tiếp và tiếp cận một cách gián tiếp. Với cách tiếp cận trực
tiếp, người dân có thể đến làm việc trực tiếp với hệ thống các ngân hàng và quỹ tín
dụng. Còn với cách tiếp cận gián tiếp, người dân thông qua các đoàn thể để có cơ hội
tiếp cận các nguồn vốn vay. Hiện nay ở nông thôn, thông qua hoạt động ủy thác của
NHCSXH cho các tổ chức CT-XH mà người dân có thể tiếp cận với các nguồn vốn
vay ưu đãi này một cách khá thuận tiện.
Sơ đồ mô hình dưới đây cho ta thấy được rõ ràng hơn về mối quan hệ giữa các
QTDND
NHCSXH
NHNo&PTNT
Quan hệ tác động
tổ chức tín dụng chính thức với hộ nông dân hiện nay tại các địa phương
Giao dịch trực tiếp
UBND xã, Hội ND, Hội PN, Hội CCB, Đoàn TN
Quan hệ chỉ đạo
Ban XĐGN cấp xã
Trưởng thôn, chi hội trưởng, chi đoàn
HỘ NÔNG DÂN
96
Nguồn: Nguyễn Phượng Lê & Nguyễn Mậu Dũng, 2011.
Hình 3.1. Mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng chính thức với hộ nông dân
Theo sơ đồ trên, người dân hoàn toàn có thể tiếp cận với tất cả các hình thức
tín dụng chính thức tại địa phương. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn (NHNo&PTNT), chỉ cần có đủ điều kiện các hộ dân đều có thể trực tiếp
tới làm thủ tục vay vốn, trong trường hợp không đủ điều kiện họ có thể thông qua các
đoàn thể. Riêng đối với NHCSXH bắt buộc người dân phải thông qua các đoàn thể
để được vay vốn [68]. Trong khi đó tại các xã mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở
Tuyên Quang và Cà Mau lại có sự khác biệt. Nếu như với NHNo&PTNT người dân
chỉ có thể đến làm việc trực tiếp (nếu đủ điều kiện) và các đoàn thể CT-XH không
đóng vai trò gì trong hoạt động này. Trong khi đó, đối với NHCSXH thì ngược lại,
đa phần người dân thường chỉ vay vốn thông qua các đoàn thể như Hội PN, Hội ND,
Hội CCB hay Đoàn TN do không phải quan tâm đến việc đáp ứng các điều kiện về
tài sản thế chấp. Đặc trưng 4 xã mà chúng tôi nghiên cứu ở đây có mức thu nhập
không cao, có tới 44,3% hộ nghèo và 33,8% hộ có mức thu nhập trung bình. Do vậy,
nhu cầu tìm đến NHCSXH tại địa bàn là tương đối lớn.
Quỹ tín dụng nhân dân không nằm trong sự lựa chọn của người dân, bởi hình
thức này chưa thực sự phát triển, không đáp ứng được nhu cầu của người dân, kết quả
thống kê cho thấy chỉ có 12,3% xã ấp của Đông Nam bộ có Quỹ tín dụng xã [95].
Tình hình tương tự đối với nguồn vay từ hệ thống các mạng lưới tín dụng phi chính
thức (gia đình, bạn bè, các tổ chức hụi/họ/v.v) khi đây cũng không phải là sự lựa chọn
của phần đông người dân.
Bảng 3.3. Thực trạng tiếp cận mạng lưới tín dụng của người dân
Tỷ lệ % 60,4 0,5
97
Người dân đã từng vay tiền trong vòng 5 năm Nguồn vay: Mạng lưới tín dụng phi chính thức (gia đình, bạn bè, tổ chức tự nguyện, v.v.) Mạng lưới tín dụng chính thức, trong đó: - Vay NHCSXH gián tiếp (thông qua các đoàn thể) 99,5 88,3
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
- Vay NHCSXH trực tiếp - Vay NHNo&PTNT 2,5 9,2
Có thể thấy, vay vốn từ NHCSXH thông qua các tổ chức đoàn thể gần như là
sự lựa chọn của đa phần người dân. Bởi với người dân ở những vùng nông thôn thì
việc có trong nhà một khoản tiền để dành những lúc gặp rủi ro trong cuộc sống là
việc làm không dễ. Ngân hàng vẫn sẽ là một sự lựa chọn đầu tiên đối với người dân
khi cần một khoản kinh phí lớn [7], [12]. Vậy sự ra đời của NHCSXH có phải chỉ để
đáp ứng đòi hỏi bức thiết của người nghèo trong việc được vay vốn phát triển kinh tế
tại thời điểm đó hay là sự cộng hưởng của rất nhiều nguyên nhân và một trong số đó
là nhu cầu vay vốn?
Nhìn lại lịch sử hình thành của NHCSXH cho thấy, sự hình thành vốn vay của
NHCSXH bắt đầu từ năm 1995 khi Bộ luật Lao động được ban hành vào năm 1994
và có hiệu lực thi hành từ năm 1995, trong đó, Chương 2 nói về Chương trình việc
làm quốc gia. Và tiếp sau đó là sự ra đời của Ngân hàng phục vụ người nghèo ra đời
theo Quyết định số 230/QĐ-NH5 ngày 1/9/1995 của Ngân hàng Nhà nước với mục
đích phục vụ người nghèo giúp họ vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết đời sống,
góp phần xoá đói giảm nghèo. Tại thời điểm đó, Chương trình quốc gia về việc làm,
vốn được giao qua Kho bạc Nhà nước và người ta nhìn vốn vay này như là ngân sách
Nhà nước dẫn đến hiệu quả sử dụng không cao do tâm lý ý lại. Vì thế, chuyển sang
mô hình NHCSXH cho vay vốn để giảm nghèo được coi là một hướng đi bước ngoặt
giúp thay đổi quan điểm và cách nhìn của người được thụ hưởng. Người tiếp nhận có
trách nhiệm cao hơn đối với số tiền mình được hưởng lợi.
Trong giai đoạn này, Nghị quyết số 14-NQ/TW tại Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, ngày 18 tháng 3 năm 2002 về tiếp tục đổi mới
cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân có thể
coi là một quan điểm chỉ đạo quan trọng, là tiền đề và động lực cho sự ra đời của một
loạt các chính sách đối với phát triển kinh tế nói chung và kinh tế tư nhân thời điểm
98
tiếp sau đó. Nghị định này đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò của các tổ chức đoàn thể
“trong việc tuyên truyền vận động quần chúng tham gia kinh tế tập thể, thực hiện tốt
Quy chế chế dân chủ ở cơ sở,…” [3].
Thực tế, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở vừa phát huy tác dụng của một
chính sách đối với xóa đói giảm nghèo, lại vừa là phương diện chính trị của chính
sách xóa đói giảm nghèo [29]. Bởi nếu người dân được tham gia giám sát, quản lý
các trợ giúp từ phía chính quyền thông qua các chính sách phát triển kinh tế - xã hội
đó sẽ là những động lực quan trọng giúp người dân phát triển kinh tế gia đình từ đó
giúp xóa đói giảm nghèo. Từ giữa thập niên 90, khi chương trình xóa đói giảm nghèo
trở thành một nhiệm vụ chiến lược, các tổ chức CT-XH đã trở nên năng động hơn.
Các hoạt động giảm nghèo trở thành tâm điểm hoạt động của các tổ chức xã hội nói
chung và các đoàn thể chính trị-xã hội nói riêng. Vai trò của các tổ chức này thực sự
có ý nghĩa khi Ngân hàng Chính sách xã hội bắt đầu giao phó các chương trình tín
dụng cho các đoàn thể địa phương [124].
Cũng trong giai đoạn này mô hình xóa trắng hội viên ở các tổ chức đoàn thể
bắt đầu được xây dựng và phát triển rộng khắp ở tất cả các tổ chức. Phương châm “ở
đâu có phụ nữ ở đó có tổ chức Hội phụ nữ” do Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc
lần thứ IX (nhiệm kỳ 2002-2007) đã đề ra phấn đấu xóa hộ trắng không có hội viên,
thôn, bản, ấp trắng không có tổ chức Hội [28] là một trong số các nhiệm vụ quan
trọng được các tổ chức hội như phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh và đoàn thanh niên
đưa ra trong các hoạt động thường niên bắt đầu từ giai đoạn này.
Bối cảnh trên là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Nghị định 78/2002/NĐ-
CP ngày 4 tháng 10 năm 2002 về Tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng
chính sách khác. Trong đó, tại Điều 4 đã quyết định thành lập NHCSXH để thực hiện
tín dụng ưu đãi đối với người nghèo. Cũng tại Điều 5 của Nghị định này đã đề cập
một cách trực tiếp vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc nhận ủy thác từ NHCSXH
và đây được coi như là một kênh chính thức và quan trọng trong việc giúp người
nghèo có khả năng tiếp cận vốn. Sự ra đời của chính sách này một mặt khẳng định
vấn đề giảm nghèo trở thành trọng tâm của phát triển, mặt khác khẳng định vai trò
99
quan trọng của các tổ chức CT-XH trong việc trợ giúp người dân thoát nghèo và phát
triển kinh tế. Trong bối cảnh khi mà các đoàn thể đang tích cực đẩy mạnh phong trào
xóa trắng hội viên thì kênh trợ giúp thông qua NHCSXH có thể coi như một bước
ngoặt quan trọng thu hút người dân quan tâm tới các tổ chức này nhiều hơn nữa.
Theo báo cáo của ngân hàng chính sách (VBSP) chi phí tín thác của VBSP chi
trả cho các tổ chức CT-XH năm 2012 là 1412 tỷ đồng và đến năm 2013 con số tiếp
tục tăng lên 1862 tỷ đồng và dự kiên của năm 2014 là 2066.1 tỷ đồng [107]. Thực tế
đó cho thấy hiệu quả về hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong việc cung cấp vốn
tín dụng cho hộ nông dân. Với hình thức này người được thụ hưởng có cơ hội tiếp
cận với nguồn vốn mà không cần phải đáp ứng các điều kiện khắt khe so với các
nguồn vay tín dụng chính thức khác. Điều này sẽ trở thành động lực quan trọng thu
hút người dân tham gia vào các tổ chức. Nghiên cứu của tác giả Bùi Quang Dũng và
đồng nghiệp cũng đã chỉ ra lý do mà người dân tham gia các hội là vì đó là nơi cung
cấp các khoản tín dụng ngắn hạn và những kiến thức khuyến nông cho người dân,
bên cạnh các nguồn chính thức khác [11]. Việc tìm thấy được lợi ích khi tham gia
vào các đoàn thể sẽ là sẽ tạo nên động cơ để thu hút người dân tham gia tổ chức một
cách nhiệt tình– thể hiện thông qua việc tham dự các cuộc họp của đoàn thể. Điều đó
cho thấy, thực chất mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và thể chế là không thể bàn
cãi. Khi nhu cầu dân chủ được thực hiện và đảm bảo bởi tính hiện thực của lợi ích
kinh tế thì người nông dân tỏ rõ thái độ quan tâm thực sự tới thể chế [29]. Đó cũng là
nguyên lý hoạt động của các tổ chức đoàn thể địa phương hiện nay “…một tháng hội
chúng tôi họp một lần, ngày xưa ít người đi họp lắm, nhưng giờ vì có tổ vay vốn tiết
kiệm ấy mà chị em đi họp đông lắm. Họp nội dung chính là thông báo về tình hình tổ
vay vốn rồi các hỗ trợ cho vay vốn của ngân hàng chính sách, đưa ra thảo luận các
mô hình làm ăn kinh tế hiệu quả. Chúng tôi kết hợp tuyên truyền, vận động các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhưng chỉ nói một chút lúc đầu thôi chứ
nói sau cùng thì ai còn ở lại mà nghe chứ. …..ai người ta cũng bảo phải lo kiếm ăn,
họp mất thời gian lại chẳng ra tiền…” (PVS nữ, 1985, cán bộ, Tuyên Quang).
Tuy nhiên, đây cũng chưa hẳn là cách thức hữu hiệu đối với tất cả “..em không
100
là thành viên của hội phụ nữ nhưng khi có các cuộc họp hướng dẫn trồng trọt, chăn
nuôi gì đấy họ cũng mời em đến tham dự, thấy bảo đến có tiền mang về lại còn được
ăn bánh uống nước nữa nên em cũng đến. Đến nghe họ nói cũng hay rồi họ vận động
mình tham gia hội, được 20.000đ thì phải nhưng nghe xong em về thôi, không tham
gia mà lần sau có mời cũng chẳng đi nữa, còn làm ăn rồi về nhà trông con cho chồng
đi mần chứ đi thế được tiền chả đáng” (PVS nữ, 1989, người dân, Cà Mau). Có thể
thấy, cách mà các đoàn thể đang tiến hành hiện nay đó là cung cấp “cần câu” cho
người nông dân thông qua việc cung cấp các kiến thức, kinh nghiệm sản xuất. Trong
khi đó, người nông dân có nhu cầu trực tiếp đó là được cung cấp “con cá” hơn là “cần
câu”. Cái họ cần là lợi ích hiện hữu, tức thời, cái họ có thể nhìn thấy ngay chứ không
phải những lợi ích mang tính chất gián tiếp, lâu dài.
Tỷ lệ tham gia các cuộc họp của người dân càng chứng mình cho quan điểm
và mục đích mang tính thực tế hiện nay. Kết quả cho thấy, tỷ lệ người dân tham gia
nhiều vào các cuộc họp chủ yếu có liên quan trực tiếp tới quyền lợi của họ: bình xét
hộ nghèo, bình xét hộ gia đình văn hóa hay họp thôn (trên 60%). Các cuộc họp này
một mặt ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích kinh tế của hộ gia đình (bình xét hộ nghèo)
nhưng mặt khác nó cũng tác động một cách gián tiếp tới lợi ích người dân (các cuộc
họp thôn, họp bình xét,…): “nhiều khi đi họp mới biết bên hội (hội nông dân- tác giả
giải thích) họ có mở lớp này lớp kia hướng dẫn chăn nuôi, không đi có phải thiệt
không” (PVS nam, 1967, người dân, Cà Mau).
Trong khi đó các cuộc họp hưởng ứng phong trào thi đua hay xây dựng hương
ước chiểm tỷ lệ thấp hơn rất nhiều với 38,8% và 21,5%. Trong các cuộc họp này là
sự phối kết hợp giữa chính quyền thôn và các đoàn thể thôn, bởi nếu không tận dụng
và kết hợp các cuộc họp này với nhiều mục đích sẽ rất khó cho việc có thể mời người
dân thu xếp tham gia nhiều cuộc họp: “…phải biết kết hợp mới được, khi mời bà con
đến là thôn (được hiểu là chính quyền thôn và đoàn thể thôn) thông báo các hoạt
động cần thiết của các tổ chức đoàn thể và chính quyền luôn…” (PVS nam, 1964,
cán bộ, Tuyên Quang).
Tại các địa phương khảo sát, tỷ lệ vay giữa các đoàn thể có sự khác biệt nhau
101
khá rõ.
3.1 1.9
42.2
52.8
Hội Nông dân
Hội Phụ nữ
Hội Cựu chiến binh
Đoàn thanh niên
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
Hình 3.2. Tỷ lệ cho vay vốn giữa các đoàn thể (%)
Kết quả trên cho thấy, Hội ND và Hội PN là hai đoàn thể đóng vai trò quan
trọng khi họ chiếm phần lớn tỷ lệ cho các hộ dân vay vốn từ NHCSXH (chiếm tới
52,8% và 42,2%). Điều này cũng được thể hiện và chứng minh một cách cụ thể trong
Báo cáo Tổng kết hàng năm của các đoàn thể. Theo đó, trong 4 đoàn thể thì tỷ lệ vốn
ủy thác của NHCSXH thông qua 02 đoàn thể là Hội CCB và Đoàn TN không lớn và
có nhiều ý nghĩa so với con số mà Hội ND hay Hội PN hoạt động đem lại. Do vậy,
trong báo cáo của Hội CCB và Đoàn TN hàng năm không đề cập đến hoạt động này22.
Bảng 3.4. Vốn ủy thác của NHCSXH thông qua Hội Nông dân và Hội Phụ nữ
Hội Nông dân Hội Phụ nữ
Số hộ Số hộ Năm Xã Số tiền (triệu đồng) Số tiền (triệu đồng)
Năm 2013
Năm 2014
22 Do hoạt động nhận ủy thác của hai tổ chức hội CCB và đoàn TN tại 4 xã không quá rõ nét và đồng đều nên chúng tôi không đưa thống kê của 2 tổ chức này vào trong số liệu bảng báo cáo.
102
Ninh Lai Đại Phú Khánh Lâm Khánh Hòa Ninh Lai Đại Phú Khánh Lâm Khánh Hòa Ninh Lai Đại Phú 3022 3383.619 7725 7985 2028 3863 9424 8941 2406 4249 176 315 162 392 58 257 2600 4786 3626 3413.45 0 5.409 467.505 4046.95 415 312 408 415 0 440 415 277 Năm 2015
trong
9716.6 9678 5821 5209 510
Khánh Lâm Khánh Hòa Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo địa phương 23
Với đặc trưng là hai xã thuộc chương trình 135, do vậy 2 xã khảo sát thuộc
tỉnh Cà Mau có ưu thế về đầu tư của ngân sách nhà nước trên nhiều phương diện như:
đẩy mạnh phát triển sản xuất; phát triển cơ sở hạ tầng; ưu tiên xây dựng các công
trình về giáo dục, dịch vụ thương mại, cơ sở hạn tầng,v.v…; đào tạo cán bộ,.. [93].
Bên cạnh đó, đây là địa phương với đặc trưng dân số đông (trên 10.000 khẩu) và diện
tích rộng lớn (trên 6.000 ha) nên nhu cầu phát triển sản xuất của người dân ở đây
cũng lớn hơn so với Tuyên Quang. Ngoài ra, tại Cà Mau các đoàn thể nói chung và
hội ND, hội PN nói riêng là những tổ chức hoạt động hiệu quả trong hoạt động nhận
ủy thác của ngân hàng chính sách xã hội. Đó là lý do để giải thích số tiền nhận ủy
thác của Cà Mau cao hơn so với Tuyên Quang.
Báo cáo tại địa phương cho thấy, nếu ở Tuyên Quang, tại 2 xã nghiên cứu thì
Hội CCB và Đoàn TN hầu như không tham gia hoạt động ủy thác của NHCSXH, nếu
có chỉ là số lượng nhỏ không đáng kể. Trong khi đó ở Cà Mau tình hình hoàn toàn
ngược lại, tại xã Khánh Hòa, hoạt động nhận ủy thác được Đoàn TN hoạt động tương
đối hiệu quả thì Hội CCB ở đây không đảm nhận hoạt động này24. Trong khi đó tại
Khánh Lâm cả 2 tổ chức Hội CCB và Đoàn TN đều tham gia nhận vốn ủy thác của
NHCSXH và cho thấy hoạt động khá tốt của mình.
Tuy nhiên, thực tiễn số liệu nghiên cứu của chúng tôi lại cho thấy có những
khác biệt. Nếu như đối với Hội PN, Hội CCB và Đoàn TN ở Tuyên Quang tỷ lệ nhận
ủy thác từ NHCSXH đều cao hơn rất nhiều so với Cà Mau (trên 30 điểm phần trăm)
thì sự chênh lệch đối với Hội ND giữa 2 địa phương không quá lớn chỉ với 1,2 điểm
phần trăm (50,6% so với 49,4%) với ưu thế tỷ lệ nghiêng về Hội ND ở Tuyên Quang.
Sự khác biệt giữa báo cáo địa phương với số liệu điều tra thực tiễn cho thấy, sự khác
23 Những ô gạch chéo do báo cáo các địa phương không báo cáo tính theo số hộ được nhận ủy thác. Riêng trường hợp tại xã Đại Phú năm 2014, sở dĩ Hội Phụ nữ không tham gia nhận ủy thác từ NHCSXH là do họ cũng đang tiến hành hoạt động Tổ tiết kiệm vay vốn thuộc Dự án Tam Nông. 24 Do có những bất đồng về mặt quan điểm giữa tổ chức này với NHCSXH trong hoạt động nhận ủy thác
103
biệt về địa phương trong hoạt động cho vay vốn tại các đoàn thể là không có ý nghĩa.
Sở dĩ Hội ND và Hội PN chiếm ưu thế trong hoạt động nhận ủy thác từ
NHCSXH do đặc trưng về 2 tổ chức này luôn có sẵn khối lượng thành viên đương
nhiệm và “thành viên dự bị” đông đảo “nhà nào chẳng có phụ nữ và nông dân hả cô,
mấy cái thanh niên với cựu chiến binh thì nó còn tùy gia đình, tùy cái nọ cái kia, chứ
hai cái kia thì gần như trăm phần trăm gia đình có hết” (PVS nữ, 1976, người dân,
Tuyên Quang). Vì vậy mà số lượng thành viên của hai tổ chức này luôn đông đảo
nhất. Một ví dụ từ thống kê tình hình hội viên của Hội ND và Hội CCB tại xã Khánh
Hòa, cho thấy rõ sự khác biệt này:
Bảng 3.5. Thống kê số lượng hội viên của Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh xã
Khánh Hòa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau (người)
2013 2015
2014 Hội ND Hội CCB Hội ND Hội CCB Hội ND Hội CCB
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo địa phương
1004 135 231 225 18 4 1175 175 13 242 1 2 1273 101 3 237 0 6 Tổng số Kết nạp Xóa tên
Với bảng trên cho thấy, dù là số lượng thành viên được kết nạp hay xóa tên thì
số lượng hội viên cố hữu của Hội ND luôn cao hơn rất nhiều so với Hội CCB và tất
nhiên tổng số hội viện của Hội ND luôn chiếm ưu thế tuyệt đối. Với những đặc trưng
về số lượng thành viên như vậy mà Hội PN và Hội ND luôn là hai tổ chức có lợi thế
trong việc nhận ủy thác từ NHCSXH so với các đoàn thể khác. Tình hình tương tự
cũng diễn ra tại các xã nghiên cứu còn lại với số vốn nhận ủy thác từ NHCSXH chủ
yếu tập trung ở Hội PN và Hội ND.
Ở một phương diện khác, việc là thành viên các tổ chức có mối quan hệ với
việc họ lựa chọn vay vốn ở nguồn nào khi thực sự có nhu cầu. Bằng phép kiểm định
thống kê, chúng tôi phát hiện tồn tại mối quan hệ giữa việc lựa chọn nơi vay vốn giữa
những người là thành viên và những người không phải là thành viên của bất kỳ một
tổ chức đoàn thể nào (Cramer’s V=0,186 và p<0,05). Theo đó, đa phần thành viên
của đoàn thể sẽ lựa chọn vay vốn của NHCSXH thông qua các tổ chức đoàn thể
104
(49,4%), trong khi những người không phải là thành viên bất kỳ tổ chức nào có xu
hướng lựa chọn vay ở các nguồn khác (gia đình, bạn bè hay ngân hàng nông nghiệp
– 64,5%). Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với hội PN (Cramer’s V = 0,163 và p<0,05)
và Hội ND (Cramer’s V = 0,114 và p<0,05). Thực tế này không hẳn bắt nguồn từ lợi
thế là thành viên của tổ chức để có được ưu đãi mà nó có ý nghĩa về mặt thụ hưởng
thông tin tốt hơn so với những người ngoài tổ chức, do cùng tham gia sinh hoạt, được
phổ biến kiến thức và thông tin. Với chính sách vay vốn từ NHCSXH không cần phải
là thành viên của các tổ chức CT-XH do vậy mà yếu tố là thành viên của một trong
số các tổ chức đoàn thể không trở thành một lợi thế đối với người vay vốn. Thực tế
tại 2 địa phương khảo sát cho thấy, có tới 70,3% người tham gia vay vốn tại NHCSXH
thông qua các tổ chức đoàn thể không phải là thành viên của bất kỳ một tổ chức CT-
0.3
4.3
13
12
70.3
Ko là T.viên TC
Hội PN
Hội ND
Hội CCB
Đoàn TN
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
XH nào.
Hình 3.3. Đối tượng tham gia vay vốn tại các đoàn thể thông qua NHCSXH (%)
Với cách thức và yêu cầu đặt ra trong vay vốn như vậy ở một phương diện nào
đó không đáp ứng được “nhu cầu thật sự” của các đoàn thể“…quy định thế mà, không
phải là thành viên đoàn thể vẫn được vay vốn từ ủy thác của NHCSXH, chỉ cần là
thành viên của tổ tiết kiệm vay vốn là được…..nhưng mà như thế cũng không hay cho
lắm, không khuyến khích được người ta tham gia vào tổ chức,….đoàn thể như thế gần
như là làm thuê cho ngân hàng thôi cũng chả được lợi ích nhiều (lợi ích ở đây có thể
hiểu là đáp ứng các yêu cầu, hoạt động chuyên trách của các tổ chức – người phỏng
105
vấn hỏi và được giải thích thêm)” (TLN nam, 1989, cán bộ, Tuyên Quang). Rõ ràng,
bản thân các thành viên của tổ chức cũng nhìn nhận ra sự không phù hợp trong việc
đảm nhiệm vai trò của tổ chức. Tuy nhiên, họ vẫn phải thực hiện các công việc này,
điều đó giống như cách mà Berger đã đề cập: vai trò mang theo nó cả những hành
động nhất định và cả tình cảm và thái độ đi liền với hành động này. Trong mỗi trường
hợp, mặc dù tình cảm hay thái độ có thể hiện diện từ trước khi đảm nhận vai trò,
nhưng nhất định là vai trò sẽ củng cố những gì đã có từ trước [5]. Với các tổ chức
CT-XH, điều mà các thành viên của các đoàn thể này hiểu và biết được vai trò của
mình nó có từ khi họ bắt đầu gia nhập đoàn thể, họ hiểu được vị trí, trách nhiệm của
mình trong tổ chức, được làm gì và phải làm những gì. Và điều này càng được ý thức
rõ hơn với những người phụ trách các tổ chức. Bởi vậy, cho dù họ thấy bị “quả tải”
về vai trò nhưng họ vẫn phải thực hiện vai trò của mình trong một khuôn khổ nhất
định đã được quy định trước.
Như thế, bản thân hoạt động nhận ủy thác từ ngân hàng chính sách không được
các đoàn thể nhìn nhận như một phương thức hiệu quả trong việc thu hút thành viên.
Hoa hồng mà các tổ chức này thu nhận được từ hoạt động ủy thác tưởng như là sức
hút đối với các tổ chức nhưng thực tế lại khác. Đây không phải là mối quan tâm lớn
hay có sự ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức “…tiền thu lãi từ ngân hàng chính
sách em cũng không nhớ chính xác, ngân hàng họ chuyển cho bao nhiêu thì biết bấy
nhiêu thôi….không tính toán lại đâu chị….chắc họ cũng chẳng đưa thiếu, mà nói
chung cũng không nhiều lắm nên cũng không ảnh hưởng gì…” (PVS nam, 1984, cán
bộ, Cà Mau).
Và cái cách mà người dân nhìn nhận vai trò của các tổ chức đoàn thể tham gia
trong hoạt động nhận ủy thác từ ngân hàng chính sách cũng phản ánh một thực tế
rằng hoạt động này có vẻ chỉ đem tới lợi ích của người thụ hưởng và nhà cung cấp
chính sách hơn là đối với người tham gia thực hiện chính sách. Câu chuyện với một
người đàn ông sinh năm 1964, phó ấp đồng thời là chi hội phó hội nông dân là một
106
ví dụ.
Hộp 3.4. Nguồn vay vốn của người dân
Trả lời: Tham gia hội nông dân được nhiều thứ chứ em, được tập huấn sản xuất, có kiến thức để giúp cho việc sản xuất về sau sẽ có lợi nhưng người nông dân không nhìn thấy, họ không thấy có cái lợi trước mắt nên họ không tham gia. Hỏi: Thế hiện giờ anh có đang vay vốn để làm ăn không? Đáp: Có chứ Hỏi: Anh vay ở đâu? Đáp: Anh vay từ ngân hàng chính sách xã hội, vốn hộ nghèo ấy. Hỏi: Thế ạ, thế anh vay thông qua tổ chức đoàn thể nào thế? Đáp: Không anh chẳng qua đoàn thể đâu. Anh vay chỗ thằng Léng bí thư ấp ấy. Hàng tháng nộp lãi cho nó vì nó là tổ trưởng mà. Hỏi: Thế chỗ tổ anh Léng phải thuộc bên nông dân hay phụ nữ hay cựu chiến binh hoặc đoàn thanh niên quản lý chứ, sao anh ấy có thể được ngân hàng ủy thác mà không qua đoàn thể nào? Đáp: Anh cũng không biết, chỉ biết vay vốn hộ nghèo ở ngân hàng chính sách chỗ thằng Léng thôi còn lại anh cũng không rõ….được vay là tốt rồi…
(PVS nam, 1964, cán bộ, Cà Mau)
Với một người được coi là thuộc về bộ máy chính quyền (phó thôn) và đoàn
thể (chi hội phó hội nông dân) nhưng việc nắm bắt những thông tin như trên cho thấy
với người dân vai trò của các đoàn thể trong việc vay vốn từ NHCSXH là không rõ
ràng. Và với những người nông dân không có nhiều điều kiện để tham gia trong các
bộ máy và trình độ dân trí còn hạn chế thì việc đánh giá không đúng vai trò của các
tổ chức đoàn thể là điều hoàn toàn có thể hiểu được. Thực chất, các đoàn thể hiện nay
đang đóng vai trò là cầu nối nhưng không hề thụ động giữa ngân hàng với người có
nhu cầu vay vốn, mặc dù không cung cấp vốn trực tiếp nhưng họ được coi là những
tổ chức có sự ảnh hưởng quan trọng tới việc đưa vốn vay đến với người nghèo thông
qua việc tổ chức các buổi bình xét, giúp người dân làm các thủ tục, đề xuất gửi ủy
ban và ngân hàng CSXH duyệt. Đó chính là cái “sức mạnh” mà Thomas Markussen
and Finn Tarp đã đề cập đến khi nói tới vai trò của các tổ chức CT-XH, thể hiện qua
việc chính quyền xã chấp nhận cho người dân vay vốn của ngân hàng chính sách hay
107
ngân hàng nông nghiệp chỉ cần thông qua thư giới thiệu hoặc một giấy tờ tương tự
như thế từ phía Hội phụ nữ, Hội nông dân hay bất cứ một tổ chức nào trong hệ thống
các tổ chức CT-XH (Thomas Markussen and Finn Tarp, 2014).
Tổ TK & VV
Người dân
NHCSXH
Tổ chức CT- XH
Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên các văn bản chính sách
Hình 3.4. Các bước tiến hành vay vốn từ vốn vay ủy thác của NHCSXH thông qua
các đoàn thể
Nhưng tư cách cầu nối này dường như chưa thực sự được người dân ghi nhận một
cách chính thức. Trong khi đó, nhận ủy thác từ NHCSXH là một trong số những hoạt
động quan trọng được các đoàn thể quan tâm, nó được thể hiện trong các kế hoạch
hoạt động công tác của các đoàn thể, trong báo cáo tổng kết cuối năm hay cuối nhiệm
kỳ của các tổ chức này.
Điều đó cho thấy, đang có sự không trùng khớp giữa nhu cầu hay nói đúng
hơn là kì vọng mà các đoàn thể gán cho hoạt động nhận ủy thác từ NHCSXH. Họ hi
vọng vào đó như là một trong những cách thức hữu hiệu để thu hút thành viên thông
qua việc đem nguồn vốn vay đến với mỗi người dân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
người dân dường như không nhìn nhận vai trò của các tổ chức đối với hoạt động vay
vốn ở phương diện này. Và quan trọng hơn với quy trình vay vốn như hiện nay, khi
mà các tổ chức đoàn thể chỉ đóng vai trò là cầu nối hay là “người làm thuê” cho ngân
hàng như lời của một cán bộ đoàn thể thì khi đó vai trò của họ vẫn tiếp tục bị lu mờ
trong con mắt của người được thụ hưởng. Ở đây cho thấy, sự không tương ứng giữa
địa vị và vai trò của các cá nhân, tổ chức đã gây ra những trở ngại tới quá trình của
sự phát triển. Nếu các tổ chức thực hiện các hoạt động có tính chuyên biệt phù hợp
với đặc tính riêng của tổ chức thì hiệu quả của hoạt động sẽ đem lại rõ hơn.
Ngân hàng chính sách xã hội là ngân hàng lập ra để phục vụ cho người nghèo,
do vậy về mặt lý thuyết những người tham gia vay vốn tại ngân hàng này phần lớn sẽ
là những người có mức sống và thu nhập thấp. Tuy nhiên, có một thực tế đó là có khá
nhiều hộ gia đình hiện đang vay ở chương trình dành cho hộ nghèo nhưng mức sống
108
hộ gia đình đã ở mức khá. Kết quả khảo sát của chúng tôi cũng cho những con số
tương tự, khi mà tỷ lệ hộ có mức sống khá chiếm ưu thế so với các hộ có mức sống
khác ở tất cả các nhóm.
120
100
100
80
53.8
60
47.2
42.1
40.9
33.2
30.8
30.6
40
28.9
28.9
26
22.2
15.4
20
0
0
0
Hội PN
Hội ND
Hội CCB
Đoàn TN
Không là TV
Hộ nghèo
Hộ trung bình
Hộ giàu
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
Biểu 3.6. Mức sống hộ gia đình tham gia vay vốn NHCSXH ở mỗi đoàn thể (%)
Trong đó tỷ lệ cao rơi vào nhóm những người là thành viên của hội phụ nữ,
đoàn thanh niên và những người không là thành viên của bất kỳ tổ chức đoàn thể nào
(chiếm tỷ lệ trên 40%). Đoàn thanh niên tham gia vay vốn hoàn toàn là những hộ gia
đình có mức trung bình khá. Tỷ lệ ở hộ nghèo tập trung nhiều ở nhóm người là thành
viên của hội CCB (53,8%) và hội ND (42,1%). Trong khi đó tỷ lệ hộ giàu tham gia
vay vốn không có sự khác biệt nhiều ở mỗi nhóm trên dưới 30% - một tỷ lệ không
quá cao nhưng có ý nghĩa đối với một chương trình cho vay dành cho hộ nghèo. Câu
hỏi đặt ra là liệu có vấn đề không rõ ràng trong các hoạt động duyệt cho vay này?
Tuy nhiên, nhìn lại cách quản lý của ngân hàng cho chúng ta có những lý giải phù
hợp hơn với thực tế này. Theo lời của một cán bộ đoàn thể phụ trách trực tiếp hoạt
động nhận ủy thác “thời điểm họ là hộ nghèo họ được vay chương trình đó nhưng khi
đã thoát nghèo, họ không hoàn trả lại mà chỉ trả đúng lãi thôi. Vì nếu trả hoàn toàn
họ sẽ bị mất chương trình vay dành cho hộ nghèo với lãi suất rất thấp. Do vậy họ cứ
trả lãi hàng tháng thôi, nên nhiều hộ không còn là hộ nghèo những vẫn được nhận
vay vốn hộ nghèo là như vậy đó. Còn với ngân hàng chính sách, họ chỉ quan trọng là
họ thu được lãi thôi chứ họ không quan tâm đến đối tượng đó thay đổi về tình trạng
như thế nào” (PVS nữ, 1968, cán bộ, Cà Mau). Với cách quản lý như vậy cho thấy
109
những kẽ hở của NHCSXH trong việc thực hiện cho vay vốn hiện nay. Còn đối với
các tổ chức CT-XH họ chỉ là tổ chức trung gian thực hiện dựa trên các quy định từ
phía NHCSXH, do vậy không thể đòi hỏi hay “đánh giá” phương thức làm việc của
họ khi để xảy ra thực tế như vậy.
Thực tế hiện nay cho thấy hoạt động vay vốn từ NHCSXH đang được các đoàn
thể tiến hành ở tất cả các tổ chức và là một trong những hoạt động quan trọng được
các đoàn thể này quan tâm và đánh giá cao (bằng chứng là trong các hoạt động thi
đua hàng năm của các tổ chức, trong các báo cáo tổng kết). Đó chính là cách mà các
đoàn thể thể hiện vai trò tích cực của mình trong việc đảm bảo an sinh cộng đồng và
đặc biệt là đối với thành viên tổ chức trong việc giúp họ phát triển kinh tế. Tuy nhiên,
thực tế nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, người dân dường như chưa nhìn nhận vai
trò của các tổ chức này như cái cách mà các tổ chức này kỳ vọng. Với người dân, họ
được duyệt vay vốn là nhờ NHCSXH - chỉ đơn giản vậy, thậm chí nếu biết họ họ
cũng không quan tâm mình nhận vốn ủy thác từ đoàn thể nào. Với bản thân các cán
bộ đoàn thể cấp cơ sở, họ cũng chỉ nhận thấy mình đóng vai trò là cầu nối giữa ngân
hàng và người dân, là người “làm thuê” cho ngân hàng. Trong khi đó các đoàn thể cơ
sở kỳ vọng đây là một trong những phương thức quan trọng để phát triển thành viên
– thu hút họ tham gia tổ chức bằng việc đem lại cho họ mối lợi trực tiếp từ nguồn vốn
vay phát triển sản xuất.
Cần có một cơ chế phối hợp kiểm tra giữa NHCSXH với các tổ chức đoàn thể
nhận ủy thác trong việc kiểm tra, đánh giá tình trạng hộ cho vay theo từng thời điểm.
Từ đó, vừa nâng cao vai trò của các tổ chức đoàn thể, đồng thời tránh tình trạng lãng
phí nguồn vốn vay như hiện nay, đảm bảo tính công bằng trong quá trình thụ hưởng
chính sách hướng tới quyền đảm bảo an sinh xã hội cho mọi người dân.
3.3.2. Các quỹ/tổ/chương trình vay/hỗ trợ vốn khác
Như đã phân tích ở trên, việc không là thành viên hay là thành viên của một
tổ chức đoàn thể không có ảnh hưởng đến việc người dân có được tham gia vay vốn
tại NHCSXH hay không. Đó là điểm không hỗ trợ các tổ chức này thu hút thành viên,
trong khi lợi ích thu được thông qua nhận ủy thác (hoa hồng từ NHCSXH) không
110
phải là nguồn thu quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các tổ chức –
quan điểm của một cán bộ phụ trách đoàn thể. Và trong bối cảnh hiện nay, việc các
đoàn thể chủ động xây dựng các tổ, chương trình vay vốn có thể coi là một sự năng
động cần thiết và có ý nghĩa nhằm thu hút sự tham gia tổ chức của người dân. Các
đoàn thể địa phương đặc biệt là Hội PN không chỉ tham gia hỗ trợ vốn cho người dân
thông qua ngân hàng chính sách mà đoàn thể này còn cho thấy vai trò của mình trong
các tổ chức tài chính vi mô trong việc vận dụng mạng lưới thành viên của mình để rà
soát và hỗ trợ vay vốn cho những người nghèo có nhu cầu [65]. Thông qua các tổ,
nhóm hay chương trình vay vốn chỉ dành riêng cho thành viên các đoàn thể như thế
này mà nó trở thành động cơ và sức hút quan trọng để các tổ chức này thu hút thêm
thành viên tham gia.
19
Hỗ trợ tiền/hiện vậy/ngày công
2.6
5.7
0
3.4
Lương/thưởng/quà
0.9
11.1
5 5.2
Giao lưu
9 8.8
0
6.9
Có việc làm
0.4
2.5
11.1
0
Mở rộng QHXH
14.1
8.8
0
9.5
Không được gì
2.1
3.8
0
14.7
Vay vốn
14.1
18.9
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
Đoàn TN
Hội CCB
Hội ND
Hội PN
Nguồn: Số liệu đề tài “Nghiên cứu vai trò của các tổ chức CT-XH sau 5 năm xây dựng nông thôn mới và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng nông thôn mới của các tổ chức CT-XH này”
Biểu 3.7. Lợi ích mà hội viên nhận được khi tham gia các đoàn thể (%)
Biểu trên cho thấy, vay vốn có thể coi là một trong nhưng lợi ích chủ yếu mà
hội viên các đoàn thể đánh giá khi tham gia các tổ chức này: Hội PN 18,9%, Hội ND
14,1% và Hội CCB 14,7%. Các lợi ích khác không được đánh giá cao và Đoàn TN là
tổ chức bị đánh giá thấp nhất trong việc đem lại lại các lợi ích cho hội viên nói chung.
Điều này là hoàn toàn dễ hiểu khi mà Đoàn TN luôn có sự biến động về số lượng
thành viên dẫn đến các hoạt động bị hạn chế. Vì vậy mà vay vốn trở thành một trong
111
những động lực chính để người ta tham gia vào các tổ chức CT-XH:
45
38.4
40
35
30
23.5
25
21.5
17.9
17.6
20
16.1
15.3
15.2
14.2
14.1
13.4
13.1
12.9
12.2
12.2
12.1
12
15
11.4
11.4
10.5
9.6
8.9
8.3
8.2
7.9
10
6.3
5.9
5.4
5.3
4.8
4.7
3.4
2.4
1.8
5
1.1
1
0
Mọi người tham gia
Vay vốn ưu đãi
Có ích cho XH
Banh bè rủ tham gia
Giải tri, giao luu
Mở rộng QHXH
Mở mang kiến thức
Xây dựng thôn ấp
Chính quyền vận động
Hội PN
Hội ND
Hội CCB
Đoàn TN
Nguồn: Số liệu đề tài “Nghiên cứu vai trò của các tổ chức CT-XH sau 5 năm xây dựng nông thôn mới và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng nông thôn mới của các tổ chức CT-XH này”
Biều 3.8. Lý do NTL tham gia vào các tổ chức CT-XH (%)
Ở cả 4 tổ chức đoàn thể, vay vốn vẫn là một trong những lý do chính thu hút
sự tham gia của người dân bên cạnh một số lý do khác như được bạn bè rủ, chính
quyền vận động hay để mở rộng quan hệ xã hội, mở mang kiến thức. Lý do được vay
vốn là động lực lớn để người ta tham gia vào Hội PN (21,5%) và Hội ND (15,2%).
Trong khi đó với Đoàn TN và Hội CCB, đây chưa phải là lý do thực sự quyết định
tới việc tham gia hội đoàn thể của người dân (Hội CCB chỉ chiếm 8,3% và Đoàn TN
là 8,2%). Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa Tuyên Quang và Cà Mau trong việc đưa ra
lý do tham gia các tổ chức để được vay vốn ưu đãi
150
100
100
85.7
80
50
55.6
44.4
14.3
20
0
0
Hội PN
Hội ND
Hội CCB
Đoàn TN
Tuyên Quang
Cà Mau
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
Biểu 3.9. Tỷ lệ tham gia các tổ chức đoàn thể vì được vay vốn ưu đãi (%)
Kết quả cho thấy phần lớn thành viên các tổ chức đoàn thể ở Tuyên Quang
112
tham gia vì ở đó họ được vay vốn ưu đãi, tỷ lệ này cao hơn khá nhiều so với Cà Mau,
đặc biệt là trường hợp hội ND, hội CCB và đoàn TN (tỷ lệ gấp ít nhất là 3 lần). Thông
qua các báo cáo đoàn thể cho thấy, hiện nay các tổ chức này đang nắm và điều hành
một hệ thống các tổ huy động vốn nhiều về số lượng và đa dạng về hình thức. Thông
qua các tổ vay vốn này, người dân có thêm một nguồn hỗ trợ kinh phí quan trọng
trong việc phát triển kinh tế và trang trải hoạt động của gia đình. Điều này càng thực
sự có ý nghĩa đối với những hộ có thu nhập thấp và không có nhiều sự lựa chọn đối
với các hình thức vay vốn [71].. Đó trở thành sức hút quan trọng giúp người dân tham
gia các đoàn thể. Nói như lời một người dân “….em vay ở vốn nội lực tăng dần của
bên hội phụ nữ ấy, giúp được nhiều chứ ví dụ cần để mua phân bón hay thức ăn chăn
nuôi, chứ vay qua ngân hàng chính sách nó cũng chỉ có đợt đâu phải lúc nào mình
cần là có,…chỉ cần là thành viên hội phụ nữ là mình có thể đề nghị xin vay được mà
lãi thấp, nhanh có….” (PVS nữ, 1978, người dân, Cà Mau). Các đoàn thể bên cạnh
nguồn Quỹ hội bắt buộc phải đóng nộp 60% cho quỹ cấp huyện phục vụ hoạt động
thì hiện nay các tổ chức này cũng có rất nhiều các hình thức hỗ trợ nguồn vốn cho
hội viên. Lấy trường hợp của Hội PN là một ví dụ:
Tại xã Ninh Lai hội đã tổ chức lao động gây quỹ để gắn bó giữa quyền và lợi
ích của hội viên khi tham gia vào tổ chức hội và theo thời gian số tiền này tăng lên
theo từng năm và hiện con số là 107 triệu đồng/20 chi hội [37].
Với xã Đại Phú, bên cạnh quỹ hội được xây dựng và duy trì giống với Ninh
Lai, tại đây còn xây dựng mô hình tổ tiết kiệm vay vốn thuộc Dự án Tam Nông với
164,696 triệu đồng giúp đỡ cho 82 hội viên nghèo phát triển kinh tế [34]. Bên cạnh
đó, trong năm 2015 Hội còn tiếp tục thực hiện triển khai mô hình “Nuôi lợn nhựa tiết
kiệm” hay “Ống tre tiết kiệm” áp dụng đối với các hội viên thu hút sự tham gia đông
đảo.
Tại Cà Mau, hình thức huy động vốn nội lực cũng được sử dụng với nhiều
hình thức: Thành lập tổ phụ nữ tiết kiệm, hùn vốn giúp nhau bằng tiền, ngày công lao
động, cây con giống…với số tiền huy động được 115.000.000đồng25. Tại các chi, tổ
25 giúp cho trên 674 lượt chị vay với số vốn từ 1 đến 2 triệu đồng
113
hội đều có hoạt động tiết kiệm - tín dụng, hùn vốn bằng hình thức tăng dần với mức
thấp nhất 20.000đồng/hội viên/tháng26. Ngoài ra, hội còn tiến hành giải ngân và hỗ
trợ hội viên thông qua nguồn vốn hài hòa, nguồn vốn vì tương lai của các em, nguồn
vốn vì quê hương hỗ trợ được hơn 30 hội viên phát triển kinh tế [35]. Ngoài ra, tổ
vốn nội lực được xây dựng cho hội viên với mức lãi 0% trong khi tổ vốn tăng dần với
mức lãi từ 1-2% và tính đến 2016 số vốn đã lên tới 460 triệu. Cách thức cho hội viên
vay như sau: với số tiền 460 triệu có được trong tháng, tổ trưởng sẽ căn cứ vào như
cầu vay của các thành viên và chia đều cho từng người. Và như thế, số tiền được vay
của mỗi hội viên ở mỗi thời điểm sẽ khác nhau, phụ thuộc vào số tiền còn trong quỹ
cũng như số người xin vay. Với mỗi tổ này, mức đóng phí của họ mỗi tháng khá cao
từ 200-500 nghìn đồng. Mỗi ấp, có thể có 1 hoặc vài ba tổ vay vốn như vậy, số lượng
các tổ được thành lập nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng cũng như sự năng động,
nhiệt tình của chi hội trưởng các hội.
Có thể nói vai trò của các đoàn thể đặc biệt là hội phụ nữ trong việc tham gia,
triển khai các chương trình, dự án được khẳng định một cách rõ ràng. Thông qua tổ
chức hội, các thành viên có điều kiện được tăng cường mở rộng các nguồn vốn tín
dụng đáp ứng nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh hạn chế được hiện tượng cho
vay nặng lãi; được giúp đỡ về vốn để phát triển kinh tế trong trường hợp gặp khó
khắn; được đào tạo nghề, giới thiệu và tạo việc làm [78]. Việc lựa chọn hội phụ nữ
tham gia có thể coi là quyết định chiến lược bởi những đặc trưng “nhiệt tình, trách
nhiệm, chịu học hỏi các kỹ năng mới, hiểu biết kỹ gia cảnh người vay” nên đã thành
công đến hàng chục vòng vay vốn với khoản tiết kiệm trong mỗi dự án lên đến tiền
triệu. Nhờ đó người ta càng thấy được sự phù hợp trong việc cho vay một khoản tiền
nhỏ lẻ đối với người nghèo [63]. Bằng hành động thiết thực của mình hội phụ nữ tạo
ra một mạng lưới an sinh quan trọng và bền vững thông qua những hoạt động chính
thức cũng như phi chính thức [57]. Và đó chính là động cơ quan trọng gia tăng số
26 thành lập mới 5 tổ TKTD-TDTK có 75 thành viên, với số tiền 2.250.000 đồng. Các quỹ này được xây dựng và hiện có 41 tổ, có 475 thành viên với số vốn tăng dần đến nay được 285.000.000 đồng, giải quyết khó khăn cho trên 674 lượt chị vay với lãi suất thấp, nâng tổng số đến thời điểm hiện nay từ các nguồn vốn nội lực, TKTD-TDTK được 400 triệu đồng, giải quyết cho hơn 674 lượt chị em vay, mượn để phát triển kinh tế gia đình
114
lượng hội viện của tổ chức này nói riêng cũng như các tổ chức xã hội nói chung.
Hoạt động của hội nông dân mặc dù không có sự đa dạng về hình thức quỹ hỗ
trợ như hội phụ nữ nhưng họ cũng xây dựng một số quỹ và có tác động trực tiếp tới
đời sống hội viên như: quỹ hùn vốn, quỹ hỗ trợ nông dân hay gây quỹ tại các chi hội
(báo cáo hội nông dân 4 xã khảo sát). Nhờ những quỹ này mà thành viên hội nông
dân đặc biệt hộ nghèo có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi. Bởi nguồn
vốn từ các quỹ này đã được thống nhất triển khai trong các tổ chức “Quỹ hùn vốn là
của hội viên, nông dân do hội viên, nông dân đóng góp tự quản và chỉ để hỗ trợ cho
hội viên, nông dân phát triển sản xuất” [40]. Như vậy, thông qua hoạt động của các
tổ này, người dân có thêm một nguồn hỗ trợ kinh phí quan trọng trong việc phát triển
kinh tế và trang trải hoạt động của gia đình. Điều này càng thực sự có ý nghĩa đối với
những hộ gia đình có thu nhập thấp và không có nhiều sự lựa chọn đối với các hình
thức vay vốn. Trong bối cảnh của một địa phương với tỷ lệ người dân tộc cao (chiếm
khoảng 80% ở xã Đại Phú, Tuyên Quang) và một địa phương ở cực Nam của tổ quốc
(Cà Mau) phát triển còn hạn chế, đời sống cư dân nông thôn còn khó khăn thì những
sự trợ giúp từ các tổ/nhóm vay vốn được các đoàn thể xây dựng, tổ chức và quản lý
là hết sức cần thiết và có ý nghĩa [71].
Các tổ vốn này nếu quản lý tốt sẽ tạo ra sức hút quan trọng để người dân tham
gia các tổ chức. Tuy nhiên, nếu cách quản lý không tốt cũng sẽ có những tác dụng
ngược lại không mong muốn. Trường hợp tại Cà Mau là một ví dụ: “Các tổ/nhóm
cho vay vốn mà các chị em tự đóng tiền hàng tháng và cho nhau vay để sản xuất, mỗi
người hưởng một tháng một theo lần lượt hoặc theo nhu cầu ai cần gấp trước. Nhưng
nhiều người sau khi nhận được tiền của mình thì họ bỏ luôn và không tham gia nữa.”
(PVS nữ, 1975, người dân, Cà Mau). Và thực tế này theo lời lãnh đạo xã ở Cà Mau
là không hiếm, cách thức để giải quyết vấn đề này đó là “những người còn lại cùng
nhau góp tiền lại trong mỗi lần đóng để bù lại số tiền đã mất” (PVS nữ, 1974, người
dân, Cà Mau). Cách ứng xử của người dân ở Cà Mau đối với vấn đề liên quan trực
tiếp đến lợi ích của mình cho thấy dường như họ dễ dàng tha thứ đối với người xung
quanh kể cả khi động vào quyền lợi của bản thân. Trong khi đó đối với chính quyền,
115
người dân lại có một cách ứng xử khác:
“khi được đoàn làm việc hỏi thì bà ta có nói bà ta không được xã – chính quyền
giúp bất cứ một cái gì, mình ngạc nhiên lắm. Hôm sau, mình có gặp lại bà ta và bảo
chính quyền giúp chế bao nhiêu chương trình hộ nghèo, rồi quà tặng bao nhiêu sao
chế lại bảo là không giúp chế tẹo nào. Chế đấy bảo chính quyền không lo cho dân,
chỉ có chế Tươi giúp tôi thôi, khổ lắm mà mình giúp chế đấy với tư cách là trưởng
thôn mà” (PVS nữa, 1964, cán bộ, Cà Mau).
Dữ liệu này cùng với các ghi chép, quan sát tại Cà Mau của chúng tôi cho thấy
dường như với chính quyền địa phương người dân có con mắt đánh giá khắt khe hơn
cho dù họ làm đúng và đem lại quyền lợi với người dân. Còn đối với chính bà con lối
xóm, người dân nói chung họ có cái nhìn dễ dàng hơn. Trong khi đó ở Tuyên Quang,
trong quá trình nghiên cứu đã có rất nhiều câu hỏi đặt ra và những đánh giá về chính
quyền địa phương, các đoàn thể nhưng đa phần người dân đều phản ánh cái nhìn ôn
hòa “chính quyền nói gì thì mình làm theo thôi….cũng không ý kiến gì vì họ nói đúng
và vì dân thôi mà …” (PVS nam, 1987, người dân, Tuyên Quang). Giải thích điều
này có thể là sự khác biệt mang tính chất vùng miền giữa miền nam với miền bắc với
sự khác biệt về văn hóa, lối sống dẫn đến những ứng xử có tính khu biệt mà nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra trước đó. Trong phạm vi nghiên cứu này chúng tôi không đủ dữ
liệu để giải thích được vấn đề này nhưng cũng đưa ra như là một trong những phát
hiện ban đầu của quá trình nghiên cứu.
Để đối phó với tình huống phát sinh vay không trả của các tổ vay vốn của đoàn
thể, chính quyền địa phương tiến hành giải quyết mang tính chất phi chính thức nhiều
hơn“mình không có chế tài gì, chỉ tổ chức cuộc họp trên xã để lãnh đạo xã khuyên
răn họ để họ nộp trả lại thôi, chứ mình đâu phạt được họ đâu, họ nghe thì nghe không
nghe cũng chẳng làm gì được..” (PVS nam, 1978, cán bộ, Cà Mau). Và bởi có sự đan
xen giữa quản lý về mặt hành chính và cảm tính nay nói đúng hơn là giữa tình và lý
còn bị chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau nên cách xử lý mang tính chất cảm tính nhiều
hơn “ở đây đa số là nông dân, mà nông dân đa số hộ nghèo, các chính sách ràng
buộc của nhà nước, các biện pháp về hành chính mình ở đây áp dụng là khá ít” (PVS
116
nam, 1970, cán bộ, Cà Mau). Ở đây đặt ra hai vấn đề về cách thức hoạt động của các
tổ/nhóm này: về bản chất đây là những tổ/nhóm không có tính chất chính danh – được
lập ra để giúp đỡ nội bộ hội viên do vậy tính pháp lý hay nói đúng hơn là thành viên
trong các đoàn thể thực sự không có được sự bảo trợ về mặt pháp luật khi họ gặp
những vấn đề phiền phức (như tình trạng bỏ giữa chừng không tham gia gây thiệt hại
cho các thành viên khác). Nhưng ở khía cạnh thứ hai thì các hình thức này lại là cứu
cánh cho các thành viên có nhu cầu về vốn khi cần gấp hoặc không có khả năng vay
thế chấp từ các tổ chức theo quy định của pháp luật hiện hành. Rõ ràng, sự đảm nhận
vai trò không tương thích của các tổ/nhóm là vấn đề cần xem xét lại. Người dân đang
sống trong một xã hội pháp quyền thì rõ ràng cần phải có sự tuân thủ pháp luật và đi
kèm với nó là sự đảm nhận các vai trò phù hợp thì sẽ đem lại sự hiệu quả trong công
tác quản lý và sự công bằng cho các thành viên thụ hưởng. Tất nhiên, trong bối cảnh
xã hội nông thôn đang có những chuyển đổi thì những thực tế như vậy sẽ không tránh
khỏi và nó vẫn đem lại lợi ích cho một bộ phận không nhỏ cư dân nông thôn.
Thực tiễn cho thấy các tổ/nhóm này đã đem lại lợi ích thiết thực cho các thành
viên và trở thành một trong những động lực quan trọng để thu hút người dân tham gia
vào các tổ chức đoàn thể. Với tính chất kịp thời và linh động trong hoạt động cho vay
nên các quỹ/tổ/chương trình vay vốn này phần nào đã đáp ứng được nhu cầu của
người dân trong quá trình hỗ trợ sản xuất. Đặc biệt ở khu vực nông thôn khi mà mức
sống của người dân vẫn còn nhiều hạn chế thì việc có thể huy động và sự dụng một
cách linh động các nguồn vồn này là cần thiết và nó giúp hạn chế các trường hợp
người dân phải tìm kiếm các nguồn hỗ trợ từ các nhóm tín dụng đen với đầy tính rủi
ro. Tuy nhiên trong quá trình quản lý hoạt động vẫn còn nhiều những hạn chế cả về
mặt định chế và trách nhiệm của những người tham gia. Quản lý tốt hoạt động của
các tổ/nhóm này một mặt đem lại lợi ích thiết thực cho thành viên tổ chức trong việc
trợ giúp phát triển kinh tế. Mặt khác sẽ là thanh nam châm thu hút sự tham gia của
những người chưa là thành viên của các đoàn thể. Tất nhiên, khi sự phát triển ở một
trình độ nào đó đòi hỏi sự chuyên biệt thì mô hình hoạt động này của các tổ chức sẽ
117
không đem lại nhiều hiệu quả đối với người thụ hưởng như hiện nay.
Tiểu kết Chương 3
Việc các tổ chức CT-XH tham gia một cách trực tiếp vào các hoạt động hỗ trợ
thông tin, tư vấn, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm hay hỗ trợ vay vốn phục vụ sản
xuất cho thấy tính đa dạng, phong phú trong các hoạt động của các tổ chức này. Tuy
nhiên, mỗi tổ chức lại cho thấy thế mạnh của mình trong một lĩnh vực của thị trường
lao động: Hội ND cho thấy vai trò của mình trong các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn,
giới thiệu hay chuyển giao KHKT. Đoàn TN có những lợi thế nhất định trong hoạt
động giới thiệu việc làm nhưng do thiếu những cơ chế hỗ trợ mà dần dần hoạt động
này cũng trở nên không hiệu quả. Hoạt động giới thiệu việc làm hiện nay của các tổ
chức đoàn thể có xu hướng tập trung ở nhóm người lao động có thu nhập tốt hơn và
điều đó đồng nghĩa với việc nhóm có thu nhập thấp vốn đã là một nhóm yếu thế nay
càng trở thành nhóm yếu thế sâu hơn trong hoạt động giới thiệu việc làm. Điều này
đòi hỏi các tổ chức CT-XH cần có sự quan tâm và phân chia phù hợp giữa nhóm thu
nhập khác nhau, đặc biệt cần ưu tiên hơn đối với các nhóm yếu thế. Hoạt động tín
dụng địa phương cho thấy sự năng động của các các tổ chức đặc biệt nổi lên là vai
trò của Hội PN thể hiện qua việc thành lập rất nhiều các quỹ/tổ/chương trình vay vốn
(so với các đoàn thể khác) bên cạnh nguồn vốn từ NHCSXH. Nó cho thấy các tổ chức
đã ý thức được một cách rõ hơn về phương thức hoạt động của mình đó là gắn với
thực tiễn, với nhu cầu thật sự của hội viên, người dân.
Đối với hoạt động nhận ủy thác từ NHCSXH, đang có sự không trùng khớp
giữa nhu cầu hay nói đúng hơn là kì vọng mà các đoàn thể gán cho nó. Họ hi vọng
vào đó như là một trong những cách thức hữu hiệu để thu hút thành viên thông qua
việc đem nguồn vốn vay đến với mỗi người dân. Và đồng nghĩa với điều đó họ sẽ
không có cơ hội giúp cho tổ chức của mình “hưởng lợi” từ hoạt động này. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy người dân dường như không nhìn nhận vai trò của các tổ chức đối
với hoạt động vay vốn ở phương diện này. Bản chất của mọi chính sách là hướng tới
người thụ hưởng mà cụ thể ở đây là người dân tham gia vay vốn. Tuy nhiên nếu đem
lại lợi ích (ở đây là lợi ích chung) cho cả người thụ hưởng và người thực hiện chính
118
sách thì sẽ là động lực giúp cho việc thực thi chính sách một cách.
Chương 4
CÁC TỔ CHỨC CT-XH TRIỂN KHAI CÁC HOẠT ĐỘNG
TRỢ GIÚP XÃ HỘI TẠI NÔNG THÔN
4.1. Trợ giúp xã hội thường xuyên Trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng đang là một hoạt động phát triển
khá rộng khắp hiện nay ở các địa phương. Kết quả khảo sát cho thấy, tại địa bàn
nghiên cứu đang có các hoạt động khá đa dạng: xây dựng nhà tình thương (15,2%),
giúp đỡ người có hoàn cảnh đặc biệt (16,1%), các chương trình quyên góp/ủng hộ
(21,7%), giúp đỡ gia đình chính sách (14,7%), thăm/nuôi mẹ Việt Nam anh hùng,
người có công (11,6%).
21.7
16.1
15.2
14.7
11.6
0.5
0.2
25 20 15 10 5 0
Không biết
XD nhà tình thương
Giúp đỡ người nghèo
Các CT quyên góp/ủng hộ
Giúp đỡ gia đình CS
Giúp đỡ người có hoàn cảnh đặc biệt
Thăm/nuôi mẹ VNAH, người có công
Nguồi: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
Biểu 4.1. Các hình thức trợ giúp xã hội tại địa bàn khảo sát (%)
Mức độ nắm bắt các thông tin của người dân đối với các các hình thức trợ giúp tại
cộng đồng cho thấy không có sự chênh lệch quá rõ. Có lẽ bởi sự phong phú về đối
tượng thụ hưởng và sự đa dạng trong thành phần tham gia ủng hộ nên các chương
trình quyên góp/ủng hộ vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất (21,7%), có thể kể đến như: quỹ vì
người nghèo, quỹ hỗ trợ trẻ em, quỹ chất độc da cam, quỹ người nghèo, quỹ tàn tật
trẻ mồ côi, v.v. Công tác truyền thông cho các hoạt động này cũng khá đa dạng và
phong phú, người ta biết đến các hoạt động trợ giúp xã hội tại địa phương qua nhiều
119
kênh khác nhau:
Gia đình được nhận các trợ giúp này
16.1
Cuộc họp của thôn/ấp
51.3
Trưởng thôn/ấp
44.1
Đoàn thể
50.6
Loa phát thanh
28
Khác
35.3
Không biết
1.8
0
10
20
30
40
50
60
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
Biểu 4.2. Người dân biết đến các hoạt động trợ giúp xã hội qua các nguồn (%)
Kết quả cho thấy 3 kênh thông tin chính cung cấp cho người dân đó là: qua các cuộc
họp của thôn/ấp (51,3%), các tổ chức đoàn thể (50,6%), và trưởng thôn/ấp (44,1%).
Điều đó cho thấy, tại địa phương khảo sát các tổ chức đoàn thể đóng vai trò khá quan
trọng trong việc cung cấp thông tin về các chương trình trợ giúp xã hội cho người
dân. Các đoàn thể chủ yếu hướng đến trợ giúp cho 2 nhóm đối tượng chính đó là:
giúp đỡ người nghèo nói chung (96,2%) và giúp đỡ các nhóm đối tượng khác nhau
trong khuôn khổ các hoạt động ủng hộ do Nhà nước, MTTQ VN kêu gọi với các
chương trình quyên góp/ủng hộ (98,6%). Bên cạnh đó các hoạt động xây dựng các
quỹ đóng góp ủng hội hội viên của được các đoàn thể triển khai tích cực (thông qua
báo cáo tổng kết của các tổ chức đoàn thể địa phương). Hoạt động trợ giúp xã hội của
các tổ chức đoàn thể địa phương có xu hướng tập trung nhiều vào các nhóm đối tượng
chính đó là: cộng đồng nói chung và cả hội viên, thành viên tổ chức nói riêng, mảng
hoạt động chủ yếu đó là tham gia các hoạt động từ thiện.
Người ta có thể tham gia hoạt động từ thiện bằng nhiều hình thức như đóng
góp, ủng hộ bằng tiền, hiện vật hay ngày công và với những phương thức khá đa
dạng. Có thể ủng hộ thông qua các kênh “chính thức” như các cơ quan, tổ chức của
nhà nước (hội chữ thập đỏ hay mặt trận tổ quốc thông qua các tổ chức đoàn thể như
hội ND, hội PN, hội CCB hay đoàn TN). Ngoài ra, người dân có thể ủng hộ thông
qua các kênh mang tính “phi chính thức” như các nhóm, các tổ chức hay cá nhân v.v.
120
Tuy nhiên hiện nay, hình thức ủng hộ, quyên góp từ thiện có quy mô lớn chủ yếu tập
trung qua kênh “chính thức” của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam. Sở dĩ hình
thức quyên góp này tập trung và có quy mô lớn so với các kênh khác là bởi tổ chức
này vừa có tính “chính danh” đồng thời quy tụ số lượng thành viên động đảo trên
khắp cả nước và tập trung ở hầu hết các thành phần xã hội: nông dân – hội ND; phụ
nữ - hội PN, thanh niên – đoàn TN, cựu chiến binh – hội CCB và công nhân, cán bộ
- Công đoàn. Theo Scott, các tổ chức dựa trên quyền hành duy lý – hợp pháp để có
được sự tin tưởng tuân thủ tuyệt đối của các thành viên và đó là phương tiện tốt nhất
để đạt được mục tiêu của tổ chức. Sự tin tưởng của các hội viên các đoàn thể chính
là sức mạnh quan trọng thu hút sự tham gia và ủng hộ các hoạt động từ thiện do các
tổ chức này đứng tên.
Trong thập niên vừa qua, người ta ghi nhận các tổ chức CT-XH là nơi huy
động đóng góp từ thiện ở Việt Nam nhằm hỗ trợ các nạn nhân và người nghèo mặc
dù những đóng góp từ thiện của các doanh nghiệp ngày càng tăng trong thời gian trở
lại đây [21]. Hoạt động hầu hết của các tổ chức CT-XH là nhằm hướng tới mục tiêu
giảm nghèo, từ thiện nhân đạo, tự quản... [123]. Có lẽ bởi tính chính thống, đại diện,
phù hợp với nhu cầu do khả năng nắm bắt thông tin tốt hơn so với các tổ chức/nhóm
nên các đoàn thể chính trị-xã hội vẫn là một trong những tổ chức đi đầu trong công
tác từ thiện, giúp đỡ người nghèo hiện nay. Nghị quyết liên tịch số 88/NQLT/CP-
ĐCTUBTWMTTQVN ngày 7/10/2016 về việc phối hợp thực hiện giảm nghèo bền
vững, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, trong đó làm rõ trách nhiệm của hệ
thống chính quyền từ Trung ương đến địa phương và hệ thống Mặt trận cùng các tổ
chức CT-XH để huy động lực lượng xã hội, cùng với nguồn lực của Nhà nước thực
hiện giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Với Nghị quyết
này vai trò, trách nhiệm của các tổ chức CT-XH trong công tác giảm nghèo rõ ràng
hơn và có “địa chỉ” cụ thể. Theo đó, không chỉ vận động kinh phí mà Hội Nông dân
Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam từ xã, phường sẽ nhận hỗ trợ từng hộ
gia đình nghèo. Khác với trước đây, hộ nghèo vẫn được hưởng chính sách của Nhà
121
nước nhưng họ sử dụng ra sao thì không ai giám sát, nay mỗi đoàn thể nhận hỗ trợ
những hộ nào thì phải có trách nhiệm đến khi họ thoát nghèo thì thôi [77]. Như thế
với Nghị quyết này cho thấy trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể sẽ “nặng” hơn
trước rất nhiều trong công cuộc hỗ trợ, trợ giúp những người có hoàn cảnh khó khăn,
giảm nghèo và thoát nghèo bền vững.
Bên cạnh đó, trợ giúp tinh thần cũng có thể coi là một trong những sức hút
giúp người dân tham gia vào các tổ chức đoàn thể. Đây là những giá trị quan trọng
được người ta đánh giá cao khi tham vào các tổ chức này chỉ sau giá trị được hỗ trợ
thông tin/lời khuyên/tư vấn.
Biểu 4.3. Các giá trị tinh thần mà hội viên nhận được khi tham gia tổ chức
62.5
53.1
46.3
41.7
40.2
33.5
33.3
33.3
25.6
25
23.3
23.3
HỘI PN
HỘI ND
HỘI CCB
ĐOÀN TN
Được giao lưu, ăn uống
Mở rộng các mối quan hệ xã hội
Được thăm hỏi, động viên, chúc mừng
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
Kết quả khảo sát cho thấy, ngoại trừ đoàn TN không có sự biến thiên ở 3 giá
trị, còn lại các tổ chức khác cho thấy đánh giá khác nhau về 3 giá trị mà họ nhận được
khi tham gia các tổ chức CT-XH. Tham gia đoàn TN cái hội viên đánh giá cao là
được giao lưu, ăn uống (cao nhất với 33,3%). Trong khi đó hội CCB đánh giá cao lợi
ích được mở rộng các mối quan hệ xã hội hơn so với các đoàn thể khác (53,1% chênh
lệch gần 30 điểm phần trăm so với tổ chức thấp nhất là hội PN). Thăm hỏi, động viên,
chúc mừng vẫn là giá trị quan trọng được thành viên các tổ chức đánh giá cao hơn
hẳn so với các giá trị còn lại ở tất cả các đoàn thể (trên 40% ngoại trừ đoàn TN) với
chênh lệch giữa tỷ lệ cao nhất với thấp nhất gần 30 điểm phần trăm. Hội CCB cho
thấy họ là tổ chức được các thành viên đánh giá cao về các giá trị tinh thần mà họ
122
mang lại so với 3 tổ chức còn lại. Được thăm hỏi, động viên hay chúc mừng có lẽ là
nhu cầu chung khi người ta tham gia vào các tổ chức xã hội có tính chất tự nguyện.
Trợ giúp tinh thần dường như vẫn là một trong những chức năng quan trọng của các
tổ chức xã hội tự nguyện: phần lớn các tổ chức, nhóm, câu lạc bộ hoạt động chủ yếu
dưới dạng thăm hỏi, động viên khi có thành viên nào đó ốm đau, hoặc qua đời [73;
74] hay chia sẻ tình cảm, thăm hỏi nhau những lúc gia đình có việc vui/buồn. Các hội
này hoạt động không nhằm mục tiêu hợp tác làm ăn kinh tế [12]. Cư dân phía Bắc
gắn việc tham gia các hoạt động hội nhóm với việc đáp ứng những nhu cầu tinh thần
nội tại của nhóm nhỏ (thăm hỏi, chia sẻ tình cảm, v.v.) và nhu cầu cá nhân (được va
chạm xã hội, có danh tiếng, được vị nể, v.v.) [114], [13]. Nói như Gourou thì đó là
người nông dân tham gia vào các hội nhóm “để làm quen với cuộc sống công cộng,
tập dượt vai trò họ sẽ đóng trong làng, học cách ăn nói” [27]. Hoạt động thăm hỏi về
thực chất là một hoạt động mang tính chất xã giao và một thực tiễn trong đời sống xã
hội nông thôn, thế nhưng dường như nó được nâng lên thành một tiêu chuẩn đạo đức,
thành một giá trị để nhìn nhận và đánh giá nhân cách cá nhân trong xã hội. Thăm hỏi,
động viên, chia sẻ với các thành viên và gia đình trở thành một nhu cầu an sinh tinh
thần trong các hội tự nguyện hiện nay. Bởi vậy, cái cách mà người ta nói về những
người không giao tiếp, không đi lại với ai có một hàm nghĩa phê phán rõ nét. Đó là
những kẻ chỉ biết có lợi ích bản thân, chẳng quan tâm tới ai và do đó là đáng xấu hổ
và thiệt thòi. Sự tham gia của cá nhân vào các hội, CLB, phường là sự bảo đảm uy tín
của cá nhân và của gia đình trong mắt người làng [114]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu
này của chúng tôi, sự khác biệt về vùng miền không được thể hiện rõ ràng (không có
ý nghĩa trong kiểm định thống kê). Có thể coi đó là sự khác biệt giữa các tổ chức xã
hội tự nguyện với các tổ chức CT-XH chăng? Trong số các giá trị nhận được thì giá
trị được giao lưu, ăn uống có tỷ lệ thấp nhất so với 2 giá trị còn lại ở cả 4 tổ chức
đoàn thể. Điều đó phản ánh thực tế phải chăng nhu cầu tiệc tùng, ăn uống của người
dân đã giảm hay nó không có nhu cầu trong nội bộ các đoàn thể mà chỉ tập trung ở
những nhóm có quy mô nhỏ hơn như gia đình, dòng họ hay các tổ chức xã hội tự
123
nguyện.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy sự thay đổi mạnh mẽ ở khu vực nông thôn
về văn hóa biểu hiện trong việc khôi phục lại hệ thống lễ nghi và tiệc tùng qua lại bên
trong cũng như bên ngoài dòng họ. Thặng dư kinh tế ngày càng cao đã khiến “hội hè
đình đám” trong các làng xã được khôi phục lại mạnh mẽ, mối liên hệ thân tộc được
phục hồi cùng với việc trùng tu các ngôi mộ tổ và viết lại gia phả của các dòng họ
[11]. Dường như những hoạt động như vậy không có xu hướng diễn ra trong các hoạt
động đoàn thể. Phải chăng do đặc trưng ban đầu của các tổ chức này khi thành lập
(nhằm tuyên truyền, vận động người dân theo các chính sách, chủ trương của Nhà
nước) trong khi ở các tổ chức tự nguyện cốt lõi trong hoạt động của các tổ chức này
đó là nơi để được gặp gỡ, giao lưu - nó thích hợp với không khí hội hè, đình đám
nhiều hơn cũng giống như trong gia đình, họ hàng.
Những hỗ trợ bằng vật chất và tinh thần của các tổ chức CT-XH tại cơ sở cho
thấy sự đa dạng trong các cách thức trợ giúp người dân. Tuy nhiên, nếu xét về hình
thức trợ giúp hướng tới đảm bảo an sinh xã hội cho cộng đồng, người ta quan tâm tới
các hoạt động trợ giúp, ủng hộ nhằm đem lại các giá trị vật chất cho người được thụ
hưởng nhiều hơn – đó là những giá trị tác động trực tiếp tới đời sống của mỗi người
dân trong cộng đồng. Hiện nay, có hai hình thức trợ giúp, vận động ủng hộ chính: thứ
nhất đó là hình thức vận động ủng hộ các chương trình, các quỹ từ thiện do Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc phát động với đối tượng thụ hưởng đa dạng, quy mô
rộng và thứ hai đó là các phong trào hỗ trợ hội viên, cộng đồng tại chính các địa
phương do các đoàn thể cơ sở phát động. Như thế, các hình thức hỗ trợ cộng đồng
thường xuyên của các tổ chức đoàn thể địa phương đang hướng đến các nhóm đối
tượng khác nhau với mức độ bao phủ khác nhau đó là:1) Cấp độ toàn quốc ở quy mô
rộng với đối tượng thụ hưởng đó là trẻ em, người nghèo, người tàn tật, v.v. được các
đoàn thể vận động đóng góp thông qua 6 loại quỹ3; 2) Cấp độ địa phương, tổ chức
3 Quỹ Đền ơn đáp nghĩa, Quỹ An ninh quốc phòng, Quỹ Hỗ trợ trẻ em, Quỹ Chất độc da cam, Quỹ Người nghèo, Quỹ Tàn tật, trẻ mồ côi.
124
với đối tượng thụ hưởng là hội viên, thành viên các tổ chức chính trị - xã hội.
4.1.1. Trợ giúp thường xuyên ở cấp độ toàn quốc
Trong số 6 quỹ chính vừa kể ở trên thì có 5 loại quỹ có vai trò từ thiện, giúp
đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn đó là: quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ hỗ
trợ trẻ em, quỹ chất độc da cam, quỹ người nghèo, quỹ tàn tật trẻ mồ côi. Tại địa
phương khảo sát, hoạt động từ thiện này thu hút đa số người dân, có tới 93,5% người
dân biết tới các hoạt động ủng hộ từ thiện và phần lớn họ đều tham gia vào hoạt động
này (93,2%). Theo quy định, hoạt động quyên góp này bắt đầu tử Ủy ban xã sẽ là
người đưa hạn mức nhất định đối với các loại quỹ và sẽ căn cứ vào tình hình địa
phương để chia cho từng khu vực dân cư cụ thể ở đây có thể là từng ấp, thôn. Sau đó,
“tùy theo khu vực thành lập các tổ đi vận động, quyên góp và thường là trưởng thôn,
ấp đóng vai trò là tổ trưởng của các tổ này và thành viên thường là trưởng hoặc phó
các đoàn thể ở ấp. Thông thường một tổ sẽ bao gồm tổ trưởng là trưởng thôn, thành
viên chi hội trưởng hoặc phó của hội ND, hội PN, hội CCB và đoàn TN” (PVS nam,
1978, cán bộ, Cà Mau). Với cách thức làm như vậy thì vai trò của chính quyền (đại
diện ở đây là trưởng thôn/ấp) là khá quan trọng trong hoạt động quyên góp ủng hộ
này, kết quả khảo sát cũng phản ánh đúng thực trạng như vậy.
Xét về đối tượng, chủ thể của hoạt động quyên góp từ thiện này gồm chính
quyền và các đoàn thể, với câu hỏi tổ chức nào đứng ra chủ trì/thực hiện các hoạt
động từ thiện tại địa phương, kết quả cho thấy: đánh giá người dân về vai trò chính
quyền là khá quan trọng trong hoạt động này (40,2%) trong khi các tổ chức đoàn thể
chiếm tỷ lệ thấp và chênh lệch khá lớn: Hội ND (24,3%; Hội PN: 21,6%; Hội CCB:
15,2% và Đoàn TN: 12,7%). Nếu so sánh giữa các tổ chức thì vai trò của hội PN (38,7%)
và hội ND (37,6%) được đánh giá cao nhất. Điều này có thể giải thích bởi đây là hai
tổ chức có số lượng hội viên lớn hơn rất nhiều so với các tổ chức còn lại, do vậy
người ta biết đến các đoàn thể này nhiều hơn. Thêm nữa, sự “ghi nhận” của chính
quyền về vai trò của các tổ chức này chính là nền tảng quan trọng mang tính quyết
định “hai đoàn thể Hội Nông dân và Hội Phụ nữ là nòng cốt trong các hoạt động cần
huy động sự tham gia của người dân tại địa phương nói chung” (PVS nam, 1978, cán
125
bộ, Cà Mau).
Có sự khác biệt khá rõ giữa Cà Mau và Tuyên Quang trong đánh giá của người
dân về vai trò của các tổ chức tham gia vận động đóng góp từ thiện
Cà Mau
Tuyên Quang
57.1
Khác
42.9
14
Đoàn TN
86
28.6
Hội CCB
71.4
11.7
Hội ND
88.3
16.3
Hội PN
83.7
3
MTTQ
97
46.7
Chính quyền
53.3
100
0
20
40
60
80
120
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
Biểu 4.4. Mức độ tham gia của các tổ chức trong vận động đóng góp từ thiện (%)
Tỷ lệ người dân đánh giá sự tham gia của nhóm chính quyền và nhóm khác
(gồm cá nhân và các tổ chức khác) không có sự chênh lệch giữa hai địa phương khảo
sát. Ngược lại đánh giá về sự tham gia của các tổ chức đoàn thể lại có sự khác biệt
(p<0,001). Trong khi người dân ở Tuyên Quang đánh giá cao vai trò của các tổ chức
đoàn thể trong vận động quyên góp, ủng hộ (trên 70%) thì ngược lại, ở Cà Mau người
ta đánh giá cao vai trò của những nhóm ngoài các tổ chức đoàn thể, và tỷ lệ cao nhất
tập trung ở nhóm “khác” (57,1%) - nhóm này bao gồm các tổ chức, cá nhân, các mạnh
thường quân. Sự khác biệt giữa hai miền trong hoạt động trợ giúp cộng đồng cũng
được phản ánh trong một số nghiên cứu trước đó. Ở Nam bộ, các hoạt động từ thiện
mang tính chất “phi chính thức”, “phi nhà nước” và “mở” nhiều hơn. Đó có thể ở tại
các cơ sở tôn giáo hay một tổ chức từ thiện do một mạnh thường quân lập ra để giúp
đỡ người nghèo tại địa phương27 [13]. Ngược lại ở miền Bắc, các hoạt động cộng
27 Hàng năm vào dịp tết nhà chùa có thể nhận sự đóng góp của một số cá nhân và tập thể, sau đó căn cứ vào danh sách các hộ nghèo do UBND xã cung cấp, họ đến tận nơi trao quà hoặc tổ chức khám bệnh, bốc thuốc nam cho mọi người. Hoặc chỉ là một tổ chức từ thiện của một mạnh thường quân với một chiếc xe cứu thương nhằm vận chuyển cấp cứu bệnh nhân miễn phí từ xã lên các bệnh viện tuyến trên. Và đối tượng được áp dụng này không chỉ người trong xã mà còn đối với cả người ngoài xã với mức đóng góp tối thiểu cao hơn người trong xã – theo phương châm tùy hảo tâm”
126
đồng được gắn kết bởi các tổ chức mang tính “chính danh”, “chính thức” nhiều hơn
[47]. Nếu làng xã miền Bắc là các ốc đảo tự trị thì ở miền Nam “làng xã thoáng mở
và có truyền thống giao tiếp mạnh với thế giới bên ngoài là một “đặc sản” lịch sử của
Tây Nam bộ” [80]. Chính bởi những đặc trưng như vậy mà hoạt động từ thiện ở miền
bắc sẽ có xu hướng đóng hơn trong khi ở miền nam đặc biệt khu vực đồng bằng sông
cửu long có xu hướng ngược lại. Và ở một phương diện nào đó thì điều này cũng sẽ
là tạo ra những cách thức tiến hành các hoạt động thiện nguyện khác nhau giữa hai
khu vực. Kết quả phân tích trên đã cung cấp thêm bằng chứng về sự khác biệt này:
Mặc dù các hoạt động từ thiện được chúng tôi liệt kê trong bảng hỏi là những hoạt
động đa phần do chính quyền và các đoàn thể đứng ra tổ chức, vận động. Thế nhưng
trong thực tế người dân ở Tuyên Quang có xu hướng gắn hoạt động từ thiện với vai
trò của các tổ chức đoàn thể thì người dân ở Cà Mau có xu hướng đánh giá cao vai
trò này đối với nhóm các cá nhân, tổ chức khác.
Xét về phương thức hoạt động, các đoàn thể có cách thức tuyên truyền, vận
động người dân tham gia đóng góp các quỹ từ thiện khác nhau
Biểu 4.5. Người dân biết đến hoạt động đóng góp từ thiện của các đoàn thể thông
Tờ rơi thông báo
Họp
Loa
Hội thi/hội diễn/cuộc vận động
Khác
Không biết
76.7
68.4
67
66
55.8
40.8
26.2
24.8
21.8
21.4
20.4
19.9
17
17
11.7
8.3
7.3
6.8
6.3
5.8
5.8
5.3
5.3
4.9
4.9
4.4
4.4
2.4
0.5
0.5
90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
MTTQ
Hội Nông dân
Hội Phụ nữ
Hội Cựu chiến binh
Đoàn Thanh niên
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016
qua các hình thức (%)
Hoạt động đóng góp từ thiện của MTTQ, hội CCB và đoàn TN là 3 tổ chức ít
được người dân biết đến nhất (tỷ lệ không biết là trên dưới 70%), trong khi tỷ lệ người
dân biết hoạt động từ thiện của Hội Phụ nữ cũng như Hội Nông dân đều cao hơn đáng
127
kể. Trong khi đó, thông qua báo cáo hàng năm của các đoàn thể đều có những thống
kê về kết quả các hoạt động quyên góp, ủng hộ của các tổ chức. Điều này đặt ra vấn
đề về hiệu quả trong công tác tuyên truyền của 3 tổ chức này tại địa phương khảo sát,
đặc biệt đối với MTTQ. Bởi đối với hoạt động đóng góp từ thiện/hỗ trợ người gặp
hoàn cảnh khó khăn thì vai trò của MTTQ khá rõ ràng thể hiện thông qua một số văn
bản pháp luật chỉ rõ nhiệm vụ và vai trò của tổ chức này (Chỉ thị số 1869/CT-TTg
ngày 10/10/201028; Điều 5 Nghị định 64/2008/NĐ-CP ngày 14/5/200829; Nghị quyết
liên tịch số 88/NQLT/CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 07/10/2016 của Chính phủ và
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam30; Quyết định số
1258/QĐ-TTg ngày 21/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ31; Hướng dẫn số 88/HD-
MTTW-BTT ngày 22/9/201732; v.v). Nhưng với kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ lớn
người dân không biết đến các hoạt động này phản ánh thực tế công tác tuyên truyền
trong các hoạt động thiện nguyện của MTTQ tại các địa phương có vẻ như không
đem lại hiệu quả theo cách nhìn từ phía người dân. Hoặc cũng có thể giải thích bởi tổ
chức này đóng vai trò “chỉ đạo” chung để các tổ chức thành viên (như hội ND,
PN,v.v.) thực hiện do vậy mà người dân thấy được “dấu ấn” của các tổ chức còn lại
nhiều hơn. Trong khi đó, tỷ lệ người dân biết đến hoạt động từ thiện của Hội Nông
dân và Hội Phụ nữ thông qua các cuộc họp của đoàn thể chiếm tới 66% và 55,8%,
cao hơn nhiều so với tỷ lệ biết qua loa truyền thanh (21,8% và 21,4%) cũng như các
hình thức khác. Điều đó cho thấy, cách thức truyền thông qua các cuộc họp vẫn đạt
được hiệu quả tốt nhất so với các hình thức khác mặc dù đã có rất nhiều ý kiến cho
rằng tham các cuộc họp mất thời gian, người dân không thích đi họp, v.v. Kết quả
khảo sát này cho thấy, tổ chức các cuộc họp để tuyên truyền, vận động vẫn là một
kênh hiệu quả và phù hợp với khu vực nông thôn hiện nay, nơi mà người dân mong
28 Về việc duy trì và mở rộng cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” 29 Về vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân khắc phục khó khăn do thiên tai, hoả hoạn, sự cố nghiêm trọng, các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo 30 Về phối hợp thực hiện giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh 31 Về ban hành Kế hoạch tổ chức phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” 32 Tổ chức hoạt động tháng cao điểm “Vì người nghèo”từ 17 tháng 10 đến 18 tháng 11 năm 2017
128
muốn được chia sẻ, được có tiếng nói, được cung cấp thông tin và quan trọng hơn đó
là nơi người ta được khẳng định giá trị bản thân “chúng tôi phải có ý kiến của mình
chứ, dân bây giờ cũng được ăn học cũng biết nhiều không phải như ngày xưa, họp là
để bà con nói ý kiến chứ đâu phải chỉ để nghe mỗi các ông nói” (PVS nam, 1967,
người dân, Tuyên Quang). Điều đó cho thấy, các cuộc họp vẫn là hình thức truyền
thông phổ biến nhất thu hút được người dân ở nhiều khu vực nông thôn hiện nay.
Hình thức người dân tham gia các hoạt động từ thiện hiện nay do các đoàn thể
phát động không đa dạng. Trong số 4 hình thức gồm tiền măt, hiện vât, ngày công và
tư vấn thì người dân tại địa phương khảo sát chỉ sử dụng hai hình thức đó là tiền mặt
và ngày công trong đó tiền mặt chiếm tỷ lệ chủ yếu (66%) do nhanh gọn, tiện lợi và
không mất nhiều thời gian. Về cơ bản thì tỷ lệ đóng góp ở Cà Mau thấp hơn nhiều so
với Tuyên Quang. Mặc dù hình thức ủng hộ bằng tiền mặt ở Cà Mau là cao nhất so
với các hình thức khác (33,2% trong khi tỷ lệ không ủng hộ chiếm tới 66,3%) nhưng
nếu so sánh tương quan hình thức này ở hai tỉnh thì tỷ lệ ở Cà Mau kém Tuyên Quang
tới 49,6 điểm phần trăm). Tuyên Quang có xu hướng ủng hộ tiền mặt (74,8%) trong
khi đó Cà Mau xu hướng này là không đáng kể (Chi-Square= 189,765; df= 1;
p<0,001; Phi= 0,690; p<0,001), tình hình tương tự đối với hình thức ủng hộ bằng
ngày công. Điều đó cho thấy công tác tuyên truyền, vận động ở Cà Mau trong hoạt
động từ thiện có vẻ như chưa thực sự hiệu quả. Có thể do: i) dân trí còn hạn chế mặc
dù trong khảo sát này trình độ học vấn của NTL với việc tham gia ủng hộ từ thiện của
họ không có mối liên hệ rõ; ii) Cách thức tuyên truyền, vận động của các đoàn thể
còn kém hiệu quả và vì thế mà người ta phải có những “cách riêng” để người dân ủng
hộ các quỹ từ thiện. Người dân khi đến nhận BHYT của hội PN được yêu cầu nộp
100.000đ mới được phát thẻ (trong khi địa phương thuộc diện ưu đãi – xã nằm trong
chương trình 135 của Chính phủ nên được phát thẻ BHYT miễn phí). Họ đồng ý nộp
vì cho rằng đó là tiền đóng thêm để có được thẻ BHYT. Tuy nhiên khi tìm hiểu thì
đây là cách mà chi hội PN làm để thu được tiền ủng hộ các loại quỹ theo yêu cầu của
xã (5 loại quỹ như đã kể ở trên) bởi “chỉ có cách này mới có thể lấy được tiền ủng hộ
của bà con cho các loại quỹ thôi” (PVS nữ, 1972, cán bộ, Cà Mau). Điều đó cho thấy
129
sự thiếu minh bạch và rõ ràng trong quyên góp, ủng hộ hiện nay của các đoàn thể;
cách thức vận động còn hạn chế, không thu hút được người dân. Để có thể thu được
số tiền ủng hộ theo đúng chỉ tiêu (từ xã đưa xuống) các tổ chức này sẵn sàng thu theo
nhiều cách kể cả ở những cách phi chính thức và thậm chí là sai phạm. Nó cũng đặt
ra vấn đề “bản chất” của hoạt động đóng góp các quỹ hỗ trợ hiện nay, nó không còn
mang ý nghĩa “tự nguyện” như ở cấp trung ương đưa ra mà biến thành “bắt buộc” ở
cấp địa phương. Và ở dưới địa phương, chính quyền và đoàn thể mà cụ thể ở đây
trong quá trình nghiên cứu của chúng tôi cho thấy “đoàn thể” đã vượt quá thẩm quyền
trong hoạt động vận động ủng hộ từ thiện. Họ tự cho phép mình đưa ra các quy định
nhằm đặt được kết quả là thu được đủ nguồn kinh phí theo “khoán” của UBND xã
đối với chính quyền và đoàn thể thôn/ấp. Trong khi cơ quan có đủ thẩm quyền đưa ra
các yêu cầu, quy định là chính quyền lại không làm việc này, có thể họ cố tình lờ đi.
Và như thế trong tình huống như thế này người ta dễ nhìn nhận vai trò của các tổ chức
đoàn thể không còn là “ngang cấp” với chính quyền theo đúng bản chất của mối quan
hệ giữa các cơ quan, tổ chức này với nhau nữa, nó gần giống với mối quan hệ giữa
cấp trên và cấp dưới nhiều hơn. Thêm nữa, các tổ chức CT-XH cho thấy họ đang
đánh mất đi nguyên tắc trong hoạt động của mình, đó là nguyên tắc vận động, tuyên
truyền đang bị mất đi và thay vào đó là cách thức áp đặt người dân tuân thủ. Điều đó
sẽ làm ảnh hưởng rất lớn tới hình ảnh và tiếng nói của các tổ chức này đối với người
dân. Một tổ chức xây dựng được sự tin tưởng và sự công nhận của các thành viên thì
đó sẽ là phương tiện tốt nhất đạt được các mục tiêu của tổ chức. Đó chính là ưu điểm
của mô hình tổ chức thư lại mà Scott đã đề cập, nó khác hẳn so với mô hình tổ chức
truyền thống. Những với cách thức vận động của một số tổ chức đoàn thể như đã
phân tích ở trên cho thấy, các tổ chức này dường như chưa bắt kịp được với sự biến
đổi hiện nay. Sự thay đổi từ cách thức quản lý hành chính quan liêu bao cấp đã nhường
chỗ cho sự quản lý và hoạt đông theo nền kinh tế thị trường với những nhiệm vụ cùng
những vai trò chuyên biệt và tuân thủ sự quản lý của pháp luật.
Với cách thức tuyên truyền, vận động của mình các đoàn thể đang hướng hoạt
130
động quyên góp từ thiện đến với các nhóm đối tượng khác nhau.
Bảng 4.1. Các hình thức ủng hộ từ thiện theo các nhóm (%)
Ngày công
Tư vấn
Hiện vật
Không ủng hộ
Tiền mặt
Thu nhập
Nghề nghiệp
26,2 39,4 34,4 87,5 12,5 50,8 49,2
42,9 57,1 0 100 0 85,7 14,3
0 0 0 0 0 0 0
0 0 0 0 0 0 0
Hình thức khác 11,1 22,2 66,7 81,2 18,8 11,1 88,9
12,7 22,6 64,7 74,7 25,3 14,2 85,8
thành
Đoàn thể
Cao Trung bình Thấp Nông nghiệp Phi nông nghiệp Thành viên Không là viên Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016.
Bên cạnh cách thức tuyên truyền, vận động của mình, các đoàn thể cũng cần
phải quan tâm tới các đặc điểm mang tính chất riêng của các cá nhân, nhóm, cộng
đồng nhằm đảm bảo hiệu quả trong hoạt động vận động quyên góp. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, những người có thu nhập thấp có xu hướng ủng hộ tiền mặt hơn người
có thu nhập cao (Cramer’s V=0,291; p<0,05), trong khi nhóm thu nhập cao có xu
hướng ủng hộ ngày công (42,9% ở nhóm thu nhập cao nhất và 0% ở nhóm thu nhập
thấp nhất với Cramer’s V=0,122; p<0,01). Nhóm thành viên đoàn thể có tỷ lệ ủng hộ
bằng ngày công cao hơn 85,7% (Chi-Square= 6,762; df=1; p<0,05), trong khi tỷ lệ
ủng hộ bằng tiền mặt không có sự khác biệt.
Có tới 31,8% người được hỏi không ủng hộ dưới bất cứ hình thức nào , có nhiều
lý do dẫn tới tỷ lệ này: thu nhập (Cramer’s V=0,285; p<0,05); nghề nghiệp (Cramer’s
V=0,163; p<0,05); không phải là thành viên đoàn thể (Cramer’s V=0,353; p<0,05);
địa phương sinh sống (Cramer’s V=0,688; p<0,05). Phần lớn trong số họ là người
thuộc nhóm nghèo (64,7%), đang làm nông nghiệp (74,7%), không là thành viên đoàn
thể (85,8%). Người dân không ủng hộ thông qua kênh đoàn thể bởi phần lớn họ ủng
hộ thông qua chính quyền (51,2%), do họ không được huy động đóng góp ủng hộ
(25,6%), hay không biết có hoạt động ủng hộ (18,6%). Người dân Cà Mau có tỷ lệ
không ủng hộ cao hơn hẳn so với Tuyên Quang (98,5%) bởi ở Cà Mau tỷ lệ người
131
dân tham gia các đoàn thể không cao so với địa phương khảo sát còn lại.
Việc nhiều người dân không tham gia hoạt động thiện nguyện của các tổ chức
TC - XH cho thấy sự hạn chế trong vận động, tuyên truyền của các tổ chức này. Điều
đó cho thấy bên cạnh việc nói tới hiệu quả của phương thức tuyên truyền các hoạt
động thiện nguyện của đoàn thể thì yếu tố địa phương, các đặc điểm của cá nhân của
cư dân nông thôn tác động mạnh mẽ tới hình thức tham gia các hoạt động này. Vì thế,
đòi hỏi các tổ chức CT-XH cần có những biện pháp hướng tới các nhóm cụ thể với
những mục đích rõ ràng thì mới có thể đem lại hiệu quả trong công tác vận động,
tuyên truyền. Việc người dân chọn qua kênh ủng hộ của chính quyền đặt ra vấn đề
vai trò của các tổ chức này trong hoạt động ủng hộ, từ thiện tại địa phương. Có thực
sự cần thiết cấp vai trò cho các tổ chức đoàn thể trong hoạt động từ thiện tại địa
phương khi mà bản thân các tổ chức này chưa cho thấy “sức hút” của mình đối với
những người tham gia các hoạt động thiện nguyên? Bởi khi một cơ quan/tổ chức được
cấp phép một hoạt động điều đó đồng nghĩa với việc người ta nhìn thấy tiềm năng
phát triển hoặc bản thân cơ quan/tổ chức đã và đang chứng minh được vai trò của
mình trong hoạt động đó. Với các đoàn thể, việc người dân không dành cho họ nhiều
lựa chọn đối với hoạt động thiện nguyện cũng là một hướng cần phải xem xét và suy
nghĩ về tính hiệu quả trong hoạt động tham gia vận động, tuyên truyền quyên góp ủng
hộ từ thiện của các tổ chức này. Đây chưa chắc đã là một kênh có sức hút thật sự đối
với những người tham gia hoạt động ủng hộ, quyên góp và điều đó đồng nghĩa với
việc sẽ không thể huy động được nhiều sự tham gia của các đối tác trong xã hội, ảnh
hưởng trực tiếp tới hiệu quả của chương trình. Và khi mà chính quyền (trưởng
thôn/ấp) cho thấy hiệu quả của hoạt động vận động ủng hộ (thông qua đánh giá của
người dân) thì nó cũng đặt ra vấn để cho thấy liệu có cần thiết vai trò của các đoàn
thể trong các hoạt động này. “cả đoàn đi vận động đông lắm mà có biết ai với ai đâu,
biết mỗi ông trưởng thôn, nghe ông ấy nói và cũng là tin ông ấy nên đóng thôi, mấy
người khác nói mình không biết họ làm sao dám nghe” (PVS nữ, 1976, người dân,
Cà Mau). Dùng đúng người/tổ chức phù hợp sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn thay vì sử
dụng một bộ máy cồng kềnh cho một hoạt động mà tính hiệu quả của bộ máy đó
132
không tốt so với một cá nhân, một bộ phận (trưởng thôn/ấp).
Quỹ Vì người nghèo với tháng hành động vì người nghèo được phát động hàng
năm vào ngày 17/10 và kết thúc vào ngày 18/11 hưởng ứng phong trào “Cả nước
chung tay vì người nghèo – Không để ai bỏ lại phía sau” có thể coi là một chương
trình lớn với vai trò đặc biệt quan trọng trong kêu gọi, phát động của Ủy ban Trung
ương MTTQ Việt Nam. Chương trình này hướng mục tiêu chính giảm nghèo và các
chương trình nhằm đảm bảo an sinh xã hội. Theo đó, “17 năm qua các doanh nghiệp,
cơ quan, đơn vị, các tổ chức quốc tế, người Việt Nam ở nước ngoài đã ủng hộ thông
qua Quỹ “Vì người nghèo” ở 4 cấp hơn 13.400 tỷ đồng và ủng hộ trực tiếp chương
trình an sinh xã hội ở các địa phương được hơn 36.213 tỷ đồng. Từ nguồn quỹ nói
trên và sự vận động các tổ chức thành viên, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đã phối
hợp với chính quyền địa phương hỗ trợ xây dựng 1.482.512 căn nhà Đại đoàn kết cho
hộ nghèo; đồng thời hỗ trợ hàng chục triệu lượt hộ nghèo về tư liệu sản xuất, hỗ trợ
hàng ngàn công trình dân sinh” [105]. Theo đó, các chương trình hỗ trợ đã được
chuyển về thông qua kênh chính quyền và đoàn thể và tổ chức thực thi chính sẽ là các
tổ chức đoàn thể “tùy từng năm như năm ngoái huyện hội cho hội phụ nữ xã một xuất
giúp đỡ hội viên nghèo, chúng tôi đã giúp một chị dựng nhà và có vốn làm ăn thêm…
phối hợp với chính quyền rà soát và chọn hộ” (PVS nữ, 1986, cán bộ, Cà Mau). Nếu
như vai trò của các đoàn thể ở cấp trung ương là vận động, điều phối thì với các đoàn
thể cấp cơ sở bên cạnh vận động họ còn là các tổ chức trợ giúp trực tiếp tới người
dân, biến các đóng góp chung thành các trợ giúp cụ thể và phù hợp với nhu cầu của
từng thành viên đoàn thể nói riêng và người dân nói chung. Tuy nhiên vì đối tượng
cần được trở giúp quá lớn “còn hơn 1,9 triệu hộ nghèo và hơn 1,3 triệu hộ cận nghèo
cần được giúp đỡ về nhà ở, giáo dục, dạy nghề, sinh kế nhằm ổn định cuộc sống,
vươn lên thoát nghèo. Cả nước có 90 huyện có tỷ lệ nghèo cao, 2 nghìn 139 xã đặc
biệt khó khăn” [49]. Do vậy mà hạn chế về độ bao phủ đối tượng thụ hưởng, kinh phí
thấp “vài năm mới có một lần đến đoàn thanh niên, không có thưởng xuyên đâu vì
huyện còn phải chia cho các xã khác nữa” (PVS nam, 1986, cán bộ, Tuyên Quang).
Nhìn chung các đoàn thể ở cấp địa phương thường đứng vai trò là cơ quan chịu trách
133
nhiệm thực hiện điều tiết quá trình hoạt động này và hỗ trợ người dân trong quá trình
tiến hành thực hiện các hoạt động tại địa phương (điều này sẽ được phân tích kỹ hơn
trong phần sau).
Một điều đáng lưu ý đó là các đối tượng như trẻ em, người già – những nhóm
yếu thế đặc biệt cần quan tâm thực sự chưa có được những hỗ trợ phù hợp và bền
vững do đây là những nhóm khá đặc trưng “những trợ giúp này đa phần đều lấy từ
Quỹ vì người nghèo nhưng chỉ mang tính chất tạm thời nhiều hơn vì như người gia
họ không có khả năng lao động nhà lại neo đơn không thể giúp họ sống tốt hơn lên
được mà chỉ có thể giúp họ đảm bảo cuộc sống ở mức tối thiểu thôi, gia đình họ cũng
phải có khả năng làm việc thì mới hỗ trợ, giúp đỡ được” (PVS nam, 1969, cán bộ,
Tuyên Quang). Điều đó cho thấy, các đoàn thể địa phương cho dù họ có thể tích cực
hoạt động đến mấy thì về cơ bản vẫn phải phụ thuộc vào khả năng lao động của người
cần hỗ trợ và gia đình họ. Đối với nhóm người yếu thế, thì rõ ràng gia đình vẫn sẽ là
phương thức an sinh quan trọng đối với họ. Nói như Trịnh Duy Luân thì gia đình là
mắt khâu hết sức quan trọng của hệ thống an sinh xã hội truyền thống cũng như hiện
đại. Ở đó, người già được chăm sóc cho tới lúc chết, trẻ em được nuôi nấng và được
xã hội hóa phần lớn trong gia đình. Gia đình chính là nhóm xã hội gần gũi nhất, có
khả năng đem lại những ảnh hưởng tích cực đến sự thích nghi với điều kiện sống mới
và vai trò mới đối với các thành viên đặc biệt là các nhóm yếu thế. Đó chính là một
dạng bảo hiểm xã hội của cư dân nông thôn [102]. Như thế, hoạt động trợ giúp người
dân đặc biệt các đối tượng yếu thế rất cần sự phối kết hợp của cả gia đình, đoàn thể,
cộng đồng và nhà nước mới có thể giúp họ có được cuộc sống tốt hơn một cách bền
vững. Các hỗ trợ hiện nay nếu có chăng hiệu quả chỉ mang tính chất tạm thời, thời
điểm mà thôi.
4.1.2. Trợ giúp thường xuyên ở cấp độ địa phương, tổ chức
Ở quy mô các tổ chức cho thấy, các đoàn thể hiện nay khá tích cực trong hoạt
động xây dựng các quỹ đóng góp để ủng hộ hội viên, thành viên và các gia đình gặp
khó khăn tại địa phương. Ngoài ra, cùng với nguồn hỗ trợ từ các đoàn thể cấp huyện,
tỉnh phối hợp cùng với nhân lực các tổ chức địa phương tiến hành nhiều hoạt động
134
hỗ trợ hội viên trong các tổ chức như: xây dựng nhà tình thương, giúp đỡ hộ nghèo
làm mới và sửa chữa nhà ở; phong trào “Nuôi lợn nhựa tiết kiệm”, “Ống tre tiết kiệm”,
“Ngôi nhà 100 đồng” “10 trong 1”; trao học bổng cho học sinh nghèo; thành lập các
quỹ/tổ như: quỹ hùn vốn, quỹ hỗ trợ nông dân, quỹ người nghèo tại thôn; v.v. Có thể
bằng nhiều hình thức: tiền mặt, quần áo, ngày công, v.v. Tại các địa phương hiện nay,
hàng loạt các quỹ hay các hình thức hỗ trợ hội viên được các tổ chức xây dựng và
phát triển khá mạnh mẽ. Sự ra đời của các phong trào, các quỹ hay các chương trình
hỗ trợ thành viên tại các tổ chức có thể coi là một trong những cách thức thu hút thành
viên quan trọng của các đoàn thể này. Với nguyên tắc lấy số lượng (hội viên) bù chất
lượng (kinh phí), các chương trình, phong trào ủng hộ, quyên góp tại các tổ chức đoàn
thể đang áp dụng một cách khá hiệu quả nguyên tắc này. Theo đó, chỉ với số lượng
vốn đóng góp ít hỏi của hội viên như bù lại bởi số lượng đông đảo người tham gia mà
các hội viên đều có cơ hội tiếp cận với một số vốn không nhỏ phục vụ cho hoạt động
sản xuất hay đáp ứng đời sống của hộ gia đình.
Hộp 4.1. Mô hình hỗ trợ hội viên của Hội Phụ nữ
- Mô hình “ Ngôi nhà 100 đồng”: tận dụng những chai nước, vật dụng xài trong gia đình gom lại để bán lấy tiền cho chị em trong tổ mượn xoay vòng để thực hiện mô hình (có 17 thành viên thực hiện tại ấp 5); - Mô hình “10 trong 1”: 10 chị phụ nữ hùn vốn mỗi chị 50 ngàn đồng giúp 1 chị hộ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn để thực hiện mô hình (11 thành viên thực hiện ấp 5) (Hội LHPN xã Khánh Hòa, 2017); - Tổ vốn nội lực được xây dựng cho hội viên vay với mức lãi 0%, trong khi tổ vốn tăng dần với mức lãi từ 1-2% và đến nay, số vốn đã lên tới 460 triệu. Cách thức cho hội viên vay như sau: với số tiền 460 triệu có được trong tháng này, tổ trưởng sẽ căn cứ vào như cầu vay của các thành viên và chia đều cho từng người. Và như thế, số tiền được vay của mỗi hội viên ở mỗi thời điểm sẽ khác nhau, phụ thuộc vào số tiền còn trong quỹ cũng như số người xin vay. Với mỗi tổ này, mức đóng phí của họ mỗi tháng khá cao từ 200-500 nghìn đồng. Mỗi ấp, có thể có 1 hoặc vài ba tổ vay vốn như vậy, số lượng các tổ được thành lập nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng cũng như sự năng động, nhiệt tình của chi hội trưởng các hội.
(Nguyễn Thanh Thủy, 2017). Mặc dù có thể có rất nhiều cách thức hoạt động khác nhau nhưng các mô hình
này đều có một nguyên tắc chung đó là chỉ hướng tới phục vụ đối tượng là các thành
viên tổ chức để hỗ trợ họ phát triển kinh tế, đảm bảo cuộc sống tốt hơn. Đặt trong bối
135
cảnh xã hội nông thôn khi mà mức sống người dân còn thấp, nhu cầu vay vốn để phát
triển sản xuất và nâng cao đời sống còn khá lớn, trong khi các hình thức vay vốn từ
ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế (tuân thủ các điều kiện về tài sản, thời gian, thủ tục,
v.v.). Trong khi đó, ở nông thôn hiện nay, trợ giúp về tiền bạc từ phía gia đình chưa
phải là một kênh trợ giúp quan trọng nhất đối với mỗi thành viên khi gặp khó khăn.
Bởi với người dân ở những vùng nông thôn thì việc có trong nhà một khoản tiền để
dành những lúc gặp rủi ro trong cuộc sống là việc làm không dễ. Tuy nhiên, với tính
chất kịp thời, nhanh chóng mà sự trợ giúp từ phía các thành viên trong gia đình, họ
hàng lại là một ưu thế và điều quan trọng họ có thời gian để lùi thời gian trả các khoản
nợ đó mà không phải lo trả lãi, lo bị đòi nợ… [6]. Vì thế, đây là kênh trợ giúp được
không ít người sử dụng khi gặp khó khăn. Tất nhiên sự trợ giúp này đa phần với quy
mô và mức độ nhỏ, người trợ giúp và người được trợ giúp hỗ trợ mang tính thời điểm
nhiều hơn. Người dân vẫn dựa nhiều vào các quan hệ truyền thống nhất là mạng lưới
các quan hệ gia đình và dòng họ để tìm sự trợ giúp khi gặp rủi ro. Trong khi đó các
nguồn vốn vay từ các mô hình, tổ tiết kiệm, tổ vay vốn của các đoàn thể với đặc tính
lính hoạt, tức thời, quy mô nguồn vốn lớn sẽ là sức hút quan trọng, đáp ứng nhu cầu
của người dân. Đó sẽ là sự bù đắp thích hợp và cần thiết cho những thiếu hụt, hạn chế
về độ bao phủ hiện nay của các chương trình vay vốn từ nhà nước và của hệ thống an
sinh phi chính thức. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, thái độ này
đối với việc đề phòng rủi ro có thể tỏ ra không hiệu quả, đặc biệt đối với hàng vạn
người di cư từ các vùng nông thôn ra các đô thị tìm cơ hội việc làm và sinh kế. Họ sẽ
mất đi sự hỗ trợ quan trọng và trực tiếp của gia đình, dòng họ và các tổ chức đoàn thể
trong khi chưa có hiểu biết, thông tin và mong muốn tham gia các hình thức bảo hiểm
hiện đại [110].
Bên cạnh hỗ trợ về kinh phí, các tổ chức đoàn thể cho thấy sự đa dạng trong
cách thức trợ giúp của mình có thể bằng ngày công, bằng hiện vật, v.v. “Bà con nông
dân tự nguyên giúp nhau hơn 500 ngày công lao động và hỗ trợ cây, con giống trị
giá trên 6 triệu đồng” [38]. Với các hình thức hỗ trợ này thì đối tượng được thụ hưởng
136
phong phú hơn, có thể là thành viên tổ chức nhưng cũng có thể không phải là thành
viên. Bởi mục tiêu trong các hoạt động này của các đoàn thể là hướng tới cộng đồng,
trợ giúp xã hội đối với các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.
Đây là một trong số nhiều mô hình hỗ trợ được thực hiện ở các tổ chức đoàn
thể hiện nay như hội ND, hội PN và đoàn TN. Cách thức thực hiện cũng tương tự
nhau, đối tượng hướng đến ở đây đa dạng hơn so với các quỹ/tổ vay vốn đã nói ở
phần trên. Bên cạnh hội viên các tổ chức thì hoạt động này cũng hướng đến nhóm đối
tượng rộng hơn, người được thụ hưởng là những người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn
cần giúp đỡ trong cộng đồng. Lợi thế của các tổ chức đoàn thể trong hoạt động này
đó là do có cơ sở chi hội ở cấp thôn/ấp nên các tổ chức có thể nắm được tình hình
người dân một cách cụ thể, rõ ràng. Thêm nữa sự phối hợp chặt chẽ với cấp chính
quyền (trưởng thôn/ấp) cho phép các tổ chức này có điều kiện nắm bắt được thông
tin tại địa bàn tốt từ đó có thể có được những hỗ trợ hợp lý, đúng đối tượng cần được
quan tâm, trợ giúp.
Hoạt động hỗ trợ, trợ giúp tại cộng đồng ở quy mô các tổ chức cho thấy những
lợi thế không thể phủ nhận của các tổ chức CT-XH so với các cơ quan/tổ chức khác.
Với đặc tính gần dân, quy mô rộng về tổ chức và số lượng hội viên đông đảo nên các
tổ chức này nên đảm bảo tính chính xác và cập nhật của thông tin trong hoạt động
bảo trợ cộng đồng. Tham gia vào các tổ chức người ta có nhiều cơ hội tiếp cận các
chương trình hỗ trợ, trợ giúp nhằm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. Thêm nữa,
sự mở rộng các chương trình hỗ trợ đến với các đối tượng, các nhóm yếu thế tại cộng
đồng chính là động lực và sức hút mạnh mẽ tới những người chưa tham gia vào các
tổ chức. Các đoàn thể cho thấy lợi ích cụ thể, rõ ràng mà người ta có cơ hội được thu
hưởng khi tham gia vào các tổ chức. Đó có thể coi là bước tiến quan trọng trong
phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể hiện nay, gần với nhu cầu của người
dân và gắn với thực tiễn nhiều hơn.
4.2. Trợ giúp xã hội đột xuất Trợ giúp xã hội đột xuất có thể hiểu đó là sự hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất và các
137
điều kiện sinh sống khác của Nhà nước cho các đối tượng gặp khó khăn do hậu quả
của thiên tai hoặc điều kiện sống gây ra với những lý do bất khả kháng. Những khó
khăn của họ chỉ mang tính chất tạm thời, ngắn hạn và thông thường là trợ giúp một
lần. Sự trợ giúp này có thể được thực hiện thông qua các cơ quan, tổ chức dưới sự chỉ
đạo, điều tiết của Nhà nước. Mục đích của sự trợ giúp này nhằm giúp đối tượng bị rủi
ro vượt qua khó khăn tạm thời để sớm ổn định cuộc sống và phát triển sản xuất. Con
số 1,8 triệu hộ gia đình cần được trợ giúp đột xuất hàng năm do thiên tai, hỏa hoạn,
mất mùa cho thấy gánh nặng của chính sách trợ giúp đột xuất hiện nay. Thiên tai tiếp
tục là vấn đề mà người dân gặp khó khăn và gây ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của
cư dân nông thôn. Thống kê tại xã Khánh Hòa – 1 trong 4 xã nghiên cứu từ năm 2013-
2016 cho thấy, do đặc trưng địa bàn xã nằm trên địa bàn hay gặp bão nên vấn đề nhà
ở của người dân ở đây đặc biệt gặp khó khăn mỗi khi mùa bão về
140
128
120
104
100
80
62
54
60
56
40
15
12
20
11
9
2
0 4
0
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2013
Nhà sập
Nhà tốc mái
Tiền hỗ trợ (triệu đồng)
Nguồn: Báo cáo xã Khánh Hòa 2013-2016
Biểu 4.6. Trợ giúp các hộ gia đình xã Khánh Hòa, tỉnh Cà Mau gặp vấn đề nhà ở
Do xã Khánh Hòa là xã nằm khá gần với vùng biển Cà Mau do vậy bão biển
luôn ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người dân. Vì vậy trợ giúp đột xuất cho
người dân nhằm chống lại sự khắc nghiệt của thiên tai luôn là một trong những hạng
mục không thể thiếu trong các duyệt toán của UBND tỉnh này hàng năm. Theo đó,
kinh phí trợ giúp cho bà con trong các trường hợp bị sập, tốc mái hay một vài trường
hợp hỏa hoạn luôn được lưu ý “mỗi năm mất nhiều kinh phí cho hỗ trợ này lắm, bão
138
biển làm nhà bà con bị mất hoàn toàn, nhẹ hơn thì tốc mái v.v nói chung kinh phí
ngoài trên tỉnh, huyện hỗ trợ thì chính quyền phải cắt nguồn kinh phí hàng năm. Vì
đây là đặc trưng ở Khánh Hòa nên gần như thường xuyên năm nào cũng có hộ phải
hỗ trợ. Kinh phí có chính quyền lo nhưng thực hiện thì phải đưa cho bên đoàn thanh
niên họ có sức trẻ. Ngoài ra đưa về bên hội nông dân hay cựu chiến binh cũng được
vì họ có người có thể làm hoặc không thì huy động người, có uy tín mà” (PVS nam,
1978, cán bộ, Cà Mau). Thông qua các đoàn thể để huy động sự ủng hộ vật chất và
sức người chính là cách thức được các chính quyền địa phương sử dụng hiện nay
trong việc thực hiện các chính sách xã hội đặc biệt trong các hoạt động trợ giúp xã
hội mang tính đột xuất. Trong số các tổ chức đoàn thể thì đoàn TN được coi là tổ
chức đi đầu trong các hoạt động huy động này. Bởi đây là tổ chức có độ tuổi trung
bình trẻ nhất so với các tổ chức đoàn thể còn lại và các hoạt động trợ giúp đột xuất
thường đòi hỏi sự nhanh chóng và có sức khỏe điều này hoàn toàn phù hợp với thanh
niên.
Hộp 4.2. Mô hình hỗ trợ xây nhà cho hộ gia đình nghèo của Đoàn Thanh niên
Khi có thông tin của huyện đoàn phân bổ hỗ trợ thì có tiến hành họp đoàn xã
và các đồng chí bí thư chi đoàn để rà soát: đi tất cả các thôn bản lựa chọn các hộ
gia đình, có báo cáo với Đảng ủy, Ủy ban, xem lựa chọn hộ nào với những tiêu
chuẩn như trên đưa ra, có quy trình làm hẳn hoi. Sau khi rà soát báo cáo lên huyện
đoàn xem hộ này có đạt tiêu chuẩn hay không, huyện đoàn có cử cán bộ xuống
khảo sát và sau đó có quyết định hỗ trợ. Huyện đoàn đưa ra mốc thời gian để hoàn
thành, xã đoàn họp với hộ gia đình sắp xếp thời gian làm móng, đặt mái. Hỗ trợ
xây nhà đảm bảo “3 cứng”: tường cứng, nền cứng, mái cứng đảm bảo niên hạn sử
dụng 20 năm trở lên còn quy cách xây nhà do chủ nhà và mức hỗ trợ là 20 triệu chi
làm 2 đợt, mỗi đợt 10 triệu. Đợt đầu dùng để mua nguyên, vật liệu còn ngày công đoàn xã giúp đỡ cùng với 1 số anh em trong hộ gia đình. Thường là do chủ nhà ứng ra trước 10 triệu còn lại để làm nốt, sau khi hoàn thành nhà huyện đoàn đưa nốt 10 triệu. Nhưng vì hộ gia đình quá khó khăn không có tiền nên đoàn xã mà đứng đầu là bí thư đứng ra chịu trách nhiệm nợ của cửa hàng vật tư ứng trước vật liệu để xây cho xong. Phải có trao đổi với chủ nhà và được họ đồng ý sẽ trả khi nhận được số tiền còn lại. Tuy
139
vậy, 10 triệu sau cũng không đủ nhưng vì đoàn thanh niên có phụ trách vay vốn từ
NHCS nên chỉ đạo một tổ vay vốn hỗ trợ cho gia đình vay theo chính sách của nhà nước được vay 25 triệu đồng nữa. Hộ gia đình thêm tiền có tiền để trả xây nhà và
mua thêm được một con nghé. Bọn em còn tự quyên góp thêm ít quần áo mùa đông
cho con nhà này nữa, chứ bọn trẻ con có quần áo mặc đâu, trông chúng nó tội lắm.
(PVS nam, 1986, cán bộ, Tuyên Quang).
Với đặc trưng của mình, các tổ chức đoàn thể cho thấy họ có lợi thế trong các
hoạt động trợ giúp đặc biệt trong các hoạt động trợ giúp đột xuất. Với quy mô thành
viên lớn, thành phần lứa tuổi đa dạng do vậy sự kêu gọi, hỗ trợ từ các tổ chức này
thực sự đem lại hiệu quả. Nhưng có một thực tế cho thấy, các hoạt động trợ giúp đột
xuất của các đoàn thể nói riêng và của nhà nước nói chung đa phần mới chỉ tập trung
chủ yếu cho đối tượng bị rủi ro thiên tai: tốc mái, sập nhà do bão lũ, hạn hán, biến đổi
khí hậu, v.v. trong khi đó các đối tượng bị rủi ro về kinh tế, xã hội lại chưa được quan
tâm chú trọng nhiều [19]. Điều đó dẫn tới độ bao phủ của hoạt động trợ giúp này còn
thấp. Thêm nữa sự hỗ trợ từ phía nhà nước cũng tác động tới diện bao phủ của chính
sách này khi mà phần lớn sự trợ giúp đột xuất này mới chỉ hỗ trợ được 1/5 thiệt hại
của người dân [19]. Vì thế kêu gọi sự trợ giúp không chỉ từ phía nhà nước, các tổ
chức mà cần thu hút sự hỗ trợ từ phía người dân. Hợp tác công tư trong các hoạt động
trợ giúp xã hội đặc biệt trong các trợ giúp đột xuất, có tính tức thời là một giải pháp
cần lưu ý. Sự vào cuộc của các tổ chức, cá nhận sẽ góp phần nâng hiệu quả của các
sự hỗ trợ này. Điều này là hoàn toàn hợp lý trong bối cảnh hiện nay nhằm hướng tới
tính thị trường, hiện đại của hệ thống an sinh xã hội Việt Nam. Sự vào cuộc một cách
mạnh mẽ, tự chủ của các tổ chức (bao gồm các tổ chức CTXH) và cá nhân trong xã
hội là hoàn toàn cần thiết để xây dựng một hệ thống an sinh xã hội đa dạng với nhiều
tầng nấc nhằm bảo vệ người thụ hưởng.
Tại địa bàn khảo sát, nếu như tiền là hình thức lựa chọn chính trong các hoạt
động trợ giúp thường xuyên (đóng góp ủng hộ các quỹ từ trung ương đến địa phương
và tổ chức) thì với các hoạt động trợ giúp mang tính chất thời điểm đòi hỏi sự nhanh
chóng và hiệu quả lại thu hút các hình thức ủng hộ bằng tiền (95%) và ngày công
140
(92,8%). Ngày công chiếm tỷ lệ khá lớn tại các tổ chức nổi bật lên là đoàn TN (85,4%)
và hội ND (82,4%) và không có sự khác biệt giữa Tuyên Quang và Cà Mau trong
hoạt động này. Tuy vậy nếu xét về tổng thể thì người dân đóng góp thông qua các
đoàn thể ở Tuyên Quang chủ yếu bằng tiền mặt trong khi ở Cà Mau có xu hướng ủng
hộ thông qua ngày công. Như vậy bên cạnh vai trò của chính quyền trong các hoạt
động quyên góp ủng hộ có tính đột xuất thì các tổ chức đoàn thể cũng cho thấy sự
tích cực của mình trong hoạt động này và vai trò đó đã được người dân ghi nhận một
cách khá rõ nét. Nó khác biệt so với sự ghi nhận kém hơn ở các hoạt động trợ giúp
thường xuyên.
Phần lớn người dân chủ yếu chỉ thấy được vai trò của hội PN (38,7%) và hội
ND (37,6%) tham gia trong vai trò là tổ chức kêu gọi đóng góp từ thiện trong khi các
đoàn thể khác chiếm tỷ lệ thấp (dưới 10%) “mấy cái ủng hộ này em chỉ thấy mấy chị
bên phụ nữ lúc thì bên nông dân đi vận động, ủng hộ thôi. Khi nào có bão hoặc có
cái gì đấy mà bị thiệt hại nặng cho bà con ở đây thì thấy họ đi vận động” (PVS nữ,
1976, người dân, Tuyên Quang). Điểm đáng lưu ý, dù chính quyền hay các đoàn thể
đứng ra vận động thì người người dân ở Tuyên Quang lại đánh giá cao vai trò này
hơn so với Cà Mau. Người dân Cà Mau đánh gia cao vai trò của chính quyền trong
việc phát động các chương trình quyên góp, ủng hộ đột xuất trong khi người dân ở
141
Tuyên Quang lại đánh giá cao vai trò của các đoàn thể
120
97
100
88.3
86
83.7
80
71.4
57.1
60
53.3
46.7
42.9
40
28.6
16.3
14
20
11.7
3
0
Chính quyền
MTTQ
Hội PN
Hội ND
Hội CCB
Đoàn TN
Khác
Tuyên Quang
Cà Mau
Nguồn: Kết quả khảo sát đề tài, 2016.
Biểu 4.7. Người dân đánh giá vai trò tổ chức các chương trình ủng hộ, quyên góp của chính quyền và đoàn thể
Sự chênh lệch đáng kể giữa 2 địa phương trong đánh giá vai trò của các tổ
chức đoàn thể ở hoạt động tổ chức quyên góp, ủng hộ chưa hẳn thể hiện chất lượng
hoạt động của các đoàn thể ở Tuyên Quang tốt hơn so với Cà Mau. Nó chỉ cho thấy
dấu ấn của các đoàn thể trong các hoạt động tổ chức ủng hộ, quyên góp ở Tuyên
Quang rõ nét hơn so với Cà Mau. Điều đó là rất cần thiết nhằm tạo ra động lực thu
hút sự tham gia của người dân vào các đoàn thể một cách mạnh mẽ hơn. Có lẽ sự
khác biệt này chính là do cung cách hành xử khác nhau giữa 2 miền. Trong khi miền
bắc có xu hướng tham gia các hoạt động từ thiện thông qua các tổ chức có tư cách
pháp lý chính thống như chính quyền, các tổ chức đoàn thể. Trong khi ở miền nam
người dân có xu hướng tự thành lập các nhóm, tổ chức từ thiện có tính chất “tư nhân”
hơn là “nhà nước” như ở miền bắc [13], [21], [22]. Điều này cũng đã được nhắc đến
trong các nghiên cứu “người ta thường nhắc đến các “mạnh thường quân” tại địa
phương. “Mạnh thường quân” là người có tâm huyết, có điều kiện về kinh tế, uy tín
xã hội…đứng ra tập hợp một số nhỏ các thành viên khác để gây quỹ, thực hiện việc
hỗ trợ đến tận tay những người đáng được hưởng” [13]. Tuy vậy, các hoạt động này
142
trên thực tế còn nhiều hạn chế bởi tính chất nhỏ lẻ, chưa trở thành phong trào rộng
lớn. Đặt trong bối cảnh hiện nay khi mà các hoạt động hỗ trợ đột xuất còn mang tính
tự phát dẫn tới chồng chéo, nơi thừa nơi thiếu thì sự tham gia trợ giúp thông qua các
tổ chức có tính pháp lý như các đoàn thể vẫn rất cần thiết nhằm đảm bảo sự trợ giúp,
ủng hộ của người dân đến đúng người, đúng nơi thực sự có nhu cầu.
Tiểu kết chương 4
Trợ giúp xã hội trong cộng đồng là một trong các hoạt động quan trọng trong
hệ thống các chính sách xã hội hướng tới đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân đặc biệt
khu vực nông thôn. Từ những năm 90, Đảng đã chỉ ra vai trò quan trọng của việc huy
động các thành phần xã hội tham gia vào thực hiện các chính sách hỗ trợ cộng đồng,
cụ thể là “Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà
nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các
tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết
những vấn đề xã hội” [16]. Từ đó đến này, các cá nhân/tổ chức tham gia trong các
hoạt động trợ giúp cộng đồng khá phong phú, sôi nổi góp phần không nhỏ trong việc
hỗ trợ các nhóm yếu thế khi mà độ bao phủ của hệ thống an sinh nhà nước chưa thể
bao phủ tới. Trong bối cảnh đó sự tham gia của các tổ chức CT-XH với tư cách là
một trong những đối tác tham gia trợ giúp cộng đồng hướng đến đảm bảo an sinh xã
hội cho cư dân nông thôn là quan trọng và có ý nghĩa.
Thực tiễn nghiên cứu cho thấy vai trò của các tổ chức CT-XH trong các hoạt
động quyên góp, ủng hộ từ thiện (cho quỹ người nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ
tàn tật trẻ mồ côi,…) được thể hiện chủ yếu từ Hội Phụ nữ và Hội Nông dân, nhưng
với các tổ chức CT-XH khác thì còn khá mờ nhạt. Với số lượng lớn về hội viên và sự
đa dạng trong các hoạt động, Hội Phụ nữ và Hội Nông dân được người dân biết tới
nhiều hơn và điều đó giúp họ có được lợi thế hơn trong các hoạt động tuyên truyền
trong dân. Hình thức tuyên truyền phổ biến nhất vẫn là thông qua các cuộc họp do
các đoàn thể tổ chức, đặc biệt ở Cà Mau. Hình thức ủng hộ của người dân chủ yếu
thông qua tiền mặt và ngày công trong đó tỷ lệ lớn tập trung ở hình ủng hộ bằng tiền
mặt. Hình thức “khoán” từ ủy ban xuống đến chính quyền thôn/ấp và các đoàn thể
143
đang làm biến đổi bản chất của hoạt động đóng góp này, nó không còn mang ý nghĩa
“tự nguyện” như ở cấp trung ương đưa ra mà biến thành “bắt buộc” ở cấp địa phương.
Ở một khía cạnh khác, việc người dân lựa chọn hình thức ủng hộ thông qua kênh
chính quyền cho thấy, mặc dù là hoạt động tự nguyện nhưng chính quyền vẫn là nhân
tố có sức hút và giá trị ảnh hưởng tới người dân. Nó cũng phản ánh thực tế, hoạt động
của các tổ chức đoàn thể vẫn còn nhiền hạn chế do vậy không tập hợp được đông đảo
sự tham gia của người dân. Đây cũng là một trong số các chỉ báo quan trọng để đánh
giá tính hiệu quả và khả thi trong hoạt động thiện nguyện của các tổ chức CT-XH tại
cộng đồng hiện nay.
Các tổ chức CT-XH cho thấy sự đa dạng và phong phú về hình thức trợ giúp
trong nội tại các tổ chức. Hình thức trợ giúp vốn vay để phát triển sản xuất hay đảm
bảo đời sống thông qua các mô hình, tổ/nhóm tiết kiệm nhằm hướng đến đối tượng
thụ hưởng là thành viên các tổ chức. Trong khi đó các hình thức hỗ trợ ngày công,
hiện vật được các đoàn thể mở rộng đối tượng là những người nghèo, người cần hỗ
trợ tại cộng đồng. Với đặc trưng về quy mô tổ chức rộng lớn, số lượng thành viên
đông đảo nên các tổ chức cho thấy tính hiệu quả trong các hoạt động trợ giúp này.
Đặc tính gần gũi với người dân, nắm bắt thông tin tốt nên các hoạt động trợ giúp dành
cho những người trong và ngoài đoàn thể được các tổ chức thực hiện hiệu quả. Sự
mở rộng các chương trình hỗ trợ đến với các đối tượng, các nhóm yếu thế tại cộng
đồng chính là động lực và sức hút mạnh mẽ tới những người chưa tham gia vào các
tổ chức. Các tổ chức cho thấy bước tiến quan trọng trong phương thức hoạt động hiện
nay đó là gần với nhu cầu của người dân và gắn với thực tiễn nhiều hơn.
Thực tiễn hoạt động cho thấy các tổ chức CT-XH có những lợi thế và điểm
mạnh trong hoạt động trợ giúp cộng đồng thông qua các hoạt động diễn ra ở quy mô
địa phương đối với cả các trợ giúp thường xuyên và đột xuất. Trong khi đó ở quy mô
rộng hơn cho thấy tính hiệu quả không cao. Do vậy, nếu các đoàn thể tập trung phát
triển các hoạt động trực tiếp hỗ trợ cộng đồng tại địa phương thì có thể đem lại hiệu
144
quả tốt hơn so với việc tham gia một cách dàn trải.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” đặt mục tiêu đến năm
2020, Việt Nam cơ bản hình thành hệ thống ASXH bao phủ toàn dân. Điều đó đặt
gánh nặng lên vai của Nhà nước trong đó chịu trách nhiệm chính là Bộ LĐTB&XH.
Tuy nhiên, việc mở rộng và nâng cao mối quan hệ của nhà nước với các cơ quan, tổ
chức khác bên ngoài nhằm chia sẻ bớt gánh nặng này chưa được thực sự quan tâm.
Về mặt lý thuyết, với tư cách là tổ chức thu hút sự tham gia của đông đảo người dân,
các tổ chức CT-XH cho thấy họ có khá nhiều tiềm năng và lợi thế trong việc huy
động, tham gia và hỗ trợ người dân đảm bảo cuộc sống tốt hơn thông qua các chương
trình, hoạt động mang lại an sinh cộng đồng và góp phần đảm bảo phúc lợi xã hội.
Thực tế cho thấy, hiện nay các tổ chức CT-XH đã có sự mở rộng vai trò của
mình với chức năng hoạt động đa dạng và phong phú hơn. Một mặt các tổ chức này
không chỉ chú trọng vào chức năng tập hợp, giáo dục quần chúng tham gia và thực
hiện có hiệu quả các chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, họ
cũng đã coi việc bảo vệ, đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng của các thành
viên trong tổ chức mình như là một chức năng cơ bản [62].
Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay gồm 3 trụ cột chính gồm: thị
trường lao đông, bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội [44]. Việc tham gia góp phần hỗ
trợ và thực hiện 2 trong số 3 trụ cột an sinh này cho thấy khả năng cung cấp an sinh
cho cộng đồng của các tổ chức đoàn thể đặc biệt tại khu vực nông thôn thôn. Câu hỏi
đặt ra là vai trò được đảm nhận này của các tổ chức CT-XH có thực sự phù hợp với
họ? Và kết quả quả nghiên cứu của chúng tôi góp một phần nào đó giải đáp vấn đề
này.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các hoạt động hỗ trợ thông tin, tư vấn, đào
tạo nghề, giới thiệu việc làm hay vay vốn phục vụ sản xuất đang được các đoàn thể
145
tổ chức với nhiều hình thức phong phú và đa dạng trong đó nổi bật lên là vai trò của
hội ND và hội PN. Trong khi các đoàn thể khác không cho thấy hiệu quả trong hoạt
động này. Tuy nhiên, ngay cả với các đoàn thể được coi là hoạt động hiệu quả như
hội ND và hội PN thì vai trò này thực sự không quá rõ nét và mang dấu ấn của tổ
chức. Và việc tất cả các tổ chức đều cùng đảm nhận một hoạt động dễ dẫn đến sự
chồng chéo và làm mất đi đặc trưng riêng của các tổ chức này. Theo lý thuyết vai trò,
mỗi tổ chức, mỗi nhóm sẽ có những quy định khác nhau chẳng hạn như hội nông dân
có trách nhiệm hỗ trợ người nông dân trong phát triển kinh tế và chăm lo đời sống,
hội phụ nữ có trách nhiệm tương tự nhưng với đối tượng khác đó là phụ nữ, v.v. Theo
đó, mỗi đối tượng khác nhau các tổ chức này phải có những cách thức hoạt động khác
nhau và sự tương tác, trợ giúp giữa các đối tượng cũng có những sự khác biệt. Điều
đó tạo nên sự khác biệt giữa các tổ chức và đồng thời cũng là sức hút người dân tham
gia vào các tổ chức. Với cách thức hoạt động trong việc cung cấp các hỗ trợ đảm bảo
an sinh cho cộng đồng một cách dàn trải như hiện nay có lẽ sẽ không đem lại kết quả
thực sự như mong muốn.
Tham gia vào các tổ chức đoàn thể đem lại cho các thành viên những lợi thế
nhất định và ở một khía cạnh nào đó thì đây chính là động cơ thu hút sự tham gia vào
các tổ chức này. Ở đây những lợi thế có thể kể đến như: nắm bắt được các thông tin
hỗ trợ phát triển sản xuất như các chương trình hỗ trợ, các lớp đào tạo nghề hay được
tham gia các chương trình hỗ trợ vay vốn, các chương trình tìm việc làm, v.v. Do vậy,
sự đảm trách mang tính chất chuyên biệt của từng tổ chức với vai trò riêng biệt, không
chồng chéo mới có thể đem lại hiệu quả bền vững cho hoạt động của các đoàn thể và
thu hút người dân chủ động và tích cực gia nhập vào các tổ chức CT-XH. Một minh
chứng góp phần ủng hộ quan điểm này của chúng tôi đó là, kết quả nghiên cứu cho
thấy một thực tế: yếu tố là thành viên của một trong các tổ chức CT-XH trở thành lợi
thế quan trọng khi người dân tham gia các hoạt động trong thị trường lao động: tham
gia của các lớp đào tạo nghề, tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật hay giới thiệu
việc làm tại địa phương.
Về mặt định chế, chức năng cơ bản của các tổ chức này vẫn là vận động, tuyên
146
truyền các chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng bên cạnh đó các
chức năng hỗ trợ thành viên phát triển kinh tế cũng đã được mở ra và ghi nhận một
cách rõ nét hơn so với trước đây (thể hiện trong các báo cáo tổng kết cuối năm, cuối
nhiệm kỳ của các tổ chức). Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy bản thân người thực thi các
chính sách (cán bộ đoàn thể) hay người được thụ hưởng chính sách (người dân) cũng
không đánh giá cao vai trò này của các đoàn thể. Người dân coi các đoàn thể chỉ đóng
vai trò là cầu nối đơn thuần, không có ý nghĩa hay vai trò gì trong việc họ được thụ
hưởng chính sách. Do vậy ở bất cứ hoạt động nào mà các tổ chức này tham gia hỗ trợ
người dân từ cung cấp thông tin, đào tạo nghề, tạo việc làm hay hỗ trợ vay vốn đều
không được người dân nhìn nhận và đánh giá đúng với giá trị mà các đoàn thể đã tạo
ra. Và nếu đúng như vậy thì vai trò chủ thế của các tổ chức CT-XH trong việc hỗ trợ
thực hiện chính sách thị trường lao động nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân
nông thôn là khó thực hiện một cách độc lập dưới cái bóng quá lớn của nhà nước.
Trong bối cảnh đất nước ta đang trên con đường hiện đại hóa đặc biệt ở khu vực nông
thôn, thì sự chuyên môn hóa, chuyện biệt trong các hoạt động của các đoàn thể là cần
thiết và có ý nghĩa. Việc gán cho các tổ chức này những vai trò khác biệt với chức
năng ban đầu có thật sự phù hợp trong bối cảnh hiện nay? Đảm bảo hiệu quả của các
hoạt động rất cần sự tôn trọng các quy luật khách quan và xây dựng các định chế phù
hợp. Thay vì tiếp tục gán cho các đoàn thể các vai trò, nhiệm vụ, chức năng khác
nhau và đẩy khối lượng cộng việc của họ tiếp tục tăng lên dẫn tới các hoạt động dàn
trải, kém hiệu quả. Thì rất cần sự chuyên biệt, tập trung vào những nhiệm vụ, vai trò
trọng tâm, nguyên bản ban đầu của các đoàn thể để nâng cao hiệu quả một cách rõ rệt
so với trước đây, có lẽ sẽ đem lại hiệu quả nhiều hơn.
Bên cạnh đó, các công việc mà các đoàn thể hiện nay đang thực hiện phần lớn
đều thông qua các cơ quan chủ quản có trách nhiệm thực hiện riêng biệt ví dụ như:
mở các lớp đào tạo nghề - trung tâm đào tạo nghề của tỉnh, huyện chịu trách nhiệm;
mở các lớp tư vấn, hỗ trợ thông tin sản xuất – trung tâm khuyến nông tỉnh, huyện, xã;
giới thiệu việc làm – trung tâm giới thiệu việc làm cấp tỉnh, huyện; vay vốn từ
NHCSXH – NHCSXH tỉnh, huyện. Và thực tế các đoàn thể đang làm nhiệm vụ cầu
147
nối giữa người dân đến với các trung tâm này. Vậy câu hỏi đặt ra, có cần thiết phải
thông qua các đoàn thể để thực hiện các hoạt động này trong khi các tổ chức/cơ quan
đã liệt kê ở trên đều có nhân lực để thực hiện các công việc của mình? Trong bất kỳ
một hoạt động nào thì việc “nhà cung cấp” và “người có nhu cầu” trực tiếp gặp gỡ,
trao đổi sẽ đem lại hiệu quả so với việc đi qua các trung gian, cầu nối. Vì vậy, nếu
như không thể đưa vai trò “nhà cung cấp” cho các tổ chức đoàn thể thì có lẽ cũng
không nên để họ phải duy trì vai trò “cầu nối” khi mà thực tiễn hiện nay các tổ chức
CT-XH với riêng nhiệm vụ “chính trị” của mình, họ đã luôn trong tình trạng quá tải
đặc biệt khi có sự ra đời của chương trình xây dựng nông thôn mới.
Về mặt lý thuyết, với đặc trưng là các tổ chức có khối lượng thành viên hùng
hậu trên khắp cả nước, các tổ chức CT-XH đặc biệt có lợi thế trong các hoạt động
tuyên truyền, kêu gọi, ủng hộ từ thiện và trợ giúp xã hội. Thực tế cho thấy, các tổ
chức đã cố gắng mở rộng các hình thức tuyên truyền nhưng nhìn chung tuyên truyền
qua các cuộc họp vẫn là cách thức đem lại hiệu quả nhất. Hình thức “khoán” từ trên
xuống trong các hoạt động quyên góp, ủng hộ từ thiện như hiện nay cho thấy có nhiều
bất cập. Thứ nhất, nó làm biến đổi bản chất của hoạt động thiện nguyện này, thay vì
“tự nguyện” đã chuyển sang thành “bắt buộc”. Thứ hai, kết quả nghiên cứu cho thấy
người dân lựa chọn hình thức ủng hộ thông qua kênh chính quyền vẫn là chủ yếu bên
cạnh rất nhiều hình thức khác. Điều đó cho thấy, một mặt các đoàn thể vẫn còn hạn
chế trong việc tập hợp, quy tụ người dân. Mặt khác chính quyền vẫn là một nhân tố
có sức hút và giá trị ảnh hưởng tới người dân trong các hoạt động từ thiện tại các địa
phương thuộc khu vực nông thôn. Nó khác với cư dân khu vực thành thị nơi mà càng
ngày càng có nhiều kênh, tổ chức tham gia vào hoạt động này và thu hút sự tham gia
đông đảo của người dân. Các tổ chức CT-XH cho thấy họ có lợi thế trong các hoạt
động quyên góp hỗ trợ trực tiếp ở quy mô nhỏ - cộng đồng địa phương trong khi với
hoạt động quyên góp các quỹ do nhà nước quy định thì vai trò này khá mờ nhạt so
với chính quyền. Các đoàn thể cho thấy ưu thế trong việc xây dụng các chương trình,
các phong trào tiết kiệm, giúp nhau vay vốn phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo
và nâng cao mức sống rất hiệu quả nhưng chỉ mang tính chất trong nội bộ nhóm. Đây
148
là truyền thống lâu đời của các tổ chức như hội PN và hội ND. Các hoạt động này
thực sự đem lại hiệu quả với lợi thế là các thành viên trong cùng tổ, nhóm có sự thông
hiểu và hỗ trợ tốt cho nhau. Điều đó cho thấy, nếu các đoàn thể thực hiện được đúng
vai trò hay nói đúng hơn là đúng khả năng của mình – không phải là cầu nối thì hoạt
động của các đoàn thể sẽ đem lại kết quả tốt hơn. Và điều đó mới thực sự đem lại lợi
ích cho các thành viên tổ chức, nó sẽ là động lực cần thiết thu hút sự tham gia của
người dân vào các tổ chức này một cách tự nguyện và nhiệt thành nhất. Trong bối
cảnh xã hội hiện đại hóa hiện nay thì tính phù hợp, chuyên biệt và thực hiện đúng vai
trong các hoạt động của các tổ chức CT-XH sẽ là tiền đề quan trọng để đảm bảo tính
hiệu quả trong hoạt động của các tổ chức này, giữ lại nguyên tắc hoạt động ban đầu
cho các tổ chức khi mới thành lập và đồng thời hướng người dân và xã hội nông thôn
đi theo chiều hướng hiện đại hóa.
2. Khuyến nghị
Qua kết quả nghiên cứu đề tài, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị về
phương thức hoạt động của các tổ chức CT-XH nhằm làm tăng tính hiệu quả trong
hoạt đông đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn của các tổ chức CT-XH như
sau:
2.1. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên phải được tổ chức đúng với ý nghĩa
của một “liên minh chính trị” và hoạt động như một “diễn đàn chính trị” góp phần
tuyên truyền vận động nhân dân tuân thủ theo các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Trong đó việc đảm bảo an sinh cho các thành viên cần được ưu tiên do
vậy cần, quan tâm tới cách thức tuyên truyền, hỗ trợ khác khác nhau trong các hoạt
động như đào tạo nghề, tìm việc làm đặc biệt là các nhóm yếu thế nhằm giúp họ có
cơ hội thụ hưởng các hỗ trợ.
2.2. Phối hợp với chính quyền thực hiện Pháp lệnh dân chủ, tăng cường công tác kiểm
tra. Mở rộng, đa dạng hóa hoạt động phối hợp với chính quyền và các ban, ngành,
đoàn thể để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Hội. Nếu các tổ chức chỉ hoạt động một
cách đơn thuần với vai trò tuyên truyền, vận động thì họ chỉ cần có tư cách như là cầu
nối - đơn thuần như hiện nay. Nhưng nếu đã mở rộng chức năng hoạt động của họ
149
với vai trò phát triển kinh tế cho hội viên, thành viên thì rất cần các thiết chế phù hợp
để họ hoạt động một cách có hiệu quả. Hoặc để các tổ chức này đóng vai trò như là
tổ chức cấp dưới, thừa hành của chính quyền. Hoặc đưa ra các chế tài phù hợp để đảm
bảo các tổ chức này được quyền tự chủ quyết định trong một số hoạt động, lĩnh vực
có như vậy mới đảm bảo được tính hiệu quả trong hoạt động của các tổ chức đoàn
2.3. Các tổ chức chính trị-xã hội cần tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ theo
thể đồng thời đảm bảo tính công bằng trong việc thụ hưởng.
hướng: vừa tham gia quản lý phát triển xã hội, vừa phải bảo vệ lợi ích chính đáng của
các thành viên. Nhân rộng các mô hình đặc thù của từng tổ chức
Các tổ chức đặc biệt là hội PN và hội ND tiếp tục đẩy mạnh các tổ/nhóm vay vốn
nhằm hỗ trợ hội viện trong phát triển kinh tế và cuộc sống. Tuy nhiên, cần có các
định chế xử lý phù hợp trong hoạt động của các tổ/nhóm này nhằm đảm bảo quyền
lợi của mỗi hội viên, thành viên khi tham gia. Ở đây chúng tôi muốn nói đến đó là
vai trò của chính quyền, của các tổ chức đoàn thể cần phải xây dựng các thiết chế
quản lý phù hợp.
2.4. Các tổ chức CT-XH cần nâng cao cách thức vận động, tuyên truyền trong hoạt
động từ thiện nhằm nêu cao tinh thần tự nguyện giúp đỡ, đóng góp của người dân.
Tập trung trong các hoạt động trợ giúp ngay tại cộng đồng một cách hiệu quả sẽ giúp
cho các tổ chức này thu hút sự tham gia của người dân một cách tự nguyện và hiệu
quả.
2.5. Trong bối cảnh xã hội hiện đại hóa hiện nay thì tính phù hợp, chuyên biệt và thực
hiện đúng vai trong các hoạt động của các tổ chức CT-XH sẽ là tiền đề quan trọng để
đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của các tổ chức này, giữ lại nguyên tắc hoạt
động ban đầu cho các tổ chức khi mới thành lập và đồng thời hướng người dân và xã
hội nông thôn đi theo chiều hướng hiện đại hóa. Do vậy, các tổ chức đoàn thể cần có
ý thức xây dựng tổ chức mình theo hướng chuyên biệt trong việc đảm trách các nhiệm
vụ, tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt
150
động.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
A. Bài báo
1. Nguyễn Thanh Thủy. 2018. Nhận diện vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội trong trợ giúp cộng đồng hướng tới đảm bảo an sinh xã hội ở nông thôn. Tạp chí Xã hội học. Số 1 (141), 2018.
2. Nguyễn Thanh Thủy. 2018. Hỗ trợ của đoàn thể đối với người dân trong việc vay vốn tín dụng ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. Số 9 – 2018.
3. Nguyễn Thanh Thủy. 2017. Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội ở nông thôn hướng đến mục tiêu phát triển con người. Tạp Nghiên cứu Con người. Số 2 (89), 2017.
4. Đặng Thị Việt Phương, Nguyễn Thanh Thủy. 2015. Vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam. Tạp chí Xã hội học. Số 2 (130), 2015.
5. Nguyễn Thanh Thủy. 2015. Vận dụng pháp luật của chính quyền cơ sở ở nông thôn Việt Nam. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. Số 6 (91), 2015.
6. Nguyễn Thanh Thủy. 2014. Các hình thức trợ giúp đào tạo nghề trong việc đảm bảo an sinh việc làm cho lao động trẻ hiện nay. Tạp chí Xã hội học. Số 1 (125), 2014.
B. Các đề tài khoa học làm chủ nhiệm
1. Nguyễn Thanh Thủy. 2016. Vai trò các tổ chức chính trị - xã hội trong đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn hiện nay. Đề tài cấp Viện Xã hội học. Hà Nội
2. Nguyễn Thanh Thủy. 2015. Các thiết chế an sinh xã hội phi chính thức ở nông thôn Việt Nam trong 30 năm đổi mới. Đề tài cấp Viện Xã hội học. Hà Nội
151
3. Nguyễn Thanh Thủy. 2013. Các hình thức trợ giúp việc làm đối với lao động trẻ. Đề tài cấp Viện Xã hội học. Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. ADB. (2011). Báo cáo tóm tắt về xã hội dân sự Việt Nam. Hà Nội.
2. Ban bí thư. (2002). Về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở
3. Ban chấp hành trung ương. (2002). Nghị quyết hội nghị lần thứ năm ban chấp
hành trung ương đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến
khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân Hà Nội.
4. Ban thường trực UB TW MTTQ VN. et al. (2014). Chương trình phối hợp
giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ sở y tế tư nhân. Hà Nội.
5. Berger, Peter L. (2016). Lời mời đến với Xã hội học. Một góc nhìn nhân văn.
Hà Nội: NXB Tri thức.
6. Bế Quỳnh Nga. (2008). Các tổ chức xã hội tự nguyện ở nông thôn và vai trò
trợ giúp xã hội trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi. Tạp chí Xã hội học (Số
2 (102)).
7. Bế Quỳnh Nga và Đặng Thị Việt Phương. (2012). Hệ thống an sinh xã hội
Việt Nam trong mô hình phát triển và quản lý xã hội giai đoạn 2011-2020. Hà
Nội: Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Đề tài cấp Bộ.
8. Bế Quỳnh Nga và đồng nghiệp. (2008). Vai trò của các mạng lưới xã hội trong
việc tiếp cận các dịch vụ tài chính và đối phó với các rủi ro cho các hộ nông
dân. Hà Nội: Viện Xã hội học. Đề tài cấp Viện.
9. Bùi Quang Dũng. (2002). Giải quyết xích mích trong nội bộ nhân dân – Phác
thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính. Tạp chí Xã hội học, Số 3.
10. Bùi Quang Dũng. (2004). Nhập môn lịch sử Xã hội học. Hà Nội: NXB Khoa
học xã hội.
11. Bùi Quang Dũng. (2013). Nông dân và những vấn đề cơ bản và đương đại.
152
Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
12. Bùi Quang Dũng. et al. (2015). Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn
trong phát triển bền vững Tây Nguyên. Đề tài cấp Nhà nước TN3/X10 thuộc
Chương trình KH&CN phục vụ phát triển vùng Tây Nguyên (Chương trình
Tây Nguyên 3). Hà Nội: Viện Xã hội học. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam.
13. Bùi Quang Dũng, & Đặng Thị Việt Phương. (2011). Điều tra nông dân Việt
Nam 2009-2010. Hà Nội: VIện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Đề tài câp
Bộ.
14. Bùi Thế Cường. et al. (1991). Các khía cạnh xã hội, dân số và văn hóa ở một
số xã nông thôn Trung bộ (kết quả khảo sát bước đầu). Tạp chí Xã hội học, Số
2.
15. Bùi Thế Cường. et al. (2010). Từ điển Xã hội học Oxford. Hà Nội: NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
16. Đảng cộng sản Việt Nam. (1996). Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng. Retrieved from http://dangcongsan.vn.
17. Đảng cộng sản Việt Nam. (2007). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia.
18. Đặng Đình Tân. (2001). Thực trạng các đoàn thể nhân dân trong việc đảm
bảo dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay. Trong Ký yếu khoa học đề tài cấp Bộ:
Vai trò đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở (xã) hiện nay)
do TSKH. Phan Xuân Sơn là CNĐT. Hà Nội: Viện Khoa học chính trị, Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
19. Đặng Nguyên Anh. (2013). Bảo trợ xã hội ở Việt Nam: khái niệm, thực trạng
và giải pháp. Tạp chí Xã hội học, số 2 (122).
20. Đặng Nguyên Anh. (2015). Từ thiện xã hội cấp cộng đồng ở Việt Nam hiện
nay. Tạp chí Xã hội học, Số 4 (132).
21. Đặng Thị Việt Phương. (2015). Trách nhiệm xã hội và vai trò chủ thể của cư
153
dân nông thôn. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, Số 6 (91), Tr.47.
22. Đặng Thị Việt Phương, & Bế Quỳnh Nga. (2015). Trao đổi và tương tác xã
hội trong đời sống nông thôn. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, Số 10 (95).
23. Đặng Thị Việt Phương, & Bùi Quang Dũng. (2011). Các tổ chức xã hội tự
nguyện ở nông thôn đồng bằng sông Hồng: liên kết và trao đổi xã hội. Tạp chí
Xã hội học, Số 4 (116).
24. Đặng Thị Việt Phương & Nguyễn Thanh Thủy. (2015). Vai trò của nhà nước
trong việc đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam. Tạp chí Xã hội học, Số 2 (130),
66-74.
25. Đào Trí Úc. (2010). Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ
máy đảng và nhà nước. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Hà Nội: NXB
Chính trị Quốc gia.
26. Endruweit, G, & Trommsdorff, G. (2002). Từ điển Xã hội học. Hà Nội: NXB
Thế giới.
27. Gourou, Pierre. (2015). Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ. Nghiên cứu địa lý
nhân văn. Hà Nội: NXB Trẻ và Viện Viễn Đông bắc cổ Pháp, Tạp chí Xưa và
Nay.
28. Hà Thị Khiết. (2009). Đổi mới công tác vận động phụ nữ dân tộc góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng về công tác dân tộc. from
http://web.cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=1763
29. Hoàng Chí Bảo. (2010). Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến
trình đổi mới. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
30. Hoàng Tiến Cát. et al. (2003). Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới. Đề tài KX
03.09. Hà Nội: Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Dân vận. Ban Dân vận Trung
ương. Chương trình KX 03.
31. Hội LHPN huyện U Minh. (2016). Kế hoạch Hướng dẫn công tác thi đua năm
2016. Hội LHPN huyện U MInh.
32. Hội LHPN VN. (2017). Nghị quyết Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần
154
thứ XII.
33. Hội LHPN xã Khánh Hòa. (2017). Báo cáo Hoạt động công tác Hội và phong
trào phụ nữ năm 2017. Cà Mau.
34. Hội LHPN xã Đại Phú. (2014). Báo cáo kết quả hoạt động công tác hội và
phong trào phụ nữ năm 2014. Đại Phú, Tuyên Quang,.
35. Hội LHPN xã Khánh Hòa. (2013). Báo cáo Hoạt động Công tác Hội và phong
trào phụ nữ năm 2013. Khánh Hòa, U Minh.
36. Hội LHPN xã Khánh Hòa. (2017). Hoạt động công tác Hội và phong trào phụ
nữ năm 2017. U Minh, Cà Mau.
37. Hội LHPN xã Ninh Lai. (2015). Báo cáo Kết qủa thực hiện nhiệm vụ công tác
Hội và phong trào phụ nữ năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ năm 2016.
Ninh Lai, Tuyên Quang.
38. Hội Nông dân xã Khánh Lâm. (2016). Báo cáo công tác hội và trong trào
nông dân năm 2015 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2016. Khánh Lâm, U
Minh, Cà Mau.
39. Hội Nông dân Việt Nam. (2017). Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Hội Nông dân Việt Nam lần thứ 10 (khoá VI).
40. Hội Nông dân xã Khánh Hòa. (2016). Chương trình công tác 6 tháng đầu năm
2016. Khánh Hào, Cà Mau.
41. Huỳnh Đảm. (2008). Nhìn lại 10 năm thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường,
thị trấn. Tạp chí Cộng sản, Truy cập 9/7/2008.
42. ILO. (1991). Các thể chế lao động và phát triển kinh tế. Geneva.
43. ILSSA, Viện Khoa học Lao động và Xã hội. (2017). Xu hướng lao động và
xã hội Việt Nam. Báo cáo thường niên 2016. Hà Nội: NXB Thanh niên.
44. ILSSA và GIZ. (2011). Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam. Hà Nội: Tổ chức
GIZ và Viện Khoa học Lao động và Xã hội (ILSSA).
45. ILSSA và UNDP. (2009). Đánh giá giũa kỳ chương trình mục tiêu quốc gia
155
giảm nghèo, giai đoạn 2006-2008). Hà Nội.
46. ISEE. (2015). Nhận thức của người dân về hoạt động từ thiện và khả năng
gây quỹ của các tổ chức phi chính phủ Việt Nam. Hà Nội: NXB Giao thông
Vận tải.
47. Kleinen, John. (2012). Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ. Hà Nội:
NXB Lao động.
48. Lê Ngọc Hùng. (2014). Lý thuyết xã hội học hiện đại. Hà Nội: NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
49. Lại Hoa. (2017). Chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau.
Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam (Ngày 15/10/2017).
50. Lê Mạnh Năm. (2002). Những tác động của văn hóa trong sự biến đổi kinh
tế-xã hội tại các làng xã châu thổ sông Hồng. Hà Nội: Viện Xã hội học. Đề tài
cấp Viện.
51. Lê Minh Quân. (2001). Tổ chức và hoạt đọng của các đoàn thể nhân dân ở
xã hiện nay - những vấn đề đặt ra. Trong Kỷ yếu khoa học đề tài cấp Bộ "Vai
trò đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở (xã) hiện nay". Hà
Nội: Viện Khoa học chính trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
52. Lê Ngọc Hùng. (2014). Lý thuyết xã hội học hiện đại. Hà Nội: NXB Đại học
quốc gia Hà Nội.
53. Lê Quang Bình. et al. (2016). Đời sống hiệp hội từ góc nhìn người dân. Hà
Nội: Viện Nghiên cứu Xã hội Kinh tế và Môi trường (ISEE).
54. Lê Thanh Tùng. (2016). Vốn xã hội trong sự tham gia của cộng đồng vào hoạt
động xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới. Tạp chí Xã hội học, Số 2 (134).
55. Macionis., John. (2004). Xã hội học. Hà Nội: NXB Thống kê.
56. Mai Văn Hai. (2010). Toàn cầu hóa và bản sắc làng Việt ở miền Bắc. Hà Nội:
Viện Xã hội học. Đề tài do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia tài
trợ.
57. Misaki Iwai. (2016). Thích nghi văn hóa và mạng lưới xã hội của di dân từ
miền Bắc vào xã kinh tế mới ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong Kỷ yếu tọa
156
đàm Làng xã Việt Nam và Đông nam á trong thời kỳ hội nhập (Viện Khoa học
xã hội vũng nam bộ và trung tâm nghiên cứu Đông nam á). Hà Nội: NXB
Khoa học xã hội.
58. MOLISA. (2011). Ký kết Chương trình phối hợp công tác giữa Hội Nông dân
Việt Nam và Bộ LĐTBXH giai đoạn 2011 – 2016. Retrieved 23/11/2011, from
http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/ChiTiet.aspx?IDNews=18114
59. MOLISA. (2017). Lễ ký kết chương trình phối hợp giữa Bộ LĐ-TBXH và
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giai đoạn 2017 - 2020. Retrieved
28/3/2017, from
http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=26275
60. Ngân hàng chính sách xã hội. (2003). Quyết định ban hành Quy chế về tổ
chức và hoạt động của tổ tiết kiếm và vay vốn. Hà Nội.
61. Nguyễn Cảnh Chất. (2002). Tinh hoa quản lý: 25 tác giả và tác phẩm nổi
tiếng nhất về quản lý trong thế kỷ XX. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động-Xã hội.
62. Nguyễn Duy Quý. (2008). Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
63. Nguyễn Đức Nhật. et al. (2013). Nghiên cứu các mô hình giảm nghèo của các
đối tác quốc tế ở Việt Nam. Hà Nội.
64. Nguyễn Đức Vinh. (2013). Thực trạng các tổ chức xã hội Việt Nam trong giai
đoạn phát triển hiện nay. Tạp chí Xã hội học, 4 (124).
65. Nguyễn Kim Anh. et al. (2011). Nghiên cứu tài chính vi mô với giảm nghèo
tại Việt Nam - Kiểm định và so sánh. Hà Nội: NXB Thống kê.
66. Nguyễn Ngọc Đệ. (2009). Đánh Giá Mô Hình Cung Cấp Thồng Tin Tiến Bộ
Khoa Học Công Nghệ Phục Vụ Phát Triển Kinh Tế-Xã Hội Tại Vĩnh Long.
Tạp chí Khoa học Trường đại học Cần Thơ 2009:12, (2009): 219-228.
67. Nguyễn Ngọc Toản. (2011). Xây dựng và hoàn thiện chính sách trợ giúp xã
hội thường xuyên ở Việt Nam. hà Nội: NXB Đại học KTQD.
68. Nguyễn Phượng Lê, & Nguyễn Mậu Dũng. (2011). Khả năng tiếp cận nguồn
157
vốn tín dụng chính thức của hộ nông dân ngoại thành Hà Nội: Nghiên cứu
điển hình tại xã Hoàng Văn Thụ, huyện Chương Mỹ. Tạp chí Khoa học và phát
triển. Trường đại học Nông nghiệp Hà Nội, Tập 9(5), 844-852.
69. Nguyễn Quý Thanh. (2011). Sự tham gia của XHDS trong phát triển xã hội:
từ thực tiễn đến gợi ý chính sách. Tạp chí Xã hội học, Số 2 (114).
70. Nguyễn Thanh Thủy. (2014). Các hình thức trợ giúp đào tạo nghề trong việc
đảm bảo an sinh việc làm cho lao động trẻ hiện nay. Tạp chí Xã hội học, Số 1
(125), Tr.62.
71. Nguyễn Thanh Thủy. (2017). Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức
CT-XH ở nông thôn hướng đến mục tiêu phát triển con người. Tạp chí Nghiên
cứu Con người, Số 2 (89) Tr.49
72. Nguyễn Thị Lan. (2012). Mặt trận tổ quốc Việt Nam xây dựng sự đồng thuận
xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia -
Sự thật.
73. Nguyễn Thị Lan Hương. (2002). Thị trường lao động Việt Nam, định hướng
và phát triển. Hà Nội: NXB Lao động-xã hội.
74. Nguyễn Thị Minh Phương. (2011). Vốn xã hội của nông thôn Việt Nam đương
đại (Một nghiên cứu trường hợp xã Giao Tân, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam
Định). Tạp chí Xã hội học, Số 4.
75. Nguyễn Thị Minh Phương. (2014). Nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam. Hà
Nội: Viện Xã hội học. Đề tài cấp Viện.
76. Nguyễn Thiện Nhân. (2014). Tăng cường hoạt động giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội theo tinh
thần Hiến pháp năm 2013,. from
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Tieu-diem/2014/29318/Tang-cuong-
hoat-dong-giam-sat-va-phan-bien-xa-hoi-cua.aspx
77. Nguyễn Thiện Nhân. (2016). Quỹ vì người nghèo: Đóng góp mới, sáng tạo
mới. from http://daidoanket.vn/thoi-su-chinh-tri/quy-vi-nguoi-ngheo-dong-
158
gop-moi-sang-tao-moi/128036
78. Nguyễn Thu Nghĩa. (2015). Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong
việc hỗ trợ hội viên phát triển kinh tế. Paper presented at the Hội thảo Quốc
tế: Vai trò của các tổ chức xã hội trong nền kinh tế thị trường hiện đại, Tp Hồ
Chí Minh.
79. Nguyễn Tiệp. (2010). Giáo trình thị trường lao động. Hà Nội: NXB Lao động-
xã hội.
80. Nguyễn Văn Định. (2008). Giáo trình an sinh xã hội. Hà Nội: NXB Đại học
KTQD.
81. Nguyễn Trung Kiên và Bùi Ngọc Hồng. (2016). Đời sống hội nhóm và liên kết
xã hội: Nghiên cứu so sánh xã Hải Vân, Nam Định và xã Thân Cửu Nghĩa,
Tiền Giang. Tạp chí Khoa học xã hôi, Số 7 (215), 17-32.
82. Nguyễn Văn Linh. (2012). Về công tác vận động quần chúng hiện nay. TP Hồ
Chí Minh: NXB Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh.
83. Nhóm hành động chống đói nghèo. (2003). Đánh giá nghèo có sự tham gia
của cộng đồng tại Ninh Thuận. Hà Nội.
84. Phạm Bích San. (2016). Các tổ chức xã hội ở Việt Nam: Một nhận diện. Tạp
chí Xã hội học, Số 2 (134).
85. Phạm Hữu Nghị. et al. (2015). Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp áp dụng luật
pháp và hương ước trong quản lý xã hội nông thôn mới. Đề tài cấp nhà nước
thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2011-2015. Hà Nội: Học viện Khoa học xã hội.
86. Phạm Thị Ánh Phương. (2017). Nhìn lại chính sách tín dụng phục vụ phát trển
nông nghiệp, nông thôn. Tạp chí Tài chính, Kỳ 2, số tháng 4/2017.
87. Phan Thanh Hà. (2011). Về vấn đề dân chủ trong cải cách chính quyền địa
phương ở Việt Nam. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 12 (284) 2011.
88. Phan Xuân Sơn. (2001). Các đoàn thể nhân dân ở cấp xã, phường và một số
vấn đề về đảm bảo dân chủ cơ sở. Trong Kỷ yếu khoa học đề tài cấp Bộ "Vai
trò đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở (xã) hiện nay. Hà
159
Nội: Viện Khoa học chính trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
89. Tạp chí xây dựng Đảng. (2013). Chuyên đề IV, Tài liệu bồi dưỡng thi nâng
ngạch chuyên viên cao cấp khối Đảng, đoàn thể năm 2013.
90. Thang Văn Phúc. (2010). Vai trò các tổ chức xã hội đối với phát triển xã hội
và quản lý xã hội ở nước ta trong điểu kiện phát triển kinh tế thị trường và xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN - Cơ sở lý luận và thực tiễn. Mã số
KX.02.19/06-10. Hà Nội: Viện Khoa học tổ chức nhà nước. Bộ Nội vụ. Đề tài
cấp Nhà nước thuộc Chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước
KX.02/06-10.
91. Thang Văn Phúc và Nguyễn Thị Minh Phương. (2007). Đổi mới tổ chức và
hoạt động của mặt trận tổ quốc và các tổ chức CT-XH ở nước ta hiện nay. Hà
Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
92. Thang Văn Phúc. et al. (2012). Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội ở Việt
Nam. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
93. Thủ tướng chính phủ. (1998). Quyết định phê duyệt chương trinh fphats triển
kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa Hà
Nội.
94. Tô Duy Hợp. (2006). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản của việc kiến
tạo hệ thống an sinh xã hội tam nông ở Việt Nam – tầm nhìn 2020. Giai đoạn
2: Khảo sát về thực trạng và triển vọng an sinh xã hội tại một xã ngoại thành
Hà Nội. Hà Nội: Viện Xã hội học.
95. Tổng cục Thống kê. (2011). Báo cáo sơ bộ kết quả Tổng điều tra nông thôn,
nông nghiệp và thủy sản năm 2011. Hà Nội.
96. Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam. et al. (2014). Chương trình phối hợp về
việc giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội trong các loại hình
doanh nghiệp. Hà Nội.
97. Trần Hữu Quang. (2012). Hệ thống an sinh xã hội theo mô hình nhà nước phúc
lợi và mô hình nhà nước xã hội, và việc vận dụng vào Việt Nam (Vol. Báo cáo
160
chuyên đề). Hà Nội: Đề tài cấp bộ, Viện Xã hội học.
98. Trần Khắc Việt et al. (2015). Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước, mặt trận tổ quốc và các tổ chức CT-XH trong điều kiện mới
- Lý luận và thực tiễn. Hà Nội: NXB Lý luận chính trị.
99. Trần Thái Dương. (2006). Suy nghĩ về hệ thống chính trị-xã hội ở Việt Nam
hiện nay. Tạp chí Khoa học Pháp luật, Số 2 (33).
100. Trần Thị Nhung. (2016). Cộng đồng nông thôn đông nam bộ: Vốn cộng
đồng và vấn đề phát triển bền vững. Trong Kỷ yếu tọa đàm Làng xã Việt Nam
và Đông nam á trong thời kỳ hội nhập (Viện Khoa học xã hội vũng nam bộ và
trung tâm nghiên cứu Đông nam á). Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
101. Trịnh Thị Xuyến. (2001). Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường
vai trò các đoàn thể nhân dân trong việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở (xã) hiện
nay. Trong Kỷ yếu khoa học đề tài cấp Bộ "Vai trò đoàn thể nhân dân trong
việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở (xã) hiện nay). Hà Nội: Viện Khoa học chính
trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
102. Trịnh Duy Luân. (2002). Phát triển xã hội ở Việt Nam. Một tổng quan
xã hội học năm 2000. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
103. HCMCOU. (2014). Xã hội học tổ chức. Tp Hồ Chí Minh: Trường Đại
học Mở Tp Hồ Chí Minh - Khoa Xã hội học, Công tác xã hội, Đông nam á
học. Lưu hành nội bộ, 2014.
104. UNDP. (2013). Nghiên cứu các mô hình giảm nghèo của các đối tác
quốc tế ở Việt Nam. Hà Nội.
105. Ủy ban Dân tộc. (2017). Lan tỏa các hoạt động Vì người nghèo năm
2017. from http://www.cema.gov.vn/lan-toa-cac-hoat-dong-vi-nguoi-ngheo-
nam-2017.htm
106. VASS. (2014). Báo cáo tổng kết 30 năm Đổi mới: Nông nghiệp, nông
dân và nông thôn (tài liệu chưa công bố). Hà Nội: Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam.
107. VEPR. (2015). Ước lượng chi phí kinh tế cho các tổ chức quần chúng
161
công ở Việt Nam. Hà Nội: NXB Hồng Đức.
108. Võ Thị Kim Sa. (2012). Vai trò kép của hợp tác xã và vị trí của nó
trong không gian xã hội. Tạp chí Xã hội học, Số 3.
109. Vũ Mạnh Lợi. (2003). Chiến lược sống của các gia đình nghèo trong
bối cảnh của nền kinh tế và xã hội đang chuyển đổi. Hà Nội: Viện Xã hội học.
Đề tài cấp Viện.
110. Vũ Mạnh Lợi. (2006). Vai trò và nhu cầu của gia đình về an sinh xã
hội. Hà Nội: Đề tại cấp Viện Xã hội học.
111. Vũ Hào Quang. (2004). Xã hội học quản lí. Hà Nội: NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
112. Worldbank. (2009). Báo cáo phát triển Việt Nam 2010: Các thể chế
hiện đại. Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị nhóm tư vấn các nhà
tài trợ cho Việt Nam – Ngày 03-03/12/2009. Hà Nội: World bank.
Tiếng Anh
113. Bourdieu, P. (1986). The Forms of Capital (Vol. Handbook of Theory
and Research for the Sociology of Education, edited by J. G. Richardson). New
York: Greenwood.
114. Dang Thi Viet Phuong. (2015). The Collective life. Ha Noi: Vietnam
national University press.
115. Dang Nguyen Anh. (2017). Background of social welfare situation in
ASEAN region. Paper presented at the Social well-being in the contexr of
regional intergration: searching for a joint ASEAN model, Ha Noi.
116. D. Gale Johnson et al. (1993). Agricultural policy and U.S.-Twain
trade. Wasshington D.C: American Enterprise Institue.
117. Eward, P. R. (2010). Is Saemaul Undong a Model for developing
162
countries today? Korea: Korea Saemaul Undong Center.
118. Fukuyama, Francis. (2001). Social Capital, Civil Society and
Development. Social Capital and Development: The Coming Agenda." SAIS
review.
119. ILO. (1952). The Social Security (Minimum Standards) Convention No.
102.
120. Kerkvliet, B. J. (2003). Authorities and the people: An analysis of state-
society relation in Vietnam. in Postwar Vietnam-Dynamics of a transforming
society. Institute of Southeast Asian studies: Singapore and Rowman &
Littlefield Publisher.
121. Kornai, J. (1992). The Socialist System: The Political Economy of
Communism: The Political Economy of Communism. US: Oxford University
Press.
122. Madhava P. Rao. (2005). Social Security Administration in India. Study
of Provident Funds and Pension Scheme (Vol. No. 1919, tr. 2.). Munich:
MPRA Paper (Munich Personal RePEc Archive).
123. Norlund, I. et al. (2007). The emerging civil society: An initial
assessment of civil society in Vietnam. Hà Nội: VIDS, SNV Vietnam,
CIVICUS.
124. Shozo Sakata. (2006). Changing roles of mass-organizations in poverty
reduction in Vietnam. In Actor for Poverty Reduction in Vietnam. Developing
economies Japan external trade organization.
125. Sills, David L editor. (1968). International encyclopedia of the social
science (Vol. 13). London: Collier – Macmillan.
126. Thomas Markussen and Finn Tarp. (2014). Political conections and
land-related investment in rural Vietnam. Journal of Development Economics
110 (2014) 291-302.
127. Wischerman. Jorg et al. (2003). The Relationship between Civic
163
Organizations and Governmental Orgranizations in Vietnam: Selected
Findings of an Empirical Survey. Getting organized in Vietnam - Moving in
164
and around the Socialist State. Singapore.
165
PHỤ LỤC